HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VŨ THẾ TÙNG
TÍNH PHỔ BIẾN VÀ TÍNH ĐẶC THÙ
CỦA NHẬN THỨC MỚI VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
TRÊN THẾ GIỚI HIỆN NAY
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Mã số: 62 22 03 08
HÀ NỘI - 2017
Công trình được hoàn thành tại
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Nguyễn Quốc Phẩm
2. PGS.TS. Nguyễn Văn Oánh
Phản biện 1:.........................................................
.........................................................
Phản biện 2:.........................................................
.........................................................
Phản biện 3:.........................................................
.........................................................
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Vào hồi...... giờ....... ngày...... tháng...... năm 20......
Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia
và Thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Năm 1848, chủ nghĩa Mác ra đời đánh dấu một bước chuyển biến
quan trọng trong lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa, đưa chủ nghĩa xã hội
(CNXH) từ không tưởng trở thành khoa học. Dựa trên quan niệm duy vật
lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra những dự báo khoa học về sự
xuất hiện của một hình thái kinh tế - xã hội mới, hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa với những quy luật có tính phổ biến, làm cơ sở cho các
nước xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản (CNCS), đồng thời
cũng chỉ rõ, việc vận dụng những quy luật phổ biến đó phải luôn đặt trên
“mảnh đất hiện thực”, phù hợp với điều kiện đặc thù của từng quốc gia.
Sau cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, chủ nghĩa xã hội từ lý
luận trở thành hiện thực. Đặc biệt, từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chủ
nghĩa xã hội trở thành một hệ thống thế giới. Các nước xã hội chủ nghĩa
trên con đường phát triển đều vận dụng những quy luật phổ biến mà chủ
nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra và giành được những thành tựu hết sức rực rỡ
trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, khoa học - kỹ thuật, an
ninh - quốc phòng…
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, các nước xã hội chủ
nghĩa cũng mắc phải những hạn chế trong nhận thức và xây dựng chủ
nghĩa xã hội, đó là: tuyệt đối hóa quy luật phổ biến, coi nhẹ quy luật đặc
thù; coi kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Liên Xô trong xây dựng chủ
nghĩa xã hội là vấn đề có tính nguyên tắc đối với toàn bộ phong trào cộng
sản quốc tế... Điều này dẫn đến vận dụng giáo điều mô hình Xô viết cho
các nước xã hội chủ nghĩa, làm suy giảm sự sáng tạo, tìm tòi con đường
phát triển riêng…, và khi mô hình Xô viết không phù hợp với thực tế, rơi
vào khủng hoảng đã dẫn đến sự khủng hoảng của toàn bộ hệ thống.
Trước thực tế đó, Liên Xô và các nước Đông Âu tiến hành công cuộc
cải tổ. Tuy nhiên, do dần xa rời những nguyên lý phổ biến của CNXH
khoa học, công cuộc cải tổ ở Liên Xô và Đông Âu đã thất bại vào cuối
thập niên 80, đầu thập niên 90 thế kỷ XX. Các nước xã hội chủ nghĩa như
2
Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Cuba tiến hành cải cách, đổi mới, giữ vững
nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa xã hội khoa học, kiên trì chủ nghĩa Mác
- Lênin, kết hợp hài hòa giữa tính phổ biến với tính đặc thù, hình thành con
đường phát triển riêng, đưa đất nước vượt qua khó khăn, từng bước giành
được những thành công trên con đường đi lên CNXH.
Đến nay, việc nghiên cứu về tính phổ biến và tính đặc thù của nhận
thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới là một vấn đề lý luận và thực
tiễn cấp thiết, giúp các nước xã hội chủ nghĩa thấy rõ những quy luật phổ
biến và đặc thù đang được vận dụng trong điều kiện hiện nay; quán triệt
sâu sắc bài học về sự kết hợp tính phổ biến và tính đặc thù trong nhận thức
và xây dựng chủ nghĩa xã hội; vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa
Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể mỗi nước; tăng cường tổng kết thực tiễn,
bổ sung, phát triển lý luận, hoàn thiện hơn nhận thức về chủ nghĩa xã hội
trong điều kiện mới…
Đối với Việt Nam, việc nghiên cứu tính phổ biến và tính đặc thù của
những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay sẽ giúp
chúng ta kiên định với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiếp tục vận dụng sáng tạo những
quy luật phổ biến phù hợp với tính đặc thù trong xây dựng xã hội mới.
Đồng thời, tham khảo những kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa,
các Đảng Cộng sản trên thế giới, bổ sung phát triển lý luận về chủ nghĩa xã
hội; tăng cường đấu tranh chống biểu hiện xa rời mục tiêu chủ nghĩa xã
hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng; phản bác những quan
điểm sai trái, thù địch, tạo ra sự đồng thuận xã hội cùng hướng tới mục
tiêu chung xây dựng nước Việt Nam: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”.
Với những lý do trên, tác giả chọn vấn đề: “Tính phổ biến và tính
đặc thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay”
làm đề tài luận án tiến sỹ chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu: trên cơ sở nghiên cứu tính phổ biến và tính đặc thù
của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới, luận án rút ra ý nghĩa
3
đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên thế giới và Việt Nam
hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ: để đạt được mục tiêu trên, luận án tập trung giải
quyết những nhiệm vụ cơ bản sau:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, từ đó
xác định hướng nghiên cứu của luận án;
- Làm rõ lý luận chung về tính phổ biến và tính đặc thù của nhận
thức về CNXH;
- Phân tích tính phổ biến và tính đặc thù của những nhận thức mới về
chủ nghĩa xã hội trên thế giới thời kỳ cải cách, đổi mới;
- Rút ra ý nghĩa đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên thế
giới và Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: những vấn đề có tính phổ biến và tính
đặc thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Không gian: luận án tập trung nghiên cứu tính phổ biến và tính đặc
thù của những nhận thức mới về CNXH ở 4 nước: Trung Quốc, Việt Nam,
Lào, Cuba
Thời gian: từ khi các nước này tiến hành cải cách, đổi mới đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, quan điểm của các đảng cộng sản, các lãnh tụ, các nhà lãnh đạo ở
các nước XHCN.
Luận án cũng tham khảo các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa
học ở trong và ngoài nước liên quan đến chủ đề của luận án.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp các phương pháp cụ thể như:
logic - lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh…
4
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Một là, góp phần làm rõ những vấn đề lý luận chung về tính phổ biến
và tính đặc thù của nhận thức về chủ nghĩa xã hội;
Hai là, phân tích làm rõ những vấn đề có tính phổ biến và tính đặc
thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới thời kỳ cải cách,
đổi mới.
Ba là, luận án chỉ ra ý nghĩa của việc nghiên cứu tính phổ biến và
tính đặc thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới đối với sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên thế giới và Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
6.1. Ý nghĩa khoa học
Luận án góp phần làm sáng tỏ hơn những vấn đề về tính phổ biến và
tính đặc thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới. Từ đó,
cung cấp cơ sở lý luận cho việc bổ sung, phát triển và hoàn thiện nhận thức
về chủ nghĩa xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới và Việt Nam
hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án có thể làm tài liệu phục vụ cho nghiên cứu và giảng dạy
những chuyên đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội, các mô hình chủ nghĩa xã hội trên thế giới… trong chuyên ngành chủ
nghĩa xã hội khoa học và các chuyên ngành liên quan khác.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình đã công bố của
tác giả liên quan đến luận án và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm
4 chương, 10 tiết.
5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN
1.1.1. Những công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước về
tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội
1.1.1.1. Những công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước
về tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội
trên thế giới
Luận án đã phân tích 16 công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
luận án, tiêu biểu như: Nguyễn An Ninh, Về triển vọng chủ nghĩa xã hội
trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI, Nguyễn Ngọc Long, Chủ nghĩa Mác -
Lênin với vận mệnh và tương lai của chủ nghĩa xã hội hiện thực; Trịnh
Quốc Tuấn, Về chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc - những vấn
đề có thể tham khảo cho công cuộc đổi mới ở nước ta; Đỗ Tiến Sâm, Chủ
nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc - quá trình hình thành và phát triển;
Trương Duy Hòa, Một số vấn đề và xu hướng chính trị - kinh tế của Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Lào trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI; Lê Hữu
Nghĩa, Trương Thị Thông, Mạch Quang Thắng, Nguyễn Văn Giang, Xây
dựng đảng cầm quyền trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và nền kinh tế hàng hóa theo cơ chế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Lào; Vũ Trung Mỹ, Đại hội VII
Đảng Cộng sản Cuba: tiếp tục hướng tới mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã
hội thịnh vượng và bền vững; Đinh Công Tuấn, Mô hình phát triển Bắc
Âu; Phạm Quý Long, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên trong thập
niên đầu thế kỷ XXI; Tạ Ngọc Tấn, Những tranh luận mới của các học
giả Nga về chủ nghĩa xã hội; Nguyễn An Ninh, Về mô hình “chủ nghĩa
xã hội thế kỷ XXI” của khu vực Mỹ Latinh hiện nay; Nguyễn An Ninh,
Tính phổ biến và đặc thù của các mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội hiện nay.
6
1.1.1.2. Những công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước
về tính phổ biến, tính đặc thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam
Luận án phân tích 20 công trình, tiêu biểu như: Đào Duy Tùng, Quá
trình hình thành con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; Nguyễn
Văn Oánh, Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; Nguyễn Duy
Quý, Những vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam; Phạm Đình Đảng, Tính thống nhất và tính đa
dạng của chủ nghĩa xã hội với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam; Dương Phú Hiệp, Tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa ở Việt Nam; Nguyễn Đức Bình, Về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; Nguyễn Trọng Phúc, Đổi mới ở Việt Nam
- thực tiễn và nhận thức lý luận; Trịnh Quốc Tuấn, Một số vấn đề về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; Nguyễn Thị Ngân, Quan điểm của
C.Mác về chủ nghĩa xã hội và nhận thức của Đảng ta về con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; Nguyễn Quốc Phẩm, Đỗ Thị Thạch, Nhận
thức mới về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam;
Lưu Ngọc Khải, Về tính phổ biến và tính đặc thù trong đổi mới chủ nghĩa
xã hội hiện nay; Nguyễn Hữu Đổng, Phạm Thế Lực, Tính phổ biến và đặc
thù của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam…
1.1.2. Những công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài về
tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức về chủ nghĩa xã hội
Luận án đã nghiên cứu 13 công trình, được chia thành 3 nhóm, phân
theo từng quốc gia, đó là:
Một là, số công trình nghiên cứu tính phổ biến, tính đặc thù của
nhận thức về chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc, tiêu biểu như: Trương Lôi
Khắc, Tự Lập Bình, Lịch sử, hiện trạng, tương lai chủ nghĩa xã hội; Chu
Thượng Văn, Chu Cẩm Uy, Trần Tích Hỷ, Chủ nghĩa xã hội là gì? Xây
dựng chủ nghĩa xã hội như thế nào; Trần Lập Tân, Trần Tuyết Cường, Ba
phát triển trọng đại về lý luận giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội; Đổng
Liên Tường, Cải cách xã hội Trung Quốc và những sáng tạo, đổi mới
trong xây dựng Đảng cơ sở; Vương Ngọc Giác, Tư duy chiến lược “bốn
7
toàn diện” - phát triển mới của hệ thống lý luận chủ nghĩa xã hội đặc sắc
Trung Quốc…
Hai là, một số công trình nghiên cứu tính phổ biến, tính đặc thù của
nhận thức về chủ nghĩa xã hội ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, tiêu
biểu như: Chương Xổm Bun Khẳn, Tiếp tục đổi mới là sự nghiệp, nhiệm
vụ và trách nhiệm cao cả của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào; Sinlavông
Khutphaithun, Các yếu tố chủ yếu đảm bảo sự thành công của việc đổi mới
kinh tế; Chalơn Diapaohơ, Củng cố quyền lực Nhà nước ở Cộng hòa Dân
chủ Nhân dân Lào; Bosẻngkhăm Vôngđala, Một số điểm nổi bật về đổi
mới văn hóa - xã hội tại nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào…
Ba là, một số công trình nghiên cứu về tính phổ biến, tính đặc thù
của nhận thức về chủ nghĩa xã hội ở Cộng hòa Cuba, tiêu biểu như: Admi
Valhuerdi Cepero, Đại hội VI Đảng Cộng sản Cuba và công cuộc cập nhật
hóa mô hình kinh tế Cuba; Rosario Pentón Diaz, Về vai trò của Đảng
Cộng sản Cuba trong cuộc cập nhật mô hình xã hội chủ nghĩa Cuba - quá
trình lịch sử; Maria De Jesús Calderius Fernández, Vai trò lãnh đạo và
kiểm tra của Đảng đối với Nhà nước và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh;
Salvador Valdés Mesa, Hoàn thiện chủ nghĩa xã hội, con đường duy nhất
để củng cố vững chắc nền độc lập, tự do, phát triển, phúc lợi, sự công
bằng và công lý xã hội…
1.2. GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
ĐÃ CÔNG BỐ VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN
1.2.1. Giá trị của các công trình nghiên cứu đã công bố liên quan
đến đề tài luận án
Thứ nhất, về tính phổ biến của nhận thức về chủ nghĩa xã hội, một số
công trình nghiên cứu trên đã chỉ ra nhận thức mới có tính phổ biến của chủ
nghĩa xã hội như: Về chính trị, khẳng định sự lãnh đạo tuyệt đối của các
đảng cộng sản, đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng và hoàn thiện nền
chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa… Về kinh tế, đẩy mạnh phát triển lực
lượng sản xuất, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; thiết lập
chế độ công hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu, thực hiện chế độ phân phối
theo lao động kết hợp với các hình thức phân phối khác; phát triển kinh tế
8
thị trường có sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa… Về văn hóa - xã
hội, xây dựng nền văn hóa mới kết tinh những giá trị dân tộc và nhân loại,
thực hiện tốt các chính sách xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội…
Những vấn đề có tính phổ biến của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội vừa
là sự vận dụng sáng tạo những nguyên lý bền vững của CNXH khoa học,
vừa là sự bổ sung, phát triển cho phù hợp với điều kiện mới.
Thứ hai, về tính đặc thù trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội, có một số
công trình nghiên cứu đã chỉ ra những nhận thức riêng biệt của các đảng
cộng sản về mô hình, đặc trưng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở từng
quốc gia, dân tộc. Về thực chất, đây là sự vận dụng, cụ thể hóa lý luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của mỗi nước. Đồng thời, phản
ánh sự sáng tạo của các đảng cộng sản trong việc tìm tòi, xây dựng con
đường phát triển riêng, phù hợp với điều kiện và đặc điểm của mỗi quốc gia.
Thứ ba, một số công trình đã có sự so sánh, đối chiếu nhằm làm rõ sự
khác nhau trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội giai đoạn trước và sau cải
cách, đổi mới, từ đó chỉ ra những điểm mới trong nhận thức của các đảng
cộng sản.
Thứ tư, ở những mức độ khác nhau, các công trình đã chỉ ra ý nghĩa
của việc nghiên cứu về tính phổ biến, tính đặc thù của nhận thức về chủ
nghĩa xã hội đối với Việt Nam nói riêng và cách mạng thế giới nói chung.
Thứ năm, mặc dù nhiều công trình, tài liệu nghiên cứu được công bố
ở thời điểm chủ nghĩa xã hội trên thế giới đang lâm vào khủng hoảng,
thoái trào nhưng các tác giả vẫn có sự nhất trí cao khi phân tích về tính phổ
biến và tính đặc thù của nhận thức về chủ nghĩa xã hội, về tương lai của
chủ nghĩa xã hội.
Những kết quả nghiên cứu này có giá trị tham khảo tốt cho tác giả
trong quá trình thực hiện luận án. Chúng tôi trân trọng kế thừa, tiếp thu có
chọn lọc những kết quả nghiên cứu trên để phục vụ cho thực hiện mục tiêu
nghiên cứu của luận án.
1.2.2. Hạn chế về góc độ tiếp cận của những công trình đã công bố
Những công trình nghiên cứu trên đều là những công trình khoa học
có giá trị lý luận và thực tiễn cao. Tuy nhiên, xét về góc độ tiếp cận, các
công trình còn một số hạn chế:
9
Một là, các công trình khi nghiên cứu về tính phổ biến và tính đặc
thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội, chỉ tập trung vào một lĩnh vực
cụ thể như tính phổ biến và tính đặc thù của kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa… mà chưa có sự nghiên cứu
toàn diện những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên tất cả các lĩnh
vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…
Hai là, có một số công trình khoa học nghiên cứu tính phổ biến và
tính đặc thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội, song mới chỉ dừng lại
ở trong phạm vi một quốc gia cụ thể, một mô hình riêng biệt, chưa có sự
nghiên cứu rộng ở các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới, chưa có sự
phân tích, so sánh những vấn đề có tính phổ biến và tính đặc thù.
Như vậy, mặc dù có những công trình nghiên cứu về chủ nghĩa xã
hội, tính phổ biến và tính đặc thù của chủ nghĩa xã hội, các mô hình về chủ
nghĩa xã hội trên thế giới, nhưng, chưa có công trình nào nghiên cứu về
tính phổ biến và tính đặc thù của những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội
trên thế giới hiện nay.
1.2.3. Hướng nghiên cứu của luận án
Một là, luận án tập trung nghiên cứu, hệ thống hóa quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin về tính phổ biến, tính đặc thù của nhận thức về chủ
nghĩa xã hội; phân tích về tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức về
chủ nghĩa xã hội thời kỳ trước cải cách, đổi mới.
Hai là, phân tích, làm rõ tính phổ biến và tính đặc thù của những
nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội ở các nước Trung Quốc, Việt Nam,
Cuba, Lào trong thời kỳ cải cách, đổi mới.
Ba là, luận án rút ra ý nghĩa đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội thế giới và Việt Nam hiện nay.
10
Chương 2
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍNH PHỔ BIẾN VÀ TÍNH ĐẶC THÙ
CỦA NHẬN THỨC VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
2.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦA LUẬN ÁN
2.1.1. Khái niệm tính phổ biến và tính đặc thù
Luận án khẳng định: Trong mỗi sự vật, hiện tượng riêng lẻ đều có
những đặc tính chung, những đặc tính chung có ở hầu hết (hoặc tất cả)
các sự vật, hiện tượng được xét đến thì được gọi là tính phổ biến, những
đặc tính chung chỉ có ở một loại sự vật hoặc những nhóm nhỏ sự vật, hiện
tượng được gọi là tính đặc thù.
Tính phổ biến và tính đặc thù có mối quan hệ khăng khít, không tách
rời, quy định và chuyển hóa lẫn nhau, chúng là một bộ phận của cái riêng,
tồn tại trong cái riêng và thông qua cái riêng, chúng phản ánh tính thống
nhất khách quan của các sự vật, hiện tượng của thế giới, trong sự tồn tại,
vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng đó gắn với điều kiện lịch sử
cụ thể.
2.1.2. Khái niệm chủ nghĩa xã hội
Thuật ngữ chủ nghĩa xã hội được nhận thức theo những nghĩa cơ
bản sau:
1) Chủ nghĩa xã hội là một phong trào thực tiễn, đó là những phong
trào đấu tranh của quần chúng nhân dân lao động chống lại giai cấp thống
trị, chống lại mọi sự áp bức, bóc lột, bất công, đòi lại quyền bình đẳng,
quyền dân chủ để nhân dân được hoàn toàn giải phóng.
2) Chủ nghĩa xã hội với tư cách là mơ ước, lý tưởng, khát vọng của
nhân dân lao động về một xã hội tốt đẹp, không còn giai cấp, áp bức, bóc
lột, nghèo nàn lạc hậu, chiến tranh và tội ác…, con người được giải phóng,
có quyền dân chủ - quyền lực của dân.
3) Chủ nghĩa xã hội với ý nghĩa là tư tưởng, lý luận, học thuyết về
giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người (với hai
thời kỳ phát triển là chủ nghĩa xã hội không tưởng và chủ nghĩa xã hội
khoa học).
11
4) Chủ nghĩa xã hội với ý nghĩa là chế độ xã hội hiện thực, được
thiết lập trên thực tế sau khi giai cấp công nhân, dưới sự lãnh đạo của đảng
cộng sản, giành được chính quyền. Chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế
giới ra đời từ sau thắng lợi của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười
Nga năm 1917, trở thành hệ thống trên thế giới từ sau năm 1945 và trải
qua nhiều giai đoạn phát triển.
Trong luận án này, khái niệm “chủ nghĩa xã hội” được sử dụng chủ
yếu với hai nghĩa: 1) Chủ nghĩa xã hội với ý nghĩa là tư tưởng, lý luận, học
thuyết; 2) Chủ nghĩa xã hội với ý nghĩa là chế độ xã hội hiện thực.
2.1.3. Khái niệm nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội
Nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội là nhận thức của các đảng cộng
sản về quy luật, bản chất, đặc trưng, biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội,
xuất hiện trong thời kỳ cải cách, đổi mới. Đó là những nhận thức đúng quy
luật; có sự bổ sung, phát triển những nguyên lý khoa học, cách mạng của
chủ nghĩa Mác - Lênin; có sự khác biệt với nhận thức của các đảng cộng
sản thời kỳ trước cải cách, đổi mới; có sự kết hợp hài hòa giữa tính phổ
biến và tính đặc thù; có giá trị hiện thực, phù hợp với điều kiện, đặc điểm
của mỗi quốc gia và phản ánh xu thế phát triển chung của thời đại.
Cơ sở để xác định nhận thức “mới” về chủ nghĩa xã hội căn cứ vào
hai tiêu chí sau: 1) Căn cứ vào thời gian, nhận thức mới về chủ nghĩa xã
hội là những nhận thức xuất hiện trong thời kỳ cải cách, đổi mới; 2) Căn
cứ vào nội dung, những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội là những nhận
thức có sự bổ sung, phát triển so với quan điểm của các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác - Lênin và quan điểm của các đảng cộng sản giai đoạn
trước cải cách, đổi mới.
2.2. QUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ TÍNH PHỔ
BIẾN VÀ TÍNH ĐẶC THÙ CỦA NHẬN THỨC VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
2.2.1. Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tính phổ biến của
nhận thức về chủ nghĩa xã hội
2.2.1.1. Trên lĩnh vực chính trị
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ tính phổ biến của nhận thức về CNXH
trên lĩnh vực chính trị được thể hiện ở những điểm cơ bản sau: 1) Bảo đảm
12
sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong của mình là
đảng cộng sản; 2) Xây dựng và hoàn thiện nhà nước chuyên chính vô sản
trên nền tảng liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và các
tầng lớp nhân dân lao động khác; 3) Mở rộng và phát huy dân chủ xã hội
chủ nghĩa trong nhân dân.
2.2.1.2. Trên lĩnh vực kinh tế
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, đặc trưng kinh tế của
chủ nghĩa xã hội là: 1) Phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền
kinh tế hiện đại; 2) Từng bước xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất, thiết lập và hoàn thiện chế độ công hữu về những
tư liệu sản xuất chủ yếu; tổ chức lao động mới; thực hiện phân phối theo
lao động.
2.2.1.3. Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội
Chủ nghĩa xã hội có nền văn hóa phát triển cao, kết tinh những giá trị
văn hóa dân tộc và nhân loại; giải phóng con người, tạo điều kiện cho con
người phát triển toàn diện.
2.2.2. Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tính đặc thù của
nhận thức về chủ nghĩa xã hội
Khi bàn đến tính đặc thù của nhận thức về chủ nghĩa xã hội, các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ nêu những vấn đề có tính phương
pháp luận cho quá trình nhận thức và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa.
Đó là: 1) Khi áp dụng những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa xã hội
khoa học phải căn cứ vào tính đặc thù của từng quốc gia, dân tộc; 2) Trong
nhận thức và xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực, các đảng cộng sản
không chỉ vận dụng sáng tạo mà còn phải bổ sung, phát triển chủ nghĩa
Mác - Lênin phù hợp với điều kiện đặc thù để tìm con đường phát triển
riêng; 3) Phải luôn kết hợp giữa tính phổ biến và tính đặc thù trong nhận
thức và xây dựng chủ nghĩa xã hội; 4) Phê phán hai quan điểm có xu
hướng trái ngược nhau: Một là, tuyệt đối hóa tính phổ biến, không tính đến
những yếu tố đặc thù của các dân tộc, (những người giáo điều); Hai là, chỉ
tập trung vào quy luật đặc thù mà coi nhẹ những quy luật mang tính phổ
biến (những người theo chủ nghĩa xét lại).
13
2.3. QUAN ĐIỂM CỦA CÁC ĐẢNG CỘNG SẢN VỀ TÍNH PHỔ
BIẾN VÀ TÍNH ĐẶC THÙ CỦA NHẬN THỨC VỀ CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI THỜI KỲ TRƯỚC CẢI CÁCH, CẢI TỔ, ĐỔI MỚI
2.3.1. Bối cảnh tác động đến nhận thức về tính phổ biến và tính
đặc thù của chủ nghĩa xã hội thời kỳ trước cải cách, cải tổ, đổi mới
Luận án phân tích năm yếu tố cơ bản tác động đến nhận thức về tính
phổ biến và tính đặc thù của chủ nghĩa xã hội thời kỳ trước cải cách, cải tổ,
đổi mới, đó là: 1) Sự ra đời của Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ
nghĩa là nhân tố quyết định nhất đối với sự hình thành tính phổ biến và
tính đặc thù của nhận thức về chủ nghĩa xã hội thời kỳ trước cải cách, cải
tổ, đổi mới; 2) Vai trò và ảnh hưởng của Liên Xô đối với nhận thức về tính
phổ biến và tính đặc thù của chủ nghĩa xã hội trên thế giới thời kỳ trước
cải cách, cải tổ, đổi mới; 3) Vai trò của Quốc tế Cộng sản và các tổ chức
quốc tế của các đảng cộng sản với việc hình thành tính phổ biến và tính
đặc thù của nhận thức về chủ nghĩa xã hội trên thế giới; 4) Cục diện thế
giới hai cực, chiến tranh lạnh kéo dài ảnh hưởng đến nhận thức về tính phổ
biến và tính đặc thù của nhận thức về chủ nghĩa xã hội trên thế giới; 5) Nỗ
lực của các nước xã hội chủ nghĩa trong việc tìm kiếm mô hình phù hợp
với quốc gia, dân tộc mình.
2.3.2. Tính phổ biến của nhận thức về chủ nghĩa xã hội thời kỳ
trước cải cách, cải tổ, đổi mới
Thành tựu nổi bật trong nhận thức của các đảng cộng sản là khái quát
9 quy luật phổ biến của chủ nghĩa xã hội trên thế giới, thể hiện trong Tuyên
bố chung tại Hội nghị đại biểu các Đảng Cộng sản và công nhân quốc tế
họp ở Mátxcơva năm 1957, đó là: 1) sự lãnh đạo của giai cấp công nhân mà
hạt nhân là Đảng mácxít-lêninnít đối với quần chúng lao động trong sự tiến
hành cuộc cách mạng vô sản dưới hình thức này hay hình thức khác, và
trong sự kiến lập nền chuyên chính vô sản dưới hình thức này hay hình thức
khác; 2) sự liên minh của giai cấp công nhân với quần chúng cơ bản trong
nông dân và các tầng lớp lao động khác; 3) sự thủ tiêu chế độ tư hữu tư bản
chủ nghĩa và kiến lập chế độ sở hữu công cộng về những tư liệu sản xuất cơ
bản; 4) sự cải tạo dần dần nền nông nghiệp theo chủ nghĩa xã hội; 5) sự phát
14
triển nền kinh tế nhân dân một cách có kế hoạch, hướng vào chỗ xây dựng
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, vào chỗ nâng cao mức sống của
những người lao động; 6) thực hiện cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên
lĩnh vực tư tưởng và văn hoá, đào tạo một tầng lớp trí thức đông đảo trung
thành với giai cấp công nhân, với nhân dân lao động, với sự nghiệp xã hội
chủ nghĩa; 7) xoá bỏ sự áp bức dân tộc và xây dựng sự bình đẳng và tình
hữu nghị anh em giữa các dân tộc; 8) bảo vệ những thành quả của chủ nghĩa
xã hội chống sự phá hoại của các kẻ thù bên ngoài và bên trong; 9) sự đoàn
kết của giai cấp công nhân nước này với giai cấp công nhân tất cả các nước
khác, tức là chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Tuy nhiên, nhận thức về tính phổ biến của CNXH thời kỳ này còn
tồn tại nhiều hạn chế. Cụ thể, trên lĩnh vực chính trị, nhận thức giáo điều
về chủ nghĩa Mác - Lênin; tuyệt đối hóa tính phổ biến, coi nhẹ tính đặc
thù; chưa có sự phân định giữa vai trò lãnh đạo của đảng và chức năng
quản lý của nhà nước; nhà nước chưa thực sự phát huy được vai trò của
mình trong quản lý xã hội; tình trạng mất dân chủ diễn ra ở nhiều nơi…;
trên lĩnh vực kinh tế, nhận thức về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất còn mang tính chủ quan; nhấn mạnh đặc trưng công hữu
về tư liệu sản xuất, xóa bỏ các thành phần kinh tế ngoài công hữu; thực
hiện chế độ quản lý kế hoạch hóa tập trung cao độ trong thời gian dài, phủ
nhận kinh tế thị trường…
2.3.3. Tính đặc thù của nhận thức về chủ nghĩa xã hội thời kỳ
trước cải cách, cải tổ, đổi mới
Tính đặc thù của nhận thức về CNXH trên thế giới thể hiện: 1) Lý
luận tự quản xã hội chủ nghĩa của Nam Tư gồm: lý luận chính trị tự quản
và kinh tế tự quản xã hội chủ nghĩa; 2) Những nhận thức của Đảng Cộng
sản Việt Nam: vấn đề công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở các nước kinh tế
chưa phát triển; tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ cách mạng ở hai miền;
xây dựng chế độ làm chủ tập thể…
Tuy nhiên, những sáng tạo của một số đảng cộng sản đã không được
khích lệ, tổng kết. Hội nghị quốc tế lần thứ hai của đại biểu các Đảng
Cộng sản và công nhân quốc tế (tháng 11-1960) đã khẳng định: “Kinh
15
nghiệm của Đảng Cộng sản Liên Xô trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa cộng sản, có ý nghĩa nguyên tắc đối với toàn bộ phong
trào cộng sản quốc tế”. Những cố gắng của bất kỳ cá nhân hoặc quốc gia
nào muốn tìm con đường đi riêng, xuất phát từ đặc thù của dân tộc mình
đều bị phê phán là “chủ nghĩa xét lại”, bị coi là chệch hướng…
Việc tuyệt đối hóa tính phổ biến, coi nhẹ tính đặc thù, “dập khuôn”
mô hình Xô viết đã dẫn đến nhiều sai lầm và hệ quả nặng nề, triệt tiêu sự
sáng tạo, gây mâu thuẫn nội bộ trong hệ thống các nước XHCN, làm cho
khủng hoảng ngày càng trầm trọng.
Trước thực tế đó, các nước XHCN đã tiến hành công cuộc cải cách,
cải tổ, đổi mới. Tuy nhiên, do nhận thức và hành động xa rời những
nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, công cuộc cải tổ ở Liên Xô và các
nước Đông Âu đã thất bại. Các nước XHCN còn lại tiếp tục giữ vững định
hướng XHCN, đẩy mạnh công cuộc cải cách, đổi mới, trước hết là đổi mới
tư duy, hình thành những nhận thức mới về CNXH.
Chương 3
TÍNH PHỔ BIẾN VÀ TÍNH ĐẶC THÙ
CỦA NHẬN THỨC MỚI VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
TRÊN THẾ GIỚI THỜI KỲ CẢI CÁCH, ĐỔI MỚI
3.1. BỐI CẢNH TÁC ĐỘNG ĐẾN NHẬN THỨC MỚI VỀ TÍNH
PHỔ BIẾN VÀ TÍNH ĐẶC THÙ CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI THỜI KỲ
CẢI CÁCH, ĐỔI MỚI
Luận án đã phân tích sáu nhân tố cơ bản, tác động đến nhân thức mới
về tính phổ biến và tính đặc thù của CNXH thời kỳ cải cách, đổi mới, đó
là: 1) Sự khủng hoảng và sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông
Âu; 2) Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức; 3) Xu
hướng toàn cầu hóa ngày càng mạnh mẽ, sâu rộng; 4) Những diễn biến
phức tạp, khôn lường của tình hình thế giới; 5) Sự xuất hiện mô hình xã
hội mới có tính chất xã hội chủ nghĩa; 6) Sự nỗ lực, kiên trì, sáng tạo của
các nước xã hội chủ nghĩa trong việc xây dựng mô hình phát triển phù hợp
với quốc gia mình.
16
3.2. TÍNH PHỔ BIẾN CỦA NHẬN THỨC MỚI VỀ CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI TRÊN THẾ GIỚI THỜI KỲ CẢI CÁCH, ĐỔI MỚI
3.2.1. Tính phổ biến của nhận thức mới trong lĩnh vực chính trị
3.2.1.1. Tính phổ biến của nhận thức mới về đảng cộng sản
Tính phổ biến của nhận thức mới về đảng cộng sản thể hiện: 1) Các
nước xã hội chủ nghĩa đều kiên định nguyên tắc chung về vai trò lãnh đạo
của đảng cộng sản, tập trung làm sâu sắc hơn lý luận về đảng cầm quyền
và phân định rõ vai trò lãnh đạo của đảng với chức năng quản lý của nhà
nước; 2) Các nước xã hội chủ nghĩa đều khẳng định lấy chủ nghĩa Mác -
Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của đảng. Đồng
thời, nhận thức một cách khoa học, khách quan hơn về chủ nghĩa Mác -
Lênin; bổ sung, phát triển lý luận nền tảng tư tưởng của đảng cho phù hợp
với bối cảnh mới; 3) Các đảng cộng sản ở các nước xã hội chủ nghĩa đều
nhận thức rõ về tầm quan trọng của công tác xây dựng đảng trong điều
kiện mới; đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng và suy thoái trong đảng.
3.2.1.2. Tính phổ biến của nhận thức mới về nhà nước - xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Theo nhận thức chung của các nước XHCN, nhà nước pháp quyền
XHCN là: 1) Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự
lãnh đạo của đảng cộng sản; 2) Nhà nước đề cao tính nghiêm minh của
pháp luật trong quản lý xã hội; 3) Không ngừng mở rộng dân chủ, gắn bó
chặt chẽ với nhân dân, phục vụ nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân;
tổ chức và hoạt động của nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ…
Để xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, các nước đều tập trung
hoàn thiện hệ thống pháp luật, quản lý đất nước bằng pháp luật, tăng
cường pháp chế, kiện toàn các cơ quan trong hệ thống chính quyền Nhà
nước tinh gọn, vững mạnh; tăng cường hiệu lực, hiệu quả và sự minh bạch
trong việc quản lý hành chính Nhà nước, xây dựng cơ chế và biện pháp
kiểm soát quyền lực, ngăn ngừa tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí…
3.2.1.3. Dân chủ hóa đời sống xã hội, tạo cơ chế để quyền lực
thuộc về nhân dân
1) Các nước XHCN đều nhận thức rõ vai trò đặc biệt quan trọng của
dân chủ trong sự nghiệp xây dựng CNXH, coi dân chủ là “mục tiêu phấn
17
đấu”, là “bản chất của chế độ”, “vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự
phát triển đất nước”. Bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là nhân dân
làm chủ. Mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân; 2) Thực hiện dân chủ hóa
đời sống xã hội gắn liền với quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống
chính trị, tạo ra cơ chế để quyền lực thuộc về nhân dân.
3.2.2. Trên lĩnh vực kinh tế
3.2.2.1. Các nước xã hội chủ nghĩa đều nhận thức rõ phải “lấy
phát triển kinh tế làm trung tâm”, tập trung phát triển lực lượng sản
xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại
Trong quá trình cải cách, đổi mới, các nước XHCN đều nhận thức rõ:
1) “lấy phát triển kinh tế làm trung tâm”; 2) Nhận thức lại một cách khách
quan, khoa học về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất, trong đó lấy phát triển lực lượng sản xuất là nền tảng, là đặc trưng
quan trọng nhất của chủ nghĩa xã hội; 3) Để phát triển lực lượng sản xuất,
xây dựng nền kinh tế hiện đại, các nước xã hội chủ nghĩa đều xác định
công nghiệp hóa, hiện đại hóa là “nhiệm vụ trung tâm”, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, phát triển kinh tế thị
trường, lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát
triển nhanh và bền vững; coi phát triển khoa học và công nghệ là nền tảng,
là động lực công nghiệp hóa, hiện đại hóa…
3.2.2.2. Nhận thức mới về xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa trên cả ba mặt (sở hữu, quản lý và phân phối)
1) Về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, các nước XHCN đều kiên trì thực
hiện chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu; đồng thời, phát triển
các thành phần kinh tế “phi công hữu”, đa dạng hóa các hình thức sở hữu,
đặc biệt trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; 2) Về chế độ quản lý nền
kinh tế, các nước XHCN đều thực hiện sự chuyển đổi từ chế độ tập trung
quan liêu bao cấp, quản lý bằng kế hoạch, áp đặt từ trên xuống, sang chế độ
nhà nước thực hiện chức năng điều tiết vĩ mô, điều hành nền kinh tế, vừa
tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa đảm bảo tính định hướng xã
hội chủ nghĩa; 3) Về chế độ phân phối, các nước XHCN luôn quán triệt
nguyên tắc “phân phối theo lao động”, “lấy phân phối theo kết quả lao động
18
và hiệu quả kinh tế là chủ yếu”. Ngoài ra, các nước XHCN cũng thực hiện
nhiều hình thức phân phối khác như: phân phối theo mức đóng góp vốn cùng
các nguồn lực khác, phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi
xã hội… Nhà nước tiến hành chính sách điều tiết phân phối, phân phối lại để
ngăn chặn sự phân hóa giàu nghèo có khoảng cách lớn.
3.2.2.3. Các nước xã hội chủ nghĩa đều phát triển nền kinh tế thị
trường có sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Đây là nội dung nhận thức mới của các đảng cộng sản trong quá trình
cải cách, đổi mới. Theo đó, kinh tế thị trường ở các nước XHCN hiện nay là
nền kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa chịu sự
chi phối của các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội và các yếu tố đảm
bảo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là nền kinh tế nhiều thành phần, trong
đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; là nền kinh tế có sự quản lý, điều
tiết của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của đảng
cộng sản; nhà nước giữ vai trò rất quan trọng trong việc phát huy tính tích
cực của kinh tế thị trường đồng thời khắc phục những mặt trái của nó; thị
trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các
nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất…
3.2.3. Tính phổ biến của những nhận thức mới trên lĩnh vực văn
hóa - xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới hiện nay
3.2.3.1. Xây dựng nền văn hóa mới kết tinh những giá trị văn hóa
truyền thống của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại, đề cao sức
mạnh của văn hóa, gắn phát triển văn hóa với phát triển kinh tế, tiến bộ
và công bằng xã hội
Nền văn hóa mới một mặt phải kế thừa những “giá trị văn hóa tốt đẹp
của dân tộc”, mặt khác tiếp thu “tinh hoa văn hóa nhân loại”, xây dựng nền
văn hóa phát triển cao, mang tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ, vì lợi
ích chân chính và phẩm giá con người. Đề cao sức mạnh văn hóa, coi văn
hóa là “huyết mạch của dân tộc”, “nền tảng tinh thần vững chắc của xã
hội”, “sức mạnh nội sinh”, kết hợp chặt chẽ giữa văn hóa với phát triển
kinh tế, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
19
3.2.3.2. Xác định vị trí trung tâm của con người trong phát triển xã hội
Trong quá trình cải cách, đổi mới, các nước XHCN xác định “lấy con
người làm gốc là lập trường cốt lõi”, “con người là trung tâm phát triển đồng
thời là chủ thể phát triển”, từ đó, các nước XHCN đều quan tâm tới việc chăm
lo phát triển toàn diện con người, bảo vệ quyền con người, phát huy vai trò làm
chủ, trách nhiệm, sự sáng tạo và mọi nguồn lực trong nhân dân,; phát triển kinh
tế để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, đảm bảo nhân dân
được hưởng thành quả phát triển.
3.2.3.3. Thực hiện tốt các chính sách xã hội vì con người
Quan tâm đến phát triển giáo dục và đào tạo, giải quyết việc làm, vấn
đề y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội nhằm đảm
bảo sự phát triển hài hòa, bền vững; gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và
công bằng xã hội.
3.3. TÍNH ĐẶC THÙ CỦA NHẬN THỨC MỚI VỀ CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI TRÊN THẾ GIỚI HIỆN NAY
3.3.1. Tính đặc thù của nhận thức mới trên lĩnh vực chính trị
3.3.1.1. Tính đặc thù của nhận thức mới về Đảng
1) Chế độ hợp tác đa đảng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và
hiệp thương dân chủ - nét đặc thù ở Trung Quốc
Các nước xã hội chủ nghĩa như: Việt Nam, Cuba, Lào đều khẳng định
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và duy trì chế độ một đảng. Trung Quốc
có hệ thống các tổ chức Đảng bao gồm: Đảng Cộng sản và 8 tổ chức và
chính Đảng dân chủ: Ủy ban cách mạng Đảng Quốc dân Trung Quốc, Đồng
minh dân chủ Trung Quốc, Hội Kiến quốc dân chủ Trung Quốc, Hội Xúc
tiến dân chủ Trung Quốc, Đảng Dân chủ công nông Trung Quốc, Đảng Chí
công Trung Quốc, Cửu Tam học xã, Đồng minh tự trị dân chủ Đài Loan.
Hiến pháp Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quy định: Đảng Cộng sản
Trung Quốc là chính đảng chấp chính duy nhất, 8 đảng còn lại được gọi
là đảng phái dân chủ (hay đảng tham chính). Các đảng phái dân chủ tham gia
chính trị thông qua Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc.
20
2) Các đảng cộng sản đã bổ sung vào nền tảng tư tưởng của mình
bằng những tư tưởng, lý luận khác nhau
Đảng Cộng sản Trung Quốc khẳng định: “lấy chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Mao Trạch Đông, lý luận Đặng Tiểu Bình, tư tưởng quan trọng
“Ba đại diện” và quan điểm phát triển khoa học làm kim chỉ nam cho hành
động của mình”. Gần đây, Tập Cận Bình đề xuất thêm quan điểm “Bốn toàn
diện”, coi đó là yếu tố sống còn của sự nghiệp “phục hưng Trung Quốc vĩ
đại”; Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho
hành động”; Đảng Nhân dân Cách mạng Lào chỉ rõ: Kiên định vận dụng và
phát triển lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Cay-xỏn Phôm-vi-hản;
Đảng Cộng sản Cuba khẳng định, nền tảng lý luận của Đảng dựa trên chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hô-xê Mác-ti, có thể bổ sung thêm những
hoạt động thực tiễn của lãnh tụ lịch sử Phi-đen Cát-xtơ- rô.
3.3.1.2. Tính đặc thù của nhận thức mới về nhà nước
1) “Một nước hai chế độ” - nét đặc thù của chủ nghĩa xã hội đặc sắc
Trung Quốc. Đại hội XIV của Đảng Cộng sản Trung Quốc đề ra ý tưởng
sáng tạo “một nước hai chế độ”. Trong điều kiện một nước Trung Quốc,
chủ thể nhà nước là chế độ xã hội chủ nghĩa, Hồng Kông, Ma Cao vẫn
được giữ nguyên chế độ tư bản chủ nghĩa vốn có một cách lâu dài. Theo đề
nghị này, mỗi khu vực có thể tiếp tục hệ thống chính trị riêng…
2) Quan điểm về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của các nước có khác nhau. Trong quá trình cải cách, đổi mới, Trung
Quốc, Việt Nam, Lào đã nhận thức và đưa ra quan điểm về xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đảng Cộng sản Cuba chưa nêu ra xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong văn kiện của mình.
3.3.2. Tính đặc thù của nhận thức mới về đặc trưng kinh tế
3.3.2.1. Tính đặc thù của nhận thức về kinh tế thị trường
Thứ nhất, sự khác nhau về tên gọi loại hình kinh tế thị trường
Mặc dù cùng có quan điểm về phát triển kinh tế thị trường, Trung
Quốc gọi là “kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa”, Việt Nam và Lào gọi là
“kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Sự khác nhau này là do
khi bước vào cải cách, Trung Quốc xác định nước này đang ở “giai đoạn
21
đầu của chủ nghĩa xã hội”, chính vì vậy, nền kinh tế xây dựng là “kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa”, còn Việt Nam và Lào khi bước vào đổi mới xác
định đất nước đang trong “thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, vì vậy, nền
kinh tế được gọi tên là “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Thứ hai, sự khác nhau về cấp độ chủ động, tích cực trong phát triển
kinh tế thị trường
Trung Quốc, Việt Nam, Lào tích cực, chủ động thúc đẩy phát triển
kinh tế thị trường; Cuba vẫn là kinh tế kế hoạch, tuy nhiên từng bước chấp
nhận những yếu tố của kinh tế thị trường.
3.3.2.2. Sự khác nhau trong quan điểm của các nước xã hội chủ
nghĩa về phát triển kinh tế tư nhân
1) Đảng Cộng sản Trung Quốc kiên trì “khuyến khích, ủng hộ, dẫn
dắt” các thành phần kinh tế phi công hữu, trong đó, có kinh tế tư nhân. 2)
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định kinh tế tư nhân “là động lực quan
trọng của nền kinh tế”. 3) Lào thực hiện khuyến khích “một cách mạnh mẽ
hơn nữa” đối với kinh tế hợp tác của nhân dân, kinh tế hộ gia đình, doanh
nghiệp nhỏ và vừa. 4) Cuba trong quá trình cập nhật mô hình kinh tế công
nhận và khuyến khích các phương thức đầu tư nước ngoài được luật pháp
cho phép, các hợp tác xã, các tiểu nông, những người sử dụng đất, người
thuê các cơ sở, những người lao động cá thể... Tuy nhiên, “không cho phép
việc tập trung tài sản của những đối tượng có tư cách pháp nhân hoặc cá
nhân trong các hình thức quản lý kinh tế ngoài quốc doanh”.
3.3.2.3. Sự khác nhau trong nhận thức của các nước xã hội chủ
nghĩa về mở cửa, hội nhập quốc tế
Trung Quốc kiên trì con đường cải cách mở cửa, “nâng cao toàn diện
trình độ nền kinh tế mở”, hợp tác ngày càng sâu rộng với các nước và các
nền kinh tế trên thế giới; Việt Nam “chủ động, tích cực hội nhập quốc tế
sâu rộng và có hiệu quả”; Lào “kiên trì quan điểm chủ động và có thái độ
tích cực” trong việc mở cửa, hội nhập kinh tế với các nước; Ở Cuba, sự
bao vây, cấm vận kinh tế, thương mại và tài chính trong nhiều thập kỷ qua
khiến Cuba gặp rất nhiều khó khăn trong hội nhập và thiệt hại rất lớn về
kinh tế. Gần đây, việc Mỹ và Cuba bình thường hóa quan hệ, Cuba có
những thời cơ tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế.
22
Chương 4
Ý NGHĨA ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. Ý NGHĨA THỜI ĐẠI CỦA VIỆC QUÁN TRIỆT, VẬN DỤNG
NHỮNG GIÁ TRỊ PHỔ BIẾN VÀ ĐẶC THÙ TRONG NHẬN THỨC VỀ
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRÊN THẾ GIỚI HIỆN NAY
4.1.1. Ý nghĩa lý luận
Một là, kiên định và vận dụng sáng tạo những vấn đề có tính phổ biến
được chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra; bổ sung, “cập nhật” những giá trị phổ
biến mới, tiến bộ của nhân loại; kết hợp hài hòa giữa tính phổ biến và tính
đặc thù để tìm ra con đường đúng đắn, phù hợp với từng quốc gia, dân tộc.
Hai là, thông qua nghiên cứu tính phổ biến và tính đặc thù của nhận
thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay, các đảng cộng sản có
thể học tập, nghiên cứu, trao đổi, rút kinh nghiệm để hoàn thiện hơn nhận
thức mới về chủ nghĩa xã hội.
4.1.2. Ý nghĩa thực tiễn
Một là, việc kết hợp giữa tính phổ biến và tính đặc thù trong xây dựng
chủ nghĩa xã hội thời kỳ cải cách, đổi mới đã giúp các nước xã hội chủ nghĩa
đạt được những những thành tựu hết sức quan trọng, củng cố niềm tin của
đảng và nhân dân vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Hai là, góp phần đấu tranh chống những quan điểm sai trái trong
nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa tính phổ biến và tính đặc thù của
chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay như: phủ nhận quan điểm chủ nghĩa
Mác - Lênin về những giá trị phổ biến của chủ nghĩa xã hội; đề cao tính
đặc thù quốc gia, coi nhẹ tính phổ biến và ngược lại.
4.2. Ý NGHĨA ĐỐI VỚI VIỆT NAM TRÊN CON ĐƯỜNG ĐI LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
4.2.1. Ý nghĩa lý luận
Một là, góp phần khẳng định rõ nhận thức của Đảng Cộng sản Việt
Nam về chủ nghĩa xã hội trong quá trình đổi mới là đúng đắn, vừa mang
tính phổ biến vừa mang tính đặc thù
Hai là, việc nghiên cứu tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức
mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay góp phần bổ sung, phát
23
triển, hoàn thiện hơn lý luận về mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam.
4.2.2. Ý nghĩa thực tiễn
Một là, việc kết hợp giữa tính phổ biến và tính đặc thù trong quá
trình đổi mới giúp Việt Nam đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
lịch sử, từ đó, củng cố niềm tin, ý chí quyết tâm của Đảng và Nhân dân
vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
Hai là, góp phần đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái, thù
địch trong nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa tính phổ biến và tính
đặc thù của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. Đó là phê phán, đấu
tranh chống quan điểm đòi thoát ly chủ nghĩa Mác - Lênin, từ bỏ những
nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa xã hội để tìm con đường riêng, đặc thù;
phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; đòi thay đổi bản
chất giai cấp công nhân của Nhà nước XHCN…
KẾT LUẬN
Trong quá trình cải cách, đổi mới, các nước như Trung Quốc, Việt
Nam, Lào, Cuba đều kiên định mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội. Tuy nhiên, các nước đã có những thay đổi quan trọng trong nhận thức
về mô hình và con đường xây dựng xã hội mới, hình thành những nhận
thức mới về chủ nghĩa xã hội.
Nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội không phải là sự phủ nhận sạch
trơn đối với những nhận thức trước cải cách, đổi mới là mà sự kế thừa, bổ
sung và phát triển cho phù hợp với điều kiện mới, là kết quả của quá trình
vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ
thể của mỗi nước, là sự tổng kết thực tiễn và phát triển lý luận đáp ứng yêu
cầu, đòi hỏi của sự nghiệp cải cách, đổi mới đặt ra.
Nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội bao gồm những vấn đề có tính
phổ biến được các đảng cộng sản ở các nước nhận thức, bổ sung, phát triển
trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và những quy luật phổ biến mới,
được các đảng cộng sản rút ra trong quá trình cải cách, đổi mới như: phát
triển kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa; công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức… Nhận thức
24
mới về chủ nghĩa xã hội cũng bao gồm những vấn đề có tính đặc thù thể
hiện sự tìm tòi, sáng tạo của các đảng cộng sản trong việc xác định con
đường phát triển riêng, phù hợp với đặc điểm mỗi nước.
Việc vận dụng những quy luật phổ biến và đặc thù trong quá trình cải
cách, đổi mới đã giúp các nước xã hội chủ nghĩa vượt qua nhiều khó khăn,
thách thức, đạt được những thành tựu quan trọng có ý nghĩa lịch sử, nâng
cao vị thế của đất nước, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân; phát triển mạnh nền kinh tế, xây dựng nền
văn hóa mới, con người mới; mở rộng quan hệ đối ngoại, kết hợp sức
mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, tạo tiền đề quan trọng cho đất nước
bước vào một giai đoạn phát triển mới.
Hiện nay, sự nghiệp cách mạng vĩ đại đang đặt ra những nhiệm vụ
quan trọng đối với các nước xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi các nước xã hội chủ
nghĩa, các đảng cộng sản tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, vận dụng sáng
tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn đất nước; tăng cường
tổng kết thực tiễn, trao đổi lý luận giữa các đảng cộng sản; bổ sung, phát
triển nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, cần phải nắm vững bài
học về kết hợp chặt chẽ giữa tính phổ biến và tính đặc thù trong nhận thức
và xây dựng chủ nghĩa xã hội, tìm ra con đường phù hợp, đúng đắn đưa
đất nước vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Vũ Thế Tùng (2015), "Chủ nghĩa xã hội dân chủ ở Bắc Âu - lý luận,
thực tiễn và ý nghĩa đối với Việt Nam", Tạp chí Thông tin khoa học
lý luận chính trị, 3(4), tr.35-41.
2. Nguyễn Quốc Phẩm, Vũ Thế Tùng (2015), "Bàn thêm về vận dụng lý
luận mácxít về hình thái kinh tế - xã hội trong xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí Lịch sử Đảng, (293), tr.44-46.
3. Nguyễn Quốc Phẩm, Vũ Thế Tùng (2015), "Quan niệm mới của các học
giả Nga về chủ nghĩa xã hội", Tạp chí Tuyên giáo, (4), tr.19-22.
4. Vũ Thế Tùng (2015), "Những điểm tương đồng và khác biệt trong nhận
thức về chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay", Kỷ yếu Hội thảo
khoa học Nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội Việt Nam - những vấn
đề lý luận và thực tiễn, Cơ quan chủ trì: Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, tr.83-95.
5. Đỗ Thị Thạch, Vũ Thế Tùng (2015), "Giương cao ngọn cờ độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu
nước", trong cuốn Đại thắng mùa xuân 1975 sức mạnh đoàn kết
thống nhất non sông, Cơ quan chủ trì: Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Nxb Lý luận chính trị, tr.16-25.
6. Vũ Thế Tùng, Trịnh Văn Hiệp (2016), "Một số quan điểm của Đảng về
chủ nghĩa xã hội (1976-2011)", Tạp chí Lịch sử Đảng, (302), tr.61-66.
7. Vũ Thế Tùng (2016), "Quan điểm của các nước xã hội chủ nghĩa về
phát triển kinh tế thị trường", Tạp chí Lý luận chính trị điện tử, (12).