genou 2

41
_CLB195 suy tâm _ Khai thác tGenou.com.vietnam Khp gi Bánh chè - DIDT - Đục xương sa trc (Ostéotomies) Gii phu Phân loi - Thay khp (prothèses) Đau bánh chè Viêm gân khp gi Triu chng Viêm gân bánh chè: điu trngoi khoa Thăm khám đin quang Điu trKhp gi trem Điu trdpḥng - Bnh Sinding Larsen Kết lun Gy xương Bánh chè lng lo Hình nh Mô tCng hưởng t(IRM) Phu thut gi - Ni soi khp gi

Upload: sangbsdk

Post on 22-Jun-2015

2.351 views

Category:

Education


3 download

DESCRIPTION

khop goi 2

TRANSCRIPT

Page 1: Genou 2

_CLB195 suy tâm _ Khai thác từ Genou.com.vietnam

Khớp gối

Bánh chè - DIDT

- Đục xương sửa trục (Ostéotomies)

Giải phẫuPhân loại

-Thay khớp (prothèses)Đau bánh chè Viêm gân khớp gối Triệu chứng Viêm gân bánh chè: điều trị ngoại khoa

Thăm khám điện quangĐiều trị Khớp gối ở trẻ em Điều trị dự ph ng - Bệnh Sinding Larsen Kết luận

Gẫy xươngBánh chè lỏng lẻo Hình ảnh Mô tả Cộng hưởng từ (IRM) Phẫu thuật gối

- Nội soi khớp gối

Page 2: Genou 2

_CLB195 suy tâm _ Khai thác từ Genou.com.vietnam

Giải phẫu bánh chè Bánh chè là một xương vừng lớn nhất trong hệ xương của cơ thể. Xương vừng là một cấu trúc xương nằm trong gân và trượt trên mặt khớp. Nó nằm ở vị trí tận cùng của gân cơ tứ đầu (cơ này nằm trước đùi, là cơ khoẻ nhất trong cơ thể). Như thế, gân cơ tứ đầu nằm ở phía trên của bánh chè phần gân dưới xương bánh chè kéo dài xuống tạo nên gân bánh chè. Bao phủ toàn bộ hai gân và xương bánh chè là một lớp vỏ bằng xơ sợi. Hai bên của xương bánh chè toả ra hai dây chằng gọi là cánh bên của xương bánh chè (cánh ngoài và cánh trong). Bánh chè có vai tr bảo vệ gân cơ tứ đầu, nó làm tăng cánh tay đn của gân này v thế tăng lực tác dụng của cơ tứ đầu lên xương chày (nếu lấy xương bánh chè th lực gấp gối giảm đi 30 %)

rothèse du genou

Phân loại

Bệnh lư của bánh chè chia làm hai tnh trạng:

Bánh chè đau: đau là dấu hiệu chủ quan của người bệnh, nó biểu hiện ban đầu của không vững xương bánh chè, nhưng chưa có dấu hiệu trật xương bánh chè.

Không vững xương bánh chè: trên phim chụp điện quang, chỉ cho ta thấy dấu hiệu bất thường của bánh chè, nó không nằm ở vị trí b nh thường của nó

Page 3: Genou 2

_CLB195 suy tâm _ Khai thác từ Genou.com.vietnam

Phân loại này chỉ có ư nghĩa định hướng cho điều trị. Bánh chè đau th cần phải điều trị nội khoa. Chỉ định phẫu thuật chỉ đưa ra khi bánh chè không vững . Ngay khi mà không bao giờ trật nhưng điều trị thuốc thất bại cũng cần phải chỉ định mổ. Ngược lại, nếu trật lần đầu th điều trị nội khoa, nếu trật nhiều lần th mới cần có chỉ định ngoại khoa.

Triệu chứng đau bánh chè Đau bánh chè được biết đến từ lâu:

Thường gặp ở nữ giới tuổi đang phát triển từ 12 đến 18 tuổi, đây là giai đoạn thay đổi cấu trúc cơ thể (dậy th) và tăng cường hoạt động thể lực (thể thao,...). Bánh chè có thể đau khi chơi lại thể thao, sau một thời gian nghỉ kéo dài, hay do trọng lượng co thể tăng lên.

Đau:

Đau nhiều nhưng chỉ nhận thấy khi nghỉ ngơi. Nó có thể đau ở một gối, nhưng thường bị cả hai gối, hay cũng có thể thay đổi từ gối nọ sang gối kia. Vị trí đau bao giờ cũng ở phía trước, đôi khi bên trong, giống như là đau trong sụn chêm trong. Nó có thể cảm giác đau phía sau gối, hay kích thích tất cả vùng quanh khớp gối. Đau thay đổi theo mùa và thay đổi theo vị trí. Không phải đau nào cũng như nhau ngay cả ở cùng một vị trí. Khớp đùi - bánh chè (fémoro-patellaire) cũng đau tăng khi gấp gối. Khả năng chịu lực nén của bánh chè giảm đi. Đau khi ngồi xổm, nhất là ngồi lâu, ngồi bó gối lâu ( xem phim, trên ô tô,...)khi đứng khỏi ghế phải dùng tay chống, đó là triệu chứng hay gặp. Lên cầu thang thấy khó nhọc, nhất là khi xuống cầu thang có cảm giác không vững. Đau có cảm giác như là bỏng, kim châm,

Page 4: Genou 2

_CLB195 suy tâm _ Khai thác từ Genou.com.vietnam

Kẹt khớp:

Kẹt khớp do xương bánh chè có một đặc điểm riêng biệt. Thực tế, nó là kẹt khớp giả, rất khác với kẹt khớp do sụn chêm. Nó thường thấy trong khi xuống cầu thang, hay ở tư thế ngồi lâu. Nó kéo dài một vài ngày, không bao giờ có dấu hiệu "crac giải phóng". Gấp hạn chế nhưng duỗi lại b nh thường.

Không vững:

Nó có thể thấy trong bánh chè đau. Về định nghĩa, nó không thật đúng là trật bánh chè. Cần phải phải phân biệt với không vững bánh chè nguyên nhân do dây chằng. Khám có thể cảm thấy lỏng cơ (cơ tứ đầu), là nguyên nhân gây đau, trục của bánh chè b nh thường, không thể đẩy trật bánh chè ra ngoài được.

Tiếng động trong khớp:

Có thể chỉ thấy dấu hiệu này khi khám. Người ta cảm thấy tiếng cọ sát, tiếng crac, hay những tiếng lạo xạo giống như cát trong khớp, hay tiếng nghiền bánh m nướng (biscottes). Dấu hiệu này không bao giờ biểu hiện cho t nh trạng nặng.

Gối sưng:

Rất hiếm, đôi khi rất kín đáo, khi gối sưng to cần phải t m chẩn đoán khác. Bệnh nhân có thể có cảm giác là gối sưng, nhưng nh n xung quanh không thấy sưng.

Khám gối:

Ngay cả khi có thể chẩn đoán được sau khi hỏi bệnh, việc khám gối vẫn cần thiết. Nó cho phép khẳng định bệnh ở bánh chè và t m kiếm các đặc điểm bệnh lư để đưa ra các phương pháp điều trị. Khi khám cần phải phân tích khối cơ, lực kéo, độ mềm,.... Nó cho phép loại trừ các chẩn đoán khác như dây chằng , hay sụn chêm

Chụp điện quang bánh chè

Page 5: Genou 2

_CLB195 suy tâm _ Khai thác từ Genou.com.vietnam

Chụp điện quang thường là đủ. Chụp hai gối thẳng và nghiêng ở tư thế gấp 60 độ, chụp bộc lộ khớp đùi- bánh chè ở tư thế 30 độ tiếp tuyến với khớp. Cuối cùng phải chụp phim nghiêng ở tư thế duỗi, có co cơ tứ đầu để tm dấu hiệu không vững của bánh chè.

Chụp phim bánh chè tư thế 30 độ tư thế gấp, co cơ tứ đầu (hnh ở bên phải trên cao) bánh chè như vậy có h nh dạng và vị trí b nh thường ,

bánh chè hơi lệch nhẹ ra ngoài coi như là b nh thường, nhất là ở phụ nữ

Điều trị đau xương bánh chèLuyện tập phục hồi chức năng là trọng tâm của phương pháp. Trong lĩnh vực phục hồi chức năng, để giảm đau tối đa, mọi phương tiện giảm đau đều có thể áp dụng . Chống viêm phần lớn không có hiệu quả. Có thể chỉ cần dùng paracetamol, hay các chế phẩm của nó, aspirine đôi khi lại có tác dụng. Các biện pháp giảm đau tại chỗ có thể được sử dụng v nó giúp cho việc luyện tập. Tiêm gây tê tại chỗ nhiều lần cần phải thận trọng, có thể hnh thành vùng đau đặc biệt.

Cố định, băng chun hay nẹp gối, có thể giúp gối khoẻ thêm. Về mặt tâm lư cần phải động viên bệnh nhân, điều đó rất quan trọng, nhưng không được rút ngắn điều trị. Bánh chè muốn khỏi phải áp dụng nhiều biện pháp tổng hợp, điều trị cần phải được kiểm soát thường xuyên, thay đổi tuỳ theo hiệu quả của phương pháp. Không phải bắt buộc là cứ 10 buổi tập, không cần chính xác như vậy, Cần giải thích phải quay vng luyện tập cho tới khi nào khỏi th thôi. V điều trị thuốc cũng như là phẫu thuật kết quả thường kém

Đôi khi cần phải điều trị tại các trung tâm luyện tập. Việc điều trị có thể tóm lại bằng luyện tập phục hồi chức năng. Bài tập cần được phù hợp với từng trường hợp. Nguyên nhân thất bại của điều trị là thực hiện các kỹ thuật lẫn lộn, không tính đến bệnh học và trước hết là đặc điểm của bệnh nhân. Việc điều trị bao giờ cũng kết thúc thời kỳ luyện tập tăng sức mạnh, với mục

Page 6: Genou 2

_CLB195 suy tâm _ Khai thác từ Genou.com.vietnam

Xoa bóp:

Nó hay bị bỏ quên mặc dù là rất quan trọng, nó chuẩn bị rất tốt cho hoạt động của cơ, day điểm đau nhiều lần làm dịu bớt đau. Kỹ thuật viên sử dụng các động tác xoa bóp và tâm lư nhẹ nhàng với bệnh nhân. Xoa bóp chính là cn để kéo dài cơ.

Vật lư trị liệu:

Vật lư trị liệu có nhiều phương pháp(siêu âm, ion hóa, sóng ngắn, laser, từ trường,....) mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng, nhưng chúng đều có một chức năng là chống lại đau và phản ứng viêm. Các phương pháp này có hiệu quả, nhưng luyện tập th không một phương pháp vật lư trị liệu nào có thể thay thê được.

Trườm lạnh liệu pháp:

Có tác dụng giảm đau, chỉ cần áp dụng biện pháp cơ học cho thuận tiện. Cần phải bắt buộc làm sau mỗi buổi tập.

Tắm liệu pháp:

Nó rất có tác dụng với hội chứng bánh chè rất đau. Nó chuẩn bị các cơ tốt hơn, cũng cho phép đáp ứng các bài tập yêu cầu.

Luyện tập cơ:

Cần có bài tập thích hợp với từng trường hợp đau bánh chè.

Luyện tập cơ tứ đầu, cơ ở phía trước đùi, phải tâp lệchchú ư ưu tiên tập nhiều phần bên trong ( cơ rộng trong) . Làm tăng sức co của cơ này khi gấp duỗi làm khỏi bệnh của khớp. Có hai yếu tố phải chú ư:

1- Không đươc tập cả cơ tứ đầu một cách có hệ thống, cần phải tăng cường lệch về cơ ưu tiên

2- Làm việc ở tư thế duỗi , không quá bắt buộc.Trong một vài trường hợp luyện tập động chỉ ở trong tư thế duỗi 0 - 30 độ , lại được hiệu quả.

Kéo dài gân tứ đầu bao giờ cũng cần thiết, đôi khi nó chỉ có hiệu quả với cơ này.

Page 7: Genou 2

_CLB195 suy tâm _ Khai thác từ Genou.com.vietnam

Dải chậu chày, cơ ở phía sau đùi, cần làm cho khoẻ lên. V các cơ này chống lại quá duỗi của gối, thấy trong các bệnh của bánh chè. Kéo dài các cơ này cũng rất quan trọng.

Bắp chân cũng có vai tr quan trọng nó đối lại với áp lực của bánh chè do sự co của cơ tứ đầu (như xuống cầu thang). Nó cũng cần phải làm khoẻ thêm và mềm ra.

Page 8: Genou 2

_CLB195 suy tâm _ Khai thác từ Genou.com.vietnam

Một vài bài tập kéo dài gân được làm với kỹ thuật viên

Page 9: Genou 2

_CLB195 suy tâm _ Khai thác từ Genou.com.vietnam

Người kỹ thuật viên đóng vai tr như là người hướng dẫn. việc kéo dài cơ phải do bệnh nhân chủ động tự luyện tập mới có hiệu quả.

Luyện tập thăng bằng:

Đây luyện tập lấy lại cân bằng, cụ thể hơn, đó là luyện tập các cơ trong tư thế mất cân bằng. Hội chứng bánh chè làm giảm khả năng đồng bộ khi chuyển động của chi dưới, cơ quan vận động hoạt động được ăn ư là rất quan trọng.

Phục hồi các bài thể thao

Đây là cơ bản, hội chứng bánh chè không thể khỏi hẳn sau khi kết thúc luyện tập mà chỉ khỏi sau khi lấy lại được hoạt động thể lực. Việc vẫn c n đau khi chơi lại thể thao không phải là dấu hiệu thất bại của điều trị. Hệ thống duỗi cần phải tuân thủ nghiêm các nguyên tắc. Miễn hoạt động thể thao, sau đó chơi lại một cách từ từ. Thực tế, dừng hoạt động thể thao trong

Page 10: Genou 2

_CLB195 suy tâm _ Khai thác từ Genou.com.vietnam

Điều trị dự phòngMột vài tư thế hay thói quen xấu cũng là nguyên nhân gây nên hội chứng bánh chè. Hỏi bệnh cần tm hiểu có các thói quen xấu này không để tránh. Vệ sinh thường thức bánh chè cần cho bệnh nhân biết như tư thế gối gấp lâu quá là không tốt.

Tư thế ngồi tỳ lên hai gót thường thấy ở trẻ gái là một yếu tố làm tăng sức ép lên bánh chè. Nó phải bị cấm.

Page 11: Genou 2

_CLB195 suy tâm _ Khai thác từ Genou.com.vietnam

Cũng giống như tư thế trên ngồi gấp gối lâu sẽ gây nên hội chứng bánh chè

Kết luậnNh n chung, hội chứng bánh chè đau không vững thực sự là một vấn đề khó. Việc cải thiện t nh trạng bệnh phải mất nhiều tuần, có thể tới vài

tháng, đau thường dai dẳng trong suốt quá tŕnh điều trị.

Đau bánh chè, không trật th điều trị nội khoa có thể khỏi, việc điều trị phải phù hợp với từng cá nhân

Bánh chè không vững Đây là t nh trạng bánh chè bị trật, hay đau, khám gối, đặc biệt trên điện quang, sẽ làm thấy rơ một trong những bất thường của bánh chè và cấu trúc bám trên nó (cơ tứ đầu, gân bánh chè, cánh bên bánh chè)

Trật bánh chè

Đây gọi là trẹo gối, khi gối vận động xoắn vặn mạnh bánh chè trượt sang bên và nghe tiếng kêu crac, gối sưng lên nhanh chóng. Bệnh nhân cảm thấy có cái g đó bị trật khỏi vị trí b nh thường, khi đến khám bánh chè có thể vẫn trong t nh trạng trật, nhưng phần lớn các trường hợp đều tự trở lại vị trí cũ sau khi bệnh nhân tự duỗi chân.

Page 12: Genou 2

_CLB195 suy tâm _ Khai thác từ Genou.com.vietnam

Bánh chè trật ngoài Bánh chè trở lại vị trí ban đầu, tự nắn

Hình ảnh điện quang của trật bánh chè

Thăm khám:

Ngoài trật bánh chè như trên, một hội chứng bánh chè điển hnh có thể tm thấy, nhưng gối không đau. Hỏi bệnh cho phép h nh dung được tai nạn gây trật. Thăm khám cho thấy bánh chè không vững, nhưng chỉ có chụp phim mới cho phép chuẩn đoán .

Page 13: Genou 2

_CLB195 suy tâm _ Khai thác từ Genou.com.vietnam

Trên phim này ở tư thế gối gấp 30 độ, bánh chè ở tư thế trật ra ngoài và rất không vững

Trên phim này xương đùi xương chày và xương mác đúng ở tư thế nghiêng, nhưng bánh chè ở tư thế chếch 3/4 , như thế tức là nó bị lệch, và không

vững

Nội soi khớp gối Vincent CHASSAING

Jérôme LEMOINE Phẫu thuật viên chỉnh hnh

Page 14: Genou 2

_CLB195 suy tâm _ Khai thác từ Genou.com.vietnam

Nội soi khớp gối là một kỹ thuật ít sang chấn, cho phép thực hiện một số những thủ thuật ngoại khoa ở gối. Nhưng đôi khi

cũng chỉ đơn giản là để chuẩn đoán các bệnh của khớp gối.

I - KỸ THUẬT

Nội soi khớp được thực hiện trong nhà mổ, gây mê toàn thân hay gây mê ngoài màng cứng. Ống soi khớp là một ống có đường kính vài mm, bao gồm hệ thống các ống kính nhỏ và hệ thống dẫn ánh sáng; hệ thống này nối với máy quay phim (camera video) nhờ một thiết bị nhỏ lắp vào ống nội soi , sau đó hiển thị hnh ảnh lên màn h nh.

Ống soi khớp được đặt vào trong khớp gối qua một vết rạch nhỏ; ngoài ra cũng cần thêm một hay nhiều lỗ khác để đưa dụng cụ mổ vào trong khớp. Trong quá tŕnh soi, hoặc làm thủ thuật, khớp gối sẽ được bơm căng nên bởi dung dịch huyết thanh sinh lư

II - CHỈ ĐỊNH NỘI SOI KHỚP GỐI

Chỉ định của nội soi khớp gối được ghi rơ trong ANDEM (Agence Nationale pour le Développement de l'Evaluation Médicale) (Văn phng quốc gia về phát triển và đánh giá Y tế)(2), và trong " Hội thảo thống nhất chung các ư kiến" (Conference de Consensus) ngày 7 tháng 10 năm 1994

A - Mổ nội soi khớp:

Page 15: Genou 2

_CLB195 suy tâm _ Khai thác từ Genou.com.vietnam

Có thể áp dụng nội soi khớp để làm một số thủ thuật ngoại khoa trong khớp gối mà không cần phải mở khớp, nhờ các dụng cụ mổ nhỏ nhưng có độ chính xác cao.Các thủ thuật có thể là:

- Cắt bỏ sụn chêm (ménisques) : lấy đi một phần sụn chêm thương tổn cho tới vị trí giới hạn của sụn chêm bnh thường và bảo tồn tối đa phần c n lại. Nội soi gối cũng có thể áp dụng để khâu sụn chêm trong một số ít trường hợp khi thương tổn cho phép bảo tồn.

-Sụn khớp: Sửa chữa các phần sụn khi nó bị bong ra, không đều đặn, quá sản. Khi cần có thể can thiệp cả vào xương ở phía dưới của sụn, như đục lấy bỏ mảnh xương sụn.

-Bao khớp: Cắt các chỗ dính, cắt nếp bao hoạt dịch dày lên ( plica ), lấy bỏ một phần của bao hoạt dịch.

- Nội soi có thể cho phép lấy bỏ những mảng xương hay mảnh xơ sụn trong khớp (dị vật khớp)

-Cuối cùng nội soi khớp c n được sử dụng trong các phẫu thuật lớn, đặc biệt là điều trị đứt các dây chằng chéo, một vài trường hợp vỡ mâm chày,... Do không phải mở khớp nên can thiệp ít bị chấn thương hơn.

B - Nội soi chẩn đoán:

Không hiếm những trường hợp cần phải dùng nội soi khớp để t m kiếm nguyên nhân của các rối loạn chức năng khớp gối (đau, tràn dịch khớp gối, kẹt khớp, không vững,,...). Thực tế là phần lớn các trường hợp đều có thể chẩn đoán được nhờ thăm khám lâm sàng, làm các xét nghiệm hiện đại (chụp điện quang, chụp cắt lớp, chụp cộng hưởng từ,...), nên nội soi chẩn đoán chỉ được đặt ra khi các biện pháp trên không đủ để khẳng định chẩn đoán. Nội soi khớp gối cho phép quan sát được:

• Khoang khớp • Sụn chêm ( trong, ngoài) • Sụn khớp( của bánh chè, xương đùi, xương chày) • Màng bao hoạt dịch ( túi cùng xung quanh khớp) • Các dây chằng chéo

V - CÁC BIẾN CHỨNG CỦA NỘI SOI KHỚP GỐI

Những biến chứng của nội soi rất hiếm, cn ít hơn cả những phẫu thuật kinh điển. Nhưng đă là phẫu thuật, cho dù cả những phẫu thuật nhỏ cũng phải đề

Page 16: Genou 2

_CLB195 suy tâm _ Khai thác từ Genou.com.vietnam

1- Các biến chứng trong khi nội soi khớp

a- Biến chứng do gây mê Không có một loại biến chứng nào đặc trưng cho phẫu thuật nội soi khớp

b- Biến chứng tại chỗ:

Biến chứng mạch máu: tổn thương động mạch hoặc tĩnh mạch khoeo cực kỳ hiếm gặp (0,003% với nội soi khớp), nhưng lại là biến chứng rất nặng

Biến chứng thần kinh: Xuất hiện vùng mất cảm giác trên da hoặc vùng có cảm giác kiến b khu trú, có thể thấy do thương tổn một vài nhánh thần kinh cảm giác nhỏ nằm ở dưới da ngay vị trí sẹo. Nh n chung, cảm giác khó chịu giảm dần đi theo thời gian. Thương tổn nặng hơn th rất hiếm.

Bong dây chằng bên : Bong dây chằng bên trong thường gặp hơn, mà nguyên nhân do phải nghiêng xương chày vào ra ngoài so với xương đùi quá mạnh để bộc lộ sụn chêm trong, trong quá tŕnh nội soi.

Gẫy dụng cụ: Những dụng cụ sử dụng rất dễ vỡ và có thể gẫy trong khi phẫu thuật viên đang mổ

2- Những biến chứng sau mổ:

Biến chứng tắc mạch: Tắc tĩnh mạch không phải là biến chứng riêng của nội soi. Nó rất hiếm gặp (0,12%) cho dù đă được điều trị chống đông dự phng. Nó có thể đưa tới tắc mạch phổi là nguyên nhân gây tử vong ( 0,003%).

· Viêm khớp : Là viêm khớp sau mổ. Tỷ lệ ít hơn 0,5% trong tất cả các nội soi khớp. Điều trị cần phải can thiệp lại, rửa khớp bằng nội soi, và điều trị kháng sinh phù hợp.

· Máu tụ trong khớp: Biểu hiện là tràn máu khớp gối nhiều, đau trong khớp. Tỷ lệ (0,5%) điều trị cần phải chọc hút và thường rửa khớp.

· Tràn dịch khớp gối: Là hiện tượng dịch trong khớp gối tăng tiết nhiều và tái phát. Nếu tnh trạng kéo dài cần phải tiêm corticoide vào trong khớp.

· Cục sẹo : Có thể thấy một cục sẹo giống như một khối u nhỏ ở trên sẹo. Thông thường nó sẽ tự khỏi, rất ít khi phải mổ để lấy nó đi.

Page 17: Genou 2

_CLB195 suy tâm _ Khai thác từ Genou.com.vietnam

· Hội chứng thoái hoá thần kinh giao cảm ( algodystrophique), Biến chứng này rất hiếm nhưng không phải là đặc trưng riêng cho nội soi khớp, nó biểu hiện bằng đau và cứng khớp. Tiến triển của nó kéo dài từ 12 đến 18 tháng. Thường th điều trị khỏi hẳn.

3- Kết quả không như mong muốn

Kết quả của can thiệp có thể không được như mong muốn. Nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố, đặc biệt là t nh trạng bệnh lư, tổn thương cũ, những bệnh phối hợp, tuổi già, trọng lượng cân nặng, khả năng hoạt động,...

Sự liệt kê và mô tả trên đây giúp chúng ta không quên các biến chứng của nội soi gối (mặc dù là rất hiếm và nhẹ), hơn nữa nên biết là nội soi khớp c n làm giảm đi các nguy cơ biến chứng của các can thiệp vào khớp gối.

Nhờ nội soi khớp gối phẫu thuật khớp gối có những tiến bộ vượt bậc. Nội soi cho phép can thiệp chính xác, có những ưu điểm lớn trong phẫu thuật : đặc biệt là ít đau, thời gian nằm viện ngắn , săn sóc tiếp theo sau mổ đơn giản

Tái tạo dây chằng chéo trước bằng gân cơ thẳng trong (DI) và gân cơ bán gân (DT)

Vincent Chassaing ------- Jérôme Lemoine

Phẫu thuật viên chỉnh hnh

Nguyên tắc chính của phẫu thuật là tái tạo lại dây chằng chéo bằng cách sử dụng gân ghép được lấy ở trên cùng bệnh nhân (ghép tự thân) và đặt lại chính xác vào vị trí giải phẫu của dây chằng bị hỏng. Dây chằng mới nằm ở trong khớp, giữa hai đường hầm được tạo nên ở trong xương chầy và xương đùi.

Tất cả các th trong khớp được thực hiện dưới sự dám sát của nội soi, nó cho phép tránh mở gối và cũng làm sẹo mổ nhỏ lại.

Gân ghép (greffe)

Page 18: Genou 2

_CLB195 suy tâm _ Khai thác từ Genou.com.vietnam

Cơ thẳng trong (cơ thon) và cơ bán gân là hai cơ gần như nhau, nó cùng với cơ thứ 3 là cơ may tạo nên một nhóm cơ gọi là "cơ chân ngỗng" « la patte d’oie». Nó c n có tên gọi khác là nhóm cơ chậu chày. Chúng nằm ở phía trong của đùi. Gân của các các cơ này rất dài, chạy bám từ mặt trong của xương chày sau đó bắt chéo gối chạy lên phía trên. H nh vẽ bên mô tả gân và bụng cơ của chúng.

Gân có thể được lấy ra bằng một đường rạch nhỏ, và sử dụng một dụng cụ là « stripper », để tách cơ dọc theo suốt chiều dài của nó.

Ở mỗi gân sau khi lấy th gập lại làm hai, như thế dây chằng mới sẽ bao gồm 4 bó chắc chắn, dai hơn cả dây chằng chéo trước (LCA) b nh thường

Mảnh gân lấy ra từ hai cơ Cái stripper Mảnh ghép gồm bốn bó

Những hậu quả của việc lấy mảnh ghép gân cơ thẳng trong và gân cơ bán mạc là g ?

Hai cơ này có vai tr gấp cẳng chân vào đùi, nhưng hoạt động của nó chỉ phụ trợ thêm cho những cơ gấp khác. Như thế việc lấy bỏ nó không để

Page 19: Genou 2

_CLB195 suy tâm _ Khai thác từ Genou.com.vietnam

Chúng đều là những cơ yếu. • Sau khi lấy bỏ phần gân chúng bị dính vào các cơ xung quanh và tăng sức mạnh cho các cơ này. Chúng cũng có khả năng tái sinh lại gân nhờ quá tŕnh liền sẹo trên gân đă bị lấy đi, có thể thấy điều đó thông qua phim chụp IRM kiểm tra.

Cuối cùng, các cơ bên cạnh, nó cùng chung động tác, nó lại rất khoẻ nên đủ để thay thế cho các cơ bị lấy đảm bảo được lực kéo.

Tuy nhiên, người ta thấy có trường hợp đau ở đùi (rất hiếm) và bị lơm mặt sau đùi do lấy gân . Các dấu hiệu đó sẽ mất sau một vài tháng.

Việc lấy gân cơ bán gân và gân cơ thẳng trong, trong phẫu thuật được làm từ lâu, theo dơi lâu dài đă không cho thấy bất cứ một bất lợi nào .

Đường hầm xươngĐường hầm cho phép mảnh gân ghép chui vào trong khớp, để đặt vào đúng vị trí mà dây chằng chéo trước nằm. Như thế sẽ có đường hầm xương chày và đường hầm xương đùi. Chính trong đường hầm này mảnh ghép được cố định lại.

Khung ngắm cho phép găm kim định hướng trước vào trong khớp, định hướng cho đường hầm tương lai. Sau đó dùng khoan với mũi khoan chuyên dụng (đường hầm nằm trong trục của mũi khoan), theo kim dẫn đường để khoan tạo đường hầm xương chày

Page 20: Genou 2

_CLB195 suy tâm _ Khai thác từ Genou.com.vietnam

Đặt khung ngắm và găm kim định hướng Khoang đường hầm xương chầy

Cũng theo cách đó ta khoan lỗ làm thành đường hầm ở xương đùi, với sự giúp đỡ của khung ngắm

Kéo mảnh ghép quaDây chằng mới được tạo nên bởi 4 bó của gân sẽ được kéo bằng sợi chỉ chui qua đường hầm xương chày, qua khớp và nằm ở vị trí thay thế cho dây chằng chéo trước cũ, rồi chui vào trong đường hầm xương đùi

Page 21: Genou 2

_CLB195 suy tâm _ Khai thác từ Genou.com.vietnam

Mảnh gân ghép sau khi đặt vào trong khớp

Cố định

Cố định mảnh ghép trong đường hầm, có nhiều cách khác nhau:

- Vis chen vào giữa :

Vis này sẽ bắt vào giữa thành xương của đường hầm và mảnh ghép để chẹn mảnh ghép không cho tụt ra ngoài. Vis có thể bằng kim loại (nhn thấy trên phim điện quang) hay tự tiêu (không nh n thấy trên phim chụp) . Trong đường hầm "chột", th cố định vis từ trong khớp đi ra ngoài. Khi đường hầm thông hai đầu th có thể bắt vis từ ngoài vào trong nhờ đường rạch khoảng 2-3 cm mặt ngoài của đùi.

- Cặp (agrafes) :

Có thể cố định bằng cách găm agrafe ép gân ghép vào thành xương ở phía ngoài đường hầm. Cũng có thể phối hợp với các cố định khác như

vis, hoặc buộc sợi chỉ đă dùng để kéo gân ghép vào với agrafe được đóng qua miệng đường hầm giống như "ngồi yên ngựa" ( h nh vẽ bên)

Page 22: Genou 2

_CLB195 suy tâm _ Khai thác từ Genou.com.vietnam

Hệ thống cố định treo « transfix » nó cố định gân ghép bằng một đinh cứng xuyên qua gân ghép, và treo chúng trong đường hầm.

Ví dụ về tái tạo dây chằng chéo trước

Đứt LCA : Dây chằng biến mất , khoang liên lồi cầu trống rỗng

Cũng hnh ảnh bên, có thêm h nh dây chằng sẽ thay thế

Kiểm tra vị trí chuẩn của đường hầm nhờ găm kim vào trước định hướng

Page 23: Genou 2

_CLB195 suy tâm _ Khai thác từ Genou.com.vietnam

Dây chằng mới được thay thế

Sau phẫu thuật

Bất động bằng nẹp không phải là bắt buộc và tuỳ thuộc vào phẫu thuật viên. Tập đứng và đi lại nhờ nạng ngay ngày hôm sau. Phải dùng hai nạng cho tới tuần thứ 3 . Luyện tập sớm bắt đầu vào đầu tuần thứ hai cho tới tuần thứ 3. Luyện tập không bắt buộc phải thực hiện trong các trung tâm luyện tập chuyên biệt, trừ những trường hợp đặc biệt mà họ mong muốn.

Các hoạt động thể lực mà không làm xoắn gối , có thể thực hiện sớm hơn như đi xe đạp, bơi,... được tập lại ngay sau tuần đầu tiên. Đá bóng phải sau 3 tới 4 tháng. Những môn thể thao đi hỏi phải có dây chằng tốt th chỉ được áp dụng sau 6 tới 8 tháng. Thực tế là , dây chằng ghép theo tiến triển thông thường th nó yếu trong tháng đầu, sau đó th liền sẹo tốt dây chằng trở nên rất chắc chắn

ĐỤC XƯƠNG SỬA TRỤC Mổ chỉnh lại biến dạng chi dưới thường can thiệp vào xương chày rất hiếm đục sửa trục ở xương đùi. Thực hiện phẫu thuật bằng cách lấy bỏ đi một mảnh xương hình chêm sau đó nắn lại, và cố định xương. Cần phải luôn luôn kiểm tra xem ổ gẫy có liền không, bằng cách theo dõi sự xuất hiện của can xương.

Vì sao phải đục sửa trục xương ?

Mục đích của đục xương sửa trục là để điều trị thoái hoá khớp gối một bên. Trường hợp này sụn khớp bị mòn chỉ xảy ra ở một bên, (ở bên trong thường gặp hơn bên ngoài). Đục chỉnh trục là lấy bỏ hay thêm vào một mảnh xương hình chêm để chỉnh lại trục của chi dưới cho thẳng, nhằm lấy lại cân bằng lực, chuyển trọng tâm lực tỳ lên gối sang bên mặt khớp lành, giảm mức độ chịu tải cho mặt khớp đã thoái hoá nên làm chậm lại quá trình thoái khớp. Đục xương chỉnh trục không làm thay đổi được quá trình thoái hoá, nó vẫn tồn tại thoái hoá ở trên khớp, nhưng nó có hai tác dụng :

Page 24: Genou 2

_CLB195 suy tâm _ Khai thác từ Genou.com.vietnam

Làm giảm đau

Làm chậm lại thoái hoá cho khớp đã hỏng (khe khớp đã bị hẹp), điều này rất quan trọng ở người trẻ tuổi.

Nếu không được điều trị, thoái hoá gối một bên có nguy cơ nặng thêm, và tiến triển tới mức không thể cứu vãn được.

Lấy thoái hoá bên trong khớp làm ví dụ: do thoái hoá nên sụn khớp ở bên trong bị mỏng đi. Cẳng chân vẹo trong (varus) nên chuyển dần trọng tâm của gối vào bên trong (bên tổn thương). Vùng bệnh càng ngày càng phải chịu đựng nhiều sức ép của cơ thể, trong khi đó phần bên ngoài rất khỏe mạnh lại làm việc ít hơn. Thực sự muốn cắt vòng xoắn này chỉ còn cách là đục xương chỉnh lại trục của chi.

Kỹ thuật đục xương sửa trục

Đục chỉnh trục kiểu khép: là đục vào chỗ gồ của xương, sau đó lấy bỏ đi mảnh xương hình chêm, rồi nâng phần xương còn lại lên, dựng lại trục chi cho thẳng, sau đó cố định lại bằng các phương tiện kết hợp xương.

Đục xương kiểu mở thì ngược lại, người ta cưa xương làm đôi, sau đó lấy một miếng xương ghép, thường lấy ở xương chậu, có hình chêm rồi chèn vào giữa đường cắt xương để nâng phần mâm chày lên, chỉnh lại trục chi cho thẳng

Đục xương chỉnh trục bắt buộc phải làm thật chuẩn, kết hợp xương ở tại vị trí đục xương bằng các phương tiện kết xương chắc chắn như : vis, plaque vis, agraffe,...

Có hai kiểu đục xương (có thể làm ở xương đùi, có thể làm ở xương chày) tuỳ vào biến dạng trục mà chỉnh. :

Đục xương vẹo ra ngoài (valgisation) để chỉnh gối vẹo trong (genu varum)

Đục xương vẹo vào trong (varisation) để chỉnh gối vẹo ngoài (genu valgum

).

Hậu phẫu và kết quả

Sau mổ không cần phải bất động (sử dụng đinh nẹp một khối - rất vững chắc). Luyện tập có thể tiến hành sớm. Mổ thường rất đơn giản : chỉ cần

Page 25: Genou 2

_CLB195 suy tâm _ Khai thác từ Genou.com.vietnam

Cần phải chờ cho liền xương, thì chân mới vững nên phải sử dụng nạng . Thời gian tập đi lại và tỳ đè tuỳ thuộc vào đục chỉnh trục ở xương nào (đùi hay chày) , kỹ thuật (mở hay khép), cố định xương kiểu gì, có thể cho phép tỳ ngay, hay cũng có thể phải chậm lại 2 đến 3 tháng.

Can thiệp này cho phép giảm đau ngay và ngừng quá trình làm nặng thêm của thoái hoá khớp . Nó không làm cho sụn bớt hỏng , không làm giảm được thoái hoá. Sụn khớp vẫn có nguy cơ bị phá huỷ và vẫn còn có khả năng làm cho khớp thoái hoá tiếp sau này. Nhưng thời gian để thoái hoá toàn bộ sẽ kéo dài hơn, như thế thay khớp sẽ chờ được đến thời điểm tốt nhất. Chỉ định đục xương sửa trục

Chỉ định đục xương chỉnh trục cần có sự tham gia của nhiều yếu tố :

Mức độ đau trầm trọng và biến dạng của chi dưới

Tuổi: đục xương chỉnh trục hay làm với người trẻ tuổi

Trên phim chụp điện có những yếu tố đảm bảo cho thành công của phẫu thuật

VAI TRÒ PHẪU THUẬT TRONG ĐIỀU TRỊ VIÊM GÂN BÁNH

CHÈDr. François COMBELLES, Phẫu thuật viên chỉnh hình.

Dr. Dominique Lucas, Bác sĩ thể thao.

Đau bánh chè không mất đi khi chúng ta điều trị thuốc, vật lý trị liệu, cho dù rất đúng phương pháp. Vậy cần phải có chỉ định ngoại khoa. Với mục đích là lấy bỏ những sợi gân thương tổn, nằm ở đầu gân, là nguyên nhân gây nên đau

Page 26: Genou 2

_CLB195 suy tâm _ Khai thác từ Genou.com.vietnam

Viêm gân bánh chè thường gặp ở đầu gân nơi tiếp xúc ở cực dưới xương bánh chè.

Những thớ gân thường phối hợp với mảnh vôi hoá, mà nó trông giống như hình ảnh gân bánh chè bị bong ra khỏi chỗ bám

Hình thái khác nhau của vôi hoá gân bánh chè

Page 27: Genou 2

_CLB195 suy tâm _ Khai thác từ Genou.com.vietnam

Trong khi phẫu thuật, người ta căn cứ vào màu sắc tìm tổn thương. Khi đó lưỡi dao luôn đi dọc theo thớ của gân, để bộc lộ lấy bỏ thương tổn, như thế nó cho phép lấy bỏ đi những sợi gân bệnh lý và mảnh vôi hoá. Sau này tổ

chức sẹo liền giữa các bó gân tăng cường sức mạnh cho gân nên khỏi bệnh

Page 28: Genou 2

_CLB195 suy tâm _ Khai thác từ Genou.com.vietnam

Bên trái là hình ảnh mở gân lấy thương tổn, bên phải là mảnh gân được lấy ra. Dưới là các thớ gân tổn thương và vôi hoá. Phương pháp mổ giông như

"chải đầu"

Can thiệp này cần phải:

-Gây tê vùng hay toàn thân.

- Nằm viện 3 đến 5 ngày. Tuỳ vào độ nặng của tổn thương cho phép bệnh nhân đứng ngay hay chậm lại, nẹp gối là cần thiết.

-Luyện tập kéo dài trong suốt thời kỳ liền sẹo của gân.

-Trả lại sinh hoạt bình thường sau 1 đến 2 tháng.

-Chơi lại thể thao cũng tuỳ thuộc vào tiến triển của đau và mức độ luyện tập. Chơi lại thể thao nhất là các môn cần có gân bánh chè tốt chỉ được cho phép sau 1 năm

Giống như tất cả phẫu thuật, các biến chứng đều có thể gặp. Mặc dù rất hiếm trong phẫu thuật khớp gối :

-Nhiễm trùng tại chỗ

-Đứt gân bánh chè

-Máu tụ trong khớp

-Không hết đau hoàn toàn, đau vẫn còn dai dẳng trên 6 tháng sau mổ, không thể tập lại thể thao được.

-Chỉ có 70% đến 75% số phẫu thuật điều trị viêm gân bánh chè khỏi hoàn toàn có nghĩa là cho phép chơi lại thể thao không đau.

Page 29: Genou 2

_CLB195 suy tâm _ Khai thác từ Genou.com.vietnam

BỆNH SINDING LARSEN ET JOHANSSON

Bác sĩ Dominique Lucas Bác sĩ Jacques Parier

Bệnh của chỗ bám cao của gân bánh chè (nằm tại điểm bám của gân bánh chè vào xương này). Vào năm 1921 hai bác sĩ SINDING LARSEN và JOHANSSON mô tả, nhưng bệnh ít gặp hơn bệnh OSGOOD rất nhiều.

Bệnh lý cũng xảy ra với trẻ em từ 11 hoặc 12 tuổi, hay đang lứa tuổi dậy thì. Trẻ thường kêu đau ở cực của bánh chè, có thể sờ thấy điểm đau chính xác ở cực dưới bánh chè. Bệnh xuất hiện từ từ và tiến triển làm cho trẻ không thể chơi thể thao hoặc hạn chế tới sinh hoạt hàng ngày. Cực dưới bánh chè sưng nhẹ, ấn vào rất đau. Khi đứng gấp chân cũng đau như trong bệnh OSGOOD

Chụp điện quang phải so sánh hai bên, thấy hình ảnh biến đổi rất rõ tại đúng vị trí của gân bánh chè bám nằm ở cực dưới xương bánh chè

Page 30: Genou 2

_CLB195 suy tâm _ Khai thác từ Genou.com.vietnam

Phóng đại chỗ bám của gân bánh chè bị thay đổi

Điều trị tuỳ thuộc vào dấu hiệu của triệu chứng đau.Chỉ cần nghỉ không chơi thể thao từ 4 đến 8 tuần, nếu dấu hiệu lâm sàng nặng lên, phải bất động bằng nẹp, gối duỗi, để 4 tuần, có thể cho bệnh nhân đứng được trong nẹp. Giống như bệnh Osgood Schlatter cũng cần phải kiểm tra độ mềm mại của cơ trước và sau đùi, trong trường hợp cơ cứng thì phải tập phục hồi chức năng, kéo dài và làm mềm cơ ra. Cần phải cho bệnh nhân biết là những thay đổi trên phim sẽ rất lâu hết

Gẫy xương Ludovic Richard

Gẫy xương ở đầu gối rất nặng vì nó làm hỏng mặt khớp và sụn khớp. Vì thế nên cần phải làm sửa chữa tối đa nhằm đưa lại cho bệnh nhân chức năng như ban đầu. Trong chấn thương, sụn khớp cũng như sụn chêm đều có thể bị hỏng do bị nghiền nát giữa hai mặt khớp. Phẫu thuật có thể trả lại cho thương tổn về cấu trúc giải phẫu bình thường, nhất là các mảnh xương có mang sụn khớp.

Đánh giá tất cả tổn thương bằng điện quang gối là rất quan trọng trước điều trị. Trong những trường hợp cần thiết cần phối hợp chụp phim thường với chụp cắt lớp.

Thái độ : Thông thường không bao giờ chỉ định mổ cấp cứu trong những trường hợp này, ngoại trừ các trường hợp gẫy hở ( có sự thông thương của khớp hoặc ổ gẫy với bên ngoài) hoặc có các biến chứng mạch máu và thần kinh.

Page 31: Genou 2

_CLB195 suy tâm _ Khai thác từ Genou.com.vietnam

Cần phải bất động bằng nẹp hay bằng bột, dùng thuốc chống đông dự phòng, chuyển tới cơ sở chuyên khoa để mổ trong những ngày tiếp theo.

Gẫy đầu trên xương chàyGẫy đầu trên xương chày : gẫy mâm chầy, gẫy gai chầy (chỗ bám dây chằng chéo ) - Gãy gai mâm chày nó thường phối hợp ít nhiều với hai dạng trên.

Trên phim chụp (hình 1) cho ta thấy một hình thái gẫy phức tạp, các mảnh vỡ rời nhau ra, xương chày ở phía dưới. Những trường hợp này rất khó khăn khi mổ lấy lại giải phẫu bình thường.

Hình 1: Gẫy gai và hai mâm chày: đầu trên của xương chầy hoàn toàn rời khỏi thân xương, bề mặt khớp bao gồm nhiều mảnh nhỏ

Chụp điện quang sau mổ kết hợp xương (hình 2) : Bề mặt khớp tương đối phẳng, các vis và nẹp dựng lại các mảnh vỡ và giữ liên tục với thân xương chày ở phía dưới.

Page 32: Genou 2

_CLB195 suy tâm _ Khai thác từ Genou.com.vietnam

Đây là hình ảnh gẫy gai chầy sau. Mảnh vỡ tuy nhỏ nhưng là chỗ bám của dây chằng chéo sau. Cần phải nắn lại, đưa mảnh vỡ vào vị trí của nó và cố định lại, như thế mới lấy lại được khớp gối bình thường.

Kiểm tra chụp phim sau mổ ( kết hợp xương) , hai vis giữ lại mảnh vỡ về vị trí của nó. Bệnh nhân cần được bất động thêm bằng nẹp trong vòng 1 tháng, nên sử dụng nẹp có khớp động để bệnh nhân vẫn có thể tập nhẹ nhàng, sau 1 tháng cho phép bệnh nhân tập phục hồi chức năng , tập đứng với hai nạng. Luyện tập cần thực hiện ở trung tâm phục hồi chức năng sau mổ 1 tháng.

Gẫy đầu dưới xương đùiGẫy trên lồi cầu , gẫy liên lồi cầu hoặc phối hợp cả hai.

Page 33: Genou 2

_CLB195 suy tâm _ Khai thác từ Genou.com.vietnam

Đây là trường hợp gẫy một lồi cầu đã được mổ bắt vis, nhưng kết hợp xương không đủ vững chính vì thế làm gẫy vis và tạo khớp giả.

Thế thì cần phải lấy bỏ hết các vis cũ, làm sạch hai đầu xương, rồi kết hợp bằng phương pháp khác chắc chắn hơn, như hình sau.

Đặt lại lồi cầu lại vị trí tốt nhất, kết xương bằng nẹp vis, chắc chắn hơn cho phép liền xương tốt hơn. Luyện tập có thể tiến hành ngay nhưng phải làm ở trong nẹp có khớp động. Trong vòng 45 ngày không được tỳ, tập đứng dần vào ngày thứ 100 sau mổ

Gẫy đầu gối phối hợp với gẫy cẳng chânDưới đây là một loại gẫy phối hợp : lún mâm chày, gẫy gai chày trước ( chỗ bám dây chắng chéo trước) và gãy thân xương ở phía dưới. Điều trị cần phối hợp với nâng mâm chày lên , kết hợp xương ở phần thân xương chày phía dưới.

Page 34: Genou 2

_CLB195 suy tâm _ Khai thác từ Genou.com.vietnam

Kết quả sau mổ(kết hợp xương)

Nhờ nẹp vis, mà phần gẫy dưới của thân xương chày cũng như mâm chày được tạo lại cấu trúc giải phẫu bình thường để liền xương. Trong vòng 45 ngày không được tỳ, sau đó tập dần bằng nạng từ từ, đứng lên. Đứng tỳ hoàn toàn vào tháng thứ 3 sau mổ. Mặc dù không kết hợp xương nhưng xương mác vẫn liền tốt. Ngay cả những mảnh phía ngoài của xương chày không được kết xương chúng vẫn liền là vì chúng vẫn giữ được màng xương.

Các nguyên tắc trong điều trị :

Trong những trường hợp gẫy không di lệch, hay ít di lệch, điều trị chỉnh hình bằng bất động . Bất lợi chính của nó là cứng khớp, cần phải theo dõi bằng chụp điện quang xem có di lệch thứ phát hay không trong những tuần tiếp theo. Khi gẫy di lệch thứ phát cần có chỉ định mổ, đôi khi nó có thể rất khó, tốt nhất nên đến các bác sĩ chuyên khoa và trung tâm chỉnh hình.

Page 35: Genou 2

_CLB195 suy tâm _ Khai thác từ Genou.com.vietnam

Mục đích của điều trị là đem lại cấu trúc giải phẫu và cho phép phục hồi chức năng sớm, có nghĩa là đem lại khả năng vận động cho khớp gối nhanh nhất.Nằm viện trung bình 5 đến 15 ngày tuỳ thuộc vào loại gẫy. Đứng tỳ có nạng chỉ cho phép từ tuần thứ 6 đến 12 , nhưng phải từ từ. Trừ trường hợp đặc biệt, gẫy bánh chè đơn thuần thì cho phép tỳ ngay, nhưng phải có nẹp bảo vệ. Đi lại không dùng nạng chỉ cho phép từ 3 đến 4 tháng sau mổ.

Phục hồi chức năng thường cũng tiến hành sau đó.

Các biến chứng

Tắc tĩnh mạch thường xảy ra trước mổ, nên cần phải điều trị chống đông dự phòng cho tất cả các trường hợp. Cần theo dõi hàng ngày để phát hiện sớm và điều trị chống đông.

Cứng khớp gối, để đề phòng cần phải luyện tập sớm nhất nếu có thể.

Chậm liền, khớp giả cần phải mổ lại.

Nhiễm trùng rất hiếm gặp, nhưng rất nặng, nó làm ảnh hưởng tới chức năng nghiêm trọng, có nguy cơ phá hỏng sụn khớp, gây cứng khớp.

Nguy cơ thoái hoá khớp nhiều trong những trường hợp sụn khớp bị phá huỷ nghiêm trọng

HÌNH ẢNH CHỤP cộng hưởng từ (I.R.M).

Dr. Dominique LUCAS IRM hay còn gọi là hình ảnh cộng hưởng từ, là một trong những thăm khám cận lâm sàng giống như điện quang, siêu âm, hay chụp cắt lớp,... Kỹ thuật này rất có hiệu quả cho phép chụp ảnh cơ thể người giúp cho các bác sĩ chẩn đoán bệnh. Cũng cần nhấn mạnh ngay từ đầu, IRM không thể thay thế cho những kỹ thuật khác, mặc dù nó rất hoàn hảo. Chụp phim thường luôn luôn cần thiết và phần lớn phải chỉ định trước khi chụp IRM

Một số đặc điểm kỹ thuật

Về kỹ thuật, hình ảnh được thực hiện nhờ vào sự hội tụ cộng hưởng của sóng điện từ phát sinh trong một từ trường. Từ trường của máy được lấy từ một nam châm cực mạnh (nên không phải dùng tia X) , trong từ

Page 36: Genou 2

_CLB195 suy tâm _ Khai thác từ Genou.com.vietnam

Các chống chỉ định

Có các chống chỉ định khi dùng IRM, chính vì thế phải đưa cho bệnh nhân các câu hỏi khi hẹn khám:

Chống chỉ định trong các trường hợp sau:

Đang đặt máy tạo nhịp (pacemaker) • Đã mổ thay van tim (van đó có thành phần kim loại). • Mang trong người các vật liệu ghép từ tính. • Máy kích thích thần kinh. • Máy bơm tiêm tự động cấy trong người (ví dụ: bơm insuline). • Dị vật trong nhãn cầu ( trong những trường hợp nghi ngờ thì phải chụp điện quang và yêu cầu khám chuyên khoa)

Cặp mạch máu trong sọ •

Các trường hợp khác cần phải đánh giá nhờ chụp phim:

Có ống dẫn lưu bằng kim loại trong các hốc trong cơ thể. • Clips mạch máu • Vật liệu hàn răng cố định. • Máy nghe gắn liền trong ốc nhĩ. •

Khớp nhân tạo và các vật liệu kết xương (vis, nẹp,...) không có chống chỉ định nhưng có thể làm hỏng trường từ và sẽ không thể chuyển thành hình ảnh được.

Page 37: Genou 2

_CLB195 suy tâm _ Khai thác từ Genou.com.vietnam

Các yếu tố khác có thể cản trở cho việc chụp.

Để cho một hình ảnh chất lượng tốt, bệnh nhân được bất động hoàn toàn trong quá trình chụp, trong các trường hợp có những bệnh không thể bất động được ( run tay, lo lắng,...) đều phải dừng lại và điều trị trước.

Trong một số trường hợp sợ hãi quá cũng không thể chụp được, trong phần lớn các trường hợp như vậy, cần huy động cả nhóm, cả kỹ thuật viên ra đứng xung quanh làm cho bệnh nhân đỡ sợ, cũng như thế khi chụp khớp gối chỉ cần cho bệnh nhân vào máy tới thắt lưng còn người và đầu thì có thể ở bên ngoài.

Do hiểu biết chưa đầy đủ về khoa học, và do thận trọng, IRM gối không được làm ở những phụ nữ có thai. Mặc dù trong lĩnh vực vô sinh thì nó không có bất cứ một ảnh hưởng nào cả.

Hình thức chụp Bạn được tiếp đón bởi một kỹ thuật viên, sẽ đặt bạn vào trong máy IRM. Thông thường bạn nằm trong máy không mặc quần áo, răng giả, máy điếc, kính, đồ trang sức, cặp tóc, giầy, thắt lưng , tất cả những gì kim loại có ở trong túi (đồng tiền xu, chìa khoá,bút,...) Các loại thẻ từ có có thể phá hỏng IRM , tốt nhất không nên giữ lại một cái gì ở bên bạn. Điện thoại di động có thể cũng sẽ bị hỏng

Page 38: Genou 2

_CLB195 suy tâm _ Khai thác từ Genou.com.vietnam

Trong quá trình chụp, bạn nằm thoải mái trên giường, bạn nghe thấy tiếng động to như tiếng búa trong không gian yên lặng. Bạn đựơc tiếp xúc liên tục

Page 39: Genou 2

_CLB195 suy tâm _ Khai thác từ Genou.com.vietnam

IRM là một khám nghiệm không có hại, nếu tôn trọng đầy đủ các chống chỉ định. Để có hình ảnh tốt cho bác sĩ, việc hợp tác với nhóm chụp hình là rất cần thiết.

Chụp này có thể thực hiện trên cả trẻ em, cũng như người còn trẻ, nó có thể cho một chút thuốc an thần, phần lớn là không cần. Bố mẹ có thể đứng gần con trong quá trình chụp.

Hình ảnh IRM cho phép xem ba chiều không gian, trên phim chụp người ta ghi là : cắt đứng ngang, cắt theo trục, cắt theo mặt đứng dọc

(Coupes coronale, axiale et sagittale)

Lát cắt theo trục (coupes axiales) Cho phép phân tích vị trí , sụn khớp của xương bánh chè và xương đùi (khớp tiếp xúc đùi -bánh chè) , tràn dịch khớp , tổ chức bao hoạt dịch cũng nhìn rõ.

Page 40: Genou 2

_CLB195 suy tâm _ Khai thác từ Genou.com.vietnam

Cắt mặt phẳng đứng ngang (coupes coronales) cho ta thấy rõ sụn chêm, dây chằng bên ( bên trong, bên ngoài) sụn khớp đùi - chày và một chút dây chằng chéo.

Cắt theo mặt phẳng đứng dọc (coupes sagittales) cho phép đánh giá tình trạng của sụn chêm, dây chằng chéo (trước, sau) gân bánh chè và cơ tứ đầu cũng nhìn rõ.

IRM là một khám nghiệm tốt nó chỉ ra rất rõ các thương tổn , thậm chí cả thương tổn nhỏ. Chỉ có điều là thời gian hẹn chụp lâu vì máy có ít, nhưng người đến chụp lại nhiều. Cũng cần phải biết rằng IRM không phải là khám nghiệm tối cao, nó không phải là tất cả, không phải là bệnh nhân chui vào "cái ống mầu nhiệm", sau khi chui ra là có được chẩn đoán để điều trị.

Page 41: Genou 2

_CLB195 suy tâm _ Khai thác từ Genou.com.vietnam

Chụp cộng hưởng từ chỉ là một yếu tố giúp cho bác sĩ làm chẩn đoán và cho ững điều trị thích hợp, nó không thể thay thế được các thăm khám khác,

như chụp điện bình thường, cái đó hầu như là bắt buộc, thậm chí chụp trước

nh

cả IRM , siêu âm, hoặc chụp cắt lớp đôi khi cho ta những hình ảnh còn đẹp hơn , dễ chẩn đoán hơn trong một vài bệnh lý khác.