HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN TÙNG LÂM
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA
VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP VỚI
SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC
HÀ NỘI - 2017
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN TÙNG LÂM
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA
VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP VỚI
SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC
Mã số: 62 31 02 04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. GS. TS. MẠCH QUANG THẮNG
2. TS. LÝ VIỆT QUANG
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả
Nguyễn Tùng Lâm
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 7
1.1. Các công trình liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối
quan hệ dân tộc và giai cấp 7
1.2. Các công trình liên quan đến việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp trong sự nghiệp đổi mới ở
Việt Nam hiện nay 14
1.3. Những khía cạnh đã được đề cập và những vấn đề mà luận án tiếp tục
nghiên cứu 20
Chương 2: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ
GIỮA VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP 24
2.1. Thực chất tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề
dân tộc và vấn đề giai cấp 24
2.2. Tính tất yếu và nguyên tắc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và
vấn đề giai cấp trong cách mạng Việt Nam 32
2.3. Những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam xuất phát từ việc giải quyết
mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp 51
Chương 3: GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ VẤN
ĐỀ GIAI CẤP TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM (1986 - 2016) 68
3.1. Bối cảnh mới tác động đến việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc
và vấn đề giai cấp ở nước ta trong quá trình đổi mới 68
3.2. Một số kết quả đạt được trong quá trình giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề
dân tộc và vấn đề giai cấp ở nước ta giai đoạn 1986 - 2016 72
3.3. Những vấn đề đặt ra đối với việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc
và vấn đề giai cấp trong quá trình đổi mới ở nước ta 102
Chương 4: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP CƠ BẢN GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ
GIỮA VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP TRONG SỰ NGHIỆP
ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH 115
4.1. Những quan điểm cơ bản 115
4.2. Một số giải pháp giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai
cấp trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh 123
KẾT LUẬN 148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 153
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Nhìn lại tiến trình lịch sử hơn 85 năm qua, dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản
Việt Nam quang vinh do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đất nước ta đã có những
bước nhảy vọt vĩ đại chưa từng có trong lịch sử. Trên nền tảng giá trị văn hoá tư tưởng
truyền thống của dân tộc, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu, tiếp biến, tổng hoà và phát triển
biện chứng tinh hoa văn hoá tư tưởng phương Đông và phương Tây, đặc biệt lấy học
thuyết cách mạng của Mác - Lênin làm cơ sở thế giới quan và phương pháp luận, xây
dựng được một hệ thống quan điểm toàn diện và sáng tạo về lý luận giải phóng và phát
triển làm kim chỉ nam cho cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của nhân dân Việt Nam,
đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước theo xu thế tiến bộ của thời đại mới.
Sau khi lựa chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc theo con đường cách
mạng vô sản, Hồ Chí Minh đã nhận thức và giải quyết một cách đúng đắn, sáng tạo
mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Trên cơ sở đó, Người đã từng
bước giải quyết thành công những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, như: Xác
định mục tiêu, con đường, lực lượng cách mạng; những vấn đề về đoàn kết dân tộc và
quốc tế; những vấn đề lý luận về Đảng, Nhà nước, Mặt trận,... Nội dung cốt lõi trong
đường lối cách mạng của Hồ Chí Minh chính là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội; giải phóng dân tộc không tách rời với giải phóng giai cấp và giải phóng con
người. Con đường giải phóng dân tộc đó phù hợp với xu thế phát triển của thời đại -
thời đại đấu tranh cho sự thắng lợi của hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội - một đường lối thấm đượm tính dân tộc và nhân văn, đáp ứng được yêu cầu và
khát vọng của toàn thể dân tộc Việt Nam. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh quan điểm
của Hồ Chí Minh là hoàn toàn đúng đắn, sáng tạo, đó là thắng lợi vĩ đại của cuộc cách
mạng tháng Tám năm 1945 và hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ xâm lược. Trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng
và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhờ phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước “truyền thống quý
báu” của dân tộc, biến thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng - sức mạnh vô địch đưa
cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Thành tựu của 30 năm đổi mới ở nước ta cho thấy, Đảng Cộng sản Việt Nam
với nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam hành động là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
2
Hồ Chí Minh đã luôn chú trọng nhận diện và xử lý vấn đề đặt ra từ mối quan hệ giữa
vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp ở Việt Nam. Mặt thành công cần phải khẳng định.
Tuy nhiên, do tác động của nhiều nhân tố bên trong và bên ngoài, chủ quan và khách
quan, nên vấn đề dân tộc, vấn đề giai cấp và mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn
đề giai cấp càng diễn biến phức tạp. Nếu tuyệt đối hoá vấn đề dân tộc hay vấn đề giai
cấp cũng đều dẫn tới sự chệch hướng cách mạng, hoặc sẽ gặp khó khăn trong quá trình
phát triển. Thực tế cho ta bài học là, có thời kỳ, khi triển khai các nhiệm vụ xây dựng
chủ nghĩa xã hội, đã có lúc Đảng ta phạm sai lầm nóng vội, chủ quan, duy ý chí, quá
nhấn mạnh vấn đề giai cấp nên đã xem nhẹ vấn đề dân tộc trong việc hoạch định và
thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, dẫn đến lợi ích các giai cấp, tầng lớp
không được tính đến đầy đủ và kết hợp hài hoà, sức mạnh dân tộc không được phát
huy như một trong những động lực chủ yếu nhất. Nhưng ngay sau đó, Đảng ta đã kịp
thời khắc phục có hiệu quả cả về phương diện nhận thức lý luận cũng như trong hoạt
động thực tiễn về vấn đề này.
Tuy vậy, có một số ý kiến cho rằng: Hồ Chí Minh chỉ là người theo “chủ nghĩa
dân tộc”. Quan điểm này đã bỏ tính giai cấp, làm mờ đi lập trường, quan điểm giai
cấp của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt
Nam; hoặc có quan điểm cho rằng mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai
cấp luận chứng trong chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ đúng với
một số nước khác nào đó, còn ở Việt Nam vốn là nước thuộc địa, nửa phong kiến,
vấn đề dân tộc bao giờ cũng chi phối, khi nào Đảng nhấn mạnh vấn đề giai cấp thì
đều dẫn đến sai lầm. Từ đó, họ đề xuất ý kiến theo hướng nhấn mạnh một chiều vấn
đề dân tộc, tách vấn đề dân tộc khỏi vấn đề giai cấp, hạ thấp ý nghĩa quan trọng, bức
thiết của vấn đề giai cấp, không lấy quan điểm giai cấp làm quan điểm cơ sở lập
trường để xem xét, giải quyết vấn đề dân tộc. Theo họ, nước ta hiện nay chỉ nên đề ra
và giải quyết những vấn đề dân tộc, còn vấn đề giai cấp không nên đặt ra. Mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” được họ đồng tình, nhưng giải
thích theo hướng phi giai cấp, nghĩa là không nhất thiết phải theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Thực chất của những quan điểm nêu trên chính là sự tước bỏ nội dung cách
mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh, muốn tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ
nghĩa Mác - Lênin, bác bỏ đường lối giải quyết vấn đề dân tộc theo lập trường của
3
giai cấp công nhân, tách rời độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, cổ súy
cho quan điểm muốn nước ta từ bỏ định hướng xã hội chủ nghĩa, từ bỏ mục tiêu xã
hội chủ nghĩa, đi ngược với con đường mà Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã
lựa chọn, và rõ ràng là không phù hợp với thực tiễn của lịch sử cách mạng Việt Nam.
Quan điểm sai trái ấy đã trái ngược hoàn toàn với lợi ích của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh
về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - tư tưởng chỉ đạo chiến lược lớn
xuyên suốt cả quá trình cách mạng Việt Nam. Chính vì vậy, giải quyết thành công
mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là cơ sở để cách mạng nước ta đi
đúng con đường đã chọn, với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; đồng thời
là cơ sở để chúng ta có được đường lối phát triển đúng đắn, từng bước tận dụng
những thuận lợi, thời cơ, vượt qua những khó khăn, thách thức trong quá trình phát
triển. Tình hình thế giới ngày nay có nhiều biến động phức tạp, thế giới đang hình
thành nên những liên minh quốc tế và khu vực; tốc độ toàn cầu hóa diễn ra càng
nhanh thì xung đột dân tộc, sắc tộc lại càng trở nên quyết liệt, khiến cho loài người
phải bỏ ra nhiều công sức, tiền bạc, thậm chí cả máu để giải quyết. Đảng ta khẳng
định: “Cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc vẫn diễn biến phức tạp” [50, tr.184]. Tình
hình trong nước, nhiều vấn đề cũng được đặt ra ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề giải
quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp trong quá trình đổi mới như: Giữa yêu cầu xây
dựng và phát triển nền kinh tế độc lập tự chủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong
bối cảnh toàn cầu hóa và thực trạng yếu kém của nền kinh tế nước ta; Giữa mở rộng
giao lưu quốc tế với vấn đề giữ vững bản sắc văn hoá dân tộc và định hướng xã hội
chủ nghĩa; Giữa yêu cầu tăng cường củng cố khối đoàn kết dân tộc dưới sự lãnh đạo
của giai cấp công nhân và những yếu tố phân hóa các lực lượng xã hội trong điều
kiện kinh tế thị trường và âm mưu các thế lực thù địch tạo ra; Những vấn đề đặt ra
đối với Đảng cầm quyền... Như vậy, cả thực tiễn thế giới và trong nước, cho thấy vấn
đề dân tộc và giai cấp vẫn đang diễn ra hết sức gay gắt và có xu hướng ngày càng
tăng, đòi hỏi phải giải quyết một cách thấu đáo vấn đề trên mới tạo động lực phát
triển cho quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
Mặc dù thực tiễn hiện nay đã có nhiều đổi thay so với trước, song có thể khẳng
định rằng việc giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp theo tư tưởng Hồ Chí Minh
vẫn còn nguyên giá trị, đóng vai trò định hướng cho tư duy và hoạt động chính trị,
4
cung cấp luận cứ khoa học cho Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam trong việc
hoạch định và thực thi đường lối, chính sách bảo vệ và phát triển đất nước. Nhiệm vụ
này đang đặt ra rất cấp bách. Chính vì vậy, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn
đề trên có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, có tính thời sự cấp bách. Với những lý do nêu
trên, tác giả chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan hệ giữa vấn
đề dân tộc và vấn đề giai cấp với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay” làm luận
án tiến sĩ của mình.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu
Làm rõ nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan hệ
giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp; cung cấp cơ sở lý luận, phương pháp luận và
những giải pháp chủ yếu để giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai
cấp trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề
dân tộc và vấn đề giai cấp.
- Làm rõ sự cần thiết, yêu cầu, tiêu chí cụ thể của việc vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
- Trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân
tộc và vấn đề giai cấp, phân tích việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và
vấn đề giai cấp trong tiến trình cách mạng Việt Nam, đặc biệt là trong quá trình đổi
mới ở Việt Nam, đánh giá những thành công và những vấn đề nảy sinh trong việc giải
quyết vấn đề trên.
- Đề xuất quan điểm và những giải pháp chủ yếu để giải quyết về mối quan hệ
giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp nảy sinh trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam
hiện nay dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp; vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề trên
trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
5
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Tập trung nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối
quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp và sự vận dụng của Đảng ta trong quá
trình cách mạng Việt Nam, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới.
Tuy nhiên, trong luận án tác giả chỉ đề cập đến những khía cạnh sau đây: Thứ
nhất, vấn đề dân tộc mà tác giả nghiên cứu thuộc phạm trù dân tộc - quốc gia, không
thuộc phạm trù dân tộc - tộc người. Thứ hai, vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, được đặt trong điều kiện đất nước là thuộc địa của chủ nghĩa thực
dân, phân tích việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp chủ
yếu được đề cập dưới góc độ quan hệ lợi ích.
- Về thời gian: Toàn bộ quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
về giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp; quá trình vận dụng
của Đảng ta trong quá trình cách mạng, đặc biệt là thời kỳ đổi mới từ năm 1986 trở đi.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được thực hiện dựa trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân tộc, giai
cấp và mối quan hệ dân tộc và giai cấp.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tác giả vận dụng các
phương pháp chung, các phương pháp liên ngành và chuyên ngành sau: Lịch sử -
logic; phân tích, tổng hợp; thống kê, định lượng, định tính, so sánh, văn bản học,
phỏng vấn, tọa đàm...
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Làm rõ hơn nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan hệ giữa
vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp; chỉ rõ sự sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc
hoạch định đường lối, chính sách ở nước ta về việc giải quyết vấn đề này trong các
thời kỳ cách mạng.
- Trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân
tộc và vấn đề giai cấp, phân tích quan hệ dân tộc và giai cấp trong tiến trình cách mạng
Việt Nam, đặc biệt là trong quá trình đổi mới ở Việt Nam, đánh giá những thành công
và những vấn đề nảy sinh trong việc giải quyết vấn đề trên.
6
- Đưa ra cơ sở lý luận, phương pháp luận và đề xuất những giải pháp chủ yếu để
giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong sự nghiệp đổi mới
ở Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Luận án góp phần làm rõ việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và
vấn đề giai cấp dưới góc độ chuyên ngành Hồ Chí Minh học và làm cơ sở để đấu tranh
bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
- Luận án góp phần làm rõ cơ sở lý luận cho Đảng và Nhà nước ta hoạch định
đường lối, chính sách giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong giai đoạn mới.
Trên cơ sở đó góp phần đi tới thống nhất về nhận thức và hoạt động trong quá trình đổi
mới ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả đạt được của Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ sở
nghiên cứu khoa học, các trường đào tạo bậc đại học và sau đại học trong nhóm ngành
khoa học chính trị, khoa học xã hội và nhân văn.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình đã công bố của tác giả
liên quan đến đề tài luận án và danh mục tài liệu tham khảo, luận án được kết cấu
thành 4 chương, 11 tiết.
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ DÂN TỘC VÀ GIAI CẤP
Trong những năm gần đây, có rất nhiều công trình nghiên cứu về Hồ Chí Minh,
đề cập đến nhiều lĩnh vực, một trong những vấn đề mà các tác giả đề cập dù trực tiếp
hoặc gián tiếp đều khẳng định, chính việc nhận thức và giải quyết một cách sáng tạo vấn
đề dân tộc và vấn đề giai cấp, là cơ sở để Hồ Chí Minh xác lập được đường lối đúng
đắn, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong số các công
trình có đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa
về vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có những công trình sau đây:
- Các sách liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan hệ dân
tộc và giai cấp
Cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam của Võ
Nguyễn Giáp [65], tác giả đã đề cập một cách khá toàn diện tư tưởng Hồ Chí Minh về
con đường cách mạng Việt Nam, mặc dù không trình bày một cách trực tiếp, nhưng trên
tất cả các lĩnh vực mà cuốn sách đề cập như vấn đề về chiến lược, sách lược, vấn đề xây
dựng Đảng, Mặt trận, Nhà nước, quân sự, văn hoá, đạo đức, nhân văn... đều thấm đượm
tính dân tộc và chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, thực chất của vấn đề dân tộc và vấn đề giai
cấp. Đặc biệt, Cuốn sách, các tác giả khẳng định giải quyết đúng đắn mối quan hệ biện
chứng giữa dân tộc với giai cấp là một nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của Hồ Chí
Minh trong khi giải quyết vấn đề xã hội của cách mạng. Đó là cơ sở phương pháp luận
của đường lối “Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” của Đảng ta. Nhờ nguyên tắc đúng
đắn sáng tạo đó, Đảng ta đã tạo nên sức mạnh to lớn chưa từng có trong lịch sử của dân
tộc ta, đưa cách mạng nước ta đến những thắng lợi vĩ đại. Tuy nhiên, việc đề cập đến
vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp Cuốn sách chỉ mới là bước đầu, có tính chất gợi mở,
chưa đi sâu phân tích một cách sâu sắc và hệ thống vấn đề trên.
Cuốn Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh của Lê Hữu Nghĩa [129], tập hợp các bài
viết liên quan đến vấn đề triết học trong tư tưởng Hồ Chí Minh, các vấn đề đã được
nghiên cứu một cách cơ bản ở cả hai góc độ, tư tưởng triết học và việc vận dụng cơ sở
triết học vào hoạt động thực tiễn. Một trong những vấn đề rất quan trọng mà các tác giả
đề cập chính là giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp, khẳng định đây
8
cũng là một những sáng tạo rất độc đáo và sáng tạo của Hồ Chí Minh trong quá trình
lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Các tác giả khẳng định quan điểm kết hợp cách mạng
giải phóng dân tộc với cách mạng vô sản, gắn độc lập lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội là
một quan điểm có tính nguyên tắc được thể hiện một cách nhất quán trong tư tưởng và
hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, khi nghiên cứu về vấn đề trên, mới
chỉ là nghiên cứu bước đầu, chưa mang tính hệ thống.
Cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam của Hoàng Trang, Phạm Ngọc Anh [185], phân tích bối cảnh trong nước và
thế giới cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX; quá trình Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu
nước và đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, các tác giả đã làm rõ sự vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin của Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, chỉ rõ sự kết
hợp mang tính khoa học giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng của
Người. Độc lập dân tộc được coi là tiền đề quan trọng, yếu tố cơ bản nhất để nước ta đi
lên chủ nghĩa xã hội và chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có thể bảo đảm nền độc lập bền
vững. Các tác giả cũng chỉ rõ trong giai đoạn hiện nay, vấn đề giữ vững độc lập dân tộc
là nhiệm vụ chiến lược quan trọng để đưa nước ta vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Để
thực hiện được điều đó cần tiếp tục vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh vào thực tiễn nước ta hiện nay, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường hợp tác quốc tế. Như
vậy, Cuốn sách này, các tác giả cũng chưa đề cập trực tiếp đến vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp, mặc dù cuốn sách đã phân tích khá sâu sắc mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội - nội dung cơ bản của vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng
Hồ Chí Minh.
Cuốn Góp phần tìm hiểu đặc sắc tư duy triết học Hồ Chí Minh của Hồ Kiếm Việt
[197], tư duy triết học Hồ Chí Minh về vấn đề con người với lịch sử, con người xã hội
gắn với giai cấp, dân tộc và giải phóng dân tộc được tác giả trình bày rõ nét. Trong tác
phẩm này, tác giả thấy được vai trò và sức mạnh của con người, và khẳng định sức
mạnh của con người chủ yếu ở sự cố kết con người trong cộng đồng dân tộc, giai cấp và
sự nghiệp giải phóng con người gắn bó chặt chẽ với sự nghiệp giải phóng dân tộc và giai
cấp. Đồng thời tác giả cũng khẳng định độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là
tư tưởng cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, tác phẩm này cũng chỉ tiếp cận
vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp dưới góc nhìn về con người và giải phóng con người.
9
Cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội [100]; và
cuốn Mối quan hệ biện chứng giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng
Hồ Chí Minh của Nguyễn Bá Linh [101], tác giả phân tích và khẳng định, lý luận về độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực
tiễn cách mạng Việt Nam để giải quyết những mâu thuẫn cơ bản của xã hội ta, giải
quyết mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Để thực hiện và giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tác giả đã phân
tích những quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng kinh tế, xây dựng hệ thống chính
trị, xây dựng nền văn hóa mới, con người mới, xây dựng và củng cố an ninh, quốc
phòng… Tác giả kết luận, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là ngọn cờ bách chiến,
bách thắng của cách mạng Việt Nam, việc giữ vững độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
là một nhiệm vụ lịch sử quan trọng nhất đối với toàn Đảng, toàn dân trong bối cảnh hội
nhập quốc tế.
Cuốn Tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh của Nguyễn Đức Đạt [55], phân tích
chuyên về phép biện chứng Hồ Chí Minh dưới góc độ các nguyên tắc, phương pháp
luận như quan điểm thực tiễn, quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử cụ thể, quan điểm
phát triển. Đây là một cuốn sách có nội dung phong phú với góc nhìn cụ thể về phép
biện chứng duy vật được vận dụng vào cách mạng Việt Nam. Một trong những vấn đề
mà cuốn sách đề cập là thấy được quan hệ biện chứng giữa cách mạng giải phóng dân
tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người; giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
- biểu hiện cơ bản của mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp.
Cuốn Hồ Chí Minh với chiến lược đoàn kết quốc tế trong cách mạng giải phóng
dân tộc của Lê Văn Yên [198], tác giả đã tập trung thể hiện và làm rõ một số vấn đề cơ
bản sau: Phân tích và chứng minh quá trình hoạt động của Hồ Chí Minh trong việc xây
dựng mối quan hệ đoàn kết quốc tế giữa phong trào giải phóng dân tộc và phong trào
cách mạng tiến bộ trên thế giới, việc tổ chức kết hợp đoàn kết quốc tế nhằm mục tiêu
độc lập, tự do của nhân dân Việt Nam; Khái quát những quan điểm cơ bản thuộc chiến
lược đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh trong cách mạng giải phóng dân tộc; đồng thời
khẳng định những quan điểm cơ bản đó vẫn là những vấn đề thuộc chiến lược cách
mạng của nhân dân Việt Nam và nhân dân tiến bộ trên thế giới trong giai đoạn hiện nay;
Phân tích giá trị thực tiễn chiến lược đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh trong cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc Việt Nam; đồng thời cũng chứng minh ngay từ giai đoạn này,
10
đoàn kết quốc tế - một bộ phận của tư tưởng Hồ Chí Minh đã là nền tảng tư tưởng, kim
chỉ nam cho hành động cách mạng của Đảng và dân tộc ta đi tới những thắng lợi vẻ
vang; Phân tích rõ mối quan hệ giữa lãnh tụ Hồ Chí Minh với tập thể Ban Chấp hành
Trung ương Đảng là mật thiết, gắn bó, đồng thời phân tích rõ tầm cao, tầm trí tuệ, tầm
chiến lược của lãnh tụ Hồ Chí Minh trong việc kết hợp dân tộc và quốc tế nhằm mục
tiêu độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam và đóng góp vào kho tàng lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin trên những vấn đề cốt yếu. Như vậy, Cuốn sách này, tác giả cũng chỉ
đề cập vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp một cách gián tiếp.
Cuốn Hồ Chí Minh học và minh triết Hồ Chí Minh của Bùi Đình Phong [144], tác
giả đã cung cấp, chỉ ra một số nội dung về triết lý phát triển xã hội trong tư tưởng Hồ
Chí Minh. Đặc biệt, tác giả đã phân tích một cách khá sâu sắc vấn đề độc lập dân tộc,
coi độc lập dân tộc là tiền đề cho sự phát triển, tuy nhiên độc lập dân tộc phải tiến lên
mang lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân, tức là phải phát triển một cách toàn diện trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Từ đó, tác giả đưa ra và phân tích khá sâu sắc
những luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về triết lý phát triển xã hội Việt Nam. Như
vậy, Cuốn sách trên ở một khía cạnh nào đó tác giả cũng đã đề cập một cách gián tiếp
đến vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Cuốn Triết lý phát triển Hồ Chí Minh - giá trị lý luận và thực tiễn của Phạm
Ngọc Anh [2] là kết quả của một công trình nghiên cứu chuyên biệt về triết lý phát triển
Hồ Chí Minh và giá trị lý luận, thực tiễn của nó đối với cách mạng Việt Nam. Các tác
giả tập trung nghiên cứu sâu và vạch ra bản chất triết lý phát triển Hồ Chí Minh là triết
lý - hành động. Đồng thời cũng chỉ ra các nội dung cơ bản của triết lý phát triển Hồ Chí
Minh trên các khía cạnh: Mục tiêu, con đường, động lực phát triển... của xã hội Việt
Nam. Một trong những vấn đề cơ bản mà nội dung cuốn sách trình bày là mối quan hệ
giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế. Tuy nhiên, cuốn sách này các tác giả cũng
chỉ trình bày mối quan hệ trên như là một nội dung biểu hiện của mô thức và nội dung
phát triển đất nước của triết lý phát triển Hồ Chí Minh.
Cuốn Hồ Chí Minh - nhà cách mạng sáng tạo của Mạch Quang Thắng [178], đã
đi sâu nghiên cứu và làm rõ vai trò của Hồ Chí Minh trong việc truyền bá, tiếp thu, vận
dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, định hướng tư tưởng lý
luận cho sự lựa chọn con đường phát triển của dân tộc; Nêu bật những cống hiến lý luận
của Hồ Chí Minh vào kho tàng kinh nghiệm của chủ nghĩa Mác - Lênin, làm căn cứ để
11
khẳng định Hồ Chí Minh thực sự là một nhà cách mạng sáng tạo của Đảng và dân tộc
Việt Nam; Một trong những nội dung mà các tác giả trình bày là những vấn đề sáng tạo
tư tưởng lý luận của Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam, trong đó có nội dung gắn
kết vấn đề độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, giai cấp với dân tộc, dân tộc với dân
chủ, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Tuy nhiên, cuốn sách
cũng chưa đề cập một cách hệ thống vấn đề trên như là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam.
Cuốn Biện chứng của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của
Lại Quốc Khánh [89], làm rõ tư tưởng biện chứng của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã
hội, về tính đúng đắn của con đường, mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Mặc
dù không đề cập một cách trực tiếp vấn đề mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhưng tác giả đã trình bày một cách khá rõ nét nội
dung tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường giải phóng dân tộc theo con đường cách
mạng vô sản - một trong những biểu hiện của vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Cuốn Hồ Chí Minh với sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
của Vũ Đình Hòe, Bùi Đình Phong [74], các tác giả đã phân tích những nội dung cơ bản
tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc, về chủ nghĩa
xã hội. Đồng thời các tác giả còn làm rõ giá trị lý luận và thực tiễn của di sản Hồ Chí
Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong thời đại ngày nay, sự vận dụng của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội giai đoạn
1976 - 2008. Như vậy, Cuốn sách tác giả cũng đã phần nào đề cập mối quan hệ giữa vấn
đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Cuốn Nguyên tắc thống nhất giữa dân tộc, giai cấp và nhân loại trong tư tưởng
Hồ Chí Minh của Lương Thùy Liên [99], tác giả đã phân tích nguyên tắc thống nhất về
mối quan hệ giữa nhân tố dân tộc, giai cấp và nhân loại trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đồng thời, tác giả khẳng định trong giai đoạn hiện nay cần giải quyết đúng đắn mối
quan hệ đó trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội... Muốn vậy, Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta cần kiên định nguyên tắc thống nhất giữa dân tộc, giai cấp và nhân
loại theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Cuốn Sự tương đồng và khác biệt về quan điểm cách mạng Việt Nam giữa Hồ Chí
Minh với Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Đông Dương những năm 1930 - 1941
Nguyễn Khánh Bật [15], tác giả đã trình bày những nét tương đồng và khác biệt giữa quan
12
điểm của Hồ Chí Minh với Quốc tế Cộng sản và Đảng ta trong những năm 1930 - 1941,
qua đó thấy được sự sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc vận dụng chủ nghĩa Mác -
Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, một trong những sáng tạo đó chính là giải quyết
thành công mối quan hệ dân tộc và giai cấp. Chính những sáng tạo mà Người đã giải
quyết thành công các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Thực tiễn cách mạng Việt
Nam đã chứng minh quan điểm đó là hoàn toàn đúng đắn và sáng tạo.
Cuốn Bí quyết thành công Hồ Chí Minh Phùng Hữu Phú [145], là tập hợp các
nghiên cứu của tác giả về tư tưởng Hồ Chí Minh trong rất nhiều vấn đề then chốt: Nhân
dân, khối đại đoàn kết toàn dân, Đảng cầm quyền, giai cấp công nhân, con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội... Tác giả đã phân tích những tư tưởng cốt lõi của Hồ Chí Minh về giải
phóng dân tộc, giải phóng con người. Không chỉ có tấm lòng yêu nước, thương dân,
khát khao tìm ra con đường giải phóng dân tộc như các bậc tiền bối đi trước, Hồ Chí
Minh còn có một nhãn quan chính trị sắc bén; một nhận thức đúng đắn về con đường
cách mạng tất yếu của dân tộc, về sứ mệnh và vai trò của giai cấp công nhân và Đảng
Cộng sản Việt Nam, về sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế,...
Đây cũng chính là những biểu hiện cụ thể của việc vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp.
Quan điểm của Người đã được kiểm nghiệm trong thực tiễn cách mạng vô cùng phong
phú, trở thành sức mạnh của toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, đưa cách mạng
tới thắng lợi cuối cùng.
Cuốn Hồ Chí Minh - nhà tư tưởng thiên tài của Trần Nhâm [135], là một công
trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh khá công phu, tác giả đã tập trung phân tích một
cách toàn diện một số vấn đề lý luận cơ bản. Mặc dù không đề cập trực tiếp đến vấn đề
dân tộc và vấn đề giai cấp, nhưng toàn bộ nội dung cuốn sách trình bày thực chất cũng
chính là biểu hiện cụ thể của việc giải quyết vấn đề trên trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, một số các công trình nghiên cứu sau cũng có một phần nội dung
nghiên cứu về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh:
Như cuốn Góp phần nghiên cứu tư tưởng độc lập, tự do của Hồ Chí Minh của Đinh
Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn [94]; cuốn Về con đường giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh
của Trịnh Nhu, Vũ Dương Ninh [137]; cuốn Mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân trong
tư tưởng Hồ Chí Minh của Đàm Văn Thọ, Vũ Hùng [183]; cuốn Sự hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc (1911 - 1945) của Nguyễn Đình Thuận
[184]; cuốn Vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi
mới của Bùi Đình Phong [143]. Trong các cuốn sách trên, đã đề cập khá toàn diện về
13
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam và ở góc độ này, góc độ kia, trực tiếp hay
gián tiếp cũng đã đề cập đến vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp.
Một điều đáng lưu ý, bên cạnh các công trình nghiên cứu trong nước, còn có một
số học giả nước ngoài nghiên cứu về Hồ Chí Minh, đều thừa nhận sự thống nhất biện
chứng giữa con người yêu nước và con người cộng sản. Đáng chú là ý kiến của nhà
nghiên cứu người Nhật, Furuta Motoo, trong tác phẩm Hồ Chí Minh - Giải phóng dân
tộc và đổi mới [123], đã khẳng định, trong khi nhận thức và giải quyết các vấn đề của
cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã luôn xử lý đúng đắn mối quan hệ dân tộc và giai
cấp, dân tộc và quốc tế.
- Các luận án, luận văn liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối
quan hệ dân tộc và giai cấp.
Trong bài Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc giải quyết vấn đề dân tộc - dân chủ
trong cách mạng Việt Nam (từ 1930 - 1954) của Chu Đức Tính [167], tác giả đã phân
tích và luận giải Hồ Chí Minh và Đảng ta đã giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc
và dân chủ, chống đế quốc và chống địa chủ phong kiến, giải độc lập cho dân tộc và
ruộng đất cho dân cày. Trong luận án, một mặt đã trình bày Hồ Chí Minh chủ trương và
chỉ đạo giải quyết nhiệm vụ dân tộc, mặt khác đã giải quyết vấn đề dân chủ - mà cụ thể
là vấn đề ruộng đất - trong mối quan hệ với việc giải quyết nhiệm vụ dân tộc trong cách
mạng Việt Nam từ khi có Đảng đến năm 1954, mốc đánh dấu cuộc cách mạng dân tộc,
dân chủ nhân dân đã được căn bản hoàn thành trên một nửa đất nước. Qua đó, chứng
minh được sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh trong việc tập trung sức mạnh dân tộc cho
nhiệm vụ giải phóng đất nước, mọi nhiệm vụ khác đều phải phụ thuộc vào đây, là hoàn
toàn đúng đắn và sáng tạo.
Trong bài Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề dân tộc và giai cấp trong cách mạng
Việt Nam của Trần Văn Hải [67]. Trên cơ sở cách tiếp cận sử học, tác giả đã phân tích
và khẳng định Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải quyết thành công vấn đề dân tộc và giai
cấp, giải quyết hợp lý mối quan hệ hữu cơ giữa hai yếu tố đó, trong các thời kỳ cách
mạng, kể từ khi có Đảng đến khi Người qua đời (1930 - 1969). Chính những quan điểm
đúng đắn và sáng tạo đó đã được Đảng ta từng bước nhận thức một cách đầy đủ và sáng
tạo trong hoạch định đường lối cách mạng Việt Nam, đưa sự nghiệp cách mạng nước ta
đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trên cơ sở phân tích việc giải quyết vấn đề trên,
tác giả luận án đã rút ra bài học kinh nghiệm lịch sử có ý nghĩa thiết thực trong tình hình
hiện nay.
14
Cuốn Hồ Chí Minh vận dụng phép biện chứng duy vật vào giải quyết quan hệ
dân tộc, giai cấp trong cách mạng Việt Nam của Phạm Thị Phai [139], tác giả đã nghiên
cứu sự vận dụng phép biện chứng duy vật của Hồ Chí Minh vào giải quyết quan hệ dân
tộc, giai cấp trong cách mạng Việt Nam, khẳng định đây là một vấn đề có ý nghĩa rất
quan trọng - thiết thực, vừa cấp bách, vừa lâu dài của toàn Đảng, toàn dân ta. Qua đó, rút
ra những giá trị, ý nghĩa, tìm ra những hướng đi, giải pháp, giải quyết đúng những mâu
thuẫn trong xã hội, để thúc đẩy công cuộc đổi mới cũng như sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội Việt Nam tiến nhanh, tiến mạnh và đi đúng quỹ đạo, theo con đường xã hội
chủ nghĩa.
Bên cạnh đó, một số luận án, luận văn cũng đã đề cập đến vấn đề trên như: Xây
dựng ý thức và tình cảm dân tộc chân chính cho con người Việt Nam trước những thử
thách hiện nay của Nguyễn Thị Ngân [127]; Tìm hiểu những yếu tố tác động đến sự
phát triển quan hệ dân tộc ở Việt Nam thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Trần
Quang Nhiếp [136].
Ngoài ra, còn có các công trình đăng trên các báo, tạp chí liên quan đến tư tưởng
Hồ Chí Minh về mối quan hệ dân tộc và giai cấp như: Trong bài viết Những cống hiến
lý luận của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vào học thuyết mác xít về giải phóng dân tộc
và giải phóng giai cấp của Lê Ngọc [133]; Về dân tộc và giai cấp, thống nhất và đấu
tranh trong con người và tư tưởng Hồ Chí Minh của Lê Sỹ Thắng [176]; Giải quyết
quan hệ dân tộc và giai cấp theo tư tưởng Hồ Chí Minh của Trần Xuân Trường [190];
Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giai cấp và dân tộc của Nguyễn Ngọc Long
[103]; Sự sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc giải quyết quan hệ giữa giải phóng dân
tộc và giải phóng giai cấp - nguồn gốc thắng lợi của cách mạng Việt Nam của Trần
Thành [172]; Vấn đề dân tộc và giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh của Dương Quốc
Dũng [33]; Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn
đề giai cấp của Dương Quốc Dũng [32].
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH VỀ GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ DÂN TỘC VÀ GIAI CẤP TRONG SỰ
NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Cuốn Vấn đề dân tộc trong cách mạng vô sản (tập I) của Nguyễn Khánh Toàn
[168]. Dưới góc độ tiếp cận lịch sử, tác giả đã khẳng định cách mạng Việt Nam đi theo
con đường cách mạng vô sản đã mở ra một thời đại mới, cách mạng Việt Nam là một bộ
15
phận của cách mạng thế giới, vấn đề dân tộc được giải quyết một cách triệt để trên lập
trường của giai cấp công nhân, thông qua đội tiền phong của mình là Đảng Cộng sản.
Cuốn Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta của Lê
Doãn Tá [155], tác giả đã trình bày một cách khá toàn diện và đầy đủ về mối quan hệ
dân tộc và giai cấp. Theo tác giả dân tộc và giai cấp tồn tại khách quan trong lịch sử. Lợi
ích dân tộc và lợi ích giai cấp là những vấn đề hiện thực. Để giải quyết vấn đề dân tộc và
vấn đề giai cấp một cách triệt để phải đứng vững trên lập trường của giai cấp vô sản. Vì
vậy, sự nghiệp giải phóng vô sản phải luôn gắn bó công cuộc giải phóng dân tộc và ngay
từ đầu, giai cấp vô sản phải gắn với dân tộc. Cuốn sách là tài liệu tham khảo rất bổ ích
khi nghiên cứu vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Cuốn Quan hệ giai cấp - dân tộc - quốc tế của Trần Hữu Tiến, Nguyễn Ngọc
Long và Nguyễn Xuân Sơn [164], các tác giả đã trình bày một cách khá sâu sắc về quan
hệ giai cấp, dân tộc và quốc tế. Các tác giả trình bày trong điều kiện hiện nay để đưa sự
nghiệp cách mạng vượt qua mọi trở lực, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đòi
hỏi phải xử lý đúng đắn các mối quan hệ giữa các nhân tố dân tộc - giai cấp và quốc gia
- quốc tế. Hay có thể nói, kết hợp nhuần nhuyễn giai cấp và dân tộc, dân tộc và quốc tế,
phát huy cao độ nội lực tranh thủ ngoại lực, đó là chìa khóa của cách mạng Việt Nam.
Cuốn Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ 1986 đến nay của Tô Huy
Rứa và các cộng sự [152], góp phần tổng kết l ý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới
do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Thành tựu 20 năm đổi mới là to lớn và có ý nghĩa
lịch sử. Thực tiễn phát triển đất nước và những bài học kinh nghiệm được tổng kết qua
chặng đường đó cho thấy, đường lối đổi mới của Đảng ta, trên nền tảng chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là hoàn toàn đúng đắn và sáng tạo, chứng tỏ con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng nước ta là phù hợp với hoàn cảnh thực tế của Việt
Nam. Mặc dù, cuốn sách không đề cập trực tiếp đến vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp,
nhưng đây cũng là tài liệu tham khảo rất bổ ích đối với luận án của tác giả.
Cuốn Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam thời kỳ
đổi mới - Vấn đề và giải pháp của Nguyễn Thị Nga [126], các tác giả đã khẳng định
tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với công bằng xã hội trong từng bước đi và trong suốt
quá trình phát triển là quan điểm định hướng cơ bản nhất quán, xuyên suốt trong quá
trình đổi mới đã được Đảng, Nhà nước xác định. Việc kết hợp hai mục tiêu trên trong
16
điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta cũng chính là giải
quyết vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong điều kiện mới. Cuốn sách là tài liệu tham
khảo rất bổ ích.
Cuốn Một số vấn đề về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Trần
Hữu Tiến [165], là một công trình tập hợp các bài viết của tác giả đề cập đến nhiều vấn
đề chính trị, xã hội của đất nước trong công cuộc đổi mới đất nước. Một trong những nội
dung mà tác giả đề cập chính là vấn đề sự kết hợp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
trong cách mạng Việt Nam nói chung, trong công cuộc đổi mới nói riêng; quan hệ biện
chứng giữa giai cấp và dân tộc; quan hệ biện chứng giữa bảo vệ độc lập dân tộc và mở
rộng quan hệ hợp tác quốc tế. Tuy nhiên, những nghiên cứu của tác giả về vấn đề dân
tộc và giai cấp chưa mang tính hệ thống, chưa thật sâu sắc và cụ thể. Cuốn sách là tài
liệu tham khảo rất bổ ích.
Cuốn Đổi mới tư duy và công cuộc đổi mới ở Việt Nam của Nguyễn Duy Quý
[150], là một công trình khá công phu của tác giả về đổi mới tư duy trên các lĩnh vực
hoạt động của đời sống xã hội. Mặc dù không đề cập trực tiếp đến vấn đề dân tộc và vấn
đề giai cấp, nhưng cuốn sách đã đề cập đến vấn đề đổi mới tư duy về việc kết hợp hài
hòa về mặt lợi ích giữa dân tộc và giai cấp, giữa các giai cấp và tầng lớp trong xã hội,
chính đó là động lực cơ bản cho những thành tựu của sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện
nay. Cuốn sách cũng là tài liệu tham khảo có giá trị với công trình luận án của nghiên
cứu sinh.
Cuốn Dân tộc trong lịch sử và trong thời đại ngày nay của Trần Hữu Tiến [166],
vấn đề dân tộc - trọng tâm của cuốn sách, được đặt trong các vấn đề chung của thời đại
là hòa bình, dân chủ, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Cuốn sách, tác giả đã khẳng
định việc nhận thức và xử lý đúng đắn về mặt lý luận và thực tiễn vấn đề dân tộc, trong
đó nổi bật lên là vấn đề quan hệ dân tộc - giai cấp, là nền tảng đường lối chiến lược và
sách lược của các Đảng Cộng sản và công nhân, nhất là các chính đảng lãnh đạo cách
mạng dân tộc, dân chủ đưa đất nước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa. Bài học
lịch sử từ cách mạng thế giới và lịch sử cách mạng Việt Nam chỉ ra rằng, con đường đi
của các cuộc cách mạng thuận lợi hay khó khăn, thành công hay thất bại, đều liên quan
mật thiết với việc nhận thức và xử lý đúng đắn, sáng tạo hay sai lầm tả khuynh, hữu
khuynh vấn đề quan hệ dân tộc - giai cấp.
Cuốn Chủ trương của Đảng về xây dựng, phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ
hội nhập quốc tế thời kỳ đổi mới, của Nguyễn Văn Sáu, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội,
17
2013, đã đề cập đến quá trình lãnh đạo của Đảng ta về xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ trong công cuộc đổi mới là một yêu cầu tất yếu khách quan, nhằm khẳng định thực
lực nền kinh tế, thể hiện vị thế của nền kinh tế Việt Nam trong cộng đồng quốc tế. Mặc
dù không đề cập trực tiếp, Cuốn sách tác giả đã khẳng định để tạo động lực cho xây
dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ chúng ta đã huy động mọi nguồn lực, đặc biệt là
nguồn lực nội sinh trong phát triển kinh tế - xã hội. Quá trình đó cũng là quá trình thống
nhất lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp trong quá trình đổi mới ở nước ta.
Cuốn Quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam (1986-2011) của Phạm
Ngọc Trâm [186], đã đề cập đến vấn đề đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam là một
yêu cầu khách quan của sự nghiệp đổi mới. Trong quá trình đổi mới nội dung và phương
thức hoạt động, các tổ chức trong hệ thống chính trị của Việt Nam đã và đang phát triển
theo hướng phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường quyền lực của
các cơ quan dân cử, nâng cao hiệu lực quản lý của các cơ quan nhà nước, củng cố Đảng
gắn với đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã
hội. Những vấn đề mà cuốn sách trình bày, thực chất cũng là giải quyết vấn đề dân tộc
và vấn đề giai cấp trong lĩnh vực chính trị.
Cuốn Về các mối quan hệ lớn cần được giải quyết tốt trong quá trình đổi mới, đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta của Nguyễn Phú Trọng [188], đề cập nhiều vấn đề phong
phú cả về lý luận và thực tiễn, có giá trị tham khảo quý trong việc làm rõ một số mối
quan hệ cơ bản cần nắm vững và giải quyết tốt trong quá trình đổi mới, đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta, đồng thời gợi mở những nội dung cần được tiếp tục đi sâu nghiên cứu,
tổng kết, cụ thể hóa trên lĩnh vực này. Đó là những vấn đề cơ bản, quan trọng đang diễn
ra trên đất nước ta như: Mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; Mối quan hệ
giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; Mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định
hướng xã hội chủ nghĩa; Mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng,
hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất phù hợp; Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; Mối quan hệ giữa xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; Mối quan hệ giữa độc
lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ. Cuốn sách là tài liệu tham khảo bổ ích cho nghiên cứu sinh thực hiện
đề tài luận án.
Cuốn Định hướng chính trị cho sự phát triển của Việt Nam và một số giải pháp
thực hiện giai đoạn 2011 - 2020 của Phạm Văn Đức [62], các tác giả khẳng định định
18
hướng chính trị đối với sự phát triển đất nước luôn là vấn đề quan trọng đối với bất kỳ
quốc gia nào. Bởi lẽ, đó là sự dẫn dắt soi đường cho sự phát triển các lĩnh vực của đời
sống xã hội không đi chệch khỏi đường hướng, mục tiêu đã xác định và theo đuổi. Định
hướng chính trị ở Việt Nam hiện nay trước hết và xuyên suốt là kiên trì độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Để giữ vững định hướng chính trị trên tất cả các lĩnh vực
kinh tế, xã hội, văn hoá, đảng cầm quyền... theo các tác giả cần phải giải quyết một cách
hài hòa lợi ích giữa dân tộc và giai cấp, giữa các giai cấp và tầng lớp trong xã hội...
Cuốn sách là tài liệu tham khảo bổ ích cho nghiên cứu sinh thực hiện đề tài luận án.
Cuốn Sự phát triển mối quan hệ giữa giai cấp công nhân Việt Nam và dân tộc
Việt Nam trong quá trình đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa của Lê Duy Sơn
[154]. Trên cơ sở làm rõ những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc, luận án hướng trọng tâm vào xử
lý và giải quyết những vấn đề có tính quy luật của mối quan hệ giữa giai cấp chủ nghĩa
Việt Nam và dân tộc Việt Nam trong quá trình đổi mới theo định hướng xã hội chủ
nghĩa và nêu lên những đề xuất kiến nghị về việc giải quyết mối quan hệ trong thực tiễn
đổi mới.
Lý luận mác xít về quan hệ giai cấp và dân tộc với công cuộc đổi mới ở nước ta
hiện nay của Đinh Ngọc Quyên [151]. Tác giả đã phân tích quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giai cấp và dân tộc, đồng thời luận
giải quan hệ giai cấp và dân tộc trong quá trình đổi mới ở Việt Nam, bước đầu đề xuất
một số phương hướng cơ bản nhằm giải quyết tốt hơn mối quan hệ nói trên trong quá
trình phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cuộc đấu tranh củng cố độc lập dân tộc của các nước đang phát triển trong giai
đoạn hiện nay của Hồ Nguyệt Ánh [5]. Tác giả đã phân tích những nét khái quát về
phong trào giải phóng dân tộc và sự ra đời của các nước đang phát triển; thực trạng của
các nước đang phát triển hiện nay; những vấn đề đặt ra trong việc củng cố độc lập dân
tộc ở các nước đang phát triển; nội dung cơ bản của cuộc đấu tranh củng cố độc lập dân
tộc ở các nước đang phát triển hiện nay được tác giả tập trung phân tích bao gồm: Đấu
tranh để xác định và giữ vững ổn định về chính trị, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ,
phát triển văn hóa - xã hội, tăng cường đoàn kết quốc tế, đấu tranh để thiết lập trật tự
kinh tế thế giới mới công bằng, bình đẳng.
Bên cạnh đó, còn rất nhiều cuốn sách cũng đã đề cập một cách khá sâu sắc vấn đề
dân tộc và giai cấp như: Cuốn Vấn đề dân tộc, giai cấp và nhân loại của Vũ Hiền, Ngô
19
Mạnh Lân [72]; Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn về dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt
Nam của Nguyễn Quốc Phẩm, Trịnh Quốc Tuấn [140]; Chính sách dân tộc của các
chính quyền nhà nước phong kiến Việt Nam (X-XIX) của Phan Hữu Dật, Lâm Bá Nam
[30]; Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam của Ban Tư
tưởng văn hoá Trung ương [10].
Ngoài ra còn một số bài viết quan đến việc giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai
cấp trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay như: Sự thống nhất giữa lợi ích giai
cấp và lợi ích dân tộc trong sự nghiệp đổi mới của Trần Hữu Tiến [162]; Quan hệ giai
cấp - dân tộc - nhân loại trong thời đại ngày nay của Phạm Ngọc Quang [148]; Phong
trào công nhân và quan hệ giữa giai cấp công nhân và dân tộc của Nguyễn Văn Khang
[90]; Lý luận mác xít về mối quan hệ giai cấp, dân tộc và thời đại của Trần Phúc Thăng
[174]; Giai cấp công nhân và dân tộc của Trịnh Quốc Tuấn [169]; Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản với vấn đề dân tộc của Lê Hữu Nghĩa [130].
Trong bài Toàn cầu hoá và đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc của Trần Hữu
Tiến [163] đã phân tích cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc trong thời kỳ toàn cầu
hoá hiện nay. Tác giả khẳng định, cùng với áp bức, bóc lột giai cấp, áp bức, bóc lột dân
tộc vẫn tồn tại trong điều kiện toàn cầu hoá, áp bức dân tộc đã tăng lên sau khi Liên xô
sụp đổ. Bước sang thế kỷ XXI, chính giới tư bản, đặc biệt là Mỹ, tăng cường rõ rệt tính
chất bành trướng, phản động, hiếu chiến. Biểu hiện rõ nét là cuộc xâm lược tàn bạo của
Mỹ và NATO ở Nam Tư, là việc Mỹ cấu kết với Israel đàn áp dã man phong trào giải
phóng dân tộc ở Trung Đông... Do vậy, có thể nói trong điều kiện toàn cầu hoá, các mâu
thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những hình thức và mức độ khác nhau vẫn tồn
tại và phát triển, có mặt sâu sắc hơn, đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp tiếp tục diễn
ra gay gắt. Trong bài viết này, tác giả còn nêu ra những đặc điểm của phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân thời kỳ toàn cầu hoá. Những đặc điểm đó đã phản ánh tính
phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp hiện nay.
Ngoài những công trình chủ yếu trên đây, các công trình khác đã nghiên cứu đến
vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trên nhiều góc độ khác nhau, trong đó các công trình
vẫn có sự thống nhất về chỉ đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân mới giải
quyết thấu đáo vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp; trong bối cảnh toàn cầu hoá, hội nhập
kinh tế quốc tế sâu rộng, có những chuyển biến sâu sắc trong quan hệ giai cấp, dân tộc,
nhân loại, vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp lại nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp hơn bao
giờ hết, nhất là khi chủ nghĩa xã hội hiện thực đang có những thành tựu to lớn và triển
vọng phát triển ngày càng mạnh mẽ, các thế lực thù địch đang tìm mọi cách phủ nhận,
20
chống lại phong trào đấu tranh đòi quyền tự quyết dân tộc, đòi công bằng, tiến bộ xã hội
trong xã hội mới. Do vậy, giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp vẫn rất cần được
tiếp tục nghiên cứu trên cả bình diện lý luận và thực tiễn ở phạm vi rộng lớn hơn.
Cùng với những công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước, còn có những
công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài như: Goócbachốp - Bạo loạn sự kiện
tháng Tám nhìn từ bên trong của V.Páplốp, A.Lukianốp, V.Criuscốp [138]; Trước
những lời vu khống của Tôđo Gípcốp [66]; Chuẩn bị cho thế kỷ XXI của Paul Kennedy
[88]; Marx - nhà tư tưởng của cái có thể của Michel Vadée [193]; Bàn cờ lớn của
Zbigniew Brzezinski [25]; Tương lai của nền dân chủ xã hội của Thomas Meyer và
Nicole Breyer [106].
Những công trình trên đây đã nghiên cứu nhiều vấn đề thể hiện các nội dung
của cuộc đấu tranh cho dân chủ, tiến bộ, xã hội, đồng thời phê phán những quan điểm
của các thế lực thù địch đối với sự tiến bộ của lịch sử loài người. Đặc biệt, trong một
số công trình trên đã nêu khả năng và tương lai phát triển của chủ nghĩa xã hội trong
thời kỳ mới trên cơ sở nền tảng của chủ nghĩa Mác về sự phát triển của lịch sử, tính tất
yếu của lịch sử.
Một số công trình khác đã phân tích vấn đề quan hệ giai cấp, dân tộc, sắc tộc ở
các nước trên thế giới, như tư tưởng bá quyền kiểu mới, về đấu tranh sắc tộc ở Balkans
Âu - Á, từ đó đưa ra những nhận định về trật tự thế giới mới. Điều này có ý nghĩa tham
khảo đối với quá trình đấu tranh để giữ độc lập dân tộc và xây dựng chiến lược phát
triển của mỗi quốc gia trong tương lai. Đây là những vấn đề chính trị thực tiễn quan
trọng, được tác giả nghiên cứu kỹ và phân tích sâu thêm thực chất của vấn đề dân tộc và
vấn đề giai cấp hiện nay.
1.3. NHỮNG KHÍA CẠNH ĐÃ ĐƯỢC ĐỀ CẬP VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ MÀ
LUẬN ÁN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
* Những thành tựu cơ bản của các công trình được khái quát trên những nội
dung sau:
Các công trình khoa học trên đây dưới các góc độ các chuyên ngành đã phân tích,
đề cập nhiều khía cạnh khác nhau liên quan trực tiếp tới những nội dung mà đề tài mà
tác giả nghiên cứu như:
Thứ nhất, các công trình đã nghiên cứu cơ bản về khái niệm dân tộc, giai cấp;
thực chất của vấn đề dân tộc, vấn đề giai cấp; mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân
tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
21
Nhìn chung các công trình đã thống nhất các nội hàm các khái niệm vấn đề dân
tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thấy được mối quan hệ, sự thống
nhất biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Các công trình đều đi đến thống nhất chính việc nhận thức và giải quyết một cách sáng
tạo vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, là cơ sở để Hồ Chí Minh xác lập được đường lối
đúng đắn, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Thứ hai, các công trình cũng thống nhất ở chỗ là mối quan hệ biện chứng giữa
vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện ở mục tiêu
xuyên suốt của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hay nói một
cách khác giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Và khẳng
định việc giải quyết mối quan hệ này là một sáng tạo về mặt lý luận của Hồ Chí Minh
trong thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Tuy nhiên, cũng chỉ đề cập mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
trong tư tưởng Hồ Chí Minh trên các mặt tách biệt, chú trọng nhiều đến mối quan hệ đó
trong việc xác định con đường phát triển của cách mạng Việt Nam. Những nội dung đã
được đề cập chưa mang tính hệ thống, chưa toàn diện, còn nhiều vấn đề phải tiếp tục
nghiên cứu.
Thứ ba, sự cần thiết phải vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và
giai cấp trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
Một số công trình đã đề cập tới một số vấn đề liên quan tới sự vận dụng của Đảng
ta trong từng thời kỳ cách mạng để hoạch định đường lối chính sách, đưa cách mạng đến
thắng lợi. Từ đó đã đi đến thống nhất là giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp là
một vấn đề tất yếu trong tiến trình cách mạng, nếu không giải quyết thấu đáo mối quan
hệ đó cách mạng sẽ gặp khó khăn trong tiến trình cách mạng. Vì vậy, trong quá trình đổi
mới ở nước ta hiện nay cần phải nhận thức và giải quyết giải quyết mối quan hệ trên
theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ tư, Một số công trình đã đề cập đến những khía cạnh khác nhau, hay những
biểu hiện cụ thể của quan hệ dân tộc và giai cấp ở Việt Nam trong quá trình đổi mới,
cung cấp cho chúng ta những cách tiếp cận và cách lý giải về mối quan hệ ấy. Tuy vậy,
các công trình bài viết cũng chỉ đặt ra ở chừng mực nhất định, nhiều ý kiến đã thống
nhất song còn có ý kiến chưa thống nhất, thậm chí trái ngược nhau. Do vậy, vấn đề này
cần được tiếp tục nghiên cứu và làm rõ trong giai đoạn hiện nay.
22
* Những vấn đề cơ bản đặt ra trong luận án cần tiếp tục nghiên cứu và làm rõ
Qua các tài liệu tìm được chúng tôi thấy chưa có một công trình nào nghiên cứu
chuyên biệt tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn
đề giai cấp, ý nghĩa thực tiễn đối với sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay dưới góc độ
của chuyên ngành Hồ Chí Minh học. Tức là đề cập một cách có hệ thống đến cách thức
xử lý mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đây chính là cái mới cả về hướng tiếp cận, cả về nội dung nghiên cứu của đề tài mà
nghiên cứu sinh lựa chọn đăng ký. Chính vì vậy, những vấn đề chưa được phân tích sâu
sắc trong các công trình nêu trên sẽ được tiếp tục nghiên cứu trong đề tài luận án.
Luận án hệ thống hóa những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giải
quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, đề cập đến việc nhận thức và
cách thức xử lý mối quan hệ đó một cách có hệ thống như khẳng định tính tất yếu của
việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, đưa ra những
nguyên tắc trong việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, và
một số vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam được xuất phát từ việc giải quyết mối
quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Luận án cũng chỉ rõ việc giải quyết mối
quan hệ này là sáng tạo lớn về mặt lý luận của Hồ Chí Minh, là cơ sở để Đảng ta hoạch
định đường lối cách mạng Việt Nam.
Luận án phân tích, đánh giá thực trạng việc giải quyết quan hệ dân tộc và giai cấp
trong quá trình đổi mới ở Việt Nam, đánh giá những thành công và những vấn đề nảy
sinh trong việc giải quyết vấn đề trên.
Trên cơ sở đó, luận án đề xuất quan điểm và những giải pháp chủ yếu để giải
quyết về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp nảy sinh trong sự nghiệp
đổi mới ở Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tiểu kết chương 1
Trong những năm gần đây, cùng với xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, song
các nhân tố dân tộc và giai cấp không bị mất đi trong quá trình này, giải quyết mối quan
hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp được quan tâm nghiên cứu ở nước ta. Bởi vì,
quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là quan hệ cơ bản nhất trong cách mạng
Việt Nam. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ này là cơ sở vững chắc cho Đảng ta xây
dựng chiến lược và sách lược cách mạng đúng đắn và sáng tạo. Đó là đường lối kết hợp
23
chặt chẽ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội bằng phương thức phù hợp với điều kiện cụ
thể của từng giai đoạn cách mạng.
Trong quá trình nghiên cứu, các nhà nghiên cứu, học giả cũng chỉ ra rằng mối
quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp ở Việt Nam khác rất nhiều so với các
nước tư bản mà C.Mác đã tập trung nghiên cứu. Vấn đề cơ bản nhất của quan hệ dân tộc
và giai cấp trong cách mạng Việt Nam, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới, quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là sự thống nhất lợi ích dân tộc với lợi ích giai cấp; sự thống nhất căn bản
về mặt lợi ích của các giai tầng: Công nhân, nông dân, trí thức, các tầng lớp lao động, tư
sản dân tộc, lợi ích giữa các dân tộc anh em trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, trên cơ sở nắm vững phép biện chứng Mác -
Lênin, Hồ Chí Minh đã giải quyết một cách đúng đắn, đầy sáng tạo mối quan hệ giữa
vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, từng bước giải quyết thành công những vấn đề cơ bản
của cách mạng Việt Nam, đưa đất nước bước sang một kỷ nguyên mới, hòa cùng dòng
chảy của thời đại trong quá trình phát triển. Với những công lao to lớn đó, Người được
thế giới vinh danh là anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất Việt Nam. Vì
thế, giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ
Chí Minh đã được các nhà khoa học đề cập đến ở nhiều góc độ khác nhau, khá phong
phú và toàn diện. Do vậy, việc kế thừa các thành quả nghiên cứu đó để thực hiện mục
tiêu, nhiệm vụ của luận án là hết sức quan trọng và cần thiết.
Với ý nghĩa đó, việc thu thập tài liệu và đánh giá tổng quan các nghiên cứu có
liên quan đến đề tài luận án đã rất được quan tâm. Đây là cơ sở để xác định nhiệm vụ
nghiên cứu và là nguồn tư liệu chính để nghiên cứu sinh tiếp thu, kế thừa và phát triển,
phục vụ cho việc hoàn thành luận án của mình.
24
Chương 2
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ
GIỮA VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP
2.1. THỰC CHẤT TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI QUYẾT MỐI QUAN
HỆ GIỮA VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP
Trước hết, cần nhận thấy rằng, Hồ Chí Minh chưa trình bày các quan điểm của
Người về dân tộc và giai cấp một cách có hệ thống. Tuy nhiên, tiếp cận các vấn đề dân
tộc, vấn đề giai cấp, giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong
tư tưởng Hồ Chí Minh có thể được nhìn nhận các khía cạnh trên như sau:
2.1.1. Vấn đề dân tộc
Khái niệm dân tộc thường được xác định với hai nghĩa cơ bản, dân tộc - tộc
người và dân tộc - quốc gia. Ở góc độ dân tộc - tộc người: Dân tộc là khái niệm chỉ cộng
đồng người được liên kết với nhau bằng những đặc điểm ngôn ngữ, văn hóa và nhất là ý
thức tự giác tộc người. Cộng đồng người này có thể cùng chung sống trong một quốc
gia, hoặc cũng có thể sinh sống ở nhiều quốc gia khác nhau [82, tr.819]. Dân tộc là hình
thức cộng đồng người cao hơn hình thức cộng đồng người trước đó kể cả bộ tộc. So với
bộ tộc thì dân tộc là hình thức cộng đồng người thống nhất, ổn định, bền vững hơn. Ở
góc độ dân tộc - quốc gia: “Dân tộc là một khối cộng đồng gồm nhiều người, khối ổn
định, hình thành trong quá trình lịch sử, sinh ra trên cơ sở một ngôn ngữ chung, một
lãnh thổ chung, một đời sống kinh tế chung, một cấu tạo tâm lý chung biểu hiện trong
một nền văn hóa chung” [93, tr.219]. Như vậy, dân tộc ở đây được hiểu là dân tộc - quốc
gia, được hình thành trong quá trình lịch sử, được đặc trưng bởi sự đồng nhất, ổn định về
đời sống kinh tế, về ngôn ngữ, lãnh thổ. Trong luận án, tác giả chỉ tập trung đề cập khái
niệm “dân tộc” theo nghĩa dân tộc - quốc gia.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, dân tộc là cộng đồng xã hội - tộc
người ổn định, bền vững, là sự kết tinh độc đáo của các cộng đồng ngôn ngữ; lãnh thổ;
kinh tế; văn hóa, tâm lý, tính cách; nhà nước và pháp luật. Ở châu Âu, dân tộc được hình
thành gắn liền với sự ra đời và phát triển của giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản đóng vai trò
quyết định đối với việc xóa bỏ tình trạng phân tán về tư liệu sản xuất, về tài chính dân
cư, đưa đến sự tập trung về chính trị. Còn đối với các nước phương Đông, trong đó có
Việt Nam thì lại có những điểm khác biệt về sự hình thành dân tộc, do đó vấn đề dân tộc
và giải quyết những vấn đề dân tộc cũng như vấn đề giai cấp ở phương Đông sẽ khác so
25
với phương Tây. Cụ thể ở Việt Nam, sự hình thành dân tộc vốn diễn ra từ rất sớm do
nhu cầu đấu tranh chống giặc ngoại xâm và chinh phục tự nhiên chứ không gắn liền với
sự ra đời của giai cấp tư sản. Theo Trần Đức Thảo, ở nước ta, nguồn gốc của dân tộc
trùng với nguồn gốc của loài người [173, tr.75].
Khi đề cập vấn đề dân tộc dưới góc độ dân tộc - quốc gia, cần phải phân biệt một
số khái niệm: chủ nghĩa dân tộc ích kỷ (hẹp hòi), chủ nghĩa sô vanh, chủ nghĩa dân tộc
chân chính. Trong rất nhiều trường hợp cụm từ chủ nghĩa dân tộc được hiểu theo nghĩa
chủ nghĩa dân tộc nghĩa dân tộc vị kỷ, chủ nghĩa dân tộc sô vanh nước lớn. Đó là hệ tư
tưởng, đường lối chính trị và tâm lý tư sản trong vấn đề dân tộc. Hệ tư tưởng này, kìm
hãm sự phát triển các dân tộc cũng như sự phát triển tiến bộ của xã hội loài người.
Do điều kiện của lịch sử, C.Mác, Ph.Ăngghen chỉ đề cập, xem xét, nghiên cứu và
giải quyết vấn đề dân tộc trong điều kiện lịch sử các nước tư bản chủ nghĩa ở Châu Âu.
Còn vấn đề dân tộc đối với các nước phương Đông, trong đó có Việt Nam, các ông chưa
đi sâu vào giải quyết, do điều kiện lịch sử các nước phương Tây, vấn đề dân tộc không
nổi nên gay gắt như vấn đề giai cấp, vấn đề mâu thuẫn giai cấp nổi trội cần được giải
quyết trước. Vì vậy, các ông quan tâm nhấn mạnh nhiều về vấn đề giai cấp và nêu cao
khẩu hiệu vô sản tất cả các nước đoàn kết lại.
Trên cơ sở kế thừa quan điểm của Mác và Ăngghen, Lênin đề cập vấn đề dân tộc
trong điều kiện chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn đế quốc, Người cho rằng vấn
đề dân tộc là vấn đề lớn mang tính quốc tế mà thực chất đó là vấn đề dân tộc thuộc địa:
“Vấn đề dân tộc phải là nội dung quan trọng trong chiến lược, sách lược của các Đảng
Cộng sản; phải kiên quyết đấu tranh chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc tư
sản, của chủ nghĩa sô vanh; phải tăng cường chủ nghĩa quốc tế vô sản. Các Đảng Cộng
sản cần phải tăng cường quan tâm đến vấn đề dân tộc thuộc địa” [98, tr.343].
Khi tiếp cận khái niệm “dân tộc” trong tư tưởng Hồ Chí Minh, với nghĩa là dân
tộc - quốc gia, thì dân tộc Việt Nam bao gồm toàn thể các dân tộc - tộc người sinh sống
trên lãnh thổ Việt Nam. Đối với Người, vấn đề trọng tâm của quốc gia - dân tộc Việt
Nam là lợi ích dân tộc, trong điều kiện đất nước đang bị thực dân, đế quốc xâm lược thì
lợi ích dân tộc gắn liền với đấu tranh giành độc lập dân tộc.
Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh thực chất là vấn đề giải phóng và
phát triển dân tộc. Hồ Chí Minh đã đứng dưới góc độ dân tộc bị chủ nghĩa đế quốc áp
bức để xem xét vấn đề dân tộc. Hay có thể nói cách khác vấn đề dân tộc mà Hồ Chí
Minh xem xét là vấn đề dân tộc của nhân dân Việt Nam, nhân dân các nước thuộc địa
26
đang bị chủ nghĩa đế quốc xâm lược. Người chỉ ra, thực chất của vấn đề dân tộc là độc
lập tự do, là vấn đề đấu tranh giải phóng dân tộc nhằm thủ tiêu sự thống trị của nước
ngoài, giành độc lập dân tộc, xóa bỏ ách áp bức, bóc lột thực dân, thực hiện quyền dân
tộc tự quyết, thành lập một nhà nước dân tộc độc lập. Sau khi giành được độc lập dân
tộc phải đưa đất nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu,
phát triển dân tộc ngày càng giàu mạnh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Đây là
một trong những nội dung cốt lõi về vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Người
khẳng định: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều
tôi muốn; đấy là tất cả những điều tôi hiểu” [160, tr.53].
Một điều đáng lưu ý là Hồ Chí Minh không coi việc giải quyết vấn đề dân tộc,
mà chủ yếu là vấn đề giải phóng và phát triển dân tộc, chỉ là con đường, phương tiện để
thực hiện mục tiêu cao hơn, xa hơn là giải phóng con người và xã hội loài người. Trái
lại, theo Người, giải phóng dân tộc là là mục tiêu, mục đích của cách mạng, đồng thời là
con đường để giải phóng xã hội, giải phóng con người. Điều này được thể hiện, Hồ Chí
Minh ra đi tìm cứu nước vì một mục đích duy nhất là độc lập tự do cho dân tộc. Khi trở
thành Người cộng sản độc lập cho dân tộc, tự do hạnh phúc cho nhân dân vẫn là mục
đích duy nhất của Người. Người khẳng định: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”
[122, tr.131]. Người đã khắc phục được sự bế tắc mà các nhà yêu nước đương thời chưa
thực hiện được. Đó là tìm ra con đường cách mạng giải phóng triệt để dân tộc Việt Nam,
bao gồm nội dung gắn bó chặt chẽ với nhau: giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp
và giải phóng con người.
2.1.2. Vấn đề giai cấp
Năm 1919, trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại, V.I.Lênin đã đưa ra một định nghĩa
toàn diện về giai cấp như sau:
Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau
về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử,
khác nhau về quan hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được
pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò
của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức
hưởng thụ và về phần của cải của xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng.
Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao
động của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong
một chế độ kinh tế xã hội nhất định [97, tr.17-18].
27
Như vậy, theo quan điểm mácxít, sự hình thành giai cấp cũng là sự hình thành lợi
ích giai cấp khác nhau. Lợi ích đó do địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp đó tạo nên. Giai
cấp và đấu tranh giai cấp là hiện tượng lịch sử, tồn tại khách quan, chứ không phải là kết
quả của một cách tiếp cận xã hội, không phải là sản phẩm của ý thức. Dưới chế độ tư
bản chủ nghĩa, cuộc đấu tranh lâu dài, quyết liệt của giai cấp công nhân sẽ giải phóng
bản thân họ và toàn thể nhân loại khỏi áp bức bóc lột và phân chia giai cấp.
Tuy nhiên, theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, các cuộc cách
mạng xã hội chỉ để thay thế sự thống trị của giai cấp bóc lột này bằng sự bóc lột của giai
cấp khác, theo một phương thức bóc lột khác mà thôi. Chỉ đến thời đại cách mạng vô
sản, cuộc cách mạng vô sản do giai cấp vô sản lãnh đạo nhằm xóa bỏ sự thống trị của
giai cấp tư sản mới là một cuộc cách mạng xã hội duy nhất triệt để, hướng tới mục tiêu
một xã hội không có giai cấp, mọi người đều được hưởng tự do, bình đẳng, hòa bình và
hạnh phúc. C. Mác và Ph. Ăngghen khi nói về giai cấp công nhân hai ông dùng nhiều
tên gọi khác nhau: Giai cấp vô sản, giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ dựa vào việc bán sức
lao động của mình, lao động làm thuê ở thế kỷ XIX, giai cấp vô sản hiện đại, giai cấp
công nhân hiện đại, giai cấp công nhân đại công nghiệp như những cụm từ đồng nghĩa
để biểu thị một khái niệm giai cấp công nhân - con đẻ của nền đại công nghiệp tư bản
chủ nghĩa, giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất
hiện đại.
Dù giai cấp công nhân có nhiều tên gọi khác nhau, nhưng theo C.Mác và
Ph.Ăngghen, họ vẫn chỉ mang hai thuộc tính cơ bản: Về phương thức lao động và về vị
trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Hai thuộc tính này nói lên một trong những
đặc trưng cơ bản của giai cấp công nhân dưới chế độ tư bản chủ nghĩa nên C.Mác và
Ph.Ăngghen còn gọi giai cấp công nhân là giai cấp vô sản, là giai cấp duy nhất có thể
giải quyết đúng đắn mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa lợi ích giai cấp với lợi ích
dân tộc chân chính và lợi ích của nhân dân lao động trên toàn thế giới.
Vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh thực chất là vấn đề giải phóng giai
cấp (giai cấp công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động khác...) khỏi tình trạng áp
bức bóc lột, đem lại cơm ăn áo mặc, tự do hạnh phúc cho các giai cấp, tầng lớp trong
xã hội Việt Nam. Trong điều kiện dân tộc bị xâm lược vấn đề giai cấp luôn được Hồ
Chí Minh đặt trong mối quan hệ biện chứng với vấn đề dân tộc. Lợi ích của giai cấp
thống nhất chặt chẽ với lợi ích dân tộc. Điều đó có nghĩa là chỉ có giải phóng dân tộc
28
mới giải phóng được giai cấp. Hội nghị Trung ương lần thứ tám do Người chủ trì, đã
khẳng định:
Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử,
tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được
vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân
tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa
trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại
được [43, tr.113].
Khi đất nước giành được độc lập rồi thì giải phóng giai cấp chính là phải từng
bước xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu, vươn tới xây dựng cuộc sống ấm no, tự do và hạnh
phúc thật sự cho tất cả mọi người. Đây là vấn đề nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh
về vấn đề giai cấp. Người khẳng định: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh
phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” [111, tr.64].
Đồng thời, vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng chính là nhìn nhận
xem giai cấp nào đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn cách mạng Việt Nam, đáp ứng
được khát vọng độc lập cho dân tộc và tự do cho nhân dân.
Trong điều kiện quốc gia - dân tộc Việt Nam là một xã hội thuộc địa nửa phong
kiến, vấn đề là giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân thì vấn đề được đặt ra là
giai cấp nào có thể đáp ứng được yêu cầu lịch sử đó, hay có thể nói một cách khác là vấn
đề giai cấp ở đây chính là giai cấp nào có thể giải quyết được triệt để vấn đề dân tộc
thuộc địa, giải quyết được vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng
con người. Hồ Chí Minh cho rằng, chỉ giải quyết triệt để vấn đề đó khi đứng trên lập
trường của giai cấp công nhân. Vì theo Người, chỉ có giai cấp công nhân là người duy
nhất có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng đi tới thắng lợi cuối cùng, bằng sự liên
minh với giai cấp nông dân và trí thức coi đó là nền tảng của mặt trận đoàn kết toàn dân.
Người khẳng định:
Đặc tính cách mạng của giai cấp công nhân là: kiên quyết, triệt để, tập thể, có
tổ chức, có kỷ luật. Lại vì là giai cấp tiền tiến nhất trong sức sản xuất, gánh
trách nhiệm đánh đổ chế độ tư bản và đế quốc, để xây dựng một xã hội mới,
giai cấp công nhân có thể thấm nhuần một tư tưởng cách mạng nhất, tức là
chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời, tinh thần đấu tranh của họ ảnh hưởng và
giáo dục các tầng lớp khác. Vì vậy, về mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và
hành động, giai cấp công nhân đều giữ vai trò lãnh đạo [115, tr.256].
29
Mặt khác, trên cơ sở kế thừa những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vào
phân tích cơ cấu giai cấp xã hội Việt Nam, Hồ Chí Minh xem xét vấn đề giai cấp trong
xã hội Việt Nam dưới góc độ mối tương quan về lợi ích và tương quan về quyền lực
giữa các giai cấp trong xã hội Việt Nam. Theo Người, chỉ có đứng vững trên lập trường
của giai cấp công nhân mới đảm bảo sự thống nhất biện chứng về lợi ích giữa giai cấp,
tầng lớp trong xã hội với toàn thể dân tộc Việt Nam. Điểm mấu chốt của sự thống nhất
đó theo quan điểm của Hồ Chí Minh là phải giữ vững được sự lãnh đạo chính trị của giai
cấp công nhân Việt Nam trong các giai đoạn cách mạng.
2.1.3. Giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
Dân tộc và giai cấp là hai phạm trù lịch sử, có mối quan hệ biện chứng với nhau.
Từ thực tiễn lịch sử, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định luận điểm đúng đắn rằng, vấn đề
dân tộc, ở thời đại nào cũng được nhận thức và giải quyết trên lập trường và theo quan
điểm của một giai cấp nhất định. Mỗi dân tộc có một giai cấp đứng đầu. Giai cấp nào
thống trị về mặt kinh tế thì giai cấp cũng thống trị dân tộc. Và chính điều đó đã tạo nên
mối quan hệ biện chứng giữa giai cấp và dân tộc trong suốt quá trình vận động của xã
hội có giai cấp.
Trong mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, tính chất dân tộc được
quy định bởi phương thức sản xuất thống trị trong dân tộc, bởi kết cấu giai cấp được sản
sinh từ phương thức sản xuất đó và đặc biệt của giai cấp thống trị dân tộc đó. Chính vì
vậy, không có cách giải quyết vấn đề dân tộc chung cho mọi giai cấp. Quan điểm dân
tộc và cách giải quyết vấn đề dân tộc bao giờ cũng là một quan điểm của một giai cấp
nhất định. Chính vì thế chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, vấn đề dân tộc không tách rời
vấn đề giai cấp.
Từ việc phân tích, tổng hợp các vấn đề trên, có thể hiểu: Tư tưởng Hồ Chí Minh
về giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là một hệ thống các
luận điểm cơ bản mang tính nguyên tắc để xử lý mối quan hệ đó, nhằm đi đến sự thống
nhất về lợi ích, là cơ sở để huy động mọi nguồn lực của dân tộc, từng bước giải quyết
thành công những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam.
Với nội dung có tính tổng hợp và khái quát trên, có thể rút ra một số nội dung cơ
bản sau trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và
vấn đề giai cấp:
30
Một là, giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp xét đến
cùng là để đi đến sự thống nhất giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp.
Trên cơ sở phân tích nội hàm các khái niệm vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp,
chúng ta có thể nhận thấy rằng, nội dung của mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh, xét đến cùng là quan hệ về mặt lợi ích, Chính vì
vậy, quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong xã hội Việt Nam, thực chất là
mối quan hệ biện chứng giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp. Mối quan hệ này được
biến đổi và chuyển hóa cùng với chế độ chính trị xã hội trong mỗi giai đoạn cách mạng
của đất nước, song tất cả đều vì một lợi ích chung là đất nước được độc lập, nhân dân
được tự do, ấm no, hạnh phúc. Hồ Chí Minh là người đã nhận thức đúng đắn và giải
quyết một cách khéo léo và hiểu quả mối tương quan giữa các loại lợi ích đó.
Hồ Chí Minh cho rằng, giữa toàn thể dân tộc Việt Nam và những giai cấp, tầng
lớp trong xã hội cùng thống nhất với nhau về mặt lợi ích trước nhiệm vụ chống lại chủ
nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc, đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho con người
và hòa bình cho nhân loại. Vì vậy, lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp luôn thống nhất với
nhau trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam.
Theo Hồ Chí Minh, chỉ có trên cơ sở thống nhất về mặt lợi ích mới giải quyết
thấu đáo mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Người cho rằng để thống
nhất lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp, phải đứng vững trên lập trường của giai cấp công
nhân để giải quyết. Sở dĩ như vậy, vì theo quan điểm của Người giai cấp công nhân có
lợi ích thống nhất với dân tộc và các giai cấp và tầng lớp khác trong xã hội. Theo đó, đối
với Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc phải được đặt trong quỹ đạo của cách
mạng vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Hai là, giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là cơ sở để
huy động mọi nguồn lực của dân tộc cho thắng lợi cho cách mạng Việt Nam.
Việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng
Hồ Chí Minh được biểu hiện ở mục tiêu xuyên suốt của cách mạng Việt Nam là giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Trong việc kết hợp giữa các
nhân tố đó, luôn thấy ở Hồ Chí Minh có sự kết hợp một cách hài hòa, nhuần nhuyễn,
chính đó đã là cơ sở để Người thành công khi giải quyết các vấn đề cơ bản của cách
mạng Việt Nam.
31
Trong giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, Hồ Chí
Minh luôn chú ý tìm ra, khơi dậy và phát huy tối đa những điểm tương đồng giữa dân
tộc và giai cấp để làm cơ sở cho sự thống nhất, tạo nên thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Bên cạnh, nêu cao những điểm tương đồng, Hồ Chí Minh luôn hiểu rõ sự khác
biệt về nhu cầu, tâm lý, nhận thức, trình độ, quy mô của mỗi bộ phận tầng lớp người
khác nhau trong dân tộc. Chính vì vậy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam,
Hồ Chí Minh luôn khẳng định độc lập dân tộc luôn là mục tiêu hàng đầu, là điểm tương
đồng, là mẫu số chung để quy tụ tất cả người dân Việt Nam yêu nước. Còn về mối quan
hệ giữa nhiệm vụ dân tộc và nghĩa vụ quốc tế thì Hồ Chí Minh luôn nhất quán trên
nguyên tắc, chủ nghĩa yêu nước chân chính thống nhất với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
Do đó, mặc dù Hồ Chí Minh ý thức rõ ràng tầm quan trọng hàng đầu của nhiệm vụ dân
tộc nhưng Người không bao giờ rơi vào lập trường của chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, cực
đoan, bè phái.
Ba là, giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là yêu cầu
khách quan.
Giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là đòi hỏi khách
quan của thực tiễn cách mạng Việt Nam và thực tiễn thời đại. Do vậy, giải quyết được
mối quan hệ đó, sẽ là cơ sở để giải quyết thành công những vấn đề cơ bản của cách
mạng những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam như: việc xác định con đường,
mục tiêu, lực lượng cách mạng, những vấn đề về đoàn kết dân tộc và quốc tế, những vấn
đề lý luận về Đảng, Nhà nước, Mặt trận... nhằm huy động được mọi nguồn lực cho
thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Có thể nói, từ khi gặp ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và cách mạng tháng
Mười Nga, Hồ Chí Minh luôn nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
một cách thống nhất trên lập trường của giai cấp công nhân. Theo Người, đây là một yêu
cầu khách quan, một vấn đề có tính quy luật, một nguyên tắc đóng vai trò chỉ đạo đối
với tư duy, tư tưởng và hoạt động thực tiễn. Người chỉ rõ: “Cách mạng giải phóng dân
tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn
toàn” [122, tr.392]. Vì vậy, Người đã luôn nhận thức và giải quyết các vấn đề cơ bản của
cách mạng Việt Nam trên nền tảng sự thống nhất của mối quan hệ biện chứng giữa vấn
đề dân tộc và vấn đề giai cấp, trên cơ sở đó, Người đã từng bước đưa cách mạng Việt
Nam từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
32
Nói tóm lại, tư tưởng của Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề
dân tộc và vấn đề giai cấp là đã xuất phát thực tiễn cách mạng Việt Nam, theo sát sự
phát triển của thời đại. Vấn đề độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; giải phóng xã hội,
giải phóng giai cấp, giải phóng con người cũng xuất phát từ tư tưởng của sự kết hợp
giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Tư tưởng của Người đã phản ánh quy luật khách
quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, đồng thời cũng
phản ánh mối quan hệ khăng khít, thống nhất giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng con người. Đây là là mục đích, lý tưởng thấm đượm tình yêu thương và
chủ nghĩa nhân văn cao cả.
2.2. TÍNH TẤT YẾU VÀ NGUYÊN TẮC GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA
VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP TRONG CÁCH MẠNG VIỆT NAM
2.2.1. Tính tất yếu của việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và
vấn đề giai cấp
Trên cơ sở những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, thực tiễn cách mạng
Việt Nam và cách mạng thế giới, Hồ Chí Minh cho rằng, trong thời đại mới giải quyết
vấn đề dân tộc phải gắn liền với vấn đề giai cấp và ngược lại, hay có thể nói một cách
khác giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là tất yếu khách
quan. Người khẳng định: “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì
độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” [111, tr.64]. “Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của
độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ” [111, tr.175]. Chính vì vậy, con đường cứu
nước của Hồ Chí Minh, phải đáp ứng được yêu cầu là giải phóng dân tộc gắn liền với
giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Hay có thể nói một cách khác, trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là
một tất yếu, phù hợp với sự phát triển của dân tộc và thời đại. Theo Người, tính tất yếu
của việc giải quyết mối quan hệ đó được xuất phát từ những vấn đề cơ bản sau đây:
Thứ nhất, xuất phát từ sự lựa chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc theo
con đường cách mạng vô sản của Hồ Chí Minh.
Có thể nói, sự lựa chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc theo con đường
cách mạng vô sản là một tất yếu khách quan, phù hợp với xu hướng phát triển của dân
tộc và thời đại, và nó được biểu hiện một cách thống nhất, biện chứng trong tư tưởng Hồ
Chí Minh và chính đây là một trong những nhân tố quy định tính tất yếu việc giải quyết
mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong cách mạng Việt Nam.
33
Theo Hồ Chí Minh, một “cuộc cách mạng đến nơi”, là một cuộc cách mạng đem
lại độc lập cho dân tộc, đồng thời mang lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Muốn vậy,
chỉ có đi theo con đường cách mạng vô sản. Hay cũng có thể nói một cách khác là tính
tất yếu của việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư
tưởng Hồ Chí Minh được xuất phát từ sự lụa chon con đường cách mạng vô sản. Và chỉ
có con đường cách mạng vô sản mới giải quyết được triệt để vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp.
Như chúng ta đều biết, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, phong trào đấu tranh
chống chủ nghĩa thực dân, đòi độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân ở Việt Nam nổ ra
liên liên tiếp, nhưng tất cả các cuộc đấu tranh đó đều thất bại. Nguyên nhân cơ bản của
sự bế tắc đó là do chưa có một con đường cứu nước đúng đắn. Sứ mệnh lịch sử đặt ra
cho dân tộc Việt Nam, cho mỗi người Việt Nam yêu nước lúc bấy giờ là phải tìm ra con
đường cứu nước đúng đắn đem lại độc lập tự do cho dân tộc. Hồ Chí Minh sớm nhận
thức được yêu cầu của lịch sử, của dân tộc.
Người không tán thành cách cứu nước của các cụ Phan Bội Châu, Phan Châu
Trinh, Hoàng Hoa Thám, Người bị cuốn hút bởi nền văn minh phương Tây, mà Người
được tiếp xúc trong những năm học ở nhà trường thực dân. Ngày 5.6.1911, Người đã ra
đi tìm đường cứu nước. Đây là một quyết định đúng, biểu hiện ý chí tìm đường cứu
nước, cứu dân và sự nhạy cảm đặc biệt về chính trị lúc bấy giờ của Hồ Chí Minh.
Trong thời gian ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã đi đến nhiều nơi trên
thế giới, ở khắp châu Âu, châu Phi, châu Mỹ, đặc biệt, Người đã có thời gian sống ở các
trung tâm tư bản lớn của thế giới là nước Mỹ, Anh, Pháp và các thuộc địa của họ. Người
đã thâm nhập vào phong trào công nhân và tận mắt chứng kiến cuộc đời cực khổ của
nhân dân lao động ở những nước thuộc địa cũng như các nước tư bản, tiếp xúc với nhiều
hạng người khác nhau, đặc biệt là nhân dân lao động nghèo khổ... Đáng lưu ý nhất, đó là
Người đã nghiên cứu, khảo sát các mô hình cách mạng dân chủ tư sản trên thế giới, từ
đó rút ra các bài học hữu ích cho cách mạng Việt Nam.
Trước hết là cách mạng Mỹ. Cách mạng Mỹ đã nêu cao nhiều tư tưởng tiến bộ,
trong đó đặc biệt là tư tưởng về quyền con người, quyền dân chủ. Hồ Chí Minh đánh giá
cao song Người thấy rõ đây không phải là một cuộc cách mạng triệt để và Người cũng
đã chứng kiến tận mắt tính không triệt để của cuộc cách mạng này. Người thấy rõ cách
mạng Mỹ tuyên bố đấu tranh cho quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của con người,
nhưng trong hiện thực, chế độ xã hội Mỹ lại nô dịch một cách trắng trợn nhân quyền của
người da đen. Cách mạng mạng Mỹ tuyên bố “Hễ Chính phủ nào mà có hại cho dân
34
chúng, thì dân chúng phải đập đổ Chính phủ ấy đi và gây lên Chính phủ khác” [109,
tr.291], song trong thực tế “Chính phủ Mỹ lại không muốn cho ai nói đến cách mệnh, ai
đụng đến Chính phủ!” [109, tr.291]. Tóm lại “Mỹ tuy rằng cách mệnh thành công đã
hơn 150 năm nay, nhưng công nông vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo tính cách mệnh lần thứ
hai” [109, tr.291]. Sở dĩ như vậy “là vì cách mệnh Mỹ... chưa phải cách mệnh đến nơi”
[109, tr.292], chưa phải là cuộc “cách mạng triệt để”.
Cùng với việc tìm hiểu cách mạng Mỹ, Hồ Chí Minh đã tiến hành nghiên cứu
cách mạng Pháp. Từ thành công và thất bại của cách mạng Pháp. Hồ Chí Minh nhận
thấy cuộc cách mạng cách mạng tư sản tuy nêu khẩu hiệu ''tự do'', ''bình đẳng'', nhưng
không đưa lại tự do, bình đẳng thực sự cho quần chúng lao động. Người viết: “Tư bản
nó dùng chữ Tự do, Bình đẳng, Đồng bào để lừa dân, xúi dân đánh đổ phong kiến. Khi
dân đánh đổ phong kiến rồi, thì nó lại thay phong kiến mà áp bức dân” [109, tr.296];
“tiếng là cộng hoà và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp
bức thuộc địa” [109, tr.296].
Chính vì cách mạng Mỹ và Pháp là cuộc cách mạng chưa triệt để như vậy, nên
mặc dù Hồ Chí Minh đánh giá cao những tư tưởng về dân chủ và nhân quyền của cuộc
cách mạng ấy, song đó không phải là một mô hình có thể lựa chọn. Người cho rằng:
“Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh
không đến nơi... Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công nông Pháp hẵng còn phải mưu
cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức. Cách mệnh An Nam nên nhớ
những điều ấy” [109, tr.296]. “Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến
nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong
tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh
phúc” [109, tr.292].
Như vậy, trong tư duy Hồ Chí Minh, một cuộc cách mạng đến nơi, một cuộc cách
mạng triệt để không đơn thuần là chỉ giải thoát cho đồng bào khỏi thân phận nô lệ, bị áp
bức mà mà còn bao hàm một nội dung rộng lớn hơn: giải phóng cho họ khỏi cái đói, cái
rét, cái dốt, tiến lên xây dựng một cuộc đời ấm no, tự do, hạnh phúc, nhân dân thực sự là
những người chủ của đất nước, hay nói cách khác con đường đó phải là con đường
mang lại độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân. Đó là một “ham muốn tột bậc” của
Hồ Chí Minh, như Người nói sau này, “là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập,
dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học
hành” [111, tr.187], đó cũng là ham muốn nghìn đời của nhân dân ta. Một ham muốn
như thế chỉ có thực hiện được triệt để khi giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp
35
và giải phóng con người, tức là giải quyết vấn đề dân tộc phải gắn với vấn đề giai cấp.
Theo Người, sau khi giành được độc lập dân tộc rồi, mà nhân dân lao động vẫn chưa
được giải phóng, “không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”
[109, tr.603]. Chính vì vậy mà Người, đã không lựa chọn con đường đó, mà tìm đến với
cách mạng Tháng Mười Nga, đến với con đường cách mạng vô sản như một tất yếu lịch
sử. Theo Người, đây chính là con đường đúng đắn mà cách mạng Việt Nam sẽ trải qua.
Người viết:
Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công và thành
công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình
đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa
Pháp khoe khoang bên An Nam. Cách mệnh Nga đã đuổi được vua, tư
bản, địa chủ rồi, lại ra sức cho công, nông các nước và dân bị áp bức các
thuộc địa làm cách mệnh để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản
trong thế giới [109, tr.304].
Từ việc Hồ Chí Minh khẳng định cuộc cách mạng Nga là cuộc cách mạng đến
nơi, cuộc cách mạng triệt để. Người đi đến kết luận: “Muốn cứu nước và giải phóng dân
tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” [111, tr.64]. Kết luận
trên đây của Hồ Chí Minh là sự khẳng định một hướng đi mới, nguyên tắc chiến lược
mới, mục tiêu và giải pháp hoàn toàn mới, khác về căn bản so với các lãnh tụ của các
phong trào yêu nước trước đó ở Việt Nam; đưa cách mạng giải phóng dân tộc vào quỹ
đạo của cách mạng vô sản, tức là sự nghiệp cách mạng ấy phải do Đảng của giai cấp
công nhân lãnh đạo, lấy hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng. Vì vậy,
con đường phát triển tất yếu của cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Người chỉ rõ: “Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát
triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn” [122,
tr.392]. Vì theo Người, chủ nghĩa xã hội là làm cho dân giàu, nước mạnh, mọi người
được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do; về bản chất, chủ nghĩa xã hội là một xã hội do
nhân dân lao động làm chủ, một xã hội không có chế độ người bóc lột người, một xã hội
bình đẳng, ai làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng. Đó cũng
là ước nguyện cháy bỏng của Hồ Chí Minh: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn
tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do,
đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” [111, tr.187].
Nói tóm lại, tính tất yếu của việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và
giai cấp, xuất phát từ sự lựa chọn con đường cách mạng vô sản của Hồ Chí Minh. Có
36
thể nói đây là một sự gặp gỡ mang tính dân tộc và thời đại. Theo Hồ Chí Minh, con
đường cách mạng vô sản, là con đường duy nhất để giải phóng dân tộc gắn liền với giải
phóng giai cấp và giải phóng con người; một cuộc cách mạng vừa phải giành độc lập
dân tộc, vừa phải giải phóng nhân dân lao động khỏi áp bức, bóc lột. Hay có thể khẳng
định luận điểm trung tâm, xuyên suốt để giải quyết triệt để cả hai vấn đề dân tộc và giai
cấp theo Hồ Chí Minh, là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, vấn đề dân tộc
phải được giải quyết theo lập trường của giai cấp công nhân.
Thứ hai, xuất phát từ thực tiễn xã hội Việt Nam đòi hỏi giải quyết vấn đề dân tộc
gắn với vấn đề giai cấp.
Xuất phát từ thực tiễn xã hội Việt Nam, Hồ Chí Minh cho rằng, việc giải quyết
mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là một tất yếu khách quan. Hay nói
cách khác, theo quan điểm của Người chính yếu tố thực tiễn đã quy định tính tất yếu
phải giải quyết vấn đề dân tộc gắn với vấn đề giai cấp. Người khẳng định: “Trong thời
đại ngày nay, cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng khít của cách mạng
vô sản trong phạm vi toàn thế giới; cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành
cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn” [122, tr.392].
Chính vì vậy, để giải quyết thấu đáo mối quan hệ đó, cần phải nhận thức một cách đầy
đủ và toàn diện thực tiễn cách mạng Việt Nam và thực tiễn cách mạng thế giới. Hồ Chí
Minh đã sớm có nhận thức đúng đắn về vấn đề trên, vì vậy, Người đã giải quyết thành
công mối quan hệ đó một cách đúng đắn và sáng tạo, được thực tiễn thắng lợi của cách
mạng Việt Nam chứng minh. Vậy, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, yếu tố thực tiễn
quy định tính tất yếu phải giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
như thế nào?
Nghiên cứu các tác phẩm của Hồ Chí Minh cho thấy, cơ sở trực tiếp hình thành
tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
ở Việt Nam chính là nhận thức biện chứng của Hồ Chí Minh về chế độ thực dân và kết
cấu kinh tế, xã hội, giai cấp ở Việt Nam.
Trên cơ sở nắm vững phương pháp luận mácxít, Hồ Chí Minh đã vận dụng vào
phân tích chế độ thực dân và những mâu thuẫn trong lòng xã hội Việt Nam. Hồ Chí
Minh đã nhận thức được nguyên nhân ra đời và bản chất của chủ nghĩa thực dân trên
đất nước ta. Người cho rằng, chính lợi ích của giai cấp tư sản chính quốc, chủ nghĩa tư
bản sẽ đẻ ra chủ nghĩa thực dân và thông qua chính sách xâm lược thuộc địa để hình
thành chế độ thực dân. Đứng trên lập trường duy vật biện chứng của lý luận Mác -
37
Lênin, Hồ Chí Minh đã vượt qua trình độ nhận thức của những người yêu nước Việt
Nam đương thời.
Theo Hồ Chí Minh, không thấy được lợi ích của giai cấp tư sản ẩn đằng sau ách
áp bức thuộc địa, thì cũng không thể nhận ra được đâu là lực lượng xã hội thực sự bị áp
bức, bóc lột, cũng như động lực đấu tranh của các lực lượng bị bóc lột, áp bức đó. Đây
cũng là hạn chế lớn nhất của các nhà cách mạng đương thời như các cụ Phan Bội Châu
và Phan Châu Trinh...
Từ sự phân tích và vạch trần bản chất của chế độ thực dân ở Việt Nam, Hồ Chí
Minh đi sâu vào phân tích các mâu thuẫn trong lòng xã hội đó. Người nhận thức được
rằng, trong lòng xã hội thực dân tồn tại rất nhiều mâu thuẫn đan xen, trong đó nổi lên
mâu thuẫn hàng đầu chi phối các mâu thuẫn xã hội khác đó là mâu thuẫn dân tộc được
biểu hiện trong mối quan hệ giữa người thực dân và người bản xứ. Mâu thuẫn này đang
tạo nên động lực đấu tranh mạnh mẽ, thôi thúc toàn thể nhân dân Việt Nam đứng lên lật
đổ cái chế độ xã hội đang nô dịch họ đi, để giành lại các quyền dân tộc đã mất. Hồ Chí
Minh gọi đó là động lực dân tộc với mục tiêu giải phóng dân tộc.
Như vậy, vì lợi ích của giai cấp tư sản chính quốc mà chế độ thực dân ra đời và
trong chế độ xã hội ấy, hình thức quan hệ đầu tiên giữa người thực dân và người bản xứ
là quan hệ dân tộc. Đó là một quan hệ mâu thuẫn đối kháng, trong đó người thực dân là
kẻ đi áp bức dân tộc, còn mọi người Việt Nam là kẻ bị áp bức dân tộc. Hình thức ấy, vấn
đề đầu tiên của cách mạng Việt Nam là phải giải quyết vấn đề dân tộc, tức là vấn đề giải
phóng dân tộc. Lực lượng tiến hành cách mạng là toàn thể nhân dân Việt Nam, với động
lực đấu tranh là vì lợi ích chung của dân tộc. Kẻ thù chủ yếu của cách mạng ở đây là
thực dân Pháp với tư cách là áp bức dân tộc.
Xuất phát từ lợi ích giai cấp tư sản chính quốc mà chế độ thực dân ra đời và hình
thức quan hệ mâu thuẫn đầu tiên giữa người thực dân và người bản xứ là quan hệ áp bức
dân tộc, thì cũng chính do lợi ích giai cấp tư sản thôi thúc mà từ quan hệ áp bức dân tộc
sản sinh ra áp bức giai cấp, hay nói cách khác, áp bức giai cấp là thực chất, biểu hiện tập
trung của áp bức dân tộc trong chế độ thực dân. Sự chuyển hóa này là khách quan mà
Hồ Chí Minh đã được nhận thức.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, do quá trình xâm lược và thống trị của chủ
nghĩa thực dân, quá trình đó là “quá trình Tây phương hóa”, thì xã hội Việt Nam đã có
sự phân hóa giai cấp, song sự phân hóa ấy chưa triệt để, chưa hoàn toàn; xung đột về lợi
ích chưa gay gắt và vì thế mâu thuẫn giai cấp trong xã hội Việt Nam được giảm thiểu.
Nguyên nhân của tính không quyết liệt về quan hệ giai cấp trong xã hội Việt Nam là do
38
cấu trúc kinh tế có tính truyền thống của xã hội Việt Nam vẫn đang tồn tại và phát huy
ảnh hưởng chi phối.
Trong bối cảnh sự phân hóa giai cấp trong xã hội Việt Nam chưa trở nên gay gắt,
vấn đề dân tộc nổi lên. Lợi ích chung của toàn thể dân tộc trở thành cái chi phối và chính
nó đã quay trở lại làm suy yếu thêm mâu thuẫn giai cấp trong xã hội Việt Nam. Khi vận
dụng quan điểm giai cấp để phân tích cơ cấu xã hội Việt Nam dưới chế độ thực dân, Hồ
Chí Minh nhận thấy, trong chế độ thực dân, quan hệ giữa người thực dân và người bản
xứ không chỉ là quan hệ áp bức dân tộc mà còn là quan hệ áp bức giai cấp. Nói cách
khác, có mâu thuẫn giai cấp trong chế độ thực dân ở Việt Nam, song đó không phải là
mâu thuẫn giai cấp trong xã hội Việt Nam, mà là mâu thuẫn giai cấp giữa tư bản và địa
chủ người Pháp với công nhân và nông dân Việt Nam. Chủ nghĩa thực dân không chỉ
tước đoạt những quyền lợi về mặt dân tộc, mà còn cả quyền lợi giai cấp của nhân dân
Việt Nam. Trong quan hệ ấy nông dân và công nhân Việt Nam là những giai cấp bị áp
bức nặng nề nhất. Các giai cấp, tầng lớp khác như học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ
cũng bị tư bản áp bức song không cực khổ bằng công nông. Chính vì vậy mà Hồ Chí
Minh khẳng định: “Vì bị áp bức mà sinh ra cách mệnh, cho nên ai mà bị áp bức càng
nặng thì lòng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết. Khi trước tư bản bị phong
kiến áp bức cho nên nó cách mệnh. Bây giờ tư bản lại đi áp bức công nông, cho nên
công nông là người chủ cách mệnh” [109, tr.288]. Quan hệ áp bức giai cấp trong chế độ
thực dân hình thành và trở thành một trong những quan hệ nổi bật là do bản chất giai cấp
của chế độ thực dân quy định nên.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, vì lợi ích của nó, giai cấp tư sản ở chính quốc đã
phát động cuộc chiến tranh xâm lược thuộc địa, thiết lập nên chế độ thực dân, tước đoạt
mọi quyền độc lập của các dân tộc thuộc địa, biến các dân tộc độc lập thành các dân tộc
nô lệ. Tuy nhiên, cũng do chính bản chất giai cấp tư sản chính quốc quy định, dựa trên
những sức mạnh về chính trị và quân sự có được do chiến thắng trong chiến tranh xâm
lược, quan hệ giữa người thực dân và người bản xứ từ chỗ là quan hệ áp bức dân tộc đã
biến đổi thành một hình thức quan hệ mới - quan hệ áp bức giai cấp. Đó là quan hệ mâu
thuẫn đối kháng, trong đó thực dân Pháp là kẻ áp bức giai cấp, còn công nhân, nông dân
Việt Nam là giai cấp bị áp bức. Hình thức quan hệ ấy quy định cách mạng ở Việt Nam,
không chỉ là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, mà còn phải là cuộc cách mạng giải
phóng giai cấp. Lực lượng tiến hành cách mạng là các giai cấp tầng lớp nhân dân lao
động Việt Nam, trong đó có công nông là gốc, giai cấp vô sản là giai cấp lãnh đạo với
39
động lực đấu tranh là vì lợi ích của họ với tư cách là giai cấp những người lao động. Kẻ
thù giai cấp trực tiếp của họ cũng chính là thực dân Pháp với tư cách kẻ áp bức giai cấp.
Từ những phân tích trên đây cho thấy, chính hiện thực xã hội Việt Nam đã định
hướng cách mạng giải phóng dân tộc hướng tới mục tiêu giải phóng triệt để giai cấp
những người lao động, tức là hướng tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Cộng chủ nghĩa.
Nói một cách khác tính tất yếu của việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và
vấn đề giai cấp là do chính hiện thực xã hội Việt Nam quy định. Hồ Chí Minh đã nhận
thức được vấn đề đó, chính vì vậy, Người đã lựa chọn con đường cách mạng giải phóng
dân tộc theo khuynh hướng cách mạng vô sản là một tất yếu khách quan.
Thứ ba, giải quyết được vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là cơ sở để xác lập
được đúng đắn đường lối cho cách mạng Việt Nam.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là
hai phạm trù không thể tách rời, dân tộc là địa bàn tồn tại của giai cấp, dân tộc chứa
đựng nó trong lòng nó các giai cấp và các cuộc đấu tranh giai cấp. Hệ thống giai cấp là
kết cấu bên trong dân tộc. Chính vì vậy, để giải quyết vấn đề dân tộc bao giờ cũng được
giải quyết theo lập trường của một giai cấp nhất định. Trong cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc, nhân tố giai cấp là nhân tố nội tại, cơ bản có tầm quan trọng hàng đầu để giải
quyết vấn đề dân tộc. Đương nhiên, nhân tố giai cấp không quyết định một chiều, có
nhận thức đúng đắn vấn đề giai cấp mới có thể giải quyết vấn đề dân tộc, ngược lại có
nhận thức đúng đắn vấn đề dân tộc mới hiểu sâu sắc vấn đề giai cấp và từng bước giải
quyết được vấn đề xã hội - giai cấp.
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, khi bàn về mối quan hệ này, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản nhằm lật đổ ách thống trị của
giai cấp tư sản, ở giai đoạn đầu của nó là mang tính chất dân tộc, vì “phong trào vô sản
là phong trào độc lập của khối đại đa số, mưu lợi ích cho khối đại đa số” [105, tr.611].
Vì vậy, “cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội
dung, không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu mang hình thức đấu
tranh dân tộc” [105, tr.623-624] và Đảng của giai cấp công nhân, bên cạnh việc giáo dục
chủ nghĩa quốc tế chân chính cho quần chúng nhân dân, giai cấp công nhân không được
quên rằng cuộc đấu tranh giải phóng của họ còn là cuộc đấu tranh dân tộc. Dân tộc là địa
bàn trực tiếp của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân. Do đó, “giai cấp vô sản
mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc,
phải tự mình trở thành dân tộc, tuy hoàn toàn không phải theo cái nghĩa như giai cấp tư
sản hiểu” [105, tr.623-624].
40
Nếu như áp bức giai cấp là nguyên nhân sâu xa của áp bức dân tộc thì áp bức dân
tộc tác động mạnh mẽ trở lại đối với áp bức giai cấp. Nó nuôi dưỡng áp bức giai cấp và
làm sâu sắc thêm áp bức giai cấp. C.Mác nhấn mạnh rằng: một dân tộc đi áp bức dân tộc
khác, dân tộc ấy không thể có tự do được. Tác động trở lại của áp bức dân tộc đối với áp
bức giai cấp (ở chính quốc) càng thể hiện rõ trong thời đại đế quốc chủ nghĩa. Chủ nghĩa
đế quốc lấy việc bóc lột các dân tộc chậm phát triển, làm tiền đề tồn tại của nó.
Nếu dân tộc chưa có độc lập thống nhất thì giai cấp đại biểu cho phương thức sản
xuất mới muốn trở thành “giai cấp dân tộc” phải đi đầu trong cách mạng giải phóng dân
tộc, phải thực hiện trước tiên nhiệm vụ khôi phục độc lập, thống nhất dân tộc. Thực tiễn
ở các nước tư sản đã cho thấy: Giai cấp tư sản khi còn là giai cấp cách mạng đã nêu cao
vấn đề dân tộc để tập hợp quần chúng đấu tranh giành và giữ chính quyền tư sản. Khi
giai cấp tư sản trở thành giai cấp thống trị thì “lợi ích dân tộc” mà giai cấp tư sản nêu lên
ngày càng lộ rõ thực chất của nó là lợi ích tư sản, chủ yếu là lợi ích của đại tư sản.
Trong giai đoạn mới, thời đại của V.I.Lênin, chủ nghĩa tư bản trở thành chủ nghĩa
đế quốc, cách mạng giải phóng dân tộc trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản thế
giới, V.I.Lênin có cơ sở thực tiễn để phát triển vấn đề dân tộc, cụ thể là vấn đề dân tộc
thuộc địa thành hệ thống lý luận - học thuyết về cách mạng thuộc địa. V.I.Lênin cho
rằng cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở chính quốc sẽ không thể giành được thắng lợi
nếu nó không biết liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức ở thuộc địa.
Bên cạnh đó, trên cơ sở đánh giá đúng đắn vai trò của các dân tộc bị áp bức, V.I.Lênin
chỉ ra vấn đề các dân tộc bị áp bức phải nắm ngọn cờ dân tộc để lãnh đạo quần chúng
làm cách mạng, đồng thời nhiệm vụ của giai cấp công nhân các nước tư bản, đế quốc vì
lợi ích căn bản của chính mình, phải ra sức ủng hộ cách mạng giải phóng dân tộc của
các dân tộc bị áp bức đó. V.I. Lênin đã bổ sung khẩu hiệu nổi tiếng của C.Mác,
Ph.Ăngghen: “Vô sản tất cả nước, đoàn kết lại!” thành: “Vô sản tất cả các nước và các
dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!” [98, tr.86].
Như vậy, xuất phát từ việc tổng kết thực tiễn, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác -
Lênin cho rằng, vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có mối quan hệ biện chứng, không
tách rời. Do vậy, theo các ông trong hoạt động thực tiễn cần nhận thức và giải quyết thấu
đáo mối quan hệ đó, nếu tuyệt đối hóa một trong hai vấn đề trên sẽ rơi vào “tả khuynh”,
hoặc “hữu khuynh” trong phong trào cách mạng. Điều này đã được thực tiễn phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế chứng minh, dù đã có lúc, có nơi do không nắm vững,
không xử lý tốt vấn đề này nên đã mắc sai lầm trong việc hoạch định đường lối cách
mạng, đặc biệt là trong việc tập hợp lực lượng, gây tổn thất cho cách mạng.
41
Khi tiếp thu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề trên, Hồ Chí Minh
cũng nhận thức được rằng vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có mối quan hệ không thể
tách rời, Người đã giải quyết mối quan hệ đó một cách đúng đắn và sáng tạo trong thực
tiễn cách mạng Việt Nam. Điều này được thể hiện rõ ở con đường cách mạng Việt Nam
do Hồ Chí Minh lựa chọn là con đường vô sản, giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải
phóng giai cấp và giải phóng con người. Hay có thể nói cách khác giải phóng dân tộc
đem lại độc lập cho dân tộc và cho nhân dân khỏi mọi áp bức, đem lại quyền làm người,
làm chủ đất nước. Người nói: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là
tất cả những điều tôi muốn; đấy là tất cả những điều tôi hiểu” [160, tr.53]. Đối với Hồ
Chí Minh trong các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam thì việc giải quyết giữa vấn
đề dân tộc và giai cấp là mối quan hệ không thể tách rời. Khát vọng độc lập, tự do đã đi
đến tư tưởng khoa học về giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Trong tư tưởng
“không có gì quý hơn độc lập tự do”, độc lập tự do không chỉ là lợi ích dân tộc mà còn
là lợi ích giai cấp, lợi ích căn bản nhất, sâu xa nhất của những người lao động. Người
khẳng định: “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng
chẳng có nghĩa lý gì” [111, tr.64]. Đó là tư duy biện chứng của Hồ Chí Minh về giải
quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp và cũng thể hiện sâu sắc quan
điểm giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Tuy nhiên, theo quan điểm Hồ Chí Minh khi giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề
dân tộc và vấn đề giai cấp cần phải hết sức linh hoạt khéo léo, phải căn cứ vào từng thời
điểm, từng điều kiện cụ thể của quốc gia dân tộc, nếu không nhận thức được vấn đề đó
thì trong thực tiễn cách mạng, việc hoạch định đường lối sẽ dẫn đến sai lầm và cách
mạng sẽ gặp phải khó khăn, tổn thất, thậm chí thất bại. Thực tiễn cách mạng Việt Nam
và thế giới đã từng diễn ra điều đó.
Như vậy, trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh cho rằng,
giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là cơ sở rất quan trọng để
xác định đúng đắn đường lối cách mạng Việt Nam. Trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, Người đã khéo giải quyết đúng đắn mối quan hệ đó, trên cơ sở đó mà xây
dựng được đường lối đúng đắn cho cách mạng Việt Nam như: Việc xác định con đường,
mục tiêu, lực lượng cách mạng; những vấn đề về đoàn kết dân tộc và quốc tế; những vấn
đề lý luận về Đảng, Nhà nước, Mặt trận... Đây là vấn đề lý luận lớn trong thời đại cách
mạng vô sản gây tranh cãi nhiều trong Đảng ta và trên quốc tế những năm 30 của thế kỷ
XX. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam hơn 85 năm qua đã chứng minh những quan
điểm đó là hoàn toàn đúng đắn và sáng tạo.
42
2.2.2. Nguyên tắc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp
Từ việc khẳng định giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
là một tất yếu khách quan, phù hợp với xu thế phát triển của dân tộc và thời đại, thì Hồ
Chí Minh cũng chỉ ra những vấn đề có tính nguyên tắc trong giải quyết vấn đề trên, nó là
cơ sở quan trọng để có định hướng đúng đắn, khoa học cho việc nhận thức và giải quyết
hợp lý mối quan hệ dân tộc và giai cấp ở nước ta trong từng giai đoạn, từng điều kiện cụ
thể của cách mạng, góp phần thắng lợi chung của cách mạng Việt Nam. Quan điểm của
Hồ Chí Minh về vấn đề này được thể hiện trên những vấn đề cơ bản sau đây:
Một là, giải quyết triệt để mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
phải đứng trên lập trường của giai cấp công nhân.
Trên cơ sở kế thừa và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về
vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã
khẳng định, trong thời đại mới để giải quyết một cách triệt để và thấu đáo mối quan hệ
này ở nước ta chỉ có đứng trên lập trường của giai cấp công nhân. Người khẳng định:
“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách
mạng vô sản” [119, tr.30]. Bởi vì, giai cấp vô sản là giai cấp thực cách mạng, chính nó
có vai trò lịch sử to lớn trong việc xây dựng xã hội mới. Điều này được Mác - Ăngghen
khẳng định: “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có
giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Tất các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu
vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của
bản thân nền đại công nghiệp” [105, tr.610]. Đồng thời, cũng là giai cấp có lợi ích thống
nhất với các giai tầng khác trong xã hội, là cơ sở cho việc tập hợp lực lượng cách mạng
trong cuộc đấu tranh cách mạng.
Một điều đáng lưu ý là từ thực tiễn của cách mạng tháng Mười Nga 1917, đã mở
ra một thời đại mới trong lịch sử nhân loại. Sự mở đầu vĩ đại của nó chính là ở chỗ, cuộc
cách mạng này thủ tiêu chế độ người bóc lột người, cổ vũ nhân loại tiến lên chủ nghĩa xã
hội, thực hiện tự do, bình đẳng, bác ái trên thực tế, giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng con người. Hồ Chí Minh đã viết: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách
mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu hàng triệu người bị
áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào
có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế” [122, tr.387]. Với thắng lợi của cách mạng tháng
Mười, chủ nghĩa Mác - Lênin từ lý luận trở thành lương tâm của thời đại, chủ nghĩa xã
hội từ ước mơ của giai cấp cần lao trở thành hiện thực sinh động. Như vậy, từ lý luận
43
của chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn cách mạng thế giới là cơ sở để Hồ Chí Minh lựa
chọn việc giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp theo lập trường của giai cấp vô
sản - giai cấp có thể đáp ứng được nhu cầu của lịch sử dân tộc đang đặt ra.
Tuy nhiên, việc giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, đó là tư
tưởng chỉ đạo mang tính nguyên tắc có ý nghĩa phương pháp luận. Vấn đề đặt ra là con
đường cách mạng đó vận dụng vào Việt Nam, một nước thuộc địa nửa phong kiến như
thế nào, trong đó nổi lên hàng đầu là giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn
đề giai cấp. Chỉ làm sáng tỏ vấn đề này chúng ta mới thấy sự vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin của Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Như vậy, theo quan điểm của Hồ Chí Minh con đường giải phóng dân tộc phù
hợp với cách mạng Việt Nam, phải là một cuộc cách mạng vừa phải giành độc lập dân
tộc, vừa phải giải phóng nhân dân lao động khỏi áp bức, bóc lột, tức là giải quyết vấn đề
dân tộc phải gắn liền với vấn đề giai cấp. Luận điểm trung tâm, xuyên suốt để giải quyết
triệt để cả hai vấn đề ấy, theo Hồ Chí Minh, phải được giải quyết theo lập trường của
giai cấp vô sản. Gần một thế kỷ qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, với đường lối độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân tộc Việt Nam đã giành được những thắng lợi
to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Hồ Chí Minh đã giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
trên lập trường vô sản đã bám sát thực tiễn cách mạng Việt Nam, theo sát sự phát triển
của thời đại. Người đã góp phần làm sáng tỏ thêm mối quan hệ không tách rời giữa vấn
đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Chúng ta đều biết rằng, lịch sử đã cho thấy từ khi dân tộc
xuất hiện cho đến nay, dân tộc luôn gắn liền với giai cấp. Giai cấp đại biểu cho phương
thức sản xuất thống trị luôn nắm quyền thống trị dân tộc. Do đó, không có dân tộc phi
giai cấp và giai cấp thống trị dân tộc bao giờ cũng bảo vệ độc lập, tự chủ và phát triển
dân tộc theo hình ảnh và lợi ích của giai cấp mình. Vì thế, việc giải quyết vấn đề dân tộc
bao giờ cũng phụ thuộc vào lập trường, quan điểm của giai cấp thống trị dân tộc. Gắn
liền với các giai cấp đã nắm quyền thống trị dân tộc là các cách tương ứng bảo vệ độc
lập, tự chủ và phát triển dân tộc, giải quyết vấn đề dân tộc.
Nói tóm lại, theo Hồ Chí Minh để giải quyết triệt để mối quan hệ dân tộc và giai
cấp phải đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, theo con đường cách mạng vô
sản, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Theo Người, đây là con
đường duy nhất để giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp và giải phóng con
người; một cuộc cách mạng vừa phải giành độc lập dân tộc, vừa phải giải phóng nhân
dân lao động khỏi áp bức, bóc lột. Hay có thể khẳng định luận điểm trung tâm, xuyên
44
suốt để giải quyết triệt để cả hai vấn đề dân tộc và giai cấp theo Hồ Chí Minh, là độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp phải được giải
quyết theo lập trường của giai cấp công nhân.
Hai là, giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là vấn đề
chiến lược gắn liền với sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai
cấp là vấn đề lâu dài gắn liền với sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Điều này được thể
hiện một cách rõ nét trong đường lối cách mạng của Đảng, cũng như trong toàn bộ tiến
trình cách mạng của nước ta. Hồ Chí Minh sau khi tìm thấy và lựa chọn con đường cứu
nước, giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, đã lấy chủ nghĩa Mác -
Lênin làm cơ sở thế giới quan và phương pháp luận cho việc hoạch định chiến lược và
sách lược của cách mạng Việt Nam. Đường lối đó chính là “độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội”; giải phóng dân tộc không tách rời với giải phóng giai cấp và giải
phóng con người.
Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, do Người soạn thảo và được Hội
nghị thành lập Đảng thông qua đã xác định, cách mạng Việt Nam phải trải qua các giai
đoạn: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản” [110, tr.1]. Như thế, cuộc cách mạng này kết hợp trong bản thân nó tiến trình của
hai sự nghiệp giải phóng: Giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân và giải phóng giai
cấp khỏi ách áp bức bóc lột. Hai giai đoạn đó không hoàn toàn tách rời nhau, giai đoạn
trước chuẩn bị tiền đề cho giai đoạn sau, giai đoạn sau là kết quả là sự phát triển, củng
cố và hoàn thiện các mục tiêu của giai đoạn trước. Người chỉ rõ: “Cách mạng giải phóng
dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi
hoàn toàn” [122, tr.392].
Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp được giải quyết trên lập trường của giai cấp
công nhân - điều đó phù hợp với xu thế thời đại và lợi ích của các giai cấp và lực lượng
tiến bộ trong dân tộc. Sức mạnh đi tới thắng lợi của cách mạng Việt Nam không phải là
cái gì khác mà là mục tiêu dân tộc luôn thống nhất với mục tiêu dân chủ trên cơ sở định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc điểm nổi bật của cách mạng Việt Nam là cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân triệt để, tạo tiền đề cho bước chuyển sang thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội; tức là, cách mạng xã hội chủ nghĩa là bước kế tiếp ngay khi cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân thắng lợi và giữa hai cuộc cách mạng này không có một bức tường
nào ngăn cách. Đây là quan điểm hết sức căn bản của tư tưởng Hồ Chí Minh: Chỉ có
hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc mới có điều kiện để tiến lên chủ nghĩa xã hội
45
và chỉ có cách mạng xã hội chủ nghĩa mới giữ vững được thành quả cách mạng giải
phóng dân tộc, mới mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho mọi tầng lớp nhân
dân, mới có độc lập dân tộc thực sự.
Ở đây ta thấy, sự kết hợp yếu tố dân tộc và yếu tố giai cấp thể hiện ở sự nối tiếp
của hai giai đoạn cách mạng, đồng thời được biểu hiện ngay cả trong giai đoạn cách
mạng dân tộc, dân chủ là đánh đổ chủ nghĩa thực dân Pháp và bọn phong kiến, làm cho
nước Việt Nam hoàn toàn độc lập. Trong giai đoạn cách mạng này, độc lập dân tộc là
mục tiêu hàng đầu, đồng thời từng bước thực hiện các nhiệm vụ dân chủ trên lập trường
của giai cấp công nhân. Trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, tiến lên chủ nghĩa
xã hội là con đường để đảm bảo một nền độc lập thật sự, bền vững cho dân tộc Việt
Nam, đồng thời góp phần vào thắng lợi chung của phong trào cách mạng trên phạm vi
toàn thế giới.
Theo Hồ Chí Minh, đối với Việt Nam, Người khẳng định trước sau như một, là
chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có đủ cơ sở và điều kiện để thực hiện công cuộc giải phóng
con người một cách triệt để và thiết thực. Tức là thực hiện được đầy đủ các quyền của
con người, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của tất cả
mọi người. Nhưng đó là một sự nghiệp lâu dài chứ không phải một sớm một chiều, do
vậy, giải quyết vấn đề dân tộc và giai cấp trong cách mạng Việt Nam là vấn đề lâu dài,
gắn liền với tiến trình cách mạng, nếu chỉ dừng lại ở cuộc đấu tranh để giành độc lập
cho dân tộc, tự do cho nhân dân thì sự nghiệp cách mạng đó mới chỉ đi được một chặng
đường ngắn mà thôi. Bởi có độc lập, có tự do mà nhân dân vẫn đói khổ, thì nền độc lập
tự do ấy cũng chẳng có ý nghĩa gì. Hồ Chí Minh đã thấu hiểu cảnh sống nô lệ, lầm than,
đói rét và tủi nhục của nhân dân các dân tộc Việt Nam dưới thời thực dân, phong kiến.
Bởi vậy, một trong những nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa quyết định của sự nghiệp giải
phóng xã hội, giải phóng con người, theo Hồ Chí Minh là phải xoá bỏ nghèo nàn và lạc
hậu, vươn tới xây dựng cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc thật sự cho tất cả mọi
người. Đó là ước nguyện, là ham muốn tột bậc của Hồ Chí Minh và là ước nguyện
mong mỏi bao đời nay của nhân dân các dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh viết: “Chủ
nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được
đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán
không tốt dần dần được xóa bỏ... Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng
tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội” [120, tr.438].
Có thể nói, trên cơ sở giải quyết một cách đúng đắn và sáng tạo mối quan hệ giữa
vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, Hồ Chí Minh đã từng bước giải quyết thành công
46
những vấn đề chiến lược và sách lược của cách mạng trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Con đường giải phóng dân tộc đó phù hợp với xu thế phát triển của thời đại - thời đại
đấu tranh cho sự thắng lợi của hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam đã khẳng định tính đúng đắn của đường lối đó - một
đường lối thấm đượm tính dân tộc và nhân văn; đồng thời khẳng định sự lựa chọn con
đường đó chính là sự lựa chọn của lịch sử, đáp ứng được yêu cầu và khát vọng của toàn
thể dân tộc Việt Nam. Và như vậy, ta thấy việc giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai
cấp không phải nhất thời, mà là vấn đề chiến lược của cách mạng Việt Nam.
Ba là, giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp phải phù
hợp với xu thế phát triển của thời đại và thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh cho rằng trong thời đại mới - thời đại cách mạng vô sản, việc giải
quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp phải phù hợp và nằm trong xu thế của thời đại.
Chính vì vậy, sau khi lựa chọn con đường cách mạng giải phóng dân tộc theo khuynh
hướng cách mạng vô sản, Người đã chỉ ra mối liên hệ giữa cách mạng giải phóng thuộc
địa với cách mạng vô sản ở chính quốc; chỉ ra sự liên minh tất yếu giữa nhân dân, giai
cấp vô sản ở thuộc địa với nhân dân, giai cấp vô sản ở chính quốc vì mục đích giải
phóng thuộc địa, giải phóng loài người khỏi ách áp bức của chủ nghĩa tư bản. Người đã
cảnh báo tình trạng biệt lập giữa các quốc gia, sự thiếu lý luận cách mạng đang cản trở
bước tiến của sự nghiệp giải phóng thuộc địa. Từ đó, Người sớm chỉ ra sự liên minh
chiến đấu giữa giai cấp vô sản ở phương Đông và phương Tây, giữa các nước phương
đông với nhau như là một điều kiện cần thiết cho công cuộc giải phóng thuộc địa, giải
phóng giai cấp vô sản.
Hồ Chí Minh khẳng định, muốn thành công triệt để, cách mạng giải phóng dân
tộc nhất định phải đi theo và là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản, tức là
phải đứng trong hàng ngũ giai cấp công nhân toàn thế giới liên kết lại chống kẻ thù là
chủ nghĩa tư bản và Người cho rằng: “Sự nghiệp của người bản xứ gắn mật thiết với
sự nghiệp của vô sản toàn thế giới; mỗi khi chủ nghĩa cộng sản giành được chút ít
thắng lợi trong một nước nào đó, nhất là trong một quốc gia đế quốc chủ nghĩa... thì đó
càng là thắng lợi cả cho người An Nam” [109, tr.520]…Chính vì vậy, Hồ Chí Minh đã
tích cực, chủ động “kết hợp phong trào cách mạng nước ta với phong trào cách mạng
của giai cấp công nhân quốc tế và của các dân tộc bị áp bức” [119, tr.417]. Có nghĩa
rằng, Người nhận thức được rất rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa dân tộc và giai cấp trong
cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.
47
Nhưng Hồ Chí Minh không dừng lại ở đó, bằng phong cách tư duy độc lập, tự
chủ, sáng tạo, thiết thực gắn với thực tiễn, Người cho rằng việc giải quyết mối quan hệ
dân tộc và giai cấp còn phải sáng tạo dựa trên cơ sở thực tiễn của Việt Nam. Trên cơ
sở đó, theo Hồ Chí Minh, do điều kiện kinh tế còn lạc hậu, chưa phát triển, nên phân
hoá giai cấp ở châu Á, nhất là ở Đông Dương chưa rõ rệt, ở đây cuộc đấu tranh giai cấp
diễn ra không giống ở châu Âu. Vì vậy, ở các nước đang đấu tranh chống chủ nghĩa đế
quốc, vì độc lập dân tộc, thì đấu tranh dân tộc vẫn là một động lực lớn của lịch sử.
Người đặt vấn đề phải khai thác triệt để yếu tố dân tộc, sức mạnh của tinh thần dân tộc
trong cuộc đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa.
Theo Người, đối với Việt Nam, không thể giải quyết vấn đề giai cấp trước rồi
mới giải quyết vấn đề dân tộc như ở các nước tư bản phát triển phương Tây. Mà ngược
lại, chỉ có giải phóng dân tộc thì mới giải phóng được giai cấp, giải phóng dân tộc đã
bao hàm một phần giải phóng giai cấp và tạo tiền đề cho giải phóng giai cấp. Sở dĩ như
vậy là vì, “ở Việt Nam, cùng với sự tồn tại của mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp
trong nội bộ dân tộc, nổi lên mâu thuẫn dân tộc và đấu tranh giữa toàn dân tộc với chủ
nghĩa thực dân đế quốc và bè lũ tay sai” [65, tr.91]. Nói tóm lại, Hồ Chí Minh đã vận
dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam để đề
ra con đường cách mạng đầy sáng tạo của Việt Nam là: Giải phóng dân tộc, giải phóng
xã hội (giai cấp), giải phóng con người với khẩu hiệu: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết;
Thành công, thành công, đại thành công” [65, tr.80]. Như vậy có thể thấy rằng, khi lựa
chọn con đường cách mạng Việt Nam là con đường cách mạng vô sản. Ngay từ đầu, Hồ
Chí Minh đã nhận thức một cách đúng đắn và giải quyết sáng tạo mối quan hệ giữa dân
tộc và giai cấp phù hợp với xu thế của thời đại và thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đây
chính là một trong những cơ sở cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Bốn là, giải quyết triệt để mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
phải đảm bảo thống nhất, hài hòa về lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài giữa giai cấp
công nhân với các giai tầng trong nội bộ dân tộc.
Một trong những yếu tố độc đáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
và giai cấp là bên cạnh việc Người xem xét thái độ chính trị của giai cấp và các tầng lớp
trong xã hội, mà trong sự kết hợp đó, Hồ Chí Minh dựa trên sự phân tích lợi ích và các
quan hệ lợi ích của các giai tầng trong xã hội. Điều đó cho ta một phương pháp phân
tích giai cấp hết sức khoa học và có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Nó chứng tỏ sự vận dụng
48
chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam của Hồ Chí Minh hết sức linh hoạt và sáng tạo,
nhưng vẫn đứng vững trên quan điểm duy vật lịch sử của chủ nghĩa của Mác.
Xét về mối quan hệ lợi ích, Hồ Chí Minh đã đặt lợi ích của dân tộc lên trên lợi ích
giai cấp. Với một quốc gia bị ngoại bang xâm lược thì điều đó là hiển nhiên. Bởi vì,
trong thực tế, mặc dù xét cho cùng áp bức giai cấp là căn nguyên của áp bức dân tộc và
sự bất bình đẳng giữa các dân tộc, song nếu “nước mất” thì “nhà tan”. Dân tộc bị ngoại
bang xâm lược thì giai cấp cũng là nô lệ của ngoại bang. Ở đây, lợi ích dân tộc và lợi ích
giai cấp là thống nhất với nhau.
Trong lịch sử, dù giai cấp nào đại diện cho dân tộc, khi mà đất nước bị giặc ngoại
xâm, khi dân tộc phải trở thành nô lệ cho ngoại bang, thì đều phải đặt lợi ích dân tộc lên
trên lợi ích giai cấp. Thậm chí, nếu lợi ích dân tộc và giai cấp mâu thuẫn tạm thời phải
gác lại hoặc hy sinh lợi ích giai cấp. Nếu làm ngược lại thì đó là trường hợp của bọn bán
nước, tay sai đế quốc. Như vậy, Hồ Chí Minh đặt lợi ích của dân tộc lên trên, lấy mục
tiêu độc lập dân tộc làm mục tiêu hàng đầu, là hoàn toàn hợp quy luật, hợp logic phát
triển của lịch sử, hợp với truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Đồng
thời, cũng cũng phù hợp với nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa
cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay.
Trên cơ sở nắm vững các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí
Minh cũng hiểu rất rõ đặc điểm về văn hóa, kinh tế, xã hội của xã hội Việt Nam trong
điều kiện thuộc địa. Người hiểu sâu sắc rằng, giai cấp công nhân có sự thống nhất lợi ích
cơ bản giữa các giai cấp và tầng lớp trong xã hội. Theo Người, ở Việt Nam, các giai cấp,
tầng lớp có cùng nguồn gốc xuất thân từ nông dân, có lợi ích cơ bản thống nhất với
nhau, nhất là giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, trong đó
giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo, lôi kéo, vận động các giai cấp, tầng lớp tiến
hành vào cuộc đấu tranh để xây dựng chế độ xã hội mới. Trên cơ sở những điểm tương
đồng đó mà Hồ Chí Minh cho rằng, trong giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp
phải đảm bảo được cả lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài giữa các giai tầng trong xã hội;
và ngược lại chỉ có đảm bảo giải quyết một cách thấu đáo lợi ích trước mắt và lợi ích lâu
dài giữa giai cấp công nhân với các giai tầng khác mới giải quyết được hiệu quả mối
quan hệ dân tộc và giai cấp. Trên cơ sở nhận thức đúng được đặc điểm này, Hồ Chí
Minh đã có cách thức xử lý mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trên một bình
diện mới, linh hoạt hơn, mềm dẻo hơn, tránh được tư tưởng tả khuynh như đã từng xảy
ra trong lịch sử phong trào cộng sản thế giới.
49
Năm là, trong giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp cần
phải sáng tạo, linh hoạt và khéo léo trong từng giai đoạn cách mạng nhằm đảm bảo huy
động được mọi nguồn lực cho thắng lợi của cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, trong giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp cần phải
sáng tạo, linh hoạt và khéo léo trong từng giai đoạn cách mạng nhằm đảm bảo huy động
được mọi nguồn lực cho thắng lợi của cách mạng, bao gồm nguồn lực bên trong (nội
lực) và nguồn lực bên ngoài (ngoại lực), nguồn lực vật chất và nguồn lực tinh thần...
Đây là một nguyên tắc quan trọng trong việc xác định nguồn lực và lực lượng cho cách
mạng. Thực tiễn cách mạng nước ta cho thấy, đã có lúc Đảng ta chưa nhận thức một
cách đầy đủ vấn đề trên nên đã mắc sai lầm trong việc tập hợp lực lượng, gây tổn thất
cho cách mạng.
Sự sáng tạo, linh hoạt và khéo léo trong giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân
tộc và vấn đề giai cấp, được Hồ Chí Minh cho rằng, luôn luôn phải tìm thấy những điểm
“tương đồng” giữa các giai cấp, tầng lớp khác nhau trong dân tộc Việt Nam, giữa dân
tộc Việt Nam với các dân tộc khác trên thế giới. Do vậy, theo Người trong quá trình giải
quyết mối quan hệ đó phải luôn tìm thấy những điểm tương đồng giữa dân tộc và giai
cấp, giữa dân tộc và quốc tế, có như vậy mới có thể huy động được mọi nguồn lực cho
cách mạng được.
Sở dĩ phải như vậy là vì, theo Hồ Chí Minh trong quá trình cách mạng, giữa
các yếu tố dân tộc, giai cấp không chỉ có sự khác biệt về đặc điểm giữa các quốc gia
- dân tộc, mà còn luôn luôn có sự vận động và biến đổi. Nên trong tiến trình cách
mạng cần phải nhận thức và giải quyết một cách sáng tạo, linh hoạt, khéo léo quan hệ
đó, nếu không sẽ rơi vào chủ quan, máy móc, duy ý chí, điều này rất dễ gây tổn thất
cho cách mạng.
Điểm tương đồng lớn nhất và quan trọng nhất giữa các tầng lớp, giai cấp, tộc
người trong cộng đồng dân tộc Việt Nam theo Hồ Chí Minh chính là lòng yêu nước, tinh
thần dân tộc. Đây là cơ sở đưa tới sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo nên
tính cố kết cộng đồng vững chắc trước mọi diễn biến phức tạp của thời cuộc. Yêu nước
và đại đoàn kết dân tộc không chỉ là động lực lớn trong sự nghiệp giành độc lập dân tộc
mà cũng là động lực lớn trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Trong quá
trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh cũng luôn nhắc nhở cán bộ đảng viên
phải khơi dậy tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, truyền thống đoàn kết dân tộc,
50
tính cố kết cộng đồng... để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Khối đại đoàn kết toàn
dân, không phân biệt nòi giống, giai cấp, tôn giáo, gái trai, giàu nghèo…, trong đó công
nhân, nông dân, trí thức là nền tảng. Người cho rằng, “Trong bầu trời không gì quý bằng
nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” [117,
tr.453]. Trên cơ sở đó, Hồ Chí Minh chủ trương đoàn kết rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân
trong Mặt trận dân tộc thống nhất.
Một điều đáng lưu ý là trong khi nhấn mạnh yếu tố dân tộc, nội sinh, Hồ Chí
Minh cũng không xem nhẹ vai trò của các nguồn lực ngoại sinh như yếu tố thời đại,
cũng như sự giúp đỡ quốc tế... Người đã đánh giá hết sức đúng đắn và chủ động sự tiếp
nhận giúp đỡ của quốc tế đối với cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, việc kết hợp với các
nguồn lực bên ngoài cũng cần phải hết sức linh hoạt, mềm dẻo, khéo léo để tìm ra
những điểm tương đồng giữa dân tộc Việt Nam và các dân tộc trên thế giới. Có như vậy,
mới huy động được tối đa nguồn lực bên ngoài, kết hợp với nguồn lực nội sinh tạo nên
sức mạnh tổng hợp giành thắng lợi cho cách mạng.
Trên cơ sở những điểm tương đồng giữa dân tộc Việt Nam với các nước trên
toàn thế giới, là lòng khát khao hướng đến các giá trị nhân bản chung như yêu hòa
bình, chán ghét chiến tranh, mong muốn hướng đến một cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, hướng đến cái đẹp và cái thiện... Trong điều kiện mà “cách mạng giải phóng dân
tộc là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản trong phạm vi toàn thế giới” [122,
tr.392] thì “thắng lợi của cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của các dân tộc gắn liền với
sự ủng hộ và giúp đỡ tích cực của phe xã hội chủ nghĩa và của phong trào công nhân ở
các nước tư bản chủ nghĩa” [122, tr.392]. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh đã tích cực, chủ
động “kết hợp phong trào cách mạng nước ta với phong trào cách mạng của giai cấp
công nhân quốc tế và của các dân tộc bị áp bức” [119, tr.417], đưa cách mạng Việt
Nam vào dòng chảy chung của cách mạng thế giới, là cơ sở để huy động nguồn lực
trong nước với nguồn lực quốc tế tạo ra sức mạnh tổng hợp đưa cách mạng đi đến
thắng lợi cuối cùng.
Trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam, chính Hồ Chí Minh và Đảng ta
cũng đã giải quyết thành công những vấn đề rất phức tạp về quan hệ dân tộc và quốc tế
trong những bối cảnh đất nước và thế giới cực kỳ phức tạp. Người đã giải quyết các vấn
đề ấy một cách đúng đắn, khôn khéo và thuỷ chung, là cơ sở để từng bước đưa cách
mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
51
2.3. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM XUẤT PHÁT
TỪ VIỆC GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ
GIAI CẤP
2.3.1. Mục tiêu của cách mạng Việt Nam
Khi lựa chọn con đường giải phóng dân tộc đặt trong quỹ đạo của cách mạng vô
sản, Hồ Chí Minh đã giải quyết thành công mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp trong việc xác định mục tiêu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội, giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp và giải
phóng con người. Hay có thể nói một cách khác mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội, chính là biểu hiện giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa vấn đề dân
tộc và vấn đề giai cấp trên lập trường của giai cấp công nhân.
Việc giải quyết một cách nhuần nhuyễn mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn
đề giai cấp trong việc xác định con đường, mục tiêu của cách mạng Việt Nam, có thể nói
đây là một sáng tạo to lớn về lý luận của Hồ Chí Minh, là một biểu hiện của một tư duy
biện chứng sắc sảo được hình thành trên cơ sở nhận thức đúng đắn về quá trình vận
động của hiện thực lịch sử, là một đóng góp to lớn vào học thuyết Mác - Lênin về đường
lối cách mạng ở các nước thuộc địa.
Trên cơ sở nhận thức một cách sâu sắc về quan hệ dân tộc và quan hệ giai cấp;
động lực dân tộc và động lực giai cấp; lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp chính là cơ sở
để đưa đến quan điểm sự nghiệp cách mạng Việt Nam trước hết phải là cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc, nhưng không phải là cuộc cách mạng thuần túy như quan điểm của
các nhà yêu nước phi mácxít, mà là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mang trong
mình nhiệm vụ giải phóng giai cấp và cao hơn là giải phóng con người. Chính hiện thực
xã hội Việt Nam dưới chế độ thực dân là cơ sở để khẳng định rằng, mặc dù nhiệm vụ
giải phóng giai cấp và nhiệm vụ giải phóng con người đã được thực hiện một bước trong
cách mạng giải phóng dân tộc, song sau khi cách mạng giải phóng dân tộc thành công,
nhiệm vụ ấy vẫn còn tiếp tục được thực hiện trong quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng
xã hội mới mà ở đó “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự
do của tất cả mọi người” [105, tr.628].
Quan điểm rõ ràng về con đường cách mạng Việt Nam, trong Chánh cương vắn
tắt của Đảng đã xác định: Cách mạng Việt Nam phải trải qua các giai đoạn: Làm tư sản
dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng (tức cách mạng dân tộc, dân chủ) để đi tới
xã hội cộng sản. Từ đó về sau trong quá trình hoạt động thực tiễn và nghiên cứu lý luận,
Hồ Chí Minh nhiều lần trình bày tư tưởng của mình về con đường cách mạng Việt Nam.
52
Năm 1953, trong tác phẩm Thường thức chính trị, Hồ Chí Minh viết: “Tính chất thuộc
địa và phong kiến của xã hội cũ Việt Nam khiến cách mạng Việt Nam phải chia làm hai
bước. Bước thứ nhất là đánh đổ đế quốc, đánh đổ phong kiến, thực hiện “người cày có
ruộng”, xây dựng chính trị và kinh tế dân chủ mới... Bước thứ hai là tiến lên chủ nghĩa
xã hội, tức là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản” [115, tr.254]. Nói chuyện tại Đại
hội đại biểu lần thứ hai Hội nhà báo Việt Nam, ngày 16-4-1959, Hồ Chí Minh chỉ rõ các
bài viết của Người chỉ rõ “chỉ có một "đề tài" là: Chống thực dân đế quốc, chống phong
kiến địa chủ, tuyên truyền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” [119, tr.171]. Những
năm 60 của thế kỷ XX, con đường cứu nước và giải phóng dân tộc Việt Nam được Hồ
Chí Minh luận giải khái quát, sâu sắc hơn. Nói chuyện tại Hội nghị bồi dưỡng chỉnh
huấn do Trung ương triệu tập, ngày 22-1-1965 Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Những người
cộng sản chúng ta không một phút nào được quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu
cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập, cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước
ta và trên toàn thế giới” [121, tr.467]…Ở đây ta thấy, sự kết hợp yếu tố dân tộc và yếu tố
giai cấp thể hiện ở sự nối tiếp giữa các giai đoạn cách mạng. Trong giai đoạn cách mạng
dân tộc, dân chủ là đánh đổ chủ nghĩa thực dân Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước
Việt Nam hoàn toàn độc lập thì giai đoạn ấy vẫn nằm trong phạm trù cách mạng vô sản,
hay nói cách khác, nó mang tính chất của của một cuộc cách mạng vô sản giải quyết
nhiệm vụ giải phóng dân tộc và nhiệm vụ dân chủ. Do vậy, nó không giới hạn ở giới hạn
giải phóng dân tộc và nhiệm vụ dân chủ, mà còn chứa đựng tính tất yếu của cuộc cách
mạng giải phóng triệt để giai cấp và con người, tức là thực hiện mục tiêu dân tộc, dân
chủ hướng chế độ cộng sản. Như vậy, với quan điểm này đã thể hiện một sự kết hợp
nhuần nhuyễn trong việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
của Hồ Chí Minh trong việc xác định mục tiêu trong con đường cách mạng Việt Nam.
Cùng với sự phát triển của thực tiễn cách mạng, Hồ Chí Minh đã tiếp tục khẳng định và
bổ sung, cụ thể hóa lộ trình chung này.
Cũng cần phải nhấn mạnh rằng theo Hồ Chí Minh, đặc trưng của việc giải quyết
mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong giai đoạn cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân là ở chỗ đặt lợi ích dân tộc được đặt lên trên hết. Đây cũng là điểm
đặc sắc và sáng tạo nhất của Hồ Chí Minh trong việc xử lý mối quan hệ này. Vì theo
Người, đối với Việt Nam chỉ có giải phóng dân tộc thì mới giải phóng được giai cấp,
giải phóng dân tộc đã bao hàm một phần giải phóng giai cấp và tạo tiền đề cho giải
phóng giai cấp. Sở dĩ như vậy là vì, “ở Việt Nam, cùng với sự tồn tại của mâu thuẫn giai
cấp và đấu tranh giai cấp trong nội bộ dân tộc, nổi lên mâu thuẫn dân tộc và đấu tranh
53
giữa toàn dân tộc với chủ nghĩa thực dân đế quốc và bè lũ tay sai” [65, tr.91]. Mặt khác
như phân tích kết cấu xã hội Việt Nam ở trên, chúng ta thấy rằng thực dân Pháp vừa là
kẻ thù dân tộc vừa là kẻ thù giai cấp. Do vậy, mục tiêu dân tộc cũng đã gắn chặt với mục
tiêu giai cấp và mục tiêu con người. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh cho rằng, chỉ khi nào
nước được độc lập, thì tất cả các mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng con người mới
có điều kiện thực hiện một cách triệt để. Trong thư Kính cáo đồng bào (6/6/1941), Hồ
Chí Minh viết: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta
phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước
sôi lửa nóng” [110, tr.230]. Điều này tiếp tục được thể hiện trong Hội nghị Trung ương
lần thứ tám: “Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng,
không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia
dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của của bộ phận, giai cấp đến vạn
năm cũng không đòi lại được” [43, tr.113]. Từ những phân tích trên, cho thấy trong cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân, khi nhiệm vụ dân tộc được giải quyết triệt để thì nhiệm
vụ dân chủ cũng từng bước được hoàn thành. Đồng thời, việc thực hiện đúng đắn các
nhiệm vụ dân chủ theo lập trường của giai cấp công nhân cũng là một cơ sở quan trọng
bảo đảm thắng lợi hoàn toàn và triệt để nhiệm vụ dân tộc.
Như vậy, xuất phát từ thực tiễn, từ những mâu thuẫn trong lòng xã hội Việt Nam,
trong giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, Hồ Chí Minh rất
coi trọng vấn đề dân tộc, đặt vấn đề giải phóng lên hàng đầu, đề cao sức mạnh của chủ
nghĩa yêu nước, chủ nghĩa dân tộc, nhưng Người đã đứng trên lập trường của giai cấp
công nhân để giải quyết vấn đề dân tộc, nó thể hiện ở mục tiêu cuối cùng của công cuộc
giải phóng là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp
công nhân và quyền lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản trong quá trình cách mạng
Việt Nam; chủ trương đại đoàn kết dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh công nhân,
nông dân và tầng lớp trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng… Mặt khác cần nhấn mạnh
rằng, trong khi nêu cao vấn đề dân tộc, Hồ Chí Minh không hề hạ thấp hoặc coi nhẹ vấn
đề giai cấp và đấu tranh giai cấp. Nhiều nhà nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh đều
có chung nhận định rằng: “Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn, sáng tạo mối quan hệ
giữa dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội trong quá trình
phát triển của cách mạng Việt Nam” [65, tr.91].
Tiếp theo, trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, tiến lên chủ nghĩa xã hội
là con đường để bảo đảm một nền độc lập thực sự, bền vững cho Việt Nam đồng thời
54
góp phần vào thắng lợi chung của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, tạo tiền
đề đi lên chủ nghĩa cộng sản. Do vậy, Hồ Chí Minh cho rằng, độc lập dân tộc phải gắn
liền với chủ nghĩa xã hội thì độc lập dân tộc mới vững chắc. Nói khác đi, chỉ có lựa chọn
con đường phát triển chủ nghĩa xã hội mới là con đường bảo vệ và phát triển vững chắc
nhất thành quả của độc lập dân tộc, mới bảo đảm cho nhân dân thực sự được hạnh phúc,
đồng bào thực sự được ấm no. Tất nhiên, độc lập dân tộc cũng là điều kiện, tiền đề, cơ
sở để thực hiện chủ nghĩa xã hội.
Sở dĩ như vậy là vì, chủ nghĩa xã hội theo quan điểm của Hồ Chí Minh chính là “1.
Làm cho dân có ăn. 2. Làm cho dân có mặc. 3. Làm cho dân có chỗ ở. 4. Làm cho dân có
học hành” [111, tr.175]. “Chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa
của nhân dân, và do nhân dân tự xây dựng lấy” [120, tr.387]. Có thể nói, chủ nghĩa xã hội
theo Hồ Chí Minh là làm cho dân giàu, nước mạnh, mọi người ai cũng có công ăn, việc
làm, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Trong chủ nghĩa xã hội, các dân
tộc trong nước đoàn kết, bình đẳng, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau, đời sống kinh tế, văn hoá,
chính trị, tinh thần của nhân dân ngày càng được bảo đảm và không ngừng nâng cao. Chủ
nghĩa xã hội có quan hệ hoà bình, hữu nghị với tất cả các nước, các dân tộc. Rõ ràng, chủ
nghĩa xã hội như vậy sẽ không chỉ bảo vệ vững chắc thành quả của độc lập dân tộc mà
còn làm cho nhân dân được hạnh phúc, đồng bào được tự do, còn tạo ra điều kiện phát
triển mới cho dân tộc, cho mọi người dân. Do vậy, chủ nghĩa xã hội là con đường mà Hồ
Chí Minh đã lựa chọn cho dân tộc Việt Nam phát triển. Cũng vì vậy, theo Hồ Chí Minh,
độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Có thể nói, trên cơ sở giải quyết một cách đúng đắn và sáng tạo mối quan hệ
dân tộc và giai cấp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng bước giải quyết thành công những
vấn đề chiến lược và sách lược của cách mạng trong từng giai đoạn của cách mạng.
Con đường giải phóng dân tộc đó nó phù hợp với xu thế phát triển của thời đại - thời
đại cách mạng vô sản. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam đã khẳng định tính đúng
đắn của đường lối đó, đồng thời khẳng định sự lựa chọn con đường đó là sự lựa chọn
của chính lịch sử, đã đáp ứng được yêu cầu và khát vọng của toàn thể dân tộc Việt
Nam, một đường lối cho thấy sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp thấm
đượm tính dân tộc và nhân văn.
2.3.2. Xác định lực lượng và động lực của cách mạng
2.3.2.1. Lực lượng cách mạng
Từ việc giải quyết thành công những vấn đề về đường lối chiến lược và sách lược
của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã giải quyết thành công vấn đề về lực lượng
55
cách mạng. Việc xác định lực lượng cách mạng cũng là một sáng tạo của Hồ Chí Minh
trong việc giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong cách mạng Việt Nam.
Theo Hồ Chí Minh, lực lượng cách mạng là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn
dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, giai cấp, tôn giáo, gái trai, giàu nghèo…,
trong đó công nhân, nông dân, trí thức là nền tảng. Người cho rằng: “Trong bầu trời
không gì quí bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của
nhân dân” [115, tr.276]. Trên cơ sở đó, Hồ Chí Minh chủ trương đoàn kết rộng rãi mọi
tầng lớp nhân dân trong một Mặt trận dân tộc thống nhất. Đây là một quan điểm biện
chứng, lực lượng tiến hành cách mạng được nhìn có chiều sâu và có sự thống nhất dưới
các cấp độ khác nhau. Quan điểm biện chứng này cũng là kết quả của sự phân tích biện
chứng cơ cấu xã hội Việt Nam trong chế độ thực dân, được nhìn dưới góc độ lợi ích.
Thứ nhất, là toàn thể nhân dân Việt Nam yêu nước. Trong nhiều bài nói, bài viết
của mình Hồ Chí Minh thường dùng các từ: dân, nhân dân, dân chúng, quần chúng,
đồng bào, quần chúng nhân dân,... để chỉ mọi người Việt Nam yêu nước, không phân
biệt già, trẻ, gái, trai, giàu, nghèo, tôn giáo, giai cấp, dân tộc. Trong cuộc cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân, Người chỉ rõ: “Nhân dân là bốn giai cấp công, nông, tiểu tư sản,
tư sản dân tộc và những phần tử khác yêu nước. Đó là nền tảng của quốc dân” [115,
tr.264]. Do vậy, theo Hồ Chí Minh: “Cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không
phải việc một hai người” [109, tr.283]; “cách mệnh thì phải đoàn kết dân chúng bị áp
bức để đánh đổ cả cái giai cấp áp bức mình” [109, tr.299].
Thứ hai, Hồ Chí Minh xác định công nhân - nông dân - trí thức là nền tảng, hạt
nhân của cách mạng. Liên minh công - nông - trí thức là cơ sở của khối đại đoàn kết dân
tộc, khối đại đoàn kết toàn dân, tập hợp, thu hút mọi lực lượng yêu nước. Quan điểm
này của Hồ Chí Minh được thể hiện rõ khi người khẳng định: “Nông dân, công nhân,
lao động trí óc đều phải dựa vào nhau. Nông dân không có sự giúp đỡ của công nhân thì
không được... Công nhân không có nông dân... cũng không đủ sức mạnh mà đánh giặc,
lao động trí óc cũng vậy” [114, tr.552-553].
Thứ ba, trong lực lượng cách mạng là toàn thể nhân dân Việt Nam yêu nước với
liên minh công nhân - nông dân - trí thức là nền tảng, Hồ Chí Minh khẳng định giai cấp
công nhân là lực lượng lãnh đạo. Đây là chiều sâu nhất trong cách tiếp cận về lực lượng
cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh. Người cho rằng: “bạn đồng minh
cương quyết của giai cấp vô sản trong cách mạng là quần chúng nông dân. Cách mạng
chỉ có thể thắng lợi nếu như những làn sóng cách mạng lay động được quần chúng nông
dân dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản” [109, tr.564-565]. Trong Sách lược vắn tắt của
56
Đảng, do Hồ Chí Minh soạn thảo, Người viết: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai
cấp, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh
đạo được dân chúng” [110, tr.3].
Như vậy, trong việc xác định lực lượng cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã
kết hợp một cách nhuần nhuyễn việc giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp.
Khi xác định lực lượng cách mạng là toàn dân tộc, toàn thể nhân dân Việt Nam với động
lực đấu tranh là động lực dân tộc, thì đồng thời Hồ Chí Minh cũng xác định công nhân -
nông dân - trí thức là nền tảng của cách mạng, trong họ hội tụ cả động lực dân tộc và
động lực giai cấp, theo Hồ Chí Minh, họ là người có tinh thần cách mạng triệt để nhất.
Khi xác định công nhân - nông dân - trí thức là nền tảng của cách mạng thì đồng thời,
Hồ Chí Minh cũng xác định giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng. Bởi vì,
tuy đồng thời chịu sự áp bức của chế độ thực dân, phong kiến, với tư cách là người lao
động và với tư cách là người bản xứ, song do đặc điểm giai cấp của mình, giai cấp nông
dân và tầng lớp trí thức chỉ có thể giải phóng mình nếu gắn cuộc đấu tranh của mình với
giai cấp công nhân và chấp nhận sự lãnh đạo của giai cấp công nhân.
Như vậy, chúng ta thấy sự sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc giải quyết mối
quan hệ dân tộc và giai cấp, khi Người xác định lực lượng cách mạng là toàn thể dân tộc
Việt Nam, trong đó nòng cốt là liên minh công nhân - nông dân - trí thức dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản. Quan điểm này đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng
minh là đúng đắn và sáng tạo.
2.3.2.2. Động lực của cách mạng
Xuất phát góc độ quan hệ lợi ích, Hồ Chí Minh đã giải quyết thành công mối
quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong việc xác định lực lượng cách mạng
và như vậy có thể thấy sự thống nhất về lợi ích cũng là động lực chủ yếu của cách mạng
Việt Nam.
Bên cạnh giải quyết thành công vấn đề quan hệ lợi ích và coi đó cũng là một động
lực cơ bản của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa yêu nước là một
động lực to lớn trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Đây cũng là một sáng tạo rất lớn
của Hồ Chí Minh khi vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của cách
mạng Việt Nam, chính Người đã bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều
kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Điều này, được thể hiện trên những vấn đề cơ bản
sau đây:
Trước hết, có thể thấy chủ nghĩa yêu nước mà Hồ Chí Minh đề cập là chủ nghĩa
yêu nước chân chính và nó có sự thống nhất với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công
57
nhân. Bởi vì, chủ nghĩa yêu nước mà Hồ Chí Minh đề cập là chủ nghĩa yêu nước chân
chính và tinh thần dân tộc chân chính là dòng chủ lưu của tư tưởng văn hoá Việt Nam,
đã được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử, vốn là động lực tinh thần vô giá trong các
cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc. Một dân tộc đang đấu tranh
chống chủ nghĩa đế quốc giành độc lập, tự do, thì chủ nghĩa yêu nước là động lực vĩ đại.
Người thấy rõ sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Đó là sức mạnh chiến đấu
và thắng lợi trước bất cứ thế lực ngoại xâm nào: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu
nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm
lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó
lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”
[114, tr.38]. Như vậy, chủ nghĩa yêu nước chân chính mà Hồ Chí Minh đề cập ở đây nó
khác xa về bản chất với chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa dân tộc sô vanh đã từng
diễn ra trong lịch sử nhân loại.
Việc Hồ Chí Minh chỉ ra sự thống nhất giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính với
chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng, cũng chính là một biểu hiện của việc kết hợp nhuần
nhuyễn mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp của Hồ Chí Minh, khi xác
định động lực của cách mạng Việt Nam.
Mặt khác, chủ nghĩa yêu nước mà được Hồ Chí Minh đề cập là chủ nghĩa yêu
nước được bổ sung những giá trị mới của thời đại mới - thời đại cách mạng vô sản. Và
như vậy có thể khẳng định là Hồ Chí Minh đã phát triển và nâng tầm chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam lên một một tầm cao mới.
Từ việc nhìn nhận chủ nghĩa yêu nước là một động lực to lớn, là nền tảng của
cách mạng, Hồ Chí Minh cũng là người đặt nền móng đầu tiên cho chủ nghĩa yêu nước
cách mạng, chủ nghĩa yêu nước trên lập trường của giai cấp công nhân, chủ nghĩa yêu
nước trong thời đại cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người. Chủ nghĩa yêu nước cách mạng ấy trở thành giá trị nền tảng của toàn thể dân tộc
Việt Nam. Đây cũng chính là một sáng tạo lớn của Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan
hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong việc xác định động lực cách mạng.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, trong thời đại mới có những nội dung và giá trị
mới, với những đặc trưng cơ bản là sự kết hợp hài hoà mối quan hệ giữa giai cấp, dân
tộc, nhân loại; kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội; kết hợp chủ nghĩa yêu nước
chân chính với chủ quốc tế vô sản. Trong chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong thời đại
mới, giai cấp công nhân Việt Nam được khẳng định giữ vai trò lãnh đạo cách mạng Việt
Nam. Con đường phát triển của cách mạng Việt Nam do giai cấp công nhân lãnh đạo tất
58
yếu là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Và dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác -
Lênin, giác ngộ dân tộc của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống đã vươn lên
giác ngộ giai cấp vô sản, đấu tranh giải phóng dân tộc thống nhất với đấu tranh giải
phóng giai cấp. Cuộc đấu tranh đó tất yếu đưa đến độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải biết khơi dậy, phát huy
chủ nghĩa yêu nước của mỗi người Việt Nam trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước trong thời đại mới cần kết hợp chặt chẽ
truyền thống tốt đẹp của dân tộc với việc kế thừa và phát triển sáng tạo tinh hoa văn hoá
nhân loại. Người cho rằng, việc kết hợp chủ nghĩa yêu nước Việt Nam với chủ nghĩa
Mác - Lênin, chính là đã nâng chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống lên chủ nghĩa
yêu nước theo lập trường giai cấp công nhân, tạo nên một động lực mới về chất đối với
sự phát triển của dân tộc.
Chủ nghĩa Mác - Lênin vốn là vũ khí sắc của giai cấp công nhân qua sự kết hợp
sáng tạo của Hồ Chí Minh đã trở thành vũ khí vô địch của cả dân tộc. Đến Việt Nam
chủ nghĩa Mác - Lênin tìm thấy sức mạnh không chỉ ở giai cấp công nhân mà còn ở toàn
thể dân tộc. Từ sự kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh
đã đem ánh sáng cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin soi sáng chủ nghĩa yêu
nước truyền thống Việt Nam làm cho chủ nghĩa yêu nước truyền thống vươn lên tiến
cùng thời đại, trở thành chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh. Không được chủ nghĩa Mác -
Lênin soi sáng, chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam sẽ rơi vào tình trạng bất cập
trước kẻ thù mới, thời đại mới. Mặt khác đến Việt Nam nếu chủ nghĩa Mác - Lênin
không kết hợp được với phong trào yêu nước thì nó sẽ mất đi một lực lượng to lớn. Đây
chính là cơ sở để quy tụ và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân - chìa khóa thắng lợi
của cách mạng Việt Nam.
Như vậy, việc kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa Mác - Lênin
- chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng cũng chính là một sáng tạo lớn của Hồ Chí Minh
trong việc xác định động lực cho cách mạng Việt Nam. Việc sáng tạo đó cũng xuất phát
từ việc nhận thức và giải quyết thành công mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp
trên lập trường của giai cấp công nhân.
Nói tóm lại, việc giải quyết nhuần nhuyễn mối quan hệ này trong vấn đề xác định
lực lượng và động lực cách mạng đã thể hiện một trình độ lý luận vượt xa các nhà cách
mạng đương thời. Chính quan điểm sáng tạo đó đã có lúc Hồ Chí Minh bị phê phán rất
gay gắt khi bị cho rằng là người “dân tộc chủ nghĩa”. Và đã có lúc, Người đã gặp phải
59
những thử thách gay go, “trong tình trạng không hoạt động và giống như là sống ở bên
cạnh, ở bên ngoài của Đảng” [110, tr.317]. Nhưng bằng bản lĩnh của một chiến sĩ cộng
sản chân chính, Người cũng đã từng bước vượt qua nhưng khó khăn đó. Thực tiễn lịch
sử đã chứng minh quan điểm của Hồ Chí Minh là hoàn toàn đúng đắn, sáng tạo. Những
quan điểm đúng đắn và sáng tạo của Người, đã từng bước được Đảng ta nhận thức một
cách đầy đủ và vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Tại Hội
nghị Trung ương lần thứ VIII, tháng 5 năm 1941, tư tưởng giương cao ngọn cờ đại đoàn
kết dân tộc của Hồ Chí Minh đã được Đảng tiếp thu đầy đủ và phát triển thêm. Thắng
lợi của cách mạng tháng 8-1945, đã chứng minh quan điểm của Hồ Chí Minh là đúng
đắn và sáng tạo.
2.3.3. Về vấn đề quan hệ quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại
Từ một người yêu nước, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, lựa chọn con đường
cách mạng vô sản, cùng với việc khẳng định đại đoàn kết dân tộc là động lực chủ yếu
của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh cũng hiểu sâu sắc rằng cách mạng Việt Nam là
một bộ phận của cách mạng thế giới, nên đoàn kết dân tộc phải mở rộng thành đoàn kết
quốc tế, sức mạnh dân tộc cần phải được kết hợp với sức mạnh thời đại, trên cơ sở kết
hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản của giai cấp
công nhân. Sự kết hợp đó là nhân tố tạo nên sức mạnh tổng hợp để cách mạng đi đến
thắng lợi. Đây là một đóng góp vô cùng quan trọng của Hồ Chí Minh đối với cách mạng
Việt Nam. Mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là mối quan hệ
biện chứng. Sự ủng hộ của phong trào cách mạng thế giới đối với cách mạng Việt Nam
là cơ sở quan trọng để cách mạng Việt Nam giành thắng lợi hoàn toàn. Ngược lại, cách
mạng Việt Nam cùng với việc thực hiện giải phóng dân tộc mình phải đóng góp vào
phong trào cách mạng thế giới.
Trong điều kiện của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã nhận rõ tính tất yếu của sự tác
động qua lại giữa các yếu tố dân tộc và quốc tế, xác lập mối quan hệ với cách mạng thế
giới có ý nghĩa quan trọng đối với cách mạng Việt Nam. Người chỉ ra rằng, ngày nay, sự
thống trị và bóc lột của chủ nghĩa đế quốc đã mang tính toàn cầu “Chủ nghĩa tư bản là
một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác
bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta
phải đồng thời cắt cả hai vòi” [108, tr.320]. Vì vậy, “thế giới sẽ chỉ có nền hoà bình cuối
cùng khi tất cả các dân tộc tự mình thoả thuận với nhau cùng tiêu diệt con quái vật đế
quốc chủ nghĩa ở khắp mọi nơi mà họ gặp nó” [108, tr.17]. Chính thực tế đó đã tạo ra ở
60
Hồ Chí Minh về mối liên hệ và sự quy định lẫn nhau giữa cách mạng giải phóng dân tộc
với cách mạng xã hội chủ nghĩa, giữa phong trào cách mạng của một dân tộc với phong
trào cách mạng thế giới. Do vậy đối với Người, sự kết hợp các yếu tố dân tộc và quốc tế
trong cách mạng của mỗi dân tộc là một tất yếu lịch sử.
Thứ nhất, trong mối quan hệ với cách mạng thế giới, Hồ Chí Minh khẳng định
tính quyết định của yếu tố dân tộc đối với sự phát triển của cách mạng Việt Nam.
Là người thấm nhuần phép biện chứng mácxít, Hồ Chí Minh nhìn nhận những
yếu tố dân tộc như là những yếu tố nội sinh, có vai trò quyết định đối với sự phát triển,
sự thắng lợi của cách mạng và Người đặc biệt nhấn mạnh vấn đề này. Trong cách mạng
giải phóng dân tộc, Người tìm thấy động lực quyết định ở sức mạnh tổng hợp của bản
thân dân tộc Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh, ở các nước đang đấu tranh chống chủ nghĩa
đế quốc, thực dân, vì độc lập dân tộc, như Việt Nam thì đấu tranh dân tộc vẫn là một
động lực lớn của lịch sử.
Vấn đề này không phải ai cũng nhận thấy tính quyết định của yếu tố dân tộc trong
việc giải quyết những nhiệm vụ của lịch sử. Trong khi Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân
mình khắc cứu dân mình mới xong” [110, tr.281], thì Phan Bội Châu lại quá chú trọng
đến ngoại viện, Phan Châu Trinh chủ trương cải lương. Và họ thất bại. Chính vì sớm tìm
thấy sức mạnh giải phóng đất nước trong yếu tố dân tộc, nội sinh nên ngay khi giác ngộ
chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã chủ trương “trở về nước, đi vào quần chúng,
thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc
lập” [108, tr.209].
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam, xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc, mặc dù, Hồ Chí Minh luôn nêu cao chủ nghĩa quốc tế và đoàn
kết quốc tế, nhưng đồng thời Người cũng luôn khẳng định tính quyết định của yếu tố nội
sinh, luôn đề cao lợi ích dân tộc, nhấn mạnh “Phải có tinh thần dân tộc vững chắc”,
Người căn dặn muốn làm gì cũng cần vì lợi ích dân tộc mà làm và phải luôn luôn vì lợi
ích của dân tộc mà phục vụ. Hồ Chí Minh thường nhắc nhở, khẳng định: “Cũng như
trong thời kỳ kháng chiến, phương châm của ta hiện nay là: Tự lực cánh sinh là chính,
việc các nước bạn giúp ta là phụ” [117, tr.56]. Những thành tựu của cách mạng Việt
Nam 85 năm qua ta càng thấy rõ giá trị của quan điểm trên của Hồ Chí Minh.
Thứ hai, các yếu tố quốc tế đối với cách mạng Việt Nam có tầm quan trọng
đặc biệt.
Trong khi xem xét vấn đề, nếu quá coi trọng vấn đề này hoặc xem nhẹ vấn đề kia
sẽ không khách quan. Đối với Hồ Chí Minh, trong khi nhấn mạnh yếu tố dân tộc, nội sinh,
61
Người cũng không xem nhẹ vai trò của các yếu tố ngoại sinh, sự giúp đỡ quốc tế. Trên cơ
sở nhận thức đúng đắn vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, Hồ Chí Minh cũng phân biệt
một cách đúng đắn đâu là bạn và đâu là thù để đánh giá hết sức đúng đắn và chủ động tiếp
nhận sự giúp đỡ của quốc tế đối với cách mạng Việt Nam. Trong điều kiện mà “cách
mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản trong phạm vi
toàn thế giới” [122, tr.392] thì “thắng lợi của cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của các dân
tộc gắn liền với sự ủng hộ và giúp đỡ tích cực của phe xã hội chủ nghĩa và của phong trào
công nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa” [122, tr.392]. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh đã tích
cực, chủ động “kết hợp phong trào cách mạng nước ta với phong trào cách mạng của giai
cấp công nhân quốc tế và của các dân tộc bị áp bức” [119, tr.417].
Tính chủ động được thể hiện ngay từ khi Người tham gia Đảng Xã hội Pháp.
Nhiều lần Hồ Chí Minh đặt vấn đề với các đồng chí của mình: “Nếu các đồng chí không
lên án chủ nghĩa thực dân, nếu các đồng chí không đoàn kết với các dân tộc thuộc địa,
thì các đồng chí làm thứ cách mạng gì?” [122, tr.585]. Và trong suốt cuộc đời hoạt động
của mình, Người đã tận dụng được sự giúp đỡ của quốc tế, của nhân dân lao động và các
dân tộc bị áp bức, đặc biệt là sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa đối với cách
mạng Việt Nam.
Không dừng lại ở đó, đối với Hồ Chí Minh, những kinh nghiệm cách mạng,
những giá trị văn hóa quốc tế cũng là những yếu tố có ý nghĩa quan trọng. Ví dụ như,
Người đã đánh giá cao kinh nghiệm du kích ở Liên Xô. Năm 1951, trong lời tựa cho
cuốn “Tỉnh uỷ bí mật”, Người khẳng định: “Kinh nghiệm du kích ở Liên Xô sẽ giúp
thêm chúng ta và chúng ta nhất định thành công trong việc đẩy mạnh phong trào du
kích” [114, tr.237], Người luôn nhắc đến: “những kinh nghiệm dồi dào của các nước
anh em”, “học tập những gương tốt của các nước anh em”.
Sự tiếp nhận các yếu tố quốc tế được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm trong lĩnh
vực tư tưởng, văn hóa. Là người Việt Nam đầu tiên gia nhập Đảng Cộng sản, Hồ Chí
Minh nhận thức ý nghĩa phổ quát và sức mạnh vô địch của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Truyền bá vào Việt Nam, vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều
kiện cụ thể của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã tạo ra một kiểu mẫu về sự kết hợp dân tộc và
quốc tế. Người viết “Chúng tôi giành được thắng lợi đó là do nhiều nhân tố, nhưng cần
phải nhấn mạnh rằng…chúng tôi giành được những thắng lợi đó trước hết là nhờ cái vũ
khí không gì thay thế được là chủ nghĩa Mác - Lênin” [122, tr.5-590].
Cùng với hệ tư tưởng Mác - Lênin, Hồ Chí Minh cũng tiếp thu những tư tưởng vĩ
đại của văn hóa nhân loại. Chẳng hạn, trong Tuyên ngôn độc lập, Người đã trích dẫn các
62
tư tưởng vĩ đại từ “Tuyên ngôn độc lập” của nước Mỹ, “Tuyên ngôn dân quyền và nhân
quyền” của nước Pháp. Tư tưởng Tam dân của Tôn Trung Sơn đề xướng cũng được
Người trân trọng. Bên cạnh đó, ta còn thấy Người tiếp thu cả những tư tưởng từ bi của
Phật giáo, tư tưởng bác ái của Thiên chúa giáo…Điều đó có nghĩa rằng, tất cả những
thành tựu văn hóa của nhân loại trong chừng mực có ý nghĩa tiến bộ, còn đáp ứng được
những yêu cầu cấp bách của cách mạng Việt Nam, đều được Hồ Chí Minh tiếp nhận và
biến thành nhân tố, động lực của sự phát triển ở Việt Nam.
Tiếp thu nhưng không máy móc, rập khuôn. Đánh giá cao những yếu tố, tư tưởng
đó nhưng vẫn coi nó chỉ là những yếu tố ngoại sinh. Chúng chỉ có thể phát huy được tác
dụng đối với sự phát triển cách mạng Việt Nam trong chừng mực được chuyển hóa
thành sức mạnh của bản thân các yếu tố dân tộc. Trong trường hợp như vậy, vai trò của
chủ thể tiếp nhận là rất quan trọng. Chính ở đây có thể nói đến sự kết hợp hợp lý giữa
yếu tố dân tộc và yếu tố quốc tế đã được Hồ Chí Minh cụ thể hóa trong yêu cầu sau:
“Các nước bạn giúp ta cũng như thêm vốn cho ta. Ta phải khéo dùng cái vốn ấy để bồi
bổ lực lượng của ta, phát triển khả năng của ta” [117, tr.56]. Như vậy, thông qua sự phát
triển yếu tố dân tộc mà các yếu tố quốc tế được thể hiện được tác dụng. Đó cũng chính
là phương thức kết hợp cái quốc tế với cái dân tộc, chuyển hóa cái ngoại sinh thành yếu
tố nội sinh. Phương thức này được Hồ Chí Minh thực hiện rất độc đáo và rất thành công
đối với việc tiếp nhận hàng loạt các giá trị văn hóa ngoại sinh. Chủ nghĩa Mác - Lênin
đã được vận dụng để làm sống động lại các giá trị truyền thống dân tộc. Chủ nghĩa yêu
nước, tinh thần tự lực, tự cường, lòng nhân ái, những giá trị Nho giáo với tính cách là giá
trị truyền thống,…đều có được một hình thức phát triển mới, một sức mạnh mới nhờ
ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Cũng như vậy, chủ nghĩa Tam dân, qua sự tiếp nhận của Hồ Chí Minh đã trở
thành một trong những nhân tố làm phát triển các giá trị độc lập, tự do, hạnh phúc, vừa
như là khát vọng ngàn đời của dân tộc, vừa như là một yêu cầu thực tiễn, một thành quả
thực tế trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta.
Thứ ba, đặc điểm dân tộc - điều kiện để tiếp nhận các yếu tố quốc tế.
Các yếu tố quốc tế, mặc dù có ý nghĩa phổ biến nhưng trên thực tế, chúng được
sản sinh ra trong những điều kiện lịch sử xã hội nhất định, chúng có hình thức biểu hiện
đặc thù trong những thời đại và những xã hội cụ thể nhất định. Vì vậy, để có thể tiếp
nhận được các kinh nghiệm, các giá trị văn hóa quốc tế tức là các yếu tố quốc tế, cần
phải tính đến tương quan giữa các yếu tố quốc tế với các yếu tố dân tộc cụ thể là “đặc
điểm dân tộc”: “Không chú trọng đến đặc điểm của dân tộc mình trong khi học tập kinh
63
nghiệm của các nước anh em, là sai lầm nghiêm trọng, là phạm chủ nghĩa giáo điều”
[118, tr.97]. Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, việc tính đến đặc điểm dân tộc là
điều kiện để tiếp nhận các yếu tố quốc tế, là điều kiện để kết hợp một cách hợp lý các
yếu tố dân tộc và quốc tế nhằm tạo ra động lực cho sự phát triển.
Do chú trọng đến đặc điểm dân tộc, mà trong khi dựa trên nền tảng lý luận chung
về chủ nghĩa cộng sản, Hồ Chí Minh đã xác định được một cách chính xác những nhiệm
vụ của cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ ở nước ta cũng như ở những nước thuộc địa và
nửa thuộc địa.
Phải thấy rằng, ở Hồ Chí Minh có sự kết hợp nhuần nhuyễn cao độ mối quan hệ
giữa dân tộc và quốc tế, Người mới giải quyết thành công những vấn đề rất phức tạp về
quan hệ dân tộc và quốc tế trong những bối cảnh đất nước và thế giới cực kỳ phức tạp.
Người đã giải quyết các vấn đề ấy một cách đúng đắn, khôn khéo và sáng tạo. Chính
nhờ được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã vượt qua những hạn chế
của các chí sĩ yêu nước đương thời như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh,…mở ra thời
kỳ mới trong lịch sử đầy vẻ vang trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng của dân tộc.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về đoàn kết dân tộc phải mở rộng thành đoàn kết
quốc tế, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là kết quả của sự vận dụng, phát triển
sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ dân tộc và giai cấp, dân
tộc và quốc tế, phù hợp với cách mạng Việt Nam và bối cảnh quốc tế. Thắng lợi của
cách mạng tháng Tám năm1945, thắng lợi của 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
và đế quốc Mỹ, cũng như sự nghiệp đổi mới của dân tộc hiện nay, cho chúng ta thấy giá
trị to lớn của tư tưởng về đoàn kết dân tộc với đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại.
2.3.4. Những quan điểm về Đảng, Nhà nước, Mặt trận
2.3.4.1. Về Đảng Cộng sản Việt Nam
Hồ Chí Minh là người đã sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngay từ khi
mới ra đời đã mang bản chất của giai cấp công nhân, đồng thời cũng thống nhất biện
chứng với tính dân tộc và tính nhân loại. Nó được thể hiện ở mục tiêu lý tưởng của
Đảng là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; ở sự thống nhất
chặt chẽ giữa lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc; trong quy luật ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam: Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào
yêu nước. Do vậy, theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của
giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của toàn thể dân tộc Việt Nam. Người
64
cho rằng: “ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng ta không có lợi
ích gì khác” [119, tr.402].
Một điều đáng lưu ý là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp, được thể hiện một cách rõ nét trong quy luật ra đời của của Đảng Cộng sản
Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện. Vận dụng lý luận Mác - Lênin về
Đảng Cộng sản vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh không chỉ truyền bá lý
luận cách mạng trong phong trào công nhân mà cả trong phong trào yêu nước, giải quyết
vấn đề đường lối cứu nước, đồng thời tạo điều kiện chín muồi để thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm trực tiếp của sự kết hợp lý
luận giải phóng và phát triển dân tộc theo khuynh hướng vô sản với phong trào đấu
tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam, trong đó có phong trào công nhân nói riêng và
phong trào yêu nước nói chung.
Phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lênin về Đảng Cộng sản, Hồ Chí Minh cho
rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp vô sản, đồng thời là đảng của dân
tộc Việt Nam. Các văn kiện của Hội nghị thành lập Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo
khẳng định: “Đảng là Đội tiên phong của vô sản giai cấp” [110, tr.3]. Song, Đảng không
chỉ là của riêng giai cấp công nhân, mà của toàn dân tộc. Tại Đại hội lần thứ II của Đảng
(tháng 2-1951), Hồ Chí Minh phân tích: “Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt
Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của
dân tộc Việt Nam” [114, tr.41]. Năm 1953, Hồ Chí Minh nhắc lại, Đảng Lao động Việt
Nam là “Đảng của giai cấp lao động, mà cũng là Đảng của toàn dân” [115, tr.276]. Năm
1961, khi nhân dân miền Bắc đang thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất nhằm xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh khẳng định thêm một
lần nữa: “Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư,
thiên vị” [120, tr.275].
Luận điểm trên đây của Hồ Chí Minh là sự phát triển và bổ sung cho lý luận Mác
- Lênin về Đảng Cộng sản, định hướng cho việc xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam
thành một đảng có sự gắn kết chặt chẽ với giai cấp công nhân, với nhân dân lao động và
cả dân tộc trong mọi thời kỳ của cách mạng Việt Nam. Đảng có trách nhiệm to lớn
không chỉ đối với giai cấp công nhân, mà còn đối với nhân dân lao động và cả dân tộc.
Vì thế, ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã quy tụ được lực lượng và sức mạnh toàn dân tộc
Việt Nam. Đó là một đặc điểm, đồng thời là một ưu điểm của Đảng. Nhờ đó, Đảng đã
65
nắm ngọn cờ lãnh đạo duy nhất và trở thành nhân tố hàng đầu bảo đảm mọi thắng lợi
của cách mạng Việt Nam.
Do vậy, với việc sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã kết hợp
một cách nhuần nhuyễn giữa dân tộc và giai cấp, giai cấp và dân tộc. Sự ra đời của Đảng
là một trong những sáng tạo rất lớn đối của Hồ Chí Minh với cách mạng Việt Nam.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam hơn 85 năm qua kể từ khi có Đảng đã chứng minh rõ
điều đó. Chính việc giải quyết thành công mối quan hệ đó, mà Đảng ta đã quy tụ được
sức mạnh được khối đại đoàn kết dân tộc, kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại - chìa khoá thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
2.3.4.2. Về Nhà nước của dân, do dân, vì dân
Về vấn đề Nhà nước, theo lý luận mácxít thì Nhà nước bao giờ cũng mang bản
chất giai cấp của một giai cấp nhất định. Nhà nước do Hồ Chí Minh sáng lập là nhà
nước dân chủ nhân dân với sự tham gia của tất cả người dân Việt Nam yêu nước, Nhà
nước mà “tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn
giáo”. Nhưng nhà nước đó lại không phải là nhà nước siêu giai cấp, phi giai cấp, mà nhà
nước đó mang bản chất giai cấp công nhân. Nó được thể hiện, nhà nước do giai cấp
công nhân lãnh đạo (thông qua đội tiên phong của mình là Đảng Cộng sản), trên nền
tảng liên minh công nhân - nông dân - trí thức, với mục tiêu lý tưởng là độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Sự lãnh đạo của giai
cấp công nhân là điều kiện tất yếu để nhà nước và cách mạng Việt Nam đi theo đúng
con đường cách mạng vô sản, kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, trong vấn đề nhà nước ở đây ta cũng thấy theo tư tưởng Hồ Chí Minh,
dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam, nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà là nhà nước của dân, do dân, vì dân có sự thống nhất giữa tính giai cấp, tính dân tộc.
Một nhà nước dân chủ nhân dân được thiết lập thông qua chế độ phổ thông đầu phiếu,
một nhà nước công nông tồn tại dưới chế độ dân chủ, có cơ sở pháp lý vững chắc, biểu
thị được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, ý chí làm chủ đất nước của nhân dân
lao động. Đây cũng là một sáng tạo lớn của Hồ Chí Minh, cũng xuất phát từ việc giải
quyết thành công mối quan hệ dân tộc và giai cấp mà ta luôn thấy sự thống nhất đó. Hơn
70 năm qua kể từ khi ra đời, Nhà nước dân chủ nhân dân do Hồ Chí Minh sáng lập và
rèn luyện đã thể hiện được vai trò to lớn của mình trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng
dân tộc, cũng như trong sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn hiện nay.
66
2.3.4.3. Về Mặt trận dân tộc thống nhất
Mặt trận dân tộc thống nhất chính là cái cốt vật chất, là điều kiện tiên quyết để
chuyển hóa đại đoàn kết dân tộc từ sức mạnh tinh thần tiềm ẩn thành sức mạnh vật chất
hiện thực của cả dân tộc. Có thể nói, việc thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất là một
trong những cống hiến lớn của Hồ Chí Minh cho dân tộc, cho giai cấp, cho phong trào
giải phóng dân tộc và phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Mặt trận dân tộc thống nhất có vị trí, vai trò hết sức quan trọng, dưới sự lãnh đạo
của Đảng ta, Mặt trận với những nhiệm vụ cụ thể, hình thức, tổ chức, tên gọi thích hợp
từng thời kỳ, đã phấn đấu cho mục đích lớn là đoàn kết toàn dân giành thắng lợi cho
cách mạng. Tính thống nhất, mềm dẻo giữa vấn đề dân tộc và giai cấp của Hồ Chí Minh
cũng được thể hiện trong việc xây dựng, củng cố mặt trận dân tộc thống nhất - cơ sở của
cách mạng và cũng là nền tảng sức mạnh của Đảng Cộng sản và Nhà nước.
Việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, theo Hồ Chí
Minh, mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức thu hút khối đoàn kết của toàn dân tộc. Nó
thu hút rộng rãi mọi lực lượng, mọi giai cấp, mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam yêu nước.
Mặt trận đó muốn có sức mạnh, thực sự là cơ sở của cách mạng phải đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản và liên minh công nông làm nền tảng. Ngược lại, Đảng Cộng sản
muốn cách mạng đến thắng lợi phải tổ chức được sức mạnh toàn dân thông qua tổ chức
Mặt trận. Trong quá trình xây dựng, củng cố và phát triển Mặt trận. Người luôn nhắc nhở
Đảng phải chú ý đấu tranh chống hai khuynh hướng: Khuynh hướng “cô độc, hẹp hòi, coi
nhẹ việc tranh thủ tất cả những lực lượng có thể tranh thủ được” [119, tr.417]; đồng thời
chống khuynh hướng “đoàn kết một chiều, đoàn kết mà không có đấu tranh đúng mức
trong nội bộ Mặt trận” [119, tr.417]. Người luôn nhắc nhở: “Đảng không thể đòi hỏi Mặt
trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất,
hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần
chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng
mới giành được địa vị lãnh đạo” [110, tr.168]. Có như vậy thì vai trò của Đảng trong Mặt
trận mới được đảm bảo, nền tảng liên minh công - nông trong Mặt trận mới được vững
chắc, tính chất rộng rãi của mặt trận mới được phát huy đầy đủ. Việc kết hợp và giải quyết
mối quan hệ dân tộc và giai cấp của Hồ Chí Minh trong việc xây dựng và tổ chức Mặt trận
là một trong những nhân tố tạo nên sức mạnh của cách mạng Việt Nam.
Tóm lại, việc giải quyết thành công mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp của Hồ Chí Minh đã được biểu hiện rõ nét trong những vấn đề lý luận về Đảng
Cộng sản, Nhà nước, Mặt trận... Đây cũng là sự vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ
67
nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, những thắng lợi của cách mạng
Việt Nam 85 năm qua đã chứng minh những quan điểm của Người là hoàn toàn đúng
đắn và sáng tạo. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, những quan điểm đó của Người
cần được kế thừa, phát huy trong điều kiện hoàn cảnh lịch sử mới, góp phần đưa cách
mạng Việt Nam đi đến thắng lợi cuối cùng.
Tiểu kết chương 2
Giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là vấn đề hết sức
phức tạp cả về lý luận và thực tiễn. Hồ Chí Minh sớm có nhận thức đúng đắn về vấn đề
này so với quốc tế cộng sản và một số đồng chí lãnh đạo của Đảng ta lúc bấy giờ. Có thể
khẳng định, đây là một trong những sáng tạo lớn nhất của Hồ Chí Minh, cũng có thể nói
là “sáng tạo gốc” của Người, nhờ đó mà Đảng ta đã giải quyết thành công các vấn đề
chiến lược và sách lược trong đường lối của cách mạng Việt Nam, như: Việc xác định
con đường, mục tiêu, lực lượng cách mạng; những vấn đề về đoàn kết dân tộc và quốc
tế; những vấn đề lý luận về Đảng, Nhà nước, Mặt trận... là một trong những nhân tố đảm
bảo thành công của cách mạng ở nước ta. Đồng thời, đây cũng là một trong những đóng
góp xuất sắc của Người vào kho tàng lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Quá trình Hồ Chí Minh giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề vấn đề dân tộc và vấn
đề giai cấp ở Việt Nam là một quá trình nhằm đáp ứng những yêu cầu của lịch sử dân
tộc, luôn xuất phát từ thực tiễn khách quan, hình thành nên một học thuyết về giải phóng
và phát triển dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, được thâm nhập rộng rãi trong
đông đảo quần chúng yêu nước và trở thành sức mạnh vật chất vô cùng to lớn trong
cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do, làm nên những thắng lợi chiến lược của cách mạng Việt
Nam và tiến lên xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, vì mục tiêu: “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Thực tiễn đó khẳng định giá trị của ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh, khẳng định
thành công của Hồ Chí Minh trong quá trình vận dụng và phát triển lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam; để lại những bài học lịch
sử vô cùng quý báu, mà bài học lớn nhất là kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội, giải quyết thành công mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp, luôn bám sát thực tiễn của đất nước, giữ vững tính độc lập về tư duy, không
ngừng vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận và kinh nghiệm của cách mạng thế giới để
xác định đường lối chính trị đúng đắn, đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đến
thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
68
Chương 3
GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ
GIAI CẤP TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM (1986 - 2016)
3.1. BỐI CẢNH MỚI TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ
GIỮA VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP Ở NƯỚC TA TRONG QUÁ TRÌNH
ĐỔI MỚI
Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam được tiến hành từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI (1986). Đây là thời kỳ có những diễn biến phức tạp nhất của phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế, đồng thời đó cũng là thời kỳ đầy khó khăn và thử thách đối với
cách mạng Việt Nam. Việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai
cấp trong quá trình đổi mới bị tác động bởi nhiều nhân tố:
Thứ nhất, việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp ở
nước ta diễn ra trong bối cảnh quốc tế phức tạp. Sau khi Liên bang Xôviết và hệ thống
xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ, chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái trào đã làm
thay đổi căn bản cán cân lực lượng và bản đồ chính trị thế giới. So sánh lực lượng giữa
một bên là chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc với một bên là các lực lượng độc lập dân
tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội đã thay đổi nhanh chóng theo hướng bất lợi cho cách
mạng. Chủ nghĩa tư bản đang chiếm ưu thế vì nó còn có khả năng phát triển. Tuy nhiên,
chủ nghĩa tư bản không thể khắc phục được những mâu thuẫn vốn có, đặc biệt là mâu
thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Trong bối cảnh hiện nay, sự tiếp tục
tồn tại và phát triển của các nước xã hội chủ nghĩa như Việt Nam và Trung Quốc cũng
như thắng lợi của cải cách, đổi mới ở các nước này đã chứng tỏ chủ nghĩa xã hội có khả
năng gắn kết với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, với cơ chế thị trường,
tạo ra sự phát triển mới cho phong trào cách mạng thế giới, tạo ra niềm tin vào tương lai
xã hội chủ nghĩa của loài người. Đó là xu thế khách quan của thời đại. Nhưng để biến
khả năng thành hiện thực còn phụ thuộc vào những nhân tố chủ quan. Thành công bước
đầu của cải cách, đổi mới ở các nước xã hội chủ nghĩa con lại góp phần quan trọng vào
việc khôi phục và giữ vững niềm tin của nhân dân lao động đối với tương lai của xã hội
loài người.
Thứ hai, việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp ở
nước ta diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hoá, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, hội
69
nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, tình hình thế giới có nhiều phức tạp, phong
trào cách mạng thế giới có những biến đổi to lớn.
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đang phát triển mạnh làm cho lực lượng
sản xuất phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, xã hội hóa nhanh chóng mà còn trực
tiếp hay gián tiếp dẫn đến những biến đổi mạnh mẽ sâu sắc các thể chế và quan hệ xã
hội như cơ cấu giai cấp, quan hệ dân tộc - giai cấp, quan hệ quốc gia - quốc tế, tạo ra
thời cơ và thách thức cho các quốc gia, các dân tộc, các giai cấp. Cách mạng khoa học -
công nghệ tạo ưu thế cạnh tranh cho các nước tư bản phát triển, nhưng cuộc cách mạng
này cũng là thách thức lớn đối với quan hệ sản xuất và thể chế kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Cách mạng khoa học công nghệ vừa là cơ hội, vừa tạo ra nhiều thách thức đối với cách
mạng xã hội chủ nghĩa vừa là cơ hội, vừa tạo ra nhiều thách thức đối với cách mạng xã
hội chủ nghĩa và phong trào giải phóng dân tộc. Các lực lượng phản cách mạng đang có
điều kiện thuận lợi để tuyên truyền xuyên tạc học thuyết về giai cấp và đấu tranh giai
cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin, gây chia rẽ mất đoàn kết, đi đến làm suy yếu lực lượng
cách mạng.
Sự phát triển của khoa học công nghệ, sự thắng thế của cơ chế thị trường và nhân
tố thời đại thúc đẩy mạnh mẽ quá trình toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa là một xu thế khách
quan cũng đang phát triển rất mạnh và lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia. Xu thế
này khiến cho tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới ngày càng xích lại gần nhau hơn,
phát triển phụ thuộc lẫn nhau. Thế giới toàn cầu hóa là một không gian kinh tế, xã hội,
văn hóa và chính trị dưới sự tác động của quá trình hội nhập quốc tế do đông đảo các
quốc gia dân tộc và các chủ thể quan hệ quốc tế khác triển khai. Chiều sâu của quá trình
hội nhập quốc tế được thể hiện ở số lượng, sự đa dạng, quy mô và mục tiêu hoạt động
của các thể chế liên kết. Thị trường thế giới trở thành một khối thống nhất và liên kết,
hội nhập kinh tế trở thành xu thế tất yếu. Các quốc gia, dân tộc ngày càng trở nên gắn
kết với nhau chặt chẽ hơn, trở thành bộ phận cấu thành của hệ thống, ràng buộc và phụ
thuộc nhau bởi các quy định hay các nguyên tắc chung. Đây là xu thế phát triển tất yếu
của thế giới dưới tác động và thúc đẩy mạnh mẽ của cách mạng khoa học - kỹ thuật,
khoa học quản lý đã tạo ra lực lượng sản xuất và quá trình phân công lao động mới. Quá
trình toàn cầu hóa thực chất cũng là quá trình thay đổi, dịch chuyển các giá trị, đan xen
giữa tính quốc gia với quốc tế, giữa quốc gia với các khối nước khu vực, quá trình đối
thoại, hợp tác. Tuy nhiên, toàn cầu hóa là quá trình hai mặt đầy phức tạp, trong đó chứa
đựng nhiều mâu thuẫn, thể hiện cả những yếu tố tích cực và tiêu cực đan xen nhau. Lợi
ích của mỗi chủ thể đan xen nhau, vấn đề lợi ích mang tính toàn cầu ngày càng gia tăng.
70
Vì thế, cần hiểu rõ mối quan hệ biện chứng giữa đối tác và đối tượng: trong một chủ thể
có thể lúc này là đối tác, lúc khác lại là đối tượng, trong điều kiện nhất định chúng lại có
thể chuyển hóa lẫn nhau. Sự chuyển hóa còn có thể diễn ra trong cùng một chủ thể,
trong các điều kiện khác nhau cả hai mặt đối tác, đối tượng song trùng tồn tại. Vì vậy, nó
tạo ra cơ hội và thách thức ngang nhau cho mỗi quốc gia dân tộc tham gia vào quá trình
này. Đối với các nước đang và chậm phát triển, quá trình toàn cầu hóa mang đến nhiều
thách thức gay gắt hơn.
Trong những năm đầu thế kỷ XXI, tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp,
khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế trên quy mô toàn cầu đã tác động tới đời
sống kinh tế, chính trị, xã hội ở tất cả các quốc gia trên toàn thế giới. Những diễn biến
chủ yếu trong đời sống kinh tế, chính trị thế giới là tốc độ phát triển kinh tế của các quốc
gia suy giảm nghiêm trọng, tình trạng thất nghiệp gia tăng, đời sống xã hội có biến đổi
to lớn. Trong bối cảnh đó, các nhà nước, các tổ chức chính trị đã có sự thay đổi nhiều
trong các chính sách kinh tế, chính sách phát triển. Điều đó đã dẫn đến những thay đổi
nhất định về quan điểm chính trị và thực thi các chính sách hợp tác, phát triển giữa các
quốc gia. Bên cạnh đó, tình trạng bạo lực, chiến tranh tôn giáo, sắc tộc có diễn biến phức
tạp và đã có thay đổi lớn về tính chất, mức độ so với thế kỷ XX. Những vấn đề này hiện
nay không chỉ giới hạn trong phạm vi của một quốc gia nhất định, của một tôn giáo nhất
định mà nó đã mở rộng sự ảnh hưởng và sự tác động to lớn đối với hầu hết các quốc gia
trên thế giới.
Tất cả những vấn đề trên đây đang tác động tới Việt Nam ở nhiều mức độ khác
nhau, làm cho vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp ngày càng phức tạp. Với những mục
tiêu khác nhau, sự can dự ở mức độ khác nhau, các thế lực thù địch đã lợi dụng chính
sách đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế của Việt Nam để chống phá, phủ nhận
thành quả cách mạng, cản trở sự phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa của nước ta.
Thứ ba, việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp ở Việt
Nam đang đứng trước khuynh hướng mới với những thời cơ và thách thức mới.
Độc lập dân tộc gắn với chủ quyền quốc gia đang là một xu thế của thế giới. Mỗi
quốc gia dân tộc, dù lớn hay nhỏ, đều cố gắng khẳng định giá trị dân tộc, như quyền tự
quyết định chế độ xã hội, kinh tế, đường lối phát triển đất nước, khẳng định sự bình
đẳng giữa các quốc gia trong sinh hoạt quốc tế. Lợi ích quốc gia được các nước đặt lên
hàng đầu trong các hoạt động đối nội và đối ngoại. Chính phủ các nước đều coi trọng
việc xác lập, bảo vệ và củng cố các giá trị truyền thống, bản sắc dân tộc, thực thi nhiều
71
chính sách phát triển kinh tế - xã hội tích cực, cố gắng tạo lập sự hài hòa lãnh thổ, vùng
miền, sắc tộc nhằm hướng tới sự đồng thuận, gắn kết quốc gia.
Về mặt quan hệ quốc tế, ranh giới ý thức hệ, tôn giáo, lý tưởng cùng chung chế
độ xã hội không còn nhiều ý nghĩa mà thay vào đó là các điểm tương đồng về lợi ích
quốc gia dân tộc và được xem là cơ sở để lựa chọn và xây dựng các mối quan hệ song
phương cũng như đa phương. Lợi ích quốc gia dân tộc đôi khi được đánh đổi bằng các
cuộc chiến tranh xâm lược hay các cuộc đàn áp đối phương.
Các thế lực cường quyền toàn cầu triển khai nhiều học thuyết và hành động bất
chấp chủ quyền quốc gia và độc lập dân tộc của các nước trên thế giới. Đây vừa là quá
trình mở rộng thị trường cho các tập đoàn tư bản độc quyền, vừa là thủ đoạn áp đặt các
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trên phạm vi toàn thế giới trên cơ sở thủ tiêu chủ
quyền, độc lập của các quốc gia dân tộc đang phát triển. Các cuộc chiến ở Áp-ga-ni-
xtan, I-rắc, Li-bi, Xy-ri... là những minh chứng rõ nét cho những đường lối can thiệp thô
bạo đó.
Xuất hiện chủ nghĩa dân tộc bá quyền, cực đoan, hẹp hòi trong đời sống quốc tế.
Xu thế phát triển đa cực của thế giới cùng những mâu thuẫn của quá trình toàn cầu hóa
kết hợp sự cuồng tín tôn giáo đã nảy sinh chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Hơn nữa, chủ
nghĩa sô vanh nước lớn, bành trướng, bá quyền cũng thừa cơ trỗi dậy đe dọa sự ổn định
của quốc tế và khu vực.
Thứ tư, việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp ở nước
ta đang diễn ra trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là thời kỳ cải biến cách
mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Trong thời kỳ ấy là sự đấu tranh gay gắt giữa cái cũ
và cái mới, cái lạc hậu kìm hãm sự phát triển với cái tiến bộ thúc đẩy sự phát triển đi lên.
Thực chất đây là thời kỳ đấu tranh giữa những lực lượng xã hội có lợi ích đối lập nhau,
thời kỳ giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong sự phát
triển của xã hội. Do vậy, ở những lĩnh vực nhất định tính chất mâu thuẫn có thể rất gay
gắt, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, đó là mâu thuẫn giữa khuynh hướng tự phát tư bản
chủ nghĩa và khuynh hướng tự giác xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang giải quyết.
Việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp ở nước ta
trong thời kỳ quá độ ở nước ta nằm trong quy luật chung của thời đại quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, thời đại giải phóng dân tộc, thời đại của những hình
thức đấu tranh giai cấp mới. Song, quy luật chung đó không trừu tượng, thuần túy mà lại
tìm thấy sự biểu hiện đặc thù và cụ thể ở mỗi quốc gia với những đặc điểm riêng biệt,
độc đáo, sinh động. Vì vậy, việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề
72
giai cấp phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể. Việc đi tìm cái đặc thù không có nghĩa là
tuyệt đối hóa cái riêng, cái đơn nhất mà đòi hỏi nhận thức và vận dụng quy luật chung
một cách đúng đắn, sáng tạo, hiệu quả. Trên cơ sở đó mà khắc phục xu hướng giáo điều,
máy móc, tự phát. Đây là điều quan trọng nhất đang chi phối cuộc đấu tranh giai cấp ở
nước ta thời kỳ hiện nay. Nhận thức được điều này là cơ sở để chúng ta có quan điểm
đúng đắn và phương pháp phù hợp đối với việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân
tộc và vấn đề giai cấp ở nước ta hiện nay.
3.2. MỘT SỐ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT MỐI
QUAN HỆ GIỮA VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP Ở NƯỚC TA GIAI
ĐOẠN 1986 - 2016
Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp cũng như việc giải quyết mối quan hệ đó luôn
luôn là những vấn đề lớn và phức tạp. Giải quyết tốt những vấn đề ấy sẽ có ý nghĩa rất
quan trọng trong việc đề ra đường lối, chính sách, định ra những biện pháp phù hợp với
tình hình nhiệm vụ cụ thể trong từng giai đoạn cách mạng. Điều này đòi hỏi phải có sự
kết hợp của nhiều yếu tố, cả khách quan và chủ quan, nhưng cơ bản là phải xuất phát từ
tình hình, nhiệm vụ cách mạng cụ thể của từng quốc gia, với những diễn biến của sự
phân hoá giai cấp, mâu thuẫn giữa các giai cấp đang đòi hỏi phải giải quyết... Những
điều ấy đòi hỏi bộ tham mưu lãnh đạo phải nhận thức đúng, phải có phương pháp luận
khoa học đồng thời phải định ra được chủ trương, đường lối đúng đắn.
Vấn đề dân tộc trong thời kỳ đổi mới hiện nay, là vấn đề xây dựng, phát triển và
bảo vệ dân tộc, giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia - độc lập dân tộc. Bảo đảm độc lập
tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn
bản sắc văn hóa dân tộc. Hội nhập quốc tế tranh thủ hòa bình, phát triển đất nước theo
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Vấn đề giai cấp hiện nay chính là vấn đề dân chủ, công bằng và phân tầng xã
hội. Đó là hệ quả tất yếu của quá trình phát triển hiện đại gắn với quá trình toàn cầu
hóa, phân công lại lao động, phân chia lại các giá trị. Toàn cầu hóa đã di chuyển chủ
nghĩa tư bản ra toàn thế giới với sự bóc lột tinh vi đối với các quốc gia dân tộc khác.
Do vậy, việc giải quyết vấn đề giai cấp chính là không ngừng nâng cao đời sống nhân
dân, thực hiện dân chủ, đảm bảo công bằng và giải quyết tình trạng phân hóa giai cấp
và phân tầng xã hội.
Giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong giai đoạn
hiện nay, là thống nhất lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp là cơ sở để tạo động lực cho sự
phát triển đất nước. Do vậy, việc giải quyết mối quan hệ này chính là kết hợp chặt chẽ
73
hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa. Nhiệm vụ này cần được nhận thức đầy đủ trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi
trường. Và nó cần phải được chú trọng xử lý ngay trong hoạch định chính sách phát
triển kinh tế - xã hội, các đề án, quy hoạch, kế hoạch.
Sự đúng đắn, sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc tiếp thu, vận dụng chủ nghĩa
Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng, đặc biệt là trong việc nhận thức về vấn đề dân tộc
và vấn đề giai cấp, giải quyết đúng đắn, phù hợp mối quan hệ giữa hai yếu tố trong từng
thời kỳ cụ thể của cách mạng là một trong những nguyên nhân dẫn tới những thắng lợi
của cách mạng Việt Nam trong hơn 85 năm qua.
Những thắng lợi to lớn mà nhân dân ta giành được sau 30 năm đổi mới đã làm
cho thế và lực của dân tộc Việt Nam được nâng cao thêm một bước, đồng thời củng cố
và tăng cường được vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với dân tộc Việt Nam,
làm cho khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng rộng mở và vững chắc, trở thành động lực
quan trọng cho sự phát triển của đất nước trong giai đoạn mới. Vậy nội dung của việc
giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp ở nước ta trong giai đoạn
1986 - 2016 được biểu hiện trên những vấn đề cơ bản sau đây:
3.2.1. Thống nhất về lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp trong mục tiêu phát
triển chung của đất nước
Đảng ta xác định mục tiêu phát triển chung của đất nước là: Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đây là mục tiêu cơ bản và xuyên suốt trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thực hiện mục tiêu này, chính là biểu hiện cơ
bản của việc giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong thời kỳ đổi mới ở nước ta
hiện nay.
Việc giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
trên lập trường của giai cấp công nhân trong cách mạng Việt Nam thể hiện tập trung ở
đường lối chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam được biểu hiện ở mục tiêu độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, ở mỗi giai đoạn cách mạng, sự kết hợp ấy
có những biểu hiện đặc thù với những nội dung xác định.
Trong giai đoạn cách mạng giải phóng dân tộc, lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp
thống nhất chặt chẽ trong mục tiêu là giành độc lập dân tộc. Do vậy việc xử lý quyền lợi
dân tộc và quyền lợi giai cấp, giai cấp công nhân đặt quyền lợi giai cấp trước mắt và trực
tiếp phụ thuộc vào lợi ích sống còn của dân tộc. Đây cũng là cơ sở để Cách mạng tháng
74
Tám 1945 và hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược đi
đến thắng lợi hoàn toàn.
Khi cách mạng giải phóng dân tộc được hoàn thành, đất nước bước vào thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp được thống
nhất ở mục tiêu chung là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Lợi ích của giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích
của dân tộc trong trong mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội,
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Tuy nhiên, sau thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trong
quá trình xây dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã xuất hiện tư tưởng nôn
nóng chủ quan, duy ý chí muốn đẩy nhanh quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội để mau
chóng bù đắp những hy sinh, tổn thất trước đây. Do còn thiếu tri thức về các quy luật
phát triển của xã hội và những kinh nghiệm của quá trình cách mạng chưa được tổng kết
kịp thời, lại mắc bệnh học tập theo lối sao chép máy móc những việc làm từ bên ngoài...
Chiến lược chuyển từ giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân sang bước đầu
cách mạng xã hội chủ nghĩa được soạn thảo và thực hiện với ảo tưởng có thể giành
thắng lợi hoàn toàn trong một định kỳ ngắn, bất chấp điều kiện thực tế của đất nước. Từ
đó, lợi ích của các giai cấp, tầng lớp không được tính đến đầy đủ và kết hợp hài hoà, sức
mạnh dân tộc không được phát huy. Cũng từ đó, tính quá độ, trung gian của quá tình
phát triển không được tôn trọng, tính “giao kết” giữa hai giai đoạn cách mạng không
được nghiên cứu đầy đủ và thực hiện nghiêm túc. Nhiệm vụ dân tộc dân chủ - đặc biệt là
nhiệm vụ dân chủ - trong khuôn khổ của giai đoạn cách mạng trước chưa có điều kiện
thực hiện một cách triệt để ở những năm có chiến tranh ác liệt, đáng ra còn phải được
tiếp tục thực hiện ở mức độ cao hơn để tạo lập mặt bằng trực tiếp cho việc triển khai
những nhiệm vụ mang tính định hướng xã hội chủ nghĩa, thì trên thực tế bị xem nhẹ,
thậm chí có mặt bị lãng quên.
Việc bỏ qua chế độ tư bản để tiến theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã có lúc
được hiểu như sự loại trừ tức khắc mọi yếu tố của chủ nghĩa tư bản. Trong việc làm đã
có lúc bị chi phối bởi một số quan niệm giáo điều: dường như cái gì càng khác chủ
nghĩa tư bản thì càng là xã hội chủ nghĩa. Thế là, những nhân tố còn hữu ích của chủ
nghĩa tư bản không được sử dụng như những điều kiện cần thiết để xây dựng chủ nghĩa
xã hội; nhiều biện pháp còn có ý nghĩa tích cực đối với cuộc sống không được áp dụng
để bước đi của chủ nghĩa xã hội thích nghi với điều kiện hiện thực, để xuyên qua chủ
nghĩa tư bản nhà nước mà tiến lên chủ nghĩa xã hội như Lênin đã từng nhấn mạnh.
75
Những sai lầm, thiếu sót đó đã đưa đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng về
kinh tế - xã hội những năm cuối 1970, đầu 1980; khối đoàn kết dân tộc, khối liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức có nguy cơ bị rạn nứt;
lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, vào chủ nghĩa xã hội bị giảm sút.
Trước yêu cầu của thực tiễn đất nước, Đảng ta đã tỉnh táo đánh giá tình hình,
nhận ra những sai lầm, nhận thức được tất yếu phải đổi mới, Đảng ta đề ra đường lối đổi
mới toàn diện từ Đại hội VI. Thông qua những kinh nghiệm thành công, cũng như
những sai lầm vấp váp, Đảng ta từng bước hoàn thiện đường lối mới. Đường lối này đã
xác định những nét chính của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam với mục tiêu cơ bản
và xuyên suốt: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, đồng thời vạch ra
những giải pháp chiến lược, những điều kiện tiên quyết để khơi dậy tiềm năng, phát
triển đất nước, trong đó có những điểm đổi mới phải quán triệt. Để thực hiện được mục
tiêu căn bản đó đòi hỏi phải chiến thắng 4 nguy cơ lớn, mà Đảng ta đã chỉ ra, đó là: 1.
Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế; 2. Nguy cơ chệch hướng chủ nghĩa xã hội; 3. Nạn
tham nhũng và các tệ nạn xã hội khác; 4. Âm mưu và hành động "diễn biến hoà bình"
của các thế lực thù địch.
Có thể nói, xóa bỏ tình trạng kém phát triển, loại bỏ nguy cơ tụt hậu về kinh tế,
tiến lên trình độ các nước phát triển là vấn đề trung tâm, đồng thời là vấn đề bức bách
của lợi ích dân tộc, đồng thời là lợi ích giai cấp, trong điều kiện hiện nay. Trong Cương
lĩnh năm 1991, Đảng ta cho rằng, để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh theo con
đường xã hội chủ nghĩa, điều quan trọng nhất là phải cải biến căn bản tình trạng kém
phát triển.
Như vậy, có thể khẳng định mục tiêu trên đã giải quyết được mối quan hệ giữa
vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, vì đã thống nhất được lợi ích dân tộc và lợi ích của
các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Sở dĩ như vậy là vì, vấn đề cơ bản nhất của việc giải
quyết quan hệ dân tộc và giai cấp trong cách mạng Việt Nam, đặc biệt là trong thời kỳ
đổi mới, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự thống nhất lợi ích giai cấp và lợi ích toàn dân
tộc; sự thống nhất về căn bản giữa lợi ích của các giai tầng: công nhân, nông dân, trí
thức, các tầng lớp lao động, tư sản dân tộc; giữa lợi ích của các dân tộc anh em trong
cộng đồng dân tộc Việt Nam. Đại hội IX đã chỉ rõ: “Lợi ích giai cấp công nhân thống
nhất với lợi ích dân tộc trong mục tiêu chung là độc lập gắn liền với chủ nghĩa xã hội,
dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” [44, tr.85]. Công cuộc đổi
mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà chúng ta đang tiến hành là chặng đường quan
trọng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhằm thực hiện mục tiêu cơ bản nói trên.
76
3.2.2. Thống nhất về lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp trên các lĩnh vực của
đời sống xã hội
Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, lợi ích
dân tộc và lợi ích giai cấp trong quan hệ thống nhất hữu cơ thể hiện tập trung trên các
lĩnh vực của đời sống xã hội với các nội dung cụ thể sau đây:
3.2.2.1. Trên lĩnh vực kinh tế - xã hội
Thứ nhất, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mới đảm bảo
được lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp, đảm bảo sự thống nhất giữa hai lợi ích ấy.
Trong thời kỳ trước đổi mới, do chủ quan duy ý chí, chúng ta chủ trương xóa bỏ
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần một cách nóng vội, tạo nên sự ngăn cách giữa
kinh tế nhà nước, tập thể và các thành phần kinh tế tư bản tư nhân, cá thể. Đồng thời,
trong nhiều năm, kinh tế hàng hóa, cơ chế thị trường không được chấp nhận. Do đó, sức
mạnh vật chất và tinh thần của các giai cấp, tầng lớp, trong cộng đồng các dân tộc đã
không được khai thác tối đa cho sự nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Đây chính là sự biểu hiện của tư tưởng chủ quan nóng vội, trái với quy luật phát
triển kinh tế xã hội, đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực
lượng sản xuất. Kết quả là kinh tế ngày càng giảm sút. Thực trạng này chẳng những làm
cho mục tiêu xã hội chủ nghĩa không thể thực hiện được mà còn làm ảnh hưởng trực
tiếp đến đời sống hàng ngày của các giai cấp và tầng lớp trong xã hội.
Đường lối này về hình thức là nhấn mạnh vấn đề giai cấp nhưng kết quả là lợi ích
dân tộc và lợi ích giai cấp đều bị vi phạm. Dân tộc không phát triển được mà nguồn lực
của các giai cấp không được phát huy, lợi ích giai cấp không được bảo đảm, bản thân
giai cấp công nhân ở nhiều nhà máy, xí nghiệp bị thất nghiệp, nông dân tập thể không có
quyền làm chủ tư liệu sản xuất trên thực tế, lợi ích của giai cấp tư sản bị đe dọa và đời
sống của đội ngũ trí thức gặp nhiều khó khăn.
Nhận thức rõ thực trạng kinh tế - xã hội đang diễn ra, Đại hội VI của Đảng chủ
trương thực hiện đường lối đổi mới toàn diện trong đó trọng tâm là đổi mới kinh tế,
nhằm xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện nhất quán kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội VI đã khẳng định cơ cấu kinh tế nước ta có các
thành phần kinh tế là: Kinh tế xã hội chủ nghĩa, bao gồm khu vực quốc doanh và khu
vực tập thể với bộ phận kinh tế gia đình gắn với các thành phần đó; các thành phần kinh
tế khác gồm: Kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa, nông dân cá thể, những người buôn bán và
77
dịch vụ kinh doanh cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều
hình thức, mà hình thức cao nhất là công tư hợp doanh, kinh tế tự nhiên, tự túc, tự cấp
trong một số đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên và các vùng khác. Mặt khác Đại hội
cũng nêu ra yêu cầu xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, xây dựng cơ chế kế
hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa theo đúng nguyên
tắc tập trung dân chủ. Đó là một sự chuyển biến lớn lao trong quá trình phát triển kinh tế
xã hội ở nước ta, cũng như trong quá trình nhận thức của Đảng ta về kết hợp lợi ích dân
tộc và lợi ích giai cấp công nhân ở nước ta trong giai đoạn cách mạng mới. Thực tiễn 30
năm đổi mới, đã khẳng định tính đúng đắn của đường lối phát triển kinh tế - xã hội đó
của Đảng. Có thể nói, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, thực
hiện liên doanh liên kết với tất cả các nước là sự nhận thức mới của Đảng ta trong phát
triển kinh tế.
Trong điều kiện ở nước ta, lợi ích giai cấp công nhân với lợi ích dân tộc luôn
thống nhất ở mục tiêu chủ nghĩa xã hội. Để đạt được mục tiêu này, phải xây dựng được
nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất giữ vai trò chủ
đạo. Tuy nhiên, nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở điểm xuất phát thấp, trình độ lực
lượng sản xuất còn lạc hậu và không đồng bộ thì vấn đề không thể xóa bỏ ngay chế độ
tư hữu để thiết lập chế độ công hữu một cách thuần nhất như thời kỳ trước đây. Trong
quá trình xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa là giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa
các thành phần kinh tế, nhằm tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền
kinh tế, khai thác tối đa tiềm năng to lớn các thành phần kinh tế khác..., làm cho nền
kinh tế trở nên năng động hơn, để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hướng tới
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Sự tồn tại của các thành phần kinh tế nói trên đều xuất phát từ yêu cầu khách
quan của sự phát triển kinh tế đất nước. Mỗi thành phần kinh tế đều là một bộ phận cấu
thành trong hệ thống kinh tế, thống nhất dưới sự quản lý, điều hành của nhà nước.
Chính quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã
tạo nên sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, mở rộng phân công lao động xã
hội, cho phép khai thác mọi tiềm năng vật chất và tinh thần của các giai tầng trong cộng
đồng các dân tộc. Bởi vì, sản xuất kinh tế nhiều thành phần do phù hợp với nguyện
vọng, lợi ích của các giai cấp nên đã động viên được mọi nguồn lực phát triển của xã
hội, làm sống động nền kinh tế, tạo ra được khối lượng hàng hóa phong phú, đáp ứng
được nhu cầu đa dạng của nhân dân. Nền kinh tế thị trường đã khắc phục được tình
78
trạng ngăn sông cấm chợ, tạo nên sự giao lưu kinh tế giữa các vùng miền làm cho dân
tộc gắn kết trong quá trình phát triển kinh tế để hình thành thị trường thống nhất, tạo cơ
sở cho sự thống nhất của toàn dân tộc trên mọi phương diện. Đó cũng là quá trình tạo
tiền đề cho dân tộc tham gia hợp tác phân công lao động quốc tế.
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi giai cấp, tầng lớp, mỗi chủ thể sản xuất kinh
doanh tuy có lợi ích riêng, nhưng sự phát triển của mỗi thành phần kinh tế này đều góp
phần làm tăng của cải cho xã hội, góp phần làm cho dân giàu nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là mục tiêu của
dân tộc và cũng là mục tiêu của các giai cấp và tầng lớp ở nước ta trong giai đoạn hiện
nay. Thời kỳ đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, không phải là từ bỏ lợi ích giai cấp, mà thực chất đổi mới là thực hiện sự kết hợp lợi
ích dân tộc và lợi ích giai cấp bằng những hình thức bước đi phù hợp với yêu cầu và
nhiệm vụ của cách mạng nước ta trong giai đoạn mới để tạo ra động lực thúc đẩy cách
mạng tiến lên.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã đem lại lợi ích thiết
thực cho mọi giai cấp và tầng lớp trong xã hội. Điều này được thể hiện: Giai cấp công
nhân ngoài mục tiêu xã hội chủ nghĩa, họ còn được giải quyết công ăn việc làm. Những
người có khả năng lao động tốt, có thu nhập cao, đời sống của họ được cải thiện một
cách đáng kể so với thời kỳ trước đổi mới. Chính điều này đã nhân sức mạnh vật chất và
tinh thần của họ, tạo ra tiền đề mới để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử
của mình trong giai đoạn mới. Xứng đáng là giai cấp tiên phong, lãnh đạo sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Giai cấp nông dân trở thành người chủ thực sự
các tư liệu sản xuất của mình. Điều đó đã động viên họ trong lao động sản xuất, phát
huy được tính năng động sáng tạo của họ trong lao động. Nhờ đó mà năng suất lao động
trong nông nghiệp tăng nhanh và đời sống nhân dân được nâng lên, bộ mặt của nông
thôn được thay đổi. Sự phát triển đó đã tạo ra tiền đề thuận lợi cho sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, khẳng định “vấn đề dân tộc ở một nước nông nghiệp là vấn đề
nông dân” là một chủ trương sáng tạo của Đảng trong giải quyết mối quan hệ dân tộc và
giai cấp; Giai cấp tư sản được xem là đối tượng cải tạo trong thời kỳ trước đổi mới, thì
nay họ được xem là một lực lượng xã hội còn tất yếu tồn tại trong thời kỳ quá độ. Họ có
quyền mở rộng sản xuất kinh doanh, làm giàu chính đáng, được nhà nước bảo hộ và
được tạo điều kiện cho phát triển; Đời sống của các giai cấp cơ bản trên đã thay đổi, thì
đời sống của các tầng lớp trí thức, người sản xuất nhỏ cũng được nâng lên. Trong cơ chế
mới, đội ngũ trí thức ngày càng được tạo điều kiện, có nhiều cơ hội để phát triển sáng
79
tạo, sức lực để phục vụ đất nước. Đó là nguồn động lực to lớn thúc đẩy đội ngũ trí thức
ngày càng tích cực, sáng tạo hơn để góp phần nâng cao vị thế của mình trong cơ chế
mới và tham gia đóng góp cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội.
Cùng với những thuận lợi mà cơ chế kinh tế mới mang lại cho các giai cấp là
những khó khăn, thách thức đặt ra, đòi hỏi các giai cấp phải vượt qua thì mới tồn tại và
phát triển được. Trong vô vàn những khó khăn và thách thức mà công nhân, nông dân,
trí thức là phải đối mặt, thì khó khăn nhất là các vấn đề các giai cấp phải tìm được tiếng
nói chung, phù hợp với mục tiêu độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội và xu thế phát triển
của thời đại.
Với ý nghĩa đó phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã góp
phần tạo ra một hình thức liên kết mới giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, đó là sự
gắn kết không chỉ dựa trên yếu tố tình cảm, không chỉ dựa trên nhu cầu chống xâm lược,
chống thiên tai, mà nó còn dựa trên sự phát triển kinh tế - xã hội ở trình độ mới, tạo nên
sự gắn bó giữa các vùng, các miền để phát triển đất nước. Điều này phù hợp với lợi ích
toàn dân tộc trong việc xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ và thống nhất theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, phát triển kinh tế nhiều thành phần đã góp phần nâng sự
thống nhất lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp lên một trình độ mới, tạo nên sự thống nhất
căn bản hơn, vững chắc hơn giữa các lợi ích này. Dân tộc bao giờ cũng được phát triển
theo định hướng của một giai cấp nhất định, giai cấp nào đại diện cho phương thức sản
xuất mới, nó sẽ định hướng cho sự phát triển của dân tộc. Do vậy, tăng cường sự lãnh
đạo của giai cấp công nhân thông qua chính Đảng của nó đảm bảo cho các thành phần
kinh tế vận động theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, thống nhất lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp trong phát triển kinh tế còn
thể hiện ở quan điểm phát triển bền vững, tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công
bằng xã hội.
Như phân tích ở trên, lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp thống nhất trong mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Điều này đòi hỏi phải thực hiện
trong sự kết hợp hài hòa giữa mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội, phát triển kinh tế phải
gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội.
Lúc sinh thời, Hồ Chí Minh đã có những quan điểm sáng tạo trong việc giải quyết
mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
trong điều kiện cụ thể của Việt Nam. Người khẳng định mục đích xây dựng chủ nghĩa
xã hội là để không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Mục tiêu hàng đầu của phát
triển kinh tế là nâng cao đời sống của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động, làm cho
80
đời sống của người dân ngày càng đầy đủ, sung sướng, hạnh phúc. Đời sống vật chất,
theo Người, trước hết giải quyết vấn đề ăn, mặc, nhà ở, chữa bệnh. Đời sống tinh thần,
theo Hồ Chí Minh, trước hết là bảo đảm học hành cho mọi người. Đồng thời Hồ Chí
Minh xác định rõ trách nhiệm của Đảng và Nhà nước trong việc chăm lo đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân. Xuất phát từ một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ
nghĩa xã hội không kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, điều này chi phối
quan điểm phân phối. Để bảo đảm tính công bằng trong phân phối, Hồ Chí Minh đòi hỏi
cán bộ phải chí công, vô tư. Người quan tâm đến vấn đề phúc lợi xã hội, tuy nhiên theo
Người, phúc lợi phải gắn với hiệu quả sản xuất. Như vậy, vấn đề tăng trưởng kinh tế gắn
với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội được xem xét trong quan điểm của Hồ Chí
Minh là: Mục đích của xây dựng kinh tế để không ngừng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho nhân dân; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội phù hợp sẽ thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, giải quyết các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Trên cơ sở kế thừa những quan điểm của Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới,
Đảng ta có những quan niệm mới để xử lý mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công
bằng xã hội trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đảng ta quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự phát
triển bền vững dựa trên những yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá vững chắc. Vì
vậy, đảm bảo kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với ổn định xã hội, công bằng xã
hội, tiến bộ xã hội, bảo vệ môi trường... Đảng ta khẳng định: “Đổi mới mô hình tăng
trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển
nhanh, bền vững” [50, tr.37]. Bền vững về mặt xã hội là vừa đảm bảo tăng trưởng kinh
tế, vừa giữ ổn định xã hội, không làm ảnh hưởng đến việc huy động nguồn lực cho sự
phát triển. Trong phát triển bền vững yếu tố kinh tế và yếu tố xã hội hòa nhập vào nhau,
mục tiêu phát triển kinh tế phải bao gồm cả mục tiêu xã hội và ngược lại mục tiêu phát
triển xã hội cũng nhằm tạo ra động lực phát triển kinh tế. Giải quyết đúng đắn mối quan
hệ này là một trong những nội dung của việc giải quyết vấn đề dân tộc dân tộc và vấn đề
giai cấp trong thời kỳ đổi mới ở nước ta.
Trên tình thần đó Đảng ta đã khẳng định: “Tăng trưởng kinh tế phải luôn gắn liền
với tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển” [44,
tr.31]. Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, có một bộ phận cư dân giàu lên, một
số vùng giàu lên trước, có đóng góp lớn vào tăng trưởng của cả nước và lôi kéo các
vùng khác, nhất là các vùng khó khăn cùng phát triển lên. Đồng thời, chúng ta có những
81
chính sách kinh tế xã hội hỗ trợ đặc biệt giúp hộ nghèo, vùng nghèo vươn lên hòa nhập
với đời sống cộng đồng.
Chấp nhận phát triển kinh tế thị trường, chúng ta phải chấp nhận phân hóa giàu
nghèo ở một mức độ nhất định. Nhưng không đồng nhất sự phân hóa giàu nghèo với sự
bình đẳng và bất công xã hội nói chung. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta khuyến khích làm giàu chính đáng, lên án lối làm giàu bằng con đường
phi pháp bất chính, coi đó là một trong những động lực của sự phát triển xã hội.
Chính sự phát triển kinh tế thị trường đã tạo điều kiện để ngoài việc phân phối
theo lao động, nguồn vốn, tài sản đóng góp, còn có thể tính tới công lao của các đối
tượng có công, những người đã hy sinh xương máu cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
đất nước. Hiện nay “cả nước có khoảng 8,8 triệu người có công, chiếm khoảng 10%
dân số, có khoảng 1,4 triệu người được hưởng trợ cấp thường xuyên. Bảo đảm mức
sống của người có công bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của dân cư trên địa
bàn cư trú” [53, tr.111].
Thực tiễn những năm đất nước tiến hành công cuộc đổi mới cho thấy, đời sống của
các tầng lớp nhân dân nước ta đã được cải thiện đáng kể, thể hiện qua mức tăng thu nhập
bình quân đầu người và sự nâng cao chất lượng cuộc sống. Từ năm 1990 đến năm 2000
kinh tế đất nước đã đạt tăng trưởng cao. Tốc độ GDP bình quân của 10 năm (1990 - 2000)
đạt 7,5%/năm; cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch đáng kể, nguồn lực phát triển kinh tế đã
được huy động mạnh mẽ [46, tr.69]. Từ 2001 - 2010, Việt Nam vẫn đạt tốc độ tăng trưởng
bình quân đạt 7,26%/năm [50, tr.91] (riêng năm 2007 tốc độ tăng trưởng đạt 8,44%). Từ
năm 2011- 2015, “tốc độ tăng Tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân 5 năm đạt trên
5,9%/năm. Quy mô và tiềm lực của nền kinh tế tiếp tục tăng lên; GDP năm 2015 đạt
193,4 tỉ USD, bình quân đầu người khoảng 2.109 USD” [54, tr.225]. Đại hội XII xác định
mục tiêu đến năm 2020 “phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại” [54, tr.272], với một số chỉ tiêu phấn đấu cụ thể như sau:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 6,5 - 7%/năm. Đến năm
2020, GDP bình quân đầu người khoảng 3.200 - 3.500 USD. Tỉ trọng
công nghiệp và dịch vụ trong GDP khoảng 85%. Tổng vốn đầu tư toàn xã
hội bình quân 5 năm bằng khoảng 32 - 34% GDP. Bội chi ngân sách nhà
nước còn khoảng 4% GDP. Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp
vào tăng trưởng khoảng 30 - 35%. Năng suất lao động xã hội bình quân
tăng khoảng 5%/năm. Tiêu hao năng lượng tính trên GDP bình quân giảm
1 - 1,5%/năm. Tỉ lệ đô thị hóa đến năm 2020 đạt 38 - 40% [54, tr.272].
82
Quy mô nền kinh tế ngày càng lớn mạnh, đó là những tiền đề vật chất quan trọng
để nâng cao thế và lực của nền kinh tế, tăng thu nhập quốc dân.
Nhằm thực hiện chủ trương tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã
hội, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, ban hành
nhiều chính sách đúng đắn, biện pháp cụ thể, khả thi nhằm giải quyết nhiều vấn đề xã
hội, trong đó đáng chú ý là công tác xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm cho người
lao động. “Mỗi năm bình quân tạo ra 1,5-1,6 triệu việc làm. Năm 2014, lao động trong
khu vực chính thức đạt trên 30% và lao động đã qua đào tạo chiếm khoảng 49% tổng số
lao động” [53, tr.109]. Năm 2015, tỉ lệ này là 51,6%, dạy nghề cho lao động nông thôn
được quan tâm (Trong giai đoạn 2010 - 2015, đã có trên 4,1 triệu lao động nông thôn
được đào tạo nghề theo Đề án 1956 về đào tạo nghề cho lao động nông thôn) [54,
tr.228]. Công tác xóa đói giảm nghèo được đẩy mạnh, “tỷ lệ hộ nghèo trong cả nước
giảm bình quân từ 1,5 - 2%; các huyện, xã đặc biệt khó khăn có tỷ lệ hộ nghèo 4%/năm
theo tiêu chuẩn nghèo từng giai đoạn” [53, tr.110]. Theo chuẩn nghèo quốc tế (tính theo
chuẩn 1 đôla/ngày/người), thì “năm 1993 tỷ lệ hộ nghèo cả nước 58,1%, đến năm 2011
tỷ lệ hộ nghèo còn 9,5%, năm 2013 còn 7,8%, năm 2014 còn 5,8-6%, phấn đấu đến năm
2015 tỷ lệ hộ nghèo trong cả nước dưới 5%, trong vùng đặc biệt khó khăn dưới 30%”
[53, tr.110]. Nhờ có những thành tựu vượt bậc trong công tác xóa đói giảm nghèo mà
Liên Hợp Quốc đánh giá Việt Nam là nước thực hiện mẫu mực công tác xóa đói giảm
nghèo và đã hoàn thành mục tiêu thiên niên kỷ của Liên Hiệp Quốc về xóa đói giảm
nghèo đến năm 2015 trước 10 năm.
Các hoạt động xã hội khác trong những năm qua cũng được triển khai có hiệu
quả và đạt được nhiều tiến bộ như lĩnh vực giáo dục - đào tạo (Việt Nam là một trong số
ít các nước đang phát triển triển khai thực hiện phổ cập trung học cơ sở), công tác bảo vệ
và chăm sóc sức khỏe của nhân dân, chính sách an sinh xã hội ngày càng được mở rộng
và hoạt động hiệu quả...
Ngoài những kết quả chủ yếu trên, trong 30 năm đổi mới cũng đã tạo ra bước
phát triển mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực cơ bản, như chính sách phát triển kinh tế nhiều
thành phần thực hiện có hiệu quả đã góp phần giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất xã hội;
thể chế kinh tế thị trường dần được hình thành; cơ cấu kinh tế ngành có sự chuyển dịch
tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; hội nhập kinh tế khu vực và thế giới
ngày càng mạnh mẽ; mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở nước ta đã được giải quyết một cách có hiệu quả; đời
sống của đại bộ phận nhân dân được cải thiện rõ rệt.
83
Tất cả những thành tựu to lớn mà Đảng và nhân dân ta đạt được trong những năm
đổi mới có một phần quan trọng là việc có nhận thức mới về giải quyết mối quan hệ dân
tộc và giai cấp trong điều kiện mới.
Như vậy, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã thúc đẩy sự
phát triển của lực lượng sản xuất, tạo tiền đề vật chất và tinh thần cho việc đẩy mạnh sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo cơ sở cho việc giải quyết các vấn đề
xã hội. Đó là cơ sở để củng cố quan hệ xã hội mới. Sự phát triển đó từng bước thực hiện
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, thực hiện mục tiêu lý
tưởng của giai cấp công nhân và của cả dân tộc Việt Nam. Sự phát triển này cũng làm
cho lực lượng xã hội, mọi thành phần dân tộc ngày càng gắn bó, phát huy những tiềm
năng vốn có để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
3.2.2.2. Trên lĩnh vực xây dựng hệ thống chính trị
Chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp đối với việc giành, giữ chính quyền nhà
nước. Các quan hệ này bao giờ cũng biểu hiện tập trung của các quan hệ kinh tế, thông
qua các chủ thể chính trị trong hệ thống chính trị. Trong hệ thống chính trị ở nước ta
hiện nay có các thành tố cơ bản là Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị xã hội...
Trong thời kỳ đổi mới, cùng với đổi mới kinh tế, hệ thống chính trị cũng được đổi
mới cả về nội dung và phương thức hoạt động. Thực chất của quá trình đó là nâng cao
năng lực lãnh đạo của Đảng, năng lực quản lý của bộ máy tổ chức nhà nước phù hợp với
lợi ích của dân tộc và giai cấp, củng cố mối liên hệ mật thiết giữa dân tộc và giai cấp,
làm chuyển biến hệ thống chính trị theo hướng dân chủ hóa góp phần thực hiện thắng lợi
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Thứ nhất, tính thống nhất giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp được thể hiện ở
một nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Hệ thống chính trị mà chúng ta đang tiến hành xây dựng là một hệ thống chính trị
thống nhất giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp. Đây là một nguyên tắc cơ bản xây
dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Đảng ta khẳng định “Toàn
bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây
dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc
về nhân dân” [35, tr.19]. Do vậy, quá trình đổi mới và xây dựng hệ thống chính trị, tức
hệ thống các tổ chức đại diện nhân dân, gắn với quá trình bảo đảm quyền lực chính trị
thuộc về nhân dân, từng bước hoàn thiện và nâng cao trình độ nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Chúng ta luôn xuất phát từ nhu cầu, nguyện vọng chính đáng về dân chủ của
84
nhân dân; căn cứ vào trình độ giác ngộ và năng lực thực hành dân chủ của nhân dân mà
tiến hành đổi mới hệ thống chính trị. Đảng ta đã xác định: “Dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra, đó là … thể hiện chế độ nhân dân lao động tự quản lý Nhà nước của mình”
[34, tr.112]. Chỉ khi nhân dân với tư cách là người chủ và người làm chủ, là chủ thể của
quyền lực chính trị, trực tiếp tham gia xây dựng, thực hiện kiểm tra giám sát việc thực
thi quyền lực các tổ chức trong hệ thống chính trị mới có thể xem là đổi mới thành công.
Vì vậy, vấn đề quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình đổi mới được
Đảng, Nhà nước ta quan tâm nhiều hơn. Nhân dân đã thực hiện quyền làm chủ, tham
gia vào đời sống chính trị, đóng góp ý kiến, xây dựng đường lối, chính sách, các văn
bản pháp luật, quyết sách quan trọng của Đảng, Nhà nước; tích cực tham gia công tác
bầu cử các cấp, giám sát hoạt động của các đại biểu dân cử và cán bộ Đảng và Nhà
nước; khắc phục dần tình trạng mất dân chủ, dân chủ hình thức. Đánh giá kết quả của
việc đổi mới hệ thống chính trị qua 30 năm đổi mới Đảng ta khẳng định: “Thể chế
thực thi quyền dân chủ của nhân dân từng bước được xác lập và cụ thể hóa...”, “Ý
thức dân chủ của công dân và của xã hội, trình độ năng lực làm chủ của nhân dân
từng bước được nâng lên. Những đảm bảo dân chủ về quyền và nghĩa vụ, lợi ích và
trách nhiệm của các chủ thể trong xã hội đã được luật hóa cụ thể hơn và từng bước
thực hiện có kết quả” [53, tr.146-147].
Thứ hai, thống nhất giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp được thể hiện trong
quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ.
Về quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Đây là
mối quan hệ chính trị - pháp lý giữa các chủ thể có vai trò, vị trí, chức năng và nhiệm vụ
khác nhau, song đều hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thực hiện
dân chủ, bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Giải quyết quan hệ này,
cũng là thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn mối quan hệ dân tộc và giai cấp trong việc
xây dựng hệ thống chính trị. Việc duy trì sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính
trị, chính là đảm bảo tính chất giai cấp công nhân trong hệ thống chính trị. Do đó, tất yếu
phải giữ vững thường xuyên giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính
trị; hiến pháp và pháp luật Nhà nước trong hệ thống chính trị đó đưa ra là thể chế hóa
đường lối của Đảng, mọi chính sách đều phải nhất quán quan điểm của giai cấp công
nhân và nhằm phục vụ cho lợi ích của nhân dân, của dân tộc. Chỉ như vậy mới giữ vững
được mục tiêu đi tới chủ nghĩa xã hội và do đó, nhân dân mới được hưởng ngày càng
đầy đủ những giá trị dân chủ.
85
Trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị, chính là xác định vị trí chức năng,
nhiệm vụ của từng tổ chức và mối quan hệ lẫn nhau giữa các tổ chức trong một thiết chế
thống nhất, khắc phục tình trạng lấn sân hoặc đùn đẩy trách nhiệm của mình. Ngay từ
Đại hội VII, Đảng ta đã xác định rõ: đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống chính
trị, cần quán triệt sâu sắc những quan điểm cơ bản: cách mạng là sự nghiệp của dân, do
dân và vì dân; động lực thúc đẩy phong trào cách mạng của quần chúng là đáp ứng các
lợi ích thiết thực của nhân dân và kết hợp hài hoà các lợi ích, thống nhất quyền lợi và
nghĩa vụ công dân; các hình thức tập hợp nhân dân phải đưa dạng; công tác quần chúng
là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể, của các tổ chức khác trong hệ thống
chính trị, chứ không phải chỉ của riêng các đoàn thể. Muốn tạo ra phong trào cách mạng
sâu rộng trong quần chúng không những phải có đường lối, chủ trương đúng, làm tốt
công tác tuyên truyền giáo dục tư tưởng, mà còn phải bảo đảm các điều kiện vật chất cần
thiết và có phương pháp, biện pháp tổ chức đúng.
Trong đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống chính trị vấn đề mấu chốt
nhất và cũng là khó nhất đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính
trị, khắc phục cả hai khuynh hướng thường xảy ra trong thực tế: hoặc là bao biện làm
thay, hoặc là buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng. Đánh giá về kết quả đổi mới hệ thống
chính trị trong 30 năm đổi mới Đảng ta khẳng định: “Vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ
của các tổ chức trong tổ chức trong hệ thống chính trị được xác định ngày càng rõ hơn
và được thể chế hóa thành các quy định của pháp luật. Phân định rõ hơn vai trò lãnh đạo
của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước, vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội” [53, tr.148]. “Nội dung “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân
làm chủ” từng bước được cụ thể hóa, có những bước tiến theo hướng phân định rõ hơn
chức năng, thẩm quyền, nhiệm vụ, trách nhiệm của mỗi chủ thể, nâng cao hiệu lực, hiệu
quả, công khai, minh bạch, ý thức tuân thủ pháp luật” [53, tr.149].
Thứ ba, lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp được đảm bảo khi các tổ chức trong hệ
thống chính trị trong sạch vững mạnh, hoạt động có hiệu quả.
Xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh, hoạt động có hiệu quả, trước
hết là nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam là
đội tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đồng thời cũng là đội tiên phong của
toàn thể nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam; là người lãnh đạo, tổ chức và
đề ra đường lối cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Thực tiễn cách mạng Việt Nam
nói chung, công cuộc đổi mới nói riêng nói lên rằng, Đảng ta luôn gắn bó máu thịt với
nhân dân, với dân tộc. Tuy nhiên để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải
86
thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, chống quan
liêu, tham nhũng, làm trong sạch nội bộ Đảng để Đảng mãi mãi xứng đáng là người lãnh
đạo của dân tộc, của nhân dân. Đánh giá về công tác xây dựng Đảng trong 30 năm đổi
mới Đảng ta khẳng định:
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được coi trọng, tăng cường,.. Việc thực
hiện các nghị quyết về xây dựng Đảng đã tạo được sự chuyển biến nhất định
trong việc ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; bước đầu khắc
phục được một số hạn chế, khuyết điểm trong công tác cán bộ và thực hiện
các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ và
nguyên tắc tự phê bình và phê bình. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
Đảng từng bước được nâng cao [53, tr.166].
Hai là, việc nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, phải gắn liền việc nâng cao hiệu
lực quản lý của nhà nước. Việc củng cố tăng cường sự lãnh đạo của Đảng phải thể hiện
ở vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Vì Nhà nước là một trong những bộ phận
quan trọng nhất của hệ thống chính trị. Sức mạnh của Đảng cầm quyền thể hiện ở sức
mạnh của nhà nước. Nhà nước thể chế hóa đường lối của Đảng và ảnh hưởng trực tiếp
đến mọi mặt của đời sống xã hội.
Trong hệ thống chính trị, Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nhà nước
mang bản chất của giai cấp công nhân, nhưng đó là nhà nước phục vụ, bảo vệ lợi ích cho
toàn thể nhân dân lao động. Nhà nước không chỉ là cơ quan thực thi quyền lực của nhân
dân lao động, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động mà còn là cơ quan thực hiện chức
năng xã hội một cách đầy đủ nhất. Giai cấp vô sản dùng nhà nước để thực hiện sự
chuyên chính đối với các thế lực đi ngược lại lợi ích của nhân dân, làm tổn hại đến cơ sở
kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Đó là ý nghĩa toàn diện, to lớn đối với việc xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Trong thời kỳ đổi mới, để tăng cường hiệu lực của hệ thống chính trị, Đảng ta chủ
trương tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị. Nhà nước đổi mới
nội dung phương thức hoạt động theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Một điều đáng chú ý là, bản chất của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà
chúng ta đang xây dựng là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức lại trùng hợp với tiêu chí cốt lõi của nhà nước pháp
87
quyền khi khẳng định tất cả quyền lực đều thuộc về nhân dân, nhân dân là người chủ tối
thượng, tuyệt đối và duy nhất của quyền lực nhà nước. Và như vậy, nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa là nhà nước có thể bảo đảm bằng cơ sở pháp lý và trên thực tế mọi quyền
hành và lợi ích đều thuộc về dân, đây là điều mang tính bản chất. Ở đây, lợi ích dân tộc và
lợi ích giai cấp là thống nhất đảm bảo tất cả quyền lực thuộc với nhân dân.
Việc chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và cùng với chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã làm cho
mọi giai cấp và tầng lớp trong xã hội được đảm bảo cả quyền lợi kinh tế và chính trị,
hai quyền lợi cơ bản nhất của con người trong xã hội hiện đại. Chính điều này tạo nên
sự thống nhất của một dân tộc hiện đại trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Đánh giá về việc nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước trong 30 năm đổi mới Đảng
ta khẳng định:
Tổ chức và cơ chế hoạt động của các thiết chế trong bộ máy nhà nước có
những đổi mới trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
mình... Hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước từng bước được nâng lên.
Tổ chức và phương thức hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung, của các
cơ quan nhà nước từng bước được đổi mới; chủ trương cải cách tổng thể bộ
máy nhà nước được triển khai và có những kết quả bước đầu. Nguyên tắc
quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát
quyền lực nhà nước từng bước được quy định rõ hơn và triển khai thực hiện
trong thực tế [53, tr.149-150].
Ba là, trong hệ thống chính trị, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân
dân hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước, đồng thời “Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, liên minh chính trị của các đoàn thể nhân dân và cá nhân tiêu biểu
của các giai cấp và các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo, là cơ sở chính trị của
chính quyền” [35, tr.20].
Trong vấn đề kết hợp nhân tố dân tộc với nhân tố giai cấp trong việc xây dựng và
phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội trong mặt trận có
tầm quan trọng đặc biệt để thực hiện đại đoàn kết dân tộc, phát triển đất nước. Đại đoàn
kết toàn dân trên cơ sở liên minh công nhân - nông dân - trí thức do Đảng Cộng sản lãnh
đạo, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là hình ảnh tiêu biểu của liên minh giai cấp do Đảng
lãnh đạo trên cơ sở lợi ích tối cao của dân tộc.
Trong thời kỳ đổi mới, nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới hệ thống chính trị nói
chung, Mặt trận và các tổ chức quần chúng cũng tiến hành đổi mới nội dung và phương
88
thức hoạt động theo hướng khắc phục tình trạng “hành chính hóa” trong tổ chức và hoạt
động, phù hợp với tính chất quần chúng và những biến động về đa dạng về cơ cấu xã hội
giai cấp trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng lợi ích thiết
thực của các tầng lớp nhân dân. Đổi mới và phát triển các tổ chức chính trị xã hội, các tổ
chức của quần chúng là chủ động tạo ra sức mạnh của cơ sở xã hội của Đảng và nhà
nước. Đó là một nhân tố cực kỳ quan trọng về mặt xã hội để đảm bảo ổn định chính trị,
bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng, Nhà nước trong bất kỳ tình huống nào. Hiện nay ở nước ta
các hội quần chúng không ngừng được mở rộng. Cả nước có khoảng 166 hội quần
chúng theo lợi ích nghề nghiệp gồm: “Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật có 62 hội
thành viên; liên hiệp các hội văn học nghệ thuật có 9 tổ chức thành viên; liên hiệp tổ
chức hữu nghị và hòa bình có 40 tổ chức thành viên” [37, tr.63].
Cùng với việc đa dạng hóa các hình thức tập hợp quần chúng, chúng ta đã thực
hiện đa dạng hóa chức năng tập hợp, giáo dục quần chúng để thực hiện có hiệu quả mọi
đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, chúng ta đã xem việc bảo vệ,
thỏa mãn những nhu cầu, lợi ích chính đáng của các thành viên trong tổ chức của mình
là chức năng cơ bản nhất. Nhờ vậy, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức quần chúng
ngày càng thu hút được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia và hoạt động ngày
càng có hiệu quả. Đánh giá về việc hiệu quả của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân trong 30 năm đổi mới Đảng ta khẳng định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
đoàn thể nhân dân có đổi mới cả về nội dung và phương thức hoạt động; phát huy ngày
càng tốt hơn vai trò tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; cùng Đảng, Nhà
nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân” [54, tr.156].
Một điều đáng lưu ý là, trong khi mở rộng các hình thức tập hợp quần chúng,
khối liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức không một
chút nào được xem nhẹ. Chúng ta ý thức được rằng, chỉ khi khối liên minh ấy thực sự là
nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân, thì việc đa dạng hóa các hình thức tập hợp
chúng nhằm mở rộng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mới góp phần tích cực vào sự ổn định
chính trị, xã hội và tăng trưởng kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa và quyền làm
chủ của nhân dân.
Việc kết hợp giữa yếu tố dân tộc và yếu tố giai cấp trong xây dựng hệ thống
chính trị xã hội chủ nghĩa còn được thể hiện ở tính dân tộc của tổ chức nhà nước và hệ
thống chính trị, như Lê nin đã từng nhấn mạnh, mỗi dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội phải
tuân theo những quy luật phổ biến, trong quy luật phổ biến có quy luật về chính trị xã
hội, những mỗi dân tộc có đặc điểm rất khác nhau về hình thức của chế độ dân chủ.
89
Người khẳng định: “Mỗi dân tộc sẽ đưa đặc điểm của dân tộc mình vào hình thức này
hay hình thức khác của chế độ dân chủ, vào loại này hay loại khác của chuyên chính vô
sản” [96, tr.160].
Trên cơ sở kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
ở nước ta đã xây dựng hệ thống chính trị trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
trong thời kỳ đổi mới, có tính dân tộc sâu sắc. Đó là hình thức dân tộc trong tổ chức bộ
máy nhà nước, trong chế độ dân chủ và cả trong hệ thống chính trị. Tuy nhiên tính dân
tộc ở đây không tách rời với tính giai cấp. Trong quá trình đổi mới, xây dựng thể chế
nhà nước và hệ thống chính trị không thể rập khuôn mà phải tính đến điều kiện đặc thù
của Việt Nam. Hình thức của tổ chức trong hệ thống chính trị được thể hiện sâu sắc
những đặc điểm dân tộc và kinh tế xã hội và truyền thống dân tộc. Chế độ dân chủ ở
nước ta không chỉ thể hiện bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà còn thể hiện
tính Việt Nam, phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội và truyền thống văn hóa Việt Nam.
Chính điều đó đã làm cho chính trị có thể đóng vai trò tích cực trong đời sống xã hội,
trong quá trình phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, góp phần tạo nên
tính đặc thù trong sự phát triển của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực
hiện mục tiêu dân tộc và giai cấp trong quá trình phát triển xã hội hiện nay.
3.2.2.3. Trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, Đảng ta đã đánh giá đúng vai trò của văn hoá,
văn hoá đang trở thành một bộ phận không thể tách rời của sự nghiệp đổi mới, là một
mặt trận quan trọng của Đảng để chống lại những hiện tượng tiêu cực, xây dựng nền văn
hóa mới, góp phần đắc lực vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực
hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Điều này tiếp tục
được khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta khẳng định:
Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển
toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn,
dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hoá gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ
đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh
quan trọng của phát triển. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá
tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hoá
nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì lợi ích chân
chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm
mỹ ngày càng cao [50, tr.75-76].
90
Như vậy, nhiệm vụ trung tâm của nền văn hóa nước ta là góp phần bồi dưỡng con
người Việt Nam về trí tuệ, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, có nhân cách cao đẹp,
bản lĩnh ngang tầm sự nghiệp đổi mới đất nước. Những quan điểm trên của Đảng về văn
hóa là kết quả của quá trình nhận thức mới về nền văn hóa. Đồng thời, thể hiện sự nhận
thức ngày càng sâu sắc về sự thống nhất lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp trong việc xây
dựng nền văn hóa mới ở nước ta.
Giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong đường lối
xây dựng văn hóa mới mà chúng ta xây dựng, được biểu hiện trên từng đặc trưng cụ thể
sau đây.
Thứ nhất, theo quan điểm của Đảng ta, nền văn hóa tiên tiến gồm có những đặc
trưng: “Yêu nước, tiến bộ, có nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nhân văn; tất
cả vì con người; tiên tiến không chỉ trong nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu
hiện trong các phương tiện chuyển tải nội dung” [41, tr.55]. Chúng ta đều biết rằng, chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam là một thang giá trị cao nhất trong truyền thống văn hoá Việt
Nam, là dòng chảy chính, dòng chủ lưu, là cốt lõi của tư tưởng văn hoá truyền thống
Việt Nam, xuyên suốt trường kỳ lịch sử, là động lực mạnh mẽ cho sự trường tồn và phát
triển của dân tộc và trở thành một dạng triết lý xã hội và nhân sinh trong tâm hồn Việt
Nam. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử, vốn
là động lực tinh thần vô giá trong các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập
dân tộc. Nhận xét về truyền thống yêu nước Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta.
Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành
một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó
nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” [114, tr.38].
Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới đất nước, sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, đòi hỏi
phải huy động tối đa tiềm năng vật chất và tinh thần của dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước
vẫn là động lực to lớn. Yêu nước trong thời đại ngày nay là ý chí đưa đất nước thoát
khỏi nghèo nàn lạc hậu, nâng cao tinh thần tự tôn dân tộc, vươn lên mạnh mẽ trong sản
xuất kinh doanh với phương châm ích nước lợi nhà, nỗ lực phấn đấu vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Trong thời đại ngày nay, yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội, yêu nước gắn liền với
yêu chủ nghĩa xã hội. Mặc dù bối cảnh tình hình trong nước và quốc tế hiện nay có
91
nhiều biến đổi, song Đảng ta vẫn khẳng định kiên định mục tiêu, con đường mà Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã lựa chọn: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đó là con
đường đúng đắn, phù hợp với quy luật phát triển của thời đại. Bài học hàng đầu qua thực
tiễn gần 30 năm đổi mới là trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội cũng chính là vấn đề dân tộc và giai cấp. Quá trình
lãnh đạo cách mạng của Hồ Chí Minh, vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội đã được đặt ra và giải quyết thành công, trước hết là vấn đề độc lập dân tộc. Với Hồ
Chí Minh, quyền độc lập dân tộc là thiêng liêng, bất khả xâm phạm, bằng mọi giá phải
giành cho kỳ được độc lập dân tộc. Hiện nay, theo tinh thần Hồ Chí Minh, vẫn cần nhận
thức và giải quyết đúng đắn nội dung đó trong điều kiện mới. Kết hợp chặt chẽ độc lập
dân tộc với chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ mở cửa hội nhập, trước hết cần nhận thức độc
lập và phụ thuộc, độc lập và hợp tác có sự đan xen vào nhau. Tuy nhiên, các thế lực thù
địch vẫn không chịu từ bỏ dã tâm chống phá và tiêu diệt các lực lượng cách mạng và
tiến bộ trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Vì vậy, yêu nước là phải giữ vững độc lập
dân tộc, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Mà muốn giữ vững độc lập dân tộc trong
điều kiện hiện nay thì phải có những yêu cầu mới, cao hơn. Hạt nhân của các sức mạnh
đó để tạo lên sức mạnh nội lực thật sự chính là lòng yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, tự
tôn dân tộc. Nhiệm vụ lớn lao của Đảng là làm cho toàn dân ý thức sâu sắc về quyền độc
lập dân tộc trong hoàn cảnh mới, không được lơ là mất cảnh giác. Tức là ý thức về sự
nối tiếp và nâng cao truyền thống.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt
Nam. Giữ vững độc lập gắn với xây dựng Tổ quốc giàu mạnh, làm cho dân giàu, nước
mạnh. Chỉ có như vậy thì mới giữ vững được độc lập dân tộc. Xây dựng Tổ quốc cũng
chính là nhằm bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Tổ quốc là để xây dựng Tổ quốc. Quyết tâm thực
hiện điều mong muốn cuối cùng của Bác Hồ trước lúc đi xa là xây dựng một nước Việt
Nam hoà bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào sự
nghiệp cách mạng thế giới. Ngày nay, Đảng ta phấn đấu thực hiện để đạt mục đích dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Hoàn thành được mục tiêu cao
cả đó vừa tạo ra một chất mới, trình độ mới của xã hội Việt Nam hiện đại, vừa tạo ra nội
lực để tự bảo vệ.
Nói đến văn hóa không thể không nói đến hệ tư tưởng, vì hệ tư tưởng chi phối
quan niệm về giá trị đạo đức lối sống và hành vi con người. Hệ tư tưởng không đồng
nhất với văn hóa, không thể quy toàn bộ các giá trị văn hóa vào hệ tư tưởng, nhưng xét
92
đến cùng, trong xã hội có giai cấp, hệ tư tưởng, của giai cấp thống trị bao giờ cũng là cốt
lõi của văn hóa. Nền tảng tư tưởng của nền văn hóa mới Việt Nam là chủ nghĩa Mác -
Lênin - hệ tư tưởng tiên tiến của giai cấp công nhân và tư tưởng Hồ Chí Minh là kết tinh
của tinh hoa văn hóa dân tộc và những tinh hoa văn hóa nhân loại. Đó là hệ tư tưởng
cách mạng và khoa học, hướng vào mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và
giải phóng con người. Mục tiêu đó thể hiện sự thống nhất về lợi ích giai cấp, lợi ích dân
tộc và lợi ích nhân loại.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong giai đoạn mới phải kết hợp chủ nghĩa yêu
nước với chủ nghĩa Mác - Lênin. Đây cũng là vấn đề rất cơ bản trong giai đoạn cách
mạng mới. Chủ nghĩa yêu nước là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, còn chủ nghĩa Mác-
Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp vô sản và nhân dân lao động toàn thế giới. Ngày nay,
chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn còn nguyên giá trị trên những nguyên lý cơ bản. Chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam mà không kết hợp với chủ nghĩa Mác - Lênin thì không phải là chủ
nghĩa yêu nước kiểu Hồ Chí Minh. Mặt khác, chỉ có kết hợp với chủ nghĩa Mác- Lênin
thì chủ nghĩa yêu nước Việt Nam mới có thêm được sức mạnh mới, một xung lực mới.
Đây là một bài học quý mà Hồ Chí Minh đã rút ra, được thực tiễn cách mạng Việt Nam
kiểm chứng, đã và đang phát huy sức mạnh trong 30 năm đổi mới.
Thứ hai, trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, đã hình
thành cho dân tộc ta những giá trị truyền thống tốt đẹp. Nhờ sức mạnh những giá trị tinh
thần đó, dân tộc Việt Nam đã chiến thắng nhiều thách thức khắc nghiệt của thiên tai địch
họa để tồn tại và phát triển. Thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta trong sự nghiệp giải phóng
dân tộc là thắng lợi của văn hóa truyền thống văn hóa Việt Nam được Đảng ta, nhân
dân ta nâng lên tầm cao mới trong thời đại mới. Bảo vệ và phát huy các giá trị truyền
thống của văn hóa dân tộc. Những giá trị đó là cơ sở và hệ quy chiếu để lựa chọn, tiếp
thu những giá trị mới qua nhiều cuộc giao lưu tiếp xúc văn hóa với các nước trong khu
vực và thế giới ở các thời kỳ khác nhau trong lịch sử. Thực tiễn phát triển của lịch sử
nhân loại đã chứng minh rằng, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và
hội nhập quốc tế để phát triển mà tách ra khỏi khỏi cội nguồn dân tộc thì sẽ lâm vào
nguy cơ bị tha hóa, đánh mất bản thân mình, trở thành cái bóng của người khác, của
dân tộc khác. Cùng với những giá trị tinh thần, bản sắc dân tộc, bản sắc văn hóa còn
được đặc trưng bởi phương thức biểu hiện độc đáo. Đó là tiếng nói dân tộc, tâm lý,
phong tục, tập quán, là những hình tượng nghệ thuật truyền thống của dân tộc… Giữ
gìn bản sắc văn hóa đòi hỏi chúng ta phải chắt lọc, giữ gìn, phát huy cả những hình
thức ấy và nâng lên tầm cao mới.
93
Bản sắc dân tộc của văn hóa không phải là bất biến, mà nó luôn có sự vận động
và biến đổi, phát triển và sáng tạo trong sự giao lưu ngày càng rộng mở với các dân tộc
khác và các nền văn hóa khác. Do vậy, cần phát huy các giá trị truyền thống của văn hóa
dân tộc và tiếp thu những tinh hoa văn hóa, văn minh của nhân loại để hình thành một
nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Trong quá trình giao lưu văn hóa, chúng ta phải chống khuynh hướng lai căng,
mất gốc, xa rời bản sắc văn hóa dân tộc. Mất bản sắc dân tộc của một nền văn hóa thì có
nghĩa dân tộc ấy cũng không phải là một dân tộc độc lập, chứ chưa nói là đến định
hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, trong quá trình mở cửa, giao lưu, tiếp nhận văn hóa từ
nước ngoài chúng ta cần gạn đục khơi trong, loại bỏ những giá trị không phù hợp với
nền văn hóa dân tộc. Nói cách khác, việc giao lưu, tiếp nhận văn hóa nước ngoài là vì lợi
ích dân tộc và lợi ích giai cấp, đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, giữ
vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, thực chất của sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc là một quá trình chuyển đổi giá trị, là sự thay thế những cái cũ lạc hậu, cái không
phù hợp bằng những giá trị mới, phù hợp với lợi ích của giai cấp công nhân, lợi ích dân
tộc trong giai đoạn mới. Đây là một nhiệm vụ mới mẻ, đầy khó khăn, là một cuộc đấu
tranh giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trên mặt trận tư tưởng, văn hóa.
Cuộc đấu tranh giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng, văn
hóa không chỉ có ý nghĩa là động lực cho sự phát triển xã hội chủ nghĩa ở nước ta mà
còn có ý nghĩa bảo vệ chân lý khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, “Làm cho thế giới quan Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí
chỉ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn
hóa tốt đẹp của các dân tộc trong nước” [35, tr.10]. Đây là nội dung trung tâm, bao trùm
toàn bộ cuộc đấu tranh tư tưởng văn hóa hiện nay, chi phối định hướng cho sự phát triển
của văn hóa dân tộc, và mọi hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn hóa.
Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước và bước vào thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, Đảng ta có nhận thức ngày càng sâu sắc về vai trò của văn hoá trong
phát triển kinh tế - xã hội, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa. Đảng ta luôn coi văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực
của sự phát triển; lấy văn hoá làm nền tảng cho sự phát triển nhanh và bền vững. “Qua
30 năm đổi mới, lĩnh vực xây dựng, phát triển văn hóa, con người đã đạt được những kết
quả quan trọng... Nhiều giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng các dân tộc được
phát huy, đồng thời xuất hiện những giá trị văn hóa mới” [53, tr.97-98].
94
Với nhận thức đó, có thể nói văn hóa đang ngày càng có vai trò quan trọng trong
đời sống xã hội. Bất kỳ một sự đánh đổi các giá trị văn hóa tinh thần lấy các giá trị vật
chất trước mắt đều phải trả giá lâu dài, ảnh hưởng đến sự tồn vong của dân tộc. Sự đánh
mất bản sắc văn hóa cũng có nghĩa là đánh mất cốt cách dân tộc. Do vậy trong các cuộc
xâm lăng, các thế lực thù địch luôn dùng mọi chiêu bài để hủy hoại nền văn hóa của dân
tộc ta.
Trong điều kiện hội nhập quốc tế sâu rộng, việc tiếp thu những tinh hoa văn hóa
nhân loại để xây dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là cần thiết,
song phải khắc phục tư tưởng phủ định sạch trơn truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc,
coi thường các chuẩn mực giá trị trong đời sống tinh thần của dân tộc. Trong điều kiện
đó, các thế lực thù địch cũng đang tìm mọi cách để phá hoại những giá trị văn hóa tinh
thần của dân tộc ta. Chúng đang tuyên truyền những tư tưởng, lối sống thực dụng,
hưởng thụ, đề cao vật chất, coi nhẹ các giá trị tinh thần. Điều này có thể dần dần làm xói
mòn cấu trúc văn hóa, đạo đức, lối sống, cốt cách của con người Việt Nam. Sự du nhập
ồ ạt các của các yếu tố phản văn hóa, thông tin không được kiểm soát… đã ảnh hưởng
không nhỏ tới việc bồi dưỡng lý tưởng, nhân cách của các tầng lớp nhân dân trong xã
hội, nhất là tầng lớp thanh niên.
Mặt khác, chúng ta cũng tránh việc quá đề cao giá trị dân tộc dẫn đến chủ nghĩa
dân tộc hẹp hòi, cực đoan, chủ nghĩa bài ngoại… cản trở sự tiếp thu những yếu tố tiến
bộ tích cực mà nhân loại đạt được trong thời đại ngày nay.
Có thể nói, tất cả hoạt động văn hóa sôi nổi và phong phú của thời kỳ đổi mới vừa
nhằm khai thác các tiềm lực tinh thần của dân tộc, vừa tạo điều kiện để mọi giai cấp,
mọi tầng lớp xã hội có thể đóng góp sức mình vào việc xây dựng một nền văn hóa mới -
văn hóa xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình ấy tự bản thân nó đã kết hợp hài hòa được yếu
tố dân tộc và yếu tố giai cấp.
Tóm lại, từ những phân tích trên, chúng ta thấy sự kết hợp một cách hài hòa, toàn
diện giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp trên các lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội…Sự kết hợp đó được thống nhất ở mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội. Để thực hiện được mục tiêu này phải giải quyết hài hòa, thống nhất lợi
ích dân tộc và lợi ích giai cấp trong tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong sự thống
nhất lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp thì sự thống nhất về kinh tế, xã hội làm nền tảng
cho sự thống nhất về chính trị, văn hóa. Sự thống nhất về chính trị, văn hóa tác động trở
lại sự thống nhất về lợi ích kinh tế, xã hội. Sự thống nhất lợi ích dân tộc và lợi ích giai
cấp trong phát triển kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa liên kết chặt chẽ với nhau trong sự
95
tác động qua lại lẫn nhau, tạo ra động lực thúc đẩy quan hệ dân tộc và giai cấp có bước
phát triển mới.
Vì vậy, việc giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai
cấp trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, không được tuyệt đối hóa, hoặc coi nhẹ bất cứ
một mặt nào trong các quan hệ dân tộc và giai cấp. Tuyệt đối hóa lợi ích kinh tế, coi nhẹ
chính trị, xã hội, văn hóa sẽ không tạo ra được sức mạnh tổng hợp thúc đẩy kinh tế phát
triển, đẩy các quan hệ đến chủ nghĩa thực dụng, làm giàu bằng mọi giá, bất chấp pháp
luật, đạo lý, nhân cách…, tăng trưởng kinh tế không đạt mục tiêu phát triển và tiến bộ xã
hội. Ngược lại, coi nhẹ lợi ích kinh tế, tuyệt đối hóa chính trị, xã hội, văn hóa thì quan hệ
dân tộc và giai cấp không dựa trên nền tảng kinh tế vững chắc sẽ trở nên lỏng lẻo, mọi
mục tiêu chính trị, xã hội, văn hóa sẽ trở thành giáo điều, không có sức thuyết phục với
quần chúng, do đó sẽ không có sức mạnh vật chất để tác động làm biến đổi xã hội.
Cả hai khuynh hướng trên đều đi ngược lại lợi ích dân tộc, lợi ích giai cấp và sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để tránh mắc phải sai lầm đó, đòi hỏi
Đảng, Nhà nước, các giai cấp và toàn thể dân tộc phải nhận rõ những mâu thuẫn và có
những giải pháp đồng bộ trong đổi mới kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, tạo nền tảng
để giải quyết hài hòa lợi ích các giai cấp, góp phần vào thắng lợi của công cuộc đấu
tranh dân tộc và giai cấp trong giai đoạn mới.
3.2.3. Mở rộng quan hệ quốc tế trong việc huy động các nguồn lực phát triển
đất nước
Việc giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp không chỉ biểu hiện trong quan
hệ nội bộ quốc gia dân tộc được biểu hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội
như: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội... mà còn trong quan hệ quốc tế nhằm kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại tạo ra sức mạnh tổng hợp đưa cách mạng đến thắng
lợi cuối cùng. Đảng ta cũng xác định đây là bài học thắng lợi của cách mạng Việt Nam
từ khi có Đảng. Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta cũng xác định đây là nguồn động lực
vĩ đại của sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chính vì vậy,
chúng ta phải giải quyết một cách thấu đáo mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp, vấn đề dân tộc và vấn đề quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Từ việc lựa chọn con đường cách mạng theo con đường cách mạng vô sản, Hồ
Chí Minh và Đảng ta đã đặt cách mạng Việt Nam vào trong dòng chảy của thời đại, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, và chính Hồ Chí Minh đã có đóng góp
to lớn cho tình đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân tất cả các nước, giữa các nước xã hội
chủ nghĩa, giữa vô sản và các dân tộc bị áp bức và giữa các lực lượng tiến bộ trên toàn
96
thế giới với nhau. Chủ nghĩa quốc tế của Hồ Chí Minh có nội dung phong phú: Đoàn kết
với nhân dân lao động các nước vì mục tiêu chung đấu tranh giải phóng con người khỏi
ách áp bức, bóc lột; đoàn kết quốc tế giữa những người vô sản toàn thế giới vì một mục
tiêu chung bốn phương vô sản đều là anh em; đoàn kết với nhân loại tiến bộ vì hoà bình,
công lý và tiến bộ xã hội; đoàn kết quốc tế gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa
yêu nước chân chính sẽ dẫn đến chủ nghĩa quốc tế trong sáng, chống lại mọi biểu hiện
của chủ nghĩa sô vanh, vị kỷ, hẹp hòi, kỳ thị dân tộc...
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, khi xu thế toàn cầu hóa đang là xu thế tất yếu
của thời đại, Đảng ta cũng nhận thức một cách sâu sắc rằng, cách mạng Việt Nam là một
bộ phận của cách mạng thế giới, nên trong quá trình phát triển của mình cần phải phát
huy tối đa sức mạnh dân tộc và tranh thủ sức mạnh của thời đại là cốt lõi của việc giải
quyết mối quan hệ giữa lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc và lợi ích quốc tế hiện nay.
Mặt tích cực rõ nét trong quá trình kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta trong những năm qua trước hết thể hiện ở sự nhận
thức và xử lý tương đối mềm dẻo, linh hoạt mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp phù hợp với những nguyên tắc và mục tiêu chính trị nhất định. Điều này, được
thể hiện trên những vấn đề cơ bản sau đây:
Thứ nhất, phát huy những điểm tương đồng, giải quyết thấu đáo những bất đồng,
mâu thuẫn giữa các giai cấp, tầng lớp trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc -
nguồn lực cơ bản của sự nghiệp đổi mới.
Với chủ trương mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở những điểm
tương đồng mà Đảng ta đã nêu ra, cho thấy sự kết hợp nhuần nhuyễn mối quan hệ dân
tộc và giai cấp, được thể hiện rất rõ trong các quan điểm, đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước.
Đảng ta cho rằng, trong giai đoạn hiện nay cần thực hiện đại đoàn kết các dân tộc,
tôn giáo, giai cấp, tầng lớp, thành phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất
nước, người trong Đảng và người ngoài Đảng, người đang công tác và người đã về hưu,
mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống trong nước hay ở nước
ngoài; xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau hướng tới tương lai; cần tôn trọng
những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc, xoá bỏ mặc cảm, định
kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần xã hội... Đối tượng đoàn kết rất
rộng rãi, bao gồm tất cả những người Việt Nam tán thành mục tiêu chung, không đoàn
kết với những kẻ đi ngược lại nguyện vọng, ý chí của dân tộc; củng cố và phát triển sâu
rộng khối đại đoàn kết toàn dân trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam do Đảng lãnh đạo
97
trên cơ sở liên minh vững chắc giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức. Từ quan điểm trên đây, chúng ta đã xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân tộc
vững mạnh, tạo cơ sở cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.
Đảng ta đã xác định xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trên cơ sở sự đồng
thuận xã hội, mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí
thức. Liên minh giữa giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức đã được xây dựng
và củng cố trong suốt lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, nhất là từ khi có Đảng
lãnh đạo.
Trước hết, để xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc thì một trong
những vấn đề cốt lõi là phải tìm ra cơ sở thực hiện đại đoàn kết. Cơ sở để xây dựng khối
đoàn kết toàn dân tộc ở nước ta hiện nay là điểm tương đồng giữa các giai cấp, tầng lớp
trong xã hội. Đảng ta cho rằng, cần phát huy những yếu tố tương đồng, cố gắng tìm ra
mẫu số chung để quy tụ sức mạnh của toàn dân tộc. Trong thời kỳ hiện nay, điểm tương
đồng chung nhất giữa các giai cấp, tầng lớp và toàn thể dân tộc được thể hiện trong mục
tiêu độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh. Mục tiêu đó phản ánh những lợi ích cơ bản nhất, cốt lõi nhất của đại đa số nhân
dân ta. Sự vững mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta từ khi có Đảng lãnh đạo
đã cho thấy sự nhận thức đúng đắn của Đảng ta về vai trò của sự thống nhất trong việc
thực hiện những mục tiêu chung của cả dân tộc.
Tuy vậy, trong thời gian qua có ý kiến cho rằng chúng ta đã quá nhấn mạnh đến
thống nhất, mà xem nhẹ mâu thuẫn của sự phát triển. Nếu không có sự điều chỉnh có thể
làm mất động lực của sự phát triển đất nước. Thực tế cho thấy, trong thời gian qua,
Đảng ta coi trọng việc củng cố sự đoàn kết thống nhất để tạo ra sức mạnh tổng hợp phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhưng chưa bao giờ Đảng ta xem nhẹ vai trò của mâu
thuẫn trong sự phát triển. Đảng ta xác định rằng, cần phải thừa nhận mâu thuẫn là khách
quan trong sự phát triển xã hội, cũng như thừa nhận sự phát triển là một tất yếu. Trong
những năm qua, việc Đảng chủ trương phát triển kinh tế tư nhân, “chấp nhận” bóc lột ở
mức độ nhất định đã cho thấy rằng Đảng ta không chỉ thừa nhận mâu thuẫn xã hội là tất
yếu khách quan mà còn chủ động trong việc thúc đẩy và giải quyết mâu thuẫn tạo động
lực cho sự phát triển.
Mặt khác, cùng với việc phát huy tối đa các điểm tương đồng cần phải xác định
và giải quyết đúng đắn các bất đồng, các mâu thuẫn xã hội.
Trong bất kỳ một giai đoạn phát triển nào của một xã hội nhất định, các mâu
thuẫn xã hội luôn luôn nảy sinh và được giải quyết. Giải quyết các mâu thuẫn tạo động
98
lực cho sự phát triển xã hội. Ở nước ta bên cạnh sự thống nhất ở những lợi ích cơ bản,
giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội vẫn có những lợi ích cục bộ mâu thuẫn với nhau, nên
bên cạnh sự thống nhất vẫn có sự đấu tranh lẫn nhau giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã
hội. Sự hình thành ngày càng nhiều các nhóm lợi ích trong xã hội của những tầng lớp
mới xuất hiện đã làm cho sự phân cực giàu nghèo, phân hóa giai cấp ngày càng lớn, tạo
cơ sở để cho những mâu thuẫn lợi ích trong xã hội rất dễ xảy ra và khó giải quyết hài
hòa. Thực tế là vẫn có những chương trình, dự án chưa tính hết lợi ích đối với các tầng
lớp nhân dân lao động, điển hình là quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn đã dẫn đến tình trạng mất đất sản xuất - tư liệu sản xuất chủ yếu của
nông dân, làm hàng triệu nông dân thất nghiệp. Ở đây rõ ràng đã có sự mâu thuẫn về lợi
ích giữa nông dân với các giai tầng xã hội khác trong đó có công nhân - giai cấp đang
tham gia vào các nhà máy sản xuất công nghiệp trên địa bàn nông thôn.
Nhận thức được những điều trên, trong những năm qua, nhất là từ khi phát triển
nền kinh tế thị trường, Đảng ta đã thực hiện sự điều chỉnh vấn đề lợi ích giữa các giai
cấp, tầng lớp trong xã hội thông qua hệ thống đường lối chính sách, pháp luật với quan
điểm cơ bản là gắn thực hiện tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội; thực
hiện các hình thức phân phối khác nhau để đảm bảo lợi ích cho người lao động; thực
hiện các chính sách an sinh xã hội để giảm khoảng cách, chênh lệch giữa các vùng miền,
các tầng lớp dân cư và giữa các giai tầng lao động. Những thành tựu chủ yếu của 30
năm đổi mới đất nước, thực hiện đấu tranh giai cấp là chúng ta đã giữ vững được vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; tiếp tục phát triển đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa; xây dựng, tăng cường hiệu lực của Nhà nước pháp quyền và pháp chế xã
hội chủ nghĩa; mở rộng được quan hệ hợp tác quốc tế, tranh thủ được nguồn lực để xây
dựng chủ nghĩa xã hội, phá được thế bao vây cấm vận của các nước đế quốc trước đây;
tham gia đầy đủ các tổ chức quốc tế, tổ chức kinh tế toàn cầu; phát huy quyền làm chủ
của nhân dân; mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa; tình hình chính trị - xã hội ổn định, an
toàn; nền kinh tế đã có bước tăng trưởng mạnh mẽ; đời sống của nhân dân được cải
thiện rõ rệt.
Thứ hai, mở rộng, xử lý một cách khéo léo linh hoạt các quan hệ đối ngoại nhằm
huy động tối đa các nguồn lực quốc tế đối với sự phát triển của đất nước.
Để sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại tạo thành một nguồn lực to
lớn cho sự phát triển đất nước theo đường lối đổi mới, mở cửa và chủ động hội nhập
quốc tế. Đảng ta đã giải quyết một cách đúng đắn và sáng tạo, điều này được thể hiện ở
những khía cạnh sau đây:
99
Trước hết, để phát huy các nguồn lực bên ngoài đối với sự phát triển đất nước cần
phải mở rộng quan hệ đối ngoại với tất cả các nước trên thế giới. Nếu như trước đây
nước ta cũng như các nước xã hội chủ nghĩa thường xem mối quan hệ với toàn hệ thống,
với một hoặc một số nước xã hội chủ nghĩa khác là mối quan hệ đặc biệt, có tầm quan
trọng hàng đầu, thì hiện nay nhận thức đã có nhiều thay đổi. Mỗi nước đã có những
chiến lược đối ngoại riêng xuất phát từ lợi ích dân tộc, với những chiến lược riêng, tiêu
chí chọn đối tác riêng, xác định đối thủ riêng, các tiêu chí đó không nhất thiết gắn trực
tiếp với hệ tư tưởng hay chế độ xã hội. Điều này đã mở ra khả năng để sử dụng, khai
thác những nguồn lực từ bên ngoài phục vụ cho sự phát triển đất nước.
Trong những năm đổi mới, với chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ
quốc tế, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao, hợp tác kinh tế, giao lưu văn hóa với
hàng trăm quốc gia, vùng lãnh thổ và các tổ chức quốc tế. Trong nhiệm vụ đối ngoại
chung là giữ vững môi trường hòa bình, tạo các điều kiện thuận lợi để xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, Đảng và Nhà nước Việt Nam coi trọng củng cố và
tăng cường quan hệ đoàn kết, hợp tác với các Đảng Cộng sản và công nhân, với các
đảng cánh tả, các phong trào giải phóng dân tộc và độc lập dân tộc, với các phong trào
cách mạng và tiến bộ trên thế giới, coi trọng và phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác
với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng. Đó là biểu hiện của việc giải
quyết đúng đắn mối quan hệ giai cấp - dân tộc - quốc tế trong điều kiện hiện nay.
Có thể nói, nhận thức của Việt Nam trong việc giải quyết mối quan hệ giai cấp -
dân tộc - quốc tế luôn có sự thay đổi, điều chỉnh cho phù hợp với từng điều kiện cụ thể,
nhưng những điều chỉnh đó vẫn dựa trên những nguyên tắc nhất định là “độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Trước đây, vào thời kỳ hệ thống xã hội chủ nghĩa thế
giới còn tồn tại, cũng như các nước xã hội chủ nghĩa, Việt Nam luôn giữ một nguyên tắc
có phần cứng nhắc trong quan hệ với các nước tư bản chủ nghĩa. Trong quan điểm, Việt
Nam xác định phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa bỏ qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa. Từ quan điểm này dẫn đến là trong một thời gian dài Việt
Nam không mở rộng quan hệ với các nước tư bản chủ nghĩa. Điều này đã cản trở sự kế
thừa những thành tựu mà nhân loại đạt được trong chủ nghĩa tư bản. Đây là quan điểm
cho thấy sự tuyệt đối hóa mặt đối lập mà chưa nhận thức rằng hoàn toàn có thể “sử
dụng”, “kết hợp các mặt đối lập” tạo động lực cho sự phát triển xã hội.
Sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa sụp đổ, với sự điều chỉnh nhận thức trong
đường lối đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định con đường phát triển đất nước
100
“bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”. Với quan điểm này chúng ta chỉ bỏ qua việc xác lập
vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, còn
chúng ta sử dụng những thành tựu mà nhân loại đạt được trong chủ nghĩa tư bản, như
nguồn lực vật chất, khoa học công nghệ, trình độ quản lý… để xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta. Quan điểm này cũng mở ra một thời kỳ hợp tác phát triển mạnh mẽ của
Việt Nam trên thế giới, vai trò, vị trí của Việt Nam không ngừng tăng lên, tạo thế và lực
mới đối với quá trình xây dựng và phát triển đất nước.
Trên cơ sở chủ trương mở rộng quan hệ quốc tế, tăng cường quan hệ với tất cả
các nước trên thế giới, đến nay, Việt Nam đã tham gia đầy đủ các tổ chức quốc tế lớn, có
quan hệ thương mại với 221 nước và vùng lãnh thổ, tham gia vào nhiều tổ chức thương
mại, kinh tế tài chính lớn trên thế giới như gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN), tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), gia nhập Diễn đàn hợp
tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC), là thành viên của Liên hợp quốc, Tổ
chức Thương mại thế giới (WTO), bình thường hóa quan hệ với nhiều nước trước đây là
lực lượng đối địch với Việt Nam như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc… khai thông quan hệ
với các tổ chức tài chính thế giới như Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế
(IMF), đồng thời ký kết nhiều hiệp ước, cam kết thương mại quốc tế v.v… nhằm tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong nước mở rộng đối tác thương
mại, đồng thời tạo cơ hội cho các loại hàng hóa và dịch vụ trong nước có thể xuất khẩu
đi các nước trên thế giới.
Trong hội nhập quốc tế, Việt Nam xác định mục tiêu là tranh thủ mọi nguồn lực
từ bên ngoài về nguồn vốn, công nghệ, thiết bị, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đồng thời phát huy các nguồn nội lực và
ngoại lực, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới.
Mặt khác, cùng với việc mở rộng quan hệ quốc tế, là cần phải xử lý linh hoạt và
khéo léo trong các quan hệ đối ngoại nhằm đạt hiệu quả tối đa nhất và được những mục
tiêu nhất định. Trong quan hệ quốc tế, Đảng ta đã phân loại từng mối quan hệ với các
nước cụ thể với tính chất và mức độ khác nhau, từ đó đưa ra những đối sách cụ thể phù
hợp để xử lý các vấn đề cụ thể. Có những quan hệ quốc tế được chúng ta xác định là
quan hệ song phương, có quan hệ đa phương, có quan hệ đối tác chiến lược, có quan hệ
hợp tác toàn diện, có quan hệ hữu nghị đặc biệt, có quan hệ đối tác tin cậy… Đảng ta đã
có “nhận thức về đối tác, đối tượng, về quan hệ đối tác, đối tượng có bước phát triển
mang tính đột phá, có cách nhìn biện chứng; chuyển từ tư duy bạn, thù sang tư duy đối
101
tác, đối tượng trên cơ sở lợi ích quốc gia - dân tộc; thấy rõ sự đan xen, chuyển hóa giữa
đối tượng, đối tác; xác định đối tác làm cơ sở để thiết lập quan hệ quốc tế rộng rãi; đồng
thời đấu tranh với đối tượng, với mặt đối tượng” [53, tr.121].
Trong những năm qua, nhất là từ khi hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới sụp đổ,
Việt Nam đã tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế, nhất là các Đảng Cộng sản, các đảng cánh
tả, của các lực lượng tiến bộ đối với quá trình đấu tranh bảo vệ Tổ quốc và xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Việt Nam đã vận dụng linh hoạt các hình thức đấu tranh trên các vấn đề
liên quan đến lợi ích của quốc gia, dân tộc. Trên các diễn đàn quốc tế, Việt Nam đã thực
hiện ngoại giao đa phương, song phương trong các quan hệ quốc tế, luôn coi diễn đàn
quốc tế là nơi đấu tranh để đảm bảo duy trì và thực hiện các lợi ích của Việt Nam. Việt
Nam cũng tham gia vào sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội trên toàn thế giới. Thông qua đó, Việt Nam thể hiện lập trường và quan
điểm của mình trong các vấn đề quốc tế, nhất là những vấn đề quốc tế lớn hiện nay.
Trong các quan hệ kinh tế quốc tế, tư tưởng chủ đạo là xây dựng nền kinh tế độc
lập tự chủ, tranh thủ các nguồn lực của quốc tế để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho
chủ nghĩa xã hội, nhưng Việt Nam không xa rời các nguyên tắc của việc xây dựng chế
độ kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là việc xác lập quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa. Mọi vấn đề liên quan đến lợi ích kinh tế giữa Việt Nam với các quốc gia đã
được trao đổi, thảo luận trên hầu hết các diễn đàn kinh tế quốc tế. Việc Việt Nam đàm
phán để gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) là một trong những vấn đề thể
hiện quan điểm đó. Trong các cuộc gặp gỡ, đàm phán, nhiều quốc gia đã yêu cầu Việt
Nam phải thực hiện tư nhân hóa các lĩnh vực, ngành nghề kinh tế chủ chốt, như tài
chính, ngân hàng và các tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, mà các lĩnh vực này lại là
đặc trưng trong chế độ kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Nếu thực hiện các yêu cầu này thì
Việt Nam sẽ mất định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế. Nhưng nếu không có sự
nhượng bộ thì Việt Nam sẽ không thể có sự phù hợp với lợi ích của các quốc gia khác,
chủ yếu là các nước tư bản chủ nghĩa, do đó không thể tham gia vào được Tổ chức
Thương mại thế giới, Việt Nam cũng sẽ không thực hiện được những lợi ích của mình.
Để giải quyết vấn đề đó Việt Nam đã thực hiện đàm phán với từng quốc gia riêng lẻ,
từng tổ chức kinh tế ở từng khu vực cụ thể để trao đổi các lợi ích cụ thể trên tinh thần
“dĩ bất biến ứng vạn biến”. Những hình thức đàm phán linh hoạt của Việt Nam đã đem
lại thành công tốt đẹp. Sau 10 năm đàm phán, Việt Nam đã gia nhập vào tổ chức thương
mại lớn nhất toàn cầu, đem lại cơ hội to lớn cho Việt Nam trong quá trình xây dựng nền
kinh tế của chế độ xã hội mới. Sau khi gia nhập WTO, chế độ kinh tế của chủ nghĩa xã
102
hội vẫn được duy trì, củng cố ở Việt Nam. Đây là một thắng lợi to lớn trong việc mở
rộng quan hệ quốc tế mà Việt Nam đã thực hiện.
Như vậy, có thể nói, việc Đảng ta nhận thức và vận dụng linh hoạt tư tưởng giải
quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp, dân tộc với quốc tế không chỉ tạo động lực to lớn
cho sự phát triển đất nước trong điều kiện mới mà còn khẳng định rõ bản lĩnh và trí tuệ
của Đảng ta với tư cách là chủ thể thực hiện sự kết hợp ấy. Trong suốt những năm đổi
mới, chúng ta đã có nhiều thay đổi to lớn trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhưng
việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển là vấn đề có ý
nghĩa to lớn nhất của chúng ta.
3.3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ
GIỮA VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI Ở
NƯỚC TA
Trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay, cần nhận thức một cách đầy đủ tư
tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, chỉ có trên cơ sở đó
mới khai thác được mọi nguồn lực để phát triển đất nước, tạo điều kiện cho mọi người
Việt Nam yêu nước có thể đống góp công sức của mình vào sự phát triển của dân tộc.
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta diễn ra toàn diện, triệt để và sâu sắc trên tất cả các
phương diện của đời sống xã hội. Đó cũng là quá trình không ngừng nảy sinh những vấn
đề mới. Do vậy, Đảng và Nhà nước phải thường xuyên nhận thức và giải quyết các vấn
đề nảy sinh để thúc đẩy xã hội phát triển.
Từ việc phân tích thực trạng những thành tựu về việc giải quyết vấn đề dân tộc và
vấn đề giai cấp trong quá trình đổi mới ở nước ta, có thể khái quát những vấn đề cơ bản
nảy sinh cần giải quyết sau đây:
3.3.1. Giữa yêu cầu xây dựng và phát triển nền kinh tế độc lập tự chủ theo
định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh toàn cầu hóa và thực trạng yếu kém
của nền kinh tế nước ta
Là một xu thế khách quan của lịch sử, là kết quả có được từ sự phát triển cao
của lực lượng sản xuất thế giới, toàn cầu hóa (Globalisation) đã trở thành một xu thế
vận động khách quan, không thể đảo ngược. Xu thế toàn cầu hóa, hay quá trình đi đến
toàn cầu hóa đang diễn ra ở khắp nơi, từ các nước giàu, đã phát triển tới các nước
nghèo, đang phát triển… Xu thế này tác động một cách mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội loài người (chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…). Đảng ta đã xác định:
“Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham
gia” [44, tr.64], và “toàn cầu hóa kinh tế tiếp tục phát triển về quy mô, mức độ và hình
103
thức biểu hiện với những tác động tích cực và tiêu cực, cơ hội và thách thức đan xen
phức tạp” [50, tr.96].
Toàn cầu hóa đang hiện diện khắp nơi, có mặt trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã
hội loài người và ở đâu người ta cũng cảm nhận một cách rõ ràng những tác động của nó
theo cả hai chiều thuận nghịch, tất nhiên mức độ "thuận" đến đâu, "nghịch" đến đâu là
tùy từng đối tượng cụ thể, từng trường hợp cụ thể, điều kiện, bối cảnh lịch sử cụ thể của
mỗi nước trong cộng đồng quốc tế.
Do tác động thuận - nghịch của các nhân tố khách quan đan xen với các nhân tố
chủ quan nêu trên, toàn cầu hóa trong giai đoạn hiện nay là một quá trình đầy mâu thuẫn
và nghịch lý. “Toàn cầu hóa kinh tế, xét trên tầm nhìn rộng và lâu dài, xét về xu thế
tương lai mà nó mở ra, là một nhân tố của tiến bộ lịch sử bởi lịch sử xã hội loài người,
xét cho cùng, là từ kỹ thuật này tiến lên kỹ thuật khác, từ sức sản xuất thấp đến sức sản
xuất cao hơn khiến "lịch sử càng biến thành lịch sử thế giới” [19, tr.57]. “Nhưng điều
nghịch lý là ở chỗ cứ mỗi bước phát triển lại đi kèm một bước "phản phát triển": toàn
cầu hóa như thực tế đang diễn ra hiện nay chứa đầy những mâu thuẫn kinh tế, xã hội,
chính trị, văn hóa, ý thức hệ” [19, tr.57]. Nghĩa là toàn cầu hóa trong giai đoạn hiện nay
mang tính hai mặt khá rõ rệt: vừa có tính tích cực, vừa có những biểu hiện tiêu cực.
Là quá trình chuyển hóa các yếu tố riêng, giá trị riêng của mỗi nhà nước dân tộc
thành những tài sản chung, giá trị chung của nhân loại, toàn cầu hóa làm cho các dân tộc
trong cộng đồng quốc tế vốn rất khác nhau trên nhiều phương diện ngày càng xích lại
gần nhau hơn. Như đã nói ở trên, với tính cách là kết quả có được từ sự phát triển cao
của lực lượng sản xuất và các yếu tố vật chất khác, toàn cầu hóa là một xu thế tiến bộ, là
bước tiến tích cực trong đời sống xã hội loài người. Chính do bắt nguồn từ sự phát triển
mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và từ sự xã hội hóa sản xuất và những thành quả của
sản xuất; từ việc mở rộng quan hệ xã hội, chính trị, khoa học, công nghệ, văn hóa, mà xu
thế toàn cầu hóa ra đời. Nghĩa là những thành quả kinh tế - kỹ thuật, khoa học - công
nghệ, các hệ thống tổ chức - quản lý xã hội, các định chế pháp lý quốc tế, thậm chí cả lối
tư duy và lối sống thông qua giao lưu ngày càng sâu rộng, đặc biệt qua kỹ thuật điện tử
viễn thông, qua Internet mà dần trở thành tài sản chung, thành những giá trị phổ quát của
cộng đồng quốc tế. Toàn cầu hóa làm tăng lên nhanh chóng tổng sản phẩm kinh tế, tạo
cơ hội cho tất cả mọi người, tất cả mọi quốc gia, dân tộc có thể rút ngắn khoảng cách
phát triển với những nước đi trước. Khá nhiều nước độc lập trẻ tuổi đã nhờ tận dụng
được những cơ hội do toàn cầu hóa mang lại mà vượt lên thành những quốc gia khá phát
triển xét trên mọi bình diện.
104
Thông qua giao lưu, trao đổi, hợp tác, toàn cầu hóa còn làm tăng cường sự hiểu
biết, tình hữu nghị, sự tôn trọng lẫn nhau giữa các nước, các nền văn hóa, văn minh, các
tôn giáo khác nhau. “Sự hội tụ toàn bộ các giá trị văn minh và văn hóa toàn nhân loại là
điều kiện và môi trường hết sức thuận lợi như là thời cơ cho việc hiện đại hóa và tiên
tiến hóa các nền văn hóa dân tộc”; “Toàn cầu hóa, xét từ tầng tích cực nhất, đó là sự
quốc tế hóa một cách lành mạnh các giá trị văn minh và văn hóa đối với các dân tộc
quốc gia riêng lẻ, tạo thành các giá trị phổ quát có tính toàn nhân loại” [87, tr.34]. Xem
xét từ tất cả các mặt trên, toàn cầu hóa là quá trình tiến hóa xã hội, là bước phát triển tích
cực trong đời sống nhân loại.
Khi nói về toàn cầu hóa trong giai đoạn hiện nay, có thể thấy rõ:
Về bản chất đó là một quá trình đầy mâu thuẫn, một quá trình vừa hợp tác, liên
kết, hội nhập, vừa đấu tranh, trong sâu xa là cả một cuộc đấu tranh vì sự toàn
cầu hóa bình đẳng giữa các quốc gia, dân tộc, vì một xã hội quốc tế công bằng
ngày càng thoát khỏi bá quyền, áp đặt của các thế lực đế quốc tư bản quốc tế
đối với các dân tộc và nhân dân tất cả các nước trên thế giới [17, tr.614].
Nếu Đảng ta đã xác định: “Toàn cầu hóa kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng
cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc
gia, nhất là các nước đang phát triển” [47, tr.73].
Tham gia vào trong quá trình toàn cầu hóa, Việt Nam có thể tranh thủ được
nguồn vốn, mở rộng thị trường, khoa học, kỹ thuật, công nghệ cao, kinh nghiệm tổ chức
quản lý từ các nước phát triển... Đây là một yếu tố quan trọng và cần thiết để tiến hành
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ
vững mạnh. Tuy nhiên, chúng ta cũng đang đứng trước khó khăn, thách thức không nhỏ.
Khó khăn lớn nhất trong hội nhập là nền kinh tế đang ở trình độ phát triển thấp, cơ sở
vật chất - kỹ thuật và cơ cấu của nền kinh tế lạc hậu. Trong cơ cấu nền kinh tế, nông
nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn, vẫn mang đặc trưng của một nền sản xuất nhỏ, thuần
nông, năng suất lao động thấp... cơ cấu lao động bất hợp lý, lao động chuyên môn kỹ
thuật ít, tình trạng thừa thầy thiếu thợ trong nền kinh tế có xu hướng, ngày càng trầm
trọng, chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Có thể nói, hạn chế bao trùm của nền kinh tế nước ta là: Tiềm lực kinh tế còn
kém sự phát triển, kinh tế chưa vững chắc, hiệu quả sức cạnh tranh thấp, còn nhiều yếu
tố chưa đảm bảo lâu bền. Sau gần 3 thập niên đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế, năng
lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam còn yếu, năng suất lao động quá thấp, hiệu quả sử
dụng đồng vốn cũng thuộc diện thấp nhất trong khu vực. Hiện năng lực của các doanh
105
nghiệp Việt Nam chưa đáp ứng được nhu cầu các sản phẩm phụ trợ của các doanh
nghiệp nước ngoài. Tỷ lệ nội địa hóa quá thấp, không đáp ứng được mục tiêu đặt ra khi
xây dựng chiến lược phát triển các ngành công nghiệp. Về trình độ công nghệ của phần
lớn các doanh nghiệp nước ta (chủ yếu là các doanh nghiệp dân doanh) đang sử dụng
công nghệ tụt hậu so với mức trung bình của thế giới từ 2 - 3 thế hệ; có 76% máy móc,
dây chuyền công nghệ nhập thuộc thế hệ những năm 1960 - 1970; 75% số thiết bị đã hết
khấu hao; 50% thiết bị là đồ tân trang… Nhóm ngành sử dụng công nghệ cao mới đạt
khoảng 20%, trong khi đó ở Xin-ga-po là 73%, Ma-lai-xi-a là 51% và Thái Lan là 31%
(tiêu chí để đạt trình độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa là trên 60%) [14]. Tình trạng này
hạn chế năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
Cho đến nay, Việt Nam vẫn còn là một nước đang phát triển, với mức thu nhập
bình quân đầu người thuộc loại trung bình thấp. Tăng trưởng kinh tế vẫn dựa nhiều vào
các yếu tố phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang mô hình tăng trưởng theo chiều
sâu. Những năm 2003-2008, trong tăng trưởng GDP, tỷ trọng đóng góp của yếu tố vốn
là 52,7%, yếu tố lao động là 19,1%, yếu tố năng suất lao động tổng hợp (TFP) là 29,2%,
trong khi một số nước khác trong khu vực tỷ lệ đóng góp của TFP là 35 - 40%. Tiêu hao
điện trên 1 đơn vị GDP của Việt Nam gấp 1,7 lần Thái Lan, 2,5 lần Philippin, 3,3 lần
Inđônêxia [49, tr.9]. Năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam năm 2007 đứng thứ
68/131, năm 2008 đứng thứ 70/134 nước được xếp hạng.
Những khó khăn và hạn chế yếu kém của nền kinh tế nói trên, trong bối cảnh toàn
cầu hóa kinh tế, làm cho nguy cơ thách thức đối với nước ta càng lớn, bởi vì cuộc cạnh
tranh quyết liệt này lợi thế nghiêng về các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia, đứng đầu là
Mỹ. Lợi dụng sức mạnh về kinh tế, tài chính, công nghệ, các lực lượng này lôi kéo,
khống chế, ép ta từ bỏ con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội để đi
theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Vì vậy, hội nhập kinh tế quốc tế nhưng phải giữ
vững độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa. Giữ vững độc lập tự chủ và định
hướng xã hội chủ nghĩa là yêu cầu chính trị cao nhất đối với tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế và là nguyên tắc bất di bất dịch cần giữ vững trong mọi hoàn cảnh. Mặt khác,
hội nhập quốc tế cũng là điều kiện để các thế lực thù địch trong và ngoài nước có thêm
cơ hội thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở nước
ta. Trong bối cảnh quốc tế và thực trạng nền kinh tế như vậy, việc chúng ta có thể đi tắt
đón đầu, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa, là một
thách thức trên con đường phát triển.
106
3.3.2. Giữa mở rộng giao lưu quốc tế với vấn đề giữ vững bản sắc văn hoá
dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa
Chúng ta đang sống trong một xã hội, mà xu thế quốc tế hóa mọi mặt đời sống xã
hội như là một xu thế tất yếu của thời đại. Thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ đang thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các dân tộc, làm cho các dân tộc xích
lại gần nhau.
Trong bối cảnh đó, Đảng ta chủ trương chủ động hội nhập mở rộng quan hệ hợp
tác quốc tế là chủ trương đúng đắn và có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Hội nhập quốc tế,
đó là thời cơ thuận lợi để phát triển kinh tế, xã hội, khoa học, quốc phòng, an ninh... Tuy
nhiên, mở cửa hội nhập quốc tế trong bối cảnh hiện nay cũng tạo ra nguy cơ đánh mất
bản sắc văn hoá dân tộc, đánh mất độc lập tự chủ của quốc gia... Do vậy, giữ vững bản
sắc văn hoá dân tộc, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa cũng là một nhiệm vụ rất
quan trọng trong quá trình hội nhập. Trong quá trình giao lưu với bên ngoài, chúng ta
cần tránh hai xu hướng - sùng ngoại và bài ngoại. Hướng đi đúng của chúng ta là một
mặt, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, mặt khác, tiếp thu có chọn lọc những
giá trị văn hoá của các nước nhằm làm phong phú thêm kho tàng văn hoá nước nhà.
Trong thời gian qua, lợi dụng chủ trương mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, giao
lưu văn hoá, các thế lực thù địch đang thực hiện âm mưu diễn biến hòa bình nhằm làm
xói mòn truyền thống văn hoá của dân tộc tiến tới xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Chúng đã đưa vào Việt Nam một khối lượng tài liệu, báo chí, phim ảnh, băng hình độc
hại, có nội dung phản động làm xói mòn các giá trị đạo đức, văn hoá truyền thống Việt
Nam. Hiện nay chúng có khoảng hơn 700 tổ chức và nhóm danh xưng phát tán một khối
lượng lớn các tài liệu phản động thường xuyên đưa vào Việt Nam [8, tr.40], nhằm làm
nhiễu loạn văn hoá, xói mòn tinh thần yêu nước, xa rời truyền thống tốt đẹp của dân tộc
và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đối với cách mạng Việt Nam, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam của cách mạng Việt Nam, nhằm đưa cách mạng Việt
Nam đi theo đúng con đường đã lựa chọn. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh cũng là hạt nhân của nền văn hoá mới, đồng thời tự khắc bồi đắp chiều sâu cho
nền văn hoá dân tộc. Vì vậy, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách để xuyên tạc bóp
méo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm cho nền văn hoá dân tộc mất
phương hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời
không còn phù hợp với Việt Nam. Trước tình hình đó một số người, thậm chí cả một số
cán bộ đảng viên, đã dao động, giảm sút lòng tin đối với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
107
tưởng Hồ Chí Minh, thậm chí có người muốn xét lại toàn bộ học thuyết Mác - Lênin,
cũng như con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và dân tộc đã lựa chọn. Thậm chí có kẻ
còn sám hối rằng cả đời mình đã đi theo một học thuyết sai lầm, đi theo con đường
không đúng, và nay cần phải chấp nhận con đường tư bản chủ nghĩa. Một số bài viết đã
xuyên tạc, bác bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lan truyền ở nơi này
nơi khác. Có người đã đánh đồng bản chất của chiến tranh chính nghĩa và chiến tranh
xâm lược. Sự lệch lạc đó là biểu hiện của xa rời lợi ích của dân tộc và lợi ích giai cấp, là
chệch hướng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá.
Điều đáng lo ngại là trong thời gian qua các hoạt động văn hoá của chúng ta chưa
đủ để tấn công đẩy lùi được sự phá hoại của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng
văn hoá, trong khi đó những mặt tiêu cực trên lĩnh vực văn hoá đang có nguy cơ lan
rộng. Như Đảng đã lưu ý một tình hình rất đáng quan tâm về lối sống hiện nay trong
một bộ phận xã hội. Cùng với kích thích sản xuất phát triển, kinh tế thị trường cũng là
môi trường thuận lợi làm nảy sinh và phát triển nhiều loại tiêu cực xã hội. Đã xuất hiện
khuynh hướng làm giàu bằng mọi giá, kể cả lừa đảo, gây tội ác, vi phạm pháp luật, sẵn
sàng chà đạp lên lương tâm và nhân phẩm. Lối sống trụy lạc chạy theo những thị hiếu
thấp hèn, không lành mạnh..., trong thế hệ trẻ có một bộ phận phai nhạt lý tưởng, chạy
theo lối sống thực dụng. Một bộ phận thanh niên xét về góc độ ý thức dân tộc đang có
sự lệch chuẩn, chưa nhận thức được vai trò và trách nhiệm của mình đối với dân tộc,
phai nhạt tình yêu đối với quê hương đất nước. Những truyền thống như cần cù trong
lao động, chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu, ý chí tự cường dân tộc, lòng nhân ái, truyền
thống tôn sư trọng đạo và các truyền thống nhân văn khác chưa biến thành nhu cầu về
tình cảm và trở thành động lực trong một bộ phận thanh niên. Đặc biệt, có một bộ phận
thanh niên do không theo kịp những diễn biến nhanh và phức tạp của thời cuộc mà trở
nên lẫn lộn, mơ hồ về chính trị, thờ ơ, lãnh đạm với sự nghiệp cách mạng của dân tộc,
thiếu tin tưởng vào thắng lợi của công cuộc đổi mới, thiếu quan tâm đến các vấn đề
chính trị - xã hội và thậm chí dao động về mục tiêu, lý tưởng phấn đấu... điều này Đảng
ta khẳng định: “So với những thành quả trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an
ninh, đối ngoại, thành quả trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng; chưa đủ tầm mức để
tác động có hiệu quả xây dựng con người và môi trường văn hóa lành mạnh. Đạo đức,
lối sống có mặt xuống cấp đáng lo ngại” [54, tr.125]. Trong đó một bộ phận không ít cán
bộ, đảng viên có chức có quyền, trong đó có cả những người đã từng đóng góp cho cách
mạng cũng bị tha hóa biến chất, Đảng ta khẳng định: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy
108
lùi; có mặt, có bộ phận còn diễn biến phức tạp hơn; một số rất ít cán bộ, đảng viên bị
phần tử xấu lợi dụng lôi kéo, kích động, xúi giục, mua chuộc đã có tư tưởng, việc làm
chống đối Đảng, Nhà nước” [54, tr.185]. Đó là một thực tế đáng báo động, không thể
xem thường.
Nghiêm trọng hơn trong lĩnh vực văn hóa thời kỳ mở cửa và kinh tế thị trường là
xu hướng thương mại hóa văn hóa, thực chất của xu hướng này là không quán triệt quan
điểm đường lối của Đảng, không đứng trên lập trường của giai cấp công nhân và lợi ích
dân tộc nên lĩnh vực văn hóa có tình trạng buông lỏng thả nổi, không quản lý, giám sát
chặt chẽ các hoạt động văn hóa, tiếp thu văn hóa nước ngoài không chọn lọc, sao chép
một cách máy móc, gieo rắc tư tưởng, lối sống phương Tây làm cho một bộ phận nhân
dân có tâm trạng thờ ơ với chính trị, sùng bái đồng tiền, bất chấp đạo lý truyền thống
dân tộc…Điều đó có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng đối với các thế hệ người
Việt Nam, không những làm xói mòn bản sắc văn hóa dân tộc, mà còn làm chệch hướng
xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực này.
Chúng ta không quy mọi xấu xa, yếu kém trong lĩnh vực văn hóa do kinh tế thị
trường, nhưng không thể không thấy rằng, về khách quan mà nói kinh tế thị trường với
sức mạnh tự phát ghê gớm của nó đã khuyến khích chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực
dụng, làm cho người ta chỉ chú ý đến lợi ích vật chất mà coi nhẹ giá trị tinh thần, chỉ chú
ý đến lợi ích cá nhân mà coi nhẹ lợi ích dân tộc.
Sự yếu kém về tư tưởng, văn hoá của một bộ phận cán bộ, đảng viên, một bộ
phận nhân dân đã ảnh hưởng trực tiếp tới mục tiêu chủ nghĩa xã hội của giai cấp công
nhân và dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh khẳng định: “Phát triển kinh tế và văn hóa tức
là dần dần xây dựng chủ nghĩa xã hội” [118, tr.216]. Vì vậy, văn hoá thấp kém không
thể nói đến xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Từ những phân tích trên đây, cho thấy nghịch lý của sự phát triển nước ta trong
tác động của kinh tế thị trường và mở cửa là ở chỗ, tuy kinh tế tăng trưởng, nhưng văn
hoá tinh thần, các giá trị đạo đức của dân tộc lại có phần suy yếu đi. Đây là tình huống
có vấn đề trong phát triển. Nếu không nhận thức một cách đầy đủ và giải quyết thấu đáo
hiện trạng xu hướng này trong xã hội thông qua các kênh quản lý, giáo dục, xây dựng
đời sống văn hoá tinh thần thì xã hội không thể đạt đến sự phát triển bền vững.
Để phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong xu thế
toàn cầu hóa một cách thành công, phải giữ gìn bản sắc văn hoá, dân tộc. Điều đó có
nghĩa là phải giữ gìn định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường.
109
Chệch hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ là nguy cơ đối với chủ nghĩa xã hội mà cũng là
nguy cơ đối với lợi ích của cả cộng đồng dân tộc.
3.3.3. Giữa yêu cầu tăng cường củng cố khối đoàn kết dân tộc dưới sự lãnh
đạo của giai cấp công nhân và những yếu tố phân hóa các lực lượng xã hội trong
điều kiện kinh tế thị trường và âm mưu các thế lực thù địch tạo ra
Sức mạnh cơ bản của dân tộc Việt Nam là sức mạnh của đoàn kết. Trong các thời
kỳ cách mạng kể từ khi có Đảng đến nay, sức mạnh của đoàn kết chuyển thành sức
mạnh của sự gắn bó giữa Đảng với nhân dân, với cả cộng đồng dân tộc nhằm hướng tới
mục tiêu chung là giải phóng dân tộc và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ
nghĩa. Đoàn kết dân tộc đã trở thành bài học thắng lợi của cách mạng Việt Nam kể từ
khi có Đảng.
Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc dưới sự
lãnh đạo của giai cấp công nhân đang chịu sự tác động bởi nhiều nhân tố bên trong và
bên ngoài, khách quan và chủ quan:
Thứ nhất, sự phân hóa giàu nghèo và biến đổi cơ cấu giai cấp - xã hội trong điều
kiện phát triển kinh tế thị trường.
Có thể nói, trong quá trình thực hiện đổi mới, chúng ta thực hiện phát triển kinh tế
thị trường cùng với những thành tựu to lớn về kinh tế - xã hội, xã hội Việt Nam cũng đã
diễn ra một quá trình biến đổi toàn diện vô cùng lớn lao cả ở tầm vĩ mô và vi mô, cả về
kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội… Tuy nhiên, cùng với những thành tựu to lớn của
công cuộc đổi mới, những biến đổi mạnh mẽ của xã hội thời gian qua cũng đang đặt ra
nhiều vấn đề, thách thức gay gắt. Đó là, sự mất cân đối về cơ cấu của nền kinh tế, cơ cấu
giai cấp, cơ cấu dân cư, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu dân tộc, tôn giáo…; sự phân hoá giữa
thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, giữa giàu và nghèo trong phát triển;
sự bất bình đẳng giữa các tầng lớp, các giới, các nhóm xã hội…; đặc biệt, sự phân hoá
giàu nghèo, sự phân tầng xã hội ngày càng trở nên gay gắt. Bên cạnh đó là sự xuất hiện
những vấn đề mới như: Dân số tăng, việc làm và di cư tự do; sự tăng nhanh của giai cấp
công nhân và sự giảm sút nguồn lực lao động ở nông thôn; các tệ nạn xã hội; sự bất bình
đẳng giới và nguy cơ khủng hoảng gia đình; sự thay đổi chuẩn mực đạo đức và lối sống
ở lớp trẻ.
Sự biến đổi cơ cấu giai cấp, bên cạnh những tác động tích cực thúc đẩy sự phát
triển của đất nước về mặt kinh tế - xã hội, chính trị và văn hóa…còn cả những mặt tiêu
cực, được biểu hiện ở những vấn đề như: làm gia tăng sự bất bình đẳng của xã hội, đó là
bất bình đẳng giữa nông thôn và đô thị, giữa miền xuôi và miền núi, giữa người có thu
110
nhập cao và người thu nhập thấp, giữa lao động trí óc và lao động chân tay; làm gia tăng
mâu thuẫn và xung đột - dù mới ở mức độ cục bộ - song cũng đã tạo ra những nguy cơ
tiềm ẩn đối với sự ổn định và phát triển của xã hội: đó là mâu thuẫn giữa chủ và thợ,
giữa thế hệ già và thế hệ trẻ, giữa chủ đầu tư và những người nông dân mất đất, là xung
đột giữa một số tổ chức tôn giáo và chính quyền địa phương, giữa các bộ phận tộc người
di dân tự do và cư dân địa phương; ngoài ra, trong cơ cấu xã hội mới xuất hiện các nhóm
yếu thế và dễ bị tổn thương, sự quá tải ở các khu công nghiệp và các thành phố lớn, sự
mất dần bản sắc ở không ít tộc người thiểu số, sự lai căng, mất gốc ở một số nhóm
người, nhất là ở thế hệ trẻ...
Một thực tế ở nước ta hiện nay, sự hình thành ngày càng nhiều các nhóm lợi ích
trong xã hội của những tầng lớp mới xuất hiện đã làm cho sự phân cực giàu nghèo, phân
hóa giai cấp ngày càng lớn đã tạo cơ sở để cho những mâu thuẫn lợi ích trong xã hội rất dễ
xảy ra và khó giải quyết hài hòa. Thực tế là vẫn có những chương trình, dự án chưa tính
hết lợi ích đối với các tầng lớp nhân dân lao động, điển hình là quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đã dẫn đến tình trạng mất đất sản xuất - tư liệu sản
xuất chủ yếu của nông dân, làm hàng triệu nông dân thất nghiệp. Ở đây rõ ràng đã có sự
mâu thuẫn về lợi ích giữa nông dân với các giai tầng xã hội khác trong đó có công nhân -
giai cấp đang tham gia vào các nhà máy sản xuất công nghiệp trên địa bàn nông thôn…
Sự biến đổi cơ cấu giai cấp - xã hội, đặc biệt là sự phân hóa giàu nghèo đang được đặt ra
và cần được giải quyết trong việc xây dựng, củng cố, phát huy vai trò của khối đại đoàn
kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước trong điều kiện mới.
Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách xóa
đói, giảm nghèo, chính sách dân tộc và miền núi, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn, chương trình 135 giành riêng cho các xã đặc biệt khó khăn…nhằm
từng bước giảm bớt khoảng cách giàu nghèo giữa các giai cấp, tầng lớp, giữa nông thôn
và thành thị, giữa đồng bằng và miền núi… nhằm củng cố khối đại đoàn kết dân tộc. Tuy
nhiên kết quả mới chỉ là bước đầu, đòi hỏi chúng ta phải thực hiện những chủ trương,
chính sách này một cách lâu dài và quyết liệt hơn nữa trong thời gian tới. Có như vậy,
chúng ta mới thực sự củng cố lòng tin của các tầng lớp nhân dân đối với đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước tăng cường củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.
Thứ hai, do âm mưu chống phá chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc các thế lực
thù địch.
Trong những năm qua các thế lực thù địch, lợi dụng những mặt trái của kinh tế
thị trường và những thiếu sót của chúng ta, các thế lực thù địch đang tìm mọi cách để
111
chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, nhằm làm cho Việt Nam từ bỏ con đường xã hội chủ
nghĩa. Trước hết, chúng ra sức phá hoại ta về mặt chính trị, tư tưởng.
Lợi dụng chủ nghĩa xã hội trên thế giới lâm vào khủng hoảng, các thế lực thù
địch, gieo giắc hoài nghi về con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và dân tộc ta đã lựa
chọn. Chúng tập trung đả kích sự lãnh đạo của Đảng, làm suy yếu Đảng, chia rẽ Đảng
với nhân dân, làm cho quần chúng xa rời Đảng, đồng thời chúng tìm mọi cách chia rẽ
khối đoàn kết toàn dân… Thời gian gần đây, các hình thức diễn biến được sử dụng chủ
yếu là thông qua việc viện trợ, hỗ trợ phát triển bằng các chương trình, dự án đầu tư, từ
đó đưa ra những điều kiện ràng buộc để thực thi những điều khoản có lợi cho chủ nghĩa
tư bản. Với một tiềm lực kinh tế lớn, những năm qua các nước tư bản ưu tiên sử dụng
các hình thức này để chống phá các nhà nước và các phong trào cách mạng. Các nước tư
bản cũng thành lập các tổ chức xã hội, các tổ chức không biên giới, tổ chức phi chính
phủ… để tham gia vào các hoạt động chống phá cách mạng. Bên cạnh đó, các thế lực
thù địch cũng dùng mọi cách để mua chuộc, dụ dỗ làm tha hóa cán bộ chủ chốt từ đó
làm tha hóa bản chất quyền lực của Nhà nước ta. Các thế lực thù địch cũng dùng tiền để
mua chuộc, lôi kéo cán bộ, tạo ra sự phân hóa, chia rẽ gây mất đoàn kết nội bộ, cản trở
sự hợp tác thống nhất của các tầng lớp nhân dân.
Những sự kiện đó cho thấy các thế lực thù địch cũng đang sử dụng nhiều thủ
đoạn để gây mất đoàn kết nội bộ phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống phá sự
nghiệp cách mạng của nhân dân ta, nhằm làm cho Việt Nam từ bỏ con đường xã hội chủ
nghĩa. Đó là những khó khăn đang đặt ra trong sự nghiệp đổi mới. Trong khi đó, nhiều
cấp ủy Đảng, chính quyền chưa quan tâm đầy đủ đến công tác vận động quần chúng,
Mặt trận và các đoàn thể trong hệ thống chính trị tỏ ra lúng túng trong nội dung và
phương thức hoạt động, thiếu năng động và sáng kiến trong tập hợp đoàn kết quần
chúng. Đây là một thách thức đối với sự nghiệp đổi mới ở nước ta.
Hơn lúc nào hết, sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước đòi hỏi chúng ta phải
nâng cao cảnh giác, ra sức xây dựng và củng cố khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết chặt
chẽ các giai cấp, các tầng lớp, các tôn giáo, dân tộc, trong đại gia đình các dân tộc Việt
Nam nhằm phát huy truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lực tự cường,
làm thất bại mọi âm mưu phá hoại, chia rẽ khối đoàn kết của các thế lực thù địch, giữ
vững độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
3.3.4. Những vấn đề đặt ra đối với Đảng cầm quyền
Sự gắn bó tính dân tộc với tính giai cấp, đã làm cho Đảng Cộng sản Việt Nam từ
khi ra đời cho đến nay là Đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và cả dân
112
tộc Việt Nam. Sự gắn bó mật thiết như vậy là yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách
mạng của Đảng và của dân tộc, song nó đòi hỏi nhân tố chủ quan, trước hết là Đảng phải
đạt đến sự ý thức thật đầy đủ trong việc củng cố tăng cường mối liên hệ.
Sự nghiệp đổi mới 30 năm qua do Đảng khởi xướng và lãnh đạo do phát huy
được sức mạnh to lớn của dân tộc nên đã đạt được những thành tựu to lớn, đưa cách
mạng nước ta sang một thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Thực tế cho thấy, muốn tiến hành đổi mới thành công, trước hết phải kiên định sự
lãnh đạo của Đảng, coi đây là vấn đề nguyên tắc. Bởi vì, sự lãnh đạo của Đảng là nhân
tố hàng đầu bảo đảm sự phát triển của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Những năm qua, cùng với quá trình đổi mới đất nước, Đảng cũng thường xuyên
tự chỉnh đốn, tự đổi mới không ngừng nâng cao năng lực và sức chiến đấu của mình.
Đại hội XII của Đảng đã khẳng định: “Đảng ta giữ vững được bản lĩnh chính trị, bản
chất cách mạng và khoa học, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, kiên định đường lối đổi mới. Đảng ta xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước
và xã hội” [54, tr.191].
Tuy nhiên, khi chuyển sang giai đoạn mới xây dựng chủ nghĩa xã hội là “chúng ta
phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta”
[118, tr.92]. Điều đó “Đảng phải mạnh” [122, tr.113] hơn bao giờ hết. Trách nhiệm của
Đảng trước dân tộc lúc này, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn là phải có kế
hoạch thật tốt để xây dựng và phát triển kinh tế và văn hoá, nhằm không ngừng nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tất cả các chính sách của Đảng và Chính
phủ đều phải lấy việc phục vụ nhân dân làm mục đích.
Trong khi cách mạng đòi hỏi sự phấn đấu kiên định và bền bỉ để thực hiện mục
tiêu lý tưởng của Đảng, cũng là của dân tộc, thì một bộ phận cán bộ, đảng viên giảm sút
ý chí, phai nhạt lý tưởng, dao động về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, xa rời bản
chất giai cấp công nhân của Đảng. Đáng chú ý là có một bộ phận cán bộ, đảng viên cấp
cao làm trái Cương lĩnh và điều lệ Đảng, vi phạm pháp luật Nhà nước, thiếu tinh thần
trách nhiệm khi giải quyết các vấn đề của đất nước.
Việc thực hiện đường lối đổi mới, mở cửa hội nhập quốc tế, cán bộ, đảng viên
hàng ngày, hàng giờ chịu nhiều tác động của nhiều nhân tố phức tạp, vấn đề giữ vững
bản chất giai cấp công nhân của Đảng đang đứng trước thử thách mới. Song do chúng ta
thiếu sự chuẩn bị đầy đủ cho bước chuyển này, chưa chú ý đúng mức vấn đề giáo dục
rèn luyện phẩm chất chính trị và đạo đức lối sống với cán bộ, đảng viên. Trình độ kiến
thức, năng lực lãnh đạo của Đảng có mặt chưa theo kịp yêu cầu phát triển của dân tộc
113
trong giai đoạn mới. Trên thực tế, Đảng còn thiếu nhiều kiến thức để thực hiện vai trò lãnh
đạo trên các mặt của đời sống xã hội. Sự nghiệp đổi mới ở nước ta rất mới mẻ, chưa có
tiền lệ, mẫu hình, để tìm ra cách thức vận dụng phù hợp. Cho tới nay, “không phải mọi
vấn đề về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã hoàn toàn sáng tỏ, thậm chí
nhiều vấn đề còn trở nên phức tạp so với trù liệu ban đầu” [129, tr.5]. Trong khi đó, công
tác lý luận chậm làm sáng tỏ một số vấn đề lớn do thực tiễn đất nước và yêu cầu xây dựng
Đảng đặt ra; do đó “trên một số vấn đề chưa tạo được sự thống nhất cao về nhận thức,
quan điểm và hành động trong Đảng, chưa tạo được đầy đủ cơ sở khoa học cho việc xây
dựng, bổ sung, hoàn thiện đường lối và cơ chế chính sách” [9, tr.333]
Một điều đáng lo ngại là trước ảnh hưởng tiêu cực của mặt trái của cơ chế thị
trường, những tiêu cực nảy sinh trong quá trình hội nhập, toàn cầu hoá, sự tác động của
chiến lược “diễn biến hòa bình”, bên cạnh đó năng lực và sức chiến đấu của không ít tổ
chức đảng còn thấp, chưa đáp ứng được với yêu cầu của sự nghiệp cách mạng; “công
tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên ở một số nơi chưa được quan tâm thường
xuyên; chất lượng sinh hoạt đảng chưa cao và tính chiến đấu trong tự phê bình và phê
bình còn yếu” [54, tr.192]. Tình trạng chủ nghĩa cá nhân, tham ô, tham nhũng, lãng
phí… trong một bộ phận cán bộ, đảng viên đang trở thành vấn đề bức xúc của toàn xã
hội nhưng chậm được phát hiện và ngăn chặn kịp thời hoặc có ngăn chặn nhưng hiệu
quả chưa cao. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu ý thức tu dưỡng, rèn
luyện; ở một số cấp uỷ việc giáo dục đạo đức, lối sống còn bị xem nhẹ hoặc hình thức.
Đại hội XII, Đảng ta khẳng định: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ
phận còn diễn biến phức tạp hơn; một số rất ít cán bộ, đảng viên bị phần tử xấu lợi dụng
lôi kéo, kích động, xúi giục, mua chuộc đã có tư tưởng, việc làm chống đối Đảng, Nhà
nước” [54, tr.185]. “Những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" có xu hướng diễn
biến phức tạp trong Đảng, trong hệ thống chính trị và trong xã hội” [54, tr.195]. Đồng
thời, không ít đảng viên thiếu trách nhiệm, không tích cực tham gia vào việc xây dựng
và tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng. Tình trạng trên, nếu không được ngăn chặn
kịp thời sẽ làm xói mòn các giá trị văn hoá tốt đẹp của Đảng, làm cho Đảng ngày càng
mất sức chiến đấu, ảnh hưởng xấu đến lòng tin của nhân dân đối với Đảng, gây trở ngại
lớn đến sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Từ thực tiễn thành công và chưa thành công của công cuộc đổi mới thời gian qua,
có thể khẳng định, việc giữ vững và nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng ta trở thành
một yêu cầu cấp bách trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Do vậy, Đảng phải thường
114
xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới, không ngừng khắc phục những yếu kém để luôn giữ
vững bản chất giai cấp công nhân, xứng đáng là danh dự và lương tâm của dân tộc và
thời đại.
Tiểu kết chương 3
Như vậy, sau 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới đất nước, kể từ Đại hội VI đến
nay, Đảng ta đã cụ thể hóa và hoàn thiện đường lối xây dựng và phát triển đất nước.
Thực chất đó là sự vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về giải
quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp vào sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Trong sự nghiệp đổi mới lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp không
tách rời nhau, việc giải quyết mối quan hệ đó không chỉ thể hiện ở mục tiêu cơ bản và
lâu dài là xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh; mà còn thể hiện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội và các vấn đề kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Trong 30 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng trên cơ sở quán triệt chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề giai
cấp, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân đã
đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện và rất quan trọng. Trong bối cảnh biến động
của tình hình thế giới và khu vực, chúng ta đã giữ vững được sự ổn định về chính trị,
quốc phòng an ninh được củng cố, kinh tế có bước phát triển đáng khích lệ, chúng ta đã
thoát khỏi tình trạng một nước nghèo và trở thành một quốc gia có mức thu nhập trung
bình. Do kinh tế tăng trưởng nhanh, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được
cải thiện rõ rệt, văn hoá xã hội tiến bộ không ngừng. Uy tín và vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế không ngừng được củng cố và nâng cao. Những thành tựu của công cuộc
đổi mới đã tăng cường sức mạnh tổng hợp của dân tộc, làm thay đổi bộ mặt của đất
nước, cuộc sống của nhân dân, củng cố vững chắc độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
tao thêm những điều kiện để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, sự phát triển của nước ta còn nhiều mặt
chưa vững chắc. Kinh tế phát triển chưa thật hiệu quả và bền vững, một số vấn đề văn
hoá, xã hội bức xúc chậm được giải quyết, trong đó có vấn đề phân hóa giàu nghèo tăng
nhanh. Xã hội đang nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích giai
cấp công nhân, lợi ích các giai tầng trong xã hội và lợi ích dân tộc đòi hỏi phải nhận thức
và giải quyết một cách đúng đắn và kịp thời đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc tiến lên.
115
Chương 4
QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP CƠ BẢN GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA
VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI
MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
4.1. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN
4.1.1. Phải đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân để giải quyết
mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
Trong thời kỳ cách mạng hiện nay để giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
một cách triệt để cần phải đứng trên lập trường của giai cấp công nhân. Đứng vững trên
lập trường của giai cấp công nhân được thể hiện ở mục tiêu cơ bản và xuyên suốt là kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giải phóng dân tộc gắn liền với giải
phóng giai cấp và giải phóng con người. Đây là một vấn đề có tính nguyên tắc trong sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Sở dĩ như vậy là vì, trong thời đại ngày ngày giai
cấp công nhân vẫn là giai cấp trung tâm của thời đại và chỉ có đứng vững trên lập trường
của giai cấp công nhân, chúng ta mới bảo vệ được những thành quả cách mạng đã giành
được, bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, xây dựng nước ta trở thành nước xã hội chủ
nghĩa. Hay nói cách khác, ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vẫn là ngọn cờ
không thể thay thế vì nó là biểu hiện lợi ích và nguyện vọng căn bản, sâu xa nhất của
đông đảo tầng lớp nhân dân. Đó là giành độc lập dân tộc không phải đi vào một chế độ
xã hội dựa trên áp bức, bóc lột, bất công, nhân dân không có quyền làm chủ, mà giải
phóng dân tộc để xây dựng một xã hội do nhân dân làm chủ, một xã hội dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, nhân dân được tự do, ấm no, hạnh phúc.
Kiên định theo lập trường của giai cấp để giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề giai
cấp được thể hiện ở con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đây là con
đường phù hợp với quy luật lịch sử và xu thế thời đại. Do vậy, trong quá trình đổi mới
đất nước hiện nay, Đảng ta khẳng định rõ bản chất của đổi mới như sau: “Đổi mới
không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà làm cho mục tiêu ấy được thực
hiện có kết quả bằng những quan niệm đúng về chủ nghĩa xã hội, bằng những hình thức,
bước đi và biện pháp thích hợp” [36, tr.53]. Và vì vậy việc đứng vững trên lập trường
của giai cấp công nhân trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay, được thể hiện ở việc
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là nguyên tắc bất di, bất dịch của đổi mới.
Đảng ta khẳng định: “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với
thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử” [54, tr.66]. Điều đó cho thấy
116
Đảng và nhân dân ta tin tưởng vào xu thế phát triển của lịch sử và sự tất thắng của chủ
nghĩa xã hội, vì nó tuân theo quy luật khách quan. Đây cũng là một nguyên tắc cơ bản
để giải quyết triệt để cả hai vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Hay có thể nói một cách
khác, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - luận điểm trung tâm để giải quyết
vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trên lập trường của giai cấp công nhân.
Một trong những vấn đề có tính nguyên tắc để đứng vững trên lập trường của giai
cấp công nhân là giữ vững sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nếu xa rời sự
lãnh đạo của Đảng sẽ là nhân tố cơ bản đưa đất nước ta đi chệch khỏi con đường đã
chọn. Hiện nay, các thế lực thù địch đang dùng rất nhiều thủ đoạn tinh vi nhằm phủ
nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam. Sở dĩ phải giữ vững vai
trò lãnh đạo của Đảng là vì ở Việt Nam, Đảng là của giai cấp công nhân, là đại biểu
chân chính cho lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Những lệch lạc về phía này hay phía khác đều là trái với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị tiến bộ nhất của giai cấp công
nhân và của toàn thể dân tộc. Đó là một trong những nhân tố quyết định nhất đối với
thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản. Để Đảng có thể hoàn thành trọng
trách to lớn đó, nhất thiết Đảng phải được xây dựng thật sự vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức. Đó là vấn đề tất yếu khách quan. Do vậy, Đảng Cộng sản được quần
chúng vô sản và nhân dân lao động thừa nhận là lãnh tụ chính trị, là người dẫn dắt, là tư
lệnh đáng tin cậy thì không thể có thắng lợi của cách mạng.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là đòi hỏi tất yếu khách quan của cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc ở Việt Nam, để thực hiện sứ mệnh lịch sử là giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp và giải phóng con người. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm
của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố đảm bảo cho phong trào công
nhân, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc phát triển từ tự phát trở thành tự giác, là
nhân tố quyết định việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đối với cách
mạng Việt Nam. Do vậy, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là một đặc trưng là nguyên tắc
căn bản trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta theo con đường xã hội chủ nghĩa. Kiên trì và
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là sự bảo đảm chắc chắn cho việc thực hiện
và phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa. Trong bất cứ hoàn cảnh nào đều phải trung
thành, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững và tăng cường
sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản đối với xã hội. Đảng phải quán triệt và đứng
117
vững trên lập trường của giai cấp công nhân, để giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề giai
cấp nếu không sẽ rơi chủ nghĩa giáo điều và siêu hình, xét lại và sự xa rời nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
4.1.2. Giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp phải được đặt
trong bối cảnh toàn cầu hóa và phát triển kinh tế tri thức
Hiện nay, sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng và toàn dân ta đang diễn ra trong
bối cảnh mà toàn cầu hóa và phát triển kinh tế tri thức đã trở thành “một xu thế khách
quan”. Trước tình hình đó, Đảng ta đã khẳng định đường lối nhất quán là: “mở rộng
quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” [44, tr.119], là xác định cho
chúng ta một tâm thế chủ động hội nhập vào quá trình toàn cầu hóa.
Toàn cầu hóa là hệ quả tất yếu của cách mạng khoa học và công nghệ cũng như
của sự phát triển chủ nghĩa tư bản. Toàn cầu hóa nhìn chung vẫn đem lại những lợi ích
to lớn cho nhân loại nói chung, cho các nước xã hội chủ nghĩa nói riêng. Toàn cầu hóa
tạo động lực thúc đẩy cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển; thúc đẩy các nước phát triển xuất khẩu vốn, công nghệ… ra nước ngoài
để kiếm lợi nhuận; tạo cơ hội để các nước đang phát triển, các nước xã hội chủ nghĩa
tiếp cận các nguồn vốn quốc tế, công nghệ tiên tiến từ các nước phát triển. Xu thế toàn
cầu hóa tạo điều kiện cho tất cả các nước tham gia vào đời sống quốc tế, bày tỏ chính
kiến, bảo vệ lợi ích, tập hợp lực lượng... nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược của mình.
Quá trình hội nhập quốc tế làm cho các nước ngày càng phụ thuộc lẫn nhau. Đây là cơ
hội tích cực để có thể loại bỏ các biểu hiện của ý đồ thiết lập mối quan hệ một chiều
chứa đựng sự áp đặt, chi phối của các cường quốc đối với đông đảo các quốc gia dân tộc
khác trên thế giới, thúc đẩy sự hình thành một trật tự thế giới mới với cơ chế sinh hoạt
quốc tế dân chủ, công bằng, bình đẳng hơn. Chủ nghĩa xã hội phải tham gia chủ động và
tích cực vào quá trình toàn cầu hóa kinh tế vì triển vọng phát triển của nó và vì tương lai
của một toàn cầu hóa trên chất lượng mới: bình đẳng giữa các quốc gia và không còn
chế độ người bóc lột người. Giá trị thực tiễn lớn nhất mà chủ nghĩa xã hội hiện thực
mang lại là tham gia vào một quá trình kinh tế quốc tế, hiện còn mang đậm dấu ấn của
chủ nghĩa tư bản, để nêu lên một kinh nghiệm thực tiễn cho việc giải quyết, trên một cơ
sở mới, những vấn đề của toàn cầu hóa hiện nay.
Tuy nhiên, mặt trái của toàn cầu hóa dưới sự chi phối của chủ nghĩa tư bản hiện
nay cũng không ít. Các quốc gia tư bản chủ nghĩa chủ chốt, các công ty tư bản xuyên
quốc gia vẫn chi phối toàn cầu hóa. Các quốc gia phi tư bản chủ nghĩa có tham gia vào
quá trình toàn cầu hóa, nhưng không làm thay đổi tính chất của toàn cầu hóa. Toàn cầu
118
hóa tạo ra sự không công bằng, thậm chí bất bình đẳng trong phân chia các lợi ích mà nó
có thể mang lại. Toàn cầu hóa hiện nay về thực chất không phải là sân chơi bình đẳng
cho tất cả mọi quốc gia, dân tộc; toàn cầu hóa có thể làm xói mòn các giá trị dân tộc,
thách thức chủ quyền quốc gia dân tộc. Toàn cầu hóa không những không xóa bỏ chủ
nghĩa thực dân mà thậm chí còn làm cho chủ nghĩa thực dân phát triển nhanh hơn dưới
hình thức mới. Các nước đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa tham gia
phân công lao động quốc tế, hội nhập quốc tế với trình độ kinh tế thấp hơn rất nhiều, lại
phải chấp nhận những “luật chơi” hiện còn đậm dấu ấn tư bản chủ nghĩa, sẽ phải trả một
giá đắt nếu để chệch hướng trong khi hội nhập kinh tế thế giới. Điều đó đòi hỏi các nước
xã hội chủ nghĩa phải tiến hành một cách khôn khéo và kiên quyết cuộc đấu tranh chống
các thế lực lợi dụng toàn cầu hóa để đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình”.
Khái niệm “kinh tế tri thức” là cách nói ngắn gọn của “kinh tế dựa trên tri thức”.
Nó không phải là sự phân biệt với kinh tế sản xuất hàng hóa, mà chỉ là một trình độ cao
của nền sản xuất hàng hóa. Kinh tế tri thức là một thành tựu của nhân loại trong quá
trình sản xuất hàng hóa đang có xu hướng toàn cầu và được trợ lực mạnh mẽ bởi công
nghệ thông tin cùng các công nghệ hiện đại khác. Kinh tế tri thức hiện nay ra đời từ các
nước tư bản chủ nghĩa phát triển song chủ nghĩa xã hội phải tiếp thu có chọn lọc những
thành quả của nó. Những thành quả cần tiếp thu là các phát minh khoa học - công nghệ
nhất là công nghệ cao, chiến lược giáo dục con người, tạo nguồn nhân lực chất lượng
cao; xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại, đổi mới phương thức quản lí kinh tế của nhà
nước... Trong quá trình tiếp thu, cần thấy rõ chủ nghĩa xã hội phải đi tới kinh tế tri thức
vì nó là trình độ cao của quá trình phát triển lực lượng sản xuất hiện đại. Đồng thời, chủ
nghĩa xã hội hiện thực sẽ còn phải tìm tòi rất nhiều trong quá trình cụ thể hóa lời giải
cho bài toán mà lịch sử đặt ra đối với nó: làm thế nào để kết hợp kinh tế tri thức với nền
kinh tế còn lạc hậu của các nước đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh
tế tri thức có khả năng tạo ra được năng suất lao động cao và phát triển bền vững, nhưng
không thể bằng ý chí để “đại nhảy vọt” tới nó.
Trong quá trình hội nhập quốc tế, một cách khách quan Việt Nam cũng như các
quốc gia đang phát triển, cũng sẽ có được những thuận lợi, đồng thời cũng phải đối mặt
với những khó khăn và thách thức đặt ra đối với việc giải quyết mối quan hệ dân tộc -
giai cấp. Điều này được thể hiện như: Trước hết, Việt Nam đang có thời cơ lớn, nhưng
cũng đứng trước không ít khó khăn để giải quyết mối quan hệ giữa hội nhập kinh tế
quốc tế với bảo vệ độc lập dân tộc và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa; thứ hai,
cùng với tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện tiến bộ và công
119
bằng xã hội, toàn cầu hóa cũng khiến cho nước ta phải đối mặt trong việc bảo đảm tiến
bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường hướng tới một sự phát triển bền vững; thứ ba,
trong bối cảnh mở cửa, giao lưu, hợp tác của toàn cầu hóa, Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội
tiếp thu tinh hoa của nền văn hóa, văn minh nhân loại, góp phần làm giàu cho nền văn
hóa dân tộc; thứ tư, trong điều kiện toàn cầu hóa, Việt Nam có nhiều cơ hội để tham gia
vào cuộc đấu tranh cho một trật tự thế giới mới tốt đẹp hơn, hướng tới xây dựng toàn
cầu về con người.
Nói tóm lại, giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp ở nước
ta hiện nay trong bối cảnh toàn cầu hóa và phát triển kinh tế tri thức. Trong quá trình giải
quyết mối quan hệ đó, chúng ta đang có nhiều thuận lợi, nhưng cũng không ít khó khăn
trong việc giữ gìn độc lập, tự chủ và phát triển về kinh tế, chính trị, văn hóa theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Ngày nay, hơn bao giờ hết, cũng như các quốc gia dân tộc
khác, đối với Việt Nam, bảo vệ độc lập, tự chủ và phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa
trở nên gắn bó và quan hệ mật thiết với nhau. Độc lập tự chủ về kinh tế và văn hóa trở
thành tiền đề quan trọng cho việc bảo đảm độc lập, tự chủ và phát triển về chính trị.
Đồng thời, có giữ vững độc lập, tự chủ và phát triển về chính trị thì độc lập, tự chủ và
phát triển về kinh tế và văn hóa mới thực hiện được. Đây là một vấn đề có tính nguyên
tắc. Tuy nhiên, để thực hiện được điều đó trong bối cảnh hiện nay là một vấn đề không
hề đơn giản, đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải xây dựng được những định hướng chiến
lược đúng đắn, toàn diện cho những hoạt động lãnh đạo và quản lý đất nước. Để thực
hiện được nhiệm vụ hết sức lớn lao này đòi hỏi chúng ta phải quyết thành công và thấu
đáo mối quan giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong giai đoạn hiện nay.
4.1.3. Giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp ở nước
ta hiện nay phải tạo ra động lực cho sự phát triển xã hội
Việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay, xét đến cùng là thống nhất về lợi ích, khơi dậy lòng yêu nước,
tạo ra sự đồng thuận trong quá trình phát triển xã hội. Vì vậy, trong giải quyết mối quan
hệ này cần phải sáng tạo, linh hoạt và khéo léo phù hợp với thực tiễn tạo ra động lực cho
thắng lợi của cách mạng. Đây là một nguyên tắc quan trọng trong việc giải quyết mối
quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp ở nước ta hiện nay.
Trong quá trình tiến hành cách mạng Việt Nam, cũng như trong sự nghiệp đổi
mới, động lực cách mạng có vai trò rất quan trọng, nó là cơ sở để thúc đẩy cách mạng
tiến lên. Động lực cách mạng, được xác định dưới góc độ vật chất và tinh thần, bên
trong và bên ngoài, chủ yếu và thứ yếu... Một trong những động lực cơ bản và xuyên
120
suốt trong toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam, được Đảng ta xác định chính là chủ
nghĩa yêu nước và khối đại đoàn kết (bao gồm đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế). Do
vậy, việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp phải khơi dậy
được những động lực này, đây là cơ sở cho sự nghiệp đổi mới đến thắng lợi cuối cùng.
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa, đất nước ta cần vượt qua rất nhiều khó khăn, thách thức lớn. Do vậy, Đảng và
Nhà nước cần có đường lối, chủ trương đúng đắn để giải quyết những vấn đề nói trên.
Song muốn, tháo gỡ được khó khăn, vượt qua được các thách thức, chúng ta cần có
những biện pháp hiệu quả để động viên, khơi dậy tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân
tộc của các tầng lớp nhân dân. Để phát huy lòng yêu nước phải kết hợp hài hòa giữa lợi
ích dân tộc và lợi ích giai cấp, lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân.
Phát huy chủ nghĩa yêu nước trong toàn dân để tạo ra động lực xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là một trong những nhiệm vụ trọng đại của Đảng. Hồ
Chí Minh từng nhấn mạnh Đảng cần “phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh
đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc
yêu nước, công việc kháng chiến” [114, tr.38-39]. Ngày nay, “công việc yêu nước”,
chính là công việc bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền dân tộc và xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội.
Một trong những động lực cơ bản nữa của cách mạng nước ta đã được Đảng ta xác
định một trong những động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân
trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo..., Việt
Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì
hoà bình, độc lập và phát triển. Như vậy, động lực cho sự phát triển của cách mạng Việt
Nam là đại đoàn kết bao gồm động lực bên trong (đoàn kết dân tộc) và động lực bên
ngoài (đoàn kết quốc tế). Đó chính là tiến trình giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa
nhân tố bên trong và nhân tố bên ngoài, giữa nhân tố nội sinh và nhân tố ngoại lực, giữa
nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan, trên nền tảng pháp lý và truyền thống nhằm vừa
bảo đảm độc lập, tự chủ của nước ta vừa tranh thủ và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ của
quốc tế để phát triển sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Để biến tư tưởng đại đoàn kết trở thành động lực phát triển đất nước, chúng ta
không dừng lại ở chỗ khẳng định nó là động lực tư tưởng; mà trái lại, phải biến động lực
tư tưởng ấy thành sức mạnh hiện thực thông qua các thiết chế phù hợp, các phong trào
hành động cách mạng toàn dân tộc theo phương châm bảo đảm sự thống nhất, sự tương
đồng các mối quan hệ khác nhau thể hiện tập trung trong các lợi ích khác nhau giữa các
121
giai cấp, các tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, cá nhân trong xã hội nước ta với lợi ích của toàn
thể dân tộc, trên cơ sở pháp luật và đạo lý truyền thống của dân tộc. Trong thời kỳ hiện
nay, điểm tương đồng chung nhất giữa các giai cấp, tầng lớp và toàn thể dân tộc được
thể hiện trong mục tiêu độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh. Mục tiêu đó phản ánh những lợi ích cơ bản nhất, cốt lõi nhất
của đại đa số nhân dân ta. Sự vững mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta từ khi
có Đảng lãnh đạo đã cho thấy sự nhận thức đúng đắn của Đảng ta về vai trò của sự
thống nhất trong việc thực hiện những mục tiêu chung của cả dân tộc.
Mặt khác, trong quan hệ đối ngoại, phải nắm chắc quan điểm "dĩ bất biến ứng vạn
biến". Nghĩa là, cần giữ vững quyền độc lập dân tộc, giữ vững con đường phát triển đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thông qua sách lược, biện pháp hết sức linh hoạt,
mềm dẻo và khôn khéo vừa rất rộng mở vừa rất tỉnh táo, vừa hợp tác vừa đấu tranh, trên
nền tảng truyền thống bang giao và luật pháp quốc tế nhằm phát huy mặt tích cực, hạn
chế mặt tiêu cực trong các quan hệ quốc tế.
Từ những phân tích trên, chúng ta thấy rằng, để chủ nghĩa yêu nước và khối đại
đoàn kết trở thành động lực to lớn, của sự phát triển đất nước phụ thuộc vào khả năng
và trình độ giải quyết của chúng ta về các mối quan hệ đa chiều, phức tạp trong nội bộ
dân tộc và quan hệ của nước ta với các nước trên thế giới. Cụ thể việc giải quyết các
mối quan hệ: Giai cấp và dân tộc, cộng đồng và cá nhân, xã hội và gia đình, quốc gia
và quốc tế... theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, việc giải quyết quan hệ dân
tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế sẽ là cơ sở rất quan trọng trong việc tạo ra động lực
cho sự phát triển đất nước. Hay nói cách khác, tạo ra động lực cho sự phát triển đất
nước là một nguyên tắc cơ bản trong giải quyết quan hệ giai cấp - dân tộc - quốc tế ở
nước ta hiện nay.
4.1.4. Phải có quan điểm biện chứng trong việc giải quyết mối quan hệ giữa
vấn đề dân tộc và giai cấp
Việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp cần phải quán triệt
sâu sắc quan điểm biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đây là một quan điểm có tính nguyên tắc trong giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề giai
cấp ở nước ta trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, cũng như trong sự nghiệp đổi
mới ở nước ta hiện nay.
Quan điểm biện chứng trong việc nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa trên
đòi hỏi phải thực hiện tốt các quan điểm sau đây: Thứ nhất, cần có quan điểm khách
quan trong nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp;
122
Thứ hai, cần có quan điểm lịch sử - cụ thể trong nhận thức và giải quyết vấn đề đấu
tranh giai cấp; Thứ ba, cần có quan điểm toàn diện trong nhận thức và giải quyết vấn đề
đấu tranh giai cấp.
Việc đứng trên quan điểm biện chứng để giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề giai
cấp, sẽ giúp chúng ta không “tả” cũng không “hữu” trong giải quyết vấn đề trên, hay
nói cách khác là không tuyệt đối hóa vấn đề dân tộc cũng như vấn đề giai cấp.
Quan điểm biện chứng đòi hỏi, trong nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa
vấn đề dân tộc và giai cấp cần phải có cái nhìn khách quan, toàn diện và căn cứ vào điều
kiện, hoàn cảnh, từng thời gian cụ thể, không được giáo điều, rập khuôn, coi những
nguyên lý trong lý luận đó là bất biến. Hồ Chí Minh là người vận dụng sáng tạo lý luận
Mác - Lênin trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam nên đã giải quyết đúng đắn vấn đề độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giữa lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc, tạo cơ
sở để giải phóng đất nước. Nếu không có quan điểm lịch sử - cụ thể chúng ta có thể mắc
bệnh giáo điều khi giải quyết vấn đề giai cấp, điều này có thể cản trở sự phát triển xã
hội. Trong thực tế lịch sử cho ta bài học là, có thời kỳ, khi triển khai các nhiệm vụ xây
dựng chủ nghĩa xã hội, đã có lúc Đảng ta phạm sai lầm nóng vội, chủ quan, duy ý chí,
quá nhấn mạnh vấn đề giai cấp nên đã xem nhẹ vấn đề dân tộc trong việc hoạch định và
thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội, dẫn đến lợi ích các giai cấp, tầng lớp
không được tính đến đầy đủ và kết hợp hài hoà, sức mạnh dân tộc không được phát huy
như một trong những động lực chủ yếu nhất. Nhưng ngay sau đó, Đảng ta đã kịp thời
khắc phục có hiệu quả cả về phương diện nhận thức lý luận cũng như trong hoạt động
thực tiễn vấn đề này.
Trong những năm gần đây, ở nước ta đã nảy sinh ý kiến cho rằng: Mối quan hệ
giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp luận chứng trong chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh chỉ đúng với một số nước khác nào đó, còn ở Việt Nam vốn là nước
thuộc địa, nửa phong kiến, vấn đề dân tộc bao giờ cũng chi phối, khi nào Đảng nhấn
mạnh vấn đề giai cấp thì đều dẫn đến sai lầm. Từ đó, họ đề xuất ý kiến theo hướng nhấn
mạnh một chiều vấn đề dân tộc, tách vấn đề dân tộc khỏi vấn đề giai cấp, hạ thấp ý
nghĩa quan trọng, bức thiết của vấn đề giai cấp, không lấy quan điểm giai cấp làm quan
điểm cơ sở lập trường để xem xét, giải quyết vấn đề dân tộc. Theo họ, nước ta hiện nay
chỉ nên đề ra và giải quyết những vấn đề dân tộc, còn vấn đề giai cấp không nên đặt ra.
Mục tiêu ''dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh'' được họ đồng tình,
nhưng giải thích theo hướng phi giai cấp, nghĩa là không nhất thiết phải theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Thực chất là họ bác bỏ đường lối giải quyết vấn đề dân tộc theo lập
123
trường của giai cấp công nhân. Quan điểm nêu trên đi ngược với con đường mà Hồ Chí
Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn, và rõ ràng là không phù hợp với thực tiễn của
lịch sử cách mạng Việt Nam. V.I.Lênin đã từng cảnh báo: “Chừng nào người ta chưa
biết phân biệt được lợi ích của các giai cấp này hay giai cấp khác, ẩn đằng sau bất kỳ
những câu nói, những lời tuyên bố và những lời hứa hẹn nào có tính chất đạo đức, tôn
giáo và chính trị xã hội, thì trước sau bao giờ người ta cũng vẫn là kẻ ngốc nghếch bị
người khác lừa bịp và tự lừa bịp mình về chính trị” [95, tr.57].
Thực tiễn đó đã chỉ ra rằng, trong bất cứ giai đoạn nào, sự nghiệp cách mạng của
nhân dân ta đều phải kết hợp nhuần nhuyễn lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc; trong chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam luôn luôn gắn bó hữu cơ với lý tưởng của giai cấp công nhân
Việt Nam. Nền độc lập thật sự của dân tộc; tự do, sự giàu mạnh, văn minh và hạnh phúc
của nhân dân chỉ có thể đạt được một cách bền vững trong sự nghiệp cách mạng theo
mục tiêu, lý tưởng của giai cấp công nhân. Bởi vậy, trong việc giải quyết mối quan hệ
giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp phải dựa trên quan điểm biện chứng (khách quan,
toàn diện, lịch sử cụ thể…) trở thành một vấn đề có tính nguyên tắc trong sự nghiệp
cách mạng ở nước ta nói chung, cũng như trong sự nghiệp đổi mới hiện nay nói riêng.
4.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA VẤN ĐỀ DÂN
TỘC VÀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
4.2.1. Đa dạng hóa các hình thức sở hữu nhằm thực hiện phát triển kinh tế
thị trường gắn liền với giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa
Giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong lĩnh vực kinh
tế ở nước ta hiện nay là thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Nhiệm vụ đó sẽ không có kết quả nếu nền kinh tế rơi vào tình trạng “tụt hậu”,
hoặc “chệch hướng” xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta được hình thành và
phát triển là kết quả của quá trình đổi mới tư duy và lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn đổi mới
kinh tế của Đảng và Nhà nước ta từ năm 1986 đến nay. Đó là quá trình suy tư trăn trở,
tìm tòi khảo nghiệm với một tinh thần cầu thị, một quyết tâm chính trị và tinh thần trách
nhiệm cao của Đảng và Nhà nước trước nhân dân, trước sự phát triển đất nước và vận
mệnh của cách mạng. Những thành tựu trong 30 năm đổi mới vừa qua chứng tỏ kinh tế
thị trường cũng là một phương thức phát triển kinh tế trong chủ nghĩa xã hội và những
mô hình kinh tế mới này có sức sống mạnh mẽ và có triển vọng lịch sử to lớn.
124
Tuy nhiên, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề mới mẻ chưa
có tiền lệ trong lịch sử. Hơn nữa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội với một xuất phát điểm
thấp, từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ là phổ biến và hiện nay còn trong giai đoạn chuyển
biến từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, phấn đấu đến năm 2020
mới cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Từ thực trạng trình độ
của nền kinh tế và điều kiện hội nhập quốc tế, tổng kết thực tiễn 30 năm đổi mới Đảng ta
chủ trương:
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản
xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các
chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo
pháp luật [54, tr.102-103].
Chủ trương đó của Đảng phản ánh đúng đắn các quy luật phát triển kinh tế, yêu
cầu của sự phát triển nền kinh tế đất nước trong điều kiện hiện nay. Đồng thời cũng đảm
bảo của việc giải quyết vấn đề giai cấp theo tư duy mới. Tuy nhiên, với khả năng quản
lý, điều tiết sự phát triển nền kinh tế của Nhà nước, với trình độ và năng lực cạnh tranh
của kinh tế Nhà nước (nhất là các doanh nghiệp Nhà nước) và kinh tế tập thể như thực tế
hiện nay liệu kinh tế Nhà nước có giữ được vai trò chủ đạo hay không? Kinh tế Nhà
nước cùng kinh tế tập thể liệu có thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền
kinh tế quốc dân hay không? Liệu có thể định hướng được nền kinh tế thị trường phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa được hay không? Hay nói cách khác, cuộc đấu
tranh “ai thắng ai” trên lĩnh vực kinh tế đang đặt chủ nghĩa xã hội trước những thử thách
sống còn. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải phát huy cao độ nỗ lực chủ quan thì mới giải
quyết thành công vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, mới đảm bảo giữ vững mục tiêu
chính trị, con đường xã hội chủ nghĩa mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và nhân dân đã
lựa chọn. Dĩ nhiên, nỗ lực chủ quan không theo nghĩa chủ quan duy ý chí như trước đây
mà trên cơ sở khách quan, tránh cực đoan tả và hữu khuynh.
Nói phát huy nỗ lực chủ quan trước hết là phải phát huy vai trò quản lý và điều
tiết sự phát triển nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Giải quyết vấn
đề giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là đấu tranh giai cấp trong điều
kiện mới, điều kiện giai cấp công nhân và quần chúng lao động đã có chính quyền.
Chính quyền, nhà nước là công cụ có vai trò hết sức quan trọng trong đấu tranh giai cấp.
125
Hơn nữa, trong nền kinh tế thị trường hiện đại, không chỉ trong chủ nghĩa xã hội mà
ngay ở các nước tư bản chủ nghĩa vai trò quản lý và điều tiết của nhà nước là hết sức cần
thiết. Sự tác động của nhà nước đối với kinh tế là sự tác động của kiến trúc thượng tầng
chính trị đối với cơ sở hạ tầng, kinh tế, là sự tác động của nhân tố chủ quan đối với nhân
tố khách quan. Sự tác động đó có thể có tác dụng tích cực (nếu như phù hợp với yêu cầu
phát triển khách quan của nền kinh tế, phù hợp với những quy luật phát triển của kinh
tế), hoặc tiêu cực (nếu can thiệp một cách chủ quan, thô bạo vào nền kinh tế). Nói về vai
trò của Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế nước ta trong điều kiện hiện nay Đảng chỉ
rõ: “Nhà nước quản lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển kinh tế -
xã hội bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật
chất” [51, tr.18]. Để phát được vai trò đó của Nhà nước phải:
Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do
Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị.
... Hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế vận
hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa… Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật,
quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ. Phân định rõ hơn vai trò và hoàn thiện cơ chế giải quyết tốt mối
quan hệ giữa Nhà nước và thị trường [54, tr.175-176].
Để định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển của nền kinh tế nước ta hiện nay
đồng thời với phát huy vai trò định hướng, điều tiết của Nhà nước, phải từng bước
khẳng định trong thực tế vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước. Đây là vấn đề
còn có nhiều ý kiến băn khoăn. Thậm chí cũng có ý kiến cho rằng việc xác định thành
phần kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo là một sự áp đặt chủ quan phi kinh tế, là sự
“độc quyền” cản trở sự cạnh tranh kìm hãm sự phát triển kinh tế, là sự hy sinh, sự phát
triển kinh tế vì mục đích chính trị. Đó là những ý kiến không đúng, mang nặng thành
kiến, định kiến về những hạn chế của thành phần kinh tế nhà nước trong những năm
trước đổi mới. Trước hết phải thấy rằng, việc xác định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo trong đường lối đổi mới của Đảng không phải dựa trên mong muốn chủ quan,
cũng không chỉ nhằm mục đích làm công cụ định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển
nền kinh tế, mà là có căn cứ khoa học và thực tiễn. Bởi theo quy luật về sự phù hợp
giữa quan hệ sản xuất với trình độ lực lượng sản xuất thì lực lượng sản xuất hiện đại
sớm muộn gì cũng sẽ đòi hỏi quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản
126
xuất. Thực tế ở các nước tiên tiến hiện nay, những nước đã có lực lượng sản xuất hiện
đại, quan hệ sản xuất tuy chưa phải là dựa trên chế độ công hữu, nhưng rõ ràng đang
có xu hướng tiếp cận dần với chế độ công hữu. Việc ở các nước đó chưa xác lập quan
hệ sản xuất dựa trên chế độ công hữu không phải là do sự tác động khách quan của
quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, mà là
do lợi ích ích kỷ của giai cấp tư sản, do tác động của kiến trúc thượng tầng chính trị tư
bản chủ nghĩa.
Hơn nữa, trên thực tế trong những năm đổi mới nhờ đẩy mạnh việc sắp xếp lại, tổ
chức lại và đổi mới một cách có hiệu quả kinh tế nhà nước đã có bước tiến rõ rệt và
đang “chi phối nhiều ngành kinh tế then chốt” [47, tr.146]. Tiềm lực tài chính nhà nước
ngày càng được tăng cường. Chính sách tiền tệ được điều hành linh hoạt hơn, giá trị
đồng tiền cơ bản ổn định. Ngân hàng Nhà nước... được chấn chỉnh, có bước phát triển,
hiệu quả hoạt động tốt hơn. Doanh nghiệp nhà nước nhờ sắp xếp lại tuy hiệu quả hoạt
động còn thấp, nhưng cũng có được hơn 70% đã làm ăn có lãi. Hơn nữa xác định kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo không có nghĩa là Nhà nước có ưu đãi đặc biệt đối với
thành phần kinh tế đó, mà phải đẩy mạnh việc sắp xếp và đổi mới, nhất là đối với doanh
nghiệp nhà nước. Cụ thể phải:
Hoàn thiện cơ chế, chính sách để các doanh nghiệp nhà nước thực sự hoạt
động trong môi trường cạnh tranh, công khai, minh bạch, nâng cao hiệu quả.
Xoá bỏ độc quyền và đặc quyền sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp nhà
nước. Doanh nghiệp nhà nước có quyền tài sản, thực sự tự chủ, tự chịu trách
nhiệm trên thị trường và trước pháp luật. Gắn trách nhiệm, quyền hạn và lợi
ích của người quản lý doanh nghiệp với kết quả hoạt động của doanh nghiệp.
Chăm lo đào tạo đội ngũ quản trị giỏi đáp ứng tốt yêu cầu quản lý công ty
theo chế độ hiện đại [47, tr.84-85].
Tuy nhiên củng cố, đổi mới kinh tế nhà nước như thế nào để thành phần này
khẳng định và phát huy được vai trò chủ đạo để không chỉ định hướng xã hội chủ nghĩa
nền kinh tế, mà còn trong việc phát triển nền kinh tế đáp ứng nhu cầu của sự phát triển
đất nước trong điều kiện hội nhập quốc tế còn là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp.
Như vậy, giải quyết mối quan hệ vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trên lĩnh vực
kinh tế đang đặt ra cho đất nước phải giải quyết hai vấn đề hết sức phức tạp cả về mặt lý
luận, lẫn thực tiễn đó là: Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước và vai trò
quản lý, điều tiết của Nhà nước đối với nền kinh tế. Không khẳng định được trong thực
tiễn những vai trò này thì khó có thể nói đến định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển
127
nền kinh tế. Nhưng phát huy những vai trò này một cách chủ quan, duy ý chí bất chấp
qui luật kinh tế thì sẽ làm tổn hại đến các nguyên tắc của thị trường, cản trở phát triển
kinh tế.
4.2.2. Tăng cường đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh công - nông - trí
gắn liền với xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh
4.2.2.1. Tăng cường đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh công - nông - trí
dưới sự lãnh đạo của Đảng
Việc tăng cường đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh công nhân - nông dân -
trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn cách mạng hiện
nay, cũng chính là kết hợp và giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp một cách
nhuyễn của Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Với Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc không phải là một sách lược nhất thời mà
là một chiến lược cách mạng lâu dài, nhất quán có ý nghĩa sống còn, quyết định thành
bại của của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh lấy lợi ích tối cao của dân tộc và quyền
lợi cơ bản của nhân dân làm nền tảng. Đó là sự kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân với lợi
ích tập thể, lợi ích gia đình và lợi ích xã hội, lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc.
Đoàn kết dân tộc vừa là động lực, vừa là mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt
Nam. Đi ngược lại với mục tiêu ấy là khuynh hướng chia rẽ, gây mất đoàn kết, cản trở
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Cuộc đấu tranh chống các khuynh hướng chia rẽ để
xây dựng khối đại đoàn kết thống nhất là quy luật tồn tại, phát triển của dân tộc ta. Kinh
nghiệm lịch sử cho thấy, khi nào chúng ta biết nêu cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân,
phát huy được sức mạnh dân tộc, tranh thủ được sức mạnh của quốc tế, thì khó khăn đến
mấy cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Ngược lại, ở đâu, lúc nào xa rời những
tư tưởng quan trọng ấy, thì nơi ấy, lúc ấy cách mạng gặp khó khăn và tổn thất. Đó là bài
học rút ra từ thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Như vậy, có thể thấy, quan điểm, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và
Nhà nước có tác động trực tiếp đến liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức. Nhưng việc tăng cường củng cố khối liên minh giai cấp vững
mạnh vẫn là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn thể nhân dân ta. Điều đó có ý
nghĩa quyết định đối với sự thắng lợi của cách mạng trong điều kiện mới. Trong giai
đoạn hiện nay, để tăng cường đoàn kết dân tộc phải nắm vững những quan điểm cơ bản
sau đây:
128
Thứ nhất, đoàn kết dân tộc phải lấy mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh làm mục tiêu cơ bản của mọi đường lối và chính sách. Đây là mục tiêu
trước mắt và mục tiêu lâu dài. Để giải quyết yêu cầu, nhiệm vụ trên cần quán triệt những
vấn đề sau đây:
Một là, đại đoàn kết vì mục tiêu giữ vững độc lập thống nhất, chủ quyền, quốc gia
và toàn vẹn lãnh thổ, đưa nước ta thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng đất
nước giàu mạnh. Đoàn kết các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, mọi giới, mọi lứa
tuổi, mọi người trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam dù sống trong nước hay định cư
ở nước ngoài. Đoàn kết chủ yếu phải lấy mục tiêu chung làm điểm tương đồng, đồng
thời tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc, cùng
nhau xoá bỏ định kiến, mặc cảm, hướng tới tương lai, xây dựng tinh thần đại đoàn kết,
cởi mở, tin cậy lẫn nhau.
Xuất phát từ sự khác nhau giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội, giữa các dân tộc,
các tôn giáo... nên việc đoàn kết họ trong Mặt trận là rất quan trọng và việc đoàn kết đó
trong tổ chức Mặt trận dựa trên việc xác định rõ mục tiêu chung làm điểm tương đồng
để cùng nhau phấn đấu thực hiện. Nhưng việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ dân tộc
và giai cấp một mặt đòi hỏi phải nắm vững đường lối xây dựng đất nước theo con đường
xã hội chủ nghĩa, với Cương lĩnh và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng,
Nhà nước, đó thực chất là đường lối thể hiện lập trường giai cấp công nhân. Mặt khác
đòi hỏi phải thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận vì
mục tiêu nêu trên nhằm tập hợp tất cả các lực lượng của dân tộc thực hiện thắng lợi
đường lối đó. Đó chính là thể hiện cao nhất lợi ích của dân tộc.
Hai là, đại đoàn kết trước hết phải được thể hiện trong các chủ trương của Đảng
và chính sách và pháp luật của Nhà nước, đáp ứng được lợi ích, nguyện vọng chính
đáng của các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo trong xã hội; gắn quyền lợi với trách
nhiệm, lợi ích riêng của mỗi người với nghĩa vụ công dân, trong đó lấy lợi ích dân tộc là
cao nhất. Đồng thời tạo mọi điều kiện và môi trường thuận lợi để giải phóng sức lao
động, khuyến khích mọi người, mọi thành phần kinh tế phát triển cao độ nguồn nhân lực
và tài năng sáng tạo, ra sức phát triển sản xuất, kinh doanh, làm giàu hợp pháp, cần kiệm
xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân, Đảng và Nhà nước khuyến khích toàn dân thực hiện tốt chính sách
xã hội, đền ơn đáp nghĩa với những người có công với nước, tham gia các việc công ích,
các hoạt động nhân đạo và từ thiện, giúp nhau xoá đói, giảm nghèo, phát huy truyền
thống nhân nghĩa của dân tộc. Chỉ có không ngừng phát triển kinh tế - xã hội, mọi người
129
thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất, đời sống, đồng thời xử lý thoả đáng các
mối quan hệ giữa lợi ích riêng và lợi ích chung và các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân
mới củng cố và tăng cường được khối đại đoàn kết dân tộc.
Thứ hai, đoàn kết phải trên cơ sở tăng cường khối liên minh giữa giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Đi đôi với việc củng cố, mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, phải không ngừng củng cố liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, làm cho khối liên minh thực sự
trở thành nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân. Nếu công nhân, nông dân, trí thức
không đủ mạnh, không liên minh với nhau chặt chẽ, không đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng thì không thể củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, Mặt trận không thể
vững chắc và đi đúng hướng được. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam dựa trên nền tảng liên
minh công nhân - nông dân - trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng là sự phản ánh về mặt
tổ chức xã hội, mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc và giai cấp. Tách biệt, hoặc nhấn
mạnh một chiều vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, hoặc liên minh công nhân -
nông dân - trí thức đều không đúng với biện chứng của đời sống cách mạng. Tuyệt đối
hoá vai trò, vị trí của liên minh công nhân - nông dân - trí thức, hạ thấp vai trò của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam sẽ dẫn đến cực đoan, “tả khuynh” và bệnh cô lập, hẹp hòi;
ngược lại, nhấn mạnh, đề cao một chiều vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, coi nhẹ
liên minh công nhân - nông dân - trí thức sẽ dẫn đến hữu khuynh, xa rời lập trường giai
cấp. Thực tế cho thấy, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam càng rộng rãi bao nhiêu, sức mạnh
của liên minh công nhân - nông dân - trí thức càng to lớn bấy nhiêu; ngược lại, liên minh
công nhân - nông dân - trí thức càng được củng cố, tăng cường thì Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam càng vững chắc, càng có sức mạnh.
Liên minh công - nông - trí được xây dựng và củng cố trong suốt quá trình đấu
tranh cách mạng lâu dài của dân tộc, là lực lượng cơ bản có ý nghĩa quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Liên minh công - nông - trí vững mạnh chẳng những
đảm bảo được sự đoàn kết thống nhất trong nhận thức và hành động để thực hiện những
mục tiêu chung, mà còn là cơ sở để bảo đảm quyền lãnh đạo của giai cấp công nhân,
củng cố nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Trong những năm qua, sự đoàn kết, thống nhất giữa giai cấp công nhân, giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức đã tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ cho sự phát triển đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế thị trường
hiện nay, quan hệ giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, nhất là
130
trong quan hệ lợi ích kinh tế, có một số vấn đề nảy sinh, ảnh hưởng không nhỏ tới việc
xây dựng khối liên minh công - nông - trí và khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó là tình
trạng mâu thuẫn, tranh chấp ở những lợi ích cục bộ, lợi ích trước mắt, dẫn đến thái độ
thiếu hợp tác, nhất trí trong sản xuất và các hoạt động xã hội chung. Điều này ít nhiều
tác động tiêu cực, cản trở việc xây dựng, phát huy vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc vì mục tiêu xã hội chủ nghĩa.
Do vậy, trong điều kiện nay để liên minh công nhân - nông dân - trí thức, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, cũng chính là giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong điều
kiện mới, một vấn đề cốt yếu là chúng ta phải xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam
thực sự vững mạnh, xứng đáng là lực lượng tiên phong, là người dẫn đường cho sự
nghiệp cách mạng của dân tộc. Tuy nhiên, còn nhiều tổng thể những vấn đề bất cập
trong giai cấp công nhân trong những năm vừa qua thì thấy rõ một bộ phận lớn công
nhân xuất thân từ nông dân chưa được đào tạo có hệ thống nên trình độ tay nghề còn
thấp, chậm thích nghi với cơ chế quản lý công nghiệp; một bộ phận công nhân giác ngộ
chính trị còn thấp, ít rèn luyện phấn đấu để trở thành đảng viên, đoàn viên. Do vậy, xây
dựng giai cấp công nhân Việt Nam lớn mạnh, đủ sức làm tròn sứ mệnh là giai cấp tiên
phong, giai cấp lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước là vấn đề cấp bách đối với nước ta hiện nay. Nói về điều đó, tại Đại hội XII Đảng
khẳng định: “Quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về
số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ
năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động của công nhân” [54, tr.160].
Bởi vì sự lớn mạnh của giai cấp công nhân là một trong những điều kiện cơ bản nhất
đảm bảo giải quyết hiệu quả mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong sự
nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
4.2.2.2. Xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh, hoạt động hiệu
quả đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới
Để củng cố tăng cường xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên
minh công - nông - trí dưới sự lãnh đạo của Đảng, một trong những vấn đề cốt yếu chính
là xây dựng Đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh.
Thứ nhất, xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh về mọi mặt, xứng đáng là đội
tiền phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc. Đảng ta theo
tư tưởng Hồ Chí Minh là một Đảng lãnh đạo, Đảng chân chính cách mạng. Ngày nay,
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên
phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Đảng lãnh đạo hệ thống chính
131
trị, lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Như vậy, vấn đề đặt ra là phải nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu
của Đảng. Bài học của cách mạng Việt Nam 30 năm đổi mới xác định đây là khâu then
chốt, là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới. Trong giai đoạn hiện nay,
để nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng nước ta, phải xây dựng Đảng
trên mọi phương diện, trong đó phải tập trung vào những khía cạnh chủ yếu nhất: Một
là, trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào, Đảng ta phải luôn kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Hai là, nâng cao trình độ trí tuệ, trung thành và vận dụng
sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn. Ba là,
thường xuyên quán triệt và thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo,
cá nhân phụ trách; đẩy mạnh tư phê bình và phê bình, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất
trong Đảng. Bốn là, tăng cường công tác giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối
sống, nâng cao tính tiền phong, gương mẫu, phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ,
đảng viên. Năm là, xây dựng và tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với
nhân dân, nêu cao tinh thần quốc tế vô sản cao cả của giai cấp công nhân. Những giải
pháp trên là những vấn đề cốt lõi, có tính nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng đảm
bảo cho Đảng ta thật sự là Đảng cách mạng và khoa học, xứng đáng là một Đảng kiểu
mới, một Đảng chân chính trung thành phấn đấu vì lợi ích của giai cấp công nhân, của
nhân dân lao động và của toàn dân tộc Việt Nam.
Thứ hai, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững
mạnh, có hiệu lực cao, thật sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Cần phải xây
dựng được hệ thống pháp lý minh bạch, rõ ràng, hợp lý, nghiêm minh. Do đó, việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân cần nhanh chóng
hoàn thiện và phát huy tác dụng của nó, tạo cho người dân ý thức sống và làm việc theo
pháp luật, coi đó như một biện pháp quan trọng để qui tụ lòng dân. Xây dựng hệ thống
pháp lý rõ ràng, nghiêm minh cũng chính là nhằm củng cố và tăng cường hệ thống chính
trị, nâng cao năng lực lãnh đạo của đảng cầm quyền, củng cố niềm tin của nhân dân đối
với hệ thống chính trị, góp phần ổn định chính trị xã hội những yếu tố quan trọng của
đồng thuận xã hội. Cùng với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền là việc phát huy dân
chủ xã hội chủ nghĩa. Phát huy dân chủ cũng gắn liền với việc xây dựng nhà nước pháp
quyền, là một trong những mục đích của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền. Việc
phát huy dân chủ góp phần đảm bảo vấn đề quyền con người, đây là yếu tố quan trọng
để tạo nên sự đồng thuận xã hội một cách thực chất.
132
Thứ ba, xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ
thống chính trị ngày càng vững mạnh. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã
hội là những bộ phận cấu thành hệ thống chính trị của xã hội ta, được hình thành theo
nguyên tắc tự nguyện và hoạt động theo nguyên tắc tự quản, nhằm đáp ứng những lợi
ích đa dạng của các thành viên, thu hút đông đảo nhân dân vào tham gia quản lý các
công việc nhà nước, công việc xã hội, nâng cao tính tích cực của mỗi công dân. Trong
xã hội ta, nhân dân thực hiện quyền lực chính trị của mình không chỉ bằng nhà nước
mà còn thông qua các đoàn thể chính trị - xã hội, tổ chức xã hội. Do vậy, củng cố, mở
rộng khối đại đoàn kết dân tộc trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam bằng các hình thức
phong phú, đa dạng, thích hợp với từng giới, từng thành phần xã hội, từng địa phương,
cơ sở… nhằm khơi nguồn trí tuệ, sáng kiến, phát huy mọi năng lực của các tầng lớp
nhân dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong nhân dân không thiếu
những người có đức, có tài, nếu chúng ta không tập hợp được, không phát huy được
tài, đức của họ là sự thiệt thòi lớn cho đất nước. Điều quan trọng là phải thu hút được
thật nhiều trong các giai cấp, các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo thì mới
hình thành được Mặt trận rộng lớn. Mặt trận không chỉ đoàn kết bằng tổ chức mà còn
phải đoàn kết bằng phong trào hành động chung từ thấp đến cao. Không chỉ đoàn kết ở
bên trên mà cần tiếp tục hướng mạnh hoạt động về cơ sở, tới mọi địa bàn dân cư, đến
từng hộ gia đình.
Nói tóm lại, việc xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh, hoạt động
hiệu quả đáp ứng được yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng là một yêu cầu khách
quan trong quá trình đổi mới, tạo mọi điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ
thống chính trị trong phát triển phát triển kinh tế - xã hội, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, bảo đảm độc lập chủ quyền quốc gia, góp phần quan trọng vào
việc hội nhập quốc tế.
Quá trình xây dựng hệ thống chính trị, chính là quá trình nâng cao hiệu quả của
chính trị đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Đó là điểm mấu chốt để hình thành chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, góp phần vào việc
giải quyết thấu đáo mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong sự nghiệp
đổi mới hiện nay.
133
4.2.3. Không ngừng mở rộng quan hệ quốc tế, kết hợp nguồn lực bên trong
với nguồn lực bên ngoài đưa đất nước phát triển bền vững theo định hướng xã hội
chủ nghĩa
Trong sự nghiệp cách mạng hiện nay, để mở rộng quan hệ quốc tế, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo động lực to lớn cho sự phát triển đất nước theo
đường lối đổi mới và chủ động hội nhập quốc tế, đòi hỏi chúng ta phải giải quyết một
cách hài hòa, biện chứng mối quan hệ dân tộc - giai cấp theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Dù
hoàn cảnh nào thì cách mạng Việt Nam cũng kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, là
một bộ phận của cách mạng thế giới không thể tách rời, nhất là trong bối cảnh toàn cầu
hoá kinh tế hiện nay. Việt Nam tiếp tục đoàn kết, ủng hộ phong trào cách mạng, xu
hướng, trào lưu tiến bộ của thời đại vì mục tiêu hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội. Trong mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức
mạnh dân tộc phải đóng vai trò nền tảng, là nhân tố quyết định. Chúng ta cần thực hiện
tốt nhưng vấn đề cơ bản sau đây:
Thứ nhất, trên cơ sở nắm vững xu thế của thời đại cần xác định đúng đắn đường
lối đối ngoại, bảo đảm lợi ích quốc gia dân tộc.
Đây là một nguyên tắc cơ bản trong việc mở rộng quan hệ quốc tế ở nước ta hiện
nay, bởi vì chúng ta chỉ khai thác được tối đa sức mạnh của thời đại khi và chỉ khi chúng
ta có một đường lối đối ngoại đúng đắn, có những đóng góp tích cực vào sự phát triển
chung của cộng đồng quốc tế.
Trong bối cảnh thế giới có biến động phức tạp và khó lường như hiện nay, khả
năng đánh mất mình đều có thể xảy ra với bất cứ một quốc gia, dân tộc nào. Bởi vậy, phải
hết sức tỉnh táo và thận trọng trong việc đưa ra các đường lối, quyết sách về đối ngoại;
đồng thời phải luôn nêu cao tinh thần độc lập tự chủ và đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu,
xác định đúng lợi ích dân tộc, có sự điều chỉnh thích hợp và có biện pháp chính sách khôn
khéo bảo đảm thực hiện lợi ích dân tộc. Lợi ích dân tộc cao nhất của nước ta trong hoạt
động đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, phát huy ảnh hưởng trên trường quốc tế
để tranh thủ mọi nguồn lực bên ngoài cho mục tiêu an ninh và phát triển.
Cần phát huy tính chủ động và linh hoạt, nâng cao tính thiết thực, thực tế trong
hoạt động đối ngoại; kịp thời nhận biết và nắm bắt thời cơ; tạo dựng các chủ bài trong
quan hệ với các đối tác; không tạo cớ để bên ngoài kích động chống phá, không để rơi vào
thế kẹt giữa các đối tác; không đi với nước lớn này chống nước lớn khác; không tham gia
mọi liên minh chống nước thứ ba. Thúc đẩy hợp tác nhưng đồng thời kiên quyết, chủ
134
động, thực tế và khôn khéo đấu tranh, khi cần thiết phải thoả hiệp, thậm chí phải biết cân
nhắc trả giá nếu cần thiết, để có thể duy trì lợi ích tối cao của quốc gia dân tộc. Sự nghiệp
bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia của nước ta đòi hỏi sự phối hợp nỗ lực của tất
cả các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương, của toàn bộ hệ thống chính trị với
việc xây dựng và thực thi một hệ giải pháp toàn diện, đồng bộ, cụ thể nhằm hóa giải thành
công những nguy cơ, thách thức đang đặt ra trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
hiện nay. Trong quá trình đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã sớm nhận thức rõ bốn nguy cơ
lớn đối với an ninh, ổn định và phát triển của nước ta. Ngoài quyết tâm chính trị cao,
chúng ta cũng đã có nhiều cố gắng lớn trong hành động thiết thực để từng bước khắc
phục, vượt qua, nhưng trên thực tế những nguy cơ đó vẫn tiếp tục hiện hữu một cách gay
gắt, ảnh hưởng trực tiếp đến độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia.
Thứ hai, mở rộng quan hệ quốc tế để bảo vệ chủ quyền quốc gia dân tộc, bảo vệ
thành quả của chủ nghĩa xã hội, đưa nước ta không ngừng phát triển, rút ngắn khoảng
cách với các nước.
Đây là một quan điểm lớn có tính bao quát và xuyên suốt, vận dụng quan điểm
này vào công tác đối ngoại và hoạt động ngoại giao trong điều kiện hiện nay là cần phải
quán triệt một cách sâu sắc. Đối với Việt Nam trong quá trình đổi mới, lợi ích quốc gia
dân tộc cơ bản, chân chính và cao nhất về đối ngoại được Đảng và Nhà nước ta xác định
rõ là giữ vững hoà bình để phát triển, nghĩa là phải tạo lập được môi trường quốc tế
thuận lợi cho sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế xã hội theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia.
Để bảo vệ độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia trong hội nhập quốc tế, xét về
phương diện đối ngoại phải ngày càng chủ động và tích cực tạo lập môi trường quốc tế
thuận lợi để phát triển đất nước về mọi mặt, hết sức tránh tình trạng bị lệ thuộc vào bất
cứ đối tác nào, thị trường nào, không đẩy các đối tác vào tình thế phải lựa chọn giữa ta
và nước khác, kiên quyết không để bị rơi vào tình trạng đối đầu, bị bao vây cấm vận.
Trên cơ sở giữ vững nguyên tắc đa dạng hoá, đa phương hoá, quán triệt sâu sắc hơn
nhận thức mới về đối tác và đối tượng, tiếp tục tạo tương tác tích cực giữa các đối tác
trong quan hệ với nước ta, phải tạo được thế đan xen lợi ích, ưu tiên hàng đầu cho quan
hệ với các nước láng giềng và các nước lớn; xây dựng quan hệ thực chất, ổn định lâu dài
với các đối tác quan trọng. Mặt khác, xuất phát từ lợi ích quốc gia dân tộc lâu dài và
trước mắt, trong từng lĩnh vực và từng thời kỳ, từ hoàn cảnh điều kiện đất nước và tình
135
hình thế giới mà xác định đối tượng, đối tác, có chính sách và các biện pháp cụ thể trong
quan hệ với từng đối tượng, đối tác.
Các quan điểm mang tính chỉ đạo này là cơ sở quan trọng để bảo vệ lợi ích của
dân tộc ta trong quá trình hội nhập quốc tế, mà trước hết là giữ vững độc lập tự chủ, chủ
quyền quốc gia và định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, trên cơ sở đó nước ta có thể
tiếp tục mở rộng quan hệ đối ngoại, tranh thủ được điều kiện quốc tế và nguồn ngoại lực
phục vụ cho xây dựng và phát triển kinh tế, rút ngắn khoảng cách với các nước phát
triển. Việc khẳng định thực hiện nhất quán chính sách đối ngoại rộng mở còn góp phần
củng cố hơn nữa lòng tin cho các đối tác nước ngoài khi thiết lập quan hệ và triển khai
hợp tác với nước ta trên mọi lĩnh vực, thông qua đó phát huy vai trò của nước ta trong
quá trình hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới, đóng góp vào cuộc đấu tranh
chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Thứ ba, giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa dạng hoá, đa
phương hoá quan hệ đối ngoại.
Giữ vững độc lập tự chủ gắn liền với đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc
tế để xây dựng được thế đứng vững chắc trên trường quốc tế, tránh những tình huống
bất lợi về đối ngoại, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc đổi mới và xây dựng đất
nước. Đảng nhấn mạnh “độc lập tự chủ, tự lực tự cường”, phát huy sức mạnh bên trong
của Việt Nam là nền tảng của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là điều kiện để mở
rộng và nâng cao uy tín quốc tế của Việt Nam, vô hiệu hoá và phá thế bao vây, cấm vận
của các thế lực thù địch, khai thác những thuận lợi trong quan hệ quốc tế để tăng thêm
sức mạnh cho đất nước. Sự kiên định về độc lập tự chủ, tự lực tự cường là vấn đề có tính
nguyên tắc để mở rộng quan hệ quốc tế theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá, tránh
được những tình huống bất lợi về đối ngoại, củng cố và nâng cao vị thế của đất nước ở
khu vực cũng như trên thế giới. Trước cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, trước sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại, của quá trình toàn cầu hoá kinh tế thế giới, thì đối với
nước ta, sự kết hợp chặt chẽ yếu tố dân tộc và yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại để
đưa nước ta tiến lên trở thành một vấn đề có tính tất yếu.
Trong quan hệ quốc tế, cùng với việc đặt cao quan hệ hữu nghị và hợp tác với các
nước láng giềng và khu vực, Đảng và Nhà nước ta đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết
phải mở rộng quan hệ với tất cả các nước, đặc biệt là các nước lớn, các trung tâm kinh tế
lớn vì đó là những lực lượng ảnh hưởng đáng kể đến an ninh và phát triển của khu vực
và của nước ta. Với các nước lớn, phải coi trọng giữ quan hệ cân bằng, khôn khéo lợi
136
dụng mâu thuẫn giữa họ nhằm giữ được thế cân bằng chiến lược, tranh thủ mọi yếu tố
thuận lợi để phát triển kinh tế và đảm bảo an ninh quốc phòng. Trong quan hệ với các
nước lớn, Việt Nam kiên trì chính sách độc lập tự chủ, tránh không để rơi vào những
tình huống phức tạp và bị động hoặc liên minh với nước lớn này chống nước lớn khác.
Trong khi tập trung nỗ lực tranh thủ mọi điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây
dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thì Đảng và Nhà nước ta cũng xác định rõ
phải luôn coi trọng phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị với các nước xã hội chủ nghĩa,
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào độc lập dân tộc, với phong trào
không liên kết và các lực lượng hoà bình, tiến bộ khác trên thế giới, theo khả năng thực
tế của ta, phù hợp với sự biến chuyển của tình hình thế giới. Đảng ta luôn kiên định
phương châm mà Bác đã đặt ra, coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng
thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đó là nhân tố quan trọng làm
nên thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Thứ tư, trong quan hệ đối ngoại kiên định về chiến lược, mềm dẻo về sách lược.
Kiên định về chiến lược, mềm dẻo về sách lược trong hoạch định và thực hiện
đường lối đối ngoại là tư tưởng chỉ đạo và phương châm đối ngoại của Đảng ta, đã thể
hiện cụ thể trong quá trình Đảng ta vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phương châm
đối ngoại trong điều kiện mới. Phương châm này có ý nghĩa rất lớn đối với việc phát
triển quan hệ đối ngoại trong giai đoạn này. Đòi hỏi chúng ta phải kiên định về nguyên
tắc, mềm dẻo về sách lược, vận dụng sáng tạo phương châm ngoại giao Hồ Chí Minh về
“thêm bạn bớt thù”, “dĩ bất biến ứng vạn biến” để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất Tổ quốc và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Trong điều kiện mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng
hoá, nước ta đứng trước những cơ hội mới, song nguy cơ và thách thức cũng nhiều. Do
đó, cần phải nhận thức đúng và nắm vững vấn đề hợp tác và đấu tranh, coi đây là hai mặt
gắn bó hữu cơ của quan hệ quốc tế, phải hết sức tránh hợp tác một chiều hoặc đấu tranh
một chiều. Trong phương châm nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh, Đảng ta nhấn
mạnh một nhận thức mới, đó là đấu tranh nhằm thúc đẩy hợp tác, tránh trực diện đối đầu,
không để cho các thế lực không thân thiện với ta lợi dụng sự sơ hở để đẩy ta vào thế cô
lập, đặc biệt lảng tránh một cuộc xung đột quân sự hoặc sự khiêu khích vũ trang. Nắm
vững hai mặt hợp tác và đấu tranh còn nhằm lợi dụng mâu thuẫn và sự cạnh tranh giữa
các đối tác có quan hệ với nước ta, tranh thủ những lực lượng có thể tranh thủ được, phân
hoá và thu hẹp đến mức có thể được các thế lực chống đối hoặc không thân thiện với ta.
Nhận thức này là sự vận dụng sáng tạo quan điểm biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin
137
về quá trình vận động của các hiện tượng quan hệ xã hội, đồng thời đây cũng là sự vận
dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về nghệ thuật lợi dụng những mâu thuẫn,
phân hoá của đối phương trong xử lý các tình huống quan hệ đối ngoại.
Trong quan hệ quốc tế, Đảng và Nhà nước ta nhận thức, tuỳ từng đối tượng, trên
từng vấn đề và từng thời điểm, hoặc mặt hợp tác hoặc mặt đấu tranh sẽ nổi lên hơn.
Trong xử lý các vấn đề quốc tế cần phải tỉnh táo, có sách lược khôn khéo trong hợp tác
và đấu tranh, để mở rộng quan hệ đối ngoại, “thêm bạn bớt thù”, giữ vững môi trường
hoà bình phục vụ mục tiêu phát triển của đất nước.
Tóm lại, giải quyết mối quan hệ giữa các vấn đề dân tộc - giai cấp - quốc tế luôn
là xương sống của các vấn đề chính trị trong nước và quốc tế. Trong bối cảnh toàn cấu
hóa tư bản chủ nghĩa như hiện nay, vấn đề mối quan hệ dân tộc, giai cấp, quốc tế đã trở
nên phức tạp hơn bao giờ hết. Việc các quốc gia - dân tộc nhận thức và giải quyết vấn đề
này như thế nào sẽ quyết định không những sự tồn tại, phát triển của họ mà còn ảnh
hưởng tới sự ổn định và phát triển chung của thế giới.
4.2.4. Giải quyết các xung đột xã hội tạo ra sự thống nhất, đồng thuận xã hội
và ngược lại
Giải quyết xung đột xã hội và xây dựng đồng thuận xã hội có mối quan hệ mật
thiết với nhau. Giải quyết xung đột xã hội là cơ sở để tạo ra sự đồng thuận xã hội và
ngược lại đồng thuận xã hội cũng giải pháp cơ bản để giải quyết thấu đáo vấn đề xung
đột xã hội. Giải quyết xung đột xã hội tạo sự đồng thuận xã hội cũng chính là biểu hiện
của việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong điều kiện
mới, được xây dựng trên phạm vi quốc gia, dân tộc, bao gồm tất cả các giai cấp, tầng
lớp, dân tộc, tôn giáo, cả người Việt Nam ở trong và ngoài nước.
Thứ nhất, để giải quyết được các mâu thuẫn, xung đột xã hội chính là vấn đề lợi
ích. Lợi ích - đó có thể là những lợi ích về mặt vật chất hay những lợi ích về mặt tinh
thần. Đồng thuận xã hội chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở lợi ích của tất cả các thành
viên trong xã hội được đảm bảo, không thể có đồng thuận xã hội khi mà lợi ích của đa
số các thành viên trong xã hội bị vi phạm hoặc không được tôn trọng, bảo vệ. Trong một
phạm vi nhất định, có thể nói, mức độ đảm bảo lợi ích của các thành viên, lực lượng
trong xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ đồng thuận xã hội; lợi ích càng được
đảm bảo bao nhiêu, hay vấn đề lợi ích càng được giải quyết triệt để bao nhiêu thì mức
độ đồng thuận càng tăng thêm bấy nhiêu. Nói như vậy, không có nghĩa là trong bất cứ
hoàn cảnh nào lợi ích cũng đóng vai trò là cơ sở quan trọng nhất của đồng thuận xã hội.
Chẳng hạn, trong một số hoàn cảnh thì các yếu tố khác, như truyền thống văn hoá, công
138
bằng xã hội, trách nhiệm xã hội, dân chủ,... lại đóng vai trò là cơ sở quan trọng nhất của
đồng thuận xã hội. Tuy nhiên, việc đảm bảo cho tất cả các thành viên trong xã hội đều
được thoả mãn về mặt lợi ích là một việc vô cùng khó khăn. Bởi lợi ích, nếu không được
giải quyết tốt sẽ dẫn đến mâu thuẫn, thậm chí cả sự xung đột trong xã hội. Do đó, việc
đảm bảo lợi ích cho tất cả các thành viên trong xã hội để tạo nên đồng thuận xã hội
cũng đồng thời là quá trình giải quyết mâu thuẫn về mặt lợi ích giữa các thành viên,
lực lượng, tầng lớp trong xã hội.
Nếu quan niệm giải quyết mâu thuẫn mới chính là động lực của sự phát
triển xã hội thì việc sớm phát hiện và giải quyết mâu thuẫn đóng vai trò
quan trọng tạo ra sự đoàn kết và đồng thuận xã hội. Để tạo ra sự đồng thuận
xã hội, đoàn kết hay thống nhất xã hội, chúng ta phải kịp thời phát hiện
những mâu thuẫn và giải quyết những mâu thuẫn đó. Giải quyết kịp thời
những mâu thuẫn là cơ sở cho sự đồng thuận và đoàn kết xã hội. Do đó, có
thế nói, đồng thuận và đoàn kết xã hội là kết quả của việc giải quyết những
mâu thuẫn xã hội [61, tr.51].
Việc đảm bảo lợi ích và giải quyết mâu thuẫn về mặt lợi ích làm cơ sở cho đồng
thuận xã hội có thế được tiến hành bằng nhiều biện pháp khác nhau: chẳng hạn như
điều hoà lợi ích giữa các lực lượng đối kháng, mâu thuẫn; kết hợp hài hoà giữa các loại
lợi ích, hay nguyên tắc các bên cùng có lợi.
Như vậy, việc đảm bảo lợi ích và giải quyết mâu thuẫn về mặt lợi ích là cơ sở
quan trọng nhất đế xây dựng đồng thuận xã hội. Tuy nhiên, ở nước ta thực tiễn cho thấy
không phải trong bất cứ hoàn cảnh nào những mâu thuẫn lợi ích cũng đóng vai trò quan
trọng nhất, mà còn chịu ảnh hưởng sâu sắc của các yếu tố văn hoá truyền thống, các giá
trị tinh thần, tín ngưỡng, tôn giáo cũng một đóng vai trò quan trọng. Đây cũng là điếm
cần lưu ý trong khi xây dựng, củng cố đồng thuận xã hội.
Thứ hai, để giải quyết xung đột xã hội, ngoài vấn đề lợi ích, một trong những
nhân tố quan trọng là lấy đồng thuận xã hội để giải quyết các xung đột xã hội. Như vậy,
đồng thuận xã hội với vai trò vừa là mục tiêu, vừa là động lực để giải quyết xung đột xã
hội. Trước hết, để tạo nên đồng thuận xã hội, một trong những yếu tố quan trọng chính
là việc xác định mục tiêu chung, lý tưởng chung. Khi tất cả các thành viên trong xã hội
cùng hướng đến mục tiêu chung, lý tưởng chung thì đó sẽ trở thành tiền đề quan trọng
cho đồng thuận xã hội, trong điều kiện mục tiêu chung đó không triệt tiêu lợi ích của các
thành viên trong xã hội. Trong mỗi một giai đoạn lịch sử khác nhau, mục tiêu chung, lý
tưởng chung cũng có sự thay đối, chẳng hạn như trong giai đoạn trước đây là mục tiêu
chống giặc ngoại xâm, mục tiêu độc lập dân tộc, còn ngày nay là mục tiêu xây dựng và
139
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam chủ nghĩa xã hội, mục tiêu thực hiện thắng lợi công nghiệp
hoá, hiện đại hoá vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh… trong giai
đoạn hiện nay nổi lên vấn đề biển đảo, biên giới lãnh thổ, lợi ích kinh tế quốc gia.
Nhưng nếu như mục tiêu chung, lý tưởng chung lại ảnh hưởng đến lợi ích của các
thành viên trong xã hội thì rất khó có thế trở thành cơ sở đế xây dựng đồng thuận xã hội.
Do đó, mục tiêu chung, lý tưởng chung không được triệt tiêu những lợi ích riêng, nhưng
trong một phạm vi nào đó, đế đạt được mục tiêu chung, các thành viên, các tầng lớp, dân
tộc... đôi khi phải gác bỏ, thậm chí hy sinh lợi ích riêng của mình. Có mục tiêu chung, lý
tưởng chung là điều kiện quan trọng đế xây dựng đồng thuận xã hội, nhưng mặt khác
cũng cần phải có sự nhận thức đúng đắn của tất cả các thành viên trong xã hội đối với
mục tiêu chung, lý tưởng chung đó. Thực chất, đây là vấn đề giải quyết mối quan hệ
giữa lợi ích chung và lợi ích riêng, giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể.
Việc xây dựng mục tiêu chung, lý tưởng chung đế có thế tạo được sự đồng thuận
của đa số các thành viên trong xã hội không phải là việc đơn giản, nhất là trong giai
đoạn hiện nay. Do đó, đối với những nhà quản lý sự phát triển xã hội cần phải có tư duy
lịch sử cụ thế, lấy thực tiễn lịch sử làm cơ sở, kết hợp hài hoà giữa truyền thống dân tộc
và tinh thần thời đại, giữa truyền thống văn hoá dân tộc và nền văn minh nhân loại đế có
thế xây dựng chiến lược phát triển, mục tiêu phát triển phù hợp với xu hướng phát triển
chung lại vừa chú ý đến những đặc thù riêng.
Hai là, một trong những cơ sở khác của đồng thuận xã hội là vấn đề phát huy dân
chủ và công bằng xã hội. Thực ra, việc đảm bảo lợi ích cho các thành viên trong cộng
đồng cũng như việc giải quyết các mâu thuẫn xã hội, đặc biệt là những mâu thuẫn về lợi
ích như đã trình bày ở trên, xét ở một góc độ nào đó cũng chính là nhằm tạo ra công
bằng xã hội. Tuy nhiên, nội hàm của khái niệm công bằng xã hội rộng hơn nhiều. Đó
không chỉ là công bằng về lợi ích, mà còn là công bằng trong phân phối, công bằng
trong phát triển, công bằng trong đối xử,... và đặc biệt, nó gắn liền với vấn đề dân chủ.
Tuy nhiên, việc đảm bảo và giải quyết những mâu thuẫn về mặt lợi ích, nhất là những
lợi ích vật chất không phải lúc nào cũng có thể mang đến công bằng xã hội. Khi xã hội
ngày càng phát triển, thì vấn đề công bằng xã hội và vấn đề dân chủ dường như lại quan
trọng hơn những yếu tố khác. Khi đó, để đạt được sự đồng thuận xã hội, đòi hỏi phải đối
xử một cách công bằng và dân chủ đối với mỗi thành viên trong cộng đồng hay trong xã
hội. Khi một đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định nào đó được đưa ra thì một
trong những yếu tố hết sức quan trọng là có được sự tin tưởng, ủng hộ của các thành
viên, các lực lượng, tầng lớp trong xã hội.
140
Có thể coi công bằng xã hội là điều kiện khách quan để tạo nên sự đồng thuận xã
hội và trách nhiệm xã hội như là điều kiện chủ quan. Điều đó thể hiện ở chỗ, muốn đạt
được đồng thuận xã hội, một trong những điều kiện quan trọng là mọi thành viên trong
cộng đồng, các thành phần, giai cấp của xã hội cần phải được đối xử một cách công bằng,
bình đẳng, tôn trọng mà không có sự phân biệt đối xử. Trong đó, công bằng về quyền lợi
và lợi ích đóng vai trò quan trọng hàng đầu. Công bằng gắn liền với dân chủ, đó là hai yếu
tố quan trọng tạo nên công bằng và bình đẳng trong đời sống vật chất và tinh thần của xã
hội - cơ sở để tạo nên đồng thuận xã hội. Giữa đồng thuận xã hội và dân chủ có mối quan
hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau. Cho nên, xây dựng sự đồng thuận xã hội chính là tiến tới
xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ; ngược lại, dân chủ càng được bảo đảm, các nguyên tắc
của dân chủ càng được coi trọng thì càng đạt được sự đồng thuận ở mức độ cao.
Gắn liền với thực hiện dân chủ và đảm bảo công bằng xã hội, vấn đề đảm bảo các
quyền và tự do cơ bản của các cá nhân cũng là cơ sở và điều kiện quan trọng của đồng
thuận xã hội. Thực hiện được điều này, đồng thuận sẽ đạt được không chỉ ở cấp độ toàn
xã hội, mà còn ở cấp độ các nhóm, các tổ chức, đoàn thể xã hội...
Ba là, tuy không đóng vai trò quyết định, nhưng truyền thống văn hoá cũng là cơ
sở góp phần tạo nên đồng thuận xã hội. Khi nói đến truyền thống văn hoá tức là nói đến
những phong tục tập quán, tín ngưỡng, thói quen và quy tắc ứng xử giữa người với
người, giữa người với tự nhiên... Dễ nhận thấy rằng, khi các tầng lớp, lực lượng trong xã
hội hay trong một cộng đồng nào đó có chung một nền tảng văn hoá, nghĩa là có những
điểm tương đồng thì việc xây dựng đồng thuận xã hội sẽ diễn ra một cách thuận lợi. Việt
Nam vốn có truyền thống đoàn kết, nhân ái, khoan dung, đùm bọc lẫn nhau... đó chính là
những nét đặc thù trong văn hoá người Việt, đó cũng chính là những yếu tố quan trọng
gắn kết mọi người lại với nhau, xoá bỏ những khác biệt và mâu thuẫn tạo nên những
điểm chung. Trong truyền thống Việt Nam, các làng xã luôn luôn có sự cố kết bền chặt,
các yếu tố tạo nên sự cố kết bền chặt đó là các giá trị văn hoá, tôn giáo, tín ngưỡng, là
các quy tắc đạo đức, là các nguyên tắc luật lệ (như Hương ước...). Sự cố kết bền chặt của
các làng xã Việt Nam trước đây đã phản ánh cơ sở, nền tảng, vai trò của yếu tố văn hoá
trong việc tạo nên tính đoàn kết xã hội và đồng thuận xã hội.
Bốn là, bên cạnh các cơ sở, điều kiện như đã trình bày ở trên, để xây dựng và
củng cố đồng thuận không thể không dựa trên nền tảng là sự nhận thức của các cá nhân,
các lực lượng trong xã hội. Ở một góc độ nhất định, sự đồng thuận chỉ đạt được trên cơ
sở là sự nhận thức chung của các thành viên trong xã hội.
141
Khi nói đến vấn đề nhận thức của các thành viên trong xã hội, điều đầu tiên cần
chú ý đó là trình độ dân trí. Trình độ dân trí là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới sự nhận
thức của mọi người đối với các vấn đề trong xã hội. Trình độ dân trí càng cao, càng
đồng đều thì càng nhanh chóng đi đến sự thống nhất về nhận thức đối với một vấn đề
nào đó trong xã hội. Ngược lại, nếu trình độ dân trí càng thấp và không đồng đều, việc
đạt được nhận thức chung sẽ rất khó khăn.
Ngoài ra, việc nhận thức của các thành viên trong xã hội, bên cạnh việc hướng
đến những vấn đề chung, mục tiêu chung, còn là sự nhận thức đối với quyền và trách
nhiệm của mình đối với xã hội. Khi đã nhận thức được điều đó, ngoài lợi ích của bản
thân mình, các thành viên sẽ có trách nhiệm đối với sự phát triển chung của xã hội, sẽ
hướng đến những mục tiêu chung, lý tưởng chung của xã hội. Việc đạt được trách nhiệm
xã hội trước hết phải dựa trên nhận thức chung của các thành viên, các giai tầng trong xã
hội đối với mục đích chung, lợi ích chung của toàn xã hội. Như trên đã nói, trách nhiệm
xã hội như là điều kiện chủ quan của đồng thuận xã hội. Nó là vấn đề thuộc về đạo đức.
Phải khẳng định rằng, đồng thuận không phải là kết quả của đạo đức hay của tư
duy mang màu sắc lý trí. Đó phải là kết quả nhận thức của các công dân về quyền lợi và
trách nhiệm đối với xã hội và xã hội chỉ đạt được trạng thái đồng thuận khi có sự đồng
thuận về nhận thức. Đồng thuận là tất yếu khi có nhận thức về quyền và nghĩa vụ và
điều kiện tiên quyết cho nó là sự tự do và sự đa dạng về nhận thức. Nếu có tự do mà
không có tính đa dạng của nhận thức sẽ không tạo ra trạng thái đồng thuận đích thực.
Còn thiếu tự do là thiếu thứ cơ bản nhất để tạo ra sự đồng thuận bởi tính đồng thuận là
kết quả của sự tự giác, tự nguyện đồng ý. Cần mở rộng không gian tự do về nhận thức
và đảm bảo sự đa dạng về nhận thức để con người có đủ không gian phát triển. Đây
chính là hai điều kiện bắt buộc phải có để tạo ra sự đồng thuận về nhận thức.
4.2.5. Thực hiện tốt chính sách xã hội và an sinh xã hội nhằm giải quyết một
cách hài hòa giữa lợi ích các giai cấp, tầng lớp trong xã hội
Giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp theo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong
xây dựng hoà bình, nhất là những năm đổi mới, vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp được
biểu hiện trước hết ở vấn đề xã hội.
Về vấn đề xã hội, phải tính đến phát huy sức mạnh của nhân tố con người, tất cả
vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân, vì lợi ích vật chất và tinh thần của
công dân Việt Nam. Muốn vậy, vấn đề đặt ra là phải bổ sung nhiều hơn nữa chính sách
đối với con người. “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội” (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã được Đại hội XI của Đảng thông qua đã đặt vấn
142
đề “xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội” [50, tr.72]. “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể
phát triển” [50, tr.76]. Đây là những vấn đề rất lớn, rất cơ bản, một vấn đề mà Chủ tịch
Hồ Chí Minh suốt đời mong muốn. Để triển khai vấn đề này vào trong đời sống xã hội,
đòi hỏi phải huy động sức mạnh tổng lực của nhân dân và phải có cả một hệ thống chính
sách xã hội và an sinh xã hội.
Thực hiện tốt các chính sách xã hội và an sinh xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế
đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội, theo quan điểm của Đảng ta: “những vấn đề xã hội
bao gồm các lĩnh vực liên quan đến sự phát triển của con người và xã hội như: Dân số
và nguồn nhân lực, lao động và việc làm, thu nhập và mức sống, giáo dục và y tế, đạo
đức và văn hoá, những đảm bảo về an ninh và an toàn xã hội của đời sống cá nhân và
cộng đồng” [11, tr.128].
Thực hiện quyền con người trong giải quyết các vấn đề xã hội, một mặt, nhằm
đảm bảo tôn trọng và thực hiện các quyền dân sự, chính trị như: quyền hôn nhân và gia
đình; quyền hưởng tự do và an ninh cá nhân và các quyền kinh tế xã hội cơ bản của mọi
công dân, bao gồm: Quyền lao động việc làm; quyền có mức sống thoả đáng; quyền
được giáo dục; quyền được chăm sóc sức khoẻ; quyền được tham gia vào đời sống văn
hoá và được hưởng thụ các giá trị văn hoá, tiến bộ của khoa học; quyền được hưởng an
toàn xã hội, kể cả bảo hiểm xã hội. Mặt khác, thực hiện các vấn đề xã hội là chú trọng
quan tâm đến quyền của những người có công với nước, trong đó đặc biệt phải kể đến
những gia đình thương binh, liệt sỹ; đồng thời, tạo cơ hội bình đẳng, hỗ trợ các nhóm
yếu thế trong xã hội tiếp cận và hưởng thụ quyền, đó là nhóm những người sống ở vùng
nông thôn nghèo; vùng dân tộc thiểu số; những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn
như người già yếu, cô đơn, người nhiễm HIV/AIDS, người khuyết tật, trong đó có người
nhiễm chất độc da cam…
Quan điểm của Đảng tập trung giải quyết những vấn đề xã hội, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội xuyên suốt trong 30 năm đổi mới vừa qua là sự thể hiện rõ nhất những
nguyên tắc cơ bản và các chuẩn mực về quyền con người: tạo cơ hội bình đẳng cho mọi
người cống hiến, tiếp cận và hưởng thụ quyền; mọi người trong khi hưởng thụ quyền phải
thực hiện các nghĩa vụ tương ứng; Đảng và Nhà nước có trách nhiệm quan tâm tạo điều
kiện cho mọi người có cơ hội như nhau, tức là mọi người đều bình đẳng; những người yếu
thế được đặc biệt quan tâm hỗ trợ để có cơ hội cống hiến và hưởng thụ.
Việc thực hiện chính sách xã hội và an sinh xã hội để hướng tới đảm bảo công
bằng xã hội và tiến bộ xã hội thuộc về bản chất chế độ ta, một xã hội hướng tới giải
143
phóng con người toàn diện. Đây cũng chính là việc giải quyết mối quan giữa vấn đề dân
tộc và vấn đề giai cấp trong điều kiện mới.
Tuy nhiên, việc thực hiện chính sách xã hội và an sinh xã hội, phụ thuộc vào tăng
trưởng và phát triển kinh tế. Điều này cũng được Đảng ta nhận thức một cách đầy đủ và
được cụ thể hóa trong quan điểm gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng và
tiến bộ xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Đảng ta nhấn mạnh:
“giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa, bảo đảm
tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường” [48, tr.137]; “từng bước mở rộng và cải
thiện hệ thống an sinh xã hội để đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu đa dạng của mọi
tầng lớp nhân dân trong xã hội, nhất là của nhóm đối tượng chính sách, đối tượng
nghèo” [48, tr.154].
Tăng trưởng kinh tế và thực hiện chính sách an sinh xã hội là hai phạm trù khác
nhau, nhưng có mối quan hệ tác động qua lại với nhau. Tăng trưởng kinh tế tạo tiền đề
và điều kiện vật chất để giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội thông qua chính sách phúc
lợi xã hội và an sinh xã hội. Nhưng nếu chính sách tăng trưởng không hướng vào mục
tiêu bền vững và hiệu quả kinh tế - xã hội thì sẽ dẫn đến những hậu quả xã hội khó
lường, nhất là nạn thất nghiệp, bất công xã hội, phân hóa giàu nghèo tăng. Do đó, một
chính sách kinh tế tốt là một chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong công bằng,
không làm gia tăng quá đáng mức độ chênh lệch về thu nhập giữa các nhóm dân cư,
tăng trưởng phải gắn với xóa đói giảm nghèo; bảo đảm cho mọi người, nhất là người
nghèo, nhóm xã hội yếu thế đều được hưởng lợi từ thành quả tăng trưởng kinh tế. Muốn
vậy, phải có sự can thiệp, điều tiết của Nhà nước vào kinh tế để bảo đảm tăng trưởng
kinh tế trên diện rộng và có lợi cho người nghèo, vì người nghèo. Đặc biệt, Nhà nước
can thiệp vào quan hệ phân phối bảo đảm phân bổ nguồn lực, phân phối lần đầu và phân
phối lại theo hướng gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội.
Các nguồn lực xã hội được phân bổ theo cơ chế thị trường và theo chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch phát triển của Nhà nước bảo đảm đạt hiệu quả kinh tế - xã hội
cao; Nhà nước dùng công cụ chính sách để điều tiết quá trình phân phối lại, nhất là chi
tiêu công, phân phối thông qua chính sách xã hội, an sinh xã hội và phúc lợi xã hội,
bảo đảm công bằng, tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy, tăng trưởng kinh tế là
tiền đề, điều kiện vật chất để phát triển và thực hiện chính sách an sinh xã hội, nhưng
một chính sách an sinh xã hội muốn khả thi thì phải phù hợp với khả năng của nền
kinh tế. Đảng xác định: “Tạo bước tiến bộ rõ rệt về thực hiện tiến bộ và công bằng xã
144
hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm tỷ lệ hộ nghèo; cải thiện điều kiện chăm sóc sức
khỏe cho nhân dân” [50, tr.1].
Để thực hiện tốt các yêu cầu trên đây, hiện thực hoá các mục tiêu về an sinh xã
hội và chính sách xã hội trong giai đoạn hiện nay, cần tập trung thực hiện có hiệu quả
các nhiệm vụ và giải pháp sau:
Một là, đẩy mạnh triển khai các chương trình phát triển kinh tế - xã hội gắn với
giải quyết việc làm. Khuyến khích tối đa các thành phần kinh tế, các loại hình doanh
nghiệp phát triển mạnh sản xuất kinh doanh để tạo nhiều việc làm, đồng thời hỗ trợ
người dân có việc làm, tăng thu nhập là giải pháp xoá đói giảm nghèo và bảo đảm an
sinh xã hội tích cực, hiệu quả, bền vững. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, một mặt phải
hoàn thiện các chính sách khuyến khích đầu tư, chính sách ưu đãi đối với các cơ sở sản
xuất kinh doanh sử dụng nhiều lao động, nhất là ở địa bàn nông thôn; phát triển mạnh
thị trường lao động. Thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ cho cả người học và cơ sở dạy
nghề, như cho vay ưu đãi học nghề, hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn, bộ đội
xuất ngũ, phụ nữ, thanh niên…; đẩy mạnh việc đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài.
Hai là, phát triển đồng bộ, đa dạng và nâng cao chất lượng hệ thống bảo hiểm xã
hội, đồng thời có chính sách hỗ trợ phù hợp để người dân tích cực tham gia. Trong điều
kiện có những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, cùng biến đổi khí hậu, thiên tai,
dịch bệnh có xu hướng gia tăng, việc phát triển hệ thống bảo hiểm và sự tham gia rộng
rãi của người dân được coi là giải pháp quan trọng nhằm chia sẻ rủi ro và trợ giúp người
tham gia bảo hiểm khi xảy ra các tác động bất lợi về kinh tế, xã hội, môi trường. Cần
khẩn trương hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách nhằm phát triển
hệ thống bảo hiểm ngày càng đa dạng, đồng bộ, bền vững, với chất lượng được nâng
cao, phục vụ có hiệu quả các mục tiêu về an sinh, kinh tế và xã hội, đáp ứng nhu cầu đa
dạng của người tham gia bảo hiểm. Hệ thống này được xây dựng và hoạt động theo
nguyên tắc đóng - hưởng; có sự chia sẻ hợp lý về quyền lợi và nghĩa vụ. Nhà nước có sự
hỗ trợ phù hợp cho các đối tượng tham gia, nhất là người nghèo, cận nghèo, trẻ em, các
đối tượng chính sách và bảo trợ xã hội… Phát triển mạnh cả bảo hiểm bắt buộc và bảo
hiểm tự nguyện.
Ba là, thực hiện có hiệu quả chương trình xoá đói giảm nghèo bền vững. Trong
thập kỷ tới, xoá đói giảm nghèo vẫn là một nhiệm vụ bức thiết với quy mô rộng lớn,
mang ý nghĩa chính trị, xã hội, nhân văn sâu sắc và là một trọng tâm trong công tác bảo
145
đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội ở nước ta. Để thực hiện xoá đói giảm nghèo nhanh
và bền vững, phải đẩy mạnh triển khai các chương trình phát triển kinh tế - xã hội. Các
chính sách và giải pháp xoá đói giảm nghèo phải thiết thực, đồng bộ cả về hỗ trợ phát
triển sản xuất và đời sống, tạo việc làm, tiếp cận thị trường; nâng cao khả năng tự vươn
lên thoát nghèo bền vững của người dân. Phải bảo đảm lồng ghép có hiệu quả các
chương trình, dự án và nguồn lực trên từng địa bàn; sự tham gia chủ động của người
dân, cộng đồng và cơ sở.
Cùng với việc ưu tiên bố trí kinh phí từ ngân sách nhà nước, tiếp tục huy động sự
trợ giúp của cộng đồng doanh nghiệp và của toàn xã hội, động viên người nghèo, vùng
nghèo nỗ lực vươn lên thoát nghèo bền vững, tiến tới làm giàu. Thực hiện có hiệu quả
các chương trình, dự án, chính sách giảm nghèo hiện có, nhất là chương trình giảm
nghèo ở các huyện có số hộ nghèo cao. Thực hiện cuộc vận động xã hội sâu rộng triển
khai Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, trong đó gắn phát triển
kinh tế với xã hội và bảo vệ môi trường, xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm và bảo
đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, phát triển nông thôn bền vững.
Bốn là, thực hiện tốt chính sách ưu đãi đối với người có công và chính sách trợ
giúp xã hội cho các đối tượng bảo trợ xã hội. Hiện nay, nước ta có hơn 1,4 triệu người
có công với nước đang hưởng chính sách trợ cấp ưu đãi và hơn 1,6 triệu người đang
hưởng chính sách trợ cấp xã hội thường xuyên hàng tháng. Ngoài ra, nhu cầu trợ giúp
đột xuất còn rất lớn do tỷ lệ người nghèo, hộ nghèo, cận nghèo còn cao, đa số người già
chưa được hưởng chế độ hưu trí, tác động của kinh tế thị trường, dịch bệnh, thiên tai gây
thiệt hại ngày càng lớn. Vì vậy, thực hiện tốt hơn chính sách ưu đãi người có công với
nước và chính sách trợ giúp xã hội không những có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo
đảm an sinh, ổn định xã hội, mà còn thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta, dân tộc ta.
Hoàn thiện các chính sách và phát triển hệ thống trợ giúp xã hội linh hoạt, ứng
phó có hiệu quả với các biến cố, rủi ro, theo hướng cùng với việc tăng cường trợ giúp
thường xuyên và đột xuất từ ngân sách nhà nước, phải đẩy mạnh xã hội hoá, đa dạng các
kênh và hình thức trợ giúp xã hội và cứu trợ xã hội tự nguyện, nhân đạo dựa vào cộng
đồng với sự tham gia rộng lớn của các doanh nghiệp, của xã hội và kiều bào ta ở nước
ngoài; tranh thủ sự trợ giúp của cộng đồng quốc tế. Tiếp tục mở rộng đối tượng và điều
kiện hưởng thụ trợ giúp xã hội đến toàn bộ các nhóm dân cư dễ bị tổn thương với mức
trợ giúp phù hợp. Phấn đấu bảo đảm cho mọi người dân khi có thu nhập dưới mức sống
tối thiểu đều được nhận trợ giúp xã hội.
146
Năm là, nhà nước tăng thêm nguồn lực và phát huy vai trò chủ đạo để nâng cao
phúc lợi xã hội và phát triển đa dạng hệ thống các dịch vụ xã hội cơ bản. Không ngừng
nâng cao phúc lợi xã hội và khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội, trước hết là các dịch
vụ công cộng cơ bản, bảo đảm công bằng, bình đẳng cho mọi người. Điều này có ý
nghĩa quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội và phân phối lại một bộ phận
thu nhập quốc dân, nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu về vật chất và tinh thần,
giảm bớt sự chênh lệch về thu nhập và mức sống giữa các thành viên, các tầng lớp dân
cư, các nhóm xã hội và các vùng miền. Thực hiện tốt yêu cầu này cũng là một biểu hiện
của việc giải quyết một cách hài hòa mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp
trong điều kiện mới.
Sáu là, huy động sự tham gia của toàn xã hội để thực hiện tốt chính sách xã hội
và an sinh xã hội. Chính sách xã hội và an sinh xã hội có bản chất xã hội sâu sắc gắn kết
hữu cơ giữa quyền lợi và trách nhiệm của mỗi người với mỗi đơn vị, cộng đồng và toàn
xã hội. Cùng với việc nâng cao vai trò, chức năng và tăng thêm nguồn lực của Nhà
nước, phải thực hiện chủ trương “các chính sách xã hội được tiến hành theo tinh thần xã
hội hoá”. Phải huy động các nguồn lực của toàn xã hội để nâng cao an sinh xã hội và
phúc lợi xã hội. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách nhằm mở rộng sự tham gia của
mọi chủ thể và cung cấp ngày càng nhiều hơn với chất lượng tốt hơn các dịch vụ công
cộng. Tạo điều kiện thuận lợi để mọi người dân đề cao trách nhiệm, nâng cao năng lực
và tham gia thiết thực vào việc bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
Nói tóm lại, thực hiện chính sách xã hội và bảo đảm ngày càng tốt hơn an sinh xã
hội là một nội dung chủ yếu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta,
là một yêu cầu bức thiết của quá trình phát triển nhanh và bền vững. Thực hiện tốt chính
sách xã hội và an sinh xã hội cũng là cơ sở để giải quyết thấu đáo vấn đề dân tộc và vấn
đề giai cấp trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
Tiểu kết chương 4
Trong giai đoạn hiện nay, tình hình thế giới và trong nước đã có nhiều điểm khác
biệt so với thời kỳ Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo cách mạng Việt Nam, tuy nhiên để
ổn định và phát triển, Đảng và Nhà nước ta cần nắm vững những quan điểm cơ bản
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp trong việc nhận thức và giải quyết vấn đề trên trong điều kiện mới. Thực tế cho
thấy, ở đâu, lúc nào chúng ta không giải quyết một cách thấu đáo mối quan hệ trên theo
147
tư tưởng Hồ Chí Minh, thì khi đó chúng ta phải đối mặt với những khó khăn nảy sinh từ
thực tiễn và cách mạng sẽ gặp khó khăn, thậm chí là gây tổn thất rất lớn cho cách mạng.
Giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta
hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh, xét đến cùng là đứng trên lập trường của giai cấp
công nhân để thống nhất lợi ích dân tộc và lợi ích của các giai cấp và tầng lớp trong xã
hội. Đây là nhân tố thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Trong giai
đoạn hiện nay, do tác động mạnh mẽ của điều kiện quốc tế và của kinh tế thị trường,
mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có những biểu hiện phức tạp và có
những vấn đề nảy sinh cần phải kịp thời giải quyết.
Để giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp theo tư tưởng Hồ Chí Minh, phải
đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, nhằm huy động mọi nguồn lực phát
triển, tạo ra sức mạnh để phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Trong
quá trình đổi mới, đòi hỏi phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển nền kinh tế thị
trường, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa; tăng
cường đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh công nhân - nông dân - trí thức dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; không ngừng mở rộng quan hệ quốc tế, kết hợp
các nguồn lực bên ngoài đưa đất nước phát triển bền vững; xây dựng hệ thống chính trị
trong sạch vững mạnh, hoạt động hiệu quả đáp ứng được yêu cầu mới của sự nghiệp
cách mạng, trong đó, xây dựng Đảng vững mạnh về mọi mặt, xứng đáng là đội tiền
phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc, xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, xây dựng Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị hoạt động hiệu quả; thực
hiện tốt chính sách xã hội và an sinh xã hội. Việc nắm vững những quan điểm và thực
hiện đồng bộ các giải pháp cơ bản trên sẽ tạo ra động lực, nguồn sức mạnh để xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Có thể nói, việc quán triệt và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối
quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong sự nghiệp đổi mới hiện nay là một
vấn đề có tính nguyên tắc, là một nhiệm vụ chiến lược có tính lâu dài đối với sự phát
triển đất nước, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa, tình hình thế giới và khu vực đang có
những diễn biến phức tạp như hiện nay.
148
KẾT LUẬN
Giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt tư tưởng chính trị của Hồ Chí Minh. Đây cũng là một sáng tạo lớn nhất
(sáng tạo gốc) của Hồ Chí Minh trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Trung tâm của việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giải phóng dân tộc gắn liền với giải
phóng giai cấp và giải phóng con người. Trong đấu tranh dân tộc có đấu tranh giai
cấp; đấu tranh giai cấp phải thực hiện được nhiệm vụ giành và bảo vệ độc lập dân
tộc; độc lập dân tộc phải tiến tới giải phóng giai cấp, giải phóng con người; độc lập
dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhìn lại lịch sử
dân tộc ta trong thế kỷ XX, một thế kỷ vận động và phát triển nhanh chóng và phức
tạp của tình hình quốc tế, chúng ta càng thấy sự đúng đắn, sáng tạo của tư tưởng Hồ
Chí Minh về giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong
suốt tiến trình cách mạng Việt Nam.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, việc vận dụng và phát triển sáng tạo
tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn
đề giai cấp càng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng và hết sức cấp thiết. Bởi vì, trong thực
tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đã có lúc Đảng ta phạm sai lầm nóng vội, chủ quan,
duy ý chí, quá nhấn mạnh vấn đề giai cấp nên đã xem nhẹ vấn đề dân tộc trong việc
hoạch định và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội, dẫn đến lợi ích các giai cấp,
tầng lớp không được tính đến đầy đủ và kết hợp hài hoà, sức mạnh dân tộc không được
phát huy như một trong những động lực chủ yếu nhất.
Ngày nay, sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân ta đang diễn ra trong bối
cảnh toàn cầu hoá đã trở thành một “xu thế khách quan”. Trong quá trình hội nhập quốc
tế, đòi hỏi Việt Nam cũng như nhiều quốc gia đang phát triển khác phải giải quyết thành
công mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong điều kiện mới. Nếu tuyệt
đối hoá vấn đề dân tộc hay vấn đề giai cấp cũng đều dẫn tới sự chệch hướng cách mạng,
hoặc sẽ gặp khó khăn trong quá trình phát triển. Giải quyết thành công mối quan hệ đó
là cơ sở để cách mạng nước ta đi đúng con đường đã chọn, với mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội; đồng thời là cơ sở để chúng ta có được đường lối phát triển đúng
đắn, từng bước tận dụng những thuận lợi, thời cơ, vượt qua những khó khăn, thách thức
trong quá trình phát triển. Trong phong trào cách mạng thế giới, trước kia cũng như hiện
149
nay đã từng diễn ra khuynh hướng chỉ nhấn mạnh một chiều, tuyệt đối hóa vấn đề giai
cấp hoặc vấn đề dân tộc. Dù tình hình thế giới ngày nay có nhiều biến động phức tạp,
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã sụp đổ, hệ thống xã hội chủ nghĩa
trước đây đã không còn, nhưng vẫn còn đó vấn đề lớn của thời đại - đấu tranh dân tộc và
đấu tranh giai cấp vẫn đang diễn ra gay go, phức tạp, dưới nhiều hình thức đa dạng,
phong phú.
Mặc dù thực tiễn hiện nay đã có nhiều đổi thay so với trước, song có thể khẳng
định rằng việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp theo tư
tưởng Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị, đóng vai trò định hướng cho tư duy và hoạt
động chính trị của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam. Tư tưởng của Người để lại
cho chúng ta những bài học quí giá đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước trong
giai đoạn hiện nay.
Có thể nói, để giải quyết thấu đáo mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai
cấp ở nước ta hiện nay là phải đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, được
thể hiện ở việc kiên định mục tiêu cơ bản và xuyên suốt: độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là con đường đúng đắn, phù hợp
với quy luật phát triển của dân tộc và thời đại. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội cũng
chính là vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Đây là mục tiêu bất biến mà nhân dân ta đã
kiên trì phấn đấu hy sinh, theo đuổi hơn 85 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chỉ có
mục tiêu đó mới đảm bảo cho nhân dân ta không còn áp bức, bóc lột. Ngày nay, Đảng
lãnh đạo nhân dân ta tiến hành công cuộc đổi mới nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” chính là để hoàn thành ham muốn tột bậc
của Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta trong hoàn cảnh mới. Độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội là sự thống nhất lợi ích chung của toàn dân bao gồm mọi giai cấp, tầng lớp,
bộ phận cấu thành dân tộc với lợi ích riêng, chính đáng của từng bộ phận giai cấp, tầng
lớp. Sự thống nhất trên chính là nội dung căn bản của lợi ích giai cấp công nhân. Chính
việc kết hợp hài hoà đó tạo ra động lực cho sự phát triển của dân tộc nói chung và cho
từng giai cấp nói riêng. Bài học đắt giá của Liên Xô và các nước Đông Âu cho thấy, đối
với chúng ta việc kiên định mục tiêu, con đường đã chọn là một đòi hỏi khách quan.
Trong tình hình hiện nay, quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thực hiện mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” không chỉ là vấn đề giai cấp, mà
còn là vấn đề dân tộc và ngược lại.
150
Trong những năm qua, mặc dù chúng ta đã đạt được những thành tựu có ý nghĩa
to lớn có ý nghĩa quyết định đối với sự thành công của sự nghiệp cách mạng, nhưng bên
cạnh đó những bất cập, yếu kém vẫn còn tồn tại: Lực lượng sản xuất chậm phát triển,
đời sống của nhân dân ở nhiều nơi chưa được nâng cao; tình trạng phân tầng xã hội,
phân hoá giai cấp chưa được giải quyết tốt; chưa tận dụng được những mặt tích cực về
phát triển kinh tế, khoa học công nghệ phục vụ vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội… Do vậy, việc tiếp tục nhận thức đầy đủ hơn về giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề
dân tộc và vấn đề giai cấp vẫn là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết.
Trên cơ sở phân tích sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết vấn đề dân tộc
và vấn đề giai cấp, đề tài luận án đã phân tích, giải quyết những vấn đề thực tiễn giải
quyết vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp ở nước ta hiện nay trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội, từ đó đưa ra những nhận xét, đánh giá, những quan điểm và giải pháp
mang tính định hướng để giải quyết tốt hơn vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp ở nước ta
hiện nay. Tuy nhiên, do những lý do chủ quan và khách quan, ở những góc độ nhất định,
có thể đề tài chưa có giải quyết đầy đủ, sâu sắc tất cả các góc cạnh của một vấn đề rất
phức tạp cả về lý luận và thực tiễn. Tác giả đề tài sẽ tiếp tục nghiên cứu sâu hơn vấn đề
tài trong những công trình tiếp theo để phục vụ cho việc nghiên cứu và giảng dạy tư
tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới. Đây cũng là một mục đích cơ bản mà đề tài
hướng đến.
151
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Nguyễn Tùng Lâm (2012), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng mối quan hệ giữa
Đảng và nhân dân với sự nghiệp cách mạng ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Khoa
học xã hội Việt Nam, (12), tr.3-9.
2. Nguyễn Tùng Lâm (2013), “Hồ Chí Minh với việc giải quyết mối quan hệ dân tộc và
giai cấp trong xây dựng đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân”, Tạp chí
Thanh Niên, (9), tr.10-11; 38.
3. Nguyễn Tùng Lâm (2013), “Sáng tạo của Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan hệ
dân tộc và giai cấp trong quá trình xây dựng khối Đại đoàn kết toàn dân tộc”, Tạp
chí Mặt trận, (2), tr.35-38.
4. Nguyễn Tùng Lâm (2014), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp
trong sự nghiệp cách mạng ở nước ta”, Tạp chí Lý luận Chính trị và Truyền
thông, (2), tr.13-16.
5. Nguyễn Tùng Lâm (2014), “Giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp - Luận điểm
sáng tạo gốc để Hồ Chí Minh giải quyết thành công những vấn đề cơ bản của
cách mạng Việt Nam”, Tạp chí Giáo dục Lý luận, (3), tr.3-7.
6. Mạch Quang Thắng, Nguyễn Tùng Lâm (2014), “Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh
- nhân tố thắng lợi của cách mạng Việt Nam”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (209),
tr.20-25.
7. Mạch Quang Thắng, Nguyễn Tùng Lâm (2015), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự
phát triển đồng đều, toàn diện các mặt của đời sống xã hội - Nội dung và giá trị
khoa học”, Tạp chí Khoa học chính trị, (4), tr.8-12.
8. Nguyễn Tùng Lâm (2015), “Quan điểm của Hồ Chí Minh về những vấn đề có tính
nguyên tắc trong giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp ở Việt Nam”, Tạp
chí Giáo dục Lý luận, (228), tr.27-30.
9. Nguyễn Tùng Lâm (2015), “Thực chất của vấn đề dân tộc và giai cấp trong tư tưởng
Hồ Chí Minh”, Tạp chí Lý luận Chính trị và Truyền thông, (5), tr.13-17.
10. Nguyễn Tùng Lâm (2015), “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối
quan hệ dân tộc và giai cấp trong sự nghiệp cách mạng ở nước ta hiện nay”, Tạp
chí Khoa học - Đại học Huế, tập 105, (06), tr.151-121.
152
11. Nguyễn Tùng Lâm (2015), “Từ vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ
Chí Minh đến đường lối giải phóng dân tộc của Đảng ta”, Đặc san Hồ Chí Minh
học, (3), tr.51-57.
12. Nguyễn Tùng Lâm (2015), “Những quan điểm cơ bản trong giải quyết mối quan hệ
giữa dân tộc và giai cấp trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay” Tạp chí
Lý luận Chính trị và Truyền thông, (9), tr.41-44.
13. Nguyễn Tùng Lâm (2015), “Quan điểm của Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan hệ
giữa yếu tố dân tộc và quốc tế trong cách mạng Việt Nam”, Tạp chí Lý luận
Chính trị điện tử, ngày 08/10.
14. Nguyễn Tùng Lâm (2016), “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối
quan hệ dân tộc và giai cấp trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước hiện
nay”, trong Phạm Ngọc Anh, chủ biên, Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng xã
hội mới - Giá trị lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
15. Nguyễn Tùng Lâm (2016), “Sự thống nhất về lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp trong
phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Giáo dục Lý luận, (243),
tr.23-25.
16. Nguyễn Tùng Lâm (2016), “Quan điểm của Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan hệ
giữa yếu tố dân tộc và quốc tế trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam”, Tạp chí Mặt
trận, (150), tr.16-21.
17. Nguyễn Tùng Lâm (2016), “Từ quan điểm của Hồ Chí Minh về việc giải quyết mối
quan hệ dân tộc - giai cấp trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc đến sự ra đời
của Mặt trận Việt Minh”, Đặc san Hồ Chí Minh học, (2), tr.82-87.
153
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Ngọc Anh, Bùi Đình Phong (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
Nhà nước pháp quyền kiểu mới ở Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.
2. Phạm Ngọc Anh (Chủ biên) (2009), Triết lý phát triển Hồ Chí Minh - Giá trị lý
luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Phạm Ngọc Anh, Bùi Đình Phong (Chủ biên) (2011), Vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin của Hồ Chí Minh và Đảng ta (thời kỳ trước đổi
mới), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Phạm Ngọc Anh (Chủ biên) (2012), Phát huy các nguồn lực của dân làm lợi cho
dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Hồ Nguyệt Ánh (1993), Cuộc đấu tranh củng cố độc lập dân tộc của các nước
đang phát triển trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ Lịch sử phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội.
6. Nguyễn Đức Bách, Lê Văn Yên và Nhị Lê (1998), Một số vấn đề về định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.
7. Ban Chỉ đạo Tây Nguyên, Báo cáo về thực hiện Nghị quyết 10-NQ/TW ngày 18-1-
2002 của Bộ Chính trị "Về phát triển kinh tế-xã hội và quốc phòng, an ninh
Tây Nguyên thời kỳ 2001 - 2010".
8. Ban Tuyên giáo Trung ương (2007), Phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái, thù
địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
9. Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (2001), Tài liệu nghiên cứu văn kiện Đại hội
IX của Đảng (Dùng cho cán bộ chủ chốt và báo cáo viên), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
10. Ban Tư tưởng văn hoá Trung ương (2002), Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc
của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (2006), Chuyên đề nghiên cứu Nghị quyết
Đại hội X của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Hoàng Chí Bảo (1996), Mối quan hệ giữa xóa đói giảm nghèo với phát triển, Xóa
đói giảm nghèo với tăng trưởng kinh tế, Nxb Lao động, Hà Nội.
154
13. Hoàng Chí Bảo (2002), Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
14. Báo Tài chính điện tử (2014), "Độc lập, tự chủ trong hội nhập kinh tế quốc tế",
Hà Nội.
15. Nguyễn Khánh Bật (Chủ biên) (2010), Sự tương đồng và khác biệt về quan điểm
cách mạng Việt Nam giữa Hồ Chí Minh với Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng
sản Đông Dương những năm 1930 - 1941, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Nguyễn Khánh Bật (Chủ biên) (2010), Sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam trong cách
mạng giải phóng dân tộc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Nguyễn Đức Bình (2001), Một số vấn đề về công tác lý luận, tư tưởng và văn hóa,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Nguyễn Đức Bình (Chủ biên) (2003), Về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Nguyễn Đức Bình (2003), “Mấy vấn đề phương pháp luận nghiên cứu thế giới
đương đại”, trong cuốn Góp phần nhận thức thế giới đương đại, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
20. Nguyễn Đức Bình (Chủ biên) (2007), Những đặc điểm lớn của thế giới đương đại,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Nguyễn Đức Bình và các cộng sự (1999), Đổi mới tăng cường hệ thống chính trị ở
nước ta trong giai đoạn mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Nguyễn Đức Bình (2010), Vững bước trên con đường xã hội chủ nghĩa, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Nguyễn Đức Bình (2015), “Chủ thuyết chính trị Việt Nam trong thời đại ngày
nay”, Tạp chí Cộng sản, (1), tr.45-69.
24. N. Bindiucốp (2001), “Những tương phản của toàn cầu hóa”, Tạp chí Đối thoại,
(3) (Tiếng Nga).
25. Zbigniew Brzezinski (1999), Bàn cờ lớn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Hoàng Đình Cúc (Chủ biên) (2009), Chủ nghĩa xã hội và sự nghiệp chủ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Đặng Dũng Chí, Hoàng Văn Nghĩa (2014), Chủ nghĩa xã hội và quyền con người,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
155
28. Nguyễn Trọng Chuẩn, Phạm Văn Đức và Hồ Sĩ Quý (Đồng Chủ biên) (1997),
Những quan điểm cơ bản của C.Mác - Ph.Ăngghen - VI.Lênin về chủ nghĩa
xã hội và thời kỳ quá độ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Nguyễn Trọng Chuẩn (1998), “Vấn đề khai thác các giá trị truyền thống vì mục
tiêu phát triển”, Tạp chí Triết học, (2), tr.16-19.
30. Phan Hữu Dật, Lâm Bá Nam, (2001), Chính sách dân tộc của các chính quyền nhà
nước phong kiến Việt Nam (X-XIX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Thành Duy và các cộng sự (2000), Danh nhân Hồ Chí Minh, (2 tập), Nxb Lao
động, Hà Nội.
32. Dương Quốc Dũng (2011), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan hệ giữa
vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp”, tại trang http://dangcongsan.vn, [truy cập
ngày 20/8/2016.
33. Dương Quốc Dũng (2013), “Vấn đề dân tộc và giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí
Minh”, Tạp chí Khoa học chính trị quân sự, (6), tr.9-13.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.
36. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
37. Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Báo cáo tổng kết nghị quyết Trung ương 8B
(khóa VI) về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan
hệ giữa Đảng với nhân dân, Hà Nội.
38. Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa VII, Hà Nội.
39. Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Nghị quyết của Bộ Chính trị về một số định
hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay (lưu hành nội bộ), Hà Nội.
40. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban Chấp
hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
156
43. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7 (1940-1945), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội
VI, VII, VIII, IX), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận-thực tiễn
qua 20 năm đổi mới (1986-2006), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
47. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành
Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
49. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Đề cương chi tiết Báo cáo tổng kết thực hiện
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010 và Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011-2020, Hà Nội.
50. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
51. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
52. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành
Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
53. Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực
tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-2016), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
54. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
55. Nguyễn Đức Đạt (2007), Tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
56. Đi-a-cốp-xớc-kin (1960), Quốc tế cộng sản với vấn đề dân tộc và thuộc địa, Nxb
Sự thật, Hà Nội.
57. Phạm Văn Đồng (1976), Sức mạnh Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
58. Phạm Văn Đồng (1993), Hồ Chí Minh và con người Việt Nam trên con đường dân
giàu, nước mạnh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
157
59. Phạm Văn Đồng (1993), Hồ Chí Minh, một dân tộc, một con người, một thời đại,
một sự nghiệp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. Phạm Văn Đồng (1994), Văn hóa và đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
61. Phạm Văn Đức (2008), “Vai trò và cơ sở của đoàn kết xã hội ở Việt Nam hiện
nay”, Tạp chí Triết học, (1), tr.46-51.
62. Phạm Văn Đức (Chủ biên) (2013), Định hướng chính trị cho sự phát triển của Việt
Nam và một số giải pháp thực hiện trong giai đoạn 2011-2020, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
63. Nguyễn Tĩnh Gia (Chủ biên) (1998), Xu hướng biến động của nền kinh tế nhiều
thành phần ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
64. Nguyễn Hoàng Giáp (Chủ biên) (2012), Một số vấn đề chính trị quốc tế trong giai
đoạn hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
65. Võ Nguyên Giáp (Chủ biên) (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách
mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
66. Tôđo Gípcốp (1995), Trước những lời vu khống, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
67. Trần Văn Hải (2001), Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề dân tộc và giai cấp trong
cách mạng Việt Nam, Luận án tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
68. Lê Mậu Hãn (2003), Sức mạnh dân tộc của cách mạng Việt Nam dưới ánh sáng tư
tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
69. Nguyễn Hùng Hậu (Chủ biên), (2011), Triết lý “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong
tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
70. Nguyễn Hùng Hậu (Chủ biên) (2010), Đại cương lịch sử triết học Việt Nam, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
71. Trần Hậu (Chủ biên) (1997), Quá trình hình thành và phát triển quan điểm lý luận
của Đảng ta về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
72. Vũ Hiền, Ngô Mạnh Lân (1995), Vấn đề dân tộc, giai cấp và toàn nhân loại, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
73. Vũ Đình Hòe (2001), Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, Nxb Văn hoá thông
tin, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.
74. Vũ Đình Hòe, Bùi Đình Phong (2010), Hồ Chí Minh với sự nghiệp độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
158
75. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Khoa Triết học (1994), Triết học Mác -
Lênin, Chương trình cao cấp, tập in, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
76. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Phân viện Hà Nội, Khoa Dân tộc
(1995), Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, Tập
bài giảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
77. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Khoa Văn hóa xã hội chủ nghĩa (1996),
Văn hóa dân tộc trong quá trình mở cửa ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
78. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Khoa Lịch sử Đảng (1997), Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam, 2 tập, Chương trình cao cấp, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
79. Hội đồng lý luận Trung ương (2013), Kiên định mục tiêu và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
80. Hội đồng lý luận Trung ương (2014), Định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát
triển kinh tế thị trường ở Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn đang
đặt ra, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
81. Hội đồng lý luận Trung ương (2014), Định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát
triển kinh tế thị trường ở Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn đang
đặt ra, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
82. Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam (2007), Từ điển
bách khoa Việt Nam, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.
83. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (1999), Giáo trình triết học Mác - Lênin,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
84. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2003), Giáo trình tư tưởng Hồ Chí
Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
85. Nguyễn Chí Huyên (1995), "Đôi nét về thực trạng trình độ học vấn của cư dân các
dân tộc thiểu số tại Việt Nam", Tạp chí Dân tộc học (4), tr.18-24.
86. Nguyễn Văn Huyên (2010), Đảng Cộng sản cầm quyền - Nội dung và phương
thức của Đảng cầm quyền, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
87. M.V.I-ô-rơ-đan (1985), Chủ nghĩa quốc tế chống chủ nghĩa dân tộc, Nxb Thông
tin lý luận, Hà Nội.
159
88. Paul Kennedy (1995), Chuẩn bị cho thế kỷ XXI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
89. Lại Quốc Khánh (2009), Biện chứng của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
90. Nguyễn Văn Khang (1990), “Phong trào công nhân và quan hệ giữa giai cấp công
nhân và dân tộc”, Tạp chí Triết học, (2), tr.15-20.
91. Vũ Khiêu (Chủ biên), (1993), Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh truyền thống dân
tộc và nhân loại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
92. Nguyễn Minh Khoa (2016), Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh với việc xây dựng văn
hóa chính trị Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
93. Không rõ tên (1976), Từ điển Triết học, Nxb Sự thật, Hà Nội.
94. Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn (1994), Góp phần nghiên cứu tư tưởng độc lập, tự
do của Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
95. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 23, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
96. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 30, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
97. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
98. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 42, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
99. Lương Thùy Liên (2010), Nguyên tắc thống nhất giữa dân tộc, giai cấp và nhân
loại trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
100. Nguyễn Bá Linh (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
101. Nguyễn Bá Linh (2009), Mối quan hệ biện chứng giữa độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
102. Nguyễn Ngọc Long (Chủ nhiệm) (1994), Những đặc trưng cơ bản, quan điểm
nguyên tắc xây dựng và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đề tài KX05-04, Hà Nội.
103. Nguyễn Ngọc Long (1996), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối qua hệ giai cấp và dân
tộc”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (4), tr.41-45.
104. Hồ Tố Lương (2007), Quốc tế Cộng sản với cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
105. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
106. Thomas Meyer, Nicole Breyer (2007), Tương lai của nền dân chủ xã hội, Nxb Lý
luận chính trị, Hà Nội.
160
107. Hồ Chí Minh (1990), Vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
108. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
109. Hổ.Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
110. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
111. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
112. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
113. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
114. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
115. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
116. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
117. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
118. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
119. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
120. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
121. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 14, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
122. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
123. Furuta Motoo (1997), Hồ Chí Minh - Giải phóng dân tộc và đổi mới, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
124. Đỗ Mười, Lê Quang Đạo (1996), Đại đoàn kết dân tộc và sự nghiệp dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
125. Nguyễn Chí Mỳ, Nguyễn Ngọc Long (1999), "Nét đặc sắc trong việc giải quyết
mối quan hệ dân tộc và giai cấp ở Việt Nam", Tạp chí Cộng sản, (6), tr.20-23.
126. Nguyễn Thị Nga (Chủ biên) (2007), Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công
bằng xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới - Vấn đề và giải pháp, Nxb Lý luận
chính trị, Hà Nội.
127. Nguyễn Thị Ngân (2000), Xây dựng ý thức và tình cảm dân tộc chân chính cho
con người Việt Nam trước những thử thách hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
128. Lê Hữu Nghĩa (1994), “Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về giai cấp và đấu
tranh giai cấp”, Tạp chí Cộng sản, (11), tr.31-36.
129. Lê Hữu Nghĩa (1997), “Phép biện chứng của công cuộc đổi mới ở nước ta”, Tạp
chí Nghiên cứu lý luận, (4), tr.5-7.
161
130. Lê Hữu Nghĩa (1998), Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản với vấn đề dân tộc, Tạp chí
Lịch sử Đảng, (2), tr.21-26.
131. Lê Hữu Nghĩa (Chủ biên) (2000), Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh, Nxb Lao Động,
Hà Nội.
132. Dương Xuân Ngọc (1996), “Dân chủ hóa xã hội theo định hướng xã hội chủ
nghĩa”, Tạp chí Thông tin lý luận, (2), tr.17-21.
133. Lê Ngọc (1993), “Những cống hiến lý luận của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh
vào học thuyết mác xít về giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp”, Tạp chí
Thông tin lý luận, (11), tr.13-18.
134. Trần Nhâm (2011), Chủ nghĩa Mác - Lênin - Học thuyết về sự phát triển và sáng
tạo không ngừng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
135. Trần Nhâm (2011), Hồ Chí Minh - nhà tư tưởng thiên tài, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
136. Trần Quang Nhiếp (1990), Tìm hiểu những yếu tố tác động đến sự phát triển quan
hệ dân tộc ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Luận án tiến
sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
137. Trịnh Nhu, Vũ Dương Ninh (1996), Về con đường giải phóng dân tộc của Hồ Chí
Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
138. V.Páplốp, A.Lukianốp, V.Criuscốp (1994), Goócbachốp - Bạo loạn sự kiện tháng
Tám nhìn từ bên trong, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
139. Phạm Thị Phai (2014), Hồ Chí Minh vận dụng phép biện chứng duy vật vào giải
quyết quan hệ dân tộc, giai cấp trong cách mạng Việt Nam, Luận văn cao học
Hồ Chí Minh học, Học viên Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội.
140. Nguyễn Quốc Phẩm, Trịnh Quốc Tuấn (1999), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn về
dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
141. Hoàng Phê (Chủ biên) (1996), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng - Trung tâm Từ
điển học, Hà Nội - Đà Nẵng.
142. Bùi Đình Phong (2004), Giải phóng dân tộc và đổi mới dưới ánh sáng tư tưởng Hồ
Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
143. Bùi Đình Phong (2007), Vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh
trong sự nghiệp đổi mới, Nxb Lao động, Hà Nội.
144. Bùi Đình Phong (2008), Hồ Chí Minh học và minh triết Hồ Chí Minh, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
162
145. Phùng Hữu Phú (2010), Bí quyết thành công Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
146. Nguyễn Trọng Phúc (2011), Hồ Chí Minh - Từ hoạt động thực tiễn đến tư duy lý
luận, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
147. Vũ Văn Phúc và các cộng sự (2006), Về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị ở
nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
148. Phạm Ngọc Quang (1994), “Quan hệ giai cấp - dân tộc - nhân loại trong thời đại
ngày nay”, Tạp chí Triết học, (4), tr.34-39.
149. Nguyễn Duy Quý (Chủ biên) (1998), Những vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
150. Nguyễn Duy Quý (2008), Đổi mới tư duy và công cuộc đổi mới ở Việt Nam, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
151. Đinh Ngọc Quyên (2003), Lý luận mác xít về quan hệ giai cấp và dân tộc với công
cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
152. Tô Huy Rứa và các cộng sự (2006), Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ
1986 đến nay, Sách chuyên khảo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
153. Nguyễn Văn Sáu (2013), Chủ trương của Đảng về xây dựng, phát triển nền kinh
tế độc lập, tự chủ hội nhập quốc tế thời kỳ đổi mới, Nxb Đại học quốc gia
Hà Nội.
154. Lê Duy Sơn (2001), Sự phát triển mối quan hệ giữa giai cấp công nhân Việt Nam
và dân tộc Việt Nam trong quá trình đổi mới theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội.
155. Lê Doãn Tá (Chủ biên) (1995), Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng và
Nhà nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
156. Lê Hữu Tầng (1991), Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, vấn đề nguồn gốc và
động lực, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
157. Tạp chí Xưa & Nay (2010), Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày này năm xưa, tập I,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
158. Tạp chí Xưa & Nay (2010), Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày này năm xưa, tập II,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
163
159. Lê Văn Tích (Chủ biên) (2009), Nguyễn Ái Quốc với Quốc tế Cộng sản, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
160. Trần Dân Tiên (1995), Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
161. Trần Hữu Tiến (1980), “Lênin và vấn đề quan hệ dân tộc và giai cấp” trong cuốn
Lênin và thời đại chúng ta, Nxb Sự thật, Hà Nội.
162. Trần Hữu Tiến (1996), “Sự thống nhất giữa lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc trong
sự nghiệp đổi mới”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, (3), tr.23-25.
163. Trần Hữu Tiến (2003), “Toàn cầu hoá và đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc”
trong cuốn Góp phần nhận thức thế giới đương đại, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
164. Trần Hữu Tiến, Nguyễn Ngọc Long và Nguyễn Xuân Sơn (2002), Quan hệ giai
cấp - dân tộc - quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
165. Trần Hữu Tiến (2008), Một số vấn đề độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
166. Trần Hữu Tiến (2012), Dân tộc trong lịch sử và trong thời đại ngày nay, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
167. Chu Đức Tính (2000), Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc giải quyết vấn đề dân tộc -
dân chủ trong cách mạng Việt Nam (từ 1930 - 1954), Luận án tiến sĩ Lịch sử,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
168. Nguyễn Khánh Toàn (1960), Vấn đề dân tộc trong cách mạng vô sản (tập I), Nxb
Sự thật, Hà Nội.
169. Trịnh Quốc Tuấn (1998), “Giai cấp công nhân và dân tộc”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (2),
tr.21-23.
170. Song Thành (2004), Hồ Chí Minh - nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Lý luận chính trị, Hà
Nội.
171. Song Thành (2006), Hồ Chí Minh tiểu sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
172. Trần Thành (2010), “Sự sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc giải quyết quan hệ
giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp - nguồn gốc thắng lợi của cách
mạng Việt Nam”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (5), tr.15-20.
173. Trần Đức Thảo (2000), Vấn đề con người và chủ nghĩa - lý luận không có con
ngươi, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
164
174. Trần Phúc Thăng (1995), “Lý luận mác xít về mối quan hệ giai cấp, dân tộc và thời
đại”, Tạp chí Cộng sản, (15), tr.39-45.
175. Trần Phúc Thăng (1999), “Tìm hiểu quan điểm giai cấp của Hồ Chí Minh”, Tạp
chí Nghiên cứu lý luận, (7), tr.15-19.
176. Lê Sỹ Thắng (1993), “Về dân tộc và giai cấp, thống nhất và đấu tranh trong con
người và tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Triết học, (2), tr.35-40.
177. Mạch Quang Thắng (2008), “Một số quan điểm của Hồ Chí Minh về quan hệ quốc
tế”, Tạp chí Lý luận Chính trị, (1), tr.9-14.
178. Mạch Quang Thắng (Chủ biên) (2009), Hồ Chí Minh - Nhà cách mạng sáng tạo,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
179. Mạch Quang Thắng (Chủ biên) (2010), Hồ Chí Minh - Con người của sự sống,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
180. Mạch Quang Thắng (Chủ biên) (2010), Vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng
Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.
181. Nguyễn Thị Thanh (1999), “Kết hợp tăng trường kinh tế với xây dựng quan hệ
xã hội lành mạnh, hướng tới mục tiêu tiến bộ và công bằng”, Tạp chí
Cộng sản, (6), tr.23-27.
182. Nguyễn Thị Thanh (2000), Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển các
quan hệ xã hội lành mạnh ở nước ta, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
183. Đàm Văn Thọ, Vũ Hùng (1997), Mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
184. Nguyễn Đình Thuận (2002), Sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng
giải phóng dân tộc (1911 - 1945), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
185. Hoàng Trang, Phạm Ngọc Anh (2000), Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.
186. Phạm Ngọc Trâm (2011), Quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam (1986-
2011), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
187. Nguyễn Phú Trọng (Chủ biên) (2008), Đổi mới và phát triển ở Việt Nam - Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
165
188. Nguyễn Phú Trọng (Chủ biên) (2011), Về các mối quan hệ lớn cần được giải quyết
tốt trong quá trình đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
189. Nguyễn Phú Trọng (2012), “Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội - Nhìn từ thực tiễn Việt Nam” (Bài nói chuyện của Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng tại trường Đảng cao cấp Nico Lopez - Cu ba), tại trang:
www.sggp.org.vn, truy cập ngày 25/10/2016.
190. Trần Xuân Trường (1995), “Giải quyết quan hệ dân tộc và giai cấp theo tư tưởng
Hồ Chí Minh”, Tạp chí Cộng sản, (5), tr.31-35.
191. Trần Xuân Trường (1996), Định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - một số vấn
đề lý luận cấp bách, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
192. Đặng Nghiêm Vạn (1993), Quan hệ giữa các tộc người trong một quốc gia dân
tộc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
193. Michel Vadée (1996), Marx - nhà tư tưởng của cái có thể, (2 tập), Viện Thông tin
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
194. Viện Mác - Lênin (1991), Về Cương lĩnh đổi mới và phát triển, Nxb Thông tin lý
luận, Hà Nội.
195. Hoàng Vinh (Chủ biên) (1996), Một số vấn đề lý luận văn hóa thời kỳ đổi mới,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
196. Nguyễn Khắc Viện (2008), Việt Nam tổng kết một chiến thắng hay để hiểu Việt
Nam, Nxb Tri thức, Hà Nội.
197. Hồ Kiếm Việt (2004), Góp phần tìm hiểu đặc sắc tư duy triết học Hồ Chí Minh,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
198. Lê Văn Yên (2010), Hồ Chí Minh với chiến lược đoàn kết quốc tế trong cách
mạng giải phóng dân tộc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.