di tích lịch sử mộ và khu tưởng niệm nguyễn Đình chiểu

15
Di tích lịch sử Mộ và khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu Đền thờ Nguyễn Đình Chiểu Nguyễn Đình Chiểu, sau khi bị mù hai mắt, mở trường dạy học, bốc thuốc chữa bệnh ở Bình Vi, Gia Định. Khi quân Pháp chiếm thành Gia Định, ông chạy về quê vợ ở làng Thanh Ba, huyện Cần Giuộc. Khi 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ rơi vào tay giặc, Nguyễn Đình Chiểu rời Cần Giuộc về Ba Tri (1862). Tại đây, ông tiếp tục mở trường dạy học, bốc thuốc chữa bệnh cho dân và sáng tác thơ văn chống Pháp cho đến cuối đời. Những tác phẩm có giá trị nhất của ông đều được viết từ nơi đây. Ngày 3-7-1888, ông trút hơi thở cuối cùng, hưởng thọ 66 tuổi. Người ta kể rằng, hôm đưa đám tang ông, cánh đồng An Bình Đông, nay là xã An Đức, huyện Ba Tri, trắng xóa khăn tang – khăn tang của học trò, của các thân chủ được ông chữa khỏi bệnh, của bạn bè và bà con xa gần mến mộ tài đức của ông. Khu mộ gồm có mộ nhà thơ, mộ bà Lê Thị Điền, người vợ đồng thời cũng là người trợ thủ đắc lực của ông trong sự nghiệp sáng tác thơ văn cũng như trong các họat động xã hội khác, mộ bà Sương Nguyệt Anh, con gái nhà thơ, người nữ chủ bút báo Nữ giới chung. Hiện nay, khu mộ được mở rộng thành khu di tích Nguyễn Đình Chiểu, có quy mô lớn hơn, gồm đền thờ, nhà lưu niệm tại xã An Đức, huyện Ba Tri, cách trung tâm thị trấn 2km về phía nam, nhằm tỏ lòng kính yêu một nhà thơ yêu nước lớn của dân tộc ở nửa sau thế kỷ XIX, vừa để phục vụ cho việc tham quan, nghiên cứu, giáo dục truyền thống yêu nước đối với các thế hệ hôm nay. Di tích được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia ngày 27- 4-1990. Di tích lịch sử Mộ và khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu Hiện nay, khu mộ được mở rộng thành khu di tích Nguyễn Đình Chiểu, có quy mô lớn hơn, gồm đền thờ, nhà lưu niệm tại xã An Đức, huyện Ba Tri, cách trung tâm thị trấn 2km về phía nam, nhằm tỏ lòng kính yêu một nhà thơ yêu nước lớn của dân tộc ở nửa sau thế kỷ XIX, vừa để phục vụ cho việc tham quan, nghiên cứu, giáo dục truyền thống yêu nước đối với các thế hệ hôm nay. Di tích được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia ngày 27-4-1990

Upload: cathuylieu

Post on 28-Jul-2015

393 views

Category:

Documents


10 download

TRANSCRIPT

Page 1: Di tích lịch sử Mộ và khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu

Di tích lịch sử Mộ và khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu

Đền thờ Nguyễn Đình Chiểu

Nguyễn Đình Chiểu, sau khi bị mù hai mắt, mở trường dạy học, bốc thuốc chữa bệnh ở Bình Vi,

Gia Định. Khi quân Pháp chiếm thành Gia Định, ông chạy về quê vợ ở làng Thanh Ba, huyện

Cần Giuộc. Khi 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ rơi vào tay giặc, Nguyễn Đình Chiểu rời Cần Giuộc về

Ba Tri (1862). Tại đây, ông tiếp tục mở trường dạy học, bốc thuốc chữa bệnh cho dân và sáng

tác thơ văn chống Pháp cho đến cuối đời. Những tác phẩm có giá trị nhất của ông đều được viết

từ nơi đây.

 Ngày 3-7-1888, ông trút hơi thở cuối cùng, hưởng thọ 66 tuổi. Người ta kể rằng, hôm đưa đám

tang ông, cánh đồng An Bình Đông, nay là xã An Đức, huyện Ba Tri, trắng xóa khăn tang – khăn

tang của học trò, của các thân chủ được ông chữa khỏi bệnh, của bạn bè và bà con xa gần mến

mộ tài đức của ông. Khu mộ gồm có mộ nhà thơ, mộ bà Lê Thị Điền, người vợ đồng thời cũng

là người trợ thủ đắc lực của ông trong sự nghiệp sáng tác thơ văn cũng như trong các họat

động xã hội khác, mộ bà Sương Nguyệt Anh, con gái nhà thơ, người nữ chủ bút báo Nữ giới

chung.

 Hiện nay, khu mộ được mở rộng thành khu di tích Nguyễn Đình Chiểu, có quy mô lớn hơn, gồm

đền thờ, nhà lưu niệm tại xã An Đức, huyện Ba Tri, cách trung tâm thị trấn 2km về phía nam,

nhằm tỏ lòng kính yêu một nhà thơ yêu nước lớn của dân tộc ở nửa sau thế kỷ XIX, vừa để phục

vụ cho việc tham quan, nghiên cứu, giáo dục truyền thống yêu nước đối với các thế hệ hôm nay.

Di tích được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia ngày

27-4-1990.

Di tích lịch sử Mộ và khu tưởng niệm Nguyễn Đình ChiểuHiện nay, khu mộ được mở rộng thành khu di tích Nguyễn Đình Chiểu, có quy mô lớn hơn, gồm đền thờ, nhà lưu niệm tại xã An Đức, huyện Ba Tri, cách trung tâm thị trấn 2km về phía nam, nhằm tỏ lòng kính yêu một nhà thơ yêu nước lớn của dân tộc ở nửa sau thế kỷ XIX, vừa để phục vụ cho việc tham quan, nghiên cứu, giáo dục truyền thống yêu nước đối với các thế hệ hôm nay. Di tích được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia ngày 27-4-1990

Page 2: Di tích lịch sử Mộ và khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu

Đền thờ Nguyễn Đình Chiểu

 

Nguyễn Đình Chiểu tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai. Sinh ngày 1 tháng 7 năm 1822, tại làng Tân Khánh[1], phủ Tân Bình, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (thuộc Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay).

Cha ông tên Nguyễn Đình Huy, người xã Bồ Điền, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên, (nay là xã Phong An, huyện Phong Điền, TT-Huế), là thư lại Văn hàn ty của Tổng trấn Lê Văn Duyệt. Mẹ là Trương Thị Thiệt, người làng Thanh Ba, huyện Phước Lộc, huyện Cần Giuộc, tỉnh Gia Định.

Tuổi niên thiếu, Nguyễn Đình Chiểu từng chứng kiến cảnh loạn lạc của xã hội lúc bấy giờ, đặc biệt là cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi tại Gia Định. Cuộc nổi dậy này đã khiến cha ông bỏ trốn ra Huế rồi bị cách chức. Năm 1833 cha ông trở vào Nam, đem ông ra gửi cho một người bạn ở Huế để tiếp tục việc học. Nguyễn Đình Chiểu sống ở Huế từ 12 đến 19 tuổi.

Năm 1843 ông đỗ Tú tài ở trường thi Gia Định, đúng vào năm 21 tuổi. Khi ấy, có

Page 3: Di tích lịch sử Mộ và khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu

một nhà họ Võ hứa gả con gái cho ông.

Năm 1847 ông ra Huế học để chờ thi khoa Kỷ Dậu 1849. Nhưng chưa kịp thi thì được tin mẹ mất tại Sài Gòn (1849). Trên đường trở về chịu tang mẹ, vì thời tiết thất thường, vất vả và khóc thương nhiều nên ông bị bệnh rồi mù cả đôi mắt. Trong thời gian nghỉ lại Quảng Nam chữa bệnh, tuy bệnh không hết, nhưng ông đã được vị danh y truyền dạy nghề thuốc.

Đui mù, mất mẹ, hôn thê bội ước, cảnh nhà sa sút... ông đóng cửa chịu tang cho đến năm 1851, ông mới mở trường dạy học và làm thuốc.

Năm 1854, một người học trò tên là Lê Tăng Quýnh vì cảm phục và mến thương ông, nên đã xin gia đình gả cô em gái thứ năm của mình tên là Lê Thị Điền (1835 - 1886), người Cần Giuộc (Long An), cho thầy.

Kể từ đó, gần chục năm sau, ngoài đôi việc trên ông còn sáng tác truyện thơ Lục Vân Tiên và Dương Từ - Hà Mậu, để gửi gắm tình ý cùng hoài bão của mình.

Page 4: Di tích lịch sử Mộ và khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu

 

Chân dung Nguyễn Đình Chiểu

Ngày 17 tháng 2 năm 1859, Pháp chiếm thành Gia Định. Ông cùng gia đình chạy về quê vợ ở làng Thanh Ba, huyện Cần Giuộc. Cũng tại nơi đây, ông đã sáng tác Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, được nhiều người đánh giá cao.

Khi 3 tỉnh miền Đông rơi vào tay quân Pháp, không chịu sống trong vùng bị chiếm đóng, Nguyễn Đình Chiểu cùng gia đình xuôi thuyền về làng An Đức, tổng Bảo An, tỉnh Vĩnh Long (nay là huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre). Tại đây, ông tiếp tục dạy học, bốc thuốc, đồng thời vẫn giữ mối liên hệ với những sĩ phu yêu

Page 5: Di tích lịch sử Mộ và khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu

nước như Phan Văn Trị, Nguyễn Thông và các lực lượng kháng chiến; từ chối trước mọi cám dỗ của đối phương[2].

Thời gian này, Nguyễn Đình Chiểu sáng tác nhiều thơ văn bi tráng nhất, tiếc thương những đồng bào, bạn bè, nghĩa sĩ đã mất.

Ngày 3 tháng 7 năm 1888, ông mất tại Ba Tri, Bến Tre. Người ta kể lại rằng ngày đưa đi an táng, cả cánh đồng An Bình Đông, nay là An Đức, trắng xóa khăn tang của những người mến mộ ông[3].

 

 

 

Văn và Người

 Tượng Nguyễn Đình Chiểu trong đền thờ ở Ba Tri, Bến Tre

Mô tả về nhân cách của Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Văn Châu đã viết[4]:

"Nhân cách của Nguyễn Đình Chiểu là một minh chứng sống động về tính năng động của con người. Cuộc đời dù nghiệt ngã, nhưng sự nghiệp của con người ấy không vì thế mà buông xuôi theo số phận. Vượt qua số phận để đứng vững trước sóng gió của cuộc đời, chính là thái độ sống có văn hóa, là nhân cách cao đẹp của Nguyễn Đình Chiểu. Trên cương vị

Page 6: Di tích lịch sử Mộ và khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu

của một nhà thơ, cái sâu sắc, thâm thúy trong thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu chính là chỗ chê khen, biểu dương và phê phán, thương ghét rõ ràng, chánh tà minh bạch, hợp đạo lý, thuận tình người, theo đúng chuẩn mực văn hóa Việt Nam." Dù đui mà giữ đạo nhàCòn hơn có mắt ông cha không thờ.Dù đui mà khỏi danh nhơCòn hơn có mắt ăn dơ tanh rình...

 

Sự đời thà khuất đôi tròng thịt,Lòng đạo xin tròn một tấm gương.

 

Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.

Phạm Thế Ngũ nhận xét[5]:

"So với các trước tác của các nhà văn cùng thời, Nguyễn Đình Chiểu đã có một thái độ tích cực hơn, vì dân vì nước hơn. Tuy không đứng vào hàng ngũ cầm khí giới, nhưng ông rất có cảm tình với họ, chia sẻ với họ cái hờn mất nước, lòng căm ghét quân địch và bọn hợp tác..."

Ghi nhận những thành tựu trong sự nghiệp văn học nghệ thuật của ông, trên trang web của tỉnh Bến Tre có bài viết[6]:

"Truyện Lục Vân Tiên dài 2.083 câu thơ mà nhiều nhà nghiên cứu cho là có mang tính chất tự truyện đã nhanh chóng được phổ biến rộng rãi trong nhân dân, nhất là ở Nam Kỳ. Truyện lên án bọn người độc ác, xấu xa, tráo trở, gian manh, bất nhân, bất nghĩa, đồng thời ngợi ca những tấm lòng nhân hậu, thủy chung.""Tác phẩm Dương Từ, Hà Mậu dài 3.448 câu thơ kịch liệt công kích đạo Phật, đạo Thiên Chúa lúc bấy giờ như một mối nguy cơ cho đất nước. Dựa vào trí tưởng tượng nhân gian (thiên đường, địa ngục), tác giả để cho nhân vật tự “giải mê" qua cuộc hành trình dài đi tìm chân lý đầy gian khổ, rồi trở về trong sự hòa hợp của gia đình, làng nước.""Năm 1859, giặc Pháp đánh chiếm Gia Định. Nhà thơ lánh về quê vợ ở Cần Giuộc (Long An). Âm vang của trận công đồn diệt bọn “Tây dương” tại nơi đây đã gợi lên cảm hứng để ông viết áng văn bất hủ ngợi ca những người nông dân chân đất anh hùng xả thân vì sự nghiệp cứu nước: Văn tế nghĩa dân chết trận Cần Giuộc...""Ông là người mở đầu cho dòng văn chương yêu nước Việt Nam chống Pháp xâm lược ở nửa sau thế kỷ XIX. Thơ văn ông gắn chặt với những

Page 7: Di tích lịch sử Mộ và khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu

biến cố lớn lao của đất nước lúc bấy giờ. Đó là:Chạy Tây (1859), Văn tế nghĩa dân chết trận Cần Giuộc (1861), Cáo thị, Thảo thử hịch', Thư gửi cho em, Mười hai bài thơ điếu Trương Định (1864), Mười hai bài thơ điếu Phan Tòng (1868), Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh (1874) và hai tập truyện thơ dài Dương Từ - Hà Mậu và Ngư tiều y thuật vấn đáp...""Cảm hứng chủ đạo của thơ văn ông ở giai đoạn đầu là cảm hứng đạo lý và yếu tố này đã được nâng lên thành trữ tình đạo lý đầy nhân nghĩa, thảo ngay, đồng thời cũng giàu chất phê phán, phẫn nộ trước mọi điều bất nhân, bất nghĩa như ông đã tự bạch:" Nói ra thì nước mắt trào,Tấm lòng ưu thế biết bao giờ rồi..."Những tác phẩm ở giai đoạn sau - thời kỳ đất nước bị xâm lăng - của ông là những trang bất hủ ngợi ca cuộc chiến đấu oanh liệt của nhân dân ta chống xâm lược phương Tây ngay từ buổi đầu chúng đặt chân lên đất nước ta (Phạm Văn Đồng)

Tóm lại, sáng tác của ông gồm nhiều thể loại, thể tài, trong đó thành công nghệ thuật nổi bật nhất là truyện thơ Nôm và văn tế Nôm. Ngôn ngữ nghệ thuật bình dị, giàu tính nhân dân cùng những hình tượng nhân vật sinh động trong nhiều thể loại, khiến chơ ngòi bút của ông có sức thu hút mạnh mẽ người đọc, nhất là đối với nhân dân miền Nam. Sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu đã góp phần bồi đắp tâm hồn dân tộc, nâng vị trí của văn học miền Nam lên ngang tầm văn học cả nước. Ông là người kết thúc một cách rực rỡ văn học của giai đoạn trước đó và mở đầu cho dòng văn chương yêu nước chống xâm lược.

 Ngày 3-7-1888, ông trút hơi thở cuối cùng, hưởng thọ 66 tuổi. Người ta kể

rằng, hôm đưa đám tang ông, cánh đồng An Bình Đông, nay là xã An Đức,

huyện Ba Tri, trắng xóa khăn tang – khăn tang của học trò, của các thân chủ

được ông chữa khỏi bệnh, của bạn bè và bà con xa gần mến mộ tài đức của

ông. Khu mộ gồm có mộ nhà thơ, mộ bà Lê Thị Điền, người vợ đồng thời cũng

là người trợ thủ đắc lực của ông trong sự nghiệp sáng tác thơ văn cũng như

trong các họat động xã hội khác, mộ bà Sương Nguyệt Anh, con gái nhà thơ,

người nữ chủ bút báo Nữ giới chung.

Page 8: Di tích lịch sử Mộ và khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu

 

Khu mộ và Nhà Tưởng niệm cũ 

Hiện nay, khu mộ được mở rộng thành khu di tích Nguyễn Đình Chiểu, có quy

mô lớn hơn, gồm đền thờ, nhà lưu niệm tại xã An Đức, huyện Ba Tri, cách trung

tâm thị trấn 2km về phía nam, nhằm tỏ lòng kính yêu một nhà thơ yêu nước lớn

của dân tộc ở nửa sau thế kỷ XIX, vừa để phục vụ cho việc tham quan, nghiên

cứu, giáo dục truyền thống yêu nước đối với các thế hệ hôm nay. Di tích được

Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia ngày

27-4-1990

 

Chú thích

1. ̂ Nguyễn chí thế phả ghi Tân Thới. Sách Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, đã dẫn bên dưới, cho biết rất có thể Tân Thới được đổi thành Tân Khánh, hoặc là cả hai nơi này về sau nhập làm một

2. ̂ Pháp cho Tôn Thọ Tường, là bạn của Đồ Chiểu đến dụ dỗ ông. Đến mấy lần, nhưng lần nào đều bị Đồ Chiểu tìm cớ lánh mặt, Sau Tường gửi tặng hủ mắm cá lóc, mà Tường nói rõ trong thư là chính tay của vợ mình làm, để biếu bạn xưa. Sau khi ăn gần hết, Đồ Chiểu mới phát hiện ở dưới đáy hũ có mấy nén vàng, ông vô cùng tức giận, viết thư trách Tường và sai người trả lại vàng. Michel Ponchon, tỉnh trưởng tỉnh Bến Tre cũng đã nhiều lần thân hành đến nhà Đồ Chiểu. Có lần lấy cớ nhờ nhuận sắc bản Lục Vân Tiên, nhưng ông giả vờ điếc đặc. Có lần viên quan này thông báo việc trả lại ruộng đất ở Tân Thới (Gia Định) cho Đồ Chiểu, nhưng nhận được câu trả lời: "Đất vua còn phải bỏ, thì đất tôi sá gì". Lần khác,

Page 9: Di tích lịch sử Mộ và khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu

M. Ponchon đặt ra vấn đề cấp dưỡng, Đồ Chiểu nói: "Tôi đây đang sống đầy đủ trong sự tôn kính của các môn đệ và sự quí mến của đồng bào. Điều đó đã làm tôi thỏa mãn lắm rồi..." Duy nhất có một lần, M. Ponchon hỏi Đồ Chiểu về một ước nguyện. Đồ Chiểu nói chỉ mong ước chính phủ Pháp cho ông tổ chức một buổi lễ tế vong hồn những người dân đã chết trận. Và viên quan Pháp này nhanh chóng đồng ý. (Theo Huỳnh Ngọc Trảng, Ngàn năm bia miệng, Sở VHTT Long An xuất bản, 1984, tr.101-102)

3. ̂ Phần tiểu sử, tham khảo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, tập I, NXB Đại học và THCN, năm 1980 và web Quê hương[1]

4. ̂ Theo web Văn nghệ Sông Cửu Long5. ̂ Việt Nam văn học sử giản ước tân biên tập 3, Quốc học tùng thư, Sài

Gòn, 1965, tr.296. ̂ Theo web Bến Tre7. Theo Wikipedia

 

CÁC TIN KHÁC

Miên man một dải sông Tiền – Phóng sự: PHAN LỮ HOÀNG HÀ (16/03/2010)

Trăm năm bến bắc Hàm Luông – Bài + ảnh: PHAN LỮ HOÀNG HÀ (27/02/2010) Ngày tết, về quê ăn cá… (25/02/2010) Hứa hẹn từ Lễ hội Dừa (21/01/2010) Khu di tích lịch sử Đồng Khởi Bến Tre (29/12/2009)

Việt Nam điểm đến đầy hứa hẹn

Page 10: Di tích lịch sử Mộ và khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu

Liên kết WebSite

Lượt người truy cập

NTO - Khu lăng mộ nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu, được nhân dân Bến Tre xây dựng để tưởng

niệm người đã mở trường dạy học và khám chữa bệnh cho dân nghèo, nằm cách thị trấn Ba Tri chừng 1km

Page 11: Di tích lịch sử Mộ và khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu

trên đường về An Đức, có diện tích hơn 1,5ha, được trùng tu vào năm 2000, gồm cả khu lăng mộ cũ được

xây dựng vào năm 1972, được công nhận di tích lịch sử văn hóa vào ngày 16/3/1993.

Di tích lăng mộ Nguyễn Đình Chiểu

Cổng tam quan khu lăng mộ với kiến trúc mang phong cách truyền thống của các đình chùa Việt Nam, có

hai mái chồng, hình thuyền, lợp ngói âm dương màu đỏ gạch giả cổ, trên nóc và những bao lam, xiên, xà có

đắp hoa văn, phù điêu ước lệ với nét dựng chân phương. Cột trụ tam quan to, vững chãi, sơn màu đỏ son.

Bên trong lăng là một khoảng sân rộng, hai bên có nhiều cây kiểng và chậu hoa kiểng như thiên tuế, vạn

tuế, cà đam, bùm sụm, kim quýt, vòng ngoài cùng là những hàng dương cao vút che chắn gió giông và tỏa

bóng mát. Tiền đình lăng là một nhà vuông to, gọn với hai mái chồng, lợp ngói âm dương xanh. Giữa tiền

đình là một tấm bia to, kể sơ lược tiểu sử, thân thế, sự nghiệp của cụ Đồ Nguyễn Đình Chiểu.

Page 12: Di tích lịch sử Mộ và khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu

Chính điện là một công trình kiến trúc bề thế, không gian có hình khối lăng trụ với ba tầng lợp ngói âm

dương xanh, mái dốc, đầu vút cong lên, dáng cứng cỏi nhưng thanh thoát. Sừng sững trong lăng là những

cột trụ màu nâu đất, bóng màu thời gian. Vào đến giữa lăng, bạn sẽ gặp tượng bán thân của nhà thơ yêu

nước Nguyễn Đình Chiểu, hai bên cột có chạm khắc hai câu thơ bất hủ của cụ Đồ.

Mộ cụ Đồ cùng phu nhân

Nhà lưu niệm trưng bày, triển lãm một số hình ảnh của các vị lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước,

phía sau, bên trái nhà tưởng niệm cũ là phần mộ của cụ Đồ với phu nhân. Gần bên đó là nơi yên nghỉ của

nữ sĩ Sương Nguyệt Anh, con gái của nhà thơ, bà là một trong những nhà thơ, nhà báo rất nổi tiếng vào

đầu thế kỷ trước.

Page 13: Di tích lịch sử Mộ và khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu

Thông tin địa danh

Địa chỉ: Ấp 3, Xã An Đức, Huyện Ba Tri, Tỉnh Bến Tre