LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
“Đời sống tôn giáo của tín đồ đạo Cao
Đài trong bối cảnh văn hóa Nam Bộ”
1
MỤC LỤC
Trang
Danh mục các bảng biểu .................................................................................... 3
Danh mục các hình vẽ ........................................................................................ 4
Danh mục các sơ đồ ........................................................................................... 5
Dẫn luận ..................................................................................................................... 6
1. Lý do và mục tiêu thực hiện đề tài ................................................................. 6
2. Đối tượng, phạm vi và giới hạn nghiên cứu ................................................... 8
3. Phương pháp nghiên cứu của đề tài................................................................ 9
4. Những đóng góp mới của luận án ................................................................ 10
5. Bố cục của luận án ........................................................................................ 11
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU
VÀ TỔNG QUAN VỀ ĐẠO CAO ĐÀI Ở NAM BỘ
1.1. Những vấn đề lý luận ....................................................................................... 12
1.1.1. Khái niệm ............................................................................................... 12
1.1.2. Quan điểm tiếp cận của đề tài ................................................................ 21
1.1.3. Lý thuyết nghiên cứu .............................................................................. 24
1.1.4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................... 31
1.2. Tổng quan về đạo Cao Đài ở Nam Bộ ............................................................ 38
1.2.1. Bối cảnh văn hóa Nam Bộ trước khi đạo Cao Đài ra đời ....................... 38
1.2.2. Đạo Cao Đài ở Nam Bộ .......................................................................... 45
Chƣơng 2
ĐỜI SỐNG TÔN GIÁO
CỦA TÍN ĐỒ CAO ĐÀI Ở NAM BỘ
2.1. Đức tin của tín đồ Cao Đài .............................................................................. 60
2.1.1. Tin về nguồn gốc vũ trụ và nguồn gốc con người .................................. 60
2.1.2. Tin vào thời mạt kiếp ............................................................................. 66
2.1.3. Tin vào sự giải thoát và sự đọa đày ........................................................ 68
2.2. Sự thờ phụng của đạo Cao Đài ....................................................................... 74
2
2.2.1. Thờ phụng tại Đền thánh ........................................................................ 75
2.2.2. Thờ phụng tại Thánh thất ....................................................................... 78
2.2.3. Thờ phụng tại tư gia ............................................................................... 79
2.3. Tổ chức của đạo Cao Đài ................................................................................. 79
2.3.1. Cơ cấu tổ chức ........................................................................................ 79
2.3.2. Chức năng của tổ chức tôn giáo ............................................................. 94
2.4. Nghi lễ của đạo Cao Đài.................................................................................. 97
2.4.1. Nghi lễ Thiên đạo .................................................................................. 98
2.4.2. Nghi lễ Thế đạo ................................................................................... 112
2.4.3. Chức năng của nghi lễ .......................................................................... 122
Chƣơng 3
SỰ ĐÓNG GÓP CỦA ĐẠO CAO ĐÀI TRONG VĂN HÓA NAM BỘ
VÀ ẢNH HƢỞNG SẮC THÁI CỦA VĂN HÓA NAM BỘ
3.1. Sắc thái tôn giáo Cao Đài trong văn hóa Nam Bộ ....................................... 142
3.1.1. Văn hóa vật chất ................................................................................... 142
3.1.2. Văn hóa tinh thần ................................................................................. 162
3.1.3. Văn hóa xã hội ...................................................................................... 174
3.2. Đạo Cao Đài ảnh hƣởng sắc thái của văn hóa Nam Bộ .............................. 186
3.2.1. Sự hỗn dung văn hóa ............................................................................ 187
3.2.2. Yếu tố thoáng, mở trong văn hóa ......................................................... 195
3.2.3. Giữ gìn văn hóa truyền thống ............................................................... 206
Kết luận .................................................................................................................. 216
Tài liệu tham khảo ................................................................................................ 221
Chú thích ................................................................................................................ 236
Phụ lục 1: Quyết định công nhận các chi phái Cao Đài......................................... 247
Phụ lục 2: Trích các cuộc phỏng vấn ..................................................................... 257
Phụ lục 3: Trích nhật ký điền dã ............................................................................ 280
Hình ảnh sinh hoạt tôn giáo của tín đồ đạo Cao Đài ......................................... 300
3
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
STT Nội dung Số trang
1 Số tín đồ theo đạo Cao Đài được thống kê từ năm 1928 đến
năm 1995
50
2 Số tín đồ có sớ cầu đạo và cơ sở thờ tự của Cao Đài ở Nam Bộ 51
3 Số tín đồ, chức sắc, chức việc và cơ sở thờ tự của các chi phái
vào năm 2007
53
4 Số liệu thống kê đạo Cao Đài ở các tỉnh, thành phố 54
5 Đối phẩm với bậc tu trong đạo 81
6 Đối phẩm với bậc tu trong Hiệp Thiên đài 88
7 Đối phẩm với bậc tu giữa Cửu Trùng Đài và Phước thiện 173
8 Đối phẩm với bậc tu giữa Cửu Trùng Đài và Ban Pháp Chánh 174
9 So sách Ban hành lễ của đạo Cao Đài và Ban tế tự ở Đình thần
Nam Bộ
203
4
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
STT Nội dung Số trang
1 Cách bắt ấn Tý 98
2 Cách cắm nhang từ trên nhìn xuống 99
3 Cách cắm nhang từ bên phải sang 99
4 Cách để hai bàn tay khi lạy 100
5 Tòa thánh Cao Đài 140
6 Bàn thờ trong gia đình của tín đồ Minh Chơn Lý 145
7 Thiên bàn của Tây Ninh, Ban Chỉnh Đạo 149
8 Thiên bàn của Tiên Thiên, Truyền giáo 149
9 Thiên nhãn do ông Ngô Minh Chiêu vẽ 188
5
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
STT Nội dung Số trang
1 Thiên đường trong giáo lý Cao Đài 67
2 Cách sắp xếp trên bàn thờ Cao Đài 72
3 Chữ Vương trên Thiên bàn 74
4 Sơ đồ Cửu Trùng Đài 74
5 Sơ đồ Hiệp Thiên đài 75
6 Sơ đồ Cửu Trùng Đài sau năm 1930 85
7 Cơ cấu tổ chức của cơ quan Hiệp Thiên Đài 86
8 Sơ đồ tiến hành Đại lễ tại Đền thánh và Thánh thất 96
9 Bàn thờ của phái Minh Chơn Lý 144
10 Sơ đồ chữ Thập trên bàn thờ Chiếu Minh 146
11 Sơ đồ chữ Vương trên Thiên bàn của Chiếu Minh 146
12 Sơ đồ bàn cơ trong gia đình 147
13 Sơ đồ bàn cơ trong Đàn 147
14 Sơ đồ chung của Bàn thờ Chiếu Minh 147
15 Cách sắp đặt các đồ vật trên Thiên bàn 148
16 Hình thức quán đàn tại Đền thánh Tây Ninh 165
17 Sơ đồ tổ chức của cơ quan Phước thiện 173
18 Thiết lập bàn thờ theo cách của ông Ngô Văn Chiêu 188
19 Cách thờ tự trong gia đình tín đồ Cao Đài ở Đồng Nai 191
20 Thân tộc của gia đình Chức việc ở quận 8, TP.HCM 195
6
DẪN LUẬN
1. Lý do và mục tiêu thực hiện đề tài
Nam Bộ là đồng bằng lớn và trù phú ở Việt Nam với diện tích trên
67.000km2. Đây là vùng địa lý có nhiều nét đặc biệt và xã hội mang tính chất mở,
thoáng hơn so với các vùng khác trong cả nước.
Trong lịch sử khẩn hoang, Nam Bộ được xem là vùng đất mới của người
Việt, đầy thách thức với người đi khai hoang, vì là vùng đất hoang vu. Khai phá
đất Nam Bộ là quá trình lao động vất vả và lâu dài của nhiều thế hệ nối tiếp nhau.
Các lưu dân như người Việt là chủ yếu và sau đó là người Khmer, Hoa, Chăm
cùng cư dân bản địa như S’tiêng, Châuro đã đổ mồ hôi, xương máu khai phá vùng
Nam Bộ và biến nó trở thành một trong những vùng trù phú của đất nước như
ngày nay.
Trong quá trình cộng cư, các tộc người ở Nam Bộ cùng hội tụ, cùng chịu sự
chi phối bởi môi trường địa lý – lịch sử, cùng cảnh ngộ, thân phận, trải qua những
khó khăn vất vả trong quá trình chinh phục vùng đất hoang vu… nên họ đã cố kết
với nhau, cưu mang, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống. Trong quá trình cố kết tộc
người, yếu tố tâm linh được “chia sẻ”, kết quả là hệ thống tôn giáo tín ngưỡng của
cư dân Nam Bộ luôn nằm trong sự đan xen lẫn nhau, dần dần dẫn đến sự biến đổi
so với yếu tố ban đầu mà các lưu dân mang đến. Sự biến đổi đó đã bổ trợ sự
khiếm khuyết của nhau trong quá trình tồn tại và phát triển, nhờ đó, hệ thống tôn
giáo tín ngưỡng của các cư dân Nam Bộ dần có những điểm chung, bên cạnh
những yếu tố riêng biệt của từng tộc người. Những điểm chung nói trên là kết quả
hoà đồng tôn giáo rất đặc trưng của khu vực Nam Bộ.
Đạo Cao Đài hay Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ ra đời tại khu vực Nam Bộ vào
nửa đầu thế kỷ XX cũng bắt nguồn từ yếu tố hoà đồng tôn giáo đó.
Khi đạo Cao Đài ra đời, Nam Bộ đã trở thành vùng đất màu mỡ:
“Ruộng đồng mặc sức chim bay
Biển hồ lai láng mặc bầy cá đua”
7
Nam Bộ cũng đã trở thành nơi quần tụ của nhiều tộc người, tạo nên một
vùng văn hóa hỗn dung đặc sắc và ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng “cứu thế” của
đạo Cao Đài.
Đạo Cao Đài ra đời trong bối cảnh văn hóa Nam Bộ đã được hình thành và
phát triển hàng trăm năm, nên tôn giáo này đã tiếp thu nhiều yếu tố văn hóa Nam
Bộ biến thành cái riêng mang tính đặc thù trong tôn giáo của mình như xây dựng
đức tin theo Tam giáo, giáo lý dựa trên nền tảng của các tôn giáo có trước, tổ chức
tôn giáo được sắp đặt theo cơ cấu nhà nước,… và được giải thích theo giáo lý Cao
Đài. Chính điều này, tạo nên sự mới mẻ của một tôn giáo mới, nhưng lại gần gũi
với tín ngưỡng truyền thống của cư dân Nam Bộ, do đó đạo Cao Đài đã thu hút
được nhiều người, đặc biệt là người Việt Nam Bộ tham gia và trở thành tín đồ của
Đạo.
Trên thực tế, sự mới mẻ của đạo Cao Đài vẫn không nằm ngoài bối cảnh
chung của văn hóa Nam Bộ, nó chỉ tích hợp từ những thành tố văn hóa đã có
trước, rồi sắp xếp lại và điều chỉnh để phù hợp với hoàn cảnh lịch sử mới, nhằm
mục đích thu hút sự chú ý của người dân Nam Bộ lúc bấy giờ. Kết quả là đạo Cao
Đài khi vừa thành lập (năm 1926) đã nhanh chóng phát triển và trở thành một
trong những tôn giáo có số lượng tín đồ đông ở khu vực Nam Bộ.
Đạo Cao Đài đã có những điều chỉnh như thế nào về đức tin, về giáo lý, về
cơ cấu tổ chức, cách hành đạo… để tạo nên sự mới mẻ ở Nam Bộ và trở thành một
trong những tôn giáo có đông tín đồ người Việt tin theo? Nghiên cứu vấn đề này
sẽ lý giải được vai trò tôn giáo trong đời sống của cư dân Nam Bộ và góp phần
tìm ra những yếu tố đặc trưng trong văn hóa Nam Bộ cũng như tính cách của
người Việt Nam Bộ. Hơn nữa, bản thân tác giải luận án là người “trong cuộc”, là
một tín đồ Cao Đài nên tương đối hiểu rõ về tôn giáo này và có hướng tiếp cận dễ
dàng hơn.
Vì lý do trên, chúng tôi chọn “Đời sống tôn giáo của tín đồ đạo Cao Đài
trong bối cảnh văn hóa Nam Bộ” làm đề tài luận án Tiến sĩ Lịch sử, chuyên
ngành Dân tộc học. Với đề tài này, chúng tôi hướng đến giải quyết các mục tiêu
sau:
8
- Tìm hiểu chức năng tôn giáo trong đời sống của tín đồ Cao Đài ở Nam Bộ.
- Tìm hiểu những đóng góp về mặt văn hóa của đạo Cao Đài đối với văn
hóa Nam Bộ qua đời sống tôn giáo của tín đồ.
- Tìm hiểu ảnh hưởng của văn hóa Nam Bộ đối với việc hình thành và phát
triển đạo Cao Đài, cũng như đối với đời sống tôn giáo của tín đồ đạo Cao Đài.
- Tìm hiểu một số quan điểm lý thuyết về văn hóa trong nghiên cứu Nhân
học như thuyết Chức năng, các lý thuyết liên quan đến vùng văn hóa, Cấu trúc…
2. Đối tƣợng, phạm vi và giới hạn nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu về đời sống tôn giáo của tín đồ
đạo Cao Đài, do đó đối tượng nghiên cứu là những tín đồ theo đạo Cao Đài, chủ
yếu là tín đồ người Việt. Vấn đề nghiên cứu của đề tài là những hoạt động trong
đời sống tôn giáo của tín đồ Cao Đài người Việt như đức tin, thờ phụng, tổ chức,
nghi lễ.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài được giới hạn trong phạm vi Nam Bộ, vì khu
vực này là điểm xuất phát của đạo Cao Đài; hầu hết các Toà thánh, Tổ đình,
Thánh thất của các chi phái trong đạo đều hình thành tại đây. Hơn nữa, Nam Bộ là
vùng văn hóa - lịch sử có nhiều điểm đặc biệt về quá trình tộc người, giao lưu tiếp
biến văn hóa và là nơi ra đời nhiều tôn giáo mới so với các vùng khác ở Việt Nam.
Vì vậy, Nam Bộ là nơi tốt nhất để nghiên cứu và giải quyết những vấn đề đã được
đặt ra cho đề tài này.
- Giới hạn thời gian:
+ Thời gian nghiên cứu: mục tiêu nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu về văn
hóa Nam Bộ và ảnh hưởng của văn hóa Nam Bộ trong đời sống tôn giáo của tín
đồ Cao Đài, nên thời gian nghiên cứu của đề tài từ năm 1926 đến năm 2008 (Năm
1926 là năm đánh dấu sự ra đời của đạo Cao Đài. Khi tôn giáo này ra đời đã luôn
bồi đắp, tích tụ sắc thái của văn hóa Nam Bộ qua thời gian và phát triển dần. Năm
2008 là mốc thời gian tạm giới hạn của đề tài nghiên cứu).
+ Thời gian khảo sát: Đề tài được khảo sát trong thời gian 4 năm, từ năm
2004 đến năm 2008 (Năm 2004, khảo sát để xây dựng đề cương nghiên cứu. Từ
năm 2005 đến năm 2008, khảo sát, nghiên cứu để hoàn thành đề tài).
9
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài, các phương pháp được thực hiện gồm Quan sát –
Tham dự, Phỏng vấn sâu, So sánh đối chiếu, Thu thập và xử lý thông tin bằng
hình ảnh và Nghiên cứu lịch sử (xét hai phương diện: đồng đại và lịch đại).
- Quan sát – tham dự là phương pháp đặc thù chuyên biệt của ngành Nhân
học, đòi hỏi người nghiên cứu phải tham dự, quan sát, cùng sinh sống và khảo sát
tại cộng đồng mà mình nghiên cứu trong thời gian dài. Khi nghiên cứu đề tài này,
chúng tôi đã thực hiện điền dã dài ngày tại các tỉnh, thành như Tây Ninh, Bến Tre,
Long An, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu và TP. Hồ Chí Minh. Trong thời gian điền
dã, các lễ hội của Cao Đài như vía Đức Chí tôn, Diêu Trì Kim Mẫu, lễ Khai đạo,
Hôn phối, Tang lễ, cúng Cửu, Nhập môn, Quì hương,… được tổ chức tại Đền
thánh, các Thánh thất, tư gia của tín đồ,… chúng tôi đều tham gia. Mục đích sử
dụng phương pháp này nhằm hướng đến yếu tố tự mình quan sát, cảm nhận và
nắm bắt thông tin trực tiếp từ đối tượng nghiên cứu. Các thông tin này được ghi
lại dưới hình thức Nhật ký điền dã.
- Phỏng vấn sâu là phương pháp thu thập thông tin từ các thành viên trong
cộng đồng bằng các cuộc đối thoại có chủ định. Trong quá trình điền dã, phương
pháp này được dùng để phỏng vấn chức sắc, chức việc và tín đồ của đạo Cao Đài.
Thông qua các cuộc phỏng vấn, người được nghiên cứu có thể hiểu và làm rõ
được các nguyên tắc hành đạo, các suy nghĩ, cũng như biết được thân thế, sự
nghiệp, ước vọng, niềm tin của tín đồ đạo Cao Đài ở Nam Bộ. Thông tin có được
từ các cuộc phỏng vấn có tính khách quan cho đề tài, dùng để phân tích và minh
chứng cho những nhận định trong đề tài bằng hình thức trích dẫn nội dung phỏng
vấn (đưa quan điểm của tín đồ, của người được nghiên cứu vào nội dung khoa
học) bên cạnh ý kiến, nhận định của chúng tôi.
- So sánh đối chiếu là phương pháp được thực hiện trong quá trình điền dã
nhằm so sánh các hoạt động tôn giáo diễn ra trong đời sống tín đồ Cao Đài với các
nhóm cư dân khác để nhận biết những nét tương đồng và dị biệt trong bối cảnh
chung của một vùng văn hóa. Đây được xem là phương pháp có hiệu quả về việc
so sánh và giải thích các hoạt động tôn giáo đang diễn ra ở cộng đồng tín đồ.
10
- Thu thập và xử lý thông tin bằng hình ảnh là phương pháp ghi nhận
thông tin bằng các thiết bị kỹ thuật như máy ảnh, máy quay phim, các bản vẽ…
Các thông tin này được phân tích, lý giải nhằm minh chứng cho các nhận định của
chúng tôi về hoạt động tôn giáo của tín đồ Cao Đài Nam Bộ.
- Nghiên cứu lịch sử (đồng đại và lịch đại) là một trong những phương
pháp nghiên cứu, phân tích các dạng tài liệu thư tịch, tư liệu điền dã để tìm hiểu
các sự kiện đã diễn ra theo thời gian lịch sử nhằm tìm hiểu cội nguồn, những bước
tiến triển, các yếu tố tác động đến việc hình thành và phát triển đạo Cao Đài trong
không gian cụ thể là Nam Bộ. Phương pháp này giúp phân tích, lý giải những tư
liệu thu thập được trong điền dã Dân tộc học.
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng phương pháp emic, etic khi trình bày nội
dung khoa học của luận án. Sử dụng emic là đưa tiếng nói của người trong cuộc,
người được phỏng vấn, dưới dạng trích dẫn đóng trong khung vào nội dung để
chứng minh cho các nhận định trong luận án. Etic là quan điểm của người nghiên
cứu bày tỏ ý kiến đồng ý hoặc không đồng ý với những nhận định của người trong
cuộc. Sử dụng phương pháp này nhằm có sự so sánh, đối chiếu những nhận định
của tác giả với ý kiến của đối tượng nghiên cứu trong luận án.
4. Những đóng góp mới của luận án
Dưới góc độ nghiên cứu Dân tộc học về đời sống tôn giáo của cộng đồng tín
đồ Cao Đài, luận án thể hiện một số đóng góp mới như:
- Tập hợp các nguồn tư liệu (tư liệu thành văn, tư liệu điền dã) thành hệ
thống để phân tích, làm rõ quá trình ra đời, phát triển và phân hóa của đạo Cao
Đài ở Nam Bộ một cách dễ hiểu so với những công trình đã công bố trước đây.
Miêu tả tỉ mỉ các nghi lễ, cơ cấu tổ chức, cách hành đạo của tín đồ Cao Đài nhằm
tìm ra những chức năng của nó trong đời sống tôn giáo của tín đồ.
- Công bố nhiều tư liệu mới, chủ yếu là tư liệu điền dã của tác giả về các
hoạt động của đạo Cao Đài.
- Các thông tin được sơ đồ hóa dưới dạng bảng, bản vẽ và hình ảnh cụ thể.
- Dùng tư liệu điền dã Dân tộc học để chứng minh đạo Cao Đài ảnh hưởng
nhiều yếu tố của văn hóa Nam Bộ và cũng chứng minh đạo Cao Đài đã có những
11
đóng góp không nhỏ trong việc góp phần tạo nên sắc thái đặc trưng cho văn hóa
Nam Bộ từ nửa sau thế kỷ XX.
- Nội dung nghiên cứu về đạo Cao Đài góp phần bổ sung lý thuyết về tôn
giáo, tôn giáo bản địa và các lý thuyết liên quan đến vùng văn hóa của ngành Dân
Tộc học, Nhân học.
5. Bố cục của luận án
Ngoài phần dẫn luận, luận án gồm ba chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận của việc nghiên cứu và tổng quan về đạo
Cao Đài ở Nam Bộ. Nội dung trình bày những tiền đề lý luận cho việc nghiên cứu,
trong đó làm rõ các khái niệm liên quan như tôn giáo, phân loại tôn giáo, đời sống
tôn giáo; và đưa ra các hướng nghiên cứu, các lý thuyết để áp dụng cho việc phân
tích, giải quyết vấn đề; ngoài ra, trong luận án còn trình bày bối cảnh văn hóa
Nam Bộ và quá trình hình thành phát triển của đạo Cao Đài ở Nam Bộ.
- Chương 2: Đời sống tôn giáo của tín đồ Cao Đài ở Nam Bộ. Nội dung hệ
thống hóa thông tin về đời sống tôn giáo của tín đồ Cao Đài ở Nam Bộ với các nội
dung được trình bày như đức tin, thờ phụng, tổ chức tôn giáo, lễ nghi và giải thích
về mục đích, nhu cầu và chức năng tôn giáo trong đời sống của tín đồ đạo Cao
Đài.
- Chương 3: Đóng góp của đạo Cao Đài trong văn hóa Nam Bộ và ảnh
hưởng sắc thái của văn hóa Nam Bộ. Nội dung trình bày đạo Cao Đài góp phần
làm đa dạng đặc trưng cho văn hóa Nam Bộ và phân tích đạo Cao Đài đã ảnh
hưởng nhiều từ văn hóa Nam Bộ, qua đó chứng minh văn hóa Nam Bộ có những
ảnh hưởng không nhỏ đến việc hình thành và phát triển đạo Cao Đài.
- Kết luận: Đúc kết các kết quả nghiên cứu từ ba chương và nêu những nhận
xét tổng kết của luận án.
12
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU
VÀ TỔNG QUAN VỀ ĐẠO CAO ĐÀI Ở NAM BỘ
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1.1. Khái niệm
Nghiên cứu đời sống tôn giáo của tín đồ Cao Đài ở Nam Bộ, chúng tôi
trình bày một số khái niệm liên quan đến đề tài như Tôn giáo, cách phân loại tôn
giáo và đời sống tôn giáo, nhằm định hướng cho việc tiếp cận, nghiên cứu và giải
quyết vấn đề liên quan đến đề tài.
* Tôn giáo
Do luận án thuộc lĩnh vực Nhân học tôn giáo nên chúng tôi trình bày khái
niệm tôn giáo theo quan điểm Dân Tộc học và Nhân học là cơ sở lý luận để thực
hiện đề tài.
Tôn giáo là một khái niệm phức tạp với nhiều cách định nghĩa khác nhau.
E.B. Tylor cho rằng tôn giáo là “niềm tin vào các thực thể tinh thần” [194:22];
còn E. Durkheim thì cho “Tôn giáo là một hệ thống có tính chất gắn bó của những
niềm tin và những thực hành liên quan đến những điều thiêng liêng, nghĩa là sự
tách biệt, cấm đoán, những niềm tin và thực hành gắn bó tất cả những ai gia nhập
vào một cộng đồng đạo đức, được gọi là Giáo hội” [66:60]. Anthony F.C. Wallace
xem “Tôn giáo là tập hợp những nghi lễ, đã được biện minh bằng thần thoại,
động viên sức mạnh siêu nhiên nhằm mục đích đem lại biến đổi hoặc đề phòng
biến đổi cho con người và tình trạng tự nhiên” [29:276]. Theo Max Weber thì
“Tôn giáo đặc biệt tác động đến cộng đồng. Tôn giáo gắn kết những thế lực siêu
nhiên. Quy định các mối quan hệ giữa các thế lực của chúng với những con người
tạo thành lĩnh vực của những hoạt động tôn giáo” [176:68]. Clifford Geertz đưa
ra định nghĩa “Tôn giáo là một hệ thống các biểu tượng có tác dụng tạo ra những
trạng thái mạnh mẽ, lan tỏa, kéo dài và những động cơ trong những con người
bằng cách trình bày có hệ thống những quan niệm về một trật tự tồn tại chung và
13
che phủ những quan niệm này bằng một thực tế tỏa ra rằng những tình trạng và
những động cơ dường như là hiện thực duy nhất” [194:23]. Theo định nghĩa này,
Clifford Geertz quan niệm tôn giáo như là sự truyền thông, trong đó những biểu
tượng của tôn giáo sẽ chứa đựng những tín ngưỡng tổng hợp mà cộng đồng quan
niệm về thế giới siêu linh. Cùng quan điểm với Clifford Geertz, Meford Spiro cho
rằng “Tôn giáo là một thiết chế bao gồm sự tương tác mang tính hình mẫu văn
hóa với những siêu linh được mặc nhận bởi văn hóa”. Nhưng Rohin Horton lại
không đồng ý với quan điểm “tôn giáo là biểu tượng” của C. Geertz và M. Spiro,
khi cho rằng “Tôn giáo là một sự mở rộng lĩnh vực những quan hệ của con người
ra bên ngoài những hạn chế của xã hội loài người đơn thuần, trong đó con người
nhìn nhận mình như một sinh vật trong mối quan hệ phụ thuộc với tính phi nhân”
[194:23]. Theo định nghĩa này, R. Horton nhìn tôn giáo cùng quan điểm với E.
Durkheim, cùng cho rằng tôn giáo như một sự mở rộng các quan hệ phức tạp của
con người trong xã hội. F.Engels cũng cùng quan điểm này khi cho rằng “Tôn
giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh một cách hư ảo về thế giới bên ngoài
nhằm đền bù cho những bất lực của con người trong cuộc sống hàng ngày”
[2:437-438]. Trong khi đó K.Marx lại cho rằng “Tôn giáo là tiếng thở dài của
chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng giống như nó
là tinh thần của những trật tự không có tin thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân
dân” [110:33]. Quan điểm của K.Marx, xem tôn giáo như là sự cứu rỗi (một trái
tim, một tinh thần) của những con người đang sống trong sự khủng hoảng, không
mang nghĩa của sự phê phán tôn giáo. Tại Việt Nam, nhà Dân tộc học Đặng
Nghiêm Vạn cho rằng tôn giáo ra đời để phản ánh một cách hư ảo về thế giới bên
ngoài khi nói “Tôn giáo là niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên, vô hình, mang
tính thiêng liêng, được chấp nhận một cách trực giác và tác động qua lại một cách
siêu thực (hay hư ảo) với con người, nhằm lý giải những vấn đề trên trần thế cũng
như ở thế giới bên kia. Niềm tin đó được biểu hiện rất đa dạng, tùy thuộc vào từng
thời kỳ lịch sử, hoàn cảnh địa lý – văn hóa khác nhau, phụ thuộc vào nội dung
từng tôn giáo, được vận hành bằng những nghi lễ, những hành vi tôn giáo khác
nhau của từng cộng đồng xã hội/tôn giáo khác nhau” [176:167].
14
Từ các định nghĩa trên cho thấy tôn giáo là sản phẩm của con người. Con
người sáng tạo ra tôn giáo rồi chịu sự chi phối của tôn giáo tác động lại trong cuộc
sống. Tôn giáo ra đời nhằm lý giải những hiện tượng “kỳ lạ” xảy ra xung quanh
cuộc sống con người, phản ảnh hiện tượng xã hội và cũng là một nơi cứu rỗi của
con người trong xã hội bằng một thế giới siêu thoát (thế giới bên kia).
Khi ý niệm về một thế giới bên kia ra đời cũng là lúc tôn giáo được hình
thành. Do vậy, các nhà khoa học khi định nghĩa về tôn giáo thường nhấn mạnh
đến “tính thiêng liêng”, một “niềm tin về tính siêu thực” về một “thế giới vô
hình”. Niềm tin siêu thực ấy là chỗ dựa tinh thần của con người khi gặp khủng
hoảng trong cuộc sống và đây cũng là yếu tố để tôn giáo ra đời, tồn tại và phát
triển trong xã hội loài người.
Khi nghiên cứu về tôn giáo, các nhà khoa học thường xem tôn giáo gắn liền
với 3 yếu tố: niềm tin, nghi lễ và những người thực hành nghi lễ tôn giáo. Trong
luận án này, để nghiên cứu đạo Cao Đài, chúng tôi cũng kế thừa, vận dụng nội
dung các khái niệm trên và cũng dựa vào ba yếu tố: niềm tin, nghi lễ, và những
người thực hành nghi lễ tôn giáo.
- Niềm tin tôn giáo là tin vào yếu tố “thiêng” liên quan đến thế giới vô
hình, đến những siêu linh do con người tưởng tượng và sáng tạo ra. Đây là niềm
tin siêu lý, không dựa vào lý tính và thực nghiệm, niềm tin được cảm nhận, hoặc
theo truyền thống kinh nghiệm để dần khẳng định tính vững chắc của nó [167:94-
95]. Niềm tin này có thể dựa vào huyền thoại để tạo nên những vị thần như thần
sáng tạo, thần sấm, thần sét, thần mưa… hay loại hình tôtem nào đó để rồi dẫn
đến việc tôn sùng, tín ngưỡng, chiêm bái. Niềm tin cũng có thể dựa trên triết lý
“đối lập” về cuộc sống hiện tại bằng “một thế giới bên kia”. Nhìn chung, niềm tin
tôn giáo là niềm tin vào thế giới hư ảo, siêu thực với các đấng siêu linh có khả
năng chi phối cuộc sống của con người trần thế. Đây là niềm tin không cần thực
nghiệm và niềm tin trong đạo Cao Đài cũng được thể hiện như trên.
- Nghi lễ tôn giáo là những hành vi của con người nhằm biểu hiện niềm tin
tôn giáo của mình. Bất cứ một tôn giáo nào, dù sơ khai hay phát triển, đều có
những hành vi liên quan đến niềm tin, mà nghi lễ là một trong những hành vi quan
15
trọng đó. Nghi lễ được thực hiện với tư cách cá nhân hay dưới hình thức cộng
đồng.
Nghi lễ tôn giáo được thực hành thường gắn liền với một thực thể siêu linh
hay một thế giới vô hình nào đó liên quan đến niềm tin tôn giáo hoặc do tôn giáo
qui định và thường biểu hiện chức năng tâm lý trong đời sống của tín đồ. Nghi lễ
có thể dùng để giải tỏa những nỗi bất an của con người ở cuộc sống trần tục, cũng
có thể đưa con người đến gần hơn với thế lực siêu nhiên mà họ tin tưởng
[176:130].
Nghi lễ được thực hiện theo nhiều cách như tuân thủ theo chu kỳ thời gian
(được tổ chức theo năm, tháng của Dương lịch hoặc Âm lịch), theo chu kỳ đời
người (nghi lễ vòng đời) hoặc những nghi lễ riêng lẻ do từng tôn giáo qui định.
Nghi lễ cũng là hình thức giúp tăng cường sức mạnh của cộng đồng (Rite of
intensification), như nhận định của nhà nhân nhọc William A. Haviland khi cho
rằng “Nghi lễ được thực hiện trong thời kỳ khủng hoảng hay biến cố lớn nào đó
của cộng đồng cư dân, mục đích để giúp cho mọi thành viên trong cộng đồng đó
gắn bó với nhau hơn” [236:358]; hoặc nghi lễ còn mang mục đích đánh dấu sự
chuyển đổi của thời gian và chuyển đổi vị thế của con người trong xã hội như
nghiên cứu của Anorld Van Gennep với tiêu đề Rites of Passage (các nghi lễ
chuyển đổi). Ngoài ra, nghi lễ được thực hiện còn phản ánh thực tại của xã hội,
nơi con người đang sinh sống.
Nghi lễ được thực hiện thường biểu hiện qua các yếu tố như:
+ Tạo bối cảnh: để mở đầu cho nghi lễ là một trong số hoạt động liên quan
đến việc nhập lễ (valoriation) hoặc thiêng liêng hóa (sacralization) đối với các
hiện vật tôn giáo nhằm làm thay đổi chức năng thông thường hàng ngày của nó.
+ Nghi thức hưởng thụ phong phú (liên quan đến thực phẩm và đồ uống):
chuẩn bị nhiều đồ ăn, thức uống dưới hình thức bữa tiệc nhằm thể hiện sự hưởng
thụ phong phú mang tính phồn thịnh.
- Gắn liền với nghi lễ tôn giáo là những người thực hành nghi lễ. Những
người này có thể được chia thành ba hình thức: người hành lễ chuyên nghiệp,
người hành lễ bán chuyên nghiệp và người hành lễ thông thường [29:300].
16
+ Người hành lễ chuyên nghiệp là những người có tri thức, kỹ thuật và
năng lực tôn giáo. Họ được đào tạo hoặc tu luyện trong tôn giáo. Họ có chức năng
chuyên môn về tôn giáo, nắm rõ những nguyên tắc, giáo luật và điều lệ của tôn
giáo. Họ có thể là mục sư, linh mục, nhà sư, người chủ lễ… trong các tôn giáo
đương thời.
+ Người hành lễ bán chuyên nghiệp là những người được tin rằng họ có
mối quan hệ trung gian giữa thế giới trần tục với thế giới thần linh. Thông qua họ,
thần linh có thể tiếp xúc được với con người trần tục; thần linh có thể chữa bệnh,
ban bùa, phép bình an cho người trần tục. Những người này thường được gọi là
shaman. Shaman có thể là thầy phù thủy, thầy mo, thầy cúng, bà đồng, bà bóng…
Họ được gọi là những người hành lễ bán chuyên nghiệp vì khi kết thúc những
buổi lễ, họ lại trở thành những con người bình thường trong cuộc sống.
+ Người hành lễ thông thường là những người chưa hoặc không có chức
phận tôn giáo, nhưng lại có niềm tin và thực hành nghi lễ tôn giáo. Họ có thể là tín
đồ hoặc người dân bình thường, chưa được đào tạo sâu về chuyên môn trong tôn
giáo như những người hành lễ chuyên nghiệp, hoặc cũng không thể trở thành
những người trung gian cho thế giới thần linh như những vị shaman. Người hành
lễ thông thường chỉ dựa vào niềm tin tôn giáo mà hành lễ hàng ngày hoặc theo chu
kỳ thời gian. Họ vẫn giữ cuộc sống đời thường như những con người bình thường
khác trong xã hội.
Như vậy, những người thực hành nghi lễ kể trên là những người có vai trò
gìn giữ và phát triển tôn giáo trong xã hội, thông qua họ mà tôn giáo phát triển và
gắn chặt với cộng đồng xã hội. Điều này cũng được thấy rõ trong đạo Cao Đài.
Từ những phân tích trên cho thấy, tôn giáo là sản phẩm của con người, do
con người sáng tạo ra nhằm làm chỗ dựa về tinh thần khi gặp những khủng hoảng
trong cuộc sống.
* Cách phân loại tôn giáo
Theo nhiều nguồn tài liệu thư tịch, hiện nay có nhiều cách phân loại tôn
giáo. Trong khoa học Mác-xít, tôn giáo được chia thành hai loại: Tôn giáo của chế
độ tiền giai cấp (công xã thị tộc) và Tôn giáo của những xã hội có giai cấp. X.A.
17
Tôcarev cho rằng, trong xã hội có giai cấp, tôn giáo là công cụ tư tưởng của ách
áp bức giai cấp, là sự biện hộ cho bất bình đẳng xã hội; còn trong xã hội tiền giai
cấp, tôn giáo là sự phản ánh về tư tưởng, trình độ phát triển nhất định của nền sản
xuất vật chất và thể hiện sự bất lực của người nguyên thủy trước hoàn cảnh tự
nhiên và xã hội quanh họ [232:18]. Robert N. Bellah phân loại tôn giáo theo loại
hình tiến hóa về thời gian. Ông phân tôn giáo thành các loại: Tôn giáo nguyên
thủy, Tôn giáo tiền sử, Tôn giáo lịch sử, Tôn giáo cận đại, Tôn giáo hiện đại
[66:275-307].
- Tôn giáo nguyên thủy chỉ là những đặc trưng của “thế giới thần thoại”.
Hành động của tôn giáo nguyên thủy là sự tham gia đồng nhất của cộng đồng cùng
hóa thân thành các nhân vật thần thoại để tái dựng lại thế giới thần thoại.
- Tôn giáo tiền sử là sự tiến hóa của tôn giáo nguyên thủy. Những nhân vật
thần thoại lúc này được đặc trưng hóa một cách rạch ròi, được nhìn nhận là có vai
trò trong việc cai quản thế giới tự nhiên và xã hội của con người một cách chủ
động. Hành động của tôn giáo tiền sử là hình thái cúng tế dành cho các vị thần,
thánh, được nhân cách hóa từ những nhân vật thần thoại trong loại hình tôn giáo
trước.
- Tôn giáo lịch sử được biểu hiện rất khác nhau ở mỗi cộng đồng tộc người.
Trong triết lý của tôn giáo lịch sử có xuất hiện thế giới siêu nhiên cao hơn thế giới
trần tục và nắm quyền cai quản thế giới trần tục. Nơi đó có “giáo chủ” vượt ra
ngoài vòng sinh tử và là người sáng tạo, cai quản vũ trụ. Hành động trong tôn giáo
lịch sử sẽ mang tính “cứu rỗi” con người, qua đó lại xuất hiện những tổ chức tôn
giáo tách biệt với các tổ chức xã hội thông thường. Tổ chức tôn giáo nhằm hướng
con người đến với phương thức cứu rỗi trong tôn giáo. Tùy thuộc vào từng tôn
giáo mà có các tổ chức và hành động tôn giáo khác nhau.
- Tôn giáo cận đại là sự phân hóa của tôn giáo lịch sử. Nội dung tập trung
vào mối quan hệ trực tiếp giữa các cá nhân với các thực thể siêu việt. Một số loại
hình lễ nghi trong tôn giáo lịch sử bị loại bỏ vì cho rằng “mê tín”, hoặc chuyển thể
thành một hình thức khác giống như lễ “tưởng niệm”. Sau tôn giáo cận đại sẽ là
18
tôn giáo hiện đại và Robert N. Bellah cho rằng tôn giáo hiện đại vẫn đang nằm
trong “bước chuyển” nên chưa thể xác định rõ ràng.
Nếu Robert N. Bellah phân loại tôn giáo theo thời gian, một số nhà nghiên
cứu khác [65][176][232] lại phân loại tôn giáo theo không gian. Theo đó, tôn giáo
được phân thành: Tôn giáo dân tộc, Tôn giáo khu vực, Tôn giáo thế giới, Tôn giáo
bản địa.
- Tôn giáo dân tộc là những tôn giáo được hình thành trong xã hội có giai
cấp, trong khuôn khổ của những quốc gia nhất định và những cộng đồng nhất
định, không vượt ra ngoài khuôn khổ đó thì được xem (một cách qui ước) là tôn
giáo dân tộc. Các tôn giáo dân tộc có thể kể đến như Đạo giáo, Nho giáo (ở Trung
Quốc), Shinto giáo (ở Nhật), Do Thái giáo (ở người Do Thái)…[232:20-21].
- Tôn giáo khu vực là các tôn giáo có nội dung mang tính phổ quát, không
gắn chặt với một quốc gia cụ thể, với các vị thần cụ thể, các nghi thức cụ thể của
cộng đồng tộc người, dân tộc hay địa phương nhất định. Các tôn giáo này được
phổ biến bằng con đường chiến tranh hay hòa bình, được các quốc gia đã bị lệ
thuộc trực tiếp hay gián tiếp, tự giác hay không tự giác tiếp nhận, rồi trên nền tảng
tôn giáo truyền thống biến đổi thành tôn giáo của riêng quốc gia đó [176:49].
- Tôn giáo thế giới là những tôn giáo có phạm vi phát triển vượt ra ngoài
quốc gia, nơi nó ra đời và được nhiều cộng đồng tộc người chấp nhận. Hiện nay,
các tôn giáo như Phật giáo, Công giáo, Islam, Tin Lành được xem là tôn giáo thế
giới vì nó phát triển rộng khắp trên thế giới và được nhiều tộc người khác nhau
chấp nhận.
- Tôn giáo bản địa (Chú thích – CT:1) là tôn giáo mang sắc thái địa
phương, xuất hiện trong một bối cảnh môi trường thiên nhiên và môi trường xã
hội tại chỗ, một thời điểm lịch sử nhất định, của một dân tộc cụ thể và mang dấu
ấn kinh tế-văn hóa-xã hội của dân tộc đó. Tôn giáo bản địa chỉ của riêng một bộ
phận cư dân trong dân tộc, tại một vùng đất cụ thể, không lan rộng trên quy mô
toàn lãnh thổ. Nội dung của khái niệm tôn giáo Tôn giáo bản địa rất gần với khái
niệm Tôn giáo dân tộc, có thể là một nhưng có khi là hai. Tôn giáo dân tộc (ví dụ
đạo Shinto của Nhật Bản) phổ biến toàn thể một dân tộc với tâm thức chung,
19
nhưng Tôn giáo bản địa (có thể gọi là tôn giáo địa phương) chỉ của một bộ phận
cư dân trong dân tộc đó, tại một vùng đất cụ thể, không lan rộng trên quy mô toàn
lãnh thổ và không phải tất cả hoặc hầu hết mọi người trong dân tộc đó đều theo
như Tôn giáo dân tộc.
Tại Nam Bộ, Tôn giáo bản địa chủ yếu là của người Việt, do một bộ phận
người Việt sáng tạo ra và mang tính hỗn dung (syncretisme) do ảnh hưởng giáo lý
cũng như sắc thái văn hóa, tâm lý của các tôn giáo khác và các dân tộc khác… Sự
hỗn dung trong tôn giáo bản địa ở Nam Bộ như là đạo Cao Đài cũng có gốc rễ sâu
xa và chịu sự chi phối, tác động trực tiếp của những tiền đề kinh tế-văn hóa-xã hội
và lịch sử của vùng đất Nam bộ.
Ngoài ra, một số tài liệu khác [53][54][65] còn phân tôn giáo thành các
dạng như: tôn giáo hỗn hợp, tôn giáo mới… Trong đó:
- Tôn giáo hỗn hợp là tôn giáo xây dựng giáo lý và cả cơ cấu của mình dựa
trên khuôn mẫu của nhiều tôn giáo đã có từ trước, có thể là vì chịu ảnh hưởng xã
hội của các tôn giáo kia, cũng có thể vì muốn dễ thu hút tín đồ mới trong quần
chúng tín đồ các tôn giáo cũ đã mang thói quen tín ngưỡng không dễ sửa bỏ
[54:648].
- Tôn giáo mới, gọi chung là “đạo lạ”, “đạo mới”, “tạp giáo”… là các tôn
giáo xuất hiện từ thập kỷ 60 của thế kỷ XX trở lại đây, trong đó có nhiều tôn giáo
bị ghi vào “danh sách đen” của chính quyền nhiều nước vì được coi là thủ phạm
của các hoạt động gây bất ổn cho xã hội. Tôn giáo mới có thể chia thành bốn loại
dựa trên tính đặc thù hoạt động của nó là: Phong trào thờ cúng, Phong trào thánh
linh mới giáng lâm, Phong trào tà giáo đương đại và Phong trào tu luyện thân
tâm [54:648-650].
Tóm lại, theo các nguồn tài liệu thư tịch, tôn giáo hiện nay được chia thành
nhiều loại hình khác. Theo nghiên cứu của nhiều nhà khoa học ở Việt Nam và
nước ngoài, đạo Cao Đài ở Nam Bộ mà chúng tôi chọn để nghiên cứu cho luận án
tiến sĩ thuộc loại hình Tôn giáo bản địa.
20
* Đời sống tôn giáo
Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, Đời sống có nghĩa là toàn
bộ những hoạt động trong một lĩnh vực nào đó của con người, của xã hội hay toàn
bộ những điều kiện sinh hoạt của con người, của xã hội [177:348]. Trong quyển
Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên, xuất bản năm 1994, Đời sống có nghĩa là
hoạt động về một mặt nào đó của một xã hội, cá nhân [118:319]. Như vậy, đời
sống tôn giáo có thể hiểu là những hoạt động liên quan đến tôn giáo của con
người, của xã hội. Những hoạt động này có thể bao gồm: hoạt động tôn giáo, hoạt
động tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, hội đoàn tôn giáo… Theo pháp lệnh tín
ngưỡng, tôn giáo của Quốc hội Việt Nam ban hành 2004 [17:8-9], thì:
- Hoạt động tôn giáo có nghĩa là việc truyền bá, thực hành giáo lý, giáo
luật, lễ nghi, quản lý tổ chức của tôn giáo.
- Hoạt động tín ngưỡng là hoạt động thể hiện sự tôn thờ tổ tiên; tưởng niệm
và tôn vinh những người có công với nước, với cộng đồng; thờ cúng thần, thánh,
biểu tượng có tính truyền thống và các hoạt động tín ngưỡng dân gian khác tiêu
biểu cho những giá trị tốt đẹp về lịch sử, văn hóa, đạo đức xã hội.
- Tổ chức tôn giáo là tập hợp những người cùng tin theo một hệ thống giáo
lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức theo một cơ cấu nhất định được nhà nước công
nhận.
- Hội đoàn tôn giáo là hình thức tập hợp tín đồ do tổ chức tôn giáo lập ra
nhằm phục vụ hoạt động tôn giáo.
Ngoài ra, theo Từ điển Bách khoa về tôn giáo (Encyclopedia of Religion),
“đời sống tôn giáo bao hàm toàn bộ các quan hệ nội bộ của tôn giáo và các quan
hệ giữa tôn giáo với xã hội”.
Như vậy có thể hiểu, đời sống tôn giáo bao gồm những hoạt động cũng
như các mối quan hệ trong tôn giáo của con người, của xã hội. Do đó, khi nghiên
cứu về đời sống tôn giáo của tín đồ đạo Cao Đài ở Nam Bộ, chúng tôi chỉ xét đến
các khía cạnh liên quan đến hoạt động tôn giáo, cũng như các mối quan hệ trong
tôn giáo của tín đồ Cao Đài qua các vấn đề như đức tin tôn giáo, phụng thờ trong
tôn giáo, tổ chức tôn giáo và các nghi lễ tôn giáo của đạo Cao Đài. Trong vấn đề
21
hoạt động tôn giáo, đạo Cao Đài giai đoạn trước năm 1975 còn có những khía
cạnh khác như việc xây dựng và phát triển quân đội, hệ thống phát thanh, trường
học, sự xung đột giữa các chi phái…, chúng tôi không đề cập đến trong luận án
này, vì không thuộc phạm vi nghiên cứu.
1.1.2. Quan điểm tiếp cận của đề tài
Chúng tôi nhận thức, tôn giáo là một thành tố của văn hóa, bởi tôn giáo là
sản phẩm của con người, do con người sáng tạo nên. Do đó, khi nghiên cứu về đời
sống tôn giáo của cộng đồng tín đồ, chúng tôi chú trọng đến các hướng tiếp cận
sau:
* Bối cảnh văn hóa
Bối cảnh văn hóa là nhân tố quan trọng cho việc hình thành và phát triển
tôn giáo, đặc biệt chúng tôi quan tâm đến bối cảnh biến đổi văn hóa của tộc người,
vì ngoài yếu tố phát triển nội tại do ảnh hưởng văn hóa trong khu vực, trong xã hội
hiện đại còn có sự tác động của nhiều yếu tố khác như sự thay đổi về môi trường
sống (gồm môi trường tự nhiên và xã hội) của tộc người, sự tiếp xúc giữa các tộc
người khác nhau thông qua hôn nhân, buôn bán, lao động, di cư, truyền đạo…
Những biến đổi này có thể xét trên hai tính chất của văn hóa là tính truyền thống –
hiện đại và tính cộng sinh văn hóa. Trong đó, tính truyền thống – hiện đại được
dựa trên cơ sở tích lũy, lưu truyền và tái tạo những giá trị của văn hóa trong cộng
đồng. Một nền văn hóa không bao giờ tồn tại trong sự bất biến, mà luôn trải qua
những biến đổi, nhất là trong thời kỳ hòa nhập vào hệ thống xã hội hiện đại, khi
các dân tộc không còn sống riêng biệt và khi quan hệ sản xuất hàng hóa, lối sống
đô thị và sự thay đổi về quan hệ giáo dục không ngừng tác động vào các đặc điểm
truyền thống tộc người. Do đó, nghiên cứu tôn giáo cần chú trọng đến sự biến đổi
của bối cảnh văn hóa, nhất là chú trọng đến khía cạnh truyền thống – hiện đại
trong văn hóa, nghĩa là nghiên cứu văn hóa truyền thống trong sự biến đổi, đổi
mới của nó. Quy luật của sự vận động, biến đổi sẽ bảo đảm cho văn hóa tồn tại
liên tục, không ngưng đọng. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng quan tâm đến tính cộng
sinh văn hóa. Sự cộng sinh văn hóa phổ biến nhất là cộng sinh giữa hai yếu tố văn
hóa nội sinh và văn hóa ngoại sinh [75:110]. Trong lịch sử phát triển của tộc
22
người bao giờ cũng có quá trình hoạt động nội tại của văn hóa, được gọi là văn
hóa bản địa- tức là yếu tố nội sinh, ngoài ra còn có yếu tố do tiếp nhận và ảnh
hưởng từ bên ngoài, gọi là ngoại sinh. Khi các yếu tố văn hóa ngoại sinh hòa nhập
với các yếu tố văn hóa nội sinh và lâu dần yếu tố ngoại sinh sẽ có xu hướng nội
sinh hóa. Nói khác đi, đó là yếu tố ngoại sinh được nội sinh hóa. Trong quá trình
phát triển văn hóa tộc người, yếu tố nội sinh luôn đóng vai trò chủ đạo, nó củng cố
nền tảng bản sắc văn hóa của cộng đồng dân tộc đó. Trên nền tảng văn hóa nội
sinh, yếu tố văn hóa ngoại sinh du nhập vào sẽ được sàng lọc, chọn lựa để làm
phong phú thêm cho nền văn hóa bản địa.
Trong tôn giáo cũng vậy, sự biến đổi về mặt văn hóa cũng dẫn đến sự biến
đổi về mặt tôn giáo. Ví dụ một tôn giáo cũng sẽ có những biểu hiện niềm tin, hành
vi tôn giáo khác nhau khi nó được truyền sang những nền văn hóa khác. Nguyên
nhân của sự biến đổi văn hóa là do “sự thẩm thấu” qua bức màn văn hóa bản địa
và bị chi phối bởi yếu tố bản địa trong văn hóa tộc người. Trong lịch sử tôn giáo,
mỗi tộc người sẽ có cách biểu hiện niềm tin tôn giáo theo hành vi văn hóa của
mình. Đạo Bàni ở người Chăm miền Trung Việt Nam là một ví dụ. Khi đạo Islam
được truyền bá vào người Chăm miền Trung, một thời gian sau nó bị chi phối bởi
những yếu tố bản địa để trở thành một đạo Bàni khác xa so với đạo Bà La môn
hoặc Islam chính thống; hay như đạo Phật xuất phát từ Ấn Độ khi truyền sang
Trung Quốc, Nhật Bản và các quốc gia Đông Nam Á cũng bị biến đổi rất nhiều,
sự biến đổi đó gọi là “bản địa hóa” mà một trong những nguyên nhân chính là do
văn hóa bản địa của tộc người chi phối. Theo quan niệm của các nhà khoa học thì
tôn giáo sẽ khác nhau ở mỗi giai đoạn lịch sử, ở mỗi vùng, mỗi dân tộc, mỗi quốc
gia… kể cả tôn giáo có cùng nguồn gốc xuất phát. Nguyên nhân của sự khác nhau
đó là do sự chi phối của nhiều yếu tố, từ yếu tố văn hóa của cộng đồng- xã hội đến
yếu tố tự nhiên, yếu tố của không gian và thời gian.
Từ những phân tích trên, quan điểm của chúng tôi khi nghiên cứu về đời
sống tôn giáo của tín đồ Cao Đài ở Nam Bộ là luôn tìm hiểu ở trạng thái động. Do
bởi, động thái văn hóa là quá trình chuyển đổi văn hóa, trong đó có yếu tố văn hóa
truyền thống bền vững được giữ lại, có yếu tố mất đi, có yếu tố được tái tạo, có
23
yếu tố biến đổi, cách tân v.v… Nghiên cứu dưới góc độ này, chúng tôi muốn lý
giải những hiện tượng biến đổi về yếu tố văn hóa trong đạo Cao Đài và qua đó
nhấn mạnh đến yếu tố thích nghi của tín đồ Cao Đài trong khu vực.
* Nhu cầu tôn giáo của con người
Theo các quan điểm đã phân tích, tôn giáo ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu
tinh thần của con người trong xã hội. Trong xã hội nguyên thủy, con người yếu
đuối trước sức mạnh thiên nhiên, cũng như bất lực trong quan hệ xã hội, thường
phải cầu viện vào những hình thái tôn giáo như tôtem, ma thuật (phép màu, bùa,
yểm…), đạo phù thủy hay shaman giáo, để cầu cứu thần linh giúp họ tăng thêm
sức mạnh, vượt qua những khó khăn, cũng như chiến thắng những bệnh tật, thiên
tai và kẻ thù. Đến xã hội có giai cấp, mỗi dân tộc, tộc người, tổ chức xã hội, văn
hóa, cộng đồng huyết thống, cá nhân… vẫn cầu viện đến thần linh, đến các thế lực
siêu nhiên phù trợ cho cộng đồng được phát triển, cho cá nhân được che chở,
chống lại thiên tai và những bất công, rủi may trong cuộc sống [176:169]. Như
vậy, tôn giáo ra đời chính là chỗ dựa tinh thần khi con người gặp những khủng
hoảng không thể giải quyết được trong cuộc sống hàng ngày. Nhu cầu này không
phải ngẫu nhiên có, mà do điều kiện tự nhiên, điều kiện xã hội tạo nên.
Từ nhận định trên, chúng tôi cố gắng tìm hiểu nhu cầu của người dân Nam
Bộ ở đầu thế kỷ XX về sự ra đời của một tôn giáo mới như đạo Cao Đài nói riêng
và các tôn giáo khác nói chung.
* Quan điểm giới trong tổ chức tôn giáo
Giới là khái niệm được dùng để chỉ địa vị và vai trò của con người mang
giới tính khác nhau trong xã hội theo qui định của nền văn hóa [195:108]. Mỗi nền
văn hóa khác nhau sẽ có những qui định khác nhau về vai trò và địa vị cụ thể của
nam và nữ trong xã hội. Sự khác nhau là do văn hóa trong xã hội đó qui định. Văn
hóa còn qui định đến sự khác biệt giới trong cấu trúc xã hội của các tôn giáo trên
thế giới. Các nhà khoa học đã chứng minh, ở những nơi có sự bình đẳng về giới
thì vai trò của phụ nữ ngang với nam giới trong việc thực hiện những nghi lễ tôn
giáo. Ở những xã hội theo chế độ phụ hệ, coi trọng nam giới, thì vai trò của người
phụ nữ trong cấu trúc xã hội tôn giáo bị hạn chế [195:124]. Trong xã hội Islam,
24
phụ nữ rất hạn chế về việc thực hành tôn giáo. Họ không được đến Thánh đường
hành lễ như nam giới, chỉ hành lễ tại nhà; nếu đến Thánh đường cũng không thể
đứng hành lễ ở những vị trí trang trọng như nam giới. Họ không được quyền nắm
giữ chức vụ trong tôn giáo. Hoặc trong các tôn giáo lớn khác như Công giáo, Phật
giáo, Tin lành… vai trò của phụ nữ không thể sánh ngang với nam giới. Họ cũng
không có những chức danh tôn giáo như nam giới. Nguyên nhân của vấn đề này là
do qui định của xã hội, trong đó có sự chi phối từ yếu tố văn hóa.
Cao Đài là một tôn giáo được ra đời trong xã hội hiện đại, vậy yếu tố giới
trong tổ chức tôn giáo như thế nào, ở mức độ nào? Chúng tôi sẽ cố gắng tìm hiểu,
lý giải các hiện tượng giới trong đời sống tôn giáo của tín đồ Cao Đài ở Nam Bộ.
1.1.3. Lý thuyết nghiên cứu
Từ việc xác định các hướng tiếp cận nêu trên, trong quá trình nghiên cứu,
chúng tôi vận dụng một số lý thuyết sau:
* Các lý thuyết liên quan đến vùng văn hóa
Vùng văn hóa là một khái niệm được đưa ra nhằm nghiên cứu sự tương
đồng văn hóa và đặc trưng văn hóa của vùng, qua đó có thể phân biệt văn hóa của
vùng này với vùng khác. Hiện nay, có nhiều trường phái lý thuyết về vùng văn
hóa, trong đó có thể kể đến các trường phái của các nhà Nhân học Tây Âu với
thuyết “Khuyếch tán văn hóa”, Bắc Mỹ với thuyết mang tên “vùng văn hóa
(culture area)” và Xô Viết với tên “khu vực văn hóa – lịch sử” hay “vùng lịch sử –
dân tộc học”.
- Trường phái Tây Âu
Thuyết Khuyếch tán văn hóa được bắt nguồn từ các công trình nghiên cứu
của các học giả Âu – Mỹ khi đề cập đến các cụm từ thiên di, lan tỏa, mô phỏng…
nhằm giải thích cho các hiện tượng tương đồng văn hóa. Đến thập niên cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX, thuyết Khuyếch tán văn hóa được phát triển và hình thành
nên những trường phái như trường phái Văn hóa- lịch sử ở Đức và Áo, trường
phái truyền bá văn hóa ở Anh,… Nội dung của lý thuyết này giải thích sự phát
triển của các nền văn minh, văn hóa không phải là sự tiến hóa độc lập, mà cơ bản
hoặc thậm chí chỉ bằng những sự vay mượn các thành tựu văn hóa hay bằng các
25
cuộc thiên di của các dân tộc. Tuy nhiên, lý thuyết này có những hạn chế khi phủ
nhận vai trò hoạt động của con người, mà nhấn mạnh đến khía cạnh tinh thần và
tôn giáo nên mạng nặng tính duy tâm [131:19-28].
- Trường phái Bắc Mỹ
Các thuyết liên quan đến vùng văn hóa do các nhà Nhân học Bắc Mỹ đưa
ra cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX nhằm mục đích chống lại thuyết tiến hóa
(CT:2) của E.B. Tylor và L.H. Morgan; và cũng nhằm phê phán thuyết khuyếch
tán văn hóa (CT:3) của các nhà nghiên cứu phương Tây. Những người đặt nền
tảng cho việc nghiên cứu vùng văn hóa có thể kể đến như Franz Boas, C.L.
Wissler…
Franz Boas phân tích, văn hóa của mỗi dân tộc được hình thành trong quá
trình lịch sử, gắn liền với môi trường xã hội nhất định và trong điều kiện địa lý cụ
thể [182]. Ông cũng nêu lên lý thuyết về sự biến đổi văn hóa khi nhận thấy đời
sống xã hội của các dân tộc thường xuyên vay mượn từ các xã hội lân cận hơn là
sáng tạo một cách độc lập. Sự biến đổi văn hóa là mối quan hệ qua lại giữa các xã
hội khác nhau và chính mối liên hệ này đã tạo điều kiện cho sự giao lưu và thích
nghi văn hóa. Ông đã tập trung mối quan tâm của mình vào các mô hình vay
mượn văn hóa theo thời gian và xem đó là một hình thức nghiên cứu về vùng văn
hóa, trong đó bao gồm nhiều loại hình văn hóa dẫn đến sự tương đồng, gần gũi
với nhau trong vùng như nghi lễ, phong tục tập quán, phong cách âm nhạc,
phương pháp làm đồ gốm…
C.L. Wissler đã từng nghiên cứu ở khu vực Bắc Mỹ và đưa ra khái niệm
vùng văn hóa khi chia khu vực lãnh thổ cư trú của người Da đỏ (Indian) thành 8
vùng. C.L. Wissler nhận định mang tính nguyên tắc là nghiên cứu các vùng văn
hóa nhất thiết phải bắt đầu từ việc phân tích một tổ hợp các yếu tố văn hóa, không
thể nhìn nhận riêng rẽ từng yếu tố một, chúng hợp thành một thể thống nhất không
thể chia cắt, đó chính là kết quả của quá trình lâu dài nhóm cư dân ấy thích ứng
với những điều kiện của môi trường sinh thái. Theo Wissler, tổ hợp văn hóa là tập
hợp những yếu tố văn hóa đặt trưng, gắn với trung tâm của vùng văn hóa [130:28-
31].
26
Như vậy, với trường phái Bắc Mỹ, các nhà lý thuyết rất xem trọng đến yếu
tố giao lưu tiếp biến văn hóa (acculturation) giữa các tộc người trong cùng khu
vực và đặc biệt là sự chi phối của môi trường, lịch sử đến việc hình thành các giá
trị văn hóa tộc người.
- Trường phái Xô Viết
Học giả tiêu biểu cho trường phái này là Trêbôcxarốp và Trêbôcxarôpva,
hai nhà khoa học này đã đưa ra thuyết khu vực văn hóa – lịch sử với nội dung:
“Khu vực văn hóa – lịch sử (vùng lịch sử – dân tộc học) là một vùng mà ở đó sinh
sống những tộc người. Trong quá trình lịch sử lâu dài, giữa họ có những giao lưu,
ảnh hưởng khăng khít với nhau, từ đó hình thành nên những yếu tố văn hóa chung
thể hiện trong văn hóa vật chất, cũng như văn hóa tinh thần” [130:40]. Nội dung
này nhấn mạnh đến yếu tố giao lưu và ảnh hưởng lâu dài giữa các tộc người trong
một khu vực để tạo nên sự thống nhất cơ bản của vùng văn hóa. Sự thống nhất đó
được biểu hiện qua các đặc trưng văn hóa như nhà cửa, trang phục, ăn uống,
phương tiện đi lại, lễ nghi, phong tục, tín ngưỡng, lễ hội, các sáng tác tuyền
miệng…
Như vậy, với các lý thuyết liên quan đến vùng văn hóa, chúng tôi có thể vận
dụng để giải thích hiện tượng tương đồng văn hóa, biến đổi văn hóa, quan điểm
giới và kể cả vấn đề không gian và thời gian trong tôn giáo Cao Đài mà chúng tôi
đã nêu trong các hướng tiếp cận nghiên cứu của đề tài.
* Lý thuyết chức năng
Thuyết chức năng xuất hiện vào nửa đầu thế kỷ XX gắn liền với tên tuổi của
Bronislaw Malinowski (1884-1942) và sau đó là Arthur Reginald Radcliffe Brown
(1881 – 1955).
B. Maliknowski đã trải qua thời gian 6 năm (từ 1914 đến 1920) để nghiên
cứu đời sống của dân đảo Trobriand và đã viết nhiều tác phẩm về các tập tục của
người dân ở đây. Ông là người đặt nền tảng cho thuyết chức năng. Còn Radcliffe-
Brown là người có tầm ảnh hưởng trong việc phát triển lý thuyết này. Quan điểm
của Malinowski và Radcliffe Brown là không xem những tập tục của các xã hội có
27
quy mô nhỏ như là những tàn dư của một thời kỳ trước đó, mà phải giải thích theo
chức năng hiện thời của chúng.
Có ba định nghĩa khác nhau về khái niệm chức năng mà các nhà lý thuyết
chức năng đưa ra [223:28]:
1. Định nghĩa thứ nhất hiểu “chức năng” theo một nghĩa có vẻ toán học. Mọi
tập tục đều có tương quan với tất cả những tập tục khác trong cộng đồng, vì vậy
mỗi tập tục quy định tình trạng của những tập tục kia.
2. Định nghĩa thứ hai, do Malinowski sử dụng, được rút ra từ sinh học. Chức
năng của các tập tục là để thỏa mãn những nhu cầu sinh học chủ yếu của cá nhân
thông qua phương tiện văn hóa.
3. Định nghĩa thứ ba do Radcliffe-Brown lấy từ quan điểm của Durkheim.
Chức năng của mỗi tập tục là vai trò mà nó nắm giữ trong việc duy trì sự toàn vẹn
của hệ thống xã hội.
Từ các định nghĩa trên cho thấy, B. Malinowski chú trọng đến chức năng của
văn hóa. Theo ông, để giải thích các tập tục phải dựa vào chức năng hiện có của
chúng và điều này sẽ làm cho việc kiểm chứng được dễ dàng và khoa học hơn.
Ông đưa ra hai ví dụ về chức năng trong tập tục của người dân đảo Trobriand là
khi đóng thuyền đi biển, người thợ đóng thuyền thường đọc những lời thần chú
trong quá trình hoàn thành chiếc thuyền; hoặc họ luôn thực hiện những nghi lễ
“bùa phép” khi đi đánh bắt ngoài biển khơi. Còn lúc đánh cá ở ven hồ hoặc tại
vùng biển cạn, ít nguy hiểm đến tính mạng thì họ sẽ không có những nghi lễ liên
quan đến “bùa phép”. Giải thích cho hai trường hợp này, Malinowski cho rằng,
việc “đọc thần chú” và “làm bùa phép” là nhằm trấn an tâm lý của con người. Khi
đọc thần chú, người thợ sẽ có được sự tự tin để hoàn thành con thuyền; cũng như
khi làm bùa phép thì người đánh cá sẽ an tâm hơn khi đối mặt với biển cả [216].
Do đó, những tập tục xuất hiện trong đời sống cộng đồng đều gắn liền với một
chức năng nào đó về mặt tâm lý của con người và những tập tục xuất hiện theo
nguyên tắc của nó. Malinowski còn cho rằng, tìm những nguyên tắc khi cộng đồng
thực hiện những tập tục cũng quan trọng không kém việc quan sát cộng đồng thực
hiện tập tục đó. Vì vậy, ông đã xây dựng lý thuyết trên nguyên tắc sinh học có
28
quan hệ chặt chẽ với việc nghiên cứu các phương thức nhằm thỏa mãn những nhu
cầu cuộc sống của con người trong ăn, ở, sinh hoạt. Từ chức năng được dùng ở
đây theo nghĩa là “thỏa mãn nhu cầu sinh học chủ yếu (của cá nhân) thông qua
những phương tiện của văn hóa”. Ông lập luận, văn hóa “là cách thức hữu hiệu và
bền vững hơn để thỏa mãn những nhu cầu sinh học bẩm sinh của con người”
[223:31] và điều này tạo ra một bản sắc riêng biệt của tộc người. Do đó, thuyết
chức năng là nền tảng xem văn hóa là một hệ thống cân bằng, vì vậy mà
Malinowski lập luận, bất kỳ văn hóa nào trong tiến trình phát triển cũng đều tạo ra
một hệ thống cân bằng, ổn định, trong đó mỗi bộ phận đều thực hiện chức năng
của nó. Nếu triệt tiêu một yếu tố nào đó trong văn hóa thì toàn bộ hệ thống văn
hóa tộc người sẽ lâm vào tình trạng suy thoái và hủy hoại. Do đó, ông thường lên
án sự can thiệp thô bạo của các quan chức thực dân vào cuộc sống của cư dân bản
địa. Sự can thiệp đó chứng tỏ sự thiếu hiểu biết về những giá trị của các nền văn
hóa. Ông nhấn mạnh truyền thống theo cách nhìn sinh học là hình thức thích nghi
của tập thể cộng đồng đối với môi trường của nó. Tiêu diệt truyền thống kéo theo
tổ chức xã hội sẽ mất đi, đó là điều không thể tránh khỏi [223:34].
Khác với Malinowski, A.Radchiffe Brown quan tâm đến chức năng văn hóa
theo hướng cấu trúc. Ông dựa trên quan điểm của Durkheim khi cho rằng xã hội là
một thực thể đặc biệt không đồng nhất với cá thể. Bất kỳ một hệ thống nào cũng
được xác định bằng các đơn vị (yếu tố) cấu thành nó và các quan hệ giữa chúng.
Do vậy, chức năng của một tập tục là sự đóng góp của nó vào đời sống liên tục
của “cơ thể xã hội”. Radchiffe Brown định nghĩa sự thống nhất chức năng là “một
tình trạng trong đó tất cả mọi thành phần của một hệ thống xã hội cùng làm việc
với nhau ở một mức độ hài hòa hoặc thống nhất nội bộ (để tiếp tục như một hệ
thống), tức là không tạo ra những xung đột kéo dài mà không giải quyết hoặc điều
chỉnh được” [223:37].
Mục đích của Radchiffe Brown là không giải thích sự đa dạng của xã hội loài
người mà là khám phá những quy luật của hành vi xã hội. Khám phá bằng cách
quan sát trong những loại xã hội nhất định sẽ tìm thấy có một số quan hệ xã hội
đặc trưng nào đó. Theo ông, không phải mọi tập tục đều nhất thiết cần có một
29
chức năng tích cực và một số hệ thống xã hội có thể cao hơn những hệ thống xã
hội khác do mức độ tích hợp (integration) của nó. Radcliffe Brown thừa nhận, ý
tưởng thống nhất chức năng của một hệ thống xã hội là một giả thuyết và sự đối
nghịch hay đối kháng giữa các nhóm bên trong xã hội là một tính chất vốn có của
mọi hệ thống xã hội. Ông cũng nhận định, khi cơ cấu của một cơ thể động vật hiển
thị một cách trực tiếp, thì cơ cấu xã hội không thể thấy trực tiếp được, mà phải suy
luận từ việc quan sát những điều lặp đi lặp lại trong các hành động của những
người tham dự. Theo ông, trong một hệ thống xã hội, một tập tục hay thể chế có
thể được thay thế bởi một cái khác mà chính hệ thống xã hội không bị tan vỡ. Các
xã hội có thể thay đổi theo cách mà các cơ thể động vật thường không thay đổi
được.
Tuy nhiên trong những thập niên gần đây, thuyết chức năng đã bị phê phán
như cho rằng quan điểm của B. Malinowski là không sáng tỏ khi cho rằng thể chế
xã hội chỉ dựa trên những nhu cầu, do đó không thể có cái nhìn rõ hơn về đời sống
xã hội [6:93].
Theo chúng tôi quan niệm, thuyết chức năng nêu trên có giá trị để giải thích
cho nhu cầu về một tôn giáo trong đời sống con người và đến nay nếu tiếp cận tôn
giáo dưới hình thức nhu cầu của một xã hội, của cộng đồng tộc người thì thuyết
chức năng vẫn giữ được giá trị khoa học của nó. Trong trường hợp đạo Cao Đài
thì chúng tôi có thể vận dụng lý thuyết này để giải thích về các chức năng trong
đời sống tôn giáo của tín đồ Cao Đài.
* Nghi lễ chuyển đổi (Rites of passage)
Nghi lễ chuyển đổi là một phần trong thuyết cấu trúc, do nhà Dân tộc học
người Pháp Arnold Van Gennep (1873-1975) đưa ra vào thế kỷ XX, sau đó được
phát triển vào thập niên 60 của thế kỷ XX bởi các nhà Nhân học Mary Douglar,
Victor Turner.
Nghi lễ chuyển đổi là nghi lễ đánh dấu sự thay đổi vị thế xã hội của con
người. Nghi lễ chuyển đổi thường đi kèm với những lễ nghi xung quanh những sự
kiện liên quan đến đời người như việc ra đời của một đứa trẻ, tuổi vào đời, hôn lễ,
thượng thọ… Không giống với khái niệm chu kỳ đời người (circle life) thường
30
dùng để chỉ về chu kỳ sinh học (sinh ra - trưởng thành - kết hôn – già yếu - chết)
[20:130], nghi lễ chuyển đổi là nghi lễ được tiến hành như một sự tiếp nhận khi
một cá nhân được chuyển từ vị thế xã hội này sang một vị thế xã hội khác.
Theo Van Gennep, nghi lễ chuyển đổi có ba hình thức và ông sử dụng hai
nhóm thuật ngữ tương đương để chỉ cho ba hình thức là: cách ly (separation),
chuyển tiếp (transition) và tái hội nhập (incorporation); hoặc tương ứng với ba
hình thức trước ngưỡng (preliminal), trong ngưỡng (liminal) và sau ngưỡng
(postliminal) (CT:4).
Đưa ra lý thuyết này, Van Gennep muốn nhấn mạnh đến vai trò văn hóa,
bằng cách thông qua những lễ nghi văn hóa mà vai trò và địa vị của con người
được xác lập ở vị thế khác trước (có thể là cao hơn) trong xã hội, và cũng nhằm
đánh dấu bước phát triển của con người về vị trí xã hội theo qui định của mỗi nền
văn hóa.
Nghi lễ chuyển đổi gồm nhiều loại hình khác nhau tùy thuộc vào qui định
của mỗi nền văn hóa. Nó có thể dựa trên nhiều yếu tố như sự phát triển về mặt
sinh học của con người bằng việc đánh dấu những bước đi đầu đời, những lời nói
đầu tiên của đứa trẻ, hoặc đánh dấu sự trưởng thành của cô gái qua các biểu hiện
về mặt sinh học như việc có kinh nguyệt lần đầu tiên, mang thai lần đầu tiên hay
sinh con lần đầu tiên…; cũng có thể dựa trên nghi lễ của tôn giáo bằng các lễ rửa
tội, nhập môn, tẩy uế cơ thể, thăng chức giáo phẩm…; hay dựa vào lễ nghi của
phong tục - tập quán như đầy tháng, thôi nôi, thành nhân, hỏi cưới, mừng thọ,
hoặc cũng có thể dựa vào một số loại nghi lễ khác do nền văn hóa đó qui định như
cắt tóc lần đầu tiên, tốt nghiệp, thăng chức…
Nghi lễ chuyển đổi không chỉ diễn ra một lần trong đời mà có thể diễn ra
nhiều lần, nhiều nội dung khác nhau, nhằm đánh dấu sự thay đổi vị thế của con
người trong xã hội.
Như vậy, nghi lễ chuyển đổi đề cập đến loại hình sinh hoạt văn hóa được
thực hiện nhằm đánh dấu sự chuyển đổi vị thế của con người trong xã hội cũng
như trong tôn giáo. Tùy theo qui định của mỗi nền văn hóa mà nghi lễ chuyển đổi
được tiến hành dưới những hình thức khác nhau.
31
Trong đạo Cao Đài, nghi lễ chuyển đổi cũng được áp dụng khá rõ nét trên
mọi đối tượng. Từ tín đồ bình thường đến chức sắc cao cấp trong đạo đều phải trải
qua những nghi lễ liên quan đến việc chuyển đổi vị thế của mình. Do đó, chúng tôi
muốn vận dụng khái niệm này để nghiên cứu về đời sống tôn giáo của tín đồ đạo
Cao Đài ở Nam Bộ.
Ngoài ra, khi nghiên cứu về đời sống tôn giáo của tín đồ đạo Cao Đài, chúng
tôi còn vận dụng thêm quan điểm lý thuyết của nhà nhân học William A. Haviland
về việc tăng cường sức mạnh của cộng đồng trong nghi lễ tôn giáo. (Rites of
intensification). Theo quan điểm của W.A. Haviland, nghi lễ được thực hiện nhằm
giúp cộng đồng tôn giáo gắn chặt nhau hơn, giúp con người vượt qua những
khủng hoảng trong cuộc sống và giảm đi những căng thẳng, gây cấn khi phải đối
mặt với những khó khăn. Nguyên nhân là cộng đồng có cùng một niềm tin tôn
giáo, nên cùng tham gia trong nghi lễ, cùng chia sẻ tâm thức tôn giáo và cùng thể
hiện sự cộng cảm, từ đó thể hiện “chất keo” gắn kết cộng đồng, tạo nên tính thống
nhất và sức mạnh của cộng đồng [75:176-177].
Trong đời sống tôn giáo của tín đồ đạo Cao Đài, nghi lễ được thực hiện khá
nhiều và sức mạnh của cộng đồng cũng luôn biểu hiện thông qua những buổi thực
hiện nghi lễ này.
1.1.4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đạo Cao Đài chính thức ra đời vào năm 1926, sau đó nhanh chóng phát triển
thành một tôn giáo có số lượng tín đồ đông ở khu vực Nam Bộ. Từ quá trình ra
đời, tồn tại, phát triển đến quá trình phân hóa, đạo Cao Đài luôn chịu sự ảnh
hưởng bởi yếu tố chính trị, văn hóa, xã hội và tư tưởng của thời cuộc tại khu vực
Nam Bộ. Chính vì vậy, từ lâu đạo Cao Đài đã trở thành đề tài được nhiều nhà
nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm, kể cả những người trong đạo. Đến nay,
các công trình nghiên cứu về đạo Cao Đài dưới nhiều góc độ như lịch sử, văn hóa,
tư tưởng, chính trị… đã được công bố. Tuy nhiên, do nghiên cứu ở những quan
điểm và cách tiếp cận khác nhau, nên các lý giải, đánh giá về sự ra đời, về những
hoạt động của đạo Cao Đài ở khu vực Nam Bộ nói riêng và cả nước nói chung
trong các công trình này cũng khác nhau. Từ những kết quả đã được nghiên cứu,
32
công bố về đạo Cao Đài, chúng tôi tạm thời phân thành các nhóm công trình
nghiên cứu như:
* Các công trình nghiên cứu về lịch sử của Đạo
Các công trình nghiên cứu về lịch sử đạo Cao Đài có thể kể đến như Cái án
Cao Đài của Đào Trinh Nhất viết vào năm 1929. Đào Trinh Nhất là người thông
thạo chữ Hán, nên được chức sắc Tòa thánh Tây Ninh tin tưởng giao nhiệm vụ
dịch kinh sách Cao Đài ra tiếng Hán. Trong quá trình làm việc tại Tòa thánh Tây
Ninh, ông đã viết Cái án Cao Đài, với nội dung trình bày về quá trình ra đời, giáo
lý, cách thức hành đạo của Cao Đài. Ông Đào Trinh Nhất đã phân tích điều kiện
xã hội ở Nam Bộ lúc bấy giờ và miêu tả các hoạt động cơ bút của các vị công
chức để dẫn đến sự ra đời của đạo Cao Đài. Theo ông Đào Trinh Nhất, đạo Cao
Đài là một tà giáo, không có những chính kiến rõ ràng, luôn biểu hiện sự hỗn tạp
trong giáo lý, cách hành đạo, cũng như cơ cấu tổ chức. Do đó, ông cho rằng, đạo
Cao Đài sẽ “ngăn trở sự tiến hóa, có hại cho sinh hoạt dân gian và đào sâu hố phân
cách giữa giai cấp này với giai cấp kia” [90:155].
Sau khi Cái án Cao Đài ra đời, ông Băng Thanh, một chức sắc cao cấp của
đạo Cao Đài, đã viết quyển Cải án Cao Đài vào khoảng năm 1930 nhằm phản
biện lại quan điểm của ông Đào Trinh Nhất. Ông Băng Thanh cho rằng sự tổng
hợp giáo lý mà đạo Cao Đài thể hiện là một khía cạnh đạo đức, một ý nghĩa sâu xa
của đạo Cao Đài. Ông viết “Đạo Phật ví như mặt Nhựt, đạo Tiên cũng như mặt
Nguyệt, đạo Nho cũng như Ngũ Tinh, bộ Nhựt – Nguyệt – Tinh, ba cái đó ở trên
đời, thiếu một cũng không đặng. Nho để trị phần đời, Tiên để trị phần xác thân,
còn Phật để trị về phần cốt tủy. Đó là cái ý cao thượng của Thượng đế đã sắp đặt
trong nền đạo Cao Đài vậy” [120:8-27].
Ngoài hai tác phẩm trên, năm 1930, ông Nguyễn Trung Hậu, chức sắc cao
cấp của đạo Cao Đài, viết quyển Đại đạo căn nguyên. Nội dung trình bày chi tiết
về lịch sử hình thành đạo Cao Đài. Tác giả không đưa quan điểm của mình vào
trong bài viết, chỉ miêu thuật chi tiết những sự kiện đã diễn ra trong đạo, từ việc
thu nhận đệ tử đến việc trình Tờ Khai đạo lên Chính phủ Nam kỳ, tường thuật về
Ngày khai đạo, sự kiện quỷ phá trong ngày khai đạo… Đây có thể được xem là
33
công trình lịch sử chi tiết của đạo Cao Đài từ khi manh nha hình thành đến khi dời
cơ sở thờ tự về xây dựng Tòa thánh Tây Ninh vào năm 1927.
Từ năm 1948 đến năm 1949, Gabriel Gobron, một nhà văn người Pháp và
cũng là tín đồ của đạo Cao Đài, đã xuất bản hai ấn phẩm liên quan đến lịch sử đạo
Cao Đài tại Paris là Lịch sử đạo Cao Đài (Histoire du Caodaisme) và Lịch sử và
triết học đạo Cao Đài (Histoire et Philosophie du Caodaisme). Trong hai tác phẩm
này, G. Gobron đã phân tích khá rõ vai trò của Thần linh học trong việc hình
thành và phát triển đạo Cao Đài. Ngoài ra, ông còn chú trọng giới thiệu giáo lý,
luật lệ, lễ nghi, tổ chức giáo hội của tôn giáo này. Trong phần triết lý, ông viết
“đạo Cao Đài có giá trị liên kết các phần tử, liên kết những người đang sống của
thời hiện tại trong tất cả các địa phương, với những người đã chết của thời quá
khứ, và chuẩn bị cho kiếp tái sinh tương lai” [203].
Năm 1963, Huệ Lương, một chức sắc của đạo Cao Đài, cũng viết một công
trình với tên Đại đạo tam kỳ phổ độ (Cao Đài giáo) – Sơ giản. Đây cũng được
xem là công trình lịch sử của đạo, tuy tác giả sử dụng từ sơ giản để chỉ cho công
trình của mình, nhưng nội dung của nó lại chi tiết, trình bày hệ thống về quá trình
hình thành và phát triển đạo Cao Đài ở khu vực Nam Bộ. Ngoài ra, tác giả còn
trình bày hệ thống giáo lý, lễ nghi, cũng như cách tổ chức của đạo Cao Đài.
Từ năm 1967 đến năm 1972, Đồng Tân, một tín đồ của đạo Cao Đài, đã viết
hai quyển sách về lịch sử của đạo, đó là Lịch sử Cao Đài – Đại đạo tam kỳ phổ độ
- phần vô vi (1967) và Lịch sử Cao Đài – Đại đạo tam kỳ phổ độ - phần phổ độ
(1972). Hai công trình này được xem là nguồn sử đạo chi tiết và có giá trị về mặt
tài liệu, vì những bài Thánh giáo của đạo Cao Đài được trích nguyên văn, giúp
người đọc thấy rõ bối cảnh xã hội của đạo Cao Đài lúc bấy giờ. Các công trình
này còn nêu rõ những mâu thuẫn trong nội bộ chức sắc của đạo Cao Đài từ năm
1927 đến năm 1934 để dẫn đến việc ra đời các chi phái trong đạo.
Năm 1970, R.B. Smith có bài “Giới thiệu về đạo Cao Đài” (An introduction
to Caodaism) in trong tạp chí School of Oriental and African stuties số XXXIII.
Bài viết mang tính giới thiệu về một tôn giáo mới ở Nam Bộ của Việt Nam, đề cập
đến quá trình hình thành và phát triển của đạo Cao Đài, trong đó nhấn mạnh đến
34
vai trò sáng lập của ông Ngô Văn Chiêu và những vị phò loan khác [229:337-
338].
Năm 1995, công trình Bước đầu tìm hiểu đạo Cao Đài do Đặng Nghiêm
Vạn chủ biên đã giới thiệu một cách đầy đủ và chi tiết về đạo Cao Đài ở Nam Bộ.
Công trình tập trung giới thiệu các vấn đề chính yếu như lịch sử đạo Cao Đài, sinh
hoạt và sức sống của đạo Cao Đài, cơ cấu tổ chức và lễ nghi của đạo… Trong
phần lịch sử của đạo Cao Đài, công trình nêu lên rất nhiều sự kiện liên quan đến
những nhân vật chủ chốt của đạo như ông Ngô Văn Chiêu, ông Phạm Công Tắc,
ông Lê Văn Trung… và chia lịch sử của đạo ra từng giai đoạn cụ thể; mỗi giai
đoạn gắn liền với những sự kiện trong đạo, tạo nên một hệ thống các sự kiện rõ
ràng, minh bạch trong lịch sử tôn giáo Cao Đài.
Năm 1996, quyển Lịch sử đạo Cao Đài – thời kỳ tiềm ẩn (1920 – 1926) của
Lê Anh Dũng được xuất bản, giới thiệu những tiền đề hình thành đạo Cao Đài ở
Nam Bộ. Công trình này nghiên cứu về lịch sử của Đạo, nêu lên những nguyên
nhân dẫn đến việc hình thành đạo và những nhân vật có vai trò quan trọng trong
quá trình xây dựng nền đạo Cao Đài ở thời kỳ đầu.
Năm 2004, Nguyễn Thanh Xuân bảo vệ thành công Luận án Tiến sĩ Khoa
học Lịch sử với đề tài Quá trình ra đời và phát triển của đạo Cao Đài từ năm
1926 đến năm 1975. Đây là một công trình chuyên khảo về lịch sử đạo Cao Đài
với các nội dung như quá trình ra đời và phát triển của đạo Cao Đài từ năm 1926
đến năm 1975 và ảnh hưởng của đạo Cao Đài đối với đời sống chính trị của đất
nước. Qua nội dung của công trình, tác giả đã phân tích khái quát về dân cư, địa
lý, văn hóa tín ngưỡng của vùng đất Nam Bộ, những chính sách khai thác thuộc
địa của thực dân Pháp, những bế tắc trong cuộc sống của cư dân Nam Bộ lúc bấy
giờ và xem đây là nhân tố quan trọng để hình thành nên đạo Cao Đài ở Nam Bộ.
Tác giả còn phân tích những mâu thuẫn trong nội bộ chức sắc Cao Đài và xem đó
như là nguyên nhân cốt lõi dẫn đến việc hình thành các chi phái của đạo trong quá
trình phát triển.
Năm 2005, cũng tác giả Nguyễn Thanh Xuân đã tái bản có bổ sung quyển
sách Một số tôn giáo Việt Nam, trong đó có phần giới thiệu về đạo Cao Đài, giới
35
thiệu về nguồn gốc ra đời, quá trình phát triển, giáo lý, lễ nghi và cách tổ chức
giáo hội của Đạo.
* Các công trình nghiên cứu về tư tưởng, chính trị của đạo
Các công trình này có thể kể đến như Đạo Cao Đài và chính trị, của Phạm
Kỳ Chưởng viết vào năm 1973 có nội dung đề cập đến việc hình thành và phát
triển quân đội Cao Đài từ thập niên 30 đến năm 1954 và trình bày các giai đoạn
phát triển của đạo Cao Đài trong lịch sử. Cùng nội dung này, năm 1974, tác giả
Jayne S. Werner làm luận án tiến sĩ với tiêu đề Đạo Cao Đài: Đời sống chính trị
của một phong trào tôn giáo hỗn dung của người Việt (The Cao Đài: The Politics
of a Vietnamese Syncretic Religious Movement) và sau đó, năm 1981, dựa trên
nội dung của luận án tiến sĩ này, bà viết ra quyển sách Chính trị nông dân và giáo
phái tôn giáo: Nông dân và chức sắc trong đạo Cao Đài ở Việt Nam (Peasant
Politics and Religious Sectarianism: Peasant and priest in the Cao Dai in Viet
Nam). Trong công trình này, bà Werner xem đạo Cao Đài là phong trào nông dân
lớn nhất Việt Nam thời thuộc Pháp, đã thu hút hàng vạn tín đồ là nông dân tham
gia và có tầm ảnh hưởng đáng kể đến nền chính trị ở Nam Bộ lúc bấy giờ. Bà viết
“Đạo Cao Đài có một điều mới mẽ cho mọi người. Sự khéo léo kết hợp truyền
thống Tam giáo và sự diễn giải rõ ràng, chính xác truyền thống Tam giáo, không
những tạo ra sức hút văn hóa mãnh liệt mà còn đưa ra nguồn sinh lực mới”
[235:55]. Công trình của bà Werner có thể xem là công trình chuyên sâu về yếu tố
chính trị của đạo Cao Đài trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX.
Năm 1975, một công trình với tên là Vị thế Cao Đài Tây Ninh trong quốc sử
(lịch sử chính trị và quân sự từ năm 1937 – 1954) của Trần Văn Rạng, một chức
sắc của đạo Cao Đài, được xuất bản. Công trình này giới thiệu về lịch sử hình
thành và phát triển đạo Cao Đài ở Việt Nam, trong đó phân tích cơ cấu tổ chức
của chi phái Tây Ninh và đề cập đến việc xây dựng quân đội Cao Đài của ông
Nguyễn Quang Vinh, Giáo sư, Tổng tư lệnh quân đội Cao Đài lúc bấy giờ. Đây là
công trình nhấn mạnh vị thế chính trị của đạo Cao Đài ở Nam Bộ từ năm 1937 đến
năm 1954.
36
Năm 1993, trong tác phẩm Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ
XIX đến Cách mạng tháng tám, tập II phần “Hệ ý thức tư sản và sự bất lực của nó
trước các nhiệm vụ lịch sử”, Trần Văn Giàu đã dành hơn 40 trang để giới thiệu về
đạo Cao Đài ở Nam Bộ và nêu ra các ý kiến xem đạo Cao Đài như một phong trào
tôn giáo mới mang màu sắc chính trị ở Nam Bộ. Quan điểm này cũng gần giống
với quan điểm của bà Werner, khi Trần Văn Giàu viết “Trong một điều kiện cụ
thể nào đó, đạo Cao Đài tuy là một tôn giáo vẫn, không nhiều thì ít, không trực
tiếp thì gián tiếp, mang màu sắc và tính cách chính trị không làm cho dân sợ mà
càng làm cho nhiều người chú ý đi theo” [52:216]. Có thể xem đây là chuyên khảo
nhằm phân tích, đánh giá tư tưởng của đạo Cao Đài và nêu ra những lý do để đạo
Cao Đài phát triển ở Nam Bộ vào nửa đầu thế kỷ XX.
Năm 2001, Phan Văn Hoàng viết quyển Cao Triều Phát – Nghĩa khí Nam
Bộ. Nội dung giới thiệu về cuộc đời, thân thế và sự nghiệp của ông Cao Triều
Phát, Chưởng quản Hội thánh Cao Đài Minh Chơn Đạo Hậu Giang, Chủ tịch Hội
Cao Đài cứu quốc thống nhất mười hai chi phái, Giáo tông Hội thánh duy nhất
Cao Đài Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Thông qua các sử liệu về ông Cao Triều Phát,
tác giả đã công bố những tư liệu về phong trào chính trị của các chi phái Cao Đài,
với các tổ chức chính trị yêu nước của tín đồ Cao Đài Minh Chơn Đạo trong giai
đoạn kháng chiến chống Pháp. Nhìn chung, đây là tác phẩm có giá trị về mặt sử
liệu, liên quan đến hoạt động chính trị của các chi phái Cao Đài, trong đó nổi bật
là chi phái Minh Chơn Đạo.
* Các công trình nghiên cứu về văn hóa của đạo
Năm 1929, G. Coulet, học giả người Pháp, đã cho xuất bản quyển sách Thờ
cúng và tôn giáo ở các xứ Việt Nam trong Đông Dương [197] (Cultes et Religions
de l’Indochine An-namite), trong đó đề cập đến đạo Cao Đài. Tác giả đã phân tích
bối cảnh văn hóa – xã hội Nam Bộ vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và cho
thấy đây là một xã hội hỗn dung và con người Nam Bộ có tính khoan dung tôn
giáo. Do đó, khi đạo Cao Đài của người Việt ra đời đã dung hòa tính hỗn dung
truyền thống của dân tộc, nên trong giáo lý, tư tưởng và cách hành đạo của Cao
Đài luôn biểu hiện tính dung hòa tôn giáo, và đặc biệt là yếu tố tam giáo truyền
37
thống của dân tộc được biểu hiện rất rõ nét trong đạo Cao Đài. G. Coulet còn phân
tích tinh thần hỗn dung tôn giáo của người Việt đã dẫn đến sự pha trộn trong văn
hóa tín ngưỡng của đạo Cao Đài, bằng chứng là thuật chiêu hồn của phương Tây
và thuật cầu cơ của phương Đông được hội tụ trong đạo Cao Đài.
Năm 1975, Đinh Văn Khá viết luận văn cao học tại Trường Đại học Văn
Khoa Sài Gòn với tiêu đề Đại lễ vía đức Chí Tôn trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
(Tòa Thánh Tây Ninh). Nội dung đề cập chi tiết đến cách thức tiến hành đại lễ vía
Đức Chí Tôn ở Tòa thánh Tây Ninh, trong đó phân tích rất rõ về vấn đề lễ nghi, lễ
nhạc, học trò lễ… Cùng nội dung này, năm 1997, Lê Ngọc Hòa viết luận văn cao
học về Lễ hội Cao Đài Tây Ninh; và năm 2006, Nguyễn Mạnh Tiến viết luận văn
cao học về Lễ hội Cao Đài nhìn từ góc độ văn hóa.
Năm 2008, Huỳnh Thị Phương Trang viết luận án tiến sĩ Đạo Cao Đài hiện
nay và ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng người
Việt ở Nam Bộ… Công trình này tập trung nghiên cứu về tổ chức tôn giáo của chi
phái Tây Ninh và nêu lên những biến đổi của tổ chức tôn giáo này trong giai đoạn
hiện nay. Tác giả đã dùng phương pháp định tính (điều tra bảng hỏi) để nghiên
cứu và giải thích, minh chứng những ảnh hưởng của đạo Cao Đài đến đời sống
tinh thần của cộng đồng người Việt ở Nam Bộ. Đây là công trình nghiên cứu công
phu, có nội dung phong phú và có những nhận xét, đánh giá khoa học về đạo Cao
Đài cũng như về những đóng góp của đạo Cao Đài ở khu vực Nam Bộ.
Tóm lại, nghiên cứu về đạo Cao Đài ở Nam Bộ đến hiện nay đã có không ít
công trình được công bố. Nội dung của những công trình này đề cập đến nhiều
vấn đề như lịch sử, tư tưởng chính trị, văn hóa… Nhưng, nghiên cứu về đời sống
tôn giáo của tín đồ Cao Đài, đặc biệt là giải mã những chức năng của nghi lễ, tổ
chức, hội đoàn tôn giáo… liên quan đến đời sống tín đồ thì đến nay vẫn chưa có
công trình nào thực hiện; hoặc tìm hiểu mối quan hệ giữa văn hóa Nam Bộ với đời
sống tôn giáo của tín đồ đạo Cao Đài đến nay vẫn chưa có công trình nào đề cập
một cách rõ ràng. Do đó, đề tài của chúng tôi một mặt kế thừa những công trình đã
công bố, mặt khác chúng tôi phải tự đi nghiên cứu, tìm hiểu, quan sát, phỏng
38
vấn… để có những nguồn tư liệu mới nhằm thực hiện tốt mục tiêu đặt ra của đề
tài.
1.2. TỔNG QUAN VỀ ĐẠO CAO ĐÀI Ở NAM BỘ
1.2.1. Bối cảnh văn hóa Nam Bộ trƣớc khi đạo Cao Đài ra đời
Nam Bộ với diện tích trên 67.000km2, có 19 tỉnh thành (CT:5), là khu vực
được người Việt khai phá cách đây hơn 300 năm. Đây là vùng đất tụ cư của nhiều
thành phần tộc người, chủ yếu là người Việt, sau đó là người Khmer, Hoa, Chăm
và các cư dân bản địa như S’tiêng, Châuro… ngoài ra nơi đây cũng có những
người phương Tây sinh sống nên cũng là nơi hội tụ của nhiều dòng văn hóa khác
nhau. Do đó, có thể nói văn hóa Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ
XX là văn hóa của sự pha trộn, giao lưu văn hóa các tộc người và các dòng văn
hóa Đông-Tây, thể hiện những đặc trưng như:
* Nam Bộ là một vùng văn hóa
Nói Nam Bộ là vùng văn hóa do bởi đây là khu vực có sự tương đồng về
môi trường địa lý tự nhiên. Địa bàn Nam Bộ hiện nay là khu vực nằm trên thềm
phù sa cũ và mới, thuộc khu vực của hai con sông Đồng Nai và Cửu Long cùng
phụ lưu các con sông trên cũng như hệ thống kênh rạch chằng chịt (có tới
57.000km đường kênh rạch [35:313]) và là một vùng đồng bằng châu thổ phì
nhiêu.
Khu vực Nam Bộ từ lâu đã có cư dân sinh sống. Theo cứ liệu khảo cổ học,
cách đây khoảng 4.000 năm, vùng đất Nam Bộ đã có sự hiện diện của cư dân chủ
nhân văn hóa Đồng Nai. Sau đó khoảng đầu thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ VII, có sự
hiện diện của cư dân của văn hóa Phù Nam, nhưng đến thế kỷ thứ VIII vùng đất
Nam Bộ trở thành hoang vu. Đến khoảng thế kỷ XIII, cư dân Khmer ở Campuchia
đến khai phá. Họ chọn những rẻo đất cao trên các giồng dọc các triền sông Tiền,
sông Hậu để trồng lúa và hoa màu [35:314]. Nhưng để biến Nam Bộ từ vùng đất
hoang vu, lầy trũng thành vùng đồng bằng trù phú thì phải nói đến công lao chủ
yếu của người Việt.
Từ thế kỷ XVI, người Việt đã có mặt ở Nam Bộ, họ là những cư dân chủ yếu
từ miền Trung vào với nguồn gốc xã hội khác nhau. Một số người là tù nhân bị
39
nhà nước phong kiến đưa vào khai hoang đồn điền. Một số người là giang hồ, dân
nghèo đi biệt xứ tha phương, tìm đến đây để cư trú. Nhưng chủ yếu họ là binh
lính, quan lại được đưa vào đây để bảo vệ, khai phá vùng đất mới, rồi ở lại
[178:269].
Người Hoa cũng góp phần trong việc khai khẩn và phát triển vùng đất Nam
Bộ. Năm 1672, Mạc Cửu dẫn theo một đoàn gồm 400 người đến khai phá vùng
đất Hà Tiên. Năm 1679, Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên được chúa
Nguyễn cho vào định cư vùng Mỹ Tho và Biên Hòa. Những người Hoa này được
gọi là người Minh Hương, về sau họ nhập vào bộ phận người Việt ở Nam Bộ. Từ
thế kỷ XVIII kéo dài cho đến năm 1954, người Hoa vẫn có nhiều đợt di cư đến
Nam Bộ để sinh sống.
Người Chăm đến định cư ở Nam Bộ vào khoảng thế kỷ XIX. Họ được xem
là cư dân hồi hương từ Campuchia về cư trú ở vùng An Giang, Tây Ninh, Đồng
Nai, Sài Gòn…
Khai phá đất Nam Bộ là quá trình lao động vất vả và lâu dài của nhiều thế hệ
cư dân nối tiếp nhau. Lưu dân người Việt, Khmer, Hoa, Chăm và các tộc người
bản địa như S’tiêng, Châuro… đã đổ mồ hôi, xương máu để biến vùng đất hoang
vu này trở thành vùng đồng bằng phì nhiêu như ngày nay. Trong quá trình cộng cư
tại khu vực có sự tương đồng về môi trường địa lý – lịch sử, cùng cảnh nghèo khó,
thân phận tha phương cầu thực, trải qua những khó khăn vất vả trong quá trình
khẩn hoang, cũng như qua các cuộc hôn nhân giữa các tộc người… nên các dân
tộc có nguồc gốc khác nhau đã cố kết với nhau, cùng cưu mang, đùm bọc lẫn nhau
trong cuộc sống, từ đó dẫn đến quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa lẫn nhau giữa
các tộc người.
Cũng chính do quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa ấy mà tín ngưỡng tôn
giáo của cư dân Nam Bộ cũng dần biến đổi so với nguồn gốc ban đầu mà các lưu
dân mang đến, như Phật giáo Bắc truyền và đạo Minh Sư là những ví dụ điển
hình.
40
Phật giáo Bắc truyền được truyền vào Việt Nam từ rất sớm (khoảng TK I
SCN) và có quá trình gắn bó với dân tộc Việt, góp phần quan trọng trong việc
hình thành tâm lý, lối sống và phong tục tập quán của người Việt.
Khi truyền vào Nam Bộ, để phù hợp với hoàn cảnh khẩn hoang nên Phật
giáo Bắc truyền đã có nhiều thay đổi. Các nhà sư Phật giáo Bắc truyền vào Nam
Bộ cùng với những người khẩn hoang đã tạo dựng các ngôi chùa thành các trung
tâm Phật học để truyền đạt tư tưởng giáo lý Phật giáo uyên thâm. Nhưng bên cạnh
đó, yếu tố tín ngưỡng dân gian vẫn được lồng vào trong tư tưởng Phật giáo Nam
Bộ. Tại Nam Bộ vẫn có không ít nhà sư không chỉ đảm nhận vai trò của một vị sư
tôn giáo, phổ độ chúng sanh mà còn kiêm cả việc đuổi tà, trị quỷ bằng việc luyện
bùa phép, roi thần để cứu chúng sanh [52:229]… hoặc việc sự xuất hiện một bộ
phận “nhà sư miệt vườn”, học thuộc vài cuốn kinh để đi tụng cầu siêu trong các
đám tang [179:37] cũng là một yếu tố mới lạ trong tôn giáo này ở Nam Bộ.
Bên cạnh đó, đạo Minh Sư cũng có những biến đổi khi được truyền vào
Nam Bộ. Thoạt đầu đạo Minh Sư chỉ là một hội kín ở Nam Bộ do các cựu thần và
thương nhân nhà Minh đem vào, sau đó, tôn giáo này phát triển và phân hóa thành
các Tông như Tông Đức kế, Tông Phổ tế và Tông Hoằng tế và từ đó chia ra thành
4 chi, gồm Minh Đường, Minh Lý, Minh Thiên và Minh Tân. Bốn chi này hợp với
chi Minh sư trở thành Ngũ chi minh đạo ở Việt Nam. Tôn giáo này có mối quan
hệ đặc biệt với đạo Cao Đài ra đời sau này.
Về Phật giáo, chính tại Nam Bộ đã khởi phát hệ phái Phật giáo Nam truyền
và hệ phái Khất sĩ của người Việt, trong khi đó ở miền Trung rất hiếm và ở miền
Bắc không có hai hệ phái này. Đây cũng là một sắc thái độc đáo trong đời sống tín
ngưỡng tôn giáo của người Việt Nam Bộ.
Ngoài ra, Nam Bộ còn là nơi phát sinh ra nhiều tôn giáo bản địa như Bửu
Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Hòa Hảo, Cao Đài… Các tôn giáo này ra đời
trong hoàn cảnh xã hội đương thời tại Nam Bộ, thể hiện sự hỗn dung văn hóa
trong khu vực và mang tính cứu thế cho một bộ phận không nhỏ cư dân Nam Bộ
lúc bấy giờ.
41
Như vậy, sự biến đổi và phát sinh những yếu tố mới trong tôn giáo ở Nam
Bộ có thể được xem là sắc thái đặc trưng trong quá trình tồn tại đan xen giữa các
tộc người. Nhờ đó, hệ thống tôn giáo của cư dân Nam Bộ dần có những điểm
chung, bên cạnh những sắc thái tôn giáo riêng của từng dân tộc. Điểm chung nói
trên là kết quả hoà đồng tôn giáo đặc sắc của khu vực Nam Bộ và là yếu tố biểu
trưng của một vùng văn hóa.
Đề cập đến Nam Bộ như là một vùng văn hóa qua phân tích trên, trong đó
yếu tố đặc trưng của vùng văn hóa mà chúng tôi muốn nhấn mạnh là yếu tố hội
nhập văn hóa thông qua quá trình giao lưu tiếp xúc văn hóa giữa các tộc người. Sự
hội nhập văn hóa này biểu hiện ngay từ buổi đầu định cư của các tộc người. Họ
hội nhập với nhau để cùng tồn tại và phát triển. Hội nhập là một nhu cầu nhất thiết
của lưu dân nhằm đối phó lại thiên nhiên mới và tạo nên tính cộng đồng ổn định
trong xã hội. Do đó có thể khẳng định, việc hội nhập văn hóa đã được người dân
Nam Bộ chấp nhận từ những ngày đầu khai phá và có thể từ đó đã trở thành tính
cách đặc trưng của người Nam Bộ và cũng tạo thành một nền văn hóa thống nhất
trong đa dạng của các tộc người ở vùng văn hóa.
* Nam Bộ là nơi sớm tiếp xúc văn hóa phương Tây
Thực dân Pháp chính thức nổ súng xâm lược nước ta vào năm 1858. Năm
1862, ba tỉnh miền Đông rơi vào tay Pháp và đến năm 1867 toàn bộ khu vực lục
tỉnh Nam Kỳ đều nằm dưới quyền kiểm soát của người Pháp. Nhưng không phải
đến khi người Pháp đặt chân xâm lược nước ta thì cư dân Nam Bộ nói riêng và cư
dân cả nước nói chung mới tiếp xúc văn hóa phương Tây mà trước đó, người Việt
đã giao thương với người phương Tây. Riêng cư dân Nam Bộ đã tiếp xúc văn hóa
phương Tây vào khoảng thế kỷ XVIII, khi các nhà truyền giáo, thương buôn đến
hoạt động tại khu vực này. Lúc Nam Kỳ lục tỉnh trở thành thuộc địa của Pháp thì
văn hóa phương Tây đã ít nhiều ảnh hưởng đến người dân Nam Bộ. Lúc ấy, để
phục vụ cho chính sách mở rộng thuộc địa, thực dân Pháp đã cố gắng tạo ra thiết
chế văn hóa mới theo kiểu phương Tây dưới hình thức cưỡng bức về mặt chính trị.
Nhưng, sự đối kháng về chính trị dẫn đến sự đối kháng về văn hóa, nên các nhà
Nho yêu nước và đại bộ phận nhân dân đã quyết liệt phản đối văn hóa Pháp. Tuy
42
nhiên, với quyết tâm xây dựng thiết chế văn hóa mới của thực dân Pháp, cùng với
việc phân biệt sự khác nhau giữa thực dân xâm lược và văn hóa, nên cư dân Nam
Bộ đã dần tiếp thu, giao lưu tiếp biến và hội nhập với văn hóa Pháp, văn hóa
phương Tây.
Sự giao lưu, hội nhập văn hóa phương Tây ở Nam Bộ trong suốt quá trình
phát triển được thể hiện qua các lĩnh vực như chữ viết, giáo dục, truyền thông,…
- Về chữ viết, các giáo sĩ người Bồ Đào Nha đã dựa trên cách ký âm của
Alexande de Rhodes và sự giúp sức của nhiều người Việt theo đạo Công giáo đã
tạo ra chữ Quốc ngữ dưới hình thức Latinh hóa nhằm thay thế chữ Hán, chữ Nôm
truyền thống của dân tộc. Do sự cưỡng bách của thực dân Pháp dưới nhiều hình
thức, nên chữ Quốc ngữ đã dần dần ảnh hưởng đến diễn trình văn hóa giáo dục
của dân tộc Việt Nam.
- Về giáo dục, trước khi thực dân Pháp đến xâm chiếm Việt Nam, Nho học
chiếm vai trò chủ đạo. Sau khi đã đặt được nền móng đô hộ, thực dân Pháp dần
thay đổi hệ thống giáo dục Nho học. Ở Nam Bộ, thực dân Pháp mở trường Pháp -
Việt vào tháng 9 năm 1861, sau đó mở tiếp trường Thông ngôn vào tháng 7 năm
1864. Tháng 3 năm 1879, thực dân Pháp cho mở Sở học chính Nam kỳ, là mốc mở
đầu cho chương trình giáo dục Pháp - Việt ở Sài Gòn. Việc mở trường học nhằm
đào tạo đội ngũ trí thức Tây học mới để xây dựng đội ngũ quan lại, công chức cho
chính quyền thuộc địa. Sau này, một bộ phận quan lại, công chức chính quyền
Pháp như Ngô Văn Chiêu, Lê Văn Trung, Nguyễn Văn Ca, Nguyễn Ngọc Tương,
Lê Bá Trang… đã gầy dựng và phát triển đạo Cao Đài ở Nam Bộ.
- Về truyền thông đặc biệt là báo chí, người Pháp đã cho xuất bản những tờ
báo đầu tiên ở Nam Bộ như Nam Kỳ viễn chinh công báo (Le bulletin offieciel
L’expedition de la Cochinchine) và Xã Công báo (Le bulletin des communes) vào
năm 1861, Sài Gòn thời báo (Le Courrier de Saigon) xuất bản số đầu tiên vào năm
1862… Người Pháp dùng những tờ báo này phục vụ cho công cuộc khai hóa
thuộc địa, nhưng cũng chính từ phương tiện truyền thông này, trí thức yêu nước
Nam Bộ đã học hỏi người Pháp, đã dùng báo chí để tuyên truyền tư tưởng dân chủ
tiến bộ phục vụ cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Tiêu biểu cho những
43
nhà báo yêu nước tiến bộ lúc bấy giờ là Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh… Họ
đã đăng toàn văn Tuyên ngôn Đảng Cộng sản trên báo Tiếng chuông rè để truyền
bá thức tỉnh dân chúng. Những tín đồ theo đạo Cao Đài cũng dùng báo chí để
tuyên truyền tôn giáo của mình, như những bài viết của Nguyễn Phan Long đăng
trên tờ báo Tiếng vọng Annam (L’Echo Annamite).
- Cơ cấu tổ chức hành chính ở Nam Bộ cũng được thay đổi. Năm 1832, khi
Tổng trấn Gia Định thành Lê Văn Duyệt qua đời, vua Minh Mạng bãi bỏ Gia Định
thành, tổ chức lại thành các tỉnh, gồm Gia Định, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh
Long, An Giang, Hà Tiên và kể từ đó xuất hiện tên Nam kỳ lục tỉnh. Đứng đầu
mỗi tỉnh là Quan chủ tỉnh. Khi toàn xứ Nam kỳ rơi vào tay Pháp, chính quyền
Pháp đã chia Nam kỳ thành các địa hạt (Inspection), rồi đến các hạt
(Arrondissement), đứng đầu các hạt là các quan Tham biện. Sau năm 1899, Liên
Bang Đông Dương được thành lập, gồm 5 xứ: Bắc kỳ (Tonkin), Trung kỳ
(Annam), Nam kỳ (Cochinchine), Cao Miên (Cambodge) và Lào (Laos), trong đó
Nam kỳ là xứ thuộc địa trực trị của Pháp, số còn lại được đặt dưới quyền bảo hộ
của Pháp. Từ đó, cơ cấu hành chính của Nam kỳ được phân bố lại, trong đó người
đứng đầu là Thống đốc Nam kỳ (Gouverneur de la Cochinchine), rồi đến Thanh
tra chính trị và hành chính (Inspecteur des Affaires politiques et administratives),
Chủ tỉnh (Administrateur – chef de province) và Chủ quận. Ngoài Chủ quận, các
chức vụ trên đều do người Pháp nắm giữ. Chủ quận do người Việt đảm nhận và
mang các chức danh của triều đình phong kiến như Quan huyện, Quan phủ, Quan
đốc phủ sứ…
Trong xã hội, các giai tầng xã hội xuất hiện và có sự phân hóa sâu sắc với
những tầng lớp như địa chủ phong kiến, tư sản, tư sản mại bản, tư sản dân tộc,
tiểu tư sản, công nhân, nông dân,… trong đó giai tầng thấp nhất và bị áp bức, bóc
lột nhiều nhất trong xã hội là nông dân và công nhân. Từ sự phân hóa này đã tạo
ra mâu thuẫn trong xã hội Nam Bộ lúc bấy giờ và sự thua thiệt bao giờ cũng rơi
vào giai tầng thấp. Thêm vào đó là nỗi nhục của người dân mất nước đã khiến
nhiều sĩ phu và người dân lao động đứng lên đấu tranh để giành quyền sống, nên
hàng loạt cuộc khởi nghĩa nổ ra ở Nam Bộ vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX
44
như khởi nghĩa của Trần Văn Thành, Trần Văn Chất, Nguyễn Trung Trực, Phan
Xích Long… nhưng tất cả đều thất bại. Vì vậy, trong giai đoạn này, cuộc sống của
người dân, đặc biệt là nông dân nghèo Nam Bộ rơi vào cuộc khủng hoảng nghiêm
trọng. Họ luôn tìm kiếm những chỗ mới cho cuộc sống của họ, và một trong
những chỗ dựa tinh thần của họ lúc bấy giờ là các tôn giáo và kết quả là hàng loạt
tôn giáo ra đời ở Nam Bộ.
Bên cạnh những yếu tố vừa nêu, Nam Bộ còn xuất hiện thêm Thuật chiêu
hồn. Đây là một loại hình nói về cách thông công giữa người đang sống với người
đã chết, giống với hình thức cầu cơ mà người Trung Quốc truyền sang Việt Nam
thông qua đạo Minh Sư, chỉ khác nhau về cách thức thực hiện. Trong quá trình tìm
hiểu, chúng tôi biết được hai hình thức này như sau:
- Về hình thức cầu cơ, muốn tiếp xúc được các đấng thiêng liêng, người cầu
cơ phải sắp bàn thờ thật trang nghiêm, đốt nhang đèn để cúng bái; cần phải có
ngọc cơ (Hình – H:42), mâm đựng cát hoặc bàn kiếng. Số người tham gia trong
buổi cầu cơ ít nhất phải 5 người, trong đó 2 người làm đồng tử (người đồng âm,
người đồng dương), 1 pháp đàn, 1 đọc giả, 1 điển ký. Hai đồng tử có nhiệm vụ
cầm ngọc cơ; pháp đàn đứng chứng đàn, đọc kinh cầu đấng thiêng liêng nhập đàn.
Khi đấng thiêng liêng nhập vào hai đồng tử thì sử dụng ngọc cơ để viết chữ trên
mâm cát hoặc trên bàn kiếng có đổ rượu lên trên. Đọc giả đứng ngay tại bàn cơ,
đọc to những chữ được viết ra để người làm điển ký nghi lại.
- Về thuật chiêu hồn, Người thực hiện thuật chiêu hồn dùng một cái bàn nhỏ
kê cao một chân để cho cái bàn bị khập khiểng. Hai người ngồi đối diện đặt tay
trên mặt bàn. Một người ngồi ngoài để ghi ký tự khi bàn chuyển động, gõ chân
xuống nền đất. Những người thực hiện thuật chiêu hồn có qui ước là gõ chữ theo
mẫu tự Latinh. Ví dụ, gõ một nhịp là chữ A, hai nhịp liên tục là chữ B, ba nhịp là
chữ C… sau đó các ký tự được ghép lại để trở thành chữ hoàn chỉnh, rồi ghép các
chữ lại để trở thành câu. Hình thức thực hiện như trên trong đạo Cao Đài gọi là
Xây bàn. Việc xây bàn thường tổ chức vào ban đêm ở ngoài trời. Người muốn xây
bàn sau khi đã chuẩn bị xong mọi thứ liền khấn nguyện, yêu cầu vong linh nhập
bàn, sau đó họ giữ cho không gian thanh tịnh và chờ đợi vong nhập. Khi vong
45
nhập, bàn tự nhiên sẽ gõ theo nhịp để người đứng ngoài ghi ký tự và ghép chữ.
Người tham dự có thể nêu câu hỏi để vong linh trả lời.
Việc xây bàn theo kiểu này xuất hiện đầu tiên ở tiểu bang New York, Mỹ vào
năm 1847 [109]. Sau đó, lan rộng và trở thành phong trào thu hút giới học thuật ở
châu Âu nghiên cứu về linh hồn của những người đã chết. Những việc nghiên cứu
này về sau trở thành môn khoa học, gọi là Thần linh học (Spiritism). Đến cuối thế
kỷ XIX đầu XX, phong trào Thần linh học khởi lên rầm rộ và sôi nổi ở khắp các
nước Âu, Mỹ, nhất là ở Anh và Pháp. Ở Việt Nam, đặc biệt là Nam Bộ, phong
trào Thần linh học được truyền bá trước tiên vào giới trí thức bằng con đường báo
chí và sách vở.
Chính nhờ hình thức xây bàn này mà về sau một bộ phận công chức người
Việt như Phạm Công Tắc (H:3), Cao Quỳnh Cư (H:4), Cao Hoài Sang (H:5)…
cùng với những người say mê thuật cầu cơ như Ngô Văn Chiêu (H:1), Vương
Quan Kỳ, Võ Văn Sang, Lý Trọng Quí… đã dùng nó để làm cơ sở sáng lập nên
đạo Cao Đài ở Nam Bộ.
Từ những phân tích trên cho thấy, đến nửa đầu thế kỷ XX, Nam Bộ đã là một
nơi hội tụ của nhiều dòng văn hóa, từ văn hóa truyền thống của từng tộc người đến
văn hóa phương Tây. Tất cả những yếu tố này trộn lẫn vào nhau làm cho văn hóa
Nam Bộ trở nên đa dạng, phong phú, từ đó hình thành nên sắc thái văn hóa hỗn
dung đặc sắc của Nam Bộ.
1.2.2. Đạo Cao Đài ở Nam Bộ
* Quá trình hình thành đạo Cao Đài
Cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị ở Nam Bộ vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế
kỷ XX càng trở nên trầm trọng với các sự kiện đàn áp chính trị của chính quyền
thuộc địa, cảnh lầm than do đói kém, dịch bệnh diễn ra liên tục trong đời sống
nông dân… Người dân tìm cách bám víu vào các tổ chức tôn giáo như Phật giáo
hoặc các tôn giáo bản địa để có chỗ dựa tinh thần. Chính vì thế, tôn giáo ở Nam
Bộ là một trong những nơi cứu cánh mà họ tìm đến. Cầu cơ tiếp xúc các đấng siêu
linh nhằm bàn luận thời cuộc, đàm đạo thơ văn, xin thuốc chữa bệnh, xin tiên
đoán vận mệnh đất nước trong tương lai… là phong trào tôn giáo, tâm linh ưa
46
thích của một bộ phận không nhỏ cư dân Nam Bộ lúc bấy giờ. Giới nhân sĩ, trí
thức yêu nước cũng dựa vào hình thức cầu cơ để qui tụ lực lượng và che mắt
chính quyền thuộc địa cho hoạt động chính trị của họ. Do đó, vào khoảng đầu thế
kỷ XX, phong trào cơ bút đã phát triển mạnh mẽ trong các cơ sở tôn giáo ở Nam
Bộ và trở thành một trong những hoạt động không thể thiếu trong đời sống tâm
linh của một bộ phận không nhỏ cư dân Nam Bộ.
Phong trào cơ bút ở Nam Bộ được bắt nguồn từ Trung Quốc mà tiêu biểu là
bắt nguồn từ đạo Minh Sư. Theo các tài liệu thư tịch, đạo Minh Sư là tôn giáo ra
đời vào khoảng năm 618 – 907 dưới thời nhà Đường của Trung Quốc. Đạo Minh
sư gắn liền với phái Thiền tông do Bồ Đề Đạt Ma, vị Tổ sư đời thứ 28 của Thiền
tông Ấn Độ và là vị Tổ sư đời thứ nhất của Thiền tông Trung Quốc, truyền dạy tại
Trung Quốc. Đến đời Lục tổ Huệ Năng, Thiền tông Trung Quốc được chia thành
hai hệ phái. Hệ phái truyền giáo về phía Bắc sang các tỉnh Sơn Đông, Sơn Tây, Hà
Bắc… đến các nước Hàn Quốc và Nhật Bản, gọi là Bắc thiền tông. Hệ phái truyền
giáo về phía Nam từ Hồ Nam, Quảng Đông, Quảng Tây, Giang Tây đến Vân
Nam… gọi là Nam thiền tông. Khi Lục tổ Huệ Năng qua đời, Thiền tông bị đình
trệ. Sau đó, Mã Công Đạo Nhất và Bạch Ngọc Cư Sĩ gầy dựng lại Hệ phái Nam
Thiền tông và trở thành hai vị Tổ thứ bảy của phái Thiền tông. Đến cuối đời nhà
Châu (năm 955), Phật đường Nam Thiền tông bị đình trệ do triều đình ra lệnh phá
hủy chùa chiền, am viện. Khi nhà Minh bị Mãn Thanh lật đổ, các quan thần của
nhà Minh lập nên hai nhóm: quan võ lập nên Thiên Địa Hội; quan văn lập nên
Minh Sư đạo dựa trên nền tảng của hệ phái Nam Thiền tông để trở thành những
Hội kín núp dưới hình thức tôn giáo nhằm hoạt động chính trị với mục đích “bài
Thanh phục Minh”.
Mục đích của các quan thần nhà Minh bất thành nên đã tìm đường lánh nạn
sang Việt Nam và được chúa Nguyễn cho cư trú ở vùng đất Nam Bộ. Từ đó, đạo
Minh Sư và Thiên Địa Hội có mặt ở tại đây [89].
Tại Nam Bộ, đạo Minh Sư gắn liền với tên tuổi của các vị như Đại lão sư
Ngô Đạo Chương, Thái Lão sư Trần Đạo Minh, Thái Lão sư Vương Đạo Thâm…
Sau thời gian phát triển, đạo Minh Sư ở Nam Bộ chia thành ba Tông [71]:
47
- Tông Đức Kế do Thái Lão Vương Đạo Thâm lãnh đạo, có các chùa như
Quảng Nam đường, Khánh Nam đường (Bình Thạnh), Nam Nhã đường (Bình
Thủy- Cần Thơ), Mỹ Nam đường (Mỹ Tho), Vạn Bửu đường (Gò Công), Nam
Tông đường (Hội An), Hòa Nam đường (Đà Nẵng).
- Tông Phổ Tế do Thái Lão sư Trần Đạo Quang lãnh đạo, có các chùa như
Linh Quang đường (Hóc Môn), Long Hoa đường (Cai Lậy), Phổ Hòa đường (Mỹ
Tho)...
- Tông Hoằng Tế do Thái Lão sư Lâm Đạo Ngươn (thường gọi là Lâm
Xương Quang) lãnh đạo, có các chùa như Quang Âm đường (Thâm nhiên Long
An), Quang Âm đường (TX Tân An) , Trọng Văn đường (Bình Điền).
Từ ba Tông này sau đó lại chia ra thành 4 chi khác nhau, gồm: Minh Đường,
Minh Lý, Minh Thiện, Minh Tân [89].
- Minh Đường do Ngô Đạo Chánh truyền lại cho Thái Lão sư Lê Đạo Long
(Lê Văn Tiểng) tại chùa Vĩnh Nguyên Tự ở Cần Giuộc, Long An.
- Minh Lý do Âu Minh Chánh (tên tục là Âu Kiệt Lâm) lập ra. Ngôi thờ tự
của phái này đặt tại Tam Tông Miếu ở khu vực Bàn Cờ, đường Cao Thắng.
- Minh Thiện do ông Trần Hiển Vinh lập ra tại Chùa Ông ở Thủ Dầu Một.
- Minh Tân do Lê Minh Khá lập nên. Cơ sở thờ tự đặt tại Tam giáo điện
Minh Tân ở Bến Vân Đồn, quận 4.
Bốn chi này hiệp với chi Minh Sư trở thành Ngũ chi Minh Đạo (CT:6). Tôn
giáo này thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế và Diêu Trì Kim Mẫu tại chánh Điện;
thường xuyên tổ chức cầu cơ để tiếp xúc với các đấng Thiêng liêng.
Ở các đình, miếu đặc biệt là tại các chùa của Minh Sư thường xuyên tổ chức
cầu cơ, tiếp điển với các đấng thiêng liêng, các vong linh quá vãng để tìm hiểu thế
sự, vận mệnh quốc gia hoặc để xin toa thuốc chữa bệnh.
Tại Sài Gòn, nhóm cầu cơ mà sau này có vai trò quan trọng trong việc gầy
dựng nền đạo Cao Đài ở Nam Bộ là nhóm của ông Ngô Văn Chiêu và ông Vương
Quan Kỳ, còn gọi là nhóm Chiêu - Kỳ. Tài liệu của đạo Cao Đài cho rằng ông Ngô
Văn Chiêu là người có công đầu trong việc gầy dựng nền đạo Cao Đài ở Nam Bộ.
48
Theo tài liệu, ông Ngô Văn Chiêu học trường Pháp (tốt nghiệp bằng Thành
Chung của Trường Chasseloup Laubat Sàigòn – sau đổi thành trường Jean Jacques
Rousseau và nay là trường Lê Quí Đôn), làm công chức thời Pháp thuộc, là người
rất say mê thuật cầu cơ. Qua những buổi cầu cơ, ông Chiêu đã đặt niềm tin vào
“thế giới siêu linh”, một thế giới “hư ảo” mà nội dung tôn giáo đề cập.
Thế giới hư ảo đó là nơi tồn tại của các đấng siêu linh, trong đó “Cao Đài
Tiên Ông” giáng đàn vào năm 1919 tại Tân An đã trở thành một trong những đấng
siêu linh quan trọng trong “thế giới hư ảo” của đạo Cao Đài. Đấng “Cao Đài Tiên
Ông” xuất hiện khi ông Chiêu cùng những người bạn tổ chức cầu cơ tại Tân An.
Sau đó, đấng siêu linh này thường xuyên xuất hiện trong những buổi cầu cơ của
ông Chiêu tại Hà Tiên và Phú Quốc. Năm 1921, thông qua những buổi cầu cơ tại
Phú Quốc, Đấng “Cao Đài Tiên Ông” đã nhận ông Chiêu làm đệ tử, khuyên ông
ăn chay trường và tu luyện tâm pháp. Cũng trong năm này, ông Chiêu tạo hình
tượng “Thiên nhãn” (Mắt trời) làm biểu tượng thờ cúng và đã cụ thể hóa “thế giới
hư ảo” bằng cảnh “Bồng Lai” khi cho rằng mình đã được “Tiên ông” tưởng
thưởng cho công phu tu hành bằng việc cho thấy “Tiên cảnh” (thế giới của sự giải
thoát). Cuối năm 1924 đầu năm 1925, khi làm việc ở Dinh Thống Đốc Nam Kỳ tại
Sài Gòn, ông Chiêu đã cùng ông Vương Quan Kỳ (người làm cùng sở), Đoàn Văn
Bản (Đốc học Trường Cầu Kho), Nguyễn Văn Hoài, Võ Văn Sang, Lý Trọng Quí
lập thành nhóm tu theo đạo Cao Đài tại Sài Gòn. Nhóm tu này do ông Chiêu đứng
đầu và là người hướng dẫn.
Bên cạnh nhóm ông Chiêu, giữa năm 1925 tại Sài Gòn, một nhóm người cổ
vũ tu theo đạo Cao Đài là các ông Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài
Sang. Họ là những người đồng thanh khí (cùng yêu âm nhạc, sính thơ văn và đều
tin có thế giới siêu hình hiện hữu) và là đồng hương, bạn học, đồng nghiệp nên
thường qua lại chơi thân với nhau, thường xuyên tổ chức hội họp đàm đạo thơ văn
và thế sự. Họ đến với đạo Cao Đài cũng xuất phát từ sự say mê tiếp xúc với “thế
giới siêu linh” như nhóm của ông Chiêu, nhưng dưới một hình thức khác là “xây
bàn”.
49
Theo các tài liệu ghi chép, năm 1925, bằng hình thức xây bàn, các Phạm
Công Tắc, Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài Sang đã trò chuyện được với chơn linh của
cụ Cao Quỳnh Tuân (thân phụ của ông Cao Quỳnh Cư), Vương Thị Lễ (cháu của
ông Vương Quan Kỳ), chơn linh của các thi sĩ và các bậc tiên thánh như thi sĩ
Huỳnh Thiên Kiều (hiệu là Quí Cao), Đức Nhàn Âm Đạo Trưởng, Thanh Sơn Đại
Sĩ (Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm), Đại tiên Lê Văn Duyệt… để cùng làm thơ,
họa phú. Các ông Cư, Tắc, Sang còn tiếp xúc được với Diêu Trì Kim Mẫu và Cửu
vị Tiên nương, đặc biệt tiếp xúc được với chơn linh của “Cao Đài Tiên Ông” dưới
danh xưng ban đầu là AĂÂ. Cũng giống như ông Chiêu, Cao Đài Tiên Ông đã
nhận các ông Cư, Tắc, Sang làm đệ tử để truyền đạo; sau đó có thêm sự tham gia
của ông Lê Văn Trung, Trương Hữu Đức, Nguyễn Trung Hậu… Trong số các vị
này, ông Lê Văn Trung là người có uy tín trong chính quyền thuộc địa bấy giờ.
Ông nguyên là Thượng nghị viện Đông Dương (Membre du Conseil Supérieur de
L’Indochine), được chính phủ Pháp thưởng Đệ ngũ đẳng Bắc Đẩu Bội Tinh
(Chevalier de l’ordre National de la Légion d’honneur) và được cử vào Hội Đồng
Tư Vấn (Conseil Privé) năm 1912.
Cuối năm 1925, nhóm ông Cư, Tắc, Trung… hiệp với nhóm ông Chiêu, Kỳ,
Bản… để hình thành nên nhóm tu theo đạo Cao Đài ở Sài Gòn, và bắt đầu công
cuộc truyền bá tôn giáo mới.
Như vậy đến năm 1925, đạo Cao Đài đã bắt đầu được hình thành và phổ
truyền bởi nhóm cơ bút Chiêu – Kỳ. Nhưng trước đó, đạo Cao Đài đã có một quá
trình manh nha bằng việc tin tưởng vào các đấng siêu linh của ông Ngô Văn
Chiêu. Nhận xét về ông Ngô Văn Chiêu, tác giả R.B. Smith cho rằng, “ông Chiêu
dù được giáo dục bởi nền giáo dục Pháp, nhưng lại không bị ảnh hưởng bởi nó mà
vẫn giữ được tín ngưỡng và văn hóa của người Việt Nam” [229:338]. Chính do
vẫn giữ được văn hóa và tín ngưỡng truyền thống nên ông Chiêu đã tham dự vào
nhiều đàn cơ cầu Tiên ở Thủ Dầu Một, Cái Khế… và cũng tự mình cùng với
những người bạn lập thành nhiều nhóm cầu cơ ở Tân An, Hà Tiên, Phú Quốc, Sài
Gòn… Trong những lần cầu cơ ấy, niềm tin vào các đấng siêu nhiên trong ông
50
càng lên cao, nhất là việc cầu thuốc chữa bệnh cho mẹ (CT:7) và cho người dân.
Niềm tin đó là cơ sở để hình thành nên nền tảng của đạo Cao Đài.
Xét về quá trình gầy dựng đạo Cao Đài của ông Ngô Văn Chiêu, người ta
thấy rằng con đường tu đạo của ông đều bắt nguồn từ việc cầu cơ thỉnh Tiên như:
- Đàn cơ vào năm 1902 tại Thủ Dầu Một, một đấng siêu linh nhập đàn cho
ông bài thi khuyên tu hành.
- Năm 1919, trong đàn cơ tại nhà ông ở Tân An, đấng siêu linh lại khen ông
thông minh và xưng danh với ông là Cao Đài Tiên Ông.
- Năm 1921 tại chùa Quan Âm ở Phú Quốc, đấng siêu linh ấy lại buộc ông
phải ăn chay trường ba năm, bắt đầu công việc học đạo và chỉ vẽ cách thờ tự. Lúc
này danh xưng đầy đủ là “Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát” về một đấng
siêu linh thường xuyên giáng đàn khuyên và dạy ông được tiết lộ.
Như vậy, đến lúc này cơ sở căn bản của một tôn giáo đã được hình thành
trong bản thân của ông Ngô Văn Chiêu bằng việc tin tưởng vào các đấng siêu linh.
Theo nhận xét của Nguyễn Duy Hinh trong quyển Bước đầu tìm hiểu đạo Cao Đài
do nhà xuất bản Khoa học xã hội – Hà Nội ấn hành năm 1995, thì không chỉ đến
lúc này (năm 1921) ông Chiêu mới bắt đầu tu hành mà trước đó (năm 1919) việc
tu hành của ông Chiêu theo Cao Đài đã được bắt đầu bằng việc lập nhóm cầu cơ
tại Tân An. Tại đây, ông Chiêu đã biết đến danh Cao Đài, nhưng không hiểu đó là
gì và luôn cầu cơ để hỏi thì chỉ được hai câu thơ:
“Cao Đài ứng hóa theo dòng chúng sanh
Đố ai có biết cái danh Cao Đài”
Nhóm cầu cơ ở Tân An được ông Nguyễn Duy Hinh xem là nhóm tu đầu
tiên của ông Chiêu và mang tính chất tổ chức đầu tiên của đạo Cao Đài. Nhóm tu
thứ hai của ông Chiêu là khi ông lập nhóm cầu cơ ở Phú Quốc cùng với việc khởi
đầu ăn chay trường và luyện đạo. Lúc này đạo Cao Đài đã có đấng tối cao (Cao
Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát), có biểu tượng thiêng liêng (Thiên nhãn), bỏ
kinh điển cũ (không tụng kinh Minh Thánh nữa), đưa ra tiên cảnh Bồng Lai làm
mục tiêu tu hành. Theo ông Hinh, như vậy đạo Cao Đài đã tương đối hoàn chỉnh
những yếu tố cơ bản của một tôn giáo, nhưng chưa hoàn thiện. Khi ông Chiêu về
51
lại Sài Gòn thì lập nên nhóm tu thứ ba gồm ông Kỳ, ông Bản, ông Hoài, ông Sang.
Nhóm tu này có điện thờ, đàn cơ riêng, không phụ thuộc vào các đền chùa như
trước. Đàn cơ Cầu Kho biểu trưng cho sự tồn tại như một thực thể tôn giáo độc lập
của đạo Cao Đài [174:101-105].
Qua phân tích của ông Hinh cho thấy, đạo Cao Đài đã bắt đầu xuất hiện từ
năm 1919, đến năm 1925 nó đã trở thành một thực thể tôn giáo độc lập với đầy đủ
những yếu tố cơ bản của một tôn giáo. Điều đó, chứng tỏ ông Ngô Văn Chiêu có
vai trò rất lớn trong việc gầy dựng mối đạo mới tại Nam Bộ vào nửa đầu thế kỷ
XX bằng việc tiếp xúc các đấng thiêng liêng qua cơ bút.
Việc tổ chức lễ khai đạo tại chùa Từ Lâm, Tây Ninh vào năm 1926 chỉ là
một hình thức nhằm hợp thức hóa đạo Cao Đài với chính quyền thuộc địa lúc bấy
giờ và cũng nhằm mục đích công bố với cư dân rằng có một tôn giáo mới xuất
hiện tại Nam Bộ.
Như vậy, từ cuối năm 1925 đến năm 1926, tại Nam Bộ có một tôn giáo mới
mang tên Cao Đài ra đời. Tôn giáo này được hình thành với đầy đủ những yếu tố
như:
- Về niềm tin tôn giáo: những người khởi xướng cho việc hình thành đạo
Cao Đài đều tin tưởng vào một thế giới siêu thực; một thế giới tồn tại bởi các siêu
linh, nơi đó có sự tồn tại của các vị Thần, Thánh, Tiên, Phật… và vong hồn của
những người quá vãng, đó là cảnh “Bồng Lai”, một thế giới hoàn toàn khác thế
giới trần tục. Do tin tưởng sự tồn tại của thế giới siêu thực đó mà những người
như Ngô Văn Chiêu, Vương Quan Kỳ, Đoàn Văn Bản, Cao Hoài Sang, Phạm
Công Tắc, Lê Văn Trung… đều là những bậc trí thức, có địa vị cao trong xã hội
lúc bấy giờ, đã tìm cách tiếp xúc bằng các hình thức khác nhau như cầu cơ, xây
bàn. Thông qua những lần tiếp xúc với thế giới siêu linh, những người này lại
càng củng cố niềm tin của mình về sự tồn tại của các “chơn linh siêu việt” ở thế
giới bên kia. Những nhân vật như Diêu Trì Kim Mẫu, Cửu Vị Tiên Nương, Ngọc
Hoàng Thượng Đế, Lữ Đồng Tân, Bạch Hạt Đồng Tử… là những nhân vật tưởng
như không thật, vốn chỉ được biết đến trong các truyện thần tiên của Trung Quốc
thì nay lại xuất hiện, trò chuyện với các ông Cư, Tắc, Sang,.. thông qua thuật xây
52
bàn hoặc cầu cơ. Điều này đã làm cho các ông này “ngây ngất” và tin tưởng tuyệt
đối vào sự tồn tại của thế giới siêu linh. Lại thêm những vong hồn quá vãng là
cha, cháu, bạn của các ông Cao Quỳnh Cư, Vương Quan Kỳ, Nguyễn Trung Hậu
quay trở về cùng tâm sự, đàm đạo thơ văn… lại một lần nữa củng cố niềm tin tôn
giáo của những người này.
Tất cả những điều trên nói lên rằng, niềm tin về một thế giới bên kia cùng
với sự tồn tại của các chơn linh siêu việt đã được củng cố ngay từ buổi đầu khi
đạo Cao Đài có những yếu tố manh nha hình thành trong bối cảnh thế giới cũng
quan tâm nghiên cứu về linh hồn. Đây chính là niềm tin để dẫn đến sự ra đời của
một tôn giáo.
- Về nghi lễ tôn giáo: lễ nghi tôn giáo được thực hành nhằm dâng niềm tin
tôn giáo lên các đấng siêu linh mà họ tôn thờ. Đấng siêu linh được tôn thờ chính là
“Cao Đài Tiên Ông”; biểu tượng tôn giáo được sử dụng để chiêm bái cho lễ nghi
tôn giáo là hình tượng “Thiên nhãn” (mắt Trời).
Khi có đấng siêu linh và biểu tượng tôn giáo, ông Chiêu đã lập bàn thờ
trong nhà và bắt đầu hành lễ. Mỗi ngày ông hành lễ bốn lần theo bốn thời: Tý,
Ngọ, Mẹo, Dậu. Kinh sách được dùng trong hành lễ là các bài Cửu Thiên, Nhụy
Châu trích từ kinh sách của đạo Minh Sư. Lễ vật dùng để cúng là hoa, trà, rượu,
quả.
Việc thờ cúng và hành lễ này được ông duy trì và truyền lại cho các ông
Vương Quan Kỳ, Đoàn Văn Bản, Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Lê Văn
Trung… nhằm mục đích biểu hiện niềm tin tôn giáo của mình.
- Chức sắc tôn giáo: Mặc dù các ông Ngô Văn Chiêu, Phạm Công Tắc, Cao
Hoài Sang, Lê Văn Trung… trong những buổi đầu chưa có những chức phận tôn
giáo rõ ràng, nhưng họ lại chính là những người đang thực hiện hành vi tôn giáo.
Ông Ngô Văn Chiêu trở thành người hành lễ chuyên nghiệp khi được giao trọng
trách phải ăn chay trường, luyện đạo để giữ tâm pháp và truyền thụ cách thờ cúng
và hành lễ cho những người khác. Các ông còn lại giữ vai trò buổi đầu như là
những người hành lễ thông thường, phải học tập từ ông Chiêu và nhất nhất phải
xem ông Chiêu là anh cả.
53
* Quá trình phát triển đạo Cao Đài
Việc phát triển đạo Cao Đài diễn ra khá mạnh mẽ từ năm 1926, được đánh
dấu bằng lễ khai đạo tại chùa Từ Lâm, Tây Ninh. Lễ khai đạo được xem là sự ra
mắt chính thức của tôn giáo này. Đây là bước khởi đầu để đạo Cao Đài phát triển.
Chỉ sau lễ khai Đạo một năm (từ năm 1925 đến 1926), đạo Cao Đài đã có vị
thế trong xã hội Nam Bộ, bằng chứng là số người tham gia vào đạo mỗi lúc một
đông. Số người nhập môn theo đạo mỗi ngày đếm có từ 90 đến 100 người [113].
Giải thích việc người dân Nam Bộ theo Cao Đài, trong sách Tôn giáo, Nguyễn An
Ninh viết “Dân đã mê muội trong tôn giáo, mà các tôn giáo, các đạo lý của nước
nhà đều suy sụp, làm sao mà không theo đạo Cao Đài được. Không từng thấy,
không suy ra, gặp đạo Cao Đài có màu mới mẽ, mà lại dễ dàng cho tâm trí như
ngựa quen đường cũ. Đạo Cao Đài là cái nhà cũ của dân mê tín mà sơn lại mới;
mọi vật cũ ngày xưa, nay đều mang một cái tên mới; coi nó mới mà lại có quen”
[52:187] vì vậy nhiều người dân đã theo Cao Đài.
Trần Văn Giàu cũng đồng quan điểm khi cho rằng “nhân dân khốn khổ mà
chưa giác ngộ cách mạng lại càng chìm sâu vào mê tín dị đoan thì tất phải trông
mong vào sự giải thoát ở đời sau, đi vào đường tôn giáo. Mà theo đạo nào bây
giờ?... Bây giờ có đạo mới, đạo Cao Đài, may ra có lối thoát? Người ta hy vọng;
người ta vào đạo Cao Đài. Nó mới mà cũ, mới về tổ chức, về tên tuổi, mà cũ về
nội dung, phương tiện, dễ theo” [52:187]. Chính những yếu tố “mới mà cũ” đã
làm cho người dân cảm thấy có sự mới mẽ trong tôn giáo Cao Đài, nhưng lại
không quá xa lạ với cuộc sống tâm linh đời thường của họ nên đã thu hút được
đông đảo người dân tham gia. Theo các tài liệu nghiên cứu về đạo Cao Đài
[179:63-64], chỉ sau một năm truyền đạo, số người tin và theo đạo Cao Đài lên
đến 50.000 người vào năm 1926. Số tín đồ tiếp tục tăng lên như sau:
Bảng 1: Số tín đồ theo đạo Cao Đài được thống kê
từ năm 1928 đến năm 1995
STT Năm Số tín đồ (ngƣời)
1 1928 150.000
2 1931 350.000
54
3 1935 1.000.000
4 1975 2.820.000
5 1995 2.000.000
(Nguồn: Tổng hợp số liệu từ các nguồn khác nhau đã được công bố)
Theo thống kê của Ban Tôn giáo Chính phủ vào tháng 12 năm 2004, số tín
đồ của đạo Cao Đài là 2.471.351 người, trong đó đạo hữu 2.434.429 người; chức
sắc là 11.030 người, chức việc 20.039 người và cơ sở thờ tự gồm 1.205 cơ sở. Số
người có sớ cầu đạo chính thức là 1.043.119 người. Đây là những người có tên
trong sổ đạo, do các Hội thánh của Cao Đài nắm giữ. Số người này được phân bố
khắp các tỉnh thành ở Nam Bộ.
Bảng 2: Số tín đồ có sớ cầu đạo
và cơ sở thờ tự của Cao Đài ở Nam Bộ
TT
Tên tỉnh,
thành phố Chức sắc Chức việc Đạo hữu
Cơ sở
thờ tự
1 An Giang 163 681 73829 45
2 Bà Rịa - Vũng Tàu 191 345 9147 19
3 Bạc Liêu 30 342 7813 25
4 Bến Tre 1076 1535 45000 134
5 Bình Dương 131 85 3739 18
6 Bình Phước 6 42 1911 5
7 Cà Mau 479 816 42730 59
8 Cần Thơ 152 347 17407 28
9 Đồng Nai 28 459 11117 28
10 Đồng Tháp 493 1259 55273 54
11 TP. Hồ Chí Minh 567 1476 47427 88
12 Kiên Giang 285 327 14410 49
13 Long An 739 200 98000 119
14 Tây Ninh 2976 6140 390416 110
15 Tiền Giang 1514 1332 41176 93
16 Hậu Giang 26 90 11636 19
17 Sóc Trăng 194 274 10096 29
55
18 Trà Vinh 337 569 27119 44
19 Vĩnh Long 511 861 22872 49
Tổng cộng 9898 17180 931.118 1015
(Nguồn: Ban Tôn giáo Chính phủ tháng 12/2004)
Trong quá trình phát triển, đạo Cao Đài đã có sự phân hóa để hình thành
nên các chi phái trong đạo. Việc dẫn đến sự chia rẽ là do mâu thuẫn nội bộ chức
sắc lãnh đạo. Khởi đầu là sự mâu thuẫn giữa ông Ngô Văn Chiêu với các ông Lê
Văn Trung, Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh Cư… đã dẫn đến việc ông Chiêu không
tiếp tục theo con đường phổ độ mà trở lại con đường “tu kỹ” của mình để sau đó
hình thành nên phái Chiếu Minh tại Cần Thơ vào năm 1926. Tiếp theo là mâu
thuẫn giữa các ông Nguyễn Hữu Chính, Lê Văn Lịch (chức sắc cao cấp trong đạo)
với các ông Lê Văn Trung, Phạm Công Tắc, Lê Bá Trang… dẫn đến việc ông
Chính tách riêng lập nên phái Cao Đài Tiên Thiên tại Tiền Giang 1930. Ông
Nguyễn Văn Ca (chức sắc trong đạo) tách ra lập nên phái Cao Đài Minh Chơn Lý
tại Mỹ Tho năm 1932. Ông Trần Đạo Quang lập nên phái Minh Chơn Đạo năm
1934 tại Bạc Liêu. Ông Lê Bá Trang, Nguyễn Ngọc Tương lập nên phái Ban
Chỉnh Đạo tại Bến Tre vào năm 1934. Ông Tô Bửu Tài, Trương Minh Tòng lập
nên Cao Đài Bạch Y Liên Đoàn Chơn Lý vào năm 1936…
Hiện nay, đạo Cao Đài có 9 chi phái được nhà nước công nhận tư cách pháp
nhân như:
- Phái Tiên Thiên ra đời vào năm 1930 tại Tiền Giang, phát triển mạnh ở
Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Long An… được Nhà nước công
nhận tư cách pháp nhân vào ngày 27/11/1995, theo Quyết định số 51 QĐ/TGCP
(Phụ lục – PL:1, Quyết định – QĐ:5).
- Phái Minh Chơn Lý được hình thành vào cuối năm 1931 tại Mỹ Tho, sau
đó phát triển ở Tiền Giang, Long An, Rạch Giá,… được Nhà nước công nhận tư
cách pháp nhân vào ngày 14/3/2000, theo Quyết định số 16/2000/QĐ-TGCP
(PL:1, QĐ:7).
56
- Phái Minh Chơn Đạo ra đời vào năm 1934 tại Cà Mau, sau đó phát triển ra
Bạc Liêu, Kiên Giang, Sóc Trăng,… được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân
vào ngày 2/8/1996, theo Quyết định số 39 QĐ/TGCP (PL:1, QĐ:2).
- Phái Ban Chỉnh Đạo hình thành vào năm 1934 tại Bến Tre, sau đó phát
triển ra Long An, Trà Vinh, Tiền Giang, Sóc Trăng, Vĩnh Long… được Nhà nước
công nhận tư cách pháp nhân vào ngày 8/8/1997, theo Quyết định số 26
QĐ/TGCP (PL:1, QĐ:4).
- Phái Chiếu Minh Long Châu được hình thành từ năm 1954 tại Cần Thơ và
phát triển chủ yếu ở khu vực Cần Thơ, Vĩnh Long, Hậu Giang, Long An…. được
Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân vào ngày 27/7/1996, theo Quyết định số
1562/QĐ.CT.HC.96 (PL:1, QĐ:1).
- Phái Bạch Y Liên Đoàn ra đời vào năm 1936 tại Rạch Giá. Địa bàn phát
triển của chi phái này là Kiên Giang và được Nhà nước công nhận tư cách pháp
nhân vào ngày 8/7/1998, theo Quyết định số 60/TB-UB (PL:1, QĐ:6).
- Phái Tây Ninh hình thành từ năm 1935, phát triển mạnh ở Tây Ninh, Tiền
Giang, Long An, Thành phố Hồ Chí Minh,… được Nhà nước công nhận tư cách
pháp nhân vào ngày 27/9/1997, theo Quyết định số 10 QĐ/TGCP (PL:1, QĐ:3).
- Phái Cầu Kho - Tam Quan được hình thành từ năm 1937, phát triển ở Bình
Định, Phú Yên, TP. Hồ Chí Minh,… được Nhà nước công nhận tư cách pháp nhân
vào ngày 28/4/2000, theo Quyết định số 199/2000/ QĐ-TGCP (PL:1, QĐ:9).
- Truyền giáo Cao Đài được hình thành từ năm 1938, phát triển ở Quảng
Nam, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Lâm Đồng, Thành phố Hồ Chí Minh,… được Nhà
nước công nhận tư cách pháp nhân vào ngày 24/9/1996, theo Quyết định số 40
QĐ/TGCP (PL:1, QĐ:8).
Số lượng tín đồ của các chi phái hiện nay được thống kê như sau:
Bảng 3: Số tín đồ, chức sắc, chức việc
và cơ sở thờ tự của các chi phái vào năm 2007
TT Tên chi phái Chức
sắc
Chức
việc Tín đồ
Họ
đạo
Ban Cai
quản
Ban
trị sự
1 Tây Ninh 2.357 15.154 1.312.000 371 371 1.113
57
2 Ban Chỉnh 4.275 2.270 807.260 201 201 600
3 Tiên Thiên 1.443 1.750 41.523 115 113 94
4 Truyền Giáo 660 4.211 49.809 62 66 259
5 Minh Chơn Đạo 859 1.484 31.386 49 49 49
6 Cầu Kho 263 244 9.466 28 40 38
7 Chơn Lý 2.072 180 5.950 28 28 0
8
Chiếu Minh
Long Châu 67 182 4.191 18 16 17
9 Bạch Y 104 172 4.200 14 14 14
10 Nhỏ lẻ, độc lập 997 189 7.542 30 30 10
TỔNG CỘNG 13.097 25.836 2.273.327 916 928 2.194
(Nguồn: Ban Tôn giáo Chính phủ - tháng 12/2007)
Trong đó, Tây Ninh là chi phái có số lượng tín đồ đông nhất, sau đến là Ban
Chỉnh Đạo, Tiên Thiên, Truyền giáo, Minh Chơn đạo… Các chi phái còn lại số
lượng tín đồ không nhiều.
Theo thống kê của Ban Tôn giáo chính phủ vào năm 2004, tín đồ của các chi
phái Cao Đài phân bố chủ yếu ở các tỉnh Nam Bộ (xem bảng 4).
Bảng 4: Số liệu thống kê đạo Cao Đài ở các tỉnh, thành phố
TT Tên tỉnh,
thành phố
Chức
sắc
Chức
việc
Đạo hữu Cở sở
thờ tự
Tổng số
tín đồ
1 Tây Ninh 2.976 6.140 390.416 110 399.532
2 Long An 739 200 98.000 119 98.939
3 An Giang 163 681 73.829 45 74.673
4 Đồng Tháp 493 1.259 55.273 54 57.025
5 TP. Hồ Chí Minh 567 1.476 47.427 88 49.470
6 Bến Tre 1.076 1.535 45.000 134 47.611
7 Cà Mau 479 816 42.730 59 44.025
8 Tiền Giang 1.514 1.332 41.176 93 44.022
9 Trà Vinh 337 569 27.119 44 28.025
10 Vĩnh Long 511 861 22.872 49 24.244
11 Bình Định 485 748 18.402 36 19.635
58
12 Cần Thơ 152 347 17.407 28 17.906
13 Kiên Giang 285 327 14.410 49 15.022
14 Lâm Đồng 128 395 12.936 14 13.459
15 Quảng Nam 120 900 11.336 23 12.356
16 Hậu Giang 26 90 11.636 19 11.752
17 Đồng Nai 28 459 11.117 28 11.604
18 Sóc Trăng 194 274 10.096 29 10.564
19 Bà Rịa - Vũng Tàu 191 345 9.147 19 9.683
20 Khánh Hòa 146 278 8.434 26 8.858
21 Bạc Liêu 30 342 7.813 25 8.185
22 Đà Nẵng 52 219 6.465 6 6.736
23 Quảng Ngãi 62 234 4.901 28 5.197
24 Đắc Lắc 64 284 4.485 8 4.833
25 Bình Thuận 14 66 4.080 10 4.160
26 Bình Dương 131 85 3.739 18 3.955
27 Gia Lai 17 214 3.007 9 3.238
28 Phú Yên 15 113 3.010 15 3.138
29 Bình Phước 6 42 1.911 5 1.959
30 Ninh Thuận 12 110 1.348 6 1.470
31 Hà Tây 2 16 522 1 540
32 Kon Tum 4 31 304 4 339
33 Hà Nội 9 19 300 1 328
34 Thừa Thiên Huế 0 8 238 1 246
35 Quảng Ninh 0 16 222 1 238
36 Hải Phòng 2 8 142 1 152
37 Đắc Nông 0
TỔNG CỘNG 11.030 20.839 1.011.250 1.205 10.43.119
(Nguồn: Ban Tôn giáo Chính phủ - tháng 12/2004)
Trong đó, số tín đồ đông nhất tập trung ở Tây Ninh với trên 399 ngàn
người, tiếp theo là Long An, An Giang, Đồng Tháp và TP. Hồ Chí Minh. Đây là
các tỉnh thuộc khu vực Nam Bộ. Các tỉnh ngoài khu vực Nam Bộ, số lượng tín đồ
59
đạo Cao Đài không nhiều. Nhìn chung, số lượng tín đồ Cao Đài chỉ tập trung đông
ở 19 tỉnh, thành thuộc khu vực Nam Bộ. Điều này có thể khẳng định, đạo Cao Đài
chỉ phát triển mạnh ở khu vực Nam Bộ, nơi nó được phát sinh; còn ở những khu
vực khác như miền Trung, miền Bắc Việt Nam, đạo Cao Đài gần như không phát
triển.
Như vậy, từ nguồn số liệu nêu trên, cùng với những yếu tố cấu thành tôn giáo
của đạo Cao Đài, chúng tôi xem đây là tôn giáo bản địa của Nam Bộ, vì cơ bản
đáp ứng được một số điều kiện liên quan đến thuật ngữ Tôn giáo bản địa như đạo
Cao Đài ra đời dựa trên nhu cầu cấp thiết của một bộ phận dân cư trong một khu
vực nhất định và phát triển chủ yếu trong địa phương nơi nó hình thành.
60
Chƣơng 2
ĐỜI SỐNG TÔN GIÁO
CỦA TÍN ĐỒ CAO ĐÀI Ở NAM BỘ
2.1. ĐỨC TIN CỦA TÍN ĐỒ CAO ĐÀI
Đức tin của tín đồ đạo Cao Đài được dựa trên nền tảng giáo lý của đạo; và
giáo lý được hình thành từ cơ bút, gọi là Thánh giáo. Nội dung của Thánh giáo nói
về lý do hình thành đạo Cao Đài, tôn chỉ hoạt động và các nguyên tắc hành đạo để
tín đồ theo đó thực hiện. Qua phân tích giáo lý của đạo Cao Đài, chúng tôi nhận
thấy, đức tin của tín đồ được biểu hiện như sau:
2.1.1. Tin về nguồn gốc vũ trụ và nguồn gốc con ngƣời
* Sự xuất hiện vũ trụ
Giải thích về nguồn gốc vũ trụ, giáo lý Cao Đài dựa trên nền tảng triết học
phương Đông để đưa ra quan điểm của mình về vũ trụ. Theo đó, vũ trụ khởi thủy
từ một khối hỗn mang, gọi là Thái cực, từ Thái cực sinh Lưỡng nghi, rồi sinh Tứ
tượng, hình thành nên Bát quái và từ đó sinh ra vạn vật trong trời đất.
Theo Đại Thừa Chơn giáo [5:145-149], trước khi có trời đất thì vũ trụ chỉ
là một khối khí hỗn độn, mờ mịt, lặng lẽ, vô vi, được gọi là Tiên thiên hư vô chi
khí. Trong khí hư vô ấy, xuất hiện một vòng đại quang minh, gọi là Thái cực hay
vô cực, là vòng tròn hư vô. Trong vòng tròn hư vô ấy tự khắc sinh ra một tâm
điểm. Từ tâm điểm đó phóng ra một vầng quang minh để phân định vũ trụ thành
hai loại khí. Khí thanh nhẹ bay lên trên, gọi là khí dương hay Nghi dương ( ).
Nhiều khí dương ngưng tụ lại thành Trời, gọi là Cơ hay là Càn ( ). Khí trược
nặng hạ xuống, gọi là khí âm hay là Nghi âm ( ). Nhiều khí âm ngưng lại thành
Đất, gọi là Ngẫu hay là Khôn ( ). Năng lực của khí âm dương vần quanh, đùn
đẩy nhau trong không gian. Khí âm do nặng nên đứng một chỗ. Khí dương nhẹ
hơn nên bao trùm, di động. Năng lực của Thái cực mới vận hành khí dương hiệp
cùng khí âm (Cơ Ngẫu hợp lại), nên bắt đầu sanh hóa ra muôn loài vạn vật. Từ đó,
61
muôn loài vạn vật cứ sanh hóa mãi mãi. Một sanh hai, hai sanh ba, ba sanh vạn
vật…
Tuy nhiên, để có được muôn loài vạn vật ấy, Thái cực còn phải chuyển hóa
nhiều lần nữa. Như, sau khi sanh hai khí âm, dương và hai khí này hiệp nhất để
phát khởi thế giới; trong đó khí âm của Khôn lấy một phần khí dương của Càn nên
Càn mất một phần khí dương để thay vào khí âm và biến thành Ly ( ). Ly là lửa,
gọi là Thái dương hay là Mặt trời. Khôn khi lấy được khí dương thì biến thành
Khảm ( ). Khảm là nước, gọi là Thái âm hay là Mặt trăng. Bốn quẻ Càn, Khôn,
Ly, Khảm lúc thăng, lúc giáng, lúc mất khí âm lúc thêm khí dương mà sanh ra các
quẻ khác như Đoài ( ) là Đầm lầy; Cấn ( ) là Núi non; Tốn ( ) là Gió; Chấn
( ) là Sấm. Nguyên nhân để sinh ra nước, lửa, núi, sông, cây, cỏ, đầm lầy… là do
sự thăng giáng của hai khí âm, dương. Sự tồn tại và phát triển của các loại vật này
cũng do hai loại khí âm, dương hợp lại mà thành. Do đó, khi khái quát về sự ra đời
và phát triển của vũ trụ, giáo lý Cao Đài thường đề cập đến công thức:
- Hỗn ngươn (vô vi) sinh Thái cực (vô cực)
- Thái cực sinh Lưỡng nghi
- Lưỡng nghi sinh Tứ tượng
- Tứ tượng sinh Bát quái
Từ Bát quái, muôn loài vạn vật tiếp tục sinh sôi nẩy nở…
Đây là quan điểm của Đạo giáo, hoàn toàn không mới ở Việt Nam nói
chung và Nam Bộ nói riêng, bởi vì Đạo giáo xuất hiện ở Việt Nam từ rất sớm với
các phái Thần tiên, Phù chú, Phong thủy, Bói toán… và đã phát triển mạnh mẽ
vào thời tự chủ (từ thế kỷ thứ X). Giới trí thức phong kiến chú ý đến Đạo giáo bởi
tư tưởng triết học Lão – Trang, còn người dân bình thường thì quan tâm đến bởi
yếu tố Thần tiên, Đồng cốt, Phương thuật…(CT:1). Chính yếu tố Thần tiên, Đồng
cốt, Phương thuật và tư tưởng Lão – Trang đã ảnh hưởng đến tư tưởng Vũ trụ
quan trong đạo Cao Đài. Đây là quan điểm hoàn toàn không mới đối với người
Việt nhưng cái mới trong quan điểm này là sự xuất hiện của Đấng tạo hóa (Đức
Chí Tôn hay Ngọc Hoàng Thượng đế), làm chủ và điều hành quá trình tạo hóa của
vạn vật. Các vị Phật, Tiên, Thánh, Thần đều được phân cấp và có nhiệm vụ, vai
62
trò rõ ràng trong việc tạo dựng Càn khôn. Họ lại là những người thừa hành mệnh
lệnh của Thượng đế (Đấng tạo hóa). Đây chính là cái hay và chủ đích của những
người tạo nên giáo lý Cao Đài.
Giáo lý của Cao Đài luôn hướng đến mục đích qui nguyên tam giáo, hiệp
nhất ngũ chi để giải thích cho sự tạo tác vũ trụ và hình thành tư tưởng đại đồng
tôn giáo. Tam giáo bao gồm Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo là các tôn giáo có
ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống văn hóa của cộng đồng người Việt và đã trở
thành hệ tam giáo đồng nguyên trong tư tưởng văn hóa Việt. Khi giải thích cho
quan điểm tam giáo đồng nguyên (CT:1) hoặc qui tam giáo của mình, Thánh giáo
của đạo Cao Đài cho rằng các tôn giáo trước không còn đủ khả năng cứu rỗi nhân
loại (CT:8) nên đạo Cao Đài phải ra đời để cứu độ chúng sanh. Nhưng đạo Cao
Đài không phải là một tôn giáo mới hoàn toàn mà sẽ chọn lựa, qui hợp những gì
“tinh tú” nhất của các tôn giáo trước còn sử dụng được để đưa vào trong tôn giáo
của mình nhằm thống nhất giáo lý. Chính vì thế mà yếu tố Tam thanh trong Đạo
giáo của người Việt gồm Thượng thanh, Ngọc thanh, Thái thanh với các vị thần
tối thượng là Nguyên Thủy Thiên tôn, Lĩnh Bảo Đạo quân, Thái Thượng Lão quân
(CT:1) đã được đạo Cao Đài chuyển hóa thành tam giáo gồm Phật giáo, Đạo giáo,
Nho giáo. Ý tưởng này còn được biểu hiện trong câu khấn của tín đồ dành cho
Đức Chí tôn (Ngọc Hoàng Thượng đế) là Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha
Tát. Trong đó:
- Cao Đài chỉ về Nho giáo, có nghĩa là cái Đài cao rất mực (Thái-cực) ngôi
của Đấng Chúa tể càn khôn mà Nho giáo sùng bái dưới biểu tượng Thượng đế.
- Tiên Ông chỉ về một vị Đại giác Kim Tiên trong Đạo giáo.
- Đại Bồ Tát Ma Ha Tát chỉ về phẩm vị của một vị Phật trong Phật giáo.
Từ tư tưởng qui nguyên Tam giáo ấy, đạo Cao Đài đã xây dựng nên một
quan điểm nữa là Hiệp ngũ chi, nghĩa là gộp 5 nhánh đạo về một mối.
Năm nhánh đạo đó là Phật đạo, Tiên đạo, Thánh đạo, Thần đạo và Nhân
đạo (CT:9). Trong đó, Phật vì thương đời mà tìm cơ giải khổ; Tiên vì thương đời
mà bày cơ thoát khổ; Thánh vì thương đời mà dạy cơ thọ khổ, Thần vì thương đời
mà lập cơ thắng khổ; Nhơn vì thương đời mà đạt cơ tùng khổ.
63
Đạo Cao Đài chọn các đấng đại diện cho Ngũ chi đạo kể trên để qui
nguyên trong việc thờ tự của mình là:
- Đức Phật Thích Ca đại diện Phật đạo
- Đức Lý Thái Bạch đại diện Tiên đạo
- Đức Chúa Jêsu đại diện Thánh đạo
- Đức Khương Thượng (Khương Tử Nha) đại diện Thần đạo
- 7 cái ngai (1 Giáo Tông, 3 Chưởng Pháp, 3 Đầu Sư) đại diện Nhơn đạo
Nói về Ngũ chi hiệp nhất, Thánh giáo của đạo Cao Đài giải thích, các tôn
giáo trước đều do Thượng đế lập nên. Tùy theo mỗi vùng mà lập nên mỗi đạo cho
hợp với phong tục tập quán của từng dân tộc, nhưng nay thế giới đã đại đồng, do
đó cần thiết phải hiệp nhất (CT:10), tức là các tôn giáo có trên thế giới về một
mối. Còn Ngọc Hoàng Thượng đế, tín đồ Cao Đài gọi là đấng tối cao hay Chúa tể
của Càn khôn thế giới, là đấng cai quản các tôn giáo ấy. Người ta cho rằng, vì
muốn hiệp nhất các tôn giáo và có đủ quyền năng để thuyết phục và cai quản các
tôn giáo khác, Ngọc Hoàng Thượng đế đã không giáng trần làm người phàm tục
như các đấng Giáo chủ trước mà dùng huyền diệu thiêng liêng của mình để điều
hành, cai quản tôn giáo của mình. Trong cùng quan điểm này, người ta tin rằng
Ngọc Hoàng Thượng đế chỉ có dùng huyền diệu mới có thể thu phục được các tôn
giáo khác, chứ nếu thân mang xác phàm, Người sẽ không đủ khả năng hợp nhất
Tam giáo, Ngũ chi đạo. Vì vậy, Giáo chủ của đạo Cao Đài là một Giáo chủ vô vi,
không có xác phàm như các tôn giáo có trước. Chính từ yếu tố này mà đạo Cao
Đài mang sắc thái mới mẽ hơn so với các tôn giáo khác.
Như vậy, tư tưởng về vũ trụ quan của đạo Cao Đài là sự tổng hợp của các
giáo lý có trước và từ đó đã tạo nên một thế giới thần linh có sự “phân tầng” theo
vũ trụ quan ấy; trong đó chịu trách nhiệm cao nhất ở “xã hội” này là Ngọc Hoàng
Thượng đế, kế đến là các vị Phật, Tiên, Thánh, Thần. Với sự phân tầng ấy, vũ trụ
quan (thế giới siêu linh) của đạo Cao Đài là một xã hội thiêng liêng có thứ bậc.
Các đấng giáo chủ, đại trí, đại giác của những tôn giáo trước như Thích ca, Khổng
tử, Lão tử, Jêsu… đều là những bậc thừa hành mệnh lệnh của Thượng đế hoặc là
chiếc thân của Thượng đế xuống trần để gầy dựng tôn giáo nhằm cứu rỗi nhân loại
64
thoát khỏi sự đau khổ ở thế giới trần tục. Tín đồ Cao Đài tin rằng, đến khi đạo Cao
Đài ra đời, các tôn giáo đã hết vai trò cứu rỗi nhân sinh, nên các đấng giáo chủ ấy
được qui về đạo Cao Đài để hợp nhất trong việc giải thoát nhân loại lần cuối cùng.
* Sự ra đời của con người
Về nguồn gốc ra đời của con người, giáo lý Cao Đài có điểm mới so với
các tôn giáo trước, đặc biệt là so với Phật giáo và Công giáo. Phật giáo không giải
thích về sự phát khởi của con người trong vũ trụ mà chỉ nói đến sự hình thành con
người như con người được hình thành phải có ba yếu tố căn bản và tập hợp nhiều
điều kiện nhân duyên khác nhau. Ba yếu tố căn bản đó là người mẹ trong thời kỳ
có thể thụ thai, cha mẹ có sự gần gũi và có sự hiện diện của Gandhabha (Kiết sinh
thức). Ngoài ba yếu tố này, con người còn bị chi phối bởi các điều kiện nhân
duyên cần thiết như vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc,
danh sắc duyên sáu nhập, sáu nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái
duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu,
não cùng sanh khởi. Còn Công giáo cho rằng con người do Thượng đế tạo ra.
Giáo lý Cao Đài không giải thích như trên mà cho rằng con người có sự tiến hóa
của nó.
Theo giáo lý Cao Đài, khi Trời, Đất được tạo lập xong thì thảo mộc được
hình thành do hai khí âm, dương tạo dựng. Thảo mộc nhờ hai khí này mà phát
triển đơm hoa, kết trái, thành hạt. Từ hạt lại sản sinh thêm để duy trì nòi giống và
lai tạo để hình thành nên nhiều dạng thảo mộc khác nhau. Nhưng vì thảo mộc là
sản phẩm do Trời, Đất tạo thành nên có một phần hồn. Phần hồn này do Thượng
đế, người chủ quản ngôi Thái cực, nắm giữ. Thảo mộc tiến hóa mãi, muôn vạn
kiếp mới bước sang loài cầm thú. Loài cầm thú đã được ban hai phần hồn. Cầm
thú cũng luôn tiến hóa; tiến hóa đến muôn vạn kiếp thì trở thành người. Khi thành
người, con người có đầy đủ ba hồn và bảy vía. Đây được xem là sản phẩm tối cao
trong muôn loài vạn vật mà Thượng đế tạo thành và cai quản trong trời đất. Để
được trở thành người, muông thú phải trải qua công phu khổ hạnh, muôn đắng
ngàn cay, mãn kiếp này sang vạn kiếp sau mới tạo thành [5:165]. Tuy nhiên,
những con thú mới thành người thì khờ khạo, ngu ngây, tính tình độc hiểm.
65
Nhưng khi con người biết xả thân giúp đời thì chuyển kiếp đôi ba chục lần cũng
trở nên minh mẫn, khôn ngoan; và cứ xả thân giúp đời -> tiến hóa mãi, chuyển
kiếp mãi thì trở thành người khôn ngoan, nắm bắt được mọi lẽ trong trời, đất. Khi
muốn đạt đến phẩm vị Tiên, Phật… thì con người phải nhất tâm khổ hạnh, xả thân
vì đời, không cầu danh lợi… mới mong đạt đến; bởi vì Phật, Tiên, Thánh… là
những phẩm vị trên loài người, sống gần với Thượng đế.
Khi trình bày về quá trình tiến hóa từ thảo mộc đến con người, giáo lý Cao
Đài dùng gốc và ngọn để phân định ra các dấu hiệu nhận biết. Gốc được xem là
nơi khởi nguồn của sự tinh túy, là cái đầu điều khiển mọi hoạt động của cơ thể.
Ngọn là những yếu tố được sinh ra từ gốc, do gốc điều khiển. Do đó, thảo mộc
không bì được với muông thú và không thể sánh ngang với muông thú là do gốc
(cái đầu) của nó nằm dưới đất, ngọn đưa lên trời. Điều này có nghĩa là sự tinh túy
do khí âm quản lý, nên trí khôn của thảo mộc gần như không có. Đến khi thảo
mộc phát triển thành muông thú. Lúc đó, gốc (cái đầu) của muông thú nằm ngang
với cơ thể, tiếp giáp được với khí âm và dương nên trí khôn phát triển hơn và
chơn hồn được hình thành thêm. Nhưng vì đầu ngang với cơ thể, nên muông thú
không phân biệt được phải trái, trắng đen, giết hại lẫn nhau… do đó, không thể so
sánh được với con người. Con người do cái gốc (cái đầu) nằm trên cùng của cơ
thể nên tiếp xúc khí dương nhiều hơn và trở nên thông minh hơn tất cả muôn loài,
biết phân biệt phải trái, trắng đen, biết đâu là việc tốt, việc lành… do đó, chơn hồn
cũng được hình thành nhiều hơn muông thú. Nhưng khi con người trở nên quá
khôn ngoan lại bắt đầu sinh ra lòng tà, dục vọng, ham tài, hám sắc… cho nên khi
chết lại quay trở về với kiếp thú. Đó là luật nhân quả trong Nhân sinh quan của
giáo lý Cao Đài.
Như vậy, theo cách lý giải trên, nguồn gốc của con người không phải do sự
tạo tác của đấng siêu linh mà do quá trình tu luyện tạo nên. Vì vậy, để trở thành
các bậc đại trí, đại giác trong thế giới siêu sinh, con người cũng phải tiếp tục tu
hành. Tu hành là cơ chế phát triển của con người; và quan niệm này đã chi phối
hành vi trong đời sống tôn giáo của tín đồ đạo Cao Đài.
66
2.1.2. Tin vào thời mạt kiếp
Thời kỳ mạt kiếp còn gọi là thời kỳ mạt pháp được đề cập rất nhiều trong
các tôn giáo nói chung và tôn giáo bản địa ở Nam Bộ nói riêng với các cụm từ như
Tận thế, Ngày phán xét cuối cùng, Hội Long hoa… Đạo Cao Đài cũng đề cập đến
thời kỳ mạt kiếp bằng sự phân chia các thời kỳ trong việc cứu rỗi nhân loại. Theo
giáo lý của Cao Đài, từ khi xuất hiện loài người cho đến hiện nay đã trải qua hai
lần cứu rỗi là nhứt kỳ phổ độ, nhị kỳ phổ độ.
* Nhất kỳ phổ độ
Nhất kỳ phổ độ [71] hay là thời kỳ thượng nguơn. Đây là thời kỳ con người
mới được khai sinh nên còn giữ được bản tánh thiện lương của Thượng đế ban
cho, nên có cuộc sống hòa hiệp, tương thân tương ái. Nhưng càng về sau, con
người trở nên u mê, xuất hiện lòng tà làm mất dần bản tính lương thiện, trở nên
xấu xa độc ác và khi chết bị đọa đày khổ ải rất thương tâm. Theo đạo Cao Đài,
Thượng đế mở lòng hiếu sinh, đại từ đại bi, khai đạo để phổ hóa chúng sanh quay
về nẻo phải, nên người đã lập nên các tôn giáo khác nhau nhằm cứu rỗi nhân loại.
Theo quan niệm của đạo Cao Đài, các tôn giáo xuất hiện trong thời kỳ này là:
+ Phật giáo do Đức Nhiên Đăng Cổ Phật mở đạo ở Ấn Độ
+ Đạo giáo do Đức Thái Thượng Đạo Tổ (Thái Thượng Lão Quân) mở đạo
ở Trung Quốc
+ Nho giáo do Vua Phục Hy mở đạo cũng ở Trung Quốc
Ngoài ra còn có Do Thái giáo do Thánh Moise mở đạo ở nước Do Thái.
Thời kỳ này thuộc thời Thái cổ của nhơn loại. Con người lúc bấy giờ chưa có chữ
viết rõ ràng nên kinh sách được lưu lại bằng truyền khẩu. Đến khi con người phát
minh ra chữ viết, những câu chuyện truyền khẩu được ghi chép lại, do đó đôi chỗ
trở nên mơ hồ, không rõ ràng, vì vậy mà thất truyền chơn giáo.
* Nhị kỳ phổ độ
Nhị kỳ phổ độ [71] hay là thời kỳ trung nguơn. Thời kỳ này xuất hiện là do
thời kỳ thứ nhất bị thất lạc chơn truyền, không thể tiếp tục cứu rỗi nhân loại được
nữa. Hơn nữa, trình độ tiến hóa của nhơn loại bước vào giai đoạn phát triển mạnh.
Con người có xu hướng tranh giành quyền lực, lãnh thổ, tranh giành quyền lợi cá
67
nhân mà mất hết nhân tính. Do đó, Thượng đế một lần nữa mở lòng từ bi, để các
đấng Phật, Tiên, Thánh, Thần giáng trần nhằm chấn hưng các mối đạo đã mở
trước đó và cũng để thích hợp với đà tiến hóa của nhơn loại nhằm đủ sức kềm giữ
tâm tánh của nhơn loại, đem nhơn loại trở về con đường đạo đức. Do đó, vào thời
kỳ này các vị Phật, Tiên, Thánh giáng trần như:
+ Đức Phật Thích Ca giáng sinh ở Ấn Độ nhằm chấn hưng Phật giáo trong
thời kỳ thứ nhất và xây dựng hệ thống giáo lý phong phú, thiết thực để giải khổ
cho nhơn loại.
+ Đức Lão Tử giáng sinh ở Trung Hoa cũng nhằm chấn hưng Đạo giáo.
+ Đức Khổng Tử giáng sinh để chấn hưng Nho giáo.
+ Đức Chúa Jêsu giáng sinh để chấn hưng Do Thái giáo thành Công giáo.
Đến nay là thời kỳ mạt kiếp, con người sẽ bị tận diệt để xây dựng một thế
giới mới, nên mới diễn ra tam kỳ phổ độ, nhằm cứu rỗi lần cuối cùng cho nhân
loại. Nếu không tu hành, con người sẽ bị tận diệt; còn tu hành tinh tấn sẽ được cứu
rỗi. Ngày tận diệt đó sẽ bắt đầu bằng ngày Hội, gọi là Hội Long hoa, trong đó Đức
Phật Di Lặc sẽ làm chủ ngày Hội này để phân định kẻ tốt người xấu. Con người
muốn được cứu rỗi trong thời kỳ này, thì không thể tu theo các tôn giáo của Nhất
kỳ phổ độ hay Nhị kỳ phổ độ mà phải theo Tam kỳ phổ độ, nghĩa là theo đạo Cao
Đài. Vì vậy, tín đồ Cao Đài cho rằng, đạo Cao Đài chính là tôn giáo duy nhất có
thể cứu rỗi nhân sinh trong thời mạt kiếp, thời này được gọi là Tam kỳ phổ độ.
* Tam kỳ phổ độ
Tam kỳ phổ độ hay còn gọi là thời kỳ hạ ngươn, chính là giai đoạn của thời
kỳ mạt kiếp. Giáo lý Cao Đài cho rằng vào thời kỳ này, trình độ tiến hóa về trí
thức, khoa học và tinh thần của nhơn loại đạt tới đỉnh siêu phàm; giáo lý của các
tôn giáo trong thời Nhị kỳ phổ độ không còn đủ sức kềm chế tâm lý của nhơn loại
nên thế gian trở thành một trường tranh đấu quyết liệt, mạnh được yếu thua, khôn
còn dại mất, các loại vũ khí giết người hàng loạt được chế tạo, kẻ bạo tàn núp
dưới hai chữ nhân nghĩa để dối gạt nhơn sanh. Do đó, Thượng đế không nỡ ngồi
yên nhìn đám con cái thương yêu của mình chém giết lẫn nhau, đi đến cơ tận diệt,
nên người lại một lần nữa và cũng là lần cuối cùng mở đạo để cứu độ nhơn loại
68
trước khi xảy ra cuộc Tận thế nhằm chuyển nhơn loại qua thời kỳ Thượng nguơn
Thánh đức mới. Vì vậy, lần cứu độ này được gọi là Tam kỳ phổ độ do chính
Thượng đế đích thân mở đạo. Người không giáng trần để mang xác phàm mà
dùng huyền diệu thiêng liêng, sử dụng cơ bút để mở đạo. Đạo này do chính
Thượng đế làm chủ để qui tam giáo, hiệp ngũ chi nhằm gom tất cả các tôn giáo đã
có từ trước vào làm một, tạo ra một đạo duy nhất để cứu rỗi nhân loại lần cuối
cùng. Điều này cũng được trình bày khá rõ trong Thánh giáo của đạo Cao Đài
(CT:11).
Đây có thể nói là “tham vọng” mà đạo Cao Đài ra đời ở Nam Bộ vào đầu
thế kỷ XX muốn đạt đến.
Như vậy, quan điểm về thời kỳ mạt kiếp không phải mới trong tôn giáo,
nhưng đạo Cao Đài muốn nhấn mạnh yếu tố mạt kiếp này không ngoài mục đích
nhằm phát triển tôn giáo của mình. Đây chính là chủ đích của những người xây
dựng giáo lý Cao Đài nhằm thu hút và định hướng hành vi của tín đồ trong tôn
giáo.
2.1.3. Tin vào sự giải thoát và sự đọa đày
* Tin vào sự giải thoát
Sự giải thoát chính là sự định hướng cho hành vi của tín đồ trong việc tiếp
cận, học đạo và hành đạo trong tôn giáo.
Giáo lý Cao Đài cũng phân định thế giới quan thành ba cõi như các tôn
giáo khác, là Thiên đường, Địa ngục và Trần gian. Con người sinh sống tại Trần
gian, đích đến của sự giải thoát là Thiên đường.
Thiên đường của đạo Cao Đài là nơi ngự của Thượng đế, người khai sinh
và nắm giữ vũ trụ. Người đứng ở Ngôi Thái cực và trở thành đấng tối cao, mà đạo
Cao Đài gọi là Đức Chí Tôn. Do đó, Thiên đường là cõi Trời, là cõi Thiêng liêng
hằng sống. Nơi đó chỉ toàn là an vui, hạnh phúc, tốt lành [71]. Thiên đường của
đạo Cao Đài được chia 4 lớp:
- Lớp cao nhất có 3 từng trời. Từng trời thứ nhất gọi là Thái cực, nơi đây có
tòa Bạch Ngọc kinh, nơi Thượng đế ngự trị. Từng thứ hai gọi là Ngôi dương và
từng thứ ba là Ngôi âm. Mỗi từng do một vị Thiên đế chưởng quản. Thiên đế là
69
chiết thân của Thượng đế. Ba từng trời này hợp lại gọi là Tam Thiên vị (ba ngôi
Trời).
- Lớp thứ hai có 33 từng trời. Mỗi từng trời cũng do một vị Thiên đế
chưởng quản. 33 từng trời này hiệp với 3 từng trời trên gọi là Tam thập lục thiên
(36 từng Trời).
- Lớp thứ ba có 3 từng trời với các tên gọi như Hư vô thiên do Đức Nhiên
Đăng Cổ Phật chưởng quản; Hội Nguơn thiên và Hỗn Nguơn thiên do Đức Di Lặc
chưởng quản. 3 từng trời hiệp lại gọi là Cõi Niết Bàn.
- Lớp thứ tư có 9 từng trời với các tên gọi từ trên xuống như Tạo Hóa thiên
do Phật Mẫu cai quản và cai quản chung cả 9 từng trời này; Phi Tưởng thiên do
Đức Từ Hàng Bồ Tát cai quản; Hạo Nhiên thiên do Đức Chuẩn Đề Bồ Tát và Phổ
Hiền Bồ Tát cai quản; và tiếp theo là Kim thiên, Xích thiên, Huỳnh thiên, Thanh
thiên. Hai từng trời thấp nhất không rõ tên gọi, chỉ biết một từng có vườn Đào tiên
của Phật Mẫu do Nhị nương trong Diêu Trì Cung cai quản và từng còn lại có vườn
Ngạn Uyển do Nhất nương cai quản. Chín từng trời này gọi là Cửu Trùng Thiên,
nếu cộng với 3 từng ở lớp thứ ba sẽ trở thành 12 từng trời và được gọi là Thập nhị
Khai thiên.
70
Sơ đồ 1: Thiên đường trong giáo lý Cao Đài
(Sơ đồ: Huỳnh Ngọc Thu)
Người tu hành đắc đạo sẽ được lên Thiên đường, nhưng ứng với công phu
tu hành của từng người mà được vào từng cõi riêng trên Thiên đường. Công phu
càng cao thì sự thành đạo càng lớn và sẽ được vào những cõi thiêng liêng cao hơn.
Quan điểm giải thoát ở cõi Thiên đường như trên hoàn toàn không mới đối
với tôn giáo khác; nhưng cái mới ở đây là Thiên đường được chia thành 4 bậc,
Ngôi dương Ngôi Thái cực Ngôi âm
33 từng Trời
Hỗn Nguơn thiên
Hội Ngươn thiên
Hư Vô thiên
Tạo Hóa thiên
Phi Tưởng thiên
Hạo Nhiên thiên
Kim thiên
Xích thiên
Huỳnh thiên
Thanh thiên
Vườn Đào tiên
Vườn Ngạn Uyển
Tam
thập
lục
thiê
n
Cõi
Niế
t B
àn
Cử
u t
hiê
n K
hai
hóa
Thập
nhị
khai
thiê
n
71
gồm: Tam Thiên vị, Tam thập lục thiên, Cõi Niết Bàn, Cửu thiên khai hóa. Trong
mỗi bậc trên được chia thành nhiều cấp nhỏ hơn. Mỗi cấp ứng với bậc công phu tu
hành của tín đồ. Công phu tu hành càng cao, sự giải thoát của tín đồ ứng vào cấp
bậc giải thoát càng cao; được đứng vào bậc giải thoát cao, yếu tố luân hồi và sự
tận diệt càng giảm. Có thể nói, đây là sự phân định có chủ đích của những người
tạo ra giáo lý Cao Đài, giúp cho tín đồ Cao Đài dễ hình dung, dễ định hướng cho
hành vi tu đạo của mình.
Như vậy, việc cụ thể hóa từng cấp bậc trong thế giới giải thoát của đạo Cao
Đài là một yếu tố mới so với các tôn giáo khác. Sự phân chia cấp này cũng nhằm
tạo ra một triết lý dễ hiểu cho tín đồ, mà đa phần là người nông dân, ở Nam Bộ.
Qua đó, việc phân định cấp bậc cũng nhằm định hướng sự cố gắng trong hoạt
động tôn giáo của tín đồ Cao Đài.
* Sự đọa đày
Cũng giống với tín đồ của các tôn giáo khác, tín đồ đạo Cao Đài cũng tin
vào sự đọa đày của linh hồn, nơi đọa đày đó được gọi là địa ngục.
Giáo lý của đạo Cao Đài cho rằng địa ngục là nơi tối tăm, trái ngược với
cõi Thiên đường, nơi dùng để đọa đày những kẻ bất lương, tàn ác; nơi ô trược, đau
khổ nhất trong thế giới quan của tôn giáo. Trong kinh Sám hối mà đạo Cao Đài
thỉnh về từ Minh Lý đạo có vạch ra các tội mà con người phạm phải bị đày xuống
địa ngục để chịu các hình phạt. Qua kinh Sám hối này cho thấy địa ngục có 10
từng, được khái quát bằng các tranh vẽ, gọi là Thập điện diêm vương, do 10 vị
Vương (vua) quản lý như:
- Nhứt điện do Tần Quảng Vương quản lý và có nhiệm vụ xét xử các tội
nhân.
- Nhị điện do Sở Giang Vương quản lý, xử phạt những người mắc tội loạn
luân, thừa cơ ăn cắp, ăn trộm.
- Tam điện do Tống Đế Vương quản lý, xử phạt kẻ giết người cướp của,
gian dâm, đốt nhà người khác, săn bắn thú rừng.
- Tứ điện do Ngũ Quan Vương quản lý, xử phạt kẻ đo gian, đong thiếu, cho
vay cắt cổ.
72
- Ngũ điện do Diêm La Vương quản lý, xử phạt kẻ hủy hoại lúa gạo, cơm
cháo, con bất hiếu với cha mẹ.
- Lục điện do Biện Thành Vương quản lý, xử phạt kẻ đầu cơ, tích trữ, buôn
bán ép giá, gian xảo, ngược ngang, chưởi gió, mắng mưa, kêu tên thần thánh…
- Thất điện do Thái Sơn Vương quản lý, xử phạt kẻ bán thuốc phá thai, đàn
bà ngoại tình, nói tục.
- Bát điện do Bình Đẳng Vương quản lý, xử phạt kẻ bất hiếu, chứa xâu, trù
ếm người khác, làm uế trược chỗ thờ tự, phơi đồ không kiêng cữ.
- Cửu điện do Đô Thị Vương quản lý, xử phạt kẻ bớt xén tiền công quả, xúi
giục vợ chồng người phân chia, hãm hiếp, dụ dỗ trẻ thơ, viết thơ huê tình…
- Thập điện do Chuyển Luân Vương quản lý, xử phạt kẻ không kính trọng
người lớn tuổi, xúi người kiện cáo…
Quản lý chung Thập điện là Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Quan điểm Địa ngục như trên xuất phát từ Kinh Sám hối do chức sắc Cao
Đài thỉnh về từ Minh Lý đạo. Nhưng khi đọc Thánh giáo của đạo Cao Đài, chúng
tôi lại thấy cách giải thích khác khi cho rằng Địa ngục không nằm trong lòng đất
và cũng không có các Điện như trong Kinh Sám hối đề cập, mà Địa ngục nằm ở
một quả địa cầu khác. Quả địa cầu đó là cõi ô trược, do khí âm lấn át nên rất đen
tối, u minh, đó cũng là nơi dùng để đọa đày những linh hồn phạm tội (CT:12).
Phỏng vấn tín đồ Cao Đài thì được biết, đạo Cao Đài quan niệm địa ngục
hiện nay không còn nữa, vì khi đạo Cao Đài ra đời cũng là lúc cửa địa ngục được
đóng lại, giải thoát các vong hồn và ân xá kỳ ba.
H: Còn một việc này con muốn hỏi bác, khi đọc trong kinh sám hối thì có nói đến
địa ngục và miêu tả địa ngục như thế này; nhưng khi đọc trong Thánh giáo
thì thấy miêu tả địa ngục lại khác, như vậy là thế nào?
TL: Tại vì thời kỳ này là thời kỳ Chí tôn khai đạo. Chí tôn nói là đóng địa ngục,
mở tầng thiên, nên thời kỳ này không còn ma quỷ nữa. Thời kỳ trước thì ma
quỷ hiện hình, thời kỳ này thì không còn nữa. Cho nên thời kỳ này, khi mà
con người ta phạm tội lỗi thì không còn xuống địa ngục, vì đóng địa ngục
rồi, những chơn hồn đó thì hiện nay được giao cho Thất nương và Địa Tạng
vương Bồ tát quản lý để mà giáo hóa, chứ hồi trước là phải xuống địa ngục
73
để rồi phải xay, phải cưa, thì đến nay không còn nữa, vì thời kỳ nó khác; cho
nên Đức Chí tôn nói là thời kỳ đại ân xá, nên nói là đóng địa ngục, mở tầng
thiên; mở để con người ta thức tỉnh những lầm lỗi của mình, rồi mình tu
hành ăn năn sám hối để về Thượng đế, không phải như ngày xưa. Ngày xưa
bị cưa, bị xẻ; còn bây giờ thì không còn. Do đó, thời kỳ này là thời kỳ đại ân
xá kỳ ba............
H: Lúc nảy bác nói là địa ngục bị đóng, như vậy thì khi bị mất đi sẽ không còn
xuống địa ngục nữa?
TL: Đúng rồi, không còn ở địa ngục mà chỉ ở lừng chừng rồi các đấng sẽ độ trì cho
mình. Như về mặt khoa học, thì mình thấy có nhiều quả địa cầu. Đức Chí tôn
có nói quả địa cầu mình ở đây là quả địa cầu 68, mà trong cái 72 quả địa cầu,
những quả địa cầu từ 69 đến 72 thì hiện nay còn u u minh minh, không có
con người sáng suốt thông minh sinh sống. Ví dụ, một thường dân ở địa cầu
67 sẽ như là ông vua ở địa cầu 68, 4 địa cầu còn lại là u u minh minh; do đó,
khi chết sẽ đến các địa cầu này. Địa cầu này không phải là địa ngục mà mình
chỉ ở đó để các đấng độ trì hướng dẫn, mình phải tự tu hành, học hỏi để từ đó
mình đi lên, không còn bị cưa xẻ như trước nữa, với lại về triết lý của đạo
Cao Đài, khi con người tội tình gì đó còn có tòa án lương tâm của mình xét
xử, chứ không có ai xét xử cho mình, thí dụ mình làm chuyện gì ở nơi trần
gian này tốt, thì mình sẽ được các đấng ghi chép cho chúng ta làm chuyện đó
tốt, còn nếu chúng ta làm chuyện gì mà nó ác tâm, không được tốt đẹp thì
lương tâm chúng ta phán xét, tòa án phán xét chúng ta. Điều đó cũng có thể
nói là Minh cảnh đài, là một tấm kiếng mà rọi để thấy những lai lịch chúng ta
như thế nào. Cho nên đạo Cao Đài hiện nay có cái hay đó, bởi vì Thầy ngự
trong đó mà. Tất cả đều có đấng Chí tôn. Mình muốn cái gì, làm cái gì thì
Chí tôn đã biết rồi. Khi ta làm gì sai trái thì luật quả báo đều nhan nhãn
trước mắt, không có sai chạy.
(Trích phỏng vấn số: 4, PL: 2)
Như vậy, tín đồ Cao Đài khi mất đi sẽ được lên Thiên đường nhận sự phán
xét của các đấng thiêng liêng, nếu có công tu hành, tùy theo quả phước sẽ được
siêu thăng, nếu gây tội lỗi sẽ bị đày xuống trần gian để trả báo.
H: Còn địa ngục thì anh thấy trong Cao Đài có giống với các tôn giáo khác không?
TL: Điều này thì trước đây có. Trong Phật giáo, kể cả trong Thiên chúa cũng vậy,
vẫn có địa ngục mà. Cái này trước đây là có. Nhưng từ ngày Đại Đạo Tam
74
Kỳ Phổ Độ khai ra, tức là mở đạo Cao Đài ra đến nay là 84 năm, thì khi mở
đạo thì Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế đã chỉ đạo xuống dưới Diêm Vương
này, tức là ở Thập điện này, các vị coi thập điện này đã khóa cửa địa ngục,
đóng cửa địa ngục, bởi vì trong kinh có nói “đóng địa ngục mở tầng thiên”
mà. Thành thử cho nên không còn địa ngục ở cõi Diêm vương nữa, nhưng
mà bên Phật giáo vẫn duy trì, vẫn nói là còn; nhưng mà đã không còn nữa
rồi. Tại vì sau khi anh đã thác đi, đã qui thiên rồi, thì linh hồn anh về trên và
sau đó sẽ ra toàn tam giáo để phán xét tội lỗi. Thì khi mà anh có tội thì đưa
anh trở xuống trần gian này để đầu thai làm kiếp con người, tiếp tục trả ở
kiếp trần gian này thôi chứ không còn về địa ngục để chịu tội nữa. Còn nếu
anh tạo phước nhiều thì anh sẽ trở lên trên để anh tu hành học đạo tiếp và trở
thành Thần, Thánh, Tiên, Phật. Bởi vì Thần, Thánh, Tiên, Phật cũng là người
phàm mà ra.
H: Tôi hỏi lại nhé, nếu không được thì xuống lại làm người?
TL: Đúng rồi, xuống làm người để trả lại căn nghiệp của mình đã tạo ra. Khi mình
tạo căn nghiệp như thế nào thì mình sẽ lãnh hậu quả mình làm như thế đó.
Tức là phải trở về trần gian này thôi chứ không có xuống kia nữa. Cửa địa
ngục này đóng lại rồi. Bởi vì Đức Chí tôn, Ngọc Hoàng Thượng đế đã đại ân
xá rồi. Khi ngài mở đạo Cao Đài ra.
(Trích phỏng vấn số: 3, PL:2)
Điều này cho thấy, mặc dù có những giải thích khác nhau nhưng nguyên
tắc chung về sự đọa đày thì đạo Cao Đài vẫn không vượt ra khỏi lý giải của các
tôn giáo khác. Sự trừng phạt những kẻ ác là điều răn đe nhằm hướng con người
đến cái thiện, lìa cái ác.
Tóm lại, nền tảng đức tin của đạo Cao Đài là dựa trên giáo lý của đạo. Tín
đồ Cao Đài tin về nguồn gốc vũ trụ và nguồn gốc con người, tin vào một thế giới
siêu linh, tin vào thời kỳ mạt kiếp, tin vào sự giải thoát… Từ đó, hướng tín đồ đến
các hoạt động trong đời sống tôn giáo của họ như phụng thờ, tổ chức tôn giáo,
nghi lễ…
2.2. SỰ THỜ PHỤNG CỦA ĐẠO CAO ĐÀI
Việc thờ phụng của tín đồ Cao Đài được biểu hiện rõ nét qua các cơ sở thờ
tự của đạo. Hiện nay, các cơ sở thờ tự của đạo Cao Đài được chia thành ba dạng ở
ba nơi: Đền thánh, Thánh thất và Tư gia.
75
2.2.1. Thờ phụng tại Đền thánh
Đền thánh là nơi thờ Thượng đế được đặt trong khuôn viên của Tòa thánh.
Mô hình chung của Đền thánh được cấu trúc thành ba phần: Bát Quái đài, Cửu
Trùng đài và Hiệp Thiên đài.
* Bát Quái đài: là một đài cao được xây tám cạnh đều nhau theo hình
tượng của Bát Quái đồ nhằm tượng trưng cho quá trình tạo dựng vũ trụ. Bát Quái
đài là nơi thờ Đức Chí Tôn, và chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, dưới quyền chưởng
quản của Đức Chí Tôn Thượng đế" [71]. Cách thờ tự được sắp xếp theo sơ đồ sau:
Sơ đồ 2: Cách sắp xếp trên bàn thờ Cao Đài
Đức Chí Tôn
Lão Tử Thích Ca Khổng Tử
Quan Âm Lý Thái Bạch Quan Thánh
Chúa Jêsu
Khương Thái Công
Ngai Giáo tông
3 Ngai Chưởng pháp
3 Ngai Đầu sư
(Sơ đồ: Huỳnh Ngọc Thu)
Trong đó, Đức Chí Tôn, Giáo chủ của đạo Cao Đài, được thờ ở Bát Quái
đài dưới hình tượng Thiên nhãn (mắt Trời), được đặt trên quả Càn khôn (quả cầu
được sơn màu xanh có đường kính 3,3m, vẽ cung Bắc đẩu và 3.072 vì tinh tú).
Thiên nhãn được vẽ nằm ngay trên sao Bắc đẩu, ý nói Đức Chí Tôn là chúa tể Càn
khôn vũ trụ (H:39).
Phía dưới quả càn khôn là long vị các giáo chủ của các tôn giáo. Từ trong
nhìn ra, hàng đầu tiên là tam vị giáo chủ của ba đạo gồm Phật Thích Ca (Phật
giáo) ở giữa, Lão Tử (Đạo giáo) bên phải và Khổng Tử (Nho giáo) bên trái. Ba vị
này đại diện cho ba tôn giáo ở phương Đông, và cũng đại diện cho các tôn giáo đã
ra đời cứu rỗi nhân loại kể từ thời khai thiên lập địa. Giáo lý đạo Cao Đài xem họ
xuất thế nhằm để phát triển ba tôn giáo nói trên, do đó họ được thờ nhằm mang ý
76
nghĩa đại diện của ba tôn giáo (Nho, Phật, Đạo) trong thời kỳ phát triển và cũng
mang ý nghĩa qui nguyên tam giáo của đạo Cao Đài.
Dưới long vị Tam giáo là thờ Tam trấn, gồm ba long vị: Lý Thái Bạch ở
giữa, Quán Âm Bồ Tát bên phải và Quan Thánh Đế Quân bên trái. Ba vị này có
nhiệm vụ bảo vệ và phát triển nền Đạo của Đức Chí Tôn và thay mặt ba đấng giáo
chủ trong Tam giáo cầm quyền tam giáo trong đạo Cao Đài. Trong đó, Lý Thái
Bạch được gọi là Nhất trấn Oai nghiêm, thay mặt cho Lão Tử cầm quyền Tiên
giáo (Đạo giáo); Quán Thế Âm Bồ Tát gọi là Nhị trấn Oai Nghiêm, thay mặt cho
Thích Ca cầm quyền Phật giáo; Quan Thánh Đế Quân gọi là Tam trấn Oai
nghiêm, thay mặt cho Khổng Tử cầm quyền Nho giáo. Ba vị này còn là những
người đại diện cho Bi (thương xót – Quan Âm), Trí (sáng suốt – Lý Thái Bạch) và
Dũng (ý chí mạnh mẽ – Quan Thánh) trong tư tưởng của đạo Cao Đài.
Dưới long vị của Lý Thái Bạch là long vị của Jêsu, đại diện cho Thánh
Đạo; dưới nữa là long vị của Khương Tử Nha, đại diện cho Thần Đạo; sau đến
Bảy cái ngai được sắp theo ba hàng, đại diện cho Nhơn Đạo.
Với cách sắp xếp thờ tự như trên, vô hình chung cho thấy cơ cấu tổ chức tại
Bát Quái đài như sau:
- Cao nhất là Đức Chí Tôn, giáo chủ, người cầm giềng mối đạo của Cao
Đài.
- Tiếp đến là giáo chủ của ba tôn giáo, gồm Thích Ca, Lão Tử, Khổng tử.
- Sau đó là Lý Thái Bạch, Quan Âm, Quan Thánh, Chúa Jêsu, Khương Tử
Nha và vị trí của các vị tại thế đang điều hành tổ chức tôn giáo Cao Đài.
Xét về ý nghĩa, cách tổ chức như trên biểu hiện ý nghĩa là Tam giáo qui
nguyên, Ngũ chi hiệp nhất. Trong đó, Tam giáo là Phật giáo (Thích Ca), Đạo giáo
(Lão Tử) và Nho giáo (Khổng Tử); Ngũ chi là Phật đạo (Thích Ca), Tiên Đạo (Lý
Thái Bạch), Thánh Đạo (Chú Jêsu), Thần Đạo (Khương Tử Nha), Nhơn Đạo (bảy
cái ngai).
Sau các Long vị trên là đến Thiên bàn (Bàn thờ Trời). Trên Thiên bàn đặt
các vật phẩm theo mô hình chữ Vương (王) như sau:
77
Sơ đồ 3: Chữ Vương trên Thiên bàn
2 1 3
4 5 6 7 8
9 10 11
Trong đó:
Số 1 là đèn thái cực Số 5, 6, 7 là ba ly rượu trắng
Số 2 là dĩa trái cây Số 8 là ly nước trắng
Số 3 là bình hoa Số 9 và 11 là hai cây đèn
Số 4 là ly nước trà Số 10 là lư nhang
(Sơ đồ: Huỳnh Ngọc Thu)
+ Các chức sắc liễu đạo được thờ trên bàn thờ nằm dưới Thiên bàn.
* Cửu Trùng đài: Trong kiến trúc của Đền thánh, Cửu Trùng đài là phần
nối liền với Bát Quái đài. Nơi đây được chia thành 9 bậc, biểu thị cho 9 phẩm tu
của Cửu Trùng đài.
Cách bày trí của Cửu Trùng đài: sau bàn thờ của các chức sắc liễu đạo là
bảy cái ngai được sơn son, thiếp vàng của bảy vị chức sắc cao cấp Cửu Trùng đài.
Đầu tiên là ngai của Giáo tông, sau đến ba ngai của Chưởng pháp, rồi đến ba ngai
của Đầu sư. Sau ba ngai của Đầu sư là Bàn Nội nghi. Trên Bàn Nội nghi đặt các
vật phẩm như mâm để sớ (1), đĩa trái cây (2), bình bông (3), lư trầm (4), lư hương
(5), đôi đèn (6,7). Sau Bàn Nội nghi là khoảng trống để tín đồ quì hành lễ.
Sơ đồ 4: Sơ đồ Cửu Trùng Đài
Ngai Giáo tông
Ngai Thượng Chưởng pháp Ngai Thái Chưởng pháp Ngai Ngọc Chưởng pháp
Ngai Thượng Đầu sư Ngai Thái Đầu sư Ngai Ngọc Đầu sư
(1)
(2) (4)
78
(3)
(6) (5)
(7)
(Sơ đồ: Huỳnh Ngọc Thu)
* Hiệp Thiên đài: được xây dựng nối liền với Cửu Trùng đài. Nơi đây có
hai lầu được xây cao lên, gọi là lầu chuông, lầu trống. Nhìn từ trong ra, lầu bên
phải dùng để treo cái chuông lớn, gọi là Bạch Ngọc Chung đài. Lầu bên trái dùng
để treo cái trống, gọi là Lôi Âm Cổ đài. Giữa hai lâu là Tịnh tâm điện, bên trong
đặt bàn thời Hộ pháp, tượng Hộ pháp và bài vị của Thập nhị thời quân (H:41). Sau
tượng Hộ pháp là chữ Khí (氣) bằng Hán tự. Dưới tượng Hộ pháp đặt bàn thờ Hộ
pháp. Trên bàn thờ có vật phẩm như trái cây (1), bình hoa (2), hai ly nước (gồm
nước trà và nước trắng – 3,4), ba ly rượu (5,6,7), lư hương (8), hai cây đèn (9,10).
Bên trái bàn thờ Hộ pháp treo cây phướn Thượng phẩm (上品), bên phải treo cây
phướn Thượng sanh (上生).
Sơ đồ 5: Sơ đồ Hiệp Thiên đài
Lôi Âm Cổ đài Tịnh tâm điện Bạch Ngọc Chung đài
Tượng Hộ pháp
Phướn Thượng phẩm
(1) (2)
(3) (5) (6) (7) (4)
(9) (8) (10)
Phướn Thượng sanh
(Sơ đồ: Huỳnh Ngọc Thu)
2.2.2. Thờ phụng tại Thánh thất
Mô hình của Thánh thất cũng giống với Tòa thành, gồm ba đài, nhưng cấu
trúc và cách thờ tự gọn hơn.
* Bát Quái đài của Thánh thất không đặt quả Càn khôn. Thiên nhãn được
được vẽ hoặc in trên giấy, được đóng khung, lộng kính cẩn thận. Bài vị của Tam
giáo, Tam trấn được sắp xếp theo thứ tự như ở Đền thánh, nhưng không chạm
khắc cầu kỳ.
* Cửu Trùng đài không đặt bảy ngai, chỉ đặt bàn Nội nghi
79
* Hiệp Thiên đài không đặt tượng Hộ pháp, chỉ để chữ Khí (氣)
2.2.3. Thờ phụng tại tƣ gia
Trong gia đình của tín đồ chỉ đặt bàn thờ, gọi là Thiên bàn, không có bàn
thờ Hộ pháp. Thiên bàn được đặt tại nơi trang trọng nhất trong nhà (H:43-47).
Thiên bàn cũng được sắp xếp theo mô hình Thiên bàn chung của Đền thánh.
Nhưng, bức Thiên nhãn thì tùy theo mỗi chi phái mà cách bố trí khác nhau. Bức
Thiên nhãn của Tây Ninh có vẽ thêm Tam giáo, Tam trấn; của Ban Chỉnh đạo chỉ
có Tam giáo; của Tiên Thiên và Truyền giáo Cao Đài không có Tam giáo, Tam
trấn (H:45-46). Thiên bàn trong gia đình được che rèm cẩn thận để giữ không gian
tôn nghiêm, khi hành lễ rèm mới được vén lên.
Ngoài các nơi thờ tự như trên, chi phái Tây Ninh còn có thêm Điện Thờ
Phật Mẫu, là nơi thờ Diêu Trì Kim Mẫu và Cửu vị Tiên Nương (H:40). Tại Tòa
thánh, Điện Thờ Phật Mẫu được đặt trong Báo Ân Từ; còn ở các Thánh thất, điện
Thờ Phật Mẫu được xây dựng riêng có qui mô ngang với Thánh thất. Ý nghĩa của
điện Thờ Phật Mẫu là thờ Mẹ; còn Đền thánh hay Thánh thất là thờ Cha. Ở các chi
phái khác, không có điện thờ Diêu Trì Kim Mẫu và Cửu vị Tiên Nương, nhưng có
xây dựng Báo Ân Từ dùng để thờ các vị tiền bối có công với đạo và các vị nhân sĩ
có công với nhân loại.
Nhìn chung, cách thờ phụng của đạo Cao Đài được biểu hiện qua ba nơi:
Đền thánh, Thánh thất và Tư gia. Hình thức thờ phụng ở ba nơi này tuy có khác
nhau về qui mô, nhưng biểu trưng và ý nghĩa đều giống nhau, đều hướng đến một
đấng tối cao duy nhất, Ngọc Hoàng Thượng đế, và luôn biểu hiện Tam giáo qui
nguyên, Ngũ chi hiệp nhất, hai yếu tố cốt lõi trong giáo lý Cao Đài.
2.3. TỔ CHỨC CỦA ĐẠO CAO ĐÀI
2.3.1. Cơ cấu tổ chức
Cơ cấu tổ chức của đạo Cao Đài được hình thành trước khi tổ chức lễ ra
mắt Đạo tại Chùa Từ Lâm vào tháng 11 năm 1926. Sau đó, Tân luật và Pháp
Chánh truyền (đây được xem là hai bộ luật của đạo) được ban hành thì cơ cấu này
dần được hoàn thiện. Cơ cấu tổ chức của đạo Cao Đài theo hình thức Tam Đài:
Bát Quái đài, Cửu Trùng đài và Hiệp Thiên đài.
80
* Bát Quái đài
Đây là cơ quan thiêng liêng của đạo Cao Đài, nơi thờ Đức Chí Tôn và các
đấng thiêng liêng trong đạo. Các đấng này đại diện cho thế lực ở cõi vô hình mà
tín đồ Cao Đài tin tưởng, hướng đến để chiêm bái, cầu nguyện.
Như đã trình bày, thế giới thiêng liêng trong đạo Cao Đài được chia thành
nhiều thứ bậc, trong đó cao nhất là Ngọc Hoàng Thượng đế, các bậc thiêng liêng
còn lại giữ các nhiệm vụ như Tam giáo, Tam trấn, hoặc đại diện cho các chi trong
đạo như Thần đạo, Thánh đạo, Tiên đạo, Phật đạo.
Như vậy, cơ cấu tổ chức tại Bát Quái Đài gồm những cá thể thuộc về phần
Thiêng liêng, là những đấng siêu linh ở cõi vô hình, không có xác thân tại thế.
Trong đó, đứng đầu là Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, sau đến các vị giáo chủ của
các tôn giáo khác nhau. Đây được xem là cơ quan cao nhất của đạo Cao Đài.
* Cửu Trùng đài
Cửu Trùng Đài là cơ quan hữu hình, được cầm quyền bởi những người còn
đang tại thế. Cơ quan này được lập sau lễ khai đạo, có nhiệm vụ tiếp nhận, phổ độ
và dìu dắt chúng sanh trở về với Thượng đế. Do đó, đây là cơ quan duy nhất trong
đạo Cao Đài được chia thành hai phái (lưỡng phái) gồm nam phái và nữ phái.
Trong cơ quan này, nam phái được chia thành 9 bậc, gọi là cửu phẩm Thần Tiên.
Người đứng đầu là Giáo tông, sau đến Chưởng pháp, Đầu sư, Phối sư, Giáo sư,
Giáo hữu, Lễ sanh, Chánh – Phó trị sự và Đạo hữu. Chức phẩm nam phái ở cơ
quan này được chia thành bốn hạng, gồm: chức sắc, hạng người đức hạnh, chức
việc, đạo hữu.
- Chức sắc, gồm những người giữ từ chức vị Giáo hữu đến Giáo tông. Số
lượng của chức sắc là 3.115 người, trong đó có 1 Giáo tông, 3 Chưởng pháp, 3
Đầu sư, 36 Phối sư, 72 Giáo sư, 3.000 Giáo hữu.
+ Giáo tông là người giữ chức vụ cao nhất ở Cửu Trùng Đài, được xem là
“anh cả” trong đạo, có quyền thay mặt Chí Tôn để dìu dắt tín đồ trong đường đạo
và đường đời; là người có quyền “thông công” cùng Tam Thập Lục Thiên (36 cõi
trời) và Thất thập nhị địa giới (72 thế giới) để cứu rỗi chúng sanh.
81
+ Chưởng pháp là phẩm vị thấp hơn Giáo tông, 3 người nắm giữ. Ba người
này sẽ đại diện cho ba tôn giáo là Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo, gọi là ba chi
tương ứng với các tên biểu là Thái (Phật giáo), Thượng (Đạo giáo), Ngọc (Nho
giáo) với ba màu tiêu biểu là Vàng (Phật giáo), Xanh (Đạo giáo) và Đỏ (Nho
giáo). Chưởng pháp có quyền xem xét luật lệ trước khi thi hành. Luật lệ này có
khi của Giáo tông truyền xuống, cũng có khi của Đầu sư dâng lên. Nếu hai bên
(Giáo tông và Chưởng pháp hoặc Đầu sư và Chưởng pháp) không đồng ý, phải
dâng lên cho Hộ pháp để cầu Thượng đế sửa lại. Chưởng pháp cũng giữ quyền
xem xét kinh điển trước khi phát hành. Ba vị Chưởng pháp đều có con dấu riêng.
Văn kiện, kinh sách của đạo muốn được ban hành phải đủ 3 con dấu ấy. Chưởng
pháp còn giữ nhiệm vụ can gián, sửa lỗi Giáo tông và có quyền đề xuất “truất phế”
chức Giáo tông.
+ Đầu sư: cũng gồm ba chi: Thái, Thượng, Ngọc và cũng do ba người nắm
giữ. Đầu sư có nhiệm vụ giữ quyền lập luật và ban hành luật của đạo, nhưng phải
thông qua Chưởng pháp và Giáo tông phê chuẩn. Đầu sư có quyền xin hủy bỏ luật
nếu đó là điều trái với lợi ích của tín đồ. Ba vị này cũng có ba con dấu riêng. Khi
ban hành luật, ba vị phải cùng đóng dấu trên đó.
+ Phối sư: cũng gồm ba chi: Thái, Thượng, Ngọc, nhưng số người đảm nhận
lên đến 36 người (bao gồm mỗi chi 12 người). Trong mỗi chi chọn ra một người
đứng đầu gọi là Chánh phối sư. Ba chi có 3 Chánh phối sư. Ba vị này có thể thay
quyền cho Đầu sư để hành đạo, nhưng không có quyền xin hủy bỏ luật lệ. Phối sư
là những người thừa lệnh từ Chánh phối sư để hành đạo.
+ Giáo sư: cũng gồm 3 chi: Thái, Thượng, Ngọc, tổng số người được giao
giữ phẩm này là 72 người (mỗi chi có 24 vị). Giáo sư có nhiệm vụ dạy dỗ tín đồ
trong đường đạo và đường đời. Đây là những người giữ sổ bộ của tín đồ, thực hiện
các lễ nghi liên quan đến đời người của tín đồ. Giáo sư có quyền cầu xin giảm bớt
luật lệ liên quan đến lợi ích của tín đồ.
+ Giáo hữu: cũng gồm ba chi: Thái, Thượng, Ngọc và số lượng là 3.000
người, chia đều làm ba chi. Giáo hữu có nhiệm vụ phổ biến chơn truyền của đạo
và có quyền xin giảm luật lệ của đạo.
82
Các phẩm trên được liệt vào hàng chức sắc của Cửu Trùng Đài. Những
người giữ phẩm này phải là người có đức độ, hết lòng vì đạo, không còn vướng
bận chuyện gia đình và xã hội, phải phế đời hành đạo.
- Hạng người đức hạnh, là những người giữ phẩm Lễ sanh. Lễ sanh không
giới hạn số lượng người và cũng được phân theo ba chi như trên. Lễ sanh có
nhiệm vụ dạy tín đồ nghi lễ, cúng tế và lãnh trách nhiệm thượng tượng (lập bàn
thờ trong gia đình tín đồ), khai đàn cho những tín đồ mới nhập môn. Tín đồ muốn
bước vào hàng chức sắc phải qua hàng Lễ sanh. Do đó, Lễ sanh là phẩm “đệm”
quan trọng trước khi tín đồ đứng vào hàng ngũ chức sắc.
- Chức việc: phẩm này được hình thành sau khi chơn linh Đức Lý Thái Bạch
nắm chức Giáo tông của đạo Cao Đài, gồm 2 chức vị: Chánh Trị sự và Phó Trị sự
[140]. Phẩm vị này không chia theo chi như các phẩm thuộc hàng chức sắc mà
được phân bổ ở các địa phương nhằm giúp đỡ các vị chức sắc trong việc dạy đạo
cho tín đồ.
- Chánh trị sự có nhiệm vụ chăm sóc, giúp khó, trợ nghèo, giúp đỡ sự sinh
hoạt của tín đồ trong một xóm, một làng; phải xem tín đồ như em ruột, có quyền
phân xử những việc nhỏ liên quan đến đạo xảy ra trong địa phận của mình, không
có quyền đối với tín đồ ngoài địa phận mình quản lý. Chánh trị sự phải nghe theo
lịnh của Giáo hữu và Lễ sanh.
- Phó Trị sự có nhiệm vụ giúp Chánh Trị sự dìu dắt, dạy dỗ tín đồ trong địa
phận mình quản lý, không có quyền phân xử những việc bất hòa giữa các tín đồ.
Phó Trị sự còn có nhiệm vụ tuyển chọn những tín đồ làm công quả, tiến cử lên
Chánh Trị sự để được phân công giúp đỡ người cô thế, bịnh tật, bị tai nạn trong
địa phận mình quản lý và phải thực hiện những công việc do Chánh Trị sự giao
phó.
- Đạo hữu, gồm những người không có chức vị trong Đạo. Đây là những
giáo dân bình thường nên không hạn định về số lượng mà càng nhiều càng tốt.
Đối với nữ phái, phẩm bậc chỉ gồm 7 phẩm, từ đạo hữu đến Đầu sư, không
được quyền giữ chức Chưởng pháp và Giáo tông. Giải thích cho điều này, trong
Pháp Chánh truyền (chú giải) nêu rõ:
83
- Ông Phạm Công Tắc thắc mắc:
“Thưa Thầy, Thầy đã nói con cũng đồng con, nam nữ vốn như nhau mà Thầy
truất quyền của nữ phái không cho lên địa vị của Chưởng pháp và Giáo tông thì
con e mất lẽ công bình chăng?”
- Lời thắc mắc ấy được giải thích:
“Thiên địa hữu âm dương, dương thạnh tắc sanh, âm thạnh tắc tử, cả Càn Khôn
Thế Giới nhờ dương thạnh mới bền vững; cả chúng sanh sống bởi dương quang,
ngày nào mà dương quang đã tuyệt, âm khí lẫy lừng, ấy là ngày Càn Khôn Thế
Giới phải chịu trong hắc ám mà bị tiêu diệt. Nam ấy dương, nữ ấy âm, nếu Thầy
cho nữ phái cầm quyền Giáo tông làm chủ nền Đạo thì là Thầy cho âm thắng
dương, nền Đạo ắt bị tiêu tàn ám muội”.
- Ông Phạm Công Tắc lại thắc mắc
“Thầy truất quyền Giáo tông nữ phái thì đã đành, song quyền Chưởng pháp thì
tưởng dầu ban cho cũng chẳng hại”.
- Lời thắc mắc được giải thích:
“Chưởng pháp cũng là Giáo tông, mà còn trọng hệ hơn, là vì người thay mặt
cho Hộ pháp nơi Cửu Trùng Đài. Thầy đã chẳng cho ngồi địa vị Giáo tông thì lẽ
nào cho ngồi địa vị Hộ pháp con. Bởi chịu phận rủi sanh, nên cam phận thiệt
thòi, lẽ Thiên cơ đã định, Thầy chỉ dạy con để dạ thương yêu bênh vực thay Thầy
kẻo tội nghiệp” [4 :235-236].
Theo lời đối thoại trên, nữ phái không được giữ phẩm Giáo tông và Chưởng
pháp vì đây là hai phẩm quan trọng để đạo Cao Đài phát triển (Dương phải luôn
vượt Âm). Nữ phái chỉ có thể giữ các phẩm từ Đầu sư trở xuống. Chức phẩm của
nữ phái cũng ngang quyền với nam phái. Đầu sư nữ phái đồng quyền với Đầu sư
nam phái và cùng tùng lệnh Chưởng pháp và Giáo tông. Do đó, Phối sư nam phái
cũng chịu dưới quyền Đầu sư nữ phái và khi gặp ở đại điện Phối sư nam phái phải
đảnh lễ trước. Đầu sư nữ phái chỉ quản lý chức sắc, chức việc và tín đồ nữ phái.
Đầu sư nam phái cũng không được can thiệp bên nữ phái.
Chức sắc nữ phái không phân theo chi và số lượng cũng không được qui
định rõ ràng như bên nam phái.
Điều đặc biệt trong tổ chức ở Cửu Trùng Đài là quyền hành của Nam phái
và nữ phái ngang nhau. Nam phái lo phận sự bên nam; nữ phái lo phận sự bên nữ.
84
Như vậy, điều này rất khác so với các tôn giáo có trước ở Nam Bộ như Phật
giáo, Công giáo, và một số tôn giáo bản địa như Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu
Nghĩa... Trong các tôn giáo này, nữ phái gần như không có chức phận trong cơ
cấu tổ chức Giáo hội, nhưng với đạo Cao Đài, nữ phái đã có chức phận và quyền
hành rõ ràng trong tổ chức tôn giáo, tuy vẫn còn ở mức độ hạn chế nhất định.
Do đây là cơ quan phổ độ, chịu trách nhiệm dìu dắt chúng sanh nên nhiệm
vụ của từng phẩm vị được phân định rõ ràng. Chức vụ cũng được ứng với từng
bậc tu trong đạo như sau:
Bảng 5: Đối phẩm với bậc tu trong đạo
STT Phẩm vị Bậc tu (đối Phẩm)
1 Giáo tông Thiên tiên
2 Chưởng pháp Nhơn tiên
3 Đầu sư Địa tiên
4 Phối sư Thiên thánh
5 Giáo sư Nhơn thánh
6 Giáo hữu Địa thánh
7 Lễ sanh Thiên thần
8 Chánh-Phó trị sự Nhơn thần
9 Đạo hữu Địa thần
Trong đó, bậc tu cao nhất của Cửu Trùng Đài là Thiên tiên, ứng với phẩm
Giáo tông. Người tu hành trong đạo muốn đạt được phẩm vị cao đó phải bắt đầu
từ đạo hữu, và phải luôn nhờ sự dẫn dắt, hướng dẫn tu hành của những người có
phẩm vị trên mình, bên cạnh việc tự mình cố gắng.
Từ năm 1930 trở đi, nội bộ của đạo Cao Đài bắt đầu có sự xung đột. Một số
nhân vật chủ chốt có xu hướng ly khai, do đó chức sắc của Cao Đài ở Tây Ninh
ban hành Sáu đạo nghị định, trong đó Đạo nghị định thứ ba điều thứ hai có nội
dung phân quyền quản lý cho các chức sắc nắm các cơ sở đạo từ địa phương đến
Trung ương. Nội dung Đạo nghị định này rõ [135]:
Điều thứ nhứt: - Chánh Phối Sư Nam Phái, hành chánh riêng nam; Chánh
Phối sư Nữ Phái, hành chánh về nữ, Nam Nữ phân quyền.
85
Điều thứ hai: - Chức sắc hành chánh các nơi, chia quyền theo đẳng cấp như
vầy:
- Phối sư, phải ở tại Tòa Thánh.
- Giáo sư làm đầu một tỉnh.
- Giáo hữu làm đầu một họ.
- Lễ sanh làm đầu một quận.
- Chánh Trị sự làm đầu một làng.
- Phó Trị sự làm đầu một xóm cùng Thông Sự.
Điều thứ ba: - Cả chức sắc có địa phận đặc biệt, chẳng đặng qua khỏi ranh đất
trách nhậm của mình, mà gây điều ganh lẫn.
Điều thứ tư: - Cả chức sắc phải tùng lịnh Hội Thánh, chẳng đặng tư chuyên
mà cải sửa Chơn Truyền của Đạo.
Điều thứ năm: - Những chức sắc phạm tội về Nghị Định này, phải bị giải ra
Tòa Tam Giáo.
Điều thứ sáu: - Nghị định nầy sẽ ban hành từ ngày Rằm tháng 10 năm Canh
Ngọ.
Theo Đạo nghị định này, cơ cấu tổ chức của cơ quan Cửu Trùng Đài trở
nên chặt chẽ hơn từ Trung ương đến địa phương. Đây được xem là sự lớn mạnh
của tổ chức nhằm phổ độ tôn giáo trong toàn xã hội và cũng nhằm hướng đến mục
đích quản lý chặt chẽ tín đồ theo chiều dọc. Đứng đầu cơ quan Trung ương là các
chức sắc có phẩm vị từ Phối sư trở lên. Từ Giáo sư xuống đến Phó trị sự được chia
về phân nhậm tại cơ sở với mức độ qui định khá rõ ràng. Trong đó, Giáo sư đứng
đầu một tỉnh, Giáo hữu đứng đầu một Họ (Tộc đạo), Lễ sanh đứng đầu một quận,
Chánh trị sự đứng đầu một làng, Phó trị sự đứng đầu một xóm.
Theo qui định của đạo Cao Đài lúc bấy giờ, nhiều xóm đạo ở gần nhau
được gộp vào thành một làng, gọi là Hương đạo hoặc Xã đạo. Đây là đơn vị nhỏ
nhất trong tổ chức của đạo Cao Đài tại địa phương. Nhiều Hương đạo gộp lại
thành Họ đạo hay Tộc đạo. Tộc đạo có qui định rõ ràng về số lượng tín đồ. Để có
thể thành lập được Tộc đạo, Tân luật của đạo Cao Đài qui định phải có đủ 500 tín
đồ trở lên. Người đứng đầu Tộc đạo phải là người giữ phẩm vị Lễ sanh trở lên, và
có quyền xây dựng một Thánh thất [4]. Nhiều Tộc đạo gần nhau sẽ được thành lập
86
một Châu đạo. Chức sắc cai quản Châu đạo là Giáo hữu. Trên Châu đạo là Trấn
đạo, do Giáo sư đứng đầu.
Với cơ cấu như vậy, sau năm 1930, Cửu Trùng Đài đã trở thành một cơ
quan hành chính quản lý tín đồ xuyên suốt từ Trung ương đến địa phương.
Ngay tại Tòa thánh, cơ quan Cửu Trùng Đài cũng có những tổ chức nhằm
củng cố và phát triển hơn nữa cơ cấu hành đạo của mình, như việc ra đời Cửu viện
(gồm 9 viện) với các tên gọi như Hộ viện, Lương viện, Công viện, Học viện, Y
viện, Nông viện, Hòa viện, Lại viện, Lễ viện.
Chức năng của các viện này gồm:
- Hộ viện: Quản lý sản nghiệp và tài chính của Đạo, lo về thu xuất tiền bạc
do các nơi cúng hiến, lập kế hoạch thu xuất mỗi năm để trình Hội Thánh.
- Lương viện: Chăm lo về lương thực, tiếp thu, phân phối, nấu nướng
(Phòng trù), chăm lo chức sắc và tín đồ hiến thân làm công quả nơi các cơ quan tại
Tòa thánh.
- Công viện: Tạo tác, tu sửa Thánh Thất, dinh thự, đường sá, hệ thống điện
nước, phát triển các ngành công nghiệp nhằm đem lợi ích cho Hội Thánh.
- Học viện: Phụ trách việc giáo dục và đào tạo, giáo dục thanh thiếu niên
trong Đạo, huấn luyện Ban Trị sự và chức sắc để có đủ khả năng về đạo đức và trí
thức để hành đạo.
- Y viện: Phụ trách việc trị bệnh và phòng bệnh, cung cấp thuốc đông y và
Tây y, chăm sóc các nhà dưỡng lão, cô nhi viện, tổ chức cứu tế ở vùng bị Thiên
tai.
- Nông viện: Phụ trách trồng tỉa, khai phá ruộng rẫy, trồng các cây lương
thực, lập đồn điền trồng cây công nghiệp, lập các nhà máy chế biến thực phẩm.
- Hòa viện: Xem xét giữ gìn sự công bằng giữa chức sắc, chức việc và đạo
hữu, có quyền hòa giải sự tranh tụng cá nhân, cảnh cáo hay răn phạt các tội nhẹ.
Trường hợp tội nặng, Hòa Viện phải chuyển lên Hội Công đồng hay Tòa Tam
giáo.
- Lại viện: Lập hồ sơ cá nhân chức sắc, lo việc cầu phong và cầu thăng,
nghiên cứu và đề nghị bổ nhiệm hay thuyên chuyển chức sắc hành đạo ở các địa
87
phương. Lại Viện có nhiệm vụ lưu trữ, tiếp chuyển hay ban hành các văn thư,
Huấn lịnh của Hội Thánh, tiếp nhận giấy tờ từ các địa phương gởi về.
- Lễ viện: Sắp đặt việc thờ phượng, các nghi thức cúng kiếng, tế lễ trong
Đạo, lo việc Hôn, Tang. Lễ Viện đứng ra tổ chức các buổi lễ lớn trong Đạo, lo sắp
đặt kho sách, in ấn kinh sách của Đạo.
Quản lý các viện này là các Chánh Phối sư. Cửu Trùng Đài có hai phái:
Nam phái và Nữ phái, nên Cửu viện cũng được chia thành hai.
- Cửu viện của Nam phái sẽ do ba Chánh Phối sư Nam phái đảm trách.
+ Thái Chánh Phối sư quản lý ba viện: Hộ viện, Lương viện, Công viện
+ Thượng Chánh Phối sư quản lý ba viện: Học viện, Nông viện, Y viện
+ Ngọc Chánh Phối sư quản lý ba viện: Hòa viện, Lại viện, Lễ viện.
- Cửu viện dành cho Nữ phái chỉ do một Chánh Phối sư nữ đảm trách.
Các Chánh Phối sư đều có văn phòng riêng. Chánh Phối sư là Tổng quản
văn phòng, giúp việc là các Phối sư, đứng đầu các viện, được gọi là Thượng
thống. Các nhân viên khác giữ các nhiệm vụ như Phụ thống (Giáo sư phụ trách),
Quản văn phòng, Thư ký…
Như vậy, cơ cấu tổ chức của Cửu Trùng Đài sau năm 1930 được tổ chức
theo mô hình sau:
88
Sơ đồ 6: Sơ đồ Cửu Trùng Đài sau năm 1930
(Sơ đồ: Huỳnh Ngọc Thu)
* Hiệp Thiên đài
Hiệp Thiên đài là cơ quan tư pháp của đạo Cao Đài, có nhiệm vụ quản lý
và bảo vệ luật pháp của Đạo, lập ra các tòa tam giáo để xử những người vi phạm
luật Đạo.
Đứng đầu Hiệp Thiên đài là Hộ pháp. Bên cạnh Hộ pháp có hai vị: Thượng
sanh và Thượng phẩm. Giúp việc cho ba vị này là Thập nhị thời quân (12 người),
được chia thành ba chi: chi Pháp, chi Đạo và chi Thế, theo sơ đồ sau:
GIÁO TÔNG
NỮ PHÁI NAM PHÁI
Thái
Chưởng pháp
Thượng
Chưởng pháp
Ngọc
Chưởng pháp
Thái
Đầu sư
Thượng
Đầu sư
Ngọc
Đầu sư
Thái
C. Phối sư
Thượng
C. Phối sư
Ngọc
C. Phối sư
Chưởng pháp
Đầu sư
C. Phối sư
Thượng thống Cửu viện (Phối sư)
Khâm Trấn đạo (Giáo sư)
Khâm Châu đạo (Giáo hữu)
Đầu Tộc đạo (Lễ sanh)
Ban Trị sự
89
Sơ đồ 7: Cơ cấu tổ chức của cơ quan Hiệp Thiên Đài
(Sơ đồ: Huỳnh Ngọc Thu)
Nhiệm vụ của các chi này được phân định như sau:
- Chi Pháp có nhiệm vụ bảo vệ và gìn giữ luật pháp của đạo, có thể xử phạt
tín đồ, từ đạo hữu đến chức sắc, vi phạm luật đạo. Đứng đầu chi Pháp là Hộ pháp,
dưới Hộ pháp có bốn vị thời quân gồm Bảo pháp, Hiến pháp, Khai pháp, Tiếp
pháp. Nhiệm vụ của những người này như sau:
+ Tiếp pháp tiếp đơn kiện, có quyền đơn kiện, xem xét có nên xử hay
không; nếu không xử sẽ bỏ qua hoặc trả lại cho đương sự, nếu xử sẽ tiếp tục dâng
đơn kiện lên cho Khai pháp định đoạt.
+ Khai pháp tiếp đơn kiện từ Tiếp pháp, xem xét mức độ nghiêm trọng của
đơn kiện, nếu giải quyết được sẽ giải quyết, nếu không sẽ trình cho Hộ pháp để
Hộ pháp họp các chức sắc của Hiệp Thiên Đài xem xét ra quyết định, sau đó
chuyển bản quyết định đến Hiến Pháp.
+ Hiến pháp tiếp nhận các bản án từ Khai pháp, sau đó thẩm định, khi đủ
chứng cớ sẽ dâng lên cho Bảo Pháp. Những văn kiện khi đã đưa đến Hiến pháp
đều phải bí mật.
Hộ Pháp
(Chi pháp)
Thƣợng phẩm
(Chi đạo)
Thƣợng sanh
(Chi thế)
Khai pháp
Hiến pháp
Bảo pháp
Tiếp pháp
Khai thế
Hiến thế
Bảo thế
Tiếp thế
Khai đạo
Hiến đạo
Bảo đạo
Tiếp đạo
90
+ Bảo pháp giữ bí mật của văn kiện, chiếu theo luật Đạo để định án, sau đó
dâng lên cho Hộ pháp để Hộ pháp phân xử. Bảo pháp được xem là Chánh văn
phòng của Hộ pháp.
+ Hộ pháp có quyền cao nhất trong cơ quan Hiệp Thiên Đài, nắm cơ mầu
nhiệm của Đạo và nắm luật của Đời; có quyền xét xử các chức sắc Thiên phong và
tín đồ khi những người này phạm luật đạo. Hộ pháp cũng có quyền cầu xin ban
thưởng cho chức sắc, tín đồ có công hành đạo.
- Chi Đạo có chức năng tiếp nhận và xử lý cáo trạng, xem xét các tình tiết
liên quan đến cáo trạng, nếu thấy oan uổng, hay chưa cấu thành tội sẽ trình lên cấp
cao để xem lại. Đứng đầu chi Đạo là Thưởng phẩm, dưới Thượng phẩm gồm bốn
vị thời quân: Bảo đạo, Hiến đạo, Khai đạo, Tiếp đạo.Nhiệm vụ của những người
này như sau:
+ Tiếp đạo tiếp cáo trạng, sau đó phải xem xét cáo trạng, nếu có oan khúc
cần bênh vực sẽ dâng lên cho Khai đạo.
+ Khai đạo khi tiếp cáo trạng sẽ xem xét, nếu đáng cứu xét sẽ đệ đơn qua
Tòa tam giáo nơi Cửu Trùng Đài để xin đình án, sau đó trình đơn lên Hộ pháp để
nhóm họp đại hội chức sắc Hiệp Thiên Đài nhằm xem xét lại. Khai đạo giữ vai trò
bào chữa trong đại hội này, sau đó được lịnh của Đại hội sẽ dâng thư lên Hiến
đạo.
+ Hiến đạo khi nhận thư của Khai đạo sẽ tìm hiểu sự việc, sau đó trình
công văn cho Bảo đạo. Công văn này phải tuyệt đối bảo mật.
+ Bảo đạo giữ bí mật công văn, sau đó xét theo điều luật của đạo để có ý
kiến giảm án rồi trình lên cho Thượng phẩm.
+ Thượng phẩm: giữ vai trò luật sư, vì là người nắm luật nên có khả năng
bào chữa cho chức sắc và tín đồ khi phạm luật. Thượng phẩm sẽ trực tiếp làm việc
với Hộ pháp để xem xét công và tội để ra án quyết.
- Chi Thế có nhiệm vụ tiếp nhận, xem xét, trình báo lên cấp trên những cáo
trạng của người ngoài đạo hay tín đồ kiện cáo những vị chức sắc, bất kể là phẩm
nào. Đứng đầu chi Thế là Thượng sanh, dưới Thượng sanh có bốn vị thời quân:
91
Bảo thế, Hiến thế, Khai thế, Tiếp thế. Nhiệm vụ của các vị này được phân định
sau:
+ Tiếp thế tiếp nhận trạng cáo của người ngoài đạo hoặc của tín đồ thưa
kiện chức sắc Thiên phong (bất cứ phẩm vị nào); sau đó trình lên cho Khai thế.
+ Khai thế tiếp nhận cáo trạng từ Tiếp thế, xem xét nguyên do, nếu thấy
đáng phải xử lý sẽ trình báo qua Cửu Trùng Đài và dâng thư lên Hộ pháp để nhóm
họp chức sắc Hiệp Thiên Đài định đoạt, sau đó sẽ trình công văn lên Hiến thế.
+ Hiến thế tiếp nhận công văn, lập tức tra xét chứng cớ, dâng lên cho Bảo
thế. Công văn này hoàn toàn bí mật.
+ Bảo thế giữ bí mật ấy, chiếu theo luật đạo để ra án quyết, sau đó dâng lên
cho Thượng sanh để người qua Tòa tam giáo buộc tội.
+ Thượng sanh giữ vai trò phổ độ chơn truyền nên có quyền trị tội (thi
hành án phạt) đối với tín đồ.
Ba chi này hoạt động tương đối độc lập, theo nguyên tắc bảo mật, kiểm tra
và giám sát lẫn nhau nhằm bảo đảm tính nghiêm minh của Đạo.
Từ những tư liệu trên cho thấy, Hiệp Thiên đài là cơ quan giữ gìn và thực
thi luật đạo. Chức sắc của cơ quan này đều do Thiên phong và do nam giới nắm
giữ.
Ngoài các phẩm nêu trên, tại các Họ đạo có thêm chức Thông sự. Thông sự
là chức phẩm do Đức Lý Giáo tông khuyên Hộ pháp lập thành ở địa phương.
Thông sự là người cùng cấp với Phó trị sự, nắm quyền luật lệ; là người của Hiệp
Thiên đài. Thông sự chịu dưới quyền Chánh Trị sự, nhưng lại có quyền sửa lỗi
Chánh Trị sự.
Bảng đối phẩm của Hiệp Thiên đài với Cửu Trùng đài như sau:
Bảng 6: Đối phẩm với bậc tu trong Hiệp Thiên đài
STT Phẩm vị của
Cửu Trùng Đài
Phẩm vị của
Hiệp Thiên Đài
Bậc tu
(đối Phẩm)
1 Giáo tông Hộ pháp Thiên tiên
2 Chưởng pháp Thượng phẩm/Thượng sanh Nhơn tiên
3 Đầu sư Thập nhị thời quân Địa tiên
92
4 Phối sư Thiên thánh
5 Giáo sư Nhơn thánh
6 Giáo hữu Địa thánh
7 Lễ sanh Thiên thần
8 Chánh-Phó trị sự Thông sự Nhơn thần
9 Đạo hữu Địa thần
Tóm lại: cơ cấu tổ chức của đạo Cao Đài gồm ba cơ quan chính, gọi là Tam
đài. Ba cơ quan này biểu hiện cho ba yếu tố của con người: Bát Quái đài biểu hiện
phần vô vi, tượng trưng cho linh hồn; Cửu Trùng đài biểu hiện phần đời, tượng
trưng cho phần xác; Hiệp Thiên đài là phần bán hữu hình, thuộc về nửa đời nửa
đạo, tượng trưng cho chơn thần. Ba đài này hợp lại trở thành cơ thể hoàn chỉnh
của con người nói chung và của đạo Cao Đài nói riêng. Ngoài ra, Tam đài còn
biểu hiện cho ba cơ quan có quyền hành cao nhất trong đạo là Lập pháp (Bát Quái
đài), Tư pháp (Hiệp Thiên đài) và Hành pháp (Cửu Trùng Đài). Với ba quyền đó,
tổ chức của đạo Cao Đài có thể xem là tổ chức mang mô hình của một nhà nước.
Từ ba tổ chức này, chức sắc Cao Đài còn lập thêm các Hội như Hội Nhơn
sanh, Hội Thánh và Thượng hội.
- Hội Nhơn sanh: Có nhiệm vụ giáo hóa nhơn sanh, phổ độ và dìu dắt
nhơn sanh theo luật đạo; sửa cải, thêm bớt luật lệ; lập kế hoạch phát triển
đạo…[71]. Hội Nhơn sanh họp vào ngày Rằm tháng giêng hàng năm tại Tòa
thánh. Thành phần gồm đại diện chức sắc, chức việc. Chủ trì Hội Nhơn sanh gồm:
+ Thượng Chánh Phối sư làm Nghị trưởng
+ Nữ Chánh Phối sư làm Phó Nghị trưởng
+ Lễ sanh, Chánh-Phó trị sự là Nghị viên
- Hội thánh: Có nhiệm vụ thảo luận về các vấn đề do Hội Nhơn sanh dâng
lên hoặc của Thượng hội đưa xuống để đưa ra kết luận; lo về việc phổ độ chúng
sanh, xem xét tài chính của đạo,…[71]. Hội thánh họp vào ngày Rằm tháng Bảy
hàng năm tại Tòa thánh. Thành phần tham dự gồm những người đại diện giữ phẩm
Giáo hữu trở lên. Thành phần chủ trì trong Hội thánh gồm:
+ Thái Chánh phối sư làm Nghị trưởng
93
+ Nữ Chánh phối sư làm Phó Nghị trưởng
+ Phối sư, Giáo sư, Giáo hữu nam nữ làm Nghị viên
- Thượng hội: Có nhiệm vụ xem xét và phê chuẩn các điều do Hội Nhơn
sanh và Hội thánh đưa ra và bàn đến những điều cấp bách trong đạo [71]. Thượng
hội họp vào dịp Noel hàng năm tại Tòa thánh. Thành phần tham dự gồm Giáo
tông, Hộ pháp, Thượng phẩm, Thượng sanh, 3 Chưởng pháp, 3 Đầu sư nam và 1
Đầu sư nữ và có thêm 1 vị Phối sư hoặc Giáo sư. Trong đó, Giáo tông làm Nghị
trưởng; Hộ pháp làm Phó Nghị trưởng; các thành viên còn lại là Nghị viên.
Khi ba Hội đã cùng thống nhất một vấn đề, vấn đề đó được xem là tối
thượng, không còn sửa đổi, nên có tên là Quyền Vạn linh là quyền thống nhất từ
đại diện của ba hội trên.
Bên cạnh các Hội nêu trên, đạo Cao Đài còn có một tổ chức khác gọi là
Tòa tam giáo. Đây là tòa án của đạo Cao Đài để xử các chức sắc, chức việc và đạo
hữu vi phạm luật đạo. Nắm quyền xử án là những người giữ phẩm vị cao cấp của
các chi ở Cửu Trùng đài. Tòa này chỉ mở trong trường hợp có người phạm pháp
nghiêm trọng. Tòa được xử ba cấp:
- Cấp thứ nhất là cấp tam giáo Cửu Trùng Đài. Thành phần chủ tọa của cấp
này gồm:
+ Giáo tông làm chủ tọa
+ Ba vị Chưởng pháp làm Nghị án
+ Vị Đầu sư cùng chi với bị can buộc tội
+ Một chức sắc của Hiệp Thiên đài làm trạng sư (luật sư)
Sau khi tuyên án, người phạm pháp cảm thấy còn uất ức sẽ đưa lên tòa tam
giáo Hiệp Thiên đài.
- Tòa tam giáo Hiệp Thiên đài là cấp thứ hai để phân xử. Thành phần chủ
tọa của cấp này gồm:
+ Hộ pháp hoặc một vị Thời quân chi pháp làm chủ tọa
+ Hai chức sắc Cửu Trùng Đài là Giáo sư hoặc Phối sư làm Nghị án
+ Một vị Thời quân chi Thế buộc tội
94
+ Một chức sắc Cửu Trùng đài đồng phẩm với bị cáo và do bị cáo
chọn làm biện hộ
+ Một vị Thời quân chi Đạo làm trạng sư
+ Một chức sắc tiểu cấp ở Hiệp Thiên đài ghi án
Trong trường hợp sau khi bị buộc tội, người phạm pháp vẫn còn uất ức thì
mới đưa tiếp lên tòa tam giáo Bát Quái đài.
- Tòa tam giáo Bát Quái đài là cấp thứ ba để phân xử. Đây là tòa tam giáo
thuộc phần thiêng liêng. Nơi đây sẽ do Đức Chí Tôn và Tam Trấn Oai nghiêm
cầm quyền tam giáo nghị án. Đây là tòa án tối cao trong đạo Cao Đài.
Hình phạt dành cho những người phạm tội được dựa trên 15 khung hình
phạt do Đức Lý Giáo tông ban hành vào năm 1930. Trong đó, tội nặng nhất là trục
xuất khỏi đạo.
Như vậy, tổ chức của đạo Cao Đài giống với tổ chức của một nhà nước
mục đích nhằm duy trì và phát triển đạo.
2.3.2. Chức năng của tổ chức tôn giáo
Từ những phân tích trên cho thấy chức năng của tổ chức đạo Cao Đài như
sau:
* Chức năng thực hành nghi lễ
Chúng tôi nhận thấy, trong nghi lễ tôn giáo, vai trò và chức năng của các vị
chức sắc trong từng tổ chức rất quan trọng. Họ được phân công giữ nhiệm vụ rất
cụ thể trong việc thực hành nghi lễ:
- Chức sắc và chức việc Cửu trùng đài giữ nhiệm vụ thực hành nghi lễ.
Người chủ lễ (chứng đàn) tại Thánh thất phải có phẩm vị từ Lễ sanh trở lên, còn
chủ lễ tại Đền thánh phải là người giữ phẩm vị từ Giáo sư trở lên. Trong các ngày
Đại lễ, chứng đàn là người giữ phẩm vị cao nhất trong Ban hành lễ tại cơ sở.
Những người còn lại có nhiệm vụ thực hành và phục vụ như dâng lễ, tiếp lễ, đọc
sớ…
- Chức sắc Hiệp thiên đài giữ vai trò giám đàn, kiểm soát hành vi của các
tín đồ khi thực hành nghi lễ.
95
Khi hành lễ, từ đạo hữu đến chức việc, chức sắc, tùy theo từng phẩm vị mà
mặc lễ phục trang nghiêm. Lễ phục của chức sắc bao gồm hai bộ : đại phục và tiểu
phục (xem phần lễ phục ở chương 3); còn chức việc và đạo hữu chỉ một bộ. Khi
hành lễ, tùy theo tính chất của từng buổi lễ mà tín đồ Cao Đài mặt lễ phục phù
hợp. Việc mặc lễ phục nhằm thể hiện sự tôn kính của tín đồ đối với các đấng
thiêng liêng của họ và cũng nhằm biểu hiện bậc công phu tu tiến mà họ đạt được
đối với toàn thể tín đồ.
* Chức năng duy trì hoạt động và phát triển tôn giáo
Có thể khẳng định, tôn giáo phát triển là nhờ vào hệ thống tổ chức. Do đó,
ngay từ khi đạo Cao Đài ra đời, hệ thống tổ chức đã được sắp đặt và dần hoàn
thiện với cơ cấu Tam đài, lưỡng phái; trong đó chú trọng đến hai cơ quan hữu
hình đài là Cửu Trùng đài và Hiệp Thiên đài. Đây là cơ cấu được tổ chức theo mô
hình nhà nước. Hiệp Thiên đài như cơ quan tư pháp của đạo; Cửu Trùng đài như
cơ quan hành pháp; ngoài ra còn có các Hội như Hội nhân sanh, Thượng hội, Hội
thánh có chức năng như Quốc hội; Hệ thống Cửu viện có chức năng như các bộ,
ngành; Ngoài ra còn có các Tòa Tam giáo giữ vai trò như viện kiểm soát, tòa án
trong một nhà nước.
Hệ thống tổ chức được phân cấp từ trung ương đến địa phương (xem sơ đồ
6), trong đó cấp Hội thánh tương ứng với cấp trung ương, người đứng đầu Hội
thánh là Giáo tông; cấp Khâm trấn đạo tương ứng với một vùng, người đứng đầu
là Giáo sư; cấp Khâm Châu đạo tương ứng với một tỉnh, người đứng đầu là Giáo
hữu; cấp Đầu tộc đạo tương ứng với một huyện, người đứng đầu là Lễ sanh; cấp
Ban trị sự tương ứng với một xã, người đứng đầu là Chánh trị sự.
Như vậy, với việc phân cấp như trên, đạo Cao Đài đã tạo cho mình một hệ
thống tổ chức khá phức tạp trong việc quản lý, duy trì và phát triển tín đồ từ cơ sở
đến cấp trung ương. Mỗi tín đồ trong tổ chức tôn giáo đều phải cố gắng hoàn
thành nhiệm vụ của mình. Chính sự cố gắng ấy, tín đồ của đạo Cao Đài sẽ có
những bước thăng tiến về địa vị và có được quyền lực cá nhân trong tổ chức.
- Sự thăng tiến của tín đồ trong tổ chức tôn giáo: Sự thăng tiến được biểu
hiện qua từng cấp bậc trong hệ thống tổ chức của đạo Cao Đài. Một cá nhân muốn
96
đứng vào cấp bậc cao trong hệ thống tổ chức phải trải qua những bước thăng tiến
của mình, nghĩa là phải đi từ thấp đến cao, phải luôn nỗ lực không ngừng trên con
đường hành đạo. Từ đạo hữu bình thường muốn lên phẩm Thông sự hoặc Phó Trị
sự phải trải qua 5 năm công nghiệp trong đường đạo, với những qui định như giữ
trai kỳ (ăn chay ít nhất 10 ngày trong tháng), công quả, tu đạo và đặc biệt phải giữ
đức hạnh, có uy tín trong cộng đồng tín đồ.
Từ Phó Trị sự lên Chánh Trị sự cũng phải trải qua 5 năm công nghiệp và
muốn thăng tiến lên những phẩm vị cao hơn nữa, tín đồ của đạo Cao Đài phải
không ngừng cố gắng trên con đường tu hành của mình. Chính sự nỗ lực đó là
những nấc thang để tín đồ thăng tiến. Sự thăng tiến của tín đồ sẽ dần đưa họ đứng
vào hàng ngũ tổ chức của đạo Cao Đài. Do đó, một tín đồ được giữ một phẩm vị
nào đó trong tổ chức của đạo Cao Đài là một minh chứng khẳng định cho sự thăng
tiến của họ trên con đường tu hành; phẩm vị càng cao đồng nghĩa với việc khẳng
định sự thăng tiến càng lớn.
- Quyền lực của cá nhân trong tổ chức tôn giáo: Sự thăng tiến của tín đồ
trong tổ chức tôn giáo cũng đồng nghĩa với việc thăng tiến về mặt quyền lực. Hệ
thống tổ chức của đạo Cao Đài phân chia cấp bậc và quyền hạn của từng phẩm vị.
Người giữ phẩm vị càng cao sẽ có quyền hành càng lớn. Do đó, khi tín đồ đạt
được một phẩm vị nào đó thì quyền lực của phẩm vị đó sẽ do họ nắm giữ. Ví dụ,
Thông sự sẽ nắm quyền về mặt tư pháp của một địa phương; Chánh Trị sự nắm
quyền làm chủ một Hương đạo (cấp địa phương), Lễ sanh nắm quyền làm chủ một
Họ đạo…. Khi làm chủ một địa vị nào, họ toàn quyền điều phối công việc ở đó,
cốt để nền đạo phát triển.
Chính vì thế có thể khẳng định, cơ cấu tổ chức của đạo Cao Đài cũng chính
là cơ cấu tổ chức quyền lực, trong đó từng cá nhân theo địa vị của mình sẽ thể
hiện những quyền lực khác nhau. Mục đích của việc thể hiện quyền lực cá nhân
trong tổ chức tôn giáo là nhằm chức năng quản lý, duy trì và phát triển tôn giáo
của họ.
97
Như vậy, sự thăng tiến của tín đồ sẽ gắn liền với quyền lực và nhờ có
quyền lực mà các cá nhân trong tổ chức có thể duy trì phát triển tôn giáo Cao Đài
ở Nam Bộ trong suốt những năm qua.
* Chức năng giới trong tổ chức: Đạo Cao Đài khác với các tôn giáo trước
là trong tổ chức tôn giáo có sự tham gia của nữ giới. Nữ giới được xem trọng và
quyền hành gần như tương đương với nam giới. Nam giới, giữ phẩm nhỏ hơn hoặc
thọ phẩm sau nữ giới, vẫn phải phục tùng hoặc khiêm nhường trước nữ giới. Điều
này chứng tỏ, yếu tố phân biệt giới trong đạo Cao Đài đã có sự chuyển biến theo
xu hướng bình đẳng, nhưng vẫn chưa thật triệt để. Cụ thể, nữ giới vẫn không thể
nắm giữ quyền Giáo tông hoặc Chưởng pháp ở Cửu Trùng Đài. Tại cơ quan Hiệp
Thiện Đài, không có chức sắc là nữ giới. Nguyên nhân, theo giải thích của đạo
Cao Đài là Dương phải luôn vượt Âm thì đạo mới phát triển. Nhưng thực chất,
trong xã hội Nam Bộ, mặc dù phụ nữ có phần được xem trọng, nhưng tư tưởng
"trọng nam" vẫn chiếm vị trí đáng kể trong hệ tư tưởng xã hội. Do đó, mặc dù
trong hệ thống tín ngưỡng dân gian Nam Bộ, vai trò của Thánh Mẫu và Nữ thần
được đề cao, được thờ phụng ở nhiều nơi, nhưng trong cơ cấu xã hội, đặc biệt là
trong các tổ chức tôn giáo, vị trí của nữ giới vẫn không thể ngang bằng nam giới,
và đạo Cao Đài dù cố gắng thực hiện yếu tố "bình đẳng giới" trong cơ cấu tổ chức
tôn giáo của mình, nhưng vẫn không thể vượt qua hệ tư tưởng này. Do đó, nữ giới
vẫn chỉ giữ vị trí nhất định trong tổ chức tôn giáo của đạo Cao Đài.
Như vậy, tổ chức tôn giáo của đạo Cao Đài đã chứa đựng những chức năng
quan trọng của nó nhằm duy trì sự ổn định xã hội trong tôn giáo Cao Đài như quan
điểm mà R. Brown đã nhận định là duy trì sự toàn vẹn của hệ thống xã hội. Điểm
đặc biệt trong tổ chức tôn giáo của đạo Cao Đài so với các tôn giáo khác là đã xem
trọng vai trò nữ giới, mặc dù không triệt để như nam giới.
2.4. NGHI LỄ CỦA ĐẠO CAO ĐÀI
Nghi lễ của đạo Cao Đài được chia thành hai phần: Nghi lễ Thiên đạo và
nghi lễ Thế đạo. Trong đó, nghi lễ Thiên đạo được thực hiện nhằm biểu thị niềm
tin của tín đồ đối với các đấng thiêng liêng được thờ tự cũng như biểu hiện sự
thăng cấp trong hàng giáo phẩm của tín đồ; còn nghi lễ Thế đạo được thực hiện
98
dành cho những con người tại thế, nhằm hướng họ đến sự hoàn thiện trong đời
sống của tín đồ.
2.4.1. Nghi lễ Thiên đạo
* Việc thực hành nghi lễ dành cho các đấng thiêng liêng
Trong thế giới thần linh của đạo Cao Đài, mỗi đấng thiêng liêng đều có địa
vị và vai trò nhất định, được tín đồ chiêm bái với những loại hình nghi lễ khác
nhau tùy theo vai trò và địa vị của các đấng thiêng liêng này. Nếu các đấng có địa
vị và vai trò quan trọng sẽ được tín đồ chiêm bái bằng nghi thức Đại lễ, còn những
vị khác được chiêm bái với nghi thức Tiểu lễ.
Đại lễ được tổ chức rất long trọng với nhiều nghi thức khác nhau. Có thể
miêu tả một cách chung nhất về cách tiến hành đại lễ trong đạo Cao Đài như sau:
+ Cách tiến hành đại lễ
Đại lễ chỉ được tổ chức tại Đền thánh hoặc Thánh thất. Nếu ở Đền thánh,
đại lễ được tổ chức vào đúng 0 giờ (giờ Tý); còn tổ chức tại Thánh thất vào đúng
12 giờ (giờ Ngọ). Đây được xem là những giờ thiêng trong 24 giờ của ngày, gọi là
giờ Hoàng đạo. Người ta quan niệm vào giờ này, các đấng thần linh thường đi lại
ở thế giới trần gian và cũng là giờ để rước các vị Thần, Thánh, Tiên, Phật giáng
đàn (PL:3, Nhật ký điền dã – NKĐD số:2).
99
Đại lễ được tổ chức theo sơ đồ phân bố sau:
Sơ đồ 8: Sơ đồ tiến hành Đại lễ tại Đền thánh và Thánh thất
Chú thích:
Chức sắc nam
Chức sắc nữ Tín đồ hầu lễ
Chức việc hầu đàn Ba cặp Lễ sĩ
Chức sắc Hiệp Thiên đài Đường dâng lễ của Lễ sĩ
Chức việc hầu trống và hầu chuông Hầu lễ bàn Hộ pháp
Ban nhạc lễ và Ban đồng nhi
(Sơ đồ: Huỳnh Ngọc Thu)
THIÊN BÀN
BÀN NỘI NGHI
BÀN NGOẠI
NGHI
BÀN HỘ PHÁP
2
LÔI ÂM CỔ ĐÀI BẠCH NGỌC
CHUNG ĐÀI
1
3 4
5 6 7
8
9
7
8
9
a b
Bát Quái đài
Cửu Trùng đài
Hiệp Thiên đài
c c c c
1
2
3 4 5
6
a b
c
7 8 9
d d
d
100
Trước giờ hành lễ, chức sắc, chức việc và đạo hữu mặc lễ phục chỉnh tề, tụ
tập về Tòa thánh hoặc Thánh thất. Ban Lễ sĩ gồm 6 người mặc áo dài màu xanh da
trời, đội mão trắng, mang giày vải, chia thành 3 cặp bước vào chánh điện (Cửu
Trùng đài) (H:57). Các Ban như Ban nhạc, Đồng nhi, Lễ vụ… làm nhiệm vụ kiểm
đàn (kiểm tra lại nhang, đèn, nước cúng, rượu, trái cây…, kinh, nhạc cụ…). Một
chức việc đứng tại Lôi Âm Cổ đài (ở Hiệp Thiên Đài) đánh lên 3 tiếng trống, và
ngâm 4 câu kệ:
Lôi Âm Thánh Cổ triệt hư không
Truyền tấu Càn khôn Thế giới thông
Đạo pháp đương kim dương Chánh giáo
Linh quan chiếu diệu Ngọc Kim Cung.
Dứt mỗi câu đánh một tiếng trống lớn, đến hết câu thứ tư đánh một tiếng
trống lớn và gõ 12 gõ từ lớn xuống nhỏ lên mặt trống; sau đó đánh liền 3 hồi
trống; mỗi hồi 12 chập; mỗi chập 12 dùi. Lúc đầu đánh chậm, sau thúc liên hồi và
cuối cùng là 3 dùi chậm, trong đó có 2 dùi liền nhau, sau đến một dùi.
Một chức việc khác đứng bên Bạch Ngọc Chung đài sau khi nghe dứt tiếng
trống liền đánh chuông. Cũng giống như bên trống, lúc đầu đánh 3 tiếng chuông,
sau đó ngâm 4 câu kệ:
Thần Chung thinh hướng phóng Phong Đô
Địa Tạng khai môn phóng xá cô
Tam kỳ vận chuyển kim quan hiện
Sám hối âm hồn xuất u đồ.
Dứt mỗi câu đánh một tiếng chuông lớn; đến câu cuối cùng đánh một tiếng
chuông lớn và gõ 12 tiếng nhỏ dần lên chuông; sau đó đánh tiếp 3 hồi chuông
giống bên đánh trống và cũng kết thúc bằng 3 tiếng chuông.
Sau đó, chức sắc, chức việc, đạo hữu theo thứ tự phẩm vị, lớn trước, nhỏ
sau, nam bên trái, nữ bên phải xếp thành hàng dài, trật tự, im lặng đi vào Chánh
điện và đứng xoay mặt vào nhau (H:51). Hai vị chức sắc (một nam, một nữ) lãnh
nhiệm vụ chứng đàn xá một xá rồi bước vào đứng trước bàn Nội nghi, (bàn hương
án được đặt phía trước bàn thờ chính ở Bát Quái Đài), theo thứ tự nam bên trái, nữ
bên phải. Hai chức việc hầu lễ cũng xá một xá rồi bước vào đứng trước bàn Ngoại
101
nghi (đặt ở bậc thấp nhất của Cửu Trùng Đài). Tiếp theo, vị hầu chuông khắc 3
tiếng chuông lớn làm hiệu. Chức sắc, chức việc, đạo hữu đồng xá một xá, bước
vào ngay giữa Chánh điện và xoay người đứng hướng mặt lên Bửu điện (nơi thờ
Đức Chí Tôn ở Bát Quái Đài). Chức sắc Hiệp Thiên Đài đứng trước bàn thờ Hộ
pháp, tay bắt ấn Tý, chắp ngang ngực, nhìn thẳng vào Chánh điện (đứng hầu như
thế trong suốt buổi lễ).
Hình vẽ 1: Cách bắt ấn Tý
Cách thực hiện như trên được gọi là nghi thức nhập đàn. Tất cả tín đồ phải
thực hiện đúng theo thứ tự, không được sai trái. Sau khi tín đồ đứng trang nghiêm
trong chánh điện, Ban nhạc lễ đánh khúc Nhạc tấu Quân thiên nhằm nghinh tiếp
Đức Chí Tôn và các đấng thiêng liêng giáng đàn. Khi dứt nhạc, Lễ sĩ bước vào
đứng trước vị chức việc ở bàn Ngoại nghi. Trong đó, hai Lễ sĩ, một người cầm bó
nhang 5 cây chưa đốt; một người cầm lư trầm cũng chưa đốt, đứng đầu hàng, sau
đến hai Lễ sĩ cầm đèn rồi hai Lễ sĩ cầm đài. Chức việc hầu chuông khắc liền 3
tiếng, mọi người đồng xá ba xá rồi quì.
Chức việc ở bàn Ngoại nghi tiếp lấy bó nhang (5 cây) đưa lên hai ngọn đèn
(chụm lại với nhau) của hai Lễ sĩ đốt, sau đó xá ba xá rồi đưa cho một Lễ sĩ cầm
đài; tiếp đến đốt lư trầm, cũng xá ba xá, đưa cho Lễ sĩ cầm đài còn lại. Bốn lễ sĩ
(hai cầm đèn và hai cầm đài), đứng dậy, lui ra, xoay người hướng vào Bửu điện.
Sau đó, điệu trống nổi lên; bốn Lễ sĩ đứng thành hai hàng dọc, hai Lễ sĩ cầm đèn
đứng trước, hai Lễ sĩ cầm đài đứng sau; nghe theo điệu trống, bốn Lễ sĩ từ từ bước
lên bàn Nội nghi; khi bước, hai tay cầm lễ vật đưa lên ngang ngực, chân đi theo
hình chữ Tâm (心) – một cách đi lễ đặc trưng của đạo Cao Đài. Đến bàn Nội nghi,
bốn Lễ sĩ xếp thành hàng ngang, sau đó hai Lễ sĩ cầm đèn lùi lại, đứng sau hai Lễ
Bước 1 -> bước 2 -> bước 3 –> bước 4
(Hình vẽ: Huỳnh Ngọc Thu)
102
sĩ cầm đài thành hai hàng dọc, rồi xoay người đối diện với nhau, cùng quì xuống
trước mặt vị chức sắc chứng đàn, trao bó nhang cho nam chức sắc chứng đàn, lư
trầm được vị nữ chức sắc tiếp lễ đón lấy và cầm quì bên cạnh vị chức sắc nam.
Lúc này, chức việc hầu chuông khắc chuông, vị chức sắc hai tay cầm bó
nhang đưa lên giữa trán niệm Nam mô Phật, sau đó đưa qua trán bên trái niệm
Nam mô Pháp và đưa qua trán bên phải niệm Nam mô Tăng; rồi đưa xuống ngay
ngực niệm:
Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát
Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát
Nam mô Lý Đại Tiên Trưởng kiêm Giáo tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
Nam mô Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân
Nam mô chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần (CT:14)
Trong câu niệm đều phải cúi đầu. Chức sắc, chức việc, đạo hữu hai tay bắt
ấn Tý và cùng làm theo vị chức sắc chứng đàn. Sau đó, Ban Đồng nhi tụng kinh
Niệm hương. Trong suốt thời gian tụng kinh, vị chức sắc phải hai tay cầm bó
nhang dâng lên ngang trán của mình. Khi kết thúc bài Niệm hương, hai vị Tiếp lễ,
một người cấm bó nhang, một người cầm lư trầm tiến lên Thiên bàn để cắm
nhang. Nhang được cắm thành hai hàng, hàng trong 3 cây, hàng ngoài hai cây,
theo vị trí sau:
Hình vẽ 2: Cách cắm nhang từ trên nhìn xuống
Hình vẽ 3: Cách cắm nhang từ bên phải sang
(Hình vẽ: Huỳnh Ngọc Thu)
103
Sau đó, bốn vị Lễ sĩ trở về vị trí cũ.
Nghi thức như trên gọi là dâng hương. Kết thúc nghi thức này, người hầu
chuông khắc một tiếng chuông lớn để toàn thể tín đồ cúi lạy. Khi lạy, hai bàn tay
bắt ấn Tý đưa lên trán rồi từ từ hạ xuống, xòe ra úp xuống đất. Ngón tay cái của
bàn tay phải đè lên ngón tay cái của bàn tay trái, đầu cúi xuống, trán đụng hai bàn
tay, sau đó đầu gật 4 gật; mỗi gật niệm câu Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát
Ma Ha Tát.
Hình vẽ 4: Cách để hai bàn tay khi lạy
Sau khi lạy xong, quì lại thẳng lưng, hai tay bắt ấn Tý đưa về ngang ngực
và tiếp tục nghe tiếng chuông để lạy tiếp. Tín đồ lạy ba lần như vậy, sau đó Ban
Đồng nhi tụng bài Khai kinh, rồi đến bài Ngọc Hoàng Bửu Cáo. Kết thúc bài kinh
này, toàn thể tín đồ tiếp tục lạy ba lạy như trên và nghe tiếp bài Phật giáo Bửu
cáo. Kết thúc bài này, tín đồ cũng lạy ba lạy, nhưng mỗi lạy chỉ gật 3 gật, trong
mỗi gật niệm câu Nam mô Nhiên Đăng Cổ Phật Đại Bồ Tát Ma Ha Tát (ở Truyền
giáo Cao Đài thì niệm Nam mô Nhiên Đăng Cổ Phật xiển giáo Thiên tôn). Tiếp
tục nghe tiếp bài Tiên giáo bửu cáo và cũng lạy ba lạy, chín gật, nhưng niệm câu
Nam mô Thái Thượng Đạo Tổ Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn; rồi đến bài Thánh
giáo bửu cáo cũng lạy ba lạy, chín gật và niệm câu Nam mô Khổng Thánh Tiên Sư
Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn. Trên đây gọi là nghi thức tụng kinh.
Tiếp theo là nghi thức dâng hoa – quả, rượu và trà, cũng có thể gọi là nghi
thức dâng cúng phẩm. Hai Lễ sĩ sắp đặt một bình hoa nhỏ đủ năm màu và một dĩa
trái cây. Bốn Lễ sĩ đăng đàn đến quì trước bàn Ngoại nghi. Chức việc ở bàn Ngoại
nghi chỉnh sửa hoa, quả cho ngay ngắn, cầm bình hoa xá ba xá rồi đưa cho Lễ sĩ
cầm đài, sau đó cầm dĩa trái cây cũng xá ba xa rồi đưa cho Lễ sĩ cầm đài còn lại.
Bốn Lễ sĩ đứng lên xếp thành hai hàng dọc như trước và tiếp tục đi lễ để dâng hoa,
Bước 1 -> bước 2
(Hình vẽ: Huỳnh Ngọc Thu)
104
quả. Trong lúc Lễ sĩ dâng hoa, quả, Ban Đồng nhi tụng bài Dâng hoa. Khi hoa,
quả được dâng đến bàn Nội nghi, Lễ sĩ quì xuống, nam chức sắc chứng đàn tiếp
lấy bình hoa xá ba xá rồi đưa lên trán cầu nguyện; nữ chức sắc chứng đàn tiếp lấy
dĩa trái cây và cũng xá ba xá rồi đưa lên trán cầu nguyện. Lời cầu nguyện với đại ý
là “Con xin dâng hình hài của con lên cho Đức Chí Tôn tùy phương sử dụng”. Tín
đồ quì dưới cũng đưa hai tay bắt ấn Tý lên trán cầu nguyện như trên. Sau khi cầu
nguyện, hai vị Tiếp lễ nhận lấy hoa và quả đem đặt trên Thiên bàn. Bốn Lễ sĩ
đứng lên quay về vị trí cũ. Sau đó, toàn thể tín đồ quì lạy một lạy và bốn gật; mỗi
gật niệm một câu Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ha Ma Tát. Tiếp đến là
lễ dâng rượu. Nghi thức giống với dâng hoa, quả và cách lạy cũng như trên, nhưng
Ban Đồng nhi đọc bài Dâng rượu. Chức sắc nam nhận rượu từ Lễ sĩ; Chức sắc nữ
tiếp rượu từ chức sắc nam, xá ba xá rồi cùng đưa lên trán cầu nguyện như trên và
giao lại cho Tiếp lễ dâng lên Thiên bàn. Lễ dâng trà cũng có nghi thức giống với
lễ dâng rượu. Đồng nhi đọc bài Dâng trà; Chức sắc nam tiếp nước trắng; Chức sắc
nữ tiếp nước trà; sau đó xá ba xá rồi đưa lên trán cầu nguyện và Tiếp lễ dâng lên
Thiên bàn.
Tiếp theo là nghi thức dâng sớ và cầu nguyện. Sớ được để sẵn trên bàn Nội
nghi. Trong nội dung của sớ, bên cạnh việc xưng tụng công đức của Đức Chí Tôn
còn có yếu tố cầu xin như:
“Quảng bố hồng ân, xá tội chúng sanh thoát ly nghiệp chướng, qui hiệp đại đồng,
hòa bình thế giới, Đại Đạo hoằng khai, phổ hóa quần linh, hồi đầu hướng thiện,
nhập vi môn đệ, vĩnh sùng chánh giáo, tùng thị Pháp điều Tam Kỳ Phổ Độ, lập công
bồi đức, giải quả tiền khiên, hậu hưởng thái bình, Nghiêu thiên Thuấn nhựt, phong
điều võ thuận, quốc thới dân khương, an cư lạc nghiệp” (CT:15).
Hai Lễ sĩ cầm đèn đi đến bàn Nội nghi (đi thường) lấy sớ, quay về quì
trước mặt chức sắc chứng đàn. Chức sắc nhận sớ, xá ba xá rồi đưa lên trán cầu
nguyện; sau đó mở sớ đưa cho vị Chức việc có nhiệm vụ đọc sớ quì kế bên. Vị
chức việc mở sớ đọc lớn. Vị chức sắc nam hai tay cầm bao sớ cung kính nâng lên
ngang trán trong suốt thời gian đọc sớ. Khi đọc xong, sớ được đưa lại cho chức
sắc chứng đàn bỏ vào bao, cầm sớ xá ba xá. Hai Lễ sĩ cầm đèn chụm lại cho chức
sắc đốt sớ. Sớ cháy được khoảng 1/3 thì bỏ vào trong thố đốt sớ do vị Tiếp lễ cầm
105
sẵn. Vị Tiếp lễ bưng thố đựng sớ đang cháy để trên bàn Nội nghi. Sau đó, Lễ sĩ và
chức việc đọc sớ trở về chỗ cũ.
Sau đó, toàn thể tín đồ sẽ nghe theo chuông để lạy. Sau khi lạy, Đồng nhi
tụng Ngũ nguyện gồm 5 câu:
Nam mô nhứt nguyện Đại Đạo hoằng khai
Nam mô nhì nguyện phổ độ chúng sanh
Nam mô tam nguyện xá tội đệ tử
Nam mô tứ nguyện thiên hạ thái bình
Nam mô ngũ nguyệt Thánh thất an ninh
Dứt Ngũ nguyện, nghe theo chuông, tất cả tín đồ đồng lạy 3 lạy, 12 gật và
niệm danh hiệu Đức Chí Tôn. Sau đó, theo chuông làm hiệu, mọi người đứng dậy
xá ba xá rồi xoay ra sau theo hướng bên trái đối diện với Bàn thờ Hộ pháp xá một
xá, lui về xếp thành hai hàng, nam bên trái, nữ bên phải như lúc đầu.
Sau nghi thức cầu ngũ nguyện là nghi thức bãi đàn. Chức sắc Hiệp Thiên
Đài đứng trước Bàn Hộ pháp trong suốt thời gian hành lễ, đến lúc này đi thẳng
đến bàn Nội nghi, xá ba xá, quì xuống, lấy dấu Tam bảo và khấn giống chức sắc
chứng đàn, cầu nguyện Đức Chí Tôn, lạy 3 lạy, 12 gật, niệm danh hiệu Đức Chí
Tôn, rồi quay lại xá một xá ở Bàn Hộ pháp, xong về chỗ cũ.
Tiếp đến, Ban Đồng nhi, Lễ sĩ, Tiếp lễ, Kiểm đàn và các chức sắc, chức
việc, đạo hữu lúc đầu không có chỗ quì đều lần lượt theo thứ bậc vào hành lễ Đức
Chí Tôn giống như chức sắc Hiệp Thiên Đài đã làm.
Sau cùng, chức việc hầu chuông tại Bạch Ngọc Chung Đài đánh 3 tiếng
chuông lớn, đọc bài kệ gồm 3 câu:
Đàn tràn viên mãn, chức sắc qui nguyên, vĩnh mộc từ ân, phong điều vũ thuận.
Thiên phong hải chúng, Quốc thái dân an, hồi hướng đàn trường, tận thâu pháp
giới.
Án dà ra đế dạ ta bà ha.
Đọc dứt mỗi câu, đánh một tiếng chuông lớn. Kết thúc tiếng chuông, Ban
nhạc nổi lên, nam nữ đối diện xá một xá, xong hai tay tiếp tục bắt ấn Tý để ngang
ngực. Chức sắc từ bên trong bước ra trước theo hai hàng nam, nữ; những người
106
khác nối theo, tay vẫn bắt ấn Tý cho đến khi ra khỏi Chánh điện. Buổi đại lễ kết
thúc.
Đại lễ thường dành cho các bậc thiêng liêng có địa vị cao trong đạo Cao
Đài như Đức Chí Tôn, Phật Thích Ca, Diêu Trì Kim Mẫu, Quan Thánh Đế Quân,
Quan Âm Bồ Tát, Thái Thượng Lão Quân. Ngoài những vị trên, các vị còn lại với
các ngày vía của chư Phật, Tiên, Thánh, Thần, hoặc các bậc có công khai đạo…
đều được tổ chức theo hình thức tiểu lễ.
+ Cách thức tổ chức tiểu lễ
Thời gian và cách thức giống với Đại lễ, nhưng có một số chi tiết được
giảm bớt như:
- Không thiết bàn Ngoại nghi
- Không có chức việc hầu lễ ở bàn Ngoại nghi.
- Bốn Lễ sĩ lúc dâng hương, dâng hoa quả, dâng trà đi bước bình thường
(không đi chữ Tâm).
Các chi tiết còn lại đều phải tuân thủ giống với Đại lễ.
Ngoài hai hình thức lễ trên, tại Đền thánh và các Thánh thất hàng ngày đều
phải làm lễ Tứ thời do chức sắc, chức việc và đạo hữu thường trực thực hiện. Tứ
thời là bốn thời Hoàng đạo được định sẵn trong ngày, gồm: Tý (0 giờ), Ngọ
(12giờ), Mẹo (6giờ), Dậu (18giờ).
Lễ cúng Tứ thời đơn giản hơn nhiều so với Đại lễ và Tiểu lễ. Đến giờ lễ, vị
Chức việc lên Bạch Ngọc Chung Đài đánh 3 tiếng chuông, rồi đọc bài kệ 3 câu
sau:
Văn chung khấu hướng huệ trưởng càn khôn
Pháp giới chúng sanh đồng đăng bỉ ngạn
Án dà ra đế dạ ta bà ha
Dứt mỗi câu kệ, đánh một tiếng chuông. Sau đó, chức sắc, chức việc, đạo
hữu nam nữ đồng vào Chánh điện, xếp thành hai hàng, nam trái, nữ phải đối diện
nhau. Hai tay bắt ấn Tý đưa ngang ngực. Chức việc hầu chuông đọc tiếp bài kệ 3
câu sau:
Nhứt vi u ám tất giai văn
Nhứt thiết chúng sanh thành chánh giác
107
Án dà ra đế dạ ta bà ha
Dứt mỗi câu, đánh một tiếng chuông. Sau đó, vị chức việc hầu chuông ở
Chánh điện gõ 3 tiếng chuông. Chức sắc đến đạo hữu nam nữ đồng xá một xá
bước vào giữa Chánh điện, tay bắt ấn Tý nhìn thẳng lên Thiên bàn. Theo nhịp
chuông, xá 3 xá rồi quì xuống và làm theo trình tự như trong đại lễ. Trong lễ Tứ
thời không có Lễ sĩ, không có Tiếp lễ và cũng không có hình thức dâng hương,
hoa quả, trà rượu. Tất cả những vật phẩm ấy đều để sẵn trên Thiên bàn. Chức sắc,
chức việc, đạo hữu chỉ quì nghe đọc kinh và lạy theo trình tự.
Các bài kinh đọc trong lễ Tứ thời giống với kinh của Đại lễ và Tiểu lễ. Đến
phần dâng Tam bảo sẽ tùy theo giờ để dâng. Giờ Tý và Ngọ dâng rượu, đọc bài
Dâng rượu; giờ Mẹo và Dậu dâng trà, đọc bài Dâng trà.
Dâng xong Tam bảo, Đồng nhi đọc Ngũ nguyện. Chức sắc, chức việc, đạo
hữu lạy xong và theo trình tự như trong Đại lễ về xếp hai hàng như lúc đầu chờ kệ
chuông bãi đàn.
Chuông bãi đàn được thực hiện giống với chuông Đại lễ, sau đó chức sắc,
chức việc, đạo hữu theo hai hàng nam nữ từ trong đi ra khỏi Chánh điện.
Tín đồ làm lễ Tứ thời tại Thiên bàn gia đình cũng thực hiện giống như Tứ
thời tại Đền thánh hoặc Thánh thất. Các bài kinh, nghi thức quì lạy, nghi thức bãi
đàn… đều thực hiện như đã thực hiện tại Đền thánh và Thánh thất. Nhưng không
đọc bài kệ chuông. Chuông được sử dụng được đặt trên Thiên bàn. Người chứng
đàn là chủ gia đình. Tất cả những người tham gia cúng đều có thể đọc kinh, không
có Đồng nhi và cũng không có nhạc lễ.
Trong quá trình quan sát, chúng tôi nhận thấy cách thức tổ chức nghi lễ tôn
giáo của tín đồ đạo Cao Đài tương đối giống với nghi thức cúng đình truyền thống
của người dân Nam Bộ, phải chăng nghi lễ tôn giáo của đạo Cao Đài được mô
phỏng theo nghi thức cúng đình ở Nam Bộ?
* Việc thực hiện nghi lễ thăng giáo phẩm
Theo cơ cấu tổ chức của đạo Cao Đài, giáo phẩm được chia thành 2 bộ
phận: Cửu Trùng đài và Hiệp Thiên đài.
108
+ Giáo phẩm Cửu Trùng đài
Giáo phẩm Cửu Trùng đài được phân chia thứ bậc (xem sơ đồ 6) từ thấp
đến cao, gồm: Phó Trị sự, Chánh trị sự, Lễ sanh, Giáo hữu, Giáo sư, Đầu sư,
Chưởng pháp, Giáo tông.
Người muốn giữ các phẩm này ngoại trừ Thượng Đế giáng cơ ban thưởng,
nếu không phải theo trình tự bỏ thăm, gọi là công cử như sau:
- Tín đồ muốn lên Phó Trị sự phải được toàn thể tín đồ sở tại công cử. Phó
Trị sự lên Chánh Trị sự phải được toàn thể Phó Trị sự sở tại công cử.
- Chánh, Phó trị sự hoặc Thông sự muốn lên Lễ sanh phải do toàn thể tín
đồ sở tại cùng nhau công cử, sau đó đưa về Tòa thánh thi lại, nếu đậu sẽ được lãnh
phẩm.
- Người đang giữ phẩm Lễ sanh muốn lên Giáo hữu phải nhờ đến toàn thể
Lễ sanh trong đạo cùng công cử.
- Người đang giữ phẩm Giáo hữu muốn lên Giáo sư phải nhờ đến 3.000 vị
Giáo sư công cử.
- Người đang giữ phẩm Giáo sư muốn lên Phối sư phải nhờ đến 72 vị Giáo
sư cùng công cử.
- Người đang giữ phẩm Phối sư muốn lên Đầu sư phải nhờ đến 36 vị Phối
sư cùng nhau công cử.
- Người đang giữ phẩm Đầu sư muốn lên phẩm Chưởng pháp phải nhờ 3 vị
Đầu sư cùng công cử.
- Người muốn giữ chức Giáo tông phải được toàn thể tín đồ đồng lựa chọn
một trong sáu người đang giữ phẩm Chưởng pháp và Đầu sư.
Điều kiện để những người được công cử lên chức vụ mới phải là người
luôn hoàn thành nhiệm vụ, có đạo đức tốt, hành đạo tích cực, luôn được tín đồ yêu
mến; và điều quan trọng là chức vụ cần được công cử phải là chức vụ chưa có
người đảm nhận, đang bị khuyết.
Giáo phẩm của nữ phái cũng tuân thủ theo nguyên tắc công cử trên, nhưng
người làm nhiệm vụ công cử phải là nữ giới.
109
+ Giáo phẩm Hiệp Thiên đài
Giáo phẩm của Hiệp Thiên đài (xem sơ đồ 7) gồm Hộ pháp, Thượng phẩm,
Thượng sanh và Thập nhị thời quân.
Khác với giáo phẩm Cửu Trùng đài, giáo phẩm Hiệp Thiên đài được chia
thành 2 loại.
- Tiếp pháp, Tiếp đạo, Tiếp thế, Hộ pháp, Thượng phẩm, Thượng sanh là
những giáo phẩm không qua luật công cử, do Thiên phong (do Thượng đế phong
tặng) lập thành.
- Thông sự phải chịu luật công cử như giáo phẩm Cửu Trùng đài. Thông sự
sẽ do toàn thể tín đồ trong Ban Trị sự địa phương công cử. Tín đồ địa phương lựa
chọn người có đức hạnh, uy tín trong cộng đồng, hết lòng vì đạo… để đề xuất giữ
phẩm này. Phẩm này cả nam giới và nữ giới đều có thể đảm nhận.
*
Sau khi đã chọn được người thích hợp đảm nhận phẩm vị trong cơ cấu tổ
chức, chức sắc và tín đồ trong đạo tiến hành lễ phong phẩm vị. Xin trích một đoạn
Thánh giáo vào đêm 22 rạng sáng ngày 23 tháng 4 năm 1926 về việc Thiên phong
phẩm vị cho các chức sắc cao cấp trong đạo Cao Đài ở thời kỳ đầu thành lập như
sau:
Ba con nghe dạy cuộc sắp Thiên-Phong:
Các con có vui không?
Ðạo phát trễ một ngày là một ngày hại nhơn-sanh. Thầy nôn nóng nhưng mà
Thiên-cơ chẳng nghịch đặng, nên phổ-thông trắc-trở,vậy thì ba con (Trung, Cư,
Tắc) cứ sắp đặt thế này:
Trung nghe, Con dời bài vị của Lý-Bạch để dưới tượng Thầy; con dọn dẹp
trong hết, để một cái ghế, kế một bên tran thờ; rồi để trên một cái ghế lớn đặng
làm ngôi Giáo Tông; ba cái nữa để sắp hàng theo ở dưới, đặng làm ngôi cho
ba vị Ðầu-Sư. Con phải bao bốn cái ghế ấy cho tinh khiết, con đem Thiên-phục
Giáo-Tông mà để nơi ghế ở trên. Còn bộ Thượng-Thanh thì để giữa; bộ Ngọc-
Thanh bên Hữu, còn ghế bên tả con phải viết một miếng giấy đề chữ "THÁI"
cho lớn mà dán lên chỗ dựa.
Ngay chỗ bàn ngự của Thầy, phải để một cái ghế, trước ngôi ba vị Ðầu-Sư,
vọng một bài vị, biểu Lịch viết như vầy:
110
"CỬU THIÊN CẢM ỨNG LÔI THINH PHỔ HOÁ THIÊN TÔN" lại vẽ thêm
một lá buà "KIM QUANG TIÊN" để thông ngay ở giữa, ai ai ngó vào cũng đều
thấy đặng.
Bàn Thầy giáng cơ thì để trước vọng Ngũ-Lôi, khi giáng cơ rồi thì dời đi cho
trống chỗ đặng nhị vị Ðầu-Sư quỳ mà thề.
Con lại để thêm một cái bàn giữa bên cửa sổ, đằng trước ngó vô.
Cư, nghe dặn: Con biểu Tắc tắm rửa sạch sẽ (xông hương cho nó) biểu nó lựa
một bộ quần áo tây cho sạch sẽ, ăn mặc như thường đội nón...
Cười…
Ðáng lẽ nó phải sắm khôi, giáp như hát bội, mà mắc nó nghèo, Thầy không
biểu.
Bắt nó đứng trên, ngó mặt ngay ngôi Giáo-Tông, lấy chín tấc vải điều đắp mặt
nó lạị.
Lịch, con viết một lá phù (Giáng-Ma-Xữ) đưa cho nó cầm.
Các con, phải cho thanh tịnh kể từ ngày nay, diệt tận phàm tâm chớ nhơ một
điểm, thì ngày ấy thề mới đặng.
Cư, khi đem Ba bộ Thiên-Phục đến vọng trên ba cái ngai thì con phải chắp bút
bằng nhang như mọi lần đặng Thầy trấn trong ba bộ Thiên- Phục và ba ngai
ấy, rồi mới kêu hai vị Ðầu-Sư đến quỳ trước Bửu-Ngai của nó, đặng Thầy vẽ
phù vào mình, khi hai vị Ðầu-Sư vái rồi,phải đến trước Bửu-Ðiện của Thầy mà
làm lễ (mười hai lạy) và trước ngôi Giáo-Tông (chín lạy) rồi biểu Giãng xướng
lên: "Phục vị" thì hai người leo lên ngồi.
Cả hết thảy Môn-Ðệ phân làm ba ban, đều quỳ xuống biểu Tắc leo lên bàn, con
chấp bút bằng nhang, đến bàn Ngũ-Lôi đặng Thầy triệu nó đến rồi mới tới
trước mặt Tắc đặng Thầy trục xuất chơn-thần nó ra: nhớ biểu Hậu. Ðức xông
hương tay của chúng nó, như em có giựt mình té thì đỡ.
Rồi biểu hai vị Ðầu-Sư xuống ngai, quỳ đến trước mặt Ngũ-Lôi, hai tay chấp
trên đầu quì ngay bùa (Kim-Quang-Tiên) mà thề như vầy:
" Tôi là Lê Văn Trung tự Thiên Ân là Thượng-Trung-Nhựt và Lê Văn Lịch tự
Thiên Ân là Ngọc-Lich-Nguyệt, thề Hoàng-Thiên, Hậu-Thổ, trước Bửu-Pháp
Ngũ-Lôi rằng làm trọn Thiên-đạo mà dìu-dắt cả mấy em chúng tôi đều là Môn-
Ðệ của Cao-Ðài Ngọc-Ðế; nhứt nhứt do lịnh Thầy phân định, chẳng dám
chuyên quyền mà lập thành tả đạo; như ngày sau hữu tội thì thề có Ngư-Lôi tru
diệt".
Ðến bàn Hộ Pháp cũng quỳ xuống,vái y vậy đều câu sau như vầy:
111
"Như ngày sau phạm Thiên-Ðiều, thề có Hộ-Pháp đọa Tam-đồ bất năng thoát
tục" .
Rồi mới biểu Giảng-xướng lại nữa "Phục-Vị" thì nhị Ðầu-Sư trở lại ngồi trên
ngai, chư Môn-đệ đều đến lạy mỗi người hai lạy.
Tới phiên các Môn-đệ, từng người đến bàn Ngũ-Lôi mà thề rằng:
" Tên gì?....... Họ gì?...... Thề rằng: Từ đây biết một Ðạo Cao- Ðài Ngọc-Ðế,
chẳng đổi dạ đổi lòng, hiệp đồng chư Môn-đệ, gìn luật lệ Cao-Ðài, như sau có
lòng hai thì Thiên-tru, Ðịa-lục".
Tới trước bàn Hộ-Pháp, cũng thề như vậy, rồi mới đến lạy nhị vị Ðầu-Sư [4:19-
22].
Theo đoạn Thánh giáo trên, trong tháng 4 năm 1926, các ông Lê Văn
Trung, Lê Văn Lịch và Phạm Công Tắc được Thiên phong giữ chức Đầu sư và Hộ
pháp của đạo Cao Đài bằng nghi lễ rất cầu kỳ và mang tính huyền bí của tôn giáo.
Trong quá trình điền dã, chúng tôi biết việc phong phẩm vị trong hệ thống
tổ chức của đạo Cao Đài được chia thành hai cấp: cầu phong và cầu thăng.
- Cầu phong là hình thức phong phẩm từ hàng chức việc (Thông sự, Phó
Trị sự, Chánh Trị sự) và đạo hữu lên Lễ sanh.
- Cầu thăng là hình thức phong phẩm vị cho hàng chức sắc.
Khi một vị trong hàng chức việc có đầy đủ phẩm hạnh và được cộng đồng
tín đồ tin yêu, đồng tâm công cử, thì lễ cầu phong được diễn ra. Nếu vị chức việc
là Phó trị sự lên Chánh trị sự, lễ cầu phong sẽ được diễn ra tại Thánh thất, trước
bàn thờ Đức Chí tôn và bàn thờ Hộ pháp. Trong lễ này có hình thức minh thệ
(giống với minh thệ của ông Lê Văn Trung và ông Lê Văn Lịch đã thề trước đây)
nhằm khẳng định lại đức tin của người được công cử vào phẩm vị mới và khẳng
định người đó sẽ hết lòng vì đạo trong cương vị và vai trò mới của mình.
Nếu Chánh Trị sự hoặc Thông sự cầu phong lên Lễ sanh sẽ phức tạp hơn.
Lễ cầu phong được diễn ra tại Đền thánh (cơ sở Trung ương của đạo). Trong lễ
này có hình thức nhận sắc thái – nghĩa là nhận mình sẽ được đứng vào chi nào
trong ba chi Thái, Thượng, Ngọc của đạo Cao Đài. Hình thức nhận sắc thái được
diễn ra trước cung đạo tại bàn thờ Đức Chí Tôn. Trên cung đạo đặt một cái chung
lớn, cao quá đầu người, bên trong bỏ các quả cầu nhỏ; mỗi quả có một màu, gồm
112
ba màu: xanh (màu biểu của chi Thượng), đỏ (màu biểu của chi Ngọc), vàng (màu
biểu của chi Thái). Người được cầu phong đến trước Cung đạo, cầu Đức Chí Tôn,
rồi đưa tay trái vào chung lớn nhặt một quả cầu. Quả cầu có màu gì, người đó sẽ
được đứng vào chi có màu biểu tương ứng. Tên của người cầu phong sẽ được ghi
vào sổ bộ.
Kết thúc nghi thức nhận sắc thái, những người cầu phong trở về địa
phương, may lễ phục và chờ đến ngày làm lễ minh thệ và trấn thần áo mão. Đến
ngày hành lễ minh thệ (khoảng từ 2 đến 3 tháng sau ngày nhận sắc thái), người
cầu phong mang lễ phục đến Đền thánh, cầu Đức Chí tôn; chức sắc Hiệp Thiên
đài làm lễ trấn thần (CT:22) áo mão. Sau đó, người cầu phong mặc lễ phục đã trấn
thần, đến trước bàn thờ Đức Chí tôn và bàn thờ Hộ pháp làm lễ minh thệ. Chức
sắc Hiệp Thiên đài chịu trách nhiệm hướng dẫn lễ; người cầu phong chỉ làm theo
những gì chức sắc Hiệp Thiên đài hướng dẫn.
Đối với cầu thăng, nghĩa là tín đồ bước vào hàng chức sắc; lễ này vẫn được
tổ chức tại Đền thánh, gồm các lễ như trấn thần áo mão, minh thệ,… nhưng
không có hình thức nhận sắc thái.
Riêng chức phẩm của Hiệp Thiên đài, theo qui định của đạo Cao Đài,
không được thực hiện theo hình thức cầu phong và cầu thăng. Chức phẩm trong hệ
thống này đều do thiên phong; do sự chọn lựa của các đấng thiêng liêng trong đạo,
do đó không theo luật công cử. Tín đồ được lựa chọn vào vị trí trong Hiệp Thiên
đài chỉ thực hiện lễ trấn thần áo mão và minh thệ.
Như vậy, tùy theo cấp bậc, cơ cấu tổ chức trong đạo Cao Đài, tín đồ được
tiến hành nghi lễ thăng giáo phẩm khác nhau; có nghi lễ cầu kỳ phức tạp, nhưng
cũng có nghi lễ đơn giản; có nghi lễ hoàn toàn thế tục, nhưng cũng có nghi lễ
mang tính huyền bí, thiêng liêng.
2.4.2. Nghi lễ Thế đạo
Nghi lễ Thế đạo của đạo Cao Đài diễn ra theo vòng đời người như sinh
trưởng, lập gia đình, già, ốm đau, chết.
113
* Lễ sinh nhật
Khi đứa trẻ được sinh ra sau 3 ngày, gia đình sẽ thực hiện nghi thức này.
Cha của đứa trẻ báo với Ban Quản cai quản họ đạo tại địa phương để chuẩn bị làm
lễ Sinh nhật và đặt tên cho trẻ. Lễ được tổ chức ngay trong gia đình của đứa trẻ
nếu gia đình đó có đặt Thiên bàn, nếu không sẽ được tổ chức tại Thiên bàn nhà
hàng xóm hoặc tại cơ sở Đạo.
Tùy theo thời gian thuận tiện của gia đình và Ban Cai quản mà chọn giờ
hành lễ, thường sẽ tổ chức vào một trong các giờ như Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu. Sau khi
thống nhất được ngày giờ hành lễ, Ban Cai quản và gia đình đứa trẻ sắp đặt lễ vật
Tam bảo (hoa, quả, trà rượu) lên Thiên bàn. Đứa trẻ được tắm rửa sạch sẽ, xức
dầu thơm, mặc đồ đẹp.
Đến giờ hành lễ, Chủ lễ (chức sắc trong Ban Cai quản), người thân trong
gia đình đứa trẻ, đạo hữu đến dự… bận lễ phục chỉnh tề theo trình tự của Tiểu lễ
mà vào quì trước Thiên bàn. Người nhà bế đứa trẻ quì sau vị chức sắc chứng đàn.
Đồng nhi hoặc những người hầu đàn tụng kinh Đức Chí Tôn (kinh tứ thời), dâng
Tam bảo, sau đến kinh Sinh nhật và cầu Ngũ nguyện. Buổi lễ Sinh nhật kết thúc,
gia đình báo tên, tuổi của đứa trẻ để Ban Cai quản ghi vào sổ Bộ sinh.
Theo giáo lý Cao Đài, lễ Sinh nhật mang ý nghĩa là ngày đầu tiên của linh
hồn chịu cuộc đổi dời, từ kiếp Thiêng liêng ra kiếp phàm trần, mượn cảnh thế gian
làm trường tiến hóa [3:36], nên phải tổ chức lễ này để cầu Đức Chí Tôn và các
đấng Thiêng liêng phù hộ cho đứa trẻ mạnh khỏe, ngoan hiền, đức độ trong quá
trình phát triển.
* Lễ tắm thánh
Lễ diễn ra khi đứa trẻ được 1 đến 2 tháng tuổi, mang ý nghĩa nhằm đem ân
điển thiêng liêng truyền vào cơ thể của đứa trẻ, giúp nó phát triển dễ dàng cả về
tâm linh lẫn thể chất theo chiều hướng tốt đẹp [102], bên cạnh đó cũng đánh dấu
sự khởi đầu trở thành tín đồ Cao Đài (nhưng chưa chính thức) của đứa trẻ.
Lễ được thực hiện theo trình tự sau:
- Khi đã thực hiện xong lễ sinh nhật và đến thời gian qui định, cha mẹ của
đứa trẻ đến trình báo với Ban Cai quản để xin làm Lễ tắm thánh. Lễ này được cử
114
hành vào ngày Sóc Vọng (ngày mùng 1 hoặc 15 âm lịch hàng tháng) tại Thánh
thất do Ban Cai quản và những người đại diện trong gia đình chủ trì. Đến ngày qui
định, đứa trẻ được tắm sạch sẽ, xức dầu thơm, mặc đồ đẹp và được gia đình đưa
đến Thánh thất để chuẩn bị làm lễ.
- Lễ được thực hiện giống nghi thức lễ sinh nhật. Trong buổi lễ, đứa trẻ
được cha hoặc mẹ bồng quì sau vị chức sắc chứng đàn. Ban Đồng nhi tụng kinh
Đức Chí Tôn, dâng Tam bửu và đọc kinh Tắm thánh nhằm cầu Đức Chí Tôn ban
phước lành cho đứa trẻ. Sau đó, vị chức sắc chứng đàn lễ làm phép rưới nước
Thánh Maha (CT:18) lên đầu đứa trẻ. Ông cầm bình nước đến trước đứa trẻ, dùng
mắt trái theo tâm ý vẽ chữ Tăng (僧) trên nê huyền cung (trên thóp) của đứa trẻ,
rồi lấy ngón tay cái của bàn tay trái ấn vào chữ vừa vẽ, gọi là ấn Ngũ hành sơn và
niệm câu chú úm ma ni bát ni hồng, rồi khấn câu “Đây là con cái thiêng liêng của
Thầy, xin Thầy gìn giữ cho trong sạch vậy hoài”. Sau đó, ông cầm bình nước có
cắm một nhành liễu, lấy nhành liễu nhỏ một giọt nước trên đầu đứa trẻ và niệm
Nam mô Phật, nhỏ tiếp giọt thứ hai niệm Nam mô Pháp, tiếp giọt thứ ba niệm
Nam mô Tăng; sau cùng niệm câu Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha
Tát. Ý nghĩa của việc tắm nước thánh (rưới nước) là ban ân điển của Thượng Đế
và tẩy trược Chơn thần để đứa trẻ được sáng dạ, học hành mau tấn tới. Sau đó,
chức sắc trở về quì trước Thiên bàn, Đồng nhi đọc ngũ nguyện và bãi đàn.
- Sau nghi lễ này, đứa trẻ sẽ được xem là tín đồ về mặt pháp lý. Đứa trẻ được
Ban Quản trị ghi tên vào Sổ bộ để theo dõi và được cấp giấy chứng nhận, gọi là
“Giấy Tắm Thánh”. Cha mẹ của đứa trẻ giữ giấy này đến khi nó trưởng thành. Khi
có Giấy tắm thánh, đứa trẻ được hội nhập với cộng đồng như là một tín đồ của
Đạo (nhưng chưa chính thức), được tín đồ trong đạo chăm sóc, dạy bảo, bồi
dưỡng đức tin.
* Lễ nhập môn
Nếu lễ Tắm thánh đánh dấu bước khởi đầu nhập đạo của đứa trẻ, thì lễ
nhập môn xác nhận đứa trẻ đó chính thức trở thành tín đồ của đạo Cao Đài. Lễ
nhập môn diễn ra khi đứa trẻ bước vào tuổi 18. Sở dĩ có lễ này vì đạo Cao Đài qui
định sự tự nguyện của mọi tín đồ. Khi đứa trẻ còn nhỏ chỉ làm lễ Tắm thánh để
115
được hưởng ân điển của thiêng liêng nhằm phát triển về thể chất và tinh thần. Lễ
này do cha mẹ áp đặt, đứa trẻ chưa biết, nên không thể xem là tín đồ chính thức
của đạo. Khi đến tuổi 18, trở thành người có đủ trí khôn, đủ nhận thức và đủ khả
năng chịu trách nhiệm về các hành vi của mình nên người đó sẽ được tiến hành
làm lễ nhập môn theo sở nguyện và trở thành tín đồ chính thức của đạo Cao Đài.
Lễ nhập môn gồm các giai đoạn sau:
- Giai đoạn chuẩn bị: giai đoạn này diễn ra trước lễ nhập môn vài tháng,
người nhập môn phải tự nguyện ăn chay, ít nhất 6 ngày trong một tháng, theo các
ngày qui định như mùng 1, 8, 14, 15, 23, 30 âm lịch hàng tháng, gọi là thọ lục
trai; sau đó sẽ học thuộc kinh Tứ thời và tự tìm cho mình hai người trong đạo
hướng dẫn cách hành lễ khi cúng, gọi là hai người dẫn tiến. Sau khi thọ lục trai,
học thuộc kinh và thông thạo cách hành lễ, hai người dẫn tiến sẽ trình với Ban Cai
quản về tinh thần học đạo của người xin nhập môn và chọn ngày làm lễ nhập môn.
Khi đã chọn được ngày, người xin nhập môn phải may lễ phục, gồm một bộ áo dài
trắng, có thêm khăn đóng đen (nếu là nam giới), để mặc trong buổi lễ và sẽ thường
xuyên sử dụng sau này.
- Lễ nhập môn: Đến ngày làm lễ, người nhập môn sẽ đi cùng với hai người
dẫn tiến đến quì trước Thiên bàn ở Thánh thất (H:77-78). Hình thức lễ giống với
lễ Tắm thánh. Sau khi Đồng nhi tụng xong kinh Tứ thời, dâng Tam bửu, sẽ đọc
tiếp kinh Nhập môn, sau đó người nhập môn phải đọc lời Minh thệ trước Thượng
Đế, với nội dung “Tên… họ… thề rằng: từ đây biết một đạo Cao Đài Ngọc Đế,
chẳng đổi dạ đổi lòng, hiệp đồng chư môn đệ, gìn luật lệ Cao Đài, như sau có
lòng hai thì Thiên tru Địa lục” [4:17]. Sau đó, Đồng nhi đọc ngũ nguyện và bãi
đàn.
Sau lễ Nhập môn, người nhập môn đem Giấy tắm thánh nộp lại Ban Cai
quản và được cấp một giấy khác có tên là Sớ cầu đạo thiệt thọ, được ghi tên vào
Sổ Bộ Đạo Chính thức. Từ đây, người này chính thức trở thành tín đồ của đạo Cao
Đài và phải nghiêm túc thực hiện các điều luật của đạo, như ăn chay 6 ngày trong
tháng, sau tăng lên 10 ngày, có thể tăng lên trường trai; phải tụng kinh, cúng tứ
thời và đặc biệt phải thực hiện công việc hành đạo, nghĩa là cùng với những tín đồ
116
khác tham gia vào các lễ cúng trong cộng đồng như đám tang, cúng tuần, cầu
siêu… và hàng tháng đến ngày Sóc Vọng phải về hành lễ tại Thánh thất.
* Lễ hôn phối
Để lễ hôn phối được diễn ra theo đúng qui định của đạo, người làm lễ phải
thực hiện các công việc sau:
- Tám ngày trước lễ hôn phối, chủ hôn nhà trai phải dán bố cáo nơi Thánh
thất sở tại, gọi là Bát nhựt trình, nhằm thông báo những người trong đạo biết về
mối lương duyên của đôi nam nữ, tránh những điều kiện tụng hoặc phản đối xảy
ra khi làm lễ hôn phối. Trong thời gian này, đôi nam nữ phải học cách hành lễ hôn
phối, cách ứng xử trong cuộc sống vợ chồng và cách nuôi dạy con cái sao cho hợp
với lẽ đạo. Những điều này do người trong Ban Cai quản hướng dẫn. Song song
với những việc này, đôi nam nữ cùng với gia đình hai bên lo chuẩn bị lễ cưới tại
gia đình như mua sắm lễ vật, làm giấy hôn thú, mời khách, chuẩn bị tiệc đãi
khách…
- Đến ngày lễ hôn phối, đôi nam nữ cùng hai bên gia đình, dòng họ tập
trung về Thánh thất để làm lễ trước sự chứng kiến của đông đảo tín đồ trong đạo.
Lễ hôn phối diễn ra dưới sự chủ lễ của vị chức sắc trong Ban Cai quản. Đôi nam
nữ mặc đồ lễ (nam mặc bộ áo dài trắng đội khăng đóng đen; nữ mặc bộ đồ dài
trắng, tóc bới cao cho gọn) hoặc cũng có thể mặc đồ cưới (nam mặc đồ vécton, nữ
mặc áo dài cưới), quì trước Thiên bàn phía sau người chủ lễ (H:79-80). Sau khi
làm lễ Đức Chí Tôn (Ngọc Hoàng Thượng Đế), Ban đồng nhi tụng kinh hôn phối
và vị chủ lễ làm Phép hôn phối (CT:19) cho hai người, sau đó nhắc lại những điều
đạo đức cần phải giữ gìn trong cuộc sống vợ chồng cho hai người nghe như sau:
“Đức Chí Tôn chứng cho hai em kết thành giai ngẫu, nương náu nhau trọn nghĩa
trọn tình, đạo vợ chồng giữ vẹn trăm năm, dầu giàu có không sai, dầu khó hèn
không phụ, vì vợ chồng chính là dây mối cho mọi việc tốt lành ở tương lai.
Xưa nay có vợ hiền mới giúp chồng nên anh hùng, có chồng hiền lương mới dạy nên
vợ tiết hạnh. Ban đầu chỉ là vợ chồng trong gia đình, mà kết quả là bổn phận làm
cha mẹ. Vợ chồng tuy khác hai tên nhưng mà cùng một đạo lý. Đã là tín đồ của Đại
Đạo, vợ phải xứng đáng vợ, chồng phải xứng đáng chồng, mới là con nhà đạo đức”
(PL:3, NKĐD số:3).
117
Kết thúc lễ hôn phối, về phần tôn giáo, hai người này được xem như vợ
chồng. Sau đó, hai người cùng với gia đình và dòng họ trở về làm lễ cưới theo
phong tục.
* Tang lễ
+ Các nghi thức trong tang lễ
Tang lễ của đạo Cao Đài được tổ chức theo phẩm vị. Mỗi phẩm vị có hình
thức tang lễ khác nhau. Trước khi bước vào tang lễ chính thức, tất cả tín đồ Cao
Đài đều phải qua bước Cầu hồn khi hấp hối hoặc khi đã qua đời.
- Nghi thức cầu hồn: Khi tín đồ đang còn hấp hối, chức sắc và gia quyến
liền thiết lễ Đức Chí Tôn, không nhất thiết phải trùng với giờ cúng Tứ thời. Nếu
không trùng với giờ cúng Tứ thời thì sẽ dâng đủ Tam bửu (hoa, trà, rượu), nếu
trùng, sẽ tùy theo thời mà dâng bửu như Tỵ – Ngọ dâng rượu, Mẹo – Dậu dâng
trà. Khi cúng xong, vị chức sắc khấn cầu Đức Chí Tôn ban ân cho linh hồn người
đang hấp hối được nhẹ nhàng siêu thăng, sau đó lấy hai cây đèn cầy (nến) đốt
cháy, xá ba xá trước Thiên bàn, đưa hai cây đèn cho hai chức việc, rồi tay bắt ấn
Tý để ngang ngực, cùng hai chức việc cầm cây đèn đến đứng ngay đầu giường
người đang hấp hối, Đồng nhi và Đạo hữu xếp thành hai hàng đứng hai bên
giường. Vị chức sắc định thần, mắt hướng về nê huyền cung của người đang hấp
hối mà nói rằng “Tôi vâng lệnh Đức Chí Tôn đến tụng kinh cho vong hồn…..(tên
và phẩm vị của người đang hấp hối) nhẹ nhàng siêu thăng. Do vậy……(tên và
phẩm vị của người đang hấp hối) hãy định thần nghe và cầu nguyện Đức Chí Tôn
ban ân lành cho”. Sau đó, Đồng nhi tụng kinh Cầu hồn khi hấp hối, rồi niệm danh
hiệu Đức Chí Tôn ba lần. Hai vị chức việc cầm đèn quay trở lại Thiên bàn xá ba
xá, xong tắt đèn. Hai cây đèn này tượng trưng cho ánh sáng Nhật, Nguyệt, gọi là
Lưỡng nghi quan có tác dụng dẫn dắt chơn hồn vào cõi Thiêng liêng của Thượng
Đế, nên sau khi tắt sẽ được cất đi dùng trong các lễ sau, không vứt bỏ.
Nếu tín đồ đó tắt thở trước khi làm Lễ Cầu hồn, việc hành lễ tại Thiên bàn
vẫn được diễn ra, nhưng khi đến bên giường của người chết, Đồng nhi sẽ đọc kinh
Cầu hồn khi đã chết (H:88).
118
Sau khi tín đồ đã tắt hơi và đã được thực hiện xong lễ Cầu hồn, tùy theo
phẩm vị của tín đồ mà thực hiện nghi thức tang lễ. Đạo Cao Đài có qui định nghi
thức tang lễ của tín đồ như sau [147]:
- Tang lễ chức sắc giữ phẩm Giáo tông, Hộ pháp, Chưởng pháp, Thượng
sanh, Thượng phẩm. Đây là chức sắc đã phế đời hành đạo, túc trực tại Tòa thánh
nên có nơi ở riêng, gọi là Biệt điện. Nghi lễ được tổ chức theo hàng Tiên vị. Tại
Đền thánh, Báo Ân Từ, các Thánh thất đều phải treo cờ rũ. Thi thể được liệm ngồi
theo lối kiết già trong Liên đài (hình trụ bát giác) (H:82-83), được di chuyển bằng
xe Long Mã (H:85), không làm Tuần cửu và hành pháp độ thăng.
Sau khi vị chức sắc tắt thở tại Biệt điện, nếu giữ phẩm vị Giáo tông, Hộ
pháp, thì tại Đền thánh sẽ đánh lên 6 hồi chuông, trống; còn giữ phẩm vị Chưởng
Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh thì sẽ đánh 5 hồi, nhằm báo cho toàn thể tín đồ
biết. Sau đó, một chức sắc đứng đầu Lễ viện đến dâng sớ tại Đền Thánh. Ở Biệt
điện, các chức sắc bày một bàn linh bên trên có lễ vật gồm hoa, quả, trà rượu và di
ảnh; bày thêm dàn bát bửu và 2 tàng, 2 lọng ở bàn linh. Chức sắc của các cơ quan
luân phiên đứng hầu bên bàn linh.
Sau 24 giờ qui thiên, thi thể được đưa vào liệm trong Liên đài. Đồng nhi
tụng kinh Tẩm liệm; chức sắc Lễ viện làm lễ phát tang. Khăn tang màu đỏ, gọi là
Kiết tang (H:84). Chức sắc, chức việc, đạo hữu, Đồng nhi luân phiên túc trực bên
Liên đài và tụng kinh Di lặc.
Sau khi đặt thi thể vào Liên đài để tại Biệt điện một đêm, đến sáng hôm sau
Liên đài sẽ được di chuyển vào Báo Ân Từ. Đi trước là Đồng nhi cầm đạo kỳ và
bảng Đại đạo, sau đến là chức sắc Hiệp Thiên Đài cầm phướn Thượng sanh, tiếp
theo là đoàn múa long mã đến dàn Hương án, bát bửu, 2 tàng, 2 lọng, 2 Lễ sĩ theo
hầu, rồi tràng hoa,… sau đến Liên đài; có hai vị chức sắc cao cấp hầu bên Liên đài
và các đạo tỳ đi hai bên. Đi sau cùng là tang quyến, thân bằng cố hữu, chức sắc
Thiên phong, chức việc, đạo hữu…
Liên Đài được di đến Báo Ân Từ. Trong Báo Ân Từ đánh lên 6 hoặc 5 hồi
chuông tùy theo phẩm vị. Liên đài được đặt trong Báo Ân Từ một đêm. Tại đây
119
diễn ra các lễ như dâng tam bửu, cầu siêu… Chức sắc, chức việc, đạo hữu và
Đồng nhi nam nữ luân phiên tụng kinh Di Lặc.
Sau một đêm, Liên đài được di đến Đền thánh. Nếu là Liên đài của Giáo
tông, Chưởng pháp sẽ được để trước 7 cái Ngai (để chính giữa). Nếu là Liên đài
của Hộ pháp, Thượng phẩm, Thượng sanh để nơi Hiệp Thiên Đài, cũng ở chính
giữa. Nghi thức lễ giống như tại Báo Ân Từ.
Sau một đêm tại Đền thánh, Liên đài được di chuyển đến Cửu Trùng Thiên
(được xây dựng trước Đền thánh theo hình Bát quái có chín bậc từ dưới lên). Liên
đài được đặt tại đây một đêm; cách hành lễ cũng giống như ở Báo Ân Từ và tại
Đền thánh. Sau đó, Liên đài được đưa đến Bửu tháp. Đến Bửu tháp, đại diện chức
sắc Hội thánh đọc điếu văn, tang quyến đáp từ rồi đưa Liên đài nhập Bửu tháp.
Đồng nhi tụng kinh Hạ huyệt và Chú Vãng sanh, sau đó niệm danh hiệu Đức Chí
Tôn 3 lần và kết thúc tang lễ.
- Tang lễ chức sắc giữ phẩm vị Đầu sư, Tiên tử, Thập nhị Thời quân:
Đây cũng là những vị phế đời hành đạo tại Tòa thánh nên cũng có Biệt điện riêng.
Tang lễ cũng được cử hành theo hàng Tiên vị, gồm 4 ngày 4 đêm (Biệt điện một
đêm, Báo Ân Từ một đêm, Đền thánh một đêm, Cửu Trùng Thiên một đêm). Đền
thánh, Báo Ân Từ và các cơ sở đạo đều phải treo cờ rũ trong thời gian diễn ra tang
lễ.
Vị chức sắc sau khi tắt thở, tại Đền thánh đánh lên 5 hồi chuông, trống.
Chức sắc Lễ viện dâng sớ tại Đền thánh. Sau đó bày một bàn linh giống với bàn
linh của hàng Nhơn tiên, nhưng chỉ có 1 tàng, 2 lọng. Chức sắc cũng luân phiên
hầu tại bàn linh. Sau 24 giờ qui thiên, thi thể vị chức sắc cũng sẽ được liệm theo
lối kiết già vào Liên đài. Cách hành lễ sau đó giống với phẩm nhơn Tiên kể trên.
Sau một đêm tại Biệt điện, Liên đài được di vào Báo Ân Từ, rồi đến Đền
thánh, ra Cửu Trùng Thiên và nhập Bửu tháp. Nghi thức di Liên đài và cách hành
lễ tại các nơi kể trên đều theo đúng trình tự tang lễ của hàng Tiên vị (giống như
các phẩm nhơn Tiên đã kể), nhưng có một đều khác là đối với hàng nhơn Tiên, tín
đồ phải để tang cho đến ngày Lễ Đại tường; còn đối với các phẩm vị này, tín đồ
chỉ để tang đến khi Liên đài nhập Bửu tháp.
120
- Tang lễ chức sắc giữ phẩm vị Chánh phối sư, Phối sư: Các vị này được
tổ chức theo tang lễ hàng Thánh vị. Thi thể vị chức sắc được liệm trong quan tài
và được chôn dưới mộ (không liệm trong Liên Đài và đưa vào Bửu tháp). Ngoại
trừ Chánh Phối sư, Bàn linh của các vị còn lại không có dàn bát bửu. Quan tài
không được đưa ra Cửu Trùng Thiên. Khi di quan, quan tài được đặt trên Thuyền
bát nhã (không để trên xe Long Mã) (H:87). Không treo cờ rũ, tín đồ không để
tang.
Sau khi vị chức sắc tắt thở, tại Đền thánh đổ lên 4 hồi chuông, chức sắc
dâng sớ. Lễ phát tang diễn ra tại Báo Ân Từ, sau đó làm lễ cầu siêu và đưa đi an
táng.
- Tang lễ chức sắc giữ phẩm vị Giáo sư được tổ chức giống với chức sắc
Phối sư. Nhưng khi người đó tắt thở, tại Đền thánh chỉ đánh 3 hồi chuông trống,
có dâng sớ. Bàn Hương án ngoài các vật phẩm cần thiết, có thêm 2 lọng.
Quan tài được di chuyển bằng Thuyền Bát nhã đến Báo Ân Từ (H:87). Tại
đây sẽ làm lễ phát tang, cầu siêu, sau đó di chuyển đến Đền thánh, tiến hành pháp
độ thăng (pháp trợ lực để chơn hồn nhanh siêu thoát), tuyên dương công nghiệp.
Sau cùng dùng Thuyền Bát Nhã đưa đi an táng.
- Tang lễ của Giáo hữu được tổ chức giống với phẩm Giáo sư, nhưng chỉ
đánh 1 hồi chuông tại Đền thánh sau khi tắt thở; cũng tuyên dương công nghiệp,
làm pháp độ thăng (H:81) tại Đền thánh rồi di chuyển bằng Thuyền Bát Nhã để đi
an táng.
- Tang lễ của Lễ sanh cũng được tổ chức giống với Giáo hữu, nhưng quan
tài được đặt tại Khách đình (nhà khách) hoặc tại tư gia. Ở Đền thánh cũng đánh 1
hồi chuông, có chức sắc dâng sớ. Nhưng khi di quan, bàn Hương án chỉ có một
lọng che, phướn Thượng sanh dẫn đường (các phẩm trên đều là phướn Thượng
phẩm). Linh cửu không được đưa vào Báo Ân Từ và Đền thánh, chỉ đưa Linh vị
(bài vị) vào bái Đức Chí Tôn và Phật Mẫu rồi đưa đi an táng.
- Tang lễ chức việc và đạo hữu giữ trường trai hoặc thập trai (ăn chay
trường hoặc 10 ngày) được tổ chức giống tang lễ của Lễ sanh, nhưng khi tắt hơi,
tại Đền thánh hoặc Thánh thất chỉ gõ 9 tiếng (đối với nữ), 7 tiếng (đối với nam).
121
Có người dâng sớ tại Đền thánh, Thánh thất hoặc tư gia. Ở bàn Hương án không
có Lễ sĩ hầu. Phải có chức sắc làm Pháp độ thăng và cắt dây oan nghiệt (do
những người này còn vướng việc phàm trần) (H:81). Di chuyển Linh cửu bằng
Thuyền Bát Nhã (H:87), đưa Linh vị vào lễ bái Đức Chí Tôn và Phật Mẫu sau đó
đưa đi an táng.
- Tang lễ đạo hữu giữ lục trai (ăn chay 6 ngày)… được tổ chức giống với
chức việc giữ thập trai, nhưng không được làm pháp; vẫn dùng Thuyền Bát Nhã
để đưa Linh cửu; Linh vị được đưa vào bái lạy Đức Chí Tôn và Phật Mẫu rồi đưa
đi an táng.
+ Các nghi lễ sau an táng
Sau khi an táng, tùy theo từng phẩm vị của người đã mất, tín đồ Cao Đài
còn thực hiện thêm các nghi lễ sau:
- Lễ Tuần cửu: Sau lễ an táng, đến lễ Tuần cửu. Lễ này chỉ dành cho
những người giữ phẩm vị từ Chánh phối sư trở xuống. Lễ Tuần cửu được tổ chức
9 ngày một lần tính từ ngày mất và tổ chức 9 lần như vậy. Lần thứ nhất gọi là nhất
cửu, đến nhị cửu… đến lần thứ 9 gọi là chung cửu. Tuần cửu thứ nhất và Tuần cửu
cuối cùng được tổ chức tại Đền thánh hoặc Thánh thất. Các Tuần cửu còn lại được
tổ chức tại Thiên bàn gia đình. Lễ Tuần cửu giống với lễ cúng Tứ thời, nhưng bàn
Hương án của người đã mất cũng phải đặt tại nơi hành lễ, giống như chơn hồn của
người ấy đang quì lạy Đức Chí Tôn (H:90). Trong giờ lễ, Đồng nhi sau khi tụng
kinh Tứ thời, dâng tam bửu, sẽ tùy theo thứ tự của Tuần cửu mà tụng bài kinh cho
phù hợp. Có 9 bài kinh cúng cửu theo thứ tự tên gọi như Kinh đệ nhất cửu, Kinh
đệ nhị cửu… đến Kinh đệ cửu cửu. Mỗi bài sẽ được tụng 3 lần trong Tuần cửu
tương ứng.
Ý nghĩa của việc cúng cửu là sau mỗi Tuần cửu, Chơn hồn của người chết
sẽ được đưa lên một từng trời (ứng với chín từng trời – Cửu Trùng Thiên như đã
trình bày); đến Tuần cửu thứ 9 thì Chơn hồn đã được lên đến từng trời Tạo Hóa
thiên do Phật Mẫu cai quản. Sau đó, Chơn hồn tiếp tục tu hành để được đến những
từng Trời cao hơn.
122
- Lễ Tiểu tường: Lễ này được tổ chức dành cho tất cả các tín đồ, bất kỳ giữ
phẩm vị nào. Lễ này diễn ra sau ngày lễ chung cửu 200 ngày, được xem là ngày
giỗ đầu tiên dành cho người đã khuất. Lễ được tổ chức tại Đền thánh hoặc Thánh
thất. Nghi thức giống với cúng cửu, nhưng phải đọc bài kinh Tiểu tường.
Lễ Tiểu tường có mục đích đưa chơn hồn người chết lên từng Trời thứ 10
là Hư Vô Thiên, bái kiến Đức Nhiên Đăng Cổ Phật, đến Ngọc Hư Cung, ra trước
Tòa Tam Giáo để cây Cân Công bình thiêng liêng cân tội phước và các đấng
Thiêng liêng theo đó định tội phước cho chơn hồn (có thể siêu thăng hay bị tái
kiếp trả quả) [71].
- Lễ Đại tường: Lễ này cũng dành cho tất cả tín đồ của đạo và được tổ
chức như lễ Tiểu tường, nhưng đọc kinh Đại tường. Lễ này diễn ra sau ngày lễ
Tiểu tường 300 ngày. Đây là lễ mãn tang, được tổ chức tại Đền thánh hoặc Thánh
thất. Lễ mang mục đích đưa chơn hồn lên từng Trời thứ 12, Hỗn Nguơn Thiên, bái
kiến Đức Di Lạc Vương Phật, Giáo chủ Hội Long Hoa [71].
Như vậy, thời gian lễ tang của tín đồ Cao Đài tính từ khi tắt thở đến lúc
mãn tang là 581 ngày, trong đó 81 ngày dành cho lễ cúng Cửu, 200 ngày sau là lễ
Tiểu tường và 300 ngày sau là lễ Đại tường. Sau lễ Đại tường, hàng năm đến ngày
mất, gia quyến của người chết sẽ làm lễ cầu siêu tại Thiên bàn trong gia đình hoặc
tại Thánh thất.
2.4.3. Chức năng của nghi lễ
Qua các nghi lễ (Thiên đạo và Thế đạo) của đạo Cao Đài có thể nhận thấy
các chức năng sau:
* Chức năng thể hiện giáo lý tôn giáo
Bất kỳ một tôn giáo nào khi ra đời cũng đều xây dựng cho mình một hệ
thống giáo lý nhằm giải thích về các hiện tượng tự nhiên, xã hội và con người, sau
đó vạch ra các phương cách tu hành để tín đồ thực hiện. Hệ thống giáo lý tôn giáo
có thể được biểu hiện dưới nhiều cách, nhưng cách biểu hiện dễ cảm nhận nhất và
phổ quát nhất là thực hiện nghi lễ. Nghi lễ là mối quan hệ của các thực thể ở thế
giới bên kia với cuộc sống trần tục của cộng đồng và cá nhân, nghi lễ làm cho nội
dung giáo lý tôn giáo trở nên sống động và phổ quát [176:121-122]. Nghi lễ của
123
đạo Cao Đài cũng vậy, quan điểm giáo lý của đạo Cao Đài được “phơi bày” rõ
ràng qua cách thực hiện nghi lễ của tín đồ, đặc biệt là quan điểm về nhân sinh
quan và vũ trụ quan của tôn giáo này.
- Trước khi vào lễ chính thức, toàn thể tín đồ có biểu tượng như một khối
hỗn mang, chưa có trật tự rõ ràng. Nam, nữ tự do đi lại, trao đổi, chuyện trò,
nhưng khi có hiệu lịnh bằng một hồi chuông, nam – nữ phân biệt theo trình tự,
nam bên trái, nữ bên phải, tất cả nghiêm trang, xếp thành hàng ngay ngắn, bước
vào chánh điện. Như vậy, khối hỗn mang ban đầu đã được phân thành hai, gọi là
Lưỡng nghi. Khi vào chánh điện, một chức sắc nam và một chức sắc nữ trở hành
hai vị chứng đàn quan trọng trong buổi lễ; đây chính là biểu tượng âm dương rõ
nét nhất trong buổi lễ này.
- Trong nghi thức dâng hương, việc đốt nhang và dâng lên bàn thờ chính là
nghi thức biểu hiện triết lý nhân sinh quan và vũ trụ quan của đạo. Bó nhang được
đốt bởi hai ngọn đèn chụm lại nhằm biểu hiện triết lý âm dương hòa hợp; bởi hai
ngọn đèn này là hai luồng ánh sáng Nhật – Nguyệt, gọi là Lưỡng nghi quang, biểu
hiện cho Ngày – Đêm, Âm – Dương. Ngọn lửa trong nghi thức đốt nhang được
xem là Thái cực; từ ngọn lửa đó phân ra hai ngọn đèn là Lưỡng nghi; hai ngọn đèn
này hợp lại để sinh ra Tứ tượng, chính là bốn Lễ sĩ dâng hương; bốn Lễ sĩ này
dâng hương lên Bát Quái đài; nơi đó lại có hai vị chức sắc– một nam và một nữ -
tiếp lễ cắm vào lư nhang trên bàn thờ theo hàng, gọi là Án tam tài (3 cây nhang ở
hàng trong) và Tượng ngũ khí (2 cây nhang ở hàng ngoài). Như vậy, từ Bát Quái
sinh ra Tam tài và Ngũ khí, chính là sinh ra vạn vật trong trời đất. Người làm chủ
trong Bát Quái để điều hành Trời Đất chính là Ngọc Hoàng Thượng đế.
- Trong cách lạy của đạo Cao Đài cũng thể hiện quan điểm này. Thánh
ngôn hiệp tuyển của đạo giải thích về cách lạy:
“- Lạy là gì?
- Là tỏ ra bề ngoài, lễ kỉnh trong lòng.
- Chắp hai tay lại là tại sao?
- Tả là Nhựt, hữu là Nguyệt, vị chi Âm-Dương; Âm-Dương hiệp nhứt phát
khởi Càn-Khôn, sanh sanh hóa hóa. Tức là Ðạo.” [4 :15]
124
Như vậy, cách lạy của tín đồ Cao Đài cũng biểu hiện triết lý hòa hợp âm
dương của đạo. Ngoài ra, một vị chức sắc tại Thánh thất Sài Gòn cho biết thêm,
cách lạy của tín đồ Cao Đài còn biểu hiện yếu tố Thiên, Địa, Nhân hợp nhất. Khi
lạy, hai tay chắp vào nhau đưa lên ngang trán -> ngầm chỉ Thiên; khi áp hai tay
xuống đất -> ngầm chỉ Địa; hai tay chắp lại, rút về để ngang ngực -> ngầm chỉ
Nhân. Khi Thiên, Địa, Nhân hiệp nhất cũng là lúc con người thành đạo, trở về với
Thượng đế, nên cách lạy của tín đồ Cao Đài nhằm biểu hiện triết lý Tam tài mà tín
đồ muốn hướng đến (PL:3, NKĐD số:2).
- Trong nghi thức dâng cúng phẩm, yếu tố nhân sinh quan và vũ trụ quan
càng được khẳng định. Theo giải thích của các chức sắc trong đạo Cao Đài, hoa và
dĩa trái cây được đặt trên bàn thờ theo hai vị trí khác nhau. Từ trong nhìn ra, hoa
được đặt bên trái; trái cây được đặt bên phải. Hoa và trái cây là hai vật tượng
trưng cho sự sinh sôi nẩy nở của bốn mùa trong trời đất. Bốn mùa này luôn xoay
vần, tạo nên khí hậu ôn hòa, muôn loài vạn vật sinh trưởng, cây cỏ tốt tươi, đơm
hoa kết trái. Khi dâng cúng hai ly nước (nước trà và nước trắng) là biểu hiện cho
Âm Dương hoà hợp, tạo ra cuộc sống của muôn loài vạn vật. Chúng tôi quan sát,
sau mỗi lần cúng, vị chức sắc chứng đàn thường lấy hai chén nước này hoà chung
vào nhau để uống với niềm tin là tinh thần sẽ được minh mẫn, sức khỏe tráng
kiện. Rượu khi dâng được rót vào ba cái ly. Lượng rượu trong mỗi ly là 3 phân
(tức bằng 1/3 ly), tượng trưng cho 3 bậc công phu tu hành của tín đồ là Hạ thừa,
Trung thừa, Thượng thừa, và cũng tượng trưng cho 3 đẳng cấp của nhân loại là
Hạ lưu, Trung lưu, Thượng lưu. Tổng số rượu trong ba ly là 9 phân, mang ý nghĩa
của Cửu thiên khai hóa, tượng trưng cho các vị Tiên, Phật. Rượu mang ý nghĩa
tượng trưng cho Khí (Hư vô chi khí) để tạo ra sự sống của muôi loài. Số 3 của ba
ly rượu tượng trưng cho 3 cõi thế giới là Hạ giới, Trung giới và Thượng giới. Khi
tín đồ dâng ba ly rượu cùng với nước trà, hoa là tượng trưng cho Tinh, Khí, Thần.
Đây là ba báu vật của con người, gọi là Tam bảo, dâng ba báu vật này lên nhằm
ngụ ý là toàn tâm, toàn ý hướng về Thượng đế.
Như vậy, nghi thức trong đại lễ của đạo Cao Đài không phải là những hành
vi đơn thuần vô nghĩa, trái lại nó chứa đựng và giải thích cả hệ thống tư tưởng về
125
vấn đề nhân sinh quan và vũ trụ quan theo quan điểm của đạo Cao Đài. Điều này
chứng tỏ giáo lý của đạo Cao Đài đã được thể hiện qua nghi lễ một cách sống
động, giúp tín đồ khi thực hiện dễ hiểu, dễ hình dung về quan điểm giáo lý của tôn
giáo mình.
* Chức năng thể hiện niềm tin tôn giáo của tín đồ
Niềm tin tôn giáo được thể hiện qua các yếu tố như tin vào lực lượng siêu
nhiên, tin vào sự tồn tại của một thế giới khác ngoài thế giới trần tục – thế giới mà
linh hồn của con người sẽ đi đến sau cái chết. Trong các buổi đại lễ của đạo Cao
Đài, hai niềm tin này được thể hiện rất rõ.
- Tin vào lực lượng siêu nhiên: Lực lượng siêu nhiên của đạo Cao Đài được
xây dựng theo hệ thống có thứ bậc bởi tư tưởng Tam giáo qui nguyên, ngũ chi
hiệp nhất.
Chính niềm tin này đã chi phối rất lớn đến hoạt động tôn giáo của tín đồ.
Họ tham dự lễ với lòng thành kính hướng về các bậc thiêng liêng trong đạo. Quan
sát các buổi đại lễ, chúng tôi nhận thấy hành động của tín đồ luôn tuân theo một
nguyên tắc chuẩn mực trong niềm tin của họ. Khi lần đầu ngỏ lời tham dự buổi đại
lễ tại Thánh thất Sài Gòn, vị Giáo sư đầu Họ đạo (người đứng đầu trong Thánh
thất) đã cử một vị Lễ sanh giảng giải sơ lược cho chúng tôi về qui trình của buổi
đại lễ. Vị Lễ sanh ấy chỉ cho chúng tôi những việc nên làm và không nên làm
trong buổi lễ; và luôn lặp đi, lặp lại những cụm từ như “nếu phạm những điều này
sẽ bất kính với bề trên”, “sẽ bị đại tội”, hay “làm mất sự trang nghiêm của buổi lễ”
(PL:3, NKĐD số:2).
Lúc đầu, chúng tôi chưa hình dung hết các hành động mà tín đồ sẽ thực
hiện trong buổi lễ để tránh những sai phạm, nên chưa cảm nhận được hết tính
quan trọng, sự trang nghiêm và lòng kính cẩn mà tín đồ dành cho các bậc thiêng
liêng của họ. Nhưng khi tham dự vào, chúng tôi mới thật sự nhận biết hết vẻ thành
kính ấy. Chánh điện của Thánh thất sạch sẽ, gọn gàng; tất cả đồ vật trong chánh
điện được sắp xếp trật tự, ngay ngắn và trở nên thiêng liêng hóa. Tín đồ không
một ai được phép đi ngang qua trước mặt bàn thờ, ngoại trừ những người có sự
126
vụ. Tín đồ đến hành lễ phải bận lễ phục theo phẩm vị của mình và tuyệt đối không
tạo ra tiếng ồn khi đã đứng trong chánh điện (H:51).
Buổi đại lễ bắt đầu bằng hồi trống dài, cũng là lúc tín đồ an vị ngay tại vị
trí của mình. Lúc ấy, họ bắt đầu chờ đón sự hiện diện của các bậc thiêng liêng
trong đạo. Khi Nhạc tấu quân thiêng trổi lên, chính là lúc tín đồ tin các vị thiêng
liêng trong đạo của họ giáng đàn. Lúc ấy, không chỉ những người đứng trong
chánh điện phải trang nghiêm mà những người đang làm các sự vụ khác như phục
vụ dưới bếp, tiếp khách, giữ xe, trật tự viên… cũng tỏ ra trang trọng trong thời
khắc ấy. Họ đứng nghiêm trang, tay bắt ấn tý, chắp ngang ngực, mặt hướng về nơi
chánh điện. Những biểu hiện này cho thấy, niềm tin về sự hiện diện của các đấng
vô hình trong tâm trí họ là có thật và không cần phải chứng minh điều đó. Họ
không dám xao lãng trong thời khắc này vì sợ phạm tội với các đấng thiêng liêng
của họ. Cũng vì niềm tin siêu lý ấy mà tín đồ Cao Đài đã tạo ra bầu không khí
trang nghiêm trong buổi đại lễ. Khi được hỏi “bậc thiêng liêng nào sẽ giáng đàn
trong buổi đại lễ này?”, tất cả chức sắc và hầu hết tín đồ đều cho rằng, có một
đoàn xa giá cờ lộng; Ngọc Hoàng Thượng đế và các vị Phật, Tiên, Thánh, Thần
ngồi trên những xa giá đó giáng đàn. Trong đó, Thượng đế là đấng tối cao và vào
ngày đại lễ, đấng tối cao và các vị Phật, Tiên, Thánh, Thần đều giáng đàn ban
phúc và tín đồ phải thực hiện phải nghiêm túc đón nhận các điều phúc đó (PL:3,
NKĐD số:2). Vì vậy, tín đồ khắp nơi đều về Đền thánh hay Thánh thất để hành lễ,
nhận các điều phúc do các đấng thiêng liêng ban xuống. Chúng tôi quan sát vào
các ngày đại lễ như đại lễ vía Đức Chí Tôn, Đức Diêu Trì Kim Mẫu… chánh điện
của Đền thánh Tây Ninh, Điện Báo Ân Từ, hoặc tại các Thánh thất lớn ở TP. Hồ
Chí Minh như Thánh thất Sài Gòn, Thánh thất Bình Thạnh (chi phái Tây Ninh),
Thánh thất Đô Thành (chi phái Ban Chỉnh Đạo), Thánh thất Từ Vân, Thánh thất
Trung Minh (chi phái Truyền Giáo Cao Đài)… đều không còn chỗ để tín đồ quì
lạy, họ phải ngồi rộng ra khoảng sân trước đền Thánh hay trước đền Báo Ân Từ,
hoặc đứng dọc hai bên hành lang các Thánh thất để hành lễ. Trong lần tham dự lễ
Rằm tháng 10 năm 2006 tại Thánh thất Trung Minh, chúng tôi có dịp trò chuyện
với một nữ tín đồ khoảng 45 tuổi làm nghề bán vải tại Đồng Nai. Quan điểm của
127
nữ tín đồ này là tất cả những ai là tín đồ của đạo Cao Đài, đến ngày đại lễ (CT:16)
đều phải về Thánh thất hoặc Đền thánh hành lễ, nhằm biểu hiện niềm tin của mình
đối với các đấng thiêng liêng trong đạo và để nhận ân đức của Thượng đế (PL:3,
NKĐD số:1).
Bản thân nữ tín đồ này, đến ngày đại lễ cũng đóng cửa sạp để cùng các
thành viên trong gia đình đến Thánh thất hành lễ. Không chỉ riêng nữ tín đồ này,
hầu hết các tín đồ khác trong đạo Cao Đài cũng có suy nghĩ như vậy và thực hiện
giống với nữ tín đồ này. Nếu vì lý do nào đó không thể đến được Thánh thất trong
các ngày đại lễ, họ luôn cảm thấy bất an và tội lỗi. Mẹ của bạn chúng tôi là tín đồ
của Cao Đài Tây Ninh, vì sức khỏe yếu, nên trong năm 2007 bà không thể đến
hành lễ Đức Chí Tôn tại Thánh thất Sài Gòn. Qua ngày hành lễ, bà luôn tự cảm
thấy bất an trong lòng, hay tâm sự với con cháu về việc vắng mặt của mình. Vì
vậy, đến năm 2008, dù sức khỏe vẫn không khá hơn, nhưng bạn chúng tôi vẫn đưa
bà đến Thánh thất hành lễ. Sau buổi lễ, thấy bà thỏa mái hơn. Bạn chúng tôi cho
rằng, bà như trút đi một gánh nặng tâm sự vì đã hoàn thành bổn phận của một tín
đồ. Tuy nhiên, không phải tín đồ nào của đạo Cao Đài suy nghĩ và hành động như
bà. Chúng tôi biết nhiều tín đồ thuộc chi phái Truyền Giáo Cao Đài cũng không
thường xuyên đi lễ tại Thánh thất vào những ngày lễ trọng, nhưng họ có cách giải
thích khác. Họ cho rằng niềm tin đối với Thượng đế và các đấng thiêng liêng
trong đạo là có thật và không thay đổi; nhưng vì lý do kinh tế, không thể làm khác
được, họ sẽ hành lễ và sám hối vào dịp cuối năm (CT:17).
H: Con thấy quì hương lâu quá, đọc bài kinh Sám hối dài tới mấy chục trang, vừa
đọc vừa quì như vậy bác có thấy mệt không?
TL: Mệt chứ, nhưng mà không sao cả, mỗi năm có một lần thôi thì mệt chút nhưng
an tâm con.
H: An tâm là sao hả bác?
TL: Thì sau khi quì hương rồi, mình cảm thấy nhẹ nhỏm cả người, vì mình tin rằng
đã được giảm tội của mình trong một năm qua. Nhưng mà có giảm hay
không thì mình cũng không biết được, cứ tin như vậy đi cho chắc. Hơn nữa
con biết không ? mình trong bài kinh sám hối đó thì có những điều phải nhắc
128
mình, tránh làm điều dữ mà nên làm điều lành đó con. Thí dụ như đọc trong
kinh sám hối có những câu như :
"Thấy trên đường miểng bát, miểng chai,
hoặc là đinh nhọn chông gai.
Mau tay lượm lấy đoái hoài kẻ sau.
Ấy là phước khỏi hao, khỏi tốn.
Chớ có đâu mòn vốn hao tiền".
Đó con thấy những câu như vậy có hay không. Đọc thuộc những câu như
vậy, tự nhiên mình làm theo, rồi làm theo như vậy thì đã có công quả rồi đó.
Rồi có những câu răn mình sợ lắm, nếu đọc kỹ rồi con sẽ thấy sợ vì làm điều
gì tội lỗi cũng đều có hình phạt thích đáng dưới âm phủ hết đó. Do đó, dự lễ
quì hương cũng là lúc để nhắc nhở mình trong cuộc sống vậy mà.
(Trích phỏng vấn số: 5, PL :2)
Ngoài việc tin có sự hiện diện của các đấng thiêng liêng trong đạo, tín đồ
còn tin có sự hiện diện linh hồn của tổ tiên cũng như các loại ma quỷ. Do đó,
trước khi hành lễ, một chức việc hầu chuông đã dóng hồi chuông dài và đọc lên
bốn câu kệ với hàm nghĩa thỉnh cầu Địa Tạng Vương Bồ Tát (người cai quản địa
ngục) mở cửa Phong đô (cửa Địa ngục) để các linh hồn có dịp về hầu Thượng đế
cầu mong sự xá tội của Người. Sau buổi lễ, chức sắc hầu chuông cũng đọc những
câu kệ để yêu cầu các linh hồn về lại vị trí cũ. Một chức sắc cao cấp của Thánh
thất Trung Minh giải thích, không phải tín đồ nào của đạo Cao Đài sau khi chết
cũng được lên Thiên đàng; mà có khi linh hồn phải bị đày xuống địa ngục vì khi
còn sống phạm nhiều tội lỗi. Đến các ngày đại lễ là cơ hội để các linh hồn hay ma
quỷ xin Thượng đế ân xá hầu mong giảm tội. Chính vì vậy, trong các ngày này tín
đồ đều phải thực hiện nghi thức xin mở cửa Phong đô. Chúng tôi quan sát trong
các ngày đại lễ, sau nghi thức cúng tại chánh điện của Thánh thất, chức sắc Cao
Đài thường thực hiện thêm nghi thức cúng gia tiên và các vong hồn tại bàn thờ
báo ân. Mục đích của việc thực hiện nghi thức này nhằm dâng cúng phẩm vật cho
các linh hồn quay về dương gian hành lễ Đức Chí Tôn, đây cũng là hình thức báo
ân của những người đang sống đối với tổ tiên, ông bà.
129
Như vậy, thông qua các ngày đại lễ, có thể cảm nhận được, tín đồ Cao Đài
có niềm tin sâu sắc về các đấng thiêng liêng cũng như các linh hồn đang tồn tại ở
một thế giới khác ngoài thế giới trần tục của con người. Niềm tin đó đã chi phối
đến các hành vi tôn giáo của họ trong các ngày lễ như dâng hương, cách đi lễ,
dâng cúng phẩm (hoa, trà, rượu), xưng tụng công đức, cúng gia tiên… Những
hành vi này đều hướng đến mục đích tỏ rõ niềm tin của tín đồ đối với các bậc
thiêng liêng trong tôn giáo của họ.
- Tin vào sự tồn tại của thế giới khác. Tín đồ Cao Đài tin có sự hiện diện
của các đấng thiêng liêng, ắt hẳn họ cũng tin vào sự hiện hữu của một thế giới
khác – nơi mà các đấng thiêng liêng cũng như các linh hồn đang tồn tại.
Như đã trình bày, tín đồ đạo Cao Đài tin thế giới được chia thành 3 cõi;
Thiên đường, Hạ giới và Địa ngục. Hạ giới là nơi con người đang sống. Thiên
đường và Địa ngục là hai cõi đối lập nhau. Thiên đường dành cho các bậc thiêng
liêng trong đạo và các linh hồn đã tu hành đắc đạo. Địa ngục là nơi đọa đày các
linh hồn lúc trên dương thế đã phạm nhiều tội ác. Trong các ngày lễ của Cao Đài,
chúng tôi nhận thấy có hai nghi thức liên quan đến thế giới vô hình này: Nghi thức
xin mở cửa Phong đô và nghi thức Nhạc tấu quân thiên. Hai nghi thức này được
thực hiện với mức độ trang nghiêm khác nhau. Nghi thức mở cửa Phong đô được
thực hiện trước. Lúc ấy, chức sắc, tín đồ của đạo Cao Đài vẫn chưa an vị trong
chánh điện; sự nghiêm trang dành cho nghi thức này chưa cao so với nghi thức
Nhạc tấu quân thiên. Khi thắc mắc về vấn đề này, chức sắc của thánh thất Trung
Minh cho rằng, việc dóng hồi chuông để xin mở cửa Phong đô là thực hiện một
quyền năng mà Thượng đế ban cho, nhằm dành cơ hội chuộc lỗi cho các vong hồn
đang bị đọa đày. Đây là đặc ân lớn trong thời kỳ ân xá cuối cùng mà Thượng đế
ban cho các linh hồn ở Địa ngục cũng như đang vất vưởng, không nơi nương tựa
tại trần gian, do đó nghi thức này không thể trang trọng. Còn nghi thức Nhạc tấu
quân thiên hoàn toàn ngược lại với nghi thức mở cửa phong đô. Nghi thức này
được thực hiện giống với nghi thức "nghinh thân tiếp giá" (đón Vua) của thời
phong kiến. Đây là nghi thức đón rước các bậc thiêng liêng tối cao trong đạo. Họ
đến từ thế giới tốt lành nhằm ban phước cho con người ở trần gian, nên sự tôn
130
nghiêm được đặt lên hàng đầu. Tất cả chức sắc và tín đồ đều toàn tâm, toàn ý
hướng về nghi thức này, do đó sự tôn nghiêm được bộc lộ rất rõ.
Chính niềm tin về sự tồn tại của hai thế giới đối nghịch nhau ở cõi vô hình
như trên đã chi phối đến các hành vi tôn giáo cũng như cách suy nghĩ của tín đồ.
Không tín đồ nào muốn mình sau khi qua đời bị đày xuống địa ngục, do đó họ
luôn tìm cách điều chỉnh hành vi tôn giáo cũng như các hành vi khác trong cuộc
sống để phù hợp với giáo lý của đạo. Không phải ngẫu nhiên mà mẹ của bạn
chúng tôi cảm thấy bất an khi không thể tham dự ngày vía Đức Chí Tôn vào năm
2007. Bà bất an vì cảm thấy chưa hoàn thành bổn phận của tín đồ, chưa thực hiện
đúng giáo điều mà tôn giáo đặt ra. Như vậy, bà sợ khi qua đời sẽ bị đày xuống địa
ngục. Chị bán hàng ở Đồng Nai và gia đình mà chúng tôi đề cập cũng vậy, chị bỏ
ngày làm việc để thực hiện bằng được niềm tin của mình mà điều đó cũng nhằm
hướng đến mục đích hoàn thành nhiệm vụ của tín đồ. Những người vì công việc
không đến được trong ngày lễ cũng có hành vi tôn giáo khác để bù đắp như dự
nghi thức sám hối cuối năm. Chúng tôi đã hơn 4 lần tham dự lễ Sám hối chung
niên được tổ chức vào đêm 23 tháng Chạp hàng năm của tín đồ Truyền giáo Cao
Đài tại Đồng Nai. Buổi lễ này rất đông người tham dự. Họ phải quỳ trong thời
gian khá dài (hơn hai giờ) để sám hối tội lỗi của mình gây ra trong năm. Do thời
gian quỳ sám hối dài, nên tín đồ gọi là Lễ Quỳ hương. Sau buổi lễ, mặc dù rất mệt,
nhưng mọi người vẫn cảm thấy nhẹ nhàng, thoải mái, yên tâm vì dường như đã rủ
bỏ được các lỗi lầm đã phạm phải trong năm.
H: (sau hơn một tiếng đồng quì hương); Bác thấy có mệt không ?
TL: Không, bình thường mà, chỉ có quì một cây nhang thì mệt cái gì.
H: Sao bài kinh này dài mà mình đọc chậm vậy bác, mình không đọc nhanh lên
một chút được sao ?
TL: Trời đất, đã quì sám hối rồi mà còn sợ mệt thì quì làm gì. Bài kinh họ qui
định phải đọc theo giọng đó thì mình phải đọc cho đúng chứ, đọc nhanh
hơn làm sao mà được, ai chứng cho mình. Mình phải đọc chậm rãi như thế
mới được con.
H: Sau khi quì hương xong rồi, bác cảm thấy sao?
131
TL: Thấy nhẹ cả người đi, như vậy là viên mãn trong một năm rồi đó. Bây giờ
trở đi thì sẽ cố gắng làm lành thêm một chút, mình cứ nhủ trong lòng vậy
đó. Sau khi quì hương xong là kết thúc một năm, mình lại chuẩn bị bước
vào năm mới. Mà nghĩ cũng hay hén, đạo mình cũng hay ghê, sắp ngày qui
hương đúng ngay dịp đưa ông Táo cuối năm, lúc nhà cửa dọn dẹp sạch sẽ
rồi, mình quì hương xong thì cũng thanh thản về đưa ông Táo. Bác thấy
điều này hay ghê.
(Trích gỡ phỏng vấn số:5, PL:2 )
Như vậy, với niềm tin tôn giáo và đặc biệt là niềm tin về sự tồn tại của thế
giới vô hình đã tác động không nhỏ đến hành vi của tín đồ. Họ luôn tự điều chỉnh
bản thân để phù hợp với điều luật của đạo. Sự điều chỉnh này phần nào giúp cho
đời sống xã hội trong cộng đồng tín đồ nói riêng và toàn xã hội nói chung trở nên
ổn định hơn, tốt đẹp hơn.
* Chức năng phản ảnh đời sống trần tục
Quan sát toàn bộ các buổi lễ, quan niệm chúng tôi là chưa vội đặt niềm tin
vào sự tồn tại của thế giới vô hình, cũng như sự tồn tại và chi phối của các đấng
thiêng liêng đối với con người; nhưng chúng tôi tin các hành vi tôn giáo mà tín đồ
thể hiện trong nghi lễ là những hành vi phản ảnh thực tại đời sống xã hội ở thế
giới trần tục.
Đạo Cao Đài ra đời trong bối cảnh xã hội Nam Bộ nói riêng và cả nước nói
chung rơi vào cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc. Chế độ vương quyền phong
kiến đã tồn tại hàng ngàn năm ở Việt Nam vẫn chưa kết thúc, nhưng lại xuất hiện
thêm một tổ chức xã hội mới theo kiểu thực dân do người Pháp lãnh đạo. Hai tổ
chức này đang trong giai đoạn giằng xé, tranh giành quyền lãnh đạo. Trong khi đó,
tư tưởng của người Việt Nam Bộ lúc bấy giờ vẫn đang chịu sự chi phối bởi hệ tư
tưởng phong kiến; vai trò vương quyền vẫn được đề cao trong tâm thức của họ.
Do đó, tổ chức xã hội trong thế giới thần linh của đạo Cao Đài cũng được xây
dựng trên ý thức hệ phong kiến đó; có vua, có các vị quan tướng. Trong xã hội
Nam Bộ lúc bấy giờ, niềm tin tôn giáo được tập hợp trên hệ tư tưởng đan xen của
ba tôn giáo truyền thống ở Việt Nam là Phật giáo, Đạo giáo và Khổng giáo; bên
cạnh đó là sự phát triển của đạo Minh sư do người Hoa đem đến vào khoảng thế
132
kỷ XVIII. Ba tôn giáo truyền thống này đang mất dần vai trò cứu rỗi nhân sinh ở
Nam Bộ; trong khi đó đạo Minh sư là Hội kín, không thể cứu rỗi, phổ độ chúng
sinh, nhưng lại được quan tâm vì có hình thức cầu cơ, giao tiếp với các đấng
thiêng liêng ở cõi vô hình. Một trong những bậc thiêng liêng quan trọng được biết
đến trong đạo Minh Sư là Ngọc Hoàng Thượng đế - đấng tối cao của Càn khôn,
tạo nên và làm chủ các quyền năng trong vũ trụ của đạo Cao Đài.
Từ các yếu tố trên đã tác động đến việc xây dựng một xã hội tâm linh trong
tôn giáo của chức sắc Cao Đài. Ý thức hệ phong kiến vẫn đang tồn tại trong xã hội
là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống xã hội tâm linh của đạo; trong đó
Ngọc Hoàng Thượng đế được biết đến như một đấng toàn năng của vũ trụ, chắc
chắn sẽ nắm vai trò làm chủ xã hội tâm linh đó. Sự dung hòa của ba tôn giáo
truyền thống có mặt ở Nam Bộ là nhân tố quan trọng giúp cho xã hội tâm linh của
đạo Cao Đài trở nên hoàn hảo hơn theo ý muốn của chức sắc trong đạo. Bên cạnh
đó, xã hội Nam Bộ được xem là xã hội thoáng, mở dễ tiếp thu những yếu tố văn
hóa mới, nên cũng đã tác động đến xã hội tâm linh của đạo Cao Đài. Do đó, người
ta thấy xã hội tâm linh của đạo Cao Đài là xã hội phong kiến truyền thống và
mang yếu tố dung hòa của văn hóa Nam Bộ bởi việc xuất hiện của đức Jêsu bên
cạnh Phật Thích Ca, Lão Tử và Khổng Tử.
Như vậy, có thể khẳng định, xã hội tâm linh của đạo Cao Đài chính là kết
quả của sự phản ánh xã hội Nam Bộ lúc bấy giờ. Do phản ánh lại xã hội trần tục
như vậy nên những hành vi trong nghi lễ của tín đồ Cao Đài liên quan đến các
đấng thiêng liêng cũng chính là hành vi mà con người phải ứng xử trong đời sống
xã hội nơi trần thế.
Quan sát và phân tích các buổi lễ, chúng tôi nhận thấy đây là hành vi ứng
xử của con người trong một xã hội có thứ bậc, có sự phân tầng; người ở tầng lớp
thấp luôn chịu sự chi phối của những người thuộc tầng lớp cao. Trong đạo Cao
Đài, các đấng thiêng liêng thuộc tầng lớp cao; tín đồ thuộc tầng lớp thấp hơn. Các
hành vi tôn giáo của tín đồ trong các buổi lễ là hành vi ứng xử của tầng lớp thấp
đối với tầng lớp cao hơn trong xã hội. Tín đồ luôn kiêng dè, luôn sợ phạm tội với
bề trên. Khi có sự hiện diện của bề trên, tất cả tín đồ phải trang nghiêm, chỉnh tề
133
từ trang phục đến hành vi, cử chỉ, nếu không sẽ bị “quở phạt, trách mắng, bị phạm
trọng tội…” như lời của vị Lễ sanh đã nói với chúng tôi tại Thánh thất Sài Gòn.
Khi các bậc thiêng liêng đã an vị, mọi hành vi tiếp theo của tín đồ là biểu hiện sự
đón rước (dâng hương, khai kinh), chúc tụng (đọc các bài kinh chúc tụng công
đức) và thết đãi (dâng cúng phẩm); cuối cùng là cầu xin (dâng sớ) và tiễn đưa (bãi
đàn).
Rõ ràng, những hành vi trên là hành vi xã hội mà con người thường sử
dụng để ứng xử với nhau. Những người cùng đẳng cấp sẽ có cùng hành vi, cùng
lời nói, cùng cách chào, cùng trang phục… nhưng khi tiếp đãi đấng bề trên thì
hành vi đó sẽ thay đổi như kính trọng trong đón rước, chu đáo trong thết đãi, trang
trọng trong cầu xin… Tất cả những nhiều này hoàn toàn có thể nhìn thấy và nhận
biết được trong đời sống xã hội thực tại của con người. Do đó có thể khẳng định,
nghi lễ tôn giáo đã phản ảnh lại đời sống trần tục của tín đồ.
* Chức năng thể hiện sức mạnh của cộng đồng
Nghi lễ tôn giáo thường được tổ chức với sự tham gia của đông đảo tín đồ
trong cùng đạo, do bởi họ có chung niềm tin, chung hệ tư tưởng và cùng hướng về
các đấng thiêng liêng trong tôn giáo của họ. Chính những điểm chung này đã làm
cho các tín đồ gắn chặt nhau hơn trong cuộc sống cộng đồng, bất chấp sự khác
biệt về chủng tộc, cũng như văn hóa; chính sự gắn chặt ấy đã tạo nên sức mạnh
của cộng đồng tôn giáo. Sức mạnh này được bộc lộ rõ nét qua việc thực hiện nghi
lễ tôn giáo của họ.
Quan sát các buổi lễ tại bất kỳ Đền thánh, Thánh thất nào ở Nam Bộ, chúng
tôi cũng nhận thấy sự tham dự đông đảo của tín đồ. Họ gồm nhiều thành phần với
nhiều độ tuổi khác nhau. Họ là nhà giáo, người buôn bán, nông dân, giám đốc, học
sinh, sinh viên… Khi tham dự cùng buổi lễ, tùy theo tuổi tác và giới tính mà gọi
nhau là huynh, đệ hoặc tỷ, muội (cách gọi theo quy định của đạo Cao Đài). Tất cả
họ đều khoác trên mình bộ áo dài trắng, khăn đóng đen (đối với nam, nữ giới
không đội khăn đóng), không phân biệt được giai tầng, hay công việc của họ, nếu
như chúng tôi không hỏi. Trong các câu chuyện diễn ra trước buổi lễ, họ chỉ xoay
quanh chủ đề là đạo và việc hành đạo của họ, ít đề cập đến công việc ngoài đời.
134
Chính điểm chung này đã làm cho các tín đồ của đạo Cao Đài có sự gắn kết. Họ
nói chuyện với nhau như những người thân trong gia đình. Có thể họ không biết
tên của nhau, nhưng lại chào hỏi và nói chuyện với nhau một cách thân tình. Tôi
đã nhiều lần quan sát các cuộc nói chuyện trước buổi lễ của các tín đồ Cao Đài.
Có những người nói chuyện với nhau rất thân mật về công việc hành đạo, ăn chay,
hoặc trao đổi về vấn đề “công phu” (cách tu hành của tín đồ) trong suốt thời gian
chờ đến giờ hành lễ; nhưng có khi lại không biết người nói chuyên với mình đang
sống ở đâu và đang làm nghề gì! Trao đổi với chúng tôi về vấn đề này, một chức
việc khoảng trên 40 tuổi ở Bà Rịa – Vũng Tàu đi lễ tại Thánh thất Trung Minh cho
rằng, vấn đề giai tầng và nghề nghiệp của tín đồ Cao Đài không quan trọng. Họ
làm nghề gì và thuộc giai tầng nào là do sự sắp đặt của Thượng đế và do luật nhân
quả của họ. Khi về Thánh thất, nghĩa là về mái nhà chung, về với Cha chung, nên
nghề nghiệp và giai tầng không quan trọng nữa; lúc đó chỉ xem nhau như anh, em;
và dìu dắt nhau trên đường đạo để cùng được về với Thượng đế (PL:3, NKĐD
số:1).
Như vậy, tín đồ đến với buổi lễ không phải để “khoe” sự giàu sang hay địa
vị của mình trong xã hội, họ đến vì cùng một tư tưởng, đó là tôn giáo. Vì thế, tín
đồ đạo Cao Đài đã tạo ra khối đoàn kết trong cộng đồng. Họ sẵn lòng giúp đỡ lẫn
nhau và xem đó như trách nhiệm của bản thân. Sự giúp đỡ mà chúng tôi ghi nhận
được ngay trong buổi lễ là sự đóng góp công quả. Tại bất kỳ Thánh thất nào ở
Nam Bộ cũng đều có bàn ghi nhận công quả. Thư ký của Ban Cai quản Thánh thất
làm nhiệm vụ ghi nhận công đức của tín đồ. Tín đồ đến hành lễ, không ai bảo ai,
tự nguyện đến bàn đóng góp công quả của mình từ 20 ngàn, 50 ngàn, nhưng cũng
có người đóng hơn 1 triệu đồng. Tại Thánh thất Trung Minh trong lần đại lễ
Khánh thành Thánh thất (được xây dựng trở lại) vào năm 2006, có tín đồ đóng
góp đến 50 triệu đồng. Số tiền đóng góp đó được sử dụng vào nhiều mục đích như
trùng tu Thánh thất, mua trang thiết bị cần thiết cho Thánh thất, dùng để đãi cơm
cho khách trong những ngày đại lễ; và phần lớn số tiền công quả được dùng để
giúp đỡ cộng đồng. Không chỉ giúp cho những gia đình nghèo trong đạo mà còn
giúp cho những gia đình nghèo ở những vùng bị thiên tai. Việc đóng góp công quả
135
của tín đồ được xem như một hành động chia sẻ khó khăn trong cộng đồng tôn
giáo mà mỗi tín đồ đều cảm thấy mình có bổn phận thực hiện. Nữ tín đồ ở Đồng
Nai cho rằng, việc đóng góp công quả là hoàn toàn tự nguyện, tùy theo khả năng
mỗi gia đình mà đóng nhiều hay ít. Gia đình cô thường đóng từ 200 ngàn đến 300
ngàn cho mỗi lần về Thánh thất. Chúng tôi hỏi “Có khi nào cô thắc mắc số tiền
này được dùng vào việc gì không?”. Cô lập tức trả lời ngay là không và giải thích
cô biết nó được sử dụng vào việc gì. Cô liệt kê ra hàng loạt các việc cần phải sử
dụng số tiền công quả này như bữa ăn trưa trong các ngày lễ, nhang đèn, trái cây
hoặc các vật dụng sử dụng trong Thánh thất… sẽ phải cần đến số tiền công quả
này (PL:3, NKĐD số:1).
Chúng tôi đã có dịp hai lần tham dự buổi quyên góp để xây dựng Thánh
thất. Lần đầu vào năm 1994, lúc ấy chúng tôi còn là sinh viên, được một người
bạn mời cùng tham gia buổi lễ tại Thánh thất Liên Hoa Cửu Cung ở Thủ Đức. Sau
buổi lễ, Ban Cai quản Thánh thất họp với toàn thể tín đồ về kế hoạch xây dựng
Đền thờ Phật Mẫu. Khi Ban Cai quản trình bày xong kế hoạch và dự trù kinh phí
(lúc ấy khoảng trên 300 triệu đồng), đồng loạt tín đồ đều đăng ký đóng góp.
Người đăng ký vài trăm ngàn, kẻ đăng ký vài triệu đồng. Chỉ sau một buổi quyên
góp ấy, số tiền đã được gần một nửa. Hiện nay, Đền thờ Phật Mẫu của Liên Hoa
Cửu Cung là một trong những đền thờ lớn nhất tại Thủ Đức. Năm 2006, nhân dịp
Lễ Hôn phối của một đôi vợ chồng được tổ chức tại Thánh thất Trung Bảo, Đồng
Nai, Ban Cai quản cũng tổ chức đợt khuyên góp để trùng tu lại Thánh thất. Tín đồ
ở đây là những nông dân nghèo, nên kinh tế của họ không mấy khá giả. Trong
buổi khuyên góp, Ban Cai quản đưa ra số tiền 30 triệu đồng cần phải có để hoàn
thành bản vẽ và xin giấy phép xây dựng. Sau khi khuyên góp đợt đầu (thời gian
kéo dài khoảng 30 phút), số tiền thu được hơn 10 triệu. Ban Cai quản công bố số
tiền và tiếp tục khuyên góp đợt 2; cũng vẫn tín đồ ấy tiếp tục đóng góp và số tiền
được công bố lần nữa vẫn thiếu 4 triệu; đến đợt khuyên góp lần thứ 3, số tiền dư
ra 2 triệu. Quan sát việc đóng góp này, chúng tôi nhận thấy có khá nhiều tín đồ vì
gia cảnh khó khăn nên đã suy nghĩ đắn đo khi đăng ký số tiền đóng góp lần thứ
nhất. Nhưng lần thứ hai, họ đóng góp nhiều hơn. Một tín đồ khoảng trên 60 tuổi
136
ngồi cạnh tôi nói “Thôi kệ, mình ráng một chút để có chỗ đẹp mà thờ Thầy và để
dành cho con cháu mình sau này”, bà lại đăng ký đóng thêm 500 ngàn nữa (lần
khuyên góp trước bà chỉ đóng 200 ngàn đồng). Với tinh thần như vậy, Thánh thất
Trung Bảo hiện nay đã xây xong Điện Báo Ân Từ, ngôi Tam bảo và đang trong
giai đoạn trang trí; dự kiến đến cuối năm 2009 sẽ khánh thành, với tổng kinh phí
trên 1,5 tỷ đồng (PL:3, NKĐD số:4).
Sức mạnh của cộng đồng tín đồ không chỉ biểu hiện qua sự đóng góp vật
chất mà còn biểu hiện qua sự giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống. Trong một lần
tham dự lễ Hạ Ngươn (ngày 15/10 âm lịch năm 2007) tại Thánh thất Sài Gòn,
chúng tôi tình cờ nghe được cuộc đối thoại giữa hai tín đồ nam với nhau (chúng
tôi không biết tên của hai người này).
- Người A hỏi: sao anh đến trễ vậy?
- Người B : tối qua có người trong đạo mình vừa mất, tôi phải đến đó sắp
xếp công việc, tội nghiệp cho gia đình này.
- Người A: tội nghiệp như thế nào?
- Người B: ông này bị bệnh ung thư nằm bệnh viện, bà vợ lo chăm sóc ở
bệnh viện, sức khỏe yếu, tuổi cao, nên chăm cho ông được 2 tháng
thì chịu không nổi nên ngã bệnh, chết; vừa đưa xác về nhà liệm
xong thì ông hay tin và cũng chết luôn, do đó trong nhà hiện có hai
quan tài, tôi phải đến sắp xếp công việc rồi mới đến đây.
- Người A: phải trình báo với Ban Cai quản chứ?
- Người B: tôi có điện cho Trưởng Ban rồi và có đưa người xuống lo làm
lễ cầu hồn lúc đêm, sau lễ này sẽ cử người xuống tiến hành tang lễ.
- Người A: nhà ở đâu?
- Người B: ở quận 8 gần đây.
- Người A: như vậy tôi cũng đi xuống dưới, người cùng đạo mà, cùng góp
sức cầu siêu thì sẽ được mau thăng (thuật ngữ trong đạo Cao Đài ý
chỉ là sẽ nhanh về với Thượng đế”)
(PL:3, NKĐD số:2)
Chúng tôi không có dịp tham dự tang lễ này, nhưng chúng tôi tin người A
sẽ đến để cùng các vị đồng đạo của ông ấy hành lễ trong đám tang, bởi vì đây là
bổn phận của tín đồ Cao Đài. Cách đây hơn 10 năm (khoảng năm 1995), gần nhà
137
chúng tôi (tại Đồng Nai) có một tín đồ Cao Đài thuộc phái Truyền Giáo qua đời.
Khu vực này không có chức sắc để hành lễ, nên một đạo hữu trong xóm đã bỏ
công lên tận Thánh thất Trung Minh mời các vị chức sắc xuống giúp. Các vị chức
sắc ấy đã không ngại đường xa, trời tối, chạy xe máy đến cử hành tang lễ. Hết ba
ngày hành lễ, họ quay về Thành phố mà không nhận tiền thù lao, kể cả tiền xăng
xe đi đường họ cũng tự bỏ ra. Quan niệm của tín đồ Cao Đài, việc chức sắc và tín
đồ Cao Đài hành lễ bằng kinh phí của bản thân là việc nên làm và có tính bắt
buộc. Họ xem việc làm này như bổn phận của tất cả tín đồ nhằm thể hiện tình
đoàn kết trong cộng đồng tôn giáo và xem đây là công quả trong hoạt động tôn
giáo của họ.
Như vậy, sức mạnh của cộng đồng tôn giáo luôn chứa đựng trong mỗi tín
đồ, nó chờ có dịp qui tụ để bộc lộ và những buổi thực hiện nghi lễ chính là dịp tốt
nhất để qui tụ và bộc lộ sức mạnh đó. Thông qua các buổi lễ, cộng đồng tín đồ sẽ
biểu hiện sức mạnh của mình bằng việc thực hiện những điều có ích cho cộng
đồng xã hội và cho tôn giáo mà họ đang theo.
* Chức năng chuyển đổi vị thế xã hội của tín đồ trong tôn giáo
Chức năng này được biểu hiện rõ nét nhất qua nghi lễ thăng giáo phẩm và
các nghi lễ Thế đạo.
Quan sát và phân tích các nghi lễ này, chúng tôi nhận thấy có 3 sự thể hiện.
Đó là hội nhập, ngưỡng và phân ly theo hình thức chuyển đổi vị thế xã hội của
con người mà A.Van Gennep đưa ra.
+ Giai đoạn hội nhập: giai đoạn này được đánh dấu bằng các nghi lễ như
Sinh nhật, Tắm thánh, Nhập môn và các nghi lễ phong phẩm vị, bởi vì để có thể
hội nhập vào trong cộng đồng tín đồ hoặc trong các tổ chức tôn giáo, tín đồ phải
bước qua những nghi lễ này. Nếu nghi lễ Sinh nhật và Tắm thánh là bước khởi
đầu đưa đứa trẻ đến với cộng đồng tín đồ Cao Đài bằng hình thức quì lạy trước
Thượng đế, được ghi tên vào sổ bộ đạo, thì lễ Nhập môn, lễ phong giáo phẩm là lễ
khẳng định sự chính thức hội nhập của một người vào trong cộng đồng tín đồ và
trong tổ chức tôn giáo. Các nghi lễ này cũng là hình thức đánh dấu sự chuyển đổi
vị thế của con người trong cộng đồng tôn giáo của họ. Ví dụ, một đứa trẻ ngoại
138
đạo, sau lễ Nhập môn, nó sẽ chính thức trở thành tín đồ của đạo. Vị thế xã hội của
nó mặc nhiên chuyển đổi giữa đời và đạo; hoặc sau lễ phong giáo phẩm, vị thế của
tín đồ trở nên quan trọng hơn trong tổ chức tôn giáo. Họ mặc nhiên gánh vác
những trọng trách trong sứ mệnh tôn giáo của họ như phổ truyền tôn giáo, dìu dắt
chúng sanh, duy trì, phát triển nền đạo…
Tuy nhiên, bên cạnh việc đưa con người hội nhập vào cộng đồng tôn giáo,
các nghi lễ trên cũng đánh một bước chuyển quan trọng của con người là đưa họ
vào giai đoạn ngưỡng.
+ Giai đoạn ngưỡng: là giai đoạn đòi hỏi sự cố gắng, nỗ lực phấn đấu
không ngừng trong cuộc sống cộng đồng tôn giáo của họ. Sau lễ Tắm thánh, đứa
trẻ luôn chịu sự dò xét của cộng đồng tín đồ; bản thân của nó cũng nỗ lực học đạo,
bằng cách tập ăn chay, học thuộc kinh sách, tham gia các buổi lễ… Khi trở thành
tín đồ chính thức, việc thực hành tôn giáo của tín đồ trở nên thường xuyên hơn và
luôn chịu sự giám sát của cả cộng đồng tôn giáo tại địa phương. Sự nỗ lực hành
đạo của họ lúc này trở nên chăm chỉ hơn bằng các hành động như tham gia các
buổi lễ tôn giáo, tham gia làm công quả, lo bồi công, luyện đức để xứng đáng trở
thành tín đồ ưu tú trong đạo. Mục đích của sự cố gắng này là hướng đến sự hội
nhập cao hơn trong tổ chức tôn giáo, cũng như mong muốn sự giải thoát cho bản
thân ở thế giới siêu linh của tôn giáo.
Trong suốt thời gian nghiên cứu của mình, chúng tôi đã từng tiếp xúc và
quan sát các chức việc hành đạo. Họ luôn cố gắng, tận tụy với việc đạo của họ,
không quản ngại khó khăn khi nhận nhiệm vụ tôn giáo. Họ bỏ tiền của gia đình,
bản thân, thậm chí bỏ cả công việc mưu sinh để tham gia làm công quả, hành đạo
nhằm đạt đến mục đích tôn giáo mà họ theo đuổi. Chúng tôi quan sát một chức
việc với phẩm Thông sự, nhà ở Quận 8. Ông này đã dành gần hết thời gian của
mình vào các hoạt động tôn giáo tại Thánh thất Sài Gòn ở Quận 5, mặc dù, gia
đình của ông vẫn còn 2 con nhỏ đang đi học. Quan điểm của ông là đang cố gắng
“phế đời hành đạo” nhằm đạt được những vị thế cao hơn trong tổ chức tôn giáo.
Vị trí mà ông đang hướng đến là phẩm Lễ sanh của đạo. Từ Thông sự đến Lễ sanh
phải trải qua 10 năm công quả, hành đạo và phải được tín đồ tin yêu công cử. Sự
139
cố gắng của ông đến nay đã được 2 năm. 8 năm còn lại là khoảng thời gian không
ngắn, cần sự cố gắng không ngừng của bản thân ông. Theo chúng tôi, đây chính là
giai đoạn ngưỡng quan trọng mà ông phải cố gắng đạt đến vị thế mới trong tổ
chức tôn giáo. Các chức sắc của Cao Đài cũng vậy, để đạt được vị thế mới, họ
phải thật sự phế đời hành đạo; thực hành tu đạo tại Thánh thất hoặc Tòa thánh,
phải làm tròn bổn phận được giao và không ngừng bồi công, luyện đức để vượt
qua giai đoạn ngưỡng nhằm chuyển đổi vị thế của mình.
Giai đoạn ngưỡng là giai đoạn quan trọng nhất trong việc chuyển đổi vị thế
xã hội của con người. Có những người sẽ không vượt qua nổi và như vậy họ mãi
mãi vẫn ở vị thế cũ của mình. Trong đạo Cao Đài, số người không vượt qua được
giai đoạn ngưỡng này rất nhiều. Có người suốt đời chỉ là một tín đồ bình thường,
do không thể “trường trai, tuyệt dục”, không thể “ly gia, cắt ái”, không thể “hiến
thân hành đạo” nên vị thế của họ trong tổ chức tôn giáo vẫn không thay đổi.
Nhưng khi đã vượt qua, vị thế tôn giáo của họ sẽ cao hơn, họ được cộng đồng xem
trọng và mặc nhiên trở thành những người giữ sứ mệnh quan trọng của tôn giáo.
Việc giữ một vị thế cao hơn trong xã hội tôn giáo cũng được đánh dấu bằng
một nghi lễ đời người. Nghi lễ này cũng được xem là nghi thức đánh dấu sự phân
ly của vị thế cũ.
+ Giai đoạn phân ly: là giai đoạn nói đến sự rời bỏ vị thế cũ để chuyển
sang vị thế mới với nhiệm vụ mới trong tôn giáo. Trong đạo Cao Đài, sự phân ly
này nhằm nói lên sự kiện tín đồ đã vượt qua giai đoạn ngưỡng. Lúc ấy, cộng đồng
tín đồ tiến hành lễ để đưa một tín đồ rời bỏ vị thế cũ, bước vào vị thế mới bằng
hình thức minh thệ trước bàn thờ Đức Chí Tôn và Hộ pháp. Giai đoạn phân ly này
càng được nhận rõ hơn khi quan sát lễ tang của tín đồ Cao Đài. Trong lễ tang của
tín đồ Cao Đài có rất nhiều nghi thức phân ly, như phép độ thăng, cắt dây oan
nghiệt, cầu siêu, cầu thăng… Mục đích của việc dùng các nghi thức này là đưa
linh hồn của tín đồ rời bỏ vị thế cũ ở cõi trần tục đến với vị thế mới ở cõi thiêng
liêng. Quan niệm của đạo Cao Đài cũng giống với các tôn giáo khác, chết không
phải là hết mà về một thế giới khác, thế giới đó có thể là Thiên đường, nhưng
cũng có thể là địa ngục. Khi con người tham gia vào tôn giáo, mục đích cuối cùng
140
của họ là muốn giải thoát linh hồn, nghĩa là lên Thiên đường. Do đó, nghi thức
tang lễ của đạo Cao Đài luôn hướng đến mục đích đưa chơn hồn rời vị thế cũ ở
trần gian để đến với vị thế mới nơi Thiên đường.
Như vậy, từ những phân tích trên cho thấy, chức năng của nghi lễ Thế đạo
trong đạo Cao Đài là hình thức nhằm chuyển đổi vị thế của tín đồ trong xã hội tôn
giáo. Tuy chia ra thành ba hình thức, hội nhập, ngưỡng và phân ly, để thấy được
sự cố gắng chuyển đổi vị thế xã hội tôn giáo của tín đồ; nhưng nghi lễ diễn ra sẽ
khó phân định rạch ròi, nghi lễ nào là hội nhập, ngưỡng, hay phân ly. Do bởi, nghi
lễ đời người được diễn ra đều hướng đến ba yếu tố ấy. Nó đánh dấu sự phân ly vị
thế cũ, đưa con người vào vị thế mới và tạo giai đoạn ngưỡng mới buộc con người
phải tiếp tục vượt qua. Do đó, chúng tôi chỉ có thể khẳng định, một trong những
chức năng của nghi lễ đời người là đánh dấu sự chuyển đổi vị thế xã hội của con
người trong đời sống tôn giáo của họ.
Như vậy, qua lý thuyết Nhân học tôn giáo mà chúng tôi nêu ra ở Chương 1,
thì chức năng của nghi lễ tôn giáo trong đời sống hiện đại không chỉ là chỗ dựa
tinh thần cho tín đồ như nhận định của B. Malinowski mà còn biểu hiện nhiều yếu
khác như thể hiện giáo lý, niềm tin của tín đồ, sức mạnh của cộng đồng, thay đổi
địa vị xã hội của tín đồ.
Tóm lại: đời sống tôn giáo của tín đồ đạo Cao Đài ở Nam Bộ được đánh
dấu bằng chuỗi những hoạt động liên quan đến tôn giáo của họ như đức tin tôn
giáo, thờ phụng, tổ chức tôn giáo, nghi lễ.
- Về đức tin: Tín đồ đạo Cao Đài có đức tin tôn giáo giống với tín đồ của
các tôn giáo khác là tin vào các đấng thiêng liêng vô hình trong việc tạo dựng Càn
khôn thế giới và sự ra đời của con người; tin vào thời kỳ mạt kiếp và sự giải thoát
của con người ở thế giới trần tục.
- Về thờ phụng: Chính những đức tin đó đã đưa con người đến việc thực
hiện hành vi tôn giáo của họ, đó là việc phụng thờ các đấng siêu linh. Các đấng
siêu linh trong đạo Cao Đài được phụng thờ ở nơi trang trọng nhất tại Đền thánh,
Thánh thất và Tư gia.
141
- Về tổ chức: để có thể duy trì đức tin và phát triển tôn giáo, tín đồ đạo Cao
Đài đã hình thành nên tổ chức tôn giáo khá chặt chẽ, theo mô hình nhà nước, gồm
các tổ chức với các chức năng như lập pháp, tư pháp, hành pháp, quốc hội, tòa
án… và quản lý từ trung ương đến địa phương. Cơ cấu tổ chức của đạo Cao Đài,
bên cạnh chức năng duy trì và phát triển tôn giáo, còn có chức năng khẳng định sự
thăng tiến trong việc tu hành và quyền lực của cá nhân. Chính chức năng này là
một trong những động lực thúc đẩy tín đồ nỗ lực trên con đường hành đạo. Sự nỗ
lực thăng tiến đó được đánh dấu bằng những nghi lễ liên quan đến đời người nhằm
đánh dấu sự chuyển đổi vị thế trong cộng đồng xã hội tôn giáo của tín đồ.
- Về nghi lễ: nhằm biểu hiện niềm tin của mình, tín đồ Cao Đài đã thực hiện
các nghi lễ tôn giáo long trọng để chiêm bái và cầu xin sự ban phúc, cứu rỗi của
các đấng siêu linh ấy. Quan sát các nghi lễ của đạo Cao Đài, chúng tôi nhận thấy
nghi lễ không chỉ thể hiện niềm tin tôn giáo của tín đồ mà còn biểu hiện các chức
năng khác như biểu hiện giáo lý tôn giáo, phản ánh đời sống trần tục và thể hiện
sức mạnh cộng đồng… Ngoài ra, nghi lễ Thế đạo còn biểu hiện sự chuyển đổi vị
thế của tín đồ trong cộng đồng tôn giáo của họ.
142
Chƣơng 3
SỰ ĐÓNG GÓP CỦA ĐẠO CAO ĐÀI TRONG VĂN HÓA NAM BỘ
VÀ ẢNH HƢỞNG SẮC THÁI CỦA VĂN HÓA NAM BỘ
3.1. SẮC THÁI TÔN GIÁO CAO ĐÀI TRONG VĂN HÓA NAM BỘ
Năm 1926, đạo Cao Đài chính thức ra đời. Từ đó, vùng đất Nam Bộ có
thêm một tôn giáo mới, tôn giáo Cao Đài. Trong quá trình phát triển, đạo Cao Đài
đã phân hóa thành nhiều chi phái. Tín đồ của mỗi chi phái có đời sống tôn giáo
tương đối khác nhau. Sự khác nhau đó đã góp phần làm phong thú thêm cho văn
hóa Nam Bộ qua các yếu tố như văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần và văn hóa xã
hội. Trong đó [75:103]:
- Văn hóa vật chất là tổng hòa các sản phẩm vật chất, hữu hình do lao động
của con người tạo nên trong xã hội nhất định, ví dụ: cơ sở tôn giáo, nhà ở, trang
phục, ẩm thực, công cụ lao động…
- Văn hóa tinh thần hội tụ những khía cạnh về tôn giáo tín ngưỡng, phong
tục tập quán, các loại hình sâu khấu, văn học, nghệ thuật, lễ hội…
- Văn hóa xã hội bao gồm những ứng xử trong gia đình, cộng đồng, xã hội,
các thiết chế văn hóa, đời sống pháp luật, tổ chức chính trị…
3.1.1. Văn hóa vật chất
Văn hóa vật chất mà đạo Cao Đài đóng góp cho văn hóa Nam Bộ có thể kể
đến các cơ sở thờ tự, lễ phục, ẩm thực…
* Về cơ sở thờ tự
Như đã trình bày, cơ sở thờ tự của đạo Cao Đài được biết đến qua ba cơ sở
chính: Đền thánh, Thánh thất và tại tư gia.
- Đền thánh là cơ sở thờ tự cao nhất của đạo Cao Đài, tín đồ gọi là Đền
thánh, Tổ đình hoặc Tòa thánh Trung ương. Đây là cơ sở được xây dựng đồ sộ,
nguy nga, dùng để thờ Ngọc Hoàng Thượng đế và các đấng Giáo chủ của Tam
giáo, Ngũ chi đạo, cũng như các vị Phật, Tiên, Thánh, Thần (riêng Tổ đình Chiếu
Minh Tam Thanh chỉ thờ Ngọc Hoàng Thượng đế qua hình tượng Thiên nhãn); và
là nơi đặt các cơ quan Trung ương của đạo để điều hành toàn bộ các hoạt động
143
truyền giáo. Ngày Khai đạo, Đền thánh Cao Đài được đặt tại chùa Từ Lâm (Gò
Kén, Tây Ninh), nhưng sau đó Hòa thượng Như Nhãn (Trụ trì chùa Từ Lâm) cùng
tín đồ Phật giáo không đồng tình, đã đòi lại chùa, vì thế Đền thánh được dời về
làng Long Thành, nay thuộc xã Long Thành Bắc, huyện Hòa Thành, tỉnh Tây
Ninh, cách thị xã Tây Ninh 5 km về hướng Đông Nam. Tại đây, Đền thánh được
khởi công xây dựng với mô hình hoàn toàn mới lạ so với các đình, chùa đã có
trước tại Nam Bộ. Kích thước Đền thánh được dự kiến gồm: 135m chiều dài, 27m
chiều ngang, chia thành ba phần: Bát Quái đài sẽ xây trên nền cao 9m, mỗi cạnh
dài 27m; Cửu Trùng đài xây nối liền theo với 81m chiều dài và 27m chiều ngang;
Hiệp Thiên đài sẽ xây nối theo Cửu Trùng đài trên nền đất hình vuông mỗi cạnh
27m. Chiều cao của Bát Quái đài là 30m, Cửu Trùng đài 25m và Hiệp Thiên đài
36m [71]. Nhưng vì đạo Cao Đài mới thành lập, nhân lực và tài lực không nhiều,
do đó khi xây dựng, kích thước được điều chỉnh lại. Chiều ngang của Đền thánh
(kể cả 2 hành lang) là 22m, trong đó 15,40m lọt lòng của Chánh điện, 2,40m lọt
lòng của hành lang. Chiều dài của Đền thánh là 97,50m. Chiều cao của Hiệp
Thiên đài (tính chiều cao nhất của lầu chuông và trồng) là 28,20m, Cửu Trùng đài
17m (tới đỉnh địa cầu của Nghinh Phong đài), Bát Quái đài 19m, theo sơ đồ sau:
Mặt cắt của Tòa thánh Cao Đài
1 2 3 4 5 6 7 8 9
1
2: Đ
ạo h
ữu
3: C
hứ
c việc
4: L
ễ sanh
việc
5: G
iáo h
ữu
6: G
iáo sư
7: P
hố
i sư
8: Đ
ầu sư
9: B
ảy n
gai
Cu
ng đ
ạo
Hiệp Thiên đài Cửu Trùng đài Bát Quái đài
Mặt bằng của Tòa thánh Cao Đài
(Hình vẽ:Huỳnh Ngọc Thu)
Hình vẽ 5: Tòa thánh Cao Đài
28
,20m
19
m 17
m
97,50m
144
Cửa chính của Đền thánh có 5 cấp bao lơn, mỗi cấp cao 16cm. Bên trong
Cửu Trùng đài có 9 cấp, mỗi cấp cao 19cm. Bát quái đài có 12 cấp, mỗi cấp cao
10cm. Xung quanh Đền thánh có 112 cây cột tròn để chống đỡ mái hiên nơi hành
lang. Mặt tiền có 6 cây cột, trong đó 2 cột quấn rồng đỏ và 4 cột quấn hoa sen.
Cửu Trùng đài có 18 cột quấn rồng xanh được chia thành hai hàng. Bát quái đài có
8 cột quấn rồng vàng đứng theo các góc của hình bát quái.
Trên đây là mô hình chung, được xem là mô hình chuẩn của Đền thánh Cao
Đài. Mô hình này được chức sắc Cao Đài phác thảo dựa trên Thánh giáo của Đức
Lý Thái Bạch đưa ra ngày 28-2-1927 (27-1 Đinh Mão) và chỉnh sửa theo Thánh
giáo của Ngọc Hoàng Thượng đế ngày 8-3-1927 (7-2 Đinh Mão).
Đền thánh Tây Ninh là Đền thánh đầu tiên của đạo Cao Đài được xây dựng
theo đúng mô hình trên (H:33). Từ năm 1930 về sau, nội bộ chức sắc Cao Đài xảy
ra mâu thuẫn và diễn ra sự phân hóa, dẫn đến việc hình thành các chi phái. Mỗi
chi phái sau khi hình thành đều xây dựng cho mình một Đền thánh riêng như Đền
thánh Thiên Thai và sau này là Châu Minh của Tiên Thiên (H:36), Đền thánh
Định Tường của Minh Chơn Lý, Đền thánh Ngọc Kinh của Bạch Y Liên Đoàn
Chơn Lý (H:38), Đền thánh Ngọc Sắc của Minh Chơn Đạo, Tổ đình Chiếu Minh
Tam Thanh của Chiếu Minh (H:34)... Ngoại trừ Tổ đình của Chiếu Minh được xây
dựng theo lối riêng (không theo Tam đài), các Đền thánh còn lại đều xây theo mô
hình Tam đài, nhưng kích thước và kiểu cách khác nhau, không tuân thủ theo qui
cách đề ra vào năm 1927. Điều này, tạo nên sự đa dạng đáng kể về kiểu dáng của
các Đền thánh Cao Đài và góp phần không nhỏ vào việc làm phong phú thêm cho
các cơ sở thờ tự ở Nam Bộ. Đặc biệt, sự xuất hiện Đền thánh Tây Ninh, cơ sở thờ
tự uy nghi vào loại bậc nhất của đạo Cao Đài, đã góp phần làm nổi bật yếu tố hỗn
dung văn hóa của Nam Bộ.
Phân tích kiến trúc Đền thánh Tây Ninh, chúng ta dễ dàng nhận thấy sự
tổng hòa các yếu tố văn hóa Đông – Tây, Kim – Cổ (H:33). Đền thánh Tây Ninh
được khởi công xây dựng vào năm 1931, hoàn thành vào năm 1947 và làm lễ
khánh thành vào năm 1955.
145
Đền thánh nằm trong khuôn viên được xem là Thánh địa (Tòa thánh) của
đạo Cao Đài, nơi được gọi là Lục long phò ẩn. Khuôn viên Tòa thánh rộng khoảng
1km2 có tường bao quanh và 12 cổng ra vào được xây dựng theo kiểu tam quan
của chùa Phật. Cổng chính, gọi là chính môn, nằm ở hướng Tây đối diện với Đền
thánh, được xây dựng bề thế. Trên nóc cổng trang trí đôi rồng cùng chầu vào bình
Bát vu, hai bên bình Bát vu có thêm cây Phất trần và quyển kinh Xuân thu. Bình
Bát vu là báu vật của Phật giáo, Phất trần là báu vật của Đạo giáo và Kinh Xuân
thu là của Nho giáo. Từ cổng chính nhìn thẳng vào trong sẽ thấy Đền thánh được
xây dựng uy nghi với hai gác cao, gọi là Bạch Ngọc Chung đài và Lôi Âm Cổ đài
(nơi đặt chuông và trống). Ở giữa hai đài ấy, nhìn thấy tượng Đức Di Lặc ngồi
trên Tòa sen được đặt trên mình Hỗ. Ý nói, Đức Di Lặc là chủ Hội Long Hoa; Hỗ
là biểu tượng của năm khai đạo (năm Bính Dần). Nhìn thẳng vào mặt trước của
Đền thánh sẽ thấy nhiều biểu tượng như Thiên nhãn, ông Thiện, ông Ác, bó hoa,
tượng ông Lê Văn Trung, tượng bà Lâm Hương Thanh… Nhìn trên nóc Cửu
Trùng Đài sẽ thấy một đài cao, gọi là Nghinh Phong đài, phía trên Nghinh Phong
đài là nửa quả địa cầu úp xuống, trên đó vẽ các lục địa và đại dương của địa cầu,
tượng trưng cho cõi trần của nhân loại. Trên nửa quả địa cầu là tượng Long Mã
(linh thú đầu rồng, mình ngựa có vảy rồng, biểu tượng cho sự thái bình thịnh trị)
cõng Hà Đồ chạy về hướng Tây, nhưng mặt nhìn về hướng Đông. Ý nói đạo xuất
phát từ hướng Đông, truyền sang hướng Tây, nhưng gốc của đạo vẫn là hướng
đông, do đó Long Mã quay đầu về hướng Đông. Từ Nghinh Phong đài nhìn thằng
về phía Đông sẽ là Bát Quái đài. Trên nóc Bát Quái đài có đắp một tòa sen, bên
trên có tượng của Tam vị Phật, gồm: Brahma Phật đứng trên lưng thiên nga, mặt
nhìn về hướng Tây; Civa Phật đứng trên mình con rắn bảy đầu (thất đầu xà), mặt
nhìn về hướng Bắc; Chrishna Phật đứng trên mình giao long, mặt nhìn về hướng
Nam. Đây là các vị Phật được xác lập trên tàn dư của đạo Bà la môn. Bên trong
Đền thánh là cách trang trí các bàn thờ và cách thờ tự (như đã trình bày ở chương
2)… bên trong Hiệp Thiên đài có bức họa lớn được vẽ trên vách ngăn của Tịnh
tâm điện với tên Tam thánh ký hòa ước. Tam thánh gồm:
146
- Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm mặc triều phục của Việt Nam, tay cầm
bút lông viết chữ Thiên thượng, Thiên hạ, Bác ái công bình bằng chữ Hán.
- Victor Hugo, đại văn hào của Pháp mặc triều phục của nước Pháp, tay
cầm lông ngỗng viết câu “Dieu et Humanité – amour et justice” (Thượng đế và
Nhân loại, Tình thương và Công lý, mang ý nghĩa giống với câu trên của Nguyễn
Bỉnh Khiêm).
- Tôn Trung Sơn, nhà cách mạng Trung Quốc, mặc Hán phục, tay cầm
nghiên mực để hai vị trên viết. Bức họa có ý nghĩa giao kết giữa Trời và Người.
Cả ba vị thánh đều được vẽ đứng trên mây, nghiên mực và bia đá để viết
đều tỏa hào quang. Ba vị này được đạo Cao Đài xem là thiên sứ hướng đạo cho
nhân loại để thực hành Đệ Tam Thiên Nhân Hòa Ước. Xung quanh Đền thánh
được trang trí hoa sen, ngó sen, búp sen và các hình tượng có nội dung miêu tả về
ngư, tiều, canh, mục hoặc các câu chuyện về thập nhị tứ hiếu, Bá Nha Tử Kỳ…
Nhìn toàn bộ kiến trúc Đền thánh Tây Ninh là sự kết hợp theo chủ nghĩa “chiết
trung” giữa kiến trúc phương Tây và phương Đông, giữa kiến trúc Pháp và kiến
trúc đình, chùa truyền thống ở Nam Bộ. Do đó, kiến trúc của Đền thánh Tây Ninh
được xem là phong cách kiến trúc hỗn dung đặc sắc ở khu vực này, do người Việt
Nam Bộ tạo thành. Đền thánh nói riêng và Tòa thánh Tây Ninh từ xưa tới nay là
một trong những điểm tham quan du lịch nổi tiếng của Nam Bộ.
Như vậy, sự xuất hiện Đền thánh Tây Ninh nói riêng và các Đền thánh Cao
Đài nói chung đã tạo nên nét đặc thù, độc đáo góp phần làm phong phú thêm cho
văn hóa Nam Bộ.
- Thánh thất: là cơ sở thờ tự ở cấp địa phương. Theo qui định của đạo Cao
Đài, khu vực nào có trên 500 tín đồ sẽ được lập Họ đạo và xây dựng cơ sở thờ tự
cho Họ đạo, gọi là Thánh thất (chi phái Tiên Thiên gọi là Thánh tịnh, Chiếu Minh
gọi là Đàn cơ). Ngoại trừ Đàn cơ của Chiếu Minh chỉ thờ Ngọc Hoàng Thượng
đế, Thánh thất của các chi phái còn lại đều thờ Ngọc Hoàng Thượng đế, Giáo chủ
của các tôn giáo và các vị Phật, Tiên, Thánh, Thần. Thánh thất được xây dựa trên
khuôn mẫu của Đền thánh, nhưng có qui mô nhỏ hơn; cũng xây Tam đài, nhưng
không có Nghinh Phong đài, không đắp hình rồng lên các cột, không có tượng Hộ
147
pháp ở Hiệp Thiên đài. Phía sau Thánh thất xây thêm Hậu điện để thờ Cửu huyền
thất tổ chung và làm văn phòng cho Đầu Họ đạo, Ban Trị sự.
Theo quan sát của chúng tôi, mô hình Thánh thất của các chi phái rất khác
nhau, kể cả các Thánh thất trong cùng một chi phái cũng không giống nhau về
kiểu dáng và cách trang trí nội, ngoại thất. Các Thánh thất của Tây Ninh được
xem là đúng khuôn mẫu của Đền thánh về thiết kế, cách bày trí, nhưng cũng khác
nhau về kích thước; có Thánh thất lớn, nhưng cũng có Thánh thất nhỏ, không có
sự chuẩn mực về qui mô. Sự khác nhau này có thể do kinh phí. Họ đạo nào có tín
đồ khá giả sẽ xây dựng Thánh thất lớn, nếu không sẽ tùy vào sự đóng góp của tín
đồ trong Họ đạo mà xây dựng Thánh thất cho phù hợp. Như vậy, sự xuất hiện và
đa dạng hình dáng của các Thánh thất đạo Cao Đài cũng là yếu tố quan trọng góp
phần làm phong phú văn hóa Nam Bộ.
- Thờ tại tư gia: Đa số tín đồ đạo Cao Đài đều lập bàn thờ trong gia đình,
gọi là Thiên bàn, để thờ Ngọc Hoàng Thượng đế (H:43-47). Tùy theo tín đồ của
mỗi chi phái mà Thiên bàn được thiết lập có qui cách khác nhau. Thiên bàn của tín
đồ Minh Chơn lý (H:43) và Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi (H:46) hoàn toàn khác
biệt so với Thiên bàn của các chi phái khác như Tây Ninh, Minh Chơn Đạo, Tiên
Thiên, Cao Đài Truyền Giáo...
+ Thiên bàn Minh Chơn Lý
Tín đồ của chi phái này có cách bày trí Thiên bàn theo sơ đồ sau:
Sơ đồ 9: Bàn thờ của phái Minh Chơn Lý
(0)
(1)
(2) (3)
(17) (4) (5) (6) (16)
(7) (8) (20) (9) (10)
(18) (11) (12) (13) (14) (15) (19)
(Sơ đồ: Huỳnh Ngọc Thu)
148
Hình vẽ 6: Bàn thờ trong gia đình của tín đồ Minh Chơn Lý
(Hình vẽ: Huỳnh Ngọc Thu)
Tín đồ không thờ Thiên nhãn mà thờ Tâm nhãn (0); không thờ Tam giáo,
Tam trấn mà thờ Thập ngũ linh đăng (15 ngọn đèn) (từ số 1->15). Trên bàn thờ
chỉ có hoa (16), trái cây (17), hai cây đèn (18,19) và lư nhang (20), không cúng
nước, rượu như các chi phái khác.
+ Thiên bàn của Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi
Tín đồ chi phái này chỉ thờ Thiên nhãn (Tổ đình cũng thờ Thiên nhãn,
không có quả Càn khôn), được sắp xếp với trật tự khác xa so với các chi phái còn
lại.
Thiên nhãn của Chiếu Minh không có Tam giáo, Tam trấn. Dưới Thiên
nhãn là chữ Thập (十), gọi là Thập tự Tam thanh. Bên trong chữ Thập có các chữ
như Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn, Ngọc thanh,
Thượng thanh, Chơn thanh, Cao Đài, Thái Bạch, Thổ Thần, Tiên Ông. Các chữ
này được viết bằng Hán tự và được sắp xếp như sau:
149
Sơ đồ 10: chữ Thập trên bàn thờ Chiếu Minh
Huyền Khung
Cao Thượng
Đế Ngọc
Hoàng Đại
Thiên Tôn
Ngọc Thanh
Thượng Thanh
Chơn Thanh
Cao Đài
Thái Bạch
Thổ Thần
Tiên Ông
(Sơ đồ: Huỳnh Ngọc Thu)
Dưới chữ Thập là hình ông Ngô Văn Chiêu, hai bên là hai câu liễn bằng
Hán tự có nội dung Pháp luân thường chuyển (bên trái) và Phật nhật tăng huy
(bên phải). Dưới hình ông Ngô Văn Chiêu là Thiên bàn, trên đặt các vật như đèn
Thái cực (1), trái cây (2), hoa (3), trà (4), ba ly rượu (5,6,7), nước trắng (8), cặp
đèn (9,10), lư nhang (11), được bày theo sơ đồ chữ Vương (王).
Sơ đồ 11: Chữ Vương trên Thiên bàn của Chiếu Minh
(2) (1) (3)
(9) (11) (10)
(4) (5)(6)(7) (8)
(Sơ đồ: Huỳnh Ngọc Thu)
Dưới Thiên bàn là Bàn cơ, trên có vật gồm hình đức Phật (1), cây đèn (2),
lư trầm (3), dĩa trái cây (4), bình hoa (5) (ở Tổ đình hoặc Đàn cơ có đặt thêm bài
vị với ba chữ Thập Địa Tiên (6)) và được bày theo sơ đồ sau:
150
Sơ đồ 12: Sơ đồ bàn cơ trong gia đình
(1)
(4) (2) (5)
(3)
Sơ đồ 13: Sơ đồ bàn cơ trong Đàn
(6) (1)
(4) (2) (5)
(3)
Sơ đồ 14: Sơ đồ chung của Bàn thờ Chiếu Minh
Thiên nhãn
Câu liễn Thập tự Tam thanh Câu liễn
Hình Ngô Văn Chiêu
Dĩa trái cây Đèn Thái cực Bình hoa
Cây đèn Lư nhang Cây đèn
Ly nước trà Ba ly rượu Ly nước trắng
Dĩa trái cây Bài vị/Bức tượng Phật Bình hoa
Cây đèn
Lư trầm
(Sơ đồ: Huỳnh Ngọc Thu)
Đối diện với Thiên Bàn có Bàn Hộ pháp, trên đó có lư nhang và khung
hình, bên trong có chữ Thập (十) màu vàng được vẽ trên nền giấy đỏ (ở Tổ đình
hoặc Đàn cơ, trên chữ Thập viết thêm 5 chữ Cao Thượng Thần Tiên Đàn).
+ Thiên bàn của các chi phái khác
Các chi phái còn lại đều có chung mô hình bài trí Thiên bàn. Trên Thiên
bàn chỉ đặt 12 đồ vật, tượng trưng cho Thập nhị khai thiên (CT:25) và được xếp
theo hình chữ “Chủ” (主) như sau:
151
Sơ đồ 15: Cách sắp đặt các đồ vật trên Thiên bàn
1
3 2 4
5 6 7 8 9
10 11 12
Số 1: nơi đặt Thiên Nhãn Số 6, 7, 8: ba ly rượu trắng
Số 2: đèn thái cực Số 9: ly nước trắng
Số 3: dĩa trái cây Số 10 và 12: hai cây đèn
Số 4: bình hoa Số 11: lư nhang
Số 5: ly nước trà
(Sơ đồ: Huỳnh Ngọc Thu)
Tuy nhiên, nếu nhìn kỹ Thiên bàn của từng chi phái vẫn phát hiện một số
tiểu tiết khác nhau, như trên bức Thiên nhãn, ngoài Thiên nhãn và Nhật, Nguyệt,
Tinh, thì bức Thiên nhãn của Tây Ninh còn in hình Tam giáo, Tam trấn; Thiên
nhãn của Tiên Thiên in ba hàng chữ Hán theo chiều dọc gồm: Quan Âm Bồ Tát,
Thái Bạch Kim Tinh, Quan Thánh Đế Quân (Tam trấn) và phía trên Thiên nhãn in
dòng Đại đạo Tam Kỳ Phổ Độ bằng chữ Hán; Thiên nhãn của Ban Chỉnh Đạo chỉ
in ba dòng chữ Tam trấn bằng Quốc ngữ. Cách sắp đặt các đồ vật trên Thiên bàn
cũng khác nhau ở một số chi phái, như Thiên bàn Tây Ninh, Ban Chỉnh Đạo sắp
ba ly rượu theo hàng ngang (hình chữ nhất); Thiên bàn của Tiên Thiên, Truyền
giáo lại sắp ba ly rượu theo hình chữ Phẩm (品)và có thêm bàn cơ phía trước
Thiên bàn (xem hình vẽ).
152
Như vậy, với hình thức thờ tự đa dạng như trên (đa dạng qua các cấp bậc
thờ tự và đa dạng qua từng chi phái) đã góp phần làm phong phú thêm cho các mô
hình thờ tự ở Nam Bộ nói riêng và văn hóa Nam Bộ nói chung từ nửa sau thế kỷ
XX.
* Lễ phục
Lễ phục của tín đồ Cao Đài được xem là đa dạng so với lễ phục của các tôn
giáo khác ở Nam Bộ. Tùy theo mỗi chi, mỗi phẩm vị và cơ cấu tổ chức mà tín đồ
Cao Đài có lễ phục khác nhau được qui định khá rõ trong Pháp chánh truyền của
đạo như sau:
Lễ phục của chức sắc và chức việc nam phái Cửu Trùng đài
Chức sắc và chức việc nam phái Cửu Trùng đài gồm các phẩm từ Giáo
tông xuống đến Phó trị sự. Mỗi phẩm vị đều được qui định lễ phục riêng.
- Lễ phục Giáo tông gồm hai bộ đại phục và tiểu phục.
+ Đại phục (áo và quần dài) được may bằng vải màu trắng. Trên áo có thêu
hoa sen vàng từ trên tới dưới. Hai bên cổ áo, mỗi bên thêu ba cổ pháp là Long tu
phiến, Thư hùng kiếm và Phất chủ. Đây là cổ pháp của Hộ pháp, Thượng phẩm,
Thượng sanh dùng để trị tín đồ. Mão của đại phục có màu vàng, cao năm tầng
theo hình Bát Quái (5 tầng nghĩa là Ngũ chi Đại đạo), được ráp theo hình tròn, bịt
kín ở giữa; trên chót mão có chữ "Vạn" (卍); giữa chữ Vạn có hình Thiên nhãn
Hình vẽ 7: Thiên bàn của Tây
Ninhvà Ban Chỉnh đạo
(Hình vẽ: Huỳnh Ngọc Thu)
Hình vẽ 8: Thiên bàn của Tiên
Thiên và Truyền giáo
(Hình vẽ: Huỳnh Ngọc Thu)
153
được bao quanh bởi một vòng Minh khí. Nơi ngạch mão có chạm ba cổ pháp
giống với cổ pháp trên cổ áo. Đi kèm với bộ đại phục là cây gậy có chiều dài
0,9m. Trên đầu gậy khắc chữ “Vạn” có hình Thiên nhãn giống biểu tượng trên
mão. Người mặc đại phục Giáo tông phải đi giày vải, tai cầm gậy. Đại phục được
sử dụng vào các ngày lễ lớn tại Đền thánh.
+ Tiểu phục cũng được may bằng vải trắng. Trên áo có thêu các cung Bát
quái bằng màu vàng (H:2). Cung khảm ( ) được thêu ngay Đơn điền; cung Cấn
( ) bên tay phải; Cung Chấn ( ) bên tay trái; Cung Đoài ( ) bên vai phải;
Cung Tốn ( ) bên vai trái; Cung Ly ( ) ngay trái tim; Cung Khôn ( ) ngay
giữa lưng. Mão của tiểu phục là mão Hiệp chưởng màu trắng, có chiều cao “ba tấc
ba phân ba ly” (0, 333m) được may giáp mối tạo ra phía trước một ngạnh, phía
sau một ngạnh để khi hiệp lại có một đường xếp (nghĩa là âm dương tương hiệp).
Bên trái của mão có đính hai sợi dây vải thòng xuống, một mí dài một mí ngắn
(mí dài bề ngang 0.03m, bề dài 0.3m). Trên mão, trước trán thêu cung Càn ( ).
Đi kèm với tiểu phục là Giày vô ưu được may bằng vải trắng, trước mũi có thêu
chữ Tịch Đạo Nam Nữ. Bộ tiểu phục được sử dụng thường xuyên trong các ngày
lễ tại Đền thánh.
- Lễ phục Chưởng pháp cũng gồm hai bộ. Chưởng pháp ở các chi có lễ
phục khác nhau.
+ Lễ phục của Chưởng pháp chi Thái gồm hai bộ: Đại phục được may bằng
vải vàng có thêu các cung Bát quái giống tiểu phục của Giáo tông. Bên ngoài có
choàng thêm tấm khăn màu đỏ, gọi là Bá Nạp Quang (giống áo Cà sa của Phật
giáo). Mão của Chưởng pháp giống mão tiểu phục Giáo tông. Đi kèm với bộ đại
phục là bình Bát vu (của Phật giáo) và đôi giày vô ưu màu vàng giống giày tiểu
phục Giáo tông, nhưng phía trước mũi giày thêu chữ “Thích”. Bộ Tiểu phục cũng
được may bằng vải vàng giống đại phục, nhưng không có Bá Nạp Quang; không
có mão mà thay bằng khăn đóng màu vàng xếp chín lớp theo chữ “Nhứt” (一).
+ Lễ phục của Chưởng pháp chi Thượng gồm hai bộ: Đại phục được may
bằng vải màu trắng. Trên áo phía trước ngực và sau lưng có thêu hình Thiên nhãn
được bao bọc bởi một vòng Minh khí. Mão của đại phục cũng màu trắng giống với
154
mão tiểu phục Giáo tông. Đi kèm với đại phục là cây phất chủ và đôi giày vô ưu
màu trắng. Phía trước giày có thêu chữ “Đạo”. Bộ tiểu phục cũng màu trắng giống
đại phục, nhưng không có mão mà thay bằng khăn đóng trắng chín lớp chữ
“Nhứt”. Sở dĩ lễ phục của Thượng Chưởng pháp có màu trắng, không phải màu
xanh theo màu biểu của chi Thượng, là vì Thượng Chưởng pháp có quyền thay thế
Giáo tông để giải quyết việc đạo tại Tòa thánh khi Giáo tông đi vắng. Do đó, lễ
phục của Thượng Chưởng pháp có màu gần giống với Tiểu phục Giáo tông.
+ Lễ phục của Ngọc Chưởng pháp gồm hai bộ: Đại phục được may bằng
vải đỏ. Trên áo phía trước ngực và sau lưng có thêu hình Thiên nhãn giống với đại
phục của Thượng Chưởng pháp. Mão của Ngọc Chưởng pháp là mão Văn Đằng
màu đỏ (H:7). Trên mão ngay trước trán có thêu hình Thiên nhãn được bao bọc
bởi vòng Minh khí. Đi kèm với bộ đại phục là bộ kinh Xuân thu và giày vô ưu màu
đỏ, trước mũi giày thêu “Nho”. Bộ tiểu phục giống đại phục, nhưng không có mão
mà thay bằng khăn đóng màu hồng chín lớp chữ “Nhứt”.
- Lễ phục Đầu sư cũng gồm hai bộ Đại phục và tiểu phục và cũng tùy theo
chi mà có lễ phục khác nhau.
+ Lễ phục của Thái đầu sư gồm hai bộ: Đại phục được may bằng vải vàng.
Trên áo phía trước ngực và sau lưng có thêu sáu chữ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
được bao quanh bởi ba vòng vô vi, ngay giữa có một chữ Thái. Áo có chín dải,
bên ngoài choàng tấm Bá Nạp Quang màu đỏ giống lễ phục của Thái Chưởng
Pháp. Mão của Đầu sư có màu vàng gọi là Bát Quái Mạo. Chung quanh mão có
thêu đủ tám cung của Bát quái. Đi kèm với bộ đại phục là giày vô ưu màu đen,
trước mũi có thêu chữ "Thái" (H:11). Bộ tiểu phục cũng có màu vàng và được
may giống với đại phục, nhưng không sử dụng mão mà thay bằng khăn đóng vàng
chín lớp chữ Nhứt.
+ Lễ phục của Thượng Đầu sư có hai bộ: Đại phục được may bằng vải
xanh da trời. Trên áo phía trước ngực và sau lưng có thêu sáu chữ Đại Đạo Tam
Kỳ Phổ Độ giống lễ phục Thái Đầu sư, song ngay giữa thêu chữ "Thượng". Áo
cũng chín dải, không choàng Bá Nạp Quang. Mão giống mão Thái Đầu Sư nhưng
có màu xanh da trời. Giày vẫn là giày vô ưu màu đen, nhưng trước mũi có thêu
155
chữ "Thượng". Tiểu phục giống với đại phục, nhưng không dùng mão mà dùng
khăn đóng màu xanh da trời chín lớp theo chữ Nhứt.
+ Lễ phục của Ngọc Đầu sư cũng có hai bộ: Đại phục được may bằng vải
đỏ. Trên áo cũng thêu sáu chữ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ giống với các bộ lễ phục
của đầu sư khác, nhưng ngay giữa thêu chữ "Ngọc". Áo cũng chín dải, không
choàng Bá Nạp Quang. Mão giống các mão Đầu sư khác, song có màu hồng. Giày
vẫn là giày vô ưu màu đen, trước mũi thêu chữ "Ngọc" (H:6). Bộ Tiểu phục giống
đại phục nhưng không sử dụng mão mà thay bằng khăn đóng đỏ chín lớp chữ
Nhứt.
- Lễ phục của Phối sư cũng có hai bộ: Đại phục và tiểu phục và cũng tùy
theo mỗi chi mà lễ phục có màu sắc khác nhau. Chi Thái thì lễ phục màu vàng; chi
Thượng màu xanh da trời (H:14); chi Ngọc màu đỏ. Áo của Phối sư phía trước
ngực và sau lưng có thêu hình Thiên nhãn được bao bọc bởi vòng vô vi. Áo có ba
dải, riêng áo của Chánh phối sư là chín dải. Áo của Phối sư chi Thái có thêm Bá
Nạp Quang màu đỏ. Mão của Phối sư có hình Bát quái giống mão Đầu sư và cũng
có màu ứng với từng chi, gọi là Bát quái mão (H:29-30). Giày của Phối sư cũng là
giày vô ưu màu đen, trên mũi giày không thêu chữ. Bộ tiểu phục của Phối sư
giống đại phục, nhưng không dùng mão mà sử dụng khăn đóng chín lớp chữ Nhứt.
Khăn đóng có màu ứng với từng chi.
- Lễ phục Giáo sư cũng có hai bộ Đại phục và Tiểu phục. Màu sắc của lễ
phục cũng phụ thuộc vào từng chi (H:15). Áo của Giáo sư có ba dải, phía trước
ngực và sau lưng có thêu hình Thiên nhãn được bao bọc bởi vòng vô vi. Mão của
Giáo sư gọi là Thiên Ngươn Mạo Bát Quái (H:26), có thêu chữ Bát Quái chung
quanh, trên chót mão có Minh châu lý. Giáo Sư không đi giày. Riêng lễ phục của
Thái Giáo sư có choàng bên ngoài một tiểu Bá Nạp Quang và đội mão Hiệp
chưởng, hai bên có thêu hình Thiên nhãn (H:24). Bộ tiểu phục của Giáo sư chỉ
khác bộ đại phục ở việc thay mão bằng khăn đóng. Khăn đóng của Giáo sư có bảy
lớp theo hình chữ “Nhơn” (人) có màu sắc tùy theo từng chi (H:17).
- Lễ phục của Giáo hữu chỉ có một bộ, tùy theo từng chi mà có màu sắc
khác nhau. Áo của Giáo hữu có ba dải, hoàn toàn trơn, không thêu vật gì. Mão của
156
Giáo hữu gọi là Ngưỡng Thiên Mạo (H:16,28), có chiều cao 0.15m, phía trước
trán thêu hình Thiên nhãn được bao quanh ba vòng vô vi. Mão có màu sắc tùy
theo từng chi. Giáo hữu không đội khăn đóng.
- Lễ phục của Lễ sanh giống với Giáo hữu và cũng tùy theo từng chi mà có
màu sắc khác nhau (H:13). Mão của Lễ sanh gọi là Khôi Khoa Mạo có màu trắng,
không phân biệt chi. Trên mão, ngay trước trán có thêu hình Thiên nhãn được bao
quanh một vòng Minh khí. Lễ sanh không đi giày.
- Lễ phục của Chánh Trị sự giống với Lễ sanh, song toàn màu trắng, nịt
ngang lưng một sợi dây bằng vải trắng, bề ngang 0.05m. Áo cổ trịt có viền chỉ kim
tuyến vàng. Vai trái gắn ba sắc Đạo (vàng, xanh, đỏ) chiều ngang là 0,06m và
chiều dài là 0,10m. Chánh Trị sự không đội mão, chỉ đội khăn đóng đen bảy lớp
chữ Nhân. Trên khăn đóng ngay giữa trán có thêu Cổ pháp của Hiệp Thiên đài.
- Lễ phục của Phó Trị sự giống với Chánh Trị sự, song cổ trịt viền chỉ kim
tuyến trắng; không có nịt ngang lưng. Áo có một dải. Vai trái có gắn ba sắc Đạo,
chiều ngang 0,03m, chiều dài 0,05m. Đầu bịt khăn đen bảy lớp chữ Nhân.
Lễ phục chức sắc và chức việc nữ phái
- Lễ phục Đầu sư chỉ một bộ màu trắng có thêu hoa sen. Áo chín dải. Đầu
đội Ni kim cô màu trắng có thêu hoa sen. Trên Ni kim cô choàng tấm vải mỏng
màu vàng phủ trọn đầu, chiều dài “ba thước ba tất ba phân” (3,333m), gọi là mão
Phương thiên (H:12). Mão được bao quanh đầu bằng một Kim cô màu vàng. Trên
mão Thiên phương phía trước trán có thêu hình Thiên nhãn được bao quanh bởi
một vòng Minh khí. Bộ lễ phục này đi kèm với giày vô ưu màu trắng, phía trước
mũi thêu chữ “Hương”.
- Lễ phục Phối sư cũng một bộ. Áo Phối sư cũng chín dải, màu trắng, có
thêu hoa sen giống Đầu sư. Phía trước ngực áo thêu hình Thiên nhãn được bao
quanh bởi vòng minh khí. Đầu đội Ni kim cô, không có mão Phương thiên. Kèm
với lễ phục là giày vô ưu có thêu chữ “Hương” phía trước mũi.
- Lễ phục Giáo sư cũng một bộ toàn trắng. Áo ba dải, trắng trơn. Đầu đội
Ni kim cô dài tới gót chân. Không đi giày.
157
- Lễ phục Giáo hữu giống Giáo sư, song trên đầu không đội Ni kim cô, chỉ
gắn một hoa sen nở, giữa hoa sen có hình Thiên nhãn. Không đi giày.
- Lễ phục Lễ sanh giống Giáo hữu, nhưng trên đầu thì choàng ngang một
đoạn vải mỏng cột ra sau ót, thả một mí dài một mí ngắn và gắn thêm một hoa sen
nở trơn, không có Thiên nhãn (H:21).
- Lễ phục Chánh trị sự: Chánh Trị sự mặc áo cổ trịt viền chỉ kim tuyến
vàng, có thêm một sợi vải trắng để nịt ngang lưng. Vai trái có gắn ba sắc Đạo
(vàng, xanh, đỏ). Đầu để trần, chân không đi giày (H:19).
- Lễ phục Phó Trị sự giống Chánh Trị sự, viền chỉ kim tuyến trắng, không
nịt ngang lưng. Vai trái có gắn ba sắc Đạo. Đầu trần, chân không đi giày (H:20).
Lễ phục của chức sắc Hiệp Thiên đài
Chức sắc Hiệp Thiên đài gồm các phẩm từ Hộ pháp xuống đến Thông sự.
Mỗi phẩm có lễ phục khác nhau.
- Lễ phục Hộ pháp gồm hai bộ: Đại phục và Tiểu phục.
+ Đại phục: người mặc áo giáp, ngoài giáp choàng mãng bào, đầu đội Kim
khôi toàn bằng vàng, trên Kim khôi có thể Tam sơn (giống như cái chỉa ba ngạnh)
mang ý nghĩa Chưởng quản tam thiên ở Tây phương cực lạc. Tay phải cầm Gián
ma xử (nghĩa là Đời chế Đạo); tay trái cầm xâu chuỗi "từ-bi" (nghĩa là lấy Đạo
chế Đời). Ngang lưng cột dây lịnh sắc có ba màu Đạo (nghĩa là Chưởng quản tam
giáo nơi mình, nắm trọn Thể pháp và Bí pháp đặng qui nhứt). Mối dây lịnh sắc
được buộc ngay giữa bụng. Chân đi hia, trên chót mũi hia có thêu chữ "Pháp"
(法). Bộ đại phục được mặc khi ngự trên ngai (H:3).
+ Tiểu phục toàn màu vàng (màu Đạo), đầu đội Hổn ngươn mạo cũng màu
vàng, chiều cao một tấc (10cm) ngay trước trán chính giữa có thêu ba Cổ pháp
Tam giáo (Bình bát vu, cây Phất chủ và bộ sách Xuân thu), ngay trên ba Cổ pháp
có chữ "Pháp" (法). Lưng thắt dây lịnh sắc như Đại phục. Bộ Tiểu phục được mặc
khi ngồi ở Tòa Tam giáo.
- Lễ phục của Thượng phẩm cũng gồm hai bộ: Đại phục và Tiểu phục.
158
+ Đại phục được may bằng vải trắng, ngoài mặc áo lá màu xanh có viền
chỉ kim tuyến bạc. Đầu để trần. Lưng buộc dây lịnh sắc giống Hộ pháp song mối
dây phải thả bên phải. Tay phải cầm Long tu phiến (là cây quạt kết đủ 36 lông cò
trắng) trên đầu quạt ngay giữa có Phất chủ (mang ý nghĩa quạt đưa các chơn hồn
vào Tam thập lục thiên); tay trái cầm xâu chuỗi Từ bi (nghĩa là dâng Đạo cho Hộ
pháp). Chân đi giày vô ưu màu trắng, trước mũi giày có thêu chữ "Đạo" (道). Bộ
Đại phục được mặc khi ngự trên ngai (H:4).
+ Tiểu phục cũng được may bằng vải trắng, lưng cột dây lịnh sắc giống Đại
phục. Đầu đội Hổn ngươn mạo màu trắng giống của Hộ pháp, ngay giữa trán có
thêu chữ "Long tu phiến" ngay trên hình Long tu phiến có chữ "Đạo" (道). Bộ tiểu
phục được mặc khi đến Tòa Tam giáo.
- Lễ phục của Thượng sanh cũng gồm hai bộ: Tiểu phục và Đại phục.
+ Đại phục giống với đại phục của Thượng phẩm, nhưng đầu bịt "Thanh-
cân" (nghĩa là một bao đảnh xanh), lưng mang dây Thần thông (nghĩa là một
đường lụa đỏ) và nịt dây lịnh sắc giống của Hộ pháp và Thượng phẩm, song mối
dây phải thả về bên trái. Nơi thắt lưng đeo Thư hùng kiếm (nghĩa là tạo thế và
chuyển thế); tay phải cầm cây Phất chủ (nghĩa là đưa thế vào cho Hộ pháp); tay
trái cầm xâu chuỗi "Từ bi" (nghĩa là dâng Đạo cho Nhơn sanh); chân đi giày vô ưu
màu trắng, trước mũi có thêu chữ "Thế" (世). Bộ Đại phục được mặc khi ngự trên
ngai (H.5).
+ Tiểu phục giống với tiểu phục của Thượng phẩm, nhưng ngay chính giữa
trước mão có thêu Thư hùng kiếm và Phất chủ; ngay trên hình Thư hùng kiếm và
Phất chủ có thêu chữ "Thế" (世); lưng thắt dây lịnh sắc như Đại phục. Bộ Tiểu
phục được mặc khi đến Tòa Tam giáo.
- Lễ phục của Thập nhị thời quân cũng gồm hai bộ: Đại phục và Tiểu phục.
+ Đại phục được may bằng vải màu trắng, cổ trịt viền chỉ Kim tuyến bạc.
Đầu đội mão quạ cũng bằng vải màu trắng; lưng nịt dây lịnh sắc thả mối theo chi
159
mình (Pháp ở giữa; Đạo ở bên phải; Thế ở bên trái); chân đi giày vô ưu màu trắng.
Bộ Đại phục được mặc khi cử hành đại lễ.
+ Tiểu phục cũng được may toàn vải màu trắng. Lưng nịt dây lịnh sắc như
Đại phục. Đầu đội mão giống Tiểu phục của Hộ pháp, Thượng phẩm và Thượng
sanh, nhưng có thêu Cổ pháp theo từng chi (chi Pháp là Phất chủ, Bình Bát vu,
sách Xuân thu; Chi Đạo là Long Tu phiến; Chi Thế là Thư hùng kiếm và Phất
chủ). Bộ Tiểu phục được mặc khi hành sự.
- Lễ phục của Thông sự chỉ một bộ, nhưng của nam và nữ khác nhau.
+ Lễ phục nam giới là bộ áo dài toàn trắng, hai bên cổ áo có thêu ba cổ
pháp của Đạo (Bình bát vu, Phất chủ và bộ Xuân thu), giống Hộ pháp, nịt ngang
lưng sợi dây cứng vải trắng, chiều bề ngang 5cm, đầu đội khăn đóng đen bảy lớp
chữ Nhân, giữa có thêu ba cổ pháp như Chánh Trị sự.
+ Lễ phục nữ giới cũng toàn trắng, hai bên cổ áo có thêu cổ pháp của đạo,
cũng nịt ngang lưng bằng sợi dây vải trắng cứng, chiều ngang 3cm; không đội
khăn đóng (H:18).
Trên đây là lễ phục của chức sắc, chức việc trong đạo Cao Đài. Đối với tín
đồ bình thường của đạo, lễ phục chỉ một bộ áo dài trắng, nam giới đội thêm khăn
đóng đen, nữ giới đầu để trần.
Ở Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi, Bạch Y Liên Đoàn Chơn Lý và Minh
Chơn Lý, lễ phục của chức sắc và chức việc không theo khuôn mẫu trên.
- Lễ phục của tín đồ Chiếu Minh Tam Thanh chỉ một bộ áo dài trắng có
thêu các cung Bát quái giống tiểu phục của Giáo tông, đầu đội khăn đóng trắng
trơn (tín đồ Chiếu Minh tại Cần Thơ) hoặc một bộ áo dài trắng trơn, đội khăn
đóng đen (tín đồ Chiếu Minh tại Phú Lâm, quận 6 TP. Hồ Chí Minh). Khi luyện
đạo, tín đồ Chiếu Minh có thêm tấm khăn choàng vuông màu trắng, khoét lỗ tròn
ở giữa để trùm qua đầu.
- Lễ phục của tín đồ Bạch Y chỉ là bộ áo dài trắng trơn.
- Lễ phục của tín đồ Minh Chơn Lý cũng là bộ áo dài trắng, tay rộng, viền
đỏ, choàng Bá Nạp Quang, đầu đội mão (H:22,23).
160
Nhìn chung, lễ phục của tín đồ Cao Đài rất đa dạng, không chỉ đa dạng
trong từng chi phái mà còn đa dạng ở từng cấp bậc, phẩm vị của mỗi tín đồ. Nhìn
vào lễ phục, tín đồ Cao Đài có thể biết được tín đồ đó đang giữ phẩm vị nào thuộc
cơ quan nào trong đạo Cao Đài. Sự đa dạng về lễ phục của đạo Cao Đài cũng là
nhân tố quan trọng góp phần làm phong phú văn hóa vật chất ở Nam Bộ.
* Ẩm thực
Tín đồ Cao Đài đa phần là người Việt cư trú lâu đời tại vùng đất Nam Bộ
nên ẩm thực của họ không có nhiều dị biệt so với người Việt Nam Bộ chung. Ẩm
thực của tín đồ Cao Đài vẫn chứa đựng những yếu tố kế thừa văn hóa truyền thống
của tổ tiên di cư đến và mang thêm sắc thái của miền quê mới với hoàn cảnh địa lý
tự nhiên mới.
Trong quá trình tiếp xúc với điều kiện môi sinh và thổ nhưỡng lạ, lưu dân
người Việt lâu dần hình thành nên thói quen ăn uống mang tính đặc thù của khu
vực, với các thức ăn được lấy từ ao hồ, sông ngòi, biển cả như cá, tôm, nghêu, sò,
cua ghẹ… và rừng rậm như các loại rau rừng, thú rừng… Cách chế biến các loại
món ăn mang đậm tính truyền thống của tộc người như luộc, xào, nấu canh, và đặc
biệt là món nướng phù hợp với tính di động của người đi khai hoang. Thức uống
gồm nước tự nhiên được lấy từ sông, hồ hoặc nước mưa, ngoài ra còn có rượu, trà
và nước dừa cũng là những thức uống thích ứng với môi trường sinh thái. Tín đồ
Cao Đài vẫn thuộc vào mẫu số chung về vấn đề ẩm thực này, tuy nhiên trong đời
sống tôn giáo của họ có một số đặc trưng về ẩm thực như cách ăn chay.
Ăn chay trong đạo Cao Đài nhằm hướng đến các mục đích như [71]:
- Giữ được Ngũ giới cấm: Đây là giới luật quan trọng của đạo gồm không
sát sanh, không tửu nhục, không tà dâm, không du đạo, không vọng ngữ. Do ăn
chay không ăn thịt động vật, không giết hại chúng, vì thế tránh được sát sanh.
Không ăn thịt ắt hẳn sẽ không dùng rượu nhiều nên có thể tránh được tửu nhục,
tránh được tà dâm, tránh được tham, sân, si và cũng tránh nói dối, lường gạt người
khác để đem lợi ích về cho mình (tránh vọng ngữ).
- Thanh lọc bản thể và giữ tinh khiết cho chơn thần: Các thức chay gồm
rau, đậu, ngũ cốc… các vật này nhờ vào không khí, ánh sáng mặt trời, chất
161
khoáng trong lòng đất mà sinh trưởng nên có tác dụng bổ dưỡng cơ thể người và
bổ dưỡng chơn thần, vì cơ thể và chơn thần có thể hấp thu được ánh sáng và
dưỡng khí từ các thức chay này.
- Luyện tập Bi, Trí, Dũng: Ăn chay không giết hại động vật là Bi. Biết động
vật sẽ tiến hóa thành nên không giết là Trí. Ăn chay có thể khước từ được cám dỗ
của rượu thịt, của dục vọng… là Dũng.
- Tránh luân hồi quả báo: Ăn chay sẽ không giết hại động vật nên không
trả nợ sát sanh, do đó có thể tránh được luân hồi quả báo. Khi ăn chay, con người
hủy diệt thảo mộc, nhưng sẽ trả lại cho thảo mộc bằng chính xác thân của họ, nên
cũng không còn quả báo.
Vì những mục đích trên, nên thức ăn chay của tín đồ Cao Đài chỉ là thảo
mộc như rau cải, hoa quả, đậu hũ, tương chao, các loại nấm… giống với cách ăn
chay của tín đồ Phật giáo Bắc truyền ở Nam Bộ, nhưng thay vì tín đồ Phật giáo
không dùng ngũ vị tân (5 loại thảo mộc có vị cay nồng và mùi hôi, gồm hành, hẹ,
tỏi, kiệu, nén); thì tín đồ Cao Đài vẫn dùng các loại cây này. Ngoài ra, tín đồ Cao
Đài còn có thể hút thuốc, ăn trầu, nhưng không được khuyến khích vì cho rằng có
hại cho sức khỏe. Tín đồ Cao Đài có thể dùng bơ, sữa động vật và trứng gia cầm
không trống (trứng không được thụ tinh) để chế biến thức ăn chay, vì tín đồ Cao
Đài quan niệm “việc ăn chay không nên quá khắt khe, nhất là đối với những tín đồ
khi đau ốm, cần nhanh chóng phục hồi sức khỏe để lo công quả, nên việc dùng
thêm các loại bơ, sữa động vật và các loại trứng không trống là điều có thể thông
cảm được vì không phạm giới sát sanh” [71].
Thức ăn chay của tín đồ Cao Đài trong ngày thường được chế biến đơn
giản, nhưng trong các ngày lễ, tết lại rất cầu kỳ. Các món ăn thường thấy trong các
ngày này là gỏi, ra gu, trộn, canh khổ qua dồn nhân, đậu hũ dồn nhân… Trong đó,
gỏi được làm từ ngó sen, cà rốt, đậu hũ, nấm rơm… ăn với bánh phồng chay. Ra
gu được nấu với các loại củ như cà rốt, cải trắng, khoai lang, khoai tây, nấm các
loại, đậu hũ… ăn với bánh mì. Trộn được làm từ phù chúc cọng (luộc xé như thịt
gà xé phay), trộn với rau răm, hành củ, muối tiêu chanh. Canh khổ qua được nấu
từ trái khổ qua mổ bỏ ruột và dồn nhân vào trong (nhân được làm từ nấm mèo,
162
bún tàu, đậu hũ… bằm nhuyễn, trộn đều)… Trong các bữa tiệc, còn có thêm món
lẫu chay, bún xào chay…
Trong những năm gần đây, thức ăn chay của tín đồ Cao Đài còn đa dạng
hơn với việc xuất hiện các món chay công nghiệp được nhập từ Đài Loan, như gà
chay nguyên con, heo quay chay, vịt tiềm chay, thịt bò chay, thịt heo chay…
Những món ăn này được tín đồ Cao Đài mua về từ các siêu thị, chế biến lại dùng
để đãi tiệc.
Ngoài các thức ăn trên, tín đồ Cao Đài còn làm thêm các loại bánh chay
trong dịp lễ, tết như bánh tét chay, bánh ít chay và các loại mứt như khổ qua, dừa,
bí…
Nói về món chay của đạo Cao Đài, người Nam Bộ đều có ấn tượng về sự
khéo léo của nữ tín đồ Cao Đài. Từ những năm 30-40 của thế kỷ XX một số chức
sắc nữ tín đồ Cao Đài đã biên soạn, xuất bản quyển sách dạy nấu món chay, trong
đó nhiều món khéo léo như vịt tiềm chay, các loại bánh mứt hết sức tinh xảo, đẹp
như bánh bươm bướm, các loại bánh có hình dáng trái cây nhân đậu xanh rất khéo
léo. Nhiều nơi ở Nam Bộ đã bắt chước cách nấu của tín đồ Cao Đài Tây Ninh.
Nhìn chung, ẩm thực của tín đồ Cao Đài về khía cạnh tôn giáo vẫn có
những yếu tố đặc trưng thể hiện qua hình thức, cách chế biến… điều này đã làm
phong phú thêm cho văn hóa ẩm thực của Nam Bộ.
3.1.2. Văn hóa tinh thần
Một số yếu tố văn hóa tinh thần mà đạo Cao Đài góp vào làm đa dạng cho
văn hóa Nam Bộ được biểu hiện như Đề cao vai trò của Ngọc Hoàng Thượng đế,
Hệ thống hóa tư tưởng của Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo theo kiểu riêng, vấn
đề lễ hội của đạo Cao Đài và Âm nhạc – thơ văn Cao Đài…
* Đề cao vài trò của Ngọc Hoàng Thượng đế
Trước khi đạo Cao Đài ra đời, Ngọc Hoàng Thượng đế ở khu vực Nam Bộ
được người dân đã được người dân tôn kính, gọi là “ông Trời”. Ông Trời dưới tên
gọi Ngọc Hoàng Thượng đế được thờ trong một số ngôi chùa cổ, nhưng vai trò
của ông Trời trong thế giới thần linh của cư dân Nam Bộ chưa thật rõ ràng, chưa
có vai trò độc tôn, mà chỉ được biết đến như là một đấng chung chung qua các câu
163
nói thông thường mà người Việt Nam Bộ thường nói như “Trời cao có mắt”, “lưới
Trời lồng lộng”, “người tính không bằng Trời tính”, “Trời kêu ai nấy dạ”… Ngay
trong đạo Minh sư, vai trò của Ngọc Hoàng Thượng đế cũng không thật rõ ràng.
Nhưng, khi đạo Cao Đài ra đời, Ngọc Hoàng Thượng đế được nâng lên với vị trí
độc tôn trong vô cùng quan trọng trong vũ trụ, là người tạo dựng Càn khôn vũ trụ,
đứng đầu trong tất cả các vị thần linh. Các vị Phật, Tiên, Thánh, Thần đều đứng ở
vị trí sau Ngọc Hoàng Thượng đế và phải tùng lịnh Ngọc Hoàng Thượng đế.
Trong kinh Thiên đạo của Cao Đài có bài Ngọc Hoàng Thượng đế, đọc
toàn bộ bài kinh này, ta thấy vai trò của Ngọc Hoàng Thượng đế rất lớn. Người là
Đại La Thiên đế (vua của bầu trời), là Thái Cực Thánh hoàng (vua của ngôi Thái
cực), chịu trách nhiệm hóa dục quần sanh (tạo ra và dưỡng dục muôn loài), thống
ngự vạn vật (chúa của muôn loài, thống trị muôn loài), làm chủ Tiên thiên, Hậu
thiên, chủ của Phật, Tiên, Thánh, Thần (vi Thánh, Thần, Tiên, Phật chi chủ), và là
người đại thánh, đại nguyện, đại tạo, đại bi…
Đọc Thánh giáo của Cao Đài cũng đề cập đến vai trò bậc nhất trong vũ trụ
của Ngọc Hoàng Thượng đế như:
“Thầy đã nói với các con rằng: Khi chưa có chi trong Càn khôn Thế giới thì
khí Hư Vô sanh ra có một Thầy và ngôi của Thầy là Thái Cực.
Thầy phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi phân ra Tứ Tượng, Tứ
Tượng biến Bát Quái, Bát Quái biến hoá vô cùng mới lập ra Càn khôn Thế
giới. Thầy lại phân tánh Thầy mà sanh ra vạn vật là: vật chất, thảo mộc, côn
trùng, thú cầm, gọi là chúng sanh.
Các con đủ hiểu rằng, chi chi hữu sanh cũng do bởi chơn linh Thầy mà ra. Hễ
có sống ắt có Thầy, Thầy là cha của sự sống, vì vậy mà lòng háo sanh của
Thầy vô cùng tận" [4:152-153].
Hoặc:
"Khai Thiên Địa vốn Thầy, sanh Tiên Phật cũng Thầy. Thầy đã nói một chơn
thần mà biến Càn khôn Thế giới và cả nhơn loại.
Thầy là chư Phật, chư Phật là Thầy.
Các con là chư Phật, chư Phật là các con.
Có Thầy mới có các con, có các con rồi mới có chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.
164
Thầy khai Bát Quái mà tác thành Càn khôn Thế giới nên mới gọi là PHÁP,
Pháp có mới sanh ra Càn khôn Vạn vật, rồi mới có người, nên gọi là TĂNG.
Thầy là PHẬT chủ cả PHÁP và TĂNG lập thành các Đạo mà phục hồi các
con hiệp một cùng Thầy. "
Bởi vậy, một chơn thần Thầy mà sanh hóa thêm chư Phật, chư Tiên, chư
Thánh, chư Thần và toàn cả nhơn loại trong Càn khôn Thế giới, nên chi: Các
con là Thầy, Thầy là các con [4:52-53] ".
Qua các tư liệu trên cho thấy Ngọc Hoàng Thượng đế trong đạo Cao Đài là
người giữ vị trí tuyệt đối trong vũ trụ vì làm chủ ngôi Thái cực mà Thái cực chỉ có
một; người bất diệt, toàn tri, toàn năng, toàn mỹ (biết được tất cả, làm được tất cả
và hoàn hảo nhất), là cha của muôn loài vạn vật (đấng Đại từ phụ).
Như vậy, qua Đạo Cao Đài, Ngọc Hoàng Thượng đế ở Nam Bộ có vai trò
rõ ràng trong thế giới thần linh; là người có quyền lực cao nhất trong vũ trụ, đứng
trên tất cả các vị Phật, Tiên, Thánh, Thần và là người có vai trò cứu độ nhân sanh
thoát khỏi luân hồi.
Điều này chứng tỏ, sự xuất hiện của đạo Cao Đài đã làm phong phú thêm
cho văn hóa tâm linh của người Việt Nam Bộ bằng hình thức xây dựng Ngọc
Hoàng Thượng đế thành một vị Chúa tể được tôn vinh bậc nhất trong vũng trụ và
được thờ ở nơi tôn nghiêm trang trọng nhất trong đạo Cao Đài.
* Hệ thống hóa tư tưởng Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo theo kiểu
riêng
Khi đạo Cao Đài ra đời và đưa ra học thuyết Tam giáo qui nguyên, Ngũ Chi
hiệp nhất, thì tư tưởng của Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo đã được hệ thống hóa
trong giáo lý Cao Đài.
- Về tư tưởng Phật giáo: Đạo Cao Đài không xem Phật giáo là tôn giáo độc
lập, tách biệt so với các tôn giáo khác mà xem Phật giáo ra đời là do Thiên ý (ý
trời), nhằm cùng với các tôn giáo có trước cứu rỗi nhân loại trong hai thời kỳ:
Nhứt kỳ phổ độ và Nhị kỳ phổ độ. Sự xuất hiện các vị Phật là do chiết thân của
Thượng đế xuống phàm để hóa độ chúng sanh. Tùy theo mỗi nước, mỗi tộc người,
tùy theo hoàn cảnh địa lý, lịch sử mà chiết thân của Thượng đế xuống phàm với
các vai trò khác nhau. Đến thời mạt kiết này, vai trò cứu rỗi nhân loại của Phật
165
giáo cũng như các tôn giáo khác đã hết, nên Thượng đế tự mình lập ra tôn giáo
mới và cũng nhằm qui tụ các tôn giáo đã ra đời trước đó về một mối. Vì vậy, Phật
giáo có mặt trong đạo Cao Đài, nhưng dưới hình tướng khác trong tổ chức tôn
giáo. Đó là chi Thái trong cơ quan Cửu Trùng đài. Tư tưởng giải thoát của Phật
giáo trong đạo Cao Đài vẫn là cõi Niết bàn, nhưng không nằm tách biệt mà gắn
liền với Thiên đường Cao Đài. Niết bàn trong Cao Đài không phải là cõi giải thoát
cao nhất, mà ở đó tín đồ vẫn phải tiếp tục tu hành để được giải thoát lên những cõi
cao hơn (xem sơ đồ 1). Các vị Phật trong Phật giáo cũng được sắp xếp có thứ bậc
trong đạo Cao Đài và được phân công nhiệm vụ cụ thể trong vai trò cứu rỗi nhân
loại lần thứ ba. Như vậy, đạo Cao Đài đã hệ thống hóa tư tưởng của Phật giáo theo
cách riêng của mình nhằm hướng đến mục đích qui Tam giáo và phát triển tín đồ
ở Nam Bộ.
- Về tư tưởng Nho giáo: Giống như Phật giáo, Cao Đài cũng gộp Nho giáo
vào trong tổ chức tôn giáo của mình dưới hình thức chi Ngọc trong Cửu Trùng
đài. Tư tưởng Nho giáo được biểu hiện trong đạo Cao Đài qua yếu tố “quân thần”,
xem Ngọc Hoàng Thượng đế là một vị vua tối thượng, Chúa tể Càn khôn, những
vị khác phải nhất nhất tùng lệnh. Trong cơ cấu tổ chức cũng mang yếu tố thể chế
chính trị phong kiến đặc quyền, kể cả tổ chức hệ thống thần linh cũng như tổ chức
giáo hội tôn giáo. Cách sắp xếp các vật phẩm trên bàn thờ Cao Đài cũng luôn
hướng đến yếu tố độc tôn và quyền lực của Thượng đế. Dù ở chi phái nào, tín đồ
Cao Đài khi sắp bàn thờ cũng thể hiện cho được chữ chủ (主) hoặc chữ vương
(王) nhằm tôn trọng và đề cao người có quyền lực cao nhất trong trời đất là Ngọc
Hoàng Thượng đế. Như vậy, mặc dù tư tưởng Nho giáo đã trở nên hạn chế trong
xã hội Nam Bộ, nhưng trong đạo Cao Đài, tư tưởng này vẫn còn vai trò quan trọng
được tín đồ thể hiện rõ qua hệ thống tổ chức và tư tưởng hành đạo của họ. Điều
này chứng tỏ, đạo Cao Đài trong một chừng mực nào đó đã hệ thống hóa trở lại tư
tưởng Nho giáo ở Nam Bộ.
- Về Đạo giáo: Cũng giống như Phật giáo và Nho giáo, Đạo giáo cũng là
một chi (chi Thượng) trong tổ chức Cửu Trùng đài. Phải nói, tư tưởng Đạo giáo
ảnh hưởng rất lớn đến việc truyền bá và phát triển đạo Cao Đài ở Nam Bộ. Ngay
166
khi ra đời, tín đồ Cao Đài đã dùng hình thức cầu Phật, tỉnh Tiên của Đạo giáo để
thu hút tín đồ. Trong quá trình truyền đạo, chức sắc Cao Đài đã dùng yếu tố ma
thuật của Đạo giáo để chữa bệnh dưới các hình thức như phù nhang, uống nước
Thánh… Trong quá trình tu đạo, chức sắc Cao Đài luôn thực hiện yếu tố tọa thiền,
vận dụng tư tưởng Đạo giáo để tu Tiên. Tìm hiểu cách tu tâm pháp của tín đồ
Chiếu Minh, cách luyện Châu của tín đồ Truyền giáo, cách nhập Tịnh của tín đồ
Tiên Thiên, cách Tọa thiền của chức sắc Tây Ninh, Ban Chỉnh Đạo, Minh Chơn
Đạo… cho thấy đều dựa trên tư tưởng vô vi, chuyển hóa Càn Khôn, luyện Thiên –
Địa – Nhân hợp nhất của Đạo giáo để hướng đến việc thành đạo. Trong các buổi
lễ Thiên đạo và Thế đạo của Cao Đài đều xuất hiện các bí pháp Đạo giáo như
trấn, yếm, bùa, chú, tẩy uế… Việc thực hiện các bí pháp này gần như trở nên phổ
biến trong tất cả nghi lễ của đạo Cao Đài. Người thực hiện các bí pháp đều phải
học qua trường lớp, mỗi cấp bậc, phẩm vị được học bí pháp khác nhau. Người ở
phẩm vị nào chỉ được thực hiện bí pháp của phẩm vị đó, không học vượt và không
thực hiện vượt bí pháp vì không đủ thẩm quyền sẽ không đem lại hiệu quả trong bí
pháp (PL:2, gỡ băng số 4). Như vậy, tư tưởng Đạo giáo trước đây chỉ tồn tại âm
thầm trong dân gian thì nay đã được đạo Cao Đài đưa vào trong tôn giáo và phát
triển lên thành những nghi thức trong nghi lễ cũng như tiến hành trong đường lối
tu đạo, qua đó cho thấy, đạo Cao Đài đã phần nào hệ thống hóa tư tưởng Đạo giáo
ở Nam Bộ trong giáo lý của mình.
Tóm lại, sự ra đời và phát triển của đạo Cao Đài đã phần nào làm đa dạng
thêm tư tưởng vốn có của Tam giáo truyền thống ở Nam Bộ và đã góp phần làm
phong phú thêm cho văn hóa tâm linh ở khu vực này.
* Lễ hội
Lễ hội của đạo Cao Đài hiện nay rất phong phú, mỗi năm có hơn 10 lễ hội
lớn nhỏ khác nhau, có thể liệt kê như sau:
Các ngày đại lễ
Đại lễ của đạo Cao Đài gồm: vía Đức Chí Tôn (Ngọc Hoàng Thượng đế),
vía Đức Diêu Trì Kim Mẫu, kỷ niệm ngày Khai đạo và ngày vía các đấng thiêng
liêng trong đạo.
167
- Đại lễ vía Đức Chí Tôn
Đại lễ này được tổ chức vào ngày 9 tháng Giêng Âm lịch hàng năm. Đây
được xem là ngày lễ trọng đại nhất trong năm của tín đồ Cao Đài. Trong ngày này,
tín đồ Cao Đài tham dự rất đông. Chúng tôi từng tham dự lễ này tại Thánh thất
Trung Minh (năm 2005), tại Đền thánh Tây Ninh (năm 2006) và tại Thánh thất
Trung Bảo (năm 2007). Trong đó, Đền thánh Tây Ninh được xem là nơi tổ chức
lớn nhất. Trong ngày này, ngoài phần lễ, phần hội được tổ chức rất công phu,
không chỉ thu hút tín đồ tham dự mà khách thập phương cũng đến tham quan,
chiêm bái đông đảo.
Tại Tòa thành Tây Ninh trong hai ngày mùng 7 và mùng 8 tháng Giêng,
hàng chục Ban Cai quản của các Thánh thất thuộc chi phái này đã qui tụ về Tòa
thánh. Họ dựng những gian trưng bày với nhiều chủ đề khác nhau liên quan đến
thành tựu phát triển của đạo, cũng như liên quan đến những nhân vật đạo đức, các
bậc thiêng liêng trong đạo, những câu chuyện huyền thoại trong lịch sử dân tộc
Việt, Hoa… Như, gian trưng bày thể hiện những nhân vật trong Thập nhị tử hiếu
của Trung Quốc để khuyên dạy tín đồ; gian trưng bày về Thần nông; gian trưng
bày sự tích Mẹ Âu Cơ và Cha Lạc Long Quân; gian trưng bày về quá trình xây
Tòa thánh, hoặc trưng bày về thành tựu của một số Thánh thất địa phương… Đến
khoảng 15 giờ ngày mùng 8 tháng Giêng, hàng trăm xe ca từ 16 đến 45 chỗ ngồi
chở đông đảo tín đồ về Tòa thánh. Tín đồ trong lễ phục được Ban hành lễ của Tòa
thánh sắp xếp chỗ nghỉ, dùng cơm tại Khách trai đường. Đến đúng 18 giờ, tất cả
tín đồ, chức sắc đều tụ tập vào chánh điện của Đền thánh để hành lễ Đức Chí Tôn;
sau đó quay về chuẩn bị cho buổi đại lễ vào lúc 0 giờ.
Đến khoảng 23 giờ ngày mùng 8, hàng ngàn tín đồ trong trang phục đại lễ
qui tụ hai bên hành lang của Đền thánh, trong đó nam bên trái, nữ bên phải đứng
xếp hàng ngay ngắn theo chức phẩm và theo từng chi của đạo. Đến giờ hành lễ,
chức sắc Hiệp Thiên Đài cầm cờ đạo và phướn Thượng sanh (上生) tiếp dẫn tín đồ
theo thứ tự từng chi vào chánh diện (H:53-55). Chi Thái (mặc áo vàng) đi trước,
sau đến chi Thượng (áo xanh) và chi Ngọc (áo Đỏ). Bên nữ cũng có chức sắc Hiệp
Thiên Đài tiếp dẫn tín đồ vào chánh điện. Khi vào chánh điện, tín đồ được dẫn
168
theo hình thức Quán đàn; tín đồ nam đi một vòng từ trái qua phải quanh chánh
điện; nữ tín đồ đi ngược lại từ phải qua trái quanh chánh điện (đây là bí pháp hành
đại lễ của Đền thánh) (xem sơ đồ).
Sơ đồ 16: Hình thức quán đàn tại Đền thánh Tây Ninh
(Sơ đồ: Huỳnh Ngọc Thu)
Kết thúc quán đàn, tín đồ nam và nữ đứng đối diện nhau, tiếp tục thực hiện
nghi thức nhập đàn. Những tín đồ khác không có chỗ đứng trong chánh điện, thì
đứng hành lễ ở sân trước Đền thánh.
Buổi vía Đức Chí Tôn diễn ra suốt hơn 2 giờ đồng hồ. Sau đó, tín đồ về
nghỉ tại Khách trai đường, chờ đến sáng hôm sau tham dự ngày hội phía trước
Đền thánh.
Trong ngày hội có sự tham gia của đại diện Ban tôn giáo Chính phủ, đại
diện Chính quyền địa phương. Các gian trưng bày được khai trương để khách và
tín đồ tham quan (H:60,61), cùng đó là biểu diễn múa Tứ linh (long, lân, qui,
phụng) (H:62), biểu diễn ca múa dân tộc với sự tham gia của các đoàn nghệ thuật
người Hoa, người Khmer và người Chăm ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Phần hội diễn ra suốt ngày mùng 9 tháng Giêng. Theo quan sát của chúng
tôi, khách thập phương đến tham dự rất đông cùng với đông đảo tín đồ; họ xem
đây như dịp du xuân đầu năm.
Ở các chi phái khác, các Đền thánh khác, trong ngày vía Đức Chí Tôn, chỉ
chú trọng phần lễ, ít quan tâm đến phần hội. Trong phần lễ, hình thức Quán đàn
cũng không xuất hiện như ở Đền thánh Tây Ninh. Họ chỉ thực hiện nghi thức nhập
đàn đơn giản, sau đó bước vào phần lễ. Trao đổi với chúng tôi về sự khác biệt này,
chức sắc của Cơ Quan Phổ Thông Giáo lý cho rằng, mỗi chi phái có bí pháp nhập
Bát
quái
đài
Bàn
nội n
ghi
Bàn
ngoại n
ghi
Thờ
Hộ p
háp
Đường đi của tín đồ nam
Đường đi của tín đồ nữ
169
đàn khác nhau do Đức Chí Tôn truyền dạy; chi phái Tây Ninh có bí pháp Quán
đàn, còn các chi phái khác sẽ có bí pháp khác, được thể hiện dưới hình thức khác
(không nói ra được (!)). Còn về phần hội, do chi phái Tây Ninh được xem là chi
phái lớn và luôn xem mình là chi phái gốc của đạo Cao Đài nên rất chú trọng đến
hình thức để “khẳng định mình” và cũng nhằm mục đích quảng bá tôn giáo. Các
chi phái khác vẫn có phần hội, có sự tham gia của các cấp chính quyền, nhưng
không tổ chức lớn, chủ yếu diễn ra trong hội trường, dưới hình thức hội họp nhằm
ôn lại truyền thống đạo; không có diễn xướng, trưng bày.
- Đại lễ vía Đức Diêu Trì Kim Mẫu
Đại lễ này diễn ra vào ngày 15 tháng 8 Âm lịch hàng năm và đây cũng là
ngày Trung thu. Diêu Trì Kim Mẫu là Phật Mẫu của đạo Cao Đài, tín đồ gọi là
Mẹ. Việc Đức Phật Mẫu xuất hiện và được thờ phụng trọng thể trong đạo Cao Đài
có thể được xem là sự tiếp nối tư tưởng kính trọng và thờ phụng Thánh Mẫu của
cộng đồng cư dân Nam Bộ. Trong văn hóa Nam Bộ, yếu tố Nữ thần và Thánh
Mẫu chiếm vai trò quan trọng trong hệ thống tín ngưỡng dân gian. Bằng chứng là
các vị Thánh Mẫu như Linh Sơn Thánh Mẫu, Thiên Hậu Thánh Mẫu, Mẫu Thiên,
Mẫu Địa, cũng như các vị Nữ thần như Ngũ Hành Nương Nương, Cửu vị Tiên
Nương,… đã xuất hiện lâu đời trong hệ thống thờ tự của cư dân Nam Bộ. Đạo Cao
Đài đã tiếp thu yếu tố này, và chọn Phật Mẫu hay còn gọi là Diêu Trì Kim Mẫu
như là một biểu trưng nhằm dung hòa tín ngưỡng truyền thống tại Nam Bộ để thu
hút tín đồ và cũng nhằm để giải thích cho triết lý Âm-Dương của đạo.
Đạo Cao Đài giải thích về sự xuất hiện của Diêu Trì Kim Mẫu như sau:
Khi chưa có trời đất, còn trong thời kỳ hỗn mang hay hồng mông, trong vũ trụ chỉ
có một chất khí hỗn độn, mờ mờ mịt mịt, lặng lẽ vô vi, nhưng vô cùng huyền diệu,
gọi là khí hư vô (còn gọi là Tiên Thiên hư vô chi khí).
Khí hư vô ấy lần lần ngưng kết rồi nổ ra một tiếng thật lớn, sanh ra một khối Đại
Linh Quang, cũng gọi là Thái Cực, trọn lành trọn tốt, toàn tri toàn năng, thiên biến
vạn hóa, vô tận vô cùng.
Vũ trụ từ đây bắt đầu có ngôi Thái cực duy nhứt, là Đại hồn của một Đấng duy
nhứt được gọi là Ngọc Hoàng Thượng Đế mà chúng ta (tín đồ Cao Đài) thường
gọi là Đức Chí Tôn.
170
Đức Chí Tôn phân Thái cực ra Lưỡng nghi: Dương quang và Âm quang. Đức Chí
Tôn chưởng quản khí Dương quang, còn khí Âm quang chưa có người chưởng
quản, vì Càn khôn vũ trụ lúc bấy giờ chỉ có một mình Đức Chí Tôn. Đức Chí Tôn
mới hóa thân ra Đức Phật Mẫu để chưởng quản khí Âm quang.
Vậy, nguồn gốc của Đức Phật Mẫu là hóa thân đầu tiên của Đức Chí Tôn để làm
chủ khí Âm quang, cầm phân nửa quyền lực của Đức Chí Tôn và luôn luôn tùng
theo mạng lịnh của Đức Chí Tôn.
Vũ trụ tới đây đã có 2 khối khí vĩ đại và có 2 Đấng đầu tiên cầm quyền Càn khôn
vũ trụ là Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu.
Sau đó, Đức Phật Mẫu vâng lịnh Đức Chí Tôn, thâu lằn sanh quang của ngôi Thái
cực, đem Âm quang phối hợp với Dương quang để tạo ra các từng Trời, các quả
Tinh cầu và các Địa cầu, tạo thành Càn khôn vũ trụ.
Tiếp theo, Đức Phật Mẫu tạo hóa ra Vạn linh nơi cõi Thiêng liêng vô hình. (Vạn
linh gồm đủ Bát hồn: Kim thạch hồn, Thảo mộc hồn, Thú cầm hồn, Nhơn hồn,
Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn, Phật hồn).
Đức Phật Mẫu lại cho Vạn linh đầu kiếp xuống các Địa cầu tạo thành Vạn vật, tức
là Chúng sanh. (gồm: Kim thạch, Thảo mộc, Thú cầm, Nhơn loại).
Như thế, một con người nơi cõi phàm trần, ngoài hai Đấng CHA MẸ chung thiêng
liêng, còn có thêm hai vị cha mẹ phàm trần nữa.
Tóm lại, toàn cả chúng sanh trong càn khôn vũ trụ hay toàn cả Vạn linh, đều là con
cái của Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu, dầu cho đó là những vị Phật cao siêu như
Đức Phật Thích Ca, Đức Phật Di-Lạc, Đức Lão Tử, Đức Khổng Tử, Đức Chúa
Jêsu, vv...Tất cả đều là con cái của Đức Chí Tôn và Phật Mẫu.
Đức Phật Mẫu ngự tại Cung Diêu Trì, ở từng trời Tạo hóa thiên, từng thứ 9 trong
Cửu Trùng Thiên, nên gọi là Đức Diêu Trì Kim Mẫu [71].
Chính quan niệm trên mà Đức Diêu Trì Kim Mẫu xuất hiện trong đạo Cao
Đài và được tổ chức đại lễ vào ngày 15 tháng 8 Âm lịch hàng năm. Đây là ngày
nhằm nhớ lại sự tích Hội yến bàn đào mà các ông Cao Quỳnh Cư, Phạm Công
Tắc, Cao Hoài Sang tổ chức để tiếp rước Đức Diêu Trì và Cửu Vị Tiên Nương
giáng đàn dạy đạo. Theo Huệ Lương (Trần Văn Quế), cháu của ông Cao Quỳnh
Cư, thuật lại theo lối văn kể trong quyển Đại đạo truy nguyên, đại ý vào đêm 14
rạng sáng 15 tháng 8 năm 1925, ba ông Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao
Hoài Sang theo lịnh đức AĂÂ (Ngọc Hoàng Thượng đế) phải dọn nhà cửa sạch
sẽ, tinh khiết để đón Diêu Trì Kim Mẫu và Cửu vị Tiên Nương giáng đàn. Các ông
171
chuẩn bị bàn tiệc, gồm hoa, trà và các loại trái cây tươi (H:64). Đúng 0 giờ ngày
15 tháng 8, các ông dùng Ngọc cơ để cầu Diêu Trì Kim Mẫu và Cửu vị Tiên
nương. Khi giáng đàn, các vị tiên này, mỗi người cho một bài thơ, rồi khuyên các
ông nên tu hành theo Đức Cao Đài.
Từ sự tích trên, hàng năm cứ đến ngày này, tín đồ đạo Cao Đài lại tổ chức
Hội yếu bàn đào và cũng là ngày vía Đức Diêu Trì với hình thức đại lễ. Đối với
chi phái Tây Ninh, đại lễ Diêu Trì được tổ chức tại đền Phật Mẫu. Tòa thánh Tây
Ninh tổ chức tại Báo Ân Từ (H:63). Các chi phái khác tổ chức ngày vía trong điện
thờ Đức Chí Tôn, vì không có đền Phật Mẫu riêng.
Khi tham dự ngày lễ này tại Đền thánh Tây Ninh (năm 2006), chúng tôi nhận
thấy không khí của lễ hội tại đây rất náo nhiệt, không khác so với ngày vía Đức
Chí Tôn. Nghi thức đại lễ cũng trang nghiêm và số lượng tín đồ cũng đông đảo.
Lễ chính diễn ra lúc 00 giờ ngày 15 tháng 8, nhưng trước đó Ban Cai quản
các Thánh thất cũng đã hội tụ về, cũng dựng gian trưng bày với nhiều chủ đề liên
quan đến đạo và văn hóa dân tộc.
Đặc biệt ở phần Hội diễn ra suốt ngày 15 là các cuộc thi nấu ăn, trưng bày hoa
quả giữa Ban Cai quản các Thánh thất (H:67-73). Lúc này, tài khéo léo của những
nghệ nhân trong đạo được phổ diễn thông qua những sản phẩm thi tài của họ. Các
loại bánh mứt, các mâm trái cây đủ loại, đủ dạng, đủ màu sắc được trưng bày khắp
nơi, từ chánh điện đến các gian hàng được đặt tại sân của điện Báo Ân Từ. Người
đi tham quan, chiêm ngưỡng đông đúc (H:66). Có thể nói, đây đúng là ngày Hội
yến bàn đào mà tín đồ Cao Đài thể hiện nhằm dâng lên cho đấng thiêng liêng tối
cao của họ.
Ở các chi phái khác, ngày vía này được tổ chức ngay trong điện Thánh, nên
không có phần hội như ở Tây Ninh.
- Kỷ niệm ngày Khai đạo
Đại lễ Khai đạo được tổ chức ngay tại đền Thánh vào ngày 15 tháng 10 Âm
lịch hàng năm. Đây là ngày lễ đánh dấu sự xuất hiện công khai của đạo Cao Đài
trước công chúng. Tại Đền thánh Tây Ninh, đại lễ này diễn ra long trọng, không
khác so với ngày vía Đức Chí Tôn; chỉ khác phần Hội. Kỷ niệm ngày Khai đạo,
172
phần hội chỉ tổ chức dưới hình thức hội họp của các Ban chức sắc trong đạo cùng
Chính quyền địa phương nhằm ôn lại các chặng đường hình thành và phát triển
của đạo. Ở các chi phái khác, ngày lễ này cũng chỉ chú trọng đến phần lễ.
- Ngày vía các đấng thiêng liêng trong đạo
Ngoài 3 ngày đại lễ quan trọng trên, đạo Cao Đài còn có những ngày đại lễ
khác như vía Thái Thượng Lão Quân (15-2 Âm lịch), vía Quan Âm Bồ Tát (19-2
Âm lịch), vía Phật Thích Ca (8-4 Âm lịch), vía Quan Thánh Đế Quân (24-6 Âm
lịch), vía Khổng tử (27-8 Âm lịch), vía Jêsu (25-12 Dương lịch). Những vị này là
các đấng thiêng liêng thuộc các tôn giáo khác được đạo Cao Đài tôn vinh, đưa vào
hệ thống thờ tự của đạo. Theo đức tín của đạo Cao Đài, mỗi vị đều giữ một trọng
trách trong đạo và được tín đồ tổ chức đại lễ dành cho họ. Đại lễ dành cho các vị
này, toàn đạo chỉ chú trọng phần lễ, không tổ chức phần hội; tín đồ cũng không
nhất thiết phải qui tụ đông về Tòa thánh như trong ba ngày đại lễ kể trên, họ chỉ đi
lễ tại Thánh thất, nơi mình cư ngụ.
Tóm lại, lễ hội của đạo Cao Đài là những ngày vía quan trọng, trong đó quan
trọng nhất là vía Đức Chí Tôn, Đức Diêu Trì và ngày Khai đạo; trong ba ngày
này, tại Tòa thánh Tây Ninh tổ chức rất long trọng cả phần lễ lẫn phần hội, thu hút
đông lượng khách đến tham quan, chiêm bái. Các chi phái còn lại chỉ chú trọng
phần lễ, ít quan tâm đến phần hội. Riêng hai phái Minh Chơn Lý và Chiếu Minh
Tam Thanh Vô Vi gần như không tổ chức các ngày vía như trên. Tín đồ Minh
Chơn Lý không chú trọng các ngày vía vì cho rằng phí phạm, không hợp với lẽ
Trời. Tín đồ Chiếu Minh Tam Thanh do thực hiện tu kỹ, nên cũng không tổ chức
lễ lớn và cũng không tổ chức nhiều lễ như các phái khác. Một năm chỉ tổ chức
một lễ vào ngày 13 tháng 3 âm lịch. Đây là ngày vía đức Ngô Văn Chiêu. Hình
thức lễ đơn giản, số lượng tín đồ tham dự không nhiều.
Các ngày tiểu lễ
Đạo Cao Đài có hai ngày tiểu lễ là mùng 1 Tết Nguyên đán và 23 tháng
Chạp Âm lịch. Theo truyến thống của người Việt, mùng 1 Tết là ngày dành cho
ông bà và ngày 23 tháng Chạp là ngày đưa ông Táo. Đạo Cao Đài cũng làm lễ
173
trong hai ngày này tại Đền thánh và Thánh thất, cũng hướng đến mục đích đó,
nhưng với tên gọi khác là đón rước chư Thần, Tiên, Thánh, Phật.
Hai ngày này được tổ chức theo hình thức tiểu lễ, nên không qui tụ đông
chức sắc và tín đồ, chỉ những người sống gần Tòa thánh hoặc Thánh thất mới đến
dự. Hình thức lễ diễn ra đơn giản, không chú trọng đến phần hội.
Nhìn chung, Cao Đài là một trong những tôn giáo mới ra đời ở Nam Bộ,
nhưng lễ hội lại rất đa dạng và đã góp phần không nhỏ trong việc làm phong phú
thêm cho văn hóa Nam Bộ.
* Âm nhạc, thơ văn
Ngoài các vấn đề vừa nêu, âm nhạc và thơ văn của đạo Cao Đài cũng góp
phần làm sống lại văn hóa truyền thống dân tộc ở Nam Bộ.
- Về âm nhạc: âm nhạc là một trong những yếu tố không thể thiếu trong
nghi lễ của đạo Cao Đài. Nhạc lễ của đạo được giao cho ông Cao Quỳnh Cư và
Cao Quỳnh Diêu sưu tập để sử dụng trong các ngày vía, ngày Sóc vọng (mùng
Một, Rằm hàng tháng) và trong dịp tế lễ các vong linh quá vãng. Vốn là những
người yêu âm nhạc, am tường âm luật, hai ông đã khôi phục lại nhạc cung đình,
kết hợp với các bản nhạc lễ của Nam Bộ thành bộ nhạc Cao Đài, gọi là nhạc
Thánh đường, gồm 7 bài: Xàng xê, Ngũ đối thường, Ngũ đối hạ, Long đăng, Long
ngâm, Vạn giá, Tiểu khúc. Nhạc cụ dùng để đánh các bài này là những nhạc cụ
truyền thống của người Việt như đàn tranh, đàn cò, đàn bầu, trống, kèn…
Nhận xét về âm nhạc Cao Đài, Trần Văn Khê, Giáo sư âm nhạc, cho rằng
“Nhạc trong đạo Cao Đài đều xuất phát từ nhạc dân gian Việt Nam, từ truyền
thống Việt Nam đưa vào, không phải từ phương xa đến, không phải từ nước ngoài
tới, mà từ dân gian… Âm nhạc trong Cao Đài là âm nhạc trong phong cách nhạc
lễ miền Nam, không phải miền Trung hay miền Bắc, tức là âm nhạc Cao Đài dựa
vào âm nhạc truyền thống dân gian miền Nam một cách rõ ràng…” (CT:26).
Như vậy, âm nhạc của đạo Cao Đài đã tích hợp truyền thống âm nhạc vốn
có của người Việt Nam Bộ để xây dựng thành bộ nhạc lễ cho riêng mình nhằm
phục vụ lễ nghi trong tôn giáo của mình.
174
- Về thơ văn: Thơ văn của đạo Cao Đài rất phong phú được viết dưới dạng
Kinh, Thánh giáo, Thánh ngôn… gồm nhiều thể loại như văn xuôi, thơ, phú, vè…
Đặc biệt về thơ, thơ của đạo Cao Đài được biết qua các bài kinh của Thiên đạo và
Thế đạo, gồm các thể loại như thất ngôn bát cú, song thất lục bát, lục bát, thất
ngôn tứ tuyệt… Các bài kinh này được tín đồ đọc lên theo làn điệu hát ru như
Nam ai, Nam xuân, với giọng du dương, trầm bổng, êm ả, nhẹ nhàng. Nhận xét về
điều này, Trần Văn Khê cho rằng “Lời hát ru đã thể hiện ngay trong bài Niệm
hương của đạo Cao Đài. Bài hát ru của bà mẹ Việt Nam là ầu ơ… ơ dí dầu… Cấu
trúc là hò… xự… xang… xê… cống… Thang âm mà tôi thấy trong kinh Cao Đài
là đạo… gốc… bởi… lòng thành… tín… hiệp… Cấu trúc cũng là hò… hự…
xang… xê… cống..” (CT:26).
Như vậy, thơ văn của đạo Cao Đài cũng là một phần thơ văn truyền thống
của người Việt được hun đút từ bao đời nay và được thể hiện lại một cách phong
phú trong đời sống tôn giáo của tín đồ Cao Đài ở Nam Bộ.
3.1.3. Văn hóa xã hội
Văn hóa xã hội mà đạo Cao Đài mang đến cho văn hóa Nam Bộ được biểu
hiện qua các yếu tố như sự đa dạng trong tổ chức tôn giáo, các phong trào thống
nhất Cao Đài và vấn đề báo chí Cao Đài…
* Sự đa dạng trong tổ chức tôn giáo
Sau khi có sự phân hóa, tổ chức của đạo Cao Đài trở nên phong phú hơn
nhiều. Mỗi chi phái, bên cạnh các tổ chức truyền thống, đã xây dựng thêm các tổ
chức khác nhau nhằm khẳng định con đường tu đạo theo hướng độc lập, không
phụ thuộc lẫn nhau. Do đó, hiện nay cơ cấu tổ chức của đạo Cao Đài ở Nam Bộ
rất đa dạng được biểu hiện qua từng chi phái như sau:
Chi phái Tây Ninh
Tây Ninh được xem là chi phái lớn trong đạo Cao Đài, nên trên nguyên tắc
Tam Đài, Lưỡng phái và Cửu viện như đã nêu, chi phái này còn mở rộng thêm
một số cơ quan để quản lý, điều hành tín đồ và các hoạt động trong đạo như Thập
nhị Bảo quân, Cơ quan Phước thiện, Bộ Pháp chánh, Ban Thế đạo…, Trong đó:
175
1) Thập nhị Bảo Quân: được xem là Hàn Lâm viện của đạo Cao Đài, gồm
12 vị Bảo quân, với các Thánh danh như Bảo Huyền Linh quân, Bảo Thiên Văn
quân, Bảo Địa Lý quân, Bảo Học quân, Bảo Cô quân, Bảo Sanh quân, Bảo Y
quân, Bảo Văn Pháp quân, Bảo Sĩ quân, Bảo Nông quân, Bảo Công quân, Bảo
Thương quân (CT:27).
Các vị này đều nằm dưới quyền lãnh đạo trực tiếp của Giáo tông và Hộ
pháp và có phẩm vị ngang với Phối sư của Cửu Trùng Đài. Phẩm vị của những
người này là do Đức Chí Tôn hoặc các vị thiêng liêng giáng cơ phong thưởng,
giống với phẩm vị Thập Nhị Thời quân, không do cầu thăng hay công cử như
chức sắc Cửu Trùng Đài.
2) Cơ quan Phước thiện: Có nhiệm vụ của làm những việc phước và những
việc thiện để giúp những người đang bị đau khổ trong cuộc sống (CT :28).
Chức sắc trong cơ quan này được lập thành 12 cấp, gọi là Thập nhị đẳng
cấp thiêng liêng, bao gồm từ dưới lên như Minh đức, Tân dân, Thính thiện, Hành
thiện, Giáo thiện, Chí thiện, Đạo nhơn, Chơn nhơn, Hiền nhơn, Thánh nhơn, Tiên
tử, Phật tử (CT:29). Trong đó phẩm vị từ Minh đức đến Chơn nhơn sẽ lo về phần
phước thiện, cứu khổ, ban vui cho chúng sanh. Các phẩm vị này dựa theo công
nghiệp hành đạo mà xét phong. Từ phẩm vị Hiền nhơn trở lên sẽ ở cơ quan Hiệp
Thiên Đài để bảo tồn chơn pháp (CT:30).
Trong Hội thánh Phước thiện cũng có Cửu viện như Cửu viện của Hội
thánh Cửu Trùng Đài. Cửu viện của Phước thiện gồm Hòa viện, Lại viện, Lễ viện,
Học viện, Y viện, Nông viện, Hộ viện, Lương viện, Công viện. Dưới Cửu viện còn
có các tổ chức nhỏ như Trấn đạo, Châu đạo, Tộc đạo. Ở Cơ quan Phước thiện
cũng chia lưỡng phái, gồm Nam phái và Nữ phái như Cửu Trùng Đài và có sơ đồ
tổ chức như sau:
176
Sơ đồ 17: Sơ đồ tổ chức của cơ quan Phước thiện
(Sơ đồ: Huỳnh Ngọc Thu)
Khi xét đối phẩm với cơ quan Cửu Trùng Đài, cho thấy như sau:
Bảng 7: Đối phẩm với bậc tu giữa Cửu Trùng Đài và Phước thiện
STT Phẩm vị của
Cửu Trùng Đài
Phẩm vị của
Phƣớc thiện
Bậc tu
(đối Phẩm)
1 Giáo tông Phật tử Thiên tiên
Thống Quản cơ quan Phƣớc thiện
(Thời quân chi Đạo)
Nữ phái
Chơn nhơn
(chưởng quản Nữ phái)
Chơn nhơn
(chưởng quản Nam phái)
Phó Chưởng quản 1
Cửu viện PT Nữ phái Cửu viện PT Nam phái
Đạo nhơn
(Trấn đạo)
Chí thiện
(Trấn châu)
Giáo thiện
(Trấn châu)
Hành thiện
(Bàn Cai quản)
Nam phái
Phó Chưởng quản 2 Phó Chưởng quản 1 Phó Chưởng quản 2
Thính thiện, Tân dân, Minh Đức
(Chủ sở và Đạo sở)
Đạo nhơn
(Trấn đạo)
Chí thiện
(Trấn châu)
Giáo thiện
(Trấn châu)
Hành thiện
(Bàn Cai quản)
Thính thiện, Tân dân, Minh Đức
(Chủ sở và Đạo sở)
177
2 Chưởng pháp Nhơn tiên
3 Đầu sư Tiên tử Địa tiên
4 Phối sư Thánh nhơn, Hiền nhơn Thiên thánh
5 Giáo sư Chơn nhơn, Đạo nhơn Nhơn thánh
6 Giáo hữu Chí thiện Địa thánh
7 Lễ sanh Giáo thiện Thiên thần
8 Chánh-Phó trị sự Hành thiện, Thính thiện Nhơn thần
9 Đạo hữu Tân dân, Minh đức Địa thần
Điều này chứng tỏ, Cơ quan Phước thiện chính là "Cửu Trùng Đài" thứ hai
của Cao Đài Tây Ninh dưới quyền quản lý của Hiệp Thiên Đài. Thông qua Cơ
quan Phước thiện, Hiệp Thiên Đài đã mở rộng quyền quản lý của mình trong đạo.
3) Bộ Pháp chánh (CT:31): Đây là cơ quan trông coi pháp luật về việc
hành chánh của đạo. Bộ Pháp chánh có quyền lập các Tòa đạo từ Trung ương đến
địa phương và bổ nhiệm chức sắc Hiệp Thiên Đài dưới quyền Thập Nhị Thời quân
đi hành đạo về pháp chánh ở các địa phương [71]. Chức vị trong cơ quan này
được phân định từ thấp đến cao như Luật sự, Sĩ tải, Truyền trạng, Thừa sử, Giám
đạo, Cải trạng, Chưởng ấn và Tiếp Dẫn Đạo nhơn (CT :32).
Các vị này thuộc cơ quan Hiệp Thiên Đài và chịu sự quản lý trực tiếp của
Chi pháp, có nhiệm vụ giám sát, kiểm tra nội bộ của đạo. Công phu tu hành của
những vị này được đối phẩm như sau:
Bảng 8: Đối phẩm với bậc tu giữa Cửu Trùng Đài và Ban Pháp Chánh
STT Phẩm vị của
Cửu Trùng Đài
Phẩm vị của
Ban Pháp chánh
Bậc tu
(đối Phẩm)
1 Giáo tông Thiên tiên
2 Chưởng pháp Nhơn tiên
3 Đầu sư Địa tiên
4 Phối sư Tiến Dẫn Đạo nhơn,
Chưởng ấn
Thiên thánh
5 Giáo sư Cải trạng, Giám đạo Nhơn thánh
6 Giáo hữu Thừa sử, Truyền trạng Địa thánh
178
7 Lễ sanh Sĩ tải Thiên thần
8 Chánh-Phó trị sự Luật sự Nhơn thần
9 Đạo hữu Địa thần
4) Ban Thế đạo (CT:33): được lập ra nhằm tạo điều kiện cho những người
tài giỏi chưa vào cửa đạo có nơi lập công hành đạo. Đây là nơi để người đời có
đạo tâm tham gia sinh hoạt đạo. Ban này gồm có 4 phẩm là Hiền tài, Quốc sĩ, Đại
phu và Phu tử (CT:34).
Các phẩm vị này đều có sự tham gia của nam và nữ.
Ban Thế đạo có văn phòng riêng, dưới sự chỉ đạo của Thượng sanh. Đứng
đầu văn phòng là Tổng quản nhiệm. Dưới Tổng quản có 2 phó và 1 thư ký và 8
người làm trưởng các ban như Giáo lý, Văn hóa, Xã hội, Thanh tra, Quốc chính,
Kế hoạch – Tổ chức, Kinh tài.
Ngoài các tổ chức nêu trên, chi phái Tây Ninh còn một số tổ chức khác như
Đoàn hướng đạo Cao Đài nhằm qui tụ các thanh niên trong đạo để sinh hoạt và
phát triển đạo trong giới trẻ; Đại đạo thanh niên hội qui tụ các thanh niên trong
đạo để cùng sinh hoạt, giúp đỡ lẫn nhau trong việc đạo và đời.
Chi phái Ban Chỉnh Đạo
Ban Chỉnh Đạo được thành lập do hai chức sắc cao cấp của Tây Ninh là
ông Nguyễn Ngọc Tương và Lê Bá Trang, nên cơ cấu tổ chức của Ban Chỉnh Đạo
về cơ bản không khác với Tây Ninh. Chức sắc của Ban Chỉnh Đạo vẫn theo đúng
với Tân Luật và Pháp Chánh Truyền để tổ chức Hội thánh và các cơ sở đạo. Ban
Chỉnh Đạo vẫn có Tam Đài, Lưỡng phái, Ba hội (Thượng hội, Hội thánh và Hội
Nhơn sanh), nhưng khác ở một số điểm sau:
- Luật công cử phẩm vị: do lệnh bế cơ và năm 1927, nên khi lập Ban Chỉnh
Đạo, ông Nguyễn Ngọc Tương đã không sử dụng cơ bút, do đó phẩm vị của các
chức sắc, chức việc trong Ban Chỉnh Đạo đều dựa vào luật công cử mà hình
thành, không có việc phong phẩm bằng quyền thiêng liêng như ở Tây Ninh.
- Cơ quan chuyên môn: không có danh từ Cửu viện nhưng có các ban với
các chức năng giống Cửu viện, như:
179
+ Ban Hành chánh – Lễ nghi – Hòa giải (Nội – Lễ – Hòa), đứng đầu là
Ngọc Chánh Phối sư.
+ Ban Giao tế – Giáo huấn – Phước thiện (Ngoại – Học – Phước), đứng
đầu là Thượng Chánh Phối sư.
+ Ban Kiến thiết – Tài lương (Hộ – Công – Nông), đứng đầu là Thái Chánh
Phối sư.
Đối với nữ phái có Cơ quan hành đạo nữ phái với chức năng là Nội – Lễ –
Học – Hộ do Chánh Phối sư nữ đứng đầu.
Ban Chỉnh Đạo không hề có các cơ quan cũng như nhân sự của các tổ chức
như Cơ quan Phước thiện, Bộ Pháp chánh, Ban thế đạo…
Chi phái Tiên Thiên
Giống với Ban Chỉnh Đạo, chức sắc lập đạo của Tiên Thiên cũng xuất phát
từ Tòa thánh Tây Ninh, nên cơ cấu tổ chức về cơ bản vẫn mang một mô hình
chung của Cao Đài là Tam đài, Lưỡng phái, Ba hội. Đặc biệt là giống một số
phẩm vị trong Thập nhị Bảo quân và trong Bộ Pháp chánh. Tuy nhiên, về chi tiết
vẫn có một số điểm khác biệt như:
- Hệ thống chức sắc: xuất hiện một số tên gọi khác như Thất hiền, Thất
thánh vào năm 1939.
- Cấp hành chính: được chia thành bốn cấp với các tên gọi như Trấn đạo,
Tỉnh đạo, Quận đạo, Xã đạo; còn ở Tây Ninh thì dùng các từ Trấn, Châu, Tộc,
Hương…
Chi phái Minh Chơn Lý
Minh Chơn Lý sau khi tách khỏi Tòa thánh Tây Ninh, cơ cấu tổ chức gần
như thay đổi hoàn toàn.
- Về cách tổ chức chung: Không có Bát Quái Đài, Cửu Trùng Đài và Hiệp
Thiên Đài; trong đó Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài lại trở thành phẩm vị.
Minh Chơn lý không thờ Thiên nhãn mà thờ Tâm nhãn. Dưới tâm nhãn chỉ có 4
bài vị, gọi là Tứ thánh gồm Phật Thích Ca, Lão Tử, Khổng Tử, Jêsu; dưới Tứ
thánh là Ngai của 15 ngọn đèn (thập ngũ linh đăng). Thập ngũ linh đăng có hai
ban:
180
+ Ban Thập ngũ linh đăng Tòa thánh, gồm 14 người giữ phẩm vị và một
ngôi vô vi (thuộc phần thiêng liêng) như 1 ngôi vị độc nhất (vô vi), 2 vị Quyền
Chưởng quản (Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài), 3 vị Đầu sư, 4 vị Tứ Bửu, 5 vị
Ngũ hành.
+ Ban Quyền Thập ngũ linh đăng ở Tiểu Tòa thánh gồm 12 vị, trong đó 3
vị Quyền Đầu sư, 4 vị Quyền Tứ Bửu, 5 vị Quyền Ngũ hành (CT:35).
Riêng nữ phái có 5 vị Dầu sư lo công việc liên quan đến hành đạo của nữ.
- Cơ cấu hành chính có ba ban. Cao nhất là Hội đồng Chưởng quản – cấp
Tòa thánh (CT:36), kế tiếp là Ban Cai quản Tiểu Tòa thánh (CT:37) và cuối cùng
là Ban Cai quản và Nghi lễ ở Thánh thất (CT:38).
Các chi phái khác
- Chi phái Chiếu Minh: Chiếu Minh được chia thành hai bộ phận là Chiếu
Minh Tam Thanh vô vi và Chiếu Minh Long Châu.
+ Chiếu Minh Tam Thanh vô vi có tính chất tu hành khép kín nên không tổ
chức Hội thánh như các chi phái khác. Cơ cấu tổ chức của nhánh này gồm hai bộ
phận; cao nhất là Tổ đình, dưới Tổ đình là các Đàn tu. Trong tổ đình có Ban Quản
trị tổ đình, gồm Trưởng ban, Phó Trưởng ban, Thư ký, Thủ quỹ. Ở các Đàn tu
không có chức vụ rõ ràng. Không có hệ thống chức sắc, chức việc. Tín đồ nhập
môn là đồng đạo, gọi nhau anh em (người nhập môn trước là anh). Không chủ
trương phổ độ chơn truyền.
+ Chiếu Minh Long Châu theo mô hình tổ chức của Tòa thánh Tây Ninh
nhằm mục đích phổ độ chơn truyền nên cũng lập Tam đài, Lưỡng phái, Ba hội.
Không có chức Giáo tông và Hộ pháp mà thay vào đó chức vị Chưởng quản như
Chưởng quản Cửu Trùng Đài và Chưởng quản Hiệp Thiên Đài. Hệ thống chức sắc
tương đối giống các chi phái khác.
- Các chi phái còn lại ở Nam Bộ như Minh Chơn Đạo, Bạch Y Liên Đoàn
Chơn Lý có cơ cấu nhân sự và tổ chức giống với Chiếu Minh Long Châu; cũng
theo hình thức Tam đài, Lưỡng phái, Ba hội; cũng không có phẩm Giáo tông và
Hộ pháp mà thay vào đó Chưởng quản Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài; không
có các tổ chức như Phước thiện, Bộ Pháp chánh, Ban Thế đạo…
181
Như vậy, cơ cấu tổ chức của đạo Cao Đài về nguyên tắc chung ở các chi
phái giống nhau, nhưng để thể hiện tính độc lập của người sáng lập chi phái nên
đã có sự thêm, bớt một số tổ chức, phẩm vị và điều đó đã tạo nên sự đa dạng trong
cơ cấu tổ chức của đạo Cao Đài ở Nam Bộ.
* Các phong trào thống nhất Cao Đài
Sau khi thành lập vào năm 1926 và hoạt động được thời gian ngắn thì nội
bộ chức sắc đạo của Cao Đài bắt đầu mâu thuẫn, dẫn đến chia rẽ. Ngay khi bắt đầu
chia rẽ liền xuất hiện các phong trào kêu gọi thống nhất Cao Đài.
Người khởi đầu cho phong trào hợp nhất Cao Đài là ông Trần Văn Quế
(chức sắc Cao Đài Tiên Thiên) đứng ra vận động thống nhất các chi phái vào năm
1936 tại Thánh thất Cầu Kho. Ông Trần Văn Quế cùng các chức sắc Cầu Kho như
Vương Quan Kỳ, Đoàn Văn Bản đã vận động các chi phái hợp nhất và được một
số chi phái như Minh Chơn Lý, Minh Chơn Đạo, Chơn Lý Tầm Nguyên (nhánh
của Minh Chơn Lý) hưởng ứng. Để làm cơ sở cho việc thống nhất đạo Cao Đài,
ông Trần Văn Quế cùng các chức sắc lập nên tổ chức có tên Cao Đài Đại Đạo
Liên Đoàn do Đốc phủ Nguyễn Văn Kiên (Cao Đài Minh Chơn Lý) làm Hội
trưởng, ông Cao Triều Phát (Cao Đài Minh Chơn Đạo) và ông Đoàn Văn Bản
(Cao Đài Cầu Kho Tam Quan) làm Phó Hội trưởng. Trụ sở đặc tại Thánh thất Cầu
Kho. Nhưng do thiếu nhân lực nên tổ chức này hoạt động không thành công, chỉ
thu hút được một vài Thánh thất ở vùng Sài Gòn tham gia. Năm 1937 ông Trần
Văn Quế cùng với ông Nguyễn Phan Long, Đoàn Văn Bản chấn chỉnh lại tổ chức
này và đổi tên thành Liên Hoà Tổng Hội. Tổ chức do ông Nguyễn Phan Long làm
Hội trưởng, ông Đoàn Văn Bản và ông Trần Quang Nghiêm làm Phó Hội trưởng,
ông Trần Văn Quế làm Tổng Thư ký.
Từ năm 1937 đến năm 1940, lãnh đạo của Liên Hòa Tổng Hội đã tổ chức
12 kỳ đại hội, gọi là Thập nhị long vân đại hội ở các nơi như Sài Gòn, Cà Mau,
Bạc Liêu, Bến Tre… Trong các kỳ đại hội có sự tham gia đông đảo chức sắc lớn ở
các chi phái. Đặc biệt trong kỳ đại hội thứ tư được tổ chức tại Thánh tịnh Ngọc
Minh Đài ở Khánh Hội (Sài Gòn), chức sắc tham dự đã phân công những người có
uy tín như Nguyễn Phan Long, Trần Văn Quế, Vương Quan Kỳ… làm sứ giả đi
182
hoà giải những bất đồng giữa các chức sắc đứng đầu các chi phái. Nhưng, sự việc
cũng không thành vì do quan điểm khác nhau giữa các ông Phạm Công Tắc,
Nguyễn Văn Ca, Nguyễn Ngọc Tương… Đến năm 1940, tổ chức này không còn
hoạt động.
Sau năm 1945, ông Trần Quang Vinh, người lãnh đạo tạm thời của Cao Đài
Tây Ninh, có xu hướng thân Pháp, đã dùng quân đội trấn áp một số chi phái khác.
Điều này tạo ra sự bất bình của chức sắc và tín đồ trong toàn thể đạo Cao Đài, nên
ngày 24 tháng 6 năm 1945, ông Cao Triều Phát chủ trì Hội nghị của những người
đứng đầu các chi phái Cao Đài tại Tam giáo điện Minh Tân ở Sài Gòn (221, Quai
de la Marne, nay là Bến Vân Đồn, Quận 4) để thống nhất tôn chỉ các chi phái chỉ
hoạt động thuần túy về tôn giáo và đạo đức; không được lạm dụng danh xưng Cao
Đài cho các tổ chức chính trị và quân sự; và thành lập “Cao Đài hiệp nhất 11
phái” (không có Cao Đài Tây Ninh). Hội nghị đã bầu ông Cao Triều Phát làm Chủ
tịch Hội Cao Đài Hiệp Nhất. Năm 1947 tại Đồng Tháp, ông Cao Triều Phát triệu
tập chức sắc để thành lập Hội thánh Duy Nhất nhằm thống nhất đạo Cao Đài ở
Nam Bộ. Hội thánh này có đại diện chức sắc của 12 chi phái và hoạt động theo
đúng Pháp Chánh Truyền và Tân Luật. Hội thánh do hai ông Cao Triều Phát
(Chưởng quản Cửu Trùng Đài) và Phạm Hồng Tiên (Chưởng quản Hiệp Thiên
Đài) cùng 15 chức sắc đại diện cho 12 chi phái đứng ra lãnh đạo.
Hội thánh Duy Nhất đã hoạt động thành công cả hai phương diện.
- Về mặt cứu nước: Hội thánh đã vận động tín đồ, chức sắc các chi phái tích
cực tham gia các hoạt động yêu nước.
- Về mặt tôn giáo: Hội thánh đã triển khai các chương trình giáo lý hạnh
đường, sưu tập Thánh giáo của Cao Đài Tây Ninh và các chi phái khác để in ấn
phát hành, nghiên cứu ban hành nghi tiết cúng đàn và các lễ nghi khác trên cơ sở
tuân theo Pháp Chánh Truyền và Tân Luật nhưng có bổ sung nghi lễ của các chi
phái khác để dung hòa [179:131].
Năm 1954, ông Cao Triều Phát cùng một số chức sắc như Đầu sư Nguyễn
Hiền Ngô, Phối sư Nguyễn Văn Khoan, Giáo sư Nguyễn Văn Khảm… tập kết ra
Bắc, nên Hội thánh Duy Nhất cũng được chuyển ra hoạt động tại Thánh thất Thủ
183
đô ở Hà Nội. Ngày 24 tháng 1 năm 1955, Hội thánh Duy Nhất được tổ chức ra
mắt tại Thánh thất Thủ đô. Trong lễ ra mắt này, ông Cao Triều Phát được bầu làm
Giáo tông của Hội thánh.
Ở miền Nam, Hội thánh Duy Nhất bị giải thể và được thay thế bằng các tổ
chức Liên giao như Liên giao I được thành lập năm 1955 và Liên giao II được
thành lập năm 1972. Tổ chức Liên giao ra đời cũng nhằm mục đích hợp nhất các
chi phái của Cao Đài. Đến năm 1975, tổ chức Liên giao giải tán.
Bên cạnh việc tồn tại Hội thánh Duy Nhất ở miền Tây Nam Bộ từ năm
1947 đến năm 1954 của nhóm ông Cao Triều Phát, ở khu vực Đông Nam Bộ cũng
xuất hiện một tổ chức với tên gọi Cao Đài Duy Nhất.
Tháng 5 năm 1951, ông Nguyễn Bửu Tài, chức sắc của Cao Đài Tiên
Thiên, cùng chức sắc của Liên Hoà Tổng Hội trước đây như Phan Khắc Sửu, Phan
Trường Mạnh, Trần Văn Quế… lập nên tổ chức Cao Đài Duy Nhất tại Sài Gòn và
lấy Tam giáo điện Minh Tân làm trụ sở. Tổ chức này ra đời nhằm 3 mục đích:
- Dùng cơ bút tiếp điển các đấng thiêng liêng để được dạy đạo.
- Làm trung gian liên lạc với các chi phái để bàn việc thống nhất đạo Cao
Đài.
- Lấy trung dung phổ hóa nhơn sanh, khuyến khích tín đồ thực thi nhân đạo
[179:133].
Do lực lượng của tổ chức này không đủ nên khi thực hiện không đem lại
hiệu quả như mong đợi. Đến năm 1953, tổ chức này đổi tên thành Cao Đài Thống
Nhất với sự tham gia của một số nhân vật có tên tuổi trong đạo như Nguyễn Bửu
Tài (Cao Đài Tiên Thiên), Tô Bửu Tài (Cao Đài Bạch Y), Nguyễn Văn Tự (Cao
Đài Chiếu Minh Long Châu), Nguyễn Văn Ca (Cao Đài Minh Chơn Lý), Nguyễn
Hữu Phước (Cao Đài Cầu Kho Tam Quan), Lương Vĩnh Thuật (Truyền giáo Cao
Đài), cùng với nhóm Liên Hoà Tổng Hội như Nguyễn Phan Long, Trần Văn Quế,
Phan Khắc Sửu… đã làm cho hoạt động của tổ chức này trở nên sôi nổi hơn. Tổ
chức này đã lập ra Ủy ban liên lạc chi phái để thiết lập mối liên hệ với các chi
phái khác trong đạo và lập nên Tổ chức Thanh niên đạo đức nhằm hướng đạo cho
thanh niên tín đồ. Những cố gắng của tổ chức này lúc đầu đem lại hiệu quả, nhưng
184
càng về sau kết quả đạt được không nhiều. Năm 1956, tổ chức này đổi tên thành
Ban vận động Cao Đài thống nhất, nhưng cũng không đạt hiệu quả, đến năm 1962
đổi thành Giáo hội Cao Đài thống nhất, sau đó đổi iếp thành Ban phổ thông giáo
lý và chuyển hướng hoạt động nhằm thống nhất Cao Đài bằng con đường phổ
truyền giáo lý. Tháng 4 năm 1968, tổ chức này đổi tên thành Cơ quan phổ thông
giáo lý. Đến nay, tổ chức này vẫn còn hoạt động, trụ sở đặt tại số 171B đường
Cống Quỳnh, phường Nguyễn Cư Trinh, quận I, TP. Hồ Chí Minh.
Như vậy, song song với việc hoạt độc lập của các chi phái, đạo Cao Đài ở
Nam Bộ còn có các phong trào, các tổ chức nhằm kêu gọi thống nhất các chi phái.
Tuy không đạt kết quả như mong muốn, nhưng việc xuất hiện các phong trào này
cũng đã góp phần làm phong phú thêm cho tổ chức xã hội tôn giáo Cao Đài ở
Nam Bộ.
* Vấn đề báo chí Cao Đài
Ngay sau khi thành lập, chức sắc Cao Đài đã chú trọng đến việc truyền bá
tôn giáo của mình. Một trong những hình thức quan trọng để truyền bá tôn giáo
mà đạo Cao Đài sử dụng lúc bấy giờ là báo chí. Chúng tôi đã thống kê (mặc dù
chưa đầy đủ) về hoạt động báo chí của đạo Cao Đài ở Nam Bộ từ năm 1928 đến
nay như sau:
Năm 1928, thông tin về đạo Cao Đài đã được đăng trên tờ L’Action
Indochinoise. Đây là tờ báo tiếng Pháp do Nguyễn Thế Phương làm Giám đốc và
đặt tòa soạn tại 106 Rue des Marins (nay là Trần Hưng Đạo B). Tờ báo này ra đời
đầu năm 1928 đến cuối năm 1928 bị đình bản vì lý do chính trị.
Năm 1930, ông Nguyễn Văn Ca sáng lập tờ Revue Caodaiste cũng bằng
tiếng Pháp. Tờ báo do Nguyễn Trung Hậu làm chủ bút và tòa soạn được đặt tại
Thánh thất Cầu Kho. Nội dung của tờ báo tuyên truyền cổ động cho đạo Cao Đài,
đăng giáo lý và các bài Thánh giáo của đạo. Tờ báo này hoạt động được 23 số
trong khoảng thời gian từ tháng 7 năm 1930 đến đầu năm 1933 thì bị thực dân
Pháp đình bản.
Năm 1935, ông Nguyễn Văn Ca lại sáng lập ra tờ Nguyện san Đuốc Chơn
Lý. Tòa soạn đặt tại Tân An, sau chuyển về Mỹ Tho. Nội dung của tờ Nguyệt san
185
này đăng toàn bộ tư tưởng của Minh Chơn Lý, các bài Thánh giáo của Minh Chơn
Lý và giải thích lý do ra đời của Cao Đài Minh Chơn Lý. Tờ Nguyệt san này phát
hành được 44 số, từ tháng 7 năm 1935 đến đầu năm 1941 thì đình bản.
Năm 1936, ông Lê Thế Vĩnh (chức sắc Cao Đài Tây Ninh) cho ra đời tờ
Bán Nguyệt san của Cao Đài với tên Đại đạo. Tờ Bán Nguyệt san này có tòa soạn
tại số 156 Espagne (nay là Lê Thánh Tôn) và phát hành được 10 số, từ tháng 6
năm 1936 đến tháng 10 năm 1937. Năm 1945, tờ Đại đạo được ông Nguyễn Văn
Hợi khôi phục lại, nhưng chỉ hoạt động được một số, sau đó bị đình bản. Năm
1953, ông Trần Quang Vinh khôi phục lại tờ Nguyệt san này và phát hành được 9
số đến tháng 8 năm 1954 thì đình bản. Năm 1963, Hội thánh Tây Ninh tiếp tục
khôi phục lại tờ Đại đạo và chuyển từ Bán Nguyệt san thành Nguyệt san, phát
hành được 13 số. Đến tháng 9 năm 1965, tờ Nguyệt san này bị đình bản. Nội dung
của tờ Nguyệt san này là đăng tư tưởng của đạo Cao Đài, chủ yếu của Tây Ninh
và có những bài đã kích sự phân hóa và thành lập các chi phái mới trong đạo Cao
Đài.
Năm 1938, tổ chức Liên Hòa Tổng Hội do ông Nguyễn Văn Tường chủ
xướng cũng cho ra đời tờ báo Đại đồng. Tờ báo này xuất bản không định kỳ và
tồn tại được 20 số từ tháng 10 năm 1938 đến tháng 1 năm 1941. Nội dung của tờ
Đại đồng tập trung kêu gọi sự thống của các chi phái trong Cao Đài.
Cũng trong năm 1938, chi phái Tiên Thiên do ông Lê Kim Tỵ khởi xướng
đã cho ra đời tờ Tiên Thiên tuyên bố. Tòa soạn đặt tại Gia Định và phát hành được
19 số từ tháng 8 năm 1938 đến tháng 5 năm 1940. Nội dung đăng tải những tư
tưởng và phương châm hành đạo của chi phái Tiên Thiên.
Năm 1947, ông Nguyễn Ngọc Thơ (chức sắc của Tây Ninh) sáng lập ra tờ
Nguyệt san có tên Cao Đài giáo lý. Tòa soạn đặt tại số 62 Huỳnh Quang Tiên, Sài
Gòn và phát hành được 11 số, từ tháng 2 năm 1947 đến tháng 5 năm 1948.
Năm 1948, tổ chức Cao Đài cứu quốc mười hai phái hợp nhất cho ra đời tờ
báo có tên Đường sáng do Cao Hải Để làm chủ nhiệm. Tờ báo có nội dung kêu
gọi tín đồ Cao Đài yêu nước đứng lên cứu nước. Tờ báo chỉ phát hành được 3 số,
đến tháng 9 năm 1948 thì bị đình bản.
186
Năm 1953, ông Trần Nguyên Lượng cho ra đời tờ Nguyệt san Đạo đời tại
số 122-126 Général Marchand (nay là Nguyễn Cư Trinh). Tờ báo phát hành được
7 số và bị đình bản vào tháng 4 năm 1954.
Năm 1954, Hội thánh Truyền giáo Cao Đài Trung Việt phát hành Nguyệt
san Nhân sinh do ông Trần Luyện phụ trách. Tòa soạn đặt tại số 130 Général
Marchand (nay là Nguyễn Cư Trinh) và phát hành được 9 số, đến tháng 5 năm
1955 bị đình bản. Năm 1964, ông Trần Văn Quế khôi phục lại tờ Nguyệt san này
và đặt tòa soạn tại số 380/18 Công Lý (nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa). Tờ Nguyệt
san này phát hành được 19 số, bị đình bản vào tháng 12 năm 1964.
Năm 1965, Cơ Quan phổ thông giáo lý phát hành Nguyệt san Cao Đài giáo
lý. Tòa soạn đặt tại số 165E Cống Quỳnh. Nội dung đăng tải giáo lý Cao Đài của
các chi phái. Tờ Nguyệt san này phát hành được 95 số, đến tháng 3 năm 1975 thì
đình bản.
Hiện nay, các chi phái của đạo Cao Đài tuy không chính thức phát hành
những tờ báo hoặc nguyệt san hay bán nguyệt san cho riêng mình, nhưng vẫn có
các dạng “kỷ yếu” hoặc “thông báo” mang tính sinh hoạt đạo trong cộng đồng để
tuyên truyền tư tưởng tôn giáo và chia sẽ kinh nghiệm hành đạo lẫn nhau trong tín
đồ. Các dạng “kỷ yếu” hoặc “thông báo” này không phát hành thường xuyên, chỉ
xuất hiện vào các dịp lễ lớn, hoặc nhân dịp đầu năm và dưới dạng nội bộ như tờ
Sống đạo của Hội thánh Truyền giáo Cao Đài được phát hành vào dịp xuân là một
ví dụ.
Như vậy, sự ra đời và hoạt động của các tờ báo trong đạo Cao Đài trước
năm 1975 và những dạng “kỷ yếu”, “thông báo” của các chi phái Cao Đài hiện
nay đã góp phần làm phong phú thêm cho hoạt động báo chí của khu vực Nam Bộ,
và vô hình chung cũng góp phần làm phong phú thêm cho văn hóa của khu vực
này.
3.2. ĐẠO CAO ĐÀI ẢNH HƢỞNG SẮC THÁI CỦA VĂN HÓA NAM BỘ
Là một trong các tôn giáo bản địa ra đời, phát triển tại Nam Bộ, nhưng nếu
các tôn giáo khác như Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Phật Giáo Hòa
Hảo, tuy vẫn mang dấu ấn văn hóa Nam Bộ nhưng không kết thành hệ thống, thì
187
đạo Cao Đài lại thể hiện cả hệ thống những sắc thái đậm nét của văn hóa Nam Bộ
như tính hỗn dung, thoáng, mở trong văn hóa và luôn tôn trọng các giá trị văn
hóa truyền thống của dân tộc. Nếu chưa hiểu hết văn hóa Nam Bộ, người ta sẽ
khó nhận ra những yếu tố văn hóa Cao Đài ảnh hưởng từ văn hóa Nam Bộ mà sẽ
chỉ thấy Cao Đài là một tôn giáo bao quát sự hỗn dung văn hóa Đông Tây chung
chung. Chính sắc thái của văn hóa Nam Bộ đã ảnh hưởng đến đạo Cao Đài, tạo
thành nét đặc trưng của tôn giáo này. Chúng tôi muốn phân tích những sắc thái ấy
ảnh hưởng đến tôn giáo Cao Đài qua các yếu tố sau:
3.2.1. Sự hỗn dung văn hóa
Hỗn dung là thuật ngữ ghép được dùng giữa hai từ hỗn hợp và dung hòa.
Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, Hỗn hợp có nghĩa là hòa lẫn,
trộn lẫn vào nhau và Dung hòa có nghĩa là làm cho có sự nhân nhượng lẫn nhau
để đạt được những điểm chung, không còn đối lập nhau nữa [177:266-462]. Như
vậy, hỗn dung văn hóa có thể hiểu là hòa lẫn, trộn lẫn các yếu tố văn hóa với
nhau để hình thành nên điểm chung, không đối lập nhau. Nếu hiểu như vậy thì
văn hóa Nam Bộ chính là văn hóa hỗn dung, vì như đã phân tích, văn hóa Nam Bộ
được hình thành bởi các dòng giao lưu văn hóa giữa các tộc người trong cùng khu
vực. Hỗn dung trong văn hóa Nam Bộ là kết quả của quá trình giao lưu tiếp biến
văn hóa của các tộc người ở đây. Chính sự hỗn dung này đã ảnh hưởng sâu sắc
đến đời sống tôn giáo của tín đồ đạo Cao Đài qua các yếu tố:
* Hỗn dung văn hóa về đức tin trong đời sống tín đồ
Như đã phân tích ở chương 2, tín đồ đạo Cao Đài tin tưởng vào các thế lực
siêu nhiên trong tôn giáo của họ. Họ tin Ngọc Hoàng Thượng đế và Diêu Trì Kim
Mẫu đã tạo ra và làm chủ Càn khôn thế giới, chi phối toàn bộ thế giới. Họ tin có
sự khởi nguồn của vũ trụ, của con người và của vạn vật; tin có sự luân hồi, quả
báo; tin có sự giải thoát, sự trừng phạt kẻ xấu, cái ác và sự đọa đày…
Qua phân tích đức tin này, chúng tôi nhận thấy nó gần như không xuất phát
từ sự sáng tạo của tín đồ Cao Đài mà chủ yếu dựa vào sự dung hòa từ các tôn giáo
trước. Đạo Minh sư xuất hiện ở Nam Bộ như một hội kín chính trị, kinh tế được
nấp dưới yếu tố tôn giáo. Hoạt động của đạo Minh sư ở Nam Bộ trở nên mạnh mẽ
188
vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, gắn liền với sự khủng hoảng chính trị ở Nam
Bộ lúc bấy giờ. Các cuộc khởi nghĩa chống Pháp, chống chính quyền phong kiến
bị đàn áp dã man. Thời kỳ này, người dân đối đầu với dịch bệnh, thiên tai, đói
khổ, rơi vào cảnh cùng cực. Trong tình trạng xã hội nhiễu nhương, con người mất
niềm tin vào cuộc sống đương thời nên việc cầu cơ tiếp xúc các đấng thiêng liêng
trong đạo Minh sư diễn ra thường xuyên. Nhiều người dân dựa vào cơ bút để biết
được thế sự, dự đoán tương lai và đặc biệt là cầu thuốc chữa bệnh. Không chỉ có
thường dân, nhiều trí thức, nhân sĩ yêu nước, quan lại phong kiến cũng quan tâm
đến thuật cầu cơ. Một trong những căn nguyên đạo Cao Đài ra đời đã bắt nguồn từ
thuật cầu cơ ấy.
Ông Ngô Văn Chiêu, người đầu tiên khởi xướng đạo Cao Đài, rất tin vào
thuật cầu cơ của đạo Minh sư. Ông không chỉ tham gia cầu cơ chung mà còn lập
ra các nhóm cầu cơ cho riêng mình ở Tân An, Hà Tiên và Phú Quốc. Thông qua
các buổi cầu cơ, ông dần dần thấm nhuần tư tưởng của đạo Minh sư và hình thành
nên đức tin về sự khởi nguồn của vũ trụ, tin tưởng vai trò tạo dựng và làm chủ
Càn khôn của Ngọc Hoàng Thượng đế. Ông tuyệt đối tin tưởng vào Ngọc Hoàng
Thượng đế và thờ phụng Người với vị trí cao nhất là đấng giáo chủ.
Nam Bộ vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX không chỉ có đạo Minh sư, mà
còn có Phật giáo, Công giáo, Đạo giáo. Người ta cho rằng các vị Thần, Thánh,
Tiên, Phật trong Đạo giáo, Phật giáo và Công giáo cũng thường xuyên giáng đàn
trong các buổi cầu cơ. Mỗi khi giáng đàn, các đấng thiêng liêng họ luôn tự xưng
mình thừa lệnh Thượng đế để thi hành nhiệm vụ giáo đạo, cứu rỗi chúng sanh, xây
dựng nền tôn giáo mới ở phương Nam. Từ những sự kiện đó, tín đồ Cao Đài dần
hình thành cho mình một hệ thống thần linh có thứ bậc ở cõi thiêng liêng, trong đó
đứng đầu là Ngọc Hoàng Thượng đế.
Việc tiếp thu tư tưởng của đạo Minh sư thấm nhuần cùng với hệ thống giáo
lý của Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo và Công giáo ở Nam Bộ, tín đồ đạo Cao Đài
đã tạo ra một thế giới gồm ba cõi; Thiên đường, Trần gian và Địa ngục. Ba cõi
này đã được nhắc đến trong giáo lý của các tôn giáo trước. Trong đó, Địa ngục
theo cách lý giải trong Kinh sám hối của đạo Cao Đài hoàn toàn lấy từ khuôn mẫu
189
Địa ngục của đạo Minh sư và Phật giáo, cũng gồm Thập điện diêm vương, cũng
phân định các tội ác sẽ bị hành xử tại các Điện, điều này rất quen thuộc đối với
tâm thức người dân Nam Bộ. Mặc dù về sau, đạo Cao Đài đính chính về Địa ngục
như “đóng cửa Địa ngục” để tạo nên sự mới mẽ, nhưng vẫn không thoát khỏi
khuôn mẫu có trước, vẫn đề cập đến sự đọa đày, trừng phạt ở một thế giới khác.
Trong các nghi lễ tôn giáo của đạo Cao Đài mà chúng tôi đã phân tích vẫn tồn tại
các nghi thức đề cập đến sự hiện hữu của Địa ngục như nghi thức đánh chuông ở
Bạch Ngọc kinh với những câu kệ nhắc đến các từ Phong đô (Địa ngục), Địa Tạng
khai môn (Địa Tạng mở cửa Địa ngục)… Đây hoàn toàn là tư tưởng của Phật giáo
trong tâm thức người dân Nam Bộ về Địa ngục mà đạo Cao Đài đã tiếp thu.
Thiên đường trong đạo Cao Đài cũng là sự tiếp nhận từ tư tưởng của các
tôn giáo trước, trong đó rõ nét nhất là tiếp thu từ giáo lý Công giáo. Thiên đường
của Công giáo là miền cực lạc, có cổng Thiên đường, có các Thiên thần… là nơi
hưởng phước của con chiên ngoan đạo… Tín đồ đạo Cao Đài tạo ra Thiên đường
của mình cũng dựa trên quan điểm đó, cũng là miền cực lạc, nơi giải thoát, sự vĩnh
hằng… Làm chủ Thiên đường trong Công giáo là Đức Chúa trời, thì với đạo Cao
Đài là Ngọc Hoàng Thượng đế. Hai đấng này được tín đồ Cao Đài xem như một,
nhưng cái khác trong Thiên đường của đạo Cao Đài là có sự hiện diện các đấng
giáo chủ của các tôn giáo và được chia thành các thứ bậc, mỗi người giữ một tầng
trời nhất định với vai trò, nhiệm vụ cụ thể, và biểu mẫu chung vẫn là miền cực lạc
mà tín đồ hướng đến.
Việc phân định các thức bậc và vai trò của các vị thiêng liêng ở cõi vô hình
được xem là sự mới mẽ của đạo Cao Đài, nhưng thực chất, tư tưởng này cũng
không mới bởi được tiếp thu từ hệ tư tưởng Nho gia vốn khá phổ biến tại Nam Bộ.
Tín đồ Cao Đài dùng kiến thức Nho học để xây dựng xã hội vô hình theo thứ bậc
nhằm tạo ra sự phân cấp có bước chuyển trong con đường tu đạo của họ.
Sự khởi nguồn của vũ trụ, con người và vạn vật theo thuyết Âm – Dương,
Ngũ – Hành cũng không phải do tín đồ Cao Đài nghĩ ra, mà là thành quả tiếp thu
hệ tư tưởng của Đạo giáo vốn rất phổ biến tại Nam Bộ.
190
Rõ ràng, dù cố gắng tạo ra sự mới mẽ cho tôn giáo của mình, nhưng tín đồ
Cao Đài vẫn không thoát khỏi yếu tố chung của văn hóa Nam Bộ đã kết tụ trên
300 trăm năm qua, đó là sự hỗn dung văn hóa. Nếu đức tin của các tôn giáo như
Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo tại Việt Nam nói chung và Nam Bộ nói riêng hòa
lẫn vào nhau, hình thành nên nguyên tắc tam giáo đồng nguyên, thì đức tin của tín
đồ đạo Cao Đài ở Nam Bộ đã mở rộng từ nguyên tắc đó, tức là không những chỉ
có tam giáo mà còn có sự hiện diện của Công giáo và sau này lại có thêm những
tín ngưỡng, tôn giáo khác.
Sự hỗn dung trong đức tin của đạo Cao Đài không xuất hiện ngay khi đạo
manh nha hình thành mà nó được bồi đắp dần trong quá trình phát triển của đạo.
Khi ông Ngô Văn Chiêu khởi xướng đạo Cao Đài và nhóm ông Phạm Công Tắc,
Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài Sang tin và tu hành theo đạo Cao Đài, đức tin về thế
giới vô hình, sự giải thoát hoàn toàn không rõ ràng; Chỉ là sự xuất hiện của các
đấng siêu linh qua các buổi cầu cơ, chấp bút, xây bàn. Một số thông tin rời rạc về
Thiên đường, Địa ngục và sự tạo tác vũ trụ được nhắc đến trong Thánh giáo,
nhưng chưa trở thành một hệ thống giáo lý hoàn chỉnh. Đến khi tín đồ tuyên bố
mở đạo và đặc biệt, khi Tân luật, Pháp chánh truyền của đạo được công bố, đức
tin của đạo Cao Đài dần trở thành hệ thống hoàn chỉnh. Đọc toàn bộ Thánh giáo
của đạo Cao Đài từ năm 1925 đến gần cuối năm 1926, chúng tôi cảm thấy có sự
“dò dẫm”, chọn lựa trong việc xây dựng hệ thống giáo lý và đức tin của đạo Cao
Đài. Nội dung Thánh giáo từ cuối năm 1926 đến năm 1927 mới thật sự ổn định về
mặt giáo lý và đức tin.
Như vậy, sự hội tụ, hỗn dung và bồi đắp văn hóa – ảnh hưởng bởi đặc trưng
văn hóa Nam Bộ - đã dần dần được hình thành trong hệ thống đức tin của đạo Cao
Đài, nó gắn liền với sự phát triển của đạo qua thời gian.
* Hỗn dung văn hóa qua cách thờ tự
Cách thờ tự của đạo Cao Đài cho đến hiện nay cũng là kết quả của sự hỗn
dung và bối đắp văn hóa Nam Bộ như đã nêu trên. Khi vừa khởi xướng và tu hành
theo đạo Cao Đài tại Phú Quốc, ông Ngô Văn Chiêu chỉ tôn thờ một biểu tượng
duy nhất là Mắt trái, gọi là Thiên nhãn. Nhưng khi hành đạo tại Sài Gòn vào năm
191
1924, cách thờ tự của ông Chiêu dần thay đổi, nhất là khi ông Chiêu truyền dạy
cách thờ tự của mình cho ông Vương Quan Kỳ. Tại số nhà 80 đường La Grandière
(nay là đường Lý Tự Trọng), ông Kỳ đã nhận biểu tượng Thiên nhãn do tự tay ông
Chiêu vẽ để thiết lập bàn thờ. Tấm Thiên nhãn này có kích thước 18cm x 24cm,
trong đó hình Thiên Nhãn được vẽ bằng mực xanh phía trên cùng, ở giữa có thập
tự bằng viền đỏ, không có chữ, phía dưới viết chữ Cao Đài Tiên ông [112:85]
(xem sơ đồ).
Hình vẽ 9: Thiên nhãn do ông Ngô Minh Chiêu vẽ
Về cách bày bàn thờ như sau (xem sơ đồ thiết lập bàn thờ)
Sơ đồ 18: Thiết lập bàn thờ theo cách của ông Ngô Văn Chiêu
(Hình vẽ: Huỳnh Ngọc Thu)
Như vậy, trong quá trình tu đạo, bản thân ông Chiêu cũng đã dần tự hoàn
thiện cách thờ của mình, đi từ đơn giản đến phức tạp.
Khi nhóm của các ông Cư, Tắc, Sang gia nhập cùng với nhóm của ông
Chiêu để hình hành đạo Cao Đài, việc thờ tự bắt đầu có sự thay đổi. Các ông Cư,
Tắc, Sang sửa đổi cách thờ tự của ông Chiêu vì các ông này cho rằng để phù hợp
với hệ thống giáo lý của đạo, đó là việc đưa các đấng giáo chủ của các tôn giáo có
CAO ĐÀI TIÊN ÔNG
Hình Thiên
nhãn
Lư
nhang
Trái
cây Bình
hoa Đèn thái
cực
3 ly rượu
Nước
trà Đèn Nước
trắng Đèn
192
trước vào hệ thống thờ tự của Cao Đài, hình thành nên một hệ thống thần linh có
thứ bậc trên bàn thờ, với vai trò như Tam giáo, Tam trấn. Trong hệ thống này bao
gồm Phật Thích Ca, Quan Âm Bồ Tát, Chúa Jêsu, Lão Tử, Khổng Tử, Quan
Thánh Đế Quân, Lý Thái Bạch, Khương Tử Nha… là hệ thống thờ tự chủ đích của
tín đồ Cao Đài, đồng thời thể hiện yếu tố dung hòa văn hóa của cư dân Nam Bộ.
Những nhân vật thần thánh trên được cư dân Nam Bộ biết đến với vai trò
làm chủ một mối đạo như Thích Ca của Phật giáo; Chúa Jêsu của Công giáo; Lão
tử của Đạo giáo; Khổng tử của Nho giáo; ngoài ra còn có Quán Thế Âm Bồ Tát
giữ vai trò cứu khổ cứu nạn; Quan Thánh Đế Quân, biểu tượng của nhân vật trung
liệt, được cư dân Nam Bộ thờ ở chùa, đình và được nâng lên vai trò thần độ mệnh
cho gia chủ, được thờ trong các gia đình người Việt ở Nam Bộ.
Sự xuất hiện của các bậc Thần, Thánh, Tiên, Phật trong hệ thống thờ tự của
Cao Đài phải chăng là hình thức để thu hút cư dân Nam Bộ gia nhập đạo, bởi qua
đó tín đồ Cao Đài sẽ không cảm thấy quá xa lạ với những tín ngưỡng từ xưa đến
nay họ vẫn thờ tự trong gia đình. Trong quá trình khảo sát điền dã tại Đồng Nai,
chúng tôi đã tiếp xúc nghiên cứu một gia đình ở xã Vĩnh Tân, huyện Vĩnh Cửu
trong thời gian dài. Chúng tôi được biết, gia đình này thờ Quan Thánh Đế Quân và
Mẹ sanh (người Hoa gọi là Kim Hoa nương nương hay Huệ Phước phu nhân) đã
hơn 10 năm. Lý do ông bà chủ nhà thờ Quan Thánh và Mẹ sanh là mỗi lần đi xem
bói, đều được các vị thầy bói cho biết hai vị này là thần bổn mệnh của gia chủ
(Quan Thánh là thần bổn mệnh của ông chủ hộ và Mẹ sanh là thần bổn mệnh của
bà chủ hộ), luôn theo sát gia chủ để phù hộ trong công việc cũng như độ trì theo
đạo.
H: Như vậy là chú và cô ở nhà có đạo từ rất sớm phải không?
TL: Phải rồi, nhưng hồi đó còn nhỏ, nên không quan tâm.Cũng không ăn chay,
không sinh hoạt đạo và chỉ thờ ông bà thôi. Lúc chú đi kinh tế mới ở Tây
Ninh có người tới xem bói nói là chú có người độ, hỏi ai độ thì họ nói là
Quan Công theo độ chú. Lúc đó chú không tin, nên cũng không thờ gì hết.
Cô đi coi bói thì nói là có Mẹ sanh độ, nhưng cũng không tin để thờ, chỉ biết
vậy thôi. Nhưng thầy bói nói là chú không được ăn thịt chó, không được ăn
193
thịt trâu, vì điều đó sẽ bị ông phạt. Chú cũng không tin, nhưng sau nghĩ lại
thì thấy đúng.
H: Đúng là sao hả chú?
TL: Chú kể cho nghe, lúc chú 30 tuổi, còn ở ngoài Quảng Nam. Hồi đó chú là thủ
môn cho đội bóng của xã. Bữa đó đi đá bóng, chú chụp bóng xong rồi bị gãy
chân. Sau nghĩ lại mới tin là ông phạt, vì đêm trước đó chú ăn thịt chó. Bây
giờ nghĩ lại thì mới tin như thế thôi, không biết có đúng không?
H: Vậy chú thờ Quan Công và Mẹ sanh khi nào?
TL: Khi chú đến định cư ở Đồng Nai này, lúc đó khoảng năm 1990. Làm ăn thất
bại, buôn bán không được nên chú mới nhớ tới lời của thầy bói trước đây mà
thỉnh tượng về thờ.
(Trích phỏng vấn số 2, PL:2)
Đến năm 1994, gia đình này theo đạo Cao Đài và thờ Thiên nhãn, bàn thờ
Quan thánh và Mẹ sanh được cất đi, không thờ nữa. Giải thích cho việc này, họ
cho rằng đã thờ Thiên nhãn thì không cần thiết phải có bàn thờ Quan Thánh và Mẹ
sanh, vì hai vị này là người của Thượng đế, thừa lệnh Thượng đế làm thần bổn
mệnh cho gia đình họ, do đó chỉ cần thờ Thượng đế là đương nhiên đã thờ Quan
Thánh và Mẹ Sanh.
H: Vậy chú thờ Thầy khi nào?
TL: Vào khoảng đầu năm 1994. Lúc đó cha chú ở ngoài quê bị mất, chú về quê
làm đám tang. Thấy đám tang của cha mình tốt quá, toàn đạo đều tới lo lắng,
giúp đỡ suốt trong mấy ngày đám tang, nên chú nghĩ đạo mình tốt thật, vì
vậy chú quyết định sinh hoạt đạo trở lại. Sau đám tang của cha chú, chú đến
Thánh thất ngoài đó bày tỏ nguyện vọng và mọi người ở đó rất đồng tình. Họ
cho chú thỉnh Thánh tượng và đưa thêm mấy quyển kinh nữa bảo về nhà
đóng bàn thờ để thờ. Chú cầm Thánh tượng và mấy quyển kinh vào đây. Sau
đó lên Sài Gòn mua một cái chuông, một cái mỏ về đóng bàn thờ thờ cho tới
bây giờ luôn đó.
H: Thế tại sao chú lại dẹp bỏ bàn thờ Quan Thánh và Mẹ sanh đi?
TL: Trong đạo Cao Đài, Quan Thánh đứng hàng tam trấn, Mẹ sanh cũng được xem
là người ở Diêu Trì Cung, do khi thờ Thượng đế thì không cần phải thờ
Quan Thánh nữa, nên phải cất bàn thờ Quan Thánh và Mẹ sanh.
H: Cháu vẫn chưa hiểu, như vậy chú không sợ phật lòng Đức Quan Thánh sao?
194
TL: Làm sao mà phật lòng được, vì Đức Quan Thánh là đệ tử của Thầy. Đã thờ
Thầy là thờ chung luôn rồi, nên không phải thờ thêm Đức Quan Thánh nữa,
nếu thờ nữa thì sẽ phạm tội với Thầy đó.
(Trích phỏng vấn số 2, PL :2)
Khi chúng tôi quan sát về cách thờ tự trong gia đình này, hình của Quan
Thánh và Mẹ sanh vẫn được treo trên bức tường đối diện với bàn thờ Thiên nhãn
(xem sơ đồ).
Sơ đồ 19: Cách thờ tự trong gia đình tín đồ Cao Đài ở Đồng Nai
(Sơ đồ: Huỳnh Ngọc Thu)
Giải thích cho vấn đề này, chủ gia đình cho rằng treo như vậy nhằm mục
đích biểu thị các vị ấy cùng chầu về Thượng đế.
H: Sao chú không cất luôn tượng của Đức Quan Thánh và mẹ sanh đi mà còn treo
ở đó.
TL: À, để chú giải thích cho nghe nhé. Chú treo ở đó là nhằm mục đích để Đức
Quan Thánh và Mẹ sanh cùng hầu vào Thầy. Đó là lẽ đạo đấy cháu. Cháu
thấy đó. Chú treo hình Đức Quan thánh bên trái, Mẹ sanh bên phải còn ở
giữa treo hình Đức Ngô Minh Chiêu. Ý là để ba người này cùng chầu vào
Thượng đế, vì tất cả là đệ tử của Thượng đế mà.
(Trích phỏng vấn số 2, PL:2)
Một gia đình khác cũng ở Đồng Nai có thờ Thiên nhãn và bức tường đối
diện lại treo hình của Chúa Jêsu và Phật Thích Ca. Gia đình này theo Cao Đài từ
thời ông bà, nhưng họ vẫn tin đức Chúa và đức Phật nên vẫn treo hình.
Điều này chứng tỏ, trong đời sống tôn giáo của tín đồ đạo Cao Đài từ lâu
đã hình thành nên tín ngưỡng hỗn dung và đã được biểu hiện rõ qua cách thờ tự
trong gia đình. Mặc dù qui định của đạo Cao Đài là hợp nhất các vị Thần, Thánh,
Tiên, Phật để qui tụ về một mối, nhằm đề cao vai trò tối thượng của Ngọc Hoàng
Th
ờ T
hiê
n
nh
ãn
Cửa chính vào nhà
Hình Quan Thánh
Hình Ngô Minh Chiêu
Hình Mẹ Sanh
195
Thượng đế trong tôn giáo, nhưng trong tâm thức của tín đồ Cao Đài Nam Bộ thì
các vị Thần, Thánh, Tiên, Phật này vẫn còn giữ vai trò nhất định trong đời sống
tâm linh của họ, do đó họ không cất đi mà vẫn treo những hình này trong gia đình
và giải thích theo giáo lý Cao Đài.
* Hỗn dung văn hóa trong lễ phục của tín đồ Cao Đài
Lễ phục của đạo Cao Đài được phân thành 4 màu chủ đạo, gồm trắng,
xanh, đỏ và vàng. Màu trắng dành cho các tín đồ bình thường, nữ tín đồ và chức
sắc Hiệp Thiên Đài; còn các màu sắc còn lại là của các chức sắc Cửu Trùng đài,
trong đó, màu xanh tượng trưng cho Đạo giáo, màu đỏ tượng trưng cho Nho giáo
và màu vàng tượng trưng cho Phật giáo. Nhìn vào lễ phục của chức sắc Cửu
Trùng đài, có thể dễ dàng phân định các chi mà tín đồ đang theo trong đạo; và
cũng chỉ thông qua màu sắc thấy rõ tính hỗn dung tôn giáo trong đạo Cao Đài.
Không chỉ hỗn dung về mặt tôn giáo, lễ phục của đạo Cao Đài còn hỗn
dung từ các loại hình diễn xướng sân khấu ở Nam Bộ như hát bội, cải lương…
Các bộ đại lễ của chức sắc cao cấp trong đạo Cao Đài được may theo mô thức “áo
– mão – cân – đai” của vua, quan. Đây là loại trang phục của văn hóa Hán, Việt
cổ, thể hiện sự chuẩn mực của văn hóa Nho giáo nhằm khẳng định quyền lực và
phân biệt ngôi thứ trong hệ thống tổ chức Cao Đài.
Như vậy, lễ phục của đạo Cao Đài cũng là kết quả của dự hỗn dung văn
hóa Nam Bộ.
Từ những phân tích trên cho thấy đời sống tôn giáo của tín đồ Cao Đài là
sự tiếp thu, cải biên từ các lớp văn hóa có trước để tạo nên sự mới mẽ, nhưng vẫn
thể hiện tính hỗn dung của văn hóa vùng Nam Bộ. Yếu tố vùng đã chi phối đến
việc tiếp thu và biến đổi các thành tố văn hóa trong đạo Cao Đài, làm cho nó thể
hiện sắc thái đa văn hóa, đây cũng là yếu tố đặc trưng của văn hóa Nam Bộ.
3.2.2. Yếu tố thoáng, mở trong văn hóa
Khi nói đến văn hóa Nam Bộ, nhiều nhà nghiên cứu đều cho rằng văn hóa
Nam Bộ là thoáng, mở. Sự thoáng, mở trong văn hóa được hiểu như là sự dung
hòa, không câu nệ hình thức, không cứng nhắc bởi những nguyên tắc đề ra… Yếu
196
tố này được tín đồ đạo Cao Đài tiếp thu và biểu hiện trong đời sống tôn giáo của
họ, cụ thể qua các yếu tố như:
* Yếu tố thoáng, mở trong văn hóa qua cách hành đạo
Chức sắc và tín đồ Cao Đài hành đạo với tình yêu thương nhằm hướng đến
tôn chỉ “tốt đạo, đẹp đời”, nên gần như không có sự phân biệt giai tầng, đẳng cấp
trong xã hội. Khi một gia đình tín đồ có việc xảy ra như tang, tế… thì toàn thể tín
đồ trong cộng đồng họ đạo đều đến dự, cùng lo sắp xếp công việc, cùng cầu
nguyện, bất kể gia đình đó gần hay xa, nghèo hay giàu. Trong chương 2, chúng tôi
đã nêu lên vài ví dụ minh chứng cho sự kiện này, trong đó việc đám tang của một
tín đồ ở Đồng Nai nhưng lại qui tụ được số lượng đông chức sắc, tín đồ từ Thành
phố Hồ Chí Minh đến hành lễ và cầu nguyện là một minh chứng rõ ràng. Tìm hiểu
về thân thế của người đã khuất này, chúng tôi được biết, bà chỉ là một tín đồ bình
thường vốn theo đạo Cao Đài từ khi còn rất nhỏ ở miền Trung. Bà vào Đồng Nai
từ năm 1990 cùng 2 người con (một trai, một gái) đã lập gia đình. Bà sống với
người con gái, gia đình này theo Phật giáo (trong nhà có bàn thờ Phật, chồng của
cô ấy là tín đồ sùng đạo Phật, có công rất lớn trong việc xây dựng chùa Vĩnh
Phước tại xã Vĩnh Tân, huyện Vĩnh Cửu, Đồng Nai; con cái trong gia đình cô này
đều theo Phật giáo). Con trai của người mất sống gần nhà chị mình, hành nghề
thầy lang, theo đạo Cao Đài từ nhỏ, nhưng khi vào Đồng Nai thì gần như không
còn sinh hoạt với Cao Đài. Bản thân của người phụ nữ quá cố, từ khi vào Đồng
Nai đến khi mất cũng không sinh hoạt thường xuyên đạo Cao Đài. Dù vậy, khi bà
mất, tín đồ Cao Đài xung quanh biết được, cùng với nguyện vọng của người con
trai là muốn cử hành tang lễ theo nghi thức Cao Đài, nên một tín đồ không thân
thích với gia đình đã tình nguyện lên Thánh thất Trung Minh ở Thành phố Hồ Chí
Minh để thay mặt gia đình bày tỏ nguyện vọng với Ban Cai quản Thánh thất và đã
được Ban Cai quản nhiệt tình ủng hộ, qui tụ chức sắc và tín đồ đến Đồng Nai ngay
trong đêm để cử hành tang lễ cho người quá vãng tại gia đình của người con gái.
Tang lẽ được diễn ra với đầy đủ nghi thức dành cho một tín Cao Đài, không có sự
phân biệt nào. Cảm động với những hành vi này, người con trai và con gái của bà,
sau tang lễ, đã theo và trở lại sinh hoạt với cộng đồng tín đồ Cao Đài tại Đồng
197
Nai. Đến khi người con trai qua đời, tang lễ của ông cũng được các chức sắc Cao
Đài thực hiện với đầy đủ nghi thức như tang lễ của mẹ ông. Một trong số những
người con trai của ông hiện nay trở thành người hiến thân, phục vụ cho đạo Cao
Đài tại Thánh thất Trung Bảo ở Long Khánh, Đồng Nai.
Câu chuyện khác mà chúng tôi đã chứng kiến trong thời gian điền dã dài
ngày tại xã Khánh Hậu, TX. Tân An, tỉnh Long An vào năm 2005. Một gia đình
tín đồ Cao Đài thực hiện lễ tuần cửu cho cha mình. Chúng tôi đã tham gia 4 trong
số 9 tuần cửu của gia đình này. Chúng tôi cảm nhận được sự tương tế giúp đỡ của
bổn đạo khi chức việc và tín đồ trong cộng đồng Cao Đài tập hợp đông đảo ở đây.
Tuần cửu nào cũng có trên 20 người trong họ đạo tham dự cầu nguyện, mặc dù chỉ
có một người con gái trong số 6 người con trong gia đình này theo đạo cha, gia
nhập Cao Đài.
Qua hai câu chuyện trên, chúng tôi cảm nhận được tính thoáng trong cộng
đồng tín đồ Cao Đài. Họ không rời bỏ bất kỳ ai, nếu người đó cần đến. Họ gần
như không phân biệt đối xử, mặc dù nhiều người mà họ giúp đỡ khi còn tại thế, vì
một lý do gì đó đã không thực hiện nghiêm túc vai trò của một tín đồ Cao Đài
ngoan đạo.
* Yếu tố thoáng, mở trong văn hóa qua lễ nhập môn
Tính thoáng, mở trong đời sống tôn giáo của tín đồ Cao Đài còn biểu hiện
qua nguyên tắc nhập môn của đạo. Đạo Cao Đài gần như không bắt buộc con cái
và gia quyến của tín đồ phải theo đạo, mà dựa trên sự tự nguyện của mỗi cá nhân.
Vì thế, đạo Cao Đài đã đưa ra nguyên tắc, người nhập môn phải ở tuổi 18. Nguyên
tắc này được dựa trên tính tự nguyện, vì ở tuổi ấy, con người có đầy đủ trí tuệ, tự
chịu trách nhiệm với mọi quyết định của bản thân, không phải chịu sự bắt buộc
của người khác.
H: Tại sao lại phải đợi đến 18 tuổi?
TL: Vì luật của đạo nó vậy, yêu cầu tính tự nguyện của người nhập môn. Đến 18
tuổi được xem là đã trưởng thành, có ý thức cho hành vi của mình, lúc đó
quyết định trở thành người Cao Đài hay không là do người đó, không phải lệ
thuộc vào ai, vì ở tuổi này phải chịu mọi quyết định của mình.
(Trích phỏng vấn số 4, PL:2)
198
H: Trong bốn người con của anh, người nào có làm lễ Tắm Thánh?
TL: Tất cả những đứa này đều có làm lễ Tắm Thánh hết, nhưng chưa có đứa nào
nhập môn. Hai đứa lớn này thì đi ở riêng nên chưa có nhập môn. Hai đứa này
còn nhỏ thì chưa nhập môn.
H: Bốn người đều Tắm Thánh hết?
TL: Ừ, còn nhỏ là tôi cho Tắm Thánh hết, có giấy Tắm Thánh, ghi vô sổ bộ đạo
rồi.
H: Nhưng chưa ai nhập môn?
TL: Ừ, chưa ai nhập môn.
H: Anh có dự định là cho hai đứa con lớn của anh sau này nhập môn không?
TL: Hướng của mình là dẫn tụi nó đi vào con người đạo, nhưng tùy theo căn duyên
của tụi nó.
(Trích phỏng vấn số 3, PL:2)
Qua khảo sát của chúng tôi, không phải gia đình tín đồ Cao Đài nào cũng
có đầy đủ con cái theo đạo. Chúng tôi đã từng vẽ nhiều sơ đồ thân tộc của các gia
đình tín đồ Cao Đài; qua đó nhận thấy có rất nhiều gia đình, kể cả gia đình chức
sắc, chức việc cũng có những thành viên không theo đạo Cao Đài, thậm chí có
theo đạo nhưng cũng không thuộc chung một chi phái. Ví dụ:
Sơ đồ 20: Thân tộc của gia đình Chức việc ở quận 8, TP.HCM
(Sơ đồ: Huỳnh Ngọc Thu)
3 4
5 7 6
9
8
2 1
10 11 12 13 14
15 16
Ego
B P
B B
T P T
P P
K K
K K
Chú thích:
- B: Cao Đài Ban Chỉnh đạo
- P: Phật giáo
- T: Cao Đài Tây Ninh
- K: Không nhập môn theo Cao Đài
199
Trên đây là sơ đồ thân tộc của một Thông sự (Ego) ở đường Phạm Thế
Hiển, quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. Qua khảo sát, chúng tôi được biết:
- Người số 1 (ông nội của Ego): theo Cao Đài Ban Chỉnh đạo
- Người số 2 (bà nội của Ego): theo đạo Phật
- Người số 3 (cha Ego): theo Cao Đài Ban Chỉnh đạo, phẩm vị Lễ sanh
- Người số 4 (mẹ Ego): theo Cao Đài Ban Chỉnh đạo
- Người số 5, 6 (anh trai và chị gái Ego): không theo đạo Cao Đài
- Người số 7 (vợ Ego): theo đạo Phật
- Người số 8 (em Ego): theo Cao Đài Tây Ninh
- Ego: giữ phẩm Thông sự của Cao Đài Tây Ninh
- Người số 9, 10, 11, 13 (con Ego): đều đã làm lễ tắm thánh, trong đó 9 và
10 còn nhỏ (số 9: 10 tuổi; số 10: 15 tuổi), chưa quyết định có trở thành tín đồ hay
không. Số 11 và 13 đã lớn (26 và 28 tuổi) lập gia đình với những người ngoài đạo
Cao Đài (số 12 và 14 đều theo Phật giáo) và không làm lễ nhập môn theo Cao Đài.
Từ gia đình trên cho thấy, dù có người bản thân là chức sắc, chức việc của
đạo Cao Đài, nhưng con cháu của vẫn có người không theo đạo Cao Đài. Ví dụ,
người số 3, giữ phẩm Lễ sanh của Cao Đài Ban Chỉnh đạo, nhưng bốn người con
của ông ấy, chỉ có hai người (Ego và số 8) theo đạo Cao Đài (Cao Đài Tây Ninh).
Bản thân Ego là Thông sự, nhưng hai người con trưởng thành của ông ấy lại
không theo đạo Cao Đài, hai người còn lại chưa quyết định.
Giải thích về việc không theo đạo của con cháu trong gia đình, Ego cho
rằng, đạo Cao Đài ra đời nhằm ân xá nhân loại ở kỳ ba, trong gia đình chỉ cần một
người tu cũng đủ để cứu chơn linh của Cửu huyền, thất tổ (ông bà tổ tiên).
H: Vậy thì trong gia đình thì mới chính thức một mình anh là có đạo thôi?
TL: Ừ, riêng gia đình cá nhân của tôi đó; chứ còn bà già cũng có, cha cũng có.
Nhưng mà nó có một cái vậy nè, một người mà hành đạo, công quả đó thì có
thể cứu được Cửu huyền, chứ không phải đơn giản. Các rằm lớn của một
năm đó, tức là gồm có Thượng ngươn, Trung ngươn và Hạ ngươn đều có
dâng sớ Cửu huyền. Sớ sẽ ghi tên ông bà tổ tiên của mình gì đó đã qui thiên
rồi, thì mình muốn cứu độ những người này thì mình ghi tên vô. Sớ này sau
đó đưa chung vào sớ cầu xin Đức Chí tôn đó để cứu cửu huyền, đốt chung.
200
Bởi vì trên đó cũng có những cơ cấu ở Bạch Ngọc Kinh trển. Mình hiểu nôm
na vậy đi. Cho nên bây giờ trong một kiếng họ, trong một gia đình, không
nhất thiết là toàn bộ, nếu toàn bộ thì quá quí, nhưng mà có 1, 2, 3 gì đó mà
đã làm công quả và đường Đại đạo để lo việc lập công bồi đức, rồi phổ độ
nhân sanh thì mình cũng sẽ cứu được chơn linh Cửu huyền thất tổ của mình.
Chứ bây giờ ở mặt thế gian này cứu bằng tiền cứu đâu có nổi, chỉ cứu linh
hồn thôi. Giờ mình phải lo phần đó.
(Trích phỏng vấn số 3, PL:2)
Nghiên cứu khía cạnh này, chúng tôi mới nhận thấy được tính thoáng mở
của đạo Cao Đài rất phù hợp với đức tính của người dân Nam Bộ, dù trong tôn
giáo, người ta cũng không câu nệ, đòi hỏi tuyệt đối sự tham gia tôn giáo của mọi
thành viên trong gia đình. Chính vì quan điểm đó mà trong đạo Cao Đài không
nhất thiết tất cả thành viên trong gia đình phải theo đạo Cao Đài mà chỉ một vài
người gắng công tu hành cũng có thể chấp nhận được, ngay cả những người cùng
trong một gia đình nhưng theo những chi phái khác nhau của Cao Đài thì tín đồ
cũng không cho đó là sự phân hóa gay gắt mà chỉ cho đó là do “Thiên ý” của
Thượng đế. Khi giải thích việc cha mẹ theo Cao Đài Ban Chỉnh đạo, bản thân
(Ego) và em Ego theo Cao Đài Tây Ninh, Ego cho rằng không có sự phân biệt
giữa hai phái, các phái chỉ khác về tên gọi, còn phương châm, nguyên tắc hành
đạo… đều là một; mỗi chi phái là một con đường để đưa tín đồ về với Thượng đế.
H: Ngày xưa ba mẹ anh có theo đạo không?
TL: Ông già cũng có, bà già cũng có. Nói chung là ở bên ngoại, kể cả ông bà ngoại
và ông nội thì gốc là đạo Cao Đài. Nhưng bà nội thì là Phật giáo. Mấy ông
bác của tôi là trụ trì mấy chùa lớn ở thành phố này đó. Chùa Giác Lâm, Chùa
Giác Hải, Chùa Giác Long, Chùa Giác Phước; 4 chùa lớn. Còn bên ông nội
với ông bà ngoại thì Cao Đài hết, nhưng mà lại theo Cao Đài Ban Chỉnh Đạo
Bến Tre. Riêng mình tôi là lọt về Cao Đài Tây Ninh. Nó cũng có những may
duyên, không thể hiểu nổi vậy đó. Nói chung là Cao Đài tới ba mươi mấy chi
phái, nhưng tôn chỉ chung thì vẫn vậy, giống như nhau. Chuyện mà những vị
tách rời nhau chẳng qua là những vị đó có những bất đồng gì đó trong nội bộ
này kia kia nọ, đó thuộc về các tiền bối mà, mình không hiểu nỗi những
chuyện đó.
(trích phỏng vấn số 3, PL:2)
201
Với tư tưởng như trên, rõ ràng việc nhập môn theo đạo Cao Đài của con em
gia đình tín đồ không bắt buộc mà dựa trên tính tự nguyện, đây là tính chất
thoáng, mở rất phù hợp với tính cách của cư dân Nam Bộ và văn hóa Nam Bộ.
Có trường hợp cha mẹ theo đạo Cao Đài qua đời đã lâu, con cái đến tuổi về
già mới xin nhập môn, như trường hợp của cặp vợ chồng ở khu vực Bảy Hiền,
quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh. Cha mẹ của ông là tín đồ sùng đạo Cao
Đài, được cộng đồng quí mến, nhưng ông cùng vợ và con cháu trong nhà đều
không nhập môn theo đạo. Hàng năm, gia đình ông vẫn tổ chức lễ cầu siêu cho
cha mẹ tại Thánh thất Trung Hiền ở Tân Bình. Đầu năm 2008, hai vợ chồng ông
xin nhập môn và được Ban Cai quản Thánh thất đồng ý tổ chức lễ nhập môn vào
ngày Rằm tháng 4 âm lịch năm 2008. Ông tâm sự, sở dĩ xin nhập môn vào đạo
Cao Đài vì muốn có một chỗ dựa tinh thần khi về già và cũng muốn sau khi qua
đời được cộng đồng tín đồ quan tâm, tổ chức tang lễ, cầu siêu như họ đã từng thực
hiện các nghi thức tang lễ cho cha mẹ ông.
Điều này chứng tỏ cộng đồng tín đồ Cao Đài luôn mở rộng vòng tay để đón
nhận những người tình nguyện đến với họ.
Đạo Cao Đài không chỉ đón nhận những con người hiện hữu mà còn đón
nhận cả linh hồn của người quá vãng. Tại Thánh thất Trung Bảo ở Đồng Nai từng
làm lễ nhập môn cho những người đã mất, gọi là “qui y vong” với phương châm
“độ sanh không được thì độ tử” (nghĩa là lúc còn sống không độ được, thì khi qua
đời rồi vẫn có thể độ). Đó là trường hợp chúng tôi nghe được trong thời gian điền
dã. Theo những người chứng kiến kể lại, người quá vãng về báo mộng với con
mình là muốn xin nhập môn theo đạo Cao Đài, người con đến trình với Ban Cai
quản Thánh thất và được Ban Cai quản đồng ý tổ chức nhập môn cho người đã
mất ấy bằng cách cho người con ôm di ảnh của mẹ quì trước bàn thờ chánh điện
và thực hiện những nghi lễ nhập môn thay cho mẹ mình. Hoặc một trường hợp
khác mà chúng tôi nghe được lời kể từ người dân phường Khánh Hậu (thị xã Tân
An, Long An). Tại phường Khánh Hậu có Lăng Nguyễn Huỳnh Đức, một vị
tướng của Tả quân Lê Văn Duyệt. Trong một lần cầu cơ tại Thánh tịnh Tam thanh
202
Bửu điện của phái Tiên Thiên trước năm 1975, ông Nguyễn Huỳnh Đức giáng cơ,
cho biết mình đã nhập môn theo đạo Cao Đài… Điều này cho thấy đạo Cao Đài
chấp nhận tín đồ dưới mọi hình tướng (hữu hình và vô hình) đến với tôn giáo của
mình. Vì vậy, có thể nói trong đời sống tôn giáo của tín đồ Cao Đài luôn biểu hiện
tính chất thoáng, mở của văn hóa Nam Bộ.
* Yếu tố thoáng, mở trong văn hóa qua lễ hôn phối
Lễ hôn phối của tín đồ Cao Đài cũng thể hiện tính chất thoáng, mở mà
chúng tôi cảm nhận được. Nguyên tắc của đạo Cao Đài được ghi rõ trong Tân luật,
tín đồ chỉ được phép kết hôn với những người trong cùng đạo và phải thực hiện lễ
hôn phối tại Thánh thất hoặc Đền thánh. Thế nhưng qua khảo sát của chúng tôi, tín
đồ của đạo Cao Đài gần như không tuân thủ nguyên tắc này, đặc biệt là ở những
khu vực xa trung tâm của đạo (xa Tòa thánh). Việc kết hôn với người ngoài đạo là
hiện tượng phổ biến đối với tín đồ ở xa trung tâm đạo, và cũng gần như họ không
thực hiện nghi lễ hôn phối tại Thánh thất. Thánh thất Trung Bảo ở Đồng Nai được
xây dựng hơn 20 năm qua, nhưng đến nay chỉ mới thực hiện được 2 lễ hôn phối
của những người cùng đạo Cao Đài. Con số thực hiện lễ hôn phối tại các Thánh
thất khác ở Nam Bộ cũng không nhiều so với số lượng kết hôn thực tế trong cộng
đồng tín đồ của đạo, như Thánh thất Trung Minh ở TP. Hồ Chí Minh cũng chỉ
thực hiện từ 1 đến 2 lễ hôn phối trong một năm. Ngay tại Tòa thánh Tây Ninh
cũng chỉ thực hiện khoảng 5 lễ hôn phối trong một năm cho cả hai vợ chồng đều
là tín đồ Cao Đài (CT:23), trong khi đó số lượng tín đồ đạo Cao Đài ở Tây Ninh
chiếm đến 80% dân số của tỉnh Tây. Các nguyên nhân để giải thích cho vấn đề
này như sau:
+ Thứ nhất: Thánh thất không thực hiện lễ hôn phối trong trường hợp tín
đồ kết hôn với người ngoài đạo. Muốn thực hiện được lễ hôn phối, hai người đều
phải cùng là tín đồ của đạo; nhưng đạo Cao Đài không bắt buộc nhập môn cho tất
cả mọi thành viên trong gia đình tín đồ, vì vậy, khi một trong hai người không
phải là tín đồ Cao Đài sẽ không thực hiện được lễ hôn phối tại Đền thánh hoặc
Thánh thất mà thực hiện ở nhà riêng trước bàn thờ gia tiên (không thực hiện trước
Thiên bàn).
203
H: Chú thử ví dụ xem có những điều gì mà tín đồ ít thực hiện theo nguyên tắc của
đạo nhất?
TL: Ừ, cái lễ hôn phối là ít tín đồ tuân thủ theo nhất, vì cháu biết không? Cái này
hơi khó thực hiện, nay họ không muốn thực hiện.
H: Khó là thế nào hả chú?
TL: Thì muốn làm được lễ hôn phối thì phải hai đứa phải là người trong đạo. Cháu
biết rồi đó, ở vùng này tụi nó lấy người ngoài đạo nhiều lắm thì làm sao thực
hiện được lễ hôn phối. Mình cũng có khuyên nhủ nên kiếm người trong đạo,
nhưng nói thì nói vậy thôi. Vợ chồng có số, đâu có ép buộc được, chúng nó
thương ở đâu thì gả ở đó, cũng là số trời mình đâu có cưỡng lại được.
(Trích phỏng vấn số 2, PL:2)
H: Vậy trong đạo có bắt buộc phải lấy người trong đạo không bác?
TL: Có chứ, nhưng cũng không khắt khe như bên đạo Thiên Chúa đâu. Hiện nay
tụi nó lấy lung tung cả, không cùng đạo cũng được. Luật đạo thì như vậy,
nhưng bác nghĩ, vợ chồng là duyên số, không thể cưỡng ép được đâu. Mà
duyên số thì do Thượng đế sắp đặt rồi, nên cứ mặt kệ chúng nó thôi, chứ
mình ngăn cản thì cũng không được, hơn nữa ngăn cản, tụi nó thương quá
làm bậy thì mình lại mang tội lớn đó. Như con trai của bác, lúc đầu bác cũng
có khuyên là nên kiếm người trong đạo mà lấy. Nó cũng dạ dạ, rồi sau đó đi
làm cho Đài Loan, quen với mấy đứa công nhân trong đó, rồi yêu; sau đó về
biểu cha mẹ đi cưới. Đó như vậy đó, không đi thì không được vì tụi nó yêu
nhau quá rồi, hai đứa cứ bám riết lấy nhau mà. Hiện nay, tụi nó có một đứa
con rồi, tôi làm nhà ở phía trước kia để tụi nó ở đó.
(Trích phỏng vấn số 1, PL:2)
+ Thứ hai: ý thức thực hiện lễ hôn phối của đại đa số tín đồ ở xa trung tâm
đạo không cao. Nhiều người chú trọng đến nghi thức làm lễ gia tiên trong gia đình
hơn là làm lễ hôn phối tại Thánh thất. Do đó, số tín đồ làm lễ hôn phối ở Thánh
thất không nhiều so với thực tế kết hôn của tín đồ.
Khi trao đổi về việc tuân thủ các nguyên tắc trong hôn lễ của tín đồ, đa số
chức sắc Cao Đài ở các Thánh thất đều cho rằng đây là ý thức cá nhân của tín đồ,
nếu các cá nhân đó tuân thủ sẽ tốt cho bản thân họ; còn không, chức sắc của đạo
cũng không thể có những hình thức cấm đoán, vì bên cạnh luật đạo còn luật đời;
Luật đạo dựa trên ý thức và sự tự nguyện của tín đồ, luật đời dựa trên hệ thống
204
pháp luật của Nhà nước. Tín đồ có thể không tuân thủ theo luật đạo, nhưng họ
phải tuân thủ theo luật đời. Khi đã làm đúng luật đời, luật đạo không thể can thiệp.
Tín đồ chỉ chịu trách nhiệm với bản thân và với các đấng thiêng liêng khi họ trăm
tuổi.
H: Chú làm trong Ban trị sự của Thánh thất, chú thấy tín đồ có tuân thủ theo hết
nguyên tắc của đạo không?
TL: Cái này khó nói lắm vì ý thức của mỗi người mà. Có những nguyên tắc được
đặt ra rành rành như thế, nhưng họ vẫn không thực hiện thì mình cũng chịu
thôi. Như chú nói lúc đầu, cái gì cũng có duyên số, tùy theo sự sắp đặt của
Thượng đế, nên mình cũng không thể cưỡng ép họ được, họ không thực hiện
thì mình cũng chỉ khuyên răn, nhắc nhở thôi, đâu có chế tài hay đặt hình phạt
gì với họ được, vì là tín đồ của Thầy, cùng anh em với mình mà.
H: Chú thử ví dụ xem có những điều gì mà tín đồ ít thực hiện theo nguyên tắc của
đạo nhất?
TL: Ừ, cái lễ hôn phối là ít tín đồ tuân thủ theo nhất, vì cháu biết không? Cái này
hơi khó thực hiện, nay họ không muốn thực hiện.
……….
……….
H: Những người không thực hiện theo nguyên tắc của đạo, mình có hình thức kỷ
luật nào không hả chú?
TL: Làm gì có, họ không thực hiện đúng nguyên tắc của đạo thì mình cũng chỉ
nhắc nhở thôi, nếu có tội thì họ trực tiếp chịu tội với Thầy, chứ họ đâu có
chịu tội với mình đâu mà mình kỷ luật họ. Trong việc đạo nó khác với việc
đời, nếu việc đời mình làm không đúng luật thì sẽ bị nhà nước xử lý ngay,
còn trong việc đạo thì họ tự vấn lương tâm, rồi sẽ do Thượng đế quyết định.
Mình đâu có quyền mà xử phạt họ.
(Trích phỏng vấn số 2, PL:2)
Đối với các tín đồ không thực hiện theo đúng nguyên tắc của đạo, trong nội
bộ đạo có cách nhìn nhận khác. Nguyên tắc của đạo Cao Đài, nếu thực hiện đúng
luật đạo sẽ rất tốt, nếu không vẫn được cộng đồng chấp nhận cuộc hôn lễ này, do
đó tín đồ xin “chế” để giảm bớt những lễ nghi trong hôn nhân của họ. Theo họ,
hôn lễ được tổ chức tại nhà, trước bàn thờ gia tiên là quan trọng, không thể giảm
được, nên xin giảm lễ hôn phối tại Thánh thất.
205
H: Theo bác thì có nên yêu cầu họ phải nghiêm túc thực hiện đúng luật đạo không?
TL: Nếu được thì đó là lý tưởng, nhưng bác nghĩ cũng không cần thiết lắm đâu.
Như bác nói lúc nãy, mỗi người có một cái duyên phận, khi họ đạt tới duyên
phận nhất định thì họ sẽ nghiêm chỉnh thực hành luật đạo, còn chưa thì cứ
thế mà sống. Bác nghĩ cũng không có gì xấu xa khi thực hiện các nghi lễ
truyền thống của dân tộc cả. Nhưng có hạn chế được thì càng tốt, để dần đi
vào đúng luật đạo. Như gia đình của bác đây, bác là Giáo sư của đạo, nghiêm
chỉnh thực hiện luật đạo, con gái bác là Lễ sanh, nó có cũng thực hiện khá
nghiêm chỉnh, nhưng còn đứa con trai thì nó vẫn là theo ý nó. Nó con, bên
vợ nó không có đạo, rồi thì cũng làm đầy tháng, cũng thôi nôi. Bác cũng
chấp nhận chứ sao bây giờ. Mình thấy điều đó là sai với luật đạo, nhưng nghĩ
lại thì cũng không hại gì, hơn nữa tụi nó không phải là chức sắc của đạo nên
thôi để nó muốn làm gì thì làm, miễn đừng phạm pháp là được.
(Trích phỏng vấn số 1, PL:2)
Thực tế, tín đồ Cao Đài thường ít quan tâm đến việc đôi vợ chồng có làm lễ
hôn phối ở Thánh thất hay không, họ cũng ít quan tâm đến việc đôi hôn phối có
phải là người cùng đạo hay không; nếu đôi vợ chồng kết hôn cùng đạo Cao Đài sẽ
được cộng đồng tín đồ trân trọng, khuyến khích; nếu không, họ vẫn “thản nhiên”
tham dự hôn lễ. Khi dự hôn lễ của tín đồ Cao Đài, chúng tôi cảm nhận gần như
không có sự phân biệt đối xử giữa một hôn lễ được thực hiện theo nghi thức đạo
và một hôn lễ không thực hiện theo nghi thức đạo. Nếu so đạo Cao Đài với Công
giáo, tín đồ Công giáo khắt khe hơn nếu cặp vợ chồng đó không cùng đạo, hoặc
không làm lễ kết hôn tại Nhà thờ. Tín đồ Công giáo có thể sẽ không tham dự hôn
lễ của những cặp vợ chồng không tuân thủ nguyên tắc của Công giáo trong phép
hôn phối (PL:3, NKĐD số: 3).
Từ những phân tích tư liệu trên cho thấy, tín đồ đạo Cao Đài thường biểu
hiện quan niệm thoáng, mở trong đời sống tôn giáo của họ. Họ thông cảm, bỏ qua
những trường hợp không tuân thủ nguyên tắc do tôn giáo đặt ra và xem việc tuân
thủ nguyên tắc tôn giáo trong đời sống như là một ý thức tự giác của mỗi tín đồ,
không ảnh hưởng nhiều đến mối quan hệ giữa các cá nhân trong cộng đồng tín đồ.
206
3.2.3. Giữ gìn văn hóa truyền thống
Người Việt ở Nam Bộ tuy sống giữa các dòng giao lưu văn hóa, nhưng vẫn
luôn xem trọng và giữ được văn hóa truyền thống của tộc người mình, điều đó đã
tạo nên một bản sắc văn hóa riêng của người Việt ở Nam Bộ. Bản sắc ấy được
biểu hiện qua các yếu tố như tôn trọng nghi lễ truyền thống, tín ngưỡng dân gian,
lễ hội dân gian, sự hành thiện… Trong đời sống tôn giáo của tín đồ Cao Đài ở
Nam Bộ, bản sắc này cũng được thể hiện một cách đầy đủ như:
* Giữ gìn văn hóa truyền thống trong nghi lễ
Nghi lễ truyền thống của người Việt ở Nam Bộ được biểu hiện qua các
hình thức như cúng đình, lễ - tết… và các yếu tố này cũng được biểu hiện khá đầy
đủ trong đời sống tôn giáo của tín đồ Cao Đài.
- Nghi thức cúng đình: Khi phân tích các nghi lễ tôn giáo của đạo Cao Đài,
đặc biệt là đại lễ, chúng tôi cảm nhận có sự mô phỏng theo đại lễ Kỳ yên ở các
đình thần Nam Bộ.
Chúng tôi so sánh Ban hành lễ trong đại lễ Cao Đài với Ban tế tự trong đại
lễ Kỳ yên ở Đình thần Nam Bộ, thấy có sự tương đồng đáng kể như sau:
Bảng 9: So sách Ban hành lễ của đạo Cao Đài
và Ban tế tự ở Đình thần Nam Bộ
Ban hành lễ
của đạo Cao Đài
Ban tế tự
ở Đình thần Nam Bộ
Chức sắc chứng đàn Chánh niệm hương (Chánh bái)
Chánh tế
Chức việc tiếp lễ Bồi tế
Chức việc và Ban lễ vụ Đông hiến, Tây hiến
Thị lập
Lính hầu
Chức việc hầu chuông và trống Chấp sự viên
Chức việc hầu lễ tại bàn Ngoại nghi Thầy lễ
Lễ sĩ Học trò lễ (Lễ sanh)
Ban Đồng nhi, đồng nữ Đào thài
Ban nhạc lễ Ban nhạc lễ
207
Nhiệm vụ của từng thành viên trong hai Ban này gần giống nhau. Chức sắc
Chứng đàn bên đạo Cao Đài giữ vai trò Chánh bái như Chánh niệm hương ở Đình
Thần; Lễ sĩ của đạo Cao Đài (trong giai đoạn đầu lập đạo, Ban Lễ sĩ của Cao Đài
cũng có tên là Lễ sanh như ở Đình thần) cũng có 6 người, trong đó 2 người xướng
lễ và 4 người dâng lễ giống với Học trò lễ của Đình; còn Ban đồng nhi, Ban nhạc
lễ cũng có nhiệm vụ không khác so với Đào thài, Ban nhạc lễ bên Đình.
Tiến hành lễ cũng có sự tương đồng về hình thức, nhưng khác nhau về thời
gian. Lễ cúng đình truyền thống ở Nam Bộ thường diễn ra 3 ngày, còn đại lễ của
Cao Đài chỉ diễn ra trong 2 giờ, nhưng các nghi thức kiểm đàn, nhập đàn, đọc
kinh, dâng hương, dâng lễ vật, dâng sớ… của đạo Cao Đài cũng tương tự nghi
thức soát lễ vật, tuần hương, dâng rượu, đọc văn tế, hiến quả phẩm, đốt văn tế…
trong lễ Kỳ yên ở Đình thần.
Nguyên nhân của sự tương đồng này có lẽ do tâm thức văn hóa truyền
thống của người Việt Nam Bộ được chuyển tải vào trong đời sống tôn giáo của tín
đồ Cao Đài.
Không chỉ sự tương đồng về nghi lễ, tín đồ Cao Đài cũng thực hiện nghi
thức cúng đình trong đời sống tôn giáo của họ. Tại xã Khánh Hậu, Long An đến
ngày lễ Kỳ Yên, tín đồ Cao Đài cũng như những thường dân khác, đều nhiệt tình
tham dự và đóng góp tiền của, xem đó như bổn phận trong đời sống tâm linh của
họ.
- Các nghi lễ truyền thống khác: Bên cạnh nghi thức cúng đình, tín đồ Cao
Đài vẫn tôn trọng, gìn giữ và thực hiện các nghi lễ truyền thống khác trong gia
đình như Tết đoan ngọ (mùng 5 tháng 5), đưa ông Táo (23 tháng Chạp), đón ông
bà (30 tháng Chạp), Tết nguyên đán, cúng đưa ông bà (mùng 3 tháng Giêng)… và
nghi lễ đời người như đầy tháng, thôi nôi, hôn lễ, tang lễ, giỗ… Cao Đài Minh
Chơn Lý mặc dù theo nguyên tắc “giải mê, phá tục” (không mê tín dị đoan và đả
phá các tục lệ), nhưng nhiều tín đồ của chi phái này vẫn thực hiện các nghi thức
trên trong đời sống của họ. Họ vẫn xem trọng những nghi lễ truyền thống của dân
tộc. Trao đổi về vấn đề này, chức sắc Minh Chơn Lý cho rằng, đó là ý thức của
từng tín đồ, mặc dù luật đạo đã được ban hành khá rõ trong quyển “Luật Bình
208
quân” của chi phái và giải thích lý do “giải mê, phá tục”, nhưng sự cảm nhận và
thực hiện của tín đồ hoàn toàn khác. Chi phái không có hình thức chế tài về việc
này, chỉ có khuyến khích tín đồ thực hiện theo luật đạo; còn tín đồ thực hiện
nguyên tắc của đạo đến mức nào là do ý thức của mỗi người. Đây cũng là tâm
thức độc đáo của tín đồ Cao Đài, họ lưu giữ những phong tục truyền thống vốn đã
trở thành văn hóa của dân tộc, do đó chức sắc Cao Đài Minh Chơn Lý cũng đành
phải chấp nhận dù không muốn.
H: Như vậy có nghĩa là những tục lệ của cha ông mình để lại thì nay bỏ hết hả bác?
TL: Ừ, không cần thiết phải giữ lại làm gì, vì đó là mê tín. Ví dụ như tết đưa ông
Táo, Tết mùng năm tháng 5... những cái đó là ở bên Tàu, không phải bên ta, nên
không cần theo. Đầy tháng, thôi nôi... cũng không phải bên ta nên nhất thiết là
không cần thực hiện làm gì.
H: Nhưng sao cháu thấy có nhiều gia đình theo Minh Chơn Lý mà vẫn thực hiện
những điều đó vậy Bác?
TL: Thì đó, họ vẫn còn mê muội trong cuộc sống của mình, quên đi lời Thầy dạy
nên đã làm theo cho khổ thân.
H: Như vậy mình có khuyên răn, hay có hình thức xử phạt không? Vì họ làm như
thế là phạm luật đạo rồi?
TL: Biết rằng họ phạm luật đạo rồi, nhưng cũng chỉ nhắc nhở họ thôi, chứ xử phạt
gì, vì họ là người của Thượng đế mà, có xử phạt thì ổng xử chứ mình làm gì có
quyền.
H: Quan điểm của bác về những người đó như thế nào?
TL: Thì cũng bình thường thôi, mình cũng không khắt khe gì với họ, hơn nữa cũng
là người cùng đạo; mà là người cùng đạo thì mỗi người có một cái duyên, người
này có duyên tốt thì làm tốt điều Thầy dạy, còn duyên chưa tốt, bị thế lực xấu
kêu réo, rủ rê thế thôi. Tất cả đều có duyên số và có sự sắp đặt của Thầy cả cháu
à.
(Trích phỏng vấn số 1, PL:2)
Đối với tín đồ các chi phái khác, nghi lễ truyền thống luôn được xem trọng
và được thực hiện khá đầy đủ trong đời sống tôn giáo của họ.
209
* Giữ gìn văn hóa truyền thống trong tín ngưỡng dân gian
Tín ngưỡng dân gian của người Việt ở Nam Bộ khá nhiều như thờ Thần
thành hoàng, thờ ông Táo, ông Địa, Thần tài, xin xăm, cầu an, cúng Cửu huyền
thất tổ… Tín đồ Cao Đài cũng thực hiện các tín ngưỡng này như:
- Thờ Thần thành hoàng: tín đồ Cao Đài không chỉ tin vào các đấng siêu
linh trong tôn giáo của mình mà còn tin và thờ các vị Thần thành hoàng. Trong
khuôn viên của Thánh tịnh Tam Thanh thuộc phái Tiên Thiên ở phường Khánh
Hậu (thị xã Tân An, Long An) có miều thờ Thần thành hoàng. Đây là ngôi miếu
nhỏ được xây dựng vào năm Quí Dậu (1993), nhưng rất được tín đồ Cao Đài xem
trọng và hành lễ trọng thể. Tương truyền, vị Thần thành hoàng này mang họ
Phạm, có tước hiệu Văn Minh hầu, là con rể và cũng là võ quan của Đức Tiền
quân Nguyễn Huỳnh Đức (một võ quan của Tả quân lê Văn Duyệt). Ông Phạm
từng giáng cơ, tự xưng là Thần thành hoàng và cho biết đã trở thành tín đồ Cao
Đài. Gia tộc của ông đã hiến đất để xây dựng Thánh tịnh Tam Thanh, nên miếu
của ông được xây dựng và thờ trong khuôn viên của Thánh tịnh này. Phía trước
ngôi miếu có dòng chữ “Thành hoàng miếu”, bên trong chánh điện có dòng chữ
“Thành hoàng bổn cảnh” bằng chữ Hán và được bài trí rất đẹp. Cứ 3 năm đáo lệ
một lần, đến ngày 7 tháng 2 âm lịch, toàn thể tín đồ Cao Đài Tiên Thiên thuộc
Thánh tịnh Tam Thanh và con cháu họ Phạm tổ chức cúng vị Thần thành hoàng
tại ngôi miếu này rất trọng thể. Nghi lễ cúng có Ban nhạc Cao Đài, có Hội đồng
nhi và Lễ sĩ thực hiện nghi thức “hương đăng” và dâng cúng thức chay (CT:24).
- Thờ ông Táo, ông Địa và thần Tài: Qua khảo sát của chúng tôi ở khu vực
Long An, Tiền Giang, Đồng Nai, Tây Ninh và TP. Hồ Chí Minh, hầu hết các gia
đình tín đồ Cao Đài ở đây đều thờ những vị này và thực hiện các nghi thức cúng
kiếng liên quan đến các hình thức thờ tự này. Họ cho rằng, thực hiện các nghi lễ
và thờ tự này không vi phạm luật đạo và cũng không ảnh hưởng đến đức tin tôn
giáo của họ. Họ thực hiện do truyền thống ông bà để lại, hoặc do mục đích cầu an,
cầu may mắn trong cuộc sống và trong công việc. Ngay cả chức sắc trong đạo Cao
Đài Minh Chơn Lý cũng phải thừa nhận là đạo Cao Đài ra đời chỉ hơn 80 năm,
210
còn văn hóa dân tộc đã bốn ngàn năm, nên không thể không kế thừa những tín
ngưỡng truyền thống của dân tộc.
H: Rõ ràng, trong Luật Bình quân nói rất rõ là giải mê, phá tục, nhưng khi đến một
số nhà của tín đồ Minh Chơn Lý, cháu vẫn thấy họ có thờ ông Địa, ông Thần
tài, còn thờ cả ông Táo nữa, như vậy thì có sao không?
TL:.............thì trong đạo cũng vậy, luật là như vậy, nhưng người tín đồ vẫn không
thể hiểu hết được. Hơn nữa họ cũng không thể bỏ đi truyền thống của cha
ông trước đây đã ăn sâu vào trong tư tưởng của họ rồi. Cháu thấy đó, đạo ra
đời chỉ mới có hơn 80 năm, còn văn hóa dân tộc thì có tới 4 ngàn năm, làm
sao mà trong thời gian ngắn lại có thể loại bỏ được hết những nếp nghĩ
truyền thống của dân tộc được. Hơn nữa, tín đồ Cao Đài đâu phải sống tách
biệt, mà vẫn sống trong cùng cộng đồng với những người không có đạo. Tín
đồ Cao Đài thì ít, mà người không có đạo Cao Đài thì nhiều, nên việc ảnh
hưởng và làm theo những truyền thống dân tộc là đều tất nhiên, không thể
trách khỏi được rồi.
(Trích phỏng vấn số 1, PL:2)
Chúng tôi từng đặt câu hỏi “việc thờ Thiên nhãn (thờ Ngọc Hoàng Thượng
Đế) trong gia đình và đi lễ tại Thánh thất cũng đảm bảo được việc cầu an, cầu
may mắn cho gia đình, nhưng tại sao phải thờ thêm những vị thần khác?”. Đa số
những người được hỏi đều không trả lời rõ ràng mà chỉ cho rằng, thờ theo sự cảm
nhận của bản thân, hoặc bắt chước hàng xóm, hay thờ do theo tín ngưỡng cha mẹ
để lại. Họ cũng khẳng định rất tin tưởng vào việc thờ cúng của họ, vì tin nên mới
thờ trong gia đình… Theo họ, điều này không ảnh hưởng đến niềm tin vào tôn
giáo Cao Đài. Một số chức sắc Cao Đài cũng có những ý kiến thoáng, phù hợp với
tính cách và quan điểm của con người và văn hóa Nam Bộ, khi cho rằng đây là
truyền thống tốt đẹp của ông cha để lại.
TL: Mình thờ là truyền thống của cha ông để lại. Đạo Cao Đài là đạo thâu toàn bộ
tinh hoa của các tôn giáo cũng như văn hóa dân tộc nên không có sự phân
biệt. Do đó, cháu thấy tín đồ Cao Đài gần như là vẫn giữ nguyên các phong
tục truyền thống cha ông để lại, không bỏ đi những điều tốt đẹp, những lễ
nghĩa liêm sĩ mà còn bổ sung thêm cho nó trở nên phong phú hơn. Còn việc
thờ ông Địa và ông Thần tài thì đây là văn hóa dân gian mà người Việt ở
211
phương Nam này đều thờ. Thờ ông Địa là thờ chỗ đất đai mình ở cho nó yên
ổn, còn thờ ông Thần tài thì trong nhà chú có cô bán hàng ngoài chợ nên thờ
để ổng phù hộ. Đây cũng là điều tốt thôi, vì mình có đức tin thì sẽ có người
phù hộ cho mình mà. Chú thấy những điều tốt đẹp thì mình phải giữ, không
kiêng mà sợ. Cháu không biết chứ trước đây, nhà chú còn để cả hình tượng
của chúa Jesus và Phật Thích Ca nữa đó, nhưng sau này sửa nhà rồi những
bức hình nó hư nên thôi không để nữa.
(Trích phỏng vấn số 2, PL:2)
- Cầu an, cúng Cửu huyền thất tổ, cúng sao, xin xăm là những hình thức
thường xuyên xuất hiện trong đời sống tôn giáo của tín đồ Cao Đài ở Nam Bộ.
Trong dịp lễ, tết, đặc biệt là Tết Nguyên đán và các ngày Rằm (Rằm tháng Giêng,
tháng Bảy và tháng Mười) tại các Thánh thất đều có hình thức dâng sớ cầu an cho
gia đạo. Xin xăm thường diễn ra trong 3 ngày Tết cổ truyền, cúng sao giải hạn
thường vào ngày Rằm tháng Giêng. Ngoài các hình thức, xin xăm, cúng sao giải
hạn, dâng sớ cầu bình an,… (PL:2, trích phỏng vấn số:5) tín đồ Cao Đài sau các
buổi lễ dành cho Đức Chí Tôn, thường tổ chức lễ cúng dành cho Cửu huyền thất
tổ, chiến sĩ trận vong, cô hồn quá vãng… nhằm mục đích cầu siêu để họ nhanh
được siêu thoát.
Như vậy, tín ngưỡng dân gian vẫn giữ vai trò nhất định trong đời sống tôn
giáo của tín đồ Cao Đài ở Nam Bộ. Tín đồ Cao Đài không những không đả phá
các tín ngưỡng này mà còn tham gia thực hiện. Do đó có thể khẳng định, đời sống
tôn giáo của tín đồ Cao Đài ở Nam Bộ rất phong phú.
* Giữ gìn văn hóa truyền thống trong lễ hội dân gian
Trong các lễ hội dân gian của người Việt ở Nam Bộ thường có các trò chơi,
thi thố tài năng của cá nhân, cộng đồng, hoặc trưng bày những thành tựu lao động.
Hình thức này có từ thời Pháp thuộc. Trong lễ hội dân gian của người Việt, lễ
thường đi đôi với hội; hội thường diễn ra những hình thức thi thố tài năng. Trong
các lễ hội của người Việt ở Nam Bộ mà tín đồ Cao Đài thể hiện, lễ hội Trung thu
được tổ chức trọng thể nhất.
Ngày Trung thu cũng là ngày vía của Đức Diêu Trì Kim Mẫu, nên tại Tòa
thánh và các Thánh thất Cao Đài, bên cạnh việc tổ chức lễ Hội yến Diêu Trì còn
212
có thêm hình thức hội đi kèm. Đó là việc thi tài nữ công của các nữ tín đồ bằng
hình thức làm bánh, chưng trái cây… Đây là cuộc thi được bắt nguồn từ hình thức
tổ chức hội chợ, đấu xảo của cư dân Nam Bộ trước đây.
Tại Tòa thánh Tây Ninh vào ngày 14 tháng 8 âm lịch, nữ tín đồ của các Họ
đạo đều thi đua trổ tài làm bánh, chưng hoa quả với đủ dạng, trong đó phổ biến
nhất là dạng tứ linh (Long, Lân, Qui, Phụng), phổ biến nhất là Long và Phụng.
Đây là hai con vật trong truyền thuyết được tín đồ xem trọng như là biểu trưng của
tôn giáo (Rồng biểu hiện Dương và Phụng biểu hiện Âm). Ngoài ra, người ta còn
chưng trái cây hình Đức Diêu Trì Kim Mẫu cùng chín cô tiên cưỡi trên mình chim
phụng. Tại các Thánh thất ở Đồng bằng sông Cửu Long, vào ngày lễ Diêu Trì đều
làm các loại bánh truyền thống như bánh qui, bánh thuẫn, rau câu và đặc biệt là
bánh phục linh, một loại bánh truyền thống của dân Nam Bộ, để dâng cúng.
Sau buổi thi tài nữ công của nữ tín đồ, chức sắc Cao Đài sẽ có những lời
chúc mừng ngày lễ Trung thu với toàn thể tín đồ, sau đó nhắc lại những điều mà
Đức Diêu Trì Kim Mẫu giáng cơ, khuyên nhủ về công dung, ngôn hạnh và cách
cư xử trong đời sống xã hội cho nữ tín đồ trong Họ đạo tuân thủ. Các chức sắc
cũng phát quà Trung thu cho các em nhỏ (CT:24) như truyền thống lễ tết Trung
thu (tết nhi đồng) của Nam Bộ.
* Giữ gìn văn hóa truyền thống qua Thuyền Bát nhã và nghi thức di linh
cữu
Thuyền Bát nhã là phương tiện đưa linh cữu khá đặc trưng của tín đồ Cao
Đài (H:87). Theo triết lý của Cao Đài, Thuyền Bát nhã là chiếc thuyền trí tuệ, do
pháp nhiệm của Phật tạo nên để rước chơn hồn đến miền Cực lạc.
Thuyền Bát nhã được đóng bằng gỗ, mang hình dáng của con rồng, chính
giữa mình được cất lên căn nhà làm nơi để quan tài. Chiếc thuyền được đặt trên cộ
xe bốn bánh để tiện cho việc di chuyển. Thuyền Bát nhã được điều khiển bởi Ban
nhà thuyền, gồm những nhân viên lãnh các phận sự như Tổng lái, Tổng mũi, Tổng
thương, Tổng khậu và 12 Bá trạo. Trong đó, Tổng lái tượng trưng cho Bát Quái
Đài; Tổng thương tượng trưng cho Cửu Trùng Đài; Tổng mũi tượng trưng cho
Hiệp Thiên Đài; Tổng khậu tượng trưng cho nhơn sanh, tức chơn hồn của người
213
chết; 12 Bá trạo tượng trưng cho Thập Nhị Địa chi. Khi di linh cữu, 12 vị trong
ban Bá trạo có những động tác chèo thuyền ngụ ý đưa chơn hồn về miền cực lạc.
Thông qua Thuyền Bát nhã và những nghi thức đưa linh cữu, chúng tôi có
thể nhận thấy văn hóa sông nước của vùng Nam Bộ, đặc biệt là Tây Nam Bộ,
được tái hiện khá rõ nét trong văn hóa Cao Đài. Kiến trúc của Thuyền Bát nhã
chức đựng nhiều yếu tố của kiến trúc đình chùa Nam Bộ với mái ngói vuốt cong
theo lối kiến trúc cổ truyền của người Việt; các hoạt tiết sen, rồng cũng xuất hiện
trong kiến trúc của Thuyền Bát nhã. Đặc biệt, nghi thức chèo thuyền bá trạo trong
văn hóa miền biển và loại hình hát bội truyền thống (H:94-95) được tín đồ Cao
Đài đưa vào trong nghi thức di linh cữu có thể được xem là cách giữ gìn văn hóa
truyền thống đặc sắc trong nghi thức tang ma của đạo Cao Đài.
* Giữ gìn văn hóa truyền thống qua sự hành thiện
Tính tương thân, tương ái của cư dân Nam Bộ được bộc lộ từ quá trình khai
hoang lập ấp, nhờ đó mà các tộc người ở đây đã vượt qua những khó khăn ban đầu
để xây dựng Nam Bộ trở thành vùng đất trù phú. Ngày nay, cư dân Nam Bộ cũng
luôn phát huy tinh thần ấy, trọng việc nghĩa, thương người nghèo khó, hiến đất cất
trường học, xây nhà tình nghĩa, làm cầu, làm đường…
Khi các tôn giáo ra đời tại Nam Bộ, sự tương thân này được các tôn giáo
phát huy bằng các cuộc hành thiện của chức sắc, tín đồ qua các hình thức như
chữa bệnh, phát thuốc, cứu trợ…
Tín đồ của đạo Cao Đài đa phần là cư dân gốc Nam Bộ, nên cũng biểu hiện
mạnh mẽ tính hành thiện này trong đời sống tôn giáo của họ như:
- Hành đạo: Như đã phân tích ở chương 2, việc hành đạo của tín đồ Cao
Đài là phát tâm tự nguyện nhằm xây công, bồi đức cho bản thân nên việc hành đạo
đều mang tính công đức, tương thân, tương ái, ít suy tính thiệt hơn.
H: Bác nói công quả phải có cái nền là sao hả Bác?
TL: Ý nói là công quả nhìn về mặt làm từ thiện xã hội. Ví dụ không phải vô chùa
mà làm công quả mà ta thấy bên ngoài người ta nghèo khổ thì giúp người ta,
hay là mình thấy cái cầu, con đường nó hư, mình động tâm mình sửa lại cho
nó trơn tru để giúp cho người ta, đó cũng là lòng tự nguyện của mình. Cái đó
là không vụ lợi, tôi làm nhưng không lấy tiền mà chủ yếu là phục vụ cho lý
214
tưởng của mình, cho nhân sanh và mình thực hiện cho lý tưởng tốt đẹp của
mình; công quả là lấy công sức của mình làm cái gì đó cho tốt đẹp, nhưng
không phải vô chùa mà mình làm ngoài xã hội, thì thực hiện đều đó là nền
móng.
(Trích phỏng vấn số 4, PL:2)
Tín đồ Cao Đài có thể bỏ cả công việc, tiền tài của mình để tham gia hành
đạo như lễ tang, cầu siêu, thượng tượng… ở một địa bàn xa xôi nào đó. Những
câu chuyện mà chúng tôi đã nêu ra ở chương 2 là các minh chứng cho việc xả thân
hành thiện của tín đồ Cao Đài.
- Cứu trợ: là hành động thường xuyên mà tín đồ Cao Đài thực hiện trong
cuộc sống của họ. Việc cứu trợ thường do Ban Cải quản của Thánh thất chủ
xướng, tín đồ cùng nhau đóng góp tiền của và tham gia các đợt cứu trợ. Thánh thất
Sài Gòn là một trong những nơi thường xuyên tổ chức các đợt cứu trợ cho các
đồng bào nghèo ở khu vực Tây Nam Bộ. Theo Ban Cai quản của Thánh thất này,
hàng năm có từ 2 đến 3 đợt cứu trợ. Số tiền cứu trợ mỗi đợt lên đến vài trăm triệu.
Trong tổ chức của đạo Cao Đài có thành lập Ban Phước Thiện chuyên chăm lo
việc cứu trợ và hành phước của tín đồ.
- Phòng thuốc phước thiện: Đây là công việc chủ yếu trong việc hành thiện
của tín đồ Cao Đài. Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy hầu hết các Thánh thất,
Thánh tịnh của đạo Cao Đài, đặc biệt là các Thánh tịnh thuộc phái Tiên Thiên và
Thánh thất của Minh Chơn Đạo đều có phòng thuốc phước thiện. Thuốc dùng làm
phước thiện là thuốc Nam, do tín đồ tự nguyện đóng góp. Ban Phước thiện của
Thánh thất chịu trách nhiệm bảo quản, phân loại thuốc và bốc thuốc cho dân.
Thuốc được phát miễn phí vào một ngày nhất định trong tuần. Đến ngày phát
thuốc, người dân đến phòng thuốc, khai bệnh và chờ nhận thuốc để uống trong
suốt một tuần. Công việc này được diễn ra thường xuyên tại các Thánh thất và
Thánh tịnh của đạo Cao Đài ở khu vực Nam Bộ. Một số Thánh thất còn có “trạm
xá”, gồm giường bệnh cho bệnh nhận ở xa lưu trú chữa bệnh hoặc dùng để bệnh
nhân nằm châm cứu, dưỡng bệnh tạm từ một đến hai ngày.
215
Như vậy, công tác hành thiện là đặc tính chung của cư dân Nam Bộ, trong
đó có tín đồ Cao Đài, nhằm hướng đến sự tương trợ lẫn nhau mà người dân Nam
Bộ đã xây dựng và phát triển hàng trăm năm qua.
Từ việc phân tích các tư liệu trên cho thấy, văn hóa Nam Bộ đã ảnh hưởng
đáng kể đến đời sống tôn giáo của tín đồ đạo Cao Đài. Có thể khẳng định, đạo Cao
Đài tuy cố gắng tạo ra những cái mới so với các tôn giáo khác nhằm gây sự chú ý
để thu hút đông tín đồ, nhưng về cơ bản vẫn không vượt ra khỏi bối cảnh chung
của văn hóa Nam Bộ và luôn chịu sự chi phối của văn hóa Nam Bộ. Sắc thái văn
hóa Nam Bộ luôn bao trùm lên trên đời sống tôn giáo của tín đồ đạo Cao Đài qua
các yếu tố đã phân tích như tính hỗn dung văn hóa, tính thoáng mở, tính tôn trọng
văn hóa truyền thống của dân tộc… Các yếu tố này tuy được chúng tôi phân thành
các mục mang tính riêng rẽ để khắc họa rõ sắc thái văn hóa Nam Bộ trong qua
trình phân tích tư liệu, nhưng thực tế thì không thể phân biệt một cách rạch ròi
như trên. Tính hỗn dung của văn hóa Nam Bộ cũng luôn chứa đựng sự thoáng, mở
và tôn trọng văn hóa truyền thống của tín đồ Cao Đài; hay sự tôn trọng văn hóa
truyền thống của tín đồ Cao Đài cũng chứa các yếu tố hỗn dung, thoáng mở của
văn hóa Nam Bộ.
Như vậy, việc phân tích sắc thái văn hóa Nam Bộ dưới các yếu tố hỗn
dung, thoáng, mở, tôn trọng văn hóa truyền thống trong đời sống tôn giáo của tín
đồ đạo Cao Đài chỉ mang tính tương đối nhằm chứng minh sự ảnh của văn hóa
Nam Bộ đến đạo Cao Đài.
216
KẾT LUẬN
1. Đạo Cao Đài ra đời tại Nam Bộ khi vùng đất này đã và đang được khai
phá và trở nên trù phú với nhiều tộc người sinh sống. Giữa các tộc người này đã
diễn ra quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa lâu đời và đã tạo nên vùng văn hóa
Nam Bộ với những sắc thái văn hóa hỗn dung. Trong giai đoạn đạo Cao Đài hình
thành cũng là thời kỳ Nam Bộ trở thành thuộc địa của Pháp nên văn hóa Pháp nói
riêng và văn hóa phương Tây nói chung cũng có những ảnh hưởng nhất định đến
văn hóa Nam Bộ khiến nơi đây diễn ra sự giao lưu văn hóa giữa những dòng văn
hóa Đông – Tây. Trong lúc này, phong trào Thông linh học bắt nguồn từ phương
Tây đã xuất hiện tại Nam Bộ phù hợp với phong trào cơ bút từ lâu đã có ở đây, tạo
nên sự đa dạng trong cách “tiếp xúc” thần linh của cư dân lúc bấy giờ. Thêm vào
đó, người dân Nam Bộ trong thời gian này phải chịu cảnh lầm than, đói khổ; các
phong trào khởi nghĩa bị đàn áp, xã hội nhiễu nhương, người dân cảm thấy bế tắc,
mất hết niềm tin vào cuộc sống hiện tại. Trong bối cảnh ấy, đạo Cao Đài cũng như
một số tôn giáo bản địa khác ra đời và nhanh chóng trở thành một trong những
chỗ dựa tinh thần cho một bộ phận cư dân Nam Bộ lúc bấy giờ.
2. Trong quá trình phát triển, nội bộ của đạo Cao Đài nảy sinh mâu thuẫn
và bắt đầu có sự phân hóa, chia rẽ chi phái. Mỗi chi phái của đạo ra đời và phát
triển tập trung ở một vài tỉnh, thành của khu vực Nam Bộ, nhưng đạo Cao Đài gần
như không phát triển ở miền Trung và miền Bắc. Cho đến nay đã hơn 80 năm tồn
tại và phát triển, tín đồ của đạo Cao Đài cũng chỉ tập trung chủ yếu ở các tỉnh,
thành Nam Bộ. Một số tỉnh ở miền Trung tuy có tín đồ Cao Đài hiện diện, nhưng
số lượng không đáng kể. Nguyên nhân của vấn đề này cần tiếp tục tìm hiểu,
nhưng rõ ràng tôn giáo này ra đời trong bối cảnh xã hội Nam Bộ và trụ được ở
một bộ phận cư dân không nhỏ ở Nam Bộ có lẽ do phù hợp với văn hóa và tâm lý
của người dân nơi vùng đất này.
Trong quá trình tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy một trong những lý do có thể
kiến giải vì sao tín đồ Cao Đài chỉ phổ biến chủ yếu ở Nam Bộ mà không phát
217
triển ở miền Trung và đặc biệt là miền Bắc vì cư dân miền Bắc và sau đó là miền
Trung đã có nền tảng văn hóa truyền thống lâu đời, đã hình thành vững vàng
những định chế chính trị, xã hội, văn hóa. Trong khi đó lưu dân đi khẩn hoang
Nam Bộ phải trải nghiệm cuộc sống mới trong bối cảnh xã hội, kinh tế hầu như
chưa có gì, ngoài “hành trang văn hóa truyền thống” đem theo nhưng luôn phải
thích nghi, biến đổi cho phù hợp với hoàn cảnh sống mới, người dân Nam Bộ
luôn ý thức tìm kiếm cho mình một mô thức văn hóa mới và phải chăng một trong
muôn vàn những mô hình trải nghiệm đó của mô thức văn hóa chung là các tôn
giáo bản địa, trong đó có đạo Cao Đài. Đạo Cao Đài hình thành bởi tầng lớp trí
thức Tây học trên nền tảng Nho học, được sự ủng hộ của một bộ phận điền chủ
giàu có ở Nam Bộ, hơn ai hết, các tầng lớp này muốn xác lập một tôn giáo tập hợp
đông đủ các sắc thái đời sống tinh thần đa dạng, đa văn hóa của cư dân Nam Bộ,
chính vì thế tính hỗn dung mới được thể hiện trong tôn giáo này.
3. Cũng gống như tín đồ của các tôn giáo khác, tín đồ của đạo Cao Đài xây
dựng cho mình đức tin tôn giáo. Từ đức tin đó, tín đồ Cao Đài đã có những hoạt
động tôn giáo liên quan như thờ phụng các đấng thiêng liêng trong tôn giáo, xây
dựng các tổ chức tôn giáo, thực hiện các nghi lễ tôn giáo…
- Đức tin tôn giáo: đạo Cao Đài được dựa trên nền tảng giáo lý của Phật
giáo, Công giáo, Nho giáo và Đạo giáo để xây dựng đức tin tôn giáo của mình.
Tín đồ Cao Đài tin các đấng siêu nhiên như Ngọc Hoàng Thượng đế, các vị Phật,
Tiên, Thánh, Thần… Đây là các đấng siêu nhiên đã xuất hiện trong các tôn giáo
trước, được tín đồ Cao Đài nhắc lại trong tôn giáo mình. Tín đồ Cao Đài tin vào
sự khởi nguồn của vũ trụ, tin vào nguồn gốc ra đời của con người, tin vào sự giải
thoát, sự đọa đày, tin vào ngày tận thế… mặc dù đức tin này đã được tín đồ Cao
Đài xây dựng thêm nhiều yếu tố mới mẻ và có vẻ hiện đại, nhưng nếu xét kỹ vẫn
không vượt ra khỏi tư tưởng, triết lý của các tôn giáo trước, như giải thích về
nguồn gốc vũ trụ là kết quả dựa trên tư tưởng của Đạo giáo; tin vào giải thoát, đọa
đày là dựa vào tư tưởng của Phật giáo, Công giáo; ngày tận thế trong đạo Cao Đài
cũng là ý tưởng đã có từ các tôn giáo trước đó.
218
- Tổ chức tôn giáo: Cũng dựa trên nền tảng tư tưởng của Nho giáo để xây
dựng nên tổ chức xã hội tôn giáo có thứ bậc trong Cao Đài. Thứ bậc không chỉ ở
tổ chức hiện tại mà còn thứ bậc ở tổ chức vô hình. Tính vương quyền được đề cao
với vai trò làm chủ và độc tôn của Ngọc Hoàng Thượng đế. Các vị Phật, Tiên,
Thánh, Thần của các tôn giáo trước đều được nhắc đến trong tổ chức tôn giáo của
Cao Đài, nhưng được sắp xếp với các thứ bậc khác nhau với từng vai trò và nhiệm
vụ cụ thể.
- Nghi lễ tôn giáo: Tìm hiểu nghi lễ của đạo Cao Đài, dễ dàng nhận thấy sự
hỗn dung của nó. Yếu tố Tam giáo và tín ngưỡng dân gian truyền thống luôn được
biểu hiện qua các nghi thức hành lễ của đạo. Từ bí pháp thực hiện nghi lễ đến cách
sắp xếp chỗ quì lạy của tín đồ, cách lấy dấu tam bảo, nghi thức đọc kinh, cầu
nguyện, dâng tam bảo… là sự pha trộn của nhiều tôn giáo tín ngưỡng đã tồn tại
phổ biến ở Nam Bộ.
Bên cạnh đó, các chức năng quan trọng trong đời sống tôn giáo của tín đồ
Cao Đài cũng được biểu hiện qua tổ chức tôn giáo và nghi lễ như:
- Chức năng của tổ chức tôn giáo: Tổ chức tôn giáo không chỉ có chức
năng quản lý, duy trì và phát triển tôn giáo mà còn có chức năng chuyển đổi vị thế
xã hội của cá nhân (sự thăng tiến trong tôn giáo) và khẳng định quyền lực của cá
nhân. Khi tín đồ bước vào vị trí cao trong tổ chức tôn giáo cũng là lúc vị thế của
họ trong cộng đồng tôn giáo thay đổi; và khi thăng tiến lên phẩm cao hơn thì
quyền lực của cá nhân được mở rộng. Do các chức năng này mà tín đồ Cao Đài có
nhiều người đã cố gắng tu hành, cố gắng làm công quả, cố gắng tích đức hành
thiện để từng bước đạt được những phẩm vị cao trong tổ chức tôn giáo Cao Đài.
- Chức năng của nghi lễ: Trong quá trình tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy việc
thực hiện nghi lễ của tín đồ Cao Đài luôn biểu hiện các chức năng như tái hiện lại
giáo lý tôn giáo qua các nghi thức trong buổi lễ; thể hiện niềm tin của tín đồ về sự
hiện diện của các đấng thiêng liêng trong tôn giáo của họ; và đặc biệt thể hiện
chức năng sức mạnh của cộng đồng và phản ánh đời sống trần tục của con người.
Ngoài ra, nghi lễ Thế đạo còn thể hiện chức năng chuyển đổi vị thế của cá nhân
trong xã hội tôn giáo.
219
Nếu đối chiếu với các lý thuyết Nhân học tôn giáo đã nêu ở chương 1, qua
nghiên cứu vấn đề này cho thấy, trong xã hội hiện đại, tôn giáo không chỉ thể hiện
mỗi chức năng là chỗ dựa tinh thần cho tín đồ khi họ gặp những khủng hoảng
trong cuộc số như nhận định của B. Malinowski mà còn biểu hiện nhiều chức
năng khác nhau nhằm biểu hiện niềm tin tôn giáo; duy trì sự ổn định, phát triển xã
hội và sức mạnh của cộng đồng tôn giáo trong xã hội.
4. Khi tìm hiểu về đời sống tôn giáo của tín đồ Cao Đài tại Nam Bộ, chúng
tôi nhận thấy, quan điểm lý thuyết liên quan đến Vùng văn hóa được biểu hiện khá
rõ nét, đặc biệt là các yếu tố hỗn dung, giao lưu – tiếp biến văn hóa cũng như tính
chiết trung của văn hóa Nam Bộ. Cụ thể, đạo Cao Đài tính hỗn dung văn hóa của
Nam Bộ. Khi tìm hiểu vấn đề này, chúng tôi nhận thấy, tất cả những hoạt động tôn
giáo của tín đồ Cao Đài đều bắt nguồn và có sự đan xen, chồng chéo của văn hóa
Nam Bộ. Đây là yếu tố đặc trưng của văn hóa Nam Bộ được tín đồ biểu hiện rõ
nét nhất trong đời sống tôn giáo của mình qua các yếu tố như đức tin, cách thờ tự,
lễ phục… Trong đó, đức tin được biểu hiện bởi sự dung hòa từ các tôn giáo và tín
ngưỡng dân gian đã có trước đó ở Nam Bộ; cách thờ tự biểu hiện yếu tố dung hòa
Tam giáo rõ nét; và lễ phục là sự kết hợp từ trang phục truyền thống của người
Việt với trang phục diễn xướng. Ngoài tính hỗn dung văn hóa, tín đồ Cao Đài còn
biểu hiện yếu tố thoáng, mở của văn hóa Nam Bộ trong đời sống tôn giáo của họ
qua các hình thức như cách hành đạo, lễ nhập môn, lễ hôn phối… Tín đồ Cao Đài
không câu nệ bởi các nguyên tắc cứng nhắc của giáo lý trong các hành xử tôn giáo
của họ. Họ ít quan tâm đến việc ai là người giữ đúng nguyên tắc của đạo và ai
không. Họ chỉ dựa trên tình làng, nghĩa xóm để đối xử với nhau và luôn xả thân
giúp đỡ mỗi khi được nhờ đến. Ngoài ra, trong đời sống tôn giáo của tín đồ Cao
Đài còn biểu hiện sự tôn trọng văn hóa truyền thống của dân tộc qua các hoạt
động như thực hiện các lễ nghi truyền thống, các tín ngưỡng dân gian, hành thiện
để cứu đời… Đây là những yếu tố truyền thống được người Việt nói chung và
người Việt Nam Bộ nói riêng thể hiện từ bao đời nay và tín đồ Cao Đài vẫn luôn
biểu hiện nó trong đời sống tôn giáo của họ.
220
Bên cạnh đó, tính thích nghi để tồn tại và phát triển của đạo Cao Đài cũng
được biểu hiện rõ nét. Những hoạt động trong đời sống tôn giáo của tín đồ Cao
Đài luôn hướng đến sự hòa hợp và gìn giữ văn hóa truyền thống dân tộc trong các
hoạt động tôn giáo. Những hành xử của tín đồ luôn tôn trọng văn hóa truyền
thống, mặc dù có những hành xử đôi lúc đi ngược lại với qui định của tôn giáo.
Từ kết quả nghiên cứu trên, chúng tôi đi đến kết luận:
- Đạo Cao Đài là tôn giáo bản địa do người Việt ở Nam Bộ sáng tạo nên từ
nền tảng của các tôn giáo đã có trước đó tại Nam Bộ.
- Đại Cao Đài ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu tâm linh và chỗ dựa tinh thần
của một bộ phận cư dân Nam Bộ vào nửa đầu thế kỷ XX khi người dân gặp những
khủng hoảng trong cuộc sống hiện tại bởi yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội.
- Đời sống tôn giáo của tín đồ Cao Đài thể tính hỗn dung văn hóa khu vực rõ
nét và biểu hiện các chức năng quan trọng liên quan đến đời sống thực tại của tín
đồ, như tăng cường sức mạnh, phản ánh đời sống trần tục… và luôn biểu hiện yếu
tố thoáng, mở trong hành xử tôn giáo.
- Đạo Cao Đài đã góp phần làm phong phú thêm, đa dạn cho văn hóa Nam
Bộ và được xem là tôn giáo bản địa của Nam Bộ vì phát triển chủ yếu ở khu vực
này và chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi văn hóa Nam Bộ.
Tóm lại, nghiên cứu về đời sống tôn giáo của tín đồ đạo Cao Đài đã giúp
chúng tôi phần nào hiểu được bối cảnh văn hóa Nam Bộ sau nữa đầu thế kỷ XX,
và củng cố thêm một số lý thuyết liên quan đến việc nghiên cứu văn hóa trong
ngành Nhân học. Tuy nhiên, các kết luận trên chỉ phản ánh một phần về đời sống
tôn giáo của tín đồ Cao Đài ở Nam Bộ, vì năng lực nghiên cứu và thời gian khảo
sát của chúng tôi có hạn nên còn nhiều vấn đề khác như đặc trưng văn hóa của
từng chi phái, các bí pháp hành đạo, nguyên tắc tu đạo của tín đồ từng chi phái…
vẫn còn cần phải tiếp tục nghiên cứu.
221
TÀI LIỆU THAM KHẢO
* TÁC GIẢNG TRONG NƢỚC
1. 1995. Hồ Chí Minh Toàn Tập, in lần 2, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. 1995. C. Mác – Ph. Anghen toàn tập, tập 20, NXB Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
3. 1995. Kinh tận độ, Hội thánh Truyền giáo ban hành.
4. 1995. Thánh ngôn hiệp tuyển, Pháp chánh truyền, Tân luật, Hội thánh
Truyền giáo Cao Đài tái bản
5. 2004. Đại thừa Chơn giáo, Tổ đình Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi tái bản.
6. 2006. Một số vấn đề phương pháp và lý thuyết trong nhân học, NXB Đại
học Quốc gia TP.HCM
7. Phan An (chủ biên). 1994. Những vấn đề dân tộc, tôn giáo ở miền Nam,
NXB TP. HCM
8. Đào Duy Anh. 1982. Việt Nam văn hóa sử cương, NXB TP. HCM
9. Nguyễn Thị Tâm Anh. 2004. Mối quan hệ giữa yếu tố nội sinh và ngoại
sinh trong giao lưu tiếp biến văn hóa Việt – Khmer”, tài liệu đánh máy
10. Toan Ánh. 1969. Nếp cũ – Con người Việt Nam, NXB Nam Chi Tùng
Thư, Sài Gòn
11. Toan Ánh. 1969. Nếp cũ – Hội hè đình đám, quyển thượng, NXB Nam Chi
Tùng Thư, Sài Gòn
12. Toan Ánh. 1992. Nếp cũ – Tín ngưỡng Việt Nam, quyển hạ, NXB TP.
HCM, 1992
13. Toan Ánh. 1995. Phong tục thờ cúng trong gia đình Việt Nam, NXB Tổng
hợp Đồng Tháp
14. Ban Tôn giáo chính phủ. 1992. Các văn bản của Nhà nước về hoạt động
tôn giáo (lưu hành nội bộ), Hà Nội,
15. Ban Tôn giáo chính phủ. 1993. Một số tôn giáo ở Việt Nam, Hà Nội
16. Ban Tôn giáo Chính phủ. 2005. Tài liệu phổ biến Pháp lệnh Tín ngưỡng –
tôn giáo, NXB Tôn giáo.
17. Ban Tôn giáo Chính phủ. 2007. Văn bản pháp luật Việt Nam về tín
ngưỡng, tôn giáo, NXB Tôn giáo, Hà Nội
18. Ban Cai quản Điện thờ Phật mẫu San Jose. 2001. Tiểu sử và lời thuyết
đạo của đức Thượng sanh Cao Hoài Sang, ấn hành lần thứ nhứt tại Hoa
Kỳ, http://www. caodaism. org/home. htm
222
19. Ban Cai quản Thánh Đức Tổ Đình Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi.
2003. Lịch sử Quan phủ Ngô Minh Chiêu, Cần Thơ tái bản.
20. Bộ môn Nhân học. 2006. Biến đổi kinh tế, văn hóa, xã hội của cộng đồng
người Chăm và Khmer tại TP. Hồ Chí Minh, NXB Đại học Quốc gia
TP.HCM
21. Bộ môn Nhân học. 2006. Một số vấn đề phương pháp và lý thuyết trong
nhân học, NXB Đại học Quốc gia TP.HCM
22. Phan Xuân Biên, Phan An, Phan Văn Dốp. 1991. Văn hóa Chăm, NXB
Khoa học xã hội,
23. Dƣơng Biểu. 1933. “Điều tra về phong trào tôn giáo xứ Nam kỳ”, Báo Phụ
nữ Tân Văn, số 198 – 202, từ ngày 4/5
24. Nguyễn Xuân Bính. 1999. Văn hóa dân gian: những lĩnh vực nghiên cứu
tuyển chọn và biên tập, NXB KHXH
25. Nguyễn Công Bình (chủ biên). 1990. Văn hóa cư dân Đồng bằng sông
Cửu Long, NXH KHXH
26. Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đƣờng. 1990. văn hóa và cư
dân Đồng bằng sông Cửu Long, NXB KHXH,
27. Trần Văn Bình (chủ biên) . 1996. Văn hóa dân tộc trong quá trình mở cửa
ở nước ta hiện nay, NXB Chính trị – Quốc gia
28. Nguyễn Đức Từ Chi. 2003. Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người,
NXB Văn hóa Dân tộc và Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội.
29. Vũ Minh Chi. 2004. Nhân học văn hóa – con người với thiên nhiên, xã hội
và thế giới siêu nhiên, (sách tham khảo), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
30. Huệ Chƣơng. 1929, Phu Thê Yếu Luận, Tòa-Thánh Tây-Ninh ấn hành,
http://www. personal. usyd. edu. au/~cdao/booksv
31. Huệ Chƣơng. 1929. Đại đạo truy nguyên & phu thê yếu luận, tác giả giữ
bản quyền, in tại nhà in Võ Văn Vân, http://www. caodaism. org/home.
htm
32. Phạm Kỳ Chƣởng. 1973, Đạo Cao Đài và chính trị, Luận văn tốt nghiệp
Học viện Quốc gia – Hành chính, Sài Gòn
33. Cơ quan phổ thông giáo Lý. 2005. Lịch sử đạo Cao Đài (quyển 1) – Khai
đạo, từ khởi nguyên đến khai minh, NXB Tôn giáo.
34. Trần Thanh Danh. Cao Đài xuất thế, Giám Đạo Hiệp Thiên Đài Tòa
Thánh Tây Ninh biên soạn, http://www. personal. usyd. edu.
au/~cdao/booksv
35. Chu Xuân Diên.2005. Cở sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội
223
36. Cao Quỳnh Diêu. 1970, Lễ nhạc nguyên giáp triết lý, tài liệu đánh máy
lưu giữ tại Tòa Thánh Tây Ninh, http://www. personal. usyd. edu.
au/~cdao/booksv
37. Nguyễn Văn Diệu. 1992. “Về các vị thần bảo vệ cộng đồng và các đạo
giáo ở miền Nam Việt Nam”, trong kỷ yếu Hội thảo khoa học Các Đạo
giáo ở miền Nam Việt Nam, Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam, ngày
12/12
38. Lê Anh Dũng. 1994, Con đường tam giáo Việt Nam, NXB TP. HCM
39. Lê Anh Dũng. 1995, Tìm hiểu kinh cúng tứ thời, NXB Thuận Hóa
40. Lê Anh Dũng. 1996. Lịch sử đạo Cao Đài – thời kỳ tiềm ản (1920 – 1926.
NXB Thuận Hóa
41. Lê Anh Dũng. 2001. Góp phần nghiên cứu Cao Đài, tài liệu trên
http://thienlybuutoa. org/Books
42. Lê Anh Dũng. 2004. Đất Nam kỳ – tiền đề văn hóa mở đạo Cao Đài, tài
liệu internet http://www. vae. org. vn/news_detail. asp?id=353
43. Lê Anh Dũng. 2005. Nghiên cứu văn hóa cao đài - Tư tưởng Tam giáo của
Cao Đài trong tâm thức người Việt, tài liệu trên http://thienlybuutoa.
org/Books
44. Phạm Tấn Đãi. 1961. Giải thích nội tâm và ngoại tâm đền thánh Cao Đài
Tây Ninh, sao lục y nguyên bản, Hội thánh giữ bản quyề, http://www.
caodaism. org/home. htm
45. Đinh Văn Đệ. 1992. “Đại đạo tam kỳ phổ độ”, trong kỷ yếu Hội thảo khoa
học Các Đạo giáo ở miền Nam Việt Nam, Viện nghiên cứu Phật học Việt
Nam, ngày 12/12
46. Đinh Văn Đệ. 1997. Nói chuyện Cao Đài, NXB Thuận Hóa,
47. Nguyễn Thị Đức. 1998. Văn hóa trang phục – từ truyền thống đến hiện
đại, NXB KHXH
48. Mạc Đƣờng (chủ biên). 1991. Vấn đề dân tộc ở Đồng bằng sông Cửu
Long, NXB KHXH
49. Mạc Đƣờng (chủ biên). 1995. Làng xã châu Á và ở Việt Nam, NXB TP.
HCM
50. Nguyễn Đăng Duy. 1997. Văn hóa tâm linh Nam bộ, NXB KHXH
51. Thiền Giang. 1967. Lược sử cơ bút đạo Cao Đài, Hồn quê xuất bản, Sài
Gòn
52. Trần Văn Giàu. 1993. Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ TK XIX
đến Cách Mạng Tháng Tám, tập II “Ý thức hệ Tư sản và sự thất bại của nó
trước nhiệm vụ lịch sử”, NXB TP. HCM.
53. Mai Thanh Hải. 1988. Tôn giáo thế giới và Việt Nam, NXB CAND
224
54. Mai Thanh Hải. 2006. Từ điển tín ngưỡng – tôn giáo thế giới và Việt
Nam, NXB Văn hóa – Thông tin.
55. Đinh Văn Hạnh. 1994. “Cái gốc của mấy tôn giáo ở Đồng bằng sông Cửu
Long”, trong Tạp chí Dân tộc học và Thời đại, Hội Dân tộc học Việt Nam,
Hà Nội, số 11 và 12
56. Nguyễn Văn Hầu. 1957. Việt Nam tam giáo sử, Phạm Văn Tươi xuất bản,
Sài Gòn
57. Nguyễn Trung Hậu. 1930, Đạo Đạo căn nguyên, tài liệu lưu giữ tại Toà
Thánh Tây Ninh, http://www. personal. usyd. edu. au/~cdao/booksv
58. Nguyễn Trung Hậu. 1963. Thiên đạo, nhà sách Minh Tâm xuất bản,
http://www. caodaism. org/home. htm
59. Nguyễn Trung Hậu. 2001. Đại đạo chơn lý yếu luận, Hội thánh giữ bản
quyền, http://www. caodaism. org/home. htm
60. Hƣơng Hiếu. 1995. Đạo sử, quyển 1 và 2, Hội Thánh Tòa Thánh Tây Ninh
giữ bản quyền, Thánh Thất Tộc Đạo Westminster CA – USA ấn hành năm
Ất Hợi
61. Nguyễn Hữu Hiếu. 2004. Tìm hiểu văn hóa tâm linh Nam Bộ, NXB Trẻ.
62. Lê Ngọc Hòa. 1997. Lễ hội Cao Đài Tây Ninh, Luận văn Thạc sĩ Khoa học
xã hội Nhân văn, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
63. Nguyễn Đức Hòa. 1980, Phạm Môn sử lược, Hồi ký, Tòa Thánh Tây Ninh
ấn hành
64. Hội Dân tộc học Việt Nam, Bảo Tàng Dân tộc học Việt Nam, Bộ môn
Nhân học, Khoa Lịch sử, Đại học KHXH&NVHN. 2005. Hợp tuyển tính
dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam và Đông Nam Á, Hà Nội (419).
65. Hội đồng Quốc gia Chỉ đạo Biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam.
2005. Từ điển bách khoa Việt Nam, tập 4 (T - Z). Nhà xuất bản Từ điển
bách khoa. Hà Nội
66. Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam. 2006. Những vấn đề Nhân học tôn giáo,
Tạp chí Xưa & Nay, NXB Đà Nẵng.
67. Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam. 2004. Tìm hiểu đặc trưng di sản văn
hóa văn nghệ dân gian Nam bộ, NXB Khoa học xã hội
68. Nguyễn Văn Hồng. 1999. Giới thiệu Tòa thánh Tây Ninh, Tòa thánh Tây
Ninh ấn hành, http://www. personal. usyd. edu. au/~cdao/tusachdd. htm
69. Nguyễn Văn Hồng. 2000. Giải nghĩa kinh thiên đạo & thế đạo, xuất bản
lần thứ nhứt tại Hoa Kỳ, http://www. caodaism. org/home. htm
70. Nguyễn Văn Hồng. 2003. Bước đầu học đạo - dành cho tân tín đồ Cao-
Đài, Tòa thánh Tây Ninh, http://www. personal. usyd. edu.
au/~cdao/booksv
225
71. Nguyễn Văn Hồng. 2003. Cao đài từ điển (giáo lý - triết lý - danh nhân
thành ngữ - điển tích), tác giả giữ bản quyền, http://www. caodaism.
org/home. htm
72. Bửu Kế. 1999. Từ điển Hán Việt từ nguyên, NXB Thuận hóa.
73. Đinh Văn Khá. 1975. Đại lễ vía đức Chí Tôn trong Đại đạo tam kỳ phổ độ
(Tòa Thánh Tây Ninh), tiểu luận Cao học Nhân văn, Viện Đại học Sài Gòn,
Trường Đại học Văn Khoa,
74. Đinh Gia Khánh. 1993. Văn hóa dân gian Việt Nam trong bối cảnh văn
hóa Đông Nam Á, NXB KHXH
75. Khoa Nhân học. 2008. Nhân học đại cương, NXB Đại học Quốc gia
76. Nguyễn Văn Kinh. 1970. Giảng đạo yếu ngôn, Hội thánh giữ bản quyền,
http://www. caodaism. org/home. htm
77. Nguyễn Văn Kinh. 1970. Hội lý xiển chơn luận (luỡng trùng thiên địa
pháp), Hội thánh giữ bản quyền, http://www. caodaism. org/home. htm
78. Nguyễn Bá Lăng. 1972. Kiến trúc Phật giáo Việt Nam, Đại học Vạn Hạnh
79. Hồ Lê, Huỳnh Lứa, Nguyễn Quang Vinh, Thạch Phƣơng. 1992. Văn
hóa dân gian người Việt ở Nam bộ, NXB KHXH, Hà Nội
80. Ngô Văn Lệ. 2003. Một số vấn đề về văn hóa tộc người ở Nam bộ và Đông
Nam Á, NXB Đại học Quốc gia,
81. Ngô Văn Lệ. 2004. Tộc người và văn hóa tộc người, NXB Đại học Quốc
gia TP. HCM.
82. Huỳnh Lứa (chủ biên). 1987. Lịch sử khai phá vùng đất Nam bộ, NXB
TP. HCM
83. Đặng Văn Lung. 1991. Tam tòa Thánh Mẫu, NXB Văn hóa Dân tộc
84. Huệ Lƣơng. 1963, Đại đạo tam kỳ phổ độ (Cao Đài giáo) – Sơ giản, S,
http://www. personal. usyd. edu. au/~cdao/booksv
85. Huệ Lƣơng. 2000. Chơn lý tam giáo qua Tam Kỳ Phổ Độ, tài liệu đánh
máy đang lưu giữ tại Tòa Thánh Tây Ninh¸http://www. personal. usyd. edu.
au/~cdao/books
86. Lê Hƣơng Muội (Sƣu tầm). 2000. Nghi lễ tóm lược, Tòa Thánh Tây Ninh
ấn hành, http://www. personal. usyd. edu. au/~cdao/booksv
87. Sơn Nam. 1971. Miền Nam đầu thế kỷ XX – Thiên Đại hội và cuộc Minh
Tân, NXB Phù Sa, Sài Gòn
88. Sơn Nam. 1994. Lịch sử khẩn hoang miền Nam, NXB Văn Nghệ TP. HCM
89. Huệ Nhẫn. 2004. Ngũ Chi Đại Đạo, trang web
http://community.vietfun.com/showthread.php?t=300645
90. Đào Trinh Nhất.1929. Cái án Cao Đài, Imprimerie Commerciale, Sai Gòn
226
91. Nguyễn Xuân Nghĩa. 1985. “Vài nhận xét về các phong trào tôn giáo cứu
thế ở Đồng bằng sông Cửu Long (từ cuối thế kỷ XIX đến trước năm
1975)”, tạp chí Dân tộc học, số 2
92. Trần Duy Nghĩa . 1974. Chánh trị đạo, http://www. caodaism. org/home.
htm
93. Đức Nguyên. 1995. Đạo Cao Đài & các tôn giáo lớn trên thế giới, tài liệu
lưu giữ tại Tòa Thánh Tây Ninh, http://www. personal. usyd. edu.
au/~cdao/booksv
94. Hòa Nhân. 1967. Bốn mươi năm lược sử Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (đạo
Cao Đài), tài liệu đánh máy, http://www. personal. usyd. edu.
au/~cdao/booksv
95. Nhiều tác Giả. 2000. Văn hóa Nam bộ trong không gian xã hội Đông Nam
Á, NXB Đại học Quốc gia TP. HCM
96. Phan Hữu Phƣớc. 1952. Chơn lý diệu ngôn (luật tam thể), tác giả giữ bản
quyền, http://www. caodaism. org/home. htm
97. Thạch Phƣơng. 1992. Văn hóa dân gian người Việt ở Nam bộ, NXB
KHXH
98. Lƣơng Hồng Quang. 1997. Văn hóa cộng đồng làng vùng Đồng bằng
sông Cửu Long thập kỷ 80 – 90 (qua trường hợp Bình Phú Cai Lậy Tiền
Giang), Hà Nội
99. Võ Kim Quyên. 1973. Tôn giáo và đời sống hiện đại, tập 1, 2, NXB
KHXH
100. Trần Văn Rạng. 1970. Đại đạo sử cương, quyển 1, 2, 3, 4, http://www.
personal. usyd. edu. au/~cdao/booksv
101. Trần Văn Rạng. 1971. Đại đạo bí sử, Tòa Thánh Tây Ninh ấn hành năm
Ất Mão, http://www. personal. usyd. edu. au/~cdao/booksv
102. Trần Văn Rạng. 1974. Giáo dục văn hóa đạo Cao Đài, Tòa Thánh Tây
Ninh ấn hành năm Ất Mão, http://www. personal. usyd. edu.
au/~cdao/booksv
103. Trần Văn Rạng. 1974. Lý giải quả Càn khôn (bát quái Cao Đài), Tòa
Thánh Tây Ninh ấn hành năm Ất Mão, http://www. personal. usyd. edu.
au/~cdao/booksv
104. Trần Văn Rạng. 1974. Mười hai đệ tử đầu tiên của đạo Cao Đài, Tòa
Thánh Tây Ninh ấn hành năm Ất Mão, http://www. personal. usyd. edu.
au/~cdao/booksv
105. Trần Văn Rạng. 1974. Chân dung hộ-pháp Phạm Công Tắc, Tòa Thánh
Tây Ninh ấn hành năm Ất Mão, http://www. personal. usyd. edu.
au/~cdao/booksv
227
106. Trần Văn Rạng. 1974. Chân dung Quyền Giáo tông Lê Văn Trung, Tòa
Thánh Tây Ninh ấn hành năm Ất Mão, http://www. personal. usyd. edu.
au/~cdao/booksv
107. Trần Văn Rạng. 1975. Vị thế Cao Đài Tây Ninh trong quốc sử (lịch sử
chính trị và quân sự từ 1937 – 1954), Tiểu luận Cao học sư, Viện Đại học
Sài Gòn, Trường Đại học Văn Khoa
108. Nguyễn Minh San. 1994. Tiếp cận tín ngưỡng dân dã Việt Nam, NXB Văn
hóa Dân tộc, Hà Nội
109. Nhàn Cƣ Đạo Sĩ. 2006. Lịch sử thần linh học, tài liệu trên trang web
www.personal.usyd.edu.au/~cdao/booksv
110. Nguyễn Đức Sự (chủ biên). 1999. C. Mác, Ph. Ăng-ghen về vấn đề tôn
giáo, NXB KHXH
111. Phạm Công Tắc. 1969. Phương tu đại đạo (Hiệp Thiên đài), tác giả giữ
bản quyền, http://www. caodaism. org/home. htm
112. Đồng Tân. 1967. Lịch sử Cao Đài – phần vô vi, Cao Hiên xuất bản.
113. Đồng Tân. 1972. Lịch sử Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ – Phần Phổ Độ, Cao
Hiên, Sài Gòn.
114. Đồng Tân. 1974. Tìm hiểu căn bản triết học Cao Đài, Cao Hiên xuất bản,
http://www. caodai. org. au/html/library_v. htm
115. Đồng Tân. 1980. Tổng quan Cao Đài, Cao Hiên xuất bản, http://www.
caodai. org. au/html/library_v. htm
116. Đồng Tân. 1998. Cao Đài giáo dưới sự thể hiện ban đầu – từ 1921 đến
1927, Cao Hiên hải ngoại xuất bản, http://www. caodai. org.
au/html/library_v. htm
117. Đồng Tân. 1998. Tìm hiểu đạo Cao Đài, Cao Hiên hải ngoại xuất bản,
http://www. caodai. org. au/html/library_v. htm
118. Văn Tân (chủ biên). 1994. Từ điển tiếng Việt, NXB KHXH, Hà Nội
119. Nguyễn Thành Tất. 1969. Luật lệ của ba hội lập quyền vạn linh & nội
luật Tòa thánh, Hội thánh giữ bản quyền, http://www. caodaism. org/home.
htm
120. Băng Thanh. 1930. Cải án Cao Đài, S. Xưa và Nay.
121. Cao Tự Thanh. 1996. Nho giáo ở Gia Định, NXB TP. HCM
122. Ngọc Mỹ Thanh. 1960. Cẩm nang Hành Chánh Đạo, Tòa thánh Tây Ninh,
http://www. personal. usyd. edu. au/~cdao/booksv/pccs. htm
123. Ngọc Trƣờng Thanh. 1996. Tìm hiểu đạo Cao Đài, tài liệu đánh máy
228
124. Thƣợng Lý Thanh. 1970. Thiên bàn thờ tại gia, Toà thánh Tây Ninh ấn
hành năm Canh Tuất, http://www-personal. usyd. edu. au/~cdao/tusachdd.
htm
125. Nguyễn Long Thành. 1971. Con đường của người đệ tử Cao Đài, Tòa
thánh Tây Ninh ấn hành, http://www. personal. usyd. edu. au/~cdao/booksv
126. Nguyễn Long Thành. 1972. Đời sống của tính đồ Cao Đài, Tòa thánh Tây
Ninh ấn hành, http://www. personal. usyd. edu. au/~cdao/booksv
127. Nguyễn Long Thành. 1974. Nhìn lại 50 năm lịch sử đạo Cao Đài, Tòa
thánh Tây Ninh ấn hành, http://www. personal. usyd. edu. au/~cdao/booksv
128. Nguyễn Phƣơng Thảo. 1997. Văn hóa dân gian Nam bộ – những phát
thảo, Tập tiểu luận, in lần 2
129. Trƣơng Thìn. 2005. Tôn trọng tự do tín ngưỡng, bài trừ mê tín dị đoan,
NXB Văn hóa – Thông tin.
130. Ngô Đức Thịnh (chủ biên). 1993. Vùng văn hóa và phân vùng văn hóa ở
Việt Nam của chủ biên, NXB KHXH – Hà Nội,
131. Ngô Đức Thịnh. 2004. Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam,
NXB Trẻ.
132. Đặng Thu. 1994. “Di dân của người Việt từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX”, tạp
chí Nghiên cứu Lịch Sử, Viện Sử học, Hà Nội,
133. Đỗ Lai Thúy. 2006. Theo vết chân những người khổng lồ - tân Guylivo
phiêu lưu ký về các lý thuyết văn hóa, NXB Văn hóa Thông tin – Tạp chí
Văn học Nghệ thuật Hà Nội, Hà Nội
134. Nguyễn Mạnh Tiến . 2006. Lễ hội Cao Đài nhìn từ góc độ văn hóa, Luận
văn Cao học Văn hóa học, Trường Đại học KHXH&NV Tp. HCM
135. Tòa thánh Tây Ninh. 1957. Bát đạo nghị định của đức Lý Giáo tông, Hội
thánh giữ bản quyền, http://www. caodaism. org/home. htm
136. Tòa thánh Tây Ninh. 1969. Luật lệ của ba hội lập quyền vạn linh & nội
luật Tòa thánh, ấn hành ngày 11-08
137. Tòa thánh Tây Ninh. 1969. Đạo luật, Hội thánh giữ bản quyền,
http://www. caodaism. org/home. htm
138. Tòa thánh Tây Ninh. 1970. Lời thuyết đạo của đức Hộ Pháp, quyển nhứt
(từ năm Bính Tuất - Đinh Hợi (1946-1947)), Hội thánh giữ bản quyền,
http://www. caodaism. org/home. htm
139. Tòa thánh Tây Ninh. 1972. Tân luật, Hội thánh giữ bản quyền, in tại nhà
in trung tâm giáo hóa thiếu nhi Thủ Đức, http://www. caodaism. org/home.
htm
229
140. Tòa thánh Tây Ninh. 1972. Pháp chánh truyền, Hội thánh giữ bản quyền,
in tại nhà in Trung tâm giáo hóa thiếu nhi Thủ Đức, http://www. caodaism.
org/home. htm
141. Tòa thánh Tây Ninh. 1973. Tiểu sử đức Quyền Giáo tông Thượng Trung
Nhựt (Lê Văn Trung), Hội thánh giữ bản quyền, http://www. caodaism.
org/home. htm
142. Tòa thánh Tây Ninh. 1973. Lời thuyết đạo của Đức Hộ Pháp, quyển nhì
(năm Mậu Tý (1948)), Hội thánh giữ bản quyền, http://www. caodaism.
org/home. htm
143. Tòa thánh Tây Ninh. 1973. Tiểu Sử đức quyền Giáo Tông Thượng Trung
Nhựt (Lê Văn Trung), in lần thứ nhứt năm Quý Sửu
144. Toà Thánh Tây Ninh.1973. Thánh ngôn hiệp tuyển, quyển 1
145. Tòa thánh Tây Ninh. 1974. Lời thuyết đạo của đức Hộ Pháp, quyển ba
(năm Canh Dần (1949-1950)), Hội thánh giữ bản quyền, http://www.
caodaism. org/home. htm
146. Tòa thánh Tây Ninh. 1975. Kinh thiên-đạo và thế-đạo, Hội thánh giữ bản
quyền, http://www. caodaism. org/home. htm
147. Tòa thánh Tây Ninh. 1976. Quan hôn tang lễ, Hội thánh giữ bản quyền,
http://www. caodaism. org/home. htm
148. Tòa thánh Tây Ninh. 2001. Ban thế đạo – qui điều và nội luận, Ban thế
đạo Hải ngoại, tán bản lần hai tại Hoa Kỳ, http://www. personal. usyd. edu.
au/~cdao/booksv/qdvnlbtd. htm
149. Tòa thánh Tây Ninh. 2005. Lời thuyết đạo của đức Hộ Pháp, quyển năm
(năm nhâm thìn (1952)), Hội thánh giữ bản quyền, http://www. caodaism.
org/home. htm
150. Tòa thánh Tây Ninh. 2005. Lời thuyết đạo của đức Hộ Pháp, quyển sáu
(năm Quý Tỵ - Giáp Ngọ – Ất Mùi (1953 - 1954 - 1955)), Hội thánh giữ
bản quyền, http://www. caodaism. org/home. htm
151. Tòa thánh Tây Ninh. 2005. Lời thuyết đạo của đức Hộ Pháp, “con đường
thiêng liêng hằng sống” (năm Mậu Tý và Kỷ Sửu (1948-1949)), Hội thánh
giữ bản quyền, http://www. caodaism. org/home. htm
152. Tòa thánh Tây Ninh. 2005. Lời thuyết đạo của đức Hộ Pháp, “Bí pháp”
(năm Kỷ Sửu (1949)), Hội thánh giữ bản quyền, http://www. caodaism.
org/home. htm
153. Tòa thánh Tây Ninh. 2006. Hạnh đường tài liệu - huấn luyện chức việc
bàn trị sự nam nữ, (khóa canh tuất 1970), Hội thánh giữ bản quyền,
http://www. caodaism. org/home. htm
154. Tòa thánh Tây Ninh. 2006. Hiến pháp Hiệp thiên đài, Hội thánh giữ bản
quyền, http://www. caodaism. org/home. htm
230
155. Tòa thánh Tây Ninh. 2006. Quyền tư pháp và nội trị đạo, Hội thánh giữ
bản quyền, http://www. caodaism. org/home. htm
156. Lê Anh Trà (chủ biên). 1984. Mấy đặc điểm văn hóa Đồng bằng sông
Cửu Long, Viện Văn hóa xuất bản, Hà nội
157. Huỳnh Thị Phƣơng Trang. 2008. Đạo Cao Đài hiện nay và ảnh hưởng
của nó đến đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng người Việt ở Nam
bộ, Luận án Tiến sĩ Triết học, Trường Đại học KHXH&NV Tp. HCM
158. Trƣơng Văn Tràng . 1963. Trên đường tấn hóa, nhà sách Minh Tâm xuất
bản, http://www. caodaism. org/home. htm
159. Trƣơng Văn Tràng . 1970. Giáo lý, Tác giả giữ bản quyền, http://www.
caodaism. org/home. htm
160. Huỳnh Ngọc Trảng . 1992. “Tổng quan về văn hóa Nam bộ”, tạp chí Khoa
học xã hội, số 11
161. Chu Quang Trứ. 1996. Di sản văn hóa dân tộc trong tín ngưỡng và tôn
giáo Việt Nam, NXB Thuận Hóa
162. Lê Văn Trung. 1970. Phương châm hành đạo, Hội thánh giữ bản quyền,
http://www. caodaism. org/home. htm
163. Lý Chánh Trung. 1973. Tôn giáo và dân tộc, S Lửa Thiêng
164. Nguyễn Văn Trung. 1993. Một số hiểu biết về tôn giáo – tôn giáo ở Việt
Nam, NXB Quân đội nhân dân
165. Hồ Xuân Trƣơng. 1994. Văn hóa khái niệm và thực tiễn, NXB KHXH
166. Dã Trung Tử (Sƣu tập). 2001, Lược sử khai nguyên Cao-Đài-giáo, Tư-
liệu tu-học Lưu-hành nội-bộ tại Tòa Thánh Tây Ninh, http://www.
personal. usyd. edu. au/~cdao/booksv
167. Dã Trung Tử (Sƣu tập). 2001, Sự thông công giữa con người với thế giới
siêu linh và hiện tượng cơ bút, Tư liệu tu học Lưu hành nội bộ tại Tòa
Thánh Tây Ninh, http://www. personal. usyd. edu. au/~cdao/booksv
168. Dã Trung Tử (Sƣu tập). 2002. Chơn-lý con người theo nhân-sinh-quan
của đại đạo tam kỳ phổ độ (Cao-Đài giáo), Tư-liệu tu-học Lưu-hành nội-
bộ tại Tòa Thánh Tây Ninh, http://www. personal. usyd. edu.
au/~cdao/booksv
169. Ngô Chơn Tuệ. 2008. Góp phần tìm hiểu sự ra đời của đạo Cao Đài, luận
văn Cao học chuyên ngành Lịch sử Việt Nam, Trường Đại học
KHXH&NV Tp. HCM
170. Phan Lạc Tuyên. 1991. “Ảnh hưởng của một số Đạo giáo trong nông dân
vùng Đồng bằng sông Cửu Long”, tạp chí Khoa học xã hội, Viện Khoa học
xã hội tại TP. HCM, số 9
231
171. Phan Lạc Tuyên. 1992. “Những Đạo giáo ở Nam bộ”, trong kỷ yếu Hội
thảo khoa học Các giáo phái Phật giáo ở miền Nam Việt Nam, Viện nghiên
cứu Phật học Việt Nam, tháng 9
172. Phan Lạc Tuyên. 1992. “Các đạo giáo và nông dân ở Đồng bằng Nam
bộ”, trong kỷ yếu Hội thảo khoa học Các Đạo giáo ở miền Nam Việt Nam,
Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam, ngày 12/12
173. Phan Thị Yến Tuyết. 1992. Văn hóa vật chất của các dân tộc ở Đồng bằn
sông Cửu Long, Luận án Phó Tiến sĩ Khoa học Lịch sử TPHCM
174. Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên). 1995. Bước đầu tìm hiểu đạo Cao Đài,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội,
175. Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên). 1996. Về tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam
hiện nay, NXB KHXH
176. Đặng Nghiêm Vạn. 2005. Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt
Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
177. Viện Ngôn Ngữ học. 2001. Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng và Trung
tâm Từ điển học
178. Trần Quốc Vƣợng (chủ biên). 2005. Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo
dụ, Hà Nội,
179. Nguyễn Thanh Xuân. 2004. Quá trình hình thành và phát triển đạo Cao
Đài từ năm 1926 đến năm 1975, luận án Tiến sĩ Khoa học Lịch sử, Hà Nội.
180. Nguyễn Thanh Xuân. 2005. Một số tôn giáo ở Việt Nam, NXB Tôn giáo.
181. Huệ Ý. 2000. Tìm hiểu ý nghĩa 2 chữ "Cao-Đài", tài liệu http://www.
thienlybuutoa. org/Uni/Giaoly/YNghiaCaoDai. htm
* TÁC GIẢ NƢỚC NGOÀI
182. 2004. Franz Boas, dẫn theo Encarta encyclopedia standard
183. Aiken, Warren R. 1997. Palace of the Most High. [Article] Journal of
Religion and Psychical Research. 1997. 20: (1 Ja) 35-40.
184. Algar, Liza. 2003. Looking into the Divine Eye With a second film version
of Graham Greene's The Quiet American set to open, Vietnam's Cao Dai
Great Temple is the subject of renewed interest [Article]. The Globe and
Mail, 1 February 2003.
185. Arjomand, Said Amir, [Editor]. 1993. The political dimensions of
religion. [Book] Albany : State Univ of New York Pr, 1993. xi, 293 p.
186. Belik, A. A. 2000. Văn hóa học – những lý thuyết Nhân học văn hóa, Tạp
chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội.
187. Bellah, Robert N. 2006. “Sự tiến hóa của trong giáo”, Hội Khoa học lịch
sử Việt Nam,
232
188. Biederman, Patricia Ward. 2006. Cao Dai Fuses Great Faiths of the
World [Article]. Los Angeles Times. January 7, 2006 http://www. latimes.
com/features/religion/la-me-beliefs7jan07,1,4606201.story?coll=la-news-
religion&ctrack=1&cset=true
189. Blagov, Sergei. 1999. Caodaism: Global Ambition vs Persecution. A paper
presented at CESNUR 99 conference, Bryn Athyn, Pennsylvania.
http://www. cesnur. org/testi/bryn/br_blagov. htm
190. Blagov, Sergei. 2001. Caodaism : Vietnamese traditionalism and its leap
into modernity. Huntington, N. Y. :Nova Science Publishers.
191. Blagov, Sergei. 2001. Honest mistakes : the life and death of Trình Minh
Thế (1922-1955), South Vietnam's alternative leader. Huntington, N. Y.
:Nova Science Publishers.
192. Blagov, Sergei. 2003. Culture and Thought -- Arts: Scapegoating the CIA -
-- Hollywood Attacks America in Graham Greene Remake [Article] The
Asian Wall Street Journal , 21 February 2003
193. Boas, F. 1921. Primitive Minds (Trí óc của người Nguyên Thủy), Ngô
Phương Lan dịch.
194. Bowie, Fiona. 2000. The Anthropology of Religion, Blackwell publishers,
195. Brown & Benchmark. 2000. Nhân học văn hóa – hiểu ta và người, Đại
học bang Utah
196. Burkholder, J Lawrence. 1955. There is hope for Indochina. [Article]
Theology Today. 1955. 12: 180-188.
197. Coulet. G.1929. Cultes et Religions de l’Indochine An-namite, Saigon.
198. Davey, Lucy A. (trans.). 1992. Phap-Chanh-Truyen = The Religious
Constitution of Caodaism: Religious Constitutional Laws / explained and
annotated by His Holiness Ho- Phap Pham Cong Tac, translated from
French to English by Lucy Davey with foreword by Professor Eric J.
Sharpe and introduction to English translation by Professor Garry W.
Trompf. Caodaist Association of Australia, NSW Chapter: Wiley Park,
NSW, Australia. http://www. personal. usyd. edu. au/~cdao/phapct. htm
199. Durkheim, Emile. 2006. “Định nghĩa hiện tượng tôn giáo về tôn giáo”,
Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Những vấn đề Nhân học tôn giáo, Tạp chí
Xưa & Nay, NXB Đà Nẵng
200. Emerson, Eva. 2005. On the Trail of a New World Religion. Newsroom,
USC Public Relations. http://www. usc. edu/uscnews/stories/10973. html
201. Evans, Grant. 2001. Bức khảm văn hóa châu Á – tiếp cận Nhân học, sách
dịch từ tiếng Anh, NXB Văn hóa Dân tộc.
233
202. Gobron, Gabriel. 1948. Lịch sử đạo Cao Đài (Histoire du Caodaisme).
1925 - 1937), Paris: Dervy, người dịch Nguyễn Văn Hồng, http://www.
personal. usyd. edu. au/~cdao/booksv
203. Gobron, Gabriel. 1949. Lịch sử và triết lý của đạo Cao Đài (Histoire et
Philosophie du Caodaisme), Paris: Dervy, người dịch Nguyễn Văn Hồng,
http://www. personal. usyd. edu. au/~cdao/booksv
204. Gobron, Gabriel. 1950. History and Philosophy of Caodaism: Reformed
Buddhism, Vietnamese Spiritism, new religion in Eurasia /translated from
French to English by Pham, Xuan Thai. Tu-Hai: Saigon, Vietnam.
205. Hartney Chris. 1999. Institutionalising Spiritism and Esoteric: The Case
of the Cao Dai. A paper presented at CESNUR 99 conference, Bryn Athyn,
Pennsylvania. http://www. cesnur. org/testi/bryn/br_hartney. htm
206. Hartney, Chris. 2000. A Gift to Australia: Caodaism and the Fisrt
Caodaist Temple of Australia. [ CaoDai Temple of N. S. W]: Wiley Park,
NSW Australia. http://www. personal. usyd. edu. au/~cdao/gifttoaust. htm
207. Hartney, Chris & Dao, Cong-Tam (trans. ). 2004. The Divine Path to
Eternal Life: Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống. Sydney Centre for
Studies in Caodaism: Sydney, NSW - Australia. http://www. personal.
usyd. edu. au/~cdao/hpser1. htm
208. Hartney, Chris. 2004. A strange peace : Dao Cao Dai and its
manifestation in Sydney. Thesis (Ph. D. )--Dept. of Studies in Religion,
Faculty of Arts, University of Sydney
209. Hartney, Christopher. 2003. Open temple, open eyes: viewing Caodaism.
Australian Religion Studies Review, v. 16, no. 1, Autumn 2003: 37-48.
210. Hernandez M. Leslie. 2003. Couple builds CaoDai temple in home for
daily prayer. [Article] Associated Press Newswires , 13 February 2003
211. Hesselgrave, David J, [Editor]. 1978. Dynamic religious movements :
case studies of rapidly growing religious movements around the world.
[Book] Grand Rapids : Baker Book House, 1978. 326 p
212. Kottak, Conrad Phillip. 2006. Hình ảnh nhân loại học – lược khảo nhập
môn Nhân chủng học văn hóa, sách dịch từ tiếng Anh, NXB Văn hóa
Thông tin.
213. Kroeber A.L. and Kluckhohn. 1952. Culture, a critical review of concept
and definitions, Vintage Books, A Division of Random House, New York,
214. Kroeber, A. L,. 1948. Anthropology: Race, Language, Culture,
Psychology, Prehistory. New York and Burlingame: Harcourt, Brace &
World, Inc
215. Lang, Graeme. 2004. Cultural Intrusions and Religious Syncretism:
The Case of Caodaism in Vietnam Working Papers Series, No. 65, July
234
2004 - Southeast Asia Research Centre, City University of Hong Kong.
http://www. cityu. edu. hk/searc/WP65_04_Lang. pdf
216. Malinowski, B. . 1922. Argonauts of the Western Pacific: an account of
native enterprise and adventure in the archipelagoes of Melanesian New
Guinea, London: Routledge.
217. Oliver, Victor L. 1972. Caodaism : a Vietnamese example of sectarian
development, Ph. D. thesis, Syracuse University.
218. Oliver, Victor L. 1974. Development of Caodai sectarianism. [Article]
Religion.
219. Oliver, Victor L. 1974. Caodaism : a Vietnamese socio-religious
movement. [Essay] Dynamic religious movements. Grand Rapids : Baker
Book House, 1978. 273-296
220. Oliver, Victor L. 1976. Caodai spiritism : a study of religion in
Vietnamese society / pref. by Pierre Rondot. Leiden: Brill.
221. Rambo, A Terry. 1982. Vietnam : searching for integration. [Essay]
Religions and societies. Berlin : Walter de Gruyter, 1982. 407-444.
222. Richley H. Crapo. 1993. Cultural Anthropology, The Duskin Publishing
group, 3rd
Edition
223. Robert, Layton. 1997. An Introduction to Theory in Anthropology,
Cambridge University press,
224. Rondot, Pierre. 1965. Der Caodaismus. [Article] Kairos 1965. 7: (2) 157-
158.
225. Rondot, Pierre. 1967. Der Caodaismus : ein Synkretismus aus unserer
Zeit. [Article] Kairos. 1967. 9: (3) 205-217.
226. Sarkisyanz, M. 1993. Culture and politics in Vietnamese Caodaism.
[Essay] Political dimensions of religion. Albany : State Univ of New York
Pr, 1993. 205-218.
227. Sarkisyanz, M. 1984. On the place of Caodaism Culturally and politically.
Journal of Asian History [West Germany] 1984 18(2): 174-188.
228. Shultz, Emily A. và Rob ert H. Lavenda. 2001. Nhân học – một quan
điểm tình trạng nhân sinh, sách dịch từ tiếng Anh, NXB Chính trị Quốc gia
Hà Nội.
229. Smith, R. B. 1977. “An introduction to Caodaim” trong tạp chí School of
Oriental and African stuties
230. Thompson, Richard H. 1996. Assimilation. In Encyclopedia of Social and
Cultural Anthropology, vol. 1. David Levinson and Melvin Ember, eds.
New York: Henry Holt and Company.
235
231. Titiev, Mischa. 1958. Introduction to Cultural Anthropology, New York:
Henry Holt and Co. p200
232. Tôcarev, XA. 1994. Các hình thức tôn giáo sơ khai và sự phát triển
của chúng, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
233. Tylor, E. B. 2001. Văn hóa nguyên thủy, Huyền Giang dịch từ tiếng Nga,
Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội.
234. Werner, S. Jayne. 1974. The Cao Đài: The Politics of a Vietnamese
Syncretic Religious Movement, part 1, A Thesis Presented to the Faculty of
the Graduate Shool of Cornell University for the Degree of Doctor fo
Philosophy.
235. Werner, S. Jayne. 1981. Peasant Politics and Religious Sectarianism:
Peasant and priest in the Cao Dai in Viet Nam, Monograph Series No. 23
Yale University Southeast Asian Studies.
236. William A. Haviland. 1993. Cultural Anthropology, Chapter 13: Religion
and the supernatural, p. 358; dẫn lại của Phan Thị Yến Tuyết, “chương Tôn
giáo” trong Nhân học đại cương, NXB Đại học Quốc gia TP.HCM
* CÁC TRANG WEB LIÊN QUAN
1. http://en.wikipedia.org
2. http://www.chiangmai-chiangrai.com
3. http://www.caodai.org.au
4. http://www.caodaism.org
5. www.caodaigiaoly.de
6. www.personal.usyd.edu.au/~cdao/booksv
7. www.thienlybuutoa.org
8. www.caodaism.net
9. www.caodai.org
236
CHÚ THÍCH
Chú thích 1: Trích lại từ bài giảng Văn hóa Nam Bộ và Văn hóa Việt Nam qua Tam giáo
Đồng Nguyên của PGS.TS. Phan Thị Yến Tuyết dùng để dạy cho học viên cao học
của Trường Đại học KHXH&NV (ĐHQG TP.HCM).
Chú thích 2: Thuyết tiến hóa văn hóa của E.B. Tylor là xem sự tiến hóa của văn hóa là
do sự phát triển của tâm lý con người; và văn hóa cũng có một quá trình phát triển
như của giới động, thực vật. Động lực phát triển của xã hội loài người không phải
do sản xuất quyết định mà do sự phát triển tâm lý của con người. Tâm lý của con
người càng phát triển, càng hoàn thiện thì văn hóa con người ngày một cao. Tâm lý
của con người là thống nhất, cùng một vấn đề thì con người sẽ có cách giải quyết
giống nhau. Do đó, hai dân tộc cùng tâm lý, cùng điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã
hội… thì văn hóa có thể giống nhau, mặc dù hai dân tộc này ở cách xa nhau, độc
lập với nhau. Khi văn hóa khác nhau là xã hội loài người đang ở những giai đoạn
phát triển khác nhau (mông muội, dã man và văn minh) (dẫn theo chương “Những
vấn đề chung chung Nhân học” trong giáo trình Nhân học đại cương của Bộ môn
Nhân học.
Chú thích 3: Thuyết Khuyếch tán văn hóa vay mượn từ một từ của ngành vật lý học
(diffusion) chỉ hiện tượng lan toả… Trong nghiên cứu Nhân học văn hóa, khái
niệm này có nghĩa là truyền bá, khuyếch tán những hiện tượng văn hóa thông qua
các cuộc tiếp xúc giữa các dân tộc bằng những con đường khác nhau như buôn bán,
truyền đạo, di dân, xâm lược… Thuyết này giải thích sự ra đời và phát triển của các
nền văn hóa không phải là sự tiến hóa độc lập, mà chủ yếu bằng sự vay mượn các
thành tựu văn hóa của những nền văn hóa khác nhau trên con đường lan tỏa. Sự
tương đồng giữa các nền văn hóa của các dân tộc, các quốc gia cách xa nhau là do
sự lan toả ra từ một trung tâm, nơi có nền văn hóa phát triển. Lý thuyết này được
phân tích theo các đặc điểm về không gian và thời gian của các nền văn hóa. Đại
điện cho trường phái lý thuyết này có thể kể đến như F.Ratsel, L. Frobenius, F.
Grabner… (của Đức); Wilhelm Schmidt (của Ao); W. Rivers, G. Eliot Smith, W.
Perry… (của Anh). (dẫn theo chương “Những vấn đề chung về Nhân học” trong
giáo trình Nhân học đại cương của Bộ môn Nhân học.
Chú thích 4: Ba giai đoạn trong khái niệm nghi lễ chuyển đổi được A. Van Gennep giải
thích như sau:
- Giai đoạn cách ly (trước ngưỡng) là khi con người chuẩn bị rời khỏi vị thế
đang tồn tại để bước vào một vị thế mới mà họ muốn đạt đến. Giai đoạn này, con
người buộc phải tách rời những thói quen ở địa vị cũ của mình để chuẩn bị bước
vào một địa vị mới.
- Giai đoạn chuyển tiếp (trong ngưỡng) là con người đã thật sự rời khỏi vị thế
cũ, nhưng chưa chính thức bước vào vị thế mới. Giai đoạn này không có gì rõ rệt,
chưa có vai trò cũng như chưa mang một ý nghĩa rõ ràng, nhưng rất khó khăn. Con
người ở trong giai đoạn này là sự trăn trở, phải nổ lực bản thân, phải rời bỏ những
thói quen cũ và dần tiếp những hành vi ứng xử mới trong xã hội để vươn tới một vị
thế mới khác trước.
237
- Giai đoạn hội nhập (sau ngưỡng) là giai đoạn mà con người tái hòa nhập với
xã hội bằng một vị thế mới được xác lập. Đánh dấu cho giai đoạn này là việc kết
thúc của một lễ nghi nào đó.
(dẫn theo Fiona Bowie, The Anthropology of Religion, Blackwell publishers,
2000, p. 163)
Chú thích 5: Nam Bộ gồm các tỉnh Đồng Nai, Bình Phước, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng
Tàu, Tây Ninh, TP. Hồ Chí Minh, Long An, Tiền Giang, Hậu Giang, Bến Tre, Trà
Vinh, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Đồng Tháp, An Giang, Kiên
Giang, TP. Cần Thơ.
Chú thích 6: Ngũ chi Minh Đạo, trong đó đứng đầu là chi đạo Minh Sư đã có mối dây
liên hệ chặt chẽ với đạo Cao Đài sau này. Những nhân vật như Trần Đạo Quang,
Lê Văn Lịch, Trương Kế An, Lê Minh Khá… sau này trở thành những chức sắc
cao cấp của các chi phái trong đạo Cao Đài. Đặc biệt là hình thức cầu cơ và các bài
kinh như Niệm hương, Khai kinh, Sám hối, Cầu siêu, Xưng tụng công đức… của
Ngũ chi Minh Đạo sau này được đạo Cao Đài sử dụng trong đàn lệ của mình.
Chú thích 7: Tài liệu của Đạo Cao Đài, năm 1902, trong một lần cầu thọ cho thân mẫu
và cũng muốn biết việc tiền kiếp, ông đã đến tham dự đàn Tiên của chi Minh Thiện
ở Thủ Dầu Một và được chơn linh giáng cơ cho bài kệ khuyên ông lo tu hành như
sau:
“Thủ bôi vị lễ, diệt khả thông
Trung dung hữu Đạo thị tâm không,
Đắc vọng kỳ sự giả thân du,
Minh phong khả đối giữ thành công”
Theo bài kệ này, nếu ông chăm lo tu hành thì sẽ đắc quả về sau. Trong thời gian
làm việc tại Tân An, ông thường đến đàn Hiệp Minh ở Cái Khế – Cần Thơ để cầu
Tiên, xin thuốc. Năm 1917, nhân lúc thân mẫu bệnh nặng, ông đến đàn Hiệp Minh
để cầu thuốc và được ơn trên cho toa thuốc chữa bệnh, nhờ đó, thân mẫu ông được
khỏe mạnh thêm vài năm. Sau đó bà bị đau lại, ông đến đàn Hiệp Minh để cầu
thuốc lần nữa nhưng không được ơn trên ban thuốc mà có lời ám chỉ rằng số bà đã
hết. Ông lại đến đàn Tiên của chi Minh Thiện tại Thủ Dầu Một để cầu nhưng cũng
không thành. Ông rất buồn vì hiểu là mệnh của mẹ mình sắp mãn. Quả nhiên, hai
năm sau, tức năm 1919, thân mẫu ông qua đời.
Chú thích 8: Trong thánh giáo có đoạn: "Ngày nay, Thầy đến đây, đem ba nền tôn giáo
hiệp nhứt lại, tạo một tòa lớn lao để đời đời kiếp kiếp cho nhơn sanh nương vào đó
mà lánh cơn nạn khổ thảm sầu. Ba nhà tôn giáo ấy tuy đổ sập mặc dầu, nhưng Thầy
cũng vì lòng từ bi, chọn lựa cái nào còn dùng đặng thì Thầy lấy, cái nào hư nát thì
bỏ ra, như: cột, kèo, xuyên, trính, ngói, gạch, cái nào còn nguyên thì dùng, cái nào
bể nát hay hư hao, bị mối ăn sâu đục thì bỏ ra, cây nào cong vạy thì uốn nó lại, trừ
ra uốn không nổi mới bỏ. Thầy lấy các vật ấy ráp lại thành một Tòa Đại Đạo cho
nhơn sanh sùng bái tu hành, là tòa nhà ngày nay Thầy lập thành đó." (trích theo
Cao Đài Tự điển).
Chú thích 9: Theo Cao Đài tự điển thì: Phật đạo gồm Bàlamôn, Phật giáo, Pythagore
giáo. Tiên đạo gồm Lão giáo, Dương Châu, Mặc Địch, Vạn Pháp, Bàng Môn, cho
238
tới thầy pháp thầy phù, bóng chàng đồng cốt, vv . . .Thánh đạo gồm Thiên Chúa
giáo, Tin Lành, Hồi giáo. Thần đạo gồm Trung Huê Phong Thần, Hy Lạp Phong
Thần, Ai Cập Phong Thần. Nhơn đạo gồm Socrate, Esope, Platon, v.v.... ở Hy Lạp,
Khổng Tử, Mạnh Tử, Nhị Trình giáo, v.v.... cùng Hớn Phong, Đường Thi, Tấn Tục
tại Trung Hoa.
Chú thích 10: Thánh giáo có đoạn “Vốn từ trước Thầy lập ra Ngũ chi đại đạo là: Nhơn
đạo, Thần đạo, Thánh đạo, Tiên đạo, Phật-đạo. Tùy theo phong hóa của nhân loại
mà gầy Chánh-Giáo, là vì khi trước Càn-vô đắc khán, Khôn vô đắc duyệt, thì nhơn-
loại duy có hành đạo nội tư phương mình mà thôi. Còn nay thì nhơn-loại đã hiệp
đồng. Càn-Khôn dĩ tận thức, thì lại bị phần nhiều đạo ấy mà nhơn-loại nghịch lẫn
nhau: nênThầy mới nhứt định quy nguyên phục nhứt.” (Trích Thánh Ngôn hiệp
tuyển, sđd, tr. 22).
Hoặc khi giảng giải về Tam giáo qui nguyên, Ngũ chi hiệp nhất, Hộ pháp Phạm
Công Tắc cho rằng: “Tại thời kỳ chuyển đạo vô vi hiệp tam thanh, chấn hưng Tam
giáo, phục nhứt Ngũ Chi, nên Đức Chí Tôn giáng bằng huyền diệu cơ bút, mới qui
đặng cả đại đồng Tam giáo. Bởi Nhứt Kỳ Phổ Độ và Nhị Kỳ Phổ Độ, Phật Thánh
Tiên giáng linh Tam giáo, nhơn buổi nhơn loại chưa hiệp đồng, nên ba vị Giáo chủ
phải thọ sanh riêng địa phận, nên hai kỳ khai đạo ấy chỉ phổ độ trở về cựu vị có 8
ức nguyên nhân, còn buổi Hạ nguơn Tam Kỳ Phổ Độ, là thời kỳ ấn xá tội tình cho
toàn thể chúng sanh, lại nhơn buổi văn minh nhơn loại thông đồng, Càn Khôn dĩ
tận thức, nên Đức Chí Tôn dùng huyền diệu giáng cơ khai đạo, chủ yếu là tận độ
92 ức nguyên nhân qui hồi cựu vị cho khỏi sa đọa cõi hồng trần, nên gọi là cơ quan
cứu thế. Nếu Đức Chí Tôn chia chơn linh giáng thế như các vị Giáo chủ buổi trước,
thì phải tá mẫu đầu thai, mang hình thể hữu vi, lại nữa là đạo khai trong nước Việt
Nam thì phải thọ sanh làm người Nam Việt thì có thế nào chuyển ba mối đạo khắp
ngũ châu và toàn cầu thế giới đặng. Lại nữa, nếu các dân tộc trong vạn quốc không
thể hiệp đồng sự tín ngưỡng làm một thì khó mà độ tận chúng sanh, cho nên Đức
Chí Tôn giáng bằng huyền diệu cơ bút đặng làm cho các nước để trọn đức tin rằng
một Đấng Chí Linh giáng thế cứu đời, qui tụ cả khối tinh thần của nhơn loại duy
nhứt, chỉ rõ bằng cớ như kỳ hội các tôn giáo tại Luân Đôn, thì các nước đều công
nhận nền Đạo Cao Đài là chơn thật, có thể qui nguyên đại đồng tôn giáo. Đức Chí
Tôn tuy chẳng giáng bằng xác thân, mà lại qui tụ lương sanh lập quyền Hội Thánh
thay hình thể hữu vi cho Đức Chí Tôn và lập Quyền Vạn Linh đối phó cùng quyền
Chí Linh. Ấy là cơ quan mầu nhiệm cứu vớt quần sanh, giải thoát khỏi chốn sông
mê bể khổ. Kỳ Hạ nguơn này, dầu chúng sanh có tàn bạo hung ác thế nào cũng
không làm hại xác thân của Đức Chí Tôn như các vị Giáo chủ buổi trước đây. Bởi
Quyền Vạn Linh có đủ nghị lực tinh thần lập khuôn viên luật pháp, xây chuyển cơ
đạo và cơ đời cho thuận theo lẽ tuần hoàn của Tạo hóa. Đức Chí Tôn khai đạo kỳ
thứ ba nầy giáng bằng huyền diệu cơ bút, là do Thiên thơ tiền định, chuyển đạo vô
vi, hiệp Tam giáo Ngũ Chi làm một” (trích từ Cao Đài từ điển).
Chú thích 11: Thánh giáo có đoạn “… trước Thầy lại giao Chánh- Giáo cho tay phàm,
càng ngày lại càng xa Thánh-Giáo mà làm ra cuộc Phàm-Giáo. Thầy lấy làm đau
đớn, hằng thấy gần trót mười ngàn năm, nhân-loại phải sa vào nơi tội lỗi, mạt kiếp
chốn A-Tỳ. Thầy nhứt định đến chính mình Thầy độ rỗi các con, chẳng chịu giao
Chánh-Giáo cho tay phàm nữa. Nhưng mà buộc phải tập Chánh-thể, có lớn nhỏ
239
đặng để thế cho các con dìu-dắt lẫn nhau, anh trước em sau mà đến nơi Bồng-đảo”
(Trích Thánh Ngôn hiệp tuyển, sđd, tr. 22).
Hoặc Thánh giáo trong Kinh Tam thừa Chơn giáo cũng nói lên điều này như
“Hôm nay Thầy chuyển lập Tam kỳ phổ độ để chấn hưng chánh lý đồng nguyên,
để xóa bỏ những cạnh khía ngã chấp sắc màu mà dung hiệp phần tinh ba cổ kim Âu
Á trên lập trường duy nhứt, nghĩa là xóa bỏ cái DỊ mà đem lại cái ĐỒNG giữa các
sắc giáo, để làm phương cứu thế độ hồn cho các đẳng chúng sanh thoát vòng mê
cung khổ ải.
Các con khá hiểu, tôn giáo chỉ là phương thức tổ chức, là một sự sắp đặt có
đường lối, được mệnh danh theo từng thời kỳ khai lập cho lý đạo truyền thành.
Tuy nhiên, để minh định cho cơ khai triển tinh thần, danh từ tôn giáo cũng được
đề cao trong sử độ, nhưng điều đáng quí nhứt là tinh thần đạo đức được thực dụng
rõ ràng trong mỗi hiện thân sanh chúng, mới bảo tồn cho thể thống trang nghiêm.
Giờ này, Thầy không muốn cho cả thế gian ca ngợi Thầy, hoặc xưng tụng Thầy
một cách ảo huyền, mà mong sao tất cả con cái của Thầy đã nhập vào trường Đạo,
đều lập trọn công tu, đầy lòng từ bi, bác ái, công bình. Không phân chi rẽ phái,
không biệt dị giữa tôn giáo này và tôn giáo khác, mà quan trọng là chánh lý đồng
nguyên và khắc mình trong nhiệm vụ thể Thiên hành Đạo của mỗi con có chức vụ
hoặc lớn hoặc nhỏ. Như thế các con mới làm đúng tôn chỉ của Thầy.
Xét vì thời xưa, sự giao tiếp không được giao thông trên hoàn vũ, cho nên mỗi
Giáo chủ thọ lãnh sắc chỉ nơi Thầy lập giáo từng nơi để dạy dỗ chúng sanh, cảm
hóa tục đời trở về lý đạo. Tất nhiên, mỗi hình thức tôn giáo có mang theo một bản
sắc địa phương trong quá độ. Ấy là cái dị biệt của thông quán tục truyền trong mỗi
tôn giáo, nhưng trên phương diện triết lý cao siêu, với mục đích tối thượng là
truyền phương định lập tinh thần thuần chơn khiết tịnh, để đem lại cuộc đời thuần
đức thiện lương, thì dù trên phương diện nào cũng vẫn nằm trong yếu lý.
Ngày nay, sự đi lại giữa Đông và Tây được dễ dàng, tình đời được trao đổi, lý
đạo cũng được trực tiếp cảm thông. Đáng lẽ trong trường hợp thuận tiện nầy, các
tôn giáo đều thu nhận với nhau trên quan niệm tinh thần để hiến cho thế gian một
cảm giác tinh minh và toàn diện hơn, để cùng nhau chỉnh hóa cuộc đời, đem lại
hạnh phúc thanh bình cho nhơn loại.
Nhưng than ôi! Đã không được như thế, lại vấp phải căn bịnh cạnh tranh trên
hình thức ngày một sôi nổi lên cao, làm cho nhơn loại tăng phần mạnh dạn đổ xô
vào con đường chiến tranh mâu thuẫn, mạnh được yếu thua.
Vậy tôn chỉ lập giáo của Thầy là sứ mạng của mỗi con làm cho đường đạo đức
được minh hiện rõ ràng trên phương diện thừa truyền thực thọ, để chỉnh đốn tất cả
những gì gọi là lầm lạc tội lỗi của thế gian, để nêu cao bức tranh thần hội tổng hợp
linh huyền, cho giữa các tôn giáo nhìn lại cái huyễn ngã của mình mà tầm về sự
thật.
Thầy khuyên tất cả các con hãy tránh những sự tự tôn, sự công kích hẹp hòi, sự
biện phân chia rẽ giữa nhau mà thu hồi cõi lòng an tịnh, thân yêu hòa ái, đặt theo
hướng định Thầy truyền, nhứt là những con Chức sắc, Chức việc, cần trau luyện
phẩm độ nhiều hơn, vì là biểu chánh ảnh tùy, gương trong hình sáng. Có như thế,
các con mới đủ điều kiện xây dựng cho tiền đồ Đại Đạo ngày một hanh thông sáng
tỏ và công tu hành của mỗi con khỏi phải phai nhạt theo thời gian kế hậu...”. (Dẫn
lại trong Cao Đài tự điển).
240
Chú thích 12: Trong Thánh giáo Cao Đài khi nói về Địa ngục thì có sự giải thích khác
như sau:
“Nếu các con cho Địa ngục là ở dưới đất thì lầm lắm! Trong trung tim trái đất
chỉ toàn là lửa. Vả trong vũ trụ nầy có biết bao nhiêu là trái địa cầu, những trái
thanh thì vượt nổi lên trên mà hưởng lấy khí Dương rất đỗi nhẹ nhàng sáng suốt,
còn những trái trọng trược thì lặn chìm xuống dưới mà bị lấy khí Âm rất đen tối u
minh. Vậy, nếu các con, hoặc đã phạm tội với Trời, hoặc mang đại ác với người, thì
linh hồn tất phải bị đọa xuống nơi mấy trái địa cầu mà Âm khí nặng nề khốn nạn ấy
để chịu buồn rầu, khổ cực, nhức nhối tâm hồn, xốn xang trí não. Đó là Nhân quả,
nghiệp chướng, oan gia của các con đã tạo gieo, nó theo các con mà hành phạt lấy
các con, chớ không có cưa xẻ, trừng trị như người ta hiểu lầm, thường gọi là Thập
Điện Diêm Vương đâu. Những cõi ấy, linh hồn nào rủi ro bị đọa lạc vào thì càng
ngày càng thêm mê muội, tối tăm mãi mãi. Ôi! Khốn khổ biết bao! Thầy khó tả ra
những sự đọa đày trải qua của các linh hồn phạm tội phải cam chịu trong mấy cõi
ấy” (Trích từ Cao Đài tự điển)
Chú thích 13: Trích trong Bát đạo nghị định, do Tòa thánh Tây Ninh ấn hành năm 1957.
Chú thích 14: Ở Truyền giáo Cao Đài, tín đồ sau khi lấy dấu Phật, Pháp, Tăng xong chỉ
niệm ba câu: Nam mô Tam giáo, Tam trấn; và Nam mô chư Phật, Tiên, Thánh,
Thần. Còn Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi thì chỉ niệm một câu là Nam mô Cao
Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
Chú thích 15: Trích sớ dâng trong ngày đại lễ thành lập đạo 15/10 âm lịch.
Chú thích 16: Trong đạo Cao Đài, một năm có đến 11 ngày đại lễ.
Chú thích 17: Chi phái Cao Đài Truyền giáo, hàng năm cứ đến đêm 23 tháng Chạp âm
lịch, họ tổ chức buổi lễ có tên là “sám hối chung niên” hay còn gọi là “quỳ hương”.
Mục đích của buổi lễ là xin Thượng đế tha cho họ những lỗi lầm mà họ mắc phải
trong năm.
Chú thích 18: Nước lạnh được đựng trong bình gốm đặt trên Thiên bàn trong khi làm lễ.
Chú thích 19: Đây là phép thuộc về bí truyền chơn pháp của đạo, chỉ có người đứng đầu
Họ đạo hoặc ngang phẩm Giáo sư trở lên mới được học.
Chú thích 20: Trích băng phỏng vấn về lễ hôn phối của một chức sắc phái Truyền giáo
Cao Đài do chúng tôi thực hiện.
Chú thích 21: Sách này do phái Tây Ninh ấn hành năm 1975.
Chú thích 22: Dạng bí tích của đạo nhằm dùng phép trừ khử những ô uế, trược điển
đang có trong áo, mão và đưa một vị thần đến trấn giữ áo – mão, không cho tà quấy
xâm nhập vào để quấy phá (tư liệu điền dã của tác giả).
Chú thích 23: Nguồn từ Lễ Sanh Ngọc Chia Thanh, Văn phòng Lễ viện của Tòa thánh
Tây Ninh.
241
Chú thích 24: Ghi lại từ bài viết “Động thái đời sống nghi lễ - lễ hội truyền thống và
hiện đại trong một cộng đồng cư dân (trường hợp xã Khánh Hậu – thị xã Tân An –
tỉnh Long An) của PGS.TS. Phan Thị Yến Tuyết.
Chú thích 25: Nhị thập là 12, con số của Thượng đế. Ý nói, nói 12 đồ vật này tượng
trưng cho Thượng đế là đấng thiêng liêng tạo dựng nên trời đất, do đó mà gọi là
Thập nhị khai thiên.
Chú thích 26: Bài nói chuyện của GS. Trần Văn Khê về “Tính dân tộc của nhạc lễ Cao
Đài” tại Thánh thất Từ Vân – Phú Nhuận. Bài này được Lê Anh Dũng ghi lại và
đăng trong Tạp chí Xưa và Nay số 66B tháng 8/1999.
Chú thích 27: 12 vị Bảo quân này có nhiệm vụ riêng biệt sau:
- Bảo Huyền Linh quân lo về thần học
- BảoThiên Văn quân lo về thiên văn học
- Bảo Địa Lý quân lo về địa lý
- Bảo Học quân lo về vấn đề học vấn
- Bảo Cô quân lo về vấn đề cô nhi
- Bảo Sanh quân lo về vấn đề xã hội
- Bảo Y quân lo về vấn đề y tế
- Bảo Văn Pháp quân lo về nghệ thuật, âm nhạc
- Bảo Sĩ quân lo về vấn đề văn học
- Bảo Nông quân lo về vấn đề nông nghiệp, trồng trọt
- Bảo Công quân lo về vấn đề hoạt động công nghiệp
- Bảo Thương quân lo về vấn đề buôn bán
Chú thích 28: Cơ quan Phước Thiện là bước phát triển của tổ chức Phạm môn - tổ chức
Phạm môn do Hộ pháp Phạm Công Tắc sáng lập vào năm Kỷ Tỵ (1929) nhằm mục
đích tập hợp nhân lực xây dựng công quả cho Hộ pháp. Nhưng sự tồn tại của tổ
chức Phạm môn không được chức sắc cao cấp trong Hội thánh chấp nhận nên đến
sau Đại hội Nhơn sanh ngày 19-10 năm Mậu Dầu (10-12-1938), tổ chức Phạm môn
được đổi tên là Cơ quan Phước thiện. Trong các Thánh giáo của đạo Cao Đài vào
năm 1950, nói về Cơ quan Phước thiện như sau1:
"Phước Thiện là cơ quan bảo tồn sanh chúng trên đường sanh hoạt nuôi sống
thi hài, tức là cơ quan giải khổ cho chúng sanh, tầm phương bảo bọc những kẻ tật
nguyền, cô độc, dốt nát, ít ỏi, hoặc giúp tay cho bên Hành Chánh thi hành luật
pháp cho đặng dễ dàng trọn vẹn. Chơn truyền của Phước thiện là thay thế cho Chí
Tôn và Phật Mẫu thực hành cơ cứu khổ bằng phương pháp là: Làm cha những kẻ
không cha, làm mẹ những kẻ không mẹ, làm anh những kẻ không anh, làm bạn
những kẻ thiếu bạn, làm chồng làm vợ những kẻ không vợ không chồng, trong sự
thương yêu cao quí và trong sự giúp đỡ chơn thành. Có vậy mới có thể thực hành
cơ quan cứu khổ của Đức Chí Tôn để nơi mặt thế nầy." (Trích Thánh giáo của Đức
Cao Thượng Phẩm tại Qui Thiện Đường ngày 26-10-Canh Dần 1950)
"Phương pháp ấy rất đơn giản và cũng rất dễ làm, nếu ai có thiện tâm thương
yêu nhơn loại, dầu cho kẻ yếu hay tật nguyền cũng có thể làm được, đừng nói chi
kẻ trí thức là phải thực hành chương trình xã hội thuần tuý này. Phải cho cơm
những kẻ thiếu cơm, cho thuốc những kẻ bịnh thiếu thuốc, cho hàn những kẻ không
242
hàn chôn, chở che những kẻ bị đàn áp bất công, binh vực những kẻ bị chúng hiếp,
an ủi những kẻ buồn rầu, khuyến khích những kẻ toan thối bước, độ những kẻ khổ
tâm, lau nước mắt những kẻ cô độc đang khóc trước mặt mình. Tóm lại là phải tự
hiến mảnh thân làm con tế vật cho Đức Chí Tôn để làm toi đòi cho con cái của
người sử dụng, trong việc đem hạnh phúc đến cho họ, để thực hành trọn vẹn cơ
quan giải khổ của Đại Từ Phụ." (Trích Thánh giáo của Bát Nương tại Qui Thiện
Đường ngày 26-10-Canh Dần 1950).
Chú thích 29: 12 cấp của Cơ Quan Phước Thiện có nhiệm vụ như sau:
- Minh đức được xem là phẩm đang trau dồi đức hạnh để trở thành hiền
tài.
- Tân dân được xem là phẩm đã từ bỏ thói hư tật xấu của người đời, biết
trau dồi đức hạnh và biết sửa mình.
- Thính thiện là phẩm trong sạch trong tinh thần, tai luôn nghe và tâm
luôn cảm nhận những việc lành hầu phân biệt chánh tà, thiện ác.
- Hành thiện là phẩm đang làm việc thiện để cứu khổ những kẻ đang lao
tâm, tật nguyền, bệnh hoạn…
- Giáo thiện là phẩm đi dạy việc thiện cho người, cứu giúp nhơn sanh tiền
đường Thiên lý.
- Chí thiện là phẩm chỉ người có phẩm hạnh cao nhất của đường thiện, đã
trở thành người thiện hoàn toàn.
- Đạo nhơn là phẩm còn đang học đạo và hành pháp ; phải về Hội thánh
để thọ Tân Pháp bí truyền.
- Chơn nhơn là phẩm đã được theo Tân Pháp nên phải đi hành đạo đúng
theo Tân pháp để cứu giúp nhơn sanh.
- Hiền nhơn là phẩm đã diệt được thất tình, không còn nhiễm trần thế, cõi
lòng đã thanh tịnh.
- Thánh nhơn là phẩm đã thông 3 giới (Thượng giới, Trung giới, Hạ giới)
và sẽ đi khai đạo một nơi để phổ độ chúng sanh.
- Tiên tử là phẩm sáng suốt hoàn toàn, học đủ lục thông và vâng lệnh Đức
Chí Tôn để làm giáo chủ nhơn loại.
- Phật tử là ngôi vị cao nhất đồng quyền cùng Đức Chí Tôn để cai quản cả
Thần, Thánh, Tiên, Phật trong vũ trụ.
Chú thích 30: Trong thực tế, từ phẩm Hiền nhơn trở lên đến Phật tử đến nay vẫn chưa
có người đạt được. Do đó, chỉ có 8 phẩm đầu từ Minh đức đến Chơn nhơn là đã có
người đảm trách. Những phẩm vị này chịu sự quản lý trực tiếp của Chi đạo thuộc
cơ quan Hiệp Thiên Đài. Tám phẩm vị này lập nên một Hội thánh, gọi là Hội thánh
Phước thiện. Đứng đầu Hội thánh là một vị Thời quân Chi đạo với vai trò là Thống
quản cơ quan Phước thiện. Cơ quan Phước thiện được xem là cơ quan "Cửu Trùng
Đài" của Hiệp Thiên Đài, do chức sắc cao cấp của Hiệp Thiên Đài lập nên. Việc
tuyển chọn nhân sự của cơ quan Phước thiện mang tính rộng rãi, phổ quát giống
với cơ quan Cửu Trùng Đài. Khi vào hành đạo trong cơ quan Phước thiện, phẩm vị
cũng sẽ được thăng tiến theo luật công cử từ phẩm Minh đức đến Chơn nhơn. Việc
tuyển chọn nhân sự của Cơ quan Phước Thiện, Đạo luật năm Mậu Dần (1938) có
ghi "Bất luận nam hay nữ, ai ai cũng đặng dưới quyền tuyển chọn vào Phước Thiện
của Đạo, hoặc người có Đạo, hoặc người chưa có Đạo, muốn vào Phước Thiện thì
phải lập Tờ Hiến thân trọn đời, xin làm công quả cho cơ sở Phước Thiện. Những
243
Chức sắc hay là Chức việc đương quyền hành chánh mà muốn hiến thân làm công
quả vào cơ sở Phước Thiện thì phải có giấy chứng nhận do đẳng cấp trật tự mình
mới đặng. Còn tín đồ thì phải có giấy chứng tánh hạnh tốt của Bàn Trị Sự cho thì
bên Phước Thiện mới thâu nhận. Người nào mới nhập vào Phước Thiện cũng phải
khởi đầu làm công quả theo hạng Minh Đức" (Theo Đạo luật của Cơ quan Phước
thiện ban hành năm Mậu Dần (1938), chương 2, điều 10).
Chú thích 31: Bộ Pháp chánh được thành lập ngày 15-10 năm Đinh Hợi (27-11-1947) do
ngài Khai pháp Trần Duy Nghĩa nhận nhiệm vụ Chưởng quản Tòa đạo đã lập nên.
Chú thích 32: Nhiệm vụ của các chức sắc Bộ Pháp chánh được phân định như sau:
- Luật sự: Muốn được đứng vào hàng Luật sự, tín đồ phải tập sự một năm. Luật
sự có bổn phận hành sự tại các văn phòng các chi (Pháp, Đạo, Thế) của Hội thánh
Hiệp Thiên Đài. Người giữ phẩm vị Luật sự có hai bộ đạo phục là đại phục và tiểu
phục. Bộ đại phục là áo dài trắng, hai bên vai có dấu hiệu Tam giáo và Cổ pháp;
trên Cổ pháp có Cân công bình, đầu đội Nhựt Nguyệt Mạo. Bộ tiểu phục là áo dài
trắng có 6 nút, lưng mang dây nịt trắng. Đầu đội Khôi Nguyên mão, trước mão có
thêu Thiên nhãn, có dấu hiệu Cổ pháp, trên Cổ pháp có thêu Cân Công bình và hai
chữ Luật sự. Luật sự muốn lên phẩm Sĩ tải phải có đủ 5 năm công nghiệp với chức
vụ (kể luôn một năm tập sự) và có chứng minh tra công nghiệp.
- Sĩ tải: Có phận sự minh tra công nghiệp cầu phong, cầu thăng. Có nhiệm vụ
thẩm vấn chư Lễ sanh, Giáo thiện, Chức việc, Đạo hữu nam nữ khi phạm pháp. Có
trách nhiệm giữ gìn hồ sơ lưu trữ. Được bổ dụng hành sự pháp chánh tại địa
phương. Khi hành sự, Sĩ tải có hai bộ lễ phục là đại phục và tiểu phục giống với đại
phục và tiểu phục của Luật sự, nhưng trên Khôi Nguyên mạo của tiểu phục có thêu
hai chữ Sĩ tải. Sĩ tải muốn được thăng lên phẩm Truyền trạng phải có đủ năm năm
công nghiệp và có sự minh tra.
- Truyền trạng: Có phận sự thu nhận các đơn trạng và vâng lệnh ban hành các
án tiết của Tòa đạo Hiệp Thiên Đài. Trong lúc hành đạo tại Bộ Pháp chánh thì được
lãnh nhiệm vụ là minh tra công nghiệp chư chức sắc, chức việc nam nữ trong các
cơ quan đạo; có quyền thẩm vấn chức sắc, chức việc và đạo hữu bị truy tố. Được
đứng đầu văn phòng cho chư vị Thời quân. Truyền trạng khi hành đạo cũng có hai
bộ lễ phục. Bộ đại phục giống Sĩ tải, nhưng trên Khôi Nguyên mạo của tiểu phục
có thêu hai chữ Truyền trạng. Người giữ phẩm Truyền trạng muốn thăng lên Thừa
sử phải có đủ 3 năm công nghiệp và có sự minh tra.
- Thừa sử: có nhiệm vụ hòa giải giữa tiên cáo và bị cáo; làm trưởng phòng
Minh tra và thẩm vấn; được phụ tá Thời quân dự Hội Nhơn sanh và Hội Phước
Thiện để bảo thủ luật pháp; được làm quản văn phòng cho chư vị Thời quân. Khi
hành sự, Thừa sử cũng có hai bộ lễ phục giống Truyền trạng, nhưng trên Khôi
Nguyên mạo của tiểu phục có thêu hai chữ Thừa sử. Người giữ chức Thừa sử muốn
thăng phẩm Giám đạo phải có đủ ba năm công nghiệp và có sự minh tra.
- Giám đạo: có phận sự thanh tra về mặt luật pháp trong các cơ quan Chánh Trị
đạo từ Trung ương đến địa phương khi có thượng lịnh; được quyền thay mặt Hội
thánh Hiệp Thiên Đài giao tiếp với các tôn giáo khi có lịnh; được quyền thay mặt
Bộ Pháp chánh bảo thủ luật pháp nơi các phiên Đại hội của Hội thánh Cửu Trùng
Đài và Hội thánh Phước Thiện; được cầm quyền Pháp chánh một Trấn đạo khi có
thượng lịnh; có quyền điều tra lại các vụ khiếu nại; được quyền là, giảng viên các
khóa huấn luyện chức sắc về mặt luật pháp khi có sự yêu cầu của Hội thánh Cửu
244
Trùng Đài; được làm Tổng Quản Văn phòng cho chư vị Thời quân. Khi hành sự,
Giám đạo có hai bộ lễ phục giống với Thừa sử, nhưng trên Khôi Nguyên mạo của
tiểu phục có thêu hai chữ Giám đạo. Người giữ phẩm vị Giám đạo muốn lên Cải
trạng phải có đủ ba năm công nghiệp và có sự minh tra.
- Cải trạng: có nhiệm vụ biện hộ trong các phiên tòa của đạo; có quyền xin đình
xử các phiên tòa nếu cần điều tra bổ sung; được quyền làm giảng viên về luật pháp
tại hạnh đường nếu có yêu cầu của Hội thánh Cửu Trùng Đài; được quyền thay mặt
Bộ Pháp chánh bảo thủ luật pháp trong các phiên đại hội của Hội thánh và Phước
thiện; được quyền giao tiếp với các tôn giáo khác khi có thượng lịnh. Khi hành sự,
Cải trạng cũng có hai bộ lễ phục như Giám đạo, nhưng trên Khôi Nguyên mạo của
tiểu phục có thêu hai chữ Cải trạng. Người giữ phẩm Cải trạng muốn lên Chưởng
ấn phải có đủ 3 năm công nghiệp và phải có sự minh tra.
- Chưởng ấn: có nhiệm vụ chủ tọa các phiên Tòa đạo của Hiệp Thiên Đài khi
có đề nghị của Bộ Pháp chánh và có sự chấp thuận của Hộ pháp; được quyền làm
Trưởng phòng Kiểm án và quyết định thu hay bác bỏ những đơn khiếu nại hay
thượng tố. Khi làm phận sự, Chưởng ấn cũng có hai bộ lễ phục, nhưng khác với các
cấp dưới. Đại phục là mặc áo dài trắng; đầu đội Nhật Nguyệt Mạo; Lưng buộc dải
lụa trắng, dưới có hai tụi trắng; chân mang giày trắng. Bộ tiểu phục là mặc trường y
trắng có 6 nút, lưng buộc đường lụa trắng, dưới có hai tụi trắng; đầu đội Hỗn
Nguơn Mạo, trước mạo có thêu Cổ pháp và chữ Chưởng ấn; chân mang giày trắng.
Người giữ phẩm vị Chưởng ấn muốn lên Tiếp Dẫn Đạo nhơn phải có đủ ba năm
công nghiệp và phải có sự minh tra.
- Tiếp Dẫn Đạo nhơn: có nhiệm vụ phổ truyền chơn đạo ở nước ngoài và được
quyền đi dự hội nghị quốc tế khi có chỉ định. Khi làm nhiệu vụ, Tiếp Dẫn Đạo
nhơn có hai bộ lễ phục là đại phục và tiểu phục giống với Chưởng ấn, nhưng trên
Hỗn Nguơn mạo có thêu hai Tiếp Dẫn Đạo nhơn. Khi người giữ phẩm vị Tiếp Dẫn
Đạo nhơn có công phổ độ chơn đạo ở một nước nào đó mà có bằng chứng cụ thể
thì lúc trở về Tòa thánh sẽ được cầu thăng vào hàng Thập Nhị Thời quân khi có
khuyết vị.
Bộ Pháp chánh có quyền tương đối rộng như bảo thủ chơn pháp của đạo; lập các
Tòa đạo để xử những người vi phạm luật pháp của Đạo, từ hàng Đạo hữu đến chức
sắc Cửu Trùng Đài và Hội thánh Phước thiện (Riêng chức sắc Hiệp Thiên Đài vi
phạm luật thì có Ban Kỷ luật Hiệp Thiên Đài sửa trị); có quyền minh tra công
nghiệp của chức sắc Cửu Trùng Đài và Phước thiện để thăng phẩm vị cho họ.
Chú thích 33: Ban Thế đạo do Hộ pháp Phạm Công Tắc lập ra theo Thánh ý của Đức Lý
Giáo tông, Ý nghĩa việc thiết lập Ban Thế đạo, theo Cao Đài từ điển là "Có nhiều
bậc ưu thời mẫn thế, sẵn có đạo tâm, giàu lòng nhân ái, muốn phụng sự Đại Đạo,
nhưng còn ràng buộc trách nhiệm đối với quốc gia xã hội, chưa phế đời hành Đạo
được. Ban Thế đạo là nơi dụng hiền, tạo cơ hội cho những bậc có đạo tâm thực
hành thiện nguyện ấy". Ban Thế đạo là cơ quan thuộc về phần đời, bắt nguồn từ
cửa đạo, xuất phát làm dây nối liền cho đạo đời tương đắc tương liên, ngỏ hầu tạo
lập một đời sống thanh bình cho nhơn loại trong thời chuyển thế. Trích trong Bản
điều qui của Ban Thế đạo được ban hành ngày 28-2-At Tỵ (13-3-1965).
Chú thích 34: Nhiệm vụ của các phẩm vị trong Ban thế đạo như sau:
- Hiền tài : là bậc trí thức (có bằng tú tài trở lên) có tuổi từ trên 40, hoặc trên
21 tuổi (gọi là Sĩ phu). Những người này được chọn từ hàng Đạo hữu trong đạo
245
hoặc những người có học lực khá và có khả năng phát triển kinh tế làm nên sự
nghiệp như các nghiệp chủ, điền chủ, thầu khoán… đã ít nhiều giúp ích cho đạo.
Để được đứng vào phẩm Hiền tài, người đó phải có học vấn, đầy đủ đức hạnh, có
công với đạo và phải được Hội thánh Hiệp Thiên Đài chọn lựa, tấn phong. Lễ phục
của Hiền tài là áo dài trắng, đội khăn đóng đen, mang dấu hiệu Cổ pháp Giáo tông
nơi ngực và có thêm hai chữ Hiền tài. Trong giờ hành lễ, Hiền tài đứng trên phẩm
Lễ sanh và dưới phẩm Giáo hữu.
- Quốc sĩ : Để được đứng vào hàng Quốc sĩ phải có các điều kiện như từ bậc
Hiền tài, có đầy đủ đức hạnh, có công giúp đạo và đời, được công chúng hoan
nghênh và có văn bằng chứng nhận công đức của mình; hoặc các bậc công sĩ có
công nghiệp lớn đối với quốc gia, dân tộc, có bằng chứng nhận cụ thể; hay những
người có chức vụ như Thứ trưởng, Bộ trưởng, tướng lĩnh… hoặc có học vị cao như
Thạc sĩ, Tiến sĩ… có thiện tâm với đạo, kỳ công trợ đời. Phẩm Quốc sĩ sẽ do Hội
thánh Hiệp Thiên Đài tuyển chọn và dâng lên quyền Thiêng liêng quyết định. Lễ
phục của Quốc sĩ giống với Hiền tài, nhưng thêu hai chữ Quốc sĩ ngay cổ pháp
Giáo tông. Khi hành lễ, Quốc sĩ giữ địa vị trên Giáo hữu nhưng dưới Giáo sư.
- Đại phu: là phẩm vị từ hàng Quốc sĩ đi lên, nhưng phải là người đầy đủ đức
hạnh, dày công giúp đạo về việc phổ thông giáo lý và giúp đời về mặt thu phục
nhân tâm ; hoặc những người có chức vụ là nguyên thủ quốc gia, có thiện tâm giúp
đạo. Phẩm Đại phu cũng do Hội thánh Hiệp Thiên Đài tuyển chọn và quyền Thiêng
liêng quyết định. Lễ phục của Đại phu cũng giống với Quốc sĩ, nhưng bịt khăn
đóng đen chín lớp chữ nhất; cổ pháp trên ngực có thêu hai chữ Đại phu. Khi hành
lễ, Đại phu giữ địa vị trên Giáo sư và dưới Phối sư.
- Phu tử: là phẩm đi lên từ Đại phu, nhưng phải có tài "an bang tế thế"; hoặc
những người khổ hạnh phổ truyền chơn giáo, dìu độ toàn dân một nước hay nhiều
nước. Phẩm Phu tử cũng giống với Đại phu, phải do Hội thánh Hiệp Thiên Đài
tuyển chọn và quyền Thiên liêng quyết định. Lễ phục của Phu tử giống Đại phu,
nhưng thêu hai chữ Phu tử bên cổ pháp. Khi hành lễ, Phu tử giữ địa vị trên Phối sư,
nhưng dưới Đầu sư.
Chức sắc của Ban Thế đạo khi lãnh nhiệm vụ trọng trách do Hội thánh Hiệp
Thiên Đài giao phó, chức sắc Ban Thế đạo sẽ được mặc trường y sáu nút như tiểu
phục của chức sắc Hiệp Thiên Đài.
Chú thích 35: Nhiệm vụ của các phẩm vị trong Ban Quyền Thập ngũ Linh đăng như sau:
- Đầu sư được chia thành ba chi Thái, Thượng, Ngọc; trong đó Thái Đầu sư lo
về công phu (cúng lạy, lễ bái, nghi thức, thủ bổn, bộ đạo, nhập môn, bái mạng, cấp
bằng…); Thượng Đầu sư lo về công quả (tạo tác, tu sửa, chỉnh trang, thực phẩm,
lương thực…); Ngọc Đầu sư lo về công trình (hội thảo, khóa, lớp bồi dưỡng giáo
lý, chức sắc, chức việc, đạo tràng, giao tiếp, kỷ luật, hòa giải…)
- Tứu bửu lo về lương thực, chiêu đãi, bút mực văn phòng. Chịu sự quản lý
của Đầu sư.
- Ngũ hành giúp Ngọc Đầu sư lo đạo tràng, giao tiếp, hòa giải, kỷ luật, hội
thảo, giáo lý,… giúp Thái Đầu sư về lễ bái.
Chú thích 36: Hội đồng Chưởng quản gồm 16 vị chức sắc giữ các chức vụ như 1 Cố
vấn, 2 Chánh Hội trưởng, 3 Phó Hội trưởng (có 1 vị ở cấp Tiểu Tòa thánh), 1
Chánh Thư ký, 2 Phó Thư ký, 2 Kiểm soát viên, 5 Thành viên cơ sở,
246
Chú thích 37: Ban Cai quản Tiểu Tòa thánh gồm 9 người với các chức vụ như 1 Cố vấn,
1 Trưởng ban, 1 Phó Trưởng ban, 1 Thư ký, 1 Thư bổn, 1 Lễ viện, 2 Phụ trách Đạo
tràng, 1 Kiểm soát viên.
Chú thích 38: Ban Cai quản và nghi lễ ở Thánh thấ gồm 7 người với các chức vụ như 1
Trưởng ban, 2 Phó Trưởng ban, 1 Thư ký, 1 Thư bổn, 1 Lễ viện, 1 Phụ trách Đạo
tràng.
247
PHỤ LỤC 1
QUYẾT ĐỊNH CÔNG NHẬN CÁC CHI PHÁI CAO ĐÀI
248
Phụ lục 1 – QĐ số 1
ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH CẦN THƠ
--------- Số: 1562/QĐ.CT.HC.96
CỘNG HÕA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
Cần Thơ, ngày 27 tháng 7 năm 1996
QUYẾT ĐỊNH CỦA CHỦ TỊCH UBDN TỈNH CẦN THƠ
V/v công nhận tư cách pháp nhân
của Hội thánh Cao Đài Chiếu Minh Long Châu
CHỦ TỊCH UBND TỈNH CẦN THƠ
- Căn cứ Luật tổ chức HĐND và UBND ngày 21/6/1996;
- Căn cứu Nghị định số 69/HĐBT ngày 21/3/1991 của Hội đồng Bộ trưởng (nay
là Chính phủ);
- Theo công văn số 222/CV-TGCP ngày 24/7/1996 của Ban Tôn giáo Chính phủ;
- Xét đơn của Hội thánh Cao Đài Chiếu Minh Long Châu và ý kiến của Ban Dân
vận Tỉnh ủy, Ban Tôn giáo tỉnh Cần Thơ;
QUYẾT ĐỊNH
Điều 1: Nay công nhận tư cách pháp nhân của Hội thánh Cao Đài Chiếu Minh
Long Châu. Hội thánh hoạt động trong khuôn khổ pháp luật của Nhà nước và nội dung
của Hội thánh được thông qua tại Đại hội Nhơn sanh ngày 1/5/1996 (nội luật kèm theo
quyết định này).
Điều 2: Công nhận các chức sắc được cử vào Ban Thường trực và các Ban của
Hội thánh Cao Đài Chiếu Minh Long Châu (do Đại hội Nhơn sanh bầu ra, đính kèm danh
sách).
Điều 3: Chánh Văn phòng UBND tỉnh, Trưởng Ban Tôn giáo tỉnh, Trưởng Ban
Tổ chức chính quyền tỉnh, Chủ tịch UBND huyện, TP. Cần Thơ, các chức sắc Ban
Thường trực Hội thánh Cao Đài Chiếu Minh Long Châu chịu trách nhiệm thi hành Quyết
định này kể từ ngày ký./.
KT. CHỦ TỊCH UBND CẦN THƠ
PHÓ CHỦ TỊCH
Bùi Hữu Trí
(đã ký)
249
Phụ lục 1 – QĐ số 2
BAN TÔN GIÁO
CỦA CHÍNH PHỦ
--------- Số: 39 QĐ/TGCP
CỘNG HÕA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
Hà Nội, ngày 02 tháng 8 năm 1996
QUYẾT ĐỊNH V/v công nhận tư cách pháp nhân
của Hội thánh Cao Đài Minh Chơn Đạo Hậu Giang
TRƢỞNG BAN TÔN GIÁO CỦA CHÍNH PHỦ
- Căn cứ Nghị định số 37/CP ngày 04 tháng 6 năm 1993 của Chính phủ về nhiệm
vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Ban Tôn giáo của Chính phủ;
- Căn cứ Nghị định số 69/HĐBT ngày 21/3/1991 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là
Chính phủ) qui định về các hoạt động tôn giáo;
- Xét đề nghị của Hội thánh Cao Đài Minh Chơn Đạo Hậu Giang tại văn thư số
02/VH-HT ngày 13/4/1996;
- Theo ý kiến của Ủy ban Nhân dân tỉnh Minh Hải tại công văn số 275 CV/UB
ngày 19/4/1996;
- Thừa ủy quyền của Thủ trưởng Chính phủ tại Thông báo số 68/NC ngày
30/3/1996 của Văn phòng Chính phủ;
QUYẾT ĐỊNH
Điều 1: Chấp thuận Hội thánh Cao Đài Chơn Đạo Hậu Giang hoạt động theo
đường hướng hành đạo đã được thông qua tại Hội Nhân sanh ngày 3/4/1996 và theo
chính sách, pháp luật của Nhà nước (có bản đường hướng hành đạo kem theo).
Điều 2: Chấp thuận nhân sự chức sắc Thượng hội gồm 14 (mười bốn) người,
chức sắc Ban Thường trực Hội thánh gồm 7 (bảy) người (có danh sách kèm theo).
Điều 3: Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có tín đồ,
chức sắc Cao Đài Minh Chơn Đạo Hậu Giang, chức sắc phụ trách Thượng hội và chức
sắc Trưởng ban Thường trực Hội thánh Cao Đài Minh Chơn Đạo Hậu Giang chịu trách
nhiệm thi hành Quyết định này.
Điều 4: Quyết định này có hiệu lực từ ngày ký./.
Q.TRƢỞNG BAN
Vũ Gia Tham
(đã ký)
250
Phụ lục 1 – QĐ số 3
BAN TÔN GIÁO
CỦA CHÍNH PHỦ
--------- Số: 10 QĐ/TGCP
CỘNG HÕA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
Hà Nội, ngày 24 tháng 9 năm 1996
QUYẾT ĐỊNH V/v công nhận tư cách pháp nhân tổ chức
Giáo hội Đại đạo Tam kỳ Phổ độ Cao Đài Tây Ninh
TRƢỞNG BAN TÔN GIÁO CỦA CHÍNH PHỦ
- Căn cứ Nghị định 69/HĐBT ngày 21 tháng 03 năm 1991 của Hội đồng Bộ
trưởng (nay là Chính phủ) qui định về hoạt đông tôn giáo;
- Căn cứ Nghị định 37/CP ngày 04 tháng 6 năm 1993 của Chính phủ về nhiệm vụ,
quyền hạn và tổ chức bộ máy của Ban Tôn giáo của Chính phủ;
- Xét kết quả Đại hội Đại biểu Cao Đài Tây Ninh ngày 5 tháng 4 năm 1997 (tại
Văn thư số 80/72 – HĐCQ – VT ngày 8/7/1997 của Ban Tổ chức Đại hội đại biểu Cao
Đài Tây Ninh);
- Theo đề nghị của Ủy ban Nhân dân tỉnh Tây Ninh (tại công văn số 64/CV-UB
ngày 22 tháng 4 năm 1997;
- Thừa Ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ tại Thông báo số 68/NC ngày 30
tháng 3 năm 1996 của Văn phòng Chính phủ;
QUYẾT ĐỊNH
Điều 1: Chấp thuận Giáo hội Đại đạo Tam kỳ Phổ độ Cao Đài Tây Ninh hoạt
động trong khuôn khổ pháp luật của nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam theo
Hiến chương và Điều lệ cầu phong, cầu thăng theo Luật công cử đã được thông qua tại
Đại hội Đại biểu Cao Đài Tây Ninh ngày 5 tháng 4 năm 1997 (có bản Hiến chương và
Điều lệ cầu phong, cầu thăng theo luật công cử kèm theo).
Điều 2: Chấp thuận nhân sự chức sắc và các chức vụ của cơ quan Thường trực
Hội thánh Đại đạo Tam kỳ Phổ độ Cao Đài Tây Ninh (gọi là Hội đồng Chưởng quản)
gồm: 52 người (có danh sách kèm theo).
Điều 3: Chủ tịch Ủy ban Nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương –
nơi có tín đồ, chức sắc Đại đạo Tam kỳ Phổ độ Cao Đài Tây Ninh và chức sắc cơ quan
Thường trực Hội thánh Đạo đạo Tam kỳ Phổ độ Cao Đài Tây Ninh (gọi là Hội đồng
Chưởng quản) chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.
Điều 4: Quyết định này có hiệu lực từ ngày ký./.
Q. TRƢỞNG BAN
Vũ Gia Tham
(đã ký)
251
Phụ lục 1 – QĐ số 4
BAN TÔN GIÁO
CỦA CHÍNH PHỦ
--------- Số: 26 QĐ/TGCP
CỘNG HÕA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
Hà Nội, ngày 08 tháng 8 năm 1997
QUYẾT ĐỊNH V/v công nhận tư cách pháp nhân tổ chức
Giáo hội Hội thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo
TRƢỞNG BAN TÔN GIÁO CỦA CHÍNH PHỦ
- Căn cứ Nghị định 69/HĐBT ngày 21 tháng 03 năm 1991 của Hội đồng Bộ
trưởng (nay là Chính phủ) qui định về hoạt đông tôn giáo;
- Căn cứ Nghị định 37/CP ngày 04 tháng 6 năm 1993 của Chính phủ về nhiệm vụ,
quyền hạn và tổ chức bộ máy của Ban Tôn giáo của Chính phủ;
- Xét kết quả Đại hội Đại biểu Nhơn sanh Hội thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo
ngày 8/7/1997 (tại văn thư số 03/TĐN/BBT ngày 10/7/1997 của Ban Vận động);
- Theo đề nghị của Ủy ban Nhân dân tỉnh Bến Tre (tại công văn số 710CV/UB
ngày 25/7/1997);
- Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ tại Thông báo số 68/NC ngày 30
tháng 3 năm 1996 của Văn phòng Chính phủ;
QUYẾT ĐỊNH
Điều 1: Chấp thuận cho Hội thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo hoạt động theo Hiến
chương và Luật công cử chức sắc đã được thông qua tại Đại hội Đại biểu Nhơn sanh
ngày 8/7/1997 (có bản Hiến chương và Luật công cử chức sắc kèm theo).
Điều 2: Chấp thuận nhân sự chức sắc lãnh đạo Hội thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo
được suy cử tại Đại hội Đại biểu Nhơn sanh ngày 8/7/1997 (có danh sách kèm theo).
Điều 3: Chủ tịch Ủy ban Nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương –
nơi có tín đồ, chức sắc Cao Đài Ban Chỉnh Đạo và chức sắc Ban Thường trực Hội thánh
Cao Đài Ban Chỉnh Đạo chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.
Điều 4: Quyết định này có hiệu lực từ ngày ký./.
TRƢỞNG BAN
Lê Quang Vịnh
(đã ký)
252
Phụ lục 1 – QĐ số 5
BAN TÔN GIÁO
CỦA CHÍNH PHỦ
--------- Số: 51 QĐ/TGCP
CỘNG HÕA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
Hà Nội, ngày 08 tháng 8 năm 1997
QUYẾT ĐỊNH V/v công nhận tư cách pháp nhân của Hội thánh Cao Đài Tiên Thiên
TRƢỞNG BAN TÔN GIÁO CỦA CHÍNH PHỦ
- Căn cứ Nghị định 37/CP ngày 04 tháng 6 năm 1993 của Chính phủ về nhiệm vụ,
quyền hạn và tổ chức bộ máy của Ban Tôn giáo của Chính phủ;
- Căn cứ Nghị định 69/HĐBT ngày 21 tháng 03 năm 1991 của Hội đồng Bộ
trưởng (nay là Chính phủ) qui định về hoạt động tôn giáo;
- Xét đề nghị của Ban Vận động, Ban Cố vấn Cao Đài Tiên Thiên tại Văn thư số
102/TT-BVĐ ngày 12/2/1995 và Văn thư số 129/TT-BVĐ ngày 28/3/1995;
- Căn cứ ý kiến của Ủy ban Nhân dân tỉnh Bến Tre tại Công văn số 130/CV-UB
ngày 28/02/1995;
- Thừa Ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ tại Thông báo số 3693/NC ngày 06
tháng 7 năm 1995 của Văn phòng Chính phủ;
QUYẾT ĐỊNH
Điều 1: Công nhận Tôn chỉ, Mục đích cơ cấu tổ chức Giáo hội, nội dung và phạm
vi hoạt động tôn giáo trong khuôn khổ Pháp luật Nhà nước của Hội thánh Cao Đài Tiên
Thiên ghi trong Hiến chương đã được thông qua tại Hội Vạn linh ngày 08 tháng 02 năm
1995 và Hội nghị Ban Vận động, Ban Cố vấn ngày 28 tháng 3 năm 1995 (Hiến chương
kèm theo Quyết định này).
Điều 2: Công nhận nhân sự chức sắc được suy cử vào cơ quan Thượng hội và
Ban Thường trực Hội thánh Cao Đài Tiên Thiên (danh sách kèm theo Quuyết định này).
Điều 3: Chủ tịch Ủy ban Nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi
có tín đồ, chức sắc Cao Đài Tiên Thiên, chức sắc phụ trách Thượng hội và Chức sắc
Trưởng ban Thường trực Hội thánh Cao Đài Tiên Thiên chịu trách nhiệm thi hành Quyết
định này.
Điều 4: Quyết định này có hiệu lực từ ngày ký./.
Q. TRƢỞNG BAN
Vũ Gia Tham
(đã ký)
253
Phụ lục 1 – QĐ số 6
ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH KIÊN GIANG
--------- Số: 60/TB-UB
CỘNG HÕA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
Kiên Giang, ngày 08 tháng 7 năm 1998
QUYẾT ĐỊNH CỦA UBDN TỈNH KIÊN GIANG
V/v công nhận tư cách pháp nhân tổ chức
Hội thánh Bạch Y Liên Đoàn Chơn Lý
- Căn cứ Luật tổ chức HĐND và UBND (sửa đổi) được Quốc hội nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam ban hành ngày 5/7/1994;
- Căn cứu Nghị định số 69/HĐBT ngày 21/3/1991 của Hội đồng Bộ trưởng (nay
là Chính phủ) quy định các hoạt động tôn giáo;
- Thừa ủy quyền cũa Ban Tôn giáo của Chính phủ (Công văn số 258/TGCP-V3
ngày 29/6/1998 của Ban Tôn giáo của Chính phủ);
QUYẾT ĐỊNH
Điều 1: Nay chấp thuận Hội thánh Bạch Y Liên Đoàn Chơn Lý (gọi tắt là CĐBY)
trụ sở tại Tòa thánh Ngọc Kinh – xã Mong Thọ B - huyện Châu Thành có tư cách pháp
nhân được hoạt động tôn giáo – xã hội trong khuôn khổ pháp luật của nước Cộng hòa Xã
hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
Điều 2: Chấp thuận Hiến chương, Luật công cử và 36 vị lãnh đạo Hội thánh đã
được Đại hội Đại biểu Hội thánh Bạch Y Liên Đoàn Chơn Lý thông qua ngày 13/3/1998
(có Hiến chương - Luật công cử, danh sách 36 vị lãnh đạo Hội thánh kèm theo).
Điều 3: Ông Chánh văn phòng HĐND và UBND tỉnh, Trưởng Ban Tôn giáo tỉnh,
Chủ tịch UBND các huyện thị, các ngành chức năng có liên quan và Hội thánh Bạch Y
Liên Đoàn Chơn Lý chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.
Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký./.
TM. UBND TỈNH KIÊN GIANG
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Huỳnh Vĩnh Ái
(đã ký)
254
Phụ lục 1 – QĐ số 7
BAN TÔN GIÁO
CỦA CHÍNH PHỦ
--------- Số: 16/2000/QĐ-TGCP
CỘNG HÕA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
Hà Nội, ngày 14 tháng 3 năm 2000
QUYẾT ĐỊNH V/v công nhận tổ chức và hoạt động của Hội thánh Cao Đài Chơn Lý
TRƢỞNG BAN TÔN GIÁO CỦA CHÍNH PHỦ
- Căn cứ Nghị định số 276/1999/NĐ-CP ngày 19 tháng 4 năm 1999 của Chính
phủ về các hoạt động tôn giáo;
- Được sự ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ (tại Thông báo số 68/NC ngày 30
tháng 3 của Văn phòng Chính phủ);
- Xét kết quả Đại hội Nhơn sanh Cao Đài Chơn Lý ngày 21 tháng 1 năm 200 (tại
đơn xin cấp tư cách pháp nhân Cao Đài Chơn Lý ngày 25 tháng 1 năm 200 của Ban Vận
động);
- Theo đề nghị của UBND tỉnh Tiền Giang (tại Công văn số 91/CV-UB ngày 01
tháng 02 năm 2000 về việc Ban Vận động Cao Đài Chơn Lý xin công nhận tư cách pháp
nhân tổ chức Giáo hội);
QUYẾT ĐỊNH
Điều 1: Chấp thuận tổ chức Hội thánh Cao Đài Chơn Lý hoạt động theo Hiến
chương và Đường hướng Hành đạo đã được thông qua tại Đại hội Nhơn sanh ngày 21
tháng 1 năm 2000 (có bản Hiến chương và Đường hướng Hành đạo kèm theo).
Điều 2: Chấp thuận nhân sự chức sắc Ban Thập Ngũ Linh Đăng và Hội đồng
Chưởng quản của Giáo hội Cao Đài Chơn Lý đã được suy cử tại Đại hội Nhơn sanh ngày
21 tháng 1 năm 2000 (có danh sách kèm theo).
Điều 3: Các ông Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có
tín đồ, chức sắc Giáo hội Cao Đài Chơn Lý và các ông chức sắc (theo danh sách nói trên)
chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.
Điều 4: Quyết định này có hiệu lực từ ngày ký./.
TRƢỞNG BAN
Lê Quang Vịnh
(đã ký)
255
Phụ lục 1 – QĐ số 8
BAN TÔN GIÁO
CỦA CHÍNH PHỦ
--------- Số: 40 QĐ/TGCP
CỘNG HÕA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
Hà Nội, ngày 24 tháng 9 năm 1996
QUYẾT ĐỊNH V/v công nhận tư cách pháp nhân
của Hội thánh Truyền giáo Cao Đài
TRƢỞNG BAN TÔN GIÁO CỦA CHÍNH PHỦ
- Căn cứ Nghị định số 37/CP ngày 04 tháng 6 năm 1993 của Chính phủ về nhiệm
vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Ban Tôn giáo của Chính phủ;
- Căn cứ Nghị định số 69/HĐBT ngày 21/3/1991 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là
Chính phủ) qui định về các hoạt động tôn giáo;
- Xét đề nghị của Ban Vận động tổ chức Hội Nhân sinh Truyền giáo Cao Đài tại
Văn thư số 053/BVĐTC ngày 16 tháng 7 năm 1996.
- Xét đề nghị của Ban Tôn giáo tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng tại công văn số
27/TT-TC ngày 27 tháng 8 năm 1996.
- Thừa ủy quyền của Thủ trưởng Chính phủ tại Thông báo số 68/NC ngày
30/3/1996 của Văn phòng Chính phủ;
QUYẾT ĐỊNH
Điều 1: Chấp thuận Hội thánh Truyền giáo Cao Đài hoạt động theo đạo quy đã
được thông qua tại Hội Nhân sinh ngày 15 tháng 7 năm 1996 và theo chính sách, pháp
luật của Nhà nước (có bản Đạo quy kèm theo).
Điều 2: Chấp thuận nhân sự chức sắc Hội đồng Lưỡng đài Hội thánh: 05 (năm)
người, chức sắc lãnh đạo Tòa pháp Chánh Hiệp Thiên đài: 03 (ba) người, Tòa Nội chánh
Cửu Trùng đài: 04 (bốn) người và cơ quan Nữ phái Hội thánh: 01 (một) người (có danh
sách kèm theo).
Điều 3: Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương – nơi có tín
đồ, chức sắc Truyền giáo Cao Đài, chức sắc Hội đồng Lưỡng đài Hội thánh Truyền giáo
Cao Đài chịu trách nhiệm thi hàng Quyết định này.
Điều 4: Quyết định này có hiệu lực từ ngày ký./.
Q.TRƢỞNG BAN
Vũ Gia Tham
(đã ký)
256
Phụ lục 1 – QĐ số 9
BAN TÔN GIÁO
CỦA CHÍNH PHỦ
--------- Số: 199/2000/
QĐ-TGCP
CỘNG HÕA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
Hà Nội, ngày 28 tháng 4 năm 2000
QUYẾT ĐỊNH V/v công nhận tư cách pháp nhân và hoạt động của
Hội thánh Cao Đài Cầu Kho – Tam Quan
TRƢỞNG BAN TÔN GIÁO CỦA CHÍNH PHỦ
- Căn cứ Nghị định số 26/1999/NĐ-CP ngày 19 tháng 4 năm 1999 của Chính phủ
về các hoạt động tôn giáo.
- Được sự ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ tại Thông báo số 68/NC ngày 30
tháng 3 năm 1996 của Văn phòng Chính phủ.
- Xét kết quản Đại hội Đại biểu Nhơn sanh Cao Đài Cầu Kho – Tam Quan ngày 3
tháng 3 năm 2000 tại đơn xin công nhận Tổ chức Giáo hội và nội dung hoạt động của
Hội thánh Cao Đài Cầu Kho – Tam Quan ngày 24 tháng 3 năm 2000 của Ban Vận Động.
- Theo đề nghị của Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Định tại Công văn số 586/UB-NC
ngày 31 tháng 3 năm 2000 về việc đề nghị công nhận tổ chức và hoạt động của Hội thánh
Cao Đài Cầu Kho – Tam Quan.
QUYẾT ĐỊNH
Điều 1: Chấp thuận tổ chức Hội thánh Cao Đài Cầu Kho – Tam Quan hoạt động
theo Hiến chương và Đường hướng hành đạo đã được thông qua tại Đại hội Đại biểu
Nhơn sanh toàn phái ngày 3 tháng 3 năm 2000 (có bản Hiến chương và Đường hướng
hành đạo kèm theo).
Điều 2: Chấp thuận nhân sự gồm 13 vị chức sắc Hội đồng Chưởng quản Lưỡng
đài của Giáo hội Cao Đài Cầu Kho – Tam Quan đã được suy cử tại Đại hội Đại biểu
Nhơn sanh ngày 3 tháng 3 năm 2000 (có danh sách kèm theo).
Điều 3: Các ông Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có
tín đồ, chức sắc Giáo hội Cao Đài Cầu Kho – Tam Quan và các ông chức sắc (theo danh
sách nói trên) chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.
Điều 4: Quyết định này có hiệu lực từ ngày ký./
Q.TRƢỞNG BAN
Lê Quang Vịnh
(đã ký)
257
PHỤ LỤC 2
TRÍCH CÁC CUỘC PHỎNG VẤN
258
Phụ lục 2
Phỏng vấn số 1
TRÍCH PHỎNG VẤN CHỨC SẮC MINH CHƠN LÝ
- Người được phỏng vấn: ĐVN
- Ngày phỏng vấn: 19 tháng 8 năm 2005
- Người phỏng vấn: Tác giả
- Địa điểm phỏng vấn: Khánh Hậu, Long An
Nội dung phỏng vấn
-------------------
H: Cháu đọc trong quyển “Luật Bình quân” thấy có nói đến vấn đề “giải mê phá
tục” là sao hả Bác?
TL: Giải mê phá tục là đánh vào những mê tín dị đoan của con người, bỏ đi những
hủ mà ông cha ta đã tạo ra.
H: Như vậy là sao hả Bác?
TL: Khi mà theo đạo Minh Chơn lý, Thầy có dạy rằng trên đời đều do sự sắp đặt
của Thượng đế, không có ai có thể chi phối cuộc sống con người ngoài sự chi
phối của thượng đế, do đó không nên mê tín dị đoan, cúng kiếng, cầu khấn
chi cho mất công, vì những điều đó là mê tín dị đoan làm cho con người
mình đau khổ thêm vì phải nghĩ đến nhiều thứ trong cuộc sống, nào là phải lo
cúng ông này, tổ chức lễ nọ, phải kiêng cữ cái này, tránh cái kia... như vậy
thì là mê muội trong cuộc sống. Do đó, cần phải giải mê, phàm tục là vậy.
H: Như vậy có nghĩa là những tục lệ của cha ông mình để lại thì nay bỏ hết hả
bác?
TL: Ừ, không cần thiết phải giữ lại làm gì, vì đó là mê tín. Ví dụ như tết đưa ông
Táo, Tết mùng năm tháng 5... những cái đó là ở bên Tàu, không phải bên ta,
nên không cần theo. Đầy tháng, thôi nôi... cũng không phải bên ta nên nhất
thiết là không cần thực hiện làm gì.
H: Nhưng sao cháu thấy có nhiều gia đình theo Minh Chơn Lý mà vẫn thực hiện
những điều đó vậy Bác?
TL: Thì đó, họ vẫn còn mê muội trong cuộc sống của mình, quên đi lời Thầy dạy
nên đã làm theo cho khổ thân.
H: Như vậy mình có khuyên răn, hay có nhìn thức xử phạt không? Vì họ làm như
thế là phạm luật đạo rồi?
TL: Biết rằng họ phạm luật đạo rồi, nhưng cũng chỉ nhắc nhở họ thôi, chứ xử phạt
gì, vì họ là người của Thượng đế mà, có xử phạt thì ổng xử chứ mình làm gì
có quyền.
H: Quan điểm của bác về những người đó như thế nào?
TL: Thì cũng bình thường thôi, mình cũng không khắt khe gì với họ, hơn nữa
cũng là người cùng đạo; mà là người cùng đạo thì mỗi người có một cái
duyên, người này có duyên tốt thì làm tốt điều Thầy dạy, còn duyên chưa tốt,
bị thế lực xấu kêu réo, rủ rê thế thôi. Tất cả đều có duyên số và có sự sắp đặt
của Thầy cả cháu à.
259
H: Cháu nhìn thấy trên bàn thờ của Minh chơn lý không có trái cây, nước, rượu gì
cả? Đó là vì sao vậy chú?
TL: Đó là bàn thờ của Thượng đế, mà Thượng đế thì có nhất thiết phải ăn uống gì
đâu mà cúng những thứ đó cháu. Không cần phải cúng những thứ đó, vì đó là
lời dạy của Thầy có trong quyển Luật bình quân đó, cháu đọc kỹ đi thì sẽ
hiểu hết thôi.
H: Cháu có đọc rồi, nhưng sao cháu thấy các chi phái khác họ vẫn giữ nguyên
phong tục trước đây, cò chi phái mình thì khác quá?
TL: Ừ, cái đó mới gọi là đạo Cao Đài chứ. Đạo Cao Đài có khoảng 12 chi phái lớn
nhỏ khác nhau. Nguyên nhân của việc phân chia các chi phái này thì chắc
cháu cũng biết. Người ngoài thì nói là do mâu thuẫn nội bộ, nhưng theo bác
thì do Thượng đế sắp đặt. Ổng tạo ra cuộc mâu thuẫn như vậy để đạo có thể
phát triển được, và cũng có thể có nhiều con đường để về với Thượng đế.
Cháu cũng biết, đây là thời thứ 3 mà, thời kỳ mạc kiếp. Đạo Cao Đài ra đời
để cứu nhân sanh, nhưng nhân sanh thì có nhiều loại, nhiều hạng, nên bắt họ
đi một con đường thì không được, do đó phải tạo ra nhiều con đường để họ
có thể lựa chọn. Chính vì thế mà có nhiều chi phái, mỗi chi phái có một kiểu
hành đạo. Chi phái Minh Chơn lý này có kiểu hành đạo khác nhất so với các
chi phái kia, vì đây là chi phái ra riêng sớm nhất, nên có nhiều điều cải tiến
cho riêng mình. Các chi phái khác, ra chậm hơn nên có ảnh hưởng nhiều bởi
đường lối của Tây Ninh.
H: Nhưng khác nhau nhiều quá như vậy thì bác thấy có lạ lắm không?
TL: Cái này cũng không lạ gì. Như bác đã nói là phải có nhiều con đường để tín
đồ lựa chọn mà. Trước đây thì Phật giáo có con đường của Phật giáo, nhưng
chỉ cứu rỗi được người dân ở phương đông; còn Thiên Chúa giáo thì cứu rỗi
người dân ở phương Tây. Việt Nam mình có Đạo Cao Đài, nói là dung hòa
các tôn giáo, nhưng các chi phái cũng có những đường lối riêng để cứu rỗi
tín đồ cho phù hợp với từng hoàn cảnh chứ. Bác nghĩ đó là cái hay của đạo
Cao Đài đó.
H: Rõ ràng, trong Luật Bình quân nói rất rõ là giải mê, phá tục, nhưng khi đến một
số nhà của tín đồ Minh Chơn Lý, cháu vẫn thấy họ có thờ ông Địa, ông Thần
tài, còn thờ cả ông Táo nữa, như vậy thì có sao không?
TL:.............thì trong đạo cũng vậy, luật là như vậy, nhưng người tín đồ vẫn không
thể hiểu hết được. Hơn nữa họ cũng không thể bỏ đi truyền thống của cha
ông trước đây đã ăn sâu vào trong tư tưởng của họ rồi. Cháu thấy đó, đạo ra
đời chỉ mới có hơn 80 năm, còn văn hóa dân tộc thì có tới 4 ngàn năm, làm
sao mà trong thời gian ngắn lại có thể loại bỏ được hết những nếp nghĩ
truyền thống của dân tộc được. Hơn nữa, tín đồ Cao Đài đâu phải sống tách
biệt, mà vẫn sống trong cùng cộng đồng với những người không có đạo. Tín
đồ Cao Đài thì ít, mà người không có đạo Cao Đài thì nhiều, nên việc ảnh
hưởng và làm theo những truyền thống dân tộc là đều tất nhiên, không thể
trách khỏi được rồi.
H: Theo Bác thì có nên yêu cầu họ phải nghiêm túc thực hiện đúng luật đạo
không?
260
TL: Nếu được thì đó là lý tưởng, nhưng bác nghĩ cũng không cần thiết lắm đâu.
Như bác nói lúc nảy, mỗi người có một cái duyên phận, khi họ đạt tới duyên
phận nhất định thì họ sẽ nghiêm chỉnh thực hành luật đạo, không chưa thì cứ
thế mà sống. Bác nghĩ cũng không có gì xấu xa khi thực hiện các nghi lễ
truyền thống của dân tộc cả. Nhưng có hạn chế được thì càng tốt, để dần đi
vào đúng luật đạo. Như gia đình của Bác đây, bác là Giáo sư của đạo,
nghiêm chỉnh thực hiện luật đạo, con gái bác là Lễ sanh, nó cũng thực hiện
khá nghiêm chỉnh, nhưng còn đứa con trai thì nó vẫn là theo ý nó. Nó con,
bên vợ nó không có đạo, rồi thì cũng làm đầy tháng, cũng thôi nôi. Bác cũng
chấp nhận chứ sao bây giờ. Mình thấy điều đó là sai với luật đạo, nhưng nghĩ
lại thì cũng không hại gì, hơn nữa tụi nó không phải là chức sắc của đạo nên
thôi để nó muốn làm gì thì làm, miễn đừng phạm pháp là được.
H: Vậy trong đạo có bắt buộc phải lấy người trong đạo không bác?
TL: Có chứ, nhưng cũng không khắt khe như bên đạo Thiên Chúa đâu. Hiện nay
tụi nó lấy lung tung cả, không cùng đạo cũng được. Luật đạo thì như vậy,
nhưng bác nghĩ, vợ chồng là duyên số, không thể cưỡng ép được đâu. Mà
duyên số thì do Thượng đế sắp đặt rồi, nên cứ mặt kệ chúng nó thôi, chứ
mình ngăn cản thì cũng không được, hơn nữa ngăn cản, tụi nó thương quá
làm bậy thì mình lại mang tội lớn đó. Như con trai của bác, lúc đầu bác cũng
có khuyên là nên kiếm người trong đạo mà lấy. Nó cũng dạ dạ, rồi sau đó đi
làm cho Đài Loan, quen với mấy đứa công nhân trong đó, rồi yêu; sau đó về
biểu cha mẹ đi cưới. Đó như vậy đó, không đi thì không được vì tụi nó yêu
nhau quá rồi, hai đứa cứ bám riết lấy nhau mà. Hiện nay, tụi có một đứa con
rồi, tôi làm nhà ở phía trước kia để tụi nó ở đó.
H: Ở xóm mình có nhiều gia đình theo Minh chơn lý không bác?
TL: Có chứ, khoảng hơn 20 nhà đó, nếu so với Bến Tre, Tây Ninh và Tiên Thiên
thì không nhiều bằng.
H: Vậy có Thánh thất nào, hay nơi để sinh hoạt đạo trong xã này không?
TL: Thánh thất thì không có, theo qui định ở những nơi có trên 500 tín đồ mới
thành lập được Thánh thất, còn ở đây thì tính ra cũng chỉ khoảng 80 – 90 tín
đồ là nhiều lắm rồi, đâu có lập được. Còn nơi để sinh hoạt đạo, thì nhà Bác
đây. Rằm, mọi người cũng thường hay đến đây cúng. Họ đến cũng tốt, nhưng
không cũng không sao, vì ở nhà ai cũng có thờ cả, ở nhà cúng cũng được.
H: Bác có thường xuyên đi Thánh thất không?
TL: Có chứ, rằm nào cũng phải đi ah. Ở đây về Tiền Giang thì gần thôi, độ
khoảng 30 cây số thôi mà. Mình về Tòa thánh luôn để sinh hoạt, bác đi
thường lắm đó. Các ông chức sắc, chức việc ở khu vực này cũng thường hay
đi về đó lắm.
H: Họ không đi có sao không bác?
TL: Thì cũng đâu có sao. Đạo là cốt ở tâm mà, ai có tâm thì đi. Mà đi thì tốt cho
mình chứ tốt cho ai đâu, nếu ai ý thức tốt thì chấp hành tốt, còn không thì
thôi. Họ không đi thì nói rằng mình ở nhà cúng tại bàn thờ ở nhà. Điều đó
cũng được, việc hành đạo chỉ do lương tâm mình giám sát là chính, người
ngoài không thể có ý kiến nhiều vô được. Chủ yếu trong việc tu và giá sát
261
việc tu là do bề trên, do Thượng đế đó, người có quyền phán xử mà, chứ còn
người phàm như chúng ta thì chỉ có nghĩa vụ dẫn dắt, khuyên nhủ thôi, ai
nghe được thì nghe, không nghe được cũng chịu. Như con trai của bác mà
bác còn không nói nó nghe được thì nói với những người khác làm sao họ
nghe được. Họ là công dân mà, lớn hết rồi, tất cả đều có ý thức, có quyền
công dân, nên họ có cách nghĩ và cách thực hiện theo kiểu của họ, miễn sao
đừng làm xấu đạo, xấu đời là được rồi.
H: Bác thờ Thầy được lâu chưa?
TL: Lâu lắm rồi, có gần hai chục năm rồi đó. Ở khu vực này bác là người thờ đâu
tiên đó, sau đó thì các ông khác thấy vậy cũng thờ theo.
H: Có gặp sự trở ngại gì không bác?
TL: Không có vấn đề gì, lúc đầu mình thờ thì người dân xung quanh họ cũng hơi
chú ý, vì cách thờ của mình hơi lạ so với những chi phái khác, nhưng sau đó
họ hiểu ra thì không cũng có vấn đề gì.
262
Phụ lục 2
Phỏng vấn số 2
TRÍCH PHỎNG VẤN
VỀ CÁCH THỜ TỰ TRONG GIA ĐÌNH
- Người được phỏng vấn: HĐ
- Ngày phỏng vấn: 14 tháng 10 năm 2007
- Người phỏng vấn: Tác giả
- Địa điểm phỏng vấn: Thánh thất Trung Bảo, Đồng Nai
Nội dung phỏng vấn:
----------------
H: Sao nhà chú lại treo hình Quan Công và Mẹ Sanh Mẹ độ trên vách tường,
không đặt bàn thờ vậy?
TL: À, trước đây chú có đặt bàn thờ của hai vị đó, nhưng từ khi thờ Thầy rồi nên
không thờ nữa.
H: Chú thờ Thầy từ khi nào?
TL: Vào năm 1994.
H: Lúc đó chú với vào đạo Cao Đài hả?
TL: Có thể nói là vậy. nhưng thực ra thì gia đình chú có đạo từ lâu lắm rồi. Từ
thời cha mẹ chú lận. Cha mẹ chú ngày xưa làm tới phẩm Thông sự lận, ba mẹ
vợ của chú cũng là người có đạo. Ông chú bên nhà vợ làm tới phẩm Giáo
hữu, người có công rất lớn trong việc gầy dựng nền đạo tại khu vực Suối
Nghệ ở Bà Rịa đó. Chú nhớ khoảng năm 1963 – 1964, ổng dẫn một đoàn
người vào đó lập đạo và hiện nay nơi đó có một họ đạo rất lớn. Sau đó lại mở
rộng họ đạo ra tỉnh Đồng Nai này, và phát triển ra tới khu vực Long Khánh.
Hiện nay ở Long Khánh có một Thánh thất mang tên là Thánh thất Trung
Bảo, cháu biết rồi đó.
H: Như vậy là chú và cô ở nhà có đạo từ rất sớm phải không?
TL: Phải rồi, nhưng hồi đó còn nhỏ, nên không quan tâm.Cũng không ăn chay,
không sinh hoạt đạo và chỉ thờ ông bà thôi. Lúc chú đi kinh tế mới ở Tây
Ninh có người tới xem bói nói là chú có người độ, hỏi ai độ thì họ nói là
Quan Công theo độ chú. Lúc đó chú không tin, nên cũng không thờ gì hết.
Cô đi coi bói thì nói là có Mẹ sanh độ, nhưng cũng không tin để thờ, chỉ biết
vậy thôi. Nhưng thầy bói nói là chú không được ăn thịt chó, không được ăn
thịt trâu, vì điều đó sẽ bị ông phạt. Chú cũng không tin, nhưng sau nghĩ lại
thì thấy đúng.
H: Đúng là sao hả chú?
TL: Chú kể cho nghe, lúc chú 30 tuổi, còn ở ngoài Quảng Nam. Hồi đó chú là thủ
môn cho đội bóng của xã. Bữa đó đi đá bóng, chú chụp bóng xong rồi bị gãy
chân. Sau nghĩ lại mới tin là ông phạt, vì đêm trước đó chú ăn thịt chó. Bây
giờ nghĩ lại thì mới tin như thế thôi, không biết có đúng không?
H: Vậy chú thờ Quan Công và Mẹ sanh khi nào?
263
TL: Khi chú đến định cư ở Đồng Nai này, lúc đó khoảng năm 1990. Làm ăn thất
bại, buôn bán không được nên chú mới nhớ tới lời của thầy bói trước đây mà
thỉnh tượng về thờ.
H: Chú làm ăn như thế nào mà thất bại?
TL: Hồi đó làm rẫy, nhưng cũng không được gì. Bán hết rẫy ra mua máy vô bãi
vàng làm, cũng không được gì, rồi còn mang thêm bệnh sốt rét nữa chứ. Cô ở
nhà thì buôn bán cũng không ra gì, nên nghĩ phải thỉnh ông bà về thờ để
được phù hộ tốt hơn.
H: Thế rồi sau đó có khá hơn không?
TL: Có, sau đó chú không làm vàng nữa. Ở nhà làm công việc nhà, như gò hàn
thùng vậy đó, rồi cô đi bán hàng ngoài chợ cũng đủ sống. Nói chung là
không khá giả như người ta, nhưng được cái là không bệnh hoạn gì và cái quí
nhất là không thiếu nợ.
H: Vậy chú thờ Thầy khi nào?
TL: Vào khoảng đầu năm 1994. Lúc đó cha chú ở ngoài quê bị mất, chú về quê
làm đám tang. Thấy đáng tang của cha mình tốt quá, toàn đạo đều tới lo lắng,
giúp đỡ suốt trong mấy ngày đám tang, nên chú nghĩ đạo mình tốt thật, vì
vậy chú quyết định sinh hoạt đạo trở lại. Sau đám tang của cha chú, chú đến
Thánh thất ngoài đó bày tỏ nguyện vọng và mọi người ở đó rất đồng tình. Họ
cho chú thỉnh Thánh tượng và đưa thêm mấy quyển kinh nữa bảo về nhà
đóng bàn thờ để thờ. Chú cầm Thánh tượng và mấy quyển kinh vào đây. Sau
đó lên Sài Gòn mua một cái chuông, một cái mỏ về đóng bàn thờ thờ cho tới
bây giờ luôn đó.
H: Thế tại sao chú lại dẹp bỏ bàn thờ Quan Thánh và Mẹ sanh đi?
TL: Trong đạo Cao Đài, Quan Thánh đứng hàng tam trấn, Mẹ sanh cũng được
xem là người ở Diêu Trì Cung, do khi thờ Thượng đế thì không cần phải thờ
Quan Thánh nữa, nên phải cất bàn thờ Quan Thánh và Mẹ sanh.
H: Cháu vẫn chưa hiểu, như vậy chú không sợ phật lòng Đức Quan Thánh sao?
TL: Làm sao mà phật lòng được, vì Đức Quan Thánh là đệ tử của Thầy. Đã thờ
Thầy là thờ chung luôn rồi, nên không phải thờ thêm Đức Quan Thánh nữa,
nếu thờ nữa thì sẽ phạm tội với Thầy đó.
H: Sao chú không cất luôn tượng của Đức Quan Thánh và mẹ sanh đi mà còn treo
ở đó.
TL: À, để chú giải thích cho nghe nhé. Chú treo ở đó là nhằm mục đích để Đức
Quan Thánh và Mẹ sanh cùng hầu vào Thầy. Đó là lẽ đạo đấy cháu. Cháu
thấy đó. Chú treo hình Đức Quan thánh bên trái, Mẹ sanh bên phải còn ở
giữa treo hình Đức Ngô Minh Chiêu. Ý là để ba người này cùng chầu vào
Thượng đế, vì tất cả là đệ tử của Thượng đế mà. Cháu có biết Ngô Minh
Chiêu là ai không?
H: Dạ cháu biết, ông ấy là người sáng lập đạo Cao Đài ở Nam bộ mà.
TL: Đúng rồi, nhưng ông ấy là chiết thân của Thượng đế đó. Thượng đế chiêc một
phần thân thể của mình để xuống phàm mở đạo, cũng giống như Đức Phật
Thích Ca hay Đức Jesu vậy đó. Ông ấy xuống phàm cũng ly kỳ lắm, hồi nhỏ
không chịu bú sữa mẹ, chỉ ăn cháo. Lớn lên đi làm quan ở Sài Gòn, xuống
264
Tân An, ra Phú Quốc, rồi về lại Sài Gòn. Ổng là người có công rất lớn trong
đạo Cao Đài, là tín đồ dầu tiên được Thượng đế thâu nhận và dạy cho bí
pháp luyện đạo. Ổng cũng là người đầu tiên được chỉ định chức Giáo tông
của đạo mà không nhận đó. Cháu có biết tại sao ổng không nhận không?
H: Cháu nghe nói là do phạm luật gì đó nên không nhận?
TL: Không phải, đó là do Thượng đế thử thách ổng đó. Sứ mạng của ổng là phải
giữ bí pháp của đạo, lo tu để giữ bí pháp, không được ham quyền thế mà
quên bí pháp của đạo nên nhiều lần phải xung đột với các chức sắc ở Tây
Ninh. Khi chuẩn bị lập đạo, Thượng đế muốn thử ổng xem có còn ham
quyền chức nữa không nên mới giáng cơ giao chức Giáo tông, chức cao nhất
của đạo Cao Đài cho ổng, nhưng ổng biết Thượng đế thử ổng nên không chịu
nhận. Bởi vì lúc đó ổng đã thành đạo tại thế rồi, đâu cần gì quyền chức nữa,
mà sứ mạng của ổng cũng không phải là nắm quyền thân xác. Sứ mạng của
ổng là nắm quyền thiêng liêng, dẫn dắt linh hồn của tín đồ Cao Đài, nên ổng
không nhận. Sau khi ổng từ chối chức Giáo tông, thì bên Tây Ninh có có
những bài thánh giáo nói là ổng bị quỷ vương thử, nhưng không vượt qua
được nên đã không được quyền phẩm Giáo tông. Theo chú, đây cũng là một
thử thách nữa đối ổng đó, xem lòng kiên nhẫn của ổng đạt tới mức nào? Theo
chú thấy, ổng thành đạo rồi, những điều đồn tại thế không là gì đối với ổng
cả và ổng cứ ung dung luyện đạo và chọn đệ tử để truyền đạo. Như vậy mới
xứng đáng là anh cả trong đạo và cũng là chiết thân của Thượng đế chứ.
H: Nhưng lấy gì để chứng minh rằng ổng là chiết thân của Thượng đế hả chú?
TL: Này nhé, chú đưa cho cháu xem quyển này quyển “Lịch sử Đức Ngô Minh
Chiêu” thì thấy rõ. Sau khi ổng qui liễu rồi, các bài thánh giáo gán xuống đều
nói vậy và lúc do mới vỡ ra rằng ổng là chiết thân của Thượng đế, chứ trước
đó đâu ai biết. Ổng còn được phong là Ngôi hai Giáo chủ nữa đó. Cháu có
biết không?
H: Cháu có đọc qua, nhưng Ngôi hai Giáo chủ là gì?
TL: Nghĩa là Đạo Cao Đài thì do Thượng đế sáng lập, và chính Thượng đế là Giáo
chủ, được xem là ngôi thứ Nhất. Còn Đức Ngô là chiết thân của Thượng đế
xuống phàm để thay mặt Thượng đế mở đại đạo và dìu dắt nhân sanh nên
được phong là Ngôi Hai Giáo chủ, chỉ đứng sau ngôi thứ nhất là Thượng đế
mà thôi. Do đó, cháu thấy trong đạo Cao Đài, mọi người xưng với nhau là
huynh đệ, tỷ muội, dù lớn cỡ nào cũng không được là thầy. Nhưng đối với
ông Ngô Minh Chiêu thì tín đồ của Chiếu Minh gọi ổng bằng Thầy, ngang
với Thượng đế. Điều này rõ ràng là ổng có vai trò rất lớn trong đạo.
H: Nhưng tín đồ các chi phái khác không có gọi Đức Ngô bằng Thầy?
TL: Điều này cũng đúng thôi, vì họ không hiểu. Hơn nữa chuyện xưa cũ ảnh
hưởng đến họ nên mới không công nhận vai trò của Đức Ngô thôi.
H: Vâng cháu hiểu rồi. Như vậy thì cách đặt bàn thờ của chú xem ra rất hợp lý.
Cháu hỏi chú là chú tin và tu theo Chiếu Minh không?
TL: Có chứ. Chú vẫn tu theo phái Chiếu Minh và vẫn làm công quả cho bên phổ
độ. Bên phổ độ hiện nay chú là Chánh Trị sự; còn bên Chiếu Minh thì chú đã
tu hơn 12 năm rồi.
265
H: Việc tu bên Chiếu Minh có khó không?
TL: Rất khó, phải tùy duyên mới được. Không phải ai muốn tu là được đâu. Muốn
tu thì xin với Thượng đế, Thượng đề đồng ý thì mới được nhận và được
hướng dẫn cách tu.
H: Xin bằng cách nào hả chú?
TL: Bằng cách xin keo. Có người xin suốt 3 năm mà vẫn không được, nhưng có
người chỉ xin một lần là được.
H: Chú xin mấy lần mới được?
TL: Chú xin lần thứ hai mới được, còn bạn chú chỉ xin một lần là được. Chú biết
có người xin đến 3 năm rồi mà vẫn không được nên đành bỏ luôn.
H: Làm thế nào để được nhận vào tu hả chú?
TL: Điều này thì cũng không biết nữa, có muốn cũng không được và không muốn
cũng không được. Đây là duyên số của mỗi người. Khi được chấm rồi thì tự
nhiên nó sẽ được, không biết giải thích làm sao nữa.
H: Con thấy nhà chú thờ Cửu huyền thất tổ rồi thờ cả ông Địa và Thần tài là sao
hả chú?
TL: Cửu huyền Thất tổ là phải thờ chứ, đó là truyền thống của cha ông mà, và đây
cũng là đạo. Đạo làm người đó cháu à. Con người sống phải có gốc có rễ,
phải nhớ tới ông bà, cách biểu hiện niềm nhớ nhung của mình là thờ tự chứ.
H: Nhưng sao con thấy, hình của ông và bà cụ được treo trên vách bàn thờ, không
để ở chính giữa chính giữa, bàn thờ lại để chữ Cửu huyền thất tổ?
TL: À, thờ chữ Cửu huyền thất tổ là đầy đủ trong đó rồi, không cần phải để hình
ông bà trên bàn thờ nữa. Hình ông bà chỉ để bàn thờ khi chưa mãn tang thôi,
còn mãn tang rồi thì nhập chung vô Cửu huyền thất tổ là được rồi, vì trong
Cửu huyền thất tổ tức là có cả ông bà trong đó rồi, nếu để thêm trên bàn thờ
thì sẽ dư, không cần thiết. Chú chỉ treo hình tượng của ông bà một bên là để
tưởng nhớ được rồi. Mà cháu có biết Cửu huyền thất tổ là gì không?
H: Cháu cũng không rõ nữa, chỉ biết là những người đã mất tính lên thôi.
TL: Không đúng rồi. Để chú giải thích cho nghe nhé. Cửu huyền là tính từ đời của
bản thân mình trở lên trên. Có nghĩa là bản thân mình là một, cha mình là
hai, ông nội là ba, ông cố là bốn, ông sơ là năm, cha của ông sơ là sáu, ông
nội của ông sơ là bảy, ông cố của ông sơ là tám, và ông sơ của ông sơ là
chín. Hệ thống như vậy gọi là cửu huyền; còn thất tổ gồm ông nội được gọi
là nội tổ, ông cố là tằng tổ, ông sơ là cao tổ, cha của ông sơ là tiên tổ, nội của
ông sơ là viễn tổ, cố của ông sơ là cao cao tổ và sơ của ông sơ là thủy tổ. Đó,
Cửu huyền thất tổ là như vậy đó. Do đó, khi mình đặt bài vị Cửu huyền thất
tổ lên thờ thì trong đó đã có đầy đủ dòng họ rồi, nên không cần phải lập thêm
nhiều bàn thờ chi cho tốn diện tích.
H: Ah, bây giờ cháu mới hiểu rõ điều đó.
TL: Mình thờ là truyền thống của cha ông để lại. Đạo Cao Đài là đạo thâu toàn bộ
tinh hoa của các tôn giáo cũng như văn hóa dân tộc nên không có sự phân
biệt. Do đó, cháu thấy tín đồ Cao Đài gần như là vẫn giữ nguyên cá phong
tục truyền thống cha ông để lại, không bỏ đi những điều tốt đẹp, những lễ
nghĩa liêm sĩ mà còn bổ sung thêm cho nó trở nên phong phú hơn. Còn việc
266
thờ ông Địa và ông Thần tài thì đây là văn hóa dân gian mà người Việt ở
phương nam này đều thờ. Thờ ông Địa là thờ chỗ đất đai mình ở cho nó yêu
ổn, còn thờ ông Thần tài thì trong nhà chú có cô bán hàng ngoài chợ nên thờ
để ổng phù hộ. Đây cũng là điều tốt thôi, vì mình có đức tin thì sẽ có người
phù hộ cho mình mà. Chú thấy những điều tốt đẹp thì mình phải giữ, không
kiêng mà sợ. Cháu không biết chứ trước đây, nhà chú còn để cả hình tượng
của chúa Jese và Phật Thích ca nữa đó, nhưng sau này sửa nhà rồi những bức
hình nó hư nên thôi không để nữa.
H: Chú có ăn chay không?
TL: Có chứ, chú và cô ăn chay trường hơn 15 năm nay rồi.
H: Thế còn con của cô chú thì sao?
TL: Tụi nói lớn rồi, có gia đình hết rồi, nó muốn ăn thì ăn, mình không ép được và
không có đứa nào ăn cả.
H: Thế chú có khuyên con chú ăn không?
TL: Có chứ, nhưng tụi nó làm việc nhà nước mà, hơn nữa cũng lớn rồi, có ý thức
hết rồi, khi cảm thấy cần thì tụi nó sẽ ăn thôi. Như chú và cô vậy đó, trước
đây cũng như tụi nó bây giờ, có thiết gì đến ăn chay hay sinh hoạt tôn giáo
đâu. Tự nhiên tới lúc rồi thì sẽ theo con đường của đạo thôi. Đó là duyên
phận mà. Đã là duyên phận, thì có muốn cũng không được và không muốn
cũng không được. Cứ để theo ý trời. Ổng sắp xếp hết.
H: Vậy con chú có theo đạo không?
TL: Tụi nó đều có đạo hết. Thằng lớn trước đây còn ăn chay trường đến gần 2
năm đó, nhưng khi vào năm hai đại học thì bỏ; khi nó cưới vợ thì vợ nó cũng
nhập môn theo đạo, nhưng bây giờ chúng nó không ăn chay, sinh hoạt gì ráo
trọi. Còn thằng nhỏ thì ăn chay trường được một năm, sau đó đi học đại học
thì không ăn nữa, nó lấy vợ người cùng đạo. Vợ nó ăn chay trường luôn hà,
đến nay vẫn còn ăn.
H: Vậy thì tốt quá rồi?
TL: Ừ, mọi người nhìn vào thì thấy là tốt, nhưng theo chú như thế vẫn chưa được,
vì ở đời danh lợi chi cho mệt thân, chỉ làm đủ ăn thôi, phải tu hành tích đức
thì tốt hơn, vì đức mới đem theo được, còn danh lợi thì sẽ mất ngay sau khi
nhắm mắt xuôi tay mà.
H: Hiện nay chú là Chánh trị sự, vậy chú có thường đi chùa không?
TL: Có chứ, rằm mùng một nào chúng cũng phải đi chùa chứ, vì chú nằm trong
Ban phước thiện của Thánh thất mà. Công việc nhiều lắm.
H: Thường là công việc gì?
TL: Việc của đạo không nói hết được, nói chung là cứ lo tu mình và làm công quả
đúng như lời Thầy dạy thôi.
H: Chú làm trong Ban trị sự của Thánh thất, chú thấy tín đồ có tuân thủ theo hết
nguyên tắc của đạo không?
TL: Cái này khó nói lắm vì ý thức của mỗi người mà. Có những nguyên tắc được
đặt ra rành rành như thế, nhưng họ vẫn không thực hiện thì mình cũng chịu
thôi. Như chú nói lúc đầu, cái gì cũng có duyên số, tùy theo sự sắp đặt của
Thượng đế, nên mình cũng không thể cưỡng ép họ được, họ không thực hiện
267
thì mình cũng chỉ khuyên răng, nhắc nhở thôi, đâu có chế tài hay đặt hình
phạt gì với họ được vì là tín đồ của Thầy, cùng anh em với mình mà.
H: Chú thử ví dụ xem có những điều gì mà tín đồ ít thực hiện theo nguyên tắc của
đạo nhất?
TL: Ừ, cái lễ hôn phối là ít tín đồ tuân thủ theo nhất, vì cháu biết không? Cái này
hơi khó thực hiện, nay họ không muốn thực hiện.
H: Khó là thế nào hả chú?
TL: Thì muốn làm được lễ hôn phối thì phải hai đứa phải là người trong đạo. Cháu
biết rồi đó, ở vùng này tụi nó lấy người ngoài đạo nhiều lắm thì làm sao thực
hiện được lễ hôn phối. Mình cũng có khuyên nhủ nên kiếm người trong đạo,
nhưng nói thì nói vậy thôi. Vợ chồng có số, đâu có ép buộc được, chúng nó
thương ở đâu thì gả ở đó, cũng là số trời mình đâu có cưỡng lại được.
H: Những người không thực hiện theo nguyên tắc của đạo, mình có hình thức kỷ
luật nào không hả chú?
TL: Làm gì có, họ không thực hiện đúng nguyên tắc của đạo mình cũng chỉ nhắc
nhở thôi, nếu có tội thì họ trực tiếp chịu tội với Thầy chứ, họ đâu có chịu tội
với mình đâu mà mình kỷ luật họ. Trong việc đạo nó khác với việc đời, nếu
việc đời mình làm không đúng luật thì sẽ bị nhà nước xử lý ngay, còn trong
việc đạo thì họ tự vấn lương tâm, rồi sẽ do Thượng đế quyết định. Mình đâu
có quyền mà xử phạt họ.
268
Phụ lục 2
Phỏng vấn số 3
TRÍCH PHỎNG VẤN
VỀ TỔ CHỨC VÀ CÁCH HÀNH ĐẠO
- Người được phỏng vấn: TMH
- Ngày phỏng vấn: 17 tháng 10 năm 2008
- Người phỏng vấn: Tác giả
- Địa điểm phỏng vấn: Hương đạo Phạm Thế Hiển, Q.8, TP.HCM
Nội dung phỏng vấn
…………………
Hỏi (H): Anh hiện đang sinh hoạt tại đâu?
TL (Trả lời): Tại Hương đạo ở Phạm Thế Hiển.
H: Hương đạo là gì?
TL: Hương đạo là tổ chức giống như ngoài đời là xã, phường vậy đó. Trong đạo
thì mình gọi là Hương đạo. Còn Thánh thất gọi là Họ đạo, thì ngoài đời
tương ứng với cấp quận vậy đó.
H: Như vậy thì trong đạo có những cấp như thế nào?
TL: Đó là Hương đạo, Họ đạo, rồi đến Châu đạo. Châu đạo cũng như cấp tỉnh,
thành phố vậy đó. Rồi sau đó lên tới Hội thánh, nghĩa là Trung ương. Đó là
Tòa thánh. Hệ thống hành chánh đạo thì nó là vậy đó.
H: Châu đạo, đại diện của Châu đạo là cái gì?
TL: Đại diện của Châu đạo là cấp từ Giáo hữu tới Giáo sư. Gọi từ chính xác là
Khâm Châu đạo.
H: Có cơ sở nào để Châu đạo hoạt động không?
TL: Khâm Châu đạo giống như một tỉnh đạo. Ông Khâm Châu giống như ông Chủ
tịch tỉnh vậy. Ông có nhiệm vụ coi nguyên một tỉnh đạo, trong đó gồm các
họ đạo.
H: Ví dụ ở TP.HCM thì Châu đạo này nằm ở đâu?
TL: Là Thánh thất Sài Gòn. Nơi đây được xem là Trung ương thứ hai cai quản các
họ đạo tại Sài Gòn. Ở đây có Ban, gọi là Ban Đại diện Hội thánh để coi 27
họ đạo ở TP này. Trong Ban đó thì có 3 ông, ông trưởng ban, ông phó ban và
ông thư ký, có thêm một vị phó nữ nữa vì nam riêng, nữ riêng. Các vị này
được đưa về đây để sinh hoạt, những cũng có một số thì về Thánh thất Thái
Hòa ở Cô Bắc đó sinh hoạt.
H: Anh sinh hoạt trong đạo được giữ phẩm gì?
TL: Tôi hiện là Thông sự, ở Ban Nghi lễ của Phạm Thế Hiển. Để tôi nói thêm về
các phẩm của chức việc để nắm thêm. Bên Hương đạo thì vị đầu Hương là
Chánh Trị sự, kế nữa là Phó Trị sự, hỗ trợ, giúp việc cho Chánh trị sự. Kế
nữa là có một vị Thông sự, tức là phẩm của tôi đó.
H: Thông sự thì phụ trách về vấn đề gì của đạo?
269
TL: Thông sự phụ trách về vấn đề luật đạo, ngoài đời gọi là tư pháp. Còn Phó trị
sự thì phụ trách về hành chánh, hỗ trợ cho Chánh trị sự. Chánh Trị sự thì nắm
về hành chánh và luật pháp của đạo, coi như nắm tổng quát của một Hương
đạo.
H: Anh bây giờ là ăn chay như thế nào?
TL: Tôi ăn chay trường, không ăn mặn. Tùy theo thôi, có những vị Chánh trị sự
nhưng cũng chỉ ăn có 10 ngày, nhưng riêng tôi thì tôi ăn chay trường. Nhưng
từ Lễ sanh trở lên là phải ăn chay trường, bắt buộc. Nếu ai có tâm nguyện, có
căn duyên gì đó thì ăn trường thì ăn, nhưng từ phẩm Lễ sanh trở lên là phải
ăn.
H: Anh ăn chay trường như vậy thì trứng có ăn được không?
TL: Không được, mình chỉ ăn thực vật mà thôi, còn thịt động vật và trứng của
động vật thì không được. Có nhiều người cho là ăn những loại như trứng,
tôm, cua… không có máu thì ăn được, nhưng những cái đó nó không được
tinh khiết, nên ăn cái đó nó vẫn còn cái trược, thành thử là không nên ăn.
H: Trong các loại rau, mình có kỵ loại rau gì không?
TL: Không ở bên Cao Đài này không kỵ. Đạo Phật thì người ta lại kỵ mấy loại.
Chẳng hạn như là hành, nén, tỏi rồi gì gì đó. Tức là có 5 món mà bên nhà
Phật cữ còn bên Cao Đài không cữ. Bởi gì nó rất rõ ràng, nó là thực vật, còn
nói theo suy nghĩ của anh là theo tích của Mục Kiền Liên với Bà Thanh Đề là
nhưng bánh bao mà bà Thanh đề làm để đãi các vị sư thì mình thấy nó không
có khoa học. Nó đã nấu chín rồi thì làm sao mà trở thành năm loại cây đó để
mọc lên được. Bây giờ nói là 5 vị đó thì thuộc phần dương, nó thuộc về
nóng, ăn vào thi bị kích thích, cái thần kinh của mình, sẽ gây cho mình dục
vọng cao, đừng ăn mấy món đó để đè bớt dục vọng thì nó hay hơn chứ còn
nói theo cái kia thì nó không khoa học.
H: Còn địa ngục thì anh thấy trong Cao Đài có giống với các tôn giáo khác
không?
TL: Điều này thì trước đây có. Trong Phật giáo, kể cả trong Thiên chúa cũng vậy,
vẫn có địa ngục mà. Cái này trước đây là có. Nhưng từ ngày Đại Đạo Tam
Kỳ Phổ Độ khai ra, tức là mở đạo Cao Đài ra đến nay là 84 năm, thì khi mở
đạo thì Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế đã chỉ đạo xuống dưới diêm vương
này, tức là ở Thập điện này, các vị coi thập điện này đã khóa cửa địa ngục,
đóng cửa địa ngục, bởi vì trong kinh có nói mà “đóng địa ngục mở tầng
thiên” mà. Thành thử cho nên không còn địa ngục ở cõi Diêm vương nữa,
nhưng mà bên Phật giáo vẫn duy trì, vẫn nói là còn; nhưng mà đã không còn
nữa rồi. Tại vì sau khi anh đã thác đi, đã qui thiên rồi, thì linh hồn anh về trên
và sau đó sẽ ra toàn tam giáo để phán xét tội lỗi. Thì khi mà anh có tội thì
đưa anh trở xuống trần gian này để đầu thai làm kiếp con người, tiếp tục trả ở
kiếp trần gian này thôi chứ không còn về địa ngục để chịu tội nữa. Còn nếu
anh tạo phước nhiều thì anh sẽ trở lên trên để anh tu hành học đạo tiếp và trở
thành Thần, Thánh, Tiên, Phật. Bởi vì Thần, Thánh, Tiên, Phật cũng là người
phàm mà ra.
H: Tôi hỏi lại nhé, nếu không được thì xuống lại làm người?
270
TL: Đúng rồi, xuống làm người để trả lại căn nghiệp của mình đã tạo ra. Khi mình
tạo căn nghiệp như thế nào thì mình sẽ lãnh hậu quả mình làm như thế đó.
Tức là phải trở về trần gian này thôi chứ không có xuống kia nữa. Cửa địa
ngục này đóng lại rồi. Bởi vì Đức Chí tôn, Ngọc Hoàng Thượng đế đã đại ân
xá rồi. Khi ngài mở đạo Cao Đài ra.
H: Bài kinh nào có câu “Đóng cửa địa ngục mở tầng thiên”?
TL: Bài kinh Giải oan, trong Thế đạo, Thiên đạo của đạo Cao Đài.
H: Anh theo đạo bao nhiêu lâu rồi?
TL: Tôi thì theo đạo cũng lâu lắm rồi, nhưng mà thời gian mà tôi đi sâu, đi sát về
đạo thì nó cũng ít thôi.
H: Ngày xưa ba mẹ anh có theo đạo không?
TL: Ông già cũng có, bà già cũng có. Nói chung là ở bên ngoại, kể cả ông bà
ngoại và ông nội thì gốc là đạo Cao Đài. Nhưng bà nội thì là Phật giáo. Mấy
ông bác của tôi là trụ trì mấy chùa lớn ở thành phố này đó. Chùa Giác Lâm,
Chùa Giác Hải, Chùa Giáp Long, Chùa Giáp Phước; 4 chùa lớn. Còn bên ông
nội với ông bà ngoại thì Cao Đài hết, nhưng mà lại theo Cao Đài Ban Chỉnh
Đạo Bến Tre. Riêng mình tôi là lọt về Cao Đài Tây Ninh. Nó cũng có những
may duyên, không thể hiểu nổi vậy đó. Nói chung là Cao Đài tới ba mươi
mấy chi phái, nhưng tôn chỉ chung thì vẫn vậy, giống như nhau. Chuyện mà
những vị tách rời nhau chẳng qua là những vị đó có những bất đồng gì đó
trong nội bộ này kia kia nọ, đó thuộc về các tiền bối mà, mình không hiểu
nỗi những chuyện đó.
H: Ba mẹ anh có bao nhiêu người con?
TL: Cũng đông à. Cũng cỡ mười mấy người.
H: Dữ vậy? Theo đạo hết không?
TL: Không. Những vị kia người ta sống kinh tế này kia nọ, một số người ở nước
ngoài, một số ở Việt Nam. Ở nước ngoài thì không theo đạo nhưng người ta
vẫn tìm hiểu về đạo.
H: Còn những người ở Việt Nam?
TL: Họ cũng không theo đạo giống như tôi, tức là người ta hiểu đạo vậy thôi, chứ
còn theo đạo để mà đi cúng, đi kiếng này kia kia nọ thì không. Những người
đó bây giờ thì kinh tế người ta dồi dào lắm.
H: Ở Việt Nam thì có bao nhiêu người?
TL: Còn hai người ở Việt Nam với tôi nữa là ba người.
H: Anh với ai nữa?
TL: Còn hai người chị. Còn ở nước ngoài thì đông. Mấy anh ở đó là những người
có công ăn chuyện làm hết, cũng về đây cũng đầu tư ở các khu công nghiệp ở
Việt Nam mình đây.
H: Anh có gia đình có mấy con rồi?
TL: 4 con rồi.
H: Vợ anh có theo đạo không?
TL: Bà xã tôi lại không theo đạo của tôi, bả theo bên Phật. Nhưng mà rồi thì cũng
phải về thôi. Qui tam giáo, hiệp ngũ chi mà.
H: Con của anh là?
271
TL: 3 trai, một gái. Hai đứa còn đi học và hai đứa có gia đình.
H: Người lớn nhất là bao nhiêu tuổi rồi anh há?
TL: Lớn nhất năm nay 28 tuổi, kế nữa là 26 tuổi, kế nữa là 15 và 10.
H: người 28 tuổi này có gia đình chưa anh?
TL: Hai đứa có gia đình hết rồi. Mỗi một đứa có một đứa con rồi nữa.
H: Con gái hay trai?
TL: Con trai không hà. Gái cũng sanh con trai ; trai cũng có con trai luôn.
H: Anh chàng 15 tuổi giờ đang làm gì?
TL: Đang học lớp 9; 10 tuổi thì học lớp 4.
H: Các cháu thì bao nhiêu tuổi?
TL: Tụi nó chưa được 2 tuổi.
H: Trong 4 người con của anh, người nào có làm lễ tắm thánh?
TL: Tất cả những đứa này đều có làm lễ tắm thánh hết. Nhưng chưa có đứa nào
nhập môn. Hai đứa lớn này thì đi ở riêng nên chưa có nhập môn. Hai đứa này
còn nhỏ thì chưa nhập môn.
H: 4 người đều tắm thánh hết?
TL: Ừ, còn nhỏ là tôi cho tắm thánh hết, có giấy tắm thánh, ghi vô sổ bộ đạo rồi.
H: Nhưng chưa ai nhập môn?
TL: Ừ, chưa ai nhập môn.
H: Anh có dự định là cho hai đứa con lớn của anh sau này nhập môn không?
TL: Hướng của mình là dẫn tụi nó đi vào con người đạo, nhưng tùy theo căn
duyên của tụi nó.
H: Còn hai đứa nhỏ thì sao?
TL: Hai đứa nhỏ thì cũng chưa hiểu gì về đạo. Do đó, cũng không biết được.
H: Vợ của hai anh này thì theo đạo gì?
TL: Một người là chồng, một người là vợ. Đứa này con gái, đứa này con trai. Nhỏ
này 26 tuổi con gái, còn đứa lớn này con trai.
H: Chồng của chị này thì như thế nào?
TL: Ngày xưa nó là bộ đội, giờ nó là công nhân.
H: Có theo đạo gì không?
TL: Nó thì bên Phật. Ông già chồng nó là Phật, tu tại gia mà. Nhà cũng thỉnh
tượng Phật về thờ vậy đó.
H: Còn vợ của người con lớn thì sao?
TL: Nó thì cũng dạng như là bên Khổng giáo, thờ cúng ông bà vậy thôi chẳng theo
bên nào hết. Thường thường người ta nói là thờ cúng ông bà vậy đó.
H: Hai vợ chồng này có ăn chay không?
TL: Không, tụi nó còn nhỏ nên chưa có định hướng ăn chay gì hết há.
H: Trong nhà có thờ gì không?
TL: Chưa thờ gì cả.
H: Nhà anh có thờ bàn thờ Thầy không?
TL: Bản thân tôi thì chưa có thờ Thầy, nhưng mà bên bà dì thì có.
H: Tại sao anh không thờ?
TL: Tại vì nhà của tôi hiện giờ cũng chưa chính thức là nhà của mình, sợ sau này
còn thay đổi đó, thì mình phải an vị bàn thờ, đâu phải muốn di dời là di dời
272
đâu. Ví dụ giờ mình cất một cái nhà mới, thánh tượng đó mình phải đem về
nhà mới đó làm lễ an vị, còn trước giờ mình chưa thờ thì gọi là thượng
tượng. Hai cái đó khác nhau. Thượng tượng là chưa thờ, giờ mình thượng lên
mình thờ; còn an vị là thờ rồi, vì lý do gì đó nó không được yên ổn, không
được ổn định một chỗ, phải thay đổi thì buộc lòng mình phải an vị.
H: Anh ăn chay trường như vậy thì vợ và mấy người con của anh thì sao?
TL: Bà xã tôi thì bả ăn 10 ngày thôi, còn mấy đứa nhỏ thì nó vẫn còn nhỏ nên để
cho nó ăn mặn, nếu nó ăn được thì nó ăn, cái đó mình không ép nó được.
Đúng ra thì nên cho nó ăn thì hay, nhưng thường thường ở nhà ăn gì nó ăn
đó, mình khỏi có suy nghĩ về chuyện đó.
H:Một tuần anh tới chùa này mấy lần?
TL: Tôi ở đây thường lắm, tôi không có về nhà. Tức là gần như tôi ở chùa.
H: Ở lại đây? Ngủ lại đây luôn?
TL: Ừ, ngủ lại đây. Cũng sinh hoạt, cúng kiếng ở đây, giống như mấy vị ở đây
vậy đó.
H: Ở nhà để cho ai?
TL: Ở nhà thì bà xã tôi lo công việc, với lại mấy đứa nhỏ đi học thôi. Đôi khi tôi
cũng chạy về. Tôi cũng tập sự để sau này tôi ở chùa luôn mà. Sau này nếu mà
lên phẩm Lễ sanh thì cũng đâu có ở nhà đâu, vì phế đời hành đạo, nên không
ở nhà.
H: Vậy thì khoảng bao lâu thì anh công cử lên Lễ sanh?
TL: Nếu như tôi Thông sự thì 10 năm.
H: Anh được mấy năm rồi?
TL: Hiện nay mới hai năm thôi. Còn phải tám năm nữa. Nếu ở phẩm Chánh sự thì
lên Lễ sanh có 5 năm thôi. Thông sự, Phó sự 10 năm. Nhưng mà cũng có
trường hợp nếu mà cấp của anh nó tương đối có công lớn thì vượt cấp. Cái
đó là trường hợp ngoại lệ. Giống như ở quân đội, anh lập công thì cho thăng
chức vượt cấp.
H: Xin lỗi anh là năm nay bao nhiêu tuổi rồi?
TL: Tôi năm nay 51 rồi.
H: Vậy thì trong gia đình thì mới chính thức một mình anh là có đạo thôi?
TL: Ừ, riêng gia đình cá nhân của tôi đó; chứ còn bà già cũng có, cha cũng có.
Nhưng mà nó có một cái vậy nè, một người mà hành đạo, công quả đó thì có
thể cứu được cửu huyền, chứ không phải đơn giản. Các rằm lớn của một năm
đó, tức là gồm có Thượng ngươn, Trung ngươn và Hạ ngươn đều có dâng sớ
cửu huyền. Sớ sẽ ghi tên ông bà tổ tiên của mình gì đó đã qui thiên rồi, thì
mình muốn cứu độ những người này thì mình ghi tên vô. Sớ này sau đó đưa
chung vào sớ cầu xin Đức Chí tôn đó để cứu cửu huyền, đốt chung. Bởi vì
trên đó cũng có những cơ cấu ở Bạch Ngọc Kinh trển. Mình hiểu nôm na vậy
đi. Cho nên bây giờ trong một kiến họ, trong một gia đình, không nhất thiết
là toàn bộ, nếu toàn bộ thì quá quí, nhưng mà có 1, 2, 3 gì đó mà đã làm công
quả và đường Đại đạo để lo việc lập công bồi đức, rồi phổ độ nhân sanh thì
mình cũng sẽ cứu được chơn linh cửu huyền thất tổ của mình. Chứ bây giờ ở
273
mặt thế gian này cứu bằng tiền cứu đâu có nổi, chỉ cứu linh hồn thôi. Giờ
mình phải lo phần đó.
H: Như vậy chỉ cần một người tu thôi là đủ rồi sao?
TL: Từ một người trở lên à. Một người thì cũng chưa chắc bởi vì một cây làm
chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao, nếu nhiều người thì càng
mạnh lên chứ có gì đâu. Nhưng mà có một người thì cũng đã quí rồi.
H: Ba của anh bây giờ đang giữ phẩm gì trong đạo?
TL: Trước đây ổng là Lễ sanh đó, bây giờ ổng ở Mỹ, nhưng sức khỏe yếu rồi, nên
cũng ít sinh hoạt đạo. Lễ sanh mà chức của ổng là Hội trưởng, gần giống như
ở đây là đầu họ vậy đó.
H: Còn mẹ anh thì sao?
TL: Mẹ thì trước đây cũng vào hàng chức việc, nếu chịu khó hành đạo thì nay
cũng đã là Lễ sanh, nhưng hiện nay chỉ là đạo hữu bình thường. Công việc
đạo này cũng giống như trong quân đội vậy, phải thường trực lo chuyện phổ
độ thì từ từ mới thăng phẩm lên được; còn lo đời sống kinh tế cá nhân thì ai
cho mình thăng phẩm được.
274
Phụ lục 2
Phỏng vấn số 4
TRÍCH PHỎNG VẤN
VỀ VẤN ĐỀ NGHI LỄ CỦA ĐẠO CAO ĐÀI
- Người được phỏng vấn: TTT
- Ngày phỏng vấn: 12 tháng 11 năm 2008
- Người phỏng vấn: Tác giả
- Địa điểm phỏng vấn: Thánh thất Sài Gòn
Nội dung phỏng vấn:
.....................................
Hỏi (H): Những người mà muốn đạt được một phẩm vị nào đó trong đạo, thì họ
phải có những cống hiến như thế nào bác?
Trả lời (TL): khi phải thực hiện công quả, công phu nhiều lắm đó. Khi mà nhận
một nhiệm vụ nào đó rồi thì phải hành đạo trong thời gian 6 tháng tạm vị,
trong 6 tháng đó, làm nhiệm vụ tốt, tròn phận sự thì được Ban cải quản họ
đạo thiết lập hồ sơ xin đạo cấp và giấy chứng nhận hành đạo, chuyển lên trên
Tòa thánh cấp khi mà cấp Đạo cấp và giấy chứng nhận hành đạo thì đem
xuống trình với Ban cải quản họ đạo để ban hành và sau đó lập minh thệ.
Chánh Trị sự và Thông sự phải lập minh thệ tại bàn thờ Chí tôn và bàn Hộ
pháp. Phó trị sự thì lập minh thệ tại bàn Chí tôn mà thôi. Đó là nguyên tắc
mà từ khi thành lập đạo cho đến bây giờ đều phải tuân theo.
H: Như vậy thì Chánh sự và Thông sự ngang cấp nhau?
TL: Không phải, Chánh sự thì chịu trách nhiệm về mặt đạo và luật pháp; còn
Thông sự chỉ chịu trách nhiệm về mặt luật thôi.
H: Thông sự thì thuộc bên nào? Cửu trùng đài hay Hiệp thiên đài?
TL: Thông sự thì bên Cửu trùng đài, nhưng làm việc thì bên Hiệp thiên đài. Đạo
phục của Thông sự khác với Chánh trị sự là có sợi dây buộc ngang bụng, đó
là chỉ về việc hành luật.
H: Còn Lễ sanh thì sao hả bác?
TL: Khi một vị Thông sự hoặc Chánh sự, Phó sự muốn lên Lễ sanh phải đầy đủ
công nghiệp. Thông sự và Phó trị sự muốn lên Lễ sanh phải từ 10 năm trở
lên. Chánh trị sự thì đầy đủ công nghiệp của đạo như tánh hạnh tốt, hiền
lương, làm việc tốt, không phạm luật đời, đạo... thì phải từ 5 năm trở lên thì
mới được cầu phong Lễ sanh.
H: Còn tín đồ bình thường muốn lên Lễ sanh thì sao?
TL: Tín đồ bình thường thì không được cầu phong lên Lễ sanh, trừ trường hợp là
phải hiến thân trọn đời tại Tòa thánh Tây Ninh thì phải từ 10 năm trở lên. Đó
là tín đồ, còn Thông sự và Phó sự thì cũng là 10 năm. Chánh sự thì 5 năm trở
lên.
H: Thủ tục để lên Lễ sanh được tổ chức như thế nào hả Bác?
275
TL: Thông lệ thì phải thông qua Đại hội Nhân sanh. Thường thì 5 năm có Đại hội
Nhân sanh một lần. Trong Đại hội này, mình có mời tín đồ, chính quyền địa
phương đến dự, rồi công bố danh sách dự kiến lên Lễ sanh, xem có ai phản
đối, tố cáo gì không, ví dụ như từ trước tới giờ làm việc có bất minh bất
chánh gì không? Có thất nhân tâm không?... nếu không thì đồng đạo đồng ý,
chánh quyền thông qua là người tốt thì cơ sở đạo trình về Tòa thánh. Tại Tòa
thánh cũng có Đại hội Nhân sanh trên toàn quốc, cũng khoảng 3 – 4 ngàn
người. Đó là những người được công cử đó, họ về hết trên Tòa thành, trong
đó cũng có chính quyền địa phương của các chính quyền nữa. Họ cũng trình
danh sách, xem có ai phản đối gì không. Nếu không thì tiếp theo là Đại hội
Hội thánh. Đại hội Nhân sanh là từ tín đồ đến lễ sanh; còn Đại hội Hội thánh
từ phẩm Giáo Hữu trở lên và họp tại Đền thánh của Tòa thánh. Trong đại hội
này, những kiến nghị gì của Đại hội Nhân sanh mới dâng lên Đại hội Hội
thánh. Trong Đại hội này mới quyết định rằng, ông này đã tu nghiệp bao
nhiêu, làm việc bao nhiêu, tốt xấu như thế nào... thì Hội thánh mới đồng ý và
chỉ xin Sắc thái tại Đền thánh. Sắc thái thì có 3 màu là Vàng, Xanh, Đỏ. Ví
dụ xin Sắc thái tại cung đạo Đền thánh, ông xin được màu Vàng thì thuộc Lễ
sanh chi Thái – tượng trưng cho Phật, ông nào nhận được Sắc thái màu xanh
là chi Tiên, phái Thượng; ông nào nhận được Sắc thái đỏ thì là chi Ngọc,
phái Thánh. Buổi đầu tiên của Chức sắc là phải nhận Sắc thái.
H: Cách thức để nhận Sắc thái như thế nào hả Bác?
TL: Lên cung đạo của Đền thánh, nơi thờ Thượng đế đó. Trong đó có cái chuông
lớn đứng các Sắc thái. Ở đó không cho ai vô hết đó. Họ đến đó cầu nguyện,
xin Thượng đế. Trong Cung đạo có một cái chuông lớn, đứng cao khỏi đầu
người, đựng các quả cầu có màu vàng, xanh, đỏ. Chứng sắc Hiệp Thiên đài
chứng kiến. Khi cầu nguyện xong thì xin nhận Sắc thái, sau đó giơ cao lên.
Chức sắc Hiệp Thiện đài hô lên rằng ông đó, tên là gì... nhận Sắc thái gì đó,
ví dụ ông A, nhận Sắc thái Thượng chẳng hạn; Lúc đó có luôn tên Thánh là
Thượng... gì đó... Thanh. Ví dụ ông đó tên là Nguyễn Văn A chẳng hạn, thì
tên Thánh của ông là Thượng A Thanh.
H: Sắc thái đó được bỏ trong chuông?
TL: Đúng rồi, bỏ trong chuông lớn, cao khỏi đầu người, không thể nhìn được vào
bên trong. Chỉ có thể bỏ tay vô bắt thôi; nhưng khi bắt cũng chỉ được sử
dụng tay trái, không dùng tay phải.
H: Tại sao là sử dụng tay trái?
TL: Vì nó là tay chỉ Dương, tay phải là Âm. Khi thực hiện việc gì liên quan đến
việc thiêng liêng cũng đều sử dụng tay trái cả, đó là qui định rồi.
H: Trong việc nhận Sắc thái đó thì tín đồ có được quyền đứng xem không?
TL: Không. Không ai được quyền đứng xem hết. Chỉ những người nào có trách
nhiệm lớn ở Tòa thánh và toàn bộ những vị đi cầu thăng, cầu phong thì mới
được quyền ở đó, còn lại không ai được vô đó.
H: Cầu Thăng, cầu phong là sao hả Bác?
276
TL: Cầu thăng là từ phẩm Lễ sanh trở lên. Ví dụ, Lễ sanh lên Giáo hữu, lên Giáo
sư, lên Phối sư...; còn cầu phong là từ Bổn đạo lên Thông sự, Phó sự, Chánh
sự, Lễ sanh. Trong đó, cầu phong là nhận Sắc thái.
H: Khi nhận Sắc thái thì chức sắc có bao nhiêu vị chứng kiến?
TL: Khoảng 4 – 5 vị thôi; chức sắc Hiệp thiên đài.
H: Trước khi làm lễ nhận Sắc thái mình có cúng Thầy không?
TL: Có chứ, có cúng, có cầu nguyện, có dâng sớ xin đàng hoàng chứ.
H: Khi nhận xong Sắc thái, có lễ nào tiếp theo nữa không?
TL: Xong rồi thì sau đó trấn thần áo mão. Ví dụ, mình nhận được phái Thái thì
phải về may bộ đồ phái Thái. Sau đó, Hội thánh qui định ngày nào đó để đến
trấn thần áo mão và minh thệ. Minh thệ là nhiệm vụ đặc biệt, bởi vì mình
phải minh thệ với các đấng.
H: Từ lúc mình nhận Sắc thái đến lễ minh thệ thì thời gian khoảng bao lâu?
TL: Khoảng hai tháng. Cách hai tháng, tại vì phải thông báo trên toàn quốc, rồi để
thời gian cho người đó chuẩn bị áo mão. Thời gian lâu như vậy là phải chuẩn
bị nhiều thủ tục lắm.
H: Áo mão là do ai chuẩn bị hả Bác?
TL: Do người đó tự may. Bởi vì phải tùy theo ni tất của từng người, nên họ phải
tự may.
H: Việc trấn thần áo mão thì diễn ra ở đâu?
TL: Ở Cung đạo.
H: Ai sẽ là người làm lễ trấn thần áo mão này?
TL: Chức sắc Hiệp thiên đài. Bởi vì chức sắc Hiệp Thiên đài trước đây có nhiệm
vụ hầu loan, cầu cơ với bề trên. Họ cũng có bí pháp.
H: Chức sắc Hiệp Thiên đài thì có chức vụ cụ thể nào mới thực hiện được lễ này?
TL: Hiện giờ có ông lớn nhất ở Tòa thánh Tây Ninh là ông Cải trạng, giữ chức
Phó Hội trưởng, bây giờ là Phó Chưởng quản.
H: Bí tích của việc trấn áo mão đó Bác có biết không?
TL: Mình biết, nhưng mà cấp của mình thì không thể thực hiện được, không được
làm. Chỉ có người lãnh đạo tại Tòa thánh thì mới được làm. Tất cả những
việc liên quan đến bí pháp phải do người lãnh đạo tại Tòa thánh làm.
H: Với phẩm của Bác thì Bác có học được bí pháp đó không?
TL: Bây giờ thì bác chưa học, nhưng với bí pháp mà trấn cho chức việc này thì
bác làm được, nhưng theo bác nghĩ ở cấp cao hơn, thì phải có điều khác hơn,
nên của ổng thì đặc biệt hơn. Bởi vì, ở những phẩm cao như Đầu sư thì ổng
cũng trấn pháp luôn. Chỉ có bên Hiệp Thiên đài mới thực hiện được điều đó.
H: Sau khi trấn áo mão xong, mình sẽ thực hiện lễ gì tiếp theo?
TL: Sau khi trấn xong, thì đem ra mặc vô rồi làm lễ minh thệ, nên có tên là trấn
thần áo mão và minh thệ.
H: Nghi thức của lễ Minh thệ diễn ra như thế nào?
TL: Có những cái mẫu diễn ra theo qui trình từ trước tới giờ. Ông Cải trạng đó
đọc lời minh thệ cho chức sắc, ngắn thôi, không dài. Cũng như là mình trung
thành với đạo, không có tả đạo bàn môn, không thiên vị, ý tôi muốn nói như
thế vậy đó, nhưng mà ngắn, gọn, không dài dòng.
277
H: Việc đó là chức sắc Hiệp thiên đài làm?
TL: Đúng rồi, ông Cải trạng hướng dẫn hết, đọc tất cả hết, rồi mình nói theo, chứ
mình đâu có biết cái minh thệ đó mình nói sao, nên phải có sự hướng dẫn của
người đi trước.
H: Câu minh thệ có giống với câu nhập môn không?
TL: Khác, nhập môn là khác hơn nhiều.
H: Khi làm lễ minh thệ thì minh thệ ở đâu trước?
TL: Minh thệ ở bàn Chí tôn trước, sau đó đến bàn Hộ pháp.
H: Nội dung của hai cuộc minh thệ này như thế nào?
TL: Giống nhau hoàn toàn. Không khác gì nhau cả.
H: Từ Lễ sanh lên Giáo hữu thì như thế nào hả Bác?
TL: Cũng là y vậy đó; cũng minh thệ y vậy, vì cùng thực hiện một lượt mà. Miễn
vào hàng chức sắc là thực hiện như nhau. Nhưng Đầu sư thì thực hiện trước.
Như vừa rồi, ông Tám, thì đặc biệt có mình ổng là minh thệ trước. Sau đó thì
từ hàng phẩm Phối sư trở xuống tới Lễ sanh thì thực hiện một lượt.
H: Tại sao Đầu sư thì thực hiện trước?
TL: Thì ổng lớn mà, nên thực hiện trước. (cười), ổng thì cũng có cái gì đó hơi đặc
biệt hơn nên phải thực hiện trước, hơn nữa ổng hiện nay là người đứng đầu
Tòa thánh và cũng là phẩm vị cao nhất nên phải thực hiện trước vậy đó. Hơn
nữa, Đầu sư được xem là đứng vào hàng Tiên, Giáo tông là hàng Phật; còn
phẩm dưới đó là hàng Thánh, nên cũng có sự phân cấp.
H: Việc nhận Sắc thái đó bác nà, thì Sắc thái đó có hình thù thế nào hả bác?
TL: Nó là quả cầu nhỏ nhỏ, mỗi quả một màu được bỏ vào trong chung lớn.
H: Chỉ có 3 quả với 3 màu thôi hả bác?
TL: Không biết bao nhiêu quả nữa? Mấy ổng không nói; mình có hỏi cũng không
nói.
H: Mình có nhìn vào trong đó được không?
TL: Không được, không ai được nhìn vào trong đó cả.
H: Còn một việc này con muốn hỏi bác, khi đọc trong kinh sám hối thì có nói đến
địa ngục và miêu tả địa ngục như thế này; nhưng khi đọc trong Thánh giáo
thì thấy miêu tả địa ngục lại khác, như vậy là thế nào?
TL: Tại vì thời kỳ này là thời kỳ Chí tôn khai đạo. Chí tôn nói là đóng địa ngục,
mở tầng thiên, nên thời kỳ này không còn ma quỷ nữa. Thời kỳ trước thì ma
quỷ hiện hình, thời kỳ này thì không còn nữa. Cho nên thời kỳ này, khi mà
con người ta phạm tội lỗi thì không còn xuống địa ngục, vì đóng địa ngục rồi,
những chơn hồn đó thì hiện nay được giao cho Thất nương và Địa tạng
vương Bồ tát quản lý để mà giáo hóa, chứ hồi trước là phải xuống địa ngục
để rồi phải xay, phải cưa, thì đến nay không còn nữa, vì thời kỳ nó khác; cho
nên Đức Chí tôn nói là thời kỳ đại ân xá, nên nói là đóng địa ngục, mở tầng
thiên; mở để con người ta thức tỉnh những lầm lỗi của mình, rồi mình tu hành
ăn năng sám hối để về Thượng đế, không phải như ngày xưa. Ngày xưa bị
cưa, bị xẻ; còn bây giờ thì không còn. Do đó, thời kỳ này là thời kỳ đại ân xá
kỳ ba. Nên tôi thấy là ngày xưa khi nói đến chỗ nào thường hay có ma quỷ,
bây giờ đâu còn ma quỷ nữa, bởi vì qua một giai đoạn Chí tôn ân xá. Trong
278
lịch sử của nhân loại thì trải qua Nhất kỳ phổ độ, Nhị kỳ phổ độ; trong thời
kỳ Nhất kỳ phổ độ thì hiền lành, sống hòa thuận, nhưng qua Nhị kỳ thì tranh
đấu, giành giựt, chém, giết với nhau; thời kỳ này muốn tái tạo lại thời kỳ hiền
lành nên phải khác. Cho nên người ta nói, thời kỳ trước thấy sợ quá, bị cưa bị
xẻ... nhưng sau thời kỳ này khi vô đạo Cao Đài lại không có vụ đó. Sự khác
biệt là do Chí tôn mở đạo. Chí tôn có nói tất cả mọi con người ở nơi thế gian
này mà mình muốn thành Thần, Thánh, Tiên, Phật cũng phải mang xác
phàm. Ngày xưa mỗi dân tộc khác nhau, nhưng hiện nay không còn nữa, vì
càn khôn dĩ tận thức, do Chí tôn mở đạo, không giao cho xác phàm nữa mà
chính Ngài dùng cơ bút để mở đạo, nên trở thành nấc thang để các đấng bị
đọa, luân hồi, để đi lên, trở về với Thượng đế; trong đó tôn giáo này lấy
những tinh hoa của các tôn giáo khác, trong đó có Phật giáo, Tiên giáo, Nho
giáo... chứ đâu phải tạo ra tôn giáo mới. Tôn giáo của mình chỉ mấy chục
năm sao so với các tôn giáo trước đã có mấy ngàn năm. Do đó, Đức Chí tôn
mới gom các tôn giáo đó lại trong đạo Cao Đài; hơn nữa ở Việt Nam mình là
người dân hiền hòa, các tôn giáo vào Việt Nam, thì người Việt Nam đều xem
trọng, tin theo, nên Thượng đế mới thương dân tộc Việt Nam, nghèo khổ, cần
cù lao động và chấp nhận những gian khổ mà mở đạo, và khuyên các con
ráng cố gắng theo con đường của Thầy dạy thì “một nước nhỏ nhen trong
vạn quốc, ngày sau làm chủ mới lạ kỳ”, do đó mới lập ra một quốc đạo ở
Việt Nam mình. Đức Chí tôn khuyên là phải cố gắng làm công quả, mà công
quả ở đâu, đó là việc chúng ta lấy công sức ra mà làm, mình không vụ lợi
cho mình mà chỉ làm sao phụng sự cho chúng sinh, cho đất nước, cho dân tộc
và phụng sự cho lý tưởng tốt đẹp, đừng có vì lợi ích cho riêng mình thì như
vậy là công quả. Ngoài ra phải thực hiện việc tu hành của mình mới đắc đạo
được. Chứ không phải tối ngày ngồi đó tụng kinh gõ mỏ mà không giúp cho
chúng sinh được cái gì.
H: Bác nói công quả phải có cái nền là sao hả Bác?
TL: Ý nói là công quả nhìn về mặt làm từ thiện xã hội. Ví dụ không phải vô chùa
mà làm công quả mà ta thấy bên ngoài người ta nghèo khổ thì giúp người ta,
hay là mình thấy cái cầu, con đường nó hư, mình động tâm mình sửa lại cho
nó trơn tru để giúp cho người ta, đó cũng là lòng tự nguyện của mình. Cái đó
là không vụ lợi, tôi làm nhưng không lấy tiền mà chủ yếu là phục vụ cho lý
tưởng của mình, cho nhân sanh và mình thực hiện cho lý tưởng tốt đẹp của
mình; công quả là lấy công sức của mình làm cái gì đó cho tốt đẹp, nhưng
không phải vô chùa mà mình làm ngoài xã hội, thì thực hiện đều đó là nền
móng.
H: Lúc nảy bác nói là địa ngục bị đóng, như vậy thì khi bị mất đi sẽ không còn
xuống địa ngục nữa?
TL: Đúng rồi, không còn ở địa ngục mà chỉ ở lưng chừng rồi các đấng sẽ độ trì
cho mình. Như về mặt khoa học, thì mình thấy có nhiều quả địa cầu. Đức Chí
tôn có nói quả địa cầu mình ở đây là quả địa cầu 68, mà trong cái 72 quả địa
cầu, những quả địa cầu từ 69 đến 72 thì hiện nay còn u u minh minh, không
có con người sáng suốt thông minh sinh sống. Ví dụ, một thường dân ở địa
279
cầu 67 sẽ như là ông vua ở địa cầu 68, 4 địa cầu còn lại là u u minh minh; do
đó, khi chết sẽ đến các địa cầu này. Địa cầu này không phải là địa ngục mà
mình chỉ ở đó để các đấng độ trì hướng dẫn, mình phải tự tu hành, học hỏi để
từ đó mình đi lên, không còn bị cưa xẻ như trước nữa, với lại về triết lý của
đạo Cao Đài, khi con người tội tình gì đó còn có tòa án lương tâm của mình
xét xử, chứ không có ai xét xử cho mình, thí dụ mình làm chuyện gì ở nơi
trần gian này tốt, thì mình sẽ được các đấng ghi chép cho chúng ta làm
chuyện đó tốt, còn nếu chúng ta làm chuyện gì mà nó ác tâm, không được tốt
đẹp thì lương tâm chúng ta phán xét, tòa án phán xét chúng ta. Điều đó cũng
có thể nói là Minh cảnh đài, là một tấm kiếng mà rọi để thấy những lai lịch
chúng ta như thế nào. Cho nên đạo Cao Đài hiện nay có cái hay đó, bởi vì
Thầy ngự trong đó mà. Tất cả đều có đấng Chí tôn. Mình muốn cái gì, làm
cái gì thì Chí tôn đã biết rồi. Khi chúng ta làm gì sai trái thì luật quả báo đều
nhan nhãn trước mắt, không có sai chạy.
H: Như vậy là không còn địa ngục nữa?, thế thì Thiên đường là như thế nào?
TL: Thiên đường là cảnh giới thuộc về thiêng liêng hằng sống. Trong cúng cửu
của đạo Cao Đài thì nói đến Cửu trùng thiên, thì mỗi cửu như vậy có một
đấng sẽ hướng dẫn mình đi đến như thế nào. Đến khi chúng ta công viên quả
mãn thì sẽ hội diện với Đức Chí tôn. Đều này thì sẽ đưa tư liệu rồi về xem
xét tiếp, chứ giờ nói không hết đâu, nó dài dòng lắm, ý thì nó vậy đó.
H: Ví dụ, con là tín đồ, đã nhập đạo rồi, vợ con cũng là tín đồ đã nhập đạo rồi, khi
sanh ra một đứa con, như vậy thì đứa con này có được xem là tín đồ của đạo
Cao Đài không?
TL: Chưa được, vì đứa con đó phải làm tắm thánh, khi tắm thánh rồi thì được xem
gần như tín đồ của đạo, vì khi tắm thánh có pháp của tắm thánh. Pháp này thì
Đức Chí tôn dạy cho các đấng, các chức sắc. Từ khi tắm thánh cho đến 18
tuổi thì phải làm lễ nhập môn. Khi nhập môn rồi thì mới chính thức trở thành
người của đạo Cao Đài.
H: Tại sao lại phải đợi đến 18 tuổi?
TL: Vì luật của đạo nó vậy, yêu cầu tính tự nguyện của người nhập môn. Đến 18
tuổi được xem là đã trưởng thành, có ý thức cho hành vi của mình, lúc đó
quyết định trở thành người Cao Đài hay không la do người đó, không phải lệ
thuộc vào ai, vì ở tuổi này phải chịu mọi quyết định của mình.
H: Còn nếu như tắm thánh mà không làm lễ nhập môn thì sao?
TL: Không làm lễ nhập môn thì không phải là người của đạo Cao Đài và không
được quyền làm bất cứ việc gì trong đạo Cao Đài. Bất luận ai, ông nào cũng
phải nhập môn. Ví dụ như tôi, bây giờ là chức sắc, nhưng hồi trước tôi cũng
phải nhập môn rồi mới lên Phó sự, Chánh sự... muốn hoạt động tôn giáo phải
có nhập môn mới được. Khi nhập môn rồi thì có sớ cầu đạo.
H: Sớ cầu đạo đó thì ai giữ?
TL: Người nhập môn giữ. Người nhập môn phải có hai người hướng dẫn. Những
người này là những người có uy tín hướng dẫn, thì cái đó là cái công quả của
người hướng dẫn. Khi mình nhập môn rồi 6 tháng thì phải biết đọc kinh, ăn
280
chay, học đọc đạo... sau đó được cấp sớ cầu đạo chánh. Mới nhập môn thì
chỉ tạm cấp sớ cầu đạo thôi.
H: Con xin hỏi cái này hơi riêng tư một chút, gia đình của bác thì theo đạo từ khi
nào?
TL: Bác hay là ông già?
H: Kể cả gia đình bác.
TL: Ông già bác thì theo lâu lắm rồi. Còn bác thì trực tiếp làm việc tại Tòa thánh
vào năm 1965, thì lẽ ra 5 năm là lên Lễ sanh, nhưng không đi cầu phong, sau
đó Tòa thánh cử bác về đây làm việc đạo mấy chục năm, đến năm 1999 mới
đi cầu phong Lễ sanh. Như vậy, hiến thân cho đạo từ năm 1965 đến nay là
2008, vậy là hiến thân cho đạo 43 năm. Đó là hiến thân nhé, còn thời gian
làm công quả thì không nói tới. Còn ông già thì không nhớ được, đến nay
chắc cũng năm mấy 60 chục năm gì đó.
H: Trước đây là ba má của bác đã có đạo rồi?
TL: Ừ,
H: Vậy ba má của ba má bác có đạo không?
TL: Không, tại vì ổng chết sớm. Ba của bác tới nay đã là 100 tuổi rồi, còn ông nội
của bác thì chết sớm nên không có đạo. Lúc khai đạo thì ông nội chết rồi.
H: Như vậy mẹ của bác có đạo không?
TL: Cũng không có, mẹ của bác chết năm bác mới có 1 tuổi thôi, nên cũng không
có đạo.
H: Ba của bác các bao nhiêu người con?
TL: Bác có 3 đứa con trai, đều có đạo hết.
H: Bác là thứ mấy?
TL: Bác thứ 5, hai người chị chết từ nhỏ. Bây giờ còn lại một người anh và một
người em.
H: Bác hiến thân cho đạo vậy bác có gia đình không? Có vợ không ?
TL: Lúc đó thì chưa có vợ, nhưng sau về đây mới có vợ, nhưng trong đạo thì
không có trách, vì lúc đó mình chưa là chức sắc.
H: Vậy bác gái có đạo không?
TL: Có, bả giờ đang đứng vào hàng Lễ sanh. Bả làm công quả cũng lâu lắm rồi.
H: Gia đình của bác hiện nay có bao nhiêu người con?
TL: Bác có 5 đứa, 3 trai, 2 gái.
H: Các anh chị này thì sao?
TL: Có đạo hết rồi, cũng là nhập môn cầu đạo.
H: Có người nào là chức sắc, chức việc gì không?
TL: Không, tụi nó còn nhỏ. Đứa lớn nhất giờ mới ba mấy tuổi thôi.
H: Có ai có gia đình chưa bác.
TL: Có 3 đứa rồi, 2 đứa con trai một con gái.
H: Vợ và chồng của các anh chị này thì sao hả bác?
TL: Cũng có đạo hết.
H: Bác có cháu nội, cháu ngoại gì chưa?
TL: Có, thằng lớn thì có hai đứa, kế một đứa. Thằng lớn 2 đứa con gái. Đứa kế
con trai. Đứa con gái thì có 2 gái, 1 trai.
281
H: Cháu nội, cháu ngoại của Bác giờ đứa lớn nhất là bao nhiêu tuổi?
TL: Đứa lớn khoảng 10 tuổi, tôi cũng không nhớ nữa, giờ nó học lớn 4 lớp 5 gì
đó.
H: Trong số những đứa cháu này, đứa nào chưa tắm thánh?
TL: Tụi nó tắm thánh hết rồi. Không còn đứa nào. Khoảng 1 – 2 tuổi là tôi cho tụi
nó tắm thánh hết.
H: Tổ chức tắm thánh ở đâu?
TL: Ở Thánh thất nè.
H: Mình tổ chức tại nhà được không?
TL: Không, tại Thánh thất chứ.
H: Bác thấy lễ tắm thánh giống với lễ rửa tội của Công giáo?.
TL: Khác đó, một bên có một bí tích khác nhau chứ.
H: Có trường hợp nào mà không tắm thánh, nhưng lại làm lễ nhập môn không
bác?
TL: Có chứ, miễn tới 18 tuổi là có thể làm lễ nhập môn.
H: Nhưng không tắm thánh có được không?
TL: Được chứ, con của những người có đạo thì tắm thánh, còn những người
không có đạo thì họ chỉ đến xin nhập môn thôi cũng được.
.................
282
Phụ lục 2
Phỏng vấn số 5
TRÍCH PHỎNG VẤN
VỀ LỄ QUÌ HƢƠNG
- Người được phỏng vấn: NTN
- Ngày phỏng vấn: 23 tháng Chạp năm 2008
- Người phỏng vấn: Tác giả
- Địa điểm phỏng vấn: Thánh xá Cây Gáo, Đồng Nai
Nội dung phỏng vấn
…………………….
H: Nhà bác chuẩn bị tết nhất gì chưa?
TL: Thì có gì đâu mà chuẩn bị con, có ai ăn đâu mà chuẩn bị, tụi nó ai có nhà nấy
hết rồi ăn uống ở nhà tụi nó thôi. Bác chỉ dọn dẹp bàn thờ, mua vài cây bông
cúng Thầy là được rồi. Nhưng nay còn sớm mà, mới 23 tháng chạp thì chuẩn
bị cái gì?
H: Anh út có về ăn tết không bác?
TL: Có chứ, nó nói là hai lăm nó về. Phải chờ qua Sám hối chung niên này đã.
H: Ủa, ngoài đó cũng tổ chứ Sám hối chung niên hả bác?
TL: Có chứ, Hội thánh tổ chức lớn lắm. Năm nào về dự cũng đông đảo. Lúc trước
bác còn ở quê thì năm nào đến ngày 23 tháng Chạp này cũng phải về Hội
thánh quì hương hết.
H: Không đi có được không?
TL: Cái đó thì tùy mình thôi, không có ai bắt buộc, nhưng mọi người trong đạo thì
ngày này rất quan trọng, nên ai cũng phải về mà.
H: Quan trọng như thế nào hả bác?
TL: Thì mỗi năm mới có một lần quì hương để mọi người có cơ hội sám hối tội lỗi
của mình, nên được xem là Sám hối chung niên. Đạo mình thì chỉ có ngày
này, còn đạo Công giáo thì Chủ nhật nào cũng có, họ đến nhà thờ xin tội, còn
đạo mình chỉ có một ngày trong năm nên mọi người đều phải cố gắng đi.
H: Con thấy quì hương lâu quá, đọc bài kinh Sám hối dài tới mấy chục trang, vừa
đọc vừa quì như vậy bác có thấy mệt không?
TL: Mệt chứ, nhưng mà không sao cả, mỗi năm có một lần thôi thì mệt chút
nhưng an tâm con.
H: An tâm là sau hả bác?
TL: Thì sau khi quì hương rồi, mình cảm thấy nhẹ nhỏm cả người, vì minh tin
rằng đã được giảm tội của mình trong một năm qua. Nhưng mà có giảm hay
không thì mình cũng không biết được, cứ tin như vậy đi cho chắc. Hơn nữa
con biết không ? mình trong bài kinh sám hối đó thì có những điều phải nhắc
mình, tránh làm điều dữ mà nên làm điều lành đó con. Thí dụ như đọc trong
kinh sám có những câu như "thấy trên đường miểng bát, miểng chai, hoặc là
đinh nhọn chông gai. Mau tay lượm lấy đoái hoài kẻ sau. Ấy là phước khỏi
hao, khỏi tốn. Chớ có đâu mòn vốn hao tiền". Đó con thấy những câu như
283
vậy có hay không. Đọc thuộc những câu như vậy, tự nhiên mình làm theo, rồi
làm theo như vậy thì đã có công quả rồi đó. Rồi có những câu răn mình sợ
lắm, nếu đọc kỹ rồi con sẽ thấy sợ vì làm điều gì tội lỗi cũng đều có hình
phạt thích đáng dưới âm phủ hết đó. Do đó, dự lễ quì hương cũng là lúc để
nhắc nhở mình trong cuộc sống vậy mà.
H: Bác vào đây thì có năm nào bác không đi quì hương không ?
TL: Không, năm nào bác cũng đi. Có mất công, mất của gì đâu mà không đi. Quì
được như vậy là rất phước đó chứ. Thôi tới giờ rồi bác vô cúng đây, cháu
ngồi chơi nhe, một chút nữa lại nói chuyện tiếp. Uống nước đi.
H: (sau hơn một tiếng đồng quì hương); Bác thấy có mệt không ?
TL: Không, bình thường mà, chỉ có quì một cây nhang thì mệt cái gì.
H: Sao bài kinh này dài mà mình đọc chậm vậy bác, mình không đọc nhanh lên
một chút được sao ?
TL: Trời đất, đã quì sám hối rồi mà còn sợ mệt, thì quì làm gì. Bài kinh học qui
định phải đọc theo giọng đó thì mình phải đọc cho đúng chứ, đọc nhanh hơn
làm sao mà được, ai chứng cho mình. Mình phải đọc chậm rãi như thế mới
được con.
H: Sau khi quì hương xong rồi, bác cảm thấy sao?
TL: Thấy nhẹ cả người đi, như vậy là viên mãn trong một năm rồi đó. Bây giờ trở
đi thì sẽ cố gắng làm lành thêm một chút, mình cứ nhủ trong lòng vậy đó.
Sau khi quì hương xong là kết thúc một năm, mình lại chuẩn bị bước vào
năm mới. Mà nghĩ cũng hay hén, đạo mình cũng hay ghê, sắp ngày qui
hương đúng ngay dịp đưa ông Táo cuối năm, lúc nhà cửa dọn dẹp sạch sẽ rồi,
mình quì hương xong thì cũng thanh thản về đưa ông Táo. Bác thấy điều này
hay ghê.
H: Ai chở bác tới đây?
TL: Không, nhà gần đây, chỉ đi bộ, tụi nó đi làm chưa về, cuối năm mà, lu bu công
chuyện lắm nên có đứa nào rảnh đâu mà chở. Đi bộ một chút là tới thôi.
H: Mọi năm con thấy có anh Dũng đi cúng nữa, sao năm nay không có hả bác ?
TL: Ừ, năm nay nó lo công việc trên trường của nó, chưa xong nên không về cúng
kịp. Nhưng nghe nói đâu nó đang chuẩn bị xăm cho Thánh thất, mấy ngày
nay thấy lui cui đánh máy gì đó.
H: Chuẩn bị xâm gì hả bác ?
TL: Thì mấy câu thánh giáo của Thầy và các đấng thiêng liêng cho đó. Nó đánh
máy ra, rồi đem ra Chùa bỏ vào phong bao lì xì, xin Thầy, sau đó theo lên
nhành mai. Ngày mùng một, hễ ai tới chùa thì xin Thầy quẻ xâm rồi, mở ra
xem, xem thử đường tu hành của mình như thế nào, Thầy khen hay chê để
mà tiếp tục cố gắng.
H: Vậy bả bác ?, việc này mình làm lâu chưa ?
TL: Chưa, mới năm nay thôi. Tết con rảnh ra chùa ngày mùng một chơi, vui lắm.
Ngày đó đạo hữu về rất đông. Con muốn hỏi gì cũng được.
H: Dạ, con cố gắng, nhưng không biết được không ?
TL: Ừ thì tùy thôi, chứ ngày tết cũng khó. Thôi bác về đây, chuẩn đưa ông Táo
cái. Con có về luôn chưa?
284
H: Dạ con cũng về luôn đây ạ.
TL: Ừ, đường xa, trời tối mà lại cuối năm cuối tháng rồi, đi đứng cẩn thận nhe
con.
H: Dạ, hay bác để con chở về cho một đoạn?
TL: Thôi, nhà gần đây mà, con cứ về đi, cẩn thận nghe.
285
PHỤ LỤC 3
TRÍCH NHẬT KÝ ĐIỀN DÃ
286
Phụ lục 3
Nhật ký điền dã số 1
NHẬT KÝ ĐIỀN DÃ
TẠI THÁNH THẤT TRUNG MINH – TP.HCM
TRONG DỊP LỄ TRUNG NGƢƠN
(RẰM THÁNG 10 NĂM 2006)
Đối với đạo Cao Đài, Trung Ngươn không phải là lễ lớn của đạo, nhưng
Rằm tháng 10 thì lại có nhiều người đến Thánh thất hành lễ. Tôi muốn tham dự lễ
Rằm tháng 10 tại Thánh thất Trung Minh vì đây là Thánh thất của phái Cao Đài
Truyền giáo, có đông số lượng tín đồ miền trung đến hành lễ tại đây.
Trước đó ít ngày, tôi có một số người quen ở Đồng Nai cùng hẹn nhau lên
hành lễ. Họ ít khi lên tận Sài Gòn hành lễ vì ở Đồng Nai cũng có nhiều Thánh
thất, và Thánh thất của Truyền giáo có tên là Trung Bảo đặt tại Long Khánh. Họ
thường đến đó để hành lễ. Nhưng Rằm tháng 10 năm nay họ có một số công việc
phải lên Sài Gòn nên tiện thể đến hành lễ tại Thánh thất Trung Minh. Nhờ đó, tôi
hẹn với họ cùng đến để cùng tham dự lễ với họ.
Đúng 6g sáng ngày Rằm tháng 10, họ đã có mặt tại nhà tôi ở Thủ Đức. Từ
Thủ Đức lên đến Thánh thất Trung Minh ở quận 11 phải mất hơn 1 tiếng đồng hồ
vì đường Sài Gòn khá đông. Chúng tôi chuẩn bị xuất phát từ nhà tôi vào lúc 7g30
trên 3 chiếc xe honđa, trực chỉ vào trung tâm thành phố, chạy qua đường Cách
mạng tháng 8, đến ngã tư Bảy Hiền theo đường Lạc Long Quân chạy riết đến gần
khu vực Đầm Sen, quận 11 thì đến Thánh thất Trung Minh. Thánh thất này mới
được trùng tu lại nên rất đẹp. Thánh thất có một lầu, hậu điện; tầng trệt dùng để
tiếp khách, sinh hoạt đạo; có nơi thờ Cửu huyền thất tổ; hậu điện dùng làm nơi ở
của chức sắc, phòng nấu ăn… Trên lầu là nơi thờ Đức Chí Tôn. Phía trước nó nơi
giữ xe; nếu ngày vía, xe đông sẽ được đưa sang bên kia đường và có người trong
coi cẩn thận.
Chúng tôi đến Thánh thất khoảng 9g. Mọi người đã tập khá đông. Họ đổ về
từ các nơi, có người từ Vũng Tàu lên, có người từ Biên Hòa – Đồng Nai; cũng có
những người từ ngoài Trung đi công việc trong Sài Gòn rồi ghé vào hành lễ. Lúc
chúng tôi đến, thấy mọi người ngồi chuyện trò thật rôm rả. Những người quen của
tôi cũng nhanh chóng xuống nhà sau thay lễ phục rồi lên phía trên ngồi nói
chuyện. Tôi cũng tìm một chỗ ngồi quan sát. Tôi nghe mọi mời nói chuyện với
nhau thật chân tình, xưng hô với nhau là huynh, đệ, tỷ muội, giống như trong
phim kiếm hiệp vậy. Các câu chuyện mà họ chuyện trò đều xoay quanh chuyện
đạo, gần như không đề cập đến chuyện đời. Tôi ngồi nghe họ về việc ăn chay như
thế nào? Đi chùa ở đâu, chùa nào đang được xây dựng; việc luyện công phu như
thế nào… toàn là những chuyện đạo. Tôi có bắt chuyện với một người Trung đến
từ Bà Rịa – Vũng Tàu. Tôi thắc mắc sau lại xưng hô như vậy thì được trả lời, đó là
cách xưng hô của đạo Cao Đài, tất cả tín đồ của đạo đều xem nhau như anh em,
chỉ có một người thầy duy nhất là Thượng đế; còn lại là anh em cả. Khi về với
Thánh, có nghĩa là về với ngôi nhà chung của đạo nên chỉ nói chuyện đạo thôi.
287
Chuyện đạo quan trọng hơn chuyện đời, vì chuyện đời là do Thượng đến an bày
rồi, ai có phước phần gì thì nó sẽ được như vậy; còn chuyện đạo là phải cố gắng;
có gắng tu hành, cố gắng làm công quả mới mong được về với Thượng đế. Anh
Trung giải thích như vậy. Tôi nghĩ như vậy cũng hay, chỉ một niềm tin duy nhất,
một lối hành đạo duy nhất sẽ là điều gắn kết còn người lại với nhau và xem như
anh em của nhau. Đây có thể xem là điều tốt mà tôn giáo đã mang lại cho cuộc
sống của mỗi con người chăng. Tôi ngồi quan sát thấy mọi người nói chuyện với
nhau rất chân tình. Anh Trung cũng nói chuyên thân tình với khá nhiều người. Tôi
nói như chất vấn rằng anh đi lễ trên này có nhiều người thân quá há; anh vội nói
ngay làm gì có, chỉ quen mặt và biết tên thôi. Không biết nhiều về họ đâu, vì họ ở
Sài Gòn và nhiều nơi khác nhau lắm. Anh đi lễ trên này thường gặp họ rồi nói
chuyện chân tình thế thôi, chứ cũng không biết nhà họ ở đâu, họ làm nghề gì nữa.
Chỉ biết họ cùng đạo với mình, cùng đi lễ một Thánh thất và như thế là xem như
anh em; và khi nói chuyện với họ cũng chỉ nói chuyện đạo; chứ chuyện khác biết
gì mà nói, hơn nữa nói chuyện khác ở Thánh thất thì không phải lẽ cho lắm. Tôi
ngồi cùng với anh Trung cách bàn công quả không xa. Tôi nhìn sang bàn công quả
thì thấy mọi người sau khi thay xong lễ phục liền đến bàn công đóng góp tiền. Có
người đóng 5 chục ngàn, có người đóng 100 ngàn… có một chị đóng 200 ngàn,
xong lại ngồi gần chỗ tôi và anh Trung. Tôi bắt chuyện, được biết chị tên Hạnh,
bán hàng tại Biên Hòa. Sáng nay chị và chồng chị cùng lên đi lễ tại Thánh thất
này. Chị nói Rằm nào cũng cố gắng đi chùa, nếu không đi thấy ấy náy lắm. Chị
nói tiếp là tín đồ của đạo thì mỗi tháng nên về chùa một lần, nhất là vào các dịp lễ
lớn, đó phước của mình đó. Tôi hỏi vậy việc bán hàng thì sao? Chị nói thì đóng
cửa, mỗi tháng nghĩ một ngày có sao đâu? Mình mỗi tháng nghĩ một ngày là ít,
người Công giáo một tháng họ nghỉ tới 4 ngày Chủ nhật mà cũng có nghèo đâu,
còn giàu nữa là khác, nên không lo. Chị nó mình cố gắng đi chùa cho được phước.
Chị cũng kể rằng mỗi tháng chị ăn chay 10 ngày và cố gắng khi lớn tuổi hơn thì ăn
chay trường cho khỏe thân. Tôi hỏi chị theo đạo từ lúc nào? Chị nói theo lâu lắm
rồi, cha mẹ chị ở Đà Nẵng có đạo, chị cũng nhập môn hồi còn nhỏ; có chồng
người cùng đạo rồi đi cư vào Biên Hòa làm ăn. Lúc đầu mới vào, bỏ bê việc đạo,
không muốn đi chùa, nhưng từ khi cha mẹ chị mất đi thì chị lại muốn đi chùa hơn
để cầu siêu cho ông bà và cũng để cho lòng mình được thanh thản hơn, bớt bon
chen chốn kẻ chợ. Tôi nghe chị nói mà cảm phục ghê. Tôi hỏi chị thường hay
đóng công quả lắm hả, chị nói thường lắm. Không đi chùa thì thôi, chứ đi là phải
đóng; mỗi lần vậy là 200 ngàn. Chị nói thêm mình đóng vậy chẳng có bao nhiêu
đâu, có người họ đóng cả triệu, mấy triệu bạc. Tôi hỏi có bao giờ chị thắc mắc
rằng số tiền mình đóng góp sẽ được chi vào chuyện gì không? Chị không cần suy
nghĩ mà nói ngay, chi rất nhiều thứ chứ, mình biết mà, nào bông hoa, trái cây,
nhang đèn cúng Thầy, tiền trung tu Thánh thất, tiền bàn, tiền ghế, tiền điện, tiền
nước, tiền ăn cho chúng sanh về dự lễ … Chị liệt kê ra hàng loạt các khoản mục
để chi và chị nói thêm là tiền công quả không ai dám làm của riêng đâu, mình phải
tin tưởng đều này mới được. Nói thật lòng là tôi khâm phục chị Hạnh này, vì chị
có một tấm lòng mộ đạo tuyệt vời. Chúng tôi ngồi nói chuyện đến hơn 11g thì
chuông trên chánh điện của Thánh thất vang lên một hồi dài. Lúc ấy tôi thấy mọi
288
người đứng dậy, hai tay bắt ấn tý chấp ngang ngực. Hồi chuông kết thúc, mọi
người tất tả bước lên cầu thang. Trên chánh điện có một hành lang phía trước khá
rộng. Tất cả tập trung lại đó, sau đó nghe tiếp một hồi chuông nữa thì nam – nữ
xếp thành hàng riêng và ngay ngắn đi vào chánh điện. Quì phía trước Chánh điện
là hai vị Lễ sanh, một nam một nữ. Bàn ngoại nghi, nội nghi đều có người hầu,
đồng nhi, lễ sĩ chuẩn bị cẩn thận. Tín đồ nam nữ đứng ngay ngắn. Sau đó nghe
theo hồi chuông mà tín đồ cùng nhau sá rồi bước vào vị trí quì. Buổi lễ diễn ra thật
trang nghiêm. Số người quì không nhiều, vì không có chỗ. Những người còn lại
đứng hai bên, nhưng rất ngay ngắn. Đến nghi thức dâng hương, 4 Lễ sĩ trong đó
có hai người cầm đài, một người cầm nhang, một người cầm đền đi lễ hành chữ
Tâm từ bàn ngoại nghi đến bàn Nội nghi. Lễ sĩ đi rất đẹp, có điệu, nhúng đá chân,
trông rất hay. Tôi đếm thử số chữ Tâm phải đi từ bàn Ngoại nghi đến đàn Nội
nghi là đúng 12 chữ. Nghi thức này được thực hiện đến 4 lần, trong đó lần đầu tiên
là dâng hương; ba lần sau đó là dâng rượu, dâng hoa quả và dâng trà.
Nhìn vào buổi lễ, chúng tôi có một cảm tưởng như là một buổi trình diễn
nghệ thuật. Họ trình diễn những bước đi lễ, nghi thức cúng, âm nhạc, cách đọc
kinh và lòng tôn kính của tín đồ Cao Đài dành cho tôn giáo của họ. Tôi cảm thấy
khâm phục cho lòng mộ đạo của họ, vì lòng mộ đạo mà họ xem nhau như anh em
một nhà, không suy tính thiệt hơn trong việc đóng, bỏ cả công việc để đến với tôn
giáo và hành thiện. Tất cả nhằm hướng đến một mục cho cuộc sống sau cái chết,
nhưng ai biết được nó như thế nào?.
Buổi lễ kéo dài hơn 1 tiếng đồng hồ. Khi kết thúc buổi lễ, tín đồ rảo bước
tầng trệt, không chen lấn. Phía dưới, các mâm cơm đã được dọn sẵn, nhưng các
chức sắc và một số tín đồ tiếp tục việc cúng tế tại bàn thờ cửu huyền. Cúng xong,
mọi người mới thay trang phục và bước vào bàn ăn trưa. Bữa cơm trưa diễn ra
thâm tình. Họ lại tiếp tục nói chuyện về việc đạo, hoặc thăm hỏi sức, hỏi ông này,
hỏi ông kia… Câu chuyện khá rôm rã, nhưng chủ đề chung thì chỉ có một đó là
việc đạo; gần như không ai đề cập đến việc đời trong Thánh thất. Đó là điều mà
tôi cảm nhận được.
Buổi cơm kết thúc, tôi cùng với những người quen ra về và có một cai gì
đó đọng lại trong tôi những điều mà tôi nghe và nhìn thấy tại Thánh thất này làm
cho tôi phải suy nghĩ về cuộc sống của mình. Có quá bon chen không?
Viết xong vào lúc 23 giờ ngày 17 tháng 10 âm lịch năm 2006
289
Phụ lục 3
Nhật ký điền dã số 2
NHẬT KÝ ĐIỀN DÃ
VỀ ĐẠI LỄ HẠ NGƢƠN TẠI THÁNH THẤT SÀI GÕN
(RẰM THÁNG 10 NĂM 2007)
Đại lễ Hạ ngươn được diễn ra nhằm ngày Rằm tháng 10 hàng năm, và năm
nay Rằm tháng 10, nhằm ngày 24 tháng 11 năm 2007. Ngày này tín đồ Cao Đài
chuẩn bị cho lễ rất long trọng, tôi rất muốn đến Tòa thánh Tây Ninh để tham dự,
nhưng gì lý do gia đình là vợ vừa sanh con nhỏ và đang kẹt lớp dạy nên không thể
đi được. Nhưng vì là lễ quan trọng nên không thể không tham dự, do đó tôi đã
chọn Thánh thất Sài Gòn, được xem Hội thánh hai của Cao Đài Tây Ninh để tham
dự.
Tôi biết được giờ hành Đại lễ tại Thánh thất thường diễn ra vào lúc 12g,
nên tôi chuẩn bị đến sớm hơn. Trên đường từ Trường đến Thánh thất Sài Gòn, tôi
có ghé qua Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, vì tôi được Cô Lan trong cơ Quan Phổ
Thông Giáo lý cho biết là hôm nay ở Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý có buổi sinh
hoạt tôn giáo rất hay. Đó là buổi thuyết trình của ông Thiện Chí về vấn đề Đức
Tin Của Đạo Cao Đài. Tôi đến Cơ Quan Phổ Thông Giáo lý vào lúc 8g sáng, buổi
thuyết trình có rất đông người dự. Ông trình bày về Đức tin Cao Đài khá hay với
những nội dung phong phú được trích từ các quyển Thánh giáo của Đạo. Ông
trình bày sơ lược về lịch sử hình thành đạo, việc xây dựng hệ thống giáo lý và đi
sâu vào vấn đề đức tin của đạo. Ngồi nghe ông thuyết trình mà tôi đã vở ra nhiều
vấn đề còn đang thắc mắc khi đọc các tài liệu. Bài thuyết trình của ông dài gần 1
tiếng đồng. Sau khi thuyết trình xong, mọi người cùng nhau ra về, tôi cũng tranh
thủ nói chuyện với ông một chút vì ông có việc bận phải đi ngay, nên tôi hẹn có
dịp sẽ liên lạc nhờ ông giúp đỡ. Ông sẵn lòng đồng ý.
Từ Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý tôi chạy ra bùng binh Cống Quỳnh, theo
đường Nguyễn Trãi chạy ra Nguyễn Văn Cừ và đến đường Trần Hưng Đạo. Tôi
thẳng đường Trần Hưng Đạo về hướng quận 5 khoảng 500m thì đến Thánh thất
Sài Gòn. Lúc này là 9g30, tôi vào Thánh thất là gặp bác thủ quỹ của Thành thất để
thưa chuyện rằng tôi muốn tham dự Đại lễ Vía Đức Phật Mẫu trưa nay. Ông nói
tốt thôi, rồi ông mời tôi ngồi ở ghế salon để ông vào trình với ông Đầu họ. Tôi
ngồi tại ghé Salon để quan sát, đúng là ngày lễ có khác, số người đến Thánh thất
khá đông, họ mặc lễ phục màu trắng đi tới đi lui trong Thánh thất. Ngồi được
khoảng 15 phút thì bác Đầu họ xuống, ổng hỏi tôi làm gì ở đâu? Tại sao lại muốn
tham dự lễ này? Tôi trình bày mục đích, lý do của mình xong thì ổng rất mừng,
ổng nói là nghiên cứu về đạo Cao Đài là rất tốt, đây cũng là hình thức để nhiều
người biết đến đạo. Ổng còn nói thêm đạo này hiện nay có rất nhiều người nghiên
cứu, trong nước có, nước ngoài cũng có và ông đưa ra ví dụ là ông đã tiếp và
hướng dẫn cho hai người nước ngoài đến nghiên cứu tại Thánh thất của ông. Tôi
hỏi là ai? Thì ông nói một người và bà Giáo sư đến từ Mỹ, tên và Jenet Hoskins và
một người còn trẻ đến từ Ba Lan tên là Saara. Cả hai người này tôi đều biết. Bà
290
Hoskins có tham dự Hội thảo Nhân học Quốc tế tại Bình Châu do Khoa tôi tổ
chức, tôi còn biết là bà có viết một bài về Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc; còn
Saara thì tôi rất rõ về cô ta, vì cô ta là học viên nghiên cứu tại Khoa tôi và tôi được
Ban Chủ nhiệm Khoa phân công giúp đỡ cho Saara trong thời gian nghiên cứu tại
Việt Nam. Tôi nói với ông Đầu họ là tôi có biết hai người này thì ổng rất mừng, vì
ổng cho rằng như vậy là rất tốt, vì nghiên cứu cùng một vấn đề mà biết với nhau
thì có thể hỗ trợ cho nhau. Ông nói tôi ngồi chơi rồi một lát nữa dùng cơm trưa.
Sau khi dùng cơm trưa xong thì sẽ tham dự buổi lễ. Tôi dạ. Ổng quay sang một
người và nói là với người đó là một lát nữa anh hướng dẫn cho chú này tham dự lễ
nhé, nhớ hướng dẫn cẩn thận. Ông ấy dạ. Rồi ông Đầu họ nói là có việc chuẩn bị
phải vào trong một chút. Tôi ngồi một mình một lúc thì ông được phân công
hướng dẫn tôi đến ngồi bên và hỏi chú muốn tham dự lễ hả. Tôi nói dạ, rồi ông nói
tôi là Lễ sanh ở đây, là Phó ban. Ông nói một lát nữa tham dự lễ, thì tôi có thể
đứng trên lầu, hoặc đứng phía dưới cũng được, nhưng đừng đi lại lộn xộn sẽ mang
trọng tội đó; và tuyệt đối im lặng, chỉ đứng một chỗ thôi, có muốn chụp hình, ghi
âm gì đó cũng hết sức cẩn thận, di chuyển nhẹ nhàng để giờ hành lễ được diễn ra
trang nghiêm, nếu không sẽ bị bề trên quở phạt mà mang trọng tội nhé. Tôi dạ liên
hồi. Sau đó ông đi vào trong và đem ra cho tôi một quyển kinh Thiên đạo, Thế đạo
nhỏ màu vàng. Ông nói về đọc đi cho biết, hay lắm đó. Tôi nhận và cám ơn.
Sau đó ông Đầu họ đạo đi xuống và nói với chúng tôi là thôi ăn cơm đi. Tôi
nhìn xuống phía nhà sau đã có những mâm cơm được dọn sẵn trên bàn. Ông kêu
tôi lại ngồi chung bàn với ông để cùng ăn cơm. Tôi vào ngồi trong bàn, thấy toàn
là người lớn tuổi, phải trên 50 cả, chỉ có tôi là nhỏ nhất nên cũng hơi ngại. Thái độ
chần chừ của tôi đã làm cho ông Đầu họ biết, ông nói là cứ tự nhiên nhé cháu. Tôi
ngồi vào bàn cầm đũa lên, nhìn vào món ăn tôi thấy toàn những món ngon, nào là
canh đậu hủ, gà chay ram, rau xào, có cả xôi và chè nữa. Món nào cũng ngon.
Những người ngồi chung bàn với tôi, họ đều ăn ngon lành, và cũng không nói
chuyện gì. Buổi ăn được bắt đầu rất tự nhiên như những bữa ăn trong gia đình
bình thường, không có đọc kinh, không cầu nguyện gì cả. Chỉ thấy người nhỏ mời
người lớn, người lớn bảo người nhỏ và cùng nhau ăn. Tôi ăn đến ba chén cơm lớn
và một miếng xôi nữa mới thôi. Thức ăn do những người phục vụ trong Thánh
thất nấu rất ngon.
Bữa ăn kết thúc, tôi lại ngồi ở ghế salon như lúc đầu để chờ đến lúc hành
lễ. Trong lúc ngồi quan sát tín đồ chuẩn bị hành lễ, tôi tình cơ nghe được cuộc nói
chuyện giữa hai tín đồ nam. Người thứ nhất (ký hiệu A) hỏi người thứ hai (ký hiệu
B) rằng “sao anh đến trễ vậy?”. Người B trả lời “tối qua có một người trong đạo
mình vừa mất, tôi phải đến đó sắp xếp công việc, tội nghiệp cho gia đình này.”
Người A hỏi, “tội nghiệp như thế nào?”. Người B trả lời “ông này bị bệnh ung thư
nằm bệnh viện, bà vợ lo chăm sóc ở bệnh viện, sức khỏe yếu, tuổi cao, nên chăm
cho ông được 2 tháng thì chịu không nổi nên ngã bệnh, chết; vừa đưa xác về nhà
liệm xong thì ông hay tin và cũng chết luôn, do đó trong nhà hiện có hai quan tài,
tôi phải đến sắp xếp công việc rồi mới đến đây.” Người A nói “phải trình báo với
Ban Cai quản chứ?”. Người B trả lời “tôi có điện cho Trưởng Ban rồi và có đưa
người xuống lo làm lễ cầu hồn lúc đêm, sau lễ này sẽ cử người xuống tiến hành
291
tang lễ”. Người A hỏi “nhà ở đâu?”, người B trả lời “ở quận 8 gần đây”. Người A
nói “như vậy tôi cũng đi xuống dưới, người cùng đạo mà, cùng góp sức cầu siêu
thì sẽ được mau thăng (thuật ngữ trong đạo Cao Đài ý chỉ là sẽ nhanh về với
Thượng đế”). Tôi suy nghĩ, gia đình nào mà khổ thế, và tự hỏi không biết người
đan ông kia có đến dự đám tang không? Nhưng sau đó tôi lại khẳng định là có vì
tôi cũng đã từng chứng kiến những tín đồ Cao Đài không ngại đường sá xa xôi từ
Thành phố Hồ Chí Minh đến hành lễ đám tang cho một gia đình tín đồ ở tận Đồng
Nai. Tín đồ Cao Đài thường hay đi làm công quả kiểu này và họ rất nhiệt thành.
Đang mãi mê ngồi suy nghĩ, tôi được vị Lễ sanh ban nảy gọi đi lên lầu tham dự lễ.
Tôi theo bước ông ta, đến chánh điện, ông chỉ tôi đứng ở vị trí này, là vị trí phía
dưới sảnh đường. Tôi nhìn lên trên, thấy cách bày trí tương đối giống với Tòa
thánh Tây Ninh, có lang cang để khách có thể tham quan buổi lễ. Tôi hỏi ông là có
thể lên trên được không? Ông nói là được. Tôi liền lên phía trên, chọn một chỗ
thích hợp để đứng. Từ phía trên nhìn xuống, tôi thấy mọi người đã chuẩn bị xong
đâu đó, nhang đèn, hương quả, bàn thờ… đều rất gọn gàng. Một hồi chuông nổi
lên tôi thấy có 4 đi vào trong kiểm tra tất cả các thứ xem đã sẵn sàng chưa? Sau đó
một chuông dài, nam một hàng, nữ một hàng đi vào trong chánh điện, người
chứng đàn là một nam, một nữ. Bàn nội nghi là ngoại nghi đều có người đứng hầu.
3 cặp lễ sĩ đã sẵn sàng nhiệm vụ. Những hồi chuông, trống nổi lên, rồi Nhạc Tấu
Quân Thiên phát khởi… Tôi đứng nhìn xem mà thấy không khí thật trang nghiêm,
long trọng như đang tiếp rước một nhân vật quan trọng bậc nhất nào đó đến vậy.
Tôi liếc nhìn ra bên ngoài, thấy những người giữ xe, trật tự viên, một số người nữ
đang phụ vụ phía dưới cũng đứng lại hết. Họ đứng thật trang nghiêm, hai tay bắt
ân tý để ngang ngực, mắt hướng vào chánh điện. Tôi tưởng tượng như không gian
lúc này đang ngừng trôi; chỉ có tiếng nhạc và nhạc. Kết thúc Nhạc tấu quân thiên,
mọi người quì xuống và buổi đại lễ tiếp tục diễn ra bằng hình thức Lễ sĩ dâng
hương, cầu kinh, dâng tam bửu, đọc sớ, cầu ngủ nguyện và kết thúc. Trong lúc
buổi lễ diễn ra, tôi nhìn ở hành lang, số người đứng hành lễ cũng rất đông. Họ
đứng vì không có chỗ để quì trong chánh điện. Buổi lễ kết thúc, những người
đứng này lần lượt vào trong chánh điện để lễ bái Thượng đế. Theo đồng hồ của
tôi, thì buổi lễ này diễn ra hơn 1 tiếng đồng.
Kết thúc buổi lễ, tôi quay trở xuống ngồi ở ghế salon và nói chuyện với ông
Đầu họ. Tôi hỏi ông một số việc mà tôi vừa nhìn thấy trong buổi lễ, như tại sao
phải làm lễ vào các thời, Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu; thì được ông giải thích rằng đây là
những giờ hoàng đạo trong ngày, vào giờ này các đấng thần linh thường đi lại trên
thế gian nên lễ diễn ra vào giờ này để đón rước thần linh. Tôi lại hỏi về thời gian
Nhạc Tấu Quân Thiên sau lại trang nghiêm đến vậy, thì được ông biết, vào thời
gian đó là thời gian giáng đàn của các đấng thiêng liêng. Ông nói trong thời gian
đó sẽ có một đoàn xa giá lộng lẫy của Ngọc Hoàng và các đấng Tiên, Phật giáng
đàn dự lễ, nên phải rất trang nghiêm để đón rước, nếu không sẽ bị phạm tội vì bất
kính. Tôi hỏi lại là liệu có thể tin điều đó không? Thì ông nói nên tin vì đó là sự
thật, tuy ta không thấy, nhưng không phải tất cả mọi người đều không thấy; cứ tin
đó là sự thật thì nó sẽ là sự thật. Tôi cũng đồng ý như vậy, vì ba mẹ tôi cũng
thường hay nói thế mà. Tôi hỏi buổi lễ này có nói đến vấn đề âm dương hiệp nhất
292
gì không? Tôi hỏi vậy vì tôi đọc sách thấy nói nghi lễ thể hiện giáo lý và đức tin
tôn giáo của con người. Đức tin tôn giáo thì tôi đã chứng kiến rồi, còn thể hiện
giáo lý thì như thế nào? Và được ông giảng giải khá tỷ mĩ nào là hoa tượng trưng
cho dương, trái cây tượng trưng cho âm, đèn lưỡng nghi, thái cực… ông giải thích
rất cao siêu, tôi nghe một hồi cảm thấy choáng vì không thể bắt hết được những
điều ông nói. Đến khi ông nói đến việc lạy, thì ông vừa nói vừa hỏi; cháu có hiểu
cách lạy trong đạo Cao Đài như thế nào không? Tôi làm ra vẻ mình rành liền nói
phải bắt ấn tý, để ngay tráng, lại xuống xòe bàn tay ra, ngón cái của tay phải đèn
lên ngón cái của tay trái… ổng nói đúng rồi, như còn thiếu một vấn đề quan trọng
là cách lạy và ý nghĩa của nó. Ông nói khi lại thì hai tay chắp trên trán là ngầm chỉ
thiên, đặt xuống đất là ngầm chỉ địa, rồi khi rút về ngang ngực là ngầm chỉ nhân.
Chỉ trong một cái lạy thôi cũng đủ để chỉ đến tam tài là thiên, địa, nhân rồi. Khi
thiên, địa, nhân mà hợp nhất thì cũng là lúc con người mình thành đạo. Đó là triết
lý của đạo và cũng là triết lý của cái lạy trong đạo Cao Đài đó. Ông giảng giải một
hồi, tôi cảm thấy khâm phục kinh khủng, vì trình độ hiểu biết của ông. Đúng là
một người giữ trọng trách của một Họ đạo lớn ở thành phố có khác.
Sau khi giảng giải xong, ông hỏi chiều này cháu có tham dự lễ cúng ở điện
Phật Mẫu không? Tôi hỏi điện Phật mẫu ở đâu thì ổng nói ở phía sau. Tôi nói có;
và buổi chiều tôi đến để tham dự. Lễ buổi chiều tối cũng theo một hình thức giống
lễ buổi trưa, chỉ khác có địa điểm và một số bài kinh cúng dành cho Phật mẫu thôi.
Viết xong vào lúc 23 giờ ngày 17 tháng 10 Âm lịch năm 2007
293
Phụ lục 3
Nhật ký điền dã số 3
NHẬT KÝ ĐIỀN DÃ VỀ LỄ HÔN PHỐI
TẠI THÁNH THẤT TRUNG BẢO
Tôi được một người quen mời tham dự lễ Hộn phối cho một cặp vợ chồng
tại Thánh thất Trung Bảo vào ngày 1 tháng 1 năm 2006. Đây là một Thát thất
được xây dựng khá lâu tại huyện Long Khánh tỉnh Đồng Nai. Đất của Thánh thất
thì rất rộng, nhưng nơi thờ tự lại nhỏ, lợp bằng tôn, vách ván, nhìn có vẻ như đã
xuống cấp nhiều.
Tôi có mặt tại Thánh thất từ rất sớm, lễ Hội phối diễn ra vào lúc 11g,
nhưng tôi có mặt tại đó vào 8g sáng. Đi lòng vòng quanh Thánh thất để ngắm
cảnh, xem mọi người chuẩn bị lễ… đến khoảng 10g, tại phòng khách của Thánh
thất, quan viên hai họ cùng cô dâu chú rể có mặt trong phòng khách. Trừ cô dâu,
chú rể mặc đồ cưới, số còn lại đều mặt áo dài khăn đóng. Họ chia thành hai bên,
nhà trai một bên và nhà gái một bên. Một người trong Ban Trị sự đứng ra tuyên bố
lý do của buỗi lễ, sau đó mời ông Lễ sanh đầu họ phát biểu. Tôi nghe ông nói từ
khi xây dựng Thánh thất cho đến nay, đây là cặp vợ chồng đầu tiên làm lễ hôn
phối tại Thánh thất. Tôi nghe nói như vậy có hơi thắc mắc, liền hỏi người bên
cạnh thì được biết từ xưa đến nay, Thánh thất chưa làm lễ hôn phối cho cặp vợ
chồng nào cả, vì họ cưới nhau theo tục lệ ngoài đời thôi, không làm lễ trong
Thánh thất, chỉ cặp này là duy nhất từ xưa đến nay. Tôi được người quen cho biết
là chú rể này là con của ông Chánh Trị sự trong Thánh thất, còn cô dâu là cháu nội
của ông Lễ sanh trong Thánh thất, chính vì thế mà họ muốn thực hiện lễ cưới theo
đúng luật trong đạo, nhằm làm gương cho những cặp trong đạo sau này.
Ông Lễ sanh Đầu họ đạo có những lời nhắn nhủ cho đôi vợ chồng, rồi đến
ông cha của chú rể, cha của cô dâu tỏ lời cám ơn trong đạo, sau cùng là chú rể
phát biểu cám ơn và có những lời hứa giữ gìn hạnh phúc gia đình trước toàn đạo.
Kết thúc buổi họp tại Khách đường, cũng là lúc đến giờ hành lễ chính. Mọi
người tập trung tại Chánh điện để hành lễ Đức Chí tôn. Sau khi cúng nghi thức
Chí tôn xong, đến phần hành lễ hôn phối, ông Đầu họ đạo lại bên đôi vợ chồng
đọc những lời đạo đức cho cặp vợ chồng nghe trước bàn thờ chí tôn. Lời đạo đức
được đọc như sau: “Đức Chí Tôn chứng cho hai em kết thành giai ngẫu, nương
náu nhau trọn nghĩa trọn tình, đạo vợ chồng giữ vẹn trăm năm, dầu giàu có không
sai, dầu khó hèn không phụ, vì vợ chồng chính là dây mối cho mọi việc tốt lành ở
tương lai. Xưa nay có vợ hiền mới giúp chồng nên anh hùng, có chồng hiền lương
mới dạy nên vợ tiết hạnh. Ban đầu chỉ là vợ chồng trong gia đình, mà kết quả là
bổn phận làm cha mẹ. Vợ chồng tuy khác hai tên nhưng mà cùng một đạo lý. Đã
là tín đồ của Đại Đạo, vợ phải xứng đáng vợ, chồng phải xứng đáng chồng, mới
là con nhà đạo đức”.
Sau đó buổi lễ kết thúc. Mọi người ra trước sân dự tiệc cưới.
Tiệc cưới được đãi chay hoàn toàn, nhưng cũng có bia để uống. Tôi hỏi
người nhà chú rễ là tiệc này được nấu ở tại Thánh thất sao? Thì được trả lời là
không. Có một người trong đạo, chuyên làm nghề nấu đám cưới, hôm nay biết có
294
lễ hôn phối này nên chịu phần trách nhiệm nấu giúp, rồi chở đến. Tôi đếm qua
thấy có 10 bàn tiệc, khách ngồi đầy đủ. Tôi ngồi chung bàn với những người đàn
ông lớn tuổi, kế bên là bàn của những người phụ nữ lớn tuổi. Tôi nghe họ nói rất
hoan hỉ và tự hào về đám cưới này. Họ hoan hỉ vì đây là lần đầu tiên trong Họ đạo
tại đây có lễ hôn phối, họ luôn tấm tắc khen cặp vợ chồng. Tôi hỏi chuyện là tại
sao từ xưa đến nay mới có một cặp làm lễ hôn phối thì họ cho biết là do đạo Cao
Đài qui định như vậy, nhưng ít người thực hiện được vì cho rằng nó hơi rườm rà,
mất công, một phần nữa là do muốn làm lễ hôn phối phải là hai người cùng đạo thì
mới làm được, trong khi đó ở khu vực này, trai trong đạo lấy người ngoài đạo; gái
trong đạo cũng lấy người ngoài đạo nhiều quá nên không thể làm lễ hôn phối
được. Họ chỉ làm lễ cưới theo truyền thống thôi. Tôi hỏi thêm, nếu như vậy họ có
mời mình đi dự đám cưới không? Thì được trả lời có, và họ vẫn đi bình thường,
không có sự phân biệt. Họ giải thích là đi vì tình đồng đạo, tình chòm xóm và
cũng vì muốn cho đôi trẻ tốt lành nên đi, chứ hoàn toàn không có sự phận biệt
trong việc đi dự đám cưới của người trong đạo với người ngoài đạo. Họ còn nói
thêm, đám cưới bình thường của những người không có đạo mình còn đi, huống
hồ gì đám cưới của những người trong đạo mình. Đã là trong đạo thì xem nhau
như anh em, nên phải đi chứ. Trong đầu tôi chợt có một suy nghĩ so sánh giữa
đám cưới đạo Cao Đài với đám cưới đạo Công giáo. Những người theo đạo Cao
Đài thì hoàn toàn không có khắt khe về chuyện đi dự đám cưới của con em trong
đạo của họ, nhưng người theo đạo Công giáo thì khác. Ở chỗ cha mẹ tôi ở là xóm
đạo công giáo. Nếu trai hoạc gái của người trong đạo mà muốn cưới người ngoài
đạo thì người ngoài đạo phải học đạo và trở thành người Công giáo thì đám cưới
đó mới được diễn ra, và mới có người trong đạo đến dự. Còn nếu không theo đạo,
thì đám cưới đó sẽ không có người trong đạo đến dự. Đạo Cao Đài thì khác, họ
vẫn đến dự bình thường, không có sự phân biệt, hay đối xử nào đáng kể diễn ra cả.
Sự khác biệt này do đâu? Tôi sẽ tiếp tục tìm hiểu tiếp.
Trong lúc đang suy nghĩ, thì tôi nghe bàn của những người nữ lớn tuổi ngồi
bên cạnh hỏi nhỏ nhau là cho tiền bao nhiêu? Lập tức có một bà lớn tuổi nhất
trong bàn liền nói, ít nhất là 100 ngàn, còn tôi thì đi 200 ngàn. Mình phải đi như
vậy để còn khuyến khích cho những cặp tiếp theo nữa chứ. Mình đi ít quá thì coi
sao được. Các bà khác ngồi trong bàn cũng đồng tình và rút tiền ra bỏ phong bì, có
người 100 ngàn, có người 200 ngàn. Riêng bàn của tôi ngồi thì mọi người nhất trí
với nhau là 200 ngàn đồng tiền mừng của mỗi người. Họ bỏ vào phong bì rồi đưa
cho người lớn tuổi nhất trong bàn đại diện đứng lên chúc mừng hai ông bà sui và
cô dâu chú rể.
Tôi được biết là sau khi tiệc chiêu đãi kết thúc, cô dâu và chú rễ kiểm lại số
tiền mừng, họ chỉ giữ lại phần tiền phải trả cho đám tiệc, số còn dư lại đều gửi lại
làm công quả cho Thánh thất. Tôi nghĩ đây là điều rất tốt đẹp mà cặp vợ chồng
này đã làm được cho Họ đạo của họ. Bởi vì, Lễ hôn phối của họ là lễ đầu tiên của
Họ đạo, tạo đà để những cặp tiếp theo bắt chước. Số tiền dư ra họ không lấy làm
của riêng mà dành làm công quả, đây chẳng phải là điều phúc cho cả hững người
tham dự và góp tiền mừng cho đám cưới này sao?
Viết xong vào lúc 23g ngày 3 tháng 1 năm 2006
295
Phụ lục 3
Nhật ký điền dã số 4
NHẬT KÝ ĐIỀN DÃ VỀ QUYÊN GÓP XÂY DỰNG
THÁNH THẤT TRUNG BẢO – ĐỒNG NAI
Thánh thất Trung Bảo ở Long Khánh, Đồng Nai được xây dựng khá lâu,
đến nay đã xuống cấp nên Ban Trị sự muốn quyên góp để xây dựng trở lại. Số tiền
cần cho việc xây dựng là hơn 1 tỷ đồng, nhưng số tiền cần thiết để khuyên góp
trức mắt là 30 triệu đồng để hoàn thành bản vẽ và xin giấy phép xây dựng.
Buổi quyên góp được tổ chức và ngày vía Phật Mẫu, Rằm tháng 8 năm
2006. Tôi dự kiến đến Thánh thất Trung bảo để tham dự buổi lễ Phật mẫu, như từ
TP.HCM đi Long Khánh khá xa, hơn 150 cây số. Tôi đi xe honda dự kiến khoảng
3 giờ sẽ tới. Tôi xuất phát vào lúc 6g, nhưng đường đi hơi xấu từ đoạn ngã ba Dầu
Giây trở đi, nên tốc độ bị chậm và giữ đường xe bị hư, nên khi đến Thánh thất đã
gần 13g30, trễ giờ làm lễ.
Khi đến nơi, mọi người đã làm lễ xong và bước vào dùng cơm trưa. Tôi
cũng vào ăn cơm trưa. Com trưa vừa xong thì được Ban Quản trị thông báo là toàn
thể tín đồ ở lại dự họp.
Cuộc họp được diễn ra vào lúc 14g30, mọi người tập trung đông đủ, để
nghe Ban Trị sự thông báo về kết hoạch và tiền nong xây dựng lại Thánh thất và
đưa ra số tiền cần phải có ngay để hoàn thành bản vẽ. Tôi ngồi lẫn trong đám
đông, nhìn xung quanh tôi biết tín đồ ở đây đều là nông dân, bởi vì khu vực này
người dân làm rẫy là chủ yếu. Họ trồng café và hoa màu, rất ít người làm dịch vụ
và buôn bán.
Số tiền Ban Trị sự đưa ra là 30 triệu và kêu gọi mọi người cùng nhau
khuyên góp. Hình thức khuyên góp là chưa cần phải đưa tiền ngay, có thể ghi họ
tên và số tiền trên tờ giây rồi ký vào trong đó để đưa lên trên bàn khuyên góp, nếu
ai có tiền mặt thì có thể đưa trực tiếp cũng được. Sau khi nghe thông báo xong, tôi
nhận nhận thấy có khá nhiều người e dè, nhưng cũng có khá nhiều người mạnh
dạng ghi số tiền của mình vào trong tờ giấy. Sau khi khuyên góp đợt đầu (thời
gian kéo dài khoảng 30 phút), số tiền thu được hơn 10 triệu. Với số tiền này thì
hoàn toàn không đủ để lập bản vẽ, nên Ban Trị sự tiếp tục khuyên góp đợt 2; cũng
những tín đồ ấy tiếp tục đóng góp; và số tiền được công bố lên lần nữa là 26 triệu,
vẫn còn thiếu 4 triệu. Ban Trị sự tiếp tục kêu gọi và tổ chức tiếp đợt khuyên góp
lần thứ 3. Sau khoảng 20 phút khuyên góp tiếp thì số tiền cộng lại được 32 triệu,
dư ra 2 triệu. Ban Trị sự cảm ơn toàn thể tín đồ và hứa sẽ thực hiện hết khả năng
để có được bản vẽ và giấy phép sớm nhất cho việc xây dựng Thánh thất.
Trong lúc quan sát việc đóng góp này, tôi nhận thấy có khá nhiều tín đồ vì
gia cảnh khó khăn nên có những suy nghĩ đắng đo khi đăng ký số tiền đóng góp
lần thứ nhất. Nhưng khi quyên góp lần thứ hai thì họ mạnh dạng hơn. Một tín đồ
khoảng trên 60 tuổi ngồi cạnh tôi nói “thôi kệ, mình ráng một chút để có chỗ đẹp
đẽ mà thờ Thầy và để dành cho con cháu mình sau này”, và bà lại đăng ký đóng
góp thêm 500 ngàn nữa (lần khuyên góp trước bà chỉ đóng 200 ngàn đồng). Tôi
296
suy nghĩ, rõ ràng tinh thần cộng đồng trong tôn giáo thật mạnh mẽ và tôi đặt ra
một câu hỏi là cái gì đã thúc đẩy họ làm điều đó, nhịn ăn, nhịn mặc để quyên góp
cho việc xây dựng Thánh thất và tôi cũng tự tìm ra cho mình câu trả lời rằng, đó là
niềm tin tôn giáo. Chỉ có niềm tin tôn giáo mới thúc đẩy họ làm điều đó mà thôi.
Nhưng tôi cũng băng khoăng một vấn đề là 30 triệu thì có kể góp nhặt được, chứ 1
tỷ đồng thì có thể góp nhặt được bằng cách này hay không? Thôi để thời gian trả
lời vậy.
Viết xong vào lúc 22g ngày 17 tháng 8 âm lịch năm 2006
297
Phụ lục 3
Nhật ký điền dã số 5
NHẬT KÝ ĐIỀN DÃ TẠI TÕA THÁNH TÂY NINH
TRONG DỊP ĐẠI LỄ VÍA ĐỨC CHÍ TÔN NĂM 2006
Đại lễ Đức Chí tôn diễn ra hàng năm vào ngày mùng 9 tháng Giêng âm
lịch. Ngày mùng 9 tháng Giêng âm lịch năm nay, nhằm vào thứ Hai ngày 6 tháng
2 năm 2006. Tham dự lễ hội đại vía Đức Chí Tôn tại Tây Ninh là một phần trong
kế hoạch điền dã của tôi trong năm 2006 để chuẩn bị cho việc thu thập tài liệu
chuẩn bị cho việc thực hiện các chuyên đề luận án tiến sĩ và viết bản thảo luận án
tiến sĩ.
Tôi chuẩn bị cho công việc điền dã này hơn một tháng trước. Những việc
cần chuẩn bị gồm giấy viết, máy quay phim, máy chụp hình… Tôi rất cần máy
quay phim để ghi lại hình ảnh của lễ hội đại vía Đức Chí Tôn, được xem là lễ hội
lớn nhất của đạo Cao Đài, nhưng tôi lại không có, do đó phải chạy đi mượn.
Người mà tôi nghĩ đến cho việc mượn máy quay phim là thầy Thành Phần, một
trong hai người thầy hướng dẫn luận án của tôi. Tôi nghĩ thầy Thành phần sẽ có
máy, vì thầy là người dạy môn nhân học hình ảnh và cũng là người rất ưa thích
sưu tầm các loại công nghệ. Nhà thầy có rất nhiều loại máy, và máy quay phim
chắc chắn sẽ có. Tôi đến nhà thầy vào buổi tối ngày mùng 4 tết với nhiều mục
đích. Mục đích đầu tiên là đến chúc tết thầy, sau đó là bàn công việc cho chuyến
đi Tây Ninh sắp tới của tôi, và cuối cùng là mượn máy quay phim. Hai thầy trò
ngồi bàn về cách thu thập tư liệu trong chuyến đi lễ lần này, nào là phải quan sát
thật kỹ các hành vi của người đi lễ, xem cách bày trí trong việc cúng đại lễ, cách
tổ chức lễ hội… và phải cố gắng chụp và quay phim tất cả những chi tiết trong lễ
hội này. Công việc được vạch ra khá nhiều, nhưng thời gian thì có hạn và chỉ có
một mình nên không biết có thực hiện được không? Lịch đi dự kiến ban đầu của
tôi là ngày mùng 8 tết. Dự kiến sáng mùng 8 sẽ khởi hành bằng xe honda từ
TP.HCM đến Tây Ninh vào buổi sáng; đến buổi chiều thì đi tham quan Tòa thánh
sau đó đến khia sẽ dự lễ Đại vía và đến sáng dự lễ hội trước đền Thánh xong rồi
về. Lúc đầu dự tính là như vậy, nhưng khi hai thầy trò bàn bạc công việc xong thì
thời gian đi của tôi phải thay đổi. Tôi hủy kế hoạch ban đầu và quyết định đi từ
sáng ngày mùng 7 cho đến chiều ngày mùng 9 tháng Giêng sẽ về lại thành phố.
Sáng ngày mùng 7 tháng Giêng, tôi thức dậy vào lúc 4 giờ sáng, xem lại
một số vật dụng cần thiết cho một chuyến điền dã tham dự lễ hội. Mặc dù tôi đã
nhiều lần đến Tòa thánh Tây Ninh, đi du lịch, nhưng lần này là lần tôi cảm thấy
hơi lo vì đi chỉ một mình với nhiều công việc cần phải hoàn thành. Tôi kiểm tra lại
toàn bộ vật dụng, nào là giấy viết, máy móc, vật dụng cá nhân… tất cả đều được
chất lên trên chiếc xe wave của vợ, vì xe của tôi bị hư sau những ngày cày ải trong
tết. Tôi phải chuẩn bị và phải lủi thủi một mình vào lúc sáng sớm ở trong căn nhà
lạnh ngắt, vì lúc này vợ và con gái của tôi vẫn đang ăn tết dưới quê. Sở dĩ vợ tôi
còn ở quê vì tôi yêu cầu phải sau ngày mùng 10 hẳn lên, nếu lên trước sẽ không có
tôi ở nhà và lúc đó sẽ rất vất vả cho việc trông con nhỏ một mình. Đến khoảng 5
298
giờ sáng, tôi dắt xe ra khỏi nhà, khóa cửa cẩn thận, lên xe theo quốc lộ 22 thẳng
tiến về Tây Ninh. Từ nhà tôi ở Thủ Đức phải vượt qua trung tâm thành phố về
Hóc Môn, đến Củ Chi và trực chỉ đi Tây Ninh. Tôi phải mất gần 2 tiếng đồng hồ
mới ra được tới Hóc môn, vì đường sá chật hẹp, người và xe như nêm, đúng là
sáng ngày mùng 7 tết, trúng ngay ngày thứ 7, nên nhiều người về quê ăn tết xong
quay trở lại thành phố làm việc, nên đường sá quá đông người. Tôi chỉ chạy được
khoảng 20 km/h trong suốt hơn 2 tiếng đồng hồ. Ra đến Hóc Môn, đường trở nên
thoáng hơn, nhưng cách phân luồn giao thông trên quốc 22 cũng làm hạn chế tốc
độ của xe máy đáng kể. Xe máy chỉ được chạy lằn đường trong với bề ngang
khoảng 1m. Khá nhiều xe máy chạy trong đó, do đó tốc độ xe của tôi cũng không
thể vượt qua 30m/h. Tôi và những người đi xe máy như tôi phải chạy như vậy cho
đến khi ra khỏi Hóc Môn, bước vào địa bàn huyện Củ Chi thì đường đi có khá
hơn, tốc độ được đẩy lên nhanh hơn. Hai bên đường đi trong địa bàn của huyện
Củ Chi khá đẹp, hai bên đường là cách đồng lúa khá mát mẽ. Người chạy xe cảm
thấy thỏa mái hơn, nhưng cũng khá nguy hiểm vì xe lớn chạy rất nhiều với tốc độ
cao. Tôi lái xe khá cẩn thận nên mặc dù dậy thật sớm, nhưng khi đến Tây Ninh
nhìn đồng hồ cũng hơn 13h, phải mất gần 6 tiếng đồng hồ để vượt qua đoạn
đường gần 120km. Đi quá chậm!.
Khi đến Tòa thánh, điều đầu tiên tôi phải làm là tìm cho mình một chỗ ở.
Theo nguyên tắc điền dã là phải ở với người dân hoặc trong cơ sở thờ tự (nguyên
tắc ba cùng), nhưng tôi không thể thực hiện được điều này vì các nơi ở trong Tòa
thánh đều dành cho khách thập phương đến ở để chuẩn bị cho việc tham dự lễ hội.
Tôi phải chạy xe ra khỏi Tòa thánh để kiếm chỗ ở. Phía trước Tòa thánh có khá
nhiều nhà trọ và khách sạn, nhưng giá khá cao, 180.000đ/ngày với khách sạn bình
thường. Tôi tính nếu ở 3 ngày thì mình mất khoảng 540 ngàn đồng; trong khi đó
tiền mang theo chỉ có 1 triệu đồng, như vậy sẽ không đủ cho các chi phí trong
những ngày tới. Tôi hỏi các chủ khách sạn làm sao giá lại cao vậy, thì họ trả lời là
mùa lễ hội nên phải cao. Ở Tây Ninh trong dịp tháng Giêng có khác nhiều nơi để
khách thập phương đến lễ hội, trong đó có hai lễ hội lớn nhất là đến Tòa thánh
Tây Ninh và đi viếng Núi Bà. Tôi phải chạy xe vòng quanh khu vực Tòa thánh để
tìm cho được chỗ ở rẻ hơn, nhưng đảm bảo là gần Tòa thánh, làm sao có thể đi bộ
vào trong khu vực Tòa thánh được. Khuôn viên của Tòa thánh khá lớn. Tôi phải
chạy từ cửa Đông sang cửa Tây mất khoảng 20 phút. Chu vi của Tòa thánh có tất
cả 12 cửa; trong đó có một cửa chính khá lớn và rất đẹp, nhưng được đóng kín.
Tôi nghe nói là cửa này chỉ được mở khi nào Đức Hộ Pháp trở về. Hiện nay ổng
vẫn còn đang ở Campuchia (Liên đài của Hộ Pháp được chôn tại Campuchia), nên
cánh cổng này vẫn chưa được mở. Tôi chạy sang mé Tây của Tòa thánh và ghé
vào một quán cơ để ăn, vì lúc này đã hơn 14h rồi mà tôi vẫn chưa ăn cơm. Trong
khi ngồi ăn cơm, tôi hỏi chuyện bà chủ quán về việc thuê phòng và giá thuê phòng
quá cao. Bà nói, nay là mùa lễ hội nên giá đó là bình thường. Trong nhà bà cũng
có cho thuê phòng, nếu muốn thì là lấy rẻ cho, chỗ 90 ngàn đồng thôi. Tôi mừng
quá, vì giá rẻ mà ở sát Tòa thánh, có chỗ để xe an toàn nên tôi chấp nhận ngay. Ăn
xong, tôi vào xem phòng. Đúng là “tiền nào của đó”, căn phòng chỉ khoảng 4m2,
có toilet bên trong. Một tấm đệm được trải trên một bộ ngựa được xây bằng xi
299
măng. Một cái gối nhỏ, một cái mùng nhỏ và một cái chăn. Bước vào phòng một
mùi hôi mốc bốc lên khó chịu, chứng tỏ là lâu rồi không ai ở. Tôi nghĩ, mình có ở
đây đâu mà chọn chỗ tốt, chỉ cần chỗ để đồ thôi. Thời gian chủ yếu là ở bên Tòa
thánh, nên tôi cũng không nề hà gì chỗ ở. Tôi mang đồ vào trong phòng nghỉ. Bật
quạt lên cho bay bới mùi hôi trong phòng. Tôi vào toilet để tắm, chuẩn bị qua Tòa
thánh. Tôi muốn bước vào Tòa thánh, nơi tôn nghiêm nhất của đạo Cao Đài, với
thân hình sạch sẻ, không muốn đem thân mình bụi bậm vào Tòa thánh. Sau khi
tắm giặt xong, tôi mang một quyển sổ, một máy chụp hình và một máy quay phim
đi bộ vào Tòa thánh. Chỗ tôi ở trọ chỉ cần bước sang đường là đến cổng của Tòa
thánh. Khi bước vào khuôn viên Tòa thánh, mặc dù chưa tới ngày lễ, nhưng khách
thập phương đến rất đông. Lúc này là 15h, trời nắng như đổ lửa, đúng với câu ca
là “Tây Ninh nắng cháy da người”, nhưng trong khuôn viên Tòa thánh thì có rất
nhiều người đến tham quan. Người Việt có, người nước ngoài cũng khá nhiều. Tôi
đi đến trước đền Thánh nhìn vào bên trong, thấy có những người giữ trật tự của
Tòa thánh đang đứng khá nghiêm trang. Họ mặc áo dài trắng, đầu đội khăn đóng
đen (đối với nam), đứng trước cửa Tòa thánh hoặc đang hướng dẫn khách vào Đền
thánh. Đây là những người làm công quả tại Tòa thánh, họ đến từ nhiều địa
phương khác nhau. Tôi có trao đổi với một vài người giữ trật tự. Họ nói là được
Họ đạo cử lên làm công quả trong vòng 3 tháng, có người nói là làm trong vòng 1
tháng rồi trở về để thay người khác.
Tôi không thể bước vào Đền thánh bằng cửa chính được, vì chỉ có chức sắc
của đạo mới được vào Đền thánh bằng cửa chính. Tôi đi sang bên trái của Đền
thánh, nơi đây có một cái cửa nhỏ dành cho tín đồ bình thường và khách thập
phương bước vào. Cửa bên trái này chỉ dành cho nam giới; còn nữ giới thì đi vào
cửa bên phải của Đến thánh. Phía trước cửa cũng có những người giữa trật tự. Họ
làm nhiệm vụ là hướng dẫn khách và giữ giày dép cho khách khi bước vào Đền
thánh. Tôi hỏi nơi vào chỗ tu hành vẫn phải cần người giữ giày dép sao? Một
người giữ trật tự nói, tu thì chỉ có mình tu thôi, chứ còn đạo tặc nó có tu đâu. Nếu
không trông coi giùm cho khách, lát nữa họ không có giày dép đi thì tội nghiệp
họ, mà lại mang tiếng cho đạo. Tôi cũng bỏ đôi giày mới mua của mình ra để vào
trong đống giày của khách rồi theo thứ tự bước vào Đền thánh. Vừa bước vào, tôi
đã thấy bên trong có rất nhiều người đang quì khấn vái lên bàn thờ Thượng đế.
Tôi cũng làm giống như họ, rồi cầm máy chụp hình chụp. Vừa giơ máy chụp hình
lên, liền có người đến nhắc nhở là chỉ chụp cảnh, không được chụp người, vì là
chỗ tôn nghiêm nên không được phép tạo dáng trong Đền thánh nhé. Tôi vâng lời.
Liền cầm máy đưa lên chụp hình Hộ pháp, trong lúc chụp, vì đứng một bên nên
không thể chụp chính diện hình Đức Hộ pháp, Đức Thượng Phẩm và Đức Thượng
Sanh, nên bước ra chính diện để chụp. Vừa đưa máy lên ngắm, chuẩn bị chụp thì
thấy có một trật tự viên bước lại, nhưng họ không nói gì, đợi tôi chụp xong tấm
hình thì người ấy liền nói, không được đứng đối diện trước bàn thờ; khi chụp hình
chỉ có thể đứng hai bên theo hàng cột này mà thôi. Tôi vội xin lỗi vì không biết
điều đó, người ấy nói không sao, cần chú ý lần sau. Sau đó tôi quan sát chung
quanh mới thấy là không một ai đứng giữa chính điện cả, họ toàn quì gối, và rất
trật tự, rất im lặng. Tôi cầm máy chụp hình đi dọc theo hành lang cùng với dòng
300
người khá đông đi tham quan chánh điện. Chúng tôi đi từ trái vòng qua phải, trong
lúc đang đi, có một người muốn đi tắt ngang qua chánh điện, nhưng bị một trật tự
viên khác giữ lại, và nói là không được, muốn đi sang bên kia phải đi đúng một
vòng mới được, không được đi tắt như vậy. Trong lúc đi, có một người nói lớn
tiếng cũng bị nhắc nhở. Không khí trong Đền thánh thật trang nghiêm, mặc dù có
rất nhiều người bên trong đó. Trên bàn thờ được trang hoàng rất đẹp, chỉ có 5 cây
nhang đang cháy. Khách đến hành hương chỉ có quì lạy, không được phép thắp
nhang trên bàn thờ, do đó mà mùi nhang khói không có trong chánh điện. Đoàn
chúng tôi đi vòng trong chánh điện theo hướng từ trái qua phải; còn đoàn nữ giới
thì đi từ phải qua trái quanh chánh điện. Những người khách nước ngoài muốn hỏi
vấn đề gì đó liên quan đến việc trưng bày của Tòa thánh đều được những người
giữ trật tự giải đáp. Tôi khá khâm phục, các trật tự viên này khá giỏi tiếng Anh.
Họ dùng tiếng Anh nói chuyện với khách nước ngoài khá lưu loát. Sau khi đi đúng
một vòng quanh Đền thánh, tôi cầm máy quay phim để quay lại các chi tiết kiến
trúc trong Đền thánh và cố gắng quan sát các hành vi của tín đồ cũng như khách
thập phương bước vào Đền thánh. Hầu như mọi người bước vào, điều đầu tiên họ
làm là quì trước chánh điện để khấn vái, sau đó quay sang bàn thờ Hộ pháp cũng
khấn vái, rồi mới đi tham quan. Tất cả mọi người bước vào Đền thánh, kể cả
khách nước ngoài cũng rất tôn nghiêm. Họ rất im lặng, đi đúng theo những hướng
dẫn của trật tự viên. Tôi chụp được rất nhiều hình về khách du lịch và người hành
hương đến Đền thánh. Đến 16h, tôi cùng mọi người ra khỏi Đền thánh. Lúc này,
ngoài trời nắng đã dịu xuống bới. Khách ở xa cũng bắt đầu lên xe về dần. Bãi đậu
xe khá rộng nằm bên trong khuôn viên Tòa thánh. Tôi đi dạo trong khuôn viên
khoảng 30 phút, sau đó phát hiện ra rằng số tín đồ mặt đồ trắng đến Tòa thánh mỗi
lúc một đông. Họ đổ vào từ các cửa của Tòa thánh, đi bộ có, đi xe honđa có. Khi
đến Đền thánh, họ chia ra thành hai phần. Nam tập trung ở cửa bên trái, nữ bên
phải của Đền thánh. Tôi hỏi người giữ trật tự bên ngoài là những người này đang
chuẩn bị làm gì? Thì được trả lời là đang chuẩn bị đến giờ cúng Dậu. Tôi hỏi có
vào xem được không? Họ nói là ngày thường chỉ có giờ Ngọ mới cho người ngoài
vào xem, còn các giờ khác thì không. Nhưng nếu tôi muốn thì vẫn có thể đứng
ngay gác trống xem vẫn được, không được lên lầu như buổi trưa. Trong giờ cúng
Ngọ, khách thập phương được phép lên lầu đứng xem tín đồ hành lễ, còn những
giờ khác thì không được phép.
Tôi bước vào chỗ gác trống để đứng xem lễ. Chỗ tôi đứng nhìn ra bên
ngoài chánh điện, tôi thấy có hai hàng rào được kéo dọc ra, từ ngay Đền thánh ra
tới ngang sân, nhằm mục đích không cho người khác qua lại trước Đền thánh
trong khi hành lễ. Có một vài người muốn đi ngang qua, nhưng bị trận tự viên
chặn lại và chỉ phải đi vòng qua phía sau của Tòa thánh. Sau đó tôi có trao đổi với
những trật tự viên thì được biết trong khi hành lễ, không ai được phép đi ngang
qua trước mặt Đền thánh vì như thế sẽ vô lễ với bề trên và sẽ mang trọng tội, do
đó họ có nhiệm vụ ngăn những người đi ngang qua Đền thánh trong giờ hành lễ.
Buổi lễ giờ Dậu diễn ra đúng 17h. Khi tôi nghe một hồi chuông vang lên,
tất cả tín đồ xếp thành một hàng dọc rất trật bước vào Đền thánh. Nam bên trái, nữ
bên phải vào thẳng trong Chánh điện, họ đứng đối diện nhau. Một chức sắc Cửu
301
trùng đài bận lễ phục màu vàng đội mão Giáo sư bước vào Đền thánh bằng cửa
chính, hai tay bắt ấn tý đi thẳng vào Chánh điện, các tín đồ còn lại hai tay cũng bắt
ấn tý để ngang ngực. Chỗ tôi đứng cũng có thêm một vài người bận thường phục
như tôi cùng quan sát lễ hội. Họ cũng rất trang nghiêm, hai tay cũng bắt ấn tý chấp
ngang ngực. Tôi nghĩ họ chắc cũng là tín đồ Cao Đài đến tham quan Tòa thánh,
nhưng vì không có lễ phục nên đứng ngoài chăng? Tôi nghĩ vậy vì thấy họ bắt ấn
tý, đây là cách bắt ấn chỉ có ở tín đồ Cao Đài. Tôi không thể hỏi họ được, vì trong
giờ phút linh thiêng của buổi lễ, không ai được nói chuyện và làm ồn. Tôi tiếp tục
quan sát buổi lễ. Sau khi vị Giáo sự bước vào Chính điện, vị Chức sắc Hiệp Thiên
đài cũng bước đến và đứng bước cung đạo, trước bàn thờ Hộ pháp nhìn thẳng lên
Chánh điện. Tôi có đọc tài liệu, thì biết chức sắc Hiệp Thiên Đài này có nhiệm vụ
chứng đàn khi hành lễ tại Tòa thánh. Tôi nhìn lên phía trước Chánh điện có để
một bàn, trên để hoa, quả và chuông mỏ. Chuông và quả được để bên phải từ
trong Chánh điện nhìn ra, còn mỏ và hoa được để bên trái. Có hai người nam trẻ
tuổi, tôi đoán khoảng 18 đến 20 tuổi, đứng hai bên. Một người hầu mỏ, một người
hầu chuông. Người hầu chuông liền đánh lên ba tiếng chuông lớn, tín đồ nam – nữ
đứng đối diện nhau từ nảy đến giờ sá nhau một sá như là chào nhau rồi củng bước
vào chánh điện để hành lễ. Họ đứng ngay ngắn trong Chánh điện, rất trật tự, nam
nữ phân cách rõ ràng. Sau đó lại nghe tiếp tiếng chuông, mọi người cùng nhau
hướng lên chánh diện sá 3 sá rồi ngồi xuống tại chỗ. Một diều rất lạ là khi hành lễ
tại Tòa thánh thì tín đồ lại ngồi, chứ không quì như ở các Thánh thất và ở các Tòa
thánh của các chi phái khác. Sự thắc mắc này, tôi sẽ hỏi sau khi có dịp, nhưng bây
giờ thì tôi phải tiếp tục theo dõi buổi lễ. Tôi nhìn sang các cột rồng ở trong Đền
thánh thấy có một 3 – 4 trật tự viên đang đứng nghiêm trang gần cột. Bên nam thì
nam trật tự viên đứng, bên nữ thì nữ trật tự viên đứng. Tôi nhìn thấy trong khi
ngồi hành lễ có một vài tín đồ ngồi không thẳng lưng liền có trật tự viên đến sửa
lại và yêu cầu ngồi cho ngay ngắn. Sau khi an vị xong, tôi nghe tiếng chuống đánh
lên, tất cả mọi người đều lạy 3 lạy. Sau đó liền nghe giọng kinh phát ra, rất đều.
Tôi ngức nhìn lên trên lầu Hiệp Thiên Đài thì thấy Ban Đồng Nhi và Ban lễ nhạc
đang ở trên đó. Họ đọc kinh đánh nhạc theo từng giọng, nam ai hoặc nam xuân
theo qui định của từng bài kinh.Hết bài kinh này, tín đồ lạy rồi đến bài kinh khác,
cứ như vậy cho đến hết giờ hành lễ bằng việc ban đồng nhi cầu ngũ nguyện. Buổi
lễ kết thúc, tín theo trật nữ nam nữ đứng dậy, lui về vị trí ban đầu; chức sắc Hiệp
Thiên Đài lúc này đi thẳng lên bàn thờ Đức Chí tôn quì lạy sau đó quay về bà Hộ
pháp. Tín đồ lần lượt bước ra khỏi Tòa thánh và trở về nhà. Khách tham quan lại
tiếp tục được phép bước vào bên trong Chánh điện dể tham quan. Buổi lễ kết thúc
vào lúc 5h45, như vậy buổi lễ cúng thời trong bình diễn ra chỉ khoảng 45 phút.
Tôi lại tiếp tục hòa trong dòng người tham quan khu vực ngoài Tòa thánh.
Phía trước Đền thánh nhìn ra cổng chính là một khoảng không rất rộng giữa sân
có cột cờ cao 9m hình vuông được đặt trên một tòa sen rất đẹp, phía trên treo một
lá cờ đạo dài, trên cùng của cột cờ có một đoạn hình tròn, có biểu tượng rồng quấn
quay phía trên. Tôi thắc mắc tại sao có vuông có tròn trên cột cờ thì được một trật
tự viên giải thích, đó là biểu tượng âm – dương. Vuông biểu tượng cho âm và tròn
biểu tượng cho dương. Đó là nguyên lý của Đạo – có âm có dương mới tạo nên
302
trời đất. Cách cột cờ ra phía trước cổng chính có một cây bồ đề rất lớn, nghe nói
được đem về từ gốc cây bù đề mà Đức phật đã ngồi tọa thiền thành đạo. Từ cây bồ
đề nhìn ra cổng chính có một cái đài được xây theo hình bát quái (8 cạnh) và xây
lên cao 9 bậc, ba bậc dưới cùng sơn màu đỏ, ba bậc giữa sơn màu sanh và ba trên
cùng sơn màu vàng, phía trên cùng là một cái bệ cũng có hình bát quái được sơn
màu trắng. Trật tự viên của Tòa thánh giải thích đây là Cửu trùng thiên, nơi để liên
đài của các vị chức sắc từ phẩm Phối sư trở lên. Ba màu, đỏ, xanh, vàng là ba màu
biểu của đạo. 9 bậc là tượng trưng cho Cửu thiên khai hóa, chứng minh cho các
bậc công phu tu hành của các tín đồ. Tôi lại tiếp tục đi ra phía trước vào thấy một
vườn hoa rất đẹp, giữa vườn hoa có một tượng đài diễn lại tích Thái tử Đạt Đa
xuất cung để đi cầu đạo. Tương truyền rằng, tượng đài này trước đây được xây
dựng và đặt tại chùa Từ Lâm – Gò Kén khi mới tổ chức khai đạo. Sau đó phải trả
lại chùa cho Hòa thượng Như Nhãn và khi người ta chọn nơi đây là Tòa thánh thì
tượng này cũng được di dời về đây. Tượng được di dời bằng xe bò và phải di vào
ban đêm. Sau khi an vị tượng này tại đây thì công việc xây dựng Tòa thánh mới
bắt đầu.
Từ tượng đó đi ra nữa là ba cái tháp được xây dựng theo hình bát quái.
Tháp chính giữa đối diện với Tòa thánh là tháp của Đức Hộ pháp Phạm Công Tắc.
Trong tháp này chưa có cốt của ông, vì cốt ông vẫn còn đang được quàn tại
Campuchia. Tháp bên trái, từ Đền thánh nhìn ra là tháp của Đức Thượng phẩm
Cao Quỳnh Cư và tháp bên phải là tháp của Đức Thượng sanh Cao Hoài Sang.
Các tháp được trang trí rất đẹp. Phía ngoài cùng là cổng chính của Tòa thánh, vẫn
được đóng kín. Nhìn sang hai bên của sân trước Đền thánh là vườn cây rất lớn, ở
có hai khán đài được xây dựng từng bậc dành cho cử tọa quan sát khi tham dự lễ
hội. Tôi di vòng quanh sân trước Đền thánh. Sân khá rộng, tôi đi bộ một hồi cảm
thấy mõi chân nên lại ngồi trên khán đài để nhìn xuống. Khách thập phương vẫn
cứ mãi mê ngắm cảnh và chụp ảnh. Tôi phải công nhận, cảnh vật nơi đây thật đẹp,
yên bình; các em nhỏ chạy tung tăng trên bãi cỏ; cha mẹ chúng thì đua nhau chụp
ảnh cho chúng, hết chụp chỗ này lại chạy đến chỗ khác. Cũng có những đôi nam –
nữ tình tứ tay trong tay đi dạo trong khuôn viên sân Đền thánh; có những nhóm
thanh niên nam nữ đang tụ tập để chụp hình, nói chuyện rất vui vẻ. Tôi ngồi nghỉ
mệt khoảng 20 phút, lúc này đã gần 19h. Từ khán đài nhìn vào Đền thánh trông rất
đẹp vì các đèn trong Đền thánh được bậc lên với đủ màu sắc. Tôi lại tiếp tục trở
vào Đền thánh, đi vòng qua phía sau. Ở phía sau có hai dãy nhà đặt tên là Đông
Lang, Tây Lang, nơi đây có các văn phòng của đạo. Phía sau còn có các tháp của
các chức sắc Đầu sư của đạo. Bên phải là tháp của các nữ Đầu sư còn bên trái là
tháp của các nam Đầu sư. Tôi lại đi vòng qua bên trái của Đền thánh, hướng ra
vườn hoa, nơi đây rất rộng. Có các văn phòng làm việc của các chức sắc Cao Đài
và nơi thờ tự như Hộ pháp, Đầu sư…
Trời càng tối, dòng người đến tham quan Tòa thánh càng đông. Nhưng tôi
nghị, họ không phải là khách đến từ phương xa, vì chỉ toàn đi bộ. Tôi cứ mải miết
đi và ngắm cảnh; trên các cột điện của khuôn viên Tòa thánh đều có gắn loa, nơi
đó phát ra những bài thánh giáo của đạo, nhằm giáo huấn, nhắc nhở tín đồ hành
đạo. Cứ đi như thế khoảng 30 phút thì đến Điện Báo Ân từ, nơi đây dùng để thờ
303
Phật mẫu và Cửu vị tiên nương, và cũng là nơi thờ các vị Tiền khai Đại đạo và
Liệt thánh tông đồ. Tôi bước vào cung Báo ân từ, nơi đây trang hoàng toàn sắc
thái màu vàng, có phướn, có rèm. Tôi nghĩ thầm trong bụng, đây đúng là nơi dành
cho nữ giới. Tôi đến bên bàn thờ Phật mẫu, có một số trật tự viên đang đứng đó.
Tôi hỏi có lại gần bàn thờ được không? Thì được trả lời là cứ tự nhiên. Tôi đến đó
nhìn ngắm bàn thờ, chụp ảnh. Tôi có thể tự do đi lại trong điện Báo ân từ mà
không bị ai nhắc nhở. Tôi có thể đến sát bàn thờ để vẽ sơ đồ, chụp ảnh và quay
phim; tôi có thể đi ngang qua chánh điện… Và tôi nhận ra một điều là ở Điện thờ
Phật mẫu không khắt khe như ở Đền thánh. Lúc này tôi chợt nhớ đến văn hóa ứng
xử trong gia đình Việt. Người Cha luôn khắc khe đối với con cái của mình, còn
người Mẹ thì bao giờ cũng khoan dung, hiền hòa. Chính vì lẽ đó mà cách ứng xử
trong đạo Cao Đài cũng ảnh hưởng bởi đều này. Khi bước vào Đền thánh, cũng
chính là lúc tín đồ về với Cha nên phải khép mình theo lễ nghi, nhưng khi vào
Điện Phật mẫu là xem như về với mẹ nên những lễ nghi đó được giảm bớt, người
con cảm thấy thỏa mái khi tiếp xúc với mẹ, do đó những khắt khe lễ nghĩa bên
Đền thánh được giảm bớt bên Phật Mẫu.
Tôi di dạo từ trước ra sau, từ trên xuống dưới điện thờ mà không gặp phải
dự nhắc nhở nào. Sau khi đi dạo, quan sát, ghi chép cẩn thận rồi thì lại quay trở ra
tiếp tục khám phá khu vực bên ngoài của Tòa thánh cho đến hơn 23h. Lúc đó tôi
thấm mệt và chợt nghĩ ra là mình vẫn chưa dùng cơm tối, nên quay trở về phòng
trọ để ăn cơm. Lúc này, cơm không còn nữa, nên đành phải dùng tạm hủ tiếu. Xứ
Tây Ninh được xem là khu vực có đặc sản là hủ tiếu, bởi vì nó ảnh hưởng từ
Campuchia với món Hủ tiếu Nam Vang rất ngon. Tôi ăn hết hai tô hủ tiếu cùng
một lúc, sau đó lại về phòng tắm rửa rồi lại quay trở lại Đền thánh để xem tiếp lễ
giờ Tý.
Buổi lễ giờ Tý diễn ra dùng 24h; cách hành lễ không khác gì lắm so với giờ
Dậu, và buổi lễ cũng chỉ diễn ra trong khoảng 45 phút. Quan sát của tôi trong buổi
lễ này, tín đồ đến không nhiều. Có lẽ vào giờ này, tín đồ quanh khu vực Tòa thánh
cúng ở nhà hơn là đến Tòa thánh làm lễ. Kết thúc buổi lễ, tôi lại trở về phòng
trong và tổng kết lại công việc của một ngày, hay đúng hơn là chỉ một buổi chiều.
Tôi thấy mình cũng đã làm được một số việc là quan sát thật kỹ khuôn viên Tòa
thánh, tham dự hai lễ, nhận biết được các hành vi tôn giáo của tín đồ, vẽ và chụp
được khá nhiều hình, đặc biệt là phát hiện ra sự khác biệt trong cách ứng xử khác
như khi bước vào Đền thánh và Điện thờ Phật Mẫu. Tôi vạch ra chương trình cho
ngày hôm sau là phải dành nhiều thời gian xem họ chuẩn bị cho buổi đại lễ như
thế nào? Cách thức thực hiện ra sao? Và cố gắng xem đội múa long mã của Tòa
thánh múa trong buổi. Đó là những việc quan trọng tôi cần phải biết và phải chụp
cho bằng được những tấm ảnh đó. Trong đợt điền dã lần này, phương pháp mà tôi
quan tâm thực hiện nhất là quan sát – tham dự, không cần thiết phải thực hiện các
cuộc phỏng vấn sâu, vì chưa phải lúc. Cứ suy nghĩ miên man như vậy cho đến gần
2h sáng, thì tôi thiếp vào trong giấc ngủ của mình.
Sáng hôm sau (ngày mùng 8 tháng Giêng), tôi thức dậy, vệ sinh, ăn sáng,
rồi bước vào khuôn viên Tòa thánh khoảng 7h. Tôi đến trước sân Đền thánh, nhận
ra rằng không khí tại sân Đền thánh rất náo nhiệt, có rất nhiều Họ đạo từ các tỉnh
304
trở về. Họ đang dựng trại trước Đền thánh. Mỗi họ đạo một trại, một gian hàng
trưng bày. Họ dựng bằng tre, lợp lá có, lợp tấm bạt. Tôi đi tham quan khắp sân
Đền Thánh, và đếm được 30 trại. Dường như họ đã chuẩn bị sản phẩm trưng bày
tư rất lâu rồi, nên khi hoàn thành xong gian hàng là họ gắn sản phẩm trưng bày
vào. Có gian hàng trưng bày cây cảnh, có gian hàng trưng bày thành tựu sinh hoạt
đạo của Họ đạo mình, có gian hàng trưng bày những gương tốt trong truyền thuyết
như “thập nhị tứ hiếu”, có gian hàng trưng bày về tích Thần nông, Sơn tinh, và
quá trình xây dựng và hoàn thành Tòa thánh, có gian hàng của người Hoa, người
Khmer… Tôi mải miết đi xem họ chuẩn bị, sắp xếp cách trưng bày cho đến trưa,
lại bước vào Đền thánh để tham dự lễ cúng Ngọ. Gần tới giờ cúng, những người
tham gia dựng gian hàng đều nghỉ, họ đi tắm rửa thay lễ phục và đến Đền thánh để
chuẩn bị bước vào giờ cúng Ngọ. Tôi nhanh chân lên lầu cùng với khá đông khách
thập phương. Chọn một chỗ đứng thích hợp là phía trước bà thờ Hiệp thiên đài,
gần Ban đồng nhi và Nhạc lễ. Người xem khá đông. Họ đứng rất nghiêm trang,
trong đó có cả khách nước ngoài cũng đứng xem cho đến hết buổi lễ. Tín đồ tham
dự lễ nhiều hơn so với hai buổi lễ trước. Đứng trên lầu cao, tôi có thể nhìn toàn
diện khung cản buổi lễ, và tôi nhận thấy rằng sự trang nghiêm của nó thật là kinh
khủng. Tôi nghĩ chỉ có niềm tin tôn giáo mới khiến con người ta có những hành vi
chuẩn mực đến như vậy. Không một mảy may lay động, tất cả đều trang nghiêm,
chỉnh tề, hai tay luôn bắt ấn tý chắp ngang ngực, cúi lạy cùng một lượt, đều răm
rấp; giọng đọc kinh trầm trầm. Tôi nghĩ khi đứng trên gác tham dự lễ, nếu nhắm
mắt lại nghe tiếng kinh, tiếng nhạc lễ, chắc chắn rằng bạn sẽ nghĩ mình không
đứng ở trần gian mà đang lạc vào cảnh thiêng liêng nào đó. Cảm giác tôi là như
vậy đó, lòng mình tự nhiên thấy thanh thản, không còn sự mệt nhọc và quên đi cái
đói của buổi trưa chưa ăn.
Buổi lễ kết thúc, tôi nhanh chân tìm chỗ ăn trưa, người trong đạo khuyên
tôi đến khách trai đường ăn chay, vì hôm nay Tòa thánh thết cơm chay miễn phí
cho khách thập phương. Tôi tìm đến Khách trai đường, nằm bên trái phía sau của
Đền thánh, nơi đó đã có rất đông người ngồi ăn. Tôi cũng chọn một chỗ để ngồi,
vừa ngồi xuống đã có người dọn đồ ăn cho, rất niềm nỡ; các cô phục vụ hỏi tôi đi
mấy người, dọn lên nào cơm, nào xào, nào canh,… đủ các món. Tôi cứ vậy lấy
chén múc ăn. Chỉ một mình tôi thôi, nhưng họ vẫn dọn đầy đủ món ăn, tô nào
cũng đầy. Tôi tế nhị dùng đũa muỗn riêng để múc thức ăn, và chỉ múc một góc.
Tôi nhìn qua các bàn bên cạnh, mọi người cũng làm như tôi. Họ ăn thật ngon và
tôi cũng vậy, không biết có phải do mình đói, hay do thức ăn ngon mà tôi đã ăn
đến 5 chén cơm, bình thường thì chỉ 3 là quá. Tôi hỏi người phục vụ là thết đãi khi
nào thì hết và được trả lời là từ ngày mùng 7 đến hết ngày mùng 9. Khách đến
muốn ăn giờ nào cũng có. Sau khi ăn xong tôi đi dạo xuống bếp và thấy có rất
đông người, nam có, nữ có, già có, trẻ có đang chuẩn bị đồ ăn cho khách, người
thì lặt rau, gọt củ, người thì vo gạo, nấu cơm, người thì rửa bát, chén, người lau…,
đội ngũ bưng bê cũng khá đông. Tôi được biết họ đến từ các tỉnh, do Họ đạo của
họ cử đi làm công quả tại Tòa thánh. Sau khi đi tham quan một vòng, sẵn đường
tôi lại đi qua điện thờ Phật Mẫu. Tôi vừa tới cửa điện thờ, thì thấy có một đám
táng đi tới, quan tài được đặt trên xe thuyền Bát nhã đang tiến về phía Điện thờ.
305
Tôi đi theo chụp hình. Vừa tời Điện thờ, gia đình liền ôm di ảnh vào trong Điện,
có một người cầm phướn Thượng sanh đi theo. Chức sắc phục vụ tại Điện thờ tiếp
nhận và hành lễ sau đó lại đi ra và thẳng đường đến Đền thánh; họ lại dừng lại và
ôm di ảnh đến giữa Đền thánh. Di ảnh được đặc ngay Chánh điện theo đúng bậc tu
hành của người đã chết đạt được. Nghĩa là trong chánh điện của Đền thánh có 12
bậc, từ tín đồ đến Giáo tông. Người chết đạt được ở bậc nào thì di ảnh được đặt ở
bật đó. Vị Giáo sư trực tại Tòa thánh hành lễ xong, gia đình lại đưa di ảnh ra xe
thuyền Bát nhã để đi an táng. Từ đó cho đến lúc chiều tối, tôi đếm có đến 5 đám
tang đi vào Tòa thánh và tất cả đều làm đúng theo một nghi thức trên. Trật tự viên
cho biết là phải như vậy, ở xa thì thôi còn ở gần Tòa thánh là phải vào trình diện
rồi mới được đi chôn. Phải trình diện bên Điện thờ trước rồi mới qua Đền thánh.
Tôi đã chụp được hơn 10 tấm ảnh về hình thức trình diện như thế này.
Sau khi quan sát các đám tang đi vào trình diện tại Đền thánh, tôi lại đi
loanh quanh trong khuôn viên Tòa thánh cho đến khoảng 16h, tôi lại ghé bên Điện
Phật mẫu một lần nữa. Tôi đi thẳng ra hậu đường, thật bất ngời khi chứng kiến
một hậu đường toàn trái cây. Có khoảng mười mấy bàn được đặt trong hậu đường,
bàn nào cũng chứa đầy những mâm trái cây được sắp xếp cẩn thận. Tôi hỏi cô
phục vụ tại đó, cô nói của bá tánh mang tới cúng vào giờ Dậu ở điện thờ. Các
mâm trái cây được trưng bày khá cẩn thận, rất đẹp. Các cô phục vụ nói bá tách
mang tới để giải sao, cúng hạn. Trong đầu tôi nghĩ mình sẽ tham dự buổi lễ cúng ở
đây xem như thế nào?, rồi đi vòng qua bên phải, bước vào khách trai đường. Có
rất đông người đang ăn cơm ở đây, tôi đưa máy chụp hình lên chụp, thì có một cô
nói đùa là có thợ chụp chụp kìa, làm dáng cho đẹp nhé. Sau đó cô ấy quay qua
mời tôi vào dùng cơm, tôi cám ơn vì lúc trưa ăn còn no. Tôi nhìn sang bên cạnh
thì thấy có đông người đang đứng ghi chép gì đó, liền hỏi cô lúc nảy, cô nó là họ
đang ghi công quả. Tôi lại gần thì thấy có người ghi đóng 5 chục ngàn, người thì
100 ngàn… tôi cũng rút ra 200 ngàn và xin được đóng công quả. Cô ghi công quả
cám ơn và viết cho tôi một giấy chứng nhận công quả, trên có ghi rõ số tiền đã
đóng góp. Tôi cất giấy đó vào túi và tiếp tục đi đạo để quan sát dòng người về Tòa
thánh.
Đến khoảng 16h hơn thì đột nhiên có rất nhiều xe ca 45 chỗ ngồi chở đầy
người trong trong bãi giữ xe Tòa thánh. Số lượng xe đến mỗi lúc một đông, đến
khoảng 18h bãi giữ xe của Tòa thánh không còn chỗ nữa, trong các khách đường
cũng đặt cứng người, mỗi người một túi xách để chật kín. Họ đến từ các Họ đạo
các tỉnh để tham dự Đại lễ vào giờ Tý đêm nay. Tôi ước tính có khoảng vài chục
ngàn người về Tòa thánh trong buổi tối hôm đó. Những người đến sớm thì nhanh
chóng rửa mặt thay lễ phục để tham dự buổi cúng Dậu, còn đến trễ thì vào Khách
trai đường dùng cơm…
Tôi vẫn rảo bước quan Điện thờ Phật Mẫu để chờ tới giờ cúng. Ở đây cúng
trễ hơn bên Đền thánh 1 tiếng đồng hồ, có nghĩa là gần 19 giờ mới cúng.Tôi chọn
một chỗ đứng ngay cửa ra vào bên trái để đứng quay phim và chụp ảnh, vì tôi biết
bên trái dành cho Nam giới. Tôi chọn chỗ xong, hỏi trật tự viên là có thể đứng đây
suốt buổi lễ để chụp hình không, người đó nói được và chạy đi nói với các trật tự
viên khác là cho tôi được đứng đó. Tôi an tâm, vì đã được cho phép. Tôi cởi giày
306
bỏ vào một góc ngoài sân, nơi có rất nhiều người cùng bỏ giày như tôi. Vào vị trí
xong tôi thấy mọi người đem trái cây từ dưới hậu điện lên sắp đặt rất nhiều trước
bàn thờ thờ Phật Mẫu, sớ cầu chất thành đống cao ở hai bên bàn thờ, nhang được
cắm nhỏ lẻ trên các mâm trái cây. Vừa đúng giờ, mọi người ào nhanh vào Chánh
điện để có chỗ ngồi cúng trong chánh điện. Tôi nhận thấy không khí không thật
nghiêm trang lắm so với bên Điện thờ. Số người ngồi rất đông. Họ ngồi ra cả
ngoài hành lang và đầy phía trước sân điện thờ. Giờ cúng bắt đầu vào khoảng 19g.
Nghi lễ cũng tương tự như bên Đền thánh, đến khoảng 19g45 thì kết thúc. Lúc này
có một đoàn múa tứ linh tiến vào Điện thờ, mọi người vây quanh đoàn múa tứ linh
để xem. Tôi cũng cố gắng chen chân vào để xem và chụp ảnh, không quay phim
được vì không đủ sáng. Đoàn múa tứ linh gồm Long, Lân, Qui, Phụng múa rất
đẹp, khoảng 15 phút múa thì lại chuyển sang bên Đền thánh. Mọi người cùng kéo
nhau đi. Tôi quay trở lại tìm đôi giày của mình nhưng không thấy đâu nữa, đành
phải đi chân đất để theo đoàn múa đền Đền thánh. Đoàn người đi theo xem đến
chật cứng cả đường, lúc này tôi nhận thấy ngoài những người mặc lễ phục ra còn
có rất nhiều người khách tham quan khác, họ bồng cả con nhỏ đến xem; tôi bắt
chuyện với một chị phụ nữ, chị nói chị ở tận Dương Minh Châu lên đây để xem lễ
hội. Đoàn múa tứ linh cứ múa cho đến Đến thánh, múa ở Đền thánh xong rồi rảo
quanh sân khoảng hơn 1 tiếng đồng hồ thì kết thúc. Sau khi kết thúc hội múa tứ
linh, khuôn viên Tòa thành lại trở về cảnh bình thường, mọi người đi dạo. Tôi lại
phải quay về phòng trọ để lấy đôi dép mang vào. May mà tôi có chuẩn bị từ trước
là đem theo một đôi dép, nếu không lại phải mất tiền để mua một đôi dép khác,
nhưng chưa chắc đã được vì lúc này đã gần 22 giờ đêm. Tôi về phòng trọ tắm rửa,
ăn buổi tối rồi lại tiếp tục quay trở lại Đền thánh để chuẩn bị tham dự buổi long
trọng nhất của đạo.
Tôi quay trở lại Đền thánh vào khoảng 22g30, mọi người trong trang phục
đại lễ đã đứng chuẩn bị sẵn sàng hai bên Đền thánh. Tôi tranh thủ làm quen và xin
chụp ảnh các vị chức sắc của đạo. Phía trước sân Đền thánh các tín đồ bình
thường có hơn vài ngàn người trong trang phục trắng đứng xếp hàng trang nghiêm
rồi. Hai bên Đền Thánh chỉ toàn là chức sắc, với lễ phục 3 màu cùng đội mão rất
chỉnh tế. Đến khoảng 23g30 chức sắc HIệp Thiên Đài tay cầm phướng Thượng
sanh từ Đền thánh đi ra để dẫn chức sắc Cửu Trùng Đài vào Đền thánh. Đầu tiên
là chức sắc Cao cấp, sau đến là chức sắc thuộc chi Thái, rồi chi Thượng, và chi
Ngọc vào sau cùng; chức việc cũng được vào Đền thánh. Các tín đồ bình thường
đề phải tập trung trước sân Đền thánh, không vào được bên trong. Tôi rất muốn đi
vào bên trong như trễ rồi, vì lúc đầu ham chụp hình bên ngoài, nên không vào kịp.
Qui định là khách thập phương muốn xem lễ phải vào trước trên lầu, nhưng tôi
muốn quan sát cách chuẩn bị bên ngoài, đến khi xong thì không vào được nữa. Do
đó, đành đứng ngoài, xem sự trang nghiêm từ tín đồ. Tôi có hỏi làm sao để biết
được bên trong đang hành lễ như thế nào? Trật tự viên nói sáng mai qua bên các
tiệm bán phim bên đường mua một cái đĩa hành lễ, thì biết liền. Tôi hỏi làm sao
được? thì họ nói là có người vào trường rồi, chia nhau quay phim sau đó về sang
ra đĩa bán, không thiếu một chi tiết nào, còn có lộng nhạc nữa, không lo đâu. Thôi
thì đành vậy, không xem trực tiếp được thì xem qua phim vậy.
307
Tôi đứng bên ngoài, cùng với cả trăm người khác được cách ly bằng hàng
rào chắn. Đến giờ hành lễ, khi kết thúc hồi trống, chuông là lúc Nhạc Tấu Quân
Thiên; trong thời gian này quả thật là trang nghiêm; chỉ có tiếng nhạc và tiếng
nhạc. Hàng ngàn người đứng ngoài sân trở nên bất động; ngay cả trật tự viên cũng
vậy. Họ hai tay bắt ấn tý, chấp ngang ngực, đứng nghiêm trang, mặt hướng vào
chánh điện, nhưng đang thật sự chứng kiến sự hiện diện của các đấng vô hình vậy.
Sau đó, các trật tự viên nói với tôi đó là giờ phút thiêng nhất trong buổi lễ, vì là
các đấng thiêng liêng, trong đó có Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng đàn. Thời gian
này kéo dài khá lâu, gần 30 phút, sau đó đến việc tụng kinh… Buổi đại lễ diễn ra
suốt 2 tiếng đồng hồ mới kết thúc. Các tín đồ ở bên ngoài sau khi kết thúc lễ, lần
lượt vào Chánh điện hành lễ cũng phải khéo dài hơn 1 tiếng đồng hồ nữa. Đến gần
4 giờ sáng mới kết thúc được buổi lễ. Lúc đó tôi lại trở về phòng trọ và sáng hôm
sau lại tiếp tục tham dự phần hội.
Sau một ngày quan sát tại Tòa thánh, có một điều mà tôi không thể thực
hiện được là không bước vào Đền thánh xem giờ lễ chính thức; nhưng biết làm
sao được, vì chỉ có một mình, không thể phân thân, được cái này phải mất cái kia,
đành chịu vậy. Nếu tôi vào Đền thánh sớm sẽ không biết được việc rước tín đồ
như thế nào và cũng không biết được số lượng tín đồ đông đến dường nào khi họ
đứng hành lễ bên ngoài. Thôi đành về xem phim vậy.
Sáng hôm sau, ngày mùng 9 tháng giêng, 8g chức sắc Hội thánh, tín đồ
cùng quan chức chính quyền địa phương tập trung rất đông trước sân Đền thánh.
Họ làm lễ khai mạc, tuyên bố lý do, mời chức sắc chính quyền địa phương phát
biểu… sau đó đến việc múa tứ linh; múa hội và cuối cùng là ông Chưởng quản
Hội thánh dẫn đoàn quan chức đi tham quan cắt băng khai mạc việc trưng bày của
các gian hàng. Thời gian lễ hội buổi sáng diễn ra khoảng 1 tiếng đồng hồ. Sau đó,
kết thúc mọi người tự do tham quan. Đến các gian hàng nhìn ngắm, quan sát, chụp
ảnh lưu niệm. Đặc biệt tôi có đến gian hàng của người Khmer. Họ trưng bày và
chơi trên dàn nhạc ngũ âm của họ rất hay, có cả mùa lâm thôn. Gian hàng của
người Hoa cũng khá đặc sắc với những tiết mục múa dân gian. Các gian hàng còn
lại đều trưng những thành tựu của Họ đạo hoặc dựng lại các câu chuyện đạo đức,
truyền thuyết để dạy nhân sinh. Tôi xem và tham quan cho đến trưa, sau đó tìm
mua đĩa lễ và một vài tài liệu cần thiết, đến 14g ngày mùng 9 kết thúc chuyến điền
dã của mình.
Như vậy, sau gần 3 ngày tham dự lễ hội, tôi thật sự nhận ra rằng tôn giáo
có một vai trò quan trọng đời sống của người dân; và tôn giáo có sự gắn kết cộng
đồng rất mạnh mẽ. Tôi cũng rút ra kiểm chứng được nhiều điều từ thực tế để xem
lại độ xác thực của các nguồn tài liệu mà mình tiếp cận được để chuẩn bị cho việc
viết chuyên đề sắp tới.
Ghi chép kết thúc vào lúc 22g ngày 15 tháng 2 năm 2006
308
HÌNH ẢNH SINH HOẠT TÔN GIÁO
CỦA TÍN ĐỒ ĐẠO CAO ĐÀI
309
MỘT SỐ NHÂN VẬT TRONG BUỔI ĐẦU LẬP ĐẠO
Hình 1: Ông Ngô Văn Chiêu (1878 – 1932)
(Ảnh: Sưu tầm)
Hình 2: Ông Lê Văn Trung (1875 – 1934)
(Ảnh: Sưu tầm)
310
Hình 3: Ông Phạm Công Tắc (1890 – 1959)
(Ảnh: sưu tầm)
Hình 4: Ông Cao Quỳnh Cƣ (1888 – 1929)
(Ảnh: sưu tầm)
311
Hình 5: Ông Cao Hoài Sang (1901 – 1971)
(Ảnh: sưu tầm)
Hình 6: Ông Lê Văn Lịch (1890 – 1947)
(Ảnh: sưu tầm)
312
Hình 7: Ông Trần Đạo Quang (1870 – 1946)
(Ảnh: sưu tầm)
Hình 8: Ông Cao Triều Phát (1889 – 1956)
(Ảnh: sưu tầm)
313
Hình 9: Ông Nguyễn Ngọc Tƣơng (1881 – 1951)
(Ảnh: sưu tầm)
Hình 10: Ông Lê Bá Trang (? – 1936)
(Ảnh: sưu tầm)
314
Hình 11: Ông Nguyễn Ngọc Thơ (1873 – 1950)
(Ảnh: sưu tầm)
Hình 12: Bà Lâm Hƣơng Thanh (1874-1937)
(Ảnh: sưu tầm)
315
MỘT SỐ HÌNH ẢNH LỄ PHỤC CỦA TÍN ĐỒ CAO ĐÀI
Hình 13: Lễ phục của Lễ sanh ba chi – 2006
(Ảnh: Ngọc Thu - 2006)
Hình 14: Lễ phục Thƣợng Phối sƣ – 2006
(Ảnh: Ngọc Thu - 2006)
Hình 15: Lễ phục của Giáo sƣ ba chi
(Ảnh: Ngọc Thu – 2006)
316
Hình 16 – 17: Mão của Giáo hữu chi Thƣợng
và Khăn đóng của Giáo sƣ chi Thái
(Ảnh: Ngọc Thu – 2006)
Hình 18 – 19: Lễ phục của Thông sự nữ phái và Chánh Trị sự nữ phái
(Ảnh: Ngọc Thu – 2006)
317
Hình 20 – 21: Lễ phục Phó Trị sự nữ phái và Lễ phục Lễ sanh nữ phái
(Ảnh: Ngọc Thu – 2006)
Hình 22 – 23: Lễ phục của Lễ sanh và Giáo sƣ Minh Chơn Lý
(Ảnh: Ngọc Thu – 2005)
318
MẠO CỦA TÍN ĐỒ CAO ĐÀI
Hình 24: Hiệp Chƣởng mạo của Giáo sƣ chi Thái
Hình 25: Tam Quan mạo (chi Thế)
(Ảnh: sưu tầm)
Hình 26: Thiên Nguơn mạo của Giáo sƣ
chi Ngọc
(Ảnh: sưu tầm)
Hình 27: Nhựt Nguyệt mạo
(Ảnh: sưu tầm)
319
Hình 28: Ngƣỡng Thiên mạo của
Giáo hữu
(Ảnh: sưu tầm)
Hình 29-30: Bát Quái mạo của Phối sư
(Ảnh: sưu tầm và Ngọc Thu)
Hình 31-32: Mão của tín đồ Minh Chơn Lý
(Ảnh: Ngọc Thu)
320
ẢNH ĐIỆN THỜ CỦA MỘT SỐ CHI PHÁI
Hình 33: Đền thánh Tây Ninh
(Ảnh: Ngọc Thu – 2005)
Hình 34: Tổ đình Chiếu Minh Tam Thanh
(Ảnh: Ngọc Thu – 2006)
321
Hình 35: Đền thánh Ban Chỉnh Đạo
(Ảnh: Danh Lắm)
Hình 36: Đền thánh Châu Minh – Tiên Thiên
(Ảnh: Danh Lắm)
322
Hình 37: Đền thánh Cầu Kho – Tam Quan
(Ảnh: Danh Lắm)
Hinh 38: Đền thánh Ngọc Kinh – Bạch Y Liên Đoàn Chơn Lý
(Ảnh: Danh Lắm)
323
ẢNH MỘT SỐ BÀN THỜ CỦA ĐẠO CAO ĐÀI
Hình 39-40: Bàn thờ Đức Chí Tôn tại Đền
thánh và Bàn thờ Phật Mẫu tại Báo Ân
Từ
(Ảnh: Ngọc Thu)
Hình 41: Bàn thờ Hộ pháp ở Hiệp
Thiên Đài
(Ảnh: Ngọc Thu)
Hình 42: Ngọc cơ dùng để cầu cơ trong đạo Cao Đài
(Ảnh: sưu tầm)
324
Hình 43: Baøn thôø trong gia ñình cuûa phaùi Cao Ñaøi Minh Chôn Lyù
(Aûnh: Ngọc Thu – 2005)
Hình 44: Baøn thôø trong gia ñình cuûa phaùi Cao Ñaøi Taây Ninh
(Aûnh: Ngọc Thu – 2005)
325
Hình 45: Baøn thôø trong gia ñình cuûa phaùi Truyeàn giaùo Cao Ñaøi
(Aûnh: Ngọc Thu – 2005)
Hình 46: Baøn thôø trong gia ñình cuûa phaùi Chieáu Minh Tam Thanh
(Aûnh: Ngọc Thu – 2005)
326
Hình 47: Bàn thờ Cửu huyền thất tổ, thờ Thƣợng đế và thờ Ông Địa –
Thần Tài trong nhà tín đồ Cao Đài
(Ảnh: Ngọc Thu – 2008)
Hình 48: Bàn thờ Cửu huyền thất tổ trong nhà tín đồ Cao Đài
(Ảnh: Ngọc Thu – 2008)
327
Hình 49: Tƣợng Quan Công, Ngô Minh Chiêu, Tƣợng Mẹ sanh trong gia
đình tín đồ Cao Đài
(Ảnh: Ngọc Thu – 2008)
Hình 50: Bàn thờ của Thánh thất Hà Nội
(Ảnh: Ngọc Thu – 2007)
328
ẢNH NGHI LỄ THIÊN ĐẠO
Hình 51: Tín ñoà Cao Ñaøi ñang haønh leã taïi Toøa thaùnh Taây Ninh
(Aûnh: Ngọc Thu – 2006)
Hình 52: Tín ñoà ñang vaøo Toøa thaùnh ñeå döï Ñaïi leã Chí Toân
(Aûnh: Ngọc Thu – 2006)
329
Hình 53: Tín ñoà ñang vaøo Toøa thaùnh ñeå döï Ñaïi leã Chí Toân
(Aûnh: Ngọc Thu – 2006)
Hình 54: Chức sắc Hiệp Thiên đài vào hành lễ trong Tòa thánh
(Ảnh: Ngọc Thu – 2006)
330
Hình 55: Chức sắc Cửu Trùng đài vào hành lễ trong Tòa thánh
(Ảnh: Ngọc Thu – 2006)
Hình 56: Một buổi lễ trong Tòa thánh Tây Ninh
(Ảnh: Ngọc Thu – 2006)
331
Hình 57: Một buổi lễ tại Thánh thất Sài Gòn
(Ảnh: Ngọc Thu – 2007)
Hình 58: Buổi lễ tại Tòa thánh Ban Chỉ Đạo – Bến Tre
(Ảnh: Danh Lắm)
332
Hình 59: Quang cảnh phần hội trong ngày đại lễ ở Tòa thánh Tây Ninh
(Ảnh: Ngọc Thu – 2006)
Hình 60: Chức sắc và quan chức Nhà nƣớc cắt băng khai trƣơng các gian
trƣng bày
(Ảnh: Ngọc Thu – 2006)
333
Hình 61: Gian trƣng bày về quá trình xây dựng Tòa thánh Tây Ninh
(Ảnh: Ngọc Thu – 2006)
Hình 62: Muùa töù linh trong ñeâm Ñaïi leã Chí Toân
(Aûnh: Ngọc Thu – 2006)
334
Hình 63: Quan cảnh đại lễ vía Đức Diêu Trì Kim Mẫu tại Tây Ninh
(Ảnh: Phương Thanh – 2008)
Hình 64: Bàn tiệc trong Hội yến Diêu Trì tại Tây Ninh
(Ảnh: Phương Thanh – 2008)
335
Hình 65: Mô hình Đức Diêu Trì cùng Cửu vị Tiên nƣơng cƣỡi chim Loan
trong đại lễ vía Đức Diêu Trì Kim Mẫu tại Tây Minh
(Ảnh: Phương Thanh – 2008)
Hình 66: Rƣớc cộ hoa trong đại lễ Diêu Trì tại Tây Minh
(Ảnh: Phương Thanh – 2008)
336
Hình 67,68,69: Trƣng bày trái cây trong đại lễ Diêu Trì tại Tây Ninh
(Ảnh: Phương Thanh – 2008)
337
Hình 70,71,72,73: Trƣng bày hoa trong đại lễ Diêu Trì tại Tây Ninh
(Ảnh: Phương Thanh – 2008)
338
ẢNH NGHI LỄ THẾ ĐẠO
Hình 74: Chẩn tế cô hồn vào ngày 30 tháng Chạp năm 2008 tại Đồng Nai
(Ảnh: Ngọc Thu – 2008)
Hình 75: Chức sắc đang thực hành bí pháp trong lễ chẩn tế cô hồn
(Ảnh: Ngọc Thu)
339
Hình 76: Lễ thụ phong giáo phẩm của tín đồ Cao Đài tại Thánh thất Trung
Bảo
(Ảnh: Ngọc Thu)
Hình 77: Lễ nhập môn tại Thánh thất Trung Hiền – TP.HCM
(Ảnh: Ngọc Thu – 2008)
340
Hình 78: Lễ nhập môn tại Thánh thất Trung Hiền – TP.HCM
(Ảnh: Ngọc Thu – 2008)
Hình 79: Lễ hôn phối tại Thánh thất Trung Bảo – Đồng Nai
(Ảnh: Ngọc Thu – 2006)
341
Hình 80: Lễ hôn phối tại Thánh thất Trung Bảo – Đồng Nai
(Ảnh: Ngọc Thu – 2007)
Hình 81: Nghi thức độ thăng trong lễ tang của tín đồ Cao Đài Tây Ninh
ở Vũng Tàu
(Ảnh: Thanh Tuyền - 2005)
342
Hình 82 và 83: Liên đài của Hộ pháp Phạm Công Tắc
đặt tại Tòa thánh Tây Ninh
(Ảnh: Ngọc Thu – 2007)
343
Hình 84: Kiết tang (tang đỏ) – hình thức để tang dành cho chức sắc cao cấp
của đạo Cao Đài
(Ảnh: Ngọc Thu – 2007)
Hình 85: Liên đài của Hộ pháp Phạm Công Tắc
đƣợc di chuyển bằng xe Long – Mã
(Ảnh: Ngọc Thu – 2007)
344
Hình 86: Ñaùm tang cuûa tín ñoà Cao Ñaøi ôû Taây Ninh
(Aûnh: Ngọc Thu – 2006)
Hình 87: Thuyeàn Baùt nhaõ ñeå ñöa linh cöûu tín ñoà Cao Ñaøi
(Aûnh: Ngọc Thu – 2006)
345
Hình 88: Chức sắc đang hành bí pháp bên tín đồ quá cố
(Ảnh: Ngọc Thu – 2008)
Hình 89: Chuẩn bị tẩn liệm
(Ảnh: Ngọc Thu – 2008)
346
Hìn 90: Cúng tuần cửu của tín đồ Cao Đài Tây Ninh ở Long An
(Ảnh: Ngọc Thu – 2005)
Hình 91: Lễ cúng trong 100 ngày của đám tang tín đồ Cao Đài Minh Chơn
Lý
(Ảnh: Ngọc Thu – 2006)
347
Hình 92: Múa Lân trong chính điện của Thánh tịnh Phƣơng Quế Ngọc Đài
(Tiên Thiên)
(Ảnh: Yến Tuyết)
Hình 93: Cúng thần hoàng tại Thánh thất Tam Thanh Bửu Điện,
Khánh Hậu, Long An
(Ảnh: Yến Tuyết)
348
Hình 94: Nghi thức chèo thuyến bá trạo trong nghi lễ tang ma
tại Khách đình của Tòa thánh Tây Ninh – 12/2009
(Ảnh: Thái Bảo)
Hình 95: Hát bội trong nghi thức tang ma tại Khách đình
của Tòa thánh Tây Ninh – 12/2009
(Ảnh: Thái Bảo)