giÁo dỤc, rÈn luyỆn ĐẠo ĐỨc cÁch mẠng cỦa ĐỘi ngŨ … an do... · các đoàn...
TRANSCRIPT
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
-----**------
ĐỖ ANH VINH
GIÁO DỤC, RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ HẬU CẦN QUÂN ĐỘI
NHÂN DÂN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC
HÀ NỘI - 2018
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
-----**------
ĐỖ ANH VINH
GIÁO DỤC, RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ HẬU CẦN QUÂN ĐỘI
NHÂN DÂN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC
Mã số: 62 31 02 03
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS. TS PHAN HỮU TÍCH
2. PGS. TS LÊ VĂN CƯỜNG
HÀ NỘI – 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong
Luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được
trích dẫn đầy đủ theo quy đinh.
Tác giả
Đỗ Anh Vinh
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
BQP: Bộ Quốc phòng
CBHC: Cán bộ hậu cần
CTĐ, CTCT: Công tác đảng, công tác chính trị
ĐĐCM: Đạo đức cách mạng
HVHC: Học viện Hậu cần
Nxb: Nhà xuất bản
QĐNDVN: Quân đội nhân dân Việt Nam
QUTW: Quân ủy Trung ương
TCCT: Tổng cục Chính trị
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1:
Tổng quan các công trình khoa học có liên quan
đến giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của
đội ngũ cán bộ hậu cần quân đội
6
1.1. Các công trình khoa học ở nước ngoài 6
1.2. Các công trình khoa học ở Việt Nam 12
1.3.
Đánh giá khái quát kết quả của các công trình khoa
học có liên quan đến luận án và những vấn đề luận
án cần tiếp tục nghiên cứu, giải quyết
27
Chương 2:
Những vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục, rèn
luyện đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ hậu cần
Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn hiện nay
29
2.1. Ngành Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam và đội
ngũ cán bộ hậu cần quân đội
29
2.2. Đạo đức cách mạng và giáo dục, rèn luyện đạo đức
cách mạng của đội ngũ cán bộ hậu cần quân đội
40
Chương 3:
Đạo đức cách mạng và giáo dục, rèn luyện đạo
đức cách mạng của đội ngũ cán bộ hậu cần Quân
đội nhân dân Việt Nam giai đoạn hiện nay - thực
trạng, nguyên nhân và kinh nghiệm
67
3.1. Thực trạng đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ
hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam
67
3.2.
Giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của đội ngũ
cán bộ hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam - thực
trạng, nguyên nhân và kinh nghiệm
75
Chương 4:
Phương hướng và giải pháp chủ yếu đẩy mạnh giáo
dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của đội ngũ cán
bộ hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam đến năm
2030
108
4.1.
Dự báo thuận lợi, khó khăn, và phương hướng đẩy
mạnh giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của
đội ngũ cán bộ hậu cần quân đội
108
4.2.
Giải pháp chủ yếu đẩy mạnh giáo dục, rèn luyện
đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ hậu cần
Quân đội nhân dân Việt Nam đến năm 2030
115
KẾT LUẬN 149
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC
GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
PHỤ LỤC 165
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đạo đức của người cán bộ nói chung và của người cán bộ quân đội nói
riêng là phẩm chất quan trọng trong nhân cách người cán bộ. Nhưng, đạo đức
cách mạng (ĐĐCM) của người cán bộ không phải tự nhiên mà có, phải trải qua
quá trình tự rèn luyện bền bỉ, thường xuyên, lâu dài, gian khổ và sự quan tâm
giáo dục của cấp ủy, tổ chức đảng mới tạo nên. Cán bộ quân đội hoạt động trong
môi trường đặc biệt, là lực lượng được trang bị vũ khí, khí tài, cơ sở vật chất,
phương tiện phục vụ nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu, công
tác với nhiều khó khăn, gian khổ, ác liệt, sẵn sàng hy sinh thân mình để bảo vệ
Tổ quốc. Để cán bộ quân đội thực sự yên tâm công tác, tuyệt đối trung thành với
sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta, tổ chức đảng, người chỉ huy, cơ
quan chức năng các cấp trong quân đội cần thực hiện tốt công tác giáo dục chính
trị cho cán bộ quân đội. Trong đó, giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của người cán bộ
quân đội trong điều kiện hiện nay là nhiệm vụ chính trị quan trọng của các cấp
ủy đảng, của mỗi cán bộ, đảng viên và của bản thân từng cán bộ Hậu cần Quân
đội nhằm tiếp tục bồi dưỡng, phát huy phẩm chất tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” trong
tình hình mới. Thực hiện tốt nhiệm vụ này sẽ trực tiếp góp phần xây dựng Quân
đội nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) vững mạnh về chính trị, hoàn thành tốt mọi
nhiệm vụ được giao.
“Công tác hậu cần quân đội là một mặt công tác quân sự, gồm tổng
thể những hoạt động để bảo đảm vật chất, sinh hoạt, quân y, vận tải
cho quân đội nhằm duy trì khả năng thực hiện thắng lợi mọi nhiệm
vụ và sẵn sàng chi viện về hậu cần cho các lực lượng vũ trang và
nhân dân địa phương trong các tình huống…; là công tác chuyên
môn của cán bộ, chiến sĩ, nhân viên hậu cần; đồng thời là công tác
chung, mọi cán bộ, chiến sỹ và công nhân viên quốc phòng trong
toàn quân có trách nhiệm tham gia thực hiện” [22, tr.3].
Đội ngũ cán bộ Hậu cần (CBHC) Quân đội là lực lượng có vai trò quan
trọng quyết định đến chất lượng và hiệu quả công tác hậu cần của quân đội, là
đội ngũ trực tiếp quản lý cơ sở vật chất, tài chính hậu cần; tổ chức tạo nguồn,
bảo đảm lực lượng, vật chất, phương tiện hậu cần cho các nhiệm vụ huấn
luyện, sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu, công tác của các đơn vị trong toàn quân;
2
tổ chức quản lý, giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng và phát triển đội ngũ cán bộ,
nhân viên hậu cần các cấp; nuôi dưỡng, chăm sóc sức khỏe bộ đội; nghiên
cứu, phát triển khoa học hậu cần quân sự; tham mưu cho các cấp ủy đảng lãnh
đạo, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả công tác hậu cần nhân dân bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới.
Trong điều kiện hiện nay, hoạt động bảo đảm hậu cần của đội ngũ
CBHC Quân đội dễ nảy sinh tham nhũng, “lợi ích nhóm” và sự suy thoái về
đạo đức, lối sống. Để hạn chế và loại trừ tình trạng này, các cấp ủy, tổ chức
đảng, người chỉ huy các cấp trong quân đội phải thực hiện đồng bộ nhiều giải
pháp lớn. Trong đó, giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội
là một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu.
Trong những năm qua, nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò rất quan trọng
của ĐĐCM đối với đội ngũ CBHC Quân đội, các cấp ủy, tổ chức đảng, người
chỉ huy trong quân đội đã thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo giáo dục,
rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC đạt nhiều kết quả quan trọng. Nội dung
giáo dục, rèn luyện đã cụ thể, thiết thực hơn, gắn liền và sát với nhiệm vụ bảo
đảm hậu cần, với chức trách, nhiệm vụ của CBHC ở từng cấp, từng quân,
binh chủng và từng đơn vị. Hình thức giáo dục, rèn luyện ĐĐCM đã được đổi
mới theo hướng đa dạng, phát huy được vai trò của các cấp ủy, tổ chức đảng,
các đoàn thể trong đơn vị tham gia giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ
CBHC Quân đội.
Đa số CBHC Quân đội luôn chủ động tự giáo dục, rèn luyện ĐĐCM và
có phẩm chất đạo đức tốt, lối sống trong sạch, lành mạnh, cần kiệm, liêm
chính, ý thức kỷ luật nghiêm, chấp hành tốt mệnh lệnh cấp trên, chế độ quy
định của ngành, điều lệnh, điều lệ quân đội. Nhờ đó, chất lượng công tác hậu
cần từng bước được nâng lên; đã tích cực thực hành tiết kiệm…khai thác hiệu
quả vũ khí, trang bị kỹ thuật, cơ sở vật chất, quân lương, quân trang, bảo đảm
kịp thời cho nhiệm vụ huấn luyện, chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu. Nhiều
CBHC luôn gương mẫu về đạo đức, lối sống, tận tâm, tận lực trong công việc,
sâu sát với bộ đội, thích ứng với phương thức bảo đảm hậu cần trong điều
kiện hiện nay.
Tuy nhiên, công tác tổ chức giáo dục, rèn luyện ĐĐCM đối với đội ngũ
CBHC Quân đội của các cấp ủy đảng, người chỉ huy, cơ quan chức năng…
vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém như: nội dung giáo dục của nhiều cấp ủy, tổ
3
chức đảng, chỉ huy đơn vị chưa được đổi mới, còn chung chung, có nội dung
chưa gắn với thực tiễn nhiệm vụ bảo đảm hậu cần và chức trách, nhiệm vụ
của CBHC; còn biểu hiện hình thức trong công tác giáo dục, rèn luyện. Việc
theo dõi, kiểm tra, tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ CBHC tự rèn luyện
ĐĐCM của nhiều cấp ủy chưa thường xuyên và chặt chẽ. Vai trò của nhiều tổ
chức đoàn thể chưa được phát huy mạnh mẽ trong tham gia giáo dục, rèn
luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC.
Bên cạnh đó, hoạt động tự giáo dục, tự rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ
CBHC Quân đội vẫn là khâu yếu, còn những hạn chế nhất định, chưa đáp
ứng với yêu cầu nhiệm vụ bảo đảm hậu cần trong điều kiện mới. Một số
CBHC thiếu tích cực trong học tập nghiên cứu lý luận chính trị, hoặc có học
nhưng còn chàng màng, dẫn đến tình trạng hẫng hụt về trình độ lý luận, nắm
những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và đường lối chủ trương của Đảng chưa sâu”. ĐĐCM của một bộ phận
CBHC có biểu hiện suy giảm: trong công việc họ chú ý nhiều đến ý nghĩa
vật chất hơn là ý nghĩa chính trị, đạo đức. Vẫn còn một số cán bộ lợi dụng
kẽ hở của cơ chế để buôn bán trái phép, bớt xén tiêu chuẩn bộ đội, sử dụng
phương tiện của đơn vị, công sức của bộ đội vào mục đích làm giàu cho cá
nhân; một số CBHC có biểu hiện giảm sút lòng tin vào thắng lợi của sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc; vi phạm các quy định
về công tác bảo đảm hậu cần, cửa quyền, sách nhiễu cấp dưới, sa vào tham
nhũng, lãng phí. Đồng thời, những tác động mặt trái của nền kinh tế thị
trường đã làm một bộ phận CBHC suy thoái về đạo đức, lối sống với những
biểu hiện mới, tinh vi, làm ảnh hưởng không nhỏ tới uy tín, danh dự người
CBHC và chất lượng bảo đảm hậu cần quân đội.
Vì vậy, việc lựa chọn và thực hiện đề tài luận án:“Giáo dục, rèn luyện
đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội nhân dân Việt
Nam giai đoạn hiện nay”, thực sự là vấn đề cấp thiết.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn về giáo dục, rèn
luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn hiện
nay, luận án đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu đẩy mạnh
giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội đến năm 2030.
4
2.2. Nhiệm vụ
- Tổng quan các công trình khoa học trong và ngoài nước liên quan
đến đề tài luận án, chỉ rõ những vấn đề đã được nghiên cứu, những nội dung
luận án cần tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ.
- Luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục, rèn luyện
ĐĐCM của CBHC Quân đội nhân dân Việt Nam trong điều kiện hiện nay
- Khảo sát, đánh giá thực trạng ĐĐCM và thực trạng giáo dục, rèn
luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội từ năm 2005 đến năm 2018;
chỉ ra ưu, khuyết điểm, nguyên nhân và rút ra một số kinh nghiệm
- Đề xuất phướng hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh giáo dục, rèn luyện
ĐĐCM của CBHC Quân đội nhân dân Việt Nam đến năm 2030
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
Luận án nghiên cứu về giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC
Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn hiện nay
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
- Về nội dung: Luận án nghiên cứu hoạt động giáo dục, rèn luyện
ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội (cán bộ tham mưu hậu cần; cán bộ quân
nhu; cán bộ vận tải; cán bộ xăng dầu; cán bộ doanh trại).
- Địa bàn khảo sát, nghiên cứu: Các cơ quan, đơn vị thuộc các quân
khu, quân chủng, quân đoàn trên địa bàn phía bắc
- Thời gian nghiên cứu, khảo sát: từ năm 2005 đến năm 2018; phương
hướng và giải pháp đề xuất trong luận án có giá trị đến năm 2030.
4. Cở sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cán
bộ, và ĐĐCM của cán bộ, đảng viên.
4.2. Cơ sở thực tiễn
Cơ sở thực tiễn của luận án là thực trạng đạo đức của đội ngũ cán bộ
Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam và thực trạng giáo dục, rèn luyện
ĐĐCM của đội ngũ CBHC QĐNDVN từ năm 2005 đến năm 2018; các báo
5
cáo, tổng kết công tác đảng, công tác chính trị (CTĐ, CTCT); báo cáo, sơ,
tổng kết về hoạt động giáo dục ĐĐCM; sơ kết, tổng kết thực hiện cuộc vận
động học tập và làm theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; số
liệu điều tra, khảo sát ở các cơ quan, đơn vị hậu cần trong toàn quân.
4.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và các
phương pháp nghiên cứu của các khoa học liên ngành và chuyên ngành, trong
đó, đặc biệt chú trọng phương pháp: phân tích kết hợp với tổng hợp; lôgíc kết
hợp với lịch sử, điều tra khảo sát, tổng kết thực tiễn và phương pháp chuyên gia.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Trình bày có hệ thống những vấn đề chung về ngành Hậu cần quân
đội; cán bộ Hậu cần, ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội.
- Tổng kết một số kinh nghiệm giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ
CBHC Quân đội từ năm 2005 đến năm 2018.
- Xác định chuẩn mực ĐĐCM của từng loại CBHC Quân đội; đổi mới nội dung,
phương thức giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội đến năm 2030.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo
dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội trong giai đoạn hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận án cung cấp luận cứ khoa học cho cấp ủy,
tổ chức đảng, cơ quan chính trị, người chỉ huy, đội ngũ cán bộ chính trị các
cấp trong quân đội nghiên cứu, tham khảo xác định chủ trương, giải pháp
trong giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của CBHC ở đơn vị.
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được dùng làm tài liệu tham
khảo trong nghiên cứu khoa học, giảng dạy và học tập về ĐĐCM nói chung
và ĐĐCM của người CBHC Quân đội nói riêng tại Học viện Hậu cần
(HVHC) và các cơ sở bồi dưỡng CBHC Quân đội.
7. Kết cấu của luận án
Luận án kết cấu gồm: mở đầu, 4 chương (9 tiết), kết luận, danh mục
các công trình của tác giả đã công bố liên quan đến luận án, danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục.
6
Chương 1
TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC
LIÊN QUAN ĐẾN GIÁO DỤC, RÈN LUYÊN ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ HẬU CẦN QUÂN ĐỘI
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC Ở NƯỚC NGOÀI
1.1. 1. Công trình của các nhà khoa học Nga
- “Thế nào là quân nhân có đạo đức” của Đ.A.Vôn-cô-gô-nốp [80]. Tác
giả đã khái quát những khái niệm cơ bản của đạo đức học Mác - Lênin, chỉ rõ
nội dung và một số biểu hiện của đạo đức quân nhân, phân tích những vấn đề
cơ bản thuộc về phẩm chất đạo đức cần thiết của người chiến sĩ Xô Viết. Đồng
thời, chỉ ra những cách thức, biện pháp tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức
của người quân nhân cách mạng.
- “Đạo đức Cộng sản chủ nghĩa và nghĩa vụ của quân nhân” của A.X.
Milôvidốp [2]. Khi trình bày về đạo đức cộng sản chủ nghĩa, tác giả chỉ ra đây
là cơ sở, nền tảng để người cộng sản nhận thức rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của
mình đối với sự nghiệp cách mạng. Đồng thời, tác giả đã nêu lên mục tiêu giáo
dục đạo đức là “nhằm xây dựng một quan điểm sống tích cực, xây dựng một thái
độ tự giác đối với nghĩa vụ xã hội, khi thống nhất giữa lời nói và việc làm trở
thành tiêu chuẩn trong cuộc sống hàng ngày” [2, tr.3].
Để thực hiện tốt mục tiêu giáo dục đạo đức cộng sản, tác giả xác định một
số phương pháp giáo dục đạo đức như: giáo dục thuyết phục, phương pháp
cưỡng bách, giáo dục sự thật, “đấu tranh thẳng thắn, chân thành, cởi mở, lập
trường nguyên tắc và lập trường của Đảng là cần thiết trong tập thể bộ đội Xô
viết”. Bên cạnh đó, tác giả nhấn mạnh việc giáo dục bằng gương sáng cá nhân:
“người chỉ huy cần phải là tấm gương cho cấp dưới trong việc chấp hành nghiêm
chỉnh các tiêu chuẩn đạo đức và thẩm mỹ của hành vi, hoàn thành tốt nhất các
yêu cầu của pháp luật xô viết, của lời thề quân nhân, điều lệnh quân đội và nghĩa
vụ phục vụ của mình” [2, tr.36]. Đồng thời, phải giáo dục bằng dư luận xã hội:
“dư luận có uy tín đạo đức to lớn, con người được trải qua trường học thật sự về
giáo dục nghĩa vụ đối với xã hội. Dư luận xã hội làm nảy sinh tinh thần trách
nhiệm trước tập thể ấy và trước toàn thể xã hội” [2, tr.36].
“Công tác đảng - chính trị trong các lực lượng vũ trang xô-viết”, của P.I.
Các-pen-cô [131]. Trong sách, các tác giả đã trình bày về công tác đảng - chính
trị ở đơn vị cơ sở. Trong đó, công tác đảng - công tác chính trị ở đơn vị cơ sở
7
phải có tính lý luận chặt chẽ và có tính thực tiễn cụ thể, phong phú; lý luận phải
gắn liền với hoạt động thực tiễn sinh động, không tách rời nhiệm vụ chính trị
của đơn vị. Về giáo dục đạo đức, các tác giả đã chỉ ra: “Việc giáo dục đạo đức
cho mọi người phải thống nhất, chặt chẽ với giáo dục tư tưởng - chính trị và
giáo dục quân nhân. Nếu đạt được trình độ tinh thần - đạo đức nhất định thì
chúng ta có thể đi xa hơn nữa trên con đường củng cố nhận thức về các quy tắc
và tiêu chuẩn của hành vi cộng sản chủ nghĩa…” [131, tr.68]. Theo tác giả,
việc giáo dục đạo đức thông qua đó hình thành lập trường sống của mỗi quân
nhân, để họ tự giác nhận và thực hiện nhiệm vụ, có thái độ rõ ràng, đấu tranh
chống các hiện tượng tiêu cực trong đơn vị.
1.1.2. Công trình của các nhà khoa học Trung Quốc
- “Giáo trình Công tác Chính trị” của Chương Tử Nghị [119]. Trong
sách, tác giả trình bày, luận giải về vấn đề đức và tài của người cán bộ trong
quá trình hiện đại hóa. Đức, tài là một thể thống nhất, không thể tách rời
nhau, hay coi trọng hoặc hạ thấp yếu tố nào. Theo tác giả: không có đức thì
không thể kiên trì định hướng XHCN, không thể toàn tâm, toàn ý phục vụ
nhân dân; trọng dụng người có tài mà không có đức sẽ có nguy hiểm rất lớn.
Không thể nghĩ rằng, một người thiếu niềm tin, kiên định ở chủ nghĩa cộng
sản; không hiểu gì về chính sách, phương châm, đường lối của Trung ương
Đảng, không có trách nhiệm với công việc, tính đảng yếu, tinh thần không
phấn chấn, đời sống hủ bại, hưởng lạc, ỷ quyền để mưu lợi cá nhân, thậm chí
vô kỷ luật, phạm pháp lại có thể gánh vác được trọng trách của những người
lãnh đạo. Bên cạnh đó, tác giả nhấn mạnh yếu tố đức và tài của người cán bộ
trong quân đội là rất quan trọng, cần phải xây dựng, giáo dục, vì đây là lực
lượng sẵn sàng hy sinh thân mình vì Tổ quốc.
- “Công tác xây dựng Đảng trong giai đoạn hiện nay” của Nhiệm Khắc
Lễ [97]. Trong sách, tác giả đã trình bày những vấn đề cơ bản về công tác xây
dựng Đảng hiện nay của Trung Quốc. Trong đó, tác giả tập trung làm rõ việc
xây dưng đội ngũ cán bộ có đủ đức và tài trong quá trình xây dựng Đảng, xây
dựng nhà nước chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc. Theo đó, tác giả chỉ ra
nội hàm của đạo đức là: Kiên trì chủ nghĩa Mác, tư tưởng Mao Trạch Đông,
kiên trì lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc, trung
thành vô hạn với xây dựng Đảng, sự nghiệp của Đảng; kiên trì tôn chỉ, một
lòng một dạ phục vụ nhân dân, gắn bó với nhân dân, tự giác tiếp thu sự phê
bình, giám sát của Đảng và quần chúng, chống chủ nghĩa quan liêu và chủ
nghĩa hình thức; cần phải kiên trì đường lối tư tưởng thực sự cầu thị, có tác
phong công tác điều tra nghiên cứu, có tấm lòng nồng cháy đối với sự nghiệp
8
cách mạng và tinh thần trách nhiệm chính trị, có khả năng dùng phương pháp
tư tưởng Mácxít vũ trang cho mình; gương mẫu giữ gìn kỷ luật và pháp luật,
có phẩm chất đạo đức và tác phong tư tưởng cộng sản chủ nghĩa tốt đẹp. Bên
cạnh đó, tác giả nêu rõ, cần xây dựng đạo đức trong mối quan hệ giữa đức và
tài, đó là yếu tố cần và đủ trong phẩm chất của người cán bộ.
- “Tu dưỡng đạo đức, tư tưởng”, của La Quốc Kiệt [93]. Đây là cuốn
sách được dịch từ bộ giáo trình cùng tên, dùng làm giáo trình thông dụng của
môn học đạo đức tư tưởng cho mọi đối tượng sinh viên trong các trường đại
học của Trung Quốc. Trong sách, tác giả đã tập trung giải quyết mười hai vấn
đề cơ bản được đưa ra, trong đó, nhấn mạnh việc: bồi dưỡng phẩm chất đạo
đức tốt (chương X); kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức tốt đẹp (chương
XI); kiên trì và tu dưỡng, bồi dưỡng nhân cách cao thượng (chương XII). “Tu
dưỡng đạo đức tư tưởng” quán triệt tinh thần: “Xây dựng đạo đức xã hội chủ
nghĩa cần lấy phục vụ nhân dân làm trung tâm”, mà Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 6, Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc (khóa XIV) đã xác định.
Khi bàn về sự hình thành và phát triển phẩm chất đạo đức, tác giả nêu rõ:
“Sự hình thành phẩm chất đạo đức là quá trình tác động lẫn nhau giữa ý thức đạo
đức và thực tiễn đạo đức của con người, đồng thời cũng là kết quả của nguyên
tắc, quy phạm đạo đức chiếm địa vị chủ đạo của xã hội biến thành hành động đã
được cụ thể hóa và cá tính hóa” [93, tr. 514-515]. Từ đó, tác giả trình bày những
yêu cầu, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, xác định một số biện pháp tu dưỡng,
rèn luyện đạo đức, tư tưởng của sinh viên trong thời đại mới, đáp ứng yêu cầu
phát triển của xã hội.
- “Xây dựng Đảng cầm quyền - kinh nghiệm của Việt Nam, kinh
nghiệm của Trung Quốc” của Hội đồng lý luận Trung ương [87]. Cốn sách
tập hợp các bài viết và bài phát hiểu của các nhà lãnh đạo, nhà nghiên cứu của
Việt Nam và Trung Quốc xoay quanh những vấn đề cơ bản: xây dựng đảng
cầm quyền; tăng cường năng lực chống tha hóa, phòng biến chất; xây dựng tổ
chức cơ sở đảng, đội ngũ đảng viên; đổi mới công tác tư tưởng, lý luận của
Đảng; tăng cường công tác kiểm tra, kỷ luật, liêm chính của Đảng; tăng
cường công tác giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ… Một số bài viết tập
trung làm rõ những vấn đề cấp thiết trong xây dựng đảng cầm quyền, trong đó
nhấn mạnh việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên vững mạnh về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, nhất là cần bồi dưỡng những giá trị cốt lõi về cần,
kiệm, liêm, chính, tận trung với nước, gắn bó mật thiết với nhân dân, phải biết
hy sinh lợi ích của bản thân vì lợi ích quốc gia, dân tộc.
9
- “Làm tốt công tác quần chúng trong tình hình mới - kinh nghiệm
Trung quốc, kinh nghiệm Việt Nam” của Hội đồng lý luận Trung ương [89].
Cuốn sách tập hợp một số bài viết trong Hội thảo lý luận làn thứ bảy giữa
Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc về “Làm tốt công
tác quần chúng trong tình hình mới - Kinh nghiệm Trung Quốc, kinh nghiệm
Việt Nam”, được tổ chức tại Giang Tô - Trung Quốc năm 2011. Các bài viết
trong sách đã khẳng định quần chúng nhân dân là người nắm giữ, sáng tạo
nên lịch sử. Trong điều kiện lịch sử của mỗi nước, Đảng Cộng sản Việt Nam
và Đảng Cộng sản Trung Quốc đã lãnh đạo quần chúng nhân dân tiến hành
các cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó
khăn, thử thách và giành những thắng lợi vĩ đại. Những thắng lợi bắt nguồn từ
đường lối chính trị đúng đắn của Đảng, được nhân dân đồng tình ủng hộ; đội
ngũ cán bộ, đảng viên luôn tiên phong, gương mẫu về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, luôn gắn bó chặt chẽ với nhân dân, phát huy sức mạnh của quần
chúng trong thực hiện nhiệm vụ cách mạng. Đồng thời, các bài viết cũng nêu
lên một số kinh nghiệm trong công tác quần chúng, và chỉ ra trong giai đoạn
hiện nay, công tác quần chúng cần tiếp tục được đổi mới; tăng cường công tác
tuyên truyền, giáo dục đối với quần chúng nhân dân, và đối với đội ngũ cán
bộ, đảng viên của Đảng, củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với quần
chúng, phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân tham gia xây dựng Đảng.
- “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh trong tình hình mới - kinh
nghiệm Trung Quốc, kinh nghiệm Việt Nam” của Hội đồng lý luận Trung
ương [88]. Cuốn sách tập hợp hai mươi sáu bài phát biểu, bài viết của các nhà
lãnh đạo, các nhà nghiên cứu của Trung Quốc và Việt Nam trong Hội thảo lý
luận lần thứ chín giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung
Quốc. Các bài viết tại Hội thảo xoay quanh các chuyên đề như: xây dựng tác
phong Đảng liêm chính; xây dựng chế độ; giám sát ràng buộc quyền lực; môi
trường xã hội; phòng, chống tham nhũng; trình bày các quan điểm, chủ
trương, chính sách, những cách làm tốt, những bài học kinh nghiệm của mỗi
bên. Đặc biệt trong bài “Những cách làm và kinh nghiệm chủ yếu về xây
dưng tác phong Đảng liêm chính của Đảng Cộng sản Trung Quốc” của Lưu
Kỳ Bảo đã nêu lên sáu kinh nghiệm, nhấn mạnh kinh nghiệm phải: “kiên trì
nắm chắc công tác giáo dục liêm chính, xây dựng phòng tuyến đạo đức tư
tưởng vững chắc cho việc đấu tranh chống tham nhũng biến chất” [88, tr.28];
10
trong bài “Một vài góc độ lý giải tầm quan trọng của xây dựng tác phong
Đảng liêm chính” của Lý Thư Lỗi nêu lên 5 quan điểm, trong đó nhấn mạnh:
“bất kỳ một đảng cầm quyền nào, một chính quyền nào muốn đứng vững đều
cần xây dựng hình tượng đạo đức của mình, thể hiện trên mình giá trị đạo đức
tích cực và lấy đó để dẫn dắt trào lưu xã hội, chỉ có như vậy mới có thể được
nhân dân thừa nhận” [88, tr.73-74].
- “Công tac xây dưng Đang cua Đảng Công sản Trung Quốc trong giai
đoan hiên nay” của Trường Lưu [99]. Bài viết đã làm rõ những kết quả nổi
bât trong công tác xây dựng Đảng của Đảng Công san Trung Quốc, nhất là
những thành tựu trong công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ
chức thời gian qua. Đặc biệt nhấn mạnh chiến dịch chông tham nhung với
phương châm “kêt hơp phong va chống”, khâu hiêu: “đa hô, diệt ruôi, săn
cao” do Tổng Bí thư Đảng Công san Trung Quốc - Tập Cận Bình phát động.
Từ năm 2013 đến nay, các cơ quan đảng và nha nước Trung Quốc đa phat
hiện và xử lý nghiêm khắc hơn 180 can bộ cao câp vi tôi tham nhung va vi
phạm nghiêm trọng ky luât đang va hang van can bô tư câp huyên trơ xuông.
Đồng thời, tác giả làm rõ một số vân đê rut ra tư công tac xây dưng Đang của
Đang Cộng san Trung Quốc: môt la, sự cần thiêt va tinh câp bách của viêc đổi
mơi va tăng cương công tac xây dưng Đảng trong tinh hinh hiên nay; hai la,
đôi mới công tac xây dưng Đang; ba la, tập trung nô lưc của công tac xây
dưng Đang hiên nay vao đấu tranh chông tham nhũng; bôn la, công tac xây
dựng Đảng hiên nay cân găn liền vơi cải cách hê thống chinh tri, xây dưng
nha nước phap quyên xã hội chủ nghia.
1.1.3. Các công trình của các nhà khoa học Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
- “Nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh
nước Cộng hoà dân chủ Nhân dân Lào” của Bunma KếtKêson [26]. Trong luận
án của mình, tác giả chỉ ra quan điểm của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào về
ĐĐCM, đó là đạo đức mới, đạo đức của những người cách mạng chân chính,
tiêu biểu, cao đẹp nhất cho những phẩm chất tiêu biểu của giai cấp công nhân
và nhân dân các bộ tộc Lào. Nó được kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống
của dân tộc với sự tiếp thu các giá trị đạo đức tiên tiến của thời đại trong mọi
giai đoạn phát triển của cách mạng. Trong đó, Đảng Nhân dân cách mạng Lào
luôn khẳng định: Đạo đức cách mạng là cái gốc, là nền tảng của người cán bộ
lãnh đạo, đòi hỏi người cán bộ phải không ngừng rèn luyện phấn đấu.
11
Đồng thời, tác giả chỉ ra đặc trưng ĐĐCM của cán bộ lãnh đạo chủ
chốt cấp tỉnh ở Lào là: Trung thành và quyết tâm phấn đấu thực hiện thắng
lợi mục tiêu lý tưởng của Đảng, của giai cấp công nhân và nhân dân các bộ
tộc Lào; sự thống nhất động cơ với hành động và yêu cầu hiệu quả; yêu
thương quý trọng con người là phẩm chất cơ bản về đạo đức của người cán
bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh ở Lào (được biểu hiện: qúy trọng phẩm giá
con người và tận tụy phục vụ lợi ích con người; căm ghét, đấu tranh xóa bỏ
mọi quan hệ thù địch đối với con người; biết thu phục, cảm hóa, thức tỉnh
kẻ thù và những người lầm đường lạc lối, chống lại con người); cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư; tình thần quốc tế trong sáng. Tác giả khẳng
định, trong điều kiện mới, việc nâng cao ĐĐCM của cán bộ lãnh đạo chủ
chốt cấp tỉnh ở Lào là đòi hỏi tất yếu để thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc,
dân chủ, thịnh vượng.
- “Rèn luyện đạo đức cán bộ lãnh đạo ở Lào trong điều kiện kinh tế thị
trường”, của Khămphăn Vông-pha-chăn [92]. Trong bài viết của mình, tác giả
chỉ ra, ĐĐCM là một tiêu chuẩn của cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ lãnh
đạo nói riêng. Đối với Đảng Nhân dân cách mạng Lào chỉ làm tròn nhiệm vụ
và xứng đáng với vai trò đội tiên phong khi Đảng xây dựng được đội ngũ cán
bộ, đảng viên có nhận thức và năng lực, có ĐĐCM. Đó là những cán bộ có
phương pháp lãnh đạo, trách nhiệm cao với nhiệm vụ, không tham lam, không
lợi dụng chức vụ, quyền hạn, kiên định, thuỷ chung, trong sáng với lý tưởng
của Đảng, với Tổ quốc và nhân dân; cần cù, tiết kiệm, khiêm tốn, có chí tiến
thủ, chịu khó nghiên cứu, học tập để nâng cao nhận thức, không ngừng vươn
lên, dám nghĩ, dám làm, tự chịu trách nhiệm trong công việc; không tham
nhũng, cục bộ, không coi lợi ích cá nhân cao hơn lợi ích tập thể và Tổ quốc.
Tác giả chỉ ra, trong giai đoạn mới, tổ chức đảng các cấp cần thực
hiện một số giải pháp như: quan tâm việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có hệ
thống, là nhiệm vụ thường xuyên của các cấp uỷ; phải xây dựng kế hoạch
cụ thể để thực hiện; thực hiện tốt nguyên tắc tập trung, dân chủ; mở rộng
dân chủ trong trong sinh hoạt đảng, tự phê bình và phê bình, cùng nhau tiến
bộ, sửa chữa khuyết điểm của mỗi đảng viên. Là cán bộ lãnh đạo, người có
trọng trách cao trong cấp ủy, chính quyền, trước hết phải gương mẫu để
quần chúng noi theo.
12
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC Ở VIỆT NAM
1.2.1. Các công trình nghiên cứu về giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện
đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên theo tư tưởng đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta
Khi nghiên cứu về hoạt động giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện ĐĐCM đối
với đội ngũ cán bộ, đảng viên theo tư tưởng đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh,
có nhiều công trình của các nhà nghiên cứu, tiếp cận luận giải ở những góc độ
khác nhau, tiêu biểu có những công trình đáng chú ý như: “Quan điểm tư tưởng
Hồ Chí Minh về đức - tài trong xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội” của tiến sĩ
Nguyễn Quang Phát (chủ biên) [125]; “Đẩy mạnh học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh” của Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương [13];
“Đảng ta là đạo đức, là văn minh” của Trương Ngọc Nam, Hoàng Anh [118];
“Bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh cho đội
ngũ cán bộ doanh nghiệp quân đội” của Đặng Sỹ Lộc [98]; “Văn hóa đạo đức
Hồ Chí Minh” của Hoàng Chí Bảo [15]; “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
cách mạng và sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay” của Nguyễn
Thị Hoài Phương [130]; “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác giáo dục
đạo đức cách mạng đối với cán bộ, đảng viên từ năm 1994 đến năm 2006” của
Đỗ Xuân Tuất [150]. “Hồ Chí Minh về suốt đời phấn đấu cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư, làm người công bộc tận tụy, trung thành của nhân dân, đời tư
trong sáng, cuộc sống riêng giản dị” của Ban Tuyên giáo Trung ương [10];
“Giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên các trường Đại học, cao đẳng
trong dạy học môn tư tưởng Hồ Chí Minh” của Lê Thị Vân Anh [1]; “Công an
nhân dân Việt Nam với tác phẩm tư cách người công an cách mệnh của Hồ Chí
Minh” của Giáo sư, Tiến sĩ Tô Lâm [94]; “Xây dựng phong cách, tác phong
công tác của người đứng đầu, của cán bộ, đảng viên trong học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” của Ban Tuyên giáo Trung ương
[11]; “Hồ Chí Minh - Giá trị về tư tưởng và đạo đức” của Trần Quang Nhiếp,
Nguyễn Văn Sáu [122]; “Văn hóa đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh” của Bùi
Đình Phong [126]; “Đạo đức Bác Hồ tấm gương soi cho muôn đời” của Trần
Viết Hoàn [84]; “Tư tưởng Hồ Chí Minh về công an nhân dân - giá trị lý luận và
thực tiễn” (xuất bản lần thứ 2) của GS, TS Tô Lâm [95].
13
Các công trình của các nhà nghiên cứu nêu trên đã tập trung phân tích,
chỉ rõ nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, đó
là sự kết tinh từ truyền thống của dân tộc Việt Nam, được phát huy, phát triển
trong suốt quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước; là sự vận dụng và phát
triển sáng tạo tư tưởng đạo đức cộng sản của chủ nghĩa Mác - Lênin; tiếp thu
có chọn lọc và phát triển những tinh hoa văn hóa đạo đức của nhân loại. Một
số công trình đã chỉ rõ ĐĐCM là “cái gốc”, là nền tảng để hình thành và phát
triển hoàn thiện nhân cách người cán bộ, đảng viên, giúp họ hoàn thành tốt
nhiệm vụ cách mạng. Đồng thời, chỉ ra quan hệ đức - tài của người cách
mạng, đây là hai yếu tố có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó đạo đức
là yếu tố quan trọng, quyết định việc hình thành và phát triển năng lực, phẩm
chất nhân cách của người cách mạng.
Một số công trình đã luận giải làm rõ những yêu cầu về phẩm chất,
nguyên tắc xây dựng, rèn luyện ĐĐCM của người cán bộ, đảng viên theo tư
tưởng Hồ Chí Minh. Về ĐĐCM, tuy có nhiều cách luận giải cụ thể khác nhau
gắn với từng đối tượng, thời điểm, nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể, nhưng về cơ
bản, các công trình đều chỉ ra biểu hiện trung nhất đạo đức của người cách
mạng là: trung với Đảng, Tổ quốc, hiếu với dân; yêu thương con người; sống
có nhân, nghĩa, có trí, dũng, uy tín của người cách mạng và luôn nêu cao tinh
thần: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; tinh thần quốc tế trong sáng. Đồng
thời, các tác giả chỉ ra một số nguyên tắc rèn luyện ĐĐCM theo tư tưởng Hồ
Chí Minh, gồm: nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức cách mạng; xây
đi đôi với chống; phải tu dưỡng đạo đức suốt đời; tôn trọng, gắn bó với quần
chúng, nhân dân, phát huy vai trò của quần chúng, nhân dân trong sự nghiệp
cách mạng và rèn luyện cán bộ cách mạng về đạo đức, lối sống.
Một số công trình tiêu biểu của các nhà khoa học có liên quan đến đề tài
luận án được khai thác:
- “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác giáo dục đạo đức cách
mạng đối với cán bộ, đảng viên từ năm 1994 đến năm 2006”, của giả Đỗ Xuân
Tuất [150] đã khái quát sự lãnh đạo của Đảng ta trong giáo dục ĐĐCM cho cán
bộ, đảng viên từ 1994 đến 2006, và chỉ ra phẩm chất chung về đạo đức của
người cán bộ, đảng viên mà Đảng ta đã xác định trong Nghị quyết Đại hội VIII,
IX… trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa là: tuyệt
đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc…; luôn nêu
cao tinh thần “mình vì mọi người”, gắn bó với nhân dân, chống chủ nghĩa cá
14
nhân, quan liêu, chống đặc quyền, đặc lợi…; khiêm tốn, cầu thị, tích cực học
tập để không ngừng nâng cao trình độ mọi mặt…; tự giác chấp hành kỷ luật,
nêu cao ý thức tự phê bình và phê bình… Đồng thời chỉ ra những phẩm chất
đạo đức cách mạng riêng đã được cụ thể hóa trong điều kiện của mỗi tổ chức,
các ngành, các đơn vị.
- “Văn hóa đạo đức Hồ Chí Minh” của Giáo sư Hoàng Chí Bảo [15].
Cuốn sách tập trung giới thiệu 5 chuyên đề: Văn hóa đạo đức Hồ Chí Minh -
Một kiểu mẫu văn hóa đạo đức; Ba vấn đề lớn cần quan tâm trong cuộc vận
động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; “Sửa đổi lối làm
việc” - Tác phẩm đầu tiên đặt vấn đề đổi mới trong điều kiện Đảng cầm quyền;
Về hoàn cảnh ra đời, giá trị và ý nghĩa của tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách
mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh; Minh triết Hồ
Chí Minh về đạo đức. Cuốn sách chỉ ra trong di sản Hồ Chí Minh để lại có tới
gần 50 bài và tác phẩm bàn về vấn đề đạo đức, từ bài giảng đầu tiên trong tác
phẩm “Đường cách mệnh” đến bản “Di chúc” cuối cùng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn quan tâm đến vấn đề đạo đức và việc tu dưỡng đạo đức, coi đạo đức
là “cái gốc” của người cách mạng.
- “Kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình
chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” của Nguyễn Văn Lý [100].
Cuốn sách gồm 2 chương, phân tích làm rõ một số nội dung cơ bản về: đạo
đức và những giá trị đạo đức truyền thống; cơ sở hình thành các giá trị đạo
đức truyền thống ở Việt Nam; tính tất yếu, yêu cầu của việc kế thừa và phát
huy các giá trị đạo đức truyền ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời, tác giả
phân tích những điều kiện của kinh tế thị trường tác động tới giá trị đạo
đức truyền thống. Trên cơ sở làm rõ thực trạng, tác giả chỉ ra năm nhóm
giải pháp nhằm kế thừa, phát huy giá trị đạo đức truyền thống trong điều
kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
- “Đạo đức nghề báo - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Hoàng
Đình Cúc [34]. Trong sách của mình, tác giả quan niệm: Đạo đức là một hệ
thống nguyên lý, quy tắc, chuẩn mực và những khái niệm có tính chất đánh
giá và tính chất mệnh lệnh điều chỉnh hành vi của con người trong quan hệ
với người khác và với cộng đồng (gia đình, làng xóm, giai cấp, dân tộc hay
toàn xã hội); là một hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, phản
15
ánh hiện thực đời sống xã hội, chế độ kinh tế - xã hội; là một phương thức
điều chỉnh hành vi của con người. Đồng thời luận giải, nghề làm báo là
một nghề do xã hội phân công. Đạo đức nghề báo là một loại đạo đức
nghề nghiệp, là một bộ phận, một yếu tố cấu thành của đạo đức xã hội.
Theo đó: Đạo đức nghề báo là hệ thống quy tắc, chuẩn mực đạo đức của
người làm báo trong quan hệ với xã hội, với nghề nghiệp, với đồng nghiệp
và với bản thân. Trên cơ sở phân tích đạo đức nghề báo với tư cách là một
lĩnh vực đạo đức nghề nghiệp, các chuẩn mực và thực trạng của đạo đức
nghề báo ở Việt Nam, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao đạo
đức nghề báo ở nước ta.
- “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng và sự vận dụng của
Đảng ta trong giai đoạn hiện nay” của Nguyễn Thị Hoài Phương [130]. Nội
dung cuốn sách gồm 2 chương: Những quan điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về ĐĐCM; Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong xây dựng Đảng.
Trong đó, tác giả phân tích làm rõ ĐĐCM là một nội dung quan trọng, cơ bản
của hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, là nền tảng của đạo đức mới ở Việt Nam.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn xác định, và tổ chức thực hiện
tốt nhiệm vụ giáo dục, rèn luyện ĐĐCM theo tư tưởng Hồ Chí Minh đối với
các tổ chức, và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Để thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ xây dựng Đảng trong điều kiện mới, tác giả nhấn mạnh cần tiếp tục
quán triệt, vận dụng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh một cách cụ thể và
sâu sắc trong hoạt động xây dựng đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên
thường xuyên, hàng ngày, nhất là xây dựng đội ngũ cán bộ theo tiêu chuẩn
ĐĐCM: cần, kiệm, liêm, chính.
- “Hồ Chí Minh về suốt đời phấn đấu cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư, làm người công bộc tận tụy, trung thành của nhân dân, đời tư trong sáng,
cuộc sống riêng giản dị” của Ban Tuyên giáo Trung ương [10]. Sách trình bày
những nội dung tư tưởng cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về: tu dưỡng đạo
đức suốt đời; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; làm người công bộc tận
tụy, trung thành của nhân dân. Đây là tài liệu dùng cho cấp ủy, tổ chức đảng
các cấp và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quá trình giáo dục, rèn luyện, tự
giáo dục, tự rèn luyện đạo đức cách mạng, nhằm đẩy mạnh thực hiện nhiệm
vụ học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trên thực tiễn.
16
- “Giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên các trường Đại học, cao
đẳng trong dạy học môn tư tưởng Hồ Chí Minh” của Lê Thị Vân Anh [1].
Cuốn sách luận giải làm rõ một số vấn đề cơ bản trong công tác giáo dục đạo
đức; một số nội dung giáo dục đạo đức cho sinh viên qua môn học tư tưởng Hồ
Chí Minh. Thông qua đó, xây dựng cho sinh viên có nhận thức, suy nghĩ và
hành động phù hợp chuẩn mực đạo đức, góp phần thực hiện lẽ sống của Bác
Hồ. Bên cạnh đó, cuốn sách chỉ ra phương pháp giáo dục đạo đức thông qua
môn học tư tưởng Hồ Chí Minh là ngoài việc lồng ghép vào nội dung bài
giảng, giảng viên cần đưa ra các chủ đề về đạo đức vào các giờ Xêmina và
hướng dẫn, gợi ý, dẫn dắt sinh viên thể hiện các quan điểm, nhận thức và thái
độ về đạo đức, lẽ sống của mình; giảng viên cần xây dựng những bài kiểm tra,
bài thi mở, tạo điều kiện cho sinh viên trình bày những suy nghĩ, ý kiến cá nhân
của mình, liên hệ giữa lý luận và thực tiễn.
- “Công an nhân dân Việt Nam với tác phẩm tư cách người công an cách
mệnh của Hồ Chí Minh” của GS Tô Lâm [94]. Nội dung cuốn sách đi sâu phân
tích hoàn cảnh ra đời, chủ đề tư tưởng và kết cấu của tác phẩm Tư cách người
công an cách mệnh; phân tích nội dung cơ bản của tác phẩm. Từ đó, tác giả
khẳng định những giá trị và sức sống bền vững của tác phẩm tư cách người
công an cách mệnh đối với quá trình xây dựng và trưởng thành của lực lượng
Công an nhân dân. Điểm mới nổi bật thể hiện trong cuốn sách chính là việc tác
giả đã tiếp cận Sáu điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân không chỉ là 6 luận
điểm, 6 mệnh đề khoa học mà còn coi đó như một tác phẩm trọn vẹn, ngắn
gọn, dễ hiểu, dễ nhớ như 6 câu thơ của Bác. Đồng thời, tác giả nhấn mạnh đến
tư cách gắn liền với đạo đức của người công an cách mệnh, với những chuẩn
mực tiêu biểu về lòng tận trung với Tổ quốc, tận hiếu với nhân dân. Cuốn sách
cũng làm rõ những luận điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm Dân
vận, từ đó luận giải về văn hóa ứng xử của cán bộ, chiến sĩ công an khi làm
việc, tiếp xúc với nhân dân.
- “Xây dựng phong cách, tác phong công tác của người đứng đầu, của
cán bộ, đảng viên trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh” của Ban Tuyên giáo Trung ương [11]. Nội dung cuốn sách
gồm 3 phần, trong đó tập trung làm rõ: khái niệm phong cách; phong cách Hồ
Chí Minh mang đậm tính chất dân tộc và hiện đại, khoa học và cách mạng…
của một nhân cách lớn, một trí tuệ lỗi lạc, đạo đức trong sáng, nhân văn của
17
nhà văn hóa lớn trên thế giới Hồ Chí Minh. Phong cách Hồ Chí Minh được
thể hiện trong mọi lĩnh vực sống và hoạt động của Người, tạo thành chỉnh thể
nhất quán, có giá trị khoa học, đạo đức, thẩm mỹ; là tấm gương sáng cho mọi
người, mọi thế hệ người Việt Nam học tập và làm theo. Những nội dung cơ
bản của phong cách Hồ Chí Minh: Phong cách tư duy, phong cách làm việc,
phong cách lãnh đạo, phong cách diễn đạt, phong cách ứng xử, phong cách
sống. Để xây dựng phong cách công tác của người cán bộ, đảng viên theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, cuốn sách chỉ ra cần xây dựng cho đội ngũ cán bộ, đảng
viên có phong cách làm việc dân chủ, phong cách làm việc quần chúng,
phong cách làm việc khoa học, phong cách nêu gương, nói đi đôi với làm.
- “Đạo đức Bác Hồ tấm gương soi cho muôn đời” của Trần Viết Hoàn
[84]. Cuốn sách gồm 33 bài viết ngắn gọn, mộc mạc, chân thực nhưng hết sức
sinh động về cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng
như những sinh hoạt đời thường của Người. Tác giả đã khai thác rất nhiều khía
cạnh về đạo đức của Bác Hồ từ việc ăn, mặc, ở, đến những quan niệm về đạo
đức mà Bác dạy cho cán bộ, chiến sĩ công an; đồng thời, tập trung phân tích
sâu sắc phong cách sống đời thường, giản dị, khiêm tốn, kính trọng dân, làm
gương trước quần chúng… của Bác. Từ đó, tác giả chỉ ra việc “tự phê bình và
phê bình” theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) như một phương thuốc
chữa bệnh cho cán bộ, đảng viên trong thời đại mới.
- “Tư tưởng Hồ Chí Minh về công an nhân dân - giá trị lý luận và thực
tiễn” của GS Tô Lâm [95]. Sách gồm hai phần, nêu bật sự cần thiết phải nghiên
cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân; phân tích, làm sáng
tỏ tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đối với Công
an nhân dân; vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Công an nhân dân; sự cần thiết
phải giữ vững bản chất giai cấp, quét sạch chủ nghĩa cá nhân trong Công an
nhân dân; về tăng cường sự đoàn kết, phối hợp, hiệp đồng chiến đấu giữa Công
an nhân dân với Quân đội nhân dân, các cấp, các ngành và dựa vào nhân dân
trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.
1.2.2. Các công trình nghiên cứu vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức;
đấu tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của
một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay
* Các công trình nghiên cứu vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức hiện nay
Xây dựng Đảng về đạo đức là vấn đề Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan
tâm, được Đảng ta tiếp tục xác định tại Đại hội lần thứ XII với nội dung yêu
18
cầu trong thời kỳ mới đã giành được sự quan tâm nghiên cứu đặc biệt của
nhiều nhà khoa học, với nhiều công trình khác nhau đề cập đến vấn đề này.
Trong đó, có một số công trình tiêu biểu như: “Xây dựng Đảng về đạo đức
cần gắn chặt với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức” của PGS, TS
Nguyễn Minh Tuấn [149]; “Xây dưng Đang vê đao đưc theo đinh hương Văn
kiên Đai hôi XII cua Đang” của Phùng Hữu Phú [127]; “Vân dung tư tương
Hô Chi Minh vê cân, kiêm, liêm, chinh vao xây dưng Đang vê đao đưc trong
giai đoan hiên nay” của Trần Thị Minh Tuyết [151]; “Xây dựng Đảng ta ngày
càng trong sạch, vững mạnh, thực sự “là đạo đức, là văn minh” của GS Nguyễn
Phú Trọng [148]; “Mấy vấn đề cơ bản và tiên quyết xây dựng Đảng về đạo
đức, bảo đảm nâng cao sức mạnh, uy tín và trách nhiệm cầm quyền của Đảng
hiện nay” của Nhị Lê [96]; “Xây dựng đạo đức của cán bộ, đảng viên, chống
chủ nghĩa cá nhân, bè phái, “lợi ích nhóm” của PGS, TS Dương Trung Ý
[164]; “Xây dưng Đang vê đao đưc trong giai đoan hiện nay” của GS Lê Hữu
Nghĩa [120]; “Xây dựng Đảng về đạo đức trọng tâm lãnh đạo, chỉ đạo xây
dựng tổ chức, xây dựng con người của Đảng bộ Tổng cục Kỹ thuật” của
Nguyễn Hữu Chính [32]; “Chuẩn mực đạo đức mới của đảng viên” của GS,
TS Vũ Văn Hiền [83]; “Một số giải pháp xây dựng Đảng về đạo đức trong
Đảng bộ Quân đội” của PGS, TS Đặng Nam Điền, ThS Nguyễn Văn Giới
[78]; “Vấn đề đạo đức trong xây dựng Đảng hiện nay” của GS, TS Tạ Ngọc
Tấn [139]; “Xây dựng Đảng về đạo đức” của GS Hoàng Chí Bảo [16]; “Giáo
dục, rèn luyện nghĩa vụ đạo đức cách mạng cho đảng viên - một nội dung
quan trọng của xây dựng Đảng về đạo đức” của Đoàn Minh Huấn [90]; “Nâng
cao chất lượng xây dựng Đảng bộ Quân đội về đạo đức trong tình hình mới”
của Nguyễn Trọng Nghĩa [121]; “Nội dung, phương thức xây dựng Đảng về
đạo đức” của PGS, TS. Nguyễn Văn Giang [81].
Các công trình nêu trên đã tập trung luận giải, làm rõ những vấn đề cơ
bản về khái niệm, nội dung, phương thức xây dựng Đảng về đạo đức; nhấn
mạnh việc xây dựng chuẩn mực ĐĐCM của mỗi cán bộ, đảng viên là “gốc”
để xây dựng chuẩn mực đạo đức chung trong Đảng và hệ thống chính trị.
Trong điều kiện mỗi ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị khác nhau có yêu
cầu, nhiệm vụ khác nhau nên quá trình thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng về
đạo đức cũng phải được vận dụng linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với đặc điểm
nhiệm vụ được giao; chú trọng xây dựng chuẩn mực ĐĐCM cho từng đối
tượng cán bộ, đảng viên, sát với yêu cầu nhiệm vụ.
19
Một số công trình tiêu biểu của các nhà khoa học có liên quan đến đề tài
luận án được khai thác:
- “Xây dựng Đảng về đạo đức cần gắn chặt với xây dựng Đảng về
chính trị, tư tưởng, tổ chức” của PGS, TS Nguyễn Minh Tuấn [149]. Tác giả
quan niệm: xây dựng Đảng về đạo đức, là xây dựng và thực hiện nhưng chuân
mực giá trị đao đức cach mang của đội ngũ đảng viên, lam cho Đang trong
sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo va sưc chiên đâu của Đang, xây
dưng thành công chu nghia xa hôi và bao vệ vững chắc Tô quôc Việt Nam xa
hôi chu nghia. Đồng thời tác giả phân tích, làm rõ mối quan hệ giữa xây dựng
Đảng về đạo đức với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Trong
đó, xây dựng Đảng về chính trị có tính chất bao trùm, chi phối xây dựng Đảng
về tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Xây dựng Đảng về tư tưởng, tổ chức và đạo
đức đều xuất phát từ xây dựng Đảng về chính trị và phục vụ nhiệm vụ chính
trị, làm căn cứ lý luận và thực tiễn cho xây dựng Đảng về chính trị. Xây dựng
Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức gắn bó chặt chẽ, tác động qua
lại, là cơ sở, tiền đề và là hệ quả của nhau, thúc đẩy nhau, bảo đảm cho Đảng
Cộng sản Việt Nam thực sự là đội tiên phong lãnh đạo toàn xã hội.
- “Chuẩn mực đạo đức mới của đảng viên” của GS, TS Vũ Văn Hiền
[83]. Tác giả cho rằng, chuẩn mực đạo đức mới của đảng viên có thể quan
niệm là những điều quy định làm căn cứ để đánh giá đảng viên khác với
người ngoài Đảng, người đó có xứng đáng là thành viên trong đội ngũ tiên
phong của dân tộc - Đảng Cộng sản Việt Nam - hay không. Từ đó, tác giả đề
ra chuẩn mực đạo đức mới của đảng viên cần được nhìn nhận rõ nét trên
những vấn đề như: Về lập trường giai cấp, bản lĩnh chính trị; về nhận thức,
kiến thức, năng lực toàn diện; về lối sống, phong cách; về quan hệ với quần
chúng nhân dân. Trong đó, tác giả đặc biệt nhấn mạnh về lập trường giai cấp,
bản lĩnh chính trị. Đạo đức cách mạng đòi hỏi đảng viên phải có thái độ đúng
đắn, tích cực, đi đầu trong thực hiện các nhiệm vụ do công cuộc đổi mới đặt
ra; đảng viên cần ủng hộ nhân tố mới, tích cực tham gia chống tiêu cực và tệ
nạn xã hội, phê phán những biểu hiện mơ hồ, cực đoan, tư tưởng sai lệch.
- “Một số giải pháp xây dựng Đảng về đạo đức trong Đảng bộ Quân đội”
của PGS, TS Đặng Nam Điền, ThS Nguyễn Văn Giới [79]. Các tác giả nhấn
mạnh, để góp phần xây dựng Đảng về đạo đức trong Đảng bộ quân đội hiện
nay, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong Đảng bộ Quân đội phải hướng tới thực
hiện tốt mục tiêu: Kiên định xây dựng nền tảng chính trị vững chắc, kỷ cương,
kỷ luật cao, đoàn kết thống nhất, trung thành tuyệt đối với Đảng, giữ vững lòng
20
tin yêu của nhân dân, sẵn sàng hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.
Đồng thời, tác giả nhấn mạnh, để thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng Đảng về đạo
đức trong Đảng bộ quân đội hiện nay, cần thực hiện đồng bộ, nhiều giải pháp,
nhưng trước hết cần kiên trì bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng
viên trong cơ quan, đơn vị; và từng bước cụ thể hóa chuẩn mực đạo đức của
người cán bộ, đảng viên trong Quân đội theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII
của Đảng và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII), làm cơ sở để đội ngũ cán
bộ, sĩ quan học tập, tu dưỡng, rèn luyện trong quá trình hoạt động.
- “Nội dung, phương thức xây dựng Đảng về đạo đức” của PGS, TS
Nguyễn Văn Giang [81]. Tác giả chỉ ra nội dung xây dựng Đảng về đạo đức
trong điều kiện hiện nay cần bao hàm các yêu cầu chủ yếu như: đối với Đảng
cần xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn, vì dân, vì nước và tổ
chức thực hiện đến nơi, đến chốn; xây dựng bộ máy của Đảng khoa học, gọn
nhẹ, tiết kiệm, hiệu quả; có phương thức lãnh đạo khoa học; quyền lực được
kiểm soát, trách nhiệm rõ ràng. Đối với cán bộ, đảng viên phải thật sự tiên
phong, gương mẫu thực hiện cần, kiệm, liêm, chính; nói đi đôi với làm; có lập
trường chính trị trung thành với Đảng, với nước, với dân; có ý thức trách nhiệm
cao với công việc và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; quan tâm, gần gũi
quần chúng. Không tham nhũng, lãng phí; dũng cảm bảo vệ cái đúng, đấu tranh
với cái sai. Đồng thời, tác giả nêu ra phương thức xây dựng Đảng về đạo đức
như: bằng tuyên truyền, giáo dục về ĐĐCM cho mỗi cán bộ, đảng viên; bằng
sự tu dưỡng, rèn luyện, gương mẫu của mỗi cán bộ, đảng viên; thông qua xây
dựng Nhà nước và các tổ chức của hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh,
hiệu lực, hiệu quả; và bằng kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng.
- “Giáo dục, rèn luyện nghĩa vụ đạo đức cách mạng cho đảng viên - một
nội dung quan trọng của xây dựng Đảng về đạo đức” của Đoàn Minh Huấn
[90]. Tác giả nêu ra những chuẩn mực về nghĩa vụ đạo đức của đảng viên là:
Gương mẫu thực hiện đầy đu nghia vu công dân; tính tiên phong, ưu tu trong
xã hôi; trung thanh (vơi Đang, vơi Tô quôc va nhân dân); dám hy sinh (cho lơi
ich chung); trung thực với Đảng; tuyệt đôi phuc tung ky luât tô chưc, cương
lĩnh, điều lệ, nghị quyêt, nguyên tăc cua Đảng; giư gin đoan kêt, thống nhât
trong Đang; tham gia xây dưng Đang; găn bo mât thiêt vơi nhân dân, tôn trọng
nhân dân, chăm lo và bao vệ nhân dân; có lao động; co đao đưc cach mạng va
lối sống lành mạnh; thương xuyên hoc tâp nâng cao trình đô moi măt va ren
luyên, tu dương đao đưc, lôi sống; hoan thanh nhiêm vu đươc giao; tư phê bình
va phê binh; đâu tranh chông chủ nghia ca nhân, cơ hôi, cuc bộ, tham nhung.
21
* Các công trình nghiên cứu vấn đề đấu tranh phòng, chống suy thoái về tư
tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ
phận cán bộ, đảng viên hiện nay
Khi nghiên cứu vấn đề đấu tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng,
chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận
cán bộ, đảng viên hiện nay. Các tác giả tập trung làm rõ thực trạng, nguyên
nhân, hậu quả của sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Từ đó, các tác
giả xác định nội dung, giải pháp nhằm đấu tranh đẩy lùi thực trạng đó. Có
nhiều công trình của các nhà nghiên cứu đề cập đến vấn đề nêu trên, nhưng tiêu
biểu có một số công trình sau:
- “Những giải pháp và điều kiện thực hiện phòng, chống suy thoái tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên” của Vũ Văn Phúc và
Ngô Văn Thạo [128]. Trong sách, trên cơ sở làm rõ thực trạng suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở Việt Nam và chỉ ra một số kinh nghiệm,
những bài học từ sự sụp đổ của Liên Xô từ góc nhìn suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên cộng sản; kinh nghiệm của
Đảng Cộng sản Trung Quốc trong phòng, chống tham nhũng, suy thoái về đạo
đức, lối sống, xây dựng xã hội hài hòa trong cải cách, mở cửa; kinh nghiệm
trong đấu tranh phòng chống tham nhũng ở Hàn Quốc, Xingapo; phòng, chống
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở Cuba...Tác giả xác định
mục tiêu, quan điểm, làm rõ bốn giải pháp cơ bản và các điều kiện đảm bảo
nhằm phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán
bộ, đảng viên có hiệu quả.
- “Phóng, chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán
bộ, đảng viên hiện nay” của Nguyễn Bá Dương [37]. Cuốn sách là tập hợp
những bài viết của cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhà giáo, nhà khoa học của Viện
Khoa học Xã hội Nhân văn quân sự và Học viện Chính trị. Trong đó, cuốn sách
tập trung làm rõ sự cần thiết, tầm quan trọng của việc ngăn chặn, đẩy lùi suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng
viên hiện nay; bản chất, căn nguyên của sự suy thoái, cách nhận diện sự suy
thoái; những thuận lợi, khó khăn trong đấu tranh ngăn chặn sự suy thoái...
Đồng thời cuốn sách cũng nêu ra cần phải thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh,
là cơ sở quan trọng để chủ động đấu tranh, ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống một cách hiệu quả.
22
- “Ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị” của Nguyễn
Viết Thông [140]. Trong bài, tác giả đã chỉ ra những điểm mới của Nghị
quyết TW4 (khóa XII) với chín biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị và
mối quan hệ giữa suy thoái về tư tưởng chính trị với suy thoái về đạo đức,
lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và hậu quả của nó. Từ đó tác giả
khẳng định, mỗi cán bộ, đảng viên cần xây dựng cho mình có nhận thức sâu
sắc về nguy cơ, nhận diện đúng những biểu hiện và thực hiện tốt các giải
pháp để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư
tưởng chính trị mà Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đã chỉ ra. Trong đó,
tác giả nhấn mạnh: phải nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng
sự thật. Kết hợp giữa “xây” và “chống”; “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến
lược, lâu dài; “chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách. Các cấp ủy, tổ chức
cần thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp để đấu tranh ngăn chặn, đẩy
lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hiệu quả nhất.
- “Phòng, chống suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của
cán bộ, đảng viên là một yêu cầu bức thiết hiện nay” của Vu Văn Phuc [129].
Trong bài viết, tác giả đã trình bày, tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống là
nền tảng và động lực tinh thần để phát triển xã hội. Vì vậy, Đảng luôn quan
tâm đến công tác giáo dục, xây dựng tư tưởng chính trị, đạo đức cách mạng,
lối sống nhân văn cho cán bộ, đảng viên và toàn xã hội. Trên có sở chỉ rõ bẩy
biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị trong cán bộ, đảng viên hiện
nay; chỉ ra nguyên nhân khách quan, chủ quan của sự suy thoái đó. Từ đó, tác
giả làm rõ hệ thống các nhóm giải pháp nhằm phòng, chống suy thoái về tư
tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên hiện nay.
- “Một số giải pháp ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên hiện nay” của Vũ Đình Đắc,
Nguyễn Văn Phương [77]. Trong bài viết của mình, trên cơ sở luận giải
một số vấn đề về thực trạng suy thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng
viên và nguy cơ của nó, tác giả nhận định để ngăn chặn, đẩy lùi thực trạng
trên cần kiên quyết, kiên trì thực hiện đồng bộ một số giải pháp như: Nâng
cao nhận thức, trách nhiệm và tăng cường sự lãnh đạo của tổ chức đảng các
cấp; xác định rõ vai trò, phát huy trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan,
đơn vị; nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của các cấp ủy đảng,
các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân; tăng cường giáo dục, rèn luyện
ĐĐCM cho mỗi cán bộ, đảng viên gắn với thực hiện nghiêm túc Chỉ thị 05
23
của Bộ Chính trị, Chỉ thị 87 của Quân ủy Trung ương, sẽ trực tiếp góp
phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống
của cán bộ, đảng viên, đáp ứng yêu cầu xây dựng Đảng bộ Quân đội trong
sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức.
- “Ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong tổ chức và của cán bộ, đảng viên” của Cao Văn Thống, Trần Duy Hưng
[141]. Trong bài viết, các tác giả khẳng định, đấu tranh, ngăn chặn sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên hiện nay
là cuộc đấu tranh trong nội bộ, trước hết phải bắt đầu từ trong Đảng, dựa trên
sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị. Trong đó, tác giả nhấn mạnh:
cần đổi mới và tăng cường việc nâng cao nhận thức tư tưởng cho các cấp uỷ,
tổ chức đảng, chi bộ, tổ chức nhà nước, cán bộ, đảng viên, công chức và nhân
dân; đồng thời, hoàn thiện các quy định, cơ chế, chính sách về công tác tổ
chức cán bộ; thực hiện nghiêm túc, có chất lượng, hiệu quả chế độ tự phê bình
và phê bình; coi trọng và thực hiện nghiêm túc việc kiểm tra, giám sát, kiểm
soát cấp uỷ, tổ chức đảng, chi bộ, tổ chức nhà nước, cán bộ, đảng viên, công
chức trong việc tu dưỡng rèn luyện đạo đức, lối sống và xử lý kiên quyết, kịp
thời, nghiêm minh những trường hợp vi phạm.
1.2.3. Các công trình nghiên cứu về giáo dục, phát triển và nâng cao
đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ quân đội và cán bộ Hậu cần Quân đội
Khi nghiên cứu về ĐĐCM của đội ngũ cán bộ quân đội và CBHC Quân
đội, có nhiều công trình của các nhà nghiên cứu luận giải ở những góc độ khác
nhau tùy theo mục đích, nhiệm vụ của các công trình. Cụ thể, có một số công
trình tiêu biểu liên quan đến đề tài luận án như sau:
* Khi bàn về ĐĐCM, và ĐĐCM của cán bộ quân đội
- “Nâng cao đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ chính trị Quân đội
nhân dân Việt Nam trong thời kỳ mới” của Đặng Nam Điền [78]. Tác giả
nêu lên: chuẩn mực ĐĐCM của người cán bộ chính trị trước hết là ĐĐCM
của người cán bộ quân đội, với những chuẩn mực cơ bản như Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã khái quát. Mặt khác, với chức năng, nhiệm vụ của người cán bộ
chính trị, chuẩn mực đạo đức cũng bao gồm những nội dung đặc thù phù
hợp với hoạt động CTĐ, CTCT trong quân đội, đòi hỏi người cán bộ chính
24
trị phải có phẩm chất “dũng cảm chiến đấu” trong mọi nhiệm vụ và mọi
hoàn cảnh; lòng nhân ái, yêu thương con người, yêu thương đồng đội;
thường xuyên trau dồi đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; mẫu
mực về tinh thần quốc tế trong sáng, là tấm gương cho cán bộ, chiến sĩ học
tập noi theo; nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức.
- “Nâng cao đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ chủ trì ở đơn vị cơ
sở binh chủng hợp thành Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” của Phạm
Văn Vinh [155]. Tác giả quan niệm: ĐĐCM của cán bộ chủ trì ở đơn vị cơ sở
binh chủng hợp thành là hệ thống những phẩm chất đạo đức phản ánh đời
sống, hoạt động, mối quan hệ, chức năng, nhiệm vụ của cán bộ chủ trì ở đơn
vị cơ sở, được thể hiện ở ý thức, tình cảm và hành vi đạo đức của họ, là nền
tảng tạo nên giá trị nhân cách, là cơ sở bảo đảm cho đội ngũ cán bộ chủ trì
thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ. Bên cạnh đó, tác giả chỉ ra chuẩn mực
ĐĐCM của cán bộ chủ trì ở đơn vị cơ sở binh chủng hợp thành hiện nay là:
yêu nước, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với nhân dân, với sự nghiệp
cách mạng của Đảng; có đạo đức, lối sống “cần, kiệm, liêm, chính, chí công,
vô tư”; lòng dũng cảm, tính quyết đoán, dám làm, dám chịu trách nhiệm; có
tình thương yêu đồng chí, đồng đội, yêu quí, kính trọng nhân dân và lòng căm
thù giặc sâu sắc; có ý thức tổ chức kỷ luật tự giác, nghiêm minh, thống nhất
giữa nói và làm; ham học hỏi, cầu tiến bộ, tích cực phấn đấu hoàn thành
nhiệm vụ theo chức trách được giao.
- “Giáo trình đạo đức học Mác - Lênin” của Nguyễn Bá Dương và
Nguyễn Hùng Oanh (chủ biên) [36]. Khi nghiên cứu về đạo đức quân nhân,
cuốn sách đã trình bày những nội dung cơ bản về sự hình thành, phát triển tư
tưởng đạo đức và đạo đức học Mác - Lênin; đồng thời nêu ra quan niệm chung:
“Đạo đức quân nhân quân đội ta là toàn bộ đời sống tinh thần đạo đức của người
quân nhân cách mạng, bao gồm một hệ thống các quan điểm, quan niệm, tư
tưởng, tình cảm, giá trị, nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức... dùng để điều
chỉnh, đánh giá thái độ, hành vi, quan hệ ứng xử của quân nhân với người khác,
với công việc, với tự mình, được thực hiện dưới sức mạnh dư luận xã hội, truyền
thống và lương tâm của mỗi quân nhân, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ cách
mạng, mang lại lợi ích cho Tổ quốc, nhân dân” [36, tr.133-134].
25
* Bàn về quan niệm CBHC Quân đội
- “Phát triển đạo đức cách mạng của người cán bộ Hậu cần Quân đội
nhân dân Việt Nam: lịch sử và lôgíc” của Trần Như Chủ [33]. Tác giả quan
niệm: CBHC Quân đội nhân dân Việt Nam là một bộ phận cán bộ của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Quân
đội nhân dân Việt Nam được lựa chọn giao nhiệm vụ hoạt động trong hệ thống
tổ chức hậu cần; đội ngũ CBHC ở đơn vị cơ sở các binh đoàn chủ lực là CBHC
Quân đội, đảm nhiệm các chức vụ chỉ huy hậu cần ở các cơ quan và phân đội,
trợ lý hậu cần chuyên ngành ở cơ quan hậu cần, được bố trí là sĩ quan hậu cần,
quân nhân chuyên nghiệp có trình độ chuyên môn nghiệp vụ tương ứng với các
chuyên ngành hậu cần theo chức danh, trực tiếp làm công tác bảo đảm hậu cần
cho đơn vị thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ.
- “Ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dụng đến nhân cách người cán bộ
Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Ngọc Ba [3].
Tác giả quan niệm: CBHC là một bộ phận cơ bản của đội ngũ cán bộ
QĐNDVN được giao trách nhiệm trực tiếp chỉ huy, lãnh đạo và đảm nhiệm
chuyên môn kỹ thuật chủ yếu, làm nòng cốt trong thực hiện chức năng, nhiệm
vụ bảo đảm hậu cần cho quân đội trong mọi tình huống.
- “Xây dựng đội ngũ cán bộ Hậu cần ở các sư đoàn bộ binh đủ quân
trong Quân đội nhân dân Việt Nam” của Nguyễn Đức Tưởng [152]. Tác giả
quan niệm: CBHC là một bộ phận cán bộ của Đảng, Nhà nước và quân đội
được lựa chọn, giao nhiệm vụ hoạt động trong hệ thống tổ chức hậu cần quân
đội. Đây là những cán bộ được lựa chọn, đào tạo và giao nhiệm vụ lãnh đạo,
chỉ huy, quản lý các mặt hoạt động khác nhau của công tác hậu cần, là lực
lượng nòng cốt tổ chức và thực hiện công tác hậu cần ở các cơ quan đơn vị
trong toàn quân. Đồng thời, tác giả chỉ ra: đội ngũ CBHC ở các sư đoàn bộ
binh đủ quân là những sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, được đào tạo, bồi
dưỡng có trình độ học vấn và chuyên môn nghiệp vụ hậu cần được bổ nhiệm
giữ các chức danh của cán bộ Hậu cần các cấp ở sư đoàn. Đây lực lượng trực
tiếp nghiên cứu quán triệt, tham mưu, đề xuất, chỉ đạo, hướng dẫn, tổ chức thực
hiện và kiểm tra, quản lý về công tác hậu cần theo phạm vi chức trách, nhiệm vụ
được giao, và chịu trách nhiệm trước cấp ủy, người chỉ huy và cơ quan hậu cần
về kết quả thực hiện công tác hậu cần của cơ quan, đơn vị.
26
* Về ĐĐCM, lối sống của người CBHC Quân đội
- “Vấn đề đạo đức cách mạng của người cán bộ Hậu cần Quân đội nhân
dân Việt Nam” của Hà Nguyên Cát [30]. Tác giả quan niệm: ĐĐCM là đạo
đức phản ánh lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt
Nam, giành độc lập dân tộc, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời,
tác giả nhận định: ĐĐCM của người CBHC là một loại đặc thù của đạo đức
cách mạng; trong đó có sự thống nhất hữu cơ giữa những phẩm chất chung của
đạo đức người cán bộ cách mạng, đạo đức người cán bộ quân đội với những
phẩm chất riêng của đạo đức nghề nghiệp người CBHC tạo nên nền tảng nhân
cách của người cán bộ Hậu cần, là cơ sở đảm bảo cho cán bộ Hậu cần hoàn
thành tốt chức năng, nhiệm vụ cách mạng mà họ được giao phó.
- “Người cán bộ Hậu cần trong giai đoạn cách mạng mới” của Nguyễn
Vĩnh Thắng [142]. Tác giả chỉ ra, trong giai đoạn hiện nay, yêu cầu đội ngũ
CBHC phải thực sự tận trung với Đảng, tận trung với nước, tận hiếu với dân;
yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; đặc biệt
phải phát huy đức “liêm” và đức “kiệm”, đây là chuẩn mực tiêu biểu của người
cán bộ Hậu cần Quân đội trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời, tác giả nhấn
mạnh, để thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, CBHC phải có quan điểm phục vụ
đúng đắn và có tinh thần trách nhiệm cao, yên tâm phấn khởi trong công tác,
gắn bó với ngành hậu cần phải lấy phục vụ đại đa số bộ đội là nhiệm vụ chính
của mình như Bác Hồ dạy: nhiệm vụ chính của người cán bộ cung cấp là phụng
sự đại đa số của bộ đội, tức là người binh nhì; phải thương yêu săn sóc người
binh nhì, cán bộ cung cấp như người mẹ, người chị của người binh nhì.
- “Bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ Hậu
cần ở Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh, thành phố giai đoạn hiện nay” của Bùi Nam
Hưng [91]. Tác giả quan niệm: bồi dưỡng, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ
CBHC ở bộ chỉ huy quân sự tỉnh, thành phố trong giai đoạn hiện nay là tổng
thể những chủ trương, nội dung, biện pháp của các cấp ủy, tổ chức đảng, cán
bộ chủ trì và các lực lượng ở BCHQS tỉnh, thành phố tác động vào ý thức,
tình cảm, hành vi đạo đức của đội ngũ CBHC. Đồng thời, tác giả nhấn
mạnh, để thực hiện tốt công tác bồi dưỡng, rèn luyện phải kết hợp chặt chẽ
quá trình tự học tập, tự tu dưỡng, rèn luyện bền bỉ hàng ngày của từng
CBHC với nhưng biện pháp của tổ chức, chỉ huy, nhằm nâng cao ĐĐCM
của đội ngũ CBHC đáp ứng yêu cầu chức trách, nhiệm vụ được giao.
27
1.3. ĐÁNH GIÁ KHÁI QUÁT KẾT QUẢ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH KHOA
HỌC CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN CẦN
TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU, GIẢI QUYẾT
1.3.1. Đánh giá khái quát kết quả của các công trình khoa học có liên
quan đến luận án
* Về đạo đức cách mạng
Một số công trình đã đưa ra được quan niệm về ĐĐCM ở nhiều khía cạnh,
góc độ khác nhau; chỉ ra được những nội dung về ĐĐCM của cán bộ, đảng viên
theo các góc độ đó phục vụ cho mục đích của từng công trình khoa học. Một số
công trình đã đưa ra quan niệm về đạo đức của người cán bộ, cán bộ chính trị, cán
bộ chủ trì đơn vị cơ sở trong quân đôi. Cụ thể:
Các công trình của các tác giả nước ngoài đã làm rõ một số vấn đề về đạo
đức cộng sản; đạo đức, nghĩa vụ của người quân nhân, nhưng chưa có công trình
nào bàn về đạo đức của đội ngũ CBHC trong quân đội. Mặc dù vậy, các công
trình này đã phân tích khá rõ nét về vị trí, vai trò của đạo đức cộng sản và con
đường, biện pháp để giáo dục, bồi dưỡng đạo đức người cán bộ cộng sản. Đây là
cơ sở lý luận, cung cấp một số luận điểm để nghiên cứu sinh nghiên cứu tham
khảo, vận dụng trong quá trình xây dựng khung lý luận của luận án.
Các công trình của các nhà khoa học trong nước đã khẳng định rõ:
ĐĐCM là “gốc” của cán bộ, đảng viên, của người cán bộ trong quân đội nói
chung và của đội ngũ CBHC Quân đội nói riêng. ĐĐCM thực sự là giá trị cốt
lõi trong bản lĩnh chính trị của người quân nhân, giúp người quân nhân sẵn
sàng hy sinh thân mình vì mục tiêu, lý tưởng cách mạng, trong mọi điều kiện,
hoàn cảnh luôn nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
* Về giáo dục, bồi dưỡng, nâng cao ĐĐCM
Các công trình khoa học đã nêu lên sự cần thiết phải giáo dục, bồi
dưỡng, rèn luyện để nâng cao ĐĐCM của đội ngũ cán bộ của Đảng nói chung,
cán bộ quân đội và CBHC Quân đội nói riêng nhằm đáp ứng được yêu cầu xây
dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại hiện nay.
Đồng thời, các công trình đều xác định được chuẩn mực đạo đức của người cán
bộ; đề xuất phương hướng, giải pháp giáo dục, bồi dưỡng, nâng cao đạo đức
của người cán bộ theo mục đích của công trình. Một số công trình đưa ra
những giải pháp về giáo dục, bồi dưỡng, nâng cao ĐĐCM của cán bộ quân đội
trong điều kiện hiện nay.
28
* Về đội ngũ cán bộ Hậu cần
Đa số các tác giả đều thống nhất quan điểm và khẳng định: CBHC
Quân đội là một bộ phận cán bộ của Đảng Cộng sản trong quân đội, được
giao nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, tổ chức thực hiện thắng lợi chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác
hậu cần trong quân đội. Họ là lực lượng trực tiếp chăm lo đồi sống vật chất:
ăn, mặc, ở, đi lại, sức khỏe của bộ đội, góp phần xây dựng ngành Hậu cần
quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tạo nên sức
mạnh chiến đấu tổng hợp của QĐNDVN trong điều kiện mới.
- Về ĐĐCM và phát triển ĐĐCM của CBHC Quân đội
Một số công trình của các nhà khoa học đã nghiên cứu về ĐĐCM và
phát triển ĐĐCM của người CBHC Quân đội. Trong đó, các tác giả đã khái quát
được những yêu cầu phẩm chất chính trị, đạo đức; chỉ ra quan niệm ĐĐCM của
người CBHC Quân đội, chỉ rõ vai trò, đặc trưng, đặc điểm quá trình hình thành,
phát triển ĐĐCM và đề xuất những giải pháp cụ thể để xây dựng và nâng cao
ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội. Nhưng các công trình này chủ yếu được
luận giải, nghiên cứu dưới góc độ khoa học triết học; một số công ít trình được
luận giải, nghiên cứu bằng khoa học xây dựng Đảng, nhưng chưa có công trình
nào đề cập, nghiên cứu về vấn đề giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC
Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn hiên nay.
1.3.2. Những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu, giải quyết
Một là, xây dựng khái niệm, xác định nội dung ĐĐCM của CBHC
Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay. Xây dựng khái niệm, xác định nội
dung, phương thức giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội
nhân dân Việt Nam.
Hai là, khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng ĐĐCM, giáo dục, rèn
luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội từ năm 2005 đến năm 2018; chỉ rõ
ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân và rút ra một số kinh nghiệm trong giáo
dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội.
Ba là, dự báo thuận lợi, khó khăn tác động đến quá trình đẩy mạnh giáo
dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội trong những năm tiếp theo.
Bốn là, xác đinh phương hướng chung, và phương hướng cụ thể nhằm
đẩy mạnh giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội.
Năm là, đề xuất các giải pháp đẩy mạnh giáo dục, rèn luyện ĐĐCM
của đội ngũ CBHC Quân đội nhân dân Việt Nam đến năm 2030.
29
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ GIÁO DỤC,
RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ HẬU CẦN
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1. NGÀNH HẬU CẦN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM VÀ ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ HẬU CẦN QUÂN ĐỘI
2.1.1. Khái quát về ngành Hậu cần quân đội
* Khái quát lịch sử hình thành, phát triển của ngành Hậu cần quân đội
Trước yêu cầu bảo đảm ngày càng lớn cho cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp, ngày 11-7-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 121/SL quy
định tổ chức của Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh, gồm ba cơ quan, trong đó
có Tổng cục Cung cấp (gồm: Cục Quân lương; Cục Quân trang; Cục Quân y,
Cục Quân giới, Cục Vận tải, Cục Quân vụ và Phòng Quân khí). Tổng cục có
nhiệm vụ quản trị, trang bị, cấp dưỡng quân đội và sản xuất quốc phòng. Sau
khi thành lập, ngành Hậu cần Quân đội đã phối hợp chặt chẽ với các cấp, các
ngành trong và ngoài quân đội, làm tốt nhiệm vụ bảo đảm hậu cần cho kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đã cùng quân với dân cả nước làm nên
chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, trấn động địa cầu.
Ngày 13-1-1955, Bộ Tổng Tham mưu ra Quyết định số 221/QĐ về việc đổi tên
Tổng cục Cung cấp thành Tổng cục Hậu cần.
Trong kháng chiến chống Mỹ, Đảng, Nhà nước, và quân đội tiếp tục
từng bước xây dựng ngành Hậu cần ngày càng hoàn chỉnh ở hậu phương
Miền Bắc làm chỗ dựa cho quân, dân Miền Nam chiến đấu. Chiến dịch Hồ
Chí Minh lịch sử (1975) thắng lợi, đã khẳng định sự lớn mạnh của ngành Hậu
cần quân đội cả về tổ chức lực lượng, khả năng, phương thức bảo đảm. Sau
năm 1975, ngành Hậu cần quân đội tập trung chấn chỉnh tổ chức và đã đáp
ứng tốt yêu cầu bảo đảm hậu cần cho cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên
giới Tây Nam và phía Bắc; bảo đảm tốt hậu cần cho lực lượng Hải quân trụ
vững ở Trường Sa, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo Tổ quốc.
30
Để đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội và nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới, ngành Hậu cần quân đội hiện nay tập trung kiện toàn tổ
chức hậu cần các cấp trong toàn quân theo hướng tinh gọn, hợp lý, đáp ứng yêu
cầu xây dựng quân đội có sức mạnh tổng hợp, sức chiến đấu cao, sẵn sàng đánh
thắng kẻ thù trong chiến tranh hiện đại; giữ tốt, quản lý chặt chẽ, sử dụng tiết
kiệm, có hiệu quả cao các nguồn kinh phí, cơ sở vật chất, vũ khí, trang thiết bị
mà Đảng, Nhà nước, quân đội giao cho, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi
nhiệm vụ trong mọi tình huống.
* Vị trí, vai trò của ngành Hậu cần và công tác Hậu cần quân đội
Ngành Hậu cần quân đội là một trong bốn ngành quan trọng của quân
đội (quân sự, chính trị, hậu cần, kỹ thuật). Có vị trí, vai trò là ngành bảo đảm
vật chất hậu cần cho quân đội - một mặt công tác quân sự, gồm tổng thể
những hoạt động bảo đảm vật chất hậu cần, sinh hoạt, quân y, vận tải cho
quân đội. Hậu cần quân đội là bộ phận nòng cốt của hậu cần quốc phòng toàn
dân và chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc; là yếu tố tạo nên sức mạnh tổng
hợp của quân đội; một mặt quan trọng của công tác lãnh đạo, chỉ huy, quản lý
bộ đội; là công tác chuyên môn của cán bộ, nhân viên, chiến sĩ hậu cần; đồng
thời là nhiệm vụ chung mà toàn thể cán bộ, chiến sĩ và công nhân viên quốc
phòng phải tham gia. Ngành hậu cần quân đội đảm nhiệm công tác hậu cần,
đặt dưới sự lãnh đạo của cấp ủy đảng, sự chỉ huy, quản lý của người chỉ huy
các cấp. Do đó, xây dựng ngành hậu cần quân đội vững mạnh toàn diện là
một trong những yếu tố, nội dung của mục tiêu xây dựng quân đội cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
* Nhiệm vụ của ngành Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam
Điều lệ công tác hậu cần quân đội xác đinh, hậu cần quân đội có nhiêm vụ:
“Tổ chức bảo đảm hậu cần cho quân đội thực hiện thắng lợi các nhiệm
vụ trong mọi tình huống; đồng thời chi viện bảo đảm một số mặt về hậu
cần cho lực lượng dân quân, tự vệ, lực lượng công an nhân dân và nhân
dân địa phương theo yêu cầu nhiệm vụ được giao;
Tổ chức sản xuất, tạo nguồn bảo đảm hậu cần cho quân đội; đồng thời
góp phần tích cực vào xây dựng, phát triển kinh tế đất nước;
31
Tổ chức quản lý công tác hậu cần theo đúng pháp luật của Nhà nước, các
quy định của Bộ Quốc phòng; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả
công tác hậu cần;
Tổ chức xây dựng ngành Hậu cần quân đội vững mạnh toàn diện theo
hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, làm nòng
cốt cho hậu cần quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân trong xây
dựng thế trận hậu cần và bảo đảm hậu cần; đồng thời tham gia xây dựng,
bảo vệ hậu phương;
Tổ chức chỉ đạo, triển khai thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi trường trong hoạt
động hậu cần; làm nhiệm vụ quốc tế và thực hiện các nhiệm vụ khác do
Đảng uỷ Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng giao” [22, tr.1-2].
Nội dung bảo đảm hậu cần gồm: bảo đảm vật chất; bảo đảm sinh hoạt;
bảo đảm quân y và thú y; công tác vận tải và một số nội dung bảo đảm hậu
cần cho an toàn bay của không quân (xăng dầu, điện, khí, vệ sinh đường băng
và canh gác sân bay); bảo đảm hậu cần cho tàu chiến đấu và đặc công nước
của hậu cần Hải quân. Những nhiệm vụ và nội dung bảo đảm của ngành Hậu
cần được tiến hành ở các cấp khác nhau trong toàn quân. Theo đó, công tác
bảo đảm hậu cần được cụ thể hóa thành những nhiệm vụ từ cấp chiến lược
đến cấp chiến thuật.
* Tổ chức biên chế của ngành Hậu cần quân đội
Tổ chức, biên chế ngành Hậu cần quân đội nằm trong hệ thống tổ chức
biên chế của QĐNDVN. Theo “Điều lệ công tác hậu cần Quân đội nhân dân
Việt Nam” (ban hành kèm theo Thông tư số 118/2009/TT-BQP ngày 31-12-
2009 của BQP), quy định:
“Ngành Hậu cần quân đội được tổ chức theo từng cấp, từ Bộ Quốc
phòng đến đơn vị cơ sở, gồm: Tổng cục Hậu cần trực thuộc Bộ Quốc
phòng; cục hậu cần trực thuộc các quân khu, quân đoàn, quân chủng,
binh chủng, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng và đơn vị tương đương;
phòng hậu cần trực thuộc các sư đoàn, lữ đoàn, vùng cảnh sát biển, bộ
chỉ huy quân sự tỉnh, thành phố, bộ chỉ huy bộ đội biên phòng tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương và đơn vị tương đương; ban hậu cần
trực thuộc các trung đoàn và tương đương; cán bộ Hậu cần thuộc các tiểu
đoàn và đơn vị tương đương” [22, tr. 12].
32
Tổ chức, biên chế cơ quan, đơn vị hậu cần các cấp do Tổng Tham mưu
trưởng quy định, trong đó bao gồm các chuyên ngành: tham mưu hậu cần;
quân nhu; doanh trại; xăng dầu; vận tải. Bên cạnh đó, ngành Hậu cần còn có
một số các đơn vị chuyên môn hậu cần các cấp gồm: hệ thống các kho dự trữ,
cấp phát phương tiện, vật chất hậu cần (gọi tắt là kho hậu cần); xưởng, trại
sản xuất, trạm chế biến, trạm sửa chữa phương tiện, vật chất hậu cần; viện
nghiên cứu, trung tâm kiểm nghiệm khoa học - công nghệ, trường huấn luyện
về hậu cần và các chuyên ngành; đơn vị vận tải, xăng dầu, doanh trại; các
tổng công ty, công ty, xí nghiệp sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ về hậu
cần. Cơ quan hậu cần các cấp chịu sự quản lý, chỉ huy của đơn vị cùng cấp và
sự chỉ đạo về nghiệp vụ của cơ quan hậu cần cấp trên.
2.1.2. Đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam - quan
niệm, chức trách, nhiệm vụ, vai trò và đặc điểm
2.1.2.1. Quan niệm và phân loại cán bộ Hậu cần Quân đội
* Quan niệm về đội ngũ CBHC Quân đội Nhân dân Việt Nam
- Quan niệm về cán bộ quân đội: cán bộ quân đội là một bộ phận trong
đội ngũ cán bộ của Đảng và Nhà nước hoạt động trong lĩnh vực quân sự, quốc
phòng; được bổ nhiệm các chức vụ lãnh đạo, quản lý, chỉ huy hoặc làm công
tác chuyên môn, có yêu cầu trình độ học vấn tương ứng với các chức vụ sĩ
quan, quân nhân chuyên nghiệp hoặc công chức.
Cán bộ quân đội có nhiều nhóm ngành khác nhau: cán bộ quân sự, cán
bộ chính trị, CBHC, cán bộ chuyên môn kỹ thuật, cán bộ công tác ở các đơn vị
bộ đội chủ lực, cán bộ công tác ở cơ quan quân sự địa phương, cán bộ công tác
ở nhà trường, bệnh viện, viện nghiên cứu.
- Quan niệm về CBHC Quân đội: Cán bộ Hậu cần Quân đội là một
bộ phận cán bộ của Đảng, Nhà nước và quân đội, được lựa chọn, đào tạo,
bồi dưỡng, rèn luyện, giao nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ huy, quản lý các mặt
hoạt động khác nhau của công tác hậu cần; là lực lượng nòng cốt tổ chức
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo đảm hậu quân đội trong mọi tình huống,
góp phần xây dựng ngành Hậu cần quân đội cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại.
33
* Phân loại cán bộ Hậu cần
- Phân loại theo chức vụ công tác được đảm nhiệm có:
Cán bộ chỉ huy, quản lý hậu cần: gồm Chủ nhiệm, Phó Chủ nhiệm Tổng
cục Hậu cần và tương đương; cục trưởng, phó cục trưởng cục hậu cần các quân
khu, quân đoàn, quân chủng, binh chủng và tương đương; chủ nhiệm, phó chủ
nhiệm phòng hậu cần sư đoàn, ban hậu cần trung đoàn, lữ đoàn và tương đương.
Cán bộ trợ lý làm tham mưu, giúp người chỉ huy trong công tác hậu cần: trợ
lý các ban, ngành của cơ quan, đơn vị hậu cần các cấp (trợ lý tham mưu hậu cần; trợ
lý quân nhu; trợ lý vận tải; trợ lý xăng dầu; trợ lý doanh trại).
- Phân loại cán bộ Hậu cần theo chuyên ngành có:
Cán bộ tham mưu hậu cần; cán bộ quân nhu; cán bộ doanh trại; cán bộ
xăng dầu; cán bộ vận tải. Đây là sự phân loại theo chuyên ngành mà CBHC
đã được đào tạo cơ bản tại các học viện, nhà trường và tiếp tục được bồi
dưỡng, rèn luyện, củng cố, phát triển trên thực tiễn, đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ trong quá trình công tác. Việc phân loại CBHC theo chuyên ngành đào tạo
và công tác mang tính ổn định cao, gắn bó hợp lý với việc xác định chuẩn
mực đạo đức đối với mỗi loại CBHC Quân đội.
2.1.2.2. Chức trách, nhiệm vụ của CBHC Quân đội nhân dân Việt Nam
Điều lệ công tác hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam (ban hành kèm
theo Thông tư số 118/2009/TT-BQP ngày 31-12-2009 của BQP) quy định rõ
chức trách, nhiệm vụ của chủ nhiệm hậu cần, phó chủ nhiệm hậu cần các cấp
và các cơ quan chuyên ngành hậu cần. Cụ thể:
- Chức trách, nhiệm vụ của Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần: là người chỉ
huy Tổng cục Hậu cần, chịu trách nhiệm trước Quân ủy Trung ương (QUTW)
và BQP về toàn bộ lĩnh vực công tác hậu cần trong phạm vi chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn được giao. Giải quyết công việc theo sự phân cấp quản lý của
QUTW và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
- Chức trách, nhiệm vụ của chủ nhiệm hậu cần các cấp: chịu trách nhiệm
trước người chỉ huy về công tác hậu cần; trực tiếp chỉ huy, quản lý, điều hành
cơ quan, đơn vị hậu cần thuộc quyền và chỉ đạo hậu cần cấp dưới thực hiện
công tác hậu cần trong đơn vị. Ra chỉ lệnh hậu cần cho đơn vị thuộc trách
nhiệm bảo đảm (trong tác chiến). Chỉ thị công tác cho cơ quan, đơn vị hậu cần
34
thuộc quyền để thực hiện quyết định, quyết tâm và mệnh lệnh của người chỉ
huy, duy trì hoạt động của cơ quan và đơn vị hậu cần thuộc quyền luôn luôn
sẵn sàng chiến đấu và sẵn sàng động viên theo trạng thái quy định… báo cáo
và chịu trách nhiệm trước người chỉ huy cùng cấp về kết quả công tác.
- Chức trách, nhiệm vụ của phó chủ nhiệm hậu cần: phó chủ nhiệm hậu
cần ở từng cấp có trách nhiệm giúp chủ nhiệm hậu cần và chịu trách nhiệm
trước chủ nhiệm hậu cần về từng mặt công tác được phân công
- Đội ngũ trợ lý hậu cần: có trách nhiệm thường xuyên nắm vững chế độ,
tiêu chuẩn, quy định, nhiệm vụ, ý định của chủ nhiệm hậu cần, thu thập, nghiên
cứu tổng hợp toàn diện tình hình hậu cần của cơ quan, đơn vị và các yếu tố có
liên quan, kịp thời đề xuất chủ trương, kế hoạch và phương án xử trí các tình
huống hậu cần; tổ chức truyền đạt quyết tâm, mệnh lệnh, chỉ thị, kế hoạch hậu
cần và tổ chức kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ hậu cần trong toàn cơ quan,
đơn vị; tổ chức bảo đảm hiệp đồng chặt chẽ giữa các cơ quan, đơn vị có liên
quan và hậu cần khu vực phòng thủ để thực hiện nhiệm vụ hậu cần; nắm chắc
nguồn hậu cần tại chỗ, đề xuất kế hoạch khai thác, tạo nguồn bảo đảm. Tham
mưu cho cấp ủy, chính quyền và các sở, ban ngành địa phương về công tác hậu
cần khu vực phòng thủ theo Nghị quyết số 02-NQ/TW ngày 30-7-1987 về giao
cho các tỉnh, thành ủy xây dựng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành
khu vực phòng thủ vững chắc; Nghị định 152/2007/NĐ-CP ngày 10-10-2007
của Chính phủ và Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 22-9-2008 của Bộ Chính trị
về tiếp tục xây dựng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực
phòng thủ vững chắc trong tình hình mới.
2.1.2.3. Vai trò đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam
Một là, đội ngũ CBHC là lực lượng chủ yếu tham mưu với cấp ủy, người
chỉ huy cùng cấp những chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo công tác bảo đảm
hậu cần ở cơ quan, đơn vị và xây dựng ngành hậu cần quân đội
Nhiệm vụ bảo đảm hậu cần ở các đơn vị trong toàn quân có sự khác
nhau giữa các đơn vị quân chủng, binh chủng, bộ binh, đồng thời chịu sự tác
động rất lớn của điều kiện thời tiết, khí hậu; nhiệm vụ thường xuyên hay đột
xuất... nhưng đều phải bảo đảm tốt việc ăn, mặc, ở, đi lại, sức khỏe... của bộ
đội, công tác hậu cần phải đi trước, lo trước, phải có kế hoạch cụ thể, tỷ mỉ
giúp người chỉ huy thực hiện tốt nhiệm vụ hậu cần. Đội ngũ CBHC các cấp sẽ
35
là lực lượng chủ yếu tham mưu với cấp ủy, người chỉ huy đơn vị cùng cấp về
công tác bảo đảm hậu cần trong huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu;
tham mưu, chuẩn bị các phương án, kế hoạch bảo đảm: lực lượng, vật chất,
phương tiện hậu cần, kế hoạch phối hợp, hiệp đồng về hậu cần giữa các cơ
quan, đơn vị với nhau, giữ đơn vị quân đội và các tổ chức, lực lượng trên địa
bàn đóng quân..., để người chỉ huy xây dựng quyết tâm, tổ chức thực hiện tốt
nhiệm vụ hậu cần trong mọi tình huống.
Hai là, đội ngũ CBHC là lực lượng nòng cốt tổ chức thực hiện nhiệm
vụ hậu cần; bồi dưỡng, động viên cán bộ, nhân viên cấp dưới thực hiện tốt
công tác hậu cần quân đội và hậu cần khu vực phòng thủ
Công tác bảo đảm hậu cần trong quân đội, nhất là cấp chiến thuật
luôn hướng tới thực hiện tốt nhiệm vụ bảo đảm cho các nhiệm vụ: huấn
luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu; xây dựng củng cố đơn vị; lao động,
tăng gia sản xuất; phòng chống bạo loạn, khắc phục hậu quả của thiên tai,
hỏa hoạn; bảo đảm hậu cần khu vực phòng thủ. Những nhiệm vụ đó đặt ra
yêu cầu cấp thiết với đội ngũ CBHC phải phát huy vai trò, trách nhiệm của
mình chủ động xây dựng kế hoạch, tổ chức phối hợp, hiệp đồng giữa các
đơn vị chặt chẽ, nhằm tạo nên thế trận hậu cần liên hoàn, vững chắc trong
thời bình, sẵn sàng đáp ứng yêu cầu chiến tranh; tích cực bồi dưỡng, nâng
cao phẩm chất, năng lực chuyên môn, phương pháp tác phong công tác, đạo đức
nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ, nhân viên, chiến sĩ hậu cần cấp dưới, để họ tự
giác nhận và thực hiện tốt mọi nhiệm vụ được giao; giúp đỡ nhân dân phát
triển kinh tế, ổn định đời sống, góp phần giữ vững quốc phòng - an ninh
khu vực phòng thủ, nhất là trên những địa bàn trọng yếu.
Quá trình bảo đảm và phục vụ bộ đội, hoạt động bảo đảm hậu cần
có sự tham gia thực hiện của tất cả các tổ chức, các lực lượng, trong đó,
đội ngũ CBHC là lực lượng nòng cốt, trực tiếp tổ chức thực hiện nhiệm
vụ. Chất lượng, hiệu quả bảo đảm hậu cần ở các cơ quan, đơn vị trong
quân đội chủ yếu phụ thuộc và được quyết định bởi đội ngũ CBCH các
cấp. Đây thực sự là lực lượng nòng cốt để tổ chức thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ bảo đảm hậu cần quân đội và hậu cần khu vực phòng thủ.
36
Ba là, đội ngũ CBHC có vai trò quan trọng quyết định chất lượng xây
dựng tổ chức đảng ở các cơ quan, đơn vị hậu cần trong sạch vững mạnh, góp
phần xây dựng ngành Hậu cần quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội trong tình hình mới.
Đội ngũ CBHC ở các cơ quan, đơn vị trong quân đội, đồng thời cũng là
cán bộ, đảng viên của Đảng, được đảm nhiệm những cương vị khác nhau trong
lĩnh vực hậu cần quân sự, trực tiếp chỉ huy, quản lý, tổ chức thực hiện nhiêm vụ
bảo đảm hậu cần. Là đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam, CBHC Quân đội
phải thực hiện đúng Điều lệ, nguyên tắc, chỉ thị, nghị quyết, chế độ sinh hoạt
đảng. CBHC rất cần gương mẫu thực hiện tự phê bình và phê bình, giữ gìn phẩm
chất đạo đức, lối sống, nhất là sự cần, kiệm, liêm, chính. Trên cương vị chức
trách, nhiệm vụ được giao, CBHC là lực lượng trực tiếp quán triệt, tổ chức thực
hiện đường lối của Đảng ở cơ quan, đơn vị hậu cần; chăm lo giáo dục, rèn luyện
đảng viên, phát triển đảng viên mới; tiến hành các hoạt động xây dựng Đảng,
góp phần xây dựng đảng bộ, chi bộ cơ quan, đơn vị hậu cần và các tổ chức đảng
các cấp trong quân đội trong sạch, vững mạnh.
Trong xây dựng lực lượng hậu cần theo hướng tinh, gọn, đội ngũ
CBHC có vai trò tham mưu và đề xuất với người chỉ huy cơ quan, đơn vị
những chủ trương, biện pháp bảo đảm số lượng CBHC đủ theo cơ cấu, cao về
chất lượng; trực tiếp giáo dục, bồi dưỡng, hướng dẫn đội ngũ CBHC cấp dưới
cả về phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng và năng lực chuyên môn; duy
trì thực hiện nghiêm các chế độ quy định, cải tiến lề lối làm việc, tác phong
phục vụ bộ đội... Những hoạt động này của đội ngũ CBHC sẽ trực tiếp góp
phần thực hiện mục tiêu, yêu cầu xây dựng ngành Hậu cần quân đội cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu xây dựng
quân đội trong tình hình mới mà Đảng ta đã xác định.
2.1.2.4. Đặc điểm của đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam
Một là, đội ngũ CBHC Quân đội phần lớn được đào tạo cơ bản, và
được điều động, bổ nhiệm từ nhiều nguồn khác nhau
Hiện nay, đội ngũ CBHC các cấp trong quân đội phần lớn được đào tạo cơ
bản tại Học viện Hậu cần (HVHC) và ở các học viện, nhà trường khác trong
quân đội. Trong đó, đa số CBHC được đào tạo dài hạn, cơ bản tại HVHC: chỉ
huy tham mưu hậu cần (78,2%); quân nhu (88,76%); vận tải (79%); xăng dầu
(89,5%); doanh trại (93,5%) [Phụ lục 3.2]. Đây là đặc điểm quan trọng, tạo điều
kiện thuận lợi để xây dựng đội ngũ CBHC Quân đội ngày càng vững mạnh.
37
Đồng thời, đội ngũ CBHC Quân đội được điều động, bổ nhiệm từ nhiều
nguồn khác nhau: học viên đào tạo sĩ quan hậu cần cấp phân đội tốt nghiệp
hằng năm tại HVHC (số lượng tốt nghiệp mỗi năm hàng trăm đồng chí, bổ
nhiệm trợ lý hậu cần các cơ quan, đơn vị cấp cơ sở trong toàn quân); cán bộ
Hậu cần trưởng thành trong thực tiễn, qua quá trình công tác tiếp tục được
đào tạo, bồi dưỡng toàn diện về phẩm chất và năng lực tại HVHC và các học
viện, nhà trường trong, ngoài quân đội; một số ít cán bộ được tuyển từ dân sự
vào quân đội, được bồi dưỡng về chuyên môn hậu cần, bổ nhiệm, giao một số
nhiệm vụ phù hợp; một số được lựa chọn từ cán bộ quân sự, cán bộ kỹ thuật,
được bồi dưỡng về công tác hậu cần và giao nhiệm vụ chỉ huy, quan lý về
hoạt động hậu cần ở một số cơ quan, đơn vị.
So với nhu cầu biên chế, đội ngũ CBHC trong toàn quân hiện nay có:
cán bộ chỉ huy tham mưu hậu cần (96%), quân nhu (98,05%), vận tải
(85,79%), xăng dầu (94,85%), doanh trại (106%) [Phụ lục 2], mỗi một chuyên
ngành đòi hỏi công tác nghiệp vụ khác nhau, ít có thể thay thế được cho nhau
ở một vài chuyên ngành. Sự đa dạng của nguồn CBHC và đa dạng về chuyên
môn, nghiệp vụ nên chất lượng đội ngũ CBHC ở các cấp không đồng đều,
nhất là về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ (CBHC có trình độ cao đẳng
(15,37%), đại học (76,69%), sau đại học (2,29%) [Phụ lục 3.3]; năng lực tổ
chức thực tiễn hoạt động công tác hậu cần cũng không đồng đều. Để thực
hiện tốt nhiệm vụ bảo đảm hậu cần, trong công tác cán bộ cần nắm chắc, bố
trí sử dụng hợp lý để phát huy tốt các nguồn đó.
Hai là, đội ngũ CBHC vừa là lực lượng trực tiếp chỉ huy, quản lý, điều
hành cơ quan, đơn vị hậu cần thuộc quyền, vừa là những cán bộ trực tiếp thực
hiện công tác chuyên môn, nghiệp vụ
Đội ngũ CBHC là những người chịu trách nhiệm trước cấp ủy cùng cấp,
trước người chỉ huy và cơ quan hậu cần cấp trên về công tác hậu cần của đơn
vị; họ vừa là người chỉ huy, quản lý, điều hành cơ quan, đơn vị hậu cần thuộc
quyền và chỉ đạo hậu cần đơn vị cấp dưới thực hiện công tác hậu cần trong đơn
vị. Đồng thời, họ vừa là lực lượng trực tiếp phải tổ chức thực hiện nhiệm vụ
bảo đảm lương thực, thực phẩm, quân trang, quân dụng; bảo đảm ăn, ở, vận tải,
sinh hoạt; chăm sóc sức khỏe cho bộ đội. Trong đó, cán bộ cấp tướng chiếm
0,08%; cấp đại tá: 3,94%; thượng tá: 6,81%; trung tá: 19,49%; thiếu tá:
10,83%; cấp úy: 51,72%; quân nhân chuyên nghiệp: 8,89%; công chức quốc
38
phòng: 0,12%; cán bộ cấp tá trở lên chiếm khoảng 40% [Phụ lục 3.1]. Đặc
điểm này đặt ra yêu cầu đối với đội ngũ CBHC các cấp, nhất là từ phó chủ
nhiệm, chủ nhiệm ban hậu cần trở lên phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện về
phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tự giác học tập nâng cao trình độ chuyên
môn nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; là tấm gương sáng để cán bộ, nhân viên,
chiến sĩ cấp dưới noi theo. Đồng thời, đặt ra yêu cầu đối với công tác đào tạo,
bồi dưỡng CBHC các cấp tại HVHC và việc công tác cán bộ của các cơ quan,
đơn vị trong toàn quân phải chú trọng xây dựng phẩm chất, năng lực toàn diện
cho đội ngũ CBHC, để họ luôn nhận và hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ
được đảm nhiệm.
Ba là, đội ngũ CBHC đa dạng về tuổi đời, tuổi quân, số cán bộ trẻ năng
động, sáng tạo nhưng vốn sống và kinh nghiệm thực tiễn còn ít, bản lĩnh chưa
thật vững vàng dễ bị hoàn cảnh tác động
Đội ngũ CBHC công tác ở các cấp khác nhau trong quân đội và nguồn
cán bộ rất đa dạng, nên dẫn đến sự đa dạng về tuổi đời, tuổi quân, bậc quân
hàm, địa bàn cư trú; cán bộ người dân tộc thiểu số chiếm 0,55%; cán bộ nữ
chiếm 0,28% [Phụ lục 3.4]. Về tuổi đời, tuổi quân, một số cán bộ mới tốt
nghiệp tại HVHC được điều động về các đơn vị công tác tuổi đời còn trẻ, tuổi
quân còn ít, kinh nghiệm công tác chưa nhiều. Số CBHC được xây dựng, bồi
dưỡng trưởng thành tại chỗ thường có tuổi đời, tuổi quân cao hơn so với trần
quân hàm và chức danh đảm nhiệm. Đặc điểm này tác động khó khăn đến
công tác quy hoạch, sử dụng đội ngũ CBHC và ảnh hưởng đến chất lượng
thực hiện nhiệm vụ hậu cần quân đội.
Đội ngũ CBHC Quân đội, nhất là số cán bộ trẻ (cấp thiếu úy đến
thượng úy), được đào tạo cơ bản về chuyên môn, nghiệp vụ; có nhận thức
nhanh, năng động, sáng tạo, có nhiều hoài bão, sống có lý tưởng, sức khỏe
tốt... Đội ngũ này là những lớp thanh niên được lớn lên, trưởng thành trong
thời kỳ đất nước đã đổi mới; được kế thừa truyền thống kiên cường, bất
khuất trong lao động sản xuất, chiến đấu và thành quả xây dựng đất nước
của các thế hệ cha anh. Tuy nhiên, thời gian rèn luyện, thử thách trong thực
tiễn xây dựng, chiến đấu của quân đội; thực tiễn thực hiện nhiệm vụ bảo
đảm hậu cần quân đội và hậu cần khu vực phòng thủ không nhiều nên vốn
sống, kinh nghiệm công tác còn hạn chế, bản lĩnh chính trị chưa thật vững
vàng, dễ dao động trước khó khăn. Số CBHC trải qua chiến đấu, phục vụ
chiến đấu tỷ lệ thấp (1,46%) [Phụ lục 3.4], và có xu hướng ngày càng giảm.
39
Bốn là, đội ngũ CBHC làm việc trong môi trường thường xuyên tiếp
xúc với vật chất, tài chính, kinh tế, nên phải coi trọng thực hiện chuẩn mực
đạo đức “cần, kiệm, liêm, chính”
Hoạt động bảo đảm hậu cần của đội ngũ CBHC các cấp thường xuyên,
trực tiếp thực hiện công tác quản lý, bảo quản, sử dụng tài chính, cơ sở vật
chất, trang bị của cơ quan, đơn vị và của cán bộ, nhân viên, chiến sĩ trong
quân đội. Hoạt động đó luôn đặt dưới sự lãnh đạo của cấp ủy đảng, quản lý
của người chỉ huy, nhưng mọi hoạt động mua sắm trang bị, lương thực, thực
phẩm, bảo đảm tài chính hậu cần... phải vận hành theo cơ chế, quy luật của thị
trường, chịu sự chi phối, tác động của quy luật cung - cầu, giá cả, tiền tệ...
Trong điều kiện chịu sự tác động của nền kinh tế và cơ chế thị trường như
hiện nay, dễ làm nảy sinh mầm mống của chủ nghĩa cơ hội, thực dụng, tệ
tham nhũng, lãng phí. Đặc điểm này đòi hỏi, trong giáo dục, rèn luyện ĐĐCM
của đội ngũ CBHC các cấp phải tăng cường xây dựng cho CBHC có bản lĩnh
chính trị vững vàng, trung thành, tận tụy; thấm nhuần và gương mẫu thực hiện
chuẩn mực đạo đức: “cần, kiệm, liêm chính”, chí công vô tư, tự lực, tự cường
trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.
Năm là, đội ngũ CBHC Quân đội thực hiện nhiệm vụ trên địa bàn rộng,
phải giải quyết nhiều mối quan hệ mới có thể hoàn thành nhiệm vụ
Ngoài nhiệm vụ bảo đảm hậu cần cho cán bộ, chiến sỹ trong cơ quan
quân sự, cho các đơn vị trực thuộc và cấp dưới, CBHC còn phải tổ chức bảo
đảm hậu cần cho các nhiệm vụ quân sự, quốc phòng của địa phương và trực
tiếp tổ chức xây dựng hậu cần khu vực phòng thủ - được tổ chức gắn liền với
đơn vị hành chính (cấp tỉnh, huyện), hoặc địa bàn trọng điểm. Địa bàn hoạt
động rộng; công tác bảo đảm đa dạng, phức tạp về chủng loại vật chất,
phương tiện bảo đảm cho đơn vị (các loại lương thực, thực phẩm, quân trang,
quân dụng, vật chất, phương tiện bảo đảm chiến đấu…), và các loại vật chất,
phương tiện bảo đảm khác do các ngành kinh tế - xã hội địa phương bảo đảm
theo chỉ tiêu, ngân sách của quân đội giao cho các địa phương.
Vì vậy, để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo đảm hậu cần, đòi hỏi đội
ngũ CBHC Quân đội phải trực tiếp giải quyết nhiều mối quan hệ với cấp ủy,
chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội trên địa bàn công tác;
40
chủ động phối kết hợp công tác với hậu cần của Công an, Bộ đội Biên phòng,
để khai thác tiềm lực, khả năng của nhân dân, của các ngành kinh tế - xã hội
của địa phương trong xây dựng, tạo nguồn, tổ chức tốt công tác bảo đảm hậu
cần trong mọi tình huống. Đồng thời phải chủ động tham mưu cho cấp ủy,
chính quyền địa phương tổ chức, điều hành, thực hiện thắng lợi công tác hậu
cần khu vực phòng thủ.
2.2. ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG VÀ GIÁO DỤC, RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC
CÁCH MẠNG CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ HẬU CẦN QUÂN ĐỘI
2.2.1. Đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội -
khái niệm, nội dung, và vai trò
2.2.1.1. Khái niệm đạo đức cách mạng và đạo đức cách mạng của đội
ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội
* Khái niệm và nội dung đạo đức cách mạng
- Khái niệm đạo đức
Đạo đức và những quan niệm về đạo đức đã xuất hiện từ rất sớm cùng với
sự vận động, phát triển của xã hội. Chủ nghĩa Mác - Lênin, một mặt kế thừa
có chọn lọc những quan điểm đạo đức trước đó, mặt khác dựa trên thế giới
quan duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đã chỉ ra đạo đức là một hình
thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, phản ánh hiện thực đời sống đạo
đức xã hội. Nói cách khác, đạo đức là sản phẩm của những điều kiện sinh
hoạt vật chất của xã hội. Theo C. Mác - Ph. Ăngghen: “Xét cho đến cùng,
mọi học thuyết về đạo đức từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình
kinh tế - xã hội lúc bấy giờ. Và vì cho đến nay, xã hội vận động trong sự
đối lập giai cấp cho nên đạo đức cũng luôn là đạo đức của giai cấp [28,
tr.136-137].Với tính cách là sự phản ánh tồn tại xã hội, đạo đức mang bản
chất xã hội. Bên cạnh đó đạo đức còn mang tính nhân loại, vì ở giai đoạn
nào của lịch sử thì nét chung của đạo đức vẫn là những quy định, chuẩn
mực định hướng con người làm cái thiện, chống lại cái ác, hướng về mối
quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người, với tự nhiên và xã hội .
41
Khi quan niệm về đạo đức có nhiều quan niệm khác nhau của các nhà
khoa học, tùy vào mục đích, nhiệm vụ của các công trình nghiên cứu để tác giả
đưa ra quan niệm, trong đó tiêu biểu như: đạo đức là “Phép tắc về quan hệ giữa
người với người, giữa cá nhân với tập thể, với xã hội. Phẩm chất tốt đẹp của con
người: sống có đạo đức” [163, tr.595]; “đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là
tập hợp những nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh
giá cách ứng xử của con người trong mối quan hệ với nhau và quan hệ với xã
hội, chúng được thực hiện bởi niền tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh
của dư luận xã hội” [85, tr.18].
Như vậy, có thể hiểu: Đạo đức là hệ thống những quy tắc, chuẩn mực về
cách ứng xử của con người trong các quan hệ giữa người với người, với tổ chức
trong xã hội; là giá trị cốt lõi tạo nên phẩm chất nhân cách của con người.
Trong các mối quan hệ xã hội, đạo đức là giá trị căn bản nhất để định
hướng, điều chỉnh hành vi của mỗi người cho phù hợp với những quy định, quy
ước của xã hội và tập thể đặt ra và được cộng đồng thừa nhận. Đạo đức, với vai
trò là cái gốc của xã hội, của con người, là nền tảng để hình thành và xây dựng
lối sống mới của con người mới trong xã hội mới, để mỗi người ý thức đúng và
luôn chịu trách nhiệm về hành vi của mình trước pháp luật.
- Khái niệm đạo đức cách mạng
Đạo đức là nền tảng tinh thần của xã hội, có chức năng tham gia điều
chỉnh các quan hệ xã hội bằng sức mạnh của dư luận xã hội và trách nhiệm,
nghĩa vụ, lương tâm của mỗi người con người trong xã hội. Kế thừa, phát
triển quan điểm của C. Mác và Ph. Ăngghen về đạo đức cộng sản, V.I. Lênin
khẳng định giá trị, tiêu chuẩn của đạo đức cộng sản là phục vụ cho tiến bộ
xã hội, vì tự do, hạnh phúc của con người và đặc biệt nhấn mạnh tính giai
cấp, tính chiến đấu, vai trò to lớn của đạo đức cộng sản: “Đối với chúng ta,
đạo đức phải phục tùng lợi ích của cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản… Đạo
đức đó là những gì góp phần phá hủy xã hội của giai cấp bóc lột và đoàn kết
tất cả những người lao động xung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã
hội mới của những người cộng sản” [162, tr.368-369]. Thắng lợi của cuộc
cách mạng vô sản do giai cấp công nhân thực hiện là tất yếu. Do vậy, đạo
đức cộng sản cũng tất yếu sẽ hoàn thiện, phát triển một cách phổ biến trong
đời sống đạo đức của loài người.
42
Đạo đức cách mạng ở nước ta được hình thành, phát triển trong quá
trình đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt
Nam để giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là nền đạo đức
do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xướng và cùng với Đảng ta lãnh đạo xây dựng,
phát triển. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: làm cách mạng là để cải tạo xã
hội cũ thành xã hội mới, đây là một sự nghiệp vẻ vang, nhưng cũng rất nặng
nề, một cuộc đấu tranh lâu dài, phức tạp, gian khổ. Vì vây, rất cần có đội ngũ
cán bộ, đảng viên có đủ phẩm chất, năng lực, lấy ĐĐCM làm nền tảng. “Đạo
đức cách mạng là bất kỳ ở cương vị nào, bất kỳ làm công việc gì, đều không
sợ khó, không sợ khổ, đều một lòng, một dạ phục vụ lợi ích chung của giai
cấp, của nhân dân, đều nhằm mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đạo đức
cách mạng là đạo đức tập thể, nó phải đánh thắng và tiêu diệt chủ nghĩa cá
nhân” [115, tr.90]. “Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức
mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích
chung của Đảng, của dân tộc, của loài người” [107, tr.292].
Thực tiễn cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và
xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay, Đảng ta luôn quan tâm xây dựng Đảng
vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Trong đó, Đảng ta
luôn coi trọng công tác giáo dục, rèn luyện ĐĐCM trong toàn Đảng, để
Đảng ta thực sự là đạo đức, là văn minh.
Từ những luận giải trên, có thể đưa ra khái niệm: ĐĐCM là hệ thống
những quy tắc, chuẩn mực về cách ứng xử của người cách mạng với tổ chức,
đồng chí và với bản thân trong thực hiện nhiệm vụ và hoạt động xã hội; là nền
tảng của phẩm chất, nhân cách, giúp người cách mạng nhận thức đúng mục
tiêu, lý tưởng, xác định rõ động cơ, trách nhiệm, quyết tâm hoàn thành tốt mọi
nhiệm vụ được giao.
- Nội dung đạo đức cách mạng
Đạo đức cách mạng được hình thành, phát triển trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Theo sự phát triển không ngừng của cách
mạng nước ta, ĐĐCM bên cạnh việc vẫn giữ được những giá trị cốt lõi, cũng có
sự phát triển hết sức nhanh chóng. Những giá trị đạo đức cơ bản đã từng bước
chuyển dịch từ kiên cường, bất khuất, anh hùng, dũng cảm trong chiến đấu, lao
động... chuyển sang năng động, sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh, biết làm
43
giàu cho mình và làm giàu cho xã hội; từ chỗ coi trọng những giá trị tinh thần
sang đề cao những giá trị tinh thần với lợi ích vật chất; kết hợp một cách hài hoà
các giá trị, lợi ích, vừa tôn trọng lợi ích cộng đồng vừa tôn trọng lợi ích cá
nhân... Theo đó, ĐĐCM biểu hiện ở những nội dung chủ yếu như:
Tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, kiên định lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn
đấu hết sức mình cho sự thắng lợi, sự phát triển của công cuộc đổi mới vì dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh;
Hết lòng, hết sức phục vụ sự nghiệp của Đảng, của Tổ quốc và nhân
dân; trung với nước, hiếu với dân, đặt lợi ích của cách mạng, của đất nước và
nhân dân lên trên lợi ích của cá nhân;
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Không tham nhũng, lãng phí, xâm
phạm tài sản của Nhà nước và nhân dân. Chấp hành nghiêm chỉnh cương lĩnh
chính trị, đường lối, kỷ luật của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước;
Ra sức học tập, rèn luyện, không ngừng nâng cao trình độ, năng lực
công tác, giữ gìn lối sống trong sạch, lành mạnh. Đề cao tự phê bình và phê
bình nhằm góp phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị vững mạnh;
Gương mẫu trong công tác và lối sống, gắn bó mật thiết với quần chúng
nhân dân, đoàn kết, thân ái, nêu cao tinh thần thương yêu đồng chí, thương yêu
nhân dân; trung thực, khiêm tốn, thật thà, dũng cảm;
Kỷ luật nghiêm minh, nêu cao tinh thần đấu tranh phòng, chống tiêu
cực, tham nhũng, “lợi ích nhóm”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
* Khái niệm, nội dung ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội
- Khái niệm ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội
Đạo đức cách mạng của đội ngũ CBHC Quân đội được biểu hiện ra một
cách cụ thể, rõ ràng qua các hành vi ứng xử, giải quyết các mối quan hệ trong
hoạt động bảo đảm hậu cần cho các cơ quan, đơn vị quân đội và trong thực
hiện nhiệm vụ học tập, công tác, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu, lao
động sản xuất. Đối với cán bộ Hậu cần Quân đội, ngay trong thư gửi Lớp huấn
luyện cán bộ cung cấp đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ân cần căn dặn:
“Nhiệm vụ chính của cán bộ cung cấp là phụng sự đại đa số của bộ đội, tức là
người binh nhì, phải thương yêu săn sóc người binh nhì. Cán bộ cung cấp như
là người mẹ, người chị của người binh nhì” [109, tr.180]. Người đặc biệt nhấn
mạnh, cán bộ cung cấp “Phải thật sự cần, kiệm, liêm, chính.” [109, tr.181].
44
Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lớp lớp các thế hệ cán
bộ Hậu cần Quân đội luôn luôn tích cực, chủ động học tập, rèn luyện nâng
cao bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng, nắm vững chuyên môn, nghiệp
vụ... tích cực tăng gia, sản xuất, chăm lo, cải thiện đời sống cho bộ đội, góp
phần quan trọng vào nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. ĐĐCM của đội
ngũ CBHC hiện nay là sự kế thừa, phát triển những giá trị ĐĐCM của người
cách mạng nói chung, và được vận dụng, phát huy trong điều kiện thực hiện
nhiệm vụ bảo đảm hậu cần của người CBHC Quân đội.
Từ những luận giải ở trên, có thể đưa ra khái niệm: ĐĐCM của đội ngũ
CBHC Quân đội là hệ thống những quy tắc, chuẩn mực về cách ứng xử của
người CBHC trong thực hiện nhiệm vụ và giải quyết các mối quan hệ; là nền
tảng của phẩm chất, nhân cách, giúp người CBHC nhận thức đúng mục tiêu, lý
tưởng cách mạng, xác định rõ động cơ, trách nhiệm, quyết tâm hoàn thành tốt
nhiệm vụ bảo đảm hậu cần được giao.
- Nội dung ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội
Đội ngũ CBHC Quân đội, ngoài những chuẩn mực phẩm chất đạo đức
chung của người cán bộ cách mạng, họ có những chuẩn mực đạo đức đặc thù
gắn với chức trách, nhiệm vụ bảo đảm hậu cần. Phẩm chất này thể hiện đức
hy sinh, tinh thần tận tụy hết mình vì công việc, không nề hà khó khăn gian
khổ, coi đó là vinh dự và là hạnh phúc của mình, luôn nêu cao ý thức bảo
đảm đầy đủ chế độ, tiêu chuẩn theo quy định của Đảng, Nhà nước đối với bộ
đội. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là: yêu xe như con, quý xăng như máu;
lương y như từ mẫu; mỗi cán bộ “…phải săn sóc đời sống vật chất và tinh
thần của đội viên, phải xem đội viên ăn uống thế nào, phải hiểu nguyện vọng
thắc mắc của đội viên” [109, tr.76]. Trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, mặc dù có nhiều tác động, nhưng những
giá trị đạo đức tốt đẹp đó tiếp tục được đội ngũ CBHC Quân đội giữ gìn,
phát triển góp phần hoàn thiện nhân cách, bảo đảm cho người CBHC hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao. Theo đó, ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân
đội được biểu hiện ở những nội dung như:
45
Tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân;
Tiên phong, gương mẫu thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư;
sống trong sạch lành mạnh, không tham nhũng, lãng phí và kiên quyết đấu tranh
chống tham nhũng, lãng phí, “lợi ích nhóm”; tích cực ngăn chặn “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ;
Thương yêu đồng chí, tích cực, chủ động khắc phục khó khăn, hết lòng
phục vụ bộ đội. Yêu ngành, yêu nghề, có ý thức trách nhiệm cao, làm việc dân
chủ, sáng tạo, nói đi đối với làm, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ hậu
cần khi được giao;
Gắn bó mật thiết với nhân dân, chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước,
kỷ luật quân đội và quy chế, quy định trong công tác hậu cần;
Không ngừng học tập nâng cao trình độ nhận thức, nắm vững chuyên
môn nghiệp vụ, làm chủ khoa học kỹ thuật kỹ thuật hậu cần.
2.2.1.2. Vai trò đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội
Một là, ĐĐCM là cơ sở, nền tảng tạo thành phẩm chất, nhân cách của
người CBHC Quân đội
Thực hiện nhiệm vụ chính trị mà Đảng, Nhà nước, quân đội giao cho
ngành Hậu cần, người CBHC phải được giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng toàn
diện về phẩm chất, năng lực nhằm đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ đặt ra.
Trong đó, ĐĐCM là hạt nhân chính trị trung tâm, là cơ sở, nền tảng tạo
thành phẩm chất, nhân cách của người CBHC Quân đội. ĐĐCM góp phần
định hướng nhận thức, điều chỉnh hành vi của đội ngũ CBHC trong thực
hiện nhiệm vụ và giải quyết các mối quan hệ, nhất là việc chấp hành nghiêm
nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội và quy
định của ngành hậu cần; là cơ sở nhằm xây dựng nhận thức, trách nhiệm,
đạo đức nghề nghiệp, tác phong, lề lối làm việc, lối sống có văn hóa trong
công tác hậu cần của đội ngũ CBHC Quân đội. Tăng cương xây dựng
ĐĐCM, sẽ góp phần phát triển, hoàn thiện phẩm chất, nhân cách người
CBHC Quân đội; bảo đảm cho đội ngũ CBHC hoàn thành tốt chức trách,
nhiệm vụ được giao, tiếp tục củng cố, phát huy mối quan hệ gắn bó mật thiết
quân - dân, tô thắm thêm truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ” trong điều kiện hiện
mới. Xây dựng cho đội ngũ CBHC có nhận thức chính trị cao, có ĐĐCM và
lối sống trong sạch, lành mạnh là trách nhiệm của lãnh đạo, chỉ huy các cấp
và bản thân mỗi người CBHC Quân đội hiện nay.
46
Hai là, ĐĐCM giúp CBHC luôn kiên định, vững vàng, không lùi bước trước
mọi khó khăn, gian khổ, chủ động hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao
Trong môi trường hoạt động quân sự nói chung và hoạt động bảo đảm
hậu cần nói riêng, đội ngũ CBHC phải đối mặt với nhiều khó khăn, gian khổ,
giải quyết nhiều mối quan hệ (với tổ chức đảng, chỉ huy, đoàn thể; quan hệ với
đồng đội, quan hệ cấp trên, cấp dưới; quan hệ với nhân dân, chính quyền địa
phương và có khi là quan hệ với nhân dân và chính quyền nước bạn); trong
chiến đấu, đó là những khó khăn của sự mất mát, hy sinh, thái độ đối với tù
binh, hàng binh... Trong những điều kiện đó, ĐĐCM trở thành nhân tố quan
trọng và quyết định nhất tạo nên sự kiên định, vững vàng về lập trường giai
cấp, bản lĩnh chính trị, để họ chủ động khắc phục khó khăn, vượt qua những
mất mát, hy sinh mà xử lý, giải quyết những vấn đề do nhiệm vụ đặt ra kịp
thời, hiệu quả, có lý, có tình. Từ đó sẽ lôi cuốn được tổ chức, cá nhân cán
bộ, chiến sĩ trong tập thể do mình phụ trách hăng hái, nỗ lực phấn đấu hoàn
thành nhiệm vụ được giao, tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân
trong hoạt động bảo đảm hậu cần.
Ba là, ĐĐCM là nhân tố quan trọng bảo đảm cho đội ngũ CBHC vượt
qua chủ nghĩa cá nhân, những cám dỗ về lợi ích vật chất trong công tác hậu
cần, vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ
Con người bao giờ cũng là sản phẩm của hoàn cảnh lịch sử cụ thể, của
môi trường hoạt động và xã hội. Trong đó, yếu tố vật chất luôn chi phối và
quyết định đến ý thức của con người. Đội ngũ CBHC là lực lượng được Nhà
nước, quân đội giao nhiệm vụ quản lý, bảo quản, cấp phát, sử dụng... tài chính,
vật chất, phương tiện hậu cần ở các cấp; tham gia vào các hoạt động kinh tế
hậu cần ở cơ quan, đơn vị mình. Điều kiện đó dễ nảy sinh tư tưởng, hành vi
vun vén cá nhân, muốn làm giàu cho bản thân và gia đình, dẫn đến tham
nhũng, lãng phí, và thực tế đã có một số cán bộ lợi dụng chức vụ, quyền hạn để
tư lợi. Đó là con đường đi đến suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, hoặc thoái hóa, biến chất, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, sức chiến đấu
của quân đội. Trong những điều kiện đó, ĐĐCM là nhân tố quan trọng, là sợi
chỉ đỏ xuyên suốt bảo đảm cho đội ngũ CBHC tự giác đấu tranh, tự điều chỉnh
trong nhận thức, phân biệt rõ đúng, sai, nhận thức rõ chức trách, nhiệm vụ,
vượt qua những cám dỗ về lợi ích vật chất, không sa vào chủ nghĩa cá nhân,
vươn lên nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
Những vai trò trên cho thấy, việc giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ
CBHC Quân đội là một vấn đề cần được quan tâm thích đáng, có ý nghĩa thực
tiễn quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay.
47
2.2.2. Giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ Hậu
cần Quân đội - khái niệm, nội dung, phương thức, vai trò, và yêu cầu
2.2.2.1. Khái niệm, chủ thể, đối tượng, lực lượng tham gia giáo dục,
rèn luyện đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội
* Khái niệm giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng
- Khái niệm giáo dục đạo đức cách mạng
Giáo dục là hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự truyền đạt
và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội của loài người. Có nhiều cách hiểu
khác nhau về khái niệm “giáo dục” như: Giáo dục được hiểu là quá trình hình
thành và phát triển nhân cách dưới ảnh hưởng của tất cả các hoạt động từ bên
ngoài, được thực hiện một cách có ý thức của con người trong nhà trường, gia
đình và ngoài xã hội; giáo dục còn được hiểu là hệ thống những tác động có
mục đích xác định được tổ chức một cách khoa học (có kế hoạch, có phương
pháp, có hệ thống) của các cơ quan giáo dục chuyên biệt (nhà trường) nhằm
phát triển toàn diện nhân cách…Giáo dục được hiểu là quá trình hình thành
và phát triển nhân cách người, với các mặt giáo dục như: trí học, đức học, thể
dục, giáo dục lao động.
Tiếp cận giáo dục là quá trình hình thành và phát triển nhân cách người,
liên quan đến giáo dục đạo đức ở nước ta, có thể đưa ra định nghĩa: Giáo dục
ĐĐCM là tổng thể các hoạt động có mục đích được tổ chức một cách khoa
học của chủ thể và đối tượng nhằm hình thành, phát triển những quy tắc,
chuẩn mực ĐĐCM; là cơ sở quan trọng tạo nên phẩm chất, nhân cách người
cách mạng, yếu tố cơ bản góp phần thúc đẩy thắng lợi sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Thực chất, giáo dục ĐĐCM là hoạt động có mục đích của con người,
trong đó đối tượng giáo dục là trung tâm để tiến hành các hoạt động giáo dục.
Chủ thể giáo dục ĐĐCM, căn cứ vào mục đích, yêu cầu nhiệm vụ, đặc điểm
của đối tượng, chuẩn bị những điều kiện cần thiết tổ chức hoạt động giáo dục
bảo đảm đúng thời gian, kế hoạch, nội dung; kiểm tra, đánh giá chất lượng
giáo dục để kịp thời điều chỉnh nhằm đạt được mục đích đã xác định. Giáo
dục ĐĐCM là một hoạt động đặc thù, được tiến hành trong tổ chức đảng,
chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể, và trong quần chúng. Đối
48
tượng được xác định là những cán bộ, đảng viên, quần chúng… luôn tin
tưởng vào mục tiêu, lý tưởng của Đảng, muốn phấn đấu, cống hiến, hy sinh vì
sự nghiệp cách mạng. Việc giáo dục ĐĐCM vừa là mục đích, vừa là yêu cầu
cấp thiết đối với người làm cách mạng, vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Khái niệm rèn luyện đạo đức cách mạng
Rèn luyện được hiểu theo nghĩa chung nhất là luyện tập kiên trì để có
được trình độ vững vàng, thông thạo trên một mặt, lĩnh vực hay hoạt động nào
đó (rèn luyện tư duy; rèn luyện thân thể; rèn luyện tính cách; rèn đức, luyện
tài…). Về bản chất, rèn luyện là sự nỗ lực, cố gắng của con người một cách
thường xuyên, liên tục trong thực hiện một hoạt động nào đó, kết quả đạt được
chủ yếu bắt nguồn từ sức mạnh nội thân. Người cách mạng trước hết phải có
ĐĐCM để lúc chiến thắng không tự kiêu, lúc khó khăn, gian khổ… không nản
lòng, lùi bước. Muốn vậy, người cách mạng phải được giáo dục và thường
xuyên rèn luyện về ĐĐCM. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt
quan tâm, và thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải rèn luyện ĐĐCM,
vì “đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn
luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài
càng sáng, vàng càng luyện càng trong” [113, tr.612]; Người nhấn mạnh việc
rèn luyện phải theo những nguyên tắc: nói đi đôi với làm, nêu gương tốt, làm
việc tốt; xây đi đôi với chống; tu dưỡng, rèn luyện bền bỉ suốt đời.
Từ những phân tích ở trên có thể đưa ra khái niệm: Rèn luyện ĐĐCM là
hoạt động luyện tập thường xuyên, kiên trì, bền bỉ, lâu dài của đối tượng, và chủ
thể nhằm tiếp nhận, thấm nhuần những quy tắc, chuẩn mực ĐĐCM; là cơ sở quan
trọng tạo nên phẩm chất, nhân cách người cách mạng, yếu tố cơ bản góp phần
thúc đẩy thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Để xây dựng cho mình có ĐĐCM, người cách mạng phải thường
xuyên rèn luyện đạo đức mọi lúc, mọi nơi, trong mọi điều kiện hoàn
cảnh, luôn đặt lợi ích của Đảng, dân tộc, nhân dân, tập thể lên trên hết,
trước hết… luôn hoạt động trong khôn khổ Hiến pháp, pháp luật, kỷ
luật; đồng thời được sự định hướng, uốn nắm, góp ý, điều chỉnh của tổ
chức để ngày càng hoàn thiện hơn.
49
- Quan hệ giữa giáo dục và rèn luyện ĐĐCM
Giáo dục và rèn luyện ĐĐCM luôn có quan hệ mật thiết với nhau, quyết
định đến việc hình thành, phát triển hoàn thiện phẩm chất, nhân cách người cách
mạng. Trong đó, giáo dục là hoạt động của chủ thể nhằm truyền thụ các nội dung
chuẩn mực giá trị, các quy tắc, hành vi ứng xử của con người, từng bước hoàn
thiện các quan hệ đạo đức, tạo ra tiền đề, điều kiện khách quan để phát huy vai
trò tích cực của nhân tố chủ quan trong tự giáo dục, tự rèn luyện ĐĐCM. Rèn
luyện chủ yếu là sự tự vận động của đối tượng giáo dục, nhằm tiếp nhận, thấm
nhuần, chuyển hóa những quy tắc, chuẩn mực đạo đức thành hành vi ứng xử có
đạo đức trong các mối quan hệ. Chỉ thông qua hoạt động tự rèn luyện thì hệ
thống giá trị ĐĐCM mới chuyển hoá thành giá trị đạo đức trong mỗi cán bộ, tạo
nên sự tác động cùng chiều đẩy nhanh quá trình giáo dục, rèn luyện đạo đức
cách mạng, hoàn thiện nhân cách người cán bộ. Trong mối quan hệ này, giáo
dục giữ vai trò quan trọng, rèn luyện giữ vai trò quyết định việc hình thành, phát
triển ĐĐCM, nhân cách người cán bộ, hai mặt hoạt động này không thể tách dời
hoặc tuyệt đối hóa hoạt động nào.
* Khái niệm giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội
Đạo đức cách mạng của đội ngũ CBHC Quân đội được hình thành thông
qua quá trình giáo dục, rèn luyện. Trong đó, hoạt động giáo dục là hoạt động
đầu tiên, cơ bản và quan trọng, được tiến hành trong tổ chức, là nhiệm vụ chính
trị của cấp ủy, người chỉ huy các cấp. Giáo dục ĐĐCM của đội ngũ CBHC
Quân đội là tổng thể các hoạt động có mục đích, được tổ chức một cách khoa
học của chủ thể và của đội ngũ CBHC, nhằm hình thành, phát triển những quy
tắc, chuẩn mực ĐĐCM của mỗi CBHC trong thực hiện nhiệm vụ và các mối
quan hệ, nhân tố cốt lõi góp phần nâng cao phẩm chất, nhân cách, bảo đảm cho
đội ngũ CBHC Quân đội hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao.
Đạo đức cách mạng của đội ngũ CBHC không chỉ được hình thành qua
quá trình giáo dục mà còn được củng cố, phát triển thông qua hoạt động rèn
luyện của tổ chức, của người chỉ huy, và đặc biệt là sự tự rèn luyện của bản
thân mỗi CBHC. Rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội là hoạt động
luyện tập thường xuyên, kiên trì, bền bỉ, lâu dài của đội ngũ CBHC, nhằm tiếp
50
nhận, thấm nhuần những quy tắc, chuẩn mực ĐĐCM của mỗi CBHC trong
thực hiện nhiệm vụ và các mối quan hệ, nhân tố cốt lõi góp phần nâng cao
phẩm chất, nhân cách, bảo đảm cho đội ngũ CBHC Quân đội hoàn thành tốt
chức trách, nhiệm vụ được giao.
Quá trình xây dựng phẩm chất nhân cách người CBHC là quá trình
lâu dài, được thực hiện trong suốt quá trình học tập, lao động, thực hiện
nhiệm vụ bảo đảm hậu cần, phấn đấu công hiến của người CBHC Quân
đội, trong đó có những tác động khách quan và tác động chủ quan của cả
chủ thể và đối tượng, nhưng đều hướng tới một mục đích nhất định.
Xuất phát từ những phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm: Giáo
dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội là tổng thể các hoạt
động có mục đích được tổ chức một cách khoa học của chủ thể và sự luyện
tập thường xuyên, kiên trì, bền bỉ, lâu dài của đội ngũ CBHC, nhằm hình
thành, phát triển những quy tắc, chuẩn mực ĐĐCM của mỗi CBHC trong
thực hiện nhiệm vụ và các mối quan hệ, nhân tố cốt lõi góp phần nâng cao
phẩm chất, nhân cách, bảo đảm cho đội ngũ CBHC Quân đội hoàn thành
tốt chức trách, nhiệm vụ được giao.
* Chủ thể, đối tượng, lực lượng tham gia giáo dục, rèn luyện ĐĐCM
của đội ngũ CBHC Quân đội
- Chủ thể lãnh đạo giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân
đội là QUTW, Bộ Quốc phòng, trực tiếp là cấp ủy, tổ chức đảng ở các cơ quan,
đơn vị trong toàn quân. Việc lãnh đạo được thực hiện theo nguyên tắc, Điều lệ
Đảng, cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Các cấp ủy đảng trực tiếp
lãng đạo thực hiện nhiệm vụ giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC
theo nguyên tắc tập trung dân chủ, mọi vấn đề về xác đinh chủ trương, nội
dung, biện pháp giáo dục, rèn luyện ĐĐCM đều do cấp ủy bàn bạc, quyết định
theo phạm vi chức năng, nhiệm vụ.
- Chủ thể chỉ đạo giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân
đội là Tổng cục Chính trị; Bộ tổng Tham mưu; Tổng cục Hậu cần; cơ quan
chính trị, cơ quan hậu cần các cấp trong toàn quân. Đây vừa là cơ quan tham
mưu cho QUTW, BQP, cấp ủy đảng các cấp, vừa là cơ quan chỉ đạo hoạt
51
động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội. Trong đó,
TCCT và cơ quan chính trị các cấp căn cứ vào nghị quyết, chỉ thị của
QUTW, cấp ủy cấp trên, tình hình nhiệm vụ của quân đội, đơn vị, phẩm chất
đạo đức, nhân cách của đội ngũ CBHC để tham mưu cho lãnh đạo, chỉ huy
các cấp xác định kế hoạch, chương trình và chỉ đạo, quản lý, hướng dẫn triển
khai thực hiện công tác giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC; định
kỳ tổ chức sơ kết, tổng kết, đánh giá kết quả đạt được và chỉ ra kinh nghiệm
để nâng cao chất lượng giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân
đội thời gian tới.
- Chủ thể trực tiếp giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC
Quân đội là HVHC; chính ủy, chính trị viên, đội ngũ cán bộ chính trị, người
chỉ huy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị hậu cần các cấp trong toàn quân; và
phải chịu trách nhiệm trước QUTW, cấp ủy, chỉ huy, chính ủy, chính trị viên
cấp trên về toàn bộ kết quả giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC ở
cơ quan, đơn vị mình.
- Lực lượng tham gia giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC
Quân đội là tổ chức quần chúng (đoàn thanh niên; công đoàn; hội phụ nữ); đội
ngũ cán bộ, công nhân viên, chiến sĩ ở các cơ quan, đơn vị trong toàn quân; cấp
ủy, chính quyền, đoàn thể, nhân dân địa phương trên địa bàn đóng quân tham
gia tuyền truyền, giúp đỡ, động viên CBHC Quân đội tu dưỡng, rèn luyện
ĐĐCM, giữ gìn và phát huy truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ” trong điều kiện mới.
- Đối tượng giáo dục, rèn luyện ĐĐCM là đội ngũ CBHC các cấp trong
QĐNDVN (Chủ nhiệm, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần và tương đương;
cục trưởng, phó cục trưởng hậu cần và tương đương; trưởng phòng, phó
trưởng phòng hậu cần; chủ nhiệm, phó chủ nhiệm hậu cần sư đoàn, trung
đoàn và tương đương; trợ lý hậu cần các ngành ở các cơ quan, đơn vị hậu cần
trong toàn quân). Đối với đội ngũ cán bộ đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo, quản
lý hậu cần, thực hiện nhiệm vụ giáo dục, rèn luyện ĐĐCM với vai trò vừa là
chủ thể (bí thư, phó bí thư cấp ủy, chi bộ của cơ quan, đơn vị hậu cần, được
phân công phụ trách công tác giáo dục tư tưởng, chính trị…), đồng thời vừa là
đối tượng của quá trình giáo dục, rèn luyện.
52
2.2.2.2. Nội dung, phương thức giáo dục, rèn luyện đạo đức cách
mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội
* Nội dung giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội
Đạo đức cách mạng hình thành, phát triển trên cơ sở chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí minh. ĐĐCM có nội dung rất
phong phú, sâu sắc, có những vấn đề quan trọng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh
lúc sinh thời thường xuyên nhắc nhở đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thường
xuyên tự bồi dưỡng, rèn luyện như: đức trung, hiếu, nhân, nghĩa, trí, dũng,
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư… ĐĐCM không phải là những quan
điểm, tiêu chuẩn trừu tượng, mà gắn bó mật thiết với đặc điểm, nhiệm vụ
của từng thời kỳ cách mạng, phù hợp với từng đối tượng cán bộ, đảng viên.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, nội dung giáo dục, rèn luyện ĐĐCM
của đội ngũ CBHC Quân đội cần hướng tới xây dựng lòng trung thành vô
hạn với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì
nhiệm vụ; ý thức tổ chức, kỷ luật cao; giữ gìn đoàn kết, thống nhất theo
Cương lĩnh Chính trị, Điều lệ Đảng; bồi dưỡng mối quan hệ gắn bó máu thịt
giữa quân với dân; đặc biệt giáo dục, rèn luyện đạo đức cần, kiệm, liêm,
chính… Theo đó, nội dung giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC
Quân đội hiện nay, cần tập trung như:
Một là, giáo dục cho đội ngũ CBHC về những quan điểm, nguyên tắc,
quy chế, quy định trong công tác hậu cần quân đội theo chức trách, nhiệm vụ
được đảm nhiệm
Đạo đức cách mạng của đội ngũ CBHC Quân đội được hình thành qua
quá trình giáo dục, rèn luyện với những nội dung toàn diện, cụ thể, theo chức
trách, nhiệm vụ được giao. Trong đó, trước hết phải giáo dục cho đội ngũ
CBHC có nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò, nhiệm vụ, nội dung, phương
thức của công tác hậu cần thường xuyên trong điều kiện kinh tế thị trường,
cũng như bảo đảm hậu cần trong chiến đấu; giáo dục quan điểm, tư tưởng chỉ
đạo của Đảng trong công tác hậu cần quân đội, nhất là quan điểm hậu cần
nhân dân, phát huy sức mạnh của nhân dân trong công tác hậu cần; những quy
chế, quy định, nguyên tắc, phương thức bảo đảm hậu cần trong điều kiện mới,
cho những lực lượng mới tiến thẳng lên hiện đại; giáo dục những tác động
tiêu cực của mặt trái kinh tế thị trường và biện pháp phòng, chống, khắc phục
53
của đội ngũ CBHC trong quá trình thực hiện nhiệm vụ; rèn luyện tác phong
cách công tác, nhất là tác phong, thái độ ứng xử với cán bộ, nhân viên, chiến
sĩ, ý thức, trách nhiệm trong quá trình phục vụ. Đối với mỗi đối tượng CBHC
khác nhau, tùy theo đặc điểm, tình hình nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị, lãnh
đạo, chỉ huy các cấp cần xác định nội dung giáo dục cho phù hợp, tập trung
khắc phục những khâu yếu, mặt yếu trong nhận thức, hành vi đạo đức trong
thực hiện nhiệm vụ được giao. Thông qua đó, mỗi CBHC tự xây dựng cho
mình ý thức, trách nhiệm đối với nhiệm vụ được đảm nhiệm, mà không
ngừng cố gắng phấn đấu vươn lên hoàn thành nhiệm vụ.
Hai là, giáo dục đạo đức truyền thống vẻ vang của quân đội,
ngành Hậu cần quân đội
Trải qua hơn 73 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, dưới sự lãnh
đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự nuôi dưỡng, đùm bọc của nhân
dân, QĐNDVN đã không ngừng phát huy bản chất truyền thống vừa xây dựng,
vừa chiến đấu và lao động sản xuất, tạo nên giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp
“Bộ đội Cụ Hồ” tròng lòng nhân dân. Để đội ngũ CBHC Quân đội tiếp tục giữ
vững và phát huy giá trị đạo đức truyền thống của quân đội và ngành hậu cần,
công tác giáo dục cần tập trung vào nội dung như: Giáo dục lòng trung thành
vô hạn với Tổ quốc Việt Nam XHCN, với Đảng, Nhà nước và nhân dân; tinh
thần quyết chiến, quyết thắng, biết đánh và biết thắng; gắn bó máu thịt với nhân
dân, quân với dân một ý chí; đoàn kết nội bộ, cán bộ, chiến sĩ bình đẳng về
quyền lợi và nghĩa vụ, thương yêu giúp đỡ nhau, trên dưới đồng lòng thống
nhất ý chí và hành động; kỷ luật nghiêm; đoàn kết quốc tế chí nghĩa chí tình;
ham học tập, cầu tiến bộ; giáo dục tinh thần tích cực rèn luyện, không ngừng
nâng cao bản chất cách mạng và năng lực hành động; tinh thần chịu đựng gian
khổ, khắc phục khó khăn hết lòng phục vụ bộ đội; tinh thần sẵn sàng chiến đấu,
hy sinh làm tròn nhiệm vụ, đánh thắng mọi kẻ thù.
Ba là, giáo dục, rèn luyện những chuẩn mực ĐĐCM cơ bản cho đội ngũ cán
bộ Hậu cần Quân đội, coi trọng giáo dục đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Công tác giáo dục, rèn luyện ĐĐCM là quá trình trang bị cho đội ngũ
CBHC Quân đội những giá trị chuẩn mực cơ bản của đạo đức cộng sản, xây
dựng lòng trung thành vô hạn với chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng đạo đức Hồ
54
Chí Minh; Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước, kỷ luật quân đội; xây dựng ý thức tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo
tự học tập, tự rèn luyện không ngừng để nâng cao phẩm chất đạo đức, năng lực
của đội ngũ CBHC; giáo dục, rèn luyện ý thức, trách nhiệm cao trong thực
hành tự phê bình và phê bình, tinh thần đấu tranh phòng, chống tiêu cực, tham
nhũng, “lợi ích nhóm”. Đặc biệt, cần coi trọng giáo dục, rèn luyện cho CBHC
lời huấn thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “cán hộ hậu cần như là người mẹ,
người chị của bình nhì”, và ý thức thực hiện “cần, kiệm, liêm, chính” nghiêm
túc trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, vì đây là những phẩm chất đặc trưng,
tiêu biểu cho ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội.
Bốn là, giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC theo tư tưởng,
tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh (theo
chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị) là nhiệm vụ chính trị quan trọng của
toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, nhằm tạo ra phong trào rèn luyện ĐĐCM
theo gương Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Thực hiện
nhiệm vụ giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội, các cấp
ủy, tổ chức đảng, người chỉ huy cần tập trung giáo dục cho đội ngũ CBHC
Quân đội về: Mục đích, ý nghĩa, nội dung, nhiệm vụ học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Trong đó, trọng tâm là xây dựng
cho họ tinh thần khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt,
rụt rè, lùi bước... khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ vững tinh
thần chất phác, khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, lo hoàn
thành nhiệm vụ cho tốt, không kèn cựa địa vị, không quan liêu, kiêu ngạo,
không hủ hóa… theo tư tưởng, phong cách của Người; tăng cường rèn
luyện phong cách làm việc khoa học, có kế hoạch, đúng giờ, cụ thể, tỉ mỉ,
dân chủ; phong cách đổi mới, sáng tạo, không chấp nhận lối cũ, đường
mòn; tinh thần làm việc nghiêm túc, việc gì cũng phải điều tra, nghiên cứu,
thu thập thông tin, số liệu, để nắm chắc thực chất tình hình; không cố chấp,
bảo thủ, luôn đổi mới, có tinh thần mạnh dạn, dám nghĩ, dám làm... Đây là
những nội dung quan trọng góp phần tạo nên ĐĐCM, phong cách làm việc
của đội ngũ CBHC Quân đội.
55
Năm là, giáo dục cho đội ngũ CBHC những chỉ thị, quy định mới của
Đảng trong xây dựng chuẩn mực ĐĐCM của cán bộ, đảng viên hiện nay
Công tác giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC
Quân đội, cần thường xuyên cập nhật những thông tin lý luận mới được Đảng
ta quy định, nhất là những tư tưởng, quan điểm, chỉ thị, nghi quyết của Đảng
trong xây dựng đạo đức, lối sống cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Trong đó, tập
trung giáo dục, bồi dưỡng cho đội ngũ CBHC có nhận thức sâu sắc và thực
hiện nghiêm túc những tiêu chuẩn đạo đức, lối sống mà Đảng ta đã xác định
trong Quyết định số 89-QĐ/TW, ngày 04-8-2017, của Ban Chấp hành Trung
ương về “Khung tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán
bộ lãnh đạo, quản lý các cấp”; Quy định 101-QĐ/TW, ngày 7-6-2012 của Ban
Bí thư Trung ương Đảng “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên,
nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”; tăng cường giáo dục, bồi dưỡng cho
đội ngũ CBHC có nhận thức sâu sắc đối với những nội dung Nghị quyết Trung
ương 4 (khóa XII) “Vê tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy
lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Trong đó, cần xây dựng cho đội ngũ
CBHC nhận thức rõ về bản chất, thực trạng, nguyên nhân, hệ quả của những
suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Từ đó, để
mỗi CBHC tự giác nâng cao nhận thức, tích cực đấu tranh ngăn chặn những
tiêu cực xâm nhập vào cơ quan, đơn vị, góp phần xây dựng đội ngũ CBHC
vững mạnh, có đủ phẩm chất đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
* Phương thức giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội
Đạo đức cách mạng của mỗi CBHC là sự thấm nhuần những giá trị,
chuẩn mực, sự tự giác, tự nguyện phụng sự Tổ quốc, phục vụ bộ đội và
nhân dân, được hình thành, phát triển thông qua quá trình giáo dục, rèn
luyện bền bỉ, thường xuyên, liên tục của mỗi CBHC và của tổ chức. Hoạt
động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội để đạt được
mục đích, yêu cầu đề ra, trước hết cần quán triệt và thực hiện được phương
châm cơ bản là: Coi trọng việc tự tu dưỡng, rèn luyện ĐĐCM bền bỉ, lâu
dài của đội ngũ CBHC là chính, kết hợp với quá trình giáo dục, giúp đỡ
thường xuyên của cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo, chỉ huy các cấp trong
quân đội. Đây là yếu tố cơ bản, là cơ sở nhằm xác định nội dung, phương
56
thức giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội có trọng tâm,
trọng điểm, phù hợp với đặc điểm đội ngũ CBHC, nhiệm vụ bảo đảm hậu
cần quân đội. Đồng thời nhấn mạnh vai trò tự giáo dục, bồi dưỡng, rèn
luyện ĐĐCM của mỗi CBHC là yếu tố quyết định nhất.
Phương thức giáo dục, rèn luyện ĐĐCM là hệ thống những cách thức,
biện pháp tác động của chủ thể đến đối tượng nhằm hiện thực hoá nội dung
giáo dục, rèn luyện đạo đức đã được xác định. Đây là bước thực hành giáo dục,
rèn luyện để thực hiện sự chuyển hoá nội dung, phương châm giáo dục, rèn
luyện ĐĐCM thành phẩm chất, nhân cách của người cán bộ Hậu cần. Hoạt
động đó tập trung ở những phương thức cơ bản sau:
Một là, thông qua công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức đảng;
quản lý, duy trì của người chỉ huy, và cơ quan chức năng các cấp để giáo dục,
rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội
Để tiến hành giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC, trước hết
cấp ủy, chi bộ các cơ quan, đơn vị phải xác định rõ chủ trương, nội dung, chỉ
tiêu, biện pháp lãnh đạo về giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC
trong nghị quyết đại hội, nghị quyết lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ thường
xuyên, và đột xuất; đồng thời, tổ chức giáo dục, quán triệt nghị quyết đó tới
toàn thể cán bộ, đảng viên, làm cơ sở thực hiện nhiệm vụ giáo dục, rèn luyện
ĐĐCM của đội ngũ CBHC.
Người chỉ huy, đội ngũ chính ủy, chính trị viên, cơ quan chức năng các
cấp có trách nhiệm xây dựng chương trình, nội dung và tổ chức quản lí, duy trì
hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC, nhằm cụ thể hóa
nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của cấp ủy, người chỉ huy các cấp trên thực tiễn.
Chương trình, nội dung giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC phải
được cụ thể hóa trong kế hoạch CTĐ, CTCT của mỗi cơ quan, đơn vị, và phù
hợp với đối tượng, phản ánh được các quan điểm, nguyên tắc trong hoạt động
giáo dục; xác định rõ mục đích, yêu cầu, nội dung, hình thức, biện pháp, thời
gian, cơ sở vật chất và lực lượng tiến hành. Chủ động phối hợp, hiệp đồng
chặt chẽ với các tổ chức, lực lượng có liên quan để tổ chức giáo dục, rèn
luyện một cách nghiêm túc. Người chỉ huy, cơ quan chức năng phải thường
xuyên kiểm tra, đôn đốc các cơ quan, đơn vị hậu cần, và đội ngũ CBHC thực
hiện có nền nếp, bảo đảm chất lượng hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM.
57
Hai là, thông qua hoạt động giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng của HVHC,
và các học viện, nhà trường, cơ sở đào tạo, bồi dưỡng trong toàn quân
Thực hiện giáo dục, rèn luyện ĐĐCM thông qua hoạt động giáo dục, đào
tạo đối với học viên đào tạo, bồi dưỡng CBHC ở các học viện, nhà trường quân
đội, nhất là hoạt động đào tạo, bồi dưỡng CBHC các cấp tại HVHC. Hoạt động
này diễn ra thường xuyên, liên tục, theo kế hoạch giáo dục, đào tạo, và kế
hoạch hoạt động CTĐ, CTCT của các nhà trường. Trong đó, tập trung kết hợp
các hình thức giáo dục, rèn luyện trên lớp (thực hiện các khâu, các bước trong
quá trình giảng dạy của người giáo viên; ghi chép, nắm nội dung bài giảng, kết
hợp học mới với ôn cũ, tham gia xây dựng bài của người học; tổ chức duy trì,
thực hiện các quy chế, quy định trong học tập, thi, kiểm tra, đánh giá kết quả
của cơ quan chức năng; xây dựng môi trường văn hóa sư phạm lành mạnh…)
với hoạt động giáo dục, rèn luyện tại các đơn vị quản lý học viên (tổ chức quản
lý, duy trì việc thực hiện các chế độ ngày, tuần, ăn, ở, sinh hoạt, tự học, công
tác, tăng gia sản xuất, hoạt động ngoại khóa đối với đội ngũ học viên). Thông
qua các hoạt động hội thi, hội thao, diễn tập, thực tập chức trách, để học viên
vận dụng những kiến thức được trang bị vào tổ chức các hoạt động trên thực
tiễn, nhằm tiếp tục bồi dưỡng lý luận, rèn luyện, củng cố kiến thức, nâng cao
bản lĩnh chính trị, ĐĐCM cho họ. Đây là phương thức quan trọng nhằm giáo
dục, rèn luyện ĐĐCM đối với đội ngũ học viên đào tạo, bồi dưỡng CBCH các
cấp tại các học viện, nhà trường quân đội.
Ba là, giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC thông qua những
hoạt động giáo dục chính trị, thi đua, khen thưởng, nhân điển hình tiên tiến
của các cơ quan, đơn vị hậu cần trong toàn quân
Nhiệm vụ giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC ở các cơ
quan, đơn vị hậu cần do cấp ủy, tổ chức đảng, chi bộ, người đứng đầu cơ
quan, đơn vị hậu cần chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện
theo nghị quyết của cấp ủy, tổ chức đảng, kế hoạch hoạt động CTĐ, CTCT
hằng năm đã xác định. Với những hình thức cơ bản của công tác giáo dục
chính trị như: học tập chính trị, nghiên cứu chuyên đề của sĩ quan tại đơn vị;
thông qua sinh hoạt chính trị, tư tưởng, thông báo chính trị - thời sự, đọc báo,
nghe đài, xem truyền hình; thông qua thực tiễn thực hiện các phong trào hành
động cách mạng; thông qua tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể
thao; thi đua, xung kích của đoàn thanh niên; chương trình hành động, phấn
đấu của tổ chức công đoàn, hội phụ nữ để giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội
ngũ CBHC ở cơ quan, đơn vị hậu cần quân đội.
58
Trong những phương thức giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ
CBHC tại cơ quan, đơn vị hậu cần quân đội, việc đẩy mạnh công tác thi
đua, khen thưởng, nhân điển hình tiên tiến như: thực hiện phong trào thi
đua Ngành Hậu cần quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy; phong trào phát huy
truyền thống, công hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ; nuôi quân giỏi,
quản lý quân nhu tốt; thực hiện tốt cuộc vận động 50 về “Quản lý, khai
thác, sử dụng vũ khí, trang bị kỹ thuật tốt, bền, an toàn, tiết kiệm và An
toàn giao thông”…; động viên, biểu dương, khen thưởng, nêu gương người
tốt, việc tốt, nhân điển hình tiên tiến trong thực hiện nhiệm vụ chuyên môn,
trong thực hiện các phong trào thi đua… của CBHC; CBHC cấp trên nêu
gương sáng về tinh thần tận tụy phục vụ bộ đội để cán bộ, nhân viên, chiến
sĩ hậu cần cấp học tập và làm theo. Đây là phương thức quan trọng trong
giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC ở các cơ quan, đơn vị hậu
cần trong toàn quân. Vì, theo tư tưởng Hồ Chí Minh: “Từ tiểu đội trưởng
trở lên, từ Tổng tư lệnh trở xuống, phải săn sóc đời sống vật chất và tinh
thần của đội viên” [109, tr.76].
Bốn là, giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC thông qua hoạt
động thực tiễn thực hiện nhiệm vụ bảo đảm hậu cần quân đội
Công tác bảo đảm hậu cần quân đội gồm: “bảo đảm vật chất; bảo đảm
sinh hoạt; bảo đảm quân y và thú y; công tác vận tải; một số nội dung bảo
đảm hậu cần cho an toàn bay của không quân (xăng dầu, điện, khí, vệ sinh
đường băng và canh gác sân bay); bảo đảm hậu cần cho tàu chiến đấu và đặc
công nước của hậu cần Hải quân” [22, tr.2]. Trong chiến đấu là hoạt động
chuẩn bị nguồn, dự trữ, bổ sung các loại vật chất hậu cần; xây dựng thế trân
hậu cần chiến thuật, chiến dịch, chiến lược liên hoàn, vững chắc; tổ chức bảo
đảm vệ sinh, phòng dịch, phòng độc, chăm sóc giữ vững sức khỏe bộ đội để
hoạt động tác chiến liên tục, dài ngày; tổ chức cứu chữa, vận chuyển thương,
bệnh binh; tổ chức vận tải vật chất, cơ động bộ đội bí mật, an toàn, đúng thời
gian, địa điểm quy định.
Thực tiễn công tác, lao động sản xuất, phục vụ bộ đội thời bình cũng như
thời chiến luôn diễn ra một cách sinh động, có khi thuận lợi, có lúc hết sức khó
khăn, phức tạp, gian khổ, ác liệt kéo dài. Đòi hỏi người CBHC phải nhận thức
đúng những quy luật vận động khách quan; những thuận lợi, khó khăn của
nhiệm vụ; những ưu điểm, hạn chế của tổ chức và bản thân mình; bản chất,
âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù... để có biện pháp khắc phục khó khăn hoàn
thành nhiệm vụ. Những hoạt động thực tiễn trong công tác bảo đảm hậu cần,
là phương thức quan trọng để giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC
Quân đội phát triển hoàn thiện hơn.
59
Năm là, thông qua hoạt động tự giáo dục, tự rèn luyện ĐĐCM của
đội ngũ CBHC Quân đội
Tự giáo dục, tự rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội, thực
chất là quá trình hoạt động một cách tự giác, tích cực của mỗi cán bộ thông
qua sự định hướng của chủ thể, để họ tự ghép mình theo những chuẩn mực,
quy định. Đòi hỏi mỗi CBHC phải xây dựng cho mình kế hoạch tự giáo dục,
tự rèn luyện sát với chức trách, nhiệm vụ được giao, đặt ra nội dung, phương
pháp, yêu cầu cụ thể, toàn diện cần đạt được để phấn đấu. Hình thức tự giáo
dục, tự rèn luyện cơ bản như: tự giác nhận thức, tự giác xây dựng kế hoạch; tự
kiểm điểm, điều chỉnh hành vi, thái độ theo chuẩn mực đạo đức, quy định của
chức trách, nhiệm vụ; gương mẫu thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng,
pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội, quy chế, quy định trong công tác hậu
cần; tự giác, tích cực đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi biểu hiện suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, lãng phí, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” của đội ngũ cán bộ, đảng viên, CBHC ở cơ quan, đơn vị; tự nhận
thức rõ bản chất và đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị
hóa” quân đội của các thế lực thù địch.
Sáu là, phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các lực lượng, các
cơ quan, ban ngành trong và ngoài quân đội để giáo dục, rèn luyện ĐĐCM
của đội ngũ CBHC Quân đội
Để thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ
CBHC Quân đội, trước hết cần phải phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ
chức, các lực lượng trong đơn vị quân đội. Đó là vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của
cấp ủy, tổ chức đảng, với hoạt động quản lý, duy trì, điều hành của chỉ huy,
và của cơ quan chính trị, cơ quan hậu cần các cấp; phát huy vai trò của các tổ
chức đoàn thanh niên, công đoàn, hội phụ nữ, hội đồng quân nhân tham gia
giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội. Đồng thời, lãnh
đạo, chỉ huy, cơ quan chức năng các cấp trong quân đội, cần chủ động phối
hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền, đoàn thể, nhân dân trên địa bàn đóng
quân và gia đình mỗi CBHC để có kế hoạch tuyên truyền, giáo dục, rèn luyện
ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội mọi lúc, mọi nơi, chặt chẽ, nghiêm túc,
đạt chất lượng theo kế hoạch đã xác định.
Bẩy là, thông qua công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy, tổ chức đảng
để giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội
60
Công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, nhất là
của cấp ủy, chi bộ cơ quan, đơn vị hậu cần, thường tập trung vào những nội
dung cơ bản: chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ
thị của Đảng; thực hiện nhiệm vụ của người đảng viên; giữ gìn phẩm chất
chính trị, đạo đức, lối sống; chấp hành pháp luật, kỷ luật; thực hiện nhiệm vụ
chuyên môn; thực hiện học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh của đội ngũ CBHC. Thông qua các hình thức kiểm tra, giám sát
thường xuyên, chuyên đề, hoặc đột xuất (khi có dấu hiệu vi phạm), nhằm kịp
thời định hướng, điều chỉnh nhận thức, hành vi đạo đức, lối sống, tinh thần,
trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ của người đảng viên, thực hiện chức
trách, nhiệm vụ bảo đảm hậu được giao của đội ngũ CBHC. Thông qua đó, sẽ
kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm những vi phạm kỷ luật, quy định của CBHC,
góp phần giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội, xây dựng
cấp ủy, chi bộ cơ quan, đơn vị hậu cần trong sạch vững mạnh.
Tám là, thông qua sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm hoạt động CTĐ,
CTCT để giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội
Việc sơ kết, tổng kết hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ
CBHC Quân đội thường được cụ thể hóa trong công tác sơ kết, tổng kết, rút
kinh nghiệm hoạt động CTĐ, CTCT của các cơ quan, đơn vị các cấp, nhất là
của cơ quan đơn vị hậu cần, thực hiện theo kế hoạch 6 tháng và 1 năm, theo
giai đoạn; hoặc sơ, tổng kết theo nhiệm vụ, sau mỗi đợt thực hiện nhiệm vụ
bảo đảm hậu cần cho huấn luyện, chiến đấu. Thông qua đó, lãnh đạo, chỉ huy
cơ quan, đơn vị hậu cần các cấp sẽ đánh giá rõ những ưu điểm, hạn chế,
khuyết điểm trên các mặt công tác, hoặc trong thực hiện nhiệm vụ hậu cần;
chỉ ra ưu, khuyết điểm về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tác phong
công tác... của đội ngũ CBHC trong thực hiện nhiệm vụ; tìm nguyên nhân, rút
ra những bài học kinh nghiệm để khắc phục; xác đinh nhiệm vụ, nội dung,
phương hướng hoạt động CTĐ, CTCT thời gian tới. Sơ kết, tổng kết, rút kinh
nghiệm hoạt động CTĐ, CTCT là nhiệm vụ chính trị của lãnh đạo, chỉ huy, cơ
quan chức năng các cấp phải thực hiện, đồng thời là phương thức quan trọng
góp phần giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội.
Phương thức giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC là một thể
thống nhất biện chứng gồm nhiều cách thức, biện pháp khác nhau, chúng luôn
tác động ảnh hưởng đến nhau, góp phần phát triển, hoàn thiện ĐĐCM của mỗi
CBHC. Vì vậy, không nên tuyệt đối hoá phương thức nào, hoặc tách rời quá
trình giáo dục với rèn luyện đạo đức cách mạng sẽ không hiệu quả.
61
2.2.2.3. Vai trò của giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của đội
ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội
Một là, giáo dục, rèn luyện ĐĐCM là cơ sở hoàn thiện phẩm chất, nhân
cách của đội ngũ CBHC Quân đội, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo đảm hậu cần
trong tình hình mới
Phẩm chất và năng lực (đức và tài) là hai bộ phận không thể tách rời
của nhân cách người cách mạng, đồng thời nó là thước đo nhân cách của con
người. Người chiến sĩ cách mạng muốn hoàn thành nhiệm vụ phải có đức và
tài. Trong đó, đạo đức là gốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: ‘‘Cũng như sông
thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc,
không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo
đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [107, tr. 292].
Đối với đội ngũ CBHC Quân đội, việc giáo dục, rèn luyện ĐĐCM sẽ góp
phần định hướng lý tưởng, mục tiêu cuộc sống của bản thân CBHC phù hợp
với yêu cầu của sự nghiệp cách mạng và sự nghiệp xây dựng quân đội. Thông
qua giáo dục, rèn luyện, hệ thống các giá trị, chuẩn mực về tư tưởng, đạo đức,
lối sống với tính cách là phạm trù ý thức của con người, có thể định hướng lý
tưởng sống cao đẹp; bồi dưỡng bản lĩnh chính trị, ý chí, tinh thần cảnh giác
cách mạng; nâng cao nhận thức về bản chất, âm mưu, thủ đoạn chống phá của
kẻ thù trên mặt trận chính trị, tư tưởng, để mỗi CBHC tích cực, tự giác đấu
tranh làm thất bại âm mưu của chúng. Trong điều kiện cụ thể ở mỗi cơ quan,
đơn vị hậu cần, việc giáo dục, rèn luyện ĐĐCM là cơ sở quan trọng góp phần
hoàn thiện phẩm chất nhân cách của đội ngũ CBHC Quân đội.
Hai là, giáo dục, rèn luyện ĐĐCM là nhiệm vụ chính trị quan trọng, trực
tiếp xây dựng đội ngũ CBHC Quân đội vững mạnh, góp phần ngăn ngừa sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
Xây dựng đội ngũ CBHC Quân đội vững mạnh là yêu cầu khách quan,
nhiệm vụ chính trị quan trọng, trực tiếp góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, sĩ
quan trong quân đội vững mạnh. Thông qua công tác giáo dục, rèn luyện
ĐĐCM, đội ngũ CBHC Quân đội sẽ được trang bị những kiến thức cơ bản về
lý luận chính trị, đạo đức, lối sống, kỹ năng ứng xử theo chuẩn mực, quy định
của Đảng và quân đội. Sự vững vàng về phẩm chất chính trị, ĐĐCM tạo nền
tảng cho người CBHC có đủ điều kiện để hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ
được giao. Đây là nhân tố quan trọng góp phần xây dựng đội ngũ CBHC Quân
đội vững mạnh toàn diện.
62
Trên thực tế, tình trạng “suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi; có mặt,
có bộ phận còn diễn biến phức tạp hơn” [67, tr.185]. Sự suy thoái đó được
Đảng ta xác định là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn có thể dẫn tới sự “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đòi hỏi các cấp ủy, chi bộ trong quân đội phải
tăng cường hơn nữa hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ
CBHC. Đây vừa là nhiệm vụ chính trị, vừa là yêu cầu cấp bách trong công tác
giáo dục chính trị ở cơ sở. Thông qua đó, nhằm nâng cao nhận thức của đội
ngũ CBHC về thực trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở một bộ phận cán bộ, đảng viên. Từ đó, mỗi
CBHC có cách thức nhận diện, đấu tranh, ngăn ngừa một cách hiệu quả nhất
những thực trạng đó, góp phần xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng ở cơ quan, đơn
vị hậu cần trong sạch vững mạnh.
Ba là, giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội góp
phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, tư
tưởng, tổ chức và đạo đức, nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội
Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay đặt ra yêu cầu rất
cao phải tiếp tục thực hiện phương hướng xây dựng QĐNDVN cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, làm lực lượng nòng cốt bảo vệ Tổ
quốc. Trong đó, phải lấy xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ
chức và đạo đức làm cơ sở để xây dựng các mặt khác và nâng cao chất lượng
tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của quân đội. Phương hướng xây dựng quân đội
hiện nay đặt ra yêu cầu cấp thiết phải xây dựng được đội ngũ cán bộ ngang tầm
nhiệm vụ, trong đó có đội ngũ CBHC. Giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ
CBHC, làm cho họ thực sự có bản lĩnh chính trị vững vàng, có ĐĐCM, đáp ứng
được yêu cầu xây dựng quân đội, có vai trò quan trọng góp phần nâng cao chất
lượng chính trị, chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của quân đội.
Đồng thời, trong giai đoạn hiện nay cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư
tưởng, lý luận, văn hóa luôn diễn ra hết sức quyết liệt, phức tạp; nhất là cuộc
đấu tranh phòng, chống âm mưu “diễn biến hòa bình”, “phi chính trị hóa”
quân đội của các thế lực thù địch. Đội ngũ CBHC là lực lượng nòng cốt trong
tổ chức lực lượng, hướng dẫn cán bộ, chiến sĩ cấp dưới ở cơ quan, phân đội
hậu cần thực hiện nhiệm vụ đấu tranh trên mặt trận ấy. Giáo dục, rèn luyện
ĐĐCM để CBHC có tri thức, kỹ năng, bản lĩnh toàn diện, làm cơ sở nhằm
nhận diện và đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế
lực thù địch. Thông qua đó góp phần nâng cao chất lượng chính trị, sức chiến
đấu, sẵn sàng nhận và hoàn thành nhiệm vụ được giao của quân đội.
63
2.2.2.4. Yêu cầu giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của đội ngũ
cán bộ Hậu cần Quân đội
Một là, giáo dục, rèn luyện toàn diện đối với đội ngũ CBHC Quân đội
Trong mỗi giai đoạn, thời kỳ khác nhau cần có một đội ngũ cán bộ có
phẩm chất, năng lực toàn diện đáp ứng được đòi hỏi của nhiệm vụ cách
mạng. Để xây dựng được đội ngũ cán bộ ngang tầm nhiệm vụ trong thời kỳ
mới, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị đã có nhiều quyết sách
về công tác cán bộ. Đảng ta luôn khẳng định giáo dục phải đi trước, là nền
tảng, động lực để xây dựng, phát triển đất nước. Vì vậy, công tác giáo dục
nói chung, nhiệm vụ giáo dục, rèn luyện ĐĐCM đối với đội ngũ CBHC
Quân đội nói riêng phải được tổ chức thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ, khách
quan; giáo dục, rèn luyện toàn diện cả về phẩm chất và năng lực chuyên
môn, nghiệp vụ hậu cần, nhưng cần chú trọng xây dựng, bồi dưỡng phẩm
chất đạo đức, nhân cách người cán bộ.
Theo đó, lãnh đạo, chỉ huy các cấp trong quân đội phải căn cứ vào các
nghị quyết, chỉ thị của Đảng về chiến lược xây dựng đội ngũ cán bộ thời kỳ
mới, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ X, Nghị quyết 769-
NQ/QUTW, ngày 21-12-2012 của Quân ủy Trung ương “Về xây dựng đội ngũ
cán bộ quân đội giai đoạn 2013-2020 và những năm tiếp theo”… để xác định
phương hướng, chủ trương, biện pháp lãnh đạo công tác giáo dục, rèn luyện
ĐĐCM của đội ngũ CBHC. Trong đó, đặc biệt chú trọng trang bị cho đội ngũ
CBHC có: “bản lĩnh chính trị kiên định vững vàng,… ý thức tổ chức kỷ luật
nghiêm, cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư; trung thực, thẳng thắn, không
cục bộ, không quan liêu, tham nhũng, lãng phí; có phong cách làm việc khoa
học, chính quy, dân chủ, kỷ luật, tôn trọng tập thể, đoàn kết thống nhất, gắn bó
với quần chúng” [136, tr.6]. Thông qua thực tiễn hoạt động giáo dục, rèn luyện
ĐĐCM, thực hiện nhiệm vụ chính trị, công tác bảo đảm hậu cần của đội ngũ
CBHC Quân đội để tuyển chọn, đánh giá, sàng lọc, và tiếp tục có kế sách bồi
dường, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC các cấp.
64
Hai là, giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội phải
xuất phát và bám sát thực tiễn nhiệm vụ bảo đảm hậu cần quân đội
Công tác hậu cần quân đội ở mỗi giai đoạn khác nhau có yêu cầu nhiệm
vụ riêng, phụ thuộc vào nhiệm vụ của cách mạng, quân đội và đơn vị. Để xây
dựng được đội ngũ CBHC có đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ, cấp ủy, tổ chức đảng, người chỉ huy các cấp, căn cứ vào nghị quyết, chỉ thị,
mệnh lệnh của cấp trên; chức năng, nhiệm vụ; đặc điểm, yêu cầu của công tác
hậu cần; đặc điểm đội ngũ CBHC để xác định chủ trương, biện pháp giáo dục,
rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC chặt chẽ, nghiêm túc, bảo đảm chất
lượng. Đối với từng CBHC, căn cứ vào chức trách, nhiệm vụ được giao, tình
hình tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của bản thân và tập thể, từ đó xác
định động cơ, trách nhiệm, ý chí, quyết tâm và xây dựng, thực hiện kế hoạch
tự giáo dục, tự rèn luyện ĐĐCM của mình. Bất luận trong điều kiện, hoàn
cảnh, hoặc nhiệm vụ khó khăn thế nào đội ngũ CBHC cũng không được lùi
bước, phải dám vượt lên chính mình, quyết tâm khắc phục khó khăn, tự lựa
chọn nội dung, hình thức, phương pháp, và thực hiện tự giáo dục, rèn luyện
ĐĐCM nghiêm túc, hiệu quả nhất.
Ba là, kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục, rèn luyện ĐĐCM với bồi dưỡng
phẩm chất chính trị, nâng cao năng lực chuyên môn, với đấu tranh ngăn ngừa
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, của đội ngũ CBHC Quân đội
Hoạt động bảo đảm hậu cần hiện nay đòi hỏi đội ngũ CBHC phải
thường xuyên được giáo dục, bồi dưỡng nâng cao năng lực, phẩm chất toàn
diện để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Hoạt động này càng đạt chất lượng, hiệu
quả khi tiến hành đồng thời, kết hợp nhiều nội dung, hình thức, biện pháp, và
phát huy sức mạnh của tập thể cán bộ, đảng viên.
Theo đó, việc giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC cũng phải
được tiến hành thực hiện trong hoạt động giáo dục chính trị tổng thể của cơ
quan, đơn vị hậu cần. Giáo dục, rèn luyện ĐĐCM cần gắn với thực hiện học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và thực hiện
cuộc vận động phát huy truyền thống, công hiến tài năng xứng danh “Bộ đội
Cụ Hồ”; phong trào ngành Hậu cần quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy; phong
trào nôi quân giỏi, quản lý quân nhu tốt… với thực hiện có hiệu quả Nghị
65
quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI, khóa XII) về xây dựng Đảng. Đồng
thời với quá trình giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC là quá trình
thực hiện nhiệm vụ đấu tranh ngăn ngừa suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống của cả đội ngũ cán bộ, đảng viên trong mỗi cơ quan, đơn vị.
Thông qua hoạt động đấu tranh chung của đội ngũ cán bộ, đảng viên để tạo
nên phong trào hành động cách mạng mạnh mẽ ở cơ quan, đơn vị hậu cần,
hình thành sức mạnh tổng hợp để giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ
CBHC một cách hiệu quả nhất.
Bốn là, chú trọng việc nêu gương rèn luyện ĐĐCM của cán bộ lãnh đạo,
chỉ huy và xử lý nghiêm minh, kịp thời CBHC vi phạm đạo đức, lối sống
Để đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI)
“Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Ðảng hiện nay” và Chỉ thị số 03-
CT/TW, ngày 14-5-2011, Ban Bí Trung ương đã ban hành Quy định số 101-
QĐ/TW ngày 07-6-2012 “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên,
nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”. Quán triệt sâu sắc quy định của
Trung ương trong hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC,
đòi hỏi lãnh đạo, chỉ huy các cấp, người đứng đầu cơ quan, đơn vị hậu cần phải
luôn gương mẫu, đi đầu trong tự giáo dục, tự rèn luyện về ĐĐCM; luôn kiên
định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của
Ðảng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; đi đầu trong đấu tranh
với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; tích
cực phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; luôn nêu gương về đức
khiêm tốn, giản dị; tác phong sâu sát thực tế, gần gũi để thấu hiểu tâm tư,
nguyện vọng chính đáng của cán bộ, nhân viên, chiến sĩ cấp dưới; làm việc
với thái độ khách quan, công tâm, dân chủ, sáng tạo; gương mẫu thực hiện
nghĩa vụ công dân nơi cư trú.
Người đứng đầu cơ quan, đơn vị hậu cần, bên cạnh việc nêu gương
phải có biện pháp nắm chắc số, chất lượng đội ngũ CBHC các cấp thuộc
phạm vi lãnh đạo, quản lý; phát hiện những khâu yếu, mặt yếu về phẩm
chất đạo đức, năng lực chuyên môn của đội ngũ CBHC, để có hình thức,
biện pháp bồi dưỡng, rèn luyện hợp lý. Xử lý nghiêm minh, chặt chẽ, thấu
tình đạt lý những biểu hiện vi phạm đạo đức, lối sống, kỷ luật quân đội của
đội ngũ CBHC, trực tiếp góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, rèn luyện
ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội.
66
Tiểu kết chương 2
Đội ngũ CBHC Quân đội là một bộ phận quan trọng trong đội ngũ cán
bộ của Đảng công tác trong quân đội, có vai trò rất quan trọng trong tham
mưu đề xuất, chuẩn bị cho người chỉ huy hạ quyết tâm, đề ra chủ trương
chính xác các hoạt động hậu cần; tham mưu với chính quyền địa phương,
những chủ trương, biện pháp xây dựng hậu cần khu vực phòng thủ, xây dựng
hậu cần nhân dân; Đồng thời là lực lượng trực tiếp tổ chức thực hiện nhiệm
vụ hậu cần, tham gia xây dựng tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị hậu cần trong
sạch vững mạnh, ngành hậu cần quân đội vững mạnh toàn diện.
Xây dựng đội ngũ CBHC Quân đội, trước hết cần xây dựng yếu tố cốt lõi,
đó là ĐĐCM, đây là nhân tố quan trọng hàng đầu, là nền tảng để hoàn thiện
nhân cách, giúp người CBHC nhận thức đúng mục tiêu, lý tưởng cách mạng,
góp phần hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao. ĐĐCM của đội ngũ
CBHC Quân đội được biểu hiện rất rõ nét thông qua nhận thức, cũng như trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ hàng ngày, với những chuẩn mực đạo đức cơ bản
về sự: “cần, kiệm, liêm, chính”; tận tâm, tận lực, hết lòng phục vụ bộ đội. Trong
điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, công tác bảo đảm hậu
cần chịu tác động thường xuyên của nhiều yếu tố tích cực và tiêu cực, để hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao, đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa công tác giáo
dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội, làm cơ sở nâng cao chất
lượng chính trị, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo đảm hậu cần trong điều kiện mới.
Để tiến hành công tác giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC
Quân đội đạt chất lượng, hiệu quả cao, cấp ủy, chỉ huy, người đứng đầu cơ
quan, đơn vị hậu cần các cấp phải căn cứ vào đặc điểm, tình hình nhiệm vụ
cách mạng, quân đội, nhiệm vụ bảo đảm hậu cần của đơn vị, để xác định rõ
mục đích, yêu cầu, kế hoạch, chương trình, nội dung, phương thức giáo dục,
rèn luyện. Qúa trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ, phải đặt dưới sự lãnh đạo,
chỉ đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng; sự quản lý, duy trì của người chỉ huy,
chính ủy, chính trị viên, cơ quan chính trị và cần phát huy vai trò của các tổ
chức, các lực lượng, kết hợp với quá trình tự học tập, tự tu dưỡng bền bỉ hàng
ngày của từng CBHC nhằm trau dồi, rèn luyện ĐĐCM đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ bảo đảm hậu cần trong điều kiện mới. Đây là cơ sở lý luận và thực
tiễn quan trọng để đánh giá kết quả giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ
CBHC Quân đội đạt chất lượng đến đâu, từ đó xác định nguyên nhân, rút ra
bài học kinh nghiệm, tìm giải pháp khắc phục khuyết điểm để công tác giáo
dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội đạt chất lượng, hiệu quả
cao hơn trên thực tiễn.
67
Chương 3
ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG VÀ GIÁO DỤC, RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CÁCH
MẠNG CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ HẬU CẦN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY - THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM
3.1. THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
HẬU CẦN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
3.1.1. Những ưu điểm
Những năm qua, nhận thức được vai trò quan trọng của ĐĐCM là phẩm chất
cốt lõi tạo nên nhân cách người CBHC, là nhân tố then chốt quyết định chất lượng,
hiệu quả công tác hậu cần quân đội. Do đó, cấp ủy, chỉ huy các cấp trong quân đội
đã có nhiều chủ trương, biện pháp thường xuyên giáo dục, rèn luyện ĐĐCM cho
họ. Vì vậy, đạo đức của đội ngũ CBHC từng bước được hoàn thiện, với nhiều ưu
điểm, trực tiếp góp phần tạo nên chất lượng chính trị, sức mạnh chiến đấu của quân
đội, những ưu điểm đó được biểu hiện cụ thể trên những nội dung cơ bản sau:
Một là, đội ngũ CBHC Quân đội luôn tuyệt đối trung thành với Đảng,
với Tổ quốc, với nhân dân
Đội ngũ CBHC Quân đội đồng thời cũng là những đảng viên của Đảng,
lực lượng giữ vai trò quan trọng, quyết định chất lượng công tác hậu cần quân
đội, góp phần xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước
hiện đại. Những năm qua, mặc dù thường xuyên chịu sự tác động nhiều mặt
của điều kiện kinh tế thị trường, nhất là những tác động tiêu cực, nhưng đội
ngũ CBHC luôn tỏ rõ bản lĩnh chính trị vững vàng; trong mọi điều kiện, hoàn
cảnh, hầu hết CBHC đều kiên định lập trường giai cấp công nhân, trung thành
với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu, lý
tưởng của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là giá trị đạo đức
căn bản nhất của người cách mạng, đã được đội ngũ CBHC Quân đội nhận
thức rõ, luôn giữ vững và phát huy trong quá trình công tác.
Qua khảo sát ở một số cơ quan, đơn vị hậu cần quân đội, 100% ý kiến
của cán bộ, đảng viên được hỏi cho rằng, trung thành với Đảng, với Tổ quốc và
nhân dân là phẩm chất quan trọng của đội ngũ CBHC [Phụ lục 1]; 99,65% ý
68
kiến đánh giá đội ngũ CBHC Quân đội luôn tin tưởng vào đường lối đổi mới
dưới sự lãnh đạo của Đảng, tin tưởng vào mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH,
sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam, kiên quyết đấu tranh bảo vệ đường lối
đổi mới của Đảng [Phụ lục 1]. Phần lớn CBHC có nhận thức đúng đắn về trách
nhiệm chính trị trước Đảng, trước Tổ quốc và nhân dân, ít có trường hợp biểu
hiện dao động, xa rời mục tiêu, lý tưởng cách mạng; không có CBHC phản bội
lợi ích quốc gia, dân tộc. Trong công tác và sinh hoạt thường ngày, mặc dù đội
ngũ CBHC Quân đội còn gặp không ít khó khăn, nhưng họ luôn tôn trọng lắng
nghe ý kiến, gắn bó mật thiết, và giúp đỡ nhân dân phát triển sản xuất, xóa đói
giảm nghèo, nhất là nhân dân ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo trong xây
dựng thế trận hậu cần nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, đa số CBHC Quân đội đã nêu cao tinh thần, trách nhiệm, gương
mẫu thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, sống trong sạch lành
mạnh; tích cực ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ
Những năm qua ngành Hậu cần đã tiến hành nhiều hoạt động nhằm
giáo dục, rèn luyện ĐĐCM đối với đội ngũ CBHC, vì vậy nhận thức, hành vi
đạo đức của đội ngũ CBHC Quân đội không ngừng được nâng lên. Đa số
CBHC thực sự là tấm gương mẫu mực về thực hiện lối sống cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư; ở nhiều cơ quan, đơn vị hậu cần đã thực hành tiết kiệm
10 - 15% ngân sách để mua sắm thêm trang bị phục vụ công tác và nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần cho bộ đội. Trong công tác bảo đảm hậu cần, đa
số CBHC luôn thể hiện được đức tính siêng năng, tận tụy, thực hành tiết
kiệm; sống thật thà, ngay thẳng, năng động, sáng tạo, toàn tâm, toàn ý phục
vụ bộ đội.
Trong lối sống, đa số CBHC luôn gần gũi, gắn bó với bộ đội và nhân
dân, có lối sống giản dị, trong sạch, không tham nhũng, lãng phí và kiên quyết
đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, cũng như các biểu hiện suy thoái về đạo
đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”,… đã góp phần tô thắm phẩm
chất cao quý “Bộ đội Cụ Hồ” trong điều kiện mới. Qua khảo sát ở một số cơ
quan, đơn vị hậu cần, có 100% ý kiến được hỏi đều khẳng định: cần, kiệm,
liêm, chính là phẩm chất quan trọng của đội ngũ CBHC Quân đội [Phụ lục 1],
những giá trị chuẩn mực đạo đức đó cần tiếp tục được phát huy, phát triển
trong hoạt động hậu cần quân đội thời gian tới.
69
Ba là, nhiều CBHC luôn nêu cao tinh thần thương yêu đồng chí, tận tâm,
tận lực hết lòng phục vụ bộ đội; yêu ngành, yêu nghề, có ý thức trách nhiệm
cao, làm việc dân chủ, sáng tạo, nói đi đối với làm, sẵn sàng nhận và hoàn thành
tốt nhiệm vụ hậu cần khi được giao
Thực hiện nhiệm vụ bảo đảm hậu cần trong nhiều điều kiện khác nhau,
tính chất công việc thường xuyên thay đổi, đối tượng, chủng loại vật chất bảo
đảm đa dạng, khối lượng lớn, khó khăn, phức tạp… Nhưng, “Đội ngũ cán bộ,
nhân viên hậu cần có phẩm chất đạo đức, chính trị tốt, nhiệt tình trách nhiệm
với công việc, có quan điểm phục vụ đúng đắn, luôn sẵn sàng nhận và phấn đấu
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao” [24, tr.2]. Đối với đồng chí, đội ngũ
CBHC luôn đoàn kết, gắn bó, thương yêu, quý trọng, đùm bọc lẫn nhau bằng
tình cảm người đồng chí thân thiết; đồng cam cộng khổ, cùng nhau vượt qua
khó khăn, phấn đấu vươn lên hoàn thành nhiệm vụ. Ở nhiều cơ quan, đơn vị,
đội ngũ CBHC cấp trên luôn nhiệt tình, tích cực, thường xuyên bồi dưỡng,
giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ nhân viên thuộc quyền về tư tưởng chính
trị, đạo đức và năng lực cũng như phương pháp tác phong công tác trong thực
hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, quan tâm, giúp đỡ những đồng chí có
khó khăn về điều kiện gia đình vươn lên trong cuộc sống.
Bên cạnh đó, trong quá trình công tác, đội ngũ CBHC luôn tích cực, chủ
động nắm chắc chuyên môn nghiệp vụ, đặc điểm đối tượng, nhiệm vụ được
giao, sâu sát bộ đội, có thái độ, trách nhiệm trong công việc, yêu ngành, nghề,
gắn bó với nhiệm vụ; ở nhiều đơn vị, đội ngũ CBHC luôn gương mẫu, tận tâm,
tận lực phục vụ bộ đội; thực sự là lực lượng nòng cốt làm tham mưu cho lãnh
đạo, chỉ huy các cấp về công tác hậu cần; có thái độ đấu tranh kiên quyết, ngăn
chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, ngăn ngừa “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong đơn vị, hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo đảm hậu cần,
xứng đáng là chỗ dựa tin cậy của cán bộ, nhân viên, chiến sĩ hậu cần. Nhiều
đồng chí đã vượt qua được những cám dỗ “vật chất tầm thường”, giữ được lối
sống trong sạch, lành mạnh, thẳng thắn, trung thực, tích cực, chủ động trong
công việc; sâu sát, phục vụ bộ đội hết mình, trọng mọi điều kiện hoàn cảnh luôn
thực hiện bảo đảm đầy đủ theo chế độ, tiêu chuẩn cho bộ đội.
70
Bốn là, đội ngũ CBHC Quân đội luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, chấp
hành nghiêm kỷ luật quân đội, giữ vững nguyên tắc trong công tác hậu cần
Phát huy “truyền thống quân dân như cá với nước” của quân đội ta, đa
số CBHC luôn có ý thức chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân
đội, quy định của các cơ quan, đơn vị. Thường xuyên tăng cường mối quan hệ
gắn bó mật thiết với cấp uỷ đảng, chính quyền và nhân dân địa phương nơi
đóng quân, nhất là nhân dân ở những vùng khó khăn, phức tạp; tích cực giúp
đỡ nhân dân phát triển sản xuất, xoá đói, giảm nghèo, xóa nạn mù chữ, khắc
phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh. Đồng thời, tích cực tuyên truyền giáo dục
nhân dân hiểu rõ đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, giác ngộ đồng
bào dân tộc thiểu số nhận rõ âm mưu, thủ đoạn, bộ mặt thật của bọn phản
động trong và ngoài nước. Các cơ quan, đơn vị hậu cần và đội ngũ CBHC đã
phối hợp với các đơn vị trong và ngoài quân đội phát động các phong trào
quyên góp: ủng hộ đồng bào nơi bị bão, lũ; xây dựng mái ấm tình thương; xây
nhà tình nghĩa, nhà đồng đội; vì Trường Sa thân yêu; chương trình biển đảo
quê hương... Những hoạt động đó đã góp phần tô thắm thêm truyền thống
đoàn kết quân dân, hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng nhân dân.
Trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, đa số CBHC luôn
chấp hành nghiêm kỷ luật quân đội, nguyên tắc bảo đảm hậu cần; luôn chủ
động xây dựng kế hoạch làm việc cụ thể, tỉ mỉ, sát với yêu cầu nhiệm vụ quân
sự của đơn vị đặt ra; đội ngũ CBHC, nhất là đội ngũ chủ nhiệm, phó chủ
nhiệm hậu cần các cấp luôn là lực lượng gương mẫu, đi đầu trong chấp hành
pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội, quy định của cơ quan, đơn vị mình;
thực hiện tốt quy tắc “đúng, đủ, chính xác, kịp thời” trong hoạt động hậu cần;
rất ít trường hợp để sảy ra sai sót, không đúng đối tượng, chủng loại, số
lượng, kỹ thuật… Khi đánh giá về việc chấp hành kỷ luật của đội ngũ CBHC
Quân đội hiện nay, có 84,55% đánh giá tốt; 10,65% ý kiến đánh giá họ chấp
hành khá [Phụ lục 1]. Vì vậy, kỷ luật quân đội luôn được duy trì nghiêm ở cơ
quan, đơn vị hậu cần, nhờ đó chất lượng công tác bảo đảm hậu cần luôn được
giữ vững, góp phần xây dựng cơ quan, đơn vị hậu cần vững mạnh toàn diện.
Năm là, đội ngũ CBHC đã tích cực học tập, rèn luyện nâng cao phẩm chất
chính trị, năng lực, nắm vững chuyên môn nghiệp vụ, làm chủ khoa học kỹ thuật
hậu cần đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo đảm hậu cần trong điều kiện mới
71
Đội ngũ CBHC phần lớn được đào tạo dài hạn tại HVHC chiếm 85,79%
[Phụ lục 3.2], trình độ học vấn khá cao, trong đó có: 15,37% trình độ cao
đẳng; 76,69% trình độ đại học; 2,29% trình độ sau đại học [Phụ lục 3.3]. Tuy
nhiên, kiến thức được trang bị cho đội ngũ CBHC trong quá trình học tập tại
trường chưa đủ để CBHC hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao. Để
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo đảm hậu cần quân đội trong điều kiện kinh tế
thị trường định hướng XHCN hiện nay, trong thời gian qua, một bộ phận
CBHC được gửi đi đào tạo về chuyên môn, kỹ thuật ở các trường uy tín ngoài
quân đội, còn lại đa số họ phải tự học tập, tự bồi dưỡng để nâng cao phẩm
chất, năng lực đáp ứng yêu cầu thực tiễn bảo đảm hậu cần tại đơn vị. Hiện
nay, qua khảo sát thực tế tại đơn vị, khi đánh giá về năng lực công tác của đội
ngũ CBHC, có 77,6% ý kiến đánh giá họ hoàn thành khá và tốt nhiệm vụ
được giao [Phụ lục 1].
Những ưu điểm về ĐĐCM trên đây của đội ngũ CBHC Quân đội là sự kế
thừa, phát triển những giá trị ĐĐCM của người cách mạng nói chung, và được
vận dụng, phát huy trong điều kiện thực hiện nhiệm vụ bảo đảm hậu cần quân
đội hiện nay. Để phát huy được những ưu điểm đó trong hoạt động hậu cần, đòi
hỏi cấp ủy, chỉ huy các cấp có biện pháp tăng cường giáo dục, bồi dưỡng
ĐĐCM hơn nữa trên thực tiễn, để đội ngũ CBHC có đủ phẩm chất đạo đức,
năng lực hoàn thành nhiệm vụ bảo đảm hậu cần trong thời kỳ mới.
3.1.2. Những hạn chế, khuyết điểm
Một là, niềm tin, bản lĩnh chính trị của một số CBHC đối với Đảng và chế
độ có lúc chưa thực sự kiên định, vững vàng, còn biểu hiện dao động
Trước thực trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu
hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên, nhất là cán bộ có chức, có quyền mà Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ
tư (khóa XI) và Đại hội XII của Đảng ta chỉ ra, một số CBHC Quân đội đã có
biểu hiện giảm sút ý chí chiến đấu, băn khoăn, lo lắng về tương lai của đất
nước; ít tin tưởng vào hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng,
lãng phí mà Đảng, Nhà nước ta đang tiến hành (15,8% ý kiến của cán bộ,
đảng viên được hỏi thể hiện sự tin tưởng vào thắng lợi của sự nghiệp cách
mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng nhưng còn rất nhiều băn khoăn; 10,75% ý
kiến cho rằng cuộc đấu tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ của Đảng ta
hiện nay khó thực hiện, 1% cho rằng không thực hiện được) [Phụ lục 1].
72
Trên thực tế, một số cán bộ ở mức độ khác nhau, còn lúng túng trước
những vấn đề thực tiễn chính trị... những diễn biến mau lẹ, phức tạp của tình
hình thế giới và trong nước, chưa đạt đến sự tinh nhuệ về chính trị. Đặc biệt,
một số CBHC trẻ, tuổi nghề dưới 10 năm, chưa được rèn luyện, thử thách
nhiều trong thực tiễn công tác, khi trực tiếp bảo đảm hậu cần cho bộ đội nơi
khó khăn, lao động sản xuất, giúp đỡ nhân dân nơi biên giới, hải đảo; hoặc
trước những tác động từ mặt trái của nền kinh tế thị trường, cũng như sự
cám dỗ của lợi ích vật chất, dễ bị kẻ xấu dụ dỗ, mua chuộc, bản lĩnh chính trị
có lúc thiếu kiên định, vững vàng, dẫn đến suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống.
Hai là, một số CBHC thiếu ý thức cần, kiệm, liêm, chính, có biểu hiện
tham nhũng, lãng phí, suy thoái về đạo đức, lối sống
Trong những năm qua bên cạnh đại bộ phận CBHC có đạo đức tốt,
vẫn tồn tại một số CBHC có biểu hiện của suy thoái về đạo đức, lối sống,
vẫn còn một số cán bộ lợi dụng kẽ hở của cơ chế để buôn bán trái phép,
bớt xén tiêu chuẩn bộ đội, sử dụng phương tiện của đơn vị, công sức của
bộ đội vào mục đích làm giàu cho cá nhân . Một bộ phận CBHC chưa thực
hiện cần, kiệm, liêm, chính, thiếu ý thức tự giác tu dưỡng, rèn luyện
ĐĐCM; đã có những nhận thức và hành vi xa rời các chuẩn mực ĐĐCM,
đạo đức người CBHC Quân đội; thiếu tinh thần trách nhiệm, làm việc cầm
chừng, trung bình chủ nghĩa, thiếu sự cố gắng phấn đấu vươn lên; nhận
thức, thực hiện làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh còn
nhiều hạn chế.
Qua khảo sát thực tế ở các cơ quan, đơn vị hậu cần, có 8,35% ý kiến
được hỏi cho rằng CBHC có biểu hiện tham nhũng, lãng phí; 12,15% ý kiến
nhận định CBHC còn vun vén cá nhân, cơ hội thực dụng; 18,7% cho rằng họ
hay rượu chè, cờ bạc… [Phụ lục 1]. Đây là thứ “bệnh” thực dụng, cá nhân chủ
nghĩa, xem nhẹ lợi ích của tập thể, quân đội, nhân dân. Qua phân tích tình hình
vi phạm kỷ luật của cán bộ, chiến sĩ trong quân đội từ 2005-2017, cho thấy
những vụ việc vi phạm của CBHC như: vay nợ quá khả năng chi trả chiếm
0,88%; tham ô, trộm cắp tài sản là 0,43%; lừa đảo, chiếm đoạt tài sản 0,1%;
đánh bạc 0,12%; quan hệ bất chính 0,12%... Thực trạng sự suy thoái về đạo
đức, lối sống của một số CBHC là thách thức không nhỏ, làm cản trở đến việc
giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC hiện nay.
73
Ba là, một bộ phận CBHC chưa thực sự thương yêu đồng chí, chưa chủ
động khắc phục khó khăn để phục vụ bộ đội
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ bảo đảm hậu cần, phục vụ bộ đội, ý
thức phục vụ của một bộ phận CBHC còn hạn chế. Một bộ phận CBHC chưa
biểu thị sự tận tâm, tận lực - “như người mẹ, người chị” của bộ đội để phục
vụ; qua khảo sát ở nhiều đơn vị, còn nhiều ý kiến của cán bộ, chiến sĩ phản
ánh chất lượng bữa ăn, lương thực, thực phẩm; thái độ, phong cách phục vụ;
bảo đảm chế độ, tiêu chuẩn quân trang, quân dụng… của đội ngũ CBHC có
nhiều thời điểm chưa kịp thời, chất lượng bảo đảm chưa đồng đều, còn hạn
chế; 6,2% ý kiến của cán bộ, đảng viên được hỏi cho rằng CBHC thiếu ý thức
tổ chức kỷ luật; 3,35% ý kiến đánh giá CBHC thờ ơ, thiếu trách nhiệm; 7,6%
cho rằng CBHC có biểu hiện quan liêu, quân phiệt với cấp dưới; 3,65% ý kiến
đánh giá CBHC cục bộ, mất đoàn kết và 25,85% ý kiến phản ánh quan hệ
giữa cán bộ Hậu cần với hạ sĩ quan, chiến sĩ là không tốt [Phụ lục 1]. Thực
trạng này phản ánh hạn chế, khuyết điểm về ý thức, trách nhiệm trong công
tác phục vụ bộ đội của đội ngũ CBHC, đòi hỏi cấp ủy, chỉ huy cơ quan, đơn
vị hậu cần có biện pháp khắc phục thời gian tới.
Bốn là, việc chấp hành pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đôi, quy chế,
quy định trong công tác hậu cần của một số CBHC còn hạn chế
Một số CBHC chưa chú trọng đúng mức việc rèn luyện, chấp hành pháp
luật Nhà nước, kỷ luật quân đội và các quy định của cơ quan, đơn vị nơi cán bộ
học tập, công tác, nên các vụ việc vi phạm kỷ luật quân đội, quy chế, quy định
trong công tác bảo đảm hậu cần vẫn xảy ra ở các mức độ khác nhau làm ảnh
hưởng tới chất lượng công tác hậu cần quân đội. Qua thống kê cho thấy, từ
2005-2017 tình trạng tham ô, trộm cắp tài sản chiếm 10,76%; vay nợ quá khả
năng chi trả chiếm 22,05%; lộ lọt tài liệu mật trên mạng internet chiếm 2,56%;
đào bỏ ngũ chiến 9,74%... trong tổng số vụ việc vi phạm kỷ luật của đội ngũ
CBHC Quân đội. Những biểu hiện vi phạm này, có vụ việc mang tính chất
nghiêm trọng, có những vi phạm diễn ra phổ biến ở những thời điểm nhất định
(vay nợ quá khả năng chi trả…) không những ảnh tới chất lượng công tác thực
hiện nhiệm vụ nói chung mà còn làm phai nhạt bản chất tốt đẹp “Bộ đội Cụ
Hồ”, là trở lực lớn đối với công tác xây dựng Ngành Hậu cần quân đội cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
74
Năm là, một bộ phận không nhỏ CBHC có biểu hiện thỏa mãn, dừng lại,
ngại học tập, rèn luyện để nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
Trước sự tác động mạnh mẽ của kinh tế tri thức trong điều kiện thị
trường và sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, yêu cầu nhiệm vụ
bảo đảm hậu cần quân đội ngày càng nặng nề, nhất là bảo đảm cho những lực
lượng tiến thẳng lên hiện đại (hải quân, phòng không - không quân, thông tin
liên lạc…). Trong điều kiện mới, đặt ra yêu cầu rất cao về phẩm chất đạo đức,
trình độ năng lực của đội ngũ CBHC. Song, có một bộ phận không nhỏ
CBHC lại tự bằng lòng với những kiến thức, kinh nghiệm đã có, bảo thủ,
thiếu tích cực, tự giác trong học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ; nhất là
việc nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại để khai thác, quản lý,
bảo quản, sử dụng trang bị hậu cần, quân lương, quân trang, dược phẩm…
trong xây dựng thế trận hậu cần sẵn sàng chiến đấu, thế trận hậu cần khu vực
phòng thủ; bố trí, sử dụng lực lượng hậu cần thời bình cũng như khi có tình
huống… còn nhiều hạn chế.
Đặc biệt vẫn còn một bộ phận CBHC chưa gương mẫu về đạo đức, lối
sống, có biểu hiện thỏa mãn, dừng lại, ngại học tập phấn đấu vươn lên. Nhất là
một bộ phận cán bộ vận tải, chỉ có 21% ở trình độ trung học phổ thông, 20,93%
có trình độ cao đẳng [Phụ lục 3.3]. Trong khi đó, cán bộ doanh trại chỉ có 0,5% ở
trình độ trung cấp; 8,1% trình độ cao đẳng [Phụ lục 3.3]. So sánh tỷ lệ trình độ
học vấn giữ hai loại cán bộ này cho thấy sự chênh lệch tương đối lớn về trình độ.
Thực tế, nhiều cán bộ vận tải ở các cơ quan, đơn vị hậu cần phấn đấu cầm
chừng, sức ỳ rất cao, tạo nên khoảng trống về trình độ học vấn giữa cán bộ vận
tải với các loại cán bộ khác là rất lớn. Qua khảo sát, có 17,7% ý kiến cho rằng
CBHC thường bảo thủ, trì trệ, lười học tập và rèn luyện; 1,8% cho rằng năng lực
công tác hạn chế, chưa đáp ứng nhiệm vụ [Phụ lục 1]. Đây là thực trạng đáng
báo động về tinh thần, trách nhiệm trong học tập nâng cao phẩm chất, năng lực
nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của một bộ phận CBHC hiện nay.
Những hạn chế, khuyết điểm trên đây là biểu hiện thực trạng xuống cấp,
đáng báo động về đạo đức, lối sống của một bộ phận CBHC Quân đội hiện
nay, đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng xây dựng Ngành Hậu cần quân
đội đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Để đẩy lùi
tình trạng này trong đội ngũ CBHC Quân đội, các cấp ủy, tổ chức đảng phải
thực hiện nhiều giải pháp cấp bách, đồng bộ, trước hết cần phải tăng cường
giáo dục, rèn luyện ĐĐCM, xây dựng bản lĩnh chính trị, ý chí quyết tâm sẵn
sàng nhận và hoàn thành nhiệm vụ được giao của đội ngũ CBHC.
75
3.2. GIÁO DỤC, RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ HẬU CẦN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM - THỰC TRẠNG,
NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM
3.2.1. Thực trạng giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của đội
ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam
3.2.1.1. Những ưu điểm
* Nội dung giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC đã cơ bản,
toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, có sự đổi mới
Một là, thường xuyên giáo dục, quán triệt những quan điểm, nguyên tắc,
quy chế, quy định trong công tác hậu cần đối với đội ngũ CBHC Quân đội
Trong những năm qua, nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò rất quan trọng
của ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội, các cấp ủy, tổ chức đảng, người chỉ
huy trong quân đội đã thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo giáo dục, rèn
luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC, và đã đạt nhiều kết quả quan trọng. Nội
dung giáo dục, rèn luyện đã cụ thể, thiết thực hơn, gắn liền và sát với nhiệm
vụ bảo đảm hậu cần, với chức trách, nhiệm vụ của CBHC ở từng cấp, từng
quân, binh chủng và từng đơn vị. Đã tập trung quán triệt, giáo dục và vận
dụng tổ chức thực hiện đúng các quan điểm của Đảng về: hậu cần nhân dân;
phục vụ bộ đội; thực tiễn và phát triển; quan điểm cần, kiệm, liêm, chính, tự
lực, tự cường, trong công tác hậu cần. Ở một số cơ quan, đơn vị: “trong thực
hiện chức trách, đội ngũ CBHC đã thể hiện năng lực vận dụng các quan điểm,
đường lối nghệ thuật quân sự của Đảng về công tác hậu cần vào thực tiễn”
[88, tr.20]. Vì vậy, chất lượng công tác hậu cần luôn được giữ vững.
Lãnh đạo, chỉ huy một số đơn vị đã kịp thời bổ sung, thống nhất về hệ
thổng sổ sách, bảng biểu, văn kiện hậu cần, văn kiện huấn luyện hậu cần; nhất
là hệ thống văn kiện hậu cần chiến đấu; đồng thời, thường xuyên giáo dục,
quán triệt cho đội ngũ CBHC có nhận thức toàn diện, sâu sắc về các nguyên
tắc: chuẩn bị chu đáo, toàn diện, bảo đảm kịp thời, đầy đủ cho từng đối tượng
theo chế độ, tiêu chuẩn; bảo đảm đi đôi với quản lý, nâng cao năng suất, chất
lượng, hiệu quả công tác hậu cần; lấy bảo đảm hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ
quân sự làm mục tiêu cao nhất... Vì vậy, việc nhận thức và chấp hành các quy
chế, quy định trong thực hiện nhiệm vụ bảo đảm hậu cần của đội ngũ CBHC
76
Quân đội đã được nâng lên, chất lượng thực hiện nhiệm vụ luôn được giữ
vững. Khi đánh giá về nội dung giáo dục, rèn luyện ĐĐCM cho đội ngũ CBHC,
có 81% ý kiến của cán bộ, đảng viên được hỏi cho rằng nội dung giáo dục là toàn
diện, thiết thực, sát thực tiễn chức trách, nhiệm vụ [Phụ lục 1].
Hai là, đã tăng cường hoạt động giáo dục đạo đức truyền thống
của quân đội, ngành Hậu cần quân đội
Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của việc giáo dục đạo đức truyền
thống của quân đội, ngành Hậu cần quân đội. Những năm qua, QUTW
nói chung, các cấp ủy, tổ chức đảng, chỉ huy, cơ quan chức năng các cấp
trong quân đội, và ngành Hậu cần quân đội nói riêng đã có nhiều chủ trương,
giải pháp đẩy mạnh giáo dục truyền thống tốt đẹp của Đảng, của dân tộc, của
quân đội, Ngành Hậu cần quân đội; tăng cường giáo dục chủ nghĩa yêu nước,
lòng trung thành với Đảng, với Tổ quốc, và nhân dân; tinh thần đoàn kết gắn bó
mật thiết của người đồng chí; tăng cường mối quan hệ gắn bó “máu thịt” giữa
quân với dân; xây dựng ý thức thực hiện nghiêm pháp luật Nhà nước, kỷ luật
quân đội, quy định, truyền thống của cơ quan, đơn vị đối với đội ngũ CBHC.
Ở nhiều cơ quan, đơn vị hậu cần: các cấp đã chú trọng xây dựng, giáo
dục truyền thống của đơn vị; truyền thống ngành hậu cần anh hùng; công tác
giáo dục truyền thống đã khơi dậy được ý thức dân tộc, lòng yêu nước, yêu
ngành nghề; đã tạo nên những phong trào “phát huy truyền thống” sôi nổi của
đội ngũ CBHC, thiết thực nâng cao ĐĐCM, chất lượng công tác bảo đảm hậu
cần quân đội. Qua đó đã góp phần xây dựng quân đội, ngành Hậu cần quân đội
vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, tạo cơ sở thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới.
Ba là, đã tập trung giáo dục, rèn luyện những chuẩn mực ĐĐCM cơ
bản cho đội ngũ CBHC Quân đội, trọng tâm là giáo dục, bồi dưỡng đức cần,
kiệm, liêm, chính
Trong thời gian qua, hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ
CBHC được lãnh đạo, chỉ huy các cấp tổ chức tiến hành toàn diện, có chiều sâu;
đã tập trung giáo dục những chuẩn mực đạo đức cơ bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; giáo dục nhiệm vụ xây dựng
Đảng vững mạnh về tư tưởng, chính trị, tổ chức và đạo đức. Ở một số cơ quan,
77
đơn vị hậu cần: các cấp ủy đảng đã không ngừng chăm lo, xây dựng bản lĩnh
chính trị, lập trường giai cấp, làm cho đội ngũ CBHC thường xuyên nắm chắc
tình hình nhiệm vụ của Quân đội, và nhiệm vụ của các cơ quan, đơn vị. Thông
qua đó đã trực tiếp trang bị cho đội ngũ CBHC có nhận thức cơ bản về đạo đức
cộng sản, ĐĐCM của đội ngũ cán bộ nói chung và CBHC Quân đội nói riêng; chỉ
rõ thực trạng suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên,
và nguyên nhân, hậu quả của nó.
Đặc biệt, lãnh đạo, chỉ huy các cấp đã chú trọng xây dựng cho đội ngũ
CBHC có nhận thức sâu sắc và duy trì nghiêm túc việc thực hiện chuẩn mực cần,
kiệm, liêm, chính, thương yêu đồng chí trong quá trình phục vụ; “công tác quản
lý, sử dụng cơ sở vật chất hậu cần, tài chính được chú trọng triển khai thực hiện
cùng với việc thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí,… làm cho ý
thức tiết kiệm được nâng lên, dần trở thành tự giác trong nhận thức và hành
động của mọi cán bộ, chiến sĩ” [23, tr.3]. Thông qua đó, đã kịp thời bồi dưỡng
tinh thần, ý chí cách mạng, phẩm chất ĐĐCM, lối sống trong sạch, lành mạnh,
thái độ tận tâm, tận lực phục vụ bộ đội, tạo chuyển biến tích cực cả về nhận
thức và hành động của đội ngũ cán bộ, nhân viên, chiến sĩ ngành Hậu cần quân
đội trong thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí, đảm bảo cho đội
ngũ CBHC luôn hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
Đây là cơ sở quan trọng, trực tiếp nâng cao chất lượng đội ngũ CBHC
và kết quả công tác hậu cần quân đội thời gian qua. Chất lượng đó được biểu
hiện cụ thể như: kết quả phân tích chất lượng đảng viên là CBHC các cấp từ
2011 đến 2017 cho thấy, có từ 98,4% đến 99,67% đảng viên hoàn thành
nhiệm vụ trở lên (trong đó, đảng viên hoàn thành tốt và xuất sắc nhiệm vụ
luôn đạt trên 85%) [Phụ lục 4]; kết quả kiểm tra chính trị tại chức luôn đạt
chất lượng cao: 99,57% đạt yêu cầu trở lên (trong đó tỷ lệ khá, giỏi trên 85%)
[Phụ lục 5]; đội ngũ CBHC hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên và được các cấp
khen thưởng từ năm 2005 đến 2017 có tỷ lệ cao và được giữ vững qua các
năm, cụ thể: Chiến sĩ thi đua chiếm 16,66%; Bằng khen là 8,01%; Giấy khen
là 14,55%; Chiến sĩ tiên tiến là 51,59% [Phụ lục 6].
78
Bốn là, đã tích cực, chủ động trong thực hiện nhiệm vụ học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
Nhận thức sâu sắc nhiệm vụ học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh là nhiệm vụ chính trị quan trọng, những năm qua
QUTW, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong quân đội và ngành Hậu cần, đã tập
trung đẩy mạnh giáo dục, rèn luyện cho đội ngũ CBHC có lối sống trong sạch
lành mạnh; thực hiện cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư; phong cách làm
việc khoa học, có kế hoạch, đúng giờ, cụ thể, tỉ mỉ, không cố chấp, bảo thủ,
luôn đổi mới, sáng tạo; có tinh thần mạnh dạn, dám nghĩ, dám làm… theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách của Bác. Ở một số cơ quan, đơn vị hậu cần đã:
thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14-5-2011 cùa Bộ Chính trị,
Chi thị số 317-CT/QUTW, ngày 05-8-2011 cùa Thường vụ Quân ủy Trung
ương về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh”, kết hợp với thực hiện phong trào thi đua quyết thắng, phong trào
thi đua “Ngành Hậu cần Quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy”... đã đi vào chiều
sâu, đạt hiệu quà thiết thực. Thông qua đó, đã góp phần nâng cao nhận thức,
củng cố niềm tin, thúc đẩy quá trình phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện ĐĐCM của
đội ngũ CBHC Quân đội đạt chất lượng cao hơn.
Khi đánh giá về tầm quan trọng của việc thực hiện nhiệm vụ “Đẩy
mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, trên
90% ý kiến của cán bộ, đảng viên được hỏi cho rằng đây là nội dung quan
trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, góp phần xây dựng đội ngũ
cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược có đủ năng lực, phẩm chất,
ngang tầm nhiệm vụ; đồng thời trực tiếp ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong
nội bộ, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí
của một số CBHC Quân đội hiện nay; 52,95% ý kiến cho rằng cần phải xem
đây là một trong những tiêu chuẩn đánh giá, bình xét, phân loại đảng viên, tổ
chức đảng hằng năm ở cơ quan, đơn vị hậu cần [Phụ lục 1].
Năm là, đã quan tâm giáo dục những nghị quyết, chỉ thị mới của Đảng
về xây dựng đạo đức, lối sống trong quá trình giáo dục, rèn luyện ĐĐCM
của đội ngũ CBHC Quân đội
Thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng về đạo đức gắn với xây dựng
Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nhất là việc cụ thể hóa Nghị quyết
Trung ương 4 khóa XI, và khóa XII của Đảng, có những yêu cầu mới,
79
nhiều khó khăn, phức tạp. Nhưng, cấp ủy, chỉ huy các cấp trong quân đội
và ngành Hậu cần đã tập trung giáo dục, quán triệt xây dựng cho đội ngũ
CBHC có nhận thức cơ bản về những vấn đề cấp bách trong công tác xây
dựng Đảng; thực trạng tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; đã thực hiện tốt
việc giáo dục cho đội ngũ CBHC 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”... Từ đó làm rõ tính
cấp bách, và trách nhiệm của mỗi người phải kiên quyết đấu tranh ngăn
chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái, để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của cấp ủy, chi bộ cơ quan, đơn vị hậu cần.
Nhiều cơ quan, đơn vị hậu cần đã thực hiện tốt việc giáo dục, quán triệt:
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ IX, X; Nghị quyết Trung ương 3
(khóa X) về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống
tham nhũng, lãng phí”; Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về “Một số vấn đề
cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; đẩy mạnh giáo dục Luật Phòng, chống
tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; thường xuyên quán
triệt sâu sắc Nghị quyết số 623-NQ/QƯTW ngày 29-10- 2012 cùa Quân ủy
Trung ương về công tác Hậu cân Quân đội đến năm 2020 và những năm tiếp
theo; tăng cường giáo dục, và cụ thể hóa tiêu chí, chuẩn mực đạo đức, lối
sống theo Quy định 89 của Bộ chính trị đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên
trong thực hiện nhiệm vụ bảo đảm hậu cần. Thông qua đó, đã từng bước
xây dựng nhận thức, trách nhiệm của đội ngũ CBHC trong thực hiện những
nghị quyết, chỉ thị mới của Đảng trong xây dựng quân đội, ngành hậu cần,
và xây dựng đạo đức, lối sống của đội ngũ CBHC Quân đội.
Khi đánh giá về việc thực hiện Nghi quyêt Trung ương 4 (khoa XI, XII)
của Đảng ở cơ quan, đơn vị hậu cần, có 94,85% ý kiến của cán bộ, đảng viên
được hỏi khẳng định Nghị quyết đã được cụ thể hóa vào chương trình, kế
hoạch hành động của cấp uỷ và người chỉ huy; 55,85% cấp uỷ, tổ chức đảng
và 61,7% người đứng đầu, đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ quan, đơn vị hậu
cần thường xuyên, tự giác thực hiện; 58,65% người đứng đầu, cán bộ, đảng
viên luôn đề cao trách nhiệm nêu gương, tự giác tự phê bình và phê bình đấu
tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở cơ
quan, đơn vị hậu cần; 99,8% ý kiến đánh giá việc thực hiện Nghị quyết Trung
ương 4 (khóa XI, XII) đã góp phần quan trọng trong giáo dục, rèn luyện đạo
đức cách mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội hiện nay [Phụ lục 1].
80
* Phương thức giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của ngũ CBHC đã cụ thể,
chặt chẽ, phong phú, đa dạng, hiệu quả
Một là, cấp ủy, tổ chức đảng, người chỉ huy, và cơ quan chức năng các
cấp đã phát huy tốt vai trò, trách nhiệm, xác định chủ trương, biện pháp
lãnh đạo, tổ chức quản lý, duy trì hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của
đội ngũ CBHC cụ thể, tỉ mỉ, sát đúng
Nhiều cấp ủy, tổ chức đảng cơ quan, đơn vị hậu cần đã phát huy vai trò,
trách nhiệm, “xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi bưỡng cán bộ bảo đảm tiêu
chuẩn theo quy định” [45, tr.2]; đã xác định rõ chủ trương, biện pháp lãnh đạo
công tác giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC trong nghị quyết đại
hội nhiệm kỳ, và thường xuyên cũng như trong một số nhiệm vụ chính trị trọng
tâm; tổ chức giáo dục, quán triệt nghị quyết, chỉ thị nghiêm túc, chặt chẽ; định
kỳ đánh giá ưu, khuyết điểm, rút ra kinh nghiệm để nâng cao năng lực lãnh
đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chi bộ trong những nhiệm vụ tiếp theo.
Khi đánh giá về vai trò của đội ngũ cán bộ đứng đầu cơ quan, đơn vị hậu
cần các cấp, Đảng bộ Cục Hậu cần Quân đoàn 1 chỉ rõ: “Đội ngũ cán bộ chỉ
huy... nắm vững những quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, điều lệnh, điều lệ quân đội, chỉ thị, ngị quyết cấp trên...; nắm
vững các chế độ, nguyên tắc công tác hậu cần; nội dung, nguyên tắc, phương
pháp tiến hành CTĐ, CTCT, tổ chức thực hiện đạt kết quả cao” [45, tr.3]. Đội
ngũ chính ủy, chính trị viên các cấp đã chủ động xây dựng kế hoạch, tổ chức
phối hợp, phân công lực lượng giáo dục, rèn luyện cụ thể, tỉ mỉ; bố trí sắp xếp
lớp học, tổ học tập phù hợp đặc điểm đối tượng, nhiệm vụ theo từng giai đoạn,
thời điểm. Ở một số đơn vị: người chỉ huy các cấp đã chủ động đề xuất, bổ
sung một số chính sách ưu tiên về thời gian, kinh phí, cơ sở vật chất, chính sách
ổn định hậu phương, gia đình... đã động viên đội ngũ CBHC yên tâm gắn bó
với đơn vị, tích cực, chủ động khắc phục khó khăn hoàn thành tốt mọi nhiệm
vụ được giao. Qua khảo sát ở một số đơn vị, có 91,5% ý kiến nhận định đội
ngũ cán bộ chỉ huy các cấp thực hiện tốt việc quản lý, duy trì, kiểm tra, giám
sát hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC [Phụ lục 1]. Do
đó, chất lượng chính trị của đội ngũ CBHC luôn được giữ vững, bản lĩnh chính
trị, đạo đức, lối sống được nâng lên.
81
Các cơ quan chức năng, nhất là cơ quan chính trị, và cơ quan hậu cần ở
một số đơn vị đã tích cực, chủ động bám sát cơ sở, nắm vững đặc điểm, tình
hình cụ thể xây dựng kế hoạch công tác cán bộ, nâng cao năng lực nghiệp vụ,
tham mưu có hiệu quả cho đảng uỷ về xây dựng đội ngũ CBHC; đã chủ động
tham mưu cho cấp ủy, chỉ huy xác định rõ mục đích, yêu cầu, nội dung, hình
thức, biện pháp, thời gian, cơ sở vật chất và lực lượng tiến hành công tác giáo
dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC; tổ chức hiệp đồng chặt chẽ với các
lực lượng có liên quan để phổ biến, quán triệt, phân công, giao nhiệm vụ cụ
thể, rõ ràng. Qua khảo sát ở một số cơ quan, đơn vị hậu cần, khi được hỏi về
việc xác định kế hoạch giáo dục, rèn luyện ĐĐCM đối với đội ngũ CBHC, có
94% ý kiến của cán bộ, đảng viên được hỏi xác định việc xây dựng kế hoạch
của cơ quan chức năng là cụ thể, tỉ mỉ; 89,5% đánh giá là thực hiện đúng kế
hoạch [Phụ lục 1]. Do đó, công tác giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ
CBHC các cấp đã thu được những kết quả tích cực, tạo cơ sở nâng cao chất
lượng công tác bảo đảm hậu cần quân đội.
Hai là, các học viện, nhà trường, cơ sở tham gia đào tạo, bồi dưỡng
CBHC trong toàn quân đã thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ giáo dục, rèn
luyện ĐĐCM cho đội ngũ CBHC Quân đội
Các học viện, nhà trường, cơ sở tham gia đào tạo, bồi dưỡng CBHC
trong toàn quân thường xuyên nắm chắc nhiệm vụ của QUTW, Bộ Quốc
phòng giao cho; đã tích cực chủ động thực hiện chương trình, kế hoạch
giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBHC các cấp về chính trị, tư tưởng,
đạo đức, lối sống và chuyên môn, nghiệp vụ, đạt chất lượng, hiệu quả cao.
Trong công tác giáo dục, đào tạo đặc biệt nổi lên vai trò của HVHC, là
trung tâm đào tạo, bồi dưỡng CBHC các cấp cho quân đội. HVHC đã có nhiều
chủ trương, biện pháp triển khai thực hiện nhiệm vụ của cấp trên giao cho.
Trong đó, hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM cho đội ngũ học viên đào tạo,
bồi dưỡng CBHC các cấp được thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ, toàn diện, và
hiệu quả; đã quán triệt và thực hiện tốt phương châm “gắn nhà trường với đơn
vị”, “hướng về đơn vị”, chú trọng học đi đối với hành; kết hợp chặt chẽ việc
học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn với quá trình giáo dục, bồi
dưỡng, rèn luyện nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, nhân cách cho đội
ngũ CBHC ngay tại trường. Vì vậy, “học viên quân sự tốt nghiệp có 100%
82
nhận nhiệm vụ, có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, năng
lực chuyên môn cơ bản đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo” [72, tr.2-3]. Qua
khảo sát của HVHC ở các đơn vị hậu cần trong toàn quân cho thấy có:
“95,7% học viên đào tạo cấp trung, sư đoàn; 94,8% học viên đào tạo CBHC
cấp phân đội ra trường hoàn thành khá, tốt chức trách, nhiệm vụ” [72, tr.3].
Ba là, đã tăng cường giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC
thông qua hoạt động giáo dục chính trị, thi đua, khen thưởng, nhân điển hình
tiên tiến tại các cơ quan, đơn vị hậu cần trong toàn quân
Thông qua các hoạt động giáo dục chính trị, tư tưởng, công tác, huấn
luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, các cơ quan, đơn vị hậu cần đã kết
hợp chặt chẽ việc giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC “với xây
dựng nền nếp chính quy, rèn luyện kỷ luật, thực hiện tốt các phong trào thi
đua, gắn với thực hiện tốt cuộc vận động 50 về “Quản lý, khai thác, sử dụng
vũ khí, trang bị kỹ thuật tốt, bền, an toàn, tiết kiệm và An toàn giao thông”, đã
tăng cường công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên với quản lý, giáo
dục, rèn luyện người CBHC cả về phẩm chất và năng lực; tập trung xây dựng
lòng tin, ý chí quyết tâm tổ chức bảo đảm hậu cần trong điều kiện khó khăn
về phương tiện, trang bị kỹ thuật hậu cần; nhất là bảo đảm hậu cần cho các
đơn vị mới thành lập, các đơn vị tiếp nhận, huấn luyện sẵn sàng chiến đấu đối
với các loại trang bị khí tài mới, hiện đại; đổi mới việc nhận xét, đánh giá,
phân loại đảng viên, CBHC theo hướng chặt chẽ, nghiêm túc, có chất lượng;
đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát đối với đảng viên là CBHC, hướng vào
việc giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, thực hành cần, kiệm, liêm, chính; đã
phát huy tốt vai trò của các tổ chức, các lực lượng tham gia giáo dục, rèn
luyện ĐĐCM đối với đội ngũ CBHC Quân đội.
Nhiều đơn vị đã thực hiện có nền nếp, hiệu quả công tác thi đua, khen
thưởng, nhân điển hình tiến tiến, tỷ lệ CBHC được khen thưởng hằng năm giữa
vững; CBHC cấp trên, cơ bản luôn gương mẫu trước cán bộ, nhân viên, chiến
sĩ cấp dưới, tận tâm, gắn bó, sâu sát đời sống của bộ đội. Những kết quả nêu
trên đã tích cực góp phần xây dựng cấp ủy, chi bộ cơ quan, đơn vị hậu cần
trong sạch, vững mạnh, cơ quan, đơn vị hậu cần vững mạnh toàn diện. Vì vậy,
kết quả phân tích chất lượng đảng viên là CBHC các cấp (2011 - 2017): tỷ lệ
đảng viên là CBHC hoàn thành nhiệm vụ trở lên luôn ở mức cao và được giữ
vững, trong đó, đội ngũ cán bộ là cục trưởng, phó cục trưởng cục hậu cần và
83
tương đương luôn là đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ với tỷ lệ từ 87% trở
lên, cao nhất đạt 100% (năm 2012); 80% đến 90% đảng viên là chủ nhiệm, phó
chủ nhiệm, trưởng ban, phó trưởng ban hậu cần và đội ngũ trợ lý hậu cần các
ngành hoàn thành tốt và xuất sắc nhiệm vụ [Phụ lục 4].
Bốn là, đã tích cực giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC thông
qua các hoạt động thực tiễn thực hiện nhiệm vụ bảo đảm hậu cần quân đội
Các cấp ủy, tổ chức đảng, chỉ huy cơ quan, đơn vị hậu cần đã thường
xuyên giáo dục, quán triệt cho đội ngũ CBHC nắm chắc những quan điểm của
Đảng trong công tác hậu cần; nguyên tắc bảo đảm hậu cần; chỉ thị, kế hoạch
công tác hậu cần các cấp; phân công, giao nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng cho đội
ngũ cán bộ, chiến sĩ; tăng cường hoạt động đào tạo, bồi dưỡng về chuyên
môn, nghiệp vụ. Nhiều lãnh đạo, chỉ huy cơ quan, đơn vị hậu cần đã nêu cao
trách nhiệm quản lý, giáo dục, nhắc nhở, chấn chỉnh đội ngũ CBHC trong
hoạt động niêm cất, bảo quản, khai thác, cấp phát, sử dụng lương thực, thực
phẩm, vật chất, trang bị hậu cần đúng kế hoạch, đúng đối tượng và nhiệm vụ,
đảm bảo hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả, chống thất thoát, lãng phí.
Một số cơ quan, đơn vị hậu cần đã tích cực kết hợp chặt chẽ hình thức
đào tạo bồi dưỡng chính quy, cơ bản qua các học viện, nhà trường với đào tạo
bồi dưỡng trong thực tiễn chức trách tại cơ quan, đơn vị…, thông qua các lớp
tập huấn nghiệp vụ, bồi dưỡng kiến thức trong các giai đoạn huấn luyện, các
hoạt động bảo đảm, để bồi dưỡng, nâng cao phẩm chất, năng lực của đội ngũ
CBHC; đồng thời, tổ chức tốt các phong trào thi đua: “ngành Hậu cần quân
đội làm theo lời Bác Hồ dạy”; “nôi quân giỏi, quản lý quân nhu tốt”; “phát
huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”, “xây dựng
doanh trại xanh, sạch, đẹp”. Những hình thức hoạt động nêu trên được cấp ủy,
tổ chức đảng, chỉ huy các cấp tổ chức thực hiện đồng bộ, thường xuyên, liên
tục, chặt chẽ, chu đáo, có chất lượng, đã trực tiếp góp phần giáo dục, rèn luyện
ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội.
Năm là, đại đa số CBHC đã tích cực tự giáo dục, tự rèn luyện ĐĐCM
trong quá trình hoạt động
Thực tiễn những năm qua cho thấy, đã số CBHC, kể cả trong quá trình
học tập, bồi dưỡng tại trường, cũng như khi công tác tại đơn vị đã chủ động,
tực giác xây dựng kế hoạch, xác định nội dung và phương pháp tự giáo dục, rèn
luyện ĐĐCM cụ thể, tỷ mỉ, phù hợp với chức trách, nhiệm vụ của bản thân và
84
điều kiện thực tế của đơn vị. Tự giáo dục, tự rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ
CBCH gắn liền với việc tự giác học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh, với nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn,
nghiệp vụ, và năng lực tư duy lý luận, năng lực tổ chức, quản lý hoạt động bảo
đảm hậu cần, ý thức, trách nhiệm chăm sóc sức khỏe cho bộ đội.
Ở nhiều cơ quan, đơn vị, đội ngũ CBHC luôn thể hiện đức tính siêng
năng, cần cù, chịu khó, một số cán bộ Hậu cần giữ vị trí chủ trì đã thực sự trở
thành chỗ dựa tinh thần, là lực lượng nòng cốt trong xây dựng yếu tố chính
trị tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ, nhân viên trong cơ quan, phân đội. Số cán
bộ trẻ cũng đã phát huy được truyền thống của lớp trước, tích cực tu dưỡng,
rèn luyện. Trong quá trình công tác, nhiều CBHC đã chủ động thực hiện
đúng chức trách, chấp hành nghiêm kỷ luật Đảng, kỷ kuật quân đội, đi đôi
với đẩy mạnh thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; xây dựng mối quan hệ
quân - dân, đồng chí luôn chân thành, gần gũi, thắm thiết; tích cực quán triệt,
thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, và khóa XII về xây dựng,
chỉnh đốn Đảng, kiên quyết đấu tranh, ngăn ngừa sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ;
“không ngừng học tập nâng cao trình độ kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ,
phẩm chất đạo đức tốt, lối sống trong sạch, lành mạnh” [45, tr.2-3], luôn đặt
lợi ích tập thể lên trên lợi ích cá nhân, giải quyết hài hòa các mối quan hệ, góp
phần thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.
Sáu là, đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các lực
lượng, các cơ quan, ban ngành trong và ngoài quân đội tham gia giáo dục, rèn
luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội có hiệu quả
Khi đánh giá về việc phát huy sức mạnh tổng hợp trong quản lý, giáo
dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên các cấp, Đảng ủy Bộ tư lện Quân đoàn 2 chỉ
rõ: đã “kết hợp giữa quản lý cán bộ và quản lý đảng viên, quản lý của tổ chức
với kiểm tra, giám sát của quần chúng và tự quản lý, rèn luyện của từng cán
bộ” [73, tr.4-5]. Trên thực tiễn, hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội
ngũ CBHC Quân đội trong những năm qua đã phát huy tốt vai trò lãnh đạo, chỉ
đạo chặt chẽ, nghiêm túc, thường xuyên, trực tiếp và hiệu quả của QUTW,
Tổng cục Chính trị, cấp ủy, chỉ huy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị hậu cần
các cấp. Đã cụ thể hóa các phương thức giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội
85
ngũ CBHC trong nghị quyết lãnh đạo của cấp ủy, kế hoạch công tác của chỉ
huy, chính ủy, chính trị viên, và trong chương trình hành động của các tổ chức
đoàn, hội, các phong trào thi đua tại cơ quan, đơn vị hậu cần. Đồng thời, đã tập
trung đẩy mạnh thực hiện những phương thức giáo dục, rèn luyện của tổ chức,
kết hợp chặt chẽ với tự giáo dục, tự rèn luyện của cá nhân, từng bước nâng
cao ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội.
Các tổ chức đoàn thanh niên, công đoàn, hội phụ nữ đã chủ động xây
dựng chương trình hành động, vận dụng, kết hợp nhiều hình thức trong giáo
dục, rèn luyện ĐĐCM cho đội ngũ CBHC; đã đẩy mạnh hoạt động văn hóa,
văn nghệ, thể dục thể thao; thi tuyên truyền viên giỏi kết hợp với kể chuyện
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; tổ chức tốt các hoạt động giao lưu với các
đơn vị kết nghĩa trên địa bàn; viết tin bài cho các báo, tạp chí, truyền thanh nội
bộ; tổ chức các đợt tọa đàm, trao đổi. Đồng thời, đẩy mạnh thực hiện các phong
trào thi đua “Ngành Hậu cần quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy”; thực hiện
cuộc vận động 50 về “Quản lý, khai thác vũ khí, trang bị kỹ thuật tốt, bền, an
toàn, tiết kiệm và An toàn giao thông”; với “Đẩy mạnh thực hiện học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; tăng cường thực hiện
kiểm điểm, phê bình và tự phê bình của CBHC trong cấp ủy, tổ chức đảng theo
Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) của Đảng.
Trong quá trình giáo dục, rèn luyện, nhiều cấp ủy, chỉ huy, chính ủy,
chính trị viên, người đứng đầu cơ quan, đơn vị hậu cần đã chủ động phối hợp
các cơ quan, ban ngành địa phương xây dựng hệ thống kế hoạch sát với tình
hình thực tế của địa phương, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ mới. Đề xuất ý
kiến về giáo dục cho cán bộ, chiến sỹ chấp hành các quy định, điều lệ công
tác hậu cần, tham gia thực hiện các chính sách có liên quan và thực hiện tốt
công tác bảo đảm hậu cần; đồng thời, phối hợp chặt chẽ với gia đình quân
nhân để nắm chắc các mối quan hệ, tư tưởng, tình cảm, điểm mạnh, hạn chế,
lối sống của đội ngũ CBHC, kịp thời có biện pháp quản lý, giáo dục, rèn luyện,
không để những bất ngờ sảy ra. Cấp ủy, chỉ huy các cấp đã lãnh đạo, chỉ đạo
phối hợp tổ chức nhiều hoạt động giao lưu, kết nghĩa, dân vận, tình nguyện
giúp dân, nhằm tăng cường các hoạt động giáo dục, rèn luyện đội ngũ CBHC
trên thực tiễn. Thông qua đó, góp phần tô thắm thêm hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”,
tình đoàn kết quân - dân, tăng cường bồi dưỡng ĐĐCM của đội ngũ CBHC
trong quá trình công tác.
86
Bẩy là, công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp đã
được thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ, tích cực góp phần giáo dục, rèn luyện
ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội
Trong quân đội “công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng
được chỉ đạo chặt chẽ, bám sát yêu cầu nhiệm vụ chính trị và công tác xây
dựng Đảng” [138, tr.13] để thực hiện. Ở cơ quan, đơn vị hậu cần, các cấp ủy,
chi bộ đã chú trọng xây dựng kế hoạch, triển khai thực hiện đúng quy trình,
tuân thủ đúng các khâu, các bước trong công tác kiểm tra, giám sát. Đã tập
trung kiểm tra, giám sát về lập trường, quan điểm chính trị; chấp hành nghị
quyết, chỉ thị, quy định, kết luận của Đảng; chấp hành chính sách, pháp luật
của Nhà nước, kỷ luật Quân đội; chấp hành quy chế làm việc, nguyên tắc tập
trung dân chủ; giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống; những điều đảng viên
không được làm; đoàn kết nội bộ, quan hệ quân - dân; thực hiện chức trách,
nhiệm vụ bảo đảm hậu cần của đội ngũ CBHC Quân đội. Đã kết hợp chặt chẽ
hình thức kiểm tra, giám sát thường xuyên với kiểm tra, giám sát theo chuyên
đề, và kiểm tra đột xuất (khi có dấu hiệu vi phạm).
Kết quả công tác kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm của UBKT
các cấp ở đảng bộ các cơ quan, đơn vị hậu cần đối với đảng viên là CBHC (2011-
2017), cho thấy: trong tổng số 0,6% đảng viên (là CBHC) được kiểm tra khi có
dấu hiệu vi phạm, có 0,46% đảng viên có vi phạm, đã thi hành kỷ luật 0,37% đảng
viên [Phụ lục 8]. Thông qua đó đã kịp thời chấn chỉnh, nhắc nhở, xử lý những vi
phạm quy định của một số CBHC, đồng thời có tác dụng răn đe, ngăn chặn đối
với những biểu hiện manh nha vi phạm kỷ luật khác. Do đó, chất lượng công tác
quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên của cấp ủy, tổ chức đảng ở cơ quan, đơn vị
hậu cần các cấp đã từng bước được nâng lên, trực tiếp giáo dục, nâng cao nhận
thức, bồi dưỡng, rèn luyện ĐĐCM cho đội ngũ CBHC Quân đội; góp phần ngăn
chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở một bộ phận CBHC Quân đội.
Tám là, việc sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm hoạt động CTĐ, CTCT
được tổ chức thực hiện có nền nếp, chất lượng, góp phần giáo dục, rèn luyện
ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội
Việc sơ kết, tổng kết hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ
CBHC Quân đội đã được cụ thể hóa trong công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh
nghiệm hoạt động CTĐ, CTCT của các cơ quan, đơn vị các cấp trong toàn
87
quân. Trong đó, lãnh đạo, chỉ huy các cấp đã tập trung đánh giá toàn diện: việc
lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy; công tác tổ chức, quản lý, duy trì, điều hành,
tuyên truyền, giáo dục của chỉ huy, chính ủy, chính trị viên, và của cơ quan
chức năng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị hậu cần các cấp; ý thức, trách
nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên, quần chúng. Ở nhiều cơ quan, đơn vị hậu
cần, việc sơ kết, tổng kết hoạt động CTĐ, CTCT đã đánh giá rõ những ưu
điểm, hạn chế, khuyết điểm về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tác phong
công tác của đội ngũ CBHC trong thực hiện nhiệm vụ. Đồng thời, tìm nguyên
nhân, rút ra những bài học kinh nghiệm; từ đó xác đinh nhiệm vụ, nội dung,
phương hướng hoạt động CTĐ, CTCT, tuyên truyền, giáo dục, rèn luyện
ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội thời gian tới đạt kết quả cao hơn. Thông
qua các đợt sơ kết, tổng kết hoạt động CTĐ, CTCT đã kịp thời tuyên truyền,
phổ biến, nhân rộng những điển hình tiên tiến về người CBHC có đạo đức tốt,
chất lượng công tác bảo đảm hậu cần cao, làm gương cho cán bộ, chiến sĩ trong
các cơ quan, đơn vị quân đội học tập, làm theo.
Nhìn chung, hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC
Quân đội trong những năm qua đã kết hợp thực hiện chặt chẽ nhiều nội dung,
phương thức, phát huy được sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các lực
lượng, của các cơ quan, ban ngành trong và ngoài quân đội; đã kịp thời phát
hiện khâu yêu, mặt yếu, những tiêu cực, hạn chế về đạo đức, lối sống của
CBHC để cá nhân tự điều chỉnh, tổ chức giúp đỡ tiến bộ. Trong mọi điều
kiện, hoàn cảnh “đại bộ phận cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối
trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, có phẩm chất đạo đức, lối
sống trong sạch; có ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm, tinh thần trách nhiệm cao;
trình độ kiến thức, năng lực lãnh đạo, chỉ huy, chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ ngày càng tốt hơn” [136, tr.2].
3.2.1.2. Những hạn chế, khuyết điểm
* Nội dung giáo dục, rèn luyện ĐĐCM cho đội ngũ CBHC ở một số cơ
quan, đơn vị có mặt còn hạn chế, chưa theo kịp sự phát triển của tình hình nhiệm vụ
Một là, một số cơ quan, đơn vị hậu cần chưa làm tốt việc giáo dục,
quán triệt những quan điểm, nguyên tắc, quy chế, quy định trong công tác
hậu cần đối với đội ngũ CBHC Quân đội
88
Một số đơn vị hậu cần chưa tập trung trang bị cho đội ngũ CBHC những
nhận thức cơ bản về những nguyên tắc, quy chế, quy định, chế độ, tiêu chuẩn
mới trong công tác bảo đảm hậu cần. Đánh giá về hoạt động bồi dưỡng cán bộ
tại đơn vị, Đảng ủy Quân đoàn 1 nhấn mạnh: “Công tác bồi dưỡng cán bộ có
đơn vị chưa được chú trọng...; huấn luyện, rèn luyện bộ đội trong điều kiện khó
khăn, gian khổ, phức tạp vẫn là khâu yếu; một số đơn vị chưa quan tâm nội
dung huấn luyện hậu cần” [74, tr.9]. Thực trạng đó phản ánh nhiều vấn đề bức
xúc mà thực tiễn đang đặt ra đối với công tác hậu cần chưa được lý giải thỏa
đáng, thông tin chưa được cập nhật kịp thời; hoạt động giáo dục thường mang
tính mùa vụ, theo từng đợt thực hiện cuộc vận động, học tập nghị quyết,... mà
không được duy trì thường xuyên, liên tục, dẫn đến tình trạng làm cho xong
việc, đối phó, chất lượng hạn chế; chưa tập trung vào những khâu yếu, mặt yếu
về đạo đức, lối sống của CBHC để giáo dục. Qua kết quả khảo sát ở một số cơ
quan, đơn vị hậu cần cho thấy, 16% ý kiến của cán bộ, đảng viên đánh giá nội
dung còn chung chung, thiếu cụ thể, chưa sát đối tượng [Phụ lục 1].
Hai là, nội dung giáo dục truyền thống quân đội, ngành Hậu cần quân
đội cho đội ngũ CBHC ở một số đơn vị chưa được quan tâm
Việc cụ thể hóa nội dung giáo dục truyền thống quân đội, ngành Hậu
cần quân đội trong giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC ở một số
đơn vị chưa được quan tâm, thiếu linh hoạt, sáng tạo; chưa gắn với đặc điểm,
truyền thống và tính chất hoạt động hậu cần của từng đơn vị, chủ yếu dựa vào
sự chỉ đạo, triển khai của cấp ủy, chỉ huy và cơ quan chính trị cấp trên; tổ
chức đoàn thanh niên, công đoàn, hội phụ nữ ở một số cơ quan, đơn vị chưa
có nhiều chương trình hành động bổ ích để cụ thể hóa nghị quyết của cấp ủy,
chỉ đạo của chỉ huy trong đổi mới nội dung giáo dục, rèn luyện ĐĐCM. Do
vậy, nội dung giáo dục truyền thống ngành Hậu cần quân đội cho CBHC còn
dàn trải, chung chung, hình thức, chưa sát thực tiễn thực hiện chức trách,
nhiệm vụ của đội ngũ CBHC.
Ba là, một số cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu ở cơ quan, đơn vị
hậu cần và một bộ phận CBHC vẫn chưa coi trọng thực hiện nhiệm vụ học
tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
“Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh chưa đều,
chưa đi vào chiều sâu…; một số nơi thực hiện còn mang tính hình thức” [67,
89
tr.193]. Một số cấp ủy, chi bộ cơ quan, đơn vị hậu cần và CBHC nhận thức
chưa sâu sắc về vai trò, ý nghĩa của nhiệm vụ học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; việc làm theo đạo đức, phong cách của
Bác chưa thường xuyên, chưa trở thành nhu cầu cấp bách để nâng cao phẩm
chất đạo đức, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của
một bộ phận CBHC; chưa có nhiều hình thức, biện pháp cụ thể hóa nội dung
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người trong các
phong trào thi đua, và trong thực hiện nhiệm vụ bảo đảm hậu cần; vai trò
gương mẫu thực hiện trước, làm theo trước của một số cán bộ đứng đầu cơ
quan, đơn vị hậu cần còn hạn chế.
Qua khảo sát ở cơ quan, đơn vị hậu cần cho thấy, có 16,8% ý kiến của
cán bộ, đảng viên được hỏi cho rằng việc thực hiện nhiệm vụ học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh không trở thành công việc tự
giác, thường xuyên của một số cấp uỷ, tổ chức đảng; 11,85% ý kiến đánh giá
người đứng đầu, và một bộ phận cán bộ, đảng viên không đề cao trách nhiệm
nêu gương, tự giác học trước, làm theo trước; 28,1% ý kiến nhận định cấp ủy,
người chỉ huy không thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện học tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh [Phụ lục 1].
Bốn là, một số nghị quyết, chỉ thị mới của Đảng về xây dựng đạo đức, lối
sống đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên chưa được quán triệt, thực hiện nghiêm
túc trong quá trình giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội
Một số cấp ủy, tổ chức đảng, chỉ huy cơ quan, đơn vị hậu cần chưa có
nhiều chủ trương, biện pháp tổ chức giáo dục, quán triệt xây dựng nhận thức
cho đội ngũ CBHC về những nghị quyết, chỉ thị mới của Đảng trong xây dựng
đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đặc biệt, việc quán triệt, thực
hiện tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 04 khóa
XI, và XII ở một số đơn vị hậu cần chưa cụ thể, chưa quyết liệt, nên nhận
thức của một số CBHC chưa đầy đủ, chưa sâu sắc, thiếu chiều sâu, chưa có
bước đột phá, sáng tạo. “Năng lực lãnh đạo toàn diện, thực hiện quy chế,
quy định, nền nếp chế độ sinh hoạt và việc khắc phục những khuyết điểm
sau kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung
ương 4 (khóa XI) ở một số cấp ủy, tổ chức đảng còn hạn chế” [138, tr.14],
chưa thực sự tạo nên những chuyển biến rõ nét về đạo đức, lối sống của một
bộ phận CBHC ở một số cơ quan, đơn vị.
90
Qua khảo sát thực tế cho thấy, khi đánh giá về việc thực hiện nghi
quyêt Trung ương 4 (khoa XI, XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng
ở cơ quan, đơn vị hậu cần, có 44,15% ý kiến đánh giá cấp uỷ, tổ chức đảng
và 38,3% ý kiến cho rằng người đứng đầu không thường xuyên tự giác thực
hiện; 28,55% chỉ ra cấp ủy, người chỉ huy không thường xuyên kiểm tra,
đôn đốc cán bộ, đảng viên thực hiện nghị quyết [Phụ lục 1]. Vì vậy, kết quả
thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khoa XI, XII) của Đảng ở một số cơ
quan, đơn vị hậu cần chưa cao, chưa tạo được chuyển biến mạnh mẽ trong
giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội.
* Phương thức giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC ở một số cơ
quan, đơn vị chưa cụ thể, chưa đa dạng, thiếu sự đổi mới, sáng tạo, hiệu quả chưa cao
Một là, hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức giáo dục, rèn luyện ĐĐCM
cho đội ngũ CBHC của một số cấp uỷ đảng, người chỉ huy, và cơ quan chức
năng có thời điểm còn hạn chế
Thực trạng “nhận thức, trách nhiệm, năng lực cụ thể hóa nghị quyết,
chỉ thị, kế hoạch của cấp trên ở một số cấp ủy, cán bộ chủ trì còn hạn chế;
chưa có nhiều biện pháp quản lý, giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng
viên” [74, tr.10], nên ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động giáo dục, rèn luyện
ĐĐCM của đội ngũ CBHC. Ở một số cơ quan, đơn vị, “ công tác tham mưu,
đề xuất của cơ quan chức năng các cấp có nội dung chưa sát, hướng dẫn
chưa cụ thể; theo dõi, kiểm tra, đôn đốc chưa kịp thời” [74, tr.10]; cơ quan
chính trị ở một số đơn vị chưa xác định rõ kế hoạch, chương trình, và chưa
có nhiều hình thức để tổ chức hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM trên
thực tiễn, cũng như trong quá trình thực hiện nhiệm vụ bảo đảm hậu cần của
đội ngũ CBHC Quân đội. Một bộ phận cán bộ chỉ huy, chính ủy, chính trị
viên, người đứng đầu cơ quan, đơn vị hậu cần có lúc còn buông lỏng công
tác quản lý, giáo dục đội ngũ cán bộ, nhân viên thuộc quyền..., dẫn đến tình
trạng không ít CBHC vi phạm đạo đức nghề nghiệp như: độc đoán, cửa
quyền, hách dịch, thực dụng, lợi dụng chức quyền, lối sống thiếu trong sạch,
lành mạnh.
Vẫn còn tình trạng có cấp ủy, chỉ huy cơ quan, đơn vị hậu cần chỉ nặng
về sử dụng cán bộ, chứ chưa quan tâm chăm lo xây dựng, chưa phát huy
hết trách nhiệm của mình trong việc phát hiện, bồi dưỡng, giúp đỡ và tạo
điều kiện cho đội ngũ CBHC phấn đấu vươn lên; chưa có những biện pháp
91
tích cực và chủ động để ngăn chặn những biểu hiện suy thoái về đạo đức,
lối sống. Cá biệt, có cơ quan, đơn vị còn nể nang, né tránh trước những sai
phạm của CBHC, không dám xử lý, hoặc làm qua loa, đại khái, vì sợ đơn
vị mất thành tích thi đua, chỉ giải quyết nội bộ, nhắc nhở, phê bình. Thực
trạng đó, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giáo dục, rèn luyện
ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội.
Hai là, một số phương thức giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ
CBHC tại các học viện, nhà trường chưa được đổi mới mạnh mẽ, nên chưa
theo kịp sự phát triển của thực tiễn công tác hậu cần quân đội
Thực hiện nhiệm vụ giáo dục, đào tạo đối với học viên đào tạo, bồi dưỡng
CBHC các cấp tại các học viện, nhà trường quân đội những năm qua vẫn tồn tại
những bất cập, hạn chế. Khi đánh giá về công tác đào tạo, bồi dưỡng CBHC tại
HVHC, Cục Hậu cần Quân chủng Phòng không - Không quân chỉ rõ: Nội
dung chương trình đào tạo tại HVHC có mặt chưa theo kịp tình hình phát
triển lực lượng và thực tiễn đảm bảo hậu cần tại các đơn vị trong quân chủng.
Trong thực hiện nhiệm vụ giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng CBHC ở một số học
viện, nhà trường vẫn còn tình trạng một số giáo viên, cán bộ quản lý chưa tiền
phong, gương mẫu về đạo đức, lối sống, ảnh hưởng xấu đến học viên; cơ quan
chức năng chưa có nhiều chủ trương, giải pháp duy trì, thực hiện chế độ học
tập, thi, kiểm tra, đánh giá thực chất kết quả của người học; chưa phát huy
được vai trò tự học tập, nghiên cứu, tự bồi dưỡng nâng cao phẩm chất, năng
lực của người học viên đào tạo, bồi dưỡng CBHC các cấp; chưa có nhiều hình
thức rèn luyện phẩm chất, nhân cách của người học viên thông qua các hoạt
động thực hành, thực tập chức trách trong và ngoài đơn vị.
Ba là, phương thức giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC
thông qua thực hiện nhiệm vụ hậu cần ở một số cơ quan, đơn vị còn đơn giản,
máy móc, có lúc chưa sát điều kiện thực tế
Đánh giá về công tác giáo dục chính trị trong toàn quân, QUTW nhấn
mạnh: “công tác giáo dục chính trị tư tưởng đổi mới chưa mạnh mẽ,... chưa
theo kịp sự phát triển của tình hình; trước những diễn biến phức tạp của mặt
trái cơ chế thị trường, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” tác động mạnh vào
quân đội, nhưng biện pháp phòng, chống hiệu quả chưa cao, định hướng tư
tưởng chưa nhạy bén, kịp thời” [138, tr.14]. Ở cơ quan, đơn vị hậu cần, một
số cấp ủy, người đứng đầu có biểu hiện nhận thức đơn giản, việc vận dụng hình
92
thức, biện pháp giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC chưa thiết
thực, chưa phù hợp với đặc điểm, tính chất nhiệm vụ bảo đảm hậu cần trong
điều kiện mới; có thời điểm chưa mạnh dạn giao nhiệm vụ mới, nhiệm vụ khó
để thử thách, rèn luyện CBHC; chưa tích cực động viên, khuyến khích CBHC
ở những nơi khó khăn (biên giới, biển, đảo) vươn lên hoàn thành nhiệm vụ.
Nhiều cơ quan, đơn vị chưa chủ động giáo dục, rèn luyện ý thức, trách
nhiệm thực hiện điều lệ, quy chế, quy định, nguyên tắc công tác bảo đảm hậu
cần cho đội ngũ CBHC; một số đơn vị cán bộ lãnh đạo, chỉ huy cơ quan, phân
đội hậu cần... thiếu gương mẫu, còn có biểu hiện quan liêu và thiếu công tác
kiểm tra”; việc phân công, giao nhiệm vụ còn qua loa, đại khái, không chặt
chẽ. Kết quả khảo sát ở một số đơn vị cho thấy, có 16,15% ý kiến của cán bộ,
đảng viên được hỏi cho rằng hình thức giáo dục, rèn luyện còn nghèo nàn, sơ
cứng; 0,5% ý kiến đánh giá hình thức giáo dục có lúc không phù hợp [Phụ lục
1]. Vì vậy, hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC ở một số
cơ quan, đơn vị có lúc chưa theo kịp sự phát triển của nhiệm vụ bảo đảm hậu
cần trong điều kiện mới.
Bốn là, một bộ phận CBHC chưa tích cực, tự giác trong giáo dục, rèn
luyện ĐĐCM, còn biểu hiện vi phạm kỷ luật quân đội, quy định của đơn vị
Thực tế cho thấy, một bộ phận CBHC chưa tích cực, chịu khó, chưa xác
định đúng động cơ, ý thức, trách nhiệm trong tự giáo dục, rèn luyện ĐĐCM.
Với những biểu hiện như: một số cán bộ thiếu gương mẫu về đạo đức, lối sống,
nói không đi đôi với làm, kém ý thức tổ chức kỷ luật, vi phạm nguyên tắc làm
ảnh hưởng xấu đến xây dựng phẩm chất chính trị, đạo đức cho cán bộ, chiến sĩ
thuộc quyền. Một số năng lực tổ chức hoạt động công tác đảng, công tác chính
trị còn yếu. Trước những tác động tiêu cực từ mặt trái cơ chế thị trường và âm
mưu dụ dỗ, mua chuộc của kẻ thù, một số CBHC tỏ ra thiếu bản lĩnh, lại không
được định hướng kịp thời, hoặc không có biện pháp tự điều chỉnh, tự kiềm chế,
dẫn đến sa ngã, suy thoái về đạo đức, lối sống.
Một số CBHC chưa tích cực đổi mới tư duy, còn bị ảnh hưởng nhiều bởi
tác phong làm việc theo kiểu quan liêu, mệnh lệnh, chưa coi trọng phương
pháp giáo dục, thuyết phục, động viên, chưa thật sự phát huy và mở rộng dân
chủ, thiếu đi sâu, đi sát cơ sở; chưa thật sự gần gũi, quan tâm, giúp đỡ cán bộ,
chiến sĩ, nhân viên dưới quyền, chưa tích cực chăm lo đến đời sống vật chất và
tinh thần cho toàn thể cán bộ, chiến sĩ, nhân viên trong cơ quan, phân đội. Số ít
93
cán bộ thiếu dũng khí đấu tranh với những sai lầm của bản thân, thậm chí hèn
nhát, khuất phục trước những cám dỗ của cuộc sống, có tư tưởng “xả hơi”,
hưởng lạc. Trong công tác và sinh hoạt thiếu tôn trọng ý kiến đóng góp của cán
bộ, nhân viên, chiến sĩ cấp dưới, ít lắng nghe dư luận, không biết điều chỉnh
thái độ, hành vi của mình cho phù hợp với nguyện vọng của tập thể, của cấp
dưới. Vì vậy, kết quả tự giáo dục, tự rèn luyện ĐĐCM của một bộ phận CBHC
Quân đội còn hạn chế.
Năm là, chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy, chi bộ ở
một số cơ quan, đơn vị hậu cần còn hạn chế, chưa tích cực góp phần giáo dục,
rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC
Đánh giá về chất lượng công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng bộ
Quân đội thời gian qua, QUTW chỉ ra công tác kiểm tra, giám sát có nơi
hiệu quả còn thấp. Ở cơ quan, đơn vị hậu cần, công tác kiểm tra, giám sát và
thi hành kỷ luật Đảng của một số cấp ủy, chi bộ có thời điểm chất lượng,
hiệu quả chưa cao, còn biểu hiện hình thức, chạy theo thành tích; việc phát
hiện và kiểm tra đảng viên và tổ chức đảng khi có dấu hiệu vi phạm còn hạn
chế, thiếu chủ động, hiệu quả xử lý chưa cao. Nghị quyết Đại hội đại biểu
Đảng bộ Cục Hậu cần Quân đoàn 2, lần thứ X (nhiệm kỳ 2015-2020) nêu rõ:
“công tác chỉ đạo, kiểm tra, giám sát của lãnh đạo, chỉ huy ở một số cơ quan,
đơn vị có lúc chưa thường xuyên, chưa kiên quyết…, chưa phát huy tốt đấu
tranh tự phê bình và phê bình” [44, tr.3]. Có những tổ chức đảng chưa có
biện pháp đấu tranh trước những biểu hiện sa sút về đạo đức, lối sống, còn
né tránh, hoặc bỏ mặc sai phạm của đảng viên là CBHC. Cá biệt, có vụ việc
không dám xử lý vì sợ đơn vị mất thành tích thi đua, chỉ giải quyết nội bộ,
nhắc nhở qua loa. Việc xử lý kỷ luật không nghiêm minh, thiếu kịp thời đã
tạo ra thái độ coi thường kỷ luật của một số cán bộ, làm giảm tính nghiêm
minh của kỷ luật Đảng, kỷ luật quân đội.
Những hạn chế, khuyết điểm trong công tác giáo dục, rèn luyện ĐĐCM
của đội ngũ CBHC Quân đội là thực trạng cấp bách cần được cấp ủy, tổ chức
đảng các cấp trong quân đội nói chung và các học viện, nhà trường, cơ sở
tham gia bồi dưỡng CBHC, cơ quan, đơn vị hậu cần nói riêng nhận thức đúng
đắn và có giải pháp khắc phục, góp phần nâng cao ĐĐCM, xây dựng đội ngũ
CBHC Quân đội vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo đảm hậu cần,
nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội trong thời kỳ mới.
94
3.2.2. Nguyên nhân và kinh nghiệm
3.2.2.1. Nguyên nhân
* Nguyên nhân của ưu điểm
Một là, Đảng ta thường xuyên quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung,
và xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội, CBHC Quân đội nói riêng về ĐĐCM
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng cũng như thực hiện đường lối
đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, Đảng ta đã nhận thức
sâu sắc về vai trò của cán bộ, khẳng định cán bộ là nhân tố quyết định sự
thành bại của cách mạng, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng.
Theo đó, Đảng ta đã hoạch định những vấn đề về quan điểm, mục tiêu xây
dựng đội ngũ cán bộ; đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng về
công tác cán bộ; đổi mới tư duy, cách làm, khắc phục có kết quả những yếu
kém trong từng khâu của công tác cán bộ; tăng cường công tác giáo dục, rèn
luyện ĐĐCM cho đội ngũ cán bộ, đảng viên làm cơ sở, nền tảng hình thành,
phát triểm phẩm chất, nhân cách toàn diện của người cán bộ cách mạng. Sự
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trong xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm
chất, năng lực ngang tầm nhiệm vụ là điều kiện thuận lợi nhất, tạo thành động
lực thúc đẩy công tác xây dựng đội ngũ CBHC Quân đội nói chung, hoạt
động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của họ đạt được kết quả tích cực.
Đặc biệt: “Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử qua 30 năm đổi
mới khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt
Nam và xu thế phát triển của lịch sử” [67, tr.16]. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, kinh tế xã hội tiếp tục có những bước phát triển ổn định, vững chắc,
đời sống của nhân dân, của cán bộ, chiến sĩ trong quân đội được nâng lên.
Đây là cơ sở vững chắc để xây dựng nền tảng đạo đức, tinh thần của xã hội;
đồng thời, có tác động tích cực đến tư tưởng, tình cảm, củng cố niềm tin của
đội ngũ cán bộ, chiến sĩ trong quân đội nói chung, của đội ngũ CBHC nói
riêng vào vai trò lãnh đạo của Đảng. Qua đó, từng bước hình thành tình cảm,
95
động cơ và hành vi đạo đức tốt đẹp, thúc đẩy mỗi CBHC tích cực, tự giác tu
dưỡng, rèn luyện ĐĐCM, vươn lên hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được
giao. Đây là nguyên nhân hàng đầu tạo nên kết quả quan trọng trong công tác
giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC thời gian qua.
Hai là, sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, thường xuyên, liên tục của QUTW,
BQP, thủ trưởng TCCT, của lãnh đạo, chỉ huy các học viện, nhà trường, cơ quan,
đơn vị đối với công tác giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội
Trước yêu cầu xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại, đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. QUTW,
BQP đã thường xuyên tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo các cấp ủy, tổ chức đảng,
chỉ huy, cơ quan chức năng các cấp đẩy mạnh xây dựng quân đội vững mạnh về
chính trị, tư tưởng, tổ chức và tăng cường giáo dục đạo đức cho đội ngũ cán bộ.
Các Nghị quyết 93 (6-1994), 94 (4-1998), Nghị quyết 513 (2006), Nghị quyết
Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ IX, X và Nghị quyết 86 (2007) là những cơ
sở vững chắc để QUTW đề ra những chỉ thị, hướng dẫn về công tác xây dựng
Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ trong quân đội. Đồng thời là căn cứ để cấp ủy,
tổ chức đảng, chỉ huy và đội ngũ CBHC các cấp trong quân đội tổ chức hoạt
động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM, từng bước nâng cao phẩm chất chính trị,
năng lực của mỗi người đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được đảm nhiệm và
hướng tới sự phát triển cao hơn.
Trên thực tế, ở nhiều cơ quan, đơn vị, nhất là vùng sâu, vùng xa, biên giới,
hải đảo, mặc dù đời sống của cán bộ, chiến sĩ, còn gặp nhiều khó khăn, ảnh
hưởng đến chất lượng xây dựng đội ngũ cán bộ; công tác giáo dục, rèn luyện
ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội vì thế cũng gặp không ít khó khăn. Nhưng,
“QUTW và cấp ủy các cấp đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, có nhiều chủ trương,
giải pháp đồng bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội đạt được nhiều kết quả,
góp phần quan trọng vào công tác xây dựng Đảng bộ và nâng cao chất lượng
tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của quân đội” [136, tr.1]. Các học viện, nhà
trường, cơ sở tham gia đào tạo, bồi dưỡng CBHC, nhất là HVHC đã chủ động
phát huy vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt nhiệm
96
vụ giáo dục, đào tạo CBHC các cấp tại Học viện. Ở nhiều cơ quan, đơn vị hậu
cần, sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, đúng đắn của các cấp uỷ đảng, chính ủy, chính
trị viên, bí thư, người chỉ huy đối với công tác xây dựng đội ngũ CBHC... là
nguyên nhân cơ bản có ý nghĩa quyết định đến công tác xây dựng đội ngũ cán bộ
Hậu cần Quân đội Như vậy, việc tăng cường công tác xây dựng đội ngũ cán bộ
quân đội nói chung, xây dựng đội ngũ CBHC nói riêng về phẩm chất và năng
lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ là nguyên nhân quan trọng, trực tiếp góp phần
thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi để công tác công tác giáo dục, rèn luyện ĐĐCM
của đội ngũ CBHC đạt chất lượng cao.
Ba là, phần lớn CBHC có quyết tâm, với ý thức chính trị cao trong tự
giáo dục, tự rèn luyện ĐĐCM, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo đảm hậu cần,
thực tiễn xây dựng quân đội hiện nay
Đây là nguyên nhân trực tiếp quyết định nhất việc hình thành, phát
triển ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội. Những năm qua, được sự lãnh
đạo, chỉ đạo, giáo dục, rèn luyện thường xuyên của cấp ủy, tổ chức đảng, chỉ
huy các cấp, đại đa số CBHC đã tự giác đề cao vai trò, trách nhiệm, tự giáo
dục, tự rèn luyện ĐĐCM trong mọi lúc, mọi nơi, trong các nhiệm vụ, điều
kiện hoàn cảnh khác nhau. Qúa trình đó đa số CBHC đã có ý chí, nghị lực và
quyết tâm cao, không ngại khó khăn, gian khổ, không ngừng phấn đấu vươn
lên; xây dựng động cơ giáo dục, rèn luyện đúng đắn, có thái độ cầu thị, tích
cực say mê tự tu dưỡng, rèn luyện, điều chỉnh bản thân, chủ động vượt qua
được những khó khăn của gia đình, bản thân, nhất là những cám dỗ của lợi
ích vật chất trong hoạt động hậu cần; tự học, tự rèn, tự nhận thức, tự điều
chỉnh, nâng cao phẩm chất đạo đức, năng lực, hoàn thành tốt chức trách,
nhiệm vụ được giao; nhiều cán bộ Hậu cần đã thường xuyên rèn luyện, có
lối sống trong sạch, lành mạnh, thực sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư, trung thực, hết lòng vì bộ đội, vì cơ quan, đơn vị, được cán bộ, chiến sĩ,
nhân viên trong cơ quan, đơn vị tin cậy và đồng nghiệp tin yêu. Đây là
nguyên nhân cơ bản, trực tiếp quyết định đến kết quả quá trình hình thành,
phát triển hoàn thiện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội hiện nay.
97
* Nguyên nhân của hạn chế, khuyết điểm
Một là, những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, khu vực; âm
mưu chống phá của các thế lực thù địch thường xuyên tác động đến quá trình
giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội
Hiện nay tình hình thế giới, khu vực có những diễn biết hết sức phức
tạp và luôn tiềm ẩn những nguy cơ rất khó lường, nhất là vấn đề xung đột
vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố,
tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo,… diễn ra hết sức quyết liệt. Chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện chiến lược “diễn biến hòa
bình” với các âm mưu, thủ đoạn hết sức tinh vi, thâm độc để chống phá
cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hóa,
đạo đức, lối sống: chúng ra sức truyền bá, cổ suý cho lối sống cá nhân,
thực dụng, chạy theo lợi ích vật chất, danh vọng, hưởng lạc, tăng cường các
chiêu bài, biện pháp thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”… làm phai
nhạt mục tiêu, lý tưởng cách mạng, làm suy thoái về đạo đức, lối sống, của
đội ngũ cán bộ, đảng viên. Thực tế, qua khảo sát ở cơ quan, đơn vị hậu cần,
có 18,95% ý kiến của cán bộ, đảng viên được hỏi cho rằng nguyên nhân
của những hạn chế trong giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC
Quân đội là do âm mưu chống phá quyết liệt, thâm độc của các thế lực thù
địch [Phụ lục 1]. Trước những diễn biến phức tạp đó, một số cán bộ, đảng
viên, trong đó có CBHC đã dao động về tư tưởng, thiếu kiên định, và bị sa
ngã, suy thoái, biến chất về đạo đức, lối sống.
Hai là, những tác động mặt trái nền kinh tế thị trường đến hoạt động
giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội
Thực hiện đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, mặc dù Đảng, Nhà nước ta đã lường trước được những khó
khăn, thách thức, và nhiều chủ trương, quyết sách nhằm ngăn chặn, đẩy lùi
những tác động tiêu cực của nó, nhưng trên thực tế: “Một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo quản lý, kể
cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
98
với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá
nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị,
cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc…” [66, tr.22]. Trung
ương nhận định: “Tình hình trên đây có nguyên nhân khách quan là do việc
thực hiện đổi mới kinh tế phải vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, chưa lường hết
được những tác động của mặt trái cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế” [66,
tr.23]. Cơ chế thị trường đã có những tác động tiêu cực đến đời sống đạo đức,
tinh thần của xã hội, lối sống của cán bộ, đảng viên. Theo đó, tệ nạn xã hội
phát triển, chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng trong một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên cũng đã nảy sinh, làm xói mòn các giá trị đạo đức,
truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Thực tế, qua khảo sát ở một số cơ quan, đơn vị hậu cần, khi được hỏi
về nguyên nhân của khuyết điểm, hạn chế trong giáo dục, rèn luyện ĐĐCM
của đội ngũ CBHC, có 88,2 % ý kiến của cán bộ, đảng viên cho rằng là do tác
động từ mặt trái của kinh tế thị trường; 19,1% ý kiến đánh giá do sự tác động
của những tệ nạn ngoài xã hội xâm nhập vào đơn vị. [Phụ lục 1]. Thực trạng trên
đã hàng ngày, hàng giờ ảnh hưởng tiêu cực đến đạo đức, lối sống của đội ngũ
CBHC Quân đội, tác động xấu đến quá trình giáo dục, rèn luyện ĐĐCM, phát
triển phẩm chất, nhân cách của đội ngũ CBHC Quân đội.
Ba là, một số cấp uỷ, tổ chức đảng, người chỉ huy, cán bộ đứng đầu cơ
quan, đơn vị hậu cần chưa tích cực, chủ động trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức
giáo dục, rèn luyện ĐĐCM cho đội ngũ CBHC
Xuất phát từ nhận thức đơn giản về công tác giáo dục nói chung, việc
giáo dục, rèn luyện ĐĐCM cho đội ngũ CBHC nói riêng, nên một số ít cấp uỷ
đảng và người chỉ huy các cơ quan, phân đội hậu cần, các lực lượng có liên
quan nhận thức chưa đầy đủ về công tác xây dựng đội ngũ CBHC dẫn đến
thiếu sự quan tâm chăm lo xây dựng, giáo dục. Do đó, hoạt động giáo dục, rèn
luyện ĐĐCM cho đội ngũ CBHC còn chưa được coi trọng đúng mức, hiệu quả
chưa cao, còn để những hiện tượng tiêu cực, vi phạm pháp luật Nhà nước, kỷ
luật quân đội có điều kiện nảy sinh, phát triển.
Bên cạnh đó, việc kiểm tra, quản lý về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối
sống, các mối quan hệ xã hội... của CBHC trong quá trình thực hiện nhiệm
99
vụ, chức trách còn bị buông lỏng hoặc khoán trắng cho cơ quan hậu cần, do
đó, khi một số CBHC có những biểu hiện vi phạm đạo đức nghề nghiệp, chế
độ quy định trong điều lệ công tác hậu cần, nghiêm trọng hơn là có những
hành vi vi phạm pháp luật thường không được phát hiện, ngăn chặn kịp thời
và xử lý nghiêm minh, còn “nhẹ trên nặng dưới”, hoặc bao che khuyết điểm,
xử lý nội bộ là chủ yếu. Đây cũng là điều kiện thuận lợi cho căn bệnh cá
nhân chủ nghĩa, tệ quan liêu, tham nhũng, hối lộ nảy sinh và phát triển, tác
động xấu đến chất lượng đội ngũ CBHC Quân đội.
Qua khảo sát thực tế ở một số cơ quan, đơn vị hậu cần, có 29, 05% ý
kiến đánh giá những hạn chế trong giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ
CBHC là do công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện của tổ chức đảng, tổ
chức chỉ huy đối với cán bộ Hậu cần chưa tốt; 12,85% ý kiến cho rằng là
do chính sách đối với cán bộ có nội dung chưa hợp lý [Phụ lục 1]. Vì vậy,
hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM cho đội ngũ CBHC còn hạn chế,
thường lệ thuộc vào sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy cấp trên và hoạt động
kiểm tra của ủy ban kiểm tra đảng ủy các cấp, nên chưa kịp thời phát hiện,
ngăn chặn được những biểu hiện tiêu cực, suy thoái đạo đức, lối sống xảy
ra trong một bộ phận CBHC.
Bốn là, một số CBHC thiếu chí tiến thủ, trung bình chủ nghĩa, chưa tự giác
tu dưỡng, rèn luyện ĐĐCM
Đạo đức, lối sống có quan hệ mật thiết với ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện
của mỗi con người. Nếu mỗi người có ý thức tự giác rèn luyện phấn đấu tốt, nhất
định sẽ nâng cao được ĐĐCM; ngược lại, nếu cá nhân thiếu ý chí tiến thủ, thoả
mãn dừng lại, chạy theo lợi ích vật chất, không thường xuyên tu dưỡng, rèn
luyện bản thân thì sớm muộn cũng sẽ dẫn tới sự suy thoái đạo đức, lối sống.
Trong những năm qua, thực trạng một bộ phận CBHC chỉ chú ý học tập nâng
cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, chưa quan tâm tới việc tu dưỡng, rèn luyện
ĐĐCM; thường có biểu hiện chạy theo lợi ích vật chất thuần thúy, chỉ quan tâm
tới lợi ích bản thân, sống thực dụng; một số cán bộ Hậu cần năng lực, chuyên
môn, nghiệp vụ yếu, chưa đề cao ý thức trách nhiệm, thiếu cố gắng trong
việc tự học tập, tự bồi dưỡng, rèn luyện bản thân, là nguyên nhân trực tiếp
dẫn đến hạn chế, khuyết điểm trong giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội
ngũ CBHC Quân đội.
100
Qua khảo sát thực tế ở một số cơ quan, đơn vị hậu cần quân đội, có
64,25% ý kiến của cán bộ, đảng viên được hỏi cho rằng những hạn chế trong
trong tác giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC là do bản thân một
số CBHC thiếu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức; 58,35% ý kiến đánh giá một số
CBHC sa vào chủ nghĩa cá nhân, bị cám dỗ bởi các lợi ích vật chất [Phụ lục
1]. Thực trạng này là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng suy thoái
về đạo đức, lối sống của một số CBHC Quân đội hiện nay, cần được cấp ủy, chỉ
huy các cấp nhân thức sâu sắc, và có biện pháp khắc phục trong thời gian tới.
Năm là, nhiệm vụ đấu tranh, phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận cán
bộ, đảng viên chưa thu được kết quả như mong muốn
Sau sáu năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) và gần hai
năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, toàn Đảng đã xử lý kỷ luật hàng nghìn
cán bộ, đảng viên ở các cấp, các ngành, các địa phương, cơ quan, đơn vị với
các hình thức kỷ luật của Đảng, và xử lý pháp luật đã góp phần cảnh tỉnh, răn
đe trước những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Đồng thời, đã củng cố niềm tin của cán
bộ, đảng viên và nhân dân về vai trò lãnh đạo của Đảng. Nhưng trên thực tế:
“tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ phận còn diễn
biến phức tạp hơn” [67, tr.185].
Trong quân đội nói chung, ở cơ quan, đơn vị hậu cần quân đội nói
riêng, công tác đấu tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận cán bộ, đảng
viên đã được cấp ủy, tổ chức đảng, chỉ huy các cấp đẩy mạnh thực hiện. Tuy
nhiên, ở một số cơ quan, đơn vị chất lượng tự phê bình và phê bình chưa cao,
chưa kiên quyết sửa chữa khuyết điểm sau kiểm điểm; thực trạng vi phạm kỷ
luật quân đội, chế độ quy định của đơn vị, tham nhũng, lãng phí vẫn diễn biến
tinh vi, phức tạp, không được phát hiện, xử lý kịp thời. Nhiệm vụ đấu tranh,
ngăn chặn suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” của một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa thu được kết quả
như mong muốn đã tác động tiêu cực, cản trở việc nâng cao chất lượng giáo
dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội.
101
3.2.2.2. Những kinh nghiệm giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng
của đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội giai đoạn hiện nay
Một là, thường xuyên coi trọng nâng cao nhận thức, phát huy vai trò,
trách nhiệm của các tổ chức, các lực lượng tham gia giáo dục, rèn luyện ĐĐCM
của đội ngũ CBHC Quân đội
Giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC trách nhiệm trước hết
thuộc về cấp uỷ, tổ chức đảng, đồng thời còn là trách nhiệm của các tổ
chức, các lực lượng có liên quan. Thực tiễn những năm qua cho thấy, để
hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội có chất
lượng, hiệu quả, trước hết cấp uỷ, cán bộ chủ trì và cơ quan chính trị của
HVHC, các học viện, nhà trường, cơ sở bồi dưỡng CBHC, và cơ quan, đơn
vị hậu cần trong toàn quân phải luôn có nhận thức đầy đủ, đúng đắn về vai
trò và sự cần thiết phải giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC
Quân đội, xác định đó là trách nhiệm, một nội dung lãnh đạo, chỉ đạo
thường xuyên của cấp ủy, người chỉ huy các cấp. Trên cơ sở nhận thức
đúng đắn về chức năng, nhiệm vụ, thực trạng đạo đức của đội ngũ CBHC,
cấp ủy, chỉ huy mới xác định chính xác những chủ trương, biện pháp lãnh
đạo, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, tổ chức thực hiện hoạt động giáo dục,
rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC nghiêm túc, chặt chẽ, hiệu quả.
Kinh nghiệm chỉ rõ, các cấp ủy, tổ chức đảng, người chỉ huy, nhất là chi
uỷ, chi bộ, người đứng đầu cơ quan, đơn vị hậu cần mỗi cấp phải thường xuyên
quán triệt sâu sắc các nghị quyết, chỉ thị, quy định, hướng dẫn của Đảng về xây
dựng đội ngũ cán bộ nói chung, hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội
ngũ CBHC Quân đội nói riêng. Trong đó, cần nắm chắc Nghị quyết Số 769-
NQ/ QUTW, ngày 21 tháng 12 năm 2012, “Về xây dựng đội ngũ cán bộ quân
đội giai đoạn 2013 - 2020 và những năm tiếp theo”, Nghị quyết số 623 - NQ/
QUTW, ngày 29 tháng 10 năm 2012 của Quân uỷ Trung ương “Về công tác
hậu cần quân đội đến năm 2020 và những năm tiếp theo”; Nghị quyết Trung
ương 4 (khóa XI, XII); Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; nghị quyết, chỉ thị của
cấp ủy cấp trên và cấp mình... Đây là những căn cứ quan trọng để cấp ủy, tổ
chức đảng, người chỉ huy xác định chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo
hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội. Trên cơ sở
102
những nhận thức sâu sắc, cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì cơ quan, đơn vị
hậu cần phát huy tốt vai trò trách nhiệm của mình trong lãnh đạo, chỉ đạo các tổ
chức, lực lượng liên quan xây dựng kế hoạch, chương trình, nội dung, biện
pháp giáo dục, rèn luyện ĐĐCM cho đội ngũ CBHC cụ thể, tỉ mỉ, sát thực tiễn
chức trách, nhiệm vụ, đặc điểm đơn vị; chủ động đấu tranh khắc phục những
nhận thức, tư tưởng lệch lạc về vị trí, vai trò của ĐĐCM của đội ngũ CBHC,
đấu tranh trước những biểu hiện chưa phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm
trong giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ công tác hậu cần quân đội hiện nay.
Hai là, thực hiện đồng bộ các nội dung, phương thức giáo dục, rèn luyện
ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội
Kinh nghiệm trong hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ
CBHC Quân đội ở các cơ quan, đơn vị trong toàn quân cho thấy: Công tác
giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội là một quá trình tổ
chức các hoạt động phải chặt chẽ, công phu, tỉ mỉ, cần kết hợp chặt chẽ,
nhuần nhuyễn nhiều nội dung, nhiều phương thức giáo dục, rèn luyện cụ thể;
phối kết hợp chặt chẽ hoạt động giáo dục, rèn luyện của các học viện, nhà
trường với của đơn vị, địa phương và gia đình, xã hội. Trong đó, nội dung và
phương thức giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC có mối quan hệ
biện chứng, tác động lẫn nhau tạo nên chất lượng chính trị tổng hợp của đội
ngũ CBHC. Thực tiễn cho thấy, nếu nội dung giáo dục, rèn luyện được xác
định cụ thể, đầy đủ, nhưng không có phương thức giáo dục, rèn luyện hay,
hợp lý, đúng thời gian, đối tượng... hiệu quả sẽ thấp.
Vì vậy, cấp ủy, tổ chức đảng, người chỉ huy, cơ quan chức năng các cấp
(trong cả các học viện, nhà trường và đơn vị), người đứng đầu cơ quan, đơn vị
hậu cần phải trên cơ sở kế hoạch chung, căn cứ vào thực trạng ưu, khuyết
điểm về đạo đức, lối sống của đội ngũ CBHC mà xác định nội dung, phương
thức giáo dục, rèn luyện cho phù hợp, tránh dập khuôn, giáo điều, máy móc.
Coi trọng giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội một cách
toàn diện, phù hợp với từng người đáp ứng nhu cầu phát triển liên tục của họ;
tổ chức giáo dục, rèn luyện cũng phải có trọng tâm, trọng điểm, đi vào khắc
phục những khâu yếu, mặt yếu về đạo đức, lối sống của CBHC. Đặc biệt chú
trọng kết hợp chặt chẽ nội dung, phương thức giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của
103
tổ chức với tự giáo dục, tự rèn luyện ĐĐCM của từng cá nhân CBHC. Khi
đánh giá, xem xét đội ngũ CBHC phải được tiến hành cụ thể, đánh giá phải
toàn diện cả về phẩm chất, năng lực và kết quả hoàn thành nhiệm vụ... Thông
qua đó nhằm thực hiện tốt công tác giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ
CBHC Quân đội trong mọi điều kiện, nhiệm vụ; xây dựng được đội ngũ
CBHC có phẩn chất ĐĐCM đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Ba là, kết hợp chặt chẽ việc giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ
CBHC Quân đội với giáo dục, rèn luyện đạo đức, lối sống của đội ngũ đảng viên
với xây dựng cấp ủy, chi bộ cơ quan, đơn vị hậu cần trong sạch vững mạnh
Đội ngũ CBHC là một bộ phận cán bộ, đảng viên của Đảng, chất
lượng của đội ngũ CBHC, nhất là ĐĐCM của họ luôn có sự gắn bó hữu cơ
với chất lượng chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Vì vậy, việc giáo
dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC phải được kết hợp chặt chẽ với
công tác giáo dục, rèn luyện đạo đức, lối sống cho đội ngũ đảng viên, góp
phần tạo ra lực lượng cán bộ nòng cốt trong xây dựng cấp ủy, chi bộ cơ
quan, đơn vị hậu cần trong sạch vững mạnh. Mặt khác, cơ quan, đơn vị và
cấp uỷ, tổ chức đảng ở cơ quan, đơn vị hậu cần trong sạch vững mạnh là cơ
sở quan trọng để giáo dục, rèn luyện nên đội ngũ CBHC vững mạnh, nhất là
vững mạnh về đạo đức, lối sống. Nếu chỉ chú ý vào việc nâng cao chất
lượng công tác giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC mà không
chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên về đạo đức, lối sống; không chú
ý xây dựng cấp uỷ, tổ chức đảng và xây dựng cơ quan, đơn vị; hoặc chỉ chú
trọng xây dựng cấp uỷ, tổ chức đảng và xây dựng cơ quan, đơn vị hậu cần
mà không quan tâm chăm lo giáo dục, rèn luyện ĐĐCM cho đội ngũ cán bộ,
đảng viên trong từng cơ quan, đơn vị hậu cần vững mạnh thì ở đó quá trình
giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC không đạt kết quả tốt.
Thực tiễn kinh nghiệm nhiều năm qua cho thấy, đơn vị nào kết hợp chặt
chẽ việc rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC, với giáo dục, rèn luyện đạo đức,
lối sống của đội ngũ đảng viên, với xây dựng cấp ủy, chi bộ cơ quan, đơn vị
hậu cần trong sạch vững mạnh, cơ quan, đơn vị hậu cần vững mạnh toàn diện,
thì ở đó chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên luôn luôn vững mạnh, hoàn thành
tốt nhiệm vụ được giao. Do đó, để hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của
đội ngũ CBHC Quân đội đạt chất lượng cao, đòi hỏi cấp uỷ, tổ chức đảng ở cơ
quan, đơn vị hậu cần các cấp phải nắm chắc thực trạng ĐĐCM của đội ngũ
104
CBHC, đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong đơn vị; tiêu
chuẩn đảng viên, yêu cầu về phẩm chất đạo đức, nội dung, nhiệm vụ trong xây
dựng ĐĐCM cho đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng hiện nay để lựa chọn
những nội dung, phương thức giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC
một cách phù hợp nhất. Kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục, rèn luyện ĐĐCM với
nâng cao năng lực tổ chức, quản lý, chỉ huy, chỉ đạo, trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, năng lực tiến hành công tác đảng, công tác chính trị cho đội ngũ
CBHC. Cụ thể hóa, và kết hợp chặt chẽ những chủ trương, biện pháp giáo dục,
rèn luyện ĐĐCM đối với đội ngũ CBHC của cấp ủy, chi bộ trong công tác giáo
dục, rèn luyện đạo đức, lối sống, tác phong công tác cho đội ngũ cán bộ, đảng
viên, hướng đến xây dựng cấp uỷ, tổ chức đảng trong sạch vững manh, cơ
quan, đơn vị hậu cần vững mạnh toàn diện, đủ sức hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo
đảm hậu cần quân đội trong điều kiện mới.
Bốn là, thường xuyên thực hiện tốt hoạt động giáo dục, rèn luyện của tổ
chức, đồng thời phát huy vai trò tự giáo dục, tự rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ
CBHC Quân đội
Giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội là trách
nhiệm của tất cả các tổ chức và của cả đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quân
đội, trước hết cần phát huy tốt vai trò của cấp ủy, chỉ huy, cơ quan chức năng
các cấp trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện chặt chẽ, nghiêm túc quá
trình giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC, để biến quá trình giáo
dục, rèn luyện của tổ chức thành tự giáo dục, tự rèn luyện của bản thân mỗi
CBHC. Thực tiễn cho thấy, dù tổ chức có quan tâm giáo dục, rèn luyện đến
mấy, nhưng mỗi CBHC thiếu tự giác trong giáo dục, rèn luyện, thiếu ý chí,
quyết tâm phấn đấu vươn lên, thì cũng không thể trưởng thành và tiến bộ
được. Vì vậy, mỗi cán bộ Hậu cần phải đặt vấn đề tự giáo dục, tự rèn luyện
của bản thân thành một nghĩa vụ và trách nhiệm chính trị của mình đối với
Đảng, với cơ quan, đơn vị. Mỗi CBHC tự giáo dục, tự rèn luyện ĐĐCM trong
thực tiễn thực chất là tự tu dưỡng, tự điều chỉnh bản thân trước sự cám dỗ của
những lợi ích vật chất, tài sản của Nhà nước, quân đội giao cho mỗi cán bộ
quản lý, phân phối... không sa vào tham nhũng, lãng phí. Nếu không thường
xuyên tăng cường giáo dục, rèn luyện của tổ chức và tự giáo dục, tự rèn luyện
ĐĐCM của mỗi CBHC thì họ khó có thể có đủ điều kiện phẩm chất đạo đức
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
105
Thực tiễn hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân
đội, đòi hỏi mỗi cấp uỷ, tổ chức đảng, người chỉ huy, cơ quan chức năng,
người đứng đầu cơ quan, đơn vị hậu cần phải nắm vững phẩm chất đạo đức,
năng lực chuyên môn, các mối quan hệ, ưu, khuyết điểm... của mỗi CBHC, để
có kế hoạch giáo dục, rèn luyện phù hợp. Trong quá trình tổ chức hoạt động
giáo dục, rèn luyện, cấp ủy, chỉ huy cần vận dụng linh hoạt các hình thức,
biện pháp giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện gắn với thực hiện các phong trào thi
đua của cơ quan, đơn vị, đi đôi với quan tâm tạo điều kiện thuận lợi để mỗi
CBHC tự tu dưỡng, rèn luyện theo các yêu cầu tiêu chuẩn chức danh; tạo điều
kiện về vật chất, phương tiện, động viên tinh thần ham học hỏi, cầu tiến bộ,
đặt ra yêu cầu cao trong rèn luyện ĐĐCM để mỗi CBHC phấn đấu, không
ngừng hoàn thiện bản thân trong quá trình công tác. Từng CBHC phải thấy
rõ việc tự giáo dục, tự rèn luyện ĐĐCM là một quá trình thường xuyên, lâu
dài và gian khổ đòi hỏi phải rất kiên nhẫn và có quyết tâm cao; phải rèn
luyện liên tục ở mọi lúc, mọi nơi, trong mọi điều kiện hoàn cảnh luôn luôn
gương mẫu về đạo đức, lối sống, tích cực, chủ động vươn lên hoàn thành
tốt nhiệm vụ được giao.
Năm là, kết hợp giáo dục, rèn luyện ĐĐCM với đẩy mạnh cuộc đấu
tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, ngăn
ngừa “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ CBHC Quân đội hiện nay
“Xây” đi đôi với “chống” là nguyên tắc trong xây dựng phẩm chất đạo
đức, nhân cách của người cán bộ nói chung, ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân
đội nói riêng, nhằm đạt được kết quả cao nhất trong giáo dục. Đội ngũ CBHC
Quân đội được Đảng, Nhà nước, quân đội giao cho quản lý, cấp phát, tổ chức
các hoạt động bảo đảm hậu cần với khối lượng vật chất to lớn, giá trị kinh tế
cao, dễ nảy sinh tư tưởng, hành vi tham nhũng, lãng phí. Trên thực tế, một số
cán bộ Hậu cần… có biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống, chưa thật sự
nêu cao đức tính cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư, còn làm ngơ hoặc
thiếu mạnh dạn đấu tranh với những hiện tượng tham nhũng, tiêu cực trong
đơn vị và trong xã hội. Thực trạng này đòi hỏi công tác giáo dục, rèn luyện
ĐĐCM của đội ngũ CBHC trên thực tiễn cần phải kết hợp chặt chẽ với đẩy
mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, tham nhũng, lãng phí, và ngăn ngừa “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
của cán bộ, đảng viên nói chung, và của đội ngũ CBHC nói riêng.
106
Vận dụng kinh nghiệm này trong xây dưng đạo đức cho đội ngũ CBHC,
đòi hỏi cấp ủy, tổ chức đảng, chỉ huy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị hậu cần
các cấp phải căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được giao, xác định rõ chủ
trương, biện pháp giáo dục, rèn luyện ĐĐCM đối với đội ngũ CBHC; kết hợp
với giáo dục, rèn luyện đạo đức với xây dựng tinh thần, thái độ đấu tranh tự
phê bình và phê bình nghiêm túc, thẳng thắn, vì sự tiến bộ của cán bộ và tổ
chức. Thông qua tự phê bình và phê bình; thực hiện công tác kiểm tra, giám sát
của cấp ủy, và ủy ban kiểm tra các cấp nhằm kịp thời phát hiện những biểu
hiện lệch lạc, hành vi vi phạm đạo đức, lối sống, biểu hiện tham nhũng, lãng
phí của một số CBHC, có biện pháp xử lý kiên quyết, triệt để, nghiêm minh,
không để vi phạm nhỏ thành vi phạm lớn. Kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục, rèn
luyện ĐĐCM với đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận CBHC là
biện pháp hữu hiệu, kinh nghiệm quý báu cần được vận dụng thực hiện nghiêm
túc, có hiệu quả trên thực tiễn xây dựng đội ngũ CBHC Quân đội hiện nay.
107
Tiểu kết chương 3
Đạo đức cách mạng của đội ngũ CBHC Quân đội trong những năm gần đây
đã được nâng cao, phát triển khá bền vững, là cơ sở, nền tảng để CBHC nâng cao
bản lĩnh chính trị, hoàn thiện nhân cách người CBHC, góp phần hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao. Để đạt được kết quả đó, hoạt động giáo dục, rèn luyện
ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội đã được đa số cấp ủy, tổ chức đảng, chỉ huy
các cấp trong quân đội quan tâm tổ chức thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ, trở thành
nền nếp, với chất lượng, hiệu quả khá cao. Qúa trình tổ chức thực hiện giáo dục,
rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội đã phát huy được vai trò, trách
nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, chỉ huy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị hậu cần
và tổ chức quần chúng, nhân dân trên địa bàn đóng quân tham gia thực hiện nhiệm
vụ; đã tổ chức giáo dục, rèn luyện với những nội dung, phương thức tương đối
phong phú, đa dạng, sát thực tiễn chức trách, nhiệm vụ bảo đảm hậu cần, đối
tượng CBHC; chủ động phát huy vai trò tự giáo dục, tự rèn luyện của đội ngũ
CBHC làm yếu tố căn bản nhất quyết định chất lượng của quá trình giáo dục, rèn
luyện. Thông qua đó, ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội đã đi vào vững chắc
hơn, có tác động rất quan trọng đến mức độ, chất lượng thực hiện nhiệm vụ. Tuy
nhiên, quá trình giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội vẫn còn
những hạn chế, khuyết điểm nhất định, như nhận thức về nhiệm vụ giáo dục, rèn
luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC của một số cấp ủy và người đứng đầu cơ quan,
đơn vị hậu cần còn hạn chế; nội dung, phương thức giáo dục, rèn luyện có thời
điểm chưa sát với đối tượng và nhiệm vụ; một số CBHC chưa thực sự tự giác
trong quá trình giáo dục, rèn luyện ĐĐCM, vẫn còn những biểu hiện vi phạm
Pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội, quy định của đơn vị.
Thực trạng giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội là
kết quả của các nguyên nhân cả nguyên nhân khách quan, và chủ quan. Vì vậy,
để giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội có hiệu quả đòi hỏi
các cấp ủy, chính ủy, người chỉ huy, cơ quan chức năng, người đứng đầu cơ
quan, đơn vị hậu cần và các lực lượng tham giá giáo dục cần nhận thức đúng,
đánh giá trung thực những ưu điểm, khuyết điểm, xác định rõ nguyên nhân và
rút ra những kinh nghiệm để xác định những giải pháp đồng bộ, khả thi trong
giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội giai đoạn hiện nay.
108
Chương 4
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐẨY MẠNH GIÁO DỤC,
RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ HẬU CẦN
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2030
4.1. DỰ BÁO THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN VÀ PHƯƠNG HƯỚNG ĐẨY MẠNH
GIÁO DỤC, RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ HẬU
CẦN QUÂN ĐỘI
4.1.1. Dự báo thuận lợi, khó khăn
4.1.1.1. Thuận lợi
Công cuộc đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng ta đã thu được
những thành tựu to lớn, kinh tế, chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng an ninh
được tăng cường, thế và lực của nước ta trên trường quốc tế không ngừng được
nâng lên. Thành tựu đó đã tạo ra những tiền đề cần thiết để đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, đưa đất nước phát triển cao hơn, tạo thêm thế và lực
để củng cố và giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, thực hiện xây dựng và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã có những đột phá mới, nhất là
thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về “Một số vấn đề cấp bách về
xây dựng Đảng hiện nay”, đã thu được những kết tốt, tác động và tạo nên
những chuyển biến rõ nét trong tư tưởng, nhận thức, góp phần ngăn chặn và
đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực, biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống trong
đội ngũ cán bộ, đảng viên ở các tổ chức đảng. Đây là điều kiện quan trọng
tiếp tục thực hiện có hiệu quả công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhất là
thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, và khóa XII mà Đảng đã xác
định trong thời gian tới.
Những thành quả trong hoạt động tư tưởng, lý luận của các cấp ủy, tổ
chức đảng trong và ngoài quân đội như: Triển khai, thực hiện đồng bộ, sâu
rộng, đạt chất lượng cao trong thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị về
“Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh” và chỉ thị 05-CT/TW “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo
109
đức, phong cách Hồ Chí Minh”; tích cực đấu tranh trên mặt trận tư tưởng lý
luận, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, “phi chính trị hóa”
quân đội của các thế lực thù địch… đã tạo nên những chuyển biến tích cực
trong nhận thức tư tưởng, lý luận của đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng nói
chung và của cán bộ, đảng viên, đôi ngũ CBHC Quân đội nói riêng. Đối với
mỗi CBHC, việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh, suốt đời phấn đấu thực hiện: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, làm
người công bộc tận tụy, trung thành của nhân dân, đời tư trong sáng, cuộc sống
riêng giản dị… đã trở thành nền nếp, phong trào rèn luyện, thực hành ĐĐCM
sâu, rộng để mỗi CBHC tiếp tục thực hiện có hiệu quả hơn trong thời gian tới.
Quán triệt và thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về
chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; Nghị quyết Đại hội đại biểu
Đảng bộ Quân đội lần thứ X; Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII
của Đảng, QĐNDVN và Ngành Hậu cần quân đội tiếp tục được xây dựng theo
hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, trong đó lấy xây
dựng chính trị làm cơ sở. Quân đội được Đảng, Nhà nước và nhân dân tin
tưởng giao trọng trách làm lực lượng nòng cốt bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới. Ngành Hậu cần quân đội vì thế luôn dành được sự quan tâm đặc biệt của
Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân, là điều kiện thuận lợi để xây dựng,
củng cố, phát triển lực lượng hậu cần, nhất là đội ngũ CBHC có đủ phẩm chất
chính trị, đạo đức, năng lực chuyên môn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức được Đảng ta xác định, từng bước
triển khai, tổ chức thực hiện trên thực tiễn, vơi những quy chế, quy định cụ thể
của Ban Bí thư và Ban Chấp hành Trung ương như: Quy định số 101-QĐ/TW
ngày 7-6-2012 “về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán
bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”, Quy định số 102-QĐ/TW về “xử lý kỷ luật
đảng viên vi phạm”; Quy định số 115-QĐ/TW ngày 25-1-2018, “về chức
năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở ở đơn vị quản lý cơ sở vật chất, kỹ
thuật, tài chính trong QĐNDVN”; Quy định số 116-QĐ/TW ngày 25-1-2018
“về chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở ở học viện, nhà trường
trong QĐNDVN”; Quy định số 01-QĐ/TW ngày 10-5-2018, “Quy định trách
nhiệm và thẩm quyền của ủy ban kiểm tra trong công tác phòng, chống tham
110
nhũng”. Đặc biệt là Quyết định số 89-QĐ/TW, ngày 04-8-2017, về “khung tiêu
chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý
các cấp”; Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII, Nghị quyết Trung ương 7 khóa
XII. Đây là căn cứ quan trọng để các cấp ủy đảng, lãnh đạo, chỉ huy các cấp
trong quân đội và ngành hậu cần quân đội tiến hành xác định tiêu chí, chuẩn
mực cụ thể; là cơ sở để đánh giá, bình xét, phân loại về đạo đức, lối sống đối
với từng chức danh cán bộ, và đối với đội ngũ CBHC Quân đội; là điều kiện
thuận lợi để tổ chức các hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ
CBHC Quân đội đạt chất lương, hiệu quả cao.
Những vấn đề nêu trên là những điều kiện thuận lợi căn bản nhất để các
cấp ủy, tổ chức Đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị hậu cần quân đội lãnh
đạo, chỉ đạo thực hiện giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân
đội trong những năm tới đạt chất lượng, hiệu quả cao.
4.1.1.2. Khó khăn
Tình hình thế giới và khu vực những năm gần đây, luôn diễn biến phức
tạp, những xung đột, tranh chấp vùng biển, biên giới, vùng trời là vấn đề nóng
của không chỉ Việt Nam mà của nhiều nước trên thế giới. Các nước lớn, đứng
đầu là Mỹ mở rộng quan hệ, thực hiện những bước đi chiến lược mới ở khu
vực Châu Á Thái Bình Dương; sự bành trướng trên Biển Đông của Trung
Quốc; tình hình căng thẳng hạt nhân trên bán đảo Triều tiên... làm tình hình
thế giới, khu vực đứng trước những nguy cơ khó lường. Chiến tranh công
nghệ cao nếu sảy ra, sẽ tác động mạnh mẽ lên tâm lý, tư tưởng của cán bộ,
chiến sĩ trực tiếp cầm súng trên chiến trường, làm thay đổi phương thức tác
chiến, phương thức bảo đảm hậu cần chiến đấu. Vấn đề đó đòi hỏi mỗi cán bộ,
chiến sĩ không những phải có sức khỏe tốt, mưu trí, dũng cảm, nắm chắc được
kỹ chiến thuật chiến đấu, sử dụng và làm chủ những công nghệ bảo đảm hậu
cần hiện đại, mà còn phải có bản lĩnh chính trị để chiến đấu, chiến thắng kẻ thù.
Trong nước, bên cạnh những thời cơ để phát triển, cách mạng nước ta
cũng phải đối mặt với những nguy cơ, thách thức cơ bản mà Đảng ta đã xác
định (nguy cơ: chệch hướng XHCN; tụt hậu xa hơn về kinh tế; “diễn biến hòa
bình”; tham nhũng, lãng phí), tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định kinh tế,
chính trị - xã hội. Nhất là, hoạt động chống phá cách mạng nước ta bằng nhiều
111
âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược “diễn biến hoà bình”, “phi chính trị hóa”
quân đội của các thế lực thù địch, nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước, hệ thống chính trị, đặc biệt là đối với quân đội và công an. Đồng
thời, tệ quan liêu, tham nhũng và sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, “biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có xu hướng diễn biến phức
tạp trong Đảng; “không ít cán bộ, đảng viên có những biểu hiện dao động, mất
phương hướng, hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng, về mục tiêu, lý tưởng
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” [67, tr.195]. Đây thực sự là
thứ “giặc nội xâm” cực kỳ nguy hiểm, thách thức vai trò lãnh đạo của Đảng, sự
tồn vong của chế độ.
Thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới,
quân đội là một trong những lực lượng nòng cốt, đang trong quá trình xây
dựng theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Biên
chế, tổ chức của quân đội vì thế có sự thay đổi theo hướng tinh, gọn, hiệu quả,
lấy xây dựng chính trị làm cơ sở. Theo đó, ngành Hậu cần quân đội cũng từng
bước phải có sự điều chỉnh về biên chế tổ chức, hướng tới bảo đảm đủ số
lượng, với cơ cấu, chất lượng đội ngũ CBHC đòi hỏi ngày càng cao cả về
trình độ và phẩm chất chính trị, ĐĐCM. Trên thực tế, đa số CBHC có đủ
phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao, nhưng điều kiện
tiếp tục được bồi dưỡng, đào tạo để phát triển lên cương vị cao hơn là rất khó
khăn, tạo nên những gánh nặng trong công tác cán bộ, những tiêu cực (chạy đi
học, chạy chức vụ, chạy quân hàm, chạy tội...) theo đó cũng dễ nảy sinh.
Thực trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tư diễn biến”,
“tự chuyển hóa” của một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa được đẩy lùi tiếp
tục tác động tiêu cực đến tư tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ, sĩ quan,
chiến sĩ trong quân đội nói chung và đội ngũ CBHC nói riêng.
Vấn đề xã hội hóa công tác phục vụ trong quân đội (của ngành hậu cần)
đang trong quá trình kiểm nghiệm (thực hiện thuận lợi ở những loại hình
doanh nghiệp, ở các học viện, nhà trường, trung tâm nghiên cứu..., nhưng
chưa thực sự hợp lý khi áp dụng tại đơn vị làm nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng
chiến đấu, chiến đấu). Đồng thời, phương thức bảo đảm hậu cần cho các lực
lượng trong tình hình mới đã có sự thay đổi, phát triển, vận hành theo cơ chế
112
thị trường. Hoạt động bảo đảm nguồn, mua xắm vật chất, trang thiết bị, lương
thực, thực phẩm hậu cần vì thế thường xuyên chịu sự tác động nhiều mặt của
điều kiện kinh tế thị trường, với giá cả bấp bênh, nguồn cung không ổn định,
chất lượng hàng hóa, vệ sinh an toàn thực phẩm tiềm ẩn nhiều nguy cơ khó
lường. Những vấn đề nêu trên, đòi hỏi phải xây dựng được đội ngũ CBHC có
năng lực và phẩm chất ĐĐCM cao, mới có thể đảm đương trọng trách, hoàn
thành nhiệm vụ. Nhưng trên thức tế, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được
giao, đội ngũ CBHC thường xuyên tiếp xúc với vật chất, tài chính, nếu không
có cơ chế quản lý chặt chẽ, hoặc bản lĩnh chính trị không vững vàng, CBHC
dễ sa vào tham nhũng, lãng phí, đề cao lợi ích vật chất, sống thực dụng, vi
phạm nguyên tắc công tác hậu cần, phẩm chất chính trị và ĐĐCM. Đây là
thách thức không nhỏ trong công tác hậu cần hiện nay.
Những khó khăn nêu trên sẽ tác động sâu sắc đến sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc; đến nhận thức, tư tưởng, tình cảm của đội ngũ cán bộ
quân đội nói chung và đội ngũ CBHC nói riêng. Đây sẽ là những trở lực lớn
đối với công tác giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội
trong những năm tiếp theo.
4.1.2. Phương hướng đẩy mạnh giáo dục, rèn luyện đạo đức cách
mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội
4.1.2.1. Phương hướng chung
Quán triệt, thực hiện có hiệu quả quan điểm của Đảng về xây dựng
ĐĐCM cho đội ngũ cán bộ, đảng viên theo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII của Đảng. Trong quân đội tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, gắn với thực hiện cuộc
vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ
Hồ” và thực hiện phong trào “Ngành Hậu cần quân đội làm theo lời Bác Hồ
dạy”. Mỗi CBHC tích cực, tự giác tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng,
tăng cường đấu tranh, khắc phục những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, “lợi ích
nhóm”. Xây dựng đội ngũ cán bộ Hậu cần QĐNDVN có đủ đức, đủ tài, đáp
ứng yêu cầu cách mạng, nhiệm vụ xây dựng quân đội, sẵn sằng nhận và hoàn
thành tốt nhiệm vụ bảo đảm hậu cần trong điều kiện mới.
113
4.1.2.2. Phương hướng cụ thể
Một là, quán triệt, thực hiện có hiệu quả quan điểm của Đảng về xây
dựng ĐĐCM cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong giáo dục, rèn luyện đạo đức
cách mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội
Xây dựng ĐĐCM cho đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng là quan điểm
quan trọng, xuyên suốt trong sự nghiệp cách mạng của Đảng ta, đã được chủ tịch
Hồ Chí Minh xác lập, giáo dục, rèn luyện cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân.
Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đã nêu vấn đề: “Nâng cao đạo đức cách mạng,
chống chủ nghĩa cá nhân”; Đảng yêu cầu cán bộ, đảng viên phải hành động vì lợi
ích cách mạng, chứ không vì địa vị, tư lợi; phải là người trung thực, không giả
dối, nói ít làm nhiều, lời nói đi đôi với việc làm, nhìn thẳng vào sự thật, không
giấu giếm khuyết điểm và phẩm chất ấy phải được thường xuyên bồi dưỡng, rèn
luyện để không ngừng nâng cao năng lực, phẩm chất chính trị, ĐĐCM, lối sống
cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Trước yêu cầu mới của cách mạng, tại Đại hội XII Đảng ta đã bổ sung
và khẳng định quan điểm: “xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính
trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức”. Đây là căn cứ, cơ sở quan trọng để các cơ
quan, đơn vị trong quân đội thực hiện xây dựng tổ chức đảng ở cơ quan, đơn
vị mình trong sạch vững mạnh về đạo đức. Quán triệt, thực hiện quan điểm
của Đảng về xây dựng ĐĐCM cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong giáo dục,
rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội, đòi hỏi các cấp ủy, tổ chức
Đảng trong quân đội phải kiên trì bồi dưỡng, rèn luyện cho họ lý tưởng vì độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, và những chuẩn mực ĐĐCM cơ
bản, tiêu biểu của người CBHC Quân đội; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa”, tham nhũng, lãng phí trong cơ quan, đơn vị.
Hai là, đẩy mạnh thực hiện phong trào “Ngành Hậu cần quân đội làm
theo lời Bác Hồ dạy” góp phần tằng cường giáo dục, rèn luyện đạo đức cách
mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội
Ngành Hậu cần quân đội khi mới thành lập còn nhiều khó khăn vất vả,
thiếu thốn; một số cán bộ, chiến sĩ chưa hiểu hết vai trò, vị trí của công tác
hậu cần, coi công tác hậu cần là việc “bếp núc”, chỉ khao khát được chiến đấu
ngoài mặt trận. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư thăm hỏi, động viên cán bộ,
114
chiến sĩ ngành hậu cần và nhấn mạnh: “Công việc cung cấp cũng quan trọng
như việc trực tiếp đánh giặc trước mặt trận. Cung cấp đủ súng đạn, đủ cơm áo
cho bộ đội thì bộ đội mới đánh thắng trận” [109, tr.179]. Để xứng đáng với
tình cảm lớn lao của Bác Hồ kính yêu, cán bộ, chiến sĩ ngành Hậu cần quân
đội đã quán triệt sâu sắc tư tưởng của Người, vượt qua mọi khó khăn, gian
khổ, hy sinh hoàn thành tốt nhiệm vụ, góp phần to lớn vào thắng lợi của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày 14-3-1995 Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng đã ra chỉ thị phát động phong trào thi đua “Ngành Hậu cần quân đội
làm theo lời Bác Hồ dạy”. Từ đó đến nay, phong trào thi đua vẫn luôn luôn
được giữ vững, phát triển tốt và đạt hiệu quả cao.
Giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội là nhiệm vụ
chính trị quan trọng, để đạt hiệu quả cao, cần phải kết hợp chặt chẽ với thực
hiện cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ
đội Cụ Hồ”, và thực hiện các phong trào hành động cách mạng, nhất là phòng
trào “Ngành hậu cần quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy”, nhằm tạo nên sức
mạnh tổng hợp của tất cả đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhân viên, chiến sĩ trong
ngành Hậu cần cùng chung tay, góp sức thực hiện nhiệm vụ. Qua đó, làm
chuyển biến mạnh mẽ nhận thức, trách nhiệm trong tổ chức thực hiện phong
trào. Đồng thời, tăng cường rèn luyện, bồi dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức,
lối sống, tinh thần, thái độ, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, nhân
viên, chiến sĩ hậu cần đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ Hậu cần có đủ đức và tài, đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ bảo đảm hậu cần trong điều kiện mới, góp phần xây dựng Quân
đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại
Trong phẩm chất nhân cách của người CBHC, đức và tài là hai nhân tố
quan trọng nhất. Giáo dục, rèn luyện ĐĐCM cần phải được kết hợp chặt chẽ
với đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của CBHC.
Trong đó, ĐĐCM là cái “gốc” để cho tài năng được phát huy, phát triển. Theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh, đội ngũ cán bộ phải có đủ đức, đủ tài mới hoàn thành
được trọng trách mà Đảng và nhân dân giao cho. Có đức, không có tài làm
việc gì cũng khó; có tài, không có đức là người vô dụng, thậm chí có hại cho
sự nghiệp cách mạng. Đạo đức bao giờ cũng là cơ sở, nền tảng, và giữ vai trò
định hướng, là động lực thúc đẩy quá trình nâng cao trình độ mọi mặt của
người cán bộ. Để đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội và ngành Hậu cần quân
115
đội của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi người cán bộ quân đội nói chung,
đội ngũ CBHC nói riêng phải thực sự tài năng, có trí tuệ, tầm nhìn, tư duy sắc
sảo, năng lực nhận thức nhanh, trình độ tổ chức thực tiễn bảo đảm hậu cần
giỏi. Nhưng tài năng đó, chỉ có thể hình thành và phát triển trên nền tảng
vững chắc là ĐĐCM, và chỉ khi nào giữ vững ĐĐCM thì tài năng đó mới
được trọng dụng, thực sự có ý nghĩa, có giá trị đối với sự nghiệp xây dựng
quân đội và ngành Hậu cần.
Vì vậy, trong giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC, cấp ủy
các cấp và thủ trưởng các cơ quan, đơn vị hậu cần phải thường xuyên chăm lo
bồi dưỡng, nâng cao đạo đức, lối sống cách mạng; rèn luyện, phát triển phẩm
chất trí tuệ, bản lĩnh chính trị, niềm tin, sự vững vàng trong mọi tình huống.
Công tác giáo dục, rèn luyện ĐĐCM và bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên
môn của đội ngũ CBHC phải được tiến hành thường xuyên, liên tục với
những giải pháp đồng bộ, thiết thực, kịp thời; kết hợp chặt chẽ giữa công tác
tư tưởng, công tác tổ chức và công tác chính sách; giữa giáo dục, rèn luyện
với tự giáo dục, rèn luyện, nêu gương sáng về ĐĐCM. Đồng thời, lãnh đạo,
chỉ huy các cấp trong quân đội phải có chính sách cán bộ đúng đắn, kịp thời
và hiệu quả nhằm thu hút nhân tài, khuyến khích được nhiều CBHC có thực
đức, thực tài tham gia xây dựng quân đội, và ngành Hậu cần ngày một lớn
mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
4.2. GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐẨY MẠNH GIÁO DỤC, RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC
CÁCH MẠNG CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ HẬU CẦN QUÂN ĐỘI ĐẾN NĂM 2030
4.2.1. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của chủ thể và các lực
lượng tham gia giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của đội ngũ cán
bộ Hậu cần Quân đội
Đây là giải pháp đầu tiên, cơ bản, quan trọng, nhằm tạo nên sự thống
nhất về mặt nhận thức, làm cở sở để tổ chức tiến hành hoạt động giáo dục,
rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội trên thực tiễn theo đúng kế
hoạch, chương trình, đạt được mục đích, với chất lượng, hiệu quả cao .
Theo đó, cần thực hiện tốt một số nội dung, biện pháp sau:
Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ
chức đảng trong giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội
116
Cấp ủy, tổ chức Đảng các cấp có vai trò quan trọng hàng đầu trong lãnh
đạo toàn diện, chỉ đạo cơ quan, đơn vị thực hiện mọi nhiệm vụ chính trị. Nhận
thức đúng đắn của cấp ủy, tổ chức Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm cho
hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội đạt chất
lượng, hiệu quả. Vì vậy, để nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, tổ
chức Đảng các cấp về giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC, đòi hỏi
mỗi cấp ủy viên, đảng viên trong tổ chức đảng các cấp, trước hết là bí thư, phó
bí thư cấp ủy của cơ quan, đơn vị hậu cần phải tự xây dựng cho mình có nhận
thức chính trị đúng đắn về vai trò của ĐĐCM, mối quan hệ chặt chẽ giữa đạo
đức và năng lực (đức và tài); vai trò ĐĐCM của người CBHC trong thực hiện
nhiệm vụ và tính cấp thiết phải giáo dục, rèn luyện ĐĐCM cho đội ngũ CBHC
hiện nay. Đồng thời phải thường xuyên nghiên cứu nắm chắc về nghị quyết, chỉ
thị, kế hoạch, chương trình, nội dung, biện pháp công tác giáo dục, rèn luyện
ĐĐCM; thường xuyên tự tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống;
gương mẫu thực hành cần, kiệm, liêm, chính trong công tác, sinh hoạt, hoạt
động bảo đảm hậu cần; tự giác học tập nắm chắc lý luận, quan điểm, đường lối,
chủ trương, phương hướng, mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ thời kỳ mới.
Bên cạnh đó, các cấp ủy, tổ chức Đảng phải nắm chắc chất lượng từng
đảng viên là CBHC, nhất là những ưu điểm, hạn chế, khuyết điểm của họ; nắm
chắc nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của cấp trên, để đề ra chủ trương, biện pháp
lãnh đạo giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC sát đúng. Không ngừng
chăm lo xây dựng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của cấp ủy, tổ
chức đảng; phát huy vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, tăng cường kiểm tra cấp dưới
trong xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, và công tác giáo dục, rèn
luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC.
Hai là, cơ quan chính trị và đội ngũ cán bộ các cấp nêu cao nhận thức,
phát huy trách nhiệm xây dựng kế hoạch sát đúng và tổ chức thực hiện tốt việc
giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội.
Với chức năng, nhiệm vụ được giao, cơ quan chính trị và đội ngũ cán
bộ chính trị có vai trò đặc biệt quan trọng trong tổ chức thực hiện sự lãnh đạo
của Đảng đối với quân đội. Đây là lực lượng quan trọng, trực tiếp góp phần
xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, quyết định đến chất lượng, hiệu
117
quả quá trình giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội. Vì
vậy, phải quan tâm nâng cao nhận thức, phát huy trách nhiệm của cơ quan
chính trị và đội ngũ cán bộ chính trị trong tổ chức thực hiện tốt nhiêm vụ giáo
dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC. Trước hết, cần xây dựng cho lực
lượng này có nhận thức sâu sắc về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của việc giáo
dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC. Làm cơ sở phát huy trách nhiệm
của họ trong xây dựng kế hoạch, xác định chủ trương biện pháp giúp cấp ủy,
tổ chức đảng lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt việc giáo dục, rèn luyện ĐĐCM.
Trong đó, cần tập trung vào một số nội dung, biện pháp như:
Kiện toàn biên chế tổ chức của cơ quan chính trị các cấp, phát huy vai
trò, nâng cao chất lượng công tác tham mưu cho cấp ủy, người chỉ huy hoạch
định kế hoạch, chương trình giáo dục chính trị hằng năm đúng, trúng, sát thực
tiễn nhiệm vụ đơn vị. Cơ quan chính trị thường xuyên đôn đốc các cơ quan,
đơn vị hậu cần, CBHC bám sát chủ trương, nghị quyết của cấp ủy, kế hoạch
của người chỉ huy tổ chức triển khai, hướng dẫn và giúp đỡ các đơn vị hậu cần
tiến hành có hiệu quả các hoạt động CTĐ, CTCT trong giáo dục, rèn luyện
ĐĐCM của đội ngũ CBHC. Tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc và tổ chức
tốt các đợt sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm thực hiện giáo dục, rèn luyện
ĐĐCM của đội ngũ CBHC chặt chẽ, nghiêm túc. Thông qua đó, nâng cao trách
nhiệm của cơ quan chính trị nhằm duy trì hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM
cho đội ngũ CBHC trở thành nền nếp và có chất lượng, hiệu quả cao.
Thường xuyên kiện toàn cơ quan chính trị, biên chế đội ngũ cán bộ
chính trị có đủ số lượng, chất lượng ngày càng cao và cơ cấu hợp lý. Trước
hết, cần coi trọng việc lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chính trị
có lập trường, quan điểm chính trị vững vàng, trung thành với Đảng, với Tổ
quốc và nhân dân, có phẩm chất và năng lực toàn diện. Đồng thời, tích cực
đổi mới phong cách làm việc, thực hiện tốt các chế độ công tác của cơ quan
chính trị và cán bộ chính trị. Trong đó, việc giáo dục, rèn luyện ĐĐCM cho
đội ngũ CBHC của người cán bộ chính trị phải có kế hoạch cụ thể, tỷ mỉ, phù
hợp đặc điểm nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị hậu cần; đề cao tính giáo dục
thuyết phục, nêu gương, kết hợp thực hiện dân chủ với đề cao kỷ luật, nêu cao
tinh thần tự phê bình, phê bình, luôn đi sâu, đi sát thực tế, làm việc có kiểm
tra, nghiên cứu cụ thể, thiết thực.
118
Tăng cường bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chính trị về đức, tài, trang bị kỹ
năng, kinh nghiệm quản lý giáo dục, xây dựng đức khiêm tốn, tác phong sâu
sát, dân chủ; đặc biệt cần bồi dưỡng cho họ nắm vững lý luận chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm xây
dựng đạo đức của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật quân đội;
bồi dưỡng về phẩm chất đạo đức cách mạng, ý chí chiến đấu kiên cường, ý thức
tổ chức kỷ luật cao, tích cực, tự giác, năng động, sáng tạo trong tổ chức các hoạt
động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM, để họ thực sự là nhân cách mẫu mực về giác
ngộ chính trị, làm tấm gương có sức thuyết phục cao trong giáo dục, rèn luyện
ĐĐCM cho đội ngũ CBHC.
Ba là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của HVHC, và các học viện, nhà
trường tham gia giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội
Hiện nay, trước yêu cầu xây dựng quân đội “cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại”, đặc biệt nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới đặt ra yêu cầu ngày càng cao trong
công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ sĩ quan trong quân đội nói chung và
công tác đào tạo, bồi dưỡng CBHC các cấp tại HVHC và ở các học viện, nhà
trường, cơ sở tham gia bồi dưỡng cán bộ trong quân đội nói riêng. Để đẩy mạnh
giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội, trước hết cần nâng cao
nhận thức, phát huy vai trò trách nhiệm của Học viện Hậu cần, và các học viện,
nhà trường, cơ sở tham gia bồi dưỡng cán bộ, tập trung quán triệt, thực hiện có
hiệu quả Nghị quyết 86-NQ/ĐUQSTƯ về “Công tác giáo dục, đào tạo trong tình
hình mới”; Nghị quyết 29-NQ/TƯ, Hội nghị Trung ương 8 (Khóa XI) về “Đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện
đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế”; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ quân đội lần thứ X, và nhiệm vụ của
Nhà nước, quân đội giao cho.
Phát huy tốt vai trò của các học viện, nhà trường, trước hết là trách nhiệm
của HVHC trong đào tạo, bồi dưỡng CBHC các cấp. Trong đó, cần tập trung
quán triệt sâu sắc nhiệm vụ của QUTƯ, Bộ Quốc phòng giao, tiếp tục hoàn thiện
mô hình, mục tiêu, yêu cầu đào tạo; đổi mới nội dung, chương trình đào tạo cho
các đối tượng, tăng cường giáo dục, rèn luyện ĐĐCM cho đội ngũ cán bộ, học
119
viên cả trên lớp cũng như trong thực hiện nhiệm vụ tại đơn vị; đổi mới, hoàn
thiện các phương thức giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng CBHC theo hướng khắc
phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học
trong quá trình giáo dục; xây dựng đội ngũ nhà giáo, nhất là giảng viên khoa học
xã hội nhân văn theo hướng chuẩn hóa, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng
giáo dục, đào tạo; phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ quản lý - “người thầy thứ
hai” trực tiếp giáo dục, rèn luyện toàn diện đối với học viên đào tạo CBHC; chú
trọng giáo dục cho học viên nắm chắc phương châm “học đi đôi với hành”, “lý
luận gắn với thực tiễn”, “nhà trường gắn với đơn vị”, giúp người học tích cực,
say mê học tập, nghiên cứu để nắm vững tri thức, từng bước phát triển hoàn
thiện ĐĐCM, nhân cách người CBHC Quân đội.
Trong quá trình giáo dục, đào tạo, HVHC, và các học viện, nhà trường, cơ
sở tham gia bồi dưỡng CBHC phải cần phát huy vai trò, trách nhiệm chủ động
phối hợp chặt chẽ với nhau và phối hợp với đơn vị, địa phương và gia đình quản
lý, rèn luyện mọi mặt đối với đội ngũ CBHC; nắm chắc diễn biến tư tưởng, hoàn
cảnh gia đình, đi sâu quản lý chặt chẽ các khâu, các bước trong quá trình học tập,
rèn luyện ĐĐCM, tác phong công tác, lối sống, kịp thời động viên đội ngũ
CBHC phấn đấu học tập tốt, rèn luyện nghiêm, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi
nhiệm vụ. Thường xuyên làm tốt công tác sơ kết, tổng kết, rút ra những bài học
kinh nghiệm trong công tác giáo dục, đào tạo nói chung, giáo dục, rèn luyện
ĐĐCM của đội ngũ CBHC nói riêng, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, bồi
dưỡng CBHC các cấp trong thời gian tới.
Bốn là, phát huy vai trò của tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh và Hội đồng quân nhân tham gia đẩy mạnh giáo dục, rèn luyện ĐĐCM
của đội ngũ CBHC Quân đội
Chi đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức quần chúng
được thành lập ở các cơ quan, đơn vị trong quân đội, là nơi trực tiếp giáo dục
và rèn luyện cán bộ, nhân viên, chiến sĩ trong tuổi đoàn; tham gia xây dựng
đội ngũ cán bộ. Do vậy, chi đoàn có vai trò rất quan trọng trong tham gia giáo
dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC. Để phát huy vai trò của mình trong
giáo dục, rèn luyện ĐĐCM, tổ chức đoàn ở cơ quan, đơn vị hậu cần phải làm
tốt một số nội dung sau:
120
Thường xuyên giáo dục cho đội ngũ CBHC đang tham gia sinh hoạt
đoàn nắm chắc chủ trương đường lối của Đảng, Hiến pháp, pháp luật Nhà
nước, Điều lệnh, điều lệ của quân đội. Không ngừng nâng cao nhận thức trách
nhiệm, tích cực tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; tổ
chức nghiêm túc và chặt chẽ các hoạt động đoàn và phong trào thanh niên,
hướng mọi hoạt động thi đua, xung kích của đoàn vào thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ bảo đảm hậu cần, xây dựng nếp sống chính quy, chấp hành pháp
luật, kỷ luật, tu dưỡng ĐĐCM, phẩm chất chính trị, lối sống.
Những tổ chức đoàn thanh niên được thành lập ở cơ quan, đơn vị hậu cần
phải có chủ trương, biện pháp nâng cao chất lượng công tác đoàn và phong trào
thanh niên. Trong đó, cần chú ý duy trì sinh hoạt đúng chế độ, nền nếp và có
chất lượng; trong mọi điều kiện hoàn cảnh: huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu,
chiến đấu, lao động sản xuất... phải luôn đề cao tinh thần tự phê bình và phê
bình của mọi đoàn viên, nhằm kịp thời động viên họ đóng góp ý kiến đánh giá
chất lượng thực hiện công tác chuyên môn và việc học tập, rèn luyện, giữ gìn
phẩm chất đạo đức, lối sống của đội ngũ CBHC. Thông qua hoạt động thi đua,
xung kích thực hiện nhiệm vụ chính trị của tổ chức đoàn để xây dựng cho đội
ngũ CBHC động cơ phấn đấu, rèn luyện đúng đắn, thấy rõ vinh dự trách nhiệm
của một cán bộ - đoàn viên thanh niên với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Từ đó, tạo nên tinh thần tự nguyện, tự giác học tập, rèn luyện ĐĐCM,
nâng cao trình độ chuyên môn, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Hội đồng quân nhân là tổ chức bảo đảm quyền dân chủ cho mọi quân
nhân trong các cơ quan, đơn vị của quân đội. Để phát huy vai trò trong giáo
dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC, chủ tịch và các uỷ viên Hội đồng
quân nhân cần nắm chắc chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, hình thức hoạt
động, chế độ sinh hoạt và các mối quan hệ của Hội đồng quân nhân. Định kỳ
và theo yêu cầu của cấp uỷ, người chỉ huy xác định kế hoạch để Hội đồng
quân nhân tổ chức các buổi sinh hoạt dân chủ (dân chủ kinh tế; chính trị;
quân sự; bảo đảm đời sống hậu cần, kỹ thuật, văn hóa tinh thần...) trong đơn
vị, nhất là dân chủ về kinh tế, bảo đảm hậu cần - nhiệm vụ thường xuyên của
đội ngũ CBHC tổ chức thực hiện. Thông qua đó, để mọi quân nhân thảo
121
luận, bàn bạc, bày tỏ quan điểm, chính kiến của mình về số lượng, chất
lượng bảo đảm bữa ăn; bảo đảm tiêu chuẩn tài chính, quân trang, quân dụng,
lương thực, thực phẩm, thuốc men, chăm sóc sức khỏe, xăng xe cho thực
hiện nhiệm vụ; góp ý, phê bình về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống,
năng lực chuyên môn của đội ngũ CBHC. Từ đó, kịp thời phát hiện những
biểu hiện, hành vi vi phạm dân chủ, tham nhũng, lãng phí, bớt xén tiêu
chuẩn bộ bội, vi phạm pháp luật, kỷ luật của CBHC để cấp ủy, chỉ huy có
biện pháp quản lý, xử lý đúng quy định, không để thất thoát, lãng phí. Đây là
hoạt động dân chủ của tập thể quân nhân, thực hiện tốt hoạt động này sẽ trực
tiếp góp phần đẩy mạnh giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC để
đội ngũ CBHC không sa vào chủ nghĩa cá nhân, luôn luôn giữ mình trong
sạch, có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
4.2.2. Xác định chuẩn mực đạo đức cách mạng của từng loại cán bộ
Hậu cần Quân đội hiện nay
Chuẩn mực ĐĐCM của đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng nói chung,
và hình mẫu về đạo đức của người cán bộ, sĩ quan trong quân đội nói riêng đã
được Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta xác định rất rõ, và tổ chức giáo dục, rèn
luyện thường xuyên trên thực tiễn. Trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, những giá trị, chuẩn mực về đạo đức xã hội
đã có những biến đổi nhất định phù hợp với điều kiện mới. Để đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ: “Xây dựng ngành Hậu cần Quân đội vững mạnh toàn diện theo
hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, làm nòng cốt cho
hậu cần quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân trong xây dựng thế trận
hậu cần và bảo đảm hậu cần” [22, tr.2], đội ngũ CBHC phải được xây dựng
toàn diện về phẩm chất và năng lực. Trong đó, cần xác định rõ ràng hơn, cụ
thể hơn những nội dung, yêu cầu thuộc về chuẩn mực ĐĐCM đối với từng
loại CBHC, làm cơ sở để lãnh đạo, chỉ huy các cấp, các học viện, nhà trường,
các cơ quan, đơn vị hậu cần trong toàn quân tổ chức các hoạt động giáo dục,
rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC đạt chất lượng, hiệu quả cao, xây dựng
đội ngũ CBHC Quân đội vững mạnh, đủ sức hoàn thành tốt nhiệm vụ hậu cần
quân đội thời kỳ mới.
122
4.2.2.1. Những chuẩn mực chung, tiêu biểu về đạo đức cách mạng
của đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội hiện nay
Nghiên cứu khách quan, toàn diện về quá trình hình thành, tồn tại,
phát triển ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội; căn cứ vào những tiêu
chuẩn, chuẩn mực đạo đức của người cán bộ, đảng viên, chiến sĩ cách
mạng, cán bộ trong lực lượng vũ trang mà Đảng ta đã quy định. Nhất là
hình mẫu, tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ, đảng viên, chiến sĩ cách
mạng thời kỳ mới đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (6-1996)
của Đảng xác định; Quy định 101-QĐ/TW, ngày 07-6-2012, “Về trách
nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt
các cấp”, và chuẩn mực ĐĐCM được Ban Chấp hành Trung ương (khóa
XII) chỉ ra trong Quyết định số 89-QĐ/TW, ngày 04-8-2017, về “Khung
tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo,
quản lý các cấp”... Theo đó, có thể chỉ ra những chuẩn mực chung nhất về
ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội hiện nay như sau:
Một là, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng, sẵn sàng chiến
đấu hy sinh bảo vệ Đảng, bảo vệ Tổ quốc và nhân dân;
Hai là, gương mẫu chấp hành nghị quyết, chỉ thị, kỷ luật Đảng, các
quyết định, sự phân công, điều động của tổ chức; chấp hành nghiêm pháp luật
Nhà nước, kỷ luật quân đội, quy định của cơ quan, đơn vị;
Ba là, tích cực, tự giác thực hiện cần, kiệm, liêm, chính; sống khiêm
tốn, giản dị, trong sạch, lành mạnh; tích cực đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi
những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa”, tư tưởng bè phái, cục bộ, cơ hội, thực dụng, “lợi ích
nhóm” ở cơ quan, đơn vị hậu cần;
Bốn là, gần gũi, thương yêu, quan chăm lo đời sống vật chất, tinh thần,
tận tâm, tận lực phục vụ bộ đội; chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám
chịu trách nhiệm, nói đi đôi với làm; thực hiện đúng nguyên tắc, chế độ quy
định, hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo đảm hậu cần trong mọi tình huống;
Năm là, tăng cường đoàn kết nội bộ; tự phê bình và phê bình thường
xuyên, tự giác, trung thực, chân thành, công tâm; khi có khuyết điểm phải
nhận khuyết điểm và phải có kế hoạch sửa chữa;
123
Sáu là, chân thành giúp đỡ, bảo vệ uy tín, danh dự chính đáng của đồng
chí, đồng đội trong công tác hậu cần và trong cuộc sống; không tranh công,
đổ lỗi, né tránh, đùn đẩy trách nhiệm, khuyết điểm cho người khác;
Bẩy là, chủ động học tập, nghiên cứu, làm chủ khoa học kỹ thuật hậu cần;
tích cực tăng gia, sản xuất, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tham nhũng;
Tám là, tích cực tham gia xây dựng tổ chức đảng, chính quyền và các tổ
chức chính trị - xã hội nơi công tác và nơi cư trú; kiên quyết đấu tranh chống các
biểu hiện chia rẽ, bè phái, gây mất đoàn kết nội bộ và trong nhân dân.
4.2.2.2. Chuẩn mực đạo đức cách mạng cụ thể của từng loại cán bộ
Hậu cần Quân đội hiện nay
Những chuẩn mực đạo đức nêu trên là giá trị căn bản nhất trong chuẩn
mực ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội, đòi hỏi mỗi CBHC phải thường
xuyên tự tu dưỡng, rèn luyện, phát huy trong quá trình công tác. Đồng thời,
do tính chất hoạt động hậu cần quân sự, mỗi loại CBHC Quân đội có những
phẩm chất đặc trưng, tiêu biểu, nổi bật trong ĐĐCM của mình, là cơ sở tạo
điều kiện thuận lợi giúp họ hoàn thành nhiệm vụ được giao. Vì vậy, ngoài
những giá trị chuẩn mực ĐĐCM chung đó, có thể chỉ ra chuẩn mực đạo đức
cách mạng cụ thể của từng loại cán bộ Hậu cần Quân đội hiện nay như sau:
Một là, đối với đội ngũ cán bộ chủ trì cơ quan, đơn vị hậu cần
Đội ngũ cán bộ chủ trì cơ quan, đơn vị hậu cần là đội ngũ chủ nhiệm,
phó chủ nhiệm hậu cần các cấp trong toàn quân (chủ nhiệm, phó chủ nhiệm
hậu cần cấp trung, sư đoàn và tương đương; cấp quân đoàn, quân khu và tương
đương). Chất lượng xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, xây
dựng cơ quan, đơn vị hậu cần vững mạnh toàn diện, hoàn thành tốt mọi nhiệm
vụ được giao phụ thuộc và được quyết định bởi sự trong sạch, vững mạnh của
đội ngũ cán bộ chủ trì cơ quan, đơn vị hậu cần, trước hết là vững mạnh về đạo
đức. Căn cứ vào chuẩn mực ĐĐCM chung của đội ngũ CBHC Quân đội, và
chức trách, nhiệm vụ của chủ nhiệm, phó chủ nhiệm hậu cần các cấp, có thể chỉ
ra một số yêu cầu thuộc về chuẩn mực ĐĐCM cơ bản của đội ngũ cán bộ chủ
trì cơ quan, đơn vị hậu cần là:
124
- Tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc; tuyên truyền, vận động, giúp
đỡ, gắn bó mật thiết và phát huy vai trò của nhân dân trong công tác hậu cần;
- Thực sự tiêu biểu về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; có lối
sống trong sạch, lành mạnh, không tham nhũng, lãng phí, và kiên quyết đấu
tranh chống tham nhũng, lãng phí;
- Khiêm tốn, trung thực, giản dị; gần gũi, tôn trọng, thường yêu, đùm bọc
cấp dưới, gắn bó với cơ quan, đơn vị;
- Nêu gương sáng về tinh thần đoàn kết thống nhất trong cấp ủy, chỉ
huy và trong đơn vị; phát huy dân chủ, tự phê bình và phê bình trung thực,
thẳng thắn, nghiêm túc, hiệu quả;
- Tích cực đi đầu trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong nội bộ; sẵn sàng nhận và chịu trách nhiệm trước cấp trên khi tổ chức, cơ
quan, đơn vị hậu cần do mình phụ trách xảy ra tiêu cực và quyết tâm sửa
chữa, khắc phục;
- Chấp hành nghiêm Cương lĩnh chính trị, Điều lệ, quy định của Đảng,
pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội, các quy chế, quy định trong công tác hậu
cần; tập trung lãnh đạo, chỉ đạo cơ quan, đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo
đảm hậu cần trong mọi tình huống.
Đối với CBHC Quân đội, trong thư gửi Lớp Cán bộ cung cấp đầu tiên
của Đảng (6-1951), Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Cán bộ cung cấp càng
phải làm kiểu mẫu cần, kiệm, liêm, chính” [123, tr.180], để cải chính dư luận,
bảo rằng cán bộ cung cấp thường hủ hoá. Vì vậy, trong điều hiện nay, đòi hỏi
đội ngũ cán bộ chủ trì cơ quan, đơn vị hậu cần phải thực hiện tốt những chuẩn
mực ĐĐCM nêu trên, sẽ tạo nên uy tín, vị thế của người cán bộ chỉ huy, người
đứng đầu cơ quan, đơn vị hậu cần; giúp họ luôn kiên định, vững vàng trước
mọi khó khăn, thử thách, quyết đoán, sáng tạo tổ chức chỉ huy đơn vị thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ bảo đảm hậu cần trong mọi tình huống.
Hai là, đối với cán bộ Tham mưu hậu cần
Cán bộ Tham mưu hậu cần, do tính chất, yêu cầu nhiệm vụ của người
cán bộ làm công tác tham mưu, ngoài những chuẩn mực ĐĐCM chung như
đã làm rõ ở trên, đòi hỏi cán bộ tham mưu hậu cần phải: “Nắm vững
125
nguyên tắc, quy chế, quy định, ý định của chỉ huy, nhiệm vụ được giao;
phát huy trí tuệ, tham mưu trúng, đúng; gương mẫu, tận tụy, kiên quyết,
mưu trí, dũng cảm nhận và thực hiện tốt nhiệm vu bảo đảm hậu cần trong
mọi tình huống”. Đây vừa là yêu cầu, vừa là phẩm chất đạo đức quan trọng,
tiêu biểu trong chuẩn mực ĐĐCM của cán bộ tham mưu hậu cần quân đội.
Đòi hỏi đội ngũ cán bộ tham mưu hậu cần phải thường xuyên tu dưỡng, rèn
luyện, nâng cao phẩm chất, năng lực toàn diện, để thường xuyên nắm vững
các chế độ, tiêu chuẩn, quy định, nhiệm vụ, ý định của chủ nhiệm hậu cần;
nghiên cứu tổng hợp toàn diện tình hình hậu cần đơn vị và các yếu tố có
liên quan, kịp thời tham mưu, đề xuất chủ trương, kế hoạch và phương án
xử trí các tình huống hậu cần với chủ nhiệm hậu cần, bảo đảm hoàn thành
tốt chức trách, nhiệm vụ được giao.
Trong chiến đấu, cán bộ Tham mưu hậu cần là người sẵn sàng thay thế
người chỉ huy hậu cần khi cần thiết, nên phải luôn luôn gương mẫu, nêu cao
tinh thần kiên quyết, mưu trí, dũng cảm, không nản trí, lùi bước trước mọi khó
khăn, thử thách; sáng suốt, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, sẵn sàng
chiến đấu, hy sinh vì nhiệm vụ. Trong chiến đấu, người cán bộ Tham mưu hậu
cần nếu không kiên quyết, mưu trí, dũng cảm thì không thể tham mưu trúng,
đúng kế hoạch bảo đảm hậu cần chiến đấu với chỉ huy đơn vị, và không thể
giúp chỉ huy triển khai, tổ chức phục vụ chiến đấu và chiến thắng được.
Ba là, đối với cán bộ Quân nhu
Hoạt động thực hiện nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ Quân nhu luôn gắn liền
với công tác bảo đảm đời sống vật chất thiết yếu nhất, hàng ngày của bộ đội.
Nhiệm vụ đó đặt ra yêu cầu cao về ý thức, trách nhiệm, thái độ của người làm
công tác phục vụ. Do đó, bên cạnh những chuẩn mực ĐĐCM chung, có thể chỉ
ra một số yêu cầu cụ thể thuộc về chuẩn mực ĐĐCM của đội ngũ cán bộ quân
nhu là: “Tự lực tự cường, khắc phục khó khăn, sống liêm khiết, tiết kiệm, thương
yêu đồng chí, tận tâm, tận lực, hết lòng phục vụ bộ đội”.
Hoạt động bảo đảm Quân nhu, với những đặc điểm phải thức khuya,
dậy sớm, đi trước, lo trước nhằm bảo đảm đầy đủ, kịp thời cho bộ đội, không
kể điều kiện thời tiết khó khăn, khắc nghiệt, sự ác liệt trong chiến đấu. Trong
mọi điều kiện, hoàn cảnh, đặc biệt ở địa bàn vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải
đảo, đội ngũ cán bộ quân nhu phải chủ động khắc phục khó khăn, thiếu thốn,
126
phát huy bản lĩnh tự lực, tự cường, trí sáng tạo, tham mưu với cấp ủy, chỉ huy
đơn vị xây dựng kế hoạch chuẩn bị nguồn lương thực, thực phẩm; tận dụng
điều kiện phương tiện, vật chất, nguồn lực sẵn có của đơn vị tổ chức tăng gia,
lao động sản xuất để bảo đảm đời sống cho bộ đội.
Đồng thời, trong công tác phục vụ, đội ngũ cán bộ Quân nhu phải thực
sự “thương yêu đồng chí, tận tâm, tận lực, hết lòng phục vụ bộ đội”. Đây là
biểu hiện đức “tâm” cao quý của người cán bộ làm công tác phục vụ, luôn
hướng tới đối tượng được phục vụ (bộ đội) để tổ chức phục vụ kịp thời nhất,
chu đáo, đầy đủ nhất; phải xuất phát từ tình cảm trong sáng và cao quý nhất, đó
là tình cảm đồng chí, đồng đội - “bình nhì phải thương yêu bình nhì”, “cán bộ
cung cấp như người mẹ, người chị của binh nhì” để phục vụ. Vì vậy, đòi hỏi
mỗi cán bộ quân nhu phải nêu cao trách nhiệm, thường xuyên đùm bọc, thương
yêu đồng chí, tận tâm, tận lực, hết lòng phục vụ bộ đội.
Bốn là, đối với cán bộ Vận tải
Đối với cán bộ Vận tải, nhân ngày ngành hậu cần quân đội tổ chức
hội nghị lái xe giỏi và thợ sửa chữa xe giỏi toàn quân (5-8-1968). Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã căn dặn ngành xe quân sự: “Lời tặng ngành xe quân sự:
Yêu xe như con. Quý xăng như máu. Vượt mọi khó khăn. Hoàn thành
nhiệm vụ” [117 tr.485]. Lời căn dặn của Chỉ tich Hồ Chí Minh đã trở thành
giá trị, chuẩn mực đạo đức quan trọng hàng đầu để mỗi cán bộ vận tải học
tập, rèn luyện, phấn đấu vươn lên. Trong điều kiện hiện nay, ngoài những
giá trị chuẩn mực ĐĐCM chung như đã nêu ở trên, để hoàn thành tốt
nhiệm vụ của mình, yêu cầu đội ngũ cán bộ vận tải phải thực sự “Yêu xe
như con, đoàn kết tốt, kỷ luật nghiêm, mưu trí, dũng cảm, sáng tạo, quyết
tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ”. Đây là những chuẩn mực ĐĐCM tiêu biểu,
nổi bật của cán bộ vận tải, giữ vai trò nền tảng tạo nên phẩm chất nhân
cách, quyết định chất lượng, khả năng hoàn thành nhiệm vụ của họ.
Những chuẩn mực ĐĐCM của đội ngũ cán bộ Vận tải biểu hiện thái độ
tận tâm với công việc và phương tiện được giao cho mình quản lý để phục vụ
bộ đội. Đó là, phải chăm sóc, bảo quản xe như chính con cái của mình, phải
coi đó là tài sản quý giá nhất của bản thân, của tổ chức để hết lòng, hết sức
yêu quý, giữ gìn, không để hỏng hóc phương tiện, mất mát vật chất, trang bị.
Đồng thời, sẵn sàng hy sinh thân mình để bảo vệ xe cộ, phương tiện vận tải;
đi đúng, đến đủ, đảm bảo an toàn tuyệt đối về người và phương tiện, hàng
hóa, vật chất khi thực hiện nhiệm vụ.
127
Trong hoạt động vận tải quân sự, đội ngũ cán bộ Vận tải là lực lượng
trực tiếp xây dựng, bảo vệ các tuyến đường vận tải; chuẩn bị và thực hiện kế
hoạch vận chuyển con người, hàng hóa, lương thực, thực phẩm, vũ khí, trang
bị… Họ thực hiện nhiệm vụ đó trong điều kiện lực lượng phân tán, địa hình
phức tạp, xa chỉ huy, nhiệm vụ liên tục được bổ sung, đòi hỏi tình thần độc
lập, sáng tạo rất cao. Trong chiến đấu, lực lượng vận tải là mục tiêu đánh
phá trọng điểm của địch, mục tiêu thường lộ diện, ít có điều kiện bảo đảm bí
mật…vv, đòi hỏi đội ngũ cán bộ Vận tải phải có bản lĩnh vững vàng, gan dạ,
không sợ hy sinh, và phải nêu cao tinh thần đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn
nhau, mưu trí, dũng cảm, quyết tâm khắc phục khó khăn, thách thức vươn
lên hoàn thành nhiệm vụ.
Năm là, đối với cán bộ Xăng dầu
Đối với cán bộ Xăng dầu quân đội, vì tính chất vô cùng quan trọng của
xăng dầu đối với hoạt động quân sự, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ
ngành Xăng dầu quân đội phải luôn nêu cao tinh thần, trách nhiệm trong thực
hiện nhiệm vụ, Bác căn dặn: “…Xăng là mồ hôi, nước mắt, xương máu của
nhân dân. Các chú phải … quý xăng như máu” [109, tr.58], và phải “tiết kiệm
xăng để phục vụ bộ đội” [109, tr.58]. Xem xét khách quan, toàn diện quá trình
hình thành, phát triển ĐĐCM của đội ngũ cán bộ xăng dầu, có thể chỉ ra, ngoài
những chuẩn mực ĐĐCM chung như đã làm rõ ở trên, trong điều kiện hiện
nay, yêu cầu đội ngũ cán bộ Xăng dầu phải: “Thực hành lối sống trong sạch,
lành mạnh, bí mật, tiết kiệm, quý xăng như máu; chống thất thoát, lãng phí,
nâng cao hiệu quả sử dụng xăng dầu”.
Những chuẩn mực ĐĐCM tiêu biểu của đội ngũ cán bộ Xăng dầu được
quy định bởi tính chất nhiệm vụ của người cán bộ xăng dầu - lực lượng trực
tiếp quản lý, bảo quản, phân phối, bảo đảm xăng dầu (loại nguyên, nhiên liệu
đặc biệt, được ví như “vàng đen” của mỗi quốc gia) cho các đơn vị trong toàn
quân. Trong khi đó việc khai thác, chế xuất, nhập khẩu xăng dầu để phục vụ
phát triển kinh tế, quốc phòng… còn rất nhiều khó khăn. Vì vậy, trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ, đòi hỏi đội ngũ cán bộ Xăng dầu phải tự giác thực
hiện nghiêm các nguyên tắc, chế độ công tác, nhất là việc phân cấp bảo đảm
với phân cấp quản lý; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đẩy mạnh thực
hiện tiết kiệm, “chống thất thoát, lãng phí, nâng cao hiệu quả sử dụng xăng
dầu” ở tất cả các khâu trong quy trình bảo đảm nhiên liệu; tích cực, chủ động
128
xây dựng lối sống trong sạch, lành mạnh, không có tư tưởng hoặc hành vi lợi
dụng chức vụ, quyền hạn để thu vén lợi ích cá nhân, hay tham nhũng, lãng phí
tài sản xăng dầu của Nhà nước, của quân đội, nhân dân. Đẩy mạnh phong trào
thi đua “Quản lý, sử dụng xăng dầu an toàn, tiết kiệm, hiệu quả”. Đồng thời,
phải tuyệt đối giữ gìn “bí mật”, nhất là bí mật về kho, trạm xăng dầu, hệ thống
đường ống, trữ lượng, chất lượng xăng dầu trong cả thời bình và thời chiến,
không để kẻ địch lợi dụng phá hoại, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ bảo đảm
nhiên liệu cho các đơn vị bộ đội thực hiện nhiệm vụ.
Sáu là, đối với cán bộ Doanh trại
Đối với cán bộ Doanh trại, ngoài những chuẩn mực ĐĐCM chung như
đã nêu ở trên, có thể chỉ ra một số yêu cầu đặc trưng, nổi bật thuộc về chuẩn
mực ĐĐCM của đội ngũ cán bộ Doanh trại là: “Làm việc độc lập, tự giác, chủ
động, sáng tạo; bảo đảm đầy đủ, công bằng, thiết thực, hiệu quả; làm chủ
khoa học kỹ thuật”.
Đội ngũ cán bộ Doanh trại là lực lượng trực tiếp xây dựng kế hoạch, tổ
chức thực hiện nhiệm vụ xây dựng công trình, quản lý nhà đất, bảo đảm doanh
trại, doanh cụ, dụng cụ sinh hoạt, các phương tiện thắp sáng, điện, nước sinh
hoạt, phòng chống cháy nổ, bão lụt… những hoạt động đó là nhiệm vụ thường
xuyên, liên quan trực tiếp đến bảo đảm nơi ăn, nghỉ, sinh hoạt, học tập, lao
động, công tác, là nhu cầu thiết yếu hằng ngày của bộ đội; nếu chất lượng bảo
đảm thấp, sẽ ảnh hưởng tới sức khỏe của bộ đội, khả năng sẵn sàng chiến đấu
và chiến đấu của quân đội.
Để thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được giao đòi hỏi đòi hỏi đội ngũ
cán bộ Doanh trại phải chủ động, tự giác nhận và thực hiện nhiệm vụ, nhất là
trong thiết kế, thi công các công trình quân sự, yêu cầu phải làm việc độc lập,
sáng tạo, nghiêm túc, bí mật để tạo ra những sản phẩm xây dựng phục vụ tốt
nhất cho huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu, phù hợp với đặc điểm
thời tiết, khí hậu, và nhiệm vụ của mỗi đơn vị. Trong quá trình thực hiện nhiệm
vụ bảo đảm, không được phân biệt giữa cán bộ với chiến sĩ, cán bộ cấp trên với
cán bộ cấp dưới… luôn bảo đảm đúng, đủ, công bằng theo tiêu chuẩn, chế độ
của từng đối tượng. Đồng thời, mỗi cán bộ phải tự giác tự học tập, nghiên cứu
nâng cao trình độ, nắm bắt khoa học kỹ thuật xây dựng hiện đại phục vụ trực tiếp
129
vào công tác bảo đảm doanh trại, đời sống vật chất, sinh hoạt của bộ đội; tích
cực tham gia nghiên cứu, làm chủ và phát triển khoa học - công nghệ xây
dựng, quản lý nhà, đất, điện, nước theo hướng bền vững, thiết thực, hiệu quả;
xây dựng và quản lý doanh trại chính quy, xanh, sạch, đẹp, góp phần ổn định
và nâng cao đời sống của bộ đội theo đúng mục tiêu xây dựng quân đội cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
4.2.3. Đổi mới nội dung, phương thức giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện đạo
đức cách mạng, đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh của đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội
Đây là giải pháp cơ bản, then chốt quyết định chất lượng hoạt động
giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội thời
gian tới. Để thực hiện tốt giải pháp này, cần tập trung thực hiện tốt một số
nội dung, hình thức, biện pháp cụ thể sau:
4.2.3.1. Đổi mới nội dung, phương thức giáo dục, bồi dường, rèn
luyện đạo đức cách mạng đối với học viên đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Hậu
cần ở các học viện, nhà trường quân đội
Một là, đổi mới nội dung giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện ĐĐCM cho
học viên đào tạo, bồi dưỡng CBHC ở các học viện, nhà trường quân đội
Đổi mới nội dung giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện ĐĐCM cho học viên
đào tạo, bồi dưỡng CBHC ở các học viện, nhà trường quân đội nhằm từng
bước cụ thể hóa chiến lược: “Xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội có số lượng và
cơ cấu hợp lý, chất lượng chính trị cao, kiến thức, năng lực toàn diện” [133,
tr.50]. Theo đó, nội dung giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện ĐĐCM cho học viên
đào tạo, bồi dưỡng CBHC ở các học viện, nhà trường quân đội, nhất là của
HVHC, trước hết phải tập trung giáo dục và duy trì cho học viên thực hiện
những nội dung về đạo đức học đường: giáo dục, rèn luyện về mục tiêu, yêu
cầu đào tạo; kế hoạch, chương trình, nội dung giáo dục, đào tạo; các quy định
về học tập, rèn luyện trên lợp, tự học, tự rèn tại các hệ, tiểu đoàn, đại đội, lớp
quản học viên; quy chế thi, kiểm tra, đánh giá, phân loại kết quả học tập, rèn
luyện. Giáo dục, bồi dưỡng cho học viên ý thức, thái độ “tôn sư, trọng đạo”,
luôn kính trọng, giữa mối quan hệ tốt đẹp với thầy, cô giáo; đoàn kết, thương
yêu, gắn bó với đồng chí, đồng đội. Trong đó, người giáo dục (đội ngũ giảng
viên, cán bộ quản lý các cấp) phải làm kiểu mẫu về đạo đức, lối sống để học
130
viên noi theo. Từ đó, xây dựng ý thức, thái độ học tập cần cù, chăm chỉ, thường
xuyên, liên tục; nhận thức đúng và chấp hành nghiêm quy chế, quy định về
giáo dục, đào tạo; chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, kỷ luật của quân đội,
quy định của học viện, nhà trường. Thời gian học tập, nghiên cứu tại trường là
khoảng thời gian ngắn, nhưng rất quý báu để mỗi học viên đào tạo, bồi dưỡng
CBHC tích lũy tri thức, thấm nhuần ĐĐCM và tiếp tục được bồi dưỡng, hoàn
thiện trong quá trình công tác, học tập tại đơn vị sau này.
Hai là, đổi mới phương thức giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện ĐĐCM
cho học viên đào tạo, bồi dưỡng CBHC ở các học viện, nhà trường quân đội
Đổi mới phương thức giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện ĐĐCM cho học
viên đào tạo, bồi dưỡng CBHC ở các học viện, nhà trường quân đội, trước hết
cần tập trung thực hiện tốt phương thức giáo dục, bồi dưỡng ĐĐCM theo lớp,
hoặc thông qua sinh hoạt lãnh đạo; sinh hoạt chính trị; sinh hoạt học tập; sinh
hoạt tự phê bình và phê bình; sinh hoạt chuyên môn; hội nghị sơ, tổng kết về
CTĐ, CTCT ở các học viện, nhà trường. Đẩy mạnh việc học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và các cuộc vận động trong công
tác giáo dục về: “dân chủ - kỷ cương - tình thương - trách nhiệm”; thực hiện
“mỗi thầy giáo, cô giáo là tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo” để học
viên noi theo; thực hiện tốt phong trào thi đua “dạy tốt, học tốt”, xây dựng
môi trường văn hóa lành mạnh trong các học viện, nhà trường quân đội, tạo
điều kiện thuận lợi để học viên học tập, rèn luyện, hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Đồng thời, cần tích cực đổi mới phương pháp dạy, học và thi, kiểm tra,
đặc biệt là đối với các môn đạo đức học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
theo hướng đề “mở”, gắn với thực tế những tấm gương sáng về đạo đức nhằm
hình thành, phát triển nhân cách, nhận thức cho học viên. Trong đổi mới
phương thức giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện ĐĐCM cho học viên đào tạo, bồi
dưỡng CBHC ở các học viện, nhà trường quân đội, cần tạo điều kiện cho
người học phát huy tư duy sáng tạo, tự học tập, tự nghiên cứu, thông qua sự
định hướng của người dạy. Trong quá trình giáo dục, bồi dưỡng phải kiên trì
nguyên tắc lấy người học làm trung tâm; tăng cường hơn nữa các hoạt động
ngoại khóa, văn hóa, thể thao, kết nghĩa, hội thi, hội thao, thực hành, thực
tập… để học viên có nhiều điều kiện vận dụng kiến thức được trang bị vào
thực tiễn giải quyết các mối quan hệ, nhằm thường xuyên bồi dưỡng, rèn
luyện ĐĐCM của đội ngũ học viên đào tạo CBHC trên thực tiễn.
131
Ba là, nâng cao chất lượng, phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ
cán bộ, giảng viên ở các học viện, nhà trường quân đội trong giáo dục, bồi
dưỡng, rèn luyện ĐĐCM cho học viên đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Hậu cần
Đội ngũ nhà giáo thực hiện nhiệm vụ giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện
ĐĐCM đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành, phát triển ĐĐCM của
học viên đào tạo, bồi dưỡng CBHC ở các học viện, nhà trường quân đội. Vì
vậy, cần xây dựng được đội ngũ nhà giáo đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu
và bảo đảm các yêu cầu về phẩm chất, đạo đức, năng lực chuyên môn phù
hợp với yêu cầu đổi mới giáo dục ĐĐCM. Trong đó cần chú trọng lựa chọn
đội ngũ giảng viên có trình độ, năng lực giảng dạy, có năng khiếu sư phạm và
có uy tín cao trong số giảng viên để tiếp tục đưa đi đào tạo, bồi dưỡng nâng
cao trình độ cho họ. Cơ quan đào tạo phải quan tâm bảo đảm nguồn giáo
trình, tài liệu mới nhất, phong phú, đa dạng phục vụ cho hoạt động giáo dục;
lồng ghép chương trình giáo dục lý luận chính trị với giáo dục kiến thức
chuyên môn, nghiệp vụ. Trong quá trình giảng dạy, đội ngũ giáo viên chú ý
kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp với định
hướng tư tưởng, bồi dưỡng ĐĐCM, lối sống trong sạch cho học viên đào tạo,
bồi dưỡng CBHC. Lãnh đạo, chỉ huy, cơ quan chức năng cần kịp thời chấn
chỉnh những biểu hiện thiếu trách nhiệm, không tích cực chuẩn bị bài giảng,
và xử lý nghiêm giảng viên vi phạm kỷ luật giáo dục, đào tạo. Mặt khác, phải
có chế độ chính sách phù hợp, nhất là chính sách về lương, thưởng, phát triển
chuyên môn, đánh giá, đãi ngộ phù hợp để tạo động lực và hiệu quả làm việc
của đội ngũ giáo viên.
4.2.3.2. Đổi mới nội dung, phương thức giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức
cách mạng của đội ngũ cán bộ hậu cần Quân đội trong thực tiễn công tác tại đơn vị
Đây là giải pháp then chốt nhất nhằm cụ thể hóa nhiệm vụ giáo dục
ĐĐCM của đội ngũ CBHC tại đơn vị, bảo đảm hoạt động giáo dục, bồi
dưỡng, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC luôn có định hướng, xuất phát từ
thực tiễn, yêu cầu nhiệm vụ bảo đảm hậu cần để giáo dục, bồi dưỡng, rèn
luyện. Theo đó, cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung, phương thức sau:
Một là, đổi mới nội dung giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện ĐĐCM của
đội ngũ CBHC Quân đội trong thực tiễn công tác tại đơn vị
132
Nội dung giáo dục cần tập trung: tăng cường giáo dục, bồi dưỡng, rèn
luyện về những quy tắc, quy định, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp cho đội
ngũ CBHC. Nhất là, những chỉ thị, quy chế, quy định theo chức trách, nhiệm
vụ của từng chức danh cán bộ trong thực hiện nhiệm vụ bảo đảm hậu cần cho
huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu, lao động, sản xuất, tham gia
phòng, chống thiên tai, dịch bệnh. Tổ chức tốt nhất, hiệu quả nhất việc học
tập, tự học tập những nghị quyết, chỉ thị mới của Đảng về việc xây dựng, bồi
dưỡng đạo đức, lối sống trong điều kiên mới như: Quyết định 101 của Trung
ương về việc nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên; Nghị quyết Trung
ương 4 (khóa XI, XII) về xây dựng Đảng; Quyết định số 89 về “Khung tiêu
chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản
lý các cấp”; Nghị quyết Trung ương 7 (khóa XII) “về tập trung xây dựng đội
ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín,
ngang tầm nhiệm vụ”; đặc biệt, phải giáo dục cho đội ngũ CBHC nắm chắc
27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ mà Trung ương 4 (khóa XII) Đảng
ta xác định, làm cơ sở để đội ngũ CBHC đấu tranh ngăn ngừa có hiệu quả
trước những biểu hiện suy thoái, tiêu cực. Đồng thời, động viên đội ngũ
CBHC tự bồi dưỡng, tự rèn luyện tinh thần độc lập, sáng tạo, tự chủ, tự chịu
trách nhiệm, nâng cao phẩm chất chính trị, ĐĐCM, năng lực chuyên môn, đủ
sức hoàn thành mọi nhiệm vụ.
Hai là, đổi mới, hoàn thiện phương thức giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện
ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội trong thực tiễn công tác tại đơn vị
Phương thức giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ
CBHC Quân đội trong thực tiễn công tác tại đơn vị, cần được đổi mới theo
hướng chú trọng phương pháp tổ chức tốt các hoạt động: nghiên cứu, nói
chuyện chuyên đề cho sĩ quan; thông tin tư tưởng chính trị, kết hợp phương
pháp thuyết phục, nêu gương, tự phê bình và phê bình. Đồng thời phát huy
vai trò, trách nhiệm tham gia giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện của tất các các
tổ chức, các lực lượng, đầu tiên là vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng của
cấp ủy; hoạt động duy trì, quản lý của người chỉ huy; thi đua, nhân điển hình
tiên tiến của các tổ chức, đoàn thể. Kết hợp đẩy mạnh các phong trào thi
đua: “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xưng danh Bộ đội Cụ Hồ”,
“Ngành Hậu cần Quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy”, “Nôi quân giỏi, quản lý
quân nhu tốt”, “Xây dựng doanh trại xanh, sạch, đẹp”.
133
Trong thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, đội ngũ CBHC cấp trên phải nêu
gương sáng về đạo đức, lối sống để cán bộ, nhân viên, chiến sĩ cấp dưới làm
theo. Vì, “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn
tuyên truyền” [103, tr. 284]. Thông qua đó, “Lấy gương người tốt, việc tốt
để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây
dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc
sống mới” [117, tr. 672]. Kết hợp thực hiện nghiêm những điều đảng viên
không được làm; tăng cường việc nêu gương thực hiện trước, làm trước, tự
phê bình và phê bình nghiêm túc của đội ngũ CBHC trong thực hiện nghị
quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII), Nghị quyết trung ương 7 (khóa XII) “về
tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm
chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”, để cán bộ, chiến sĩ cấp dưới
noi theo. Thông qua đó, trực tiếp góp phần giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện
ĐĐCM cho đội ngũ CBHC trong suốt quá trình công tác.
4.2.3.3. Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh của đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống các quan điểm toàn diện về tư tưởng
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; tư tưởng về độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội… Trong đó có tư tưởng về chăm lo
giáo dục, bồi dưỡng ĐĐCM cho đời sau. Tư tưởng đó đã được nhiều thế hệ
người Việt Nam đón nhận, và trở thành nền tảng của phẩm chất, nhân cách
người cách mạng. Đối với đội ngũ CBHC Quân đội, học tập và làm theo tấm
gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh có vai trò định hướng, điều chỉnh
hành vi, phát triển nhân cách của người CBHC Quân đội. Để đẩy mạnh học tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đối với đội ngũ
CBHC Quân đội, cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung, biện pháp sau:
Một là, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục về tấm gương đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh tại nhà trường và trong các cơ quan, đơn vị hậu cần quân đội
Đây là giải pháp quan trọng nhằm định hướng tư tưởng, xây dựng tinh
thần đoàn kết, lòng quyết tâm thực hiện nhiệm vụ đẩy mạnh học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh ngày khi còn học tập tại
trường và ở cơ quan, đơn vị hậu cần của đội ngũ CBHC Quân đội. Để thực
134
hiện tốt nội dung này, cấp ủy, chỉ huy HVHC, và các học viện, nhà trường,
cơ sở tham gia bồi dưỡng CBHC các cấp; lãnh đạo, chỉ huy cơ quan, đơn vị
hậu cần tập trung xác định rõ nội dung, hình thức, phương pháp tuyên truyền
giáo dục; tổ chức tuyên truyền, giáo dục chặt chẽ, nghiêm túc, có kiểm tra,
đánh giá kết quả. Hoạt động tuyên truyền, giáo dục cần làm rõ ý nghĩa, tầm
quan trọng, những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng, tấm gương
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; xây dựng tinh thần tự giác, quyết tâm
học tập, rèn luyện ĐĐCM. Qua đó, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận
thức của từng CBHC về yêu cầu, nhiệm vụ học tập và làm theo tấm gương
đạo đức, phong cách của Bác, trên cơ sở đó hình thành phong trào tu dưỡng,
rèn luyện, phấn đấu theo tấm gương đạo đức của Người ơ cơ quan, đơn vị
hậu cần và của đội ngũ CBHC Quân đội.
Trong tuyên truyền, giáo dục tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh phải vận dụng sáng tạo những hình thức tuyên truyền, giáo dục như: tổ
chức các lớp học tập, có đánh giá kết quả; tuyên truyền miệng (nói chuyên,
kể chuyện về Bác…); tuyên truyền qua phương tiện thông tin nội bộ: sách,
báo, đài, băng rôn, khẩu hiệu; tổ chức các hội thi tìm hiểu; xem truyền hình,
phim tư liệu về Bác Hồ; tuyên dương về tấm gương điển hình tiên tiến của
cán bộ, đảng viên, CBHC trong học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Kết hợp chặt chẽ các hình thức, phương
pháp như: đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, giáo dục ở cơ quan, đơn vị hậu
cần với tăng cường phương pháp nêu gương của đội ngũ cán bộ là chủ
nhiệm, phó chủ nhiệm, trưởng, phó trưởng ban, trợ lý hậu cần các ngành,
các cấp; lồng ghép có hiệu quả việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh với các phong trào thi đua “nuôi quan giỏi, quản lý
quân nhu tốt”, “xây dựng doanh trại chính quy, xanh, sạch, đẹp”, “quản lý,
sử dụng xăng dầu tiết kiệm, hiệu quả, chống thất thoát, lãng phí”…; tổ chức
tốt việc sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm, biểu dương khen thưởng kịp thời.
Thông qua đó, biến quá trình tuyên truyền, giáo dục ở cơ quan, đơn vị thành
phong trào tu dưỡng, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC trong chấp hành
các chế độ nền nếp, kỷ luật quân đội và pháp luật Nhà nước, khi thực hiện
nhiệm được giao.
135
Hai là, đẩy mạnh hoạt động tự giác học tập và tu dưỡng, rèn luyện theo
tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh của đội ngũ CBHC Quân đội
Đây là giải pháp giữ vai trò trụ cột, nhằm biến hoạt động học tập và
làm theo tấm gương đạo đức, phong cách của Bác thành hành động tự giác
của mỗi CBHC. Vì, nếu cấp ủy, chỉ huy cơ quan, đơn vị hậu cần có tăng
cường lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng kế hoạch, chương trình cụ thể, cẩn thận, tỉ
mỉ nhưng bản thân mỗi CBHC không nêu cao tinh thần tự giác, chủ động
quán triệt, tự học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
trong từng công việc cụ thể hằng ngày tại cơ quan, đơn vị, cũng như sinh hoạt
tại địa phương thì kết quả đạt được sẽ không cao.
Để phát huy tính tự giác, tích cực của CBHC trong học tập và làm theo
tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, trước hết công tác tuyên tryền,
giáo dục cần có sự đổi mới cả về hình thức và cách tiếp cận, phải đi vào thực
chất, khắc phục bệnh hình thức, chung chung. Đội ngũ CBCH phải nắm chắc
chỉ thị, hướng dẫn của cấp trên; căn cứ vào nội dung tư tưởng và tấm gương
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; căn cứ vào chức trách, nhiệm vụ của mình
để xây dựng kế hoạch, phương hướng, nhiệm vụ, yêu cầu, tiêu chí cụ thể để
phấn đấu, rèn luyện và làm theo. Cấp ủy, người chỉ huy phải thường xuyên
kiểm tra, đôn đốc đội ngũ CBHC từng bước thực hiện tốt kế hoạch của họ, cụ
thể hóa bằng kết quả, chất lượng ở từng công việc, ở việc chấp hành các chế
độ, nền nếp chính quy... Tránh tình trạng chỉ hô hào khẩu hiệu, lúc phát động
thì mạnh mẽ hăng hái nhưng quá trình thực hiện lại giản đơn, đại khái.
Kết hợp chặt chẽ tự giác học tập và làm theo tấm gương đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh của CBHC với sự tăng cường công tác quản lý, giáo
dục việc rèn luyện đạo đức, tác phong của các cấp lãnh đạo, tổ chức, lực
lương ở đơn vị. Vì vậy, đẩy mạnh giáo dục đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
đối với đội ngũ CBHC Quân đội cần phải có sự nỗ lực cố gắng của cả hai
phía: cá nhân CBHC, quần chúng và sự quản lý, giáo dục của các cấp lãnh
đạo, của tổ chức, sự tham gia của chính quyền, đoàn thể và nhân dân.
Ba là, tổ chức tốt việc kiểm tra, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm đối với việc
học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của đội ngũ CBHC Quân đội.
Kiểm tra, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm việc thực hiện học tập và
làm theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh của đội ngũ CBHC
Quân đội, được tổ chức theo từng cấp, đến toàn quân và gắn liền với hoạt
136
động đánh giá, nhận xét CBHC, đánh giá, phân loại đảng viên, tổ chức đảng
hàng năm, đồng thời được xem xét trong suốt quá trình thực hiện nhiệm vụ
bảo đảm hậu cần. Yêu cầu, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm phải bảo đảm
khách quan, trung thực những điểm mạnh, điểm yếu về đạo đức, lối sống
của CBHC; đánh giá đúng kết quả học tập và làm theo tấm gương đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh của đội ngũ CBHC đạt được đến đâu; tìm rõ
nguyên nhân của thực trạng và rút ra bài học kinh nghiệm; tránh việc đánh
giá sai sự thật, tô hồng thành tích, che giấu khuyết điểm. Thông qua đó,
nhằm kịp thời định hướng phong trào, phê bình, chấn chỉnh, uốn nắm những
nhận thức, hoạt động lệch lạc, hạn chế, khuyết điểm; rút ra những kết luận
để hình thành những kiến thức mới, kinh nghiệm mới chỉ đạo hoạt động thực
tiễn, đánh giá chính xác những tập thể, cá nhân có thành tích trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ hậu cần để biểu dương, khen thưởng kịp thời. Đồng thời
chỉ rõ những yếu kém cần khắc phục, để mỗi tập thể và cá nhân CBHC cố
gắng vươn lên hoàn thành nhiệm vụ. Kết quả của sơ kết, tổng kết rút kinh
nghiệm phải được quán triệt, vận dụng sáng tạo vào quá trình tổ chức thực
hiện học tập và làm theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong
thời gian tiếp theo.
4.2.4. Phát huy vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo của đội ngũ
cán bộ Hậu cần Quân đội trong tự học tập, bồi dưỡng, rèn luyện nâng
cao đạo đức cách mạng
Đây là giải pháp giữ vị trí hết sức quan trọng trong giáo dục, rèn luyện
ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội. Bởi lẽ, ĐĐCM của đội ngũ CBHC,
không chỉ được hình thành và phát triển bằng con đường giáo dục, rèn luyện
theo kế hoạch của tổ chức, mà còn được hình thành, củng cố và phát triển
hoàn thiện thông qua quá trình tích cực, chủ động rèn luyện của chính bản
thân mỗi CBHC, nếu không phát huy được vai trò tự giáo dục, tự rèn luyện
của đội ngũ CBHC sẽ không đem lại hiệu quả cao. Để tăng cường rèn luyện
ĐĐCM của đội ngũ CBHC đạt được kết quả cao, cần phải thực hiện đồng bộ
các nội dung, biện pháp chính sau:
Một là, xây dựng động cơ, thái độ, trách nhiệm đúng đắn trong tự học tập,
bồi dưỡng, rèn luyện nâng cao ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội
Mục đích, động cơ rèn luyện ĐĐCM đúng đắn có ý nghĩa quyết
định cả quá trình rèn luyện của đội ngũ CBHC, tạo ra động lực thúc đẩy
hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của họ đạt kết quả cao. Việc xây
137
dựng động cơ, thái độ trong tự rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội
phải được thực hiện thường xuyên, liên tục, ngay trong quá trình đào tạo, bồi
dưỡng CBHC của HVHC, các học viện, nhà trường, cơ sở bồi dưỡng trong toàn
quân, và tiếp tục được rèn luyện trong quá trình công tác tại đơn vị cơ sở.
Để xây dựng động cơ, thái độ, trách nhiệm đúng đắn trong tự rèn luyện
ĐĐCM của đội ngũ CBHC, cấp ủy, tổ chức đảng, người chỉ huy, cơ quan chính
trị các cấp (của HVHC, các học viện, nhà trường và của cơ quan, đơn vị hậu
cần) tập trung làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, xây dựng ý chí
sống có hoài bão, lý tưởng và khát vọng đúng đắn; khơi dậy ý thức tự giác, làm
cho họ luôn có nhận thức đúng đắn về vai trò của tự giáo dục, tự rèn luyện
ĐĐCM đối với sự phát triển của chính họ, hình thành trong họ nhu cầu về nâng
cao tri thức, khả năng tư duy độc lập, sáng tạo. Đồng thời bằng công tác tư
tưởng, tổ chức và chính sách làm cho họ gắn bó với quân đội, đơn vị, thấy rõ
vinh dự và trách nhiệm của người cán bộ Hậu cần.
Đi đôi với giáo dục xây dựng động cơ, mục đích đúng, cần khắc phục
biểu hiện cơ hội, trung bình chủ nghĩa trong tự rèn luyện ở mỗi CBHC. Để
khắc phục được điều đó, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các tổ chức, các lực
lượng cả trong và ngoài quân đội, giữa nhà trường - đơn vị - địa phương - gia
đình; đặc biệt cần phát huy vai trò của cấp ủy, người chỉ huy các cơ quan, đơn
vị hậu cần xác định các biện pháp rèn luyện thích hợp để tạo ra không khí thi
đua lành mạnh trong đơn vị; có cơ chế kiểm tra, đánh giá chặt chẽ, công bằng
kết quả tự rèn luyện của mỗi người, nhất là kết quả học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh; cụ thể hóa đức: cần, kiệm, liêm, chính… trong
thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của mỗi CBHC. Khi mục đích, động cơ đúng
thì tư tưởng cơ hội, trung bình chủ nghĩa sẽ được khắc phục, hiệu quả tự rèn
luyện được nâng lên, góp phần nâng cao ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội.
Hai là, cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị tăng cường giúp đỡ đội ngũ
CBHC tự học tập, bồi dưỡng, rèn luyện nâng cao ĐĐCM
Quá trình rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC là một quá trình phấn đấu
lâu dài, khó khăn, gian khổ rất dễ dẫn đến tình trạng mệt mỏi, có thể xuất hiện ở
một bộ phận CBHC tư tưởng ngại phấn đấu, rèn luyện. Do đó, các chủ thể giáo dục,
rèn luyện cần có các biện pháp tích cực cả về chính trị, tư tưởng, cả về hành chính
quân sự để giúp đỡ đội ngũ CBHC tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng.
138
Trước hết, cần tăng cường giúp đỡ đội ngũ CBHC tu dưỡng, rèn luyện
ĐĐCM trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng tại các học viện, nhà trường, trong đó,
cần phát huy tốt vai trò trung tâm giáo dục, đào tạo CBHC các cấp của HVHC.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng CBHC, lãnh
đạo, chỉ huy các học viện, nhà trường cần có chủ trương, biện pháp giúp đỡ đội
ngũ CBHC tu dưỡng, rèn luyện ĐĐCM; chủ động nắm chắc về tư tưởng, tình
cảm, đạo đức, lối sống, kết quả học tập, rèn luyện để kịp thời nhắc nhở, chấn
chỉnh những biểu hiện lệch lạc; tăng cường rèn luyện người học viên thông qua
các hoạt động hội thi, hội thao về bảo đảm hậu cần, thực hành, thực tập chức
trách, nhiệm vụ; phát huy vai trò của tổ chức quần chúng, hội đồng quân nhân
tham gia giáo dục, động viên, giúp đỡ học viên CBHC tu dưỡng, rèn luyện
ĐĐCM thường xuyên, kiên trì, khắc phục khó khăn về điều kiện ăn, ở, học tập
của nhà trường, vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập.
Đối với các cơ quan, đơn vị hậu cần quân đội, cấp ủy, chi bộ, người chỉ
huy phải quán triệt sâu sắc quan điểm, nguyên tắc, phương hướng, nhiệm vụ
giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ của Đảng; yêu cầu về chuẩn
mực ĐĐCM, phẩm chất chính trị, lối sống, năng lực của đội ngũ CBHC trong
giai đoạn mới. Trên cơ sở đó để đề ra những chủ trương, biện pháp, xác định
nội dung, hình thức, yêu cầu đạt được trong tự rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ
CBHC; phải giúp đỡ đội ngũ CBHC xác định nội dung tự tu dưỡng, rèn
luyện, nội dung đó cần bám sát chức trách của mỗi người; phù hợp với nhiệm
vụ trong từng tuần, tháng, môi trường sống, công tác và đặc điểm tâm sinh lý
của mỗi cán bộ; phải hướng vào củng cố, nâng cao nhận thức chính trị, phẩm
chất cần thiết của người sĩ quan quân đội trong thời kỳ mới, nâng cao phẩm
chất đạo đức, lối sống theo tinh thần xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay…
trong đó đặc biệt chú trọng những nội dung tự nghiên cứu, bồi dưỡng về chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối chính trị,
quân sự của Đảng, nhiệm vụ, chức năng của quân đội và chức trách nhiệm vụ
của người CBHC. Bên cạnh đó, cấp ủy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị hậu
cần phải định hướng, xác định được các hình thức, phương pháp tự tu dưỡng,
rèn luyện đa dạng, phong phú và có tính khả thi cao trong kế hoạch học tập,
rèn luyện của mỗi CBHC và phải được cấp uỷ đảng phê duyệt.
139
Đồng thời, phải tăng cường công tác quản lý, duy trì thường xuyên
của chỉ huy, người đứng đầu mỗi cơ quan, đơn vị trong thực hiện việc tu
dưỡng, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội. Đây là nhân tố quan
trọng, tạo môi trường chính quy, thống nhất, thuận lợi cho việc tự tu dưỡng,
rèn luyện đạo đức của mỗi CBHC, bảo đảm cho hoạt động tự rèn luyện của
họ có phương hướng, nội dung đúng đắn, có kế hoạch cụ thể, có phương
pháp thích hợp và được thực hiện nghiêm túc, có nền nếp. Trong quá trình
đội ngũ CBHC tự tu dưỡng, rèn luyện, các cấp uỷ đảng, đội ngũ cán bộ chủ
trì, cơ quan chính trị cần thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở
và quản lý chặt chẽ việc tự rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC. Trong chỉ
đạo phải quan tâm và sâu sát đến từng người, chỉ ra ưu, khuyết điểm của
từng cán bộ, có kế hoạch và quy định cụ thể mốc thời gian để từng họ sửa
chữa khuyết điểm. Trong sinh hoạt đảng, sinh hoạt chính quyền, sinh hoạt
tập thể quân nhân, sinh hoạt đoàn; sinh hoạt phê bình, nhận xét, đánh giá về
phẩm chất và năng lực của CBHC, cấp uỷ đảng và người chỉ huy cần phải có
những đánh giá về thái độ, trách nhiệm và kết quả tự tu dưỡng, rèn luyện
ĐĐCM của đội ngũ CBHC. Thông qua đó nhằm phân loại, nắm chắc chất
lượng CBHC để định hướng đối với từng người, từng đối tượng có nội dung,
phương thức tự rèn luyện hợp lý.
Cùng với việc tổ chức quản lý, duy trì thường xuyên, có nền nếp quá
trình tự tu dưỡng, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC, các cấp uỷ đảng và
người chỉ huy, cơ quan chính trị, tổ chức quần chúng phải tạo điều kiện
thuận lợi nhất cho đội ngũ cán bộ Hậu cần tự tu dưỡng, rèn luyện, quan tâm
bảo đảm các điều kiện về vật chất, tinh thần, mà trước hết phải kịp thời bổ
sung hệ thống giáo trình, tài liệu, sách báo, phương tiện kỹ thuật; phát huy
hiệu quả hoạt động phục vụ của hệ thống thư viện, nhà truyền thống, phòng
Hồ Chí Minh của đơn vị. Thường xuyên tổ chức các hoạt động phong trào
ở cơ quan, đơn vị hậu cần như: hội thi, hội thao, thi tìm hiểu, diễn đàn, mạn
đàm, trao đổi..., nhằm tạo ra dư luận tập thể tích cực, kịp thời cổ vũ, động
viên, khích lệ phong trào tự tu dưỡng, rèn luyện trong toàn đơn vị. Đồng
thời, cơ quan chức năng các cấp cần thống nhất xây dựng quy chế, quy
định, chế độ kiểm tra, đánh giá kết quả tự tu dưỡng, rèn luyện ĐĐCM của
đội ngũ CBHC Quân đội hiện nay.
140
Ba là, phát huy vai trò tự giác, chủ động, sáng tạo trong học tập, bồi
dưỡng, rèn luyện nâng cao ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội
Đây là biện pháp quan trọng hàng đầu, quyết định chất lượng, hiệu quả
hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội, biểu hiện
thái độ tự giác biến động cơ rèn luyện đúng đắn thành kết quả hành động trên
thực tiễn. Phát huy được mặt tích cực này có thể biến quá trình giáo dục, rèn
luyện thành quá trình tự giáo dục, tự rèn luyện. Khi đó hiệu quả giáo dục, rèn
luyện sẽ cao hơn, chắc chắn hơn. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề
cao tính tự giác rèn luyện đạo đức của người cán bộ. Phẩm chất đạo đức là giá
trị riêng có của từng người, là kết quả của quá trình phấn đấu rèn luyện lâu
dài, bền bỉ, gian khổ của mỗi cán bộ; là sự thấm nhuần, chuyển biến dần dần
về nhận thức lý tưởng, hành vi ĐĐCM của mỗi cán bộ. Người cán bộ là người
giác ngộ, giáo dục đạo đức mới cho nhân dân, cho nên họ phải là người thực
hành đạo đức mới để làm gương. Hồ Chí Minh chỉ rõ, cán bộ phải “Tự mình
phải chính trước, mới giúp được người khác chính. Mình không chính, mà
muốn người khác chính là vô lý” [108, tr.130]; “Mình trước hết phải siêng
năng, trong sạch thì mới bảo người ta trong sạch, siêng năng được” [110,
tr.98]. Phát huy tính tự giác của người cán bộ không chỉ là phương thức rèn
luyện đạo đức tích cực mà còn là một trong những phương thức tổ chức
phong trào cách mạng.
Phát huy vai trò tự giác, tự rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân
đội thực chất là quá trình hoạt động có mục đích, với ý thức, trách nhiệm cao
của người CBHC hướng vào sự phát triển hoàn thiện phẩm chất đạo đức cá
nhân phù hợp với những chuẩn mực ĐĐCM với thực tiễn xây dựng ngành
hậu cần và quá trình giáo dục đạo đức hiện nay. Bởi vì, xét đến cùng thì bao
giờ việc tu dưỡng đạo đức của người đảng viên cũng là do ý thức chủ động
tự giác của từng người quyết định. Đây là sự thống nhất biện chứng của hai
vấn đề: tích cực rèn luyện để phát triển ĐĐCM, đồng thời với đó là quá trình
tự phê bình thường xuyên, nghiêm túc để khắc phục mặt yếu kém, phát huy
mặt tích cực nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ hậu cần ngày càng phát triển
trong giai đoạn mới.
Phát huy vai trò tự giác rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC là hình
thức mang tính chủ thể cao là biểu hiện nổi bật của sự tự hoàn thiện phẩm chất,
nhân cách bản thân mình. Để người CBHC tự giác rèn luyện ĐĐCM, đòi hỏi
họ phải là người đã được tổ chức giáo dục, rèn luyện, bảo đảm hoạt động tự rèn
luyện đúng định hướng, có cơ sở khoa học. Trên cơ sở sự định hướng, hướng
141
dẫn của tổ chức, mỗi người CBHC phải tự nhận thức và vận dụng các phương
pháp: tự thuyết phục, tự rèn luyện, tự kiềm chế, tự điều chỉnh, tự phê bình;
đồng thời luôn gương mẫu, nêu cao tinh thần tự tu dưỡng về đạo đức lối sống,
thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; chấp hành nghiêm túc Điều lệ
Đảng, pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội và quy chế, quy định của cơ quan,
đơn vị mình. Hoạt động tự rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội phải
thực hiện đều đặn, xuyên suốt từ khi là người học viên đạo tạo, bồi dưỡng
CBHC tại HVHC, và ở các học viện, nhà trường, cơ sở bồi dưỡng trong toàn
quân, đến khi ra trường, thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Việc tự rèn
luyện ĐĐCM trong quá trình đào tạo, bồi dưỡng tại các học viện, nhà trường
của đội ngũ CBHC là bước đầu tiên, quan trọng nhằm hình thành thế giới quan,
phương pháp luận, những nhận thức cơ bản nhất về ĐĐCM, làm cơ sở tiếp tục
bồi dưỡng, phát triển hoàn thiện trong quá trình công tác sau này.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ hậu cần tại đơn vị, mỗi CBHC phải
có lòng tin vào khả năng tự học, tự rèn của bản thân, để tự vượt qua mọi sự
cám dỗ, lôi kéo, mua chuộc của các lực lượng từ môi trường bên ngoài và sự
trỗi dậy của chủ nghĩa cá nhân từ bên trong. Biến quá trình giáo dục, rèn
luyện đạo đức thành hoạt động tự giác rèn luyện thường xuyên, liên tục trong
lối sống hàng ngày và trong thực hiện nhiệm vụ hậu cần; chủ động nêu cao
tinh thần tự phê bình và phê bình trước những biểu hiện tiêu cực, tham nhũng,
lãng phí; tích cực đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, ngăn ngừa “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ
CBHC ở cơ quan, đơn vị.
Đồng thời với quá trình tự rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC, cấp ủy,
người chỉ huy cơ quan, đơn vị các cấp phải chủ động kiểm tra, động viên,
khuyến khích bằng vật chất và tinh thần, tạo động lực thúc đẩy CBHC nâng cao
tinh thần tự giác rèn luyện ĐĐCM, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về quá trình
phấn đấu, rèn luyện của bản thân. Lãnh đạo, chỉ huy các cấp cần xây dựng môi
trường tập thể quân nhân lành mạnh, các tổ chức vững mạnh tạo điều kiện cho
CBHC yên tâm công tác, tu dưỡng, rèn luyện ĐĐCM. Trong công tác cán bộ
cần điều động, bổ nhiệm, bố trí, sử dụng cán bộ đúng năng lực, sở trường; có
sự kế tiếp liên tục của các thế hệ cán bộ, để cán bộ công tác lâu năm, có bản
lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, dày dạn kinh nghiệm vừa làm
gương, vừa kèm cặp, giúp đỡ cán bộ trẻ còn thiếu kinh nghiệm, nhằm tạo nên
niềm tin, sự phấn khởi, kích thích họ tự giác cố gắng phấn đấu rèn luyện nâng
cao phẩm chất đạo đức, năng lực để hoàn thành nhiệm vụ.
142
4.2.5. Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, ngăn ngừa “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội
ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội hiện nay
Đây là giải pháp quan trọng góp phần củng cố, phát triển hoàn thiện
ĐĐCM của người CBHC Quân đội, biểu hiện nguyên tắc “xây” phải đi đôi với
“chống” trong quá trình giáo dục nhận thức đối với cán bộ. Đồng thời, đạo đức
của đội ngũ CBHC Quân đội không chỉ được biểu hiện ở sự tin tưởng vào đường
lối, sự trung thành với sự nghiệp cách mạng… mà còn là sự thấm nhuần tư
tưởng, đường lối, biến nhận thức đó thành hành động cách mạng trên thực tiễn
trong việc đấu tranh đẩy lùi, loại bỏ những gì tiêu cực, lạc hậu, thoái hóa, biến
chất. Nhất là trong điều kiện toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang ra sức đẩy
mạnh thực hiện cuộc đấu tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đã được
Trung ương 4 (khoa XI, XII) Đảng ta xác định.
Để góp phần đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, ngăn ngừa “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội
ngũ CBHC Quân đội, thông qua đó trực tiếp giáo dục, rèn luyện ĐĐCM cho họ,
cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung, biện pháp cơ bản sau:
Một là, tăng cường vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp
đối với công tác đấu tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, ngăn ngừa “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở cơ quan, đơn vị hậu cần hiện nay
Tổ chức Đảng trong quân đội nói chung, cấp ủy, chi bộ ở cơ quan đơn
vị hậu cần quân đội nói riêng giữ vai trò là hạt nhân lãnh đạo cơ quan, đơn vị
hậu cần thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ chính trị, quân sự, hậu cần, kỹ
thuật; chăm lo đời sống vật chất, bảo đảm điều kiện sinh hoạt, học tập, công
tác cho bộ đội, sẵn sàng chiến đấu, chiến thắng mọi kẻ thù. Thực trạng trong
công tác bảo đảm hậu cần, vẫn còn một bộ phận cán bộ có biểu hiện suy thoái
về đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở những mức độ khác
nhau. Để góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo
tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, và khóa XII, cấp ủy, tổ chức
đảng ở cơ quan, đơn vị hậu cần phải xác định rõ chủ trương, biện pháp lãnh
đạo thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, ngăn ngừa “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở cơ quan,
143
đơn vị mình kịp thời, sát đúng; lãnh đạo, chỉ đạo cơ quan, đơn vị hậu cần tổ
chức sinh hoạt quán triệt, giáo dục, giao nhiệm vụ cụ thể tới từng cán bộ,
đảng viên; chỉ đạo các tổ chức quần chúng tổ chức giao ước thi đua, diễn đàn,
tọa đàm,… nhằm xây dựng nhận thức đúng đắn cho mọi cán bộ, đảng viên,
quần chúng, và đội ngũ CBHC trong thực hiện nhiệm vụ chính trị này.
Người đứng đầu cấp ủy, chi bộ (bí thứ, phó bí thư cấp ủy cơ quan, đơn
vị hậu cần) phải tăng cường duy trì thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung
dân chủ, đề cao tự phê bình và phê bình; thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám
sát, thi hành kỷ luật Đảng, nhất là kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm,
với mục đích phòng ngừa, ngăn chặn từ xa, không để vi phạm nhỏ thành vi
phạm lớn. Đội ngũ cán bộ chủ trì cơ quan, đơn vị hậu cần phải thường xuyên
nêu gương thực hiện trước, làm trước, tự phê bình và phê bình nghiêm túc
trong thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, khóa XII) để đội ngũ
đảng viên, cán bộ, quần chúng cấp dưới noi theo; phát huy vai trò của đội ngũ
cán bộ, đảng viên ở cơ quan, đơn vị hậu cần, tích cực, kịp thời góp ý, phê
bình những biểu hiện vi phạm chuẩn mực đạo đức, lối sống, tham nhũng, lãng
phí của một số CBHC; xử lý nghiêm minh, chặt chẽ những đảng viên, CBHC
có biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống, tham nhũng, lãng phí khi thực
hiện nhiệm vụ; duy trì thực hiện nghiêm chế độ, nền nếp sinh hoạt cấp ủy, chi
bộ, kỷ luật Đảng, kỷ luật quân đội, góp phần phòng, chống suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, ngăn ngừa “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
của một số CBHC ở các cơ quan, đơn vị hậu cần hiệu quả nhất.
Hai là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên, quần chúng,
nhất là đội ngũ CBHC về vị trí, vai trò, tính cấp bách, sự hệ trọng của nhiệm vụ
phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, ngăn ngừa “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở các cơ quan, đơn vị hậu cần
Đây là nhiệm vụ vô cùng quan trọng, nhằm xây dựng nhận thức đúng đắn
cho đội ngũ cán bộ, nhân viên, chiến sĩ ở cơ quan, đơn vị hậu cần nói chung và
đội ngũ CBHC nói riêng trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng, chính đốn Đảng,
đấu tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu
hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Trong đó, cần tập trung giáo
dục cho đội ngũ cán bộ, đảng viên nhận thức rõ việc đấu tranh phòng, chống suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ là yêu cầu cấp bách trong công tác xây dựng, chỉnh
144
đốn Đảng hiện nay; là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp
cách mạng nước ta. Đặc biệt phải giáo dục, quán triệt, nâng cao nhận thức cho
đội ngũ CBHC về thực trạng và 27 biểu hiện về sự suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên (theo Nghị quyết Trung
ương 4, khóa XII).
Xây dựng cho đội ngũ CBHC có nhận thức sâu sắc về sự suy thoái này
“chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới
tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự
nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc” [69, tr.16]. Thực trạng này “làm giảm
sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách
thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ” [66, tr. 22].
Do vậy, Đảng ta yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải tích cực, kiên quyết đấu
tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng này, để củng cố niềm tin của đảng viên và của
nhân dân đối với Đảng. Thông qua đó, góp phần nâng cao nhận thức chính trị,
phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ CBHC trong đấu tranh, ngăn ngừa suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ ở cơ quan, đơn vị hậu cần quân đội hiện nay.
Ba là, phát huy vai trò tự giác, tích cực đấu tranh phòng, chống suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, ngăn ngừa “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ, của đội ngũ CBHC Quân đội
Đội ngũ CBHC giữ vai trò quan trọng, hạt nhân then chốt trong công
tác xây dựng Đảng ở cơ quan, đơn vị hậu cần quân đội, phát huy vai trò tự
giác, tích cực đấu tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, ngăn ngừa “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ của đội ngũ
CBHC, là biện pháp quan trọng, trực tiếp góp phần giữ vững và nâng cao
ĐĐCM cho đội ngũ CBHC, xây dựng cấp ủy, chi bộ trong sạch vững mạnh,
lãnh đạo cơ quan, đơn vị hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Theo đó, mỗi CBHC phải tự xây dựng cho mình có nhận thức chính trị
đúng đắn, thực hiện nghiêm chương trình, kế hoạch, nội dung, biện pháp đấu
tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, ngăn
ngừa “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ở cơ quan, đơn vị hậu cần.
Trong quá trình công tác, đội ngũ CBHC phải chú trọng thực hiên đúng quy
chế, quy định về quản lý, bảo quản, sử dụng, cấp phát kinh phí, vật chất,
lương thực, thực phẩm, quân trang, nguyên, nhiên liệu…; không để thất thoát,
145
lãng phí; không lợi dụng chức vụ để lôi kéo, móc nối, làm ăn phi pháp;
thường xuyên quan tâm chăm lo bảo đảm đầy đủ, kịp thời cho bộ đội. Trong
quá trình sinh hoạt, nhất là sinh hoạt cấp ủy, chi bộ, phải nêu cao vai trò tiên
phong, gương mẫu, tự giác tự phê bình và đấu tranh, phê bình thẳng thắn với
những biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, hiểu hiện vi phạm đạo đức,
lối sống của một số cán bộ, đảng viên.
Đặc biệt, người đứng đầu cơ quan, đơn vị hậu cần các cấp, đây là lực
lượng có thẩm quyền và trách nhiệm cao nhất trong mọi hoạt động của cơ
quan, đơn vị hậu cần, nên có vai trò quan trọng đối với việc phòng, chống,
ngăn chặn và đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên. Vì vậy, họ phải có quyết
tâm chính trị cao, xác định đúng vai trò, trách nhiệm, gương mẫu trong việc
chấp hành đường lối, chỉ thị, hướng dẫn, quy chế, quy định của Đảng và Nhà
nước; thực hiện nghiêm chỉ thị, mệnh lệnh, nhiệm vụ trong công tác hậu cần;
xây dựng cho mình tác phong làm việc dân chủ, khoa học, hiệu quả, sâu sát;
có thái độ đúng mực trong giao tiếp, ứng xử, luôn lắng nghe, tiếp thu những ý
kiến xác đáng của cấp dưới và nhân dân để điều chỉnh, hoàn thiện bản thân.
Người đừng đầu phải thường xuyên gương mẫu, tích cực, tự giác đấu tranh
phòng, chống suy thoái trong suốt quá trình học tập, sinh hoạt, cũng như trong
công tác, cả trong lời nói và hành động, để cán bộ, nhân viên, chiến sĩ cấp
dưới noi theo. Có như vậy, việc ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” mới đạt được
hiệu quả và có tác dụng động viên, khích lệ cán bộ, đảng viên, và đội ngũ
CBHC ở cơ quan, đơn vị hậu cần học tập, làm theo.
Bốn là, tăng cường công tác kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm
của ủy ban kiểm tra đảng ủy các cấp, kịp thời ngăn chặn suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống của một số CBHC hiện nay
Kiểm tra đảng viên là nhiệm vụ chính trị thường xuyên, quan trọng, là
đòi hỏi tất yếu trong hoạt động lãnh đạo, là một mắt khâu không thể tách rời
trong quy trình lãnh đạo, đồng thời là một mặt công tác rất quan trọng của
Đảng. Đảng ta khẳng định: “Lãnh đạo mà không có kiểm tra thì coi như
không có lãnh đạo” [54, tr.123]. Theo Hồ Chí Minh: “Khi đã có chính sách
đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức
công việc, nơi lựa chọn cán bộ và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài, thì
chính sách đúng mấy cũng vô ích” [107, tr.636].
146
Để góp phần ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở một số CBHC Quân đội hiện
nay, đòi hỏi cấp ủy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị hậu cần phải có biện
pháp phát hiện, ngăn chặn từ xa, kịp thời, hiệu quả. Vì vậy, tăng cường thực
hiện tốt công tác kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, đặc biệt đối với
đảng viên là CBHC của UBKT đảng ủy các cấp là một biện pháp quan trọng,
không những góp phần bảo đảm cho đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng được chấp hành triệt để mà còn là biện pháp kịp thời nhất, hữu hiệu
nhất để phòng ngừa, ngăn chặn từ xa sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; khắc phục tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí ở một bộ phận CBHC, nâng cao năng lưc lanh đao, sưc chiên
đâu của cấp ủy, chi bộ cơ quan, đơn vị hậu cần quân đội.
Thông qua sinh hoạt đảng thường kỳ, kiểm tra thường xuyên và đột
xuất; qua phản ánh, báo cáo của đội ngũ đảng viên, cán bộ, quần chúng. Cấp
ủy, chi bộ, UBKT đảng ủy các cấp phải thường xuyên nắm chắc phẩm chất,
năng lực, các mối quan hệ của đội ngũ CBHC ở đơn vị mình, nhất là những
quan hệ kinh tế trong hoạt động bảo đảm hậu cần, kịp thời phát hiện biểu hiện
vi phạm để chấn chỉnh, nhắc nhở. Đối với những trường hợp phải kiểm tra khi
có dấu hiệu vi phạm, cấp ủy, ủy ban kiểm tra xác định rõ nội dung, chủ thể,
đối tượng, xây dựng kế hoạch, phân công giao nhiệm vụ cụ thể; tổ chức kiểm
tra đối với đảng viên là CBHC khi có dấu hiệu vi phạm chặt chẽ, nghiêm túc,
đúng thủ tục, quy trình, tuân thủ đúng các khâu, các bước của công tác kiểm
tra. Thông qua kiểm tra, kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm đối với những
trường hợp vi phạm của CBHC, nhất là việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn để
tham nhũng, gây thất thoát tài sản, vật chất của Nhà nước, quân đội.
Kiểm tra đảng viên là CBHC khi có dấu hiệu vi phạm là biện pháp
quan trọng, hựu hiệu có tác dụng lớn, trực tiếp góp phần ngăn chặn, đẩy lùi suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở
một số CBHC Quân đội hiện nay, cần được cấp ủy, tổ chức đảng các cấp quan
tâm triển khai thực hiện nghiêm túc.
Năm là, đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở cơ
quan, đơn vị hậu cần, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về đạo đức, lối
sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận CBHC
147
Đánh giá về chất lượng công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí
của Đảng thời gian qua, Đại hội lần thứ XII Đảng ta chỉ rõ: “tham nhũng, lãng
phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện ngày càng tinh vi, phức tạp,
xảy ra trên nhiều lĩnh vực, ở nhiều cấp, nhiều ngành, làm cản trở sự phát triển
kinh tế - xã hội, gây bức xúc trong dư luận, là thách thức nghiêm trọng đối
với vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước, đe dọa sự
tồn vong của chế độ” [67, tr.196]. Trong quân đội, thực trạng “một số cán bộ
thiếu tu dưỡng, rèn luyện, học tập vươn lên, giảm sút ý chí, niềm tin vào sự
lãnh đạo của Đảng, làm việc cầm chừng, cơ hội thực dụng, thoái hóa biến
chất, gia trưởng độc đoán, vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
kỷ luật của Quân đội” [136, tr.3] vẫn tồn tại, diễn biến phức tạp. Thực trạng
này đặt ra yêu cầu cấp thiết phải đẩy mạnh công tác phòng, chống tham
nhũng, lãng phí ở cơ quan, đơn vị hậu cần, trực tiếp góp phần giáo dục, rèn
luyện ĐĐCM đối với đội ngũ CBHC Quân đội hiện nay.
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng, lãng phí, góp
phần giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội, lãnh
đạo, chỉ huy các cấp cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung, biện pháp sau:
Trước hết, cấp ủy, chỉ huy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị hậu cần
phải nhận thức rõ đây là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, lâu dài, xác định quyết
tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Đồng thời,
căn cứ và nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của cấp trên, xây dựng nghị quyết
của cấp ủy, kế hoạch, chương trình hành động của chỉ huy; tổ chức triển khai,
thực hiện các biện pháp phòng, chống tham nhũng, lãng phí nghiêm túc, chặt
chẽ trong cơ quan, đơn vị mình.
Cụ thể hóa Pháp lệnh, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong
sinh hoạt của cấp ủy, chi bộ, công tác chỉ huy, và trong hoạt động thực hiện
nhiệm vụ bảo đảm hậu cần của đội ngũ CBHC; tăng cường tuyên truyền, phổ
biến về những chủ trương tiết kiệm, chống lãng phí của Đảng và Nhà nước tới
toàn thể cán bộ, đảng viên, quần chúng; xây dựng kế hoạch, chương trình, nội
dung, mục tiêu thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí về tài chính, tài sản, thời
gian, sức lao động cụ thể, rõ ràng để mỗi cán bộ, đảng viên, CBHC đăng ký
quyết tâm thực hiện. Lãnh đạo, chỉ huy các cấp công khai, minh bạch trong
kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả việc thực hiện kế hoạch tiết kiệm, chống
lãng phí của các đối tượng; tổ chức tốt việc sơ, tổng kết, đánh giá, tìm nguyên
nhân, rút kinh nghiệm để khắc phục hạn chế, khuyết điểm.
148
Cấp ủy, chỉ huy các cấp cần chủ động rà soát, bổ sung, hoàn thiện
những quy định, quy chế, cơ chế phòng, chống lãng phí, thực hành tiết kiệm;
khắc phục, sửa đổi những chế tài còn chung chung trong xử lý tránh nhiệm
đối với đội ngũ cán bộ chủ trì cơ quan, đơn vị, đội ngũ CBHC trong việc
quyết định, phê duyệt chi tiêu ngân sách, đầu tư mua xắm vật chất, trang bị,
xây dựng cơ bản sai quy định dẫn đến gây lãng phí thất thoát, lãng phí. Xác
định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của tập thể, cá nhân trong quản
lý, sử dụng tài chính, cơ sở vật chất, trang bị hậu cần, quân trang, quân dụng;
trách nhiệm cá nhân người đứng đầu để xảy ra thất thoát, lãng phí tài sản của
Đảng, Nhà nước và quân đội.
Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát của lãnh đạo, chỉ huy,
cơ quan chức năng các cấp đối với các cá nhân CBHC, đơn vị hậu cần trong
thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí; kết hợp việc thanh tra, kiểm tra, giám sát
của cấp ủy, chi huy, cơ quan chức năng, và giám sát của quần chúng, với đẩy
mạnh giáo dục, bồi dưỡng, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính của đội ngũ CBHC
Quân đội. Duy trì, thực hiện nghiêm quy chế làm việc, nhất là những quy chế,
quy định trong hoạt động quản lý, sử dụng, bảo quản, cấp phát vật chất, tài
chính, phương tiện hậu cần; thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, bảo đảm tính
công khai, minh bạch, tạo môi trường dân chủ, lành mạnh thuận lợi để đội ngũ
CBHC phát huy vai trò tự giác, tích cực, tận tâm, tận lực phục vụ bộ đội.
Tăng cường hoạt động tự quản lý, tự giáo dục, rèn luyện, phát huy
vai trò tiền phong, gương mẫu của đội ngũ CBHC, đảng viên trong học tập,
chấp hành pháp luật về phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí trong các cơ quan, đơn vị hậu cần. Kịp thời biểu dương,
khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích trong việc phát hiện, đấu
tranh với các hành vi tham nhũng, lãng phí. Chủ động phối hợp chặt chẽ
giữa các cơ quan chức năng trong và ngoài quân đội kiên quyết xử lý và
kịp thời thay thế cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, quản lý và CBHC có hành vi
tham nhũng, lãng phí. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, chủ
động xây dựng các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn, hạn chế điều kiện,
nguyên nhân dẫn đến hành vi tham nhũng, lãng phí của một số CBHC ở cơ
quan, đơn vị hậu cần quân đội hiện nay.
149
KẾT LUẬN
1. Đội ngũ CBHC là một bộ phận cán bộ quân đội, được giao nhiệm
vụ lãnh đạo, chỉ huy, quản lý các mặt hoạt động khác nhau của công tác
hậu cần. ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội là hệ thống những quy tắc, chuẩn
mực về cách ứng xử của người CBHC trong thực hiện nhiệm vụ và giải quyết
các mối quan hệ; là nền tảng của phẩm chất, nhân cách, giúp người CBHC nhận
thức đúng và thực hiện tốt nhiệm vụ hậu cần được giao. Giáo dục, rèn luyện
ĐĐCM đối với đội ngũ CBHC Quân đội trong điều kiện hiện nay là yêu cầu
khách quan, cấp thiết, nhằm nâng cao phẩm chất chính trị, ĐĐCM của đội
ngũ CBHC, góp phần xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị.
2. Giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội là tổng thể
các hoạt động có mục đích được tổ chức một cách khoa học của chủ thể và
sự luyện tập thường xuyên, kiên trì, bền bỉ, lâu dài của đội ngũ CBHC,
nhằm hình thành, phát triển những quy tắc, chuẩn mực ĐĐCM của mỗi
CBHC trong thực hiện nhiệm vụ và các mối quan hệ, nhân tố cốt lõi góp
phần nâng cao phẩm chất, nhân cách, bảo đảm cho đội ngũ CBHC Quân
đội hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao. Hoạt động giáo dục, rèn
luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội được tiến hành với những nội cụ
thể; phương thức giáo dục, rèn luyện phong phú, đa dạng và sát với thực tiễn
chức trách, nhiệm vụ, đặc điểm của đội ngũ CBHC. Qúa trình giáo dục, rèn
luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC cần quán triệt và thực hiện tốt những yêu
cầu cụ thể để nâng cao kết quả hoạt động.
3. Thực tiễn trong những năm qua QUTW, BQP, lãnh đạo, chỉ huy các
cấp trong quân đội luôn quan tâm giáo dục, rèn luyện ĐĐCM cho đội ngũ
CBHC. Vì vậy, đại đa số CBHC luôn vững vàng về phẩm chất chính trị, ĐĐCM,
chủ động khắc phục khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ bảo đảm hậu cần trong mọi
tình huống. Tuy nhiên hoạt động giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC
vẫn tồn tại một số hạn chế, khuyết điểm, do đó vẫn có CBHC vi phạm kỷ luật,
quy định, và có biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống. Thực trạng này xuất
phát từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau, trong đó nguyên
nhân chủ quan giữ vai trò quyết định. Từ thực trạng ĐĐCM và giáo dục, rèn
luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC, đã chỉ ra những bài học kinh nghiệm cụ thể,
150
thiết thực. Đây là cơ sở quan trọng để dự báo thuận lợi, khó khăn; xác định
phương hướng, và đề xuất giải pháp đẩy mạnh giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của
đội ngũ CBHC Quân đội thời gian tới đạt chất lượng, hiệu quả cao.
4. Để thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ
CBHC Quân đội thời gian tới, cấp ủy, chỉ huy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị
hậu cần, cơ quan chức năng các cấp phải quán triệt tốt phương hướng, và thực
hiện đồng bộ các giải pháp về: nâng cao nhận thức, trách nhiệm của chủ thể và
các lực lượng tham gia giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân
đội; xác định chuẩn mực ĐĐCM của từng loại CBHC Quân đội hiện nay; đổi
mới nội dung, phương thức giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện ĐĐCM, đẩy mạnh học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh của đội ngũ CBHC
Quân đội; phát huy vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo của đội ngũ CBHC
Quân đội trong tự học tập, bồi dưỡng, rèn luyện nâng cao ĐĐCM; và đẩy
mạnh đấu tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
ngăn ngừa “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ CBHC Quân đội hiện
nay. Những giải pháp trên là một chỉnh thể thống nhất, cần được quán triệt
thực hiện đồng bộ trong quá trình giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ
CBHC Quân đội thời gian tới.
5. Giáo dục, rèn luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội là trách
nhiệm của mọi tổ chức, lực lượng, của các cấp, các ngành trong và ngoài
quân đội; phải kết hợp thực hiện nhiều nội dung, phương thức. Kết quả
nghiên cứu, đề xuất của luận án mới chỉ là bước đầu, chưa thể nghiên cứu
sâu sắc và giải quyết thấu đáo những vấn đề thực tiễn trong giáo dục, rèn
luyện ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội đặt ra. Trong khi đó, công cuộc
đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng và nhiệm vụ xây dựng quân đội
theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đặt ra yêu
cầu ngày càng cao về chất lượng công tác hậu cần quân đội, sẽ làm xuất hiện
những vấn đề mới về lý luận và thực tiễn. Vì vậy, vấn đề giáo dục, rèn luyện
ĐĐCM của đội ngũ CBHC Quân đội cần được tiếp tục nghiên cứu, giải
quyết trong giai đoạn cách mạng mới.
151
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Đỗ Anh Vinh, (2016) “Đấu tranh phòng chống suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống ở tổ chức đảng các cấp trong Quân đội hiện nay theo tinh thần Nghị
quyết Đại hội XII của Đảng, Tạp chí Cộng sản Điện tử, ngày 03 tháng 8.
2. Đỗ Anh Vinh (2017), “Một số giải pháp nâng cao chất lượng chính trị
của học viên đào tạo cán bộ Hậu cần cấp phân đội ở Học viện Hậu cần”, Tạp chí
Nghiên cứu khoa học Hậu cần Quân sự, số 4 (186), tr. 97-100.
3. Đỗ Anh Vinh (2017), “Nâng cao hiệu quả công tác cán bộ tại cơ sở theo
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII”, Tạp chí Thông tin khoa học Lý luận Chính
trị, số 9 (34), tr.91-94.
4. Đỗ Anh Vinh (2018), “Bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho cán bộ Hậu
cần Quân đội theo đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, Tạp chí Khoa học Quân
sự, (số 3), tr.12-16.
5. Đỗ Anh Vinh, (2018), “Đẩy mạnh giáo dục, rèn luyện đạo đức cách
mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu
khoa học Hậu cần Quân sự, số 2 (190), tr.86-89.
6. Đỗ Anh Vinh (2018), “Một số nội dung xây dựng Đảng về đạo đức
trong Đảng bộ Quân đội”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 5, tr.35-37.
7. Đỗ Anh Vinh (2018), “Đạo đức cách mạng của người cán bộ làm
công tác hậu cần trong Quân đội nhân dân Việt Nam”, Tạp chí Thông tin
khoa học Lý luận Chính trị, số 4 (41), tr.83-87.
152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Thị Vân Anh (2016), Giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh
viên các trường đại học, cao đẳng trong dạy học môn tư tưởng Hồ Chí
Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. A.X. Milôvidốp (1979), “Đạo đức Cộng sản chủ nghĩa và nghĩa vụ của
quân nhân”, Nxb Quân sự - Bộ Quốc phòng Liên Xô do Thư viện Quân đội
lược dịch, Hà Nội, 1981.
3. Nguyễn Ngọc Ba (2004), Ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dụng đến
nhân cách người cán bộ Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay,
Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội, 2004.
4. Ban Bí thư Trung ương (2003), Chỉ thị số 23-CT/TW ngày 27-3-2003,
“Về đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh
trong giai đoạn mới”, Hà Nội.
5. Ban Bí thư Trung ương (2012), số 101-QĐ/TW ngày 7-6-2012, “Quy
định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh
đạo chủ chốt các cấp”, Hà Nội.
6. Ban Bí thư Trung ương (2017), số 102-QĐ/TW ngày 15-11-2017, “Quy
định xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm”, Hà Nội.
7. Ban Bí thư Trung ương (2018), số 115-QĐ/TW ngày 25-1-2018, “Quy
định về chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở ở đơn vị quản lý cơ sở
vật chất, kỹ thuật, tài chính trong Quân đội nhân dân Việt Nam”, Hà Nội.
8. Ban Bí thư Trung ương (2018), số 116-QĐ/TW ngày 25-1-2018, “Quy
định về chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở ở học viện, nhà
trường trong Quân đội nhân dân Việt Nam”, Hà Nội.
9. Ban Chấp hành Trung ương (2018), số 01-QĐ/TW ngày 10-5-2018,
“Quy định trách nhiệm và thẩm quyền của ủy ban kiểm tra trong công tác
phòng, chống tham nhũng”, Hà Nội.
10. Ban Tuyên giáo Trung ương (2015), Hồ Chí Minh về suốt đời phấn đấu
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, làm người công bộc tận tụy, trung thành
của nhân dân, đời tư trong sáng, cuộc sống riêng giản dị, Nxb Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội.
153
11. Ban Tuyên giáo Trung ương (2017), Xây dựng phong cách, tác phong
công tác của người đứng đầu, của cán bộ, đảng viên trong học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Ban Tuyên giáo Trung ương (2017), Giáo dục đào tạo cách mạng
trong thời kỳ mới (chương trình bồi dưỡng chuyên đề dành cho cán bộ, đảng
viên và nhân dân), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2007), Đẩy mạnh học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2007), Một số lời dạy và mẩu chuyện
về tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Hoàng Chí Bảo (2013), Văn hóa đạo đức Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị
quốc gia Sự thật, Hà Nội.
16. Hoàng Chí Bảo (2017), “Xây dựng Đảng về đạo đức”, Báo Nhân
dân điện tử, ngày 14 tháng 2.
17. Bộ Chính trị (2006), Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 07-11-2006, “Về tổ chức
cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, Hà Nội.
18. Bộ Chính trị (2011), Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14-5-2011, “Về tiếp tục
đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, Hà Nội.
19. Bộ Chính trị (2016), Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016, “Đẩy mạnh
học tập và làm theo tư tưởng đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, Hà Nội.
20. Bộ Chính trị (2017), Quyết định số 89-QĐ/TW, ngày 04-8-2017, về
“Khung tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh giá cán bộ
lãnh đạo, quản lý các cấp”, Hà Nội.
21. Bộ Quốc phòng (2008), Ban chỉ đạo cuộc vận động, “Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, Số 52 - BC/BCĐ, “Báo cáo kết quả 1 năm
thực hiện cuộc vận động”, Hà Nội.
22. Bộ Quốc phòng (2010), Điều lệ công tác hậu cần Quân đội nhân dân
Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
154
23. Bộ Quốc phòng, Ban chỉ đạo phong trào thi đua “Ngành Hậu cần Quân đội
làm theo lời Bác Hồ dạy” (2012), số 448-BC/BCĐ, về “Kết quả phong trào thi đua
Ngành Hậu cần Quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy 6 tháng đầu năm 2012”, Hà Nội.
24. Bộ Quốc phòng, Tổng cục Hậu cần, số 286 (07-4-2014), “Báo cáo tình hình
thực lực đội ngũ cán bộ, nhân viên ngành Chỉ huy Tham mưu Hậu cần”, Hà Nội.
25. Bộ Quốc phòng, Ban chỉ đạo phong trào thi đua “Ngành Hậu cần Quân đội
làm theo lời Bác Hồ dạy” (2015), Báo cáo sơ kết 5 năm lần thứ tư phong trào thi đua
“Ngành Hậu cần Quân đội làm theo lời Bác Hồ dạy” giai đoạn 2010-2015, Hà Nội.
26. Bunma KếtKêson (2003), Nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh nước Cộng hoà dân chủ Nhân dân Lào, Luận án
Tiến sĩ xây dựng Đảng, Hà Nội.
27. C. Mác và Ph. Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
28. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 39, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Hà Nguyên Cát (2000), Vấn đề đạo đức cách mạng của người cán
bộ Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam, Luận án tiến sĩ triết học, Học
viện Chính trị - Quân sự, Hà Nội.
31. Nguyễn Hồng Châu (2010), Xây dựng đội ngũ cán bộ Hậu cần ở cơ
quan quân sự tỉnh (thành phố) đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới,
đề tài khoa học cấp ngành, Học viện Hậu cần, Hà Nội.
32. Nguyễn Hữu Chính (2017), “Xây dựng Đảng về đạo đức trọng tâm
lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng tổ chức, xây dựng con người của Đảng bộ Tổng
cục Kỹ thuật”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (9).
33. Trần Như Chủ (2002), Phát triển đạo đức cách mạng của người cán bộ
Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam: Lịch sử và lô gíc, Luận án Tiến sĩ
Triết học, Học viện Chính trị Quân sự, Hà Nội.
34. Hoàng Đình Cúc (2013), Đạo đức nghề báo - Những vấn đề lý luận và
thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
155
35. Đinh Phú Cường (2004), Phát triển đạo đức cách mạng của học viên
đào tạo sĩ quan chính trị cấp phân đội ở Học viện chính trị quân sự hiện nay,
Luận văn thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội.
36. Nguyễn Bá Dương, Nguyễn Hùng Oanh (2011), Giáo trình đạo đức
học Mác - Lênin (Dùng cho đào tạo cán bộ quân đội, bậc đại học), Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội.
37. Nguyễn Bá Dương (2016), Phòng, chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống của cán bộ, đảng viên hiện nay, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
38. Đảng bộ Quân khu 3 (2015), số 69-NQ/ĐH, Nghị quyết Đại hội Đảng
bộ Quân khu lần thứ VIII, nhiệm kỳ 2015-2020, Lưu hành nội bộ.
39. Đảng bộ Cục Hậu cần Binh chủng Công binh (2015), Nghị quyết Đại
hội đại biểu đảng bộ nhiệm kỳ 2015-2020, Lưu hành nội bộ.
40. Đảng bộ Cục Hậu cần Binh chủng Thông tin liên lạc (2015), Nghị
quyết Đại hội đại biểu đảng bộ nhiệm kỳ 2015-2020, Lưu hành nội bộ.
41. Đảng bộ Cục Hậu cần Quân chủng Phòng không-Không quân (2015),
Nghị quyết Đại hội đại biểu đảng bộ nhiệm kỳ 2015-2020, Lưu hành nội bộ.
42. Đảng bộ Cục Hậu cần Quân chủng Hải quân (2015), Nghị quyết Đại
hội đại biểu đảng bộ nhiệm kỳ 2015-2020, Lưu hành nội bộ.
43. Đảng bộ Cục Hậu cần Quân đoàn 1 (2015), Nghị quyết Đại hội đại biểu
đảng bộ nhiệm kỳ 2015-2020, Lưu hành nội bộ.
44. Đảng bộ Cục Hậu cần Quân đoàn 2 (2015), Nghị quyết Đại hội đại biểu
đảng bộ nhiệm kỳ 2015-2020, Lưu hành nội bộ.
45. Đảng bộ Cục Hậu cần Quân đoàn 1 (2017), Báo cáo tổng kết thực hiện Nghị
quyết Trung ương 3 Khóa VIII về “chiến lược cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” trong Đảng bộ Cục Hậu cần. Lưu hành nội bộ.
46. Đảng bộ Phòng Hậu cần Sư đoàn 312 - Quân đoàn 1 (2015), Nghị quyết
Đại hội đại biểu đảng bộ nhiệm kỳ 2015-2020, Lưu hành nội bộ.
47. Đảng bộ Phòng Hậu cần Sư đoàn 3 - Quân khu 1 (2015), Nghị quyết
Đại hội đại biểu đảng bộ nhiệm kỳ 2015-2020, Lưu hành nội bộ.
156
48. Đảng bộ Phòng Hậu cần - Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Nam Định (2015),
Nghị quyết Đại hội đại biểu đảng bộ nhiệm kỳ 2015-2020, Lưu hành nội bộ.
49. Đảng bộ Phòng Hậu cần - Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Thái Bình (2015),
Nghị quyết Đại hội đại biểu đảng bộ nhiệm kỳ 2015-2020, Lưu hành nội bộ.
50. Đảng bộ Phòng Hậu cần - Bộ chỉ huy quân sự thành phố Bắc Giang (2015),
Nghị quyết Đại hội đại biểu đảng bộ nhiệm kỳ 2015-2020, Lưu hành nội bộ.
51. Đảng bộ Phòng Hậu cần - Bộ chỉ huy quân sự thành phố Hải Phòng (2015),
Nghị quyết Đại hội đại biểu đảng bộ nhiệm kỳ 2015-2020, Lưu hành nội bộ.
52. Đảng bộ Phòng Hậu cần - Vùng 1 Quân chủng Hải quân (2015), Nghị
quyết Đại hội đại biểu đảng bộ nhiệm kỳ 2015-2020, Lưu hành nội bộ.
53. Đảng bộ Tổng cục Hậu cần (2015), Nghị quyết Đại hội đại biểu đảng bộ
Tổng cục Hậu cần lần thứ XI, nhiệm kỳ 2015-2020, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.
54. Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ V, Tập 3, Nxb Sự thật, Hà Nội.
55. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
56. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
57. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.
58. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
59. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban
Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
61. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban
Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
157
62. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
63. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban
Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
64. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban
Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
65. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
66. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp
hành Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
67. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Văn Phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
68. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Điều lệ Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
69. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Tài liệu học tập các văn kiện hội nghị lần thứ
tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa XII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
70. Đảng Cộng sản Việt Nam (2018), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban
Chấp hành Trung ương khóa XII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
71. Đảng ủy Cục Hậu cần Quân khu 3 (2015), Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng
bộ Cục Hậu cần lần thứ IX, nhiệm kỳ 2015-2020, số 01-NQ/ĐU, Lưu hành nội bộ.
72. Đảng ủy Học viện Hậu cần (2015), Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Học viện
Hậu cần lần thứ XXI, nhiệm kỳ 2015-2020, Lưu hành nội bộ.
73. Đảng ủy Quân đoàn 2 (2017), Báo cáo tổng kết thực hiện Nghị quyết
Trung ương 3 Khóa VIII về “chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước” trong Đảng bộ Quân đoàn . Lưu hành nội bộ.
74. Đảng uỷ Quân đoàn 1, (2015), Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành
Đảng bộ (Khóa VIII) tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đoàn lần thứ IX,
nhiệm kỳ 2015-2020. Lưu hành nội bộ.
75. Đảng ủy Quân sự Trung ương (2006), Báo cáo chính trị Đảng ủy quân
sự Trung ương tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ quân đội lần thứ VIII, Hà Nội.
158
76. Đảng ủy Quân khu 3, (2010), số 10-BC/BCĐ, Báo cáo Tổng kết năm
2010 và 4 năm (2007-2010) cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh”, Lưu hành nội bộ.
77. Vũ Đình Đắc, Nguyễn Văn Phương (2017), “Một số giải pháp ngăn chặn,
đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng
viên hiện nay”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, (2).
78. Đặng Nam Điền (2004), Nâng cao đạo đức cách mạng của đội ngũ cán
bộ chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam trong thời kỳ mới, Luận án tiến sĩ
xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia, Hà Nội.
79. Đặng Nam Điền, Nguyễn Văn Giới, (2017), “Một số giải pháp xây dựng
Đảng về đạo đức trong Đảng bộ Quân đội”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (12).
80. Đ.A.Vôn-cô-gô-nốp (1977), Thế nào là quân nhân có đạo đức, Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội 1982.
81. Nguyễn Văn Giang (2018), “Nội dung, phương thức xây dựng Đảng về
đạo đức”, Tạp chí Xây dựng Đảng, (1).
82. Ngô Lương Hanh (2009), “Một số biện pháp chủ yếu nâng cao đạo đức
cách mạng cho cán bộ Hậu cần Quân đội hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu khoa
học hậu cần quân sự, (24).
83. Vũ Văn Hiền (2017), “Chuẩn mực đạo đức mới của đảng viên”, Tạp
chí Xây dựng Đảng, (11), tr.25-28.
84. Trần Viết Hoàn (2017), Đạo đức Bác Hồ tấm gương soi cho muôn đời,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
85. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2000), Giáo trình đạo đức
học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
86. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam
(2002), Từ điển Bách khoa Việt Nam 2, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
87. Hội đồng lý luận Trung ương (2004), Xây dựng Đảng cầm quyền - kinh nghiệm
của Việt Nam, kinh nghiệm của Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
159
88. Hội đồng lý luận Trung ương (2013), Xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh trong tình hình mới - kinh nghiệm Trung Quốc, kinh nghiệm Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
89. Hội đồng lý luận Trung ương (2012), Làm tốt công tác quần chúng
trong tình hình mới - kinh nghiệm Trung quốc, kinh nghiệm Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
90. Đoàn Minh Huấn (2018), “Giáo dục, rèn luyện nghĩa vụ đạo đức cách
mạng cho đảng viên - một nội dung quan trọng của xây dựng Đảng về đạo
đức”, Tạp chí Cộng sản, (904).
91. Bùi Nam Hưng (2016), Bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng của
đội ngũ cán bộ Hậu cần ở Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh, thành phố giai đoạn hiện
nay, Luận án Tiến sĩ Xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước, Học viện
Chính trị, Hà Nội.
92. Khămphăn Vông-pha-chăn (31-5-2013) “Rèn luyện đạo đức cán bộ lãnh
đạo ở Lào trong điều kiện kinh tế thị trường”, Tạp chí Xây dựng Đảng điện tử.
93. La Quốc Kiệt, (2003), Tu dưỡng đạo đức, tư tưởng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
94. Tô Lâm (2017), Công an nhân dân Việt Nam với tác phẩm tư cách người
công an cách mệnh của Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
95. Tô Lâm (2018), Tư tưởng Hồ Chí Minh về công an nhân dân - giá trị lý luận
và thực tiễn (xuất bản lần thứ 2 - 2018), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
96. Nhị Lê (2017) “Mấy vấn đề cơ bản và tiên quyết xây dựng Đảng về đạo
đức, bảo đảm nâng cao sức mạnh, uy tín và trách nhiệm cầm quyền của Đảng hiện
nay”, Tạp chí Cộng sản - Chuyên đề cơ sở, (122 + 123).
97. Nhiệm Khắc Lễ (1995), Công tác xây dựng Đảng trong giai đoạn hiện
nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
98. Đặng Sỹ Lộc (2011), Bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng theo tư
tưởng Hồ Chí Minh cho đội ngũ cán bộ doanh nghiệp quân đội , Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
160
99. Trường Lưu (13-12-2017) “Công tac xây dưng Đang cua Đang Công
san Trung Quốc trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Cộng sản Điện tử.
100. Nguyễn Văn Lý (2013), Kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền
thống trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia Sự Thật, Hà Nội.
101. Mẫn Văn Mai (chủ biên, 2001), Nâng cao đạo đức cách mạng của đội ngũ
cán bộ cấp phân đội quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
102. Vương Mê - Hà Ý (2004), “Chiến lược hậu cần của quân đội Đài loan”
Tạp chí Trung Quốc “Tri thức binh khí”, Thông tin khoa học quân sự, Hậu
cần quân đội nước ngoài, (8), Hà Nội.
103. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
104. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
105. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
106. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
107. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
108. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
109. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
110. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
111. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
112. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
113. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
114. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
115. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
116. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 14, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
117. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
118. Trương Ngọc Nam, Hoàng Anh (2011), Đảng ta là đạo đức, là văn
minh, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
119. Chương Tử Nghị (1987), Giáo trình Công tác Chính trị (Dùng trong các
Học viện, Nhà trường trong thời kỳ mới), Nxb Đại học Quốc phòng, Bắc Kinh.
161
120. Lê Hữu Nghĩa (2017), “Xây dưng Đang vê đao đưc trong giai đoan
hiên nay”, Tạp chí Cộng sản, (897).
121. Nguyễn Trọng Nghĩa (2017), “Nâng cao chất lượng xây dựng Đảng bộ Quân
đội về đạo đức trong tình hình mới”, Tạp chí Cộng sản - Chuyên đề cơ sở (133).
122. Trần Quang Nhiếp, Nguyễn Văn Sáu (2017), Hồ Chí Minh - Giá trị về
tư tưởng và đạo đức, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
123. Phạm Văn Nhuận (chủ biên, 2007), Chuẩn mực đạo đức quân nhân
của quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
124. Nguyễn Hùng Oanh (2002), Phát triển đạo đức cách mạng ở thanh
niên quân đội nhân dân Việt Nam trong tình hình hiện nay, Luận án tiến sĩ
Triết học, Học viện Chính trị - quân sự, Hà Nội.
125. Nguyễn Quang Phát (Chủ biên, 2006), Quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh về
đức - tài trong xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
126. Bùi Đình Phong (2017), Văn hóa đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
127. Phùng Hữu Phú (2017) “Xây dưng Đang vê đao đưc theo đinh hương
Văn kiên Đại hôi XII cua Đang”, Tạp chí Cộng sản, (898), tr.24-27.
128. Vũ Văn Phúc và Ngô Văn Thạo (2012), Những giải pháp và điều kiện
thực hiện phòng, chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong
cán bộ, đảng viên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
129. Vu Văn Phuc (2016) “Phòng, chống suy thoái về tư tưởng, chính trị,
đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên là một yêu cầu bức thiết hiện nay”,
Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 08 tháng 7.
130. Nguyễn Thị Hoài Phương (2014), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
cách mạng và sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay, Chính trị
quốc gia sự thật, Hà Nội.
131. P.I. Các-pen-cô, (1981), Công tác đảng - chính trị trong các lực lượng
vũ trang xô-viết, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
162
132. Quân đội nhân dân Việt Nam, Tổng cục Chính trị (2014), Thông báo số
62/TB-CT ngày 9-01-2015 về “Kết quả học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh - Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng
danh Bộ đội Cụ Hồ” năm 2014; phương hướng, nhiệm vụ năm 2015”, Hà Nội.
133. Quân đội nhân dân Việt Nam (2015), Tài liệu nghiên cứu, học tập,
quán triệt Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ X, nhiệm
kỳ 2015-2020, Hà nội.
134. Quân đội nhân dân Việt Nam, Tổng cục Chính trị (2016), Quy chế giáo
dục chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam và dân quân tự vệ Việt Nam,
Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
135. Quân ủy Trung ương (2012), Nghị quyết số 765-NQ/QUTW ngày 20-12-2012 “về
nâng cao chất lượng huấn luyện giai đoạn 2013-2020 và những năm tiếp theo”, Hà Nội.
136. Quân ủy Trung ương (2012), Nghị quyết số 769-NQ/QUTW ngày 21-
12-2012, Về xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội giai đoạn 2013-2020 và
những năm tiếp theo, Hà Nội.
137. Quân ủy Trung ương (2016), Chỉ thị số 87-CT/QUTW ngày 08-7-2016
của Quân ủy Trung ương về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh”, Hà Nội.
138. Quân ủy Trung ương, (2015), Báo cáo chính trị của Quân ủy Trung ương
tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ X, Hà Nội. Lưu hành nội bộ.
139. Tạ Ngọc Tấn (2017) “Vấn đề đạo đức trong xây dựng Đảng hiện nay”,
Tạp chí Cộng sản, số (896), tr.28-32.
140. Nguyễn Viết Thông (2016), “Ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng
chính trị” Báo Nhân dân điện tử, ngày 01 tháng 12.
141. Cao Văn Thống, Trần Duy Hưng (2017) “Ngăn chặn, đẩy lùi những
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong tổ chức và của cán bộ, đảng
viên”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 20 tháng 2.
142. Nguyễn Vĩnh Thắng (2001), Người cán bộ Hậu cần trong giai đoạn
cách mạng mới, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
163
143. Tổng cục Chính trị, (2005), Tài liệu học tập, quán triệt Nghị quyết
51 Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb Quân
đội nhân dân, Lưu hành nội bộ.
144. Tổng cục Chính trị (2008), Giáo trình công tác đảng, công tác chính
trị, Tập 2, 3, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
145. Tổng cục Chính trị (2010), Tài liệu học tập, quán triệt Nghị quyết
Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ X, Nhiệm kỳ 2015-2020, Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội.
146. Tổng cục Hậu cần (1999), Lịch sử Hậu cần Quân đội nhân dân Việt
Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
147. Tổng cục Hậu cần (2000), 50 năm Ngành Hậu cần xây dựng và hoạt
động theo tư tưởng Hồ Chí Minh kinh nghiệm và phương hướng phát triển,
Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
148. Nguyễn Phú Trọng (2017), “Xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch,
vững mạnh, thực sự “là đạo đức, là văn minh”, Tạp chí Cộng sản (891).
149. Nguyễn Minh Tuấn (2017), “Xây dựng Đảng về đạo đức cần gắn chặt với
xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức”, Tạp chí Cộng sản, (895), tr.27-32.
150. Đỗ Xuân Tuất (2011), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác giáo
dục đạo đức cách mạng đối với cán bộ, đảng viên từ năm 1994 đến năm 2006,
Luận án tiến sĩ lịch sử, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
151. Trần Thị Minh Tuyết (2017), “Vân dung tư tương Hô Chi Minh vê
cần, kiệm, liêm, chính vào xây dưng Đang vê đao đưc trong giai đoan hiên
nay”, Tạp chí Cộng sản, (898), tr.28-33.
152. Nguyễn Đức Tưởng (2015), Xây dựng đội ngũ cán bộ Hậu cần ở các sư
đoàn bộ binh đủ quân trong Quân đội nhân dân Việt Nam, Luận án Tiến sĩ xây
dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị, Hà Nội.
153. Vikton Litovkin (2009), “Về cải cách hậu cần quân đội Liên Bang Nga”
Thông tin khoa học quân sự, hậu cần quân đội nước ngoài, (29), Hà Nội.
164
154. Huỳnh Khánh Vinh (chủ biên, 2001), Một số vấn đề về lối sống, đạo
đức, chuẩn giá trị xã hội, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
155. Phạm Văn Vinh (2005), Nâng cao đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ
chủ trì ở đơn vị cơ sở binh chủng hợp thành Quan đội nhân dân Việt Nam, Luận
án tiến sỹ Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội.
156. V.I. Lênin (1976), Toàn tập, tập 4, Nxb Tiến bộ Mát-xcơ-va.
157. V.I. Lênin (1976), Toàn tập, tập 6, Nxb Tiến bộ Mát-xcơ-va.
158. V.I. Lênin (1971), Toàn tập, tập 27, Nxb Tiến bộ Mát-xcơ-va.
159. V.I. Lênin (1976), Toàn tập, tập 35, Nxb Tiến bộ Mát-xcơ-va.
160. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ Mát-xcơ-va.
161. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
162. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 42, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
163. Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
164. Dương Trung Ý (2017), “Xây dựng đạo đức của cán bộ, đảng viên, chống chủ
nghĩa cá nhân, bè phái, “lợi ích nhóm”, Tạp chí Cộng sản - Chuyên đề cơ sở, (122).
165
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
KẾT QUẢ ĐIỀU TRA BẰNG PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN
(Nguồn: Số liệu do tác giả trực tiếp điều tra (chọn mẫu) của 1000 cán bộ Hậu cần
thuộc Quân đoàn 1, Quân chủng Phòng không - Không quân, Quân chủng Hải quân, Binh
chủng Tăng Thiết giáp, Quân khu 2, Quân khu 3; và 1000 học viên đào tạo cán bộ Hậu cần
các cấp tại Học viện Hậu cần. Thời gian: Tháng 10 -11 năm 2017)
2. Ý kiến đánh giá về vai trò của giáo dục, rèn
luyện đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ Hậu
cần Quân đội
Quan trọng Không quan
trọng
Số ý
kiến
Tỷ lệ
(%)
Số ý
kiến
Tỷ lệ
(%)
- Góp phần giữ vững và tăng cường những giá trị đạo
đức cao quý của dân tộc, Đảng, Bác Hồ trong Quân
đội hiện nay
1833 91,65 167 8,35
- Là cơ sở hoàn thiện đạo đức cách mạng, phẩm chất
nhân cách của đội ngũ cán bộ Hậu cần, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ bảo đảm hậu cần trong tình hình mới
1884 94,2 116 5,8
- Là điều kiện quan trọng để chủ động ngăn ngừa sự
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở
một bộ phận cán bộ Hậu cần Quân đội hiện nay
1762 88,1 238 11,9
- Trực tiếp góp phần nâng cao chất lượng chính trị,
sức mạnh chiến đấu của quân đội 1853 92,65 147 7,35
1. Ý kiến đánh giá về vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ Hậu cần
trong quân đội hiện nay
Số ý
kiến
Tỷ lệ
(%)
- Là nhân tố then chốt trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ hậu cần 1867 93,35
- Là lực lượng nòng cốt trong xây dựng cơ quan, đơn vị hậu cần vững
mạnh toàn diện 1472 73,6
- Là tấm gương mẫu mực trong giáo dục, rèn luyện đạo đức cách
mạng đối với bộ đội ở cơ quan, đơn vị hậu cần 1232 61,6
- Là lực lượng góp phần xây dựng QĐND Việt Nam cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại 1256 62,8
3. Ý kiến đánh giá về những phẩm chất quan trọng đối với
người cán bộ Hậu cần
Số ý
kiến
Tỷ lệ
(%)
- Trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân 2000 100
- Cần, kiệm, liêm chính, tự lực, tự cường 2000 100
- Sống trong sạch lành mạnh 1763 88,15
- Khắc phục khó khăn, hết lòng phục vụ bộ đội 1877 93,85
- Có ý thức tổ chức kỷ luật cao 1850 92,5
- Ham học hỏi, cầu tiến bộ 1436 71,8
- Có tinh thần đoàn kết nội bộ, gắn bó mật thiết với nhân dân 1562 78,1
- Có tác phong làm việc khoa học, chân thành, gần gũi đồng chí, dân chủ 1207 60,35
- Có tinh thần đấu tranh với những biểu hiện suy thoái, tiêu cực 1348 67,4
166
7. Ý kiến đánh giá về một số biểu hiện trong quá trình công
tác của cán bộ Hậu cần Ý kiến
Tỷ lệ
(%)
- Tham nhũng, lãng phí 167 8,35
- Quan liêu, quân phiệt 152 7,6
- Cục bộ, mất đoàn kết 73 3,65
- Chạy chức, chạy quân hàm 129 6,45
- Vun vén cá nhân, cơ hội thực dụng 243 12,15
- Quan hệ bất chính 17 0,85
- Rượu chè, cờ bạc 374 18,7
- Mê tín dị đoan 15 0,75
- Năng lực công tác hạn chế, chưa đáp ứng nhiệm vụ 36 1,8
- Bảo thủ, lười học tập và rèn luyện 354 17,7
4. Ý kiến đánh giá về chất lượng đội ngũ cán bộ Hậu cần ở đơn vị hiện nay
Nội dung đánh giá
Mức đánh giá
Tốt
(%)
Khá
(%)
TB
(%)
Yếu
(%)
Khó trả lời
(%)
- Bản lĩnh chính trị 80,3 13,4 6,05 0,15 0,1
- Đạo đức, lối sống 23,75 56,75 7,65 6,35 5,5
- Năng lực công tác 9,25 68,35 18,6 1,25 2,55
- Chấp hành kỷ luật 84,55 10,65 3,6 1,2
- Phương pháp tác phong 9,35 71,15 10,75 4,2 4,55
- Mức độ hoàn thành nhiệm vụ 10,6 65,95 15,85 4,15 3,45
5. Ý kiến đánh giá về mức độ tin tưởng của cán bộ Hậu cần vào
sự nghiệp cách mạng của Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng ta
Số ý
kiến
Tỷ lệ
(%)
- Tin tưởng vào đường lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng 1993 99,65
- Tin tưởng vào mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH 1981 99,05
- Tin tưởng vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam 1876 93,8
- Tin tưởng nhưng còn nhiều băn khoăn 316 15,8
- Không tin tưởng
- Khó trả lời 23 1,15
6. Ý kiến đánh giá về cuộc đấu tranh phòng, chống suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ của Đảng ta hiện nay
Số ý
kiến
Tỷ lệ
(%)
- Sẽ thực hiện thành công 312 15,6
- Có, nhưng rất khó khăn 1382 69,1
- Khó thực hiện 215 10,75
- Không thực hiện được 20 1
- Khó trả lời 71 3,55
167
9. Ý kiến về nguyện vọng của cán bộ Hậu cần hiện nay Số ý kiến Tỷ lệ
(%)
- Phục vụ lâu dài trong quân đội 1961 98,05
- Tiếp tục được đi đào tạo, phát triển lên vị trí cao hơn 831 41,55
- Ổn định công tác, không phải học thêm 573 28,65
- Được chuyển ngành công tác 52 2,6
- Được chuyển vùng công tác 293 14,65
- Được phục viên 18 0,9
- Nguyện vọng khác 3 0,15
10. Ý kiến đánh giá về nguyên nhân của những hạn chế
trong giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của đội ngũ
cán bộ Hậu cần Quân đội
Số ý kiến Tỷ lệ
(%)
- Do tác động từ mặt trái của kinh tế thị trường 1764 88,2
- Do sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch 379 18,95
- Do chính sách đối với cán bộ có nội dung chưa hợp lý 257 12,85
- Do sự tác động của những tệ nạn ngoài xã hội xâm nhập vào đơn vị 382 19,1
- Do công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện của tổ chức đảng, tổ
chức chỉ huy đối với cán bộ Hậu cần chưa tốt 581 29,05
- Do công tác giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của các
cấp chưa được quan tâm 478 23,9
- Do môi trường ở đơn vị cơ sở có nơi chưa lành mạnh 237 11,85
- Do cán bộ lãnh đạo, chỉ huy chưa gương mẫu trong việc tự
giáo dục, rèn luyện đạo đức 326 16,3
- Do bản thân một số cán bộ thiếu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức 1285 64,25
- Một số cán bộ Hậu cần sa vào chủ nghĩa cá nhân, bị cám dỗ
bởi các lợi ích vật chất 1167 58,35
8. Ý kiến đánh giá về các mối quan hệ
của cán bộ Hậu cần ở đơn vị hiện nay
Mức đánh giá
Tốt
(%)
Khá
(%)
Bình
thường
(%)
Khôn
g tốt
(%)
Khó
trả
lời
(%)
- Quan hệ giữa CNHC với phó CNHC 26,55 43,75 25,6 3,7 0,4
- Quan hệ giữa cán bộ Hậu cần với cán bộ khác 66,25 28,15 4,7 0,65 0,25
- Quan hệ giữa cán bộ Hậu cần với HSQ, chiến
sĩ 17,25 28,2 21,15 25,85 7,55
- Quan hệ giữa cán bộ Hậu cần với nhân dân
trong thực hiện nhiệm vụ hậu cần 29,2 43,6 22,9 3,05 1,25
168
11. Ý kiến đánh giá về tầm quan trọng của việc thực hiện
Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về: “Đẩy mạnh học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”
Số ý kiến Tỷ lệ
(%)
- Là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng 1988 99,4
- Góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị,
tư tưởng, tổ chức và đạo đức 1992 99,6
- Góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp
chiến lược có đủ năng lực, phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ 1831 91,55
- Góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ, đẩy mạnh
đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
1859 92,95
12. Ý kiến đánh giá về việc thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị
về: “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh” ở cơ quan, đơn vị hậu cần như thế nào
Số ý kiến
Có
(%)
Không
(%)
- Trở thành công việc tự giác, thường xuyên của cấp uỷ, tổ chức đảng 83,2 16,8
- Trở thành công việc tự giác, thường xuyên của người đứng
đầu, của cán bộ, đảng viên 28,7 71,3
- Được cụ thể hóa vào chương trình, kế hoạch hành động của
cấp uỷ và người chỉ huy 89,3 10,7
- Gắn với các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước,
với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị 89,7 10,3
- Được xem như một trong những tiêu chuẩn đánh giá, bình
xét, phân loại đảng viên, tổ chức đảng hằng năm 52,95 47,05
- Người đứng đầu, cán bộ, đảng viên có đề cao trách nhiệm
nêu gương, tự giác học trước, làm theo trước trong học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh 88,15 11,85
- Cấp ủy, người chỉ huy thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh 71,9 28,1
- Góp phần đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham
nhũng, lãng phí ở cơ quan, đơn vị hậu cần 92,9 7,1
- Góp phần quan trọng trong giáo dục, rèn luyện đạo đức cách
mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội hiện nay 88,2 11,8
13. Ý kiến đánh giá về việc thực hiện nghi quyêt Trung ương 4
khóa XI và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường
xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở cơ quan, đơn vị hậu cần
Số ý kiến
Có
(%)
Không
(%)
- Trở thành công việc tự giác, thường xuyên của cấp uỷ, tổ chức đảng 55,85 44,15
- Trở thành công việc tự giác, thường xuyên của người đứng
đầu, của cán bộ, đảng viên 61,7 38,3
- Được cụ thể hóa vào chương trình, kế hoạch hành động của
cấp uỷ và người chỉ huy 94,85 5,15
- Gắn việc thực hiện nghị quyết Trung ương 4 với các cuộc
vận động, các phong trào thi đua yêu nước, với việc thực hiện
nhiệm vụ chính trị tại đơn vị
83,45 16,55
169
- Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và Trung
ương 4 khóa XII được xem như một trong những tiêu chuẩn
đánh giá, bình xét, phân loại đảng viên, tổ chức đảng hằng năm
56,15 43,85
- Người đứng đầu, cán bộ, đảng viên có đề cao trách nhiệm
nêu gương, tự giác tự phê bình và phê bình đấu tranh phòng,
chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
58,65 41,35
- Cấp ủy, người chỉ huy có thường xuyên kiểm tra, đôn đốc
thực hiện cam kết thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa
XII của mỗi cán bộ, đảng viên ở cơ quan, phân đội hậu cần
71,45 28,55
- Góp phần ngăn ngừa sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống và biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ 94,4 5,6
- Góp phần đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng,
lãng phí, quan liêu ở cơ quan, đơn vị hậu cần 93,9 6,1
- Góp phần quan trọng trong giáo dục, rèn luyện đạo đức cách
mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội hiện nay 99,8 0,2
14. Ý kiến đánh giá về công tác quản lý của người chỉ huy
đơn vị trong giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của
đội ngũ cán bộ Hậu cần
Số ý kiến
Có
(%)
Không
(%)
- Quản lý chặt chẽ đội ngũ cán bộ Hậu cần 92,5 7,5
- Quan tâm sâu sát trong giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng 78,45 21,55
- Định hướng sự phấn đấu cho cán bộ Hậu cần 93 7
- Phó mặc để đội ngũ cán bộ Hậu cần tự giáo dục, rèn luyện 19 81
- Thường xuyên kiểm tra uốn nắn những sai phạm của cán bộ Hậu cần 66 34
- Duy trì nghiêm kỷ luật ở đơn vị 65,5 34,5
- Thiếu kiểm tra đôn đốc 12,8 87,2
15. Ý kiến đánh giá về việc cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan chức
năng các cấp tổ chức thực hiện công tác giáo dục, rèn luyện
đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần hiện nay
Số ý kiến
Có
(%)
Không
(%)
- Xác định rõ mục đích, yêu cầu nhiệm vụ giáo dục, rèn luyện
đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần 95,5 4,5
- Xây dựng cụ thể chương trình, kế hoạch giáo dục, rèn luyện
đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần 94 6
- Tổ chức thực hiện đúng kế hoạch giáo dục, rèn luyện đạo đức
cách mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần 89,5 10,5
- Có sự phối hợp giữa các tổ chức, lực lượng trong giáo dục,
rèn luyện đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần 78,1 21,9
- Bảo đảm tốt các điều kiện về nhân lực, vật lực, tài lực trong giáo
dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần 87,5 12,5
- Thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát hoạt động trong giáo
dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần 91,5 8,5
- Định kỳ sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm về công tác giáo dục, rèn
luyện đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội 67 33
- Khó đánh giá
170
16. Ý kiến đánh giá về nội dung, hình thức giáo dục, rèn luyện đạo
đức cách mạng đối với đội ngũ cán bộ Hậu cần ở đơn vị hiện nay Số ý kiến
Tỷ lệ
(%)
- Nội dung toàn diện, thiết thực, sát thực tiễn chức trách, nhiệm vụ 1620 81
- Nội dung còn chung chung, thiếu cụ thể, chưa sát đối tượng 320 16
- Nội dung nghèo nàn, đơn điệu, lạc hậu 60 3
- Hình thức phong phú, đa dạng, gắn với thực hiện các cuộc
vận động và các phong trào thi đua 1647 82,35
- Hình thức nghèo nàn, xơ cứng 323 16,15
- Hình thức không phù hợp 10 0,5
- Khó đánh giá 20 1
17. Ý kiến đánh giá về môi trường văn hoá đạo đức ở cơ
quan, đơn vị hậu cần hiện nay Số ý kiến
Tỷ lệ
(%)
- Mối quan hệ trong đơn vị lành mạnh 1820 91
- Các tổ chức (đảng, đoàn, hội đồng quân nhân) vững mạnh 1450 72,5
- Kỷ luật quân đội được duy trì nghiêm minh 1480 74
- Dân chủ ở cơ sở được phát huy 1537 76,85
- Dư luận trong tập thể quân nhân tích cực 1404 70,2
- Khó đánh giá 80 4
18. Ý kiến lựa chọn giải pháp đẩy mạnh giáo dục, rèn luyện
đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội
thời gian tới
Số ý kiến Tỷ lệ
(%)
- Nâng cao nhận thức, phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ
chức, các lực lượng trong đơn vị đẩy mạnh giáo dục, rèn luyện
đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội
1721 86,05
- Xác định chuẩn mực đạo đức cách mạng với từng loại cán bộ
Hậu cần Quân đội hiện nay 1865 93,25
- Đổi mới nội dung, phương thức giáo dục, rèn luyện đạo đức cách
mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội, coi trọng giáo dục,
rèn luyện đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
1720 86
- Tăng cường tự rèn luyện đạo đức cách mạng, phấn đấu của cán
bộ Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam trong điều kiện hiện nay 1752 87,6
- Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, ngăn ngừa “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
trong đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội hiện nay
1290 64,5
- Tăng cường giáo dục Pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội;
đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở cơ
quan, đơn vị hậu cần, nhằm giáo dục, rèn luyện nâng cao đạo
đức cách mạng của đội ngũ cán bộ Hậu cần Quân đội hiện nay
1486 74,3
- Đẩy mạnh xây dựng môi trường văn hoá đạo đức tại đơn vị cơ sở 1134 56,7
- Đổi mới chính sách đối với cán bộ Hậu cần 926 46,3
171
Phụ lục 2
SỐ LƯỢNG CÁN BỘ HẬU CẦN QUÂN ĐỘI THEO NGÀNH HIỆN NAY
Ngành
Hiện có
so với nhu cầu
(%)
Thừa theo chức
danh so với nhu cầu
(%)
Thiếu theo chức
danh so với nhu cầu
(%)
Tham mưu hậu cần 96 7 10
Quân nhu 98,05 8,29 10,22
Vận tải 85,79 2,62 16,83
Xăng dầu 94,85 6,5 11,6
Doanh trại 106 14,7 9
Trung bình 91,13 7,8 11,53
(Nguồn: Báo cáo Kế hoạch giải quyết số lượng cán bộ Hậu cần - Tổng cục Hậu cần -
Quân đội nhân dân Việt Nam, tháng 12 năm 2017)
172
Phụ lục 3
CHẤT LƯỢNG CHÍNH TRỊ ĐỘI NGŨ CÁN BỘ HẬU CẦN QUÂN ĐỘI HIỆN NAY
3.1. Cấp bậc quân hàm
Ngành Cấp tướng
(%)
Đại tá
(%)
Thượng tá
(%)
Trung tá
(%)
Thiếu tá
(%)
Cấp úy
(%)
QNCN
(%)
CCQP
(%)
TM hậu cần 0,14 5,61 11,14 39,73 16,13 33,25 3,97
Quân nhu 0,09 3,96 6,92 18,70 9,62 54,14 6,38 0,18
Vận tải 0,072 1,96 3,41 9,01 7,12 52,76 25,65
Xăng dầu 0,11 4,53 6,96 15,92 8,84 57,52 5,75
Doanh trại 3,65 5,66 14,11 12,45 60,97 2,7 0,43
Trung bình 0,08 3,94 6,81 19,49 10,83 51,72 8,89 0,12
(Nguồn: Báo cáo Kế hoạch giải quyết số lượng cán bộ Hậu cần - Tổng cục Hậu cần - Quân đội nhân dân Việt Nam, tháng 12 năm 2017)
3.2. Qua trường
(Nguồn: Báo cáo Kế hoạch giải quyết số lượng cán bộ Hậu cần - Tổng cục Hậu cần - Quân đội nhân dân Việt Nam, tháng 12 năm 2017)
Ngành Đào tạo dài hạn % Đào tạo ngắn hạn % Trường khác % Chưa được đào tạo %
TM hậu cần 78,2 21,79
Quân nhu 88,76 11,24
Vận tải 79 21
Xăng dầu 89,5 9,2 1,3
Doanh trại 93,5 6,9
Trung bình 85,79 14,02 0,26
173
3.3. Trình độ học vấn
Ngành Sau đại học (%) Đại học (%) Cao đẳng (%) Trung cấp (%) Trung học phổ
thông (%)
TM hậu cần 1,08 78,3 19,91 0,69
Quân nhu 1,26 83,63 12,23 2,78
Vận tải 0,22 57,85 20,93 21
Xăng dầu 2,2 78,6 15,7 3,5
Doanh trại 6,7 85,1 8,1 0,5
Trung bình 2,29 76,69 15,37 0,65 5,03
(Nguồn: Báo cáo Kế hoạch giải quyết số lượng cán bộ Hậu cần - Tổng cục Hậu cần - Quân đội nhân dân Việt Nam, tháng 12 năm 2017)
3.4. Nội dung khác
Ngành Đảng viên (%) Cán bộ nữ (%) Dân tộc ít người (%)
Đã qua chiến đấu và
phục vụ chiến đấu
(%)
TM hậu cần 100 1,08 1,75
Quân nhu 99,82 0,54 0,45 2,61
Vận tải 100 0,43 0,79
Xăng dầu 99,88 0,1 0,3 1,1
Doanh trại 97,56 0,78 0,5 0,87
Trung bình 99,45 0,28 0,55 1,46
(Nguồn: Báo cáo Kế hoạch giải quyết số lượng cán bộ Hậu cần - Tổng cục Hậu cần - Quân đội nhân dân Việt Nam, tháng 12 năm 2017)
174
Phụ lục 4
KẾT QUẢ PHÂN TÍCH CHẤT LƯỢNG ĐẢNG VIÊN LÀ CÁN BỘ HẬU CẦN (2011-2016)
Chức vụ
Năm 2011 (%) Năm 2012 (%) Năm 2013 (%) Năm 2014 (%) Năm 2015 (%) Năm 2016 (%) Đ
ảng v
iên H
TX
SN
V
Đản
g v
iên H
TT
NV
Đản
g v
iên H
TN
V
Đản
g v
iên k
hông H
TN
V
Đản
g v
iên H
TX
SN
V
Đản
g v
iên H
TT
NV
Đản
g v
iên H
TN
V
Đản
g v
iên k
hông H
TN
V
Đản
g v
iên H
TX
SN
V
Đản
g v
iên H
TT
NV
Đản
g v
iên H
TN
V
Đản
g v
iên k
hông H
TN
V
Đản
g v
iên H
TX
SN
V
Đản
g v
iên H
TT
NV
Đản
g v
iên H
TN
V
Đản
g v
iên k
hông H
TN
V
Đản
g v
iên H
TX
SN
V
Đản
g v
iên H
TT
NV
Đản
g v
iên H
TN
V
Đản
g v
iên k
hông H
TN
V
Đản
g v
iên H
TX
SN
V
Đản
g v
iên H
TT
NV
Đản
g v
iên H
TN
V
Đản
g v
iên k
hông H
TN
V
Cục trưởng, phó
cục trưởng cục
hậu cần
9,37 87,5 3,12 12,5 87,5 12,5 84,3 3,12 9,37 78,1 6,25 3,12 15,6 78,1 6,25 9,09 84,8 6,06
Chủ nhiệm, phó
chủ nhiệm hậu cần
và tương đương
12,5 69,4 18,1 14,3 66,3 19,4 9,4 75,6 13,8 1,2 14,4 73,8 11,8 13,7 74,3 12 0,6 15 68,2 16,8
Trưởng ban, phó
trưởng ban hậu cần
và tương đương
14,9 68,5 16,3 0,27 14,6 67,2 18,2 14,4 68,3 16,5 0,8 15,2 66,1 18,7 14,9 66,2 18,4 0,5 14,6 65,6 19,5 0,3
Trợ lý hậu cần
các ngành 15 66,4 18,2 0,4 14,6 67,6 17 0,8 14,4 66,8 18,4 0,4 15 73,4 11,4 0,2 14,9 71,7 12,9 0,5 14,6 67,8 16,8 0,8
Trung bình 12,9 72,9 13,9 0,33 14 72,1 18,2 0,8 12,6 73,7 12,9 0,8 13,4 72,8 12 1,6 14,7 72.5 12,3 0,5 13,3 71,6 14,7 0,55
(Nguồn: Số liệu do tác giả trực tiếp điều tra, khảo sát tại Quân đoàn 1, Quân chủng Phòng không - Không quân, Quân chủng Hải quân,
Binh chủng Tăng Thiết giáp, Quân khu 2, Quân khu 3, Học viện Hậu cần, tháng 10, 11 năm 2017)
175
Phụ lục 5
TỔNG HỢP KẾT QUẢ KIỂM TRA CHÍNH TRỊ TẠI CHỨC
CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ HẬU CẦN (2005 - 2017)
(Nguồn: Số liệu do tác giả trực tiếp điều tra, khảo sát tại Quân đoàn 1, Quân chủng Phòng không - Không quân, Quân chủng Hải quân,
Binh chủng Tăng Thiết giáp, Quân khu 2, Quân khu 3, Học viện Hậu cần, tháng 10, 11 năm 2017)
Chức vụ
Năm
2005 – 2010 2011 - 2017
Giỏi (%) Khá (%) TB (%) KĐ (%) Giỏi (%) Khá (%) TB (%) KĐ (%)
Cục trưởng, phó cục trưởng
cục hậu cần 56,25 43,75 60,00 40,00
Chủ nhiệm, phó chủ nhiệm
hậu cần và tương đương 43,75 52,50 0,375 42,50 50,25 7,25
Trưởng ban, phó trưởng ban
hậu cần và tương đương 35,58 62,95 1,47 34,34 60,10 5,54
Trợ lý hậu cần các ngành 31,20 55,87 12,50 0,43 29,49 58,66 11,60 0,32
Trung bình 41,69 53,76 4,78 0,43 41,58 52,25 8,13 0,32
176
Phụ lục 6
TỔNG HỢP KẾT QUẢ KHEN THƯỞNG, KỶ LUẬT CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ HẬU CẦN (2005 - 2017)
(Nguồn: Số liệu do tác giả trực tiếp điều tra, khảo sát tại Quân đoàn 1, Quân chủng Phòng không - Không quân, Quân chủng Hải quân,
Binh chủng Tăng Thiết giáp, Quân khu 2, Quân khu 3, Học viện Hậu cần, tháng 10, 11 năm 2017)
Chức vụ
Năm 2005 - 2017
Khen thưởng (%) Kỷ luật (%)
Ch
iến
sĩ
thi
đu
a
Bằn
g k
hen
Giấ
y k
hen
Ch
iến
sĩ
tiến
tiế
n
+
Khiể
n t
rách
Cản
h c
áo
Giá
ng
ch
ức
Các
h c
hứ
c
Giá
ng
cấp
bậc
quân
hàm
Tư
ớc
qu
ân h
àm
sĩ q
uan
tướ
c dan
h h
iệu
quân
nhân
Cục trưởng, phó cục trưởng cục
hậu cần 0,17 0,13 0,07 0,28 0,65
Chủ nhiệm, phó chủ nhiệm hậu
cần và tương đương 1,53 0,8 0,97 2,62 5,92 0,02
Trưởng ban, phó trưởng ban
hậu cần và tương đương 0,96 0,42 0,89 2,22 4,49 0,02
Trợ lý hậu cần các ngành 14 6,66 12,62 46,47 79,75 0,23 0,1
+ 16,66 8,01 14,55 51,59
177
Phụ lục 7
KẾT QUẢ HỌC TẬP MÔN ĐẠO ĐỨC HỌC VÀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH CỦA HỌC VIÊN
ĐÀO TẠO CÁN BỘ HẬU CẦN CÁC CẤP TẠI HỌC VIỆN HẬU CẦN (2005-2017)
(Nguồn: Số liệu do tác giả trực tiếp thống kê kết quả thi kết thúc môn Đạo đức học và tư tưởng Hồ Chí Minh
của các đối tượng tại Học viện Hậu cần, tháng 12 năm 2017)
Môn
Học viên đào tạo CBHC
phân đội
Học viên đào tạo CBHC
cấp trung, sư đoàn
Học viên đào tạo hoàn
thiện CBHC cấp trung,
sư đoàn
Đào tạo hoàn thiện
CBHC cấp phân đội
G
%
K
%
Đ
%
KĐ
%
G
%
K
%
Đ
%
KĐ
%
G
%
K
%
Đ
%
KĐ
%
G
%
K
%
Đ
%
KĐ
%
Đạo đức học 15,7 67,3 17 0 17,1 71,2 11,7 0 20,3 75,5 4,2 0 11,3 72 16,7 0
TT. HCM 21,1 73,5 5,4 0 18 76,3 5,7 0 17,8 74,6 7,6 0 20,8 71,55 7,65 0
178
Phụ lục 8
KẾT QUẢ KIỂM TRA ĐẢNG VIÊN (LÀ CÁN BỘ HẬU CẦN) KHI CÓ DẤU HIỆU VI PHẠM
CỦA ỦY BAN KIỂM TRA CÁC CẤP THUỘC ĐẢNG BỘ CÁC CƠ QUAN, ĐƠN VỊ (2011-2017)
Th
ời
gia
n
Tổng s
ố đ
ảng v
iên
đư
ợc
kiể
m tra
(%
) Cấp kiểm
tra Nội dung kiểm tra Kết luận
Uỷ b
an k
iểm
tra
Đản
g
ủy c
ấp trê
n c
ơ s
ở (
%)
Uỷ
ban
kiể
m t
ra đ
ảng
ủy
cơ
sở
(%
)
Ng
uy
ên t
ăc t
ập t
run
g
dân
ch
ủ (
%)
Ch
ấp h
ành
ng
hị
qu
yết
chỉ
thị
của
Đản
g (
%)
Đo
àn k
ết n
ội
bộ
(%
)
Thự
c hiệ
n c
hứ
c tr
ách,
nhiệ
m v
ụ đ
ược
gia
o (
%)
Nh
ữn
g đ
iều
đản
g v
iên
kh
ôn
g đ
ượ
c là
m (
%)
Qu
ân p
hiệ
t (%
)
Th
am n
hũ
ng
,
lãng p
hí
(%)
Ch
ấp h
ành
kỷ
lu
ật v
à
ph
áp l
uật
(%
)
Ph
ẩm c
hất
đạo
đứ
c,
lối
sống (
%)
Các
nộ
i d
un
g k
hác
(%
)
Cộng (
%)
Tổ
ng
số
có
vi
ph
ạm
(%)
Ph
ải t
hi
hàn
h k
ỷ l
uật
(%)
Đã
thi
hàn
h k
ỷ l
uật
(%
)
2011 0,82 0,16 0,66 0,11 0,15 0,23 0,05 0,05 0,11 0,12 0,50 0,45 0,45
2012 0,90 0,18 0,72 0,12 0,15 0,11 0,16 0,11 0,02 0,12 0,11 0,61 0,52 0,52
2013 0,72 0,11 0,61 0,11 0,23 0,11 0,11 0,16 0,59 0,41 0,41
2014 0,58 0,16 0,42 0,05 0,11 0,05 0,16 0,16 0,05 0,5 0,39 0,39
2015 0,73 0,15 0,58 0,05 0,1 0,15 0,1 0,05 0,21 0,05 0,58 0,47 0,47
2016 0,3 0,08 0,21 0,08 0,08 0,08 0,04 0,25 0,21 0,21
2017 0,73 0,15 0,58 0,04 0,15 0,14 0,11 0,06 0,02 0,09 0,12 0,23 0,18 0,18
TB 0,68 0,46 0,37
(Nguồn: Số liệu do tác giả trực tiếp điều tra, khảo sát, thống kê về kết quả công tác kiểm tra, giám sát của ủy ban kiểm tra các cấp
thuộc đảng ủy: Quân đoàn 1, Quân chủng Phòng không - Không quân, Quân chủng Hải quân, Binh chủng Tăng Thiết giáp,
Quân khu 2, Quân khu 3, Học viện Hậu cần, tháng 10, 11 năm 2017)