Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 1/44
TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
TRUNG TÂM THÔNG TIN – THƯ VIỆN
BẢN TIN THÁNG 11/2018
A.THÔNG TIN THÀNH TỰU
ĐIỆN - ĐIỆN TỬ - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
Chế tạo robot chữa cháy
Nghiên cứu thiết kế platform trên cơ sở bộ xử lý Java 32 bit hỗ trợ phát triển các thiết bị di
động cầm tay kết nối tới các mạng di động thế hệ sau
42 đội Robotics nhí Hà Nội tranh tài tham dự Robothon quốc tế
CƠ KHÍ – CHẾ TẠO MÁY
Chế tạo tàu mini không người lái khảo sát trên biển
Nghiên cứu xây dựng quy trình kiểm định nồi (lò) hơi thu hồi nhiệt
VẬT LIỆU – HÓA CHẤT
Nghiên cứu chế tạo hệ chất tẩy rửa cặn hydrocacbon và ứng dụng chúng để làm sạch các
đường ống dẫn, đảm bảo an toàn môi trường biển khi hủy bỏ giếng khai thác dầu khí
Nghiên cứu thiết lập quy trình đo liều cá nhân sử dụng liều kế quang phát quang (OSL) đối
với trường bức xạ photon và trường bức xạ hỗn hợp notron, photon
Nghiên cứu chế tạo màng lọc hiệu năng cao bằng phương pháp trùng hợp ghép bề mặt, ứng
dụng trong siêu lọc và lọc nano
Nghiên cứu, phân tích tính tự cháy của than, đề xuất giải pháp thiết kế hệ thống phòng chống
cháy của than tại mỏ than Đông Tràng Bạch
CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM
Chế biến phế phụ phẩm ngành điều thành Thực phẩm giàu dưỡng chất
Chế tạo màng sinh học bảo quản dâu tây
CÔNG NGHỆ SINH HỌC
Việt Nam sản xuất chế phẩm sinh học rẻ hơn nhập khẩu 30%
Nhà khoa học trẻ người Việt phát hiện 8 loài vi khuẩn mới
Hoàn thiện công nghệ sản xuất và sử dụng chế phẩm vi sinh vật xử lý phế thải chế biến tinh
bột sắn
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 2/44
NÔNG NGHIỆP
Máy xẻ gỗ “cải tiến”
Máy tách lạc quay tay
Máy thái sắn
Nuôi ong ký sinh diệt bọ dừa ở Bến Tre
Nghiên cứu áp dụng công nghệ mới trong nuôi tôm
Nghiên cứu ứng dụng công nghệ sau thu hoạch xử lý hơi nước nóng trừ ruồi đục quả vú sữa
phục vụ xuất khẩu
Tạo giống lúa chống stress
Hợp tác nghiên cứu, thiết kế và chế tạo hệ thống giám sát sử dụng mạng cảm biến không dây
trong kiểm soát chất lượng và tiết kiệm năng lượng cho chuỗi hậu cần thủy sản lạnh
MÔI TRƯỜNG
Nghiên cứu thiết kế chế tạo thiết bị hấp thụ kiểu Rainstorm
Nghiên cứu hiệu quả kinh tế trong giảm nhẹ khí nhà kính cho lĩnh vực quản lý chất thải
LĨNH VỰC KHÁC
Vinh danh 63 nông dân Việt sáng tạo trong sản xuất
Việt Nam sản xuất vệ tinh quan sát Trái Đất để dự báo thiên tai
Việt Nam làm chủ tịch Ủy ban vệ tinh quan sát Trái Đất 2019
B. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
I. Sở Khoa học và Công nghệ TP. Hồ Chí Minh
1. Nghiệm thu đề tài
II. Các đơn vị trong nước: Nghiệm thu đề tài/Dự án
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 3/44
A.THÔNG TIN THÀNH TỰU
ĐIỆN - ĐIỆN TỬ - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
Chế tạo robot chữa cháy
Robot chữa cháy điều khiển từ xa bằng sóng RF của Hương và Tuấn
Trăn trở trước những tổn thất nặng nề
do hỏa hoạn gây ra đối với tài sản và tính
mạng con người, năm học 2017-2018, Lê Mai
Hương và Trần Văn Tuấn (học sinh lớp 9
trường THCS Lâm Mộng Quang, huyện Phú
Lộc, Thừa Thiên Huế) đã chế tạo thành công
sản phẩm robot chữa cháy điều khiển từ xa
bằng sóng RF.
Hương và Tuấn cho biết, bản thân vẫn
thường xuyên theo dõi tin tức và nhận thấy có
hàng ngàn vụ cháy xảy ra mỗi năm ở nước ta,
khiến hàng chục người chết và bị thương,
thiệt hại lên tới hàng ngàn tỷ đồng, gây ra bao
khó khăn, vất vả cho các gia đình bị thiệt hại.
Thế nhưng, các phương tiện cứu hỏa sẵn có
chưa đáp ứng được nhu cầu phòng cháy chữa
cháy hiện nay.
Một điều đáng chú ý là tại các thành
phố lớn, dân cư đông đúc, một khi xảy ra hỏa
hoạn, lực lượng phòng cháy chữa cháy rất
khó tiếp cận vì đám cháy nằm trong hẻm nhỏ,
ngoằn ngoèo, các xe chữa cháy lớn và cồng
kềnh không vào được. “Từ đó, nhóm chúng
em hình thành ý tưởng robot chữa cháy điều
khiển từ xa bằng sóng RF để giúp cho lực
lượng phòng cháy chữa cháy giảm bớt áp lực
nguy hiểm đến tính mạng và giải quyết được
những vấn đề khó khăn trên”, Tuấn cho biết.
Để làm ra được chú robot hoàn chỉnh,
hai em đã tận dụng triệt để các sản phẩm đã
hỏng như động cơ điện một chiều, động cơ
quạt trong máy tính, động cơ làm cần gạt nước
của các xe ô tô cũ (mua từ phế liệu), bộ điều
khiển từ xa tận dụng từ xe đồ chơi của trẻ
em… và chỉ mua mới một camera hồng ngoại.
Nói về tính mới và sáng tạo của đề tài
này, Hương chia sẻ, thay các bánh xe tải thông
thường bằng bánh xích có bản bằng cao su
chịu nhiệt cao để xe robot vượt qua được mọi
địa hình mà xe cứu hỏa hiện nay không qua
được. Với giá thành rẻ, nguyên liệu dễ tìm, dễ
chế tạo, kích thước gọn nhưng động cơ cực
mạnh, vòi phun có thể phun nước đi xa với
khoảng cách gấp 10 lần chiều dài robot.
“Ngoài ra, nó có khả năng điều khiển
dập tắt và giám sát đám cháy từ xa bằng RF
kết hợp với camera hồng ngoại. Robot có khả
năng làm việc trong môi trường khắc nghiệt,
độc hại, cháy nổ, phóng xạ như khói, bụi, ban
đêm... Đồng thời, camera có thể truyền hình
ảnh hiện trường, vị trí người bị nạn, vị trí đám
cháy, kết cấu hạ tầng ra bên ngoài ở những
vùng không có sóng wifi”, Hương cho hay.
Theo đó, nhờ hệ thống bánh xích có
bản bằng cao su chịu lực và nhiệt cao, xe
robot có thể kéo vòi phun nước vượt qua mọi
địa hình để dập tắt đám cháy. Chưa hết, nhờ
hai động cơ điện một chiều đấu ngược nhau
nên xe robot có thể giật lùi, tiến tới, quay trái,
quay phải với một góc quay tùy ý. Ngoài ra,
vòi phun có thể nâng lên hay hạ xuống để
phun nước dập tắt đám cháy ở mọi góc độ.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 4/44
Sắp tới, nhóm phát triển thêm hệ thống
thang trượt để đưa robot lên những tòa nhà
cao tầng, dập tắt đám cháy trên cao trong khi
hầu hết xe cứu hỏa hiện nay không phun tới.
Ngoài ra còn tiếp tục phát triển sử dụng các
cảm biến nhiệt độ, vật thể, tia hồng ngoại,
camera giám sát để robot có khả năng tránh
vật cản, nhìn xuyên được khói bụi, phát hiện
nguy hiểm, người bị nạn truyền về trung tâm
điều khiển.
Nguồn: Vista.gov.vn, 31/10/2018
Trở về đầu trang
**************
Nghiên cứu thiết kế platform trên cơ sở bộ xử lý Java 32 bit hỗ trợ phát triển các thiết bị di động cầm tay kết nối tới các mạng di động thế hệ sau
Thông báo khi đã gửi cảnh báo thành công về trung tâm.
Ngày nay, khi các bộ vi xử lý đã trở
nên nhanh hơn, gọn hơn, công suất tiêu thụ và
giá thành giảm, hay nói cách khác các bộ vi
xử lý đã thông minh hơn rất nhiều, thì việc
giải quyết các bài toán phức tạp đặt ra được
tập trung nhiều vào phần mềm. Và lúc này,
các platform ra đời. Platform là sự kết hợp
giữa một kiến trúc phần cứng và một nền tảng
phần mềm cơ bản cho phép các ứng dụng
phía trên hoạt động trên nó. Một platform
điển hình sẽ gồm một kiến trúc phần cứng -
đặc trưng bởi kiến trúc máy tính bên trong nó,
một hệ điều hành và các ngôn ngữ lập trình
cùng các giao diện người sử dụng liên quan
(các thư viện hệ thống run-time).
Theo sự phát triển không ngừng của
công nghệ thông tin, điện tử viễn thông trong
nước hiện nay là nhu cầu về các thiết bị di
động cầm tay thông minh hỗ trợ cho các mục
đích giải trí, làm việc, kết nối tới các mạng
thế hệ sau... của người tiêu dùng. Một cột
mốc quan trọng đánh dấu bằng việc chuyển
sang cung cấp các dịch vụ 3G và hướng tới sẽ
phát triển lên 4G của các nhà mạng trong
nước. Theo đó là sự bùng nổ về thị trường các
thiết bị đầu cuối. Tuy nhiên, thực trạng đáng
buồn là hầu hết các thiết bị này đều nhập
ngoại, thị trường bị thao túng bởi các nhà
cung cấp nước ngoài, tiêu tốn chi phí ngoại tệ
cho nhập khẩu đáng kể, gây ảnh hưởng đến
nền kinh tế.
Theo những tình hình trên, nhóm thực
hiện đề tài “Nghiên cứu thiết kế platform trên
cơ sở bộ xử lý Java 32 bit hỗ trợ phát triển
các thiết bị di động cầm tay kết nối tới các
mạng di động thế hệ sau” gồm Cơ quan chủ
trì đề tài Học viện Công nghệ BCVT Việt
Nam cùng phối hợp với Chủ nhiệm đề tài/dự
án TS. Đặng Hoài Bắc đề xuất thiết kế thử
nghiệm nền tảng (platform) dành cho phát
triển các thiết bị di động cầm tay (handheld
device) phục vụ kết nối tới các mạng thế hệ
sau như điện thoại di động, thiết bị định vị
các nhân, máy tính bảng,... cung cấp một
platform cho phát triển các thiết bị đầu cuối
ứng dụng các mạng di động thế hệ sau hướng
tới thị trường trong nước sử dụng bộ vi xử lý
Java 32-bit.
Sau thời gian nghiên cứu, đề tài đã thu
được những kết quả như sau:
7Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 5/44
- Phát triển hệ thống Telematics car
- Nhóm đề tài đã phát triển hệ thống
Telematics car trong đó sử dụng chip aJile
200 và platform Java do nhóm nghiên cứu
PTIT thiết kế. Hệ thống này bao gồm một
server và một thiết bị trên xe.
Thiết bị có các tính năng chính như sau:
- Màn LCD-Touch screen hiện thị nội
dung và tương tác với lái xe.
- Hiển thị vị trí hiện tại của phương
tiện trên bản đồ số
- Nhận cảnh báo tắc đường/ tai nạn từ
trung tâm
- Gửi thông tin cảnh báo tai nạn và tắc
đường về trung tâm
- Gọi cứu hộ khi gặp tình huống khẩn
cấp
- Lưu trữ hành trình như một hộp đen
- Tự động thu phí
- Tính năng thiết lập/ nhận cuộc gọi
- Tính năng truy cập mạng Internet
- Tính năng hỗ trợ quản lý danh bạ,
xem lịch
- Phát triển hệ thống giám sát an ninh
dùng camera
Hệ thống giám sát an ninh dùng
camera bao gồm các thành phần sau:
1. Client
Client được sử dụng trong hệ thống
này là một smartphone hỗ trợ chạy hệ điều
hành IOS hoặc Android.
Thiết bị client có chức năng yêu cầu
giám sát và nhận cảnh báo. Các bản tin thông
báo sẽ được gửi về client, cũng như nhận các
hình ảnh và video giám sát.
Ngoài ra thiết bị client có một nhiệm
vụ quan trọng là cài đặt và cấu hình thiết bị
giám sát video thông minh. Quá trình này sẽ
cài đặt thông số mạng Wifi (mã SSID, mật
khẩu, kênh sử dụng) để kết nối thiết bị giám
sát với máy chủ trung gian lưu trữ và thiết lập
tài khoản gmail để biết địa chỉ gửi nhận tin
thông báo. Cả quá trình đồng bộ sử dụng giao
thức UPnP.
2. Thiết bị giám sát, cảnh báo
Sử dụng thiết bị xử lý thuần Java
aJ_PTIT
Bộ vi xử lý Java trong hệ thống giám
sát video thông minh có chức năng xử lý các
sự kiện thu được từ các cảm biến âm thanh và
tiếng động. Sau đó gửi các sự kiện lên một
máy chủ để quản lý và thống kê. Chúng nhận
tất cả các sự kiện thu được từ các cảm biến
sau đó sử dụng các thuật toán để xác định
xem có người lạ đột nhập không. Khi xác
định được có người lạ đột nhập vào, cảm biến
hình ảnh đồng thời là camera sẽ chụp lại hình
ảnh (hoặc đoạn video) có thay đổi trong khu
vực giám sát rồi gửi về máy chủ. Khi dữ liệu
ở trên máy chủ các thông báo sẽ được máy
chủ gửi về thiết bị smart phone một cách
nhanh chóng.
3. Hệ thống nhận thực
Sử dụng Server nhận thực Google App
(XMPP)
Hệ thống nhận thực người sử dụng
bằng ứng dụng được cài đặt trên Client.
Muốn sử dụng hệ thống, người dùng phải
thỏa mãn hai điều kiện: Thứ nhất phải có tài
khoản gmail hợp lệ, thứ hai là tài khoản này
cần được thiết bị aJ_PTIT lưu trữ trong quá
trình cấu hình. Khi thỏa mãn hai điều kiện
này, người sử dụng sẽ được phép tùy biến hệ
thống giám sát video này.
4. Thiết bị lưu trữ thống kê
7Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 6/44
Sử dụng Server do PTIT R&D phát
triển.
Để đảm bảo tính bảo mật, tất cả tài
nguyên, nhật ký sử dụng của hệ thống sẽ
được lưu trữ và thống kê trên Server do nhóm
phát triển. Khi có yêu cầu từ người sử dụng,
tất cả file cảnh báo cũng như giám sát của hệ
thống sẽ được gửi về cho người dùng cũng
như các cơ quan điều tra chức năng.
Tương tự trên, tất cả các thiết bị trên
được phát triển dựa trên platform Java do
nhóm thiết kế PTIT thực hiện, các phần mềm
đều được viết bằng ngôn ngữ Java, tuân thủ
các tiêu chuẩn Java Specification Language
của Oracle..
Nguồn: Vista.gov.vn, 30/10/2018
Trở về đầu trang
**************
42 đội Robotics nhí Hà Nội tranh tài tham dự Robothon quốc tế
Thí sinh tham gia cuộc thi Robothon ở mức độ sơ cấp.
Hai đội Robotics xuất sắc ở mức sơ
cấp và trung cấp đã giành vé vô địch tiếp tục
tham dự đấu trường Robothon Quốc tế tại
Trung Quốc.
Ở cuộc thi năm nay các đội thi đấu so
tài về kỹ năng lập trình qua hai vòng. Vòng
loại sẽ loại trực tiếp để chọn ra các đội có
chuyên môn cao bước vào vòng chung kết.
Ở vòng loại, robot có nhiệm vụ lấy và
di chuyển các HUB (ở đây là các bánh xe
tượng trưng bằng nhựa) về nơi quy định. Sau
đó, robot phải quay về vị trí đỗ xe - nằm dưới
thanh treo - rồi tự treo mình trên thanh ngang.
Ở vòng chung kết, nhiệm vụ của robot
là lấy 2 HUB ngẫu nhiên tại khu vực HUB
Area và di chuyển HUB vào 2 vị trí ngẫu
nhiên. Sau cùng, thí sinh cho robot di chuyển
để lấy HUB đưa vào vị trí Building Zone đã
quy định.
Trước khi bước vào cuộc thi các đội
được rèn luyện kỹ năng qua các lớp học cơ
bản (học về di chuyển), nâng cao (học về các
cảm biến) khác nhau. Trên các cảm biến đó
robot tự động thực hiện bài thi của mình. Các
bài học này được học từ 5-6 tháng trước. Học
sinh tham gia được thực hành các kỹ năng
chính về khoa học công nghệ, kỹ thuật và
toán học.
Ông Đặng Bảo Tuấn, Phụ trách chuyên
môn cuộc thi Công ty Cổ phần DTT Eduspec -
Học viện STEM cho biết, ở vòng chung kết
không phụ thuộc vào chuẩn bị bài trước của
giáo viên. Đề thi ngẫu nhiên nên các đội thực
sự hiểu bài mới làm được. Mỗi robot sẽ chọn
đi đường hoàn toàn khác nhau. Đội nào nghĩ ra
đường đi tốt thì sẽ chiến thắng các đội còn lại.
Các đội Robotics xuất sắc nhất sẽ được
lựa chọn để tham dự đấu trường Robothon
Quốc tế diễn ra vào ngày 25/11 tại Thâm
Quyến, Quảng Đông, Trung Quốc.
Ông Tuấn cho biết, đối thủ lớn nhất
của Việt Nam hiện nay là Malaysia. Từ năm
2015 đến nay Việt Nam tham gia cuộc thi
quốc tế đều có thứ hạng cao nhưng vẫn sau
Malaysia. “Năm nay các giáo viên của Việt
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 7/44
Nam đã rèn luyện cho các học sinh có khả
năng tốt hơn để đạt trình độ như Malaysia”,
ông Tuấn nói.
Trước đó, ngày 27/10, ngày hội Lập
trình quốc gia Wecode đã được tổ chức với sự
tham gia của 57 thí sinh ở cả 3 mức độ: sơ
cấp, trung cấp và cao cấp.
Ông Nguyễn Trung Quỳnh, Phó trưởng ban Quản lý khu Công nghệ cao Hòa Lạc trao giải vô địch
lập trình mức độ sơ cấp cho em Nguyễn Linh Anh.
Giải vô địch mức độ sơ cấp thuộc về em
Nguyễn Linh Anh, học sinh lớp 4A4 trường
Đoàn Thị Điểm; trung cấp thuộc về em Nguyễn
Gia Huy, Học viện STEM; cao cấp thuộc về em
Nguyễn Ngọc Bảo, Học viện STEM.
Với Wecode, năm nay ban tổ chức áp
dụng cách thức triển khai của Wecode quốc
tế, theo đó chú trọng để học sinh thể hiện sự
tự tin thông qua việc thuyết trình bài thi của
mình hoàn toàn bằng tiếng Anh.
Ngày hội Robothon và lập trình
Wecode Quốc gia do Ban Quản lý khu công
nghệ cao Hòa Lạc, Bộ Khoa học và Công nghệ
phối hợp với Công ty Cổ phần DTT Eduspec -
Học viện STEM và các trường Tiểu học,
Trung học trên địa bàn Hà Nội tổ chức.
Nguồn: Quân Nguyễn, Vnexpress.net,
28/10/2018
Trở về đầu trang
**************
CƠ KHÍ – CHẾ TẠO MÁY
Chế tạo tàu mini không người lái khảo sát trên biển
Cán bộ Viện Khoa học đo đạc và Bản đồ giới thiệu về tàu khảo sát "Made in Vietnam"
Xuất phát từ những khó khăn trong
khảo sát, đo số liệu trong ngành bản đồ khi
cán bộ phải trực tiếp đến những vùng nước
nguy hiểm, nhóm nghiên cứu của Viện Khoa
học đo đạc và Bản đồ, Bộ Tài nguyên và Môi
trường đã thiết kế, chế tạo tàu tự hành để thay
con người đo số liệu.
Tàu được thiết kế chạy tự động, không
cần người lái. Vỏ tàu làm bằng nhựa
composite. Trong thân tàu được gắn phần
mềm ghi dữ liệu, camera trực tuyến, máy
định vị vệ tinh, ăngten và một thiết bị đo sâu
hồi âm. Một máy tính nhỏ như điện thoại
cũng được gắn ở trong để lưu số liệu và gửi
về hệ thống qua tín hiệu radio.
Ths Lưu Hải Âu, Viện Khoa học đo
đạc và Bản đồ cho biết, thiết bị này được
nhóm nghiên cứu chế tạo trong một năm từ đề
tài nghiên cứu do Viện thực hiện. Toàn bộ
phần cứng đến phần mềm đều chủ động làm
trong nước.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 8/44
Khác với các con tàu đo số liệu biển,
chỉ đo được ở khu vực nước sâu và cán bộ đo
trên tàu đó đôi khi gặp nguy hiểm do gặp bão
hoặc các vấn đề an ninh. Chiếc tàu này có thể
đo sâu được 1.000m nhưng cũng có thể chạy
được ở vùng nước nông do mức mớm nước rất
thấp mà không cần người lái. Đối với khu vực
ven bờ, vùng đá, san hô con người không thể
tiếp cận thì tàu vẫn đến và đo được số liệu.
Nhóm nghiên cứu cho biết, với thiết kế
hiện tại tàu có tải trọng 60kg, được gắn hai
bình ắcquy nên có thể đo trong thời gian 8 -
10 tiếng.
Theo Ths Hải Âu, trên thế giới có
nhiều thiết bị tương tự. Ban đầu Viện dự định
thiết kế hệ thống điều khiển và phầm mềm
khảo sát nhưng đi mua tàu các hãng chế tạo
tàu đều không bán. Lý do là đối tượng khảo
sát của ngành bản đồ bao giờ cũng gắn với
chữ “mật”. Vì vậy nhóm nghiên cứu đã tìm
cách thiết kế phù hợp nhu cầu trong nước.
"Đây là thiết bị chế tạo để phục vụ
công tác nghiên cứu nên hình thức không được
đẹp nhưng có thêm nhiều tính năng chuyên
biệt phục vụ cho hoạt động điều tra, khảo sát",
Ths Hải Âu nói và cho biết với thiết bị này ở
những vùng biển khó khăn về an ninh, hay ô
nhiễm, con người sẽ không cần xuất hiện mà
chỉ cần tàu thả xuống sẽ tự động chạy và gửi
thông số về nhà. Tàu cũng có thể tự động chạy
ngầm rà soát, đo số liệu để phát hiện các nhà
máy thải nước thải trộm xuống biển.
Hiện tàu đã chạy thử nghiệm đo trên
vùng nước chảy xiết ở sông Lô, sông Đà cho
kết quả tốt. Nhóm nghiên cứu cho biết, khi có
điều kiện sẽ tiếp tục hoàn thiện để tàu có hình
thức đẹp hơn.
Nguồn: Bích Ngọc,
vnexpress.net,22/10/2018
Trở về đầu trang
*************
Nghiên cứu xây dựng quy trình kiểm định nồi (lò) hơi thu hồi nhiệt
Hình minh họa hoạt động của nhà máy điện theo chu trình hỗn hợp (CCPP)
Lò thu hồi nhiệt (Heat Recovery Steam
Generators) HRSG là lò dùng sản xuất hơi
bão hòa và hơi quá nhiệt gồm một hay nhiều
cấp áp suất (LP/IP/HP) trong nhà máy nhiệt
điện chu trình kết hợp Tuabin khí (GT) và
Tua bin hơi nước (ST) để sản xuất điện. Nhà
máy chu trình hỗn hợp là tương đối rẻ tiền để
xây dựng và có thể đạt được hiệu suất nhiệt
động hiện tại đến 62% ở chế độ tải định mức.
Hiệu suất chu trình này tăng thêm 22% so với
chu trình hơi nước Randkin và tăng trên 25%
so với chu trình chỉ dùng Tua bin khí để sản
xuất điện.
Chu trình hỗn hợp thế hệ khí thiên
nhiên được thay “Than đá truyền thống”. Và
mặc dù năng lượng tái tạo hứa hẹn một tương
lai rất tốt, các nhà máy điện chu trình hỗn hợp
(CCPP) có hiệu quả, sạch sẽ và các nguồn
phát điện ít tốn kém với công suất lớn để thay
thế phụ tải nền ở quy mô lớn. Ngoài ra, khả
năng khởi động, phát tải nhanh của nó cho
phép khả năng hàng trăm MW để hòa vào
lưới điện nhanh hơn so với các nguồn khác.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 9/44
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ
(U.S. Energy Information Administration -
EIA) dự đoán rằng thế hệ phát điện năm 2016
từ khí tự nhiên, lần đầu tiên, sẽ vượt qua phần
than đá ở 33% đến 32%, tương ứng. Tương
ứng, năm 2015 là năm đầu tiên khi sử dụng
nhà máy khí tự nhiên trong nước đã vượt than
tại một hệ số công suất 56% so với 55%.
Thực tiễn vận hành rất linh hoạt - từ
vận hành phụ thấp đến tải nền theo chu kỳ
nhà máy mỗi ngày làm ảnh hưởng đến độ bền
của các bộ phận áp lực HRSG. Hầu hết các lò
này vận hành hiện tại không được thiết kế với
sự linh hoạt để chịu được mức độ ứng suất
nhiệt gây ra bởi phần khởi động nhanh hơn,
vận hành tải thấp và chu kỳ làm việc nhiệt lặp
đi lặp lại. Và các yếu tố gây ứng suất (stress)
được tăng cao bởi các tuabin khí hiện nay
công suất lớn hơn, hiệu quả hơn.
Trước năm 1995 tại Việt Nam chỉ có
các nồi hơi trung áp, cao áp sử dụng buồng
đốt truyền thống đốt nhiên liệu than đá hoặc
dầu nặng (dầu mazut) trong trong các nồi hơi
sản xuất hơi quá nhiệt, quay Tuabin hơi phát
điện tại các nhà máy Nhiệt điện. Vấn đề trong
chu kỳ đơn dùng hơi trong các nhà máy nhiệt
điện này thì hiệu suất nhiệt cũng chỉ đạt được
không quá 40%.
Do các kiểu kết cấu lò hơi HRSG và
điều kiện vận hành khác nồi hơi thông thường
chỉ một cấp áp suất (hoặc hạ áp, hoặc trung
áp hoặc cao áp), nên yêu cầu về bảo trì, và
kiểm tra đánh giá lò hơi HRSG định kỳ cũng
cần có quy định riêng cho phù hợp, đảm bảo
an toàn và kinh tế.
Hiện nay các tài liệu liên quan đến lò
thu hồi nhiệt bằng tiết Việt rất ít và vô cùng
hạn chế, tài liệu liên quan chủ chủ yếu bằng
tiếng Anh. Chính vì vậy, Cơ quan chủ trì
Trung tâm kiểm định Công nghiệp II đã phối
hợp cùng với Chủ nhiệm đề tài KS. Trịnh Đình
Hùng thực hiện đề tài “Nghiên cứu xây dựng
quy trình kiểm định nồi (lò) hơi thu hồi nhiệt”.
Sau thời gian nghiên cứu, đề tài đã thu
được những kết quả như sau:
- Đề tài đã khảo sát, thu thập hệ thống
hóa được các loại nồi hơi thu hồi nhiệt HRSG
đang vận hành và sẽ xây dựng tiếp ở nước
ta.Trình độ năng lực quản lý, vận hành, bảo
dưỡng của cơ sở sử dụng nồi hơi HRSG dùng
sản xuất điện an toàn , kinh tế.
- Thu thập các tài liệu pháp lý, kỹ thuật
liên quan tới việc kiểm tra đánh giá các Lò
hơi thu hồi nhiệt với một/ hai/ ba cấp áp suất
trên thế giới và tại Việt nam hiện nay, đã nhìn
nhận ra được sự cần thiết ban hành của một
văn bản pháp luật, sự thiếu tính hệ thống
trong các tài liệu qui định.
- Đã cập nhật , tham khảo được các tài
liệu mới nhất trên thế giới về HRSG , và các
nghiên cứu đánh giá hư hỏng và các qui định
trong công tác kiểm tra, đánh giá đối với các
hệ thống Lò hơi thu hồi nhiệt.
- Thông qua kinh nghiệm thực tiễn của
các chuyên gia nước ngoài, các phương pháp
kiểm tra của các nước phát triển, các nước
đang phát triển, với điều kiện hiện tại về cơ
sở pháp lý, năng lực con người, cơ sở vật chất
hiện tại các đơn vị lien quan tại Việt nam để
xây dựng được một Tiêu chuẩn riêng cho Lò
HRSG, xây dựng qui trình kiểm tra đủ độ tin
cậy để xác định được tình trạng kỹ thuật an
toàn của Lò hơi thu hồi nhiệt HRSG sau sau
lắp đặt, sau những chu kỳ vận hành, kiểm
định và bảo dưỡng.
- Thử áp lực định kỳ với HRSG phải
ngừng lâu dài và tiến hành cho từng cấp áp
suất riêng biệt LP/IP/RH/HP rất tốn thới gian
và chi phí. Vì vậy qua kiểm tra tăng cường
thử nghiệm đánh giá NDT hoặc quá trình quá
trình sửa chữa, thay thế mà không quá 25%
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 10/44
về số lượng mối hàn mới thì có thể áp dụng
NDE thay thế và thử thủy lực định kỳ có thể
được mở rộng thới hạn.
- Hiện nay các nước trên thế giới đang
áp dụng tăng cường NDE ( Hoa Kỳ) trong
kiểm tra bảo dưỡng định kỳ và không cần thử
thủy lực định kỳ theo chu kỳ ngắn hạn mà căn
cứ vào kết quả kiểm định thực tế. Tại CHLB
Đức và EU thời gian thử thủy lực định kỳ cho
lò hơi 9 năm hoặc 10 năm.
- Thông qua đề tài các thành viên đề
tài, các kiểm định viên đã được nâng cao kiến
thức về luật pháp và chuyên môn và là tài liệu
tiếng Việt dùng tham khảo và hướng dẫn cho
cơ sở sử dụng..
Nguồn: Vista.gov.vn, 30/10/2018
Trở về đầu trang
**************
VẬT LIỆU – HÓA CHẤT
Nghiên cứu chế tạo hệ chất tẩy rửa cặn hydrocacbon và ứng dụng chúng để làm sạch các đường ống dẫn, đảm bảo an toàn môi trường biển khi hủy bỏ
giếng khai thác dầu khí
Trong quá trình khai thác, lắng đọng
cặn hydrocacbon (paraffin, asphalten,
naphten…) là không thể tránh khỏi, hiện
tượng lắng đọng cặn có thể hình thành với
mức độ tùy thuộc vào thành phần dầu thô,
điều kiện môi trường khu vực khai thác, áp
suất,… Đặc biệt, đối với những loại dầu thô
có hàm lượng paraffin rắn cao và với những
khu vực khai thác có nhiệt độ môi trường
thấp thì quá trình lắng đọng cặn hydrocacbon
diễn ra càng nhanh.
Ngày nay, trong các khu vực có thể
xảy ra lắng đọng cặn hydrocacbon, khu vực
lắng đọng trong hệ thống đường ống vận
chuyển và khai thác dầu khí là vấn đề đang
được quan tâm đặc biệt, bởi nó gây ra nhiều
hậu quả hơn so với các khu vực đặt bồn bể
chứa dầu. Việc đảm bảo an toàn môi trường
biển cho các giai đoạn thăm dò, khai thác dầu
khí đã và đang thực hiện tại tất cả các mỏ dầu
khí trên thế giới. Khi tiến hành thu dọn mỏ và
hủy giếng, việc kiểm soát môi trường càng
được quan tâm đặc biệt, tránh gây ô nhiễm
trong quá trình xử lý và sau xử lý. Các đường
ống dẫn dầu khí thường rất dài, bên trong
chứa nhiều cặn hydrocacbon độc hại có thành
phần phức tạp, bao gồm hợp chất hữu cơ
(asphalten, parafin) và hợp chất vô cơ (FeS,
Fe2O3, CaCO3, ...) cần được loại bỏ khi tiến
hành hủy giếng.
Hiện nay, việc làm sạch cặn
hydrocacbon vẫn được định kỳ thực hiện trên
các đường ống dẫn dầu, khí đang hoạt động.
Phương pháp làm sạch chủ yếu là phóng thoi,
hoặc đối với một số đường ống là ngâm hoá
chất tẩy rửa. Tuy nhiên, hệ chất tẩy rửa đang
được sử dụng tại Việt Nam có dung môi là
các chất thơm như xylen, toluen và một số
chất độc hại khác. Mặt khác, điều đặc biệt
quan trọng là phần lớn hệ thống ống dẫn dầu
khí tại Việt Nam đã cũ nên dễ xảy ra hư hỏng
khi làm sạch. Do đó, cần nghiên cứu kết hợp
các phương pháp tẩy rửa cặn hydrocacbon
sao cho phù hợp với điều kiện và chiến lược
phát triển ngành công nghiệp môi trường Việt
Nam đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2025.
Để kiểm soát được toàn diện quá trình
xử lý môi trường trong các hoạt động dầu khí,
đáp ứng nhu cầu cấp thiết về việc xử lý triệt
để các chất thải sinh ra trong quá trình hủy bỏ
giếng khai thác dầu khí với mục tiêu tiến tới
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 11/44
thỏa mãn các tiêu chuẩn nghiêm ngặt về bảo
vệ môi trường trong tương lai, Cơ quan chủ
trì Viện dầu khí Việt Nam đã phối hợp với
Chủ nhiệm đề tài ThS. Tạ Quang Minh cùng
thực hiện đề tài “Nghiên cứu chế tạo hệ chất
tẩy rửa cặn hydrocacbon và ứng dụng chúng
để làm sạch các đường ống dẫn, đảm bảo an
toàn môi trường biển khi hủy bỏ giếng khai
thác dầu khí”.
Sau thời gian nghiên cứu, đề tài đã thu
được những kết quả như sau:
Đã thiết lập được công thức chế tạo hệ
chất tẩy cặn hydrocacbon chứa hệ dung môi
sinh học hỗ trợ hiệu quả quá trình phóng thoi
làm sạch đường ống dầu khí trước khi hủy bỏ
dưới biển VPI-PCS với các thành phần tối ưu
như sau:
1. Tripropylene Glycol Methyl Ether
8,23%
2. Dibassic Ester 7,74%
3. Methyl Ester 80,25%
4. Chống phân lớp 4,00%
5. Chống OXH 0,06%
6. Chống ăn mòn kim loại 0,02%
Khả năng phân hủy sinh học của chất
tẩy cặn gốc dung môi sinh học VPI-PCS được
đánh giá là 98%.
Điều kiện công nghệ tối ưu áp dụng
đối với VPI-PCS như sau:
1. Nhiệt độ 42 độ C
2. Chu kỳ xử lý 3
3. Tỷ lệ sử dụng 1:5,8 g/ml
4. Thời gian 7,3 giờ
Đã thiết lập được công thức chế tạo hệ
chất tẩy cặn hydrocacbon chứa các chất
HĐBM có khả năng phân hủy sinh học VPI-
APS để làm sạch triệt để lớp màng dầu còn
lại trên bề mặt đường ống sau làm sạch với
các thành phần tối ưu như sau:
1. Calamide 21,85%
2. Tergitol 24,73%
3. Alfoterra 1,45%
4. Tripropylene Glycol Methyl Ether
50,67%
5. Chống tạo bọt 0,15%
6. Chống ăn mòn kim loại 0,50%
7. Diệt khuẩn 0,65%
Khả năng phân hủy sinh học của hệ
chất tẩy rửa cặn chứa chất HĐBM phân hủy
sinh học VPI-APS được đánh giá là 97,4%.
Điều kiện công nghệ tối ưu áp dụng
đối với VPI-APS như sau:
1. Nhiệt độ 30 độ C
2. Nồng độ 24,42 g/l
3. Thời gian 8,8 phút
Đã chế tạo được 200 lít hệ chất tẩy cặn
hydrocacbon gốc dung môi sinh học VPIPCS,
200 lít hệ chất tẩy cặn chứa các chất HĐBM
có khả năng phân hủy sinh học VPIAPS với
các chỉ tiêu chất lượng như đăng ký.
Đã thiết lập được 2 quy trình công
nghệ chế tạo hai hệ chất tẩy cặn
hydrocacabon;
Đã thiết lập được 2 quy trình công nghệ
ứng dụng hai hệ chất tẩy cặn hydrocacbon đề
làm sạch đường ống dẫn dầu khí.
Đã đánh giá chất lượng hai hệ chất tẩy
cặn hydrocacbon sản phẩm, so sánh với mẫu
chất tẩy cặn thương mại của thế giới.
Đã đánh giá hiệu quả của chất tẩy cặn
trên hệ thống thiết bị mô phỏng thực tế trong
phòng thí nghiệm của Viện Dầu khí như sau:
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 12/44
Đánh giá kết quả phóng thoi (pig)
trong hệ thống pilot đối với các mẫu trống,
VPI-PCS, APS-50 và dung môi CN (công
nghiệp) trong cùng điều kiện thời gian ngâm
mẫu cặn đường ống trong khoảng thời gian
150 phút, nhiệt độ 100C, áp suất đầu vào
không đổi ở mức 3 bar cho thấy hiệu quả
phóng thoi tăng theo thứ tự của các dung môi
từ CN, APS-50, VPI-PCS, mẫu trống. Ở nhiệt
độ 25 độ C sau thời gian ngâm 100 phút, hiệu
quả phóng thoi của chất tẩy cặn VPI-PCS là
tương tự như chất tẩy cặn thương mại APS 50
và dung môi công nghiệp.
- Hiệu quả tẩy cặn HC bám trên bề mặt
thành ống được rửa đối với dung dịch
VPIAPS đạt gần 100% so với 90% của chất
tẩy thương mại APS-120 với nồng độ tẩy rửa
hiệu quả ở khoảng nồng độ từ 4-6%.
Đã tính toán sơ bộ giá thành của 2 sản
phẩm VPI-PCS và VPI-APS. So sánh giá
thành của sản phẩm nghiên cứu và sản phẩm
thương mại cho thấy giá thành trong nước rẻ
hơn. Nếu được sản xuất ở quy mô công
nghiệp thì hiệu quả sẽ khả thi, có ý nghĩa
không chỉ về mặt kinh tế, xã hội mà vừa
mang lại hiệu quả môi trường cao. Do vậy, để
đáp ứng yêu cầu môi trường ngày càng
nghiêm ngặt, đồng thời, theo kịp xu hướng
phát triển các sản phẩm khoa học của thế
giới, Việt Nam cần thiết đầu tư nghiên cứu
những sản phẩm có tính năng tương đương
của nước ngoài, sử dụng nguồn nguyên liệu
nội địa sẵn có, rẻ, thân thiện môi trường và
mang thương hiệu Việt Nam.
Nguồn: Vista.gov.vn, 30/10/2018
Trở về đầu trang
**************
Nghiên cứu thiết lập quy trình đo liều cá nhân sử dụng liều kế quang phát quang (OSL) đối với trường bức xạ photon và trường bức xạ
hỗn hợp notron, photon
Để đánh giá an toàn bức xạ cho các
nhân viên làm việc trong môi trường bức xạ
thì cần thiết phải theo dõi liều nghề nghiệp cá
nhân của họ. Có nhiều phương pháp đánh giá
liều cá nhân, tuy nhiên phương pháp sử dụng
liều kế cá nhân thụ động vẫn là thông dụng
nhất. Có nhiều loại vật liệu khác nhau được
ứng dụng để sản xuất các loại đầu đo thụ
động trong các liều kế cá nhân, ví dụ như:
liều kế phim, liều kế thủy tinh, liều kế vết hạt
nhân, liều kế nhiệt phát quang, liều kế quang
phát quang, v.v…). Cho tới nay, hai loại vật
liệu chính trong sản xuất liều kế cá nhân thụ
động là vật liệu nhiệt phát quang
(thermoluminescence - TL) và vật liệu quang
phát quang (Optically Stimulated
Luminescence - OSL) được ứng dụng nhiều
nhất trên thế giới. Liều kế làm từ vật liệu
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 13/44
OSL đã được sản xuất và thương mại hóa bởi
tập đoàn Landauer.
Có rất nhiều loại liều kế OSL khác
nhau dùng trong đo liều cá nhân với các
trường bức xạ khác nhau, trong nghiên cứu
này chủ yếu đề cập đến đo liều cá nhân sử
dụng liều kế quang phát quang trong trường
bức xạ photon (liều kế OSL) và trong trường
bức xạ hỗn hợp notron, photon (liều kế
OSLN). Đối với liều kế OSL, chúng ta sẽ biết
được liều bức xạ chiếu vào chúng bằng cách
đo tín hiệu ánh sáng màu xanh da trời phát ra
(bước sóng từ 300 đến 450 nm) sau khi kích
thích chúng bằng ánh sáng màu xanh lá cây
(bước sóng 525 nm) từ các điốt phát quang.
Một liều kế OSL cơ bản gồm một miếng đỡ 4
chip với thành phần mỗi chip là Al2O3:C
được bao bọc bởi lớp vỏ nhựa. Ngoài ra các
tấm phin lọc bằng nhựa, nhôm (Al), đồng
(Cu) hay không có phin lọc được thiết kế trên
mỗi chip nhằm mục đích đo liều cá nhân
𝐻𝑝(10), 𝐻𝑝(0.07) và 𝐻𝑝(3).
Một liều kế OSL cơ bản gồm một
miếng đỡ 4 chip với thành phần mỗi chip là
Al2O3:C được bao bọc bởi lớp vỏ nhựa.
Ngoài ra các tấm phin lọc bằng nhựa, nhôm
(Al), đồng (Cu) hay không có phin lọc được
thiết kế trên mỗi chip nhằm mục đích đo liều
cá nhân 𝐻𝑝(10), 𝐻𝑝(0.07) và 𝐻𝑝(3). Liều kế
OSLN cơ bản giống một liều kế OSL, tuy
nhiên chip thứ 2 của liều kế OSLN được bao
phủ bởi một lớp 6Li2CO3 nhằm phục vụ mục
đích đo liều notron.
Tại Việt Nam, việc sử dụng liều kế
OSL vào đo liều bức xạ ion hóa và các nghiên
cứu liên quan hiện chưa được triển khai. Trên
thực tế các cơ sở cung cấp dịch vụ đo liều kế
cá nhân cho các nhân viên bức xạ tính đến
nay vẫn chủ yếu sử dụng liều kế TLD.
Việc nghiên cứu ứng dụng liều kế OSL,
OSLN vào mục đích đo liều cá nhân tại Việt
Nam là cần thiết nhằm thúc đẩy tiến trình phát
triển đa dạng hóa kỹ thuật đo liều cá nhân. Cơ
quan chủ trì Viện Khoa học và Kỹ thuật Hạt
nhân đã phối hợp với Chủ nhiệm nhiệm vụ
CN. Lê Ngọc Thiệm cùng thực hiện đề tài
“Nghiên cứu thiết lập quy trình đo liều cá nhân
sử dụng liều kế quang phát quang (OSL) đối
với trường bức xạ photon và trường bức xạ
hỗn hợp notron, photon”.
Sau thời gian nghiên cứu, đề tài đã thu
được những kết quả như sau:
- Đã nghiên cứu cấu tạo của liều kế
quang phát quang (loại OSL và OSLN) dùng
cho đo liều trong trường bức xạ photon và
trường bức xạ hỗn hợp notron, photon.
- Đã nghiên cứu cấu tạo, đặc trưng của
liều kế OSL, OSLN và nguyên lý hoạt động
của hệ đọc liều kế Microstar.
- Đã nghiên cứu, khảo sát tín hiệu
phông và ngưỡng phát hiện của liều kế OSL
trong đo liều cá nhân đối với trường bức xạ
photon; và của liều kế OSLN trong đo liều cá
nhân đối với trường bức xạ hỗn hợp notron và
photon. Hai loại liều kế này đều có ngưỡng
phát hiện vào khoảng 5μSv.
- Đã nghiên cứu, khảo sát độ đồng đều
của các liều kế OSL đo liều bức xạ photon; và
của các liều kế OSLN trong đo liều cá nhân
đối với trường bức xạ hỗn hợp notron và
photon. Liều kế OSL và OSLN có độ đồng
đều thỏa mãn tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế.
- Đã nghiên cứu, khảo sát độ lặp lại
của liều kế OSL đo liều bức xạ photon; và
của liều kế OSLN trong đo liều cá nhân đối
với trường bức xạ hỗn hợp notron và photon.
Liều kế OSL có độ lặp lại đạt tiêu chuẩn kỹ
thuật quốc tế. Giá trị liều notron đo được bởi
liều kế OSLN có độ lặp lại trong khoảng 30%
đến 40%, giá trị này nằm ngoài tiêu chuẩn kỹ
thuật quốc tế. Tuy nhiên giá trị liều sâu
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 14/44
𝐻𝑝(10) đo được bởi liều kế OSLN lại thỏa
mãn tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế. Vấn đề này
cần có thêm những nghiên cứu hơn nữa để có
thể áp dụng tốt liều kế OSLN vào trong công
tác đo liều cá nhân trong trường bức xạ hỗn
hợp notron, photon.
- Đã nghiên cứu, khảo sát độ tuyến
tính của liều kế OSL đo liều bức xạ photon;
và của liều kế OSLN trong đo liều cá nhân
đối với trường bức xạ hỗn hợp notron và
photon. Cả hai loại liều kế này có độ tuyến
tính nằm trong khoảng 10%, thỏa mãn tiêu
chuẩn kỹ thuật quốc tế. - Đã nghiên cứu, khảo
sát sự phụ thuộc góc của liều kế OSL đo liều
bức xạ photon; và của liều kế OSLN trong đo
liều cá nhân đối với trường bức xạ hỗn hợp
notron và photon. Cả hai loại liều kế này có
sự phụ thuộc góc nằm trong khoảng 30%,
thỏa mãn tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế.
- Đã nghiên cứu, khảo sát sự phụ thuộc
năng lượng và đánh giá hệ số hiệu chỉnh năng
lượng của liều kế OSL để đo liều bức xạ
photon. Liều kế OSL có sự phụ thuộc năng
lượng đạt tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế.
- Đã nghiên cứu, khảo sát sự suy giảm
tín hiệu theo thời gian của liều kế OSL đo
liều bức xạ photon; và của liều kế OSLN
trong đo liều cá nhân đối với trường bức xạ
hỗn hợp notron và photon. Cả hai loại liều kế
này có sự suy giảm tín hiệu theo thời gian
thỏa mãn tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế.
- Đã đánh giá độ không đảm bảo đo
của phương pháp đo liều cá nhân sử dụng liều
kế OSL đối với bức xạ photon theo những
khuyến cáo của tài liệu kỹ thuật quốc tế.
- Đã so sánh các đặc tính cơ bản và kết
quả đọc liều đối với bức xạ photon của liều kế
OSL với liều kế TLD-100 tại 10 giá trị liều
chiếu ở năng lượng tia X và năng lượng
137Cs. Hai loại liều kế này có đáp ứng khá
tương đồng nhau trong trường bức xạ photon.
- Đã so sánh các đặc tính cơ bản và kết
quả đọc liều đối với trường bức xạ hỗn hợp
notron, photon của liều kế OSLN với liều kế
TLD 8806 tại 5 giá trị liều bằng nguồn 252Cf
và 252Cf được làm chậm. Đáp ứng của hai
loại liều kế này có sự khác nhau khá lớn với
các trường bức xạ notron khác nhau. Vấn đề
này cần được xem xét, nghiên cứu sâu hơn để
hoàn thiện hơn các ứng dụng của liều kế cá
nhân OSLN khi đo liều cá nhân trong trường
bức xạ hỗn hợp notron, photon.
- Đã xây dựng quy trình đo liều cá
nhân sử dụng liều kế quang phát quang OSL
đối với bức xạ photon. - Đã xây dựng quy
trình đo liều cá nhân sử dụng liều kế quang
phát quang OSLN đối với trường bức xạ hỗn
hợp notron và photon.
- Đã xây dựng chương trình đảm bảo
chất lượng cho quy trình đo liều cá nhân sử
dụng liều kế quang phát quang.
Nguồn: Vista.gov.vn, 30/10/2018
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 10/2018 15/44
Nghiên cứu chế tạo màng lọc hiệu năng cao bằng phương pháp trùng hợp ghép bề mặt, ứng dụng trong siêu lọc và lọc nano
Ảnh hưởng của nồng độ MA đến tính năng lọc của màng
Màng lọc polyethersulfone (PES) được
sử dụng nhiều trong các lĩnh vực công nghệ
sinh học và y sinh, ví dụ siêu lọc máu (thận
nhân tạo), thẩm tách máu, tách làm giàu
enzim và protein, tách thu tế bào. Ưu điểm
của màng lọc PES là có độ bền nhiệt, bền hóa
học và bền cơ học tốt, có tính phù hợp sinh
học với các đối tượng y sinh. Tuy nhiên,
nhược điểm của loại vật liệu này là tương đối
kỵ nước, nên hiệu quả của quá trình lọc tách
thường bị ảnh hưởng do hiện tượng tác màng
(fouling), khi các tiểu phân (protetin, các chất
hữu cơ) trong dung dịch tách bị hấp thụ lên bề
mặt màng trong quá trình lọc, làm giảm năng
suất lọc của màng. Để nâng cao tính năng
tách và giảm mức độ tắc màng, phương pháp
biến tính bề mặt màng nhằm nâng cao tính
chất ưa nước và giảm sự hấp thu các tiểu
phân gây tắc nghẽn là một giải pháp hữu ích.
Nói chung, có nhiều phương pháp
được sử dụng để biến tính bề mặt màng lọc,
trong đó trùng hợp ghép quang hóa là một kỹ
thuật có nhiều thuận lợi do một số ưu điểm:
có thể thực hiện được ở nhiệt độ thấp, phản
ứng trùng hợp xảy ra êm dịu và dễ kiểm soát,
nhiều loại monome có thể sử dụng cho quá
trình trùng hợp và kỹ thuật này có thể ghép
nối vào giai đoạn cuối cùng của quá trình chế
tạo màng thông thường.
PGS. TS. Trần Thị Dung thuộc Khoa
Hóa học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên,
Đại học Quốc Gia Hà Nội đã làm chủ nhiệm
“nghiên cứu về chế tạo màng lọc hiệu năng
cao bằng phương pháp trùng hợp ghép bề
mặt, ứng dụng trong siêu lọc và lọc nano”.
Trong nghiên cứu này, bề mặt màng PES
được biến tính bằng phương pháp trùng hợp
ghép quang hóa trong pha lỏng dưới bức xạ tử
ngoại với monome và axit maleic. Ảnh hưởng
của các điều kiện tiến hành trùng hợp đến tính
năng tách của màng được đánh giá và so sánh
qua khả năng lưu trữ protein, năng suất lọc
cũng như độ giảm năng suất lọc của màng
theo thời gian. Đặc tính bề mặt màng được
đánh giá qua phổ hồng ngoại phản xạ (FTIR-
ATR) và chụp hiển vi lực nguyên tử (AFM)
Độ giảm năng suất lọc của màng nền và màng trùng hợp ghép bề mặt
Mật độ trùng hợp ghép khi thay đổi nồng độ dung dịch axit maleic
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 16/44
Kết quả nghiên cứu có những điểm nổi
bật sau đây:
Đã nghiên cứu chế tạo thành công
màng lọc hiệu năng cao bằng phương pháp
trùng hợp ghép bề mặt, dùng cho siêu lọc và
lọc nano, gồm:
- Màng lọc compozit polyamid lớp
mỏng được trùng hợp ghép bề mặt với acid
acrylic (AA) và poly(ethylen glycol) (PEG)
- Màng lọc polyethersulfone (PES)
trùng hợp ghép bề mặt với acid maleic (MA)
và 1-vinyl-2-pyrolidinone (NVP)
- Màng lọc polyacrylonitrile (PAN)
trùng hợp ghép bề mặt với MA và AA -
Phát hiện mới:
- Màng lọc chế tạo bằng phương pháp
trùng hợp ghép bề mặt trong các điều kiện
thích hợp có tính năng tách lọc được nâng lên
rõ rệt với sự tăng lên đồng thời của các thông
số: độ lưu giữ, năng suất lọc và khả năng
chống tắc.
- Việc sử dụng PEG trùng hợp ghép
biến tính bề mặt màng TFC-PA cho hiệu quả
tốt hơn nhiều so với khi sử dụng các dẫn xuất
của PEG
Phương pháp mới:
- Quá trình trùng hợp ghép quang hóa
biến tính bề mặt màng lọc có thể thực hiện
được ở điều kiện kích thích bề mặt màng
trong môi trường không khí
Ý nghĩa khoa học: Phát triển kỹ thuật
biến tính bề mặt vật liệu polyme ứng dụng
trong nghiên cứu chế tạo màng lọc, nâng cao
tính năng tách lọc của vật liệu màng lọc
polyme.
Khả năng sử dụng kết quả nghiên cứu:
chế tạo màng lọc có tính năng lọc tách và khả
năng chống tắc tốt, đặc biệt với đối tượng các
chất hữu cơ trong môi trường nước.
Nguồn: Vista.gov.vn, 30/10/2018
Trở về đầu trang
**************
Nghiên cứu, phân tích tính tự cháy của than, đề xuất giải pháp thiết kế hệ thống phòng chống cháy của than tại mỏ than Đông Tràng Bạch
Sự tự cháy của các vỉa than trong quá
trình khai thác hầm lò là một trong các vấn đề
được các chuyên gia, các cơ quan trong lĩnh
vực công nghệ khai thác mỏ trên toàn thế giới
quan tâm nghiên cứu và tìm các giải pháp
phòng chống, xử lý và ngăn chặn hiện tượng
này nhằm củng cố an toàn lao động, giảm bớt
rủi ro trong quá trình khai thác than hầm lò
trên thế giới. Hiện nay, các mỏ than khai thác
hầm lò trên thế giới đã áp dụng các phương
pháp khác nhau để phòng chống sự tự cháy
của các vỉa than và đảm bảo an toàn khai thác.
Mặc dù trên thế giới có nhiều phương pháp
phòng chống sự tự cháy của than, tuy nhiên về
nguyên lý có thể phân chia thành hai phương
pháp chính bao gồm: (1) Phương pháp phát
hiện sớm, và (2) phương pháp ngăn ngừa.
Để đảm bảo an toàn cho quá trình sản
xuất, cần thiết phải nghiên cứu, xác định rõ
nguyên nhân của hiện tượng trên để từ đó xây
dựng được các giải pháp phòng chống cháy
phù hợp. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có
công trình nghiên cứu mang tính toàn diện và
sâu rộng nào về vấn đề này. Điều này dẫn đến
sự ra đời của đề tài “Nghiên cứu, phân tích
tính tự cháy của than, đề xuất giải pháp thiết
kế hệ thống phòng chống cháy của than tại mỏ
than Đông Tràng Bạch - Công ty than Uông
Bí”. Bên cạnh đó, đề tài này cũng sẽ là cơ sở
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 17/44
để nghiên cứu áp dụng khi tiến hành khai thác
tại những vỉa than có tính tự cháy tại mỏ.
Dưới sự chủ trì của Công ty CP Tin
học, Công nghệ, Môi trường - Vinacomin, và
kỹ sư Lê Công Tới, đề tài đã đạt được rất
nhiều mục tiêu về khoa học công nghệ, cũng
như nhiều mục tiêu về kinh tế sau đây:
- Nghiên cứu và phân tích các đặc tính
tự cháy của than mỏ Đông Tràng Bạch.
- Đề xuất giải pháp thiết kế hệ thống
phòng chống cháy cho khu vực khai thác tại
mỏ than Đông Tràng Bạch đảm bảo an toàn
và hiệu quả.
- Góp phần giải quyết vấn đề an toàn về
tính tự cháy của than tại một số vỉa khai thác
hầm lò, đồng thời, phát triển lĩnh vực khai thác
than tự cháy trong hầm lò nhằm mục đích
nâng cao mức độ an toàn về khí mỏ, hiệu quả
sản xuất và giảm ô nhiễm môi trường.
- Góp phần đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế
- Góp phần giảm chi phí sản xuất cho
công tác khai thác than hầm lò.
Nguồn: Vista.gov.vn, 29/10/2018
Trở về đầu trang
**************
CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM
Chế biến phế phụ phẩm ngành điều thành Thực phẩm giàu dưỡng chất
Sản phẩm KH&CN Rượu vang điều và đồ uống dưỡng chất từ quả điều có triển vọng đáp ứng
thị hiếu người tiêu dùng.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 18/44
Dưới sự hỗ trợ của Bộ Khoa học và
Công nghệ (KH&CN), sản phẩm thực phẩm
mới giàu dưỡng chất từ nguồn quả điều đã có
mặt tại sự kiện Trình diễn và kết nối cung -
cầu công nghệ quốc tế TechDemo 2018 do
Bộ KH&CN tổ chức diễn ra ngày 3-
5/10/2018 tại Thành phố Cần Thơ.
Phần thịt quả điều có vị chát sít lưỡi,
bấy lâu khó trở thành một thực phẩm thân
thuộc với người tiêu dùng, nay hứa hẹn trở
thành một nguồn đặc sản giàu dưỡng chất đáp
ứng thị hiếu của người sử dụng. Sản lượng thịt
quả điều ước tính nhiều gấp 8-10 lần sản
lượng hạt điều. Hàm lượng vitamin C trong
thịt quả điều được biết cao gấp 5 lần so với ở
cam, gấp 12 lần so với ở dứa…, hàm lượng
các khoáng chất như Kali trong thịt quả điều
cao gấp đôi so với ở cam và gấp 4 lần so với ở
xoài,… Ngoài ra, phần thịt quả điều còn được
biết chứa nhiều hợp chất chống oxi hóa, có
khả năng kháng khuẩn gây viêm loét dạ dày,
chống ung thư,…. Trên cơ sở các nghiên cứu
giải quyết vấn đề của nguyên liệu thịt quả điều
rải rác trong 20 năm qua, năm 2016, Bộ
KH&CN đã hỗ trợ các nhà khoa học quyết tâm
nghiên cứu thành công việc áp dụng KH&CN
vào khai thác hiệu quả nguồn nguyên liệu này
phục vụ đời sống, đồng thời khắc phục tình
trạng lãng phí và ô nhiễm môi trường từ việc
vứt bỏ phần thịt quả bao lâu nay.
Các sản phẩm được chế biến từ quả
điều chủ yếu là từ hạt điều thô, bao gồm nhân
điều, bơ hạt điều, dầu vỏ hạt điều,… Nay hứa
hẹn có thêm các sản phẩm thực phẩm mới
giàu dưỡng chất được khai thác, chế biến
thành công từ phần thịt quả điều mà trước đây
là phế phẩm.
Triển vọng thành công của nghiên cứu
sẽ góp phần làm tăng giá trị gia tăng cho
ngành điều, giải quyết đầu ra cho các vùng
nguyên liệu điều, tạo ra đặc sản mới, thúc đẩy
phát triển kinh tế- xã hội và giảm thiểu ô
nhiễm môi trường.
Nguồn: most.gov.vn, 08/10/2018
Trở về đầu trang
**************
Chế tạo màng sinh học bảo quản dâu tây
Thảo Phương và Hoàng Ngân.
Tận dụng phế phẩm từ kén tơ tằm, hai
nữ sinh chế tạo thành công màng sinh học bảo
quản trái dâu tây và đề tài này ngày 23.10
được trao giải nhất cuộc thi sáng tạo thanh
thiếu niên toàn quốc.
Lê Nguyễn Hoàng Ngân (lớp 12a3) và
Phan Lê Thảo Phương (lớp 11a5 Trường
THPT Đơn Dương, Lâm Đồng) từ lâu mong
muốn tìm ra một giải pháp bảo quản rau, củ,
quả được tươi lâu mà không ảnh hưởng đến
sức khỏe người dùng.
Dưới sự hướng dẫn của cô Nguyễn Thị
Thanh Nga (giáo viên của trường), những
ngày cuối tuần 3 cô trò kéo nhau đến các cơ
sở nuôi tằm, dệt tơ tằm ở H.Lâm Hà tham
quan và mua kén tằm thải về nghiên cứu; sau
đó đến các vườn dâu tây ở Đơn Dương và
TP.Đà Lạt nghiên cứu quy trình thu hái và
bảo quản sau thu hoạch. Cô Nga còn đưa các
em đến Trung tâm công nghệ bức xạ, thuộc
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 19/44
Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt, xin hỗ trợ
máy móc thiết bị nghiên cứu để chế tạo chế
phẩm sinh học.
Hai nữ sinh đã tách chiết fibroin từ kén
tơ tằm thải và nghiên cứu tạo màng sinh học
fibroin bằng phương pháp chiếu xạ gamma;
sau đó thực nghiệm xác định phổ hồng ngoại
FT-IR của bột sợi fibroin sau chiếu xạ; xác
định hàm lượng fibroin tan nước trước và sau
chiếu xạ. Bước tiếp theo là điều chế dung
dịch fibroin tơ tằm. Cuối cùng, thí nghiệm
khảo sát ảnh hưởng của hàm lượng fibroin
làm màng sinh học lên độ hụt khối của trái
dâu tây tươi bảo quản ở nhiệt độ khác nhau.
Kết quả, khi dâu tây được nhúng vào
dung dịch fibroin tạo màng bao bọc trái dâu
giữ tươi được 7 ngày, vì màng fibroin có vai
trò làm giảm sự mất nước của trái dâu.
Các sản phẩm được chế biến từ quả
điều chủ yếu là từ hạt điều thô, bao gồm nhân
điều, bơ hạt điều, dầu vỏ hạt điều… Nay hứa
hẹn có thêm các sản phẩm thực phẩm mới
giàu dưỡng chất được khai thác, chế biến
thành công từ phần thịt quả điều mà trước đây
là phế phẩm.
Triển vọng thành công của nghiên cứu
sẽ góp phần làm tăng giá trị gia tăng cho
ngành điều, giải quyết đầu ra cho các vùng
nguyên liệu điều, tạo ra đặc sản mới, thúc đẩy
phát triển kinh tế- xã hội và giảm thiểu ô
nhiễm môi trường.
Thảo Phương cho biết dâu tây là loại
quả mọng, nhiều nước nên rất dễ hư thối do
nấm mốc, hoặc dập nát khi vận chuyển.
Trong điều kiện nắng nóng, sau 1 ngày hái
trái dâu bị héo cuống, khô vỏ, giảm trọng
lượng, nếu bảo quản không đúng cách làm vi
sinh vật dễ dàng phát triển chỉ cần một quả hư
trong 1 ngày các quả khác cũng sẽ hư theo.
Ông Trần Minh Châu, Phó chủ tịch Hội
Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Lâm
Đồng, nhận xét: “Màng sinh học các em tạo ra
từ kén tơ tằm có tác dụng bảo quản trái dâu tây
lâu, hạn chế hư hỏng mà không làm mất màu,
mất mùi vị, không gây độc hại. Với nguồn
nguyên liệu phế phẩm tơ tằm sẵn có tại địa
phương, cùng các thiết bị chiếu xạ tại Viện
Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt, có thể tiến hành
sản xuất màng sinh học với quy mô lớn để bảo
quản trái cây và các loại nông sản khác”.
Nguồn: thanhnien.vn, 26/10/2018
Trở về đầu trang
**************
CÔNG NGHỆ SINH HỌC
Việt Nam sản xuất chế phẩm sinh học rẻ hơn nhập khẩu 30%
Các chế phẩm vi sinh, enzyme, protein
chủ động sản xuất trong nước để làm ra các
thực phẩm chức năng, chế phẩm phục vụ
thủy, hải sản, cây trồng.
Nhiều năm trước đây các doanh nghiệp
sản xuất thực phẩm chức năng, công nghệ
sinh học ở Việt Nam thường nhập khẩu
nguyên liệu từ nước ngoài về để gia công sản
phẩm. Do chi phí nhập khẩu cao, các dòng
chế phẩm sinh học không phù hợp với điều
kiện ở Việt Nam nên doanh nghiệp thường
khó cạnh tranh với các sản phẩm nhập ngoại
trên thị trường.
Để khắc phục khó khăn này, Chương
trình Khoa học và Công nghệ Quốc gia, Bộ
Khoa học và Công nghệ đã giao Công ty
TNHH tư vấn y dược quốc tế (IMC) thực hiện
dự án “Nghiên cứu phát triển làm chủ công
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 20/44
nghệ sản xuất quy mô công nghiệp một số
chế phẩm vi sinh, enzyme và protein”.
Công nhân vận hành máy bao phin tại Nhà máy sản xuất của Công ty IMC tại Khu công nghiệp
Quang Minh, Hà Nội.
Dự án triển khai từ tháng 10/2013 đến
nay qua nhiều giai đoạn từ nghiên cứu công
thức, chủng giống, công nghệ đến xây dựng
nhà máy sản xuất nguyên liệu và thành phẩm.
Hiện nhóm nghiên cứu đã làm chủ được công
nghệ.
Ông Nguyễn Xuân Hoàng, Chủ tịch
Hội đồng thành viên Công ty IMC cho biết,
ban đầu công ty phải mua chủng giống và
công nghệ từ nước ngoài. Sau đó nhóm
nghiên cứu thực hiện tách chiết, li tâm, nuôi
cấy, phá vách tế bào...
Việc khó nhất là sàng lọc, tìm ra chế
phẩm đó có tác dụng gì, áp dụng ra sao.
“Chúng tôi phải phân tích xem vi khuẩn đó là
vi khuẩn gì, lành tính hay độc tính, sau khi
giải trình tự gene phải phân tích xem có đúng
với chủng loại đó không. Nhiều khi chỉ một
thí nghiệm nhưng phải mất cả năm nghiên
cứu mới tìm ra kết quả”, ông Hoàng nói.
Ban đầu dự án đặt mục tiêu làm 8 sản
phẩm, nhưng đến nay đã có 20 sản phẩm
được sản xuất từ các chế phẩm sinh học này.
Không chỉ làm thực phẩm chức năng cho
người, nhiều đơn vị còn đặt mua chế phẩm
sinh học để làm các sản phẩm cho trong nuôi
trồng hải sản, thủy sản, động vật nuôi, cây
trồng. “Có thể thấy hiệu quả dự án lan tỏa
rộng hơn rất nhiều so với dự tính ban đầu”,
ông Hoàng nói.
Để có được thành công như vậy, ngoài
việc đảm bảo chất lượng với các hoạt tính của
chế phẩm phù hợp với đặc điểm, điều kiện
của Việt Nam, giá thành giảm so với nhập
ngoại từ 20-30%, IMC còn cung cấp cho đối
tác cách bào chế ra thành phẩm, hỗ trợ
phương pháp kiểm nghiệm...
Hiện Công ty IMC có thể cung cấp
một tấn chế phẩm sinh học/tháng. Ông Hoàng
dự tính khi Nhà máy được khánh thành vào
cuối năm 2018 tại Khu Công nghiệp Quang
Minh, Hà Nội, công ty có thể cung cấp 20 tấn
chế phẩm sinh học/tháng.
“Sau khi chúng tôi thành công trong
việc làm chủ công nghệ sản xuất quy mô công
nghiệp các chế phẩm sinh học, một số đối tác
nước ngoài đã đặt vấn đề gia công chế phẩm
của họ tại nhà máy của chúng tôi. Đây là
điều đáng tự hào đối với ngành công nghiệp
sinh học Việt Nam vì chúng ta đã làm chủ và
tiệm cận được với các công nghệ cao của thế
giới”, ông Hoàng chia sẻ.
Nguồn: Quân Nguyễn, Vnexpress.net,
27/10/2018
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 21/44
Nhà khoa học trẻ người Việt phát hiện 8 loài vi khuẩn mới
Nguyễn Việt Hùng phát biểu trong một sự kiện tại Australia.
Nguyễn Việt Hùng (28 tuổi, Đại học
New South Wales, Australia) là nghiên cứu
sinh trẻ và là người Việt duy nhất trong số
300 diễn giả có công trình được chọn trình
bày trước hơn 2.000 đại biểu, nhà khoa học
tại hội nghị chuyên đề lần thứ 17 về Sinh thái
và Vi sinh vật (ISME17) vừa tổ chức tại Đức.
Nghiên cứu đã phát hiện 8 loài vi khuẩn
mới có ý nghĩa đặc biệt khi ứng dụng vào thực
tế. Không chỉ phát hiện, Hùng còn tìm ra
phương pháp hiểu cặn kẽ đặc tính để biết
chúng có thể sống tốt nhất trong môi trường
nào. Khi cần có thể cấy vi khuẩn để phát triển
những yếu tố có lợi cho cây trồng, vật nuôi.
Như ở đồng bằng sông Cửu Long,
nhiều diện tích nuôi trồng thủy sản bị dịch
bệnh, các loài thủy sản nhóm giáp xác bị chết
hàng loạt. Nguyên nhân ban đầu là do sự thay
đổi môi trường, phù sa nên vi khuẩn hữu ích
trong môi trường đó mất đi kéo theo sự suy
thoái chức năng sinh thái. Những chất như
hydrogen sulfate hay ammonia có thể tăng lên
mạnh, giết hết thủy sản đang nuôi.
"Khi đó có thể ứng dụng nghiên cứu để
cấy ghép vi khuẩn có lợi, sống được trong
môi trường này để tái tạo chức năng sinh thái
cần thiết cho khu nuôi trồng", Hùng nói với
VnExpress.
Nếu có dịch bệnh do vi khuẩn gây ra,
áp dụng công nghệ này có thể nhanh chóng
tìm ra loài vi khuẩn nào gây bệnh. Công nghệ
cũng cho phép phát hiện một lượng vi khuẩn
lớn trong một lúc, với thời gian nhanh thay vì
chờ nuôi trồng trong phòng thí nghiệm rồi xét
nghiệm ADN của từng loài.
Phương pháp Hùng đã nghiên cứu cho
phép tìm ra một môi trường riêng có tất cả
ADN của các loài vi khuẩn. Có những con vi
khuẩn lạ không thể tìm ra nhưng bằng công
nghệ này cũng có thể phát hiện được.
Với phát hiện mới, nghiên cứu của
Hùng được lựa chọn để báo cáo tại Thượng
Hải (Trung Quốc) vào cuối tháng 10 này.
Tại hội nghị ở Thượng Hải, Hùng cho
biết sẽ công bố về những nghiên cứu liên
quan đến con bọt biển. Đây là một ngành vi
sinh vật (khoảng 50 loài vi sinh vật mới) có
ảnh hưởng tới con bọt biển được nghiên cứu.
Việc tìm ra mối liên kết giữa chúng với cơ thể
động vật ký sinh tiếp tục chứng minh công
nghệ mà Hùng tạo ra sẽ có thể chủ động trong
việc cấy ghép vi khuẩn có lợi cho môi trường.
Tại Đại học Queensland, nơi Hùng học
bằng cử nhân, do yêu cầu thực tế Hùng phải
tập trung nghiên cứu di truyền học nhưng
chàng trai trẻ vẫn dành thời gian để theo dõi
các vấn đề phát triển trong lĩnh vực vi sinh học.
"Tôi đã nhận ra tầm quan trọng của sự
linh hoạt đối với nhà nghiên cứu và quyết
định đi sâu nghiên cứu nhiều ngành khác
nhau để tăng cường kỹ năng và khả năng của
mình. Tôi đã tiếp tục tham gia các khóa học
về khoa học biển, học về lập trình và thống
kê. Tất cả những học tập này đều chứng minh
có giá trị và ý nghĩa vô cùng khi chúng hỗ trợ
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 22/44
cho nhau trong các nghiên cứu của tôi",
Hùng nói.
Hoàn thành dự án nghiên cứu trong
lĩnh vực gene, kiểm tra việc chuyển gene di
truyền ngang của các yếu tố kháng kháng sinh
trong các vi khuẩn Staphylococcus kháng
methicillin, Hùng tốt nghiệp Đại học
Queensland. Cũng từ đây Hùng nhận ra tiếng
gọi sâu thẳm và đam mê thuộc về lĩnh vực
sinh học.
Chuyển sang Đại học Macquarie ở
Sydney, Hùng đã thử thách bản thân với việc
nghiên cứu phản ứng của hàu ngọc trai đối
với bệnh tật. Lúc này Hùng nhận được học
bổng tiến sĩ của ba trường danh tiếng trên đất
nước Australia trong đó có Melbourne. Hùng
từ chối cả ba trường này và chọn Đại học
New South Wales tại thành phố Sydney để
bắt đầu chương trình tiến sĩ và theo đuổi con
đường nghiên cứu khoa học.
Một ngày Hùng dành tới 9 tiếng cho
việc nghiên cứu nhưng chàng trai trẻ cũng là
gương mặt nổi bật trong cộng đồng sinh viên
Việt Nam tại Australia với các hoạt động xã
hội và cộng đồng. Hùng tham gia qua các vị
trí Chủ tịch Hội sinh viên Việt Nam tại Đại
học Queensland; thủ lĩnh đội bóng chuyền tại
Đại học Queensland; cố vấn Hội sinh viên
Việt Nam tại bang New South Wales
Australia; Chủ tịch hội du học sinh Việt Nam
tại trường đại học New South Wales. "Đây là
cách em cân bằng giữa nghiên cứu, học tập
và các hoạt động xã hội để thấy cuộc sống ý
nghĩa hơn", Hùng nói.
Thời gian tới nhà nghiên cứu trẻ muốn
tìm ra các mối liên kết của vi khuẩn trên cơ
thể chúng ký sinh là con người. Hùng muốn
tìm những loài vi khuẩn để biết loài nào tốt,
loài nào cần thiết để hỗ trợ chăm sóc sức khỏe
con người.
"Trên cơ thể mỗi người sẽ có bộ vi
khuẩn khác nhau. Nếu hiểu rõ có thể tái tạo
nhóm vi khuẩn có lợi cho sức khỏe của họ",
Hùng nói và cho biết muốn được thiết lập
nhóm nghiên cứu trẻ cùng lĩnh vực để có thể
chia sẻ ý tưởng mới, hỗ trợ nhau, kết hợp thế
mạnh của mỗi nhà nghiên cứu sẽ có kết quả
lớn hơn cho xã hội..
Nguồn: Bích Ngọc, Vnexpress.net,
23/10/2018
Trở về đầu trang
**************
Hoàn thiện công nghệ sản xuất và sử dụng chế phẩm vi sinh vật xử lý phế thải chế biến tinh bột sắn
Sắn là loại cây lương thực quan trọng
ở các nước nhiệt đới như Brazil, Nigeria, Thái
Lan, Inđônêxia, Việt Nam… Củ sắn chứa
nhiều tinh bột nên được sử dụng làm thức ăn
người và gia súc. Một lượng nhỏ sử dụng
trong các lĩnh vực công nghiệp chế biến thực
phẩm, dược phẩm…
Ở Việt Nam, cây sắn đang chuyển đổi
nhanh chóng vai trò từ cây lương thục truyền
thống sang cây công nghiệp, sự hội nhập đang
mở rộng thị trường sắn tạo nên những cơ hội
cho các nhà sản xuất chế biến tinh bột, tinh
bột biến tính bằng hóa chất và enzim,… góp
phần vào sự phát triển kinh tế đất nước.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 23/44
Trong chiến lược toàn cấu cây sắn đang được
tôn vinh là một trong những loại cây lương
thực dể dàng thích hợp với những vùng đất
cằn cỗi và là loại cây công nghiệp triển vọng
có khả năng cạnh tranh cao với nhiều loại cây
công nghiệp khác.
Đề tài “Hoàn thiện công nghệ sản xuất
và sử dụng chế phẩm vi sinh vật xử lý phế thải
chế biến tinh bột sắn”; do Cơ quan chủ trì
Viện môi trường Nông nghiệp phối hợp với
Chủ nhiệm đề tài TS. Lương Hữu Thành cùng
thực hiện, thuộc Chương trình trọng điểm phát
triển và ứng dụng công nghệ sinh học trong
lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn
đến năm 2020 được đặt ra với mục tiêu: hoàn
thiện công nghệ sản xuất và xây dựng được 1-
2 cơ sở sản xuất chế phẩm vi sinh vật xử lý
phế thải sau chế biến tinh bột sắn công suất
500 kg/mẻ; ứng dụng trong xử lý phế thải tại
các nhà máy, cơ sở chế biến tinh bột sắn.
Sau thời gian nghiên cứu, đề tài đã thu
được những kết quả như sau:
1. Hoàn thiện được 01 quy trình sử
dụng chế phẩm vi sinh vật xử lý phế thải sau
chế biến tinh bột sắn dạng rắn làm phân hữu
cơ sinh học; 01 quy trình công nghệ sản xuất
chế phẩm vi sinh vật nâng cao hiệu quả xử lý
nước thải sau biogas tại nhà máy chế biến
tinh bột sắn và 01 quy trình sử dụng chế
phẩm vi sinh vật nâng cao hiệu quả xử lý
nước thải sau biogas tại nhà máy chế biến
tinh bột sắn. Các quy trình được xây dựng có
các thông số kỹ thuật, hướng dẫn sử dụng phù
hợp với điều kiện sản xuất ở Việt Nam.
2. Sản xuất thử nghiệm được 05 tấn chế
phẩm vi sinh vật xử lý phế thải sau chế biến
tinh bột sắn dạng rắn làm phân hữu cơ sinh
học. Chế phẩm có chứa mật độ vi sinh vật hữu
hiệu ≥108 CFU/gr, bảo quản được 3 tháng và
an toàn với môi trường. Sản phẩm được đăng
ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa với nhãn hiệu
Mic Cas 03. 3. Sản xuất thử nghiệm được 01
tấn chế phẩm vi sinh vật nâng cao hiệu quả xử
lý nước thải sau biogas tại nhà máy chế biến
tinh bột sắn. Chế phẩm có chứa mật độ vi sinh
vật hữu hiệu ≥108 CFU/gr, bảo quản được 3
tháng và an toàn với môi trường. Sản phẩm
được đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa với
nhãn hiệu Mic Cas 02.
4. Xây dựng được 02 mô hình xử lý
phế thải sau chế biến tinh bột sắn tại nhà máy
chế biến tinh bột sắn có công suất 50-200 tấn
tinh bột/ngày, có sử dụng hệ thống biogas.
Sản phảm đầu ra của mô hình gồm: + 1000
tấn phân hữu cơ sinh học đảm bảo chất lượng
theo Thông tư 41/2014 của Bộ NN&PTNT.
+ Nước thải sau xử lý đảm bảo chỉ tiêu
BOD, COD, SS, Xyanua theoloại B, QCVN
40/2011/BTNMT.
5. Dự án đã xây dựng 02 mô hình đánh
giá hiệu quả phân bón HCSH từ phế thải sau
CBTBS dạng rắn trên cây sắn. Kết quả đánh
giá hiệu quả cho thấy: khi sử dụng phân hữu
cơ sinh học chế biến từ phế thải tinh bột sắn
có thể giảm được 25% NP mà không ảnh
hưởng đến năng suất cây trồng.
Nguồn: Vista.gov.vn, 30/10/2018
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 07/2018 24/44
NÔNG NGHIỆP
Máy xẻ gỗ “cải tiến”
Anh Trương Văn Thủy (47 tuổi) người
Thái Nguyên nhưng lên Bắc Kạn lập nghiệp
bằng nghề mộc được hơn 10 năm nay. Trước
đó anh chỉ biết làm ruộng, nhưng sau tự học
hỏi anh đã mở xưởng đóng bàn ghế, giường
tủ. Nhà không có tiền, anh vay vốn ngân hàng
rồi học hỏi dần, sau nhiều thất bại cuối cùng
anh cũng duy trì xưởng gỗ, kiếm được việc
đều cho gia đình.
Quá trình làm anh thấy công xẻ gỗ,
cưa, bào tốn nhiều thời gian, lại không phẳng
đẹp như mong muốn. Quan sát từ công việc,
anh Thủy đã nghĩ cách chế ra chiếc máy xẻ
gỗ thuận tiện. Mất 4 tháng mày mò làm thử,
cuối cùng anh cũng cải tiến chiếc máy "không
giống với bất cứ máy nào đang có trên thị
trường", anh Thủy khẳng định.
Máy xẻ gỗ được gắn mô tơ điện với hệ
thống đường ray xây bằng gạch, đổ bê tông
khối cố định. Máy cũng thiết kế các nấc điều
chỉnh để người dùng có thể chọn dày, rộng
tùy ý. Mặt trên khối gắn chặt 2 thanh sắt nằm
ngang song song với nhau để tạo thành đường
ray di chuyển dàn sắt và giữ gỗ. Dàn được
gắn 4 bánh sắt trượt trên đường ray khi di
chuyển để đặt và giữ thanh gỗ cố định.
Nếu như những máy xẻ gỗ thông
thường chỉ xẻ cây gỗ tròn ra thành phẩm thì
máy của anh Thủy có thêm rất nhiều tính năng
như: có thể dọc bào cái cửa, ken cái cửa, dạo
cánh tủ, ghép ván, cắt độ chéo, dài tùy ý,,...
Cùng một khối lượng công việc, máy
thường cần 16 công nhân thì máy xẻ cải tiến
chỉ cần 3 người.
Nếu xẻ gỗ với phương pháp truyền
thống người thợ mộc sẽ phải căng dây, bật
mực cho thành một đường thẳng rồi cưa theo.
Nhưng khi dùng máy này, chỉ cần đặt tấm gỗ
lên, điều chỉnh nhẹ ray di chuyển, máy sẽ cắt
thẳng tắp. Dù chiều dài có thể 3 m hoặc hơn
vẫn thẳng giống như đặt thước nhôm.
Với sáng chế này, anh Thủy được vinh
dự nhận danh hiệu Nông dân Việt Nam xuất
sắc 2018. Sáng kiến cải tiến kỹ thuật của anh
cũng được trao giải Khuyến khích trong Hội
thi Sáng tạo kỹ thuật toàn quốc lần thứ 14
năm 2016-2017.
Anh Trương Văn Thủy (bìa phải) về Hà Nội tham dự lễ tôn vinh Nông dân Việt Nam xuất sắc
tổ chức ngày 14/10.
Anh Trương Văn Thủy cho biết, khi
làm chiếc máy này không đọc bất cứ tài liệu
hay xem mẫu máy xẻ gỗ đã có trên thị trường.
Từ công việc thực tế anh chợt nghĩ ra rồi tự
mua vật liệu về làm thử. Tính toàn bộ chi phí
cải tiến mỗi máy (thanh sắt, mô tơ, lưỡi cưa),
nếu tự hàn chỉ mất 4 triệu đồng. Nếu thuê thợ
hàn xì, đổ bê tông thì hết khoảng 6 triệu đồng.
Ở xưởng của anh Thủy, trước đây 2
thợ giỏi chỉ sản xuất được 40 sản phẩm/ngày,
khi dùng máy cải tiến sản xuất được 300 sản
phẩm/ngày. Đặc biệt chất lượng sản phẩm
được nâng cao và đảm bảo độ an toàn cao
trong sử dụng. Việc cải tiến máy đã giúp cho
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 25/44
xưởng gỗ của gia đình anh Thủy giảm được
nhân công từ 16 người xuống chỉ còn 8.
Hiện những người làm ở xưởng mộc
được anh trả lương bình quân mỗi tháng
khoảng 6 triệu đồng. Doanh thu của xưởng
mộc mỗi năm 1,5 tỷ đồng, trừ chi phí anh thu
lãi 300 triệu đồng.
Anh cho biết không có ý định đăng ký
bản quyền và cũng không bán máy. Anh
muốn cùng với chính quyền địa phương giúp
bà con trong tỉnh tự làm ra máy, phục vụ vào
sản xuất theo mô hình mỗi nơi một sản phẩm.
"Tôi muốn xây dựng làng nghề mộc vì
Bắc Kạn đất rộng người thưa, nguyên liệu dồi
dào, nhưng bà con chủ yếu bán gỗ thô. Bây
giờ nếu có máy thì bà con có thể sản xuất
hàng tinh, bán ra thị trường sẽ mang lại giá trị
gia tăng cao hơn" anh Thủy nói và tự tin kể cả
không đăng ký bản quyền, bí quyết để làm
máy nếu không hướng dẫn sẽ khó học theo.
Nguồn: Bích Ngọc,
Vnexpress.net,17/10/2018
Trở về đầu trang
**************
Máy tách lạc quay tay
Anh Vương Hùng Nam bên chiếc máy bóc lạc quay tay bằng gỗ.
Anh Vương Hùng Nam (41 tuổi, xóm
Thin Thượng, xã Ngọc Động, Thông Nông,
Cao Bằng) dù chỉ học hết lớp 5 nhưng đã tự
mày mò, làm ra máy tách lạc có tay quay giúp
gia đình và nhiều bà con nông dân thoát nghèo.
Sinh ra trong gia đình hoàn cảnh khó
khăn lại đông con nên anh Nam chỉ được học
đến lớp 5 rồi đi tìm công việc khắp nơi để
mưu sinh. Năm 1998, xa quê, anh vào miền
Nam tìm việc, thấy người dân nơi đây làm
nông nghiệp nhưng có nhiều máy móc tiện
lợi. Trong số này có máy bóc lạc rất tiện ích,
anh chụp ảnh lưu lại và nghĩ cách thử làm.
Trở về quê hương, anh tìm từng dụng
cụ, tận dụng các loại gỗ tạp, mài cắt rồi ghép
lại với nhau như một chiếc lu và thiết kế thêm
tay quay để ép củ lạc.
Nhìn hình thức bên ngoài, chiếc máy
giống như hình anh đã chụp, nhưng khâu vận
hành khó. Sau nhiều lần thất bại, anh vẫn kiên
trì thử, cuối cùng đã tìm ra chế độ vận hành
phù hợp nhất. Máy chạy trơn tru, tốc độ vận
hành tối đa một giờ có thể tách được khoảng
10 kg lạc, trong khi nếu bóc thủ công một
ngày, hàng chục công lao động mới tách được
10 kg. Hạt lạc tách bằng máy không bị bẹp,
chạm xước vỏ.
Xã Ngọc Động, huyện Thông Nông là
đất trồng lạc nên sản phẩm máy tách lạc của
anh nhanh chóng được bà con tìm mua. Anh
kể, mỗi năm cung cấp ra thị trường khoảng 80
chiếc, với giá thành từ 800.000 – 1.000.000
đồng/chiếc.
Bà con quê anh không còn phải tốn
nhiều công hàng đêm bóc lạc cho kịp ngày
chợ. Nhiều gia đình nhờ vậy mà có thêm thời
gian làm các công việc khác tăng thu nhập.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 26/44
Không chỉ làm máy bóc lạc, anh còn
nghiên cứu và cải tiến máy thái thức ăn gia
súc của Trung Quốc. Máy sử dụng tiện lợi và
không bị rò điện nên được nhân dân trong
huyện và một số huyện khác tìm mua. Hàng
năm anh cung cấp cho khách hàng 100 chiếc
với giá bán từ 800 – 1,3 triệu đồng/chiếc.
Năm 2015 anh cũng được trao Huân
chương lao động Hạng III của Chủ tịch nước.
Năm 2017 anh được trao danh hiệu nông dân
sản xuất kinh doanh giỏi cấp tỉnh.
Anh tâm sự, sẽ tiếp tục tìm hiểu trong
sản xuất của bà con địa phương để tạo ra
những phương tiện lao động tiện ích giúp bà
con bỏ ra ít thời gian nhưng được nhiều việc
hơn, cải thiện kinh tế gia đình.
Nguồn: Bích Ngọc,
vnexpress.net,15/10/2018
Trở về đầu trang
**************
Máy thái sắn
Ông Hà Kim Tới đang chế tạo máy ruôi sắn
Chiều 12/10, ông Hà Kim Tới đến Hà
Nội cùng đoàn đại biểu nông dân xuất sắc cả
nước tham dự buổi gặp mặt Quyền Chủ tịch
nước Đặng Thị Ngọc Thịnh trước ngày diễn
ra lễ tôn vinh và trao danh hiệu “Nông dân
Việt Nam xuất sắc 2018” tổ chức vào tối mai
(14/10) tại Cung Văn hóa Hữu nghị Hà Nội.
Ông Tới năm nay 60 tuổi, nhà ở Võ
Lao, Thanh Ba, Phú Thọ. Ông chỉ học hết lớp
7, chẳng có kiến thức gì về cơ khí nhưng từ
công việc thực tế ông mày mò tìm cách làm
bằng được chiếc máy giúp bà con ruôi sắn dễ
dàng.
Giọng đầy tự hào, ông Tới chia sẻ
với VnExpress: "Tôi rất vui. Bây giờ máy tôi
làm không kịp để bán. Tôi không nhớ chi tiết
nhưng chắc phải hàng chục nghìn chiếc máy
ruôi (nạo/thái) sắn đã được xuất xưởng đi các
tỉnh phía Bắc".
Sản phẩm của ông Tới đắt hàng cũng
dễ hiểu bởi vì chỉ cần bỏ ra bảy trăm nghìn
đồng, bà con có thể mua được chiếc máy vừa
bóc vỏ, vừa nạo sắn. Máy cũng có thể nạo
được nhiều loại củ khác.
Máy có cấu tạo đơn giản, gồm khung
giá đỡ, mô tơ điện, phễu cấp liệu và lưỡi cắt
với hai loại thái sợi và thái lát. Người dùng chỉ
cần cho củ vào phễu cấp liệu, máy sẽ tự động
hút củ vào lưỡi ruôi nên an toàn cho vận hành.
Nếu phương pháp thủ công một tấn
sắn phải mất vài ngày mới xong thì chiếc máy
chỉ cần một giờ và không cần thêm người bóc
vỏ sắn. Nạo thủ công người dân còn đối mặt
với nguy cơ đứt tay do chạm vào bàn nạo.
Chiếc máy này ông Tới làm từ cách đây
10 năm. Bây giờ ông đã cải tiến thêm với động
cơ công suất lớn hơn và thêm tính năng thái
cây chuối, hoa chuối. Chiếc máy ba trong một
này ông bán ra thị trường giá 1,3 triệu đồng.
Để kịp hàng cung ứng ra thị trường,
ông mở xưởng sản xuất tạo việc làm cho 20
lao động thường xuyên với thu nhập từ 5,5
đến 6 triệu/người/tháng.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 27/44
Ông cũng nhận được nhiều bằng khen
của Hội nông dân Việt Nam, Thủ tướng Chính
phủ và Bộ Khoa học và Công nghệ vì những
đóng góp cho sản xuất, phát triển kinh tế.
Ông tâm sự, đam mê lớn nhất là tìm
giải pháp kỹ thuật phục vụ sản xuất, để bà con
làm nông nghiệp đỡ vất vả vươn lên làm giàu.
Nguồn: Bích Ngọc, Vnexpress.net,
13/10/2018
Trở về đầu trang
**************
Nuôi ong ký sinh diệt bọ dừa ở Bến Tre
Những con ong nhỏ li ti được thả lên
cây dừa diệt bọ, hiệu quả và an toàn hơn
thuốc hóa học.
Cán bộ chi cục bắt bọ dừa được nuôi trong hộp nhựa.
Cầm cây cọ nhỏ, chị Ngụy Kim Yến,
khẽ khều nhẹ những con ấu trùng có hình dạng
như con dòi, bên cạnh là các ống nghiệm chứa
những con ong non vừa nở. Đây là công việc
thường ngày của nhân viên Chi cục Bảo vệ
thực vật Bến Tre, cho bọ dừa ăn, sau đó nuôi
ong ký sinh vào trong cơ thể chúng.
"Những con ong ký sinh này có nguồn
gốc từ đảo Samoa, được chúng tôi nhân nuôi
hơn 10 năm nay để cung cấp cho người dân",
chị Yến nói và cho biết, cách nuôi bọ dừa và
ong ký sinh rất đơn giản.
Ban đầu, trong hộp nhựa cần có lá dừa
non và miếng giấy thấm mật ong pha loãng.
Sau đó, người nuôi bắt ấu trùng bọ dừa trên
cây bỏ vào cùng ong trong hộp và đậy nắp lại.
Bọ dừa sống nhờ ăn lá dừa, còn ong sẽ ăn mật
và đẻ trứng vào cơ thể bọ. Khi ong non nở sẽ
ăn cơ thể bọ dừa để lớn.
"Sau khoảng nửa tháng, người dân
đem xác những con bọ dừa có chứa ong ký
sinh bỏ vào chai nhựa có khoét lỗ và treo trên
cây dừa. Ong sau đó sẽ tự bay ra và tìm bọ
dừa gây hại trên cây để ký sinh, tiêu diệt", chị
Yến chia sẻ.
Ong ký sinh bỏ trong chai nhựa khoét lỗ treo trên cây dừa.
Chị Nguyễn Thị Đậm (Bình Đại) có
2.000 m2 trồng dừa cho biết, trước đây cây dừa
bị bọ gây hại phải dùng thuốc xịt nhưng không
hiệu quả. Sau khi nuôi thả ong ký sinh, vườn
dừa đã giảm nạn bọ phá hoại khoảng 80%.
Theo ông Nguyễn Văn Dũng, Chi cục
phó Bảo vệ thực vật, Sở Nông nghiệp Bến
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 28/44
Tre, hiện diện tích dừa toàn tỉnh trên 70.000
ha. Năm trước, có gần 5.000 ha dừa bị nhiễm
bọ. Do cây dừa cao nên khi bị nhiễm bọ nông
dân rất khó xịt thuốc, việc dùng thuốc hóa
học nhiều cũng không tốt cho sức khỏe và
môi trường.
Bình quân 1.000 m2 vườn dừa mỗi
tháng cần ít nhất hai lần xịt thuốc, nông dân
phải chi khoảng 700.000 đồng. Còn ong ký
sinh giống diệt bọ dừa được chi cục cung cấp
miễn phí cho người dân.
Hai cán bộ của Chi cục Bảo vệ thực
vật nuôi ong cung cấp cho người dân. Ảnh:
Hoàng Nam.
Chi cục Bảo vệ thực vật Bến Tre cũng
cho hay, ngoài ong ký sinh, đơn vị đang nhân
nuôi bọ đuôi kìm cũng có tác dụng diệt bọ
dừa để cung cấp cho người dân. Cùng với bọ
dừa, đuông dừa gây hại cũng đang là vấn đề
nan giải.
"Chúng tôi cũng đang nghĩ đến
phương án tìm loài thiên địch tương tự ký
sinh lên ấu trùng đuông dừa gây hại, tuy
nhiên, cái khó là đuông dừa sống sâu trong
thân cây chứ không như loài bọ dừa", ông
Dũng nói.
Nguồn: Hoàng Nam,Vnexpress.net,
30/10/2018
Trở về đầu trang
**************
Nghiên cứu áp dụng công nghệ mới trong nuôi tôm
Đoàn cán bộ Viện SCCN lắp đặt thử nghiệm tại một vị trí
Sau quá trình nghiên cứu và hoàn thiện
thiết kế hệ thống giám sát môi trường nước áp
dụng công nghệ LORA, Nghiên cứu sáng chế
và Khai thác công nghệ đã cử đoàn cán bộ do
TS. Phạm Ngọc Hiếu, Phụ trách Trung tâm
Mô phỏng công nghệ và Phát triển sản phẩm
làm trưởng đoàn, đến lắp đặt thử nghiệm và
chuyển giao sản phẩm tại ao nuôi tôm của
Công ty TNHH công nghệ thủy sản Cao Minh
tại xóm 8, xã Nghĩa Phúc, huyện Nghĩa
Hưng, tỉnh Nam Định.
Thực trạng tại các ao nuôi tôm của
công ty TNHH công nghệ thủy sản Cao Minh
chủ yếu thuần giống để con tôm thích nghi
với môi trường bên ngoài. Người nuôi tôm
không can thiệp quá sâu vào môi trường, sử
dụng kháng sinh cho con tôm mà chỉ cung
cấp các vi sinh để con tôm thích ứng với môi
trường tự nhiên. Chính vì lý do đó, việc theo
dõi các thông số của môi trường như NH4,
NO2, Oxy, Nito, độ mặn nói riêng và việc
giám sát môi trường nước nuôi tôm nói chung
là một trong những yếu tố quan trọng quyết
định đến sản lượng, chất lượng của con tôm.
Công ty mong muốn đưa tiến bộ kỹ thuật và
ứng dụng công nghệ mới vào quá trình nuôi
tôm thẻ chân trắng giúp kiểm soát dịch bệnh,
cải thiện môi trường nuôi để mang lại hiệu
quả kinh tế cao. Dựa trên nhu cầu này, Viện
SCCN đã giải mã, khai thác sáng chế trong
lĩnh vực giám sát môi trường nước trong nuôi
tôm và phát triển sản phẩm.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 29/44
Sau quá trình khảo sát, các chuyên gia
đã lắp đặt tại 09 vị trí/ao (01 vị trí trung tâm,
04 vị trí tại 4 góc và 04 vị trí giữa tại 4 cạnh
của ao).
Kết quả trả về tại điện thoại của chủ đầm tôm và các thành viên.
Kết quả 1: các thông số đo đạc tại hiện
trường và hiển thị tại Website là tương đương
nhau.
Các chuyên gia tiếp tục tiến hành lập
ngưỡng giá trị các tham số đo được để kiểm
tra cảnh báo hệ thống.
Kết quả 2: hệ thống đã gửi tin nhắn
đến máy điện thoại và máy tính của người
chủ ao nuôi để cảnh báo trong trường hợp giá
trị các tham số môi trường nước ngoài
ngưỡng cài đặt ban đầu.
Nguồn: Vista.gov.vn, 30/10/2018
Trở về đầu trang
**************
Nghiên cứu ứng dụng công nghệ sau thu hoạch xử lý hơi nước nóng trừ ruồi đục quả vú sữa phục vụ xuất khẩu
Những con ong nhỏ li ti được thả lên
cây dừa diệt bọ, hiệu quả và an toàn hơn
thuốc hóa học.
Quả vú sữa xử lý trong trường hợp một nửa tải trọng máy
Ruồi đục quả là mối quan ngại lớn,
không chỉ với các nước sản xuất và xuất khẩu
mà với cả các nước có nhu cầu nhập khẩu quả
tươi vì hầu hết các loài ruồi đục quả đều là
dịch hại kiểm dịch thực vật của họ. Các nước
nhập khẩu có quyền từ chối nhập quả tươi bị
nhiễm ruồi đục quả hoặc đòi hỏi nước xuất
khẩu phải có các biện pháp xử lý kiểm dịch
thực vật đảm bảo trừ diệt hoàn toàn ruồi trên
quả tươi nhập khẩu vào nước họ. Do vậy, để
xuất khẩu được quả tươi, những nước xuất
khẩu phải nghiên cứu để tìm ra biện pháp xử
lý trừ diệt ruồi triệt để nhất trong điều kiện
cho phép.
Việc xử lý ruồi đục quả giai đoạn
trước thu hoạch chưa đảm bảo loại trừ hoàn
toàn ruồi ra khỏi sản phẩm quả. Do vậy, để
xuất khẩu được quả tươi, các nước đang phát
triển đều phải nghiên cứu lựa chọn giải pháp
kỹ thuật xử lý ruồi trên quả tươi giai đoạn sau
thu hoạch như là một giải pháp trước mắt ít
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 30/44
tốn kém nhất. Các nước xung quanh Việt
Nam như Thái Lan, Philipin, Singapo và Đài
Loan bằng việc áp dụng thành công biện pháp
xử lý hơi nước nóng cho quả, họ đã thâm
nhập thành công, đầu tiên với quả xoài, sau
đó với nhiều quả khác, sang các thị trường
lớn như Nhật Bản và New Zealand (Peterson,
2001; Waddell, 2005). Năm 2011 - 2012,
TTKDTVSNK II đã nghiên cứu thành công
quy trình xử lý hơi nước nóng trừ ruồi đục
quả trên quả xoài, góp phần mở cửa thị
trường cho quả xoài xuất sang thị trường khó
tính như Hàn Quốc, Nhật. Như vậy có thể
thấy việc nghiên cứu giải pháp xử lý trừ ruồi
đục quả cho quả tươi xuất khẩu nói chung và
với vú sữa nói riêng, rõ ràng là một đòi hỏi
mang tính cấp bách của thực tiễn để phát triển
sản xuất và hội nhập thương mại.
Vú sữa là cây ăn trái thơm ngon, có giá
trị dinh dưỡng cao, tuy nhiên lại có yêu cầu
về điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu rất nghiêm
ngặt. Trên thế giới, diện tích và sản lượng trái
vú sữa hàng hoá là không đáng kể, ngay cả ở
những vùng xuất xứ của cây vú sữa (Jamaica,
Mexico, Cuba). Với lợi thế khí hậu, thổ
nhưỡng phù hợp và giống vú sữa đặc sản,
Việt Nam hiện là nước giữ thế độc quyền về
trái vú sữa hàng hoá. Tuy nhiên ruồi đục quả
là đối tượng dịch hại nghiêm trọng trên vú
sữa cũng như chính là rào cản kỹ thuật để quả
vú sữa xâm nhập thị trường thế giới.
Như vậy có thể thấy việc nghiên cứu
giải pháp xử lý trừ ruồi đục quả cho quả tươi
xuất khẩu nói chung và với vú sữa nói riêng,
rõ ràng là một đòi hỏi mang tính khoa học và
cấp thiết của thực tiễn để phát triển sản xuất
và hội nhập thương mại. Do vậy, Cơ quan chủ
trì Trung tâm KDTV Sau nhập khẩu II đã
phối hợp với Chủ nhiệm đề tài KS. Chu Hồng
Châu thực hiện đề tài “Nghiên cứu ứng dụng
công nghệ sau thu hoạch xử lý hơi nước nóng
trừ ruồi đục quả vú sữa phục vụ xuất khẩu”.
Sau thời gian nghiên cứu, đề tài đã thu
được những kết quả sau:
- Vòng đời của ruồi đục quả
Bactrocera dorsalis trong quả vú sữa Lò rèn ở
nhiệt độ 28 ± 0,5 độ C và ẩm độ 70 - 80% RH
là 26,24 ngày ± 0,59 ngày, thời gian trứng già
là 29,58 giờ ± 1,18 giờ, thời gian từ trứng đến
ấu trùng tuổi 1 là 38,33 giờ ± 1,15 giờ, thời
gian từ trứng đến ấu trùng tuổi 2 là 73,47 giờ
± 2,16 giờ, thời gian từ trứng đến ấu trùng
tuổi 3 là 102 giờ ± 2 giờ, thời gian từ trứng
đến bắt đầu hóa nhộng là 162,5 giờ ± 2,78
giờ, thời gian phát triển từ trứng đến nhộng
vũ hóa là 9,83 ngày ± 0,1 ngày, thời gian tiền
đẻ trứng là 9,67 ngày ± 0,58 ngày.
- Vòng đời của ruồi đục quả
Bactrocera correcta trong quả vú sữa Lò rèn ở
nhiệt độ 28 ± 0,5 độ C và ẩm độ 70 - 80% RH
là 28,94 ngày ± 0,85 ngày, thời gian trứng già
là 30,08 giờ ± 0,38 giờ, thời gian từ trứng đến
ấu trùng tuổi 1 là 42,67 giờ ± 1,53 giờ, thời
gian từ trứng đến ấu trùng tuổi 2 là 74,67giờ
± 1,15giờ, thời gian từ trứng đến ấu trùng tuổi
3 là 103 giờ ± 2 giờ, thời gian từ trứng đến
bắt đầu hóa nhộng là 185,33 giờ ± 2,52 giờ,
thời gian phát triển từ trứng đến nhộng vũ hóa
là 10,33 ngày ± 0,29 ngày, thời gian tiền đẻ
trứng là 10,92 ngày ± 0,72 ngày.
- Phương pháp mở cửa sổ chống tâm là
phương pháp lây nhiễm trứng ruồi vào quả
thích hợp nhất, cho tỷ lệ sống của ruồi cao
nhất.
- Số lượng trứng cấy đạt mức cá thể
sống sót tối ưu là 400 trứng/quả.
- Giai đoạn chống chịu nhiệt nhất trong
quả vú sữa Lò Rèn là trứng già của loài B.
correcta và sâu non tuổi 1 loài B. dorsalis
- Thông số 47 độ C, thời gian giữ nhiệt
trong tâm quả 15 phút đã tiêu diệt hoàn toàn
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 31/44
các cá thể ruồi đục quả trong quả vú sữa và
không làm thay đổi phẩm chất quả sau xử lý.
Đã xây dựng được quy trình xử lý hơi
nước nóng cho quả vú sữa xuất khẩu đảm bảo
trừ diệt ruồi triệt để đồng thời không ảnh
hưởng đến chất lượng quả và đã được áp
dụng thử nghiệm ở quy mô thương mại cho 2
nhà máy xử lý hơi nước nóng là Hoàng Phát
và Good life.
Nguồn: Vista.gov.vn, 30/10/2018
Trở về đầu trang
**************
Tạo giống lúa chống stress
Giống lúa OM 3673 đang sản xuất thử ở Sóc Trăng.
Lúa có thể chịu được mặn, hạn hán
nhưng vẫn cho năng suất cao, chất lượng gạo
thơm, dẻo ngon nhờ chọn bằng công nghệ gene.
Việt Nam là một trong những quốc gia
bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi biến đổi khí
hậu. Hiện tượng nước biển dâng cao dẫn đến
nguy cơ bị mất diện tích canh tác do ngập
úng, nhiễm mặn. Vì vậy việc tạo ra các giống
lúa mới có thể chống chịu được điều kiện môi
trường mặn, ngập, hạn là yêu cầu cấp thiết.
GS Nguyễn Thị Lang, nghiên cứu viên
cao cấp của Viện Lúa đồng bằng sông Cửu
Long đã tìm cách để nghiên cứu, chọn tạo
được nhiều giống lúa mà theo cách gọi của bà
là “chịu được stress”.
GS Lang đã chọn lọc các dòng triển
vọng và lựa những ưu điểm của từng giống để
kết hợp các tính trạng chống chịu nhiều stress.
Ở những khu vực bị ảnh hưởng bởi
biến đổi khí hậu, trong một vụ cây lúa có thể
chịu cả hạn, úng ngập, nhiễm mặn. Những
stress xảy ra cùng lúc khiến lúa không thể phát
triển ngay từ khi còn ở giai đoạn cây con. Để
giải quyết vấn đề này, nhóm nghiên cứu đã sử
dụng kỹ thuật chồng lắp gene chống chịu
stress sử dụng marker phân tử (MAS) cùng với
kỹ thuật trong sinh học phân tử.
Để tạo ra được các giống lúa năng suất
cao chống chịu khô hạn, các nhà khoa học đã
tổng hợp 100 tổ hợp lai, kết hợp gene chống
chịu mặn và khô hạn, thời gian sinh trưởng
ngắn, phẩm chất tốt vào giống lúa nâng suất
cao. Quá trình lai tạo chọn ra giống thích nghi
với các stress ở cả hai giai đoạn cây con và
trổ bông.
Nhóm nghiên cứu cũng thực hiện các
thí nghiệm để chọn giống có hạt gạo dài, đẹp
và ngon từ các mẫu tiêu biểu. Có khoảng 200
tổ hợp lai được tạo ra từ các mẫu hạt dài, có
mùi thơm. Những tổ hợp được chọn lọc đánh
giá bằng marker phân tử đã tìm ra được giống
năng suất tốt nhất để trồng thử trong nhà lưới
ở Viện lúa đồng bằng sông Cửu Long. Sau đó
đã có 22 dòng hạt dài được kiểm tra trên cánh
đồng ở 13 tỉnh thành.
Đến nay đã có sáu giống lúa được
công nhận đưa vào sản xuất thử trên diện tích
khoảng 90 ha. Trong số này có giống OM
8928 chống chịu khô hạn, năng suất từ 6 -7
tấn/ha; OM 10373 chịu hạn; OM 137 thơm và
chịu mặn; OM345 thơm, năng suất cao chịu
khô và mặn...
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 32/44
GS Lang cho biết, khi thực hiện đề tài
nhóm nghiên cứu đã được Chương trình Đổi
mới công nghệ quốc gia của Bộ khoa học và
Công nghệ cấp kinh phí và hỗ trợ các bước
trong quá trình triển khai. Sự phối hợp này
giúp nhóm nghiên cứu vượt qua được nhiều
khó khăn để sớm đưa ra kết quả. Đầu năm
2018, nhiều giống lúa của đề tài đã chuyển
giao cho doanh nghiệp để sản xuất ở những
vùng khô hạn ở miền Trung.
Theo GS Trần Đình Long, Chủ tịch
Hội giống cây trồng Việt Nam, với những
giống lúa có phẩm chất tốt, chống chịu được
điều kiện khắc nghiệt của môi trường, thời
tiết sẽ giúp cho bà con nông dân vùng chịu
ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu yên tâm sản
xuất. Nhiều giống lúa này đang nằm trong dự
án đổi mới công nghệ để xây dựng thương
hiệu gạo quốc gia do Bộ Khoa học và Công
nghệ thực hiện. “Đây là đóng góp rất ý nghĩa
của GS Nguyễn Thị Lang và tập thể các nhà
khoa học của Viện Lúa đồng bằng sông Cửu
Long đối với việc phát triển nền nông nghiệp
hàng hóa, chất lượng và thân thiện với môi
trường”, GS Long nói.
Ngày 19/9 hội đồng khoa học Bộ
Khoa học và Công nghệ đã nghiệm thu đề
tài cấp nhà nước "Nghiên cứu ứng dụng
công nghệ tiên tiến chọn tạo giống lúa
thuần chống chịu mặn - hạn thích nghi với
điều kiện canh tác lúa vùng nhiễm mặn tại
đồng bằng sông Cửu Long" do GS Nguyễn
Thị Lang chủ trì thực hiện.
Đề tài thực hiện từ năm 2013 đến
2017 đã tạo được 6 giống lúa đưa vào sản
xuất thử: OM6328, OM3673, OM10418,
OM137, OM10373, OM5976.
Đã có nhiều kết quả nghiên cứu về
sản phẩm cụ thể với 250 tổ hợp lai với
12.600 dòng từ các thế hệ khác nhau,
nhiều giống lúa bổ sung vào vật liệu khởi
đầu và cải tiến đưa vào sản xuất 75
dòng/giống triển vọng.
Nguồn: Đoàn Nguyễn, Vnexpress.net,
25/10/2018
Trở về đầu trang
**************
Hợp tác nghiên cứu, thiết kế và chế tạo hệ thống giám sát sử dụng mạng cảm biến không dây trong kiểm soát chất lượng và tiết kiệm năng lượng cho chuỗi
hậu cần thủy sản lạnh
Thủy sản nói chung, tôm sú và cá tra
fillet nói riêng lại rất dễ bị hư hỏng dưới ảnh
hưởng của nhiệt độ bảo quản, sự tăng hoặc
dao động của nhiệt độ bảo quản đều có tác
động xấu đến chất lượng thủy sản. Đó là lý do
tại sao cần phải giám sát chặt chẽ nhiệt độ
thủy sản trong suốt quá trình cung ứng, cũng
như cần hiểu rõ động học của quá trình hư
hỏng của thủy sản mục tiêu để có thể dự đoán
được chất lượng của chúng, từ đó có những
giải pháp về bảo quản phù hợp, giúp quản lý
chất lượng và tiết kiệm điện năng tốt hơn.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 33/44
Nhiệm vụ được hình thành trên cơ sở
hợp tác với đối tác là Trường Đại học Nông
nghiệp Trung Quốc (CAU). Bắt đầu từ hạng
mục hợp tác ngắn hạn mã số 8-07S “Công
nghệ giám sát chất lượng và truy xuất nguồn
gốc thuỷ sản trong chuỗi cung ứng lạnh bằng
RFID” (RFID-based Dynamic Monitoring
and Traceability Technology for Fish Product
Quality During Cold Chain) được tài trợ theo
kết quả của Hội nghị lần thứ 8 của Uỷ ban
Hỗn hợp hợp tác Khoa học - Công nghệ Việt
Nam-Trung Quốc, từ 16/04/2012 đến
19/04/2012 Trường Đại học Nha Trang
(NTU) đã đón và làm việc với đoàn vào từ
CAU. Kết quả của đoàn vào là hai bên đã
cùng đề xuất nhiệm vụ “Hợp tác nghiên cứu,
thiết kế và chế tạo hệ thống giám sát sử dụng
mạng cảm biến không dây trong kiểm soát
chất lượng và tiết kiệm năng lượng cho chuỗi
hậu cần thủy sản lạnh”, do TS. Mai Thị Tuyết
Nga làm chủ nhiệm.
Mục tiêu của chung nhiệm vụ là nhằm
xây dựng được mô hình phản ảnh được mối
liên hệ giữa nhiệt độ và chất lượng thủy sản
trong quá trình bảo quản/vận chuyển lạnh.
Đồng thời, ứng dụng hệ thống giám sát dựa
trên mạng cảm biến không dây WSN để giám
sát liên tục nhiệt độ của thủy sản nhờ đó theo
dõi được chất lượng của nó trong suốt thời
gian hậu cần. Một số mục tiêu cụ thể sau đây:
- Nghiên cứu được sự biến đổi chất
lượng (cảm quan, hóa học, vi sinh vật) của
thủy sản bảo quản ở các điều kiện nhiệt độ ổn
định và biến động mô phỏng/tương tự điều
kiện nhiệt độ trong chuỗi cung ứng lạnh/đông
thủy sản;
- Xây dựng mô hình động học phản
ảnh được mối liên hệ giữa nhiệt độ và chất
lượng thủy sản;
- Làm chủ thiết kế và công nghệ chế tạo
hệ thống mạng cảm biến không dây để giám
sát nhiệt độ, mức độ tiêu thụ năng lượng trong
quá trình bảo quản/vận chuyển thủy sản;
- Chế tạo và thử nghiệm hệ thống giám
sát chất lượng và tiêu hao năng lượng trên
chuỗi cung ứng thủy sản.
Giao diện điều khiển của phần mềm
Sau đây là những kết quả đã đạt được
của nhiệm vụ:
1. Nhiệm vụ đã hoàn thành việc thiết
kế và chế tạo hệ thống mạng cảm biến không
dây WSN để giám sát, điều khiển, cảnh báo
nhiệt độ, mức độ tiêu thụ năng lượng xe
lạnh/container 20 feet/container 40 feet: với 8
nút cảm biến đo nhiệt độ với dải đo (-40÷105)
độ C, độ chính xác +0,8 độ C và -0,9 độ C và
1 cảm biến đo mức tiêu thụ điện với dải đo
(0÷13,2) kW, độ chính xác ± 4,2% với
cosφ=1;
2. Nhiệm vụ đã hoàn thành việc thiết
kế và chế tạo hệ thống mạng cảm biến không
dây WSN để giám sát, điều khiển, cảnh báo
nhiệt độ, mức độ tiêu thụ năng lượng kho
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 34/44
lạnh: với 64 nút cảm biến đo nhiệt độ với dải
(- 40÷105) độ C, độ chính xác +0,8 độ C và -
0,9 độ C và 1 cảm biến đo mức tiêu thụ điện
với dải đo (0÷39,6) kW, độ chính xác ± 4,2%
với cosφ = 1;
3. Nhiệm vụ đã hoàn thành việc xây
dựng bộ phần mềm giám sát điều khiển trung
tâm, tích hợp với phần mềm quản lý tích hợp
các mô hình sơ cấp và thứ cấp của vi sinh vật
gây hỏng đặc trưng và vi sinh vật gây bệnh
trên tôm sú và cá tra fillet. Phần mềm có đầy
đủ tính năng điều khiển, giám sát, cài đặt cấu
hình hệ thống, lưu trữ, báo cáo thống kê, nảo
mật hệ thống và an toàn dữ liệu được tích hợp
với phần mềm quản lý tích hợp các mô hình
sơ cấp và thứ cấp của vi sinh vật gây hỏng
đặc trưng và vi sinh vật gây bệnh trên tôm sú
và cá tra fillet, trao đổi dữ liệu qua WSN,
chạy trên hệ điều hành Windows 7 và giao
diện tiếng Việt, thân thiện với người sử dụng.
4. Nhiệm vụ đã hoàn thành việc xây
dựng phần mềm quản lý tích hợp các mô hình
sơ cấp và thứ cấp của vi sinh vật gây hỏng
đặc trưng và vi sinh vật gây bệnh trên tôm sú
và cá tra fillet. Có khả năng dự đoán TVC
dựa trên lịch sử nhiệt độ với độ chính
xác:78,6-100% lượng TVC quan sát nằm
trong vùng mô phỏng chấp nhận ASZ; Có
chức năng đưa ra lượng vi sinh vật đích cho
phép/trong mức chấp nhận để so sánh với
lượng vi sinh vật dự đoán. 397
5. Nhiệm vụ đã tham gia đào tạo 08 kỹ
sư công nghệ thực phẩm, 01 thạc sĩ công
nghệ thực phẩm và 01 thạc sĩ công nghệ sau
thu hoạch.
6. Nhiệm vụ đã đăng 1 bài báo khoa
học quốc tế, nộp đăng 02 báo khoa học quốc
tế; đã đăng 2 bài báo khoa học trong nước,
nộp đăng 1 bài báo khoa học trong nước,
tham gia 04 hội thảo khoa học quốc tế. 7.
Nhiệm vụ đã tổ chức thành công 02 hội thảo
trong nước.
Nguồn: vista.gov.vn, 31/10/2018
Trở về đầu trang
**************
MÔI TRƯỜNG
Nghiên cứu thiết kế chế tạo thiết bị hấp thụ kiểu Rainstorm
Các ngành công nghiệp khác nhau phát
thải ra những nguồn khí thải có thành phần
các chất gây ô nhiễm môi trường không khí
khác nhau. Dựa trên những tính chất vật lý,
hóa học của các chất gây ô nhiễm và các đặc
tính của nguồn thải, điều kiện kinh tế, yêu cầu
chất lượng nguồn khí thải trước khi thải ra
môi trường thì có nhiều phương pháp xử lý
khí thải khác nhau. Trong đó có phương pháp
hấp thụ được thế giới nghiên cứu và ứng dụng
thành công để xử lý khí thải. Có rất nhiều
dạng thiết bị sử dụng để xử lý hơi khí thải
như tháp đệm, tháp phun rỗng, tháp venturi,
Rainstorm,…
Trên thế giới, việc áp dụng kết quả
nghiên cứu sử dụng tháp hấp thụ kiểu
Rainstorm để xử lý khí thải gây ô nhiễm môi
trường đã có từ lâu và đã được sử dụng một
cách tương đối rộng rãi và có hiệu quả. Thiết
bị hấp thụ kiểu Rainstorm sau khi nghiên cứu,
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 35/44
thử nghiệm thành công được sản xuất và bán
trên thị trường và được áp dụng nhiều trong
ngành công nghiệp như công nghiệp hóa chất,
công nghiệp sơn, mạ và các ngành công
nghiệp khác có phát sinh hơi, dung môi…
Hiện nay, trên thế giới có nhiều công ty
chuyên nghiên cứu, thiết kế chế tạo và thương
mại thiết bị hấp thụ kiểu Rainstorm, họ có
nhiều cải tiến đáng kể trong việc bảo vệ thiết
bị và tăng hiệu suất của thiết bị, phải kể đến
các công ty như: Stainless Fabrication, INC,
Shappsville Container, Teralba Industries…
Ở Việt Nam, các dòng thiết bị hấp thụ
như tháp đệm, tháp phu rỗng, thiết bị hấp thụ
kiểu venturi,… đã được nghiên cứu và ứng
dụng rộng rãi, tuy nhiên thiết bị hấp thụ kiểu
Rainstorm chưa được nghiên cứu và ứng dụng.
Thiết bị hấp thụ kiểu Rainstorm phù
hợp với việc xử lý khí có lưu lượng lớn, hiệu
quả xử lý khí thải cao, thiết bị dễ vận hành và
đặc biệt là có cấu tạo đơn giản, tiêu hao năng
lượng vận hành thấp nhất.
Vì vậy việc nghiên cứu, thiết kế chế
tạo thiết bị hấp thụ kiểu Rainstorm hấp thụ
các chất hữu cơ bay hơi như toluen, xylen…
sẽ góp phần đáng kể vào việc làm sạch môi
trường, cải thiện điều kiện làm việc cho nhà
máy và bảo vệ sức khỏe cán bộ công nhân
viên làm việc trong khu vực phát sinh hơi khí
thải.
Từ tình hình nghiên cứu, ứng dụng và
thực tiễn sản xuất đã đặt ra vấn đề nghiên cứu
thiết kế chế tạo thiết bị thiết bị hấp thụ kiểu
Rainstorm để giúp tự chủ được công nghệ và
chế tạo thiết bị không phải phụ thuộc vào việc
nhập khẩu từ nước ngoài, giảm chi phí đầu tư
và chi phí ngoại tệ nâng cao hiệu quả làm
việc, từng bước nội địa hóa thiết bị vào thị
trường Việt Nam, bảo vệ môi trường cũng
như gián tiếp góp phần giảm giá thành sản
phẩm. Đó cũng là lý do mà Cơ quan chủ trì
Công ty Cổ phần Thiết kế Công nghiệp Hóa
chất cùng phối hợp với Chủ nhiệm nhiệm vụ:
ThS. Ngô Quốc Khánh thực hiện đề tài
“Nghiên cứu thiết kế chế tạo thiết bị hấp thụ
kiểu Rainstorm”.
Trong thời gian gần 1 năm kể từ ngày
nhận được đề tài khoa học và công nghệ do
Bộ Công Thương giao, nhóm thực hiện đề tài
đã thực hiện được đầy đủ nội dung yêu cầu
của nhiệm vụ được giao bao gồm:
- Nghiên cứu, thu thập các tài liệu
nước ngoài về các dạng thiết bị hấp thụ khí
thải và tình hình sử dụng thiết bị hấp thụ kiểu
rainstorm ở Việt Nam và trên thế giới. - Đã
xây dựng được hồ sơ thiết kế chế tạo thiết bị
hấp thụ rainstorm và đã chế tạo thành công
thiết bị hấp thụ cũng như xây dựng dây
chuyền công nghệ và lắp đặt tại hiện trường
để tổ chức tiến hành thí nghiệm, đánh giá
hiệu quả của thiết bị.
- Đã tiến hành chạy thử thử nghiệm tại
hiện trường, hiệu chỉnh các thông số công
nghệ kỹ thuật phù hợp với hiệu xuất hấp thụ
tối ưu nhất.
- Đã xây dựng quy trình vận hành và
đánh giá khả năng áp dụng vào thực tế. Các
mục tiêu khoa học đạt được của đề tài góp
phần không nhỏ vào việc cung cấp các giải
pháp chế tạo, lựa chọn các dạng thiết bị hấp
thụ thích hợp để giảm tiêu hao nguyên nhiên
liệu trong quá trình vận hành, cũng như khả
năng chế tạo các thiết bị trong nước, tạo
nguồn cung ổn định, tránh phải phụ thuộc vào
các nhà sản xuất và nhập khẩu nước ngoài.
Nguồn: Vista.gov.vn, 30/10/2018
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 36/44
Nghiên cứu hiệu quả kinh tế trong giảm nhẹ khí nhà kính cho lĩnh vực quản lý chất thải
Phát thải KNK ở Việt Nam giai đoạn 1994 - 2010 theo lĩnh vực.
Biến đổi khí hậu (BĐKH) đang diễn ra
ngày càng mạnh mẽ và khó dự đoán hơn
trước. Trước tình hình đó, Chính phủ Việt
Nam đã và đang quan tâm đặc biệt tới việc
ứng phó với BĐKH thông qua việc ban hành
các chính sách, hoạt động về ứng phó với
BĐKH, đặc biệt chủ động cùng các nước trên
thế giới cam kết và thực hiện các hiệp ước,
thỏa thuận quốc tế về BĐKH. Tính tới nay,
Việt Nam cùng hơn 148 nước đã phê chuẩn
việc thực hiện thỏa thuận Paris.
Trong những năm gần đây, Việt Nam
đã có một số nghiên cứu về các giải pháp
giảm nhẹ KNK trong lĩnh vực chất thải tuy
nhiên chưa có nghiên cứu nào đánh giá hiệu
quả kinh tế từng giải pháp. Đặt trong bối cảnh
hơn 70% lượng phát thải là từ chất thải rắn
(CTR), trong đó chủ yếu là nguồn chất thải
rắn đô thị (CTRĐT), đề tài “Nghiên cứu hiệu
quả kinh tế trong giảm nhẹ khí nhà kính cho
lĩnh vực quản lý chất thải” do ThS. Trần
Phương và TS. Đỗ Tiến Anh thuộc Viện
Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi
khí hậu làm chủ nhiệm đã tập trung nghiên
cứu đánh giá hiệu quả kinh tế của các biện
pháp giảm nhẹ cho lĩnh vực CTRĐT. Đây là
sẽ là tiền đề quan trọng không chỉ phục vụ
việc lựa chọn các giải pháp đảm bảo phát
triển bền vững mà còn thúc đẩy việc thu hút
đầu tư tư nhân trong lĩnh vực này.
Phát thải KNK trong lĩnh vực chất thải năm 2010 (triệu tấn CO2)
Các nội dung chính của đề tài, gồm:
- Nội dung 1: Tổng quan nghiên cứu
liên quan đến phân tích hiệu quả kinh tế của
các giải pháp giảm nhẹ KNK;
- Nội dung 2: Tổng quan vấn đề về
giảm nhẹ KNK cho lĩnh vực quản lý chất thải
trên thế giới và ở Việt Nam;
- Nội dung 3: Nghiên cứu, xác định mô
hình tính toán hiệu quả kinh tế của các hoạt
động giảm nhẹ KNK trong lĩnh vực CTRĐT;
- Nội dung 4: Nghiên cứu, xây dựng
tiêu chí xác định các giải pháp giảm nhẹ
KNK cho lĩnh vực quản lý CTRĐT;
- Nội dung 5: Nghiên cứu, đề xuất các
định hướng ưu tiên giảm nhẹ KNK trong lĩnh
vực quản lý CTRĐT.
Với mục đích đó, đề tài được xây dựng
với 03 mục tiêu:
- Đánh giá được tiềm năng giảm nhẹ
KNK trong lĩnh vực quản lý CTRĐT;
- Đề xuất được mô hình lượng hóa
hiệu quả kinh tế của các hoạt động giảm nhẹ
KNK trong lĩnh vực quản lý CTRĐT;
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 37/44
- Đề xuất được bộ chỉ tiêu lựa chọn và
định hướng ưu tiên giảm nhẹ KNK trong lĩnh
vực quản lý CTRĐT.
Các kết quả của đề tài đã đáp ứng giải
quyết được các mục tiêu, cụ thể bao gồm:
- Đối với mục tiêu đánh giá tiềm năng
giảm nhẹ khí nhà kính trong lĩnh vực quản lý
chất thải rắn đô thị, đề tài đã xác định được
các giá trị tiềm năng giảm phát thải của từng
khu xử lý đặc trưng từ -0,34 (đối với giải
pháp đốt CTR) đến 1,4 tấn CO2tđ/tấn rác thải
được xử lý (đối với giải pháp sản xuất phân
compost). Trên cơ sở đó, tiềm năng giảm phát
thải từ các giải pháp xử lý CTR được tính
toán cho toàn bộ Việt Nam có giá trị từ 132,7
và 82,4 (lần lượt theo các kịch bản 10% và
3,27% đối với giải pháp chôn lấp có thu hồi
khí) đến 324,2 và 201,9 triệu tấn CO2tđ (lần
lượt theo các kịch bản 10% và 3,27% đối với
giải pháp xử lý kỵ khí).
- Đối với mục tiêu đề xuất được mô
hình lượng hóa hiệu quả kinh tế của các hoạt
động giảm nhẹ khí nhà kính trong lĩnh vực
quản lý chất thải rắn đô thị, đề tài đã đưa ra
được hiệu quả kinh tế của các giải pháp, từ -
0,12 (đối với giải pháp xử lý kỵ khí có thu hồi
khí cho cấp nhiệt) đến 4,36 triệu VNĐ/tấn
CO2 giảm được (đối với giải pháp sản xuất
RDF). Hơn nữa, 6 nhóm giải pháp (bao gồm:
MO1. Chôn lấp có thu hồi khí cho phát điện;
MO2. Chôn lấp bán hiếu khí; MO3. Sản xuất
phân compost và Đốt CTR cho phát điện;
MO4. Sản xuất phân compost và Sản xuất
RDF; MO5. Xử lý kỵ khí có thu hồi khí sinh
học cho cấp nhiệt và Đốt CTR cho phát điện;
MO6. Xử lý kỵ khí có thu hồi khí sinh học
cho cấp nhiệt và Sản xuất RDF) được xác
định nhằm đánh giá cho 3 thành phố Hà Nội,
Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và toàn bộ
Việt Nam.
- Đối với mục tiêu đề xuất bộ chỉ tiêu
lựa chọn và định hướng ưu tiên giảm nhẹ khí
nhà kính trong lĩnh vực quản lý chất thải rắn
đô thị, đề tài đã xây dựng được bộ tiêu chí
của đề tài bao gồm 5 tiêu chí kinh tế và 5 tiêu
chí kỹ thuật sử dụng để chọn lọc các giải
pháp ưu tiên cho các địa phương. Dựa trên cơ
sở đánh giá của bộ tiêu chí, các định hướng
ưu tiên trong việc triển khai các giải pháp
giảm phát thải KNK cũng được xác định cho
3 thành phố thí điểm và toàn bộ Việt Nam.
Nguồn: Vista.gov.vn, 31/10/2018
Trở về đầu trang
**************
LĨNH VỰC KHÁC
Vinh danh 63 nông dân Việt sáng tạo trong sản xuất
Ban tổ chức trao chứng nhận cho 9 nông dân xuất sắc nhóm phát minh, sáng chế.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 38/44
Những giải pháp kỹ thuật, sáng kiến trong sản xuất, nâng giá trị sản phẩm nông nghiệp được
tôn vinh, khẳng định vai trò của nông dân.
Tối 14/10 chương trình Tự hào Nông dân Việt Nam 2018 và Tôn vinh, trao danh hiệu Nông
dân Việt Nam xuất sắc được tổ chức tại Hà Nội.
Năm nay có 63 nông dân xuất sắc được vinh danh thuộc 4 nhóm lĩnh vực gồm: lĩnh vực
trồng trọt chiếm số lượng cao nhất (21 người), chăn nuôi, trang trại tổng hợp (13 người); nuôi
trồng thủy hải sản (10 người); sản xuất, chế biến, kinh doanh dịch vụ nông nghiệp (10 người); phát
minh, sáng kiến, giải pháp kỹ thuật (9 người).
Chương trình khởi xướng từ năm 2013 và trở thành sự kiện thường niên do Trung ương Hội
Nông dân Việt Nam chủ trì, phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, Bộ Công thương tổ chức.
Nông dân được lựa chọn dựa trên các tiêu chí: đạt thành tích xuất sắc trong sản xuất, kinh
doanh các sản phẩm nông nghiệp; có thành tích xuất sắc trong phong trào xây dựng nông thôn mới;
có thành tích xuất sắc trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc, chủ quyền quốc gia; có
sáng kiến, phát minh mang tính khoa học đã được ứng dụng và đem lại hiệu quả kinh tế, xã hội cao
trong hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Những sáng chế thu tiền tỉ
Ở lĩnh vực phát minh, sáng kiến, giải pháp kỹ thuật có thể kể đến chiếc máy ruôi (thái/nạo)
sắn của ông Hà Kim Tới ở Phú Thọ đã giúp bà con nông dân tiết kiệm được thời gian trong việc
bóc vỏ, nạo sắn. Với phương pháp thủ công, một tấn sắn phải mất vài ngày mới nạo xong thì chiếc
máy này chỉ cần một giờ và không cần thêm người bóc vỏ sắn.
Còn ông Vương Hùng Nam ở Cao Bằng đã chế tạo máy bóc lạc có tay quay và cải tiến máy
thái thức ăn gia súc bằng gỗ có mô tơ.
Ông Trương Văn Thủy đến từ Bắc Kạn cải tiến máy xẻ gỗ chạy bằng mô tơ điện với nhiều
ưu điểm: không tốn nhiều chi phí, giảm sức lao động đồng thời tăng năng suất và có thể điều chỉnh
linh hoạt phù hợp với hoàn cảnh lao động.
Đến từ Trà Vinh, ông Nghiêm Đại Thuận được vinh danh vì đã tạo ra máy se chỉ tơ xơ dừa,
đã được Sở khoa học và Công nghệ Trà Vinh cấp chứng nhận. Ông đã bán 200 máy tại đồng bằng
sông Cửu Long với giá bình quân 60 triệu đồng/cái.
Ông Nguyễn Văn Dũng (An Giang) thì chế tạo thiết bị đánh rãnh thoát nước; Máy phun
thuốc bảo vệ thực vật hai trong một cải tiến giúp bà con nông dân bảo vệ sức khỏe, hiệu quả phun
thuốc trừ sâu cao hơn.
Ông Nguyễn Văn Nhân (Thừa Thiên - Huế) đã sáng chế ra máy ấp trứng gia cầm các loại.
Hàng năm có tới 100-120 máy ấp trứng gia cầm các loại được ông sản xuất và bán ra thị trường.
Doanh thu đạt gần 2 tỷ đồng, lợi nhuận từ 200-240 triệu đồng.
Còn ông Phan Văn Hòa (Nghệ An) đã nghiên cứu, thử nghiệm sản xuất, chế biến trà gạo
thảo dược Vĩnh Hòa. Hiện ông được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cấp 3 bằng bảo hộ
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 39/44
giống cây trồng; Cục Sở hữu trí tuệ công nhận 5 tài sản sở hữu trí tuệ, một đề tài thử nghiệm sản
xuất và chế biến thực phẩm chức năng từ lúa gạo (cấp quốc gia).
Phát biểu khai mạc tại Lễ tôn vinh và trao danh hiệu Nông dân Việt Nam xuất sắc năm 2018,
ông Thào Xuân Sùng, Uỷ viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội Nông
dân Việt Nam ghi nhận đóng góp của 63 nông dân tiêu biểu. Ông cũng mong muốn tinh thần này
được lan tỏa tới nông dân cả nước, tạo động lực thúc đẩy phong trào thi đua sản xuất, kinh doanh
giỏi, giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững.
Nguồn: Vnexpress.net,14/10/2018
Trở về đầu trang
**************
Việt Nam sản xuất vệ tinh quan sát Trái Đất để dự báo thiên tai
Lộ trình phát triển vệ tinh của Việt Nam
Các kỹ sư của Việt Nam cùng với
chuyên gia Nhật Bản trực tiếp sản xuất vệ tinh
LOTUSat - 1 tại Nhật Bản trong 36 tháng.
Chiều 18/10, Cơ quan hợp tác quốc tế
Nhật Bản đã thông tin về việc Việt Nam và
Nhật Bản đang chuẩn bị để sản xuất vệ tinh
radar LOTUSat - 1. Vệ tinh có độ phân giải
cao (từ 1 đến 16 m), tức là có thể quan sát hình
ảnh của một vật thể chi tiết khoảng 1-16 m.
Đây là nhiệm vụ thuộc hợp phần của
dự án Phòng chống thiên tai và biến đổi khí
hậu sử dụng vệ tinh quan sát Trái Đất do
Trung tâm Vũ trụ Việt Nam thực hiện.
LOTUSat - 1 là vệ tinh dùng cảm biến
chủ động (sóng vô tuyến), không phụ thuộc
vào nguồn sáng mặt trời, cho khả năng quan
sát cả ngày lẫn đêm, giúp tăng gấp đôi hiệu
suất quan sát Trái Đất so với vệ tinh dùng cảm
biến quang học (chỉ chụp ban ngày). Nó còn
có khả năng đâm xuyên, phân biệt tính chất
vật liệu bề mặt và phản xạ tín hiệu vô tuyến.
TS Vũ Anh Tuân, Phó tổng Giám đốc
Trung tâm Vũ trụ Việt Nam cho biết, thời
gian thực tế cần để sản xuất vệ tinh LOTUSat
- 1 là 36 tháng. Thời gian thử nghiệm và
phóng lên quỹ đạo chưa xác định được do còn
phụ thuộc nhiều yếu tố (thông thường phải
đợi 6 tháng đến một năm).
Vệ tinh MicroDragon (50kg) thuộc chương trình đào tạo của Dự án đã được chế tạo thành công và
chuẩn bị phóng vào cuối năm 2018.
Ông Tuân cho biết việc sản xuất vệ
tinh này sẽ được thúc đẩy nhanh để phục vụ
việc dự báo thiên tai. Dự kiến khi ứng dụng
sẽ giảm 10% thiệt hại do thiên tai ảnh hưởng
đến nền kinh tế Việt Nam.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 40/44
Hiện nay muốn chụp ảnh một khu vực
nào đó Việt Nam phải đặt hàng, sau đó ít nhất
hai ngày mới nhận được kết quả. Nhưng có
vệ tinh quan sát Trái Đất riêng, mọi việc sẽ
được hoàn tất chỉ trong vòng 6 -12 giờ.
Để hoàn thành mục tiêu này, từ khâu
thiết kế, lắp ráp và thử nghiệm đều được các
sinh viên, kỹ sư của Việt Nam thực hiện ở
Nhật Bản. Hiện đã có 36 cán bộ nghiên cứu
và kỹ sư trẻ của Việt Nam được gửi đến 5
trường đại học của Nhật Bản để theo học
chương trình đào tạo thạc sĩ công nghệ vũ trụ
và thực hành sản xuất vệ tinh micro cỡ 50 kg
sẽ được phóng vào tháng 12 tới.
Việt Nam từng phóng lên vũ trụ
Vinasat 1 (tháng 4/2008) và Vinasat 2 (phóng
tháng 5/2012). Đây là hai vệ tinh viễn thông
có nhiệm vụ phát, tiếp sóng.
VNRedSat 1 (phóng tháng 5/2013) là vệ
tinh quang học quan sát Trái Đất của Việt
Nam, có nhiệm vụ giám sát thảm họa thiên
nhiên, môi trường và tài nguyên của Việt Nam.
Nguồn: Vista.gov.vn, 12/09/2018
Trở về đầu trang
**************
Việt Nam làm chủ tịch Ủy ban vệ tinh quan sát Trái Đất 2019
PGS Phạm Anh Tuấn vị trí chủ tịch Ủy ban Vệ tinh quan sát Trái Đất 2019.
PGS Phạm Anh Tuấn, Tổng Giám đốc
Trung tâm Vũ trụ Việt Nam đại diện cho Việt
Nam nhận vị trí chủ tịch Ủy ban Vệ tinh quan
sát Trái Đất 2019 – CEOS Chair 2019 tại
phiên họp thứ 32 của Ủy ban tổ chức tại
Brussels (Bỉ), ngày 16 - 18/10.
Đây là nhiệm vụ luân phiên mỗi năm
một lần đối với các nước là thành viên tham
gia Ủy ban. Hiện Ủy ban có 32 thành viên
đến từ các vùng địa lý lớn như Mỹ, châu Âu,
châu Phi, châu Á/Thái Bình Dương.
Với vai trò Chủ tịch Ủy ban Vệ tinh
quan sát Trái Đất năm 2019, Việt Nam sẽ có
nhiệm vụ điều phối chiến lược của các cơ
quan thành viên CEOS; phối hợp với Chủ tịch
Nhóm thực hiện các chiến lược quốc tế về
giảm nhẹ thiên tai, đa dạng sinh học, quan sát
khí hậu, đại dương và mặt đất trên toàn cầu...
PGS Phạm Anh Tuấn cho biết, khi
đảm nhận vị trí chủ tịch, Việt Nam sẽ đưa ra
hai sáng kiến chính là quan sát carbon (các
khu vực rừng, phối hợp với việc quan sát Trái
Đất) để hỗ trợ giám sát và quản lý rừng trong
khu vực một cách hiệu quả và quan sát phục
vụ nông nghiệp (giám sát lúa). "Các ứng dụng
này rất thiết thực trong việc đánh giá phát
triển nông nghiệp của Việt Nam và sẽ được
mở rộng tại các quốc gia thuộc khu vực sông
Mekong", ông Tuấn nói.
Tại phiên họp toàn thể lần thứ 32, hai
sáng kiến của Việt Nam đã nhận được sự ủng
hộ và cam kết hỗ trợ từ các tổ chức thành
viên CEOS trong việc chia sẻ dữ liệu vệ tinh,
đào tạo nhân lực và cơ hội tham gia các dự án
tiềm năng.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 41/44
Phiên họp toàn thể CEOS năm 2019 do
Việt Nam đăng cai sẽ diễn ta tại Hà Nội từ 14
đến 16/10/2019.
Ủy ban Vệ tinh quan sát Trái đất
(CEOS) được thành lập vào năm 1984, là cơ
quan đầu mối phối hợp các hoạt động quốc tế
liên quan đến không gian và quan trắc
Trái Đất.
CEOS khuyến khích tương tác, hỗ trợ
và bổ sung giữa các hệ thống vệ tinh quan
sát Trái Đất thông qua việc phối hợp lập kế
hoạch, thúc đẩy truy cập dữ liệu không phân
biệt đối xử, thiết lập tiêu chuẩn, phát triển
dữ liệu tương thích với các sản phẩm, dịch
vụ và ứng dụng.
Nguồn: Vnexpress.net,19/10/2018
Trở về đầu trang
**************
B. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
I. Sở Khoa học và Công nghệ TP. Hồ Chí Minh
1. Nghiệm thu đề tài
TT Tên đề tài/Dự án Chủ nhiệm/CQ chủ trì
1 Nghiên cứu hoàn thiện và chế tạo bộ điều khiển độ
cao đầu cắt CNC Plasma và Gas.
TS. Chung Tấn Lâm - Cty
TNHH chế tạo máy 3C
2 Ước lượng và trực quan hóa các thông số giao thông
dựa trên hình ảnh.
TS. Lê Thành Sách -
Trường Đại học Bách Khoa
3
Nghiên cứu tổng hợp vật liệu nano kháng khuẩn trên
cơ sở kết hợp ZnO và TiO2 hướng đến ứng dụng trên
gạch men và PVC.
PGS.TS. Huỳnh Kỳ Phương
Hạ - Trường Đại học Bách
Khoa
4 Nghiên cứu ứng dụng hệ polythiophene biến tính
trong pin mặt trời hữu cơ.
ThS. Lưu Tuấn Anh -
Trường Đại học Bách Khoa
5 Nghiên cứu thiết kế chế tạo hệ thống hỗ trợ điều
hành chỉ huy tác chiến cho đơn vị Hải quân cấp vùng.
ThS. Huỳnh Huy Cường -
Viện Công nghệ thông tin
6
Nghiên cứu, xây dựng quy trình xử lý nước thải
nhiễm xăng dầu ứng dụng vi sinh vật bản địa.
ThS. Đinh Thị Vân - Trung
tâm Nhiệt đới Việt - Nga,
Chi nhánh phía Nam
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 42/44
II. Các đơn vị trong nước: Nghiệm thu đề tài/Dự án
TT Ngày Tên đề tài/ Dự án
Chủ nhiệm/ CQ chủ
trì
Ngành Kinh tế
1 04/10/2018 Lập kế hoạch kiểm toán các dự án công trình thủy lợi
dựa trên đánh giá rủi ro và xác định trọng yếu.
KS. Nguyễn Hữu
Trí và KS. Phan Thế
Đức - Kiểm toán
nhà nước
2 06/10/2018
Nghiên cứu xây dựng đề cương kiểm toán chuyên đề
quản lý và sử dụng nguồn vốn chuyển đổi đất quốc
phòng.
ThS. Nguyễn Tiến
Đạt; ThS. Mai Hải
Cường - Kiểm toán
nhà nước
3 21/10/2018
Hoàn thiện hệ thống thông tin kế toán quản trị tại các
doanh nghiệp sản xuất và chế biến chè trên địa bàn
tỉnh Thái Nguyên.
TS. Trần Thị Nhung
- Trường Đại học
Kinh tế & Quản trị
kinh doanh - Đại
học Thái Nguyên
4 31/10/2018
Nghiên cứu đề xuất công cụ phục vụ kiểm toán năng
lượng lồng ghép đánh giá tiềm năng sản xuất sạch
hơn cho một số ngành công nghiệp chủ yếu của tỉnh
Bình Dương.
GS.TS Lê Thanh
Hải - Viện Môi
trường và Tài
nguyên (thuộc Đại
học Quốc gia Thành
phố Hồ Chí Minh)
Ngành Khoa học tự nhiên và Kỹ thuật
5 14/09/2018
Ảnh hưởng của tannin kết hợp với biochar bổ sung
vào khẩu phần cơ sở đến tiêu hóa dạ cỏ và lượng
methane thải ra trong điều kiện invitro.
TS. Mai Anh Khoa -
Đại học Thái
Nguyên
6 03/10/2018
Nâng cao tính thực tiễn trong giảng dạy tiếng Anh
chuyên ngành tại Trường Đại học Ngoại thương Cơ
sở II TP.HCM.
ThS. Lê Hồng Linh
- Trường Đại học
Ngoại thương Cơ sở
2 tại TP. HCM
7 06/10/2018
Nghiên cứu thực trạng và giải pháp phát triển sản
xuất lúa theo quy mô cánh đồng mẫu lớn ở tỉnh
Quảng Bình.
Th.S Lê Văn Nam -
Trường Đại học
Nông Lâm – Đại
học Huế
8 23/10/2018 Nghiên cứu hệ thống rút gọn văn bản, chuyển đổi cú PGS.TS. Phùng
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 43/44
pháp và biểu diễn đồ họa 3D ngôn ngữ ký hiệu Việt
Nam.
Trung Nghĩa -
Trường Đại học
Công nghệ thông tin
và Truyền thông
9 27/10/2018 Thử nghiệm sinh sản nhân tạo và nuôi thương phẩm
cá niên tại Quảng Nam.
Th.S Nguyễn Công
Dưỡng Trung tâm
chọn giống cá rô phi
10 27/10/2018 Nghiên cứu thiết kế, chế tạo thiết bị thu hoạch, chẻ và
thiết bị sấy cây lác ở tỉnh Vĩnh Long.
Trường ĐH Sư
phạm kỹ thuật Vĩnh
Long
11 28/10/2018
Nghiên cứu thiết kế, cải tiến động cơ diesel 1 xylanh
sang hoạt động theo nguyên lý cháy do nén hỗn hợp
đồng nhật (HCCI).
TS. Khương Thị Hà
- Trường Đại học
Giao thông vận tải
12 28/10/2018 Nghiên cứu xây dựng sổ tay điện tử hỏi - đáp theo
các văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành.
CN.Đỗ Thị Diễm -
Học viện Cán bộ
Quản lý Xây dựng
& Đô thị (AMC)
13 28/10/2018 Đánh giá thực trạng và hiệu quả chăn nuôi trâu ở
nông hộ tại tỉnh Thừa Thiên Huế.
Ông Dương Thanh
Hải - Trường Đại
học Nông Lâm –
Đại học Huế
14 30/10/2018
Nghiên cứu tính toán thiết kế và thử nghiệm hố ga
thu nước ngăn mùi không muỗi tại tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu.
TS. Nguyễn Đức
Quý - Trường Đại
học Bà Rịa - Vũng
Tàu và ông Hồ Viết
Vẻ - Công ty TNHH
Sigen
15 31/10/2018 Nâng cao tính thực tiễn trong giảng dạy các môn
Luật tại Cơ sở II Trường Đại học Ngoại thương.
ThS. Lưu Thị Bích
Hạnh - Trường Đại
học Ngoại thương
Cơ sở 2 tại TP.
HCM
Ngành Giáo dục đào tạo
16 22/10/2018 Nghiên cứu xây dựng nội dung chương trình đào tạo
các ngành của Trường Đại học Thống kê.
TS. Nguyễn Ngọc
Tú - Trường Cao
đẳng Thống kê
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 11/2018 44/44
17 24/10/2018 Nghiên cứu việc dạy học trong môi trường đa văn
hóa ở vùng dân tộc miền núi phía Bắc.
PGS.TS. Ngô Thị
Thanh Quý - Đại
học Thái Nguyên
18 30/10/2018 Nghiên cứu ghép thùy phổi hoặc một phổi từ người
cho chết não hoặc người cho sống.
GS.TS Đỗ Quyết -
Học viện Quân y
Ngành văn hóa xã hội
19 18/10/2018
Nâng cao đạo đức, phong cách của cán bộ, công
chức, viên chức trong Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ
Chí Minh theo đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Đặng Đình Bình và
Phạm Văn Lực -
Ban Quản lý Lăng
Chủ tịch Hồ Chí
Minh
20 12/10/2018
Chương trình, tài liệu tiếng Raglai dành cho cán bộ,
công chức, viên chức công tác vùng dân tộc, miền núi
tỉnh Ninh Thuận.
UBND tỉnh Ninh
Thuận
21 14/10/2018 Cơ sở khoa học xây dựng khung năng lực mẫu cho
một số vị trí việc làm ở Bộ Nội vụ.
ThS. Phạm Đức
Toàn - Viện Khoa
học tổ chức nhà
nước
Trở về đầu trang