ÑeÄ nhÖÙt tieÅu thÔØi kyØ · web viewcái thánh-thất, ban đầu thì còn luật cúng...

517
HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ TÒA-THÁNH ĐỊNH-TƯỜNG HỘI-THÁNH CHƠN-LÝ THIÊN-ĐẠO CHƠN-TRUYỀN CỦA ĐỨC NGỌC-HOÀNG ĐẠI-ĐẾ KIM VIẾT CAO-ĐÀI CHÚA-TỂ KIỀN-KHÔN VÀ CỦA ĐỨC CHƯỞNG-GIÁO THIÊN-TÔN Chư Phật, Tiên, Thần, Thánh hậu-cần Đức-Chúa-Trời. 0

Upload: others

Post on 02-Feb-2020

3 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘTÒA-THÁNH ĐỊNH-TƯỜNG

HỘI-THÁNH CHƠN-LÝ

THIÊN-ĐẠOCHƠN-TRUYỀN

CỦAĐỨC NGỌC-HOÀNG ĐẠI-ĐẾ

KIM VIẾT CAO-ĐÀI CHÚA-TỂ KIỀN-KHÔNVÀ CỦA

ĐỨC CHƯỞNG-GIÁO THIÊN-TÔN Chư Phật, Tiên, Thần, Thánh hậu-cần

Đức-Chúa-Trời.

Từ năm Bính Dần (1926) tới năm Đinh Hợi (1947)Trời mở Đại-Đạo Ăn-Xá Kỳ Ba nơi cỏi Á-Đông

0

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

QUYỂN THỨ NHỨT

TIỂU DẨNThan Đời mạt kiếp, người lành ít lắm, kẻ dữ

quá đông; nên Trời phải hạ trần mở Đại-Đạo, để hiệu Tam- Kỳ Phổ-Độ hay là Đại Ân-Xá Kỳ Ba, đặng cứu thế, tránh khỏi cái nạn Ngũ- Lôi tiêu diệt Linh-Hồn.

Ai là người biết trọng phần Hồn, biết nhìn Trời là Cha Thiêng-Liêng, xin hãy ráng mà trở về với Đạo, đặng Giúp Trời Hành Đạo lập công-quả cho trọn thỉ-chung thì mới trông mong được Đại Ân-Xá.

Kể từ năm Bính-Dần (1926) Trời khai Đạo tại Tây-Ninh đến năm nay là Đinh-Hợi (1947), tính ra được 22 năm.

Trong thời gian ấy Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ có ẩn ba Tiểu-Thời:

1.- Đệ Nhứt Tiểu-Thời: kể từ Bính-Dần (1926) cho đến tới năm Tân-Vì (1931). 2.- Đệ Nhị Tiểu-Thời: kể từ Canh-Thân (1932) cho đến tới năm Ất-Sửu (1937).3.- Đệ Tam Tiểu-Thời: kể từ Mậu-Dần (1938) cho đến tới năm Đinh-Hợi (1947).Hai Tiểu-Thời trước là 6 năm, ấy là đều lậu Thiên-

Cơ của Đạo-Cô cho biết năm 1934, rồi Ngài nói rằng: Đệ Nhứt Tiểu-Thời Đức-Chí-Tôn đã thâu-dụng chức-sắc

1

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

nhiều rồi, nên ngày nay phải gạn bỏ bớt những người phá Đạo với phá Thầy đặng đem qua Đệ Nhị Tiểu-Thời.Trong thời này, Chức-sắc được chấm đậu rồi hay là gần chấm đậuu còn phải lừa lọc lại một cách vô hình đặng đem qua Đệ Tam Tiểu-Thời, tới đây Ngài lại than hai chữ “thương thay, thương thay” và Ngài rằng: nếu không có ai được chấm đậu thì Đức-Chí-Tôn chuyển Đạo nơi khác. Còn Tiểu-Thời chót thì Trời định 10 năm, lúc đầu năm Mậu-Dần (1938).

Tới đây là Cơ thưởng lành, phạt dữ, tồn-vong kêu là Đại-Thành Đại-Kiếp, cũng kêu là Đại-Đồng Phán-Đoán.

Qua 15 tháng 12 năm Giáp-Thân (1944) trước khi cúng Tứ-Thời thì có lịnh Thầy dạy trước khi đánh chuông phải đọc bài kệ nầy:

CHƯỞNG Quyền thưởng-phạt thay Trời,GIÁO-Truyền Đại-Đạo độ người trầm luân, THIÊN-Điều mắc-mỏ muôn phần,TÔN đường Chơn-Lý gặp Xuân tư mùa.

Nên kể từ đây Đức Chưởng-Giáo Thiên-Tôn cầm Quyền thưởng-phạt cho Đức-Chí-Tôn.

Bởi vậy cho nên Tôi soạn Đại-Khái Chơn-Truyền của Thầy và Đức Chưởng-Giáo Thiên-Tôn chép ra sau nầy cho anh em, chị em trong Hội-Thánh hiểu rõ chung-thỉ của Đại-Đạo.Trong một quyển 600 trương Tôi không thể chép hết Lời Châu Ngọc của Ơn Trên, nên Tôi thâu lại các lời đại khái mà thôi, còn các bài khác thì Tôi biên

2

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

cái Thánh-Tựa, số và trương trong “Đuốc-Chơn-Lý” đặng chư quí-vị dò theo mà tầm ra.

Số Đuốc-Chơn-Lý Hội-Thánh in tới ngày nay có bốn năm là năm Mậu-Dần cho tới năm Tân-Tỵ.

Còn năm Nhâm-Ngọ tới năm Đinh-Hợi, Hội-Thánh in không kịp, kế Tòa-Thánh bị cháy tiêu hết.

Nhiều người lấy làm lạ hỏi tại sao cuộc của Thầy lập đồ sộ như Tòa-Thánh Định-Tường hãy còn bị hỏa hoạn và phá tán năm bảy phần không còn một phần mười; số là năm Ất-Dậu (1945) Đức Tam-Tôn, Chưởng-Quản Hiệp-Thiên-Đài, Ngài ngồi Định-Tâm, Thầy có cho ra chữ “Tiêu” nên qua tháng 9 thì Tòa-Thánh bị cháy một lần thứ nhứt, hết phân nửa; qua năm (1946) Hội-Thánh tu-bổ lại tốn hao rất nhiều; rồi qua năm (1947) bị đốt lần thứ nhì, tiêu hết không còn chỗ thờ phượng hương khói nữa.

Đó là Luật Công-Bình của Tạo-Hóa, vậy xin trong Đạo đừng trầm-trồ mà phải mang tội với Trời.

A.- Đức Gia-Tô chịu đổ máu mà chuộc cho loài người mà còn bị đóng đinh trên cây Thập-Ác thay.

B.- Ấy là mấy lời nói đầu vắn-tắt và thấp-thỏi của Tôi, xin chư quí-vị độc giả biết cho Tôi là kẻ ra công soạn và lựa các lời Chơn-Truyền của Trời Phật giáng trần Phổ-Độ chúng-sanh. Xin chư quí-vị biết cho

Trời Đại Ân-Xá. NGUYỄN VĂN CA

Thánh-danh BỬU-AN-THIÊN.

3

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Chưởng-Quản Cửu-Trùng-Đài.Mỹ-Tho, ngày 17 tháng 12 Annam 1948

CAO-ĐÀI NHỨT NIÊNĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ

THIÊN-ĐẠO CHƠN-TRUYỀN

AĐỆ NHỨT TIỂU THỜI KỲ

HỌA-ĐỒ CỰU TÒA-THÁNH TÂY-NINH

4

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

A. Cửu-Trùng-ĐàiB. Hiệp-Thiên-Đài (có từng lầu)

a.- Bàn thờ: Quả Càn-Khôn

“Thiên-Nhãn”b.- Bài vị Tam-Giáo

1. Nho Đức Khổng-Tử2. Thích Thích Ca Mâu Ni

3. Đạo Đức Lão-Tử

c.- Bài vị Tam-Trấn– Đức Quan-Âm– Đức Lý-Thái-Bạch– Đức Quan-Thánh

d.- Bài vị Thánh Đức Jésus

e.-Bài vị Thần Khương-Thái-Công

f.- 1 ngai Giáo-Tôngg.- 3 Chưởng-Pháph.- 3 Đầu-Sư

—————————ddd—————————

5

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

NGHI TIẾT [TĐ.I/ 7]

Ngày 15 tháng 10 năm Bính-Dần (1926) là ngày Thầy khai Đạo tại Tây-Ninh thì Thầy dạy lập bàn thờ như trước đây:

Phía sau Tòa-Thánh thì bong một trái quả Càn-Khôn bề tròn 3m3 phất vải thưa vẽ đủ tinh tú, ở chính giữa có vẽ Thiên Nhãn giống con Mắt người, ở giữa trung tim có thắp một ngọn đèn thiêng-liêng ngày và đêm, đàng trước quả Càn-Khôn thì có cái nghi bốn cấp:

1.- Cấp thứ nhứt thờ Phật Thánh Tiên:- Phật thì Thích-Ca Mâu-Ni.- Tiên thì Lão-Tử.- Thánh thì Khổng-Tử.

2.- Cấp thứ nhì thì thờ Tam Trấn:- Quan-Âm bồ tát.

- Lý-Thái-Bạch. - Quan Thánh Đế quân.

3.- Cấp thứ ba thì thờ cốt Đức Chúa Jésus (Thánh Đạo).

4.- Cấp thứ tư thì thờ cốt Đức Khương-Thái-Công (Thần Đạo).

Kế đó có 7 cái ngai sơn son phết vàng:- 1 cái ngai giữa của ngôi Giáo-Tông,- 3 cái ngai kế thì của 3 Chưởng-Giáo,- 3. cái ngai chót thì của 3 Đầu-Sư.

(Coi vẽ hình trước đó).

6

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Chức sắc lớn nhỏ hầu đàn quì ở dưới là Cửu-Trùng-Đài.

Đàng trước có Hiệp-Thiên-Đài, có 1 từng lầu.Niệm Thầy thì niệm: “Nam mô Cao-Đài Tiên Ông

Đại Bồ Tát Ma Ha Tát”. Còn lạy Thầy thì lạy: 12 lạy, tay trái bắt ấn Tý.

Tại gia thờ Thầy thì thờ “Thiên Nhãn”, xung quanh có hào quang và Thầy có dạy như sau nầy:

Nhãn thị chủ Tâm, Lưỡng quang chủ Tể,Quan thị Thần,Thần thị Thiên,Thiên giả ngã dã.

Và sau Thầy sẽ dạy thêm (qua Tam Tiểu Thầy mới giải nghĩa, coi bài giải nghĩa Nhãn Tâm trương 23 lịch sử).

Còn cúng thì dùng tam-bửu “Tinh Khí Thần”.Mỗi ngày cúng tứ thời: Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu.Đọc kinh thì tạm thời dùng kinh Tam Giáo xưa bằng

chữ Nho và Thầy có hứa ngày sau sẽ ra kinh quốc-âm. Nên ông Đầu-Sư Thượng-Trung-Nhựt có cậy ông Trang đi Đàn Minh-Lý (Saigon) thỉnh kinh quốc-âm mà Thánh-Ý chưa cho.

Thầy dùng huyền cơ diệu bút viết ra quốc âm đặng dạy Đạo, Thầy dùng 3 cặp cơ:

1.- Cư, Tắc.2.- Hậu, Đức.

7

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

3.- Diêu, Sang. Cặp phò loan thứ 3 sau nầy viết văn Pháp được.

Thầy nói cơ bút là tối cao tối trọng, vì nếu phò loan không để tâm-không thì phải có tà thần xen lộn (auto suppression), còn nếu Pháp-Sư hộ đàn hớ hinh thì có quỉ nhập cơ.

Chức sắc của Đạo Thầy thì kêu là Thiên phong hoặc Hiệp-Thiên-Đài hoặc Cửu-Trùng-Đài.

Hiệp-Thiên-Đài ra Thánh-Ngôn kêu là lập luật;Còn Cửu-Trùng-Đài để ban hành Thánh-Huấn.Hiệp-Thiên-Đài có Hộ-Pháp làm chủ, dưới có

thượng-phẩm, thông sanh, như bảo pháp, Bảo thế… vân… vân………..

Hiệp-Thiên-Đài 12 vị,Bên Cửu-Trùng-Đài thì có Giáo-Tông làm chủ, dưới

có Chưởng-pháp Đầu-Sư, Chánh-Phối Sư, Phối-Sư… v… v… tới Lễ-Sanh là hết.

Nữ phái cũng có Đầu-Sư, chức sắc khác như Nam phái là đại phục và tiểu phục; đại phục thì đội mão, tiểu phục thì đội khăn; còn áo thì dùng áo rộng dài, 3 màu Đỏ Vàng Xanh.

Sắc phục Hiệp-Thiên-Đài toàn là đồ trắng, đội mão trắng.

Về Tòa-Thánh thì ăn chay trường luôn luôn.—————————ddd—————————

8

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

I. [TĐCT.1/9]

TRÍCH LỤC TRONG THÁNH NGÔN HIỆP TUYỂN

Thiên địa tuần huờn châu nhi phục thỉ, Đại-Đồng phán đoán.

Nên Trời giáng trần cứu thế, hạ mình làm một vị Bồ-Tát xưng là Thầy, Thầy truyền Đạo như sau nầy:

Tây-Ninh, ngày 13 tháng 6 năm Bính-Dần 1926. [TĐ.I/ 10]

Thầy các con,“… Bậc chơn tu, tỷ như hột giống tốt, hễ gieo xuống

thì cấy lên, cấy lên thì trỗ bông, rồi sanh trái, mà biến biến sanh sanh càng thêm tăng số, vì vậy mà các con phải bỏ xác trần, mà bông trái thiêng liêng các con sanh hóa chơn thần, chơn thần lại biến hóa hàng muôn, thêm số tăng lên hoài. Ấy là Đạo.

Bởi vậy, một chơn thần mà sanh hóa chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần và tất cả nhơn loại trong Càn-Khôn Thế-Giới, nên chi các con là Thầy, Thầy là các con.

Như kẻ bên Phật-giáo hay tặng Nhiên-Đăng là Chưởng-giáo; Nhiên Đăng vốn sanh ra đời Hiên-Viên Huỳnh-đế.

Người gọi Quan-Âm vốn là Từ-Hàng Đạo-nhơn biến thân; Từ-Hàng lại sanh ra lúc Phong-Thần, đời nhà Châu.

9

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Người gọi Jésus là Thánh-Đạo Chưởng-giáo, thì Jésus cũng sanh nhằm đời nhà Châu.

Thầy hỏi vậy chớ ai sanh ra các Đấng ấy? Ấy là Đạo, các con nên biết.

Nếu không có Thấy thì không có chi trong Càn-Khôn Thế-Giới nầy, mà nếu không có Hư-Vô chi khí thì không có Thầy”.

—————————ddd—————————

Thánh ngôn ngày 5 tháng 9 năm Bính-Dần [TĐ.I/ 10]

Có dạy rằng: “Các con coi bậc Chí-Tôn như Thầy mà hạ mình

đặng độ rỗi nhơn sanh là thế nào; phải xưng là một vị Tiên Ông và Bồ Tát, hai phẩm chót của Tiên và Phật. Đáng lẽ thế thường phải để mình vào phẩm vị tối cao tối trọng, còn Thầy thì khiêm nhượng là thể nào? Vì vậy mà nhiều kẻ Môn đệ cho Thầy là nhỏ…

Hạnh khiêm nhượng là hạnh của mỗi đứa con, phải noi gương Thầy mới độ rỗi thiên hạ đặng…

—————————ddd—————————

Thánh ngôn dạy tại Vĩnh Nguyên tự, chùa Minh Đường, Cần Giuộc 7 Avril 1926 [TĐ.I/ 11]

Ngọc-Hoàng Thượng-Đế Viết Cao-Đài Tiên-ÔngĐại Bồ Tát, Ma Ha Tát Giáo Đạo Nam Phương.

“Nhiên-Đăng Cổ-Phật thị Ngã.Thích-Ca Mâu-Ni Phật thị Ngã.Thái-Thượng Nguơn-thỉ thị Ngã.

10

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Gia-Tô Giáo-Chủ thị Ngã.Kim viết Cao-Đài Bồ Tát Ma Ha Tát”.

—————————ddd—————————

Thánh ngôn ngày 25 tháng 2 Langsa năm1926 [TĐ.I/ 11]

- Trọng-Ni ( Khổng Phu-Tử) là Văn-Xương Tiên, hạ trần đặng thừa mạng Thầy đặng làm Chưởng giáo Nhơn-Đạo. lo xong phận sự thì Thầy đến độ hồi cựu vị”

Trong mấy lần giáng thế hóa thân truyền Đạo, Ngọc-Hoàng Thượng-Đế đều có để lời tiên tri rằng: “Ngày kia sẽ có một nước nhỏ nhen trong Vạn-Quốc ngày sau đặng làm chủ nền Chơn-Đạo Ta”.

Có Thánh ngôn ngày 13 tháng 3 (24 Avril 1926) rằng:

Vốn từ trước, Thầy lập ra Ngũ-Chi Đại-Đạo là:– Nhơn-Đạo,– Thần-Đạo,– Thánh-Đạo,– Tiên-Đạo,– Phật-Đạo,

Tùy theo phong hóa của mỗi thân nhân loại mà gầy Chánh-Giáo, là vì khi trước Càn vô đắc khán, Khôn vô đắc duyệt, thì nhơn loại duy có hành Đạo nội tư phương mình mà thôi.

Còn nay thì nhơn loại đã hiệp đồng, Càn-Khôn dĩ tận thức; thì lại bị phần nhiều Đạo ấy mà nhơn loại nghịch lẫn nhau; nên Thầy mới nhứt định qui nguyên phục nhứt”.

11

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Lại nữa, trước Thầy lại giao Chánh-Giáo cho tay phàm, càng ngày lại càng xa Thánh-Giáo mà làm ra cuộc Phàm-Giáo. Thầy lấy làm đau đớn, hằng thấy gần trót mười ngàn năm, nhơn loại phải bị sa vào nơi tội lỗi, mạt kiếp chốn A-tỳ.

Thầy nhứt định đến chính mình Thầy độ rỗi các con, chẳng chịu giao Chánh-Giáo cho tay phàm nữa…

… Chẳng đặng ai dưới thế nầy còn đặng phép nói rằng thế quyền cho Thầy mà trị phần Hồn của nhơn loại…

—————————ddd—————————

Thánh ngôn Ngày mồng 7 tháng 7 năm Bính-Dần (1926) [TĐ.I/ 12] :

Vốn từ ngày Đại-Đạo bế lại, chánh quyền đều vào một tay Chúa-Quỷ khi Ngọc-Hư-Cung và Lôi-Âm-Tự lập pháp Tam-Kỳ Phổ-Độ, Chúa-Quỷ biết cơ mầu nhiệm ấy, và hiểu rõ ràng tà quyền đã dứt, nên trước khi Thầy chưa đến, thì nó đã hiểu rõ rằng: bề nào Thầy cũng sẽ chiếu y Thánh-Ý Tam Giáo qui nhứt, mà dùng danh Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát, nên đã dụng Cao-Đài trước Thầy mà lập Tả Đạo Bàng Môn. Thầy hỏi các con, vậy chớ tà quái nhận tên ấy là chủ ý gì?

… Lại làm cho ra rẻ rúng danh ấy, để cho các con nghi ngờ mà lánh xa Chánh-Giáo, như đàn Cái-Khế vậy, nhưng nó có một điều là nó không dám ngự nơi ngai Thầy, tiện dùng làm một vị Tiên Ông mà thôi.

12

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Vậy khi các con nghe nói Cao-Đài nơi này, Cao-Đài nơi kia, đừng vội tin mà lầm mưu tà mị.

Cao-Đài: nhớ gọi là Đấng-Chí-Tôn.Tiên-Ông: là về Tiên-Đạo.Đại Bồ Tát Ma Ha Tát: là về Thích-Giáo.

—————————ddd—————————

Thầy có giáng cơ tại Biên-Hòa 23-1-1926 [TĐ.I/ 13] cho bài thơ rằng:

“Chín Trời mười Phật cũng là TA Truyền Đạo chia ra nhánh-nhóc ba,Hiệp một chủ quyền tay nắm giữ,Thánh, Tiên, Phật Đạo vốn như nhà”.

—————————ddd—————————

Thánh ngôn ngày 3 tháng 8 năm 1926 (nhằm ngày 25 tháng 6 năm Bính-Dần):

Ngài đã dạy rõ ràng Tam-Kỳ Phổ Độ tuy khai năm Dần (nhơn sanh ư Dần), chớ kỳ trung thiên-cơ tiền-định đã lâu rồi.

Vốn từ trước, trong Thiên Thơ Tam-Kỳ Phổ-Độ nầy, nền Chánh Giáo phải có:

Nhứt Phật, Tam Tiên,Tam thập lục Thánh,Thất thập nhị Hiền,Tam thiên Đồ Đệ.

Chưởng-Quản thâu Tam Giáo hiệp nhứt….

13

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Nơi Bạch-Ngọc Kinh hơn sáu chục năm trước chư Thánh, Thánh, Tiên, Phật thấy đại nộ Thầy nên ra tình nguyện hạ thế cứu đời. Thầy coi bọn ấy lại còn làm tội lỗi hơn kẻ phàm xa lắm. Vậy vì cớ chi các con biết chăng?...

Bị hàng phẩm nhơn tước phải phù hạp với hàng phẩm Thiên tước. Đáng lẽ Thầy cũng nên cho các con phải chịu số phận bần hàn, mà không nỡ, nên ngày nay mới có kẻ như vậy. Thầy nói cho các con biết: dầu một vị Đại-La Thiên-Đế xuống phàm mà không tu, cũng khó trở lại địa vị đặng…

Có Thánh ngôn giáng ngày 27 tháng 6 [TĐ.I/ 14] rằng:

Thầy hằng nói cùng các con rằng: Thầy đến độ rỗi các con là đến lập tại thế nầy một trường công quả. Các con muốn đặng nơi cực lạc thì phải đi lại trường nầy mà đoạt thủ địa vị mình, chớ chẳng đi nơi nào khác mà đặng đắc Đạo bao giờ. Thầy lại khuyên nhủ các con rằng: Thầy đã đến chung cùng với các con, các con duy có tu mà đắc Đạo, phải đoái lại bá, thiên, vạn, ức nhơn sanh mà phải bị trầm luân nơi khổ hải, chưa thoát khỏi luân hồi, để lòng từ-bi mà độ rỗi.

Nay tuy các con chẳng thấy đặng hành-vi mầu-nhiệm, mà chính mình Thầy đã đến nơi, các con cũng nên tin nơi Thầy, mà lời dặn Thầy là chơn thật. Nếu các con đợi đến buổi chung qui, hồn ra khỏi xác, mới thấy cơ mầu nhiệm đặng, thì chừng ấy đã muộn rồi”.Trường Sanh Tự (Cần-Giuộc), Ngày 19 tháng 4 năm Bính-Dần (1926) [TĐ.1/14]

14

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Chư chúng sanh nghe, Từ trước TA giáng sanh lập Phật-Giáo gần sáu ngàn

năm, thì Phật Đạo chánh truyền gần thay đổi. TA hằng nghe chúng sanh nói Phật giả vô ngôn. Nay nhứt định lấy huyền diệu mà giáo Đạo, chớ không giáng sanh nữa, đặng chuyển Phật Giáo lại cho hoàn toàn. Dường nầy, từ đây chư chúng sanh chẳng tu bị đọa A-tỳ, thì hết lời nói rằng “Phật Tông vô giáo” mà chối tội nữa.

TA nói cho chúng sanh rằng: gặp Tam-Kỳ Phổ-Độ nầy mà không tu, thì không còn trông mong siêu rỗi.

—————————ddd—————————

Hội Phước Tự (Cần Giuộc) [TĐ.I/ 15]

Samedi, 5 Juin 1926 — mồng 5 tháng 4 năm Bính-Dần.Thích Ca Như Lai

Kim Viết Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát

Chư sơn nghe dạy:Vốn từ Lục Tổ thì Phật Giáo đã bị bế lại, cho nên tu

hữu công mà thành thì bất thành. Chánh-pháp bị nơi Thần Tú làm cho ra mất Chánh-giáo, lập riêng pháp luật buộc nối Đạo Thiền.

TA vì luật lịnh Thiên mạng đã ra, cho nên can để vậy, làm cho Phật Tông thất chánh có gần hai ngàn năm nay.

Vì Tam-Kỳ Phổ-Độ Thiên-Địa hoằng khai, nơi “Tây-Phương Cực-Lạc” và “Ngọc-Hư-Cung” mật chiếu đã truyền siêu rỗi chúng sanh. Trong Phật-Tông Nguyên Lý

15

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

đã cho hiểu trước đến buổi hôm nay rồi, tại Tăng đồ không kiếm Chơn-Lý mà hiểu, làm kẻ đã chịu khổ hạnh hành Đạo… Ôi! Thương thay, công có công, thưởng chưa hề có thưởng, vì vậy mà TA rất đau lòng.

TA đến chẳng phải cứu một mình chư Tăng mà thôi, vì trong thế hiếm bậc Thần, Thánh, Tiên, Phật, phải đọa hồng trần TA đương lo cứu vớt.

Chư Tăng, chư chúng sanh hữu căn, hữu kiếp đặng gặp kỳ Phổ-Độ nầy là lần chót, phải ráng sức tu hành, đừng mơ mộng hoài trong giả luật…

TA đã đến với huyền diệu nầy, thì từ đây TA cho chư Tăng dùng huyền diệu nầy mà học hỏi, ngày sau đừng đổ tội rằng: vì thất học mà thất kỳ truyền. Chư Tăng từ đây chẳng đặng còn nói Phật giả vô ngôn nữa.

—————————ddd—————————

16

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

NOEL 1925 [TĐ.I/ 16]Ngọc-Hoàng Thượng-Đế viết Cao-Đài Tiên Ông,Đại Bồ Tát Ma Ha Tát Giáo Đạo Nam Phương.

CHIÊU KỲ TRUNG độ dẫn HOÀI sanhBẢN Đạo khai SANG QUÍ GIẢNG thành;HẬU ĐỨC TẮC CƯ Thiên-Địa cảnh, HƯỜN MINH MẪN đáo thủ đài danh.

(Mười hai chữ lớn trong ba câu trên là tên của mười hai (12) người môn đệ trước hết của Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế. Còn ba chữ xiên lớn trong câu chót là tên ba vị hầu Đàn).

—————————ddd—————————

20 Février 1926. [TĐ.I/ 16]Ngọc-Hoàng Thượng-Đế viết Cao-Đài Tiên Ông,Đại Bồ Tát Ma Ha Tát Giáo Đạo Nam Phương.

Bửu tòa thơ thới trổ thêm hoa, Mấy nhánh rồi sau cũng một nhà,Chung hiệp ráng vun nền Đạo Đức,Bền lòng son sắt đến cùng TA.

Nguồn Tiên tầm Đạo dễ gì đâu?Quyền phép Càn-Khôn một túi thâu, Thoát xác xưa tầng tu vạn kiếp, Độ hồn nay gội khắp năm châu.

Tìm hiền lắm lúc gieo nguồn Đạo, Cải dữ đòi phen cỗi mạch sầu,Trần khổ dầu ai chơn muốn lánh,Ngày thành chánh quả có bao lâu?

17

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Cái nhánh các con là nhánh chính mình Thầy làm chủ, sau các con sẽ hiểu.

Thầy vui muốn cho các con thuận hòa cùng nhau hoài, ấy là lễ hiến cho Thầy rất trân trọng. Phải chung lo cho danh Đạo Thầy.

Đạo Thầy tức là các con, các con tức là Thầy: phải làm cho nha đặng thế lực, đừng ganh gổ nghe! Các con giữ phận làm tùy ý Thầy muốn: ngày kia sẽ rõ thấu ý muốn của Thầy.

Vào vòng huynh đệ khá thương nhauMột đức trổi hơn một phẩm cao,Quyết chí Thiên-Đường men bước tới,Phải nhiều máu thịt mới đồng bào.

Các con phải hiểu rằng: Thầy là huyền diệu thế nào! Cách dạy, Thầy buộc phải tùy thông minh mỗi đứa mà dạy. Dầu cho thấy phàm tục cũng phải vậy, nếu đứa dở mà dạy cao kỳ, nó biết đâu mà hiểu đặng.

Thầy cấm không cho dị nghị việc người, nhứt là đạo hữu của các con thì đừng phạm đến kẻo tội nghiệp. Chi chi cũng phải nhớ quyết rằng có Thầy trong đó.

Chẳng quản đồng tông mới một nhà,Cùng nhau một Đạo tức một Cha,Nghĩa nhơn đành gởi thân trăm tuổi,Dạy lẫn cho nhau đặng chữ HÒA.

Thầy dặn các con một điều: nhứt nhứt đều đợi lịnh Thầy, chẳng nên lấy ý tư riêng mà phán đoán chi hết. Phận sự và trách nhậm các con, Thầy đã định trước, song giờ ngày chưa đến, phải tuân theo lời Thầy nghe!

Từ đây Thầy khởi sự dạy Đạo cho…

18

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

—————————ddd—————————

Ngọc Đàn (Giồng Ông Tố) [TĐ.I/ 18]

Vendredi 30 Juillet 1926 — 21 tháng 6 Bính-Dần.

Ngọc-Hoàng Thượng-Đế viết Cao-Đài Tiên ÔngĐại Bồ Tát Ma Ha Tát Giáo Đạo Nam Phương.

TÀ DÂM GIÁI Vì sao tội Tà dâm là trọng tội?

Phàm xác thân con người, tuy mắt phàm coi thân hình như một, chớ kỳ trung nơi bổn thân vốn một khối chất chứa vàn vàn, muôn muôn sanh vật. Những sanh vật ấy cấu kết nhau mà thành khối (la formation des cellules). Vật chất ấy có tánh linh. Vì chất nuôi nấng nó cũng là sanh vật, tỉ như: rau cỏ, cây, trái, lúa, gạo, mọi lương vật đều cũng có chất sanh.

Nếu nó không có chất sanh thì thế nào tươi tắn và chứa sự sống, như nó khô rũ thì là nó chết. Mà các con nào ăn vật khô héo bao giờ. Còn như nhờ lửa mà nấu, thì là phương pháp khử trược đó mà thôi, chớ sanh vật mà bị nấu chưa hề phải chết.

Các vật thực vào tỳ vị, lại biến ra khí; khí mới biến ra huyết. Nó có thể huờn ra nhơn hình, mới có sanh sanh tử tử của kiếp nhơn loại. Vì vậy mà một giọt máu thì là một khối chơn linh.

Như các con dâm quá độ thì sát mạng chơn linh ấy. Khi các con thoát xác thì nó đến tại Nghiệt Cảnh Đài mà kiện các con. Các con chẳng hề chối tội đặng.

Vậy phải giữ gìn giái-cấm ấy cho lắm.

19

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Sách có dạy rằng: Nhơn sanh là Tiểu Kiền-Khôn, vậy nên Trời có võ trụ vạn vật thì nhơn sanh cũng có vạn vật vậy.

Nhơn sanh lại chia lại làm hai hạng:1.- Hạng Nguyên-nhơn trên Trời sai xuống đặng lập

công bồi quả,2.- Là hạng Hóa-nhơn bên côn trùng, thảo mộc, thú

cầm mới qua làm người ta, nên “Chánh Tà Yếu Lý” Thầy có dạy:

“Thầy nhìn con cả gái trai,Côn trùng điểu thú căn cai cũng nhìn”.

Vậy nên nhiều khi Thầy nói: “Được làm người chẳng dễ đó con!”

—————————ddd—————————

Dimanche, 19 Décembre 1926 — Rằm tháng 11 (B.D)Ngọc-Hoàng Thượng-Đế viết Cao-Đài

Giáo Đạo Nam Phương. [TĐ.I/ 19]

Các con nghe: một sự các con chưa hề biết đến đặng hiểu Đạo là quí trọng dường nào, lo tu tâm dưỡng tánh.

Các con đã sanh tại-thế nầy, chịu khổ não tại-thế nầy, rồi chết cũng tại-thế nầy. Thầy hỏi: các con chết rồi, các con ra thể nào? Các con đi đâu?

Chẳng một đứa hiểu cơ mầu nhiệm ấy đặng. Thầy dạy: cái kiếp Luân-hồi thay đổi từ trong nơi vật chất mà ra

20

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

thảo mộc, từ thảo mộc đến thú cầm; loài người phải chịu chuyển kiếp ngàn ngàn, muôn muôn lần, mới đến địa vị nhơn phẩm. Nhơn phẩm nơi thế nầy lại còn chia ra phẩm giá mỗi hạng. Đứng bực Đế-Vương nơi trái Địa-Cầu nầy, chưa đặng vào bực chót của địa cầu 67. Trong Địa-Cầu 67, nhơn loại cũng phân ra đẳng cấp dường ấy, cái quí trọng của mỗi Địa-Cầu càng tăng lên hoài, cho tới “Đệ Nhứt Cầu” Tam Thiên Thế Giái; qua khỏi “Tam Thiên Thế Giái” thì mới đến “Tứ Đại Bộ Châu”; vào “Tứ Đại Bộ Châu” mới vào đặng “Tam Thập Lục Thiên”; vào “Tam Thập Lục Thiên” rồi phải chuyển tiếp tu hành Đạo nữa mới đặng lên đến Bạch-Ngọc-Kinh, là nơi Đức Phật gọi là Niết-Bàn đó vậy.

Các con coi đó thì đủ hiểu, các phẩm-trật của các con nó nhiều là dường nào; song ấy là phẩm trậc Thiên-Vị.

Còn phẩm trậc quỉ-vị cũng như thế ấy; nó cũng noi chước Thiên-Cung mà lập thành quỉ-vị, cũng đủ các ngôi, các phẩm đặng đày đọa các con, hành hà các con, xử trị các con. Cái quyền hành lớn lao ấy do Thầy ban cho nó, nên đặng quyền cám dỗ các con, xúi biểu các con, giành giựt các con mà làm tay chơn bộ hạ trong vòng tôi tớ nó.

Thầy đã thường nói: hai đầu cân không song bằng, thì tiếng cân chưa đúng lý. Luật Công-Bình thiêng-liêng buộc phải vậy. Thầy lắm phen phải bị mất, bị giựt con cái của Thầy vì chúng nó.

Thầy đã chỉ rõ hai nẻo tà chánh, sang hèn rồi, vậy Thầy cũng chỉ phương hướng cho các con đi cho khỏi lầm lạc. Các con hiểu rằng: trong “Tam thiên thế giới” còn có

21

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

quỉ mị chuyển kiếp ở lộn cùng các con thay, huống lựa là “Thất Thập Nhị Địa” nầy, sao không có cho đặng?

Vì vậy Thầy đã nói tiên tri rằng:Thầy thả một lũ hổ lang ở lộn cùng các con, lại hằng

ngày xúi biểu nó cắn xé các con; song Thầy cho các con mặc một bộ thiết giáp, chúng nó chẳng hề thấy đặng, là Đạo Đức các con.

Ấy vậy Đạo Đức các con là phương pháp khử trừ quỉ mị lại cũng là phương dìu dắt các con trở lại cùng Thầy. Các con không Đạo thì là tôi tớ quỉ mị. Thầy đã nói Đạo Đức cũng như một cái thang vô ngằn, bắt cho các con leo đến phẩm vị tối cao, tối trọng, là ngang bực cùng Thầy, hay là Thầy còn hạ mình cho các con cao hơn nữa.

Vậy Thầy lại dặn các con: nếu kẻ không tu, làm đủ phận người công bình, chánh trực, khi hồn xuất ra khỏi xác thì cứ theo đẳng cấp gần trên mà luân hồi lại nữa, thì biết chừng nào đặng hội hiệp cùng Thầy; nên Thầy cho một quyền rộng rãi, cho cả nhơn loại Càn Khôn Thế Giới, nếu biết ngộ kiếp một đời tu, đủ trở về cùng Thầy đặng; mà … hại thay… mắt Thầy chưa đặng hữu hạnh hoan lạc, thấy đặng kẻ ấy. Vậy Thầy dặn: Đạo là nơi các con nên quí trọng đó vậy.

—————————ddd—————————

22

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

26-1-27 = 23-12-B.D. [TĐ.I/ 21]

Ngọc-Hoàng Thượng-Đế viết Cao-ĐàiGiáo Đạo Nam Phương.

Hỉ chư Môn đệ, chư chúng sanh; chư chúng sanh nghe:

Thuyền khơi đợi gió lướt dòng ngân,Dẫn khách Nam qua khỏi bến trần, Nhuộm áo nâu sồng về Cực-Lạc,Trau gương trí huệ phủi đai cân,Cơ Trời nên buổi đời thay đổi,Đạo Thánh nhằm khi khách gội nhuần.Khổ hạnh dầu ai thìn một kiếp,Rừng tòng thoát tục sớm đưa chân.

Đạo Trời khai ba lượt, khách tục lỗi muôn phần, khách trần ai cũng lấy sự vui vẻ vô vị chốn sông mê nầy mà quên trọn các điều Đạo Đức của các đấng Thánh trước Hiền xưa. Chung đỉnh mảng tranh giành, lợi danh thường chác buộc, kiếp phù sanh không mấy lát, đời giả dối chẳng là bao. Sanh đứng làm người, trót đã mang vào mình một vai tuồng đặc biệt, đã chẳng lo bước hành trình cho xong, mà đắp bồi nợ mảnh hình hài, ngọn rau tấc đất, lại chác lắm điều phiền não u sầu, lấy Thánh đức gọi là chơi, mượn hành tàng vô nghĩa mà làm cho vừa lòng ái mộ bất lương. Cái xuân kia chẳng đợi người mà bước đời càng gay trở; lần qua thỏ lặn ác tà, bóng thiều quang nhặc thúc; con đường hi vọng chẳng biết đâu là tột cùng mà bước đời xem đà mòn mỏi; sự thác vô tình sẽ đến mà vẽ cuộc sanh ly, pha màu tử biệt, làm sao sự vui vẻ giàu sang, danh vọng đều thành ra một giấc huỳnh lương, rồi đây vĩnh biệt ngàn năm, tội tình muôn kiếp. Đài Nghiệt Cảnh là nơi rọi sáng các

23

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

việc lỗi lầm, bước luân hồi sẽ dẫn vào nơi u khổ cùng sâu mà đọa đày đời đời kiếp kiếp. Ấy là buổi chung qui của khách trần đó.

Nguồn Tiên đạo Thánh dìu bước nhơn sanh tránh tội lỗi, lìa nẻo vạy, bước đường ngay mà lần vào nơi cực lạc an nhàn, rừng tòng suối lặng, động thẳm non xanh, để vào bực thanh cao, thoát khỏi chốn luân hồi ràng buộc. Ai mau bước đặng nhờ thân, ai luyến trần cam chịu khốn. Đạo Trời mầu nhiệm, khá biết xét mình sau khỏi điều tự hối!

Chúng sanh khá biết cho!—————————ddd—————————

THI VĂN DẠY ĐẠO [TĐ.I/23]1.- Tròi trọi mình không mới thiệt bần,

Một nhành sen trắng náo nương chân, Ở nhà mượn đám mây xanh kịtĐỡ gót nhờ con hạt trắng nần,Bố hóa người đời gây mối Đạo, Gia ân đồ đệ dựng nền nhân,Chừng nào đất dậy Trời thay xác,Chư Phật, Thánh, Tiên xuống ở trần.

TÂN TỎA BẠCH-NGỌC-KINH2.- Một tòa Thiên Các ngọc làu làu,

Liền bắt cầu qua nhấp nhóa sao.Vạn trượng then gài ngăn Bắc-Đẩu,Muôn trùng nhíp khảm hiệp Nam-Tào.Chư Thần chóa mắt màu thường đổi,Liệt Thánh kinh tâm phép vẫn cao.Dời đổi chớp giăng đoanh đỡ nổi,Vững bền vạn kiếp chẳng hề xao.

24

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

3.- Huỳnh lương một giấc cuộc đời in,Có trí có mưu phải xét mình.Danh lợi lớn là giành với giựt,Phú quí cao bởi mượn và xin.Trăm năm lẩn quẩn đường nhơn nghĩa,Một kiếp đeo đai mối nợ tình.Biết số biết căn tua biết phận,Đường xưa để bước lại Thiên-Đình.

7.- Hữu văn hữu võ hữu phong ba, Nhựt Nguyệt Âm Dương tứ quí hòa,Thiên Địa Càn Khôn khiêm vạn loại,Nhơn quần, thảo mộc cập chư hoa. Ly kỳ cảnh vật cao nhơn thượng, Đáo để san hà thưởng khách ca,Ngả vấn chư nhu hà thủ tạo?Kỉnh Ngô vi chủ, Đạo như hà?

8.- NGỌC ẩn thạch kỳ, ngọc tự cao,HOÀNG Thiên bất phục chí anh hào. GIÁNG ban phúc hạnh nhơn đồng lạc,THẾ tạo lương phương thế cộng giao.GIÁO hóa nhơn sanh câu triết lý, ĐẠO truyền thiên hạ ái đồng bào.NAM nhơn tỉnh cảm sanh cao khí,PHƯƠNG tiện tu tâm kế diệt lao.

Thầy có nói rằng: một vị Đại-La Thiên-Đế xuống trần mà không tu thì khó mà trở về ngôi cũ được.

—————————ddd—————————

25

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

16-01-1926: Chơn linh Ngài Quí-Cao (Thế-danh là Huỳnh Thiên Kiều) có cho bài thi giáng cơ rằng:

Tu như cỏ úa gặp mù sương,Đạo vốn cây che mát-mẻ đường.Một kiếp muối dưa muôn kiếp hưởng,Đôi năm mệt-nhọc vạn năm bường.Có thần nuôi-nấng thần càng mạnh,Luyện khí thông-thương khí mới tường.Nhập thế lòng trong gìn tịnh-mẫn,Nguồn Tiên ngọn Phật mới nhằm phương.

—————————ddd—————————

Mercredi 4 Aout 1926 - 5 tháng 6 (B.D) [TĐ.I/ 25]

Ngọc-Hoàng Thượng-Đế viết Cao-ĐàiGiáo Đạo Nam Phương.

Hỉ chư Môn-đệ, chư nhu. Nghe dạy:Sự chơn thật và sự giả dối mắt phàm các con đâu có

thể phân biệt đặn: một trường thử Thánh, Tiên, Phật vì vậy mà phải lập nơi thế gian nầy; nếu buổi sanh tiền dầu cho một kẻ phàm tục tội lỗi biết đặng cơ quan mầu nhiệm của Đấng Chí-Tôn là Trời đã sắp đặt, thì cũng chẳng dám gây ra tội lỗi mà thôi, lại có thể đắc Đạo mà gấm ghé các phẩm Thần, Thánh, Tiên, Phật đặng nữa; huống lựa là các Đấng ấy phải bị đọa trần mà biết mình hằng giữ, thì mầu nhiệm thử Thánh, Tiên, Phật chẳng có nghĩa lý gì hết. Vì vậy mà Thầy hằng nói cùng các con rằng: một trường thi công quả, các con muốn đến nơi cực-lạc thì phải đi tại cửa nầy mà

26

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

thôi. Thầy lại khuyên nhủ các con rằng: Thầy đã đến chung cùng với các con, các con duy có tu mà đắc Đạo, phải đoái lại bá thiên vạn ức nhân sanh còn phải trầm luân nơi khổ hải, chưa thoát khỏi luân hồi, để lòng từ bi mà độ rỗi.

Nay tuy các con chẳng thấy đặng hành vi mầu nhiệm, mà chính mình Thầy đã đến nói, các con cũng nên tin nơi Thầy mà cho rằng lời dạy của Thầy là chơn thật. Nếu các con đợi đến buổi chung qui, hồn ra khỏi xác mới thấy cơ mầu nhiệm đặng thì chừng ấy đã muộn rồi. Vậy các con ráng tuân lịnh dạy./-

—————————ddd—————————

Cholon, le 10-1-1927. [TĐ.I/ 26]

Ngọc-Hoàng Thượng-Đế viết Cao-ĐàiGiáo Đạo Nam Phương.

Chư Môn-đệ và chư nhu nghe: chim về cội, nước tách nguồn, từ xưa kiếp con người giữa thế, chẳng qua là khách đi đường, phận sự muốn cho hoàn toàn, cần phải có bền chí và khổ tâm; có bền chí mới đoạt đặng phẩm vị thanh cao; có khổ tâm mới rõ tuồng đời ấm lạnh. Lăng-xăng xạo-xự, mùi chung đỉnh, vẻ cân đai, rốt cuộc chẳng khác chi giấc huỳnh-lương mộng. Mỗi bậc phẩm đều đặng một vai tuồng của Đấng cầm quyền thế giới ban cho, dầu thanh cao dầu hèn hạ cũng phải gắng làm cho rồi trách nhậm, hầu buổi chung cuộc, hồn lìa cõi trần, đặng đến nơi khởi hành mà phục hồi công cán. Ai giữ trọn bậc phẩm, thì đặng Tòa nghiệt-cảnh tương công chiết tội, để vào địa vị cao hơn chốn Địa-Cầu 68 nầy; ai chẳng vẹn trách nhậm nhơn sanh, phải bị đọa vào u-minh địa, để trả cho xong tội

27

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

tình căn quả cho đến lúc trở về nẻo chánh đường ngay mà phục hồi ngôi cũ. Bằng chẳng biết sửa mình thì luật Thiên-Điều chồng-chập, khổ A-Tỳ phải vướng muôn muôn đời đời mà đền tội ác, bậc nhơn sanh vì đó mà phải chịu thiên niên chìm đắm vào số luân hồi; vay trả, trả vay, căn quả chẳng bao giờ tiêu đặng. Các bậc Thần Thánh nếu chẳng biết mối Đạo là phương châm tìm nguồn trong rửa bợn tục, thì biển trần khổ nầy cũng khó mong thoát đặng.

Trời Nam may đặng một yến sáng của Đấng Đại-Từ Đại-Bi dẫn khách trần bước lần ra con đường hắc ám, để tránh khỏi bến mê, dụng nâu sồng thế cân đai, mượn khổ tâm thay chung đỉnh; lấy hạnh đức làm nấc thang bước lên tột lưng Trời, vẹt ngút mây xanh, trông vào cảnh thiên nhiên, biết rõ cơ mầu nhiệm mà làm khách u nhàn thanh thản. Núi thẳm rừng xanh, phủi hết muôn sự ở cõi trần vô vị nầy, ấy là một sự khó thi hành của khách phàm tục, mấy ai nong nả đến cảnh thiêng-liêng, mà nhiều kẻ lại tìm vào vực thẳm.

Đạo Trời qua bến tục, đường Thánh dẫn khách trần; nếu chẳng biết thế thời, giọt nước cành dương hết chờ khi rưới khổ đặng.

—————————ddd—————————

28

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Vendredi, 17 Décembre 1926 [13 tháng 11 (B.D)] [TĐ.I/ 27]

THÁI BẠCHM.D… est prié d’attendre la venue du Divin-Maitre.

NGỌC-HOÀNG THƯỢNG-ĐẾ VIẾT CAO-ĐÀIGIÁO ĐẠO NAM PHƯƠNG.

DIEU TOUT-PUISSANT qui vient sous le nom de CAO-ĐÀI pour enseigner la vérité en Annam.

D…, Debout et lis.Je tiens à te dire que rien ne se crée est n’existe surce

globe sans ma volonté. De pauvre ses prits prétendent qu’ils sont dans se secret de Dieu. Or, je ne donne à nul humain ici-bas d’en faire la révélation. Pour venir à moi, il faut des prières. Je ne néglise pas à me manifester quand ces prières sont sincères. Il suffit, pour vous convaincre que je suis bien Jéhovah des Hebreux, le Dieu des Armées des Israélites, le Dieu inconnu des Juifs et le vrai Père de Jésus-Christ, de me prier par ce prête nom CAO-ĐÀI pour que vos voeux soient éxaucés. Tu viens à moi avec un sentiment sincère pour bien faire aux peuples soumis qui te sont confiés? Je te prie alors de propagend cette doctrine à tous tes protégés. C’est la seule qui maintient l’huma-nité dans l’amour des créatures et vous apporte une paix durable.

—————————ddd—————————

29

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Thứ sáu, đêm 17 tháng 12 năm 1926 (13 tháng 11 năm B.D) [TĐ.I/ 28]

Đức Lý-Thái-Bạch khai đàn.Mời ông D… (Langsa) chờ đợi giây lát có Thánh-ý

giáng đàn.

Thầy xưng “Ngọc-Hoàng Thượng-Đế viết Cao-Đài Giáo Đạo Nam Phương”, tá danh Cao-Đài, hay là Chúa Trời phép tắc vô cùng.

M.D … đứng dậy và đọc.“TA nói với người rằng chẳng có vật chi tạo thành

và đứng vững mà chẳng có TA nhứt định. Nhiều vị Thần thấp hèn xưng rằng chúng nó thạo cơ Trời. Còn TA thì chẳng có trao cơ Tạo cho kẻ phàm nào truyền bá ở thế hạ nầy. Muốn đến hầu TA, thì phải có lòng cầu nguyện. TA không có bỏ qua sự cầu khẩn thành tâm ấy và sẵn lòng giáng dạy. Cho đặng nhà ngươi tin thì phải biết rằng TA là Đức Chúa Trời Jehovah Chúa của bọn Hébreux, Chúa của dân Du-Dêu, Chúa của dân Juifs phản và Cha thiệt của Đức Chúa Jésus Christ, phải cầu nguyện Ta là tá danh CAO-ĐÀI thì được hữu kỳ sở nguyện, nhà ngươi muốn đến hầu TA có lòng thành thật và làm ơn cho dân bổn xứ nầy chịu dưới quyền nước Pháp. TA xin ngươi truyền bá cái tôn chỉ nầy cho dân bổn xứ. Ấy là một cái Đạo làm cho dân sự hòa bình, bền vững và lâu dài”.Tuy rằng Thầy đã xưng đủ các thứ danh tánh của Thầy:

30

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Nhiên-Đăng Cổ-Phật thị Ngã, Kim viết CAO-ĐÀI Ngọc-Hoàng Thượng-Đế, Chúa Trời phép tắc vô cùng, Chúa Jéhovah của dân Hebrenx Du-Dêu, và

của dân Juifs phản.Mà qua năm 1927, chánh-phủ mới cho mở cửa 12

cái Thánh-Thất, ban đầu thì còn luật cúng thong thả dưới 20 người, sau luật ấy bị bãi thì mỗi lần cúng Sóc-Vọng mỗi tháng 2 lần thì phải xin phép quan. Rồi qua năm 1936, quan Phó-Soái Pagès mới cho các Thất cúng thong thả. Đó là nhờ ơn Ngài Quyền Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt tâu với Chánh-Phủ Toàn-quyền Robin.

Bởi tại vậy nên Thầy mới ân xá cho Ngài Thượng-Trung-Nhựt và cho Ngài giáng đàn dạy Đạo một đôi phen; dạy Đạo tại Tòa-Thánh Định-Tường (Mỹtho) trong lúc chuyển qua Tiểu Tam thời.

Bởi cớ các sự thiên tân vạn khổ ấy Thầy biết trước nên ra đôi liễn như vầy:- CAO thượng Chí Tôn Đại Đạo hòa bình thế gian mục- ĐÀI tiền sùng bái Tam Kỳ vui hưởng tự do quyền.

—————————ddd—————————

31

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

II.LỜI TIÊN TRI TIỂU NHỨT THỜI

TIÊN TRINgày 17 tháng 9 năm Bính-Dần (Đàn 27 Octobre1926).

Tá danh Ngọc-Hoàng Thượng-Đế giáo Đạo Nam-Phương, Đức Chúa-Trời phép tắc vô cùng truyền dạy cho mấy người Lang-sa như sau nầy:

“Thế gian hiện thời chịu tha thiết muôn vàn tân khổ, nên Thầy sai Allan Kardec và Flammarion (viết sách Thần linh giáo dạy người Pháp) cũng như thuở xưa Thầy sai Thánh Elie và Saint Jean Baptiste rao trước cho hay rằng Chúa cứu thế Jésus ra đời.

Hai Thánh Nhơn nầy: 1 vị thì bị hiếp đáp khổ sở, 1 vị nữa bị tử hình; tại nơi ai đó? tại nhơn loại chớ ai!

Con Một của Ta đây cũng bị chúng bây giết chết, chúng bây kính nó như một vị Thần kia không kể là một vị Thánh Tiên.

Thuở xưa Ta muốn nói chuyện với các con một phen cho rành rẽ là hồi đời Moise trên đảnh Sinai mà các con không hiểu rõ lời của Thầy dạy. Thầy đã hứa với Tổ-Tông các con rằng: Thầy sẽ cứu các con, nghĩa là Thầy có tiên tri cho hay rằng: Chúa Cứu Thế sẽ ra đời, mà các con không tin lời thành thật của Thầy.

32

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Bởi vậy cho nên hiện thời chính mình Thầy phải dùng huyền cơ diệu bút mà độ các con cho chắc ý đặng đến ngày Phán Đoán Đại Đồng các con không còn chối cãi rằng: Thầy không hết lòng với nhơn loại mà độ rỗi các con.

Dầu Thầy có lòng hết sức đi nữa, Thầy cũng không có thể xóa hết tội tiền khiên của các con tạo ra từ hồi Vô-Thỉ đến giờ.

Thế gian ngày nay ở trong vòng hắc ám, đức tánh của Trời ban cho nhơn loại đã tiêu tan cả, sự nghịch lẫn nhau càng ngày càng tấn tới, thế thì sự chiến tranh trong hoàn cầu không tránh khỏi được.

Dân Pháp và dân Nam-Việt là hai sắc dân Thầy ủng hộ hơn hết nên Thầy ước ao cho hai nước được hòa thuận với nhau luôn luôn. Đạo Trời của Thầy gieo truyền đây là cốt để dạy Pháp-Việt đề huề mà lo chung quyền lợi và kinh tế lâu dài.

Hai nước hãy liên hiệp sanh hoạt với nhau và khuyên dạy cho thế gian giữ hòa bình và sự thuận thảo cùng nhau là hay hơn hết.

Chiều ngày nay Thầy dạy bấy nhiêu là đủ”.—————————ddd—————————

Mercredi, 27 Octobre 1926 (17 tháng 9 năm Bính Dần)

Ngọc-Hoàng Thượng-Đế viết Cao-Đài [TĐ.I/ 31]Tiên Ông, Đại Bồ Tát Ma Ha Tát

Giáo Đạo Nam Phương.

33

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

“L’humanité souffre de toutes sortes de vicissi-tudes. J’ai envoyé Allan Kardec; j’ai envoyé Flamma-rion comme j’ai envoyé Elie et Saint-Jean-Baptiste, précurseurs de l’avènement de Jésus Christ l’un est me sécuté et l’autre tué. Et par qui? Par l’humanité! Mon fils est aussi tué parvous vous ne le vénérez qu’en Esprit et uon en Sainteté.

Je voulais causer avec vous en une seule fois au temps de Moise sur le Mont Sinai, vous ne pouviez me comprendre. La promesse que j’ai faite à vos ancêtres pour votre Rédemption, la venue du Christ est prédite, vous ne voulez pas en tenir compte. Il faut que je me serve moi-même maintenant d’un moyen plus spirituel pour vous convaincre. Vous ne pourrez pas l’humanite par tous moyens plausibles. Quelque indulgent que je sois, je ne pourrai effacer tous vos péchés de puis votre création. Le monde est dès maintenant dans les ténèbres. La vertu de Dieu est détruite; la haine universelle s’envenime la guerre mondiable est ineùvi-table.

La race francaise et la race annamite sont mes deux filles beùnites.

Je voudrais que vous soyiez unies par toujours. La nouvelle doctrine que j’enseigne a pour but de vous mettre dansune communauteự d’inteựreõts et de vie. Soyez donc unies par la volonteự et preựchez au mond la paix et la concorde.

En voilaø assez pour vous ce soir”.Extrait du Thanh ngôn Hiệp-Tuyển de l’ancien

34

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Tòa-Thánh Tây-Ninh (Edition 1928).

—————————ddd—————————

B. ITrong một bài chơn đạo truyền ngày 13 Janvier

1927, Chơn Linh Đức Lý-Thái-Bạch, Tam-Trấn của Đại Đạo trước mặt ít vị Lang-sa hầu đàn, giải nghĩa như sau nầy:

Quí Huynh đệ:Lão không có lợi dụng đức tin của quí huynh đệ

đặng bày sự bóng chàng mờ ám và nói tiên tri điều tà thuyết. Lão quyết nhứt là phô bày sự hữu ích của cái Đạo nầy, vì có một mình nó đem được sự hòa bình lại trong thế gian mà thôi.

Cái tôn chỉ Đạo nầy hiện thời có gieo truyền trong các sắc dân cho biết kính mến Đức Chúa Trời và yêu dấu cả nhơn loại; truyền sự hành vi đạo đức, sự ngay thật và học tánh nhịn nhục với nhau; tỏ bày cho nhơn loại biết rằng các sự-phải của người làm hiện thời đều sẽ có kết quả tốt trong lúc cuối cùng cho phần thiêng liêng được sáng suốt, ấy là mục đích cao thượng của Đại Đạo.

Các tôn chỉ của Tam-Giáo hiện giờ đều bị canh cải hết. Sự trật tự và sự thái bình đời xưa trong cả thế gian đều suy tồi. Luật phong hóa của nhơn loại đều trái ngược.

Thánh truyền của Đạo Thiên-Chúa để dụng mà dứt lòng tham lam của người mạnh hiếp kẻ yếu hèn và làm cho

35

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

người khôn đủ binh bị đặng chống với kẻ dại khờ. Theo mấy người không suy xét và không tin thì tiếng Đức Chúa Trời dùng mà nói nơi chót lưỡi đầu môi đó thôi.

Phải có một cái Đạo mới đặng dạy nhơn loại khắn khít trong sự thương xót chúng sanh, hiện giờ còn có một mình nước Nam duy trì thành thật cái tôn chỉ muôn năm: thờ phượng Vong-Linh.

Quí huynh đệ, Đức Chúa Trời bác ái đã giáng trần tại đây đặng phong con đường chí thiện đặng dìu dắt nhơn sanh, cả thảy phải ráng mà đi theo Chúa đặng ngày sau hưởng hạnh phúc, mỗi ngày phải bước cho lẹ trong sự kính mến Chúa. Cả thảy phải hòa hiệp và tương thân tương ái nhau. Phải giúp lẫn nhau, ấy là Thánh-ý của Tạo-Hóa định vậy.

Ở trần thế nầy là nơi chúng ta bị luân hồi tái kiếp đặng trả nợ thế, nếu chúng ta còn mài miệt trong sự ích kỷ lợi ta hại người, gây tai họa và tân khổ sở cho người, cho kẻ khác thì chúng ta sẽ vào A-Tỳ, là nơi kẻ hung bạo phải bị tiêu diệt phần xác và trầm luân phần hồn.

LÃO KIẾU.—————————ddd—————————

Dans un message transmis le 13 Janvier 1927. Lý-Thái-Bạch, Esprit Ministre de Dieu en quelques Europeùens, exposaen francais comme ci-apreøs le but de la nouvelle doctrine:

Chers freøres:

36

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Loin d’exploiter votre reùduliteù par de pueùrites sorceleries ou des propheùties charlatanesque. Je tiens particulièrement, chers frères, à vous faire comprendre l’hutiliteù de ceite religion, la seule capable de ramener la paix universelle.

La doetrine de cette Religion est reùpandue actuellement sur plusieurs points du globe sous diffeùrentes formes.

Combattre l’hérésie semer parmi les peuples l’a-mour du bien et des creùature, la pratique de la vertu; apprendre à aimer la justice et la résignation, à incul-quer aux humains des conséquenees posthumes de leurs actes, tout en assainissant leur âme: tel est l’ideùal du Dai-Dao.

Les Saintes Doctrines des diverses de religions sont mal pratiqueés. L’ordre et la paix du temps jadis s’effacent. La loi morale de l’humanité est trahie.

La Sainte Doctrine du Christianisme ne sert plus qu’à envenimer l’ambition des Forts contre les Faibles et arme les premiers contre les derniers, pour les rireùffleùchits Dieu n’enseigne par le mot.

Il faut une nouvelle doctrine capable de maintenir l’humaniteù dans l’amour des creùatures un seul la nation annamite conserve religieusement le culte milleùnaire des morts.

Chers freøres, le Christ miseùricordeaux est venu parmi vous pour vous tracer le

37

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

chomin du bien. Taâchez de le suivre pour avoir plus tard la paix de l’aâme; avancez chaque jour d’un pas alerte dans l’amour de Dieu. Unissez-vous, aimez-vous les uns les autres, aidez-vous mutuellement, c’est la loi divine.

En ce monde, ou chacun est condamné à subir son purgatoire, si l’on ne pense qu’à ses inteùrêts per-sonnels, si l’on cherche aø semer partout misères et souffrances, on risquera d’être entrainée dans ce torrent infernal òu le méchant va briser sa vie souiller son âme.

—————————ddd—————————

C.I [TĐ.I/ 34]

5.- Thanh thanh Nhựt Nguyệt cửu trùng Thiên,Hiệu xuất cao nhơn tại nhãn tiền.Bất quản Hổ tranh thâu Bắc cực,Chỉ nguy Long đấu đoạt Nam uyênSanh tồn cụ pháp vô công trác, Tử hậu cùng đồ uổng lộ diênHữu Đạo, hữu công du tự khả,Vô công, vô Đạo tổng đồ nhiên.

—————————ddd—————————

D. ITrong mấy lần giáng thế hóa thân truyền Đạo, Ngọc-

Hoàng Thượng-Đế đều có để lời tiên tri rằng: “Ngày kia sẽ có một nước nhỏ nhen trong Vạn quốc mà đặng làm chủ nền chơn Đạo của Ta”.6.- Hảo Nam bang! Hảo Nam bang!

38

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Tiểu quốc tạo khai hội Niết-BànHạnh ngộ Cao-Đài truyền Đại-ĐạoHảo phùng Ngọc-Đế ngự trần-gian,Thi ân, tế chúng thiên tai tận, Nhược thiệt, nhược hư vạn đại anChí bửu nhơn sanh vô giá địnhNăng tri giác thế sắc cao ban.

—————————ddd—————————

E. INOEL 1925

Ngọc-Hoàng Thượng-Đế viết Cao-Đài Tiên Ông,Đại Bồ Tát Ma Ha Tát Giáo Đạo Nam Phương.

Muôn kiếp có TA nắm chủ quyền,Vui lòng tu niệm hưởng ân ThiênĐạo-mầu rưới khắp nơi trần thế,Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên.

—————————ddd—————————

F. I

Saigon, ngày 26 Septembre 1926.CA, sao con không đợi chết bị đọa luân hồi, tới đây

làm gì?Tại nhơn hữu Đạo đắt chơn Tiên,Khai hoáng thanh thiên khán sắc thiên,Bảo thế khả quan hành khử hậuKỳ duyên khai thiết đáo như tiềnMạc vong thế hội vô tri ThánhKhảo cứu đường thi triết thế HiềnThần Thánh cư phàm thân vị hão,Thiêng-Liêng nhứt mạch thoát tiền khiên.

39

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Phò-loan CƯ, TRUNG, TẮC, con phải dạy CA. Ngày sau Thầy sẽ giao trách nhậm lớn lao cho nó như con vậy, nó là Chơn Thánh.

—————————ddd—————————

Hửu-Đạo, ngày 3 Mars 1927.Lộ khải hành đường chí thánh minhThanh biên nhựt tão chiết đơn đình,Hoành chu giang khách chung thinh đáoHữu đặt tuyền quan độ chúng sanh.

Nầy CA, ngày giờ đã trễ rồi! Con liệu đấy.

(Phò loan: DIÊU-SANG).—————————ddd—————————

Tây-ninh, le 5 Février 1927 (4-1 Đinh Mão)

Thái- BạchHỉ chư Đạo-hữu, chư Đạo-muội, chư chúng sanh,

hảo hội hiệp.Thảm cho nhơn loại, khổ cho nhơn loại!Đời quá dữ, tội tình ấy, hình phạt kia, cũng đáng đó

chút. Lão đã vì thương yêu nhơn sanh, hội mười ngày nơi Bạch-Ngọc-Kinh, cải cho qua nạn nhơn loại, nhưng Luật Thiên-Điều chẳng dễ chi sửa đặng. Nạn tiêu diệt hầu gần, hết chém giết lẫn nhau, tới buổi bịnh chướng sát hại. Lão thấy hình phạt phải châu mày, nhưng ôm lòng ráng chịu, lạy lục khẩn cầu; chư Đạo hữu đâu rõ thấu, ngơ ngơ, ngáo

40

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

ngáo như trẻ không hồn, thấy càng thảm thiết! Lão tưởng chẳng cần nói chi một nước nhỏ nhoi, đã đặng sanh Thánh-Địa là nước Nam nầy, mà Lão xin không đặng tội cho thành Sài-gòn, Chợ-lớn Gia-định, Huế, Hải-phòng, Hà-nội thay, thảm! thảm! thảm!...

Cuộc đời càng gẫm thấy càng cay,Ngặt nỗi Thiên cơ chẳng dám bày.Rắn núp dưới hang coi ngựa chạy,Khỉ ngồi trên ngọn ngó gà bay.Đông Tây chộp rộp Trời thay xác,Nam Bắc ê hề đất chở thây.Nhơn vật mười phần hao tám chín,Thần Tiên thấy vậy rất châu mày.

—————————ddd—————————

Mỹ-Phong, Mai 1927

Thầy sai ông TRUNG đem cặp đồng loan DIÊU SANG xuống nhà tôi giáng dạy, Phật Bà và Quan-Thánh cũng cho thi, và Thầy phong chức Phối-Sư phái Thái, dạy phải may Thiên-phục y như THƠ.

—————————ddd—————————

Cholon, Juillet 1927

Đêm ấy có Đàn đang trấn thần áo mão cho nhiều chức sắc tại nhà ông TRUNG, nên Đức Lý giáng dạy như sau nầy:

THÁI-Bạch phụng thừa Ngọc sắc ban

41

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

CA ngâm nhứt pháp triệu chư Thần,THANH tân thiên sắc Quỳnh bào thủ,Tịch-Đạo Ca Thanh sắc phục tân.

(Phò loan: HẬU-ĐỨC).Hai vị nầy nói: “Từ khai Đạo đến giờ, không có vị

chức sắc nào trấn thần áo mão mà có được tặng thi như vầy”.

—————————ddd—————————

III.ĐẠO CHINH NGHIÊNG

Bất tà dâm, bất sát sanh, bất tửu nhục, bất đạo tặc. Thầy phán rằng: Kỳ nầy Thầy không có giao Thánh-giáo cho tay phàm, vì Đạo Thầy qui Tam-Giáo, nên Thầy cho Tam-Trấn xuống trước đặng mở đường dẫn lối:

ª Đức Lý-Thái-Bạch — Đạo Tiên.ª Đức Quan-thế-Âm bồ tát — Đạo Phật.ª Đức Quan Thánh Đế Quân — Đạo Nho.

Tam trấn cũng hết lòng dìu dắt, khuyên lơn; nhưng vì chức sắc Cửu-Trùng-Đài và Hiệp-Thiên-Đài khó kềm chế: mấy vị bẩn-chật thì tài chánh bất minh, mấy vị giàu có thì có vọng tâm khác. Cho nên, Đức Lý-Đại-Tiên Giáo-Tông dạy làm Chương-trình lập hiến đặng sắp đặt và giữ trật tự trong Tòa-Thánh, nhưng Ngài Quyền Giáo-Tông có độc-quyền chế cải bày ra quê-lợi đặng cất Thánh-Tòa, rồi khuyên chúng sanh hãy bỏ đời theo Đạo. Vì vậy, mà nhiều sự tệ xảy ra, nhơn sanh chán ngán. Kế, ông Cao-Quỳnh-Cư liễu Đạo, thì cặp phò loan thứ nhứt còn một mình ông Tắc làm chủ Hiệp-Thiên-Đài,

42

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

mà ông không dùng cặp phò loan thứ nhì (Hậu-Đức), ông lại bắt ông Diêu trong cặp phò loan số ba (Sang-Diêu) ngồi chấp cơ với ông. Vì vậy, mà có nhiều bài chấp cơ của Tắc-Diêu không thiệt, nên trong 12 vị Hiệp-Thiên-Đài thì có 9-10 vị không nhìn nhận, mới cắt-cớ nên Đạo phải chinh nghiêng.

Nhiều cái điềm xấu, như: quả Càn-Khôn bị cháy, cốt Phật Thích Ca khi không mà ngã, Hiệp-Thiên-Đài xiêu sập… v…v …

Nhưng mấy ông cũng chẳng sửa cải.

(1) Đó là hai chữ “chơn tuyên”, nghĩa là: Chơn-Lý Đạo sẽ tuyên truyền ra cho người đặng biết. Lời của Đức CQ. Hiệp-Thiên-Đài Ngọc-Chơn-Long.

—————————ddd—————————

Tây-Ninh, ngày 5 tháng 4 năm 1928.“TRUNG, THƠ… Đạo chẳng kíp thì chầy sẽ thành

ra một mối hàng mà mỗi người trong Đạo sau khi giành giựt cắn xé nhau thì chia phân tan tành manh múng, để một trò cười về sau đó, ấy là tại nơi đâu? Người hành Đạo sẽ chẳng đủ sức chế cải, kẻ tự cao, luống chiều vì cầu danh nghịch tư cách đối cách đối đãi với thế tình, gây ác cảm mà tạo thành thù oán.

Hai đứa phải biết chỗ yếu nhược của Đạo nơi đó mà kiếm phương tìm chước lập công hòa-hiệp nhơn ý mà điều đình sửa cải nền Đạo cho chóng, làm sao cho mối đạo hữu các con đều ngó về Tòa-Thánh mà xưng ân huệ của mỗi con có trách nhậm xứng đáng, làm sao cho dứt mối hiềm

43

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

thù riêng của mỗi đứa, hiệp đồng trí mà làm cho người ngoài dòm vào chẳng khinh nhạo mối Đạo quí quá và thảy sùng bái cử chỉ cao thượng của các con. Chừng ấy các con không mạnh cũng ra mạnh, không đông cũng nên đông, mà việc phổ độ nhơn sanh chẳng còn điều chi trắc trở.

Đạo trễ một ngày thì hại cho nhơn sanh một ngày, mà mỗi đứa đều gây ác cảm, mà làm cho mối Đạo thành ra bánh vẽ, thì chừng nào Đạo trọn thành nơi đây? Chừng nào Đạo chuyển cho ngoại quốc? Trong còn mơ màng như người say chưa tỉnh, thì ngoài thế nào được đem mà gieo lần ra. Các con nên biết xưa những chi mà trái cả nhơn tâm thì khó bền khó vững. Chánh-sách cọng hòa êm tịnh là chánh sách của các con đặng dùng lập Đạo mà thôi. Kiêu hãnh, thái thậm, vào muốn có người trình, ra muốn có kẻ cúi, khoát nạt đè ép, biết mình mà chẳng năng biết người, hay ỷ sức mà chẳng lo xem thời thế, chẳng chế phục nhơn tâm, chẳng biết dụng khiêm từ mà đãi khách, làm những nết của Vương-Bá xưa dùng mà tan tành võ-trụ đó. Nầy các con muốn lập một Đạo chẳng khác chi lập một nước; phận sự lại còn khó khăn hơn nữa, liệu mà sửa cải, liệu mà điều đình, mới có thế chống ngăn với sự tàn bại sắp đến, cho nên Đạo chẳng xa? Nhưng hai con muốn được ra công kềm chế mà làm cho Đạo được vững, người được hòa, tâm được hiệp, ngoài được mạnh, trong được thung dung, giống quí mầu, thì công ấy chẳng chi sánh được”.

—————————ddd—————————

44

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Tây-ninh, ngày 26 tháng 7 năm 1928.Đức Lý Giáo-Tông giáng dạy như sau nầy:“Từ Lão lãnh trách nhậm Giáo-Tông kể ra thì chưa

đặng một mảy chi kết quả cho Đạo, mà lại còn mang lời nầy tiếng nọ. Vậy Lão xin nhường ngôi Giáo-Tông lại cho Đạo.

Hiền hữu Thượng-Trung-Nhựt với Lão chẳng xa lạ chi, vậy Lão xin hỏi một điều: nếu Đạo một may nghiêng ngửa thì danh giá của Hiền-hữu và của Lão đây ra thế nào?

Hiền-hữu đừng quá khiêm, dầu ngu thế nào cũng biết Đạo mà làm chớ, gọi là: u-ám không rõ Đạo-Lý. Đã hai năm mà gọi rằng chưa rõ; vậy Lão hỏi chư Đạo-hữu đây, có biết Chơn-Lý của Đạo là gì chăng? Lão muốn cho Hiền-hữu Thái-CA-Thanh làm một Chương-Trình Lập-hiến (Chương-Trình Cửu-Viện) mà đệ lên cho Hội-Thánh nghị-định hành Đạo cho hoàn tất. Còn Thượng-hiền-hữu lo tịnh-dưỡng tâm-thần đặng chờ địa-vị xứng đáng. Hiền-hữu phải ráng chỉnh-đốn trong Đạo cho hết lộn xộn về những việc bề ngoài của thế-tình, đừng để mang điều quái-dị thì có khi nhục đến danh Đạo… Cứ chiều lòng công-chúng thì nên mỗi việc. Lão thường dặn phải chung trí mà làm, thì không ai nói đặng”./-

45

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

—————————ddd—————————

Tây-ninh, ngày 8 tháng 5 năm 1930. Thầy, các con,

Thầy thấy phần nhiều, tu cũng muốn tu, mà thế-tục cũng không muốn chừa bỏ, thế-tục là nét dìu dắt cho mất ánh Thiêng-Liêng; phải lấy nghị-lực cang-tâm kềm chế cái dục-vọng mới là chẳng uổng công-phu hành Đạo cho. Áo dà cũng muốn mặc, giày Đạo cũng muốn mang, muốn đứng trước cả nhơn sanh, để cho họ biết mình là hướng Đạo, đường Tiên cũng lấp lửng, nguồn Thánh cũng lộn vào, thấy bạc rơi chẳng bỏ, lợi múng cũng chẳng chừa, mượn danh Đạo tạo danh mình, vô Thánh-điện mà hơi tà còn phưởng phất. Muốn cho nhà thiệt cao, áo thiệt tốt, đội lốt cọp dọa cáo bầy, bụng trống lổng túi thâu đầy, toan làm thầy lũ dại.

Ôi, lốt Đạo, lốt Đạo…Thầy buồn cho trẻ dại chẳng biết làm sao mà đem

Thánh-Giáo vào tay chúng nó đặng, Thầy nhớ xưa kẻ mộ Đạo chịu ngàn cay muôn đắng, biết có người mà chẳng biết nhục mình, giày gai áo bã, đội nguyệt mang sao, gió trước lọt chòi tranh, mưa sau hư giạu lá, bần hàn chẳng quản, tay trắng dìu người, một mảy cũng không bợn nhơ, mới có thể lập ngôi cho mình được. Chớ có đâu lấy của lẫn nhau,

46

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

mượn quyền xô Đức, kẻ chơn-thành lánh mặt, đứa tà mị áp vào, rồi cúm rúm mảng hơi tà, lạy đùa nói rằng thờ Chánh-Giáo.

Thầy hỏi: vậy chớ ai chứng cho?Các chức-sắc đều Lập Hiến Cửu viện đều lui lần lần

về nhà hết; sau nữa Đức Lý Đại Tiên giáng đàn cho một bài Tiên tri rằng: Tổ Đình Tây Vức (Tòa-Thánh Tây-ninh) sẽ là một ổ quỉ.

—————————ddd—————————

47

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

IV.THẦY DAY CÁN BÚT VỀ CAO-THIÊN ĐÀN

(RẠCH GIÁ)Vì nhơn sanh đồ thán nên Thầy day cán bút về Cao-

Thiên-Đàn (Rạch-giá), số người nhập môn tại Tây-ninh có phân nửa triệu người, kẻ đi hầu Đàn Đại Lễ có chừng 9-10 ngàn người; tại Thánh-Thất Mỹ-tho mới Lạc-thành Tết năm Thìn (1928), số nhập môn có 50.000 người, đi hầu Đàn có chừng 2-3 ngàn người, theo gần kịp Thánh-Thất Vũng-Liêm của bà Lâm-Thị-Thanh, là một Thánh-Thất đông hơn hết.

Năm Ngọ (1930), Thầy day cán bút về Cao-Thiên-Đàn (Rạch-giá), có cho ra cuốn kinh “Tu-Chơn Thiệp-Khuyết”:

NGỌC-Lịnh ban-hành khải Cửu-Cung,HOÀNG-Môn Xuân sắc tượng ung-dung,THƯỢNG-hành Hạ-hiệu đô công-quả,ĐẾ-Đạo hoằng khai chiếm thượng phong.

1.- Cung Bạch-Ngọc ngự-lâm bửu tọa,

Thọ chư Thần triều-hạ đã yên;Thân thân giá hạnh Nam-Thiên,

Trước xem Tam-Giáo cháu Tiên, con Rồng.2.- Đã đôi kiếp dày công, nhọc sức,

Dạy chúng-sanh kỉnh Phật thờ Trời;Thương thay cũng tại số người,

Ngạo lời Thánh-Huấn, kỉnh lời quỉ-vương.3.- Lòng chẳng kể cang-thường là Đạo,

48

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Dạ hằng lo hung-bạo làm đầu;Thấy vầy, Thầy phải nghĩ sâu,

Tam-Kỳ Phổ-Độ Nam Châu phen nầy.4.- Lời Thầy phán, rẽ mây vén ngút,

Kinh Thầy ban, chạm ngọc khảm vàng;Khác nào rọi đuốc chỉ đàng,

Khuyên con tạc dạ, ghi xương chớ rời.5.- Sách chép chữ: khôi khôi thiên-võng,

Đời ghi câu: lộng lộng lưới giăng;Nhặt thưa, mau chậm, cân-phân,

Mựa rằng sơ-sót, mắt Thần không sai.6.- Thầy đã dạy nhiều bài vàng-đá,

Con nỡ đành chẳng dạ sắt-đinh;Con hư, Thầy phụ chẳng đành,

Con nên, Thầy được phỉ tình ước-ao.7.- Đời hằng nói: Trời cao có mắt,

Sách thường biên: Thái nhứt vô hình;Minh-mông, đồ-sộ, rộng-thinh,

Mà soi-xét đủ tình-hình thế-gian.8.- Đây giáng bút ít hàng vắn-tắt,

Đặng trao lời vuông-tấc nhiệm-mầu; Chớ rằng: chẳng tiếng cao-sâu,

Khuyên thường chử dạ, mựa hầu sai-ngoa.9.- Ơn cúc-dục: công cha, nghĩa mẹ,

Đức sanh-thành: nuôi bé, dạy khôn;Tục rằng: cây cội nước nguồn,

Cây xanh nhờ có nước luôn tư mùa.10.- Cùng bạn-tác: không dua, không nịnh,

Với anh em: đừng phỉnh, đừng phờ;

49

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Thấy người quyền quí đừng mơ,Gặp người hoạn nạn chớ lơ-lảng lòng.

11.- Đạo quân-tử, vợ chồng gây mối,Mối cang-thường, dòng-dõi trổ nên;

Một lòng, một dạ vững-bền, Sớm-khuya dạy-bảo, nhủ-khuyên ngọt-ngào.

12.- Tình máu-mủ, đồng-bào cốt-nhục,Cũng rún nhau, một cục xắn-chia;

Đừng toan chước quỉ phân-lìa,Ở cho hòa-nhã tiếng bia danh đồn.

13.- Đạo thần-tử, lo tròn phận-sự,Nghĩa tôi-con, nắm giữ thân-danh;

Sao cho công-toại, danh-thành,Sao cho muôn thuở sử xanh tên đề.

14.- Cân Tạo-Hóa nhiều bề mắc-mỏ,Máy Kiền-Khôn hiếm chỗ cam-go;

Nước đời sâu chống, cạn dò,Đừng chơi biển thẳm, chớ mò lạch khơi.

15.- Thần, Tiên đã bày lời trung-chánh,Thánh, Hiền còn thêm gánh nghĩa-nhơn;

Thương đời chẳng biết công ơn,Chê-bai thấp-thỏi, chờn-vờn cầu cao.

16.- Muốn đặng Ngọc, thì vào non thẳm,Muốn tìm Vàng, phải ngấm biển sâu;

Muốn cho phú-quí, công-hầu,Thì tua gắng chí dãi-dầu tuyết sương.

17.- Ai cũng muốn Tây-Phương lạy Phật,Sao không lo Thánh-Thất chầu Thầy;

Vì con Thầy mới đến đây,

50

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Cạn phân lợi-hại, tỏ-bày thiệt-hơn.18.- Phải: tích đức, tu-nhơn làm trước,

Lo: tu-thân, tác phước cho cần;Trên đầu có Thánh, có Thần,

Có Trời, có Phật cầm cân chẳng lầm.19.- Đừng tưởng chỗ tối-tâm chẳng thấy,

Chớ tưởng điều phải-quấy không soi;Có câu: “khuynh-phúc, tài-bồi”

Nước sông rông kém, máy Trời vần-xây.20.- Vầng Nhựt-Nguyệt đêm-ngày soi-xét,

Lẽ Âm-Dương hàn-nhiệt giao-thông;Có câu: “Thiên-Địa chí-công”,

Họa dâm, phước thiện, mảy lông chẳng chừa.21.- Đừng tưởng lấy vải thưa che Thánh,

Chớ tưởng dùng sức mạnh qua Trời;Đáng thương, mà cũng đáng cười,

Vì lòng kiêu-ngạo dể-ngươi Cao-Dày.22.- Lòng bất-nhẫn thêm bày ít đoạn,

Dạ Từ-Bi phụ giảng vài bài;Khuyên con tạc dạ chớ sai,

Khuyên con chớ thấy dông-dài bỏ qua.23.- Nên xa tránh dâm-tà, sắc-dục,

Hư thân danh, điếm-nhục Tổ-Tông;Hại nầy, thiệt hại vô cùng,

Phật, Trời chẳng chút thứ-dung tội nầy.24.- Ví kiếp trước, dẫy-đầy Âm-chất,

Sa mê dâm, Phước-Đức tiêu-mòn;Hại mình, hại vợ, hại con,

Hại luôn sự-nghiệp, hại dồn đời sau.

51

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

25.- Chước quỉ-quái, lòng sâu dạ độc,Kế tinh-yêu, đục nước béo cò:

Lập mưu thả lưới, giăng dò,Hại người lương-thiện, ấm no thân mình.

26.- Người cậy thế khôn-lanh, xảo-trá,Trời dành phương nhơn-quả, trả vay;

Phủi tay chẳng kíp thì chầy,Reo cười chưa thỏa, xin mày không cơm.

27.- Đành búng-rảy ngày đơm, tháng giỗ,Nỡ phụ-phàng chim Tổ, người Tông;

Ỷ mình đủ cánh, đủ lông,Quên ơn cha mẹ, phủi công ông bà.

28.- Tội bất-hiếu, phui-pha đâu có,Chữ vô-tư, tỏ-rõ phải không;

Kiếm đao, địa-ngục song song,Đem vào trước dạy, vỡ lòng phanh gan.

29.- Chủ lường-gạt, buôn gian bán lận,Tớ gian-tham, lời chận lỗ thêm;

Miếng-môi chuốt ngót cho êm,Lường công tiếc việc, dao ghim đầy lòng.

30.- Phường sâu-độc, toan phòng ngọt mật,Tánh cưu-mang, nhử bắt giết ruồi;

Mưu sâu gẫm lại, than ôi!Hồi đầu báo ứng, kêu Trời muộn thay!

31.- Ngày chí tối, phô-bày nanh-vút,Sớm cùng trưa, xúi-giục kiện-thưa;

Xiết bao kế lận, mưu lừa,Ôm gồm hai phía, đỏng-đưa đôi đàng.

32.- Cậy quyền-thế, tham-quan ô-lại,

52

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Giả xưng-hô, quí-phái cao-môn;Líu-lo ba tấc lưỡi dòn,

Đã thâu của báu, lại bòn đồ xưa.33.- Giọt thán-oan như mưa thấy thảm,

Tiếng bi-ai dường sấm bên tai;Sống cho vạn ách, thiên tai,

Thác cho kiếp kiếp đầu-thai bồi-thường.34.- Dối Thần Phật gạt lường tế-độ,

Phỉnh chúng-sanh tu-bổ chùa-chiền;Trọng Tăng, kỉnh Phật thiêng-liêng,

Lòng thành dưng cúng, bạc tiền sá chi.35.- Nghề đồng-cốt, khinh-khi Tiên, Bụt;

Nghiệp bóng-chàng, đàng-đột hư-vô;Xác Ông, xác Cậu, xác Cô,

Dưng chay, cúng mặn, thế đồ, vớt vong.36.- Chẳng hiểu chữ: sắc không, không sắc,

Chẳng thông câu: không có, có không.Giam vào vô-để lao-lồng,

Chờ ngày: Phán-Đoán Đại-Đồng Thế-Gian.37.- Kẻ bợ-đỡ, mua quan, bán bạn,

Tánh nịnh lùa, giả dạng cầu thân;Cũng phường mọt nước, sâu dân,

Phú cho địa-ngục trầm-luân giam-cầm.38.- Phô những lũ tìm tâm ích-kỷ,

Khắp các phường tính kế hại người;Hại người, mình lại vui cười,

Hỏa-khanh địa-ngục, đốt đời chẳng dung.39.- Răn đệ-tử: chớ dùng rượu thịt,

Khuyên chúng-sanh: ráng ít chơi-bời;

53

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Sắc, tài, tửu, khí hao hơi,Gắng công Tu-Niệm thờ Trời, tụng Kinh.

40.- Lời Thầy phán, phải tin, phải tưởng,Tiếng Thầy răn, chớ cượng, chớ sai;

Tu cho rạng tiếng Cao-Đài:Cha hiền, con thảo, trai ngay, gái lành.

41.- Trối những kẻ khinh danh Đạo Cả,Thây các phường thóa mạ khi Thầy;

Khoe-khoan, kiêu-ngạo, đặt bày,Đền xong tội thế, đến ngày gặp TA.

42.- Điều biếng nhác, bởi già nghiệp chướng,Tánh trù trì, khó hưởng thanh nhàn.

Khuyên con vững dạ bền gan,Lòng lo tu-niệm, Thiên-Đàng mau lên.

43.- Mảng những ước thành Tiên, thành Thánh,Mà quên lo Tu Tánh, Tu Thân;

Tu cho bồi đắp thiện căn,Tu cho Trung, Hiếu, Nghĩa, Nhân vẹn-tuyền.

44.- Tu là cứu Cửu-Huyền Thất-Tổ,Tu là cần phổ-độ chúng-sanh;

Cầu cho cải dữ về lành,Cầu cho đất-nước thái-bình muôn năm.

45.- Tu cho được Thần khâm, quỉ phục,Tu cho nên thoát tục, siêu phàm;

Công danh, quyền quí, tước hàm,Mây tan, nước chảy mà ham nỗi gì?

46.- Thế thường nói: Tu chi cho nhọc,Để mà lo: tước lộc, công hầu;

Sao không suy trước, nghiệm sau,

54

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Tiền-căn, hậu-quả, bởi sao được vầy?47.- Phân năng bón, thì cây mới tốt,

Rễ thường tươi, thì đọt mới xanh;Muốn cho cả cội, sung nhành,

Tu Hành lo trước, sau đành thảnh thơi.48.- Thầy thương xót, ngùi ngùi kẻ dại,

Muốn thành công, mà lại ngao du;Phật mang tám nạn cũng Tu,

Thầy còn muôn kiếp công-phu dãi dầu.49.- Ai dẫu được công hầu, khanh tướng,

Mà không lo tiếp dưỡng tài bồi;Gốc cây, sùng đục đã rồi,

Khôn trông nứt mụt, nảy chồi, đơm bông.50.- Tu Phước Đức bền lòng cho lắm,

Tên quỉ vương hay nhắm người Tu;Mũi tên đã độc, lại mau,

Ghim vào một mũi, khó hầu gỡ ra.51.- Tên nó sắm: những là rượu bọt,

Tên nó giồi: gái tốt, vàng ròng;Muôn ngàn tên độc vô cùng,

Vương nhằm một mũi, thì không còn Hồn.52.- Tu thì chớ bôn chôn, nóng nảy,

Tu thì cho quấy-phải phân-minh:Chánh-tà, chơn-ngụy được rành,

Phật, Trời mới chứng cho mình rằng Tu.53.- Tu cho được: Phụ từ, Tử hiếu,

Tu cho thành: Huynh hữu, Đệ cung;Gái Tu: Tứ Đức, Tam Tùng,

Trai Tu: Nhơn, Nghĩa, Hiếu, Trung làm đầu.

55

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

54.- Thế tưởng vậy là Tu Nhơn-Đạo,Nào hay rằng: Thiên-Đạo bởi đây;

Chẳng lo Nhơn-Đạo cho dày,Mong thành Thiên-Đạo mặc-may làm gì.

55.- Phật đã dạy: “Tam Qui, Ngũ Giới”,Đời chẳng tuân, để hại Nguơn-Thần;

Bởi thương nên mới phân-trần,Vì thương nên mới ân-cần nhủ-khuyên.

56.- Một khuyên phải -kiền-thiền -mộ Đạo,Hai tuân lời Tam-Giáo Thánh-Nhơn:

Đạo là Chí Chánh, Chí Chơn,Những lời Thánh-Huấn chạm xương, ghi lòng.

57.- Ba khuyên nhớ Tổ Tông Công Đức,Bốn lo Tu đúng bực cang-thường:

Cha sanh, Thầy dạy kỷ-cương,Anh em bạn-tác, náu nương vợ chồng.

58.- Năm khuyên nhớ kẻ nông công khó,Sáu xót thương tằm-phụ nhọc nhằn:

Cày sâu, cấy cạn, bón phân,Làm nên tơ chỉ, trăm phần lao đao.

59.- Bảy liên lạc đồng bào, huynh đệ,Tám khuyên đừng xua-mỵ quyền-môn,

Sao cho tiếng ngợi, danh đồn,Đáng trang Đạo-Đức phải tôn, phải vì.

60.- Chín khuyên chớ khinh-khi cô-quả,Mười khuyên tua hỉ-xả lỗi người;

Khuyên đừng biết giận hờn ai,Xót người hoạn nạn, cứu nơi cơ hàn.

61.- Được vậy, mới gọi trang Tu Tánh,

56

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Tánh Tu rồi, mới định Tu Tâm;Càng Tu, càng thấy cao thâm,

Càng Tu, càng thấy sự lầm lạc xưa.62.- Biết lầm lỗi, thì chừa cho gấp,

Đặng mau lo bồi đắp cội lành;Như vầy: mới gọi Tu-Hành,

Như vầy: mới được chứng-minh Bồ-Đề.63.- Khuyên con phải kiêng-dè cho lắm,

Mười lời khuyên như tẩm Cam-Lồ;Đêm ngày dầu tụng Nam-Mô,

Mà không noi giữ nhành khô, rễ còi.64.- Mừng con đặng có mòi tấn-phát,

Rưới cho con nước mát mùi thơm;Bốn mùa, hoa nở, trái đơm,

Hơi bay bát ngát, nhụy tươm ngọt ngào.KỆ VIẾT:

I.— Giáng Cơ chỉ rõ Máy Kiền-Khôn,Ghi chép vài trang sách Thánh-Ngôn;Luân-Lý, Cang-Thường nên cả cội,Nghĩa, Nhơn, Trung, Hiếu vốn sâu nguồn;Thành Chơn Phước bởi công Vô-Lượng,Đắc Đạo ơn nhờ Đức-Chí-Tôn;Khuyên nhủ các con tua gắng chí,Tam-Kỳ muôn thuở tiếng bia đồn.

II.— Tiếng bia đồn đẻ ức, muôn năm,Khuyên thế đừng Tu độc hiểm tâm;Thầm tối mưu gài chông lễu-lễu,Cao-Xanh lưới bủa dạng tâm-tâm;Vô-thường chẳng sợ tay oanh-liệt,

57

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Quỉ-tốt nào kiêng bực phẩm-hàm;Thiện-ác đáo-đầu vay có trả,Hoàng-Thiên hữu nhãn chắc không lầm.

III.— Chắc không lầm-lỗi tiếng Mười Khuyên,Thì được tên đề bản Địa-Tiên;Muốn hưởng lâu dài nền hậu-quả,Phải lo bồi đắp cảnh tiền-duyên;Làm lành lánh dữ, câu thành ngữ,Tốt đất sung nhành, lẽ tự nhiên;Chí dốc siêu phàm lên cõi Thánh,Phải lo vun tưới miếng Tâm-Điền.

Các con! Thầy dạy bài “Tu Chơn Thiệp Khuyết” nầy là chỉ: Đường Ngay, Lẽ Chánh cho các con đi; nẻo vạy, thói tà cho các con sửa.

Trong lúc Thầy truyền Đạo đây, thì có Chư Thần, Tiên ủng hộ theo Thầy, tường vân che phủ, thoại khí bao quanh; lại có Văn-Xương Đế-Quân ghi chép vào Kim-Thơ Ngọc-Sách, hầu để vào “Tàng-Kinh Bửu-Viện”, cộng cả thảy là 64 vé, 256 câu, 1960 chữ.

Ba bài “Kệ”, các con phải giữ dạ nằm lòng, ngày đêm truyền tụng chớ khá bỏ qua; vì tụng Kinh nầy đây thì “Tứ-Trị Công-Tào Sứ-Giả” thảy hằng nghe, mà biên chép công-quả.

Thầy dạy Bổn-Mạng Nguơn-Thần của mỗi con, xét coi trong lúc rảnh-rang có trau giồi Đạo-Đức như lời Thầy

58

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

phán chăng? Các con hãy nghe, chớ rằng Thầy không nói trước.

Lời nào Thầy đã dỉ hơi ra,Vàng Ngọc gìn trau, chớ bỏ qua;Cung-kỉnh, ấy là nền Đạo-Đức,Kiêu-căng, vốn thiệt gốc yêu-tà;

Nguơn-Thần chiếu mạng người trung-chánh,Nghiệp-chướng trì chơn đứa xảo-ngoa;Đừng tưởng Trời cao, mà giả-dối,Mắt Thần như chớp, khó phui-pha.

Các con! Như có người nào ở ngoài vòng cửa mà muốn cho rõ mùi Đạo-Lý của Thầy, thì các con cũng nên xét và dạy chúng nó bài “Thiệp Khuyết” nầy:

Khuyên đời bỏ dữ, đặng theo lành, Ấy cũng là điều giúp chúng-sanh;Tiên-tục, thấp-cao, lời giác-đác,Nên-hư chỉ rõ, tiếng đành-rành;Thiện-duyên yếu mối, năng thưa-thớt,Nghiệp-chướng già cây, khó rắp-ranh;Vững lái êm chèo thuyền tế-độ,Đưa người đến bến mựa cành nanh. (Thăng)

----------------------------------------------------Bài “Thiệp Khuyết” nầy là bài giáng bút tại “Cao-Thiên-Đàn” (Thánh-Thất Rạch-Giá, Kiên-giang), đêm 24 tháng 3 năm Canh-Ngũ (22 Avril 1930).

—————————ddd—————————

59

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Đầu năm Tân-Vì (1931), Đức Lý Đại Tiên giáng đàn tại Mỹ-tho ra bài “Chánh-Tà Yếu-Lý”.

Bài Thánh-Giáo giáng bút tại nhà ông Nguyễn-văn-Ca (Đồng-tử Chơn-Tâm chấp-bút) đêm mồng 7 rạng mồng 8, 23 giờ, tháng Giêng năm Tân-Vì, trả lời y Sớ mà ông CA dưng ngày mồng Một Tết.

LÝ sanh Tâm Tánh ghét gian hùng,THÁI quá ngày sau khó nổi dung,BẠCH-Ngọc nỡ nào cho có vít,GIẢNG-Phân tà-chánh các ngươi chung.

- Nền Đạo hầu nghiêng, Thói đời thêm mị.

- Lớn mưu mưu, nhỏ kế kế, muốn sao cho chỉ đá hóa vàng; Trên tính tính, dưới bàn bàn, lo đến đỗi nắn Trời nên vóc.

- Học không lo học, Danh lại cầu danh.

- Kẻ si mê, phờ phỉnh đã đành, Người trí thức, dỗ dành đâu được.

- Cạn mưu túng nước, đã bán Trời, còn bịa đặt danh quan; Cùng thế bít đàng, đành giả Phật, đâu kiêng Luật Thánh.

- Đạo toàn Chơn Chánh, Nghĩa vẹn Hiếu Trung.

- Lý Nhiệm Mầu người muốn suy cùng, Lời u ẩn, lòng tua minh kiến.

60

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

- Máu tham chẳng biến, Đường thẳng chẳng theo.

- Thấy con đây khí phách biết điều, đường tà-chánh Thầy nên phân-giáng.

TA vưng lịnh ĐỨC-CHÍ-TÔN cho bài giảng-phân

“CHÁNH-TÀ YẾU-LÝ”:

1.- Nhằm cơn mạt kiếp suy vi,Dị đoan ong dậy, chánh qui gò bằng;

Phe ngoại Đạo tráo căn, trộm kiếp, Lũ yêu vương thừa dịp lộng quyền;

Kể chi trăm họ đảo điên,Miễn cho toại được ý riêng của mình.

2.- Trên bia đặt một hình Thượng-Đế,Dưới tóm thâu hiếm kẻ vuốt nanh;

Chước ma kế quỉ sẵn dành,Chờ cơn nước bí, cờ dành vào tay.

3.- Sách đã dạy: tôi ngay, con thảo,Sách nào cho: lòng cáo, dạ muông;

Khen cho lũ chuột, bầy chồn,Đào hang trổ ngách khoe khôn cậy tài.

4.- Thầy đã mở Cao-Đài Đại-Đạo,Hiệp Năm nhành như áo có bâu;

Chỉ đàng Chơn Chánh cao sâu,Dắt đường yếu-lý nhiệm-mầu nên theo.

5.- Hột giống tốt cùng gieo rải-rác,Nhưng chỗ vầy, chỗ khác không đồng;

61

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Cũng vì tại ở nơi lòng,Người ham Chơn-Lý, kẻ mong giành quyền.

6.- Quyền tính chước tuyên truyền trần thuyết;Lý tìm đường tịch-diệt hư-vô.

Chánh-tà, chơn-ngụy lưỡng đồ,Xem trong hai lẽ mà đo, mà lường.

7.- Quyền, ngày tính thiên phương vạn kế,Lo sao cho mờ kẻ thấp hèn;

Buôn Trời, bán Phật chẳng kiêng,Chẳng Thần, chẳng Thánh, chẳng Tiên, chẳng phàm.

8.- Lý thì xét tam tam tiền hậu,Ngoài vòng Trời còn dấu lẽ chi,

Nào là huyền-diệu ẩn-vi,Xanh kia dính với mình ni lẽ nào.

9.- Quyền, chẳng kể ồn ào, hỗn tạp,Miễn sao cho kẻ nạp, người dưng,

Tờ kia giấy nọ tưng bừng,Nhiều ra rồi lại không ăn, không nhằm.

10.- Trái hẳn với kẻ tầm Chơn-Lý,Một mối tìm một tý không sai,

Đường Ngay có một, không hai,Đường Ngay từ thuở Thiên-Khai đến giờ.

11.- Đây TA chỉ sơ sơ một ít,Đặng biết chừng mục-đích mà phăng:

Đạo là phẳng-lặng, trang-bằng,Dường như gió tạnh Trời trăng đêm rằm;

12.- Tây-Trúc dạy: “Minh Tâm Kiến Tánh”,Hàm-Quan khuyên: “Luyện Tánh Tu Tâm”,

Lỗ-Đông: “Dưỡng Tánh Tồn Tâm”,

62

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Da-Tô: “Thượng-Đế tại Tâm” chẳng rời.13.- Tứ-Đại-Thánh một lời chẳng khác,

Khác tại người xiêu lạc cải-canh;Đường Ngay chẳng thạo đã đành,

Tâm sanh chưởng chưởng, ma sanh khó gì.14.- Tìm Đại-Đạo phải suy cho lắm,

Luyện Chơn-Nguơn phải gẫm cho cùng;Con người chẳng sót mảy lông,

Tịnh-Tâm mình mới khỏi mong xiêu vời.15.- Người muốn rõ Đạo Trời huyền-diệu,

Thì phải lo chánh-yếu mà tìm;Lo chi mãn tải huỳnh-kim,

Dựng lầu, xây các cho biềm sắn leo.16.- Cuộc giả dối tinh yêu, ma quỉ,

Tiếng bọt bèo thô bỉ, vụn vằng;Đạo là Chí Chánh, Chí Chân,

Người sao để dạ cầm cân so lường.17.- Thầy hết dạ yêu-thương con dại,

Thầy hết lòng hoài-đoái trẻ ngây;Khắp cùng Nam, Bắc, Đông, Tây,

Nơi nào Thầy cũng giảng-bày Lẽ Chơn.18.- Thầy nhìn biết con hơn vàng bạc,

Nơi nơi đều con lạc của Thầy;Khen ai lớn mật dạn tay,

Rằng: Thầy bỏ đó, nhìn đây cho đành.19.- Cũng vì bởi đồ danh, trục lợi,

Mới xui nên khinh ngỡi, trọng tài;Cốt đồng che lấp mắt ai,

Cốt đồng che đặng mắt Trời mảy ru?

63

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

20.- Khuyên lớn-nhỏ muốn Tu thành Phật,Đừng cưu lòng đố-tật Hiền Nhơn;

Ghen tương, kiêu ngạo, khoe khoan,Tham lam, giả dối, đừng mang vào mình.

21.- Trời lộng lộng, thinh thinh, lẩm rẩm,Đạo vơi vơi, thẩm thẩm, minh mang;

Muốn cho thông suốt mọi đàng,Bền lòng kiên nhẫn,chắc gan thử rèn.

22.- Thương những kẻ giá hèn như rác,Lại làm trò thượng đạt thiện tâm;

Cơ thâm thì họa diệt thâm,Mình lầm mình chịu, dễ lầm Người sao?

23.- Thân dốt nát mà bao lốt Thánh,Óc ngu si lại lãnh vai Thần;

Bò vàng gắn điếu làm Lân,Dở-dang lưu-thủy, phân-vân Phụng-Hoàng.

24.- Muốn hành Đạo, lòng gian phải dẹp,Muốn người theo, tiếng mép phải chừa;

Đừng lòng kẻ ghét, người ưa, Đừng ham tiếng bẩm, lời thưa với mình.

25.- Mình muốn được rõ Minh Chánh Lý,Ta với Người một thể với nhau;

Có đâu đem dạ cơ cầu,Ngăn đường, lấp ngõ đặng thâu giả-quyền.

26.- Biết Lẽ-Phải thì kiêng mới phải,Nghe Điều-Hay thì lạy mới hay;

Khuyên đừng ỷ thế cậy tài,Thấy điều trái ý thì bài-bác ra.

27.- Đành chẳng quản gần xa thô bỉ,

64

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Thiệt không màng miệng thế đồn vang;Khéo làm như bọn mua giàn,

Mượn màu son phấn khoe giàn kiếm ăn.28.- Tua un-đúc tinh-thần phát-triển,

Khá giữ-gìn Điển-Tuyến quang-minh;Mấy từng đồ-sộ Cao-Xanh,

Đương liền như lưới với mình mình đây.29.- Mình sung Điển như cây sung tược,

Tược tốt tươi nhờ nước mát yêm;Bông hoa ngày nảy nở thêm,

Lá sum-sê phủ, nhánh dìm-già đơm.30.- Thần nuôi Đạo như cơm nuôi vóc,

Đạo nuôi Thần như lộc nuôi thân;Thần mà tinh-khiết muôn phần,

Càng vui càng vẻ Đạo càng được khen.

Câu chuyện còn dài, song Chơn-Tâm đã yếu, không hứng chịu cái Điển-Quang lâu đặng. Ta cậy tay Tường-Khánh mà tiếp bút. Muốn cho đủ bài giảng phân “Chánh-Tà Yếu-Lý” thì do nơi Kiên-Giang.

Tới đây xin bế-mạc.

Thầy có bảo Ta trao hai bức thơ cho Ca, nhớ trao lại cho Tâm và Vịnh.

“NGỌC quang đạo mão ưởng y thường,HOÀNG-Điện trang-nghiêm dụng biểu-chương,THƯỢNG đạt vĩ-nhơn vô hậu cố,ĐẾ hoài chiếu giám nhĩ tâm trường”.

65

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Ấy là bức thơ cho Nguyễn-Tâm. Đây là bức thơ cho Nguyễn-Vịnh:

“NGỌC thố thu hào bút dĩ hao,HOÀNG-Ân cố vọng nhĩ đồng-bào,THƯỢNG thương phúc tải vô thinh xú,ĐẾ bộ vân tiêu nhứt vỏ mao”.

Ca, Ta cho ngươi một bài Kệ, cứ theo đó mà hành-động, lo chi Đạo không mở-mang theo Chơn-Lý.

“Khá khá song còn thiếu cánh vây,Bài dài sao chẳng thốt cho hay,Liềm trăng ánh dạng sao ba bóng,Kinh địa trao lời rạng vẻ mây”.

—————————ddd—————————

Cao-Thiên-Đàn Rạch-Giá (Kiên-Giang),12 giờ đêm mồng 7 tháng Giêng năm Tân-Vì (1931).

(Đồng-tử Tường-Khánh chấp-bút):

LÝ suy-xét rộng khắp Năm Châu,BẠCH sắc kim-liên chứng Đạo Mầu,GIÁO giảng chúng-sanh tầm Chánh-Giác,TÔNG-Kinh diệu-phẩm nghĩa cao sâu.

Đồng-tử Chơn-Tâm vì còn nhỏ (16 tuổi), xứ lạ phần mệt mỏi, nên không thế nào chịu hứng Điển-Quang của TA. Bởi vậy, TA truyền Điển sang cho Tường-Khánh đặng cho tiếp bài phân-giải “Chánh-Tà Yếu-Lý” của TA cho trọn.

TA có cho bài thi ngụ-ngôn mà chúng nó không hiểu, các ngươi hãy kiếm mà giải.

66

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

“Khá khá song còn thiếu cánh vây,Bài dài sao chẳng thốt cho hay,Liềm trăng ánh dạng sao ba bóng,Kinh địa trao lời rạng vẻ mây”.

TA cho nối bài phân-giải “Chánh-Tà Yếu-Lý”:

31.- Đừng làm cách đê hèn, khiếp nhược,Mắt lim-dim giả chước truyền thần;

Mơ-màng bể ái nguồn ân,Thay lê tráo lý, rộn-xăng vụng-về.

32.- Người muốn thoát bến mê bể khổ,Trông cậy Thầy chỉ chỗ dẫn đường;

Thầy mừng hết dạ yêu thương,Đèn soi đêm tối, lửa vàng đêm đông.

33.- Đâu mượn tiếng đem lòng xảo quyệt,Giả danh Thầy chẳng biết tới ai;

Thầy nhìn con cả gái trai,Côn trùng, điểu thú, căn cai cũng nhìn.

34.- Đạo bổn thể hư-linh bất mậu,Vận Nguơn-Thần sung thấu Tam-Quang;

Giao thông trên dưới huyền hoàn, Bốn phương, tám hướng dọc ngang không cùng.

35.- Khi phóng-xuất mãn sung võ-trụ,Lúc bế-tàn thối ngụ nơi Tâm;

Ngươn-Thần thận độc phương châm,Chơn đi giá mỏng, tay cầm lưu ly.

36.- Mắt chưa thấy hào ly Thiên-Đạo,Tai chưa nghe báng trảo Thần phù;

Cống hò xê liếu rằng Tu,

67

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Đứa đui lại dắt thằng mù đi đêm.37.- Khinh phép Nước bày điềm mị-mộng,

Mượn danh Thầy muốn lộng quyền cao;Đất bằng lại nổi ba-đào,

Chẳng thương xót đến đồng-bào, chúng-sanh.38.- Nguồn Đạo mở trong-xanh như suối,

Luật Đạo ban phao nổi như cồn;Trách ai đem Đạo đi chôn,

Đóng vai diễn lớp giống tuồng cải-lương.39.- Người giữ phép dẫn đường vi phép,

Kẻ phi quan mở dịp giả quan;Học đòi theo thể bóng chàng,

Mượn Thầy đặng lập một đoàn đi buôn.40.- Đạo là Đạo như khuôn đã đúc,

Trời là Trời, tà khúc chẳng dung;Dầu ai sai lạc đến cùng,

Cải tà qui chánh còn trông ơn Thầy.41.- Thầy Quảng-Đại, Cao-Dày sông biển,

Con lỗi-lầm, lười-biếng, dại-khờ;Thương con nên chỉ Huyền-Cơ,

Cho con biết bến, biết bờ mà theo.42.- Thần Đạo Học vừa gieo Tánh Mạng,

Luyện Linh-Hồn vượt khoảng từng mây;Hồn con là Ngọc của Thầy,

Hồn con báu-lạ xưa-nay còn hoài.43.- Thân-Thể với Hình-Hài vật-chất,

Có Giác-Hồn Ba Bực tùy thân:Thần-Hồn khôn dại không chừng,

Theo màu thuốc nhuộm, theo lằn sóng đưa.

68

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

44.- Noi Chánh-Lý ngăn ngừa nẻo vạy,Chính Anh-Hồn phải-quấy phân-minh;

Hễ người cốt-cách được thanh,Thần-Hồn ít lúc cải-canh Anh-Hồn.

45.- Kẻ tiền-kiếp đeo còn nghiệp cốt,Nặng-nhẹ mang những lốt thú cầm;

Thần-Hồn nhiều-ít giả-tâm,Anh-Hồn khó nổi việc chăm-nom liền.

46.- Linh-Hồn vốn thiêng-liêng, huợt-bát,Chính là ngôi Bổn-Giác Thầy ban;

Gìn cho trong sạch hoàn toàn,Thần dày Đạo Đức, Linh càng phẩm cao.

47.- Giữ trong sạch, đừng hao Tinh, Khí,Nguơn-Thần đừng đắm-lụy trần-ai;

Trong ngần, chẳng chút lợt phai,Có ngày chơn bước đến đài Cao-Xanh.

48.- Phải ráng nhớ trong mình sẵn đủTánh Linh Thầy ban phú từ xưa;

Trăm điều vật-dục phải chừa,Đừng tham danh-lợi, chớ ưa sang-giàu.

49.- Chữ Chí Thiện là đầu trăm việc,Lẽ chánh-tà phải quyết, chớ từ;

Thấy điều gian-trá thì trừ,Đừng cho mình vấy tiếng hư theo người.

KỆ RẰNG:Đạo Thầy Chánh Đại lại Quang Minh,Đâu phải tuồng như kẻ thế-tình,Khuyên khắp chúng-sanh mau tỉnh giấc,Đài Cao cửa rộng mở thinh-thinh.

69

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

(Thăng)

—————————ddd—————————

70

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

THÁNH-HUẤN CỦA THÁNH-THẤT KIÊN-GIANGNHỊ-THẬP-THỦ LIÊN-HƯỜNNGỌC ngà châu báu của Trời ban,HOÀNG cảnh sao xem thấy nhộn nhàng,THƯỢNG phẩm cung tuờng ai dễ thấu,ĐẾ quyền đâu sái mảy trần-gian.

I.Các con lớn nhỏ thấy càng thương,Lắc lở gần đi muốn lạc đường,Tin cậy lời ma sao sốt sắng,Ước ao kinh Thánh lại lương khương,Gương trong chớ để chi phơ phất,Tơ trắng đừng cho chút vấn vương.Một mảy lòng sai mau sửa lỗi,Đừng cho trần khí nhiễm đàng tràng.

II.Đàng tràng cao thượng mới vừa yên,Còn muốn mang lời với Tán-TiênPháp chuyển sanh điều may khỏi dữ,Ma cơ viện cớ ắt không hiền.Chanh ranh bánh trước đà lăn úp,Chợp rợp xe sau dợm ngửa nghiêng,Công việc muốn làm, làm chẳng hỏi,Khen cho mãi mãi để Thầy phiền.

III.Thầy phiền nào có ích chi đâu?Vụng tính không ngừa việc trước sauThấy vậy chẳng răn thêm luốt lát,Bởi thương ít phạt lại lau chau,

71

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Từ đây qui luật thêm nghiêm nhặc,Mãi tới chương trình cứ sửa trauChánh quả được thành cho giáng bút,Cấm đừng kẻ khẩn lại người cầu

IV.Khẩn cầu ai có chứng cho đâu,Khéo sắm nề cho quỉ phá chay.Ruộng sẵn, tiền dư, toan phí của,Mưa sa, nước ngập, khó gieo cày.Năm lừa, bảy lọc, vừa mừng đấy,Một lỡ, hai lầm, gẫm xót thayCó chút lòng thành tua gắng sức,Chớ sa nẻo vạy, bỏ đường ngay.

V.Đường ngay kỉnh Phật với thờ Trời,Chớ thấy thương rồi lại dể ngươiMột dạ thành tâm quên gắn vó (gắn bó)Trăm điều ma quỉ dục tơi bời.Gai chông án mặt tua ruồng bỏ,Đạo đức gìn lòng mới thảnh thơi. Có chí thì nên, lâu phải được,Bồng-lai, Nhược-Thủy sức đua bơi.

VI.Đua bơi chi cái thú yêu tà?Nước trí non nhơn sẵn vốn TAKinh kệ sân vàng, vòng Thái-Ất,Móc mưa bụi đỏ, báu Di-Đà.Trăng trong gió mát nào eo hẹp,

72

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Cội cả nguồn sâu chớ bỏ quaTam-giáo dạy ròng lòng tín ngưỡng,Có đâu Phật Phật lại ma ma!

VII.Phật ma, ma Phật chẻ lòng tin,Yêu quái chiều theo sửa tánh tình.Đạo-hạnh nếu không già pháp tướng,Ngươn-thần hằng phải loạn danh thinhBồ-đoàn sớm tối tiêu tiền nghiệt,Bữu-Tọa hôm mai giác hậu sinh.Khờ dại đáng thương, thương mới dạy,Đố ai lấp được mắt Thần minh.

VIII.Thần minh bất vị thói gian hùng, Lánh hé ngờ qua luật Chí-Công,Ẩn bóng Tam-Kỳ, tuồng đạo đức,Bịa danh Thượng-Đế, bộ thung dung.Chữa mình mượn tiếng đời ân xá,Phỉnh chúng lầm đường tội bất dungLộng lộng lưới thưa đâu dễ lọt,Để cho đứa nịnh nhuộm màu trung?

IX.Trung thành cang trực chẳng vơ quàng,Mới được danh đồn tiếng dậy vang,Mạch nước báu dân lòng sắt đá,Cửa chùa mối Đạo dạ son vàng.Tu-trì chỉ nẻo khuyên đem lối,

73

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Công-quả tìm phương khá dẫn đàng.Sau trước một lòng bồi cội phước,Thi ân đùm bọc đứa cơ hàn.

X.Cơ hàn vấn vít đứa hàn vi,Đời có từ tâm phải nghĩ suy.Bố thí nét son bia ngọc bản,Quả công sớ trắng tấu đơn trì,Dẫu rằng dưới thế không hay đó,Chớ tưởng trên Trời chẳng biết chi,Nền thấp phải bồi, bồi mới vững,Ráng lo công quả Thất Tam-Kỳ.

—————————ddd—————————

Cao-Thiên-Đàn Kiên-Giang, Đêm 28 tháng 7 Canh-Ngũ (20-9-1930).

TÂY cảnh gìn lòng độ chúng sinh,PHƯƠNG nào cũng độ khắp U-Minh,THÍCH môn huệ tánh dồi tâm tướng,CA giáo hư-vô luyện tánh linh,CHỨNG cấp huyền cơ ban Nữ phái,MINH mông ngọc sắc hội tiên danh,THỂ vân xá lợi đồng vui hưởng,LIÊN các cung Quỳnh bước rộng thinh.

Thượng ỷ chứng đàn cho:

THỂ sắc không không hựu bất không,LIÊN hoa vạn đóa hiện vu trung,TIÊN đơn ký đắc Minh Tâm-Tánh,NỮ nữ nam nam, tánh diệc đồng.

74

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

GIẢI THUYẾT ĐẠO PHẬT:

1.- Tây-Phương Giáo-Chủ Thích-Ca,Giảng minh thuyết pháp Thiên-hoa Liên-Đài.

Hằng sa số Phật hôm mai,Nhứt-tâm qui hướng Như-Lai phước điền.

2.- Có câu Phật độ hữu duyên,Khuyên ai ráng giữ Bổn-nguyên của mình.

Nhơn sanh vạn vật tối linh,Tiền nhơn hậu quả như hình rọi gương.

3.- Phật-Ca hạ giáng Tây-Phương,Xả thân cầu Đạo, bởi thương loài người.

Thương vì sanh chúng giữa vời,Sánh cùng Thiên-Địa, xứng ngôi Tam-tài.

4.- Lý ưng mạnh giỏi hoài hoài,Có đâu già yếu, hôm mai tật nguyền.

Đến cơn bịnh khổ triền miên,Thác rồi hết kiếp đảo điên trăm bề,

5.- SANH rồi lại BỊNH làm chi,LÃO rồi lại TỬ, thảm thê vô cùng.

Nghĩ suy chi xiết não nùng,Tuyết-Sơn tu luyện, dày công được thành.

6.- Quyết lòng độ khắp chúng sanhNiết-bàn diệu quả, chứng minh Bồ-đề.

Rèn lòng nguyện lực Đại-Bi,Vô thượng, chánh giác, kiếp thì viên minh.

7.- Đạo Phật càng gẫm càng kinh,Bất sinh bất diệt, minh minh muôn ngàn.

75

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Đại thiên thế giới mang mang,Vô biên vô lượng, thanh nhàn trang nghiêm.

8.- Sắc không, không sắc, nan chiêm,Vô ảnh, vô lượng, cổ kim diệu huyền.

Tầm lưu nhứt đán đắc nguyên,Diệu trung chí diệu, hiển nhiên phi phàm.

9.- Bình tâm dưỡng tánh cho kham,Tu lai cải vản, chớ ham vọng cầu.

Trong mình sẵn ngọc Minh-châu,Trong mình sẵn Phật, phải đâu mà tìm.

10.- Trăng trong, gió lặng, nước êm,Gay chéo Bác-nhã, khoát rèm Chơn-Như

Lần lần dọ bến không-hư,Nọ bờ Cực-Lạc, kia bờ phi phi,

11.- Vượt qua Bát-chánh Đạo chi,Trần sa vô bất liễu tri hiện tiền.

Trải sang vô sắc Trùng-thiên,Linh sơn chứng quả, vô phiền vô ưu.

12.- Mấy ai rõ thấu Đạo mầu,Thông hành, thể, dụng, nguyên, lưu Di-Đà

Dám rằng đạo Ấn, đạo Chà,Khinh rằng quái đảng, gọi là dị đoan.

13.- Bắc, Nam cũng một con đàng,Sợi tơ khéo nhuộm, xanh vàng tại tay.

Rừng xanh, đố biết mấy cây,Đáy sông mấy lớp, cung mây mấy từng?

14.- Đất sao chỗ nổng, chỗ bằng,Chỗ sâu, chỗ cạn, chỗ hoằng, chỗ cao?

Trên Trời, đố mấy ngôi sao,

76

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Biển nọ Ai đào, núi nọ Ai xây?15.- Loài người Ai tạo ra đây,

Thế gian Ai sắm, Ai bày thuở nao?U ơ dường thể chiêm bao,

Đáy sông lặn nhào, mò vớt bóng trăng.16.- Khoe khoe, nói nói, rằng rằng,

Sức người trí thức thắng phần Thiên-nhiên.Lại chê báu vật mọn hèn,

Ca-sa, tích-trượng, hóa duyên vô cùng.17.- Hiển-vi mà rọi trên không,

Khác nào nhắm mắt, lặn sông bòn vàng.Thước đo mà hiểu Dinh-hoàn,

Khác nào bầy kiến mò đàng Tu-di.18.- Con người chưa thấy sự gì,

Lường Trời, đong Đất, phân bì nhọc công.Ngũ hành sanh khắc vừa thông,

Tưởng đâu đoạt hết Hóa-Công mấy lò.19.- Ba ngàn thế giới Diêm-phù,

Mới vừa vừa biết, năm Châu mơ màng.Còn ngoài ngoài nữa mênh mang,

Đại-Thiên thế giới, muôn ngàn Kiền-Khôn.20.- Một mình Đức Phật Chí-Tôn,

Trong ngoài hiểu thấu chẳng còn sót chi.Vị lai, quá khứ, hiện thì.

Giải phân kinh luật u vi rẽ ròi.21.- Trần sa bể khổ, em ôi!

Phải độ mình rồi, đặng độ chúng sanh.Đến ngày đắc quả Đạo thành,

Siêu thăng Thất tổ, độ thanh Cửu huyền.

77

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

22.- Muốn cho công quả vẹn tuyền,Rửa xong nghiệp chướng, tập rèn chơn công.

Ngụy tà, phiền não không không,Tam thân siêu chứng, lục thông có ngày.

23.- Ở ăn mực thẳng đường ngay,Cang thường mựa chớ đổi thay tấm lòng.

Khắp trong Tam Giáo Đại Đồng,Gái mà tiết hạnh, thỉ chung trọn đời.

24.- Xử xong cho trọn đạo người,Nhơn duyên viên giác, Phật Trời chứng cho.

Có người gạt gẩm kẻ ngu,Rằng thân phận gái, dẫu tu không thành:

25.- Một là thân phận hôi tanh, Hai là vì bởi số sanh kiếp đày.

Ba vì lòng độc hiểm nguy,Bốn là giống để làm tay chơn người.

26.- Năm là yếu đuối biếng lười,Sáu là giống để nối giòng người dưng.

Bảy là thân phận chiếu chăn,Tám là phận phải kẻ chăn, người cầm.

27.- Chín là dốt nát, tối tăm, Mười là đa cảm, đa dâm, đa tình,

Dầu cho vững chí tu hành,Là tu hậu kiếp nguyện thành nam-nhi.

28.- Nực cười cho kẻ ngu si,Đặt điều lời nói không vì không kiêng.

Rõ ràng Kinh Luật có biên,Hàm linh xuẩn động hữu duyên năng thành.

29.- Huống chi gái cũng chúng sanh,

78

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Phật là Từ-Mẫu nỡ đành chẳng thương.Giải cho em đặng tỏ tường,

Giải cho em biết rõ ràng kẻo nghi.30.- Dầu cho nam-tử, nữ-nhi,

Ấy là sắc tướng của bề Hóa Công.Phật là chuyên trọng Tánh tông,

Tánh tông vô tướng, vô dung, vô hình.31.- Nguơn nguơn, hóa hóa, sinh sinh,

Bổn lai sẵn có nguơn-tinh, khí, thần.Gọi là Tam-bảo chi thân,

Người tua trân trọng, muôn phần chớ rơi.32.- Còn phần nam nữ vóc người,

Ấy là xác thịt của người phàm gian.Tu cho đến cõi Niết-bàn,

Siêu phàm nhập Thánh, hoàn toàn Chơn-thân.33.- Xác phàm gởi lại Hồng-trần,

Chơn-thân, Tam-bửu về phăng Liên-Đài.Phật không phân biệt gái trai,

Hễ là đắc quả thì ai cũng đồng.34.- Kìa như điểu, thú, côn trùng,

Chí tâm mộ Phật, thỉ chung cũng thành.Giải cho em rõ ngọn nhành,

Ráng lo ăn học, tu hành cho nên.35.- Còn nhiều nghĩa lý hiển nhiên,

Đoạn sau Chị sẽ giảng riêng từ phần.Tu hành em ráng ân cần,

Có thân thì phải giữ thân làm đầu.Thể Liên Tiên Nữ.

—————————ddd—————————

79

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Cao-Thiên-Đàn Kiêng-Giang, Ngày 22 Septembre 1930.

THÁI thỉ gầy nên cuộc Hóa-Công,THƯỢNG thương ly hận luyện đơn cung;ĐẠO Tiên hiển hích điềm linh-ứng,TỔ Thánh roi truyền sự cảm thông,CHỨNG kiến quang minh cần Phổ-Độ,ĐÀN tràng giảng giải ý chơn tông;THỂ gương bửu kính cho đời hiểu,LIÊN tọa đài xây khắp Đại-Đồng.

Thượng ỷ Chứng Đàn cho:THỂ đồng Thiên Địa diệu vô cùng,LIÊN dẫn hương hề nguyệt dẫn phong;TIÊN giác thệ tâm khai hậu giác,NỮ ban tùng thứ bộ chơn-tông.

GIẢI THUYẾT ĐẠO LÃO:

1.- Kiền-Khôn thế giới một bầu,Lão Quân Đạo-Tổ, cung Đâu giáo truyền.

Đạo nguyên Tiên, Hậu, nhị-thiên,Làm đầu vạn Thánh quần Tiên trên Trời.

2.- Kể từ khai tịch dỉ lai,Giáng sanh hóa Đạo, chẳng nài công phu.

Hư-không dường thể bóng thu,

80

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Bí truyền Tánh, Mạng, song tu huyền hoàng.3.- Người tu định nhiếp Âm-Dương,

Hình thân bảo dưỡng, bảo toàn linh minh.Tuy vân tích khí thành hình,

Âm dương nhị khí, khinh thanh thượng phù.4.- Trọng trược ngưng hóa Địa-Cầu,

Bắc Nam Thiên trục, Thiên xu chẳng dừng.Ngày, đêm, nhựt, nguyệt, tinh, thần,

Sanh nhơn, sanh vật, lần lần mở mang.5.- Gọi là một cõi Thế-gian,

Ngoài đây còn có ba ngàn minh mông.Đạo thông Thiên-địa vô cùng,

Diệu truyền yếu chỉ Hóa-Công dạy đời.6.- Chỉnh xem ý vị của Trời,

Lặng trang êm phẳng, không hơi, không rằng.Chơn-không, Thủy, Hỏa, đôi vừng,

Chuyển luân nhựt nguyệt, lưu tuần ngày đêm.7.- Hằng sa tinh tú thuộc Kim,

Như châu như ngọc để ghim nửa lừng.Gió dông thay đổi Hồng-quân,

Ấy là Chơn-mộc choán phần không-trung.8.- Chuyển gầm sấm sét đùng đùng,

Ấy là Chơn-thổ vẫy vùng thiên oai.Ngũ hành ấy thuộc phần Trời

Còn phần dưới Đất, thì người đều thông.9.- Con người sanh ở giữa vòng,

Đủ Trời đủ Đất, ở trong thân mình.Ngũ hành còn phải chia rành,

Âm Dương Thiên Địa, hình danh thể nào.

81

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

10.- Y-gia đã có công cao,Chia hai tạng phủ, trỏ vào âm dương.

Dùng công Tạo-Hóa đặng lường,Những đồ vật chất thuộc nguồn chơn-âm,

11.- Hiên, Kỳ(*), mối Đạo cao thâm,Người chưa hiểu thấu, nên lầm nên sai.

Ngũ hành phải biết có hai:Có hình thuộc Đất, ở Trời thì không.

12.- Nhơn-thân là Tiểu-Kiền-Khôn,Khinh thanh, trọng trược, hiệp thành hóa sanh.

Tạng, phủ là âm ngũ hành,Còn dương ngũ khí, lưu hành châu thân.

13.- Học Đạo càng phải biện phân,Giữ gìn bất đổ, bất văn mới mầu.

Phóng tâm, âu phải ráng thâu,Thân tâm định tánh, đặng cầu Thiên-chơn.

14.- Tai nghe hóa giận, hóa thương,Ấy là thiên-thủy dẫn đường nơi trong.

Bắt mùi hoặc thích hoặc không,Thiên-kim nơi mũi, hơi lồng thấu tim.

15.- Miếng ngon hoặc nhớ hoặc thèm,Lưỡi là Thiên-hỏa chiếp đem vào lòng.

Sắc nào ưu đẹp muốn trong,Ấy là Thiên-mộc, tại tròng con ngươi.

16.- Vật-dục che lấp lòng TrờiẤy là Thiên-thổ, ý người ham mê.

Nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, ráng dè,Đều quan tâm ý, thiệt là chơn tu.

17.- Ngũ hành, thiên địa mù mù,

82

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Mà mình sẵn đủ, lựa cầu đâu xa!Âm dương, nhị khí của TA,

Đục trong phân biệt, điều hòa Chơn-Như.------------------------------------------------ (*): Hiên là Hiên-Viên Huỳnh Đế; Kỳ là Kỳ-Bá là Tổ Thầy thuốc Bắc.18.- Gìn lòng thanh-tịnh, không hư,

Lòng đừng xao dợn, đặng trừ bợn nhơ.Lòng đừng vọng tưởng ước mơ,

Ý tua định tóm, chơn-cơ hoàn toàn.19.- Hãy xem võ trụ Dinh-Hoàn,

Đều đồ hư mục, chớ màng chớ mê. Tục rằng: sống gởi, thác về,

Thần Tiên bất lão, có hề chi đâu!20.- Dẹp xong ngũ tặc làm đầu,

Quan tâm quan vật, rồi sau tập tành,Tam-quang rọi thấu nguơn-thần,

Tam-thân hiệp nhứt Chơn-nhơn công thành.21.- Ấy là đến bực Trường sanh,

Còn muốn thân hình bạch nhựt siêu thăng:Phải lo bồi đắp bổn căn,

Thiên kim diệu lý sẽ phân có ngày.22.- Nhứt tâm tín ngưỡng tới Thầy,

Lời rằng: “tao đố không thầy, mầy nên”.Các em sốt sắng cho bền,

Muốn cho nhà cửa vách phên vững vàng:23.- Phải lo nền đắp cho an,

Có Kinh Cảm-ứng chỉ đàng tu thân.Mới đây “Thiệp-Khuyết Tu-Chơn”

Của Thầy ban bố, công ơn vô ngằn.

83

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

24.- Có phước nên mới có phần,Có đâu nghe được lời trân trọng nầy.

Huỳnh-đình, tu luyện đêm ngày,Tu tâm dưỡng tánh, sánh tày Hóa-Công.

25.- Kiếp đời, cá chậu chim lồng,Trăm điều giả dối, có thung dung gì!

Trời kia mà giả mới kỳ,Kìa mây khi nổi, khi bay mấy hồi.

26.- Đất sao chỗ lở chỗ bồi,Cũng là giả cuộc, có đời chi đâu!

Người đời lúc mạnh lúc đau,Hoặc còn hoặc chết, chiêm bao làm tuồng.

27.- Vì chưng ngũ tặc loạn chơn,Tâm thần chẳng tịnh nên vương lưới trần.

Âm Dương, Đạo Đức sáng trưng,Dùng gương vô-kiệt, luyện thần hư-vô.

28.- Phải phân tà chánh lưỡng đồ,Bàn-môn tả-đạo, ai khờ phải mang.

Nghĩ coi cũng một con đàng,Nó chia Nam Bắc, rộn ràng lăng xăng

29.- Điền Ly, bổ Khảm tưng bừng,Thiêu-đơn, luyện-hống, nhố nhăn mơ hồ;

Đường ngay em cứ bước vô,Lâu ngày tà-giáo làm trò gì nên!

30.- Ráng nghe lời Chị dạy khuyên,Có ngày cũng được bạn Tiên cung Trời

Pháp-ngôn sơ dẫn ít lời,Huyền gia bửu pháp, nhiều lời dạy sau.

Thể Liên Tiên Nữ.

84

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

—————————ddd—————————

85

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Cao-Thiên-Đàn Kiêng-Giang, đêm 7 tháng 1 Tân-Vì.

CHÍ đức hóa thương sanh,THÁNH mô tập đại thành;VĂN chương nhi võ hiển,TUYÊN Đạo định san kinh;CHỨNG thử tam tùng giáo,THỂ trình ngũ sắc quang,LIÊN hoa chơn thắng cảnh,ĐÀN sỉ tánh tâm minh.

Thượng ỷ Chứng Đàn cho Thể Liên Tiên Nữ.THỂ dụng hoàn toàn doãn khuyết trung,LIÊN tư khiết bạch tự nhiên dung,TIÊN thiên đạo hiệp tam nhi nhứtNỮ khảm nam ly đoạt hóa công.

Bần-Đạo chào chư Đạo-hữu.

GIẢI THUYẾT ĐẠO NHO:

1.- Thánh Kinh Trung-Hiếu làm đầu,Dầu Nam dầu Nữ phải trau trọn niềm.

Trải xem sách vở cổ kim,Ngàn Kinh muôn Điển dạy kềm thảo ngay.

2.- Trời cao biển thẳm Đất dày, Nho gia vững đặt chẳng lay chẳng sờn.

Dạy người luân lý cang thường,Dạy người trung tín nghĩa nhơn vuông tròn;

3.- Dạy cho biết phép biết khuôn,Lễ nghi đạo đức cội nguồn dân sanh.

Trung-Dung hai chữ chí thành,

86

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Phát minh Thiên Địa, lưu hành căn cơ.4.- Dịch Kinh chép để sờ sờ,

Hà-đồ lại với Lạc-thơ rõ ràng.Thánh nhơn nghiên cứu âm-dương,

Ngũ hành sanh khắc tuần hườn châu nhi.5.- Đạo thông từ lúc Phục-Hy,

Lần qua Đại-Võ đến kỳ Văn-Vương.Châu-Công, Khổng-Thánh tiếp nương,

Lập thành Mối Cả, mở mang con người.6.- Từ sanh có Đất có Trời,

Có người mới đủ sánh ngôi Tam-Tài.Âm dương một lý mà hai,

Như người một giống gái trai hai hình.7.- Trời thì sanh có năm Hành,

Người thì năm Đức sẵn in vào lòng.Suy ra cho tột cho cùng,

Thiên nhơn nhứt Lý quán thông chẳng rời.8.- Nghĩ rồi mới rõ Đạo Trời,

Rõ rồi nên phải bày lời dạy khuyên.Xưa nay những bực Thánh Hiền,

Thay Trời dạy Đạo sách biên muôn vàn:9.- Dạy cho khắng khít Tam Cang,

Dạy cho gắn chặt Ngũ Thường Nhơn Luân.Thi, Thơ, Lễ, Nhạc, Điển Phần,

Hiến chương Văn Võ noi chừng Thuấn Nghiêu.10- Tam thiên tam bá đủ điều,

Dùng gương tiên giác dắt dìu hậu lai.Dạy đời chẳng sót một bài,

Tề gia trị quốc chẳng sai phân hào.

87

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

11.- Nho-gia rộng lớn xiết bao,An dân an quốc công cao muôn đời.

Những điều cư xử làm người,Chẳng sót một lời Ngài nỡ bỏ qua.

12.- Đến phần Triết-học cao xa,Sánh cùng Phật Lão cũng là mỉa mai.

Kẻ sau học hỏi sơ sài,Chia phe, chia phái, biếm bài khen chê.

13.- Chưa thông ý vị Trọng-Ni.Mà chê Đạo khác thuộc về dị đoan.

Chẳng dè Tam-giáo Thánh nhân,Truyền trao Mối Cả phải nương theo thời.

14.- Nói rằng Phật Lão hại đời,Chẳng dòm Khổng-giáo biếm người bội sư.

Đạo nào cũng tại người hư,Đạo nào cũng giữ khư khư tánh Trời.

15.- Bổn sơ khuyên chớ đổi dời, Chí ư chí thiện trọn đời đừng sai.

Ngọc trong nhờ có sức mài,Người muốn nên tài thời phải chí tâm.

16.- Tấc vàng tấc bóng quang âm, Ba dư mựa chớ tưởng cầm rằng chơi.

Muốn cho đứng đợt với đời,Nhơn hòa, Địa lợi, Thiên thời phải thông.

17.- Muốn rành thể dụng Hóa Công,Âm dương động tịnh chấp trung điều hòa.

Mọi người noi giữ giềng ba,Gìn câu tha thiết, trát ma chớ rời.

18.- Nhơn Tâm nguy lắm em ôi!

88

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Gìn lòng thận-độc giữ lời u vi.Quan-phòng hai chữ Trí Tri,

Chánh Tâm, Thành Ý, vô khi Không-Điền.19.- Hi Hiền, hi Thánh, hi Thiên,

Do mình trì chí tự nhiên được thành.Có câu Thiên Địa hiếu sanh,

Họa dâm phước thiện tại mình mà ra,20.- Khuyên đời khá bỏ thói tà,

Tồn tâm dưỡng tánh, ta bà hư thân.Khắp trong Tam-giáo Thánh Nhân,

Người Tiên, người Phật, Thánh Thần giống nhau:21.- Dạy điều ngay thảo làm đầu,

Làm lành lánh dữ trước sau một niềm.Bình tâm chánh nghĩ mà xem,

Đạo, Nho, Thích-Giáo thù hiềm bởi đâu?22.- Chẳng qua tại kẻ làm đầu,

Xảo ngôn dỉ tự loạn châu no mình.Có câu Thiên Địa lưu linh,

Vô thinh, vô xú, vô hình, vô danh.23.- Mang mang thiên lý lưu hành,

Vô ý, vô tất, nguơn hành trinh kiên.Trung- Dung bất diệt bất thiên,

Quang tiền dũ hậu danh truyền thiên thu.24.- Trạch dân trí chúa thân tu,

Dương danh hậu thế qui mô vô cùng.Thánh ngôn thiên tải kỳ phùng,

Các em mựa chớ tấc lòng đơn sai.25.- Ngày đêm hôm sớm khuya mai,

Sắt kia có thuở mình mài nên kim.

89

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Thể Liên Tiên Nữ.—————————ddd—————————

CHÉP 10 BÀI KINH KÍNH MỪNG.

1.- Kinh kính lạy Đức Chí Tôn.2.- Kinh kính lạy Đức Diêu-Trì.3.- Kinh kính lạy Đức Phật-Tổ Như-Lai.4.- Kinh kính lạy Đức Đạo-Tổ Lão-Quân.5.- Kinh kính lạy Đức Văn-Tuyên Khổng-Thánh.6.- Kinh kính lạy Đức Da-Tô Giáo-Chủ.7.- Kinh kính lạy Đức Quan-Âm.8.- Kinh kính lạy Đức Lý-Giáo-Tông.9.- Kinh kính lạy Quan-Thánh Đế-Quân.10.- Kinh kính mừng Nữ Phước Thần.

—————————ddd—————————

Cao-Thiên-Đàn, mồng 2 tháng 7 Canh-Ngũ.QUAN thủ Nam Thiên môn,VÂN hàm độc chiếm Tôn,TRƯỜNG niên triều Ngọc-Đế,CHỨNG Đạo biến Kiền-Khôn.

Ta vưng lịnh Đức-Chí-Tôn chứng Đàn cho Thể-Liên Tiên-Nữ giáng bút dạy Kinh Nhựt-Thời làm Lễ Đức-Chí-Tôn, Đức-Thánh-Mẫu và chư Đại-Nhơn Tam-Giáo.

Thượng ỷ chứng minh.

THỂ phách linh minh vốn ở Trời,LIÊN tu tâm tánh mựa rằng chơi,TIÊN hương Phật quấc do mình tạo,NỮ tịch dành cho bạn Nữ khôi.

90

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

KINH KÍNH LẠY ĐỨC-CHÍ-TÔN:1.- Lạy Thầy Chúa-Tể Kiền Khôn,

Mở lòng bác ái thương với cùng,Con đà lạc Tổ, xiêu Tông,

Đem đường dẫn lối nhờ trông có Thầy.2.- Tam-Kỳ vừa gặp hội nầy,

Tan sương vén ngút rẽ mây trong Trời.Cõi tần bể khổ, Thầy ôi!

Cầu Kinh hôm sớm, cứu người trầm luân.3.- Thầy ôi! Con dại vô ngằn,

Cầu xin lượng cả khoan hoằng bao dung,Từ đây con nguyện Chí-Công,

Kiên tâm dốc chí một lòng không sai.4.- Nhờ xin lượng cả đoái hoài,

Cho người ủng hộ, hôm mai tập tành.Lòng thành thấu đến Cao Xanh,

Ngửa xin lượng cả chứng minh lời cầu:5.- Vô ưu, vô lự, vô câu,

Tu tâm dưỡng tánh, trước sau cho tròn.Lạy Thầy Chúa-Tể Kiền Khôn,

Mở lòng bác ái thương với cùng.—————————ddd—————————

THỂ tắc Chơn-Âm tánh Bổn-Dương,LIÊN tri độc chiếm mảng thanh hương,TIÊN nga ngọc thủ thi trân trọng,NỮ vị Trung-Cung tánh tự chương.

KINH KÍNH LẠY ĐỨC DIÊU-TRÌ:

91

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

1.- Lạy Mẹ Đại-Từ Đại-Bi,Xin thương con dại ngu si phàm trần.

Cho người đam khỏi mê tân,Đặng cho con dại nguơn thần mở mang.

2.- Con đà sái bước lạc đàng,Muôn ngàn tội lỗi chứa chan dẫy đầy.

Mẹ thương xin Mẹ làm khuây,Tha cho con dại thơ ngây lỗi lầm.

3.- Từ đây con nguyện chí tâm,Cải tà qui chánh lo chăm theo Thầy.

Gió trong vén ngút rẽ mây,Lạy xin Đức Mẹ đoái bầy con thơ.

4.- Đừng cho xiêu lạc vất vơ,Xin cho biết bến biết bờ xanh xanh.

Lòng con rót cạn chử-thành,Lạy nhờ Đức Mẹ xin nhìn chăm nom.

5.- Cho người hôm sớm thăm lom,Cho người dạy dỗ hôm mai kịp thì.

Lạy Mẹ Đại-Từ Đại-Bi,Xin thương con dại ngu si phàm trần.

—————————ddd—————————

92

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Kiêng-giang, le 17 Octobre 1932.THỂ Đức như gương chiếu cõi Trời,LIÊN châu năm sắc rạng nơi nơi,TIÊN phàm khuyên chớ đua bay giỏi,NỮ kỷ Nam cang ráng trọn lời.

THẬP THỦ LIÊN HƯỜN

I.Đạo Thầy huyền diệu thấu sao cùng,Thức tỉnh người mê cõi Á-Đông.Mở dạy Trung-Nguyên ngôi Thái-Kiệt,Rải gieo Nam-Việt giống Thần-Nông.Ngoài trong đen trắng, năm ba số,Phải trái vàng xanh, một ít vòng.Đậm lợt mỏng dày cao với thấp,Hiểu chăng hoặc có khác Non-Bồng.

II.Non-Bồng ai khiến đến thày lay,Biết đó sao chưa biết đặng đây.Tiểu-muội núp gương cam phận Túy,Đại-bàng phơi cánh ngóng Trời Tây.Đừng rằng cảnh Phật vui chuông trống,Mà đón lòng người lướt gió mây.Nầy thấy nầy chưa nầy ướm hỏi,Trầm luân mài miệt cuộc no say.

III.

93

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

No say quên lửng nhứt phi tam,Thập bát nguyên-nhân nhị cửu hàm.Trần tĩnh trần sa oai Phục-Hổ,Điển trừ yêu nghiệt báu Già-Lam.Đạo cao khuyên gắng công ma niết,Học quản tua gìn chữ khiết tham.Người hỡi người ôi người khá tỉnh,Chớ kìa kẻ Bắc lại người Nam.

IV.Người Nam kẻ Bắc lại sum vầy,Khuyên chớ trầm trồ sự dở hay,Hùm được thêm oai nhờ sức gió,Rồng nên vẻ đẹp bởi chiều mây.Vô biên vô lượng đành không dễ,Bất kỵ bất cầu mới thiệt hay.Chín chín nạn dư vừa thấy Phật,Thấy rồi rõ Phật ở mình đây.

V.Mình đây nhiều kiếp biết tu hành,Biết được mau lo độ chúng sanh.Nhơn quả trả vay tuồng sóng lượn,Công danh thành bại bức mây tranh.Cờ cao túng nước mau xoay thế,Nhà rộng Trời khuya kịp điểm canh.Áo bã hài gai chuông tỉnh mộng,Tài tình khuyên trẻ mựa cành nanh.

94

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I VI.

Cành nanh quá lắm ích chi dâu,Tự cổ đồn bia tiếng bể dâuLiên lạc vướng nhành mưu chước nhệnOai phuông tuông nọc thế thần sâuĐã đành người báu so Trời ĐấtThì để danh lành sánh trước sau.Sáu chữ Di-Đà nguồn cội cả, (*)

Học cho thông suốt mới cơ mầu---------------------------------------------------(*): sáu chữ “Lạy Thầy Chúa-Tể Kiền-Khôn” thế cho Lục tự Di-Đà.

VII.Cơ mầu Thầy mở dạy miền Nam,

Hào kiệt khuyên mau lánh khớp vàm.Gióng trống Giác-Mê qua bĩ ngạn,Rung chuông Khải-Ngộ đến Lôi-Âm.Hư-vô kiến-tánh noi Cao-Giáo,Thanh-tịnh tu-tâm học Lão-Đam,Kìa bến nọ bờ đây Lạc-thổ,Màu nào xanh được lấn hơn chàm.

VIII.Hơn chàm được thấy có Tam-Thanh,Mà được cùng không cũng tại mình.Đạo lý cao kiên lo chạy cứu,Công trình trung tín nỡ ngồi khoanh.

95

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Minh mông sóng khổ đua chìm đắm,Chợp rợp đường tu thiếu học hành.Dầu cạn đèn khêu người ngây giấc,Chưa hay Trời đã quá năm canh.

IX.Năm canh chuông mõ chẳng ngơi tay,Khuyên nhủ anh em dậy rửa mày.Long-Hổ điển-quang vầy hiệp đó,Thần Tiên xá-lợi sẵn sàng đây.Ngàn năm một kiếp nên bồi bổ,Mười tám năm đều chịu trở day.Khôn dại đua tranh chi nước bọt,Thôi thôi ráo tiếng giả làm khuây.

X.Làm khuây đặng có nghĩ trong lòng,Hà-Lạc Đồ-Thơ số tứ tung,Bắc-Đẩu chốt then sao chói rạng,Tây-Phương hình dạng cõi hư-không.Vô-vi ấy Đạo phi chơn tướng,Hữu-dụng cho người chiếm hóa công.Khuyên rửa tánh phàm noi Thánh-huấn,Đạo Thầy huyền diệu thấu sao cùng …/-

—————————ddd—————————

96

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Cao-Thiên-Đàn Kiêng-giang, đêm 20 tháng 7 năm 1930.

LÝ tuân ý chỉ phán nhơn gian,THÁI Thượng Tam Thanh tấu Thánh-nhan,BẠCH chỉ kim ngôn hồng tự điểm,Thể-Liên Tiên-Nữ giáng Đài Đàn.

Thượng ỷ chứng Đàn cho Thể Liên Tiên Nữ dạy Đạo.

PHÁT MINH THỂ LIÊN TIÊN NỮ:1.- Nầy năm mười chín trăm ba,

Giáng cơ để vận nom na ít lời.Ráng khuyên phụ-nữ trong đời,

Chớ rằng thấp thỏi mà cười mà khinh.2.- Người người đều sẵn tánh lành,

Phật Trời ban phú cho mình ban sơBởi hay lắc lẻo hỏng hờ,

Lầm đường lạc bến, sa cơ suy vời.3.- Muốn cho đam lại tánh Trời,

Hãy tua gìn giữ nghe lời Chị khuyên.Tiên, phàm tuy có hai tên,

Muốn cho thoát tục thành Tiên khó gì!4.- Hãy lo hôm sớm tu trì,

Giồi mài Bổn-Tánh, qui y Linh-Hồn.Phật Trời Đạo-thể Chí-Tôn,

Lòng người nham hiểm ba vuông bảy tròn.5.- Đua chen trí xảo tài khôn,

Lâu ngày Bổn-Tánh hư mòn Chơn-nguyên.

97

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Dầu cho cửu chuyển Thần Tiên,Không trau Chơn-Tánh, tự nhiên lụy mình.

6.- Huống chi phận gái hậu sinh,Quên đường đạo đức, nên hình thể chi?

Các em vụng tính hẹp suy,Thấy đời rằn rực cứ đi theo đời.

7.- Ham ăn, ham nói, ham cười,Ham bề vật-chất, ham mùi phù-vân.

Sao không suy xét cân phân:Mấy đời cõi tạm cho bằng quê xưa.

8.- Hồng-trần phơi nắng tắm mưa,Sao bằng Tiê-cảnh không trưa không chiều.

Hồng-trần khổ hạnh trăm điều,Sao bằng Tiên-cảnh tiêu diêu thanh nhàn.

9.- Hồng-trần là chốn lửa than,Bọt nước sôi tràn, thấy đó mất đây.

Ai ai chẳng hiểu lệ nầy,Thác rồi nắm được trong tay vật gì?

10.- Đua chen khôn dại thị phi,Tắt hơi nín thở còn chi đâu là?

Sao bằng giữ mực thật thà,Rảnh rang xác thịt, ta bà hồn linh.

11.- Cang-thường Đạo-thể trọn lành,Phật Trời qui luật chí thành phương vâng.

Hồng-trần trọn nghĩa, trọn nhân,Hồn-linh mới bước đến tầng mây cao.

12.- Thiện tâm chẳng dạ lảng xao,Thiên đường mới được ra vào thung dung.

Một lòng một dạ thỉ chung,

98

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Sống thơm danh giá, thác phong rỡ ràng.13.- Hãy xem Thần Thánh muôn ngàn,

Đều người nghĩa khí, trung cang mới thành.Gái mà tiết-liệt trung-trinh,

Gái mà tiết hạnh, Thiên đình bia tên.14.- Cung Diêu, cung Quế, cung Sen,

Hàng luôn Tiên nữ, dãy liền Tiên nga,Rèm châu, vách ngọc, cột ngà,

Thủy tinh bao phủ, sáng lòa như gương.15.- Nguời đời yêu chuộng thủy xoàn,

Nào hay đồ dụng đài trang Tiên tòa.Người đời yêu chuộng vinh hoa,

Nào hay bị cái dây ma khớp vàm.16.- Chớ rằng tại ở cõi phàm,

Phải lo phu phỉ cho kham với đời.Cõi phàm mà thấu Đạo Trời,

Kìa trang Tiên Thánh cũng người phàm-gian.17.- Giàu sang sánh với cơ hàn,

Giàu sang còn để bước đàng chơn tu.Đố ai phân biệt trí ngu,

Mây bao bịch phủ, sương mù mịch giăng.18.- Người ngu mối Đạo biết phăng,

Người khôn chừng thấy ăn năn muộn rồi.Thấy vầy nên Chị ngùi ngùi,

Thương em, Chị phải tới lui giảng bài.19.- Tam-Kỳ sẵn mối Đạo Thầy,

Khá tua ráng sức cho dày công-phu.Thì giờ thấm-thoát bóng cu,

Một ngày qua khỏi, ngàn thu không tìm.

99

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

20.- Nữ-sanh là phận các em,Không lòng sốt sắng, càng thêm lạc lầm.

Chị xin Đức Mẹ chế châm,Cho Chị giáng bút, Thánh âm phân trần.

21.- Mẹ cho, Chị xiết nỗi mừng,Nên Chị vội vã, ân cần đến đây.

Phái Nam đã đủ chơn tay,Phái Nữ đến rày, xem thiếu chị em.

22.- Nghĩ coi tự cổ chí kim,Làm thân con gái mỏng mềm sút-thua.

Hêu đòi cờ bạc hốt dùa,Nết xấu ráng chừa, đặng giữ thân danh.

23.- Quê môn phận gái đã đành;Đến việc tu hành lại cũng rút co.

Đường ngay ít kẻ đắn-đo,Đường gai nẻo gốc lần mò lủi đi.

24.- Phật Trời thương xót xiết chi,Đã bày ngũ giới, tam qui rẽ ròi.

Ngặt lòng tín ngưỡng lôi thôi,Có việc cầu Trời khẩn Phật tứ tung.

25.- Từ đây khuyên khá rèn lòng,Nghe lời Chị bảo, chí công tập tành.

Công phu, công quả, công trình,Phân rành chương thứ, phân minh tỏ tường.

Thể Liên Tiên Nữ.—————————ddd—————————

100

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

VMINH LÝ HỘI

Kinh “Tu Chơn Thiệp Khuyết” và “Chánh Tà Yếu Lý” in ra rải rác cùng lục tỉnh cho chức-sắc Tam-Kỳ xem và cũng có gởi về trên Tòa Thánh Tây-ninh nhưng mấy anh lớn không nhìn nhận, nói rằng không phải cơ bút của Thầy viết ra.

Bởi vậy, Ban Cai Quản Thánh Thất Mỹ-tho có thơ mời các chủ Thánh Thất và mấy anh lớn Tây-ninh tựu về Mỹ-tho ngày 15 tháng 4 năm Tân-Vì (31 Mai 1931) đặng bàn tính về vụ Đạo chinh nghiêng.

Tòa Thánh Tây-ninh có phái ông Nguyễn Ngọc Tương xuống, còn chức sắc các nơi tựu về cũng đặng vài trăm người, năm mười ông lên diễn đàn đánh đổ mấy anh lớn Tây-ninh và trưng bằng cớ rõ ràng nên xin trong hội bắt thăm không hiệp tác với Tòa Thánh Tây-ninh nữa.

Còn ông Tương thay mặt cho Tòa Thánh Tây-ninh có dự hội, mà cũng không nói tiếng gì, rồi trở về Tây-ninh.

Đức Chí Tôn có giáng Đàn dạy như sau nầy:

Mỹ Tho, đêm 14 tháng 4 Tân-Vì.Ngọc-Hoàng Thượng-Đế Hội-Giáo Nam-Phương

Thầy mừng các con, ngày hôm nay Thầy rất buồn.

THI:NGỌC trắng rồi lem chẳng biết cầm,HOÀNG thiên đâu phụ kẻ từ tâm,

101

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

THƯỢNG lưu chí khí lòng nhơn đại,ĐẾ Đạo Thầy khuyên chớ trách lầm.

Khóc!!!Dầu đã cạn nên đèn phải tắt,Khuyên các con dìu dắt nương nhau;

Có câu: thiện ác đáo đầu,Vương mang tai họa chịu sầu ngàn thu.

Lời hồng thệ dốc tu sửa lỗi,Đứng phía trên nắm mối sợi dây;

Làm cho con nghiệt cả bầy,Trách ai đem Đạo của Thầy đi chôn.

Danh Đại-Đạo tiếng đồn dội khắp,Cả thế gian Đông, Bắc, Tây, Nam;

Hồng-trần phú quí còn ham,Thiên-Đường cũng muốn lên làm Phật Tiên

Thầy chẳng nỡ lấy quyền dạy Đạo,Dụng từ-bi khuyên bảo các con …

—————————ddd—————————

102

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I VI

ĐẠO SẮP CHUYỂN VỀ KIÊN GIANG

Qua tháng 6, ngày 17 năm Tân-Vì (1931) Thầy lập An Thiên Đại Hội kỳ nhứt tại Rạch-giá có đòi các Thánh Thất tựu nghe Thầy dạy:

Kiêng-giang, đêm 18 tháng 6 Tân-Vì (1931).KHƯƠNG kỳ bỉnh chấp cuộc Thiên nhiên,THÁI nhứt sanh sanh kiếp vẹn tuyền,CÔNG phẫn dốc thâu nền Đại Đạo,MỪNG thay thấy rộng cảnh Long-Kiên.

Miền Lưỡng Giang sông Rồng cạn lối,Trước vì TRUNG giả dối phỉnh người,

Tưởng rằng Đại-Đạo trò chơi,Đặt điều huyễn hoặc, bày lời vô căn.

TRANG xảo ngữ xưng Thần xưng Thánh.Mối tơ xe bất chánh bất lương,

Hay đâu Thiên Địa tuần hườn,Ai xe dây nghiệt thì vương lưới Trời.

THƠ cả mật bày lời hoặc chúng,Cửu-Trùng-Đài náo động lòng dân.

Chẳng kiên Thiên Địa quỉ Thần,Dụng tên Trời Phật đặng phần trò con.

Đại-Từ-Phụ Thánh-ngôn dẹp cất,Lý Giáo-Tông Tân-luật sửa dời,

Chẳng tuân có Đất có Trời,Tưởng rằng phấn thổ hưởng đời trong tay.

103

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Cơn kiếp chót Thầy bày Đại-Đạo,Dụng Tam-Kỳ dạy bảo nhơn sanh,

Dạy người lánh dữ làm lành,Phò loan tiếng tạm đành rành TẮC DIÊU.

Khen hai gã liêu điêu thế mọn,Thấy nhiều tiền thỏn mỏn đường ngay,

Dối người dám dối tới Thầy,Độc quyền lợi dụng trong tay mình hoài.

Danh Đại-Đạo ai ai cũng khiếp,Đứa tiểu-nhơn kiếp kiếp trầm luân,

Lão đây sẵn luật Phong-Thần,Sẵn dành một cán Đả-Thần biết chưa?

An-Thiên Hội sớm trưa dựng mối,Dụng Lưỡng Giang đặng nối Long-Kiên.

Ngũ Hành Thất Đẩu gầy nên,Tam Giang Cửu khúc nối liền giăng giăng.

Thập-Bát-Hán, Thiên-ân chiêu tập,Thập-Nhị-Thiên, Hoàng cấp biểu danh,

Lão đây sẵn lịnh đành rành,Khuyên người bỏ dữ làm lành an thân.

Lời đinh sắt Lão phân đã cạn,Bọn quỉ-vương hết nán trông mong,

Dầu cho mình đá da đồng,Đả-Thần-Tiên xuống thì không còn hồn.

—————————ddd—————————

NGỌC sáng nhờ tay thợ khéo giồi,HOÀNG cung mở rộng khắp nơi nơi,ĐẠI thừa trí thức vầy sum hiệp,ĐẾ khuyết từ đây người phải người.

104

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Các con! Hãy lãnh trách nhậm theo đây:- CA, vốn là An-Thiên La-Hán phái, cuộc lập An-

Thiên Đại-Hội, trách nhậm nơi con, hầu trừ quỉ vương phá rối Đại Đạo.

Cửu-Hà-KhúcThầy đã bủa Ngũ-Hành-Tòa Thất-Đẩu-Cuộc

sẵn cho các con làm vi cánh.Lập An-Thiên Đại-Hội: Cửu-Hà-Khúc là Tam-Giang

Thủy, Long-Hồ Tam-Bình Thủy, Tam-Xuyên Thủy.a) Tam-Giang Thủy là: Tiền-Giang, Hậu-Giang đã

có Phùng lãnh; Kiên-Giang (đã có người Thầy định). Long-Hồ Tam-Bình Thủy (Thầy sẽ định).b) Thất-Đẩu-Cuộc: non Cấm làm nền,c) Ngũ-Hành-Tòa: Tam-Tôn làm gốc.

Nghe kệ:Cuộc Thầy bủa An-Thiên Đại-Hội.CA vững lòng chớ vội phiền ai,Muốn nên danh cả chí trai,Bền gan sắt đá chớ hoài công phu.

- LƯỢNG, con vốn là Chiêu-Thánh La-Hán phái. Thầy thử con một lúc, Thầy mừng con biết nghe. Con phải biết rằng: phái Chiêu-Thánh công-phu rất nặng vì phải lo

105

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

chiêu-dụ những bực Hiền Thánh giáng phàm, nay đều là người trí-thức cả. Công-phu con là đó.

Con nghỉ khỏe một năm nay, tới thời kỳ của con; con chớ vội thối chí: xưa Hàng-Long, Vi-Hộ, Phục-Hổ hăng xung đột nhau, nhờ có Kim-Tiên La-Hán can gián, nên mới lập được thành Thập-Bát Đại-Giác La-Hán.

Thầy khuyên bỏ tánh xưa, vì trách nhậm con kỳ nầy rất lớn lao.

Kệ:Lượng nên đại lượng đại khoan hồng,Tâm chí người người dốc lập công,Kiên nhẫn vịnh theo người Đạo Đức,An-Thiên vững đặt hội Kỳ-Phùng.

- QUANG, con là Tịnh-Vân La-Hán phái. Con là người của Kim-Tiên La-Hán cậy đi trước nên con phải điều đình cho Thập-Bát Đại-Giác La-Hán thuận hòa, hầu lập An-Thiên Đại-Hội. Xưa con lỗi bước vì không có Chơn-Sư, nay có Thầy dẫn lối con ráng chí công.

Kệ:Ớ QUANG, con hỡi biết hay chưa,Lỗi bước càng xa chẳng phải vừa.Đường cả có Thầy nay dẫn lối,Đừng cho trễ nải buổi thêm trưa.

QUANG, con trao lịnh cho AN. - AN vốn là Tính-Phong La-Hán phái.Cả Cửu-Hà-Khúc, Thầy giao cho AN trọng nhậm

truyền Thánh-Ý hầu giúp Ngũ-Hành-Tòa và Thất-Đẩu-Cuộc đặng lập An-Thiên Đại-Hội.

106

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Thầy đã chỉ cho AN nhiều nơi đây. Thầy giao trách nhậm cho khỏi lưỡi mối miệng lằng, thì AN mới khỏi cho.

Kệ:AN, con nầy ớ ớ con AN,Lửa đỏ càng thêm sức tuổi vàng,Cay đắng mặn nồng chua lại chát,Muốn nên Tiên Phật trước gian nan.…

- NHƠN, vì Thấy mắc luyện thần cho AN và ĐÂY nên Thầy cho Đồng-Tử Kiên-Giang nghỉ 3 tháng.

Kệ:Đừng tưởng đâu đâu chẳng có Thầy,Thầy cùng Âu, Mỹ khắp Đông, Tây,Tây Ninh chớ mượn danh Thầy quá,Quá thế nên ra đến đỗi nầy.

Vì Lý Thái Bạch mắc lo giúp Điển qua cho K… (nơi Âu-Mỹ) nên Thầy ra lịnh cho Khương-Thượng lãnh chức Giáo-Tông và Hải-Triều Thánh-Nhơn làm Phó Giáo-Tông, chẳng bao lâu Thể-Liên sẽ ban hành Kinh Kính Mừng cho hai Vị ấy.

—————————ddd—————————

107

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

HỘI CƠ BÚTBa ông Pháp Sư AN, ĐÂY, NGA lối tháng hai năm

Nhâm-Thân (1932) hội cơ bút về Kiên-Giang đặng tập đồng tử, vì thấy cặp phò loan Chơn-Tâm và Tường-Khánh có diệu bút, nên mấy Ngài mượn cơ bút Kiên-Giang mà dùng, nên sái điển, hư, nên phải tạo cây bút khác, song trầm ba tháng thì ngày Đại-Hội An-Thiên kỳ nhì đã qua rồi.

Mấy ông lại bày Bạch-Y-Đạo, bày lễ Nhâm-Thân (vô nghĩa) rồi dắt nhau lên núi Cấm tập cơ bút 4-5 tháng, gởi thi bài về Mỹ-Tho mới in ra mấy cuốn “Chuyển-Mê” từ số 1, 2, 3, 4, 5 mấy quyển nầy không đúng Chơn-Lý, nên sau có Hiệp-Thiên-Đài dạy tiêu hủy.

—————————ddd—————————

108

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I XII.

BAN CHỈNH ĐẠO BẾN TRE

Tới đây ông Quyền Giáo-Tông Thượng-TRUNG-Nhựt qui tiên, ông Quyền Thượng-Đầu-Sư Nguyễn-Ngọc-Tương muốn giành Quyền Giáo-Tông tại Tây-Ninh mà không thuận với ông Hộ-Pháp Tắc, nên Ngài phải về Bến-Tre với ông Quyền Ngọc-Đầu-Sư Trang ở tại Thánh-Thất An-Hội, vì Ngài có đứng bộ đất cho 70 cái Thánh-Thất ấy, rủ các chức sắc theo Ngài mà tùng Bến-Tre, đoạn mới bày việc bỏ thăm tuyển cử Giáo-Tông, tự nhiên Ngài thắng số rất nhiều, nên cho mình là Giáo-Tông thế cho ông Thượng-TRUNG-Nhựt.

Người cứ tịnh hoài, chớ không có dùng cơ bút và Hiệp-Thiên-Đài dạy tu theo Tân-luật và Pháp Chánh truyền của Tây-Ninh.

Ngài còn muốn về Tây-Ninh, khi ông Ngọc-Trang-Thanh liễu đạo Ngài dạy đem linh cữu về Tòa-Thánh Tây-Ninh mà an táng, nhưng ông Tắc không cho chôn…

TƯƠNG chuối nước đâu gần cảnh Phật,TRUNG nịnh gian khờ-khật tánh phàm;

Lợi quyền còn nặng túi tham,Thiên-Đàng đâu để lên làm Phật Tiên.

(18-6-Tân Vì 1931).-----------------------------------------------(Coi án ông Tắc trong cuốn Đuốc Chơn Lý 33 trương 56. Coi án ông Tương trong cuốn Đuốc Chơn Lý 33 trương ).

—————————ddd—————————

109

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

B.ĐỆ NHỊ TIỂU THỜI

HỌA ĐỒ CỰU TÒA THÁNH TRUNG-ƯƠNG (MỸ THO)

I.BÀN THỜ:

A.- Thiên-Nhãn.b.- Bài vị Tứ-Thánh:

- Đức Thích-Ca Mâu-Ni- Đức Lão-Tử- Đức Khổng-Phu-Tử- Đức Jésus Christ

c.- Bài vị Tam-Trấn:- Đức Quan-Âm- Đức Lý-Thái-Bạch- Đức Quan-Thánh

d.- Đức Khương-Thái-Cônge– f.- 2 bàn thờ chư Phật, chư Tiên, Chư Thánh, chư Thần.B.- Cửu-Trùng-Đài.C.- Hiệp-Thiên-Đài.D.- Bát-Quái-Đài.

110

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I II.

NGHI TIẾT

Bước qua đệ Nhị Tiểu-Thời, sự thờ phượng sắp đặt như sau nầy:

Trên thờ Thiên-Nhãn có chơn mày, lông nheo; trong trái tim màu đỏ.

Cấp thứ nhứt: có bốn bài vị Tứ-Thánh:- Đức Thích-Ca Mâu-Ni- Đức Lão-Tử- Đức Khổng-Phu-Tử- Đức Jésus Christ.

Cấp thứ nhì: có ba bài vị Tam-Trấn:- Đức Quan-Thế-Âm Bồ-Tát- Đức Lý-Thái-Bạch- Đức Quan-Thánh.

Cấp thứ ba: có bài vị Đức Khương-Thái-Công.Triệt hai bàn thờ bên tả, bên hữu.Triệt bàn thờ của Hộ-Pháp, vì Thầy không dùng điển

của Hộ-Pháp nữa.Và có thêm một cửa giữa.Còn sắc phục của Thiên-Phong: mão y như cũ và sửa

lại theo Trung-Thiên, có thêm cái cũn, áo trắng viền đỏ-vàng-xanh theo phái.

Lập một cái Hiệp-Thiên-Đài một từng lầu, và một cái Bát-Quái-Đài ở phía trước.

111

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Còn đọc Kinh thì dùng 10 bài “Kinh Kính Mừng”, Kinh chữ quốc-âm Thầy cho tại Cao-Thiên-Đàn (Rạch-Giá).

—————————ddd—————————

III.

LẬP TÒA THÁNH TRUNG ƯƠNG (MỸ THO)

THÁNH HUẤN GIÁC MÊ (SỐ 6)

Định-Tường, đêm 18 tháng 7 Nhâm-Thân (1932).

NGỌC chiếu hào quang giọi đủ màu,HOÀNG ngôn khen tặng kẻ cung dâu,THƯỢNG hòa hạ lục vui chi bẵng,ĐẾ Đạo danh nêu rạng Ngũ-Châu.

Thầy chào các con, Thầy cho các con bình thân. Các

con, hằng lâu Thầy không rảnh để dạy các con một bài Đạo. Thầy cho các con một bài ráng tìm hiểu sẽ biết được mùi Đạo. Các con phải nhớ rằng: CHƠN-LÝ là ĐẠO mà ĐẠO là CHƠN-LÝ, vậy nghe thi:

Hai chữ Vô-Vi mối Đạo Thầy,Bốn mùa thay đổi cứ vần xây,Chim bay cá lội hoa đua nở,Ai thấy thợ nào có để tay.

Để tay sao gọi được Vô-Vi,

112

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Các trẻ lầm nghe nghĩ cũng kỳ,Rộn rực lăng xăng tuồng dối trá,Rằng đua công quả chốn trường thi.

Trường thi ai lập ở nơi nao,Nào thấy đâu là cái bản rao,Hễ có bản rao là vật chất,Khuyên đời khá tỉnh giấc chiêm bao.

Tỉnh giấc chiêm bao ớ trẻ bầy,Đừng tìm non núi hoặc cung mây,Cao-Đài vốn ở lòng con đó,Bỏ tánh tham si sẽ gặp Thầy.

Gặp Thầy, cùng chẳng tại nơi lòng,Bã lợi mồi danh lóng sạch trong.Thấu rõ thế-gian muôn tượng đó,Nó đều không có cũng không không.

Không không, có có, có chi đâu,Có đó, rồi không thật rất mầu.Muốn có, có cho, không cũng được,Có không hỏi thử chỗ cao sâu.

Cao sâu phút chút bỗng trang bằng,Thể Đạo dường như nước với trăng.Một lại Ba, rồi Ba lại Một,Khuyên đời định tỉnh chớ lo xằng.

Lo xằng thêm hại, các con ôi!Tang hải xưa nay cuộc lở bồi,

113

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Đạo chẳng bảo lo, lo trái Đạo,Ai mà trái Đạo ắt hư rồi.

Hư rồi khó dựng nói càng thương,Khuyên nhủ nhơn sanh tỉnh mộng trường,Sóng gió ấy là nguồn mạch nước,Gió êm sóng lặng nước như thường.

Nước lặng như thường chẳng đổi day,Tự nhiên xây vận thể đêm ngàyGìn lòng giữ trọn CHƠN-NHƯ-TÁNH,Hai chữ Vô-Vi mối đạo Thầy.

Các con nghe Thầy dạy:11.- Lập QUỐC ĐẠO thiên tân vạn khổ,

Dạy các con phổ độ chúng sanh.Các con mảng tại cầu danh,

Lớn làm nhỏ học tranh giành thấp cao.Miệng Ngô mà bụng ở Tào,

Dựng phe kết đảng ngăn rào lấp sông.12.- Khen các trẻ chẳng lòng hổ thẹn,

Nỡ dạ nào quên tiếng Thầy khuyên.Kể từ Thầy lập An-Thiên,

Biết bao nhiêu nỗi than phiền với con.Rằng: khuyên lớn nhỏ lo tròn

Giúp Thầy chuyển Đạo sắt son trọn niềm13.- Thương con dại nghĩ thêm tím ruột,

Cứu cơn nguy Thầy buộc dĩ hơi,Cạn sâu thêm tỏ đôi lời,

114

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Khuyên đừng tật đố rã rời nhau ra.Trăm điều nên xét gần xa,

Cũng đều máu mủ thịt da của Thầy.14.- Lời hằng ví: một cây tròi trọi,

Làm sao cho nên mỗi hòn non,Giữa sông bỗng nổi lên cồn,

Nhờ nhiều hột cát đắp dồn mới cao.Đông mầy thì Tây có tao,

Giúp lời giúp sức việc nào chẳng nên.15.- Trăm việc phải chí bền mới được,

Một bước cho một bước vững vàng.Đừng tin những tiếng hoang đàng,

Đừng tin những tiếng dịu dàng quỉ ma,Đừng mê những việc cao xa,

Đừng mê những việc dối Ta dối Trời.16.- Khuyên các trẻ nghe lời Thầy dạy,

Đừng ham lo bay nhảy phi thường.TU CHƠN THIỆP KHYẾT chỉ tường,

CHÁNH TÀ YẾU LÝ mọi đường biện phân.Đạo Thầy như nước trong ngần,

Đạo không xao dợn phân vân rộn ràng.17.- Đạo Thầy ở khắp tràn võ trụ,

Đạo Thầy lo khuyên nhủ nhơn sanh,Khuyên người bỏ dữ theo lành,

Chẳng khuyên ở núi, ở gành, ở hang.Chẳng khuyên theo thói dị đoan,

Chẳng khuyên hiệp lũ vầy đoàn dối dân.

115

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

(CA, PHÙNG, NHƠN ,LƯỢNG)17.- Bốn con lãnh chung phần trọng chức,

Bốn con không hiệp nhứt cùng nhau,Bốn con rời rã Thầy đau,

Bốn con bốn ý Đạo mau tan tành.Hiện nay quỉ kế rấp ranh,

Hiệp nhau xẻ múng chia manh Đạo Thầy.19.- Thầy chẳng nỡ để bầy con dại,

Bị quỉ vương làm hại phá hoài,Thương AN ỷ sức cậy tài,

Chẳng tuân Thánh-Huấn một hai tách mình.Chữ rằng sinh sự sự sinh,

Làm hư Đẩu-Cuộc Thất-Tinh Long-Đồ.20.- ĐÂY cũng tánh mờ hồ nên vội,

Trăm điều lo hả hối cho mau.Than ôi! Chẳng xét vàng thau,

Bạ đâu nghe đó biết đau sự rồi.Khen ai chẳng xét Thiên thời,

Thầy đà cạn tiếng nhắn lời cho NHƠN.21.- PHÙNG, con nỡ lòng hờn việc cũ,

Lời Thầy khuyên con giữ con xem.Nên hư con để yêm lìm,

Chẳng cầu ai biết, chẳng thèm ai hay.Sao con chẳng xét đó đây,

Đầu mình phải đủ chơn tay mới thành.22.- NHƠN tua giữ thinh danh làm trọng,

Thầy tin con nên dụng đã lâu.Từ đây bỏ tánh cơ cầu,

116

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Trăm điều nên xét trên đầu có TA.Các điều lỗi trước Thầy tha,

Nhớ lời sáu bốn (64) hiệp hòa thì nên.23.- CA dốc chí dựng nền Chơn-Lý,

Ráng coi chừng lũ quỉ kề hông,Nửa tin mà nửa nên phòng,

Trời xa ma cận thật lòng hiểm nham.Hiếm người triêu tứ mộ tam,

Lòng ma miệng Phật dốc đam lạc đường.24.- LƯỢNG chắc dạ Thầy thương chi xiết,

Biết có Thầy nên quyết theo Thầy,Thầy khuyên biết Đạo càng hay,

Hiệp tâm chung trí sum vầy mới cao.Đạo thương khắp cả đồng bào,

Miệng lằng lưỡi mối chuốt bào đừng tin.25.- Khuyên bốn trẻ giữ gìn lời dạy,

Đồng cùng nhau sửa vạy ra ngay.Con ôi! Nam, Bắc, Đông, Tây,

Quỉ vương hiệp sức đêm ngày phá TA.Nếu con tâm trí chẳng hòa,

Làm sao Đạo Cả của Cha cho thành.26.- Thất-Đẩu-Cuộc tình hình đã hoại,

Vì AN, ĐÂY làm sái lịnh Thầy,Chẳng cần đợi lịnh đợi ngày,

Vừa nghe bàn định chớp tay làm càng.Con ôi! Quỉ kế đa đoan,

Lộn chen chút điển thấy tan hoang rồi.

117

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

27.- Ối thôi thôi! Việc rồi chẳng nói,Nay Thầy lo việc mới giúp con,

Khuyên con lòng sắt dạ son,Giúp Thầy chuyển Đạo cho tròn thỉ chung.

Nầy con CA, LƯỢNG, NHƠN, PHÙNGBốn con đồng ý chung cùng nhau chăng?

28.- Hành Đại Đạo đừng cân sang trọng,Cũng đừng lo nhà rộng chòi tranh.

Cân là: cân sự học hành,So laø: so caùi chí thaønh ñoäng

Thieân,Cân là cân kiếp Thiêng-liêng

So người quĩ cụ Thần kiêng anh tài29.- Trước dẫu có một hai vít tích

Khuyên con đừng chít mích nhau chiTừ đây đường cả chung đi

Hiệp Tâm chung trí đừng nghi chuyện rồiCây xanh nhờ có nhiều chồi

Đạo nên nhờ có Thầy Trời giúp cho30.- Một lời chót hỏi dò cho cạn

Ngọ thời mai thượng trạng Thầy xemKhuyên con lớn nhỏ trọn niềm

Bốn tên một sớ phong niêm hẳn hòiBằng ai lòng một ý đôi

Có Thầy phú án Ngũ Lôi xét giùm

118

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

PHÙNG-NHƠN: hai con cứ theo vé thứ 29 của Thầy đã cho các con. Đạo gặp lúc chinh nghiêng rời rã, ấy cũng vì các con. Nay Thầy muốn hiệp các con của Thầy lại nên Thầy dùng sức bốn con. Đạo là một bài học, Thầy là người đặt bài, Đạo-Đồng là người chép bài. Thầy dùng cán viết của NHƠN, ngòi viết của PHÙNG, nghiên mực của LƯỢNG, tờ giấy của CA. Có bốn món ấy Thầy viết mới được, bằng thiếu một món Thầy làm sao viết được mà dạy ai? Kỳ An-Thiên Đại-Hội Thầy đã dùng như vậy, nền Đạo được thạnh phát, sau vì chừng các con rời rã, tuy ngoài mặt nói nói cười cười, nhưng trong lòng ai cũng tưởng mình có Thầy riêng của mình, vì vậy lâu nay biết bao nhiêu là “Thầy” giáng khắp nơi, mà nào có phải Thầy hoài, bởi lỗi ấy tại bốn con. Nay Thầy hiệp bốn con, Thầy không ép ai, suy cùng nghĩ cạn, mai nhằm Ngọ thời dưng sớ Thầy xem có đủ bốn con đứng tên, Tý thời sẽ cầu Thầy, có Đến-Hậu-Đồ-Kiển-Trung-Minh, có Quang Bản thay mặt cho Cầu-Kho, Chiếu thay mặt cho Phước-Long càng tốt; như bốn con không ưng thuận chung lo giúp Thầy, khỏi tái-cầu vô ích.NHƠN, Bước đường học Đạo thể đăng sơn,

Muôn khổ ngàn gay chí chớ sờn,Ai dạy lên non mà kiếm Phật,Đừng nghe tiếng Giảng Nghé Đài Nhơn.

NHƠN, trong “Huỳnh-Đình” có câu: “Học Đạo du đăng sơn, du thiệp thủy,

Du tẩu mả trương cung, du hành quân bố trậnĐương thâu kỳ phóng tâm, dưỡng kỳ hạo khí

119

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Ác nhơn dục, tồn thiên lý…”

Đó, Thầy dạy “đăng sơn” là vậy. Con không chơi với bạn hiền nên làm sái lịnh Thầy, phải chi con hỏi Phùng thì đâu có đến đỗi: ý mã tâm viên. Mấy chữ nầy là chữ Thiên-cơ, ai ít tu khó được nghe giảng nhiều, sau con đừng vậy nữa… (Thăng)

—————————ddd—————————

Đêm 19 tháng 7 năm Nhâm-Thân (1932).

LƯ đảnh hằng ngày luyện hống đơn,HƯƠNG bay bát ngát thấu thiên nguơnTHẦN Tiên ma quỉ do mình tạo,GIÁNG bút truyền trao lẽ chí chơn.

Kính chào chư Thiên-Mạng. Tôi vưng lịnh Bạch-Hạt Đồng-Tử cho chư Thiên-Mạng hay rằng: không bao giờ Đức-Chí-Tôn thâu nhận văn biểu nào mà không tuân lời dạy của Đức-Chí-Tôn…

Đức-Chí-Tôn có gởi cho CA-PHÙNG-NHƠN-LƯỢNG bài thi:

Hiệp chí đồng lo Đạo nước nhàHiệp vầy đoàn thể, ớ con TA!Hiệp hòa trên dưới tình liên lạc,Hiệp thuận anh em nghĩa mặn mà,Hiệp ý keo sơn gìn dạ một,Hiệp đường tánh mạng buổi kỳ ba,Hiệp tâm chung trí đừng nghi lẫn.Hiệp được gần rồi, mới hiệp xa.

(Thăng)—————————ddd—————————

120

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Đêm 20 tháng 7 năm Nhâm-Thân (1932).…………..

Tịnh đàn tiếp Đức-Chí-Tôn.

NGỌC Kinh định mở Đạo nhà Nam,HOÀNG điện đành buông để giáng phàm,THƯỢNG trí khá mau ra giúp sức,ĐẾ vương nào ví Đạo kỳ Tam.

Thầy mừng các con. Thầy cho các con bình thân, ai nấy chẳng đặng mơ ước điều chi lạ.

Nghe thi bài:

31.- Nền Đại-Đạo xanh um cổ-thọ,Đuốc Cao-Đài rạng tỏ Ngũ-Châu,

Khuyên con bền bỉ trước sau,Một lòng khắng khít cùng nhau chớ rời,

Lòng con Thầy đã thấu rồiGiáng đàn Thầy lập vị ngôi THÁNH TOÀ

32.- Khắp trần thế còn xa Thánh-Huấn,Bởi các con chưa đặng nhứt tâm,

Con ôi! Muốn rõ cao thâm,Gần Thầy, Thầy sẽ chỉ lầm lạc cho.

Học Đạo thì ráng lòng lo,Hành Đạo thì chớ so đo cân lường.

33.- Nhắc đến lúc TRUNG-ƯƠNG Thầy lập,Dốc lòng thâu Tam-Thập Lục-Thiên.

Lẽ gì Đạo đã được yên,Lẽ gì Đạo khỏi chinh nghiêng đến rày.

Lẽ gì Đạo được nở mày,

121

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Có đâu Đạo phải đắng cay trăm bề.34.- Cũng vì trẻ chia phe chia đảng,

Cũng vì con làm lảng làm lơKinh Thầy con đã nghi ngờ,

Lời Thầy con lại bơ thờ bỏ quaRuột rà ngay thẳng bỏ ra,

Nịnh hùa chuốt ngót bối da đem vào.35.- Thầy bệ Ngọc khát khao trông đợi.

Ước cho con bước tới đường ngay.Trông thôi trông đã mỏi mày,

Đợi thôi càng đợi càng ngày càng xa.Ráng thương Thầy chút với mà,

Thương Thầy đặng hiệp đặng hòa cùng nhau.36.- Thầy đã dạy đâu đâu cũng một,

Bởi xa nhau nên cuộc mới chia, Đừng cho kế quỉ phân lìa,

Đừng cho miệng thế tiếng bia vang đồn.Đạo chia nhiều phái nhiều môn,

Vì chưng cơ-bút mình tôn lấy mình.37.- Con phải biết chương-trình hiệp nhứt,

Phải lọc lừa tịnh-thất hiệp vào.Các nơi cơ bút lao nhao,

Đều kêu hiệp lại con trao lời vàng.Đừng cho tách cõi tách đàng,

Càng xa Thánh-Huấn, nó càng tư riêng.38.- ĐẾN, con chớ ưu phiền thái quá,

Công của con Thầy há nỡ quên.

122

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Thử con coi chí có bền,Dùng cân thử thất tập rèn chí con.

Thấy con lòng sắt dạ son,Giáo-Sư Thầy thưởng ráng tròn nguyện xưa.

39.- Trần-Cảnh-Kiệt đón thưa Quan-Thánh,Xin nhập môn khổ hạnh độ đời,

Thành tâm thầy đã y lời,Trung-Ương giao lại thêm người sớm khuya.

Không vầy tịnh-thất có bia,Lý-Chơn còn vậy nó kia bực nào.

40.- HẬU, con chớ lãng xao tấc dạ,Nghĩa đệ huynh vàng đá xưa sau.

Giúp Thầy chuyển Đạo mau mau,Miệng sao lòng vậy đừng màu trắng đen.

Hồi tâm Thầy cũng khá khen,Từ nay nhẩn tới cho bền mới hay.

41.- ĐỒ, con biết đường ngay lẽ chánh,Ráng dè lòng xa lánh quỉ ma.

Các điều lỗi cũng khá tha,Phong con Giáo-Hữu thêm hoa rỡ ràng.

Kệ Kinh nhắc nhở bạn vàng,Tuân theo Thánh-Huấn Thầy ban phước lành.

42.- KIỂN, chớ tưởng học hành tót chúng,Theo Hủ-Nho rẻ rúng Kinh Thầy.

Con ôi! Ngoại giáo là vầy:Kiêu căng, tật đố tưởng hay hơn người,

Khoe khoang phú quí già lời,

123

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Bắt qua, bẻ lại Đạo Trời đó con.43.- MINH, chớ nại hao mòn thân thể,

Có chư Thần đếm thẻ cầm cân,Song bằng tiền kiếp hậu căn,

Có tu mới nhẹ hưởng phần thiêng liêng.Khuyên con công quả cho bền,

Kiếp nầy là kiếp con đền kiếp xưa.44.- TRƯNG, khen đó năm lừa bảy lọc,

Chẳng có lòng lặn mọc như ai.Ngựa hay biết bởi đường dài,

Con ngay Thầy thưởng lên đài Giáo-Sư.Rèn lòng học hỏi ba dư,

Dắt dìu đoàn trẻ chớ từ công lao.45.- Việc phong thưởng đã trao phù tiết,

HIỆP-THIÊN-ĐÀI trước hết phải lo,Trung-Ương gầy dựng cơ đồ,

HIỆP-THIÊN-ĐÀI phải lựa cho phải người.Hiệp đồng con đủ các nơi,

Mượn nhà CA tạm THIÊN-ĐÀI ít lâu.46.- PHÙNG, con chớ cơ cầu húng hính,

Chức Thiên-Sư Thầy định trước rồi,Con đừng chặc dạ kín môi,

HIỆP-THIÊN-ĐÀI đó, con ôi! Giúp Thầy.Phong con Chưởng-Quản Đài nầy,

Có con ắt được rẽ mây trong Trời,47.- Khuyên con phải tuân lời Thầy dặn,

Lọc Đồng-Loan dùng thẳng nới tay.

124

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Bầy chim vừa sập sận bayLàm sao biết được cung mây mấy từng.

Miễn cho hớn hở Trời Xuân,Ngàn hồng muôn tía vui mừng rước Xuân.

48.- Chức Chưởng-Quản phải cần học hỏi,Bảy Chơn-Như lộn cõi trần gian,

Hạ mình con phải hỏi han,Rước về làm bạn Đạo càng thêm cao.

Dạy con đã dạy hồi nào,Vì con bê trễ để xao lãng hoài.

49.- HIỆP-THIÊN-ĐÀI Thầy sai phải mặt,CỬU-TRÙNG-ĐÀI sắp đặt cho an

Hiềm vì TÒA-THÁNH TRUNG-ƯƠNG,Không ai chịu nhượng để lương khương hoài.

TÒA-THÁNH mà chẳng định nơi,Đâu là chỗ vững cho người ngưỡng triêm.

50.- Phiền HẬU ĐẾN chớ hiềm việc nhỏ,Mời anh em cạn tỏ gần xa,

TRUNG-ƯƠNG phải có THÁNH-TÒA,Cho Thầy mượn đỡ một và đôi năm.

CHƠN-LÝ mà rõ đặng tâm,Cứu người mê mộng giá cầm mấy mươi.

—————————ddd—————————

125

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Ñònh-Töôøng, ñeâm 24 thaùng 7 naêm Nhaâm-Thaân (1932).

KHƯƠNG lãnh Thiên-Ngôn đến trấn Đàn,THƯỢNG cờ Huỳnh-Hạnh bố hào-quang,THÁI thừa Ngọc-Lịnh tuyên Tam-Trấn,CÔNG hội Thần Tiên đến lập ban.

Lão chào chư Thiên-mạng. Lão vưng lịnh mời đủ Tam-Trấn, chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần đến nghe Đức-Chí-Tôn truyền lịnh. Chư Thiên-mạng phải chí thành nghe Đức-Chí-Tôn dạy việc.

NGỌC bản danh đề định đã lâu,HOÀNG phong thăng thưởng kẻ mày râu,THƯỢNG thương quyết dựng nền Chơn-Lý,ĐẾ Đạo tràn tuôn khắp Á-Âu.

Thầy chào mừng các con, Thầy cho các con bình thân.

Nghe Thầy dạy:51.- Thầy lóng đủ các lời con trẻ,

Đứa thì vui, có kẻ bần dùn.Cám ơn các trẻ có lòng,

Thầy dầu nhọc sức hao công sá gì.Đã hay Đạo vốn Vô-Vi,

Nhưng cần phải chỗ đặng qui mối giềng.52.- Khuyên trẻ phải hết riêng tâm tánh,

Đồng cùng nhau lo gánh Đạo Trời

126

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Thì Thầy thở được dài hơi,Thì con được việc được lời đó nghe.

Khuyên con rộng rải trăm bề,Đã rằng Đại Đạo chớ chê bực nào.

53.- Dưới Trời Đất đồng bào cả thảy,Bị lỗi lầm nên quấy nên sai.

Thầy nhìn con cả gái trai,Ngày nay lạc bước, ngày mai cũng về.

Quên đâu rằng quán rằng quê,Nên Thầy chước lượng lập bề dỗ khuyên.

54.- Thầy quyết dựng cái nền CHƠN-LÝ,CỬU-TRÙNG-ĐÀI lập vị cho thành.

Con nào thảo thuận làm anh,Đạo là gạo muối để dành độ thân.

Con nào xiêu lạc cơ bần,Trở về thì được mọi phần ấm no.

55.- Thầy thương trẻ nên lo cần kiếp,CỬU-TRÙNG-ĐÀI cho kịp thời kỳ,

Thầy đà cạn nghĩ kỹ suy,Càng lâu càng lộn thau chì đó con.

Muốn cho Đạo được vuông tròn,Nghe lời Thầy dạy trành tròn chẳng nên.

56. Chư Phật Thánh nêu tên các trẻ,Dưng cho Thầy đặng để cầu phê,

Sớ dâng rành rạnh tên đề,TƯỜNG-NGHIÊM-AN-VỊ-THIỆU-KỲ-MÍNH-ĐÂY.

127

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Cầu phong cho LƯỢNG công dày, Thêm KHANH-ĐẢNH-QUẾ giúp Thầy Đạo tâm.57.- Thầy suy nghĩ liền cầm châu bút,

Thảy y lời chẳng chút nghi nan.Phối-Sư sáu cập sắc ban,

Đầu-Sư ba vị bảng vàng ghi tên,Còn kia ba trẻ cũng nên,

Gia phong một cấp lên đền NGỌC-HƯ.

Phê rằng:KỲ-VỊ công lao gẫm có dưMÍNH-TƯỜNG tua nắm chữ vô tư,LƯỢNG-NGHIÊM-AN-THIỆU-ĐÂY nên thưởngSắc chỉ phong rành chức Phối-Sư.QUẾ nếm mùi rồi quế chẳng phai,CÔNG-KHANH nào vị chức CAO-ĐÀILên non đến ĐẢNH xem thêm đẹp,Phong cảnh Giáo-Sư thật chẳng sai.

58.- Thầy đã chọn Phối-Sư sáu cặp,Khuyên các con mau tập tánh tình,

Siêng cần điều độ dân sinh, Đường ngay nẻo chánh chương-trình phải tuân

So cao đọ thấp khuyên đừng,Làm sao rõ mặt Thiên-ân của Thầy.

59.- CA trách nhậm công dày sức nhọc,Dám liều mình xông đục đạn tên.

Công phu con thật rất bền,

128

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Gánh lời nặng nhẹ chẳng rên chẳng phiền.Công con Thầy có chép riêng,

Thánh Thần Tiên Phật cũng biên rõ ràng.60.- Công con đó bảng vàng ghi tạc,

Thầy đã sai Bạch-Hạt xướng tên,Đầu-Sư phái Thái công đền,

Vai làm Anh Cả đứng trên TRÙNG-ĐÀI.Làm sao cho rõ chí trai,

Thay Thầy hành Đạo rõ tài Hậu-Giang.61.- Thầy tuy mới ràng ràng phong thưởng

Chức Phối-Sư cho LƯỢNG vừa rồiNhưng vì Thần Thánh tâu dồi,

Cầu gia phong LƯỢNG theo lời sớ dưng.Xem qua Thầy rất đỗi mừng,

Mừng vì con được Thánh Thần giúp tâu.62.- Chữ chánh trực Thầy đâu tư vị,

Hội chư Thần xét kỹ trước sau.Đầu-Sư phái Thượng yêu cầu,

Tạm phong cho LƯỢNG đặng thâu anh tài.Giúp CA chớ đổi chớ day,

Anh em hòa hiệp chớ sai chớ từ.63.- PHÙNG quyền lãnh Đầu-Sư phái Ngọc,

Đốc chí KIÊN ráng học cho cầnĐến ngày qua bước thanh vân,

Đầu-Sư sẽ lãnh chánh phần thế con.Ít nghiều công quả ráng bòn,

129

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Đừng cho tiếng nghị lời đồn bẻ bai.64.- Con tuy lãnh đến hai chức trọng,

Bởi Thần Tiên đã gióng hư nên.HIỆP-THIÊN chẳng đặng độc quyền,

Nếu độc quyền ắt giống miền Tây-ninh.Nên Thầy sửa lại phân minh,

Thiên-Đài Chưởng-Quản hiệp danh Cửu-Trùng.65.- BẢN còn mắc trong vòng Giáo-Hóa,

Mà xét lòng vàng đá có dư.Phong con Chánh Thượng-Phối-Sư,

Giúp quyền hành chánh chớ từ công laoRáng khuyên khắp kẻ đồng bào,

Đừng vui vẻ mặt mà xao lãng lòng.66.- NHƠN, con thiệt dày công cơ-bút,

Nhưng xét vì một chút bơ thờ.Nay Thầy tha lỗi trẻ thơ,

Phong cho Chánh Thái-Phối-Sư rỡ ràng.Định-Kiên tuy cách ngả đàng,

Trăm điều con phải luận bàn với CA.67.- CHIẾU hằng bị lũ tà díu dắt,

Ráng đề phòng kẻo mắc mà hư.Phong con Chánh Ngọc-Phối-Sư,

Giúp PHÙNG Chưởng-Quản ưu tư Thiên-Đài.Kim nên nhờ có sức mài,

Chớ rằng tùng lịnh mà hai tấm lòng.68.- Bực trên đã gia phong nhứt định

130

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Khuyên các con tùng lịnh lãnh phần.Sao cho Thầy được vui mừng,

Sao cho rõ mặt Thiên ân của Thầy.Khuyên đừng uốn vạy sửa ngay,

Đừng lòng dị nghị nay vầy mai kia.69.- Đừng có dạ chia lìa như trước,

Đừng lòng lo nắm được phần mình,Đừng lòng chích mích em anh,

Đừng lòng tật đố cành nanh chữ quyền.Lo sao Đạo khỏi chinh nghiêng,

Lo sao Đạo được thông miền Ngũ-Châu.70.- Thầy cạn tỏ một bầu tâm sự,

Khuyên con đừng lòng dụ dự chi. Cái ngày kỷ niệm Tu-My (rằm tháng 10)

Đại Thiên-phục phải mặc đi viếng Thầy.Đồng tâm đồng chí càng hay,

Một lòng một dạ nhiều tay mới thành.71.- Bên Nữ phái nêu danh một trẻ,

Giúp CA Minh-Chơn-Lý bấy chầy,HƯƠNG GIÀU công nặng lắm thay,

Nhờ con CA mới khỏi tay mị tà.Thầy đã cạn xét gần xa,

Phối-Sư phong trẻ ráng mà lập công.72.- Sách có chữ: “phụ tùng phu xướng”,

Hễ vợ hiền là tướng của chồng.Chồng nên nhờ vợ coi trong,

131

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Chồng nên vợ cũng bản phong danh đề.Giúp CA con phải dặt dè,

Biết bao yêu quái dựng phe kết đoàn.73.- Thương Nữ phái gian nan gặp lúc,

Bị quỉ vương làm nhục cũng nhiều.Ra tay con phải dắt dìu,

Rồi đây thầy sẽ lựa điều thưởng phong.Thầy là chí chánh chí công,

Nữ Nam Thầy cũng coi đồng như nhau.74.- QUANG, con phải mau mau nhứt định,

Qui TRUNG-ƯƠNG hiệp tính TRÙNG-ĐÀI;Con đừng lần lựa nay mai,

Nếu con bê trễ ắt sai ngày giờ.Việc con làm chớ chần chờ,

Con đà cạn hiểu sự thờ phượng chung.75.- TÒA-THÁNH sẵn, trùng phùng hội hiệp,

Khuyên các con liên tiếp cùng nhau,Chúng sanh thức tỉnh mới mau,

Chúng sanh mới hưởng phong trào Thuấn-Nghiêu.Ớ nầy trẻ dại rất yêu,

Nghe Thầy nhứt định QUI-ĐIỀU mà theo.

QUI-ĐIỀU:

Ớ các con yêu dấu, nghe QUI-ĐIỀU Thầy đây mà thi hành, chớ không tuân theo mà có tội.

132

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Điều thứ 1: THÁI, THƯỢNG, NGỌC dùng chữ NHỰT, NGUYỆT, TINH vì có chữ: PHẬT-NHỰT, TIÊN-NGUYỆT, NHO-TINH.

Điều thứ 2: Thập-Bát Hán đều là Người của Thầy mượn bên Phật nên phải tra thêm ba dải Vàng bên phía tả Đại Thiên-phục, không luận là Phái nào.

Điều thứ 3: CA, Chưởng-Quản Cửu-Trùng-Đài phải lo sắp đặt người cho có thứ tự, sau Thầy sẽ dượt phê cho. Con phải nhớ rằng: chức Chưởng-Quản Cửu-Trùng-Đài của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ rất quí báu và cao-thượng, nghe không con? Mặc ý con, muốn nghe theo Thầy để cứu vớt nhơn sanh trên sông mê biển khổ, hay là nghe theo ai, nó mượn danh Thầy, cậy danh con, để phá Thầy và hại Chúng-sanh thì nghe. Con phải sợ những đứa đã Chơn-Lý mà còn nghe theo quỉ-vương.

Điều thứ 4: các Chức-sắc Thầy phong về Cửu-Trùng-Đài phải ráng giúp CA cho trọn nghĩa đệ huynh, có công Thầy sẽ thưởng thêm.

Điều thứ 5: vì Thầy muốn thử sức chư Thiên-Phong nên Thầy thả Tam Thập Lục Động ra, ai biết có Thầy quyết theo Thầy sẽ thâu nó được, bằng không biết nó sẽ thâu lại, đừng trách Thầy không nói trước.

Điều thứ 6: LƯỢNG, cái trách nhậm con chưa xong, con phải hiệp cùng CA-PHÙNG hành Đạo cho chánh đáng, chớ trắng đen mà làm trò cười cho quỉ vương nó được trớn.

Điều thứ 7: BẢN-NHƠN, hai con cũng lãnh chức trọng, nhưng Thầy xét vì con không thể đứng đợt ra cho

133

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

thời kỳ nầy được. Vậy hai con ráng sức giúp TOÀ-THÁNH TRUNG-ƯƠNG để thi hành Thánh-Huấn của Thầy, chớ bàn bàn cãi cãi là bê trễ. Từ đây nhẩn sau Thầy còn cho nhiều Kinh Kệ và sửa Lễ-Nhạc theo TRUNG-THIÊN, chớ không theo HẠ-THIÊN như xưa nữa.

Điều thứ 8: vì Thầy thả Tam Thập Lục Động ra để thử thất các con, nên Thầy trở về Trung-Thiên ở tại Nam-Thiên-Môn để coi con đấu sức với nó, đứa nào trung tín Thầy sẽ gia thưởng. Con phải hiệp đồng về Trung-Ương cho gấp mới khỏi cái nạn quỉ ma gạt gẫm con. Thầy đã sanh con ra, lẽ nào Thầy không biết ý con, nhưng con còn nặng xác thịt, nên quên cả lời Hồng-Thệ với Thầy trước khi Thầy sai xuống, bởi thế nên Thầy theo con từ bước, kêu dạy từ chút, nay vì đến thời kỳ THẦY và TAM-TRẤN đều phải về Trung-Thiên nên dặn dò các con ngoại giáo thì chịu lấy.

Điều thứ 9: PHÙNG, vì Thầy về Trung-Thiên nên Thầy không dùng Điển của Hộ-Pháp nữa, Thầy cậy nơi con là người có Điển về Trung-Thiên để tiếp Điển Thầy mà ban hành Thánh-Huấn, con chớ từ nan mà lỗi với Thầy.

Điều thứ 10: Thầy sẽ phong: Đại-Sư, Pháp-Sư, Hộ-Đàn, Trị-Đàn cùng Thập-Nhị Ngoạt-tướng và Thập-Nhị Thời-Quân để giúp con bên Hiệp-Thiên-Đài.

Điều thứ 11: thi bài do nơi Hiệp-Thiên-Đài ra phải có Chưởng-Quản Hiệp-Thiên-Đài chứng nhận, để giao lại cho Ngọc-Đầu-Sư coi rồi trao qua Thái, Thượng Đầu-Sư xem xét kỹ lưỡng, rồi Chưởng-Quản Cửu-Trùng-Đài lãnh trách nhậm ban hành.

134

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Điều thứ 12: Thầy ngưng cơ-bút lập các nơi để qui về TRUNG-ƯƠNG, trừ ra nơi CAO-THIÊN-ĐÀN là chỗ nguồn cội CHƠN-LÝ.

Điều thứ 13: PHÙNG, Thầy ban cho con một cái Hiệp-Thiên-Đài Vô-Vi nơi mình con để Thầy dạy việc khi Thầy cần dùng.

Điều thứ 14: Thầy cho con lập hai cái Đàn Phổ-Độ tạm thời, để cho nơi nào có cần dùng. Nhưng phải do nơi Chưởng-Quản Cửu-Trùng-Đài ưng thuận.

Điều thứ 15: thi bài nào không ra nơi Hiệp-Thiên-Đài hoặc không chịu cho Chưởng-Quản Hiệp-Thiên-Đài chứng nhận, đều là ngoại giáo và ngoại Đạo hết, bất luận là ở nơi nào. Thầy tạm bế mạc cơ-bút trong 100 ngày, để ngày giờ cho các con hành lịnh. Nghe theo Thầy thì còn mong gặp Thầy, bằng không Thầy sẽ chuyển Đạo nơi khác. Các con phải chước lượng mà ban hành Thánh-Ngôn nầy cho đủ.

Bế mạc, thăng.

—————————ddd—————————

135

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

CHUYỂN MÊ KHẢI NGỘ(Số 8)

Cao-Thiên-Đàn (Kiên-giang), Ngày 16 tháng Giêng năm Quí-Dậu (1933).

(CHƠN TÂM chấp bút.)

Trời chiều mống dựng uốn ba màu(1),Muôn việc đều do một điểm đầu(2),Ngược nước, giọt trăng, chèo gác mái(3),Thơ Thần, Đạo Thánh vịnh vài câu.

HẠ NGUƠN KỶ NIỆM PHÚ

– Mắt thấy Hạ-Ngươn một việc, Lòng khen thượng trí Tam-Kỳ.– Chữ phê rằng ngày kỷ niệm Tu-My, Lời đồn rực cuộc Trung-Ương Đại-Hội.– Nước có nguồn, cây có cội; Trời công bình, trao

gánh nặng cho bực Thiên ân. Tiền là quả, Hậu là nhân; người sum hiệp, mới

thỏa lòng ngâm câu nhơn nguyện.

136

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

– Người trí thức, thông điều u hiển; dứt phàm tâm, lo phận sự, chí ân cần cho cận duyệt viễn lai.(1)-(2)-(3) = chiết tự: là Đông-Phương-Sóc.

Đạo chinh nghiêng, chọn kẻ anh tài; ban Thánh-Huấn, lập Qui-Điều, lời khuyến dụ mong thượng hòa hạ lục.

– Chốn phàm tục, mà quyết lòng thoát tục; lịnh ban vừa ráo tiếng, xa Nhứt Tâm, gần Nhứt Đức, lập cảnh Tiên, vầy bạn Thánh; phong quan nhìn rực rỡ vẻ y cân.

Cảnh hồng trần, lại diệt tánh mê trần; nền Định mới vừa yên, trên đồng chí, dưới đồng lòng, tưởng Đức Phật, đội ơn Trời; thiện tín thảy xôn xao đường thủy bộ.

– Cá dựa bờ, chim dựa tổ, lẽ tự nhiên, người ngay dựa với Chủ-Nhơn-Ông.

Giàu nhờ của, khó nhờ công, việc chánh đáng, Đạo tỏ nhờ nơi Minh-Lý-Hội.

– Lửa thử thét, vàng thau mới nổi; xám là chì, đen là kẽm, xanh là bạc, đỏ là đồng: bạc, chì, đồng, kẽm thảy phơi màu.

Gió sàng dê, trấu lép vừa rao; trộng là cội, nhẹ là rơm, nát là bụi, vụn là tấm: bụi, cội, tấm, rơm đều trổ mặt.

– Cơ Trời nháy mắt, dựng cuộc phổ-thông. Lũ quỉ đau lòng, gài mưu phá hoại.– Trời thường dạy: gìn lòng Bác-Ái, Luật Công-Bình

Tạo-Hóa chẳng lầm cân. Phật hằng khuyên: bỏ tánh tham sân, thuyền tế-độ

Từ-Bi không đợi nước.– Mưu mưu, chước chước,

137

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Tính tính, lo lo.– Đỏ, vàng, xanh, báu Thái-Cực-Đồ, Đen, trắng, tím, ngôi Vô-Vi cảnh.– Thông được chữ: thế gian bào ảnh; cải mà chi, sửa

đổi lại mà chi; cải sửa sao qua khỏi máy Kiền-Khôn. Rõ được câu: Thiên-Mạng Vi-Tôn; tuân thì được,

nghe theo thì ắt được; tuân nghe phải xui theo cơ vận chuyển.

– Nghiệm Thánh-huấn: Tề nhứt biến, Lỗ nhứt biến; ấy mạng Trời hằng biến cải mị thường.

Thương phàm tâm: nghi thiên phương, viễn thiên phương; mà Chơn-Lý cứ phương trương tự toại.

– Bớt lòng ái ngại, Dẹp dạ hồ nghi.– Một việc làm chớ gọi vô tri; mà xét coi: kìa Thiên

tri, Địa tri, Quỉ, Thần tri. Một việc tưởng cho rằng thượng kế; e phải mắc:

kìa ly kế, mị kế, vọng, lượng kế.– Bốn người minh thệ, Năm vị Thiên-Sư.– Một tiếng Đại-Từ Trăm bài Thánh-Huấn.– Đuốc Chơn-Lý ngày ngày đắc thắng; năm Thiên-

Sư lòng chớ rẽ đôi. Cảnh Trung-Ương bữa bữa vun bồi; hai Chưởng-

Quản chí mau hiệp một.– Lời tục ví: mía sâu có đốt, trẻ đổi đốt mới yên. Chữ Kinh rằng: Phật hóa hữa duyên, ai vô duyên

thì chịu.

138

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

– Chớ nghịch mạng rắn rồng mà lếu, xem Qui-Điều đủ khoản mười lăm.

Đừng ỷ tài gà phụng mà lầm, đợi Thiên-ý chọn người hăm bốn (24).

– Điển ma lộn, điển Trời đâu có lộn; khinh điển Trời hóa lộn lấy mình.

Luật người khinh, luật Thánh dễ nào khinh; lộn luật Thánh làm khinh cho Đạo.

Kệ rằng:

Đạo sanh Trời Đất biết tròn vuông Nào để ai làm cái mẫu khuôn.Tam nhứt, tam tam, tam thập lục,Muốn thông cho trọn đến non Côn.

—————————ddd—————————

139

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Cao-Thiên-Đàn (Rạch-giá)Đêm 14 tháng 4 năm Quí-Dậu(1933).

(TƯỜNG KHÁNH chấp bút.)

NGỌC lành há dễ để người rao,HOÀNG-Điện khuyên con ghé mắt vào,ĐẠI-Đức mới mong chầu Đại-Điện,ĐẾ quyền thức tỉnh giấc chiêm bao.

Thầy mừng các con. Nghe Thầy dạy:

76.- Tìm ngọc báu non trèo biển lặn,Kiếm châu lành dãi nắng dầm sương;

Đạo cao phải học mới tường,Mênh mông biển rộng khó lường khôn đong;

Ngày đêm khuyên ráng chí công.Dẫu cho cầm thú có lòng cũng nên.

77.- Ngày tháng tợ dường tên thấm thoát,Sớm cùng trưa con ác chẳng chờ,

Tu cho biết bến biết bờ,Tu đừng bày việc vất vơ phỉnh người.

Mị, Ly, Vọng, Lượng hại đời,Tránh sao cho khỏi lưới Trời bủa giăng,

78.- Nền Chơn-Lý trang bằng rất quí,Mối Vô-Vi Âu-Mỹ đương tìm.

Thương con Thầy dạy tấc tim,Sao con nỡ để sắn bìm phủ leo;

Thương con Thầy chỉ lái lèo,Con đành hơ hỏng cái dèo gió dông.

79.- Đồng một Đạo mà lòng chia rẽ,

140

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Bởi cậy quyền tranh thế mà ra,Đặt lời Thầy dạy chia ba,

Dối người thì dễ, dối TA dễ gì?Thần Tiên lụy nhỏ ai bi,

Cám thương sanh chúng mắc kỳ nạn vương.80.- Thầy đã dạy Trung-Ương là gốc,

Dạy các con chủng tộc thương nhau,Năm Châu một thể đồng bào,

Dẫu người khác giống cũng nhau rún mình.Cầu cho tránh sự đao binh,

Cầu cho thiên hạ thái bình muôn năm.81.- Đạo chẳng dạy đường lầm nẻo quấy,

Đạo chẳng truyền bùa giấy phép ma.Con ôi! Muốn rõ Đạo Cha,

Đạo Cha chánh trực vô tà vô tư,Đạo Cha chép để Thi Thư,

Đạo Cha khuyên trẻ ba dư học hành.82.- Đạo gốc dạy dân sanh làm phải,

Đạo dắt người đường phải Chánh Chơn,Đạo khuyên trung hiếu nghĩa nhơn,

Đạo khuyên con trẻ xót thương nhau hoài,Đạo không tách một rẽ hai,

Đạo là hiệp nhứt cả loài thế gian.83.- Thương con dại lầm đường lạc ngõ,

Đường Chánh Chơn đành bỏ chẳng màng,Thần Tiên cạn lẽ gián can,

Anh em ủ dột khô khan tâm bào.Chỉ Trời, chỉ Đất, chỉ Sao,

Nói Nam, nói Bắc, nói khào giành tin.

141

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

84.- Dạy Thiên-Đạo giống hình ảo thuật,Thương các con trí thức ở đâu?

Khéo tin những việc cơ cầu,Khéo tin những việc giấu đầu giấu đuôi.

Thế Thần chước quỉ giục xui,Gặp cơn giông tố đuổi ruồi được chăng?

85.- Nghe Thiên-Đạo chẳng cần ai chỉ,Thiên-Đạo là Thiên-lý nơi Tâm.

Thử xem con trẻ còn nằm,Biết nhìn cha mẹ chẳng lầm người dưng.

Ngày đêm xây chuyển không ngừng,Bốn mùa tám tiết một chừng không sai.

86.- Tìm Thiên-Đạo cần ai phải chỉ!Lòng chí thành suy nghĩ thì ra,

Đạo Trời nào phải yêu ma,Đạo Trời nào phải dối Ta, gạt Người.

Đạo Trời nào phải trò cười,Đạo Trời quí báu muôn đời sách ghi.

87.- Hành Thiên-Đạo Vô-Vi phải biết,Chữ tùy thì biến diệc phải thông.

Thánh-Nhơn thừa thử Lục Long,Nào ai biết đặng lại phòng bôn-chôn.

Phải thông hai chữ Hà Ngôn,Âm-thinh sắc-tướng phải chôn Nguơn-Thần.

88.- Thầy biết quỉ muốn phân nhiều mối,Lập Thánh-Tòa Thầy hội Trung-Ương,

Lời Thầy chánh chánh đường đường,Các con mặt trái can cường chẳng tuân.

Nghe không cũng tại số phần,

142

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Song Thầy cũng ráng đặng ngăn chỉ giùm.89.- Thầy hằng dạy hiệp sum một cửa,

Chọn Trung-Ương là giữa Trung tim.Đông Tây Nam Bắc thuận êm,

Bộ đi cũng vững, thuyền tìm cũng xuôi.Các con tới tới lui lui,

Minh minh bạch bạch, khỏi chui nhủi người.90.- Tiếng dậy khắp Thầy Trời dạy Đạo,

Cả Năm Châu Tôn-Giáo mội không.Các con sao nỡ đành lòng?

Các con sao nỡ vội vong ơn Thầy?Các con chẳng phải dại ngây.

Các con mau tỉnh nghe Thầy, bớ con!

CA, PHÙNG, hai con đã hằng lừa lọc Tịnh-Thất hiệp vào chăng?

Hai con có hiểu cách lừa lọc chăng?Hai con chung trí đặng cầu Thầy chỉ bảo chăng?Thầy dạy PHÙNG theo y lời Thầy, tới đâu Thầy sẽ chỉ

cho; chớ Thầy không dạy trước, e quỉ nó thấy mà dẫn sái đường.

……—————————ddd—————————

143

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Cao-Thiên-Đàn (Kiên-giang)Đêm 15 tháng Tư năm Quí-Dậu (1933).

NGỌC báu Thầy dành để sẵn nơi,HOÀNG phong Thiên chức phải trò chơi,ĐẠI đồng thế giới Thầy chưa định,ĐẾ lịnh khuyên ai chớ dể ngươi.

Nghe Thầy dạy:

91.- Thầy trước nói Đạo tròn thoạt méo,Bởi các con chẳng khéo mà ra.

Tiếng đồn Chơn-Lý bay xa,Các con nỡ để loài tà lộn xen.

Các con Đạo học thấp hèn,Lại thêm đãi-sĩ chiêu-hiền cũng không.

92.- Kìa Chiêu-Thánh Thầy phong tạng mặt,Được phong rồi tự đắc tự kiêu,

Nào hay kiêu ngạo bấy nhiêu,Đều là thuốc độc tinh yêu nhuộm vào.

Dầu cho Tiên Phật phẩm nào,Có lòng tự thị phải nhào chơn-ngươn.

93.- Ma quỉ dụng giọng đờn tiếng quyển,Xuôi giục người nhiều chuyện hoang đàng.

Nhỏ to thầm tính mưu gian,Quến người trí thức mê man tinh thần.

Các con mau tỉnh lần lần,Có ngày may được xá-ân của Thầy.

94.- Trăng gặp lúc vừng mây che khuất,

144

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Người phải tua nỗ lực tu hành.Tu cho mục đích đành rành,

Tu đừng lập vị, lập danh, lập quyền.Tu cho quỉ phục Thần kiên,

Tu đừng lo lập chùa-chiền hại dân.95.- Thầy chuyển Đạo lẫy lừng bốn biển,

Thầy có đâu triếu mến chùa to.Con nào muốn lập cơ đồ,

Bịa danh huyễn hoặc đừng hô danh Thầy.Rìu trăng chẳng dụng đốn cây,

Rìu trăng dụng để đốn tay gian hùng.96.- Thầy nhắn nhủ khắp cùng con dại,

Ai dạy làm việc phải thì nghe,Chớ ham hiệp lũ vây bè,

Trăm điều cẩn thận kiên dè lắm con.Đừng nghe tiếng ngọt lời ngon,

Khinh khi luật nước hao mòn thần linh.97.- Loài quỉ mị làm chinh Đại-Đạo,

Bịa danh Thầy hại báo chúng-sanh.Trung-Ương Thầy đã định rành,

Tiếng bay tỏ rạng danh lành chép ghi.Từ nay chánh giống Tam-Kỳ,

Trung-Ương là chỗ Thầy qui Đạo-Tràng.98.- Tiền, Trung, Hậu, Tam-giang kỳ quái,

Vốn mưu tà dẫn sái Đạo cao.Tịnh-Vân đạo đức dường bao,

145

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Rẽ phân thủ-túc dạ nào đành yên,Làm cho sanh chúng đảo huyền,

Danh nêu Hắc-tịch, bản biên A-Tỳ.99.- Mau sám hối Từ-Bi xá tội,

Để lâu ngày khó rỗi cho tiêu,Nhọc lòng công quả bấy nhiêu,

Ham danh một phút Thiên-Điều khó dung.Thấy con Thầy cũng động lòng,

Động lòng Thầy phải não nùng khuyên con.100.- Tình liên lạc xử tròn một mực,

Qui Trung-Ương hiệp nhứt như xưa.Đừng cho quỉ lận ma lừa,

Nhơn sanh đồ thán tội đừa tại con.Đừng cho Đại Đạo hao mòn,

Ngày đêm nhứt nguyện nước non thái bình.101.- Tu thì phải giữ gìn Tâm-Đạo,

Tu đừng cho quả báo luân hồi.Minh mông thiên võng khôi khôi,

Chớ khinh mà mắc, mắc rồi khó ra.Đạo nào Đạo lại rẽ ba,

Đạo là có một phải hòa mới nên.102.- Mưu chước quỉ có bền đâu được,

Khuấy các con đục nước béo cò.Than ôi! Con dại lầm to,

Miệng chậu kiến bò, nói chuyện thiên-văn.Thương con Thầy dạy ân cần,

146

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Khá tỉnh lần lần mới gọi chơn tu.103.- Đèn Chơn-Lý phá mù sanh chúng,

Sao các con chẳng dụng rọi đường.Rọi trong phế phủ cang trường,

Rọi ngoài luân lý cang thường cho xong.Rọi cho thức tỉnh giống dòng,

Rọi gần cho rõ đặng phòng rọi xa.104.- Ớ trẻ dại! Nghe Cha than thở,

Bỏ những điều lầm lỡ xưa nay,Phải lo vén ngút rẽ mây,

Tạnh êm sóng gió kịp ngày qui nguyên.Phải lo nhơn nghĩa vẹn tuyền,

Đừng cho xao dợn mới yên Nguơn-Thần.105.- Sẵn lương-tri làm căn làm cội,

Bỏ lương-tri học hỏi đâu xa.Lương-tri vốn thiệt Thầy nhà,

Lương-tri báu lạ của Cha sẵn truyền.Cạn lời Thầy độ hữu-duyên,

Chuyển-Mê Khải-Ngộ kẻo phiền lòng Cha.…Thầy chào các con.

—————————ddd—————————

147

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Cao-Thiên-Đàn (Kiên-Giang)Đêm 29 tháng Tư năm Quí-Dậu (1933).

(TƯỜNG KHÁNH chấp bút.)……

NGỌC bút châu phê sẵn mấy hàng,HOÀNG phong mở rộng cảnh Kiên-Giang,ĐẠI hùng, đại lực Minh-Chơn-Lý,ĐẾ đức dồi vào khắp bốn phang.

Thầy mừng các con. Các con bình thân, nghe Thầy dạy:

134.- Bên Nữ phái dặn dò khuyên nhủ,Những việc xưa lỗi cũ Thầy quên.

Từ đây đường cả thẳng lên,Thầy còn dạy chọn nhiều tên bản đề.

Kiên-Giang sắc chỉ đã phê,Cội nguồn Chơn-Lý mựa hề đổi thay.

135.- Nầy Nam-phái, nghe Thầy cử đặt,Ngọc bản xưa chọn mặt đành rành.

Vì sao tính quất lo quanh,Khiến cho Chơn-Lý rong xanh phủ thềm.

Các con đành đoạn yêm lìm,Các con đành đoạn chẳng kềm chế nhau.

136.- Khuyên các trẻ một màu một ý,Hòa hiệp nhau tâm trí cho phù.

148

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Đồng lo vẹt ngút mây mù,Chớ cho uổng phí công phu bấy chầy.

Trăng trong gió mát hây hây,Nầy công, nầy quả, nầy Thầy, nầy con.

137.- Thầy tâm chí hao mòn biết mấy,Các con đành phải quấy thiệt hơn.

Thầy đau đớn dạ từ cơn,Khúc khiêu can gián khuyên lơn phân trần.

Quỉ ma nay Sở mai Tần,Miễn con Chơn-Lý nắm chân theo Thầy.

138.- Thầy đã dạy rẽ mây vén ngút,Thầy trước phân chạm ngọc khảm vàng.

Thầy đà rọi đuốc chỉ đàng,Tại con yếu dạ mỏng gan quên lời.

Tại con tu giỡn, tu chơi,Tu quyền, tu thế, tu đời, tu quen.

139.- Ai cũng nói Cha hiền con thảo,Cha như Thầy, con thảo nào đâu?

Kiêng-Giang Chơn-Lý mở đầu,Kiêng-Giang Chơn-Lý cơ cầu hơn ai.

Thôi không tiếng một lời hai,Lể gai tiếng ví, dụng gai lệ thường.

140.- Thấy các trẻ lương khương tấn-thoái,Nghi ngờ vì giọng rỗi tiếng kèn,

Tin chi cái thói đê hèn,Tin chi cái lối tắt đèn là ma.

149

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Khuyên con một dạ thật thà,Mấy khi Chơn-Lý đôi ba con đường?

141.- Thầy mở lớp học đường sơ giảng,Giảng cho con một đoạn Đạo Trời,

Đạo Trời có một không đôi,Đạo là sự sống cứu người thế gian.

Đạo không đợi cãi đợi bàn,Đạo là giải cứu cái màn NGƯỜI TA.

142.- Trời có một thì TA có một,Có TA rồi nên cột có NGƯỜI,

NGƯỜI nên, TA được thảnh thơi,TA NGƯỜI chung hiệp một Trời nào ba;

TA NGƯỜI nếu rẽ nhau ra,TA NGƯỜI chia rẽ, quỉ ma chen vào.

143.- Bỏ “Cái Ta” thì nào có quỉ,Còn “Cái Người” cũng bị cái ma,

Quỉ ma cũng tại NGƯỜI TA,

TA, NGƯỜI chung một, quỉ ma tàn hình.Đừng rằng TA trọng NGƯỜI khinh,

Khinh thanh, trọng trược, tại mình rẽ chia.144.- Thầy sơ giảng một tia Chơn-Lý.

Con đêm ngày suy kỹ nghiệm cang.Phân minh tà chánh rõ ràng,

Nghiệm tường mới hết nghi nan Đạo Đài.CAO-ĐÀI có một không hai,

Đài cao nêu vọi nhắm sai nghi lầm.

150

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

145.- Thầy thường dạy Đạo-Tâm phải quyết,Nay giảng thêm cho biết Đạo Trời,

Khuyên con bền chí chớ lơi, Thì Thầy vui dạ nhiều lời dạy thêm.

Trường-trai khổ hạnh ngày đêm,Hóa chơn thành ngụy, luật nghiêm đặt bày.

146.- Nghe lời dạy khá thay tâm tánh,Phải chuyên cần đường chánh mà theo.

Kìa loài ma quỉ trổ dèo,Phật Trời ngoài miệng, tinh yêu trong lòng.

Giả Thầy móc của, lường công,Con ôi! Đạo vốn sắc-không muôn đời.

147.- Giảng Chơn-Lý một lời chẳng vị,Đạo Quang-Minh ích kỷ phải hư.

Đạo là Đại-nguyện Đại-từ,Đạo không mưu kế chuyện ngư, ngao, cò.

Đạo chung khắp kẻ Hớn Hồ,Đạo nào dạy lập cơ đồ, cơ giang./-

—————————ddd—————————

151

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

CHUYỂN MÊ KHẢI NGỘ(Số 9)

Cao-Thiên-Đàn (Rạch-Giá)Đêm 18 tháng 6 năm Quí-Dậu (1933).

KHƯƠNG từ lãnh mạng hiệp chư Hiền,THÁI-Cực-Đồ dùng báu tự-nhiên,CÔNG-dụng công-tâm trừ quỉ mỵ,GIÁNG Đàn chấn-chỉnh cuộc An-Thiên.

Lão chào Chư Chức-sắc Lưỡng-phái. Tịnh Đàn tiếp-giá Đức-Chí-Tôn.

NGỌC là vật báu của Trời sanh,HOÀNG-Bút châu phê chữ đã rành,ĐẠI-Cuộc An-Thiên rồi Kỷ-Niệm,ĐẾ-Ân truyền xá kẻ làm lành.

Thầy mừng các con. Nghe Thầy dạy:204.- Nầy các trẻ có duyên tìm Đạo,

Chữ lời Thầy dạy bảo, chớ sai:Minh-mông biển rộng, sông dài,

Trời che, Đất chở chẳng hai con đường.Anh em hòa thuận, nhịn nhường,

152

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Đừng lòng ích-kỷ Sâm-Sương rã-rời.205.- Kể từ thuở Đất Trời gầy dựng,

Sanh loài người chí nhẩn tới nay;Nhiều phen giáng-thế chỉ bày,

Tùy theo thời-cuộc, cũng Thầy mà thôi;Rằng tuy khác biển cách vời,

Hễ ở trong Trời thì một “Mẹ Cha”.206.- Tuy khác tiếng, khác da, khác giống,

Nhưng cũng đồng sự sống với nhau,Dưới chơn cho tới trên đầu,

Tay chơn máu thịt chỗ nào khác đâu?Ớ con! Khắp cả Hoàn Cầu!

Trước đều một rún, một nhau, một nhà.207.- Từ Vô-Thỉ, Lịnh Cha đã dạy,

Dạy các con đến cõi trần-gian;Mở mang khắp cả Hồng-Hoang,

Giúp thay Bàn-Cổ, Tam-Hoàng lập công;Công thành qui-vị thưởng phong,

Đừng cho đến đỗi bụi hồng vương mang.208.- Cung “Bạch-Ngọc” hai ban lựa nhón,

Chọn con nào chưa trọn Chơn-Nguơn,Ban cho nhứt Điểm Linh Quang,

Giáng trần công-quả hoàn-toàn Bổn-Lai;Lập xong danh phận Tam-Tài,

Trở về hớn-hở lâu dài Ngọc-Kinh.209.- Chốn “Ngọc-Kinh” còn gìn nhiều bực,

Đặng chăm nom đốc-suất công-trình;Giúp công hóa hóa sinh sinh,

Phong Vân Vũ Lộ Đẩu Tinh huyền hoàn;

153

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Âm-Dương hàn-thử tuần-huờn,Cầm giếng-mối Chánh “Càn” cang giúp Thầy.

210.- Nối Nhơn-Hoàng đổi thay Thánh-Ý,Mến hồng-trần quên nghĩ Ngọc-Kinh;

Tánh phàm chen lộn vào mình,Thất-tình lục-dục biến thành quỉ-vương:

Cửa nhà, nấu nướng, điểm trang,Trau dồi xác thịt, quên đàng thiêng-liêng.

I.211.- Muốn cho trẻ có duyên trở lại,

Thầy phải sai ba phái “NHỨT-KỲ”:Di-Đà, Thái-Thượng, Phục-Hy,

Giáng-trần phổ-độ duy-trì Đạo Cha:Thái-Thượng sửa tánh phàm-tà,

Phục-Hy hoạch quái, Di-Đà giác mê.212.- Thầy cũng dạy đề-huề Tiên Thánh,

Trước cùng sau lãnh gánh giáng phàm;Đông Tây Nam Bắc gia tâm,

Năm Châu em dại ráng tầm cho ra;Dắt về cho tạng mặt Cha,

Đại-phong an hưởng Thánh-Tòa Ngọc-Kinh.213.- Còn những kẻ chưa thình Tâm Tánh,

Lưu phàm trần khổ hạnh Tu Thân,Nước non bồi bổ tinh-thần,

Nguơn-Chơn un-đúc, bổn-căn trau-dồi;Đạo thông sẽ trở về Trời,

Cùng Cha sum-hiệp đời đời an vui.214.- Mười hai trẻ được hồi Nguơn-Vị,

154

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Dư hằng hà chẳng kể Chánh Chơn;Một lòng xu-hướng quỉ-vương,

Khinh-khi, nhạo báng sự Nhơn-Đức Trời;Mê sa ma quỉ lả lơi,

Bỏ điều “Minh-Thệ”, trổ mòi Bàng-Môn.215.- Oai Trời định diệt phồn yêu mị,

Giáng thiên tai, hồng thủy thao thao;Thay Thầy sửa trị phong-trào,

Nối Nghiêu có Thuấn lãnh trao Chơn-Truyền.Thương đời Tiên, Thánh liền liền,

Giáng phàm tế-độ luân-phiên dạy đời.216.- Dư ngàn năm đến đời Thương Trụ,

Tà loạn chơn rất phụ lòng Thầy;Thánh-Nhơn cho giáng Kỳ-Tây,

Đao binh kiếp số diệt bầy tinh yêu.Sa-Tăng tội ác khó tiêu,

Bắt về giam đợi Thiên-Điều xử-phân.217.- Thương Cơ-Phát ân-cần diệt bạo,

Phú ngôi Trời dạy Đạo hóa dân;Phú cho mười bực Hiền-Thần,

Lãnh truyền Đại-Đạo xa gần thế-gian;Truyền lần đến cõi Nam-Bang,

Cháu con Hồng-Lạc vén màn “Chỉ Nam”.218.- Nhà Cơ-Phát tám trăm năm có,

Truyền Đạo Trời vô số Huyền-Công;Hềm còn yêu chuộng Thần-Thông,

Hóa lòng vọng tưởng, chẳng phòng yêu-ngôn;Lần lần sa lạc “Bàng-Môn”,

Thần Tiên, ma quỉ chẳng còn biện-phân.

155

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

II.219.- Nhìn thấy trẻ dương-trần Thầy ngán,

Chẳng rằng chi còn đáng con Thầy;Biết sao cho được giải khuây,

NHỊ-KỲ PHỔ-ĐỘ Thầy rày phải sai;Bởi thương các trẻ miệt-mài,

Trần-gian ảo-mộng lại hoài Chơn-Nguơn.220.- Hóa Bốn Phách chẳng sờn lao-khổ,

Trắng, vàng, đen phổ-độ cả ba:Ấn kia trước có Di-Đà,

Nay cho tái-thế Thích-Ca giáng phàm;Thái-Thượng hóa kiếp Lão-Đam,

Truyền Kinh Đạo-Đức nơi Hàm-Cốc-Quan,221.- Luận dạy việc kinh bang tế thế,

Bởi sanh-dân bỏ phế luân-thường;Kế Châu cho giáng Tố-Vương,

Ân-cần lập kỷ trần cương dạy đời,Hiếu, Trung cội gốc con người,

Trọn điều Nhơn-Đạo tùy thời Tu Thân;222.- Nơi Tây-Bộ nhiều lần Đạo mở,

Quỉ-vương thường phá vỡ Đạo nhà,Phải sai con Một của Cha,

Máu hồng chuộc tội cả và thế-gian.Bộ Châu nào mới mở-mang,

Cũng đều sai Thánh đến ban Tin Lành.223.- Muốn biết trẻ nhiệt thành nguồn cội,

Cho Sa-Tăng đoái tội lập công;Con nào thiệt dạ thính tùng,

156

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Cõi Trời dành để vô cùng sự vui;Con nào gian ác chẳng thôi,

Chiếu lời minh-thệ “Ngũ-Lôi” hành hình.224.- Dư một lúc hơn nghìn năm rưỡi,

Biết bao phen Vận-Hội trở-xây;Phật, Tiên lắm lúc châu mày,

Thánh, Thần nhiều buổi chầu Thầy lụy rơi;Rằng con chẳng những y lời,

Bàng-Môn Tả-Đạo coi Trời như không.225.- Kẻ chẳng kể Luật công Thiên-Lý,

Kẻ thì theo tà mị, dị đoan;Xiết bao kiếp số tai-nàn,

Hớn qua, Tống lại, Minh sang, Thanh rồi;Cãi Trời thì bị luật Trời,

Trời nào có dạy cướp ngôi tranh quyền.225.- Con đã dại, Thầy yên sao được,

Kiếp Ngũ-Lôi kế duợt gần đây;Nếu con tránh được buổi nầy,

Mới được chầu Thầy Cực-Lạc tiêu-diêu;Nếu con ma quỉ tinh yêu,

Ngũ-Lôi hỏa kiếp diệt tiêu Linh-Hồn.

III.227.- Muốn cho con được tròn tỉnh ngộ,

Đệ TAM-KỲ Phổ-Độ phải ban;Xét coi cả cõi Dinh-Hoàng,

Có Châu Nam-Thiệm Hồng-Bàng khá khen:Một lòng Đạo-Đức tập rèn,

Ít mê vật-chất đê hèn như đâu.

157

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

228.- Tuy chưa rõ Nhiệm Mầu Đạo-Đức,Song có lòng kỉnh Phật, thờ Trời;

Lịnh sai Tiên, Thánh khắp nơi,Giúp người lầm lạc phục hồi bổn-sơ;

Phổ thông dụng Báu Huyền-Cơ,Khải thông Đại-Đạo trên bờ Nam-Bang.

229.- Thay Tam-Giáo lập bàn Tam-Trấn,Tùy theo thời độ-dẫn chúng-sanh;

Độ cho bỏ dữ về lành,Bỏ điều tà vạy, đừng canh-cải Trời;

Tam-Kỳ Ân-Xá các nơi,Hễ biết nghe lời thì được qui nguyên.

230.- Phế Ngọc-Kinh, Nam-Thiên giá-hạnh,Thầy bổn-thân thấy cảnh đau lòng:

Các con rắn rắn, rồng rồng,Coi lời Tam-Trấn như không, chẳng màng;

Lại thêm bày lớp dị đoan,Mê sa ma quỉ tội tràn vạ lây.

231.- Thương các trẻ Thầy day cán bút,Cao-Thiên-Đàn gạn đục lóng trong;

Khuyên con bỏ tánh cuồng ngông,Giàu lòng Bác-Ái, mạnh lòng Từ-Bi;

Đường Ngay con cứ con đi,Ráng tìm đến chỗ Thầy qui mà vào.

232.- Lập Trung-Ương Thầy trao gánh nặng,Dạy các con dứt hẳn phàm tâm;

Đừng lòng chia rẽ mà lầm,Đừng lòng dại dột mà cầm rằng khôn;

Xét coi nội Quả Càn-Khôn,

158

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Có ai qua được Chí-Tôn là Thầy.233.- Thầy thương xót một bầy con dại,

Kiếp “Ngũ-Lôi” hiện tại đương giàn;Thầy thương, Thầy dạy, Thầy than,

Mong cho con chớ ngổ-ngang lời Thầy;Ví bằng kiếp số đến ngày,

Ăn-năn đã muộn, kêu Thầy uổng công./-CA, Thầy khen con có chí học Đạo, song Đạo rất

mắc-mỏ, mỗi người hiểu một ý, vì thế cho nên Đạo phải chậm trễ. Từ nay nhẩn sau, Đạo còn tấn-hóa thì Thầy lại dạy cao hơn một ít; ráng tìm mà hiểu. Thầy khuyên con nhơn dịp rảnh rang, đến hòn núi nào dựa mé biển, dòm lên Trời coi sự tấn-hóa của cõi không-trung, dòm xuống thấp coi tấn tuồng cỏ cây sóng nước, con sẽ rõ Đạo Thầy.

Thầy không phải có một Tòa-Thánh. Thầy có đến bốn cái Tòa-Thánh: ba cái vô-hình, và một cái hữu-hình. Con ráng tìm mà hiểu, cái quả Địa-Cầu nầy là Trung-Ương, vì khí Trời bao nó, còn nó ở chính giữa.

Quỉ-vương có ba Tòa-Thánh vô hình và nhiều Tòa-Thánh hữu hình của người đã lập cho nó và săn-sóc trật-tự cho nó. Con ráng tìm cho thấu.

NGUỢT Thầy khen con biết căn-cội mà tìm. Bấy lâu nay Thầy cho con thung-dung để lo trọn bổn-phận phần đời, nay đã đến kỳ trách-nhậm con nghe thi Thầy đặng hành phận-sự:

Trời Phật chính là có một TA,Phải phân cho kỹ, kẻo lầm ma,

159

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Thời-kỳ trách-nhậm con nâng gánh,Giáo-hữu Thầy phong tại Ngọc-Tòa.

Thăng

—————————ddd—————————

Cao-Thiên-Đàn (Rạch-Giá),Đêm 19 tháng 6 năm Quí-Dậu (1933).

NGỌC-thể kim-thân báu tự-nhiên,HOÀNG-ngôn thường dạy chữ đoàn-viên,ĐẠI-minh đại-giác do Chơn-Lý,ĐẾ-lịnh khuyên người phục bổn-nguyên.

Thầy chào các con. Nghe thi:

234.- Lò Tạo-Hóa mấy Ông thợ tạo,Ai tạo chi quả-báo luân-hồi;

Đã rằng Thiên võng khôi khôi,Sơ nhi bất lậu mắc rồi khó ra.

Tiên phàm Phật Thánh tà ma,Chưởng qua thì phải đắt qua tại mình.

235.- Con muốn được trường-sinh bất-tử, Chữ trường-sinh giải thử Cha nghe.

Khuyên con học phải kiên dè,Đừng theo “Tả-Đạo” khó về ngôi xưa.

Giải cho con hiểu đặng chừa,Hiểu rồi mới biết đặng ngừa “Bàn-Môn”.

160

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

236.- Con phải nhớ Linh-Hồn hượt bát,Vốn là ngôi Bổn-Giác Thầy ban;

Bởi con chưa được hoàn toàn,Thầy cho xuống tại phàm-gian trau dồi;

Dứt xong phàm tục được rồi,Vô-Vi hiệp nhứt về ngôi Thánh-Tòa.

237.- Xuống phàm-thế phải ra công nhọc,Lãnh riêng phần săn sóc chúng-sanh,

Lãnh phần chấp-chưởng Quyền-Hoành,Cầm cân phạt dữ thưởng lành thế TA.

Cầm quyền Chơn-Lý Giái Ba,Chí chơn chí chánh vô-tà vô-tư.

238.- E con dại nên hư chẳng rõ,Mà sái đường lạc ngõ Lý-Chơn.

Một phần chuyên dạy nghĩa nhơn,Giảng phân Đạo-Đức, luân-thường bổn-nguyên;

Trung-Dung bất diệt bất thiêng,Tu điều đức hạnh ròng chuyên Đạo Trời.

239.- Lo lũ trẻ ham chơi lười biếng,Vì lo ăn, chưa đến chưa no;

Một phần trách nhậm rất to,Gia đình giáo dục phú cho nghiêm từ;

Rèn lòng triêu tịch tư tư,Động, ngôn, thị, thính tảo trừ tà tâm.

240.- Tứ-Đại-Giả hiệp thành nhứt thể,Vì trược thanh nặng nhẹ chẳng đồng;

Các con có đứa cuồng ngông,

161

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Cũng còn có đứa vẫn thông-minh nhiều;Anh em sau trước dắt dìu,

Rèn lòng son sắt, bỏ điều tà tây.241.- Kìa ba sáu ngàn ngày như nhán,

Còn trông chi, còn nán đợi chi?Đường ngay sao chẳng bước đi?

Đường tà để bước, ôi thì, ối thôi!Kìa kìa cái bánh “Luân-Hồi”,

Lăn qua lộn lại mấy đời thoát ra?242.- Bánh luân-xa thoát ra chẳng khỏi,

Thì Linh-Hồn sao gọi trường-sanh;Muốn cho gọi được trường-sanh,

Trường-sanh vốn thiệt bất-sanh đó mà.Bất-sanh mới được gần TA,

Gần TA mới được thoát ra “Luân-Hồi”.243.- Bánh luân-xa lăn rồi lại trả,

Mà ai rằng tấn-hóa nỗi chi?Nếu không cách-vật trí-tri,

“Luân-Hồi” nhiều kiếp, ngu si càng nhiều.Biết đường tánh mạng mà theo,

Trương bườm Chơn-Lý một lèo mấy ai?244.- Con chữ dạ chớ sai lời dạy,

Sáu loài ma dục quấy coi chừng.“Luân-Hồi” xa nọ nhiều ngăn,

Mà ngăn lục dục hơn phân nữa rồi.Nếu sa vào bánh “Luân-Hồi”,

Thì mong chi nữa phục hồi Bổn-Ngươn.

162

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

245.- Trị Nhơn-Tâm còn hơn trị hổ,Thất-tình thường bởi nó mà sanh.

Ham chi phú quí lợi danh,Khoe khoang sự nọ, nói hành sự kia.

Dẫu cho muôn kiếp chẳng lìa,Lộn đi lộn lại, cũng về “Bàn-Môn”.

246.- Thầy chỉ tắt cho con được hiểu,Tấn-hóa là chỉ-yếu phải tu.

Tu cho phân biệt trí, ngu;Tu đường Đạo-Đức, tiếng rù đừng tin.

Đạo, đời hai cuộc phân rành,Đừng tin-tưởng quấy, phải thành-thật tâm.

247.- Đừng ham muốn âm thầm phép lạ,Đừng chuyên lo truyền bá dị-đoan,

Đừng ao ước việc mơ màng,Đừng tin-tưởng việc hoang-đàng quỉ ma,

Đừng lo những việc cao xa,Đừng lo ích kỷ: lợi ta, hại người.

248.- Phải tin-cậy một Trời Độc-Nhứt,Phải ân cần tuyệt dứt phàm tâm.

Phải giồi đức hạnh cao thâm,Phải cho Bác-ái, phải tầm Lý-Chơn,

Phải suy xét kỹ mọi đường,Phải lo an-phận thủ-thường là hay.

249.- Con khá nhớ lời Thầy đã nói,Ấy là đường thoát khỏi “Luân-Hồi”.

Đức-tin, công-quả vẹn rồi,

163

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Tự nhiên con được phản-hồi Ngọc-Kinh.Ấy là con được trường-sinh,

Trường-sinh bất-diệt bất-sinh thiên-tề.250.- Con ở thế mản mê phép lạ,

Nên bị điều dối trá phỉnh phờ,Tay kia đã kẹt hom lờ,

Hết đợi, hết chờ đặng gỡ tay ra.Con hư lây xấu đến Cha,

Con dữ, ắt là Cha Mẹ phải mang.251.- Thầy càng dạy, con càng ngang ngạnh,

Kiếm thế thần đặng tránh cho xa.Con ôi! Tai nạn khó qua,

Nếu con chẳng kíp, thoát ra của “Bàn”.Thần-thông dầu có muôn vàn,

Thiên-Điều đâu thứ tôi-loàn mà mong.252.- Con muốn được thoát vòng tục lụy,

Phải tập rèn Chơn-Lý cho rành.Không thông ráng học ráng hành,

Không thông khuyên chớ cải-canh, kê-cà.Không thông khuyên chớ bỏ qua,

Không thông thì phải ráng ra công tìm.253.- Đường Chơn-Lý kim-kim cổ-cổ,

Mà ai nào đánh đổ hào ly?Con ôi! Tâm động Thần bi,

Trúc-cơ diện-bích ích gì đó con?Nếu con Tâm Tánh chẳng Tồn,

Tự nhiên hạo khí hao mòn uổng công.254.- Muốn thành Phật, giàu lòng Bác-ái,

164

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Chúng sanh đều chủng loại cùng nhau;Phải lo Đạo-Đức cho giàu,

Đừng lo ích kỷ mượn màu Từ-Bi.Khuyên con chớ tánh tham si,

Chớ làm rồng cọp vân vi rộn ràng.255.- Người ở thế muôn vàn tân khổ,

Lo sao cho phổ-độ chúng-sanh;Của trần phải sạch sành sanh,

Sạch rồi chớ khá khoe danh với đời;Của Trời thì giúp cho Trời,

Giúp Trời vì bởi mình tôi của Trời.256.- Ở trần thế nghỉ ngơi chẳng được,

Cõi Giái-Ba là cuộc chiến trường:Lợi danh, Đạo-Đức tranh thương,

Quỉ-vương, Phật-Tổ hai đường chống nhau.Mà ai Chơn-Lý rõ sâu,

Thì được về chầu Bạch-Ngọc cao Ngôi.257.- Đừng tưởng vấy Luân-Hồi tấn-hóa,

Luân-hồi là Nhân-Quả đó thôi.Nếu ai nặng quả của đời,

Thì bị “Luân-Hồi” vay trả, trả vay.Nếu ai công-quả với Thầy,

Mãn kỳ trách nhậm là ngày siêu thăng.258.- Mấy ai được một lần trọn phải,

Cũng sanh đi, sanh lại nhiều phen;Luân-hồi nào có gọi tên,

Thoát thai giáng thế, thiêng liêng luật Trời.Giữ sao đừng vấy bợn đời,

Tránh khỏi Luân-Hồi là gọi Trường-sanh.

165

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

259.- Việc Tu-hành mối manh đã chỉ,Con ráng tìm Chơn-Lý mà phăng.

Sao con nhứt nhựt mỗi tân,Nhựt tân nhứt nhựt tự tân cho mình.

Khuyên con gìn dạ sắt đinh,Chánh tà, Chơn ngụy phải minh cho rành.

260.- Đường Chơn-Lý chúng-sanh chưa thạo,Cứ quẩn quanh quả báo “Luân-Hồi”.

Cho nên Tả-Đạo dối Trời,Hư hư thiệt thiệt mê người khá thương.

Ngày nay Chơn-Lý bày tường,Khuyên con tỉnh mộng bương bương trở về.

261.- Muốn học Đạo đừng mê mới được,Mê muội làm bạc-nhược tinh-thần,

Làm cho hủ hại bổn-căn,Làm cho dứt hẳn Lương-năng tánh Trời,

Làm cho hồn-phách rã rời,Làm cho cách trở Ta-Người xa nhau.

262.- Khuyên con trẻ mau mau tỉnh giấc,Mới gọi rằng đáng mặt làm con.

Nước non dầu có hao mòn,Trời còn, Chơn-Lý vẫn còn tự-nhiên.

Ngày nay con được hữu-duyên,Nên Thầy mở rộng “Khiếu-Huyền” cho con.

263.- Điểm-Linh-Quang thường còn chẳng mất,Muốn thành Tiên, thành Phật phải “Tin”.

Quỉ ma yêu quái cũng mình,Có lòng dục-vọng khó nhìn “Chơn-Thân”.

Con ngươi đen trắng chưa phân,

166

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Mà mong điểm-đạo truyền-thần cho ai? THĂNG

—————————ddd—————————

CHUYỂN MÊ KHẢI NGỘ(Quyển cuối không có số, xuất bản năm 1934)

Sa Giang, ngày 21 tháng 9 âl (1933)

CHƯỞNG qua vụ đắc qua,GIÁO Đạo kỳ truyền Đạo,THIÊN mạng viết phi thường,TÔN nghiêm thùy khả đảo.

Bần-Đạo chào chư Đệ-tử, chỉnh Đàn tiếp Đức-Chí-Tôn.

NGỌC đình sắc tứ luật Điều-qui,HOÀNG lịnh sa thừa kẻ tự-khi,ĐẠI kiếp đại thành kỳ tám chục,ĐẾ ân rộng mở cảnh Vô-Vi.

Thầy chào các con. Các con bình thân nghe Thầy:

264.- Các con chuộng CAO-ĐÀI danh hiệu,

167

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Mà không lo thấu hiểu Đạo mầu.Ngàn khuyên muôn dạy đã lâu,

Lòng con bôi lọ một câu chưa rành,Nói năng dường sãi niệm Kinh,

Gạn lòng lại thử ngọn nhành u ơ.265.- Thầy thấy trẻ bơ vơ rất hổ,

Hổ nỗi con chưa rõ ĐẠO CHA.ĐẠO CHA chánh trực vô tà,

Lời CHA đã dạy thiết tha từ nào.Con mê giấc mộng ảo bào,

Lãng lơ Đạo Cả, ngọt ngào mồi ngon.266.- Đứa mảng tính dại khôn, khôn dại;

Đứa say mê ân ái, ái ân.Đành quên Đạo Cả tinh thần,

Đành vùi cát bụi Chơn-thân của mình.Dầu cho hay biết tin lành,

Biết rồi cũng phủi, cứ gìn ý riêng.267.- Tu nghe đọc “Mười khuyên” lỗ miệng,

Tu nghe cầu “Ngũ nguyện” đầu môi,Tu vầy, Thầy gẫm than ôi!

Tu vầy sao thoát Luân-hồi đó con?Tu vầy danh giá đâu còn,

Tu vầy Đạo Cả ai tôn, ai vì?268.- Tu phải biết TAM-KỲ mở Đạo,

Vì các con ngơ ngáo thiện duyên.Mê man giấc mộng nhãn tiền,

Luân-trầm khổ-hải liên miên chẳng rời.Khoe mình cậy thế gạt người,

168

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Nghiệp-chướng rối đời, Trời thảm Đất than.269.- Sao chẳng sét oan oan tội dữ,

Sao chẳng lo Trung-Thứ làm đầu.Trái oan, oan trái, cơ cầu,

Trả vay, vay trả, mảy thu chẳng lầm.Xưa nay những đứa cơ thâm,

Thiên-Điều báo ứng khỉnh khầm đâu sai.270.- Thầy thuơng xót muôn loài sanh chúng,

Thường khuyên rằng: một rún, một nhao;Trách con đành dạ lãng xao,

Trách con chẳng kể đồng bào là chi,Trách con mảng tánh tham si,

Trách con đồng, kẽm, thau, chì chẳng phân.271.- Loạn phép nước Thánh Thần đâu chứng,

Luật tự nhiên cảm ứng hẳn hòi.Khuyên con thấy đứa trổ mòi,

Khá trừ chớ để hóa giòi trong xương.Đạo Thầy chánh chánh đường đường,

Đạo dạy cang-thường, luân-lý, nghĩa nhơn.272.- Đạo chỉ rõ Thiên-chơn thanh tịnh,

Đạo dạy rành bổn tánh linh thông;Đạo-nguyên vốn thiệt hư-không,

Đạo-lý nghiệm cùng cách-vật trí-tri.Đạo-tâm đã gọi duy vi,

Đạo ngăn cấm việc thị-phi lăng-loàn.273.- Đạo khuyên giữ bình an trật tự,

Đạo nào cho chống cự mạng Trời,Đạo không dạy việc rối đời,

169

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Đạo dạy con người: “Dĩ hiếu vi tiên”.Đạo lo công quả mãn viên,

Đạo gốc chí-thiền bất lụy tu du.274.- Các con sẵn trượng-phu tâm tánh,

Khá mau lo xa lánh mê đồ.Trời Nghiêu, cổ phúc hàm bô,

Đạo-duyên thiện-niệm qui-mô sẵn sàng.Tức tâm tức Phật một đàng,

Lập công tiêu nghiệt, dưỡng an tinh thần.275.- Thấy nhiều trẻ siêng năng cầu Đạo,

Tưởng Đạo Thầy ở dạo núi non,Hoặc là ở bãi, ở hòn,

Bạ đâu tin đó, nghe đồn cứ đi.Chẳng cần cạn nghĩ kỹ suy,

Đói ăn bánh vẽ, ích gì mà mơ.276.- Có trẻ tưởng Đạo-thơ là chắc,

Cứ lần mò, lượm lặc Đơn-Kinh,Chẳng lo phổ-độ chúng-sinh,

Lo trông Hổ-giáng, lo rình Long-thăng.Khác nào bịnh liệt trở trăng,

Mà tra tánh dược, bịnh căn sao lành?277.- Cũng hiếm trẻ lập công sáo ngữ,

Dày công-phu nuốt chữ tam sao.Khen cho hạnh khổ công lao,

Mà rồi công-quả lạc vào “Bàn-Môn”.Dẫu cho tiếng nổi như cồn,

Khác nào bông giấy điểm son ích gì?278.- Chỉ cho trẻ đường đi phổ-độ,

170

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Ấy là đường cứu khổ tiêu tai.Đừng cho sanh-chúng bi-ai,

Đừng cho sanh-chúng vướng chày tứ-phi.Rèn lòng cẩn thận tứ tri,

Một lòng son sắt qui-y theo Thầy.279.- THẦY thường dạy đừng bày chuyện lạ,

THẦY thường răn đừng tá danh “Thầy”.THẦY thương trẻ dại thơ ngây,

THẦY dìu dắt trẻ đường ngay công bằng.THẦY đâu dạy việc lố lăng,

THẦY đâu dạy võ, dạy văn, dạy phù.280.- THẦY dạy trẻ việc tu phải xét,

THẦY dạy con phân biệt Chánh Tà.THẦY đâu dạy việc tinh ma,

THẦY đâu dạy việc bất hòa dưới trên.THẦY khuyên việc phải, việc nên.

THẦY đâu dạy trẻ học tên phong thần.281.- Các con ráng cân phân cho kỹ,

Con phải tìm Đạo Lý mà theo.Đừng mê những việc hiểm nghèo.

Đừng nghe những tiếng trớ trêu phỉnh phờ.Trăng trong, mây phủ, trăng lờ,

Con phải biết bờ, biết bến mới hay.282.- Đạo Thầy dạy càng ngày càng tới,

Bởi các con chưa mới lấy mình.Lời Thầy đã dạy đinh ninh,

Con tua Tam-Tỉnh, hớ hinh đặng nào.Con mong mỏi được Đạo cao,

171

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Chánh-tâm thành-ý, chớ xao lãng lòng.283.- Ráng chí công dứt vòng Dục-vọng,

Đừng để cho tâm động mà hư.Kìa xem những bực Như-Như,

Thần, Tiên, Phật, Thánh trước trừ lục căn.Nhứt-Thành cho đặng trang bằng,

Tự nhiên con gặp Nguơn-Thân Tánh Trời.284.- Con phải nhớ những lời dạy trước,

Kiếp Ngũ-Lôi kế dượt gần đây.Con nào tỉnh tỉnh, say say,

Kiếp đọa căn đày, đừng trách móc ai.Con nào mượn tiếng CAO-ĐÀI,

Phải biết rằng Trời giữ luật Vô-Tư.285.- Còn những đứa “nhàn cư bất thiện”,

Sao quên câu “như kiến phế cang”,Đã sanh trong cõi trần-hoàn,

An thường thủ phận, đừng toan hại đời.Công dư nên giúp cho Trời,

Bằng không khuyên chớ: dối Người, gạt Ta.286.- Một đời vốn có ba tấc thở,

Đừng để cho dở lỡ công trình;Phải lo giúp sức Hiếu-sinh,

Phải lo cho được công thành danh thơm,Phải lo xuôi nước thuận bườm,

Phải lo biết nghĩa áo cơm cội nguồn.287.- Dùng gươm Huệ dứt luồng tai ách,

Mượn Cam-Lồ rửa sạch trái oan,Dắt nhau đến bến Từ-Hàng,

172

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Trương bườm Chơn-Lý tìm đàng Bổn-Lai.Nhứt tâm đừng lựa nay mai,

Nhứt tâm mới gặp CAO-ĐÀI cảnh xưa.288.- Thấy các trẻ mắc lừa mưu quỉ,

Quen giọng đờn quên nghĩ Chơn-Thân;Vầy đoàn hiệp lũ lăng xăng,

Đồ danh trục lợi Nghi, Tần, hoành, tung;Reo hò đạo đức ung dung,

Mà lòng nham hiểm nọc ong miệng lằng.289.- Con phải giữ tấm thân là trọng,

Luật Cao-Xanh lộng lộng chẳng sai.Con nào vào cửa Cao-Đài,

Thì đừng lòng một dạ hai bán Trời.Con nào muốn được nên người,

Thì phải giữ lời Thầy dạy chớ nên.290.- Thầy chực sẵn chiếc thuyền phổ-độ,

Đưa người qua biển khổ sông mê;Còn ai nặng kiếp chẳng về,

Thì tay thuyền chủ khó bề đợi trông.Con nào muốn sạch bụi hồng,

Thì phải ghi lòng tin cậy có Cha.291.- Muốn cậy Cha phải ra công khó,

Phải Chí-thành lo độ kẻ mê.Sao cho lớn nhỏ đề huề,

Sao cho trên dưới đừng nghe chuyện xằng;Sao cho ngay thật ở ăn,

Sao cho tánh hạnh mười phân vẹn mười.292.- Đừng để tiếng trò cười CHƠN-LÝ,

173

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Đừng cho ai khinh bỉ TAM-KỲ.Con ôi! Tạo-Hóa tiểu-nhi,

Ai tuân thì được, ai khi thì lầm.Ai mà có chút giả tâm,

Mượn danh CHƠN-LÝ mưu thầm phải vương.293.- Đuốc CHƠN-LÝ TRUNG-ƯƠNG sáng tỏ,

Người đi đường phải ngó mà theo;Thuyền đi vững lái êm lèo,

Bộ đi tránh khỏi hiểm nghèo gai chông.Ấy là đuốc CHỦ-NHƠN-ÔNG

Cả mưa chẳng tối, to dông không lờ.

—————————ddd—————————

174

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

NGỌC bàn lố lố trọn trong tay,HOÀNG lịnh tùy thời cuộc trở day,ĐẠI giác đại thừa chờ đại mạng,ĐẾ ân tràn bủa khắp Đông Tây.

Thầy ban ơn cho các con; bình thân nghe Thầy:294.- Các con chớ bơ thờ mối Đạo,

Đạo càng cao, quỉ ngạo càng nhiều;Thích-Ca vững chí chẳng xiêu,

Da-Tô chắc dạ trăm chiều chẳng day.Quỉ ma mưu kế khó tày,

Ai biết có THẦY, ma quỉ phải dang.295.- Các con dốc tìm đàng CHƠN-LÝ,

Trước lo trừ tà mị nơi tâm:Đừng cho nứt mụt trổ mầm,

Đừng cho tược nảy, rễ đâm, sanh chồi.Có đâu đã chẳng phân bồi,

Lại còn để ý đặng xoi đặng ngờ.296.- Ngăn lụt nước, đê bờ phải chắc;

Dựng Đạo nhà, lục tặc phải trừ.Đừng cho thiệt thiệt hư hư,

Đừng cho đứa dốt làm Sư nhà Thiền.Phải cho khắng khít Mười khuyên,

Phải cho bền vững Năm giềng trước sau.297.- ĐUỐC CHƠN-LÝ là đầu muôn việc,

CHƠN-LÝ rành thì diệt tà tâm,Con ôi! CHƠN-LÝ cao thâm,

175

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Muốn tường CHƠN-LÝ phải tầm đầu dây.Cung tường cao vọi ngút mây,

Phải dò mực thước tay THẦY bởi đâu.298.- Mắt chưa thấy góc bầu Thế-giới,

Cả miệng hô hoán cải Kiền-Khôn.Biết sao là méo là tròn,

Biết sao là Xác là Hồn nói nghe!Khuyên con trăm việc dặt dè,

Thị-phi việc thế, chớ hề để tai.299.- Muốn hành ĐẠO đừng sai chữ ĐỨC,

Hành Đạo cho thiệt mực một đường.Noi trang TỨ-THÁNH làm gương

Nên gương Đạo-Đức chữ THƯƠNG làm đầu.THƯƠNG thì nhẫn nhịn nhường nhau,

Nhường nhau mới được trước sau thuận-hòa.300.- TỨ-ĐẠI-THÁNH bốn nhà hiệp MỘT,

Mới đủ làm rường cột CAO-ĐÀI.

ĐẠO, NHƠN-TÂM vẫn có hai,Hóa NHƠN thành ĐẠO dồi mài cho TINH.

Đã TINH lại NHỨT mới xinh,NHỨT rồi cần phải giữ gìn KHUYẾT-TRUNG.

301.- Mười sáu chữ giữ lòng bền chặt,Vẳng đêm ngày như nhắc bên tai.

Chấp-Trung đừng để sót sai,Thầy đà dạy hũy dạy hoài nhớ chăng?

Tu hành vốn tại số phần,

176

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Còn coi kiếp trước mấy lần có Duyên.302.- Con dẫu muốn thành Tiên, thành Phật,

Phật ở lòng chơn-thật mà ra.Có duyên đặng kiếp người ta,

Nghe lời dạy dỗ bỏ ta thiệt mình.Sao cho trọn kiếp trường-sinh,

Học qui-củ chánh, đừng kinh-kệ quàng.303.- Con những mảng đa mang chữ Vọng,

Quên Đạo Người, lại trọng Thần Tiên;Đạo Người Hiếu-đễ vi tiên,

Quên phần Hiếu-đễ, Thần Tiên ai màng;Suốt thông Hiếu Đễ mới ngoan,

Lầm thông Hiếu Đễ hại càng xiết bao.304.- Con thử nghĩ Đạo cao là mấy,

Đạo đâu dùng việc quấy phỉnh con.Đạo lo sau trước vuông tròn,

Đạo đâu dạy việc chia môn rẽ vời.Đạo không cả tiếng lấp lời,

Đạo dạy biết TRỜI, biết PHẬT, biết THÂN.305.- Con chớ học nghĩa nhân ngoài miệng,

Con ráng xem Kinh Truyện Thánh Hiền;Làm con không Thảo ai khen,

Làm em không Thuận như kèn không giăm;Đồng-bào cốt nhục tình thâm,

Qua phần bậu bạn chớ cầm rằng chơi.306.- Giềng bậu bạn nghiệm lời hơn thiệt,

177

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Kẻo lầm tay xảo quyệt tinh ma;Con ôi! Ích-hữu có ba,

Còn phần Tổn-hữu cũng là dư trăm;Bạn nhơn, bạn nghĩa khó tầm,

Giống bạn âm thầm, khuyên dứt nó đi.307.- THẦY hết dạ Từ-Bi với trẻ,

Sao các con chẳng nể lời THẦY?Trớ trêu, khen trẻ gan thay,

Chẳng kiêng Núi vững, Đất dày, Trời cao.Huỳnh-Lương là giấc chiêm bao,

Ráng học phong trào Ấp-Tổn Thuấn-Nghiêu.308.- Sống tại thế chẳng nhiều bảy chục,

Lại còn vương họa phúc phi thường;Thêm phần tật bịnh tai ương,

Sao không tích đức, bồi đường thiện căn?Lo chi những việc nhố-nhăng,

Lo chi những việc ăn-năn muộn rồi.309.- Cung Bạch-Ngọc vô hồi cảnh đẹp,

Khuyên các con khá dẹp phàm tâm.Trời êm, gió tạnh, trăng rằm,

Xuôi chèo Bác-Nhã, khảy cầm Chơn-Như,Tụng câu Tử-hiếu, Phụ-từ,

Ngâm bài Âm-chất đặng trừ thói mê.310.- Lời chánh đáng ai hề thấy đếm,

Tiếng phỉnh phờ ngày đệm đêm rù.Con ôi! “Thân thể phát phu”,

178

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Muốn Tu thì phải thiệt Tu mới thành.Sao cho Tiên tịch đề danh,

Tu đừng bày việc tranh giành đảng phe.311.- Tu phải biết Trời che Đất chở,

Tu đừng cầu sóng vỡ nước tràn,Tu đừng bàn việc cơ hàn,

Tu đừng bày việc Hóa-càng Tiểu-nhi,Tu đừng bàn việc tiên-tri,

Tu thì cứ giữ Điều-Qui chớ rời.312.- Tu phải biết cơ Trời tối trọng,

Tu phải trừ Dục-Vọng Tham Sân.Con ôi! Ai phước có phần,

Ai Tu nấy được, ai cần nấy thân.Ớ con khắp cả dưới trần!

Muôn kiếp mấy lần, mới gặp hội ni?313.- Đừng ai tưởng Hóa-Nhi bé bé,

Cầm Hóa-Nhi dường thể trò chơi.Nếm coi miệng sữa còn hôi,

Luận việc lở bồi, điền hải, tang thương!Khuyên con mau tỉnh mộng trường,

Đừng học theo phường sóng gió nói ăn.…

—————————ddd—————————

179

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

KHƯƠNG phất Hạnh-Huỳnh trấn Hiệp-Thiên,THÁI bình mong chúc vạn dư niên,CÔNG khai công Đạo truyền Công-lý,GIÁNG giải khuyên đừng tánh đảo điên.

Lão chào chư Thiên-mạng.…CA, Hiền-đệ lo sắp đặt xong sẽ tái cầu, sẽ có Đức

Chưởng-Giáo đến dạy việc.(Thăng)

—————————ddd—————————

CHƯỞNG quản Thiên-Đài sắc tự nhiên,GIÁO khai Đại-Đạo hiệp chư Hiền,THIÊN vô nhị nhựt lời hằng ví,TÔN chỉ Tam-Kỳ độ hữu duyên.

Bần-Đạo mừng chư Đệ-tử.Ớ các Đệ-tử yêu dấu! Người có Hồn mới khôn, Đạo

có Hồn mới thành, mà Người có ba Hồn, bởi ba Hồn không hiệp, nên Ta-Người mới chia rẽ. Muốn Ta-Người đừng chia rẽ, thì Thần-Hồn chớ cải-canh Anh-Hồn. Như thế mới được hiệp-nhứt với Linh-Hồn mà về nơi Bạch-Ngọc-Kinh với Thầy.

Vì vậy, nên Thầy lập Tòa-Thánh hữu-hình nơi Trung-Ương đặng hiệp-nhứt với các con cái của Thầy.

Hiệp-Thiên-Đài: là chỗ dìu dắt Thần-Hồn, phải tuân lịnh Linh-Hồn mà hiệp-nhứt, chính là chỗ Anh-Hồn chầu chực Linh-Hồn, đặng rõ phân phải quấy, hầu có dạy lại Thần-Hồn; đặng hiệp-nhứt với Linh-Hồn.Thầy vì chư Đệ-

180

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

tử nên phế Ngọc-Kinh xuống ngôi Bổn-Giác, đặng làm Linh-Hồn cho chư Đệ-tử, lẽ thì chư Đệ-tử phải tuân lịnh Hiệp-Thiên-Đài mới phải, có đâu Cửu-Trùng-Đài là chỗ của Thần-Hồn, sao cứ cải-canh Anh-Hồn hoài như thế, mong chi cho hiệp được. Đã có dạy:

“Hai Chưởng-Quản chí mau hiệp một”,Hai Chưởng-Quản còn chưa hiệp, thì mong gì cho ai

hiệp-nhứt? Vì Thần-Hồn Cửu-Trùng-Đài còn nặng xác phàm, hay xiêu lòng, nên Anh-Hồn Hiệp-Thiên-Đài khó thế dìu dắt được, vì vậy nên Đạo gập ghình đó.

Thầy lại phân Cửu-Trùng-Đài để trao lời cho Thần-Hồn, cho Thần-Hồn tuân lịnh Linh-Hồn, Linh-Hồn đã dạy các việc, Cửu-Trùng-Đài cứ ỷ sức phàm, làm cho náo động đến Thiên-Đình. Ngày nay là ngày thứ nhứt của Thầy sắp sẽ ngự đến Tòa-Thánh Trung-Ương mà vắng mặt Chưởng-Quản Hiệp-Thiên-Đài. Lỗi ấy tại nơi ai?

Nơi Hiệp-Thiên-Đài chăng? Chư Đệ-tử

Nơi Cửu-Trùng-Đài chăng? hãy xét lấy!

Lẽ thì ngày hôm nay Thầy lại ban Ân-điển đặng ân-phong cho Nam-Nữ tín-đồ nơi Định-Tường. Song vì thiếu mặt Chưởng-Quản, nên chiếu theo Luật Hiệp-Thiên-Đài, Thầy không thể gia-phong, nhưng vì Định-Tường chưa có hưởng chút Ân-huệ nào của Thầy, nên Thầy dạy Bần-Đạo phá lệ gia-phong trong một kỳ nầy, gọi rằng “Ân-Xá Định-Tường”.

Luật “Ân-Xá” nầy chỉ có bực Tiểu-Thiên-Phong và Tín-đồ được hưởng mà thôi. Còn các bực Đại-Thiên-Phong

181

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

và các nơi khác phải đợi có mặt Chưởng-Quản Hiệp-Thiên-Đài mới được. Còn Kiên-Giang, Sa-Giang và Tân-An tuy đã có sớ của Hiệp-Thiên-Đài xin gia-phong, song không phải là phong theo Luật “Ân-Xá” ngày hôm nay vậy.

CA, đệ-tử phải biên tên những Tín-đồ Lễ-Sanh sấp xuống đã có công và chịu nhiều phen mang tiếng nặng. Hạn Ngọ mai dưng cho Thầy. Phải lừa lọc kẻ Tâm-Đạo và chớ nên biên những kẻ ngoại-giáo. Lệ nầy phong Tín-đồ hoặc Chánh Phó Trị-Sự Tâm-Đạo làm Lễ-Sanh, còn Lễ-Sanh lên Giáo-Hữu. Những kẻ ngoài Định-Tường mà đã hết lòng gìn giữ Chơn-Lý cũng được hưởng lệ nầy.

KIÊN, Hiền-đệ có thấy ai đủ sắc-phục Thiên-Phong chăng? Chư Thần lấy làm hổ-ngươi mà thấy các anh em của Hiền-đệ làm tuồng kép vá. Hiền-đệ hãy lo điều-đình cho có vẻ oai nghi.

(Thăng)—————————ddd—————————

NGỌC thành cho trẻ mấy năm chầy,HOÀNG Giá ngày nay mới hiệp đây,ĐẠI-Hội Tu-My truyền kỷ niệm,ĐẾ-Đình rộng mở cuộc rồng mây.

Thầy mừng các con.Ớ các con yêu dấu! Hôm nay là hôm thứ nhứt của

Thầy được gặp gỡ các con tại đây, ấy cũng lần thứ nhứt của Thầy được thấy các con. Vì nhiều cớ các con không muốn cho Thầy thấy mặt nơi Tòa-Thánh Trung-Ương của Thầy lập ra cho các con qui hướng. Thế nên Thầy phải nhọc lòng dìu dắt các con hội diện tại đây cho Thầy thấy,

182

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

ấy là ngày thứ nhứt của Thầy được gặp các con nơi đây. Phải chi các con bỏ tánh tham si, dẹp lòng dục vọng, diệt tánh tư kỷ đi, thì Thầy đã gặp các con cũng nơi đây ngày nầy tháng nầy năm đã qua rồi, có đâu đợi đến ngày nầy tháng nầy năm nay. Thật lòng tư-kỷ của các con làm cho bê trễ Đại-Đạo biết là mấy muôn đời cho thành. Muốn cho Đạo mau thành, các con phải tuyệt dứt phàm tâm, một lòng noi theo Chơn-Lý, ngày nào được như vậy là ngày Đạo-Thành.

Một tiếng Thầy dạy, các con không nghe, một ngày Thầy định, các con không đếm, mà lòng vọng-tưởng các con lại dẫy đầy. Thật hiếm có một bầy con chí hiếu như các con vậy. Thầy để lòng khen cho! Các con ở gần gũi Thầy mà còn vậy thay, huống chi những đứa xa xuôi Thầy, chúng nó càng nghịch-lẩn biết mấy. Thầy rất đau lòng!

VỊ, Thầy đã giao trách-nhậm ngoại-giao cho con, sao con nỡ quên lời Thầy dặn con phải tùng theo Chỉ-Nam-Châm. Thầy đã răn sự bắt cá hai tay của con, sao con nỡ quên đi. Con muốn làm theo ý riêng của xác phàm con thì được, chớ con nỡ quên phẩm-giá thiêng-liêng của con sao? Con muốn làm theo thời-cuộc của con tưởng thì được, chớ con nỡ vùi chôn Đạo sao con?

Người Chỉ-Nam-Châm của con là ai?Thầy dốc cứu con đem về nơi Ngọc-Kinh với Thầy,

dạy con công-quả đặng chuộc tôi xưa. Sao con càng cao phẩm-vị chừng nào, lại càng chác khẩu-nghiệp chừng nấy. Thầy thương, Thầy khuyên, Thầy răn, Thầy dạy, chớ chẳng khi nào Thầy dụ dỗ, quến rù. Thầy dốc chí sửa quấy cho con, quấy sửa rồi mới biết phải mà theo.

183

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Tự ý con, muốn nghe Thầy thì nghe, hay là muốn nương Chơn-Lý đặng độc lập như ai, thì chớ than van cùng Thầy khi Đại-Đồng thế-gian.

VỊ bạch:………………………(rất vô lễ). VỊ,Con, Ngọc-Kiên-Tinh trả lời cho………………………

con, con VỊ, con có nhớ bài luận-văn của Kiên chăng? Thầy đã thường nói với các con: “lần tới đâu Thầy sẽ dạy tới đó”ù, các con muốn đoạt việc bí-mật của Tạo-Hóa sao? Thầy lấy làm buồn lòng gặp con ngang ngạnh như con vậy. THẦY là CHƠN-LÝ, Thầy có bao giờ dạy việc không Đạo-Lý, không Đạo-Lý chớ tưởng rằng Chơn-Lý được. Đạo-Lý là sao? là phải giữ theo Nhân, Nghĩa, Đức, đứa con nào phi-nhân phi-nghĩa là……… mặc tình các con.

(Thăng)

184

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

TUYẾT lý tầm mai dị,VÂN trung kiến hữu nan,ĐẠO Qui Bán-Cửu-Số,CÔ liễu thử tâm tràng.

Mừng chư vị. Xin chư vị bình-thân!Ngày nay Dương-trần mừng được có ngày Xuân.

Dương-trần biết mừng ngày Xuân, song Dương-trần chẳng biết ngày Xuân nầy bởi đâu mà ra đặng mà mừng. Thương thay! Dương-trần chỉ biết sự mừng giây lát mà quên cái thảm ngày ngày kiếp kiếp.

Người dương-trần ấy là ai? Ấy cũng đều là người của ĐỨC-CHÍ-TÔN, cũng đều là con của ĐẠI-TỪ-PHỤ. Mà lạ thay, cũng đồng là người Dương-trần ấy, mà có người lại biết cái sự sống của mình bởi đâu mà có, cái sự mừng của mình ngày Xuân nầy bởi đâu mà ra. Người nào nếu nhớ tưởng đến mà ra công tìm kiếm cái gốc của sự mình sống, của sự mình mừng, thì người đời cho là “Điên”, vì chê rằng chẳng biết đua chen tranh lấn sự sống, sự mừng theo thói đời, đặng lưu truyền lại cho mình cái sự thảm khốc bi ai đời đời kiếp kiếp.

Bởi Dương-trần có hai hạng người như thế, nên ĐỨC-CHÍ-TÔN mở Đạo ngày nay đặng Phổ-Độ người Dương-trần.

Ai có thật tâm muốn tìm cái gốc của sự mình sống, mình vui, mình mừng, thì theo về với Đạo. Còn ai mảng đua chen sự sống, sự mừng, sự vui của Đời, đặng tranh giành cái sự ác nghiệp về sau thì chịu lấy, dầu có mượn danh của ĐỨC-CHÍ-TÔN cũng là vô ích.

185

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Trong lúc Tam-Kỳ Phổ-Độ nầy, cũng có Tam-Tiểu Thời-Kỳ Phổ-Độ ở trong, nghĩa là:

1.- ĐỨC-CHÍ-TÔN lúc mới Khai-Đạo, thì mở Đại-Lượng Từ-Bi, đặng truyền rao sự Bác-Ái; dầu cho ai, ĐỨC-CHÍ-TÔN cũng thâu dụng. Ấy là Đệ Nhứt Tiểu Thời Kỳ đó.

2.- Ngay như bây giờ, Người thâu dụng đã được nhiều rồi, nên Người phải lọc lừa lại, đặng gạn bớt những kẻ nhờ danh Đạo mà còn phản Đạo, lập ngoại-giáo, phá Chơn-Lý, dầu bề trong, dầu bề ngoài đều bị sa-thải. Có sa-thải, mới lọc lừa được, mà sự sa-thải ấy rất nên mầu-nhiệm, dầu cho ai cũng chẳng rõ thấu. Chớ tưởng khi Trời được mà phải mắc lưới Trời.

Nhưng mà ĐỨC-CHÍ-TÔN cũng để cho đủ ngày giờ cho những kẻ vì lòng vật-dục, lo bề ích kỷ, vì tánh kiêu ngạo, tính việc khoe khoang, vì tranh đua vật chất mà quên lo tu dưỡng tinh thần.

Những người ấy, cũng bởi chẳng dằn được cái tánh tham, sân, si mà ra, nên cũng có kẻ rủi ro bị sa thải mà không hay, nên không chừa. Cũng có đứa đã biết, mà không chịu cải-hóa. Bởi vậy nên ĐỨC-CHÍ-TÔN phải để đủ ngày giờ đặng dạy bảo chỉ vẽ những người ấy thêm cho cặn-kẽ kỹ-lưỡng, đặng rõ mà theo về Chơn-Lý. Ấy là sự Công-Bình của Đạo. Ấy chính là Đệ Nhị Tiểu Thời Kỳ ngày nay đó.

Trong thời kỳ nầy, rất nên tranh giành rắc rối, muôn phần cay đắng cho Người nào ra cầm mối Đạo cho được vững vàng.

Bởi rất Công-Bình, nên Đệ Nhị Tiểu Thời Kỳ, ĐỨC-CHÍ-TÔN phải làm như vậy mà gạn đục lóng trong, cho rõ

186

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

lòng ai đã được Nhứt-Tâm, đặng Người đem qua Đệ Tam Tiểu Thời Kỳ.

Những người đã được gọi Nhứt-Tâm trong thời kỳ nầy, còn sẽ bị gạn lại trong Đệ Tam Tiểu Thời Kỳ nữa; cũng như những người được gọi Nhứt-Tâm trong Đệ Nhứt Tiểu Thời Kỳ chớ tưởng rằng là chắc, mà còn phải gạn lại trong Đệ Nhị Tiểu Thời Kỳ vậy.

Thương thay! Lúc nầy có người đã gần chấm đậu, hoặc là đã chấm đậu trong Đệ Nhị Tiểu Thời Kỳ rồi, cũng còn phải bị gạn lại đặng sa thải chẳng biết bao nhiêu.

Nói đến đây Bần-Đạo rất đau lòng. Thương thay! Thương thay!

Trong Đệ Nhị Tiểu Thời Kỳ, ĐỨC-CHÍ-TÔN hiệp cùng TỨ-ĐẠI-THÁNH, định khai Đạo và thâu dụng người làm đầu cho toàn vẹn trọn đủ tài đức, phòng qua Nhâm-Thân (1932) sẽ chuyển Đạo qua Đệ Nhị Tiểu Thời Kỳ, chẳng dè những người ấy thấy mình đã được thâu dụng làm lớn rồi, lần lần canh-cải Thánh-Ý, chẳng bao lâu lại dụng phàm-tâm mà hành Đạo theo ý riêng.

Bởi vậy nên Kỷ-Tỵ (1929), ĐỨC-CHÍ-TÔN phải lập tức day cán bút đặng gìn giữ mối Đạo cho được vững. Song ĐỨC-CHÍ-TÔN cũng trông mong cho những người ấy hồi tâm. Mà thương thay! Càng ngày càng lộng, cả gan dám rước quỉ-ý vào tâm thêm hoài.

Vì vậy nên Tân-Vì (1931), ĐỨC-CHÍ-TÔN phải Minh-Chơn-Lý cho rõ phân Tà Chánh, trông cho nhơn-tâm thức tỉnh, kẻo sa vào lưới quỉ không hay, mà uổng công-trình.

Trải Tân-Vì (1931), sang Nhâm-Thân (1932), qua Quí-Dậu (1933), chẳng phải không đủ ngày giờ, mà thương thay,

187

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

chỉ một số ít Người biết ăn năn, song những người hồi-tâm trong thời kỳ nầy đều kẻ nơi chót lưỡi, người ngoài đầu môi đó thôi.

Cười thay cho những người đã gọi là trí thức mà quên hẳn cả Gốc Nguồn. Tội nầy sánh với tội những người ở thời kỳ trước, lại càng bội tam bội tứ.

3.- Ngọc-Sắc đã phê rõ rằng: Mậu-Dần (1938) sẽ lập Đệ Tam Tiểu Thời Kỳ cho trọn Tam-Kỳ Phổ-Độ.

Tự ý nơi các vị Thiên-Phong, muốn giúp Trời hành Đạo đặng chuộc tội lỗi xưa, hay là học Đạo nơi chót lưỡi đầu môi, để cho ĐỨC-CHÍ-TÔN còn sẽ phải chuyển Đạo nơi khác.

Bần-Đạo lố một chút bí mật Thiên-cơ cho các Thiên-Phong biết, mặc ý các vị liệu định. (Thăng)

—————————ddd—————————

CHƯỞNG Quyền thưởng phạt thay Trời,GIÁO-Truyền Đại-Đạo độ người trầm-luân,THIÊN-Điều mắc-mỏ muôn phần,TÔN Đường Chơn-Lý gặp Xuân tư mùa.

Mừng chư đệ tử. Bình thân.Bổn-Sư hỏi con: tại làm sao từ bấy lâu nay con

chẳng lo bồi đắp nền Đạo cho nhơn-sanh thấy rõ Chơn-Lý? Bước đường Đại-Đạo thường hay gập ghình, con đường Chơn-Lý thường hay bị khuất lấp, ấy là lẽ cố nhiên. Nhưng mà gập ghình hay là khuất lấp cũng tại nhơn-tâm mà ra, chớ ngòi Đạo-Tâm bao giờ dứt mà con sợ. Con thử nghĩ coi từ khi Vô-Thỉ đến nay, mối Đạo bao giờ dứt, Đạo là của Trời, bao giờ cũng có Đạo, mà bao giờ cũng có Nhơn.

188

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Hễ Nhơn thắng thì gọi là Nhơn-Đạo, còn Đạo thắng thì gọi là Đạo-Nhơn, mà trước hết phải lo tròn Nhơn-Đạo, sau sẽ được gọi là Đạo-Nhơn.

Con buồn lòng thối chí, vì thấy một ít người trong hàng anh em của con không được can đảm trong sự hành Đạo, còn phần đông thì hay tìm phương phá Đạo.

Gần đây lại có một lũ ngoại-giáo dốc lòng phá tan Đại-Đạo, đặng đem về Tả-Đạo Bàn-Môn cho thêm sức chúng nó múa men, ấy là lũ quỉ toan quấy rối cuộc Tu-My, mà các anh em của con không biện phân Tà Chánh được đó. Con buồn như vậy cũng phải, song con chẳng nghĩ coi ĐỨC-CHÍ-TÔN buồn hay vui. Con ôi! Có quỉ mới có Thần, mà bao giờ quỉ cũng ra mặt đứng trước Thần luôn luôn, nên mới có chữ Quỉ-Thần. Khi nào dẹp được quỉ rồi thì Thần mới hóa Thiên, con nghe chưa?

ĐỨC-CHÍ-TÔN vui thấy bọn quỉ lừng lẫy, mà buồn thấy con của Người, là vì con của Người đều là bực Thánh mà còn phải chiều theo quỉ. Rất uổng gọi là con của ĐỨC-CHÍ-TÔN trong buổi nầy.

Trăm thợ dốc học nghề cho khéo để làm gì? Người thợ khéo chẳng năng dùng nghề của mình, sao biết rằng thợ khéo? Học nghề cho khéo rồi không đem ra dùng, thì có ích chi không? Người học Đạo để làm gì? Học Đạo cho biết rồi không đem ra công dụng cho nhơn-quần xã-hội, thì có ích chi không?

Bước đường Đại-Đạo gặp lúc gai chông chận tấp, nhơn-sanh tưởng rằng tránh chỗ gai chông đặng có tìm đàng khác mà ra, nào dè chỗ gai chông chận tấp ấy cũng

189

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

đều là nhơn-sanh tự mình chận tấp lấy, chẳng ai chịu ra công ruồng phá, nên thường hay bị sa hầm sẩy hang.

CA, con nói rằng: con không đủ đức đủ tài; song con không nghĩ coi lúc ban-sơ có ai dám chắc tận thiện tận mỹ bao giờ? Con phải ráng lo làm cho hết cái dở của con cho rồi đi, thì Người hay mới cảm động mà phụ giúp với con. Nếu nói mình dở mà đành bỏ luôn công-quả bấy lâu hay sao?

CA, con có hiểu vì sao ngày nay ĐỨC-CHÍ-TÔN không kêu tên từ đứa con đặng phong Thánh như khi trước, lại biểu Tứ-Bửu phải cầu phong, rồi ĐỨC-CHÍ-TÔN sẽ phê hay là chọn lại sau hay không? Việc ấy cũng chẳng chi lạ. Lúc ban-sơ ĐỨC-CHÍ-TÔN thấy đứa con nào vừa được, thì liền kêu mà phong thưởng đặng làm gương cho kẻ sau. Chẳng dè khi nó được phong rồi, thì nó lại hiu hiu tự-đắc, gọi rằng: đường đường là một vị Thiên-Phong, không lớn cũng nhỏ, chẳng cần chi phải học theo Thánh-Huấn dạy, chẳng cần chi phải vưng lời chiều lụy kẻ bề trên; nói rằng: Đạo là Tự-Do, Bình-Đẳng, chẳng ai được phép dạy dỗ ai, chỉ có một mình ĐỨC-CHÍ-TÔN có quyền răn phạt mà thôi. Mà đến khi nào ĐỨC-CHÍ-TÔN có quở, thì lại viện cớ rằng: Thầy là Đại-Từ, Đại-Bi, không khi nào là quở con cái bao giờ.

Ngày nay đã có đặng bực Đại-Thiên-Phong, nên ĐỨC-CHÍ-TÔN để trọn quyền cho bực Đại-Thiên-Phong coi người nào đáng phong thưởng thì cầu phong cho người ấy. Nếu ngày sau mà người được phong thưởng ấy có làm sái Thánh-Huấn, sái Qui-Điều, thì Người nào tiến dẫn cầu phong ấy sẽ chịu trách cứ. Người đứng tiến dẫn cũng có

190

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

thể xin sửa phạt theo Thiên-Điều. Thầy chẳng biết “Tòa Tam-Giáo” là chi, Thầy ước mong sao cho các con của Thầy phải nghe lời dạy bảo của Người tiến dẫn mình đó là đủ.

—————————ddd—————————

NGỌC-HƯ-CUNGCHƯỞNG-GIÁO THIÊN-TÔN

Mừng chư Đệ-tử, bình thân.THÁI-NHƠN THANH-SƠN, con phải biết Kỷ-Luật

Hiệp-Thiên-Đài rất mắc-mỏ và rất quan-trọng, sơ ý một chút thì bị quỉ phá lộng chẳng biết ngằn nào mà kể. Những Kỷ-Luật ấy đều tiếp theo “Thập-Ngũ Qui-Điều”. ĐỨC-CHÍ-TÔN đã hiệp cùng TỨ-ĐẠI-THÁNH và đã cho ra nơi Hiệp-Thiên-Đài nhiều khoản, cũng tùy theo thời cuộc mà ban hành, và đã ban hành nhiều khoản rồi, song các con không để ý nên không hiểu. Con phải hiệp cùng Thái-An-Thiên, Ngọc-Tinh-Quân và Ngọc-Chiếu-Thanh mà kiếm cho đủ hai mươi tám khoản Kỷ-Luật, đặng có sắp cho đủ thứ tự, hầu biết mà hành Đạo, xong rồi sẽ dưng về Hiệp-Thiên-Đài.

NHƠN, con chớ có buồn những việc đã qua rồi, con phải lo cho rồi cái trách-nhậm của con.

Nghe thi:Trăm ngàn hoa cỏ một non xanh,Hoa đượm màu tươi cỏ đượm mình,Hoa cỏ hiểu chăng công Vũ-Lộ,

191

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Hiểu chăng hoặc có tiếng ca Oanh.

Ca Oanh thảnh thót giọng u nhàn,Nam Bắc bao gồm điệu chứa chan.Cội phước dây oan ai có rõ,Trớ trêu mối chỉ nhuộm xanh vàng.

Xanh vàng mối chỉ mắc tình đời, Mối Đạo nào ai chống nổi Trời,Tòng Bá tuyết sương khoe tiết-tháo,Càng sương càng tuyết lại càng tươi.

Càng tươi càng đẹp vẻ tinh-thần,Chấp-chưởng Đạo Trời há nại thân,Thân hữu thân sanh thân phải tử,Tử sanh Nhân-Quả, Quả rồi Nhân.

Quả Nhân, Nhân Quả chớ đeo đai,Biển khổ ngày đêm chớ miệt mài,Mượn nước Từ-Bi nhành Bác-Ái,Tuần tuần thiện dụ độ Anh-Tài.

Anh-Tài chớ nệ cuộc lâu mau,Tuyết đóng càng thêm núi đẹp màu.Gánh nặng đường xa thêm đá dựng,Đường xa chớ hỏi dặm là bao?

Hỏi dặm là bao có ích gì, Sông lần lần chảy, tháng lần đi,Tháng thành thế-kỷ, sông thành biển,Sông biển đâu nào có hỏi chi?

192

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Hỏi chi thêm bẩn chí công tu,Chơn-Lý cao thâm giữ một màu.Vững dạ mựa sờn cơn khổ huống,Càng lâu càng vững trải ngàn thu.

Ngàn thu bồi bổ khối Thiêng-Liêng,Mừng được cho ai gặp bạn hiền,Gặp bạn khuyên ai nương ý bạn,Sao cho rộng mở cảnh sông Kiên.

Sông Kiên suối nước dợn long lanh,QUẾ đượm hơi Tiên trải mấy cành,Thỏ-thẻ đờn Oanh nguồn róc rách,Trăm ngàn hoa cỏ một non xanh.

Con cứ vững dạ, ĐỨC-CHÍ-TÔN có dạy: hễ đến đâu thì Người sẽ chỉ thêm đến đó cho.

NGỌC-CHIẾU-THANH, Bần-Đạo rất tiếc cho Đệ-tử, công quả của Đệ-tử rất nhiều, mà tội lỗi của con cũng chẳng ít. Chẳng phải là ĐỨC-CHÍ-TÔN không mách bảo dạy dỗ con, sao con nỡ lầm phân Tà–Chánh. Tiếc thay cho PHẤN, người có công lao to, đáng làm tấm vách thành cho Chơn-Lý, song cũng vì đảo điên, nên lầm phân Tà–Chánh.

CHIẾU, ngày nay con hối hóa tự tân, Bần-Đạo mừng khen con đó. Con phải phổ-độ các anh em con, vì nó ngó theo con, mà phải bị tai ương, bảo nó đều phải ăn-năn sám-hối về nơi Chơn-Lý.

Con phải thường đến Tòa-Thánh Trung-Ương mà dạy Đạo cho các em con và phải biểu anh em con ráng làm

193

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

luận-văn từ câu Thánh-Huấn, đừng cho nói sao khẩu, đến khi rốt cuộc rồi thì bụng cũng trống lổng. Khi nào luận-văn bất đồng ý kiến, thì phải dưng về Hiệp-Thiên-Đài xét lại.

Con cũng có trách-nhậm nặng nề nói Hiệp-Thiên-Đài, nghe thi:

Ruồng thông gai gốc đến non Tiên,Dốc gặp Chơn-Sư học bửu-truyền,Sức mạnh công dày thương bấy trẻ,Cho hay Phật vốn ở Tâm-Điền.

Tâm-Điền là gốc cội người ta,Bìm sắn đừng cho loán phủ nhà,Nổi ngọn Truyền-đăng tan hắc ám,Mặc tình thong thả cõi Ta-bà.

Ta-bà thế giới khắp Năm Châu,Có cái chi hơn cái Đạo mầu,Thông được Đạo rồi Trời cũng Một,Một Trời, một Đất, một Hoàn-cầu.

Hoàn-cầu đã biết gọi là Năm,Có lớn chi đâu chớ tưởng lầm,Sánh có Tu-Di dường cát bụi, Khuyên con Chơn-Lý ráng phăng tầm.Phăng tầm cho rõ Đạo là chi?Chớ để ngày qua bước trễ kỳ,Rõ được thế gian tuồng mộng ảo,

194

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Buồn lòng mượn cớ tụng A-Di.

A-Di Phật ấy có đâu xa,Chánh lý dầu ai cũng Phật-Đà.Lục dục khuyên con mau dứt bỏ,Còn đeo một mảy hóa tà ma.

Tà ma hại Đạo cũng vì ai?Cũng tại bùi nghe tiếng dịu tai,Ngọt mật chết ruồi lời sẵn ví,Đừng ai phỉnh mượn tiếng Cao-Đài.

Cao-Đài Đại-Đạo, Đạo Trời sanh,Đạo dạy người phân chuyện dữ lành,Đạo chẳng khuyên lo hành sắc-tướng, Đạo lo giải cứu Vọng nhơn-tình.

Nhơn tình điên đảo nhắc càng thương,Bào ảnh say mê chốn mộng trường.Ngon ngủ quên lo khi tỉnh giấc,Giựt mình mới rõ cuộc Huỳnh-lương.

Huỳnh-lương đã rõ cuộc không không,Nẻo chánh khuyên con giữ một lòng.Ruộng sẵn, người dư, mầm giống tốt,Từ đây Chơn-Lý sức ruồng thông.

…(Thăng)

—————————ddd—————————

195

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

NGỌC-HƯ-CUNGCHƯỞNG-GIÁO-THIÊN-TÔN

Mừng chư Đệ-tử, bình thân.THÁI-AN-THIÊN: Bổn-Sư vui thấy con có lỗi mà biết

ăn năn. Bổn-Sư có lời khuyên Tứ-Bửu phải khắn khích với nhau, chung trí với nhau trong sự hành Đạo.

NGỌC-TINH-QUÂN: Bổn-Sư mừng cho bài luận-văn trước của Đệ-tử có mòi tấn phát, song con có muốn giải cho ráo sự Thời-gian và Không-gian của Thầy hỏi, thì con phải trải qua cho đủ mấy từng Không-gian, thì con mới biết được cái Thời-gian ở trong ấy.

Người nào đến bực Không-gian nào, thì trí thức mới vừa được hưởng cái Thời-gian ấy.

Bổn-Sư ví dụ cho con nghe:Một người nào đứng ở trên mặt Địa-cầu nầy, thì vừa

hưởng được cái từng Không-khí của cái Không-gian trên mặt trái Địa-cầu nầy mà thôi; mà cái từng Không-khí của cái Không-gian trên mặt trái Địa-cầu nầy muôn ngàn điều uế trược, cho nên cái Thời-gian của cái Thời-kỳ của một người ấy phải chậm lục, điên đảo, xảo trá, hoặc là chất phác vụng về.

Chẳng những người ấy chẳng thấy được cái Thời-gian của cái từng Không-gian trên mặt trái Địa-cầu nầy mà thôi, mà người ấy cũng chẳng biết cái Thời-gian của nó đã ảnh hưởng của cái Không-gian trên mặt trái Địa-cầu trong một ngày, một giờ, một phút, coi ra sao, vì là một phút Thời-gian của nó đã ảnh hưởng của cái Không-gian nầy, nó lộn xộn trong trí tưởng của nó, không biết bao nhiêu việc.

196

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Ấy là việc trong một phút, chớ còn trong một giờ, một ngày, một tháng, trải biết bao nhiêu lần một phút? Thử bảo nó lấy sổ thống-kê trong một tháng của nó, coi nó có biết được cùng chăng? Huống chi là trọn cả đời của nó, mà nó biết sao cho được? Vì là muôn việc của nó ảnh hưởng, đều tại nơi cái từng Không-khí của cái Không-gian ô-tạp nầy, làm cho nó mất hết cả Tinh-Thần của nó mà nó không biết.

So lại cũng là người ở trên mặt trái Địa-cầu nầy, mà Tinh-thần đã vượt qua khỏi cái Không-gian ô-tạp nầy, lên đến từng cao hơn một thí, thì cái từng Không-khí của cái Không-gian trên ấy nó phải nhẹ hơn một thí, thì cái thời gian ấy phải lẹ hơn, hóa ra cái Trí-thức của người ấy phải sáng suốt hơn.

Chẳng biết mấy từng Không-gian mà kể. Từng Không-gian nào thì cái Thời-gian cũng đều khác nhau. Càng cao, càng mau, càng lẹ, càng trong, càng sáng, càng gần được với Thầy.

Thương thay!! Những đứa phàm-phu, mảng tranh giành với nhau cái Không-gian ô-tạp nầy, mà tự gọi là được hưởng bực Tối-Thượng-Thừa.

Thương thay! Biết bao giờ tránh cho khỏi Luân-hồi.Bần-Đạo ước ao sao con đem đoạn nầy ra giải cho

các anh em con hiểu, tùy theo người và bịnh, thì hoặc may con cho thuốc mới lành được.

Bổn-Sư cũng ao ước cho các con của Thầy, mỗi người đều phải nghe cho rõ đoạn nầy, chớ Đấng Tạo-Hóa không thế nói cho từng người phàm-phu được, các con tự xét thì hiểu.

197

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Bổn-Sư ước ao các con của Thầy phải tùy theo bực mà Tu-Tâm Dưỡng-Tánh lấy, cho mau tấn-phát, đừng ai ngăn rào mà phải sa vào lưới Trời.

Phần con, từ nay phải hiệp cùng NHƠN-CHIẾU mà lo mở Đạo-Tràng nơi Trung-Ương. Con phải nhớ câu: ỨNG BỊNH DỤNG DƯỢC. Trong vòng người nhập Đạo cũng có nhiều bực; phần con đã biết đi, biết chạy, sao con không ngó lại coi biết bao đứa mới vừa đứng chững, mà con biểu chúng nó như con được sao? Đã biết Trời gần tối, phải chạy cho mau mới ra khỏi rừng thú dữ, mà nhiều đứa mới vừa biết đi lẫm đẫm, con đành bỏ nó sao?

Thầy giáo hay, mới dạy trẻ ấu-trĩ được, vì là thầy thiện-nghệ nên biết cách “tuần tuần thiện dụ”. Trái lại, người thầy dở, không bao giờ làm được như vậy. Giảng Đạo cũng thế, Bổn-Sư rất trông mong con.

Những điều chi của Thầy giáng bút dạy, hoặc là Thầy sai chư Tiên giáng bút dạy, đều phải coi lại mà thi hành, chớ nên bỏ qua, bỏ sót, vì đều là những việc lọc lừa trong Nhứt-Kỳ và Nhị-Kỳ, đặng đem lại mà dùng cho Tam-Kỳ.

Cái Tánh ở giữa cái Tâm và cái Ý. Nếu Tâm, Ý phóng túng hoài, thì Chí-khí phải cường-bạo, thì cái Tánh khó bề phản-bổn phục-nguyên theo về với Đạo, cho hiệp với Lý. Muốn cho Tâm, Tánh, Ý, Chí, Khí cho được Như Nhiên, thì phải hiểu Định-Tâm làm trước. Hiểu biết rồi, phải làm và phải dạy người làm.

Bổn-Sư đã trao mấy bài luận-văn của chư Đệ-tử qua Vô-Vi Hiệp-Thiên-Đài, còn chờ Chưởng-Quản Hiệp-

198

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Thiên-Đài Định-Tâm, vì nó quá lòng Bác-Ái kém đức Từ-Bi.

THÁI-AN-THIÊN giàu lòng Từ-Bi kém bề Bác-Ái.THÁI-THANH-SƠN thấu rõ sự Tu phải kiên nhẫn, đáng

khen, song chưa thấu rõ Công-Bình, Bác-Ái.NGỌC-TINH-QUÂN, hỏi con: thấy rõ Bác-Ái, sao con

hờ hỏng Công-Bình?CHIẾU, PHẤN cần phải Định-Tâm.Có nhiều bài luận-văn làm rất thấp thỏi, mà rất phù

hạp Thánh-Ý, Bổn-Sư rất vui mà thấy những bài như vậy. Có kẻ lại làm theo lối văn vần, không có ý vị chi hết, chư Thiên-Tôn rất chẳng bằng lòng.

Đến nay Bổn-Sư thấy nhiều đứa đã hiểu rõ, nên bỏ đường xưa mà theo về Chơn-Lý; Bổn-Sư rất khen.

THÁI-CA AN-THIÊN, con trao lời nầy cho NGỌC-PHẤN-THANH:

Bần-Đạo rất thương cho Đệ-tử không chắc lòng về theo Chơn-Lý. Con cứ thử Thầy hoài, thành ra sa lầm nẻo Chánh. Bần-Đạo ví dụ cho con hiểu:

Một người bịnh trầm trệ, tại sao nay đến quan Lương-y nầy xin toa, mai đến quan Lương-y nọ xin thuốc, mốt đến quan Lương-y khác tuần mạch.

Trong mấy vị Lương-y ấy, người bịnh chịu người thầy nào hơn hết? Thầy Phù-Thủy, vì thầy Phù-Thủy có bùa chú, sớm lấy máu trừ tà, chiều hóa phù ếm quỉ. Ngoài thầy Phù-Thủy ra, thì còn thầy Gia-Truyền, thầy giác, xác cô, xác cậu. Tại sao người bịnh lại đến nhiều Lương-y như vậy? Chẳng qua tại lòng muốn thử coi thầy hay dở đó thôi.

199

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Càng thử thầy, càng làm cho bịnh trầm trệ thêm thì có, chớ sự thuyên giảm vẫn không thấy chút nào.

Cũng thời Lương-y, mà một viên thuốc của Danh-y là một hột cơm của sự sanh hượt, một giọt nước cho kẻ khô khan. Người bịnh mệt vật-chất thì như vậy, còn con có bịnh thiêng-liêng, tinh-thần mờ mệt, muốn kiếm thuốc mà chữa, con đã gặp thuốc hay là CHƠN-LÝ, sao con nỡ bỏ đi tìm thuốc vô căn cội, sợ con thử riết, đến chừng nhớ lại thuốc hay, thì bịnh căn đã hết phương cứu vậy.

Người Thầy trị bịnh của con là ai?Nếu nhớ biết thầy hay, thì con mau theo mà cầu cứu

bịnh căn cho mau lành.Con ôi! Thầy chỉ có một, mà ma quỉ quá đông, con

chớ lấy phần đông làm chắc; lời phải của Thầy con ít gặp, còn lời quấy của ma quỉ thì con gặp nhiều. Trước kia con cùng CHIẾU đã nắm tay đồng đi, ngày nay đã rõ đường nào thật rồi, vậy thì chữ “đồng bịnh tương liên”, thì hai con phải đồng cùng nhau mà trở về đường Chánh. Con ôi! Đứa nào có căn với Thầy, thì Thầy đều kêu tên đủ ra mà dạy, nghe không mặc ý, Thầy không ép. Thầy cũng biết rằng: hễ Thầy kêu tên đứa nào, thì ma quỉ thường hay rấp ranh ngăn cản, nếu đứa nào thật Tâm biết tin-cậy CHƠN-LÝ ĐỘC-NHỨT thì tự nhiên dằn phàm tâm được.

THÁI-AN-THIÊN hãy trao lời nầy cho PHẤN.

Ớ các Đệ-tử:ĐỨC-CHÍ-TÔN lập Đạo, dốc Phổ-Độ chúng-sanh dứt

khỏi bụi trần, hầu về cựu-vị; cũng như người làm ruộng gieo giống, cốt cho kẻ đói được no, mà thương thay, bởi

200

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

các Đệ-tử mê chướng quá nặng, đã không nghe Thánh-Huấn, mà lại canh-cải làm cho sái Chơn-Lý; có nhiều người xưng rằng là Thiên-Phong của Chơn-Lý mà chẳng thông cho trọn một câu Thánh-Huấn, lại tự tôn, tự đại, kết đảng lập phe, mê hoặc sanh-chúng; làm như vậy chẳng khác chi người làm ruộng mới vừa gieo giống mà đã bị nào chim, nào chuột, sâu bọ, kiến, dế bươi móc, phá hại hết. Than ôi! Cũng những người ấy đã không giữ hột giống cho tốt đặng có cấy thêm ra thì thôi, có đâu lại nỡ làm như loài phá hại sanh mạng của người. ĐỨC-CHÍ-TÔN đã hết lòng dìu dắt Đệ-tử về cựu-vị, mà Đệ-tử nỡ rước thợ khéo đem về đặng đúc bánh xe Luân-Hồi của Đệ-tử học đã không biết mấy muôn kiếp rồi.

Đang ngày nay, ĐỨC-CHÍ-TÔN lập Đạo-Tràng nơi Trung-Ương, là cốt mở rộng ý nghĩa Thánh-Huấn ra. Những Thánh-Huấn đâu đâu đều phải dưng về Hiệp-Thiên-Đài xét lại cho kỹ, vì chẳng phải đều là trọn lời của ĐỨC-CHÍ-TÔN giáng bút.

Chư chức-sắc phải ráng quan tâm mà học cho hiểu cái sự hành Đạo là phải cho hiệp với Chơn-Lý, phải làm luận-văn từ câu một của Thánh-Huấn; phải trao đổi ý kiến với nhau, lớn nhỏ thuận hòa, chớ lấy miệng tài mà giảng, mà cải, mà bàn; lại tự tôn, tự đại. Vị Thiên-Phong nào không biết viết thì đọc ý luận của mình cho thơ-ký chép, chớ đừng bỏ qua. Kẻ dốt phải đến trường mà học, người khôn phải đến trường mà dạy.

Hiện nay Thầy giao cho CA, KIÊN, NHƠN, CHIẾU, kiêm lãnh Đốc-Trường, sau có người khá, Thầy sẽ bổ thêm.

201

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Các đệ-tử phải chăm nom un đúc bọn đồng-ấu, vì ngày sau chúng nó sẽ là rường-cột Chơn-Lý.Ớ các con Hiệp-Thiên-Đài! Nghe lịnh Hiệp-Thiên:+ Thứ nhứt: Hiệp-Thiên-Đài không phải chỗ chơi.+Thứ hai:Chức-tước Hiệp-Thiên-Đài không phải dễ hưởng.+ Thứ ba: Phẩm-Vị Hiệp-Thiên-Đài không phải dễ ban.+ Thứ tư: Trật-Tự Hiệp-Thiên-Đài không phải dễ loạn.+ Thứ năm: Thể-Lệ Hiệp-Thiên-Đài không phải dễ cải.+ Thứ sáu: Qui-Điều Hiệp-Thiên-Đài không phải dễ khi.+ Thứ bảy: Pháp-Luật Hiệp-Thiên-Đài không phải dễ tránh.

Tự lâu nay Thiên-Điều hay dung cho đứa thơ ngây lỗi lầm, vì lời dạy chưa ráo tiếng. Ngày nay, KỶ-LUẬT phân rành, chẳng ai được phép đến Hiệp-Thiên-Đài mà không có lịnh Bổn-Sư. Không ai được xưng Chức-Phận Hiệp-Thiên-Đài mà không có thọ mạng Hiệp-Thiên-Đài.

Lễ-Nghi, Pháp-Luật đều ra nơi Hiệp-Thiên-Đài. Vậy Chức-sắc Hiệp-Thiên-Đài phải giữ sự hành-vi Vô-Tư, lời nói Chánh-đáng, đi, đứng, nằm, ngồi phải cho trong sạch. Bần-Đạo khuyên Chức-sắc Hiệp-Thiên-Đài ráng giữ theo Kỷ-Luật, sau sẽ chỉ thêm.

Ớ các con Đồng-Loan! Các con là cái máy Truyền-thinh của Đạo. Cái máy

cần phải trong sạch. Muốn cho trong sạch thì phải năng lau chùi bụi bặm, để dầu cho trơn. Bụi đất ấy là Lục-dục, còn dầu là Lục-thông của Trời ban phú.

Các con còn nhỏ dại, muốn được Lục-thông mà không dứt bỏ Lục-dục, thì trong mình có chỗ nào chứa chi cho được.

202

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Các con phải cho ngay thẳng, trong sạch, phải tin cậy CAO-ĐÀI ĐỘC-NHỨT và phải tùng lịnh Thiên-Sư.

TÚ, KIÊM: hai con được quyền phong Pháp-Sư Hộ-Đàn. Thầy cho hai con được lập Đàn riêng, là vì Thầy muốn thêm ĐỒ, TAM, SON. Song hai con phải dè dặt, không được bạ đâu cầu đó, phải có chỗ nhứt định và phải có lịnh của Thiên-Sư. Những Đàn riêng tự lâu nay đều hủy bỏ.

DIÊU: con là Điển-ký của Hiệp-Thiên-Đài, con không được có đàn riêng. Thầy giao hai trẻ cho con điều-độ thì con lo điều-độ mà thôi, đừng sanh vọng-tâm, vọng-niệm, vọng-tưởng, con muốn độc-lập sao?

(Thăng)

—————————ddd—————————

203

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

NGỌC-HƯ-CUNGCHƯỞNG-GIÁO THIÊN-TÔN

CA, KIÊN, NHƠN, CHIẾU lại thọ phong.Đàn nầy là Đàn Bổn-Sư vưng lịnh Đức-Chí-Tôn đến

phong cho đủ năm Thiên-Sư.Vậy bốn con phải đồng ký tên vào một tờ Hồng-Thệ

rằng:

“Tuân THIÊN-ĐIỀU mà làm một cách VÔ-TƯ”.

Bao giờ dâng tờ Hồng-Thệ cho Đức-Chí-Tôn rồi, thì Bổn-Sư tạm phong cho bốn con chức Thiên-Sư.

CA: ĐÔNG-SƯ KIÊN: TÂY-SƯ NHƠN: NAM-SƯ CHIẾU: BẮC-SƯBốn con phải tùy bổn phận nơi Hiệp-Thiên-Đài,

hoặc nơi Cửu-Trùng-Đài mà giúp Trung-Ương.Bốn con phải coi bổn phận mình làm trọng.Hãy nhớ câu: “Dân sanh ư tam sự chi như nhứt”.Vì vậy nên Đức-Chí-Tôn lập NGŨ-HÀNH THIÊN-SƯ-

TÒA cho vững vàng nền Đạo, bao giờ Ngũ-Hành Thiên-Sư-Tòa được vững vàng, thì cái quyền NHỨT-TÔN ở phàm gian phải ở nơi TAM-TÔN. Bao giờ dân sanh biết trọng TAM-TÔN,

thì khi ấy mới mong có quyền ĐỘC-TÔN.Vì vậy nên ĐỨC-CHÍ-TÔN lập Đạo-Tràng là cốt để

dạy cho rõ gốc TAM-TÔN.

204

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Chư đệ-tử nơi Định-Tường, nghe Bổn-Sư dạy mà tự xét mình:

Đường Chơn-Lý Định-Tường chẳng nể,Sanh vọng-tâm chia rẽ đệ huynh,

Sớm trưa lo việc chống kình,Chẳng lo bồi đắp danh-thinh Cao-Đài.

Đạo cao trọng, mấy ai thấu Đạo,Trời Từ-Bi, lại thạo dối Trời.

Mảng lo ích kỷ gạt đời,Mà quên Thiên-Mạng của Trời phú trao.

Thương sanh chúng Thầy nào tự trọng, Hạ mình lo giải Vọng Nhơn-Tình,

Chọn nơi làm gốc Dân-sinh,Trung-Ương bền chặt giữ gìn Đạo-Chơn.

Nhưng hềm nỗi: tiếng đờn kém giọng,Dạ Từ-Bi Thầy phóng Thiên-ân.

Giao CA quyền được Sớ dâng, Định-Tường Ân-xá người cần Lý-Chơn.

Thọ Thiên-ân mựa sờn tấc dạ,Kể từ nay sắt đá giúp Thầy.

Trung-Ương lui tới sum vầy, Vuông tròn bổn phận cho dày quả-công.

Trời tuy thưa, mảy lông chẳng sót,Thiệt với Trời kẻo lọt biển trần.

Dối Trời đâu khỏi mắt Thần,Dối Trời là hại Chơn-Thân của mình.

Khuyên các trẻ giữ gìn Đạo-Lý,Đạo, Lý rành, CHƠN-LÝ mới xong.

205

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

LÝ-CHƠN Tâm-Tánh, giồi xong,Thiệt hành một LÝ, vượt vòng phàm phu.

Phải nhớ chữ: Bạch-cu quá khích,Phải gìn câu: Triêu-Tịch Tư Tư.

Con ôi! Mấy đứa nhàn cư,Làm sao gặp được CHƠN-SƯ BÍ TRUYỀN.

Y sớ dưng Thầy liền hạ bút,Phong các con thưởng chút Hồng-ân,

Từ đây trật tự ráng phân,TỰ-DO, BÌNH-ĐẲNG, lần lần bỏ đi.

Đừng miệng đọc Từ-Bi, Bác-Ái,Mà lòng lo MẶT, TRÁI, phỉnh người.

Các con Nam Nữ nghe lời:CON TRỜI THÌ PHẢI SỢ TRỜI, nghe con?

… (Thăng)

—————————ddd—————————

206

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

NGỌC sắc Thầy treo giữa Ngọc-Đình,HOÀNG ngôn thưởng phạt rất phân minh,ĐẠI Ân Tứ-Thánh đồng dâng biểu,ĐẾ bản nêu rành Bạch-Ngọc-Kinh.

Các con hãy định-tâm nghe Thầy xướng danh:331.- Bạch-Ngọc-Kinh điển linh Thầy rọi,

Hiệp-Thiên-Đài ánh giọi Thần-Phan,Trung-Thiên Điển giáng Thánh-Đàn,

Kiền-Khôn thế-giới ba ngàn bao la;Tiêu-thiều nhạc trỗi thi CA,

Bắc Nam xướng họa một nhà chung vui,Chung vui rộng mở cuộc ngày nay,Chơn-Lý bay xa hớn hở mày,Ước được Năm Châu đồng một dạ,Mới là xinh đẹp tiếng con Thầy.

332.- Tiếng con Thầy cỏ cây nở mặt,Vọi Kiên-Giang cao ngất Định-Tường,

Khuôn linh gầy dựng Trung-Ương,Phơi gan sắt đá, dọn đường gai chông;

Rọi gương Chơn-Lý trùng PHÙNG, Muốn cho trọn được Đại-Đồng Đệ-Huynh,

Đệ-Huynh tuy thấy khác màu da, Thầy đã tường-phân vốn ruột-rà,Ví dẫu đờn Nam mà nhịp Bắc,Nhưng tuồng khéo sắp được bình-hòa.

333.- Được bình-hòa gần xa tương ứng,

207

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Mũi núi xanh đúc vững một tòa,Trời cao ai gọi rằng xa,

Bá, Tòng đôi ngọn Đông qua dờn dờn.Riu đưa đầm ấm gió NHƠN.

Đâu nao tuyết bủa, chi sờn gió xao.Gió xao, tuyết bủa, núi càng xinh,Tú khí nồng nàn Đạo-khí sinhTrăm cội xơ-rơ, Tòng Bá vững,Đón ngăn gió bụi tấm phong-bình.

334.- Tấm phong-bình thinh thinh sẵn đúc,Khí âm-dương nhặt-thúc ven tai,

Bóng ai thấp-thoảng hiên ngoài? Nhắc câu Tam tỉnh, gọi bài Mười khuyên;

Chí thành nhẫn nại tâm KIÊN,Báu Trời un đúc thiêng-liêng sẵn người.

Sẵn người ứng chực báu Trời dành,Tánh, Mạng song Tu chớ cải-canh,Gương trước mắt soi hình với bóng,Một điều sai-trại hại trăm lành.

335.- Hại trăm lành tại canh tại cải,Báu Tam-Kỳ vầy dại, vậy khôn,

Trôn kim nếu chỉ chẳng lòn,Mà mong sửa méo vá tròn sao xong,

Nửa cân, tám LƯỢNG đèo bòng,Gióng dây thưởng phạt Hóa-công rán ngừa.

Ráng ngừa mắt Thánh với gương Thần,Tạo-Hóa bao giờ sái mực cân;

208

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Trọn tốt trọn lành ai có chỉ,Chi bằng phải phải lại phân phân.

336.- Phải phân phân đừng cần dục-vọng,Sửa cơ Trời lại lộng phàm tâm.

Cơ Trời thính tại vô-âm,Lộng cơ Trời lại cơ-cầm rằng ngoan;

Dứt lòng ích-kỷ dưỡng AN,Tịnh tâm mới được trông hoàn ngôi xưa.

Ngôi xưa đâu để nhiễm hồng trần,Gió cuốn mưa lồng mới rộn xăng.Cay, đắng, chát, chua, Thân-Nghiệp tạo,Thanh nhàn mau dục lửa tham sân.

337.- Lửa tham sân tưng bừng mây cuốn,Khẩu nghiệp làm hại uổng công-phu,

Ảo-bào mộng-ảnh phù-du,Trần duyên nhân-quả bao mù thế gian,

Đã không thức tỉnh linh QUANG,Vui say nghiệp chướng, mê man Luân-hồi.

Luân-hồi quả báo Phật thường răn,Con Phật mà mang hết nói rằng!Phổ-độ đã khuyên đừng dối thế,Mắt Thần như chớp lại như giăng.

338.- Chớp lại giăng chẳng rằng chẳng nói,Mà đố ai giấu khỏi phân hào,

Công-bình ngọn bút Thiên-Tào,Ngay-gian chơn-ngụy giấu sao qua Trời,

209

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Dần, Thân, TỴ, Hợi tơi bời,Bán-Thiên Mẹo, Dậu khuấy đời trẻ con.

Trẻ con chưa thạo các tuồng chơi,Hụp, lặn nào hay chọc khuấy Trời,Ngọn gió vừa rao xanh nám mặt,Dị-đoan vía-dại một trò cười.

339.- Một trò cười tiếng đời người nhắc,Đạo đâu làm mê hoặc chúng sanh, Đạo là Bác-Ái, Công-Bình,

Đạo là Phổ-Độ ba nghìn thế-gian,Chưa Đông tìm cách NGỰ hàn,

Chớ chờ Đông đến rồi than rét già.Rét già mới rõ Luật Công-Bình,Hồi tưởng người nào mải tuổi xanh,Tích cốc phòng cơ toan sớm liệu,Khuyên đời trân-trọng cái danh-thinh.

340.- Cái danh-thinh giữ gìn cho lắm,Lời Thầy răn như tẩm Cam-Lồ,

Đạo là Thanh, Tịnh, Hư, Vô,Âm Dương, phản phúc Hà-Đồ, Lạc-Thơ,

Chớ tin BẢN lạ mơ mơ,Ngăn đường Chơn-Lý dựng cờ văn minh.

Văn-minh gốc chuộng tại tinh-thần,Linh Tánh Thầy ban đứa mỗi cân.Chọn đất, chọn người, tùy thứ giống, Chớ rằng đây Hạ đó rằng Xuân.

210

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

341.- Đó rằng Xuân, đây rằng Đông-Chí,Đông-Chí thì Dương-khí nhứt sanh,

Đã ban cho sẵn tánh lành,Bỏ lành theo dữ, tại mình hỏi ai?

Chẳng tuân CHIẾU chỉ Thiên-Đài,Để cười nhị-thụ hóa sai Chơn-truyền.

Chơn truyền thọ thọ tại duy duy,Thánh-Ý đừng lầm nẻo Tứ-Phi,Chơn-Lý rẽ chia vì dục-vọng,Hồi tâm mau dứt cuộc tham si.

342.- Cuộc tham si dứt đi mới được,Khuyên ai đừng dụng chước Thiên-cơ,

Trung-Thu chớ gọi trăng lờ,Trước sau tại một nước cờ hư nên,

Tập roi mà THIỆU lại quên,Quan-Âm, Long-Thế, lạc quyền Trung-Ương.

Trung-Ương Chơn-Lý dựng đầu tay,Thức-tỉnh người mê giấc mộng say,Lằng đục tơ tằm no miệng kiến,Già lời quên nghĩ trả là vay.

343.- Trả là vay gác tay nghĩ tột,Cũng một nhành trái ngọt, trái chua,

Đạo không dạy việc tranh đua,Đạo dạy giúp-vùa năm giống một Cha,

Khôn lanh sao bằng THIỆT thà,Chung hiệp một nhà cứu sống thế gian.

211

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Thế-gian cũng một cửa nhà chung,Ai nỡ chia ra đứa một vùng?Đã gọi đứa khôn thầy đứa dại,Vụng mà gọi khéo nói sao cùng.

344.- Nói sao cùng không không, sắc sắc,Có Chánh-Tâm mới dứt loài tà,

Phật tuy số gọi hằng hà,Trần-gian yêu-quái biết là mấy môn.

Đành vùi cát bụi PHẤN son,Đảo điên trật tự, hao mòn thân-danh.

Thân-danh quí báu giữ cho bền,Có cái danh nầy mới có tên,Có tuổi, có tên, danh phải có,Danh là rường cột, Đạo là nền.

345.- Đạo là nền đừng quên mối Đạo,Có Đạo rồi mới tạo thế-gian.

Tin chi cái Đạo mơ màng,Học chuyện tuần-hoàn sái Đạo dễ yên,

Đạo khuyên chánh TRỰC tự nhiên,Không thông-hiểu Đạo, chưa duyên hiện thời.

Hiện thời mối Đạo tợ tơ vò,Xau xé nhau vì sự ấm no,Quen nghiệp bán Trời đành phá Đạo,Đạo nào có dạy việc mồ-hồ.

346.- Việc mồ-hồ nhố nhăng chán ngán,Kế tinh ma mù quáng tối tâm.

212

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Cơ thâm thì họa cũng thâm,Cháy mày vì lửa bắt ngầm dầu trong;

Tràn lây nhành liễu cội TÒNG,Phí công vun quén, nhọc lòng sâm soi.

Sâm soi, nào phải một đôi năm,Họa phước vô môn tiếng chẳng lầm.Bẻ nạng chống Trời, ngao tát biển,Khuyên người hỏi lại cái lương-tâm.

347.- Cái lương-tâm phải cầm cho vững,Mới thiệt rằng là đúng trượng-phu,

Hãy xem cái bóng Bạch-Cu,Nào là xe ngựa lọng dù mà chi?

Biết rồi thì chớ hoài NGHI,Tiền đồ làm trọng, thị phi chớ lầm.

Chớ lầm lạc lối, uổng công-trình,Đường cả đồng đi dẫn chúng-sinh,Ái, Ố, Tham, Si, tình thế-tục,Luân-hồi ai có thế thay mình?

348.- Thế thay mình như hình với bóng,Thì phải cần Đức trọng Đạo cao,

Dứt song cái sóng phong trào,Tín thành, tín ngưỡng, chớ xao lãng hoài,

Một đường, thẳng bước Tiên ĐÀI,Áo xiêm rạng vẻ Bồng-Lai chực chầu.

Chực chầu Tánh, Mạng chữ Thiên-Đình,Phán đoán loài người phẩm trọng khinh,Lưỡi sẵn có răng cần cẩn thận,

213

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Khuyên ai chớ vội tánh phê bình.

349.- Tánh phê bình vô minh xúi dục,Bởi nơi ngòi tam độc mà ra,

Đất bằng bỗng nổi phong ba,Tại đâu chia rẽ NGƯỜI, TA, TA, NGƯỜI ?

Ráng lo phân GIẢNG Lý Trời, Đừng lòng ích kỷ, bị lời sàm-ngôn.

Sàm-ngôn ru-rỉ dỉ bên tai,Thảnh-thót đờn ca giọng đủ bài,Thương bạn ráng lo khuyên dứt bạn,Chánh Kim-Nam-Chỉ chẳng hề sai.

350.- Chẳng hề sai lòng hoài có một,Mới gọi rằng rường cột Tam-Kỳ,

Cớ sao tiếng dặn chẳng ghi?Trung-Ương là chỗ Thầy qui Đạo-Tràng,

Gióng cần sông Vị ngỡ ngàng,Lưỡi thêm uốn ngạnh móc ràng Chỉ-Nam.

Chỉ-Nam chỉ rõ lượng Từ-Bi,Chỉ nghiệp nhơn sanh nặng thể chì.Gươm Huệ ướm trao cho rõ mặt,Giúp cơn ngư dước buổi diên phi.

351.- Buổi diên-phi Hóa-Nhi cố cập.Đường Lý-Chơn bồi đắp đã lâu.

Khen cho chung thỉ một màu,Càng nhìn Thánh-Huấn càng sâu lại càng.

Nghiệm tường mới rõ tâm CANG,

214

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Muốn thử đá vàng nổi lửa thét coi.Thét coi thiệt giả kẻo chưa tường,Ma quỉ hêu đòi gẫm khá thương,Tiên Phật ngao du đâu có được,Cú kêu dữ miệng, có ai nhường.

352.- Có ai nhường bước đường tấn hóa,Rõ cơ Trời mau khá gia tâm,

Giăng tay rước bạn tri âm,Cao sơn, lưu thủy, khúc cầm Hữu-thanh.

Vầy vui đủ bạn công KHANH,Tứ-dân, tứ-thú, dựng thành Đạo cao.

Đạo cao cùng chẳng tại nơi mình,Khuyên trẻ trau dồi cái tánh linh,Cứu vớt chúng sanh cơn sóng khỏa,Vững thuyền tế-độ buổi nghiêng chinh.

353.- Buổi nghiêng chinh lòng gìn Bác-Ái,Tìm Lý-Chơn chẳng ngại công lao,

Cứu nguy thành lửa, cá ao, Trước sao, sau vậy, chớ xao cang trường,

Công dày, sức vững, chí CƯỜNG, Đừng chia phe phái, cứ đường Trung-Dung.

Trung-Dung Đạo Lý giữ đừng sai,Bền bỉ từ xưa hỏi mấy ai?Kính, Cẩn, Trang, Nghiêm, dè dặt lắm,Nhứt Tâm, nhứt Đức mới rằng trai.

354.- Mới rằng trai đủ tài tế-độ,

215

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Ngấm râu mày chớ hổ rằng trai,Gìn lòng chớ chút lầm sai,

Dứt lòng Kiêu, Lẩn, được dài huệ ơn.Sao cho trong sạch bổn-NGUƠN,

Nhớ lời dạy bảo thiệt hơn phân-trần.Phân-trần với trẻ đã đôi phen,Cái tánh kiêu-căng rất đỗi hèn,Ma chướng ráng chừa, đừng bịn-rịn,Mới mong gặp-gỡ cựu nhơn-duyên.

355.- Cựu nhơn-duyên sanh tiền khắng-khít,Lòng chí-thành chẳng mích, chẳng phai,

Mối lằng miệng thế biếm bài,Đá vàng một dạ, mặc ai xẻ sừng.

Công-phu, hiệu-quả, minh TRƯNG,Đài Linh vuông tấc ngàn từng suốt thông.

Suốt thông Đạo cả bởi Trung-Dung,Bền bỉ đừng cho uổng phí công,Sẵn giống, sẵn phân, người cũng sẵn,Thiêng-liêng cội cả ráng vun trồng.

356.- Ráng vun trồng cho sung cội đước,Hãy nhớ câu hữu phước hữu phần,

Dứt xong được tánh phàm trần,Tách xa Bắc-Ngụy, chẳng gần Đông-Ngô,

Vững vàng được bước tiền-ĐỒ,Đừng tin son vẽ, phấn tô tượng màu.

Tượng màu Bác-Ái, dạng Từ-Bi,Phỉnh kẻ mờ mê lập cánh vi,

216

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Khuyên trẻ biện phân đường mối chánh,Vàng mười chớ để lộn đồng xi.

357.- Lộn đồng xi để nghi sanh-chúng,Đừng cho ai rẻ rúng Tam-Kỳ,

Biện phân cho rõ thau chì,Phải tường thị thị phi phi một vài,

Trung-Ương lui tới anh-TÀI,Giữ một tâm hoài hiền đãi sĩ chiêu.

Chiêu hiền đãi sĩ trọng anh hào,Người một ta mười Đạo mới cao,Khổ hạnh là đầu muôn cội cả,Muốn nêu danh vọng dạ đừng nao.

358.- Dạ đừng nao mới cao phẩm hạnh,Chữ, lời Thầy nhẫn nhịn làm đầu,

Một lời nhịn, giá mười câu,Xét thương cho kẻ cơ cầu hiểm nham.

Tránh phường triêu tứ mộ TAM,Đuôi ong nọc đỉa, máu tham chẳng cùng.

Chẳng cùng xét được dạ con buôn,Phủi sạch ngoài tai chớ để buồn,Đạo vốn không không, không sắc tướng,Chúng-sanh càng mỏng mảnh hơn chuồn.

359.- Mảnh hơn chuồn thêm luồng dông dội,Độ sanh-linh phải bội công-phu,

Chí công vén ngút vẹt mù,Chỉ đường Chơn-Lý, nẻo Tu cho người.

217

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Gỗ săng khéo CẨN thêm tươi,Bâng bâng văn-chất, con người mới nên.

Mới nên đáng mặt đứa con Thầy,Lúc thúc nuôi mình hổ cỏ cây.Chơn-Lý bủa tràn nâng Võ-Trụ,Đừng cho thầm thẹn tiếng râu mày.

360.- Tiếng râu mày đổi thay thời thế,Chí hùng anh lại để trò cười,

Màn đời đã rộng con ngươi,Mê say khói mộng báu Trời đem thiêu,

Thần Tiên khoái lạc tiêu DIÊU, Lấp tai khổ ách, sẵn liều trường-sanh.

Trường-sanh muốn được lắm công phu,Độ kẻ phàm cho dứt cái ngu,Ngu sắc, ngu tài, ngu trật-tự,Ngu danh, ngu lợi, mảng mê mù.

361.- Mảng mê mù vó cu lạc bước,Nay nhằm đường ngư dước diên phi,

Dò lần hai chữ Học-Nhi,Học-Nhi thì phải giải thi cung Thiềm,

Thông điều vãng cổ lai KIM,Nhớ câu Đạo vốn phẳng yêm như tờ.

Như tờ giấy trải chẳng hề xao,Dạy bạn đừng ham cách lộn nhào,Bình-Đẳng ấy là điều Trật-Tự,Quên bề Trật-Tự khó trèo cao.

218

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

362.- Khó trèo cao nổi trào ưu thắng,Bởi Tiên ban đã sẵn tên đề,

Trần-duyên nay đã não nề,Tiên-duyên tu tỉnh, mựa hề cải canh.

Chung linh TÚ khí khắp nghìn,Chớ cho uổng phí công-trình tiền-thân.

Tiền-thân khổ hạnh có ngày nay,Nay cũng dày công mới gặp Thầy,Thẳng bước chớ cho ngừng nghỉ gót,Mình nên bạn cũng được thơm lây.

Thầy lượm-lặt được Ba mươi hai (32) đứa Đại Thiên-Phong ấy. Tuy có đứa đã ngoại Đạo rồi, song Thầy còn kêu nó một lần chót nữa, đặng đến khi Thầy phán đoán Đại-Đồng Thế-gian, chúng nó không còn trách Thầy được.

Còn nhiều đứa đã được đứng nơi Bản Vàng rồi, song công-quả còn ít, hoặc thọ phong chưa được mấy ngày, nên Thầy chưa xướng danh. Mấy đứa ấy phải ráng, chớ bơ thờ hoặc là bán-đồ-nhi-phế mà rất uổng.

Lẽ thì Thầy phải xướng danh phái Nữ, song bên Nữ-phái những đứa ỷ có công lớn, đều có tội, vì phạm Luật Hiệp-Thiên-Đài. Có đứa thì tư-vị kẻ phạm luật, hoặc có đứa vì nhẹ dạ thì cũng đều có tội.

Thầy ước sao cho chúng nó ăn năn, sám hối.Bên phái Nam cũng có nhiều đứa nhẹ dạ, chư Thần

lấy làm hổ ngươi mà thấy chúng nó.

—————————ddd—————————

219

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Thầy các con, các con Tịnh-Tâm nghe Thầy dạy tiếp:363.- ĐƯỢC thơm lây cả bầy con dại,

Đừng ai làm phá hoại danh Thầy,HIỆP-THIÊN Luật Cả Cao-Dày,

Đừng ai khoe giỏi nói hay cãi Trời;Các con Nam Nữ nơi nơi,

Hễ rằng biết Đạo nghe lời mới nên.364.- Mối Chơn-Lý cậy KIÊN gỡ rối,

Đứa vọng-tâm quá vội tự-kiêu,Mượn danh tuân luật Qui-Điều,

Song lòng dối trá trăm chiều gớm ghê,Thầm toan kết đảng kết phe,

Ma quỉ một bè vinh mặt rằng khôn.365.- Tại các trẻ muốn chôn tánh mạng,

Ắt phải vương tai nạn phi thường,Thầy đâu có dạ chẳng thương,

Thương sao cho được tai ương nó gầy,Thầy thương nên mới tỏ bày,

Khuyên con Nam Nữ từ rày phải tuân.366.- Cửa Hiệp-Thiên ngàn từng chớn chở,

Cửu-Trùng-Đài khuyên chớ Vọng-Đàm.Xanh nào lấn được xanh chàm,

Muốn thông Đại-Đạo Nhứt Tam phải rành.Mồ-hồ lăng-liếu mối-manh,

Mà mong thống-nhứt Nguơn Hanh mối-giềng.367.- Phải nghiệm xét Hậu Tiên Thiên-Vận,

Đặng suy cùng vô tận, vô biên.

220

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Đạo tìm những trẻ hữu duyên, Ai vô duyên chớ xưng Tiên, gọi Thần.

Đạo là phẳng-lặng, trang-bằng,Đạo không thử-thách, nhố-nhăng cãi Trời.

368.- Khuyên các trẻ nghe lời Thầy dặn,Đừng để lòng cừu hận tham si.

Dứt dây ma níu, quỉ trì,Tìm đường Chơn-Lý mà qui cho rành.

Đừng nghe kẻ cải người canh,Vui nghe một phút tội hành lao lung.

369.- Biết sao nói cho cùng với trẻ,Bởi Vọng-Tâm quên kể lời Thầy.

Đạo tuy ở khắp Đông Tây,Mà ngôi Độc-Nhứt là Thầy đó con.

Thầy đâu có dạ Tự-Tôn,Song ngôi CHÍ-BỬU, CHÍ-TÔN là THẦY.

370.- Ứa nước mắt thương bầy con dại,Có lỗi thì ráng cải ráng chừa.

Thẳng dây mực nẻ đường cưa,Đau lòng tại gỗ sớ thưa thịt tỳ.

Nhớ ngày KỶ-NIỆM TU-MY,Con nào tội ác khó qui vào trường.

471.- Lập Trung-Ương nghĩa-phương dạy trẻ,Nhắc các con tiên Lễ, hậu Văn,

Anh em khắng khít muôn phần,Dưới trên hòa thuận, khuyên đừng trắng đen.

Nước trong nhờ có lóng phèn,

221

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Người nên nhờ có bạn hiền sớm khuya.—————————ddd—————————

222

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

CHUYỂN MÊ KHẢI NGỘ(In trong Đuốc Chơn Lý số 1 – xuất bản 15.7.1035)

DIÊU-NGHIÊM-CUNGTRUNG-THIÊN GIÁO-CHỦ

Mừng các con, mừng chư Đệ-tử.Đức-Chí-Tôn có dời Cửu-Cung Thánh-Mẫu, Tứ Đại-

Thánh-Nhơn và chư Thiên-Tôn đến xem các con hành Lễ, có để lời khen Tứ-Bửu vừa biết làm phận sự. Người dạy Bổn-Tôn đam lời của Người và Đức Mẹ đặng truyền dạy các con Người, khuyên các con phải tận tâm phổ-độ chúng-sanh trong lúc mù mê, chẳng biết Chơn-Lý là gì, các con phải dìu dắt chúng nó, kẻo chúng nó bị tai bay họa gởi, mà phải hư thân danh.

Các con hãy Định-Thần nghe lời truyền dạy:

372.- Cửa Chơn-Lý khóa chìa vừa hợp,Mở cho con vài lớp Đạo-Tràng.

Dạy con dài thở vắn than,Khuyên con Nam Nữ lưỡng ban học hành.

Dạy con phải trọng thân danh,Khuyên con phải sợ tiếng lành đồn xa.

373.- Con muốn được Đạo Cha rộng mở,Con phải lo hăm hở tự tân.

Học hành tua phải ân cần,Thượng hành hạ hiệu lần lần dắt nhau.

Khuyên con bền bỉ thân sau,Ráng ngừa những miếng có đầu không đuôi.

374.- Con đã rõ luân-hồi bài dạy,

223

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Trước mê sa đường quấy mới hư,Công lao Cha đã chẳng từ,

Ra tay vớt trẻ khư khư chẳng nài.Lòng Cha, lòng đã chẳng phai,

Lòng con bao nỡ cứ mài miệt chơi.375.- Thầy nay phải cạn lời với trẻ,

Khuyên trẻ đừng bê trễ công-trình.Muốn cho kịp bước trường-sinh,

Đạo-Tràng khuyên chớ hớ hinh ngày giờ.Nhiều con lòng dạ lãng lơ,

Ngày nay trễ bước, chờ cơ hội nào?376.- Con đã rõ ảo bào mộng cảnh,

Sao không lo dưỡng tánh tu tâm.Một đời hỏi lại mấy năm?

Một tháng đếm lại trăng rằm mấy con?Dày công cát nổi nên cồn,

Dày công nước chảy đá mòn nên khe.377.- Khuyên bỏ tánh vầy bè hiệp lũ,

Chớ phanh phui việc cũ trò đời.Công dư nên giúp cho Trời,

Công dư nên giúp Ta, Người đoàn viên.Công dư bạn với Thánh Hiền,

Công dư ráng nhớ lời khuyên của Thầy.378.- Thầy thấy trẻ hay thay Thánh-Ý,

Biết có mình quên nghĩ đến Trời.Con ôi! Thầy đã cạn lời,

Ý chi con nỡ lòng dời-dạt phai?Đạo-Tràng vắng trẻ đoái hoài,

Thuyên lo ích kỷ, giồi mài phàm tâm?

224

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

379.- Cái phàm tâm hại ngầm sanh-chúng,Thương các con yêu chuộng chẳng rời.

Lòng con nhuộm đã lâu đời,Bao giờ rửa sạch Thầy Trời cứu cho?

Tham sân lửa đã cháy lò,Tự tâm mê muội bo bo giữ gìn.

380.- Trẻ muốn được Ngọc-Kinh bước đến,Trước phải lo dứt bến muội mê.

Lời Thầy hễ đọc phải nghe,Hễ nghe thì phải ráng nghe cho rành.

Nghe rồi liền phải thi hành,Thi hành thì chớ cải canh méo tròn.

381.- Thầy chẳng dạy các con điều quấy,Dạy các con thấy quấy phải chừa.

Học hành chớ nại sớm trưa,Tu hành thì phải ngăn ngừa quỉ ma.

Kiêu căng tật đố thói tà,Biếng lười, nhác nhúa bỏ qua sao đành.

382.- Trẻ muốn được mau thành Chánh quả,Mà quên phòng cái họa vọng tâm.

Con ôi! Chánh-Pháp cao thâm,Tự tâm tự tánh thâm trầm lắm con.

Phải lo kiến thức cho tròn,Đừng lo xa kiếm Thế-Tôn nơi nào.

383.- Thầy những ước con sao dễ dạy,Đặng mau truyền cho thấy huyền-cơ.

Định-tâm khuyên chớ hỏng hờ,Định cho thanh-tịnh, đừng mơ việc ngoài.

Định, Huệ, một thể chẳng sai,

225

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Định xong mới Ngộ, mê hoài sao nên!384.- Học Định-Tâm phải bền mới được,

Đừng cho Tâm lo vượt cảnh ngoài.Trong lòng đừng loạn đừng sai,

Ngăn ngừa ý mã rẽ hai Tâm Thần.Tánh xưa trong trắng, trong ngần,

Định xong liền thấy Huệ lần phát ra.385.- Thiệt Định-Tâm có ba bài học

Thầy đã cho săn sóc có Người.Nếu ai cả biếng già lười,

Đèn nào cháy được bởi trời gió dông.Nước kia bằng muốn lóng trong,

Thì đừng vọc khuấy cặn bùn nó lên.386.- Ai cũng muốn thành Tiên cho chóng,

Mà quên rằng Phật-sống nơi Tâm.Đầu non chót núi vái thầm,

Hang cùng nẻo cố ráng tầm cho ra.Sao không nhớ lại lời Cha,

Định-Tâm thì thấy có xa đâu nào!387.- Dứt các cảnh lãng xao trước mắt,

Có mà không, mới thật rằng không.Ở đâu cho khỏi bụi hồng,

Ở bùn mà chẳng nhuộm bùn mới hay.Hãy tuân những Luật dạy bày,

Tuân rồi mới rõ Luật Thầy thể nao.388.- Dằn cái sóng phong trào phá hoại,

Tưởng hại người, nhè hạ lấy mình.Các con có tánh hay khinh,

Khinh sao cho được Cao Xanh Luật Trời!

226

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Ráng nghe lời dạy con ôi!Đạo-Tràng ráng đến để chơi ích gì!

389.- Thấy phía trẻ Nữ nhi khờ khạo,Mà có lòng mộ Đạo sớm khuya.

Ngày đêm bốn vóc chẳng lìa,Nhọc nhằn ráng chịu, chẳng hề thở than.

Khen cho có chí đá vàng,Hềm vì một nỗi bàn bàn chẳng quên.

390.- Thầy dạy trẻ: dạy nên, dạy khéo; Thầy có đâu: dạy lếu, dạy khờ.

Dạy con biết bến, biết bờ, Dạy con bỏ tánh bơ thờ, nhố nhăng.

Dạy con khuya sớm ân cần,Dạy con thức tỉnh, dạy đừng bôn chôn.

391.- Dạy con biết phần Hồn làm trọng,Dạy con chừa cái bụng đa nghi.

Đức tin công-quả trọn nghì,Y theo Thánh Đức Diêu-Trì chớ sai.

Nếu con lần lựa nay mai,Đăng-Kiều khó bước, Liên-Đài khó mong.

392.- Lòng Đức Mẹ ngùi trông con trẻ,Nhiều con đành chẳng kể lời khuyên.

Trăm bề đều dụng ý riêng,Bao giờ mới đặng đoàn viên trùng phùng?

Mẹ thương con, nói chẳng cùng,Con đành xa Mẹ, nỡ lòng nào con!

393.- Lòng Đức-Mẹ héo don chua xót,Ngày những đêm ruột hót gan xàu.

Một ngày, một đợi, một lâu,

227

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Mà con đành đoạn rủ nhau hoang đàng.Gặp Người, Mẹ nhắn Mẹ than,

Đem lời giác đác gián can con giùm.394.- Lòng Đức-Mẹ hay đùm hay bọc,

Miễn lời ngay con lọt vào tai.Con về Mẹ rước hai tay,

Mẹ đà sắm sẵn mão, giày, áo, xiêm.Thương con bể khổ đắm chìm,

Quên quê cảnh cũ trang-nghiêm Phụng Rồng.395.- Khuyên con dứt cái lòng phàm trược,

Đặng nghe lời chỉ trước dặn sau.Liên-Đài nhiều nấc nhiều cầu,

Tánh phàm đeo đuổi khó hầu bước qua.Nếu con mảng tánh ta-bà,

Mẹ nào nỡ thấy con sa hố hầm.396.- Muốn trẻ được Định-Tâm, Định-Tánh,

Mẹ đã toan dựng cảnh Phổ-Đà.Con dầu xiêu lạc mấy xa,

Lẽ đâu cảnh cũ quê nhà lại quên.Ra tay đắp móng xây nền,

Công-phu viên mãn đoàn viên kịp chầu.397.- Lời châu ngọc trước sau dặn bảo,

Khuyên con đừng mặc áo khỏi đầu.Tuy rằng nghiệp-quả đã sâu,

Tự tâm sám hối thì mau được thành.Con nào cượng lý cải canh,

Búa rìu chịu lấy, Mẹ nhìn lụy rơi.398.- Con biết Mẹ, thì Trời ban thưởng;

Con quên Trời, thì vướng họa tai.

228

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Ớ con! Mẹ đã dạy hoài,Ớ con! Mất nết, một hai phải chừa.

Ớ con! Đừng có đảo lừa,Ớ con tỉnh giấc, dây dưa ích gì.

399.- Nầy Nam Nữ ráng ghi vào dạ,Khuyên con ngừa cái họa dị đoan.

Phật Tiên xa vọi muôn ngàn,Phật Tiên đâu có rảnh rang quến rù.

Phật Tiên biết dạy người Tu,Phật Tiên chẳng dạy đứa mù nói ma.

—————————ddd—————————

NGỌC-HOÀNG ĐẠI-ĐẾ HỘI-GIÁOL’ Église Caodaique

CAO-THIÊN-ĐÀN KIÊN-GIANG,Đàn đêm mùng 10 và 11 tháng 6 năm Bính-Tý,

nhằm ngày 27 và 28 Juillet 1936.

NGỌC-đài giá-hạnh phán phân-minh,HOÀNG bút châu phê Luật đã rành,ĐẠI-Đạo muốn nên đừng cãi Lịnh,ĐẾ-Kinh rộng mở bữa thêm xinh.

400.- Con có chí cải tà qui chánh,

Thầy nỡ lòng nguội lạnh với con?Dạy con lòng sắt dạ son,

Dầu cho biển cạn non mòn chớ quên.Đài cao núi dựng làm nền,

229

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Lọng tàn dối giả sao bền gió dông.401.- Kìa lũ kiến chòm ong khuấy rối,

Đem miệng lằng lưỡi mối hại đời,Hành-vi chẳng sợ Luật Trời,

Luật Trời đâu dễ vui cười được lâu,Nhớ câu: thiện ác đáo đầu,

Công-Bình là Luật cao sâu chẳng lầm.402.- Khen cho đứa tìm tâm ích-kỷ,

Khéo làm trò hồ mị khi cô,Làm tuồng triêu Hớn mộ Hồ,

Đổng Tào chót lưỡi, Trương Tô tấm lòng,Nào hay sẵn chực người Phòng,

Công thành thân thối Xích-Tòng-Tử du.403.- Trời cao vọi mảy thu chẳng sót,

Đứa cơ mưu đâu lọt lưới Trời.Khen cho cả tiếng già lời,

Bịa điều huyển-hoặc phỉnh đời say mê,Hiệp tam hiệp ngũ đề huề,

Luật Trời phép nước chẳng dè chẳng kiên.404.- Dối mượn tiếng tuyên-truyền Đại-Đạo,

Quyết lòng lo giả tạo danh mình,Chẳng lo đến buổi gập-ghình,

Túi tiền tuy sẵn, nhơn tình khó mua.Thương cho những trẻ nịnh-hùa,

Chẳng xem tiền giấy tưởng bùa hộ thân.405.- Đuốc Chơn-Lý ánh bừng cao ngọn,

Phá mù tan rọi bốn phương Trời,Chọn người Thầy đã trao lời,

Cầm quyền giám-đốc tùy thời độ chung.

230

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Con nào nghe dạy còn trông,Con nào nghịch mạng Đại-Đồng khó than.

406.- Lửa thử-thét ngày càng thêm hực,Gió sàng-dê thời khắc chẳng ngừng.

Ớ con ráng mở mắt bừng,Đừng cho cát bụi bít dừng con ngươi.

Con nào lòng biết sợ Trời,Thì còn trông cậy gặp Người cứu cho.

407.- Thầy tuy sắm cái lò Tạo-Hóa,Tạo-Hóa-công nơi dạ các con.

Khoe-khoang khéo vụng, dại, khôn,Sắt-gang-đồng-thép yếu dòn bởi đâu?

Đừng ai mặc áo khỏi đầu,Biết đâu rún biển cạn sâu mà dò.

408.- Kìa anh-én líu-lo hôm sớm;Nọ phù-du, chuồn, bướm trưa chiều.

Mênh mang Võ-Trụ ngao-nghêu,Tưởng rằng Trời Đất bấy nhiêu là cùng!

Dập-dìu xóm kiến đoàn ong,Chẳng dè sánh với muỗi mòng khác chi.

409.- Con một lớn biết đi biết chạy,Thầy càng khuyên, càng dạy, càng thêm,

Nếu con chẳng chịu thúc kềm,Thì con chớ trách Luật nghiêm của Trời.

Con nào biết chịu nghe lời,Thì mau hối quá kịp thời đoàn viên.

410.- Thương con trẻ có duyên may gặp,Rày phải lo đừng vấp như xưa.

Bấy lâu năm lọc bảy lừa,

231

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Lọc lừa càng lắm càng trưa ích gì.Dầu cho viễn tẩu cao phi,

Đố ai tránh khỏi Hóa-Nhi vô-hình.411.- Biết sao nói Công-trình Thầy dạy,

Dạy cho con xem thấy rẽ-ròi.Bấm tay thử nghĩ lại coi,

Vì đâu lặn mọc trễ hồi xiết bao.Khuyên rày bỏ dạ cầu cao,

Kìa cơ chuyển Đạo định trao đã gần.412.- Trẻ hối-ngộ Thầy mừng cho trẻ,

Có duyên xưa gặp kẻ giúp tay.Gặp duyên đã gọi rằng may,

Gặp duyên bền chặc, chẳng Thầy đố nên.Gặp duyên phải giữ cho bền,

Cho bền vững gót đứng trên Trùng-Đài.413.- An-Thiên-Hội một bài dạy rõ,

Ai xui con họa hổ bất thành.Tại con ham muốn phù-danh,

Bạn hiền đâu khứng đem mình giúp con.Làm người khuyên chớ bôn-chôn,

Kìa kìa vực nổi nên cồn mấy hơi.414.- Đừng muôn việc cứ Trời mà đổ,

Tạo-hóa-nhi hỉ nộ không chừng.Nghe Trời thì được vui mừng,

Nghịch Trời, Trời phải dậy bừng sấm oai.Mảy lông, Trời chẳng lọt sai,

Đừng ai nói giỏi khoe hay mà lầm.415.- Có trẻ biết Minh Tâm Kiến Tánh,

Thầy khen cho sửa hạnh ít nhiều,

232

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Hôm mai em dại dắt dìu,Ngày càng thêm mới, đừng điều nhặt-thưa.

Kìa Trời đang nắng rồi mưa,Vừng ô lố dạng thoạt trưa rồi chiều.

416.- Thuyền Chơn-Lý buông lèo lướt sóng,Giữa dòng khơi một bóng trăng thanh,

Trên Trời dưới nước mông-mênh,Đừng sai lạc hướng, phải nhìn vào đâu?

Thình lòng một dạ trước sau,Chăm theo Bắc-Đẩu chẳng cầu Chỉ-Nam.

417.- Tánh Trời phú phải đam cho trọn,Chớ lăng-xăng Tánh lộn với Tâm.

Tánh Tâm Tâm Tánh chớ lầm,Tánh Tâm Tâm Tánh chớ cầm chẳng chơi.

Bấy nay nhiều kẻ vá Trời,Cũng nhờ Tâm Tánh chẳng rời-rạc xa.

418.- Kìa thử xét đóa hoa búp kín,Tánh Tâm đâu, Tâm Tánh là đâu?

Tâm là chỗ núp ẩn sâu,Tánh là chỗ bị nhuộm màu khác xưa.

Tánh Tâm mê-hoặc ráng chừa,Tánh Tâm sáng tỏ hỏng-hờ sao nên.

419.- Vật-chất học khắp miền Âu-Á,Mẩn-mê tìm vật lạ Địa-cầu,

Nghiêng-nghèo dồn-dập trước sau,Mảng lo giành-giựt nhiệm mầu Hóa-Công.

Sao không xét lại nơi lòng,Bấy nhiêu mầu-nhiệm Tâm trung sẵn-sàng.

420.- Xét thì rõ con đàng Chơn-Lý,

233

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Chơn-Lý là trừ mị diệt tà.Mị tà nào có đâu xa,

Trong ngoài quanh lối lớp da thịt nầy.Xét rồi ngó lại nhìn Thầy,

Thầy đâu có sắm đồ vầy cho con.421.- Bừng mắt dậy tỉnh-tuồng sẽ thấy,

Mê-muội chi đường quấy lại trông.Thấy con mê-muội đau lòng,

Thấy con mê-muội, chẳng phòng giặc ma.Giặc ma bảy đứa kê-cà,

Rĩ-rầm, thầm-thỉ, cà-rà, khít-khao.422.- Phá cái giấc chiêm-bao mấy kiếp,

Đặng về mau cho kịp với Người.Đạo Trời bủa khắp nơi nơi,

Đông Tây Nam Bắc một Trời Lý-Chơn.Phải tìm cho gặp con đường,

Đừng cho lạc bước để hờn kiếp sau.423.- Trang phú quí lập lầu xây các,

Cuộc càng xinh, nghiệp ác càng sâu.Thử coi thế-giới hoàn-cầu,

Tay vàng chơn ngọc bấy lâu trong mình.Sao không xét lại mà kinh,

Báu Trời đâu để giồi vinh phong-trần.424.- Người Đạo-Đức biết thân làm báu,

Chơn-thân là rào-giạu thế-gian.Chơn-thân đứng được vững-vàng,

Thế-gian kết-cuộc muôn-vàn sự vui.Chơn-thân, Chơn-thể sánh đôi,

Thế-gian hòa-hiệp Ta Người một Ngôi.

234

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

425.- Vượt thế-gian kìa Trời Chúa-Tể,Thuyền rước người vượt bể trầm-luân.

Muốn cho người rõ được chừng,ĐÀI CHÂU-THIÊN đó là từng NGỌC-KINH.

Muốn cho vững bước tiền-trình,Tánh Tâm phải lặng như bình nước trong.

426.- Kìa trên có Chủ Ông săn-sóc,Khuyên con đừng lặn mọc hư thân.

Đã rằng ai phước có phần,Phước phần thứ-lớp nắp-ngăn chẳng lầm.

Luật Trời tuy gọi u thâm,Song đều cũng tại nơi Tâm mình gầy.

427.- Con thử xét từng mây mấy lớp,Thì con tường trường-hợp Ta Người.

Ta Người đều Một với Trời,Ta Người đâu có mến đời mẩn-mê.

Ta Người mau thoát kiếp về,Từng mây mấy lớp đều quê hương nhà.

428.- Chớ vụng tưởng có ba cảnh-giới:Dục, Sắc, Vô, rằng Đại-Tam-Thiên.

Chia ba thêm kẻ đảo-điên:Rằng nào bổn-chất tự-nhiên dạng hình,

Rằng nào cảnh-trí tú-tinh,Rằng nào lý-trí tự mình xét suy.

429.- Sao chẳng xét Vô-Vi Độc-Nhứt,Dụng Hữu-Vi sanh Thái-Cực-Đồ.

Chớ rằng Đạo-Thể Hư-Vô,Chẳng xem Đạo-Tướng có lò Hóa-Công.

Kíp mau một kiếp tao-phùng,

235

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Châu-Thiên-Đài đó Đại-Đồng đệ-huynh.430.- Mau bước đến Ngọc-Kinh chín bệ,

Kẻo kìa con ác xế đã hầu.Một lời gẫm chẳng bao lâu,

Còn trông đợi muốn chực chầu những chi.Mấy lời Thầy dạy phải ghi,

Con đường khôn dại thị-phi chớ lầm.431.- Con muốn được Thầy chăm-chỉ dạy,

Thì bỏ lòng tà vạy buổi xưa.Khuyên đừng còn tánh đảo-lừa.

Nhứt Tâm, nhứt Đức, đừng thưa-thớt lòng.Đạo-Tràng trẻ phải dày công,

Một năm biết được mấy cung trăng rằm.432.- Mừng cho trẻ có Tâm tìm Đạo,

Thì những lời dạy bảo phải tuân.Mấy muôn ngàn kiếp một lần,

Mấy muôn ngàn kiếp được gần mặt TA.Khá mau tỉnh giấc ta-bà,

Tự-nhiên được Trí-Trung-Hòa dưới trên.433.- Các con muốn Thiêng-Liêng vững chặc,

Thì phải lo kiên Luật Chí-Công.Chọn con đều giống rặt-ròng,

Chín mười sao giống chẳng đồng giá cân?CÔNG-BÌNH là LUẬT BÌNH-QUÂN,

Luật đâu có Luật so gần tính xa.434.- Luật Trời đã đặt ra Kỷ-Luật,

Cho các con biết mực Tu-hành.Luật Trời đã dạy đinh-ninh,

Con ôi! Giữ Luật sửa mình sớm khuya.

236

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Đồng-bào khuyên chớ chia-lìa,Đông Tây Nam Bắc cũng về một ngôi.

435.- Bỏ cái Ta, dạy rồi phải nhớ;Còn cái Người, khuyên chớ nuối hơi.

Đã nhìn con thiệt của Trời,Trời kia là Luật, con ôi phải nhìn!

Thương con lòng sắt dạ đinh,Thương con, Thầy phải đinh-ninh dặn-dò.

(In trong “Đuốc Chơn-Lý” số 15)

—————————ddd—————————

VILỜI TIÊN-TRI TIỂU-NHỊ-THỜI

A2 Cao-Thiên-Đàn (Rạch-Giá), Đêm 24 tháng 3 năm Canh-Ngũ 1930.

NGỌC-HOÀNG THƯỢNG-ĐẾ.1.- Cung BẠCH-NGỌC ngự-lâm Bửu-tọa,

Thọ chư Thần triều-hạ đã yên;Thân thân giá hạnh Nam-Thiên,

Trước xem TAM-GIÁO, cháu Tiên con Rồng.(1er Di-Đà, Thái-Thượng, Phục-Hi)

2.- Đã đôi kiếp, dày công nhọc sức,(2er Thích-Ca, Lão-Tử, Khổng-Tử, Da-Tô)

Dạy chúng-sanh kỉnh PHẬT thờ TRỜI;Thương thay cũng tại số người,

237

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Ngạo lời Thánh-Huấn, kỉnh lời quỉ-vương.3.- Lòng chẳng kể cang-thường là Đạo,

Dạ hằng lo hung-bạo làm đầu.Thấy vầy, THẦY phải nghĩ sâu,

TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ NAM CHÂU phen nầy.4.- Lời Thầy phán, rẽ mây vén ngút,

Kinh Thầy ban, chạm ngọc, khảm vàng.Khác nào rọi đuốc chỉ đàng,

Khuyên con tạc dạ, ghi xương chớ rời.5.- Sách chép chữ: khôi khôi thiên-võng;

Đời ghi câu: lộng lộng lưới giăng.Nhặt, thưa, mau, chậm, cân phân.

Mựa rằng sơ-sót, mắt Thần không sai.6.- Thầy đã dạy nhiều bài vàng-đá,

Con nỡ đành chẳng dạ sắt-đinh.Con hư, Thầy phụ chẳng đành;

Con nên, Thầy được phỉ tình ước-ao.…32.- Cậy quyền-thế, tham-quan, ô-lại,

Giả xưng-hô, quí-phái, cao-môn;Líu-lo ba tấc lưỡi dòn,

Đã thâu của báu, lại bòn đồ xưa.33.- Giọt thán-oan như mưa thấy thảm,

Tiếng bi-ai dường sấm bên tai;Sống cho vạn ách, thiên tai,

Thác cho kiếp kiếp đầu-thai bồi-thường.34.- Dối Thần Phật, gạt lường tế-độ,

Phỉnh chúng-sanh, tu-bổ chùa-chiền;Trọng Tăng, kỉnh Phật thiêng-liêng,

Lòng thành dưng cúng, bạc tiền sá chi.

238

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

35.- Nghề đồng-cốt, khinh-khi Tiên, Bụt; Nghiệp bóng-chàng, đàng-đột hư-vô;

Xác Ông, xác Cậu, xác Cô,Dưng chay, cúng mặn, thế đồ, vớt vong.

36.- Chẳng hiểu chữ: sắc không, không sắc,Chẳng thông câu: không có, có không.

Giam vào vô-để lao-lồng,Chờ ngày: Phán-Đoán Đại-Đồng Thế-Gian.

—————————ddd—————————

Cao-Thiên-Đàn (Rạch-Giá), Đêm 18 tháng 6 năm Quí-Dậu.

217.- Thương Cơ-Phát ân cần diệt bạo,Phú ngôi Trời dạy Đạo hóa dân,

Phú cho mười bực Hiền Thần, Lãnh truyền Đại Đạo xa gần thế gian.

Truyền lần đến cõi Nam-Bang,Cháu con Hồng-Lạc vén màn “Chỉ Nam”.

218.- Nhà Cơ-Phát tám trăm năm có,Truyền Đạo Trời vô số huyền công,

Hềm còn yêu chuộng thần thông,Hóa lòng vọng tưởng chẳng phòng yêu ngôn.

Trích lục trong Kinh Nhựt Tụng:

239

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Tiếng khen tặng Nghiêu Thiên Thuấn NhựtHưởng Thái-Bình nhờ Đức-Chí-Công,

Ban cho điểu thú côn trùng,Ấm no thân thể vẫy vùng thảnh thơi.

Xưa nấu đá vá Trời còn được,Nay há không giỏi bước tập rèn,

Dày công muôn việc phải nên,Đào sông trồng núi vụ bền công-phu.

*Lần lần sa lạc “Bàng-Môn”,

Thần Tiên, ma quỉ chẳng còn biện phân.219.- Nhìn thấy trẻ dương trần Thầy ngán,

Chẳng rằng chi còn đáng con Thầy.Biết sao cho được giải khuây,

Nhị-Kỳ phổ độ Thầy rày phải sai Bởi thương các trẻ miệt mài,

Trần gian ảo mộng lại hoài chơn-ngươn.220.- Hóa bốn phách chẳng sờn lao khổ,

Trắng, vàng, đen phổ độ cả ba:Ấn kia trước có Di-Đà,

Nay cho tái thế Thích-Ca giáng phàm;Thái-Thượng hóa kiếp Lão-Đam,

Truyền Kinh Đạo Đức nơi Hàm-Cốc-Quan,221.- Luận dạy việc kinh bang tế thế,

Bởi sanh dân bỏ phế luân thường;Kế Châu cho giáng Tố-Vương,

Ân cần lập kỷ trần cương dạy đời.Hiếu trung cội gốc con người,

Trọn điều nhơn đạo tùy thời tu thân;

240

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

222.- Nơi Tây-Bộ nhiều lần Đạo mở,Quỉ-vương thường phá vỡ Đạo nhà,

Phải sai con Một của Cha,Máu hồng chuộc tội cả và thế gian(*).

Bộ Châu nào mới mở mang,Cũng đều sai Thánh đến ban tin lành.

223.- Muốn biết trẻ nhiệt thành nguồn cội,Cho Sa-Tăng đoái tội lập công,

Con nào thiệt dạ thính tùng,Cõi Trời dành để vô cùng sự vui.

Con nào gian ác chẳng thôi,Chiếu lời minh thệ “Ngũ-Lôi” hành hình.

224.- Dư một lúc hơn nghìn năm rưỡi,Biết bao phen vận hội trở xây.

Phật Tiên lắm lúc châu mày,Thánh Thần nhiều buổi chầu Thầy lệ rơi.

Rằng con chẳng những y lời,Bàng-Môn Tả-Đạo coi Trời như không.

225.- Kẻ chẳng kể luật công Thiên-Lý,Kẻ thì theo tà mị dị đoan.

Xiết bao kiếp số tai nàn,Hớn qua, Tống lại, Minh sang, Thanh rồi.

Cãi Trời thì bị luật Trời,Trời nào có dạy cướp ngôi tranh quyền.

225.- Con đã dại Thầy yên sao được?Kiếp Ngũ-Lôi kế dượt gần đây,

Nếu con tránh được buổi nầy,

241

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Mới được chầu Thầy Cực-Lạc tiêu diêu.Nếu con ma quỉ tinh yêu,

Ngũ-Lôi hỏa kiếp diệt tiêu linh hồn.227.- Muốn cho con được tròn tỉnh ngộ,

Đệ Tam-Kỳ Phổ-Độ phải ban.Xét coi cả cõi Dinh-Hoàng,

Có Châu Nam-Thiệm Hồng-Bàng khá khen.Một lòng đạo đức tập rèn,

Ít mê vật chất đê hèn như đâu.228.- Tuy chưa rõ nhiệm mầu Đạo Đức,

Song có lòng kỉnh Phật thờ Trời,Lịnh sai Tiên Thánh khắp nơi,

Giúp người lầm lạc phục hồi bổn-sơ.Phổ thông dụng báu huyền-cơ,

Khải thông Đại-Đạo trên bờ Nam-Bang.229.- Thay Tam-Giáo lập bàn Tam-Trấn,

Tùy theo thời độ dẫn chúng sanh,Độ cho bỏ dữ về lành,

Bỏ điều tà vạy, đừng canh cải Trời.Tam-Kỳ ân xá các nơi,

Hễ biết nghe lời thì được qui nguyên.

(*) Kinh kính lạy Đức Da-Tô Giáo-Chủ:Lạy cầu Con Một Chúa Cha.

Da-Tô cứu thế xót xa tôi cùng.Cũng vì nơi tội Tổ Tông,

242

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Ngôi Hai phải dụng máu hồng rửa tan.Chúng tôi ngoại giáo khốn nàn,

Lòng theo ma quỉ, tin càng tưởng vơ. Xa xuôi khác cõi cách bờ,

Đông Dương một cõi, thiên thơ chưa tường,Cúi xin chỉ lối đem đường,

Nước Cha chầu chực xót thương trao lời.Chúa Cha chính ngự Ngôi Trời.

Chúa Con ngai hữu đời đời hiển vang.Bởi nơi Người thác rõ ràng,

Mà nên sống lại được ban ơn lành.Chúng tôi muôn tội đã đành,

Vì chưng tối mắt chưa nhìn biết Cha,Cả kêu một tiếng lạy Cha,

Chúng con biết tội xin tha con mà.Lạy cầu Con Một Chúa Cha.

Da-Tô cứu thế xót xa tôi cùng.————

Vì tội của Vua làm mà con dân phải chịu gần 1 thế kỷ:Đức Da-Tô (Jésus) sanh tại Bethlem, xứ Israel gần

Palestine, sanh rồi Đức Chúa Bà sợ tai nạn nên đem Người qua xứ Egypte trú ngụ. Còn Vua David trị vì ở Israel nghe Thánh-Chúa sẽ ra đời thì nước Cha phải bị tiêu hủy, nên ra lệnh giết hết bé con 2 tuổi nội trong xứ, nên sau dân Israel là dân Jeef bị Trời phạt bỏ xứ mà đi xiêu lạc nơi khác làm ăn được giàu có mà muốn phục hồi Tổ-quốc không nổi.

Còn sau Đức Chúa lớn về thành Jésusalem (Thái-Tây) mà mở Đạo cũng bị giết (đóng đinh trên Thánh-Giá, tại Thánh-Ý) hồi 40 tuổi.

243

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

—————————ddd—————————

244

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Sadec, tháng 9 năm 1933.

NGỌC-Đình sắc tứ Luật Điều-Qui,HOÀNG-Lịnh sa-thừa kẻ tự-khi,ĐẠI kiếp Đại thành kỳ tám chục (Đại-Đồng),ĐẾ ân rộng mở cảnh Vô-Vi.

—————————ddd—————————

Kiên-giang, le 17 Octobre 1932.

THỂ đức như gương chiếu cõi Trời,LIÊN châu năm sắc rạng nơi nơi,TIÊN phàm khuyên chớ đua bay giỏi,NỮ kỷ Nam cang ráng trọn lời.

THẬP-THỦ LIÊN-HƯỜN.I.

Đạo Thầy huyền diệu thấu sao cùng,Thức tỉnh người mê cõi Á-Đông.Mở dạy Trung-Nguyên ngôi Thái-Kiệt,Rải gieo Nam-Việt giống Thần-Nông.Ngoài trong đen trắng, năm ba số,Phải trái vàng xanh, một ít vòng.Đậm lợt mỏng dày cao vời thấp,Hiểu chăng hoặc có khác Non-Bồng.

II.Non-Bồng ai khiến đến thày lay,Biết đó sao chưa biết đặng đây.Tiểu-muội núp gương cam phận Túy,Đại-bàng phơi cánh ngóng Trời Tây.Đừng rằng cảnh Phật vui chuông trống,

245

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Mà đón lòng người lướt gió mây.Nầy thấy nầy chưa nầy ướm hỏi,Trầm luân mài miệt cuộc no say.

III.No say quên lửng nhứt phi tam,Thập bát nguyên-nhân nhị cửu hàm.Trần tĩnh trần sa oai Phục-Hổ,Điển trừ yêu nghiệt báu Già-Lam.Đạo cao khuyên gắng công ma niết,Học quản tua gìn chữ khiết tham.Người hỡi người ôi người khá tỉnh,Chớ kìa kẻ Bắc lại người Nam.

IV.Người Nam kẻ Bắc lại sum vầy,Khuyên chớ trầm trồ sự dở hay,Hùm được thêm oai nhờ sức gió,Rồng nên vẻ đẹp bởi chiều mây.Vô biên vô lượng đành không dễ,Bất kỵ bất cầu mới thiệt hay.Chín chín nạn dư vừa thấy Phật,Thấy rồi rõ Phật ở mình đây.

V.Mình đây nhiều kiếp biết tu hành,Biết được mau lo độ chúng sanh.Nhơn quả trả vay tuồng sóng lượn,Công danh thành bại bức mây tranh.Cờ cao túng nước mau xoay thế,Nhà rộng Trời khuya kịp điểm canh.Áo bã hài gai chuông tỉnh mộng,

246

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Tài tình khuyên trẻ mựa cành nanh.VI.

Cành nanh quá lắm ích chi đâu,Tự cổ đồn bia tiếng bể dâu,Liên lạc vướng nhành mưu chước nhện,Oai phuông tuông nọc thế thần sâu.Đã đành người báu so Trời Đất,Thì để danh lành sánh trước sau.Sáu chữ Di-Đà(*) nguồn cội cả,Học cho thông suốt mối cơ mầu.

---------------------------------------------------------(*): Sáu chữ “Lạy Thầy Chúa-Tể Kiền-Khôn” thế cho Lục tự Di-Đà.

—————————ddd—————————

Cao-Thiên-Đàn (Rạch-Giá), Đêm 18 tháng 6 năm Quí-Dậu (1933).

NGỌC HOÀNG ĐẠI ĐẾ.

204.- Nầy các trẻ có duyên tìm Đạo,Chữ lời Thầy dạy bảo chớ sai;

Minh mông biển rộng sông dài,Trời che Đất chở chẳng hai con đường.

Anh em hòa thuận nhịn nhường,Đừng lòng ích kỷ Sâm-Sương rã rời.

205.- Kể từ thuở Đất Trời gầy dựng,Sanh loài người chí nhẩn tới nay.

Nhiều phen giáng thế chỉ bày,Tùy theo thời cuộc cũng Thầy mà thôi.

Rằng tuy khác biển cách vời,

247

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Hễ ở trong Trời thì một “Mẹ Cha”.206.- Tuy khác tiếng, khác da, khác giống,

Nhưng cũng đồng sự sống với nhau,Dưới chơn cho tới trên đầu,

Tay chơn máu thịt chỗ nào khác đâu?Ớ con khắp cả Hoàn Cầu!

Trước đều một rún, một nhau, một nhà.207.- Từ Vô-Thỉ lịnh Cha đã dạy,

Dạy các con đến cõi trần gian;Mở mang khắp cả Hồng-Hoang,

Giúp thay Bàn-Cổ Tam-Hoàng lập công.Công thành qui vị thưởng phong,

Đừng cho đến đỗi bụi hồng vương mang.

—————————ddd—————————

Kinh “Chánh-Tà Yếu-Lý” Ngày mồng 8 tháng 1 năm Tân-Vì (1931).

Đường ngay có một không hai,

Đường ngay từ thuở Thiên-Khai đến giờ.11.- Đây TA chỉ sơ sơ một ít,

Đặng biết chừng mục đích mà phăng:Đạo là phẳng-lặng trang-bằng,

Dường như gió tạnh Trời trăng đêm rằm;12.- Tây-Trúc dạy: “Minh tâm kiến tánh”,

Hàm-Quan khuyên: “Luyện tánh tu tâm”,

248

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Lỗ-Đông: “Dưỡng tánh tồn tâm”,Gia-Tô: “Thượng-Đế tại tâm” chẳng rời.

13.- Tứ-Đại-Thánh một lời chẳng khác,Khác tại người xiêu lạc cải canh.

Đường ngay chẳng thạo đã đành,Tâm sanh chưởng chưởng, ma sanh khó gì.

—————————ddd—————————

Sagiang, tháng 9 năm 1933.

299.- Muốn hành Đạo đừng sai chữ ĐỨC,Hành Đạo cho thiệt mực một đường.

Noi trang TỨ-THÁNH làm gươngNên gương Đạo-Đức chữ THƯƠNG làm đầu.

THƯƠNG thì nhẫn nhịn nhường nhau,Nhường nhau mới được trước sau thuận-hòa.

300.- TỨ-ĐẠI-THÁNH bốn nhà hiệp một,Mới đủ làm rường cột CAO-ĐÀI.

ĐẠO, NHƠN-TÂM vẫn có hai,Hóa NHƠN thành ĐẠO giồi mài cho TINH.

Đã TINH lại NHỨT mới xinh,NHỨT rồi cần phải giữ gìn KHUYẾT-TRUNG.

—————————ddd—————————

249

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I C-2

Cao-Thiên-Đàn (Rạch-Giá), ngày 18 tháng 6 năm Quí-Dậu (1933).

230.- Phế Ngọc-Kinh Nam-Thiên giá hạnh,

Thầy bổn thân thấy cảnh đau lòng,Các con rắn rắn rồng rồng,

Coi lời Tam-Trấn như không chẳng màng.Lại thêm bày lớp dị đoan,

Mê sa ma quỉ tội tràn vạ lây.—————————ddd—————————

D-2

Cao-Thiên-Đàn (Rạch-Giá), đêm 10 và 11 tháng 6 Bính-Tý (1936).

425.- Vượt thế-gian kìa Trời Chúa-Tể,Thuyền rước người vượt bể trầm-luân.

Muốn cho người rõ được chừng,ĐÀI CHÂU-THIÊN đó là từng NGỌC-KINH.

Muốn cho vững bước tiền-trình,Tánh Tâm phải lặng như bình nước trong.

426.- Kìa trên có Chủ Ông săn-sóc,Khuyên con đừng lặn mọc hư thân.

Đã rằng ai phước có phần,Phước phần thứ-lớp nắp-ngăn chẳng lầm.

Luật Trời tuy gọi u thâm,Song đều cũng tại nơi Tâm mình gầy.

427.- Con thử xét từng mây mấy lớp,Thì con tường trường-hợp Ta Người.

250

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Ta Người đều Một với Trời,Ta Người đâu có mến đời mẩn-mê.

Ta Người mau thoát kiếp về,Từng mây mấy lớp đều quê hương nhà.

428.- Chớ vụng tưởng có ba cảnh-giới:Dục, Sắc, Vô, rằng Đại-Tam-Thiên.

Chia ba thêm kẻ đảo-điên:Rằng nào bổn-chất tự-nhiên dạng hình,

Rằng nào cảnh-trí tú-tinh,Rằng nào lý-trí tự mình xét suy.

429.- Sao chẳng xét Vô-Vi Độc-Nhứt,Dụng Hữu-Vi sanh Thái-Cực-Đồ.

Chớ rằng Đạo-Thể Hư-Vô,Chẳng xem Đạo-Tướng có lò Hóa-Công.

Kíp mau một kiếp tao-phùng,Châu-Thiên-Đài đó Đại-Đồng đệ-huynh.

430.- Mau bước đến Ngọc-Kinh chín bệ,Kẻo kìa con ác xế đã hầu.

Một lời gẫm chẳng bao lâu,Còn trông đợi muốn chực chầu những chi.

Mấy lời Thầy dạy phải ghi,Con đường khôn dại thị-phi chớ lầm.

—————————ddd—————————

E-2

Tây-ninh, ngày 8 tháng 5 năm 1930.

Thầy, các con.

251

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Thầy thấy phần nhiều, tu cũng muốn tu, mà thế-tục cũng không muốn chừa bỏ, thế-tục là nét dìu dắt cho mất ánh Thiêng-Liêng; phải lấy nghị-lực cang-tâm kềm chế cái dục-vọng mới là chẳng uổng công-phu hành Đạo cho. Áo dà cũng muốn mặc, giày Đạo cũng muốn mang, muốn đứng trước cả nhơn sanh, để cho họ biết mình là hướng Đạo, đường Tiên cũng lấp lửng, nguồn Thánh cũng lộn vào, thấy bạc rơi chẳng bỏ, lợi múng cũng chẳng chừa, mượn danh Đạo tạo danh mình, vô Thánh-điện mà hơi tà còn phưởng phất. Muốn cho nhà thiệt cao, áo thiệt tốt, đội lốt cọp dọa cáo bầy, bụng trống lổng túi thâu đầy, toan làm thầy lũ dại.

Ôi, lốt Đạo, lốt Đạo…Thầy buồn cho trẻ dại chẳng biết làm sao mà đem

Thánh-Giáo vào tay chúng nó đặng, Thầy nhớ xưa kẻ mộ Đạo chịu ngàn cay muôn đắng, biết có người mà chẳng biết nhục mình, giày gai áo bã, đội nguyệt mang sao, gió trước lọt chòi tranh, mưa sau hư giạu lá, bần hàn chẳng quản, tay trắng dìu người, một mảy cũng không bợn nhơ, mới có thể lập ngôi cho mình được. Chớ có đâu lấy của lẫn nhau, mượn quyền xô Đức, kẻ chơn-thành lánh mặt, đứa tà mị áp vào, rồi cúm rúm mảng hơi tà, lạy đùa nói rằng thờ Chánh-Giáo.

Thầy hỏi: vậy chớ ai chứng cho?—————————ddd—————————

252

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Ngày 26-1-1927 (23-12-B.D)

Ngọc-Hoàng Thượng-Đế viết Cao-ĐàiGiáo Đạo Nam Phương.

….

Tròi trọi mình không mới thiệt bần,Một nhành sen trắng náo nương chân, Ở nhà mượn đám mây xanh kịtĐỡ gót nhờ con hạt trắng nần,Bố hóa người đời gây mối Đạo, Gia ân đồ đệ dựng nền nhân,Chừng nào đất dậy Trời thay xác,Chư Phật, Thánh, Tiên xuống ở trần.

—————————ddd—————————

Kinh “Tu Chơn Thiệp Khuyết”.Kiên-Giang, ngày 24 tháng 3 năm Canh-Ngũ (1930).

48.- Thầy thương xót, ngùi ngùi kẻ dại,Muốn thành công, mà lại ngao du;

PHẬT MANG TÁM NẠN, CŨNG TU,THẦY còn MUÔN KIẾP, công phu dãi dầu.

KỆ VIẾT:Giáng cơ chỉ rõ máy Kiền-khôn,Ghi chép vài trang sách Thánh-ngôn.Luân-lý, cang-thường nên cả cội,NGHĨA NHƠN TRUNG HIẾU vốn sâu nguồn.

253

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Thành Chơn phước bởi công Vô-lượng,Đắc Đạo ơn nhờ Đức Chí-Tôn.Khuyên nhủ các con tua gắng chí,Tam-kỳ MUÔN THUỞ tiếng bia đồn.

—————————ddd—————————

Sagiang, tháng 9 năm 1933.

312.- Tu phải biết cơ Trời tối trọng,Tu phải chừa dục vọng tham sân.

Con ôi! Ai phước có phần,Ai tu nấy được, ai cần nấy thân.

Ớ con khắp cả dưới trần,Muôn kiếp mấy lần, mới gặp hội ni?

—————————ddd—————————

Cao-Thiên-Đàn (Rạch-Giá),Ngày 10 thánh 6 năm Bính-Tý (1930).

432.- Mừng cho trẻ có Tâm tìm Đạo,

Thì những lời dạy bảo phải tuân.Mấy muôn ngàn kiếp một lần,

Mấy muôn ngàn kiếp được gần mặt Ta.Khá mau tỉnh giấc ta-bà,

Tự-nhiên được Trí-Trung-Hòa dưới trên.—————————ddd—————————

F-2Kiên-Giang, đêm 18 tháng 6 năm Tân-Vì (1931).

CA, vốn là An-Thiên La-Hán phái,…

Nghe kệ:Cuộc Thầy bủa An-Thiên Đại-Hội,

254

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

CA vững lòng chớ vội phiền ai.Muốn nên danh cả chí trai,

Bền gan sắt đá chớ hoài công phu.—————————ddd—————————

Định-Tường, đêm 14 tháng 7 năm Nhâm-Thân.

59.- CA trách nhậm công dày sức nhọc,Dám liều mình xông đục đạn tên.

Công phu con thật rất bền,Gánh lời nặng nhẹ chẳng rên chẳng phiền.

Công con Thầy có chép riêng,Thánh Thần Tiên Phật cũng biên rõ ràng.

60.- Công con đó bảng vàng ghi tạc,Thầy đã sai Bạch-Hạt xướng tên,

Đầu-Sư phái Thái công đền,Vai làm Anh Cả đứng trên TRÙNG-ĐÀI.

Làm sao cho rõ chí trai,Thay Thầy hành Đạo rõ tài Hậu-Giang.

—————————ddd—————————

QUI-ĐIỀU:Điều thứ 3: CA, CHƯỞNG-QUẢN CỬU-TRÙNG-ĐÀI

phải lo sắp đặt người cho có thứ tự, sau Thầy sẽ dượt phê cho. Con phải nhớ rằng: chức Chưởng-Quản Cửu-Trùng-Đài của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ rất quí báu và cao-thượng, nghe không con? Mặc ý con, muốn nghe theo Thầy để cứu vớt nhơn sanh trên sông mê biển khổ, hay là nghe theo ai, nó mượn danh Thầy, cậy danh con, để phá

255

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Thầy và hại Chúng-sanh thì nghe. Con phải sợ những đứa đã Chơn-Lý mà còn nghe theo quỉ-vương.

—————————ddd—————————

256

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Sagiang, tháng 9 năm 1933.

331.- Bạch-Ngọc-Kinh Điển linh Thầy rọi,Hiệp-Thiên-Đài ánh giọi Thần-Phan,

Trung-Thiên Điển giáng Thánh-Đàn,Kiền-Khôn thế-giới ba ngàn bao la,

Tiêu thiều nhạc trỗi thi CA,Bắc Nam xướng họa một nhà chung vui,

Chung vui rộng mở cuộc ngày nay,Chơn-Lý bay xa hớn hở mày,Ước được Năm châu đồng một dạ,Mới là xinh đẹp tiếng con Thầy.

—————————ddd—————————

Kiên-giang, đêm 18 tháng 6 Tân-Vì (1931).…

NGỌC sáng nhờ tay thợ khéo giồi,HOÀNG cung mở rộng khắp nơi nơi,ĐẠI thừa trí thức vầy sum hiệp,ĐẾ khuyết từ đây người phải người.

Các con hãy lãnh trách nhậm theo đây:- CA, vốn là An Thiên La Hán phái, cuộc lập An-

Thiên Đại-Hội, trách nhậm nơi con, hầu trừ quỉ-vương phá rối Đại-Đạo.

Cửu-Hà-KhúcThầy đã bủa Ngũ-Hành-Tòa Thất-Đẩu-Cuộc

sẵn cho các con làm vi cánh.

257

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Lập An-Thiên Đại-Hội: Cửu-Hà-Khúc là Tam-Giang-Thủy, Long-Hồ Tam-Bình Thủy, Tam-Xuyên Thủy.

a) Tam-Giang Thủy là: Tiền-Giang, Hậu-Giang đã có Phùng lãnh; Kiên-Giang (đã có người Thầy định).

Long-Hồ Tam-Bình Thủy (Thầy sẽ định).b) Thất-Đẩu-Cuộc: non Cấm làm nền,c) Ngũ Hành Tòa: TAM-TÔN làm gốc.

—————————ddd—————————

Đêm 20 tháng 7 năm Nhâm-Thân.

45.- Việc phong thưởng đã trao phù tiết,HIỆP-THIÊN-ĐÀI trước hết phải lo,

Trung-Ương gầy dựng cơ đồ,HIỆP-THIÊN-ĐÀI phải lựa cho phải người.

Hiệp đồng con đủ các nơi,Mượn nhà CA tạm THIÊN-ĐÀI ít lâu.

46.- PHÙNG, con chớ cơ cầu húng hính,Chức Thiên-Sư Thầy định trước rồi,

Con đừng chặc dạ kín môi,HIỆP-THIÊN-ĐÀI đó, con ôi! Giúp Thầy.

Phong con Chưởng-Quản Đài nầy,Có con ắt được rẽ mây trong Trời,

47.- Khuyên con phải tuân lời Thầy dặn,Lọc Đồng-Loan dùng thẳng nới tay.

258

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Bầy chim vừa sập sận bayLàm sao biết được cung mây mấy từng.

Miễn cho hớn hở Trời Xuân,Ngàn hồng muôn tía vui mừng rước Xuân.

48.- Chức Chưởng-Quản phải cần học hỏi,Bảy Chơn-Như lộn cõi trần gian,

Hạ mình con phải hỏi han,Rước về làm bạn Đạo càng thêm cao.

Dạy con đã dạy hồi nào,Vì con bê trễ để xao lãng hoài.

—————————ddd—————————

QUI-ĐIỀU:Điều thứ 9: PHÙNG, vì Thầy về Trung-Thiên nên

Thầy không dụng Điển của Hộ-Pháp nữa, Thầy cậy nơi con là người có Điển về Trung-Thiên để tiếp Điển Thầy mà ban hành Thánh-Huấn, con chớ từ nan mà lỗi với Thầy.

Điều thứ 13: PHÙNG, Thầy ban cho con một cái Hiệp-Thiên-Đài Vô-Vi nơi mình con để Thầy dạy việc khi Thầy cần dùng.

—————————ddd—————————

332.- Tiếng con Thầy cỏ cây nở mặt,Vọi Kiên-Giang cao ngất Định-Tường,

259

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Khuôn linh gầy dựng Trung-Ương,Phơi gan sắt đá, dọn đường gai chông.

Rọi gương Chơn-Lý trùng PHÙNG, Muốn cho trọn được Đại-Đồng Đệ-Huynh,

Đệ-Huynh tuy thấy khác màu da, Thầy đã tường-phân vốn ruột-rà,Ví dẫu đờn Nam mà nhịp Bắc,Nhưng tuồng khéo sấp được bình-hòa.

—————————ddd—————————

260

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I VII.

KINH TRUNG-THIÊN

Phần HươngNiệm Hương

Kinh Tứ Thời 3 bài dưng Tam-BửuThập NguyệnKhai Kinh

—————————ddd—————————

KINH KÍNH MỪNGĐỨC CỬU-CUNG PHỔ-HÓA NƯƠNG-NƯƠNG

(Thể Liên Tiên Nữ cho ngày 10 tháng 4 năm 1932)

1. Trên rực-rỡ hương đèn soi khắp,Dưới thiền-tâm chỉnh lập ban tề.

Rỡ-ràng áo vỏ, xiêm nghê,Năm Cung năm cõi đề-huề chị em.

2.- Đồng chầu-chực trang-nghiêm Bửu-Tọa,Rước Cửu-Cung Phổ-Hóa Nương-Nương.

Chúc dưng Thánh Thọ vô-cương,Chúc mừng Pháp-lực vô lường, vô biên.

3.- Đạo-Tràng dẫy Cửu-Thiên khai-hóa,Dựng Tiên-Thiên trợ tá Hồng-Quân.

Mở nên Trời Đất chín từng,Chia làm Lục Lục, lãnh phần Tam Tam.

4.- Trấn Ly-Cung Chánh-Nam ngôi-vị,Luyện Đoài-Kim vật quí Đất Trời.

261

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Ngũ-Hành biến hóa giúp đời,Kim ngân, châu báu túy thời hóa-sanh.

5.- Sanh cho đến sợi mành tơ chỉ,Lập cho xong kinh-vĩ quyền-hoành.

Về sau nấu-nướng, cửi-canh,Nữ-Hoa thay dạng đổi hình nhiều phen.

6.- Lần thứ chín Cửu-Thiên Huyền-Nữ,Diêu-Trì-Cung kim tự sắc phong.

Tây-Thiên Vương-Mẫu đẹp lòng,Giao phần trách-nhậm chín cung làm đầu.

7.- Trẻ khờ dại ham màu trần-tục,Mến phàm-trần lắm lúc gian nan.

Ngày nay chung hiệp một đoàn,Cúi nhờ Thánh-Mẫu liệu toan sửa giùm.

8.- Ước sao được hiệp sum như trước,Cảnh Ngọc-Kinh chơn bước trở về.

Cúi đầu đảnh lễ dưng thề,Xin đam cho đến chốn quê hương nhà.

9.- Tiên phàm đã cách xa diệu vợi,Lòng thơ ngây chứng với Chín Từng.

Cầu xin mở rộng Hồng-Ân,Xót thương kẻ đã ăn-năn lỗi lầm.

10.- Đầu vọng bái Cao Thâm Chín Bệ,Xin đừng cho chậm trễ bước đường.

Muôn nhờ Đức Cả Nương-Nương,Muôn nhờ lượng cả xót thương với cùng.

(Lạy chín lạy)(Trích từ “Đuốc Chơn-Lý” số 13, trang 28)

—————————ddd—————————

262

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

KINH NHỰT TỤNG(ĐỌC TỨ THỜI)

KINH THÁI DƯƠNG (Đọc giờ Mẹo):

Giấc vừa tỉnh tinh-thần trong suốt,Tưởng đến ơn ngọn Đuốc Thái-Dương;

Kim-quang chánh-chánh đường-đường,Hang cùng nẻo thẳm, khắp phương soi vào.

Gọi khắp kẻ đồng bào bổ ích,Đại-Võ xưa du tích thốn âm;

Sanh-sanh bể khổ luân trầm,Một phân bóng ác vàng cầm mấy mươi.

MỘT lo bỏ biếng lười nọc quỉ,Chính là đồ tiêu hủy thân danh;

Dầu cho phải mặt hùng anh,Thờ thần hèn nhát thì mình phải hư.

HAI lo phải dứt trừ bốn vách,Cổ chí kim tai ách tại đây;

Lo cho công nghệ trương bày,Lo sao danh giá sánh tày non sông.

BA lo phải đồng lòng đồng dạ,Đặng lo trừ cái họa dại khờ;

Học hành lo chớ bơ thờ,Tứ-dân tứ-thú hỏng hờ sao nên.

Trăm việc giữ sự bền làm trước,Một bước cho một bước vững vàng.

Nhà no người đủ mọi đàng,

263

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Cậy nhờ Đức-Cả Thái-Dương độ trì.(Lạy 12 lạy)

KINH NHỰT TRUNG(Đọc giờ Ngọ)

Thẳng một mực theo đường Chơn-Lý,Vẻ vang thay Nhựt chí Đương Trung;

Rạng ngời khắp cả non sông,Tuần-hoàn Võ-Trụ vô-cùng vô-biên. Tiếng khen tặng Nghiêu Thiên Thuấn Nhựt, Hưởng Thái-bình nhờ Đức-Chí-Công.

Ban cho điểu thú côn trùng,Ấm no thân thể vẫy vùng thảnh thơi.

Xưa nấu đá vá Trời còn được,Nay há không dõi bước tập rèn;

Dày công muôn việc phải nên,Đào sông trồng núi vụ bền công-phu.

Trời đúng Ngọ làu làu cảnh sắc,Người chí-thành vặc-vặc gan phơi;

Tuy rằng người ở trong Trời,Lời Trời đã dạy chớ rời Trời trong.

Mùa vẫn có Thu Đông Xuân Hạ,Người đừng lòng nhĩ ngã tôn ti;

Đam mình vào cửa qui-y,Hãy xem con bóng Hóa-Nhi xây-vần.

Con ác chẳng chút ngừng nghỉ cánh,Giúp sanh-sanh Kiến-Tánh Minh-Tâm;

Muôn đời một mực không lầm,Sớm trưa chiều tối Quang-Âm chẳng lờ.

Người thức-tỉnh mang nhờ ơn nặng,

264

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Biết giác-mê phấn-chấn Linh-Quang.Chơn-thân mừng được nhẹ nhàng,

Bước đường tấn-hóa ngày càng cao-siêu.(Lạy 12 lạy)

—————————ddd—————————

KINH THÁI ÂM (Đọc giờ Dậu)

Trọn ngày được tinh-thần thơ thới,Ơn Thái-Dương muôn loại đều nhờ;

Đoài-cung nay đã đến giờ,Thái-Âm lãnh việc chuyển cơ đêm đầy.

Luật tấn-hóa vần xây máy Tạo,Hết ngày rồi phiên đáo tới đêm;

Luật ngày lửa thét rất nghiêm,Luật đêm mát mẻ khỏe êm Nguơn-Thần,

Nhờ Thái-Âm một vừng trong trắng,Giúp sức người nhìn nhận Ngôi xưa;

Ngôi xưa quí báu chẳng vừa,Ngôi xưa thanh tịnh không trưa không chiều.

Ngôi xưa vốn tiêu diêu khoái lạc,Bỏ Ngôi xưa mộc mạc thân hình;

Ngày nay nhìn lại mà kinh,Trách ai thúc dục cho mình ra đi.

Ngày nay đến thời kỳ hối quá,Nguyền Thái-Âm Ngôi-Cả phò trì.

Một lòng bất dịch bất di,Định-Tâm quyết chí hiệp qui nhau về.

Cơ Thái-Âm nhiều bề thần-bí,Ấy là nơi thâm-thúy vô-cùng.

265

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Sanh-sanh hóa-hóa trùng-trùng,Chính đây thiệt chỗ Hóa-Công nhiệm-mầu.

Diệu trung diệu, ẩn châu đáy biển,Huyền trung huyền, dội tiếng hang Thần;

Hư, không, trầm, tĩnh, bổn căn.Âm-Dương ngưng kiết hóa phân Tam-Tài.

Đạo dạy kỹ một, hai, ba, bốn,Đến năm rồi, định chốn Trung-Ương;

Tại người sớm liệu tối lường.Liệu, lường, đong, sớt, chế phương thêm mùi.

Rày mến Đạo nguyền vui với Đạo,Dứt những điều khờ khạo gọi khôn;

Nguyền xin yên vững Linh-Hồn,Thân, Tâm, Tánh, Mạng, hiệp tròn như xưa.

(Lạy 12 lạy)—————————ddd—————————

KINH CẦU SIÊU CỨUCỬU-HUYỀN THẤT-TỔ

(Đọc giờ Tý, trước bài Sám Hối)

Trời thường dạy con Trời tỉnh-ngộ,Phú Linh-Quang thấy đủ mọi bề;

Thấy Thân nhờ gốc chở che,Thấy bề, thấy bến, thấy quê, thấy nhà.

Trời ban sẵn người ta một Tánh,Khắp trần-hoàn yếu mạnh bằng nhau;

Phàm-gian tuy khác giống màu,Chơn-Linh vốn Một, Một nhau Một hòn.

266

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Sống ở thế xác hồn chia rẽ,Khiến lộn lầm dâu bể Luân-Hồi;

Đua chen đây lở kia bồi,Khôn khôn, dại dại, đời đời trả vay.

Trời thương kẻ đọa đày kiếp số,Lập Cao-Đài Phổ-Độ kỳ ba;

Con nào muốn gặp mặt Cha,Khuyên mau tỉnh giấc gần xa một lòng.

Lò Tạo-Hóa Đại-Đồng có một,Xác với Hồn vốn ruột thịt nhau:

Hồn khôn, Xác được sáng màu,Xác khôn, Hồn được mau chầu Chí-Tôn.

Đạo Thầy mở vuông tròn Trời Đất,Dạy Xác Hồn Hiệp-Nhứt theo Thầy;

Xác dầu tỉnh tỉnh say say,Hồn-Linh phải nhớ Cao-Đài Ngôi xưa.

Quên Ngôi xưa đảo lừa trốn tránh,Càng làm cho hại Thánh hại Thần.

Thầy ban Linh-Điển đồng cân,Thầy đà nhìn nhận Thiên-Ân bủa đều.

Lãnh Thiên-Ân nghe theo Thiên-Tánh,Hiệp với Cha mới rảnh nợ trần;

Hồn linh Hồn khá ân cần,Hồn linh Hồn nhận Chân-Thân Hồn Hồn.

Thầy cứu độ muôn muôn thế-giới,Độ thoát mê trở lại Ngôi xưa;

Khuyên Hồn phàm tục ráng chừa,Khuyên Hồn phải tránh phải ngừa lưới ma.

Hồn hiệp đủ Một Ba, Ba Một,

267

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Hồn rảnh rang ngục nhốt vô biên.Hiệp xong Thất-Tổ Cửu-Huyền,

Hiệp đồng Võ-Trụ Khôn-Kiền thiêng-liêng.Đầu vọng bái Cao-Thiên chứng giám,Rưới Thiên-Ân ứng-cảm chúng-sanh;

Muôn nhà đồng hưởng phước lành,Muôn nhà xưng tụng Hồng-Danh nơi Trời.

Đầu vọng bái vơi-vơi Chúa-Tể,Chứng tấc lòng cho trẻ thơ ngây;

Cả kêu một tiếng lạy Thầy,Lạy Thầy Chúa-Tể tràn đầy thế-gian. (Lạy 12 lạy)

(Trích từ “Đuốc Chơn-Lý” số 28, trang 17d21)—————————ddd—————————

BA BÀI KỆ TU-CHƠNI.- Giáng cơ chỉ rõ máy Kiền-khôn,

Ghi chép vài trang sách Thánh-ngôn.Luân-lý, cang-thường nên cả cội,Nghĩa-nhơn, trung-hiếu vốn sâu nguồn.Thành Chơn phước bởi công Vô-lượng,Đắc Đạo ơn nhờ Đức Chí-Tôn.Khuyên nhủ các con tua gắng chí,Tam-kỳ muôn thuở tiếng bia đồn.

II.- Tiếng bia đồn đẻ ức muôn nămKhuyên thế, đừng tu độc hiểm tâm;Thầm tối, mưu gài chông lễu-lễu,Cao xanh lưới bủa dạng tâm-tâm.Vô-thường chẳng sợ tay oanh-liệt,Quỉ-tốt nào kiên bực phẩm-hàm.Thiện ác đáo đầu vay có trả,

268

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Hoàng-thiên hữu nhãn, chắc không lầm.

III.- Chắc không lầm-lỗi tiếng Mười Khuyên,Thì được tên đề bản Địa Tiên.Muốn hưởng lâu dài nền hậu-quả,Phải lo bồi đắp cảnh tiền-duyên.Làm lành, lánh dữ, câu thành ngữ,Tốt đất, sung nhành, lẽ tự nhiên.Chí dốc siêu phàm, lên cõi Thánh,Phải lo vun tưới, miếng Tâm-Điền./-

—————————ddd—————————

Long-Xuyên,Đêm 14 rạng 15 tháng 8 Annam năm Quí-Dậu (1933).

TÂY-VƯƠNG THÁNH-MẪUChơn Ngôn Kinh.

TÂY-Trúc thời kỳ dụng Thích-CaVƯƠNG-môn để tiếng cậy Di-Đà,THÁNH Phàm phân biệt DU-DÀ-LUẬNMẪU-tự Kinh tàng TÁT-ĐÃNG-ĐACHƠN-thể Chơn-thân đam Phật-Tánh,NGÔN-hành, ngôn sắc, dạy Ta-BàGIÁC-mê Thầy chuyển Tam-Kỳ-ĐạoTHẾ-giới từ đây Một với Cha.

1.- Đêm trong trắng, trắng trong như lọc,Nghe tiếng con Mẹ phút chạnh lòng.

Bởi con mến chốn bụi hồng.Nên con tách Mẹ rùng rùng ra đi.

269

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

2.- Tưởng ra đi mãn kỳ trở lại,Nào dè con chẳng đoái, chẳng hoài.

Ra đi Mẹ dặn một hai,Một hai phải tránh chông gai cuộc đời.

3.- Dặn con phải giữ lời sau trước,Bước hồng trần là nước quỉ ma.

Dặn con chớ khá ta bà,Dặn con chớ khá kê-cà mẩn-mê.

4.- Dặn con nhớ cảnh quê làm trọng,Dặn con thường để bụng nằm lòng,

Rằng loài ma quỉ phải phòng,Rằng loài lưỡi mối nọc ong phải ngừa.

5.- Dặn con phải sớm trưa Kinh Kệ,Dặn con đừng bê trễ công-trình.

Dặn con Mẹ dặn đinh ninh,Dặn con phải giữ phải gìn tấm thân.

6.- Dặn con biết mấy lần trân trọng,Mà con đành rẻ rúng lời khuyên,

Con đành gây cuộc não phiền,Con đành gây cuộc trần duyên lao-lồng.

7.- Nay con thấm bảy vòng cắn xé,Con mới đành nhớ Mẹ sao con?

Con ôi! Lòng Mẹ héo don,Con ôi! Thân Mẹ vì con hao gầy.

8.- Rày con được ơn Thầy cứu độ,Đam con về phải chỗ phải nơi.

Khuyên con dại phải nghe lời,

270

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Khuyên con chớ khá giỡn chơi ích gì?9.- Tu phải biết qui-y làm báu,

Qui-y là nương náu cửa Trời.Tu cho kịp tiết kịp thời,

Tu đừng xao lãng những lời Mẹ răn.10.- Nầy lời Mẹ ân cần nhắc nhở,

Thấy con thơ Mẹ ứa đôi hàng.Thương con trước chịu lạc đàng,

Con ôi! Phận gái gian nan não nề.11.- Thương con gánh nhiều bề cay đắng,

Thương con dầm lửa nắng nước sương.Con ôi! Phận gái đoạn trường,

Con ôi! Phận gái chải-bươn mới thành.12.- Tu phải biết việc lành việc dữ,

Tu chừa lòng bảy lự ba lo.Thầy đà sau trước dặn dò,

Thầy đà chực sẵn chiếc đò Lý-Chơn.13.- Đò Chơn-Lý chủ-nhơn đã chọn,

Chơn qua đò khỏi tốn khỏi hao.Miễn con trong trắng một màu,

Miễn con sau trước, trước sau một niềm.14.- Tu phải giữ lặng êm làm gốc,

Tu phải chừa cái nọc nhiều lời.Con ôi! Tai họa khắp nơi,

Tại người uốn lưỡi khua môi hại mình.15.- Chữ một dạ kỉnh thành làm trước,

271

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Lòng đừng lo họa, phước, có, không.Có, không, là Luật Chí-Công,

Có, không, cũng tại nơi lòng các con.16.- Đêm thanh vắng con tròn phận sự,

Đọc Kinh thì ráng giữ lấy mùi.Đừng ngâm chót lưỡi đầu môi,

Mẹ còn lui tới, tới lui phân trần.17.- Đọc Kinh phải cân phân từ tiếng,

Tiếng Kinh là Kinh-Điển của Thầy.Đọc Kinh gẫm được mùi hay,

Dầu cho sắt, đá, cỏ, cây cũng thành.18.- Gái cần giữ thân danh làm trước,

Kế quỉ ma nhiều nước tinh yêu.Êm tai sáo quyển lòn chiều,

Nếu con nhắm mắt nghe liều hư thân.19.- Mẹ đã dạy nhiều lần cặn kẽ,

Quỉ thường xưng tên Mẹ lắm con.Con nào gan yếu dạ non,

Nghe lời bưng bợ ngọt ngon phải lầm.20.- Cách đi, đứng, ngồi, nằm cẩn thận,

Điệu mỏng mềm ấy phận người tu.Tránh xa tiếng quến lời rù,

Tránh xa những bợm giả mù sa mưa.21.- Thấy nhiều kẻ bơ thờ hỏng hẻo,

Tướng diệu-dàng yểu-điệu khá thương.Tại sao mang số đoạn trường?

272

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Tại quên những tiếng nghĩa phương ngọc ngà.22.- Thương con dại thiết tha, tha thiết,

Vui vẻ chi mài miệt cõi trần.Con ôi! Xét lấy nàng Hằng,

Trọn năm được thấy mấy lần đẹp xinh!23.- Mẹ hằng cậy nhắn tin cho trẻ,

Khuyên trẻ đừng bê trễ công-trình.Thương con Thầy phế Ngọc-Kinh,

Rước con khỏi chốn hỏa-khanh đem về.24.- Con chớ khá bỏ-bê lúc rảnh,

Lúc rảnh thường Tâm Tánh lãng-xao.Tánh Tâm xao-lãng phân hào,

Tự nhiên con phải mõn hao tinh-thần.25.- Tu phải trọng Chơn-thân, Chơn-thể,

Thân-thể nầy gốc rễ của con.Chơn-thân, Chơn-thể, Chơn-hồn,

Giữ gìn trong sạch mới còn gọi con.26.- Đừng vụng tưởng phấn son là sạch,

Son phấn làm Chơn-phách phải lu.Mấy ai rọi kiến trăng thu,

Mấy ai ngồi kiệu lấy dù che thân.27.- Đừng dụng tưởng cơ bần là nhục,

Cơ bần là chánh gốc mỗi con.Lúc sanh đỏ lói một hòn,

Lúc về có kể vật chôn những gì.28.- Con phải nhớ lúc đi Thầy dặn,

273

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Phải cho tròn bổn phận Thầy sai.Đừng lo phú quí chông gai,

Phải lo xứng đáng Tam-Tài mới xinh.29.- Chánh Tam-Tài mới vinh mới quí,

Giả tiền-tài đồ mị phá Chơn.Con sao chưa rõ thiệt hơn,

Đã dư mấy kiếp đường trơn bước hoài.30.- Rày Mẹ nhắc chỗ sai con hiểu,

Hiểu được rồi Mẹ biểu phải nghe.Nghe rồi cẩn thận trăm bề,

Tránh đoàn kết đảng lập phe phỉnh phờ.31.- Con phận gái lỡ cơ sao được,

Phải dặt-dè từ bước mới ngoan,Sao cho danh gái rỡ-ràng,

Chín mười cho đúng tuổi vàng Mẹ trao.32.- Cuộc trần thế ảo bào mộng ảnh,

Có chơn-tu mới rảnh phù-sanh.Muốn cho chơn thật tu hành,

Ráng lo gìn giữ kính thành đừng quên.33.- Người ở thế đặt tên kể tuổi,

Tên tuổi nầy một buổi chẳng lâu.Mấy tên phú quí công hầu,

Có đem chi được đến chầu Ngọc-Kinh.34.- Người ở thế danh-thinh làm trước,

Thinh-danh là cội phước sự tu.CÔNG, DUNG, NGÔN, HẠNH, làm đầu,

274

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Lòng đừng mê-hoặc phải trau sửa mình.35.- Đừng tập lối văn minh dối trá,

Văn-minh nấy quỉ phá mấy hơi.Con ôi! Mẹ đã cạn lời,

Ráng cho trong sạch tên Người tuổi Ta.36.- Tên tuổi Ta bao la võ-trụ,

Tên tuổi Người che phủ thế-gian.Muốn cho tên tuổi miên tràn,

Ta, Ngưười, Tên, Tuổi vững vàng chớ sai.37.- Người xuống thế ai ai cũng một,

Phải rõ người là ruột với mình.Với mình như một mới xinh,

Với mình như ruột mới rành tuổi tên.38.- Con phải nhớ chớ quên lời Mẹ,

Được thân người chẳng dễ đó con.Tuổi Tên được vậy mới còn,

Tuổi Tên được vậy mới tròn thinh-danh.39.- Đừng tập nết trớ trinh lêu lỏng,

Theo tánh phàm học giọng cầu cao.Chị em đừng tiếng mầy tao,

Chị em nói tiếng ngọt ngào mới ngoan.40.- Lời ăn nói dịu dàng mềm mỏng,

Mới làm cho trên trọng dưới vì.Học chi cái giọng ngu si,

Học chi cái giọng dị-kỳ khó ưa.41.- Đừng học thói đỏng đưa miệng lưỡi,

275

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Mà có khi vướng lưới quỉ ma.Khôn ngoan sao bằng thiệt thà,

Cứ lời Mẹ dạy mới là gái ngoan.42.- Con đã chán các đàng tội phước,

Mừng cho con nay được gặp Thầy.Ơn Thầy rưới khắp cỏ cây,

Con tua tỉnh mộng kịp ngày qui nguyên.43.- Phần xác thịt ba giềng làm trọng,

Phần thiêng liêng phải gióng cho cân.Chớ hao TINH, KHÍ, hại THẦN,

TINH-THẦN quí báu phải cần phải chuyên.44.- THẦN, KHÍ, TINH, Tiên-Thiên làm gốc,

TINH, KHÍ, THẦN, là nọc hại người.Con ôi! Đừng tưởng trò chơi,

Nếu con sai ngược Đạo Trời dễ đâu.45.- Đừng nghe kẻ mượn màu Đại-Đạo,

Tiên, Hậu, Thiên, ngược ngạo phỉnh đời.Nếu con sai lạc tấc hơi,

Luân-hồi phải vướng, chạy Trời được sao?46.- Mẹ thấy trẻ khát-khao tìm Đạo,

Mà lại tin: chuyện ảo rằng chơn.Con ôi! Chớ cậy giọng đờn,

Giọng đờn là giọng hại khờn hồn linh.47.- Con muốn rõ công-trình tập luyện,

Tập luyện rành Cửu-chuyển phải thông.Muốn cho Cửu-chuyển được ròng,

276

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Gần Thầy mới rõ Huyền-công thể nào.48.- Con phải biết Đạo cao tối trọng,

Đừng để lòng hờ hỏng sự tu.Chớ tin những lũ quáng mù,

Mượn Thầy giả Đạo quến rù hư thân.49.- Nghe tiếng trẻ, Mẹ mừng cho trẻ,

Trẻ phải mau bước lẹ đường ngay.Muôn năm mới gặp hội nầy,

Trễ cơ-hội ắt đọa đày vướng mang.50.- Đã gặp Đạo gặp đàng chánh-đáng,

Thì phải lo phải ráng công-trình.Mẹ khuyên bỏ tánh hớ hinh,

Mẹ khuyên bỏ tánh chống kình chị em.51.- Tánh kình chống ráng kềm cho dứt,

Nó làm cho Đạo-Đức phải hư.Con ôi! Mẹ vốn Đại-Từ,

Thương con Mẹ nán giờ dư chỉ bày.52.- Thấy trẻ dại đọa-đày thân thể,

Mảng tranh đua theo thế nhoáng hào.Quên nhìn Đất rộng Trời cao,

Đành vùi bụi đỏ để xao Tánh Trời.53.- Thần, Tiên, Phật, ráo lời cạn tiếng,

Khuyên các con bỏ miếng Tu chơi.Tu cho biết Phật, biết Trời,

Tu cho biết Đạo, biết đời, mới Tu.54.- Trẻ mến Đạo thầy mù khó dắt,

277

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Trẻ ham đời thì mắc tay phàm.Xanh, Vàng, sợi chỉ ai làm,

Con đường Nam Bắc, Bắc Nam ai bày?55.- Muốn tìm Đạo gặp Thầy mới sống,

Muốn tìm Thầy chớ vọng phàm tâm.Con ôi! Đạo lý cao thâm,

Lầm sai một mảy hại thầm xiết bao.56.- Lòng thương xót đồng bào chớ nệ,

Một rún nhau của Mẹ mà ra.Đông, Tây, Nam, Bắc gần xa.

Dầu cho khác giống cũng là tình thâm.57.- Kẻ rù quến gây mầm xâu xé,

Lập phái phe chia rẽ thịt xương.Lời ngon ngọt tợ như đường,

Nếu con nhẹ dạ mắc lường uổng oan.58.- Con phải đến Đạo-Tràng Chơn-Lý,

Mới không còn có quỉ nơi Tâm.Đạo-Tràng Thầy lập phải tầm,

Phải tầm cho gặp đặng chăm học hành.59.- Trời đã phú Tánh lành sáng suốt,

Thì con là con ruột của Trời.Con Trời đâu có cải lời,

Con Trời đâu có tiếng đời nhạo khinh?60.- Khuya những tối tự mình con xét,

Con xét con, con biết lấy con.Con ôi! Tánh Đức cho tròn,

278

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Đừng ham những thói bôn chôn nhộn nhàng.61.- Chị em cũng một đoàn thua sút,

Giờ rảnh rang phải học mới nên. Học thì chí phải cho bền,

Học bền mới có tuổi tên với người.62.- Khi đi, đứng, khi cười, khi nói,

Lúc nằm, ngồi, lúc hỏi, lúc thưa;Con ôi! Lễ nghĩa chẳng vừa,

Nếu con thưa thớt ai chừa cho con?63.- Phận nhi-nữ phải tròn danh dự,

Nết đoan trang, con giữ lấy con.Tiếng thơm, tiếng nổi như cồn;

Tiếng nhơ, cũng nặng như hòn Thái-Sơn.64.- Con rõ Đạo chớ sờn công-quả,

Công-quả bòn chớ khá từ nan.Muốn thông công-quả rõ ràng,

Công càng bền vững, quả càng lớn lao.65.- Công-đức được dày, cao, chói rạng,

Công-nghiệp càng rọi bản Ngọc-Kinh.Sao cho công vững như thành,

Sao cho quả được trổ nhành, đơm hoa.66.- Phận nhi- nữ ngọc ngà thân thể,

Công-quả cho rành rẽ đừng sai.Công cao, Phước mới được dài,

Công dày, Đức mới vững tày núi sông.67.- Muốn được Quả phải trồng nên Quả,

279

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Quả muốn trồng giống chạ chớ ương.Con ôi! Phận gái đoạn trường,

Đoạn trường càng phải tìm đường cho nên.68.- Mẹ đã dạy công bền mới được,

Công dày công được phước mới bền.Học hành công khó mới nên,

Biếng lười phải vướng vào nền tớ-tôi.69.- Mẹ đã dạy vun bồi công-quả,

Con phải rành công cả của con.Con nào công nấy vuông tròn,

Công nào Quả nấy chẳng còn đợi chi.70.- Mẹ cũng biết nữ-nhi phận gái,

Mẹ sẽ trao phần dạy có người.Con ôi! Công chớ biếng lười,

Con ôi! Mẹ đã ráo lời khúc-nôi.71.- Con phải biết Luân-hồi nên sợ,

Luân-hồi làm nên nợ Vô-minh.Muốn cho Công được viên thành,

Thì con khá ráng học hành cho thông.72.- Kẻ dối trá cuồng ngông khả ố,

Mà làm tuồng dạy dỗ tròn, vuông.Các con là gái quê môn,

Các con đâu rõ vuông, tròn là chi.73.- Các con hãy kỹ suy chính xét,

Thầy có đâu la lết dạo đường.Thầy đâu làm mặt trò phường,

280

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Thầy đâu tán tận Thiên-lương khuấy đời!74.- Con đã gọi con Trời thế hạ,

Con phải mau hối-quá tự-tân,Con sao chẳng chịu nhựt-tân,

Mà con lại muốn tránh Luân-Xa-Hồi?75.- Bánh Luân-Xa lăn rồi chẳng đợi,

Nếu vướng vào con mới định sao?Con ôi! Thiên-võng nan đào,

Đừng trông Bắc-Đầu, Nam-Tào cứu nguy.76.- Muốn cứu nguy chẳng chi lạ nữa,

Con khá lo tự sửa lấy mình.Sửa mình cho được bất-sinh,

Sửa mình cho được tiền-trình vẻ vang.77.- Nói đến con trăm đàng chua xót,

Mẹ xiết bao lệ giọt đượm tuông.Thấy con sa hố lạc truông,

Cũng vì mê mảng làm tuồng khéo khôn.78.- Càng khôn khéo càng dồn cát bụi,

Khéo khôn chi với tuổi hồng-trần.Hồng-trần khôn khéo nhố nhăng,

Khéo khôn theo buổi Hồng-trần ích chi?79.- Kìa trước mắt con suy cho kíp,

Cuộc bi, hoan, ly, hiệp mấy hồi.Sao con chẳng rõ cơ Trời,

Nắng, mưa, lạnh, nóng mấy thời đó con.80.- Trời bình tĩnh thoạt còn nổi gió,

281

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Trăng làu làu lại trổ mòi mưa.Đừng ai khoe sớm, nói trưa,

Năm còn, tháng thiếu, ngày thừa, phải sai.81.- Lời rỉ rả canh dài Mẹ dạy,

Tiếng nỉ non phải quấy Mẹ bày.Con ôi! Gắng chí theo Thầy,

Ngọc-Kinh mới được có ngày đoàn viên.82.- Cơ họa-phước nhãn-tiền mấy lát,

Cũng đều do khổ lạc chẳng tường.Khổ kia ai tạo mà vương?

Lạc nầy ai bỏ, ai duồng-lại chê!83.- Phải xét kỹ rõ bề khổ lạc,

Khổ tại đâu mình chác vào mình?Tại mình nuôi cái Vô-minh,

Vô-minh nào phải Trời sinh mà ngờ.84.- Kìa Đuốc-Tuệ ánh bờ Chơn-Lý,

Thầy đã khai rọi chỉ đường ngay. Thuyền nghiêng, sóng ngược, phải quay,

Đừng nghe mạnh bạo rủi tay lái lèo.85.- Người trí thức coi dèo thời thế,

Chớ hỏng hờ lầm kế tinh ranh.Con ôi! Phận gái mỏng mành,

Thương con, Mẹ chỉ mối manh con tường.86.- Đêm đã cạn Mẹ càng than thở,

Bỏ tánh phàm xem-chợ nhắm-em.Đạo dường gió tạnh sóng êm,

282

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Con nào mến Đạo phải tìm Đường Chơn.87.- Biết sao kể nguồn cơn sau trước,

Ham tự-do con vượt ra đi.Tự-do nó có ích gì,

Tự-do càng lắm càng suy tinh thần!88.- Trẻ hối ngộ, Mẹ mừng cho trẻ,

Ráng lo Tu kẻo trễ thời kỳ.Gặp Thầy con ráng qui-y,

Càng cho biết lễ, biết nghi, mới rằng.89.- Mẹ dạy con chẳng ngừng lời nói,

Con nghe lời đừng gọi phui-pha.Đêm khuya nguyệt xế trăng tà,

Con soi bóng nguyệt, còn là bấy nhiêu?90.- Duyên Tứ-giả lắm điều dối trá,

Cuộc tuần-hoàn vay trả chẳng thôi.Lánh xa cái Bánh Luân-Hồi,

Khá mau tỉnh ngộ vun bồi Chơn-Linh.91.- Vững Chơn-Linh phải thình Tâm-Tánh,

Nhìn Ngọc-Kinh là cảnh quê nhà.Rảnh rang cái kiếp phù hoa,

Lặng Tâm, êm Tánh mới là gọi con.92.- Mẹ vì con lưỡi mòn đòi đoạn,

Mẹ vì con lời cạn mấy phen.Công dư kết bạn với sen,

Dư công đâu để làm quen với bèo.93.- Chừa cái tánh tự kiêu tự đắc,

283

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Mới có ngày gần Phật gần Trời.Trời tuy lộng lộng vơi vơi,

Nhưng Trời ở tại mấy lời Mẹ đây.94.- Con nghe Mẹ, Mẹ khuây khỏa dạ,

Mẹ nhìn con, con hả hớn lòng.Con ôi! Mau kíp trùng phùng,

Đến Đài Kim-Khuyết hiệp cùng chị em.95.- Lời tâm huyết Mẹ đem tường tận,

Khuyên con thơ yên phận tu hành.Muốn cho gọi được gái lành,

Thì mau cải dữ, mới rành chơn tu.96.- Đừng phân biệt trí, ngu thêm hại,

Đố ai tường khôn, dại là chi?Trăm điều, đều tại hóa-nhi,

Đừng đem phàm tánh mà khi, mà lầm.97.- Mẹ căn dặn tu Tâm cho lắm,

Tu Tâm rồi, Tánh bẩm mới trong.Tánh Tâm tuy cũng nơi lòng,

Mẹ còn lo ngại: con không rõ đàng.98.- Lòng thương con ngổn ngang trăm mối,

Muốn cho con tránh khỏi Luân-Hồi;Nầy con: Tâm, Tánh bởi Trời,

Nầy con: Tâm, Tánh bởi người phá hư.99.- Phật thường gọi Chơn-Như Tâm-Phật,

Trời đã cho Minh Đức Tánh Trời.Tánh Tâm trong sạch là Người,

284

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Tánh Tâm xảo trá là Đời đó con.100.- Đã gần trót đêm tròn Mẹ giảng,

Giảng cho con mấy đoạn éo-le.Phải nhìn Đất chở, Trời che,

Phải nhìn cho kỹ đặng nghe đặng làm.101.- Đời gió bụi, hiểm nham bớ trẻ!

Có thiện căn mới dễ tránh Đời.Tránh Đời, con phải nghe Trời,

Nghe Trời thì phải nghe lời Mẹ khuyên.102.- Kẻ có phước thiện-duyên mới gặp,

Gặp thiện-duyên ráng tập mà làm.Làm thì Nhứt Đức, Nhứt Tâm,

Nhứt Tâm, Nhứt Đức Mẹ châm-nom liền.103.- Thầy đã dạy MƯỜI KHUYÊN ráng nhớ,

Lại lắm khi nhắc nhở trăm điều,Khuyên con Tâm-Huệ ráng khêu,

Ráng khêu cho tỏ đặng theo mới mầu.104.- Bề cư xử sồng nâu đạm bạc,

Chớ hêu đòi đài-các trâm-anh.Trâm-anh để gọi gái lành,

Trâm-anh nào phải sửa sanh bề ngoài.105.- Mẹ dạy con chẳng nài lao khổ,

Tánh-phàm khuyên ráng bỏ ráng chừa.Ráng đem lại Tánh-Trời xưa,

Ngọc-Kinh sớm bước, chờ trưa trễ chầu.106.- Đuốc Chơn-Lý làu làu Thầy rọi

285

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Nơi Trung-Ương đặng gọi các con.Bòn vàng sông Lệ nên bòn,

Tìm châu tìm ngọc non Côn đến tìm.107.- Cây mát mẻ có chim khôn đậu,

Kẻ hiền lành noi dấu Từ-Bi.Từ-Bi, Bác-Ái Thầy ghi,

Từ-Bi, Bác-Ái Tam-Kỳ vẻ vang.108.- Mẹ đã dựng nền vàng, tảng ngọc,

Con biết lo săn sóc đêm ngày.Ân cần mực thước đừng sai,

Thì con sẽ được dẫy đầy Ơn Trên./-—————————ddd—————————

Lời chú-giải: các bài Kinh Trung-Thiên và bài Kinh Tây-Vương trước

Đây là do nơi Hiệp-Thiên-Đài, Thầy ban cho Đức Chưởng-Quản Đệ Nhị Tiểu Thời Kỳ (ông Phùng) cũng có tiếp Điển của Đại Tiên Lữ-Thuần-Dương, dạy văn xuôi nói về hột lúa v.v…. có in trương 30.

Cuốn Đuốc Chơn-Lý hồi ban đầu Đức Hiệp-Thiên-Đài, ấy cũng có tiếp Điển của Chư Thần chỉ vẽ họa đồ Châu-Thiên-Đài và Bát-Quái-Đài cho Hội-Thánh và ông Đốc-công Đắt Trà-Vinh tạo tác hết 7-8 phần 10. Vì vậy mà Thầy có nói khi lập Tòa-Thánh Trung-Ương Hiệp-Thiên-Đài, Thầy sai phải có mặt con ắt được rẽ mây trong Trời; còn bên Cao-Thiên-Đàn Rạch-Giá là nơi do ông Chánh Thái-Phối-Sư Bửu-Sơn làm chủ có cặp phò-loan Chơn-

286

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Tâm, Tường-Khánh chấp cơ ra Thánh-Giáo dạy Đạo và Kinh Tu Chơn Thiệp Khuyết, Chánh Tà Yếu-Lý, Thánh-Giáo Chánh-Truyền, v.v …

Đó là hai vị rường-cột của Tòa-Thánh Trung-Ương đứng trong Tứ-Bửu của Thầy ban hồi ban-sơ tại Tân-An, có lập Đàn giao cho hai Đại-Sư tập 3 Vị phò-loan có chấp bút được nhiều bài Lễ Bổn và Kinh cầu-siêu, cầu-hôn; còn tại Tòa-Thánh Hiệp-Thiên-Đài có lập Ban Hành Pháp có Lịnh có Cờ, do nơi chủ quyền Hiệp-Thiên-Đài có đông người tới lui, hành-vi không được vô-tư theo lịnh Hiệp-Thiên-Đài đã ban hành trước đây, bởi đó Trật-Tự Hiệp-Thiên-Đài càng ngày càng rối rắm từ nửa năm Bính-Tý (1936) cho tới tháng 6 năm Đinh-Sửu (1937). Bởi các Cớ ấy mà Chư Thần phải dời ông Phùng về Tân-An và Long-Xuyên, rồi bãi Đại-Lễ kỷ-niệm An-Thiên năm ấy, cùng là bế-mạc Hiệp-Thiên-Đài. Trước khi ông Phùng đi, Chư Thần có chuyển cho ông gặp ông Giáo-Sư Ngọc-ĐƯỢC-Thanh ở Tân-Lý-Đông, truyền thánh địa nơi nhà Giáo Sư CÒN, hai Ông có nói nhau đôi ba tiếng, ấy là Cơ Chuyển Đạo qua Đệ Tam Tiểu Thời Kỳ, là giao lãnh Vô-Vi Hiệp-Thiên-Đài một cách bí-mật, sau lại Thầy có nói cho trong Đạo biết rằng các việc chẳng qua cái nạn Thiên can Địa sát mà ông Phùng không ngờ vì Thầy đã nói trước:

87.- Hành Thiên-Đạo Vô-Vi phải biết,Chữ tùy thì biến diệc phải thông;

Thánh-Nhơn thừa thử Lục Long,

287

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Nào ai biết đặng lại phòng bôn-chôn;Phải thông hai chữ Hà Ngôn,

Âm-thinh sắc-tướng phải chôn Nguơn-Thần.Bởi vậy cho nên mấy tháng sau năm Đinh-Sửu thì

chuyển ông Giáo-Sư Ngọc-Được-Thanh để dạy Đạo-Tràng trong các làng: làng Phú-Kiết, Lương-Hòa-Lạc, Thân-Cửu-Nghĩa; và phóng Điển cho Ngài ra Thánh-Ngôn dạy Đạo. Qua ngày 20 tháng Chạp, Bà Huỳnh-Giàu-Hương qui liễu, Thầy có cho ra một bài Kinh Kính Mừng 5 vé biểu đem ra đọc tại mộ-phần mà Đức Giáo-Sư còn ngại, không dám ban-hành vì trong Đạo chưa ai biết Cơ Chuyển Đạo đã định rồi mà phải chờ bước qua Mậu-Dần.

Trong Đệ Nhị Tiểu Thời Kỳ, Tòa-Thánh Trung-Ương bị tách ra ba phái:

Thứ nhứt: phái ông Đạo Quang dời về Giồng Bướm với ông Thiệu và các chức-sắc Phước Long, lập Tòa-Thánh Hậu-Giang (Coi “Chuyển Mê” số 8 thì thấy rõ lời Thầy quở).

Thứ hai: phái Tịnh của ông Tòng, Tỵ và Huyện Lợi lập tại làng Mỹ-Phước (Mỹ-Tho).

Thứ ba: phái ông Kiên-Phùng-Nhơn-Phấn-Tú lập tại Tân-An vì không tin cơ vận chuyển của Thầy rất mau lẹ và rất bí mật.

232.- Lập Trung-Ương Thầy trao gánh nặng,Dạy các con dứt hẳn phàm tâm;

Đừng lòng chia rẽ mà lầm,

288

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Đừng lòng dại dột mà cầm rằng khôn;Xét coi nội quả Càn-Khôn,

Có ai qua được Chí-Tôn là Thầy.233.- Thầy thương xót một bầy con dại,

Kiếp “Ngũ-Lôi” hiện tại đương giàn;Thầy thương, Thầy dạy, Thầy than,

Mong cho con chớ ngổ ngang lời Thầy;Ví bằng kiếp số đến ngày,

Ăn-năn đã muộn kêu Thầy uổng công.—————————ddd—————————

Ngày 22 tháng 6 năm Đinh-Sửu (1937).

- Con cúi đầu lạy Thầy, xin bạch Đức-Chí-Tôn: chẳng biết vì cớ nào mà Tòa-Thánh Trung-Ương hay có điều trắc trở làm cho đến đỗi chinh nghiêng.

- Nầy con, vì tại mấy anh lớn của con nó được phẩm-vị rồi nó quên hẳn các lời của Thầy phú thác.

- Bạch: Nếu như mấy anh lớn của con quên hẳn lời Thầy mà làm cho Tòa-Thánh Trung-Ương không vững, rồi nhơn-sanh ra thể nào, chúng-sanh ra sao, còn phận con đây ra thế nào, xin Thầy chỉ dạy.

- Con ôi! Con hỏi đó Thầy rất đau lòng nên Thầy nói cho con hiểu: Trung-Ương là Thầy lập cho mỗi con vì bấy lâu nay các con mê theo phàm tục làm nhiều điều thái quá, nhiều điều bất cập mà bỏ dứt Bực-Trung, nếu bỏ Bực-

289

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Trung đâu có làm con người được, nên Thầy lập Trung-Ương là cốt để cho các con mỗi mỗi phải giữ lấy Bực-Trung mà làm, chớ nào phải một mình CA hay là PHÙNG gì mà làm Trung-Ương hết thảy cho các con đâu, như nó làm cho Trung-Ương không vững thì Trung-Ương của nó ra sao thì nó biết lấy nó. Vì Thầy thường dạy: lập Trung-Ương là Thầy lập cho con, con nào cũng là con, hễ con của Thầy thì Thầy đã lập Trung-Ương cho rồi, tự ý mỗi đứa muốn phá thì phá, để thì để liệu lấy, dầu cho nhơn-sanh hay là chúng-sanh cũng vậy; còn phận của con thì Thầy đã dạy cho con ngày Lễ An-Thiên năm rồi con nhớ không. Nếu con nhớ thì cứ theo đó mà làm đi, tới đâu thì Thầy sẽ chỉ thêm tới đó.

- Bạch Thầy: Sao con thấy Thánh-Ngôn của Thầy có dạy:

“Đài Châu-Thiên đó là từng Ngọc-Kinh”.- Con cứ hỏi thử Thầy hoài, con đã biết rồi sao còn

hỏi nữa.- Con cúi lạy Thầy xin tha tội cho con.- Nầy con, Thầy đam các Anh lớn của con ra lãnh

phận-sự đặng nó lo trả nợ nhơn-quả của nó cho xong, nên Thầy dạy chúng nó lập Châu-Thiên-Đài, là Thầy gióng thử sức của chúng nó coi có dứt bỏ tham sân si hay không, mà chúng nó đã không dứt bỏ, lại còn gây thêm ra nữa. Thầy

290

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

đã cho Lữ-Tổ giáng bút đặng nhắc nó, nó lại quên đi, cứ làm oai sấm sét dọa nhát các em khờ, chúng nó tưởng vậy đó là đúng rồi, mà Thầy cũng còn quá thương cho các đàn em của chúng nó, vì hết lòng sợ Thầy nên phải cúi đầu lạy cái xác phàm của nó, mà nó đành ngồi chịu cho đoàn em lạy. Thầy cũng có rộng lòng cho chúng nó hưởng những cái lễ của các em nó chúc mừng cho nó, là khi nào chúng nó dạy dỗ những điều lầm lạc cho các em nó biết mà chừa thì cũng nên hưởng được; chớ Thầy nào cho chúng nó làm tiệc cầu vui, nói điều vô ích mà làm khó cho các em nó phải cúi đầu lạy nó mà nó đành vui, đây thầy hỏi PHÙNG

con có như vậy không?- Bạch: nay Thầy dạy con đây con tình nguyện nghe

Thầy nhưng mà con không biết tính lẽ nào cho mấy anh lớn hồi-tâm lo chấn chỉnh nền Đạo cho vững vàng.

- Con sao quá khờ Thầy nói đây, nào có phải dạy riêng một mình con đâu.

- Bạch: nếu như Thầy không có dạy riêng, con xin Thầy giáng bút tại Tòa-Thánh cho mấy anh lớn của con rõ.

- Nầy con, Thầy đã dạy chúng nó nhiều lần rồi, mà chúng nó bỏ qua, trong khi Đàn Phổ-Độ Kiên-Giang Thầy có dạy rành mà chúng nó cứ bỏ qua hoài, nên nay Thầy thấy con có lòng mộ Đạo biết sợ Thầy, biết thương mến anh em, nên Thầy truyền lại cho con, ấy là y theo trong lời Thầy đã phán trong Đàn Phổ-Độ Kiên-Giang trước đó, vậy

291

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

con phải vâng lời Thầy gởi bài Thánh-Ngôn của Thầy phán đây (cho) đến Tòa-Thánh Trung-Ương đặng cho các Anh Lớn của con nó coi đặng tự xét lấy nó, con chớ nghi ngại, vì Thiên-Cơ Thầy đã định rồi, con cứ việc thi-hành đi, đừng hỏi dông-dài chi nữa. Thăng…

—————————ddd—————————

Ngày 24 tháng 6 Annam năm Đinh-Sửu (1937).

CA, con phải lo bổn-phận Cửu-Trùng-Đài cho xong, tại con làm sái Qui-Điều số 3 vì Thầy thương con nên Thầy khuyên con ráng sửa, chớ nên buồn mà lỗi với Thầy, còn các chức-sắc Thầy phong rồi cũng có nhiều đứa dể-ngươi nên phạm vào Qui-Điều số 4, số 5, vậy con cùng các em con ráng nhớ lấy.

PHÙNG, Thầy nói con là Phục-Hổ, chớ không phải là Cưỡi-Hổ hay là Dương-Hổ, Phi-Hổ mà con lại không biết Phục-Hổ là chi hay sao, con làm vai tuồng không giống Phục-Hổ, Thầy nói Hiệp-Thiên-Đài là Anh-Hồn, không phải Phùng là Anh-Hồn đâu, vì Thầy biết trước như vậy nên Thầy dặn con rước bảy Chơn-Như đam về làm bạn, mà con không biết bảy Chơn-Như ở đâu, con cứ tìm kiếm mấy tên Thầy kêu trong Thánh-Ngôn, thiệt con rất dày công, nhưng mà làm chuyện không trúng lý. Con phải biết bảy Chơn-Như lộn cõi trần-gian mà con cứ trong Thánh-Ngôn kiếm hoài làm sao cho gặp, Thầy có đam tên một Chơn-Như vào Thánh-Ngôn mà thôi, còn bao nhiêu không chịu ra mặt, hết lòng cầu Thầy xin Thầy đừng đem vào Thánh-

292

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Ngôn để con ra công tìm kiếm thử coi có biết kiếm hay không, con đã kiếm không đặng, sao dám gọi mình là Anh-Hồn, đã không làm xong vai tuồng Phục-Hổ, lại kiếm không đủ bảy Chơn-Như lại dám cải lời Thầy răn trong Kinh Tu-Chơn, bỏ “Mười Khuyên” không nhớ, lại lo làm khó cho đoàn em, cứ kiếm điều thối thác. Vậy con có xứng đáng là Anh-Hồn không?

KIÊN, Thầy dạy con Chơn-Lý nầy, chớ phải nầy con là đúng Chơn-Lý hay sao. Thầy khuyên con chí thành nhẫn nại kiên tâm, tam tư, tự tỉnh, con có làm được chưa, con xét lấy.

Vậy Thầy khuyên chung hết thảy các con Nam Nữ phải ráng mà nghe lời Chơn-Như đặng lo trau dồi Tâm Tánh. Thầy sợ e cho các con tự-vận mà chết, nên Thầy nói trước: con biết chết về đâu không, chết về Tây-Ninh, chết về nhà Tịnh.

PHÙNG, con ráng mà xét chớ rằng bỏ Tòa-Thánh mà về nhà rồi Thầy tha tội đâu, ráng nhớ nhe con. -Thăng-

—————————ddd—————————

Ngày 28 tháng 11 Annam năm Đinh-Sửu (1937).

- Thầy mừng các con.- Bạch: Đệ-Tử mừng Đức-Chí-Tôn, xin có việc chi

cần dùng dạy cho con hiểu.- Nầy con, nếu Thầy không có việc cần dùng, thì

Thầy có ban Hiệp-Thiên-Đài Vô-Vi cho con làm chi. Nầy con, Thầy đã bao phen biểu con phải gởi bài Thánh-Ngôn

293

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

đến Tòa-Thánh Trung-Ương cho các anh của con nó rõ, sao con lại làm lơ đi, tại sao vậy con?

- Bạch: Đệ-Tử không dám gởi, vì có nhiều lời của Thầy quở Tứ-Bửu rất nặng, nên con sợ e mấy Anh Lớn thối chí và phiền con nên con không dám gởi.

- Vậy thì con sợ mấy Anh của con hơn Thầy hay sao?

- Bạch: vì con giữ phận làm em, nên phải chịu dưới quyền mấy Anh Lớn, chớ Đức-Chí-Tôn dạy con đâu dám cãi, cúi đầu lạy Thầy tha lỗi cho con nhờ.

- Nầy con, chúng nó lớn là lớn với cái tên tuổi của nó đó là phải, chớ nó nào có lớn hơn với Thiêng-Liêng đặng sao.

- Bạch: nếu như Đệ-Tử gởi bài Thánh-Ngôn nầy ra Tòa-Thánh mà mấy Anh Lớn không tin rồi nói rằng con lập Bàng-Môn phá Đạo quở trách con rồi con mới liệu thể nào. Cúi xin Thầy giúp đỡ.

- Nầy con, sao con nghi ngại hoài, việc đó cái Tâm của con đã hiểu rồi sao con lại nghi hoài vậy, chúng nó muốn quở trách con hay là xử đáng cách nào thì chúng nó phải xử cho xong bổn-phận của nó đi rồi sẽ xử tới con. Con phải ráng nghe lời Thầy. Dầu mà chúng nó có bắt con đóng đinh đi nữa, thì con cũng phải vui lòng, mới gọi rằng con thảo với Thầy và thuận với anh mình. Con có nhớ không, trong lúc con gặp PHÙNG tại nhà CÒN, ấy là ngày Thầy chuyển Đạo đó, đó là kẻ trau người lãnh, con hiểu chưa?

294

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

PHÙNG nó nói câu chuyện Thiêng-Liêng của nó cho con nghe. Con nghe coi có hiệp đồng với con hay không, nếu như có hiệp đồng, thì là Vô-Vi trau lãnh đó con, biết rồi thì cứ việc vưng theo…. -Thăng-

—————————ddd—————————

Ngày 5 tháng 9 Annam năm Đinh-Sửu (1937).

NGỌC sắc còn treo giữa Ngọc-Đình,HOÀNG ngôn khuyên trẻ nhớ tiên minh,ĐẠI hành Ân xá người tuân Đạo,ĐẾ lịnh khuyên con ráng giữ mình.

Nầy bốn con: CA, KIÊN, NHƠN, PHÙNG.

1.- CA trách nhậm Thầy giao cho trẻ,Vì Tây-Ninh chẳng kể lời Thầy; Giao con Chưởng-Quản Trùng-Đài,

Lo bề sắp đặt là vai đứng đầu.2.- Thầy tưởng trẻ trước sau như một,

Ra đứng làm rường cột Tam-Kỳ;Con đành nghe đứa ngu-si,

Làm cho đến đỗi kẻ nghi người đồn.3.- Thầy đã dạy Xác Hồn phải hiệp,

Hiệp Xác Hồn cho kịp thời kỳ;Mậu-Dần chuyển Đạo tới đây,

Luật không cho trễ, trễ nầy tại con.

295

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

4.- Làm trễ Luật thì con phải hiểu,Con hiểu rồi phải liệu phải lo;

Mặc tình sâu chống cạn dò,Thầy giao làm chủ chiếc đò mấy năm.

5.- Con có tánh nghe lầm tưởng lộn.Lộn với Thầy con trốn được không?

Con ôi, kiếp số Đại-Đồng,Là ngày phán xét Luật công chẳng lầm.

6.- PHÙNG, con chớ ỷ cầm mối Điển,Điển của Thầy nào phải Điển con;

Không lo bổn phận cho tròn,Lo tranh lời nói dại khôn theo đời.

7.- Tiếng phong tặng là người Đại-Đức,Thì phải lo Đại-Đức cho minh,

Chơn-Như bảy Tánh chỉ rành,Phàm-gian chung lộn con đành bỏ qua.

8.- Con chẳng kể lời Cha phú thác,Lại gây nhiều nghiệp ác oan gia;

Oan gia ai dám gây ra,Oan gia lo dứt mới xa nợ trần.

9.- Nợ trần nặng là phần khẩu nghiệp,Khẩu nghiệp làm mấy kiếp luân-hồi;

Chớ rằng Chưởng-Quản cao ngôi,Khi người là tức khi Trời đó con.

10.- Con chớ tưởng mình con là đúng,

296

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Mà con đều nao núng đoàn em;Tuy rằng nó đứng vai em,

Con đừng khi bạc đoàn em mà lầm.11.- Con là đứa hay cầm thơ truyện,

Con xét coi những chuyện xưa nay;Hạng-Lương là bực anh-tài,

Vì chê chấp kích thây bày hiên môn.12.- Làm người phải tâm tồn thận độc,

Chớ ỷ mình nhờ gốc của Trời;Gốc Trời là gốc dạy đời,

Gốc Trời nào phải khi người như con.13.- Thầy thương trẻ nên còn dạy ráng,

Tự ý con xét đáng liệu lo;Muốn nên Thầy cũng bàn cho,

Muốn hư Thầy nỡ chẳng cho sao đành.14.- NHƠN chớ ỷ núi xanh cao vững,

Núi xanh là cao vững tinh thần;Con đành bỏ hẳn chơn-thân,

Mê theo vật chất chỉ chừng núi xanh.15.- Con phải biết núi xanh sao đó,

Núi xanh là chỗ đó con lầm;Thầy khen là lúc hồi tâm,

Nên Thầy trọng dụng mấy năm dư rồi.16.- Nay con đặng cao ngôi phẩm vị,

Con đành lòng đố kỵ hiền lương;

297

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Con đừng ỷ sức cao cường,Con quên Hồng-Thệ lúc đường chông gai.

17.- KIÊN chớ cậy có tài sáng suốt,Mà có khi lỡ bước khó ngừng;

Thầy thương nên mới chỉ chừng,Mười-khuyên tam- tỉnh con đừng bỏ qua.

18.- Mối Chơn-Lý tại tà nên rối,Con có công gỡ rối Thầy khen;

Con đừng khuya sớm than phiền,Xác phàm có cực, Thần Tiên mới gần.

19.- Con gỡ rối mấy lần kịch liệt;Hỏi thử con có biết đâu không;

Gỡ rồi con tưởng là xong,Tại con hơ hỏng chẳng phòng rối sau.

20.- Con những tưởng trước sau như một,Nên rối hoài rối tột tới cùng;

Muốn cho con gỡ đặng xong,Thời con gắng chí hiệp đồng anh em.

21.- Có đứa xét, đứa xem, đứa lóng.Giúp sức con cho chóng buổi nầy;

Đừng lòng nhĩ ngã tôn ti,Cửu-Trùng con phải hiệp qui Thiên-Đài.

22.- Con đừng có phân hai chia rẽ,Trọng Hiệp-Thiên chẳng kể Trùng-Đài;

Như vầy biết mấy chừ xong,

298

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Con đừng bắt chước như PHÙNG nghe con.23.- Thầy đã định sắt son hai cảnh,

Cảnh Hiệp-Thiên với cảnh Cửu-Trùng;Ấy là chỉ chỗ thỉ chung

Người cho trọn một Thiên-Trùng nào chia.24.- Thầy nay nhắc trước kia TRUNG TẮC,

Vì ỷ mình bịa đặt nhiều điều,Lời Thầy dạy dỗ bấy nhiêu,

Nó đều quên dứt, tiêu điều còn đâu.25.- Lời nói đó con mau hiểu thấu,

Hiểu thấu rồi noi dấu mà làm,Bốn con ráng sửa tánh phàm,

Bốn con không sửa con làm bốn con.26.- Nầy ớ trẻ các con Chơn-Lý,

Chơn-Lý nầy là Lý tự nhiên,Con nào chưa hiểu tự nhiên,

Đừng xưng rằng ở Hiệp-Thiên Cửu-Trùng.27.- Lời Chơn-Lý dạy chung các chỗ,

Tại không tin đánh đổ nhiều bề;Khi khen, khi trọng, khi chê,

Hỏi ra chưa rõ khen chê là gì.28.- Mảng lo tính thị phi bàn cải,

Mà quên mình chưa phải làm người;Mình đành quên phứt mình rồi,

Huống hồ gì nhớ tới người được sao.29.- Lớn ỷ giỏi ngôi cao phẩm trọng,

299

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Nhỏ ỷ lanh trưa sớm chống kình;Làm cho Đạo phải nghiêng chinh,

Ấy là các trẻ lòng đành hại nhau.30.- Thuyền đương nổi như phao mặt nước,

Tánh chống kình bạo ngược mới chìm;Thầy không nỡ để êm lìm,

Nhắc con cho biết nổi chìm tại con?31.- Bỏ cái thói tự tôn tự trọng,

Bỏ cái điều kình chống khôn lanh;Không lo Đạo-Đức học hành,

Đến ngày phán-xét tội hành chớ than. -Thăng-

Ngày 25 tháng 11 Annam năm Đinh-Sửu (1937).

NGỌC sắc phân minh việc chánh tà,HOÀNG toàn cho trọn kẻo lầm sa,ĐẠI ân cứu độ lời khuyên nhủ,ĐẾ lịnh trao truyền cõi Giái-Ba.

Nầy bốn trẻ TÚ, KIÊM, THÀNH, THOẠI.

1.- Nầy bốn trẻ TÚ, KIÊM, THÀNH, THOẠI,Việc nên hư quấy phải chỉ rành;

Khuyên rày bỏ tánh cành nanh,Mới là đáng mặt làm anh em mình.

2.- Bốn con mảng lo vinh phần xác,Cho nên con xiêu lạc phần hồn;

Lại thêm có tánh tự-tôn,Còn trông chi đặng non Côn trở về.

300

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

3.- PHÙNG có lỗi, lỗi thì nó chịu,Bốn con đành trì níu nhau chi;

Thầy rằng Đạo chuyển đến kỳ,Con không theo Đạo níu trì oan gia.

4.- Con quên phứt lời Cha khuyên dạy,Con đành lòng ỷ lại với Phùng;

Bỏ lời Minh-Thệ tội chung,Bốn con nặng tội hơn Phùng nghe con.

5.- Đoàn em dại thấy con bắt chước,Nó biết đâu tội phước là đâu;

Bốn con dìu dắt làm đầu,Không thương em dại cơ cầu hại nhau.

6.- Bốn con phải mau mau hiệp chí,Về Trung-Ương sửa kịp cho xong;

Giúp CA hết dạ hết lòng,Châu-Thiên hoàn tất quả công mới tròn.

7.- Thầy dạy đó bốn con ráng nhớ,Ráng sức mình chớ thở đừng than;

Chúng sanh nhiều kẻ nghèo nàn,Con đừng ép quá thở than Thầy phiền.

8.- Phần bốn trẻ lời riêng dạy đó,Đây lời phân cho rõ các con;

Nữ Nam hai phái cho tròn,Đồng chia trách nhậm sắt son giúp Thầy.

9.- Các con đã rẽ mây vén ngút,Ráng dò lần ngọn Đuốc Lý-Chơn;

301

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Đừng lòng so thiệt tính hơn,Có Thầy chứng giám ban ơn con nhờ.

10.- Có nhiều trẻ ngáo ngơ than thở, Rằng Hiệp-Thiên đóng cửa bít đường.

Cho nên tấn thoái lương khương,Ngày đêm than thở Thầy thương vô cùng.

11.- Các con ráng thỉ chung một dạ,Điển Vô-Vi Thầy đã định người.

Hiệp-Thiên nào phải chỗ chơi,Luật đà xây chuyển nhắn lời cho NHƠN.

12.- Lời châu ngọc thiệt hơn dặn bảo,Các con đừng ảo não phiền lòng;

Ráng lo học Đạo cho xong,Thầy ban ơn trẻ bản phong danh đề.

13.- Nay Thầy định NHƠN về dạy bảoKhuyên các con thuận thảo cùng nhau.

Chê khen khinh trọng nghèo giàu,Đạo hư bởi đó chớ nào đâu xa. Thăng …

—————————ddd—————————

Ngày 20 tháng 12 Annam năm Đinh-Sửu (1937).

Kinh kính mừngKính mừng Đại-Đức Phổ-Đà,

Công phu viên mãn khỏi sa Luân-Hồi.Thành công qui vị về Trời,

Chực chầu Thánh-Mẫu đời đời an vui.Dây oan Gươm-Huệ dứt rồi,

302

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Phổ-Đà an vị là nơi dưỡng nhàn.Đường đường một vị Nữ ban,

Quỳnh-Cung tỏ rạng Đài Trang Liên Tòa.Nhớ lời Mẹ dạy thiết tha,

Nghĩa phương Đạo-Đức thuận hòa chị em.Ra tay dìu dắt trọn niềm,

Vì thương em dại nổi chìm sông mê.Sang hèn ngu trí chẳng chê,

Miễn là biết Đạo biết nghe lời Thầy.Công lao mười một năm chầy,

Giúp Minh-Chơn-Lý nên Thầy thưởng phong.Phổ-Đà Tiểu-Cảnh lập xong,

Ngôi thờ Đức Mẹ Mỹ Phong một Tòa.Kính mừng Đại-Đức Phổ-Đà,

Công phu viên mãng khỏi sa Luân-Hồi.—————————ddd—————————

Ngày 16 tháng 1 Annam 1938 (11 giờ).

Sắc phục Chưởng-Quản Hiệp-Thiên-Đài

Dùng ba khổ vải trắng mỗi khổ 4 thước, ba khổ 12 thước, ấy là thập-nhị Khai-Thiên, may dính chừa mặt trước, tra mỗi phía ba vải, bận trùm đầu, trước mặt mang bố-tử chữ “Linh”, sau lưng bố-tử chữ “Anh”, bề tròn một tấc tám phân, chữ đỏ nét trống (là hư-không) chừa lề hai phân: chữ đỏ vòng tròn màu vàng, đó là Tâm Ý hiệp nhứt mỗi khi có việc cần dùng truyền dạy điều chi thì đứng sau lưng Cửu-Trùng-Đài, hoặc Cửu-Trùng-Đài ngồi, Hiệp-

303

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Thiên-Đài đứng, tùy theo chỗ thấp cao, khi truyền việc rồi sục xuống lui ra đó là hai Chưởng-Quản hiệp nhứt đó.

Sắc phục nầy không được đem về nhà tư, cứ treo nơi bàn Nguơn-Thần, hoặc là chỗ văn-phòng tiếp Điển. Sắc phục nầy để luân-chuyển. Thầy giao cho ai thì nấy mặc, khi nào cơ vận-chuyển thì không kể.

Từ đây nhẩn sau, phải rõ người là không không, có có, sắc sắc, không không, lòng không không, lòng người trong Trời Đất, Âm Dương hiệp nhứt, Đại-Đạo hoằng khai, ấy là thái bình cảnh tượng đó.

Bài nầy để đọc trước Bửu-Điện khi hiệp nhứt.——————

(Tiếp 7 giờ chiều)

- Con lạy mừng Thầy, xin Thầy có việc chi dạy con.- Nầy con, con có hiểu Thầy dạy con phải nhớ

lời Thầy quở trách Phùng, con có hiểu sao hay không?- Bạch: con cũng có hiểu chút ít.- Nầy con, phải ráng tìm kiếm lời của Thầy dạy nó

đó cũng là cách hành-động của nó mà con suy xét lấy con.Vậy từ đây nhẩn sau, CA đối với con thì con chớ cho

nó kỉnh con là Đại-Đức; còn phần con đối với nó thì tự ý con, con phải biết rằng phận-sự chưa tròn, sao dám chịu mình là Đại-Đức, lời nói đó, con xét coi có chánh đáng không, con có biết rồi thì con mau sửa.

304

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

- Bạch: vậy từ đây CA đối với con phải dùng tiếng nào xin Thầy dạy.

- Con từ đây nhẩn sau nó đối với con bằng Anh là đủ, Thầy đã nói anh em sau trước dắt dìu, con nhớ không.

Vậy con phải cần học hỏi cho lắm, còn sự chi con cứ làm cho đúng thiệt thì có Thầy chứng cho.

Vậy con ráng nghe Thầy dạy đây:

1.- ĐƯỢC, Thầy đã giao phần cho trẻ,Trước vì PHÙNG bê trễ bỏ qua;

Ngày nay chuyển Đạo kỳ ba,Phần con ráng gánh bỏ qua Thầy phiền.

2.- Con cứ giữ mối giềng Chơn-Lý,Còn nghe không tự ý chúng sanh;

Đường ngay mực thẳng thi hành,Lần lần Thầy chỉ đành rành cho con.

3.- Phần Gia-Đạo vợ con là thế,Phần Đạo nầy đừng trễ nghe con.

Giúp CA nhơn nghĩa cho tròn,Một lòng thiết-thạch chớ mòn chớ phai.

4.- Bề cư-xử gái trai phân biệt,Việc chánh tà mình biết lấy mình;

Khuyên con chớ khá hớ-hinh,Xe kia trước sụp ráng gìn xe sau.

5.- Con giữ vẹn một màu tươi tốt,Thì Tinh-Thần thấu tột non Côn;

Nhớ câu thận-độc tâm-tồn,

305

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Con tua nhớ lấy xác hồn còn y. -Thăng …—————————ddd—————————

Ngày 17 tháng 1 Annam 1938 (4 giờ chiều).

Thầy vì thương các con, nên thầy lập Đạo-Tràng cứu-thế kỳ ba nầy, khuyên các con chớ khá bê trễ bỏ qua.

Các con nghe Thầy dạy đây ráng nhớ, chớ rằng Thầy không nói trước, nghe thi:

Nay Thầy lập Đạo-Tràng cứu thế,Các con đừng bê trễ công-trình;

Chớ rằng lánh dữ làm lành.Hỏi con có biết dữ lành ra sao?

Các con mảng tự cao tự đắc, Mà dể ngươi nên mắc lưới Trời;

Gây ra nghiệp chướng rối đời,Mình làm trở lại trách Trời không thương.

Ngày nay thiệt Trời thương đó trẻ,Lập Đạo-Tràng dạy trẻ tu hành;

Con nào muốn biết dữ lành,Tới trường học Đạo cho rành nghe con!

Khuyên con chớ khôn khôn dại dại,Mà ỷ mình canh cải lời Thầy; Khuyên con ráng đến Trường Thầy,

Có người dìu dắt có người cứu con.Thầy Bệ Ngọc trông con hết sức,Mảng mê trần quên phứt Ngôi xưa;

Từ đây con chớ đảo lừa,Đảo lừa chịu dốt đổ thừa cho ai.

Đạo Thầy dạy gái trai hai phái,

306

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Cả dưới trần con cái của Thầy; Chia nhau Nam Bắc Đông Tây,

Nay Thầy mở Đạo đặng qui con về.Kìa cuồn cuộn bốn bề sóng dậy,Hỏi thử con có thấy hay không?

Chí công Luật cả Đại-Đồng,Con nào biết lỗi mới mong ơn Thầy.

Thuyền Chơn-Lý tại đây rước trẻ,Bước lên thuyền có kẻ chèo đưa,

Con nào chậm bước tới trưa,Là trưa tại trẻ, nào trưa tại đò.

—————————ddd—————————

307

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Ngày 18 tháng 1 Annam 1938 (10 giờ tối).

Nầy các con chớ nên bàn cãi Luật của Thầy cầm, Quyền của Thầy định, các con chớ khá đua nhau canh-cải làm cho Tòa-Thánh phải tan tành là tự nơi các con ỷ sức phàm mà hại nhau đó. Các con chớ nên mỗi việc đều tin cậy nơi Tứ-Bửu. Các con tưởng là bốn đứa đó CA, KIÊN, NHƠN, PHÙNG nó là Tứ-Bửu hay sao, các con nhớ coi Thầy mượn nó, vì Thầy thấy nó siêng năng nên Thầy mượn nó đặng nó lập công mà chuộc tội, chẳng dè ngày nay bốn đứa nó được một tiếng quí trọng của Thầy ban thưởng cho nó, nó lại tự kiêu tự đắc, ngày nay Thầy xây chuyển Tam Tiểu Thời Kỳ nên Thầy lừa lọc đứa nào nên Thầy dùng, đứa nào hư Thầy không dùng nữa. Các con phải ráng coi cho kỹ, chớ lấy trí phàm mà luận thì rất lầm đó con. Vậy từ đây các con muốn theo Tứ-Bửu của Thầy thì các con hỏi lấy nơi lương tâm của con thì tự nhiên có Thầy chỉ cho, Thầy chẳng nỡ bỏ con, ngặt các con bỏ Thầy. -Thăng …

—————————ddd—————————

Ngày 18 tháng 1 Annam 1938 (1 giờ khuya).

CA, nghe Thầy hỏi: nay Luật Vô-Vi Thầy chuyển, con nghe theo Thầy hay không con, từ đây nhẩn sau, Thầy không dùng KIÊN nữa. Vì nó ỷ sức phàm của nó, vậy Thầy hỏi đó con liệu sao.

ĐƯỢC, Thầy dạy con: đường ngay mực thẳng, nghĩa là mến Bạn tin Thầy, tin Thầy là đường ngay, mến Bạn là mực thẳng. Thăng …

—————————ddd—————————

308

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Ngày 18 tháng 1 Annam 1938 (1 giờ khuya).

CA, con có nhớ lời Thầy dạy trước hay không con, Trời nào đếm câu thề vô dụng, thề vô dụng là Luật xây chuyển, nên thầy không kể.

PHẤN, nghe Thầy dạy:

Ngày nay Luật chuyển Trùng-Đài,PHẤN, con ra lãnh giúp thầy nghe con.

Nay KIÊN bổn phận không tròn,Thầy thâu giao trẻ, con còn ngại chi.

Đầu-Sư phái Ngọc phê y,Trùng-Đài quyền lãnh kịp kỳ Long-Hoa(1).

Lời Thầy phán trước Thánh-Tòa,Thần Tiên cả thảy đều ra chúc mừng.

Bằng con nghịch mạng chẳng tuân, Thầy không tư vị con đừng thở than.

Chúng sanh đương lúc lạc đàng,Con ra lãnh mạng dẫn đàng cho em.

Từ đây chung thỉ trọn niềm,Với người lầm lạc nổi chìm các nơi.

Ấy là chánh Luật của Trời,Con đừng có sợ luật người nghe con.

Khuyên con bổn phận lo tròn, Thầy nay quyết định xin con chớ từ.

Con cứ gởi đi cho PHẤN đi. -Thăng …

---------------------------------------------------(1) Là ngày Hàn-Long bái mạng Đức-Chí-Tôn (15 tháng 4 Mậu-Dần).

309

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Ngày 19 tháng Giêng Mậu-Dần 1938 (5 giờ khuya).

CA, con thiệt coi Thầy quá nhẹ, Thầy hết lòng thương con, nên Thầy cho con hay trước, trách nhậm của con còn chẳng bao lâu nữa, đặng cho con lo làm cho xong, ngày sau khỏi nợ Luân-Hồi, mà sao con cứ dụ dự hoài. Quỳnh-Giàu-Hương nó đã khỏi sa Luân-Hồi, còn con liệu sao con?

Vậy chớ con có nhớ những lời con hứa với Quỳnh-Giàu-Hương làm sao hay không? Đã biết vợ chồng là ở thế mà lời hứa nó thuộc về nhơn-duyên mà trong nhơn-duyên đó con muốn nhơn-duyên hay là nhơn-quả, hay là duyên mảng, hay là nhơn-quả, nó cũng trong cái tinh-thần nhơn-duyên mà ra, mặc ý con muốn ra ngõ nào thì ra, “ra” với “sa” hai tiếng nó muốn giống nhau, con liệu lấy. Trước kia Thầy đã nói: “Thần-Hồn khôn dại không chừng”, nên Thầy mới chọn lựa người cho có Anh-Hồn đặng hiệp với Thần-Hồn mà giúp con cho tròn bổn-phận. Thầy nghĩ trong các duyên cớ cũng đều do nơi Phùng nó ỷ sức phàm mà cãi Thầy, làm cho con phiền phức, nên Thầy hết sức chọn lựa Anh-Hồn đặng giúp con cho vui lòng, trái lại con cũng dụ dự hoài, hiện nay Thầy hỏi CA: một mai con sa vào Luân-Hồi, con phiền Thầy hay là trách ai? Con tự xét lại con, chớ Luật Vô-Vi xây chuyển Thầy chọn lựa trong 4 đứa, có một mình con là khá hơn, nên Thầy đình đải dắt dìu cho con trọn Tam-Kỳ Phổ-Độ, sao con lại tấn thoái lưỡng nan, hay là con muốn chọn ai cho vừa lòng con, thì con chọn đi? Con còn có một bước đường nữa, mà con lương-khương,

310

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Thầy chắc cho con khó bề tới Đạo lắm con, vậy thì con tự xét lấy.

ĐƯỢC, con gởi ngay cho CA. -Thăng-

—————————ddd—————————

Ngày 21 tháng 1 năm Mậu-Dần 1938 (4 giờ sáng).

CHƯỞNG-GIÁO THIÊN-TÔN

- Đệ-Tử lạy mừng Tôn-Sư.- Nầy Đệ-Tử, Đức-Chí-Tôn rất buồn vì CA nó quá

sợ Kiên mà nó bỏ qua lời của Đức-Chí-Tôn truyền dạy, con có nhớ Đức-Chí-Tôn truyền dạy việc chi không?

- Bạch: con nhớ Đức-Chí-Tôn truyền dạy làm chỗ thắp 15 ngọn đèn là Đức-Chí-Tôn cho hưởng Hồng-Ân sáng suốt đó.

- Nầy Đệ-Tử, Đệ-Tử biết đó, chớ chưa hiểu cho thấu lý nó là ra làm sao, vì Đệ-Tử còn nghi ngại, nên nay Đức-Chí-Tôn Người mới sai Bổn-Tôn đem lời cần-yếu mà truyền lại cho con, con phải cho CA nó hay, đặng nó tự tỉnh mà nó cứu lấy Thiêng-Liêng của nó, sao con không gởi bài của Thầy quở nó vừa rồi đó cho nó coi nó biết.

- Bạch: con hết sức ráng rồi, vì con nghèo.- Nầy Đệ-Tử cứ lo nghèo, mà sanh ra lòng thối thát,

vậy nay Thầy chuyển cho KIM nó tới nhà con đó, thì con cậy KIM nó đi giùm cho.

- Bạch: vì KIM lớn tuổi nên con không dám cậy.- Đệ-Tử thiệt quá khiêm tỵ, Bổn-Tôn đã nói: con cậy

là cậy nó đi làm công-quả cho Thầy, chớ nào đi làm cho con hay sao mà con ngại. Vậy thì con cứ việc cậy nó đi.

311

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Còn trong 15 ngọn đèn đó là một sự cần-yếu rất quí báu cho nhơn-loại đó, Đệ-Tử có hiểu quí báu ra sao không?

- Bạch: con hiểu mà không dám đoán chắc, xin Bổn-Sư dạy cho con hiểu.

- Nầy Đệ-Tử, trong đó: trên một ngọn là Ngôi Thái-Cực, dưới kế hai ngọn là Lưỡng-Nghi, kế 3 ngọn là Tam-Tài, 4 ngọn là Tứ-Tượng, 5 ngọn là Ngũ-Hành, còn Trung-Ương là nhứt điểm trung phân Tạo-Hóa, còn theo Đạo chuyển hiện thời thì theo lời của NHƠN nó giảng đó, còn lấy theo Luật của Thầy lập Tam-Kỳ Phổ-Độ thì nó cũng gom vào đó, con hiểu chưa? Trong đó nhiều chỗ mầu nhiệm vô cùng, sau Bổn-Sư sẽ chỉ cho con hiểu.

(Xem hình vẽ)

d Trên một ngọn là Ngôi Thái Cực

d d Dưới hai ngọn là Lưỡng nghi

d d d Kế ba ngọn là Tam-tài

d d d d 4 ngọn là tứ tượng

d d d d d 5 ngọn là Ngũ hành

Vậy con phải cậy KIM nó đem bài nầy cho CA nó rõ cho mau, đừng để chậm trễ, thiệt con có tài khiêm tỵ hoài.

-Thăng -—————————ddd—————————

Ngày 16 tháng Giêng Annam 1938 (9 giờ sớm mai).

312

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

KIÊN, nghe Thầy dạy đây mà tự xét lấy:

1.- KIÊN, Thầy sợ cho con lỡ bước,E khó ngừng lầm chước tinh ranh;

Kiên tâm nhẫn nại chí thành,Phận con hỏi thử có rành hay chưa.

2.- Thầy thương trẻ nên vừa lòng trẻ,Khuyên con đừng bác bẻ khi Thầy;

Một lời dặn trẻ từ đây,Kỳ nầy Tam-Tiểu Thầy xây Thiên-Đài.

3.- Con thường nói khinh tài trọng nghĩa,Chữ khinh tài trọng nghĩa ra sao;

Thầy rằng: Đạo chẳng nghèo giàu,Tôn ty nhỉ ngã thấp cao chê cười.

4.- Con đã nói tin Trời Độc-Nhứt,Con độc quyền con dứt hay không,

Xét đi xét lại nơi lòng,Ngó sau ngó trước coi đồng hay không.

5.- Thầy thấy trẻ có công học Đạo,Học Đạo rồi dạy bảo cho người;

Muốn cho người tốt ta tươi,Thì con ráng nhớ Ta Người, Người Ta.

Thăng …—————————ddd—————————

Ngày 29 tháng Giêng Annam 1938 (9 giờ tối).

313

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

KIÊN, Nghe Thầy xử tội:

KIÊN, con chớ nhiều lời cải lẽ,

Tội của con Thầy để dành đây;Một là tội trẻ khi Thầy,

Hai là không kể chuyển xây Luật Trời.Ba là cả tiếng lấp lời,

Bốn là chia rẽ Ta Người xa nhau.Năm là ỷ thế sang giàu,

Sáu là tự đắc tự cao hơn người.Bảy là dạy Đạo biếng lười

Tám là ỷ giỏi chê người ngu si;Chín là ăn ở vô nghì,

Mười là chẳng rõ thau chì nói ngang.Mười điều tội lỗi rõ ràng,

Khuyên con chớ khá kêu oan uổng lời.Vì con nay Đạo trễ thời,

Nay Thầy cứ giữ Luật Trời trị ngay,Chư Thần vưng lịnh ra tay,

Hành con cho biết từ rày hết trông.-Thăng-

—————————ddd—————————

314

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Ngày 30 tháng 1 năm Mậu-Dần (1938) (12 giờ trưa)

PHÙNG, con nghe Thầy xử tội

1 - Con những mảng xiêu theo lời phỉnh,Nên quên mình là chính Thầy sai,

  Ỷ mình Chưởng-Quản Thiên-Đài,Cả gan khoát nạt kể Thầy ra chi.

2 - Thầy hết dạ Từ-Bi tha lỗi,Sao con không tự hối lấy mình,

  Kiếm điều phỉnh gạt chúng sanh,Độc quyền lợi dụng gia-đình ấm no.

3 - Phần dạy Đạo không lo cho Đạo,Mượn tiếng Thầy giả tạo danh mình,

  Kết phe kết đảng tung hoành,Làm cho đến đỗi chúng sanh phàn nàn.

4 - Nhiều em nhỏ gián can hết sức,Con ỷ quyền bỏ phức chẳng nghe.

  Luật Trời khó nổi chở che,Tại con ngỗ nghịch chẳng nghe lời Thầy.

5 - Nay đến lúc thời kỳ Đạo chuyển,Luật vô tư Thầy quyết khó dung,

  Này này bớ Nguyễn-Kỳ-Phùng,Tội làm phải chịu hết trông khẩn cầu.

6 - Trước Thầy xử giảm thâu niên kỷ,Sau hành hình cho thế làm gương.

  Từ đây Tòa-Thánh Trung-Ương,Thầy thâu để chữ Định-Tường như xưa.

- Thăng - —————————ddd—————————

315

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

MỤC LỤC

(Quyển thứ nhứt)

Phần Tựa Trương Tiểu dẫn (Lời của Đại-Đức Bửu-An-Thiên)

A Đệ-Nhứt Tiểu-Thời-Kỳ Họa đồ cựu Tòa-Thánh Tây-Ninh Nghi tiết

I Trích lục trong “Thánh-Ngôn Hiệp-Tuyển”: các bài Thầy dạy về Trời, Phật, Thánh, Tiên; Đạo là sự sống đời đời kiếp kiếp, là sự Tu Hành Đạo-Đức gom về mối sáng suốt.

II Lời Tiên-tri Tiểu Nhứt ThờiIII Đạo chinh nghiêngIV Thầy day cán bút về Cao-Thiên-Đàn (Rạch-

Giá), Thầy cho các bài Kinh sau: Tu-Chơn Thiệp-Quyết Chánh—Tà Yếu-Lý Nhị-Thập Thủ Liên Hườn Giải thuyết Đạo Phật Giải thuyết Đạo Lão Giải thuyết Đạo Nho Các bài Kinh Kính Mừng Thập Thủ Liên Hườn Phát Minh Thể Liên Tiên Nữ

V Minh Lý HộiVI Đạo sắp chuyển về Kiêng-Giang

(Lập An-Thiên Đại-Hội Kỳ Nhứt) Phong Thánh Hội cơ-bút

VII Ban chỉnh Đạo Bến-Tre

316

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

B Đệ-Nhị Tiểu-Thời-KỳI Họa-Đồ Cựu Tòa-Thánh Trung-Ương (Mỹ-

Tho)II Nghi TiếtIII Lập Tòa-Thánh Trung-Ương (Mỹ-Tho)

Thánh-Huấn Giác-Mê (số 6)Vé 11.- Lập QUỐC ĐẠO thiên tân vạn khổVé 31.- Nền Đại-Đạo xanh um cổ-thọVé 51.- Thầy lóng đủ các lời con trẻThập-Ngũ Qui-Điều

Chuyển-Mê Khải-Ngộ (số 8)Hạ Nguơn Kỷ Niệm PhúVé 76.- Tìm ngọc báu non trèo biển lặnVé 91.- Thầy trước nói Đạo tròn thoạt méoVé 134.- Bên Nữ phái dặn dò khuyên nhủ

Chuyển-Mê Khải-Ngộ (số 9)Vé 204.- Nầy các trẻ có duyên tìm Đạo

(Tam-Kỳ Thánh-Huấn)Vé 234.- Lò Tạo-Hóa mấy Ông thợ tạo

IV Chuyển-Mê Khải-Ngộ(Quyển cuối không có số, xuất bản năm 1934)Vé 264.- Các con chuộng CAO-ĐÀI danh hiệuVé 294.- Các con chớ bơ thờ mối ĐạoThánh-Huấn của Chưởng-Giáo Thiên-TônThánh-Huấn của Ngọc-Hoàng Đại-ĐếLời tiên-tri của Tuyết-Vân Đạo-CôThánh-Huấn của Chưởng-Giáo Thiên-TônThánh-Huấn của Chưởng-Giáo Thiên-TônThánh-Huấn của Chưởng-Giáo Thiên-TônLịnh Hiệp-Thiên-Đài

317

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Thánh-Huấn của Chưởng-Giáo Thiên-TônVé 331.- Bạch-Ngọc-Kinh Điển linh Thầy rọiVé 363.- Được thơm lây cả bầy con dại

V Chuyển-Mê Khải-Ngộ(In trong “Đuốc Chơn-Lý” số 1, Xuất bản 15-7-

1935)Vé 372.- Cửa Chơn-Lý khóa chìa vừa hợp

Ngọc-Hoàng Đại-Đế Hội-GiáoL’Église CaodaÏque

(In trong “Đuốc Chơn-Lý” số 15)Vé 400.- Con có chí cải tà qui chánh

VI Lời tiên-tri Tiểu-Nhị-ThờiVII Kinh Trung-Thiên

Kinh Kính Mừng Đức Cửu Cung Phổ HóaNương Nương

Kinh Nhựt Tụng Ba Bài Kệ Tu-Chơn Tây-Vương Thánh-Mẫu Chơn Ngôn Kinh. Lời chú-giải: các bài Kinh Trung-Thiên và bài Kinh Tây-Vương

VIII Các bài Thánh-Huấn Vô-Vi Hiệp-Thiên-Đài, do Giáo-Sư Ngọc-ĐƯỢC-Thanh chấp bút: Con cúi đầu lạy Thầy, xin bạch Đức-Chí-Tôn: chẳng biết vì cớ nào mà Tòa-Thánh Trung-Ương hay có điều trắc trở làm cho đến đỗi chinh nghiêng. CA, con phải lo bổn-phận Cửu-Trùng-Đài… Đệ-Tử mừng Đức-Chí-Tôn, xin có việc chi cần dùng dạy cho con hiểu. Nầy bốn con: CA, KIÊN, NHƠN, PHÙNG.

318

HT. CAO ĐÀI CHƠN LÝ THIÊN ĐẠO CHƠN TRUYỀN Q.I

Nầy bốn trẻ TÚ, KIÊM, THÀNH, THOẠI. Kinh Kính Mừng Đại-Đức Phổ-Đà Sắc phục Chưởng-Quản Hiệp-Thiên-Đài ĐƯỢC, Thầy đã giao phần cho trẻ Nay Thầy lập Đạo-Tràng cứu thế Nầy các con chớ nên bàn cãi Luật của Thầy cầm ĐƯỢC, Thầy dạy con: đường ngay mực thẳng PHẤN, nghe Thầy dạyCA, Thầy hết lòng thương con, nên Thầy cho con hay trước Chưởng-Giáo Thiên-Tôn…

- Bạch: con nhớ Đức-Chí-Tôn truyền dạy làm chỗ thắp 15 ngọn đèn là Đức-Chí-Tôn cho hưởng Hồng-Ân sáng suốt đó. KIÊN, nghe Thầy dạy đây mà tự xét lấy KIÊN, NGHE Thầy xử tội PHÙNG, nghe Thầy xử tội

IX Quí-Danh Chức-Sắc Thiện-Nam Tín-Nữ có lòng Từ-Thiện Hỷ Cúng về khoản Bố-Thí 2000 Quyển Tạp-Chí Thiên-Đạo Chơn-Truyền (Năm 1947)

X Mục-lục 359

319