do quang hung.pdf

18
KH¤NG GIAN THI£NG CñA TH¡NG LONG - Hμ NéI GS. TS Đỗ Quang Hưng * Dn nhp J. P. Artola khi nghiên cứu vsthánh thiêng cho rằng, có hai đặc tính chủ yếu ca sthánh thiêng, đó l|: tính tách biệt v| tính không thể xúc phạm. Sthánh thiêng được coi l| thtách bit v| không thể xúc phạm, vì rằng nếu ta đụng chạm đến nó thì sẽ l|m cho nó trở lại l| ph|m tục. Nói c{ch kh{c, sthánh thiêng l| một yếu ts{ng tạo, bi bổ, có hiệu lực khi nó thánh hoá tt cnhững gì tiếp cận nó. Vì thế, sth{nh thiêng tỏa ra một {nh s{ng chói lọi, tuyệt đối, l|m phai mmọi c{i kh{c, có khả năng che khuất nhng khiếm khuyết, những điểm yếu của c{i ph|m tục quanh nó. J. P. Artola viết: “Sự hin diện đó của sth{nh thiêng g}y ra ở con người một xúc cảm lưỡng cực cao độ: mê mẩn v| kinh ho|ng, ng}y ngất v| khiếp s- đúng như nh| sử học tôn gi{o người Đức Rudolf Otto (1860 - 1937) đã ph}n tích một c{ch tuyệt vi trong một t{c phẩm đã trở th|nh kinh điển. C{i thần thánh l| điều “ho|n to|n kh{c lạ”, l| điều huyền bí vừa cun hút, vừa l|m người ta kinh s. Tiếp cận nó l|m nảy sinh mt cảm gi{c rùng rợn, kh{c hẳn c{i phn ứng g}y ra bởi nhng nguy hiểm “tự nhiên”, một trạng th{i “đê mê ng}y dại” trước c{i ho|n to|n kh{c lạ chúng ta. Tuy nhiên điều huyền bí khiếp sđó đồng thi lại có sức mê hoặc, nó g}y ra một sc cuốn hút không thể cưỡng li nổi” i . T{c giả cũng đã có sự ph}n biệt s}u sắc c{i th{nh thiêng m| c{c tôn gi{o kh{c nhau, đặc biệt l| nghệ thut kiến trúc c{c công trình tôn gi{o kh{c nhau tạo ra v| nhấn mnh cái thiên chức ca kiến trúc tôn gi{o l| gợi lại trong đó những th{nh tích mầu nhiệm để tạo điều kin cho những hình thức biu hiện kh{c nhau của vic tế lcủa c{c cộng đồng, c{c tín đồ có liên quan đến th{nh tích m|u nhiệm đó. Như vậy, những nghiên cứu của c{c nh| tôn gi{o học tiêu biểu ấy có ý nghĩa nhận thc quan trọng để chúng ta có thêm những góc độ tiếp cn vsnhìn nhận đ{nh gi{ xung quanh gi{ trị ca cái thiêng. đ}y, chúng tôi muốn đề cập, ph}n tích, vận dng nhng gợi ý quan trng ấy v|o việc to dựng “không gian t}m linh tôn gi{o” của Thăng Long - H| Nội nghìn năm. Ý nghĩa ấy không chỉ được thhin ngay tđiểm xuất ph{t, việc c{c vua nh| Lý lựa chn Thăng Long l|m kinh đô l}u d|i cho nước Đại Việt m| còn được thhin trong suốt 1000 năm của Thăng Long - H| Nội, trong đó c{i “không gian t}m linh tôn gi{o” của nó cũng được hin rõ ng|y c|ng phong phú không chỉ những đặc điểm riêng biệt của đời sống tín ngưỡng tôn gi{o, m| còn hòa trộn với c{i “không gian xã hội - văn hiến - văn ho{” đặc bit của đất kinh k. * Trường Đại học Khoa học Xã hội v| Nh}n văn, Đại học Quốc gia H| Nội. HéI TH¶O KHOA HäC QUèC TÕ Kû NIÖM 1000 N¡M TH¡NG LONG Hμ NéI PH¸T TRIÓN BÒN V÷NG THñ §¤ Hµ NéI V¡N HIÕN, ANH HïNG, V× HOµ B×NH

Upload: tranque

Post on 30-Jan-2017

213 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: Do Quang Hung.pdf

KH¤NG GIAN THI£NG CñA TH¡NG LONG - Hµ NéI

GS. TS Đỗ Quang Hưng*

Dẫn nhập

J. P. Artola khi nghiên cứu về sự thánh thiêng cho rằng, có hai đặc tính chủ yếu của sự

thánh thiêng, đó l|: tính tách biệt v| tính không thể xúc phạm. Sự thánh thiêng được coi l| thứ tách

biệt v| không thể xúc phạm, vì rằng nếu ta đụng chạm đến nó thì sẽ l|m cho nó trở lại l| ph|m

tục. Nói c{ch kh{c, sự thánh thiêng l| một yếu tố s{ng tạo, bồi bổ, có hiệu lực khi nó thánh hoá tất

cả những gì tiếp cận nó. Vì thế, sự th{nh thiêng tỏa ra một {nh s{ng chói lọi, tuyệt đối, l|m phai

mờ mọi c{i kh{c, có khả năng che khuất những khiếm khuyết, những điểm yếu của c{i ph|m

tục quanh nó. J. P. Artola viết: “Sự hiện diện đó của sự th{nh thiêng g}y ra ở con người một xúc

cảm lưỡng cực cao độ: mê mẩn v| kinh ho|ng, ng}y ngất v| khiếp sợ - đúng như nh| sử học tôn

gi{o người Đức Rudolf Otto (1860 - 1937) đã ph}n tích một c{ch tuyệt vời trong một t{c phẩm

đã trở th|nh kinh điển. C{i thần thánh l| điều “ho|n to|n kh{c lạ”, l| điều huyền bí vừa cuốn

hút, vừa l|m người ta kinh sợ. Tiếp cận nó l|m nảy sinh một cảm gi{c rùng rợn, kh{c hẳn c{i

phản ứng g}y ra bởi những nguy hiểm “tự nhiên”, một trạng th{i “đê mê ng}y dại” trước c{i

ho|n to|n kh{c lạ chúng ta. Tuy nhiên điều huyền bí khiếp sợ đó đồng thời lại có sức mê hoặc,

nó g}y ra một sức cuốn hút không thể cưỡng lại nổi”i. T{c giả cũng đã có sự ph}n biệt s}u sắc

c{i th{nh thiêng m| c{c tôn gi{o kh{c nhau, đặc biệt l| nghệ thuật kiến trúc c{c công trình tôn

gi{o kh{c nhau tạo ra v| nhấn mạnh cái thiên chức của kiến trúc tôn gi{o l| gợi lại trong đó

những th{nh tích mầu nhiệm để tạo điều kiện cho những hình thức biểu hiện kh{c nhau của

việc tế lễ của c{c cộng đồng, c{c tín đồ có liên quan đến th{nh tích m|u nhiệm đó.

Như vậy, những nghiên cứu của c{c nh| tôn gi{o học tiêu biểu ấy có ý nghĩa nhận thức

quan trọng để chúng ta có thêm những góc độ tiếp cận về sự nhìn nhận đ{nh gi{ xung quanh

gi{ trị của cái thiêng. Ở đ}y, chúng tôi muốn đề cập, ph}n tích, vận dụng những gợi ý quan

trọng ấy v|o việc tạo dựng “không gian t}m linh tôn gi{o” của Thăng Long - H| Nội nghìn

năm. Ý nghĩa ấy không chỉ được thể hiện ngay từ điểm xuất ph{t, việc c{c vua nh| Lý lựa chọn

Thăng Long l|m kinh đô l}u d|i cho nước Đại Việt m| còn được thể hiện trong suốt 1000 năm

của Thăng Long - H| Nội, trong đó c{i “không gian t}m linh tôn gi{o” của nó cũng được hiện

rõ ng|y c|ng phong phú không chỉ những đặc điểm riêng biệt của đời sống tín ngưỡng tôn

gi{o, m| còn hòa trộn với c{i “không gian xã hội - văn hiến - văn ho{” đặc biệt của đất kinh kỳ.

* Trường Đại học Khoa học Xã hội v| Nh}n văn, Đại học Quốc gia H| Nội.

HéI TH¶O KHOA HäC QUèC TÕ Kû NIÖM 1000 N¡M TH¡NG LONG – Hµ NéI

PH¸T TRIÓN BÒN V÷NG THñ §¤ Hµ NéI V¡N HIÕN, ANH HïNG, V× HOµ B×NH

Page 2: Do Quang Hung.pdf

Từ căn: không gian thiêng, c{i thiêng, c{i ph|m tục, không gian t}m linh, quyền lực xã

hội, vòng xo{y t}m linh, Thăng Long Tứ trấn.

1. Không gian thiêng và đời sống tôn giáo

Từ “cái thiêng” đến “không gian thiêng”

Khi nghiên cứu đời sống tôn gi{o của một cộng đồng, người ta rất quan t}m đến “không gian thiêng”. Kh{i niệm “không gian thiêng” không chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp l| khoảng

không gian trong c{c nh| thờ, nh| nguyện, th{nh đường, th{nh thất, chùa, đạo, qu{n< m| còn

được hiểu theo nghĩa rộng l| không gian t}m linh, không gian thiêng m| chính đời sống tôn gi{o, tín ngưỡng của cộng đồng ấy tạo ra.

Tất nhiên, không gian thiêng có nguồn gốc s}u xa từ cái thiêng như một phạm trù, một gi{

trị đối diện với cái phàm tục của đời sống trần thế. Chúng ta không cần thiết phải bắt đầu từ việc cái thiêng đã ra đời như thế n|o v| nó đã ảnh hưởng ra sao đến sự xuất hiện c{c hình thức tín

ngưỡng tôn gi{o ngay từ trong xã hội nguyên thuỷ. Chỉ biết rằng nếu con người không có khả

năng t{ch biệt được cái thiêng ra khỏi cái phàm tục thì chắc chắn con người cũng chưa có thể biết đến v| s{ng tạo ra cho mình những hình thức tín ngưỡng, tôn gi{o, như sự khẳng định của rất

nhiều c{c nh| xã hội học, nh}n học về tôn gi{o xưa nay.

“Không gian thiêng” v| “không gian bình thường” kh{c nhau như thế n|o? Một không gian bình thường hay một không gian cụ thể tất nhiên cũng không chỉ l| một không gian được

giới hạn bởi những chỉ số địa lý tự nhiên đơn thuần m| vẫn l| một cấu trúc xã hội tương ứng

với những quan hệ đa chiều. Không gian thiêng dĩ nhiên phải được tạo nên bởi những “di tích tôn gi{o” hay “bầu khí t}m linh” m| di tích tôn gi{o ấy cũng như những thói quen, tập tục của

đời sống tôn gi{o tín ngưỡng của cộng đồng ấy tạo th|nh, nghĩa l| bên cạnh c{i không gian xã hội

bình thường lại có thêm một không gian t}m linh “lồng ghép” v|o c{i không gian xã hội vốn có ấy.

Mặt kh{c, những di tích tôn gi{o, tín ngưỡng ấy, nơi m| con người trực tiếp giao tiếp với

thế giới siêu ph|m, đấng siêu nhiên v| c{c thế lực kh{c của cái thiêng. Khi đó “c{i thiêng” lại có đời sống riêng, có sức mạnh gắn kết kích thích sự tương t{c giữa quan hệ con người xã hội với

thế giới siêu ph|m. Nói như một số nh| nghiên cứu nh}n học tôn gi{o l| con người đã g{n “c{i

thiêng” cho một không gian, gắn nó, định vị nó trong mối tương quan với nền văn ho{ v| gắn nó với sự trải nghiệm của c{c c{ nh}n, của cộng đồng hay với những động cơ tinh thần nhất

địnhii. Lẽ dĩ nhiên, một ngôi đền, chùa hoặc nh| thờ có thể l| thiêng liêng với một nhóm người

n|y nhưng lại không có gi{ trị hẳn như thế với một nhóm người kh{c. Nó cũng giống như một tượng đ|i được dựng nên, nó chỉ có thể trở th|nh biểu trưng của c{i thiêng liêng nếu nó được

thừa nhận gi{ trị bởi những cộng đồng, những c{ thể nhất định.

Tuy thế, để có được “chỗ dựa lý thuyết” cho kh{i niệm không gian tâm linh tôn giáo m| chúng tôi dùng ở đ}y khi {p dụng với không gian lịch sử cụ thể của Thăng Long - H| Nội, xin

được nêu lại những ý kiến của E. Durkheim, nh| xã hội học tôn gi{o nổi tiếng người Ph{p về

những đặc điểm của cái thiêng m| ông đã d|y công nghiên cứu.

Theo E. Durkheim, cái thiêng có những đặc điểm cơ bản sau đ}y:

a. Trước hết, cái thiêng l| sự t{ch biệt trở th|nh c{i kh{c biệt cơ bản của một vật, một động

vật, con người. Khi có sự t{ch biệt căn bản ấy, cái thiêng trở th|nh một gi{ trị “thiêng liêng” vượt

Page 3: Do Quang Hung.pdf

lên trên cái phàm tục m| nó được nảy sinh. Nói c{ch kh{c, cái thiêng liêng l| cái phàm tục đã thay

đổi về bản chất, thay đổi về ký hiệu do chính ý muốn của con người.

Con người tạo ra cái thiêng như những thần th{nh của mình nhưng rồi đến một lúc n|o đó

lại cho rằng c{c vị thần th{nh ấy tồn tại độc lập với ý muốn của họ. Thậm chí với cái thiêng

những gi{ trị trần tục đã trở nên kh{c thường cao cả, không thể tranh cãi v| vượt qua được. Đồng thời cái thiêng lại l| sự kích thích che chở, l| c{i m| con người ngưỡng vọng, vươn lên để

ho|n thiện mình.

b. Thứ hai, Durkheim cũng cho rằng sự t{ch biệt ấy được tạo ra bởi một quá trình xã hội rất độc đ{o, một sự sôi động tập thể (effervescence collective) trong xã hội nguyên thuỷ. Đó l| lúc

khi một trật tự xã hội mới được tạo ra, con người như sống dậy một kinh nghiệm tập thể với

những dấu hiệu kh{c thường: Cái thiêng l| thứ động lực tạo nên sự thăng hoa tập thể của cộng đồngiii.

c. Durkheim còn cho rằng đặc điểm tiếp nối rất quan trọng của cái thiêng còn l| ở chỗ, khi

trật tự xã hội được tạo ra v|o lúc con người đã s{ng tạo thiết lập riêng cho mình “một quyền uy” - cái thiêng liêng - trong xã hội để hợp thức ho{ cao hơn c{c quy tắc c{c gi{ trị cộng đồng để

đạt tới một cấu trúc xã hội tiến bộ hơn chặt chẽ hơn. Cái thiêng liêng khi ấy c|ng trở nên kh{c

thường vì thế nó đã trở th|nh c{i m| Durkheim gọi l| “c{i siêu tôi tập thể” (le super-ego collectif), vừa có ý nghĩa biểu tượng được sản sinh bởi những suy tưởng tập thể, đầy tính xã hội

v| tượng trưng, vừa tạo nên một gi{ trị đặc biệt để cố kết v| gi{o dục cộng đồngiv.

Những đặc điểm m| Durkheim kh{i qu{t cho chúng ta về c{i thiêng có nhiều ý nghĩa xã hội to lớn, nói hẹp lại có những ý nghĩa phương ph{p luận vô cùng quan trọng trong việc

nghiên cứu đời sống tôn gi{o của c{c cộng đồng xã hội cụ thể.

Nghiên cứu của M. Eliade (1907-1986) về cái thiêng theo lối nghiên cứu hiện tượng luận tôn gi{o lại giúp chúng ta hiểu thêm cấu trúc v| vai trò của c{c th|nh phần được thờ phụng tạo

nên trong không gian thiêng như thế n|o.

Theo Eliade, đặc trưng của hiện tượng tôn gi{o l| cái thiêng, (Le Sacré) xuất hiện cho con

người khi họ cảm nhận được. Cái thiêng tự bản th}n nó có tính c{ch siêu việt v| nó xuất hiện

qua c{c hiện tượng trong thế giới không gian v| thời gian dưới nhiều hình th{i kh{c nhau như

người, động vật, c}y cối, mặt trời, trăng, sao, đất đai< Sự xuất hiện của cái thiêng tuy vậy không

l|m biến đổi bản chất của vật thể, ngược lại nó còn mang đến cho c{c vật thể những ý nghĩa

mới. Con người nhận ra cái thiêng qua c{c hiện tượng nhờ đó để tiếp xúc với “c{i thiêng”. Như

vậy, hiện tượng giữ vai trò trung gian v| như một biểu tượng. Vì thế, Eliade đã ph}n loại c{c

hiện tượng tạo ra c{i thiêng như sau:

- Những hiện tượng thuộc vũ trụ: trời (ông trời, mưa, gió, sấm, chớp vẫn được coi l|

những biểu tượng cho c{i siêu ph|m, quyền uy, sức sống); nước (biểu tượng cho sự thanh lọc,

t{i sinh sự sống); đất, đ{<

- Những hiện tượng thuộc động hoặc thực vật: c}y cối, mùa m|ng, tuần trăng, động vật,

sinh sản<

- Những địa điểm thánh: những nơi tập trung biểu tượng cho c{c tôn gi{o như Th{nh địa,

đền thờ<

Page 4: Do Quang Hung.pdf

C{c hiện tượng n|y thực sự đóng vai trò trung gian để con người tiếp xúc với cái thiêng

nên ý nghĩa biểu tượng cho cái thiêng l| rất rõ rệt.

- Ngo|i ra con người tiếp xúc với cái thiêng còn qua c{c cảm nghiệm của ngôn ngữ, biểu

tượng trong đó mọi d}n tộc đều coi trọng vai trò của thần thoại, huyền sử. Theo Eliade, thần

thoại bản chất không phải l| chuyện hoang đường. Trong thời cổ đại, thần thoại không phải l| thứ để giải trí m| l| để nhận thức, nó không chỉ tạo ra cái thiêng liêng m| còn trở th|nh “những

khuôn mẫu” cho cuộc sống.

Ngo|i ra, Eliade còn nêu bật những mối liên hệ giữa thần thoại với c{c nghi lễ (Rites). Chính nhờ có nghi lễ m| thế giới thần linh trở nên gần gũi hiện thực, nói c{ch kh{c l| khi thần

thoại được t{i hiện qua việc cử h|nh c{c nghi lễ cái thiêng sẽ sống lại v| cho phép con người tiếp

xúc s}u sắc với thế giới ấyv.

Nói chung, kh{i niệm cái thiêng của xã hội học tôn gi{o thường h|m nghĩa rộng rãi hơn

kh{i niệm cái thiêng của tôn gi{o. Chẳng hạn đối với người Công gi{o kh{i niệm cái thiêng, hay

đúng hơn được gọi l| Thánh thiêng (Sacred), với ý nghĩa thần học hẹp hơn liên quan đến quan niệm về “tôn gi{o”: “Th{nh thiêng l| những gì thuộc về Thiên Chúa, kh{c với những gì thuộc

về con người; l| những gì vĩnh cửu chứ không phải phù du, l| những gì của thiên giới chứ

không phải hạ giới, l| những gì huyền nhiệm v| vì thế không thể giải thích được bằng lý trí; l| những gì vô hạn chứ không phải hữu hạn. Tôn gi{o n|o cũng coi th{nh thiêng mới l| c{i tuyệt

đối, bất di bất dịch; còn ph|m tục chỉ l| c{i tương đối, vốn hay thay đổi”vi.

Như vậy l| kh{i niệm cái thiêng của c{c nh| xã hội học tôn gi{o m| chúng ta đang nói tới ở đ}y chắc chắn có ý nghĩa rộng hơn, nó không ho|n to|n đối lập với c{i ph|m tục.

Nếu như “con người luôn kh{t khao một đời sống t}m linh v| niềm tin ở thế giới bên kia

nối kết với lòng tin v|o chính cuộc sống n|y”(Georges Friedmann)vii, thì bản th}n nó cũng luôn được sống v| đ|o luyện trong những văn cảnh xã hội - văn ho{ cụ thể. Con người góp phần

quyết định tạo ra c{i “không gian thiêng” cho chính mình v| cộng đồng v| ngược lại, chính c{i

không gian thiêng ấy lại góp phần không nhỏ đào luyện chính họ. Với người Thăng Long - H| Nội cũng vậy. Như vậy l| không gian thiêng nói c{ch kh{c l| c{i không gian m| đời sống tôn gi{o, tín

ngưỡng của Thăng Long - H| Nội tạo ra ngay từ thuở Lý Công Uẩn ban bố Chiếu dời đô thể hiện

qua những đặc điểm rất riêng biệt của mình.

2. Những đặc điểm của “không gian thiêng” Thăng Long - Hà Nội

2.1. Một “không gian thiêng” gắn liền với biểu trưng của “hồn nước”

Bản th}n Thăng Long, khi hình th|nh ý tưởng dời đô, trong t}m thức của c{c vua nh| Lý, tự nó đã l| sự biểu trưng của hồn dân tộc, biểu trưng cho cội nguồn, cho sức mạnh trường tồn

của Đại Việt.

Sau gần 1.000 năm mới gi|nh lại được nền độc lập, điều hiếm thấy trong lịch sử lo|i người, qua ba triều vua Ngô - Đinh - Tiền Lê ngắn ngủi, Lý Th{i Tổ - vị vua khai s{ng nh| Lý -

với ý thức s}u sắc về triều đại v| đất nước mình đã quyết định dời kinh đô từ Hoa Lư ra Đại La

v| đặt tên cho kinh đô mới l| Thăng Long. Bản th}n việc dời đô đã b{o hiệu cho sự thống nhất v| tập trung chính quyền trung ương của Nh| nước ta ở thời kỳ đó, việc dời đô l| cần thiết để

khẳng định tư thế của quốc gia hướng tới sự ph{t triển l}u d|i của d}n tộc v| bảo đảm nền độc

lập.

Page 5: Do Quang Hung.pdf

B|i Chiếu dời đô tuy ngắn gọn nhưng đã phản {nh đầy đủ những suy nghĩ quan trọng ấy.

Ngo|i việc yêu cầu kinh đô mới phải x}y dựng ở nơi “địa thế rộng m| bằng, đất đai cao m| tho{ng. Đã đúng ngôi Nam Bắc Đông T}y, lại tiện hướng nhìn sông dựa núi”, thì lại phải chú ý

tới thế đất theo quan niệm phong thuỷ lúc đó đã s}u đậm. Vùng đất mới chọn phải có thế “rồng

cuộn hổ ngồi”, tạo được một cảnh quan bề thế uy linh. Sau n|y, mặc dù có lúc Thăng Long không còn l| Thủ đô, một số địa điểm kh{c được thay thế như trường hợp T}y Đô, Huế, thậm

chí có lúc Bình Định v| Gia Định th|nh trung t}m, dưới thời Ph{p thuộc nước ta bị chia l|m 3

kỳ, mỗi kỳ có thủ phủ riêng. Nhưng quy chế h|nh chính ấy không thể thay thế được quy chế về tinh thần, quy chế về văn ho{ t}m linh m| chỉ có Thăng Long mới đảm đương được. Nói c{ch

kh{c, Thăng Long - H| Nội đã trở th|nh một không gian t}m linh nhưng lại l| một địa chỉ cụ

thể mang ý nghĩa tượng trưng cho nền văn minh sông Hồng cội nguồn d}n tộc hay văn minh Đại Việt m| nh| Lý xứng đ{ng l| triều đại mở đầu. Chính vì đặc điểm quan trọng n|y m| nhiều

học giả khi b|n đến “hồn nước”viii đã coi Thăng Long thực sự l| một biểu trưng, l| nơi quy tụ

v| lưu giữ “hồn nước”. Trần Bạch Đằng đã lột tả rất đúng: “Thăng Long - H| Nội không cảm ho{ hơn 80 triệu người Việt Nam bằng d{ng vẻ ho|nh tr{ng nhưng nó được cả nước ho|nh

tr{ng tô điểm cho nó. Thăng Long - H| Nội có tiềm lực chinh phục con người hết sức lớn lao, đó

l| nếp sống, phong c{ch, tư thế của con người đạt trình độ văn ho{ Thăng Long. Thăng Long, Thủ đô chính trị, văn ho{ v| trên hết, Thủ đô tinh thần của Việt Nam”ix.

Chúng ta cần đi s}u thêm v|o khía cạnh tạo dựng một “c{i thiêng” của Chiếu dời đô.

Viết về việc Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư ra Đại La, Đại Việt sử ký toàn thư có chép:

“Mùa thu, th{ng bảy, vua dời đô từ th|nh Hoa Lư ra th|nh Đại La của Kinh phủ. Lúc tạm đỗ

dưới th|nh, rồng v|ng hiện ra ở thuyền ngự. Nh}n đó bèn đổi tên th|nh l| th|nh Thăng Long”.

Như vậy l| ngay trong Chiếu dời đô, Lý Th{i Tổ như đã linh cảm việc dời đô với một quẻ

trong Kinh Dịch: “Hiện long tại điền, lợi kiến đại nh}n”. Nghĩa l| “Rồng hiện ra trên mặt đất,

(đó l|) điều thuận lợi để xuất hiện vĩ nh}n”x.

Sau đó, Lý Th{i Tổ còn ph}n tích 5 điều lợi của việc dời đô cũng theo đường hướng đó,

đó l|: Thứ nhất l| vị trí “ở v|o nơi trung t}m của trời đất”; Thứ hai l| phương hướng “đúng

ngôi Nam Bắc Đông T}y”; Thứ ba l| địa thế “thuận tiện về hình sông thế núi” (tiện giang sơn

hướng bội chi nghi); Thứ tư l| có lợi về kinh tế “đất rộng m| bằng, cao m| tho{ng. D}n cư khỏi

chịu cảnh khốn khổ ngập lụt, muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi”; Thứ năm l| về chính

trị (đương nhiên cũng do 4 điều lợi trên đem lại) “tính kế muôn đời cho con ch{u”.

Tiếp đó, Lý Th{i Tổ còn đặt tên cho h|ng loạt công trình kiến trúc ở Thăng Long theo kiểu

Kinh Dịch như “dựng điện C|n Nguyên l|m chỗ coi chầu”, của Phi Long”, “điện Long An, Long

Thụy”, “điện Nhật Quang, Nguyệt Minh”< Số lượng “điện” x}y dựng ở Thăng Long l| 8 (C|n

Nguyên, Tập Hiền, Giảng Vũ, Cao Minh, Long An, Long Thụy, Nhật Quang, Nguyệt Minh).

Chia đất nước l|m 24 lộ (8 quẻ đơn, mỗi quẻ có 3 h|o, 8x3=24). Phải chăng những điều đó liên

quan đến B{t Qu{i?

Bình luận về điều n|y, có t{c giả đã viết: “Lý Công Uẩn xem kinh đô khi còn ở Hoa Lư

tương ứng với h|o Sơ cửu ở quẻ C|n “Tiềm long vật dụng”, nghĩa l| “Rồng còn ẩn mình dưới

nước chưa thi thố t|i năng được”. Từ chỗ còn “ẩn mình”, “chưa thi thố” ở Hoa Lư đến chỗ

“hiện ra” ở Đại La (Thăng Long) l| giai đoạn tiếp theo logic của qu{ trình ph{t triển lượng

chất”xi.

Page 6: Do Quang Hung.pdf

Như vậy l| việc dời đô ra Đại La khởi đầu của nh| Lý không chỉ l| ý nguyện của “lòng

d}n” trăm họ, m| còn l| “ý trời” m| Chiếu dời đô đã to{t lên. Chính điều n|y - “ý trời”, sự thăng

hoa của t}m thức tôn gi{o d}n tộc - đã tạo nên vị thế đặc biệt của t}m linh tôn gi{o của Thăng

Long - H| Nội.

2.2. “Kết cấu ba vòng” của không gian thiêng Thăng Long - Hà Nội

L| một trong những trung t}m tôn gi{o của cả nước, mặc nhiên Thăng Long - H| Nội có

một không gian t}m linh tín ngưỡng tôn gi{o kh{ đậm đặc v| biểu trưng cho sinh hoạt tôn gi{o

của cả nước. Nói c{ch kh{c, đó l| nơi biểu trưng của “hệ thống tôn gi{o tín ngưỡng” của cả

nước, đồng thời l| nơi cội nguồn cho tinh thần, t}m linh của hầu hết c{c tôn gi{o tiêu biểu.

Sự hình th|nh hệ thống Tam giáo ở H| Nội thực sự l| một biểu hiện tập trung tiêu biểu

nhất của cả nước. Suốt thời Lý - Trần, Thăng Long l| trung t}m của c{c hoạt động Phật gi{o,

Nho học< Mặc dù coi Phật gi{o l| trụ cột trong hệ tư tưởng chính thống, hai triều đại Lý - Trần

vẫn chủ trương dung hợp Tam giáo. C{c ông vua Lý - Trần dường như hiểu rõ c{i duy lý, tính

c{ch ho|i nghi thần linh của Nho gi{o, nếu được dựa trên nền tảng của c{i tự gi{c - gi{c tha,

th{c sinh của Phật gi{o v| c{i thăng hoa của Đạo gi{o thần tiên gần gũi với thói quen t}m linh

của d}n chúng thì vừa x}y đắp được guồng m{y trị nước vừa an d}n, thanh bình cho Đại Việt.

Nho gi{o dần thịnh h|nh v| chiếm ưu thế dần trong từng hệ thống tư tưởng chính thống, góp

phần to lớn v|o việc trị nước, an d}n v| gi{o dục. Đạo gi{o v|o nước ta cũng dần biến th|nh

Đạo gi{o thần tiên v| ph{p thuật phù thuỷ. Trong buổi đầu dựng nước ngay tại Thăng Long,

c{c ph{p sư đã h|i hòa cùng c{c thiền sư chăm lo việc cầu cúng bắt quyết trừ t|. Nhiều thầy

phù thuỷ xuất hiện ở kinh th|nh h|nh nghề chuyên nghiệp tuy rằng việc h|nh đạo của họ

nhiều khi diễn ra ngay trong những ngôi chùa của kinh th|nh.

Có thể nói chính Lý Th{i Tổ đã thực hiện th|nh công chính s{ch “Tam gi{o hòa nhi bất

đồng” ở Thăng Long. Suốt ba triều đại đầu của nh| Lý từ Lý Th{i Tổ, Th{i Tông đến Th{nh

Tông, cả Nho, Phật v| Đạo đều tồn tại như những gi{ trị không ép buộc. Ngay cả việc Lý Th{nh

Tông cho x}y dựng Văn Miếu (1070) ở Thăng Long thì cho đến tận đời Trần nh| nước phong

kiến vẫn tổ chức thi “tam gi{o” ở H| Nội. Điều n|y khiến không gian t}m linh của Thăng Long

c|ng có ý nghĩa biểu trưng cho sự h|i hòa tôn gi{o tín ngưỡng của Đại Việt. Huỳnh Thúc Kh{ng

đã từng đ{nh gi{, đó l| nét hết sức đặc sắc của Thăng Long: “Nước ta sau lúc độc lập, trong

khoảng trên dưới 300 năm (từ Đinh đến Trần), về học h|nh thi cử, từ trên đến dưới, đối với hai

nh| gi{o tổ (Khổng, Phật), vẫn sùng b{i như nhau, không phải thiên về một đạo Nho, tức l| c{i

có vẻ tín gi{o tự do vậy. Tín gi{o được tự do, nên tư tưởng có chiều ph{t triển; trong lịch sử

nước Nam ta về đời Trần, không những võ công tr{c tuyệt (đ{nh đuổi qu}n Hồ Nguyên), m|

nói đến học giới, có vẻ cao hơn Tống Nho nhiều<”xii.

Nhưng cũng cần lưu ý rằng, nếu coi nền tảng của không gian t}m linh Thăng Long - Kẻ

Chợ vẫn l| “văn ho{ l|ng quê” thì cũng nên ph}n biệt vai trò kh{c nhau của c{c tôn gi{o ngoại

nhập.

Khi nghiên cứu hội l|ng ở chùa Hương (xã Hương Sơn, Mỹ Đức) hay hội chùa D}u của

Tổng D}u xưa (nay l| Thuận Th|nh, Bắc Ninh), nghĩa l| những địa danh “vùng ven” của Thăng

Long, Đinh Gia Kh{nh có nhận xét rằng, nếu hội lễ thuần tuý tôn gi{o, dù l| của Phật gi{o cũng

“thường chỉ có c{c Phật tử v| tín đồ” tham gia, nếu muốn đông đảo nh}n d}n tham gia thì các

Page 7: Do Quang Hung.pdf

hội lễ Phật giáo phải được dân gian hoá, địa phương hoá. Lễ hội chùa Hương dù nay mang tính chất

Phật gi{o, đặc biệt hội lễ chùa D}u “tuy l| hội chùa m| gắn được với hội l|ng v| hơn nữa nó trở

th|nh hội l|ng đích thực”xiii.

Tất cả nói lên rằng, c{c tôn gi{o ngoại nhập đã sớm hòa nhập với c{c hình thức tôn gi{o

tín ngưỡng bản địa v| điều quan trọng nó diễn ra trong sinh hoạt tôn gi{o tín ngưỡng bình

thường của d}n chúng. Sau n|y, khi bắt đầu l|m quen với Kitô gi{o phương T}y ở đầu thế kỷ

XVII, Thăng Long cũng nhanh chóng trở th|nh một trong những nơi “đứng ch}n” sớm nhất của

tôn gi{o phương T}y xa lạ n|y. Đạo Tin L|nh cũng đã xuất hiện ở H| Nội ngay từ cuối thế kỷ

XIX, một trong những địa điểm sớm nhất ở nước ta l|m quen với hệ ph{i thứ hai rất độc đ{o

của Kitô gi{o thế giới nói chung.

Th|nh Thăng Long v| vùng phụ cận tất nhiên cũng l| nơi dồn tụ những hình thức sinh

hoạt tôn gi{o tín ngưỡng bản địa tiêu biểu. Từ tế tự tại gia (thờ cúng tổ tiên, c{c hình thức thờ

tự kh{c như Ông địa<). Tế tự tại l|ng xóm như thờ th|nh ho|ng, đạo Mẫu, c{c hình thức đạo

gi{o d}n gian kh{c: Tế tự quốc gia, đ|n Xã tắc, tế Nam giao<

Có thể nói đặc điểm n|y của không gian tôn gi{o H| Nội được thể hiện ngay từ buổi đầu

x}y dựng kinh đô v| luôn được bồi bổ vun đắp cho tới tận ng|y hôm nay. Những triều đại đầu

tiên của Thăng Long cùng với những biến thiên v| thăng trầm của lịch sử đã khiến cho không

gian xã hội văn ho{ tinh thần của Thăng Long như không thể t{ch rời khỏi không gian t}m linh

tín ngưỡng tôn gi{o ấy, trong cung đình cũng như ngo|i b{ch tính. Cần phải nói thêm rằng

trong không gian văn ho{, tín ngưỡng tôn gi{o ấy nhiều khi khó t{ch biệt, cả một hệ thống c{c

ngôi đình, đền, miếu, qu{n, nh| thờ, th{nh đường< của Thăng Long - H| Nội không chỉ tạo

nên bức tranh phong phú sinh động về sinh hoạt tôn gi{o tín ngưỡng m| còn góp phần to lớn

cho việc tạo ra văn ho{ Thăng Long, phong c{ch nếp sống của người “Kẻ Chợ”.

Thăng Long kế thừa “hệ thống thần linh Hùng Vương” tạo ngay ra hệ thống thần linh của

Đại Việt độc lập. Theo Helmut Wissowa thì chính nước Văn Lang xưa đã có một trung tâm chính

trị - tôn giáo (centre politicoreligieux) m| quyền uy tỏa rộng khắp vùng qua việc lưu h|nh c{c

trống đồng...xiv. Đ}y cũng l| một đặc điểm quan trọng của không gian t}m linh Thăng Long -

H| Nội, nó không chỉ tạo sự liên tục, chuyển dịch từ Phong Ch}u xuống Đại La m| còn nhanh

chóng có những gi{ trị cộng sinh của vị thế kinh đô mới.

Không gian t}m linh của Thăng Long - H| Nội còn được “vật thể ho{” trong x}y dựng kiến trúc đô thị v| tôn gi{o m| ng|y nay ta quen gọi l| văn hoá vật thể, đó l| việc hình th|nh

“Thăng Long tứ trấn”, tạo nên một vẻ độc đ{o duy nhất của Thăng Long về một không gian

t}m linh kết hợp chặt chẽ với việc x}y dựng kinh th|nh qua c{c triều đại. Lẽ dĩ nhiên, không gian t}m linh của Thăng Long - H| Nội, theo chúng tôi được kết cấu phức tạp nhưng h|i hòa,

ho|n chỉnh gồm ba vòng, m| chúng tôi sẽ lần lượt trình b|y, nhưng “Thăng Long tứ trấn” luôn

được coi l| “vòng giữa” v| có vị trí quan trọng bậc nhất.

Chúng ta cũng lưu ý rằng về đặc điểm cảnh quan thiên nhiên, nếu như S|i Gòn l| th|nh

phố của sông rạch thì H| Nội l| th|nh phố của sông hồ v| bản th}n nó cũng l| một sản phẩm “tự

nhiên” của Thăng Long. Trên cơ sở thế đất, cảnh quan của sông Hồng, sông Tô Lịch, th|nh Đại La, núi Nùng<, theo như ph}n tích của Eliade trên đ}y thì không gian thiêng của H| Nội vậy l| đã

có đủ những biểu trưng tiêu biểu nhất l| thần Sông (Giang thần Tô Lịch) v| thần Núi (thần Long

Page 8: Do Quang Hung.pdf

Đỗ) tạo nên một quê hương Thăng Long, đã trở th|nh những th|nh ho|ng l|ng bảo vệ cho sinh

mệnh của người d}n Kẻ Chợ thuở ban đầu.

Trên cơ sở đó, Thăng Long tứ trấn bắt đầu được x}y dựng.

“Thăng Long tứ trấn” đúng l| một hiện tượng văn ho{ t}m linh độc đ{o của kinh th|nh

Thăng Long xưa, phản {nh sự thống nhất giữa ý thức quốc gia độc lập chủ quyền của nước Đại Việt, với ý thức x}y dựng một không gian thiêng biểu trưng cho sự trường tồn của “hồn nước”

Đại Việt.

Tên gọi “Thăng Long tứ trấn” chưa biết rõ xuất hiện v|o lúc n|o, nhưng chắc rằng phải có kh{ sớm trong buổi đầu x}y dựng kinh đô. Nhiều t{c giả ghi chép về lịch sử H| Nội đã mô tả

về sự hình th|nh “Thăng Long tứ trấn”. Theo quan niệm của người Đại Việt lúc đó, trời đất có

bốn phương Đông, T}y, Nam, Bắc thì th|nh Thăng Long cũng phải có “tứ trấn”, được x}y dựng với bốn ngôi đền, trong đó đều có một vị thần đầy quyền uy canh giữ cho kinh th|nh từ Thăng

Long xưa đến Đông Đô v| H| Nội hiện thời.

“Tứ trấn” đó l|:

- Hướng Đông, đền Bạch Mã. Đền Bạch Mã toạ lạc tại phường H| Khẩu, tổng Đông Thọ,

phủ Ho|i Đức, Thăng Long. Nay l| phường H|ng Buồm, quận Ho|n Kiếm. Đền Bạch Mã thờ

thần Long Đỗ, đó l| thần th|nh ho|ng đầu tiên của Thăng Long, nằm ven sông Tô Lịch, ít nhất cũng đã xuất hiện từ thế kỷ IX, khi Cao Biền đắp th|nh Đại La. Thời nh| Lý, đền Bạch Mã trở

th|nh một trung t}m sầm uất của lễ hội Thăng Long v| sinh hoạt cung đình. Đền Bạch Mã còn

gắn với những tai nạn khủng khiếp về hoả hoạn khi Thăng Long “đô thị ho{”. Đời nh| Trần đã ba lần ch{y lớn ở khu vực n|y. Th{i sư Trần Quang Khải còn để lại nhưng c}u thơ:

Lửa tụ ba khu không cháy miếu

Gió lay một trận chẳng nghiêng mình.

- Hướng T}y, đền Voi Phục, thờ thần Linh Lang. S{ch viết về thần Linh Lang rất nhiều,

khó tra cứu nhưng đại thể từ thời Lý - Trần đến Lê sơ, thần Linh Lang ở đền Voi Phục luôn

được triều đình trọng vọng, miễn thuế cho l|ng Chợ Trại, miễn thuế v| phu phen tạp dịch để chuyên lo việc phụng thờ tế tự, nên sau l|ng có tên l| Thủ Lệ (giữ lệ thờ cúng thần). Thời Ph{p

đ{nh H| Nội (1873 - 1883), qu}n d}n H| Nội đã diệt hai tướng Ph{p F. Garnier v| H. Rivière

cũng ở khu vực n|y. Tên đền Voi Phục có từ thời ấy vì cổng đền đắp nổi hình hai con voi phục, quỳ xuống để thần Linh Lang bước lên mình voi như chiến tướng ra trận.

- Hướng Nam, đền Kim Liên thờ thần Cao Sơn. Cao Sơn đại vương có họ với thần núi Tản

Viên. Sự tích kể lại rằng, đời Dương Đức, dịch lệ xảy ra ở Đoan Hùng (Phú Thọ), thần Cao Sơn đã hiện ra cứu d}n tho{t nạn. Ban đầu, đền Kim Liên được gọi l| đình, sau gọi l| đền Kim Liên

để thờ thần Cao Sơn, muộn nhất v|o thời Hồng Thuận thứ ba (1510) v| trở th|nh một góc của

“Thăng Long tứ trấn”, xưa thuộc phường Đông T{c, huyện Thọ Xương, phủ Ho|i Đức. Nay thuộc phường Kim Liên, quận Đống Đa. L|ng Kim Liên rất nổi tiếng vì có nhiều di tích cổ thời

Lý - Trần, trong đó có khu vực Đ|n Xã Tắc, đ|i Thiên Văn v| chùa Kim Liên (Kim Hoa tự) với

những pho tượng Phật Lê - Nguyễn. Đền Kim Liên trấn giữ trên tuyến th|nh đất bao qu{t v| bảo vệ vòng ngo|i phía Nam kinh th|nh Thăng Long, trông ra hồ Ba Mẫu, có kiến trúc kh{ độc

đ{o nhưng l| một di tích văn ho{ lịch sử không còn trọn vẹn. Đền cũng còn l| một di tích c{ch

mạng của Đảng bộ H| Nội.

Page 9: Do Quang Hung.pdf

- Hướng Bắc, qu{n Trấn Vũ, thờ thần Trấn Võ Đế. Qu{n Trấn Vũ hay Qu{n Th{nh, vị

th{nh có trọng tr{ch trấn giữ phương Bắc, xưa l| nơi tu luyện của c{c đạo sỹ theo đạo gi{o. Pho tượng th{nh đồ sộ uy nghi khiến một số học giả Ph{p đầu thế kỷ XX lầm tưởng l| tượng Phật

nên gọi đ}y l| “đền Phật lớn”. Qu{n Trấn Vũ rất xứng đ{ng l| thần trấn phương Bắc vì vị thế

đắc địa v| kiến trúc đồ sộ, độc đ{o. Từ khi Lý Th{i Tổ dời đô cho đến thời nh| Nguyễn, đền được trùng tu nhiều lần, nhưng vẫn giữ phong c{ch đường bệ, th}m u, rất hấp dẫn du kh{ch.

Đặc biệt l| những công trình kỹ thuật đúc đồng của nghệ thuật điêu khắc, nhất l| g{c chuông

đã đi v|o t}m thức người H| Nội:

Gió đưa cành trúc la đà

Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương

Mịt mù khói toả ngàn sương

Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.

Quả thực qu{n Trấn Vũ được vua Lý Th{i Tổ khi dời đô ra Thăng Long (1010) đã được sự

phù trì của Huyền Thiên Trấn Vũ, nên cho lập đền n|y canh giữ hướng Bắc của Thăng Long l| chí lý vậy.

Vậy l| “Thăng Long tứ trấn”, bốn ngôi đền uy nghi bốn góc th|nh, dù l| để thờ c{c anh

hùng d}n tộc hay anh hùng văn ho{ (huyền thoại), hết thảy qua thăng trầm của lịch sử, đã sống mãi với Thăng Long - H| Nội, như một biểu trưng của khí thiêng sông núi, của chính lịch sử

đất n|y.

Trở lại với vấn đề quan trọng trên, chúng ta nhớ rằng vua Lý Th{i Tông (1028-1054) đã rước thần Đồng Cổ, tức thần Trống Đồng, từ Thanh Ho{ về lập đền thờ ở Thăng Long gọi l|

đền Đồng Cổ. Nh| vua lại đặt lệ h|ng năm lại mở hội thề rất long trọng ở đền Đồng Cổ. Cùng

với sự tôn vinh trống đồng, biểu trưng quyền uy của nh| nước v| cộng đồng được hiện hữu trong ngôi đền được chọn lựa.

Điều n|y, được phản {nh rõ trong bộ Đại Việt sử ký toàn thư: “H|ng năm, ng|y 4 th{ng 4,

v|o trước lúc g| g{y, quan tể tướng v| trăm quan đến trực ở ngo|i cửa th|nh, khi trời tờ mờ s{ng thì tiến triều. Vua ngự trên ngai v|ng đặt ở bên ngo|i điện Đại Minh. Trăm quan vận triều

phục, lạy hai lạy rồi lùi ra. Tất cả xếp th|nh h|ng ngũ, có đồ nghi trượng kèm theo, đi về cửa

T}y th|nh Thăng Long, tới đền Đồng Cổ, họp nhau để l|m lễ tuyên thệ. Quan Trung thư kiểm chính đọc lời thề rằng: L|m tôi thì phải tận trung, l|m quan thì phải thanh liêm. Ai l|m tr{i lời

thề n|y, thần minh tru diệt. Đọc xong lời thề, đóng cửa điện lại để kiểm diện. Ai vắng mặt trong

hội thể bị phạt 5 quan tiền”.

Nhưng c{c vua Lý Trần cũng gặp những nghịch lý trong sự chọn lựa m| có nh| nghiên

cứu gọi l| “sự bất to|n của sự tập hợp thần linh nh| nước”: “Ta hãy nhìn lại sự thờ cúng vị thần

bảo trợ tối cao của Lý, Trần. Sông Tô Lịch không được chọn dù nh| Lý đã phong l| Quốc đô Th|nh ho|ng Đại vương, vì dấu hiệu nh}n thần rõ rệt. C{c ông thần kh{c của Thăng Long v|

chung quanh cũng không được chọn hoặc vì gốc nh}n thần - nghĩa l| không mang tính c{ch

siêu linh tự th}n - hoặc tuy cũng l| gốc nhiên thần nhưng đã bị truyền thuyết hạ xuống địa vị thần tử nh}n ho{. Cả đền thần Tản Viên sừng sững phía Bắc kinh th|nh cũng bị loại... Có phần

chắc rằng chỉ có thần Đồng Cổ vốn l| thần bảo trợ của Kinh đô Hoa Lư được rước về Thăng

Long để l|m người chủ trì”xv.

2.3. Một “không gian thiêng” hài hòa với một “không gian quyền lực” xã hội của kinh thành

Page 10: Do Quang Hung.pdf

Không gian thiêng của Thăng Long - H| Nội còn được tạo nên bởi một địa điểm có khả

năng liên kết một không gian xã hội ng|y c|ng rộng lớn bền chắc trên cơ sở sợi d}y nối kết giữa

c{c dòng họ, dòng tộc, c{c tộc người, nói tóm lại l| “d}n tộc Việt Nam”. Thăng Long đã đóng

vai trò sợi d}y nối kết vững chắc đó, như người con trưởng trong gia đình truyền thống luôn

giữ vinh hạnh l| người lo việc tế tự thờ cúng tổ tiên cho trăm họ v| từ đó một không gian thiêng về

mặt xã hội đã được hình th|nh tạo nên một gia t|i đặc biệt quý b{u.

Đặc biệt ở thời cận hiện đại, sau C{ch mạng th{ng T{m 1945 th|nh công, mở ra một thời

đại mới, thời đại độc lập d}n tộc v| chủ nghĩa xã hội, thời đại Hồ Chí Minh thì không gian thiêng

về mặt xã hội của Thăng Long - H| Nội lại c|ng rõ nét v| có thêm những vẻ đẹp tinh thần mới.

Qua khói lửa của c{c cuộc chiến tranh v| c{ch mạng, thường thì ở những thời điểm cam

go nhất của lịch sử, đặc biệt l| sự thử th{ch sống còn của nền độc lập v| thống nhất của d}n tộc,

từ miền Nam, nơi cực nam của Tổ quốc, những người con của Nam Bộ kh{ng chiến vẫn luôn

hướng về H| Nội trong những vần thơ đã trở th|nh “kinh điển” của tình tự d}n tộc với H| Nội:

Ai về xứ Bắc ta đi với

Thăm lại non sông giống Lạc Hồng

Từ thủa mang gươm đi mở cõi

Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long.

(Nhớ Bắc - Huỳnh Văn Nghệ, 1946)

Trên đất nước ta có nhiều vùng đất “địa linh nh}n kiệt”. Tuy vậy, không gian thiêng ở H|

Nội còn có một đặc điểm độc đ{o kh{c, đó l| nó không chỉ được tạo bởi yếu tố thần linh thuần

tuý tôn gi{o hoặc kết hợp giữa yếu tố tôn gi{o với điều kiện tự nhiên. Không gian thiêng ở H|

Nội còn có một đặc điểm độc đ{o m| không một nơi n|o kh{c ở đất nước ta có được, đó l| một

không gian thiêng có sự kết hợp giữa c{c yếu tố t}m linh tín ngưỡng tôn gi{o với một địa điểm

được coi l| “khởi nguồn của hồn d}n tộc, hồn nước”. Nơi n|y ngay về kiến trúc vật thể đã có

những gi{ trị linh thiêng của sự kết hợp c{c yếu tố như thế.

Nhận xét về th|nh H| Nội như một kiểu mẫu của th|nh qu{ch địa lý, qu}n sự v| tính

thiêng liêng của Đại Việt, trong cuốn s{ch nổi tiếng bằng tiếng Ph{p của Pierre Huard v|

Maurice Durand, vốn l| những học giả nổi tiếng của Trường Viễn đông B{c cổ. C{c t{c giả có

nhận xét rằng: “Ở thời Gia Long, thiết kế kiến trúc của c{c kỹ sư Ph{p đã bị thay đổi nhiều theo

c{c dữ kiện của khoa học t}m linh. Th|nh H| Nội vì thế đ{ng chú ý vì:

1. Vị trí của nó ở bên trong chỗ vòng của hai dòng sông không thẳng h|ng l| sông Tô Lịch

v| sông Hồng;

2. Có lẽ do sự có mặt của một bức tường th|nh nh}n tạo (đê Parreau) ở phía ấy;

3. Hướng của nó l| Bắc - T}y Bắc, Nam - T}y Nam;

4. Trung t}m của nó (điện Kính Thiên) bản th}n cũng l| trung t}m của ngôi chùa ho|ng

gia, bị ph{ huỷ năm 1886, hướng theo Bắc - T}y Bắc nhiều hơn tòa th|nh, tương ứng với núi Nùng, c{i gò thiêng, trong nhiều thế kỷ được coi l| vật bảo hộ th|nh phố;

Hệ thống bảo vệ nó bằng ma thuật:

Page 11: Do Quang Hung.pdf

– Ở phía nam, Cột Cờ (1812);

– Ở phía bắc, Tam Sơn, mô đất nh}n tạo thờ thổ thần, v| thờ một c{i c}y, nơi Ho|ng Diệu, đối thủ của Henri Rivière, treo cổ tự s{t;

– Ở phía t}y, Kh{n Sơn (C}u lạc bộ thể thao hiện nay);

– Ở phía đông, ngọn đồi nhỏ, nơi c{c trại lính được x}y dựng năm 1890.

Trong chiến tranh d|n trận, c{c phương ph{p chiến thuật tốt nhất được sao chép theo c{c

sơ đồ vũ trụ luận Trung Hoa về vũ trụ vi mô v| vũ trụ vĩ mô. C{c mùa cũng có một tầm quan

trọng to lớn, v| qu}n đội phải dời khỏi th|nh theo thứ tự sau đ}y: mùa xu}n - cửa Đông; mùa hạ - cửa T}y; mùa thu - cửa Nam; mùa đông - cửa Bắc”xvi.

Đoạn trích dẫn trên đ}y cho ta thấy c{i nhìn rất tinh tế của hai t{c giả người Ph{p có liên

quan đến nhận định của chúng tôi về đặc tính của không gian thiêng của H| Nội. Điều đặc biệt l|, kể cả khi H| Nội không còn l| Thủ đô của Việt Nam dưới triều Nguyễn v| Kinh đô đã

chuyển v|o Huế chính thức từ sau năm 1802, nhưng th|nh phố thơ mộng bên bờ sông Hương

n|y, dù được x}y dựng th|nh một kinh đô kh{ bề thế của triều Nguyễn, kết hợp giữa kiến trúc th|nh qu{ch kiểu Trung Hoa với kiến trúc Vauban của Ph{p, vẫn không thể tạo nên một

không gian thiêng đặc biệt như kiểu kinh th|nh Thăng Long.

3. Tôn giáo - tín ngưỡng ở khu phố cổ Hà Nội: vòng xoáy của không gian tâm linh

3.1. Không gian tâm linh phố cổ Hà Nội

Điểm nhấn thực sự của “không gian t}m linh” Thăng Long dĩ nhiên thuộc về chính khu

vực phố cổ H| Nội. Đến nay, đ}y vẫn l| nơi bảo tồn được nhiều dấu tích kiến trúc đủ loại, những “di tích” về nghề thủ công cổ truyền, nguồn gốc d}n cư, c{c sinh hoạt tín ngưỡng, tổ

chức cộng đồng< Đó cũng l| những đặc điểm phản {nh, hình th|nh v| tạo nên nét riêng của

đời sống kinh tế - xã hội đô thị Thăng Long - H| Nội xưa v| nay.

Trên phương diện kinh tế, một nét đặc trưng của khu phố cổ H| Nội l| c{c phố nghề, vốn

được hình th|nh bởi những người thợ thủ công từ c{c l|ng nghề quanh Thăng Long xưa quy tụ

về, tập trung theo từng khu vực, chuyên sản xuất, buôn b{n trao đổi những loại h|ng ho{, sản phẩm thủ công nhất định.

Về lịch sử, qu{ trình hình th|nh, ph{t triển khu phố cổ có thể tính từ thời điểm vùng đất

n|y bước v|o qu{ trình đô thị ho{; song định hình v| rõ r|ng hơn cả l| từ khi Lý Công Uẩn định đô. Trải qua c{c vương triều phong kiến Lý - Trần - Lê, gần như liên tục, Thăng Long -

Đông Kinh đồng thời giữ chức năng trung t}m chính trị - h|nh chính v| trung t}m kinh tế đất

nước; bởi thế, Thăng Long sớm đã hình th|nh/ph}n định th|nh hai khu vực với chức năng h|nh chính - quan liêu v| kinh tế - d}n gian. Khu vực kinh tế d}n gian - với nh}n lõi chính l| khu phố

cổxvii.

Về mặt không gian hiện nay, khu phố cổ H| Nội được giới hạn bởixviii:

- Phía bắc: phố H|ng Đậu.

- Phía t}y: phố Phùng Hưng.

- Phía nam: phố H|ng Bông, H|ng Gai, Cầu Gỗ, H|ng Thùng.

Page 12: Do Quang Hung.pdf

- Phía đông: phố Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật.

Cần lưu ý l| qua 1.000 năm lịch sử, Thăng Long - H| Nội ở khu vực trung t}m n|y đã hiện hữu giữa một không gian phố cổ H| Nội với một hệ thống c{c kiến trúc mang chức năng

tôn gi{o, tín ngưỡng cũng như hệ thống kiến trúc d}n sự. Hai loại hình di tích kiến trúc n|y vừa

l| c{c bộ phận cấu th|nh, vừa l| một yếu tố quan trọng phản {nh những đặc điểm về d}n cư, kinh tế, tổ chức xã hội, đời sống t}m linh, sinh hoạt tôn gi{o, tín ngưỡng cư d}n khu vực n|y.

3.2. Đặc tính các cơ sở thờ tự ở khu phố cổ Hà Nội

Cho đến nay, theo thống kê chính thức của cơ quan quản lý nh| nước, khu phố cổ H| Nội còn 89 di tích tôn gi{o, tín ngưỡng, đó l| chưa kể đến 22 di tích c{ch mạng - kh{ng chiến của

thời kỳ cận - hiện đạixix. Một khu vực không rộng (khoảng 105ha), song với số lượng di tích trên

đ}y, phố cổ H| Nội l| nơi tập trung kh{ nhiều di tích kiến trúc tôn gi{o, tín ngưỡng. Đ}y l| đặc điểm ban đầu, dễ nhận biết về hệ thống di tích thuộc khu vực phố cổ.

Không chỉ tập trung về số lượng, sự đa dạng về loại hình kiến trúc cũng l| một đặc điểm nổi bật nữa của hệ thống di tích khu phố cổ. Trong số 89 di tích, hiện diện kh{ đầy đủ những loại hình kiến trúc thuộc nhiều tôn gi{o, tín ngưỡng truyền thống: Phật gi{o, Nho gi{o, Đạo gi{o, Hồi gi{o, tín ngưỡng thờ Th|nh ho|ng, tổ nghề, tín ngưỡng thờ Mẫu< của người Việt chủ thể v| người Hoa. Đó l| hệ thống chùa; đình (cũng có cả đền, miếu) thờ c{c vị thần (nh}n thần, nhiên thần, thiên thần). Ở đ}y, đầu thế kỷ XX lại xuất hiện cả “Chùa T}y Đen”, tức Th{nh đường Hồi gi{o m| chủ sở hữu l| c{c kiều d}n Ấn Độ v| Pakistan. C{c ngôi “vọng từ” thờ c{c vị thần Th|nh ho|ng, c{c vị tổ nghề (nhiều trường hợp vừa l| th|nh ho|ng, vừa l| tổ nghề) được đưa ra thờ tại Thăng Long từ quê hương; c{c đền, miếu thờ mẫu v| chư vị của tín ngưỡng d}n gian; qu{n Đạo gi{o (qu{n Huyền Thiên); nh| thờ tổ họ (từ đường họ Nguyễn, số 112 phố H|ng Bông), c{c hội qu{n thờ b| Thiên Hậu, Quan Đế (Quan Vũ) của người Hoa (hội qu{n Phúc Kiến; hội qu{n Việt Đông, d}n gian vốn trước vẫn quen gọi l| chùa Hoa, chùa T|u)xx.

Để thấy rõ những gi{ trị t}m linh đặc biệt của khu phố cổ H| Nội, tốt nhất ta hãy giở lại

cuốn Chuyến đi thăm Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876). Cuốn s{ch được coi l| một trong những cuốn văn xuôi, bút ký đầu tiên bằng chữ quốc ngữ của Trương Vĩnh Ký. Nó cho ta thấy nhiều nét sinh

hoạt sống động của người H| th|nh ở khu vực trung t}m th|nh nội, kể cả hồ Ho|n Kiếm, cung

c{ch l|m việc của dinh Tổng đốc H| Nội Nguyễn Đăng Giai cho đến Tòa Lãnh sự Ph{p ở H| Nội. Đặc biệt liên quan đến sinh hoạt tôn gi{o tín ngưỡng, Trương Vĩnh Ký có những mô tả hết

sức quý b{u về điện Kính Thiên, Văn Miếu, chùa Một Cột, một ngôi chùa kh{c ở ven Hồ Gươm

m| t{c giả gọi l| “chùa do ông Nguyễn Đăng Giai lập”. Thú vị hơn cả l| sự mô tả cận cảnh của Trương Vĩnh Ký về đền Trấn Vũ m| ông gọi l| Ông thánh đồng đen. Ông viết: “Ra cửa ô Bưởi đi

coi chùa Trấn Võ quan, tục kêu l| Ông th{nh đồng đen ở bên mép hồ T}y. Tượng ấy l| tượng

ngồi cao lên tới nóc chùa, đúc bằng đồng đen cả. Tóc quăn như đầu Phật, mặt cũng từa tựa. Còn từ cổ sấp xuống thì da như hình ông th{nh Phaolô, một tay chống lên trên c{n c}y gươm chỉ

mũi lên trên mu con rùa, một tay thì ngay ngón trỏ m| chỉ lên trời, chơn thì di dép. Có chữ đề

m| đã mòn đã lu đi coi không ra”xxi.

Hiểu theo c{ch n|o đó thì cư d}n Thăng Long nói chung, cư d}n khu vực phố cổ nói riêng cũng l| sự tích hợp của qu{ trình nhập cư. Điểm dễ nhận thấy của cư d}n nơi đ}y l| tính đa dạng về nguồn gốc, nó chính l| kết quả của qu{ trình hội tụ c{c bộ phận cư d}n di cư đến từ nhiều vùng miền< Khi họ hội tụ về Thăng Long không chỉ mang theo lối sống, nghề nghiệp

Page 13: Do Quang Hung.pdf

m| còn đem theo cả những thói quen t}m linh, tôn gi{o tín ngưỡng<, tạo nên tính đa dạng trong đời sống văn ho{ vật chất cũng như tinh thần của th|nh phố n|y.

Số đình, đền còn lại hiện nay, phần lớn l| do d}n “tứ xứ” lập nên. Có thể kể đến Châu Khê vọng từ - ngôi đền của những người d}n Ch}u Khê ra Thăng Long l|m nghề kim ho|n v| v|ng bạc. Ngôi vọng từ n|y l| nơi họ tổ chức cúng lễ, tế vọng vị thần th|nh ho|ng ngay tại đất kinh đô. Có thể thấy, phần đông c{c vị th|nh ho|ng được lập vọng từ ở Thăng Long l| c{c vị tổ nghề: đình Xu}n Phiến tại số 4 H|ng Quạt thờ ông họ Đ|o - tổ nghề l|m quạt của d}n l|ng Ân Thi - Hải Dương; đình Phả Trúc L}m (số 40 phố H|ng H|nh) v| đình H|i Tượng (số 16 ngõ H|i Tượng) thờ Tiến sỹ Nguyễn Thời Trung - tổ nghề thuộc da, đóng hia h|i, c{c ông Thuần Chính, Đức Chính, Sỹ B}n (tổ nghề da gi|y) ở l|ng Chắm (Gia Lộc - Hải Dương); đình H|i Tích (số 1 phố Lò Rèn) thờ Phạm Nguyệt, Nguyễn Nga, Nguyễn Cẩn Th{nh sư - l| c{c vị tổ sư nghề rèn, gốc ở l|ng Hoè Thị, Xu}n Phương, Từ Liêm. Ông tổ nghề sơn son, thiếc v|ng l| Trần Lư (1470-1540) quê l|ng Bình Vọng, Thường Tín, đỗ Tiến sỹ năm 1502 được thờ ở đình H| Vỹ (số 11 phố H|ng Hòm); đền thờ vọng Nhị Khê (Nhị Khê vọng từ) số 11 H|ng H|nh thờ ông tổ nghề tiện gỗ<

Không chỉ phản {nh c{c đặc điểm d}n cư, nghề nghiệp, di tích tôn gi{o, tín ngưỡng, khu vực phố cổ còn l| những dấu ấn, gắn liền v| phản {nh lịch sử tạo dựng mảnh đất Thăng Long,

của những con người, những nh}n vật huyền thoại sinh ra v| gắn bó với mảnh đất n|y từ h|ng

thế kỷ trước cũng như khi Thăng Long đảm giữ vai trò kinh đô. Đền Tiên Ngư (nay thuộc phố H|ng C{) thờ Lý Tiến - theo thần tích vốn l|m nghề đ{nh c{ từ thời Hùng Vương. Đình Đức

Môn (số 38 phố H|ng Đường) thờ Ngô Văn Long - một bộ tướng thời Hùng Duệ Vương (?).

Đền Bạch Mã nổi tiếng l| nơi thờ thần Bạch Mã - vốn l| thần Long Đỗ - tương truyền đã hiện ra khi Cao Biền cho đắp th|nh Đại La. Đình T}n Khai (44 H|ng Vải) thờ thần Bạch Mã, Tô Lịch v|

Thiết L}m đại vương. Đình Thanh H| (số 10 Ngõ Gạch) thờ Trần Lực, danh tướng thế kỷ thứ

XIII thời Trần. Đền Tiên Hạ (số 48 ngõ Phật Lộc) thờ Nguyễn Trung Ngạn<xxii.

Truyền thống “tiền Phật hậu th{nh/hậu mẫu” của Phật gi{o Việt Nam in dấu rất rõ trên

c{c ban thờ ở khu phố cổ. Hiện còn có nhiều ngôi đền, miếu, điện được x}y dựng để d|nh riêng

cho loại hình tín ngưỡng n|y, song hiện nay đã biến th|nh nơi cúng thờ hoặc chuyển ho|n to|n th|nh nơi thờ Tứ phủ, đó l| trường hợp của đền Bạch Mã, đền Đồng Thuận (11 H|ng C{) trước

chỉ thờ Lý Tiến, đền Nguyên Khiết (số 102 H|ng Bạc)<

Không gian hẹp, đất quý như v|ng đã khiến khu phố cổ nổi lên một đặc điểm kh{c: không có sự ph}n định, c{ch biệt tuyệt đối không gian kiến trúc d}n sự v| tôn gi{o. Vì thế, không gian đô thị khu phố cổ H| Nội - vốn d|nh cho c{c kiến trúc d}n gian nh| ở, cầu qu{n, dinh thự<, lại liền kề với đình đền, chùa qu{n, thậm chí l| cả nh| thờ, th{nh đường. Đặc biệt có những ngôi đình, đền được đặt ở tầng hai, g{c trên của một ngôi nh| (như trường hợp của đình Trung Yên, thờ vị Tiến sỹ triều Mạc).

C{c nh| nghiên cứu kiến trúc tôn gi{o ở H| Nội còn có nhận xét rằng, bố cục nhiều c{c ngôi chùa trong khu phố cổ thường l| sự tiết kiệm tối đa c{c khoảng không gian. Chùa chính có

mặt bằng hình chữ “công”, chữ “đinh”. C{c kiến trúc phụ bao gồm nh| mẫu, nh| tổ (chùa Th{i

Cam), hoặc thêm cả h|nh lang (chùa Cầu Đông). Có chùa chỉ có kiến trúc chùa chính (chùa Vĩnh Trù). C{c trang trí trên kiến trúc không nhiều, tiêu biểu có c{c ngôi chùa Cầu Đông, chùa

Th{i Cam. Đề t|i trang trí l| c{c linh vật, hoa, l{, quả. Dấu ấn còn lại phần nhiều l| phong c{ch

nghệ thuật thế kỷ XIX thời Nguyễn.

Page 14: Do Quang Hung.pdf

Với c{c di tích kiến trúc đình, đền, phần lớn đều có bố cục không gian trải theo chiều s}u,

với ba lớp nh|, một số di tích có thêm kiến trúc phương đình (đền Bạch Mã, đình Thanh H|, đền Ho{ Thần). Bộ khung nh| đều l|m bằng gỗ, với c{c bộ vì được kết cấu theo kiểu “chồng

rường con nhị”, “chồng rường hai h|ng ch}n” (đền Bạch Mã, đền Thanh H|), kiểu “vì kèo”

(đình Đức Môn). Trong một số kiến trúc có vòm “vỏ cua” nối c{c nếp nh| (đền Bạch Mã, đình Hương Tượng, đình Đức Môn).

Ngay c{c hội qu{n cũng vậy. Đ}y l| loại hình kiến trúc gắn với c{c sinh hoạt tín ngưỡng

tôn gi{o v| sinh hoạt cộng đồng của người Hoa. Khu phố cổ H| Nội hiện còn 2 hội qu{n, với

hai phong c{ch kiến trúc kh{ rõ rệt. Hội qu{n Phúc Kiến (số 40 phố Lãn Ông) v| hội qu{n

Quảng Đông (số 22 H|ng Buồm), cũng tạo nên sự phong phú, đa dạng của không gian t}m linh

H| Nội.

Khu phố cổ còn có Quán Đạo giáo Huyền Thiên (phố H|ng Khoai), được dựng trên mặt

bằng lớn, cũng có nét kiến trúc lạ mắt, như có thêm thông điệp về đặc tính Đạo gi{o nơi người

Thăng Long.

Không gian t}m linh ở H| Nội quả thực hết sức phong phú v| độc đ{o với kết cấu ba

vòng: Vòng ngoài, l|ng xã ngoại th|nh rộng lớn, tiêu biểu cho loại hình l|ng xã của văn minh

sông Hồng, lại {p s{t đất tổ Hùng Vương. Vòng trong, “Thăng Long tứ trấn” với những di tích

lịch sử, tôn gi{o, tín ngưỡng đã kh{ tập trung đậm đặc. Vòng trong cùng, vòng xo{y của không

gian t}m linh, đó l| khu vực Hoàng thành - khu phố cổ Hà Nội, nơi tập trung nhất của không gian

t}m linh, tôn gi{o gắn kết với không gian quyền lực chính trị - xã hội.

Trong c{i không gian t}m linh ấy, c{c cơ sở thờ tự của mọi loại hình tôn gi{o tín ngưỡng

đều được người d}n H| th|nh, c{c chính quyền qua c{c thời đại tính to{n sắp đặt, vun đắp v|

bảo tồn qua biết bao thế hệ v| tự nó đã tạo nên những gi{ trị văn ho{ vật thể, văn ho{ phi vật

thể không thể t{ch rời với lịch sử v| hiện tại của th|nh phố.

Những năm gần đ}y, trong không khí cởi mở của tiến trình Đổi mới đất nước v| chính

s{ch tôn gi{o thông tho{ng hơn, c{c tổ chức tôn gi{o ở H| Nội đều hồi phục v| ph{t triển. C{c

hội quy của Phật giáo, c{c hội đo|n (Công gi{o) tăng nhanh. Riêng Công gi{o, c{c ban hành giáo

của c{c xứ họ đạo hoạt động với bầu khí mới mẻ.

Có thể nói cho đến nay, hệ thống tôn gi{o ở H| Nội cũng kh{ tiêu biểu, bao gồm những

tôn gi{o chính yếu của nước ta, vốn l| những tôn gi{o nhập nội hay l| những tôn gi{o bản địa.

Trước hết, hệ thống Tam giáo ở H| Nội rất tiêu biểu. Có thể nói Thăng Long - H| Nội l| nơi

gần như được coi l| xuất ph{t của Phật gi{o nước nh| (hai trung t}m đầu tiên l| Luy L}u,

Thuận Th|nh, Bắc Ninh v| T}y Thiên, Tam Đảo, Vĩnh Phúc, về mặt địa - tôn gi{o khó t{ch biệt

với Thăng Long). Khổng gi{o đặc biệt từ thời Lê có vị trí dần dần độc tôn, thì không đ}u tiêu

biểu hơn l| H| Nội. Kể cả sau n|y khi kinh đô đã chuyển v|o Huế thì Nho học trên đất Thăng

Long - H| Nội với những tên tuổi của “sỹ phu Bắc H|” vẫn l| lực lượng tri thức, tinh thần tiêu

biểu cho Nho học, kể cả khu vực b{c học v| khu vực bình d}n (c{c nh| nho “t|i tử”).

Về Đạo gi{o, H| Nội cũng l| một trung t}m quan trọng như nhận xét của nhiều trí thức ở

c{c vùng miền kh{c nhau khi đến với Thăng Long - H| Nội như chúng ta đã từng đề cập ở

phần trên.

Đạo Kitô (Công gi{o v| Tin L|nh) ở H| Nội cũng có nhiều nét đ{ng lưu ý.

Page 15: Do Quang Hung.pdf

Có thể nói Công gi{o H| Nội l| thuộc số địa điểm l}u đời nhất ở xứ Bắc Kỳ xưa, nơi linh

mục Đắc Lộ (A. de Rhodes) đặt ch}n đến ngay khi ông từ Đ|ng Trong ra Bắc. Nói đúng hơn l|

từ Cửa Bạng (Thanh Ho{), năm 1627, ra Thăng Long v| gieo mầm đầu tiên của cộng đồng Công

gi{o H| Nội. Từ đó, H| Nội luôn l| vị trí quan trọng nhất của Công gi{o ở phía Bắc. Có một

thời gian, từ 1949 đến đầu những năm 1960, H| Nội vẫn l| nơi đặt Đại diện Tông tòa của Tòa

Th{nh Vatican. Gi{o phận H| Nội từ 1960 cũng trở th|nh Tổng gi{o phận H| Nội cho tới ng|y

nay.

Đạo Tin L|nh ở H| Nội tuy chính thức hình th|nh (1926) có chậm hơn Đ| Nẵng (1911), địa

điểm gốc nhất của Tin L|nh Việt Nam hiện nay, nhưng nếu tính về những địa điểm đầu tiên ở

nước ta có tiếp xúc với đạo Tin L|nh từ ch}u Âu cuối thế kỷ XIX thì H| Nội lại thuộc số địa

điểm đầu tiên.

Ít nhất từ năm 1954 khi đất nước chia cắt, Tin L|nh H| Nội cũng trở th|nh cộng đồng tiêu

biểu nhất của Hội th{nh Tin L|nh Việt Nam (miền Bắc) v| cho đến tận ng|y nay vị thế n|y vẫn

l| như vậy.

Hồi gi{o ở H| Nội thực sự l| một cộng đồng vô cùng nhỏ bé nhưng nó vẫn l| một cộng

đồng tiêu biểu cho tôn gi{o n|y ở phía Bắc Việt Nam. Ngo|i ra việc có mặt một cộng đồng cũng

không đông đảo gì l| cộng đồng đạo Cao Đ|i ở H| Nội từ thập kỷ 40 đến nay vẫn tồn tại, như

một nét độc đ{o của hệ thống tôn gi{o ở H| Nội.

Những năm gần đ}y, “hiện tượng tôn gi{o mới” (New religions movements) đã khiến cho

hệ thống tôn gi{o ở H| Nội c|ng thêm đa dạng, h|ng chục nhóm ph{i thuộc loại hình tôn gi{o

n|y, đặc biệt xuất hiện ng|y c|ng nhiều từ thập kỷ 80 trở lại đ}y đã nói rõ điều đó. Trong số

những đạo lạ đã xuất hiện ở H| Nội, đã có một số nhóm nảy sinh ngay ở địa b|n th|nh phố.

Điều n|y, theo chúng tôi được biết, l| chưa hề có trước đ}y. Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX,

phong tr|o yêu nước ở H| Nội có chịu ảnh hưởng nhất định của cuộc nổi dậy của nh| sư

Vương Quốc Chính v| Hội Thượng chí cũng như của Kỳ Đồng Nguyễn Văn Cẩm nhưng đó l|

chuyện “từ bên ngo|i v|o”...

Trong sự ph{t triển của hệ thống tôn gi{o hiện nay, H| Nội vẫn luôn có vị thế l| một

trung t}m truyền gi{o, ảnh hưởng trực tiếp đến hầu hết c{c tỉnh ở phía Bắc dù bản th}n nó cũng

l| nơi có khả năng “tiếp nhận” c{c tôn gi{o mới.

4. Thay lời kết

Như đã trình b|y ở phần trên đời sống tín ngưỡng - tôn gi{o của người d}n H| th|nh hay nói c{ch kh{c l| đời sống t}m linh tinh thần vừa l| sản phẩm, vừa l| t{c nh}n tạo nên c{i không gian thiêng độc đ{o đó. Bản th}n Kinh th|nh Thăng Long với vị thế nằm ở trung t}m của nền văn minh sông Hồng, nằm kề bên Kinh đô cổ xưa nhất của nước Văn Lang l| Phong Ch}u. Trong qu{ trình x}y dựng ng|y c|ng rộng mở cùng với vị thế ng|y c|ng quan trọng Thủ đô của Đại Việt, c{c yếu tố, cấu trúc của c{i “không gian thiêng” hay “không gian t}m linh” ấy của Thăng Long - H| Nội ng|y một ho|n chỉnh với “cấu trúc ba vòng”.

Trước hết, phải nói rằng cấu trúc của “không gian thiêng” Thăng Long - H| Nội đặc biệt

l| ở chỗ nó đã tạo ra được một hệ thống không gian thiêng với ba vòng, liên ho|n chặt chẽ.

Page 16: Do Quang Hung.pdf

Vòng ngoài, đó l| cả một không gian rộng lớn ven sông Hồng m| sau n|y đô thị học gọi l|

“vùng ngoại th|nh”. Về phương diện t}m linh tín ngưỡng tôn gi{o, cũng khó có khu vực n|o trên đất nước ta tiêu biểu như khu vực n|y vì đó l| nơi tập trung tiêu biểu nhất cho những loại hình

tín ngưỡng tôn gi{o “của mình” v| c{c hình thức tín ngưỡng tôn gi{o ngoại nhập. Đó cũng l| nơi

có điều kiện “trải nghiệm”, sắp xếp, loại bỏ và ổn định hệ thống tôn gi{o tín ngưỡng của người d}n trước v| sau khi họ trở th|nh những “công d}n” của H| Nội.

Qu{ trình đô thị ho{, đặc biệt từ thời cận đại với cuộc “công nghiệp ho{ cưỡng bức” của

chủ nghĩa thực d}n, sau đó, trong điều kiện độc lập tự chủ ng|y hôm nay l| một cuộc công nghiệp ho{ - hiện đại ho{ đích thực của d}n tộc, một lần nữa lại thúc đẩy qu{ trình s|ng lọc v|

hội nhập nói trên.

Vòng giữa, đó l| sự hình th|nh cấu trúc đặc biệt của “Thăng Long tứ trấn”, một hệ thống kiến trúc tôn gi{o tín ngưỡng vừa có ý nghĩa biểu trưng về t}m linh của Thăng Long - H| Nội,

vừa có ý nghĩa khẳng định những gi{ trị của quyền lực xã hội. Nhưng trên hết thẩy Thăng Long

tứ trấn còn vật thể hoá những gi{ trị tinh thần, được gọi l| “hồn nước” của th|nh phố n|y cũng như một biểu tượng của sự bền vững “nước non một thủa vững }u v|ng” (Lê Th{nh Tông).

Vòng trong, “vòng xo{y t}m linh” của khu phố cổ v| Ho|ng th|nh Thăng Long, nơi tập

trung nhất của những hình th{i sinh hoạt tín ngưỡng tôn gi{o, cũng đồng thời l| nơi không gian t}m linh như được “hội tụ” mọi sắc th{i v| chiều kích. Trên c{i nền đó l| những hình ảnh

sinh hoạt tôn gi{o tín ngưỡng nhiều sắc m|u của những cộng đồng cư d}n tiêu biểu nhất của

người H| th|nh.

Như thế, Thăng Long - H| Nội quả thực có một “không gian thiêng” đặc biệt so với

những đô thị lớn ở nước ta, nhìn trên cả hai bình diện: cấu trúc của không gian thiêng ấy v|

“công năng” của nó. Vòng ngo|i, đó l| một không gian bao la của l|ng xã ngoại th|nh (lại l| những mẫu hình l|ng xã tiêu biểu bậc nhất của nền văn minh sông Hồng, l|ng nông nghiệp pha

trộn l|ng buôn v| thủ công) trù phú, gắn liền với tiến trình lịch sử dựng nước v| giữ nước.

Thăng Long nằm kề với đất Tổ Hùng Vương, Phong Ch}u, Kinh đô cổ nhất của nước Văn Lang. Mặc dù Thăng Long có thể không phải l| c{i rốn của văn minh sông Hồng nhưng mảnh đất n|y

vừa nằm gối bên sông Hồng - sông Mẹ v| cũng liền kề với những vùng đất cổ của văn ho{

Đông Sơn. Vòng giữa, l| cấu trúc nổi tiếng của “Thăng Long tứ trấn”. Vòng giữa n|y đã được c{c nh| nghiên cứu tôn gi{o, văn ho{ d}n gian nghiên cứu kh{ kỹ. Về phương diện t}m linh,

vòng giữa rất quan trọng l| ở chỗ, nó định vị cơ bản hệ thống thần linh chủ yếu của Thăng

Long H| Nội, một hệ thống đã được c{c triều đại lựa chọn, định vị với sự phong thần “chính thức” ở cấp quốc gia, phù hợp với “luật phong thuỷ”. Vòng trong, m| chúng tôi gọi nó l| “vòng

xo{y t}m linh” của không gian thiêng Thăng Long - H| Nội, đó l| khu vực Ho|ng th|nh v| khu

phố cổ, nơi tập trung nhất yếu tố thần linh v| yếu tố quyền lực xã hội (cung đình của c{c triều đại). Địa điểm đặc biệt n|y ngay từ buổi đầu nh| Lý đã có những cơ sở thờ tự linh thiêng v|

quyền uy nhất như Chung đ|n Vạn tuế v| chùa Ch}n Gi{o ở Ho|ng th|nh đầu thế kỷ XI. Sau

đó được “ho|n chỉnh” bằng việc dựng chùa Một Cột (1049), Văn Miếu (1070). Chỉ có những địa điểm như thế ở Thăng Long khi triều đình nhất l| c{c vua nh| Lý niệm Phật h|ng ng|y v| đặc

biệt khi cần có thể truyền ngôi v| đi tu ngay ở đó (năm 1224, vua Lý Huệ Tông, ở chùa Ch}n

Gi{o l| như vậy). Khu Phố Cổ đi liền với hồ Ho|n Kiếm v| th{p B{o Thiên cũng l| một điểm nhấn của vòng trong nơi c{c nghi lễ tín ngưỡng tôn gi{o v| nghi lễ của cung đình pha trộn

trong một không gian “Ho|ng th|nh mở rộng”.

Page 17: Do Quang Hung.pdf

Đất nước ta ở đ}u cũng địa linh nhân kiệt. Nhưng chắc hẳn không có ở đ}u như Thăng Long - H| Nội, những yếu tố Thần v| Người; Cái thiêng với ý nghĩa tôn gi{o, t}m linh lại kết hợp chặt chẽ với c{i hồn nước, tạo nên c{i sức mạnh t}m linh tinh thần đặc biệt của Thăng Long - H| Nội.

Về vai trò hay công năng của “không gian thiêng” ấy cũng có đặc điểm riêng ở chỗ khi người Thăng Long - H| Nội thực h|nh đời sống tôn gi{o - tín ngưỡng, bên cạnh những yếu tố t}m linh, tín ngưỡng, tôn gi{o có trong bản th}n c{c hình thức tôn gi{o tín ngưỡng m| họ thể hiện thì vẫn luôn chịu những t{c động tích cực của cấu trúc không gian thiêng nói trên. Chẳng hạn, H| Nội không phải l| th|nh phố có tỷ lệ người có tôn gi{o (nhất l| c{c tôn gi{o lớn như Phật gi{o, Công gi{o, Tin L|nh<) cao nhất nước, nhưng với vị trí l| Thủ đô của nước ta nên c{c tôn gi{o n|y luôn có vị trí “cao nhất” trong c{c gi{o hội, c{c cơ quan đầu não của c{c gi{o hội cũng được tập trung ở đấy, vì thế những sinh hoạt tôn gi{o lớn, điển hình thường diễn ra ở H| Nội.

Như chúng ta đã nói, đặc điểm của không gian t}m linh Thăng Long - H| Nội l| không có sự t{ch biệt tuyệt đối giữa “không gian tôn gi{o” v| “không gian xã hội”. Đặc điểm n|y cũng dẫn đến vai trò, công năng kh{c của nó l| một mặt, nó được sử dụng như một công cụ tinh thần hữu hiệu để bồi đắp ý thức yêu nước, chủ nghĩa d}n tộc; mặt kh{c, nó cũng l| một công cụ gi{o ho{ tinh thần đ|o luyện con người, văn ho{ Thăng Long - H| Nội.

Việc phục hiện c{i “không gian t}m linh - tôn gi{o - tín ngưỡng” của Thăng Long H| Nội nói cho cùng chỉ l| một c{ch để chúng ta có thể hiểu rõ hơn khung cảnh tự nhiên, chính trị, xã hội v| văn ho{ của người H| th|nh trong sinh hoạt tín ngưỡng - tôn gi{o. Cũng qua đó, chúng ta có thể hiểu rõ hơn những gi{ trị văn ho{, đạo đức v| tinh thần m| những sinh hoạt t}m linh ấy đem lại trong lịch sử cũng như trong hiện tại. Đồng thời có lẽ, nó cũng như thêm một luận cứ để chúng ta hiểu rõ hơn vẻ đẹp, sự thanh lịch, thuần khiết của “người Tr|ng An”<

CHÚ THÍCH

i Xem b|i của Juan Plazaola Artola, “Sự th{nh thiêng“, tạp chí Người đưa tin UNESCO, số th{ng 11 năm 1990, tr.11.

ii R. Jackson, R. Henri, Perception of sacred space, Journal of Culture Geography (Khái niệm về không gian thiêng, du hành

qua các vùng văn hoá), N. 3, 1983. Một số công trình chính có thể xem thêm: Mircea Eliade, Traité d’ histoire des

religions, (Khái luận lịch sử tôn giáo), Ed. Payot, Paris, 1996; E. Hirsch, M. O’Hanlon; The Anthropology of Landscape:

Perspectives on Place and Space (Nhân học cảnh quan: trình bày về Địa điểm và Không gian), Oxford - clarendon Press,

1992. Gần đ}y nhất l| cuốn của Julien Rites, L’homme et le sacré (Con người và cái Thiêng), Ed. Cerf, Paris, 2009. iii Khi nghiên cứu đời sống tôn gi{o tín ngưỡng trong xã hội cổ đại, E. Durkheim đã ph{t hiện ra rằng: chính c{c

nh}n vật được coi l| c{c nh| tiên tri, những tên gọi kh{c nhau về Thiên Chúa trong thời Cựu ước của d}n tộc Do

Th{i như Moisé, Yahvé chính l| những nh}n vật đã đem lại sự biến đổi của qu{ trình xã hội ấy. Tinh thần, “luật

ph{p” (lề luật) như chưa hề được biết đến, một biến cố kh{c thường đã đặt ra cho d}n tộc Do Th{i, một d}n tộc

“được Chúa chọn”, đã thiết lập mối liên hệ thiêng liêng của cộng đồng d}n tộc ấy với sự hiện hữu của Thiên

Chúa qua Yahvé< iv Những ý kiến n|y chúng tôi tóm tắt trong cuốn s{ch nổi tiếng Những hình thức sơ đẳng của đời sống tôn giáo

(nguyên văn: Les Formes élémentaires de la vie religieuse) của E. Durkheim xuất bản ở Paris, Ph{p năm 1912. Trên cơ

sở tìm ra nội dung, đặc tính của cái tục v| cái thiêng, Durkheim đã đưa ra quan niệm về cấu trúc của Niềm tin tôn

giáo (Les croyances religieuses), c{i lõi của định nghĩa của ông về “tôn gi{o” (p.92-93 v| p 108-109) trong nguyên

bản Ph{p ngữ. v Xem phần Approximations structure et morphologie du sacré, (Cấu trúc v| hình th{i học về cái Thiêng), trong cuốn

Traité d’ histoire des religions của M. Eliade, Payot, sđd, Paris, 1996, p.14-18 (“Sacré” et “profame”). vi Xem John A.Hardon, Từ điển Công giáo phổ thông, bản dịch từ tiếng Anh, NXB Phương Đông, 2009, tr.587. vii Xem Paul Poupard, Les Religions (Các tôn giáo), nguyên bản tiếng Ph{p Edition PUF, Paris 1987, p.5.

Page 18: Do Quang Hung.pdf

viii Có nhiều người b|n về “hồn nước”. Chẳng hạn Kim Định trong cuốn Căn bản triết lý trong văn hoá Việt Nam,

Thanh Bình, S|i Gòn, 1967, cho rằng “hồn nước không chỉ l| chuyện d}n tộc tính”. Theo ông, ở nước ta đi từ 3 cấp

độ: “Tình tự tổ quốc, nền tảng triết lý của hồn nước v|, “tinh thần nhập thần” nhằm tiến tới những ch}n trời xa

lạ”, tr. 21. ix Trần Bạch Đằng, “Ng|n năm thương nhớ đất Thăng Long“, Người Đại biểu nhân dân, số 10/10/2005. x Xem Kinh Dịch, NXB Th|nh phố Hồ Chí Minh, 1991, tr.69. Ngô Tất Tố dịch l| “Rồng hiện ở ruộng, lợi về sự thấy

người lớn”. xi Xem H| Thúc Minh, Văn hoá đạo đức, NXB Tổng hợp Th|nh phố Hồ Chí Minh, 2005, tr.120.

xii Huỳnh Thúc Kh{ng, Lối học khoa cử và lối học của Tống Nho có phải là đạo Khổng Mạnh không? Xem cuốn Thơ văn

Huỳnh Thúc Kháng, NXB Thuận Ho{. xiii Xem Đinh Gia Kh{nh, 1995, Văn hoá dân gian Việt Nam với sự phát triển của xã hội Việt Nam, NXB Chính trị Quốc

gia, H| Nội, tr. 82. xiv Dẫn lại của Đinh Gia Kh{nh, Văn hoá dân gian Việt Nam..., sđd, tr. 114.

xv Xem Tạ Chí Đại Trường, Thần, người và đất Việt, NXB Văn ho{ Thông tin, H| Nội, 2006, tr. 121. xvi Xem P. Huard et M. Durand, Hiểu biết về Việt Nam, nguyên bản tiếng Ph{p: Connaissance du Viet-Nam, Ecole

Francaise D’Extrême - Orient, Hanoi, 1954, p 59; Cuốn n|y đã có bản dịch của NXB Khoa học Xã hội, H| Nội,

1993. xvii Tham khảo phần: Di tích lịch sử - văn hoá ở khu phố cổ Hà Nội của TS. Phan Phương Thảo (chủ nhiệm), Tình hình sở

hữu nhà đất khu phố cổ Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX qua tư liệu địa chính, đề t|i KHCN cấp ĐHQGHN, 2009. xviii Quyết định số 70 BXD/KT do Bộ X}y dựng ban h|nh ng|y 30/3/1995. xix Thống kê của Ban Quản lý di tích danh thắng H| Nội, xem Nguyễn Doãn Tu}n: Bảo tồn và phát huy tác dụng các di

tích lịch sử văn hoá trong khu phố cổ Hà Nội trong Kỷ yếu Hội thảo quốc tế: Tôn tạo phố cổ ở các thành phố châu Á và

châu Âu. xx Sở Văn ho{ H| Nội, Ban Quản lý di tích danh thắng H| Nội từ l}u, đặc biệt từ khi chuẩn bị cho Đại lễ 1000 năm

Thăng Long, đã tiến h|nh mạnh mẽ việc sưu tầm, ho|n thiện c{c bộ hồ sơ di tích rất phong phú v| có gi{ trị. xxi Xem P.J.B. Trương Vĩnh Ký, Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1876), Bản in Nh| h|ng C. Guilland et Martinon, S|i

Gòn, 1881, tr. 8. xxii Tham khảo: Phan Huy Lê, Phố cổ Hà Nội quá trình hình thành và biến đổi; Đỗ Thị Hảo, Đền thờ tổ nghề trong lòng phố

cổ Hà Nội - thực trạng và giải pháp... trong Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế Tôn tạo phố cổ..., tư liệu đã dẫn.