ĐẶT VẤN ĐỀ
Tai là một trong những cơ quan quan trọng trong cuộc sống và giao tiếp của
con người, là cơ quan có cấu trúc phức tạp với nhiều bộ phận biệt hoá cao độ, phụ
trách nhiều chức năng thiết yếu của con người như cảm nhận âm thanh, điều chỉnh
thăng bằng, định hướng, điều hoà cơ bắp… Tai ngoài, một bộ phận của tai, không
những đóng vai trò trong chức năng cảm nhận âm thanh, định hướng mà còn có vị
trí thẩm mỹ trên đầu mặt con người và là một mốc quan trọng để nhận dạng trong
công tác hình sự. Với cấu tạo và vị trí đặc biệt của mình, tai ngoài thường dễ bị tổn
thương và nếu không được điều trị đúng cách có thể dẫn đến những biến chứng làm
ảnh hưởng đến chức năng và thẩm mỹ của bệnh nhân.
Báo cáo năm 2002 của Tổ chức Y tế Thế giới cho thấy chấn thương là
nguyên nhân của 5 triệu trường hợp tư vong hàng năm trên toàn thế giới, chiếm 9%
số tư vong chung [27] và tư vong do chấn thương đứng hàng thứ ba trong 19 nhóm
bệnh có có ty lệ tư vong cao nhất [6]. Chấn thương không tư vong cung đóng góp
12% trong gánh nặng bệnh tật toàn cầu. Tại Việt Nam, nghiên cứu dựa vào số liệu
bệnh viện tại 6 tỉnh, thành phố lớn năm 2001 cung cho thấy chấn thương chiếm
13,3% tổng số các trường hợp nhập viện [27]. Theo Lê Văn Lợi (2001), ty lệ các vết
thương thực thể của tai chiếm 2 - 3% tổng số các chấn thương ở người [14]. Theo
Nguyễn Tư Thế (2002), chấn thương tai chiếm 38,2% tổng số chấn thương tai mui
họng chung [23].
Tuy thuộc vào từng giai đoạn phát triển của đất nước mà nguyên nhân và
hình thái của chấn thương tai ngoài có khác nhau. Trong thời chiến, nguyên nhân
chủ yếu là do hoa khí, nhưng trong thời bình, với sự phát triển mạnh mẽ của cơ sở
hạ tầng thì chủ yếu lại do các tai nạn giao thông, tai nạn lao động hay do ẩu đả…
Ngoài ra, kể từ sau ngày ra Quyết định của Chính phủ về việc bắt buộc người đi xe
máy phải đội mu bảo hiểm khi tham gia giao thông (15/12/2007) thì chúng tôi nhận
thấy hình thái của chấn thương tai ngoài lại có phần khác trước.
1
Theo quan sát trên lâm sàng của chúng tôi tại Bệnh viện Trung ương Huế và
Bệnh viện trường Đại học Y Dược Huế thì chấn thương tai ngoài là một bệnh khá
phổ biến, tổn thương đa dạng, dễ chấn đoán. Tuy nhiên, việc điều trị thành công hay
không còn tuy thuộc vào nhiều yếu tố như: tình trạng bệnh nhân, mức độ thương
tổn, kinh nghiệm điều trị và đồng thời, do sự hiểu biết về bệnh tật, điều kiện kinh tế
của người dân còn thấp hoặc do có liên quan đến vấn đề pháp lý nên các chấn
thương tai ngoài còn ít được coi trọng. Mặt khác, các chấn thương tai ngoài thường
xảy ra ở những bệnh nhân bị chấn thương vung đầu mặt đe doạ đến tính mạng con
người như chấn thương sọ não, chấn thương hàm mặt… [14] nên khi cấp cứu cung
ít được quan tâm, dễ bị bo sót. Những điều này có thể dẫn đến một số biến chứng
làm ảnh hưởng đến chức năng, thẩm mỹ của tai như co dúm vành tai, hẹp ống tai…
và làm tốn kém thời gian, công sức và chi phí điều trị hơn.
Việc chẩn đoán và điều trị sớm chấn thương tai ngoài mang lại kết quả khả
quan hơn, do đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài : “Nghiên cứu đặc điểm lâm
sàng và kết quả điều trị chấn thương tai ngoài tại Bệnh viện Trung ương Huế
và Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế” với 2 mục tiêu sau:
1. Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và cân lâm sàng của chấn thương tai ngoài.
2. Đánh giá kết quả điều trị chấn thương tai ngoài.
2
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. SỰ HÌNH THÀNH CÁC CẤU TRÚC CỦA TAI NGOÀI
Về mặt phôi thai học, tai ngoài có nguồn gốc từ đoạn trong của khe mang thứ
nhất [50], [60].
Trong quá trình phát triển, vành tai hình thành trễ hơn các bộ phận khác của
tai, vào khoảng tuần thứ năm của phôi thai. Vành tai phát sinh từ 6 gò loa tai xuất
hiện ở xung quanh khe mang 1 và được hình thành theo hướng từ trên xuống dưới
rồi rời dần về vị trí 2 bên đầu và ngang mắt. Vành tai to lên nhanh chóng vào 3 năm
đầu đời, lúc 6 tuổi xấp xỉ 85% kích cơ của người lớn và 95% khi 8 - 10 tuổi [55].
a) Giai đoạn đầu của phôi thai b) Giai đoạn cuối của phôi thai c) Khi mới sinh
Hinh 1.1: Sư phát triển của tai ngoài trong bào thai [60].
Ông tai ngoài phát triển từ khe mang thứ nhất khoảng tuần thứ tư. Trong giai
đoạn đầu của quá trình hình thành, các tế bào thượng bì ở đầu trong của ống tai
ngoài tạo nên một khối mô ngoại bì đặc được gọi là mô nút ống tai ngoài. Vào
khoảng tuần thứ 21, mô nút này tiêu đi và hình thành nên đoạn trong của ống tai.
Ông tai ngoài có chiều dài của người trưởng thành khi trẻ lên 9 tuổi [35].
1.2. GIẢI PHẪU TAI NGOÀI
1.2.1. Vị tri cua tai ngoài trên cơ thể
Tai ngoài (TN) gồm có vành tai (VT) nằm lộ ra ở hai bên đầu và ống tai
ngoài (ÔT) từ vành tai đến màng nhĩ [20], [30].
3
Vành tai dính vào hai bên đầu đối xứng nhau, hợp với đầu một góc 200 - 300
(góc đầu - tai) [50]. VT nằm ngay sau khớp thái dương - hàm và vung tuyến mang
tai, phía trước xương chum, phía dưới vung thái dương [11], [50]. VT nằm giữa:
- Bờ trên: nằm dưới đường kẻ ngang qua bờ trên hốc mắt.
- Bờ dưới: nằm ngay trên đường thăng kẻ qua gai mui.
- Trục dọc của VT (là đường thăng qua đỉnh cao nhất của VT và điểm thấp
nhất của dái tai) nằm song song với sống mui. Trục VT gần như thăng đứng [24].
- Trục phía trước của vành tai trung với bờ sau nghành lên xương hàm dưới.
Hinh 1.2: Vị tri của vành tai [11], [55].
1.2.2. Vành tai (auricula, pinna)
1.2.2.1. Hinh thể ngoài
Vành tai có hình cái loa hướng ra hai bên đầu nên còn được gọi là loa tai.
Kích thước vành tai trung bình: dài 60 - 65 mm (nam ≈ 63,5 mm, nữ ≈ 59
mm), rộng 25 - 35mm, ty lệ giữa chiều dài và chiều rộng gần bằng 2/1 [11], [20],
[30], dái tai trung bình dài 1,5 - 2 cm [59]. Đối với người Việt Nam, vành tai trung
4
bình ở nam dài 6,2 ± 0,6 cm, rộng 3,3 ± 0,3 cm; ở nữ dài 5,7 ± 0,5 cm, rộng 3,1 ±
0,3 cm; chiều dài của dái tai ở nam 1,7 ± 0,2 cm, nữ 1,6 ± 0,2 cm [11].
Vành tai có hai mặt: mặt trước và mặt sau (hoặc mặt ngoài và mặt trong).
Ơ mặt trước, vành tai có những chỗ lồi và những chỗ lõm mà cách gọi tên có
khác nhau chút ít tuy theo tác giả. Để thống nhất cách gọi chúng tôi dựa vào cách
gọi trong sách Atlas giải phẫu người của Nguyễn Quang Quyền (2000) [19].
- Những chỗ lồi, tính từ chu vi về trung tâm, là: gờ nhĩ luân (helix), gờ đối
luân (antihelix), bình tai (tragus) và gờ đối bình tai (antitragus) [20], [36].
+ Gờ nhĩ luân xuất phát từ trụ nhĩ luân, sau đó đi lên theo một hình vòng
cung với 3 đoạn: đoạn lên, đoạn ngang và đoạn xuống. Đoạn nhĩ luân bắt đầu đi
xuống có một chỗ hơi phình ra, đó là củ nhĩ luân Darwin. Bờ nhĩ luân uốn gấp vào
trong làm cho nhĩ luân có hai mặt, mặt ngoài (đồng thời là mặt trước) và mặt trong.
+ Gờ đối luân là một gờ đồng tâm với gờ nhĩ luân, xuất phát từ phía trước
đuôi luân, đi ngược lên phía trên rồi chia làm hai nhánh hình chữ Y, giữa hai nhánh
này có một hõm hình tam giác gọi là hố tam giác hay hố đối luân.
+ Bình tai hay nắp tai là một mảng gồ lên ở phía trước ÔT. Bình tai có hình
tam giác, nưa bầu dục, có khi giống một hình thang. Nếu bình tai có hình lõm ở
giữa thì phần lồi ở trên được gọi là củ trên bình tai, phần lồi ở dưới là bình tai. Giữa
bình tai ở dưới và gờ nhĩ luân ở trên có một rãnh ngăn cách gọi là rãnh trước tai.
+ Gờ đối bình tai cung là một mảng gồ lên ở phía sau xoắn tai, đối diện với
bình tai ở phía trước. Gờ đối bình thường có hình nưa bầu dục.
- Những chỗ lõm là rãnh luân nhĩ, hố ghe, hố tam giác, khuyết gian bình và
xoắn tai (hõm cưa tai) [20].
+ Rãnh luân nhĩ hay hố thuyền là rãnh lõm giữa gờ nhĩ luân và gờ đối luân.
+ Hố tam giác hay hố đối luân là rãnh lõm giữa hai nhánh chữ Y ở phía trên
của gờ đối luân.
+ Ơ giữa vành tai là một vung lõm xuống như một cái phễu gọi là xoắn tai,
đáy phễu là lỗ ÔT. Trụ nhĩ luân chia xoắn tai thành 2 phần không đều nhau: xoắn tai
trên và xoắn tai dưới. Xoắn tai trên nho, có hình bầu dục, còn gọi là hố ghe. Xoắn
tai dưới lớn hơn, thường có hình tam giác, còn gọi là hõm cưa tai hay ổ xoắn tai.
5
+ Khuyết gian bình hay khuyết liên bình là một rãnh rộng, có hình dạng khá
đối xứng nằm giữa bình tai và gờ đối bình, ngay trên dái tai.
Hinh 1.3: Hinh thể vành tai [2], [19].
- Phần dưới của vành tai được gọi là dái tai (lobule) hay thuy tai. Dái tai nối
phía trên với gờ luân, gờ đối luân, khuyết gian bình và bình tai, giữa chúng có thể
không có ranh giới phân chia hoặc có thể có một rãnh nông gọi là rãnh trên dái tai.
Ơ mặt sau, vành tai uốn theo các chỗ lồi lõm ở mặt trước theo chiều ngược
lại (mặt trước lõm thì mặt sau lồi và ngược lại) và bớt gồ ghề hơn. Giữa mặt sau gờ
nhĩ luân và xoắn tai có một đường rãnh, tương ứng với mặt sau gờ đối luân. Mặt sau
vành tai ngăn cách da đầu bởi một rãnh hình cung gọi là rãnh tai - đầu hoặc rãnh sau
tai [30].
Hai vành tai của người thường không hoàn toàn giống nhau. Các bộ phận của
vành tai cung biến đổi theo tuổi tác và nghề nghiệp: vành tai trẻ em da mịn, các chỗ
lồi lõm không quá gồ ghề; vành tai người già có những nếp nhăn, gập khúc, sụn
cứng hơn và gồ lên rõ hơn, người lao động chân tay nhiều vành tai cứng và gồ ghề
hơn.
1.2.2.2. Cấu tạo
Vành tai là một cái loa bằng sụn, ngoài có da mong bao bọc và được gắn tại
chỗ bởi cơ và dây chằng.
6
- Da có mô liên kết dưới da, các nang lông và một số tuyến bã. Da vành tai
dính chặt vào mặt ngoài của sụn hơn là mặt trong.
- Sụn tạo thành dạng lồi lõm của vành tai, chiếm khoảng 3/4 - 4/5 diện tích
vành tai. Sụn VT là sụn chun, dày từ 0,5 - 1 mm, bọc bởi màng sụn [3]. Sụn ở gờ
bình tai liên tiếp với sụn ÔT. Sụn vành tai có vô số những khe và lỗ thủng nho,
xuyên qua các khe và lỗ thủng ấy là lỗ trục liên kết chứa các mạch máu nên khi va
chạm hoặc chấn thương (CT) nhẹ ở vành tai thôi đã có thể vơ các mạch máu và xuất
huyết giữa sụn và màng sụn gây tụ máu VT [18]. Sụn vành tai giúp vành tai giữ
nguyên hình dạng và có một độ vểnh nhất định so với đầu. Do đó, nếu sụn bị huy
hoại vành tai sẽ biến dạng. Dái tai không có sụn, chỉ có da, mô sợi và mô mơ, là nơi
thường dung để đeo hoa tai hay chọc kim thư thời gian chảy máu [3].
- Cơ và dây chằng: Ngoài da và sụn, vành tai được gắn vào da hai bên đầu
bởi các cơ và dây chằng ngoại lai.
+ Cơ: gồm các cơ ngoại lai và cơ nội tại. Các cơ ngoại lai là loại cơ bám da,
gồm 3 cơ: cơ tai trước, cơ tai sau và cơ tai trên. Các cơ nội tại gồm 8 cơ: cơ luân nhĩ
lớn, cơ luân nhĩ bé, cơ bình tai, cơ đối bình tai, cơ ngang tai, cơ chéo tai, cơ tháp tai
và cơ khuyết nhĩ luân [20], [36].
+ Các dây chằng ngoại lai gồm: dây chằng tai trước, dây chằng tai sau
và dây chằng tai trên.
Nhìn chung, cơ và dây chằng của tai kém phát triển, hầu như không có hữu
ích gì cho việc vận động vành tai [48].
1.2.2.3. Mạch máu và thần kinh
- Động mạch (ĐM): vành tai được cấp máu rất tốt, các ĐM đi đến VT đều có
xuất phát từ ĐM cảnh ngoài gồm: nhánh của ĐM thái dương nông và ĐM tai sau.
nối với nhau tạo thành một mạng nhánh bàng hệ phong phú tập trung ở rìa VT [40].
+ ĐM thái dương nông chia ra các nhánh nhĩ trên, nhĩ giữa và nhĩ dưới cung
cấp máu cho mặt trước của vành tai.
+ ĐM tai sau luôn song song với nhánh sau tai của dây thần kinh tai to cấp
máu cho mặt sau vành tai [36].
7
- Tĩnh mạch (TM) của vành tai không có sự hệ thống hóa như ĐM. Các TM
phía trước chảy vào TM thái dương nông, phía sau chảy vào TM cảnh ngoài hay
TM liên lạc chum [20], [36].
Hinh 1.4: Động mạch của vành tai [40].
(a) ĐM thai dương nông. (b) ĐM tai sau.
- Bạch mạch: mặt trước vành tai đổ vào hạch chum, mặt sau đổ vào hạch
tuyến mang tai trước (ở phía trên) và hạch tuyến mang tai dưới (ở phía dưới).
- Thần kinh (TK):
+ Dây vận động tách từ dây TK mặt (dây VII) đi vào các cơ.
+ Dây cảm giác có nguyên ủy ở dây thái dương và ngành tai của đám rối
thần kinh cổ.
1.2.3. Ống tai ngoài (meatus, ear canal)
1.2.3.1. Hinh thể ngoài
Ông tai ngoài đi từ cưa tai đến màng nhĩ. Do màng nhĩ nằm chếch xuống
dưới và vào trong nên thành trên sau ống tai dài khoảng 24 - 25mm, trong khi thành
trước dưới dài khoảng 31mm. Thiết diện ngang của ống tai hình bầu dục, dẹp theo
chiều trước sau [36].
Nhìn chung, ống tai ngoài đi từ ngoài vào theo hướng từ trước xuống dưới
thành một đường cong hình chữ S, ở gần vành tai nó cong lồi ra trước và đến màng
nhĩ thì cong lõm ra trước [36], chúng tạo ra một chỗ rất hẹp của ống tai, được gọi là
khuyu. Vì vậy, ở người trưởng thành, khi soi tai muốn nhìn thấy màng nhĩ phải kéo
vành tai lên trên và ra sau để làm bớt đi độ cong này.
8
Hinh 1.5: Hinh thể ông tai ngoài [2].
(1) Ông tai ngoài. (2) Màng nhĩ. (3) Xương con.
1.2.3.2. Liên quan
- Thành trước liên quan với hố hàm ở phía trong và một phần tuyến mang tai
ở phía ngoài. Vì vậy, một chấn thương vào cằm có thể làm cho lồi cầu xương hàm
dưới trật ra sau và làm vơ thành trước ống tai [57] và ngược lại, một nhiễm trung ở
ống tai ngoài có thể lan đến tuyến mang tai.
- Thành dưới liên quan đến tuyến mang tai.
- Thành trên cách ngách thượng nhĩ và tầng giữa của sọ bởi một mảnh của
xương thái dương.
- Thành sau cách xoang chum bằng một lớp xương mong [20].
1.2.3.3. Cấu tạo
Ông tai là được cấu tạo bởi sụn, xương và da.
Một phần ba ngoài ÔT được cấu tạo bởi sụn (sụn chun và sụn xơ), sụn này
liên tiếp với sụn vành tai [36]. Ơ thành trước sụn có hai khuyết sụn ÔT làm cho
vành tai dễ di động và giúp dễ dàng nong rộng ống tai ngoài.
Hai phần ba trong ống tai được cấu tạo bởi xương nhĩ (một phần của xương
thái dương). Xương nhĩ có hai mặt, bốn bờ. Trong đó, mặt trên sau của xương tạo
nên thành trước của ống tai ngoài và hòm nhĩ; bờ ngoài tạo thành phần lớn ống tai
ngoài; bờ trong nằm ngang phía dưới và phía ngoài lỗ ống tai .
9
Ông tai ngoài được lót bởi da liên tục với da loa tai và phủ mặt ngoài của
màng nhĩ [36]. Da của ÔT có lông, tuyến bã và tuyến ráy tai có tác dụng làm lớp da
khoi bị khô, giữ độ pH và ngăn cản một phần các dị vật xâm nhập, bảo vệ màng nhĩ
[36]. Da dính chặt vào sụn và xương nên nhọt ở ÔT gây đau đớn dữ dội [3], [20].
1.2.3.4. Mạch máu và thần kinh
- Động mạch: Ông tai ngoài được cấp máu bởi ĐM tai sau, ĐM thái dương
nông và ĐM tai sâu của ĐM hàm.
- Thần kinh: Cảm giác ống tai ngoài được chi phối bởi TK ống tai ngoài
thuộc TK hàm dưới (dây V3) và nhánh tai thuộc TK lang thang (dây X). Vì vậy,
những bệnh của răng dưới và lươi, nơi chịu sự chi phối cảm giác của dây V3 cung
có thể gây cảm giác đau tai ngoài và những vật lạ ở ống tai ngoài có thể kích thích
dây X gây nên phản xạ buồn nôn và ho [20].
1.3. SINH LÝ TAI NGOÀI Tai ngoài và đầu thì thụ động nhưng cung đóng vai trò quan trọng trong chức
năng nghe [48].
Vành tai trông giống như chiếc loa hướng ra hai bên đầu có tác dụng hứng tất
cả những âm thanh trong không khí từ bốn phía và cung có thể định hướng được nơi
phát ra âm thanh. Phía sau VT hơi lồi và mong, phía trước VT lại lõm vào để có thể
thu đủ mọi âm thanh và phản xạ được mọi âm ba [24], [48]. Xoắn tai của vành tai
có tác dụng cộng hưởng khoảng 5 kHz và bề mặt lồi lõm của vành tai tạo ra những
cộng hưởng và phản cộng hưởng khác [48].
Ơ loài động vật hạ đăng có vú thường có vành tai rất to và dài vì cơ nhục nơi
đó rất dài và nhiều nên có thể tuy tiện xoay hay vểnh tai đủ mọi phía để nghe
ngóng. Nhưng tai của loài người lại không như thế được, tai người tuy cố định một
chỗ nhưng vẫn có thể nghe được âm thanh phát ra từ mọi phía, song chỉ đứng ở một
vị trí thích hợp nào đó mới có thể phân biệt được nơi phát âm [12], [22], [48].
Ông tai ngoài có nhiệm vụ đưa sóng âm ba vào đến màng nhĩ. Đồng thời,
ống tai giống như một cái ống một đầu mở, một đầu đóng nên nó có tác dụng như
một vật cộng hưởng sóng. Sự cộng hưởng này được quyết định bởi chiều dài ống
tai, không liên quan đến độ cong của ống, ví dụ nếu ống dài 2,5cm thì tần số cộng
10
hưởng xấp xỉ 3,5 kHz [48]. Có tác giả cho rằng, nhờ sự cộng hưởng ở ống tai ngoài
áp lực sóng âm ba ở tần số 2888Hz có thể tăng lên gấp ba lần [22].
1.4. NGUYÊN NHÂN CỦA CHẤN THƯƠNG TAI NGOÀIĐịnh nghia trương hơp chấn thương là những trường hợp cơ thể có những
tổn thương ở các mức độ khác nhau do phơi nhiễm cấp tính đối với một nguồn năng
lượng tác động lên cơ thể với mức quá ngương chịu đựng của cơ thể hay bởi sự
thiếu vắng đột ngột của các yếu tố thiết yếu, xảy ra do: tai nạn giao thông, tai nạn
sinh hoạt, tai nạn lao động, ngã, ngộ độc, bong, điện giật, tự tư, tự làm hại, hành
hung, đánh nhau… dẫn đến bị vết thương chảy máu, bong gân, phu nề, xây xát, gãy
xương, vơ sụn, chấn thương sọ não, bong, ngạt nước, ngộ độc .v.v. [27]
1.4.1. Tai nạn giao thông
Hiện nay, chấn thương do tai nạn giao thông thường chiếm ty lệ cao nhất do
rất nhiều yếu tố như hệ thống đường sá không đảm bảo, các phương tiện giao thông
cu nát, xuống cấp… [43]. Nhưng quan trọng hơn cả là do hiểu biết và ý thức chấp
hành luật giao thông của nhiều người còn kém.
Mặt khác, từ khi có Quyết định của chính phủ về việc bắt buộc người đi xe
máy phải đội mu bảo hiểm khi tham gia giao thông thì có một số ít bệnh nhân lại bị
chấn thương tai ngoài (CTTN) do những mảnh vơ của mu bảo hiểm cắt vào tai khi
bệnh nhân ngã đập đầu xuống đất. Như vậy, mu bảo hiếm không đảm bảo chất
lượng hiện cung là một yếu tố góp phần gây CTTN khi bị tai nạn giao thông.
1.4.2. Tai nạn lao đông
Xảy ra khi làm việc thiếu phương tiện bảo hộ cần thiết hoặc do sự thiếu cẩn
thận và ý thức chấp hành ky luật lao động không nghiêm chỉnh. Ví dụ như: công
nhân xây dựng ngã giàn giáo, bong xăng, gas khi đang làm việc .v.v.
1.4.3. Tai nạn sinh hoạt
Trong sinh hoạt cung có nhiều nguyên nhân có thể dẫn đến CTTN như trẻ
nho bị ngã khi chạy nhảy, ngã sàn ướt, ngã cầu thang, ngã vào nước sôi hay khi
đang ngoáy tai bị va chạm gây tổn thương ống tai hoặc những CT nho như đập vành
tai vào cưa, gối cứng cung gây chấn thương vi thể dẫn đến tụ máu vành tai…
1.4.4. Tai nạn thể thao
11
Trong khi luyện tập và thi đấu thể thao, các vận động viên có thể bị CTTN
khi bị ngã, bị đấm vào tai trong quyền anh, bóng đá, đua xe… , nhất là các môn võ
thuật có tính đối kháng cao [45], [57]. Theo Perhins S. W., ở Mỹ năm 1991 có hơn
100.000 trường hợp CT đầu mặt do tai nạn thể thao xảy ra ở trẻ dưới 14 tuổi [53].
1.4.5. Đanh nhau (hay âu đả)
Trong chấn thương tai ngoài, đánh nhau cung là một nguyên nhân thường
gặp do bị đánh, đấm vào tai bằng tay không hoặc bằng dụng cụ, một số khác do bị
chém vào tai bằng dao, mã tấu…, đặc biệt còn có một vài trường hợp bị CTTN do
bị động vật cắn hay người cắn trong lúc đánh nhau. Những trường hợp chấn thương
này thường có liên quan đến vấn đề pháp lý nên bệnh nhân thường khai không đúng
sự thật và ít tuân thủ theo đúng yêu cầu điều trị và tái khám của bác sỹ.
Tổ chức Y tế Thế giới năm 2002 đã đưa ra dự đoán chấn thương do tai nạn
giao thông và bạo lực sẽ tăng một cách mạnh mẽ cho tới những năm 2020 [27]. Do
đó, đây là một trong những mối lo ngại cho cộng đồng và ngành y tế.
1.4.6. Tai nạn hoa khi
Nguyên nhân này gặp nhiều trong thời chiến do sát thương của mảnh đạn,
mảnh bom, mìn… Tuy nhiên, trong thời bình cung có thể gặp khi bộ đội diễn tập, ở
những công trình có dung đến thuốc nổ, vô tình dẫm phải mìn trong chiến tranh còn
sót lại…
1.4.7. Cac nguyên nhân khac
Các nguyên nhân này có thể là biến chứng mổ tai [50], [57], tự sát hay không
rõ nguyên nhân (theo nghiên cứu của Phạm Xuân Phụng có 58% CT tụ dịch VT
không rõ nguyên nhân [18])... Tuy nhiên, chúng chiếm ty lệ rất thấp trong CTTN.
1.5. ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CÂN LÂM SÀNG CỦA CHẤN THƯƠNG
TAI NGOÀI
Vết thương được định nghĩa chung là sự mất liên tục của bất cứ phần nào
của cơ thể do CT hoặc những tấn công cơ học gây ra, kể cả những tổn thương do
hóa chất, nhiệt, tia xạ, vi khuẩn và những chất có tính độc hại cho mô tế bào [21].
Chấn thương tai ngoài có những hình thái sau:
12
1.5.1. Rach, đứt, giập vành tai
1.5.1.1. Lâm sàng
- Đau, chảy máu, sưng nề, biến dạng vành tai.
- Có vết thương trên vành tai. Các vết thương này có thể là vết thương xây
xát da, rách da lộ sụn, vết thương xuyên, thiếu hổng vành tai, vết thương đứt rời một
phần hoặc vết thương đứt lìa vành tai hoàn toàn. Các vết thương đứt lìa vành tai
hoàn toàn thường kéo theo đứt lìa ống tai.
Hinh 1.6: Rách, đứt, giâp vành tai [58].
1.5.1.2. Biến chứng
- Viêm sụn màng sụn.
- Hoại tư sụn.
1.5.2. Tụ mau, tụ huyết thanh vành tai
Tụ dịch vành tai thường do những chấn thương nhẹ như đánh vật vào vành
tai, gối đầu vào gỗ… Những chấn thương kín vào VT gây vơ các mạch máu nho
chạy xuyên qua các khe và lỗ thủng nho của sụn VT, làm chảy máu và thanh dịch
khu trú giữa màng sụn và sụn. Do đó, làm bóc tách da và lớp màng sụn ra khoi sụn
và gây gián đoạn sự cấp máu đến sụn. Tụ dịch VT cung có thể tự phát do rối loạn
tuần hoàn của mạch máu, nhất là ở những người già hoặc người suy nhược [18].
1.5.2.1. Lâm sàng
- Không có (hoặc có rất mơ hồ) các dấu hiệu báo trước. Bệnh phát hiện tình
cờ khối tụ máu vành tai do sờ tai hoặc soi mặt chải tóc.
13
- Vành tai thường không đau hoặc đau ít, chỉ cảm giác khó chịu hoặc ngứa ở
vành tai, đau tăng khi có sự nhiễm trung hoặc vơ rách khối u [18], [31].
- Có khối u có bề mặt tròn, phồng lên dạng bán cầu hoặc chom cầu, đều,
nhẵn, căng mọng, màu da đo bầm hoặc tím xanh hoặc bình thường; sờ khối u thấy
mềm, nắn bung nhung; vị trí thường ở mặt trước và 1/3 trên vành tai [18], [22].
Hinh 1.7: Tu máu vành tai sau chấn thương [32], [47].
1.5.2.2. Tiến triển:
Tụ máu vành tai có nhiều diễn biến khác nhau. Nếu là u nho bằng đầu ngón
út (≈ 1cm), nó sẽ tan đi sau một vài tuần (7 - 14 ngày) và để lại một vành tai dày
cộp ở chỗ u cu. Với khối máu tụ lớn bằng ngón chân cái (≈ 2,5 - 3cm), nó cung có
thể tan được nhưng vành tai sẽ bị méo mó và biến dạng [7], [18], [47].
1.5.2.3. Biến chứng:
Trong một số trường hợp u máu vành tai có thể bị nhiễm trung gây viêm
màng sụn dẫn đến hoại tư sụn mà sau khi điều trị tích cực vẫn để lại di chứng co
dúm vành tai. Đây một biến chứng rất nặng nề về mặt thẩm mỹ [18], [37], [47].
1.5.3. Rach, đứt, vỡ ống tai ngoài
Chấn thương ống tai có thể do tai nạn, do ngoáy tai, lấy dị vật tai bằng vật
sắc nhọn hoặc khi cằm đập vào vật cứng làm lồi cầu khớp thái dương - hàm đánh
mạnh vào xương nhĩ có thể gây ra vơ xương nhĩ, rách da ÔT, hẹp ÔT [7], [57].
1.5.3.1. Lâm sàng
- Đau tai, u tai, sưng nề, chảy máu ống tai ngoài.
14
- Nghe kém: tuy trường hợp chỉ có tổn thương ÔT hay tổn thương phối hợp
với tai giữa và tai trong mà có nghe kém dẫn truyền hay nghe kém hỗn hợp [57].
- Có vết thương xây xát, rách da lộ sụn, đứt một phần hay hoàn toàn da và
sụn ống tai.
- Có thể có hẹp ống tai ngoài một phần hoặc hoàn toàn.
- Phim Schuller và CT scan xương chum có thể thấy hình ảnh vơ xương nhĩ,
hẹp ống tai ngoài [57].
1.5.3.2. Biến chứng
- Viêm ống tai ngoài.
- Sẹo hẹp ống tai.
1.5.4. Bong tai ngoài
Theo Jordan J. R. (2006), bong tai ngoài gặp trong hơn 90% các trường hợp
bong vung đầu mặt cổ [45]. Bong tai ngoài thường do tiếp xúc trực tiếp với môi
trường nóng (nước sôi, lưa…) hoặc lạnh (băng giá...) hay các tác nhân khác như
điện hay các chất ăn mòn (acid, base) [10], [37], [58].
1.5.4.1. Lâm sàng:
- Đau, sưng nề vung tai, có thể có u tai, nghe kém.
- Chảy dịch huyết thanh, chảy máu tai ngoài.
- Tổn thương lớp da tai ngoài nông hoặc sâu.
1.5.4.2. Phân độ bong tai ngoài
Theo Võ Ngọc Hoàn (2007) có thể phân độ bong tai ngoài như sau:
Do lạnh cóng (Frosbite): lâm sàng thể hiện theo các mức độ sau:
- Độ 1: Tím da do co thắt mạch.
- Độ 2: Thiếu máu cục bộ với sự hình thành những bóng nước.
- Độ 3: Hoại tư mô sâu.
Do nóng và các tác nhân khác: lâm sàng thể hiện theo các mức độ sau:
- Độ 1: Chỉ tổn thương lớp thượng bì. Vành tai đo, ấm, đau khi sờ.
- Độ 2: Tổn thương lớp thượng bì và một phần lớp bì.
- Độ 3: Tổn thương toàn bộ lớp thượng bì và lớp bì, lộ sụn vành tai - ống tai,
xương ống tai ngoài [10].
15
1.5.4.3. Biến chứng
- Viêm sụn, hoại tư sụn tai ngoài do nhiễm trung vết thương bong.
- Sẹo hẹp ống tai.
1.5.5. Cac chấn thương phối hợp khac
Tai là một bộ phận nằm nhô ra hai bên đầu nên rất dễ bị va chạm. Tuy theo
nguyên nhân, cường độ của lực tác động và hướng của lực tác động mà tổn thương
có thể là CT tai ngoài đơn thuần hoặc kem theo các chấn thương khác như CT sọ
não, vơ xương đá, CT hàm mặt , CT mắt, CT tứ chi, đa chấn thương… [14], [24].
1.6. ĐIỀU TRITrước hết, cần đánh giá các tình huống nguy hiểm liên quan đến tính mạng
như: tắc đường thở, ngừng tim, đứt mạch máu lớn, chấn thương cột sống cổ, chấn
thương sọ não… Sau đó, tiếp tục điều trị cấp cứu theo các chuyên khoa ưu tiên như
ngoại thần kinh, mắt, răng hàm mặt và tai mui họng phối hợp điều trị.
Tai ngoài là nơi giàu mạch máu, thần kinh và có liên quan với các cơ quan
vung đầu mặt nên các chấn thương tai ngoài cần được điều trị chống nhiễm trung
với kháng sinh, tiêm SAT phòng uốn ván và giảm đau [24].
1.6.1. Rach, đứt, giập vành tai
* Nguyên tăc:
- Lau sạch vết thương. Lấy sạch dị vật nếu có. Cắt lọc mô hoại tư hết sức tiết
kiệm vì vành tai có tuần hoàn phong phú mà da lại bám chặt vào sụn, khó trượt [1].
- Khâu kỹ từng lớp và đảm bảo phủ kín sụn. Vì những vết thương đứt rách
vung đầu mặt được cung cấp máu tốt nên có thể khâu kín sớm trong ky đầu trong 2
- 3 ngày đầu (ưu tiên “thời gian vàng” < 8 giờ) [21], [38], [43], [52].
- Băng ép [1], [7].
* Chu y: nếu đứt rời một phần hay toàn bộ vành tai nên đưa bệnh nhân đến
bệnh viện ngay với phần tai đứt (ngâm trong nước muối sinh lý lạnh, vô trung) miễn
là thời gian từ lúc chấn thương đến lúc phẫu thuật không quá 2 giờ [7], [21].
* Ky thuât điều trị vành tai bị sứt:
- Những tổn thương có mất chất nho ở gờ và rãnh luân nhĩ, các tác giả
thường cắt hình chêm rồi khâu lại [1], [11]. Theo Jordan J. R. (2006), nếu gờ luân
16
nhĩ có vết sứt hình chữ “V” ở mép của vành tai thì có thể được sưa bằng tạo hình
chữ “Z” [45], [51]. Theo Mascio D. D. (2004), với những khuyết gờ luân nhĩ rộng
>2,5 cm mà không mất sụn và rãnh luân nhĩ nhiều thì tốt hơn nên tái tạo lại vành tai
bằng ghép vạt da hình ống của vung da sau trên tai [46].
- Phương pháp Lexer (trích theo [13]): xén bờ chỗ sứt theo hình nét chấm
gạch rồi khâu ghép hai bờ lại (hình 1.8).
Hinh 1.8: Phâu thuât vành tai theo phương pháp Lexer (trích theo [13]).
- Phương pháp Michelson (trích theo [13]): áp dụng cho vết sứt nho mà
không thể kéo hai bờ lại gần nhau được.
+ Thì một: lóc vạt A ở mặt trước vành tai phía dưới chỗ sứt (hình 1.9a). Lật
1800 lên phía trên theo hướng mui tên để tạo mặt sau của miếng vá.
+ Thì hai: lóc vạt da B ở mặt sau vành tai phía trên chỗ sứt (hình 1.9b). Lật
1800 xuồng phía dưới theo hướng mui tên để tạo mặt trước của chỗ vá.
+ Thì ba: kéo vạt A lên khâu lát vào chỗ cu của vạt B. Rồi kéo vạt B xuống
khâu lát vào chỗ cu của vạt A (hình 1.9c). Kết quả cuối cung: hình 1.9d.
(a) (b) (c) (d)
Hinh 1.9: Phâu thuât vành tai theo phương pháp Michelson (trích theo [13]).
17
- Những thương tổn làm chẻ đôi dái tai, cần phải cắt xén vết thương thành
hình chữ “V” cân xứng, bờ sắc thăng, có thể dung dao phá nhẹ lớp dưới da cách
mép da khoảng 1 mm để tránh để lại sẹo lồi. Khâu vết thương đã sưa bằng các mui
chỉ đơn giản [29], [42].
- Những thương tổn có mất chất nhiều, khuyết lớn, cần tiến hành ghép da tự
thân bằng một vạt da sau tai hoặc vung cổ bên tương đồng có chân nuôi ở phía trên.
Vạt có chiều dài và chiều rộng lớn hơn tổn khuyết thực 1 - 2 mm, xoay vạt đóng kín
diện khuyết. Đóng kín vung khuyết da đã lấy bằng vạt da xê dịch [34], [51].
- Những thương tổn lớn với khuyết ở 2/3 trên vành tai, chúng ta có thể dung
khung sụn sườn làm giá đơ để tạo hình vành tai. Phẫu thuật này cần được tiến hành
hai thì [11], [40], [49], [50].
Hinh 1.10: Khung sun vành tai làm tư sun sươn 6, 7 [49].
1.6.2. Rach, đứt, vỡ ống tai ngoài
* Nguyên tăc:
- Lau sạch vết thương. Lấy sạch dị vật nếu có.
- Cắt lọc mô hoại tư. Khâu kỹ từng lớp đảm bảo che kín sụn ống tai.
- Cố định bằng bấc hoặc Merocel có tẩm thuốc kháng sinh hoặc ống nhựa để
đề phòng hẹp ống tai ngoài [7], [44].
* Ky thuât điều trị chit hep ông tai:
- Phương pháp Kilof (trích theo[13]): áp dụng cho trường hợp chít hẹp nong
cưa ống tai.
18
+ Thì một: rạch da ngoài ống tai. Dung mui dao nhọn rạch ba đường đi qua
lỗ chít hẹp chia da cưa ống tai thành sáu múi đều nhau (hình 1.11a).
(a) (b)
Hinh 1.11: Phâu thuât hep ông tai ngoài theo phương pháp Kilof (trích theo[13]).
+ Thì hai: bóc da: lần lượt lóc da của từng múi kéo ra phần rìa, để lộ toàn
phần khối xơ.
+ Thì ba: lấy bo tổ chức xơ: dung dao mui nhọn và kéo nho cắt bo đi khối tổ
chức xơ cho tới khi đạt độ rộng tốt của cưa ống tai (hình 1.11b).
+ Thì bốn: khâu da ống tai: dung chỉ loại nho khâu ép từng múi da lát vào
thành của ống tai mới tái tạo, các đầu dây chỉ đi xuyên qua tổ chức sau tai và buộc
vào da vung sau tai.
Kết thúc: cuối cung đặt một ống cao su tạo sức nong to của ống tai mới tái
tạo. Sau 10 ngày cắt chỉ.
- Phương pháp Osenat - Ramadier (trích theo [13]): áp dụng cho trường hợp
hẹp sâu cả cưa ống tai và trong ống tai.
+ Thì một: rạch da sau tai như trong phẫu thuật mở khoét chum. Rạch xuống
tận xương, bóc tách cốt mạc tới cưa ống tai để làm lộ toàn bộ đoạn chít hẹp của cưa
ống tai. Cắt bo hết chỗ chít hẹp để tái tạo một cưa ống tai rộng (hình 1.12a) [44].
+ Thì hai: tiếp tục bóc tách đi sâu vào trong ống tai bộc lộ các phần mềm, cắt
bo hết tổ chức làm chít hẹp. Nếu lỗ chít hẹp bao gồm cả xương thì dung đục, thìa
nạo, mui khoan để bo đi [44]. Kết quả tạo một ống tai thông tới màng nhĩ.
+ Thì ba: tạo một làn da lát vào hố mổ nhằm không cho xơ sẹo tái phát sẽ
chít hẹp trở lại. Cắt lọc một vạt da hình chữ nhật ở phía sau tai vung chum, vạt da
19
có chân cuống (hình 1.12a). Vạt da này sẽ được cuộn tròn lại và lát vào ÔT, mép
phía ngoài được khâu cố định vào quanh cưa ÔT bằng vài nút chỉ nho (hình 1.12b).
(a) (b)
Hinh 1.12: Phâu thuât hep ông tai ngoài
theo phương pháp Osenat - Ramadier (trích theo [13]).
+ Thì bốn: khâu liền hai mép da sau tai. Đặt một đoạn meche trong ÔT. Sau
3 tuần, cắt đứt chân cuống của vạt da và khâu sưa lại cuối cung vết rạch phía sau tai.
1.6.3. Tụ mau, tụ huyết thanh vành tai
- Nếu thương tổn nhẹ, u máu còn nho, chỉ cần băng ngoài ép chặt lại và
chườm lạnh tại chỗ khoảng 2 - 3 ngày để tránh tái tụ dịch. Đồng thời, cho kháng
sinh phổ rộng kem theo thuốc kháng viêm toàn thân [31], [42].
- Nếu thương tổn lớn, một số tác giả cho rằng nên hút máu tụ bằng kim chọc
lớn trong điều kiện vô khuẩn và băng ép trong 24 giờ rồi kiểm tra lại VT [38], [47].
Tuy nhiên, hiện nay phương pháp này ít được dung vì dễ tái phát, dễ gây bội nhiễm
dẫn đến viêm sụn; nên rạch rộng ở dọc bờ trước luân nhĩ và lấy sạch mô hoại tư
bằng curette [42]. Khâu ép và ép khoang máu tụ lại bằng gạc cuộn nhằm ép chặt
màng sụn với sụn vành tai để tránh tụ máu tái phát. Hằng ngày thay băng vô khuẩn,
theo dõi tiến triển, dung kháng sinh liều cao, kháng viêm. Cắt bo chỉ sau 7 ngày.
- Nếu có viêm màng sụn phát mủ, cần rạch rộng da mở to túi mủ, nạo hết các
tổ chức viêm và sụn chết, đặt ống dẫn lưu hố mổ. Băng ép. Cho kháng sinh với
kháng viêm toàn thân, đặc biệt cảnh giác với Pseudomonas rất thường có trong các
viêm sụn phát mủ vành tai [10], [13], [22], [59].
20
Theo Godley F. A. (2003), để băng ép trong những trường hợp tụ máu vành
tai, chúng ta có thể dung một dải băng dán linh hoạt bằng silicon cho vành tai. Đây
là một vật liệu dễ uốn, dễ dát mong, có thể dính chặt vào vành tai với áp lực vừa
phải, phu hợp với hình dáng vành tai và có tính thẫm mỹ. Vật liệu này còn có thể
dung cho những thủ thuật hoặc chỉnh hình nho ở da vành tai như mổ keloid, dẫn lưu
tụ máu và sưa chữa những chấn thương vành tai nho, vạt ghép da nho… [41].
Hiện nay, tại bệnh viện Trung ương Huế còn điều trị tụ máu, tụ huyết thanh
vành tai và viêm sụn - màng sụn vành tai bằng quang trị liệu pháp laser bán dẫn với
liệu trình: 1 ngày/1 lần/20 phut x 20 lần/đơt và phối hợp với điều trị chống nhiễm
trung [18].
1.6.4. Bong tai ngoài
1.6.4.1. Do lạnh cóng
- Làm ấm bằng gạc ấm từ 38oC - 42oC cho đến khi vành tai ấm lại.
- Băng vô trung (không được băng ép).
- Kháng sinh dự phòng, thuốc giãn mạch, có thể ức chế hạch sao tuy độ trầm
trọng của chấn thương. Luôn giữ tai bệnh được giữ khô, sạch [10], [37].
1.6.4.2. Do nóng và các tác nhân khác
Trước hết, cần lấy hết tác nhân bong, tẩy rưa nhẹ nhàng, tránh tạo sức ép và
cởi bo khuyên tai (nếu có) [52].
Xư trí theo mức độ tổn thương:
- Độ 1: theo dõi.
- Độ 2, 3: cần điều trị để tránh biến chứng viêm sụn và hoại tư sụn, dẫn đến
mất chất sụn thường gặp trong bong sâu [10].
Đối với bong nông thì để hở vết thương, rưa sạch vết thương rồi bôi mơ
sulfamit. Khi có lớp vảy cứ để nguyên vì chúng có tác dụng bảo vệ da, chỉ cần bôi
thuốc mơ cho vảy mềm và chúng sẽ rụng ra [26].
Đối với bong sâu, dung các thuốc gây rụng hoại tư bong. Phẫu thuật cắt bo
hoại tư chỉ được tiến hành khi ranh giới phần lành và phần hoại tư đã rõ ràng, khi
cắt phải tiết kiệm bảo vệ các phần lành. Thường chỉ thực hiện từ ngày thứ 10 - 14.
21
Sụn bị lộ ra nên được che phủ lại với mô có mạch máu để tránh bị viêm sụn, hoại tư
sụn; sụn thường được phủ bằng cách ghép da tự thân, tranh thủ ghép da sớm ở tuần
thứ 3 - 4 sau bong [26]. Chăm sóc vết thương cẩn thận, tránh băng ép [10], [52].
Nếu có dấu hiệu của viêm mủ sụn vành tai cần kịp thời rạch dẫn lưu mủ, nạo
bo các tổ chức hoại tư và đặt gạc tẩm kháng sinh.
Nếu có tổn khuyết VT sau bong thì tiến hành phẫu thuật tạo hình VT 6 tháng
sau khi lành vết thương (trẻ em sẽ được phẫu thuật khi đến tuổi trưởng thành) [26].
1.7. DIÊN BIÊN LÀNH VÊT THƯƠNG
- Đối với vết thương kín: Sau vài giờ bị tổn thương, khoảng trống vết thương
được lấp đầy tế bào viêm và dịch viêm gồm hồng cầu, bạch cầu, đại thực bào, chất
đạm huyết tương và sợi fibrin, đạt số lượng cao nhất sau 24 giờ và tồn tại trong 48
giờ. Sau 24 giờ lớp biểu bì của hai bờ mép vết thương bắt đầu dày lên, trong vòng
48 giờ toàn thể bề mặt của vết thương được biểu bì hóa. Vào ngày thứ hai hoặc thứ
ba xuất hiện nguyên bào sợi tăng dần đến ngày thứ 10 và giảm rõ vào tuần thứ tư
hoặc thứ năm. Sợi collagen xuất hiện vào ngày thứ tư của phần sâu vết thương,
nhanh chóng phát triển thành bó sợi rồi bó sợi lớn dần tạo ra cơ cấu đậm đặc gọi là
seo, giúp vết thương dính cứng lại với nhau.
- Đối với vết thương hở: diễn biến lành bình thường của vết thương hở cung
giống như vết thương kín nhưng khác biệt nổi bật là sự “co rút và biểu bì hóa”. Sau
2 - 3 ngày mép biểu bì di chuyển lại và bề mặt bị thiếu nho dần đi, tốc độ nhanh hơn
ngày thứ 5 - 10, chậm lại sau 2 tuần. Vết thương hở da co rút bằng cách căng da
xung quanh gần nơi bị thiếu chứ không phải tạo da mới. Bờ mép của da có thể biểu
bì hóa từ 1- 3 cm. Nếu vung tổn thương rộng quá đến nỗi sự biểu bì hóa và sự co rút
không che hết được thì vết thương sẽ trở thành một vết loét mạn tính [21], [39].
1.8. BIÊN CHỨNG SAU ĐIỀU TRI
- Nhiễm trung vết thương gây ra viêm sụn màng sụn, huy hoại sụn, viêm mô
tế bào loa tai, viêm ống tai ngoài, nặng nề hơn có thể gây viêm tai ngoài ác tính
(thường gặp ở bệnh nhân đái tháo đường và suy giảm miễn dịch). Vi khuẩn thường
22
gặp nhất trong viêm sụn màng sụn VT và viêm ÔT cấp là Pseudomonas aeruginosa
(> 40%), ngoài ra còn có các loại cầu khuẩn gram (+) và vi khuẩn tiêu hoá gram (-)
[10]. Viêm mô tế bào loa tai lại thường do vi khuẩn gram (+) như: Staphylococcus,
Streptococcus [4].
- Sẹo vành tai xấu: bề mặt da vành tai không còn hình thái như ban đầu, da
vành tai dày, sần sui, độ lồi lõm vành tai không rõ [11], [54].
- Biến dạng vành tai: Chấn thương VT gây nhiễm trung sụn, tụ dịch dưới
màng sụn không được điều trị sẽ dẫn đến sự tiêu huy sụn, tạo mô liên kết, canxi hoá
thứ phát làm cho vành tai biến dạng như bông cải hoặc tai meo [10], [50].
- Sẹo ống tai ngoài gây hẹp một phần hay hẹp hoàn toàn ống tai ngoài, bệnh
nhân có thể có nghe kém, u tai.
Hinh 1.13: Viêm màng sun vành tai cấp
và biến dạng vành tai như bông cải [32], [47].
Hinh 1.14: Chit hep cưa ông tai ngoài và hep ÔT sau chấn thương [56].
23
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
2.1.1. Mẫu nghiên cứu
Gồm 68 bệnh nhân với 69 tai được chẩn đoán xác định chấn thương tai ngoài
vào điều trị tại Bệnh viện Trung ương Huế và Bệnh viện Trường Đại học Y Dược
Huế từ tháng 04/2008 đến tháng 06/2009.
2.1.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.1.2.1. Địa điểm nghiên cứu
- Khoa Cấp cứu bệnh viện Trung ương Huế.
- Khoa Tai Mui Họng bệnh viện Trung ương Huế.
- Khoa Tai Mui Họng bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế.
- Các khoa liên quan như Cấp cứu, Ngoại Thần kinh, Ngoại Chấn thương
chỉnh hình, Răng Hàm Mặt, Hồi sức cấp cứu…
2.1.2.2. Thơi gian nghiên cứu: Từ 05/2008 đến tháng 06/2009.
2.1.3. Tiêu chuân chọn bệnh
Tiêu chuẩn chọn bệnh là những bệnh nhân được chẩn đoán và điều trị chấn
thương vành tai hoặc ống tai ngoài do mọi nguyên nhân, gây ra một hoặc nhiều hình
thái tổn thương như:
- Rách, đứt, giập, vơ tai ngoài gây biến dạng cấu trúc của vành tai, ống tai.
- Tụ máu, tụ huyết thanh, tụ mủ ở vành tai.
- Các thương tổn của tai ngoài do nhiệt hoặc do điện, các chất ăn mòn.
Không giới hạn tuổi, giới, nghề nghiệp, dân tộc, địa dư.
24
2.1.4. Tiêu chuân loại trừ bệnh
Đối tượng nghiên cứu không gồm các bệnh nhân không tuân thủ quá trình
điều trị và không thể tái khám được.
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu: phương pháp tiến cứu và mô tả, có can thiệp lâm sàng.
2.2.2. Phương phap tiến hành
Thăm khám và ghi nhận các chỉ tiêu nghiên cứu một cách thống nhất trong
quá trình vào khám và điều trị dựa vào phiếu bệnh án đã được lập sẵn.
Thăm khám khi lành vết thương và hẹn tái khám sau khi xuất viện 1 tháng
bằng giấy hẹn hoặc thư mời tái khám. Sau đó, khám và ghi nhận các triệu chứng,
các biến chứng sau điều trị theo phiếu tái khám đã lập sẵn.
2.2.3. Phương tiện nghiên cứu
- Bộ dụng cụ khám Tai Mui Họng thông thường gồm đen Clar, forceps, kẹp
khuyu, loa soi tai các cơ.
- Bộ dụng cụ vi phẫu và các loại kim, chỉ khâu (chúng tôi thường dung chỉ
Dafilon 4.0 hoặc 5.0 để khâu da).
Hinh 2.1: Bộ dung cu vi phâu và kim, chi khâu.
25
2.2.4. Cac chỉ tiêu nghiên cứu
2.2.4.1. Các đặc điểm chung
Tuổi: lứa tuổi được phân chia thành các nhóm: ≤ 15 tuổi, từ 16 - 25 tuổi,
từ 26 - 35 tuổi, từ 36 - 45 tuổi, từ 46 - 55 tuổi, từ 56 - 65 tuổi và > 65 tuổi.
Giới tính: nam và nữ.
Nghề nghiệp: được phân thành các nhóm như sau: công nhân, nông dân,
cán bộ công chức, học sinh - sinh viên, buôn bán và các nghề khác (như nội trợ, lao
động tự do, thất nghiệp... và các bệnh nhân vì tuổi tác không có công việc thật sự).
Địa dư: chia thành 2 nhóm:
- Thành thị: bao gồm những bệnh nhân sống ở thành phố, thị xã, thị trấn hoặc
các khu đô thị mới.
- Nông thôn: bao gồm các bệnh nhân sống ở nông thôn, miền biển hoặc miền
núi, vung sâu, vung xa.
Thời gian bị chấn thương trong ngày: được chia làm các mốc: từ >0g -
2g, từ >2g - 4g, từ >4g - 6g, từ >6g - 8g, từ >8g - 10g, từ >10g - 12g, từ >12g - 14g,
từ >14g - 16g, từ >16g - 18g, từ >18g - 20g, từ >20g - 22g, từ >22g - 0g.
Thời gian từ khi bị CT đến khi được xư trí (tính theo giờ): Khoảng thời
gian từ 6 đến 8 giờ sau CT là “thời gian vàng” rất quan trọng để xư trí vết thương,
sau khoảng thời gian này thì vết thương trở nên ô nhiễm [21], đồng thời, những vết
thương tai để quá 24 giờ thì ty lệ nhiễm khuẩn của vết thương cao hơn nhiều, làm
ảnh hưởng đến sự lành vết thương sau này [55]. Do đó, chúng tôi chia thời gian từ
khi CT đến khi xư trí thành các nhóm: ≤ 6 giờ, > 6 - 24 giờ và > 24 giờ.
2.2.4.2. Nguyên nhân
Các nguyên nhân gây CTTN được chia thành các nhóm: tai nạn giao thông,
tai nạn lao động, tai nạn sinh hoạt, tai nạn thể thao, đánh nhau và các nguyên nhân
khác (như biến chứng mổ tai, tự sát thương hoặc không rõ nguyên nhân CT...)
2.2.4.3. Các chấn thương phôi hơp
Các trường hợp chấn thương tai ngoài có thể chỉ có chấn thương tai ngoài
đơn thuần hoặc phối hợp với các chấn thương khác như:
- Chấn thương sọ não.
26
- Chấn thương hàm mặt.
- Chấn thương chi.
- Đa chấn thương.
- Các chấn thương khác như chấn thương mắt, chấn thương lưng…
- Không có chấn thương phối hợp.
2.2.4.4. Các đặc điểm lâm sàng và cân lâm sàng của chấn thương tai ngoài:
Các triệu chứng toàn thân: các dấu hiệu sinh tồn, hội chứng nhiễm trung,
tình trạng tri giác (thang điểm Glassgow).
Sự phân bố vị trí chấn thương:
- Phân bố vị trí chấn thương theo mốc giải phẫu như sau:
+ Chấn thương vành tai đơn thuần.
+ Chấn thương ống tai đơn thuần.
+ Chấn thương cả vành tai và ống tai.
- Phân bố vị trí theo từng bên cơ thể:
+ Chấn thương tai phải.
+ Chấn thương tai trái.
+ Chấn thương cả hai tai.
Phân loại chấn thương: chấn thương tai ngoài được chia ra thành các
nhóm theo giải phẫu bệnh lý như sau:
- Rách, đứt, giập / vơ.
- Tụ dịch.
- Bong tai ngoài.
Các triệu chứng lâm sàng của chấn thương tai ngoài trước điều trị: đau
tai, u tai, nghe kém, chảy dịch tai (chảy máu, chảy mủ hay chảy dịch huyết thanh),
sưng nề, biến dạng vành tai, hẹp ống tai ngoài (một phần hay hoàn toàn), da xung
quanh vết thương có thể bị tổn thương hoặc bình thường.
Vị trí chấn thương:
- Vành tai: Theo Nguyễn Thái Hưng (2006) chia vị trí tổn thương vành tai
thành các nhóm: 1/3trên, 1/3 giữa, 1/3 dưới + dái tai, 2/3 trên, 2/3 dưới, 1/2 ngoài,
1/2 trong, toàn bộ vành tai.
27
Hinh 2.2: Phân chia vị tri tôn thương vành tai [11].
- Ông tai chia thành các vị trí: 1/2 trong, 1/2 ngoài, toàn bộ ống tai.
Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của tổn thương rách, đứt, giập / vơ TN:
- Kiểu vết thương:
+ Vết thương xây xát: những thương tổn xây xước trên bề mặt da, không
mất chất.
+ Rách da lộ sụn, xương: những thương tổn rách da có thể kem theo giập,
vơ sụn, xương gây lộ sụn, xương nhưng không mất da.
+ Vết thương xuyên: những thương tổn xuyên thủng qua toàn bộ chiều dày
của tổ chức nhưng không làm đứt, mất tổ chức.
+ Đứt rời một phần: những tổn thương làm đứt rời một phần tổ chức nhưng
vẫn còn dính vào phần tổ chức còn lại.
+ Đứt lìa hoàn toàn: những thương tổn làm cho một phần hay toàn bộ tổ
chức lìa ra khoi phần tổ chức còn lại hay lìa khoi cơ thể.
+ Mất chất: những thương tổn làm mất đi da hoặc sụn hoặc xương của tai
ngoài.
- Kích thước vết thương vành tai [11]:
+ Nho: những thương tổn nho hơn một đơn vị thẩm mỹ của vành tai hay
chiều dài vết thương < 2 cm.
+ Vừa: những thương tổn bằng một đơn vị thẩm mỹ của vành tai như 1/3
trên, 1/3 giữa, 1/3 dưới + dái tai hay chiều dài vết thương từ 2 - 5 cm.
28
+ Lớn: thương tổn lớn một đơn vị thẩm mỹ của vành tai như 2/3 trên, 2/3
dưới, 1/2 ngoài, 1/2 trong, toàn bộ vành tai hay chiều dài vết thương > 5 cm.
- Kích thước vết thương ống tai:
+ Nho: ≤ 1/2 độ dài ống tai.
+ Vừa: >1/2 độ dài ống tai.
+ Lớn: Toàn bộ ống tai.
- Hẹp ống tai xương có hay không dựa vào phim Shuller hoặc phim CT
xương chum xem có vơ xương nhĩ không.
- Xét nghiệm vi trung học (cấy mủ vết thương) trong những trường hợp
nhiễm trung, áp xe tai ngoài do chấn thương.
Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của tụ dịch vành tai:
- Kiểu tổn thương: được chia thành: tụ máu, tụ dịch huyết thanh, tụ mủ.
Trong các trường hợp tụ dịch, chúng tôi cho làm xét nghiệm sinh hóa, cấy dịch khối
tụ dịch (nếu được) để xác định bản chất khối dịch.
- Kích thước (đường kính) khối dịch:
+ < 1 cm (Nho).
+ 1 - 3 cm (Vừa)
+ > 3 cm (Lớn).
- Xét nghiệm vi trung học khối tụ dịch vành tai sau khi chọc hút.
Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bong tai ngoài:
- Tác nhân bong: do nóng, do lạnh, do các tác nhân như điện, chất ăn mòn...
- Phân độ bong tai ngoài theo Võ Ngọc Hoàn (2007) [10]:
+ Do lạnh:
Độ 1: Tím da do co thắt mạch.
Độ 2: Thiếu máu cục bộ với sự hình thành những bóng nước.
Độ 3: Hoại tư mô sâu.
+ Do nóng và các tác nhân khác:
Độ 1: Chỉ tổn thương lớp thượng bì. Vành tai đo, ấm, đau khi.
Độ 2: Tổn thương lớp thượng bì và một phần lớp bì.
29
Độ 3: Tổn thương toàn bộ lớp thượng bì và lớp bì, lộ sụn vành tai - ống
tai, xương ống tai ngoài.
- Một số trường hợp chảy dịch tai ngoài do bong, nằm điều trị lâu thì chúng
tôi cho cấy mủ vết thương và làm kháng sinh đồ.
Mức độ tổn thương tai ngoài:
- Nhẹ: những thương tổn vung da nhưng không mất chất; kích thước vết
thương nho; bong độ 1, 2.
- Vừa: những thương tổn toàn bộ chiều dày của tổ chức, cả da và sụn nhưng
chỉ mất da; kích thước vết thương vừa; bong độ 2, 3.
- Nặng: những thương tổn dập nát nhiều tổ chức của tai ngoài hoặc những
tổn thương mất chất của toàn bộ chiều dày tổ chức; kích thước lớn; bong độ 3.
Mức độ tổn thương của tai bị chấn thương cả vành tai và ống tai sẽ dựa vào
mức độ nặng hơn của bộ phận có kích thước vết thương nhiều hơn và có nhiều tổ
chức (da, sụn hay xương) bị tổn thương hơn.
2.2.4.5. Điều trị
Quy trình điều trị:
Điều trị ban đầu:
Các bệnh nhân bị chấn thương được tiếp nhận tại phòng khám cấp cứu hay
tại phòng khám Tai Mui Họng, xư trí các cấp cứu đe dọa đến tính mạng theo thứ tự
ưu tiên A (đường thở), B (chảy máu), C (chấn thương cột sống cổ hoặc chấn thương
sọ não). Sau giai đoạn cấp cứu nguy hiểm, tình trạng chấn thương tai sẽ được khám
và xư trí. Tiêm phòng uốn ván cho tất cả các trường hợp chấn thương.
Điều trị chấn thương tai ngoài:
- Phân tích tình hình chấn thương tai ngoài: đánh giá đặc điểm của các vết
thương để có hướng xư trí phu hợp:
+ Xác định loại chấn thương, vị trí, kích thước, kiểu thương tổn.
+ Xác định mức độ thương tổn.
+ Đặc điểm vung da, tổ chức lành xung quanh tổn thương.
30
+ Quan sát hình thái, kích thước, trục của tai bị thương so với tai lành.
- Phương pháp vô cảm: Tuy thuộc vào mức độ thương tổn chúng tôi lựa chọn
phương pháp vô cảm khác nhau:
+ Gây tê tại chỗ bằng dung dịch Lidocain 1% có pha Adrenalin 1/100.000
hoặc Lidocain 4 - 7 mg/kg pha với ephedrine [42], [45], [52] với những trường hợp
thương tổn mức độ nhẹ, vừa và kích thước thương tổn nho.
+ Gây mê toàn thân với những trường hợp tổn thương nặng, phá hủy nhiều
tổ chức, kích thước thương tổn lớn, có thể kem theo da xung quanh bị tổn thương.
- Điều trị cụ thể chấn thương tai ngoài:
+ Đối với CT rách, đứt, giập tai ngoài: rưa sạch, sát trung vết thương bằng
Betadine, lấy bo dị vật nếu có, tuy vết thương mà có hướng xư trí phu hợp.
Điều trị nội khoa với kháng sinh, kháng viêm, giảm đau khi vết thương
xây xát bề mặt da không rách da; không lộ sụn, xương; không mất chất. Để điều trị
nhiễm trung tai ngoài trong giai đoạn sớm chỉ cần uống kháng sinh nhóm
Flouroquinolone (Ciprofloxacin, Levofloxacin), nho kháng sinh và săn sóc tại chỗ.
Nếu có nhiễm trung vết thương tai ngoài tiến triển, có liên quan đến hạch bạch
huyết và mô mềm xung quanh thì cần nhập viện, dung kháng sinh phối hợp bằng
đường tĩnh mạch (như Ceftazidime và Flouroquinolone) kết hợp với kháng sinh tại
chỗ và săn sóc tại chỗ [4].
Những tổn thương nho, vừa, không mất chất nhiều: cắt lọc tối thiểu tổ
chức giập nát, khâu vết thương đảm bảo phủ kín sụn bằng các mui chỉ rời với chỉ
Dafilon 4.0 hoặc 5.0 [1].
Những thương tổn có mất chất:
Nếu mất chất nho mà hai bờ vết thương có thể kéo lại thì khâu theo
phương pháp Lexer (trích theo [13]). Nếu mất chất nho, không thể kéo hai bờ lại
gần nhau được thì khâu theo phương pháp Michelson (trích theo [13]).
Nếu những thương tổn có mất chất nhiều tạo thành một chỗ khuyết
lớn, chúng tôi tiến hành ghép da tự thân bằng một vạt da sau tai hoặc vung cổ bên
tương đồng có chân nuôi ở phía trên. Vạt có chiều dài và chiều rộng lớn hơn tổn
31
khuyết thực 1 - 2 mm, xoay vạt đóng kín diện khuyết. Đóng kín vung khuyết da đã
lấy bằng vạt da xê dịch [51].
Sau phẫu thuật, với vết thương VT cần băng ép với áp lực vừa đủ, với vết
thương ÔT cần nhét meche tẩm mơ kháng sinh vào ÔT để tránh hẹp ÔT [45].
- Đối với chấn thương vơ xương nhĩ: nắn lại xương nhĩ, đặt meche hoặc ống
nhựa vào ống tai ngoài để đề phòng hẹp ống tai [7].
- Đối với khối máu tụ vành tai: băng ép (u nho đường kính ≤ 1cm) hoặc
chích rạch dẫn lưu và băng ép (u lớn đường kính > 1cm hoặc u nho điều trị nội khoa
không hiệu quả) [22]. Nếu có bội nhiễm khối tụ dịch vành tai, chúng tôi rạch rộng
da mở to túi mủ, cấy mủ vết thương, nạo hết các tổ chức viêm, sụn chết và đặt dẫn
lưu hố mổ rồi băng ép. Kết hợp với điều trị nội khoa và liệu pháp laser trong tất cả
các trường hợp có tụ dịch vành tai.
- Đối với bong tai ngoài: loại bo nguyên nhân, theo dõi hoặc làm sạch bằng
các chất đối kháng, phối hợp với điều trị nội khoa (điều trị chống nhiễm khuẩn theo
kháng sinh đồ). Hằng ngày, vệ sinh vết thương bong bằng nước muối 9‰ và
Betadine hòa loãng, lấy bo các tổ chức hoại tư đến phần lành, bôi thuốc mơ, băng
vô trung (tránh băng ép). Trường hợp bong sâu, mất chất nhiều, lộ sụn thì có thể
phủ sụn bằng cách ghép da tự thân vào tuần thứ 3 - 4 sau bong.
Chăm sóc và theo dõi trong thời gian nằm viện:
- Sư dụng thuốc kháng sinh toàn thân theo kháng sinh đồ (nếu có), chống
viêm, giảm đau, giảm phu nề.
- Quan sát vết thương thường xuyên để phát hiện các dấu hiệu:
+ Nhiễm trung vết thương: sưng nề, đo tại chỗ, sờ thấy mềm lún, dịch dẫn
lưu nhiều, muộn hơn có thể đau tức, sốt.
+ Thiểu dương, hoại tư tổ chức, màu sắc da sậm màu hơn da bình thường
hoặc vạt ghép không bám dính vào tổ chức.
- Thay băng và rưa vết thương hàng ngày với dung dịch NaCl 9‰ và
Betadine 10%.
- Theo dõi thời gian lành vết thương ở cả vành tai và ống tai.
32
2.2.4.5. Đánh giá kết quả điều trị chấn thương tai ngoài
Tất cả các trường hợp đều được đánh giá kết quả bằng quan sát trực tiếp,
chụp ảnh trước và sau điều trị, lúc tái khám.
- Đánh giá kết quả khi lành vết thương (thường là khi bệnh nhân ra viện hoặc
lúc cắt chỉ, thường sau phẫu thuật 7 ngày) và sau khi xuất viện 1 tháng. Chúng tôi
đánh giá kết quả điều trị vành tai theo nghiên cứu của Nguyễn Thái Hưng [11].
- Các chỉ tiêu đánh giá: triệu chứng cơ năng, sự nhiễm trung vết thương, sự
liền vết thương, tình trạng sẹo, tình trạng da, hình dáng tai vành tai, đường kính ống
tai ngoài, biến chứng.
Theo dõi biến chứng tại chỗ thương tổn:
- Viêm da tai ngoài: đau tai, cảm giác đầy tai, nghe kém, chạm vào đau tăng,
bề mặt da phu nề, đo, có thể có dịch tiết hoặc mủ, vết thương khó lành [10].
- Viêm sụn - màng sụn: có thể có đau hoặc không, vành tai mềm nhun, đo, có
thể có túi mủ gây chảy mủ khi vơ, sau khi chữa khoi có thể sẽ để lại lớp da dày, mất
độ lồi lõm bình thường hoặc dúm dó như bông cải, vết thương lành sẹo xấu.
- Hoại tư tổ chức: vết thương bị phá hủy nhiều tổ chức, bị nhiễm trung làm
cho sự nuôi dương kém nên các tổ chức tại chỗ hoặc vạt da ghép bị hoại tư, rụng ra
và vết thương không liền được.
Khi có dấu hiệu nhiễm trung vết thương, chúng tôi đều cho cấy dịch tại vết
thương và làm kháng sinh đồ.
Đánh giá kết quả khi lành vết thương:
- Tôt: không đau tai hoặc đau nhẹ, không u tai, không nghe kém, không có
chảy dịch, không có sưng nề hoặc nề nhẹ vành tai, không có biến dạng vành tai so
với vành tai lành; ống tai ngoài không hẹp; không có biến chứng.
- Trung binh: đau tai nhẹ, có thể có u tai, không nghe kém, không chảy dịch,
sưng nề nhẹ, vành tai có sẹo xơ dày nhưng hình dáng không thay đổi; đường kính
ÔT hẹp ≤ 50% so với bên lành; có thể có biến chứng nhưng điều trị chóng lành.
- Xấu: đau tai và / hoặc u tai, nghe kém, có chảy dịch từ vết thương, sưng nề
dày da nhiều, mất chất nhiều tổ chức, vành tai có sẹo xấu, biến dạng; đường kính
ống tai hẹp > 50% so với bình thường; có biến chứng điều trị lâu lành.
33
Đánh giá kết quả khi tái khám sau 1 tháng:
- Tôt:
Không đau tai, không u tai, không nghe kém, không chảy dịch.
Không có biến chứng gây co kéo gây ngả VT về sau hay hẹp ống tai.
Tại chỗ liền sẹo đẹp.
Da tai ngoài không dày hoặc dày tương đối.
Màu sắc da tại chỗ thương tổn hoặc vạt da ghép đẹp tương đồng với da
xung quanh.
Vành tai giữ đúng trục, chiều dài vành tai được tạo hình so với tai lành
chênh lệch ≤ 1 cm, những chỗ lồi lõm của vành tai rõ [11].
Ông tai đường kính không hẹp so với bên lành.
- Trung binh:
Đau tai nhẹ, có thể có u tai, không nghe kém, không chảy dịch.
Có thể có biến dạng thứ phát gây co kéo, vành tai ngả về sau, hẹp ÔT.
Sẹo trung bình (sẹo không đẹp nhưng nhìn chấp nhận được).
Độ dày da của tai ngoài chênh lệch rõ so với tai lành.
Màu sắc da tại chỗ thương tổn hoặc vạt da ghép không đồng màu với da
xung quanh.
Vành tai không đúng trục, chiều dài vành tai được tạo hình so với tai
lành chênh lệch 1 – 2 cm, những chỗ lồi lõm của vành tai không rõ [11].
Ông tai đường kính hẹp nhẹ ≤ 50% so với bên lành.
- Xấu:
Đau tai, u tai, nghe kém, vết thương có thể có chảy dịch.
Có biến dạng thứ phát gây co kéo, vành tai ngả về sau, hẹp ống tai.
Tại chỗ liền sẹo xấu hoặc không liền vết thương.
Da tại chỗ thương tổn hoặc vạt da ghép bị hoại tư.
Sụn tai ngoài bị tiêu hay thoái hóa.
Vành tai không đúng trục, chiều dài vành tai được tạo hình so với tai
lành chênh lệch > 2 cm, những chỗ lồi lõm của vành tai bị mất [11].
Ông tai đường kính hẹp > 50% so với bên lành.
34
2.2.5. Phương phap xử lý số liệu
Các số liệu được mã hóa, xư lý theo các thuật toán thống kê y học và phần
mềm toán thống kê Epi Info 2002 [5].
- Tính giá trị trung bình (kí hiệu là: )
- Tính độ lệch chuẩn (kí hiệu là: SD)
- Phương pháp so sánh chi bình phương (kí hiệu là :2 )
Trong đó :
Ο là số quan sát được .
là số lý thuyết (Chè säú tênh toaïn nãúu nhæ giaí thiãút ban âáöu âuïng) = Tổng hàng x Tổng cột / Tổng chung
df: Säú báûc tæû do cuía pheïp thæí. df = (Säú haìng -1) (Säú cäüt - 1)
Tra bảng tìm giá trị Chi bình phương và p với ngương ý nghĩa 5%, 1%.
- Kết quả được đánh giá như sau:
+ p > 0,05: sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
+ p < 0,05: sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
+ p < 0,01: sự khác biệt rất có ý nghĩa thống kê [8].
Chương 3
35
KÊT QUẢ
3.1. ĐẶC ĐIỂM DICH TÊ HOC CỦA CHẤN THƯƠNG TAI NGOÀI
3.1.1. Phân bố theo tuôi và giơi
Bảng 3.1: Sư phân bô theo tuôi và giới (n = 68)
GiơiNhóm tuôi Nam Nữ
Tông công
n %
≤ 15 4 6 10 14,7
16 – 25 15 7 22 32,4
26 – 35 15 3 18 26,5
36 – 45 5 1 6 8,8
46 – 55 7 1 8 11,8
56 – 65 1 1 2 2,9
> 65 0 2 2 2,9
Tổng cộng 47 (69,1%) 21 (30,9%) 68 100
69.1% 30.9%NamNữ
Biểu đô 3.1: Sư phân bô theo giới (n = 68).
* Nhận xét: - Lứa tuổi gặp nhiều nhất là từ 16 - 35 tuổi chiếm 58,9%, ít nhất là từ 56
tuổi trở lên (5,8%). Tuổi trung bình là 29,04 ± 15,82 tuổi, nho nhất là 1 tuổi, lớn
nhất là 70 tuổi.
- Bệnh nhân nam (69,1%) nhiều hơn nữ (30,9%) (p < 0,001).
36
3.1.2. Phân bố theo địa dư
60.3%
39.7% Thành thị
Nông thôn
Biểu đô 3.2: Sư phân bô theo địa dư (n = 68).
* Nhận xét: Bệnh nhân ở nông thôn chiếm đa số (60,3%), thành thị chiếm 39,7%
(p < 0,05).
3.1.3. Nghề nghiệp
Bảng 3.2: Nghề nghiệp (n = 68)
Nghề nghiệp Số bệnh nhân Tỷ lệ %
Công nhân 10 14,7
Cán bộ viên chức 5 7,4
Nông dân 13 19,1
Học sinh, sinh viên 14 20,6
Buôn bán 3 4,4
Các nghề khác 23 33,8
Tổng cộng 68 100
* Nhận xét: Các nghề nghiệp khác như nội trợ, lao động tự do, thất nghiệp… chiếm
chủ yếu (33,8%), tiếp đến là học sinh, sinh viên (20,6%), nông dân (19,1%), ít nhất
là buôn bán (4,4%).
37
3.1.4. Thời gian bị chấn thương
Ty lệ %
Biểu đô 3.3: Thơi gian bị chấn thương trong ngày (n = 68).
* Nhận xét: thời gian bị chấn thương gặp cao nhất là vào khoảng >10g - 12g
(17,6%), từ >16g - 0g ty lệ CTTN tăng cao dần; ít gặp vào lúc >12 -14g (7,4%) và
>0g - 6g (1,5%).
3.1.5. Nguyên nhân chấn thương
Bảng 3.3: Nguyên nhân của chấn thương tai ngoài (n = 68)
Nguyên nhân chấn thương Số bệnh nhân Tỷ lệ %
Tai nạn giao thông 34 50,0
Tai nạn sinh hoạt 17 25,0
Tai nạn lao động 4 5,9
Đánh nhau 13 19,1
Tổng số 68 100
* Nhận xét: Tai nạn giao thông chiếm ty lệ cao nhất (50,0%), kế đến là tai nạn sinh
hoạt (25,0%) và đánh nhau (19,1%).
38
3.1.6. Thời gian từ khi bị chấn thương đến khi được xử tri
Bảng 3.4: Thơi gian tư khi bị chấn thương đến khi đươc xư tri (n = 68)
Thời gian từ khi chấn thương đến khi xử tri Số bệnh nhân Tỷ lệ %≤ 6 giờ 56 82,3> 6 - 24 giờ 8 11,8> 24 giờ 4 5,9
Tổng 68 100
* Nhận xét: Thời gian từ khi bị chấn thương đến khi được xư trí trong vòng 6 giờ
chiếm đa số 82,3% và ít nhất là > 24 giờ (5,9%). Thời gian trung bình là 8,037 ±
21,34 giờ, ngắn nhất là 1 giờ, dài nhất 5 ngày.
3.1.7. Tình trạng chấn thương phối hợp
Ty lệ %
Biểu đô 3.4: Tinh trạng chấn thương phôi hơp (n = 68).
* Nhận xét: Số bệnh nhân có chấn thương phối hợp chiếm 58,8%. Trong đó, cao
nhất là chấn thương sọ não (19,1%), tiếp đến là đa CT 14,7%, CT hàm mặt 11,8%.
39
3.2. ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CÂN LÂM SÀNG CỦA CHẤN
THƯƠNG TAI NGOÀI
3.2.1. Sự phân bố chấn thương
Bảng 3.5: Sư phân bô chấn thương (n = 69)
Sự phân bốchấn thương
Tai phải Tai trai Hai tai Tông công
n % n % n % n %
Vành tai đơn thuần 18 26,1 30 43,5 0 0 48 69,6
Ông tai đơn thuần 6 8,7 3 4,3 1 1,4 11 15,9
Vành tai và ống tai 2 2,9 8 11,6 0 0 10 14,5
Tổng số 26 37,7 41 59,4 1 1,4 69 100
* Nhận xét: - Có 67 bệnh nhân chấn thương một tai và 1 bệnh nhân bị chấn thương
hai tai (1,4%). Vậy tổng cộng có 69 tai bị chấn thương trên tổng số 68 bệnh nhân.
- Chấn thương tai trái (60,9%) nhiều hơn tai phải (39,1%).
- Có 58 CTVT và 21 CTÔT (trong đó có 10 tai bị CT cả VT và ÔT).
Vậy, tổng cộng có 79 bộ phận tai ngoài bị chấn thương trên tổng số 69 tai chấn
thương của 68 bệnh nhân.
3.2.2. Phân loại chấn thương
Bảng 3.6: Phân loại chấn thương
Phân loại chấn thươngVành tai Ống tai
n = 58 % n = 21 %
Rách, đứt, giập / vơ 46 79,3 20 95,2
Tụ dịch 2 3,5 0 0,0
Bong tai ngoài 10 17,2 1 4,8
Tổng cộng 58 100 21 100
* Nhận xét: Đối với cả VT và ÔT, loại chấn thương rách, đứt, giập / vơ chiếm đa số
(CTVT chiếm 79,3%, CTÔT chiếm 95,2%); tiếp đến là bong (17,2% CTVT, 4,8%
CTÔT), có 2 trường hợp tụ dịch VT (3,5%), không có tụ dịch ÔT.
40
3.2.3. Triệu chứng lâm sàng trươc điều trị
Bảng 3.7: Triệu chứng lâm sàng trước điều trị (n = 69)
Triệu chứng lâm sàngCT vành tai CT ống tai CT tai ngoài
n = 58 % n = 21 % n = 69 %
Đau tai 57 98,3 19 90,5 66 95,7
Ù tai 31 53,4 17 81,0 39 56,5
Nghe kém 8 13,8 8 38,1 10 14,5
Chảy dịch
Chảy máu tai 44 75,9 14 66,7 52 75,4
Chảy mủ tai 1 1,7 1 4,8 2 2,9
Huyết thanh 7 12,1 1 4,8 8 11,6
Sưng nề 55 94,8 19 90,5 65 94,2
Biến dạng vành tai 30 51,7 30 43,5
Hẹp ống tai 6 28,6 6 8,7
Tổn thương da xung quanh 11 19,0 3 14,3 11 15,9
* Nhận xét: - Trong 58 CTVT: đa số có đau tai (98,3%), sưng nề (94,8%); chảy máu
(75,9%); ít trường hợp nghe kém (13,8%); có 1 trường hợp chảy mủ vết thương VT
(1,7%), 11 trường hợp có tổn thương da xung quanh VT bị thương (19,0%).
- Trong 21 CTÔT: nhiều nhất là đau tai, sưng nề ÔT (90,5%) và u tai
(81,0%), 38,1% nghe kém; 28,6% hẹp ÔT; 1 trường hợp chảy mủ ÔT do bội nhiễm
(4,8%), tổn thương da xung quanh ÔT bị thương ít gặp (14,3%).
- CTTN nói chung đa số có đau tai (95,7%), sưng nề (94,2%) và chảy
máu tai (75,4%).
- Các triệu chứng giữa CT vành tai và CT ống tai đa số không có sự
khác biệt (p > 0,05), chỉ khác biệt ở triệu chứng có u tai và nghe kém (p < 0,05).
41
3.2.4. Vị tri chấn thương
3.2.4.1. Vị tri chấn thương vành tai
Bảng 3.8: Vị tri chấn thương vành tai (n = 58)
Vị tri chấn thương vành tai Số vành tai Tỷ lệ %
1/3 trên 9 15,5
1/3 giữa 13 22,4
1/3 dưới + dái tai 4 6,9
2/3 trên 14 24,1
2/3 dưới 3 5,2
1/2 ngoài 5 8,6
1/2 trong 2 3,5
Toàn bộ vành tai 8 13,8
Tổng 58 100
* Nhận xét: CTVT thường gặp ở phía trên: 2/3 trên chếm 24,1% và 1/3 trên chiếm
15,5%; 1/3 giữa vành tai chiếm 22,4%; ít gặp nhất ở phía trong và dưới của vành
tai: 3,5% ở 1/2 trong, 5,2% ở 2/3 dưới, 6,9% ở 1/3 dưới và dái tai. Chấn thương
toàn bộ vành tai chiếm 13,8%.
3.2.4.2. Vị tri tôn thương ông tai
Bảng 3.9: Vị tri tôn thương ông tai (n = 21)
Vị tri chấn thương ống tai Số ống tai Tỷ lệ %
1/2 ngoài 13 61,9
1/2 trong 7 33,3
Toàn bộ ống tai 1 4,8
Tổng 21 100
* Nhận xét: CTÔT gặp đa số ở 1/2 ngoài ống tai (61,9%), 1/2 trong ống tai chiếm
33,3% (p < 0,05); chỉ có 1 trường hợp bị tổn thương toàn bộ ống tai (4,8%).
42
3.2.5. Cac đặc điểm hình thai cua chấn thương tai ngoài
Trên cơ sở phân loại chấn thương ở bảng 3.6, chúng tôi mô tả dưới đây từng
đặc điểm hình thái chấn thương của vành tai và ống tai.
3.2.5.1. Tôn thương rách, đứt, giâp / vơ tai ngoài
Bảng 3.10: Kiêu tôn thương trong rach, đứt, giập / vơ tai ngoài
Kiểu tôn thươngCT vành tai CT ống tai
n = 46 % n = 20 %Vết thương xây xát 0 0,0 11 55,0
Rách da lộ sụn, xương 35 76,1 7 35,0
Vết thương xuyên 1 2,2 0 0,0
Đứt rời một phần 6 13,1 1 5,0
Đứt lìa hoàn toàn 2 4,3 1 5,0
Mất chất 2 4,3 0 0,0
Vơ xương nhĩ 2 10,0
Tổng 46 100 20 100
* Nhận xét: - Trong CTVT, thương tổn rách da lộ sụn, xương chiếm đa số 76,1%; ít
gặp vết thương đứt rời (4,3%), đứt lìa (4,3%); không có vết thương xây xát.
- Trong CTÔT, kiểu vết thương xây xát chiếm nhiều nhất (55%); tiếp
đến là vết thương rách da lộ sụn, xương 35%; có 2 trường hợp vơ xương nhĩ (10%).
Bảng 3.11: Kich thước tôn thương rách, đứt, giâp / vơ tai ngoài
Kich thươc tôn thươngCT vành tai CT ống tai
n = 46 % n = 20 %Nho 12 26,1 17 85,0
Vừa 23 50,0 3 15,0
Lớn 11 23,9 0 0,0
Tổng 46 100 20 100
* Nhận xét: - CTVT vết thương có kích thước vừa chiếm 50,0%; kích thước nho
(26,1%) và lớn (23,9%).
- CTÔT vết thương nho chiếm đa số 85,0%, không có vết thương lớn.
43
3.2.5.2. Tôn thương bong tai ngoài
Bảng 3.12: Tác nhân và mức độ của bong tai ngoài
Triệu chứng lâm sàngCT vành tai CT ống tai
n = 10 % n = 1 %
Tác nhân bongDo nóng 10 100 1 100Do lạnh 0 0 0 0Tác nhân khác 0 0 0 0
Mức độ bongĐộ 1 6 60,0 0 0Độ 2 3 30,0 1 100Độ 3 1 10,0 0 0
* Nhận xét: - 100% các trường hợp bong tai ngoài là do nóng (nước sôi, lưa…).
- Ơ vành tai, bong độ 1 chiếm đa số (60%), ít nhất là bong độ 3 (10%).
- Duy nhất 1 trường hợp bong ống tai (độ 2).
3.2.5.3. Tôn thương tu dịch vành tai gặp 2 trường hợp đều ở 1/3 trên vành tai phải
và kích thước vừa. Trong đó, 1 trường hợp tụ dịch huyết thanh, 1 trường hợp tụ mủ
do bội nhiễm.
3.2.6. Kết quả cấy dịch vết thương tai ngoài
Trong 69 tai bị CTTN chúng tôi có 7 trường hợp cấy dịch tại vết thương tai
ngoài, trong đó có 1 trường hợp bong cấy ra 3 loại vi khuẩn (chiếm 14,3%).
Bảng 3.13: Kêt quả cây dịch vêt thương tai ngoài (n = 7)
Kết quả cấy dịch Loại chấn thương
TổngRách, đứt , giập / vơ Tụ dịch Bong
Pseudomonas 1 1 (14,3%)Staphylococcus 2 2 (28,6%)Streptococcus 1 1 2 (28,6%)Vi khuẩn khác 1 1 (14,3%)Cấy không mọc 1 1 1 3 (42,9%)
* Nhận xét: Kết quả cấy dịch vết thương tai ngoài gặp nhiều nhất là cấy không mọc
(42,9%), tiếp đến là Staphylococcus và Streptococcus (28,6%). Bong tai ngoài tập
trung nhiều loại vi khuẩn hơn các CT khác.
44
3.2.7. Mức đô tôn thương
Bảng 3.14: Mức độ tôn thương (n = 69)
Mức đô tôn thươngCT vành tai CT ống tai CT tai ngoài
n = 58 % n = 21 % n = 69 %
Nhẹ 20 34,5 13 61,9 27 39,1
Vừa 27 46,5 6 28,6 30 43,5
Nặng 11 19,0 2 9,5 12 17,4
Tổng 58 100 21 100 69 100
* Nhận xét: - CTVT mức độ thương tổn chủ yếu là vừa (46,5%) và nhẹ (34,5%).
- CTÔT, mức độ thương tổn nhiều nhất là nhẹ (61,9%).
- Trên 69 tai ngoài bị CT thì nhiều nhất là mức độ vừa (43,5%), kế đến
là nhẹ (39,1%), nặng 17,4%.
3.3. ĐÁNH GIÁ KÊT QUẢ ĐIỀU TRI CHẤN THƯƠNG TAI NGOÀI
3.3.1. Phương phap điều trị
Bảng 3.15: Phương phap điều trị
Phương phap điều trị CT vành tai CT ống tai
n = 58 % n = 21 %Nội khoa 8 13,8 15 71,4
Nội khoa và liệu pháp laser 2 3,5 0 0,0
Cắt lọc, khâu vết thương 43 74,1 5 23,8
Sư dụng vạt da tự thân tạo hình 5 8,6 0 0,0
Sư dụng khung độn tạo hình 0 0,0
Chỉnh hình ống tai 1 4,8
Tổng 58 100 21 100
* Nhận xét: - Ơ CTVT, điều trị nhiều nhất là cắt lọc, khâu vết thương (74,1%), có
8,6% dung vạt da tại chỗ để tạo hình VT. Không có dung khung độn tạo hình.
- Ơ CTÔT, nhiều nhất là điều trị nội khoa (71,4%), cắt lọc, khâu vết
thương chiếm 23,8%, 1 trường hợp chỉnh hình ống tai (4,8%).
45
3.3.2. Thời gian lành vết thương
Bảng 3.16: Thời gian lành vêt thương (n = 69)
Thời gian lành vết thương
CT vành tai CT ống tai CT tai ngoài
n = 58 % n = 21 % n = 69 %
≤ 7 ngày 35 60,3 17 80,9 45 65,2
> 7 - 30 ngày 20 34,5 3 14,3 21 30,4
> 30 ngày 3 5,2 1 4,8 3 4,4
Tổng 58 100 21 100 69 100
* Nhận xét: - Cả CTVT và CTÔT đều thường lành vết thương trước 7 ngày (CTVT
chiếm 60,3%, CTÔT chiếm 80,9%), trên 30 ngày rất ít gặp.
- Thời gian lành vết thương trung bình của CTVT là 9,21 ± 7,55 ngày,
của CTÔT là 7,14 ± 6,07 ngày, của CTTN chung là 8,36 ± 6,94; ngắn nhất là 3
ngày, dài nhất là 39 ngày.
- Có sự khác biệt về thời gian lành vết thương từ > 7 - 30 ngày giữa
CTVT và CTÔT (p < 0,05).
3.3.3. Biến chứng
Bảng 3.17: Biên chứng
Biến chứngCT vành tai CT ống tai
n = 58 % n = 21 %
Không biến chứng 53 91,3 18 85,7
Viêm da 2 3,5 3 14,3
Viêm sụn - màng sụn 1 1,7 0 0,0
Hoại tư tổ chức 2 3,5 0 0,0
Tổng 58 100 21 100
* Nhận xét: - CTVT có 5/58 trường hợp biến chứng (8,7%), chủ yếu là viêm da
hoặc hoại tư tổ chức (3,5%). CTÔT có 14,3% trường hợp biến chứng đều là viêm da
- Không có sự khác biệt về biến chứng giữa CTVT và CTÔT (p > 0,05).
46
3.3.4. Kết quả điều trị khi lành vết thương
Bảng 3.18: Triệu chứng lâm sàng khi lành vêt thương (n = 69)
Triệu chứng lâm sàngkhi lành
CTVT(n = 58)
CTÔT(n = 21)
CT tai ngoài
n = 69 %
Đau tai 29 (50,0%) 7 (33,3%) 31 44,9
Ù tai 5 (8,6%) 8 (38,1%) 10 14,5
Nghe kém 2 (3,4%) 3 (14,3%) 3 4,3
Chảy dịch 1 (1,7%) 1 (4,8%) 1 1,4
Sưng nề 54 (93,1%) 7 (33,3%) 58 84,1
Biến dạng vành tai 14 (24,1%) 14 20,3
Hẹp ống tai 4 (19,0%) 4 5,8
* Nhận xét: - Trong 58 CTVT khi lành vết thương còn 93,1% có sưng nề vành tai,
50,0% trường hợp kêu đau tai.
- Triệu chứng CTÔT khi lành còn nhiều nhất là u tai (38,1%).
- CT tai ngoài chung, chủ yếu còn sưng nề (84,1%) và đau tai (44,9%).
Có 1 trường hợp CT cả vành tai và ống tai vẫn còn chảy mủ khi lành (1,4%).
Bảng 3.19: Kêt quả điều trị khi lành vêt thương (n = 69)
Kết quả điều trị khi lành
CT vành tai CT ống tai CT tai ngoài
n = 58 % n = 21 % n = 69 %
Tốt 37 63,8 15 71,4 46 66,7
Trung bình 19 32,8 5 23,8 21 30,4
Xấu 2 3,4 1 4,8 2 2,9
Tổng 58 100 21 100 69 100
* Nhận xét: Khi lành vết thương, kết quả điều trị tốt chiếm nhiều nhất (CTVT
63,8%, CTÔT 71,4% và 66,7% tai bị CT); kết quả xấu ít gặp (CTVT 3,4%, CTÔT
4,8% và 2,9% tai bị CT).
47
3.3.5. Kết quả tai kham sau điều trị 1 thang
3.3.5.1. Đặc điểm lâm sàng của chấn thương tai ngoài sau điều trị 1 tháng
Bảng 3.20: Triệu chứng cơ năng sau điều trị 1 thang (n = 69)Triệu chứng lâm sàng
sau 1 thangCTVT
(n = 58)CTÔT(n = 21)
CT tai ngoàin = 69 %
Đau tai 5 (8,6%) 0 (0,0%) 5 7,2Ù tai 1 (1,7%) 2 (9,5%) 2 2,9Nghe kém 1 (1,7%) 1 (4,8%) 1 1,4Chảy dịch 0 (0,0%) 1 (4,8%) 1 1,4
* Nhận xét: - Trong 58 CTVT sau 1 tháng còn 8,6% kêu đau tai, 1,7% u tai và nghe
kém. Trong 21 CTÔT sau 1 tháng còn 9,5% u tai, 4,8% nghe kém và chảy dịch.
- CTTN chung còn nhiều nhất là đau tai (7,2%), nghe kém còn ít 1,4%.
Bảng 3.21: Tình trạng vêt thương sau điều trị 1 thang (n = 69)
Liền vết thươngCTVT
(n = 58)CTÔT(n = 21)
CT tai ngoàin = 69 %
Sẹo đẹp 37 (63,8%) 17 (80,9%) 46 66,7Sẹo trung bình 18 (31,0%) 3 (14,2%) 19 27,5Sẹo xấu 3 (5,2%) 1 (4,8%) 4 5,8Vết thương không liền 0 (0,0%) 0 (0,0%) 0 0,0
Tổng 58 (100%) 21 (100%) 69 100
* Nhận xét: Tình trạng vết thương sau 1 tháng chiếm đa số là sẹo đẹp (CTVT
63,8%, CTÔT 80,9%, CTTN chung 66,7%); ít gặp sẹo xấu (CTVT 5,2%, CTÔT
4,8%, CTTN chung 5,8%). Không có vết thương không liền.
Bảng 3.22: Màu săc da tai bị thương sau điều trị 1 thang (n = 69)
Màu sắc daCTVT
(n = 58)CTÔT(n = 21)
CT tai ngoàin = 69 %
Đồng màu 53 (91,4%) 21 (100%) 64 92,8Không đồng màu 5 (8,6%) 0 (0,0%) 5 7,2
Tổng 58 (100%) 21 (100%) 69 100* Nhận xét: Màu sắc da khi tái khám sau 1 tháng có 5 trường hợp CTVT không
đồng màu với da xung quanh (chiếm 7,2% CTTN chung).
48
Bảng 3.23: Độ dày cua da tai ngoài sau điều trị 1 thang (n = 69)
Đô dày daCTVT
(n = 58)CTÔT(n = 21)
CT tai ngoàin = 69 %
Không dày 27 (46,6%) 18 (85,7%) 37 53,6
Dày nhẹ 26 (44,8%) 2 (9,5%) 27 39,1
Dày hơn rõ 5 (8,6%) 1 (4,8%) 5 7,2
Tổng 58 (100%) 21 (100%) 69 100
* Nhận xét: Khi tái khám độ dày da sau 1 tháng, ở CTVT chủ yếu là không dày da
(46,6%) và dày nhẹ (44,8%). CTÔT đa số không dày da (85,7%), 1 trường hợp da
dày hơn rõ (4,8%). Nhìn chung, nhiều nhất là không dày da (chiếm 53,6% CTTN).
3.3.5.2. Hinh thái của vành tai sau điều trị 1 tháng
Bảng 3.24: Hinh thái của vành tai sau điều trị 1 tháng (n = 58)
Hình thai cua vành tai Số vành tai Tỷ lệ %
Trục của vành taiĐúng trục 56 96,6
Lệch trục 2 3,4
Chiều dài vành tai
bị chấn thương so
với vành tai lành
Không ngắn hơn 48 82,8
Ngắn hơn ≤ 1cm 8 13,8
Ngắn hơn > 1 – 2cm 2 3,4
Ngắn hơn > 2cm 0 0,0
Độ lồi lõm của
vành tai
Độ lồi lõm rõ 48 82,8
Độ lồi lõm không rõ 9 15,5
Mất độ lồi lõm 1 1,7
Tổng 58 100
* Nhận xét: - Trục của vành tai sau điều trị 1 tháng đa số là đúng trục (96,6%).
- Chiều dài VT bị CT sau 1 tháng thường không ngắn hơn tai lành
(82,8%), không có trường hợp VT ngắn hơn > 2cm.
- Độ lồi lõm VT rõ chiếm đa số 82,8%, có 1 trường hợp mất độ lồi lõm.
49
3.3.5.3. Tinh trạng hep ông tai sau điều trị 1 tháng
Ty lệ %90.4%
4.8% 4.8%
0%
20%
40%
60%
80%
100%
Không hẹp Hẹp ≤ 50% Hẹp > 50% đường kính ÔT đường kính ÔT
Biểu đô 3.5: Tinh trạng hep ông tai sau điều trị 1 tháng (n = 21)
* Nhận xét: Trong 21 trường hợp CTÔT có 2 ÔT bị hẹp sau điều trị 1 tháng chiếm
9,6%, trong đó, có 1 trường hợp hẹp ≤ 50% (4,8%) và 1 trường hợp hẹp > 50%
(4,8%) so với đường kính ống tai lành.
3.3.5.4. Kết quả khi tái khám sau điều trị 1 tháng
Bảng 3.25: Kêt quả khi tai kham sau điều trị 1 thang (n = 69)
Kết quả điều trị sau 1 thang
CT vành tai CT ống tai CT tai ngoài
n = 58 % n = 21 % n = 69 %
Tốt 40 69,0 19 90,4 50 72,5
Trung bình 17 29,3 1 4,8 17 24,6
Xấu 1 1,7 1 4,8 2 2,9
Tổng 58 100 21 100 69 100
* Nhận xét: Sau điều trị 1 tháng cho 69 tai ngoài bị chấn thương thì kết quả tốt là
nhiều nhất (CTVT 69,0%, CTÔT 90,4% và 72,5% CTTN); kết quả xấu ít gặp
(2,9%), trong đó có 1 CTVT (1,7%) và 1 CTÔT (4,8%).
50
3.3.6. Đanh gia kết quả trươc và sau điều trị 3.3.6.1. Triệu chứng lâm sàng của chấn thương tai ngoài trước và sau điều trịBảng 3.26: So sánh triệu chứng lâm sàng của chấn thương tai ngoài ở các thơi điểm
điều trị (n = 69)
Triệu chứng lâm sàng Trươc điều trị Khi lành vết thương Sau 1 thang
Đau tai 66 (95,7%) 31 (44,9%) 5 (7,2%)
Ù tai 39 (56,5%) 10 (14,5%) 2 (2,9%)
Nghe kém 10 (14,5%) 3 (4,3%) 1 (1,4%)
Chảy dịch 62 (89,9%) 1 (1,4%) 1 (1,4%)
Sưng nề 65 (94,2%) 58 (84,1%) 5 (7,2%)
Biến dạng vành tai 30 (43,5%) 14 (20,3%) 4 (5,8%)
Hẹp ống tai 6 (8,7%) 4 (5,8%) 2 (2,9%)
Ty lệ %95.7%
44.9%
7.2%
56.5%
14.5%
2.9%
14.5%4.3%
1.4%
89.9%
1.4%1.4%
94.2%
84.1%
7.2%
43.5%
20.3%
5.8%8.7%
5.8%2.9%
0%
10%20%
30%
40%
50%60%
70%
80%90%
100%
Đau tai Ù tai Nghe kém Chảy dịch Sưng nề B.dạng VT Hẹp ÔT
Trước điều trị
Khi lành vết thươngSau 1 tháng
Đau tai Ù tai Nghe kém Chảy dịch Sưng nề Biến dạng VT Hẹp ÔT
Biểu đô 3.6: So sánh triệu chứng lâm sàng ở các thơi điểm điều trị (n = 69).
* Nhận xét: Đa số các triệu chứng trước điều trị đều có cải thiện khi lành vết thương
và sau điều trị 1 tháng, rõ nhất là giảm đau tai (95,7% 44,9% khi lành 7,2%
sau 1 tháng), sưng nề (từ 94,2% 84,1% khi lành 7,2% sau 1 tháng), chảy dịch
(89,9% 1,4%), u tai (giảm từ 56,5% 14,5% khi lành 2,9% sau 1 tháng) và
biến dạng VT (từ 43,5% 20,3% khi lành 5,8% sau 1 tháng).
51
3.3.6.2. Kết quả điều trị chấn thương tai ngoài khi lành vết thương và sau 1 tháng Ty lệ %
66.7%72.5%
30.4%24.6%
2.9%2.9%
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
Tốt Trung bình Xấu
Khi lành vết thươngSau 1 tháng
Biểu đô 3.7: Kết quả điều trị chấn thương tai ngoài khi lành vết thương và sau 1
tháng (n = 69).
* Nhận xét: Trên tổng số 69 tai ngoài bị CT được điều trị thì kết quả tốt sau 1 tháng
(72,5%) nhiều hơn khi lành vết thương (66,7%) và kết quả xấu không cải thiện
(2,9%). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về kết quả điều trị giữa 2 thời
điểm này (p > 0,05).
3.3.6.3. Liên quan giữa mức độ thương tôn với kết quả khi lành
Bảng 3.27: Liên quan giữa mức độ thương tôn với kết quả khi lành (n = 69)
Mức đô thương tônKết quả điều trị khi lành vết thương
Tôt Trung binh Xấu Tổng
Nhe 26 (96,3%) 1 (3,7%) 0 (0,0%) 27 (100%)
Vưa 20 (66,7%) 9 (30,0%) 1 (3,3%) 30 (100%)
Nặng 0 (0,0%) 11 (91,7%) 1 (8,3%) 12 (100%)
Tổng 46 (66,7%) 21 (30,4%) 2 (2,9%) 69 (100%)
* Nhận xét: Có sự liên quan giữa mức độ tổn thương và kết quả điều trị khi lành vết
thương: mức độ tổn thương càng nhẹ thì kết quả khi lành vết thương càng tốt.
52
- Mức độ tổn thương là nhẹ thì kết quả điều trị là tốt chiếm 96,3%,
trung bình chiếm 3,7% và không có kết quả xấu.
- Mức độ tổn thương là vừa thì kết quả điều trị là tốt chiếm 66,7%,
trung bình chiếm 30,0% và kết quả xấu chiếm 3,3%.
- Mức độ tổn thương là nặng thì không có kết quả tốt, trung bình chiếm
91,7% và kết quả xấu chiếm 8,3%.
3.3.6.4. Liên quan giữa mức độ thương tôn với kết quả sau điều trị 1 tháng
Bảng 3.28: Liên quan giữa mức độ thương tôn với kết quả sau điều trị 1 tháng
(n = 69)
Mức đô thương tônKết quả sau điều trị 1 thang
Tôt Trung binh Xấu Tổng
Nhe 27 (100%) 0 (0,0%) 0 (0,0%) 27 (100%)
Vưa 19 (63,4%) 10 (33,3%) 1 (3,3%) 30 (100%)
Nặng 4 (33,3%) 7 (58,4%) 1 (8,3%) 12 (100%)
Tổng 50 (72,5%) 17 (24,6%) 2 (2,9%) 69 (100%)
* Nhận xét: Có sự liên quan giữa mức độ tổn thương và kết quả sau điều trị 1 tháng:
mức độ tổn thương càng nhẹ thì kết quả điều trị khi lành vết thương càng tốt.
- Mức độ tổn thương là nhẹ thì kết quả sau điều trị 1 tháng 100% là tốt.
- Mức độ tổn thương là vừa thì kết quả điều trị là tốt chiếm 63,4%,
trung bình chiếm 33,3% và kết quả xấu chiếm 3,3%.
- Mức độ tổn thương là nặng thì kết quả tốt chiếm 33,3%, trung bình
chiếm 58,4% và kết quả xấu chiếm 8,3%.
Chương 4
53
BÀN LUÂN
4.1. ĐẶC ĐIỂM DICH TÊ HOC CỦA CHẤN THƯƠNG TAI NGOÀI4.1.1. Phân bố theo tuôi và giơi
Về tuôi, theo bảng 3.1 thì lứa tuổi thường gặp chấn thương tai ngoài là từ 16
- 25 tuổi chiếm 32,4% và từ 26 - 35 tuổi chiếm 26,5%, ít nhất là từ 56 tuổi trở lên
(5,8%). Tuổi trung bình là 29,04 ± 15,82 tuổi; nho nhất là 1 tuổi, lớn nhất là 70 tuổi.
Theo Lâm Huyền Trân, Tạ Kim Dung (2003), chấn thương TMH gặp chủ
yếu ở thanh thiếu niên, lứa tuổi 15 - 25 chiếm 566/1305 trường hợp (43,4%) và lứa
tuổi 26 - 35 chiếm 385/1305 (29,5%) [25]. Chúng tôi đã phân chia lứa tuổi tương tự
như Lâm Huyền Trân, Tạ Kim Dung và khi so sánh thì không thấy có sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê về các nhóm tuổi giữa các tác giả này và chúng tôi (p > 0,05).
Trong nghiên cứu về chấn thương TMH của Nguyễn Tư Thế (2002) thì lứa
tuổi từ 21 - 40 chiếm đa số 53,6% [23]; của Lê Huynh Mai (2007) thì lứa tuổi từ 16
- 29 cung gặp nhiều nhất (53,5%) [16]. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
về lứa tuổi thường gặp trong nghiên cứu của các tác giả này và chúng tôi (p > 0,05).
Vậy, chúng ta có thể thấy CTTN hay gặp ở lứa tuổi thanh thiếu niên. Có lẽ vì
đây là lứa tuổi sung sức, luôn hoạt động, hiếu thắng và tham gia vào nhiều công
việc xã hội nên khả năng mắc phải nhiều hơn các lứa tuổi khác. Tuy nhiên, đây
cung là lứa tuổi có nhiều đóng góp cho xã hội, là lực lượng lao động trẻ của xã hội
nên tổn thương xảy ra sẽ làm ảnh hưởng đến ngày công lao động, học tập [14].
Về giới, theo biểu đồ 3.1 ta thấy chấn thương tai ngoài gặp chủ yếu ở nam
(69,1%), nữ chiếm 30,9% và có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về giới (p < 0,01).
Theo Nguyễn Tư Thế (2002), chấn thương TMH gặp chủ yếu ở nam chiếm 81,5%
[23]; Nguyễn Thái Hưng (2006), tổn khuyết vành tai ở nam chiếm đa số 64,6%
[11]. Theo Đỗ Ngọc Hiếu (2005), các thương tích do tai nạn cung gặp đa số ở nam
chiếm 76,3% [9]. Bệnh nhân chấn thương tai ngoài đa số là nam có lẽ vì nam tham
54
gia nhiều công việc nặng nhọc và đặc biệt thường đi xe với tốc độ cao hoặc hiếu
thắng, dễ bị khích động tham gia đánh nhau hơn.
4.1.2. Phân bố theo địa dưTheo bảng 3.2, bệnh nhân sống ở nông thôn (60,3%) nhiều hơn ở thành thị
(39,7%) và có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về địa dư (p < 0,05).
Trái lại, trong nghiên cứu về chấn thương TMH tại bệnh viện Trung ương
Huế của Nguyễn Tư Thế (2002), bệnh nhân xuất thân từ thành thị (51,8%) và nông
thôn (48,2%) tương đương nhau (p > 0,05) [23]. Nhưng không có sự khác biệt về
nơi sống giữa nghiên cứu của Nguyễn Tư Thế và chúng tôi (p > 0,05).
Bệnh nhân của chúng tôi ở nông thôn nhiều hơn ở thành thị có lẽ là do
khoảng cách giữa nông thôn và thành thị ở Thừa Thiên Huế không xa, bệnh nhân có
thể là những người sống ở nông thôn làm việc ở thành thị, thường phải đi về trong
ngày bằng xe máy nên dễ bị chấn thương khi đi lại nhiều hoặc khi lái xe có hơi
men. Điều này cung có liên quan với ty lệ chấn thương do tai nạn giao thông cao
(50%) ở bảng 3.3. Đồng thời, với sự thuận lợi của các phương tiện vận chuyển hiện
nay thì những tai nạn phức tạp ở các huyện ngoại thành Thừa Thiên Huế cung
thường được chuyển lên tuyến trên [23] về hai bệnh viện lớn này nên càng làm
nghiên cứu có số bệnh nhân ở nông thôn tăng cao hơn.
4.1.3. Nghề nghiệp
Theo bảng 3.2, các nghề nghiệp khác ngoài các đoàn thể chiếm phần lớn
(33,8%); tiếp đến là học sinh, sinh viên (20,6%), nông dân chiếm 19,1%, công nhân
chiếm 14,7%; ít gặp ở cán bộ viên chức (7,4%) và buôn bán (4,4%).
Chúng tôi xếp các nghề khác ngoài các đoàn thể bao gồm: nội trợ, lao động
tự do, thất nghiệp…, kể cả các bệnh nhân quá già hoặc còn nho, không có công việc
cụ thể.v.v. CTTN thường gặp ở các đối tượng này có thể vì nhóm nghề nghiệp này
gồm nhiều loại đối tượng. Đồng thời, chúng tôi nhận thấy trong nhóm nghề này
thường là các thanh niên làm nghề lao động chân tay, công việc tự do chưa ổn định,
thường phải đi lại nhiều bằng xe máy hoặc hay tụ tập nhậu nhẹt khi nhàn rỗi, dễ xảy
ra tai nạn giao thông, ẩu đả. Mặt khác, trong nhóm nghề này còn tính cả người nội
trợ, người quá già, trẻ nho nên có thể dễ bị chấn thương bị động trong các sinh hoạt
55
tại nhà hoặc bị người khác gây thương tích khi lưu thông. Điều này phu hợp với ty
lệ tai nạn giao thông (50,0%) và tai nạn sinh hoạt (25,0%) cao trong bảng 3.3.
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nghề nghiệp khác ngoài các
đoàn thể với cán bộ viên chức (p < 0,001) và công nhân (p < 0,05). Điều này có thể
là do các đối tượng ngoài các đoàn thể thường có công việc tự do, trình độ văn hóa
thấp hơn nên còn thiếu nhận thức về an toàn giao thông, an toàn lao động hay phải
làm nhiều công việc chân tay để kiếm thu nhập nên dễ mắc phải chấn thương; còn
công chức và công nhân thì thời gian đi làm cố định, lưu thông trên đường ít hơn,
được đảm bảo an toàn lao động và nhận thức về bệnh tật tốt hơn.
Chấn thương tai ngoài còn hay gặp ở học sinh, sinh viên (20,6%). Theo
nghiên cứu về chấn thương TMH của Lê Huynh Mai (2007) thì đối tượng học sinh,
sinh viên chiếm cao nhất 53,2% [16]. Điều này có thể vì đối tượng này ở lứa tuổi vị
thành niên, thanh niên nên lối hành xư còn thiếu chín chắn và hiếu thắng và thường
phải di chuyển nhiều. Tuy nhiên, đây sẽ là tầng lớp trí thức trẻ, là tương lai của đất
nước ta nên việc giáo dục ý thức chấp hành các luật lệ cần phải chú trọng hơn.
4.1.4. Thời gian bị chấn thươngBiểu đồ 3.3 cho thấy số trường hợp chấn thương tai ngoài bắt đầu tăng mạnh
từ >6g đến <12g, đỉnh điểm là vào khoảng >10g - 12g (17,6%); sau đó giảm mạnh
vào khoảng >12 - 14g (7,4%) và từ 16g lại tăng dần trở lại đến 0g. Thời gian gặp
chấn thương tai ngoài cao nhất vào khoảng >10g - 12g (17,6%) và >22 - 0g
(13,2%), ít gặp vào lúc >0 - 2g (1,5%), không thấy có CTTN vào khoảng >2 - 6g.
Theo Lê Huynh Mai (2007) thời gian vào viện vì CT TMH cao nhất là từ
16h30 - 7h sáng chiếm 69,6%, thấp nhất từ 11h30 - 13h chiếm 5,1% [16] (chúng tôi
từ >16g - 8g chiếm 57,4% và từ >12g - 14g chiếm 7,4%) (p > 005).
Vậy, thời điểm bị chấn thương tai ngoài thường gặp vào lúc tan sở, buổi tối;
ít gặp nhất vào lúc sáng sớm, đêm khuya hoặc giờ hành chính. Bởi vì vào giờ cao
điểm sau giờ hành chính thì mật độ lưu thông trên đường lớn, dễ xảy ra tai nạn và
đồng thời cung là lúc hay tụ tập nhậu nhẹt nên có thể xảy ra ẩu đả hoặc tai nạn giao
thông. Thời điểm chấn thương của chúng tôi so với của Lê Huynh Mai thì nhiều
hơn về buổi trưa nhưng lại ít hơn vào buổi tối có lẽ vì địa điểm nghiên cứu. Người
dân Thừa Thiên Huế thường sinh hoạt buổi tối sớm hơn, không đi chơi khuya, đi
56
làm sáng sớm hơn và ban trưa thường về nhà, không ở lại công sở như ở TP. Hồ
Chí Minh. Tuy nhiên, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nghiên cứu
của Lê Huynh Mai và chúng tôi với p > 005.
4.1.5. Nguyên nhân chấn thương
Theo bảng 3.3, nguyên nhân chấn thương tai ngoài do tai nạn giao thông
chiếm ty lệ cao nhất 50%, kế đến là tai nạn sinh hoạt (25%) và đánh nhau (19,1%).
Tương tự nghiên cứu của Nguyễn Tư Thế (2002), chấn thương TMH do tai
nạn giao thông chiếm đa số 61,9%, tai nạn sinh hoạt chiếm 33,3% [23]. Trong
nghiên cứu về mô hình chấn thương chung tại Đà Nẵng của Phạm Công Tuấn
(2008) thì tai nạn giao thông cung là nguyên nhân hàng đầu, chiếm 47% [27].
Theo Hochberg J. và cs. (2001), CT phần mềm vung đầu mặt xảy ra nhiều
nhất do tai nạn giao thông (hơn 40.000 trường hợp hằng năm tại Mỹ do tai nạn xe
motô), tiếp đến là do đánh nhau, bạo lực, tai nạn lao động, bị cắn… [43]. Theo
Jordan J. R. và cs. (2006), khoảng 50 - 70% người bị tai nạn môtô có CT đầu mặt
[45]. Còn theo Perkins S. W. (2000), chấn thương đầu mặt do tai nạn thể thao chiếm
42%, thường xảy ra ở trẻ em dưới 17 tuổi [53].
Như vậy, nguyên nhân gây chấn thương đứng đầu luôn là tai nạn giao thông.
Hiện nay, đây luôn là vấn nạn của các nước phát triển và đang phát triển làm tăng
thêm gánh nặng cho nghành y tế, tiêu tốn nhiều của cải của xã hội. Đặc biệt, trong
nghiên cứu của chúng tôi, đặc biệt có một số trường hợp mu bảo hiểm đập xuống
đường bị vơ và cắt vào tai gây đứt rách vành tai hoặc cắt ngang qua cả vành tai và
ống tai. Theo nghiên cứu của Trịnh Xuân Đàn (2006) về thực trạng chấn thương của
sinh viên thì có 75% bệnh nhân có đội mu bảo hiểm khi bị chấn thương do tai nạn
giao thông [6]. Như vậy, chúng ta cần phải quan tâm hơn nữa về chất lượng mu bảo
hiểm, nó sẽ là vật bảo vệ đầu mặt hay lại là vật gây chấn thương nặng hơn.
Trong 13 trường hợp do đánh nhau của chúng tôi có 1 trường hợp bị người
cắn và 1 trường hợp bị chó cắn. CTTN do bị cắn cung là nguyên nhân hay gặp trong
các nghiên cứu về phẫu thuật tái tạo vành tai của các tác giả nước ngoài [34], [46],
[58]. Tổ chức Y tế Thế giới năm 2002 đã đưa ra dự đoán chấn thương do tai nạn
giao thông và bạo lực sẽ tăng một cách mạnh mẽ cho tới những năm 2020 [27].
57
4.1.6. Thời gian từ khi bị chấn thương đến khi được xử tri Theo bảng 3.4, thời gian từ khi bệnh nhân bị chấn thương đến khi xư trí
trước 6 giờ chiếm đa số 82,3%, tiếp đến là từ > 6 - 24 giờ (11,8%), ít nhất là > 24
giờ (5,9%), trung bình là 8,037 ± 21,34 giờ, ngắn nhất là 1 giờ, dài nhất 5 ngày.
Theo nghiên cứu của Đỗ Ngọc Hiếu (2005) về tình hình thương tích do tai
nạn thì thời gian từ khi chấn thương đến khi xư trí ban đầu đa số là trước 6 giờ
(64,2%), từ 6 - 24 giờ chiếm 24,3%, > 24 giờ chiếm 11,7% [9].
Thời gian từ khi bệnh nhân bị chấn thương đến khi xư trí trước 6 giờ chiếm
đa số có lẽ vì sau CT bệnh nhân thường được đưa đến bệnh viện ngay nên được xư
trí sớm, điều này rất giúp ích cho việc điều trị và sẽ làm giảm các biến chứng của
CTTN. Trong vấn đề xư trí vết thương thì vết thương ô nhiễm hay vết thương dơ là
vết thương hở do CT sau hơn 6 đến 8 giờ, đây là “thời gian vàng” rất quan trọng để
xư trí vết thương, khoảng thời gian này sẽ quyết định ty lệ nhiễm khuẩn và kết quả
lành vết thương [21]. Pham V. Tuan và cs. (2003) cung chỉ ra những vết thương tai
giập nát nhiều hoặc để quá 24 giờ thì ty lệ nhiễm khuẩn cao hơn nhiều [55].
So với Đỗ Ngọc Hiếu thì thời gian xư trí của chúng tôi có phần khác biệt.
Điều này có thể là do diện tích và mật độ di chuyển của TP. Hà Nội lớn hơn của TP.
Huế nên bệnh nhân tại Huế có thể dễ dàng đến bệnh viện ngay sau CT hơn. Vì vậy,
chúng tôi có thời gian xư trí trước 6 giờ nhiều hơn nhưng từ 6 - 24 giờ ty lệ lại ít
hơn của Đỗ Ngọc Hiếu (p < 0,05). Tuy nhiên, vì đây là những trường hợp CT, bệnh
nhân thường đau đớn và lo lắng nên họ phải đến bệnh viện ngay khi có thể, do đó, ít
gặp thời gian xư trí > 24 giờ là giống nhau, không có sự khác biệt giữa tác giả này
và chúng tôi (p > 0,05).
4.1.7. Tình trạng chấn thương phối hợp Theo biểu đồ 3.4, chấn thương phối hợp chiếm 58,8%. Trong đó, nhiều nhất
là chấn thương sọ não (19,1%) và đa chấn thương (14,7%), tiếp đến là CT hàm mặt
(11,8%), ít nhất là các chấn thương khác như chấn thương ngực, bụng… chiếm
4,4%. Trong 10 trường hợp đa chấn thương thì có 5 trường hợp có CT sọ não kem
theo (7,4%), vậy CT sọ não chiếm tổng cộng 26,5% tổng số bệnh nhân bị CTTN.
Theo Đỗ Ngọc Hiếu (2005), các thương tích do tai nạn vào viện nhiều nhất
cung là chấn thương sọ não (36,4%), tiếp đến là đa chấn thương chiếm 21,6% [9].
58
Không có sự khác biệt về ty lệ chấn thương sọ não và đa chấn thương giữa nghiên
cứu của Đỗ Ngọc Hiếu và chúng tôi (p > 0,05).
Về giải phẫu, tai nằm ở hai bên đầu, liên hệ mật thiết với các cơ quan lân cận
như sọ não, hàm mặt nên thường có chấn thương sọ não, răng hàm mặt đi kem. Do
đó, khi có chấn thương tai ngoài cần phải khám một cách toàn diện để tránh bo sót
các chấn thương nguy hiểm đến tính mạng bệnh nhân. Đồng thời, cung không vì
quá chú tâm vào các chấn thương nặng khác mà bo sót các CTTN, tránh để lại các
biến chứng về sau sẽ làm ảnh hưởng đến cức năng và thẩm mỹ của tai [25].
4.2. ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CÂN LÂM SÀNG CỦA CHẤN THƯƠNG TAI NGOÀI4.2.1. Sự phân bố chấn thương
Theo bảng 3.5, chúng tôi có 69 tai bị CTTN trên tổng số 68 bệnh nhân, đa số
xảy ra ở tai trái 60,9%, tai phải gặp 39,1%; chỉ có 1 trường hợp bị CT hai tai cung
lúc (1,4%). Sự phân bố vị trí này có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).
Điều này có thể giải thích rằng con người thường thuận tay phải nên các hoạt
động thuộc về bên trái kém linh hoạt hơn, bị động hơn. Do đó, khi bị ngã thường
ngã về bên trái hoặc khi bị đánh vào vung đầu mặt, bệnh nhân theo quán tính
thường quay đầu về bên phải để né và để lộ vung đầu mặt bên trái.
Bảng 3.5 chỉ ra trong 79 bộ phận của tai ngoài bị CT có 58 CTVT (84,1%
CTTN) nhiều hơn hăn CTÔT (21 trường hợp, chiếm 30,4% CTTN) với p < 0,001.
Theo nghiên cứu 168 trường hợp chấn thương TMH tại bệnh viện Trung
ương Huế của Nguyễn Tư Thế (2002), chấn thương tai chiếm 38,2% tổng số chấn
thương TMH chung, trong đó chấn thương vành tai chiếm 46,9% và chảy máu ống
tai ngoài chiếm 22,8% tổng số các chấn thương thực thể của tai [23].
CT vành tai nhiều hơn hăn CT ống tai là phu hợp vì VT nằm lộ thiên hai bên
đầu, không được bảo vệ khuất như ống tai nên nó dễ bị CT khi va đập hơn [32].
Vậy, chúng ta cần phải quan tâm hơn việc bảo vệ VT trong sinh hoạt hàng ngày.
4.2.2. Phân loại chấn thương Qua bảng 3.6, ta thấy loại chấn thương chiếm ty lệ cao nhất là CT rách, đứt,
giập / vơ tai ngoài (CTVT chiếm 79,3%, CTÔT chiếm 95,2%), tiếp đến là bong tai
59
ngoài (CTVT chiếm 17,2%, CTÔT chiếm 4,8%), ít nhất là 2 trường hợp tụ dịch
vành tai (3,5%). Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa ty lệ CT rách, đứt, giập
VT và CT rách, đứt, vơ ÔT (p < 0,01). Vậy, khi có CTTN thì loại CT thường gặp
nhất là rách, đứt; trong đó, rách, đứt, giập VT gặp nhiều hơn rách, đứt, vơ ÔT.
Theo nghiên cứu về mô hình CT chung trên 54.111 trường hợp CT tại các
bệnh viện ở Đà Nẵng của Phạm Công Tuấn (2008) thì loại CT thường gặp nhất,
chiếm 50,2% tổng số các loại CT là các CT cắt, rách, vết thương hở, vết thương trầy
xước; bong gặp ít nhất (3%) [27]. Phân loại CTTN này của chúng tôi cung tương tự
như của Phạm Công Tuấn (p > 0,05). Điều này có thể là do nguyên nhân của CT đa
số là do tai nạn giao thông, đánh nhau (bảng 3.3) và đồng thời, vị trí giải phẫu của
TN phần lớn nằm lộ thiên tự do hai bên đầu nên dễ bị va chạm gây rách, đứt.
Bong vung đầu mặt cổ là một loại chấn thương ít gặp. Theo nghiên cứu về
tình hình bong tại Viện Bong Quốc gia của Đỗ Thanh Long năm 2006 thì bong
vung đầu mặt cổ chỉ chiếm 3,15% bong toàn thân [15]. Tuy nhiên, bong tai ngoài
gặp trong hơn 90% các trường hợp bong vung đầu cổ do vị trí nhô ra ngoài và do
lớp da mong của nó (theo Jordan J. R. (2006) [45]).
Tụ dịch vành tai cung là một loại vi chấn thương do va chạm nhưng nó biểu
hiện âm thầm, ít gặp hơn [10] và với những trường hợp tụ dịch vành tai nhẹ bệnh
nhân thường không nhận thấy hoặc đã được điều trị tại tuyến dưới hoặc chỉ điều trị
ngoại trú liệu pháp laser tại bệnh viện Trung ương Huế, không nhập viện điều trị.
Do đó, ty lệ loại chấn thương này chúng tôi chỉ gặp 2 trường hợp (3,5% CTVT).
4.2.3. Triệu chứng lâm sàng trươc điều trị Trong các trường hợp chấn thương phần mềm hay xương vung đầu mặt thì
sưng nề, đau và chảy máu vết thương là những triệu chứng có mặt trong hầu hết các
trường hợp. Các triệu chứng này thường gặp trong ngày đầu chấn thương và có giá
trị hướng tới vị trí chấn thương [1]. Do đó, bảng 3.7 cho thấy khi xảy ra CTTN, du
chấn thương ở vành tai hay ống tai, bệnh nhân thường luôn có đau tai (95,7%), sưng
nề (94,2%) và đa số có chảy máu vết thương (75,4%) là phu hợp. Không có sự khác
biệt về ty lệ của các triệu chứng này giữa CTVT và CTÔT (p > 0,05).
Về chảy dịch tai, ngoài các trường hợp chảy máu chiếm đa số (75,4%) còn có
một số trường hợp chảy dịch huyết thanh gặp trong các vết thương nho, chỉ xây xát
60
bề mặt da hoặc các vết bong độ 1, độ 2 có bóng nước chứa huyết thanh hoặc các
trường hợp tụ dịch huyết thanh vành tai. Có 2 trường hợp chảy mủ tai (chiếm 2,9%)
gặp trong 1 trường hợp bong bội nhiễm và 1 trường hợp rách ống tai điều trị ở tuyến
dưới bị nhiễm trung.
Trên 58 trường hợp CTVT và 21 trường hợp CTÔT thì các triệu chứng u tai
và nghe kém thì có sự khác biệt giữa vành tai và ống tai (p < 0,05). Những triệu
chứng này gặp ở CTÔT nhiều hơn ở CTVT: u tai ở CTVT chiếm 53,4%, ở CTÔT
chiếm 81,0% và nghe kém ở CTVT chiếm 13,8%, CTÔT chiếm 38,1%.
Triệu chứng nghe kém và u tai trong CTVT chủ yếu là do có chảy máu nhiều
vào ống tai tạo ra cảm giác đầy tai, lung bung. Trong CTÔT có các triệu chứng này
phần nhiều cung do chảy máu trong ÔT, ngoài ra, còn có thể do bị hẹp ÔT ở nhiều
mức độ hoặc có CT phối hợp với các bộ phận khác của tai gây nghe kém, u tai.
Biến dạng VT cung hay gặp trong CTVT, chiếm 43,5% CTTN. VT có thể
biến dạng nhiều kiểu như VT bị cụt, bị chẻ thành nhiều mảnh, bị khuyết hoặc bị đầy
lên thành khối… làm cho nó không còn hình dáng ban đầu. Các biến dạng này làm
mất thẩm mỹ của tai và cung là một nguyên nhân khiến bệnh nhân đến bệnh viện.
Trên 21 CTÔT thì hẹp ống tai gặp 28,6%. Triệu chứng này có thể do vết
thương sưng nề làm hẹp một phần ÔT, vơ xương nhĩ hoặc một số trường hợp bị
CTÔT không điều trị hợp lý gây nhiễm trung kéo dài làm xơ hẹp ống tai [47], [56].
Tình trạng da xung quanh tổn thương đóng vai trò rất quan trọng, ở đây có
15,9% trường hợp CTTN có da xung quanh bị tổn thương, thường gặp khi vết
thương quá dài kéo ra tới da đầu mặt hoặc bệnh nhân bị cắt, đứt lìa tai ngoài và một
phần da đầu ra khoi gốc của nó hoặc bị bong cả một phần bên đầu có tai. Phần da
này rất cần thiết để đảm bảo cung cấp đủ máu cho tai tạo hình hoặc để dung làm vạt
da ghép khi CTTN có mất chất nhiều [28], [33], [40].
4.2.4. Vị tri chấn thương tai ngoàiVề vị tri chấn thương vành tai, bảng 3.8 chỉ ra trong 58 trường hợp CTVT
thì vị trí thường gặp là ở phía trên VT: nhiều nhất là ở 2/3 trên (24,1%) và 1/3 giữa
(22,4%), tiếp đến là 1/3 trên (15,5%); nhưng lại ít gặp ở phía trong và dưới của VT:
1/2 trong chiếm 3,5, 2/3 dưới chiếm 5,2% và 1/3 dưới và dái tai chiếm 6,9% .
Theo nghiên cứu của Nguyễn Thái Hưng trên 48 trường hợp tổn khuyết vành
61
tai không toàn bộ thì vị trí hay gặp nhất cung là ở phía trên VT: 2/3 trên chiếm
43,8%, 1/3 trên chiếm 20,8% và cung ít gặp ở 1/3 dưới và dái tai (10,4%) [11].
Vậy, nghiên cứu về vị trí tổn thương vành tai của chúng tôi tương tự nghiên
cứu của Nguyễn Thái Hưng (không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p >
0,05). Điều này có lẽ là do phần trên VT to hơn và nhô ra hơn so với phần dưới, sụn
VT tập trung chủ yếu ở phần trên, dái tai chỉ gồm da và mô mơ nên khi va chạm,
phần trên VT kém đàn hồi hơn, dễ bị xoắn vặn, đứt rách hơn.
Về vị tri chấn thương ông tai, qua bảng 3.9, CTÔT hay gặp ở 1/2 ngoài
(61,9% CTÔT). Điều này có lẽ là do ÔT nằm khuất, hình dáng lại hơi khúc khuyu
nên thường chấn thương dễ xảy ra ở phần nông phía ngoài. Chấn thương 1/2 trong
ÔT gặp 33,3% CTÔT, thường trong các trường hợp CT do ngoái tai, có tổn thương
lồi cầu xương hàm dưới, nhét meche ÔT gây xây xước hoặc do lấy dị vật ÔT.
4.2.5. Cac đặc điểm hình thai cua chấn thương tai ngoài
4.2.5.1. Tôn thương rách, đứt, giâp / vơ tai ngoài
* Kiểu tôn thương
Qua bảng 3.10 ta thấy trong 46 trường hợp rách, đứt, giập vành tai, kiểu
thương tổn rách da lộ sụn, xương chiếm đa số 76,1%; tiếp đến là kiểu vết thương
đứt rời một phần vành tai 13,1%; không có vết thương xây xát. Trong 20 trường
hợp rách, đứt, vơ ống tai, kiểu vết thương xây xát chiếm nhiều nhất (55%); tiếp đến
là vết thương rách da lộ sụn, xương 35%; có 2 trường hợp vơ xương nhĩ (10%)
được phát hiện qua phim X quang xương chum và nội soi tai.
Có sự khác biệt về ty lệ kiểu tổn thương đứt, rách giữa vành tai và ống tai (p
< 0,05). Điều này có lẽ là do đặc điểm giải phẫu của chúng, VT có phần tự do nằm
nhô ra ngoài nhiều nên khi CT dễ bị rách hoặc đứt xé ra, còn ÔT nằm thụt sâu vào
trong và phần lớn được bao bọc xung quanh bởi xương và vành tai ở ngoài nên khó
bị rách hơn, chủ yếu xây xát bề mặt da, ÔT thường chỉ rách, đứt khi có rách ổ xoắn
tai kéo vào trong ÔT hoặc khi đứt rời cả VT và ÔT hoặc dị vật tai.
* Kich thước tôn thương
CTTN có kích thước thương tổn khác nhau tuy vị trí chấn thương. Bảng 3.11
cho thấy kích thước tổn thương ở VT nhiều nhất là vừa (50%), nho (26,1%) và lớn
62
(23,9%) tương đương nhau; CTÔT có vết thương nho chiếm đa số (85%), còn lại là
vừa (15%), không có vết thương lớn.
So sánh về ty lệ các kích thước tổn thương giữa vành tai và ống tai ta thấy có
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Điều này là do vành tai nằm tự do, dễ
xoắn vặn gây rách, đứt một phần vành tai nhô ra (vết thương < 2 cm hoặc từ 2 - 5
cm), còn ống tai thường chỉ tổn thương ở 1/2 ngoài (bảng 3.9) và xây xát bề mặt da
(bảng 3.10) nên vết thương thường nho (< 1/2 chiều dài ÔT).
Trong nghiên cứu trên 48 bệnh nhân bị tổn khuyết vành tai của Nguyễn Thái
Hưng (2006) thì tổn thương kích thước lớn gặp nhiều nhất (43,8%), rồi đến kích
thước vừa (35,4%) và nho (20,8%) [11]. Tổn thương vành tai có kích thước lớn của
Nguyễn Thái Hưng nhiều hơn của chúng tôi (p < 0,05), còn các kich thước khác thì
tương tự nhau (p > 0,05). Điều này có thể là do mẫu nghiên cứu của chúng tôi chỉ
gồm những trường hợp tổn thương VT do chấn thương, còn nghiên cứu của Nguyễn
Thái Hưng thì không những bao gồm các tổn thương do chấn thương mà còn gồm
cả những tổn thương do bẩm sinh, phẫu thuật lấy u (cung trong nghiên cứu này của
Nguyễn Thái Hưng thì có 14/25 trường hợp tổn thương VT bẩm sinh có kích thước
lớn (56%) và có 2/3 trường hợp tổn thương VT do phẫu thuật lấy u (66,7%) [11]).
4.2.5.2. Tôn thương bong tai ngoài
Trong nghiên cứu 4194 trường hợp vào khám và điều trị tại Viện Bong Quốc
gia năm 2006 của Đỗ Thanh Long (2007) thì bong vung đầu mặt chiếm tỉ lệ thấp
(chiếm 3,15% trường hợp bong toàn thân) [15] nhưng lại là một chấn thương nguy
hiểm vì liên quan tới các chức năng sống của bệnh nhân và khi để lại biến chứng, di
chứng thì sẽ ảnh hưởng nhiều đến thẩm mỹ.
Trong bảng 3.12, 100% trường hợp bong tai ngoài là do nóng. Nghiên cứu
của Đỗ Thanh Long và cs. (2007) cung cho thấy bong do nhiệt nóng chiếm ty lệ cao
nhất 73,63% [15]. Theo Jordan J. R. (2006), bong vung đầu cổ thường gặp bong
nóng [45]. Các trường hợp bong tai ngoài của chúng tôi đều do nóng có lẽ là do
mẫu nghiên cứu của chúng tôi chỉ trên tai ngoài, số lượng bong ít (11 trường hợp)
nên chỉ gặp bong do nóng. Không có sự khác biệt về tác nhân bong trong nghiên
cứu của Đỗ Thanh Long và chúng tôi (p > 0,05).
63
Bong do nhiệt nóng là các trường hợp bong do nước sôi, lưa cháy… thường
xảy ra trong sinh hoạt hằng ngày hoặc xảy ra ở những em bé vô tình bị bong do ngã.
Do đó, cần phải cẩn thận trong khi làm việc hoặc chơi đua. Ngoài ra, bong vành tai
còn gặp một nguyên nhân đặc biệt là lạnh cóng, thường được đề cập đến trong tài
liệu của các tác giả nước ngoài [36], [45] nhưng vì nước ta là một nước nhiệt đới
nên rất hiếm có tình huống này xảy ra [10].
Về mức độ bong, ở vành tai, bong độ 1 chiếm đa số (60%), ở ống tai có duy
nhất 1 trường hợp bong (độ 2). Điều này có lẽ do vành tai nằm lộ thiên nên các tác
nhân bong dễ được loại trừ sớm, còn ống tai nằm khuất nên ít được chú ý hơn, tác
nhân bong dễ bị đọng trong đó nên dễ bị bong nặng hơn. Tuy nhiên, số lượng bệnh
nhân quá thấp cung không đưa ra được kết luận gì.
4.2.6. Kết quả cấy dịch vết thương tai ngoài
Trong 69 tai bị chấn thương tai ngoài chúng tôi chỉ làm xét nghiệm dịch vết
thương khi CT rách, đứt có nhiễm trung, có mủ chảy ra hoặc khi chích rạch, dẫn lưu
dịch ở khối tụ dịch vành tai và trong các trường hợp bong nghi ngờ có bội nhiễm.
Do đó, chúng tôi chỉ có 7 trường hợp cấy dịch tại vết thương tai ngoài.
Dựa vào bảng 3.13 ta thấy kết quả cấy dịch vết thương tai ngoài gặp nhiều
nhất là cấy không mọc (42,9%); tiếp đến là Staphylococcus và Streptococcus
(28,6%). Xét nghiệm cấy dịch vết thương này thường làm ở những trường hợp bong
tai ngoài. CT rách, đứt, giập / vơ tai ngoài thì có 1 trường hợp cấy ra Streptococcus
(14,3%). Tụ dịch vành tai thì có 1 trường hợp cấy ra Pseudomonas (14,3%). Bong
tai ngoài có 1 trường hợp (14,3%) cấy ra 3 loại vi khuẩn gồm: Staphylococcus,
Streptococcus và E.Coli, 1 trường hợp cấy ra Staphylococcus (14,3%).
Phân lập vi khuẩn trong viêm tai ngoài thì thường gặp nhất là Pseudomonas
aeruginosa (> 40%), rồi đến Streptococcus, Staphylococcus [4], [10]. Về nhiễm
trung vết bong chung, theo nghiên cứu của Đặng Hoàng Nga và cs. (2005) thì
nguyên nhân hàng đầu là Staphylococcus aureus (47,8%), tiếp theo là Pseudomonas
aeruginosa (17,4%) và các trực khuẩn Gr (-) [17].
Các trường hợp bong thường có nhiễm khuẩn nhiều hơn các loại CTTN khác
có lẽ vì đây là các trường bong nặng, nằm điều trị lâu ngày, sức đề kháng kém và dễ
64
bị nhiễm trung bệnh viện. Ngoài ra, hiện nay tình trạng kháng kháng sinh của một
số loại vi khuẩn tại các bệnh viện lớn đang được đặt ra và đáng báo động [17].
Chính điều này cung làm cho tình trạng nhiễm khuẩn vết thương nặng nề hơn.
4.2.7. Mức đô tôn thương
Mức độ thương tổn tai ngoài được tính dựa trên kiểu tổn thương các tổ chức,
kích thước vết thương hoặc độ bong hoặc kích thước khối tụ dịch.
Theo bảng 3.14, mức độ tổn thương vành tai chủ yếu là vừa (46,5%) và nhẹ
(34,5%), mức độ nặng ít gặp (19,0%); mức độ thương tổn ở ống tai nhiều nhất là
nhẹ (61,9%). Dựa vào bảng 3.10, 3.11và 3.12 ta thấy CTVT chủ yếu các vết thương
rách da, lộ sụn, không có mất chất (76,1%), kích thước vừa (50%) hoặc bong độ 1
(60%), do đó mức độ thương tổn vành tai chủ yếu là vừa và nhẹ; còn CTÔT chủ yếu
có vết thương xây xát bề mặt da (55%), kích thước nho (85%) nên mức độ thương
tổn nhẹ chiếm đa số là phu hợp.
Mức độ tổn thương của tai ngoài bị chấn thương sẽ dựa vào mức độ nặng
hơn của bộ phận có kích thước vết thương nhiều hơn và có nhiều tổ chức (da, sụn
hay xương) bị tổn thương hơn. Bảng 3.14 cho thấy trên 69 tai bị CT thì nhiều nhất
là mức độ vừa (43,5%), kế đến là nhẹ (39,1%), ít nhất là nặng (17,4%).
Trong nghiên cứu về bị tổn khuyết vành tai của Nguyễn Thái Hưng (2006)
thì có 50% thương tổn mức độ nặng, 39,6% mức độ vừa và 10,4% mức độ nhẹ [11].
Điều này là do các tổn thương trong nghiên cứu của Nguyễn Thái Hưng thường có
kích thước lớn (43,8%). Tuy nhiên, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về
mức độ tổn thương giữa nghiên cứu của Nguyễn Thái Hưng và chúng tôi (p > 0,05).
4.3. ĐÁNH GIÁ KÊT QUẢ ĐIỀU TRI CHẤN THƯƠNG TAI NGOÀI
4.3.1. Phương phap điều trị
Việc điều trị CTTN rất quan trọng bởi lẽ phần lớn VT và 1/3 ngoài ÔT có tổ
chức sụn khi bị viêm nhiễm rất dễ bị hoại tư gây dúm dó vành tai hoặc hẹp ống tai,
ảnh hưởng đến chức năng và thẩm mỹ tai [47], [54]. Theo bảng 3.15, ở vành tai
điều trị chủ yếu là cắt lọc, khâu vết thương (74,1%). Điều này có lẽ vì các vết
65
thương vành tai phần lớn là rách da lộ, sụn, xương (76,1%) (bảng 3.10). Nguyên tắc
quan trọng của phương pháp này là phải làm sạch và khâu vết thương sao cho phải
đảm bảo che phủ được phần sụn bị lộ để tránh nhiễm trung sụn, gây biến dạng VT.
Có 5 trường hợp CTVT dung vạt da tại chỗ để tạo hình vành tai (8,6%) gặp ở
các trường hợp rách da, mất chất nhiều hoặc bong sâu gây hoại tư da, sụn.
CTVT có 2 trường hợp điều trị nội khoa kết hợp với liệu pháp laser (3,5%)
do tụ dịch vành tai. Theo nghiên cứu của Phạm Xuân Phụng (2001) về điều trị tụ
máu và viêm sụn - màng sụn vành tai bằng thiết bị quang trị liệu Laser bán dẫn thì
tia Laser có tác dụng làm tăng vi tuần hoàn ở mô, giảm phu nề, kích thích các đại
thực bào làm giảm bớt tính sinh bệnh của vi khuẩn, tăng hoạt hóa hệ miễn dịch,
tăng sinh sợi collagen, chống viêm, chống loét, làm liền da, nâng ngương đau… nên
rất có hiệu quả trong điều trị tụ dịch vành tai và viêm sụn - màng sụn [18].
Chúng tôi không có trường hợp nào dung khung độn tạo hình. Nghiên cứu
của Nguyễn Thái Hưng (2006) về tạo hình tổn khuyết vành tai không toàn bộ có
43,8% trường hợp sư dụng khung sụn sườn [11]. Sự khác biệt này là do Nguyễn
Thái Hưng điều trị trên những bệnh nhân đã có tổn khuyết vành tai bẩm sinh hoặc
mắc phải, đây thường là tổn khuyết lớn (43,8%), mức độ nặng (50%).
Ơ ống tai, nhiều nhất là điều trị nội khoa (71,4%); cắt lọc, khâu vết thương ít
hơn chiếm 23,8%. Điều này có lẽ vì các vết thương ÔT chủ yếu là xây xát da
(55%); đứt, rách, vơ xương, sụn ÔT ít gặp hơn (35%). Có 1 trường hợp chỉnh hình
ÔT hẹp (4,8%) do bệnh nhân bị rách ÔT có kem thủng màng nhĩ đã lâu, viêm
nhiễm, chảy mủ tai nhiều lần. Còn 1 trường hợp chít hẹp cưa ÔT hoàn toàn, viêm
nhiễm tái phát nhiều lần, chúng tôi có kế hoạch chỉnh hình ÔT lần hai nhưng vì
bệnh nhân chưa có điều kiện nên chưa thực hiện được.
Ngoài ra, trong điều trị CTTN chúng tôi luôn quan tâm đến vấn đề chống
nhiễm trung, đặc biệt khi có vết thương rách, đứt nặng hoặc tụ dịch VT bội nhiễm
hoặc bong bội nhiễm. Theo Đặng Hoàng Nga và cs. thì nhiễm khuẩn vết bong
thường do Staphylococus aureus (47,8%) hoặc có hai loại vi khuẩn trở lên (24%) và
tình trạng vi khuẩn kháng kháng sinh cao làm cho việc điều trị khó khăn hơn [17].
66
4.3.2. Biến chứng
Trong bảng bảng 3.17, biến chứng của chấn thương tai ngoài tai ngoài ít gặp.
CTVT có 8,7% trường hợp có biến chứng gồm 2 trường hợp viêm da (3,5%), 2
trường hợp hoại tư tổ chức (3,5%) và 1 trường hợp viêm sụn - màng sụn (1,7%).
CTÔT có 14,3% có biến chứng (đều là viêm da). Nguyên nhân của các biến chứng
này thường là do thương tổn lớn, tổ chức giập nát nhiều, có nhiều dị vật bẩn hoặc
bong sâu gây hủy hoại tổ chức và một số khác còn do ý thức điều trị không đúng
của bệnh nhân dẫn đến nhiễm trung vết thương kéo dài, hoại tư tổ chức, để lại di
chứng xấu cho tai ngoài.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Thái Hưng (2006) thì biến chứng phẫu thuật
tổn khuyết vành tai cung ít gặp (4,2% nhiễm trung, 2,1% viêm sụn và 2,1% hoại tư
da) [11]. Không có sự khác biệt về các biến chứng giữa nghiên cứu của Nguyễn
Thái Hưng và chúng tôi (p > 0,05). Các biến chứng ít xảy ra có lẽ do chúng tôi thực
hiện đúng kỹ thuật, cắt lọc tổ chức tiết kiệm, cầm máu kỹ, phủ kín sụn và chăm sóc
vết thương tốt.
4.3.3. Kết quả điều trị khi lành vết thương
4.3.3.1. Triệu chứng lâm sàng khi lành vết thương
Theo bảng 3.18, chấn thương vành tai khi lành vết thương đa số còn sưng nề
(93,1%) và đau tai (50,0%); chấn thương ống tai khi lành còn nhiều nhất là u tai
(38,1%), đau và sưng nề (33,3%).
Đây là các trường hợp chấn thương nên khi lành, các mép vết thương đã dính
kín với nhau nhưng quá trình viêm tại chỗ vẫn còn tồn tại nên vết thương còn sưng
nề và cảm giác đau tại vết thương [21]. Triệu chứng u tai trong CTÔT còn có thể do
sưng nề ống tai, hẹp ống tai hoặc là cảm giác chủ quan của bệnh nhân.
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 1 trường hợp CT cả VT và ÔT đã hơn 1
tháng, điều trị tại tuyến dưới nhưng tình trạng nhiễm trung tai ngoài không cải thiện,
có chít hẹp cưa ÔT, VT biến dạng một phần, khi lành vẫn còn chảy mủ tai (1,4%).
Điều này có lẽ do kỹ thuật khâu không đúng với cấu trúc giải phẫu tai ngoài, không
đảm bảo vô trung khi khâu vết thương, điều trị chống nhiễm khuẩn không tốt.
67
4.3.3.2. Kết quả điều trị khi lành vết thương
Kết quả điều trị khi lành vết thương thường được tính khi bệnh nhân xuất
viện hoặc khi cắt chỉ vết thương đối với các bệnh nhân điều trị ngoại trú. Dựa vào
tiêu chuẩn đánh giá kết quả khi lành, bảng 3.19 cho thấy kết quả:
Tốt: 63,8% CTVT, 71,4% CTÔT và 66,7% CTTN chung.
Trung bình: 32,8% CTVT, 23,8% CTÔT và 30,4% CTTN chung.
Xâu: 3,4% CTVT, 4,8% CTÔT và 2,9% CTTN chung (trong đó gồm 1
CTVT, 1 chấn thương cả VT và ÔT).
Nghiên cứu của Nguyễn Thái Hưng (2006) về tạo hình tổn khuyết vành tai
cho kết quả gần (khi bệnh nhân xuất viện) đối với 48 trường hợp phẫu thuật tổn
khuyết vành tai là tốt 68,7%, trung bình 27,1% và xấu 4,2% [11].
So sánh kết quả điều trị CTTN khi lành của chúng tôi với kết quả gần tạo
hình tổn khuyết VT của Nguyễn Thái Hưng thì không có sự khác biệt (p > 0,05).
Kết quả điều trị khả quan như vậy có lẽ là do bệnh nhân được đưa đến bệnh viện
sớm, xư trí sớm sau chấn thương (82,3% trước 6 giờ) và được điều trị đúng .
4.3.4. Kết quả tai kham sau điều trị 1 thang
4.3.4.1. Triệu chứng lâm sàng khi tái khám sau điều trị 1 tháng
Về các triệu chứng cơ năng, theo bảng 3.20, khi tái khám sau điều trị 1
tháng các triệu chứng cơ năng còn rất ít. Nếu xét 69 trường hợp CTTN chung thì
còn 7,2% có đau tai, 2,9% có u tai, 1 trường hợp CT cả vành tai và ống tai có nghe
kém (1,4%) và 1,4% có chảy dịch tai. Trong 58 trường hợp CTVT còn nhiều nhất là
đau tai (8,6%). Trong 21 trường hợp CTÔT còn 2 trường hợp u tai (9,5%), 1 trường
hợp nghe kém và chảy mủ ống tai (4,8%), không có đau tai. Các triệu chứng này
gặp ở các thương tổn nặng, phá hủy nhiều tổ chức, có sẹo xấu co kéo hay hẹp ÔT.
Về tinh trạng vết thương sau điều trị 1 tháng (bảng 3.21) ta thấy: Sẹo đẹp
chiếm đa số: 63,8% CTVT, 80,9% CTÔT, 66,7% CTTN. Sẹo trung bình: 31,0%
CTVT, 14,2% CTÔT và 27,5% CTTN. Sẹo xấu ít gặp: 5,2% CTVT, 4,8% CTÔT và
5,8% CTTN. Không có vết thương không liền. Kết quả liền vết thương vành tai
trong tạo hình tổn khuyết VT của Nguyễn Thái Hưng (2006) thì sẹo đẹp chiếm
68
73,9%, sẹo xấu chiếm 26,1%, không có vết mổ không lành [11]. Vậy, nghiên cứu
của chúng tôi tương tự Nguyễn Thái Hưng (p > 0,05).
Về màu săc da tai bên bị thương so với bên lành khi tái khám sau 1 tháng
(bảng 3.22) ta thấy phần lớn là đồng màu với da xung quanh (91,4% CTVT, 100%
CTÔT, 92,8% tai bị CT), có 5 trường hợp da VT không đồng màu với da xung
quanh (7,2% CTTN) gặp trong các vết thương đứt rời hoặc đứt lìa quá lớn, nhất là
đứt lìa VT khoi gốc của nó làm cho sự nuôi dương vạt da ghép kém nên có những
phần hoại tư. Ngoài ra, trong các vết thương bong sâu, hủy hoại nhiều tổ chức thì
sẹo của vết thương không còn cấu trúc của da bình thường cung gây khác màu.
Về độ dày của da tai sau 1 tháng (bảng 3.23) ta có: CTVT chủ yếu là không
dày da (46,6%) và dày nhẹ (44,8%). CTÔT đa số không dày da (85,7%), 1 trường
hợp da dày hơn rõ (4,8%). Trên 69 CTTN thì đa số là không dày da (53,6%) hoặc
dày nhẹ (39,1%). Độ dày da tai này được so sánh giữa bên bị thương với bên lành.
Vì tai ngoài gồm chủ yếu da và sụn nên những chấn thương nặng, sự phá hủy cấu
trúc nhiều hoặc viêm nhiễm kéo dài đều có thể làm tăng sinh mô sợi làm cho các tổ
chức này dày lên.
Về hinh thái của vành tai sau 1 tháng: Hình thái của vành tai đóng một phần
quan trọng trong việc đánh giá kết quả điều trị CTVT. Trong nghiên cứu này, chúng
tôi dựa vào trục của vành tai, chiều dài của vành tai và độ lồi lõm của gờ luân nhĩ,
rãnh luân nhĩ, gờ đối luân, hố thuyền so với bên tai lành để đánh giá hình thái vành
tai. Dựa vào bảng 3.24, trên 58 CTVT tái khám ta thấy: đúng trục 96,6%, lệch trục
3,4%; chiều dài VT bị chấn thương so với vành tai lành thường không ngắn hơn
(82,8%), không có trường hợp VT ngắn hơn > 2cm; độ lồi lõm của vành tai rõ
chiếm đa số 82,8%, độ lồi lõm không rõ chiếm 15,5%, có 1 trường hợp mất độ lồi
lõm (1,7%). Vậy, khi tái khám sau điều trị 1 tháng thì hình thái VT bị chấn thương
đã điều trị đa số không khác biệt so với vành tai bên lành, tương ứng với hình thể
giải phẫu bình thường của vành tai, do đó phần lớn vành tai đảm bảo được thẩm mỹ
của nó. Đây là một mục tiêu được đặt ra trong quá trình điều trị CTTN.
Về kết quả hep ông tai sau 1 tháng: So sánh độ hẹp của ÔT bị chấn thương
so với bên lành sau điều trị 1 tháng cung là một mục tiêu để chúng tôi đánh giá kết
quả điều trị CTTN. Trong biểu đồ 3.5, đường kính ÔT sau điều trị 1 tháng có 19
69
trường hợp là không hẹp (90,4%), có 1 trường hợp hẹp ≤ 50% (4,8%) và 1 trường
hợp hẹp > 50% (4,8%) gặp ở bệnh nhân bị chấn thương đã lâu, nhiễm trung tai
ngoài kéo dài. Vậy, đường kính ống tai ngoài khi tái khám đa số là tốt, tương tự với
kích thước ống tai bên lành, nó đảm bảo được chức năng và thẩm mỹ của ống tai.
4.3.4.2. Kết quả khi tái khám sau điều trị 1 tháng
Kết quả tái khám sau 1 tháng được đánh giá dựa vào tiêu chuẩn đánh giá kết
quả khi tái khám, bảng 3.25 cho thấy kết quả:
Tốt: 69,0% CTVT, 90,4% CTÔT và 72,5% CTTN chung.
Trung bình: 29,3% CTVT, 4,8% CTÔT và 24,6% CTTN chung.
Xâu: 1,7% CTVT, 4,8% CTÔT và 2,9% CTTN chung.
Nghiên cứu của Nguyễn Thái Hưng cho kết quả xa (sau phẫu thuật 3 tháng)
đối với 48 trường hợp phẫu thuật tổn khuyết vành tai là tốt 57,1%, trung bình 39,3%
và xấu 3,6% [11]. Không có sự khác biệt với kết quả của chúng tôi (p > 0,05).
Vậy, kết quả tái khám sau một tháng thường là tốt. Điều này có lẽ do việc xư
trí sớm, đúng kỹ thuật và cung đem lại sự hài lòng cho bệnh nhân. Tuy nhiên, vẫn
còn trường hợp cho kết quả xấu, điều trị kéo dài và vẫn làm ảnh hưởng xấu đến
chức năng và thẩm mỹ tai ngoài.
4.3.5. Đanh gia kết quả trươc và sau điều trị
4.3.5.1. Kết quả điều trị chấn thương tai ngoài khi lành vết thương và sau điều trị
1 tháng
So sánh kết quả điều trị CTTN giữa thời điểm lành vết thương và khi tái
khám sau điều trị 1 tháng qua biểu đồ 3.7 thì cho ta kết quả:
Tốt: có sự gia tăng từ 66,7% khi lành vết thương lên 72,5% sau 1 tháng.
Trung bình: giảm từ 30,4% khi lành vết thương xuống 24,6% sau 1 tháng.
Xâu: có 2 trường hợp xấu (2,9%) không cải thiện so với khi lành vết thương,
gặp trong 1 trường hợp chít hẹp cưa ống tai và 1 trường hợp bong sâu, hủy hoại
nhiều tổ chức, thẩm mỹ của tai ngoài xấu.
Như vậy, có sự tiến triển tốt kết quả điều trị chấn thương tai ngoài giữa thời
điểm lành vết thương và sau điều trị 1 tháng nhưng không đáng kể (p > 0,05) và
70
những hậu quả xấu vẫn không cải thiện. Thực tế tai ngoài sau 1 tháng điều trị
thường có lớp da mong hơn, mềm mại hơn, màu da tại chỗ ít khác biệt hơn, các
triệu chứng cơ năng của bệnh nhân cung giảm bớt hơn nhiều so với khi lành vết
thương do đó cho kết quả tốt hơn. Các trường hợp cho kết quả xấu không cải thiện
gợi nhắc cho chúng ta không nên bo sót CTTN trong bất cứ trường hợp nào.
4.3.5.2. Liên quan giữa mức độ thương tôn với kết quả khi lành
Đối chiếu giữa mức độ thương tổn với kết quả khi lành vết thương qua bảng
3.27, chúng tôi nhận thấy:
- Các tổn thương nhẹ cho kết quả khi lành đa số là tốt (96,3%), không có kết
quả xấu.
- Các tổn thương vừa cung cho kết quả khi lành đa số là tốt (66,7%), 30,0%
trường hợp cho kết quả trung bình.
- Các tổn thương nặng cho kết quả khi lành đa số là trung bình (91,7%),
không có kết quả tốt.
Như vậy, mức độ thương tổn càng nhẹ thì cho kết quả tốt càng nhiều và
ngược lại, liên quan có ý nghĩa thống kê với 2 = 34,7 và p < 0,01.
4.3.5.3. Liên quan giữa mức độ thương tôn với kết quả tái khám sau 1 tháng
Đối chiếu giữa mức độ thương tổn với kết quả khi tái khám sau 1 tháng qua
bảng 3.28, chúng tôi nhận thấy:
- Các tổn thương nhẹ sau điều trị 1 tháng cho 100% kết quả là tốt.
- Các tổn thương vừa cung cho kết quả khi tái khám đa số là tốt (63,4%),
33,3% trường hợp cho kết quả trung bình.
- Các tổn thương nặng cho kết quả khi tái khám đa số là trung bình (58,4%),
33,3% trường hợp có kết quả tốt và 8,3% trường hợp xấu. So với bảng 3.27 thì mức
độ nặng cho kết quả tốt tăng lên (từ 0,0% tăng lên 33,3%).
Như vậy, mức độ thương tổn càng nhẹ thì cho kết quả khi tái khám tốt càng
nhiều và ngược lại, liên quan có ý nghĩa thống kê với 2 = 20,8 và p < 0,01. Điều
này cung hợp lý vì những vết thương mức độ nhẹ hơn và trung bình thì sự phá hủy
tổ chức ít hơn, vết thương nho hơn và đáp ứng với điều trị tốt hơn.
71
KÊT LUÂN
Qua nghiên cứu 68 bệnh nhân bị chấn thương tai ngoài trên 69 tai bị chấn
thương, trong đó có 58 vành tai bị chấn thương và 21 ống tai bị chấn thương tại
Bệnh viện Trưng ương Huế và Bệnh viện trường Đại học Y Dược Huế từ tháng
5/2008 đến tháng 6/2009, chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
1. Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng cua chấn thương tai ngoài
- Lứa tuổi từ 16 - 35 chiếm đa số 58,9%. Nam (69,1%) nhiều hơn nữ (30,9%)
- Bệnh nhân ở nông thôn (60,3%) nhiều hơn thành thị (39,7%).
- Thời gian chấn thương thường gặp vào khoảng >10g - 12g (17,6%) và >22
- 0g (13,2%),
- Nguyên nhân: tai nạn giao thông chiếm ty lệ cao nhất 50,0%.
- Thời gian từ khi chấn thương đến khi xư trí trước 6 giờ chiếm đa số 82,3 %
- Chấn thương phối hợp chiếm 58,8%, chấn thương sọ não cao nhất (26,5%).
- Chấn thương tai trái (60,9%) nhiều hơn tai phải (39,1%).
- Loại chấn thương: 66 trường hợp rách, đứt, giập tai ngoài; 11 trường hợp
bong tai ngoài; 2 trường hợp tụ dịch vành tai.
- Triệu chứng lâm sàng: đau tai 95,7%; u tai 56,5%; nghe kém 14,5%; chảy
dịch 89,9%; sưng nề 94,2%; biến dạng vành tai 43,5%; hẹp ống tai 8,7%.
- Vị trí: Chấn thương vành tai thường gặp ở 2/3 trên (24,1%); Chấn thương
ống tai hay gặp ở 1/2 ngoài (61,9%).
- Tổn thương rách, đứt, giập vành tai thường gặp là rách da lộ sụn, xương
(76,1%), kích thước vừa (50,0%).
- Tổn thương rách, đứt, vơ ống tai thường gặp là vết thương xây xát (55,0%),
kích thước nho (85,0%).
- Bong tai ngoài 100% là do nóng, chủ yếu ở vành tai (10/11) và độ 2 (6/11).
- Tụ dịch vành tai gặp 2 trường hợp đều ở 1/3 trên và kích thước vừa.
72
- Có 7 trường hợp cấy dịch tại vết thương tai ngoài: 42,9% trường hợp cấy
không mọc, Staphylococcus 28,6% và Streptococcus 28,6%, Pseudomonas 14,3%,
và vi khuẩn khác 14,3%.
- Mức độ thương tổn: ở vành tai nhiều nhất là vừa (46,5%) và nhẹ (34,5%); ở
ống tai nhiều nhất là nhẹ (61,9%).
2. Đanh gia kết quả điều trị chấn thương tai ngoài
- Phương pháp điều trị: ở chấn thương vành tai điều trị chủ yếu là cắt lọc,
khâu vết thương (74,1% chấn thương vành tai); ở chấn thương ống tai nhiều nhất là
điều trị nội khoa (71,4% chấn thương ống tai).
- Thời gian lành vết thương tai ngoài đa số trước 7 ngày (65,2%), trên 30
ngày rất ít gặp (4,4%). Thời gian trung bình là 8,36 ± 6,94 ngày.
- Biến chứng của chấn thương tai ngoài ít gặp (8,7% chấn thương vành tai và
14,3% chấn thương ống tai).
- Kết quả điều trị khi lành vết thương tai ngoài: tốt: 66,7%, trung bình:
30,4%, xấu 2,9%.
- Kết quả sau điều trị một tháng: tốt: 72,5%, trung bình: 24,6%, xấu: 2,9%.
- Các triệu chứng khi lành vết thương và sau điều trị 1 tháng có cải thiện so
với trước điều trị.
- Đối chiếu kết quả điều trị khi lành vết thương và sau điều trị 1 tháng: kết
quả tốt tăng từ 66,7% lên 72,5%, kết quả xấu không thay đổi (2,9%).
- Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa mức độ thương tổn với kết quả
khi lành vết thương và với kết quả khi tái khám sau 1 tháng: mức độ thương tổn
càng nhẹ thì cho kết quả tốt càng nhiều và ngược lại.
73
KIÊN NGHI
Qua nghiên cứu và phân tích, chúng tôi đề xuất một vài ý kiến sau:
- Chấn thương tai ngoài cần phải được phát hiện và điều trị sớm, đặc biệt
trong các trường hợp có chấn thương khác phối hợp, tránh bo sót sẽ để lại di chứng
xấu cho tai.
- Nếu bệnh nhân nằm điều trị ở các khoa khác thì cần quan tâm hơn nữa
trong việc chăm sóc vết thương tai ngoài hằng ngày.
- Khi chấn thương tai ngoài đã có biến chứng thì cần phải điều trị tích cực và
triệt để.
- Cần có biện pháp tuyên truyền giáo dục, kết hợp với kiểm tra, cương chế
trong việc thực hiện an toàn giao thông, an toàn lao động và cẩn thận trong sinh
hoạt hằng ngày để tránh xảy ra chấn thương.
- Trong việc đội mu bảo hiểm khi tham gia giao thông thì cần phải sư dụng
mu đảm bảo chất lượng và nên có phần bảo vệ hai tai ở mu bảo để đảm bảo an toàn
tính mạng của người dân.
74
ạdhsjfhds[61], dsafdsf[63] , [62]
1. An1, Lê Ngọc Ấn, Trần Công Chánh (1994), "Điều trị vết thương phần mềm", Bài giảng lâm sàng chân thương hàm mặt, Trường Đại học Y Dược TP.HCM, tr. 51 - 55.
2. Bảng2, Nguyễn Đình Bảng (2006), Tập tranh giải phẫu Tai Mũi Họng, Nhà xuất bản Y học, TP.HCM.
3. Bình16, Trịnh Bình (2007), "Thính giác quan", Mô – Phôi, Phần Mô học, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr. 270 - 281.
4. Cường19, Huynh Khắc Cường và cộng sự (2006), "Bệnh lý tai ngoài", Chẩn đoan bệnh tai, Hội nghị Tai – Mui - Họng Đà Nẵng 8/2006, tr. 24 - 44.
5. Cường20, Phạm Việt Cường, Trần Thị Hồng, Nguyễn Thị Trang Nhung (2004), Phân tích số liệu bằng Epi Info 2002, Trường Đại học Y tế công cộng, Bộ môn Thống kê – Tin học, Hà Nội.
6. Đa n37, Tri nh Xuân Đa n va cô ng sự (2006), "Thực tra ng chân thương va môt sô yê u tô nguy cơ ở sinh viên trường Đa i ho c Y khoa Tha i Nguyên năm 2004", Tạp chí Y – Dươc học Quân sư số 5 – 2006, Hà Nội, tr. 61 – 69.
7. Dung4, Nguyễn Hữu Dung (2007), "Chấn thương tai và vơ xương đá", Bài giảng lâm sàng Tai Mũi Họng, Nhà xuất bản Y học, TP.HCM, tr. 115 - 119.
8. Giang, Lê Trường Giang (2007), Thống kê Y học, Nhà xuất bản Y học, TP. HCM.
9. Hiếu14/2, Đỗ Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Tú (2005), "Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ thương tích do tai nạn của bệnh nhân khi vào viện, liên quan độ nặng chấn thương", Tạp chí nghiên cứu Y học, Phụ trương, tập 39, số 6, Trường Đại học Y Hà Nội, tr. 71 - 77.
10. Hoàn5, Võ Ngọc Hoàn (2007), "Bệnh tai ngoài thường gặp", Bài giảng lâm sàng Tai Mũi Họng, Nhà xuất bản Y học, TP.HCM, tr. 71 - 82.
11. Hưng30, Nguyên Thai Hưng (2006), Mô tả đặc điêm lâm sàng và đanh gia kêt quả tạo hình tôn khuyêt vành tai không toàn bộ tại bệnh viện Tai – Mũi – Họng Trung ương và bệnh viện Trung ương Quân đội 108, Luận văn tôt nghiêp bac sy chuyên khoa câp II, Đai hoc Y Ha Nôi.,
75
12. Liễn39, Nguyễn Ngọc Liễn (2001), "Sinh ly nghe", Thính học ứng dụng, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr. 27 - 46.
13. Lợi, Lê Văn Lợi (1997), "18 Các phẫu thuật tai ngoài", Cac phẫu thuật thông thường Tai – Mũi - Họng, tập 1, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr. 18 - 28.
14. Lợi, Lê Văn Lợi (2001), 7 Câp cứu Tai Mũi Họng, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.
15. Long, Đô Thanh Long và cộng sự (2007), "Tình hình khám bệnh tiếp nhận người bệnh tại viện bong quốc gia năm 2006", Tạp chí Y học thảm họa và bỏng, Vol. Số 1 pp. 22 - 25.
16. Mai31, Lê Huynh Mai, Nguyên Hữu Khôi (2007) (2007), "Đanh gia tinh hinh cấp cứu Tai Mui Họng trong 10 năm gần đây (01/1995 – 01/2005) tại bệnh viện Tai Mui Họng TP.Hồ Chí Minh", Thời sư Tai Mui Hong, Sô 12, Thang 08/2007, TP. Hồ Chí Minh, tr. 9 – 14.
17. Nga, Đặng Hoang Nga va công sự (2005), "Nghiên cứu vi khuẩn gây nhiễm trung vết bong trren bệnh nhân bong được điều trị nội trú tại khoa chấn thương chỉnh hình bệnh viện đa khoa Trung ương Thái Nguyên", Tạp chí Y học thảm họa và bỏng, Vol. Số 2 pp. 74 - 77.
18. Phụng21, Phạm Xuân Phụng (2001), Nghiên cứu điều trị tụ mau và viêm sụn – màng sụn vành tai bằng thiêt bị quang trị liệu Laser ban dẫn, Luận án tốt nghiệp cao học, Trường Đại học Kỹ thuật, TP. Hồ Chí Minh.
19. Quyền 8, Nguyễn Quang Quyền (2000), Atlas giải phẫu người, Nhà xuất bản Y học, TP.HCM.
20. Quyền 9, Nguyễn Quang Quyền (2000), "Cơ quan tiền đình ốc tai", Bài giảng giải phẫu học, Tập 1, Nhà xuất bản Y học, TP.HCM, tr. 425 - 446.
21. Ri17, Nguyễn Chân Hung, Nguyễn Hồng Ri (2007), Phẫu thuật thưc hành, Nhà xuất bản Y học, TP.Hồ Chí Minh.
22. Tấn, 10. Võ Tấn (1982), "10) Bệnh tai ngoài", Tai Mũi Họng thưc hành, Tập 2, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr. 69 - 82.
23. Thế, Nguyên Tư Thế (2002), "35) Nhận xét 168 trường hợp chấn thương Tai Mui Họng vào khám và điều trị tại bệnh viện Trung ương Huế từ tháng 11/1997 đến 5/1998", Y học thưc hanh sô 12/2002 – tâp 437, Tổng hội Y Dược học Việt Nam, Hà Nội, tr. 62 – 64.
24. Thế, Nguyên Tư Thê (2004), "12 Chấn thương tai", Chứng chi chân thương, Giao trình đào tạo sau Đại học chuyên khoa Tai Mũi Họng, Trường Đại học Y Dược Huế
Huế, tr. 37 - 43.
76
25. Trân13/7, Lâm Huyền Trân, Tạ Kim Dung (2003), "Chấn thương tai mui họng tại bệnh viện Chợ Rẫy từ 11/2000 – 11/2002", Y học TP.Hồ Chí Minh, Tập 7, Phụ bản cua số 1-2003, tr. 14-17.
26. Trung34, Lê Thế Trung (2002), "Bong vung mặt", Bỏng – Nhưng kiên thức chuyên nghành, Nhà xuất bản Y học, TP. Hồ Chí Minh, tr. 540 – 551.
27. Tuấn29, Phạm Công Tuấn, Phạm Việt Cường (2008), "Mô hình chấn thương dựa vào số liệu tại bệnh viện ở Đà Nẵng", Y học thưc hành, số 606 + 607, Hội nghị khoa học công nghệ tuổi trẻ các trường Y dược Việt Nam lần thứ 14, Huế, tr. 345 – 352.
28. Adamson, Peter A. Adamson, Suzanne K. Doud Galli (2005), "Otoplasty", Cummings Otolaryngology - Head & Neck Surgery, Vol. pp. 853 - 861.
29. Apesos, James Apesos, Michael Kane (1993), "Treatment of traumatic Earlobe Clefts", Aesthetic Plastic Surgery, Vol. 17 (3), pp. 253 - 255.
30. Ballenger23/1, Jonh Jacob Ballenger (1969), "The Ear", Disease of Nose, Throat and Ear, Vol.
31. Black, Bruce Black (2005), "Traumatic conditions of the Ear", An introduction to Ear Disease, tr. 61 - 64.
32. Bull, Tony R. Bull (2003), "The Pinna", Color Atlas of ENT Diagnosis, Vol. pp. 45 - 70.
33. Byrne, Patrick J. Byrne, George S. Goding Jr. (2005), "Skin flap Physiology and Wound healing", Cummings Otolaryngology - Head & Neck Surgery, Vol. pp. 146 - 170.
34. Chang, Yean - Lu Chang et al. (1990), "Recotruction of middle - third Auricular defdect based on Aesthetic Perception Theory", Aesthetic Plastic Surgery, Vol. 14 (3), pp. 223 - 225.
35. De la Cruz Antonio, Marlan R. Hansen (2005), "Reconstruction surgery of the Ear: Auditory Canal and Tympanum", Cummings Otolaryngology - Head & Neck Surgery, Vol. pp. 4439 - 4444.
36. DeWeese, 28. David D. DeWeese, William H. Saunders (1977), "Diseases and abnormalities of external ear", Otolaryngology, tr. 322 - 339.
37. DeWeese, David D. DeWeese, William H. Saunders (Year), "Anatomy of the Ear", Textbook of Otolaryngology, The c. v. Mosby CompanC, Vol. pp. 267 - 284.
38. Dhillon, R. S. Dhillon (1999), "Otological trauma and foreign bodies", Ear, Nose, Throat and Head and Neck Surgery, Vol. pp. 26 - 27.
77
39. Faist25, E.Faist, C.Schinkel, S.Zimmer (Year), "Update on mechanisms of immune suppression of injury and immune modulation", Trauma (Part 1of 3) - World Journal of Surgery, Vol. 26, pp. 150 - 155.
40. Gault, David T. Gault (2003), "Recontruction of the Ear", Principles and Practice of Head and Neck Oncology, Vol. pp. 952 - 981.
41. Godley, Frederick A. Godley (2003), "Experience with the malleable ear dressing, a versatile sillicone - lined bandage for the auricle", Ear, Nose & Throat Journal, Vol. 82 (8), pp. 570 - 574.
42. Goycoolea, Marcos V. Goycoolea et al. (1989), "Plastic Surgery of the Pinna", Atlas of Otologic Surgery, tr. 339 - 358.
43. Hochberg, J...Hochberg et al. (2001), "Soft tissue injury to face and neck: Early assessment and repair", World Journal of Surgery, Vol. 25 (8), pp. 1023 - 1027.
44. Jahrsdoerfer, R. A., Mason J. C (2003), "Congenital aural atresia", Operative techniques in Otolaryngology - Head and Neck Surgery, Vol. 14 (4), pp. 247-251.
45. Jordan, J. Randall Jordan, Karen H. Calhoun (2006), "Management of Soft Tissue Trauma and Auricular Trauma", Head & Neck Surgery - Otolaryngology, Vol. 1 (6), pp. 935 - 948.
46. Mascio40, Donatello Di Mascio, Fabio Castanetti (2004), "Tuber Flap Interpolation in Reconstruction of Helical and Ear Lobe Defects", Dermatologic surgery, Vol. 3 (4), pp. 572 – 578.
47. Mener, Albert L. Mener (2003), "Disorders of the External Ear", A Pocket Guide to the Ear, Vol. pp. 26 - 50.
48. Mills38, John H. Mills et al. (2006), "Anatomy and Physiology of Hearing", Otology, Head & Neck surgery – Otolaryngology, Vol. 1 (9), pp. 1884 – 1903.
49. Murakami, Craig S. Murakami, Vito C. Quatela (2005), "Reconstruction surgery of the Ear: Microtia reconstruction", Cummings Otolaryngology - Head & Neck Surgery, Vol. pp. 4422 - 4438.
50. Naumann, Naumann Andreas (2007), "Otoplasty – techniques, characteristics and risks", GMS Current Topics in Otorhinolaryngology - Head and Neck Surgery, Vol. 6 pp. 1011 - 1025.
51. Pasha, R. Pasha et al. (1999), "Incision / Excision Planning and Scar Revision", Otolaryngology - Head and Neck Surgery, Vol. pp. 377 - 383.
52. Pasha, R. Pasha et al. (1999), "Soft Tissue Trauma", Otolaryngology - Head and Neck Surgery, Vol. pp. 475 - 480.
78
53. Perkins, Stephen W. Perkins et al. (2000), "The incidence of sport - related facial trauma in children", Ear, Nose & Throat Journal, Vol. 79 (5), pp. 632 - 638.
54. Petro, Jane A. Petro, Mask D. Suski, Howard D. Stupak (2006), "Scars", Otolaryngology - Basic Science and Cliniccal Review, Vol. pp. 18 - 21.
55. Pham, Pham V. Tuan et al. (2003), "Surgery of the Auricle", Facial plastic surgery, Vol. 19 (1), pp. 53 - 73.
56. Sanna, Mario Sanna, Alessandra Russo, Giuseppe De Donato (1999), "Diseases Affecting the External Auditory Canal", Color Atlas of Otoscopy, Vol. pp. 7 - 25.
57. Selesnick, Samuel H. Selesnick et al. (1995), "Herniation of the Temporomandibular Joint into the External Auditory Canal: A complication of Otologic Surgery", The American Journal of Otology, Vol. 16 (6), pp. 751 - 757.
58. Shumrick, Kevin A. Shumrick, Jon B. Chadwell (2005), "Facial trauma: Soft - tissue Lacerations and Burns", Cummings Otolaryngology - Head & Neck Surgery, Vol. pp. 582 - 601.
59. Vuyk, H. D. Vuyk, E. J. M. Bakkers (1991), "Absorbable mattress sutures in the manegement of Auricular hematoma", The Laryngoscope, Vol. 101 (10), pp. 1124 - 1126.
60. Wareing, Michael J. Wareing, Anil K. Lalwani, Robert K. Jackler (2006), "Development of the Ear", Head & Neck Surgery - Otolaryngology, Vol. 2 (9), pp. 1870 - 1872.
61. Hà22, Nguyễn Thị Trúc Hà (2006), Nghiên cứu đặc điêm lâm sàng, nguyên nhân và kêt quả điều trị chân thương mũi xoang tại Huê, Luận án tốt nghiệp chuyên khoa cấp II, Đại học Y Dược Huế.
62. Hung33, Ngô Trí Hung và công sự (2006), "Các chỉ số kích thước giải phẫu ống tai ngoài của người Việt Nam", Bao cao toàn văn Hội nghị khoa học công nghệ tuôi tre cac trường đại học Y Dươc Việt Nam lần thứ 13, TP. HCM, tr. 170 - 180.
63. Tuan, Pham V. Tuan et al. (2003), "Surgery of the Auricle", Facial plastic surgery, Vol. 19 (1), pp. 53 - 73.
79