https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
hoav
BP.NGHIÊN CỨU&PHÁT TRIỂN – PHÒNG KẾ HOẠCH
[a] 266-268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, TP.HCM
[t] (08) 38 469 516 (1813/1815) – [e] [email protected]
Trên lý thuyết, thị trường tài chính bao gồm: Các
ngân hàng, công ty chứng khoán, quản lý quỹ và các
công ty bảo hiểm. Các ngân hàng chủ yếu cung ứng
vốn ngắn hạn. Các định chế còn lại tạo lập nguồn
vốn trung và dài hạn. Tuy nhiên, những phân tích
cho thấy, thị trường vốn của Việt Nam đang bị lệch
nên rất cần sự thay đổi và tìm đường phương hương
hợp lý về nguồn vốn cho nền kinh tế. Thống đốc cho
rằng, nhu cầu vốn của doanh nghiệp còn rất lớn.
Mặc dù ngành ngân hàng đã rất tích cực huy động
vốn để đảm bảo đáp ứng cho nền kinh tế, song một
phần lớn nguồn lực vẫn còn chưa được khơi thông,
đang nằm ở các khoản nợ xấu và các tài sản bảo
đảm chưa được xử lý. Vì thế, những nguồn vốn hợp
lý để thay thế cần được phát huy hiệu quả hơn.
Tin nổi bật
Các ngân hàng đang phải đối mặt với nhiều rủi
ro về an ninh công nghệ, bảo mật thông tin
Vốn cho nền kinh tế: Đã tới lúc thôi phụ thuộc
ngân hàng
Vốn lại chảy mạnh vào ngân hàng?
Vì sao lãi suất cho vay chưa thể giảm sâu?
Phó Thủ tướng: Rà soát từng ngành để đạt tăng
trưởng 6,7%
Giảm cấp phát, tăng cho vay lại vốn ODA
Trung Quốc - Chật vật với nền kinh tế dịch vụ
BẢNG CHỈ SỐ
Chứng khoán (ngày 01/06)
HOSE 741,80 0,54%
HNX 93,99 0,08%
D,JONES CK Mỹ 21.144,18 0,65%
STOXX CK C,Âu 3.567,02 0,35%
CSI 300 CK TQ 3.497,74 0,14%
Vàng (cập nhật lúc 08h15 ngày 02/06)
SJC Ng,đ/L 36.410 0,05%
Quốc tế USD/Oz 1.267,00 0,39%
Tỷ giá
USD/VND BQ LNH 22,403 0,03%
EUR/USD 1,1217 0,15%
Dầu
WTI USD/th 47,88 1,66%
6
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
Các ngân hàng đang phải đối mặt với
nhiều rủi ro về an ninh công nghệ, bảo
mật thông tin
Ngày 31/5, tại Hà Nội, NHNN đã tổ chức Hội nghị trực tuyến triển khai một số
nội dung về công tác đảm bảo an ninh, an toàn hoạt động NH, đặc biệt là bảo
đảm an toàn, an ninh mạng và an toàn trong hoạt động thanh toán thẻ. Theo
Cổng thông tin NHNN, phát biểu khai mạc Hội nghị, Phó Thống đốc Đào Minh
Tú nhấn mạnh, NHNN tổ chức Hội nghị trực tuyến triển khai một số nội dung
về công tác đảm bảo an ninh, an toàn hoạt động NH trong tình hình hiện nay,
đây là Hội nghị có quy mô lớn nhất từ trước tới nay của ngành NH về công tác
đảm bảo an ninh, an toàn trong hoạt động NH với thành phần là các đơn vị
thuộc NHNN, các NHTMNN, các TCTD và Giám đốc chi nhánh loại 1 của
NHTM và được truyền trực tuyến đến 63 NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố…
Hội nghị nhằm tập trung phân tích, đánh giá những kết quả đạt được cũng như
những tồn tại, yếu kém, thách thức trong công tác bảo đảm an ninh mạng, hoạt
động thanh toán, an toàn kho quỹ, huy động TGTK, đề ra các nhiệm vụ, giải
pháp nhằm tăng cường đảm bảo an ninh, an toàn hoạt động NH trong thời gian
tới. Với mục tiêu đó, Hội nghị tập trung thảo luận làm rõ những nội dung chủ
yếu sau đây: (i) Công tác đảm bảo an ninh, an toàn kho quỹ của hệ thống NH
và một số biện pháp đảm bảo an toàn tại trụ sở NH; (ii) Tình hình và các biện
pháp đảm bảo an toàn, an ninh mạng; (iii) Tình hình và các giải pháp đảm bảo
an toàn trong hoạt động thanh toán thẻ; (iv) Một số vấn đề an toàn trong quản
lý hoạt động TGTK… Tại Hội nghị, đại diện Lãnh đạo C45, C50 - Bộ Công an
đã chia sẻ một số biện pháp đảm bảo an toàn tại trụ sở NH, bảo đảm an toàn,
an ninh mạng và đảm bảo an toàn trong hoạt động thanh toán thẻ…
Vốn cho nền kinh tế: Đã tới lúc thôi phụ
thuộc ngân hàng
Theo NHNN, mô hình tăng trưởng của VN là mô hình phụ thuộc vào quy mô
vốn đầu tư, trong đó chủ yếu dựa vào tín dụng từ khu vực NH. Gánh nặng
cung cấp vốn cho nền KT đặt lên hệ thống các TCTD ngày càng lớn, tỷ lệ tín
dụng sv GDP tăng liên tục trong 2012-2015 (2012: 95,2%; 2013: 97%; 2014:
100%; 2015: 111,1%); tới năm. Trong khi đó, tỷ lệ này ở một số nước chỉ khoảng
trên dưới 50%, tiêu biểu như: Indonesia (36,5%), Philippines (39,1%), Ấn Độ
(51,6%)… Điều này đặt ra áp lực lớn cho hệ thống TCTD, có khả năng gây tác
động tiêu cực cho nền KTVM. Báo cáo của UBGSTCQG cho biết, độ sâu tài
chính của hệ thống tài chính VN chỉ đạt 181% GDP, thấp hơn sv nhiều nước
trong KV. Hệ thống TCTD chiếm tới 96,2% TTS toàn hệ thống tài chính; trong
khi, các DN bảo hiểm chiếm 2,8%; các CTCK và cty quản lý quỹ chỉ chiếm
1%... Những phân tích trên cho thấy, việc cung ứng vốn đang phụ thuộc chủ
yếu vào hệ thống NH, trong khi tiềm năng từ các TTCK và trái phiếu là rất lớn
Tài chính – Ngân hàng
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
nhưng vẫn chưa thể phát huy. Điều này đặt ra quá nhiều gánh nặng lên “vai”
các TCTD. Thậm chí, nhiều chuyên gia cho rằng, nếu kéo dài, đây sẽ trở thành
điểm nghẽn cho phát triển KT. Nguyên nhân do nguồn vốn của DN Việt vẫn
chiếm >50% là đi vay NH, trong khi trình độ công nghệ còn yếu kém, thiếu kinh
nghiệm, kiến thức KD… nên rất dễ phát sinh nợ xấu, gây ảnh hưởng tới toàn
hệ thống… Thị TTCK đi vào hoạt động từ 2000, đã có nhiều sự phát triển, với
lượng vốn hóa từ 1.200 tỷ đồng năm 2000, dự kiến sẽ đạt 100 tỷ USD vào
2017. Thống kê của UBGSTCQG cho thấy, 4 tháng đầu năm 2017, tổng giá trị
mua ròng của NĐTNN đạt 820 triệu USD Mặc dù tốc độ tăng nhanh như vậy
nhưng nguồn vốn hỗ trợ thực sự cho DN từ thị trường này còn rất nhỏ trong
tổng nguồn vốn KD của DN. Số cty niêm yết/tổng số DN hiện có ở VN mới chỉ
chiếm khoảng 0,1% Bên cạnh đó, nguồn vốn có thể còn đến từ thị trường trái
phiếu nhưng các DN vẫn chưa tận dụng được cơ hội từ thị trường này. Vì thế,
thị trường trái phiếu vẫn chủ yếu là TPCP. Thậm chí, nhiều NH còn dành vốn
để mua TPCP khiến LS loại trái phiếu này không hề thấp. Trong khi đó, TPDN
luôn được xem là kênh mang lại lợi thế lớn, giúp DN linh hoạt trong việc sử
dụng nguồn vốn mà không phụ thuộc vào việc giải ngân vốn nhưng đến nay,
thị trường này vẫn đang ở giai đoạn “sơ khai”, số lượng DN VN phát hành được
trái phiếu còn rất ít. Tuy nhiên, điều đáng mừng là việc thu hút nguồn vốn nước
ngoài đang được các DN làm khá tốt nhưng sự biến động khó lường của nền
KT, cùng việc nền KT trong nước đang lộ ra nhiều con số nợ xấu hơn, đầu tư
chưa hiệu quả… sẽ làm giảm niềm tin của NĐTNN. Do đó, xét đến cùng, điều
quan trọng vẫn là năng lực quản trị, sự chủ động của DN cùng việc điều hành
của các cơ quan Nhà nước trong việc phát triển KTVM hợp lý.
Vốn lại chảy mạnh vào ngân hàng?
LS LNH đang giảm nhanh trong những ngày gần đây, diễn biến trên có dấu
hiệu tương tự như cùng kỳ 2016, khi ở mức cao đầu năm và sau đó giảm
nhanh về mức thấp kể từ tháng 5 trở đi. Đây cũng là dấu hiệu cho thấy thanh
khoản NH đang dồi dào trở lại. Cụ thể theo thống kê của NHNN đến 26/5 LS
qua đêm đã giảm từ mức cao trên 4% về còn 2.84%, là mức thấp nhất kể từ
cuối tháng 2/2017 đến nay; LS kỳ hạn 1 tuần ở 2,93%; 2 tuần giảm còn 3,13%;
1 tháng giảm còn 3,55%. Với diễn biến LS trên thị trường 2 giảm nhanh cho
thấy khả năng thanh khoản của hệ thống đang dồi dào trở lại. Ngoài dấu hiệu
trên thị trường LNH, diễn biến các phiên đấu thầu TPCP có tỷ lệ thành công ở
mức cao cũng cho thấy mức độ vốn dồi dào của các NH. Từ đầu năm đến
29/5, lượng trái phiếu phát hành thành công trên thị trường sơ cấp là hơn
115.000 tỷ đồng, tỷ lệ trúng thầu lên đến 77%, trong khi tỷ lệ đăng ký đặt thầu/
giá trị gọi thầu ở mức rất cao là 244%. Đáng lưu ý là các phiên đấu thầu trái
phiếu dài hạn có tỷ lệ thành công cao hơn ngắn hạn, dù LS các phiên trúng
thầu gần đây tiếp tục giảm xuống. NHNN cũng đã giảm lượng thanh khoản hỗ
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
trợ cho các NH qua thị trường mở và liên tục hút ròng trên thị trường tín phiếu
trong các tuần gần đây. Tính đến 26/5, khối lượng lưu hành trên kênh cầm cố
đứng ở mức 2,175 tỷ đồng và sẽ đáo hạn toàn bộ trong tuần này, trong khi thời
điểm đầu năm nay lượng vốn lưu hành trên kênh này lên đến vài chục ngàn tỷ
đồng, có thời điểm lên cả trăm ngàn tỷ đồng để hỗ trợ thanh khoản cho hệ
thống. Nếu thanh khoản tiếp tục dư thừa, không loại trừ khả năng NHNN quay
trở lại phát hành tín phiếu với số lượng lớn để hút tiền về, điều đã xảy ra trong
năm 2016. Tuy nhiên, kể từ đầu năm đến nay, trong khi LS huy động thị trường
1 của các NH lớn vẫn ổn định ở mức thấp thì LS của các NH nhỏ tiếp tục điều
chỉnh tăng lên ở các kỳ han ngắn lẫn trung dài hạn, điều này giúp dòng vốn từ
KV dân cư ưu tiên ưu tiên lựa chọn các NH nhỏ, thậm chí một số khách hàng
có thể chọn rút tiền từ các NH lớn sang các NH nhỏ để được hưởng LS cao
lên. Diễn biến trên được duy trì sẽ giúp thanh khoản của các NH cân bằng trở
lại. Và với nguồn vốn huy động từ thị trường 1 tăng ổn định, NH nhỏ sẽ giảm
động lực vay mượn trên thị trường 2 từ đó đẩy LS trên thị trường này giảm trở
lại. Thống kê cho thấy tăng trưởng huy động vốn của toàn hệ thống chậm hơn
cho vay. Trong khi hoạt động tín dụng thể hiện sự tăng trưởng tốt ở cả VND và
ngoại tệ, thì ở tăng trưởng huy động vốn sự sụt giảm của nguồn vốn ngoại tệ
đã làm tỷ lệ tăng trưởng huy động vốn nói chung bị giảm xuống, dù tăng trưởng
tiền gửi VND vẫn thể hiện sự tích cực. Với thanh khoản VND dồi dào nếu hỗ
trợ LS trên thị trường 2 duy trì xu hướng giảm, thì thời gian tới sẽ lan tỏa sang
thị trường 1, dẫn đến các NH có cơ hội tiếp tục ổn định mặt bằng LS như hiện
nay hoặc thậm chí có cơ hội giảm thêm theo định hướng của nhà điều hành.
Vì sao lãi suất cho vay chưa thể giảm
sâu?
Một trong những nguyên nhân chính khiến LS cho vay của các NHTM khó có
thể giảm sâu là do chi phí phải trích lập dự phòng cho nợ xấu vẫn còn rất lớn.
Theo thống kê BCTC hợp nhất Q.I/2017, các NH đã phải dành ½ LN thuần để
trích lập dự phòng. Theo BVSC, hiện mặt bằng KS huy động tương đối ổn
định, kỳ vọng lạm phát cũng đã được kéo xuống nên chi phí vốn của các
NHTM sẽ được cải thiện theo chiều hướng tích cực. Trong bối cảnh đó, nếu nợ
xấu được xử lý quyết liệt hơn, nhiều khả năng vẫn còn dư địa để LS cho vay có
thể giảm tiếp dù với biên độ không nhiều. Lạm phát tăng không quá cao và
nằm trong tầm kiểm soát sẽ tạo thêm nhiều điều kiện để NHNN duy trì CSTT
nới lỏng ở mức vừa phải. Làn sóng tăng LS huy động và phát hành chứng chỉ
tiền gửi LS cao của một số NH có quy mô vừa và nhỏ hồi giữa tháng 3, đầu
tháng 4 vừa qua (chủ yếu để đối phó với Thông tư 06) đã tạm lắng dịu. "Tuy nhiên,
trong kịch bản lạm phát trong các tháng tới tiếp tục trong vòng kiểm soát như
dự báo, chúng tôi cho rằng NHNN có thể sẽ nới thêm 1-2% TTTD sv mục tiêu
ban đầu nhằm hỗ trợ tăng trưởng trong bối cảnh GDP đạt mức khá thấp trong
Q. I vừa qua"… Sự bứt tốc của tín dụng ngay từ đầu năm có thể sẽ dẫn tới hai
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
kịch bản: (i) Các NH sẽ phải xem xét hãm bớt đà tăng trưởng, siết lại hoạt động
cho vay trong 3 quý còn lại để vẫn nằm trong chỉ tiêu TTTD mà NHNN chấp
thuận từ đầu năm (đặc biệt đối với nhóm các NH tốp đầu có quy mô cho vay lớn); (ii)
Các NH có thể sẽ xin NHNN nới chỉ tiêu TTTD lên một mức cao hơn và người
phân tích cho rằng một số NH đã xử lý khá mạnh tay nợ xấu, có hoạt động cho
vay lành mạnh sẽ có thể được NHNN “bật đèn xanh”. Tuy nhiên, mọi sự nới
lỏng luôn cần phải đi kèm với sự thận trọng. Cả hệ thống mới chỉ đang hồi
phục bước đầu, rất nhiều NH vẫn đang nặng gánh với nợ xấu. Vì thế, bất kỳ sự
nôn nóng nào trong tăng trưởng dẫn đến sự suy giảm trong chất lượng tài sản
cũng cần được NHNN theo dõi chặt và kiểm soát kịp thời. Theo BVSC, có 3
điểm đáng lưu ý trong tờ trình về Nghị quyết xử lý nợ xấu lần này, cụ thể: (i) Dự
thảo Nghị quyết cho phép VAMC được mua các khoản nợ xấu đã sử dụng
DPRR đang hạch toán ngoài bảng và chuyển đổi các khoản nợ xấu mà VAMC
đã mua bằng trái phiếu đặc biệt sang mua theo giá trị thị trường; (iii) Về quyền
thu giữ TSĐB, nhiều nút thắt trong luật đất đai hiện hành đã được xử lý; (iii) Dự
thảo mở ra hướng hỗ trợ, cho phép phân bổ số lãi dự thu đã ghi nhận của các
khoản nợ xấu và tài sản tồn đọng của TCTD chưa thoái theo quy định giãn ra
trong lộ trình không quá 10 năm, nhằm giảm áp lực lên BCTC của các NH
trong ngắn hạn do số lãi dự thu này tại một số NH không phải là nhỏ.
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
Phó Thủ tướng: Rà soát từng ngành để
đạt tăng trưởng 6,7%
Tại cuộc họp về các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho SX, KD các ngành công
nghiệp chế biến chế tạo, khai khoáng, hoá chất và công nghiệp hỗ trợ thúc đẩy
tăng trưởng, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng y/c phải rà soát kỹ tình hình SX
để đề ra các chỉ tiêu cụ thể cho từng ngành, từng sản phẩm để đạt mục tiêu
tăng trưởng 6,7% đã đề ra. Việc đạt mục tiêu tăng trưởng 2017 là 6,7% là rất
khó khăn nhưng không phải không có khả năng thực hiện. “Cần tích cực mở
rộng thị trường cho sản phẩm VN, coi trọng thị trường trong nước, đồng thời
phải lấy thị trường KV và toàn cầu làm mục tiêu để cạnh tranh”. Các Bộ Công
Thương, Tài chính tiếp tục bám sát diễn biến của thị trường để có các chỉ đạo
và giải pháp kịp thời thúc đẩy SXKD tối ưu nhằm đóng góp tốt hơn cho tăng
trưởng GDP. “Phải kịp thời tháo gỡ khó khăn cho DN thông qua các chính sách
về thuế, phí... để giúp cho các DN cắt giảm được chi phí, phát triển thị trường,
cạnh tranh có hiệu quả với các sản phẩm NK cũng như đẩy mạnh được XK,
qua đó tăng trưởng được sản lượng SX”. Phải tập trung giải quyết các dự án
đang tồn đọng, các dự án còn vướng mắc để sớm tái khởi động, đưa vào khai
thác SXKD, phát huy nguồn lực đóng góp mạnh mẽ vào thúc đẩy tăng trưởng
KT cho 2017 và những năm tiếp theo. Cần có các giải pháp đảm bảo thị trường
BĐS phát triển bền vững, lành mạnh bởi đây là một nhân tố ổn định KTVM.
Ngành may mặc, giày da, túi xách cần duy trì tăng trưởng cao (>10%). Đây là
ngành SX có tỷ lệ nội địa hoá cao (đạt gần 50%), sử dụng nhiều lao động, đang
chiếm lĩnh thị trường nhiều nước trên thế giới. Ngành công nghiệp ô tô cần
được khuyến khích để tăng tỷ lệ nội địa hoá, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị
toàn cầu… Y/c Bộ NN&PTNT tập trung chỉ đạo, thực hiện các giải pháp tháo
gỡ khó khăn cho SX, tái cấu trúc ngành, sản phẩm để ứng phó với biến đổi khí
hậu, nước biển dâng, hạn chế thấp nhất hậu quả của thiên tai, với mục tiêu đạt
phương án tăng trưởng cao nhất. Thứ trưởng Bộ Công Thương cho biết, chỉ số
SX công nghiệp (IIP) 2017 dự kiến sẽ ở mức khoảng 8%, cao hơn sv mức tăng
của 2016 là 7,4%. Trong đó, ngành khai khoáng đạt khoảng 92% sv 2016 (đã
tính đến sản lượng khai thác dầu thô 1 triệu tấn), ngành công nghiệp chế biến chế
tạo 12,5%, ngành SX và phân phối điện 12,0% sv 2016… Dự báo chỉ số
SX công nghiệp (IIP) 2017 của nhóm ngành SX và phân phối điện 12%, cao
hơn mức của Bộ KH&ĐT đưa ra là 11,5%...
Giảm cấp phát, tăng cho vay lại vốn
ODA
Tại cuộc họp về Nghị định 52/2017/NĐ-CP cho vay lại nguồn vốn vay nước
ngoài của Chính phủ đối với UBND tỉnh, TP, đại diện Bộ Tài chính cho biết,
đây là hành lang pháp lý quan trọng chuẩn bị cho quá trình tốt nghiệp vốn
Kinh tế Việt Nam
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
ODA của VN. Dự kiến, VN sẽ tốt nghiệp ODA với nhà tài trợ lớn nhất là WB từ
tháng 7 để bước vào thời kỳ phải vay vốn nước ngoài kém ưu đãi hơn. Một nhà
tài trợ lớn khác là ADB ngày 31/5 cũng đã gặp gỡ Bộ Tài chính tính toán khả
năng VN tốt nghiệp ODA nhưng chưa thống nhất về thời điểm cũng như cơ chế
cho vay sau giai đoạn này... Trước 2010, vốn ODA của WB dành cho VN có
LS trung bình 1%, thời gian ân hạn kéo dài và những năm gần đây, LS đã
1,5%/năm. Chính phủ dành tới 92% vốn vay ODA để cấp phát cho các địa
phương trong khi nguồn vốn cho vay lại chỉ chiếm 7%-8%. Giai đoạn 2014-
2015, hiệu quả sử dụng vốn vay ODA không cao, tỷ lệ thất thoát lớn do chủ
yếu cấp phát cho các địa phương nghèo đầu tư CSHT, cho vay xóa đói giảm
nghèo nên không đem lại nguồn thu trực tiếp. Về nguyên nhân phân bổ vốn
ODA chủ yếu là cấp phát, trong bối cảnh nhiều địa phương không bảo đảm
ngân sách, thiếu vốn đầu tư, Chính phủ vay vốn ODA LS ưu đãi nên đẩy mạnh
cho vay thì không hợp lý. Trong bối cảnh mới, VN đã trở thành nước có thu
nhập trung bình, đang dần tốt nghiệp ODA, Luật Ngân sách địa phương quy
định quyền vay nợ của địa phương... và đòi hỏi cấp thiết về việc nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn ODA, Chính phủ đã ban hành Nghị định 52 đẩy mạnh cơ chế
cho vay lại vốn ODA thay vì cấp phát. Theo đó, tỷ lệ cho vay lại được xác định
theo 5 nhóm. Các địa phương khó khăn về ngân sách vẫn được nhận cấp phát
ODA nhưng các địa phương như Hà Nội, Tp.HCM, Đà Nẵng... sẽ giảm mạnh
vốn cấp phát đối với các dự án. Cùng với cơ chế cho phép địa phương được
bội chi ngân sách, chính sách pháp luật liên quan đã tính toán tỷ lệ cho vay từ
các nguồn không quá cao, đáp ứng y/c tuân thủ hạn mức nợ của các địa
phương. Cụ thể là dòng tiền trả nợ hằng năm để gánh nặng nợ mỗi năm chiếm
không quá 10% tổng ngân sách trả nợ của địa phương. Về tình trạng chậm giải
ngân một số dự án của Tp.HCM và Hà Nội, vấn đề này không liên quan đến
việc chuyển đổi từ cơ chế cấp phát sang cho vay vốn ODA. Việc chậm thanh
toán cũng chỉ xảy ra cục bộ tại một số nơi, chưa phổ biến. Vấn đề mới nảy sinh
của các dự án hiện nay là làm sao tính toán vốn sát tiến độ thực hiện.
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
Toanf
Trung Quốc - Chật vật với nền kinh tế
dịch vụ
TQ muốn DV trở thành một phần lớn hơn của nền KT để dễ dàng đưa những
người mới gia nhập lực lượng lao động. Đó là những công nhân bị đào thải khỏi
các ngành công nghiệp đầy khói và những lao động nông thôn đang đổ xô về
các thành phố lớn để kiếm việc làm. Các ngành DV giờ tuyển dụng hơn 43%
trong 776 triệu lao động TQ, 8 điểm % sv 2012 và cao hơn KV SX. Tại các
nước phát triển, tỷ lệ lao động DV lên tới 70-80%. Để thúc đẩy tạo ra việc làm,
TQ đã giảm thuế đối với DN DV, hạ y/c về vốn đối với DN đăng ký thành lập
mới và khuyến khích chính quyền địa phương dựng lên các vườn ươm và công
viên khởi nghiệp để hỗ trợ startup. Mục tiêu là tạo ra 50 triệu việc làm vào
2020. Chiến lược này đang phát huy tác dụng ở một mức độ nào đó. Tỷ lệ thất
nghiệp đã giảm xuống mức thấp 14 năm còn 3,97% Q.I/2017. “KV DV đang
đóng vai trò tốt hơn nhiều trong việc ổn định thị trường lao động”, chuyên gia
Gavekal Dragonomics nhận định. Ngày càng nhiều người TQ đang kiếm sống
bằng việc mở quán ăn hoặc đi giao hàng, bán hàng trực tuyến. Nhưng những
nghề này lại không hấp dẫn với sinh viên tốt nghiệp đại học, vốn đã lên tới gần
8 triệu người chỉ riêng trong 2017. Mặc cho các sáng kiến của Chính phủ, nền
KT vẫn không tạo ra đủ số việc làm DV có kỹ năng cao cho các nhà lập trình
phần mềm, chuyên gia tư vấn tài chính, hay các nhà quản lý thương hiệu...
CNY lên cao nhất kể từ đầu tháng
11/2016
CNY đã tăng lên mức cao nhất sv USD kể từ sau chiến thắng của D.Trump
trong cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ. CNY 0,5% sv USD trong ngày 01/6, qua
đó nâng tổng mức tăng trong 4 phiên vừa qua lên 1,2%... Trong một báo cáo
nghiên cứu công bố trong ngày 01/6, Jason Daw, Chiến lược gia tiền tệ tại
Societe Generale, cho biết có khả năng là các cơ quan chức trách muốn xoa
dịu các mối lo ngại về gánh nặng nợ của TQ sau tuyên bố của Moody’s. Thông
tin hạ bậc tín nhiệm từ Moody’s rơi vào đúng thời điểm mà TQ đang ra sức thu
hút nguồn vốn nước ngoài vào thị trường trái phiếu nội địa. Trong vài năm trở
lại đây, nỗi lo sợ CNY sẽ tiếp tục suy yếu sv USD đã khiến NĐT chuyển tiền ra
khỏi TQ. Đối phó với vấn đề trên, TQ đã chi ra hàng tỷ USD để đẩy giá CNY
lên cao và đưa ra các biện pháp kiểm soát vốn để ngăn chặn vốn chảy ra nước
ngoài... Vào cuối ngày 31/5, các chuyên gia KT tại Capital Economics cho biết
họ không còn dự báo NDT sẽ suy yếu sv USD trong 2017.
Đồng USD xuống sát mức thấp nhất
trong hơn 6 tháng
Trong tháng 5, USD vừa trải qua tháng sụt giảm mạnh nhất kể từ tháng 1/2017
sv 6 đồng tiền chủ chốt khác và cũng là mức lao dốc mạnh nhất trong hơn 1
năm sv EUR. Cụ thể, trong tháng 5, chỉ số đồng USD, thước đo diễn biến của
USD sv các đồng tiền chủ chốt khác, 2,1%, mức giảm hàng tháng mạnh nhất
kể từ tháng 1/2017. Chỉ số USD hiện đang giao dịch ở mức 97,035, cách
Kinh tế Quốc tế
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
không xa sv mức thấp nhất kể từ ngày 09/11/2017 tại 96,797. EUR 0,1%
xuống 1,1236 USD. Vào ngày 31/5 đồng tiền này 0,5% lên gần mức cao nhất
trong 6,5 tháng tại 1,1268 USD. Hiện các thị trường tương lai đang chiết khấu
90% xác suất FED sẽ nâng LS thêm 0,25% tại cuộc họp tháng 6. Tuy nhiên,
xác suất này có thể thay đổi dựa vào các dữ liệu KT sắp tới, đáng chý ý nhất là
báo cáo việc làm tại Mỹ - dự kiến được công bố trong ngày 02/6. Được biết, LS
tăng cao có xu hướng nhấc đẩy đồng USD.
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
Vàng - Giá giảm, thị trường kỳ vọng Fed
tăng lãi suất vào giữa tháng 6
Kết phiên giao dịch ngày 01/6, giá vàng giao ngay 0,15% xuống 1.266,2
USD/ounce. Ngày 31/5, giá vàng chạm đỉnh kể từ 25/4 ở ngưỡng 1.273,74
USD/ounce. Giá vàng giao trong tháng 8 5,3 USD xuống còn 1.270,1
USD/ounce. Giá bạc 0,21% xuống còn 17,25 USD. Giá bạch kim 1,7%
xuống 927,5 USD/ounce sau khi chạm đáy kể từ 15/5 là 923 USD/ounce…
Bên cạnh dữ liệu việc làm khả quan, chỉ số USD tăng trở lại khiến thị trường kỳ
vọng nhiều hơn về khả năng FED tăng LS trong tháng này, đồng thời tạo áp
lực lên giá vàng. NĐT đánh cược 87% khả năng FED sẽ tăng LS. Dự kiến.
cuộc họp FED sẽ được tổ chức vào ngày 13-14/6. Kể từ đầu năm nay, giá
vàng 10% do được hỗ trợ bởi USD yếu.
Cao su - Giá xuất khẩu 4 tháng đầu
năm tăng gần 70%
Giá cao su XK của VN trong 4 tháng đầu năm trung bình đạt 2.016 USD/tấn,
68,8% sv cùng kỳ 2016. Điều này đồng nghĩa giá trị XK của cao su đang
tăng mặc dù sản lượng cao su giảm. Từ đầu năm đến hết tháng 4 VN đã XK
301.500 tấn cao su, 2,1% sv cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, giá trị XK lại
65,4%, đạt 607,9 triệu USD. Việc giá cao su tăng là do được hỗ trợ bởi giá
cao su trên thị trường thế giới tăng đồng thời trữ lượng cao su tại kho ngoại
quan trên sàn TOCOM giảm. Llượng XK cao su của VN cũng giảm góp phần
đẩy giá cao su lên cao. Tháng 4, VN XK nhiều nhất cao su hỗn hợp đạt 26.213
tấn trị giá 47,5 triệu USD, chiếm 50,5% về lượng. Cao su SVR 3L đạt 8.643
tấn, 5,7% sv tháng 3. Lượng cao su SVR 10 XK đạt 5.191 tấn, 11,4 %. TQ
là bạn hàng NK cao su lớn nhất của VN, chiếm 63,2% #190.000 tấn trị giá
383,7 triệu tấn, 12,08% về lượng và 90% về giá trị sv cùng kỳ 2016.
Hàng hóa - nguyên liệu
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
Tài liệu tham khảo:
Bảng chỉ số http://www.hsx.vn/
http://hnx.vn/web/guest/home
http://www.bloomberg.com/markets/
http://www.sjc.com.vn/
http://goldprice.org/
http://www.bloomberg.com/markets/commodities/futures/
http://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/rm/tg?centerWidth=80%25&leftWidth=20%25&rightWidth=0
%25&showFooter=false&showHeader=false&_adf.ctrl-
state=az57x7njj_4&_afrLoop=564852868666178#!%40%40%3F_afrLoop%3D564852868666178%26center
Width%3D80%2525%26leftWidth%3D20%2525%26rightWidth%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse%26sh
owHeader%3Dfalse%26_adf.ctrl-state%3D1cs37zaa0q_4
Tài chính - NH http://cafef.vn/von-cho-nen-kinh-te-da-toi-luc-thoi-phu-thuoc-ngan-hang-20170601145511437.chn
http://vietstock.vn/2017/06/von-lai-chay-manh-vao-ngan-hang-757-539581.htm
http://cafef.vn/cac-ngan-hang-dang-phai-doi-mat-voi-nhieu-rui-ro-ve-an-ninh-cong-nghe-bao-mat-thong-tin-
20170601085902953.chn
http://cafef.vn/vi-sao-lai-suat-cho-vay-chua-the-giam-sau-20170601110548484.chn
Tin KT vĩ mô http://vietstock.vn/2017/06/pho-thu-tuong-ra-soat-tung-nganh-de-dat-tang-truong-67-761-539746.htm
http://cafef.vn/giam-cap-phat-tang-cho-vay-lai-von-oda-20170601090647546.chn
Tin KT Quốc tế http://nhipcaudautu.vn/magazine/tap-chi-so-ra-534-3319054
http://vietstock.vn/2017/06/dong-ndt-len-cao-nhat-ke-tu-dau-thang-112016-772-539742.htm
http://vietstock.vn/2017/06/dong-usd-xuong-sat-muc-thap-nhat-trong-hon-6-thang-772-539612.htm
Tin Hàng hóa http://ndh.vn/gia-cao-su-xuat-khau-4-thang-dau-nam-tang-gan-70--20170601034735735p4c150.news
http://ndh.vn/gia-vang-giam-thi-truong-ky-vong-fed-tang-lai-suat-vao-giua-thang-6-
20170602072443519p150c168.news
https://haokhi.sacombank.com/web/view.aspx?ZoneID=2017&SubzoneID=2020
Danh mục viết tắt
Bảo hiểm tiền gửi BHTG LS LS
Bảo hiểm y tế BHYT Liên ngân hàng LNH
Bảo hiểm thất nghiệp BHTN Lợi nhuận trước thuế LNTT
Bảo hiểm xã hội BHXH Lợi nhuận sau thuế LNST
BĐS BĐS Mua bán, sáp nhập M&A
Chi nhánh/phòng giao dịch CN/PGD Ngân hàng NH
Chỉ số giá tiêu dùng CPI Ngân hàng bán lẻ NHBL
Chính sách tiền tệ CSTT NHNN NHNN
Cơ sở hạ tầng CSHT Ngân hàng thương mại cổ phần NHTMCP
DNNN DNNN Ngân hàng thương mại Nhà nước NHTMNN
DN tư nhân DNTN NSNN NSNN
DN vừa và nhỏ DNVVN Ngân sách trung ương NSTW
DN có vốn đầu tư nước ngoài DN FDI NK NK
Dự án DA SX KD SXKD
Dự trữ bắt buộc DTBB Tài sản bảo đảm TSBĐ
Đăng ký KD ĐKKD TCTD TCTD
Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI Tổng tài sản TTS
Giấy chứng nhận GCN Tổng SP quốc nội GDP
Giá trị gia tăng GTGT Trung Quốc TQ
Hợp đồng tín dụng HĐTD Trái phiếu Chính phủ TPCP
Khách hàng DN KHDN Trái phiếu DN TPDN
Khách hàng cá nhân KHCN TTCK TTCK
KT vĩ mô KTVM VN VN
Kho bạc Nhà nước KBNN Vốn điều lệ VĐL
KV KV Vốn tự có VTC
Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia UBGSTCQT Xã hội XH
Cục dự trữ liên bang Mỹ FED XK XK
Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF Hiệp hội Chế biến và XK thuỷ sản VN VASEP
Ngân hàng thế giới World Bank Hiệp hội Lương thực VN VFA
Ngân hàng Phát triển châu Á ADB Hiệp hội Cà phê - Ca cao VN VICOFA
Ngân hàng trung ương châu Âu ECB Hiệp hội Thép VN VSA
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội HNX
KV sử dụng đồng euro EUROZONE Sở Giao dịch chứng khoán Tp.HCM HOSE
Liên minh châu Âu EU Tổ chức Nông Lương Liên Hợp Quốc FAO
Tổng cục thống kê GSO