Download - Phan tich tai chinh doanh nghiep
Phan tich tai
chinh doanh
nghiep Thật không
may, chẳng có gì là đơn
giản, tiền mặt cũng vậy.
Lượng tiền mặt trên bảng
cân đối kế toán của mỗi
doanh nghiệp sẽ được nhà
đầu tư hiểu với nhiều các
tác động tín hiệu khác nhau:
gồm cả tín hiệu tốt và tín
hiệu xấu. Dĩ nhiên là nếu
hiểu rõ được nguồn hình
thành các khoản tiền mặt
cho doanh nghiệp, loại hình
doanh nghiệp và các kế
hoạch mà các nhà quản trị
đang dự định thực hiện sẽ
giúp nhà đầu tư có cái nhìn
chuẩn xác hơn.
Các lý thuyết tài chính
doanh nghiệp nói rằng mỗi
doanh nghiệp nên có một
mức tiền mặt thích hợp cho
doanh nghiệp mình, một
lượng đủ để thanh toán lãi
vay, các chi phí và chi tiêu
vốn, ngoài ra còn phải dự
trữ thêm một ít nữa để
doanh nghiệp kịp xử lý trong
những tình huống khẩn cấp.
Nhà đầu tư có thể tính toán
chỉ số thanh toán hiện hành
và chỉ số thanh toán nhanh
của doanh nghiệp để xác
định khả năng doanh nghiệp
có thể đáp ứng các nghĩa
vụ tài chính đến hạn hay
không? Dĩ nhiên là các
nghĩa vụ này phải trả bằng
tiền mặt.
Theo lý luận, nếu doanh
nghiệp có bất cứ một lượng
tiền mặt nào cao hơn mức
cần thiết đó thì lượng tiền
mặt đó nên được phân phối
lại cho các cổ đông thông
qua cổ tức hoặc mua lại cổ
phần. Sau đó, nếu các nhà
quản trị tìm thấy các cơ hội
đầu tư mới, họ có thể ra thị
trường vốn phát hành cổ
phần để huy động lượng
vốn cần thiết.
Thực tế thì việc doanh
nghiệp có nhiều tiền mặt
cũng có những điểm tốt.
Nhà đầu tư không phải là
người bên trong doanh
nghiệp nên thông thường
nếu nhìn thấy khoản mục
tiền mặt trên bảng cân đối
kế toán nhiều bao giờ cũng
yên tâm hơn so với các
doanh nghiệp có lượng tiền
mặt ít hơn. Nhất là khi qua
các quý, hoặc qua các năm,
lượng tiền mặt tăng lên đều
đặn và ổn định, nó là một tín
hiệu cho thấy doanh nghiệp
đang hoạt động rất tốt, đang
phát triển rất mạnh. Tiền
mặt tích lũy quá nhanh đến
mức các nhà quản trị không
kịp có thời gian để lên kế
hoạch sử dụng chúng sao
cho có hiệu quả nhất.
Microsoft là một thí dụ.
Trong ngành công nghiệp
sản xuất phần mềm, có lẽ
tên tuổi của Microsoft đã nổi
tiếng toàn thế giới. Microsoft
hoạt động quá tốt đến mức
dòng tiền mặt hằng năm
luôn nhiều hơn 40 tỷ USD.
Do doanh thu vẫn tiếp tục
tăng trưởng mạnh và tiền
mặt cứ thế tăng lên nhanh
chóng. Các doanh nghiệp
thành công khác trong các
ngành như sản xuất phần
mềm và dịch vụ, giải trí và
truyền thông thường không
bị đòi hỏi về chi tiêu vốn
nhiều như các công ty trong
các ngành thâm dụng vốn.
Vì vậy, tiền mặt của các
doanh nghiệp ấy cứ thế
tăng lên. Trong khi đó, các
doanh nghiệp phải chi tiêu
vốn nhiều như các nhà sản
xuất thép, phải thường
xuyên đầu tư rất nhiều cho
các trang thiết bị, dây
chuyền sản xuất và nguyên
vật liệu sản xuất. Các doanh
nghiệp trong các ngành
thâm dụng vốn như vậy
thường cần duy trì lượng
tiền mặt cần thiết trong một
thời gian dài hơn bởi vì
vòng quay tiền mặt của
chúng không thể nhanh như
các doanh nghiệp trong các
ngành khác.
Hơn thế nữa, nhà đầu tư
nên biết rằng các doanh
nghiệp trong các ngành sản
xuất, dịch vụ có tính chu kỳ
thì cần duy trì lượng tiền
mặt nhiều để vượt qua giai
đoạn đi xuống của chu kỳ
sản xuất. Ví dụ như Boeing
hay BMW, lượng cầu đối
với các mặt hàng này
thường tăng cao trong một
thời điểm nhất định của chu
kỳ kinh doanh và sau đó họ
lại phải đối mặt với giai
đoạn khác của chu kỳ khiến
cho lượng tiền mặt bị sụt
giảm nhanh chóng. Do đó,
đối với các doanh nghiệp
như vậy thì họ cần có một
lượng tiền mặt dự trữ nhiều
hơn mức cần thiết để đáp
ứng cho các nghĩa vụ ngắn
hạn của họ.
Nói như thế không có nghĩa
là bao giờ có nhiều tiền mặt
hơn mức lý thuyết đưa ra
cũng tốt. Một mức tiền mặt
cao thể hiện trong bảng cân
đối kế toán có thể khiến cho
nhà đầu tư đặt câu hỏi, nhất
là khi lượng tiền mặt đột
nhiên cao hơn mức bình
thường. Tại sao các nhà
quản trị lại để tiền mặt ở đó
mà không đem đi sử dụng?
Nhà đầu tư có quyền nghi
ngờ vì doanh nghiệp đã mất
các cơ hội đầu tư hoặc là
ban quản trị doanh nghiệp
quá yếu kém nên đã không
thể biết làm gì với lượng
tiền mặt đó. Việc để tiền
mặt trong doanh nghiệp quá
nhiều luôn có chi phí cơ hội.
Chi phí cơ hội của tiền mặt
trong trường hợp này được
hiểu là sự khác nhau giữa
nhau giữa lãi suất có được
khi nắm giữ tiền mặt (tiền
gửi không kỳ hạn ở ngân
hàng cũng được xem như là
tiền mặt) và cái giá phải trả
để có tiền mặt. Cái giá phải
trả để nắm giữ tiền mặt, đó
chính là chi phí sử dụng vốn
bình quân của doanh
nghiệp WACC. Nếu một
doanh nghiệp khi đầu tư
vào một dự án mới hoặc mở
rộng sản xuất có khả năng
tạo ra tỷ suất sinh lợi trên
vốn cổ phần là 20%, thì chi
phí cơ hội của việc nắm giữ
nhiều tiền mặt thật sự là
đắt. Bởi lãi suất cho tiền gửi
không kỳ hạn khó lòng đạt
tới 10%. Trong trường hợp
tỷ suất sinh lợi của dự án
thấp hơn mức chi phí sử
dụng vốn trung bình WACC
thì tiền mặt cũng không nên
giữ lại tại doanh nghiệp, mà
nên phân phối chúng lại cho
các cổ đông dưới hình thức
cổ tức hay mua lại cổ phần
của doanh nghiệp.
Mặc dù, khi các nhà quản trị
muốn gia tăng mức tiền mặt
trong doanh nghiệp luôn
đưa ra những lời giải thích
có vẻ như rất hợp lý : tiền
mặt nhiều có thể giúp doanh
nghiệp linh hoạt hơn và
thực hiện các phi vụ thâu
tóm một cách nhanh chóng
hơn. Thế nhưng bạn đừng
quên rằng với các doanh
nghiệp có lượng tiền mặt
nhiều hơn mức cần thiết mà
các lý thuyết đề nghị thì bạn
phải chú ý nhiều hơn đến
vấn đề đại diện.
Chi phí đại diện rất dễ xảy
ra trong tình huống này, các
nhà quản trị dễ dàng bị
“quyến rũ” bởi sức hút của
những toà biệt thự sang
trọng. Do vậy, các quản trị
cấp cao có thể sẽ thực hiện
những vụ thâu tóm lãng phí
và đầu tư vào các dự án
kém hiệu quả nhằm tranh
thủ tìm kiếm lợi ích cá nhân.
Do đó, nếu bạn là nhà đầu
tư, bạn hãy chú trọng nhiều
hơn đến các doanh nghiệp
xem việc dự trữ tìên mặt
như một chiến lược cho các
kế hoạch tái cấu trúc doanh
nghiệp.
Vì rất có thể rằng động cơ
bên trong đó chính là việc
tư lợi của các nhà quản trị.
Thậm chí trong tình huống
tệ hơn, các doanh nghiệp
có lượng tiền mặt quá dồi
dào giúp cho các nhà quản
trị giảm áp lực
money.jpgcho quá trình vận
hành doanh nghiệp. Họ
không bị sức ép phải tính
toán điều hành hợp lý nhất
để đáp ứng được các nghĩa
vụ ngắn hạn như các doanh
nghiệp chỉ có lượng tiền
mặt vừa phải theo mức cần
thiết.
Nên nhớ rằng, ngoài mức
tiền mặt cần thiết, bạn phải
cảnh giác với bất cứ một lý
giải nào cho việc tăng tiền
mặt trong doanh nghiệp. Thị
trường vốn luôn hiện hữu,
nếu cần huy động vốn cho
các dự án đầu tư tiềm năng
thì thị trường vốn luôn sẵn
sàng. Thị trường vốn với
những yêu cầu khắt khe, vì
thế doanh nghiệp sẽ thận
trong hơn trước các quyết
định đầu tư, và do đó sẽ
giảm được chi phí đại diện.
Thay lời kết
Để bảo vệ cho danh mục
đầu tư của bạn được an
toàn, nhà đầu tư nên xem
xét vị thế tiền mặt của
doanh nghiệp qua các lý
thuyết tài chính để tìm thấy
một mức tiền mặt hợp lý
trong doanh nghiệp. Đừng
quên xem xét yếu tố dòng
tiền tương lai, chu kỳ kinh
doanh, các kế hoạch chi
tiêu vốn, các nghĩa vụ phải
trả khẩn cấp và các nhu cầu
cần tiền mặt để chi trả khác
khi tính toán doanh nghiệp
thật sự cần lượng tiền mặt
là bao nhiêu?
Theo Saga.vn
III. Phân tích công ty
1. Nội dung phân tích
a. Lĩnh vực kinh doanh
Doanh nghiệp (DN) đó đang sản xuất - kinh doanh sản phẩm nào là chủ yếu, thể hiện qua tỷ trọng doanh thu và lợi nhuận của sản phẩm đó trên doanh thu và lợi nhuận của DN. Biết được lĩnh vực kinh doanh chính của công ty giúp NĐT có cái nhìn rõ nét hơn về những ảnh hưởng có thể tác động tới DN như môi trường kinh tế vĩ mô, luật pháp, thiên tai, đối thủ cạnh tranh...
b. Vốn và cơ cấu vốn
- Cơ cấu sở hữu vốn: Nhà nước nắm bao nhiêu phần trăm; cổ đông chiến lược, cổ đông tổ chức, cá nhân nắm số lượng lớn; cổ phiếu lưu hành, số cổ phiếu bị hạn chế chuyển nhượng. Thông thường, một cổ phiếu có nhiều cổ đông chiến lược thì tốt trong dài hạn và kỳ vọng của
NĐT tăng cao. Ngoài ra, khi DN có tỷ lệ sở hữu của Nhà nước và cổ đông chiến lược lớn thì số cổ phiếu đang giao dịch trên thị trường ít hơn nhiều so với tổng số cổ phiếu, điều này thường có lợi cho giá cổ phiếu vì lượng cung bị hạn chế.
- Vốn chủ sở hữu, thặng dư vốn, lợi nhuận: nếu một DN có lợi nhuận lớn và tỷ lệ vay nợ hiện tại cao thì nhiều khả năng DN sẽ tăng vốn để giảm bớt chi phí vay. Hơn nữa, nếu DN có vốn chủ sở hữu lớn hơn nhiều so với vốn điều lệ thì điều đó dễ dàng làm cho EPS của cổ phiếu đó tăng cao.
- Quá trình tăng vốn của DN: cần tìm hiểu vốn hiện tại cũng như nhu cầu tăng vốn trong thời gian tới vì ở Việt Nam, có một thực tế là cả trước và sau khi DN tăng vốn thì giá cổ phiếu thường biến động khá mạnh.
c. HĐQT, Ban giám đốc, Ban kiểm soát
- HĐQT bao gồm những ai, tỷ lệ vốn góp của họ; chiến lược đề ra có vì quyền lợi của cổ đông, liệu có sự phân biệt đối xử giữa cổ đông tổ chức và cổ đông nhỏ lẻ.
- Số lượng cổ phiếu nắm giữ của thành viên HĐQT, Ban giám đốc, Ban kiểm soát và những người liên quan: nếu số lượng nắm giữ cổ phiếu càng lớn thì rõ ràng là họ đều đặt niềm tin vào khả năng tăng trưởng của cổ phiếu và đó là tín hiệu tốt. Còn khi họ bán ra với số lượng lớn thì thường đó là tín hiệu xấu.
d. Chỉ số tài chính
Doanh thu thuần, lợi nhuận, ROA, ROE, EPS, P/E, cơ cấu nợ và đòn bẩy tài chính, cổ tức và chính sách cổ tức... Cần so sánh các chỉ số đó với các DN khác cùng ngành và mức bình quân của ngành để thấy rõ được ưu - nhược điểm của DN. NĐT nên xây dựng cho mình bảng chỉ số tài chính cho các nhóm ngành để từ đó có cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn, so sánh chỉ số của các nhóm ngành đó với mức bình quân toàn thị trường.
e. Thương hiệu, sản phẩm và hệ thống phân phối - dịch vụ
Thực tế cho thấy, DN có thương hiệu và sản phẩm uy tín trên thị trường cùng với hệ thống phân phối và dịch vụ tốt thì giá cổ phiếu của DN thường ở
mức cao hơn so với mặt bằng chung. Một số DN tạo dựng được uy tín trên thị trường trong và ngoài nước, có những đối tác chiến lược thì giá cổ phiếu ổn định và tăng trưởng bền vững hơn những DN nhỏ chưa gây dựng được thương hiệu, uy tín cho riêng mình.
f. Giao dịch của nhà ĐTNN và các tổ chức lớn
Nhà ĐTNN thường mua vào những cổ phiếu có tiềm năng tăng trưởng trong dài hạn, và các tổ chức cũng như cá nhân trong nước vẫn thường quan sát các động tĩnh của nhà ĐTNN. Việc đầu tư ngắn hạn trên những cổ phiếu thuộc diện đầu tư dài hạn đem lại cảm giác ít rủi ro hơn, nhất là khi cổ phiếu đó có các tổ chức nước ngoài nắm giữ với khối lượng lớn và đang tiếp tục mua thêm.
2. Các chỉ số tài chính và ý nghĩa
Thông thường phân tích cơ bản áp dụng một số nhóm chỉ tiêu tài chính chủ yếu như sau:
a/ Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán
Tổng
tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn
+ Hệ số thanh toán ngắn hạn = ------------------------------------------------------------
Tổng nợ ngắn hạn
Hệ số này cho ta thấy khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp, cho biết tỷ lệ các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp được trả bằng các tài sản tương đương với thời hạn được cho vay các khoản nợ đó.
( Tổng tài sản lưu đông - Hàng tồn kho )
+ Hệ số thanh toán nhanh =
--------------------------------------------------------
Tổng nợ ngắn hạn
Hệ số này cho biết khả năng đáp ứng việc thanh toán nợ ngắn hạn vì doanh nghiệp dễ dàng chuyển từ tài sản lưu động thành tiền mặt.
Hệ số này nói lên việc công ty có khả năng đáp ứng việc thanh toán nợ ngắn hạn vì công ty không gặp khó khăn nào trong việc chuyển từ tài sản lưu động khác về tiền mặt.
Hệ số này > 1 thì được đánh giá là an toàn vì
công ty có thể trang trải các khoản nợ ngắn hạn mà không cần đến các nguồn thu hay doanh số bán.
Đây là hệ số phản ánh sự chắc chắn nhất khả năng của công ty đáp ứng nghĩa vụ nợ hiện thời. Hệ số này càng cao thì càng được đánh giá tốt.
b/ Nhóm chỉ tiêu phản ánh cơ cấu tài chính và cơ cấu tài sản
Nhóm chỉ tiêu này phản ánh tính trạng nợ hiện thời của doanh nghiệp có tác động đến nguồn vốn hoạt động và luồng thu nhập thông qua chi trả vốn vay và lãi suất khi đáo hạn. Tình trạng nợ của doanh nghiệp thể hiện qua hệ số nợ, hệ số thu nhập trả lãi định kỳ, hệ số trang trải chung. Cụ thể:
Tổng số nợ
+ Hệ số nợ = ----------------------
Tổng tài sản
Hệ số này cho biết cứ sử dụng một đồng vốn kinh doanh thì có bao nhiêu đồng vay nợ
Nguồn vốn chủ sở hữu
+ Hệ số nợ tự tài trợ =---------------------
---------------
Tổng nguồn vốn
Hệ số này phản ánh mức độ độc lập hay phụ thuộc về tình trạng nợ của doanh nghiệp. Tỷ suất này càng cao càng đảm bảo an toàn cho các món nợ.
Tổng tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn
+ Cơ cấu tài sản = ---------------------
----------------------------------------------
Tổng tài sản cố định và đầu tư dài hạn
Cơ cấu tài sản cho biết tỷ lệ tài sản cố định và tài sản lưu động trong tổng tài sản như thế nào. Cơ cấu này cũng tùy thuộc vào từng loại hình kinh doanh của doanh nghiệp. Mỗi một đơn vị khác nhau hoặc ở mỗi thời điểm khác nhau thì hệ số này khác nhau. Thông thường người để đánh giá, người ta dùng cơ cấu tài sản của ngành để làm chuẩn mực so sánh.
c/ Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng hoạt động
Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp luôn gắn liều với sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp. Do đó qua phân tích các chỉ tiêu phản ánh hoạt động chúng ta biết trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp có đạt kết quả cao
nhất với chi phí bỏ ra là ít nhất hay không. Cụ thể:
Giá vốn hàng bán
+Số vòng quay hàng tồn kho =
----------------------------------------------
Hàng tồn kho bình quân trong kỳ
Vòng quay hàng tồn kho là số lần mà hàng hóa tồn kho bình quân luân chuyển trong kỳ. Chỉ số này càng cao càng được đánh giá là tốt vì tiền đầu tư cho hàng tồn kho thấp mà vẫn đạt hiệu quả cao tránh được tình trạng ứ đọng vốn. Nếu chỉ số này thấp chứng tỏ hàng tồn kho nhiều, sản phẩm không tiêu thụ được. Ngoài ra, chỉ tiêu này cũng phụ thuộc vào lĩnh vực và ngành nghề kinh doanh.
Doanh thu thuần
+ Số vòng quay các khoản phải thu = ------------------------------------------------
Số dư bình quân
các khoản phải thu
Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ chuyển các khoản phải thu thành tiền mặt. Vòng quay càng lớn chứng tỏ tốc độ thu hồi
các khoản phải thu nhanh và ngược lại.
Doanh thu thuần
+Vòng quay vốn lưu động =
------------------------------------
Vốn lưu động bình quân
Chỉ tiêu này có ý nghĩa cứ bình quân sử dụng 1 đồng vốn lưu động trong kỳ sẽ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Nếu hệ số càng lớn thì hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao và ngược lại.
Doanh thu thuần
+ Hiệu suất sử dụng vốn cố định =
------------------------------------
Vốn cố định bình quân
Chỉ tiêu này để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định có nghĩa là khi đầu tư trung bình một đồng vốn cố định thì tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần.
Doanh thu thuần
+ Vòng quay toàn bộ vốn = --------------------------------------
Vốn sản xuất bình quân
Chỉ tiêu này cho nhà đầu tư thấy cứ 1 đồng vốn sử dụng bình quân tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần hay vốn của doanh nghiệp trong kỳ quay được bao nhiêu vòng.
d/ Nhóm khả năng sinh lời
Với các nhà đầu tư thì nhóm chỉ tiêu này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng vì nó gắn liền với lợi ích kinh tế của nhà đầu tư. Nó đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của 1 kỳ và là căn cứ để nhà đầu tư đưa ra các quyết định trong tương lai.
Hệ số này cho biết mức độ hiệu quả khi sử dụng các yếu tố đầu vào trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp.
Hệ số lợi nhuận cao có nghĩa là quản lý chi phí có hiệu quả hay nghĩa là doanh thu tăng nhanh hơn chi phí hoạt động, điều đó rất có lợi cho quá trình hoạt động của doanh nghiệp.
Hệ số lợi nhuận ròng phản ánh khoản thu nhập ròng của một công ty so với doanh thu của nó.
Trên thực tế mức lợi nhuận ròng giữa các ngành là khác nhau, còn trong bản thân 1 ngành thì công ty nào quản lý và sử dụng yếu tố đầu vào tốt hơn thì sẽ có hệ số lợi nhuận cao hơn.
Hiện nay, trong phân tích cơ bản một cổ phiếu, nhóm chỉ số này hầu như không thể thiếu. Cụ thể:
Lợi nhuận sau thuế
+ Hệ số lợi nhuận ròng =
------------------------------------
Doanh thu thuần
Hệ số này phản ánh khoản thu nhập sau thuế của một doanh nghiệp so với doanh thu của nó. Hệ số này càng cao thì càng tốt vì nó phản ánh hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Lợi nhuận sau thuế
+ Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản ( ROA )= ----------------------------------------
Tổng tài sản
Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản là hệ số tổng hợp được dùng để đánh
giá khả năng sinh lời của một đồng vốn đầu tư. Chỉ số này cho biết cứ một đồng tài sản thì doanh nghiệp sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận và đồng thời chỉ số này cũng đánh giá hiệu suất sử dụng tài sản của doanh nghiệp.Hệ số này càng cao thì cổ phiếu càng có sức hấp dẫn hơn vì hệ số này cho biết khả năng sinh lời từ chính nguồn tài sản hoạt động của doanh nghiệp.
Lợi nhuận sau thuế
+ Tỷ suất lợi nhuận trên vốn tự có ( ROE ) =
---------------------------------------
Vốn chủ sở hữu
Hệ số này cho biết một đồng vốn tự có tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. ROE càng cao thì khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp càng mạnh và cổ phiếu của doanh nghiệp càng hấp dẫn.
e/ Các chỉ sổ về cổ phiếu
Đây là nhóm chỉ số tính cụ thể cho cổ phiếu của doanh nghiệp, cũng là nhóm chỉ số được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm.
Lợi nhuận ròng - Cổ tức ưu đãi
+ Thu nhập trên mỗi cổ phiếu ( EPS) = ---------------- ------------------------------
Số lượng cổ phiếu phổ thông
Chỉ số này cho biết nhà đầu tư sẽ được hưởng lợi nhuận trên mỗi cổ phần mà họ đang nắm giữ là bao nhiêu. Chỉ số này càng cao thì càng được đánh giá tốt vì đấy chính là khoản thu nhập nhà đầu tư có được khi đầu tư vào mỗi cổ phiếu.
Giá thị trường
+ Giá trên thu nhập của cổ phiếu (P/E) = ---------------------------------------------
Thu nhập của mỗi cố phiếu
Hệ số P/E đo lường mối quan hệ giữa giá thị trường và thu nhập trên mỗi cổ phiếu. P/E cho thấy giá cổ phiếu hiện tại cao hơn thu nhập từ cổ phiếu đó bao nhiêu lần, hay nhà đầu tư phải trả bao nhiêu đồng cho một đồng thu nhập. Hệ số P/E rất có ích cho việc định giá cổ phiếu. P/E cao có nghĩa là người
đầu tư dự kiến công ty sẽ tăng trưởng nhanh và cổ tức sẽ tăng cao trong tương lai. Hệ số này đo lường tỷ lệ phần trăm lợi nhuận ròng trả cho cổ đông phổ thông dưới dạng cổ tức. hệ số này càng cao thì cổ phiếu đó càng nhận được sự quan tâm của các nhà đầu tư, bởi lẽ họ sẽ được trả mức cổ tức cao cho mỗi cổ phiếu nắm giữ. Hệ số này thể hiện tỷ lệ giữa mức cổ tức chi trả so với giá trị thị trường hiện thời của cổ phiếu, nó phản ánh lợi tức mong đợi của nhà đầu tư khi mua một loại cổ phiếu tại thời điểm hiện tại. Nếu tỷ lệ này càng cao thì càng được các nhà đầu tư quan tâm.
Hệ số P/E đo lường mối quan hệ giữa giá thị trường và thu nhập trên mỗi cổ phiếu. P/E cho thấy giá cổ phiếu hiện tại cao hơn thu nhập từ cổ phiếu đó bao nhiêu lần, hay nhà đầu tư phải trả bao nhiêu đồng cho một đồng thu nhập. Hệ số P/E rất có ích cho việc định giá cổ phiếu. P/E cao có nghĩa là người đầu tư dự kiến công ty sẽ tăng trưởng nhanh và cổ tức sẽ tăng cao trong tương lai. Hệ số này đo lường tỷ lệ phần
trăm lợi nhuận ròng trả cho cổ đông phổ thông dưới dạng cổ tức. hệ số này càng cao thì cổ phiếu đó càng nhận được sự quan tâm của các nhà đầu tư, bởi lẽ họ sẽ được trả mức cổ tức cao cho mỗi cổ phiếu nắm giữ. Hệ số này thể hiện tỷ lệ giữa mức cổ tức chi trả so với giá trị thị trường hiện thời của cổ phiếu, nó phản ánh lợi tức mong đợi của nhà đầu tư khi mua một loại cổ phiếu tại thời điểm hiện tại. Nếu tỷ lệ này càng cao thì càng được các nhà đầu tư quan tâm. Tuy nhiên cũng cần so sánh với P/E của các cổ phiếu cùng ngành để xác định mức kỳ vọng đó có hợp lý không.
Tổng tài sản - Tổng số nợ - Cổ phiếu ưu đãi
+ Giá trị sổ sách của cổ phiếu phổ thông= -------------------------------------------------------
Số cổ phiếu phổ thông
Chỉ tiêu này dùng để xác định giá trị của một cổ phiếu theo số liệu trên sổ sách để so sánh với giá trị thị trường của cổ phiếu.
Tìm hiểu TT cà phê – Phần 4: Những tác động xấu khi giá tăng Ngày: 01/11/2010, 18:00 Chữ lớn Chữ nhỏ Phản hồi
(18)
Có lẽ mới đọc tiêu đề các bạn sẽ lấy làm ngạc nhiên khi nghe nói tác động xấu khi giá tăng, bởi chúng ta ai cũng mong giá tăng cho bà con nông dân nhờ chứ ít khi nghe nói ngược lại. Tuy nhiên, sẽ không tốt tý nào nếu giá tăng mạnh khi mà những nhà kinh doanh trước đó đã bán khống.
Bây giờ mời các bạn cùng nghiên cứu một kịch bản ví dụ với những chi tiết sau đây:
Trong thời điểm khoảng tháng 8 hay 9/2010, có một số doanh nghiệp bán kỳ hạn giao hàng tháng 11/2010 với giá trừ lùi 120USD/tấn, giao FOB Hồ Chí Minh, vì họ nhận định rằng đến tháng 11 này là bắt đầu vào thu hoạch cho nên giá có khả năng giảm.
Bắt nguồn từ suy nghĩ giá sẽ giảm trong tháng 11 cho nên đã có một số
doanh nghiệp chốt giá (fix) trong những thời điểm trước đó, ví dụ họ đã chốt giá $1.600 – 120 = $1.480/tấn.
Trong thời gian qua chúng ta đã chứng kiến giá khi tăng khi giảm, nhưng giảm thì một bước mà tăng thì hai ba bước. Và đến hôm nay những doanh nghiệp đó bắt đầu đến thời hạn giao cho nên phải mua hàng vào.
Chúng ta cũng đã dễ dàng thấy giá hiện nay là 33.800đ+tiền bao+tiền vận chuyển đến cảng+chế biến… thì sẽ tầm vào khoảng 34.350đồng/kg. Số tiền này tương đương với $1.760/tấn, có nghĩa là đang lỗ khoảng $280/tấn hay khoảng 5,4 triệu đồng/tấn.
Không những thế, họ còn gặp một khó khăn thứ hai là sẽ khó mua được hàng từ nông dân vào thời điểm này, vì người dân có xu hướng giữ hàng lại khi thấy giá tăng. Ở trong hoàn cảnh này thì họ cũng giống như đang trong tình trạng xin được chết mà không chết được vậy.
Để thoát ra khỏi tình trạng bán sống bán chết này trên thị trường cà phê (và cũng chung cho các thị trường dạng chứng khoán) có một cách xin được chết với thuật ngữ là wash-out, tôi xin tạm dịch sang tiếng Việt là rũ bỏ.
Trong trường hợp trên, công việc wash-out sẽ là thông qua những nhà môi giới hay người mua hàng của mình, người bán sẽ ra lệnh mua hàng theo kiểu bám đuổi diễn tiến thị trường để mua lại cho đủ số mà trước đây mình đã ký bán, để mà lấy số hàng đó
giao cho người mua của mình, nếu không muốn bị mang tiếng phá ngang hợp đồng hay nôm na gọi là xù hợp đồng (default). Ôi đau khổ cho cái nghề kinh doanh cà phê của chúng ta, nhiều khi bệnh sĩ chết trước bệnh tim.
Khi mà một nước đứng hàng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu cà phê có nhiều nhà kinh doanh cùng rơi vào cái thế rượt theo cái giá mua trên thị trường thế giới (bây giờ chạy sang đi mua lại chứ không còn là bán nữa đâu nhé) để mà có hàng giao thì giá thị trường sẽ tăng lên ảo, ai là người muốn tăng giá lúc này? Xin thưa, không loại trừ đó là những người trước đây đã đi mua hàng của chúng ta đấy.
Tôi viết bài này không chỉ nhằm mục đích để chúng ta cùng tìm hiểu khơi khơi về thị trường cà phê để mà hí luận với nhau cho vui, mà còn với mong ước đưa ra một vấn đề để bà con nông dân cùng thông cảm với các doanh nghiệp kinh doanh cà phê của chúng ta. Thật là cũng không dễ dàng gì để lèo lái con thuyền doanh nghiệp khi mà chúng ta sẽ thấy họ giá lên cũng chết mà giá xuống cũng chết, thuyền càng to thì sóng càng lớn. Thử hỏi không có những nhà doanh nghiệp thì ai sẽ đưa cà phê ra thị trường thế giới?
Qua điểm này tôi cũng mong những nhà hoạch định kinh tế, những nhà nghiên cứu vĩ mô với sở học của mình có thể nghiên cứu giải pháp định hướng chiến lược cho ngành cà phê nước ta.
Nhìn vào bảng cân đối tài sản doanh nghiệp thì bên tay trái là tài sản có, bên tay phải là nguồn gốc tạo ra tài sản có: gồm nợ (các loại) và vốn chủ sỡ hữu cùng với lợi nhuận được giữ lại của chủ sỡ hữu. Tỷ lệ giữa nợ và vốn chủ sỡ hữu gọi là cấu trúc vốn.
Phần đông doanh nghiệp chúng ta, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhìn nhận về tỷ lệ này khá đơn giản. Thường thì chúng ta tự nhẩm tính khi nào thì nên mượn nợ, khi nào thì kêu gọi thêm vốn chủ sỡ hữu. Dĩ nhiên những tính tóan đó phần nào cũng có “lý” của người quyết định. Tuy vậy, nếu chúng ta biết rằng, việc xác định một cấu trúc vốn để đạt hiệu quả cao nhất cho một doanh nghiệp là một vấn đề lớn, rất quan trọng trong tài chánh doanh nghiệp, làm tốn không biết bao nhiêu bút mực của giới học thuật lẫn các nhà quản lý tài chánh kinh nghiệm, thì có lẽ chúng ta sẽ bỏ nhiều thời gian nghiên cứu và sẽ thận trọng hơn trong quyết định của mình.
Nợ: Ưu và khuyết điểm
Một trong những ưu điểm lớn nhất của việc dùng nợ thay cho vốn chủ sỡ hữu đó là lãi suất mà doanh nghiệp phải trả trên nợ được miễn thuế. Tong khi đó thì cổ tức hay các hình thức thưởng khác cho chủ sỡ hữu phải bị đánh thuế. Trên nguyên tắc mà nói, nếu chúng ta thay vốn chủ sở hữu bằng nợ thì sẽ giảm được thuế doanh nghiệp phải trả, và vì thế tăng giá trị của doanh nghiệp lên. Một điều cần lưu ý, với những nước mà nhà đầu tư phải trả thuế thu nhập cá nhân với mức cao thì ưu điểm này của nợ sẽ bị giảm hay trở thành yếu điểm.
Ưu điểm thứ hai của nợ, đó là thông thường nợ rẻ hơn vốn chủ sỡ hữu. — nói đơn giản là lãi suất ngân hàng, hay lãi suất trái phiếu thấp hơn nhiều soi với lãi suất kỳ vọng của nhà đầu tư. Do đó khi tăng nợ tức là giảm chi phí chi ra trên một đồng tiền mặt và vì thế tăng cao lợi
nhuận, cũng như gía trị của công ty. Vì tính chất này mà tỷ số nợ trên vốn chủ sỡ hữu còn được gọi là tỷ số đòn bẩy.
Tuy vậy doanh nghiệp không thể tăng nợ lên mức quá cao so với chủ sỡ hữu. Khi đó công ty sẽ rơi vào tình trạng tài chánh không lành mạnh, và dẫn đến những rủi ro khác mà chúng ta sẽ bàn trong những phần sau.
Vốn: Ưu và khuyết điểm
Một trong những điểm không thuận lợi của vốn chủ sỡ hữu đó là giá thành (hay chi phí) của nó cao hơn chi phí của nợ. Dĩ nhiên rồi, vì không người đầu tư nào bỏ tiền đầu tư vào công ty gánh chịu những rủi ro về họat động và kết quả kinh doanh của công ty mà lại chịu nhận tiền lãi bằng lãi suất cho vay nợ. Việc này cùng với tính chất không được miễn trừ thuế làm cho chi phí vốn càng cao hơn.
Việc này này dẫn tới một điểm không thuận lợi khác, là khi vốn chủ sỡ hữu càng cao, số lượng người chủ sỡ hữu càng nhiều, thì áp lực về kỳ vọng của nhà đầu tư cũng như sự quản lý, giám sát của họ lên các nhà điều hành công ty càng lớn.
Tuy vậy vốn chủ sỡ hữu sẽ vẫn phải tăng khi công ty cần tiền. Tăng để cân bằng với nợ và giữ cho công ty ở trong tình trạnh tài chánh lành mạnh. Một lý do để các nhà đầu tư tăng vốn nữa là khi thị trường định giá cổ phiếu của nó cao hơn giá trị nội tại (overprice). Phát hành vốn trong trường hợp đó sẽ tạo ra lợi nhuận tài chánh cho công ty, và thực chất là tăng phần lãi nhuận cho những nhà đầu tư hiện hữu.
Nợ giúp cho các nhà điều
hành thận trọng hơn khi đầu tư:
Thực tế từ các thị trường cho thấy, đối với các công ty dồi dào tiền mặt, và không có khả năng tăng trưởng nhanh, các nhà quản lý hay có khuynh hướng đầu tư tiền vào những dự án “ồn ào” nhưng không hiệu quả, hoặc dùng tiền, tăng chi phí để tạo ra tăng trưởng. Dĩ nhiên những đồ án này không tạo ra giá trị cao cho công ty. Thuật ngữ tài chánh gọi việc này là overinvestment — đầu tư thái quá. Nếu công ty không có hội đồng quản trị giám sát chặt chẽ thì hiệu ứng đầu tư thái quá này này sẽ xảy ra nhiều. Nhưng nếu công ty mượn nợ để tài chánh cho những khoản đầu tư, thì việc phải trả lãi định kỳ, cũng như trả vốn theo định kỳ sẽ ngăn, hoặc giảm việc đầu tư thái quá này.
Nợ tạo ra chi phí “hao mòn’ doanh nghiệp và phá sản
Tỷ lệ nợ cao sẽ dẫn đến nguy cơ phá sản. Một công trình nghiên cứu tại Mỹ cho thấy chi phí phá sản chiếm khỏan 3% thị giá của tất cả các công ty niêm yết. Nghiên cứu còn cho thấy chi phí “hao mòn” doanh nghiệp (cost of business erosion) còn cao và nghiêm trọng hơn nhiều. Những công ty có tỷ lệ nợ cao, sẽ "nhát tay” trong việc nắm bắt những cơ hội đầu tư. Chúng cũng có khuynh hướng giảm bớt những chi phí tạo ra hiệu quả trong tương lai như chi phí nghiên cứu và phát triển, huấn luyện, xây dựng thương hiệu. Kết quả là những doanh nghiệp này đã bỏ qua những cơ hội để tăng giá trị của doanh nghiệp. Mức nợ cao còn dẫn đến những nguy cơ mất khách hàng, nhân viên và nhà cung cấp. Nguy cơ càng cao
hơn khi sản phẩm của công ty có vòng đời phục vụ và bảo hành lâu dài. Một ví dụ rõ nhất là công ty xe hơi Chrysler đã bị giảm 40% doanh số khi phải đối diện nguy cơ phá sản vì nợ nần vào năm 1979.
Ngoài ra công ty có mức nợ cao còn tạo ra sự mâu thuẫn giữa các chủ nợ và nhà đầu tư khi công ty sắp phải ngừng họat động để trả nợ. Khi có nguy cơ đó xảy ra, các nhà đầu tư “khôn ngoan” sẽ tìm cách đầu tư dưới mức — underinvestment. Tức là họ sẽ tập trung đầu tư vào nhhững dự án, rủi ro cao, tạo ra giá trị thấp trong tương lai, nhưng có thể đem lại tiền mặt để có thể chia dưới dạng cổ tức ngay lúc này. Trong khi đó những chủ nợ lại muốn công ty đầu tư vào những dự án ít rủi ro và tạo được giá trị cao trong tương lai. Và mâu thuẫn vì thế phát sinh.
Theo Nhịp cầu đầu tư
truyen10-11-07, 04:12 PM
Gửi Dat2007,
Đọc bài giảng phân tích tài chính DN cua bạn, tôi thấy rất hay. Tuy nhiên tôi cũng có một vài góp ý:- Phần phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho HDSXKD: Bạn nên đưa thêm ví dụ vào,- Phần phân tích lưu chuyển tiền tệ: Tôi thấy bạn phân tích mới chỉ dựa trên bảng lưu chuyển tiền tệ theo PP trực tiếp, bạn nên nghiên cứu phân tích dựa trên cả bảng lưu chuyển theo PP gián tiếp.
Chúc bạn hoàn thiện bài giảng của minh và cảm ơn bạn đã gửi để tôi có cơ hội được đọc bài giảng của bạn. Mong nhận được phần tiếp theo của bạn.
Truyền
hieunguyena05-08-08, 10:51 AM
Bài viết của Bạn hay nhưng còn 1 số điều mình muốn góp ý :1/Về lí thuyết :+ưu điểm : bạn nói rõ hơn ưu điểm dành cho nhà đầu tư, ngân hàng, chủ nợ …+hạn chế của phân tích tài chính DN, xét theo nghĩa hẹp là phân tích BCTC có hạn chế gì, nhất
là trong thời kỳ kinh doanh cổ phiếu người ta chỉ được biết công ty qua các số liệu phân tích? có thể do số liệu trong BCTC bị bóp mép theo ý chủ quan của Ban Giám Đốc hay trình độ hạn chế của kiểm toán viên, hay do họ lách đúng luật,đúng chuẩn mực kế toán…(VD :Công ty CP Bông Bạch Tuyết lỗ 2 năm liền nhưng kiểm toán trước đó vẫn kiểm toán lãi, hoạt động có hiệu quả…trong khi đó công ty kinh doanh kém hiệu quả,nợ quá hạn nhiều và có nguy cơ bị phát mãi tài sản thế chấp tại ngân hàng? gần đây các nhà đầu tư chới với khi biết tin )…2/Về phần phân tích :a/Phân tích tình hình lưu chuyển tiền tệ của DN bạn nên đưa các chỉ tiêu phân tíchhệ số khả năng trả ngắn hạn và hệ số trả lãi vào phần phân tích tình hình thanh toán(2.7), vì khi ngân lưu từ HĐKD/ nợ ngắn hạn >0 :tốt, DN đủ khả năng trả nợ từ ngân lưu từ HĐKD;còn hệ số này <0: xấu, cực xấub/nếu bạn muốn phân tích tình hình lưu chuyển tiền tệ của DN thì nên phân tích ngân lưu từ hoạt động kinh doanh,hoạt động đầu tư,hoạt động tài chính,tổng ngân lưu ròng xem xét từng giai đoạn thứ tự --+,+-+,++-,++-Qua đó thấy được DN đang phát triển, mở rộng, hay đã phát triển đỉnh cao,hay bắt đầu đi xuống…Bạn viết thêm phần hướng dẫn lập lưu chuyển tiền tệ theo phương pháp trực tiếptheo thực thu thực chi,hay gián tiếp, theo quan điểm tổng đầu tư, chủ sở hữu…c/hệ số thanh toán ngắn hạn thường >1trừ siêu thị <1 : vay ngắn hạn đầu tư dài hạnd/Bạn viết bổ sung thêm công thức tổng quát Dupont để thấy được hệ
số vòng quay tài sản, hệ số đòn bẩy tài chính…thêm chỉ tiêu EPS,P/E,P/B…c/Bạn hướng dẫn sinh viên tự phân tích các BCTC các công ty cổ phần qua web để tập quen dần với thực tế, vì giữa lí thuyết và thực tế có khoảng cách xa www.hastc.org.vn;www.acbs.com.vn (http://www.hastc.org.vn;www.acbs.com.vn...)...
http://i214.photobucket.com/albums/cc319/dat2007gpe/Cs1.jpg
http://i214.photobucket.com/albums/cc319/dat2007gpe/Cs2.jpg
http://i214.photobucket.com/albums/cc319/dat2007gpe/Cs3.jpg
Quản lý chi phí trong doanh nghiệp
Trấn TrungGửi email Bản in
02:16' PM - Thứ hai, 02/06/2008
Quản lý chi phí là một phần của các chiến lược tăng trưởng kinh doanh nhằm không những cắt giảm chi phí mà còn tạo ra các ưu thế cạnh tranh rõ rệt trên thị trường.
Nếu không có kiến thức cơ bản về quản lý chi phí, thì bạn không thể nào nhận biết được tình
hình thực tế của những dự án đầu tư, các kế hoạch kinh doanh cũng như thực trạng hoạt động của công ty.
Việc tìm giải pháp tài chính tối ưu cho chiến lược phát triển bền vững trong thời kỳ hậu hội nhập luôn là vấn đề nan giải nhất đối với các DN nhỏ và vừa hiện nay. Vì vậy, theo các chuyên gia, một trong những “nước cờ” mà DN nào cũng phải tính đến là việc quản lý và tiết kiệm chi phí ngày một hiệu quả hơn để sản phẩm, dịch vụ của mình ngày càng có chất lượng, giá cả phù hợp hơn với khách hàng.
Xác định chi phí trong doanh nghiệp
Tổng chi phí trong doanh nghiệp bao gồm chi phí lao động trực tiếp, chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí chung.
1. Chi phí lao
động trực tiếp: Là tiền lương và các khoản liên quan trả cho công nhân lao động trực tiếp mà chúng có thể được phân bổ toàn bộ theo lượng thời gian đã sử dụng để tạo ra một đơn vị sản phẩm hoặc để cung cấp một dịch vụ cụ thể.
2. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp bao gồm:
Giá mua nguyên vật liệu;
Chi phí tồn trữ;
Chi phí đặt hàng;
Tổn thất do thiếu hụt nguyên vật liệu tồn trữ;
3. Chi phí chung bao gồm: chi phí sản xuất chung, chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh
nghiệp.
Chi phí có thể được xác định là:
Chi phí biến đổi: là tổng của chúng thay đổi tỉ lệ thuận với mức sản lượng;
Chi phí cố định: Là chi phí không thay đổi khi mức sản lượng thay đổi.
Kiểm soát chi phí trong doanh nghiệp
Người quản lý doanh nghiệp cần phải nắm các thông tin về chi phí để ra quyết định. Tính toán, kiểm soát chi phí giúp doanh nghiệp kiểm soát ngân quỹ và tính giá thành sản phẩm hoặc dịch vụ. Việc kiểm soát chi phí của DN không chỉ là bài toán về giải pháp tài chính, mà còn là giải pháp về cách dùng người của nhà quản trị. Đây chính là vấn
đề sống còn của DN trong thời kỳ hội nhập.
Hiện nay, giải pháp thông thường mà các DN áp dụng là cắt giảm các khoản chi phí, duyệt gắt gao từng khoản chi và liên tục nhắc nhởnhân viên tiết kiệm chi phí.. Tuy nhiên, cuối cùng, hiệu quả kiểm soát chi phí vẫn không đạt được như mong đợi của DN và nhân viên cho là giám đốc “keo kiệt”. Đặc biệt, vấn đề DN, nhất là những công ty quy mô nhỏ, thường hay gặp phải hiện nay là sự nhầm lẫn giữa việc kiểm soát chi phí với cắt giảm chi phí và sự lúng túng trong xây dựng ý thức tiết kiệm ở nhân viên. Điều này dẫn đến một hệ quả không hay là, DN thường phải loay hoay tốn nhiều thời gian giải quyết phát sinh chi phí ngoài ý muốn. Từđó, khoảng cách giữa lãnh đạo và nhân viên ngày càng xa.
Chi phí chỉ có thể
được kiểm soát khi DN tuân thủ theo các bước kiểm soát chi phí sau đây. Trước hết, DN phải lập định mức chi phí, cụ thể là định mức cho các khoản chi phí theo những tiêu chuẩn gắn với từng trường hợp cụ thể trên cơ sở phân tích hoạt động của DN. Như vậy, DN phải nghiên cứu các dữ liệu trước đây, đưa ra một sự so sánh chuẩn cũng như căn cứ vào diễn biến giá cả trên thị trường và chiến lược phát triển của công ty. Bước kế tiếp là thu thập thông tin về chi phí thực tế. Công việc này không chỉ là trách nhiệm của phòng kế toán, mà còn phảiđược sự tham gia của các phòng, ban khácđể DN chủ động hơn trong việc xử lý thông tin chi phí. Các chi phí phải được phân bổ thành từng loại cụ thể. Ngoài ra, DN phải phân tích biến động giá cả trên thị trường theo định kỳ, dựa trên những thông tin chi phí thực tế và so sánh
với định mức đã thiết lậpđể dễ dàng xác định sự khác biệt giữa chi phí thực tế với định mức, đồng thời khoanh vùng những nơi phát sinh chi phí biến động. Sau khi điều tra và biết được nguyên nhân biến động chi phí, DN sẽ xác định các chi phí và kiểm soát được của từng bộ phận nhân viên.
Chủ DN phải thường xuyên đánh giá, phân tích các báo cáo chi phí cũng như có cách ứng xử thích hợp với nhân viên trong việc kiểm soát chi phí, đưa ra các chế độ thưởng phạt hợp lý.
Xây dựng ý thức tiết kiệm chi phí
Làm cách nào để đội ngũ nhân viên ý thức về chi phí và trở nên quan tâm đến việc giảm chi phí? Các cách thức như khuyến khích nhân viên tham gia quản lý chi phí hay tham gia và trao đổi với nhân viên nhằm
nâng cao ý thức của nhân viên về tầm quan trọng của chi phí và kiểm soát chi phí tại doanh nghiệp.
Tham gia và trao đổi
Bạn cần phải trao đổi với nhân viên về chi phí nếu bạn muốn họ tham gia vào việc kiểm soát chi phí. Không nên cung cấp thông tin dưới dạng báo cáo tài chính khó hiểu cần phải cung cấp đúng lúc đúng chỗ bằng những từ ngữ thích hợp dễ hiểu. Tức là thông tin về chi phí sẽ có hiệu lực hơn nếu nó được nêu ra ngay tại nơi phát sinh chi phí và ngay khi chi phí sắp phát sinh. Nhưng phải thường xuyên thây đổi làm mới các thông báo để tránh việc quá quen thuộc.
Khuyến khích nhân viên tham gia quản lý chi phí
Cung cấp thông tin phải hồi về ý kiến
đóng góp cho việc tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp của nhân viên để họ thấy rằng nỗ lực của họ được ghi nhận và do vậy vẫn tiếp tục nhiệt tình quan tâm đến việc kiểm soát chi phí. Nếu như người chủ doanh nghiệp không khuyến khích sự quan tâm đến chi phí ngay từ bây giờ, thậm chí khi điều này chưa có tác dụng trực tiếp, thì bạn khó tạo ra được ý thức tiết kiệm chi phí đó của nhân viên khi bạn vô cùng cần đến điều đó