gass.edu.vn an vu thu hang.pdf · viỆn hÀn lÂm khoa hỌc xà hỘi viỆt nam hỌc viỆn...
TRANSCRIPT
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VŨ THỊ THU HẰNG
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VỐN HỖ TRỢ
PHÁT TRIỂN CHÍNH THỨC (ODA) TRONG XÂY DỰNG
KẾT CẤU HẠ TẦNG KINH TẾ TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kinh tế quốc tế
Mã số: 62 31 01 06
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
1. PGS.TS Đỗ Đức Định
2. PGS.TS Nguyễn Thanh Đức
HÀ NỘI, 2016
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả, số liệu nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và
được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Vũ Thị Thu Hằng
ii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.............................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC ĐỐI VỚI VỐN ODA TRONG XÂY DỰNG KẾT CẤU HẠ TÂNG
KINH TẾ TẠI VIỆT NAM ……………………………………………………..
7
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRÊN THẾ GIỚI.................................................. 7
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về ODA nói chung................................................... 7
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về KCHTKT…………............................................ 9
1.1.3. Tình hình nghiên cứu về QLNN đối với ODA……................................... 9
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC.............................................. 12
1.2.1. Tình hình nghiên cứu về thu hút và sử dụng vốn ODA nói chung............. 12
1.2.2. Tình hình nghiên cứu về KCHTKT …………........................................... 14
1.2.3. Tình hình nghiên cứu về thu hút và sử dụng vốn ODA trong lĩnh vực
KCHTKT…………………………………………………………………
15
1.2.4. Tình hình nghiên cứu về QLNN đối với vốn ODA ở Việt Nam………… 16
1.3. NHẬN XÉT CHUNG VỀ KẾT QUẢ CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ NGHIÊN
CỨU VÀ KHUNG PHÂN TÍCH CỦA LUẬN ÁN …………………………...........
21
1.3.1. Nhận xét chung về kết quả các công trình đã nghiên cứu……..………… 21
1.3.2. Khung phân tích của luận án……………………………………………... 22
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI VỐN ODA TRONG XÂY DỰNG KẾT CẤU HẠ TẦNG KINH TẾ...
24
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VỐN ODA TRONG
XÂY DỰNG KCHTKT ……………………………………………………………….
24
2.1.1. Tổng quan về vốn ODA và Kết cấu hạ tầng kinh tế……………………... 24
2.1.2. Khái niệm QLNN đối với vốn ODA trong xây dựng KCHTKT…………...… 32
2.1.3. Sự cần thiết của QLNN đối với vốn ODA trong xây dựng KCHTKT…... 34
2.1.4. Nội dung QLNN đối với vốn ODA trong xây dựng KCHTKT.……….… 40
2.1.5. Các nhân tố ảnh hưởng tới QLNN đối với vốn ODA trong xây dựng
KCHTKT…………………………………………………………………
43
2.1.6. Tiêu chí đánh giá QLNN đối với vốn ODA trong xây dựng
KCHTKT..................................................................................................
52
2.2. KINH NGHIỆM QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VỐN ODA TRONG XÂY
DỰNG KẾT CẤU HẠ TẦNG KINH TẾ Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI ….
55
2.2.1. Những kinh nghiệm thành công ………………………………………. 55
2.2.2. Những kinh nghiệm chưa thành công ...................……………………… 61
2.2.3. Bài học rút ra cho Việt Nam về QLNN đối với vốn ODA trong xây
dựng KCHTKT..……………………………………………………...….
63
iii
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VỐN ODA
TRONG XÂY DỰNG KẾT CẤU HẠ TẦNG KINH TẾ TẠI VIỆT NAM…....
66
3.1. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH THU HÚT VÀ SỬ DỤNG VỐN ODA TRONG
XÂY DỰNG KẾT CẤU HẠ TẦNG KINH TẾ TẠI VIỆT NAM…………….....
66
3.1.1. Khái quát thực trạng KCHTKT của Việt Nam……………………… 66
3.1.2. Khái quát tình hình thu hút và sử dụng vốn ODA trong xây dựng
KCHTKT tại Việt Nam……………………………………….………
68
3.2. CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VỐN ODA TRONG XÂY
DỰNG KẾT CẤU HẠ TẦNG KINH TẾ TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1993-2015
75
3.2.1. Hệ thống pháp luật liên quan đến vốn ODA trong xây dựng KCHTKT
của Việt Nam………………………………………………………..…
75
3.2.2. Cơ cấu bộ máy QLNN và phân cấp quản lý đối với vốn ODA trong xây
dựng KCHTKT……………………………………………….……….
77
3.2.3. Lập quy hoạch, kế hoạch và vận động vốn ODA trong xây dựng
KCHTKT…………………………………………………………….…
81
3.2.4. Thẩm định, phê duyệt các chương trình dự án ODA trong xây dựng
KCHTKT……………………………………………………………..
83
3.2.5. Bố trí vốn đối ứng cho các dự án ODA trong xây dựng KCHTKT…. 87
3.2.6. Đánh giá, giám sát việc thu hút và sử dụng vốn ODA trong xây dựng
KCHTKT …………………………………………………………......
89
3.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VỐN ODA
TRONG XÂY DỰNG KẾT CẤU HẠ TẦNG KINH TẾ TẠI VIỆT NAM………
92
3.3.1. Một số thành tựu đạt được của QLNN đối với vốn ODA trong xây dựng
KCHTKT………………………………………………………..…….
92
3.3.2. Những hạn chế của QLNN đối với vốn ODA trong xây dựng KCHTKT. 98
3.3.3. Nguyên nhân các hạn chế của QLNN đối với vốn ODA trong xây dựng
KCHTKT……………………………………………………………
109
CHƯƠNG 4: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN QUẢN
LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VỐN ODA TRONG XÂY DỰNG KẾT CẤU HẠ TẦNG
KINH TẾ TẠI VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI ………………………
115
4.1. BỐI CẢNH QUỐC TẾ, TRONG NƯỚC VÀ TÁC ĐỘNG…………….……
4.1.1. Bối cảnh quốc tế ………………………………………………………….
115
115
4.1.2. Bối cảnh trong nước……………………………………………………… 116
4.1.3. Tác động của bối cảnh quốc tế và trong nước đến quản lý thu hút và sử
dụng ODA trong xây dựng KCHTKT......................................................
118
4.2. QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI
VỚI VỐN ODA TRONG KẾT CẤU HẠ TẦNG KINH TẾ CỦA VIỆT NAM…….
121
4.2.1. Quan điểm, mục tiêu xây dựng và phát triển KCHTKT ở Việt Nam…. 121
iv
4.2.2. Định hướng thu hút và sử dụng ODA trong xây dựng KCHTKT…...…. 124
4.2.3. Quan điểm, định hướng hoàn thiện quản lý nhà nước đối với vốn
ODA trong xây dựng KCHTKT ……………………………………….
126
4.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI
VỚI VỐN ODA TRONG XÂY DỰNG KẾT CẤU HẠ TẦNG KINH TẾ……...…....
129
4.3.1. Nâng cao nhận thức về vốn ODA nói chung, ODA trong xây dựng
KCHTKT nói riêng……………………………………..………………
129
4.3.2. Xây dựng quy hoạch, tăng cường vận động, hướng vốn ODA vào
đồng bộ và hiện đại hóa KCHTKT, coi trọng những công trình thiết yếu
131
4.3.3. Hoàn thiện khung pháp lý và cải thiện thủ tục QLNN đối với vốn ODA
trong xây dựng KCHTKT…………………………………………….
133
4.3.4. Bố trí kịp thời vốn đối ứng cho các dự án ODA trong xây dựng
KCHTKT.................................................................................................
136
4.3.5. Nâng cao chất lượng chuẩn bị, thẩm định, phê duyệt dự án ODA cho
KCHTKT…………………………………………………………….
137
4.3.6. Xây dựng cơ chế cho địa phương vay lại và tạo điều kiện để khu vực tư
nhân tiếp cận nguồn ODA vốn vay trong xây dựng KCHTKT ……….
139
4.3.7. Đẩy mạnh công tác theo dõi, kiểm tra, giám sát và đánh giá việc thu
hút và sử dụng vốn ODA cho KCHTKT…………………………...….
141
4.3.8. Hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ
quản lý và thực hiện dự án ODA, đặc biệt ODA cho KCHTKT……...
144
4.4. ĐIỀU KIỆN ĐỂ TRIỂN KHAI GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
VỐN ODA TRONG XÂY DỰNG KCHTKT………………………………………
146
4.4.1. Đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô………………………………………… 147
4.4.2. Phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị và của toàn dân trong phòng,
chống tham nhũng, lãng phí ……………………………………………
147
4.4.3. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính và ứng dụng công nghệ thông tin
trong hoạt động của các cơ quan nhà nước…………………………..…
148
4.4.4. Giữ gìn và phát triển quan hệ đối tác tốt đẹp với các nhà tài trợ……… 150
KẾT LUẬN…………………………………………………………………………. 151
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ…………………………… 154
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………… 155
PHỤ LỤC…………………………………………………………………………… 164
v
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
TỪ VIẾT
TẮT
TÊN TIẾNG ANH TÊN TIẾNG VIỆT
ADB Asian Development Bank Ngân hàng Phát triển Châu Á
CG Consultative Group Hội nghị Nhóm tư vấn thường
niên các nhà tài trợ dành cho Việt
Nam
DAC Development Assistance
Committee
Uỷ ban Hỗ trợ Phát triển
EU European Union Liên minh Châu Âu
GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội
GNP Gross National Product Tổng sản phẩm quốc dân
GTVT Giao thông Vận tải
IMF International Monetary
Fund
Quỹ tiền tệ quốc tế
JICA Japan International
Cooperation Agency
Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản
KCHT Kết cấu hạ tâng
KCHTKT Kết cấu hạ tầng kinh tế
KH&ĐT Kế hoạch và Đầu tư
ODA Official Development
Assistance
Hỗ trợ phát triển chính thức
OECD Organisation for Economic
Co-operation and
Development
Tổ chức Hợp tác và Phát triển
Kinh tế
PMU Project Management Unit Ban Quản lý dự án
QLNN Quản lí nhà nước
UBND Ủy ban nhân dân
UNDP United Nation Development
Programme
Chương trình Phát triển Liên hợp
quốc
WB World Bank Ngân hàng Thế giới
VDPF Vietnam Development
Partner Forum
Diễn đàn đối tác phát triển Việt
Nam thường niên
vi
DANH MỤC CÁC BẢNG
STT Tên bảng Trang
1 Bảng 3.1: Một số công việc và Trách nhiệm của Các cơ quan liên quan
trong Bộ máy QLNN đối với vốn ODA đối với xây dựng
KCHTKT
80
2 Bảng 3.2: Mười quốc gia nhận ODA nhiều nhất trên thế giới 93
3 Bảng 3.3: Tỷ trọng vốn ODA và vốn vay ưu đãi giải ngân so với GDP,
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội và Tổng vốn đầu tư từ Ngân sách
nhà nước thời kỳ 2011 – 2015
96
4 Bảng 4.1: Lượng vốn ODA trung bình năm đầu tư cho các nước
đang phát triển
116
DANH MỤC CÁC HÌNH
STT Tên hình Trang
1 Hình 1.1: Khung phân tích QLNN trong xây dựng KCHTKT 23
2 Hình 2.1: ODA đầu tư theo ngành ở các khu vực địa lý năm 2013 44
3 Hình 3.1: ODA ký kết theo ngành và lĩnh vực thời kỳ 1993 - 2014 69
4 Hình 3.2: ODA hỗ trợ ngành giao thông vận tải và bưu chính viễn thông 70
5 Hình 3.3: Cơ cấu bộ máy quản lý nhà nước đối với vốn ODA trong
xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế Việt Nam
78
6 Hình 3.4: Quy trình thẩm định, phê duyệt các chương trình dự án
ODA trong xây dựng KCHTKT.
84
7 Hình 3.5: Vốn ODA cam kết, ký kết và giải ngân thời kỳ 1993 – 2014 95
8 Hình 3.6: Số lượng nhân sự tham dự chương trình tập huấn cho các
PMU của WB năm 2013 và 2014
97
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia, kết cấu hạ tầng kinh
tế là cơ sở vật chất có vai trò đặc biệt quan trọng. Kết cấu hạ tầng kinh tế đồng bộ và
hiện đại, nền kinh tế mới có khả năng phát triển nhanh, ổn định và bền vững. Chính vì
vậy, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế là ưu tiên của nhiều quốc gia, nhất là các nước
đang phát triển.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của kết cấu hạ tầng kinh tế đối với sự phát triển
của đất nước, ngay từ đầu những năm đổi mới, Việt Nam chủ trương huy động ở mức
cao nhất nguồn vốn nước ngoài, trong đó vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) đã và
đang chứng minh vai trò quan trọng không thể phủ nhận đối với xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế Việt Nam.
Những công trình kết cấu hạ tầng kinh tế được xây dựng và nâng cấp bằng vốn
ODA như hệ thống đường giao thông, cầu, cảng, các nhà máy điện, hệ thống trạm
biến thế và dây tải điện, các dự án cấp thoát nước, hệ thống bưu chính viễn thông... đã
đặt cơ sở nền tảng cho phát triển kinh tế quốc dân, góp phần bảo đảm tăng trưởng kinh
tế nhanh, thu hút đầu tư, tạo việc làm, tăng thu ngân sách, gia tăng trao đổi thương mại
và cung ứng dịch vụ, phát triển các lĩnh vực văn hoá xã hội, bảo đảm an ninh quốc
phòng, xoá đói giảm nghèo và tác động lan tỏa kéo theo sự phát triển rút ngắn khoảng
cách giữa các vùng miền, nâng cao đời sống nhân dân, góp phần tạo diện mạo mới cho
đất nước. Tuy nhiên cho đến nay, kết cấu hạ tầng kinh tế của nước ta vẫn là trở ngại
hàng đầu, “nút thắt cổ chai” và là một trong ba khâu cần đột phá để tạo điều kiện phát
triển kinh tế đất nước.
Là một nguồn vốn quốc tế, ODA trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế của
mỗi quốc gia tiếp nhận lại có tác dụng ở mức độ khác nhau, bên cạnh các yếu tố khách
quan thì phần cốt yếu là do công tác quản lý nhà nước. Vốn ODA là một nguồn vốn
thuộc ngân sách nhà nước, được nhà nước quản lý việc thu hút và sử dụng. Vì vậy, đối
với hiệu quả vốn ODA trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, vai trò của quản lý nhà
nước là hết sức quan trọng.
Quản lý nhà nước đối với vốn ODA trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế ở
Việt Nam đã dần được hoàn thiện. Hệ thống văn bản pháp lý cơ bản cho thu hút và sử
2
dụng vốn ODA liên tục được cải cách, bộ máy quản lý vốn ODA dần được kiện toàn,
công tác vận động thu hút ODA đạt được kết quả đáng khích lệ,... Tuy nhiên, công tác
này còn nhiều yếu kém cần nhanh chóng khắc phục như quy hoạch kế hoạch yếu, thiếu
tầm nhìn dài hạn; thủ tục quản lý phức tạp và khác biệt với nhà tài trợ; bố trí vốn đối
ứng không đầy đủ, kịp thời; giải phóng mặt bằng chậm; giám sát đánh giá dự án chưa
chặt chẽ; thiếu chế tài xử lý vi phạm; trình độ cán bộ quản lý yếu,… dẫn đến tình trạng
chi phí đầu tư cao, hiệu quả thấp, thất thoát vốn lớn, để xảy ra nhiều vụ việc gây chấn
động dư luận như vụ tiêu cực của Ban quản lý dự án 18, vụ tiêu cực tại Ban quản lý dự
án Đại lộ Đông-Tây và Môi trường nước thành phố Hồ Chí Minh (PCI); vụ nghi vấn
Công ty Tư vấn giao thông Nhật Bản hối lộ quan chức đường sắt Việt Nam để được
nhận thầu dự án,…
ODA là nguồn vốn mang tính ưu đãi nhưng cũng là nguồn vốn có khả năng gây
nợ cao nếu sử dụng kém hiệu quả. Các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế lại là những
công trình có quy mô lớn, kỹ thuật cao, đòi hỏi lượng vốn lớn, thu hồi vốn chậm và
tồn tại lâu dài với kinh tế xã hội, quản lý nhà nước về những công trình dự án này nếu
không đáp ứng yêu cầu thì nền kinh tế và toàn bộ xã hội sẽ phải gánh chịu sự lãng phí
lớn về nguồn lực trong khi đất nước khan hiếm vốn cho quá trình phát triển.
Trước bối cảnh kinh tế thế giới lâm vào tình trạng trì trệ sau cuộc khủng hoảng
tài chính thế giới năm 2008 và nợ công Châu Âu tiếp tục diễn ra sau đó, nguồn cung
ODA trên thế giới có xu hướng giảm sút do khó khăn tài chính của các nhà tài trợ.
Trong khi đó, Việt Nam đã trở thành nước có thu nhập trung bình thấp và nợ công của
nước ta cũng đang có xu hướng tăng lên. Mặt khác, nhu cầu vốn của các nước đang
phát triển như nước ta ngày càng gia tăng cho những nhu cầu phục hồi kinh tế, chuyển
đổi mô hình và tái cấu trúc nền kinh tế sau khủng hoảng, giảm thiểu tác động của biến
đổi khí hậu,… Điều đó cho thấy, việc thu hút ODA của Việt Nam đứng trước nhiều
thách thức. Trong bối cảnh đó, thu hút được nguồn vốn ODA từ các nhà tài trợ đã khó,
quản lý nguồn vốn này để đem lại lợi ích thực sự, đáp ứng yêu cầu phát triển trong
nước và yêu cầu của các nhà tài trợ càng khó hơn.
Thực tế này đòi hỏi Việt Nam cần có những cải cách trong quản lý nhà nước
cho phù hợp với tình hình mới để vốn ODA trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế
phát huy hiệu quả cao hơn đối với phát triển kinh tế xã hội và bảo đảm an toàn nợ
công quốc gia.
3
Xuất phát từ những lý do trên, việc phân tích đánh giá một cách khách quan
thực trạng và đề xuất giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về vốn ODA trong xây
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế là vấn đề cần thiết và cấp bách. Chính vì vậy, đề tài
"Quản lý nhà nước đối với vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) trong xây dựng
kết cấu hạ tầng kinh tế tại Việt Nam" vừa mang tính lý luận, vừa mang tính thực tiễn
và được nghiên cứu sinh lựa chọn làm chủ đề nghiên cứu cho Luận án tiến sĩ kinh tế.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận và phân tích thực tiễn quản lý nhà nước đối với vốn ODA
trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế ở Việt Nam, Luận án đề xuất các giải pháp
nhằm tiếp tục hoàn thiện quản lý nhà nước về vốn ODA trong xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế ở Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, Luận án cần hoàn thành các nhiệm vụ
nghiên cứu sau:
(i) Luận giải những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý nhà nước đối với vốn ODA
trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế.
(ii) Nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với vốn ODA trong xây
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế của một số quốc gia để có thể vận dụng vào điều kiện
thực tiễn Việt Nam.
(iii) Phân tích và đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với vốn ODA trong xây
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế trong giai đoạn 1993-2015, chỉ rõ những thành tựu,
hạn chế và nguyên nhân.
(iv) Tìm hiểu bối cảnh và xu hướng trong và ngoài nước ảnh hưởng đến thu hút và sử
dụng vốn ODA trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế ở Việt Nam.
(v) Đề xuất định hướng và giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước đối
với vốn ODA trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế tại Việt Nam trong giai đoạn
2015 - 2025.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là công tác quản lý nhà nước đối với vốn ODA
trong lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế tại Việt Nam.
4
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi khoa học: Luận án nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn quản lý nhà
nước đối với vốn ODA trong phạm vi xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế được đặt trong
mối quan hệ với nền kinh tế quốc gia và tình hình quốc tế.
- Phạm vi không gian: Luận án tập trung nghiên cứu vấn đề quản lý nhà nước về vốn
ODA trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế ở Việt Nam.
- Phạm vi thời gian: Phần lớn thông tin, số liệu sẽ được thu thập, cập nhật và tính toán
chủ yếu trong giai đoạn từ năm 1993 (khi Việt Nam nối lại quan hệ với cộng đồng các
nhà tài trợ quốc tế) cho đến năm 2015. Phương hướng và giải pháp đề xuất đến năm
2025.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phép biện chứng duy vật là phương pháp luận nghiên cứu của Luận án: Có
nghĩa là, Luận án nghiên cứu việc thu hút và sử dụng vốn ODA cho xây dựng kết cấu
hạ tầng kinh tế trong mối quan hệ biện chứng với các nguồn vốn khác và vốn ODA
đầu tư cho các lĩnh vực khác; nghiên cứu việc quản lý nhà nước đối với vốn ODA
trong mối quan hệ biện chứng với việc quản lý các lĩnh vực kinh tế xã hội khác;
nghiên cứu các mặt quản lý nhà nước đối với vốn ODA trong xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế trong mối quan hệ biện chứng với nhau,...
- Phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng trong luận án là phương
pháp định tính và các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng để giải quyết các
vấn đề đặt ra trong quá trình nghiên cứu bao gồm:
+ Phương pháp nghiên cứu tổng hợp, thống kê, so sánh và phân tích hệ thống,
logic, lịch sử: sử dụng số liệu theo chuỗi thời gian và tại một thời điểm phân tích so
sánh dọc để thấy được sự khác biệt vốn ODA trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế ở
thời điểm này so với thời điểm trước. Phương pháp so sánh còn được sử dụng để so
sánh các nội dung của công tác quản lý nhà nước về vốn ODA trong xây dựng
KCHTKT của Việt Nam với công tác này ở một số nước khác, kể cả những nước
thành công hay không thành công trong sử dụng vốn ODA. Phân tích hệ thống thể
hiện ở việc nghiên cứu QLNN về vốn ODA trong xây dựng KCHTKT đuợc đạ t trong
tổng thể về chính sách tài chính lẫn quy hoạch,... của quốc gia. Đánh giá từng nội dung
quản lý nhà nước về vốn ODA trong xây dựng KCHTKT trong mối quan hệ với các
yếu tố tác động như chính trị, kinh tế, xã hội, gắn với bối cảnh, điều kiẹ n cụ thể trong
5
nước và quốc tế từng thời kỳ nhất định để có thể rút ra những nhạ n định khoa học
trung thực, chính xác, thuyết phục.
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu, khảo sát thực tế, thu thập thông tin, số
liệu: Phân tích và tổng hợp các tài liệu về lý luận và thực tiễn quản lý thu hút và sử
dụng vốn ODA trong kết cấu hạ tầng kinh tế. Số liệu sử dụng trong luận án là số liệu
thống kê, các báo cáo của các tổ chức, cơ quan có uy tín như: Ngân hàng thế giới,
Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư,... Bên cạnh
đó, luận án cũng tham khảo các công trình nghiên cứu của các cá nhân được đăng tải
trên sách, tạp chí, kỷ yếu hội thảo khoa học, luận án, bài báo,... của các nhà khoa học
trong và ngoài nước. Trên cơ sở số liệu đó, phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà
nước đối với vốn ODA trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế ở nước ta và đưa ra giải
pháp phù hợp.
5. Những đóng góp của luận án
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận quản lý nhà nước đối với vốn ODA trong xây dựng
kết cấu hạ tầng kinh tế. Trong đó, tác giả đã làm rõ thêm khái niệm, tầm quan trọng,
nội dung của quản lý nhà nước đối với vốn ODA, cụ thể trong xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế.
- Xây dựng và phân tích 2 nhóm nhân tố ảnh hưởng tới quản lý nhà nước đối với
vốn ODA trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế.
- Đưa ra các tiêu chí đánh giá quản lý nhà nước đối với vốn ODA trong xây dựng
kết cấu hạ tầng kinh tế.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với vốn ODA trong xây
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế ở Việt Nam cho đến năm 2015, chi tiết ở hầu hết các nội
dung quản lý nhà nước, chỉ ra các thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của các hạn chế.
- Phân tích bối cảnh tác động, định hướng cũng như quan điểm quản lý nhà nước
đối với vốn ODA trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và đề xuất một số giải pháp
có tính chất gợi ý chính sách nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước đối với vốn ODA
trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế tại Việt Nam và điều kiện bảo đảm thực hiện
các giải pháp này.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Luận án đã làm sáng tỏ hơn một bước cơ sở lý luận quản lý nhà nước đối với
vốn ODA trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế. Những vấn đề thực tiễn mà luận án
đề cập góp phần thiết thực vào việc hoàn thiện quản lý nhà nước đối với vốn ODA
6
trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế tại Việt Nam.
Sau khi hoàn thiện, luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác
nghiên cứu, giảng dạy, hoạch định chính sách và thực tiễn về các vấn đề có liên quan
đến quản lý nhà nước về vốn ODA nói chung, quản lý nhà nước đối với vốn ODA
trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế nói riêng.
7. Kết cấu luận án
Ngoài phần lời cam đoan, mục lục, danh mục các từ viết tắt, danh mục bảng,
hình, danh mục tài liệu tham khảo, mở đầu, kết luận và phụ lục, luận án được kết cấu
thành 4 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu về quản lý nhà nước đối với vốn ODA
trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế tại Việt Nam
Chương 2: Cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nước đối với vốn ODA trong xây
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế
Chương 3: Thực trạng quản lý nhà nước đối với vốn ODA trong xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế tại Việt Nam
Chương 4: Định hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước đối với vốn
ODA trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế tại Việt Nam trong thời gian tới.
7
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VỐN ODA TRONG XÂY DỰNG
KẾT CẤU HẠ TẦNG KINH TẾ TẠI VIỆT NAM
Nghiên cứu quản lý nhà nước (QLNN) đối với vốn hỗ trợ phát triển chính thức
(ODA) trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế (KCHTKT) dành được sự quan tâm
đáng kể của các học giả Việt Nam và trên thế giới.
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRÊN THẾ GIỚI
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về ODA nói chung
Vốn ODA là một nguồn vốn quan trọng trên thị trường tài chính quốc tế. Vì vậy,
các quốc gia, các tổ chức tài chính quốc tế rất quan tâm nghiên cứu về nguồn vốn này.
The history of Official Development Assistance, OECD của Helmut Führer,
(1996) là một công trình nghiên cứu về lịch sử hình thành và phát triển của vốn ODA
cùng với các hoạt động của Ủy ban Hỗ trợ Phát triển (DAC) - Cơ quan chuyên cung
cấp ODA do Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển (OECD) lập ra - qua các thập kỷ,
với những con số và sự kiện một cách chi tiết. Công trình này cho thấy ý nghĩa của
ODA trong việc hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội cho các nước nghèo và những nỗ lực
của DAC trong nhiều năm qua [105].
Ngân hàng thế giới (WB), Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP),
OECD, Nhật Bản,... thường tiến hành nghiên cứu những ảnh hưởng của vốn ODA tại
các quốc gia tiếp nhận để từ đó đưa ra chính sách và các khuyến cáo như: Thực trạng
viện trợ 1998-1999, thực trạng viện trợ 2000 của WB. Đây là bức tranh tổng thể tình
hình thực hiện ODA trên toàn thế giới. OECD cũng có nhiều công trình nghiên cứu
tổng quan về vốn ODA với những con số thống kê chi tiết theo nhà tài trợ, nước nhận
viện trợ, ngành nhận viện trợ… như trong tác phẩm Development Aid at a Glance -
Statistics by Regions – 1. Developing countries 2015 hay OECD statistics in a post-
2015 world - Outcomes of the 2014 OECD DAC High Level Meeting năm 2015.
National Graduate Institute for Policy Studies (GRIPS) Development Forum
(2010), ODA Reform: Five Recommendations-Moving into the 21st century -
Development Cooperation (DC), Multi-sectoral Task Force for the Reform of
Japanese ODA lại dựa trên các cuộc thảo luận chuyên sâu của nhóm tác giả tổ chức
vào năm 2010, năm khuyến nghị đã được đưa ra cho việc cải cách ODA của Nhật Bản.
8
Đó là: chuyển đổi hỗ trợ phát triển ODA thành Hợp tác - Phát triển DC; Tăng cường
năng lực chính sách trên trường quốc tế; Tăng cường quan hệ đối tác, tăng nguồn vốn
cho các nước đang phát triển; Thiết lập một chiến lược hợp tác mới cho Châu Á:
hướng tới hợp tác theo mô hình mạng…[113].
Bài viết Japanese ODA stimulates Indian infrastructure Development, của
Rohit Sinha and Geethanjali Nataraj, ORF (2013) đăng trên East Asia Forum khẳng
định ODA của Nhật đã giúp Ấn Độ có những bước tiến lớn trong phát triển cơ sở hạ
tầng. Ấn Độ hiện là một trong những nước nhận ODA lớn nhất của Nhật Bản. Dự án
quan trọng nhất được Nhật Bản tài trợ là Delhi Metro, một dự án có tác động lớn đến
hệ thống giao thông đô thị của Ấn Độ. Nhật Bản hiện cũng đang tài trợ cho các dự án
đường sắt Bangalore và tàu điện ngầm Chennai, mở rộng phát triển đường cao tốc, dự
án đường vành đai thành phố và các dự án phát triển đô thị [118].
Tu Thuy Anh and Vu Thi Phuong Mai có một công trình nghiên cứu năm 2012:
On the Impacts of ODA on FDI: Does Composition of FDI Matter? Evidence from
Asean Countries, SECO/WTI Academic Cooperation Project. Nghiên cứu này làm
sáng tỏ sự tương tác giữa ODA và FDI ở các nước ASEAN. ODA giúp mang lại cơ sở
hạ tầng chất lượng tốt hơn đã góp phần trực tiếp vào việc cải thiện môi trường đầu tư.
Các tác động trực tiếp và gián tiếp (như nâng cao chất lượng nguồn nhân lực) của
ODA ảnh hưởng tích cực đến môi trường đầu tư thu hút FDI và ngược lại [101].
Về vốn ODA ở Việt Nam, Overview of Offcial Development Assistance Vietnam
của UNDP năm 1999 hay năm 2001 mô tả thực trạng thu hút và sử dụng ODA ở Việt
Nam qua các năm một các đầy đủ từ nguồn vốn, đối tác, ODA phân bổ cho ngành,
lãnh thổ, những tồn tại và xu hướng ODA trong thời gian tiếp theo. Những công trình
này mang lại cái nhìn khách quan cho việc thu hút và sử dụng ODA của Việt Nam từ
phía các tổ chức quốc tế [120].
Năm 2007, Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật bản (JBIC) qua công trình Hoạt
động ODA của JBIC tại Việt Nam cũng giới thiệu tình hình vốn vay và nội dung các
dự án ODA của JBIC ở Việt Nam. Trong tổng vốn ODA mà Ngân hàng này dành cho
Việt Nam, thì chủ yếu chảy vào lĩnh vực KCHTKT với nhiều dự án quan trọng trong
ngành năng lượng và giao thông vận tải.
WB cũng có nhiều công trình nghiên cứu về quan hệ đối tác của Việt Nam như
Việt Nam - Chiến lược Hỗ trợ quốc gia của nhóm Ngân hàng thế giới giai đoạn 2003 -
2006, hay Việt nam - Chiến lược hợp tác quốc gia 2007- 2011. Các ấn phẩm này cung
9
cấp những đánh giá hoạt động của Nhóm các nhà tài trợ trong nhiều lĩnh vực khác
nhau, trong đó có đề cập một số ngành thuộc KCHTKT.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về kết cấu hạ tầng kinh tế
Nghiên cứu về KCHT có một số công trình như: Reforming Infracstructure,
Privativation, Regulation and Competition của The World Bank (2004) đề cập đến kết
cấu hạ tầng trong mạng lưới của các dịch vụ công, nghiên cứu việc quản lý và tham
gia của tư nhân đối với giao thông, cải cách việc cung cấp nước... Naoyuki Yoshino và
Masaki Nakahigashi (2000) với The Role of Infrastructure in Economic Development
(Preliminary Version) lại nghiên cứu vai trò của KCHT đối với phát triển kinh tế của
các nước Đông Nam Á và rút ra: KCHT đóng vai trò quan trọng với phát triển kinh tế
vì phát triển KCHT góp phần nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế và phát triển
KCHT có tác động rất tích cực đến giảm nghèo [122].
Cesar Calderon và Luis Serven (2004) trong tác phẩn The Effects of
Infrastructure Development on Growth and Income Distribution sau khi nghiên cứu bộ
dữ liệu của 121 nước trong thời kỳ 1960 – 2000 đã đưa ra kết luận: Trình độ phát triển
kết cấu hạ tầng (KCHT) có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế và trình độ phát
triển KCHT càng cao thì thước đo bất bình đẳng về thu nhập trong xã hội ngày càng
giảm [102].
Báo cáo của WB vào năm 2011: Việt Nam và Ngân hàng thế giới: Quan hệ hợp
tác trong xây dựng cơ sở hạ tầng cho thấy: Hỗ trợ xây dựng co sở hạ tầng luôn luôn
đóng vai trò quan trọng trong quan hẹ hợp tác giữa Viẹ t Nam và WB. Co sở hạ tầng
chiếm tới 2/3 tổng vốn cho vay đầu tu của WB và hon 50% tổng giá trị hỗ trợ của WB
cho Viẹ t Nam (gồm vốn cho vay đầu tu và hỗ trợ ngân sách). Bản báo cáo này mô tả
các dự án ODA mà WB đã đầu tư cho co sở hạ tầng Việt Nam bao gồm các ngành
na ng luợng (chủ yếu là điẹ n) giao thông, đô thị, nuớc và vẹ sinh, thông tin và viễn
thông từ năm 1994 đến 2011. Báo cáo cho thấy mục đích, mục tiêu và các tác động
của các công trình ODA của WB đến kinh tế xã hội, xoá đói giảm nghèo của Việt Nam
và nhận định, thấy trong tu ong lai gần, co sở hạ tầng vẫn có thể là yếu tố chủ chốt
trong quan hẹ hợp tác giữa hai bên [49].
1.1.3. Tình hình nghiên cứu về quản lý nhà nước đối với ODA
Với vị trí một trong những nước đứng đầu trong cung cấp ODA, Nhật Bản có
nhiều công trình nghiên cứu về khía cạnh này như: ODA Evaluation Guidelines vào
năm 2009. Đây là ấn bản thứ năm của Cục Hợp tác Kinh tế, Bộ Ngoại giao Nhật Bản
10
(Ấn phẩm đầu tiên được biên soạn vào năm 2003 và được sửa đổi nhiều lần). Ngoài
việc cung cấp nhiều lý luận về đánh giá dự án, dựa trên kinh nghiệm của cơ quan này
trong đánh giá ODA, tài liệu này hướng dẫn đánh giá ODA nhằm tăng cường tính
minh bạch và trách nhiệm giải trình cho công chúng, và cải thiện ODA bằng cách kết
hợp thông tin phản hồi từ việc đánh giá. Công trình này hướng dẫn đánh giá việc cung
cấp ODA của nhà tài trợ hướng tới tính khách quan và công bằng [115].
Strengthening Korea's Evaluation of ODA Projects của Sang-Tae Kim,
Kyunghee University, Hàn Quốc cho rằng, đánh giá các chính sách và các chương
trình cấp ODA là một công cụ quan trọng trong việc cải thiện chất lượng và hiệu quả
hợp tác phát triển, sau khi Hàn Quốc tham gia DAC. Công trình này nghiên cứu cụ thể
tình hình cũng như nghiệp vụ đánh giá ODA của nhà tài trợ [111].
Công trình The role of economic Planning Unit (EPU) in Managemant of ODA
của Ehidah Misran, Uỷ ban Kế hoạch Kinh tế, Văn phòng Thủ tướng Malaisia (2006)
bàn về vai trò, chức năng nhiệm vụ của tổ chức này trong hệ thống quản lý ODA, công
trình cũng đề cập đến tình hình thu hút ODA của Malaisia từ một số nhà tài trợ, và đi
sâu làm rõ một khía cạnh trong quản lý nhà nước về ODA, đó là công tác theo dõi
đánh giá và giám sát các dự án ODA ở Malaisia [103].
Nghiên cứu về ODA ở Trung Quốc, tác giả Yingming Yang năm 2006 có
nghiên cứu: Making ODA Working for National Development - Using World Bank
Experiences in China as an Illustration. Công trình đề cập đến hệ thống quản lý ODA
của Trung Quốc với vai trò trách nhiệm của các cơ quan trung ương và sự phối hợp
giữa các cơ quan này. Giám sát đánh giá cũng là một nội dung được trình bày khá rõ
nét trong công trình này [121]. Operational Experience on the WorldBank Financed
Road Projects là công trình của Phòng Truyền thông tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc vào
năm 2006. Tài liệu trình bày các dự án ODA của WB dành cho Trung Quốc, những
con số thống kê về các dự án đường bộ ODA mà WB dành cho tỉnh Hồ Bắc và cũng
đưa ra mô hình bộ máy quản lý vốn ODA của tỉnh cho các dự án này [108].
Otto Holicki and Neo Tladinyane có công trình Evaluation of ODA to the
Infrastructure nghiên cứu về ODA cho lĩnh vực hạ tầng. Các tác giả đề cập đến ODA
cho KCHT nói chung, bao gồm cả KCHTKT và KCHT xã hội. Tác giả cho rằng: ODA
đầu tư cho KCHT là phù hợp với chính sách của chính phủ bởi vì nó sẽ hỗ trợ các lĩnh
vực khác. Nghiên cứu ở Nam Phi, ODA đầu tư cho KCHT bị ảnh hưởng bởi các yếu tố
như mối quan hệ của địa phương và sự cân đối lượng ODA cho nhiều ngành khác
11
nhau. Chính phủ thường ưu tiên đầu tư cho KCHT ở những vùng khó khăn. Công trình
cho rằng: ODA cho KCHT ở Nam Phi còn hạn chế là do một số lý do như: thiếu phối hợp
giữa các bộ phận khác nhau trong bộ máy quản lý, giám sát ODA được cho là khâu yếu
nhất. Tác giả nhận định, xu hướng là giảm vốn đầu tư trực tiếp của chính phủ vào cơ sở hạ
tầng và điều này được bù đắp bởi sự gia tăng của đầu tư khu vực tư nhân [107].
Trong Kỷ yếu hội thảo về Đánh giá ODA ở Tokyo, Benny Setiawan, Bộ Kế
hoạch và Phát triển Quốc gia Indonesia có công trình National Policy on Project
Monitoring and Project Performance Evaluation as a management tool of ODA in
Indonesia. Theo tác giả, các khoản vay nước ngoài phải được quản lý minh bạch, trách
nhiệm và phù hợp với các ưu tiên phát triển. Pháp luật cũng chỉ đạo để nâng cao hiệu
quả chính sách quốc gia về dự án và các hoạt động giám sát đánh giá dự án ở
Indonesia [117].
Các nghiên cứu trên có điểm chung là sự quan tâm đặc biệt cho công tác kiểm
tra, đánh giá ODA và cũng cho thấy tầm quan trọng của nó đối với hiệu quả ODA
trong quá trình quản lý. Đây là một gợi ý cho tác giả luận án khi xem xét hoạt động
QLNN và đưa ra giải pháp đối với ODA trong xây dựng KCHTKT ở Việt Nam.
Công trình nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (WB), năm 2006: Việt Nam -
Những thách thức đối với cơ sở hạ tầng cho rằng: Trước kia, thách thức với Việt Nam
chỉ là cung cấp các dịch vụ cơ sở hạ tầng cơ bản ở những nơi chưa có dịch vụ thì giờ
đây, khi kinh tế phát triển hơn, Việt Nam phải đối mặt với những thách thức trong việc
điều chỉnh những chính sách và thể chế về cơ sở hạ tầng như tiếp cận các nguồn tài
chính mới, cải tiến các quy trình lập kế hoạch, cải thiện tính hiệu quả của các nhà cung
cấp dịch vụ cơ sở hạ tầng, phát triển cơ chế mạnh hơn để khuyến khích khu vực tư
nhân tham gia lĩnh vực cơ sở hạ tầng. Các báo cáo trong công trình này của WB đề cập
khách quan đến các vấn đề về giao thông, điện, viễn thông, cấp nước và vệ sinh và
những vấn đề liên ngành [48].
“Đánh giá khung tài trợ cho cơ sở hạ tầng địa phương ở Việt Nam - Báo cáo
cuối cùng” xuất bản năm 2013 của WB, dựa trên đánh giá những hạn chế và cơ hội mà
các chính quyền địa phương gặp phải trong việc tiếp cận các nguồn vốn cho cơ sở hạ
tầng. Nhóm nghiên cứu tiến hành nghiên cứu ở ba tỉnh là thành phố Hồ Chí Minh,
Quảng Nam và Quảng Ninh. Báo cáo cho rằng, sự phân tán trong đầu tư vào cơ sở hạ
tầng dẫn đến sự trùng lặp và lãng phí. Báo cáo cũng chỉ ra nguyên nhân của tình trạng
này là do phân cấp đầu tư chưa hiệu quả, các địa phương cạnh tranh trong phát triển
12
kết cấu hạ tầng mà không tính đến liên kết vùng khiến chi phí vốn tăng. Nguồn vốn
cần thiết đáp ứng cơ sở hạ tầng trong tương lai vượt quá khả năng của ngân sách nhà
nước. Báo cáo cũng đưa ra một số khuyến nghị hữu ích để xây dựng cơ sở hạ tầng địa
phương ở Việt Nam [50].
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC
1.2.1. Tình hình nghiên cứu về thu hút và sử dụng vốn ODA nói chung
Khái niệm "Hỗ trợ phát triển chính thức" thâm nhập vào đời sống kinh tế xã hội
nước ta từ những năm cuối thập kỷ 80. Vốn ODA cũng đã nhận được sự quan tâm của
Chính phủ, các Bộ có liên quan, các nhà tài trợ chính qua các đề tài nghiên cứu, đánh
giá kết quả và những vướng mắc trong quá trình thu hút và sử dụng. Bên cạnh đó,
nguồn vốn này cũng được nhiều tác giả chọn làm đề tài nghiên cứu luận án tiến sỹ,
luận văn thạc sỹ và các bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành.
Trong những năm gần đây, Nhật Bản đã trở thành nhà tài trợ lớn nhất cho nhiều
nước trong đó có Việt Nam. Việt Nam cũng là một trong những nước tiếp nhận ODA
hàng đầu của Nhật Bản. Trong cuốn sách “Vốn vay ưu đãi ở Việt Nam những năm gần
đây - Thực trạng, vấn đề và giải pháp (Trường hợp Nhật Bản)” 2003, tác giả Lưu
Ngọc Trịnh đã đi sâu phân tích hiện trạng vốn vay của Nhật Bản. Trong vốn ODA
dành cho Việt Nam, ODA của Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JBIC) chiếm
phần tuyệt đối. Công trình này nghiên cứu các vấn đề liên quan đến vốn vay của JBIC
nói chung và vốn vay JBIC cho Việt nam nói riêng [74].
Cuốn sách Thu hút và sử dụng ODA của Ngân hàng thế giới tại Việt Nam của
Nguyễn Hữu Dũng năm 2010 là một công trình nghiên cứu việc thu hút và sử dụng
ODA của WB. Ngoài thực trạng ODA của WB ở Việt Nam, tác giả cũng chỉ ra nhân tố
ảnh hưởng tới việc thu hút ODA của WB gồm: mục tiêu chiến lược cấp ODA của WB,
nguồn ngân sách của WB, quan hệ và sự tin tưởng giữa Việt Nam và WB, bối cảnh
kinh tế và chính trị quốc tế và khu vực; và các yếu tố từ phía Việt Nam như ổn định
chính trị, kinh tế vĩ mô, hệ thống luật pháp, khả năng lập dự án, chất lượng tiến độ và
hiệu quả ODA [22].
Bộ Kế hoạch Đầu tư (KH&ĐT) - Cơ quan đầu mối trong quản lý ODA ở Việt
Nam - có nhiều báo cáo về vốn ODA như: Tổng quan ODA ở Việt Nam 15 năm 1993-
2008, Báo cáo tình hình vận động, thu hút và sử dụng vốn ODA tại Việt Nam hàng
năm... Công trình Cơ sở dữ liệu về viện trợ phát triển Việt Nam – Công cụ quản lý và
điều phối nguồn vốn ODA, Diễn đàn Hiệu quả viện trợ AEF cũng đưa ra Báo cáo tiến
13
độ hiệu quả viện trợ hỗ trợ phát triển bền vững năm 2011. Báo cáo này phục vụ Diễn
đàn Hiệu quả viện trợ lần thứ ba năm 2011 và Hội nghị giữa kỳ Nhóm tư vấn các nhà
tài trợ cho Việt Nam (CG)… Những báo cáo này mô tả bức tranh tổng quan về thu hút
và sử dụng ODA ở Việt Nam từng giai đoạn từ góc nhìn của cơ quan quản lý ODA của
nước tiếp nhận viện trợ.
Đặc biệt, mới đây, nhân kỷ niệm 20 năm thu hút và sử dụng ODA, Bộ KH&ĐT
xuất bản một số cuốn đặc san như: Báo cáo đánh giá toàn diện 20 năm quan hệ hợp
tác phát triển giữa Việt Nam và các nhà tài trợ (1993-2013) năm 2013, hay Tổng quan
công tác vận động, thu hút, quản lý và sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi thời kỳ
1993-2014 và định hướng trong thời gian tới năm 2014. Đây là những nghiên cứu
mang tính tổng quan vầ đầy đủ trên nhiều mặt quá trình thu hút và sử dụng ODA trong
hơn 20 năm ở nước ta.
Cuốn đặc san 20 năm hợp tác phát triển của Bộ KH&ĐT năm 2013 cung cấp
những đánh giá nhìn nhận về sự thành công trong quan hệ hợp tác phát triển giữa Việt
Nam với các nhà tài trợ thời gian qua cũng như định hướng trong thời gian tới. Cuốn
sách tổng hợp nhiều bài viết về quá trình thu hút và sử dụng ODA ở Việt Nam của
nhiều tác giả: một số quan chức cao cấp của Bộ KH&ĐT, Bộ GTVT, Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn; một số nhà tài trợ như Nhật Bản, Ngân hàng phát triển châu Á
(ADB), Cộng hòa Liên bang Đức, Australia... [9].
Luận án tiến sỹ kinh tế của Vũ Thị Kim Oanh, Đại học Ngoại thương, Hà nội
năm 2002 với đề tài Những giải pháp chủ yếu nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn vốn hỗ
trợ phát triển chính thức (ODA) tại Việt Nam. Tác giả khá thành công trong việc cung
cấp những luận cứ khoa học về vai trò của vốn ODA trong chiến lược phát triển của các
quốc gia đang và chậm phát triển. Thực trạng sử dụng vốn ODA ở Việt Nam được tác
giả nghiên cứu ở 2 giai đoạn: từ 1975 đến 1990 và từ 1990 đến thời điểm nghiên cứu là
năm 2002 và đưa ra những giải pháp nhằm sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này [55].
Tôn Thanh Tâm với luận án tiến sỹ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân,
Hà nội năm 2004: Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý vốn ODA tại Việt nam. Ở
phần lý luận, tác giả đưa ra nhiều góc độ quản lý vốn ODA như quản lý của một nhà
tài trợ, có thể là tổ chức quốc tế hoặc quốc gia, quản lý ODA ở nước tiếp nhận, có thể
là quản lý vĩ mô, có thể là quản lý vi mô chương trình dự án ODA. Thực trạng ở
chương 2, luận án này đã góp phần xác định rõ hơn tính hiệu quả quản lý vốn ODA ở
nước ta theo các giai đoạn của một chu kỳ dự án ODA [58].
14
Trong Hội thảo Khoa học Quốc tế “Đánh giá 20 năm huy động và sử dụng
ODA của Việt Nam” tại Đà Nẵng vào ngày 7-8/8/2015 có một số bài tham luận có giá
trị như Kết quả thu hút và sử dụng vốn ODA giai đoạn 2006 -2015: Thực trạng và một
vài kiến nghị đề xuất của tác giả Trịnh Ngọc Tuấn, Thu hút và sử dụng ODA trong bối
cảnh Việt Nam là nước có thu nhập trung bình của Nguyễn Ngọc Sơn. Đây là những
bài viết mang tính tổng hợp, cung cấp cái nhìn bao quát về tình hình thu hút và sử
dụng ODA 20 năm qua ở nước ta cũng như đưa ra định hướng trong thời gian tới.
Trên các tạp chí chuyên ngành cũng có nhiều bài viết về thu hút và sử dụng vốn
ODA như bài Quản lý và sử dụng vốn ODA ở Việt Nam: Những vấn đề đặt ra của
Phan Thùy Linh và Trần Thị Lưu Tâm đăng trên Tạp chí Tài chính năm 2011; Để sử
dụng vốn ODA hiệu quả hơn của Hoàng Viết Khang đăng trên tạp chí Kinh tế và dự
báo năm 2012… Ở các mức độ khác nhau, các bài trên các tạp chí đều khái quát những
vấn đề lý luận cơ bản về ODA, tập trung đánh giá về tình hình thu hút và sử dụng
nguồn vốn này, phân tích nguyên nhân của những hạn chế và nêu những giải pháp cụ
thể để việc sử dụng ODA có hiệu quả hơn.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu về kết cấu hạ tầng kinh tế
Đề tài nghiên cứu khoa học: “ Phát triển kết cấu hạ tầng để bảo đảm thúc đẩy
và phát triển bền vững” (2006) của Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung Ương
CIEM đã khái quát bức tranh kết cấu hạ tầng ở Việt Nam. Theo đề tài này, việc thực
hiện chính sách đa dạng nguồn vốn cho KCHT đã thu hút nhiều thành phần kinh tế
tham gia. Xét về cơ chế cấp vốn đầu tư cho KCHT trong những năm gần đây thì thấy
rằng nguồn ODA chiếm tỷ trọng lớn nhất (37%). KCHT đã được chú ý cải thiện trong
hơn hai thập kỷ qua, với sự kết hợp đa dạng các loại hình KCHT khác nhau trên cả
nước và vùng lãnh thổ, tuy nhiên KCHT Việt Nam vẫn còn yếu kém và chênh lệch
phát triển giữa các vùng. Những yếu kém này là do công tác quy hoạch không minh
bạch và kém chất lượng, và do nước ta thiếu vốn trầm trọng cho phát triển KCHT
trong những năm qua, chủ trương đa dạng vốn đầu tư cho KCHT rất hạn chế, công tác
quản lý KCHT tản mạn giữa nhiều Bộ, năng lực yếu và thiếu cơ chế phối hợp chặt
chẽ…[81].
Bài viết của Nguyễn Văn Vịnh, Phạm Thị Hà đăng trên tạp chí Kinh tế và dự
báo năm 2015, Hoàn thiện thể chế và quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng đã đề cập
đến những hạn chế của thể chế phát triển KCHT. Tác giả đã phân tích và cho rằng, cơ
chế chính sách, quy hoạch phát triển KCHT của Việt Nam chưa hoàn thiện, thiếu đồng
15
bộ, chồng chéo, vừa thừa lại vừa thiếu. Từ đó, tác giả đưa ra được một số biện pháp cụ
thể để hoàn thiện thể chế phát triển KCHT ở nước ta [83].
Các bài báo viết về lĩnh vực KCHTKT cũng rất đa dạng, ở cả hạ tầng giao thông,
hạ tầng đô thị, hạ tầng năng lượng, hạ tầng cảng biển… với nhiều khía cạnh khác nhau.
Ví dụ như bài Kết cấu hạ tầng của Việt Nam: Thực trạng, hạn chế và giải pháp phát
triển đăng trên Tạp chí kinh tế và quản lý 2012 của Nguyễn Nhâm; bài viết của Phạm sỹ
Liêm, (2011), “Đổi mới quy hoạch và đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng ở Việt nam ” trên
tạp chí Kinh tế và dự báo số 16; Ngô Công Thành (2011): “Giải bài toán phát triển kết
cấu hạ tầng đồng bộ ở Việt Nam” đăng trên Kinh tế và dự báo số 17…
Nhìn chung, các công trình này đều có chung nhận định, KCHT là thiết yếu
cho hoạt động sản xuất kinh doanh và cuộc sống người dân. KCHT là điều kiện để
tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo, tăng tính cạnh tranh quốc tế. KCHT ở Việt
Nam còn lạc hậu, là “nút cổ chai” cho quá trình phát triển kinh tế và đang cần những
giải pháp hữu hiệu để xây dựng một hệ thống KCHT đáp ứng yêu cầu phát triển kinh
tế xã hội đất nước.
1.2.3. Tình hình nghiên cứu về thu hút và sử dụng vốn ODA trong lĩnh vực kết
cấu hạ tầng kinh tế
Đối với lĩnh vực KCHT, luận án tiến sỹ Kinh tế của Phạm Thị Túy năm 2008,
Thu hút và sử dụng ODA vào phát triển hạ tầng ở Việt Nam, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh đã góp phần xác định rõ vai trò của KCHTKT đối với phát triển kinh
tế xã hội và tầm quan trọng của ODA trong phát triển KCHTKT. Ở phần lý luận, luận
án này đã có đóng góp đáng ghi nhận về vai trò của ODA trong phát triển KCHTKT
của các nước tiếp nhận như hỗ trợ ngân sách nhà nước, ODA phù hợp với đầu tư vào
KCHTKT vì đây là lĩnh vực thu hồi vốn chậm, sinh lời thấp, thậm chí là không có lợi
nhuận; ODA cho phép phát triển KCHTKT đồng bộ và hiệu quả; ODA tạo điều kiện
hiện đại hóa KCHTKT và góp phần làm cho khu vực công thành khu vực hiệu quả.
Nội dung chính của luận án này là phân tích những thành tựu cũng như hạn chế
của ODA đầu tư cho KCHTKT ở Việt Nam trên góc độ thu hút và sử dụng vốn. Tác
giả đã tổng kết một số thành tựu như: ODA tăng về cả lượng vốn và nhà tài trợ, đẩy
mạnh KCHTKT vượt trội so với năm 1993 và mặc dù chưa hợp lý nhưng được phân
bố tất cả các vùng trong cả nước; ODA cho KCHTKT đã đem lại tác động tích cực đối
với tăng trưởng và giảm nghèo. Đồng thời, tác giả cũng phân tích hạn chế như giải
ngân chậm, chất lượng công trình kém. Công tác quản lý được tác giả nhận định là còn
16
nhiều thiếu sót. Tuy nhiên, do góc độ nghiên cứu của đề tài này nên tác giả chưa phân
tích vốn ODA trong xây dựng KCHTKT từ phía QLNN một cách toàn diện [72].
Nghiên cứu cụ thể một số ngành thuộc KCHTKT, luận văn thạc sỹ kinh tế của
Trần Thị Thu Minh, Đại học Ngoại Thương năm 2006 “Thu hút ODA vào ngành Bưu
chính viễn thông của Việt Nam – Thực trạng và giải pháp” đã phân tích và đánh giá
thực trạng vốn ODA đầu tư vào ngành bưu chính viễn thông qua các dự án do Tổng
công ty Bưu chính viễn thông thực hiện. Bài tham luận Các nguồn vốn ODA và vốn
vay ưu đãi phục vụ phát triển giao thông vận tải Việt Nam giai đoạn 1994 – 2015 luận
tại Hội thảo Khoa học Quốc tế “Đánh giá 20 năm huy động và sử dụng ODA của Việt
Nam” tại Đà Nẵng của Nguyễn Thanh Hằng cũng là một bài viết đáng chú ý. Bài viết
đi sâu về tình hình thu hút và sử dụng ODA của Bộ GTVT và đánh giá các kết quả đạt
được cũng như các vướng mắc khi giải ngân vốn ODA cho ngành này. GTVT là ngành
chiếm tỷ trọng vốn ODA cao trong lượng đầu tư vào KCHTKT nên những phân tích
đánh giá của bài viết có giá trị nhất định đối với việc nghiên cứu đề tài luận án [28].
1.2.4. Tình hình nghiên cứu về quản lý nhà nước đối với vốn ODA ở Việt Nam
Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương và Cơ quan Hợp tác Quốc tế
Nhật Bản (JICA) năm 2003 đã phối hợp xuất bản cuốn sách: Nghiên cứu về thông lệ
tài trợ ở Việt Nam – Viện trợ không hoàn lại và chi phí giao dịch - Lắng nghe tiếng nói
của các nước nhận tài trợ nghiên cứu về thông lệ tài trợ ở Việt Nam, tập trung vào các
khoản viện trợ không hoàn lại. Nghiên cứu này được tiến hành theo cách thức mới, từ
quan điểm đa chiều để nhận dạng được xu hướng về đối tượng gánh chịu chi phí giao
dịch trong giai đoạn chuẩn bị và tiến hành các dự án ODA nhằm xác định tình hình
thực tế về chi phí giao dịch ODA ở Việt Nam. Tác phẩm tập trung vào các chi phí giao
dịch không cần thiết, làm giảm hiệu lực và hiệu quả viện trợ. Phương pháp nghiên cứu
chủ yếu dựa trên điều tra mẫu của bốn ngành: giao thông vận tải, nông nghiệp phát
triển nông thôn, giáo dục và y tế. Cuốn sách cũng phân tích chi phí giao dịch ODA
theo giai đoạn thực hiện và chu kỳ dự án, thông qua việc thu thập ý kiến của các cơ
quan nhận tài trợ phía Việt Nam. Công trình cũng phản ánh cách nhìn nhận hay tiếng
nói của nước nhận tài trợ về những vấn đề mà họ phải đối mặt khi tiếp nhận viện trợ
không hoàn lại với một số tình huống điển hình được đưa ra. Công trình nhằm tiến
thêm một bước việc hài hòa và đơn giản hóa các thông lệ tài trợ [80].
Để góp phần cho nỗ lực tăng cường công tác quản lý dự án ODA, trong khuôn
khổ dự án “Tăng cường năng lực quản lý dự án ODA thông qua phân cấp”, năm 2003,
17
Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) và Bộ Tài Chính xuất bản cuốn Sổ tay Hướng dẫn
quản lý các vấn đề tài chính trong Dự án ODA nhằm hỗ trợ nghiệp vụ cho các cán bộ
quản lý tài chính hoặc có liên quan đến dự án ODA, tư vấn trong nước và quốc tế tham
khảo, tra cứu, tìm hiểu về các thủ tục quy định của nhà tài trợ và chính phủ liên quan đến
dự án mình thực hiện, đặc biệt là đối với các dự án phân cấp mạnh cho cơ sở [43].
Bộ KH&ĐT đã cùng với ADB xây dựng các cuốn “Cẩm nang hướng dẫn chuẩn
bị và thực hiện dự án nguồn vốn ODA do ADB tài trợ tại Việt Nam” vào năm 2002 và
được tiếp tục sửa đổi và cập nhật quy định và thủ tục vào năm 2004 và năm 2009.
Cẩm nang được biên soạn trên cơ sở các quy định và thủ tục của Chính phủ Việt Nam
và ADB về quản lý dự án ODA cũng như những kinh nghiệm và bài học rút ra trong
quá trình thực hiện các chương trình và dự án ODA. Cuốn cẩm nang đề cập đến các
giai đoạn khác nhau của chu trình dự án, từ xác định và chuẩn bị dự án đến thực hiện
và chuyển giao dự án. Các cán bộ quản lý chương trình và dự án do ADB tài trợ được
khuyến khích sử dụng cuốn cẩm nang này như một công cụ tham khảo hữu ích để hiểu
rõ về các quy trình xử lý và thực hiện dự án của Chính phủ Việt Nam và ADB. Tuy
nhiên, nhiều văn bản pháp luật của Việt Nam (ví dụ như Nghị định 131/2006/NĐ-CP)
mang so sánh với ADB trong cẩm nang này đã được sửa đổi nên không còn phù hợp
với tình hình hiện nay [4].
Báo cáo đánh giá hiệu quả danh mục đầu tư quốc gia năm 2014 (P-CPPR)
của một nhóm nghiên cứu của WB đánh giá các dự án ODA của nhà tài trợ WB cho
Việt Nam năm 2014 trong Chương trình Đánh giá Hiệu quả Danh mục Đầu tư Quốc
gia (P-CPPR) - một chương trình đánh giá được thực hiện trong vòng ba năm, bắt đầu
từ năm tài chính 2013 với mục tiêu “Cải thiện hiệu quả hoạt động để đẩy nhanh đạt kết
quả”. Báo cáo đánh giá tình hình thực hiẹ n danh mục đầu tu, tiến đọ của Kế hoạch
hành đọng giải ngân, các vấn đề liên quan đến Ban quản lý dự án (PMU). Qua đánh
giá hoạt đọng danh mục đầu tu đã cho thấy tính chủ đọng và minh bạch của Việt Nam
vẫn tụt hạ u so với các nu ớc khác trong khu vực; các dự án có vấn đề có xu huớng
chạ m cải thiẹ n hon nhiều so với các dự án có vấn đề của các nuớc khác; chất luợng dự
án kém là do các yếu tố nhu thiết kế quá phức tạp, khung kết quả yếu kém và chạ m trễ
trong viẹ c thực hiẹ n các hành đọng khắc phục hạ u quả. Báo cáo cũng cho rằng, tình
hình thực hiện của các dự án giao thông, và phát triển đô thị không được như mong
đợi. Vấn đề lớn cản trở quá trình thực hiện dự án là việc phân bổ vốn đối ứng cho công
tác thu hồi đất và tái định cư, quy trình phê duyệt công tác đấu thầu của chính phủ quá
18
phức tạp, dự án thiếu tính sẵn sàng, và năng lực và thẩm quyền quyết định của PMU
chưa đáp ứng. Mọt loạt các nghiên cứu và họi thảo về cách thức tổ chức PMU ở địa
phuong đã khoi gợi cho mọt số địa phuong bắt đầu sát nhạ p nhiều PMU nhỏ lẻ thành
mọt PMU chung hoạ c sử dụng lại những PMU truớc đây cho các dự án mới. Báo cáo
này của nhóm nghiên cứu của WB đã giúp tham vấn các bộ ban ngành để giải quyết
các vướng mắc đối với quá trình chuẩn bị và thực hiện và nâng cao năng lực cho các
PMU cấp địa phương [51].
Cuốn sách của tác giả Lê Xuân Bá, Phân cấp quản lý ODA ở Việt Nam- Chính
sách và thực hiện ở địa phương, xuất bản năm 2008 đã nghiên cứu tổng quan về thu
hút và sử dụng ODA giai đoạn 1993-2006, đề cập thực trạng của chính sách phân cấp
quản lý ODA của các nhà tài trợ, của một số địa phương ở Việt nam. Cuốn sách cung
cấp một gợi ý quan trọng khi nghiên cứu các khía cạnh liên quan đến nội dung QLNN
về ODA. Tác giả chỉ ra mối quan hệ giữa công tác phân cấp của QLNN với hiệu quả
viện trợ. Phân cấp là một phương tiện, một công cụ quản lý, tạo điều kiện cho chính
quyền địa phương các cấp và cộng đồng tham gia vào việc xây dựng, thực hiện, giám
sát các dự án sử dụng viện trợ. Việc địa phương có nhiều quyền quyết định hơn đối với
dự án trên địa bàn sẽ có tác động tới hiệu quả viện trợ ở tất cả các khâu. Vì lẽ đó, các
nhà tài trợ quốc tế đặc biệt quan tâm đến vấn đề phân cấp quản lý ODA ở các nước
đang phát triển như nước ta [1].
Bên cạnh các tác phẩm trên cũng có các luận văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ
nghiên cứu QLNN đối với vốn ODA như Luận văn thạc sỹ kinh tế của Đinh Thị Mai
Hương, Đại học Ngoại thương “Cho vay lại nguồn vốn ODA ở Việt Nam” năm 2007
đã đánh giá thực trạng và đưa ra giải pháp cho vay lại nguồn vốn ODA ở nước ta trên
cơ sở nghiên cứu tình hình thu hút và sử dụng ODA trong giai đoạn 1993 – 2005.
Luận án tiến sỹ kinh tế của Nguyễn Thị Hoàng Oanh, Những giải pháp chủ
yếu nhằm hoàn thiện công tác quản lý vốn ODA trong lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ
tầng trên địa bàn Hà nội, Đại học Thương mại, Hà nội lại tập trung nghiên cứu công
tác quản lý vốn ODA trong xây dựng kết cấu hạ tầng ở phạm vi một địa phương cụ
thể. Luận án đã phân tích đánh giá thực trạng công tác quản lý nguồn vốn ODA trong
xây dựng KCHT đô thị trên địa bàn Hà Nội, chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế
vướng mắc và để xuất giải pháp [54].
Gần nhất với đề tài nghiên cứu là Luận án tiến sỹ kinh tế của Lê Ngọc Mỹ
Hoàn thiện Quản lý nhà nước về vốn ODA tại Việt Nam, Trường Đại học Kinh tế quốc
19
dân, Hà nội vào năm 2005.
Ở chương 1, luận án này đã cung cấp một số lý luận QLNN về vốn ODA ở
mức khá đơn giản. Chương 2, tác giả tập trung nhiều vào thực trạng thu hút và sử dụng
vốn ODA ở Việt Nam, chiếm khoảng 40 trang. Trong khi đó, phần thực trạng QLNN
về vốn ODA là nội dung chính của luận án, tác giả chỉ tập trung phân tích chủ yếu ở hệ
thống văn bản pháp luật liên quan đến vốn ODA; cơ cấu bộ máy QLNN về vốn ODA
ở Việt Nam với chỉ 14 trang. Tác giả trình bày khá chi tiết về chức năng nhiệm vụ của
các cơ quan quản lý mà điều này đã được quy định trong Nghị định 17/NĐ - CP ban
hành năm 2001 về Quy chế Quản lý và sử dụng ODA về thu hút và sử dụng ODA. Tuy
nhiên, những đánh giá mang tính khái quát về các nội dung QLNN về vốn ODA, chưa
nghiên cứu cụ thể, sâu sắc trên các mặt của nội dung QLNN như thẩm định, phê duyệt;
theo dõi đánh giá dự án, phân cấp quản lý ODA, giám sát đánh giá vốn ODA…[41].
Chương 3, tác giả đưa ra các quan điểm của Đảng về thu hút ngoại lực, trong
đó có vốn ODA để phát triển kinh tế xã hội, phương hướng thu hút sử dụng và QLNN
về ODA và một số biện pháp hoàn thiện QLNN về vốn ODA như: nâng cao nhận thức
về vốn ODA, hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng quy hoạch tổng thể về thu hút
và sử dụng vốn ODA, xác nhận đúng các nhà tài trợ và linh hoạt trong hình thức tiếp
nhận ODA, mở rộng danh mục dự án thu hút và sử dụng ODA, nâng cao năng lực xây
dựng dự án và giải ngân ODA... [41]. Tuy nhiên, luận án đã thực hiện cách đây một
thời gian tương đối dài (11 năm) và chỉ nghiên cứu QLNN về vốn ODA trong tất cả
các lĩnh vực thu hút và sử dụng vốn ODA ở nước ta, chưa tập trung đi sâu vào lĩnh vực
KCHTKT.
Tại Hội thảo Khoa học quốc tế “ Đánh giá 20 năm huy động và sử dụng ODA
của Việt Nam” năm 2015, Nguyễn Mạnh Tiến có bài Đánh giá về chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước trong huy động và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển
ODA trong phát triển kinh tế xã hội. Bài tham luận tập trung đánh giá về vai trò của
Quốc hội Việt Nam trong công tác xây dựng và giám sát thực hiện pháp luật liên quan
đến việc huy động và sử dụng ODA. Bài viết đưa ra nhận định khá xác đáng rằng: môi
trường pháp luật về ODA của Việt Nam chưa đồng bộ, tản mạn, chồng chéo và chưa
ổn định; các hoạt động giám sát thực hiện pháp luật về quản lý và sử dụng ODA chưa
được tiến hành định kỳ thường xuyên, liên tục [64].
Trong Hội thảo này, Ủy ban nhân dân (UBND) thành phố Đà Nẵng cũng có bài
tham luận Phối hợp giữa các bộ ngành, địa phương trong huy động và sử dụng vốn
20
ODA và vốn vay ưu đãi nước ngoài. UBND thành phố Đà Nẵng cho rằng, thành phố
đã nhận được sự ủng hộ từ các cơ quan trung ương thông qua việc chấp nhận chủ
trương cho Đà Nẵng tiếp nhận một số dự án ODA có ý nghĩa lớn với thành phố. Tuy
nhiên, Đà Nẵng cũng nêu lên không ít vướng mắc gặp phải trong công tác QLNN,
đứng từ góc nhìn của một địa phương trong bộ máy quản lý, như: sự phối hợp giữa các
bên liên quan chưa chặt chẽ, khó khăn trong thẩm định hồ sơ đấu thầu do sự khác biệt
thủ tục đấu thầu của Việt Nam và nhà tài trợ, thời gian phê duyệt của các cấp kéo dài,
đặc biệt là từ các bộ ngành trung ương, gây chậm trễ trong triển khai dự án [77].
Bài viết “Phương pháp tiếp cận ngành trong cơ chế hỗ trợ vốn ODA và khả
năng áp dụng hiệu quả để quản lý đầu tư dự án giao thông đường bộ ở Việt Nam” của
Nguyễn Hồng Thái, Bùi Thị Hoàng Lan đăng trên tạp chí Kinh tế và phát triển số 177
năm 2012 viết về phương pháp tiếp cận ngành là một phương pháp đã được áp dụng ở
nhiều quốc gia trên thế giới khi tiếp cận với nguồn vốn ODA. Phương pháp này được áp
dụng nhiều trong các lĩnh vực KCHT xã hội và trong KCHTKT ở việc xây dựng và bảo
trì phát triển đường giao thông nông thôn. Tuy nhiên, ở Việt Nam, phương pháp tiếp cận
ngành chưa được áp dụng rộng rãi, mà chủ yếu được quản lý theo phương pháp tập
trung từng dự án, mặc dù đặc điểm của các dự án trải dài trên nhiều vùng lãnh thổ và
rộng khắp cả nước. Bài viết cũng chỉ ra những nhược điểm trong phương pháp quản lý
hiện tại như thủ tục ban đầu kéo dài, tính chủ động và phân cấp trách nhiệm của địa
phương thấp, tiêu chuẩn kỹ thuật cứng nhắc và chi phí đầu tư lớn... Bài viết phân tích
khả năng áp dụng phương pháp tiếp cận ngành là khả thi và mang lại hiệu quả thiết thực
trong quản lý các dự án đầu tư phát triển giao đường bộ ở Việt Nam [60].
Bài viết Nâng cao hiệu quả quản lý đầu tư xây dựng công trình thuỷ lợi sử dụng
vốn ODA của Nguyễn Hữu Huế, Đạ ng Công Toàn (2014), trên tạp chí Khoa học Kỹ
thuật Thuỷ lợi và Môi trường. Các tác giả cho rằng vốn ODA có vai trò quan trọng,
góp phần nâng cấp các hẹ thống công trình thủy lợi, phục vụ phát triển nông nghiẹ p và
các ngành kinh tế - xã họi khác. Viẹ c quản lý dự án sử dụng vốn ODA đã có những
tiến bọ nhất định và đạt hiẹ u quả rõ rẹ t, tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề bất cạ p trong
các dự án ODA thuỷ lợi như: số lượng PMU quá nhiều nhưng hiệu quả không cao, tình
hình dự án chậm ở nhiều khâu, theo dõi đánh giá còn nhiều hạn chế, chồng chéo trong
thủ tục chuẩn bị và triển khai đầu tư. Bài viết cũng đề xuất một số giải pháp như xây
dựng đề án thu hút và sử dụng vốn ODA trong lĩnh vực thủy lợi, áp dụng mô hình
quản lý dự án ODA phù hợp, tính chuyên nghiẹ p cao, cần chú ý na ng lực chuyên môn,
21
đào tạo đọ i ngũ cán bọ [31].
Bản tin ODA số 36 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư có bài viết “Thực trạng hệ
thống theo dõi và đánh giá ODA của Việt Nam và phát triển hệ thống trong tương
lai”. Bài viết đã nêu một số mặt đạt được cũng như hạn chế trong việc xây dựng và
triển khai hệ thống theo dõi đánh giá ODA tại Việt Nam và cách thức để củng cố hệ
thống này trong thời gian tới. Công tác này trước đây chủ yếu do nhà tài trợ thực hiện,
phía Việt Nam buông lỏng thì giờ đây mặc dù hệ thống này đã có những bước tiến
nhất định, song về mặt thể chế, chúng ta vẫn chưa có chế tài đủ mạnh để đảm bảo việc
tuân thủ nghiêm túc chế độ báo cáo. Những tồn tại của thiết kế kỹ thuật đã hạn chế
khả năng kê khai thông tin, khả năng tạo lập cơ sở dữ liệu và tiếp cận thông tin của các
bên liên quan đến dự án ODA [5].
Trên tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 7 năm 2011 có đăng bài của Nguyễn Đoan
Trang, Hài hòa hóa quản lý các dự án ODA ở Việt Nam, hay bài Diễn biến ODA vào
Việt Nam trong khủng hoảng tài chính toàn cầu và lựa chọn chính sách của Phạm Thị
Túy đăng trên Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 391 năm 2010... Những bài viết này đã
mô tả và đánh giá thực trạng QLNN về vốn ODA ở những góc cạnh khác nhau, xoay
quanh những vướng mắc, tồn tại trong các khâu của quá trình quản lý vốn ODA ở
nước ta, đồng thời cũng đề xuất một số giải pháp để nguồn vốn này đóng góp đắc lực
hơn vào công cuộc phát triển kinh tế xã hội, xóa đói giảm nghèo bền vững ở nước ta.
1.3. NHẬN XÉT CHUNG VỀ KẾT QUẢ CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ NGHIÊN
CỨU VÀ KHUNG PHÂN TÍCH CỦA LUẬN ÁN
1.3.1. Nhận xét chung về kết quả các công trình đã nghiên cứu
Nhìn chung, qua khảo sát các công trình nghiên cứu trên thế giới và trong nước,
có thể thấy, có rất nhiều công trình nghiên cứu về tình hình thu hút và sử dụng vốn
ODA như các báo cáo của các tổ chức quốc tế như WB, OECD…; các báo cáo của Bộ
KH&ĐT, đặc biệt là các ấn phẩm xuất bản nhân dịp kỷ niệm 20 năm Việt Nam tiếp
nhận vốn ODA từ các nhà tài trợ quốc tế của cơ quan này; các sách chuyên khảo và
các bài viết của nhiều tác giả trong và ngoài nước… Nghiên cứu về thu hút và sử dụng
vốn ODA cũng có một số luận án tiến sỹ kinh tế như: Luận án của Vũ Thị Kim Oanh,
Đại học Ngoại thương năm 2002: Những giải pháp chủ yếu nhằm sử dụng có hiệu quả
nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) tại Việt Nam, luận án của Tôn Thanh
Tâm, Đại học Kinh tế quốc dân, Hà nội năm 2004: Giải pháp nâng cao hiệu quả quản
lý vốn ODA tại Việt nam,…
22
Một số công trình nghiên cứu về thu hút và sử dụng ODA trong lĩnh vực
KCHTKT, nhưng lại chưa tiếp cận ở góc độ QLNN như luận án của Phạm Thị Túy
năm 2008, Thu hút và sử dụng ODA vào phát triển hạ tầng ở Việt Nam, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, hoặc chỉ tiếp cận ở góc độ quản lý của một địa
phương như luận án của Nguyễn Thị Hoàng Oanh: Những giải pháp chủ yếu nhằm
hoàn thiện công tác quản lý vốn ODA trong lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng trên địa
bàn Hà nội, Đại học Thương mại, Hà nội…
Nghiên cứu QLNN về vốn ODA trong xây dựng KCHTKT tại Việt Nam cũng
có nhiều công trình, bài viết nhưng chỉ dừng lại ở việc đề cập được những khía cạnh,
những mặt riêng lẻ như phân cấp quản lý ODA, theo dõi đánh giá dự án ODA, hài hòa
thủ tục quản lý ODA... Luận án của Lê Ngọc Mỹ Hoàn thiện Quản lý nhà nước về vốn
ODA tại Việt Nam, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà nội vào năm 2005 đã nghiên
cứu QLNN về ODA nhưng đã khá lâu, cách đây hơn chục năm, đến nay, đã có nhiều
thay đổi so với thời gian đó và như đã phân tích ở trên, luận án này chưa đi sâu phân
tích các nội dung QLNN ngoại trừ hệ thống pháp luật và bộ máy quản lý, và cũng chưa
đi sâu nghiên cứu cho lĩnh vực KCHTKT.
Nhìn chung, các công trình đã có những đóng góp nhất định ở các khía cạnh
khác nhau như: làm rõ tình hình thu hút và sử dụng vốn ODA, KCHTKT... QLNN đối
với vốn ODA cũng đã được các công trình trên đề cập đến ở những mức độ khác nhau,
nhưng chưa giải quyết thấu đáo và cũng chưa xem xét đi sâu vào lĩnh vực KCHTKT.
Nghiên cứu toàn diện mọi khía cạnh của QLNN về vốn ODA trong xây dựng
KCHTKT về cả lý luận và thực tiễn tại Việt Nam là vấn đề còn đang bỏ trống.
1.3.2. Khung phân tích của luận án
Với kết quả của các nghiên cứu trước đây, luận án sẽ cố gắng đi sâu khắc phục
những hạn chế trên, đưa ra một nghiên cứu tương đối toàn diện về QLNN đối với vốn
ODA trong xây dựng KCHTKT ở Việt Nam. Nghiên cứu của luận án hướng tới việc
hệ thống hóa và bổ sung về:
- Hệ thống hoá và bổ sung về cơ sở lý luận và thực tiễn QLNN đối với vốn ODA
trong xây dựng KCHTKT, làm rõ khái niệm, tầm quan trọng, nội dung, các nhân tố
ảnh hưởng và các tiêu chí đánh giá QLNN đối với vốn ODA trong xây dựng
KCHTKT.
- Phân tích và đánh giá thực trạng QLNN đối với vốn ODA trong xây dựng
KCHTKT, tìm ra những thành tựu đạt được, hạn chế và nguyên nhân.
23
- Đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện QLNN đối với vốn ODA trong xây dựng
KCHTKT của Việt Nam trong thời gian tới.
Với hướng nghiên cứu đó, khung phân tích của luận án dựa trên các nội dung của
công tác QLNN. Đây là những công việc mà nhà nước thực hiện để tiến hành quản lý
vốn ODA trong xây dựng KCHTKT. Các nội dung bao gồm:
- Xây dựng quy hoạch, kế hoạch thu hút và sử dụng ODA, vận động ODA cho
xây dựng KCHTKT.
- Ban hành hệ thống pháp luật chính sách về vốn ODA trong xây dựng
KCHTKT.
- Xây dựng, tổ chức và vận hành bộ máy QLNN đối với vốn ODA trong xây
dựng KCHTKT.
- Bố trí vốn đối ứng cho các chương trình dự án ODA trong xây dựng KCHTKT.
- Thẩm định, phê duyệt các chương trình dự án ODA trong xây dựng KCHTKT.
- Đánh giá giám sát việc thu hút và sử dụng vốn ODA trong xây dựng KCHTKT.
Các nội dung trên được mô tả khái quát trong khung phân tích sau:
Các nội dung trên sẽ được cụ thể hoá ở chương 2 của luận án với những phân
tích nội hàm của từng nội dung QLNN đối với vốn ODA trong xây dựng KCHTKT.
Bố trí
vốn đối ứng
Ban hành pháp
luật, chính sách
Lập quy hoạch,
kế hoạch, vận động vốn
ODA
Quản lý nhà nước đối với vốn ODA trong
xây dựng KCHTKT
Thẩm định
phê duyệt
Đánh giá,
giám sát
Xây dựng, tổ chức và
vận hành bộ máy
quản lý
Nguồn: Tác giả tự xây dựng
Hình 1.1: Khung phân tích QLNN trong xây dựng KCHTKT
24
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI VỐN ODA TRONG XÂY DỰNG KẾT CẤU HẠ TẦNG KINH TẾ
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VỐN ODA
TRONG XÂY DỰNG KẾT CẤU HẠ TẦNG KINH TẾ
2.1.1. Tổng quan về vốn ODA và Kết cấu hạ tầng kinh tế
2.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại vốn ODA
* Khái niệm vốn Vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
Hỗ trợ phát triển chính thức (Oficial Development Assistance - ODA) ra đời
vào những năm sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, bắt nguồn từ Kế hoạch viện trợ
Marshall Plane và tiếp đó là Hội nghị Cô-lôm-bô (1955), hình thành những ý tưởng và
nguyên tắc đầu tiên về hợp tác phát triển dựa trên cơ sở nguồn lực ODA. Tổ chức hợp
tác Châu Âu, tiền thân của tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển OECD ngày nay, đã
cung cấp viện trợ cho các nước đang và chậm phát triển, qua đó giúp các nước này
nâng cao hiệu quả đầu tư và phát triển kinh tế. Từ đó, hoạt động viện trợ được nhân
rộng từ các nước Châu Âu sang toàn bộ các nước còn lại trên thế giới thuộc Châu Á,
Châu Phi, Châu Mỹ La Tinh...
Năm 1972, lần đầu tiên tổ chức OECD đưa ra khái niệm về ODA như sau: “
ODA là một giao dịch chính thức được thiết lập với mục đích là thúc đẩy sự phát triển
kinh tế xã hội của các nước đang phát triển. Điều kiện tài chính của các giao dịch này
có tính chất ưu đãi và thành tố viện trợ không hoàn lại chiếm ít nhất là 25%” [45].
Đến năm 1999, WB có đưa ra khái niệm về ODA trong Báo cáo Nghiên cứu
chính sách: “ODA là một phần của tài trợ phát triển chính thức (ODF), trong đó có yếu
tố viện trợ không hoàn lại cộng với cho vay ưu đãi và phải chiếm 25% trong tổng viện
trợ thì gọi là ODA” [45, tr.7]. Trong đó ODF là tất cả các nguồn tài chính mà chính
phủ các nước phát triển và các tổ chức đa phương dành cho các nước đang phát triển.
Theo UNDP trong Báo cáo Tổng quan Viện trợ phát triển chính thức tại Việt
Nam năm 2002, đưa ra khái niệm ODA: “ODA bao gồm tất cả các khoản viện trợ
không hoàn lại và các khoản cho vay đối với các nước đang phát triển, cụ thể là (i) do
khu vực chính thức thực hiện; (ii) chủ yếu nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế và phúc
lợi, (iii) cung cấp với các khoản ưu đãi về mặt tài chính (nếu là vốn vay thì phải có
phần không hoàn lại ít nhất là 25%)” [20].
Ở Việt Nam, khái niệm ODA lần đầu tiên được đề cập đến trong Nghị định
25
17/2001/NĐ-CP ban hành ngày 4/5/2001 về Quy chế Quản lý và sử dụng Nguồn vốn
Hỗ trợ phát triển chính thức. Sau đó ODA được quy định trong Nghị định
131/2006/NĐ-CP ban hành ngày 9/11/2006 về Quy chế Quản lý và sử dụng Nguồn
vốn Hỗ trợ phát triển chính thức (Nghị định thay thế Nghị định 17/2001/NĐ-CP)
Khái niệm vốn ODA trong luận án được xác định theo quy định hiện hành của
pháp luật Việt nam. Hiện nay, vốn ODA được điều chỉnh bởi Nghị định số
38/2013/NĐ-CP ban hành ngày 23/4/2013 về Quy chế Quản lý và sử dụng Nguồn vốn
Hỗ trợ phát triển chính thức ODA và các nguồn vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ.
Nghị định này quy định:
ODA bao gồm ODA viện trợ không hoàn lại và ODA vốn vay:
a) ODA viện trợ không hoàn lại là hình thức cung cấp ODA không phải hoàn
trả lại cho nhà tài trợ;
b) ODA vốn vay là hình thức cung cấp ODA phải hoàn trả lại cho nhà tài trợ
với các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời gian ân hạn và thời gian trả nợ, bảo
đảm yếu tố không hoàn lại đạt ít nhất 35% đối với các khoản vay có ràng buộc
và 25% đối với các khoản vay không ràng buộc [17].
* Các đặc điểm chủ yếu của vốn ODA
- Thứ nhất, ODA là nguồn vốn có tính ưu đãi
Với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển, ODA mang tính ưu đãi hơn bất
cứ một nguồn tài trợ nào khác, thể hiện khối lượng vốn vay lớn từ hàng chục đến hàng
trăm triệu USD. Thông thường, ODA có một phần viện trợ không hoàn lại, phần này
dưới 25% tổng số vốn vay. Ví dụ, OECD cho không 20 - 25% tổng vốn ODA. Các
khoản vay thường có lãi suất thấp, thậm chí không có lãi suất. Ví dụ như lãi suất của
ADB là 1%/năm, của WB là 0,75%/năm, Nhật thì tuỳ theo từng dự án cụ thể trong
năm tài khóa. Ví dụ năm 97- 2000 thì lãi là 1,8%/năm.
Thời gian cho vay (hoàn trả toàn bộ vốn) dài, thường từ 20 đến 50 năm. Thời
gian hoàn trả vốn của Nhật Bản là 30 năm, của ADB và WB là 40 năm. Thời gian ân
hạn (chỉ phải trả lãi, chưa phải trả gốc) dài. Thời gian ân hạn thường là 10 năm v.v...
- Thứ hai, ODA thường đi kèm các điều kiện ràng buộc
Thực chất, ODA là sự chuyển giao có hoàn lại hoặc không hoàn lại một phần
tổng sản phẩm quốc dân (GNP) từ các nước giàu chuyển sang các nước nghèo trong
một số điều kiện nhất định. Vì vậy, bên cạnh tính ưu đãi, ODA còn thể hiện tính chất
ràng buộc nhất định. Những ràng buộc này có thể chứa đựng những nội dung chính trị,
kinh tế, xã hội.
26
+ ODA gắn với các điều kiện chính trị: ODA là một trong những phương tiện
để thực hiện ý đồ chính trị của nước cấp viện trợ đối với nước nhận viện trợ. Ví dụ,
trong thời kỳ chiến tranh lạnh ODA dùng để lôi kéo thêm đồng minh. ODA cũng chịu
ảnh hưởng bởi các quan hệ sẵn có của bên cấp và bên nhận viện trợ. Các nước thường
cấp viện trợ cho bạn chính trị và đồng minh quân sự. Hoặc nó có thể là sự gần gũi về
vị trí địa lý. Ví dụ, Nhật cấp viện trợ nhiều cho các nước Châu Á, còn viện trợ của Mỹ
dành cho Trung Đông.
+ ODA gắn với điều kiện kinh tế
Thực ra, các nước cấp viện trợ đều không quên mưu cầu lợi ích cho mình. Họ
gắn quỹ viện trợ với việc mua hàng hoá và dịch vụ của nước họ như là một biện pháp
tăng cường khả năng làm chủ thị trường xuất khẩu và giảm bớt tác động của viện trợ
đối với cán cân thanh toán. Các nước như Bỉ, Đức và Đan Mạch yêu cầu khoảng 50%
viện trợ phải mua hàng hoá và dịch vụ của nước mình. Tính chung trong toàn khối
DAC là 22% viện trợ phải được sử dụng để mua hàng hoá và dịch vụ của quốc gia
viện trợ.
Mặt khác, thông thường nước tiếp nhận không có quyền lựa chọn đồng tiền để
vay ODA, mà do bên cấp ODA quy định. Chẳng hạn chính phủ Nhật quy định chỉ cho
vay bằng đồng yên Nhật (JPY). Vì vậy, nước tiếp nhận viện trợ có thể phải chịu rủi ro
tỷ giá của đồng tiền viện trợ. Nếu đồng tiền viện trợ tăng giá so với đồng tiền của nước
nhận viện trợ thì nước này sẽ phải trả thêm một khoản nợ bổ sung do chênh lệch tỷ giá
tại thời điểm vay và thời điểm trả nợ.
Ngoài những ràng buộc thì muốn vay ODA, các nước nhận viện trợ cũng phải
thỏa mãn các điều kiện mà nhà tài trợ đưa ra. Cụ thể như sau:
Điều kiện 1: Tình hình phát triển kinh tế xã hội của từng quốc gia, trong đó cơ
bản chủ yếu nhất là tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Thông thường những nước đang
phát triển có mức thu nhập bình quân đầu người một năm thấp hơn mức tối thiểu mới
có đủ tiêu chuẩn vay ODA. Thường thì yêu cầu của các cơ quan cấp ODA đặt ra cho
nước nhận ODA về mức GDP này là khác nhau. Mức tối thiểu này được điều chỉnh
theo thời gian và tuỳ vào chính sách của từng tổ chức tài trợ. Nước có GDP bình quân
đầu người càng thấp thì càng được hưởng nhiều ưu đãi của khoản vốn ODA.
Điều kiện 2: Mục tiêu sử dụng vốn của các nước đang và chậm phát triển phải
phù hợp với chính sách và phương hướng ưu tiên của các nhà tài trợ. Các nhà tài trợ
thường có những chính sách và những ưu tiên riêng về một số lĩnh vực hoặc đối tượng
cấp ODA và có sự thay đổi thay đổi theo từng giai đoạn cụ thể. Ví dụ WB, Nhật
27
thường ưu tiên cho lĩnh vực giao thông, năng lượng điện, vệ sinh môi trường. Chính vì
vậy các nước đang phát triển đều nắm bắt cơ hội bằng cách căn cứ vào định hướng ưu
tiên của nhà tài trợ làm cơ sở cho chiến lược kêu gọi và sử dụng ODA của mình.
- Thứ ba, ODA là nguồn vốn có khả năng gây nợ
Khi tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn ODA gánh nặng nợ nần thường không
thấy ngay do các dự án có thời gian thu hồi vốn chậm, không có khả năng đầu tư trực
tiếp vào sản xuất, nhất là cho xuất khẩu trong khi việc trả nợ lại chủ yếu dựa vào xuất
khẩu thu ngoại tệ.
Thực tế nhiều nước sử dụng nguồn vốn này không hiệu quả dẫn đến tình trạng
nợ nước ngoài chồng chất và ngày càng mất khả năng thanh toán như Mehico, Braxin,
Peru, Achentina. Vào năm 1982, thế giới lần đầu tiên biết đến mức độ nguy hiểm của
khủng hoảng nợ nước ngoài. Và đến cuối năm 1995, đầu năm 1996 lại bùng nổ khủng
hoảng nợ lần 2 mà một ví dụ điển hình là trường hợp Mehico. Cuối năm 1994, cán cân
thanh toán của Mehico bội chi quá lớn, Mêhico phá giá đồng Peso và lâm vào khủng
hoảng kinh tế nghiêm trọng. Cuộc khủng hoảng này được giải quyết không phải dựa
vào thay đổi kinh tế trong nước mà là vay nợ nước ngoài. Tổng cộng nước này vay nợ
ngắn hạn 47,8 tỷ USD, chủ yếu là của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Mỹ, Nhóm G10. Đây
là một sự giúp đỡ lớn nhất của IMF dành cho hội viên từ trước đến nay. Một nước chỉ
dựa vào vay nợ để phát triển kinh tế tất yếu sẽ dẫn tới vòng luẩn quẩn nguy hiểm là
vay nợ để phát triển - khủng hoảng kinh tế tiền tệ - vay nợ tiếp nhiều hơn để giải quyết
khủng hoảng - khủng hoảng kinh tế trong nước và gánh nặng nợ nần chồng chất thêm
[30, tr.85,86].
* Phân loại vốn ODA
- Phân loại theo tính chất nguồn vốn
+ Viện trợ không hoàn lại: Đây là nguồn vốn cho không của các nhà tài trợ.
Nguồn vốn này thường được cấp dưới dạng các dự án hỗ trợ kỹ thuật, các chương
trình xã hội như chương trình dinh dưỡng, nước sạch, dân số...
+ Viện trợ có hoàn lại: hay còn gọi là vốn vay ưu đãi với lãi suất thấp và thời
gian vay dài. Loại vốn vay này thể hiện ưu thế so với khoản tính dụng thương mại trên
thị trường tài chính quốc tế.
+ Viện trợ hỗn hợp: Cơ cấu của nguồn vốn bao gồm cả phần vốn hoàn lại và
không hoàn lại. Hiện nay các nhà tài trợ có xu hướng cấp vốn theo hình thức này.
- Phân loại theo hình thức sử dụng
+ Hình thức dự án đầu tư: Đây là hình thức chủ yếu và mang tính truyền thống
28
của vốn ODA, bao gồm:
+ Hỗ trợ cơ bản: thường là các công trình xây dựng cơ bản như đường sá, cầu
cống, đê đập, trường học, bệnh viện, hệ thống viễn thông.
+ Hỗ trợ kỹ thuật: thường có 3 phần: Cung cấp chuyên gia, đào tạo cán bộ, cung
cấp trang thiết bị. Tỷ trọng các khoản hỗ trợ kỹ thuật thường chiếm khoảng 20% tổng
vốn ODA. Trên thực tế có dự án kết hợp cả hai loại hình hỗ trợ trên.
(i) Hình thức chương trình: Hình thức này còn gọi là hình thức viện trợ phi dự
án, nhà tài trợ cung cấp một khối lượng ODA cho một mục đích tổng quát với thời hạn
nhất định như Chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, Chương
trình dân số và sức khoẻ sinh sản của UNFPA chu kỳ 1996-2000…
(ii) Hình thức hỗ trợ cán cân thanh toán (hay hỗ trợ ngân sách): thường thì hình
thức này được thể hiện dưới dạng hỗ trợ tài chính trực tiếp như chuyển giao tiền tệ
nhưng đôi khi lại là hiện vật như hàng hóa hoặc hỗ trợ nhập khẩu. Ngoại tệ và hàng
hóa chuyển vào trong nước qua hình thức hỗ trợ cán cân thanh toán được chuyển hóa
thành hỗ trợ ngân sách.
- Phân loại theo đối tác cung cấp
+ Vốn ODA song phương: Là vốn ODA của Nhà nước (Chính phủ) nước này
cấp cho Nhà nước (Chính phủ) nước khác, không thông qua tổ chức thứ ba.
+ Vốn ODA đa phương: là vốn ODA do nhiều thành viên góp vốn thông qua
các tổ chức quốc tế (WB, UN, v.v...) hay tổ chức khu vực (ADB, Liên minh châu Âu
EU, v.v...) hoặc của chính phủ một nước dành cho chính phủ của một nước khác
nhưng được thực hiện thông qua các tổ chức đa phương.
- Phân loại ODA theo điều kiện
+ ODA không điều kiện: Trên thực tế, có lẽ chỉ có Thuỵ Điển là nước duy nhất
cấp ODA không điều kiện.
+ ODA có điều kiện: Ngoài Thuỵ Điển, các nước viện trợ khi cấp ODA thường
gắn với những điều kiện cụ thể về kinh tế, chính trị, v.v... ODA có điều kiện chia 2
loại:
+ ODA không ràng buộc: là việc sử dụng nguồn tài trợ không bị ràng buộc bởi
nguồn sử dụng hay mục đích sử dụng mà có thể chi tiêu ở bất kỳ lĩnh vực hay khu vực
nào.
+ ODA có ràng buộc: là bắt buộc phải chi tiêu ở cấp, ở lĩnh vực viện trợ. ODA
có thể bị ràng buộc bởi nguồn sử dụng hoặc mục đích sử dụng.
ODA bị ràng buộc bởi nguồn sử dụng: nghĩa là việc mua sắm hàng hoá, trang
29
thiết bị hay dịch vụ bằng nguồn ODA đó chỉ giới hạn cho một số công ty do nước tài
trợ sở hữu hoặc kiểm soát (đối với tài trợ song phương), hoặc các công ty của nước
thành viên (đối với viện trợ đa phương).
ODA bị ràng buộc bởi mục đích sử dụng: nghĩa là nguồn ODA cung cấp chỉ
được sử dụng cho một số lĩnh vực nhất định hoặc một số dự án cụ thể.
Ngoài ra, còn có loại ODA ràng buộc một phần, tức là một phần phải chi ở cấp
viện trợ, phần còn lại có thể chi tiêu ở các cấp khác tuỳ theo nước nhận tài trợ.
2.1.1.2. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của kết cấu hạ tầng kinh tế
*Khái niệm Kết cấu hạ tầng kinh tế
“Kết cấu hạ tầng” là một thuật ngữ được du nhập từ nước ngoài vào Việt Nam.
Có thể hiểu, kết cấu hạ tầng là toàn bộ hệ thống cơ sở vật chất, kỹ thuật được hình
thành theo một cấu trúc nhất định, đóng vai trò làm nền tảng và điều kiện chung đảm
bảo cho sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi trường và an ninh, quốc
phòng của mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ trong mỗi giai đoạn hay thời kỳ phát triển nhất
định. Kết cấu hạ tầng là một bộ phận đặc thù của cơ sở vật chất kỹ thuật trong nền
kinh tế quốc dân có chức năng nhiệm vụ cơ bản là đảm bảo những điều kiện chung cần
thiết cho quá trình sản xuất và tái sản xuất mở rộng được diễn ra thường xuyên liên tục
[81, tr.1].
Tùy theo cách tiếp cận mà kết cấu hạ tầng được phân loại như sau:
- Tiếp cận theo ý nghĩa vật chất và phi vật chất, có kết cấu hạ tầng cứng và kết
cấu hạ tầng mềm. Kết cấu hạ tầng cứng là toàn bộ cơ sở hạ tầng vật chất đảm bảo cho
phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh. Kết cấu hạ tầng mềm là toàn bộ cơ sở
luật pháp, cơ chế, chính sách, thông tin gắn với trí tuệ con người, bảo đảm phát triển
kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh.
- Tiếp cận theo lĩnh vực kinh tế - xã hội, có kết cấu hạ tầng phục vụ kinh tế, kết
cấu hạ tầng phục vụ hoạt động xã hội và kết cấu hạ tầng phục vụ an ninh - quốc phòng.
Tuy nhiên, ít có loại kết cấu hạ tầng nào chỉ phục vụ kinh tế mà lại không phục vụ hoạt
động xã hội và ngược lại.
- Tiếp cận theo khu vực dân cư, vùng lãnh thổ, có kết cấu hạ tầng đô thị và kết
cấu hạ tầng nông thôn.
- Tiếp cận theo ngành, có thể phân loại và xem xét kết cấu hạ tầng theo các
ngành, lĩnh vực của nền kinh tế như: kết cấu hạ tầng trong nông nghiệp, công nghiệp,
thương mại; kết cấu hạ tầng cung cấp năng lượng, nhiên liệu; kết cấu hạ tầng trong
giao thông vận tải, bưu chính viễn thông; trong các ngành tài chính, ngân hàng; trong
30
lĩnh vực văn hóa, y tế, giáo dục, văn hóa xã hội.
- Tiếp cận theo công dụng trực tiếp có kết cấu hạ tầng kinh tế (kỹ thuật) và kết
cấu hạ tầng xã hội. Trong tác phẩm “Phát triển kết cấu hạ tầng để bảo đảm thúc đẩy và
phát triển bền vững” của Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương và trong nhiều
công trình nghiên cứu về kết cấu hạ tầng, các tác giả thường phân chia theo cách này.
KCHT xã hội gồm các công trình như nhà ở, cơ sở khoa học, trường học bệnh
viện, công trình văn hóa thể thao... các trang thiết bị đồng bộ với chúng. KCHT xã hội
tập hợp các ngành có tính chất phục vụ xã hội, sản phẩm tạo ra thể hiện dưới hình thức
dịch vụ và thường mang tính chất công cộng.
Kết cấu hạ tầng kinh tế gồm các công trình hạ tầng kinh tế kỹ thuật như năng
lượng (điện, than, dầu khí), các công trình giao thông vận tải (đường bộ, đường sắt,
đường biển, đường sông, đường hàng không, đường ống), bưu chính viễn thông, các
công trình thủy lợi phục vụ sản xuất nông lâm ngư nghiệp [81, tr.3].
Kết cấu hạ tầng kinh tế là bộ phận quan trọng trong hệ thống kinh tế, đảm bảo
cho nền kinh tế phát triển nhanh, ổn dịnh, bền vững và là động lực thúc đẩy phát triển
nhanh hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc sống dân cư.
*Đặc điểm cơ bản của Kết cấu hạ tầng kinh tế
- KCHTKT thường là những công trình đòi hỏi vốn lớn, thời gian thu hồi vốn
chậm, lợi nhuận thấp hoặc không có lợi nhuận. Trong quá trình vận hành cần có chi
phí bảo dưỡng thường xuyên. Mặt khác mức độ rủi ro trong việc xây dựng vận hành
các công trình dự án KCHTKT cao. Thời gian thực hiện các dự án KCHTKT thường
kéo dài. Tính chất kỹ thuật của các dự án thường rất phức tạp.
- KCHTKT là những công trình cố định tại nơi xây dựng, tồn tại lâu dài với
thời gian. Phần lớn các công trình KCHTKT như đường sá, cầu cống, sân bay, bến
cảng... đều không thể di dời đến nơi khác như phương tiện kỹ thuật hay hàng hóa
thông thường khác. Tuổi thọ của các công trình KCHTKT thường vài chục năm, thậm
chí có những công trình đến hàng trăm năm. KCHTKT có giá trị về mặt kiến trúc, lịch
sử văn hóa đối với cộng đồng quốc gia, dân tộc.
- KCHTKT là những công trình chịu tác động lớn từ môi trường tự nhiên. Phần
lớn các công trình được xây dựng ở ngoài trời, chịu tác động cơ học lớn, thường
xuyên chịu ảnh hưởng của điều kiện khí hậu thời tiết, có thể là thiên tai, bão lũ... Vì
vậy các công trình KCHTKT cần có cấu trúc kỹ thuật kiên cố, bền vững mới có thể
tồn tại và sử dụng lâu dài được.
- KCHTKT là một hệ thống các công trình có liên quan mật thiết với nhau. Bản
31
thân các công trình thuộc KCHTKT có mối quan hệ khăng khít, tác động qua lại và
tính liên kết cao, bộ phận này tạo điều kiện cho bộ phận kia thì mới phát huy hiệu quả.
Vì vậy, khi tiến hành đầu tư, cần đề cao tính đồng bộ của KCHTKT thì mới tận dụng
được lợi ích của chúng.
- KCHTKT có tính chất của hàng hóa công cộng. Các công trình này không
phải của riêng ai nhưng hầu như ai cũng cần đến và không ai được giành quyền sử
dụng cho riêng mình. KCHTKT phục vụ cho nhiều ngành, nhiều người. Các công
trình này phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh và sinh hoạt của dân cư nên
được sử dụng nhiều lần, nhiều công trình sử dụng với cường độ cao.
- KCHTKT chịu ảnh hưởng của các ngành và lãnh thổ mà KCHTKT phục vụ.
Mỗi ngành có đặc điểm riêng về sản phẩm, công nghệ, mỗi vùng lại có đặc điểm riêng
về điều kiện tự nhiên, kinh tế văn hóa xã hội... Những yếu tố này đều ảnh hưởng đến
công trình KCHTKT.
*Vai trò của Kết cấu hạ tầng kinh tế
Với tính chất đa dạng và thiết thực, KCHTKT là nền tảng vật chất có vai trò
đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia cũng
như mỗi vùng lãnh thổ. KCHTKT có tác dụng với nhiều lĩnh vực từ các hoạt động
kinh tế, xã hội đến văn hóa, quốc phòng, an ninh và phục vụ cho đời sống hàng ngày
của dân cư.
Có KCHTKT đồng bộ và hiện đại, nền kinh tế mới có điều kiện để tăng trưởng
nhanh, ổn định và bền vững, nâng cao năng suất, hiệu quả và góp phần giải quyết các
vấn đề xã hội. Ngược lại, một hệ thống kết cấu hạ tầng kém phát triển là một trở lực
lớn đối với quốc gia.
Ở những nước phát triển từ những năm 50, 60 của thế kỷ trước, đầu tư vào
KCHTKT đã được rất chú trọng, tại đó, người ta nhận thấy việc phát triển KCHTKT
đã kéo theo mức giảm rõ rệt của chi phí sản xuất trong các ngành công nghiệp chế
biến ở Đức, Mỹ, Nhật Bản... Và chính vì mục tiêu giảm chi phí vận chuyển mà nhà
chức trách các bang của Mỹ đã sẵn sàng chi tới 3/4 số đầu tư của họ cho hệ thống
đường giao thông; tại Nhật Bản từ năm 1895 đến 1910 có tới 60% đến 70% tổng vốn
đầu tư của nhà nước là dành cho xây dựng KCHTKT v.v... [72, tr.15].
Ở nhiều nước đang phát triển hiện nay, KCHT thiếu và yếu đã gây ứ đọng
trong luân chuyển các nguồn lực, khó hấp thụ vốn đầu tư, ảnh hưởng trực tiếp đến tăng
trưởng kinh tế. Có thể nói, trình độ phát triển của KCHT có ảnh hưởng quyết định đến
trình độ phát triển kinh tế của đất nước. Chính vì vậy, đầu tư cho phát triển KCHT
32
thường chiếm khoảng 20% tổng vốn đầu tư và chiếm từ 40-60% đầu tư công ở hầu hết
các nước đang phát triển. Tính trung bình, lượng đầu tư này chiếm 4% GDP của các
nước đang phát triển, cá biệt có nước chiếm hơn 10% [81, tr.4].
Với tác động quan trọng mà KCHTKT có thể mang lại, trong quá trình xây
dựng cũng như vận hành, các nhà nước cần chú trọng xây dựng và phát triển
KCHTKT, quan tâm đầy đủ các khía cạnh tác động của KCHTKT, QLNN phải có
tính toàn diện thì mới có thể mang lại hiệu quả thiết thực của công trình dự án
KCHTKT.
2.1.2. Khái niệm quản lý nhà nước đối với vốn ODA trong xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế
2.1.2.1. Khái niệm Quản lý nhà nước
Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý lên đối
tượng và khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực, các thời cơ
của tổ chức để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện môi trường luôn biến động [37,
tr.12,13].
Quản lý ở quy mô khác nhau thì tính chất của quản lý cũng khác nhau. Quản lý
ở một đơn vị kinh doanh thì gọi là quản trị kinh doanh, quản lý ở phạm vi quốc gia thì
được gọi là quản lý nhà nước. Quản lý nhà nước là một trong những nhân tố cơ bản
quyết định sự thành bại của công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế mỗi quốc gia.
QLNN bao gồm các yếu tố: chủ thể quản lý, đối tượng quản lý và khách thể
quản lý và quan hệ giữa chúng. Chủ thể quản lý làm nảy sinh các tác động quản lý; đối
tượng quản lý chịu tác động của chủ thể quản lý, phục tùng chủ thể để có thể tạo ra các
sản phẩm theo mong muốn của chủ thể quản lý.
Trong QLNN, mối quan hệ giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý là mối
quan hệ quyền lực trực thuộc, là thứ bậc quản lý; cấp dưới phải phục tùng cấp trên
theo quy định của pháp luật. Đây là sự khác nhau giữa chủ thể của QLNN với các loại
chủ thể không sử dụng quyền lực nhà nước [34, tr.68].
Đối với QLNN, Nhà nước đóng vai trò là chủ thể quản lý. Đây là một hệ thống
các cơ quan quản lý từ Trung ương đến địa phương, gắn với cơ chế quản lý tương ứng,
thực hiện các chức năng quản lý các quá trình kinh tế xã hội ở các cấp khác nhau.
Trong lĩnh vực kinh tế, đối tượng quản lý của QLNN là nền kinh tế quốc dân
với nhiều lĩnh vực, nhiều ngành, nhiều thành phần kinh tế ... Đây là một hệ thống rất
động và phức tạp đòi hỏi hệ thống cơ quan quản lý phải luôn tự đổi mới thì mới có khả
năng giải quyết vấn đề mà quá trình phát triển kinh tế đặt ra. Nếu chủ thể quản lý hoạt
33
động một cách tích cực, có hiệu lực thì đối tượng quản lý phát triển hiệu quả.
Có thể nói, quản lý nhà nước là sự tác động có tổ chức, bằng pháp quyền của
nhà nước lên toàn bộ hoạt động kinh tế xã hội nhằm đạt được các mục tiêu đặt ra, trên
cơ sở sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước trong điều kiện mở cửa
và hội nhập.
2.1.2.2. Khái niệm Quản lý nhà nước đối với vốn ODA trong xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế
Đối với vốn ODA trong xây dựng KCHTKT, QLNN giữ vai trò quan trọng vì là
nhân tố quyết định lượng vốn thu hút, tính hiệu quả và chất lượng các công trình
KCHTKT xây dựng bằng nguồn vốn này.
Quản lý nhà nước về vốn ODA trong xây dựng KCHTKT là sự tác động có tổ
chức, bằng pháp quyền của nhà nước lên quá trình thu hút và sử dụng vốn ODA trong
xây dựng KCHTKT nhằm đạt được các mục tiêu xác định trong điều kiện kinh tế xã
hội quốc gia và tình hình quốc tế.
Trong đó:
- Chủ thể QLNN về vốn ODA trong xây dựng KCHTKT là các cơ quan nhà
nước các cấp có chức năng và thẩm quyền quản lý (bao gồm các cơ quan lập pháp,
hành pháp và tư pháp) từ Trung ương đến địa phương.
- Đối tượng QLNN là về vốn ODA trong xây dựng KCHTKT là quá trình thu
hút và sử dụng vốn ODA trong xây dựng KCHTKT.
- Khách thể quản lý là tình hình kinh tế chính trị xã hội trong nước và quốc tế.
- Mục tiêu quản lý: QLNN đối với vốn ODA của một nước cung cấp ODA
khác với QLNN của một nước tiếp nhận ODA. Với các nước tiếp nhận ODA trong xây
dựng KCHTKT, mục tiêu quản lý là sử dụng vốn ODA trong xây dựng KCHTKT với
hiệu quả cao nhất, đóng góp vào tăng trưởng phát triển kinh tế đất nước; không gây
gánh nặng nợ cho quốc gia và ảnh hưởng xấu đến quan hệ quốc tế.
Nhìn chung, quản lý nhà nước về vốn ODA trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh
tế bao gồm tập hợp các công việc, nhiệm vụ mà các cơ quan quản lý nhà nước phải
thực hiện trong quá trình thu hút, sử dụng vốn ODA nhằm đạt được những mục tiêu
đặt ra.
Cụ thể hơn, QLNN đối với vốn ODA trong xây dựng KCHTKT là quá trình nhà
nước lập quy hoạch, kế hoạch, tổ chức, điều hành, kiểm tra việc thu hút và sử dụng
ODA trong lĩnh vực KCHTKT nhằm đạt được các mục tiêu đặt ra trong điều kiện kinh
tế xã hội trong và ngoài nước.
34
2.1.3. Sự cần thiết của quản lý nhà nước đối với vốn ODA trong xây dựng kết cấu
hạ tầng kinh tế
Vốn ODA là nguồn tài chính quan trọng đối với các nước đang và chậm phát
triển, nhất là trong lĩnh vực xây dựng KCHTKT. Để vốn ODA phát huy tác dụng theo
đúng mục đích đề ra thì đòi hỏi nhà nước phải quản lý chặt chẽ. QLNN về vốn ODA
trong xây dựng KCHTKT nói riêng là tất yếu khách quan, thể hiện ở các lý do sau:
Thứ nhất, do tầm quan trọng và đặc tính của KCHTKT
KCHTKT là điều kiện đặc biệt quan trọng cho tăng trưởng, phát triển kinh tế
quốc gia, có tác dụng với nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội đến văn hóa, quốc phòng, an
ninh và phục vụ cho đời sống hàng ngày của dân cư. Có KCHTKT đồng bộ và hiện
đại, nền kinh tế mới có điều kiện để tăng trưởng nhanh, ổn định và bền vững. Chính vì
tầm quan trọng của KCHTKT mà nhà nước cần quản lý lĩnh vực này.
KCHTKT là công trình đòi hỏi vốn lớn, phức tạp, tầm ảnh hưởng rộng nên cần
nhà nước đóng vai trò chịu trách nhiệm sử dụng các nguồn lực trong và ngoài nước đầu
tư xây dựng. KCHTKT ở vị trí cố định và tồn tại lâu dài, góp phần tạo nên diện mạo đất
nước nên cần tuyệt đối thận trọng trong khâu lập quy hoạch xây dựng, thiết kế xây dựng,
lựa chọn vị trí xây dựng... nhằm phát huy tính hiệu quả cao nhất. Chỉ có nhà nước mới có
thể tổ chức, điều hòa phối hợp và kiểm tra các đơn vị liên quan thực hiện xây dựng
KCHTKT đạt hiệu quả toàn diện trên nhiều mặt. Nếu có những sai lầm trong xây dựng
KCHTKT thì rất khó sửa chữa và để lại hậu quả lâu dài cho kinh tế xã hội.
Do tác động, ảnh hưởng nhiều mặt của KCHTKT: chính trị, kinh tế, xã hội, văn
hóa, an ninh, quốc phòng, đời sống cộng đồng dân cư mà KCHTKT thu hút sự quan
tâm chú ý của nhiều tầng lớp dân cư và các tổ chức chính trị kinh tế xã hội. Các cá
nhân, tổ chức trong địa phương, vùng lãnh thổ và quốc gia đều có quyền lợi đồng thời
có trách nhiệm tham gia cùng phát triển và bảo vệ KCHTKT với những hình thức cụ
thể, thích hợp. Đây là cơ sở để nhà nước huy động các lực lượng tham gia xây dựng
và phát huy trách nhiệm công dân. Mặt khác, nhà nước quản lý KCHTKT cần chú ý
các yếu tố tâm lý xã hội, tránh tạo những chênh lệch quá xa về mức độ thụ hưởng các
dịch vụ công mà KCHTKT mang lại cho các vùng, các tầng lớp dân cư.
Thứ hai, do vai trò của vốn ODA đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của các
nước tiếp nhận, đặc biệt trong xây dựng KCHTKT
ODA có vai trò hỗ trợ lượng vốn quan trọng cho xây dựng KCHTKT ở các
nước tiếp nhận. Hầu hết các nước đang phát triển có KCHTKT lạc hậu, xuống cấp.
Chính phủ các nước này gặp rất nhiều khó khăn khi đầu tư vào các lĩnh vực công cộng
35
như KCHTKT do vốn tích lũy thấp, ngân sách quốc gia thường trong tình trạng thâm
hụt. Trong khi đó, phát triển KCHTKT lại là nhu cầu hết sức cấp bách. Xu hướng
chung của của những nước này là tìm cách thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, bổ
sung cho nguồn vốn eo hẹp trong nước. ODA có ưu điểm là số lượng lớn, thời gian
vay dài, nước tiếp nhận có thể sử dụng vào những lĩnh vực mà họ quan tâm như xây
dựng KCHTKT. Thực tế, có tới 2/3 tổng lượng vốn ODA trên thế giới được phân bổ
cho lĩnh vực xây dựng KCHT kinh tế, xã hội và hạ tầng quản lý. Do đó, nếu nguồn
ODA cung cấp ngày một tăng, điều đó cũng đồng nghĩa với việc KCHT của các nước
đang phát triển sẽ ngày càng được cải thiện và qua đó tăng trưởng ở những nước này
cũng gia tăng [72, tr.38].
KCHTKT là lĩnh vực đòi hỏi vốn lớn, thời gian thu hồi vốn chậm, mức sinh lời
thấp thậm chí không có lợi nhuận. Vì vậy, đây là lĩnh vực mà tư nhân ít quan tâm đầu
tư. Vốn ODA với đặc tính ưu đãi nên phù hợp với đầu tư KCHTKT như đường sá,
điện, nước, thuỷ lợi... Ví dụ, ở Việt Nam, trong thời gian từ 1993 - 2014, phần lớn các
khoản vay ODA có quy mô lớn có lãi suất rất ưu đãi, thời gian vay và ân hạn dài nên
được đầu tư nhiều cho KCHTKT. Khoảng 45% khoản vay có lãi suất dưới 1%/năm,
thời hạn vay từ 30-40 năm, trong đó có 10 năm ân hạn; khoảng 40% các khoản vay
ODA còn lại có lãi suất từ 1-3%/năm, thời hạn vay từ 12-30 năm, trong đó có 5-10
năm ân hạn và còn lại là các khoản vay có điều kiện ưu đãi kém hơn [11, tr.3].
Thực tế, trong thời kỳ đầu ở các nước công nghiệp mới NIC và ASEAN, viện
trợ nước ngoài có một tầm quan trọng đáng kể. Còn ở hầu hết các nước Đông Nam Á,
sau khi giành được độc lập, đất nước ở trong tình trạng nghèo nàn và lạc hậu, để phát
triển KCHTKT thì các nước đã sử dụng vốn ODA. Ở một số nước như Thái Lan,
Singapore, Indonesia, Philippine..., các công trình KCHTKT quan trọng tầm cỡ quốc
gia (sân bay, bến cảng, cầu, đường cao tốc, trung tâm nghiên cứu khoa học...) đã được
xây dựng dựa vào nguồn ODA của Nhật Bản, Mỹ, WB, ADB và một số nhà tài trợ
khác. Một số nước đạt trình độ kinh tế cao hiện nay (Nhật Bản, Hàn Quốc) trước đây
cũng phải dựa vào nguồn ODA của Mỹ, ADB và WB để phát triển [30, tr. 26].
Bên cạnh đó, ODA giúp phát triển KCHTKT hiện đại, từ đó giúp nâng cao
trình độ khoa học công nghệ và phát triển nguồn nhân lực. KCHTKT thường là những
công trình lớn, tính chất kỹ thuật phức tạp, ngay từ khi lập dự án, phân tích kỹ thuật
cần được nghiên cứu với sự trợ giúp, tư vấn của các chuyên gia kỹ thuật chuyên sâu
trong nước và quốc tế về từng khía cạnh của dự án KCHTKT. Trong quá trình thực
hiện, các nhà tài trợ có những hoạt động như cung cấp các tài liệu kỹ thuật, tổ chức hội
36
thảo với sự tham gia của chuyên gia nước ngoài, tổ chức các chương trình tham quan
học tập kinh nghiệm ở những nước phát triển, cử chuyên gia trực tiếp hỗ trợ dự án và
cung cấp những thiết bị kỹ thuật, dây chuyền công nghệ hiện đại. Chẳng hạn trong
phần ODA của Nhật Bản có hỗ trợ kỹ thuật bao gồm rất nhiều loại hình khác nhau về
cung cấp thiết bị vật liệu, huấn luyện đào tạo chuyên môn... Điều này giúp tăng năng
lực cho nước tiếp nhận. Ví dụ, khi nói tới các cây cầu tại Việt Nam, đại diện JICA nói
rằng, công ty trong nước hiện tại có thể chưa xây dựng được nhưng qua một hai dự án
đầu học hỏi thì từ dự án thứ ba trở đi đã có thể làm được. Đây mới chính là lợi ích căn
bản, lâu dài của việc thu hút ODA vào hiện đại hóa hệ thống KCHTKT.
Mặt khác, ODA tạo điều kiện phát triển KCHTKT đồng bộ và hiệu quả, góp
phần tích cực vào tăng trưởng phát triển kinh tế. ODA là nguồn vốn đến từ nhiều nhà
tài trợ với những định hướng tài trợ khác nhau nên nó cho phép tiến hành đồng thời
nhiều dự án trên các địa bàn ở nhiều ngành khác nhau của KCHTKT. Các dự án lớn có
thể nhiều nhà tài trợ cũng tham gia phối hợp hỗ trợ ở nhiều khía cạnh khác nhau giúp
KCHTKT trở nên đồng bộ. KCHTKT đồng bộ không chỉ tăng hiệu quả phục vụ của
chính nó mà còn có tác dụng tích cực đối với phát triển chung toàn xã hội. Rõ ràng
ODA còn là một nguồn vốn có tác dụng điều chỉnh cơ cấu kinh tế và làm tăng khả
năng thu hút nguồn vốn khác.
Các dự án ODA phát triển KCHTKT tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển
cân đối giữa các ngành, các vùng khác nhau trên bình diện quốc gia. ODA đầu tư vào
việc nâng cấp, cải thiện và xây mới các công trình KCHTKT làm cho môi trường đầu
tư trở nên hấp dẫn hơn, làm tăng sức hút dòng vốn FDI và tạo điều kiện cho các nhà
đầu tư trong nước tập trung đầu tư vào các công trình sản xuất kinh doanh có khả năng
mang lại lợi nhuận. Hiệu quả của các công trình KCHTKT chính là hiệu quả tổng hợp
từ phát triển kinh tế xã hội, góp phần vào tăng trưởng kinh tế, cải thiện cuộc sống vật
chất tinh thần cho người dân.
Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của vốn ODA đối với tiến trình phát
triển nền kinh tế - xã hội đòi hỏi Nhà nước phải quản lý vốn ODA trong xây dựng
KCHTKT một cách hiệu quả, phục vụ cho việc thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của Nhà
nước trong từng thời kỳ. Đó là yêu cầu mang tính khách quan.
Thứ ba, việc thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA, đặc biệt ODA trong xây
dựng KCHTKT chứa đựng nhiều vấn đề phức tạp, liên quan đến nhiều mặt của đời
sống kinh tế xã hội.
Đối với quan hệ quốc tế, vốn ODA gắn liền với quan hệ ngoại giao của quốc
37
gia với các nước và tổ chức quốc tế. Những mối quan hệ này phức tạp và đa chiều, liên
quan đến vấn đề kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng... đòi hỏi nhà nước phải đặc
biệt chú trọng.
Các nước giàu khi viện trợ ODA đều gắn với những lợi ích và chiến lược như
mở rộng thị trường, mở rộng hợp tác có lợi cho họ, đảm bảo mục tiêu về an ninh -
quốc phòng hoặc theo đuổi mục tiêu chính trị... Vì vậy, họ đều có chính sách riêng
hướng vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay họ có lợi thế (những mục tiêu này thay
đổi cùng với tình hình phát triển kinh tế - chính trị - xã hội trong nước, khu vực và trên
thế giới). Ví dụ: về kinh tế, nước tiếp nhận ODA phải chấp nhận dỡ bỏ dần hàng rào
thuế quan bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ và bảng thuế xuất nhập khẩu hàng
hoá của nước tài trợ. Nước tiếp nhận ODA cũng được yêu cầu từng bước mở cửa thị
trường bảo hộ cho những danh mục hàng hoá mới của nước tài trợ; yêu cầu có những
ưu đãi đối với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài như cho phép họ đầu tư vào những
lĩnh vực hạn chế, có khả năng sinh lời cao. Chính vì vậy khi tiếp nhận ODA, không ai
khác, nhà nước sẽ phải là người cân nhắc nhiều yếu tố phức tạp với các điều kiện ràng
buộc do nhà tài trợ đưa ra.
Vốn ODA là một khoản vốn đầu tư trong cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội, vừa là
yếu tố liên quan đến thị trường vốn, cán cân thanh toán quốc tế, tỷ giá hối đoái, hoạt
động xuất nhập khẩu và quan hệ ngoại giao. Vì vậy, nếu không có sự quản lý của nhà
nước hoặc công tác quản lý không có hiệu quả thì sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới mọi mặt
của đời sống kinh tế xã hội.
Đối với vốn ODA đầu tư cho KCHTKT, tỷ lệ ODA không hoàn lại thấp hơn
nhiều so với ODA đầu tư cho KCHT xã hội như y tế, giáo dục… Đây chủ yếu là dự án
lớn, trong đó có nhiều dự án trọng điểm quốc gia, như cầu, đường, sân bay, cảng biển,
điện nước, thuỷ lợi, viễn thông… nên hầu hết là vốn vay với khối lượng lớn, dễ xảy ra
tình trạng thất thoát, lãng phí. Việc xây dựng chiến lược, quy hoạch không hợp lý,
trình độ quản lý kém, thiếu kinh nghiệm điều hành dự án... khiến cho hiệu quả và chất
lượng các công trình KCHTKT đầu tư bằng vốn ODA thấp... có thể đẩy nước tiếp
nhận ODA vào tình trạng nợ nần. Đặc biệt là tại các nước nhận viện trợ, nhiều khi
người ta còn nhầm lẫn hoặc cố tình nhầm lẫn về thực chất của vốn ODA, họ cho rằng
ODA là nguồn vốn hỗ trợ phát triển, đồng nghĩa với cho không, quà tặng. Bởi vậy, nếu
mặc nhiên sử dụng các khoản vay ODA như tài sản được biếu, tặng thì tất yếu dẫn đến
tình trạng sử dụng lãng phí, tuỳ tiện. Khi đó ODA sẽ trở thành miếng đất màu mỡ cho
các dạng tham nhũng lớn nhỏ. Các công trình thuộc KCHTKT thường là các dự án
38
lớn, tầm ảnh hưởng rộng, xảy ra tham nhũng lãng phí sẽ càng nghiêm trọng, gây ảnh
hưởng xấu đến chất lượng hiệu quả phát triển kinh tế, đến mối quan hệ với các nước,
các tổ chức quốc tế và tạo dư luận không tốt, có thể gây mất niềm tin đối với người
dân trong nước và cộng đồng quốc tế.
Thực hiện dự án KCHTKT bằng vốn ODA cần sự tham gia của nhiều bên, các
đơn vị thực hiện dự án, nhà tài trợ, cộng đồng dân cư. Chẳng hạn như việc giải phóng
mặt bằng đất đai trên địa bàn rộng, ảnh hưởng lớn đến sản xuất kinh doanh và đời sống
người dân nên rất khó khăn phức tạp. Vì vậy, nhà nước phải giữ vai trò tổ chức, điều
hoà, phối hợp và hướng dẫn hoạt động của các bên nhằm làm giảm bớt sự bất đồng và
bất định trong quá trình sử dụng vốn ODA đầu tư xây dựng KCHTKT.
Như vậy, vốn ODA ngoài vai trò tích cực thì cũng có nhiều nguy cơ gây ra
những ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống kinh tế xã hội trong quá trình thu hút và sử
dụng. Do đó, vai trò của QLNN là hết sức quan trọng, có thể giúp khai thác thế mạnh
của vốn ODA cũng như hạn chế những tác động xấu do ODA mang lại, đặc biệt trong
xây dựng KCHTKT. Vì vậy, công tác quản lý việc thu hút và sử dụng ODA có ý nghĩa
quan trọng để đảm bảo cho đất nước một sự tăng trưởng ổn định, vững chắc.
Thứ tư, QLNN là nhân tố quan trọng quyết định hiệu quả của vốn ODA nói
chung, vốn ODA trong xây dựng KCHTKT nói riêng
Những nước quản lý tốt vốn ODA, đặc biệt những công trình lớn như KCHTKT
sẽ có thể mang lại tác dụng kép, vừa bảo đảm hiệu quả kinh tế xã hội của việc thu hút
và sử dụng vốn ODA, vừa bảo đảm chất lượng, hiệu quả của các công trình dự án trong
lĩnh vực này. ODA có những tác dụng tích cực với tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên,
không phải khối lượng ODA sẽ tỷ lệ thuận với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Trên thực tế,
một số nước nhận viện trợ rất nhiều song tăng trưởng vẫn chậm chạp, trong khi một số
nước chỉ nhận một lượng viện trợ không lớn nhưng lại tăng trưởng nhanh. Như vậy,
viện trợ chỉ phát huy tác dụng khi một nước có cơ chế quản lý tốt. Hiệu quả của viện trợ
phụ thuộc chủ yếu vào thể chế, chính sách của các nước tiếp nhận.
Trong những quốc gia có chính sách kinh tế tốt, viện trợ có tác dụng như lực
hút đầu tư tư nhân, mỗi một đô la viện trợ sẽ làm tăng đầu tư tư nhân lên 2 đô la, viện
trợ làm giảm nghèo đói và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh, mỗi 1% bổ sung của viện trợ
trong GDP tạo ra 0,5% tăng trưởng [44, tr.100]. Một nước có cơ chế quản lý tốt chỉ
nhận được khoản viện trợ nhỏ nhưng đã đạt được tốc dộ tăng trưởng 2,2% tính theo
đầu người. Những nước vừa quản lý tốt, vừa có nhiều viện trợ, thì tốc độ tăng trưởng
cao hơn nhiều: 3,7% tính theo đầu người, ngược lại những nước có cơ chế quản lý tồi
39
đều tăng trưởng một cách chậm chạp [45, tr.41].
Với những nước quản lý kinh tế kém, tác dụng của viện trợ tới quá trình phát
triển rất hạn chế, thậm chí gây nợ nần, khủng hoảng tài chính, khủng hoảng kinh tế.
Còn trong môi trường chính sách và thể chế hoàn thiện hơn thì vốn ODA mới có điều
kiện để phát huy tác dụng. Các dự án công cộng do WB tài trợ về đường sá, điện và
giáo dục ở các quốc gia có cơ chế quản lý tốt - có chính sách lành mạnh (lạm phát
thấp, ngân sách bội thu và mở cửa cho thương mại) và các thể chế nhà nước hiệu quả
(ít tham nhũng, luật pháp mạnh và bộ máy hành chính hiệu quả) thì 80% các dự án là
thành công, tỷ lệ hoàn thành vốn cao. Tại các quốc gia có hệ thống chính sách và thể
chế yếu kém, con số tương ứng chỉ đạt có 48% [45, tr. 45].
Thứ năm, xuất phát từ vai trò, chức năng, nhiệm vụ của nhà nước trong
quản lý kinh tế- xã hội nói chung, quản lý ODA trong xây dựng KCHTKT nói riêng
Nhà nước là một thiết chế quyền lực, nhà nước ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật, các chính sách, kí kết các điều ước quốc tế… liên quan đến việc thu hút và
sử dụng vốn ODA nói chung và ODA trong xây dựng KCHTKT nói riêng. Những quy
định pháp luật, chính sách này không những bắt buộc toàn thể xã hội phải tuân theo,
mà còn tạo môi trường thuận lợi để thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA góp phần phát
triển kinh tế xã hội đất nước.
Nhà nước trực tiếp tiến hành việc thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA đầu tư
vào các lĩnh vực khác nhau, góp phần tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo… Nhà
nước giữ vai trò phân bổ vốn ODA vào các lĩnh vực sao cho phù hợp với yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội đất nước, trong đó có KCHTKT.
Nhà nước giữ vai trò thống nhất ý chí, quan điểm giữa các bên có liên quan
trong quá trình thu hút và sử dụng vốn ODA. Đó là các cơ quan QLNN về vốn ODA,
các nhà tài trợ (đa phương và song phương), các ban quản lý dự án (PMU) và cộng
đồng người hưởng lợi từ chương trình dự án ODA. Chỉ khi Nhà nước tạo nên sự thống
nhất trong mối quan hệ đa dạng liên quan tới vốn ODA thì mới thu được hiệu quả cao
trong việc thu hút và sử dụng nguồn vốn này. Mặt khác chính vốn ODA cũng là một
công cụ tài chính quan trọng giúp nhà nước quản lý xã hội nói chung và quản lý nền
kinh tế nói riêng.
Nhà nước với tư cách là cơ quan quyền lực, thực hiện sự kiểm tra, kiểm soát
việc thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA. Mọi hành vi vi phạm pháp luật của các cá
nhân, tổ chức có trách nhiệm sẽ bị xử lý theo pháp luật. Thông qua việc thống nhất ý
chí quan điểm, định hướng, tổ chức, điều hòa, phối hợp và hướng dẫn hoạt động cũng
40
như tạo động lực cho các bên liên quan, QLNN về ODA sẽ giúp nâng cao hiệu quả
việc thu hút và sử dụng ODA.
Từ những vấn đề trên có thể khẳng định rằng, trong bất kì xã hội nào, đặc biệt
trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước thì QLNN đối với vốn ODA
trong xây dựng KCHTKT là một tất yếu khách quan, đồng thời cũng là đòi hỏi chủ
quan xuất phát từ bản chất Nhà nước.
2.1.4. Nội dung quản lý nhà nước đối với vốn ODA trong xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế
Nội dung QLNN về vốn ODA trong xây dựng KCHTKT bao gồm:
- Thứ nhất, xây dựng quy hoạch, kế hoạch thu hút và sử dụng vốn ODA, vận
động vốn ODA cho KCHTKT.
Lập quy hoạch kế hoạch là một hình thức định hướng thu hút và sử dụng vốn
ODA. Quy hoạch xác định rõ quy mô, giới hạn thu hút và sử dụng ODA trong xây
dựng KCHTKT trong một khoảng thời gian nhất định của quốc gia. Quy hoạch cũng là
cơ sở, tiền đề để xây dựng kế hoạch, chương trình, dự án ODA. Quy hoạch thu hút và
sử dụng vốn ODA dài hạn là 10 năm, trung hạn là 5 năm, ngắn hạn là kế hoạch từng
năm cụ thể trên bình diện cả nước, một vùng, hay một ngành thuộc KCHTKT như
năng lượng điện, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông v.v...
Cơ sở để xây dựng kế hoạch vốn ODA trong KCHTKT dựa vào chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội của cả nước và từng ngành KCHTKT cụ thể; quy hoạch sử dụng
vốn chung cho cả nước trong dài hạn hay trung hạn; khả năng và cơ hội viện trợ của
các nhà tài trợ trong khoảng thời gian đó. Hình thức quy hoạch, kế hoạch vốn ODA
được thể hiện bằng văn bản như bản quy hoạch thu hút và sử dụng vốn ODA, các báo
cáo (của các hội nghị giữa nước tiếp nhận với nhà tài trợ), các biên bản thoả thuận,
biên bản ghi nhớ, các hiệp định được cam kết chính thức.Dựa trên cơ sở quy hoạch kế
hoạch đã lập ra, danh mục các chương trình, dự án KCHTKT vận động ODA được xây
dựng cho từng ngành, địa phương và từng nhà tài trợ.
Vận động ODA nói chung, ODA trong xây dựng KCHTKT nói riêng bao gồm
một số công việc như tiến hành xúc tiến, tiếp cận với các nhà tài trợ thông qua ngoại
giao trực tiếp hoặc hội nghị quốc tế; hội nghị điều phối ODA theo ngành thuộc
KCHTKT và địa phương; đàm phán với các nhà tài trợ về danh mục các dự án ưu tiên
vận động ODA; đàm phán, ký kết điều ước quốc tế khung và cụ thể về ODA trong xây
dựng KCHTKT.
- Thứ hai, ban hành hệ thống pháp luật, chính sách về vốn ODA trong xây
41
dựng KCHTKT
Hệ thống pháp luật về vốn ODA trong xây dựng KCHTKT bao gồm cả các
văn bản điều chỉnh hoạt động thu hút và sử dụng ODA, đồng thời cũng gồm cả các văn
bản điều chỉnh hoạt động của các ngành thuộc KCHTKT.
Công cụ pháp luật về vốn ODA trong xây dựng KCHTKT là tổng thể những
văn bản pháp luật trực tiếp liên quan đến sự tồn tại, thu hút và sử dụng vốn ODA trong
xây dựng KCHTKT, bao gồm: các Luật, Nghị định, Nghị quyết, các thông tư, các văn
bản hành chính liên quan đến vốn ODA, liên quan đến KCHTKT do các Bộ, chính
quyền các địa phương ban hành.
Chính sách cũng là một công cụ quan trọng được Nhà nước sử dụng trong quản
lý thu hút và sử dụng vốn ODA trong xây dựng KCHTKT. Có thể hiểu chính sách về
vốn ODA trong xây dựng KCHTKT là tổng thể các biện pháp mà chính phủ sử dụng
nhằm đạt được các mục tiêu cụ thể nêu ra trong kế hoạch. Thông thường chính sách
thường mang ý nghĩa như là một biện pháp cụ thể, đặc trưng, được sử dụng lặp đi lặp
lại nhiều lần. Các chính sách thu hút và sử dụng vốn ODA trong xây dựng KCHTKT
có thể thể hiện ở các ngành ưu tiên thu hút và sử dụng vốn ODA, ví dụ như ngành
năng lượng, ngành giao thông vận tải... Hoặc cũng có thể là chính sách khai thác thế
mạnh, sở trưởng của các nhà tài trợ. Đối với KCHTKT thì có thể có chính sách thu hút
với WB, Nhật Bản… Ngoài ra, còn có chính sách vay và trả nợ nước ngoài, chính sách
vốn đối ứng và cho vay lại, chính sách thuế đối với các dự án ODA...
- Thứ ba, xây dựng, tổ chức và vận hành bộ máy QLNN về vốn ODA trong
xây dựng KCHTKT
Bộ máy QLNN về vốn ODA trong xây dựng KCHTKT là hệ thống tổ chức bao
gồm nhiều người, nhiều cơ quan và nhiều bộ phận khác nhau có mối quan hệ và phụ
thuộc lẫn nhau, được chuyên môn hoá và có những chức năng, trách nhiệm và quyền
hạn nhất định, được bố trí theo những cấp khác nhau, thể hiện mối quan hệ dọc và
ngang giữa các bộ phận, đảm bảo sự phối hợp đồng bộ trong thu hút và sử dụng vốn
ODA trong xây dựng KCHTKT. Nhà nước thiết lập cơ cấu các cơ quan QLNN về thu
hút và sử dụng vốn ODA từ cấp Trung ương tới địa phương, xây dựng và hoàn thiện
thể chế hoạt động của bộ máy này; bố trí sắp xếp đội ngũ cán bộ làm việc. Bên cạnh
đó, nhà nước cũng tạo động lực cho bộ máy QLNN hoạt động theo kế hoạch đặt ra;
xây dựng cơ chế phối hợp hoạt động giữa các cơ quan, đơn vị trong bộ máy...
Cán bộ công chức thuộc bộ máy QLNN về vốn ODA trong xây dựng KCHTKT
gồm: Các cán bộ quản lý vốn ODA ở các bộ, ban, ngành, các địa phương liên quan
42
đến ODA và KCHTKT, các PMU, các chuyên gia và nhân viên thực hiện các kỹ thuật
nghiệp vụ quản lý trong cơ cấu bộ máy QLNN về vốn ODA và các ngành thuộc
KCHTKT.
- Thứ tư, bố trí vốn đối ứng cho các chương trình dự án ODA trong xây dựng
KCHTKT và thanh toán nợ nước ngoài
Vốn đối ứng là phần vốn trong nước tham gia vào từng chương trình, dự án
ODA trong xây dựng KCHTKT theo cam kết giữa nước tiếp nhận và nhà tài trợ nước
ngoài trên cơ sở hiệp định, văn kiện dự án, quyết định đầu tư của cấp có thẩm quyền.
Vốn đối ứng là yêu cầu do nhà tài trợ đưa ra nhằm bảo đảm quyền sở hữu và trách
nhiệm của nước tiếp nhận trong dự án ODA. Nhà nước phải cân đối vốn đối ứng trong
tổng ngân sách nhà nước; bố trí vốn đối ứng cho từng ngành, địa phương; điều chỉnh,
bổ sung vốn đối ứng. Đối với các dự án thuộc lĩnh vực xây dựng KCHTKT, vốn đối
ứng thường được sử dụng để thực hiện công tác di dân, giải phóng mặt bằng, tái định
cư, xây dựng dự án chuẩn bị đầu tư và chi phí thẩm định thiết kế, duyệt tổng dự toán,
hoàn tất các thủ tục đầu tư, chi phí liên quan đến quá trình lựa chọn nhà thầu...
Đối với việc trả nợ ODA, Nhà nước có phương án trả nợ cho nhà tài trợ khi các
khoản vay đến hạn. Để bảo đảm an toàn nợ thì phải thường xuyên thực hiện việc
nghiên cứu, đánh giá và dự báo tình hình nợ quốc gia và có chính sách vay phù hợp
cho từng thời kỳ.
- Thứ năm, thẩm định, phê duyệt các chương trình dự án ODA trong xây dựng
KCHTKT
Nhà nước phê duyệt quy hoạch ODA trong xây dựng KCHTKT từng thời kỳ,
phê duyệt danh mục các dự án ưu tiên vận động ODA của từng ngành, từng nhà tài trợ.
Thẩm định, phê duyệt nội dung chương trình, dự án ODA trong xây dựng
KCHTKT bao gồm cả việc thẩm định, phê duyệt dự án từ lúc chưa thực hiện cũng như
thẩm định, phê duyệt các nội dung điều chỉnh, thay đổi của các chương trình, dự án
trong quá trình thực hiện.
- Thứ sáu, đánh giá, giám sát việc thu hút và sử dụng vốn ODA trong xây
dựng KCHTKT
Giám sát chương trình, dự án ODA trong xây dựng KCHTKT bao gồm các hoạt
động theo dõi và kiểm tra quá trình triển khai thực hiện chương trình, dự án nhằm đảm
bảo đạt được các mục tiêu, hiệu quả của chương trình, dự án, trong đó:
+ Theo dõi chương trình, dự án bao gồm các hoạt động thường xuyên và định
kỳ của các cấp quản lý để cập nhật toàn bộ các thông tin liên quan đến tình hình thực
43
hiện chương trình, dự án (thực hiện qua các báo cáo tháng, quý, năm và báo cáo kết
thúc dự án); phân loại và phân tích thông tin; kịp thời đề xuất các phương án xử lý
nhằm đảm bảo thực hiện đúng mục tiêu, tiến độ, chất lượng trong khuôn khổ các
nguồn lực của chương trình, dự án.
+ Kiểm tra chương trình, dự án bao gồm các hoạt động định kỳ theo kế hoạch
hoặc đột xuất nhằm kiểm tra việc chấp hành các quy định về quản lý, phát hiện kịp
thời những sai sót, yếu kém trong việc thực hiện các quy định của pháp luật và điều
ước quốc tế cụ thể về ODA trong xây dựng KCHTKT; kiến nghị các cấp có thẩm
quyền xử lý sai phạm và giám sát việc thực thi các biện pháp khắc phục.
+ Đánh giá chương trình, dự án bao gồm các hoạt động định kỳ, xem xét toàn
diện, có hệ thống và khách quan về tính phù hợp, hiệu quả, hiệu suất, tác động và mức
độ bền vững của chương trình, dự án để có những điều chỉnh cần thiết như điều chỉnh
nội dung, quy mô của dự án ODA trong xây dựng KCHTKT; rút ra những bài học
kinh nghiệm áp dụng cho giai đoạn thực hiện tiếp theo và các chương trình, dự án
khác.
Việc giám sát đánh giá ODA trong xây dựng KCHTKT được nhiều nhà nước
quan tâm vì đây là khâu quan trọng quyết định khả năng tối đa hóa lợi ích trong thu
hút và sử dụng ODA của quốc gia. Nhà nước thông qua việc giám sát đánh giá để
giảm thiểu các tiêu cực trong quá trình thu hút và sử dụng ODA, đồng thời đảm bảo
nguồn vốn được thu hút và sử dụng đúng mục đích với hiệu quả cao và tránh tạo gánh
nặng nợ nần.
Nhìn chung, trong các nội dung QLNN đối với vốn ODA trong xây dựng
KCHTKT trên, nội dung quản lý nhà nước thứ 1 (xây dựng quy hoạch kế hoạch và vận
động ODA) thuộc về công tác thu hút; nội dung thứ 4, 5 (Bố trí vốn đối ứng và thẩm
định phê duyệt chương trình dự án) thuộc về công tác sử dụng; nội dung thứ 2,3,4 (ban
hành hệ thống pháp luật chính sách, xây dựng tổ chức và vận hành bộ máy quản lý,
đánh giá giám sát việc thu hút và sử dụng) thuộc về cả công tác thu hút và sử dụng vốn
ODA trong xây dựng KCHTKT. Tuy nhiên, quá trình thu hút và sử dụng vốn ODA
trong xây dựng KCHTKT gắn bó chặt chẽ với nhau nên sự phân chia trên là tương đối.
2.1.5. Các nhân tố ảnh hưởng tới quản lý nhà nước đối với vốn ODA trong xây
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế
Vốn ODA là nguồn vốn quốc tế mà các nhà tài trợ dành cho các nước đang và
chậm phát triển. Chính vì vậy, ảnh hưởng đến QLNN đối với vốn ODA trong xây
44
dựng KCHTKT của một quốc gia phụ thuộc vào cả các nhân tố bên trong quốc gia và
các nhân tố đến từ môi trường quốc tế.
2.1.5.1. Nhóm các nhân tố đến từ cộng đồng nhà tài trợ quốc tế
Thứ nhất, mục tiêu và chiến lược cung cấp ODA của nhà tài trợ trong từng giai
đoạn, trong đó bao gồm quan điểm, mục tiêu và định hướng của nhà tài trợ tập trung
vào khu vực nào hoặc quốc gia nào, lĩnh vực nào, theo phương thức nào là chủ yếu (tỷ
lệ viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay ưu đãi), nhằm đạt được các lợi ích chính trị
hoặc kinh tế của nhà tài trợ. Đối với ODA trong xây dựng KCHTKT thì ưu tiên của
nhà tài trợ cho lĩnh vực này như thế nào sẽ ảnh hưởng đến việc vận động thu hút vốn
ODA cho KCHTKT của các nước tiếp nhận.
Nguồn: www.oecd.org, (2015) Development Aid at a Glance - Statistics by Regions – 1.
Developing countries , tr.10
Hình 2.1: ODA đầu tư theo ngành ở các khu vực địa lý năm 2013
Chẳng hạn, gần đây, châu Á và Châu Phi là hai châu lục nhận được lượng ODA
nhiều nhất. Mục tiêu viện trợ của các nhà tài trợ lớn trên thế giới trước năm 1995 có sự
khác nhau đáng kể. Nhật Bản thường viện trợ nhằm mục tiêu tăng trưởng, do vậy lĩnh
vực ưu tiên là hỗ trợ xây dựng hạ tầng kinh tế. Trong khi đó, các nước thuộc EU trước
đây thường viện trợ cho các lĩnh vực xã hội. Kể từ năm 1995 trở lại đây, lĩnh vực xã
Xã hội
Sản xuất
Hỗ trợ chương trình chung
Viện trợ nhân đạo
Kinh tế
Đa ngành
Nợ
Khác
CHÂU PHI
CHÂU MỸ
CHÂU Á
CHÂU ÂU
CHÂU ĐẠI DƯƠNG
NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
45
hội (bao gồm y tế, giáo dục dân số, cấp, thoát nước, v.v.) đã trở thành lĩnh vực ưu tiên
của viện trợ phát triển, chiếm khoảng 30%-35% tổng nguồn ODA trên thế giới nhằm
giảm nghèo và đảm bảo công bằng xã hội. Sau khi Liên hiệp quốc (UN) đặt ra các mục
tiêu phát triển thiên niên kỷ về cải thiện cuộc sống cho người nghèo trên thế giới trong
năm 2000, lượng ODA cho lĩnh vực kinh tế giảm dần từ 26% năm 1990 xuống còn
khoảng 16.5% tổng nguồn vốn ODA. Đa số các nước cung cấp lượng ODA lớn như
Hoa Kỳ, Đức, Pháp, Anh và các tổ chức đa phương đều có xu hướng phân bổ ODA
nhiều hơn cho lĩnh vực xã hội. Từ năm 2001 trở đi, Nhật Bản đã có sự điều chỉnh về
phân bổ viện trợ và kết quả là khoảng 1/3 ODA dành cho lĩnh vực kinh tế, chủ yếu cho
ngành giao thông, vận tải. [1, tr. 20, 21].
Quan điểm và chính sách cung cấp viện trợ của các quốc gia cũng khác nhau.
Nhật Bản là nhà tài trợ hàng đầu cho Việt Nam. Chính sách ODA của Nhật Bản có
nhiều nét khác biệt so với nhiều nhà tài trợ khác, đó là hỗ trợ nước tiếp nhận tự chủ
thông qua việc phát triển KCHT mà ít kèm theo các điều kiện khắt khe, không gắn
ODA với việc thực thi chính sách như WB và ADB hoặc các vấn đề chính trị nhạy
cảm như dân chủ, nhân quyền như các nước châu Âu. Tuy nhiên, chính sách ODA của
Nhật Bản cũng dựa trên những nguyên tắc nhất định và yêu cầu nước tiếp nhận phải
chấp nhận. Chẳng hạn, nguyên tắc không sử dụng sai mục đích viện trợ, hoặc không
viện trợ cho các chương trình quân sự hoặc yêu cầu phải sử dụng viện trợ có hiệu quả
nhất và chống tham nhũng. Các nước tiếp nhận viện trợ cũng đều phải tính đến những
điều kiện “ẩn” phải tuân theo. Viện trợ của Nhật Bản tuy không đòi hỏi có cam kết về
chính sách, nhưng so với các nhà tài trợ khác, viện trợ của nước này thắt chặt, đặc biệt
là các khoản cho vay thường phải sử dụng các nhà thầu Nhật Bản. Hơn nữa, quá trình
tiếp nhận và sử dụng vốn vay của Nhật còn khá rườm rà, phức tạp hơn so với các nhà
đầu tư khác.
Bên cạnh khoản cho vay không hoàn lại theo thông lệ, nước nhận viện trợ ODA
của Nhật Bản phải tuân thủ nguyên tắc “có vay có trả”. Bởi lẽ, khi người đi vay có
phải trả nợ thì mới chú ý thích đáng đến hiệu quả công trình, đến nghĩa vụ trả nợ. Tuy
nhiên, bên cạnh việc cung cấp tín dụng ưu đãi, trong một số năm gần đây Nhật Bản
cũng ưu tiên hơn trong việc tăng cường các khoản vay ODA không hoàn lại, đồng thời
xem xét có các biện pháp nhằm giúp nước tiếp nhận giảm gánh nặng nợ nần.
46
Về lĩnh vực tài trợ, Nhật Bản coi việc xoá đói giảm nghèo cũng cần thiết như
tăng trưởng kinh tế và cho rằng cải thiện môi trường sinh hoạt và xã hội là để hình
thành nên những điều kiện căn bản cho thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong tương lai.
Với nhận thức như vậy, bên cạnh việc hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng, cải thiện môi trường
đầu tư để thúc đẩy tăng trưởng, chính phủ Nhật Bản coi trọng việc hỗ trợ cho các hoạt
động xoá đói giảm nghèo, giáo dục, y tế, phát triển các địa phương, phát triển đô thị và
môi trường. Trong khi đó, các tổ chức quốc tế như WB, IMF… ưu tiên phát triển kinh
tế trước rồi mới xoá đói giảm nghèo. Các ưu tiên trong chương trình viện trợ của Mỹ
cũng không tập trung vào lĩnh vực xoá đói giảm nghèo mà dành chủ yếu cho việc hỗ
trợ việc thực hiện Hiệp định thương mại. Trong những năm cuối thập kỷ 90, khi phải
đối phó với những suy thoái nặng nề trong khu vực, Nhật Bản đã quyết định trợ giúp
tài chính rất lớn cho các nước Đông Nam Á là nơi chiếm tỷ trọng tương đối lớn về
mậu dịch và đầu tư của Nhật Bản.
Khác với Nhật Bản, Trung Quốc lại nổi lên như một nhà viện trợ ODA mới cho
các nước đang phát triển khác trong những năm gần đây. Điều đáng lưu ý, Trung Quốc
không theo các chuẩn mực của DAC như Nhật Bản hay Hàn Quốc, mà có một quy
chuẩn riêng. ODA của Trung Quốc gồm 3 loại: viện trợ, vay không lãi suất và vay
thương mại. Nếu so với các nhà cung cấp ODA khác, ODA của Trung Quốc đắt đỏ
hơn. Theo Viện Nghiên cứu GIGA (Đức), hầu hết các khoản cho vay ODA của Trung
Quốc có lãi suất cao hơn, trong khi kỳ hạn trả lãi và trả nợ đều ngắn hơn. Một đặc
điểm gây tranh cãi khác của ODA Trung Quốc là chính sách “không có điều kiện đi
kèm”. Tuy nhiên, các nhà phân tích tin rằng: Trung Quốc có mục đích, ODA Trung
Quốc không phải vô điều kiện, mà nó có những điều kiện theo cách khác. Đối với các
nước khác, những điều kiện nhận tài trợ thường là cải thiện quản lý nhà nước, dân chủ,
nhân quyền… Nhưng Trung Quốc hoàn toàn không quan tâm đến các vấn đề này.
Thay vào đó, đòi hỏi của Trung Quốc là sự ủng hộ về chính trị và đầu tư. Trung Quốc
thường tài trợ cho các dự án cơ sở hạ tầng và khai thác tài nguyên thiên nhiên, hoặc hỗ
trợ thực hiện các dự án như vậy và hỗ trợ các doanh nghiệp nhà nước của Trung Quốc
ở các nước đang phát triển. Các chương trình ODA không kèm theo điều kiện thì phải
sử dụng công nhân, sử dụng một số trang thiết bị nhập khẩu, các chuyên gia... của
Trung Quốc.
Cụ thể, theo WB và Chính phủ Trung Quốc thì có 7 tỷ USD đầu tư cho cơ sở hạ
47
tầng và 9,5 tỷ USD cho hợp tác kinh tế ở châu Phi trong năm 2006. Tuy nhiên, Trung
Quốc phải đối mặt với những lời chỉ trích nặng nề rằng, Trung Quốc cung cấp ODA là
nhằm đạt được lợi ích kinh tế, đáp ứng nhu cầu tài nguyên trong đó có dầu mỏ của
nước này vì Trung Quốc sẽ phải phụ thuộc vào khí đốt tự nhiên nhập khẩu dự tính sẽ
tăng lên đến 60% vào năm 2020 và 65% vào năm 2030. Ngoài ra, ODA của Trung
Quốc bị chỉ trích vì chỉ yêu cầu người lao động và kỹ sư Trung Quốc cho dự án của
họ. Một số lập luận cũng cho rằng, ODA của Trung Quốc không cải thiện thị trường
lao động ở châu Phi và chỉ chuyển giao công nghệ hạn chế [116, trg 7,8,25].
Thứ hai, quy mô của nguồn ODA hàng năm mà nhà tài trợ có thể dành cho các
nước đang phát triển, quy mô này phụ thuộc nhiều vào tình hình kinh tế, chính trị cũng
như các biến động bất thường có thể xảy ra đối với các nhà tài trợ.
Trong các năm đầu thập kỷ 90, thế kỷ XX, ODA giải ngân của thế giới có xu
hướng giảm dần, xuống thấp nhất là năm 1997, cũng là năm xảy ra khủng hoảng tài
chính Châu Á, với tổng số vốn thực hiện đạt 58 tỷ USD, tương đương khoảng 0.22%
GNI của các nước cung cấp tài trợ. Sự suy giảm về ODA có lẽ do nhiều yếu tố khác
nhau, trong đó 3 yếu tố được coi là nguyên nhân chính bao gồm: Chiến tranh lạnh
chấm dứt, kéo theo đó không còn những khoản ODA tài trợ cho mục đích chính trị
xung quanh cuộc chiến tranh đó; nhiều nước OECD bị thâm hụt ngân sách lớn, do đó
phải cắt giảm chi tiêu và hầu hết các nước tài trợ chính đều cắt giảm tỷ trọng ODA so
với GNI của họ, đặc biệt là Hoa Kỳ chỉ còn 0,08% GNI vào năm 1997; Sự gia tăng
mạnh mẽ của dòng vốn tư nhân chảy vào các nước đang phát triển gây ra sự hoài nghi
về vai trò và sự cần thiết của ODA đối với các nước đang phát triển. Tuy nhiên, sau
đó, năm 1997 ODA lại có xu hướng gia tăng trở lại. Sự gia tăng này chủ yếu là nhờ
tăng viện trợ dưới hình thức xóa nợ cho Irắc và Nigeria... [1, tr.18].
Một giai đoạn khác, từ khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008 đến nay, kinh tế và
thương mại thế giới hồi phục chậm chạp sau khủng hoảng và còn tiềm ẩn nhiều bất ổn,
khó lường. Tình hình kinh tế khó khăn chung đối với các nước, nhất là các nước phát
triển thành viên của DAC tác động tiêu cực đến nguồn vốn ODA. Viện trợ phát triển
đã giảm 4% trong năm 2012, sau khi đã giảm 2% trong năm 2011. Khủng hoảng tài
chính khu vực, đồng euro biến động đã khiến nhiều chính phủ thắt chặt ngân sách của
họ, trong đó đã ảnh hưởng trực tiếp viện trợ phát triển [123].
Tuy nhiên, na m 2014 tổng số vốn ODA tịnh do các nuớc thành viên của DAC
48
cung cấp đạt 135,2 tỷ USD, bằng mức cao 135,1 tỷ USD của na m 2013 mạ c dù tính
theo giá trị thực giảm khoảng 0,5% do yếu tố giá ta ng và tỷ giá hối đoái. Mỹ tiếp tục là
nhà tài trợ lớn nhất về khối luợng viẹ n trợ với tổng ODA đạt 32,7 tỷ USD na m 2014,
ta ng 2,3% theo giá trị thực tế so với na m 2013, mức ta ng là viẹ n trợ nhân đạo, đạ c biẹ t
cho khu vực tiểu sa mạc Sahara châu Phi và Jordan [12, tr. 3,4].
Thứ ba, chính sách và các quy định về quản lý ODA của nước tài trợ, điều này
cũng bao gồm quan niệm cũng như các đánh giá của họ đối với các khoản ODA trong
xây dựng KCHTKT đã được thực hiện ở nước tiếp nhận. Ví dụ như vụ việc tiêu cực
trong quản lý ODA đã làm nhà tài trợ Nhật Bản tuyên bố tạm ngừng cung cấp ODA
cho Việt Nam trong một thời gian.
Trong hai thập kỷ qua, cách thức cung cấp vốn ODA có sự thay đổi đáng kể từ
phía nhà tài trợ. Nếu như trước năm 1995, hầu hết ODA được cung cấp theo phương
thức áp đặt ý muốn chủ quan của các nhà tài trợ (donor driven) thì giai đoạn từ 1995
trở đi, cách tiếp cận theo cơ chế phối hợp (partnership approach) giữa bên tài trợ và
bên nhận tài trợ được chú trọng và áp dụng ngày càng phổ biến hơn. Thay vì chú trọng
đến lượng vốn giải ngân thì các nhà tài trợ đã dần quan tâm nhiều hơn đến hiệu quả và
tác động của ODA đến tăng trưởng và phát triển của các nước tiếp nhận.
Về phía các nước nhận tài trợ, sau khủng hoảng nợ của Mexico và thất bại của
các nước châu Phi trong việc sử dụng nguồn vốn ODA đã có những chỉ trích về việc áp
đặt chính sách không phù hợp của các nhà tài trợ đối với các nước này. Bên cạnh đó, tư
tưởng lo ngại về sự phụ thuộc vào viện trợ và nguy cơ tạo ra gánh nặng nợ nần đã xuất
hiện ngày càng nhiều và được cảnh báo rõ ràng hơn. Do vậy, các nước đang phát triển
cũng thận trọng hơn trong việc tiếp nhận nguồn viện trợ từ các nước phát triển.
Sau đó, hội nghị quốc tế Monterrey của WB tổ chức tại Mexico năm 2002 đã
nhấn mạnh lại vai trò của chính sách, thể chế tốt và quản trị tốt đối với sử dụng ODA
cho phát triển của các nước nhận và khẳng định lại cần tăng cường cơ chế phối hợp
giữa các nước tài trợ và các nước tiếp nhận. Cho đến năm 2005, tại Diễn đàn cấp cao
về viện trợ phát triển tổ chức tại Paris, các nhà tài trợ và các nước tiếp nhận đã cam kết
thực hiện Tuyên bố Paris về nâng cao hiệu quả ODA. Trong Tuyên bố này bao gồm 56
cam kết, được phân thành 5 nguyên tắc chính là nguyên tắc làm chủ của nước tiếp
nhận; nguyên tắc liên kết giữa chính sách của nhà tài trợ và chiến lược, hệ thống thể
chế của nước tiếp nhận; nguyên tắc hài hoà do các nhà tài trợ hợp tác với nhau nhiều
49
hơn để đảm bảo sự không trùng lặp lĩnh vực tài trợ; nguyên tắc quản lý theo kết quả;
nguyên tắc trách nhiệm chung giữa nhà tài trợ và nước tiếp nhận. Phương thức quản lý
ODA của Tuyên bố Paris theo năm nguyên tắc trên đây cho thấy sự cần thiết phải điều
chỉnh về chính sách giữa nhà tài trợ và nước nhận tài trợ sao cho giảm thiểu sự khác
biệt giữa nhà tài trợ và nước tiếp nhận nhằm mục đích cuối cùng là nâng cao hiệu quả
sử dụng nguồn vốn ODA [1, tr. 17,18]. (Phụ lục 1: Điều kiện vay vốn ODA của một số
nhà tài trợ chủ yếu).
Thứ tư, bầu không khí quốc tế và các mối quan hệ kinh tế, chính trị giữa bên tài
trợ với nước tiếp nhận. Nếu bầu không khí này mang tính tích cực thì sẽ tạo thuận lợi
cho việc giữ vững và mở rộng quy mô vốn ODA cũng như đối với việc hài hòa hóa thủ
tục quản lý nguồn vốn ODA giữa các nhà tài trợ với bên nhận tài trợ.
Vốn ODA bị ảnh hưởng bởi quan hệ sẵn có của bên cấp và nhận ODA. Các
nước thường cấp ODA bởi sự tương hợp về thể chế chính trị, bởi quan hệ địa dư gần
gũi... Ví dụ việc phần lớn hỗ trợ song phương của Hàn Quốc đổ vào châu Á (61,6%)
bao gồm cả các nước Đông Nam Á là do yếu tố gần gũi về địa lý, văn hóa giữa Hàn
Quốc với khu vực này. Hay sự tập trung của Nhật vào viện trợ cho các nước châu Á
không chỉ phản ánh những lợi ích thương mại của Nhật Bản, mà còn là kết quả của sự
hiểu biết và kinh nghiệm của họ về châu Á, nếu không nói là về các quan hệ lịch sử
của họ với khu vực này. Bên cấp viện trợ và bên nhận ODA thường là những người
bạn về chính trị và đồng minh quân sự. Nước cấp ODA không cấp cho những đối
tượng mà họ cho là kẻ thù, hoặc chỉ cấp ODA cho các nước xem như kẻ thù nhưng đi
kèm với những ý đồ chính trị đòi hỏi nước tiếp nhận phải đảm bảo thực hiện. Hơn nữa,
nếu giữa hai bên duy trì mối quan hệ tốt thì sự kết hợp trong quản lý, trong hài hòa thủ
tục sẽ thuận lợi. Trường hợp quan hệ quốc tế căng thẳng sẽ gây nhiều khó khăn thách
thức cho nhà nước trong quản lý vốn ODA nói chung, quản lý ODA trong xây dựng
KCHTKT nói riêng.
Chẳng hạn, trong thập niên 70 và 80 của thế kỷ XX, nguồn ODA cho Việt
Nam chủ yếu đến từ các nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô và các nước Đông Âu,
một vài nước Bắc Âu và UNDP có hỗ trợ phát triển cho Việt Nam nhưng chiếm tỷ
trọng không đáng kể. Sau khi thống nhất, chính sách cấm vận do Hoa Kỳ áp đặt đối
với Việt Nam đã hạn chế hỗ trợ phát triển của các nhà tài trợ phương Tây khác. Trong
giai đoạn đó, vốn viện trợ cho Việt Nam được xác định trên cơ sở đàm phán song
50
phương hàng năm giữa Chính phủ Việt Nam và các nước xã hội chủ nghĩa, phụ thuộc
chủ yếu vào phía nhà tài trợ, quyền quyết định của phía Việt Nam rất hạn chế. Khi
khối các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên xô sụp đổ thì nguồn ODA từ
những nước này cho Việt Nam cũng bị cắt giảm, góp phần gây ra sự thiếu hụt vốn đầu
tư phát triển và thiếu hụt ngân sách. Trong bối cảnh như vậy, Việt Nam đã thay đổi
chính sách đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa, đồng thời tìm cách huy
động vốn ODA từ các nhà tài trợ khác. Nhờ chính sách Đổi mới, đồng thời năm 1994
Hoa Kỳ chính thức xóa bỏ chính sách cấm vận Việt Nam, các tổ chức tài chính quốc tế
như IMF, WB và các nhà tài trợ quốc tế khác đã quay trở lại Việt Nam, mở ra cơ hội
để Việt Nam tiếp cận ODA của các tổ chức quốc tế và các nhà tài trợ phương Tây.
2.1.5.2. Nhóm các nhân tố từ phía nước tiếp nhận
Thứ nhất, sự ổn định chính trị. Ổn định chính trị là một trong những yếu tố không
thể thiếu, góp phần giúp các nước có thể kiên trì chính sách phát triển kinh tế. Nền chính
trị ổn định tạo được hòa bình và thịnh vượng. Các nước trải qua các cuộc đảo chính hay
khủng hoảng chính trị sẽ gây bất lợi cho việc thu hút ODA và QLNN về ODA.
Thứ hai, trình độ phát triển kinh tế, thể hiện ở mức tăng trưởng kinh tế và tiến
trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; mức độ ổn định kinh tế vĩ mô
từng giai đoạn, đặc biệt là các chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách tài khóa, chính
sách tiền tệ, chính sách thuế, chính sách thương mại, mức độ mở cửa của nền kinh tế,
khả năng sản xuất và xuất khẩu thu ngoại tệ để trả nợ. Đặc biệt các quốc gia luôn phải
cân đối giữa khối lượng ODA vay và khả năng trả nợ của quốc gia.
Chẳng hạn, Malaisia là một đất nước đang phát triển nhận được nhiều ODA từ
nhiều tổ chức đa phương và song phương. Mặc dù năm 1984, chính phủ Mailaisia tăng
chi tiêu thông qua việc vay nợ nước ngoài khoảng 15 tỷ USD, nhưng ngay sau đó, năm
1985, trước nguy cơ tăng nợ nước ngoài và tính toán khả năng trả nợ của nền kinh tế,
chính phủ Mailaisia kịp thời thay đổi chính sách quản lý, cắt giảm chi tiêu, giảm vay
nợ nước ngoài. Các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế đầy tham vọng trong kế hoạch 5 năm
1986-1990 đã được chính phủ xem xét lại và từng bước bãi bỏ. Thay vào đó, chính
phủ Mailaisia tập trung cải cách cơ cấu kinh tế, tiến hành tư nhân hóa một số xí nghiệp
quốc doanh, kể cả các xí nghiệp lớn như hãng hàng không quốc gia, công ty tàu biển
và công ty viễn thông nhằm huy động tối đa nguồn lực trong xã hội vào quá trình phát
triển đất nước với phương châm phát huy nội lực. Chính sách đổi mới kinh tế với việc
51
cắt giảm kịp thời các khoản vay nợ nước ngoài đã góp phần đưa kinh tế Mailaisia
nhanh chóng phục hồi và phát triển một cách bền vững.
Thứ ba, hiệu quả sử dụng vốn ODA trong xây dựng KCHTKT cũng ảnh hưởng
đến uy tín nhà nước và công tác QLNN đối với vốn ODA trong xây dựng KCHTKT
trong tương lai. Những khoản viện trợ là một phần GNP của các nước tài trợ nên rất
nhạy cảm với dư luận xã hội ở các nước tài trợ. Nhân dân các nước cấp viện trợ coi
trọng cả số lượng và chất lượng viện trợ, vì đó được trích ra từ khoản thuế mà họ đóng
góp cho nhà nước. Họ ủng hộ viện trợ với điều kiện là viện trợ được sử dụng tốt. Chính
vì vậy, các nước nhận ODA cần rất thận trọng với nguồn viện trợ dù dưới dạng hoàn lại
hay không hoàn lại đều phải quản lý chặt chẽ, đảm bảo sử dụng hiệu quả, đúng mục
đích. Khi hiệu quả vốn ODA không cao, các công trình KCHTKT xây dựng bằng vốn
ODA chất lượng kém, thất thoát lãng phí thì cũng là lúc QLNN khó khăn hơn.
Thứ tư, trình độ khoa học công nghệ hay mặt bằng đất đai ảnh hưởng tới
QLNN đối với vốn ODA trong xây dựng KCHTKT. Khác với các chương trình dự án
trong lĩnh vực xã hội như y tế, giáo dục, xoá đói giảm nghèo, ODA đầu tư trong
KCHTKT chủ yếu là công trình xây dựng như cầu đường, điện nước, thuỷ lợi, viễn
thông nên yếu tố công nghệ rất quan trọng. Mặt khác để xây dựng các công trình
KCHTKT cần có mặt bằng đất đai. Trình độ công nghệ cao trong các ngành này và
một diện tích mặt bằng đất đai phù hợp sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho QLNN. Ngược
lại, trình độ công nghệ thấp kém và khó khăn trong việc có được mặt bằng xây dựng sẽ
là những thách thức không nhỏ đối với QLNN đối với vốn ODA trong xây dựng
KCHTKT.
Thứ năm, trình độ văn hóa, ý thức và thái độ của cộng đồng dân cư cũng ảnh
hưởng đến QLNN đối với vốn ODA trong xây dựng KCHTKT.
Các công trình KCHTKT như đường sá, cầu cống, cấp thoát nước... là những
công trình tác động trực tiếp và gần sát với cuộc sống sinh hoạt và sản xuất của cộng
đồng dân cư. Thái độ của người dân với việc xây dựng những công trình này ảnh
hưởng không nhỏ đến QLNN. Những công trình chất lượng kém hay gây lãng phí...
tạo dư luận không tốt và có thể làm mất niềm tin của người dân, gây áp lực lên bộ máy
QLNN. Hoặc trong trường hợp nợ nước ngoài quá cao, vốn ODA thất thoát do tham
nhũng, người dân cũng có thể có thái độ không thiện chí với việc tiếp tục đi vay...
Những phản ứng này phụ thuộc vào trình độ văn hóa, ý thức và trách nhiệm của người
52
dân với tình hình đất nước, và cũng là nhân tố ảnh hưởng không nhỏ đến QLNN đối
với vốn ODA trong xây dựng KCHTKT.
2.1.6. Tiêu chí đánh giá quản lý nhà nước đối với vốn ODA trong xây dựng kết
cấu hạ tầng kinh tế
Tiêu chí đánh giá QLNN đối với vốn ODA trong xây dựng KCHTKT bao gồm
các yêu cầu cụ thể có tính chuẩn mực để làm cơ sở cho việc đánh giá, đưa ra những
nhận định về hiệu quả thực hiện một cách hệ thống và khách quan. Các tiêu chí đánh
giá QLNN được thể hiện qua các nội dung quản lý vốn ODA trong xây dựng
KCHTKT, cụ thể:
- Tiêu chí đánh giá công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch thu hút và sử
dụng vốn ODA cho KCHTKT trong từng thời kỳ
+ Tính phù hợp: Trước hết, quy hoạch kế hoạch thu hút và sử dụng ODA trong
xây dựng KCHTKT phải phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội
của cả nước và từng ngành KCHTKT cụ thể và phù hợp với điều kiện chính sách của
nhà tài trợ. Vận động ODA trong xây dựng KCHTKT phải phù hợp với quy hoạch kế
hoạch đã xây dựng, phù hợp với tình hình của quốc gia cũng như từng địa phương,
từng ngành để có những dự án khả thi mà không gây ra sự chồng chéo, lãng phí và tạo
gánh nặng nợ.
+ Tính khả thi: Tính khả thi đảm bảo sự cân đối giữa nhu cầu vốn và khả năng
huy động. Nhu cầu vốn ODA đầu tư cho KCHTKT là rất lớn, nhưng phải tính đến khả
năng thu hút từ các nhà tài trợ để xây dựng quy hoạch, kế hoạch cho hợp lý.
+ Tính hiệu quả: Tính hiệu quả thể hiện ở việc các dự án KCHTKT trong danh
mục vận động ODA có mục đích, nội dung, địa chỉ rõ ràng. Các dự án ưu tiên phải
theo mức độ cấp thiết, mức độ cấp thiết càng lớn thì lợi ích mang lại càng cao.
+ Tính tiên liệu: Quy hoạch, kế hoạch, danh mục dự án ODA trong xây dựng
KCHTKT phải được chuẩn bị kỹ càng, có dự tính trước về những vấn đề có thể xảy ra
cả ở trong nước và từ phía các nhà tài trợ. Dự toán các khoản mục phải được lập chính
xác, đầy đủ, tránh phải điều chỉnh sau này.
+ Tính kịp thời: Quy hoạch kế hoạch phải đi trước một bước, làm cơ sở để vận
động và triển khai các dự án cụ thể.
+ Tính chủ động: Thể hiện ở sự tích cực trong tổ chức và tham gia các hội nghị
thu hút vốn ODA cho KCHTKT. Trong đàm phán cần sự khéo léo, có trách nhiệm để
53
đạt yêu cầu về lãi suất, thời hạn vay, về các điều kiện giải ngân, thực hiện dự án, về
công nghệ áp dụng cho công trình KCHTKT, định mức chi tiêu, phí tư vấn, chính sách
đối với chuyên gia trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi.
- Tiêu chí đánh giá việc ban hành hệ thống pháp luật, chính sách về vốn
ODA nói chung và KCHTKT nói riêng
+ Tính toàn diện, đồng bộ và ổn định: Pháp luật, chính sách điều chỉnh việc thu
hút và sử dụng ODA trong xây dựng KCHTKT phải có đầy đủ các chế định pháp luật,
thể hiện thống nhất trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật tương ứng, đồng thời
phải có đầy đủ các quy phạm pháp luật cần thiết. Các văn bản không được chồng chéo,
mâu thuẫn, đảm bảo tính ổn định, các quy định trong văn bản không phải sửa đổi, bổ
sung ngay sau khi văn bản được ban hành.
+ Tính phù hợp, hài hoà với nhà tài trợ: pháp luật, chính sách phải phù hợp với
các điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội, đồng thời phù hợp, hài hoà với các quy định,
yêu cầu của các nhà tài trợ quốc tế. Pháp luật chính sách phải được xây dựng trên cơ
sở xem xét đầy đủ và toàn diện các vấn đề mà thực tiễn đặt ra và dự liệu được những
biến đổi tích cực hoặc tiêu cực có thể diễn ra trong thu hút và sử dụng ODA trong xây
dựng KCHTKT.
+ Tính minh bạch, hiệu quả và khả thi: Pháp luật chính sách phải công khai, rõ
ràng, rành mạch để mọi đối tượng đều dễ tiếp cận và hiểu đúng. Văn bản pháp luật
phải cụ thể, chi tiết, có khả năng thi hành. Tính khả thi thể hiện đối tượng quản lý phải
chấp hành nghĩa vụ mà văn bản pháp luật quy định và các cơ quan nhà nước (hoặc cán
bộ, công chức) phải tổ chức thi hành các quy định này.
- Tiêu chí đánh giá công tác xây dựng, tổ chức và vận hành bộ máy QLNN về
vốn ODA trong xây dựng KCHTKT
+ Tính hệ thống, hiệu quả, hiệu lực: thể hiện sự lãnh đạo tập trung thống nhất ở
cấp cao nhất, phát huy được tính tích cực của các cơ quan quản lý ở các cấp, khiến cho
họ tận tâm tận lực với công việc và phối hợp chặt chẽ với nhau trong công việc. Dựa
trên nguyên tắc nâng cao hiệu quả quản lý để xác định biên chế tổ chức và chế độ quản
lý. Đảm bảo phối hợp giữa các cấp, lựa chọn phương thức truyền tin về thu hút và sử
dụng ODA trong KCHTKT nhanh chóng và phân công hợp lý để mỗi bộ phận gọn
nhẹ, định biên rõ ràng, đảm bảo thực hiện những mục tiêu của tổ chức với chi phí thấp.
+ Tính chuyên môn hoá và cân đối: Tổ chức bộ máy quản lý vốn ODA trong xây dựng
54
KCHTKT phải xác định rõ phạm vi, chức năng và nhiệm vụ của các bộ phận và phải đảm bảo
sự cân đối, không chồng chéo, trùng lặp. Việc phân cấp phù hợp với tình hình thực tiễn và
trình độ năng lực các cấp. Bộ máy phải đầy đủ các bộ phận, có chuyên môn nghiệp vụ phù
hợp và chuyên nghiệp. Mặt khác số lượng các cấp quản lý phải phù hợp với thực tế, ít đầu
mối trung gian, đảm bảo cho mỗi bộ phận một mức độ tự do sáng tạo để đạt được hiệu quả
cao và phát triển được năng lực của cán bộ trong từng bộ phận.
+ Tính linh hoạt: Tổ chức bộ máy quản lý ODA trong xây dựng KCHTKT
không bảo thủ trì trệ, quan liêu mà luôn phải linh hoạt, thích ứng với những thay đổi
hay biến động của các yếu tố tác động từ môi trường trong nước và quốc tế.
- Tiêu chí đánh giá công tác bố trí vốn đối ứng cho các chương trình dự án
ODA trong xây dựng KCHTKT và thanh toán nợ nước ngoài
+ Tính đầy đủ và kịp thời: Vốn đối ứng cần bảo đảm đầy đủ và kịp thời để đưa
vào dự toán ngân sách nhà nước, tránh tình trạng phải điều chỉnh bổ sung, gây bị động
cho ngân sách nhà nước và chậm trễ trong triển khai thực hiện các dự án ODA trong
xây dựng KCHTKT.
+ Tính chủ động: Nâng cao tính chủ động cho các đơn vị trong việc xây dựng
kế hoạch vốn đối ứng cho các dự án, làm tốt công tác kế hoạch hoá vốn đối ứng cho
các công trình dự án ODA trong KCHTKT. Thanh toán nợ nước ngoài cần có kế
hoạch cụ thể, chủ động và giữ uy tín với quốc tế.
-Tiêu chí đánh giá công tác thẩm định, phê duyệt các chương trình dự án
ODA trong xây dựng KCHTKT
+ Tính phù hợp, chính xác: Thẩm định phê duyệt công trình dự án ODA trong
xây dựng KCHTKT phải phù hợp với tình hình thực tế, làm sáng tỏ và phân tích về
một loạt các vấn đề có liên quan tới tính khả thi trong quá trình thực hiện dự án: tính
cấp thiết của dự án, thị trường, công nghệ, kỹ thuật, khả năng tài chính, đóng góp của
dự án vào sự tăng trưởng của nền kinh tế…. Các nội dung thẩm định phê duyệt cũng
phải phù hợp với quy định của nhà tài trợ. Việc thẩm định vừa phải đảm bảo tính toàn
diện vừa phải đảm bảo tính cụ thể, chính xác.
+ Tính kịp thời: Việc phê duyệt cần nhanh gọn, không mất nhiều thời gian công
sức và gây phiền nhiễu cho chủ đầu tư, nhà thầu và nhà tài trợ. Công tác thẩm định dự
án ODA trong KCHTKT phải được tiến hành phù hợp với các quy định hiện hành
và đảm bảo thời hạn quy định.
- Tiêu chí đánh giá công tác đánh giá, giám sát việc thu hút và sử dụng vốn
55
ODA trong KCHTKT
+ Tính trung thực, chính xác, khách quan: Kiểm tra, giám sát cần phản ảnh
trung thực khách quan các nội dung. Mức đọ chính xác và minh bạch càng cao chứng
tỏ trình đọ , na ng lực của co quan quản lý càng tốt và nguợc lại. Đây là ca n cứ để các
co quan QLNN phát hiẹ n ra những vấn đề xảy ra và nguyên nhân để có thể xử lý đúng
đắn, góp phần hạn chế các sai phạm. Tính khách quan còn thể hiện cần có giám sát của
cộng đồng dân cư, các tổ chức xã hội, đoàn thể quần chúng đối với công trình
KCHTKT.
+ Tính đầy đủ, kịp thời: Giám sát đánh giá phải đầy đủ, thường xuyên, bao quát
tất cả mọi hoạt động từ thu hút đến sử dụng. Các khâu kiểm tra, giám sát đầy đủ giúp
các co quan quản lý phát hiẹ n các nọi dung sai phạm để từ đó có những điều chỉnh kịp
thời. Hệ thống theo dõi cũng cần được xem xét và điều chỉnh, cải thiện thường xuyên
đáp ứng những nhu cầu về phản hồi thông tin của bộ máy quản lý.
+ Tính khả thi, hợp lý: Tính khả thi thể hiện ở các phương pháp, công cụ, thời
gian biểu và các thủ tục đánh giá, giám sát được đề ra là thực tế, thận trọng và hiệu quả
về mặt chi phí, đảm bảo sự thống nhất và phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp.
Sự hợp lý sẽ giúp cho việc phát hiẹ n kịp thời những nguy co, dấu hiẹ u rủi ro kỹ thuật
và tài chính và vấn đề nảy sinh trong các dự án KCHTKT sử dụng vốn ODA, từ đó có
biẹ n pháp phòng ngừa và xử lý hiẹ u quả.
+ Tính hiẹ u lực, hiẹ u quả: Tính hiẹ u lực, hiẹ u quả của công tác kiểm tra, giám
sát đuợc phản ánh thông qua hẹ thống chế tài đuợc thiết kế cụ thể, đủ mạnh và rõ ràng
đối với các tru ờng hợp vi phạm, đồng thời phải gắn với quyền và trách nhiẹ m của từng
chủ thể liên quan đến viẹ c thu hút và sử dụng vốn ODA trong xây dựng KCHTKT.
2.2. KINH NGHIỆM QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VỐN ODA TRONG XÂY
DỰNG KẾT CẤU HẠ TẦNG KINH TẾ Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
2.2.1. Những kinh nghiệm thành công
2.2.1.1. Chuẩn bị tốt cho dự án xin viện trợ
Việc chuẩn bị tốt cho các dự án góp phần không nhỏ vào hiệu quả sử dụng vốn
viện trợ. Chuẩn bị chu đáo cho dự án xin viện trợ sẽ tạo thế chủ động cho nước nhận
viện trợ trên nhiều phương diện.
Đối với Trung Quốc, trước những năm 1980, Chính phủ đã cho phép phần lớn
các chương trình, dự án được nhanh chóng sử dụng nguồn vốn ODA nên “chạy theo
56
số lượng, chưa chú trọng tới chất lượng và hiệu quả”. Kết quả là nguồn vốn ODA cho
vay đã làm gia tăng gánh nặng nợ quốc gia, là một trong những nguyên nhân đưa nền
kinh tế vào giai đoạn khó khăn. Để khắc phục tồn tại này, trong suốt gần ba thập kỷ
qua, Trung Quốc đã có những cải thiện đáng kể. Hàng năm, Trung Quốc huy động
khoảng 5-6 tỷ USD vốn ODA từ các nguồn tài trợ song phương và đa phương.
Chuẩn bị dự án cũng được Trung Quốc rất chú trọng và thực hiện tương đối tốt
với các hướng dẫn nghiên cứu khả thi toàn diện tuân theo một trình tự hết sức lôgíc
nên không bỏ sót một khâu kỹ thuật nào. Quy trình lập kế hoạch về cơ bản là từ cơ sở
lên. Quá trình lựa chọn và phê duyệt các dự án đăng ký sử dụng vốn ODA được thực
hiện theo một trật tự thống nhất và rất hiệu quả từ khâu xác định dự án (nghiên cứu
tiền khả thi, đề xuất, lựa chọn dự án), chuẩn bị dự án (nghiên cứu khả thi, thiết kế kỹ
thuật, đánh giá tác động môi trường), đánh giá dự án (mục tiêu, kỹ thuật công nghệ,
phân tích thị trường, hiệu quả kinh tế-xã hội, môi trường, vốn đối ứng, khả năng trả
nợ.v.v.). Để đạt được kết quả cao nhất, Chính phủ Trung Quốc quy định các chủ dự án
phải lựa chọn các viện thiết kế có năng lực cao nhất thông qua đấu thầu cạnh tranh.
Việc đàm phán với phía nhà tài trợ chỉ có thể diễn ra khi nghiên cứu khả thi của các dự
án lựa chọn đã được phê duyệt và việc chấp nhận khoản vay sau khi hoàn tất thiết kế
kỹ thuật. Do vậy, tiến độ giải ngân rất nhanh.
Malaysia, Indonesia xuất bản “Quyển sách xanh” trong đó ghi các dự án ưu tiên
đề nghị vốn đầu tư từ ODA và các nguồn vốn khác cho tài khoá năm sau. “Quyển sách
xanh” được gửi đến các tổ chức quốc tế, các nước cấp viện trợ. Đồng thời các cơ quan
của chính phủ có liên quan phải chuẩn bị tốt các tài liệu và sự bình luận cần thiết để có
thể kịp thời cung cấp cho các tổ chức viện trợ về từng dự án cụ thể. Malaisia chọn lọc
rất kỹ các dự án vay vốn ODA và chỉ tiếp nhận những dự án có quy mô lớn.
Trong việc xây dựng nghiên cứu khả thi và đánh giá hiệu quả của các dự án
ODA, Malaisia tận dụng tối đa sự hỗ trợ của các nhà tài trợ, và có sự tham gia phối
hợp chặt chẽ với các nhà tài trợ trong các hoạt động này. Do vậy, một khi phía nhà tài
trợ đã xây dựng xong là Chính phủ Malaisia phê duyệt ngay và nhờ đó họ đã rút ngắn
được công đoạn này. Tương tự như vậy Chính phủ Malaisia đã áp dụng kịp thời kết
quả đánh giá sau dự án của các nhà tài trợ để cải tiến chất lượng thiết kế các dự án
mới; Malaisia không gặp nhiều vướng mắc do sự khác biệt về thủ tục trong nước và
thủ tục của các nhà tài trợ vì các dự án ODA của nhà tài trợ nào tuân thủ hướng dẫn và
57
quy định của nhà tài trợ đó.
2.2.1.2. Cung cấp đủ các nguồn tài chính
Ở Trung Quốc, khi các nhà tài trợ phê duyệt một khoản vay dự án, nhiệm vụ
quan trọng nhất là bố trí nguồn tài chính kịp thời đối với mọi nguồn vốn. Mức trung
bình của các khoản vay ODA thường dưới 40% tổng chi phí vốn đầu tư cho dự án mà
phần lớn trong số này được dùng để mua sắm quốc tế các hàng hoá và dịch vụ; 60%
còn lại bao gồm vốn đối ứng trong nước được sử dụng chủ yếu cho xây dựng công
trình đấu thầu cạnh tranh trong nước. Việc phân bổ các nguồn vốn theo cách thức
trong đó vốn đối ứng chiếm tỷ lệ cao đã làm tăng nhận thức về vai trò làm chủ dự án
và giảm bớt ảnh hưởng của các cơ quan bên ngoài, các nhà tài trợ và các tổ chức cho
vay. Nếu kết quả thẩm định của các cơ quan chức năng cho thấy dự án được lựa chọn
có thiết kế đúng quy cách xét về các mục tiêu thực tế, hiệu quả kinh tế nhờ quy mô,
xây dựng, thiết kế và khái toán chi phí, khi đó Ngân hàng Trung Quốc sẽ xem xét việc
xếp vốn đối ứng (các nguồn lực trong nước nhằm đảm bảo đáp ứng chi tiêu của dự án
bằng nội tệ) để đảm bảo những thu xếp tài chính một cách thấu đáo.
Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng đa dạng hóa hình thức huy động nguồn tài chính
từ các doanh nghiệp trong nước. Ví dụ như, tại thành phố Đông Quản, thuộc tỉnh
Quảng Đông, chính quyền địa phương đã thành lập một công ty vận động tài chính từ
các nguồn khác nhau để xây dựng đường và các nhà máy điện. Các khoản vay được trả
lãi theo định kỳ, phần vốn gốc sẽ được hoàn trả bằng nguồn thu phí của người sử dụng
khi công trình được hoàn thành và đưa vào sử dụng.
Chính phủ Malaisia luôn đảm bảo cung cấp đủ vốn đối ứng để thực hiện dự án
theo đúng tiến độ đặt ra. Chẳng hạn với các dự án ADB, Chính phủ ứng trước vốn để
thực hiện dự án, sau đó ADB sẽ hồi tố cho Chính phủ các khoản tạm ứng này. Do mức
tiết kiệm trong nước cao nên Chính phủ Malaisia đã đề nghị thanh toán một số khoản
nợ trước hạn cho một số nhà tài trợ nhằm sử dụng nguồn vốn trong và ngoài nước một
cách kinh tế nhất.
2.2.1.3. Chú trọng công tác đánh giá, giám sát dự án
Trung Quốc chú trọng đặc biệt đến công tác đánh giá sau dự án và vai trò của
công tác này trong việc ra quyết định và quản lý dự án. Trung Quốc nhận thấy rằng
tính hiệu quả và hiệu dụng của đầu tư cho KCHTKT tác động rất lớn đến sự phát triển
của nền kinh tế. Trung Quốc đã hướng việc đánh giá một số dự án đã hoàn thành vào
58
việc ban hành các quy định áp dụng cho những dự án trên cơ sở các bài học kinh
nghiệm đã đúc kết được.
Trung Quốc là một điển hình tiêu biểu của việc đề cao vai trò của việc quản lý
và giám sát. Hai cơ quan trung ương quản lý ODA là Bộ Tài chính (MOF) và Uỷ ban
cải cách và phát triển quốc gia (NDRC). Bộ tài chính làm nhiệm vụ vận động thu hút
vốn, đồng thời là cơ quan giám sát việc sử dụng vốn. Đồng thời bộ còn yêu cầu các sở
tài chính địa phương thực hiện kiểm tra thường xuyên hoạt động của các dự án. Các bộ
ngành chủ quản và địa phương có vai trò quan trọng trong thực hiện và phối hợp với
Bộ tài chính giám sát việc sử dụng vốn.
Ở Trung Quốc, công tác kiểm toán được thực hiện rất tốt, chặt chẽ ở từng khâu.
Cơ quan Kiểm toán nhà nước chịu trách nhiệm kiểm toán các dự án theo Quy chế kiểm
toán của Chính phủ. Công tác kiểm toán được thực hiện ở ba giai đoạn: trước khi dự
án khởi công, trong quá trình thực hiện dự án và sau khi dự án hoàn thành. Những
cuộc kiểm toán truyền thống tập trung vào các quy tắc của vận hành dự án. Trong khi
liên tục nhấn mạnh tầm quan trọng của quy tắc thì Trung Quốc cũng cố gắng tìm ra
những bài học tốt về kinh nghiệm liên quan đến thực hiện dự án với quan điểm phổ
biến trên một quy mô lớn.
Cũng như Trung Quốc, ở Malaissia, giám sát và đánh giá thường xuyên được
thực hiện, vì nó là một phần của quá trình phản hồi vào hệ thống lập kế hoạch và ngân
sách riêng của Malaysia. Giám sát và đánh giá nhằm thu thập và phân tích thông tin để
theo dõi những thay đổi, cải thiện hiệu suất và đạt được các kết quả.
Sự phối hợp giữa nhà tài trợ và nước nhận viện trợ trong hoạt động kiểm tra,
giám sát các dự án ODA cũng là nguyên nhân dẫn tới thành công trong quản lý và sử
dụng ODA ở Malaysia. Phương pháp đánh giá của đất nước này là khuyến khích phối
hợp đánh giá giữa nhà tài trợ và nước nhận viện trợ, bằng cách hài hoà hệ thống đánh
giá của hai phía. Nội dung đánh giá tập trung vào hiệu quả của dự án so với chính sách
và chiến lược, nâng cao công tác thực hiện và chú trọng vào kết quả. Hoạt động theo
dõi đánh giá được tiến hành thường xuyên, Malaisia cho rằng công tác theo dõi đánh
giá không hề làm cản trở dự án, trái lại sẽ giúp nâng cao tính minh bạch, và đặc biệt là
giảm lãng phí.
Ở cấp độ triển khai thực hiện, theo dõi và đánh giá đối với gần như tất cả các dự
án sử dụng vốn ODA ở Malaisia được giám sát bởi một Ban chỉ đạo Dự án (PSC),
59
thường do cơ quan đối tác đứng đầu, với các thành viên gồm các quan chức từ các bộ
phận có liên quan của Malaisia và nhà tài trợ. Ví dụ, đối với các dự án vốn vay bằng
đồng Yên, kể từ tháng 5 năm 2003, JBIC và Malaisia tổ chức một cuộc họp giám sát
thường xuyên để thảo luận về tiến độ thực hiện các dự án của JBIC. Cuộc họp này
được chủ trì bởi Ủy ban Kế hoạch Kinh tế của Malaisia cùng với đại diện của Đại sứ
quán Nhật Bản cũng như các cơ quan thực hiện, nhằm tìm ra các vấn đề phải đối mặt
trong quá trình thực hiện các dự án để đảm bảo thực hiện trôi chảy, kịp thời, phù hợp
với tiến độ đã đề ra [103, tr.11]
Trong một nỗ lực nhằm nâng cao năng lực của các cán bộ tham gia đánh giá và
giám sát dự án ODA, Malaisia tích cực cử cán bộ tham gia hội thảo quốc tế về giám
sát và đánh giá. Ví dụ Hội thảo ODA ở Tokyo đã cho phép các cán bộ cao cấp có liên
quan chia sẻ kinh nghiệm về thực hành quy định giám sát và đánh giá của các nhà tài
trợ và đối tác nước ngoài, đồng thời có khả năng tiếp cận với các vấn đề quốc tế liên
quan đến ODA diễn ra tại Malaisia [103, tr.12].
Malaisia áp dụng khá thành công công nghệ thông tin trong công tác theo dõi,
giám sát các cơ quan liên quan đến quản lý vốn ODA bằng cách đưa toàn bộ các đề
nghị thanh toán lên mạng. Nhờ cách quản lý minh bạch như vậy, nên Malaisia trở
thành một trong những nước nhận viện trợ tiêu biểu về chống tham nhũng.
2.2.1.4. Quy định mức vay và trả nợ hàng năm
Thái Lan cũng là nước có định hướng tốt cho nguồn vốn ODA. Thái Lan đã
dùng 65% vốn ODA từ Nhật Bản để nâng cấp ngành giao thông, bưu điện và năng
lượng [30, tr.51]. Ở Thái Lan có sự nhất trí trong Chính phủ về mục tiêu của quốc gia,
chính sách và danh mục ưu tiên chi tiêu được xác định rõ ràng, cân nhắc kỹ lưỡng
chiến lược tập trung vào các vấn đề: tầm cỡ, mức độ viện trợ, yêu cầu loại nguồn viện
trợ nước ngoài nào, những chỉ số và điều kiện được cho là có thể chấp nhận được, mục
tiêu của nước cấp viện trợ, các thủ tục và các bộ phận đảm nhiệm quá trình viện trợ.
Tại Thái Lan một dự án, đặc biệt là dự án vay nợ, trước khi đề xuất với phía cấp viện
trợ thường phải xem xét và tiến hành nhiều bước để xác định: tính cấp thiết của dự án,
nên vay nợ nước ngoài hay huy động trong nước. Nếu vay, mức vốn cần vay là bao
nhiêu cần được ghi rõ, hiệu quả sử dụng và khả năng hoàn vốn vay. Sau khi các vấn đề
trên được phân tích kỹ, Chính phủ sẽ tiến hành đàm phán với các đối tác để xác định,
lựa chọn nguồn vay với mức lãi suất nhất định và các điều kiện khác. Khi chưa có sự
60
phê duyệt của Chính phủ, các chủ dự án không được tiếp xúc với các đối tác nước
ngoài để đảm bảo tính hiệu quả của việc sử dụng vốn, tránh những cuộc vận động
ngầm không khách quan có thể xảy ra.
Một trong những biện pháp giúp Thái Lan không bị sa lầy vào vòng nợ nần là
xác định “trần” vay, trả hằng năm. Một khoản vay không được tính là nguồn thu ngân
sách nhưng các khoản trả nợ được nhà nước cân đối trong ngân sách quốc gia hằng
năm. Chính phủ Thái Lan quy định mức vay nợ không được vượt quá 10% kế hoạch
thu ngân sách, mức trả nợ bằng 9% kim ngạch xuất khẩu hoặc 20% chi ngân sách hằng
năm. Sự khống chế này nhằm cân đối khả năng vay, trả nợ, mức xuất khẩu của đất
nước, tránh vay mượn tràn lan. Nhiều dự án phù hợp với yêu cầu phát triển của đất
nước, có nguồn vay nhưng vượt quá giới hạn cho phép đều bị gác lại. Là một nước có
mức vay nợ nước ngoài cao (1980-1986 mức vay nợ mỗi năm bình quân khoảng 1,75
tỷ USD) nhưng Thái Lan luôn trả nợ đúng hạn (trung bình mỗi năm khoảng 1 tỉ USD)
[55, tr.43].
2.2.1.5. Phối hợp quản lý và nhất quán, chuyên nghiệp hoá trong công tác bố trí
cán bộ
Malaisia có sự phân định rõ về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý
ODA. Giữa các cơ quan này có sự phối hợp chặt chẽ và có chung một nhận thức là tạo
thuận lợi tối đa cho các PMU, làm sao thực hiện các dự án ODA đúng tiến độ, áp dụng
các thủ tục trình duyệt nhanh gọn nhằm giảm bớt phí cam kết. Những hợp phần nào
trong dự án khó thực hiện, Chính phủ Malaisia chủ động đề nghị với nhà tài trợ huỷ bỏ
hợp phần này. Hiện nay các đề nghị thanh toán được tiến hành trên mạng vi tính, phục
vụ tốt cho công tác theo dõi giám sát của các cơ quan liên quan; những vướng mắc
trong quá trình thực hiện dự án thông qua văn phòng ICU (đơn vị điều phối thực hiện)
tại các Bang, Ban công tác phát triển Bang và Hội đồng Phát triển Quận huyện.
Ở Trung Quốc, thông thường trong suốt quá trình từ khi dự án bắt đầu hiện dự
án. Hầu hết các nhà quản lý dự án và cán bộ chủ chốt vẫn tiếp tục vận hành và bảo trì
những dự án mới kết thúc. Trung Quốc làm được điều này bằng cách thành lập các
phòng chuẩn bị dự án hay các cơ quan thường trực chịu trách nhiệm theo dõi và quản
lý trong suốt quá trình thực hiện dự án.
Với mỗi dự án, cơ quan chủ quản thành lập Văn phòng thực hiện dự án (PIO)
với giám đốc dự án chuyên trách. Sự liên tục của đội ngũ cán bộ luôn được đảm bảo
61
trong quá trình thực hiện dự án, không có vấn đề vướng mắc nào liên quan đến nguồn
nhân lực thực hiện dự án.
2.2.2. Những kinh nghiệm chưa thành công
2.2.2.1. Định hướng trong thu hút và sử dụng vốn ODA thiếu căn cứ khoa học
Một số nước ở Châu Mỹ La-tinh, việc thu hút vốn ODA đẫ không tạo được
điều kiện tăng trưởng kinh tế do đại bộ phận số vốn sử dụng vào mục đích phi sản
xuất, nhập hàng tiêu dùng nên đã biến nguồn vốn này trở thành mảnh đất màu mỡ cho
các tệ nạn tham nhũng, lạm dụng công quỹ của các quan chức. Điển hình là Brazil,
bằng vốn vay nước ngoài, nước này đồng thời tiến hành một chương trình kinh tế cực
kỳ to lớn bao gồm một loạt dự án: Xây dựng tuyến đường sắt từ Miras Gerais tới Sao
Paolo kéo dài hơn 3 năm; xây dựng nhiều nhà máy thuỷ điện mà chỉ riêng một nhà
máy đã ngốn số vốn gấp 10 lần số vốn đầu tư vào chương trình thuỷ lợi ở toàn vùng
Đông bắc với số vốn khổng lồ 620 triệu USD. Ngoài ra, Brazin còn đầu tư vốn ODA
vào 9 nhà máy hạt nhân. Kết quả là Brazil đã trở thành con nợ lớn nhất: 108 tỷ USD
năm 1986 và là một trong hai nước đầu tiên tuyên bố vỡ nợ vào tháng 8 năm 1992.
Ở Châu Phi, nguồn viện trợ đã tập trung quá lớn vào xây dựng công xưởng, biệt
thự lớn, đầu tư chủ yếu vào phát triển đô thị, không quan tâm đến phát triển nông
nghiệp, đầu tư không cân đối, chú trọng nhiều đến khu vực làm ăn thua lỗ, cần sự bao
cấp của nhà nước đã dẫn đến sử dụng vốn kém hiệu quả gây tổn thất lớn cho nền kinh
tế quốc dân. Kết quả là mặc dù nguồn vốn ODA đổ vào những nước SSA (Sub Sahara
Africa) những năm 80 với mức ưu đãi rất cao, tỷ lệ cho không tới 60-80% nhưng tốc
độ tăng trưởng trong những năm này liên tục giảm [55, tr. 44,45].
2.2.2.2. Thiếu sự tập trung hoá và điều phối quản lý ODA
Trung Quốc không có cơ quan đầu mối của Chính phủ trong việc vận động, thu
hút, điều phối, theo dõi và đánh giá các dự án ODA. Trước đây, Trung Quốc có 4 cơ
quan chính tham gia quản lý ODA.
- Uỷ ban kế hoạch phát triển Nhà nước (SDPC): Chịu trách nhiệm về lựa chọn,
sàng lọc và thẩm định các dự án đầu tư;
- Ngân hàng nhân dân Trung Quốc (PBC) chịu trách nhiệm về xây dựng dự án
và kêu gọi các nhà tài trợ cấp vốn cho những dự án lựa chọn sau khi SDPC phê duyệt
trên cơ sở thẩm định của CIEC;
- Bộ Ngoại thương và Hợp tác kinh tế (MOFTEC): Chịu trách nhiệm quản lý
62
nguồn viện trợ không hoàn lại;
- Bộ tài chính (MOF): Chịu trách nhiệm về nguồn vốn vay ưu đãi.
Sau đó, hệ thống quản lý ODA của Trung Quốc đã có sự thay đổi, quản lý tập
trung đi cùng với thực hiện phân cấp. Trung Quốc không có cơ quan đầu mối mà có
hai cơ quan trung ương quan trọng nhất đối với quản lý ODA ở Trung Quốc là Bộ Tài
chính (MOF) và Ủy ban Cải cách và Phát triển quốc gia (NDRC, trước là Ủy ban Kế
hoạch Nhà nước). Ngoại trừ một số khoản viện trợ ODA cho không từ hệ thống Liên
hợp quốc và các nhà tài trợ song phương do Bộ Thương mại quản lý (trước đây là Bộ
Ngoại thương và Hợp tác Kinh tế), tất cả các nguồn vốn ODA khác đều dưới quyền
quản lý của MOF và NDRC.
+ Bộ Tài chính là cơ quan quản lý các khoản nợ nước ngoài, chịu trách nhiệm
soạn thảo những nguyên tắc hướng dẫn cơ bản và các quy định về quản lý nợ nước
ngoài của chính phủ; đàm phán các khoản vay với các tổ chức tài chính quốc tế và các
nhà tài trợ song phương và ký các hiệp định vay; cho vay lại và trả nợ vay; giám sát
việc sử dụng các quỹ nước ngoài.
+ NDRC chịu trách nhiệm kiểm soát tổng thể trần cho vay và tối ưu hóa cấu
trúc của các khoản vay; cùng làm việc với Bộ Tài chính để thực hiện các chương trình
vay và phương án vay hàng năm.
Các cơ quan có vị trí quan trọng khác trong sử dụng ODA bao gồm Quản lý nhà
nước bảo vệ môi trường (SEPA) và Bộ Đất đai và Tài nguyên quốc gia (MNLR). Cả
hai cơ quan này đều có quyền phủ quyết chống lại một dự án được tài trợ bằng nguồn
vốn ODA. SEPA có trách nhiệm xem xét liệu một dự án có phù hợp với các quy định
môi trường quốc gia hay không và MNLR xem xét về sử dụng đất. Các bộ, ngành
cũng đóng vai trò cung cấp hỗ trợ về mặt chuyên môn cho Bộ Tài chính và NDRC
trong việc quản lý ODA trong lĩnh vực của họ [121, tr.5-6].
Do Trung Quốc là một đất nước rộng lớn với một hệ thống hành chính được
phân cấp ở mức độ cao nên Trung Quốc không thấy được lợi ích của việc thiết lập một
hệ thống theo dõi và đánh giá tập trung. Thay vào đó, mỗi cơ quan tự thiết lập một hệ
thống theo dõi và đánh giá cho riêng mình. Trung Quốc thiên về lập báo cáo tháng,
quý và năm của các nhà tài trợ phục vụ theo dõi tiến độ của các dự án ở tầm vĩ mô hơn
là thiết lập một hệ thống theo dõi ở tình hình thực hiện dự án mang tính chất tập trung.
63
2.2.3. Bài học rút ra cho Việt Nam về quản lý nhà nước đối với vốn ODA trong
xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế
Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới, có thể rút
ra một số bài học kinh nghiệm sau:
2.2.3.1. Đảm bảo tính chủ động, thận trọng trong tiếp nhận, quản lý và sử dụng
ODA nói chung, ODA trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế nói riêng
Kinh nghiệm các nước cho thấy sự chủ động phải từ khâu lựa chọn dự án xin
viện trợ, chuẩn bị kỹ càng cho dự án, quan hệ với nhà tài trợ, chủ động có biện pháp
trả nợ..., tránh các biểu hiện “chạy theo số lượng mà không thực sự coi trọng việc đảm
bảo chất lượng của các khoản đầu tư từ nguồn vốn vay”, đặc biệt các dự án ODA cho
xây dựng KCHTKT vì thường đây là các dự án vốn lớn, tầm ảnh hưởng rộng đến kinh
tế xã hội. Việc sử dụng vốn phải gắn với khả năng tạo ra nguồn thu để trả nợ, những
dự án nào xét thấy không hiệu quả và phù hợp với mục tiêu sử dụng thì cần từ chối.
Chính vì vậy, khi đàm phán với nhà tài trợ, cố gắng bảo đảm cho ý kiến gặp nhau một
cách hợp lý trước khi ký kết.
Tính chủ động trong việc đề xuất, chuẩn bị dự án và sử dụng ODA là điều kiện
tiên quyết bảo đảm hiệu quả sử dụng vốn. Do vậy, cần nâng cao tính tự chủ và vai trò
trách nhiệm của chủ đầu tư, thực hiện tốt các khâu của quy trình dự án lựa chọn, lập
văn kiện chương trình, dự án, thẩm định, phê duyệt, tổ chức thực hiện các hợp đồng
(mua sắm, xây lắp, tư vấn)...
Bài học kinh nghiệm của Malaisia cho thấy, nước này chỉ vay ODA cho các dự
án thật sự cần thiết, có mục tiêu đã được xác định là ưu tiên và ngân sách trong nước
không huy động được. Mặt khác, cần tăng cường năng lực các cơ quan của Chính phủ
trong việc quản lý các nguồn ODA, từ khâu thu hút đến khâu sử dụng, tuyệt đối tránh
tham nhũng, lãng phí, bởi ODA cũng là một nguồn của ngân sách nhà nước.
2.2.3.2. Cung cấp đủ nguồn tài chính cho các dự án ODA trong xây dựng kết cấu
hạ tầng kinh tế
Cung cấp đầy đủ và kịp thời vốn đối ứng trong nước là rất quan trọng với việc
đảm bảo tiến độ thực hiện dự án ODA. Kinh nghiệm của Trung Quốc cũng như
Malaisia cho thấy, họ một mặt thận trọng trong tiếp nhận ODA, và khi đã tiếp nhận
vốn ODA cho dự án nào thì cung cấp đầy đủ vốn đối ứng cho dự án đó. Vốn đối ứng
chiếm tỷ lệ cao (60%) nhưng Trung Quốc lại huy động kịp thời nên các dự án vẫn
64
được giải ngân kịp tiến độ.
2.2.3.3. Chuẩn bị và thực hiện tốt các dự án ODA xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế
Việc chuẩn bị tốt cho các dự án góp phần không nhỏ vào hiệu quả sử dụng vốn
viện trợ. Chuẩn bị chu đáo cho dự án xin viện trợ sẽ tạo thế chủ động cho nước nhận
viện trợ trên nhiều phương diện.
Chuẩn bị tốt sẽ nâng cao khả năng thành công của dự án. Thực tế cho thấy,
mục tiêu của dự án không phải là số tiền được cung cấp cho dự án mà vấn đề chính là
làm sao để khi kết thúc dự án thì chính chất lượng, kết quả, dự án được đem lại cho
người hưởng lợi những giá trị thực tế hơn hẳn khi chưa có dự án. Việc xây dựng các
dự án KCHTKT bằng vốn ODA như đường sá, cầu cống, sân bay bến cảng, cung cấp
điện nước hay bưu chính viễn thông sẽ là vô nghĩa nếu thiết kế xa dời với những gì mà
thực tế yêu cầu. Bởi vậy chất lượng thiết kế là vô cùng quan trọng nó dường như là
khâu quyết định sự thành công của dự án cả về mặt kinh tế lẫn xã hội của dự án.
Kinh nghiệm của Trung quốc lựa chọn viện thiết kế có năng lực thông qua đấu
thầu là bài học tốt có thể áp dụng. Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý cần có sự phối
hợp chặt chẽ và có chung một quan điểm là tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho các ban
quản lý dự án để thực hiện các dự án đúng tiến độ, áp dụng các thủ tục trình duyệt
nhanh gọn nhằm giảm bớt chi phí như Malaisia đã làm. Một số dự án ODA quy mô
lớn, tính chất công nghệ phức tạp hay quá mới, nên thuê tư vấn nước ngoài quản lý dự
án (không phải là tư vấn nước tài trợ ODA).
2.2.3.4. Có cơ chế theo dõi giám sát chặt chẽ các dự án ODA trong xây dựng kết cấu
hạ tầng kinh tế
Việc thu hút ODA đã khó, việc quản lý và sử dụng hiệu quả ODA sẽ còn khó
hơn. Nếu không có cơ chế quản lý và giám sát nghiêm ngặt đối với các dự án ODA, thì
sẽ dẫn đến tình trạng dự án chậm tiến độ, sử dụng nguồn vốn lãng phí, tình trạng tham
nhũng xuất hiện và chất lượng các dự án ODA không cao.
Kiểm soát chặt chẽ tiến độ thực hiện, hoạt động chi tiêu của dự án sử dụng vốn
ODA. Kinh nghiệm các nước chỉ ra, công tác kiểm soát hết sức quan trọng, nó vừa
đảm bảo được tiến độ thực hiện dự án theo thời gian, vừa loại bỏ được những lãng phí,
tham nhũng trong quá trình thực hiện. Từ thực tiễn quản lý ODA ở Malaisia và Trung
Quốc, công tác quản lý, giám sát phải được tiến hành thường xuyên, liên tục qua hình
thức kiểm tra định kỳ, hoặc đột xuất nhằm kiểm tra việc chấp hành các quy định về
65
quản lý; phát hiện kịp thời những sai sót, yếu kém trong việc thực hiện các quy định
của pháp luật và điều ước quốc tế về ODA. Việc áp dụng khá thành công công nghệ
thông tin của Malaysia trong công tác theo dõi, giám sát các cơ quan liên quan đến
quản lý vốn ODA bằng cách đưa toàn bộ các đề nghị thanh toán lên mạng để chống
tham nhũng cũng là kinh nghiệm hay.
Đánh giá dự án có thể được tiến hành vào các thời điểm khác nhau của dự án
như đánh giá ban đầu được tiến hành ngay sau khi bắt đầu thực hiện dự án; đánh giá
giữa kỳ vào giữa thời gian thực hiện dự án; đánh giá kết thúc tiến hành ngay sau kết
thúc dự án. Thêm vào đó, việc đánh giá dự án phải được tiến hành bởi các chuyên gia
độc lập được thuê tuyển, có đủ trình độ chuyên môn và kinh nghiệm cần thiết. Việc
đánh giá thực sự dựa trên yếu tố chất lượng, và phải có rút kinh nghiệm cho thực hiện
các dự án sau.
2.2.3.5. Tăng cường công tác phân cấp quản lý ODA trong xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế và chuyên nghiệp hóa đội ngũ cán bộ
Xây dựng cơ chế phối hợp thực hiện giữa các cơ quan trung ương và địa
phương và các nhà tài trợ có tính thống nhất cao, phân định rõ chức năng nhiệm vụ của
các cơ quan quản lý. Đây chính là cơ sở quan trọng tạo nên thành công trong quản lý
các dự án và tạo niềm tin cho nhà tài trợ.
Trong đào tạo, sắp xếp cán bộ quản lý các dự án ODA, Trung Quốc suốt quá
trình từ khi dự án bắt đầu đến khi dự án kết thúc không có sự thay đổi về nhân sự chịu
trách nhiệm thực hiện dự án. Malaisia cũng rất chú trọng việc bồi dưỡng đào tạo cán
bộ quản lý ODA. Các bộ ngành trong Chính phủ và chính quyền các địa phương cần
có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực của cán bộ làm công tác quản lý
vốn ODA theo hướng chuyên môn hóa hơn nữa mới đáp ứng được yêu cầu quản lý
ODA nói chung, ODA trong xây dựng KCHTKT nói riêng một cách hiệu quả.
66
CHƯƠNG 3
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VỐN ODA
TRONG XÂY DỰNG KẾT CẤU HẠ TẦNG KINH TẾ TẠI VIỆT NAM
3.1. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH THU HÚT VÀ SỬ DỤNG VỐN ODA TRONG
XÂY DỰNG KẾT CẤU HẠ TẦNG KINH TẾ TẠI VIỆT NAM
3.1.1. Thực trạng kết cấu hạ tầng kinh tế của Việt Nam
KCHTKT là một trong những yếu tố hàng đầu tác động đến phát triển kinh tế
xã hội. Từ một KCHTKT lạc hậu, với phương châm phát triển kết cấu hạ tầng: “Hạ
tầng đi trước một bước, đảm bảo phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội”, KCHTKT
của Việt Nam trong những năm qua đã có nhiều đổi mới quan trọng.
KCHTKT được củng cố và nâng cấp theo hướng chuẩn hoá, phát triển đồng bộ,
nâng cao chất lượng trên toàn bộ hệ thống. Một số công trình xây mới và nâng cấp
nhằm tăng năng lực và mở rộng diện phục vụ đến các cơ sở sản xuất và khu vực dân
cư, từ thành thị đến nông thôn, từ vùng trọng điểm đến những vùng sâu, vùng xa. Nhờ
đó, KCHTKT đã đáp ứng tốt hơn nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội với chất lượng
dịch vụ cao hơn, góp phần bảo đảm tăng trưởng kinh tế nhanh, phát triển các lĩnh vực
văn hoá, xã hội, giảm nhẹ thiên tai, bảo đảm quốc phòng, an ninh, nâng cao đời sống
nhân dân, xoá đói, giảm nghèo, rút ngắn khoảng cách giữa các vùng, miền. Kết quả đó
là do trong những năm qua Việt Nam đã dành sự quan tâm lớn cho đầu tư phát triển hệ
thống KCHTKT với mức đầu tư bình quân đạt 9-10% GDP [81, tr.5].
Đối với xây dựng KCHT ở nước ta, ODA là nguồn cung cấp vốn chính trong
thời gian qua, chiếm 37% trong tổng vốn đầu tư cho KCHT. Nguồn vốn này chiếm tỷ
trọng cao nhất trong các nguồn đầu tư cho KCHT. Có thể so sánh với các nguồn khác
như: ngân sách nhà nước 11%; trái phiếu chính phủ 13%; đầu tư tư nhân 21%; còn lại
là các nguồn khác, như: người sử dụng (thu phí sử dụng dịch vụ) là 14%, ngân hàng
thương mại 3% và đầu tư từ cộng đồng 1% [81, tr.16].
Tuy nhiên, KCHTKT ở nước ta vẫn còn yếu kém, lạc hậu, qui mô nhỏ, năng
lực hạn chế, thiếu đồng bộ, kém tính kết nối, hầu hết chưa đạt yêu cầu kỹ thuật, hiện
đang là điểm nghẽn của quá trình phát triển. So với các nước tiên tiến khác trong khu
vực, hệ thống KCHT giao thông Việt Nam ở dưới mức trung bình. Nhìn chung, trình
độ phát triển KCHT ở Việt Nam chưa theo kịp nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, còn
lệch pha với nhu cầu và còn còn để xảy ra thất thoát trong quá trình xây dựng. Hiện
67
trạng KCHTKT thể hiện trên một số lĩnh vực cụ thể như sau:
- Hạ tầng giao thông: Hạ tầng giao thông được đánh giá là lạc hậu và kém
hiệu quả.. Mật độ mạng lưới đường thấp, phân bố không đều, thiếu liên thông. Giao
thông đô thị nhỏ hẹp và phân bố không hợp lý khiến tình trạng quá tải, ùn tắc ngày
càng trầm trọng. Theo ước tính, tỷ lệ đất dành cho giao thông chưa đến 10% đất xây
dựng đô thị, trong khi tỷ lệ cần thiết phải 20-25% [53, tr.45].
Mặc dù Diễn đàn Kinh tế thế giới WEF công bố báo cáo về chỉ số cạnh tranh
của cơ sở hạ tầng giao thông Việt Nam tăng nhanh qua vài năm gần đây, ở vị trí 67
năm 2015 so với vị trí thứ 76 vào năm 2014. Chỉ số về chất lượng đường bộ đứng thứ
93, tăng 11 bậc (năm 2014 đứng thứ 104); chất lượng đường sắt đứng thứ 48, tăng 4
bậc (năm 2014 đứng thứ 52); chất lượng cảng đứng thứ 76, tăng 12 bậc (năm 2014
đứng thứ 88); chất lượng hàng không đứng thứ 75, tăng 12 bậc (năm 2014 đứng thứ
87). Nếu so sánh với các nước châu Á như: Trung Quốc, Singapore, Malaysia,
Indonesia... thì có thể thấy chỉ số của Việt Nam tăng đột phá [85]. Tuy nhiên,
KCHTKT ở Việt Nam còn rất nhiều hạn chế. Giao thông quốc lộ và tỉnh lộ chưa đáp
ứng nhu cầu giao thương hàng hóa và đi lại của nhân dân. Việc đầu tư thường mang
tính chắp vá, không theo kịp tốc độ phát triển, chưa đáp ứng nhu cầu về an toàn.
Đường sắt Việt Nam chủ yếu thừa hưởng hệ thống đường sắt do Pháp để lại nay đã lạc
hậu. Hệ thống cảng biển đầu tư dàn trải, thiếu đồng bộ và thiếu tính cạnh tranh. Việt
Nam chưa có cảng chính, đủ khả năng cạnh tranh với các cảng biển trong khu vực và
trên thế giới, mặc dù có nhiều tiềm năng và lợi thế so với các nước trong khu vực. Hệ
thống hàng không được phân bố rải rác dọc theo chiều dài của đất nước nhưng chưa
đáp ứng được nhu cầu vận tải hàng hóa và hành khách...
- Hạ tầng điện lực: Việt Nam là quốc gia có tiềm năng sản xuất điện, đặc biệt là
thủy điện nhưng hạ tầng điện lực yếu và thiếu cho sản xuất và đời sống dân cư. Điện
năng có thời điểm chưa đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất và sinh hoạt, tình trạng thiếu hụt
trở thành vấn đề bức xúc, nhất là vào mùa khô. Nhiều sự cố cắt điện và hư hỏng đường
dây tải điện thường xuyên diễn ra không chỉ gây tổn thất kinh tế mà còn gây mất an
toàn với tính mạng con người.
- Hệ thống cấp thoát nước: Việt Nam chưa có hệ thống cấp nước hoàn chỉnh ở
cả thành thị và nông thôn. Ở đô thị, trong tổng số 689 đô thị trong cả nước, hiện vẫn
còn gần 400 đô thị nhỏ chưa có hệ thống cấp nước tập trung. Hệ thống cấp nước đô thị
chỉ mới đáp ứng 60% nhu cầu cho dân số đô thị với mức tiêu thụ bình quân 80
68
lít/người/ ngày đêm [53, tr. 48]. Hệ thống thoát nước lạc hậu và thiếu đồng bộ, phần
lớn được sử dụng chung cho thoát nước mưa và nước thải, vẫn chưa có các trạm xử lý
nước thải sinh hoạt. Hệ thống thoát nước ở các thành phố lớn chỉ đáp ứng 60% nhu
cầu, ở thành phố nhỏ là 20-25%. Các tuyến cống thường xuyên hư hỏng, hệ quả là xảy
ra úng ngập, nhất là những năm gần đây, khi mật độ xây dựng tăng nhanh... [53, tr.48].
- Về bưu chính viễn thông: Việt Nam là một trong những quốc gia phát triển
ngành viễn thông thuộc loại nhanh nhất thế giới. Tuy nhiên, do xuất phát điểm thấp và
không được đầu tư đồng bộ nên chưa đáp ứng yêu cầu. Hiện tượng mất liên lạc, nghẽn
mạng hệ thống, mất cấp sóng thông tin liên lạc cục bộ xảy ra thường xuyên.
Tóm lại, mặc dù đã có bước phát triển quan trọng nhưng KCHTKT hiện nay
vẫn chưa đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. KCHTKT yếu, thiếu, kém chất
lượng và quá tải làm ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống
sinh hoạt của người dân. Những yếu kém về KCHT được coi là một trong những cản
trở lớn đối với sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Vì vậy, việc thu
hút và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư cho KCHTKT vừa mang tính cấp bách, vừa mang
tính cơ bản và lâu dài.
3.1.2. Khái quát tình hình thu hút và sử dụng vốn ODA trong xây dựng kết cấu
hạ tầng kinh tế tại Việt Nam
Năm 1993, Việt Nam nối lại quan hệ với cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế.
Trong hơn 20 năm qua, vốn ODA mang đến cho Việt Nam nguồn vốn bổ sung quan
trọng phục vụ công cuộc phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt trong xây dựng KCHTKT.
Trên cơ sở kết quả các Hội nghị CG và Diễn đàn đối tác phát triển Việt Nam thường
niên (VDPF), tổng vốn ODA cam kết của các nhà tài trợ giai đoạn 1993-2014 đạt
85,195 tỷ USD. Vốn ký kết đạt trên 69,189 tỷ USD, bằng 81,21% tổng vốn ODA cam
kết. Tổng vốn ODA giải ngân tính đến hết năm 2014 đạt 48,23 tỷ USD, chiếm trên
69,71% tổng vốn ODA ký kết [11, tr.2,3].
Trong 7 nhóm lĩnh vực chính mà vốn ODA tập trung vào: giao thông – bưu
chính, năng lượng – công nghiệp, nông nghiệp – xóa đói giảm nghèo, môi trường – đô
thị, giáo dục – đào tạo, y tế – xã hội và ngành nghề khác, thì ODA cho KCHTKT
chiếm tỷ trọng lớn nhất, khoảng 60% [59]. Trong đó, giao thông vận tải và bưu chính
viễn thông chiếm 30.37%, năng lượng và công nghiệp 19,18% [11, tr.5]. Có thể thấy
rõ tỷ trọng vốn ODA đã dành cho các ngành thuộc KCHTKT qua hình sau:
69
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, (2014), Tổng quan công tác vận động, thu hút, quản lý và sử dụng vốn
ODA và vốn vay ưu đãi thời kỳ 1993-2014 và định hướng trong thời gian tới, tr.5
Hình 3.1 : ODA ký kết theo ngành và lĩnh vực thời kỳ 1993 - 2014
Về các nhà tài trợ, có 51 nhà tài trợ song phương và đa phương, trong đó có 28
nhà tài trợ song phương và 23 nhà tài trợ đa phương có các chương trình ODA thường
xuyên cho Việt Nam. Trong xây dựng KCHTKT ở Việt Nam, có thể kể đến các nhà
tài trợ lớn như: Nhật Bản, WB, ADB, Phần Lan, Pháp, Đức, Australia, Đan Mạch...
Trong đó, Nhật Bản và WB là nhà tài trợ lớn cho lĩnh vực này.
ODA đầu tư vào KCHTKT có hiệu quả tích cực vì nó không chỉ bổ sung vốn mà
còn tác động lan tỏa quan trọng. So với những năm trước đây, hệ thống KCHTKT đã
được phát triển hiện đại hơn nhiều với mạng lưới điện, bưu chính viễn thông được phủ
khắp tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước, nhiều tuyến đường giao thông được làm
mới, nâng cấp, nhiều cảng biển, cụm cảng hàng không cũng được xây mới, mở rộng
(Phụ lục 2: Các dự án ODA trong xây dựng KCHTKT ở Việt Nam).
3.1.2.1. Đóng góp của vốn ODA trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế
- Vốn ODA cho ngành giao thông vận tải và bưu chính viễn thông
Giao thông vận tải, bưu chính viễn thông là ngành tiếp nhận vốn ODA nhiều
nhất. Tổng vốn ODA ký kết cho lĩnh vực này từ 1993 - 2013 đạt khoảng 21.014,41
triệu USD chiếm 30,37% tổng ODA, trong đó 20,288 là ODA vốn vay [11, tr. 6].
Các chương trình, dự án ODA trong lĩnh vực này đã hỗ trợ Việt Nam xây dựng
và hoàn thiện hệ thống giao thông quốc gia cũng như giao thông vùng và tại các tỉnh,
thành. Ngành giao thông vận tải đã hoàn thành 83 chương trình dự án ODA với tổng
mức đầu tư lên tới 5,23 tỷ USD, trong đó phần vốn góp của các nhà tài trợ là 3,544 tỷ
9.634,09
13,92%
13.269,35
19,18%
21.014,41
30,37%
9.598,53
13,87%
2.733,55
3,95%
3.211,12
4,64%
9.728,27
14,06%
1. Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Xóa đói giảm nghèo2. Năng lượng và công nghiệp3. Giao thông vận tải và Bưu chính viễn thông4. Môi trường (cấp, thoát nước, đối phó với biến đổi khí hậu,…) và phát triển đô thị5. Giáo dục và đào tạo6. Y tế - Xã hội7. Ngành khác (khoa học công nghệ, tăng cường năng lực thể chế,...)
70
USD. Hiện Bộ Giao thông Vận tải (GTVT) đang tiếp tục triển khai 49 dự án khác với
tổng mức đầu tư là 17,075 tỷ USD trong đó phần vốn góp của nhà tài trợ là 14,178 tỷ
USD [9, tr. 13].
Hình 3.2: ODA hỗ trợ ngành giao thông vận tải và bưu chính viễn thông
Các dự án ODA đầu tư cho giao thông vận tải đều là các dự án có quy mô vốn
lớn, tạo bước ngoặt căn bản giúp hoàn thiện hạ tầng đường bộ, đường sắt, cảng
biển…từng một thời gian dài bị xuống cấp trầm trọng do hậu quả chiến tranh cũng
như thiếu hụt vốn đầu tư. ( Phụ lục 3: Kết quả đánh giá Việt Nam-Nhật Bản về một số
dự án giao thông)
Về đường bộ: Vốn ODA đã giúp Việt Nam khôi phục và phát triển các công trình
giao thông vận tải quan trọng, góp phần tăng trưởng kinh tế chung của cả nước cũng
như của các địa phương. Các tuyến đường quốc lộ huyết mạch của quốc gia đã được
khôi phục và phát triển, đó là quốc lộ xuyên Việt 1A; các quốc lộ 3,5,10,18 ở phía
Bắc; đường cao tốc thành phố Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây; đường xuyên Á
thành phố Hồ Chí Minh - Mộc Bài kết nối với hệ thống đường bộ Căm-pu-chia và
Thái Lan trong khuôn khổ hợp tác tiểu vùng Mê-kông; hầm đường bộ qua đèo Hải
Vân góp phần phát triển hành lang kinh tế Đông - Tây mở đường thông thương ra biển
đối với các tỉnh Nam Lào và Đông Bắc Thái Lan. Ngoài ra, vốn ODA cũng đã hỗ trợ
phát triển rộng khắp hệ thống tín hiệu đèn giao thông, cải tạo cơ sở hạ tầng phát triển
giao thông công cộng, giải quyết ách tắc giao thông tại các nút giao thông trọng điểm.
ODA cũng đầu tư xây dựng nhiều cầu đường bộ lớn và hiện đại như cầu Thanh Trì,
cầu Bãi Cháy, cầu Cần Thơ, cầu Mỹ Thuận, cầu Nhật Tân... Việc xây dựng những
công trình này có tác dụng rất tích cực. Chẳng hạn, việc hoàn thành cầu Mỹ Thuận do
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2013), Báo cáo đánh giá toàn diện 20 năm quan hệ hợp
tác phát triển giữa Việt Nam và các nhà tài trợ (1993-2013), Hà nội, tr.46
71
Úc tài trợ đã kết nối hệ thống giao thông mới, nối dân cư và các chợ của đồng bằng
sông Mê Kông với Băng Cốc, Thái Lan, phần còn lại của Đông Nam châu Á và xa
hơn nữa. Hàng ngày, có đến 14.000 phương tiện qua cầu hàng ngày, nối liền trường
học và các khu thương mại [9, tr.32].
Về đường sắt: Từ 1993 đến nay JICA tài trợ 5 khoản vay để thay thế các cầu yếu
mất an toàn chạy tàu, đặc biệt vào mùa mưa lũ với mục tiêu rút ngắn thời gian chạy tàu
tuyến Hà Nội – thành phố Hồ Chính Minh. Đồng tài trợ ADB + Pháp cho nâng cấp
tuyến Yên Viên - Lào Cai; Các nhà tài trợ châu Âu, Trung Quốc cho một số dự án hiện
đại hóa hệ thống thông tin tín hiệu, xây dựng trung tâm điều hành vận tải, cung cấp
đầu máy, toa xe, ray,... để từng bước cải tạo nâng cấp cơ sở hạ tầng, nâng số lượng đôi
tàu/ngày đêm phục vụ vận chuyển hàng hóa, hành khách.
Về hàng hải và cảng biển: Việt Nam là quốc gia có bờ biển dài nên việc phát
triển hệ thống cảng biển thông thương hàng hóa xuất nhập khẩu quốc tế là hết sức
quan trọng. Một số cảng Việt Nam đã nhận được nguồn ODA như: nâng cấp các cảng
Hải Phòng và Đà Nẵng do JICA đã hỗ trợ cho Bộ GTVT, xây dựng cảng Cái Lân ở
phía Bắc (tỉnh Quảng Ninh) và Cái Mép – Thị Vải, cảng Tiên Sa ở miền Trung (thành
phố Đà Nẵng) trên hành lang kinh tế Đông - Tây; cung cấp hệ thống thông tin duyên
hải Việt Nam; ADB hỗ trợ nâng cấp cảng Sài Gòn; một số nhà tài trợ khác hỗ trợ hệ
thống giao thông hàng hải, đèn biển, tàu tìm kiếm cứu nạn...
Về Hàng không: JICA đã tài trợ rất hiệu quả dự án nâng cấp Nhà ga hành khách
quốc tế Tân Sơn Nhất hoàn thành đưa vào khai thác từ năm 2008. Dự án công trình
xây dựng Nhà ga hành khách T2 của Cảng Hàng không Quốc tế Nội Bài có tổng đầu
tư gần 900 triệu USD, trong đó có gần 700 triệu USD là từ nguồn vốn ODA của Nhật
Bản, đáp ứng 10 triệu hành khách/năm.
Về đường thủy nội địa: WB là nhà tài trợ chính phối hợp với AusAID tài trợ 3
dự án cải tạo đường thủy nội địa và phát triển cơ sở hạ tầng khu vực đồng bằng sông
Cửu Long và đồng bằng Bắc Bộ, Đan Mạch viện trợ không hoàn lại cung cấp một số
phà lớn khu vực đồng bằng sông Cửu Long,...
Về bưu chính viễn thông: Trong thời kỳ 1993-2013, ngành bưu chính viễn
thông và công nghệ thông tin đã thu hút 16 dự án ODA, trong đó đã hoàn thành 9 dự
án. Nguồn vốn ODA đã và đang hỗ trợ để thực hiện nhiều dự án quan trọng của ngành
như Dự án hỗ trợ Trung tâm bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ báo chí, Dự án nâng cấp
trường cao đẳng công nghệ thông tin hữu nghị Việt - Hàn, Dự án phát triển công nghệ
thông tin và truyền thông tại Việt Nam, Dự án phát triển mảng viễn thông nông thôn ở
các tỉnh miền Trung Việt Nam,...[9, tr.48].
- Vốn ODA hỗ trợ cho lĩnh vực năng lượng
72
Tổng vốn ODA được ký kết trong thời kỳ 1993-2013 đạt khoảng 10 tỷ USD,
trong đó viện trợ không hoàn lại không đáng kể, khoảng 0,1%. Lĩnh vực năng lượng
đã nhận được trên 70 chương trình, dự án điện và 20 dự án hỗ trợ kỹ thuật (TA) của
13 nhà tài trợ song phương và đa phương [10, trg 44].
Nhờ có ODA, hàng loạt các dự án nguồn thuỷ điện, nhiệt điện và năng lượng
tái tạo, lưới điện và trạm phân phối, các cơ sở đào tạo, điều hành hệ thống điện... đã
được xây dựng. Nhiều nhà máy điện công suất lớn đã và đang được xây dựng bằng
vốn ODA như nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ 2.1 (288 MW), nhà máy nhiệt điện Phả lại
2 (600 MW), nhà máy thủy điện Hàm Thuận - Đa Mi (475 MW), nhà máy nhiệt điện
Phú Mỹ 1 (1090 MW), nhà máy nhiệt điện Ô-Môn (600 MW), nhà máy thủy điện Đại
Ninh (360 MW), Dự án Nhà máy nhiệt điện Nghi Sơn 1 với sản lượng 3,6 tỷ kWh bảo
đảm cung cấp điện phục vụ sản xuất và đời sống người dân [10, tr.44].
Vốn ODA được sử dụng để phát triển hệ thống đường dây truyền tải điện và
các trạm phân phối điện, tăng cường năng lực cho đường dây 500 KV theo hướng Bắc
- Nam, góp phần ổn định cung cấp điện cho các tỉnh phía Nam, nhất là Thành phố Hồ
Chí Minh. Bên cạnh đó, vốn ODA hỗ trợ thực hiện các dự án cải tạo và nâng cấp hệ
thống lưới điện của nhiều thành phố như dự án đường dây 500KV Pleiku - Mỹ Phước
- Cầu Bông hoặc dự án cáp ngầm 110KV xuyên biển Hà Tiên - Phú Quốc đảm bảo
cung cấp điện ổn định cho huyện đảo Phú Quốc từ hệ thống điện quốc gia, đáp ứng
yêu cầu phát triển và nâng cao sức cạnh tranh đưa Phú Quốc trở thành đặc khu kinh tế
quan trọng, khu du lịch chất lượng cao của cả nước...
- Vốn ODA hỗ trợ phát triển hệ thống thủy lợi
Vốn ODA hỗ trợ phát triển hệ thống thủy lợi miền Trung, đồng bằng sông Hồng,
đồng bằng sông Cửu Long (WB1, WB2, ADB3, ADB5, ADB6, JICA1, JICA2,...), hỗ
trợ khắc phục thiên tai (WB4, WB5,...), một số hệ thống thủy lợi lớn như hệ thống
tưới Phan Rí-Phan Thiết, giảm thiểu lũ và hạn hán vùng sông Mê-kông mở rộng, hệ
thống thủy lợi Phước Hòa, chống lũ Sài Gòn,... góp phần điều hòa nguồn nước, phục
vụ tưới tiêu, phòng chống lũ lụt. Bằng vốn ODA, sau các tác động của thiên tai ở
nhiều nơi, rất nhiều các đoạn đê, kè được sửa chữa nâng cấp đưa vào sử dụng giúp
người dân nhanh chóng khôi phục đời sống, duy trì tăng trưởng kinh tế.
- ODA đầu tư cho lĩnh vực cấp thoát nước
Hầu hết các thành phố trực thuộc tỉnh và các thành phố trực thuộc Trung ương,
các thị xã, thị trấn, thị tứ đã được xây dựng mới, cải tạo hoặc mở rộng các cơ sở cung
cấp nước sinh hoạt các hệ thống thoát nước và một số nhà máy xử lý nước thải sinh
hoạt đã được xây dựng ở một số thành phố. Hầu hết các thành phố lớn, các thành phố
trực thuộc tỉnh, các thị xã và một số thị trấn đều có các hệ thống cấp nước sinh hoạt
73
như Dự án cấp nước thành phố Lai Châu; Dự án cấp nước Sông Công, tỉnh Thái
Nguyên, Dự án Mở rộng hệ thống cấp nước Đà Nẵng giai đoạn 2012-2018... [77].
3.1.2.2. Hạn chế của việc thu hút và sử dụng vốn ODA trong xây dựng kết cấu
hạ tầng kinh tế
Tuy có những đóng góp tích cực, thu hút và sử dụng ODA trong xây dựng
KCHTKT vẫn có những mặt hạn chế. Các dự án ODA trong xây dựng KCHTKT còn
chậm tiến độ, tỷ lệ giải ngân thấp và có những công trình kém chất lượng, hiệu quả sử
dụng chưa cao, còn xảy ra tham nhũng lãng phí.
Năng lực hấp thụ vốn ODA kém do tỷ lệ giải ngân thấp. Có thể thấy mức giải
ngân đã có những cải thiện nhất định, đặc biệt là trong vài năm trở lại đây song xét
toàn bộ quá trình thì đây vẫn là tỷ lệ thấp. Tổng vốn ODA giải ngân tính đến hết năm
2014 đạt 48,23 tỷ USD, chiếm trên 69,71% tổng vốn ODA ký kết [11, tr.3]. Rất nhiều
công trình KCHTKT chậm tiến độ phải kéo dài thời gian thực hiện. Riêng thời kỳ
2006-2010, khoảng 7 tỷ USD vốn ODA đã ký kết, nhưng chưa giải ngân, trong đó có
nhiều chương trình, dự án được hưởng các điều kiện tài chính ưu đãi cao phải chuyển
tiếp sang thời kỳ 2011-2015. Thời kỳ 2011 - 2015 có khoảng gần 22 tỷ USD ODA đã
ký kết chuyển tiếp sang 2015 – 2020 [7, tr 20].
Dự án ODA trong xây dựng KCHTKT chậm tiến độ là tình trạng phổ biến.
Theo đánh giá của WB, ADB, JBIC, AFD, KFW, hầu hết dự án tài trợ của các ngân
hàng này đều đạt được mục tiêu phát triển, song thường chậm so với tiến độ đề ra. Dự
án của các nhà tài trợ khác cũng vậy. Ví dụ như dự án xây dựng cầu Nhật Tân, Thanh
Trì, Quốc lộ 3 mới Hà Nội- Thái Nguyên, Tín dụng ngành Giao thông Vận tải để cải
tạo cầu yếu, khôi phục cầu Quốc lộ 1A - giai đoạn 3 (Cần Thơ - Cà Mau), dự án Nâng
cao an toàn đường sắt 44 cầu tuyến Hà Nội – thành phố Hồ Chí Minh, dự án Vành đai
III Hà Nội giai đoạn 2 Mai Dịch- Bắc Linh Đàm, dự án Phát triển cảng Cái Mép - Thị
Vải... đều chậm tiến độ. Một số dự án bị cắt giảm, hủy một số hạng mục, hoặc phải tái
cấu trúc toàn bộ dự án do chậm tiến độ thực hiện, gây ảnh hưởng xấu tới hiệu quả sử
dụng nguồn vốn này. Đối với những tuyến đường cao tốc chỉ cần đưa vào khai thác
sớm một đoạn cũng rất có ý nghĩa. Bộ GTVT là cơ quan có lượng vốn ODA bị đọng
lớn nhất. Hiện nay, các dự án đường sắt chậm tiến độ chưa có nhiều chuyển biến như
dự án đường sắt đô thị Hà Nội, tuyến Cát Linh - Hà Đông; đường sắt đô thị số I Hà
Nội (tuyến I) - khu tổ hợp Ngọc Hồi, đoạn Ngọc Hồi - Gia Lâm, tuyến đường sắt đô
thị thí điểm Hà Nội (tuyến 2) đoạn Nam Thăng Long - Trần Hưng Đạo...
Việc giải ngân chậm trễ các dự án vay vốn WB, ADB, JICA… đã thấy ngay hệ
quả là hầu hết các dự án này đều phải điều chỉnh tăng vốn để đạt được mục tiêu ban
đầu, hoặc phải cơ cấu lại, thu hẹp quy mô dự án. Theo một nghiên cứu của ADB cho
74
thấy, nếu chậm tiến độ thi công thường dẫn đến phụ trội chi phí khoảng 14%. Ví dụ,
dự án thủy lợi Phước Hòa, chi phí tăng 101%, dự án cao tốc Nội Bài-Lào Cai tăng
15% và dự án mạng giao thông miền Trung tăng 51% [71].
Các dự án giải ngân chậm gây ra nhiều hệ lụy, hạn chế vai trò tích cực của
ODA. Chẳng hạn, đến năm 2015, trong khi 10 trong số 42 dự án sử dụng nguồn vốn
ODA của WB tại Việt Nam đang trong danh sách cảnh báo đỏ vì chậm trễ, khoảng 15
dự án khác cũng liệt vào diện chậm. Nhiều dự án trong số này rất có thể sẽ không thể
triển khai tiếp được do hết thời gian theo ký kết. Chẳng hạn với các dự án của WB,
vấn đề không chỉ ở chỗ các chuyên gia WB tại Việt Nam khó giải trình với trụ sở
chính về hiệu quả của kế hoạch mới khi mà vốn cam kết cũ vẫn chưa được sử dụng.
Điều này gây tổn phí lớn cho chính Việt Nam [92].
Bên cạnh đó, chất lượng, nội dung thiết kế kỹ thuật tổng thể và chi tiết của
nhiều dự án KCHTKT không phù hợp với thực tế, không lường hết được biến cố kỹ
thuật cũng như sự thay đổi bất thường của môi trường nên phải chỉnh sửa thiết kế hoặc
thiết kế lại toàn bộ nội dung. Hồ so dự án, thiết kế - dự toán chất lu ợng còn thấp, tính
toán, dự báo chua đầy đủ, chuẩn xác dẫn tới nhiều dự án phải điều chỉnh, bổ sung quy
mô, tổng mức đầu tu gây khó kha n trong quá trình thực hiẹ n và làm chạ m tiến đọ đầu
tu xây dựng công trình. Ví dụ, dự án đường xuyên Á phải thiết kế lại gần như toàn bộ,
và chậm so với thời gian tiến độ ban đầu là một năm; tiểu dự án đường Tuy Phong-
Nha Trang với hợp đồng R100-R200 thì khối lượng công việc tăng lên 30% (Thay đổi
đường từ 12,5m lên 18,6m và làm thêm 6 đường tránh); dự án Ta ng cuờng quản lý
thủy lợi và Cải tạo các hẹ thống thủy nông (ADB5), dự án này dự kiến sẽ đóng khoản
vay vào 30/6/2016 nhung vừa qua (6/2014) đã có các hạng mục phải điều chỉnh, bổ
sung với kinh phí 9 triẹ u USD [31].
Cho đến nay không ít các công trình dự án ODA chất lượng kém không phù
hợp với điều kiện thực tế và thuận lợi cho người sử dụng. Chẳng hạn như dự án cấp
nước sạch ở Kon Tum, Yên Bái, vốn vay ODA của Pháp, không hiệu quả vì chỉ sử
dụng được 1/3 công suất thiết kế [27]. Hay ví dụ khác, cảng quốc tế Cái Mép - Thị Vải
được khánh thành cuối tháng 1/2013, bằng nguồn vốn vay ODA của Chính phủ Nhật
Bản và vốn đối ứng của Việt Nam, với tổng vốn đầu tư gần 13.000 tỷ đồng được cho
là đầu tư chưa hiệu quả bởi số tàu vào rất ít. Năm 2014 chỉ đạt khoảng 50% so với
công suất thiết kế, 6 tháng đầu năm 2015 chỉ đạt 10% [97].
Nếu nhìn vào hệ thống các công trình thuộc KCHT của nền kinh tế như đường
cao tốc, đường sắt, sân bay, cảng, cầu... thì Việt Nam vẫn hầu như chưa có được
những công trình lớn đạt tiêu chuẩn quốc tế. Thậm chí nhiều công trình hạ tầng có sử
dụng vốn ODA nhưng được xây dựng với chất lượng kém, chi phí đầu tư cao. Tại một
75
số công trình có hiện tượng sự cố liên quan đến chất lượng như lún nứt trên đường cao
tốc Nội Bài-Lào Cai, hiện tượng hằn lún vệt bánh xe trên Quốc lộ 5, Quốc lộ 18; Có
công trình đã gặp sự cố, thậm chí sự cố nghiêm trọng như vụ sập cầu Cần Thơ, số
người thiệt mạng lên 55 người, 80 người bị thương; sự cố kỹ thuật ở sự án đường sắt
trên cao Cát Linh–Hà Đông gây tai nạn chết người năm 2014… Mặt khác, giá thành
một km đường cao tốc của Việt Nam xây bằng vốn ODA cao gấp 2,5 lần của Mỹ.
Thiếu vốn để vừa tiếp tục xây dựng mới, đồng thời lại thiếu vốn để sửa chữa những
công trình hạ tầng có chất lượng kém. Theo kinh nghiệm Trung Quốc, tiền vay ODA
phải được quản lý chặt chẽ; đầu tư có chất lượng tốt, công trình được sử dụng lâu dài;
khâu chuẩn bị thiết kế dự án cần thật kỹ lưỡng và có thiết kế chuyên nghiệp chứ không
phải vừa xây xong đã sửa.
Hơn nữa, nhiều dự án KCHTKT sử dụng vốn vay ODA ở nước ta không được
quản lý tốt, dẫn đến nhiều vi phạm, gây mất uy tín với nước ngoài. Trong đó, không ít
vụ tiêu cực gây bức xúc trong xã hội. Một số vụ việc nghiêm trọng bị phanh phui như:
vụ án tham nhũng tại PMU 18 năm 2005; hay vụ Bộ Ngoại giao Đan Mạch tuyên bố
ngừng 3 trong số 4 dự án tài trợ vốn ODA cho Việt Nam do có những sai phạm khi sử
dụng nguồn vốn tại dự án Danida năm 2012. Đây không phải lần đầu tiên nhà tài trợ
quyết định ngừng viện trợ đối với nước ta. Trước đó, vào năm 2008, nhà tài trợ song
phương lớn nhất là Nhật Bản cũng đã quyết định tương tự sau khi xảy ra vụ án vụ
Huỳnh Ngọc Sĩ (nguyên Giám đốc Ban quản lý Dự án Đại lộ Đông – Tây) trong vụ
PCI đưa hối lộ để được tham gia vào dự án; vụ nghi vấn Công ty Tư vấn giao thông
Nhật Bản hối lộ quan chức đường sắt Việt Nam để được nhận thầu dự án sử dụng
nguồn vốn ODA của Nhật (JTC) gần đây.
Lĩnh vực KCHTKT như giao thông, cảng biển, sân bay… thường là các dự án
lớn, phức tạp, thực hiện trong thời gian dài, dễ xảy ra các hành vi tham nhũng, gian
lận. Điều này ảnh hưởng đến niềm tin của nhà cung cấp ODA khiến về sau họ ngần
ngại hơn rất nhiều khi cấp ODA cho KCHTKT của Việt Nam.
3.2. CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VỐN ODA TRONG XÂY
DỰNG KẾT CẤU HẠ TẦNG KINH TẾ TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1993 - 2015
3.2.1. Hệ thống pháp luật liên quan đến vốn ODA trong xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế của Việt Nam
Trong hơn 20 năm, Chính phủ đã thể chế hóa việc huy động và sử dụng ODA
tại 5 Nghị định. Đây là các văn bản khung pháp lý cao nhất cho hoạt động thu hút và
sử dụng vốn ODA gồm Nghị định 20/CP (1994), Nghị định 87/CP (1998), Nghị định
17/2002/NĐ-CP (2002), Nghị định 131/2006/NĐ-CP (2006) và Nghị định
38/2013/NĐ-CP (2013). Các nghị định sau dần hoàn thiện khung pháp lý tương đối
76
chặt chẽ và đồng bộ cho thu hút và sử dụng ODA nói chung, ODA trong xây dựng
KCHTKT nói riêng.
+ Nghị định 20/NĐ-CP ban hành ngày 15/3/1994 về Quản lý điều phối và sử
dụng vốn ODA là văn bản pháp lý đầu tiên ban hành chưa đầy một năm sau Hội nghị
Paris. Nghị định xác định những ưu tiên, những quy định để quản lý, điều phối và sử
dụng nguồn vốn ODA cũng như chức năng của các cơ quan liên quan.
+ Nghị định 87/NĐ-CP thay thế Nghị định 20/NĐ-CP có chỉnh sửa một số nội
dung như phân cấp quản lý cho cấp bộ, ngành và địa phương trên một số lĩnh vực.
+ Nghị định 17/NĐ-CP ngày 4/5/2001chi tiết hoá một số nội dung như tăng
cường phân cấp quản lý, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ
quan tham gia quản lý và thực hiện dự án ODA gồm cơ quan đầu mối, các cơ quan
tổng hợp, các đơn vị chủ quản và các tổ chức thụ hưởng ODA; chú ý tới công tác theo
dõi và đánh giá dự án vốn ODA; quy định quy chế làm việc của ban quản lý dự án.
Một ưu điểm khác của Nghị định 17/2001/NĐ-CP là tính khá đồng bộ với các văn bản
pháp quy khác có liên quan đến KCHTKT như Nghị định 52/1999/NĐ-CP của Chính
phủ về quản lý đầu tư và xây dựng, Nghị định 88/1999/NĐ-CP của Chính phủ về đấu
thầu và xét thầu v.v...
+ Nghị định số 131/2006/NĐ-CP ngày 09/11/2006 khắc phục những điểm yếu
của các văn bản trước đó và bổ sung thêm các điểm mới thể hiện nguyên tắc quan
điểm hiện đại trong quản lý và tiếp nhận nguồn vốn này như: tập trung, dân chủ, công
khai, minh bạch; phân công, phân cấp; gắn quyền hạn với trách nhiệm; phát huy tính
chủ động đi đôi với kiểm tra, giám sát chặt chẽ; hài hoà thủ tục… Điều đó đánh dấu
một sự phát triển về chất so với các văn bản khung trước đây về thu hút, quản lý và sử
dụng vốn ODA. Nghị định 131/2006/NĐ-CP cũng khá đồng bộ với các văn bản pháp
quy khác có liên quan đến KCHTKT như Nghị định 12/2000/NĐ-CP về quản lý đầu tư
và xây dựng, Nghị định 111/2006/NĐ-CP của Chính phủ về đấu thầu và xét thầu...
+ Nghị định hiện hành là Nghị định 38/2013/NĐ-CP ngày 23/04/2013 về Quản
lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và nguồn vốn vay ưu đãi của
các nhà tài trợ, có hiệu lực từ ngày 06/6/2013.
Điểm mới của Nghị định số 38/2013/NĐ-CP so với Nghị định số 131/2006/NĐ-
CP của Chính phủ là mở rộng phạm vi điều chỉnh; mở rộng lĩnh vực ưu tiên sử dụng
vốn ODA và vốn vay ưu đãi; cơ chế tạo điều kiện cho khu vực tư nhân tiếp cận nguồn
vốn ODA và vốn vay ưu đãi; cải tiến quy trình xây dựng và phê duyệt danh mục tài
trợ; phân cấp và tinh giản quy trình, thủ tục; đồng bộ hóa với các văn bản pháp quy
trong nước và hài hòa hóa quy trình, thủ tục với các nhà tài trợ; đa dạng hóa phương
77
thức viện trợ và các hình thức quản lý dự án; tăng cường công tác lập kế hoạch, giám
sát, đánh giá, nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm...
Để hướng dẫn thực hiện các Nghị định của chính phủ về quản lý và sử dụng
ODA, Bộ KH&ĐT ban hành thông tư chung hướng dẫn thực hiện Nghị định về quản
lý và sử dụng, Bộ Tài chính ban hành thông tư hướng dẫn về quản lý tài chính đối với
các chương trình dự án ODA và Bộ Ngoại giao ban hành thông tư hướng dẫn ký kết
các điều ước quốc tế. Ngoài các Nghị định chuyên trách về quản lý và sử dụng ODA,
việc sử dụng ODA còn chịu sự chi phối của các văn bản quy phạm pháp luật khác có
liên quan ở trong nước, cũng như các quy định và thủ tục của nhà tài trợ như đấu thầu
mua sắm, di dân giải phóng mặt bằng và tái định cư, quản lý tài chính, Pháp lệnh về ký
kết và thực hiện điều ước quốc tế...
Bên cạnh các văn bản điều chỉnh hoạt động thu hút và sử dụng vốn ODA, vốn
ODA đầu tư cho xây dựng KCHTKT còn được điều chỉnh bởi các văn bản pháp luật
trong lĩnh vực đầu tư xây dựng như Luật Đầu tư số 67/2014/QH13 ngày 26/11/2014;
Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 ngày 26/11/2014; Luật Đấu thầu ngày 26 tháng
11 năm 2013; Luật Đầu tư công ngày 18/6/2014; Luật Ngân sách nhà nước số
01/2002/QH11 ngày 16/12/2002; Luật xây dựng 2014 số 50/2014/QH13 ngày
18/06/2014; Luật Đất đai số 45/2013/QH13 ngày 29/11/2013...
Cùng với các Luật là các nghị định liên quan như: Nghị định số 64/2012/NĐ-
CP về cấp phép xây dựng ngày 04/09/2012; Nghị định số 15/2013/NĐ-CP về quản lý
chất lượng công trình xây dựng ngày 06/02/2013; Nghị định 47/2014/NĐ-CP quy định
về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất ngày 15/5/2014... Các văn
bản pháp quy đã tạo ra một hệ thống tương đối đồng bộ trong việc điều chỉnh hoạt
động thu hút và sử dụng vốn ODA trong xây dựng KCHTKT.
3.2.2. Cơ cấu bộ máy quản lý nhà nước và phân cấp quản lý đối với vốn ODA
trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế
Ngay từ khi nối lại quan hệ hợp tác phát triển với các nhà tài trợ năm 1993,
Chính phủ Việt Nam đã cam kết “Chính phủ nhận trách nhiệm điều phối và sử dụng
viện trợ nước ngoài” Đến nay, việc quản lý vốn ODA được ghi rõ trong Khoản 2,
Điều 6 của Nghị định 38/2013/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 23/4/2013:
“Chính phủ thống nhất quản lý ODA và vốn vay ưu đãi trên cơ sở phân cấp gắn trách
nhiệm, quyền hạn, năng lực quản lý và tính chủ động của các ngành, các cấp; bảo
đảm sự phối hợp quản lý, kiểm tra và giám sát chặt chẽ của các cơ quan có liên
quan”[17].
78
Hình 3.3: Cơ cấu bộ máy quản lý nhà nước đối với vốn ODA trong xây dựng kết
cấu hạ tầng kinh tế Việt Nam
Chính phủ
Bộ KH &
ĐT
Bộ
Tài
Chính
Ngân hàng
NNVN
Văn phòng
CP
UBND Tỉnh, thành
phố trực thuộc TW
Các Bộ, Ban, Ngành
thuộc KCHTKT
Ban QLDA
Cấp Tỉnh, TP
Ban Quản lý
Dự án
Nhà
tài trợ
Nước
tài trợ
Nhà
tài trợ
Dự án triển khai
ở địa phương
Dự án triển khai tại
cấp Bộ thuộc
KCHTKT
Quản lý trực tiếp
Phối hợp làm việc
Phối hợp quản lý
Ban Chỉ đạo
QG về ODA
79
Hiện nay có 4 cấp tham gia vào quá trình thu hút và sử dụng vốn ODA nói
chung, ODA trong xây dựng KCHTKT nói riêng, bao gồm Thủ tướng Chính phủ; các
bộ tổng hợp gồm Bộ KH&ĐT, Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao, Ngân hàng Nhà nước và
Văn phòng Chính phủ; các Bộ và UBND các địa phương và các chủ dự án, các PMU.
Đây là điểm khác biệt giữa QLNN vốn ODA với các hoạt động QLNN (bao gồm 4 cấp
là Trung ương, tỉnh, huyện, xã). Ngày 23/1/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 216/QĐ-TTg về việc thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia về ODA và vốn vay
ưu đãi. Ban Chỉ đạo có nhiệm vụ nghiên cứu, đề xuất với Thủ tướng Chính phủ chủ
trương, chính sách, định hướng thu hút, quản lý và sử dụng hiệu quả vốn ODA, giúp
Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, phối hợp liên ngành trong việc giải quyết những vấn đề
quan trọng, liên ngành. Bên cạnh sự khác biệt nói trên, QLNN đối với vốn ODA còn
tính đến vai trò của nhà tài trợ.
Vốn ODA do một cơ quan quản lý tập trung, có phân cấp. Ở Trung ương, Ủy ban
Kế hoạch Nhà nước trước đây và Bộ KH&ĐT (từ năm 1995 đến nay) đảm trách vai trò
cơ quan đầu mối về quản lý và điều phối ODA của Chính phủ. Phối hợp với Bộ
KH&ĐT trong quản lý và điều phối ODA có các Bộ liên quan. Các Bộ và Cơ quan
ngang bộ thực hiện chức năng QLNN về ODA ở cấp ngành; như đối với vốn ODA trong
KCHTKT, việc quản lý thuộc về các bộ như Bộ GTVT, Bộ Xây dựng, Bộ Công
Thương, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn; các
tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm QLNN về ODA trên lãnh thổ
địa phương. Các cơ quan chủ quản cấp ngành và địa phương chỉ định cơ quan đầu mối
quản lý và điều phối ODA của mình như các Vụ Kế hoạch - Tài chính của các Bộ và Sở
KH&ĐT là đơn vị đầu mối về ODA của các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương
[10, tr.62] (Phụ lục 4: Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan QLNN về vốn ODA).
Về phân cấp quản lý, trong thời kỳ đầu khi cộng đồng các nhà tài trợ mới nối lại
việc cung cấp ODA cho Việt Nam, việc quản lý dự án ODA thường được giao cho các
Bộ trung ương theo từng ngành. Việc phân cấp là tất yếu và thực tế cũng đã được thực
hiện từng bước. Nếu trước kia theo Nghị định 20 (năm 1994), Thủ tướng Chính phủ ký
và phê duyệt tất cả các dự án. Hiện nay, gánh nặng này đang được san sẻ dần về các địa
phương khi khối lượng ODA dành cho Việt Nam tăng nhanh. Nhiều chương trình dự án
đã được chia nhỏ và phân cấp cho các cơ quan dưới Bộ, các UBND các địa phương
quản lý. Điều này hoàn toàn phù hợp với xu hướng phân cấp ngày càng mạnh trong
quản lý ODA của các nước trên thế giới nhưng vẫn còn nhiều vướng mắc trong quá
trình thực hiện.
80
Có thể minh hoạ trách nhiệm của các cơ quan QLNN khi thực hiện một số công
việc quản lý dự án ODA đối với xây dựng KCHTKT như sau:
Bảng 3.1: Một số công việc và Trách nhiệm của Các cơ quan liên quan trong Bộ
máy QLNN đối với vốn ODA đối với xây dựng KCHTKT
Ghi chú: (+): Cơ quan chuẩn bị; (++): Cơ quan liên quan; (+++): Cơ quan phê duyệt
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) (2009),
Cẩm nang hướng dẫn chuẩn bị và thực hiện dự án nguồn vốn ODA do ADB tài trợ tại
Việt Nam, tr.43
Trên thực tế, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan QLNN về vốn ODA chưa rõ
ràng, gây nên tình trạng chờ đợi, mất nhiều thời gian để tổ chức triển khai dự án. Sự
phối hợp trong nội bộ các bộ, ngành, giữa Trung ương và địa phương và với các nhà
tài trợ chưa thật sự thông suốt, nhất là các lĩnh vực KCHTKT có sự tham gia của nhiều
nhà tài trợ.
Trình độ quản lý của các địa phương có sự khác nhau, nên nhiều nơi nhiều lúc
dự án không được triển khai theo đúng kế hoạch. Địa phương triển khai nhanh vẫn
phải chờ địa phương triển khai chậm. Sự phối hợp giữa các bên liên quan của Việt
Nam mà chủ yếu giữa Bộ chủ quản, PMU, chủ đầu tư với chính quyền các địa phương,
cơ quan chức năng còn thiếu chặt chẽ, đặc biệt trong công tác giải phóng mặt bằng. Ví
dụ, dự án cải tạo quốc lộ 1 do vốn ODA của WB và ADB tài trợ liên quan đến hầu hết
các tỉnh thành phố trên trục quốc lộ 1. Do sự phối hợp không tốt giữa các địa phương
nên thống nhất quan điểm đền bù giải phóng mặt bằng rất khó khăn và mất nhiều thời
gian. Địa phương giải phóng mặt bằng nhanh phải chờ địa phương làm chậm. Nhà tài
trợ cũng gặp khó khăn trong việc điều hành triển khai dự án do thiếu một đầu mối giao
Lĩnh vực
Công việc
PMU
Chủ dự
án
Cơ quan
chủ
quản
Bộ
KHĐT
Bộ
Tài
chính
Ngân
hàng
nhà
nước
Uỷ ban
nhân dân
Huy động Nguồn lực Thành lập và tổ chức PMU + +++
Quản lý tài chính Mở tài khoản tạm ứng + ++ ++ ++ +++
Chuẩn bị vốn đối ứng + ++ +++ ++ ++
Kế hoạch Chuẩn bị Kế hoạch thực hiện
dự án cập nhật
+ +++ +++
Chuẩn bị Kế hoạch đấu thầu
cập nhật
+ ++ +++
Đấu thầu Tuyển chọn tư vấn Quản lý
dự án và thiết kế kỹ thuật
+ ++ +++
Quản lý môi trường và
xã hội
Chuẩn bị Kế hoạch tổng thể
đền bù và tái định cư.
+ ++ ++ +++
81
dịch đàm phán. Hậu quả là nhiều dự án gặp ách tắc, chậm tiến độ.
Sự chủ động tiếp cận vốn ODA của các địa phương cũng khác nhau, thể hiện ở
mức độ chuẩn bị tích cực của địa phương khi đón nhà đầu tư, bố trí vốn đối ứng, nắm
bắt thông tin, nhân lực có trình độ và hiệu quả của bộ máy hành chính. Ví dụ, cùng là
tỉnh nhỏ nhưng Quảng Trị lại được đánh giá cao về tính chủ động triển khai dự án hơn
Sơn La, dù số dự án mà Bộ chủ quản nắm giữ ở Sơn La nhiều hơn. Hay trong khi một
số Bộ và địa phương lớn như Bộ GTVT, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Hà
Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh có nhiều kinh nghiệm trong công tác vận
động ODA, nhiều Bộ ngành và các địa phương miền núi còn thiếu những hiểu biết cơ
bản về công tác vận động ODA cũng như quy định của Chính phủ và của mỗi nhà tài
trợ về vấn đề này. Điều này đã dẫn đến một thực tế là có sự chênh lệch về phân bổ
ODA giữa các vùng, ngành trong cả nước.
Bên cạnh đó, trong bộ máy QLNN, tổ chức của PMU còn bất cập. Viẹ t Nam có
mọt số lu ợng lớn PMU ở cấp trung uong cũng nhu ở cấp tỉnh. Theo WB và ADB, số
luợng ban quản lý các dự án ODA của hai nhà tài trợ này hiẹ n nay đã lên tới 500 đon
vị trên tổng số 1.000 đon vị trong cả nuớc. Số luợng ban quản lý dự án nhu vạ y là quá
nhiều và dẫn đến sự lãng phí [31]. Ban quản lý dự án ODA quá nhiều nhung hiẹ u quả
lại không cao. Điều này mọ t phần là do các nghị định ODA truớc bắt buọc chủ đầu tư
phải thành lạ p mọt đon vị quản lý dự án ODA bất kể phạm vi và nọi dung của dự án.
Ngoài ra, sự phân cấp đã khuyến khích các tỉnh thành lạ p đon vị riêng để thực hiẹ n các
dự án ODA. Rất ít PMU tồn tại ngoài các co quan công quyền, sự gia ta ng và na ng lực
tuong đối yếu kém của các PMU, đạ c biẹ t là ở cấp tỉnh, đã đuợc xác định là những
thách thức để thực hiẹ n tốt dự án. PMU được chủ đầu tư thành lập và sử dụng pháp
nhân của chủ đầu tư hoạt động nên chưa giải quyết dứt điểm tình trạng khép kín trong
quản lý đầu tư. Ngoài ra, PMU có thể phải giải tán sau khi dự án chương trình kết
thúc, điều này làm chủ đầu tư khó khăn giải quyết nhân sự dôi ra; người lao động
không an tâm trong công tác, rất khó thu hút được nhân sự tốt. Ngoài các vấn đề về
na ng lực, một thời gian dài, trong mô hình tổ chức chưa phân rõ quyền hạn và nghĩa
vụ của chủ đầu tư với PMU, các PMU được giao quyền lực rất lớn nhưng không có cơ
chế trách nhiệm. Chẳng hạn như PMU18 được giao cho quản lý nhiều dự án và còn
làm chủ dự án để tổ chức đấu thầu hay chỉ định thầu một số dự án, hệ lụy là chất lượng
công trình sau khi bàn giao bị thả nổi, phát sinh chi tiêu sai mục đích và thất thoát
trong đầu tư.
3.2.3. Lập quy hoạch, kế hoạch và vận động vốn ODA trong xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế
Vận động ODA trong xây dựng KCHTKT được thực hiện trên cơ sở chiến lược,
82
quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, của các ngành và của các
vùng và địa phương có công trình dự án KCHTKT; căn cứ trên chiến lược nợ công và
nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011- 2020 và tầm nhìn đến năm 2030; đề án
định hướng thu hút, quản lý và sử dụng ODA và vốn vay ưu đãi trong từng thời kỳ;
các chương trình mục tiêu quốc gia và các chương trình mục tiêu của ngành, địa
phương; chương trình, chiến lược và định hướng hợp tác giữa Việt Nam với các nhà
tài trợ...
Trách nhiệm vận động ODA trong xây dựng KCHTKT do Bộ KH&ĐT là cơ
quan chủ trì tổ chức ở cấp quốc gia, liên ngành, liên địa phương. Các Bộ, ngành thuộc
KCHTKT có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với Bộ KH&ĐT và các cơ quan liên quan
tổ chức vận động ODA và vốn vay ưu đãi ở cấp ngành. UBND cấp tỉnh có dự án
KCHTKT chủ trì, phối hợp với Bộ KH&ĐT và các cơ quan liên quan tổ chức vận
động ODA ở cấp địa phương. Các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài hoặc
đại diện của Việt Nam tại tổ chức quốc tế phối hợp với Bộ KH&ĐT và Bộ Ngoại giao
tiến hành vận động ODA tại nước sở tại hoặc tại tổ chức quốc tế đó.
Trong vận động ODA, nổi bật nhất là hội nghị thường niên giữa Việt Nam và
các nhà tài trợ. Giai đoạn đầu tiên là Hội nghị viện trợ do WB và các nhà tài trợ chủ
trì, bản thân nó đã nói lên tính một chiều của hoạt động này, tức là nhấn mạnh ở vai trò
mang tính quyết định của các nhà tài trợ. Sau đó là Hội nghị Nhóm các nhà tài trợ cho
Việt Nam (CG) do WB (đại diện là Giám đốc quốc gia tại Việt Nam) và Bộ KH&ĐT
đồng chủ tọa. Hội nghị này là diễn đàn trao đổi ý kiến giữa Chính phủ và các nhà tài
trợ về chính sách phát triển kinh tế - xã hội, về việc thực hiện ODA và các nhà tài trợ
cam kết tài trợ thường niên. Từ năm 1993 đến nay đã tổ chức 12 Hội nghị Nhóm tư
vấn, trong đó 3 lần họp tại Pari (Pháp), 1 lần tại Tokyo (Nhật Bản), còn lại đều họp tại
Việt Nam. Ngoài Hội nghị CG thường niên tổ chức vào tháng 12 hàng năm, bắt đầu từ
năm 1998 còn có các Hội nghị CG giữa kỳ được tổ chức vào tháng 6 tại một số địa
phương. Trước thềm Hội nghị CG còn tổ chức Diễn đàn doanh nghiệp với sự tham gia
của các cơ quan Chính phủ, các đại sứ, đại diện cho các nhà tài trợ và đông đảo đại
diện của giới doanh nghiệp trong và ngoài nước (Phụ lục 5: Lược sử các hội nghị CG).
Khi Việt Nam trở thành nước thu nhập trung bình thấp thì yêu cầu về đối thoại
chính sách giữa Chính phủ và các nhà tài trợ phải sâu hơn về nội dung, rộng hơn về
phạm vi tham gia của các bên vào quá trình phát triển và kết quả đối thoại cần được
theo dõi và triển khai thực hiện trong thực tế. Đáp ứng yêu cầu của bối cảnh mới,
Chính phủ và các nhà tài trợ đã nhất trí cần thay đổi phương thức và cách thức tổ chức
các Hội nghị CG thành Diễn đàn Đối tác phát triển Việt Nam thường niên (VPDF) tại
Hội nghị CG thường niên lần thứ 20 (tháng 12/2012).
83
Diễn đàn VPDF là kênh để các đối tác phát triển đối thoại chính sách, với
thành phần tham dự được mở rộng hơn, có thể bao gồm cả khu vực tư nhân. Ban thư
ký VPDF do Bộ KH&ĐT chủ trì, các thành viên gồm đại diện một số cơ quan Việt
Nam và nhà tài trợ có trách nhiệm theo dõi và đôn đốc việc thực hiện các kết luận của
Diễn đàn. Trước khi tổ chức Diễn đàn VPDF, nếu thấy cần thiết sẽ tổ chức Hội nghị
kỹ thuật của Diễn đàn để phát huy cao hơn vai trò chủ động của Chính phủ trong việc
xác định chủ đề, chuẩn bị nội dung, tổ chức và điều hành Diễn đàn VPDF. Việc này sẽ
nâng cao trách nhiệm của các cơ quan Việt Nam và các nhà tài trợ trong việc thực hiện
các kết quả của Diễn đàn. Chính phủ và các nhà tài trợ thống nhất tại Diễn đàn VPDF
là các nhà tài trợ sẽ không đưa ra cam kết vốn ODA và vốn vay ưu đãi như trước đây
vì trong bối cảnh phát triển mới các bên quan tâm đến các kết quả đầu ra hơn là việc
huy động các nguồn lực đầu vào, nên các nhà tài trợ có thể đưa ra cam kết bất cứ thời
điểm nào trong năm.
Ngoài ra, vận động ODA còn có các hình thức đối thoại khác như hội nghị
tham vấn chính sách cấp cao, hội nghị hợp tác phát triển, họp ủy ban đối tác, ủy ban
hỗn hợp, ủy ban liên chính phủ giữa Việt Nam và các nhà tài trợ. Các cơ quan đại diện
của nước ta ở nước ngoài cũng tham gia tích cực vào việc vận động ODA cho
KCHTKT, làm cầu nối giữa nước ta và các nước tài trợ. Bên cạnh đó còn có các hình
thức trao đổi, tham vấn chính sách không chính thức thông qua các hoạt động đối
ngoại giữa các cơ quan Việt Nam và các nhà tài trợ.
Vận động ODA cho KCHTKT còn được thực hiện thông qua các hội nghị xúc
tiến đầu tư theo quy mô vùng như Hội nghị xúc tiến đầu tư khu vực vùng núi phía
Bắc, khu vực Tây Nguyên, khu vực Đồng bằng sông Cửu Long,... với sự tham gia
đông đảo của các bộ, ngành, địa phương, các nhà tài trợ, giới doanh nghiệp và đầu tư
trong và ngoài nước. Ngoài ra, còn có hội nghị điều phối viện trợ theo ngành, lĩnh vực
nông nghiệp và phát triển nông thôn, giao thông vận tải, phát triển đô thị... thường do
đại diện của các bộ, ngành và nhà tài trợ đồng chủ tọa. Một số địa phương cũng tổ
chức các Hội nghị vận động viện trợ tại địa phương mình để giới thiệu tiềm năng và
nhu cầu viện trợ.
3.2.4. Thẩm định, phê duyệt các chương trình dự án ODA trong xây dựng kết cấu
hạ tầng kinh tế
Quy trình thẩm định các dự án ODA trong xây dựng KCHTKT hiện nay được
phân thành hai cấp phê duyệt là Thủ tướng Chính phủ và các Bộ, địa phương có công
trình dự án KCHTKT. Theo Nghị định 38/NĐ-CP, đối với phê duyệt văn kiện các
chương trình dự án, các công trình KCHTKT mà là những công trình dự án lớn, dự án
trọng điểm quốc gia, các chương trình, dự án ô (chương trình, dự án ô là chương trình,
84
dự án trong đó có một cơ quan chủ quản giữ vai trò điều phối chung và các cơ quan
chủ quản của các dự án thành phần); các chương trình, dự án kèm theo khung chính
sách; các chương trình, dự án trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng, tôn giáo; các khoản
ODA viện trợ không hoàn lại có quy mô vốn tài trợ tương đương từ 1 triệu USD trở
lên... thì do cơ quan chủ quản chịu trách nhiệm tổ chức thẩm định và trình Thủ tướng
Chính phủ xem xét, phê duyệt. Công trình KCHTKT không phải phải loại trên chủ yếu
do các ngành, địa phương phê duyệt văn kiện chương trình dự án [17].
Việc thẩm định phê duyệt chương trình dự án ODA trong xây dựng KCHTKT về
cơ bản có thể khái quát trong hình sau:
Các cấp trong bộ máy QLNN tiến hành thẩm định phê duyệt với các danh mục
tài trợ và các văn kiện chương trình dự án ODA trong xây dựng KCHTKT. Danh mục
Có thông báo Bộ KH&ĐT, Chủ dự án xây dựng văn kiện dự án chi tiết
- UBND Tỉnh/Bộ chủ quản về KCHTKT trình Bộ KH&ĐT thẩm định
Danh mục yêu cầu tài trợ ODA
- Bộ KH&ĐT trình Thủ tướng chính phủ phê duyệt.
Chủ dự án lập đề cương chương trình dự án KCHTKT
- Sở KH&ĐT/Vụ KH&TC xem xét hồ sơ dự án, tổng hợp danh mục.
- Trình UBND tỉnh/Bộ chủ quản về KCHTKT
Đối với các dự án còn lại:
Sở KH&ĐT/Vụ KH&TC thẩm
định, trình UBND tỉnh/Bộ chủ
quản về KCHTKT phê duyệt.
Chủ đầu tư triển khai thực hiện chương trình dự án KCHTKT.
Đối với các dự án lớn, quan trọng:
Bộ KH&ĐT thẩm định,
trình Thủ tướng CP phê duyệt.
Nguồn: Tác giả tự xây dựng
Hình 3.4: Quy trình thẩm định, phê duyệt các chương trình dự án ODA
trong xây dựng KCHTKT.
85
tài trợ gồm một hoặc nhiều chương trình, dự án yêu cầu tài trợ ODA. Văn kiện chương
trình, dự án là tài liệu trình bày bối cảnh, sự cần thiết, mục tiêu, nội dung, kết quả, các
hoạt động chủ yếu, tổng vốn, nguồn và cơ cấu vốn, các nguồn lực khác, cơ chế tài
chính trong nước và hình thức tổ chức quản lý thực hiện chương trình, dự án ODA
trong xây dựng KCHTKT. Đối với các dự án đầu tư, văn kiện dự án là Báo cáo nghiên
cứu khả thi.
Có thể thấy, trong thời gian dài trước đây, việc điều phối, phân cấp phê duyệt
dự án còn hạn chế do tập trung quá nhiều và Thủ tướng Chính phủ, trong khi các Bộ,
địa phương thì rất hạn chế nên thời gian phê duyệt lâu, dự án ODA bị chậm trễ, đặc
biệt là bước thẩm định và phê duyệt nghiên cứu khả thi, phê duyệt để triển khai các
hạng mục sử dụng vốn sau đấu thầu. Ở mỗi bước, PMU đều phải gửi hồ sơ đến nhiều
bộ ngành, cơ quan Trung ương. Các tiêu chuẩn đòi hỏi không đồng nhất, có được sự
đồng ý của tất cả các cấp thì phải mất nhiều thời gian và công sức. Chẳng hạn, trong
giai đoạn thực hiẹ n Dự án Hỗ trợ Tài nguyên nuớc cũng của WB, thực tế đã chứng
minh rằng vô cùng khó kha n để xử lý "vô số các hoạt đọng thẩm định" [51, trg 21].
Trong phê duyệt dự án đã có tình trạng, một dự án ở địa phương trình lên Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt, phải trình qua 8 cấp. Ví dụ, tiểu dự án thuỷ lợi Hóc Môn -
Bắc Bình Chánh với 2 phần, phần A do một PMU trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, phần B do một PMU trực thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn Thành phố Hồ Chí Minh. Một tiểu dự án trên cùng một địa bàn, với điều kiện tự
nhiên và kinh tế - xã hội giống nhau, lại phải chia ra 2 phần. Hơn nữa trong khi trong khi
PMU tiểu phần A phải qua 6 cấp thì PMU tiểu phần B phải qua 8 cấp để cùng giải quyết
một nội dung.
Thời gian gần đây, việc phân cấp cho các bộ, địa phương đã thuận lợi hơn cho
thẩm định phê duyệt dự án. Tuy vậy, vẫn còn nhiều tồn tại. Thời gian chuẩn bị và phê
duyệt dự án thường bị kéo dài, từ khâu đề xuất ý tưởng đến khâu phê duyệt và ký kết
thường mất từ 02 đến 03 năm thậm chí lâu hơn. Chất lượng của một số văn kiện
chương trình, dự án ODA chưa đáp ứng yêu cầu và chưa phù hợp với những điều kiện
cụ thể của Việt Nam, thường nhiều thiếu sót dẫn tới tình trạng nội dung dự án phải bổ
sung và điều chỉnh nhiều lần. Đơn cử, dự án An toàn giao thông đường bộ có giá trị
36,092 triệu USD được triển khai thực hiện từ năm 2005. Theo khảo sát của WB,
trong cả dự án có thiết kế phức tạp quá mức. Dự án An toàn đuờng bọ bao gồm 18 tiểu
hợp phần, trong đó viẹ c đấu thầu có mạ t trong hon 60 gói, liên quan đến 63 tỉnh thành
86
trên khắp Viẹ t Nam, đạ t ra những thách thức thực hiẹ n thủ tục mọt cách ruờm rà bởi
thiếu mọt thể chế rõ ràng và hiẹ u quả. Thể chế phức tạp và trong thiết kế dự án bao
gồm quá nhiều các gói thầu, vấn đề đấu thầu đã không đuợc theo dõi triẹ t để và phải
gia hạn ngày kết thúc hai lần [51,trg 22]. Ví dụ khác, dự án xây dựng tuyến đường sắt
đô thị thí điểm thành phố Hà Nội, đoạn Nhổn - Ga Hà Nội có dự toán là 783 triệu euro,
trong đó vốn ODA là 653 triệu euro và vốn đối ứng từ ngân sách thành phố là 130
triệu euro. Song đến tháng 7-2014, dự án đã phải bổ sung 393 triệu euro, trong đó vay
thêm 304,99 triệu euro vốn ODA. Dự án đường sắt đô thị Cát Linh - Hà Đông sử dụng
nguồn vốn ODA của Trung Quốc và vốn đối ứng của Chính phủ Việt Nam. Sau năm
năm thi công thì tổng mức đầu tư được điều chỉnh tăng từ 552 triệu đô la Mỹ lên 891
triệu đô la Mỹ [56].
Không những thế ở một số địa phương vẫn có tình trạng phê duyệt dự án ODA
cho xây dựng KCHTKT một cách chồng chéo, gây lãng phí nghiêm trọng. Ví dụ, để
giải quyết tình trạng thiếu nước ngọt, nước sạch sinh hoạt cho 45.000 cư dân các xã ở
cù lao Lợi Quan, huyện Gò Công Tây và Gò Công Đông của tỉnh Tiền Giang, trong
tháng 2-2004, UBND tỉnh Tiền Giang đã liên tục phê duyệt 2 dự án cấp nước cho vùng
cù lao Lợi Quan với tổng kinh phí hơn 51 tỉ đồng, trong đó phần lớn là vốn vay ODA
của WB và Trung ương hỗ trợ. Việc UBND tỉnh Tiền Giang trong vòng 15 ngày phê
duyệt 2 dự án cung cấp nước sạch cùng địa điểm, cùng nội dung, mục đích khiến dư
luận hết sức bức xúc trước sự việc cùng một lúc có 2 dự án cung cấp nước sạch cho cư
dân cù lao Lợi Quan được phê duyệt chồng lên nhau và thừa nhận nếu 2 dự án này
được triển khai cùng lúc thì sẽ lãng phí rất lớn [93].
Một ví dụ khác, năm 2010, Chính phủ Hàn Quốc nhận tài trợ cho tỉnh Quảng
Bình Dự án cấp điện bằng năng lượng mặt trời cho các xã vùng sâu, vùng xa chưa có
điện lưới thông qua hiệp định vốn vay ODA với số vốn 12 triệu USD, vốn đối ứng của
Chính phủ Việt Nam 1,783 triệu USD. Đây được xem là Dự án cấp điện bằng năng
lượng mặt trời lớn nhất Việt Nam cho đến thời điểm đó. Khu vực triển khai dự án trải
rộng trên địa bàn 8 xã của 4 huyện, với gần 1.300 hộ dân và 78 cơ quan, dịch vụ công
được hưởng lợi. Trong lúc Dự án cấp điện bằng năng lượng mặt trời tỉnh Quảng Bình
đang được triển khai, thì tỉnh này tiếp tục phê duyệt dự án kéo điện lưới trùm lên hầu
hết địa bàn của dự án pin mặt trời. Để giải “bài toán” dự án chồng dự án, Sở Công
Thương Quảng Bình có “sáng kiến” bằng văn bản số 716, đề xuất UBND tỉnh và được
lãnh đạo tỉnh này đồng ý bằng việc bút phê vào góc văn bản, cho phép tháo dỡ các vật
87
tư, thiết bị của Dự án điện mặt trời cất vào kho làm vật tư thay thế cho những nơi đang
sử dụng điện năng lượng mặt trời. Gần 14 triệu USD vay của Chính phủ Hàn Quốc có
nguy cơ thành phế liệu [84].
Trong quá trình thẩm định, cơ quan, đơn vị đầu mối thẩm định phải lấy ý kiến
các cơ quan liên quan, xem xét trình tự, thủ tục và tiến độ thẩm định của nhà tài trợ để
đảm bảo sự phối hợp. Ý kiến đồng thuận hoặc ý kiến khác nhau giữa các bên phải
được phản ánh trong báo cáo thẩm định. Thực tế trong quan hệ với nhà tài trợ, Việt
Nam thiếu sự chủ động, linh hoạt trong việc xây dựng dự án, chủ yếu dựa vào các nhà
tài trợ, do đó nhiều trường hợp nội dung dự án không phù hợp với phương hướng ưu
tiên sử dụng ODA, không đáp ứng được yêu cầu về nội dung của công tác thẩm định,
đánh giá theo quy định hiện hành.
Bên cạnh đó, vẫn xảy ra tình trạng trình duyệt “kép”. Mặc dù giữa Việt Nam và
các nhà tài trợ đã đạt được nhiều tiến bộ trong việc hài hòa quy trình, thủ tục song vẫn
còn tồn tại các khác biệt giữa hai bên, nhất là trong ba khâu công việc quan trọng gồm
đấu thầu mua sắm; đền bù, di dân và tái định cư và quản lý tài chính. Trong các văn
bản pháp quy hiện hành thường có quy định về tính tối thượng theo đó trong trường
hợp có sự khác biệt giữa quy định của Việt Nam và của nhà tài trợ thì tuân thủ theo
quy định tại điều ước quốc tế đã ký kết, song thực tế cho thấy việc nêu cụ thể sự khác
biệt này trong điều ước quốc tế không đơn giản nên để đảm bảo an toàn trước thanh
tra, kiểm toán, chủ dự án thường áp dụng phương thức “trình duyệt kép” cả phía Việt
Nam và nhà tài trợ dẫn đến mất nhiều thời gian trình, duyệt và ra quyết định.
3.2.5. Bố trí vốn đối ứng cho các dự án ODA trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế
Đối với một dự án ODA trong xây dựng KCHTKT, nhà tài trợ đều yêu cầu
Chính phủ Việt Nam phải cung cấp vốn đối ứng theo một tỷ lệ nhất định, qua đó nâng
cao trách nhiệm của Việt Nam, cũng như việc lựa chọn dự án ưu tiên. Chuẩn bị tốt
vốn đối ứng sẽ nâng cao hiệu quả thu hút, thúc đẩy nhanh các dự án, cũng như củng
cố lòng tin đối với các tài trợ. Nếu vốn đối ứng không được cung cấp đủ và kịp thời sẽ
gây ra sự chậm trễ đối với tiến trình dự án, làm ảnh hưởng đến tiến độ thi công, từ đó
dẫn tới trượt giá, làm tăng tổng mức đầu tư, khó thành công trong sử dụng ODA hiệu
quả để phục vụ các mục tiêu phát triển.
Ở nước ta hiện nay, vốn đối ứng hiện nay được lấy từ các nguồn ngân sách
trung ương, ngân sách địa phương và từ người dân đóng góp. Trên cơ sở nhu cầu vốn
đối ứng do các chủ dự án đề nghị, các Bộ, địa phương chủ quản sẽ tổng hợp nhu cầu
88
vốn đối ứng của Bộ và địa phương mình trình Bộ KH&ĐT để tổng hợp nhu cầu vốn
đối ứng của cả nước. Trên cơ sở khả năng cân đối của ngân sách nhà nước, Bộ
KH&ĐT sẽ xây dựng kế hoạch vốn đối ứng cho các Bộ, ngành trình Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt. Các Bộ, ngành sẽ chủ động phân bổ vốn đối ứng cho các dự án thuộc
bộ, ngành mình quản lý.
Thông thường, tỷ lệ bình quân chung về vốn của các dự án ODA tại Việt Nam
là 80% vốn vay và 20% vốn đối ứng. Các dự án vay vốn OECD hoặc WB thường quy
định vốn đảm bảo trong nước bằng 15% tổng trị giá dự án; các dự án viện trợ của các
tổ chức Liên Hợp Quốc (UN) thường yêu cầu vốn đảm bảo trong nước bằng 20% trị
giá dự án. Cho nên, những dự án kết cấu hạ tầng lớn như đường cao tốc... có tổng mức
đầu tư vài tỷ USD thì vốn đối ứng cũng cần đến hàng trăm triệu USD [56].
Vấn đề hiện nay là thiếu trầm trọng vốn đối ứng cho các dự án ODA trong xây
dựng KCHTKT. Thực tế việc triển khai các dự án ODA phát triển KCHTKT quy mô
lớn (như giao thông vận tải, hạ tầng đô thị ...) cho thấy việc bố trí không đầy đủ vốn
đối ứng đã làm trì hoãn việc thực hiện các dự án. Vì nguồn vốn đối ứng quá thiếu nên
mới xảy ra tình trạng vốn ODA dành cho xây lắp luôn được các nhà tài trợ cung cấp
đủ, thi công đến đâu, giải ngân đến đó, vốn đối ứng chủ yếu để phục vụ giải phóng mặt
bằng lại trong tình trạng vừa thiếu, vừa không kịp thời.
Vốn đối ứng từ nguồn ngân sách nhà nước chủ yếu lấy từ danh mục chi cho đầu
tư phát triển. Khoản chi này lại phụ thuộc nhiều vào khoản thu ngân sách nhà nước
trong năm. Vì vậy, khi có sự cố hay bất trắc trong nguồn thu thì vốn đối ứng không đủ
cung cấp theo kế hoạch đặt ra. Về nguyên tắc, vốn đối ứng của chương trình, dự án
thuộc cấp nào thì cấp đó xử lý trong ngân sách của mình. Trường hợp một số địa
phương vốn đối ứng phát sinh quá lớn, vượt quá khả năng cân đối thì trình thủ tướng
Chính phủ để xin hỗ trợ một phần. Ví dụ, kế hoạch phân bổ vốn trong giai đoạn 2011 -
2015, cả vốn trái phiếu Chính phủ và ngân sách nhà nước phân bổ cho ngành giao
thông vận tải bình quân chỉ khoảng trên dưới 25 nghìn tỷ đồng mỗi năm. Với số vốn ít
ỏi này, chỉ cần bố trí đủ đối ứng cam kết cho các dự án ODA và các dự án xã hội hóa
đang triển khai cũng sẽ hết [86].
Ngân sách địa phương cũng được phân chia theo kế hoạch nên nếu lấy ngân
sách địa phương cấp cho các dự án ODA thì có thể thiếu vốn cho các dự án khác trong
kế hoạch đã đề ra. Với các tỉnh nghèo, việc đóng góp của người dân gặp khó khăn.
Nhiều dự án cấp nước sạch được hoàn thành song người dân cũng không đủ tiền để
89
đóng góp nốt phần đường ống đưa nước từ nguồn vào nhà, do vậy ảnh hưởng đến hiệu
quả dự án.
Không kể hàng loạt các dự án bị đình hoãn, giãn tiến độ do không được bố trí
vốn, hàng loạt các dự án giao thông lớn dù có đủ vốn xây lắp nhưng vốn đối ứng rất
thiếu hoặc được cấp nhỏ giọt làm ảnh hưởng đến tiến độ chung. Đơn cử như Dự án
Quốc lộ 3 mới Hà Nội - Thái Nguyên chậm tiến độ nhiều tháng và một trong những
nguyên nhân dẫn tới điều này có phần của thiếu vốn đối ứng cho giải phóng mặt bằng.
Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến tiến độ triển khai thi công, hoàn thành dự án
đúng kế hoạch, tiến độ. Hay như dự án cao tốc Bến Lức - Long Thành do Tổng Công
ty Đầu tư Phát triển đường cao tốc VN (VEC) làm chủ đầu tư. Dự án có tổng mức
đầu tư lên đến 31 nghìn tỷ đồng, sử dụng nguồn vốn vay ODA của ADB và Nhật Bản.
Nguồn vốn xây lắp của dự án đã được nhà tài trợ đáp ứng đầy đủ, các nhà thầu thực
hiện đến đâu được giải ngân đến đó. Tuy nhiên, phần vốn đối ứng trong nước được
cấp nhỏ giọt. Cụ thể, năm 2014, dự án cần 2.729 tỷ đồng vốn đối ứng nhưng chỉ được
bố trí 954 tỷ đồng. Thiếu vốn đối ứng làm ảnh hưởng đến tiến độ đền bù giải phóng
mặt bằng, dẫn tới dự án không có mặt bằng sạch để ADB chấp thuận khởi công các
gói thầu này [87].
Ngoài những công trình chuyển tiếp hoàn thành sau năm 2015 đang thiếu vốn
đối ứng, hàng loạt các dự án giao thông cũng đang trông chờ nguồn vốn này như:
Đường sắt đô thị Hà Nội tuyến Cát Linh - Hà Đông, dự án tín dụng ngành giao thông
vận tải để cải tạo mạng lưới đường quốc gia (giai đoạn 1), dự án phát triển cơ sở hạ
tầng giao thông đồng bằng sông Cửu Long (hợp phần đường sông),... Theo các
chuyên gia giao thông, mọt khối luợng vốn trị giá 1,2 tỉ đô la Mỹ nằm trong các dự án
giao thông của WB cũng đang phải nằm mọt chỗ do thiếu 130 triẹ u đô vốn đối ứng
[51,trg 14]. Ngành năng lượng cũng trong tình trạng tương tự, tập đoàn điện lực Việt
Nam EVN cũng không đủ vốn đối ứng để vay cho nhiều dự án theo yêu cầu của các tổ
chức cho vay như WB, ADB...
3.2.6. Đánh giá, giám sát việc thu hút và sử dụng vốn ODA trong xây dựng kết
cấu hạ tầng kinh tế
Công tác theo dõi và đánh giá ODA thời gian gần đây đã được chú trọng và
tăng cường, đặc biệt sau khi Chính phủ ban hành Nghị định 131/2006/NĐ-CP, đã quy
định thiết lập hệ thống theo dõi và đánh giá ODA ở cấp quốc gia, cấp cơ quan chủ
quản và cấp chủ dự án. Hiện nay, công tác giám sát và theo dõi dự án được triển khai ở
90
mọi cấp từ Trung ương, các bộ, địa phương chủ quản cho đến các PMU. Ngoài ra công
tác này còn được thực hiện bởi chính các nhà tài trợ hoặc phối hợp thực hiện giữa các
nhà tài trợ với các cơ quan liên quan của phía Việt Nam.
Theo quy định hiện hành, các PMU phải lập báo cáo tiến độ triển khai thực hiện
dự án theo tháng, quý, năm và báo cáo kết thúc dự án cho các cơ quan cấp trên. Các Bộ,
địa phương chủ quản có trách nhiệm thực hiện các báo cáo quý về tiến độ triển khai các
dự án ODA thuộc phạm vi quản lý của Bộ và địa phương mình. Bộ KH&ĐT, Bộ Tài
chính, Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm lập báo cáo nửa năm và hàng năm về tình
hình triển khai thực hiện các dự án ODA.
Tuy nhiên trên thực tế các thông tin về tình hình thực hiện dự án thường không
được các cấp thông báo kịp thời, các thông tin thường không đầy đủ. Điều này gây khó
khăn cho các cơ quan tổng hợp, đặc biệt là Bộ KH&ĐT, trong việc tổng hợp tình hình
thực hiện dự án để báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Trong khi đó, nhiều chủ dự án khi gặp
khó khăn trong quá trình thực hiện thì lại thường yêu cầu các cơ quan cấp trên giải
quyết. Do thiếu các thông tin cập nhật thường xuyên nên việc giải quyết các vướng mắc
thường mang tính chất sự vụ, không có tính hệ thống, đồng bộ và kịp thời. Bên cạnh đó,
tuy hệ thống các quy định về việc giám sát, theo dõi dự án đã được ban hành đầy đủ,
nhưng do thiếu các chế tài nên công tác này còn bị coi nhẹ và chưa thực sự đáp ứng các
nhu cầu đề ra.
Hơn nữa, kết quả quản lý thuờng đu ợc đánh giá chỉ bằng công trình (mức đọ
hoàn thành, tiến đọ thực hiẹ n) mà chua xem xét đến hiẹ u quả sau đầu tu mọt khi công
trình đuợc đua vào vạ n hành khai thác sẽ gây khó kha n cho viẹ c đánh giá, định huớng
đầu tu từ nguồn ODA tạo nên sự lãng phí. Ví dụ nhu tại Dự án an toàn đuờng bọ, các
báo cáo nền đuợc phát hiẹ n là sử dụng dữ liẹ u không đáng tin cạ y, các dữ liẹ u quan
trọng bị thiếu và các nguồn dữ liẹ u cũng không nhất quán và phù hợp với bối cảnh
Viẹ t Nam. Tuy nhiên, do kết luạ n này của báo cáo đánh giá và giám sát đuợc đua ra
vào thời điểm dự án kết thúc, nên đã không đuợc tạ n dụng mọt cách hiẹ u quả. Truờng
hợp Dự án Thuỷ lợi, hầu hết các chỉ số giám sát đuợc đã đánh giá đầu ra (nhu diẹ n tích
có kênh thủy lợi mới) mà không xem xét các kết quả (ví dụ nhu các thay đổi trong sản
xuất nông nghiẹ p). Các vấn đề tuong tự cũng đã đuợc xác định trong Dự án Hỗ trợ Tài
nguyên nuớc, trong đó các chỉ số chủ yếu liên quan đến đầu ra chứ không phải kết quả
[51, trg 23].
Công tác đánh giá sau khi dự án kết thúc hiện còn mang tính hình thức và xem
91
nhẹ. Trước đây chỉ có nhà tài trợ thực hiện việc đánh giá dự án sau khi kết thúc trong
khi các cơ quan liên quan của phía Việt Nam không có đầy đủ kinh phí thực hiện công
tác này, hiện nay đã có sự cải thiện nhưng chưa rõ nét. Trong một số trường hợp, việc
nhà tài trợ đánh giá hiệu quả sau khi hoàn thành dự án không phản ánh đúng thực tế
mà thể hiện quan điểm của nhà tài trợ và điều này ảnh hưởng đến việc rút ra các bài
học kinh nghiệm.
Vai trò của thanh tra giám sát, chưa được chú trọng đúng mức ở nhiều cấp quản
lý. Quốc hội chưa giám sát tối cao về ODA. Chỉ có Ủy ban Đối ngoại thực hiện hai lần
giám sát năm 1999, 2003. Năm 2006, khi xảy ra vụ PMU 18, Ủy ban Đối ngoại một
lần nữa báo cáo lại các kiến nghị của lần giám sát trước. Việc đánh giá giám sát bị
buông lỏng ở các cấp nên đã để xảy ra các vụ thất thoát lãng phí tham nhũng trong các
dự án ODA xây dựng KCHTKT. Nhiều vụ việc gây chấn động dư luận như tiêu cực tại
Ban quản lý dự án Đại lộ Đông - Tây và Môi trường nước TP Hồ Chí Minh (PCI); vụ
nghi vấn tiêu cực tại dự án Danida (Đan Mạch) năm 2012; vụ nghi vấn Công ty Tư
vấn giao thông Nhật Bản hối lộ quan chức đường sắt Việt Nam để được nhận thầu dự
án sử dụng nguồn vốn ODA của Nhật (JTC) gần đây.
Vụ PMU 18 là vụ bê bối liên quan đến tham nhũng trong Bộ GTVT đầu năm
2006. Vụ việc đã gây xôn xao dư luận tại Việt Nam cũng như các nước và tổ chức
cung cấp ODA cho Việt Nam và đã khiến Bộ trưởng Bộ GTVT Đào Đình Bình phải từ
chức và Thứ trưởng Thường trực Nguyễn Việt Tiến bị bắt. Bùi Tiến Dũng, nguyên
tổng giám đốc PMU 18, bị nhận án 23 năm tù giam vì nhiều tội danh. Những sai phạm
của PMU 18 gây thiệt hại nghiêm trọng trong sử dụng vốn ODA trong xây dựng
KCHTKT. Chẳng hạn, khi xây dựng cầu Bãi Cháy trên Quốc lộ 18 với tổng mức đầu
tư 1.374 tỉ đồng bằng nguồn vốn vay ODA và vốn đối ứng từ ngân sách Nhà nước,
PMU18 đã thành lập các văn phòng điều hành không cần thiết và lập khống danh sách
với 26 nhân viên tư vấn bổ sung nhằm rút tiền của dự án chia nhau gần 3,5 tỉ đồng.
Nhiều dự án KCHTKT do PMU18 làm chủ đầu tư PMU đảm trách làm ẩu, lún nứt hư
hỏng nặng nề, xuống cấp, lệch chiều dài thực tế, bớt xén khối lượng… như cầu Bãi
Cháy, dự án nâng cấp cải tạo Quốc lộ 18, dự án cải tạo nâng cấp mở rộng quốc lộ 2
đoạn Đoan Hùng (Phú Thọ) - Vị Xuyên (Hà Giang), quốc lộ 1A - đoạn Phước Chiến
(Ninh Thuận), dự án giao thông nông thôn 2… Việc khắc phục sự cố của các công
trình này đã dẫn tới thiệt hại hàng chục tỷ đồng cho nhà nước…[88]
92
Dự án Đại lộ Đông - Tây khởi công 31/1/2005, bắt đầu từ quốc lộ 1A huyện
Bình Chánh và kết thúc tại xa lộ Hà Nội quận 2, tổng chiều dài toàn tuyến gần 22 km,
có hạng mục hầm Thủ Thiêm vượt sông Sài Gòn lớn nhất Đông Nam Á. Dự án với
tổng vốn đầu tư ban đầu gần 10.000 tỷ đồng, trong đó có 6.394 tỷ đồng vay ODA của
JBIC, số còn lại từ ngân sách thành phố. Giám đốc Ban Quản lý Dự án Đại lộ Đông
Tây, ông Huỳnh Ngọc Sĩ không làm đúng nhiệm vụ được giao, làm lợi cho phía nhà
thầu Nhật Bản để nhận hối lộ 262.000 USD. Ngày 1/9/2011, ông Huỳnh Ngọc Sĩ bị
tuyên phạt 20 năm tù về tội nhận hối lộ. Một vụ việc khác, công ty Nhật Bản JTC thừa
nhận hối lộ số tiền gần 80 triệu yên (16 tỉ đồng) để trúng thầu dự án đường sắt đô thị
Hà Nội. Đây là dự án có vốn ODA của Nhật [100].
Những vụ việc xảy ra ở nước ta tuy không ảnh hưởng nghiêm trọng tới mức bị
đánh giá là sử dụng ODA không thành công như Philippin (Sự sụp đổ chế độ
Ferdinand Marcos vào tháng 1/1986 cho thấy một mạng lưới tham nhũng hết sức tinh
vi của Philippin trong giải ngân vốn ODA của Nhật Bản. Thời kỳ này các nhà thầu
Nhật Bản coi việc chi trả hoa hồng là một thủ tục bình thường trong giao dịch thương
mại ở Philippin và gây tai tiếng trên toàn thế giới). Nhưng với Việt Nam thì cũng vì
những vụ việc này mà Nhật Bản, Đan Mạch cũng đã từng tuyên bố tạm ngừng cung
cấp ODA cho Việt Nam trong một thời gian.
Lĩnh vực KCHTKT như giao thông, cảng biển, sân bay… thường là các dự án
lớn, phức tạp, thực hiện trong thời gian dài, dễ xảy ra các hành vi tham nhũng, gian
lận. Thế nhưng thực tế số vụ án liên quan đến gian lận, tham nhũng được phát hiện và
xử lý còn ít, và quan trọng hơn là sự việc được phát hiện bởi chính nhà tài trợ. Các cơ
quan chức năng bị động trong việc phát hiện. Điều ấy cho thấy chúng ta thụ động đối
với sự tham nhũng trong chi tiêu ODA cho KCHTKT. Hành lang pháp lý lỏng, cộng
với công tác phòng, chống tham nhũng còn hạn chế là những nguyên nhân chính dẫn
đến việc chúng ta không chủ động phát hiện ra những tiêu cực này.
3.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VỐN ODA
TRONG XÂY DỰNG KẾT CẤU HẠ TẦNG KINH TẾ TẠI VIỆT NAM
3.3.1. Những thành tựu đạt được của quản lý nhà nước đối với vốn ODA trong
xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế
Thứ nhất, chính phủ đã rất nỗ lực trong việc thực thi đường lối đổi mới, tạo
lập môi trường chính trị, kinh tế, xã hội thuận lợi cho việc thu hút và sử dụng ODA
trong xây dựng KCHTKT.
93
Việc chính phủ không ngừng mở rộng các mối quan hệ ngoại giao, tiến hành cải
cách về thể chế chính sách, cải cách môi trường kinh doanh, đổi mới phương cách và
nâng cao năng lực quản lý... tạo một môi trường thuận lợi cho việc thu hút và triển
khai các dự án ODA trong xây dựng KCHTKT. Nhờ những nỗ lực đó mà Việt Nam là
một trong những nước đứng đầu trong tiếp nhận ODA của các nhà tài trợ trên thế giới.
Bảng 3.2: Mười quốc gia nhận ODA nhiều nhất trên thế giới
Đv: triệu USD
Tên nước 2011 2012 2013 Trung bình
3 năm
% trong tổng số
các nước tiếp
nhận
1.Afghanistan 6 885 6 726 5 266 6 292 4%
2.Viet Nam 3 596 4 116 4 085 3 932 3%
3.Cộng hoà Dân chủ Công gô 5 534 2 859 2 572 3 655 3%
5.Ethiopia 3 539 3 261 3 826 3 542 3%
6.Thổ Nhĩ Kỳ 3 189 3 033 2 741 2 988 2%
7.Tanzania 2 446 2 832 3 430 2 903 2%
8.Kenya 2 482 2 654 3 236 2 791 2%
9.Hy Lạp 414 1 807 5 506 2 576 2%
10.Pakistan 3 508 2 019 2 174 2 567 2%
11. Ấn Độ 3 228 1 668 2 436 2 444 2%
12.Các nước khác 106 207 102 000 114 814 107 674 76%
Tổng số 141. 028 132. 975 150. 086 141. 363 100%
Nguồn: www.oecd.org, (2015), Development Aid at a Glance - Statistics by
Regions -1. Developing countries, tr. 4.
Quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ trong thời gian
qua, đặc biệt là từ 1995 đến nay với việc Việt Nam tích cực gia nhập ASEAN, ký kết
Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ, trở thành thành viên chính thức của WTO…
Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) có hiệu lực cuối năm 2015, Hiệp định Thương mại
tự do Việt Nam- EU, Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP được ký kết
v.v... Chính quan hệ quốc tế mở rộng và phát triển đã giúp Việt Nam tạo lập niềm tin
với các nhà tài trợ, hoàn thành việc ký kết các điều ước quốc tế khung, điều ước quốc
tế cụ thể (Hiệp định chương trình, Nghị định thư) với các đối tác.
Thứ hai, môi trường pháp lý được quan tâm và thường xuyên bổ sung theo
hướng ngày càng đồng bộ và phù hợp với tình hình thu hút và sử dụng vốn ODA
trong thực tế từng giai đoạn.
QLNN đối với ODA trong xây dựng KCHTKT đã đi vào nề nếp trên cơ sở các
94
văn bản pháp quy ngày một đồng bộ. Từ khi Việt Nam nối lại quan hệ với các nhà tài
trợ, năm 1993-1994, việc quản lý và sử dụng vốn ODA được điều tiết bởi từng quyết
định riêng lẻ của Thủ tướng Chính phủ đối với từng dự án và nhà tài trợ cụ thể. Sau
đó, các văn bản pháp quy về lĩnh vực này đã dần được hoàn thiện. Bình quân khoảng
4 năm một lần, các Nghị định của Chính phủ về quản lý và sử dụng ODA được đổi mới,
Nghị định sau tiến bộ hơn Nghị định trước, nhất là về vai trò lãnh đạo và chính sách thu
hút sử dụng ODA của Chính phủ, phân cấp cho các cơ quan chủ quản trong quá trình
thực hiện, đồng thời tăng cường công tác theo dõi, giám sát tình hình và kết quả thực
hiện các chương trình, dự án ODA đã dần được đưa vào các quy định của pháp luật.
Các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động ODA trong xây dựng KCHTKT đã khắc
phục tình trạng thiếu, yếu kém của những năm đầu thu hút và sử dụng.
Trong KCHTKT, thu hút và sử dụng ODA được điều chỉnh ngày một tốt hơn
nhờ sự đồng bộ của các văn bản pháp luật. Quốc hội đã ban hành mới và sửa đổi bổ
sung nhiều lần văn bản pháp luật có liên quan đến KCHTKT trong các lĩnh vực như
xây dựng cơ bản, đấu thầu, giải phóng mặt bằng... như Luật Ngân sách nhà nước, Luật
Xây dựng, Luật ký kết gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế, Luật Đầu tư, Luật Đấu
thầu, Luật Quản lý nợ công, Luật Doanh nghiệp, Luật Đất đai, Luật Đầu tư công, Luật
Quản lý nợ công... Các văn bản quy phạm pháp luật này là cơ sở pháp lý quan trọng
để Chính phủ cụ thể hóa việc huy động và sử dụng hiệu quả ODA từ các nhà tài trợ.
Thứ ba, bộ máy QLNN đã dần được kiện toàn theo hướng xác định rõ chức
năng nhiệm vụ của các cơ quan quản lý và phân cấp mạnh hơn.
Bộ máy QLNN về vốn ODA đã được hình thành tương đối đầy đủ và liên tục
được hoàn thiện. Các cơ quan QLNN liên quan tới ODA trong xây dựng KCHTKT đã
xác định rõ hơn chức năng nhiệm vụ trong quản lý ODA và dần kiện toàn tổ chức bộ
máy. Ban Chỉ đạo quốc gia về ODA và vốn vay ưu đãi được thành lập đã tích cực phát
huy vai trò để giải quyết các khó khăn, vướng mắc của các chương trình, dự án, thiết
lập cơ chế phối hợp với Nhóm 6 Ngân hàng Phát triển (WB, ADB, AFD, JICA,
KEXIM, KfW), định kỳ tổ chức các hội nghị kiểm điểm chung tình hình thực hiện các
dự án (JPPR) 02 năm một lần; xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch hành động
cải tiến tình hình thực hiện và đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn ODA.
Với việc thực hiện phân cấp ở nước ta, hệ thống theo dõi, kiểm soát quá trình
thu hút và sử dụng vốn ODA từ Trung ương xuống tới địa phương cũng đã được hình
thành. Chẳng hạn, từ khi ban hành Nghị định 17/2001/NĐ-CP, mỗi cơ quan quản lý,
thực hiện các chương trình dự án ODA từ Trung ương đến địa phương đã thành lập
đơn vị chuyên trách về theo dõi và đánh giá dự án.
Việc phân cấp trong QLNN đối với vốn ODA ở mọi ngành, mọi cấp ngày càng,
95
0,00
1.000,00
2.000,00
3.000,00
4.000,00
5.000,00
6.000,00
7.000,00
8.000,00
9.000,00
1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014
CAM KẾT
KÝ KẾT
GIẢI NGÂN
mạnh. Các cấp ngành và địa phương đã phát huy vai trò nhiều hơn, giảm gánh nặng
quản lý cho Trung ương. Hướng phân cấp được thực hiện trong thời gian qua ở nước
ta là hoàn toàn phù hợp với xu hướng quốc tế vì ở các quốc gia giàu kinh nghiệm trong
thực hiện dự án ODA như Thái Lan, Inđônêsia và cả Philippin, phần lớn quá trình ra
quyết định trong giai đoạn thực hiện dự án đều do cấp bộ ngành thực hiện. Ở
Inđônêsia còn được phân cấp mạnh hơn, các dự án nhỏ thì việc phê duyệt các hồ sơ
thầu, xét thầu do cấp giám đốc dự án thực hiện, hệ thống phân cấp khá hiệu quả, mức
độ trao quyền hạn tương đối rộng.
Thứ tư, công tác vận động ODA trong xây dựng KCHTKT được thực hiện
chủ động, tích cực với các hình thức phong phú ở nhiều cấp.
Kết quả thu hút ODA từ năm 1993 đến nay cho thấy công tác vận động, thu hút
và sử dụng ODA của Việt Nam đã thu được nhiều kết quả tích cực, thể hiện ở kết quả
số vốn ODA các nhà tài trợ dành cho Việt Nam không ngừng tăng lên. Đặc biệt, sự
thay đổi phương thức và cách thức tổ chức các Hội nghị CG thành Diễn đàn VPDF đã
thể hiện vai trò chủ động, trách nhiệm của bên Việt Nam trong quá trình thu hút và sử
dụng ODA. Kết quả của công tác vận động ODA thể hiện ở hình sau:
Đơn vị: Triệu USD
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2014), Tổng quan công tác vận động, thu hút, quản lý
và sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi thời kỳ 1993-2014 và định hướng trong thời
gian tới, tr. 4.
Hình 3.5: Vốn ODA cam kết, ký kết và giải ngân thời kỳ 1993 – 2014
Với số vốn trên, ODA chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng vốn đầu tư từ ngân
sách nhà nước, bình quân chiếm khoảng 15-17%, và với sự hiện diện của hàng loạt
96
công trình ODA trong lĩnh vực KCHTKT như đường quốc lộ, cầu, cảng, nhà máy
điện, hệ thống cấp thoát nước... đang đóng góp quan trọng trong phát triển kinh tế xã
hội Việt Nam. Điều này rất có ý nghĩa trong bối cảnh vốn đầu tư phát triển của Việt
Nam còn hạn hẹp, nhất là khi nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội lại rất lớn
[9, tr. 4].
Mặt khác, xét từ góc độ đóng góp cho tăng trưởng kinh tế, bảng 3.3. cho thấy
mức đóng góp của ODA giải ngân trong 5 năm trở lại đây chiếm khoảng 3%, và chiếm
gần 10% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, và khoảng 50% vốn đầu tư từ ngân sách nhà
nước (Tuy nhiên năm 2015, do mức giải ngân thấp nên các chỉ tiêu này đều giảm
mạnh). Điều này cũng thể hiện thành quả của công tác vận động ODA của Việt Nam.
Bảng 3.3: Tỷ trọng vốn ODA và vốn vay ưu đãi giải ngân so với GDP, Tổng vốn đầu
tư toàn xã hội và Tổng vốn đầu tư từ Ngân sách nhà nước thời kỳ 2011 – 2015
Chỉ số 2011 2012 2013 2014 2015
1. GDP (nghìn tỷ đồng)Theo giá hiện hành 2.535 2.953 3.589 3.937 4.230
2. ODA và vốn vay ưu đãi giải ngân (nghìn tỷ
đồng) 75,93 87,12 108,06 120,15 80,53
3. ODA và vốn vay ưu đãi giải ngân / GDP
(%) 3,00 2,95 3,01 3,05 1,90
4. ODA và vốn vay ưu đãi giải ngân / Tổng
vốn đầu tư toàn xã hội (%) 8,65 8,81 9,90 9,84 5,99
5. ODA và vốn vay ưu đãi giải ngân / Tổng
vốn đầu tư từ NSNN (%) 42,66 42,50 52,53 57,85 41,30
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2016), Đề án Định hướng thu hút quản lý và sử dụng
nguồn vốn ODA và các khoản vốn vay ưu đãi khác của nhà tài trợ nước ngoài thời kỳ
2016-2020, tr.8
Bên cạnh đó, cho đến năm 2013, đã có 51 nhà tài trợ song phương và đa
phương, trong đó có 28 nhà tài trợ song phương và 23 nhà tài trợ đa phương có các
chương trình ODA thường xuyên cho Việt Nam. Hầu hết các nhà tài trợ đều có
chương trình hợp tác trung hạn về hợp tác phát triển với Việt Nam. Con số này thể
hiện sự đồng tình và sự ủng hộ chính trị mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế với công
cuộc đổi mới và chính sách phát triển, thể hiện sự tin tưởng của các nhà tài trợ vào
hiệu quả tiếp nhận và sử dụng vốn ODA của Việt Nam [9, tr. 4].
97
FY 14
■ Directors ■ Project Managers ■ staff
Thứ năm, cán bộ quản lý ODA đã được quan tâm đào tạo, tiếp thu khoa học
công nghệ, thực hiện dự án đạt nhiều tiến bộ.
Trong bộ máy quản lý, đội ngũ cán bộ, công chức đang từng bước được chuẩn
hoá và được bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ chuyên môn. Năng lực thực hiện và quản lý
các chương trình dự án ODA trong xây dựng KCHTKT đã có những bước tiến bộ. Bằng
nhiều hình thức khác nhau và qua thực tế thực hiện dự án, nhiều cán bộ Việt Nam từ các
cơ quan cấp quản lý vĩ mô tới các PMU đã làm quen và dần tích luỹ được kinh nghiệm
thực hiện về quản lý vốn ODA, đặc biệt trình độ tiếng Anh của đội ngũ quản lý đã được
cải thiện rõ nét trong vài năm trở lại đây.
Những năm gần đây, công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý ODA trong các cơ
quan quản lý và các PMU đã được quan tầm. Ví dụ, một chương trình đào tạo toàn diện
về chính sách và thủ tục của WB được thiết kế cho Giám đốc các PMU ( 7%), cán bộ
quản lý dự án (14% )và các nhân viên (79%), thực hiện cho tổng số 758 người trong năm
2014. Chương trình này tập trung vào nhiệm vụ quản lý tổng thể dự án, đấu thầu, quản lý
tài chính, các vấn đề về an toàn xã hội và giám sát và đánh giá.
Nguồn: WB (2014), Báo cáo đánh giá hiệu quả danh mục đầu tư quốc gia năm 2014
(P-CPPR), tr. 17
Hình 3.6: Số lượng nhân sự tham dự chương trình tập huấn cho các PMU của WB
năm 2013 và 2014
Càng ngày, phía Việt Nam càng tham gia ngày càng sâu vào quản lý vận hành
dự án. Trong giai đoạn đầu, các dự án sử dụng vốn ODA đều do các nhà tài trợ xây
dựng, chuyên gia nước ngoài thực hiện. Các hội nghị viện trợ cho Việt Nam, phía Việt
98
Nam phải cử người báo cáo về tình hình kinh tế xã hội để các nhà tài trợ thảo luận.
Báo cáo này cũng phải có chuyên gia của IMF và chuyên gia của một số nhà tài trợ
tham gia thực hiện. Sau này, việc lập báo cáo đã được phía Việt Nam chủ động thực
hiện, từng bước nâng cao tính minh bạch chính xác. Các nhà tài trợ cập nhật báo cáo
để cùng Việt Nam thảo luận, lựa chọn lĩnh vực dự án tài trợ. Đối với từng dự án, cán
bộ Việt Nam có thể vận hành hoàn toàn, từ khâu chuẩn bị dự án đến thực hiện các dự
án KCHTKT, các nhà tài trợ có thể chỉ giữ vai trò giám sát.
Việt Nam đã tiếp thu nhiều kỹ năng và kinh nghiệm quản lý tiên tiến với sự hỗ
trợ của các chương trình, dự án ODA về công nghệ cao, tiên tiến trong các lĩnh vực
công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu, công nghệ xây dựng... Dự án Phát triển hạ
tầng khu công nghệ cao và Trung tâm vũ trụ Việt Nam tại khu Công nghệ cao Hòa
Lạc, Hà Nội do Nhật Bản tài trợ là một ví dụ. Theo báo cáo đánh giá độc lập trong nội
bộ của Nhóm 6 Ngân hàng Phát triển, số lượng các dự án hoàn thành, kết quả phát
triển và mức độ đạt được mục tiêu đề ra của Việt Nam tính đến hết năm 2014 đứng thứ
hai sau Trung Quốc và đứng trên Ấn Độ, Philippin, Indonesia và Pakistan [7, tr.7].
3.3.2. Những hạn chế của quản lý nhà nước đối với vốn ODA trong xây dựng kết
cấu hạ tầng kinh tế
Thứ nhất, hệ thống pháp luật, chính sách liên quan đến QLNN về vốn ODA
trong xây dựng KCHTKT còn nhiều bất hợp lý.
Nội dung các văn bản pháp luật còn nhiều điểm bất hợp lý, đặc biệt trong lĩnh
vực đầu tư và xây dựng các công trình KCHTKT như quy định về đền bù thiệt hại
hiện nay chưa thoả đáng cho người dân, gây chậm trễ cho công tác đền bù, giải phóng
mặt bằng, tái định cư. Các chính sách đền bù trong giải phóng mặt bằng không thống
nhất và hay thay đổi. Đấu thầu cũng là vấn đề mà chưa đáp ứng được yêu cầu hài hoà
thủ tục với các nhà tài trợ, gây khó khăn cho cả cấp quản lý và cấp thực hiện nguồn
vốn ODA, làm chậm tiến độ thực hiện và giải ngân.
Nội dung của các văn bản pháp luật mới chỉ tập trung nhiều vào việc thu hút và
sử dụng vốn ODA mà chưa đi sâu vào nội dung vận hành dự án, mà đây mới là phần
quyết định tính hiệu quả của việc thu hút và sử dụng vốn ODA. Chẳng hạn như hiện
nay đang triển khai dự án xây dựng các tuyến đường sắt đô thị có quy mô lớn, lần đầu
tiên triển khai thực hiện ở Hà Nội, hầu hết các cán bộ của phía Việt Nam đều chưa có
kinh nghiệm, trong khi đó các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật về đường sắt đô thị, các
hướng dẫn liên quan đến chính sách bồi thường, hỗ trợ các chủ sở hữu công trình trên
99
mặt đất khi có công trình ngầm xây dựng đi qua còn chưa hoàn chỉnh.
Nghị định 38/2013/NĐ-CP ngày 23/4/2013 cũng bộc lộ nhiều bất cập, sự thay
đổi lại gây khó khăn hơn trong quá trình thực hiện các dự án ODA trong xây dựng
KCHTKT. Ví dụ, Mục b, Khoản 2, Điều 35 quy định: “Đối với sửa đổi, bổ sung
không làm tăng nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của Chính phủ (như lãi suất, thời hạn vay,
mức tiền vay, các khoản phí) hoặc không thay đổi cam kết khác của Chính phủ so với
trước đó, cơ quan đề xuất quyết định việc sửa đổi, bổ sung trên cơ sở ý kiến bằng văn
bản của Bộ KH&ĐT, Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp và các cơ quan khác có liên quan”.
Thực tế, trong quá trình triển khai dự án ODA việc sửa đổi như trên diễn ra khá
thường xuyên như: chuyển từ hạng mục dự phòng lên xây lắp hoặc tư vấn, tỷ trọng
giữa phần ngoại tệ và nội tệ (ở các hiệp định vay song phương), ... nên việc lấy ý kiến
nhiều Bộ, ngành liên quan tốn nhiều thời gian. Trong khi trước đây Bộ Tài chính (đối
với khoản vay song phương) và Ngân hàng Nhà nước (đối với khoản vay đa phương)
quyết định việc triển khai thủ tục sửa đổi, bổ sung.
Mặt khác, mặc dù Nghị định số 38/2013/NĐ-CP đã đề cập đến cơ chế tạo điều
kiện cho khu vực tư nhân tiếp cận nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi nhưng chưa xây
dựng mô hình cũng như thể chế pháp luật, chính sách khuyến khích và giải pháp hạn
chế rủi ro để thu hút vốn từ thành phần kinh tế tư nhân tham gia vào lĩnh vực đầu tư
xây dựng cơ bản cho các công trình KCHTKT.
Ngoài ra, các văn bản pháp luật cũng chưa có cơ chế, chế tài xử lý và chế độ
khen thưởng cụ thể đối với các cơ quan QLNN, các PMU dẫn đến việc thực thi những
quy định liên quan đến vốn ODA của các đơn vị bộ phận này chưa nghiêm túc.
Thứ hai, các cơ quan QLNN về ODA trong xây dựng KCHTKT chưa chủ
động, phân cấp quản lý còn nhiều hạn chế
Cơ quan quản lý các cấp chưa thể hiện vai trò làm chủ trong công tác quy
hoạch, kế hoạch và điều phối, chưa đủ năng lực và làm chủ trong việc chuẩn bị và tổ
chức thực hiện các chương trình, dự án ODA trong xây dựng KCHTKT. Trong quan
hệ với các nhà tài trợ và chuyên gia nước ngoài, Việt Nam cũng chưa chủ động khi
phối hợp, liên kết, thoả thuận nên xảy ra tình trạng nhiều nhà tài trợ muốn đầu tư vào
một lĩnh vực, một địa phương dẫn đến đầu tư chồng chéo, có những ngành những địa
phương có quá nhiều dự án cùng loại; có ngành, địa phương khác lại không có dự án.
Trong nhiều trường hợp các cơ quan thụ hưởng chưa xuất phát từ nhu cầu thực
tế mà bị động và phụ thuộc vào nhà tài trợ trong việc hình thành các dự án ODA. Tâm
100
lý các ngành các cấp đều muốn có nhiều dự án được thực hiện trong phạm vi quyền
quản lý của mình nên họ thẩm định dự án không thấu đáo, có khi chấp nhận cả những
ràng buộc bất lợi hoặc lựa chọn những dự án không có hiệu quả cao xét trên tổng thể
nền kinh tế. Điều này cần chú ý để tránh tình trạng của nhiều nước châu Phi, khi đã
không dành được quyền lựa chọn dự án ODA, kết cục là dự án được thực hiện một
cách miễn cưỡng và viện trợ trong trường hợp này không đạt hiệu quả như mong
muốn, nếu không muốn nói là không thành công.
Mặt khác, số liệu thống kê cho thấy, trong giai đoạn1993-2013, mặc dù đạt
được số vốn cam kết và giải ngân luỹ kế khá lớn, tỷ trọng vốn cam kết và giải ngân
thuộc các chương trình, dự án do các bộ, ngành trung ương quản lý chiếm phần lớn
(76% đối với cam kết và 87,9% tổng vốn giải ngân trong toàn giai đoạn); vốn ODA do
các địa phương quản lý chiếm tỷ trọng nhỏ (21% tổng vốn giải ngân luỹ kế trong giai
đoạn 1993-2013). Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến việc lồng
ghép các chương trình ODA do các bộ, ngành quản lý vào kế hoạch nguồn vốn đầu tư
của các địa phương phần nào trở nên khó khăn hơn do thiếu tính chủ động [56].
Mặc dù đã đẩy mạnh phân cấp trong bộ máy quản lý nhưng năng lực thực tế
của các địa phương chưa đáp ứng yêu cầu và còn có sự chênh lệch giữa các tỉnh. Số
lượng các PMU quá nhiều và được tổ chức chưa hợp lý, vẫn thuộc các cơ quan chủ
quản nên thiếu sự độc lập dẫn đến tình trạng khép kín trong quản lý.
Thứ ba, quy hoạch huy động và sử dụng vốn ODA trong xây dựng KCHTKT
thiếu, chưa khoa học, không có tầm nhìn dài hạn, thường là theo yêu cầu của các
địa phương mà chưa đặt trong mối quan hệ với khả năng trả nợ dẫn đến phân bổ
vốn dàn trải.
Quy hoạch, kế hoạch thu hút và sử dụng ODA trong xây dựng KCHTKT trong
từng giai đoạn trước hết phải dựa trên cơ sở của Quy hoạch, Kế hoạch phát triển kinh
tế xã hội và Quy hoạch, Kế hoạch phát triển KCHTKT ở giai đoạn tương ứng. Tuy
nhiên, quy hoạch, kế hoạch của Việt Nam thiếu và chưa mang tính khoa học. Chúng ta
chưa có một quy hoạch tổng thể phát triển KCHT đủ khả thi. Từ Nghị quyết Trung
ương 4 Khóa XI, chúng ta mới chỉ có định hướng tổng thể phát triển KCHT đến năm
2020, nhưng những vấn đề xa hơn, chi tiết hơn chưa được giải quyết thỏa đáng [19].
Theo kinh nghiệm của Nhật Bản, Hàn Quốc, yếu tố quan trọng dẫn đến thành
công trong phát triển KCHT là phải thống nhất quy hoạch sử dụng đất với quy hoạch
KCHTKT. Ở nước ta, hai hệ thống quy hoạch này không những không thống nhất mà
101
còn mâu thuẫn, nên nhiều khi có quy hoạch KCHT nhưng không thực hiện được vì
không có quỹ đất. Chính vì thiếu quy hoạch chung và quy hoạch lại chưa hợp lý, chưa
ăn khớp các loại quy hoạch nên KCHTKT thiếu đồng bộ, chia cắt theo lãnh thổ hành
chính nên chồng chéo, gây lãng phí và giảm hiệu quả sử dụng vốn. Ví dụ, cụm cảng
Cái Mép - Thị Vải của Bà Rịa Vũng Tàu đầu tư bằng vốn ODA với nhiều cảng biển
được xây dựng nhưng chưa có đường giao thông kết nối; hoặc giao thông đường bộ
kết nối các tỉnh thành phố, song các địa phương khác nhau có tiêu chuẩn đầu tư, lộ
trình xây dựng khác nhau. Vì vậy, không có sự gắn kết, gây ách tắc cục bộ, giảm hiệu
quả khai thác sử dụng.
Mặt khác, quy trình lập quy hoạch kế hoạch không có quy định rõ ràng về việc
tham vấn ý kiến của các bên liên quan, ví dụ trong KCHTKT là các đối tượng trực tiếp
và gián tiếp sử dụng công trình KCHTKT, các chuyên gia am hiểu lĩnh vực chuyên
ngành... nên quy hoạch, kế hoạch chưa nắm bắt được nhu cầu xã hội. Với những quy
hoạch đã có thì việc triển khai đúng quy hoạch, giám sát quy hoạch chưa nhận thức
đúng mức; vi phạm, không tuân thủ quy hoạch xảy ra khá nhiều trong thực tiễn.
Hiện nay, các bộ, địa phương có dự án ODA trong xây dựng KCHTKT tự xác
định các nhu cầu phát triển của ngành và địa phương mình, không dựa trên một định
hướng phát triển chung của cả quốc gia, không tính đến khả năng triển khai thực hiện
của chủ dự án dẫn đến xây dựng một danh mục ưu tiên vận động ODA trong xây dựng
KCHTKT một cách tuỳ tiện, không gắn với trách nhiệm và cao gấp nhiều lần so với
nhu cầu phát triển mang tính thực tế. Vấn đề là do thiếu một quy hoạch nhất quán, các
cơ quan quản lý trung ương thường phải chạy theo yêu cầu của các chủ dự án, các bộ
và địa phương. Việc một số bộ và địa phương đã trực tiếp trao đổi và chủ động thoả
thuận với các nhà tài trợ về danh mục các dự án kêu gọi viện trợ của ngành và địa
phương mình đặt Chính phủ và Bộ KH&ĐT trước một sự đã rồi, rất khó khăn trong
việc đàm phán về các điều kiện vay trả, giải ngân v.v...
Các quy định về xây dựng danh mục vận động ODA mới chỉ phù hợp với giai
đoạn đầu khi quy mô cung cấp ODA còn ở mức khiêm tốn, khả năng xây dựng dự án
của các chủ dự án còn ở mức thấp. Việc thiếu một quy hoạch vận động và sử dụng
ODA cũng như thiếu sự quản lý tập trung của Nhà nước, đặc biệt là các cơ quan Trung
ương, đã dẫn tới nhiều khó khăn trong việc vận động ODA cũng như công tác triển
khai thực hiện các dự án ODA trong xây dựng KCHTKT.
102
Mặt khác, việc huy động vốn ODA căn cứ nhiều vào nhu cầu, danh mục các
chương trình dự án đề xuất mà chưa đặt trong mối quan hệ với khả năng trả nợ, mối
quan hệ giữa hiệu quả chương trình dự án với hiệu quả quản lý nợ công và an toàn nợ
công. Hầu hết các khoản nợ nước ngoài trong cơ cấu nợ công của nước ta là các
khoản vay ODA. Theo báo cáo của Bộ Tài chính, năm 2013, nợ công trong GDP
chiếm 54,2%, nợ nước ngoài là 36.280,43 triệu USD, chiếm 37,3% GDP [13,
tr.11,12]. Theo ông Trương Hùng Long, Cục trưởng Cục Quản lý nợ và Tài chính
quốc tế, Bộ Tài chính, năm 2015, tổng nợ phải trả của Việt Nam chiếm 16% thu ngân
sách. Năm 2016, Chính phủ trình Quốc hội kịch bản trả nợ và đảo nợ trong bối cảnh
tình hình kinh tế hiện nay chiếm 24% tổng thu ngân sách, trong đó 14,7% trả nợ gốc,
tương đương 150 000 tỷ đồng.
Điều này tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất là trong điều kiện thâm hụt ngân sách cao và
dự trữ ngoại tệ mỏng. Rủi ro này càng lớn khi ưu đãi giảm dần và điều kiện vay nước
ngoài chặt chẽ hơn sau khi Việt Nam gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình. Mặt
khác, chúng ta còn phải chịu rủi ro liên quan đến biến động lãi suất và tỷ giá. Các
công trình KCHTKT vốn lớn và chủ yếu từ nhà tài trợ Nhật Bản và WB là hai chủ nợ
lớn nhất của Việt Nam. Các khoản vay ODA của Việt Nam hiện nay chủ yếu là bằng
đồng Yên, trong khi đó tỷ giá đồng Yên rất dao động, sự lên giá của đồng Yên và lãi
suất sẽ khiến gánh nặng trả nợ của Việt Nam tăng lên. Mặc dù nợ nước ngoài của Việt
Nam vẫn nằm trong ngưỡng an toàn và chưa phải là vấn đề quá nghiêm trọng song
nếu xu hướng tăng nhanh không đi kèm với hiệu quả sử dụng cao sẽ chứa đựng những
rủi ro tiềm ẩn cho nền kinh tế và gánh nặng trả nợ tương lai.
Trong khi nợ công vẫn tăng cao thì giá các công trình sử dụng ODA đã tạo nên
trần mới về suất đầu tư, dựa vào đó các dự án BT, BOT cùng loại, đã có cơ hội té nước
theo mưa, làm cho giá cả các công trình hạ tầng của nước ta không thể ở chung mặt
bằng của thế giới. Vì thế theo khảo sát của WB, chi phí vận tải của nước ta chiếm gần
12% GDP, trong khi ở các nước chỉ trên dưới 5%. Từ đó, kéo theo sự yếu thế trong
cạnh tranh của cả nền kinh tế.
Việc phân bổ ODA trong xây dựng KCHTKT dàn trải cũng chính là hệ quả của
việc thiếu quy hoạch. Việc cào bằng, thiếu trọng điểm khi sử dụng ODA trong xây
dựng KCHTKT đã dẫn đến phân bổ dàn trải, không kích thích được nội lực. Tập trung
vốn ODA xây dựng một tổ hợp hạ tầng kinh tế ở các vùng trọng điểm trong một thời
gian ngắn, tạo ra một vùng kinh tế phát triển là phương án tối ưu. Tuy nhiên, vốn
103
ODA trong xây dựng KCHTKT vẫn có tình trạng phân tán, mỗi nơi một ít. Cách làm
như vậy không mang lại hiệu quả cao mà còn tăng gánh nặng nợ. Bài học Brazin
những năm trước đây khi xây dựng hàng loạt các nhà máy thuỷ điện với số vốn khổng
lồ và 9 nhà máy điện hạt nhân… đã đẩy nước này trở thành con nợ lớn nhất thế giới
với 108 tỷ USD và tuyên bố vỡ nợ vào năm 1992. Một tổ hợp cơ sở hạ tầng ở đây có
nghĩa là phải đảm bảo có cảng, sân bay hiện đại, liên lạc viễn thông tốt, đường sá và
cầu cống thuận tiện, kho tàng và bốc dỡ tốt, việc cung cấp điện nước được đảm bảo...
thì mới phát huy được khả năng hấp thụ và hiệu quả của vốn ODA cho kinh tế xã hội.
Khi định hướng lĩnh vực ưu tiên sử dụng, vốn ODA phân bổ quá rộng và dàn
trải một phần là do tình hình thiếu vốn đầu tư diễn ra trong tất cả các lĩnh vực
KCHTKT, các địa phương. Chẳng hạn, trong giao thông ODA phân bổ cho xây dựng
đường bộ, cầu, cảng, sân bay, đường sắt... nên việc sử dụng ODA không tập trung vào
các dự án án lớn, sức lan tỏa cao. Đầu tư vào nhiều dự án nhỏ cũng có nghĩa là tốn
nhiều chi phí giao dịch trong triển khai dự án. Mặt khác, các dự án ODA trong xây
dựng KCHTKT thiếu tập trung vào các vùng trọng điểm tạo sự phát triển đột phá, lan
tỏa và lôi kéo. Đơn cử, kết cấu hạ tầng của 2 tuyến phát triển quan trọng của đất nước
Hà Nội - Hải Phòng, Hồ Chí Minh - Vũng Tàu, cho đến nay vẫn bất cập, chưa có
đường sắt tốc độ cao - để giảm chi phí vận tải, giảm tai nạn giao thông.... Nếu nhìn
vào hệ thống các công trình thuộc KCHTKT của nền kinh tế như đường cao tốc,
đường sắt, sân bay, cảng, cầu... thì Việt Nam vẫn hầu như chưa có được những công
trình lớn đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Thứ tư, giải phóng mặt bằng gặp nhiều vướng mắc, gây hệ lụy nghiêm trọng
Một trong những nguyên nhân hàng đầu trong quản lý dẫn đến dự án chậm hiện
nay là công tác giải phóng mặt bằng. Đây là vấn đề nan giải tồn tại nhiều năm và xảy
ra ở hầu hết tất cả các dự án KCHTKT cần phải giải phóng mặt bằng ở nước ta. Những
công trình KCHTKT như đường cao tốc, nhà máy điện… cần diện tích đất lớn nên
việc giải phóng mặt bằng của Trung ương và địa phương thường gặp khó khăn do thủ
tục rườm rà, tái định cư ách tắc, giá đến bù không thống nhất… Điều này dẫn đến
nhiều hệ luỵ nghiêm trọng, ngoài việc làm dự án đình trệ, chậm tiến độ, chậm đưa vào
khai thác, giảm hiệu quả đồng vốn, còn ảnh hưởng đến niềm tin của người dân, của
các nhà tài trợ, thậm chí nhà thầu kiện đòi bồi thường do chậm bàn giao mặt bằng.
Trường hợp cầu Nhật Tân, công trình có ý nghĩa lớn vì sau khi hoàn thành đã
kết nối trung tâm Thủ đô Hà Nội với các tỉnh phía Bắc, đồng thời rút ngắn tuyến
104
đường từ trung tâm Thủ đô đến sân bay Nội Bài, được chính phủ xác định là công
trình trọng điểm quốc gia, xảy ra tình trạng nhà thầu “kiện ngược” lại chủ đầu tư đòi
bồi thường chi phí trượt giá do chậm bàn giao mặt bằng. Nhà thầu Tokyu khởi công
gói thầu số 3 - gói thầu đường dẫn cầu Nhật Tân thuộc địa phận huyện Đông Anh (Hà
Nội) bắt đầu thực hiện từ tháng 4/2009. Tuy nhiên, tiến trình thi công liên tục phải tạm
dừng do vướng mặt bằng. Phải đến tháng 3/2012, công tác giải phóng mặt bằng mới
hoàn tất, tức dự án phải lùi tiến độ hơn 2 năm, khiến ngân sách phải chi hơn 155 tỉ
đồng bồi thường cho nhà thầu Nhật Bản.
Tiếp đó, chủ đầu tư Dự án Cao tốc Hà Nội - Lào Cai- Tổng công ty Đầu tư và
Phát triển Đường cao tốc VN (VEC) cho biết, hiện nay các nhà thầu nước ngoài liên
tục gửi đơn khiếu nại về công tác giải phóng mặt bằng. Và đến nay, Ban Quản lý
đường sắt đô thị TPHCM – chủ đầu tư dự án tuyến metro số 1, Bến Thành – Suối Tiên
– bị nhà thầu khiếu nại và đòi bồi thường 2,5 tỷ đồng/ngày do chậm bàn giao mặt bằng
thi công dự án so với cam kết trong hợp đồng. Theo hợp đồng, toàn bộ mặt bằng phải
bàn giao cho nhà thầu vào tháng 1/2013. Tuy nhiên, đến tháng 3/2015 việc bàn giao
mặt bằng mới hoàn tất, tức chậm 27 tháng. Theo tính toán, số tiền bồi thường có thể
lên tới hàng nghìn tỷ đồng [90].
Thứ năm, quy trình và thủ tục quản lý chương trình và dự án ODA trong xây
dựng KCHTKT còn phức tạp và có sự khác biệt với các nhà tài trợ
Thủ tục hành chính trong xây dựng KCHTKT còn khá phức tạp, khi triển khai
dự án có quá nhiều thủ tục phải phê duyệt và phải qua rất nhiều cơ quan nên thời gian
chờ đợi kéo dài dẫn đến dự án chậm. Các địa phương đều phản ánh về thủ tục, quy
trình thiếu đồng bộ, dàn trải tại nhiều văn bản, gây tốn kém rất nhiều thời gian. Chẳng
hạn, đối với thủ tục giải ngân, để rút vốn, chủ đầu tư nộp cho Kho bạc Nhà nước kèm
theo đơn rút vốn; bộ hồ sơ gồm ít nhất bảy loại tài liệu trong khi để quyết toán phải
nộp tám loại tài liệu mới được thẩm tra. Nguyên nhân là do chủ đầu tư chịu trách
nhiệm trước pháp luật về dự án và dự án còn chịu kiểm toán của phía Việt Nam và
kiểm toán độc lập của nhà tài trợ.
Nghị định 38 quy định cụ thể 5 bước trong quy trình vận động, quản lý và sử
dụng ODA và vốn vay ưu đãi khác, bao gồm: xây dựng và phê duyệt danh mục tài trợ
chương trình, dự án; chuẩn bị, thẩm định, phê duyệt văn kiện chương trình, dự án; ký
kết điều ước quốc tế khung, điều ước quốc tế cụ thể về ODA…; tổ chức thực hiện
chương trình, dự án; theo dõi, đánh giá chương trình, dự án. Đây là một điều khoản
105
mới hoàn toàn so với Nghị định 131/2006/NĐ-CP và nhằm nâng cao hiệu quả, đơn
giản hóa, đồng bộ hoá các thủ tục liên quan đến ODA nhưng nhiều đại diện nhà tài trợ
vẫn chưa hài lòng về điều này. Đơn cử, trưởng đại diện JICA - ông Mori Shocho cho
rằng, các thủ tục vẫn vô cùng phức tạp và mất rất nhiều thời gian. Ví dụ, ngày
31/3/2015, sau khi đại diện Chính phủ 2 nước ký kết công hàm cam kết dành 112,41 tỷ
yên vốn ODA tài trợ cho 7 dự án tại Việt Nam, theo kế hoạch JICA sẽ ký kết luôn các
Hiệp định vay vốn với Bộ Tài chính. Tuy nhiên, do chậm trễ về hoàn thiện hồ sơ, mới
chỉ 2 Hiệp định với tổng vốn ODA cam kết tài trợ khoảng 46 tỷ Yên được ký kết, còn
5 dự án khác đang trong quá trình chờ hoàn thiện nốt quy trình [91].
Những thủ tục về đấu thầu, đền bù, giải phóng mặt bằng… cũng phức tạp. Cụ
thể, khi có kế hoạch chuẩn bị đầu tư hoặc triển khai thực hiện dự án, các sở, ngành,
PMU địa phương lại phải chờ thông báo, hướng dẫn của các bộ, ngành. Những công
đoạn về thủ tục trình, phê duyệt không ăn khớp nhau đã kéo dài quá trình đầu tư, thực
hiện các dự án ODA. Các thủ tục Việt Nam và các nhà tài trợ thường xuyên thay đổi
làm chậm chễ tiến độ dự án, phát sinh chi phí cho các dự án, tăng chi phí do trượt giá,
lạm phát... cũng làm cho tổng mức đầu tư dự án tăng.
Thủ tục phê duyệt thiết kế chi tiết, tổng dự toán, nội dung đấu thầu của phía
Việt Nam (do Bộ Xây Dựng tiến hành) bị chậm trễ, không chính xác cả trước và sau
khi ký kết hiệp định vay vốn ưu đãi. Do việc này không được bất cứ một cơ quan
chuyên môn độc lập nào phản biện, kiểm tra, xem xét dẫn đến việc xác định không
chính xác tổng dự toán, thường là thấp hơn so với tổng vốn cam kết trong Hiệp định
vay vốn, do đó ảnh hưởng đến quá trình đấu thầu. Trong rất nhiều trường hợp, giá
thắng thầu cao hơn so với tổng dự toán được duyệt, nên các cơ quan chức năng không
có căn cứ trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Trong khi đó, các nhà thầu nước
ngoài cho rằng giá thắng thầu vẫn thấp hơn tổng số vốn tài trợ cam kết trong các hiệp
định vay vốn nên không chịu giảm giá.
Mặt khác, các quy định của Việt Nam cũng chưa hài hòa với quy định của nhà
tài trợ trong thẩm định, phê duyệt như các quy định về đấu thầu, nghiệm thu kỹ thuật
và giải ngân vẫn còn tồn tại những sự khác biệt, chậm được xử lý đã ảnh hưởng tới
tiến độ chuẩn bị và thực hiện các chương trình, dự án ODA. Quy định của nhiều nhà
tài trợ, đặc biệt là Nhật Bản - nhà tài trợ chủ yếu các dự án KCHTKT quy mô lớn, yêu
cầu dự án phải được các cấp có thẩm quyền phê duyệt thì mới có thể xem xét cấp vốn
trong khi Việt Nam lại có quy định phải có sự cam kết chắc chắn về vốn nước ngoài
106
mới có căn cứ để thẩm định và trình phê duyệt.
Cũng trong công tác đấu thầu, các nhà tài trợ như WB, ADB, JICA đều có
hướng dẫn thủ tục đấu thầu riêng, một số nhà tài trợ như Trung Quốc, Úc, Pháp không
có hướng dẫn cụ thể. Thông tư số 03/2015/TT-BKHĐT quy định chi tiết lập hồ sơ mời
thầu xây lắp được ban hành là kết quả nỗ lực sau gần 1 năm làm việc của Bộ KH&ĐT,
ADB và WB để hài hòa hóa quy định về đấu thầu của Việt Nam và hướng dẫn đấu
thầu của nhà tài trợ. Tuy nhiên thủ tục trong công tác đấu thầu của Việt Nam vẫn tồn
tại nhiều khác biệt với nhà tài trợ. Ví dụ, theo quy định của các nhà tài trợ không phải
phê duyệt dự toán đối với các gói thầu, nhưng thực tế chủ đầu tư vẫn tiến hành phê
duyệt dự toán vì Hiệp định ký kết không quy định vấn đề này nên tuân theo pháp luật
Việt Nam và để có cơ sở xem xét giá hợp lý trong đề xuất của nhà thầu, quản lý tổng
mức đầu tư và tuân thủ trình tự đầu tư xây dựng cơ bản khi các cơ quan kiểm tra, kiểm
toán. Hoặc Luật Đấu thầu quy định loại bỏ hồ sơ dự thầu nếu có giá trị tuyệt đối về sai
số học hoặc sai lệch lớn hơn 10% (trừ gói thầu tư vấn). Tuy nhiên, hướng dẫn của các
nhà tài trợ thường quy định “loại hồ sơ dự thầu có sai lệch đáng kể” nên khó định
lượng trong hướng dẫn áp dụng thực hiện. ADB quy định “Có thể loại bỏ tất cả các hồ
sơ dự thầu, khi giá dự thầu cao hơn nhiều so với mức ngân sách hiện có”, WB quy
định “ Nếu chào thầu được đánh giá là đáp ứng đúng và thấp nhất nhưng vẫn cao hơn
nhiều so với mức dự kiến trước khi đấu thầu của Bên vay thì Bên vay phải điều tra dẫn
đến mức cao quá mức như vậy và xem xét việc mời thầu lại” JICA thì lại quy định “
Hồ sơ dự thầu có giá đánh giá thấp nhất vượt quá giá dự toán một giá trị lớn có thể loại
hồ sơ”. Chính vì mỗi nhà tài trợ có quy định riêng nên chủ đầu tư phải lưu ý tuân thủ
quy định của nhà tài trợ, đồng thời phải lường cả việc hậu kiểm của các cơ quan
QLNN. Về thời gian lựa chọn nhà thầu, Luật Đấu thầu quy định, từ khi mở thầu đến
khi ký kết hợp đồng không quá 210 ngày thì các nhà tài trợ không quy định chi tiết, và
thực tế thời gian thường vượt quá thời hạn này do đánh giá thẩm định chậm, nhà tài trợ
chấp thuận chậm…
Thứ sáu, việc thu xếp vốn đối ứng từ ngân sách luôn rơi vào thế bị động,
không đáp ứng đủ và kịp thời cho các dự án ODA trong xây dựng KCHTKT, gây
ách tắc, chậm tiến độ dự án.
Các quốc gia tiếp nhận vốn ODA thường ưu tiên việc kịp thời bố trí nguồn tài
chính cho các dự án ODA. Khác với tỷ lệ vốn đối ứng thường là 20% của Việt Nam
thì tỷ lệ này ở Trung Quốc rất cao, lên đến 60%, nhưng nước này luôn coi đây là
107
nhiệm vụ quan trọng nhất khi phê duyệt vay vốn cho một dự án và thu xếp nguồn tài
chính thấu đáo. Với mức tiết kiệm cao, Trung Quốc cũng như Malaisia cung cấp đủ
vốn đối ứng để đảm bảo cho tiến độ dự án.
Trong khi đó, ở nước ta tình trạng thiếu và chậm vốn đối ứng cho các dự án
ODA trong xây dựng KCHTKT gần đây trở nên phổ biến và là vấn đề bức xúc. Kế
hoạch vốn đối ứng không được xây dựng sát với thực tế, thiếu do nguồn ngân sách hạn
hẹp. Thực tế việc triển khai các dự án ODA, đặc biệt là các dự án ODA phát triển hạ
tầng quy mô lớn (như giao thông vận tải, hạ tầng đô thị...) cho thấy việc bố trí không
đầy đủ đã ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện các chương trình, dự án, đặc biệt trong
khâu đền bù, giải phóng mặt bằng, tái định cư và thực hiện các công trình xây dựng
thuộc phần đóng góp của phía Việt Nam. Việc kéo dài thời gian thực hiện dự án
thường dẫn đến nhiều hệ lụy: các lợi ích từ dự án không được chuyển giao cho đối
tượng hưởng lợi kịp thời, chi phí giám sát, quản lý và chi phí cam kết gia tăng. Có thể
thấy, chúng ta đã quá chú trọng cho việc thu hút ODA mà chưa thận trọng tính tới khả
năng tài chính của nước mình để đảm bảo tiến độ và tính khả thi, hiệu quả của dự án.
Thứ bảy, theo dõi đánh giá dự án trong một thời gian dài bị buông lỏng, kiểm
tra giám sát còn yếu, tính công khai, minh bạch còn thấp
Kinh nghiệm của hầu hết các nước thành công trong sử dụng ODA đều cho
thấy, họ hết sức coi trọng và sát sao trong khâu theo dõi đánh giá. Tuy nhiên, công tác
này ở nước ta còn rất yếu.
Công tác theo dõi và đánh giá dự án đã được triển khai ở các cơ quan quản lý
nhưng công tác chấp hành báo cáo theo quy định của Chính phủ của các chương trình,
dự án còn thấp. Báo cáo thường nộp chậm, thiếu thông tin. Thông tin thì có độ xác
thực và cập nhật chưa cao. Trong khi đó, vốn ODA cần một kênh thông tin đa chiều để
bên Việt Nam có thể nâng cao khả năng điều phối tránh tình trạng trùng lặp, tăng
cường khả năng theo dõi và quản lý... Quá trình tin học hoá công tác theo dõi đánh giá
dự án hiện triển khai còn chậm cũng như thiếu một chế tài bắt buộc các đơn vị thực
hiện các báo cáo định kỳ.
Các cơ quan chức năng chưa kiểm soát chặt chẽ với các dự án ODA, các vụ
tham nhũng, hối lộ thời gian qua hầu hết xảy ra trong lĩnh vực xây dựng KCHTKT và
do phía nhà tài trợ phát hiện. Điều này ảnh hưởng đến niềm tin của nhà cung cấp ODA
khiến về sau họ ngần ngại hơn rất nhiều bởi chính các nước cấp ODA cũng chịu sự
giám sát của Quốc hội và người dân nước họ. Khi chính phủ cung cấp ODA cho nước
108
khác thì bản thân họ cũng phải kiểm soát tham nhũng ở nước tiếp nhận. Việc thiếu
kiểm tra, giám sát là một nguyên nhân không nhỏ góp phần làm cho những bất cập, sai
phạm trong sử dụng vốn ODA chậm được khắc phục, góp phần đẩy nợ công lên sát
ngưỡng mất an toàn.
Kết quả phát hiện các gian lận, tham nhũng thông qua hoạt động giám sát,
thanh tra, kiểm toán trong quá trình thực hiện các dự án ODA cho đến nay chưa có
một tổng kết, đánh giá chuyên đề về vấn đề này. Mặt khác, vai trò phản biện, giám sát
độc lập trong quy trình thực hiện ODA chưa được quy định, đặc biệt là vai trò giám
sát của tổ chức quần chúng và báo chí. Đối với vốn ODA trong xây dựng KCHTKT,
thì việc tham gia của đối tượng người hưởng lợi và vai trò giám sát của họ là yếu tố
quan trọng quyết định sự thành công của dự án, nhất là trong các chương trình dự án
duy trì và mở rộng các tuyến đường, dự án thuỷ lợi, cấp thoát nước, phát triển mạng
lưới điện… Một nghiên cứu của WB về việc tham gia của người hưởng lợi đối với các
dự án thuỷ lợi cũng đã xác nhận điều đó khi đánh giá 121 dự án nước nông thôn ở 49
nước vào năm 1995 và thấy rằng, 68% các dự án có sự tham gia ở mức độ cao của
người hưởng lợi thì rất thành công, trong khi chỉ có 12% dự án ít có người hưởng lợi
tham gia là có kết quả, 62% số dự án thành công nếu không có sự tham gia tích cực
của người hưởng lợi thì tỷ lệ thành công chỉ còn 10% [45, tr. 98].
Thứ tám, các vấn đề tài chính chưa có được chính sách nhất quán đối với
ODA trong xây dựng KCHTKT
Các chính sách tài chính trong nước (thuế, cơ chế cho vay lại, các định mức chi
phí về chuyên gia và PMU...) nặng về xử lý theo vụ việc mà chưa có chính sách nhất
quán, được công bố trước làm cơ sở cho việc tính toán lựa chọn phương án thực hiện
dự án. Ví dụ, Nghị định số 38/2013/NĐ-CP của Chính phủ có quy định: “Ngân sách
nhà nước cấp phát 100% cho các chương trình, dự án đầu tư cơ sở hạ tầng, phúc lợi xã
hội hoặc các lĩnh vực khác không có khả năng thu hồi vốn trực tiếp thuộc nhiệm vụ chi
của ngân sách nhà nước và Ngân sách nhà nước cho vay lại toàn bộ hoặc một phần
vốn cho Các chương trình, dự án có khả năng thu hồi toàn bộ hoặc một phần vốn; Các
chương trình, dự án không thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách nhà nước” [17]. Tuy
nhiên, hiện nay, tất cả các dự án kể cả dự án không có khả năng thu hồi vốn trực tiếp
như dự án Quản lý rủi ro ngập nước thành phố Hồ Chí Minh..., Bộ Tài chính đều yêu
cầu Thành phố vay lại toàn bộ. (Tất nhiên, thành phố Hồ Chí Minh là 1 trong 13 địa
phương cân đối được thu - chi, còn 50 địa phương nhận cấp phát ngân sách từ trung
109
ương). Mặt khác, nghiên cứu tiền khả thi, đánh giá tác động môi trường... của các dự
án ODA rất khó thực hiện vì các Bộ ngành chưa có văn bản hướng dẫn nguồn kinh phí
để trả cho các hoạt động này được lấy từ đâu, hạch toán như thế nào.
Trong công tác cấp phát và cho các địa phương vay lại vốn ODA, hiện đang có
sự thiếu bình đẳng khi địa phương lớn thì có dự án và được trợ cấp lớn, trong khi địa
phương nhỏ thì chỉ được cấp nguồn vốn nhỏ tập trung vào một số dự án vay lại (nước
nông thôn, điện nông thôn). Một số địa phương như Vĩnh Long, Bạc Liêu thì thậm chí
hoàn toàn không có dự án được trợ cấp vốn ODA. Bên cạnh đó, đối với các dự án vay
lại, Bộ Tài chính cũng chưa xác định được cơ chế tài chính ngay từ đầu của giai đoạn
chuẩn bị đầu tư theo hướng dự án được vay lại và vay lại với tỷ lệ bao nhiêu, lãi suất
vay lại ra sao. Việc này làm cho các địa phương không chủ động được nguồn ngân
sách chuẩn bị đầu tư, cân đối bố trí ngân sách địa phương để hoàn trả vốn vay lại cho
Chính phủ, dự án sau khi đã được phê duyệt lại phải điều chỉnh lại cơ chế tài chính cho
phù hợp với yêu cầu của Bộ Tài chính.
Vốn ODA cho KCHTKT có sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân đã được
thực hiện nhưng còn yếu. Trong thời gian qua có thể kể đến như Dự án xây dựng nhà
máy nhiệt điện Phú Mỹ 2 (WB), Dự án của Công ty Cổ phần Năng lượng Hòa Phát
(Tập đoàn Hòa Phát),... JICA cũng đã tài trợ cho vay đầu tư dự án xây dựng hệ thống
đường sá, nước thải cho các khu công nghiệp ở tỉnh Long An, Công ty Kobelco Eco
Solutions Co. Ltd là chủ đầu tư dự án xây dựng nhà máy lọc nước và xử lý nước thải
tại đây và có nhận vốn tài trợ từ JICA; Dự án xây đường cao tốc Phan Thiết, bằng vốn
vay của WB... Có thể nói, đây là một trong những cách thức có thể tạo sự bình đẳng
trên thị trường nhưng còn còn ít được áp dụng.
3.3.3. Nguyên nhân các hạn chế của quản lý nhà nước đối với vốn ODA trong xây
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế
3.3.3.1. Nguyên nhân khách quan
QLNN đối với ODA trong xây dựng KCHTKT phụ thuộc vào nhiều yếu tố ở
trong nước và ngoài nước, chịu tác động khá sâu sắc của quá trình nước ta chuyển
sang nền kinh tế thị trường và trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ nhất, trình độ phát triển kinh tế, khoa học công nghệ của nước ta còn thấp
Kinh tế tiềm lực yếu, ngân sách nhà nước hạn hẹp nên ách tắc trong việc cung
cấp vốn đối ứng. Mặt khác, chúng ta chưa xây dựng hệ thống chuẩn mực kinh tế, kỹ
thuật làm căn cứ cho các dự án ODA trong xây dựng KCHTKT hoạt động và lành
110
mạnh và hiệu quả. Trình độ khoa học công nghệ còn lạc hậu là một thách thức đối với
hoạt động quản lý điều hành của Nhà nước đối với kinh tế nói chung và quản lý ODA
trong xây dựng KCHTKT nói riêng, nhất là khi muốn xây dựng hệ thống giám sát
đánh giá hiệu quả.
Thứ hai, tình hình tài chính của các nhà tài trợ gặp khó khăn, các chính sách,
quy trình và thủ tục của các nhà tài trợ rất đa dạng và khác nhau, có khi phức tạp, có
những điểm chưa phù hợp với quy trình của Việt Nam.
Việc thu hút và sử dụng ODA trong xây dựng KCHTKT chịu sự ảnh hưởng của
các nước tài trợ, của bối cảnh kinh tế quốc tế, của các hiệp định, cam kết mà phía Việt
Nam ký với nước ngoài. Sau khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008, các nước tài trợ
đều lâm vào tình trạng khó khăn kinh tế nghiêm trọng. EU lâm vào cuộc khủng hoảng
nợ công chưa có lối thoát rõ ràng. Kinh tế Mỹ đã phục hồi sau khủng hoảng nhưng
chưa có sự tăng trưởng rõ rệt. Kinh tế Nhật phục hồi chậm nhưng lại lâm vào những
khó khăn về thiên tai, sự cố nhà máy điện hạt nhân. Do vậy, vốn tài trợ của các nước
này cho các nước đang phát triển có xu hướng giảm.
Mỗi nhà tài trợ lại có những quy định riêng dẫn đến khó khăn cho các cơ quan
chủ quản cũng như các chủ dự án trong quá trình thực hiện các dự án ODA. Đặc biệt là
những dự án lần đầu tiên được triển khai tại Việt Nam đã mất nhiều thời gian để thống
nhất các thủ tục, nội dung liên quan trong quá trình triển khai dự án. Các khoản vay
ODA ưu đãi thường kèm theo những điều kiện như chỉ định thầu, ưu tiên nhà thầu
nước ngoài, yêu cầu mua máy móc, thiết bị, vật liệu từ quốc gia tài trợ vốn ODA.
Bằng các điều kiện này, các quốc gia tài trợ ODA đảm bảo được lợi nhuận cho các tập
đoàn, các công ty của nước họ. Cơ chế thực hiện vốn ODA lâu nay vẫn theo kiểu, phải
đảm bảo cho việc sử dụng thiết bị chính, nguyên vật liệu chính, tư vấn thiết kế, nhà
thầu thậm chí cả tư vấn giám sát của nhà tài trợ. Mọi công trình đều phải tuân thủ điều
này như Cầu Cần Thơ, Mỹ Thuận, cầu Bãi Cháy, nhà ga Tân Sơn Nhất số 2... Nước
tiếp nhận vì đang cần vốn cho phát triển nên vẫn phải chấp nhận cả những điều kiện
không mong muốn.
Chẳng hạn, vốn ODA của Nhật cho vay luôn đi kèm với điều kiện phải sẽ phải
sử dụng là công ty tư vấn Nhật, nhà thầu Nhật, vật liệu nhập khẩu từ Nhật. Việc bắt
buộc này sẽ gây ra trường hợp, giá thành bị đẩy lên cao hơn gấp nhiều lần do chi phí
vận chuyển. Đó chính là nguyên nhân đẩy giá các công trình ODA. Ví dụ khi xây
dựng cầu Cần Thơ, chúng ta phải đấu tranh rất nhiều Nhật mới cho chúng ta sử dụng
111
xi măng tại nhà máy xi măng của công ty Nhật Bản sản xuất tại Nghi Sơn. Dự án xây
dựng như cảng Lạch Huyện - Thành phố Hải Phòng, nhà tài trợ Nhật đã giữ đặc quyền
quy hoạch, thiết kế, thi công... nên rất khó cho Việt Nam có thể giám sát. Nếu so sánh
Cầu Mỹ Thuận trên sông Tiền được đầu tư từ nguồn vốn viện trợ không hoàn lại của
Australia thì thấy có giá chưa tới 80 triệu USD mà cầu Cần Thơ qua sông Hậu có quy
mô khoảng 1,5 lần cầu Mỹ Thuận, được đầu tư từ nguồn JIBIC thì riêng phần cầu
chính đã có giá 250 triệu USD, tức là gấp 3 lần cầu Mỹ Thuận. Những công trình sử
dụng nguồn vốn này ngoài việc phải tuân thủ những điều kiện của vốn JIBIC thì còn
kèm theo các điều kiện khác nữa. Ví như tối thiểu 30% vật tư thiết bị công trình phải
nhập khẩu từ nước cấp vốn, cho dù những vật tư thiết bị đó có thể khai thác, có thể có
sẵn từ nguồn nội địa... Một so sánh khác, cầu Tân Vũ - Lạch Huyện dài gần 5 km, bao
gồm cả cầu dẫn, với tĩnh không 12 m, chỉ đủ cho các tàu sông đi qua, ngoài hai nhịp
đúc hẫng, còn lại đều là những nhịp giản đơn, không có kết cấu dây văng, lại thi công
trên vùng nước nông, bị sa bồi bồi lắng, có chỗ chỉ sâu 3m... sử dụng vốn STEP có giá
khởi đầu đã là 500 triệu USD. Trong khi cầu Bạch Đằng ở cách đó 5 km về phía
thượng lưu, với kết cấu dây văng, tĩnh không thông thuyền đạt 49,5m cho tầu biển lớn
đi qua, là một dự án BOT, thì lại có giá 350 triệu USD [89].
Mặt khác, hầu hết các nhà tài trợ đều có những quy định ngặt nghèo về nhà thầu
xây lắp, đặc biệt là WB và ADB - hai nhà tài trợ lớn ở lĩnh vực giao thông. Các nhà tài
trợ không cho phép các doanh nghiệp thuộc Bộ GTVT tham gia đấu thầu các dự án do
bộ hoặc một đơn vị trực thuộc thực hiện. Các nhà thầu trong nước đành chấp nhận làm
thầu phụ cho nhà thầu nước ngoài. Ví dụ, dự án xây dựng cầu Nhật Tân (Hà Nội) được
thực hiện bằng nguồn vốn vay của JICA, theo quy định của điều kiện vay vốn, nhà
thầu chính trong gói thầu xây lắp phải là nhà thầu Nhật Bản. Hầu hết các dự án khác
cũng có tình trạng tương tự, như dự án Đường vành đai 3 (Hà Nội) do nhà thầu
Sumitomo (Nhật Bản) thực hiện, dự án đường sắt đô thị Cát Linh - Hà Đông phải mua
tàu và chọn nhà thầu chính Trung Quốc. Chính vì vậy, đôi khi những bất cập trong
QLNN không phải do phía Việt Nam mà nguyên nhân đến từ các nhà tài trợ.
Thứ ba, năng lực nhà thầu kém
Năng lực nhà thầu hạn chế là một trong những nguyên nhân làm chậm tiến độ
các dự án ODA trong xây dựng KCHTKT. Do quy định muốn thay nhà thầu phải tổ
chức đấu thầu lại thay vì chọn tiếp nhà thầu đứng thứ hai và việc phân xử trách nhiệm
và nghĩa vụ của nhà thầu phức tạp nên các chủ dự án thường không sử dụng giải pháp
112
thay thế nhà thầu dẫn đến việc công trình không triển khai theo tiến độ được.
Mặt khác, không những năng lực nhà thầu trong nước hạn chế mà năng lực nhà
thầu nước ngoài cũng chưa đáp ứng yêu cầu. Chính vì các dự án sử dụng ODA của
Nhật Bản hay Hàn Quốc đều sử dụng nhà thầu, tư vấn thiết kế, giám sát, thi công,
cung cấp thiết bị từ nước cho vay vốn và năng lực, ý thức trách nhiệm kém từ một số
nhà thầu nên vẫn có hiện tượng các nhà thầu ngoại không đủ năng lực nhưng vẫn
trúng thầu. Nhiều nhà thầu nước ngoài khi thi công các dự án giao thông ở nước ta
cũng tỏ ra yếu kém về năng lực, không tương xứng với những hồ sơ khi bỏ thầu các
dự án giao thông. Một số dự án lớn và của nhiều công trình trọng điểm của nước ta dù
đã gây ra tai tiếng như: đường sắt đô thị Cát Linh – Hà Đông; Dự án đường cao tốc Hạ
Long – Móng Cái; đường cao tốc Đà Nẵng – Quảng Ngãi, song có trường hợp không
thể thay thế vì ràng buộc các điều kiện hiệp định vay vốn. Đối với một số vốn vay
ODA từ Trung Quốc, chúng ta còn phải đối diện với điều kiện ràng buộc cho phép đưa
công nhân Trung Quốc sang thực hiện dự án. Thậm chí, xảy ra một tình huống hy hữu
trong lịch sử thi công các dự án ODA tại Việt Nam, đó là liên danh nhà thầu đến từ
Hàn Quốc là Pumyang – Sungjee tại Dự án xây dựng đường cao tốc thành phố Hồ Chí
Minh - Long Thành - Dầu Giây có tổng mức đầu tư 15.010 tỷ đồng, đã bị phá sản giữa
chừng, đẩy chủ đầu tư phải tổ chức tuyển chọn lại nhà thầu, vừa mất thời gian, vừa đội
thêm chi phí. Đáng lo ngại hơn, theo đại diện tư vấn giám sát Gentisa tại Dự án Xây
dựng đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai, một số nhà thầu thậm chí thi công không đúng
quy trình công nghệ quốc tế, một trong những lỗi rất nặng mà lẽ ra không được phép
xảy ra đối với các nhà thầu quốc tế.
3.3.3.2. Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, hạn chế từ nhận thức của đội ngũ cán bộ quản lý vốn ODA trong xây
dựng KCHTKT
Một bộ phận cán bộ ở các cấp, kể cả cán bộ lãnh đạo chưa hiểu rõ vai trò và bản
chất của ODA. Tính chất ưu đãi của vốn vay và viện trợ không hoàn lại thường dẫn
đến việc không chú ý đến yêu cầu về hiệu quả của việc sử dụng ODA, chưa quan tâm
đầy đủ đến việc xác định các ưu tiên đầu tư; thiếu phát huy vai trò làm chủ trong thực
thi nhiệm vụ.
Vốn ODA chủ yếu là vốn tín dụng, hoàn toàn không phải là viện trợ không
hoàn lại hay “tiền chùa” như vẫn bị cố ý hiểu lầm trong một bộ phận không nhỏ cán bộ
và dân chúng. Sau khi Việt Nam thoát khỏi nhóm nước thu nhập thấp, gia nhập nhóm
113
thấp nhất trong những nước có thu nhập trung bình thì điều kiện ưu đãi giảm đi, điều
kiện vay và trả nợ cũng khắc nghiệt hơn. Song những hệ lụy mang tính lâu dài này của
ODA chưa được làm rõ trong công luận, trong khi ODA còn gắn liền với lợi ích nhóm,
tư duy nhiệm kỳ, bệnh thành tích đã và đang khiến số công trình KCHTKT sử dụng
vốn ODA kém hiệu quả.
Nội dung phương thức và phương pháp tuyên truyền, phổ biến giáo dục về vai
trò của vốn ODA và gánh nặng nợ do nó tạo ra cho các cấp quản lý và cộng đồng dân
cư chưa có hoặc còn nghèo nàn, đơn điệu và chưa phù hợp. Chính điều này làm giảm
hiệu quả của hoạt động giám sát cộng đồng đối với ODA trong xây dựng KCHTKT.
Thứ hai, trình độ, năng lực cán bộ quản lý, cán bộ thực hiện dự án ODA trong
xây dựng KCHTKT còn yếu
Nhìn chung, năng lực quản trị khu vực công của Việt Nam còn hạn chế, QLNN
đối với vốn ODA trong xây dựng KCHTKT chưa kiểm soát được thất thoát lãng phí,
tham nhũng góp phần làm cho một số dự án, mặc dù vay giá rẻ những đã trở thành đắt.
Năng lực cán bộ quản lý yếu, đặc biệt ở cấp địa phương. Phần lớn cán bộ ở địa phương
chưa đủ trình độ để xây dựng một dự án ODA hoàn thiện để trình cấp Trung ương xem
xét, không đủ năng lực tự thẩm định các dự án thuộc thẩm quyền của mình. Công tác
tổ chức quản lý và triển khai dự án còn yếu, chủ yếu làm theo kinh nghiệm. Tâm lý sợ
mất dự án, ngại đấu tranh với nhà tài trợ đã dẫn tới việc khá nhiều dự án không phù
hợp với mong muốn và ưu tiên của địa phương.
Đối với cán bộ của PMU, năng lực của đội ngũ cán bộ tham gia quản lý dự án
còn hạn chế: không đúng ngành nghề thực tế thiếu kinh nghiệm và kỹ năng đấu thầu,
kế toán dự án; yếu trong việc giám sát thi công, đảm bảo tiến độ, kỹ năng nhận thức,
phối hợp làm việc với đối tác nước ngoài và các cơ quan liên quan chưa đạt hiệu quả
cao.... Vấn đề sử dụng ngôn ngữ tiếng Anh và thiếu kinh nghiệm trong đàm phán với
đối tác nước ngoài dẫn tới kết quả là việc hình thành và thiết kế dự án chịu sự chi phối
của nhà tài trợ, thiếu kinh nghiệm quản lý hợp đồng (điều chỉnh giá, công thức tính
trượt giá, thay đổi chi phí kéo dài thời gian thực hiện hợp đồng,…) gây ra nhiều khó
khăn của một số chương trình, dự án, đặc biệt là những dự án ODA trong xây dựng
KCHTKT có quy mô lớn, kỹ thuật công nghệ cao. Ví dụ, PMU không có tính chuyên
nghiệp, không am hiểu chuyên môn, đơn vị tư vấn lập báo cáo tiền khả thi, báo cáo
khả thi không lường hết các vấn đề nên xảy ra trường hợp nhà thầu Trung Quốc bỏ giá
quá thấp để trúng thầu, đến lúc ký với các nhà thầu phụ Việt Nam thì phải đúng giá
114
nhà thầu phụ mới chịu làm, thế nên mới chậm tiến độ dẫn tới đội vốn.
Cuọ c khảo sát của WB đã đưa ra nhận định, ở giai đoạn thiết kế dự án, trong khi
các PMU thuờng phải đóng góp tích cực trong bản thiết kế, thì các PMU cấp tỉnh có sự
tham gia rất hạn chế. Các PMU này không đuợc tu vấn đầy đủ, đối tuợng huởng lợi
không đuợc xác định ở cấp tỉnh, và các biẹ n pháp giảm thiểu rủi ro đã có thể đuợc
củng cố. Vai trò tuo ng đối thụ đọng của các PMU cấp tỉnh trong giai đoạn thiết kế dự
án đuợc coi là mọt trong những yếu tố dẫn đến viẹ c họ thiếu sự kiểm soát về dự án
[51, tr.16].
Những yếu kém đó cũng một phần do chế độ đãi ngộ cho các cán bộ QLNN
cũng như cán bộ PMU còn nhiều hạn chế, tiền lương của các cán bộ PMU chủ yếu từ
nguồn vốn đối ứng nên không thoả đáng với trách nhiệm công việc đòi hỏi; công tác
đào tạo cán bộ quản lý ODA còn chưa được chú trọng đúng mức, nhất là những năm
trước đây. Bên cạnh đó, có tình trạng cán bộ lãnh đạo và chủ chốt của các PMU làm
việc theo chế độ kiêm nhiệm mà không chuyên trách, vì vậy thời gian làm việc hạn
chế, không kịp thời, khả năng chuyên môn, trách nhiệm không cao nên công việc bị
ách tắc, không đạt hiệu quả cao. Việc thay thế nửa chừng cán bộ chủ chốt của dự án,
nhất là người quản lý điều hành là nguyên nhân làm gián đoạn thực thi dự án. Ông
Hoàng Viết Khang, Vụ trưởng Vụ Kinh tế Đối ngoại, Bộ KH&ĐT nhấn mạnh, riêng
với hai nhà tài trợ WB và ADB đã có 500 PMU trên tổng khối lượng vốn tài trợ
khoảng 25 tỷ USD tại 63 tỉnh. Số lượng PMU như vậy là quá nhiều và dẫn đến sự lãng
phí. Mỗi dự án đều có ban chuẩn bị dự án, song khi chuyển sang quá trình thực hiện lại
tiến hành thành lập mới các PMU. Như vậy, những người mới lại được tuyển và ban
giám đốc dự án cũng thay đổi, có dự án trong 5 năm thay đổi năm đời giám đốc, cuối
cùng dự án đó lại phải dừng lại. Trong khi các nước đã thành công trong quản lý ODA
rất quan tâm đến việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý ODA như Malaisia hay
chuyên nghiệp hoá và không hề có sự thay đổi về nhân sự trong suốt quá trình từ khi
bắt đầu đến kết thúc dự án như Trung Quốc là một trong những cách tổ chức quản lý
quan trọng, quyết định sự thành công của những nước này.
115
CHƯƠNG 4
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC VỀ VỐN ODA TRONG XÂY DỰNG KẾT CẤU HẠ TẦNG
KINH TẾ TẠI VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
4.1. BỐI CẢNH QUỐC TẾ, TRONG NƯỚC VÀ TÁC ĐỘNG
4.1.1. Bối cảnh quốc tế
Từ khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới năm 2008, kinh tế thế
giới đối mặt với nhiều khó khăn và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Giai đoạn từ năm 2009 đến
nay, kinh tế thế giới bước vào giai đoạn tăng trưởng chậm và trì trệ; những bất ổn tài
chính-tiền tệ toàn cầu vẫn diễn biến phức tạp: nợ công châu Âu vẫn chưa được dập tắt
hoàn toàn, cạnh tranh tỷ giá vẫn tiếp tục gay gắt, các đòn bẩy tài chính bị cắt giảm,
việc thiết lập hàng loạt qui định xiết chặt việc quản lý các dòng vốn xuyên quốc gia...
Cùng với đó, biến đổi khí hậu toàn cầu vẫn diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh hơn và
dữ dội hơn; sự thiếu hụt năng lượng toàn cầu ngày càng nghiêm trọng và sẽ tăng lên,
vấn đề lương thực cũng trở nên gay gắt...
Từ năm 2010, đa số các nước đều đã tiến hành tái cấu trúc nền kinh tế để đạt
được sự phục hồi bền vững. Tuy nhiên, quá trình tái cấu trúc này diễn ra còn chậm
chạp. Kinh tế Mỹ đã phục hồi và bắt đầu có sự tăng trưởng, nhưng còn chậm. Các
nước EU vẫn luẩn quẩn và chưa thoát hoàn toàn khỏi nợ công châu Âu. Nhật Bản bắt
đầu phục hồi kinh tế sau khủng hoảng, nhưng lại lâm vào những khó khăn đặc biệt về
thiên tai, sự cố nhà máy điện hạt nhân… Do vậy, những khó khăn kinh tế của các
nước, nhất là các nước lớn vẫn còn hiện hữu.
Trước khó khăn tài chính của cộng đồng các nhà tài trợ, OECD đã công bố Báo
cáo về tình hình viện trợ cho các nước đang phát triển trên thế giới trong năm 2011.
Theo đó, trong năm 2011, viện trợ từ các nhà tài trợ chủ chốt cho các nước đang phát
triển đã giảm gần 3%. Đây là mức giảm đầu tiên kể từ năm 1997 và đã phá vỡ một xu
hướng kéo dài trong nhiều năm liền. Con số trên cho thấy các khó khăn tài chính và
ngân sách tại một số nước thuộc DAC ảnh hưởng đến ngân sách dành cho ODA. Tuy
vậy, sau đó, với sự cố gắng của các nhà tài trợ, lượng vốn ODA trên thế giới tăng trở
lại nhưng còn đối diện với nhiều khó khăn và vẫn sẽ tiếp tục được duy trì ổn định cho
đến năm 2018 [7, tr.18].
116
Bảng 4.1: Lượng vốn ODA trung bình năm đầu tư cho các nước đang phát triển
Đơn vị: tỷ USD
Thời kỳ 1970
-1979
1980
-1989
1990
-1999
2000
-2009
2000
-2013
2011 2012 2013
Số vốn ODA 60,214 80,463 82,387 107,719 139,091 137,455 132,975 149,499
Nguồn: www.oecd.org (2015), Development Aid at a Glance-Statistics by
Regions – 1. Developing countries.
Nhìn chung, tình hình thế giới và khu vực trong những năm qua và cả trong một
số năm tới sẽ có nhiều tác động không thuận, quá trình phục hồi của nền kinh tế toàn
cầu yếu hơn so với dự kiến, ảnh hưởng đến thị trường xuất khẩu, đến xuất khẩu lao
động và đến thu hút các nguồn vốn như FDI, ODA... Trước tình hình đó, các nhà tài
trợ có những thay đổi trong việc cung cấp ODA. Các nước thành viên của OECD sẽ áp
dụng chính sách ODA theo hướng gắn các quy định về bền vững nợ của IMF và chính
sách cho vay của WB. Đây là động thái tích cực giúp bảo vệ các nước thu nhập thấp
tránh khỏi tình trạng vay quá mức. Các khoản viện trợ trong thời gian tới sẽ tập trung
vào việc giải quyết các thách thức phát triển toàn cầu, tập trung nhiều hơn vào các
quốc gia kém phát triển, kết hợp hài hòa với các nguồn tài trợ phát triển khác, gắn kết
chặt chẽ giữa giảm nghèo và phát triển bền vững để hỗ trợ thực hiện Chương trình
nghị sự 2030 của UN vì sự phát triển bền vững (SDGs).
Bên cạnh đó, hội nhập quốc tế diễn ra sâu rộng và mạnh mẽ ở các khu vực và
trên phạm vi toàn cầu trong khung khổ các Hiệp định thương mại tự do song phương
và đa phương mang lại những cơ hội phát triển to lớn đi kèm với những thách thức cho
các quốc gia. Trong thời gian tới, nguồn tài trợ phát triển cho KCHTKT sẽ trở nên
phong phú và đa dạng hơn do việc hình thành và đi vào hoạt động các Quỹ, Ngân hàng
khu vực hoặc toàn cầu như Ngân hàng Đầu tư hạ tầng châu Á (AIIB) và Ngân hàng
các nền kinh tế mới nổi (BRICS Bank), Quỹ Mekong - Nhật Bản về phát triển hạ tầng
hiện đại,... Việc này sẽ mang lại nhiều lựa chọn hơn cho các nước đang và chậm phát
triển trong việc tiếp cận các nguồn vốn phù hợp cho đầu tư phát triển KCHTKT và đi
liền với đó trách nhiệm sử dụng vốn của các nước tiếp nhận cũng tăng lên.
4.1.2. Bối cảnh trong nước
Ở trong nước, nhờ thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-
2010 và Kế hoạch 5 năm 2011- 2010, Việt Nam đã đạt cột mốc phát triển của một
117
nước thu nhập trung bình thấp, tạo ra những tiền đề quan trọng để đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.
Tuy đạt được mức phát triển tương ứng với một nước thu nhập trung bình thấp, song
Việt Nam còn thua kém về nhiều mặt so với trình độ phát triển của một số nước thu
nhập trung bình trong khu vực và trên thế giới.
Khi bước vào thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015,
cùng với việc hội nhập sâu và nhanh hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới, bên
cạnh những thuận lợi do tiến trình hội nhập đem lại, kinh tế Việt Nam cũng chịu tác
động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2008 và khủng
hoảng nợ công ở châu Âu năm 2009. Do vậy, tình hình kinh tế đã có những dấu hiệu
bất ổn. Những yếu kém vốn có của nền kinh tế từ nhiều năm chưa được giải quyết
(như sức cạnh tranh thấp, năng lực quản trị yếu kém, cơ sở hạ tầng chưa phát triển,
khoa học công nghệ còn lạc hậu, chất lượng nguồn nhân lực thấp, thị trường tài chính
còn chưa phát triển mạnh, tăng trưởng vẫn dựa vào yếu tố vốn là chủ yếu...) đã bộc lộ
ra một cách rõ ràng, gay gắt đã ảnh hưởng tới ổn định kinh tế vĩ mô.
Tuy vậy, Việt Nam đã đạt được hầu hết các mục tiêu đề ra trong Kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015. Kết quả này đã tạo ra các nền tảng và điều
kiện cần thiết để hoàn thành các mục tiêu đề ra trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội 10 năm 2011 - 2020, đó là tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 6,7 -
7%/năm, GDP bình quân đầu người năm 2020 dự kiến đạt khoảng 3.200 - 3.500 USD.
Muốn vậy, tổng vốn đầu tư toàn xã hội theo giá thực tế dự kiến khoảng 10.567 nghìn
tỷ đồng, tương đương khoảng 480 tỷ USD, trong đó tổng vốn đầu tư phát triển từ
nguồn ngân sách nhà nước dự kiến khoảng 3.570 nghìn tỷ đồng, tương đương gần 180
tỷ USD. Cơ cấu dự kiến vốn trong nước khoảng 75%, vốn ngoài nước khoảng 25%.
Đối với nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi, tổng nhu cầu huy động và sử dụng thời kỳ
2016 - 2020 là rất lớn, khoảng 39,5 tỷ USD (các Bộ, ngành Trung ương khoảng 21 tỷ
USD, các địa phương khoảng 18,5 tỷ USD với tổng số trên 1.203 dự án) [7, tr.17, 21].
Tổng số vốn ODA và vốn vay ưu đãi chưa giải ngân của các chương trình, dự
án đã ký kết chuyển tiếp từ thời kỳ 2011 - 2015 còn khá lớn, khoảng gần 22 tỷ USD,
trong đó phần lớn là những dự án đầu tư của Nhóm 6 Ngân hàng Phát triển với các
khoản vay ODA ưu đãi [7, tr 20]. Do vậy, thời gian tới phải tập trung cao độ để hoàn
thành các chương trình, dự án này theo đúng tiến độ và thời hạn cam kết, đưa các công
118
trình vào khai thác và tạo nguồn vốn gối đầu, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã
hội và các tiền đề bền vững cho giai đoạn sau, mà trước hết là đến 2025.
Quá trình hội nhập sâu rộng của đất nước một mặt đem lại thời cơ thuận lợi
nhưng mặt khác phải đối mặt với sự cạnh tranh rất quyết liệt, gay gắt trong khi nền
kinh tế phát triển chưa thực sự bền vững, sức cạnh tranh của nền kinh tế và năng suất
lao động còn thấp, cơ sở hạ tầng yếu kém; xóa đói giảm nghèo chưa bền vững; và hậu
quả nặng nề của hiện tượng biến đổi khí hậu toàn cầu…
Trong khi đó, các yêu cầu phát triển kinh tế đất nước ngày càng lớn, nhất là yêu
cầu phát triển KCHTKT, trong khi nguồn lực của Việt Nam còn rất hạn chế. Để đẩy
nhanh quá trình phát triển, đạt các mục tiêu đề ra và vượt qua bẫy thu nhập trung bình,
Việt Nam vẫn tiếp tục tranh thủ vốn ODA từ cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, sẽ có
những thay đổi căn bản. Đã đến lúc kết thúc giai đoạn quá độ chuyển đổi từ quan hệ
viện trợ phát triển sang quan hệ đối tác. Các nhà tài trợ, với lộ trình khác nhau, sẽ tiếp
tục có những điều chỉnh chính sách hợp tác phát triển với Việt Nam theo hướng
chuyển dần từ việc cung cấp ODA sang các khoản vay với các điều kiện kém ưu đãi
hơn, tập trung mạnh vào thương mại, hợp tác đầu tư hoặc chấm dứt các chương trình
hỗ trợ phát triển cho Việt Nam.
4.1.3. Tác động của bối cảnh quốc tế và trong nước đến quản lý nhà nước về vốn
ODA nói chung, ODA trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế nói riêng
Trong bối cảnh khó khăn từ các nhà tài trợ và nhất là khi Việt Nam trở thành
nước có thu nhập trung bình thấp, chúng ta không còn nhận được ODA dồi dào như
trước. Chúng ta sẽ bị hạn chế tối đa nguồn ODA lãi suất thấp từ năm 2017 (theo nhận
định của Bộ Tài chính) và phải chuyển sang các khoản vay theo điều kiện thị trường.
Nhiều nhà tài trợ đã rút lui với tư cách nhà tài trợ song phương, mặc dù họ có thể vẫn
cung cấp thông qua các kênh khác nhau hoặc thông qua chương trình hỗ trợ toàn cầu.
Hà Lan đã ngừng hỗ trợ song phương vào năm 2012, Thuỵ Điển kết thúc vào năm
2013, Đan Mạch kết thúc vào năm 2015, DFID (Anh) kết thúc vào năm 2016, Phần
Lan sẽ kết thúc vào năm 2017 – 2018. Đối với các định chế tài chính quốc tế, trước
mắt là WB, sau chu kỳ IDA-17 vào năm 2017, sẽ dừng cung cấp vốn vay ODA với các
điều kiện ưu đãi (IDA) và thay vào đó là vốn vay với các điều kiện kém ưu đãi
hơn (IBRD). Theo chiều hướng đó, ADB có thể cũng sẽ dừng cung cấp vốn vay với
các điều kiện ưu đãi (ADF) để chuyển sang vốn vay với các điều kiện kém ưu đãi
(OCR) trong một hoặc hai năm sau WB. Tình hình đó dẫn tới việc vốn vay sẽ tăng giá
119
đòi hỏi các cơ quan Việt Nam cần phải tính toán, cân nhắc toàn diện khi quyết định sử
dụng nguồn vốn của các ngân hàng phát triển nhằm đạt được hiệu quả đầu tư và bảo
đảm an toàn nợ công.
Tình hình quốc tế và trong nước có ảnh hưởng đáng kể đến quan hệ hợp tác
phát triển giữa Việt Nam và các nhà tài trợ. Việt Nam phải tiếp cận, huy động cả các
nguồn vốn đắt hơn với các điều kiện khắt khe hơn. Điều này thể hiện ở những điều
chỉnh nhất định về chính sách viện trợ của các nhà tài trợ cho Việt Nam như: thay đổi
về chính sách và cơ cấu nguồn vốn viện trợ, phương thức hợp tác phát triển trong thời
gian tới.
- Về chính sách và cơ cấu viện trợ: Theo tập quán viện trợ phát triển quốc tế,
viện trợ với những điều kiện ưu đãi dành cho các nước nghèo, chậm phát triển có mức
thu nhập thấp. Tính chất ưu đãi của ODA thể hiện ở viện trợ không hoàn lại và vốn
vay ưu đãi. Trong quá khứ, là nước thu nhập thấp, Việt Nam đã được hưởng những ưu
đãi của ODA trong thời kỳ 1993-2010. Do vậy, sự thay đổi đầu tiên của chính sách
viện trợ của các nhà tài trợ đối với Việt Nam dễ nhận thấy là quy mô vốn ODA ưu đãi,
bao gồm viện trợ không hoàn lại và vay ưu đãi giảm dần, thể hiện trên thực tế từ năm
2009 đến nay và xu hướng còn tiếp tục giảm trong thời gian tới.
Một số nhà tài trợ điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn ODA cung cấp cho Việt Nam
theo hướng giảm nguồn vốn viện trợ không hoàn lại và các khoản vốn vay ưu đãi, mở
các kênh tín dụng mới có các điều kiện cho vay kém ưu đãi hơn với lãi suất sát với lãi
suất thị trường vốn, thời gian ân hạn và thời gian trả nợ ngắn hơn. ADB và WB là
những nhà tài trợ nhiều cho KCHTKT đi tiên phong trong việc mở các kênh vốn vay
kém ưu đãi. Một số nhà tài trợ cũng cung cấp các nguồn vốn vay kém ưu đãi như vốn
vay phát triển của Cộng hoà liên bang Đức, vốn tài trợ phát triển khác của Nhật Bản,...
Có thể thấy, các ngành sử dụng viện trợ không hoàn lại thường là KCHT xã hội như y
tế, giáo dục, tăng cường năng lực thể chế... Còn KCHTKT thường sử dụng ODA vốn
vay nên việc cắt giảm viện trợ không hoàn lại không ảnh hưởng nhiều tới KCHTKT
mà các điều kiện vốn vay khắt khe hơn mới là vấn đề tác động lớn đến KCHTKT của
nước ta trong thời gian tới.
- Về phương thức hợp tác phát triển: Các đối tác phía nhà tài trợ sẽ hợp tác
trực tiếp với các đối tác Việt Nam (các cơ quan, tổ chức công và tư, các địa phương,
các tổ chức phi chính phủ và các cá nhân…). Các đối tác phát triển có thể cung cấp các
khoản hỗ trợ cụ thể cho các cơ quan và tổ chức Việt Nam thông qua các Quỹ toàn cầu
120
hoặc khu vực, các tổ chức của UN, các tổ chức phi chính phủ của Việt Nam hoặc nước
ngoài hoặc các đối tác phát triển song phương và đa phương khác đang hoạt động tại
nước ta. Chính phủ hai bên sẽ đóng vai trò gián tiếp là tạo môi trường thuận lợi và hỗ
trợ các bên trực tiếp phát triển quan hệ với nhau.
Một số các nhà tài trợ như các tổ chức thuộc UN tập trung hỗ trợ Chính phủ
Việt Nam với tư cách là nhà tư vấn chính sách phát triển thay vì nhà tài trợ; áp dụng
những mô hình hỗ trợ linh hoạt hơn và hợp tác chặt chẽ với các cơ quan Việt Nam vận
động các nguồn lực bổ sung để đáp ứng nhu cầu hỗ trợ đang tăng lên trong bối cảnh
ngân sách của UN hạn hẹp. Nhóm các Ngân hàng phát triển bao gồm ADB, AFD,
JICA, KfW, KEXIM và WB - nguồn cung cấp vốn ODA và vốn vay ưu đãi chủ yếu
của Việt Nam, tập trung đầu tư các công trình KCHTKT và xã hội như phát triển
đường bộ, cảng biển, cảng hàng không; xây dựng các nhà máy điện và hệ thống truyền
tải và phân phối; phát triển hạ tầng đô thị; phát triển nông nghiệp và nông thôn kết hợp
xóa đói, giảm nghèo; xây dựng hệ thống thủy lợi; phát triển chính sách, thể chế để hỗ
trợ cải cách kinh tế và tăng cường năng lực con người,...
Xu thế nguồn vốn ODA giảm dần và vốn vay ưu đãi tăng lên là nét đặc trưng
của sự thay đổi trong chính sách viện trợ. Hiẹ u quả viẹ n trợ sẽ tùy thuọc vào tính đòn
bẩy của nó, đó là khả na ng huy đọng thêm các nguồn lực và các na ng lực khác của
quốc gia để thúc đẩy những thay đổi trong hiệu quả sử dụng ODA. Viẹ n trợ là chất
xúc tác hon là nguồn tài trợ, viẹ n trợ có thể đóng vai trò đáng kể trong viẹ c tạo động
lực cho quá trình phát triển của các nuớc đang phát triển trên thế giới.
Sự thay đổi tiếp theo ở cách tiếp cận và mô hình tài trợ phát triển, với việc tăng
cường áp dụng tiếp cận chương trình, ngành, hỗ trợ ngân sách chung và hỗ trợ ngân
sách có mục tiêu; khuyến khích sự tham gia vào quá trình phát triển của các tổ chức
phi chính phủ; hỗ trợ khu vực tư nhân tham gia đầu tư phát triển các lĩnh vực công,
nhất là đầu tư xây dựng KCHTKT và KCHT xã hội; phân công lao động và bổ trợ lẫn
nhau trên cơ sở lợi thế so sánh giữa các nhà tài trợ.
Những thay đổi trong quan hệ hợp tác phát triển giữa Việt Nam và các nhà tài
trợ trình bày ở trên đặt ra những thách thức trong việc quản lý thu hút và sử dụng
nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi trong thời gian tới. Tuy nhiên, sự gia tăng quy mô
vốn vay kém ưu đãi tùy thuộc vào năng lực hấp thụ nguồn vốn này của các đối tác
Việt Nam. Điều này đòi hỏi các cơ quan thụ hưởng Việt Nam phải tăng cường năng
lực và cải tiến mạnh mẽ tình hình thực hiện dự án.
121
4.2. QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI
VỚI VỐN ODA TRONG KẾT CẤU HẠ TẦNG KINH TẾ CỦA VIỆT NAM
4.2.1. Quan điểm, mục tiêu xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế ở Việt Nam
Nhận thức rõ tầm quan trọng của KCHT nói chung, KCHTKT nói riêng đối với
sự phát triển đất nước, ngay từ đầu những năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
chủ trương đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng. Chủ trương này đã được khẳng định
trong các văn kiện quan trọng của nhiều kỳ Đại hội Đảng.
KCHTKT đã được đề cập từ Văn kiện Đại hội Đẩng Cộng sản Việt Nam lần
thứ VII (1991): “Phát triển kết cấu hạ tầng, sớm khắc phục tình trạng xuống cấp, mở
rộng và hiện đại hoá có trọng điểm mạng lưới giao thông vận tải, chú trọng phát triển
vận tải đường biển, đường sông, đường sắt và hàng không quốc tế, phát triển giao
thông nông thôn và miền núi. Tiếp tục hiện đại hoá mạng bưu chính quốc tế và trong
nước; phủ sóng phát thanh và truyền hình khắp cả nước; phát triển ngành sản xuất
thiết bị bưu điện” .
Chủ trương này tiếp tục được khẳng định tại Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996)
và Đại hội Đảng lần thứ IX (2001) và đã xác định mục tiêu chiến lược phát triển kết
cấu hạ tầng là: “Kết cấu hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội, quốc
phòng, an ninh và có bước đi trước. Hệ thống giao thông bảo đảm lưu thông an toàn,
thông suốt quanh năm và hiện đại hoá một bước. Mạng lưới giao thông nông thôn
được mở rộng và nâng cấp. Hệ thống đê xung yếu được củng cố vững chắc; hệ thống
thuỷ nông phát triển và phần lớn được kiên cố hoá. Hầu hết các xã được sử dụng điện,
điện thoại và các dịch vụ bưu chính- viễn thông cơ bản” và“Phát triển năng lượng đi
trước một bước đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm an toàn năng
lượng quốc gia... Phát triển mạng lưới thông tin hiện đại và đẩy nhanh việc ứng dụng
công nghệ thông tin trong các lĩnh vực của đời sống xã hội...”
Tại Đại hội Đảng lần thứ X (2006), Đảng tiếp tục chủ trương ưu tiên phát triển
kết cấu hạ tầng, xem đây là một khâu đột phá để phát triển đất nước hiện nay và chuẩn
bị cho bước tiếp theo. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X chỉ rõ: “Trên cơ sở bổ sung và
hoàn chỉnh quy hoạch, huy động các nguồn lực trong và ngoài nước để xây dựng đồng
bộ kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội, nhất là sân bay quốc tế, cảng biển, đường cao tốc,
đường ven biển, đường đông tây, mạng lưới cung cấp điện, hạ tầng kỹ thuật và hạ
tầng xã hội ở các đô thị lớn, hệ thống thuỷ lợi, cấp thoát nước. Phát triển công nghiệp
122
năng lượng đi đôi với công nghệ tiết kiệm năng lượng. Tăng nhanh năng lực và hiện
đại hoá bưu chính- viễn thông” [25].
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 đề ra mục tiêu phấn đấu đến
năm 2020 là: "Kết cấu hạ tầng tương đối đồng bộ, với một số công trình hiện đại".
Chiến lược coi đây là một trong ba đột phá chiến lược để đưa nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020: "Xây dựng hệ thống kết cấu hạ
tầng đồng bộ, với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ
tầng đô thị"; nêu rõ những công việc cần làm trong định hướng "Phát triển nhanh kết
cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông". Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng tại Đại hội XI cũng trình bày rõ: "Tập trung xây dựng, tạo bước đột phá về
hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước"...
Ngày 16/1/2012, Nghị quyết số 13-NQ/TW Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XI về Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 cũng đã
đưa ra quan điểm về KCHTKT như sau:
- Quy hoạch phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội phải hiện đại,
đồng bộ trên phạm vi cả nước, từng ngành, từng vùng và từng địa phương, đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; có phân kỳ đầu tư, ưu tiên những dự
án quan trọng tạo sự đột phá và có tác động lan toả lớn. Tăng cường công tác quản lý
trong khai thác sử dụng công trình.
- Huy động mạnh mẽ mọi nguồn lực của xã hội, bảo đảm lợi ích hợp lý để thu
hút các nhà đầu tư, kể cả các nhà đầu tư nước ngoài vào phát triển kết cấu hạ tầng kinh
tế, xã hội; đồng thời tiếp tục dành vốn nhà nước tập trung đầu tư vào các công trình
thiết yếu, quan trọng, khó huy động các nguồn lực xã hội.
- Phát triển kết cấu hạ tầng là sự nghiệp chung, vừa là quyền lợi vừa là nghĩa vụ
của toàn xã hội, mọi người dân đều có trách nhiệm tham gia đóng góp, trước hết là
trong thực hiện chính sách đền bù, giải phóng mặt bằng; bảo đảm lợi ích hài hoà giữa
Nhà nước, người dân và nhà đầu tư.
- Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng phải kết hợp chặt chẽ với bảo đảm quốc
phòng, an ninh; thu hẹp khoảng cách vùng, miền; gắn với tiết kiệm đất canh tác, bảo
vệ môi trường, tăng trưởng xanh và ứng phó với biến đổi khí hậu [18].
Với quan điểm phát triển KCHTKT, Nghị quyết số 13-NQ/TW chỉ ra mục tiêu
123
“Tập trung huy động mọi nguồn lực để đầu tư giải quyết cơ bản những tắc nghẽn, quá
tải, bức xúc và từng bước hình thành hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội tương
đối đồng bộ với một số công trình hiện đại, bảo đảm cho phát triển nhanh và bền
vững, tăng cường hội nhập quốc tế, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu,
xây dựng nông thôn mới, thu hẹp khoảng cách vùng, miền và nâng cao đời sống nhân
dân, bảo đảm quốc phòng, an ninh và giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia, đáp ứng
yêu cầu nước ta cơ bản đạt được quy mô và trình độ của nước công nghiệp theo
hướng hiện đại vào năm 2020”. Trong đó, tập trung nguồn lực cho 4 lĩnh vực trọng
tâm với các mục tiêu cụ thể như sau:
- Về hạ tầng giao thông, bảo đảm kết nối các trung tâm kinh tế lớn với nhau và
với các đầu mối giao thông cửa ngõ bằng hệ thống giao thông đồng bộ, năng lực vận
tải được nâng cao, giao thông được thông suốt, an toàn.
- Về hạ tầng cung cấp điện, bảo đảm cung cấp đủ điện cho sản xuất và sinh
hoạt, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; đi đôi với tiết kiệm,
giảm tiêu hao điện năng.
- Về hạ tầng thuỷ lợi và ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo đảm tưới, tiêu chủ
động cho diện tích lúa 2 vụ, các vùng cây công nghiệp và nguyên liệu, nuôi trồng thuỷ
sản tập trung. Chủ động phòng, tránh bão, lũ, ứng phó với biến đổi khí hậu và nước
biển dâng.
- Về hạ tầng đô thị lớn, từng bước phát triển đồng bộ và hiện đại, giải quyết cơ
bản tình trạng ách tắc giao thông, úng ngập; cung cấp ổn định điện, nước và xử lý chất
thải đạt tiêu chuẩn môi trường [18].
Định hướng xây dựng KCHTKT đã đề cập đến hạ tầng giao thông, hạ tầng
cung cấp điện, hạ tầng thuỷ lợi và ứng phó với biến đổi khí hậu, hạ tầng đô thị, hạ tầng
thông tin... với các công trình dự án cụ thể (Phụ lục 6: Định hướng phát triển KCHT
đồng bộ)
Hiện nay nền kinh tế của Việt Nam vẫn còn nghèo, thu nhập của người dân còn
thấp vì vậy nguồn vốn ODA là rất cần thiết, nhất là đối với xây dựng KCHTKT. Năm
2014, WB khẳng định Việt Nam phải cần tới 150 tỉ USD để phát triển hạ tầng cơ sở
[94]. Trong các giải pháp để thực hiện định hướng trên, có giải pháp thu hút mạnh và
sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA. Đẩy mạnh vận động các đối tác, các nhà tài trợ
tiếp tục cung cấp ODA để phát triển kết cấu hạ tầng, nhất là các công trình lớn.
124
4.2.2. Định hướng thu hút và sử dụng ODA trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế
Trong những năm tới, nhằm mục tiêu nâng cao trình độ phát triển, vượt qua bẫy
thu nhập trung bình, một mặt, Việt Nam chủ trương dựa vào nội lực là chính trên cơ
sở có các chiến lược và chính sách tạo được sự đồng thuận toàn xã hội để có sự tham
gia đóng góp của mọi nguồn lực, nhất là các nguồn lực tư nhân. Mặt khác, tiếp tục
thực hiện chính sách hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện để tranh thủ các nguồn lực
từ bên ngoài, trong đó có vốn ODA. Các định hướng thu hút và sử dụng ODA trong
xây dựng KCHTKT cụ thể như sau:
4.2.2.1. Định hướng sử dụng ODA theo nguồn vốn cho kết cấu hạ tầng kinh tế
Trong việc huy nguồn vốn vay ODA, cần có cách tiếp cận linh hoạt theo
hướng sử dụng tối đa các khoản vay ODA với các điều kiện ưu đãi. Đối với vốn
ODA không hoàn lại, cần ưu tiên sử dụng để hỗ trợ xóa đói giảm nghèo, các lĩnh vực
xã hội như y tế, giáo dục. Đối với vốn vay ODA, cần tập trung nguồn vốn này cho
cân đối ngân sách nhà nước để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi
xã hội và các dự án thuộc lĩnh vực khác không có khả năng thu hồi vốn trực tiếp và là
đối tượng chi của ngân sách nhà nước như các công trình thuộc KCHTKT. Đồng
thời, thực hiện cho vay lại từ ngân sách nhà nước cho các chương trình, dự án đầu tư
phát triển có khả năng thu hồi vốn. Ngoài ra, vốn vay ưu đãi cần tập trung đầu tư cho
các chương trình, dự án trọng điểm quốc gia, có nguồn thu và khả năng trả nợ chắc
chắn như xây dựng các nhà máy điện, các tuyến đường cao tốc thu phí, tàu điện
ngầm, đường sắt trên cao ở các thành phố lớn, hệ thống thông tin liên lạc viễn thông,
các công trình sản xuất có hàm lượng công nghệ và kỹ thuật cao,...
Như vậy, KCHTKT là lĩnh vực được định hướng là nhận các khoản vay ODA
và vốn vay ưu đãi. Vốn vay ưu đãi là hình thức cung cấp vốn vay có điều kiện ưu đãi
hơn so với vay thương mại, nhưng yếu tố không hoàn lại chưa đạt tiêu chuẩn của
ODA vốn vay. Như vậy, vốn vay ưu đãi cũng sẽ gánh đỡ cho vốn ODA trong xây
dựng KCHTKT trong thời gian tới, đặc biệt ở các công trình trọng điểm quốc gia.
4.2.2.2. Định hướng thu hút và sử dụng ODA theo nhà tài trợ
Căn cứ tình hình thu hút và sử dụng ODA trong thời gian qua, định hướng thu
hút và sử dụng ODA và vốn vay ưu đãi trong thời gian tới cần tập trung vào những
nhà tài trợ cung cấp nhiều vốn ODA và vốn vay ưu đãi, đặc biệt Nhóm 6 Ngân hàng
phát triển để phát triển KCHTKT hiện đại, cơ sở hạ tầng tiên tiến, tạo ra những "cú
125
huých" và "tác động lan tỏa" thúc đấy phát triển thương mại, đầu tư, các vùng và khu
vực phát triển trọng điểm. Sáu ngân hàng gồm WB, ADB, Cơ quan Phát triển Pháp
(AFD), Ngân hàng Tái thiết Đức (KfW), JIBIC và Ngân hàng Xuất nhập khẩu Hàn
Quốc (KExim) là các ngân hàng chính hỗ trợ nguồn vốn ODA cho Việt Nam. Trợ
giúp nguồn vốn của sáu ngân hàng chiếm khoảng trên 80% tổng vốn ODA cho Việt
Nam. Các ngân hàng này cũng thường ưu tiên đầu tư cho lĩnh vực KCHTKT.
4.2.2.3. Định hướng về các lĩnh vực ưu tiên sử dụng vốn ODA trong xây dựng kết
cấu hạ tầng kinh tế
Trong thời gian tới, quản lý và sử dụng ODA của Việt Nam cần theo định hướng sau:
- Hỗ trợ thực hiện các mục tiêu phát triển của Chiến lược phát triển kinh tế xã
hội 10 năm 2011-2020 và các Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2016-2020),
trong đó tập trung ưu tiên thực hiện 3 đột phá lớn; hỗ trợ thực hiện Đề án xây dựng hệ
thống kết cấu hạ tầng đồng bộ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Ưu tiên sử dụng nguồn vốn ODA cho các chương trình, dự án đầu tư công
quan trọng khó có khả năng thu hút đầu tư của khu vực tư nhân hoặc sử dụng các
nguồn vốn vay thương mại.
- Sử dụng nguồn vốn ODA như nguồn vốn bổ trợ nhằm khuyến khích khu vực
tư nhân đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng thông qua nhiều mô hình và phương thức
khác nhau trong đó có hợp tác công - tư (PPP).
- Một phần vốn ODA có thể được sử dụng để đầu tư phát triển sản xuất nhằm
thúc đẩy thương mại, góp phần tạo công ăn việc làm và tạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ở các vùng, các địa phương.
- Trong định hướng về các lĩnh vực ưu tiên thu hút và sử dụng ODA, ngoài các
lĩnh vực như hạ tầng xã hội, nguồn nhân lực, môi trường, hỗ trợ sản xuất kinh doanh...
thì KCHTKT là lĩnh vực được ưu tiên hàng đầu trong định hướng thu hút sử dụng
ODA. ODA được định hướng hỗ trợ xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, quy
mô lớn và hiện đại. Cụ thể như sau:
+ Phát triển các tuyến đường cao tốc, ưu tiên phát triển hệ thống đường bộ ở
những vùng có dung lượng hàng hóa lớn, các địa bàn thuộc các cực tăng trưởng, kết
nối với các địa phương, vùng miền, với khu vực và quốc tế, tạo ra tác động lan tỏa
mạnh, thúc đấy tăng trưởng của cả nước.
+ Xây dựng mới, hiện đại hóa và nâng cao năng lực các dịch vụ tổng hợp của
một số cảng biển nước sâu của quốc gia; hình thành các trung tâm kinh tế biển lớn.
126
+ Xây dựng một số sân bay quốc tế.
+ Nâng cấp và xây mới một số tuyến đường sắt quốc gia và đường sắt đô thị, kể
cả metro ở một số thành phố lớn.
+ Nâng cấp, phát triển đồng bộ và hiện đại hóa hệ thống hạ tầng ở các đô thị,
nhất là các thành phố lớn.
+ Phát triển nhanh hệ thống nguồn điện, lưới điện truyền tải và phân phối đi đôi
với sử dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng, bảo đảm đủ năng lượng cho nhu cầu phát
triển của đất nước và đời sống nhân dân; phát triển các nguồn năng lượng tái tạo (điện
gió, điện mặt trời,...); hỗ trợ thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia sử dụng
năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
+ Phát triển đồng bộ và từng bước hiện đại hóa hệ thống thủy lợi, các công
trình phòng chống thiên tai và hiện đại hóa hệ thống thông tin, để đáp ứng yêu cầu
phát triển và giảm nhẹ thiên tai.
Vốn ODA cũng được định hướng sử dụng để hỗ trợ việc hiện thực hóa các định
hướng phát triển các vùng lãnh thổ trong đó tập trung ưu tiên cho các tỉnh nghèo, vùng
sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc. Các dự án, chương trình tập trung vào việc hỗ
trợ cải thiện đời sống và sinh kế của người dân địa phương, hỗ trợ giải quyết các vấn
đề bức xúc trong quá trình đô thị hóa nhanh ở các tỉnh (cấp thoát nước, xử lý rác thải,
phát triển giao thông nội đô, giải quyết nhà ở cho người nghèo...). Song song với phát
triển KCHTKT, Chính phủ cần coi trọng phát triển chính sách và thể chế quản lý
KCHTKT để ngành này phát triển bền vững trong nền kinh tế thị trường nhằm cung
cấp cho xã hội các dịch vụ công có chất lượng với giá cả cạnh tranh.
4.2.3. Quan điểm, định hướng hoàn thiện quản lý nhà nước đối với vốn ODA
trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế
Chủ trương huy động vốn nước ngoài, bao gồm vốn vay ODA, được thể hiện
trong các văn kiện của nhiều kỳ Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam. Bắt đầu từ Đại hội
đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VII đã xác định nhiệm vụ huy động vốn nước
ngoài: tranh thủ mọi khả năng và dùng nhiều hình thức thu hút vốn nước ngoài; tranh
thủ viện trợ và vay dài hạn lãi suất thấp. Các Đại hội Đảng tiếp theo vẫn tiếp tục
phương châm huy động nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư phát triển, trong đó
vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, vốn ngoài nước có ý nghĩa quan trọng. Việc huy
động vốn nước ngoài phải trên nguyên tắc đảm bảo hiệu quả kinh tế và trả được nợ.
Với chủ trương của Đảng và Nhà nước và trong bối cảnh kinh tế trong nước và
127
tình hình quốc tế hiện nay và trong những năm sắp tới, có thể đưa ra các quan điểm
trong công tác QLNN đối với vốn ODA trong xây dựng KCHTKT như sau:
Thứ nhất, tranh thủ vốn ODA cho xây dựng KCHTKT với quan điểm giảm tối
đa các ràng buộc chính trị; phù hợp với chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá quan
hệ kinh tế đối ngoại củaViệt Nam.
Nhà nước ta hoan nghênh các nhà tài trợ cam kết giúp Việt Nam xây dựng các
công trình KCHTKT, nhưng không chấp nhận bất kỳ yêu sách nào làm tổn hại tới độc
lập chủ quyền, an ninh, và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, xâm phạm tới lợi ích của nhân
dân. Nhà nước có những chính sách quan tâm đến lợi ích chính đáng và hợp lý của các
nhà tài trợ và có sách lược đối thoại với từng nhà tài trợ khác nhau nhằm tạo ra sự
quan tâm cao của cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội của Việt Nam.
Thứ hai, sử dụng vốn ODA trong xây dựng KCHTKT cần phối hợp với các
nguồn vốn khác.
Mỗi nguồn vốn đều có những đặc điểm cũng như ưu và khuyết điểm riêng,
không thể thay thế cho nhau. Việc thu hút, quản lý và sử dụng ODA trong xây dựng
KCHTKT phải được xem xét, cân đối và lựa chọn trong tổng thể các nguồn vốn đầu
tư cho KCHTKT nhằm đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất, bảo đảm tính bền vững,
bảo đảm nguyên tắc bình đẳng, công bằng, khả năng hấp thụ vốn, khả năng trả nợ và
an toàn nợ công. Vốn ODA là quan trọng nhưng không thể thay được tính chất quyết
định của nguồn vốn trong nước. Thế mạnh của mỗi nguồn vốn chỉ phát huy được khi
có sự phối hợp với các nguồn vốn khác, nhằm có thể sử dụng chúng một cách có hiệu
quả nhất và tạo nên một sức mạnh tổng hợp thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Chính
vì vậy, cần tạo điều kiện thuận lợi để khu vực tư nhân tiếp cận vốn ODA trong xây
dựng KCHTKT trên cơ sở chia sẻ lợi ích và rủi ro giữa nhà nước và tư nhân.
Thứ ba, sử dụng vốn ODA để phát triển KCHTKT có trọng tâm, trọng điểm.
Phát triển theo trung tâm và lan tỏa dần là vấn đề có tính quy luật trong phát
triển kinh tế theo không gian. Chính vì vậy, tập trung vốn ODA xây dựng một tổ hợp
hạ tầng kinh tế - xã hội ở các vùng trọng điểm trong một thời gian ngắn, tạo ra một
vùng kinh tế phát triển là phương án tối ưu. Tóm lại, không nên đầu tư dàn trải và
phân tán vốn ODA, mỗi nơi một ít, mà nên tập trung chúng vào một vùng trọng điểm,
có sức lan tỏa trong một thời gian, sau đó lại tập trung xây dựng các tổ hợp cơ sở hạ
128
tầng ở những nơi khác.
Thứ tư, cần gắn liền chức năng, quyền hạn, trách nhiệm và lợi ích của các bộ
phận trong QLNN về vốn ODA trong xây dựng KCHTKT với nhau. Có như vậy mới
có thể tạo động lực, đề cao tinh thần trách nhiệm trong các quyết định quản lý của các
cấp, tránh được tình trạng lạm quyền, quan liêu, tham nhũng, khi sự cố xảy ra thì đùn
đẩy trách nhiệm. ODA trong xây dựng KCHTKT chịu sự quản lý thống nhất của
Chính phủ trên cơ sở phân cấp gắn với trách nhiệm, quyền hạn, năng lực quản lý và
tính chủ động của các ngành, các cấp; bảo đảm sự phối hợp quản lý, kiểm tra và giám
sát chặt chẽ của các cơ quan liên quan; bảo đảm tính công khai, minh bạch và trách
nhiệm giải trình trong việc cung cấp và sử dụng.
Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong QLNN về vốn ODA. Vốn ODA
được nhà nước quản lý thống nhất từ Trung ương đến địa phương, đảm bảo việc sử
dụng mang lại hiệu quả tổng thể cho nền kinh tế đất nước. Tính dân chủ thể hiện ở chỗ
nhà nước tiến hành phân cấp cho các ngành, các địa phương trong thu hút và sử dụng
vốn ODA trong xây dựng KCHTKT, dựa trên cơ sở quy định rõ chức năng, quyền hạn,
trách nhiệm của từng cấp. Mặt khác, các thông tin về chương trình dự án cần được
công khai cho các cơ quan, người dân biết và có cơ chế để người dân tham gia vào quá
trình kiểm soát, thực hiện và vận hành dự án.
Thứ năm, cần quán triệt quan điểm tiết kiệm và hiệu quả trong QLNN về vốn
ODA; kiểm tra, quản lý chặt chẽ, chống lãng phí, tiêu cực. Bảo đảm công khai, minh
bạch và đề cao trách nhiệm giải trình về chính sách, trình tự và thủ tục. Hiệu quả phải
được thể hiện ở việc đạt mục tiêu đề ra với một lượng vốn đầu tư ít nhất, đồng thời có
được những công trình KCHTKT chất lượng tốt, hiệu quả cao.
ODA được coi là khoản nợ quan trọng nhất do Chính phủ đứng ra vay. ODA
đầu tư cho KCHTKT là nguồn vốn thuộc ngân sách nhà nước được sử dụng để thực
hiện các mục tiêu xây dựng KCHTKT hiện đại và đồng bộ. Vì vậy, lượng vốn này
phải được phản ánh trong ngân sách Nhà nước và sử dụng theo quy định của pháp luật.
Trong huy động và sử dụng ODA cho xây dựng KCHTKT, cần tuân thủ các quy định
hiện hành của pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế về ODA và vốn vay ưu đãi
mà Chính phủ hoặc Nhà nước Việt Nam đã ký kết.
Khi sử dụng vốn vay của nước ngoài ta phải tính toán tới khả năng trả nợ trong
nước. Các dự án sử dụng vốn vay phải có phương án trả nợ vững chắc, xác định rõ
trách nhiệm trả nợ, không được gây thêm gánh nặng nợ nần không trả được.
129
4.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI
VỚI VỐN ODA TRONG XÂY DỰNG KẾT CẤU HẠ TẦNG KINH TẾ
4.3.1. Nâng cao nhận thức về vốn ODA nói chung, ODA trong xây dựng kết cấu
hạ tầng kinh tế nói riêng
Như đã nhận định ở chương trước, nhận thức không đầy đủ thấu đáo về vốn
ODA của đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ PMU và các tầng lớp nhân dân nói chung là
nguyên nhân chủ quan dẫn tới những yếu kém trong QLNN đối với ODA trong xây
dựng KCHTKT. Với Việt Nam, do lúc đầu, tỷ lệ vốn ODA không hoàn lại chiếm 90%
nên các cơ quan tiếp nhận vốn ODA có sự nhìn nhận về nguồn vốn này chưa rõ ràng,
nên cho rằng, vốn ODA là viện trợ cho không, hoặc vốn vay nhưng không phải trả lãi
hoặc lãi suất rất thấp không đáng kể. Hậu quả là, vốn ODA được sử dụng một cách tuỳ
tiện, nhiều sơ hở dẫn đến hiện tượng tham nhũng, lãng phí, làm cho nguồn vốn ODA
thực hiện được nhưng không tính tới khả năng thu hồi để trả gốc và lãi, gây gánh nặng
cho nền kinh tế đất nước. Còn giờ đây, chỉ có một phần nhỏ ODA là không hoàn lại,
còn chủ yếu là ODA vốn vay. Vì vậy, Việt Nam phải có nhận thức đúng về ODA, vì
sau khi thoát khỏi nhóm nước có thu nhập thấp, ưu đãi giảm đi, các điều kiện vay và
trả nợ sẽ khắc nghiệt hơn, nên nếu lạm dụng ODA thì sẽ để lại nhiều hệ lụy khó lường.
Trước hết, chúng ta cần xác định lại quan niệm về thu hút vốn ODA, không nên
coi đó như một thành tích về quan hệ quốc tế hay thắng lợi trong đàm phán. Xác định
như vậy thì mới có sự tiết chế, thận trọng trong các quan hệ khi định vay thêm ODA.
Chỉ khi có quan điểm đúng đắn về vốn vay ODA thì mới có động cơ và hành động thu
hút, sử dụng và quản lý hiệu quả nguồn vốn này.
Cần phải thống nhất nhìn nhận vốn ODA theo quan điểm: Vốn ODA là một
nguồn tài chính mà Nhà nước phải đi vay nước ngoài. Khoản vay này Nhà nước cần
phải hoàn trả lại cả gốc lẫn lãi cho các nhà tài trợ. Ngoài ra, nền kinh tế còn phải chịu
các khoản chi phí khác như: Phí dịch vụ, ưu đãi đối với các nhà tài trợ, thất thu thuế
đối với các doanh nghiệp trong nước bị mất thị trường,... Vì vậy, chi phí để có được
khoản vốn ODA không thấp như lãi suất cho vay của nó. Hơn nữa, dù vốn ODA có
thời gian ân hạn, vay dài nhưng đến hạn nó cũng sẽtrở th ành khoản vay ngắn hạn. Nếu
vốn ODA không được sử dụng hiệu quả thì đất nước không trả được nợ và khi nợ nần
chồng chất, nền kinh tế sẽ rơi vào khủng hoảng kinh tế như trường hợp của Brazin,
Achentina,...
130
Kinh nghiệm thành công về sử dụng vốn ODA của Singgapore, Hàn Quốc và
Thái Lan cho thấy: Tiền vay được quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý và hiệu quả;
KCHTKT được xây dựng bằng vốn ODA có chất lượng tốt với tầm nhìn dài chứ
không phải xây dựng trong một thời gian ngắn rồi lại phải làm lại. Chính phủ các nước
này chỉ sử dùng vốn ODA vào những công trình thiết yếu để phục vụ xóa đói giảm
nghèo, chú trọng hướng tới khu vực đầu tư tư nhân và xuất khẩu; không vay để đầu tư
cho những dự án nhỏ lẻ tràn lan và dàn trải như của Việt Nam trong thời gian qua,
càng không vay để đầu tư những siêu dự án. Các nước này đều đặt mục tiêu sẽ “tốt
nghiệp vốn ODA” trong một tương lai không xa. Hàn Quốc dừng nhận vốn ODA sau
20 và hoàn toàn “tốt nghiệp” ODA sau 30 năm. Việt Nam phải có ý thức “tốt nghiệp”
vốn ODA thì từ đó mới luôn có ý thức nâng cao hiệu quả sử dụng.
Bài học của Indonesia đã có giai đoạn từng phải trả giá đắt trong nhận thức về
ODA dẫn đến việc để đối tác nước ngoài thông qua các dự án ODA áp đặt điều kiện
tiên quyết nhằm trực tiếp hoặc gián tiếp gây ảnh hưởng đến công việc nội bộ quốc gia
hoặc chấp nhận cả những dự án không khả thi, dẫn đến tăng nợ nước ngoài cũng đáng
để chúng ta xem xét. Hiện nay, Indonesia đã từ chối nhiều dự án, thể hiện rõ tính độc
lập, chủ quyền trong quan hệ quốc tế.
Bản chất ODA vẫn là khoản vay và có nghĩa vụ phải trả nợ, nên cần loại bỏ tư
tưởng “xin” ODA trong một bộ phận cán bộ ở các cấp chưa hiểu rõ vai trò và bản chất
của ODA, dẫn đến ý thức lệch lạc và sử dụng tùy tiện, thiếu trách nhiệm. Do đó, cần
nâng cao nhận thức và năng lực cho đội ngũ tham gia quản lý và sử dụng nguồn vốn
ODA nói chung, ODA trong xây dựng KCHTKT nói riêng. Đồng thời, cần giáo dục,
tuyên truyền, giải thích rõ bản chất của vốn ODA, những kết quả có thể đạt được nếu
sử dụng tốt nguồn vốn này, và ngược lại những hậu quả mà nền kinh tế đất nước sẽ
phải gánh chịu nếu lãng phí vốn. Việc tuyên truyền phổ biến này có thể thông qua các
lớp tập huấn do các Bộ mở ra cho các cán bộ làm việc liên quan đến vốn ODA hoặc
bằng các văn bản hành chính, và rộng hơn là phổ biến trên các phương tiện thông tin
đại chúng để toàn dân tiếp cận và hiểu về nguồn vốn này.
Nhận thức về ODA không chỉ quan trọng đối với đội ngũ cán bộ quản lý và sử
dụng ODA mà còn là của nhiều tầng lớp dân chúng. ODA đầu tư vào công trình
KCHTKT nào thì cũng đều được thanh toán từ nghĩa vụ đóng thuế của người dân. Suy
cho cùng là người dân phải gánh chịu nên việc quản lý sử dụng một cách hợp lý có
hiệu quả là trách nhiệm của các cơ quan QLNN trước nhân dân và cũng là trách nhiệm
131
của người dân trong việc sử dụng đồng tiền của chính mình. Người dân đang được
hưởng lợi từ các công trình KCHTKT xây dựng bằng ODA, nhưng hầu như họ vẫn
cho rằng đó là tiền của chính phủ chứ không phải là tiền của nhân dân nước khác cho
vay và mình là người trả nợ. Thực tế này đã hạn chế các tác động tích cực lâu dài về
mặt xã hội của ODA, người dân thờ ơ với chính nghĩa vụ trả nợ của mình và bên cạnh
đó cũng không nhìn nhận rõ quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa nhân dân các nước cho
và nhận ODA.
Chính vì vậy, công tác tuyên truyền kiến thức và hiểu biết đúng đắn về vốn
ODA cần thực hiện rộng khắp và phổ biến trong các tổ chức chính trị xã hội, các
trường học, qua các phương tiện thông tin đại chúng, và cũng có thể qua các nhóm tự
nguyện,... để lan rộng ý thức xã hội và cộng đồng về ODA, đặc biệt ODA trong xây
dựng KCHTKT. Từ nhận thức đúng đắn, cộng đồng người dân sẽ chính là lực lượng
quan trọng để giám sát các công trình KCHTKT xây dựng bằng nguồn vốn ODA một
cách chặt chẽ và hiệu quả.
Nếu nhận thức đúng về ODA thì sẽ chủ động trong tiếp nhận ODA. Chính phủ
phải là người chủ động trong tiếp cận nhà tài trợ và là trung gian chủ động phối hợp
các nhà tài trợ với nhau nhằm tránh tình trạng phụ thuộc vào nhà tài trợ dẫn đến vốn
ODA bị sử dụng chồng chéo không hiệu quả vì vốn ODA cũng tuân theo qui luật lợi
ích cận biên giảm dần. Các cơ quan chức năng cần chủ động trong thu hút và sử dụng
trên quan điểm đảm bảo lợi ích lâu dài cho đất nước. Kinh nghiệm của Malaisia là chủ
động phối kết hợp với nhà tài trợ, trong khi Việt Nam lại phụ thuộc nhiều vào nhà tài
trợ như thời gian vừa qua. Thực chất vốn ODA là sự ưu đãi của đối tác nước ngoài
hoặc các tổ chức quốc tế dành cho các nước có nền kinh tế kém phát triển hơn, vì thế
nước tiếp nhận viện trợ cần đảm bảo sự chủ động trong tiếp nhận quản lý và sử dụng
ODA để không phải trả giá cho những hạn chế trong nhận thức về tiếp nhận ODA.
4.3.2. Xây dựng quy hoạch, tăng cường vận động, hướng vốn ODA vào đồng bộ
và hiện đại hóa kết cấu hạ tầng kinh tế, coi trọng những công trình thiết yếu
Trong bối cảnh kinh tế thế giới vẫn chưa phục hồi mạnh, tiềm ẩn rủi ro, thu hút
ODA ngày càng khó khăn cho các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Vốn ODA cần
được thu hút và sử dụng một cách có định hướng chiến lược, xây dựng quy hoạch về
thu hút và sử dụng vốn ODA nói chung, trong đó có ODA cho KCHTKT. Quy hoạch
là công cụ để xác định, đảm bảo vốn ODA được thu hút và sử dụng có trọng điểm, có
mục đích rõ ràng. Nó là căn cứ tin cậy thể hiện rõ nhu cầu về vốn ODA cho KCHTKT
132
để các nhà tài trợ căn cứ vào đó xem xét tính hợp lý, tính hiệu quả và khả năng hoàn
trả vốn của Việt Nam và đưa ra quyết định tài trợ. Nó cũng là công cụ để hướng dẫn,
thúc đẩy mọi nỗ lực của các cơ quan QLNN thực hiện mục tiêu về sử dụng vốn ODA.
Thời gian qua, ODA đầu tư cho KCHTKT của Việt Nam còn dàn trải ra nhiều
địa phương và nhiều dự án, chưa thực sự tập trung cho các công trình và địa phương
trọng điểm và thực sự cần thiết, nên hàng loạt công trình bị đình hoãn, giãn hoặc chậm
tiến độ. Vẫn còn nhiều công trình đầu tư không thiết thực, hiệu quả sử dụng không
cao, gây lãng phí tiền vốn. Việc đầu tư không theo quy hoạch, kế hoạch, nếu có thì ở
tầm ngắn hạn, không có tầm chiến lược dài hạn, có công trình xây xong sử dụng không
hết công năng, không phát huy được tác dụng, chỗ cần thiết thì chưa có, chỗ làm xong
thì chưa có người sử dụng, gây phản cảm và bức xúc trong dư luận và xã hội.
Từ thực tế đó, quy hoạch cần có tầm nhìn dài hạn đối với việc sử dụng vốn
ODA với những cân nhắc hiệu quả kinh tế - xã hội cụ thể cho từng lĩnh vực
KCHTKT. Trước hết, phải xây dựng một cách khoa học với sự tham vấn của nhiều
bên về bản quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch tổng thế phát triển KCHT
để làm cơ sở quan trọng cho quy hoạch thu hút và sử dụng ODA cho xây dựng
KCHTKT. Quy hoạch cần được điều chỉnh linh hoạt hơn trong việc thiết lập một lộ
trình ưu tiên theo ngành và lĩnh vực KCHTKT khi lên kế hoạch vận động thu hút, sử
dụng vốn ODA. Các dự án ODA đã cam kết cần được đưa vào cân đối trong kế hoạch
hàng năm và được nhanh chóng hợp thức hoá bằng các Hiệp định vay vốn.
Kinh nghiệm của Malaisia và Thái Lan cho thấy, trong quy hoạch thu hút và sử
dụng ODA, cần đề ra các nguyên tắc lựa chọn dự án ưu tiên sử dụng vốn ODA cho
KCHTKT, tránh đầu tư dàn trải, phân tán không hiệu quả, không đúng thời gian quy
định và kiên quyết từ chối các khoản ODA, nếu xét thấy không hiệu quả hoặc hiệu quả
thấp do bị chi phối bởi các yếu tố ràng buộc. Không những Malaisia, Thái Lan mà cả
Indonesia cũng từng tuyên bố nguyên tắc chỉ vay tiếp dự án khi đã thực hiện xong các
dự án cũ, vay ODA phải bảo đảm an toàn cao, yêu cầu phải có chuyên gia tư vấn là
điều kiện tiên quyết để đảm bảo hiệu quả của các dự án lớn. Một thời, Trung Quốc
cũng đã từng cho phép phần lớn các dự án được nhanh chóng sử dụng vốn ODA mà
không đề cao hiệu quả, do đó, nguồn vốn ODA cho vay đã làm gia tăng gánh nặng nợ
quốc gia, đưa nền kinh tế vào giai đoạn khó khăn. Tuy nhiên, sau đó, để khắc phục,
Trung Quốc đã chuyển đổi chiến lược cải cách, hiện đại hoá nền kinh tế, quản lý ODA
hiệu quả hơn. Theo đó, việc chấp nhận khoản vay chỉ được thực hiện sau khi đã hoàn
133
tất thiết kế kỹ thuật và đánh giá tình hình tài chính, trách nhiệm trả nợ, nguồn tiền và
kế hoạch trả nợ là giải pháp cần học hỏi.
Thực tế cho thấy, các công trình quan trọng thiết yếu có tác động mạnh tới
phát triển kinh tế xã hội. KCHTKT xây dựng đồng bộ và hiện đại còn tạo ra sức mạnh
phát triển lan tỏa mang tính cộng hưởng, có thể tạo nên những cú huých cho nền kinh
tế, đem lại những xung lực mới cho phát triển. Có thể tập trung vào những vùng thuộc
các tuyến phát triển quan trọng của đất nước để có thể tạo ra những cực tăng trưởng có
tác động dẫn truyền, mạnh dạn loại bỏ những dự án ODA kém hiệu quả và không phù
hợp với bối cảnh của Việt Nam hiện nay, chỉ lựa chọn và chấp nhận những dự án
ODA có ý nghĩa thiết thực và hiệu quả kinh tế - xã hội cụ thể, đảm bảo tự chủ, sáng
tạo và tỉnh táo trong việc huy động và sử dụng ODA. Bên cạnh việc chọn các lĩnh vực
ưu tiên, cần lựa chọn địa bàn thực hiện dự án sao cho phù hợp với năng lực của từng
địa phương, chủ trương phân cấp và đảm bảo đầu tư tập trung và có sự gắn kết, tác
động hiệp lực giữa các tiểu ngành, tạo động lực thúc đẩy sự phát triển toàn khu vực và
lan tỏa sang vùng khác.
Bên cạnh đó, ODA cho KCHTKT phải tận dụng được công nghệ tiên tiến của
thế giới, lựa chọn công nghệ thích hợp, đồng thời, cần học tập kinh nghiệm, kỹ năng
của nước ngoài để làm chủ công nghệ hiện đại. Giải pháp này càng có ý nghĩa trong
điều kiện mới khi quy mô huy động thêm nguồn vốn ODA sẽ giảm dần và chuyển dần
sang nguồn vốn có mức ưu đãi vay thấp hơn.
Mặt khác, Việt Nam cần tăng cường và nâng cao chất lượng đối thoại chính
sách ở cấp quốc gia và cấp ngành thuộc lĩnh vực KCHTKT với các nhà tài trợ quốc tế.
Đối thoại chính sách cần đi sâu về nội dung, mở rộng phạm vi tham gia của các bên,
phát huy vai trò chủ động của các cơ quan trong việc xác định chủ đề, chuẩn bị nội
dung, đồng thời kết quả đối thoại chính sách cần được theo dõi và triển khai thực hiện,
xây dựng VPDF trở thành một diễn dàn thật sự hữu ích cho việc đối thoại và chia sẻ
thông tin để củng cố và tăng cường sự tin cậy giữa Chính phủ và các nhà tài trợ.
4.3.3. Hoàn thiện khung pháp lý và cải thiện thủ tục quản lý nhà nước đối với vốn
ODA trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế
Với sự tồn tại nhiều bất hợp lý và chưa hài hoà với các nhà tài trợ, trong thời
gian tới, hệ thống pháp luật liên quan đến vốn ODA trong xây dựng KCHTKT cần
được rà soát, bổ sung, chỉnh sửa bất cập của những văn bản đã ban hành.
Thứ nhất, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến thu
134
hút, sử dụng nguồn vốn ODA theo hướng tinh giản, phù hợp quy trình thủ tục giữa
Việt Nam với các nhà tài trợ, đáp ứng tốt những thay đổi khi Việt Nam đã trở thành
quốc gia đang phát triển có mức thu nhập trung bình. Nếu cần thiết, xem xét tiếp tục
sửa đổi Nghị định 38/NĐ-CP với mục tiêu tăng cường quản lý một cách thống nhất và
tạo ra sự minh bạch.
Thứ hai, các văn bản pháp qui về quản lý và sử dụng vốn phải đồng bộ và thực
hiện nghiêm túc ở các cấp. Vì vậy, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách
theo hướng giảm bớt những bất cập hiện tại, đồng thời đảm bảo phù hợp với tập quán
thương mại quốc tế và hài hoà với thủ tục của các nhà tài trợ.
Cơ chế chính sách quản lý thời gian tới cần tập trung vào ban hành mới hoặc
sửa đổi các định mức kinh tế - kỹ thuật cho phù hợp với tình hình thực tế; hướng dẫn
quy trình, thủ tục thực hiện chương trình, dự án, nhất là trong công tác đền bù và giải
phóng mặt bằng; cơ chế thẩm định giá; định mức chi tiêu; quy chế kiểm tra, kiểm
toán, giám sát, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn và hoàn trả nợ vay nước ngoài. Khung
đền bù giải phóng mặt bằng cần phù hợp với giá thị trường, các chi phí phải đảm bảo
cuộc sống của người dân thuộc diện di rời. Cùng với đó, cần ban hành các quy định,
quy trình cụ thể để các thành phần kinh tế tư nhân có thể tiếp cận và vay ODA, đặc
biệt các dự án quan trọng như giao thông, năng lượng, cấp thoát nước,...
Bộ Tài chính cần khẩn trương hoàn thiện và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt
và ban hành văn bản pháp quy về chính sách, cơ chế tài chính đối với việc sử dụng
nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi phù hợp với quy định hiện hành và tình hình, khả
năng vận động nguồn vốn này trong thời gian tới. Chẳng hạn, nên sửa đổi điều 7, Nghị
định 78/2010/NĐ-CP ngày 14/7/2010 về lãi suất cho các tổ chức tín dụng vay lại từ
nguồn vốn vay nước ngoài (Hiện nay lãi suất cho vay lại được tính bằng rủi ro tỷ giá
(6%), cộng lãi suất vay nước ngoài (đối với nguồn WB là 2,0%) và phí của Bộ Tài
chính (0,2%), sau khi cộng thêm chênh lệch cho các ngân hàng (khoảng 4%) sẽ làm
cho lãi suất đến người vay trở lên quá cao, khiến các dự án rất khó thực hiện, nên cần
điều chỉnh hợp lý. Những quy định, chính sách cần có tính ổn định lâu dài, tiên liệu
được, tránh những tác động không đáng có, gây quan ngại cho các nhà tài trợ về tính
ổn định về chính sách của Việt Nam.
Thứ ba, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy của Việt Nam theo hướng hài
hòa với quy trình và thủ tục của nhà tài trợ. Rà soát, sửa đổi hệ thống các văn bản
pháp quy trong lĩnh vực đầu tư, xây dựng, đấu thầu, đất đai, môi trường theo hướng
135
phù hợp với quy định về quản lý nguồn vốn ODA và hài hòa thủ tục với các nhà tài
trợ. Hoàn thiện khung thể chế trong lĩnh vực đấu thầu trên cơ sở Luật Đấu thầu sửa
đổi, bảo đảm phù hợp với thông lệ quốc tế và hài hòa với quy trình, thủ tục của nhà tài
trợ, giải quyết dứt điểm tình trạng phá giá trong đấu thầu, có quá nhiều cấp tham gia
vào việc trình, duyệt dẫn đến việc không xác định rõ trách nhiệm của từng cơ quan có
liên quan.
Thứ tư, tăng cường các chế tài xử lý vi phạm khi sử dụng ODA trong xây
dựng KCHTKT, đặc biệt các trường hợp tham nhũng lãng phí thất thoát vốn cần có
hình thức xử lý nghiêm minh. Môi trường pháp lý minh bạch và có tính cưỡng chế cao
là một trong những điều kiện thúc đẩy tiến độ thực hiện các chương trình, dự án. Phải
có cơ chế đủ mạnh để nâng cao trách nhiệm của người ra quyết định đầu tư cho ODA
trong xây dựng KCHTKT, nếu gây lãng phí thất thoát có thể bị xử phạt hành chính,
cách chức hoặc miễn nhiệm. Với các dự án ODA trong xây dựng KCHTKT, chủ đầu
tư phải chịu trách nhiệm toàn diện về hiệu quả, chất lượng của dự án, và có trách
nhiệm giám sát thường xuyên đối với các PMU để phát hiện kịp thời các vấn đề phát
sinh và có biện pháp xử lý.
Việc đảm bảo công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong Nghị định
38 mới chỉ mang tính nguyên tắc mà chưa được cụ thể hóa hết vào quy trình ODA, dẫn
đến chưa ngăn chặn tình trạng xin - cho, tiêu cực, tham nhũng. Trước những hạn chế
trong quản lý ODA hiện nay, nên giảm bớt sự chồng chéo hoặc mâu thuẫn trong các
văn bản pháp lý hiện hành có liên quan đến ODA trong xây dựng KCHTKT. Quốc hội,
cơ quan chịu trách nhiệm cao nhất về nợ công và người dân, chủ thể phải đóng thuế và
là người trả nợ cuối cùng, cần phải được tham gia vào quy trình ODA.
Đối với các PMU, cần có quy định pháp lý về việc đảm bảo chất lượng dự án
trong quá trình thực hiện. PMU phải chịu trách nhiệm từ khâu chuẩn bị đến khâu thực
hiện dự án KCHTKT, nghiệm thu và vận hành dự án trước chủ đầu tư và đối tượng thụ
hưởng, quy định rõ tính pháp lý của PMU để đảm bảo tính chuyên nghiệp. Bên cạnh
đó, cần xây dựng quy chế làm việc của PMU chặt chẽ, có chính sách đãi ngộ và kinh
phí hoạt động rõ ràng, tăng cường tính minh bạch và cơ chế thưởng phạt nghiêm minh.
Thứ năm, với việc trở thành nước có thu nhập trung bình và hội nhập ngày càng
sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu, nhiều nhà tài trợ cả song phương lẫn đa phương
nhấn mạnh tiếp cận theo ngành, chương trình, hỗ trợ ngân sách trong chính sách viện
trợ mới dành cho Việt Nam. Do vậy, để tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử
136
dụng ODA Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh bổ sung và sửa đổi hệ thống văn bản pháp
luật để phù hợp với cách tiếp cận và mô hình viện trợ mới nhằm đảm bảo một mặt
bằng chung cho việc áp dụng các phương thức viện trợ. Thiết kế và bổ sung thiết chế
tổ chức và trình tự thủ tục cho việc áp dụng phương thức hỗ trợ chương trình và các
phương thức tài trợ mới khác theo hướng thể chế hóa việc tiếp cận theo chương trình,
bắt đầu từ khâu vận động ODA, và các ngành, vùng, địa phương xây dựng các chương
trình mục tiêu làm cơ sở để thu hút ODA, hạn chế tối đa các dự án đơn lẻ.
4.3.4. Bố trí kịp thời vốn đối ứng cho các dự án ODA trong xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế
Với tình trạng thiếu vốn đối ứng làm ách tắc hàng loạt dự án KCHTKT đang
diễn ra hiện nay, giải pháp cấp thiết là đảm bảo đầy đủ và kịp thời vốn đối ứng cho các
chương trình và dự án ODA trong xây dựng KCHTKT để đạt tỷ lệ giải ngân cao nhất
và nhanh nhất. Trước hết, vấn đề xác định nhu cầu vốn đối ứng cần phải được quan
tâm ngay từ giai đoạn xây dựng dự án và đàm phán với từng nhà tài trợ. Để làm được
điều này, cần xem xét kỹ, tính toán cụ thể, đảm bảo tin cậy trong kế hoạch vốn để sát
với khả năng thực hiện, tránh các chênh lệch lớn.
Chúng ta cần học tập kinh nghiệm của các nước, thực hiện nguyên tắc phải cân
đối được đủ nguồn vốn đối ứng mới ký kết chương trình, dự án với các nhà tài trợ
nước ngoài. Đối với danh mục các dự án khởi công mới, nhất thiết chỉ thực hiện các
dự án thực sự cần thiết, có hiệu quả và xác định được khả năng trả nợ. Các chủ dự án
và các bộ, địa phương chủ quản và PMU cần phải tham gia ngay từ đầu trong quá trình
đàm phán với các nhà tài trợ về kế hoạch thực hiện của dự án, và kế hoạch vốn đối
ứng để bảo đảm quá trình thực hiện sau này được thông suốt, tránh trường hợp tăng
giảm đột ngột về nhu cầu vốn đối ứng. Đảm bảo cung cấp kịp thời, đầy đủ vốn đối ứng
thông qua xây dựng quy trình quản lý vốn đối ứng bài bản, thực hiện nghiêm việc
thẩm định vốn, đảm bảo quy mô dự án phù hợp với khả năng của cơ quan chủ quản.
Quá trình xây dựng và hình thành chương trình, dự án ODA cho KCHTKT cần
rà soát và xác định rõ nhu cầu vốn đối ứng và khả năng cân đối các nguồn ngân sách
nhà nước. Hàng năm, chính phủ cần dành ra một khoản dự phòng để có thể hỗ trợ
ngoài kế hoạch cho các địa phương khó khăn về nguồn vốn đối ứng để đảm bảo các
dự án được ký kết và thực hiện đúng kế hoạch. Tuy vậy, Chính phủ cũng phải có sự
phân loại dự án một cách rõ ràng: Những dự án nào chính phủ cấp nguồn vốn đối ứng,
những dự án nào địa phương buộc phải thực hiện cam kết của mình. Chẳng hạn, các
137
dự án có nguồn thu như cấp nước sạch thì địa phương phải đảm bảo nguồn vốn đối
ứng. Trong quá trình xây dựng kế hoạch thực hiện dự án, kế hoạch di dân giải phóng
mặt bằng cần được xây dựng sát với thực tế, phù hợp với tiến độ xây dựng cơ bản,
tránh tập trung công tác này vào giai đoạn đầu của dự án làm tăng đột biến nhu cầu
vốn đối ứng trong giai đoạn này, ưu tiên cân đối nguồn vốn đối ứng cho các chương
trình, dự án KCHTKT đã ký kết và thực hiện theo đúng tiến độ.
Đổi mới phương thức bổ sung nguồn vốn đối ứng cho các dự án ODA cho
KCHTKT thông qua các hình thức: Tăng cường thu hút các nguồn lực của xã hội để
bổ sung nguồn vốn đối ứng cho các dự án ODA như hình thức xây dựng - kinh doanh
- chuyển giao (BOT), xây dựng - chuyển giao (BT) hay đối tác công tư (PPP), qua đó
giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước; mở rộng áp dụng hình thức cho các ngân
hàng thương mại vay lại và giải ngân các dự án ODA có cấu phần tín dụng, có thể
dưới hình thức là ngân hàng bán buôn (như Dự án tài chính nông thôn) hoặc là ngân
hàng bán lẻ nguồn vốn Dự án (trong dự án Năng lượng tái tạo, Dự án Cho vay Doanh
nghiệp vừa và nhỏ), theo đó các ngân hàng tham gia sẽ tự thu xếp phần vốn đối ứng
cho dự án; huy động vốn đối ứng thông qua việc vay vốn các ngân hàng thương mại
trực tiếp hoặc qua phát hành trái phiếu. Để đáp ứng kịp thời về vốn đối ứng nên cho
phép các Bộ, địa phương chủ quản có nhiều quyền hạn hơn trong việc điều chuyển
vốn đối ứng giữa các dự án thuộc quyền quản lý và thông báo cho các cơ quan tài
chính, kho bạc cấp vốn theo đúng tiến độ.
Vốn đối ứng cần được giao theo đúng địa chỉ của từng chương trình, dự án
ODA cụ thể, không được tùy tiện cho các mục tiêu khác. Để đảm bảo cam kết về vốn
đối ứng cần ưu tiên bố trí đầy đủ và kịp thời vốn đối ứng trong kế hoạch ngân sách
hàng năm cho các chương trình, dự án thuộc diện được sử dụng vốn ngân sách nhà
nước trước khi bố trí cho các nhiệm vụ chi khác.
4.3.5. Nâng cao chất lượng chuẩn bị, thẩm định, phê duyệt dự án ODA cho kết
cấu hạ tầng kinh tế
Quá trình chọn lựa và phê duyệt dự án phải được thực hiện theo một trật tự
thống nhất và hiệu quả từ khâu xác định dự án, nghiên cứu tiền khả thi; chuẩn bị dự
án. Kinh nghiệm của Trung Quốc, Malaisia đều cho thấy, muốn lựa chọn được dự án
tốt phải dùng những chuyên gia tư vấn hàng đầu có đủ kiến thức, kinh nghiệm, chuyên
môn sâu về những chi tiết mang tính kĩ thuật trong việc đánh giá; lựa chọn công nghệ,
thiết bị kỹ thuật, vốn đầu tư, hiệu quả kinh tế, tài chính, tác động môi trường, thị
138
trường,... để thẩm định dự án. Hiện nay xu hướng là nên phân cấp trách nhiệm thẩm
định dự án cho các Bộ, ngành và địa phương, nhưng bên cạnh đó phải nâng cao trình
độ thẩm định cho từng đơn vị thì giải pháp này mới có hiệu quả.
Làm tốt công tác thẩm định để lựa chọn được các dự án có hiệu quả sử dụng
vốn ODA trong xây dựng KCHTKT, đồng thời tăng cường trách nhiệm của cơ quan
thẩm định và cơ quan thực hiện dự án, tránh tình trạng khi dự án đi vào hoạt động kém
hiệu quả phải xin gia hạn trả nợ hoặc chuyển trách nhiệm trả nợ cho Ngân sách Nhà
nước. Để đẩy nhanh thời gian thẩm định, phê duyệt dự án ODA trong xây dựng
KCHTKT, phải nâng cao chất lượng báo cáo nghiên cứu khả thi, đảm bảo đầy đủ,
chính xác các thông số kỹ thuật. Rút ngắn thời gian khởi động dự án và giảm thiểu tình
trạng nhà thầu không đủ điều kiện trong quá trình thực hiện hợp đồng.
Tiếp tục đơn giản hoá thủ tục hành chính, công khai qui trình, thời hạn trách
nhiệm xử lý các thủ tục liên quan đến thực hiện các chương trình, dự án sử dụng
nguồn vốn ODA trong xây dựng KCHTKT. Cần rà soát và loại bỏ ngay những quy
định về thủ tục xét duyệt không cần thiết, các thủ tục rườm rà và tốn phí thời gian, các
vướng mắc về thủ tục với các nhà tài trợ trong các khâu phê duyệt dự án, ký kết hiệp
định, trao đổi công hàm, trình tự và thủ tục rút vốn, đấu thầu và xét duyệt kết quả đấu
thầu,... Các thủ tục về miễn giảm thuế ODA, cấp vốn đối ứng cần được xem xét lại
theo hướng đơn giản hoá các giấy tờ và cấp trung gian xử lý.
Rà soát lại các thủ tục tài chính trong nước, đặc biệt là thủ tục rút vốn theo
hướng giảm phiền hà trong quá trình này. Ban hành chế độ, chính sách đặc thù riêng
về thủ tục và trình tự giải ngân để đặc biệt đối xử với một số dự án gặp nhiều khó
khăn song vẫn phải đảm bảo tính công bằng và minh bạch.
Đối với các dự án ODA cho vay lại, cần quy định rõ vai trò thẩm định của cơ
quan cho vay lại trước khi đề xuất dự án với nhà tài trợ. Việc thẩm định các dự án vay
lại không chỉ dừng ở khâu thẩm định dự án mà phải bao gồm cả việc thẩm định năng
lực quản lý và năng lực tài chính của người vay lại để đảm bảo việc thu hồi vốn cho
vay lại. Đối với dự án được xác định là khó có khả năng hoàn vốn, thì hoặc là không
vay hoặc Nhà nước cấp phát hoặc chuyển chủ đầu tư, không nên để tình trạng biết là
khó có khả năng hoàn vốn mà vẫn làm thủ tục nhận vay lại, sau đó lại xin chuyển sang
cơ chế ngân sách nhà nước cấp phát.
Tiếp tục hài hòa thủ tục với các nhà tài trợ thông qua việc hài hòa về khuôn khổ
thể chế, pháp lý và tổ chức hội nghị liên quan để xác định và tháo gỡ những vấn đề
139
vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện. Tăng cường trao đổi với các nhà tài trợ,
phối hợp cả các phía, đặc biệt về thủ tục nội dung và thời gian phê duyệt thẩm định.
Mặt khác, nâng cao tính tự chủ và trách nhiệm của chủ đầu tư, thực hiện tốt các
khâu của quy trình dự án lựa chọn, lập văn kiện dự án, thẩm định, phê duyệt, tổ chức
thực hiện hợp đồng mua sắm, xây lắp, tư vấn,... khả năng trả nợ, tính bền vững trong
quá trình phát triển và chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả sử dụng vốn.
4.3.6. Xây dựng cơ chế cho địa phương vay lại và tạo điều kiện để khu vực tư
nhân tiếp cận nguồn ODA vốn vay trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế
Đối với việc cho địa phương vay lại, hiện nay, hơn 92% nguồn vốn vay nước
ngoài của Chính phủ cho địa phương theo hình thức cấp phát và địa phương vẫn coi
đây là khoản "cho không". Điều này dẫn tới tình trạng các địa phương đăng ký vốn
nhiều, nhưng đầu tư dàn trải, tràn lan, hiệu quả chưa cao. Trong khi tình trạng nợ công
tăng cao, theo dự báo của Bộ Tài chính, cuối năm 2015 đạt 61,3% GDP và sắp chạm
ngưỡng Quốc hội phê duyệt là 65%; chỉ số trả nợ do Chính phủ vay so với thu Ngân
sách Nhà nước sắp chạm ngưỡng an toàn (25%), thì rất cần thiết quản lý ODA vốn vay
theo hướng tăng cường cho vay lại gắn với việc trách nhiệm trả nợ chuyển dần từ
Trung ương sang địa phương.
Việc cho vay lại đối với chính quyền địa phương phải cân nhắc tính toán trước
khi sử dụng nguồn vốn này. Trước đây, vốn chủ yếu là nhà nước cấp phát, nay khi các
địa phương phải vay, tỷ trọng vay cao thì phải cân nhắc ngay từ khâu phê duyệt đầu tư,
hiệu quả dự án và tính toán khả năng trả nợ. Điều này cũng sẽ thay đổi tư duy sử dụng
nguồn vốn tại các địa phương. Các địa phương phải ý thức rõ ràng và tính toán kỹ
lưỡng là phải vay bao nhiêu và xác định phương án trả nợ.
Hoạt động cấp phát và cho vay cần minh bạch hơn và gắn với khả năng, trách
nhiệm chi trả của địa phương để đảm bảo tính bền vững. Cơ quan chức năng trước khi
cho vay lại vốn nước ngoài phải xác định thật cẩn thận tính cấp thiết của dự án, mức
vốn, nhu cầu và khả năng trả nợ của địa phương để đảm bảo nguồn vốn thật hiệu quả.
Theo đó, cơ quan chức năng cần có cơ sở pháp lý thật rõ ràng về quy trình, thủ tục cho
vay lại. Ngoài ra, việc cải cách sẽ có lộ trình và không chuyển hẳn sang 100% cho vay
lại để tránh “sốc” cho các địa phương. Việc này cần vừa làm vừa đánh giá tác động tới
Trung ương cũng như địa phương để hoàn thiện cơ chế cho địa phương vay lại.
Đối với việc cho tư nhân tiếp cận vốn ODA, kinh nghiệm các nước trong việc
sử dụng vốn ODA, sử dụng các nguồn vốn xây dựng KCHTKT cho thấy, họ thường áp
140
dụng hình thức đối tác công-tư (PPP), huy động nguồn lực và sức mạnh của khu vực
tư nhân để phát triển hạ tầng. Tỷ lệ giải ngân vốn ODA ở các nước thường cao hơn
Việt Nam rất nhiều vì họ áp dụng mô hình hợp tác cùng đầu tư giữa nhà nước và tư
nhân, để các doanh nghiệp tư nhân sử dụng ODA. PPP là một hình thức có thể khai
thác nguồn lực to lớn từ thành phần kinh tế tư nhân.
PPP không chỉ giúp giảm áp lực về vốn cho ngân sách nhà nước, mà còn có thể
nâng cao tính hiệu quả của vốn vay khi cho tư nhân vay lại nguồn vốn này. Đồng thời,
tạo thêm không gian cho các doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh là hoàn toàn phù hợp xu
hướng chính sách đối xử bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp của nước ta. Do
đó, kết hợp hình thức hợp tác PPP được đánh giá là một giải pháp khả thi để sử dụng
hiệu quả hơn nguồn vốn ODA trong xây dựng KCHTKT.
Để khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân vào các dự án ODA cho
KCHTKT, cần có các chính sách và thể chế thích hợp để tạo môi trường cho các mô
hình, phương pháp tiếp cận và sự tham gia rộng rãi của các đối tác, kể cả chế độ giám
sát cộng đồng đủ mạnh, minh bạch và có trách nhiệm giải trình cao để bảo đảm sự tiếp
cận bình đẳng của tất cả các thành phần kinh tế, công cũng như tư. Có như vậy, khu
vực kinh tế tư nhân mới cùng chia sẻ trách nhiệm, lợi ích và rủi ro với nhà nước trong
sử dụng nguồn vốn này. Để đạt được điều đó, cần thể chế hóa sự tiếp cận của khu vực
tư nhân bằng các văn bản quy phạm pháp luật với các hướng dẫn, quy định cụ thể đối
với từng phương thức ODA và đảm bảo an toàn vốn vay và giảm thiểu rủi ro.
Thông tin về các nguồn ODA cần được công khai, minh bạch với các chủ thể có
khả năng tham gia thực hiện. Bộ KH&ĐT nên hình thành tổ chức chuyên trách thu hút
vốn ODA cho tư nhân tiếp cận từ khâu thẩm định, giới thiệu quảng bá, tìm nguồn vốn
và đàm phán. Nhà nước và các tổ chức tài chính cần xác lập khung pháp lý, các điều
kiện tài chính và năng lực chuyên môn đi kèm để bảo lãnh cho các nguồn vốn vay
ODA của các doanh nghiệp.
Cần có những hướng dẫn cụ thể theo tư duy đổi mới, làm cho các thành phần
kinh tế bình đẳng hơn trong tiếp cận các nguồn vốn ODA. Việc bình đẳng giữa các
thành phần kinh tế cần được thực hiện trên thực tế, không nên đưa ra nhiều quy định
cứng nhắc, khó vận dụng, cần có những chính sách khuyến khích và tạo môi trường
thuận lợi cho các doanh nghiệp tư nhân thực hiện dự án bằng vốn ODA trong xây
dựng KCHTKT.
141
4.3.7. Đẩy mạnh công tác theo dõi, kiểm tra, giám sát và đánh giá việc thu hút và
sử dụng ODA cho kết cấu hạ tầng kinh tế
- Về theo dõi vốn ODA trong xây dựng KCHTKT, cần sớm hình thành hệ thống
thông tin để thúc đẩy sự trao đổi thông tin giữa các bộ, ngành trung ương và địa
phương, giữa chính phủ Việt Nam và các nhà tài trợ. Hệ thống thông tin này nhằm đáp
ứng nhu cầu về các kế hoạch, nhu cầu sử dụng vốn, tiến độ thực hiện các chương trình
dự án KCHTKT. Điều này sẽ góp phần khuyến khích những sáng kiến, tăng cường sự
hiểu biết về các quy định, thủ tục, xác định những nhu cầu vay vốn. Mặt khác, hệ
thống này sẽ giúp chia sẻ thông tin với cộng đồng tài trợ vì lợi ích chung của cả hai
bên. Đây là một biện pháp không tốn kém mà lại đạt hiệu quả cao.
Hiện nay, các nhà tài trợ cũng như các quốc gia đối tác đều mong muốn có các
quy chế và hệ thống đơn giản hoá để cùng nhau thực hiện, tiến tới các điểm chung về
mẫu, nội dung và tính thường xuyên cho một báo cáo định kỳ ở mỗi chương trình, dự
án phù hợp yêu cầu của tất cả các nhà tài trợ. Vì vậy, việc hoàn thiện khung thể chế về
quản lý, sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi nếu đảm bảo hài hoà thủ tục giữa các
nhà tài trợ thì sẽ thúc đẩy nhanh quá trình vận động, quản lý và triển khai các chương
trình, dự án ODA. Do đó, cần nhanh chóng hoàn thành cơ sở dữ liệu về ODA để cung
cấp thông tin kịp thời, chính xác, nhất quán và có hệ thống nhằm phục vụ cho quá
trình hoạch định chính sách, báo cáo theo yêu cầu cho các cơ quan và nhà tài trợ.
- Về đánh giá dự án, cần tăng cường khâu đánh giá sau dự án và rút ra kinh
nghiệm cho các dự án sau. Các cơ quan chức năng cũng cần nghiêm túc nhìn nhận lại
vấn đề và tiến hành rà soát toàn bộ quãng thời gian thực hiện các dự án ODA, đánh giá
lại những tiêu chí lựa chọn nhà thầu ngay từ hiệp định vay để điều chỉnh. Cần phải có
tiêu chí khuyến khích các nhà thầu trong nước có năng lực. Nếu họ đủ năng lực và
kinh nghiệm, phải tạo điều kiện để các nhà thầu này tham gia, nếu không là nhà thầu
chính thì cũng phải là nhà thầu trong liên danh, chứ không thể chỉ làm thầu phụ như
hiện nay. Bởi vì, sau nhiều năm tiếp nhận vốn ODA trong xây dựng KCHTKT và triển
khai các dự án lớn, nhiều nhà thầu trong nước đã lớn mạnh cả về năng lực lẫn kinh
nghiệm thi công. Mặt khác, khi lựa chọn nhà thầu quốc tế, phải có điều kiện ràng buộc
chặt chẽ trong hợp đồng về năng lực, kinh nghiệm thi công. Năng lực nhà thầu trong
hồ sơ thầu cần phải thực tế và kiểm định, vì nhiều khi nhà thầu nước ngoài nhưng vẫn
kém năng lực.
- Về giám sát, thanh tra dự án ODA trong xây dựng KCHTKT, cần tăng cường
142
thực hiện nguyên tắc công khai, minh bạch trong quản lý, sử dụng ODA, từ khâu thẩm
định, phê duyệt danh mục đầu tư, tới hoạt động giám sát, thanh tra, kiểm tra và xử lý
sai phạm. Đẩy mạnh hơn nữa công tác thanh tra, kiểm toán, giám sát, chống tiêu cực,
tham nhũng. Ngoài việc quyết định các chỉ tiêu an toàn về nợ, mục tiêu, định hướng
thu hút và sử dụng ODA, cần nâng cao hơn nữa vai trò và trách nhiệm của Quốc hội
trong việc giám sát quản lý ODA, đặc biệt là những dự án ODA được tài trợ bởi các
nhà tài trợ đa phương. Quốc hội và các cơ quan Quốc hội cần tăng cường hoạt động
giám sát về cơ chế chính sách, pháp luật về thu hút, sử dụng nguồn vốn ODA và các
nguồn vốn ưu đãi trong thời gian tới.
Tăng cường vai trò kiểm tra, thanh tra của bộ chủ quản, các bộ có chức năng
quản lý và các cơ quan thanh tra, kiểm toán đối với việc thực hiện dự án và hoạt động
quản lý của chủ đầu tư, các PMU. Bên cạnh đó, phải có sự đổi mới tư duy, có sự chọn
lọc, quy định chặt chẽ về trách nhiệm quy trình, thực hiện trách nhiệm giải trình, công
khai, minh bạch khi sử dụng vốn ODA trong xây dựng KCHTKT.
Đặc biệt, cần khuyến khích sự tham gia giám sát của xã hội, cơ quan báo chí,
truyền thông đối với các dự án KCHTKT sử dụng nguồn vốn ODA. Cùng với đó, cần
xây dựng cơ chế để khuyến khích cộng đồng (dân cư, nhà khoa học, nhà nghiên cứu)
tham gia trong các khâu từ thu hút, vận động đến triển khai thực hiện và giám sát,
đánh giá các dự án. Xây dựng cơ chế minh bạch thông tin tới tất cả các bên như nhà
nước, tổ chức dân sự, người dân để các đối tượng hưởng lợi hiểu rõ về vai trò, quyền
lợi, trách nhiệm của mình khi tham gia vào các dự án ODA.
Cần có quy định rõ các tiêu chí để chấp nhận vốn ODA, thực hiện công khai
minh bạch toàn bộ số vốn, dự án ODA, công bố rõ quy trình phân bổ vốn và dự án
ODA với các tiêu chí rõ ràng, giảm tối đa cơ chế “xin-cho”. Quy định rõ trách nhiệm
cá nhân về từng dự án, đồng thời công bố công khai tên những người chịu trách
nhiệm; quy định có phản biện độc lập về dự án, trong đó phân tích rõ tác động kinh tế-
xã hội của dự án, khả năng thu hồi vốn để trả nợ vốn vay; tổ chức việc giám sát của tổ
chức quần chúng, hiệp hội chuyên ngành trong quá trình thực thi dự án; chủ động và
tỉnh táo khống chế nợ ở ngưỡng an toàn, quyết định các chương trình, dự án mang tính
khả thi cao, có sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan chức năng, của cộng đồng và các
nhà khoa học, trong đó phải tính đến khả năng trả nợ.
Kiểm toán Nhà nước và các cơ quan thanh tra, kiểm tra tài chính cần tăng
cường hoạt động chuyên môn để thẩm định, đánh giá, phát hiện và ngăn chặn kịp thời
143
các hành vi vi phạm pháp luật; kiên quyết xuất toán các khoản chi sai mục đích, không
đúng khối lượng, đơn giá, không đúng tiêu chuẩn định mức, dự toán; tăng cường quản
lý tài sản của các PMU theo Quy chế về quản lý tài sản Nhà nước; thực hiện chế độ
trách nhiệm vật chất, trách nhiệm pháp lý đối với nhà thầu, tư vấn giám sát trong việc
xác nhận khối lượng thanh toán,… Quản lý chặt chẽ tài sản mua sắm phục vụ hoạt
động dự án. Chẳng hạn, về tiêu chuẩn định mức mua sắm ô tô phục vụ cho các dự án,
có thể không dùng vốn vay nước ngoài như hiện nay và sử dụng luân chuyển cho
nhiều dự án cho đến khi từng chiếc xe hết giá trị sử dụng
Đối với công tác quản lý đấu thầu, nội dung hồ sơ mời thầu phải phù hợp với
quy định của điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế đã ký với nhà tài trợ; tuân thủ đầy
đủ quy định về trình, thẩm định và phê duyệt các nội dung trong đấu thầu theo đúng
quy định pháp luật về đấu thầu của Việt Nam. Đồng thời, đưa tiêu chuẩn đánh giá chi
tiết phù hợp với yêu cầu của gói thầu vào hồ sơ mời thầu để tạo sự minh bạch, hiệu
quả trong đấu thầu nhằm lựa chọn được nhà thầu đáp ứng đầy đủ về tư cách hợp lệ,
năng lực, kinh nghiệm và có giải pháp khả thi để thực hiện gói thầu. Thực hiện nghiêm
túc việc xử lý vi phạm hợp đồng đối với các hành vi chậm tiến độ, không bảo đảm chất
lượng vật tư, thiết bị, công trình,... trong các công trình KCHTKT dùng vốn ODA.
Giải phóng mặt bằng và tái định cư là vấn đề nan giải của các dự án ODA trong
xây dựng KCHTKT nên cần thường xuyên kiểm tra, đôn đốc tiến độ; chủ trì, phối hợp
với các chủ dự án, các địa phương liên quan để giải quyết kịp thời các vướng mắc, xác
định cụ thể, chi tiết cho từng trường hợp và có phương án xử lý, tập trung đẩy nhanh
công tác bồi thường. Giải phóng mặt bằng và tái định cư theo phương án cuốn chiếu,
làm đến đâu gọn đến đó, đáp ứng kịp thời tiến độ thi công.
Xây dựng hướng dẫn chung về đền bù, tái định cư để giải quyết nhanh công tác
giải phóng mặt bằng, bổ sung hoàn thiện các quy định của pháp luật về thu hồi đất,
đền bù, giải phóng mặt bằng xây dựng KCHTKT theo hướng nhà nước quyết định giá
đền bù phù hợp, có phân biệt giữa công trình phúc lợi công cộng với công trình kinh
doanh. Có kế hoạch tái định cư, đảm bảo quyền lợi của người bị thu hồi đất, đồng thời
vận động sự tự nguyện chấp hành và tham gia đóng góp tích cực của người dân. Kiên
quyết xử lý nghiêm đối với các hành vi cố tình không chấp hành quy định của pháp
luật về giải phóng mặt bằng. Tăng cường công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục
để các hộ dân trong diện giải phóng mặt bằng hiểu, đồng thuận và chấp hành chủ
trương thu hồi đất. Mặt khác, thực hiện công tác giải phóng mặt bằng công khai, minh
144
bạch theo đúng luật định, đảm bảo công bằng, chính xác.
4.3.8. Hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ
quản lý và thực hiện dự án ODA, đặc biệt ODA cho kết cấu hạ tầng kinh tế
4.3.8.1. Hoàn thiện cơ cấu bộ máy quản lý nhà nước về vốn ODA trong xây dựng
kết cấu hạ tầng kinh tế
Đối với bộ máy quản lý, cần phân định quyền hạn và trách nhiệm giữa các cơ
quan tham gia vào quá trình quản lý vốn đi đôi với việc nâng cao trình độ, năng lực
của cơ quan có liên quan. Phân định rõ chức năng quản lý nhà nước của Bộ, ngành chủ
quản trong lĩnh vực KCHTKT và chức năng tổ chức thực hiện dự án, nhất là trong các
khâu thiết kế kỹ thuật, lập tổng dự toán, lập hồ sơ mời thầu, tổ chức đấu thầu và phê
duyệt kết quả đấu thầu, theo dõi và giám sát thực hiện.
Xây dựng một cơ chế phối hợp thực hiện giữa các cơ quan trung ương và các
địa phương với các nhà tài trợ trong việc xây dựng dự án, cũng như cơ chế vận động
thu hút ODA, cơ chế điều phối, theo dõi và quy trình thực hiện giám sát. Đây chính là
những cơ sở quan trọng tạo nên thành công của mỗi dự án, qua đó tạo niềm tin cho các
nhà tài trợ và nâng cao khả năng thu hút vốn ODA từ các nước và các tổ chức quốc tế.
Phân cấp rộng hơn cho cấp dưới nhưng đồng thời phải gắn với trách nhiệm của
người được phân cấp. Gắn trách nhiệm của chủ đầu tư và người đứng đầu cơ quan
quản lý chủ đầu tư trong việc thực hiện dự án và khi xảy ra các sai phạm bằng các quy
định và kỷ luật hành chính, đồng thời ban hành các chế tài đủ mạnh trong lĩnh vực
này. Cần hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng khép kín các khâu trong quy trình thực
hiện đầu tư ở một Bộ, ngành hoặc một địa phương, vì tình trạng này dễ dẫn đến phát
sinh tiêu cực.
Để thu hút và giải ngân sử dụng nguồn vốn ODA đúng tiến đọ và hiẹ u quả,
nên áp dụng mô hình quản lý dự án ODA phù hợp, có tính chuyên nghiẹ p cao. Vai trò
của các PMU ODA tại các cấp, đạ c biẹ t cấp địa phuong, là hết sức quan trọng. Hiẹ n
nay, phần lớn các dự án ODA đuợc tổ chức quản lý theo hình thức mỗi dự án lại thành
lạ p mọt PMU, đa phần cán bọ PMU là kiêm nhiẹ m nên làm viẹ c không toàn tâm toàn
ý. Thành lạ p PMU chuẩn và phù hợp sẽ giúp cho quá trình giải ngân các dự án ODA
nhanh hon. Các PMU chuyên nghiẹ p thuờng biết khai thác và tạ n dụng đuợc những
kiến thức đã học hỏi và những kinh nghiệm đã tích lũy trong nhiều na m. Với các PMU
chuyên nghiệp, các dự án sẽ được tổ chức hiệu quả hơn, giảm được chi phí hoạt động,
tăng cường được năng lực và kỹ năng quản lý dự án.
145
4.3.8.2. Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ về thu hút và sử dụng vốn ODA nói
chung và ODA trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế nói riêng
Năng lực và trình độ của lực lượng cán bộ quản lý và thực hiện các dự án ODA
là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định mức độ hiệu quả vốn ODA
trong xây dựng KCHTKT. Mặc dù đã có nhiều tiến bộ nhưng năng lực và trình độ cán
bộ quản lý thực hiện dự án ODA hiện nay vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Vì lẽ đó,
tăng cường năng lực quản lý và sử dụng ODA cho các cán bộ thuộc các Bộ, ban,
ngành theo hướng chuyên nghiệp và chuyên sâu là hết sức cần thiết.
Hiện nay, việc xây dựng danh mục thu hút và sử dụng ODA cũng như quản lý
thực hiện dự án ODA đã được phân cấp tới các địa phương. Hơn nữa, thời gian tới
đây, thay vì được cấp phát, các địa phương sẽ phải vay lại vốn ODA từ chính phủ và
tự lo trả nợ, nên cấp địa phương phải chủ động trong phần trách nhiệm của mình, đặc
biệt là cải thiện năng lực quản lý. Chính vì vậy, các cấp này cần tăng cường công tác
đào tạo và bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ hiện còn yếu về năng lực và chưa đủ kinh
nghiệm. Cần phải có một chương trình huấn luyện rộng rãi để tạo ra những thay đổi về
nhận thức, thái độ và kỹ năng ở các cấp, nên đưa ra kế hoạch phát triển, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực phục vụ cho công tác quản lý và thực hiện các dự án sử dụng
vốn ODA. Căn cứ trên cơ sở này, Bộ KH&ĐT, Bộ Tài chính, các Bộ, ban ngành, địa
phương, các PMU phân tích nhu cầu về đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, từ đó đưa ra kế
hoạch thực hiện cụ thể.
Đối với các cơ quan quản lý cấp Trung Ương (Bộ KH&ĐT, Bộ Tài chính,...) và
các cơ quan quản lý cấp địa phương (Vụ Kinh tế Đối ngoại, Ban Kinh tế Đối ngoại của
các Sở KH&ĐT,...) cần có kế hoạch lựa chọn những cán bộ có năng lực và triển vọng
đưa đi đào tạo ở cấp đại học và sau đại học về quản lý dự án và các lĩnh vực có liên
quan. Mặt khác, cũng tích cực tổ chức các khoá học do Bộ KH&ĐT kết hợp với nhà
tài trợ, các cuộc hội thảo trao đổi kinh nghiệm quản lý và điều hành dự án ODA.
Mặt khác, cần tăng cường năng lực của các PMU. Cụ thể, các Bộ, ngành, địa
phương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước cần tiến hành đánh giá năng lực của
các Chủ dự án, PMU để chấn chỉnh ngay việc phân cấp trong đấu thầu bảo đảm theo
đúng quy định. Chủ dự án khi thành lập PMU phải tính đến việc sử dụng các PMU
hiện có, có đủ năng lực hoặc PMU chuyên nghiệp để thực hiện tốt nhiệm vụ hỗ trợ
thực hiện và quản lý dự án, phải xây dựng tiêu chí cho từng vị trí trong PMU nhằm
hình thành các PMU chuyên nghiệp, đủ trình độ và kỹ năng về quản lý dự án; nghiên
146
cứu và thực hiện việc phân cấp trách nhiệm cho các PMU nhằm rút ngắn thời gian
thực hiện các quy trình thủ tục.
Đào tạo và bồi dưỡng lực lượng cán bộ quản lý, điều phối và sử dụng vốn
ODA là một biện pháp quan trọng trong QLNN về ODA cho KCHTKT. Công việc
quản lý dự án ODA đòi hỏi các cán bộ dự án phía tiếp nhận phải rất chủ động và linh
hoạt. Vì lẽ đó, cán bộ làm việc trong bộ máy nhà nước, cán bộ của PMU có liên quan
đến vốn ODA cần được bổ túc và nâng cao những kiến thức cơ bản về ngoại giao,
pháp luật quốc tế, tin học văn phòng, ngoại ngữ; các kiến thức về kinh tế thị trường,
những phương pháp phân tích chính sách kinh tế, đàm phán ký kết hợp đồng kinh tế,
quản lý tài chính và kế toán dự án, theo dõi, đánh giá quá trình thực hiện dự án và
cách thức sử dụng công nghệ thông tin trong tổ chức thực hiện dự án,... Đào tạo
thường xuyên về chính sách, quy trình, thủ tục và nghiệp vụ quản lý và sử dụng ODA.
Rà soát đội ngũ cán bộ PMU để tăng cường bồi dưỡng năng lực chuyên môn về đấu
thầu và quản lý dự án, bảo đảm tuân thủ yêu cầu chuyên môn của Chủ dự án, bên mời
thầu, tổ chuyên gia đấu thầu theo quy định, đồng thời nâng cao ý thức đạo đức nghề
nghiệp, trách nhiệm cá nhân.
Để có thể thu hút và giữ được đội ngũ cán bộ có năng lực chuyên môn và kinh
nghiệm, có trình độ tiếng Anh,… để làm việc với các nhà tài trợ, nhà thầu và tư vấn
quốc tế cần phải có chế độ đãi ngộ thỏa đáng. Do đó, đề nghị Bộ Xây dựng, Bộ Tài
chính phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng và ban hành định mức chi phí
quản lý dự án và mức lương cho các cán bộ thực hiện quản lý dự án ODA. Cải cách
chính sách tiền lương, chế độ bảo hiểm xã hội, góp phần ổn định cuộc sống của cán bộ,
công chức nói chung và cán bộ, công chức QLNN về ODA nói riêng. Tiền lương được
cải thiện sẽ giảm được nhiều tiêu cực, quan liêu trong quản lý ODA. Chế độ lương và
phụ cấp cho đội ngũ cán bộ QLNN cũng như nhân sự của PMU cần được tính toán cho
hợp lý hơn, tương xứng với năng lực và trách nhiệm của họ.
4.4. ĐIỀU KIẸN ĐỂ TRIỂN KHAI GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI
VỚI VỐN ODA TRONG XÂY DỰNG KẾT CẤU HẠ TẦNG KINH TẾ
Để thực hiẹ n các giải pháp hoàn thiẹ n QLNN đối với vốn ODA trong xây dựng
KCHTKT như đã đề xuất ở trên, cần có nhiều điều kiẹ n nhất định. Cụ thể như sau:
147
4.4.1. Đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô
ODA được coi là khoản nợ quan trọng nhất của Chính phủ đứng ra vay. Để các
nhà tài trợ tin tưởng cho vay và đảm bảo khả năng trả nợ thì một yếu tố quan trọng là
bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô. Ổn định kinh tế vĩ mô, tạo lạ p môi truờng đầu tu thông
thoáng, ta ng sức hấp dẫn đầu tu, củng cố niềm tin cho nhà đầu tu sẽ thu hút đuợc vốn
ODA cho KCHTKT. Chính vì vậy, điều kiện để thực hiện giải pháp QLNN về vốn
ODA trong xây dựng KCHTKT là tạo lập và duy trì một môi trường vĩ mô lành mạnh
và ổn định để làm cơ sở huy động và sử dụng vốn ODA có hiệu quả.
Nhiệm vụ này bao gồm hàng loạt các vấn đề cần giải quyết, cần tăng cường
quản lý ngân sách nhà nước, tập trung chống thất thu, nợ đọng thuế, chuyển giá; triệt
để tiết kiệm chi ngân sách, kiểm soát chặt chẽ, đẩy mạnh xuất khẩu, nâng cao hiệu quả
hoạt động xúc tiến thương mại; tận dụng tối đa các điều kiện thuận lợi do các cam kết
quốc tế, hiệp định thương mại tự do mang lại, gắn với việc thay đổi mô hình kinh tế
dựa trên chất lượng, năng suất, hiệu quả và năng lực cạnh tranh. Đặc biệt là cải cách cơ
cấu tài chính - tiền tệ, tạo dựng một khung luật pháp phù hợp, duy trì ổn định các chỉ
số kinh tế vĩ mô, cải thiện môi trường kinh doanh nhằm tạo tăng trưởng cho nền kinh
tế. Chỉ khi đó, sản xuất kinh doanh tốt, xuất khẩu tăng mới có nguồn thu tốt và tăng
khả năng trả nợ. Bên cạnh đó, vốn ODA có thể chiếm tới khoảng 80% tổng vốn đầu tư,
song nếu không có khoảng 20% vốn đối ứng của phía Việt Nam thì dự án cũng không
thể thực hiện được. Nếu tình trạng bất ổn vĩ mô kéo dài thì sản xuất đình trệ, nguồn thu
ngân sách khó khăn, không có nguồn để bố trí đầy đủ vốn đối ứng và việc giải ngân
vốn ODA dù đã cam kết cũng khó thực hiện được.
Mặt khác, tạo ra môi tru ờng cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế
mới tạo điều kiẹ n để phát triển kinh tế, góp phần phát triển bền vững các ngành, các
doanh nghiẹ p, nhất là các doanh nghiệp tư nhân, để họ có đủ năng lực tiếp cận nguồn
vốn ODA, từ đó làm ta ng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Giữ vững ổn định kinh
tế vĩ mô, làm lành mạnh hệ thống tài chính ngân hàng sẽ là điều kiện quan trọng để
Việt Nam có thể huy động các nguồn vốn đa dạng, trong đó có vốn ODA cho phát
triển KCHTKT.
4.4.2. Phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị và của toàn dân trong phòng,
chống tham nhũng, lãng phí
Các giải pháp quản lý ODA trong xây dựng KCHTKT cần có quyết tâm cao
trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí từ phía các cơ quan chức năng của Nhà
148
nước. Chính phủ cần tăng cường chỉ đạo xây dựng thể chế, hoàn thiện cơ chế, chính
sách tạo ra hành lang pháp lý cho nhiệm vụ này. Các giải pháp đấu tranh phòng ngừa
được tập trung vào những vấn đề như: xây dựng định mức tiêu chuẩn; xây dựng quy
tắc ứng xử; điều chuyển vị trí công tác; xác định trách nhiệm người đứng đầu; kê khai
tài sản và minh bạch thu nhập; cải cách thủ tục hành chính,…
Hoạt động giám sát của các tổ chức đoàn thể và cộng đồng nhân dân; các cơ
quan thông tấn, báo chí cần được đẩy mạnh để kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm minh
các vụ tham nhũng, lãng phí và những tiêu cực khác; ý thức của nhân dân về phòng
chống tham nhũng, lãng phí cần được đề cao; các cơ quan thông tin đại chúng phát
huy tốt vai trò và trách nhiệm, góp phần quan trọng tạo ra sức mạnh công luận. Sự cam
kết mạnh mẽ, chỉ đạo sát sao và có sự tham gia của các đối tượng thụ hưởng là điều
kiện quan trọng để đảm bảo việc thực hiện tốt các dự án đầu tư công.
Các cơ quan chuyên trách về phòng, chống tham nhũng, lãng phí được kiện toàn,
từng bước nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy quản lý. Hoàn thiện cơ chế quản
lý, giám sát nhằm khắc phục những sơ hở, thiếu sót trong công tác quản lý; trong đó
phải công khai, minh bạch về cơ chế, chính sách, các dự án đầu tư, xây dựng cơ bản,
mua sắm từ ngân sách Nhà nước, huy động đóng góp của nhân dân. Nghiên cứu sửa
đổi, bổ sung hoàn thiện quy định kiểm soát thu nhập, minh bạch tài sản, xử lý tài sản
tham nhũng, đưa ra các giải pháp kiên quyết, mạnh mẽ và cứng rắn hơn. Đồng thời,
cần hoàn thiện quy trình xác định trách nhiệm của người đứng đầu khi để cơ quan, đơn
vị xảy ra tham nhũng, lãng phí. Có cơ chế khuyến khích và bảo vệ những người đấu
tranh chống tham nhũng, lãng phí; kỷ luật nghiêm những người bao che, ngăn cản việc
chống tham nhũng, lãng phí.
Trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, việc phát huy sức mạnh
của toàn hệ thống chính trị và của nhân dân có ý nghĩa to lớn, quyết định đến sự thành
bại cuộc đấu tranh chống thất thoát, tiêu cực trong công tác quản lý ODA cho các dự
án vốn lớn như KCHTKT. Các nhân sự được lựa chọn vào tổ chức chống tham nhũng
của Nhà nước phải dựa trên tiêu chí nghiêm ngặt về cả đức và tài.
4.4.3. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính và ứng dụng công nghệ thông tin
trong hoạt động của các cơ quan nhà nước
Thứ nhất, tập trung cải cách thủ tục hành chính, xây dựng bộ máy nhà nước tinh
gọn, hiệu lực hiệu quả thì mới tạo điều kiện cho các giải pháp cải cách bộ máy QLNN,
đơn giản hoá thủ tục trong thẩm định phê duyệt các dự án KCHTKT sử dụng ODA.
149
Về cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính nhà nước cần được điều chỉnh, sắp xếp
tinh gọn, hợp lý, xác định rõ phạm vi, nội dung, chức năng quản lý nhà nước, điều
chỉnh giữa các cấp hành chính cho phù hợp với tình hình thực tiễn, trên nguyên tắc
mỗi việc chỉ do một cơ quan phụ trách, khắc phục sự trùng lắp, chồng chéo về chức
năng, nhiệm vụ. Thực hiện việc phân cấp trong bộ máy QLNN khoa học và hiệu quả.
Tiếp tục thực hiện đề án cải cách công vụ công chức, tăng cường hiệu lực hiệu
quả thực thi chính sách, pháp luật. Đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức vì nhân tố con người luôn là nhân tố quyết định thắng lợi mọi công việc. Thực
hiện chọn cán bộ theo phương châm cạnh tranh nhân tài để có đội ngũ công chức có
năng lực thực sự. Đối với từng cơ quan, đơn vị phải có trách nhiệm giáo dục cán bộ,
công chức tinh thần trách nhiệm, kỷ luật, văn hóa hành chính trong thi hành công vụ.
Kiên quyết đưa ra khỏi bộ máy nhà nước những cán bộ, công chức thoái hóa, biến
chất, nhũng nhiễu, thiếu trách nhiệm trong thi hành công vụ. Đồng thời, xây dựng một
cơ chế tiền lương và chính sách đãi ngộ thỏa đáng để đội ngũ công chức yên tâm làm
việc lâu dài và cống hiến với khả năng cao nhất cho cơ quan, đơn vị, qua đó thu hút
những người giỏi, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và tâm huyết đến công tác trong
bộ máy nhà nước.
Thứ hai, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ
quan nhà nước và cung cấp dịch vụ công, thúc đẩy nhanh việc áp dụng chính phủ điện
tử. Ứng dụng công nghệ thông tin giúp chính quyền các cấp nâng cao năng lực quản
lý, điều hành, làm cho nội dung công tác quản lý nhà nước ngày càng minh bạch hơn,
người dân dễ tiếp cận với thông tin và tri thức.
Cần phải ban hành các quy chế, quy định về quản lý, vận hành và sử dụng hệ
thống thông tin đã được triển khai; xây dựng quy trình trao đổi; lưu trữ, xử lý văn bản
điện tử; quy chế bảo đảm an ninh, an toàn thông tin. Cùng với đó, phải có cơ chế duy
trì, bảo dưỡng hạ tầng công nghệ thông tin, thường xuyên rà soát, đầu tư, nâng cấp,
nhằm đáp ứng kịp thời cho nhu cầu phát triển ứng dụng công nghệ thông tin. Đồng
thời, phải có đội ngũ cán bộ có đủ trình độ chuyên môn, nghiệp vụ tiếp nhận các hệ
thống phần mềm đã triển khai, nhằm đảm bảo các hệ thống thông tin đã đầu tư được
hoạt động liên tục, hiệu quả. Mặt khác, tăng cường tuyên truyền rộng rãi nhằm nâng
cao hiểu biết, nhận thức cho các cơ quan quản lý, người dân và doanh nghiệp về các
lợi ích trong việc khai thác thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước.
150
4.4.4. Giữ gìn và phát triển quan hệ đối tác tốt đẹp với các nhà tài trợ
Trong điều kiện quốc tế ngày nay, khi quá trình hội nhập ngày càng được xúc
tiến mạnh mẽ, ngoại giao song phương và đa phương giữ một vị trí quan trọng, thì việc
gìn giữ và phát triển quan hệ quốc tế góp phần nâng cao vị thế của đất nước, tạo điều
kiện thuận lợi trong quan hệ với các nhà tài trợ là điều kiện cần thiết để thu hút và sử
dụng ODA cho xây dựng KCHTKT.
Vai trò làm chủ của quốc gia về chủ trương, chính sách và các mục tiêu phát
triển với sự đồng tình và ủng hộ của các đối tác phát triển là yếu tố quan trọng hình
thành mối quan hệ đối tác hợp tác phát triển hiệu quả. Việc chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác
quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ, bảo vệ lợi ích dân tộc, củng cố và thúc đẩy các mối
quan hệ song phương, tạo ra thế cơ động linh hoạt trong quan hệ quốc tế, nhất là quan
hệ với các nước láng giềng và các nước trong khu vực có ý nghĩa quan trọng đối với
việc thu hút và sử dụng vốn ODA trong xây dựng KCHTKT. Nhờ những thành tựu của
công cuộc đổi mới và chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan
hệ quốc tế mà chúng ta giữ gìn và phát triển được các mối quan hệ với các nhà tài trợ,
đồng thời tăng cường trao đổi, học tập kinh nghiệm thu hút sử dụng vốn ODA trong
xây dựng KCHTKT của các chính phủ trên thế giới, nhất là các nước trong khu vực.
Với những thành tựu đạt được khá toàn diện trên các lĩnh vực, Việt Nam đang
là một nền kinh tế năng động có nhiều triển vọng phát triển, dành được sự quan tâm
cao của các nhà tài trợ, ngày càng hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trên thế giới. Trong
điều kiện xây dựng quan hệ đối tác tin cậy và hợp tác phát triển, quan hệ giữa Việt
Nam và các nhà tài trợ không đơn thuần giữa bên tài trợ và bên nhận viện trợ mà phát
triển quan hệ đối tác trên cơ sở tin cậy, tôn trọng lẫn nhau, đề cao và chia sẻ trách
nhiệm chung và trách nhiệm giải trình về các kết quả phát triển. Điều kiện thuận lợi đó
sẽ giúp chúng ta thu hút và sử dụng tốt hơn vốn ODA trong xây dựng KCHTKT.
151
KẾT LUẬN
Vốn ODA đã tồn tại trên thế giới khoảng 70 năm và được đánh giá là đóng vai
trò quan trọng đối với phát triển kinh tế của nhiều nước đang và chậm phát triển. Với
Việt Nam, vốn ODA thời gian qua đã xây dựng và nâng cấp hàng loạt các công trình
kết cấu hạ tầng kinh tế, góp phần bảo đảm tăng trưởng kinh tế nhanh, gia tăng trao đổi
thương mại và cung ứng dịch vụ, đầu tư, tạo việc làm và thay đổi diện mạo đất nước.
Nghiên cứu công tác quản lý nhà nước đối với vốn ODA trong xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế là cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn.
Luận án đã thực hiện những nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, về mặt lý luận, luận án đã xây dựng hệ thống cơ sở lý luận quản lý
nhà nước đối với vốn ODA trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, bao gồm: khái
niệm; sự cần thiết của quản lý nhà nước đối với vốn ODA trong xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế; các nội dung và các nhân tố ảnh hưởng cũng như các tiêu chí đánh giá
quản lý nhà nước đối với vốn ODA trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế. Các nội
dung quản lý nhà nước chính là khung lý thuyết để dựa vào đó tác giả phân tích đánh
giá thực trạng quản lý nhà nước đối với vốn ODA trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh
tế tại Việt Nam.
Thứ hai, thông qua nghiên cứu một số kinh nghiệm thành công cũng như không
thành công của một số quốc gia trong khu vực và trên thế giới như Trung Quốc,
Malaisia, Thái Lan, và một số nước châu Phi và Mỹ la tinh... luận án rút ra một số bài
học cho Việt Nam như: Đảm bảo tính chủ động, thận trọng trong tiếp nhận, quản lý và
sử dụng ODA trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế; cung cấp đủ nguồn tài chính;
chuẩn bị và thực hiện tốt các dự án; có cơ chế theo dõi giám sát chặt chẽ các dự án;
tăng cường công tác phân cấp quản lý ODA trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và
chuyên nghiệp hóa đội ngũ cán bộ.
Thứ ba, luận án đã khái quát tình hình thu hút và sử dụng ODA nói chung và
những đóng góp của vốn ODA ở một số ngành thuộc kết cấu hạ tầng kinh tế như giao
thông vận tải, năng lượng điện, hệ thống cấp thoát nước, bưu chính viễn thông... Vốn
ODA là nguồn vốn lớn nhất xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế ở nước ta thời gian qua
(chiếm 37% tổng vốn đầu tư toàn xã hội) và đã đầu tư vào hàng loạt các công trình lớn
nhỏ ở nhiều địa phương, trong nhiều lĩnh vực của kết cấu hạ tầng kinh tế. Tuy vậy,
152
nhiều dự án ODA trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế chậm tiến độ, chất lượng
không đảm bảo, còn xảy ra tình trạng tham nhũng lãng phí...
Thứ tư, luận án đã phân tích thực trạng quản lý nhà nước đối với vốn ODA
trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế ở Việt Nam trên các mặt hệ thống pháp luật, cơ
cấu bộ máy quản lý, công tác vận động vốn ODA trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh
tế, công tác thẩm định phê duyệt dự án, bố trí vốn đối ứng cho dự án, kiểm tra giám sát
các dự án ODA trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế. Từ tình hình các mặt của quản
lý nhà nước, luận án cũng đưa ra đánh giá như sau:
Những thành tựu đạt được của công tác quản lý nhà nước đối với vốn ODA
trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế gồm: tạo lập được môi trường chính trị, kinh tế,
xã hội thuận lợi; môi trường pháp lý được quan tâm và thường xuyên bổ sung hoàn
thiện cho phù hợp tình hình thu hút và sử dụng ODA trong xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế từng giai đoạn; bộ máy quản lý nhà nước đã dần được kiện toàn; công tác vận
động ODA được thực hiện tích cực với các hình thức phong phú ở nhiều cấp; thực
hiện dự án đạt được nhiều tiến bộ.
Tuy nhiên, công tác này còn tồn tại nhiều hạn chế như: hệ thống pháp luật,
chính sách liên quan còn nhiều bất hợp lý; các cơ quan quản lý nhà nước về ODA chưa
chủ động, phân cấp quản lý còn nhiều hạn chế; thiếu quy hoạch huy động và sử dụng
vốn ODA, không có tầm nhìn dài hạn dẫn đến đầu tư dàn trải; giải phóng mặt bằng ách
tắc kéo dài; quy trình và thủ tục quản lý còn phức tạp và có sự khác biệt với các nhà tài
trợ; việc thu xếp vốn đối ứng từ ngân sách luôn rơi vào thế bị động, không đáp ứng đủ
và kịp thời làm cho các dự án chậm tiến độ; theo dõi, đánh giá dự án trong một thời
gian dài bị buông lỏng, kiểm tra giám sát còn yếu... Luận án cũng đã lý giải nguyên
nhân khách quan và chủ quan của những hạn chế này.
Thứ năm, trên cơ sở phân tích bối cảnh trong nước và quốc tế, định hướng phát
triển kết cấu hạ tầng kinh tế, định hướng thu hút và sử dụng ODA và lĩnh vực ưu tiên
ODA trong thời gian tới, cũng như những quan điểm quản lý vốn ODA cho kết cấu hạ
tầng kinh tế, luận án đề xuất hệ thống giải pháp từ phía quản lý nhà nước cho vốn
ODA trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế tại Việt Nam và điều kiện để thực hiện
các giải pháp. Các giải pháp được đưa ra gồm:
- Xây dựng quy hoạch, tăng cường vận động, hướng vốn ODA vào đồng bộ và hiện
đại hóa kết cấu hạ tầng kinh tế, coi trọng những công trình thiết yếu
153
- Hoàn thiện khung pháp lý và thủ tục quản lý nhà nước đối với vốn ODA trong xây
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế
- Bố trí kịp thời vốn đối ứng cho các dự án ODA trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh
tế
- Nâng cao chất lượng quá trình chuẩn bị, thẩm định, phê duyệt dự án ODA cho kết
cấu hạ tầng kinh tế
- Tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực tư nhân tiếp cận ODA vốn vay cho xây dựng
kết cấu hạ tầng kinh tế
- Đẩy mạnh công tác theo dõi, kiểm tra giám sát và đánh giá dự án về vốn ODA cho
kết cấu hạ tầng kinh tế
- Hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước, nâng cao nhận thức và trình độ đội ngũ cán
bộ quản lý và thực hiện dự án ODA, đặc biệt ODA cho kết cấu hạ tầng kinh tế.
Với kết quả nghiên cứu trên đây, luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
những ai quan tâm đến lĩnh vực quản lý nhà nước đối với ODA nói chung và vốn
ODA trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế nói riêng. Tuy nhiên, với điều kiện
nghiên cứu có hạn, luận án không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Tác giả rất
mong nhận được các ý kiến đóng góp. Tác giả cũng xin chân thành cám ơn sự chỉ dẫn
quý báu của tập thể người hướng dẫn khoa học, sự khích lệ và đánh giá của các nhà
khoa học, nhà quản lý trong quá trình thực hiện luận án này.
154
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Th.S Vũ Thị Thu Hằng, (2010), Một số giải pháp tăng cường quản lý nhà nước đối
với doanh nghiệp FDI tại Việt Nam, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 176 tháng
9/2010.
2. Th.S Vũ Thị Thu Hằng, (2011), Thành viên biên soạn giáo trình: Quản lý nhà nước
về Kinh tế, NXB Khoa học Kỹ thuật.
3. Th.S Vũ Thị Thu Hằng, (2011), Quản lý nhà nước đối với các dự án công trình xây
dựng quốc gia, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 188 tháng 9/2011.
4. Th.S Vũ Thị Thu Hằng, (2012), Quản lý nhà nước đối với vốn hỗ trợ phát triển
chính thức (ODA) tại Việt Nam, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 198 tháng 7/2012.
5. Th.S Vũ Thị Thu Hằng, (2012), Xóa đói giảm nghèo – Đóng góp tích cực từ nguồn
vốn ODA, Tạp chí Thanh tra số tháng 9/2012.
6. Th.S Vũ Thị Thu Hằng, (2015), Quản lý nhà nước về vốn ODA trong xây dựng kết
cấu hạ tầng kinh tế – những nỗ lực hoàn thiện, Tạp chí Châu Á – Thái Bình Dương
số 451 tháng 8/2015.
7. Th.S Vũ Thị Thu Hằng, (2015), ODA phục vụ xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế ở
Việt Nam, Tạp chí Châu Phi và Trung Đông số 08 (120) tháng 8/2015.
8. Th.S Vũ Thị Thu Hằng, (2015), Nguồn vốn ODA với việc hỗ trợ phát triển chính
sách, thể chế và cải cách hành chính, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 236 tháng
9/2015.
9. Th.S Vũ Thị Thu Hằng, (2016), Thay đổi quan điểm tiếp nhận ODA trong thời kỳ
hội nhập ở Việt Nam, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 242 tháng 3/2016.
155
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. TIẾNG VIỆT
1. Lê Xuân Bá, (2008), Phân cấp quản lý ODA ở Việt Nam- Chính sách và thực hiện ở
địa phương, Nxb Tài chính, tr.17,18,20,21
2. Lê Xuân Bá, (2011), Hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý nhà nước giữa Trung
Ương và địa phương, Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 8/2011
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, (2008), Tổng quan 15 năm ODA ở Việt Nam 1993-2008,
Đặc san
4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) (2009),“Cẩm nang
hướng dẫn chuẩn bị và thực hiện dự án nguồn vốn ODA do ADB tài trợ tại
Việt Nam”, tr.43
5. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, (2011), Thực trạng hệ thống theo dõi và đánh giá ODA của
Việt Nam và phát triển hệ thống trong tương lai, Bản tin ODA số 36
6. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, (2012), Đối thoại Việt Nam - Nhật Bản về Kết cấu hạ tầng
lần thứ hai, Bản tin ODA số 39
7. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2016), Đề án Định hướng thu hút quản lý và sử dụng
nguồn vốn ODA và các khoản vốn vay ưu đãi khác của nhà tài trợ nước ngoài
thời kỳ 2016-2020, tr.7, 8, 17,18,21
8. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, (2013), Những thay đổi chính về chính sách và điều kiện
vay ODA vốn vay Nhật Bản áp dụng từ ngày 1/4/2013, Bản tin ODA số 40
9. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2013), 20 năm hợp tác phát triển, Đặc san, tr.4,
9,13,32,48,58,59.
10. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2013), Báo cáo đánh giá toàn diện 20 năm quan hệ hợp
tác phát triển giữa Việt Nam và các nhà tài trợ (1993-2013), Hà nội,
tr.36,44,46, 62,70,75
11. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, (2014), Tổng quan công tác vận động, thu hút, quản lý và
sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi thời kỳ 1993-2014 và định hướng trong
thời gian tới, tr.2,3,4,5,6
12. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2015), Báo cáo nghiên cứu những thay đổi về chính sách
viện trợ ở cấp quốc tế và cấp quốc gia, tr.3,4
13. Bộ Tài chính (2014), Bản tin nợ công số 3- Các bảng số liệu thống kê 2010-2013,
tr. 11,12
156
14. Cơ quan hợp tác Việt Nam – Nhật Bản (JICA), (2013), Quan hệ đối tác Việt Nam
– Nhật Bản từ quá khứ đến tương lai, Đặc san Kỷ niệm 20 năm nối lại Hỗ trợ
phát triển chính thức ODA cho Việt Nam
15. Chính phủ nước CHXHCNVN, (2001), Nghị định 17/2001/NĐ-CP về quản lý và
sử dụng ODA
16. Chính phủ nước CHXHCNVN, (2006), Nghị định 131/2006/ NĐ-CP về quản lý
và sử dụng ODA
17. Chính phủ nước CHXHCNVN, (2013), Nghị định số 38/2013/ NĐ-CP về Quản lý
sử dụng nguồn vốn ODA và nguồn vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ.
18. Chính phủ nước CHXHCNVN, (2012), Nghị quyết số 13-NQ/TW Hội nghị Trung
ương IV Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về Kết cấu hạ tầng
19. Trần Kim Chung, (2015), Hoàn thiện thế chế quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng
ở Việt Nam, tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 216 tháng 6/2015
20. Chương trình phát triển Liên hợp quốc UNDP, (2002), Tổng quan viện trợ phát
triển chính thức ở Việt Nam 2002, Tài liệu do Văn phòng thường trú UNDP tài
Việt Nam phát hành, Hà Nội
21. Nguyễn Việt Cường, (2011), Thu hút và sử dụng vốn ODA ở Việt Nam: Những
vấn đề đặt ra, Tạp chí Tài chính số 561 năm 2011
22. Nguyễn Hữu Dũng (2010), Thu hút và sử dụng vốn ODA của Ngân hàng thế giới
tại Việt Nam, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội
23. Diễn đàn Hiệu quả viện trợ AEF, 2011, Báo cáo tiến độ hiệu quả viện trợ hỗ trợ
phát triển bền vững
24. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại hội toàn quốc lần thứ VI, VII,
NXB Sự Thật, Hà nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại hội toàn quốc lần thứ VIII, IX, X,
XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội.
26. Đỗ Đức Định, (1996), Quan hệ kinh tế Việt Nam – Nhật Bản đang phát triển,
NXB Khoa học xã hội, Hà nội
27. Nguyễn Thành Đô, (2015), Đánh giá 20 năm huy động và sử dụng ODA của Việt
Nam – Những bài học từ thất bại, Bài tham luận tại Hội thảo Khoa học Quốc
tế ‘Đánh giá 20 năm huy động và sử dụng ODA của Việt Nam”, Đà Nẵng,
ngày 7-8/8/2015
28. Nguyễn Thanh Hằng, (2015), Các nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi phục vụ phát
triển giao thông vận tải Việt Nam giai đoạn 1994 – 2015, Bài tham luận tại
157
Hội thảo Khoa học Quốc tế ‘Đánh giá 20 năm huy động và sử dụng ODA của
Việt Nam”, Đà Nẵng, ngày 7-8/8/2015
29. Vũ Thị Thu Hằng, (2005), Quản lý nhà nước về vốn hỗ trợ phát triển chính thức
ODA tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp, luận văn thạc sỹ kinh tế, Đại
học Ngoại Thương, Hà nội
30. Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam (1996), Hỗ trợ phát triển chính thức ODA trên
thế giới và Việt Nam (tài liệu dùng cho các khóa tập huấn ngắn hạn), Hà nội,
tr.26, 51,85-86
31. Nguyễn Hữu Huế, Đặng Công Toàn, (2014), Nâng cao hiệu quả quản lý đầu tư xây
dựng công trình thuỷ lợi sử dụng vốn ODA, Khoa học Kỹ thuật Thuỷ lợi và
Môi trường, số 47 tháng 12/ 2014
32. Nguyễn Thị Huyền (2008), Khai thác nguồn vốn ODA trong sự nghiệp Công
nghiệp hóa, Hiện đại hóa ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ kinh tế, thành phố Hồ
Chí Minh.
33. Hoàng Viết Khang, (2012), Để sử dụng vốn ODA hiệu quả hơn, Tạp chí Kinh tế
và dự báo, số 2/2012
34. Mai Hữu Khuê (2003), Lý luận quản lý nhà nước, Hà Nội, tr.68
35. Phạm Sỹ Liêm, (2011), “Đổi mới quy hoạch và đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng ở
Việt nam ”, Tạp chí Kinh tế và dự báo, số 16/2011
36. Phan Thùy Linh, Trần Thị Lưu Tâm, (2011), Quản lý và sử dụng vốn ODA ở Việt
Nam: Những vấn đề đặt ra, Tạp chí Tài chính số 566 số tháng 12/2011
37. Nguyễn Đức Lợi (2008), Giáo trình Khoa học Quản lý, NXB Tài chính, tr. 12,13
38. Trần Thị Thu Minh (2006) “Thu hút ODA vào ngành Bưu chính viễn thông của
Việt Nam – Thực trạng và giải pháp”, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Đại học Ngoại
Thương, Hà nội
39. Hồ Quang Minh, Hoàn thiện chính sách, thể chế về ODA thông qua việc xây dựng
Đề án ODA 2011 – 2015 và thay thế Nghị định 131/2006/NĐ-CP
40. Lê Ngọc Mỹ (2004), “Quản lý nhà nước về vốn ODA”, Tạp chí Du lịch Việt Nam,
số tháng 10/2004
41. Lê Ngọc Mỹ (2005), Hoàn thiện Quản lý nhà nước về vốn ODA tại Việt Nam,
Luận án tiến sỹ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà nội
42. Ngân hàng Hợp tác quốc tế Nhật bản (2007), Hoạt động ODA của JBIC tại Việt
Nam
158
43. Ngân hàng Phát triển Châu Á và Bộ Tài Chính (2003), Sổ tay Hướng dẫn quản lý
các vấn đề tài chính trong Dự án ODA, Hà Nội.
44. Ngân hàng thế giới (1998), Việt Nam vượt lên thử thách, Hội nghị nhóm tư vấn
các nhà tài trợ cho Việt Nam 7-8/12, 1998, tr.100
45. Ngân hàng thế giới (1999), Đánh giá viện trợ khi nào có tác dụng khi nào không
và tại sao, NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội, tr.7, 41, 45, 98
46. Ngân hàng thế giới (2004), Báo cáo phát triển Việt Nam 2004, Nghèo, Báo cáo
chung của các nhà tài trợ tại Hội nghị CG, tr. 82
47. Ngân hàng thế giới (2005), Báo cáo phát triển thế giới 2005 – Môi trường đầu tư
tốt hơn cho mọi người, NXB Văn hóa Thông tin
48. Ngân hàng thế giới (2006), Việt Nam – Những thách thức đối với cơ sở hạ tầng
49. Ngân hàng thế giới (2011), Việt Nam và Ngân hàng thế giới: Quan hệ hợp tác
trong xây dựng cơ sở hạ tầng, Báo cáo của WB
50. Ngân hàng Thế giới, (2013), Đánh giá khung tài trợ cho cơ sở hạ tầng địa
phương ở Việt Nam - Báo cáo cuối cùng
51. Ngân hàng thế giới (2014), Báo cáo đánh giá hiệu quả danh mục đầu tư quốc gia
năm 2014 (P-CPPR), tr.16,17,21,22,23
52. Nguyễn Bạch Nguyệt, Từ Quang Phương, (2010), Giáo trình Kinh tế Đầu tư, Nxb
Đại học Kinh tế quốc dân.
53. Nguyễn Nhâm, (2012), Kết cấu hạ tầng của Việt Nam: Thực trạng, hạn chế và
giải pháp phát triển, Tạp chí kinh tế và quản lý, số tháng 1/ 2012, tr.45, 48
54. Nguyễn Thị Hoàng Oanh, (2006), Những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện công
tác quản lý vốn ODA trong lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng trên địa bàn Hà
nội, Luận án Tiến sỹ Kinh tế, Đại học Thương mại, Hà nội
55. Vũ Thị Kim Oanh, (2002), Những giải pháp chủ yếu nhằm sử dụng có hiệu quả
nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) tại Việt Nam, Luận án Tiến sỹ
Kinh tế, Đại học Ngoại thương, Hà nội, tr.43, 44, 45
56. Nguyễn Ngọc Sơn, (2015), Thu hút và sử dụng ODA trong bối cảnh Việt Nam là
nước có thu nhập trung bình, Bài tham luận tại Hội thảo Khoa học Quốc tế
‘Đánh giá 20 năm huy động và sử dụng ODA của Việt Nam”, Đà Nẵng, ngày
7-8/8/2015
57. Lê Văn Tăng, (2015), Luật Đấu thầu bước đầu phát huy hiệu quả, tạp chí Kinh tế
và dự báo số 3, tháng 2/2015
159
58. Tôn Thanh Tâm, (2004), Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý vốn ODA tại Việt
nam, Luận án tiến sỹ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà nội
59. Nguyễn Quang Thái, Trần Thị Hồng Thủy, (2014), Vốn ODA trong điều kiện mới,
Tạp chí Khoa học Đại học quốc gia Hà nội, Kinh tế và Kinh doanh, Tập 30, Số
1/2014.
60. Nguyễn Hồng Thái, Bùi Thị Hoàng Lan, (2012), Phương pháp tiếp cận ngành
trong cơ chế hỗ trợ vốn ODA và khả năng áp dụng hiệu quả để quản lý đầu tư
dự án giao thông đường bộ ở Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và Phát triển số 177
/2012
61. Ngô Công Thành (2011), Giải bài toán phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ ở Việt
Nam, Tạp chí Kinh tế và dự báo, số 17/2011
62. Vũ Nhữ Thăng, (2015), Vai trò của nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi nước ngoài
trong cân đối tài chính quốc gia giai đoạn 2006 – 2014, Bài tham luận tại Hội
thảo Khoa học Quốc tế ‘Đánh giá 20 năm huy động và sử dụng ODA của Việt
Nam”, Đà Nẵng, ngày 7-8/8/2015
63. Bùi thị Kim Thu, (2012), So sánh viện trợ phát triển chính thức (ODA) của Nhật
Bản với một số quốc gia khác tại Việt Nam , tạp chí Khoa học và công nghệ
94(06)
64. Nguyễn Mạnh Tiến, (2015), Đánh giá về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước trong huy động và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển ODA trong phát
triển kinh tế xã hội, Bài tham luận tại Hội thảo Khoa học Quốc tế “Đánh giá
20 năm huy động và sử dụng ODA của Việt Nam”, Đà Nẵng, ngày 7-8/8/2015
65. Đỗ Hoàng Toàn, PGS. TS. Mai Văn Bưu, (2005), Giáo trình quản lý nhà nước về
kinh tế, Nxb Lao động Xã hội.
66. Nguyễn Đoan Trang, (2011), Hài hòa hóa quản lý các dự án ODA ở Việt Nam,
Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 7/2011
67. Tăng Ngọc Tráng, (2015), Hoàn thiện công tác thẩm định, giám sát, đánh giá dự
án đầu tư công, Tạp chí Kinh tế và dự báo số 1, tháng 1/2015
68. Võ Tá Tri, (2015), Chuyển nhượng quyền khai thác đường cao tốc, những vấn đề
đặt ra, Tạp chí Kinh tế và dự báo số 10, tháng 5/2015
69. Lưu Ngọc Trịnh, (2003), “Vốn vay ưu đãi ở Việt Nam những năm gần đây. Thực
trạng, vấn đề và giải pháp – Trường hợp Nhật Bản” , Nxb Lao động- Xã hội.
70. Trần Đình Tuấn, (1993), Những điều cần biết về viện trợ phát triển chính thức
ODA, NXB Xây dựng
160
71. Trịnh Ngọc Tuấn, (2015), Kết quả thu hút và sử dụng vốn ODA giai đoạn 2006 -
2015: Thực trạng và một vài kiến nghị đề xuất, Bài tham luận tại Hội thảo
Khoa học Quốc tế ‘Đánh giá 20 năm huy động và sử dụng ODA của Việt
Nam”, Đà Nẵng, ngày 7-8/8/2015
72. Phạm Thị Túy, (2008), Thu hút và sử dụng ODA vào phát triển hạ tầng ở Việt
Nam, Luận án tiến sỹ Kinh tế, Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh, tr.15,38
73. Phạm Thị Túy (2011), Nguồn vốn ODA cho nước thu nhập trung bình và những
vấn đề đặt ra cho Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và dự báo số 6/2011
74. Phạm Thị Túy, (2011), Xu hướng vận động của nguồn vốn ODA sau khủng hoảng
kinh tế toàn cầu và những gợi mở sử dụng cho các nước tiếp nhận, Tạp chí
Kinh tế và phát triển, số 168 tháng 6/2011
75. Trang Thị Tuyết, (2011) Giáo trình quản lý nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế,
NXB Khoa học và Kỹ thuật.
76. Vũ Ngọc Uyên, (2007), Tác động của ODA đối với tăng trưởng kinh tế ở Việt
Nam, Luận án tiến sỹ kinh tế, Viện Kinh tế Việt Nam, Hà Nội
77. UBND thành phố Đà Nẵng, (2015), Phối hợp giữa các bộ ngành, địa phương
trong huy động và sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi nước ngoài, Bài tham
luận tại Hội thảo Khoa học Quốc tế ‘Đánh giá 20 năm huy động và sử dụng
ODA của Việt Nam”, Đà Nẵng, ngày 7-8/8/2015
78. UBND thành phố Hồ Chí Minh, (2015), Đánh giá 20 năm huy động và sử dụng
ODA tại thành phố Hồ Chí Minh, Bài tham luận tại Hội thảo Khoa học Quốc
tế “Đánh giá 20 năm huy động và sử dụng ODA của Việt Nam”, Đà Nẵng,
ngày 7-8/8/2015
79. Dương Đức Ưng, (2005), Đề án phân cấp về quản lý và sử dụng viện trợ phát
triển chính thức, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Hà Nội.
80. Viện Quản lý kinh tế trung ương, Tổ chức Hợp tác quốc tế Nhật Bản JICA,
(2003), Nghiên cứu về thông lệ tài trợ ở Việt Nam – Viện trợ không hoàn lại
và chi phí giao dịch - Lắng nghe tiếng nói của các nước nhận tài trợ
81. Viện Quản lý Kinh tế Trung Ương, (2009), Phát triển kết cấu hạ tầng để bảo đảm
thúc đẩy và phát triển bền vững, Trung tâm Thông tin Tư liệu, tr.1,3, 4,5,16
82. Nguyễn Văn Vịnh (2011), “Phát triển kết cấu hạ tầng từ quy hoạch đến đầu tư
xây dựng”, Kinh tế và Dự báo số 16/2011
161
83. Nguyễn Văn Vịnh, Phạm Thị Hà, (2015), Hoàn thiện thể chế và quy hoạch phát
triển kết cấu hạ tầng, tạp chí Kinh tế và dự báo số 3, tháng 2/2015
84. https://diennangluongmattroi.wordpress.com (2015), 14 triệu USD vốn ODA sắp
thành phế liệu
85. www.baochinhphu.vn (2015) Hạ tầng giao thông tăng hạng và những chuyện
liên quan
86. www.baogiaothong.vn. (2015), Các dự án ODA giao thông "thiệt đủ đường" vì
thiếu vốn đối ứng
87. www.baogiaothong.vn. (2015), Hàng loạt dự án giao thông “khát” vốn đối ứng
88. cand.com.vn (2006) Điểm mặt những sai phạm của PMU 18
89. vneconomy.vn, (2015), Góc nhìn: ODA và những nguy cơ tiểm ẩn
90. www.dantri.com.vn, (2015), TPHCM không lường trước "kịch bản" bị đòi bồi
thường 2,5 tỷ đồng/ngày
91. www dantri.com.vn(2015), ODA từ Nhật Bản giảm do...vướng thủ tục hành chính
92. www.ncseif.gov.vn (2015), Sử dụng nguồn vốn ODA của WB: Hệ lụy vì chậm
93. www.nld.com.vn (2004), Dự án chồng lên… dự án
94. www.vcci.com.vn (2014), “Hai mặt” của đồng vốn ODA
95. www.tapchicongsan.org.vn (2012), Viện trợ phát triển giảm vì suy thoái toàn cầu
96. www.tapchitaichinh.vn, (2013) Vốn ODA với phát triển Việt Nam, 20 năm nhìn lại
97. www.thesaigontimes.vn (2015), Một số cảng cho thuê chỉ hoạt động 10% công
suất
98. www.thesaigontimes.vn (2015), Vốn ODA và những chi phí tiềm ẩn cho xã hội
99. www.vietnamnet.vn (2015), Vay 5 tỷ USD/năm: Nợ công sắp chạm trần, không
thể dừng lại
100. www.vietnamnet.vn (2011), Quan chức Việt Nam, những án tham nhũng ODA
động trời
II. TIẾNG ANH
101. Tu Thuy Anh and Vu Thi Phuong Mai, (2012) On the Impacts of ODA on FDI:
Does Composition of FDI Matter? Evidence from Asean Countries, SECO /
WTI Academic Cooperation Project
102. César Calderón and Luis Servén, (2004), The Effects of Infrastructure
Development on Growth and Income Distribution
162
103. Economic planning unit, prime minister’s department Malaisia, (2006), The role
of economic Planning Unit (EPU) in Managemant of ODA, tr.11,12
104. Phan Thanh Hải, (2011), Improvement of the management of offical development
assistance (ODA) project in Vietnam, Luận án tiến sỹ kinh tế, Australia.
105. Helmut Führer, (1996), The history of Official Development Assistance, OECD,
Paris
106. Pham Thu Hien, (2008), “Effect of ODA in infrastructure in attracting FDI
inflows in Vietnam”, work papers, Ministry of Planning and Investment of
Vietnam
107. Otto Holicki and Neo Tladinyane, (2000), Evaluation of ODA to the
INFRASTRUCTURE Sector, International Organisation Development
108. Hubei Province Communications Department, China (2006), Operational
Experience on the WorldBank Financed Road Projects
109. JICA, (2012), Training and Dialogue Programs, General information on
Japanese ODA Loan Seminar, Japan
110. Kei Yoshizawa, (2011), Japan’s Initiative on Infrastructure Development in
Africa and TICAD Process (Fifth Ministerial Meeting NEPAD-OECD Africa
Investment Initiative), Office for TICAD Process Japan International
Cooperation Agency (JICA) Dakar, Japan
111. Sang-Tae KIM, Strengthening Korea's Evaluation of ODA Projects, Kyunghee
University, Korea
112. National Economic and Development Authority, (2011), CY 2011 ODA Portfolio
Review Report, Philippine
113. National Graduate Institute for Policy Studies (GRIPS) Development Forum
(2010), ODA Reform: Five Recommendations – Moving into the 21st century-
Development Cooperation (DC), Multi-sectoral Task Force for the Reform of
Japanese ODA
114. Jens Marten, (2001), Rethinking ODA, Global Policy Forum
115. Ministry of Foreign Affairs, (2009), ODA Evaluation Guidelines, Japan.
116. Jihwan Park, (2014), Korean ODA strategies for resource diplomacy towards
Africa:Learn the’Angola mode’of Chinese ODA strategies, National Disaster
Management Institute, tr.7,8,25
117. Benny Setiawan, Ministry of National Development Planning/ National
Development Planning Agency, Republic of Indonesia (2003), “National
163
Policy on Project Monitoring and Project Performance Evaluation” as a
management tool of ODA in Indonesia, Third Tokyo Workshop on ODA
Evaluation.
118. Rohit Sinha and Geethanjali Nataraj, ORF (2013), Japanese ODA stimulates
Indian infrastructure Development, East Asia Forum
119. The World Bank, (2004), Reforming Infracstructure, Privativation, Regulation
and Competition, Washington DC
120. UNDP, (2001), Overview of Offcial Development Assistance Vietnam
121. Yingming YANG, (2006), Making ODA Working for National Development--
Using World Bank Experiences in China as an Illustration, tr.5,6
122. Naoyuki Yoshino & Masaki Nakahigashi (2000), The Role of Infrastructure in
Economic Development (Preliminary Version)
123. www.oecd.org (2015), Aid to poor countries slips further as the goverments
tighten bubgets
124. www.oecd.org (2015) Development Aid at a Glance - Statistics by Regions – 1.
Developing countries, tr.4,10
125. www.oecd.org (2015), OECD statistics in a post-2015 world - Outcomes of the
2014 OECD DAC High Level Meeting
164
PHỤ LỤC 1
ĐIỀU KIỆN VAY VỐN ODA CỦA MỘT SỐ NHÀ TÀI TRỢ CHỦ YẾU
STT Tên nhà tài trợ
Lãi suất (%) Thời gian trả nợ (năm)
Ân hạn (năm)
Phí dịch vụ
(%)
1 Bỉ 0 10-13 1-3
2 Pháp
- Vay Chính phủ
0,9-1,5 15-20 5-8
- AFD Elibor-1 % (PS2),Elibor-2% (PS1),
Elibor (PS3)
3 Áo 0,75-3 15-18 3-5
4 Đức
- Vay ưu đãi 0,75 40 10
- Vay phát triển 2,5-3 12-15 3
5 Đan Mạch 0 10-15 Thời gian xây lắp
6 Na Uy 0 10 Thời gian xây lắp
7 Hungari 0 15 3-5
8 Tây Ban Nha 1 15 5
9 Thụy Sĩ 10 Vay thương mại (50% tổng giá trị hợp đồng)
10 Nhật Bản
- Vay thông thường
1,2 30 10
- Vay ưu đãi 0,55 40 10
- STEP 0,2 40 10
- Môi trường 0,25 40
- STEP Môi trường
0,1 40 10
11 Hàn Quôc 0,05-0,1 35-40 10
12 ADB:
- ADF (ưu đãi) 0 32 8 1%
- OCR
(thông thường)
0,4
(LIBOR+ chênh lệch lãi suất)
15-25 3-5 (tương ứng với thời gian trả
nợ)
0,5% (phí đầu vào) và 0,75% (phí cam kết)
13 WB:
- IDA (ưu đãi) 0 40 10 0,75%
- IBRD (kém ưu đãi)
(LIBOR+ 0,2) 30 5 0,25 (phí thu xếp một lần)
Nguồn: Bộ KH&ĐT (2013), Báo cáo đánh giá toàn diện 20 năm quan hệ hợp tác phát
triển giữa Việt Nam và các nhà tài trợ (1993-2013), Hà nội, tr.86
165
PHỤ LỤC 2
CÁC DỰ ÁN ODA TRONG XÂY DỰNG KẾT CẤU HẠ TẦNG KINH TẾ
Ở VIỆT NAM
TT Danh mục công trình, dự án Thời gian KC-HT Tổng số vốn
TỔNG SỐ 351.728.112
1 Dự án QL3 mới đoạn Hà Nội - Thái Nguyên 2009-2013 10.217.230
2 Dự án cầu Thanh Trì và đoạn tuyến VĐ3, HN 2000-2012 7.660.935
3 Dự án đầu tư xây dựng GĐ2 Mai Dịch - Bắc Hồ Linh Đàm
thuộc VĐIII- TP HN 5.547.403
4 Phát triển cảng quốc tế Cái Mép - Thị Vải 2008-2014 12.891.234
5 XD cầu Cần Thơ trên QL 1A (hạng mục chính đã hoàn thành,
phần đường gom sử dụng vốn dư kéo dài hiệp định tới 2018)
2001-2010; các
hạng mục bổ sung
hoàn thành năm
2016
4.831.967
6 Giao thông nông thôn 3 (Hiệp định Cr.5032: 3/2012-
30/6/2014) 2012-2014 2.244.000
7
Đường hành lang ven biển phía Nam địa phận Việt Nam từ
cửa khẩu Xà Xía tỉnh Kiên Giang đến giao QL1 Km225+200
TP Cà Mau
2009-2015 8.831.455
8 Dự án phát triển GTVT khu vực đồng bằng Bắc bộ (WB6) 2008-2016
9 Dự án XD cầu Vĩnh Thịnh QL2C 2009-2014
10 Đường nối sân bay Nội Bài - cầu Nhật Tân 2011-2014
11 Dự án đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai 2009- 2014 1270.71 triệu
USD
12 Dự án tăng cường ATGT trên các QL 3,5,10,18 (JICA) 2007-2014
13 XD hệ thống giao thông thông minh dự án đường ôtô cao tốc
TP.HCM-TL 2012-2014
14 Dự án 45 cầu GTNT các tỉnh MT và Tây Nguyên 2002-2006; 2012-
2014
15 Tiểu dự án HTKT chuẩn bị đầu tư dự án xây dựng đường cao
tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi 2011-2013
16 Dự án đầu tư điều chỉnh nút giao giữa dự án cầu Thanh Trì
với Quốc lộ 5 - Thành phố Hà Nội 2013 -2015
17 Dự án quản lý tài sản đường bộ Việt Nam
- Hỗ trợ kỹ thuật nghiên cứu dự án
- Thực hiện dự án
166
18 Dự án tín dụng ngành GTVT để cải tạo mạng lưới đường
quốc gia (giai đoạn I) 2005-2015 6.961.180
19 Phát triển cơ sở hạ tầng giao thông ĐBSCL (WB5)
Hợp phần đường sông 2008-2016 5.270.460
Hợp phần quốc lộ 2007-2016 2.569.776
20 Dự án đầu tư xây dựng đường sắt đô thị Hà Nội. Tuyến Cát
Linh-Hà Đông 2000-2015 8.769.965
21 Đường ô tô Tân Vũ - Lạch Huyện 2013-2015 11.849.195
22 Cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng (Lạch Huyện) 2010-2019 18.627.756
23 Cầu Nhật Tân và đường 2 đầu cầu 2009-2017 13.626.300
24 Nâng cấp mạng lưới tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng phía
Bắc lần thứ 2 (QL217) 2010-2016 1.899.300
25 Đường bộ cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi 2013-2017 27.967.631
26 Đường bộ cao tốc Bến Lức - Long Thành 2013-2017 31.320.000
27 Dự án xây dựng tuyến Lộ Tẻ - Rạch Sỏi 2011-2015 6.693.775
28 Dự án kết nối khu vực trung tâm đồng bằng MêKông 2011-2017 21.246.886
29 Dự án tín dụng ngành GTVT để cải tạo mạng lưới đường
quốc gia giai đoạn II (Hiệp định lần 3) 2013-2018 8.254.148
30 Đầu tư xây dựng, nâng cấp Bệnh viện Đa khoa Giao thông
vận tải Trung ương 2013-2015 312.986
31 Dự án phát triển hệ thống kiểm soát giao thông đường cao tốc
tại Hà Nội 2013-2014 151.115
32 Dự án xây dựng đường cao tốc TP.HCM - Long Thành - Dầu
Giây 2009 - 2015 20.630.254
* Các dự án năm 2014 Tổng công ty đường sắt VN làm chủ
đầu tư 62.991.702
1
Dự án hiện đại hóa tín hiệu thông tin đường sắt các tuyến Hà
Nội – Đồng Đăng, Hà Nội – Lào Cai, Hà Nội – Thái Nguyên
và Khu đầu mối Hà Nội (Dự án TTTH 3 tuyến phía bắc và
khu đầu mối HN)
2008-2014 2.227.743
2 Dự án Hiện đại hóa tín hiệu thông tin đường sắt đoạn Vinh -
Sài Gòn, tuyến ĐSTN, giai đoạn I 2005-2014 2.423.678
3 Dự án Nâng cao an toàn cầu đường sắt trên tuyến Hà Nội -
Hồ Chí Minh 2004-2016 9.283.990
4 Dự án Cải tạo, nâng cấp tuyến đường sắt Yên Viên - Lào Cai 2008-2015 3.434.273
5 Dự án hiện đại hóa thông tin tín hiệu đường sắt đoạn Hà Nội
- Vinh, tuyến ĐSTN, giai đoạn II 2007-2015 1.082.289
6 Dự án đường sắt đô thị Hà Nội, tuyến số 1, giai đoạn 1 2011-2017 19.459.689
167
7 Dự án đường sắt đô thị Hà Nội, tuyến số 1, giai đoạn 2A 2012-2020 24.825.107
8 Dự án hiện đại hóa Trung tâm điều hành vận tải 2007-2015 254.933
Tổng công ty Hàng hải Việt Nam
1 Dự án cải tạo nâng cấp cảng Hải Phòng giai đoạn II 2001 - 2011 1.772.251
Bộ Xây dựng
1
Dự án đầu tư phát triển Trường Cao đẳng nghề LINAMA 2 thành
Trung tâm chất lượng cao vốn ODA của Chính phủ Cộng hòa Pháp
và Chính phủ Cộng hòa Đức
2012-2018 792.913
Bộ Thông tin truyền thông
1 Dự án Phát triển CNTT&TT tại VN (Hợp phần PIU và PCU) 2006-2013 573.421
2 Dự án Trung tâm truyền thông đa phương tiện 2009-2014 574.443
Nguồn: Số liệu tổng hợp của Bộ Kế hoạch và Đầu tư 2015
168
PHỤ LỤC 3
KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ CHUNG VIỆT NAM - NHẬT BẢN
MỘT SỐ DỰ ÁN GIAO THÔNG VẬN TẢI(2007 – 2010)
Dự án
Xếp
hạng
chung
Xếp hạng theo các tiêu chí đánh giá
Phù hợp Hiệu suất Hiệu quả,
tác động Bền vững
1. Nâng cấp Quốc lộ số 5 B A B A B
2. Nâng cấp Quốc lộ 1A và cải tạo cầu
A A A A B
3. Cải tạo cầu đường sắt Hà Nội – TPHCM
A A A A B
4. Hệ thống thông tin duyên hải phía Nam
A A B A A
5. Đường dây 500 KV Phú Mỹ - Tp. HCM
A A B A A
6. Thủy điện Hàm Thuận – Đa Mi
A A B A A
7. Thoát nước Hà Nội A A B A A
8. Cảng Tiên Sa (Đà Nẵng) A A B A A
9. Đường hầm đèo Hải Vân A B A A A
10. Sân bay Tân Sơn Nhất A a (3) a (3) a (3) a (3)
11. Thủy điện Đại Ninh A a (3) b (2) a (3) a (3)
Thang điểm chung: A (Rất hài lòng), B (Hài lòng), C (Trung bình), D (Không hài lòng)
Xếp hạng: a (cao), b (trung bình), c (thấp)
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã chủ trì, phối hợp với các cơ quan Việt Nam và nhà tài trợ
JBIC (nay là JICA) tiến hành đánh giá 11 dự án đầu tư quy mô lớn trong lĩnh vực giao thông
(đường bộ, sân bay, cảng biển), năng lượng điện, phát triển đô thị, thông tin liên lạc trong
khuôn khổ Chương trình đánh giá chung Việt Nam - Nhật Bản 2007 - 2010. Kết quả đánh giá
đã thể hiện sự thành công của các dự án đầu tư ODA của Nhật Bản tại Việt Nam, cụ thể trong
số 11 dự án có 10 dự án được xếp hạng ở mức "Rất hài lòng" và chỉ có 01 dự án được xếp
hạng ở mức "Hài lòng"
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, (2014), Tổng quan công tác vận động, thu hút, quản lý và
sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi thời kỳ 1993-2014 và định hướng trong thời gian tới,
tr.20-21
169
PHỤ LỤC 4
CHỨC NĂNG NHIỆM VỤ
CỦA BỘ MÁY QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VỐN ODA
Điều 60. Quản lý nhà nước về ODA và vốn vay ưu đãi
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về ODA và vốn vay ưu đãi, bao gồm các
nội dung sau:
1. Quyết định chiến lược, chính sách, quy hoạch, định hướng thu hút và sử dụng
ODA và vốn vay ưu đãi cho từng thời kỳ.
2. Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý và sử dụng ODA và vốn
vay ưu đãi theo thẩm quyền.
3. Điều hành vĩ mô công tác quản lý và sử dụng ODA và vốn vay ưu đãi.
Điều 61. Nhiệm vụ và quyền hạn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Bộ Kế hoạch và Đầu tư giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về ODA và
vốn vay ưu đãi, có các nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1. Là cơ quan đầu mối trong việc vận động, điều phối, quản lý và sử dụng ODA
và vốn vay ưu đãi; chủ trì soạn thảo chiến lược, chính sách hợp tác phát triển với nhà
tài trợ, quy hoạch thu hút, quản lý và sử dụng ODA và vốn vay ưu đãi; phân tích và
đánh giá hiệu quả sử dụng các nguồn vốn này.
2. Chủ trì soạn thảo, trình ban hành hoặc ban hành các văn bản quy phạm pháp
luật về quản lý và sử dụng ODA và vốn vay ưu đãi theo thẩm quyền.
3. Chủ trì việc chuẩn bị nội dung và tổ chức vận động, điều phối các nguồn ODA
và vốn vay ưu đãi theo thẩm quyền.
4. Tổng hợp và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Danh mục tài trợ theo quy
định tại Khoản 3 Điều 13 và Khoản 1 Điều 14 Nghị định này.
5. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan trình Thủ tướng Chính phủ về việc
ký kết điều ước quốc tế khung về ODA và vốn vay ưu đãi và điều ước quốc tế cụ thể
về ODA viện trợ không hoàn lại theo quy định tại Khoản 4 Điều 30 Nghị định này.
6. Phối hợp với Bộ Tài chính trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt cơ chế tài
chính trong nước áp dụng đối với các chương trình, dự án có sử dụng ODA vốn vay và
vốn vay ưu đãi.
7. Chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính:
170
a) Trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt cơ chế tài chính trong nước áp dụng đối
với các chương trình, dự án có sử dụng vốn ODA viện trợ không hoàn lại thuộc thẩm
quyền phê duyệt Danh mục tài trợ của Thủ tướng Chính phủ; xác định cơ chế tài chính
trong nước áp dụng đối với các chương trình, dự án có sử dụng vốn ODA viện trợ
không hoàn lại thuộc thẩm quyền phê duyệt Danh mục tài trợ của cơ quan chủ quản;
b) Tổng hợp và lập kế hoạch giải ngân ODA và vốn vay ưu đãi, vốn đối ứng; bố
trí đầy đủ và kịp thời vốn chuẩn bị chương trình, dự án, vốn đối ứng nguồn xây dựng
cơ bản để chuẩn bị thực hiện và thực hiện đối với các chương trình, dự án thuộc diện
cấp phát từ ngân sách trung ương trong kế hoạch vốn hàng năm;
c) Xử lý nhu cầu bổ sung vốn trong kế hoạch dự toán ngân sách hàng năm của
chương trình, dự án theo quy định tại Khoản 5 Điều 43 và Điều 44 Nghị định này.
8. Xây dựng, vận hành và hoàn thiện hệ thống giám sát và đánh giá các chương
trình, dự án ở cấp quốc gia; chia sẻ thông tin với các cơ quan liên quan và nhà tài trợ,
khai thác có hiệu quả hệ thống này.
9. Theo dõi, kiểm tra việc quản lý và tổ chức thực hiện các chương trình, dự án;
đôn đốc, hỗ trợ việc thực hiện các chương trình, dự án.
10. Làm đầu mối giải quyết các khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện
các chương trình, dự án, những vấn đề liên quan đến nhiều Bộ, ngành để đảm bảo tiến
độ thực hiện và thúc đẩy giải ngân vốn ODA và vốn vay ưu đãi; kiến nghị Thủ tướng
Chính phủ quyết định biện pháp xử lý các vấn đề về ODA và vốn vay ưu đãi thuộc
thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ.
Trong trường hợp cần thiết, chủ trì thành lập đoàn công tác liên ngành làm việc
trực tiếp với cơ quan chủ quản, chủ dự án, Ban quản lý dự án và nhà tài trợ để xem xét,
đánh giá và giải quyết kịp thời những vướng mắc theo thẩm quyền.
11. Trình Thủ tướng Chính phủ báo cáo tổng hợp theo định kỳ (6 tháng, một
năm) và đột xuất về tình hình vận động, quản lý và sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu
đãi; kiến nghị các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn trong quá trình thực hiện các
chương trình, dự án.
12. Chủ trì tổ chức thực hiện các biện pháp đồng bộ nhằm nâng cao hiệu quả
quản lý, sử dụng ODA và vốn vay ưu đãi.
13. Biên soạn và phổ biến các tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ về vận động, chuẩn
bị, thẩm định, tổ chức quản lý thực hiện, giám sát và đánh giá chương trình, dự án; hỗ
171
trợ công tác đào tạo quản lý chương trình, dự án theo hướng chuyên nghiệp và bền
vững.
Điều 62. Nhiệm vụ và quyền hạn của Bộ Tài chính
1. Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các cơ quan liên quan xây dựng chiến
lược, chính sách hợp tác phát triển với nhà tài trợ, quy hoạch thu hút, điều phối, quản
lý và sử dụng ODA và vốn vay ưu đãi; phân tích và đánh giá hiệu quả sử dụng các
nguồn vốn này.
2. Hướng dẫn chuẩn bị nội dung liên quan đến điều kiện sử dụng vốn, quản lý tài
chính của các chương trình, dự án.
3. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan trình Thủ tướng Chính phủ về việc
ký kết điều ước quốc tế cụ thể về vốn vay ODA và vốn vay ưu đãi quy định tại Khoản
2 Điều 30 Nghị định này.
4. Đại diện chính thức cho “bên vay” đối với các khoản vốn vay ODA và vốn
vay ưu đãi nhân danh Nhà nước hoặc Chính phủ với nhà tài trợ, trừ các khoản vay do
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là đại diện cho Việt Nam và được ủy quyền ký kết
điều ước quốc tế về khoản vay đó.
5. Quản lý tài chính đối với các chương trình, dự án:
a) Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan hướng dẫn về quản lý tài chính đối
với chương trình, dự án;
b) Chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cơ quan chủ quản và các cơ
quan có liên quan trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt cơ chế tài chính trong nước áp
dụng đối với các chương trình, dự án có sử dụng ODA vốn vay và vốn vay ưu đãi
trước khi ký kết điều ước quốc tế cụ thể về ODA và vốn vay ưu đãi;
c) Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt cơ
chế tài chính trong nước áp dụng đối với các chương trình, dự án có sử dụng vốn ODA
viện trợ không hoàn lại thuộc thẩm quyền phê duyệt Danh mục tài trợ của Thủ tướng
Chính phủ; xác định cơ chế tài chính trong nước áp dụng đối với các chương trình, dự
án có sử dụng vốn ODA viện trợ không hoàn lại thuộc thẩm quyền phê duyệt Danh
mục tài trợ của cơ quan chủ quản;
d) Quy định cụ thể thủ tục rút vốn và quản lý rút vốn của các chương trình, dự án
trên cơ sở quy định của pháp luật hiện hành và quy định tại các điều ước quốc tế về
ODA và vốn vay ưu đãi đã ký với nhà tài trợ;
172
đ) Chủ trì hướng dẫn thực hiện chính sách thuế và phí đối với các chương trình,
dự án; giải quyết các vấn đề vướng mắc liên quan đến thuế và phí;
e) Bố trí vốn ngân sách nhà nước và các nguồn vốn khác để trả nợ các khoản vốn
vay ODA và vốn vay ưu đãi khi đến hạn;
g) Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xác định và công bố danh sách
các ngân hàng thương mại đủ tiêu chuẩn thực hiện việc giao dịch thanh toán đối ngoại
đối với nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi;
h) Theo dõi, kiểm tra công tác quản lý tài chính trong việc sử dụng vốn ODA và
vốn vay ưu đãi và tổ chức hạch toán kế toán ngân sách nhà nước đối với các nguồn
vốn này;
i) Tổng hợp theo định kỳ (6 tháng, một năm) số liệu giải ngân, rút vốn, thanh
toán và trả nợ đối với nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi báo cáo Thủ tướng Chính
phủ và thông báo cho các cơ quan liên quan;
k) Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp và lập kế hoạch giải ngân ODA
và vốn vay ưu đãi, vốn đối ứng; xử lý nhu cầu bổ sung vốn trong kế hoạch dự toán
ngân sách hàng năm của chương trình, dự án theo quy định tại Khoản 5 Điều 43 và
Điều 44 Nghị định này;
l) Chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư bố trí đầy đủ và kịp thời vốn đối
ứng nguồn hành chính sự nghiệp để chuẩn bị thực hiện và thực hiện các chương trình,
dự án thuộc diện cấp phát từ ngân sách trung ương trong kế hoạch vốn hàng năm;
m) Tổ chức cho vay lại và thu hồi phần vốn cho vay lại của các chương trình, dự
án áp dụng cơ chế ngân sách nhà nước cho vay lại.
Điều 63. Nhiệm vụ và quyền hạn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
1. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan trình Thủ tướng Chính phủ về việc
ký kết các điều ước quốc tế cụ thể về ODA và vốn vay ưu đãi với các tổ chức tài chính
tiền tệ quốc tế quy định tại Khoản 3 Điều 30 Nghị định này.
2. Bàn giao hồ sơ và toàn bộ các thông tin liên quan đến chương trình, dự án cho
Bộ Tài chính sau khi các điều ước quốc tế cụ thể về vốn ODA và vốn vay ưu đãi có
hiệu lực, trừ thỏa thuận vay với Quỹ Tiền tệ quốc tế.
3. Chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính xác định và công bố danh sách các ngân
hàng thương mại đủ tiêu chuẩn thực hiện việc giao dịch thanh toán đối ngoại đối với
nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi, làm cơ sở để cơ quan chủ trì đàm phán điều ước
173
quốc tế cụ thể về ODA và vốn vay ưu đãi lựa chọn ngân hàng phục vụ cho chương
trình, dự án.
4. Tổng hợp theo định kỳ (6 tháng, một năm) và thông báo cho Bộ Tài chính, Bộ
Kế hoạch và Đầu tư và các cơ quan liên quan về tình hình rút vốn và thanh toán thông
qua hệ thống tài khoản của các chương trình, dự án mở tại các ngân hàng.
Điều 64. Nhiệm vụ và quyền hạn của Bộ Tư pháp
1. Thẩm định dự thảo điều ước quốc tế về ODA và vốn vay ưu đãi theo quy định
của pháp luật về điều ước quốc tế.
2. Tham gia đàm phán, góp ý xây dựng nội dung dự thảo điều ước quốc tế về
ODA và vốn vay ưu đãi.
3. Tham gia ý kiến đối với đề cương chương trình, dự án hợp tác với nước ngoài
về pháp luật.
4. Thẩm định văn kiện chương trình, dự án hợp tác với nước ngoài về pháp luật
thuộc thẩm quyền phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ.
5. Có ý kiến pháp lý về các vấn đề pháp luật đối với dự thảo khung chính sách tái
định cư trước khi trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
6. Cấp ý kiến pháp lý đối với các điều ước quốc tế về ODA và vốn vay ưu đãi
hoặc các vấn đề pháp lý liên quan khác theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền.
Điều 65. Nhiệm vụ và quyền hạn của Bộ Ngoại giao
1. Phối hợp với các cơ quan liên quan, trên cơ sở chính sách đối ngoại chung, xây
dựng và thực hiện chủ trương, phương hướng vận động ODA và vốn vay ưu đãi, chính
sách đối tác; tham gia vận động ODA và vốn vay ưu đãi.
2. Chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các cơ quan liên quan chỉ đạo
các cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại nước ngoài hoặc
tại tổ chức quốc tế tiến hành vận động ODA và vốn vay ưu đãi, phù hợp với chủ
trương, phương hướng vận động, quy hoạch, kế hoạch thu hút và sử dụng nguồn vốn
ODA và vốn vay ưu đãi trong từng thời kỳ.
3. Kiểm tra đề xuất đàm phán, ký điều ước quốc tế về ODA và vốn vay ưu đãi;
tham gia đàm phán, góp ý kiến đối với dự thảo điều ước quốc tế về ODA và vốn vay
ưu đãi.
4. Thực hiện các thủ tục đối ngoại về việc ký kết và thực hiện điều ước quốc tế
về ODA và vốn vay ưu đãi; tổ chức lưu trữ, sao lục, công bố điều ước quốc tế về ODA
và vốn vay ưu đãi.
174
5. Tham gia đánh giá các chương trình, dự án ODA và vốn vay ưu đãi.
6. Theo dõi, kiểm tra việc thực hiện thủ tục ký kết và thực hiện điều ước quốc tế
về ODA và vốn vay ưu đãi theo quy định của pháp luật về điều ước quốc tế.
Điều 66. Nhiệm vụ và quyền hạn của Văn phòng Chính phủ
1. Giúp Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành thống
nhất quản lý nhà nước về ODA và vốn vay ưu đãi.
2. Tham gia ý kiến về nội dung trong quá trình chuẩn bị chương trình, dự án theo
yêu cầu của cơ quan chủ quản hoặc chủ dự án; thẩm tra và đề xuất, kiến nghị về chính
sách, cơ chế, cách thức tổ chức thực hiện chương trình, dự án trước khi trình Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
3. Giúp Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện
Nghị định này.
Điều 67. Nhiệm vụ và quyền hạn của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan
trực thuộc Chính phủ
1. Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các cơ quan liên quan xây dựng chiến
lược, quy hoạch định hướng thu hút và sử dụng ODA và vốn vay ưu đãi; xây dựng các
chính sách, biện pháp điều phối và nâng cao hiệu quả sử dụng ODA và vốn vay ưu đãi
thuộc lĩnh vực phụ trách.
2. Xây dựng Đề cương chương trình, dự án, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt
hoặc phê duyệt theo thẩm quyền theo quy định tại Điều 13 Nghị định này.
3. Phối hợp với Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong việc trình
Thủ tướng Chính phủ về việc ký kết điều ước quốc tế cụ thể về ODA và vốn vay ưu
đãi đối với các chương trình, dự án do mình làm chủ quản theo quy định tại các Khoản
2 và 3 Điều 30 Nghị định này.
4. Đề xuất trình Thủ tướng Chính phủ về việc ký kết điều ước quốc tế cụ thể về
ODA viện trợ không hoàn lại quy định tại Nghị định này và tổ chức thực hiện điều ước
quốc tế đó sau khi được ký kết.
5. Thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với vốn ODA và vốn vay ưu đãi
theo ngành, lĩnh vực phụ trách theo quy định của pháp luật.
6. Công khai minh bạch và chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng vốn ODA và
vốn vay ưu đãi của các chương trình, dự án do mình trực tiếp quản lý và thực hiện.
175
Điều 68. Nhiệm vụ và quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
1. Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các Bộ, ngành và các cơ quan liên quan
xây dựng chiến lược, quy hoạch thu hút và sử dụng ODA và vốn vay ưu đãi; xây dựng
các chính sách, biện pháp điều phối và nâng cao hiệu quả sử dụng ODA và vốn vay ưu
đãi trên địa bàn tỉnh, thành phố.
2. Xây dựng Đề cương chương trình, dự án, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt
hoặc phê duyệt theo thẩm quyền theo quy định tại Điều 13 Nghị định này.
3. Phối hợp với Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong việc trình
Thủ tướng Chính phủ về việc ký kết điều ước quốc tế cụ thể về ODA và vốn vay ưu
đãi đối với các chương trình, dự án do mình làm chủ quản quy định tại các Khoản 2 và
3 Điều 30 Nghị định này và thực hiện điều ước quốc tế đó sau khi được ký kết.
4. Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong việc trình Thủ tướng Chính phủ về
việc ký kết điều ước quốc tế cụ thể về ODA viện trợ không hoàn lại quy định tại Nghị
định này và tổ chức thực hiện điều ước quốc tế đó sau khi được ký kết.
5. Chịu trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức thực hiện việc thu hồi đất, bồi thường, giải
phóng mặt bằng cho chương trình, dự án trên địa bàn theo quy định của pháp luật, điều
ước quốc tế về ODA và vốn vay ưu đãi mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là thành viên.
6. Thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với vốn ODA và vốn vay ưu đãi
trên địa bàn theo quy định của pháp luật.
7. Công khai minh bạch và chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng vốn ODA và
vốn vay ưu đãi của các chương trình, dự án do mình trực tiếp quản lý và thực hiện.
8. Bố trí vốn trả nợ ngân sách trung ương để trả nợ nước ngoài đối với các
chương trình, dự án áp dụng cơ chế ngân sách trung ương cho ngân sách cấp tỉnh vay
lại nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi.
Điều 38. Nhiệm vụ và quyền hạn của chủ dự án trong quản lý thực hiện các
chương trình, dự án
1. Tổ chức bộ máy quản lý và thực hiện chương trình, dự án trên cơ sở quyết
định của cơ quan chủ quản.
2. Chịu trách nhiệm về quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn tài trợ cho
chương trình, dự án từ khi chuẩn bị, thực hiện đến khi đưa chương trình, dự án vào
khai thác sử dụng.
176
3. Lập và trình cơ quan chủ quản phê duyệt kế hoạch tổng thể thực hiện chương
trình, dự án; Phê duyệt kế hoạch thực hiện chương trình, dự án hàng năm để làm cơ sở
phê duyệt kế hoạch phân bổ vốn hàng năm của cơ quan chủ quản.
Riêng đối với các trường hợp chương trình, dự án vay lại vốn ODA và vốn vay
ưu đãi của Chính phủ, vốn đối ứng do chủ dự án tự bố trí thì chủ dự án chịu trách
nhiệm về việc lập, phê duyệt kế hoạch vốn hàng năm.
4. Xây dựng kế hoạch hoạt động cho từng quý, phục vụ cho công tác điều hành,
giám sát và đánh giá chương trình, dự án.
5. Tổ chức thẩm định; phê duyệt thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán và dự toán các
hạng mục công trình (đối với dự án đầu tư xây dựng công trình).
6. Thực hiện công tác đấu thầu theo quy định của pháp luật hiện hành về đấu
thầu.
7. Đàm phán, ký kết, giám sát việc thực hiện các hợp đồng và xử lý các vi phạm
hợp đồng.
8. Phối hợp với chính quyền địa phương tổ chức thực hiện công tác bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư theo quy định của pháp luật, điều ước quốc tế cụ thể về ODA và
vốn vay ưu đãi về chương trình, dự án (đối với dự án đầu tư xây dựng công trình).
9. Thực hiện giám sát và đánh giá chương trình, dự án nhằm đảm bảo chương
trình, dự án thực hiện đúng tiến độ, chất lượng và đạt mục tiêu đề ra.
10. Chịu trách nhiệm về thất thoát, lãng phí, tham nhũng và các sai phạm thuộc
thẩm quyền trong công tác tổ chức quản lý và thực hiện chương trình, dự án gây thiệt
hại về kinh tế, xã hội, môi trường, ảnh hưởng đến mục tiêu và hiệu quả chung của
chương trình, dự án.
11. Đối với các chương trình, dự án áp dụng cơ chế cho vay lại, chủ dự án có
trách nhiệm hoàn trả đầy đủ và kịp thời vốn vay lại theo các điều kiện vay lại đã thỏa
thuận.
12. Các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của pháp luật, điều ước quốc
tế cụ thể về ODA và vốn vay ưu đãi về chương trình, dự án.
Điều 40. Nhiệm vụ và quyền hạn Ban quản lý dự án
1. Nhiệm vụ và quyền hạn của Ban Quản lý dự án do chủ dự án giao trên cơ sở
quyết định thành lập Ban quản lý dự án.
Chủ dự án có thể ủy quyền cho Ban quản lý dự án quyết định hoặc ký kết các văn
bản thuộc thẩm quyền của mình trong quá trình quản lý thực hiện. Việc ủy quyền này
177
phải được quy định tại Quyết định thành lập Ban quản lý dự án hoặc tại các văn bản ủy
quyền cụ thể của chủ dự án.
2. Ban quản lý dự án có thể được giao nhiệm vụ quản lý nhiều chương trình, dự
án, nhưng phải được chủ dự án chấp thuận và phải đảm bảo nguyên tắc: từng chương
trình, dự án không bị gián đoạn, được quản lý và quyết toán theo đúng quy định hiện
hành của pháp luật. Trong trường hợp không có đủ điều kiện thực hiện một số phần
việc về quản lý và giám sát, Ban quản lý dự án có thể thuê tư vấn thực hiện các công
việc này với sự chấp thuận của chủ dự án.
3. Ban quản lý dự án có các nhiệm vụ cụ thể sau đây:
a) Hỗ trợ chủ dự án lập kế hoạch tổng thể và kế hoạch chi tiết hàng năm thực
hiện chương trình, dự án;
b) Hỗ trợ chủ dự án trong công tác chuẩn bị thực hiện và thực hiện chương trình,
dự án;
c) Hỗ trợ chủ dự án thực hiện các hoạt động đấu thầu và quản lý hợp đồng;
d) Hỗ trợ chủ dự án trong công tác giải ngân, quản lý tài chính và tài sản của
chương trình, dự án;
đ) Thực hiện công tác theo dõi và đánh giá tình hình thực hiện chương trình, dự án;
e) Chuẩn bị để chủ dự án nghiệm thu và bàn giao các kết quả đầu ra của chương
trình, dự án sau khi hoàn thành; hoàn tất công tác kiểm toán, bàn giao tài sản của
chương trình, dự án; lập báo cáo kết thúc và báo cáo quyết toán chương trình, dự án;
g) Thực hiện các nhiệm vụ khác trong khuôn khổ chương trình, dự án do chủ dự
án giao.
Nguồn.: Trích một số điều quy định trong Nghị định số 38/2013/ NĐ-CP về Quản lý
sử dụng nguồn vốn ODA và nguồn vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ của Chính phủ
nước CHXHCNVN
178
PHỤ LỤC 5
LƯỢC SỬ CÁC HỘI NGHỊ NHÓM TƯ VẤN CÁC NHÀ TÀI TRỢ
DÀNH CHO VIỆT NAM (HỘI NGHỊ CG)
Năm 1993 Hội nghị bàn tròn về viện trợ cho Việt Nam
1. Thời gian Từ ngày 9-10/11/1993
2. Địa điểm Pa-ri (Pháp)
3. Trọng tâm Thảo luận về triển vọng phát triển của Việt Nam nhằm tăng gấp đôi
GDP trên đầu người vào năm 2000.
4. Cam kết tài trợ 1.860,80 tỷ USD
Năm 1994 Hội nghị CG thường niên
1. Thời gian Từ ngày 15 - 16/11/1994
2. Địa điểm Pa-ri (Pháp)
3. Trọng tâm Giúp Việt Nam đấy mạnh quá trình cải tổ nền kinh tế với các
chương trình ưu tiên phát triển năm 1995.
4. Cam kết tài trợ 1.958,70 tỷ USD
Năm 1995 Hội nghị CG thường niên
1. Thời gian Từ ngày 30/11 - 01/12/1995
2. Địa điểm Pa-ri (Pháp)
3. Trọng tâm Quản lý Kinh tế vĩ mô: Cải cách khu vực kinh tế Nhà nước, tạo “sân
chơi bình đẳng ” cho các Doanh nghiệp thuộc các khu vực kinh tế
khác nhau
4. Cam kết tài trợ 2.311,50 tỷ USD
Năm 1996 Hội nghị CG thường niên
1. Thời gian Từ ngày 05-06/12/1996
2. Địa điểm Pa-ri (Pháp)
3. Trọng tâm Thảo luận về các nhiệm vụ và thách thức của Việt Nam trong giai
đoạn mới của phát triển kinh tế và cải cách: duy trì sự ổn định kinh
tế vĩ mô, các nỗ lực tăng cường và thúc đấy cải cách.
4. Cam kết tài trợ 2.430,90 tỷ USD
Năm 1997 Hội nghị CG thường niên
1. Thời gian Từ ngày 11-12/12/1997
179
2. Địa điểm Tokyo (Nhật Bản)
3. Trọng tâm Việt Nam quyết tâm đấy mạnh công cuộc Đổi mới một cách toàn
diện và đồng bộ với 6 điểm trong chương trình Hành động của
Chính phủ Việt Nam bao gồm: Tăng cường năng lực cạnh tranh; cải
cách doanh nghiệp nhà nước; cải thiện hệ thống Ngân hàng; phát
triển nông thôn và giảm nghèo; đầu tư vào con người; cải cách hành
chính.
4. Cam kết tài trợ 2.377,10 tỷ USD
Năm 1998 Hội nghị CG thường niên
1. Thời gian Từ ngày 07-08/12/1998
2. Địa điểm Pa-ri (Pháp)
3. Trọng tâm Thành tựu và thách thức trong nỗ lực cải thiện cuộc sống của nhân
dân Việt Nam; nhất là phát triển nông thôn và xóa đói giảm nghèo.
4. Cam kết tài trợ 2.192,00 tỷ USD
Năm 1999 Hội nghị CG thường niên
1. Thời gian Từ ngày 14-15/12/1999
2. Địa điểm Hà Nội (Việt Nam)
3. Trọng tâm Sự cấp thiết của việc thực hiện một chương trình đấy nhanh “Đổi
mới”.
4. Cam kết tài trợ 2.146,00 tỷ USD
Năm 2000 Hội nghị CG thường niên
1. Thời gian Từ ngày 14-15/12/2000
2. Địa điểm Hà Nội (Việt Nam)
3. Trọng tâm Những vấn đề ưu tiên cao của Chính phủ Việt Nam như xóa đói
giảm nghèo, nông nghiệp và phát triển nông thôn, giáo dục và đào
tạo, y tế và cơ sở hạ tầng.
4. Cam kết tài trợ 2.400,50 tỷ USD
Năm 2001 Hội nghị CG thường niên
1. Thời gian Từ ngày 07-08/12/2001
2. Địa điểm Hà Nội (Việt Nam)
3. Trọng tâm Cam kết ủng hộ Việt Nam, thúc giục tiếp tục thực hiện cải cách -
Biến tầm nhìn thành hành động nhất là tiến bộ đạt được trong Chiến
lược tăng trưởng toàn diện và xóa đói giảm nghèo (CPRGS).
4. Cam kết tài trợ 2.399,10 tỷ USD
Năm 2002 Hội nghị CG thường niên
180
1. Thời gian Từ ngày 10-11/12/2002
2. Địa điểm Hà Nội (Việt Nam)
3. Trọng tâm Dự thảo Chương trình hành động của Chính phủ Việt Nam trong 5
năm tới: tập trung vào việc tăng cường tính cạnh tranh, phát triển
con người và sự cần thiết phải xây dựng một khu vực công minh
bạch và hiệu quả hơn.
4. Cam kết tài trợ 2.462,00 tỷ USD
Năm 2003 Hội nghị CG thường niên
1. Thời gian Từ ngày 02-03/12/2003
2. Địa điểm Hà Nội (Việt Nam)
3. Trọng tâm - Tình hình phát triển kinh tế xã hội 2001-2003 và việc thực hiện
Chiến lược tăng trưởng toàn diện và xóa giảm nghèo (CPRGS);
- Doanh nghiệp - tính cạnh tranh và hiệu quả trong nền kinh tế Việt
Nam;
- HIV/AIDS - một thách thức xã hội và kinh tế;
- Những tiến bộ trong việc nâng cao hiệu quả vốn vay ODA và
giảm chi phí giao dịch.
4. Cam kết tài trợ 2.838,40 tỷ USD
Năm 2004 Hội nghị CG thường niên
1. Thời gian Từ ngày 01-02/12/2004
2. Địa điểm Hà Nội (Việt Nam)
3. Trọng tâm - Những thành tựu, thách thức và tiền đề cho phát triển kinh tế xã
hội thời kỳ 2006-2010;
- Xây dựng và đổi mới nội dung kế hoạch 5 năm;
- Thành tựu trong quản lý vĩ mô, tăng trưởng kinh tế, giảm nghèo
và vai trò chỉ đạo của Chính phủ trong việc thực hiện chiến lược
CPRGS;
- Thách thức: nâng cao chất lượng tăng trưởng, bảo đảm lợi ích của
tăng trưởng được phân chia một cách rộng rãi và bình đẳng nhất;
- Chiến lược quốc gia về phòng chống HIV/AIDS và chống phân
biệt đối xử với những người có HIV/AIDS;
- Tăng cường khả năng cạnh tranh và hội nhập của Việt Nam vào
nền kinh tế toàn cầu, công tác chống tham nhũng: Thảo luận về tiến
trình và những thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO;
- Tính hiệu quả của viện trợ ODA và giảm chi phí giao dịch.
4. Cam kết tài trợ 3.440,70 tỷ USD
181
Năm 2005 Hội nghị CG thường niên
1. Thời gian Từ ngày 06-07/12/2005
2. Địa điểm Hà Nội (Việt Nam)
3. Trọng tâm - Thảo luận việc xây dựng và thực hiện: Kế hoạch phát triển kinh tế
và xã hội giai đoạn 2006-2010 và Chiến lược CPRGS;
- Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam;
- Tăng cường quản trị và điều hành, đấu tranh phòng chống tham
nhũng;
- Tăng cường hiệu quả của ODA và giảm chi phí giao dịch: thông
qua Tuyên bố Hà Nội.
4. Cam kết tài trợ 3.748,00 tỷ USD
Năm 2006 Hội nghị CG thường niên
1. Thời gian Từ ngày 15-16/12/2006
2. Địa điểm Hà Nội (Việt Nam)
3. Trọng tâm - Con đường phát triển của Việt Nam trong tương lai, nhấn mạnh
một số vấn đề quan trọng gồm: phát triển kinh tế, xóa đói giảm
nghèo, cải thiện chất lượng tăng trưởng, bảo đảm hòa nhập xã hội,
bảo vệ môi trường, cải thiện quản lý và điều hành;
- Các bước tiến hành cải cách và mở cửa nền kinh tế thông qua tạo
công ăn việc làm, tăng trưởng xuất khấu và thu hút đầu tư nước
ngoài;
- Chuyển đổi vai trò của Chính phủ sang điều tiết hoạt động doanh
nghiệp, tăng cường năng lực thể chế và phát triển nguồn nhân lực
trong bộ máy hành chính của Việt Nam;
- Đấu tranh phòng chống tham nhũng.
4. Cam kết tài trợ 4.445,60 tỷ USD
Năm 2007 Hội nghị CG thường niên
1. Thời gian Từ ngày 06-07/12/2007
2. Địa điểm Hà Nội (Việt Nam)
3. Trọng tâm - Những thuận lợi và thách thức đối với nền kinh tế khi Việt Nam
chuyển từ một quốc gia có mức thu nhập thấp sang mức thu nhập
trung bình: đấy mạnh thực hiện những cải tổ chính và tập trung vào
chất lượng tăng trưởng;
- Thiên tai và biến đổi khí hậu;
- Vai trò và việc thực hiện các cam kết của Việt Nam khi là Thành
viên Tổ chức thương mại Thế giới WTO;
182
Nguồn: Bộ KH$ĐT (2013), Báo cáo đánh giá toàn diện 20 năm quan hệ hợp tác phát
triển giữa Việt Nam và các nhà tài trợ (1993-2013), Hà nội, tr.80-85
- Cơ hội và thách thức khi Việt Nam trở thành quốc gia có thu nhập
trung bình;
- Ưu tiên cho phát triển bền vững;
- Đảm bảo hội nhập xã hội;
- Tương lai của Quan hệ đối tác phát triển khi Việt Nam gia nhập
nhóm quốc gia có thu nhập trung bình.
4. Cam kết tài trợ 7.905,51 tỷ USD
Năm 2011 Hội nghị CG thường niên
1. Thời gian Từ ngày 06-07/12/2011
2. Địa điểm Hà Nội (Việt Nam)
3. Trọng tâm - Chủ đề: Thúc đấy Tái cơ cấu kinh tế và giảm nghèo;
- Nội dung chính: Tình hình kinh tế vĩ mô Việt Nam và Chương
trình tái cơ cấu: Tình hình kinh tế vĩ mô Việt Nam năm 2011 và
định hướng 2012. Một số định hướng về Chương trình Tái cơ cấu
nền kinh tế, tái cơ cấu đầu tư công;
- Tái cơ cấu khu vực Tài chính - Ngân hàng;
- Bảo đảm an sinh xã hội và giảm nghèo: Đô thị hóa, nhập cư và
chính sách ứng phó;
- Báo cáo kết quả của Diễn đàn cấp cao Busan, Đối thoại Chống
tham nhũng, Diễn đàn Doanh nghiệp.
4. Cam kết tài trợ 7.386,77 tỷ USD
Năm 2012 Hội nghị CG thường niên
1. Thời gian Từ ngày 09-10/12/2012
2. Địa điểm Hà Nội (Việt Nam)
3. Trọng tâm Ổn định kinh tế vĩ mô Thảo luận cải tiến Hội nghị CG
4. Cam kết tài trợ 6.486,00 tỷ USD
183
PHỤ LỤC 6
ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG KẾT CẤU HẠ TẦNG ĐỒNG BỘ
1- Định hướng phát triển hạ tầng giao thông
- Về đường bộ, ưu tiên đầu tư nâng cấp và mở rộng Quốc lộ 1A, hoàn thành
phần lớn vào năm 2015 và hoàn thành toàn tuyến vào năm 2020. Duy tu và nâng cấp
để đảm bảo giao thông các tuyến quốc lộ. Đầu tư nối thông tuyến đường Hồ Chí Minh
và nâng cấp đoạn qua Tây Nguyên. Lựa chọn đầu tư những đoạn có hạ tầng yếu kém
trên tuyến đường ven biển gắn với đê biển. Nối thông tuyến đường biên giới phía Bắc,
phía Tây, Tây Nam. Nâng cấp một số tuyến giao thông hành lang kinh tế Đông Tây.
Ưu tiên đầu tư trước một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc - Nam, tuyến
nối Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh với các cửa ngõ và các đầu mối giao thông
quan trọng. Phấn đấu đến năm 2015, hoàn thành khoảng 600 km và đến năm 2020
hoàn thành đưa vào sử dụng khoảng 2.000 km đường cao tốc.
- Về đường sắt, ưu tiên nâng cấp, hiện đại hoá hệ thống tuyến đường sắt Bắc -
Nam hiện có. Nghiên cứu các phương án khả thi đường sắt tốc độ cao để có kế hoạch
đầu tư xây dựng phù hợp. Phát triển đường sắt đô thị, đường sắt nội ngoại ô tại Hà Nội
và Thành phố Hồ Chí Minh. Nghiên cứu đầu tư mới tuyến đường sắt khổ 1,435 m nối
Thành phố Hồ Chí Minh với thành phố Cần Thơ và Thành phố Hồ Chí Minh với thành
phố Vũng Tàu.
- Về đường thuỷ nội địa, nâng cấp các tuyến đường thuỷ nội địa chính; tăng
chiều dài các đoạn tuyến sông được quản lý khai thác. Nâng cấp và xây dựng mới một
số cảng đầu mối, bến hàng hoá và hành khách ở đồng bằng Sông Cửu Long và đồng
bằng Sông Hồng. Ưu tiên hoàn thành nâng cấp các tuyến ở đồng bằng Sông Cửu Long
kết nối với Thành phố Hồ Chí Minh; các tuyến sông Tiền, sông Hậu, sông Hồng, sông
Thái Bình.
- Về cảng biển quốc gia, rà soát, điều chỉnh quy hoạch, tiếp tục đầu tư phát triển
hệ thống cảng biển quốc gia, các cảng cửa ngõ quốc tế, các bến cảng nước sâu tại ba
vùng kinh tế trọng điểm có khả năng tiếp nhận các tàu container thế hệ mới. Ưu tiên
đầu tư đồng bộ, hiện đại hai cảng biển cửa ngõ quốc tế Lạch Huyện (Hải Phòng) và
cảng Cái Mép - Thị Vải (Bà Rịa - Vũng Tàu); khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài
đầu tư phát triển cảng trung chuyển quốc tế Vân Phong (Khánh Hoà).
- Về cảng hàng không, ưu tiên đầu tư nâng cấp đồng bộ, hiện đại 5 sân bay quốc
tế: Nội Bài, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Cần Thơ, Cam Ranh. Xây dựng cảng
184
hàng không quốc tế Nội Bài trở thành cảng cửa ngõ quốc tế của miền Bắc. Huy động
nguồn vốn ODA và khuyến khích hợp tác công tư để đầu tư xây dựng mới cảng trung
chuyển hàng không quốc tế Long Thành.
- Ưu tiên đầu tư nâng cấp các công trình giao thông quan trọng trong hệ thống
giao thông của khu vực phía Bắc, Tây Bắc và vùng đồng bằng Sông Cửu Long. Kết
hợp phát triển hạ tầng giao thông đường bộ với phát triển một số lĩnh vực khác như
thuỷ lợi, ứng phó với biến đổi khí hậu; kết hợp giữa phát triển giao thông với xây dựng
nông thôn mới.
2- Định hướng phát triển hạ tầng cung cấp điện
Thực hiện đúng tiến độ các nhà máy điện theo Quy hoạch điện 7, ưu tiên các
nhà máy có công suất từ 1.000 MW trở lên. Phát triển cân đối công suất nguồn trên
từng miền: Bắc, Trung, Nam. Ưu tiên phát triển nguồn điện năng lượng mặt trời, điện
gió; nghiên cứu đưa nhà máy thuỷ điện tích năng vào vận hành phù hợp với sự phát
triển của hệ thống điện.
Tập trung đầu tư phát triển các nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận I và Ninh
Thuận II, bảo đảm đến năm 2020, đưa tổ máy điện hạt nhân đầu tiên vào vận hành,
đến năm 2030, nguồn điện hạt nhân có tổng công suất 10.700 MW.
Phát triển lưới điện truyền tải đồng bộ, phù hợp với tiến độ vận hành các nhà
máy điện. Nghiên cứu áp dụng lưới điện thông minh, công nghệ hiện đại nhằm nâng
cao chất lượng lưới điện phân phối; kết nối, hoà mạng đồng bộ hệ thống điện Việt
Nam với hệ thống điện các nước trong khu vực.
Thực hiện sử dụng điện tiết kiệm và hiệu quả. Phấn đấu giảm hệ số đàn hồi
điện/GDP còn 1,0 vào năm 2020.
3- Định hướng phát triển hạ tầng thuỷ lợi và ứng phó với biến đổi khí hậu
Tập trung đầu tư nâng cấp các hệ thống thuỷ lợi hiện có, hiện đại hoá thiết bị
điều khiển vận hành để phát huy công suất thiết kế và nâng cao năng lực phục vụ.
Xây dựng và củng cố hệ thống đê biển, đê sông, đê cửa sông, các trạm bơm, các công
trình ngăn mặn, xả lũ, giữ ngọt, tiêu úng thích ứng với điều kiện biến đổi khí hậu,
nước biển dâng, đặc biệt là đồng bằng Sông Cửu Long, đồng bằng Sông Hồng và vùng
ven biển Trung Bộ. Xây dựng các công trình điều tiết, kiểm soát lũ vùng đồng bằng
Sông Cửu Long, vùng duyên hải miền Trung, kiểm soát triều, bảo đảm tiêu nước cho
các đô thị lớn, an toàn cho sản xuất và dân sinh. Đầu tư hoàn thiện hệ thống
cảnh báo thiên tai, bão, lũ, triều cường, động đất, sóng thần trong cả nước.
185
Tiếp tục đầu tư nâng cấp, xây dựng các công trình thuỷ lợi nhỏ và công trình
cấp nước sinh hoạt ở các vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo. Phát
triển thuỷ lợi phục vụ nước sinh hoạt, nuôi trồng thuỷ sản và cải tạo môi trường vùng
ven biển. Đầu tư các công trình thuỷ lợi quan trọng ở Tây Nguyên, Tây Bắc và các
công trình thuỷ lợi kết hợp phòng, chống lũ khu vực miền Trung, đồng bằng Sông Cửu
Long.
Xây dựng phương án thích hợp và từng bước đầu tư bảo đảm nguồn cấp nước
cho đô thị và công nghiệp khu vực đông bắc Bắc Bộ, đồng bằng Sông Hồng, đồng
bằng Sông Cửu Long, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, vùng kinh tế trọng điểm
miền Trung.
4- Định hướng phát triển hạ tầng đô thị
Dành đủ quỹ đất cho giao thông theo quy định khi xây dựng các khu đô thị mới.
Ưu tiên cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới các tuyến chính ra vào thành phố, các trục
giao thông hướng tâm, nút giao lập thể tại các giao lộ lớn, các tuyến tránh đô thị, các
đường vành đai đô thị và các cầu lớn tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Phát triển vận tải hành khách công cộng, hiện đại, cả đường bộ, đường sắt trên
cao, đường ngầm và giao thông tĩnh, nhất là các hình thức vận tải khối lượng lớn, hệ
thống giao thông thông minh, phấn đấu đến năm 2020 đạt tỉ lệ đảm nhận vận chuyển
khoảng 25 - 30% hành khách công cộng. Phát triển một số công trình hạ tầng đô thị
lớn, hiện đại về giao thông, cung cấp điện, cấp thoát nước... tại Hà Nội và Thành phố
Hồ Chí Minh.
Xây dựng các nhà máy cung cấp nước sạch cho các đô thị trong cả nước, hệ
thống thoát nước và xử lý nước thải, xử lý chất thải rắn ở các thành phố lớn và các
trung tâm vùng. Từng bước giải quyết tình trạng úng ngập khu vực nội đô. Nghiên cứu
đầu tư hệ thống đê ven biển, công trình thuỷ lợi ven sông Sài Gòn, hệ thống cống ngăn
triều, kiểm soát lũ, bảo đảm tránh ngập nước do thuỷ triều tại Thành phố Hồ Chí
Minh, Cần Thơ.
Đến năm 2015, tỉ lệ cấp nước sạch tại các đô thị từ loại III trở lên đạt 90%, các
đô thị loại IV đạt 70%; khắc phục tình trạng ngập úng thường xuyên trong mùa mưa ở
các đô thị loại II trở lên; khoảng 85% tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt đô thị được
thu gom và xử lý bảo đảm môi trường. Đến năm 2020, tỉ lệ cấp nước đối với các đô thị
loại IV trở lên đạt 90%, các đô thị loại V đạt 70%; khắc phục cơ bản tình trạng ngập
úng tại các đô thị từ loại IV trở lên; 95% tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt được thu
gom và xử lý bảo đảm môi trường.
186
5- Định hướng phát triển hạ tầng khu công nghiệp, khu kinh tế
Phát triển đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, khu kinh tế. Không lấy
đất lúa để xây dựng các khu công nghiệp mới. Đến năm 2015, giải quyết cơ bản tình
trạng thiếu nhà ở và các hạ tầng xã hội thiết yếu như nhà trẻ, mẫu giáo, trường học, cơ
sở khám chữa bệnh… cho lao động các khu công nghiệp. Đến năm 2020, hoàn chỉnh
các công trình kết cấu hạ tầng trong các khu công nghiệp, khu kinh tế, đặc biệt là các
công trình hạ tầng xã hội và xử lý nước thải, rác thải.
6- Định hướng phát triển hạ tầng thương mại
Phát triển hạ tầng thương mại tại các trung tâm sản xuất và tiêu thụ hàng hoá
lớn tại các cảng cửa ngõ, các khu kinh tế cửa khẩu. Phát triển các chợ đầu mối nông
sản, các trung tâm phân phối lớn, trung tâm bán buôn theo nhóm hàng nông sản, các
cửa hàng tiện lợi ở nông thôn; các cửa hàng chuyên doanh, siêu thị và trung tâm
thương mại, trung tâm mua sắm tại các đô thị lớn, đô thị trung tâm vùng, các thành
phố, tỉnh lỵ.
Đẩy nhanh việc xây dựng trung tâm hội chợ triển lãm thương mại cấp quốc gia,
nâng cấp các trung tâm hội chợ triển lãm thương mại hiện có tại các thành phố lớn.
Xây dựng các trung tâm hội chợ triển lãm thương mại quy mô vừa tại các tỉnh, thành
phố có vị trí trung tâm vùng. Phát triển nhanh hệ thống thương mại điện tử.
7- Định hướng phát triển hạ tầng thông tin
Phát triển mạnh hệ thống kết nối đa dạng với quốc tế, hình thành siêu xa lộ
thông tin trong nước và liên kết quốc tế; tăng cường quản lý thông tin trên mạng
Internet, các mạng xã hội và blog cá nhân. Tiếp tục phát triển vệ tinh viễn thông, đưa
vệ tinh Vinasat-2 vào hoạt động trước năm 2015; xây dựng khu công nghệ thông tin
trọng điểm quốc gia.
Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về công dân, đất đai, nhà ở, doanh nghiệp, làm
cơ sở cho việc ứng dụng công nghệ thông tin quản lý các nguồn lực phát triển đất
nước. Đẩy nhanh tiến trình thực hiện thẻ công dân điện tử, Chính phủ điện tử và cam
kết ASEAN điện tử.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý, khai thác, vận hành hệ
thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và toàn bộ nền kinh tế. Coi thúc đẩy phát triển và
ứng dụng công nghệ thông tin là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu trong lộ trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá trong từng ngành, từng lĩnh vực. Phát triển mạnh công nghiệp công
nghệ thông tin, thúc đẩy ngành công nghiệp phần mềm phát triển nhanh, bền vững.
187
Nâng cao năng lực làm chủ công nghệ và hiệu lực, hiệu quả quản lý hệ thống hạ
tầng thông tin, nội dung thông tin phục vụ lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của Đảng, Nhà
nước; đáp ứng yêu cầu cung cấp, trao đổi thông tin của xã hội, thúc đẩy phát triển kinh
tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh; bảo đảm an toàn, an ninh thông tin, chủ
quyền quốc gia về không gian mạng.
Nguồn: Trích Nghị quyết số 13-NQ/TW Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa XI về Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta
cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.