Cực khổ đó Phật che Trời chở,
Trong bổn bài nhắc nhở trò tường.
Ai ghét, TA lại thêm thương, Ai thù, TA lại mở đường người đi.
Trong cảnh trạng lâm nguy sắp tới,
Trò mau tu khấp khởi tấm lòng.
Để mà mở cửa ngục trong, TA về Phật đạo nâu sồng vai mang.
Mau phủi sạch trần gian một kiếp,
Đặng trở về cho kịp Mây Rồng.
Thấy chưa cay đắng mặn nồng,
Có gì vui sướng mà hòng mà lo.
Đời còn khổ gay go biết mấy,
Trò nghe lời trò thấy tận tường.
Làm người nhiều sự thê lương,
Muốn tu thoát được nhiều đường gai chông.
Cảnh sang giàu trần hồng cát bụi,
Chiều còn đây buổi tối nát tan.
Thấy chưa hôm sớm luận bàn,
Đâu bằng dựa chốn Bồ đoàn tu thân. (trích Hòa Đồng Tôn Giáo tr. 67, Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh ứng khẩu
thuyết năm 1991, Kỳ Vân Cư Sĩ biên khảo, Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney
ấn tống năm 2001)
Nội dung
Tâm Từ Bi đã
được Đức
Thầy thuyết
nhiều trong
kinh sấm.
"HỐ HÒ KHOAN"
Huỳnh long lộ vĩ; Bạch-sĩ tiên sanh, (1)
Nam-quốc công khanh; Ra đời cứu tế;
Hò xang xự xế; Mắc kế Trương-Lương,
Tự giác thôn-hương; Qua dương cơ-khí.
Lập chí hiền nhơn; Nên mới có cơn (2)
Thất-Sơn tiếng nổ; Qui cổ diệt kim.
Cửu cửu y nhiên; Tình riêng tham báu,
Đổ máu tuôn rơi; Khùng mới nói chơi,
Chư bang hàng phục.
Anh hố hò khoan; Tình lang xự xế,
Bỏ phế hương thôn; Ác đức vô môn.
Rồng-Mây hội yến; Ra đời bất chiến, (3)
Nổi tiếng từ-bi; Lời lẽ ráng ghi.
Thành công êm thấm; Có lắm người yêu. Đức Thầy viết ở Hòa-Hảo tháng 8 năm Kỷ-Mão 1939
Trong bài Để Chơn Đất Bắc viết năm Canh thìn 1940, Đức Huỳnh Giáo Chủ thần thông hóa thân một vị thầy
thuốc ra làng Đồng Thạnh ở Bắc kỳ, thầy trò đi lang thang vừa trị bịnh vừa ca hát nghêu ngao thiên cơ sấm
giảng hư hư thực thực, có đoạn cho biết hành trạng Ngài là Trạng Trình sanh quán ở làng Cổ Am, tu ở Bạch
Vân Am, tái thế vào Nam thuyết sấm giảng kêu gọi toàn dân chống giặc ngoại xâm Tây U Tàu, và thọ tử tại
Đốc Vàng năm 1947 để tạo điều kiện đại đoàn kết dân tộc cho công cuộc chống ba trận giặc ngoại xâm Tây
U Tàu, kết cuộc đưa đến chiến thắng vẻ vang “Quy hồi quốc thủy tiện phương hoa”
Nam-thiền vô ngại đại Hoành-Sơn,
Nhiên khước hành vi kỷ khách huờn.
Tân tạo huyền sanh hồi châu ngọc,
Hữu nhựt Tiên Thần hiệp luyện đơn.
Vân-vân bạch-bạch thức sinh thần, * Ngài tu ở Bạch Vân am
Cổ quán thôn-hương nhứt dị nhân. * Sanh quán làng Cổ am
Tiên-sinh hiện kiếp phò Lê-chúa,
Hậu truyền độ chúng cảm hoài ân.
Liên hồng cảm-kích vĩ long tuyền,
Đồng-Thạnh hàng kỳ tác thiện duyên.
Kiểng sám truyền danh lưu hậu thế,
Nam-Việt trung-thần đệ nhứt Tiên. * Tên nước Việt 207 trước tây lịch
Nhơn danh ly biệt ngạn Bắc-hà, * Ngài tái thế vào miền Nam
Cổ súy lương thần vị phong ca.
Thọ tử tâm trung trưng hùng khí, * Ngài thọ tử tại Đốc Vàng năm 1947
Qui hồi quốc thủy tiện phương hoa. (trích Để Chơn Đất Bắc, Đức Thầy viết tháng giêng năm Canh thìn 1940)
Ngài bày kế cho Nguyễn Hoàng vào đất Hoành Sơn lập nghiệp với
câu sấm bất hủ: “Hoành Sơn
nhất đái vạn đại dung thân”
Phiêu-phiêu mây bạc trắng lòa,
Ấy là tại lịnh Ngọc-tòa sai Ta.
Xuống trần thấy chúng thiết-tha,
Vì đâu sắp đến hằng hà lụy rơi.
Chừng nào mới đặng thảnh-thơi?
Qua năm Tuất-Hợi Phật Trời định phân. 2018-2019
Tây-Vức liên Nam hiệp định phân,
Tam giáo qui nguơn viện lý cân.
Hùng anh Phiên-quốc lai hàng phục,
Đinh Hợi đáo niên tạo thiện nhân. (Trông Mây, Đức Thầy viết năm 1940)
Ngài tiên báo có một vị Thiện nhân cứu thế sẽ tái sanh vào năm Đinh Hợi 1947 cũng là năm Ngài ra đi ở Đốc Vàng.
Năm 1996, lần đầu Kỳ Vân Cư Sĩ diện
kiến Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh, được
chụp chung với Ngài một tấm ảnh kỷ
niệm nhân ngày lễ tháng 5 âl, và được
Ngài cho dự thính 3 đêm thuyết pháp
ứng khẩu tại nhà bà Tư Phú Lâm. Kỳ
Vân Cư Sĩ kết tập 3 băng thuyết pháp
và biên khảo thành quyển sấm giảng
Cứu Nguy Tận Thế do Thiền Tịnh Bửu
Sơn Sydney ấn tống năm 1996.
Điểm đặc biệt đáng chú ý là lần đầu
tiên và cũng là lần duy nhứt Đức Cậu
Bần Sĩ mặc áo trắng {bạch y} chụp
chung với trò Kỳ Vân, phải chăng đây
là cơ duyên để nhắc lại tiền kiếp trò Kỳ
Vân có căn tu với Đức Bạch Sĩ Tiên
Sanh {Bạch Y Đạo Sĩ} tức Đức Trạng
Trình Bạch Vân Cư Sĩ ở Bạch Vân Am?
Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh tên bộ là
Phạm thị Ly, sinh năm Đinh Hợi 1947,
xuất thân dốt viết không rành văn tự,
thuyết pháp ứng khẩu với nhiều dạng
thơ phú như lục bát, song thất lục bát,
thất ngôn tứ tuyệt, thất ngôn trường
thiên, vè lôtô…Nội dung khuyến tu
theo pháp môn Phật Tổ Thích Ca. Đạo
hữu ghi âm lời thuyết pháp ứng khẩu
của Đức Cậu và quảng bá khắp nơi.
Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh {trái}
Kỳ Vân Cư Sĩ {phải} * 1996
(1 , 2 & 3) Bạch Sĩ Tiên Sanh tức Trạng Trình cũng là tiền kiếp của Đức Huỳnh Giáo Chủ & Đức Phật Thầy ra đời xưng hiệu Khùng Điên, hành đạo nhẫn nhục
“bất chiến tự
nhiên thành…Nổi
tiếng từ bi”.
Tiếp 4 bài thơ cuối trang 56; ‘Nam thiền vô
ngại đại Hoành Sơn…
Trạng Trình sau khi tịch, đã mượn xác
Nguyễn Quang Mục {con vua Quang
Trung} xưng danh hiệu là Phật Thầy
Tây An mở mối đạo Bửu Sơn Kỳ
Hương, sau đó tùy cơ ứng biến nhiều
lần Ngài tiếp tục mượn xác phàm khi
già khi trẻ khi nam khi nữ, khi xưng Sư
Vãi Bán Khoai, khi xưng Vô Danh Cư
Sĩ {Huỳnh Giáo Chủ}, khi xưng Đức
Cậu Bần Sĩ Vô Danh. Năm 1991, Đức
Cậu Bần Sĩ Vô Danh cùng phái đoàn
Phật tử ra thăm viếng thủ đô Hà Nội.
Nhân dịp này, để tưởng nhớ chuyến trở
về quê cũ, Đức Cậu ứng khẩu thuyết
băng Hà Nội ơi! Thăng Long ơi! Nội
dung ẩn tàng Tâm Từ Bi.
Vân
Vân
Bạch
Bạch
thức
sinh
Thần,
Cổ
Quán
thôn
hương
nhứt
Dị
Nhân
tiếp cuối trang 55
Thọ tử ở Đốc Vàng năm 1947 để thống nhứt lực
lượng chống 3 trận giặc ngoại xâm Tây U Tàu.
Đừng ham làm chức nắc nia,
Ngày sau như khóa không chìa dân ôi!
Tu hành như thể thả trôi,
Nay lở mai bồi chẳng có thiềng tâm.
Mưu sâu thì họa cũng thâm,
Ngày sau sẽ biết thú cầm chỉn ghê.
Hùm beo tây tượng bộn bề,
Lại thêm ác thú mãng xà rít to.
Bá gia ai biết thì lo,
Gác tai dèm siểm đôi co ích gì.
Hết Tây rồi đến Huê Kỳ,*
Sưu cao thuế nặng vậy thì thiết tha!*
Dân nay như thể không cha,
Chẳng ai dạy dỗ thiệt là thảm thương! (Khuyên Người Đời Tu Niệm, Đức Thầy Huỳnh
Giáo Chủ viết ở Hòa Hảo năm Kỷ Mão 1939)
* Cụm từ “khóa không chìa”, ám chỉ vào
tù {trại cải tạo}, không biết ngày nào ra
tù. * Câu sấm: “Hết Tây rồi đến Huê Kỳ”
ám chỉ khi Tây thua trận Điện Biên Phủ,
thì Mỹ âm mưu đổ quân vào Việt Nam,
bùng nổ cuộc chiến tranh tàn khốc hơn.
* Cụm từ “Sưu cao thuế nặng”, là ban
ngày VNCH thâu thuế, ban đêm chiến
binh du kích VC lại thu thuế, dân chịu 2
lần thuế: gọi là “thuế nặng”, một cổ chịu
2 tròng.
* Qua đoạn sấm ngắn gọn, Đức Huỳnh
Giáo Chủ tiên tri quân Mỹ thua trận chiến
VN, và rút chạy; những ai theo Mỹ sẽ phải
vào tù {trại cải tạo}. Ngài khuyên con dân
nước Việt phải giữ ân đất nước. “Đừng
ham làm chức nắc nia, Ngày sau như
khóa không chìa dân ôi!
Đức Thầy kêu gọi đoàn kết chống Tàu man
Mị Châu ơi hỡi Mị Châu,
Mê chi thằng Chệt để sầu cho cha! (Sấm Giảng Thi Văn Giáo Lý của Đức Huỳnh
Giáo Chủ thuyết trên đường khuyến nông từ miền
Tây về Sài Gòn tháng 6 năm Ất Dậu 1945)
Đức Cậu Bần Sĩ bị kết án tù 4
năm, nhưng thọ án đến 35 tháng
thì Ngài mắc chứng bịnh ung
thư bác sĩ khám thấy không thể
sống sót. Ban giám định y khoa
trại tù quyết định thả Ngài về
nhà để gia đình lo việc tang chế.
Nhưng mầu nhiệm thay! sau
khi được thả về nhà, Ngài mạnh
khỏe lại, đúng là Phật pháp vô
biên thần thông quảng đại!
Đạo Nhân tu hiền
Ai chửi mắng thì ta giả điếc,
Đợi cho người hết giận ta khuyên.
Chữ NHẪN HÒA ta để đầu tiên,
Thì đâu có mang câu thù oán. (Giác Mê Tâm Kệ, Đức Huỳnh Giáo Chủ viết năm 1939)
Đạo Nhân
lấy chữ
Nhẫn Hoà
làm căn
bổn tu
hiền đức
trung minh
Dân Việt ta
có cụm từ
Đồng Bào
thiêng liêng
không kẻ
thù nào
phân chia
được lâu
dài; dù Tây
phân, U
phân, hay
Tàu phân,
nhưng cuối
cùng âm
mưu phân
chia ấy
cũng phải
thất bại
nhục nhã.
Thế giới có cụm từ “Dân Tộc”,
riêng Việt Nam đặc biệt có cụm từ
“Đồng Bào”, nghĩa là cùng chung
một giống giòng, một bào thai, đế
quốc nào dù mạnh đến đâu cũng
không có thể chia rẽ sự thống nhứt
ấy. Tây phân, U phân, Tàu phân đều
phải thất bại!
Ai chửi mắng thì ta giả điếc,
Đợi cho người hết giận ta khuyên.
Chữ NHẪN HÒA ta để đầu tiên,
Thì đâu có mang câu thù oán. (Giác Mê Tâm Kệ, Đức Huỳnh Giáo Chủ viết năm
1939)
Đức Lục Tổ Huệ Năng dốt chữ, ứng
khẩu thuyết ra Pháp Bảo Đàn Kinh.
Trước khi tịch, Ngài họp chúng đệ
tử giải đáp thắc mắc. Đệ tử hỏi:
“Thầy đi rồi có trở lại không?”.
Ngài đáp: “Không, TA không trở
lại”. Ngài nói “Không trở lại” là để
che giấu hành trạng sau này khi
Ngài trở lại bên nước VN {Trạng
Trình} và xoay chuyển cơ pháp lập
Thánh Địa cho Phật Vương Di Lạc
ra đời mở Hội Long Hoa tại miền
Nam VN. Che giấu không cho quân
Tàu biết hành trạng, vì Ngài e rằng
chúng động lòng tham sân si xâm
chiếm VN.
Trích Hòa Đồng Tôn Giáo tr. 55-68, Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh ứng khẩu thuyết năm 1991, Kỳ Vân
Cư Sĩ biên khảo, Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 2001.
68
Sydney, 19-5-2018, Kỳ Vân Cư Sĩ biên khảo (facebook Mõ Tre) * https://kinhsamthatson.wordpress.com/
WTC 11-9-2001
Một góc Ngũ Giác Đài bị al Qaeda
đánh sập đang bốc cháy
Hậu quả tang thương gồm có 2603 người thiệt mạng tại thành phố New York trong tòa tháp đôi WTC
cũng như trên mặt đất (chưa kể 125 người tử vong trong Ngũ Giác Đài bị không tặc cùng ngày, 246
người trên máy bay cùng 19 tên không tặc, và 24 người liệt kê mất tích). Tổng cộng khoảng 3 ngàn
nhân mạng tử vong. Trận đánh do al-Qaeda tấn công vào nước Mỹ ngày 11-9-2001, đã gởi một thông
điệp nóng bỏng đến Trung ương đảng Cộng sản Trung Quốc: Nươc My bi tổn thất kinh hoàng không
nhưng vê măt vât chất, mà ca vê măt tinh thần lanh đạo thế giơi. Đê trừng tri quân al Qaeda, nươc
My sa lầy vào cuôc chiến chống khủng bố, sa lầy vào cuôc chiến Trung Đông...Thế là Trung Quốc
nắm lấy cơ hội vươn lên bằng con đường quân sự, gấp rút thành lập hạm đội bành trướng ra Biển
Đông, sấm Trạng Trình viết: “Bê Đông cá đặc cuôc đơi lao đao”. Cá = hạm đội
Phụ lục: trang 71 Hòa
Đồng Tôn Giáo ấn bản
năm 2001
Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh tiên tri Mỹ bị al Qaeda đánh 11-9-2001