dn n ng th sÁng kiẾn - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2016/11/amc49-ddxddt.pdf · nhìn...

26
DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ 6 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ Với bất kỳ quốc gia phát triển nào, đô thị hóa luôn là quá trình tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế. Trong thời điểm toàn cầu hóa và cạnh tranh kinh tế quốc tế ngày càng gia tăng, việc xác định và xây dựng các chính sách phát triển đô thị phù hợp đang trở thành mối quan tâm chính của mỗi Quốc gia. Diễn đàn Quy hoạch và phát triển đô thị Việt Nam hướng tới tăng trưởng xanh và ứng phó với biến đổi khí hậu Tại Diễn đàn Quy hoạch và phát triển đô thị hướng tới tăng trưởng xanh và ứng phó với biến đổi khí hậu Tháng 9/2015, tại New York, Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc đã thông qua Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững với các mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030 (gọi tắt là SDGs). Chương trình Nghị sự 2030 đưa ra tầm nhìn, định hướng về phương thức thực hiện, các quan hệ đối tác toàn cầu và các hành động để hướng tới phát triển bền vững trên toàn cầu cho giai đoạn 15 năm tới, trong đó phát triển đô thị và các khu vực định cư toàn diện, an toàn, có khả năng chống chịu và bền vững là một trong 17 mục tiêu SDGs. Tháng 12/2015, tại Paris, Hội nghị Thượng đỉnh Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu (gọi tắt là COP21) đã đưa ra một thỏa thuận toàn cầu với các cam kết tăng cường triển khai chính sách, chiến lược và kế hoạch hành động liên quan đến biến đổi khí hậu của các quốc gia. Tháng 10/2016, Hội nghị Liên Hợp Quốc về Phát triển nhà ở và đô thị bền vững (gọi tắt là Habitat III), tổ chức tại Ecuador, sẽ công bố Báo cáo của các quốc gia nhằm đánh giá thành tựu đã đạt được, xác định thách thức mới và tăng cường các cam kết chính trị phát triển đô thị bền vững. Trong gần 20 năm qua, hệ thống đô thị Việt Nam đã có nhiều chuyển biến tích cực. Tỷ lệ đô thị hóa tăng từ 23,7% năm 1999 lên 35,7% năm 2015. Tuy nhiên, đô thị hóa nhanh đã dẫn đến một số bất cập như sử dụng đất đai chưa hiệu quả, hạ tầng đô thị chưa đáp ứng nhu cầu của người dân, tính cạnh tranh của các đô thị không cao. Những bất cập trên đang gây ra tác động tiêu cực đến chất lượng cuộc sống của người dân và sản lượng kinh tế của khu vực đô thị nói riêng và cả nước nói chung. Bên cạnh đó, Việt Nam là một trong những nước sẽ chịu ảnh hưởng nhiều nhất của biến đổi khí hậu cũng đang làm sâu sắc hơn các bất cập hiện Ths, KTS. Phan Thị Mỹ Linh Thứ trưởng Bộ Xây Dựng ÁNG KIẾN S

Upload: others

Post on 05-Sep-2019

3 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: DN N NG TH SÁNG KIẾN - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2016/11/AMC49-DDXDDT.pdf · nhìn mới và sáng tạo để tận dụng điều kiện sẵn có và đáp ứng nhu

DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

6 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

Với bất kỳ quốc gia phát triển nào, đô thị hóa luôn là quá trình tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế. Trong thời điểm toàn cầu hóa và cạnh tranh kinh tế quốc tế ngày càng gia tăng, việc xác định và xây dựng các chính sách phát triển đô thị phù hợp đang trở thành mối quan tâm chính của mỗi Quốc gia.

Diễn đàn Quy hoạch và phát triển đô thị Việt Nam hướng tới tăng trưởng xanh và ứng phó với biến đổi khí hậu

Tại Diễn đàn Quy hoạch và phát triển đô thị hướng tới tăng trưởng xanh và ứng phó với biến đổi khí hậu

QUY HOẠCH & PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ 2016

Tháng 9/2015, tại New York, Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc đã thông qua Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững với các mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030 (gọi tắt là SDGs). Chương trình Nghị sự 2030 đưa ra tầm nhìn, định hướng về phương thức thực hiện, các quan hệ đối tác toàn cầu và các hành động để hướng tới phát triển bền vững trên toàn cầu cho giai đoạn 15 năm tới, trong đó phát triển đô thị và các khu vực định cư toàn diện, an toàn, có khả năng chống chịu và bền vững là một trong 17 mục tiêu SDGs. Tháng 12/2015, tại Paris, Hội nghị Thượng đỉnh Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu (gọi tắt là COP21) đã đưa ra một thỏa thuận toàn cầu với các cam kết tăng cường triển khai chính sách, chiến lược và kế hoạch hành động liên quan đến biến đổi khí hậu của các quốc gia. Tháng 10/2016, Hội nghị Liên Hợp Quốc về Phát triển nhà ở và đô thị bền

vững (gọi tắt là Habitat III), tổ chức tại Ecuador, sẽ công bố Báo cáo của các quốc gia nhằm đánh giá thành tựu đã đạt được, xác định thách thức mới và tăng cường các cam kết chính trị phát triển đô thị bền vững.

Trong gần 20 năm qua, hệ thống đô thị Việt Nam đã có nhiều chuyển biến tích cực. Tỷ lệ đô thị hóa tăng từ 23,7% năm 1999 lên 35,7% năm 2015. Tuy nhiên, đô thị hóa nhanh đã dẫn đến một số bất cập như sử dụng đất đai chưa hiệu quả, hạ tầng đô thị chưa đáp ứng nhu cầu của người dân, tính cạnh tranh của các đô thị không cao. Những bất cập trên đang gây ra tác động tiêu cực đến chất lượng cuộc sống của người dân và sản lượng kinh tế của khu vực đô thị nói riêng và cả nước nói chung. Bên cạnh đó, Việt Nam là một trong những nước sẽ chịu ảnh hưởng nhiều nhất của biến đổi khí hậu cũng đang làm sâu sắc hơn các bất cập hiện

Ths, KTS. Phan Thị Mỹ LinhThứ trưởng Bộ Xây Dựng

ÁNG KIẾN S

Page 2: DN N NG TH SÁNG KIẾN - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2016/11/AMC49-DDXDDT.pdf · nhìn mới và sáng tạo để tận dụng điều kiện sẵn có và đáp ứng nhu

7 Số 49.2016 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ

tại và tạo ra thách thức mới trong quá trình đô thị hóa.

Trong tiến trình phát triển của đất nước giai đoạn tới, với sự cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế toàn cầu về đầu tư trực tiếp nước ngoài trong khi chi phí sản xuất ngày càng tăng, thì nền kinh tế cần tập trung vào sản xuất những mặt hàng có giá trị gia tăng cao để tránh rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Điều này đòi hỏi phải cải thiện dịch vụ cơ sở hạ tầng cho phát triển kinh tế và nâng cao năng suất của lực lượng lao động thông qua tăng cường hiệu quả kết nối, dịch vụ hạ tầng, đẩy mạnh giáo dục, đào tạo và cải thiện điều kiện sống (bao gồm tiếp cận nhà ở thích hợp và các dịch vụ đô thị cơ bản). Cách hiệu quả nhất cho những cải tiến này là phát huy đầy đủ vai trò động lực của hệ thống đô thị thông qua xây dựng chính sách phát triển đô thị bền vững, tích hợp giữa tăng trưởng xanh và thích ứng với biến đổi khí hậu.

NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC QUẢN LÝ QUY HOẠCH VÀ QUẢN LÝ ĐÔ THỊ

Quy hoạch đô thị cần đáp ứng nhu cầu của người dân về một thành phố đáng sống, nhu cầu của doanh nghiệp về một thành phố vận hành hiệu quả, nhu cầu của xã hội về việc bảo tồn bản sắc đô thị, không gian công cộng và các di sản văn hóa, nhu cầu của thế hệ trẻ về một thành phố có môi trường bền vững.

Quy hoạch đô thị cần đáp ứng nhu cầu của người dân về một thành phố đáng sống

Điều này đặt ra thách thức cho hệ thống và tư duy quy hoạch hiện hành, đòi hỏi các nhà quản lý, các chuyên gia quy hoạch đô thị phải xúc tiến đối thoại hiệu quả với các bên có liên quan để nhận thức sâu sắc các nhu cầu, nguyện vọng và đảm bảo những nhu cầu này được xem xét, giải quyết trong các quyết định quy hoạch.

Quy hoạch đô thị trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi không chỉ đổi mới về thể chế, nguyên tắc và quy trình mà còn cả về tư duy, kỹ năng của các nhà quy hoạch và xây dựng chính sách để xác định và hài hòa nhu cầu của các bên liên quan, ưu tiên chúng trong các quy hoạch phát triển. Để tham vấn các bên liên quan và xây dựng quy hoạch phù hợp với điều kiện địa phương, cần nghiên cứu, đánh giá, tăng cường năng lực cho địa phương ở các cấp thấp hơn để đảm bảo việc quyết định và thực hiện quy hoạch hiệu quả, mạnh mẽ hơn trong việc quyết định và thực hiện quy hoạch. Cách tiếp cận có sự tham vấn và tham gia một cách khoa học, hiệu quả sẽ giúp cho công tác quy hoạch đô thị có tính thực tiễn cao. Đồng thời, các giải pháp quy hoạch và dự toán ngân sách phải dựa trên dữ liệu và đánh giá chuẩn xác về quy mô dân số, các hoạt động kinh tế và sự phát triển của đô thị, đặc biệt là khu vực vùng ven đô. Điều này đòi hỏi cần có phương pháp quản lý và đánh giá hiệu quả hơn trong quản lý đầu tư xây dựng và phát triển đô thị.

NÂNG CAO NĂNG LỰC QUẢN TRỊ VÀ TÍNH HIỆU QUẢ CỦA CÁC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT VỀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ

Tầm nhìn và sứ mệnh của các đô thị được thể hiện qua việc xây dựng chiến lược phát triển đô thị có sự tham gia của các bên liên quan có thể giúp chính quyền địa phương minh bạch hơn, có trách nhiệm hơn và làm cho các hoạt động đáp ứng tốt hơn nhu cầu và điều kiện của địa phương.

Phát triển năng lực ở tất cả các cấp chính quyền đô thị là nhiệm vụ cấp bách tạo cơ sở cho việc phân quyền cho chính quyền địa phương chịu trách nhiệm về phát triển đô thị. Do đó, quyền tự chủ của địa phương cần được sửa đổi, rà soát để tăng cường nhân lực và tài lực, từ đó nâng cao

Page 3: DN N NG TH SÁNG KIẾN - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2016/11/AMC49-DDXDDT.pdf · nhìn mới và sáng tạo để tận dụng điều kiện sẵn có và đáp ứng nhu

DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

8 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

năng lực quản lý đô thị, tăng nguồn thu của địa phương dành cho phát triển đô thị, đảm bảo tính đúng đắn, trách nhiệm giải trình và công khai minh bạch để đáp ứng nhu cầu của các thị trường vốn trong nước và quốc tế.

Các đô thị sẽ cần nguồn nhân lực chất lượng cao trong quá trình phát triển. Nhóm đối tượng ưu tiên đầu tiên là những người ra quyết định hiện hành; nhóm ưu tiên thứ hai là các chuyên gia cao cấp và trung cấp trong chính quyền; và nhóm ưu tiên thứ ba là cán bộ trong các cơ quan quy hoạch và quản lý quy hoạch của địa phương, những người cần tìm hiểu thực tiễn phát triển của quy hoạch hiện đại, bao gồm các phương pháp quy hoạch chiến lược và tích hợp. Cách tiếp cận mới trong giáo dục và bồi dưỡng về quy hoạch và quản lý đô thị hiện đại cũng cần được giới thiệu tại các trường Đại học, các Viện nghiên cứu và Học viện. Thách thức không chỉ là nâng cao năng lực kỹ thuật mà còn là việc thay đổi tư duy của lãnh đạo và cán bộ Nhà nước về trách nhiệm giải trình, tư duy phát triển với tầm nhìn mới và sáng tạo để tận dụng điều kiện sẵn có và đáp ứng nhu cầu luôn luôn thay đổi của thị trường.

CẢI THIỆN KHẢ NĂNG TIẾP CẬN CÁC DỊCH VỤ ĐÔ THỊMặc dù Việt Nam đã đạt được Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ trong

việc cung cấp nước sạch và mở rộng dịch vụ vệ sinh trong đô thị, nhưng chúng ta vẫn còn rất nhiều việc phải làm để đảm bảo tất cả cư dân đô thị được tiếp cận nguồn nước sạch, dịch vụ vệ sinh, điện năng, giao thông với giá cả phải chăng. Đây là những thách thức cả về số lượng và chất lượng. Nước cung cấp tới các gia đình phải đạt tiêu chuẩn nước sạch; nước thải phải được xử lý trước khi xả vào hệ thống chung; điện cung cấp cho các hộ dân cần phải đảm bảo tính liên tục; mạng lưới giao thông công cộng cần phải an toàn, giá cả hợp lý, thuận tiện và có khả năng cạnh tranh với phương tiện cá nhân.

Việc tìm được nguồn lực đầu tư cho xây dựng, bảo dưỡng hệ thống hạ tầng kỹ thuật và nâng cấp, mở rộng dịch vụ, mà vẫn duy trì mức giá dịch vụ phù hợp để mọi cư dân đô thị đều có thể chi trả là một thách thức lớn. Với nhu cầu hạ tầng đô thị ngày càng gia tăng và nguồn lực tài chính ngày càng khan hiếm, việc sử dụng hiệu quả nguồn tài chính sẵn có cần phải được ưu tiên hàng đầu. Đồng thời, cần có giải pháp tiếp cận nguồn

tài chính tư nhân và khuyến khích khu vực tư nhân cung cấp các dịch vụ hạ tầng. Tính minh bạch, tinh thần trách nhiệm, công tác quản lý cần được cải thiện để nâng cao sự tín nhiệm và củng cố lòng tin cho nhà đầu tư.

CHÚ TRỌNG GIẢM NGHÈO VÀ TĂNG TRƯỞNG BAO TRÙM

Việt Nam đã đạt được mục tiêu giảm nghèo thu nhập trên quy mô lớn. Tuy nhiên, hàng triệu gia đình vẫn đang trong tình trạng “cận nghèo” và dễ dàng quay lại cảnh nghèo khó. Do vậy, các chương trình giảm nghèo không chỉ phải giúp các hộ nghèo thoát nghèo, mà còn phải giúp đưa những hộ “cận nghèo” vào nhóm có thu nhập trung bình. Mạng lưới an sinh xã hội là không thể thiếu để đảm bảo các cú sốc kinh tế hoặc tài chính không gây ra tái nghèo thu nhập. Bên cạnh nghèo thu nhập, có nhiều hình thái thiếu hụt khác. Việc không tiếp cận dịch vụ cơ bản (cấp nước, vệ sinh, giáo dục, y tế) có thể gây ra nghèo thu nhập do sức khỏe yếu, sản lượng lao động giảm sút và chi trả nhiều hơn cho các dịch vụ này. Một thách thức khác là bất bình đẳng thu nhập có thể tăng theo tốc độ tăng trưởng, nhưng sẽ vi phạm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường.

Dân số đang già đi sẽ trở thành một thách thức. Chi phí sinh hoạt và nhà ở tại khu vực đô thị sẽ tăng khi lượng người nhập cư tăng. Điều này ngày càng trở nên khó khăn hơn đối với những người cao tuổi phải phụ thuộc con cái. Người cao tuổi có thể phải đối mặt với nghèo thu nhập, nếu con cái họ không chu cấp đầy đủ. Khi tuổi thọ tăng lên, dân số già sẽ đòi hỏi điều kiện chăm sóc y tế ngày càng đắt đỏ hơn. Như vậy, Nhà nước và cộng đồng sẽ phải xây dựng các phương thức hỗ trợ số người cao tuổi đang ngày càng gia tăng.

TĂNG CƯỜNG KHẢ NĂNG TIẾP CẬN NHÀ Ở PHÙ HỢP VỚI ĐIỀU KIỆN THU NHẬP

Trong vài thập kỷ trở lại đây, khu vực tư nhân đóng vai trò chủ đạo trong cung cấp nhà ở, nhưng chủ yếu ưu tiên phân khúc đối tượng người thu nhập cao, những người có thể mua nhà ở thông qua hệ thống tài chính nhà ở chính thức. Chính phủ đã có nhiều nỗ lực trong việc đẩy mạnh các chiến lược, chương trình phát triển nhà ở xã hội. Ngành Bất động sản cần hướng tới nhóm thu nhập thấp và trung bình như một bước then chốt

Quyền tự chủ của địa phương cần được sửa đổi, rà soát để tăng cường nhân lực và tài lực nhằm nâng cao năng lực quản lý đô thị

Page 4: DN N NG TH SÁNG KIẾN - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2016/11/AMC49-DDXDDT.pdf · nhìn mới và sáng tạo để tận dụng điều kiện sẵn có và đáp ứng nhu

9 Số 49.2016 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ

ro thiên tai, giảm thiểu và thích ứng biến đổi khí hậu sẽ tăng khả năng cạnh tranh của Việt Nam trong nền kinh tế toàn cầu. Những cải thiện về dịch vụ công đòi hỏi phải có đầu tư đáng kể, sự thay đổi trong thái độ và hành động của người dân, cũng như việc cân nhắc giữa các vấn đề ưu tiên của quốc gia.

Việt Nam cần đóng vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu bằng cách tăng cường sử dụng năng lượng hiệu quả, bảo tồn năng lượng và giảm phát thải khí nhà kính. Với mong muốn xây dựng một nền kinh tế phát thải các-bon thấp, Việt Nam cần thực hiện các biện pháp giảm thiểu các tác động một cách toàn diện, phù

hợp và hiệu quả, nhất là ở khu vực đô thị. Cần duy trì tăng cường nhận thức của người dân và chính quyền các cấp về sự cần thiết phải giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu và nâng cao năng lực của chính quyền địa phương trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch hành động, quan hệ hợp tác công – tư giữa chính quyền, doanh nghiệp trong và ngoài nước và người dân.

Tính minh bạch, tinh thần trách nhiệm, công tác quản lý cần được cải thiện để nâng cao sự tín nhiệm và củng cố lòng tin cho nhà đầu tư

Bảo vệ môi trường, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu sẽ tăng khả năng cạnh tranh của Việt Nam

để phát triển. Điều đó giúp các hộ gia đình thu nhập thấp và trung bình không phải mua nhà ở phi chính thức, cũng như giảm áp lực cho nhà ở xã hội. Để làm được điều đó, ngành Bất động sản phải giảm chi phí xây dựng bằng cách nâng cao hiệu quả. Chính phủ đóng vai trò tạo điều kiện, rà soát các quy định, quy trình và bổ sung hoặc thay thế các quy định, quy trình không cần thiết làm tăng chi phí xây và mua nhà ở. Ngoài ra, Chính phủ cần đảm bảo cung cấp đầy đủ quỹ đất với hạ tầng bổ trợ (đường xá, hệ thống thoát nước, hệ thống truyền tải điện) ở khu vực ven đô.

Hệ thống tài chính nhà ở vận hành hiệu quả sẽ tạo cơ sở cho sự phát triển nhà ở giá rẻ. Tài chính nhà ở là một phân khúc trong ngành Tài chính, để phát triển tài chính nhà ở, ngành Tài chính cần phải lớn mạnh hơn. Cần phải đưa ra các quy định mới, rà soát, bổ sung các quy định hiện hành để tăng cường khả năng tiếp cận tài chính nhà ở cho nhóm thu nhập trung bình. Một số hộ gia đình cần vốn vay mua nhà ở quy mô nhỏ và các tổ chức tài chính vi mô có thể đáp ứng được nhu cầu đó. Các hộ gia đình khác có nhu cầu thuê nhà ở có thể được hưởng lợi từ các chính sách thúc đẩy thị trường nhà ở cho thuê thuộc sở hữu tư nhân. Ngoài ra, các dự án nâng cấp đô thị hiện tại sẽ cung cấp kinh nghiệm, những bài học bổ ích trong việc xây dựng cách tiếp cận hiệu quả nhất trong công cuộc cải thiện nhà ở phi chính thức, lồng ghép nhà ở phi chính thức vào hệ thống quy hoạch để giảm thiểu sự phát sinh của các khu nhà ở phi chính thức mới ở ven đô và trong khu vực trung tâm các đô thị lớn.

BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ ỨNG PHÓ CÓ HIỆU QUẢ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Những thách thức về môi trường mà các đô thị đang phải đối mặt có ba cấp độ: (a) đảm bảo tiếp cận đầy đủ các dịch vụ môi trường (vệ sinh, thoát nước, quản lý chất thải rắn) cho tất cả các hộ gia đình ở thành thị; (b) kiểm soát ô nhiễm không khí, nước và đất do tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của địa phương và vùng gây ra; (c) giảm thiểu và thích nghi với các tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu. Khi nền kinh tế tiến lên trên chuỗi cung ứng toàn cầu, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả nguồn tài nguyên tự nhiên đặc biệt là đất đai, kiểm soát hiệu quả ô nhiễm, giảm nguy cơ rủi

Page 5: DN N NG TH SÁNG KIẾN - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2016/11/AMC49-DDXDDT.pdf · nhìn mới và sáng tạo để tận dụng điều kiện sẵn có và đáp ứng nhu

DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

10 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

ĐÀO TẠO NÂNG CAONĂNG LỰC QUẢN LÝ ĐÔ THỊ HƯỚNG TỚI TĂNG TRƯỞNG XANH VÀ ỨNG PHÓ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Bộ trưởng Bộ Xây dựng Phạm Hồng Hà thăm và làm việc tại Học viện tháng 8/2016

Các nghiên cứu về tăng trưởng xanh và ứng phó biến đổi khí hậu (BĐKH) gần đây đều đã khẳng định khu vực đô thị có vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo ra sự cộng hưởng giữa các mục tiêu kinh tế và môi trường. Hơn bao giờ hết, những hoạt động đang diễn ra ở các đô thị đã tác động mạnh mẽ tới sự phát triển về mọi mặt tại các quốc gia nhưng cũng chịu nhiều ảnh hưởng do tác động của biến đổi khí hậu. Đây cũng chính là nhân tố mấu chốt trong việc thúc đẩy tăng trưởng xanh và ứng phó với biến đổi khí hậu ở cấp độ quốc gia cũng như trên toàn cầu. Để các đô thị sẵn sàng đáp ứng được quá trình trên, người cán bộ quản lý đô thị cần được đào tạo, bồi dưỡng, bổ sung kiến thức thường xuyên, góp phần thiết thực nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý và phát triển đô thị Việt Nam.

TS. Trần Hữu Hà*

Page 6: DN N NG TH SÁNG KIẾN - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2016/11/AMC49-DDXDDT.pdf · nhìn mới và sáng tạo để tận dụng điều kiện sẵn có và đáp ứng nhu

11 Số 49.2016 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ

ĐÀO TẠO NÂNG CAO

1. Kết quả đào tạo nâng cao năng lực cán bộ quản lý xây dựng và đô thị hướng tới tăng trưởng xanh và ứng phó với BĐKH – theo chương trình 1961 giai đoạn 2010-2015

Đề án “Đào tạo bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý xây dựng và phát triển đô thị đối với cán bộ lãnh đạo, chuyên môn đô thị các cấp” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1961/QĐ-TTg ngày 25/10/2010 (gọi tắt là Đề án 1961). Theo Công văn số 143/CV-KTN ngày 08/01/2016 của Văn phòng Chính phủ thông báo ý kiến của Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải đồng ý kéo dài thời gian thực hiện Đề án đến năm 2020 và mở rộng đối tượng tham gia học tập của Đề án cùng kinh phí thực hiện. Bộ Xây dựng chủ trì thực hiện Đề án. Học viện Cán bộ quản lý xây dựng và đô thị được Bộ giao tổ chức triển khai thực hiện. Tính đến nay Đề án đã tổ chức được hơn 163 khóa học với khoảng 5.649 lượt học viên là cán bộ từ cấp Chủ tịch thành phố thị xã trực thuộc tỉnh đến các cán bộ địa chính, xây dựng và môi trường cấp xã.

Với mục tiêu: Nâng cao nhận thức, năng lực quản lý, điều hành cho công chức lãnh đạo, chuyên môn đô thị các cấp về công tác quản lý xây dựng và phát triển đô thị Việt Nam. Các chương trình đào tạo của Đề án đã được xây dựng với nhiều nội dung bao gồm: Quản lý quy hoạch đô thị; đầu tư xây

TT Chương trình đào tạo, bồi dưỡng Số lượng

lớp

Số lượng Học viên đã được đào

tạo, bồi dưỡng

I Các chương trình do Bộ Xây dựng thực hiện 115 2144

1 Chương trình 1: Dành cho Phó chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương

0 0

2 Chương trình 2: Dành cho Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND Thành phố, Thị xã trực thuộc tỉnh

3 68

3 Chương trình 3: Dành cho Chủ tịch, Phó chủ tịch UBND quận, huyện thuộc thành phố trực thuộc Trung ương

1 33

4 Chương trình 6: Dành cho Giám đốc, Phó Giám đốc, Trưởng, phó trưởng phòng chuyên môn thuộc Sở Xây dựng; Kiến trúc quy hoạch; Giao thông

19 673

5 Chương trình 7: Dành cho trưởng, phó trưởng phòng Quản lý đô thị, kinh tế và hạ tầng

92 1370

II Các chương trình do Bộ Xây dựng phối hợp với các địa phương thực hiện

48 3505

6 Chương trình 4: Dành cho Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND Phường, Xã thuộc thành phố trực thuộc Trung ương; Thành phố, thị xã thuộc tỉnh

5 262

7 Chương trình 5: Dành cho Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND Thị trấn 1 35

8 Chương trình 8: Dành cho công chức địa chính - xây dựng - đô thị - môi trường cấp Xã

42 3208

Tổng cộng 163 5649

Bảng 1: Kết quả đào tạo, bồi dưỡng của Đề án 1961

Học viên khóa đào tạo của Đề án 1961 đi học tập thực tế tại khu đô thị Ecopark

Page 7: DN N NG TH SÁNG KIẾN - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2016/11/AMC49-DDXDDT.pdf · nhìn mới và sáng tạo để tận dụng điều kiện sẵn có và đáp ứng nhu

DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

12 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

dựng và quản lý, sử dụng kết cấu hạ tầng đô thị; quản lý phát triển và sử dụng đất đô thị; quản lý tài chính đô thị; quản lý môi trường, kiến trúc – cảnh quan đô thị; kiểm soát phát triển đô thị. Trong các nội dung giảng dạy, chủ đề phát triển đô thị hướng tới mục tiêu tăng trưởng xanh và ứng phó Biến đổi khí hậu luôn là một trong các nội dung được lựa chọn làm chủ đề xuyên suốt cho các khóa học. Cụ thể:

Khi lựa chọn nội dung tăng trưởng xanh và ứng phó với biến đổi khí hậu làm chủ đề giảng dạy thì các chuyên đề của khóa học sẽ được điều chỉnh như sau:

- Giảng viên giảng dạy được mời là các chuyên gia đã có nhiều năm nghiên cứu và giàu kinh nghiệm thực tiễn về tăng trưởng xanh và ứng phó với biến đổi khí hậu.

- Trên cơ sở chương trình giảng dạy, các giảng viên sẽ điều chỉnh bài giảng và tài liệu theo hướng lồng ghép các vấn đề tăng trưởng xanh và ứng phó biến đổi khí hậu vào các nội dung chính của chuyên đề được phân công giảng dạy.

- Ngoài các tài liệu chính thống của Đề án 1961, các tài liệu tham khảo về tăng trưởng xanh và ứng phó biến đổi khí hậu sẽ được cung cấp đến các học viên khóa học.

- Tại các buổi học, học viên được thảo luận cùng các chuyên gia, giảng viên về nội dung chuyên môn liên quan đến tăng trưởng xanh và ứng phó biến đổi khí hậu.

- Trong khóa học có tổ chức tham quan các thành phố, những khu đô thị điển hình về tăng trưởng xanh và ứng phó biến đổi khí hậu.

Thông qua đánh giá và khảo sát sau khi kết thúc các khóa học, học viên đều đánh giá cao tính hữu ích, thực tiễn và khả năng ứng dụng vấn đề tăng trưởng xanh và ứng phó biến đổi khí hậu trong công tác điều hành, quản lý và công tác chuyên môn tại địa phương.

2. Định hướng đào tạo nâng cao năng lực cán bộ quản lý xây dựng và đô thị hướng tới tăng trưởng xanh và ứng phó với BĐKH – theo chương trình 1961 giai đoạn 2016-2020

Trong giai đoạn 2016-2020, Đề án 1961 sẽ thực hiện một số nhiệm vụ

Học viên khóa đào tạo của Đề án 1961 tham gia chương trình giao lưu “Công trình xanh trong phát triển đô thị bền vững” tại Cần Thơ năm 2016

TT Chương trình đào tạo, bồi dưỡng Số lượng lớp đã tổ

chức

Số lượng lớp có lồng ghép

I Lồng ghép chủ đề tăng trưởng xanh 163 56

1 Chương trình 1: Dành cho Phó chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương

0 0

2 Chương trình 2: Dành cho Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND Thành phố, Thị xã trực thuộc tỉnh

3 3

3 Chương trình 3: Dành cho Chủ tịch, Phó chủ tịch UBND quận, huyện thuộc thành phố trực thuộc Trung ương

1 1

4 Chương trình 6: Dành chó Giám đốc, Phó Giám đốc, Trưởng, phó trưởng phòng chuyên môn thuộc Sở Xây dựng; Kiến trúc quy hoạch; Giao thông

19 19

5 Chương trình 7: Dành cho trưởng, phó trưởng phòng Quản lý đô thị, kinh tế và hạ tầng

92 33

6 Chương trình 4: Dành cho Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND Phường, Xã thuộc thành phố trực thuộc Trung ương; Thành phố, thị xã thuộc tỉnh

5 0

7 Chương trình 5: Dành cho Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND Thị trấn 1 0

8 Chương trình 8: Dành cho công chức địa chính - xây dựng - đô thị - môi trường cấp Xã

42 0

II Lồng ghép vấn đề ứng phó Biến đổi khí hậu 163 163

trọng tâm như sau:Một là: Đến năm 2020 có 100%

cán bộ lãnh đạo chuyên môn đô thị các cấp bao gồm cả các đối tượng mở rộng được đào tạo bồi dưỡng theo các chương trình của Đề án 1961.

Với mục tiêu này, nội dung tăng trưởng xanh và ứng phó Biến đổi khí hậu sẽ được lồng ghép trong giảng dạy 100% các lớp bao gồm cả các lớp do các địa phương tổ chức, nhằm đảm bảo định hướng tăng trưởng xanh và ứng phó biến đổi khí hậu được phổ biến đến toàn thể đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý, công tác chuyên môn về xây dựng và phát triển đô thị.

Hai là: Rà soát chỉnh sửa 08 bộ tài liệu đã được Bộ Xây dựng ban

hành theo hướng tinh gọn, thiết thực, chuyên sâu đáp ứng yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên, liên tục.

Với mục tiêu này, nội dung quản lý xây dựng và đô thị hướng tới tăng trưởng xanh và ứng phó với biến đổi khí hậu sẽ được lồng ghép trong tất cả các tài liệu đào tạo cho cán bộ lãnh đạo chuyên môn đô thị các cấp. Để thực hiện điều đó, các chuyên gia giỏi về lĩnh vực này sẽ được mời để xây dựng chương trình, tài liệu. Các tài liệu chính thống của các tổ chức trong và ngoài nước về tăng trưởng xanh và ứng phó biến đổi khí hậu sẽ được sưu tập và lựa chọn, biên tập thành tài liệu tham khảo cho các học viên tham gia khóa học của Đề án 1961.

Bảng 2: Kết quả các lớp đào tạo bồi dưỡng của Đề án 1961 có lồng ghép chủ đề tăng trưởng xanh và ứng phó biến đổi khí hậu

Page 8: DN N NG TH SÁNG KIẾN - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2016/11/AMC49-DDXDDT.pdf · nhìn mới và sáng tạo để tận dụng điều kiện sẵn có và đáp ứng nhu

13 Số 49.2016 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ

Bảng 3. Bảng tổng hợp nhu cầu đào tạo bồi dưỡng giai đoạn 2016-2020

TT Chương trình đào tạo, bồi dưỡng

Số lượng lớp cần tổ chức

Số lượng Học viên cần đào

tạo bồi dưỡng

I Các chương trình do Bộ Xây dựng thực hiện 152 6497

1 Chương trình 1: Dành cho Phó chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các cán bộ thuộc diện quy hoạch chức danh nêu trên

5 126

2 Chương trình 2: Dành cho Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND Thành phố, Thị xã trực thuộc tỉnh và các cán bộ thuộc diện quy hoạch chức danh nêu trên

11 320

3 Chương trình 3: Dành cho Chủ tịch, Phó chủ tịch UBND Quận, Huyện thuộc Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương và các cán bộ thuộc diện quy hoạch chức danh nêu trên.

47 2264

4

Chương trình 6: Dành cho Giám đốc, Phó Giám đốc, Trưởng, phó trưởng phòng chuyên môn thuộc Sở Xây dựng; Sở Kiến trúc Quy hoạch; Sở Giao thông Vận tải; Sở NN&PTNT; Sở TNMT; Sở Công thương; Sở KHĐT; Sở Tài chính; Ban Quản lý xây dựng, Ban quản lý khu vực phát triển đô thị, của các Tỉnh Thành phố trực thuộc và cán bộ thuộc diện quy hoạch chức danh nêu trên

51 1863

5 Chương trình 7: Dành cho Trưởng, phó trưởng phòng Quản lý đô thị, kinh tế và hạ tầng và các cán bộ chuyên môn trong các phòng ban này.

35 1418

II Các chương trình do Bộ Xây dựng phối hợp với địa phương thực hiện

195 9747

6 Chương trình 4: Dành cho Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND Phường, Xã thuộc thành phố trực thuộc Trung ương; Thành phố, Thị xã thuộc tỉnh.

100 4872

7 Chương trình 5: Dành cho Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND Thị trấn. 25 1213

8 Chương trình 8: Dành cho công chức địa chính - xây dựng - đô thị - môi trường cấp Xã.

70 3174

Bảng 3. Bảng tổng hợp nhu cầu đào tạo bồi dưỡng giai đoạn 2016-2020

Ba là: Mặc dù việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo Đề án 1961 đã đạt được một số kết quả ban đầu về nâng cao nhận thức, trình độ cho công chức lãnh đạo, chuyên môn đô thị nhưng việc biến những nhận thức này thành các hành động thực tế để xây dựng và phát triển đô thị vẫn còn một khoảng cách khá xa. Việc nghiên cứu cụ thể đặc điểm đô thị của từng vùng, miền trên cả nước, đặc biệt là lĩnh vực phát triển đô thị hướng tới tăng trưởng xanh và ứng phó với biến đổi khí hậu là rất cần thiết. Hiện nay, còn thiếu các mô hình phát triển hiệu quả và khả thi, thiếu năng lực quản lý và thiếu các nguồn lực (ngoài Chính phủ) để thực hiện các dự án. Nhu cầu bức thiết này đòi hỏi

cần phải có một đơn vị có khả năng gắn nhu cầu phát triển của các đô thị với các tri thức và nguồn lực sẵn có ở trong và ngoài nước.

Từ phân tích trên cho thấy cần thiết phải nâng cao hiệu quả của Đề án 1961 lên một bước nữa, đó là biến kiến thức của các lãnh đạo đô thị thành hành động thông qua việc kết nối các nguồn lực (trong và ngoài Chính phủ), kết nối tri thức với nhu cầu xây dựng và phát triển bền vững các đô thị. Học viện hiện đang trình Bộ Xây dựng thành lập Trung tâm đô thị tiên tiến để có tư duy mới trong quản lý đô thị, phải gắn học tập với giải pháp thực tiễn, vừa qua, Học viện đã phối hợp với UN-HABITAT Việt Nam và họp Hội nghị bàn tròn với

7 đô thị (Tam Kỳ, Quy Nhơn, Bến Tre, Hải Dương, Hưng Yên, Việt Trì, Hà Tĩnh) thảo luận về xu hướng đề xuất tạo động lực phát triển thành phố trên cơ sở các sáng kiến phát triển đô thị cùng những lĩnh vực và các loại hình dịch vụ mà các thành phố cần tập trung thúc đẩy trong kế hoạch phát triển kinh tế. Học viện cùng UN-HABITAT, CA - (Liên minh đô thị thế giới), chuyên gia đô thị quốc tế của Mashav (Isarel) cùng xây dựng khung Đề án Trung tâm kết nối sáng tạo đô thị và xây dựng khung Đề án thúc đẩy phát triển du lịch cho Thành phố Tam kỳ và khung Đề án chiến lược phát triển du lịch bền vững cho Thành phố Quy Nhơn nhằm đưa ra những tư vấn cho địa phương để phát triển đô thị hài hòa, phát triển đô thị cần gắn với tăng trưởng xanh và ứng phó với biến đổi khí hậu, làm cho đô thị đó cạnh tranh được với cả trong nước và quốc tế.

3. Kết luậnCó thể nói, với mục tiêu, ý nghĩa

của Đề án 1961 “Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý xây dựng và phát triển đô thị đối với cán bộ lãnh đạo, chuyên môn đô thị các cấp”, việc trang bị kiến thức cho các cán bộ cần được thực hiện đa dạng, tổng hợp và có trọng tâm, trọng điểm. Với những chiến lược xây dựng và phát triển đô thị được Chính phủ phê duyệt, tăng trưởng xanh và ứng phó biến đổi khí hậu là một trong các mục tiêu quan trọng hướng đến sự phát triển bền vững cho các đô thị Việt Nam. Thông qua những khóa đào tạo tổ chức theo Đề án 1961, chủ đề này sẽ là mảng kiến thức trọng điểm được truyền đạt đến cán bộ quản lý chuyên môn đô thị các cấp. Từ đó, các định hướng, giải pháp tăng trưởng xanh và ứng phó Biến đổi khí hậu sẽ được phổ biến, trao đổi xuyên suốt và đảm bảo yêu cầu thực thi trong quá trình xây dựng và phát triển tại các đô thị Việt Nam.

*Giám đốc Học viện Cán bộ QLXD & ĐT

Page 9: DN N NG TH SÁNG KIẾN - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2016/11/AMC49-DDXDDT.pdf · nhìn mới và sáng tạo để tận dụng điều kiện sẵn có và đáp ứng nhu

DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

14 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

ĐÔ THỊ HÓA VÀ NHỮNG THÁCH THỨCQuá trình đô thị hóa tại Việt Nam

đang diễn ra nhanh chóng và liên quan trực tiếp đến quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Hiện nay, dân số đô thị của Việt Nam đạt khoảng 35,7% và ước tính đến năm 2020 có khoảng 45% dân số Việt Nam sẽ sống trong các đô thị. Kết quả là không gian các đô thị Việt Nam được mở rộng một cách mạnh mẽ trên khắp cả nước. Những năm gần đây tỷ lệ trung bình tăng trưởng kinh tế hằng năm tại các khu vực đô thị luôn đạt 12% đến 15%, gấp 1,5 đến 2 lần tỷ lệ tăng trưởng bình quân kinh tế cả nước. Đặc biệt là tốc độ tăng trưởng cao tại hai đô thị lớn nhất là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Khoảng 31% GDP của cả nước tập trung ở thành phố này, trong khi các đô thị loại I, II, III, IV chiếm khoảng 20% GDP cả nước. Như vậy, có thể thấy là các thành phố từ loại IV trở lên chiếm hơn 50% tổng sản lượng GDP của cả nước.

Tốc độ đô thị hóa quá nhanh cũng đặt ra nhiều thách thức cho công tác quản lý tại các địa phương. Nhiều đô thị tăng trưởng mở rộng về quy mô không gian và dân số nhưng không đi liền với nâng cao chất lượng môi trường sống và làm việc của người dân. Việt Nam cũng là

CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ QUỐC GIA HƯỚNG TỚI PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG VÀ TĂNG TRƯỞNG XANH, ỨNG PHÓ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

ĐỊNH HƯỚNG,

TS. Nguyễn Tường Văn*

DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

Trong những năm qua, hệ thống các đô thị Việt Nam có tốc độ phát triển nhanh chóng cả về số lượng, chất lượng và quy mô. Việc xây dựng các định hướng chiến lược phát triển đô thị quốc gia trong từng thời kỳ là nhiệm vụ quan trọng, từ đó làm cơ sở hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách, pháp luật về quản lý phát triển đô thị.

Page 10: DN N NG TH SÁNG KIẾN - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2016/11/AMC49-DDXDDT.pdf · nhìn mới và sáng tạo để tận dụng điều kiện sẵn có và đáp ứng nhu

15 Số 49.2016 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ

CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ QUỐC GIA HƯỚNG TỚI PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG VÀ TĂNG TRƯỞNG XANH, ỨNG PHÓ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

một trong những nước nằm ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương chịu nhiều ảnh hưởng nhất từ biến đổi khí hậu do có bờ biển dài, địa hình dốc. Với tần suất lớn xảy ra các cơn bão, lũ, hạn hán, các đô thị, nơi tập trung đông dân cư và các hoạt động phát triển kinh tế phải chịu nhiều thiệt hại nhất bởi tác động của biến đổi khí hậu. Phát triển đô thị Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức lớn về biến đổi khí hậu, trong đó các tỉnh vùng ĐBSCL hiện có diện tích ngập lớn, các thành phố ven biển Bắc Bộ, duyên hải miền Trung chịu ảnh hưởng nặng nề của bão lũ, các đô thị miền núi, cao nguyên chịu nhiều tác động tiêu cực do hạn hán, lũ quét, sạt lở đất.

Quá trình đô thị hóa tại Việt Nam dự kiến sẽ còn tiếp tục tăng mạnh và tạo áp lực cho công tác quản lý Nhà nước về đô thị. Do đó, Chính phủ Việt Nam luôn coi công tác quản lý phát triển đô thị là một trong các nhiệm vụ trọng tâm.

QUÁ TRÌNH HOÀN THIỆN KHUNG CHÍNH SÁCH VỀ QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ

Khoảng 10 năm sau quá trình Đổi mới, từ cuối những năm 1990, khung

quy định và pháp lý hướng dẫn và kiểm soát phát triển đô thị mới bắt đầu xuất hiện bao gồm các chính sách kiểm soát không gian và xây dựng định hướng phát triển ở cấp quốc gia. Năm 1998, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch chung Phát triển đô thị Việt Nam đến năm 2020 (Quyết định số 10/1998/QĐ-TTg ngày 23/1/1998). Tháng 4/2008, Cục Phát triển đô thị (Cục PTĐT) - Bộ Xây dựng được thành lập, là cơ quan tham mưu xây dựng các chính sách quốc gia và các chiến lược phát triển đô thị, giám sát quá trình phát triển đô thị trên cả nước. Năm 2009, Thủ tướng Chính phủ ban hành Điều chỉnh định hướng quy hoạch chung phát triển hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2025 tầm nhìn 2050 (Quyết định số 445/QĐ-TTg ngày 7/4/2009), thay thế Quyết định số 10/1998/QĐ-TTg. Tháng 5/2009, Nghị định số 42/2009/NĐ-CP của Chính phủ về phân loại đô thị được ban hành. Tháng 6/2009, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình nâng cấp đô thị quốc gia (NUUP) giai đoạn 2009-2020 (Quyết định số 758/QĐ-TTg ngày 6/8/2009). Tháng 01/2010, Luật Quy hoạch đô thị có hiệu lực. Tháng 11/2011, Chiến lược nhà ở

quốc gia được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (Quyết định số 2127/QĐ-TTg ngày 30/11/2011). Tháng 11/2012, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình phát triển đô thị quốc gia (NUDP) giai đoạn 2012 đến 2020 (Quyết định số 1659/QĐ-TTg ngày 7/11/2012). Ngày 14/1/2013, Nghị định số 11/2013/NĐ-CP của Chính phủ về Quản lý đầu tư phát triển đô thị được ban hành. Ngày 30/8/2012, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2012-2015 (Quyết định số 1183/QĐ-TTg). Ngày 05/10/2012, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn 2012-2020 (Quyết định số 1474/QĐ-TTg). Ngày 05/12/2011, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu (Quyết định số 2139/QĐ-TTg). Ngày 31/12/2013, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Phát triển các đô thị Việt Nam ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2013 – 2020” (Quyết định số 2623/QĐ-TTg). Ngày 25/9/2012, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh (Quyết định số 1393/QĐ-TTg). Ngày 25/5/2016, Quốc hội đã ban

Nghiên cứu phân loại, phân cấp quản lý đô thị đã góp phần thúc đẩy phát triển hệ thống đô thị Việt Nam

Page 11: DN N NG TH SÁNG KIẾN - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2016/11/AMC49-DDXDDT.pdf · nhìn mới và sáng tạo để tận dụng điều kiện sẵn có và đáp ứng nhu

DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

16 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

hành Nghị quyết 1210/NQ-UBTVQH13 về Phân loại đô thị.

Đặc biệt, Bộ Xây dựng cũng đã ban hành Quyết định số 499/QĐ-BXD ngày 27/5/2016 về Chương trình hành động của ngành Xây dựng thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng và Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 05 năm 2016-2020, trong đó đề ra nhiệm vụ của phát triển đô thị:

“Phát triển đô thị theo hướng đồng bộ, hiện đại, bền vững, thân thiện với môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu; nâng cao chất lượng tăng trưởng và cạnh tranh đô thị”.

Các chương trình, đề án về phát triển đô thị dự kiến triển khai trong giai đoạn này bao gồm: Xây dựng và trình Quốc hội ban hành Luật Quản lý phát triển đô thị vào cuối năm 2019. Dự kiến đây là luật khung cho toàn bộ các hoạt động phát triển đô thị; Xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định sửa đổi một số điều của Nghị định 11/2013/NĐ-CP ngày 14/1/2013 về Quản lý đầu tư phát triển đô thị vào cuối năm 2016. Dự kiến sau khi tổng kết thực tiễn triển khai Nghị định sẽ đưa nhiều nội dung quan trọng của Nghị định vào văn bản Luật; Trình Chính phủ phê duyệt Kế hoạch Phát triển đô thị tăng trưởng xanh Việt Nam vào năm 2017; Trình Chính phủ Điều chỉnh định hướng Quy hoạch tổng thể hệ thống đô thị quốc gia vào Quý II/2018. Việc

điều chỉnh sẽ nghiên cứu bổ sung các giải pháp để các đô thị Việt Nam phát triển thích ứng biến đổi khí hậu; Trình Chính phủ phê duyệt Chiến lược Phát triển đô thị Quốc gia giai đoạn 2020-2030 vào Quý IV/2018; Trình Chính phủ phê duyệt Chương trình Phát triển đô thị quốc gia giai đoạn 2020-2030 vào Quý III/2019; Xây dựng đề án hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách, các công cụ quản lý kiểm soát hiệu quả quá trình phát triển đô thị.

CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ QUỐC GIA

Qua đánh giá sơ bộ có thể nhận thấy các vấn đề tồn tại chính trong quá trình phát triển tại các đô thị Việt Nam là sự phát triển không đồng bộ giữa mở rộng không gian đô thị và chất lượng cuộc sống đô thị; việc huy động nguồn đầu tư cho cơ sở hạ tầng đô thị rất giới hạn trong khi nhu cầu ngày càng gia tăng; năng lực quản lý của chính quyền địa phương không đáp ứng được các nhu cầu phát triển đô thị trên thực tế. Những hạn chế tồn tại nói trên hình thành là do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chính là sự thiếu vắng các kế hoạch hành động phù hợp để đạt được các mục tiêu phát triển quốc gia; thiếu cơ chế hiệu quả để huy động và điều phối các nguồn lực phục vụ công tác đầu tư phát triển đô thị tại các địa phương theo các mục tiêu đã đề ra.

Năm 2013, Bộ Xây dựng đã chuẩn

bị xây dựng một Chiến lược phát triển đô thị quốc gia (NUDS). Việc nghiên cứu, xây dựng Chiến lược phát triển đô thị quốc gia nhằm thu hẹp, tiến tới xóa bỏ khoảng trống đang tồn tại giữa các mục tiêu mà các chương trình quốc gia đặt ra và thực tế triển khai đầu tư tại các đô thị, hiện thực hóa những mục tiêu, định hướng đã đề ra, thành các dự án cụ thể. Chiến lược phát triển hệ thống đô thị quốc gia sẽ góp phần xác định các cách tiếp cận và giải pháp phát triển ở tầm quốc gia cho việc phát triển của hệ thống đô thị Việt Nam cũng như các đô thị riêng lẻ trong hệ thống. Chiến lược cũng xác định giải pháp huy động nguồn lực, những cơ chế bố trí và phân bổ nguồn lực cho việc nâng cấp điều kiện cơ sở hạ tầng của các đô thị, phát huy hiệu quả vai trò của chính quyền các cấp, sự tham gia của cộng đồng dân cư, doanh nghiệp… trong việc thu hút, quản lý và khai thác các nguồn lực phục vụ cho đầu tư phát triển đô thị.

Nội dung chiến lượcNội dung của Chiến lược cũng bao

gồm danh mục các chương trình phát triển và dự án ưu tiên đầu tư, là căn cứ pháp lý để xây dựng các kế hoạch bố trí vốn ngân sách cũng như huy động các nguồn đầu tư khác cho đầu tư phát triển tại mỗi đô thị.

Giai đoạn 1 của NUDS đã được Liên minh các thành phố (Cities Allience, viết tắt là CA) tài trợ theo văn bản thỏa thuận được ký kết ngày 31/8/2015 với mục đích: I) Điều tra khảo sát và tập hợp các thông tin cơ bản về thực trạng đô thị Việt Nam, II) Đánh giá tổng quan hiện trạng phát triển hệ thống đô thị Việt Nam, làm rõ các bất cập, các vấn đề đang tồn tại, III) Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế trong chuẩn bị Chiến lược phát triển đô thị quốc gia, IV) Nghiên cứu đề xuất các mục tiêu cơ bản của chiến lược phát triển đô thị quốc gia. Dự án giai đoạn 1 dự kiến sẽ kết thúc vào cuối năm 2016.

Giai đoạn 2 của NUDS được đề xuất nhằm cụ thể hóa các mục tiêu cơ bản của Chiến lược phát triển đô thị quốc gia đã được xác định trong giai đoạn 1. Dự án giai đoạn 2 được thực hiện nhằm hoàn thành việc xây dựng chiến lược tổng thể phát triển đô thị

Điều tra, đánh giá mức độ tác động của BĐKH đến phát triển hệ thống đô thị hiện có và đô thị dự kiến hình thành phải xác định là mục tiêu chính

Page 12: DN N NG TH SÁNG KIẾN - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2016/11/AMC49-DDXDDT.pdf · nhìn mới và sáng tạo để tận dụng điều kiện sẵn có và đáp ứng nhu

17 Số 49.2016 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ

quốc gia cho Việt Nam, đồng thời áp dụng thí điểm vào một số trường hợp cụ thể tại một số đô thị tại địa phương nhằm rà soát khẳng định tính khả thi của Chiến lược và hoàn thiện nội dung trước khi trình Thủ tướng Chính phủ.

ĐIỀU CHỈNH ĐỊNH HƯỚNG QUY HOẠCH TỔNG THỂ HỆ THỐNG ĐÔ THỊ QUỐC GIA

Điều chỉnh định hướng quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn đến 2050 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 445/QĐ-TTg ngày 07/4/2009. Sau 7 năm triển khai thực hiện cho thấy phát triển hệ thống đô thị Việt Nam đã đạt được một số thành tựu nhất định: Đã và đang hình thành rõ nét các vùng kinh tế

trọng điểm ở 3 miền Bắc, Trung, Nam; các vùng đô thị lớn xung quanh Thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Các đô thị lớn, các khu công nghiệp tập trung bước đầu trở thành cực tăng trưởng chủ đạo quốc gia. Hệ thống hạ tầng khu quốc gia như cảng biển, cảng hàng không quốc tế, hệ thống đường cao tốc, đường sắt Bắc - Nam đã và đang lớn mạnh không ngừng. Tất cả tạo nền tảng cơ bản để tiếp tục chuyển sang giai đoạn phát triển tiếp theo: Từ 2015 đến 2015 sẽ ưu tiên phát triển

các vùng đô thị hóa cơ bản, giảm thiểu phát triển phân tán cục bộ.

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, thực trạng phát triển đô thị Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập, nhiều dự báo phát triển không theo kịp thực tế phát triển dẫn đến không phát huy được mục tiêu là cơ sở để xây dựng các chương trình, kế hoạch phát triển đô thị cho mỗi địa phương. Nhiều chính quyền đô thị chỉ chú trọng vào mở rộng không gian hơn là nâng cao chất lượng đô thị dẫn đến lãng phí sử dụng đất đai, tài nguyên thiên. Tại một số khu vực nội đô cũ, mật độ dân số tăng cao gây sức ép lên khả năng đáp ứng của hệ thống hạ tầng đô thị, dẫn đến nguy cơ phát triển thiếu bền vững tại nhiều đô thị.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày nay, Việt Nam tham gia vào nhiều chương trình hợp tác đa phương, song phương. Đây là những cơ hội tốt để Việt Nam tiếp cận và phát huy được nhiều nguồn lực đầu tư phát triển đô thị song cũng phải đối mặt với thách thức của xu hướng đô thị hóa tăng trưởng nhanh và thiếu bền vững. Nhiều vấn đề mới nảy sinh như tác động của biến đổi khí hậu, xu hướng phát triển tăng trưởng xanh... cũng chưa được nghiên cứu đánh giá và lồng ghép trong định

hướng phát triển hệ thống đô thị quốc gia tại Quyết định 445/QĐ-TTg. Chính vì vậy Bộ Xây dựng đã đưa nhiệm vụ này vào Chương trình hành động của Bộ giai đoạn 2016-2020.

LUẬT QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊKỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XIII,

tại Nghị quyết số 40/2012/QH13 ngày 23/11/2012 về chất vấn và trả lời chất vấn, Quốc hội đã yêu cầu Chính phủ phải nghiên cứu, xây dựng và trình Quốc hội ban hành Luật về quản lý phát triển đô thị. Tuy nhiên việc xây dựng Luật là một công việc phức tạp, cần phải có thời gian nghiên cứu kỹ lưỡng, trên cơ sở khoa học và thực tiễn, đúc kết kinh nghiệm trong nước và quốc tế thì mới có thể đảm bảo chất lượng và có tính khả thi.

Trong khi chưa có Luật về quản lý phát triển đô thị, để đáp ứng yêu cầu quản lý, Bộ Xây dựng đã nghiên cứu và trình Chính phủ ban hành Nghị định số 11/2013/ND-CP ngày 14/01/2013 về Quản lý đầu tư phát triển đô thị (gọi tắt là Nghị định 11/2013/NĐ-CP) với mục tiêu cốt lõi là kiểm soát chặt chẽ quá trình phát triển đô thị nói chung và các dự án đầu tư phát triển đô thị nói riêng theo quy hoạch và có kế hoạch, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên đất đai. Dự kiến, đây sẽ là bộ luật khung điều chỉnh các hoạt động phát triển đô thị và sẽ trình Quốc hội ban hành cuối năm 2019.

Có thể nói, trong những năm qua, hệ thống đô thị Việt nam đã có những bước phát triển nhanh chóng cả về số lượng, chất lượng và quy mô. Đảng và Chính phủ đã chỉ đạo và quan tâm sâu sắc đến quá trình phát triển đô thị qua các thời kỳ, đã có nhiều Nghị quyết, chương trình về phát triển đô thị. Cùng với sự hội nhập với thế giới, các định hướng, chiến lược phát triển đô thị Việt Nam đã và đang và sẽ tiếp tục được xây dựng hướng tới mục tiêu phát triển hệ thống đô thị xanh và bền vững, đảm bảo khả năng thích ứng với thiên tai và biến đổi khí hậu.

*Cục trưởng Cục Phát triển đô thị - Bộ Xây dựng

Xây dựng Chiến lược phát triển đô thị quốc gia sẽ là công cụ chính để thúc đẩy phát triển đô thị ở cả hai cấp độ Trung ương và địa phương

Page 13: DN N NG TH SÁNG KIẾN - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2016/11/AMC49-DDXDDT.pdf · nhìn mới và sáng tạo để tận dụng điều kiện sẵn có và đáp ứng nhu

DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

18 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

18 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

DIỄN ĐÀN QUY HOẠCH VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ 2016

Trong hai ngày 23-24/8, Diễn đàn Quy hoạch và phát triển đô thị Việt Nam hướng tới tăng trưởng xanh và ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH) đã được tổ chức tại TP. Tam Kỳ (Quảng Nam). Diễn đàn do Bộ Xây dựng, Diễn đàn đô thị Việt Nam, Chương trình định cư con người Liên Hợp Quốc (UN-Habitat) và UBND tỉnh Quảng Nam phối hợp tổ chức, thu hút 200 đại biểu là các nhà quản lý, nhà khoa học, chuyên gia trong và ngoài nước.

Diễn đàn được tổ chức nhằm tìm kiếm sáng kiến nâng cao hiệu quả

công tác quy hoạch và quản lý đô thị theo hướng tăng trưởng xanh và có khả năng ứng phó hiệu quả với BĐKH tại Việt Nam. Qua đó góp phần thực hiện các cam kết, thỏa thuận toàn cầu về giảm phát thải, phát triển xanh và ứng phó với BĐKH.

Tại diễn đàn, các chuyên gia khẳng định với bất kỳ một quốc gia nào, đô thị hóa luôn là quá trình tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế. Trong thời điểm toàn cầu hóa và cạnh tranh kinh tế quốc tế ngày càng tăng, việc xác định và xây dựng các chính sách phát

triển đô thị phù hợp đang trở thành mối quan tâm trọng tâm của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Để giải quyết những vấn đề này, các chuyên gia cho rằng cách hiệu quả nhất là phát huy đầy đủ vai trò động lực của hệ thống đô thị thông qua chính sách phát triển đô thị bền vững tích hợp giữa tăng trưởng xanh và thích ứng với BĐKH.

Diễn đàn cũng là dấu ấn để các tổ chức và địa phương tăng cường cam kết thực hiện thỏa thuận Paris và Báo cáo INDC của Việt Nam; giới thiệu một số nguyên tắc, hướng dẫn về tăng trưởng xanh và thích ứng với biến đổi khí hậu trong quy hoạch và phát triển đô thị, đồng thời chia sẻ một số kinh nghiệm quốc tế trong xây dựng thành phố xanh; xác định các sáng kiến phát triển nguồn lực và cơ hội đầu tư cho các đô thị Việt Nam; thảo luận ý tưởng tăng trưởng xanh và ứng phó với biến đổi khí hậu cùng các bên liên quan; xây dựng quan hệ đối tác chiến lược trong quy hoạch và phát triển đô thị theo định hướng tăng trưởng xanh và ứng phó với biến đổi khí hậu giữa chính quyền, khối tư nhân, nhà tài trợ và các bên liên quan.

Tại Việt Nam, trong gần 20 năm qua, hệ thống đô thị đã có nhiều chuyển biến rất tích cực. Tỷ lệ đô thị hóa tăng từ 23,7% năm 1999 lên 35,7% năm 2015. Với số lượng 795 đô thị hiện nay, mức tăng trưởng kinh tế trung bình của khu vực đô thị của Việt Nam đạt từ 10 -15% (cao gấp 2 lần so với bình quân cả nước), nguồn thu từ các hoạt động kinh tế ở đô thị đạt từ 70 -75% trong cơ cấu GDP của cả nước.

Tuy nhiên, đô thị hóa nhanh đã dẫn đến một số bất cập như sử dụng đất đai chưa hiệu quả, hạ tầng đô thị chưa đáp ứng nhu cầu của người dân, tính cạnh tranh của các đô thị không cao. Những bất cập trên đang gây ra tác động tiêu cực đến chất lượng cuộc sống của người dân và sản lượng kinh tế của khu vực đô thị nói riêng và cả nước nói chung. Bên cạnh đó, việc Việt Nam là một trong những nước sẽ chịu ảnh hưởng nhiều nhất của biến đổi khí hậu đang làm sâu sắc hơn các bất cập hiện tại và tạo ra thách thức mới cho quá trình đô thị hóa.

Toàn cảnh Diễn đàn quy hoạch và phát triển đô thị hướng tới tăng trưởng xanh và ứng phó biến đổi khí hậu

Nguyên Hương (thực hiện)*

Page 14: DN N NG TH SÁNG KIẾN - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2016/11/AMC49-DDXDDT.pdf · nhìn mới và sáng tạo để tận dụng điều kiện sẵn có và đáp ứng nhu

19 Số 49.2016 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ

ĐÔ THỊ HÓA LUÔN LÀ QUÁ TRÌNH TẠO ĐỘNG LỰC CHO TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

Sự trỗi dậy mạnh mẽ của các quốc gia Châu Á năng động từ những thập niên 90 của thế kỷ XX, trong đó hệ thống đô thị với vai trò nổi bật là các đầu tầu kinh tế của vùng và mỗi quốc gia đã chứng tỏ rằng tăng trưởng kinh tế có mối liên mật thiết với tỷ lệ đô thị hóa. Nói cách khác, đô thị hóa luôn là quá trình tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế. Khi sức mạnh của toàn cầu hóa và cạnh tranh thương mại quốc tế đã ngày càng lan tỏa thì việc xác định và xây dựng các chính sách về đô thị đáp ứng cho phát triển đang trở thành mối quan tâm lớn của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.

Trong gần 20 năm qua, Việt Nam đã chứng kiến giai đoạn tăng trưởng kinh tế nhanh, đạt được nhiều thành tựu trong kinh tế - xã hội và đã vươn lên thành nền kinh tế có thu nhập trung bình thấp. Hệ thống đô thị Việt Nam có nhiều chuyển biến rất tích cực và đóng góp đáng kể cho sự phát triển của đất nước. Tỷ lệ đô thị hóa tăng từ 23,7% (năm 1999)

lên 35,7% (năm 2015). Với số lượng 795 đô thị hiện nay, mức tăng trưởng kinh tế trung bình ở khu vực đô thị nước ta đạt từ 10-15% (cao gấp gần 2 lần so cả nước), nguồn thu từ các hoạt động kinh tế của đô thị ước đạt 70-75% trong cơ cấu GDP cả nước. Tuy nhiên, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội đất nước còn rất nặng nề trong khi Việt Nam chúng ta lại là một trong những nước sẽ chịu ảnh hưởng nhiều nhất của biến đổi khí hậu trên thế giới. Do đó, để bắt kịp với xu hướng hội nhập toàn cầu, đô thị Việt Nam sẽ cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa trong vai trò là động lực phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao tính cạnh tranh, giải quyết các bất cập đồng thời xây dựng các chính sách phát triển đô thị bền vững tích hợp giữa tăng trưởng xanh và thích ứng với biến đổi khí hậu.

Qua Diễn đàn, chúng tôi hy vọng trên tinh thần thảo luận, hợp tác và chia sẻ chúng ta có thể cùng nhau nhận biết sâu sắc hơn về các vấn đề đô thị, cùng có quyết tâm tìm ra các giải pháp để đô thị của chúng ta phát triển bền vững, thịnh vượng với những chủ đề chính sau:

Một là, nâng cao hiệu quả công tác quy hoạch và quản lý đô thị.

Hai là, nâng cao năng lực quản trị và tính hiệu quả của quy phạm pháp luật về phát triển đô thị; thay đổi tư duy của lãnh đạo và cán bộ Nhà nước về trách nhiệm giải trình, tư duy phát triển với tầm nhìn mới và sáng tạo.

Ba là, cải thiện khả năng tiếp cận các dịch vụ đô thị; Có giải pháp tiếp cận nguồn tài chính tư nhân và khuyến khích khu vực tư nhân cung cấp các dịch vụ hạ tầng.

Bốn là, chú trọng giảm nghèo và tăng trưởng bao trùm.

Năm là, tăng cường khả năng tiếp cận nhà ở phù hợp với điều kiện thu nhập; tăng cường khả năng tiếp cận tài chính nhà ở.

Sáu là, bảo vệ môi trường và ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu.

ĐỀ XUẤT SÁNG KIẾN, SÁCH LƯỢC CHO TAM KỲ VÀ CÁC ĐÔ THỊ VIỆT NAM

Quảng Nam là tỉnh nằm trong vị trí chiến lược của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung Việt Nam – một trong những vùng kinh tế phát triển sôi động nhất cả nước, đang là điểm đến của nhiều nhà đầu tư trên thế giới. Tuy nhiên, quá trình đô thị hóa ở 18 đô thị lớn nhỏ

của Quảng Nam trong điều kiện cơ sở hạ tầng và dịch vụ đô thị chưa phát triển khiến các tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu trở nên mạnh mẽ hơn và làm tăng mức độ tổn thương đối với cộng đồng dân cư tại địa phương. Biến đổi khí hậu cũng đặt gánh nặng lên người nghèo, cũng như phụ nữ và trẻ em. Những người nghèo nhất sống ở các vùng nông thôn là những người dễ bị tổn

BÀ PHAN THỊ MỸ LINH, THỨ TRƯỞNG BỘ XÂY DỰNG, CHỦ TỊCH DIỄN ĐÀN ĐÔ THỊ VIỆT NAM, TRƯỞNG BAN CHỈ ĐẠO CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ QUỐC GIA

ÔNG LÊ TRÍ THANH - PHÓ CHỦ TỊCH UBND TỈNH QUẢNG NAM

Page 15: DN N NG TH SÁNG KIẾN - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2016/11/AMC49-DDXDDT.pdf · nhìn mới và sáng tạo để tận dụng điều kiện sẵn có và đáp ứng nhu

DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

20 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

thương và chịu ảnh hưởng nhiều nhất bởi biến đổi khí hậu, đặc biệt là người nghèo sống ven biển và các khu vực miền núi.

Là thủ phủ của tỉnh Quảng Nam vừa được Chính phủ công nhận là đô thị loại II trực thuộc tỉnh, TP. Tam Kỳ đang định hướng phát triển theo hướng đô thị xanh và đang có những bước đi cụ thể trên con đường xây dựng chiến lược phát triển của mình. Tôi mong muốn thông qua diễn đàn lần này, các chuyên gia quốc tế cũng như trong nước trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm về tăng trưởng xanh và biến đổi khí hậu; chính quyền các đô thị, các chuyên gia kinh tế, quy hoạch, quản lý đô thị, đại diện các hội nghề nghiệp trong và ngoài nước, thông qua sự trao đổi, thảo luận tại diễn đàn, xác định rõ các vấn đề hiện tại, những thách thức trong công tác phát triển đô thị của Việt Nam để đề xuất sáng kiến, sách lược cho Tam Kỳ nói riêng, các đô thị Việt Nam nói chung. Trong đó, cần làm rõ và cụ thể những nội dung bức xúc hiện nay trong quản lý phát triển đô thị như: Công tác quy hoạch, quản lý đô thị; tài chính đô thị; giải pháp nâng cao dịch vụ đô thị; giảm nghèo và tăng

trưởng toàn diện; việc cung cấp nhà ở cho người có thu nhập thấp; giải pháp bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu,... để từ đó có thể giúp cho tỉnh Quảng Nam, thành phố Tam Kỳ có được nhiều thông tin thiết thực nhằm đề ra chiến lược phát triển kinh tế xã hội phù hợp.

ÔNG NGUYỄN QUANG - GIÁM ĐỐC UN-HABITAT VIỆT NAM

CẦN ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC XÂY DỰNG NĂNG LỰC CHO CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG TRONG HUY ĐỘNG NGUỒN LỰC

Với tỷ lệ dân số đô thị Việt Nam năm 2015 là 35,2%, do vậy, những thách thức của đô thị hóa ở Việt Nam phần lớn xuất phát từ dân số đô thị tăng nhanh. Đó là những

thách thức như: Cạm bẫy thu nhập trung bình, áp lực môi trường, bất bình đẳng kinh tế, đô thị hóa, di cư thiếu kiểm soát, kinh tế thiếu ổn định,… Đô thị hóa nhanh tạo áp lực lên nhu cầu nhà ở, hạ tầng và làm rối loạn mô hình đô thị.

Nếu được quản lý tốt, đô thị hóa sẽ thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, cải thiện chất lượng sống cho tất cả mọi người. Hiện nay, quy hoạch và quản lý đô thị ở Việt Nam chưa đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế – xã hội, tạo ra nhiều thách thức về khả năng cạnh tranh của các thành phố trong những vùng kinh tế trọng điểm, thách thức trong thu hút đầu tư. Do vậy, cần cung cấp thêm quyền hạn rõ ràng cho chính quyền địa phương trong quản lý và quy hoạch đô thị, đồng thời, khuyến khích cơ chế hợp tác xuyên ngành, sự tham gia của cộng đồng trong xây dựng và triển khai quy hoạch đô thị. Tăng cường nâng cao năng lực địa phương trong quản lý môi trường, nâng cấp hạ tầng đô thị; thúc đẩy hợp tác công tư thông qua các chính sách ưu đãi phù hợp cho nhà phát triển tư nhân. Đẩy mạnh tự thu ngân sách thành phố thông qua tăng phí sử dụng hạ tầng, làm sâu sắc thêm công tác cải cách pháp lý và thể chế trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc thị trường và đặc biệt là đẩy mạnh công tác xây dựng năng lực cho chính quyền địa phương trong huy động nguồn lực.

Page 16: DN N NG TH SÁNG KIẾN - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2016/11/AMC49-DDXDDT.pdf · nhìn mới và sáng tạo để tận dụng điều kiện sẵn có và đáp ứng nhu

21 Số 49.2016 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ

Khóa đào tạo Nâng cao năng lực quản lý xây dựng và phát triển đô thị cho Chủ tịch, Phó chủ tịch UBND các thành phố,

thị xã trực thuộc tỉnh khu vực phía Nam

ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP TĂNG TRƯỞNG XANH VÀ ỨNG PHÓ VỚI BĐKH SẼ ĐƯỢC PHỔ BIẾN, TRAO ĐỔI XUYÊN SUỐT CÁC KHÓA ĐÀO TẠO, BẢO ĐẢM YÊU CẦU THỰC THI TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN TẠI CÁC ĐÔ THỊ VIỆT NAM

Phát triển năng lực quản lý ở các cấp chính quyền là một nhiệm vụ cấp bách. Vấn đề này được Chính phủ Việt Nam đặc biệt quan tâm, ban hành Đề án 1961 về “Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý xây dựng và phát triển đô thị đối với cán bộ lãnh đạo, chuyên môn đô thị các cấp” với mục tiêu: Nâng cao nhận thức, năng lực quản lý, điều hành cho công chức lãnh đạo, chuyên môn đô thị các

ÔNG TRẦN HỮU HÀ – GIÁM ĐỐC HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ - BỘ XÂY DỰNG

cấp về công tác quản lý xây dựng và phát triển đô thị Việt Nam. Các chương trình đào tạo của Đề án đã được xây dựng với nhiều nội dung bao gồm: Quản lý quy hoạch đô thị; đầu tư xây dựng và quản lý, sử dụng kết cấu hạ tầng đô thị; quản lý phát triển và sử dụng đất đô thị; quản lý tài chính đô thị; quản lý môi trường, kiến trúc – cảnh quan đô thị; kiểm soát phát triển đô thị. Trong các nội dung giảng dạy, chủ đề phát triển đô thị hướng tới mục tiêu tăng trưởng xanh và ứng phó Biến đổi khí hậu luôn là một trong các nội dung được lựa chọn làm chủ đề xuyên suốt cho các khóa học. Từ đó, các định hướng, giải pháp tăng trưởng xanh và ứng phó với BĐKH sẽ được phổ biến, trao đổi xuyên suốt và bảo đảm yêu cầu thực thi trong quá trình xây dựng và phát triển tại các đô thị Việt Nam.

Trong giai đoạn 2016-2020, Đề án 1961 sẽ thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm như sau: Một là: Đến năm 2020 có 100% cán bộ lãnh đạo chuyên môn đô thị các cấp bao gồm cả các đối tượng mở rộng được đào tạo bồi dưỡng theo các chương trình của Đề án 1961. Hai là: Rà soát chỉnh sửa tài liệu. Ba là: Thành lập Trung tâm đô thị tiên tiến để có tư duy mới trong quản lý đô thị, gắn học tập với giải pháp thực tiễn, đưa ra những tư vấn cho địa phương để phát triển đô thị hài hòa, trong đó có việc nghiên cứu cụ thể đặc điểm đô thị của từng vùng, miền trên cả nước, phát triển đô thị cần kết hợp với tăng trưởng xanh và ứng phó với biến đổi khí hậu, làm cho đô thị đó cạnh tranh được với cả trong nước và quốc tế.

Tại Diễn đàn, nhiều chuyên gia cũng đồng tình với quan điểm cần cung cấp thêm quyền hạn cho chính quyền địa phương trong quản lý và quy hoạch đô thị và cho rằng việc xúc tiến đối thoại thường xuyên với các bên có liên quan để nhận thức sâu sắc các nhu cầu, nguyện vọng của người dân, doanh nghiệp và bảo đảm những nhu cầu về một thành phố đáng sống được xem xét, giải quyết trong các quyết định quy hoạch. Diễn đàn còn nghe các chuyên gia quốc tế chia sẻ kinh nghiệm trong cung cấp tài chính cho sáng kiến tăng trưởng xanh và BĐKH, khả năng cạnh tranh kinh tế và thu hút đầu tư; kinh nghiệm phát triển thành phố thông minh ở Hàn Quốc hay huy động nguồn lực từ thảm họa môi trường từ các quốc gia... Đặc biệt, diễn đàn đã thông qua Sáng kiến Quy hoạch và phát triển đô thị năm 2016 với 6 nội dung khuyến nghị. Các sáng kiến tại Diễn đàn sẽ được truyền tải rộng rãi để giúp các địa phương phát triển đô thị theo hướng tăng trưởng xanh, ứng phó với BĐKH.

* Học viện Cán bộ QLXD & ĐT

Page 17: DN N NG TH SÁNG KIẾN - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2016/11/AMC49-DDXDDT.pdf · nhìn mới và sáng tạo để tận dụng điều kiện sẵn có và đáp ứng nhu

DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

22 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

lòng tập trung mọi nguồn lực để đầu tư, phát triển cơ sở hạ tầng theo hướng mở rộng đô thị về hướng Bắc và các khu đô thị mới. Hiện nay, thành phố có 16 đơn vị hành chính, diện tích tự nhiên 107,03 ha, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) bình quân hằng năm đạt 14,79%, công nghiệp xây dựng đạt 13,4%, thương mại dịch vụ đạt 17,95%, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, trong đó chiếm tỉ trọng cao nhất là thương mại, dịch vụ chiếm 51,1%, GDP bình quân đầu người đạt 61,8 triệu đồng, thu ngân sách đạt 275,6 tỷ đồng…

Với vai trò được ví là cánh cửa đón khách của tỉnh Phú Yên, TP. Tuy Hòa đã quy hoạch và định hướng phát triển đô thị chia làm 02 khu vực chính:

* Phía Bắc sông Đà Rằng: Được quy hoạch là trung tâm hành chính cũ, trung tâm công cộng, trung tâm thương mại truyền thống, dịch vụ du lịch, công viên, vườn hoa cây xanh, các khu dân cư hiện có và một phần phát triển về phía Tây dọc QL25 đến QL1A (mới).

* Phía Nam sông Đà Rằng: Hình thành khu đô thị mới Nam TP. Tuy Hòa, quy mô diện tích 394,06ha, với các chức

Thành phố Tuy Hòa được Thủ tướng Chính Phủ công nhận là đô thị loại II vào năm 2013. Với đặc điểm là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật của tỉnh Phú Yên, TP. Tuy Hòa đang tiếp tục xây dựng, phát triển để xứng tầm với các đô thị vùng duyên hải Nam Trung Bộ và cả nước, phấn đấu trở thành cửa ngõ - nơi hướng ra biển Đông cho vùng Tây Nguyên; đồng thời là trung tâm du lịch, dịch vụ lớn trong khu vực và cả nước vào năm 2020. Phóng viên Tạp chí Xây dựng và Đô thị đã có dịp phỏng vấn ông Nguyễn Ngọc Tứ - Chủ tịch UBND TP. Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên để tìm hiểu về công tác quản lý cùng sự phát huy vai trò của các cấp chính quyền đô thị nhằm hướng tới xây dựng thành phố phát triển bền vững.

Phóng viên (PV): Với vai trò được ví là cánh cửa đón khách của tỉnh Phú Yên, xin ông cho biết thành phố Tuy Hòa đã được quy hoạch như thế nào để đáp ứng nhu cầu phát triển và hội nhập?

Ông Nguyễn Ngọc Tứ: Từ khi tái lập tỉnh vào năm 1989, với sự nỗ lực của toàn Đảng bộ và các tầng lớp nhân dân, thành phố Tuy Hòa đã có bước phát triển toàn diện. Ngay sau khi chính thức trở thành thành phố trực thuộc tỉnh vào năm 2005, với 10 phường và 4 xã, Đảng bộ chính quyền và nhân dân thành phố Tuy Hòa đã đồng

Ông Nguyễn Ngọc TứChủ tịch UBND TP. Tuy Hòa

TP. Tuy Hòa được ví là cánh cửa đón khách của tỉnh Phú Yên

Lương Giang (thực hiện)

NÂNG CAOVAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA CHÍNH QUYỀN ĐÔ THỊ TRONG XÂY DỰNG THÀNH PHỐ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

Page 18: DN N NG TH SÁNG KIẾN - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2016/11/AMC49-DDXDDT.pdf · nhìn mới và sáng tạo để tận dụng điều kiện sẵn có và đáp ứng nhu

23 Số 49.2016 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ

năng chính: Trung tâm thương mại – tài chính, trung tâm tri thức và khu dân cư đô thị mới; hình thành Cụm công nghiệp hàng không Tuy Hòa (quy mô 839ha), trong đó có Cụm Cảng hàng không Tuy Hòa và khu công nghệ cao;

* Về quy hoạch phát triển các khu chức năng chính: Đầu tư kết cấu hạ tầng đồng bộ hiện đại chỉnh trang đô thị, phân khu chức năng sắp xếp lại các khu dân cư hợp lý.

- Khu hành chính: Tập trung ở khu vực dọc đường Lê Duẩn và trung tâm thành phố Tuy Hòa hiện tại;

- Trung tâm công cộng: Nâng cấp các khu dịch vụ công cộng hiện có; các khu vực dọc theo đường Hùng Vương về phía Bắc, xây dựng mới công trình bệnh viện Đa khoa tỉnh, phát triển xây dựng mới một số trường học, gồm: Đại học Phú Yên, Đại học xây dựng Miền Trung, Cao đẳng kỹ thuật và trường phổ thông trung học...;

- Khu kinh doanh và thương mại: Thành phố đã khuyến khích và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế đầu tư xây mới các Trung tâm thương mại, siêu thị; Phối hợp củng cố, sắp xếp lại hệ thống chợ hiện có cho phù hợp với kinh tế xã hội tại từng địa phương; Chỉnh trang, khai thác các đường phố chính để xây dựng các cửa hàng, cửa hiệu tiến tới xây dựng một số tuyến phố chuyên doanh văn minh thương mại… có ý nghĩa quan trọng trong thu hút khách du lịch.

- Khu khách sạn, dịch vụ du lịch: Vị trí ven biển, bố trí các công trình khách sạn xen kẽ, giữa 02 lô đất xây dựng

khách sạn bố trí các khoảng không gian xanh để tạo cảnh quan cho dãy khách sạn tạo tầm nhìn tốt ra biển.

- Khu công viên, vườn hoa và không gian mở: Kiểm soát việc phát triển thành phố Tuy Hòa bởi vành đai xanh bao quanh thành phố có bán kính từ 3-5km, tạo tầm nhìn rộng ra ngoài và

tương phản với bên trong thành phố; xây dựng công viên sinh vật; cải tạo, nâng cấp núi Nhạn vừa là điểm di sản văn hoá- tâm linh vừa là công viên thực vật; hình thành mới chuỗi công viên trong lòng thành phố;

- Khu công nghiệp và công nghệ cao: Hạn chế phát triển khu công nghiệp An Phú theo chức năng hiện có, dần dần chuyển thành khu công nghệ cao khi có điều kiện; hình thành mới

khu công nghệ cao bố trí kề phía Nam sân bay Tuy Hòa (cùng khu Cảng hàng không Tuy Hòa hiện có, tạo thành cụm công nghiệp hàng không Tuy Hòa).

Với lợi thế kiến trúc cảnh quan mang đặc trưng riêng của đô thị ven biển kết hợp Núi Nhạn vừa là điểm nhấn, vừa là biểu tượng cho TP.Tuy Hòa

nằm cạnh dòng sông Ba. TP. Tuy Hòa chắc chắn sẽ thu hút được nhiều du khách và thương nhân trong thời gian tới. Không những thế, Tuy Hòa còn có hệ thống giao thông nội thành thông thoáng, có nhiều tuyến giao thông huyết mạch như Quốc lộ 1A, đường sắt Bắc Nam, đường biển và đường hàng không, quốc lộ 25 nối tỉnh Phú Yên với Gia Lai, quốc lộ 29 nối Phú Yên với Đắk Lăk… Tạo điều kiện thuận lợi trong

Với lợi thế kiến trúc cảnh quan mang đặc trưng riêng của đô thị ven biển, thành phố Tuy Hòa sẽ thu hút được ngày càng nhiều khách du lịch trong thời gian tới

VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA CHÍNH QUYỀN ĐÔ THỊ TRONG XÂY DỰNG THÀNH PHỐ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

Page 19: DN N NG TH SÁNG KIẾN - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2016/11/AMC49-DDXDDT.pdf · nhìn mới và sáng tạo để tận dụng điều kiện sẵn có và đáp ứng nhu

DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

24 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

Đồng chí Nguyễn Ngọc Tứ - Chủ tịch UBND TP. Tuy Hòa chia sẻ kinh nghiệm quản lý đô thị tại Chương trình giao lưu Công trình xanh với phát triển đô thị bền vững

giao thông, lưu thông hàng hóa trong khu vực cả nước, là cơ hội tốt đáp ứng nhu cầu phát triển và hội nhập, cũng như điểm đến lý tưởng của các nhà đầu tư trong và ngoài nước trên mọi lĩnh vực.

PV: Để một thành phố phát triển bền vững, công tác quản lý đô thị đóng vai trò vô cùng quan trọng. Xin ông cho biết, TP. Tuy Hòa đã thực hiện những giải pháp nào giúp cho công tác quản lý đô thị đạt được hiệu quả cao?

Ông Nguyễn Ngọc Tứ: TP. Tuy Hòa đã đề ra 6 giải pháp trọng tâm để phát triển thành phố bền vững:

Một là, xác định tầm quan trọng của công tác quy hoạch, không ngừng đẩy mạnh công tác lập quy hoạch và nâng cao chất lượng quy hoạch. Trong quản lý đô thị công tác quy hoạch phải đi trước một bước, là tiền đề để định hướng và bảo đảm tính đồng bộ trong quá trình xây dựng phát triển cũng như cải tạo và chỉnh trang đô thị. Nhanh chóng hoàn thiện các quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết theo quy hoạch chung mới được điều chỉnh, làm cơ sở đầu tư xây dựng phát triển đô thị, đảm bảo việc xây dựng phát triển đô thị theo quy hoạch; đầu tư mở rộng đô thị thành phố, tổ chức kết nối giữa đô thị cũ và đô thị mới để mở rộng không gian thành phố, rút ngắn khoảng cách giữa các vùng mới sáp nhập; tiếp tục

nghiên cứu và đề xuất cơ chế chính sách tạo nguồn vốn cho TP. Tuy Hòa tập trung xây dựng các công trình trọng điểm, thực hiện đầu tư xây dựng theo quy hoạch, để kịp thời hoàn thành quy hoạch chi tiết, hoàn chỉnh các phân khu chức năng, quy hoạch cụm dân cư trên địa bàn các xã và thành phố; tăng cường lập và thực hiện quy chế quản lý kiến trúc, chú trọng quản lý về cấp phép xây dựng, quản lý kiến trúc cảnh quan; huy động các nguồn lực, kinh

phí đa dạng tiếp tục chỉnh trang, nâng cấp, phát triển đô thị; tăng cường xây dựng các khu đô thị mới, công viên, chỉnh trang các tuyến phố, đầu tư xây dựng cơ sở kết cấu hạ tầng đô thị; đôn đốc các chủ đầu tư đẩy nhanh tiến độ xây dựng các dự án trên địa bàn.

Hai là, tập trung triển khai đầu tư các công trình trọng điểm đã có chủ trương, nhất là các công trình hạ tầng khu dân cư thuộc các dự án quy hoạch, các công trình có sử dụng nguồn vốn của tỉnh, vốn ngân sách thành phố, vốn trái phiếu Chính phủ. Chú trọng công tác bồi thường giải phóng mặt bằng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp triển khai các dự án đã đăng ký đầu tư trên địa bàn; nâng cao năng lực và trách nhiệm quản lý các công trình xây dựng cơ bản, bảo đảm kỹ thuật, mỹ thuật và chất lượng công trình; tiếp tục xây dựng cơ sở hạ tầng các khu dân cư;

đẩy nhanh tiến độ xây dựng nâng cấp hệ thống thoát nước theo dự án.

Ba là, huy động các nguồn tài chính từ ngân sách, đặc biệt chú trọng việc đổi mới cơ chế, chính sách phát triển đô thị trong các lĩnh vực quản lý Nhà nước, quản lý quy hoạch, nhà ở, quản lý khai thác sử dụng công trình đô thị, kết hợp với các chính sách phù hợp để huy động sự tham gia của các thành phần kinh tế trong xã hội, nội lực trong nhân dân, thực hiện chủ trương

xã hội hóa đầu tư cho phát triển đô thị để tập trung đầu tư hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị; nâng cao chất lượng, tiện nghi, môi trường sống cho nhân dân thành phố. Đặc biệt chú trọng đến các công trình hạ tầng kỹ thuật về thoát nước và xử lý nước thải, rác thải, giao thông, hệ thống chiếu sáng, cây xanh, các trường học, các trung tâm hoạt động văn hóa, thể dục thể thao, các khu thương mại. v. v.

Bốn là, tăng cường tuyên truyền pháp luật trong lĩnh vực quản lý trật tự đô thị, trật tự xây dựng, đảm bảo trật tự an toàn giao thông, giữ gìn vệ sinh môi trường trên địa bàn phường, xã; kiên quyết kiểm tra, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật về trật tự đô thị, xây dựng; có chế tài mạnh đối với các phường, xã thiếu tinh thần trách nhiệm để xảy ra vi phạm trật tự đô thị, xây dựng trên địa bàn.

Page 20: DN N NG TH SÁNG KIẾN - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2016/11/AMC49-DDXDDT.pdf · nhìn mới và sáng tạo để tận dụng điều kiện sẵn có và đáp ứng nhu

25 Số 49.2016 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ

Năm là, đổi mới tư duy trong quản lý Nhà nước về đô thị, đi đôi với việc nâng cao phẩm chất, năng lực và trình độ cán bộ quản lý đô thị các cấp, nhất là cấp cơ sở; tăng cường phân cấp quản lý đô thị, nâng cao quyền hạn, trách nhiệm của chính quyền địa phương, tổ chức bộ máy tinh giản, gọn nhẹ nâng cao tính hiệu quả, hiệu lực quản lý; đồng thời chú trọng hơn nữa công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ bằng nhiều hình thức phù hợp với tình hình thực tế, kinh nghiệm và kiến thức. Củng cố kiện toàn bộ máy lãnh đạo và đội ngũ cán bộ công chức Phòng quản lý đô thị, bổ sung lực lượng, tạo điều kiện và tăng cường hoạt động của đội trật tự đô thị.

Sáu là, công tác quản lý dịch vụ công ích đô thị được quan tâm chỉ đạo thường xuyên, đã có những giải pháp quản lý hữu hiệu đem lại kết quả rất đáng khích lệ, tạo nên một đô thị khang trang, văn minh, hiện đại; hệ

thống điện chiếu sáng, điện trang trí và đèn tín hiệu giao thông của thành phố thường xuyên được kiểm tra, sửa chữa và nâng cấp kịp thời; hệ thống thoát nước thường xuyên được duy tu, khơi thông cống rãnh đảm bảo tiêu thoát nước trong mùa mưa bão, tránh gây ngập úng kéo dài; công tác vệ sinh môi trường, thu gom rác thải cơ bản đã đi vào nền nếp góp

phần giữ gìn vệ sinh môi trường của thành phố; xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể về vệ sinh môi trường; đang đầu tư xây dựng một nhà máy tái chế rác thải sinh hoạt có quy mô lớn; đang hoàn thiện hệ thống xử lý chất thải nguy hại; xây dựng các tiêu chí về môi trường bền vững; áp dụng nghiêm ngặt các chế tài xử lý đối với cơ sở gây ô nhiễm; hệ thống cây xanh thường xuyên được chăm sóc, cắt tỉa gọn gàng, đảm bảo mỹ quan đô thị; tích cực trồng và bảo vệ hệ thống cây xanh trên toàn thành phố.

PV: Vai trò lãnh đạo chính quyền đô thị các cấp đã được thể hiện như thế nào thưa ông? Đề xuất của thành phố với Trung ương và các Bộ, ngành cũng như địa phương để giúp nâng cao năng lực và vai trò của cán bộ chính quyền đô thị các cấp?

Ông Nguyễn Ngọc Tứ: Các cơ quan chuyên môn, UBND các phường, xã thuộc TP. Tuy Hòa đã thực hiện

đúng chức năng, nhiệm vụ được giao. Triển khai có hiệu quả sự chỉ đạo, điều hành của Thành ủy, Nghị quyết của Hội đồng nhân dân thành phố. Trật tự, kỷ cương hành chính trong công tác quản lý đô thị về cơ bản thực hiện có hiệu quả. Các quyết định, chỉ đạo của UBND cấp trên được UBND cấp dưới và cơ quan chuyên môn chấp hành và tổ chức thực hiện. Nhiều lĩnh

vực công tác, nhất là công tác quản lý đô thị có chuyển biến tích cực, đáp ứng yêu cầu phục vụ đối với tổ chức và công dân trên địa bàn thành phố. Công tác quy hoạch và quản lý đô thị được tập trung chỉ đạo quyết liệt, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, sự nghiệp văn hóa - xã hội của Thành phố có nhiều tiến bộ; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Cải cách hành chính trong lĩnh vực đô thị có chuyển biến tích cực, hiệu lực, hiệu quả quản lý điều hành của các cơ quan hành chính thành phố tiếp tục được nâng lên.

Thời gian vừa qua, UBND TP. Tuy Hòa cũng đã có giải pháp nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý Nhà nước bằng cách thực hiện cải cách hành chính theo cơ chế một cửa liên thông, nâng cao hiệu lực, hiệu quả điều hành của Hội đồng nhân dân, UBND các cấp; đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của chính quyền các cấp về quản lý đô thị; thực hiện công tác lãnh đạo, điều hành thống nhất, kịp thời; duy trì và thực hiện nghiêm túc chế độ thông tin báo cáo phục vụ tốt cho công tác chỉ đạo, điều hành của UBND các cấp trong mọi lĩnh vực; đồng thời nâng cao vai trò, trách nhiệm và năng lực tham mưu của người đứng đầu trong các đơn vị, phòng ban, cơ quan quản lý Nhà nước; thực hiện nghiêm túc quy chế tiếp dân, quy chế dân chủ cơ sở đảm bảo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, sắp xếp, kiện toàn bộ máy theo hướng tinh gọn, xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực, phẩm chất để hoàn thành tốt nhiệm vụ trong giai đoạn mới.

Để nâng cao năng lực và vai trò của cán bộ chính quyền đô thị các cấp, kiến nghị UBND tỉnh Phú Yên phối hợp với Bộ Xây dựng tham mưu Chính phủ ban hành những quy định cần thiết về đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ công chức trong công tác quản lý đô thị tại địa phương.

Cần ban hành những quy định cần thiết về đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ công chức trong công tác quản lý đô thị tại địa phương

Page 21: DN N NG TH SÁNG KIẾN - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2016/11/AMC49-DDXDDT.pdf · nhìn mới và sáng tạo để tận dụng điều kiện sẵn có và đáp ứng nhu

DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

26 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

Phóng viên (PV): Với vai trò, vị trí trung tâm hành chính – chính trị, kinh tế, văn hoá – xã hội, khoa học – kỹ thuật, dịch vụ, an ninh – quốc phòng của tỉnh Bạc Liêu, là đầu mối giao thương với các tỉnh trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, Thành phố Bạc Liêu đã được quy hoạch như thế nào để đáp ứng nhu cầu phát triển và hội nhập?

Ông Lưu Hoàng Ly: Với vị trí quan trọng trong tỉnh và của vùng, TP. Bạc Liêu đã và đang quy hoạch theo Điều chỉnh Quy hoạch chung TP. Bạc Liêu đến năm 2030 tầm nhìn 2050 được tỉnh phê duyệt trong năm 2014 và tiếp tục hoàn thiện quy hoạch phân khu, chi tiết đang triển khai thực hiện. Dựa trên các tiền đề về vị trí, mối quan hệ

vùng, đặc điểm tự nhiên, các tiềm năng và nguồn lực tạo động lực phát triển đô thị, TP. Bạc Liêu cũng đã quy hoạch phân khu Khu đô thị mới TP. Bạc Liêu với diện tích 205ha. Các khu ở đô thị được định hướng cụ thể như sau: Những khu ở đô thị chỉnh trang và phát triển hỗn hợp tập trung chủ yếu tại khu đô thị trung tâm; các khu ở đô thị tập

Ông Lưu Hoàng Ly – Chủ tịch UBND TP. Bạc Liêu

Từ khi trở thành thành phố trực thuộc tỉnh vào năm 2010, bằng sự nỗ lực của các cấp uỷ, chính quyền và nhân dân, TP. Bạc Liêu đã được công nhận là đô thị loại II vào năm 2014. Hiện nay, thành phố đang phát triển và đổi mới từng ngày. Tuy vậy, công tác gìn giữ, phát huy giá trị đặc trưng vốn có gắn với những di tích lịch sử được TP. Bạc Liêu đặc biệt chú trọng nhằm hướng tới một đô thị phát triển bền vững. Bạn đọc hãy cùng phóng viên Tạp chí Xây dựng và đô thị trò chuyện với Ông Lưu Hoàng Ly – Chủ tịch UBND TP. Bạc Liêu để hiểu thêm về công tác xây dựng và phát triển đô thị nơi đây.

Gìn Giữ Và Phát Huy

Các đô thị là nơi chứa đựng bản sắc, đặc trưng của mỗi vùng miền trên đất nước ta. Với tốc độ đô thị hóa rất nhanh như hiện nay, việc nhận diện bản sắc văn hóa, gìn giữ, phát huy các giá trị đặc trưng, kiến trúc vùng miền để phát triển đô thị bền vững là hướng đi đúng đắn và cần được đẩy mạnh triển khai bởi xu thế phát triển bền vững đã trở thành vấn đề toàn cầu hóa, là thách thức không chỉ với các đô thị đã hình thành mà với cả các đô thị sẽ hình thành. Trong bối cảnh như vậy, chúng ta càng cần phải thấy rõ những đặc thù riêng của quá trình đô thị hóa ở Việt Nam, trước hết là từ bản sắc, đặc trưng đô thị.

Giá Trị Đặc Trưng Tạo Động Lực Phát Triển Đô Thị

Thanh Hương (thực hiện)

Page 22: DN N NG TH SÁNG KIẾN - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2016/11/AMC49-DDXDDT.pdf · nhìn mới và sáng tạo để tận dụng điều kiện sẵn có và đáp ứng nhu

27 Số 49.2016 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ

trung mật độ cao chủ yếu khu vực trung tâm, phía Bắc, Tây Bắc và phát triển tại khu vực trung tâm các khu đô thị; các khu ở đô thị nhà vườn mật độ thấp phân bố tại vùng phía ngoài của trung tâm các khu đô thị.

Hiện nay, một số khu dân cư tập trung đã được hình thành theo quy hoạch và thành phố đang tiếp tục triển khai thực hiện 07 đồ án quy hoạch chi tiết về khu dân cư tại các phường để đáp ứng nhu cầu phát triển nhà ở liên tục tăng cao đang trong quá trình thay đổi phát triển và hội nhập. Thành phố đặc biệt chú trọng phát triển đặc trưng không gian kiến trúc, cảnh quan đô thị với những thay đổi đáng kể như:

- Các công trình công cộng với kiến trúc hiện đại vẫn mang đặc trưng của Bạc Liêu như: Biểu tượng Cây Đờn kìm cách điệu tại quảng trường Hùng Vương, Tượng đài chiến thắng, Khu lưu niệm Nghệ thuật đờn ca tài tử Nam Bộ và nhạc sĩ Cao Văn Lầu, cụm nhà Công tử Bạc Liêu, Nhà thi đấu đa năng, Trung tâm Hội chợ triển lãm... được đầu tư, trùng tu và đưa vào khai thác sử dụng. Công viên Lê Thị Riêng, công viên theo tuyến ven sông Bạc Liêu, quảng trường Hùng Vương tại khu trung tâm thành phố tạo ra không gian sinh hoạt cộng đồng hấp dẫn, nâng cao đời sống tinh thần cho người dân địa phương.

Phát huy giá trị đặc trưng đô thị: Quần thế kiến trúc khu du lịch nhà Công tử Bạc Liêu đặc biệt thu hút du khách thăm quan.

- Thành phố đã tiến hành trùng tu, nâng cấp các di tích lịch sử, văn hóa, di tích kiến trúc nghệ thuật nhà cổ, các đình, chùa, miếu góp phần đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, tạo nguồn tăng trưởng cho du lịch thành phố. Các khu du lịch đang ngày càng thu hút du khách trong và ngoài nước tạo dấu ấn đặc trưng cho TP. Bạc Liêu: Khu du lịch ven biển Nhà Mát, Quần thế kiến trúc khu du lịch nhà Công tử Bạc Liêu, Khu mộ cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu, Khu du lịch sinh thái Hồ Nam… Quy hoạch vùng đệm bảo vệ động vật hoang tại Khu du lịch Vườn

chim, Khu du lịch Phật Bà Nam Hải đang được triển khai thực hiện để phát triển du lịch.

Trong tương lai, TP. Bạc Liêu tiếp tục phối hợp với các Sở, ngành chức năng, các đơn vị tư vấn và tăng cường vận động tuyên truyền người dân địa phương tham gia, thực hiện quy hoạch thành phố theo các tiêu chí đề ra, quyết tâm tập trung đẩy nhanh tiến độ phát triển đô thị để tương xứng với vị trí, tiềm năng đã có, tạo tiền đề và động lực cho giai đoạn sau phát triển mạnh mẽ hơn giai đoạn trước.

PV: Đô thị phát triển bao giờ cũng kèm theo nhiều vấn đề phát sinh từ mặt trái của nó như: Sự quá tải của hạ tầng giao thông, tiếp cận nguồn nước sạch còn hạn chế, môi trường xuống cấp, vệ sinh đô thị chưa đạt tiêu chuẩn, ngập lụt; chưa quản lý được chất thải rắn, các vấn đề xã hội,… Xin ông cho biết, TP. Bạc Liêu đã thực hiện những giải pháp nào giúp cho công tác quản lý đô thị, đem lại hiệu quả cao, thúc đẩy thành phố phát triển bền vững?

Ông Lưu Hoàng Ly:Với sự phát triển khá nhanh và

toàn diện trong thời gian qua, TP. Bạc Liêu hôm nay đã đẹp hơn rất nhiều so với trước, diện mạo đô thị đang thay đổi từng ngày; trật tự đô thị dần đi vào nề nếp. Tuy nhiên, các vấn đề phát sinh của đô thị hoá cũng xảy ra không ít, thành phố đã có nhiều chủ trương, chương trình

hành động, chính sách về đô thị xanh, sạch, đẹp là các yếu tố quan trọng giúp công tác quản lý đô thị khắc phục tối đa mặt trái của sự phát triển đô thị, tạo điều kiện cho thành phố hướng đến phát triển bền vững. Một số giải pháp đã được thành phố đặt ra như sau :

- UBND thành phố Bạc Liêu đã tổ chức tập huấn về quản lý xây dựng và đô thị cho lãnh đạo cơ quan chuyên môn trực thuộc UBND thành phố, lãnh đạo UBND và cán bộ quản lý đô thị 07 phường, 03 xã để phổ biến các chuyên đề liên quan đến công tác quản lý, quy hoạch đô thị; quản lý kiến trúc - cảnh quan đô thị; quản lý hạ tầng kỹ thuật - môi trường đô thị và quản lý dự án đầu tư xây dựng.

- Thành lập Tổ trật tự đô thị giao Phòng Quản lý Đô thị chịu trách nhiệm tập huấn, hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ cho từng thành viên trong Tổ. Nghiên cứu điều chỉnh bổ sung quy chế phối hợp giữa Phòng Quản lý Đô thị và UBND các phường, xã; đề nghị UBND các phường, xã phải thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuần tra, kiểm tra trên địa bàn, kịp thời phát hiện xử vi phạm.

- Được sự quan tâm, đầu tư hỗ trợ của UBND và các Sở, ngành cấp tỉnh, kết hợp với nguồn cân đối từ ngân sách thành phố, thành phố đã chỉ tạo tập trung hoàn thành nhiều công trình, hạng mục công

Phát huy giá trị đặc trưng đô thị: Quần thế kiến trúc khu du lịch nhà Công tử Bạc Liêu đặc biệt thu hút du khách thăm quan

Page 23: DN N NG TH SÁNG KIẾN - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2016/11/AMC49-DDXDDT.pdf · nhìn mới và sáng tạo để tận dụng điều kiện sẵn có và đáp ứng nhu

DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

28 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

trình xây dựng cơ bản khu vực nội ô nhằm phát triển hệ thống hạ tầng kĩ thuật đô thị. Thành phố tiếp tục khai thác một cách hợp lý, hiệu quả quỹ đất, quỹ nhà công sản để tạo nguồn lực đầu tư phát triển; thực hiện tốt chủ trương xã hội hoá các dịch vụ vệ sinh, môi trường, chỉnh trang đô thị… Xin chủ trương đầu tư theo các hình thức BT, BOT… để xây dựng các công trình quan trọng.

- Rác thải y tế được xử lý ngay tại lò đốt của bệnh viện, bảo đảm không gây ô nhiễm môi trường. Rác thải sinh hoạt được xử lý tại bãi rác chung của huyện Vĩnh Lợi không nằm trong TP. Bạc Liêu và chưa có nhà máy xử lý nước thải. Vì thế, thành phố cùng với tỉnh đang kêu gọi và lựa chọn nhà đầu tư để xây dựng dự án nhà máy xử lý rác thải và nước thải trên địa bàn thành phố.

- Thành phố đã ban hành và vận động nhân dân thực hiện tốt 18 điều quy định về xây dựng nếp sống văn minh đô thị; kết hợp xây dựng văn hóa vỉa hè, tuyến đường kiểu mẫu… đều đem lại hiệu quả thiết thực. Tiếp tục đẩy mạnh, tuyên truyền, tạo điều kiện để nhân dân tham gia đóng góp ý tưởng, giải pháp, hiến kế cho thành phố về quy hoạch, quản lý đô thị, nghiên cứu hình thức, cơ chế chính sách hỗ trợ hợp lý hoặc hình thức mua ý tưởng của người dân, các chuyên gia,… để đầu tư, triển khai thực hiện.

PV: Nhiều chuyên gia cho rằng: Cần cung cấp thêm quyền hạn rõ ràng cho chính quyền địa phương trong công tác quản lý đô thị. Ở TP. Bạc Liêu, vai trò của lãnh đạo chính quyền đô thị các cấp đã được thể hiện như thế nào, thưa Ông? Để giúp nâng cao năng lực và vai trò của cán bộ chính quyền đô thị các cấp, thành phố có những đề xuất gì? Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý đô thị cần được thực hiện như thế nào cho thiết thực và hiệu quả hơn?

Ông Lưu Hoàng Ly:Ở TP. Bạc Liêu, để triển khai

thực hiện các Luật, Nghị định, Quyết định, Thông tư hướng dẫn thi hành về lĩnh vực đô thị với quan điểm tạo nên một thành phố xanh – sạch – đẹp, mang đặc trưng riêng của Bạc Liêu, vai trò của lãnh đạo chính quyền địa phương trong công tác quản lý đô thị rất quan trọng:

Với quan điểm: Người đứng đầu Cơ quan hành chính có nhiệm vụ tổ chức thực hiện tốt các nghị quyết của Cơ quan đại diện nhân dân, đồng thời tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện luật pháp, chính sách của Nhà nước và các quyết định, chỉ thị hành chính của các Cơ quan hành chính cấp trên theo cơ chế phân cấp và uỷ quyền. Mọi hoạt động của người đứng đầu cơ quan hành chính và bộ máy hành chính giúp việc đều đặt dưới sự giám sát của Cơ quan đại diện nhân dân. Mặt khác, người đứng

đầu cơ quan hành chính và bộ máy hành chính giúp việc còn chịu sự kiểm tra, giám sát trực tiếp của Cơ quan hành chính cấp trên. Đối với UBND TP. Bạc Liêu, nhiệm vụ do HĐND cùng cấp giao và cấp trên phân cấp, ủy quyền. Cấp phường, xã được xem là “cánh tay nối dài” của cấp hành chính thành phố, được UBND thành phố ủy quyền một số nhiệm vụ nhất định, ngoài chức năng cơ quan hành chính, vai trò quản lý đô thị chủ yếu tập trung vào công tác chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc thực thi pháp luật, quản lý lãnh thổ, dân cư, nâng cao đời sống nhân dân trên địa bàn.

Hiện nay, UBND thành phố đang nghiên cứu đề xuất với Ban Thường vụ Thành ủy trình Tỉnh ủy, UBND tỉnh ban hành cơ chế, chính sách mang tính đặc thù đối với thành phố về phân công, phân cấp trong công tác quản lý đô thị; về cơ chế tự chủ tài chính, theo hướng đẩy mạnh phân cấp quản lý cho thành phố chủ động trong việc thực hiện các chủ trương đã đề ra. Phòng Quản lý đô thị là cơ quan chuyên môn thuộc UBND thành phố có vai trò chủ trì, phối hợp với phường, xã và các phòng, ban ngành thành phố chủ động tham mưu cho UBND thành phố ban hành các quy định quản lý đô thị trên các lĩnh vực (xây dựng, quảng cáo, cây xanh, vệ sinh môi trường …); cụ thể hoá và hướng dẫn thực hiện các quy định xử phạt vi phạm hành chính của Chính phủ về trật tự đô thị và vệ sinh đô thị để làm cơ sở cho công tác quản lý đô thị.

Các cơ quan tuyên truyền của thành phố đẩy mạnh tuyên truyền, phản ánh kịp thời mặt tốt, chưa tốt trong quá trình tổ chức thực hiện Nghị quyết, Quyết định, Chương trình hành động của chính quyền đô thị các cấp đã đề ra. Định kỳ hàng tháng, Ban Thường vụ Thành uỷ, UBND thành phố cùng với các phòng, ban, ngành thành phố làm việc với UBND phường, xã chỉ đạo giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong công tác quản lý đô thị.

Thành phố đã ban hành và vận động nhân dân thực hiện tốt 18 điều quy định về xây dựng nếp sống văn minh đô thị

Page 24: DN N NG TH SÁNG KIẾN - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2016/11/AMC49-DDXDDT.pdf · nhìn mới và sáng tạo để tận dụng điều kiện sẵn có và đáp ứng nhu

29 Số 49.2016 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ

Để giúp nâng cao năng lực và vai trò của cán bộ chính quyền đô thị các cấp, Thành phố đề xuất một số giải pháp với Trung ương và các Bộ, ngành. Đó là:

- Cần đổi mới về tổ chức, phương thức quản lý và nội dung phân cấp, uỷ quyền quản lý Nhà nước của chính quyền đô thị được thể hiện trong Luật và các quy định của Trung ương về phân cấp, ủy quyền. Tăng cường và đổi mới công tác quản lý Nhà nước về đô thị; nâng cao trách nhiệm của các cấp, các ngành đối với công tác này, tạo lập và duy trì cơ chế phối hợp giữa các phòng, ban thành phố và UBND các phường, xã, quyết tâm tạo sự gắn kết trách nhiệm của lực lượng chức năng, chuyên ngành với cả hệ thống chính trị phát huy tối đa vai trò của lực lượng khóm, ấp, đoàn thể khu dân cư, các mô hình tự quản trong công tác quản lý đô thị.

- Đổi mới công tác lập, phê duyệt và quản lý quy hoạch, tạo đột phá trong phát triển đô thị, đẩy nhanh tiến độ thẩm định, phê duyệt quy hoạch chung và các quy hoạch chi tiết bảo đảm tính đồng bộ trong quá trình xây dựng phát triển cũng như cải tạo, chỉnh trang đô thị; triển khai và quản lý chặt chẽ thiết kế đô thị theo đồ án quy hoạch xây dựng được phê duyệt, nâng cao chất lượng kiến trúc công trình đô thị. Trình độ tổ chức quản lý của chính quyền cấp đô thị đủ

quán xuyến toàn bộ hoạt động của đô thị. Giao việc nhưng không khoán trắng cho cấp dưới, mối liên hệ từ đô thị tới cấp cơ sở phải chặt chẽ, thông suốt. Cấp chính quyền đô thị phải quản lý nhiều đầu mối hơn, phức tạp hơn. Từ đó, vai trò của cán bộ chính quyền đô thị được nâng cao, nhận được sự phối hợp tích cực hơn giữa chính quyền đô thị và người dân địa phương trong công tác quản lý đô thị.

- Nâng cao hiệu quả hoạt động và tâm huyết của đội ngũ cán bộ chính quyền đô thị các cấp xuất phát từ trong nội bộ các đơn vị, xây dựng nề nếp, ứng xử văn hoá, văn minh khi tiếp xúc, phổ biến các nội dung của chính quyền đô thị cũng như giải quyết các yêu cầu khó

khăn, vướng mắc của tổ chức và công dân.

Để thiết thực và hiệu quả hơn trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý đô thị, cần được thực hiện một số nội dung như:

- Việc bố trí, sử dụng cán bộ phải phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ và trình độ, khả năng của cán bộ, đồng thời với ổn định tổ chức, để cán bộ phát triển toàn diện, có điều kiện đi sâu vào chức trách, nghiệp vụ, tích lũy kinh nghiệm. Trình độ của cán bộ quản lý đô thị đủ đảm bảo yêu cầu được phân cấp.

- Cán bộ quản lý đô thị phải được tuyển chọn cạnh tranh, lấy năng lực và kết quả công việc làm thước đo để tuyển dụng, sử dụng, thi tuyển cạnh tranh để bổ nhiệm (dưới sự lãnh đạo của Đảng bằng cơ chế, chính sách phù hợp), bảo đảm tính chuyên nghiệp cao.

- Đánh giá cán bộ phải thường xuyên hằng năm, phải căn cứ vào tiêu chuẩn của từng chức danh, chất lượng, hiệu quả công tác và sự tín nhiệm của quần chúng để đánh giá cán bộ. Kết hợp tự đánh giá của cán bộ với đánh giá của tổ chức. Đánh giá của cán bộ phải tiến hành tập thể, công khai và dân chủ.

PV: Xin trân trọng cảm ơn ông về cuộc trò truyện này!

Cần đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng giúp nâng cao hiệu quả hoạt động và tâm huyết của đội ngũ cán bộ chính quyền đô thị các cấp

Page 25: DN N NG TH SÁNG KIẾN - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2016/11/AMC49-DDXDDT.pdf · nhìn mới và sáng tạo để tận dụng điều kiện sẵn có và đáp ứng nhu

DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

30 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, lại gần 1 trong 6 “ổ” bão lớn của thế giới nên diễn biến thời tiết, thủy văn vô cùng phức tạp. Bên cạnh đó, những năm gần đây, miền núi phía Bắc xuất hiện rầm rộ các loại hình tai biến địa chất gây trợt lở đất, lũ quét, bùn đá, sạt lở bờ sông... xảy ra ở 98 Huyện gây thiệt hại nặng nề về người và của. Hiện nay, qua kiểm tra cho thấy nhiều nơi phương án phòng chống lụt bão và tìm kiếm cứu nạn còn mang tính hình thức, chưa sát thực tế. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng không ít những địa phương, huyện cũng đã làm rất tốt công tác này. Huyện Thạch Thành – Tỉnh Thanh Hóa là một ví dụ điển hình tích cực cho thấy công tác chuẩn bị phòng, chống thiên tai theo phương châm “4 tại chỗ” được quan tâm chỉ đạo, triển khai thực hiện rất nghiêm túc. Phóng viên Tạp chí Xây dựng và đô thị đã có cuộc trao đổi với ông Lê Đình Thảnh - Phó Chủ tịch Huyện Thạch Thành và tìm hiểu thêm một số thông tin về công tác này.

PV: Thưa ông, song song với các VBQPPL có liên quan đến phòng chống thiên tai (PCTT) và tìm kiếm cứu nạn (TKCN), đặc biệt Nghị định 66/2014/NĐ-CP (NĐ 66) hướng dẫn Luật PCTT hay Quyết định 44/2024/TTG (QĐ44) quy định chi tiết về cấp độ rủi ro thiên tai... Trong quá trình triển khai thực hiện công tác PCTT&TKCN, Huyện Thạch Thành đã chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc các xã, phường, thị trấn xây dựng phương án PCTT &TKCN như thế nào?

Ông Lê Đình Thảnh: Sau khi có luật PCTT, NĐ 66 cũng như trên cơ sở QĐ 44 và các văn bản chỉ đạo của UBND Tỉnh Thanh Hóa, văn bản chỉ đạo của UBND Huyện Thạch Thành, chúng tôi đã tiến hành xây dựng kế hoạch PCTT cho cả giai đoạn 2015-2020 và hàng năm có rà soát việc điều chỉnh kế hoạch PCTT cho phù hợp, đặc biệt là QĐ 44, chúng tôi lọc ra những dạng hình thiên tai đã xảy ra và có khả năng xảy ra trên địa bàn Huyện; tính toán phương án cho từng cấp độ rủi ro thiên tai, của từng dạng hình thiên tai để xây dựng kế hoạch phòng chống thiên tai. Với phương châm phòng ngừa là chính, Huyện đã chỉ đạo cho các xã cũng phải thực hiện việc xây dựng kế hoạch PCTT của đơn vị mình. Trên cơ sở tất cả các phương án PCTT của các xã, phường, thị trấn,

các cơ quan đơn vị, chúng tôi đã hoàn thiện kế hoạch PCTT của toàn Huyện và đưa ra thảo luận tại UBND Huyện, tại Hội nghị Ủy ban mở rộng đồng thời báo cáo Ban thường vụ Huyện ủy Thạch Thành. Sau khi thống nhất chính thức thì ban hành và giao nhiệm vụ cho Ban chỉ huy quân sự Huyện tiến hành tổ chức tập huấn, hướng dẫn, quán triệt và triển khai nội dung, nhiệm vụ, kế hoạch PCTT của toàn Huyện, làm căn cứ để các xã soi lại kế hoạch PCTT của đơn vị mình, từ đó có sự điều chỉnh cho phù hợp. Tháng 9/2016 trước tình hình biến đổi khí hậu và thiên tai diễn ra bất thường, khó lường, chúng tôi xác định một lần nữa là phải tập huấn lại việc xây dựng kế hoạch PCTT đồng thời triển khai luôn Luật khí tượng thủy văn, trên cơ sở đó đảm bảo chương trình PCTT trên địa bàn Huyện, thực hiện theo phương châm “4 tại chỗ” bao gồm: Chỉ huy tại chỗ; lực lượng tại chỗ; phương tiện, vật tư tại chỗ và hậu cần tại chỗ. Đảm bảo cho các đơn vị chủ động sẵn sàng ứng phó khi có thiên tai xảy ra.

PV: Được biết những năm qua, hệ thống đê trên địa bàn đã được Trung ương và Tỉnh quan tâm đầu tư, nâng cấp nên đến nay đã cơ bản đủ khả năng chống lũ, chống tràn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ phòng chống lụt bão của Huyện. Tuy nhiên, việc kiểm tra, rà soát, tu sửa các công trình thủy lợi, các tuyến đường giao thông trước mùa mưa lúc hiện đã và đang được tiến hành ra sao?

THỰC HIỆN PHÒNG CHỐNG THIÊN TAI THEO PHƯƠNG CHÂM “4 TẠI CHỖ”NHỮNG TRIỂN KHAI TÍCH CỰC TỪ HUYỆN THẠCH THÀNH - TỈNH THANH HÓA

Thanh Thảo (thực hiện)

Ông Lê Đình Thảnh - Phó chủ tịch Huyện Thạch Thành, Tỉnh Thanh Hóa

DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

Page 26: DN N NG TH SÁNG KIẾN - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2016/11/AMC49-DDXDDT.pdf · nhìn mới và sáng tạo để tận dụng điều kiện sẵn có và đáp ứng nhu

31 Số 49.2016 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ

Ông Lê Đình Thảnh: Hiện nay, bước vào mùa mưa lũ, đặc biệt là thường về gần cuối mùa thì toàn Huyện có 39km đê trên bình diện 5 xã, những xã thuộc 39km đê này thực hiện dự án về nâng cấp cơ sở hạ tầng và “sống chung với lũ”. Chúng tôi đã được đầu tư kiên cố hóa toàn bộ hệ thống đê, đến nay đã giao cho địa phương quản lý để thực hiện tốt công tác quản lý đê, đặc biệt cho việc chống xuống cấp và ứng phó với lũ lụt. Hàng năm đều có kế hoạch tập huấn, hướng dẫn cho đội ngũ tuần tra canh gác đê, đội ngũ xung kích hộ đê, đội ngũ có hồ đập phải đảm bảo công tác xử lý giờ đầu hộ đê. Trên cơ sở đó, các tình huống diễn ra phải nhanh chóng được phát hiện và được xử lý ngay giờ đầu. Đến nay toàn bộ hệ thống hành lang đê được các xã phát dọn thường xuyên và hệ thống điếm canh đê cũng được thường xuyên quan tâm để tập kết vật tư dự trữ phòng chống thiên tai và là nơi tập hợp lực lượng tuần tra canh gác khi nước lên. Diễn tiến của biến đổi khí hậu rõ ràng là không thể lường trước, nhưng với các sự cố bằng trực quan quan sát được, Huyện đã chủ động đấu nối với các nhà thầu xử lý việc bảo dưỡng nếu như còn trong thời hạn và đầu tư ngân sách của Huyện để thực hiện việc sửa chữa, đảm bảo khi mùa nước lũ đổ về thì các tuyến đê đều được an toàn. Thông qua đó, công tác tuyên truyền và giáo dục cho nhân dân ở các xã có đê chạy qua và nằm ngay hành lang bảo vệ đê thì phải có ý thức cao trong việc bảo vệ đê điều vì nhân dân chính là những người gắn liền với việc bảo vệ các công trình trên địa bàn mình sinh sống.

PV: Vừa rồi, Ông cũng có nhắc đến công tác tuyên truyền và giáo dục trong nhân dân, vậy thì hiện nay công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về phòng chống thiên tai trên địa bàn huyện như thế nào thưa ông ?

Ông Lê Đình Thảnh: Công tác tuyên tuyền về phòng chống thiên tai cho người dân thường xuyên được chú ý. Chúng tôi có hệ thống loa truyền thanh của các xã. Trước và trong mùa mưa bão thì ngành văn hóa thông tin, Ban chỉ huy phòng chống lụt bão tại Huyện trong kế hoạch PCTT hàng năm đều có kế hoạch tuyên truyền và giao nội dung, nhiệm vụ này cho trung tâm văn hóa thông tin của Huyện, đài phát thanh truyền hình của Huyện và đài phát thanh các xã, thị trấn trên địa bàn Huyện, thường xuyên truyền tải các nội dung văn bản chỉ đạo mới nhất và nhắc lại những nội dung văn bản cơ bản mà phòng văn hóa thông tin, trung tâm văn hóa thông tin của Huyện với danh nghĩa là thành viên Ban chỉ huy phòng chống lụt bão đã biên tập và gửi về cho các đơn vị để thực hiện, tuyên truyền thông qua hệ thống phát thanh truyền hình và thông qua các cuộc tập huấn để nhân dân biết rõ và thấy rõ lợi ích của việc bảo vệ công trình cũng như chuẩn bị sẵn sàng tinh thần để ứng phó với các dạng hình thiên tai những năm qua và những năm tới đây. Nhìn chung, công tác tuyên truyền đã được Ban chỉ huy phòng chống thiên tai cũng như Huyện quan tâm. Mặt khác, vào mùa mưa bão lũ thì trung tâm văn hóa thông tin của Huyện cũng thường xuyên trưng pano, áp phích để tuyên truyền bằng hình ảnh giúp nhân dân hiểu rõ hơn, có trách nhiệm hơn trong việc bảo vệ đê điều như bảo vệ tài sản của địa phương mình và là bảo vệ tài sản của chính gia đình mình.

PV: Về bản chất, trong việc đối phó với thiên tai thì phải lấy phương châm “Phòng ngừa là chính”. Tuy nhiên, giả sử trong điều kiện nếu có tình huống thiên tai xảy ra, giải pháp chính mà Huyện sẽ triển khai nhằm hạn chế thấp nhất những thiệt hại do mưa lũ là gì?

Ông Lê Đình Thảnh: Thực tế, công tác phòng ngừa luôn được đặt lên hàng đầu, tuy nhiên khi đã diễn ra rồi thì phải ứng phó kịp thời theo phương châm: “Bốn tại chỗ”. Những nội dung này đã được thống nhất, quán triệt chỉ đạo trong cấp ủy cũng như chính quyền từ Huyện đến cấp xã, thị trấn, các cơ quan đơn vị cũng được quán triệt phương châm chỉ đạo này. Do đó, khi có các tình huống thiên tai diễn ra thì từng đơn vị theo kế hoạch PCTT trong toàn giai đoạn 2015-2020 đã xây dựng và có kế hoạch điều chỉnh về PCTT để xây dựng cho năm 2016 và hàng năm để chỉ đạo và tổ chức thực hiện.

PV: Nói về những kinh nghiệm trong công tác PCTT nói chung trên cơ sở thực tiễn, Ông có muốn chia sẻ gì thêm, đặc biệt cho các Huyện khác trên cả nước có chung những đặc điểm, điều kiện tình hình như Huyện Thạch Thành về vấn đề này?

Ông Lê Đình Thảnh: Trước tình hình biến đổi khí hậu diễn ra khó lường, việc bảo vệ tính mạng của con người là trên hết sau đó mới đến tài sản. Do vậy, trong khi xây dựng và triển khai thực hiện các phương án về PCTT, chúng tôi đặc biệt chú trọng và xem trọng tính mạng của nhân dân. Vì thế, từ cấp Ủy Đảng, chính quyền Huyện đến Xã chăm lo, từng bước xây dựng kế hoạch đến khi triển khai, thực hiện kế hoạch và ứng với từng tình huống cụ thể, Ban chỉ Huy phòng chống thiên tai của Huyện có các công điện chỉ đạo kịp thời thì cấp ủy, địa phương, chính quyền, cấp xã, thị trấn đều nghiêm túc triển khai thực hiện với tinh thần trách nhiệm cao nhất. Huyện Thạch Thành cũng rất chú trọng đến công tác Tập huấn về PCTT, TKCN và gần đây nhất chúng tôi cũng đã phối hợp với Học viện Cán bộ quản lý xây dựng & đô thị tổ chức Lớp tập huấn về nội dung này với sự tham gia của tất cả các xã, phường, thị trấn, các đơn vị có liên quan. Qua đó, các đồng chí được cập nhật đầy đủ nội dung các văn bản quy phạm pháp luật cũng như thông tin, kinh nghiệm và cách thức hiệu quả để ứng phó với thiên tai khi xảy ra. Những khóa tập huấn như vậy rõ ràng rất hiệu quả và hữu ích.

PV: Xin cám ơn ông về những chia sẻ trên!

Nhân dân chính là những người gắn liền với việc bảo vệ các công trình trên địa bàn mình sinh sống