Đạo đức công chức và xây dựng đạo đức công chức ở...
TRANSCRIPT
1
Đạo đức công chức và xây dựng đạo đức công
chức ở nước ta hiện nay :Luận văn ThS. Triết
học: 60 22 80 /Lê Thị Hằng : Nghd. : TS. Lê
Thanh Thập
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thực tiễn cách mạng của mình, Đảng ta rất coi trọng đạo đức và
thường xuyên chăm lo bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho cán bộ, Đảng viên;
đó cũng là một đặc trưng trong công tác tư tưởng của Đảng. Sinh thời, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi Đảng
viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng” [43, tr.158],
“cũng như sông phải có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn.
Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo
đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân
dân” [43, tr.158].
Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Công chức là
người hưởng lương từ ngân sách Nhà nước có trách nhiệm, nghĩa vụ phục vụ
lợi ích quốc gia và lợi ích của nhân dân. Đạo đức là thành tố cơ bản của nhân
cách công chức, góp phần nâng cao hiệu quả công tác, sự tín nhiệm của dân
chúng đối với từng người cũng như đối với cả đội ngũ công chức và qua đó,
niềm tin vào chế độ chính trị được củng cố. Việc nghiên cứu về đạo đức công
chức không chỉ xuất phát từ nhu cầu xây dựng nền hành chính quốc gia vững
mạnh mà còn là sự mong muốn và đòi hỏi của nhân dân ở “công bộc” của
mình. Mặc dù đã có một số đề tài nghiên cứu khoa học đề cập đến vấn đề đạo
đức công chức nhưng đây là lĩnh vực mà thời gian qua chưa được quan tâm
2
đúng mức nên nhiều vấn đề vẫn còn bỏ ngỏ, chưa được nghiên cứu một cách
thấu đáo, cặn kẽ.
Hơn nữa, công chức là lực lượng xã hội có vị trí, vai trò quyết định
trong việc thể hiện và giữ vững bản chất chính trị của nhà nước. Muốn thể
hiện được vị trí và vai trò quyết định đó, công chức phải hội đủ hai yếu tố:
đạo đức và tài năng, trong đó đạo đức là yếu tố vô cùng quan trọng.
Bước vào thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, gia nhập WTO, chúng ta
ngày càng nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn ý nghĩa và vai trò quan trọng của
vấn đề đạo đức công chức. Để hiện thực hoá sự nhận thức đó, đòi hỏi phải có
quan điểm nhận thức, đánh giá đúng đắn thực trạng đạo đức công chức; phân
tích đúng những nguyên nhân, có giải pháp phù hợp, kịp thời để xây dựng đạo
đức công chức ở nước ta hiện nay.
Công chức là một lực lượng có vị trí và vai trò quan trọng trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vai trò và
nhiệm vụ đó, đòi hỏi cán bộ công chức trong xã hội ta hiện nay phải thấm
nhuần quan điểm tư tưởng đạo đức của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh. Đó là cội nguồn tư tưởng và sự định hướng giá trị đạo đức của
công chức ở nước ta hiện nay.
Thêm vào đó, qua một số vụ án tham nhũng lớn gần đây, khiến chúng
tôi càng trăn trở về vấn đề đạo đức công chức. Chúng tôi thấy, một trong
những nhiệm vụ cấp bách hiện nay là phải khắc phục tình trạng suy thoái,
xuống cấp về đạo đức, xây dựng đạo đức, lối sống lành mạnh trong cán bộ
công chức và nhân dân, không thể để tình trạng, vì lợi quên nghĩa, vì lợi bất
chấp cả danh dự và lương tâm nghề nghiệp. Chúng tôi thiết nghĩ, cùng với
việc xây dựng một cơ chế thực thi pháp luật nghiêm minh cũng cần phải ra
sức khích lệ tinh thần yêu mến nghề nghiệp và cương vị công tác; lấy lương
3
tâm, trách nhiệm, danh dự nghề nghiệp làm việc hợp lẽ công bằng, phục vụ
nhân dân và cống hiến cho xã hội là mục tiêu và lẽ sống của công chức.
Thực tiễn của công cuộc cải cách và đổi mới đất nước trong những năm
qua, sự chuyển đổi của cơ chế kinh tế và sự hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt ra
nhiều vấn đề cần phải giải quyết, trong đó có vấn đề đạo đức công chức. Chẳng
hạn, những nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức có sự biến động như thế nào?
Thực trạng và nguyên nhân đạo đức công chức ra sao? Muốn xây dựng và nâng
cao đạo đức công chức ở nước ta hiện nay phải làm gì và làm như thế nào?.
Với mong muốn, góp thêm ý kiến làm sáng tỏ những vấn đề liên quan
đến đạo đức công chức, chúng tôi chọn đề tài: “Đạo đức công chức và xây
dựng đạo đức công chức ở nước ta hiện nay” để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu
Thời gian gần đây, đạo đức công chức là một vấn đề được sự quan tâm
của nhiều nước trên thế giới và được xem như vấn đề trung tâm của nền công
vụ. Vì thế đã có những cuộc hội thảo quốc tế về vấn đề này. Ở nước ta, đã có
những cơ quan, cá nhân nghiên cứu và công bố một số đề tài khoa học từ cấp
cơ sở đến cấp nhà nước, ở những giác độ, giới hạn và phạm vi khác nhau về
đạo đức công chức. Chẳng hạn, đề tài khoa học cấp bộ: Xây dựng đạo đức
cán bộ, công chức Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá và hội nhập quốc tế, TS. Nguyễn Ngọc Hiến - Học viện Hành chính
Quốc gia, làm chủ nhiệm; đề tài thuộc “Chương trình nghiên cứu khoa học
các giải pháp thúc đẩy cải cách nền hành chính nhà nước”, mã số: 2001 - 54
- 058 do GS.TS. Bùi Thế Vĩnh chủ nhiệm. Đề tài đã hệ thống hoá những vấn
đề cơ bản của đạo đức cán bộ công chức từ những chỉ dẫn của C.Mác -
Ph.Ănghen đến V.I.Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng thời, bước đầu
cũng đã đưa ra một số giải pháp xây dựng đạo đức cán bộ công chức trong
thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên công trình nghiên cứu đó, phần
4
lớn tập trung làm rõ về mặt phương pháp luận và mô tả mang tính chất liệt kê
thực trạng đạo đức cán bộ công chức vào những năm 2002 về trước, khi đó
mức độ đầu tư nước ngoài và giao lưu kinh tế quốc tế chưa mạnh mẽ như hiện
nay, nhất là sau khi nước ta gia nhập WTO. Hoàn cảnh mới làm nảy sinh
nhiều vấn đề về đạo đức trong đội ngũ cán công chức gây bức xúc trong quần
chúng nhân dân, chẳng hạn, những công chức làm công tác đền bù giải phóng
mặt bằng, thực hiện nghĩa vụ không vô tư không bảo đảm sự công bằng, bình
đẳng nên để cho dân khiếu kiện với quy mô ngày càng lớn. Hay, công chức
tiếp nhận đầu tư, giải quyết mối quan hệ giữa lợi ích quốc gia và lợi ích của
các chủ đầu tư nước ngoài, có người làm thiệt hại cho đất nước để nhân dân ta
thán.
Cuốn sách: Đạo đức trong nền công vụ của Nhà xuất bản Lao động -
Xã hội, do Tô Tử Hạ, Trần Anh Tuấn, Nguyễn Thị Kim Thảo, là những người
hoạt động lâu năm trong lĩnh vực tổ chức và cán bộ của Việt Nam biên soạn,
trên cơ sở các bài viết và tham luận của các đại biểu từ các nước ASEAN
tham dự Hội thảo quốc tế: “Đạo đức trong nền công vụ” tại Hà Nội vào ngày
30 và 31 tháng 5 năm 2001. Cuốn sách gồm hai phần: phần thứ nhất, các tác
giả nêu vị trí, vai trò và ý nghĩa vấn đề đạo đức công chức trong nền công vụ;
Phần thứ hai nói về sáng kiến nâng cao đạo đức công vụ của các nước, xuất
phát từ thực tế của đất nước mình, các tác giả nêu những sáng kiến về giải
pháp tổ chức ở tầm vĩ mô cấp nhà nước như xây dựng luật đạo đức, các biện
pháp triển khai bảo đảm thực hiện luật. Trong bài viết của đại biểu Việt Nam,
nhấn mạnh đặc điểm dân tộc và tính giai cấp của vấn đề đạo đức và đưa ra
một số nguyên tắc cơ bản xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam.
Thời gian gần đây, có những bài viết về những “căn bệnh” của công
chức Việt Nam muốn tìm hiểu về nguyên nhân của thực trạng suy thoái về
đạo đức trong công chức như bệnh sợ biết nhiều, bệnh lý lịch, bệnh móc
5
ngoặc, bệnh bè phái, bệnh địa phương cục bộ. Những “bệnh” đó, có thể có
nhưng không phải là nguyên nhân mà là kết quả nảy sinh trên cơ sở kinh tế -
xã hội của nền sản xuất nhỏ. Hay có bài viết lại cho rằng bệnh của công chức,
xét về mặt đạo đức đó là, bệnh quan liêu, bệnh dối trên lừa dưới, bệnh vô
cảm, bệnh vô trách nhiệm, bệnh nói mà không làm, bệnh tham nhũng [54,
tr.1]. Họ chỉ ra bệnh nhưng chưa chỉ ra được nguyên nhân của bệnh. Vì vậy
chúng tôi rất muốn góp phần chỉ ra được nguyên nhân của những thực trạng
đó.
Trong quá trình triển khai đề tài nghiên cứu, chúng tôi có một thuận lợi
là đã tiếp thu tinh thần cuộc vận động: “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh”, phản ánh nhiều nội dung phong phú và sâu sắc về vấn đề
đạo đức của cán bộ công chức. Đó là những tư liệu và chỉ dẫn quý báu để
chúng tôi triển khai hướng nghiên cứu của mình.
Thêm vào đó, qua kinh nghiệm và sáng kiến của một số nước trong khu
vực và trên thế giới đã giải quyết vấn đề đạo đức công vụ như Thái Lan,
Singapor, Malaysia, Trung Quốc, Nhật Bản v.v, là những nguồn tài liệu thực
tế quý báu để chúng tôi tham khảo.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu *Mục đích: góp phần nhận thức rõ hơn, đầy đủ hơn về đạo đức công
chức và xây dựng, nâng cao đạo đức công chức ở nước ta hiện nay.
*Nhiệm vụ:
- Phân tích cơ sở lý luận làm tiền đề cho việc xây dựng nguyên tắc đạo
đức công chức ở nước ta.
- Nêu thực trạng đạo đức công chức ở nước ta và phân tích những
nguyên nhân cơ bản của thực trạng đó.
- Đề xuất một số phương hướng, giải pháp xây dựng, nâng cao đạo đức
công chức và khắc phục sự suy thoái đạo đức công chức ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
6
Xuất phát từ những nhiệm vụ được nêu trên đây, đối tượng nghiên cứu
của chúng tôi là đạo đức công chức trong bộ máy hành chính nhà nước. Khi
nghiên cứu, chúng tôi có sử dụng tư liệu qua các báo cáo tổng kết cuộc vận
động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” của một số bộ,
ngành, tỉnh, thành phố có tính chất đại diện, để giúp cho việc nhận thức một
cách đúng đắn thực trạng đạo đức công chức và đưa ra được những giải pháp
phù hợp đáp ứng đòi hỏi của nhân dân, của đất nước vào đội ngũ công chức
trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, đặc biệt là những quan điểm, tư tưởng về đạo đức của các nhà kinh
điển để làm sáng tỏ nội dung của đề tài.
Luận văn sử dụng các phương pháp của triết học Mác Lênin; kết hợp lý
luận với thực tiễn; phân tích và tổng hợp; logíc và lịch sử, thống kê, so sánh.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Góp phần hoàn chỉnh thêm một bước hệ thống các nguyên tắc đạo
đức công chức.
- Luận giải nguyên nhân thực trạng đạo đức công chức và đề xuất một
số phương hướng, giải pháp nâng cao đạo đức công chức ở nước ta hiện nay.
7. Ý nghĩa của luận văn
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác giảng dạy,
nghiên cứu của giảng viên và tài liệu học tập cho sinh viên, nhất là, học viên Học
viện chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh về vấn đề đạo đức công chức.
- Luận văn làm tài liệu tham khảo cho việc xây dựng chuẩn mực đạo đức
công chức trong các văn bản có tính pháp lý của các cơ quan, tổ chức Nhà nước.
8. Kết cấu của luận văn
7
Ngoài phần mở đầu, kết luận, với danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu
của luận văn được chia làm 3 chương, 6 tiết.
8
Chương 1
ĐẠO ĐỨC VÀ ĐẠO ĐỨC CÔNG CHỨC
1.1. Khái lược về đạo đức và đạo đức công chức
1.1.1. Khái lược về đạo đức
Xã hội loài người đã tạo ra nhiều phương thức điều chỉnh hành vi của
con người như phong tục, tập quán, pháp luật, và đạo đức cũng là một phương
thức điều chỉnh hành vi con người. Đạo đức đánh giá hành vi con người dưới
giác độ và chuẩn mực về thiện, ác, nghĩa vụ, danh dự, lương tâm, hạnh phúc.
Xã hội nào, thời kỳ lịch sử nào cũng đánh giá đạo đức dưới giác độ như vậy.
Tuy nhiên, nội hàm của các khái niệm thuộc lĩnh vực đạo đức trong mỗi thời
đại, mỗi chế độ xã hội ít nhiều có sự khác nhau. Chẳng hạn, nghĩa vụ của con
người trong cộng đồng xã hội nguyên thuỷ khác với nghĩa vụ của con người
trong xã hội chiếm hữu nô lệ; nghĩa vụ của con người trong xã hội chiếm hữu
nô lệ khác với nghĩa vụ con người trong xã hội phong kiến; nghĩa vụ của con
người trong xã hội phong kiến khác với nghĩa vụ của con người trong xã hội
tư bản và cũng khác với nghĩa vụ của con người trong xã hội xã hội chủ
nghĩa.
Với tư cách là hình thái ý thức xã hội, đạo đức là toàn bộ tư tưởng,
quan điểm về nguyên tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá
cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội,
chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, truyền thống và sức mạnh của dư
luận xã hội.
Đạo đức bao gồm ý thức đạo đức và thực tiễn đạo đức.
Ý thức đạo đức là sự thể hiện thái độ nhận thức của con người trước
hành vi của mình trong sự đối chiếu với hệ thống chuẩn mực và những quy
tắc đạo đức do xã hội đặt ra, giúp con người tự giác điều chỉnh hành vi và
9
hoàn thành nghĩa vụ đạo đức một cách tự nguyện. Ý thức đạo đức bao gồm cả
tri thức và tình cảm đạo đức. Trong đó, tình cảm đạo đức là yếu tố quan trọng
góp phần chuyển hoá tri thức thành hành vi đạo đức đúng đắn.
Thực tiễn đạo đức là hoạt động của con người dưới sự tác động của
niềm tin, là quá trình hiện thực hoá ý thức đạo đức trong đời sống xã hội.
Thực tiễn đạo đức là hệ thống các hành vi đạo đức của con người được nảy
sinh trên cơ sở chỉ dẫn của ý thức đạo đức.
1.1.2. Khái niệm công chức và đạo đức công chức
1.1.2.1. Khái niệm công chức
Công chức là một bộ phận rất quan trọng của nền hành chính quốc gia,
tầm quan trọng đó tựa như xương sống của cơ thể. Với bộ phận quan trọng
như vậy, nên các quốc gia đều quan tâm xây dựng đội ngũ công chức vững
mạnh về mọi mặt. Đó là, công chức phải có đầy đủ các phẩm chất chính trị,
đạo đức, tinh thần, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ để hiện thực hoá những
tiêu chuẩn và nghĩa vụ của công chức bằng sự nỗ lực cá nhân và bằng những
cơ chế, chính sách sử dụng, quản lý. Hoạt động của công chức trên mọi lĩnh
vực xã hội ngày càng tỏ rõ sự cần thiết cũng như lợi ích to lớn ở cả tầm quốc
gia lẫn tầm quốc tế. Vì vậy, nếu không có một chế độ công chức tiên tiến phù
hợp, nhà nước sẽ không thể quản lý và thúc đẩy sự phát triển của xã hội một
cách đồng bộ.
Ngay từ năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh 76/SL
về quy chế công chức, bước đầu xác định rõ về đội ngũ, vị trí, vai trò, nhiệm
vụ và những yêu cầu năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ công chức trong
xã hội mới. Từ đó, đội ngũ cán bộ công chức đã phát huy được vai trò của
mình cùng toàn thể nhân dân đẩy mạnh công cuộc kháng chiến, kiến quốc làm
nên những kỳ tích của dân tộc Việt Nam ở nửa cuối thế kỷ XX. Bước vào thời
kỳ đổi mới, ngày càng nhận thức rõ tầm quan trọng đặc biệt của đội ngũ cán
10
bộ công chức trong nền hành chính quốc gia, Nhà nước ta ban hành Pháp lệnh
cán bộ công chức và đã được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua, Chủ
tịch nước ký Lệnh công bố ngày 9 tháng 3 năm 1998.
Công chức (Việt Nam) là công dân Việt Nam, trong biên chế và hưởng
lương từ ngân sách nhà nước, bao gồm:
- Những người được bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ
trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội;
- Những người được tuyển dụng, bổ nhịêm hoặc được giao nhiệm vụ
thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội;
- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ một công vụ
thường xuyên, được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, được
xếp vào một ngạch hành chính, sự nghiệp trong các cơ quan nhà nước; mỗi
ngạch thể hiện chức và cấp về chuyên môn nghiệp vụ, có chức danh tiêu
chuẩn riêng;
- Thẩm phán Toà án nhân dân, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân;
- Những người được được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm
vụ thường xuyên làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân
mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng;
làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là
sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp.
Theo Pháp lệnh công chức quy định, khái niệm công chức ở nước ta có
ngoại diên quá rộng. Trong đối tượng nghiên cứu của luận văn này, chúng tôi
vẫn xem xét công chức theo Pháp lệnh.
1.1.2.2. Đạo đức công chức
Mỗi ngành, mỗi nghề, mỗi cơ sở đều có quy định về đạo đức nghề
nghiệp như quy định của Bộ Y tế về y đức, quy định về phẩm chất người cán
bộ thanh tra, cán bộ công an, giáo viên.
11
Nghề nghiệp, không chỉ là phương tiện để sống mà còn là điều kiện và
địa bàn để mỗi người có thể cống hiến sức lực, trí tuệ cho xã hội. Chọn nghề
và hoạt động nghề nghiệp trong bất kỳ lĩnh vực nào, thời nào cũng vậy, đều
đòi hỏi phải có những chuẩn mực đạo đức, người ta gọi là đạo đức nghề
nghiệp. Đạo đức nghề nghiệp là những nguyên tắc và chuẩn mực có tính đặc
trưng của nghề nghiệp, xã hội đòi hỏi phải tuân theo.
Đạo đức công chức là một dạng của đạo đức nghề nghiệp gồm những
quan điểm, nguyên tắc và chuẩn mực đánh giá, điều chỉnh tư tưởng, hành vi
và quan hệ đạo đức công chức.
Trong xã hội có bao nhiêu nghề thì có bấy nhiêu thứ đạo đức nghề
nghiệp. Đạo đức nghề nghiệp là đạo đức xã hội, thể hiện một cách đặc thù, cụ
thể trong các hoạt động nghề nghiệp. Với tính cách là một dạng của đạo đức
xã hội, nó quan hệ chặt chẽ với đạo đức cá nhân, thông qua đạo đức cá nhân
để thể hiện. Đồng thời, đạo đức nghề nghiệp liên quan với hoạt động nghề và
gắn liền với một kiểu quan hệ sản xuất trong một giai đoạn lịch sử nhất định
nên nó cũng mang tính giai cấp, tính dân tộc.
Đạo đức nghề nghiệp, cũng như đạo đức nói chung, trạng thái khẳng
định của lương tâm có vai trò nâng cao tính tích cực của công chức, giúp cho
công chức tin tưởng vào mình trong quá trình hoạt động nghề nghiệp được
đảm nhiệm của nền hành chính quốc gia. Niềm tin tưởng đó, là động lực bên
trong thôi thúc người công chức vươn tới cái thiện, cái tốt đẹp, cái cao cả, loại
trừ cái xấu, cái nhỏ nhen, ty tiện làm cho bộ máy hành chính nhà nước và xã
hội ngày một tốt đẹp hơn.
Nghĩa vụ đạo đức không chỉ là sự đòi hỏi, yêu cầu của cơ quan, đoàn
thể, của xã hội đối với công chức mà còn là nhu cầu của sự tiến bộ, hoàn thiện
nhân cách của bản thân mỗi người. Vì thế, nghĩa vụ đạo đức không phải là sự
12
ép buộc từ bên ngoài mà là sự gắn bó chặt chẽ với ý thức về lẽ sống, hạnh
phúc và triết lý sống của công chức.
1.2. Những nguyên tắc cơ bản của đạo đức công chức
Từ năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời những giá
trị đạo đức công vụ mới - đạo đức công vụ phục vụ nhân dân được chú trọng
xây dựng, hình thành và phát triển. Những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức
mới đã góp phần điều chỉnh hành vi của công chức trong thi hành công vụ và
đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu xây dựng một nền công vụ mới phù hợp
với bản chất nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Cho đến nay, tuy chưa có Luật Đạo đức nhưng có thể tìm thấy các
nguyên tắc đạo đức của công chức Việt Nam trong các bộ luật, đạo luật và các
văn bản mang tính pháp lý khác. Ngay từ khi đang tiến hành cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp vào giai đoạn cam go, ác liệt nhất, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã quan tâm đến vấn đề xây dựng đội ngũ công chức của nước Việt
Nam mới. Ngày 20/05/1950, Người ký Sắc lệnh 76/SL ban hành Quy chế
công chức. Trong quy chế này, vấn đề đạo đức công vụ đã được thể hiện.
Chẳng hạn, “Điều 2: Công chức Việt Nam phải phục vụ nhân dân, trung thành
với chính phủ, tôn trọng kỷ luật, có tinh thần trách nhiệm và tránh làm những
việc có hại đến thanh danh công chức hay đến sự hoạt động của bộ máy nhà
nước. Công chức Việt Nam phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”. Đến
nay, những quy định trên vẫn còn nguyên giá trị và nội dung đó vẫn được thể
hiện trong các văn bản mới mang tính pháp lý.
Những quy định trong các văn bản nêu trên, chưa đề cập trực diện là
những nguyên tắc đạo đức mà chỉ là những quy định công chức phải làm và
không được làm mang nặng tính pháp lý. Sự cần thiết phải nâng lên thành ý
thức và nghĩa vụ đạo đức để dư luận và lương tâm điều chỉnh hành vi của mỗi
13
công chức. Từ quan điểm đó, theo chúng tôi, những nguyên tắc đạo đức cơ
bản của công chức ở nước ta hiện nay phải là một hệ thống bao gồm:
Một là, trung thành với Tổ quốc, với chế độ chính trị đương thời, bảo
vệ danh dự quốc thể và lợi ích quốc gia.
Hai là, tận tuỵ phục vụ nhân dân.
Thứ ba, có tinh thần và thái độ làm việc tận tuỵ, trách nhiệm cao với
công việc.
Thứ tư, có phẩm chất trong sạch.
Thứ năm, có tinh thần hợp tác với đồng nghiệp và những người có liên
quan trong thực thi công vụ.
Thứ sáu, giữ vững tính nguyên tắc và có ý thức tổ chức kỷ luật tốt.
Thứ bảy, làm việc với tinh thần sáng tạo.
Chương 2
ĐẠO ĐỨC CÔNG CHỨC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY:
THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN
2.1. Về đội ngũ công chức và thực trạng đạo đức công chức
2.1.1. Một số nét khái quát về đội ngũ công chức
Ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, cùng với việc xây
dựng chính quyền cách mạng, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chăm lo xây
dựng đội ngũ công chức làm việc trong bộ máy chính quyền đó. Hơn nửa thế
kỷ hoạt động và phát triển, đội ngũ công chức nước ta ngày càng lớn mạnh cả
về số lượng lẫn chất lượng. Khi mới xây dựng năm 1945, cả nước mới có
khoảng 44.620 công chức, đến năm 1959 là 106.533 người, năm 1999 là
1.253.000 người, đến nay là 1.778.734 công chức từ cấp huyện trở lên cùng
công chức cấp xã là 192.438 người.
14
Tại Hội nghị triển khai công tác ngành Tổ chức Nhà nước, ngày 23
tháng 1 năm 2008, Bộ Nội vụ đã thông báo kết quả công tác Tổng điều tra
đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ công chức hành chính Nhà nước và cán bộ
công chức cấp xã trong cả nước. Cuộc tổng điều tra bước đầu đã xây dựng
được cơ sở dữ liệu thông tin về trình độ văn hoá, chuyên môn nghiệp vụ, lý
luận chính trị, quản lý hành chính ngoại ngữ, tin học, kiến thức quốc phòng an
ninh. Trong số 1.778.734 cán bộ, công chức từ cấp huyện trở lên biên chế
hành chính thuộc Chính phủ là 237.654 người; biên chế hành chính thuộc Văn
phòng Quốc hội là 467 người; biên chế hành chính thuộc Văn phòng Chủ tịch
nước là 86 người; biên chế thuộc Toà án nhân dân là 12.024 và Viện kiểm sát
nhân dân là 11.840; biên chế cán bộ thuộc cơ quan Đảng và đoàn thể do Ban
Tổ chức trung ương quản lý là 82.003 người. Biên chế đội ngũ viên chức sự
nghiệp công là 1.434.660 người.
Theo kết quả điều tra, trong công chức hành chính cả nước: có 56
người có trình độ tiến sĩ khoa học, 1.044 người có trình độ tiến sĩ, 4.775 thạc
sĩ, 120.140 người có trình độ đại học. Về trình độ lý luận chính trị: 10,43% có
trình độ cao cấp, 30,21% có trình độ trung cấp. Về trình độ ngoại ngữ:
30,32% có chứng chỉ từ trình độ A trở lên. Về trình độ tin học: 1,98% có trình
độ C, 40,22% có trình độ B, 25,4% chưa học tin học.
Trong tổng số 192.438 cán bộ, công chức cấp xã, phường, thị trấn,
người dân tộc thiểu số chiếm 21,79%, đảng viên chiếm 84,67%. Về trình độ
văn hoá, 75,45% có trình độ trung học phổ thông, trung học cơ sở chiếm
21,48%. Về chuyên môn nghiệp vụ: có 9 người có trình độ tiến sĩ, 41 thạc sỹ,
14.244 người có trình độ đại học, 3.147 người có trình độ cao đẳng, 93.816
người chưa qua đào tạo (chiếm 48,75%). Về trình độ lý luận chính trị 4,08%
có trình độ cao cấp, 38,15 có trình độ trung cấp, 22,94 có trình độ sơ cấp.
15
Trong tổng số công chức cấp xã, số người chưa học ngoại ngữ chiếm 94,22%,
chưa học tin học chiếm 87,30%.
Số lượng, chất lượng đội ngũ công chức ở nước ta ngày càng được
nâng cao nhưng so sánh đội ngũ công chức giữa các vùng, miền, khu vực, các
tỉnh, thành, các ngành trong phạm vi cả nước có sự chênh lệch về trình độ trên
nhiều lĩnh vực. Do đó việc triển khai và thực hiện những nhiệm vụ được giao
cũng không đồng đều, có nơi tốt, nhưng cũng có nơi còn nhiều tồn tại, ách
tắc.
2.1.2. Thực trạng đạo đức công chức
Từ hệ thống nguyên tắc đạo đức cơ bản của công chức như đã xác định
ở phần trên, cho phép nhận thức một cách tương đối đầy đủ hơn về thực trạng
đạo đức công chức ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
2.1.2.1. Những mặt tích cực
Đại bộ phận công chức dù làm bất kỳ việc gì cũng làm đến nơi đến
chốn, vượt qua khó khăn, thử thách, cố gắng thực hiện và phấn đấu hoàn
thành nhiệm vụ, giữ vững đạo đức, phẩm chất cách mạng, có ý thức tổ chức
kỷ luật và tinh thần trách nhiệm, có lối sống lành mạnh, giản dị, gắn bó với
nhân dân. Mặc dù gặp nhiều khó khăn và chịu sự tác động phức tạp trong điều
kiện chuyển đổi của nền kinh tế - xã hội, nhưng về cơ bản đội ngũ cán bộ,
công chức đã góp phần đóng vai trò quyết định cho những thành tựu của sự
nghiệp đổi mới đất nước. Có thể nói, nhìn chung công chức ở nước ta là lực
lượng xã hội có bản lĩnh chính trị vững vàng, hoạt động có mục đích, có tinh
thần trách nhiệm cao, có ý chí phấn đấu mạnh mẽ thực hiện những mục tiêu,
chương trình đã định; trung thực, không cơ hội, không vụ lợi, dám đấu tranh
phê bình, có khả năng đoàn kết, quy tụ mọi người và có trách nhiệm trong
cuộc sống gia đình, với cộng đồng.
2.1.2.2. Mặt tồn tại, yếu kém
16
Những ưu điểm đã được nêu trên đây là mặt cơ bản nhưng cũng không
vì thế mà chúng ta không nhận thấy những tồn tại yếu kém, những khuyết
điểm; hiện tượng suy thoái về đạo đức ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, công
chức ở nhiều nơi, nhiều chỗ, nhiều ngành, nhiều cấp; nếu không kịp thời sửa
chữa sẽ có nguy cơ lan rộng ảnh hưởng tới chất lượng của đội ngũ công chức
và suy giảm lòng tin của quần chúng nhân dân. Về vấn đề này, trong Văn kiện
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã lưu ý: “Tình trạng suy thoái về chính trị,
tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
(trong đó có công chức- theo tác giả) gắn liền với tệ quan liêu, tham nhũng
vẫn đang diễn ra nghiêm trọng chưa được ngăn chặn có hiệu quả” [9, tr.22].
“Năm biểu hiện chủ yếu của tình trạng đó là:
- Suy thoái về đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên có xu hướng
tăng cả về số lượng và phạm vi.
- Bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân có chiều hướng gia tăng.
- Tệ nói nhiều làm ít, nói nhưng không làm, làm không đến nơi, đến
chốn còn diễn ra ở nhiều nơi.
- Tệ quan liêu, xa dân thích nghe thành tích, ngại nghe sự thật còn tồn
tại ở các cấp, các ngành.
- Tham nhũng, nhũng nhiễu nhân dân, gây hậu quả nặng nề trên nhiều
mặt, làm thất thoát tài sản, tiền của của Nhà nước, của nhân dân, cả tiền vay
của nước ngoài, gây nhiều bức xúc trong nhân dân” [3, tr.50].
2.2. Những nguyên nhân cơ bản về thực trạng đạo đức công chức
2.2.1. Một số nguyên nhân khách quan
2.2.1.1. Sự tác động, ảnh hưởng mặt trái của cơ chế kinh tế thị trường
đối với đạo đức công chức
Sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế
thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã
17
tạo nên những chuyển biến tích cực trong đời sống xã hội, song nó cũng tạo ra
thách thức lớn đối với đạo đức công chức.
Khi nước ta bước vào nền kinh tế thị trường, cái được của xã hội là có
sự phát triển cao hơn ở giai đoạn trước. Điều đó được thể hiện qua mức sống
của người dân và nền sản xuất của xã hội. Nhưng mặt trái của nền kinh tế thị
trường, do chạy theo lợi nhuận, chạy theo đồng tiền, có người bất chấp tất cả
đã ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống xã hội dẫn tới sự huỷ hoại các giá trị
đạo đức. Cơ chế thị trường chi phối, làm thay đổi những quan niệm về hạnh
phúc, nghĩa vụ, lẽ sống trách nhiệm, lương tâm, thiện, ác. Trong cơ chế đó,
một số người chỉ chú trọng tới lợi ích cá nhân, thực dụng, không tình nghĩa,
bất chấp đạo lý, kỷ cương, pháp luật. Nếu cán bộ, công chức thiếu sự rèn
luyện, thiếu một trình độ văn hoá, thiếu sự kiên quyết sẽ bị đẩy vào vòng xoáy
tiêu cực của xã hội.
2.2.1.2. Cơ chế bảo đảm và khuyến khích các giá trị đạo đức công chức
chưa đồng bộ; chủ trương, chính sách, pháp luật chưa đầy đủ còn nhiều sơ
hở dễ làm nảy sinh những hiện tượng tiêu cực tác động xấu tới đạo đức công
chức
Thực tế trong những năm qua, chúng ta chưa lường hết mặt trái của cơ
chế thị trường tư bản chủ nghĩa không chuẩn bị khả năng tự đề kháng trong
công chức. Chưa kịp thời nghiên cứu, nhận dạng những hành vi tiêu cực nảy
sinh trong quá trình mở cửa hội nhập, không có biện pháp ngăn ngừa khắc
phục những biểu hiện tiêu cực một cách có hiệu quả. Chưa tạo được một cơ
chế vận hành của một nền hành chính hạn chế sự tác động tiêu cực của cơ chế
kinh tế thị trường trong điều kiện mở cửa hội nhập. Hệ thống pháp luật, chính
sách chưa hoàn chỉnh và chưa đủ mạnh, nhất là trong các lĩnh vực đất đai, đầu
tư xây dựng cơ bản, chi tiêu tài chính công; công tác cán bộ lại còn nhiều sơ
hở, dễ bị lợi dụng để trục lợi; hơn nữa nhiều nơi, nhiều địa phương chưa thực
18
hiện tốt cơ chế dân chủ; nền hành chính còn nhiều khâu không được minh
bạch hoá, tất cả tạo thành một lực cản đáng kể cho cuộc đấu tranh phòng,
chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, ngăn ngừa sự suy thoái đạo đức, lối
sống của cán bộ, công chức.
2.2.1.3. Mở cửa hội nhập, giao lưu kinh tế, văn hoá, xã hội với các
nước ngày càng gia tăng dẫn tới sự va chạm của nhiều luồng tư tưởng và sự
biến động của hệ thống giá trị xã hội ít nhiều tác động đến đạo đức của đội
ngũ công chức
Toàn cầu hoá là xu thế phát triển tất yếu của xã hội loài người, mở cửa
hội nhập là yêu cầu khách quan cho sự phát triển phồn vinh của mỗi dân tộc.
Hội nhập kinh tế quốc tế, giao lưu văn hoá, xã hội giữa các cộng đồng dân tộc
trong khu vực cũng như trên toàn thế giới ngày càng gia tăng. Trong quá trình
đó, dân trí được nâng cao, tầm vóc trí tuệ con người Việt Nam có điều kiện
thử thách và tôi luyện. Tính tự ti, khép kín, bảo thủ, trì trệ và những hạn chế
của nó được nhận thức một cách đầy đủ hơn để dần dần loại bỏ trong nền kinh
tế thị trường mở cửa hội nhập. Lối sống duy tình, tính cả nể nảy sinh trong
điều kiện sinh hoạt xã hội ở khoảnh tre, họ hàng, làng xóm bị quy luật giá trị
của hàng hoá cũng làm cho thay đổi. Sự biến động của thị trường thế giới
cũng tác động đến cách làm ăn, suy nghĩ, tính toán của mỗi gia đình, mỗi con
người. Lối sống phương Tây - lối sống của một nền đại công nghiệp tràn vào,
qua quan hệ kinh tế, xã hội, phương tiện thông tin đại chúng hàng ngày hàng
giờ tác động, đòi hỏi phải có sự tiếp thu có chọn lọc, biết kế thừa những tinh
hoa văn hoá tiến bộ, bổ sung, làm giàu và hiện đại hoá các giá trị văn hoá
truyền thống dân tộc.
2.2.2. Một số nguyên nhân chủ quan 2.2.2.1. Những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc không được
chú trọng bảo tồn và phát huy đúng mức
19
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, trong đời sống dân tộc ta, những giá trị
đạo đức phổ biến được xã hội thừa nhận với những nội dung cụ thể về cái
thiện, lương tâm, lòng yêu nước thương nòi, lòng hiếu thảo, tình bạn, tình
đồng chí cao thượng, tình yêu chung thuỷ... đã trở thành nét đẹp của đạo đức
truyền thống Việt Nam, cốt cách Việt Nam. Qua bao tháng năm các thế hệ
người Việt Nam luôn sống theo các quy tắc đạo đức “thương người như thể
thương thân”, “nhiễu điều phủ lấy giá gương”, “bầu ơi thương lấy bí cùng”,
“lá lành đùm lá rách”, “chị ngã em nâng”....để tạo nên biết bao hình mẫu về
phẩm giá đạo đức Việt Nam trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Đặc biệt qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, dưới sự lãnh
đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, những phẩm giá cao đẹp ấy đã được
phát triển lên một bước mới với ý chí “không có gì quý hơn độc lập tự do”,
“thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Sức
mạnh của dân tộc Việt Nam bắt nguồn từ nhiều nhân tố, trong đó có vai trò to
lớn của những giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam. Sức mạnh ấy đã góp
phần tạo nên những kỳ tích hào hùng, nâng Việt Nam lên thành lương chi thời
đại.
2.2.2.2. Việc buông lỏng quản lý và giáo dục đạo đức, đặc biệt là đạo
đức nghề nghiệp của công chức
Xét về cấu trúc, đạo đức công chức bao gồm hai mặt cơ bản là đạo đức
cá nhân và đạo đức nghề nghiệp.
Đạo đức cá nhân của công chức cũng khác với người không phải công
chức, đó là ý thức, niềm tin tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và đường lối
chính trị của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; biết tôn trọng, giữ
gìn kỷ cương, pháp luật, sống lành mạnh, không tham ô, lãng phí, có trách
nhiệm trong công việc, có lòng nhân ái, gần dân và thương dân. Đạo đức cá
nhân của công chức có quan hệ chặt chẽ với đạo đức nghề nghiệp.
20
2.2.2.3. Cơ chế chính sách đào tạo, tuyển chọn và sử dụng cán bộ công
chức còn nhiều bất cập
Trong hoàn cảnh kinh tế thị trường, môi trường xã hội phức tạp nhưng
phần lớn cán bộ công chức đã phát huy tính tích cực, năng động, nhạy bén tự
rèn luyện trong lao động. Đặc biệt trong giai đoạn cải cách và hội nhập, các
cán bộ công chức đã thể hiện rõ sự năng động, sáng tạo, phát huy sáng kiến,
thông minh, nhận thức nhanh, trí tuệ phát triển, biết rộng, hiểu sâu, có năng
lực tổ chức thực hiện. Tuy nhiên, cơ chế, chính sách tuyển chọn cán bộ còn
nhiều thiếu sót, hạn chế, như thiếu chủ động, thiếu kiên quyết không kịp thời
và vẫn còn tuỳ tiện trong việc bố trí, sử dụng, đánh giá cán bộ, trong xử lý
công việc... đã tác động tiêu cực đến đạo đức, lối sống của người cán bộ, công
chức. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương khoá VIII
đã chỉ ra những khuyết điểm:
- Việc đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ nhiều khi còn chủ quan, chưa
thật công tâm, chưa hợp lý, thiếu dân chủ và dân chủ hình thức.
- Chính sách đối với cán bộ còn nhiều bất hợp lý, thiếu công bằng, thực
hiện không thống nhất và đồng bộ, chưa phát huy được tài năng.
- Nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ, nguyên tắc tập
trung dân chủ chưa được cụ thể hoá. Công tác kiểm tra, quản lý cán bộ nhiều
nơi bị buông lỏng...[ 9, tr. 24].
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ
NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC CÔNG CHỨC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
3.1. Phương hướng xây dựng và nâng cao đạo đức công chức
21
3.1.1. Xây dựng và phát triển đạo đức công chức phải gắn liền và đáp
ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là cơ sở kinh tế của lối sống công
nghiệp, trên cơ sở đó hình thành các chuẩn mực và quy phạm đạo đức công
chức trong xã hội công nghiệp. Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã đề ra chiến
lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm biến nước ta từ một nước nông
nghiệp lạc hậu cơ bản trở thành nước công nghiệp vào khoảng năm 2020. Để
thực hiện được chiến lược đó vấn đề quan trọng, có tính chất quyết định là
phải có một đội ngũ cán bộ, công chức tương xứng phù hợp với lộ trình và
bước đi của các giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tức là xây dựng một
đội ngũ cán bộ, công chức phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ của thời kỳ mới.
Một đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất và năng lực, nắm bắt được
những yêu cầu của thời đại, có đủ tài năng, đạo đức và ý chí để thiết kế và tổ
chức những kế hoạch của tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
trên mọi lĩnh vực.
3.1.2. Xây dựng đạo đức công chức theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh không thể bỏ qua một giá trị đặc
biệt quan trọng đó là tư tưởng đạo đức của Người. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh đã và đang có một vị trí to lớn trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam,
nhất là trong giai đoạn đổi mới toàn diện đất nước hiện nay. Hơn thế nữa
trong bối cảnh trên thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, có những vấn đề ảnh
hưởng lớn tới hệ giá trị về đạo đức khiến người ta càng phải đi tìm những tiêu
chí mới để kịp thời bổ sung cho sự thiếu hụt và đưa ra những chuẩn mực đạo
đức mới. Cũng chính trong thời đại ngày nay, nhịp độ cuộc sống đã và đang
thay đổi nhanh chóng dẫn tới làm thay đổi nhiều thể chế, nhiều hệ giá trị đạo
đức vốn được xem là truyền thống của nhiều dân tộc cũng đang bị lung lay.
22
Ngay ở Việt Nam cũng đã xuất hiện lối sống và cách sống xa lạ trái với đạo
đức tốt đẹp của dân tộc, trong bối cảnh đó, việc bàn tới tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh là điều cần thiết, ở đó có những giá trị tích cực mà ảnh hưởng của
nó không nhỏ tới sự lựa chọn cách sống, lối sống và quan niệm sống của cán
bộ, công chức hiện nay.
3.1.3. Xây dựng, phát triển đạo đức công chức gắn liền với công cuộc
cải cách hành chính và dân chủ hoá đời sống xã hội ở nước ta hiện nay
Để thực hiện tốt chủ chương cải cách hành chính nhà nước, công chức
phải hiểu sâu sắc nội dung của công cuộc cải cách hành chính trong từng giai
đoạn. Cán bộ, công chức phải luôn là người đi đầu trong sự nghiệp cải cách
hành chính và phải được đào tạo một cách bài bản để có chuyên môn, nghiệp
vụ vững vàng và được trang bị các phương tiện, điều kiện vật chất, kỹ thuật
tác nghiệp. Các hoạt động cải cách hành chính phải được công khai, thực hiện
nguyên tắc dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Đồng thời phải tăng
cường trách nhiệm của công chức đối với công việc và nhiệm vụ được giao,
tăng cường tính chủ động, sáng tạo cho công chức trong xử lý, giải quyết
công việc.
3.2. Một số giải pháp xây dựng và nâng cao đạo đức công chức ở
nước ta hiện nay
3.2.1. Tham khảo có chọn lọc những kinh nghiệm của một số nước
trên thế giới để xây dựng và hiện thực hoá đạo đức công chức ở nước ta
hiện nay
3.2.1.1. Tham khảo những giá trị tích cực trong đạo đức công chức của
các nước
Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều cho rằng xây dựng đạo đức công
vụ là định hướng xây dựng hành vi đạo đức của công chức tuân theo những
giá trị đạo đức tích cực. Chẳng hạn, những giá trị mà các công chức cần phải
23
có như trung thành, đáng tin cậy, có trách nhiêm, trung thực, tận tuỵ, khiêm
tốn, tích cực, tư cách trong sạch, hợp tác, trọng danh dự v.v. Những giá trị
đạo đức đó, thường vượt qua biên giới quốc gia, còn các văn bản có tính chất
quy định chỉ phản ánh truyền thống xã hội và pháp luật của giai cấp đang
thống trị trong phạm vi quốc gia đó.
Trước hết, nói về sự trung thành đáng tin cậy,
Hai là, đạo đức công vụ, công chức phải góp phần củng cố và đóng
góp tích cực cho sự đoàn kết toàn dân tộc.
Ba là, có lòng tự trọng, có trách nhiệm với cương vị công tác và nhiệm
vụ được giao.
Bốn là, thái độ và hành vi ứng xử tích cực của mỗi công chức tạo ra
môi trường xã hội lành mạnh mang những giá trị nhân văn.
3.2.1.2. Tham khảo những sáng kiến nâng cao đạo đức công vụ, công
chức ở một số nước trên thế giới
Sáng kiến nâng cao đạo đức công vụ ở Campuchia, Inđonesia, Lào
Myanmar,Philipin, Singapore ,Thailan.
3.2.2. Xây dựng chuẩn mực nhằm cụ thể hoá nguyên tắc đạo đức công chức
Tiến tới như một số nước, chúng ta phải xây dựng luật đạo đức công
chức thay cho một số pháp lệnh hiện nay; cụ thể hoá những nghĩa vụ, trách
nhiệm và quyền lợi của công chức; quy định cụ thể những điều công chức
được, không được và không nên làm. Xác định rõ những tiêu chuẩn phẩm
hạnh, đạo đức của công chức làm căn cứ để khen thưởng hoặc kỷ luật nếu vi
phạm. Phải xử lý kịp thời và công bằng những sai phạm của công chức.
3.2.3. Tạo môi trường xã hội lành mạnh, điều kiện làm việc tốt nhất và chế
độ đãi ngộ công chức thoả đáng để thu hút người có tài, có đức
Môi trường xã hội của công chức là quan hệ giữa nhân viên với nhân
viên, giữa nhân viên với lãnh đạo, cơ chế điều hành, đánh giá và sử dụng công
24
chức. Công chức làm việc cần một môi trường xã hội thân thiện, công bằng,
bình đẳng, chân thành, đánh giá khách quan đúng năng lực, phẩm chất mỗi
thành viên trong cơ quan, đơn vị và sử dụng đúng năng lực của họ.
Như vậy, bên cạnh việc đòi hỏi công chức phải đạt được những tiêu
chuẩn về đạo đức, năng lực thì cũng phải có những điều kiện để công chức
yên tâm, tận tuỵ làm việc kể cả các điều kiện về kinh tế, điều kiện được học
tập nâng cao nghiệp vụ. Ngoài việc đảm bảo mức lương thoả đáng cho công
chức mà Nhà nước ấn định nên có thêm những mức lương mềm khuyến khích
cho những người thực sự có tài, có đóng góp đặc biệt, đột xuất như: sáng kiến
đem lại hiệu quả cao trong công việc, cải cách cơ chế quản lý có hiệu quả về
mặt kinh tế, xã hội.
3.2.4. Nêu cao tinh thần tự tu dưỡng đạo đức cá nhân gắn với cơ chế kiểm
tra giám sát của cơ quan, đoàn thể và nhân dân
Nêu cao tính “tự luật” (tự giác tuân theo kỷ luật) của đạo đức, bài học
của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: “phê và tự phê”; hướng sự giáo dục thành quá
trình tự giáo dục, tự rèn luyện, tự tu dưỡng của công chức. Đó cũng là điều
kiện chuyển văn hoá đạo đức xã hội thành văn hoá đạo đức cá nhân trong việc
hiện thực hoá lý tưởng đạo đức. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh, công chức luôn lao động cần cù, làm việc có kế hoạch, sáng tạo, có
năng suất cao, xem lao động là nguồn sống, nghĩa vụ thiêng liêng là hạnh
phúc...
KẾT LUẬN
Nghiên cứu “ Đạo đức công chức và xây dựng đạo đức công chức ở
nước ta hiện nay” chúng tôi rút ra một số kết luận:
1. Đạo đức là toàn bộ tư tưởng, quan điểm về quy tắc, chuẩn mực xã
hội nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ
25
với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân,
truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội. Những nguyên tắc và các chuẩn
mực là sự biểu hiện những quan hệ hiện thực xác định của con người với nhau
và với cộng đồng (gia đình, giai cấp, dân tộc). Đạo đức đánh giá hành vi con
người dưới giác độ và chuẩn mực về thiện, ác, nghĩa vụ, danh dự, lương tâm,
hạnh phúc. Xã hội nào, thời kỳ lịch sử nào cũng đánh giá đạo đức dưới giác
độ như vậy. Tuy nhiên, nội hàm của các khái niệm đạo đức được đưa ra làm
chuẩn mực trong mỗi thời đại, mỗi chế độ xã hội lại có sự khác nhau.
2. Đạo đức công chức là những quan điểm, quy tắc và chuẩn mực đánh
giá và điều chỉnh hành vi đạo đức công chức trong hoạt động chức nghiệp.
Đạo đức công chức là một dạng của đạo đức nghề nghiệp. Công chức có đạo
đức nghề nghiệp là thể hiện lương tâm, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình vì
lợi ích chung và lợi ích của người khác, ý thức rõ về cái cần phải làm và
mong muốn được làm vì những lợi ích đó. Do tính đặc thù của hoạt động
nghề nghiệp mà xã hội có những yêu cầu, những đòi hỏi cụ thể về đạo đức đối
với từng hoạt động nghề nghiệp nhất định.
3. Hiện trạng suy thoái đạo đức của một bộ phận không nhỏ cán bộ
công chức ở nước ta trong bối cảnh đổi mới, với kinh tế thị trường, mở của và
hội nhập quốc tế đang thực sự là một vấn đề đáng lo ngại. Những tác động
mặt trái của cơ chế kinh tế thị trường là một trong những nguyên nhân dẫn tới
sự suy thoái về đạo đức của cán bộ, công chức. Bên cạnh đó, do những yếu
kém trong quản lý, những bất cập trong cơ chế, chính sách, luật pháp và
phương thức điều hành các hoạt động đã dẫn tới những hiện tượng lệch chuẩn
trong đời sống đạo đức.
Việc xem nhẹ công tác giáo dục đạo đức và không chú trọng rèn luyện
đạo đức của cán bộ công chức trong đời sống hàng ngày đã góp phần làm suy
giảm đạo đức công chức. Từ đó dẫn đến suy giảm lòng tin của dân vào đội
26
ngũ công chức và thể chế hành chính Nhà nước. Để xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; Nhà nước thực sự là đại diện
cho quyền lực, ý chí, nguyện vọng của dân thì trước hết phải thể hiện tinh
thần thượng tôn pháp luật, trách nhiệm, kỷ luật công vụ và đề cao đạo đức
công chức; giáo dục và thực hành văn hoá công sở trọng dân và trọng pháp.
Xây dựng và phát triển đạo đức công chức phải gắn liền và đáp ứng yêu cầu
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay; theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh;
gắn liền với công cuộc cải cách hành chính và dân chủ hoá đời sống xã hội.
Sự vững mạnh của Đảng cộng sản cầm quyền, của Nhà nước pháp quyền,
của hệ thống chính trị - đó là bảo đảm tối quan trọng của đạo đức công chức.
Ở Việt Nam trong thời gian gần đây, những công trình nghiên cứu đạo
đức công chức đã được đề cập dưới những giác độ khác nhau. Riêng lĩnh vực
đạo đức công chức vẫn còn những khoảng trống cần nghiên cứu thấu đáo hơn,
đặc biệt trong công cuộc cải cách hành chính hiện nay. Trong bối cảnh đó,
luận văn của chúng tôi đã cố gắng phát triển thêm một bước hệ thống các
nguyên tắc đạo đức công chức và luận giải nguyên nhân thực trạng đạo đức
công chức, đề xuất một số phương hướng, giải pháp nâng cao đạo đức công
chức ở nước ta hiện nay. Chúng tôi mong muốn sẽ có điều kiện tiếp tục phát
triển đề tài này theo những hướng nghiên cứu tiếp theo.
27