guitar for dummies_tiengviet.pdf

276
1 Guitar For Dummies by Mark Phillips and Jon Chappell Về tác giả Arranger: (n) người soạn lại (âm nhạc,...) Editor(n): chủ bút (báo, tập san, …) Mark Phillips là một người chơi guitar, người soạn lại và là chủ bút với hơn 30 năm trong lĩnh vực xuất bản âm nhạc. Ông ấy đã giành được bằng cử nhân về lý luận âm nhạc ở ĐH Case Westen Reserve University, nơi đây ông cũng nhận giải thưởng Corolyn Neff Award về học tập xuất sắc, và bằng Thạc sĩ về lý luận âm nhạc từ ĐH Northwestern University, nơi đây ông được bầu vào hội Pi Kappa Lambda, đây là hội danh dự có uy tín nhất nước Mỹ dành cho các sinh viên cao đẳng và ĐH âm nhạc. Trong khi làm việc để hướng tới học vị tiến sỹ về lý luận âm nhạc tại ĐH Northwestern, Phillips đã dạy các lớp về lý luận âm nhạc, ear-training, sight-singing, đối âm (counterpoint), và guitar. Trong suốt những năm 1970 và đầu những năm 80, Phillips là giám đốc về Âm Nhạc Đại Chúng tại Warner Bros. Publications, nơi đây ông đã làm chủ bút và biện soạn lại các sách bài hát (songbook) của các nghệ sĩ như Neil Young, James Taylor, The Eagles, và Lep Zepplin. Từ giữa những năm 80 ông đóng vai trò là Giám đốc âm nhạc và Giám đốc Xuất bản tại Cherry Lane Music, nơi đây ông là chủ bi ên hoặc soạn lại các sách âm nhạc của các nghệ sĩ như John Denver, Van Halen, Guns N’ Roses, và Metallica, và gi ữ vai trò là chủ biên âm nhạc của các tờ Guitar và Guitar One. Phillips là tác gi ả của các cuốn sách về các chủ đề âm nhạc, gồm có Metallica by riff, Sight-Sing Any Melody Instantly, và Sight-Read Any Rhythm Instantly. Về cuộc sống ngoài âm nhạc, Phillips l à tác giả/nhà xuất bản của chuỗi sách giáo khoa Tiếng Anh trung học (high school) “vui”, gồm có The Wizard of Oz vocabulary Builder, The Pinocchio Intermediate Vocabulary Builder, và Tarzan và Jane’s Guide to Grammar. Để ghi nhận giá trị số lượng lớn những ấn phẩm của ông, Phillips đã được ghi sơ lược tiểu sử trong sách Who’s Who in America. Jon Chappell là một guitar đa phong cách, người chuyển bi ên, và soạn lại. Ông tham gia vào đại học Carnegie-Mellon University, nơi đây ông đã nghiên cứu với Carlos Barbose- Lima, và sau đó tiếp tục giành học vị tiến sĩ trong lĩnh vực sáng tác từ đại học DePaul University nơi mà ông cũng dạy lý luận âm nhạc và ear-training. Trước đây (formerly) ông l à tổng biên tập (editor-in-chief) của tập chí Guitar, bi ên tập kỹ thuật của Guitar Shop Magazine, và là nhà âm nhạc học cho Guitarra, một tạp chí cổ điển. Ông đã chơi và thu âm cùng với Pat Benatar, Judy Collins, Graham Nash, và Gunther Schuller, và ông đã đóng góp (contribute) một số lượng lớn các đoạn nhạc cho phim và truyền hình. Một vài trong số đó gồm có Northern Exposure, Walker, Texas Ranger, Guiding Light, và đặc biệt (feature) phim Bleeding Hearts được đạo diễn bởi diễn vi ên khiêu vũ Gregory Hines. Trong năm 1990, ông trở thành giám đốc âm nhạc cùng cộng tác của Cherry Lane Music nơi mà ông chép lại nhạc(transcribe), chủ bút, và soạn lại (arrange) nhạc của Joe Satriani, Steve Vai, Steve Morse, Mike Stern, và Eddie Van Halen, trong số những người khác. Ông có hơn 12 cuốn sách về phương pháp mang tên ông, và là tác

Upload: doan-thanh-nien-phuong-i

Post on 02-Dec-2015

756 views

Category:

Documents


25 download

TRANSCRIPT

1

Guitar For Dummies

by Mark Phillips and Jon Chappell

Về tác giả

Arranger: (n) người soạn lại (âm nhạc,...)

Editor(n): chủ bút (báo, tập san, …)

Mark Phillips là một người chơi guitar, người soạn lại và là chủ bút với hơn 30 năm trong lĩnh vực xuất bản âm nhạc. Ông ấy đã giành được bằng cử nhân về lý luận âm nhạc ở ĐH Case Westen Reserve University, nơi đây ông cũng nhận giải thưởng Corolyn Neff Award về học tập xuất sắc, và bằng Thạc sĩ về lý luận âm nhạc từ ĐH Northwestern University, nơi đây ông được bầu vào hội Pi Kappa Lambda, đây là hội danh dự có uy tín nhất nước Mỹ dành cho các sinh viên cao đẳng và ĐH âm nhạc. Trong khi làm việc để hướng tới học vị tiến sỹ về lý luận âm nhạc tại ĐH Northwestern, Phillips đã dạy các lớp về lý luận âm nhạc, ear-training, sight-singing, đối âm (counterpoint), và guitar.

Trong suốt những năm 1970 và đầu những năm 80, Phillips là giám đốc về Âm Nhạc Đại Chúng tại Warner Bros. Publications, nơi đây ông đã làm chủ bút và biện soạn lại các sách bài hát (songbook) của các nghệ sĩ như Neil Young, James Taylor, The Eagles, và Lep Zepplin. Từ giữa những năm 80 ông đóng vai trò là Giám đốc âm nhạc và Giám đốc Xuất bản tại Cherry Lane Music, nơi đây ông là chủ biên hoặc soạn lại các sách âm nhạc của các nghệ sĩ như John Denver, Van Halen, Guns N’ Roses, và Metallica, và giữ vai trò là chủ biên âm nhạc của các tờ Guitar và Guitar One.

Phillips là tác giả của các cuốn sách về các chủ đề âm nhạc, gồm có Metallica by riff, Sight-Sing Any Melody Instantly, và Sight-Read Any Rhythm Instantly. Về cuộc sống ngoài âm nhạc, Phillips là tác giả/nhà xuất bản của chuỗi sách giáo khoa Tiếng Anh trung học (high school) “vui”, gồm có The Wizard of Oz vocabulary Builder, The Pinocchio Intermediate Vocabulary Builder, và Tarzan và Jane’s Guide to Grammar. Để ghi nhận giá trị số lượng lớn những ấn phẩm của ông, Phillips đã được ghi sơ lược tiểu sử trong sách Who’s Who in America.

Jon Chappell là một guitar đa phong cách, người chuyển biên, và soạn lại. Ông tham gia vào đại học Carnegie-Mellon University, nơi đây ông đã nghiên cứu với Carlos Barbose-Lima, và sau đó tiếp tục giành học vị tiến sĩ trong lĩnh vực sáng tác từ đại học DePaul University nơi mà ông cũng dạy lý luận âm nhạc và ear-training. Trước đây (formerly) ông là tổng biên tập (editor-in-chief) của tập chí Guitar, biên tập kỹ thuật của Guitar Shop Magazine, và là nhà âm nhạc học cho Guitarra, một tạp chí cổ điển. Ông đã chơi và thu âm cùng với Pat Benatar, Judy Collins, Graham Nash, và Gunther Schuller, và ông đã đóng góp (contribute) một số lượng lớn các đoạn nhạc cho phim và truyền hình. Một vài trong số đó gồm có Northern Exposure, Walker, Texas Ranger, Guiding Light, và đặc biệt (feature) phim Bleeding Hearts được đạo diễn bởi diễn viên khiêu vũ Gregory Hines. Trong năm 1990, ông trở thành giám đốc âm nhạc cùng cộng tác của Cherry Lane Music nơi mà ông chép lại nhạc(transcribe), chủ bút, và soạn lại (arrange) nhạc của Joe Satriani, Steve Vai, Steve Morse, Mike Stern, và Eddie Van Halen, trong số những người khác. Ông có hơn 12 cuốn sách về phương pháp mang tên ông, và là tác

2

giả của Rock Guitar for Dummies và sách giáo khoa The Recording Guitarist – A Guide for Home và Studio, được xuất bản bởi Hal Leonard.

SƠ LƯỢC VỀ NỘI DUNG

Giới thiệu ....................................................................................................................................

Phần 1: Bạn muốn chơi guitar .......................................................................................

Chương 1: Guitar 101 .......................................................................................................

Chương 2: Turn On, Tune In .............................................................................................

Chương 3: Sẵn sàng, Thiết lập…Chưa: phát triển các công cụ và các kỹ năng để chơi ..............................................................................................................................................

Phần 2: Hãy bắt đầu chơi: Các kiến thức căn bản .............................................

Chương 4: Cách đơn giản nhất để chơi: Các hợp âm Major(trưởng) và Minor (thứ) căn bản ...........................................................................................................................................................

Chương 5: Chơi các giai điệu(melodies) mà không cần đọc nhạc ................................................

Chương 6: Thêm vào một chút hương vị: Các hợp âm 7th căn bản ..............................................

Thêm vào:

- Tìm thêm các bài có hợp âm căn bản trưởng và thứ cả tiếng Việt và tiếng Anh. Cho học viên tự tìm hợp âm:

+ Pop: Hello teacher, Nối vòng tay lớn, Hãy thắp sáng lên, Bốn phương trời, Chú ếch con, careless Whisper, Một tình yêu, I started to joke, Sound of Silence, Jingle Bell, Đêm đông, sum họp (anh em ta về …), Nụ cười hồng (Lê Quốc Thắng), Ta hát to hát nhỏ, Vui ánh lửa trại, Con cua, Xích lại đây, Cùng nhảy múa, Buổi họp mặt, Kachiusa, Cho con, Tạm biệt trường mẫu giáo, Cả nhà thương nhau, bụi phấn, Nụ cười hồng, tạm biệt, vòng tròn, Chịu chơi, Đi xe lửa, Thi nhau đi bộ, Nào về đây, Ta ca ta hát, Đường đi không khó, Quây quần, Chào người bạn, Bài ca tạm biệt, Quả bóng xanh, Không ai là một hòn đảo, Nét đẹp, Gồ ghề, Đừng để đến ngày mai, Đường xa, Câu cá, Hát to hát nhỏ, Đôi tay chọc quê, Ta ca hát, Alybabba, ABC song, Baa Baa Black Sheep, Bingo, Brahm’s Lullaby, Clementine, Cuckoo Clock, Did you ever see a lassie, Ding Dong Bell, Do Re Mi, Donkey Donkey, Froggie Froggie, He’s Got the Whole World In His Hands, Here We Go Round the Mulberry Bush, Head and Shoulder Kness and Toes, Auld Lang Syne, Hickory Dickory Dock, The Hockey Pokey, Home On The Range, How Much is that Doggie In The Window, Humpty Dumpty, Hush Little Baby, I have two hands, I went to School One Morning, If You are Happy. The Beatles: While my guitar Gently Weeps, Come Together, Let It Be, Hey Jude, Something, In My life, Yesterday, Strawberry Fields Forever, I Want To Hold Your Hand, A Day in a life

3

+ Rock: Rock xuyên màn đêm, Người đàn bàn hóa đá, Tìm lại, Sương đêm, Trở về, Giọt đắng, Chỉ là giấc mơ, Hoa lài màu xanh, Tóc hát, With or without you, the temple of the king, It’s my life, Nỗi đau, Knocking on Heaven’s door, Fast car,

+ Blues: Give me the reason, Wonderful tonight, Change the world.

- Tìm thêm các bài có giai điệu từ note đơn tới tối đa móc đôi. Cho học viên tập nghe note, thể hiện lên guitar và ghi ra guitar pro.

- Tìm thêm các bài có các hợp âm 7th căn bản:

+ Pop: Because I love you, Happy birthday, Vào hạ, Và con tim đã vui trở lại, Hallelujar, Anh em ta về, Ra về, Bóng mây qua thêm, Hạ trắng, Sealed with a kiss, Ba ngọn nên lung linh, Yesterday, Yesterday once more, Đêm nay ai đưa em về, River of Babilon, Jingle Bell Rock, Bụi phấn,

+ Rock: Sailing, Have you ever seen the rain, Goodbye to Romance, Forever, Hotel california, Trở về, “Mama, I’m coming home”, Papa, The house of rising sun,

- Cho học viên tập chộp hợp âm:

+ Mức 1: Đánh rải ngay đầu khuôn 1 cái.

+ Mức 2: Đánh rải 2 cái trong một khuôn. Một cái lên và một cái xuống xen kẽ.

+ Mức 3: Đánh rải 4 cái trong một khuôn. Một cái lên và một cái xuống xen kẽ.

+ Mức 4: Đánh rải 8 cái trong một khuôn. Một cái lên và một cái xuống xen kẽ.

- Học các điệu căn bản: Valse, Boston, Disco, Soft chậm, soft sincop, Rumba, Soul, Fox.

- Áp dụng các điệu căn bản vào các bài đã học.

- Tự sáng tạo các mẫu khảy của riêng mình.

- Lý thuyết về thang âm. Bậc trong thang âm.

- Học các mode của một thang âm.

- Tìm các bài tập để kết nối các mode của một thang âm.

- Dịch giọng:

+ Dịch giai điệu sang giọng khác.

+ Dịch hợp âm sang giọng khác.

4

Phần 3: Vượt trên các điều căn bản: Bắt đầu hướng tới Sound Cool ........................

Chương 7: Chơi các giai điệu theo thế (Position) và theo Double-Stops(chơi cùng lúc trên hai dây) .............................................................................................................................................

Chương 8: Mở rộng ra (Stretch out): Hợp âm chặn (Barre Chords) ..............................................

Chương 9: Special Articulation (sự khớp lại với nhau, khớp, cách đọc rõ ràng): Making the Guitar Talk .........................................................................................................................................

Phần 4: Sự đa dạng phong cách ....................................................................................

Chương 10: Rock .........................................................................................................................

Chương 11: Blues ........................................................................................................................

Chương 12: Folk ..........................................................................................................................

Chương 13: Classical ...................................................................................................................

Chương 14: Jazz ..........................................................................................................................

Phần 5: Việc mua và bảo dưỡng guitar của bạn ..........................................................

Chương 15: Các cây guitar tốt hoàn hảo ......................................................................................

Chương 16: Các phụ tùng(accesory) cho Guitar .........................................................................

Chương 17: Getting Strung Along(đi cùng với, đánh mở đầu): Việc thay đổi các dây...................

Chương 18: Staying(chằng, nén) Fit: Cơ bản bảo trì và sửa chữa ...............................................

Phần 6: Phần của số mười ............................................................................................

Chương 19: Mười tay guitar bạn nên biết .....................................................................................

Chương 20: Mười Guitar bạn nên biết ..........................................................................................

Phần 7: Phụ lục (appendixes) .........................................................................................

Phụ lục A: Cách đọc nhạc ............................................................................................................

Phụ lục B: 96 hợp âm(chord) thông thường .................................................................................

Phụ lục C: Cách sử dụng CD của giáo trình này ..........................................................................

5

Chỉ mục ........................................................................................................................................

Mục Lục

Giới thiệu ......................................................................................................................................

Về cuốn sách này .............................................................................................................

Tìm một cây guitar .................................................................................................

Chơi guitar ............................................................................................................

Bảo dưỡng guitar ..................................................................................................

Not-So-Foolish Assumptions(sự ngạo mạn, giả định) .......................................................

What You’re Not to Read ..................................................................................................

Các Quy ước (convention) sử dụng trong sách này ..........................................................

Cuốn sách được tổ chức như thế nào ..............................................................................

Phần 1: Bạn muốn chơi guitar ...............................................................................

Phần 2: Hãy bắt đầu chơi: Các kiến thức căn bản .................................................

Phần 3: Vượt trên các điều căn bản: Bắt đầu hướng tới Sound Cool ....................

Phần 4: Sự đa dạng phong cách ...........................................................................

Phần 5: Việc mua và bảo dưỡng guitar của bạn ....................................................

Phần 6: Phần của số mười ...................................................................................

Phần 7: Phụ lục (appendixes) ................................................................................

Các biểu tượng sử dụng trong sách này ...........................................................................

Nơi bắt đầu từ đây ............................................................................................................

Phần 1: Bạn muốn chơi guitar .......................................................................................

Chương 1: Guitar 101 ...........................................................................................

Giải phẫu một cây guitar ........................................................................................

Các cây guitar làm việc thế nào .............................................................................

Rung động dây và String length .................................................................

Sử dụng cả 2 tay để tạo ra âm thanh .........................................................

6

Các phím đàn và các bán cung(half steps: bán/nửa cung).........................

Các Pickup ................................................................................................

Chương 2: Turn On, Tune In ................................................................................

Việc đếm trên dây đàn và phím .............................................................................

Mọi thứ liên quan: Tuning the Guitar to Itselt .........................................................

Phương pháp phím thứ 5...........................................................................

Cách khác để tham chiếu: Tuning to a Fixed Source .............................................

Thực hiện chỉnh dây với piano ...................................................................

Chỉnh guitar với một pitch pipe(ống sáo để chỉnh âm điệu) ........................

Sinking (chìm, hạ xuống) your teeth into the tuning fork (tuning fork: âm thoa – thường là nốt LA) ............................................................................................................

Trải nghiệm với bộ chỉnh dây điện tử .........................................................

Việc sử dụng CD của bạn ..........................................................................

Chương 3: Sẵn sàng, Thiết lập…Chưa: phát triển các công cụ và các kỹ năng để chơi ..........................................................................................................

Vị trí tay và tư thế ..................................................................................................

Việc bố trí vị trí ngồi ...................................................................................

Vị trí đứng ..................................................................................................

Tư thế tay trái: Fretting made easy ............................................................

Tư thế tay phải ...........................................................................................

Bạn Không phải đọc nhạc để hiểu các ký hiệu Guitar ............................................

Getting by with a little help from a chord diagram .......................................

Việc đọc các vạch xiên (/) rhythm ..............................................................

Xem tablature ............................................................................................

Chơi hợp âm như thế nào .....................................................................................

Ngón bấm 1 hợp âm ..................................................................................

Tránh tiếng dơ, nhiễu .................................................................................

Phần 2. Hãy bắt đầu chơi: Các kiến thức căn bản .......................................................

7

Chương 4: Cách đơn giản nhất để chơi: Các hợp âm Major(trưởng) và Minor (thứ) căn bản ..........................................................................................................

Chơi các hợp âm trong họ A .............................................................................................

Ngón bấm các hợp âm họ A ..................................................................................

Gảy(Strumming) các hợp âm họ A ........................................................................

Chơi các hợp âm trong họ D .............................................................................................

Ngón bấm các hợp âm họ D ..................................................................................

Gảy các hợp âm họ D ...........................................................................................

Chơi các hợp âm trong họ G .............................................................................................

Ngón bấm các hợp âm họ G .................................................................................

Gảy các hợp âm họ G ...........................................................................................

Chơi các hợp âm trong họ C .............................................................................................

Ngón bấm các hợp âm họ C ..................................................................................

Gảy các hợp âm họ C ...........................................................................................

Chơi các bài nhạc với các hợp âm trưởng (Major) và thứ (minor) căn bản .......................

Vui một chút với các hợp âm trưởng và thứ căn bản: Sự diễn tiến (Progression) “Oldies” ..................................................................................................................

Chương 5: Chơi các giai điệu(melodies) mà không cần đọc nhạc ..................

Việc đọc tablature trong khi nghe CD ....................................................................

Đỉnh hay đáy ..............................................................................................

Trái hay phải ..............................................................................................

Nắm vững về các ngón bấm tay trái ......................................................................

Dùng kỹ thuật đánh luôn phiên (alternate picking) .................................................

Chơi các bài nhạc với giai điệu đơn giản ...............................................................

Chương 6: Thêm vào một chút hương vị: Các hợp âm 7th căn bản ................

Các hợp âm 7th át (Dominant : át, trội)(Dominant 7th Chords) ...............................

D7, G7 và C7 .............................................................................................

8

E7 và A7 ....................................................................................................

E7 (kiểu-4 ngón) và B7 ..............................................................................

Các hợp âm 7th thứ (minor) – Dm7, Em7, và Am7 .................................................

Các hợp âm 7th trưởng (major) – Cmaj7, Fmaj7, Amaj7, và Dmaj7 .......................

Chơi các bài nhạc với các hợp âm 7th ...................................................................

Vui với các hợp âm 7th: 12 – Khuông nhạc Blues ..................................................

Chơi 12 khuông nhạc blues .......................................................................

Viết các bài nhạc Blues của riêng bạn .......................................................

Phần 3: Vượt trên các điều căn bản: Bắt đầu hướng tới Sound Cool ........................

Chương 7: Chơi các giai điệu theo thế (Position) và theo Double-Stops(chơi cùng lúc trên hai dây) ............................................................................................

Chơi theo thế.........................................................................................................

Chơi theo thế đối lại với chơi với các dây mở ............................................

Chơi các bài tập theo thế ...........................................................................

Dịch chuyển các vị trí .................................................................................

Xây dựng độ bền (strength: sức mạnh, độ bền) và sự khéo léo (dexterity) bằng cách chơi theo thế ..........................................................................................................

Double-Stops ........................................................................................................

Hiểu về Double Stops ................................................................................

Chơi các bài tập theo Double-Stops...........................................................

Chơi các bài nhạc theo thế và theo Double-Stops .................................................

Chương 8: Mở rộng ra (Stretch out): Hợp âm chặn (Barre Chords) .................

Chơi các hợp âm chặn trưởng dựa trên cơ sở E ...................................................

Tìm phím đúng ...........................................................................................

Chơi các diễn tiến sử dụng các hợp âm chặn trưởng dựa trên E ..............

Chơi các hợp âm chặn thứ, 7th át, và 7th thứ dựa trên E ........................................

Các hợp âm thứ .........................................................................................

Các hợp âm 7th át ......................................................................................

9

Các hợp âm 7th thứ ....................................................................................

Chơi các hợp âm chặn trưởng (Major) dựa trên A.................................................

Ngón bấm hợp âm chặn trưởng dựa trên A ...............................................

Tìm phím đúng ...........................................................................................

Các diễn tiến sử dụng các hợp âm chặn trưởng dựa trên A ......................

Chơi các hợp âm chặn thứ, 7th át, 7th thứ, và 7th trưởng dựa trên A ......................

Các hợp âm thứ .........................................................................................

Các hợp âm 7th át ......................................................................................

Các hợp âm 7th thứ ....................................................................................

Các hợp âm 7th trưởng ..............................................................................

Wailing on Power Chords ......................................................................................

Ngón bấm các hợp âm power ....................................................................

Sử dụng các hợp âm power như thế nào ...................................................

Chơi các bài nhạc với các hợp âm chặn và các hợp âm power .............................

Chương 9: Special Articulation (sự khớp lại với nhau, khớp, cách đọc rõ ràng): Making the Guitar Talk ........................................................................................

Hiểu rõ ý nghĩa( Getting the hang of sth) của Hammer-Ons ..................................

Chơi kỹ thuật hammer-on ..........................................................................

Đạt được đặc tính rõ rệt với kỹ thuật hammer-ons .....................................

Vui đùa với Pull-Offs..............................................................................................

Chơi kỹ thuật pull-offs ................................................................................

Đạt được đặc tính rõ rệt với kỹ thuật pull-offs ............................................

Trơn với kỹ thuật Slides.........................................................................................

Chơi kỹ thuật slides ...................................................................................

Chơi các câu licks có đặc tính rõ rệt bằng sử dụng kỹ thuật slide ..............

Getting the Bends ..................................................................................................

Chơi kỹ thuật bends ...................................................................................

Đạt được đặc tính rõ rệt với kỹ thuật bends ...............................................

10

Đa dạng âm thanh của bạn với kỹ thuật rung(vibrato) ...........................................

Làm dịu (mellow) với kỹ thuật Muting(tiếng câm) ...................................................

Tạo ra một âm thanh dày, chắc béo như một hiệu ứng ..............................

Việc ngăn chặn các âm nhiễu dây không mong muốn ...............................

Chơi các câu lick có đặc tính rõ rệt bằng sử dụng kỹ thuật muting ............

Chơi một bản nhạc với việc kết hợp nhiều kỹ thuật khác nhau ..............................

Phần 4: Sự đa dạng phong cách ....................................................................................

Chương 10: Rock..................................................................................................

Classic Rock ‘n’ Roll ..............................................................................................

Rhythm guitar ............................................................................................

Lead guitar .................................................................................................

Modern Rock .........................................................................................................

Các hợp âm Sus và add ............................................................................

Các hợp âm Slash .....................................................................................

Alternate tunings ........................................................................................

Country-rock và Southern-rock lead ...........................................................

Chơi các bản nhạc theo phong cách Rock ............................................................

Chương 11: Blues.................................................................................................

Electric Blues ........................................................................................................

Blues rhythm guitar ....................................................................................

Blues lead guitar ........................................................................................

Acoustic Blues .......................................................................................................

Các khái niệm thông thường(General concepts) ........................................

Các kỹ thuật riêng biệt (Specific Techniques) ............................................

Turnarounds ..............................................................................................

Chơi các bản nhạc Blues (Playing Blues Songs) ...................................................

Chương 12: Folk ...................................................................................................

11

Chơi theo phong cách Fingerstyle (Playing Fingerstyle) ........................................

Kỹ thuật Fingerstyle (Fingerstyle technique) ..............................................

Tư thế tay phải (Right-hand position) .........................................................

Sử dụng thiết bị Capo (Using the Capo) ................................................................

Phong cách hợp âm rải (Arpeggio Style) ...............................................................

Chơi theo phong cách hợp âm rải (Playing arpeggio style) ........................

Mẫu “Lullaby” (bài hát ru con – “Lullaby” pattern) .......................................

Phong cách Thumb-Brush (Thumb-brush Style) ...................................................

Thumb-brush dạng đơn giản (Simple thumb-brush) ...................................

Thumb-brush-chiều lên (Thumb-brush-up) .................................................

Phong cách Carter (Carter Style)...........................................................................

Travis Picking ........................................................................................................

Chơi các mẫu (Playing the Pattern) ...........................................................

Phong cách nhạc đệm (Accompaniment style) ..........................................

Phong cách solo (Solo style) ......................................................................

Open tuning ...............................................................................................

Chơi các bản nhạc Folk (Playing Folk Songs) .......................................................

Chương 13: Classical ...........................................................................................

Hãy sẵn sàng để chơi Classical Guitar (Getting Ready to Play Classical Guitar) ..................................................................................................................

Ngồi thế nào (How to it) .............................................................................

Tay phải (The right hand) ...........................................................................

Tư thế tay trái (Left hand position) .............................................................

Free Strokes and Rest Strokes ..............................................................................

Playing free Strokes ...................................................................................

Playing rest strokes....................................................................................

Phong cách hợp âm rải(arpeggio) và phong cách đối âm(contrapuntal) ................

Kết hợp free strokes và rest strokes trong các hợp âm rải .........................

12

Point/counterpoint(đối âm) .........................................................................

Chơi các đoạn nhạc cổ điển ..................................................................................

Chương 14: Jazz ...................................................................................................

Giới thiệu về hòa âm mới toàn bộ (Introducing a Whole New Harmony) ...............

Các hợp âm mở rộng (Extended chords) ...................................................

Các hợp âm thay đổi(Altered chords).........................................................

Rhythm Comping ...................................................................................................

Các hợp âm bên trong(inside chords) ........................................................

Các hợp âm bên ngoài(outside chords) .....................................................

Các hợp âm đầy (Full chords) ....................................................................

Chơi solo: Phong cách giai điệu hợp âm (Playing Solo: Chord-Melody Style)

Thực hiện những thay thế (Making Substitutions) ......................................

Ứng tấu với 3 hợp âm (Faking it with three chords) ...................................

Thực hiện Lead: giai điệu Jazz (Taking the Lead: Jazz Melody) ............................

Các thang âm(scales/gam) với các tone thay đổi luôn phiên (Scales with altered tones) ..................................................................................................................

Tiếp cận những note đích (Approaching target notes) ...............................

Thực hiện/tạo giai điệu từ các hợp âm dạng rải (Making melodies from arpeggiated chords) ..................................................................................................................

Chơi các bản nhạc Jazz (Playing Jazz Songs) ......................................................

Phần 5: Việc mua và bảo dưỡng guitar của bạn ..........................................................

Chương 15: Các cây guitar tốt một cách hoàn hảo ...........................................................

Trước khi mở ví của bạn ra ...................................................................................

Các guitar mới bắt đầu ..........................................................................................

Các mẫu(model) cho một phong cách đặc biệt ......................................................

Các Guitar Sendcond (và third…) ..........................................................................

Cấu tạo ......................................................................................................

13

Nguyên liệu (materials) ..............................................................................

Sự tinh xảo(workmanship) .........................................................................

Các đồ trang bị(Appointments/cosmetics) ..................................................

Mua một Ax to Grind..............................................................................................

Dẫn theo một chuyên gia ...........................................................................

Việc gặp gỡ người bán hàng .....................................................................

Nghệ thuật của sự thỏa thuận buôn bán ....................................................

Chương 16: Các phụ tùng(accesory) cho Guitar ...............................................

Amps ..................................................................................................................

Hãy bắt đầu với một amp thực hành ..........................................................

Tăng công suất lên với amp trình diễn .......................................................

A Case for Cases ..................................................................................................

Hard cases ................................................................................................

Soft cases ..................................................................................................

Gig bags ....................................................................................................

Capos ..................................................................................................................

Effect Pedals và các thiết bị...................................................................................

Picks ..................................................................................................................

Strings ..................................................................................................................

Straps(đai đeo đàn) ...............................................................................................

Electronic Tuners ..................................................................................................

Some Other Helpful (Nhưng không cần thiết) Goodies ..........................................

Chương 17: Getting Strung Along(đi cùng với, đánh mở đầu): Việc thay đổi các dây ..........................................................................................................

Các chiến lược Restringing ...................................................................................

Gỡ bỏ các dây cũ ..................................................................................................

Căng một dây thép guitar mộc ...............................................................................

Thay đổi các dây đàn bước từng bước ......................................................

14

Chỉnh dây(tuning up) ..................................................................................

Căng các dây guitar dạng nylon ............................................................................

Thay dây bước từng bước .........................................................................

Chỉnh dây ..................................................................................................

Căng dây cho một guitar điện ................................................................................

Thay dây bước từng bước .........................................................................

Trường hợp đặc biệt của bột nhúng Floy Rose ..........................................

Chương 18: Staying(chằng, nén) Fit: Cơ bản bảo trì và sửa chữa ..................

Lau chùi guitar của bạn .........................................................................................

Làm sạch bụi bẩn ......................................................................................

Chu đáo cho tới khi hoàn thành .................................................................

Bảo vệ guitar của bạn............................................................................................

On the road ................................................................................................

Trong nơi cất giữ .......................................................................................

Cung cấp một môi trường phù hợp(healthy) ..........................................................

Các thiết lập nhiệt độ .................................................................................

Humidity(độ ẩm) ........................................................................................

Tự sửa chữa .........................................................................................................

Việc gắn lại các chỗ nối không khít nhau ...................................................

Hiệu chỉnh cần đàn và bộ nhúng ................................................................

Thay những bộ phận hư hoặc cũ ...............................................................

Các công cụ cần có ...............................................................................................

Mười điều mà bạn không thể tự làm ......................................................................

Phần 6: Phần của số mười ............................................................................................

Chương 19: Mười tay guitar bạn nên biết ..........................................................

Andrés Segovia (1893-1987) .................................................................................

Charlie Christain (1916-42)....................................................................................

15

Chet Atkins(1924-2001) .........................................................................................

Wes Montgomery (1925-68) ..................................................................................

B.B. King (1925-) ...................................................................................................

Chuck Berry (1926-) ..............................................................................................

Chuck Berry (1926-) ..............................................................................................

Jimi Hendrix (1942-70) ..........................................................................................

Jimmy Page (1944-) ..............................................................................................

Eric Clapton (1945-) ..............................................................................................

Eddie Van Halen (1955-) .......................................................................................

Các tay guitar mà có thể nằm trong danh 10 guitar đỉnh của người khác ..............

Chương 20: Mười Guitar bạn nên biết ................................................................

D’Angelico Archtop ................................................................................................

Fender Stratocaster ...............................................................................................

Fender Telecaster .................................................................................................

Gibson ES-335 ......................................................................................................

Gibson J-200 .........................................................................................................

Gibson Les Paul ....................................................................................................

Gretsch 6120 .........................................................................................................

Martin D-28 ...........................................................................................................

Ramirez Classical ..................................................................................................

Ricken backer 360-12............................................................................................

Phần 7: Phụ lục (appendixes) .........................................................................................

Phụ lục A: Cách đọc nhạc ....................................................................................

Các thành phần của kí hiệu âm nhạc ....................................................................

Đọc các ký hiệu cao thấp ...........................................................................

Đọc các khoảng thời gian ..........................................................................

Biểu cảm, khớp nối (articulation), và một số các khái niệm linh tinh và các ký tự ..................................................................................................................

16

Tìm các note trên Guitar ........................................................................................

Phụ lục B: 96 hợp âm(chord) thông thường ......................................................

Phụ lục C: Cách sử dụng CD của giáo trình này ...............................................

Liên hệ giữa tài liệu và CD ....................................................................................

Count-offs ..................................................................................................

Sự phân biệt âm thanh nổi .........................................................................

Các đòi hỏi hệ thống..............................................................................................

Audio CD players .......................................................................................

Computer CD-ROM drive ...........................................................................

Sử dụng CD với Microsoft Windows ......................................................................

Sử dụng CD với Mac OS .......................................................................................

Bạn sẽ tìm kiếm gì trên CD....................................................................................

Các track âm thanh CD ..............................................................................

Nhạc số .....................................................................................................

Giải quyết sự cố ....................................................................................................

Chỉ mục ..........................................................................................................

Giới thiệu

Bạn muốn chơi guitar, huh? Và tại sao bạn lại không?

Bởi vì bạn có thể như đương đầu tốt với nó: Trong âm nhạc thế giới, các cây guitar thiết lập nên bộ tiêu chuẩn for cool (và chúng tôi không có thiên lệch ở đây). Từ những năm 1950, nhiều ông bầu lớn trong nhạc Rock ‘n’ roll, Blues, và country đã chơi guitar. Hãy tưởng tượng Chuck Berring nhảy lò cò một chân ngang qua sân khấu (“duck walk”) trong khi belting out “Johnny B. Goode”, Jimi Hendrix thì kêu gào với cây guitar đảo ngược dây Stratocaster(và có lúc thì hết sức sôi nổi), Bonnie Raitt chơi guitar trượt (slide guitar), Garth Brooks với guitar mộc và áo sơ mi bằng vải flannel, cách bending đầy uy lực và cách rung dây diễn cảm của B.B. King trên cây guitar “Lucille” của ông, hoặc các cách tạo dạng guitar Jazz êm dịu của George Benson’s. (Thâm chí với Elvis Presley, kỹ năng guitar của ông không vượt quá 5 hợp âm, ông vẫn sử dụng một cách hiệu quả trên sân khâu như một người trụ cột). Danh sách này vẫn còn nữa.

Việc chơi guitar điện có thể đặt bạn đứng trước một band nhạc, nơi mà bạn tự do đi lang thang, hát, và giao tiếp bằng mắt với các fan tha thiết của bạn. Chơi guitar mộc làm bạn

17

trở thành ngôi sao hát cùng với các kỳ nghỉ cắm trại. Và việc chơi bất kỳ loại guitar nào có biểu hiện âm nhạc trong tâm hồn của bạn và trở nên giá trị sở thích riêng cuộc đời bạn.

Về cuốn sách này

Guitar For Dummies, phiên bản 2, cung cấp mọi thứ từ một tay guitar mới bắt đầu cho tới trung cấp cần: Từ việc mua một cây guitar tới việc chỉnh dây guitar, việc chơi guitar, bảo dưỡng guitar, cuốn sách này đều đề cập tới.

Kiếm 1 cây guitar

Tin hoặc không, rất nhiều tay guitar sẽ không bao giờ gọi là thực sự chơi guitar bởi vì họ có cây guitar bị lỗi. Hoặc các dây đàn quá khó đẩy xuống (gây ra đau). Guitar For Dummies, phiên bản 2, không như một vài cuốn sách khác mà chúng tôi có thể đề cập, không giả sử rằng bạn đã có được cây guitar đúng – hoặc thậm chí bất kỳ một cây guitar nào, về vấn đề này. Trong sách này, bạn sẽ tìm thấy mọi thứ bạn cần phải biết (từ việc hướng dẫn dành cho người mua đàn tới các chiến lược mua bán, tới các cây guitar và các đồ phụ tùng cho các phong cách đặc biệt) để bạn có thể chọn lựa guitar và các thiết bị phù hợp với nhu cầu và túi tiền của bạn.

Việc chơi guitar

Hầu hết các cuốn sách guitar muốn bạn thực hành guitar theo cùng cách mà bạn thực hành piano. Trước hết, bạn học nơi các note nhạc nằm trên khuông nhạc; sau đó bạn học về khoảng thời gian để nắm bắt về note; sau đó bạn tiếp tục thực hành về các thang âm (gam/scales); và đỉnh cao là thực hành bài hát sau đó bạn không thể nhận diện được bài hát và bạn có thể không quan tâm về việc bạn đang chơi nó một cách tùy tiện. Nếu bạn đang tìm kiếm loại sách guitar ho-hum này, dứt khoát rằng bạn đã đến sai nơi rồi. Nhưng đừng lo lắng, bạn sẽ thấy rằng không thiếu các loại sách này.

Sự thật là rất nhiều guitarist tuyệt vời không biết cách đọc nhạc thế nào, và nhiều người có thể đọc nhạc chỉ sau khi họ đã học chơi guitar. Hãy lập lại sau chúng tôi: Bạn không cần đọc nhạc để chơi guitar. Hãy đọc câu thần chú này cho tới khi bạn tin nó, bởi vì nguyên tắc căn bản này là trung tâm để thiết kế cuốn Guitar For Dummies, phiên bản 2.

Một trong những điều tuyệt nhất về guitar đó là, dù là bạn có thể dành hết thời gian của bạn để hoàn thiện kỹ năng, bạn có thể bắt đầu ứng tấu nó nhanh hơn nhiều. Chúng tôi giả sử rằng, thay cho việc tập trung vào nhịp 3/4 nghĩa là gì, bạn muốn chơi nhạc – nhạc thật sự (hoặc ít ra nhận diện âm nhạc). Chúng tôi cũng muốn bạn chơi nhạc, bởi vì điều đó giúp thúc đẩy bạn học nhạc và việc thực hành nhạc.

Vì thế cuốn Guitar For Dummies, phiên bản 2, sẽ được phân bổ thế nào? Thật vui sướng nếu bạn đã thắc mắc. Danh sách sau sẽ nói cho bạn biết cuốn sách này sẽ bắt đầu thế nào và việc bạn chơi và phát triển các kỹ năng guitar thực thụ nhanh thế nào:

18

- Nhìn các bức ảnh. Các ngón bấm mà bạn cần biết xuất hiện trong ảnh. Chỉ đặt tay của bạn theo cách mà chúng tôi chỉ cho bạn theo trong những bức ảnh. Đơn giản.

- Đọc guitar tablature. Guitar tablature là một dạng tốc ký đặc biệt cho guitar đối với việc đọc nhạc mà thực sự chỉ cho bạn biết các dây đàn để đánh(strike) và ở các phím nào để bấm xuống để tạo ra âm thanh mong muốn. Tab (bởi vì nó được biết vì sự gần gũi và admirers) đi một quãng đường dài hướng tới cho phép bạn chơi nhạc mà không cần đọc nhạc. Đừng thử món này trên piano!

- Lắng nghe CD. Bạn có thể lắng nghe tất cả bài hát và các bài tập trên CD. Việc này quan trọng vì đôi lý do sau: bạn có thể mường tượng ra được giai điệu của bài hát cũng như nắm được các note nhạc có độ dài bao lâu bằng cách lắng nghe thay cho việc đọc nhạc. Chúng tôi có thể nói cho bạn tất cả những điều thực sự tuyệt vời về CD, chẳng hạn như làm cách nào để có được guitar đặc sắc trên một kênh và các phần nhạc đệm trên kênh khác (để bạn có thể chuyển tới lui bằng cách sử dụng bộ điều khiển cân bằng trên máy âm thanh nổi của bạn) hoặc tài liệu và CD được tích hợp chặt chẽ thế nào để bạn có thể luôn luôn tìm thấy track nhạc bạn cần một cách dễ dàng, nhưng, bỏ đi, chúng tôi không muốn khoe khoang về chúng tôi quá nhiều.

- Nhìn ký hiệu âm nhạc khi bạn đã tiến bộ. To those who would charge that Guitar For Dummies, phiên bản 2, doesn’t give you diddley in terms of reading music, we respond: “Not so, Fret Breath!” Âm nhạc đối với tất cả các bài tập và bài hát xuất hiện trên những phương pháp đường tắt. Để bạn đạt được điều tốt nhất của cả hai thế giới: Bạn có thể kết hợp ký hiệu âm nhạc với âm thanh bạn tạo thành sau khi bạn đã biết bằng cách nào để tạo ra nó rồi. Điều tuyệt vời, huh?

Bảo dưỡng guitar của bạn

Một chuỗi guitar là một sự đầu tư không nhỏ, và, với bất kỳ sự đầu tư không nhỏ khác, bạn cần phải bảo dưỡng nó. Guitar For Dummies, phiên bản 2, cung cấp thông tin mà bạn cần để lưu giữ đúng đăn, bảo trì, và bảo dưỡng cho bộ 6 dây đàn của bạn, bao gồm việc thay dây thế nào và hơn nữa để giữ an toàn trong hộp guitar của bạn.

Những giả thiết khá ngu dại

Chúng tôi thực sự không đặt những giả thiết về bạn. Chúng tôi không giả sử rằng bạn đã có một cây guitar. Chúng tôi không giả sử rằng bạn có sở thích đặc biệt đối với các guitar mộc hoặc guitar điện hoặc bạn yêu thích một phong cách đặc biệt nào đó. Đi nào, this is a pretty equal-opportunity book!

19

OK, chúng tôi làm một vài điều giả sử. Chúng tôi giả sử rằng bạn muốn chơi guitar, chứ không phải banjo, Dobro, hoặc mandolin, và chúng tôi tập trung vào sự đa dạng của 6 dây. Chúng tôi giả sử bạn là người khá mới trong thế giới guitar. Và chúng tôi giả sử rằng bạn muốn bắt đầu chơi guitar thật nhanh, mà không muốn vướng vào mớ hỗn độn của việc đọc note, các khóa, và phần của bản nhạc. Bạn có thể kiếm thấy tất cả việc đọc nhạc trong sách này, nhưng đó không phải là điều tập trung của chúng tôi. Điều tập trung chính của chúng tôi là giúp bạn tạo ra âm nhạc tuyệt vời, ngọt ngào trên cây 6 dây của bạn.

Điều gì bạn không cần đọc

Chúng tôi đã bắt đầu với một cuốn sách đầy đủ với chỉ ý tuyệt vời, cuốn hút, và các món hữu dụng, nhưng người chủ biên của chúng tôi bảo rằng chúng ta cần ném đi một vài thứ buồn tẻ, những cái về kỹ thuật để đạt được sự cân bằng (chỉ đùa thôi).

Sự thực, hiểu biết lý luận đằng sau âm nhạc đôi khi có thể giúp bạn thực hiện bước kế tiếp sau khi làm chủ được những điều căn bản của một kỹ thuật. Nhưng việc diễn tả những kỹ thuật đó không thực sự cần thiết cho bạn để chơi nhạc căn bản. Vì lý do này, chúng tôi sử dụng biểu tượng Technical Stuff(món kỹ thuật) để đánh dấu những giải thích này rằng bạn có thế muốn bỏ đi trước đã và sau đó trở lại sau này, sau khi bạn đã mở rộng hơn thêm và phát triển hơn thêm về cảm nhận trực giác đối với nhạc cụ. Chúng tôi cho phép bạn nhảy qua các thanh xám bóng đổ mà bạn sẽ thấy trong một vài chương. Đừng nghĩ chúng tôi sai; đó thực sự là một vài thông tin tốt. Nhưng bạn sẽ không bị lỗi nhịp nếu bạn có bỏ qua nó.

Các quy ước chúng tôi sử dung trong sách này

Cuốn sách này có một lượng các quy ước mà chúng tôi sử dụng để thực hiện những điều phù hợp và dễ dàng để hiểu. Đây là danh sách các quy ước:

- Tay phải và tay trái: Thay cho việc nói “strumming hand” (tay gải/rải đàn – tay phải) và “fretting hand” (tay bấm phím – tay trái) ( các cách nói này thực sự cưỡng ép với chúng tôi), chúng tôi sẽ nói “right hand” (tay phải) dành cho tay picks(khảy bằng miếng khảy) hoặc strums(gải/rải) các dây đàn và “left hand” (tay trái) dành cho tay mà nhấn các dây đàn. Chúng tôi xin lỗi tới những người đọc thuận tay trái, và chúng tôi yêu cầu bạn hiểu rằng right hand có nghĩa là left hand và ngược lại.

- Ký hiệu âm nhạc sóng đôi: Các bài hát và các bài tập trong sách này được viết lại với ký hiệu âm nhạc chuẩn nằm ở trên và ký hiệu dạng tablature nằm bên dưới cho phần chúng tôi sử dụng. Ở điểm này rằng bạn có thể sử dụng cả 2 phương pháp này, nhưng bạn không cần nhìn cả hai tại cùng một thời điểm, bạn phải làm như vậy trong khi bạn chơi piano.

- Lên và xuống, cao hơn và thấp hơn (và vân vân): Nếu chúng tôi nói với bạn hãy di chuyển một note hoặc một hợp âm lên phía cần đàn hoặc chơi nó cao hơn trên cần đàn, thì ý chúng tôi là cao hơn về cao độ(pitch), hoặc hướng về phía thân của guitar. Nếu chúng tôi nói hãy di chuyện xuống hoặc thấp hơn trên cần đàn, thì ý là hướng về phía đầu cần, hoặc thấp hơn về cao độ. Nếu chúng tôi có ý khác với các điều đề cập này, chúng tôi sẽ nói cho bạn biết.

20

Cuốn sách được tổ chức như thế nào

Chúng tôi phân biệt cuốn sách thành 2 loại chương riêng biệt: Các chương thông tin và các chương chơi. Các chương thông tin nói cho bạn biết các điều cốt lõi và then chốt của guitar, chẳng hạn như chỉnh guitar như thế nào, chọn guitar tay phải, và bảo dưỡng guitar. Các chương chơi cung cấp cho bạn thông tin bạn cần (bạn hãy đoán nó xem) để bạn chơi guitar.

Mỗi chương chơi bao gồm các bài tập mà cho phép bạn thực hành kỹ năng chúng tôi đã đề cập trong một đoạn cụ thể. Và tại lúc kết hoặc gần kết của mỗi chương chơi, bạn có thể thấy một đoạn nhạc mà bạn có thể chơi mà sử dụng những kỹ thuật trong chương. Tại đoạn bắt đầu của mỗi đoạn “Playing Songs” là một đoạn được gọi là “About the Songs”, nơi đây bạn có thể thấy danh sách các kỹ năng bạn cần và những thông tin đặc biệt về bài hát.

Chúng tôi chia các chương trong Guitar For Dummies, phiên bản 2, vào trong 8 phần logic đề dễ dàng truy cập. Các phần được tổ chức như sau:

Phần 1: Bạn muốn chơi guitar

Phần 1 cung cấp 3 chương thông tin về những điều cơ bản của guitar mà bạn cần biết trước khi bạn có thể bắt đầu chơi. Chương 1 giúp bạn hiểu những thành phần khác nhau của guitar, và chúng làm gì. Chương 2 cho bạn biết cách để lên dây đàn guitar, tham khảo theo cả 2 cách bởi chính bản thân nó và từ một fixed source – chẳng hạn như một âm thoa(thanh mẫu: fork) lên dây, piano, hoặc bộ lên dây điện tử - để bạn có thể hòa với các nhạc cụ khác. Chương 3 bao gồm các kỹ năng cơ bản bạn cần biết để có thể thành công với cuốn sách này, chẳng hạn như cách đọc guitar tablature như thế nào, pick và strum như thế nào, và cách sản sinh ra một âm thanh sạch, rõ ràng, và âm không bị nhiễu.

Phần 2: Hãy bắt đầu chơi: Các kiến thức căn bản

Trong phần 2, bạn bắt đầu thực sự chơi guitar. Tất cả các chương trong phần này phân phối với việc chơi guitar, để “trói” buộc bạn ( and get used in bad puns). Chương 4, chương chơi đầu tiên, chỉ cho bạn cách đơn giản nhất để bắt đầu chơi nhạc thực thụ - với các hợp âm trưởng(major) và thứ(minor). Chương 5 đi qua việc bằng cách nào chơi các giai điệu đơn giản bằng cách sử dụng các note đơn, và Chương 6 cộng thêm một chút gợi tình với một vài hợp âm 7th cơ bản. Hãy nhớ câu chuyện đùa về người khách du lịch đã hỏi người lập dị chống lại những quy ước xã hội New York, “ Bằng cách nào bạn đến được Carnegie Hall?” Câu trả lời: “Thực hành, anh ah, thực hành.” Oh, bạn có thể không được ghi đầu với Carnegie Hall (nhưng sau đó, chúng ta là ai để có thế nói?), nhưng việc thực hành những điều cơ bạn sẽ mãi là điều quan trọng nếu bạn muốn trở thành một người chơi guitar tốt.

Phần 3: Vượt trên các điều căn bản: Bắt đầu hướng tới Sound Cool

Phần 3 vượt trên các điều đơn giản hướng tới một vài những điều cần thiết cho trình độ trung cấp. Chương 7 cung cấp cho bạn với các kỹ thật mà bạn sử dụng trong việc chơi theo thế(position), điều không chỉ giúp bạn tạo ra âm thanh

21

tuyệt vời, mà con giúp bạn trông thật tuyệt. Chương 8 cho bạn biết về việc chơi các hợp âm chặn, dựa vào việc sử dụng một ngón tay đặt ngang qua tất cả các dây đàn và tạo ra các hợp âm trước ngón tay đó. Chương 9 đi vào những kỹ thuật đặc biệt để tạo ra các hiệu ứng guitar đặc biệt, tất cả với những cái tên nghe rất tuyệt chẳng hạn như hammer-ons, bends, và slides.

Phần 4: Sự đa dạng phong cách

Phần 4, tập hợp cuối cùng của các chương chơi, bao gồm những phương pháp mà bạn sử dụng trong các phong cách âm nhạc. Chương 10, nói về phong cách rock, chỉ cho bạn về việc chơi lead bằng cách dùng thang âm thứ pentatonic, chơi solo trong một hộp (box), và những kiểu phong cách rock khác. (Chương này cũng cung cấp cho bạn vài thông tin về picking theo phong cách country với thang âm trưởng(major) pentatonic). Chương 11, về phong cách Blues, cung cấp cho bạn thêm các hộp lead và các sự khớp lại với nhau các bản nhạc blues đặc biệt và nói cho bạn biết how to get your mojo working. Chương 12, về nhạc folk, cung cấp cho bạn với các mẫu picking đặc biệt điều mà làm cho nhạc folk có âm thanh riêng biệt (và thêm một vài kỹ thuật finger-picking nhạc country). Chương 13, về guitar classical, giới thiệu cho bạn những kỹ thuật cần thiết để chơi nhạc của Bach và Beethoven. Chương 14, chương về nhạc Jazz, trình bày các hợp âm Jazz, chơi rhythm, và chơi solo.

Phần 5: Việc mua và bảo dưỡng guitar của bạn

Phần 5 phân bố 2 chương được thiết kế để giúp bạn tìm kiếm các thiết bị mà phù hợp với bạn. Chương 15 bao gồm việc tìm kiếm không chỉ cây guitar thực hành đầu tiên của bạn, mà còn tìm kiếm các cây guitar thứ 2 và thứ 3 ( thường là khó giải quyết hơn cây guitar đầu tiên của bạn). Chương 16, về các phụ kiện guitar, cung cấp cho bạn một cuốn sách nhập môn về guitar amp, và đi qua thêm một ít về điều bạn cần để làm cho phù hợp nhau một cách đầy đủ giữa các thiết bị.

Cũng bao gồm trong 2 chương là cách bảo dưỡng guitar như thế nào. Chương 17 bao gồm tiến trình của việc thay dây, vài điều bạn cần biết nếu bạn dự định sẽ chơi guitar hơn một tháng. Chương 18 bao gồm kiến thức bảo trì cơ bản và sửa chữa cơ bản mà bạn có thể tiết kiệm tiền khi đem đến cửa hàng guitar và giữ cho bạn chơi tốt vào buổi diễn tối.

Phần 6: Phần của số mười

Phần của các số mười là một nhãn hiệu đối với For Dummies mà ở đây cung cấp các thông tin vui và thú vị dưới dạng phong cách top-ten. Chương 19 sẽ truyền cảm hứng cho bạn với mười tay guitar tuyệt vời. And, Chương 20, về mười guitar cổ điển, có thể quyến rũ bạn tới cửa tiệm guitar địa phương để giành được một cây trong những em guitar này cho bạn.

Phần 7: Phụ lục (appendixes)

Các phụ lục trong cuốn sách này bao gồm vài vấn đề quan trọng. Phụ lục A diễn giải cô đọng xúc tích tất cả những ký tự lạ trên khuông nhạc và nói cho bạn biết

22

đủ về việc đọc nhạc để bạn học thuộc. Phụ lục B cung cấp một bảng thuận tiện về 96 hợp âm được sử dụng thông thường nhất. Và phụ lục C nói cho bạn về CD mà đi kèm theo sách này.

Các Icons được sử dụng trong sách này

Trong các phần lề của cuốn sách, bạn sẽ thấy vài biểu tượng nhỏ hữu ích mà có thể làm cho bạn lướt qua một cách dễ dàng hơn:

Nhảy tới một bài hát thực thụ để hài lòng với guitar ngay lập tức.

Một vài điều để viết xuống trên một cocktail napkin và lưu giữ trong hộp guitar của bạn

Các lý do tại sao và tại sao đằng sau những cái bạn chơi. Lý thuyết và, tại thời điểm, thứ tối tăm mà bạn có thể bỏ nếu bạn quá mong muốn.

Chuyên gia khuyên rằng có thể đẩy nhanh cuộc dạo chơi của bạn tới sự tuyệt hảo của guitar.

Đề phòng, hoặc bạn có thể gây tổn hại cho guitar của bạn hoặc tai của một người nào đó.

23

Where to go from here

Guitar For Dummies, phiên bản 2, đã được craft một cách cẩn thận để bạn có thể tìm thấy điều bạn muốn hoặc bạn cần để biết về guitar và không gì hơn nữa. Bởi vì mỗi chương thì tự chứa đựng cũng như có thể thực hiện được, bạn có thể bỏ qua thông tin mà bạn đã nắm vững rồi và không bị lỡ nhịp. Còn nữa, tại cùng thời điểm, bạn cũng có thể theo sau từ trước tới sau và thực hành guitar theo cách xây dựng step-by-step theo sự hiểu biết trước đó của bạn.

Để tìm kiếm thông tin bạn cần, bạn có thể đơn giản nhìn qua Bảng nội dung để kiếm vùng mà bạn có hứng thú, hoặc bạn có thể tìm kiếm một thông tin đặc biệt nào đó trong phần chỉ mục tại phần cuối của cuốn sách.

Nếu bạn là một người mới bắt đầu và đã sẵn sàng để bắt đầu chơi ngay tức thì, bạn có thể bỏ chương 1 và đi thẳng tới Chương 2, nơi bạn sẽ thực hiện hiệu chỉnh guitar. Sau đó duyệt qua Chương 3 về việc phát triển các kỹ năng mà bạn cần để chơi và đi thẳng sâu vào Chương 4 . Mặc dầu bạn có thể bỏ qua một vài điều lòng vòng trong những chương chơi, nếu bạn là người mới bắt đầu, chúng tôi thúc giục bạn hãy thực hiện các chương theo thứ tự, mỗi chương tại một thời điểm. Hơn nữa, bạn nên gắn bó với Chương 4 cho tới khi bạn bắt đầu hình thành những vết chai trên những ngón tay của bạn, điều này thực sự giúp bạn thực hiện các hợp âm với âm thanh chính xác mà không bị nhiễu/dơ.

Nếu bạn chưa có một cây guitar, bạn nên bắt đầu ở Phần 4, hướng dẫn của người mua, và tìm kiếm thông tin bạn cần về một guitar thực hành căn bản. Tốt nhất bạn không nên phô trương với một cây guitar đắt tiền cho tới khi bạn chắc rằng nhạc cụ này là dành cho bạn.

Phần 1: Bạn muốn chơi guitar

Trong phần này….

Buổi sáng tốt lành, các quý bà và các quý ông, và chào mừng đến với Guitar For Dummies, phiên bản 2. Trước khi cất cánh, xin bảm đảm rằng bạn đã xem lại Chương 1, ở đó đã phác thảo các thành phần khác nhau và các tên của cả các cây guitar điện và guitar mộc, và đừng quên kiểm tra lại việc lên dây guitar của bạn, cũng như những phác thảo trong chương 2. Cuối cùng, tham khảo chương 3 (hoặc đặt bản ghi chú trong một túi đặt trước mặt bạn) để xem lại những thông tin vận hành quan trong trước khi thực sự thực hành với nhạc cụ. Nhìn ngồi lại. Thời gian chuyến phiêu lưu của bạn với cây guitar có thể kéo dài phần còn lại cuộc đời của bạn, nhưng bạn có chắc là bạn thích thú với cuộc đi!

Chương 1: Guitar 101

Trong chương này

- Nhận dạng các thành phần khác nhau của cây guitar.

24

- Hiểu cách hoạt động của guitar.

- Tương tác với guitar

Tất cả các cây guitar – hoặc là được sơn tía với các đầu sơn phun và lightning bolts hoặc được hoàn thành bằng một mẫu gỗ tự nhiên với một nước sơn mài tốt của Pháp – nước sơn này có chung những đặc điểm vật lý nào đó để làm cho chúng giống với các cây guitar và không phải là các cây violin hoặc tubas. Nếu bạn đang bối rồi về sự khác nhau giữa một đầu cần và một pickup hoặc bạn đang tự hỏi cái gì là phần cuối của một cây guitar để giữ bên dưới cằm của bạn, thì chương này chính là dành cho bạn.

Đoạn sau đây diễn tả những sự khác nhau giữa các thành phần khác nhau của một cây guitar và nói cho bạn các bộ phận đó làm nhiệm vụ gì. Chúng tôi cũng chỉ cho bạn cách cầm nhạc cụ như thế nào và tại sao cây guitar lại phát âm ra như vậy. Và, trong trường hợp bạn không đùa với chúng tôi, bạn đừng nói là bạn giữ cây guitar bên dưới cằm của bạn – trừ khi, dĩ nhiên, khi bạn là Jimi Hendrix.

Giải phẫu của một cây guitar

Các cây guitar xuất hiện theo 2 dạng hương vị: mộc và điện. Từ quan điểm phần cứng, các cây guitar điện có nhiều thành phần hơn và nhiều doohickeys hơn các cây guitar mộc. Người làm guitar thường đồng ý, tuy nhiên, rằng làm một cây guitar mộc thì khó hơn làm một cây guitar điện. Đó là lý do tại sao, pound for pound, các cây guitar mộc có giá trị lớn hơn các bản sao điện của chúng. (Khi bạn đã sẵn sàng để mua guitar hoặc sắm các phụ tùng guitar, bạn có thể kiểm tra lại ở các chương 15 và 16, tương ứng). Nhưng cả hai loại guitar này có chung cách tiếp cận cơ bản chẳng hạn những nguyên tắc cơ bản như cấu tạo cần và rung động dây. Đó là lý do tại sao cả guitar mộc và điện có những cấu trúc rất tương đương nhau, dù thỉnh thoảng sự khác biệt cơ bản là việc sản sinh ra âm sắc (trừ khi, dĩ nhiên, bạn nghĩ rằng Segovia và Metallica thì không thể phân biệt được). Bước ảnh 1-1 và 1-2 trình bày về các phần khác nhau của một guitar mộc và một guitar điện.

25

Danh sách sau nói cho bạn biết chức năng của các bộ phận khác nhau của một cây guitar:

- Back (chỉ dành cho đàn mộc): phần của thân đàn mà sẽ giữ các mặt nằm tại chỗ; phần này được làm từ 2 hoặc 3 miếng gỗ.

- Bar (cần rung- chỉ dành cho đàn điện): một thanh kim loại được gắn vào bridge(nhúng) mà sẽ biến đổi rung động của dây đàn bằng cách nghiêng bridge(nhúng) về phía trước và về phía sau. Nó cũng được gọi là thanh rung/cần rung (tremolo bar), whammy bar, vibrato bar, và wang bar.

- Body(thân đàn): là một hộp mà có một khớp mỏ neo để gắn cần đàn và cùng với nhúng để tạo ra mặt chơi cho tay phải. Trên đàn mộc, thân đàn gồm có khoang khuyếch đại âm thanh để sản sinh và âm sắc(tone) của guitar. Trên một cây đàn điện, nó có một khoang cho việc gắn bộ nhúng và các thành phần điện (các pickup cũng như các điều khiển tone (âm sắc) và âm lượng).

- Bridge(nhúng): Là tâm kim loại (với đàn điện) hoặc gỗ (với đàn mộc) mà neo (gắn) các dây đàn vào thân đàn.

26

- End pin/strap pin(chốt đuôi, chốt đeo dây): một trụ kim loại nơi đây đầu dưới của dây đai đeo sẽ được cài vào trụ này. Trên cây đàn mộc-điện (là các guitar mộc mà có các pickup gắn cùng và các thành phần điện), chốt đuôi thường lớn gấp đôi bởi vì có output jack để bạn cắm jack vào.

End ping có lỗ cắm jack

- Fingerboard(bàn phím): một miếng gỗ mảnh, ván cừ được đặt ở phía trên của cần đàn, nơi đây bạn đặt các ngón tay trái của bạn để hình thành nên note nhạc và các hợp âm. Bàn phím cũng được gọi là fretboard, bởi vì các phím được gắn lên nó.

- Frets(Các phím đàn): 1) Là những dây hoặc những thanh kim loại mỏng được gắn vuông góc với các dây đàn, chúng có tác dụng làm ngắn đi chiều dài rung động của một dây đàn, để cho phép giây đàn sản sinh ra các cao độ khác nhau. 2) Là một động

27

từ diễn tả sử lo lắng, “Anh ấy băn khoan về việc có bao nhiêu bộ phận nhỏ trên cây guitar của anh ấy.”

- Headstock(đầu cần): Là phần mà giữ bộ khóa(tuning machines) của đàn và là nơi để nhà sản xuất in logo của họ lên. Bạn đừng nhầm lẫn với từ “Woodstock”, là phần thuộc New York, nơi đây cung cấp một nơi để trình diễn âm nhạc của nó trong vòng 60s’.

- Neck (cần đàn): là miếng làm bằng gỗ dạng chùy, dài. Nó để kết nối đầu cần(headstock) với thân đàn.

- Nut: Là một miếng nhựa nylon cứng được khía rãnh hoặc bằng chất liệu tổng hợp khác. Nơi đây là điểm dừng của rung động dây đàn. Các dây đàn chạy xuyên qua các rãnh của Nut trên đường đi của chúng tới các khóa đàn nằm trên đầu cần. Nut là một trong 2 điểm mà tại đó vùng rung động của dây đàn kết thúc. (điểm thứ 2 là tại nhúng).

- Ngõ ra (Output Jack- dành cho guitar điện): điểm dùng để cắm dây tín hiệu có tác dụng kết nối guitar tới một bộ khuyếch đại(amplifier) hoặc thiết bị điện khác.

- Bộ chọn lựa Pickup (pickup selector – chỉ dành cho guitar điện): là một công tắc để xác định các pickup nào đang trong trạng thái hoạt động ở điểm hiện tại.

- Pickups (chỉ dành cho guitar điện): Các thanh nam châm để tạo ra dòng điện. Dòng này sẽ được amplifier chuyển đổi thành âm thanh.

- Các cạnh (sides – dành cho guitar mộc): Là các miếng gỗ được uốn cong riêng biệt trên thân đàn để nối mặt trước mặt sau(the top to the back).

- Strap pin(chốt đeo dây): tương tự như end pin nhưng không có lỗ cắm jack. (Không phải tất cả các cây guitar mộc đều có một strap pin. Nếu guitar không có chốt đeo thì bạn hãy gắn đỉnh của dây đeo vòng quanh đầu cần).

- Dây đàn: Là 6 dây kim loại ( đối với các guitar điện và các dây thép với các cây guitar mộc) hoặc nylon (cho các cây guitar cổ điển), được căng lên, để sinh ra các note nhạc của guitar. Mặc dầu hoàn toàn không phải là thành phần của cây guitar ( you attach and remove them at will on top of the guitar), các dây đàn là một bộ phần không thể thiếu của cả hệ thống, và thiết kế tổng thể của một một cây guitar và cầu trúc quay tròn xung quanh của nó làm cho các dây đàn vang lên với một tiếng vui (joyful noise). (Xem chương 17 để biết thêm thông tin về việc thay dây).

- Top(mặt trên): Mặt trên của đàn. Trên một cây guitar mộc, mặt này cũng gọi là mặt phát âm(sounding board), nó sinh ra hầu hết các đặc tính mộc của một cây guitar. Trên một cây guitar điện, mặt trên thì hiếm khi là một mũ trang điểm để che đậy phần còn lại các bộ phận của thân đàn.

- Tuning machines (bộ khóa đàn): Các bộ phận có bánh răng để nâng cao và giảm thấp rung động của dây đàn, kéo theo sự khác biệt về cao độ. Các vòng cuốn dây đàn được thực hiện quanh một trụ lòi ra từ top hoặc mặt của đầu cần(headstock). Trụ đi xuyên qua lưng của đầu cần, nơi mà các bánh răng kết nối nó(trụ) tới một khóa đàn. Khóa đàn còn được gọi là tuners, tuning pegs, tuning keys, và tuning gears.

28

- Các bộ điều khiển âm lượng và âm sắc (chỉ cho guitar điện): các núm để thay đổi cường độ của âm guitar và các tần số bass và treble của nó.

Guiar làm việc như thế nào

Sau khi bạn có thể nhận ra các bộ phận cơ bản của một cây guitar, có thể bạn cũng muốn hiểu các bộ phận đó làm việc với nhau như thế nào để tạo ra âm thanh (Trong trường hợp bạn tình cờ chọn lựa loại của các bộ phận của một cây guitar trong Jeopardy! Hoặc tranh luận lớn với một tay guitar khác về rung động của dây đàn và chiều dài dây đàn). Chúng tôi trình bày các thông tin này để bạn biết tại sao âm thanh cây guitar của bạn kêu như vậy, thay vì kêu như một ống sáo kazoo hoặc một đàn accordion. Điều quan trọng cần nhớ là cây guitar phát ra âm thanh, nhưng bạn là người làm ra âm nhạc.

Rung động dây đàn và chiều dài dây

Bất kỳ nhạc cụ nào cũng phải có vài bộ phận của nó di chuyển theo một sự đều đặn, và được lặp lại để sản sinh ra âm thanh của âm nhạc( một âm sắc được duy trì, hoặc cao độ). Trong một cây guitar, phần này là rung động dây. Một dây đàn khi bạn căng tới một độ nào đó và sau đó làm rung nó (bằng cách gảy chẳng hạn) sẽ sinh ra một âm thanh có thể dự đoán được – ví dụ, note A. Nếu bạn hiệu chỉnh dây đàn của guitar tới các độ căng khác nhau, bạn sẽ có được các âm sắc khác nhau. Độ căng của dây đàn càng tăng, thì cao độ càng tăng.

Tuy nhiên, bạn không thể làm thay đổi độ căng của dây quá nhiều với guitar, có phải cách duy nhất để thay đổi cao độ là hiệu chỉnh độ căng một cách điên cuồng trên các dây đàn mỗi khi bạn gảy một dây chăng. Vì thế các tay guitar phải dùng cách khác để thay đổi cao độ dây đàn – bằng cách làm ngắn chiều dài rung động hiệu nghiệm của nó. Họ làm điều đó bằng cách gặm phím (fretting) – đi từng bước ra sau và về trước và tự nói làm bầm. Chỉ đùa tí thôi; các guitar sẽ không bao giờ làm vậy trừ khi họ không ôm cây đàn guitar trong vài ngày. Trong ngôn ngữ guitar, từ fretting ý chỉ việc nhấn dây đàn áp vào bàn phím để nó chỉ rung động giữa phím được nhấn (giây kim loại) và nhúng. Bằng cách này, hãy di chuyển tay trái lên và xuống trên cần đàn (hướng nhúng và nut, tương ứng), bạn có thể thay đổi cao độ thoải mái và dễ dàng.

Thật sự các nhạc cụ nhỏ hơn chẳng hạn như mandolins và violin thì cao hơn về cao độ so với các cây cello và bass (và guitar) thì không có bất thường gì cả. Cao độ của chúng cao hơn bởi vì dây của chúng ngắn hơn. Độ căng dây của tất cả các nhạc cụ này có thể có họ hàng gần với nhau, làm cho chúng giống như một chút gì đó phù hợp với đôi tay và các ngón tay, nhưng sự khác biệt lớn về chiều dài dây đàn dẫn đến sự khác biệt lớn về cao độ giữa chúng. Nguyên tắc này cũng đúng cho các động vật. Một con chó nhỏ chihuahua có tiếng

29

sủa với cao độ cao hơn một con chó St. Bernard bởi vì dây thanh âm của nó – string ở đây mang nghĩa là dây thanh âm – thì ngắn hơn nhiều.

Sử dụng cả 2 tay để tạo ra âm thanh

Guitar thường đòi hỏi 2 tay làm việc cùng nhau để tạo ra âm nhạc. Nếu bạn muốn chơi, nói rằng, C giữa trên cây piano, mọi điều bạn cần làm là dùng ngón trỏ của bạn, hãy đặt nó trên phím trắng thích hợp nằm bên dưới logo của cây piano, và nhấn nó xuống: donnnng. Một cây preschooler có thể phát âm như Horowitz nếu chỉ chơi C giữa, bởi vì chỉ có một ngón tay của một tay, nhấn một phím, để tạo ra âm thanh.

Guitar có một chút khác biệt. Để chơi C giữa trên guitar, bạn phải dùng ngón trỏ tay trái và nhấn(fret) vào phím đầu tiên trên dây số 2 (đó là, nhấn dây đàn sát vào bàn phím). Tuy nhiên, hành động này bản thân nó không sinh ra âm thanh. Mà sau đó bạn phải strike hoặc pluck dây số 2 với tay phải của bạn để thật sự sản sinh ra note C giữa một cách rõ ràng. Người đọc nhạc hãy chú ý: Guitar phát âm thấp hơn 1 octave so với note của nó được ghi. Ví dụ, khi chơi một bản nhạc viết, C thứ 3 trên guitar thì thực thế sản sinh ra một âm C giữa.

Phím và nửa cung

Khoảng nhỏ nhất (đơn vị khoảng cách âm trong cao độ) của thang âm âm nhạc là nửa cung. Trên đàn piano, các phím trắng và đen nằm luôn phiên đại diện cho kiểu quãng này (ngoại trừ các nơi mà bạn thấy 2 phím trắng gần kề mà không có phím đen ở giữa). Để thực hiện nửa cung trên một cấu trúc bàn phím, bạn hãy di chuyển ngón tay của bạn lên hoặc xuống phím kế đó, trắng hoặc đen. Trên guitar, các phím(fret) – các dây kim loại nằm ngang (hoặc thanh) mà bạn thấy được gắn vào bàn phím, chạy vuông góc với các dây đàn – đại diện cho các nửa cung này. Việc đi lên hoặc xuống nửa cung trên guitar có nghĩa là việc di chuyển tay trái của bạn với một phím (fret) tại một thời điểm, lên cao hơn hoặc thấp hơn trên cần đàn.

Các Pickups

Việc rung động các dây đàn sẽ sản sinh ra các âm(tone) khác nhau trên guitar. Nhưng bạn phải có thể nghe các âm đó, hoặc bạn face one of those if-a-tree-falls-in-a-forest questions. Đối với một cây guitar mộc, thì không có vấn đề gì, bởi vì một nhạc cụ mộc có bộ khuyếch đại riêng của nó ở dạng một hộp âm rỗng để làm tăng âm thanh của nó lên…, oh, âm thanh mộc vang ngân.

Nhưng một cây guitar điện thực sự không tạo ra âm thanh mộc hầu hết. (Oh, một âm thanh rất nhỏ, như tiếng một con muỗi vo ve, nhưng như thế không đủ để lấp đầy một sân khấu hoặc chọc tức những người hàng xóm cạnh bạn. ) Một nhạc cụ điện tạo ra các âm thanh của nó thông qua điện một cách hoàn toàn. Rung động dây đàn vẫn là nguồn của âm thanh, nhưng một hộp gỗ rỗng không còn là vật để làm cho các rung động này có thể nghe được. Thay vào đó, các rung động sẽ làm náo loạn, hoặc điều chỉnh, từ trường mà các pickup – những nam châm được cuốn dây được đặt bên dưới các dây đàn guitar – sinh ra. Bởi vì các các rung động của dây điều chỉnh từ trường của pickup, các pickup sinh ra một dòng điện nhỏ mà phản ánh sự điều chỉnh đó.

30

Nếu bạn nhớ khoa học từ lớp 8, việc cuốn dây dẫn quanh một nam châm sẽ tạo ra một dòng điện nhỏ trong vòng dây. Nếu sau đó ta dùng bất kỳ chất từ nào và gây nhiễu từ trường quanh dây dẫn đó, bạn sẽ tao ra dao động trong chính bản thân dòng đó. Dao động của một dây đàn thép (có chất từ, từ hóa) căng ở tốc độ là 440 lần trên 1 giây sẽ tạo ra một dòng mà dao động 440 lần trên giây. Chuyển dòng dao động được tạo ra này tới một bộ khuyếch đại và tiếp theo đó là một loa và bạn sẽ nghe được note A. Đặc biệt hơn, bạn sẽ nghe A cao hơn C giữa, là chuẩn tham khảo trong việc hiệu chỉnh tuyệt đối trong nhạc hiện đại – từ the New York Philharmonic tới the Rolling Stones tới Metallica (mặc dầu chúng ta đã nghe rằng Metallica thỉnh thoảng dùng một tham khảo tuning của 666 – chỉ đùa chút thôi, Metallica fans!). Thêm hơn nữa về tuning, các bạn hãy xem chương 2.

Các cây guitar, vì thế, sản sinh ra âm thanh hoặc là bằng việc khuyếch đại các rung động dây một cách mộc mạc (bằng cách chuyển sóng âm thanh thông qua một hộp rỗng), hoặc một cách điện tử (bằng cách khuyếch đại và đưa ra một dòng điện thông qua một loa). Đại khái đó là một tiến trình vật lý. Một cây guitar sản sinh ra các âm thanh khác nhau như thế nào – và âm thanh mà bạn muốn nó tạo ra – là tùy thuộc vào bạn và cách bạn điều khiển như thế nào các cao độ mà các dây đàn đó sinh ra. Việc nhấn tay trái là cách để thay đổi các cao độ này. Các di chuyển tay phải của bạn không chỉ giúp sản sinh ra âm thanh bằng cách đặt các dây đàn trong chuyển động, nhưng chúng cũng định ra giai điệu (rhythm/beat:nhịp, nhịp đánh/pulse: nhịp điệu), tốc độ (tốc độ của nhạc), và cảm xúc (sự thể hiện, phong cách, sự quay, sức lôi cuốn(magic), mojo, je ne sais uoi, mọi thứ) của các cao độ đó. Hãy đặt các chuyển động của cả 2 tay cùng nhau, và chúng phát ra âm nhạc – làm ra âm nhạc guitar.

Chương 2: Turn On, Tune In

Trong chương này

- Hiệu chỉnh guitar một cách tương đối (đối với chính nó)

- Hiệu chỉnh theo một fixed source (nguồn cố định)

Việc hiệu chỉnh đối với các tay guitar giống như việc các tài xế đậu xe song song trong thành phố: một hoạt động thường ngày và cần thiết đó có thể khó làm khó được cậu. Và nhiệm vụ này thì không bao giờ vui cả. Không giống như piano, cần một chuyên gia hiệu chỉnh và bạn không bao giờ cần hiệu chỉnh cho tới lần tiếp theo chuyên gia về chỉnh đàn tới thăm, guitar thường được hiệu chỉnh bởi chính chủ nhân của nó – và nó cần việc hiệu chỉnh kiên trì.

Một sự bất công lớn của cuộc sống đó là, trước khi bạn có thể chơi nhạc đúng trên cây guitar, bạn phải cam chịu quá trình cẩn thận của việc làm cho nhạc cụ của bạn phát âm đúng.

31

May thay cho các tay guitar, bạn chỉ có 6 dây đàn đối với vài trăm dây của một cây piano. Cũng khuyến khích là sự thực bạn có thể sử dụng vài phương pháp khác nhau để làm cho cây guitar của bạn phát âm đúng, như được trình bày trong chương này.

Việc đếm trên dây đàn và phím

Chúng ta sẽ bắt đầu từ góc vuông 1, hoặc trong trường hợp này, dây 1. Trước khi bạn có thể hiệu chỉnh guitar của bạn, bạn cần biết bằng cách nào để tham khảo tới 2 diễn viên chính – các dây đàn và các phím đàn.

- Các dây đàn: Các dây đàn được đánh số liên tiếp 1 đến 6. Dây số 1 thì mảnh nhất, được đặt gần đáy nhất (khi bạn cầm cây guitar trong tư thế chơi). Đánh số theo chiều lên, dây đàn số 6 là lớn nhất, gần trần nhất.

- Chúng tôi đề nghị rằng bạn hãy ghi nhớ tên các ký tự của các dây đàn buông (open string) (E, A, D, G, B, E từ 6 đến 1) để bạn không bị hạn chế phải quy chúng về dạng số. Một cách đơn giản để nhớ các dây buông theo thứ tự là nhớ chuỗi “Eddie Ate Dynamite; Good Bye, Eddie.”

- Các phím đàn: Phím đàn có thể quy về hoặc là khoảng trống nơi mà bạn đặt ngón tay trái của bạn hoặc quy về là thanh kim loại mảnh chạy ngang bàn phím. Bất kỳ khi nào bạn đối mặt với ngón bấm guitar, fret có nghĩa là không gian giữa các thanh kim loại – nơi mà bạn có thể đặt một ngón tay trái của bạn vào một cách thoải mái.

Phím đầu tiên là vùng giữa Nut (thanh có rãnh, mảnh để ngăn cách đầu cần với cần đàn) và thanh kim loại đầu tiên. Sau đó, phím thứ 5, là góc vuông thứ 5 ở trên từ nut – nói một cách nghiêm túc, đó là vùng giữa các thanh phím kim loại thứ 4 và thứ 5. (hầu hết các cây guitar có một dấu mốc trên phím thứ 5, dấu này hoặc là một thiết kế trang trí được đặt lõm vào trong bàn phím hoặc là một vết chấm tròn trên cạnh của cần đàn, hoặc cả hai.)

Bạn có thể luôn luôn kiểm ra sơ đồ trên the Cheat Sheet tại phần trước của cuốn sách trong khi bạn cảm thấy thoải mái với quy ước đặt tên này.

Thêm một điều nữa để công việc được thuận buồm xuôi gió. Bạn sẽ đi qua các khái niệm về Dây buông(open strings) và các dây được nhấn(fretted strings) từ đây trong cuốn sách này.

- Open string(dây buông): một dây đàn mà khi chơi bạn không cần nhấn xuống với một ngón tay trái.

- Fretted string(dây nhấn): một dây đàn mà trong khi chơi bạn nhấn nó xuống tại một phím nào đó.

Mọi thứ tương đối: Tuning the Guitar to Itselt

32

Relative tuning (hiệu chỉnh tương đối) được gọi như thế bởi vì bạn không cần phải tham chiếu tới bất kỳ nguồn nào bên ngoài để hiệu chỉnh nhạc cụ của bạn. Chỉ cần các dây đàn được lên đúng theo một mối liên quan nào đó với nhau, bạn có thể tạo ra các âm thanh vang và êm tai. Those same tones may turn into sounds resembling those of a catfight if you try to play along with another instrument, however; nhưng chỉ cần bạn hiệu chỉnh các dây đàn cân đối/so sánh(relative) với một nhạc cụ khác, thì guitar tự nó sẽ tự đúng tông.

Để hiệu chỉnh môt cây guitar sử dụng phương pháp so sánh/cân đối, hãy chọn 1 dây đàn để là dây bắt đầu – có thể, là dây thứ 6. Hãy để cao độ của dây này như vậy; sau đó hiệu chỉnh tất cả những dây khác cân đối với dây 6 đó.

Phương pháp phím thứ 5

Phương pháp phím thứ 5 bắt nguồn từ tên của nó từ thực tế là bạn hầu hết luôn chơi 1 dây ở phím thứ 5 và sau đó so sánh âm thanh của note đó với dây mở kế tiếp. Bạn cần cẩn thận, tuy nhiên, bởi vì phím thứ 4 (the fifth fret’s jealous understudy) sẽ puts in a cameo appearance toward the end of the process.

Ở đây thì bằng cách nào bạn chỉnh guitar đúng theo phương pháp phím thứ 5 (kiểm tra trong sơ đồ hình 2-1 phác thảo 5 bước tất cả):

1. Hãy chơi phím thứ 5 của dây 6 (E thấp) (dây to nhất, gần trần cần đàn nhất) và sau đó chơi dây buông 5 (A) (dây kết cận dây 6).

Hãy để cả 2 note kêu lên cùng nhau. Cao độ của chúng phải bằng với nhau một cách chính xác. Nếu chúng dường như không bằng nhau, hãy xác định dây số 5 cao hơn hay thấp hơn dây số 6 được bấm ở phím 5. Nếu dây số 5 thấp hơn, hoặc flat(giáng), hãy vặn khóa đàn của nó bằng tay trái của bạn để nâng cao độ lên. Nếu dây số 5 có vẻ sharp (thăng), hoặc âm thanh cao hơn, hãy sử dụng khóa đàn của nó để hạ thấp cao độ. Bạn có thể sẽ bị lệch quá xa với khóa đàn nếu bạn không cẩn thận; nếu bị như vậy, bạn cần đảo ngược chuyển động tay của bạn lại. Sự thực, nếu bạn không thể biết dây số 5 thì cao hơn hay thấp hơn, hãy chỉnh nó giáng xuống một cách cố ý và sau đó trở lại cao độ cần có.

2. Hãy chơi phím thứ 5 của dây 5 (A) và sau đó chơi dây buông số 4 (D).

Hãy để cả hai note này vang lên cùng nhau. Nếu dây số 4 dường như giáng hoặc thăng so sánh với dây 5 được bấm ở phím 5, hãy sử dụng khóa đàn của dây số 4 để hiệu chỉnh cao độ của nó tương ứng. Một lần nữa, nếu bạn không chắc rằng dây số 4 cao hơn hay thấp hơn, “hãy chỉnh quá” nó theo một hướng – giáng, hoặc thấp hơn, là tốt nhất – và sau đó trở lại.

3. Chơi phím thứ 5 của dây 4(D) và sau đó chơi dây mở thứ 3 (G).

Một lần nữa hãy để cả 2 note cùng vang lên. Nếu dây số 3 dường như giáng hoặc thăng so với dây số 4 được bấm ở phím 5, hãy sử dụng khóa đàn của dây số 3 để hiệu chỉnh cao độ tương ứng.

33

4. Chơi phím số 4( chứ không phải phím số 5) của dây 3(G) và sau đó chơi dây buông 2(B).

Hãy để cả 2 dây vang lên cùng nhau. Nếu dây số 2 dường như giáng hoặc thăng, hãy sử dụng khóa đàn của nó để hiệu chỉnh cao độ tương ứng.

5. Chơi phím số 5 (trở lại phím thứ 5 đối với dây này) của dây 2(B) và sau đó chơi dây mở số 1 (E cao).

Hãy để cả 2 note vang lên. Nếu dây 1 dường như giáng hoặc thăng, hãy sử dụng khóa đàn của nó để hiệu chỉnh cao độ tương ứng. Nếu bạn đã hài lòng với cả 2 dây rằng đã có cùng cao độ, thì bây giờ bạn đã hiệu chỉnh 5 dây đàn cao của guitar cân đối với dây cố định 6. Guitar của bạn bây giờ đã được chỉnh đúng với chính nó.

Có thể bạn muốn trở lại và lập lại quá trình trên, bởi vì một vài dây có thể trật khỏi vị trí đúng.

Khi bạn hiệu chỉnh theo cách thông thường, bạn sử dụng tay trái để văn khóa đàn. Nhưng sau khi bạn nhấc ngón tay khỏi dây đàn mà bạn đang nhấn, nó sẽ ngừng kêu; vì thế, bạn không thể nghe được dây đó nữa you’re trying to tune to (the fretted string) as you adjust the open string. Tuy nhiên, có một cách để hiệu chỉnh dây buông trong khi bạn vẫn giữ ngón tay trái của bạn trên dây được nhấn. Đơn giản hãy sử dụng tay phải của bạn! Sau đó bạn strike(đánh) 2 dây đàn liên tiếp (dây được nhấn và dây buông), dùng tay phải của bạn và reach over tay trái của bạn (vẫn giữ nguyên vị trí khi bạn nhấn dây) và vặn khóa đàn của dây tương ứng cho tới khi các dây đàn phát âm giống nhau một cách chính xác.

Cách khác để tham chiếu: Tuning to a Fixed Source

34

Chỉnh guitar đúng theo chính bản thân nó thông qua phương pháp cân đối(relative)/so sánh thì tốt cho tai của bạn nhưng nó không thiết thực nếu bạn cần chơi với các nhạc cụ khác hoặc các giọng mà quen với việc tham chiếu tới sự hiệu chỉnh chuẩn (hãy xem phần “Sinking your teeth into the tuning fork,” sau đây một ít trong chương này). Nếu bạn muốn mang cây guitar của bạn vào thế giới của người khác, bạn cần biết cách để chỉnh theo một nguồn cố định, chẳng hạn như piano, pitch pine, âm thoa (tuning fork), bộ chỉnh điện. Việc sử dụng các nguồn như vậy để bảo đảm rằng mọi người đang chơi theo cùng một luật lên dây. Bên cạnh đó, guitar và các dây đàn của bạn được sản xuất để sinh ra âm thanh tốt nhất nếu bạn hiệu chính tới cao độ chuẩn.

Đoạn sau diễn tả một vài cách đặc biệt để hiệu chỉnh guitar của bạn bằng cách tham chiếu đến nguồn cố định. Những phương pháp này không chỉ cho phép bạn lên dây đúng, mà còn hòa hợp với các nhạc cụ khác nữa.

Thực hiện chỉnh dây với piano

Bởi vì nó giữ được cao độ tốt (chỉ cần việc hiệu chỉnh một hoặc 2 lần trong năm, phụ thuộc vào các điều kiện), một cây piano là một công cụ tốt mà bạn có thể sử dụng để hiệu chỉnh một cây guitar. Giả sử rằng bạn có một bàn phím điện tử hoặc một cây piano đã được chỉnh đặt gần đây, tất cả điều bạn cần làm là chỉnh cho các dây buông của guitar bằng với các phím đàn thích hợp trên piano. Hình 2-2 chỉ cho biết bàn phím của piano và các dây guitar mở tương ứng.

35

Chỉnh guitar với một pitch pipe(ống sáo để chỉnh âm điệu)

Rõ ràng, nếu you’re off to the beach với cây guitar của bạn, bạn sẽ không muốn đặt piano đằng sau xe hơi của bạn, ngay cả nếu bạn thực sự cầu kỳ về việc lên dây. Vì thế bạn cần một thiết bị nhỏ và thực tiễn hơn mà cung cấp các cao độ tham chiếu lên dây chuẩn. Hãy thử pitch pipe. Pitch pipe gợi lên những hình ảnh của đuôi tàu, những người nhạc trưởng hợp ca đứng đắn who purse their prunelike lips around a circular harmonica to deliver an anemic squeak that instantly marshals together the reluctant voices of the choir. Yet pitch pipes server their purpose.

Đối với các tay guitar, các pitch pipe đặc biệt hiện có các ống mà chỉ phát ra các note của dây buông trên guitar (nhưng phát âm ở dãy cao hơn) và không có thêm các note ở giữa các note này. Lợi điểm của một pitch pipe là bạn có thể giữ nó vững chắc trong miệng của bạn trong khi thổi, để giữ cho tay bạn rảnh cho việc hiệu chỉnh. Bất lợi của pitch pipe là đôi khi bạn mất một lúc để quen với việc nghe một cao độ được sinh ra từ gió so với một cao

36

độ sinh ra từ gảy dây. Nhưng với việc thực hành, bạn có thể hiệu chỉnh với pitch pipe dễ dàng như bạn làm với piano. Và một cái pitch pipe thì dễ dàng hơn bỏ vào túi áo của bạn hơn là một cây piano. Kiểm tra chương 16 để biết hình dạng của một pitch pipe.

Sinking (chìm, hạ xuống) your teeth into the tuning fork (tuning fork: âm thoa – thường là nốt LA)

Sau khi bạn đã đủ khả năng để cảm nhận các cao độ, bạn chỉ cần một tham chiếu hiệu chỉnh cao độ đơn để hiệu chỉnh tất cả các dây guitar đúng. Âm thoa thường chỉ có một cao độ, và nó thường chỉ có 1 hương vị: A (note nằm trên C giữa, mà rung động khoảng 440 vòng trên dây, thường là A-440). Nhưng note đó thực sự là tất cả những gì bạn cần. Nếu bạn hiệu chỉnh dây mở thứ 5 (A) tới A của âm thoa ( mặc dầu A của guitar nằm trong vùng thấp hơn), bạn có thể hiệu chỉnh mọi dây khác từ dây này bằng cách sử dụng phương pháp tương đối/so sánh(relative) mà chúng ta đã thảo luận ở đoạn trên của chương “Mọi thứ tương đối: Tuning the Guitar to Itselt”.

Sử dụng một âm thoa đòi hỏi một chút khéo léo. Bạn phải đánh âm thoa bằng một cái gì đó chắc, chẳng hạn như một mặt hàn hoặc kneecap, và sau đó giữ nó gần tai của bạn hoặc place the stem (hoặc giữ) – and not the tines (or fork prongs) – dựa vào các vật mà cộng hưởng âm. Vật cộng hưởng âm này có thể là mặt hàn hoặc thậm chí là mặt trên của guitar. (Bạn có thể thậm chí giữ nó giữ răng của bạn, để tay của bạn được rảnh rỗi! Nó cũng thực sự làm việc!) Cùng thời điểm, bằng cách nào đó bạn phải chơi note A và hiệu chỉnh nó so với âm của âm thoa. Tiến trình phần nào giống với việc đẩy các chìa khóa nhà của bạn ra khỏi túi của bạn trong khi you’re loaded down with an armful of groceries. Nhiệm vụ có thể là không dễ dàng, nhưng nếu bạn thực hành đủ, bạn thậm chí trở thành một chuyên gia.

Trải nghiệm với bộ chỉnh dây điện tử

Cách nhanh nhất và chính xác nhất để chỉnh dây đàn là sử dụng một bộ chỉnh dây điện tử. Thiết bị cầm tay này dường như sở hữu khả năng đầy quyến rũ. Các bộ chỉnh dây điện tử mới được làm đặc biệt cho các cây guitar thường có thể cảm nhất dây đàn mà bạn đang chơi, và chỉ cho bạn cao độ nào bạn ở gần nhất, và chỉ cho biết bạn có giáng hoặc thăng lên hay không. Chỉ điều duy nhất mà các thiết bị này không làm là vặn khóa đàn cho bạn (although we hear they’re working on that). Các loại cũ hơn, các bộ hiệu chỉnh graph-type có một công tắc để chọn lựa dây đàn mà bạn muốn hiệu chỉnh. Hình 2-3 trình bày một bộ hiệu chỉnh điện tử đặc trưng.

37

Bạn có thể hoặc là gắn guitar của bạn vào bộ hiệu chỉnh (nếu bạn sử dụng một nhạc cụ điện tử) hoặc bạn có thể sử dụng microphone được gắn liền của bộ hiệu chỉnh để hiệu chỉnh một guitar mộc. Trong cả 2 loại bộ hiệu chỉnh – một loại bạn phải chọn lưa dây đàn để chỉnh và loại kia cảm nhận dây đàn một cách tự động – màn hình chỉ ra 2 điều: note nào bạn đang gần nhất (E,A,D,G,B,E) và với note đó bạn phải giáng xuống hoặc thăng lên.

Các bộ hiệu chỉnh điện tử thường được cấp nguồn bởi các cục pin 9V hoặc hai cục pin AA mà có thể kéo dài 1 năm trong điều kiện sử dụng thường xuyên (có thể lên tới 2 hoặc 3 năm nếu chỉ thỉnh thoảng sử dụng ). Nhiều bộ hiệu chỉnh điện tử thì không đắt (thấp khoảng $20 hoặc tương tự) và cũng đáng đồng tiền. (Thêm thông tin về bộ hiệu chỉnh(tuners), hãy xem chương 16).

Việc sử dụng CD của bạn

Để chúng tôi khỏi quên, bạn có thể tùy ý sử dụng (mặc dầu bạn sẽ không bao giờ vất nó bữa bãi) thêm một nguồn không đổi như nguồn tham chiếu hiệu chỉnh:Guitar For Dummies CD của bạn.

Để thuận tiện cho việc lên dây của bạn, chúng tôi sẽ chơi các dây buông trên Track 1 của CD. Hãy lắng nghe âm thanh của mỗi dây bởi vì chúng phát âm chậm, tại một thời điểm (từ dây 1 tới dây 6, hoặc dây mảnh nhất tới dây to nhất) và hiệu chỉnh các dây buông trên guitar của bạn theo các note vang lên trong CD. Sử dụng nút nhấn skip track trên bộ điều khiển từ xa của CD player hoặc bảng điều khiển trước để trở lại điểm đầu của Track 1 và lập lại các note hiệu chỉnh mà cần thiết để hiệu chỉnh các dây đàn một cách chính xác so với các dây đàn được phát trên CD.

38

Không giống như băng cassette- hoặc bất kỳ hệ thống băng từ analog nào, về vấn đề đó – một CD luôn luôn chơi lại chính xác cao độ mà nó thu được và không bao giờ thăng lên hoặc giáng xuống, thậm chí không một chút nào. Vì thế bạn có thể sử dung For Dummies CD của bạn trên bất kỳ CD player nào tại bất kỳ thời điểm nào để hiệu chỉnh các note một cách hoàn hảo.

Chương 3: Sẵn sàng, Thiết lập…Chưa: phát triển các công cụ và các kỹ năng để chơi

Trong chương này

- Việc đứng và ngồi với cây guitar

- Tư thế/vị trí các tay

- Việc đọc các sơ đồ hợp âm và tablature

- Việc chơi các hợp âm

Các cây guitar là các nhạc cụ thân thiện người dùng. Chúng vừa vặn một cách thoải mái trong cánh tay của hầu hết con người, và cách mà 2 tay của bạn đặt lên các dây đàn một cách tự nhiên thì đẹp từ nhiều vị trí mà bạn sẽ chơi. Trong chương này, chúng tôi sẽ trình bày cho bạn tất cả những kỹ thuật tư thế tốt và bằng cách nào để giữ tay của bạn – just as if you were a young socialite at a finishing school.

Chúng tôi nói giỡn bởi vì chúng tôi quan tâm. Nhưng bạn thực sự cần nhớ dáng điệu và vị trí tốt đó, ít nhất, để ngăn chặn sự căng thẳng và mệt mỏi và, tốt hơn, giúp phát triển thói quen tập trung tốt và âm thanh tốt. Sau khi chúng tối nói cho bạn về vị trí đúng với cây guitar, chúng tôi sẽ đi qua một vài các kỹ năng âm nhạc cơ bản và chỉ cho bạn cách để chơi một hợp âm.

Vị trí tay và tư thế

Bạn có thể hoặc là ngồi hoặc là đứng trong khi chơi guitar, và vị trí bạn chọn làm sao để không ảnh hưởng tới âm thanh hoặc kỹ thuật của bạn. Hầu hết mọi người thích thực hành trong khi ngồi nhưng trình diễn công cộng lại phải đứng. Một ngoại lệ cho sự chọn lựa ngồi hoặc đứng đó là guitar cổ điển, bạn thường chơi đàn trong tư thế ngồi. Thực hành chính thống là chỉ chơi trong một vị trí ngồi. Thực tiễn này không có nghĩa rằng bạn không thể chơi guitar theo phong cách cổ điển hoặc nhạc cổ điển trong khi đứng, nhưng sự theo đuổi đúng đắn guitar cổ điển đòi hỏi bạn ngồi trong khi chơi.

Việc bố trí vị trí ngồi

Để giữ guitar trong tư thế ngồi, hãy đặt phần eo của guitar trên đùi phải của bạn. (Eo của guitar là phần lõm giữa phần trên của guitar và phần thấp hơn, mà chúng nhô ra là những phần được uốn cong trông như cái vai và hông. ) Hãy đặt bàn chân của bạn hơi xa ra một chút. Để cân bằng guitar hãy đặt nhẹ cẳng tay phải của bạn lên bass bout, như hình 3-1. Đừng sử dụng tay trái để đỡ cần đàn. Bạn có thể để tay trái hoàn toàn xa bàn phím để không hướng guitar hạ xuống nền nhà.

39

Kỹ thuật guitar cổ điển, mặt khác, đòi hỏi bạn giữ nhạc cụ trên đùi trái của bạn, mà không phải là trên đùi phải. Tư thế này đặt trung tâm của guitar gần với trung tâm thân người bạn, làm cho nhạc cụ dễ dàng chơi hơn, đặc biệt với tay trái, bởi vì bạn có thể thực hiện tốt hơn các ngón bấm kho của nhạc guitar cổ điển trong tư thế này. Chương 13, trình bày về tư thế ngồi của guitar cổ điển.

Bạn cũng phải nâng guitar cổ điển lên, bạn có thể làm hoặc bằng cách nâng chân trái lên với một ghế đẩu đặc biệt (cách truyền thống) hoặc bằng cách sử dụng một tay nâng, nó đi giữa đùi trái của bạn và cạnh thấp hơn của guitar (cách hiện đại). Thiết bị này cho phép bạn để bàn chân trái vẫn nằm trên sàn và thay vào đó nâng guitar lên trong không khí.

Vị trí đứng

Để đứng và chơi guitar, bạn cần một đai đeo được gắn chắc chắn tới cả 2 chốt dây đeo (strap pin) trên đàn. Sau đó bạn có thể đứng theo cách thông thường và kiểm tra bạn trông tuyệt thế nào trong gương với cây guitar đeo qua vai của bạn. Bạn có thể cần hiệu chỉnh đai đeo để làm cho guitar ở một độ cao mà bạn chơi thoải mái.

40

Nếu dây đeo của bạn trượt khỏi chốt đeo đàn trong khi bạn đang chơi trong tư thế đứng, bạn có khoảng 50-50 cơ hội chộp được cây guitar của bạn trước khi nó va xuống sàn (và đó là nếu bạn nhanh và kinh nghiệm với việc bị trượt guitar). Vì thế đừng liều tổn hại cây guitar của bạn bằng cách sử dụng dây đeo cũ hoặc mòn hoặc dây đeo có lỗ quá to đối với các chốt đeo để giữ an toàn. Các guitar không được tạo ra để nảy lên, bởi vì Pete Townhend đã giải thích quá nhiều lần.

Cơ thể của bạn sẽ thực hiện hiệu chỉnh tự nhiên từ tư thế ngồi tới vị trí đứng. Vì thế đừng cố gắng phân tích nơi đặt các cánh tay của bạn, liên quan tới vị trí ngồi của bạn. Chỉ cần để thoải mái và, tất cả những điều ở trên, nhìn tuyệt. (bây giờ bạn là một người chơi guitar! Nhìn tuyệt cũng quan trọng như chơi như thế nào… oh, hầu hết) Hinh 3-2 trình bày một vị trí đứng đặc trưng.

Tư thế tay trái: Fretting made easy

Để có được khái niệm về tư thế đúng của tay trái trên guitar, bạn hãy duỗi thẳng tay trái, lòng bàn tay cong lên, đặt ngón tay cái đại thể nằm giữa ngón tay trỏ và ngón tay giữa. Tất cả các khớp đốt ngón tay phải để cong. Tay của bạn phải ở tư thế như vậy sau khi bạn đặt cần đàn vào tay. Ngón tay cái sẽ trượt sau lưng của cần đàn, hãy giữ ngón cái thẳng hơn nếu nắm tay của bạn không chặt. Các khớp ngón tay vẫn

41

phải để cong khi chúng ta đang bấm hoặc đang thoải mái. Một lần nữa, tay trái phải nằm thật tự nhiên trên cần đàn – as if you were picking up a specially made tool that you’ve been using all your life.

Để nhấn một note, bạn hãy nhấn đầu ngón tay xuống trên dây đàn, vẫn giữ cho các khớp ngón tay cong. Cố gắng giữ cho đầu ngón tay thẳng đứng trên dây đàn hơn là tạo ra một góc. Tư thế này sử dụng nhiều lực nhấn nhất lên dây đàn và cũng ngăn chặn các cạnh của ngón tay khỏi chạm vào các dây đàn gần kề - vì điều này có thể gây ra tiếng nhiễu hoặc sự câm tiếng (làm tắt âm của dây đàn, hoặc là chặn sự rung động của nó). Hãy sử dụng ngón tay cái của bạn đặt nó ở mặt lưng cần đàn để giúp cho việc “ôm” bàn phím được chặt.

Khi chơi ở một phím nào đó, hãy nhớ rằng bạn đừng nên đặt ngón tay của bạn trực tiếp lên thanh phím kim loại, nhưng là ở giữa hai phím (hoặc giữa Nut và phím đầu tiên). Chẳng hạn, nếu bạn đang chơi ở phím thứ 5, hãy đặt ngón tay của bạn ở ô vuông giữa phím thứ 4 và phím thứ 5. Đừng đặt nó ở vị trí trung tâm của ô vuông (midway between the fret wires), nhưng hãy để gần hơn với phím cao hơn. Kỹ thuật này giúp bạn tạo ra âm thanh rõ ràng nhất và ngăn chặn tiếng nhiễu.

Tay trái nhấn đòi hỏi sức bền, nhưng bạn đừng cố tăng tốc trong tiến trình làm tăng độ bền/độ mạnh của các ngón tay của bạn theo các cách không tự nhiên. Việc xây dựng độ bền/độ mạnh cho tay trái của bạn cần có thời gian. Bạn có thể nhìn thấy các quảng cáo về các thiết bị tăng độ bền/độ mạnh tay và tin rằng các sản phẩm đó có thể giải quyết vấn đề về độ bền bỉ/độ mạnh của tay trái của bạn. Mặc dầu chúng tôi không thể tuyên bố các thiết bị này không bao giờ làm việc (và điều này tương tự như việc phương pháp thủ công/phương pháp tại nhà làm các trái banh vợt hoặc banh tennis), nhưng một điều chắc chắn là: Không có gì giúp bạn xây dựng độ bền bỉ/sức mạnh cho tay trái của bạn tốt hơn hoặc nhanh hơn bằng cách đơn giản là chơi guitar.

Bởi vì độ bền tay trái của bạn sử dụng trong lúc nhấn, các bộ phận khác trên cơ thể của bạn có thể bị căng thẳng để làm cân bằng lại. Trong một khoảng thời gian tuần hoàn, hãy chắc rằng bạn sẽ để cho vai trái của bạn được thoải mái, điều này có xu hướng làm phát triển khi bạn thực hiện việc nhấn phím. Take frequent “drop-shoulder” breaks. Cũng phải đảm bảo rằng khuỷu tay trái của bạn không ưỡn ra, giống như kiểu những vị khách ăn tối láo xược. Bạn muốn giữ cho cánh tay trên và cẳng tay song song với thân người của bạn. Hãy thoải mái khuỷu tay để nó nằm theo phía của bạn.

42

Điều quan trọng phải nhớ trong việc duy trì vị trí tốt của tay trái là bạn cần giữ nó thoải mái và tự nhiên. Nếu tay của bạn bắt đầu đau hoặc nhức, hãy ngừng chơi và giải lao chút. Cũng như bất kỳ hoạt động nào khác mà đòi hỏi phát triển cơ bắp, việc nghỉ ngơi cho phép thân thể của bạn theo kịp tiến độ.

Các sự nỗ lực với guitar điện

Các cần đàn điện vừa hẹp(từ dây 1 tới dây 6) và vừa mỏng (từ bàn phím tới lưng của cần đàn) hơn các cây đàn guitar thùng. Các cây guitar điện, vì thế, dễ nhấn hơn. Nhưng khoảng cách giữa mỗi dây đàn thì nhỏ hơn, vì thế mà bạn có thể dễ động chạm và giảm đi tiếng ồn của 1 dây kế cận với ngón bấm của bạn. Sự khác biệt lớn nhất, tuy nhiên, giữa việc bấm trên một dây của guitar điện và trên một dây nylon hoặc dây thép của guitar mộc là Action.

Action của một guitar ám chỉ tới các dây đàn cách các phím đàn bao xa và, tới phạm vi nhỏ hơn, các dây đàn được nhấn dễ dàng như thế nào. Trên một cây guitar điện, việc nhấn các phím đàn giống như đưa một con dao nóng qua miếng bơ. Một action dễ dàng của một guitar điện cho phép bạn có được tư thế tay trái thoải mái hơn so với trên một guitar mộc thông thường, lòng bàn tay trái sẽ hơi hướng ra phía ngoài. Hình 3-3 trình bày một bức ảnh của tay trái đặt nghỉ trên bàn phím của một guitar điện, trong việc nhấn một dây.

Các điều kiện cổ điển

Bởi vì các cây guitar dùng dây nylon có bàn phím rộng và là kiểu mẫu cho sự chọn lựa đối với nhạc cổ điển, cần đàn của chúng đòi hỏi một cách tiếp cận của tay trái hơi hình thức một chút. Cố gắng để lòng bàn tay chỗ phần khớp các ngón tay ở gần và song song với cạnh cần đàn để các ngón tay chạy thẳng đứng với các dây đàn và tất cả các ngón tay có cùng khoảng cách với cần đàn. ( Dù là tay của bạn không song song hoàn toàn, do ngón tay út “nằm xa” hoặc xa cần đàn hơn ngón trỏ). Hình 3-4 trình bày tư thế đúng của tay trái đối với các cây guitar dây nylon.

43

Tư thế tay phải

Nếu bạn ôm guitar trong lòng và xếp cánh tay phải của bạn nằm trên the upper bout, tay phải của bạn, được duỗi ra một cách lỏng lẻo, ngang qua các dây đàn ở một góc khoảng 60 độ. Tư thế này tốt cho việc chơi với miếng khảy. Đối với phong cách fingerstyle, bạn sẽ muốn hướng tay phải của bạn thẳng đứng hơn so với các dây đàn. Đối với guitar cổ điển, bạn sẽ muốn giữ tay phải của bạn ở một góc gần 90 độ.

Nếu bạn sử dụng miếng khảy

Bạn chơi hầu hết các cây guitar điện của bạn với một miếng khảy, dù bạn đang chơi rock ‘n’ roll, blues, jazz, country, hoặc pop. Trên guitar mộc, bạn có thể chơi hoặc bằng miếng khảy hoặc bằng ngón tay. Trên cả guitar điện và guitar mộc, bạn sẽ chơi hầu hết các giai điệu (rhythm: giai điệu, điệu nhạc) (chord-based accompaniment:đệm) và thực sự tất cả các câu lead (các giai điệu note đơn) bằng miếng khảy. Hình 3-5 trình bày cách đúng để cầm miếng khảy – hãy để đầu miếng khảy lòi ra ngoài, thẳng đứng so với ngón cái.

44

Nếu bạn gảy rhythm (strumming), bạn sẽ đánh những dây đàn với miếng khảy bằng cách sử dụng chuyển động của cổ tay và khuỷu tay. Khi bạn strum sôi nổi hơn, thì chuyển động khuỷu tay phải sử dụng nhiều hơn. Đối với việc chơi câu lead, bạn sẽ tiết kiệm chỉ dùng các chuyển động của cổ tay. Đừng cầm miếng khảy quá chặt khi bạn chơi – và hãy lên kế hoạch dropping it a lot đối với vài tuần đầu sử dụng miếng khảy.

Các miếng khảy có nhiều kích cỡ khác nhau. Kích cỡ của một miếng khảy biểu thị nọ cứng, hoặc dày thế nào. Các miếng khảy mỏng thì dễ sử dụng hơn cho người mới bắt đầu chơi. Các miếng cỡ trung bình là phổ dụng nhất, bởi vì chúng đủ dẻo để chơi rhythm thoải mái, lại còn đủ cứng để chơi lead. Các miếng khảy cỡ nặng (heavy) xem ra khó sử dụng nhưng chúng là sự chọn lựa của các tay nhà nghề, và nói cho cùng tất các nhạc công khéo léo tiến dần lên sử dụng chúng (mặc dầu hiện có những tay nhà nghề vẫn chưa sử dụng nó – Neil Young là một ví dụ tiêu biểu).

Nếu bạn đang sử dụng ngón tay

Nếu bạn kiêng sử dụng vật dụng như các miếng khảy và muốn một cách tự nhên với tay phải của bạn, bạn hãy thực hiện khảy bằng tay(fingerpicking) (mặc dù bạn có thể fingerpick với các miếng khảy đặc biệt được cuốn quanh để gắn với các ngón tay – cách này được gọi là fingerpicks). Fingerpicking có nghĩa rằng bạn chơi guitar bằng cách khảy các dây đàn với các ngón tay phải đặc biệt nào đó. Ngón cái sẽ chơi các dây trầm, hoặc thấp,

45

và các ngón còn lại chơi các dây treble, hoặc dây cao. Trong kiểu fingerpicking, bạn sử dụng các đầu ngón tay để khảy các dây, trong tư thế đặt tay trên lỗ cộng hưởng (nếu bạn đang chơi guitar mộc) và giữ cổ tay dừng lại nhưng không cứng ngắc. Việc giữ cho cổ tay hơi vòng một chút để giúp cho các ngón các ngón tay hướng xuống thẳng đứng hơn trên các dây đàn. Chương 12 có thêm nhiều thông tin về phong cách fingerpicking, gồm các hình vẽ trình bày tư thế tay thích hợp.

Bởi vì các kiểu đánh đặc biệt của tay phải mà bạn sử dụng trong việc chơi guitar cổ điển (free stroke và rest stroke), bạn phải giữ các ngón tay hầu như thẳng đứng một cách hoàn toàn so với các dây đàn cho phép các ngón tay của bạn móc các dây đàn với lực tối đa. Hãy xem chương 13 để có thêm thông tin về phong cách rest stroke và free stroke.

Bạn Không phải đọc nhạc để hiểu các ký hiệu Guitar

Mặc dầu bạn không cần phải đọc nhạc để chơi guitar, các nhạc sĩ đã phát triển một vài các mưu mẹo nhỏ qua nhiều năm để giúp cho việc truyền đạt các ý tưởng đơn giản như cấu trúc bài hát, sự xây dựng hợp âm (chord), chuỗi hợp âm (chord progressions), và các hình minh họa nhịp điệu quan trọng. Đưa ra các cách viết tốc ký cho biểu đồ hợp âm, các vạch chéo cho hợp âm, và tablature (mà chúng ta sẽ diễn tả trong các đoạn sau), và bạn chắc chắn để bắt đầu nắm được các câu lick nhanh hơn picking của Roy Clark sau ba tách coffee.

Chúng tôi hứa rằng bạn không cần đọc nhạc để chơi guitar. Với sự giúp đỡ của các biểu đồ hợp âm, các gách chéo của hợp âm, và tablature mà chúng tôi sẽ diễn giải trong đoạn này, cộng thêm việc nghe tất cả các âm thanh này thông qua sự ma thuật của công nghệ CD, bạn có thể đưa ra mọi thứ mà bạn cần để hiểu và chơi guitar. Bắt đầu trong chương 4, bạn hãy lắng nghe kỹ CD và theo các ví dụ tương ứng để bảo đảm rằng bạn hiểu sự liên quan giữa 2 cái đó.

Getting by with a little help from a chord diagram

Đừng lo lắng – việc đọc một sơ đồ hợp âm thì không giống như việc đọc nhạc; Nó thì đơn giản hơn nhiều. Tất cả bạn cần làm là hiểu được chỗ nào để đặt các ngón tay để hình thành nên một hợp âm. Một hợp âm được định nghĩa là sự vang lên đồng thời của ba note hoặc nhiều hơn.

Hình 3-6 trình bày chú thích của một sơ đồ hợp âm, và danh sách sau diễn tả ngắn gọn các thành phần khác nhau về ý nghĩa của sơ đồ:

46

- Lưới ô của 6 đường thẳng đứng và 5 đường nằm ngang đại diện cho bàn phím guitar, như khi bạn đặt đứng cây guitar trên sàn hoặc ghế và nhìn thẳng vào phần trên của cần đàn từ mặt trước.

- Các đường thẳng đứng đại diện cho các dây đàn. Đừng nằm ngang nằm xa về phía trái là dây thấp số 6, và đường nằm thẳng đứng bên phải nhất là dây cao số 1.

- Các đường nằm ngang đại diện cho các phím đàn. Đừng nằm ngang dày tại đỉnh là Nut của guitar, nơi mà bàn phím kết thúc. Vì thế phím đầu tiên trên thực tế là vạch nằm ngang thứ hai so với đỉnh. (Đừng để các ngôn từ ở đây làm bạn bối rối; hãy nhìn vào cây guitar.)

- Các chấm mà xuất hiện trên các dây đàn thẳng đứng giữa các đường phím nằm ngang đại diện cho các note nhạc mà bạn ấn.

- Các chữ số ghi trực tiếp bên dưới mỗi đường dây đàn ( bên dưới của đường phím cuối cùng) chỉ rằng ngón tay nào của tay trái bạn sử dụng để nhấn note. Trên tay trái, 1 = ngón trỏ; 2= ngón giữa; 3= ngón nhẫn, ngón kế; 4= ngón út. Bạn đừng sử dụng ngón cái để nhấn, ngoại trừ trong các trường hợp đặc biệt nào đó.

- Các ký tự X hoặc O nằm trực tiếp trên một vài đường dây đàn chỉ rằng các dây đàn mà bạn để buông (không nhấn) hoặc bạn không chơi. Ký tự X (không trình bày trong Hình 3-6) trên một dây có nghĩa rằng bạn đừng khảy (pick) hoặc strike đó với tay phải của bạn. Một ký tự O chỉ rằng một dây mở mà bạn sẽ chơi.

47

Nếu một hợp âm bắt đầu trên một phím mà không phải là phím đầu (hợp âm mà bạn sẽ thấy trong chương 10 và 11), thì một con số xuất hiện bên phải của sơ đồ, cạnh với đỉnh của đường phím đàn, để chỉ rằng phím thực sự bắt đầu là đâu. (Trong các trường hợp này, đường trên đỉnh không phải là Nut.) Trong hầu hết các trường hợp, tuy nhiên, bạn đối mặt hầu hết với các hợp âm mà chỉ nằm trong 4 phím đầu của guitar. Các hợp âm mà nằm trong 4 phím đầu đặc biệt sử dụng các dây mở, vì thế chúng được gọi là các hợp âm mở( open chord).

Việc đọc các vạch xiên (/) rhythm

Các nhạc sĩ sử dụng nhiều các mưu mẹo tốc ký để trình bày các chỉ dẫn âm nhạc nào đó. Họ sử dụng dạng tốc ký bởi vì, mặc dầu một khái niệm âm nhạc bản thân nó thì đủ đơn giản, để chỉ rằng ký hiệu đó ở dạng âm nhạc chuẩn có thể hóa ra là phức tạp một cách quá mức và cồng kềnh. Vì thế họ sử dụng một “cheat sheet” hoặc một “road map” đạt được điểm cốt lõi và hơn nữa tránh đi vấn đề của việc đọc (hoặc viết) nhạc.

Các vạch sắc chéo Rhythm là các gách chéo (/) đơn giản để nói cho bạn biệt bằng cách nào chơi cho ra các giai điệu mà không phải là chơi cái gì. Hợp âm trong tay trái của bạn xác định bạn sẽ chơi cái gì. Lấy ví dụ, khi bạn nhìn vào sơ đồ trình bày trong hình 3-7.

Nếu bạn nhìn thấy một ký hiệu hợp âm như vậy với 4 gạch sắc bên dưới nó, như trình bày trong hình, bạn biết là hãy nhấn hợp âm E và đánh nó (strike) 4 lần. Điều bạn không thấy, tuy nhiên, là một nhóm các note khác nhau về cao độ nằm trên các đường kẻ của khuông nhạc, including several hole-in-the-center half notes and a slew of solid quarter notes – nói tóm lại, bất kỳ thứ phế thải mà bạn cần ghi nhớ trong lớp này chỉ là chơi “Mary Had a Little Lamb” trên máy ghi âm. Tất cả bạn cần nhớ trong sơ đồ này là “chơi hợp âm E 4 lần”. Điều này đơn giản, có đúng không?

Xem tablature

Tablature (hoặc tab, dạng tắt) là hệ thống ký hiệu mà trình bày một cách sinh động các phím và các dây đàn của guitar. Nhưng ngược lại các biểu đồ hợp âm ở dạng tĩnh, tablature chỉ cho bạn chơi nhạc như thế nào thông qua một khoảng thời gian. Đối với tất cả các ví dụ âm nhạc xuất hiện trong sách này, bạn sẽ nhìn thấy khuông tablature (hoặc tab, dạng tắt) bên dưới khuông nhạc chuẩn. Khuông nhạc thứ 2 này phản ánh chính xác điều gì

48

diễn ra trong khuông nhạc đều đặn bên trên nó – nhưng theo ngôn ngữ guitar. Tab là đặc trưng của guitar – Sự thật, nhiều cách gọi nó đơn giản guitar tab. Tab không cho bạn biết note để chơi (chẳng hạn như C hoặc F# hoặc Eb). Nó, tuy nhiên, nói cho bạn biết dây đàn nào để nhấn và chính xác nơi nào trên bàn phím để nhấn dây đó.

Hình 3-8 chỉ cho bạn khuông tab và một vài note ví dụ và một hợp âm. Dòng trên đầu của khuông tab đại diện cho dây số 1 của guitar – E cao. Dòng cuối đáy của tab tương ứng với dây 6 trên guitar, E thấp. Các dòng khác đại diện cho 4 dây khác ở giữa – dòng thứ 2 từ đáy lên là dây số 5, và vân vân. Một con số xuất hiện trên một dòng nào đó nói cho bạn biết để nhấn dây đó theo phím được đánh số. Ví dụ, nếu bạn nhìn thấy số 2 trên dòng 2 so với dây đầu, thì bạn cần nhấn dây số 2 tại phím số 2 so với Nut (thực tế, khoảng cách giữa các phím kim loại thứ nhất và thứ 2). Một ký hiệu O trên một đường có nghĩa là bạn hãy chơi dây buông.

Chơi hợp âm như thế nào

Các hợp âm là những khối xây dựng nền tảng của các bài hát. Bạn có thể chơi một hợp âm (sự phát âm đồng thời của 3 note hoặc hơn) theo nhiều cách trên guitar – bằng cách strumming (kéo miếng khảy hoặc mặt lưng của các móng tay của bạng ngang qua các dây đàn một cách đơn lẻ, di chuyển nhanh: rải), plucking (với các ngón tay phải riêng biệt: búng), hoặc thâm chí vỗ (smacking) các dây đàn với bàn tay mở hoặc nắm. (OK, cái này thì hiếm, trừ khi bạn trong một band heavy metal). Nhưng bạn có không thể đánh (strike) bất kỳ nhóm note nào; bạn phải chơi một nhóm note được tổ chức theo sắp xếp có ý nghĩa âm nhạc. Đối với các tay guitar, đó có nghĩa là việc học các dạng hợp âm tay trái.

Ngón bấm 1 hợp âm

Sau khi bạn nghĩ rằng bạn hiểu (một chút) về ký hiệu guitar mà chúng tôi diễn giải trong các đoạn trước, lời tuyên đoán tốt nhất của bạn là hãy di chuyển đúng chỗ và chơi hợp âm đầu tiên của bạn. Chúng tôi đề nghị rằng bạn hãy bằng với hợp âm E trưởng, bởi vì nó là một hợp âm guitar thân thuộc đặc biệt và là hợp âm mà bạn sẽ sử dụng nhiều.

Sau khi bạn biết được ý nghĩa của việc chơi các hợp âm, cuối cùng bạn thấy rằng bạn có thể duy chuyển vài ngón tay vào vị trí một cách đồng thời. Còn bây giờ, tuy nhiên, hãy đặt các ngón tay của bạn một lần trên các phím đàn và dây đàn như cấu trúc chỉ dẫn sau đây ( bạn cũng có thể tham khảo hình 3-6):

1. Hãy đặt ngón tay trỏ trên dây số 3, nhấn phím đầu (thực tế là giữa Nut và thanh phím đầu nhưng gần thanh phím hơn )

49

Đừng nhấn cứng cho tới khi bạn đặt các ngón tay khác vào chỗ. Chỉ đặt đủ lực để giữ ngón tay của bạn không rời khỏi dây đàn.

2. Hãy đặt ngón tay giữa của bạn lên dây số 5( nhảy qua dây số 4), phím thứ 2.

Một lần nữa, chỉ đặt đủ lực nhấn để giữ các ngón tay của bạn vào chỗ. Bây giờ bạn có 2 ngón tay trên guitar, trên dây số 3 và dây số 5, cho đến bây giờ với một dây không được nhấn (số 4) nằm ở giữa.

3. Hãy đặt ngón tay thứ 3 của bạn trên dây số 4, phím thứ 2.

Bạn có thể cần lách ngón nhẫn (kế) một chút để đặt nó đúng vào chỗ giữa ngón trỏ và ngón giữa và bên dưới thanh phím. Hình 3-9 trình bày một bức ảnh về cách hợp âm E của bạn nhìn như thế nào sau khi tất cả các ngón tay của bạn đặt vào đúng vị trí.

Bây giờ bạn thì các ngón tay của bạn đã đúng vị trí, hãy đánh(strike) cả 6 dây với tay phải của bạn để nghe hợp âm đầu tiên của bạn, E.

Tránh tiếng dơ, nhiễu

Một trong những điều khó trong việc chơi các hợp âm là phải tránh tiếng dơ, nhiễu. Tiếng dơ gây ra khi bạn nhấn không đủ mạnh lên phím. Một tiếng dơ cũng có thể gây ra khi một ngón nhấn tình cờ tiếp xúc với một dây đàn kế cận, việc ngăn chặn dây đó khỏi vang lên một cách tự do. Đừng có bỏ các ngón tay của bạn khỏi các phím đàn, hãy cố “rocking và rolling” các ngón tay của bạn quanh chỗ đầu ngón để khử đi bất kỳ tiếng dơ nào khi bạn khảy(strum) một hợp âm.

Phần 2. Hãy bắt đầu chơi:

50

Các kiến thức căn bản

Trong phần này…

Đây là phần mà mọi điều thực sự bắt đầu xảy ra, theo con đường Woodstock đã diễn ra (sự thật, nếu bạn muốn đặt tên riêng phần này là Woodstock, dĩ nhiên là hoàn toàn ok với chúng tôi). Đây là phần mà bạn thực sự bắt đầu chơi guitar. Chương 4 trình bày cho bạn với một vài công cụ mà đó sẽ là những người bạn đầu tiên và lâu dài nhất: các hợp âm thứ và trưởng ở vị trí mở. Những công cụ này là những cách nhanh nhất, dễ nhất để bắt đầu việc nhận ra âm nhạc trên cây guitar, hơn nữa chúng cũng là thành phần không thay đổi của nhạc guitar. Nếu bạn chỉ làm việc chăm chỉ ở một chương trong cuốn sách này, thì nó sẽ là Chương 4. Chương 5 cung cấp cho bạn kiến thức cơ bạn của các giai điệu note đơn, để bạn có thể thêm vào một vài giai điệu trong việc chơi của bạn. Cuối cùng, phần này kết lại với một chút hương vị, khi chúng tôi thêm vào các hợp âm 7th cho hỗn hợp.

Chương 4: Cách đơn giản nhất để chơi: Các hợp âm Major(trưởng) và Minor (thứ) căn bản

Trong chương này

- Chơi các hợp âm trong họ A

- Chơi các hợp âm trong họ D

- Chơi các hợp âm trong họ G

- Chơi các hợp âm trong họ C

- Chơi các bài nhạc với các hợp âm trưởng (Major) và thứ (minor) căn bản

- Sweatin’ to the oldies

Việc đệm nhạc cho chính bạn khi bạn hát các bài hát yêu thích của bạn – hoặc khi một người nào đó hát chúng nếu giọng hát của bạn kém sự du dương – là một trong những cách tốt nhất để thực hành các hợp âm guitar cơ bản. Nếu bạn biết cách để chơi các hợp âm cơ bản, bạn có thể chơi nhiều bài hát phổ biến đúng cách – từ “Skip to My Lou” tới “Louie Louie.”

Trong chương này, chúng tôi tổ chức các hợp âm trưởng và thứ thành họ. Một họ hợp âm đơn giản là một nhóm các hợp âm có liên hệ với nhau. Chúng ta nói chúng có liên hệ bởi vì bạn sẽ thường sử dụng các hợp âm này cùng nhau để chơi các bài hát. Khái niệm này phần nào giống như việc phối màu trên quần áo của bạn hoặc kết hợp một nhóm các thực phẩm để tạo ra một bữa ăn cân bằng. Các hợp âm trong cùng họ sẽ đi cùng nhau giống như bơ lạc và chocolate (Ngoại trừ những hợp âm trong cùng họ thì đó là sự hỗn độn). Song song, chúng tôi sẽ giúp bạn mở rộng vốn từ về ký hiệu guitar khi bạn bắt đầu để phát triển các kỹ năng chơi hợp âm và các kỹ năng strumming.

51

Hãy nghĩ một họ hợp âm như một cái cây. Nếu một trong những hợp âm của một họ - hợp âm mà giống như cơ sở trong một bài hát (thường là hợp âm bạn khởi đầu và kết thức trong một bài hát) – là gốc của một cái cây, thì các hợp âm khác trong họ là các cành mọc lên từ cùng cái gốc đó. Cùng nhau, gốc và các cành làm thành một gia đình/họ. Hãy đặt tất cả chúng cùng nhau và bạn có một vườn sum sê…er, làm thành một bài hát. Nhân tiện, khái niệm kỹ thuật để chỉ một họ là “key” (khóa). Vì thế bạn có thể nói vài điều như là “Bài hát này sử dụng các hợp âm họ A” hoặc “Bài hát này theo khóa của A(the key of A)”.

Chơi các hợp âm trong họ A

Họ A là một họ phổ biến trong việc chơi các bài hát trên guitar bởi vì, như các họ khác chúng tôi trình bày trong chương này, các hợp âm của họ này thì dễ dàng để chơi. Đó là bởi vì các hợp âm họ A bao gồm các dây mở (các dây đàn mà bạn chơi mà không cần phải nhấn các note xuống). Các hợp âm mà có những dây mở được gọi là các hợp âm mở, hoặc các hợp âm vị trí mở. Hãy lắng ngh bài “Fire and Rain,” bởi James Taylor, để thấy âm thanh của một bài hát mà sử dụng các hợp âm họ A.

Các hợp âm cơ bản trong họ A là A, D, và E. Mỗi hợp âm này được biết đến là một hợp âm trưởng. Một hợp âm có tên được đặt bởi một ký tự đứng một mình nó, chẳng hạn như (A, D, và E), thì luôn luôn là trưởng. (Xem phần bên lề “Các tính chất của hợp âm” trong chương này sẽ giải thích về sự khác nhau của các loại hợp âm).

Ngón bấm các hợp âm họ A

Hãy nhớ rằng khi bấm các hợp âm, bạn sử dụng các đầu ngón tay, đặt chúng đằng sau phím (trên mặt hướng về khóa đàn). Hãy uốn cong các ngón tay của bạn để các đầu ngón tay nằm thẳng đứng với cần đàn. Và đảm bảo rằng các móng tay trái của bạn được cắt ngắn để chúng không ngăn chặn bạn khỏi việc nhấn các dây đàn sát xuống bàn phím. Hình 4-1 trình bày các ngón bấm cho các hợp âm A, D và E – Các hợp âm căn bản trong họ A. (Nếu bạn chưa rõ về việc đọc các sơ đồ hợp âm, hãy kiểm tra lại thông tin trong chương 3 về các sơ đồ hợp âm).

52

Playing callusly(chai, sần)

Việc chơi các hợp âm có thể bị đau một chút lúc đầu. (Chúng tôi nói điều này với bạn, chứ không phải cho người trong tầm nghe; nào các bạn, chúng tôi không có ý rằng nó đau một cách dữ tợn.) Chẳng là vấn đề gì, nếu bạn chưa bao giờ chơi guitar trước đó, các đầu ngón tay trái của bạn thì mềm. Việc nhấn một dây đàn guitar, vì thế, sẽ hầu hết cảm thấy trên các đầu ngón tay của bạn như đang đóng một cái gai sắt vào tay chặn của bạn. (Ouch!)

Nói tóm lại, việc nhấn xuống dây đàn gây ra đau. Trạng thái này là không kỳ lạ – thực tế, đó là điều rất bình thường đối với những tay guitar mới bắt đầu. (Oh, đó sẽ là điều kỳ lạ nếu bạn khoái cái đau đó.) Bạn phải phát triển tốt, dày những vết chai trên các đầu ngón tay của bạn trước khi việc chơi guitar có thể cảm thấy thoải mái hoàn bào bao giờ hết. Có thể bạn phải mất vài tuần hoặc thậm chí vài tháng để hình thành các lớp da chết bảo vệ đó, điều này phụ thuộc vào việc chơi nhiều và chơi thường xuyên hay không của bạn. Nhưng sau khi bạn đã có được các vết sần, bạn sẽ không bao giờ mất chúng (hoàn toàn, dù thế nào đi nữa). Như một thẩm phán tòa án tối cao, bạn là một người chơi guitar cho đời.

Bạn có thể phát triển các cục chai bằng việc chơi các hợp âm căn bản trong chương này lặp đi lặp lại nhiều lần. Khi bạn thực hiện điều này, bạn cũng đạt được độ khỏe, bền cho hai tay và các ngón tay của bạn và trở nên thoải mái hơn nói chung trong việc chơi guitar. Trước khi bạn biết nó đang xảy ra, việc nhấn guitar sẽ trở nên tự nhiên với bạn như việc bắt tay với bạn thân của bạn.

Với bất kỳ điều kiện vật lý thông thường nào, hãy chắc rằng bạn sẽ ngừng lại và nghỉ ngơi nếu bạn bắt đầu cảm thấy mềm yếu hoặc nghiêm trong trên các ngón tay của bạn hoặc tay của bạn. Việc hình thành các cục chai cần có thời gian, và bạn không thể vội vàng (hoặc yêu, đối với vấn đề đó, như Diana Ross đã chứng nhận).

53

Đừng chơi bất kỳ dây nào được đánh dấu với bằng ký tự X (dây thứ 6 trong hợp âm A và dây thứ 5 và thứ 6 trong hâm âm D). Chỉ đánh(strike) 5 dây cao (từ dây 5 xuống dây 1) trong hợp âm A và 4 dây cao (từ 4 tới 1) trong hợp âm D. Việc khảy(strike) các dây đàn có chọn lựa có thể là vụng về lúc đầu, nhưng cứ tiếp tục và bạn sẽ biết cách làm điều đó. Nếu bạn chơi một dây đàn được đánh dấu X và chúng tôi bắt gặp bạn, thì chúng tôi sẽ thu hồi đặc quyền picking của bạn một chút.

Gảy(Strumming) các hợp âm họ A

Hãy sử dụng tay phải của bạn để gảy (strum) các hợp âm họ A với một trong các cách sau:

- Miếng khảy

- Ngón tay cái

- Mặt lưng của các móng tay (theo chuyển đống quét (rải) hướng về phía sàn).

Bắt đầu việc gảy(strumming) từ dây có cao độ thấp nhất của hợp âm (phía của hợp âm hướng lên trần nhà khi bạn cầm guitar) và gảy (strum) hướng xuống nền.

Các tính chất hợp âm

Các hợp âm có các tính chất khác nhau, các tính chất này tuyệt nhiên không quyết định chúng là những hợp âm tốt hoặc xấu. Bạn có thể định nghĩa tính chất như mối liên hệ giữa các note khác nhau mà thành lập nên hợp âm – hoặc đơn giản, hợp âm đó phát ra như một điều gì đó.

Bên cạnh tính chất của hợp âm trưởng, các tính hợp âm khác bao gồm thứ, 7th, 7th thứ, và 7th trưởng. Danh sách sau diễn đạt về các tính chất hợp âm của các loại này:

- Các hợp âm trưởng: Các hợp âm đơn giản này có âm thanh vững chắc, ổn định, bình tĩnh.

- Các hợp âm thứ: Các hợp âm đơn giản này có âm thanh mềm(soft), đôi khi là buồn.

- Các hợp âm 7th: Các hợp âm là bluesy(điệu nhảy blue, nhạc blues), âm thanh sôi nổi.

- Các hợp âm 7th thứ: Các hợp âm này dịu dàng, êm dịu và jazzy(vui nhộn, tức cười).

54

- Các hợp âm 7th trưởng: Các hợp âm này nghe tươi sáng và jazzy (vui nhộn, tức cười).

Mỗi loại hợp âm, hoặc tính chất hợp âm, có một loại âm thanh khác nhau, và bạn thường có thể nhận ra loại hợp âm chỉ bằng cách nghe nó. Hãy lắng nghe, ví dụ, âm thanh của một hợp âm trưởng bằng cách gảy (strumming) A, D, và E. (Để thêm thông tin về các hợp âm 7th, 7th thứ, và 7th trưởng, hãy kiểm tra chương 6).

Một chuỗi (progression) đơn giản là một chuỗi các hợp âm mà bạn chơi từ hợp âm này sau hợp âm khác. Hình 4-2 trình bày một chuỗi đơn giản trong khóa của A và chỉ dẫn cho bạn gảy (strum: gảy dài, gảy nhiều dây) mỗi hợp âm – theo thứ tự trình bày (đọc từ trái sang phải) – bốn lần. Tất cả sử dụng downstroke(đánh giáng xuống) (keo miếng khảy của bạn ngang qua các dây đàn hướng xuống nền ) khi bạn chơi.

Hãy lắng nghe ví dụ này trên CD để nghe giai điệu của chuỗi này và cố gắng chơi cùng với nó.

Sau khi gảy(strumming: gảy dài, gảy nhiều dây) mỗi hợp âm 4 lần, bạn tới một vạch đứng trong đoạn nhạc mà theo sau 4 ký tự gảy (strum). Vạch này là một gạch/vạch nhịp. Đây không phải là một note nhạc nào đó mà bạn phải chơi. Các vạch nhịp về thị giác phân chia đoạn nhạc thành các đoạn nhỏ hơn được gọi là các ô nhịp (measures), hoặc bars. (Bạn có thể sử dụng các khái niệm này thay cho nhau; cả 2 khái niệm này cùng một ý nghĩa). Các ô nhịp làm cho nhạc được viết đơn giản hơn để có thể hiểu, bởi vì chúng chia đoạn nhạc ra những phân đoạn nhỏ, dễ tiêu hóa hơn. Hãy xem phụ lục A để biết thêm thông tin về các vạch nhịp và ô nhịp.

Đừng lưỡng lự hoặc ngừng lại tại vạch nhịp. Hãy giữ tốc độ gảy (strumming) đều suốt, thậm chí khi bạn chơi “giữa các ô nhịp” – đó là, trong “không gian” tưởng tượng từ điểm kết của một ô nhịp tới điểm đầu của ô nhịp kế mà vạch nhịp trình bày. Bắt đầu việc chơi càng chậm theo mức cần thiết để giúp bạn giữ nhịp một cách đều đặn. Bạn luôn luôn có thể tăng tốc khi bạn trở nên tự tin và thành thạo trong việc bấm hợp âm và chuyển hợp âm của bạn.

Bằng việc chơi một chuỗi hợp âm lặp đi lặp lại, bạn bắt đầu phát trển độ bền của tay trái và và cục chai trên các đầu ngón tay của bạn. Cố gắng (và cố gắng… và cố gắng…).

55

Nếu bạn muốn chơi một bại hát ngay tức thì, bạn đã có thể. Hãy nhảy tới đoạn (skip to the section) “Chơi các bài nhạc với các hợp âm trưởng (Major) và thứ (minor) căn bản”, tại phần cuối của chương này. Bởi vì bạn bây giờ đã biết các hợp âm mở cơ bản trong họ A, bạn có thể chơi “Kumbaya.” Rock on!

Chơi các hợp âm trong họ D

Hợp âm căn bản mà làm thành họ D là D, Em (đọc là “E thứ”), G, và A. Họ D, vì thế, chia sẻ 2 hợp âm mở cơ bản với họ A (D và A) và giới thiệu 2 hợp âm mới: Em và G. Bởi vì bạn đã biết cách chơi 2 hợp âm D và A từ đoạn trước đó rồi (“Chơi các hợp âm trong họ A”), bạn chỉ cần tiếp tục thêm 2 hợp âm nữa để thêm vào tổng thể họ D tới danh mục của bạn:Em và G. Hãy nghe bài “Here Comes the Sun,” bởi the Beatles, để nghe âm thanh của một bài hát mà sử dụng các hợp âm họ D. (Phần này có thể chưa chính xác).

Minor (thứ) diễn tả tính chất của một loại hợp âm. Một hợp âm thứ có âm thanh khác rõ rệt so với một hợp âm trưởng. Bạn có thể định rõ đặc điểm âm thanh của một hợp âm thứ như là buồn(sad), ảm đạm(mournful), sợ hãi(scary), hoặc thậm chí gở (ominous). Hãy nhớ rằng sự liên hệ của các note mà cấu thành hợp âm sẽ xác định tính chất của hợp âm. Một hợp âm được đặt tên bằng một ký tự hoa và được theo sau bởi một chữ “m” nhỏ thì luôn luôn là thứ.

Ngón bấm các hợp âm họ D

Hình 4-3 chỉ cho bạn cạch bấm 2 hợp âm cơ bạn trong họ D mà không nằm trong họ A. Bạn có thể chú ý rằng không dây nào trong cả hai sơ đồ hợp âm có hiển thị ký tự X, vì thế bạn hãy thực hiện gảy tất cả các dây bất kỳ khi nào bạn chơi hợp âm G hoặc Em. Nếu bạn cảm thấy thích nói, hãy tiến lên và tán dương bằng cách kéo miếng khảy hoặc các ngón tay phải của bạn ngang qua các dây in a big keraang.

56

Hãy thử mẹo sau để nhanh chóng đạt được cách chơi hợp âm Em và để nghe sự khác biết giữa tính chất trưởng và thứ: Hãy chơi E, là hợp âm trưởng, và sau đó nhấc ngón tay trỏ của bạn ra khỏi dây số 3. Bây giờ thì bạn đang chơi hợp âm Em, là kiểu hợp âm thứ của E. Bằng cách luôn phiên 2 hợp âm, bạn có thể dễ dàng nghe thấy sự khác nhau về tính chất giữa một hợp âm trưởng và thứ.

Cũng vậy, chú ý việc ấn luôn phiên đối với G (2-3-4 thay cho 1-2-3). Khi tay của bạn đạt được độ bền và trở nên linh hoạt hơn, bạn muốn chuyển việc bấm 2-3-4 thay cho cách bấm 1-2-3 dễ hơn lúc đầu (Phiên bản trình bày trong hình 4-3). Bạn có thể chuyển các hợp âm khác dễ hơn và hiệu quả hơn bằng cách dùng ngón bấm 2-3-4 cho hợp âm G.

Gảy các hợp âm họ D

Trong hình 4-4, bạn sẽ chơi một chuỗi hợp âm đơn giản sử dụng các hợp âm họ D. Chú ý sự khác nhau trong việc gảy(strum) trong hình này với hình 4-2. Trong hình 4-2, bạn gảy (strum: gảy dài) mỗi hợp âm bốn lần trên 1 ô nhịp. Mỗi gảy(strum) là một nhịp đập, hoặc nhịp. Hình 4-4 chia gảy thứ 2 của mỗi ô nhịp (hoặc nhịp thứ 2) thành 2 gảy – lên và xuống – cả 2 (lên và xuống) cùng nhau chiếm thời gian của một nhịp, nghĩa là bạn phải chơi mỗi gảy trong nhịp thứ 2 nhanh hơn 2 lần so với bạn gảy đều đặn như trên.

Ký tự thêm vào với ký tự gảy có nghĩa rằng bạn hãy gảy (strum) xuống phía sàn, và V nghĩa là bạn hãy gảy(strum) lên hướng lên phía trần. (Nếu bạn chơi guitar trong khi đeo các đôi giày ống trọng lực, tuy nhiên, bạn phải đảo ngược 2 lời chỉ dẫn cuối này lại.) Khái niệm “sim”, là một cách viết tắt của tiếng Ý “simile”, để chỉ cho bạn hãy cứ chơi theo lối tương tự - trong trường hợp này hãy tiếp tục gảy (strumming) theo mẫu xuống, xuống-lên, xuống, xuống.

Nếu bạn chỉ sử dụng các ngón tay để gảy(strum), thì hãy gảy lên với lưng của móng ngón tay cái bất kỳ khi nào bạn nhìn thấy ký tự V.

57

Việc hiểu biết các hợp âm mở cơ bản trong họ D (D, Em, G, và A) cho phép bạn chơi một bài hát trong khóa của D ngay bây giờ. Nếu bạn nhảy tới đoạn “Chơi các bài nhạc với các hợp âm trưởng (Major) và thứ (minor) căn bản”,cuối trong chương này, bạn có thể chơi bài hát “Swing Low, Sweet Chariot” ngay bây giờ. Hãy làm điều đó!

Chơi các hợp âm trong họ G

Bằng cách xử trí các họ hợp âm liên quan tới nhau (như A, D và G), bạn hãy áp dụng kiến thức của bạn từ họ tới họ trong dạng của các hợp âm mà bạn đã biết từ các họ sớm hơn. Các hợp âm cơ bản mà cấu thành họ G là G, Am, C, D, và Em. Nếu bạn đã biết G, D và Em rồi (đã diễn giải ở các phần trước trong họ A và D), bây giờ bạn có thử thử hợp âm Am và C. Hãy lắng nghe bài “You’ve Got a Friend”, được chơi bởi James Taylor, để nghe âm thanh của một bài hát mà sử dụng các hợp âm họ G.

Ngón bấm các hợp âm họ G

Trong hình 4-5, bạn nhìn thấy các ngón bấm cho các hợp âm Am và C, các hợp âm mới này mà bạn cần chơi trong họ G. Chú ý rằng ngón bấm của 2 hợp âm này là tương tự: mỗi hợp âm đều có ngón 1 trên dây số 2, phím đầu tiên, và ngón 2 trên dây 4, phím 2. (chỉ có ngón 3 phải thay đổi – việc thêm vào hoặc bỏ nó ra – trong việc chuyển giữa 2 hợp âm này.) Trong việc di chuyển giữa các hợp âm này, hãy giữ hai ngón tay đầu tại chỗ trên các dây. Việc chuyển hợp âm thì luôn dễ hơn nếu bạn không cần phải di chuyển tất cả các ngón tay của bạn tới các vị trí mới. Những note mà các hợp âm khác nhau chia sẻ được gọi là các âm chung. Chú ý ký tự X nằm trên dây số 6 trong mỗi hợp âm này. Đừng chơi dây đó trong khi gảy hợp âm C hoặc Am. (We mean it!)

Gảy các hợp âm họ G

Hình 4-6 trình bày chuỗi hợp âm đơn giản mà bạn có thể chơi bằng cách sử dụng các hợp âm họ G. Chơi chuỗi hợp âm này lặp đi lặp lại cho quen để việc chuyển hợp âm và để hình thành nên các cục chai trên tay trái của bạn. Việc nãy sẽ trở nên dễ dàng hơn sau khi bạn tập được 1 lúc. Chúng tôi hứa!

58

Chú ý rằng, trong mỗi ô nhịp, bạn chơi nhịp 2 và nhịp 3 bằng các gảy “xuống lên”. Hãy lắng nghe CD để nghe âm thanh này.

Việc hiểu các hợp âm mở cơ bản trong họ G (G, Am, C,D và Em) cho phép bạn chơi một bài hát khóa của G ngay bây giờ. Hãy nhảy tới đoạn “Chơi các bài nhạc với các hợp âm trưởng (Major) và thứ (minor) căn bản”, phần cuối trong chương này, và bạn có thể chơi bài “Auld Lang Syne.” Bởi vì người chăn cừu được yên lòng sau khi cừu mẹ trở về đàn đã nói, “Happy, Ewe Near.”

Chơi các hợp âm trong họ C

Họ hợp âm cuối cùng mà chúng tôi cần thảo luận là C. Mọi người nói rằng khóa C là khóa dễ nhất để chơi. Đó là bởi vì khóa C chỉ sử dụng các note khóa trắng (white-key) của đàn piano trong thang âm của nó và, kiểu này, là một kiểu sắp xếp của lý thuyết âm nhạc – the point at which everything (and, usually, everyone) begins in music.

Chúng tôi đặt họ C cuối cùng trong chương này bởi vì, heck (đồ quỷ tha ma bắt), nó rất dễ và nó có nhiều hợp âm trong họ của nó – quá nhiều hợp âm để có thể làm chủ tất cả trong 1 lần.

Các hợp âm căn bản mà cấu thành họ C là C, Dm, Em, F, G và Am. Nếu bạn thực hành các đoạn trước về các hợp âm họ A-, D-, và G, thì bạn đã biết các hợp âm C, Em, G và Am. (Nếu chưa, hãy kiểm tra lại.) Vì thế trong đoạn này, bạn chỉ cần đạt được 2 hợp âm nữa: Dm và F. Sau khi bạn biết thêm 2 hợp âm này nữa, bạn đã biết tất cả các hợp âm trưởng và thứ căn bản mà chúng tôi trình bày trong chương này down pat. Hãy lắng nghe bài “Dust in the Wind,” bởi Kansas hoặc “The Boxer,” bởi Simon and Garfunkel để nghe âm thanh của một bài hát mà sử dụng các hợp âm họ C.

Ngón bấm các hợp âm họ C

59

Trong hình 4-7, bạn nhìn thấy các hợp âm mới mà bạn cần chơi trong họ C. Chú ý rằng cả hợp âm Dm và F có cùng ngón thứ 2 trên dây 3, phím thứ 2. Hãy giữ âm chung này khi bạn chuyển đổi giữa 2 hợp âm này.

Nhiều người thấy là hợp âm F là hợp âm khó nhất để chơi trong tất cả các hợp âm trưởng và thứ căn bản. Đó là bởi vì F không sử dụng các dây mở, và nó cũng đòi hỏi phải chặn. Chặn có nghĩa là bạn phải nhấn 2 dây hoặc hơn khi chơi với chỉ một ngón tay trái. Để chơi hợp âm F, chẳng hạn, bạn phải dùng ngón tay trỏ để nhấn xuống cả 2 dây số 1 và số 2 tại phím đầu tiên một cách đồng thời.

Bạn phải sử dụng lực nhấn ngón tay mạnh để chơi các note chặn. Lúc đầu, bạn có thể thấy rằng, khi bạn gảy hợp âm (chỉ gảy 4 dây cao, như các dấu X trên sơ đồ hợp âm có chỉ), bạn sẽ nghe các tiếng dơ hoặc các dây đàn bị câm. Hãy thử nghiệm với việc đặt ngón tay trỏ của bạn nhiều kiểu khác nhau. Thử hiệu chỉnh góc của ngón tay của bạn hoặc thử xoay ngón tay của bạn nhẹ theo cạnh của nó. Tiếp tục thử cho tới khi bạn tìm ra vị trí cho ngón trỏ mà cho phép tất cả 4 dây đàn kêu một cách sạch khi bạn gảy chúng.

Gảy các hợp âm họ C

Hình 4-8 trình bày một chuỗi hợp âm đơn giản mà bạn có thể chơi bằng cách sử dụng các hợp âm họ C. Hãy chơi chuỗi hợp âm lặp đi lặp lại để quen với việc chuyển đổi giữa các hợp âm trong họ này và, dĩ nhiên, để giúp xây dựng các cục chai nhỏ khó chịu đó.

60

Hãy nhìn hình 4-8. Chú ý rằng đường uốn cong nối nửa nhịp lên của nhịp thứ 2 tới nhịp thứ 3. Đường uốn cong này được gọi là dấu nối (tie). Một dấu nối nói cho bạn biết đừng gảy note thứ 2 trong cặp 2 note được nối đó (trong trường hợp này, note đó là ở nhịp thứ 3). Thay vào đó, hãy giữ hợp âm trên nhịp đó (hãy để nó vang) mà không gảy lại nó với tay phải của bạn.

Hãy lắng nghe CD để nghe âm thanh của mẫu gảy(strum) này. Hiệu ứng giai điệu hơi nghịch tai này là ví dụ về sự nhấn lệch (syncopation: sự nhấn lệch, sự rút bỏ âm ở giữa từ). Trong sự nhấn lệch, nhạc sĩ hoặc là gảy một note (hoặc hợp âm ) tại nơi mà bạn không mong đợi nghe nó hoặc là không nhớ để gảy một note (hoặc hợp âm) nơi mà bạn mong đợi nghe nó.

Bạn có thể thường mong đợi để gảy các note trên các nhịp (1,2,3,4). Trong ví dụ ở hình 4-8, tuy nhiên, bạn không gảy hợp âm trong nhịp 3. Sự biến đổi trong mẫu gảy(strumming) làm cho hợp âm trên nhịp 2 ½ cảm giác như nó được nhấn mạnh(accentuated) (hoặc, như các nhạc sĩ nói, trọng âm – accented). Sự nhấn này làm ngắt quãng nhịp điệu thông thường của đoạn nhạc, kết quả của sự nhấn lệch trong đoạn nhạc. Sự nhấn lệch làm thay đổi mẫu đều đều của các nhịp và tạo ra một sự ngạc nhiên trong âm nhạc. Sự cân bằng giữa mong đợi và ngạc nhiên trong âm nhạc là điều giữ sự hứng thứ cho người nghe. (Well, that and the promise of free hors d’oeuvres at the intermission.)

Để chơi một bài hát mà sử dụng các hợp âm họ C ngay bây giờ, hãy nhảy tới bài hát “Micheal, Row the Boat Ashore,” trong phần “Chơi các bài nhạc với các hợp âm trưởng (Major) và thứ (minor) căn bản” cuối trong chương này, Chúc may mắn (Bon voyage)!

Chơi các bài nhạc với các hợp âm trưởng (Major) và thứ (minor) căn bản

Đoạn này là nơi mà âm nhạc thực sự diễn ra – bạn biết, những bài hát. Nếu những tựa đề ở đây nghe như lùi vào những ngày cắm trại quá khứ in the distant recesses of your youth, fear not, young-at-heart campers. Những bài hát này, mặc dầu như đơn giản, nhưng minh họa cho toàn bộ các điểm chính mà áp dụng vào – chúng tôi sẽ nói về nó? – các thể loại nhạc hipper. Hãy đạt được các bài hát này trước, và bạn chắc chắn sẽ chơi nhạc theo sự chọn lựa của bạn in no time – Chúng tôi hứa!

61

Bạn có thể chú ý rằng tất cả các ví dụ về gảy(strumming) mà chúng tôi cung cấp trong chương này chỉ là dài 4 ô nhịp. Tất cả các bài tập của bạn được giới hạn theo cách này, bạn có thể thắc mắc phải không? Không, nhưng những nhạc sĩ rất thường viết nhạc theo chuỗi 4 ô nhịp. Vì thế độ dài của các bài tập này chuẩn bị cho bạn các đoạn thực tế trong các bài nhạc thực thụ. Bạn cũng có thể chú ý rằng mỗi ví dụ về gảy (strumming) là theo thời gian 4/4, có nghĩa là mỗi ô nhịp có 4 nhịp. Có lý do nào khác nữa không? Hầu hết các bài hát phổ dụng chứa 4 nhịp trên một ô nhịp, vì thế thời ký số thời gian 4/4 trong các bài tập cũng chuẩn bị cho bạn chơi các bài hát thực thụ. (Hãy xem phụ lục A để thêm thông tin về ký số thời gian.)

Trong những ví dụ mà bạn thấy trong các đoạn trên của chương này, bạn chơi mỗi hợp âm cho nguyên một ô nhịp. Nhưng trong đoạn này của những bài hát thực thụ, bạn đôi khi chơi một hợp âm đơn cho hơn một ô nhịp, và thỉnh thoảng bạn thay đổi nhiều hợp âm trong một ô nhịp. Hãy lắng nghe CD để nghe giai điệu của sự thay đổi hợp âm khi bạn nhẩm theo nhịp (1,2,3,4) mà xuất hiện bên dưới khuông nhạc guitar.

Sau khi bạn có thể chơi một cách thoải mái theo cách của bạn suốt những bài hát này, hãy cố gắng nhớ chúng. Cách đó, bạn không cần phải nhìn vào cuốn sách này khi bạn cố gắng để phát triển giai điệu(rhythm) của bạn.

Nếu bạn cảm thấy chán với những bài hát này – hoặc với cách bạn chơi những bài hát này – hãy trình bày âm nhạc với một người bạn cũng chơi guitar và hỏi anh ta để chơi các bài hát tương tự bằng cách sử dụng các mẫu strumming và các vị trí hợp âm mà chúng tôi chỉ dẫn. Việc lắng nghe một người khác chơi giúp bạn nghe bài hát một cách khách quan, và nếu bạn của bạn có một chút tinh tế, bạn có thể đạt được một hoặc 2 meo nhỏ tuyệt vời. Tiếp tục làm việc truyền một chút cá tính vào những khi chơi, thậm chí nếu bạn chỉ gảy(strumming) 1 bài nhạc folk(dân gian) đơn giản.

Đây là vài thông tin đặc biệt để giúp bạn chơi những bài nhạc trong đoạn này:

- Kumbaya: Để chơi “Kumbaya” (bài hát cắm trại cơ bản), bạn cần biết cách chơi các hợp âm A, D, và E (xem đoạn “Ngón bấm các hợp âm họ A,” ở trên trong chương này); cách gảy (strum) tất cả dùng kỹ thuật gảy xuống; và cách để mồi lửa bằng cách sử dụng chỉ 2 cây củi và vài tờ giấy khô.

Ô nhịp đầu tiên trong bài hát này được gọi là ô pickup, là một ô không hoàn hảo(ô thiếu); Ô này khởi đầu bài hát với việc thiếu 1 nhịp hoặc hơn – Trong trường hợp

62

này, thiếu 2 nhịp đầu. Trong suốt ô pickup, phần guitar ở trạng thái nghỉ, hoặc phần nhạc im lặng. Đừng chơi trong suốt thời gian nghỉ; hãy bắt đầu chơi trên âm tiết “ya” trên nhịp đầu. Chú ý, cũng, rằng ô nhịp cuối thì thiếu 2 nhịp – nhịp 3 và nhịp 4. Các nhịp thiếu trong ô cuối cho phép bạn lặp lại ô pickup trong việc chơi lặp lại bài hát, và làm cho ô nhịp đó, được kết hợp với ô nhịp không hoàn hảo ở đầu, tổng thể tạo ra 4 nhịp cần có.

- Swing Low, Sweet Chariot: Để chơi “Swing Low, Sweet Chariot,” bạn cần biết cách chơi các hợp âm D, Em, G và A (hãy xem đoạn “Ngón bấm các hợp âm họ D,” đoạn trước trong chương này); cách gảy xuống và xuống-lên; và cách hát như James Earl Jones.

Bài hát này bắt đầu với một nhịp pickup(nhịp thiếu), và guitar nghỉ trong nhịp này. Chú ý rằng nhịp 2 của ô 2, 4, và 6 có 2 gảy thay vì 1 gảy. Hãy gảy (strum) các nhịp đó xuống và sau đó lên ( và V) với mỗi gảy (strum) thực hiện nhanh hơn 2 lần so với một gảy bình thường khác.

- Auld Lang Syne: Để chơi bài “Auld Lang Syne,” bạn cần biết cách chơi các hợp âm G, Am, C, D và Em (hãy xem đoạn “Ngón bấm các hợp âm họ G,” ở phần trước trong chương này); cách gảy xuống và xuống-lên; và what “Auld Lang Syne” means in the first place.

Ô nhịp 8 là một mẹo nhỏ, bởi vì bạn sẽ chơi 3 hợp âm khác nhau trong cùng một ô nhịp (Em, Am và D). Trong nửa ô nhịp sau, bạn thay đổi các hợp âm trên mỗi nhịp – hãy thực hiện 1 gảy trên mỗi hợp âm. Hãy thực hành chơi ô 8 chậm rãi, và lặp đi lặp lại. Sau đó chơi cả bài hát. Chú ý: trong sự thay đổi giữa G và C (các vạch nhịp 4-6 và 12-19), hãy bấm hợp âm G với các ngón 2, 3, và 4 thay vì 1,2, và 3 làm cho việc chuyển hợp âm được dễ dàng hơn. Nếu bạn ấn hợp theo cách này, thì ngón tay thứ 2 và thứ 3 hình thành nên 1 hình dạng mà dễ dàng di chuyển trên một dây.

- Micheal, Row the Boat Ashore: Để chơi “Micheal, Row the Boat Ashore,” bạn cần biết cách chơi các hợp âm C, Dm, Em, F và G (xem đoạn “Ngón bấm các hợp âm họ C,” phần trước trong chương này); cách gảy một note-chia tám (eighth-note) nhấn lệch/đảo phách (hãy xem đoạn “Gảy các hợp âm họ C,” phần trước trong chương này); và hiểu nghĩa của từ “hootenanny”.

Mẫu gảy ở đây được đảo phách (nhấn lệch). Động tác gảy mà thường thường xuất hiện ở nhịp 3 được nhấn lệch, nghĩa là nó thực tế đến từ nửa nhịp của nhịp trước đó. Loại đảo phách(nhấn lệch) này làm cho bài hát giống kiểu Latin. Hãy lắng nghe CD để thấy điệu gảy. Hãy nhớ, trên các hợp âm Dm và F, bạn đừng gảy hai dây thấp nhất (6 và 5). Đối với hợp âm C, đừng gảy dây thấp nhất (6).

63

64

65

66

Vui một chút với các hợp âm trưởng và thứ căn bản: Sự diễn tiến/Chuỗi hợp âm (Progression) “Oldies”

Như chúng tôi hứa trong phần giới thiệu của chương này, bạn có thể chơi nhiều bài hát phổ biến đúng cách nếu bạn biết các hợp âm trưởng và thứ căn bản. Một điều tuyệt rằng bạn có thể chơi ngay lập tức là các bài hát xưa từ những năm ’50 và ’60 chẳng hạn như “Earth Angel” và “Duke of Earl.” Các bài hát này được đặt nền tảng một vài điều đôi khi được gọi là chuỗi hợp âm cổ. Chuỗi hợp âm cỗ là một chuỗi của 4 hợp âm; chúng lặp đi lặp lại để hình thành nên nhạc đệm cho một bản nhạc.

67

Bạn có thể chơi chuỗi hợp âm cổ ở bất kỳ khóa nào, nhưng các khóa guitar tốt nhất cho chuỗi hợp âm cổ là C và G. Trong khóa của C, 4 hợp âm mà cấu thành chuỗi hợp âm là C-Am-F-G. Và trong khóa của G, các hợp âm đó là G-Em-C-D. Hãy thử gảy chuỗi hợp âm đó trong mỗi khóa bằng cách chơi 4 gảy xuống trên mỗi hợp âm. Chơi 4 hợp âm lặp đi lặp lại, theo chuỗi được cũng cấp. Nếu bạn cần giúp đỡ với các ngón bấm của các hợp âm này, hãy coi lại đoạn “Chơi các hợp trong họ C” và “Chơi các hợp âm trong họ G,” phần trước trong chương này.

Sự vui thích bắt đầu khi bạn hát những bài hát cổ trong khi chính bạn đệm với các chuỗi hợp âm cổ. Khi bạn hát một bài hát nào đó, bạn sẽ thấy rằng một khóa tốt(C hoặc G) tốt hơn phù hợp với âm vực giọng của bạn, vì thế hãy dùng khóa đó. Việc chơi các bài nhạc cổ có thể trở nên say mê, nhưng tín hiệu tốt là đó, nếu bạn không thể dừng lại, bạn sẽ hình thành nên các cục chai của bạn rất nhanh.

Đối với một vài bài hát, bạn hãy chơi 4 gảy mỗi gảy một nhịp cho một hợp âm; các bài khác, bạn chơi 8 gảy hoặc 2. Bên dưới, chúng tôi liệt kê một số bài hát mà bạn có thể chơi với chuỗi hợp âm cổ ngay bây giờ. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng chỉ bạn cần phải gảy bao nhiêu lần cho mỗi hợp âm. Đừng quên hát nhé. Chúc vui!

- All I Have to Do Is Dream. 2 gảy cho một hợp âm.

- Blue Moon. 2 gảy cho một hợp âm.

- Breaking Up Is Hard to Do. 2 gảy cho một hợp âm.

- Come Go with Me. 2 gảy cho một hợp âm.

- Duke of Earl. 4 gảy cho một hợp âm.

- Earth Angle. 2 gảy cho một hợp âm.

- Heart and Soul. 2 gảy cho một hợp âm.

- Hey Paula. 2 gảy cho một hợp âm.

- In the Still of the Night. (một bản bởi Five, Satins, chứ không phải bản của Cole Porter.) 4 gảy cho một hợp âm.

- Little Darlin’. 8 gảy cho một hợp âm.

- Poor Little Fool. 4 gảy cho một hợp âm.

- Runaround Sue. 8 gảy cho một hợp âm.

- Sherry. 2 gảy cho một hợp âm.

68

- Silhouettes. 2 gảy cho một hợp âm.

- Stay. 2 gảy cho một hợp âm.

- Take Good Care of My Baby. 4 gảy cho một hợp âm.

- Tears on My Pillow. 2 gảy cho một hợp âm.

- Teenager in Love. 4 gảy cho một hợp âm.

- What’s Your Name. 2 gảy cho một hợp âm.

- Why Do Fools Fall in Love? 2 gảy cho một hợp âm.

- You Send Me. 2 gảy cho một hợp âm.

Chương 5: Chơi các giai điệu(melodies)

mà không cần đọc nhạc

Trong chương này

- Đọc tablature(tab)

- Sử dụng ngón bấm tay trái đúng.

- Sử dụng phong cách picking(gảy đơn, gảy ngắn) luôn phiên

- Việc chơi các bài hát với các note đơn.

Hầu hết các sách về guitar trình bày các giai điệu theo cách để dạy cho bạn cách đọc nhạc. Thực tế, mục đích chính của hầu hết các sách guitar không dạy bạn chơi guitar trong thế giới thực nhưng dạy bạn đọc nhạc thông qua guitar. Sự khác nhau này thì đầy ý nghĩa.

Nếu bạn cầm cây guitar và chơi thông qua một cuốn sách, suy cho cùng bạn có thể chơi các bài hát ngắn vần điệu bài bản theo đúng các note một phần tư và các note một phần hai. Nhưng nếu bạn học chơi nhạc như hầu hết nhưng người chơi guitar đã học – thông qua những người bạn chỉ bạn các câu lick hoặc bằng cách sử dụng tai của bạn – bạn có thể tiến xa hơn để chơi “Smoke on the Water,” “Sunshine of Your Love,” “Blackbird,” và danh mục tổng thể của Neil Young. Tất cả muốn nói rằng bạn không cần phải đọc nhạc để chơi guitar.

Okey, vì thế có thể việc đọc nhạc là một kỹ năng có giá trị. Nhưng mục đích của chương này sẽ không dạy bạn để đọc nhạc; nó dạy bạn để chơi nhạc. Nếu chúng tôi cần trình bày cho bạn một câu lick, chúng tôi sẽ dùng tablature – một hệ thống kí hiệu đặc biệt được thiết kế đặc biệt cho việc trình bày cách mà bạn chơi guitar. Hoặc chúng tôi chuyển bạn đến CD để bạn có thể nghe câu lick. Hoặc cả 2.

Chúng tôi dành các giai điệu trong chương này chủ yếu để bạn có thể tập cho quen hai tay của bạn trong việc chơi các note đơn. Theo cách đó, bất kỳ khi nào bạn quyết định

69

muốn chơi như một guitar thực thụ - một người kết hợp các hợp âm, các giai điệu, các câu riffs, và các câu lick vào sự kết hợp tổng thể - lúc đó bạn đã sẵn sàng để rock.

Theo cách này, một câu lick là một chuỗi ngắn, có giai điệu, thường made up on the spot và chỉ được chơi một lần. Một câu riff là một chuỗi giai điệu ngắn, thường được soạn để là nhịp điệu đệm chính trong một bài nhạc (như trong bài “Can you play the ‘Day Tripper’ riff?”).

Việc đọc tablature trong khi nghe CD

Các con số trên khuông tablature (hoặc tab) nói cho bạn biết các phím nào trên các dây đàn cần bấm với tay trái của bạn. Một ký tự 0 chỉ ra một dây buông. Bằng cách lắng nghe CD, bạn có thể nghe khi chơi các note này. Và để được an toàn, hoàn toàn, và hoàn toàn không cần thiết, chúng tôi cũng kèm theo các ký hiệu chuẩn vì các lý do sau:

- Cho những người đã biết đọc nhạc rồi.

- Cho những người có kế hoạch đọc phụ lục A (về cách để đọc nhạc) và áp dụng điều họ đọc ở đây.

- Cho những người muốn dần dần đạt được kỹ năng về việc đọc nhạc (ít nhất bởi sự thẩm thấu nếu không phải là học nghiêm khắc) bằng cách lắng nghe CD và chơi theo cùng với ký hiệu giai điệu.

- Cho chúng tôi, những tác giả, người đã đóng góp cuốn sách.

Đỉnh hay đáy

Âm nhạc trong cuốn sách này bao gồm một khuông đôi: ký hiệu âm nhạc chuẩn nằm trên, còn tab nằm dưới đáy. Khuông nằm trên là cho những người đọc nhạc hoặc cho những người thích dạng chuẩn. Khuông dưới đáy trình bày cùng thông tin (trừ giai điệu) nhưng ở dạng các con số tab. Ở đây là cách khuông tab thể hiện thế nào.

Dòng nằm trên cùng của khuông tab đại diện cho dây cao nhất của guitar (E cao). Vị trí này của các dây đàn trong khuông tap có thể ngay lập tứ làm bạn bối rối, bởi vì dây trên cùng trong khuông tab – số 1 – thực sự là dây gần sàn nhất khi bạn cầm guitar trong vị trí đang chơi. Nhưng hãy tin chúng tôi, sự sắp đặt theo cách này thì trực quan hơn, và sau khi bạn đã có sự hiệu chỉnh trong ý nghĩ, bạn sẽ không phải nghĩ về nó một lần nữa. Theo cách này, nếu bạn ôm cây guitar mỏng vào lòng, với cần đàn đối diện với trần nhà, thì dây số 1 cách xa bạn nhất, cũng giống như dòng trên cùng khi bạn nhìn vào khuông tab trong sách. Hãy xem cheat sheet (trang ghi những mẹo) ở đoạn đầu của cuốn sách để thấy được sự minh họa bằng thị giác cho khái niệm này.

70

Hãy tiếp tục, dòng tab thứ hai so với đỉnh đại diện cho dây số 2 (B) và tiếp tục đi xuống dòng tab dưới cùng, dòng này đại diện cho dây số 6 (E thấp) trên guitar.

Trong tab guitar, các dòng đại diện cho các dây đàn và các số đại diện cho các phím. Tab không có chức năng, tuy nhiên, nói cho bạn biết các ngón tay trái nào để bấm. (Ký hiệu dạng chuẩn cũng không giải quyết cho vấn đề này). Nhưng hãy nói nhiều về ngón bấm sau này.

Trái hay phải?

Như việc đọc sách hoặc nhạc, bạn sẽ bắt đầu từ bên trái và tiến sang phải trong việc đọc tab. Dùng hình 5-1 như ví dụ cho bạn, bắt đầu với note đầu tiên, note mà bạn chơi tại phím đầu tiên của dây số 2. Sự thay thế của số tab trên dòng số 2 so với đỉnh nói cho bạn biết hãy chơi dây B – dây cạnh dây E cao – và số 1 nói cho bạn hãy đặt ngón tay của bạn tại phím đầu tiên. Hãy tiếp tục và chơi note đó và sau đó tiến sang note kế, note cũng nằm trên dây số 2, phím đầu. Tiếp tục di chuyển sang phải, chơi các note theo thứ tự, cho tới khi hết. (Đừng lo lắng về các ký tự nằm trên các con số lúc này; chúng tôi sẽ giải thích chúng trong đoạn “Dùng kỹ thuật đánh luôn phiên (alternate picking)”, sau này trong chương này.) Các đường gạch đứng mà xuất hiện trên khuông sau vài note là các đường vạch nhịp (bar). Chúng chia khuông nhạc những đơn vị thời gian nhỏ, được gọi là các vạch nhịp hoặc ô nhịp. Các ô nhịp giúp bạn đếm nhịp và cắt đoạn nhạc thành nhỏ hơn, nhưng đơn vị dễ nhìn hơn. Trong hình 5-1, bạn nhìn thấy 4 ô nhịp mà mỗi ô nhịp có 4 nhịp. Hãy xem phụ lục A để biết thêm thông tin về các nhịp(beat) và ô nhịp(measures).

Sau khi bạn hiểu các khái niệm đỉnh đối với đáy và trái đối với phải trong khuông tab và cũng hiểu các dòng để chỉ về các dây đàn và các con số trên các dòng để chi vị trí phím đàn, bạn có thể lắng nghe CD và theo kịp (và chơi) tab một cách dễ dàng. Hai phương tiện truyền thông, CD và bản in, đóng vai trò tăng cường cho nhau. Nếu bạn chưa thực hành nó, rằng bạn đang gảy guitar theo cách đa phương tiện. (hãy mail cho chúng tôi bằng chứng

71

mua sách và chúng thôi thậm chí gửi cho bạn một secret decoder ring và virtual-reality goggles! Chỉ đùa tí thôi!)

Nắm vững về các ngón bấm tay trái

Sau khi bạn hình dung ra cách đọc guitar tablature, bạn biết các phím nào cần nhấn xuống, nhưng bạn vẫn có thể không biết dùng những ngón nào để bấm xuống các phím. Oh, Chúng tôi có thể rõ ràng làm điều đó rất nhanh. Thông thường, bạn không cần bất kỳ ký hiệu nào để bao cho bạn biết các ngón bấm cần sử dụng, bởi vì hầu hết bạn thường chơi đúng vị trị. Hãy hoãn lại với chúng tôi một chút.

Một vị trí (position) trên guitar là một nhóm 4 phím liên tục; chẳng hạn, các phím 1,2,3,4 hoặc 5,6,7,8. Phím đầu tiên trong chuỗi 4 điểm bắt đầu một vị trí mới; ví dụ, các phím 2,3,4, và 5, các phím 3,4,5, và 6, và vân vân, cũng là các vị trị (position). Cách dễ dàng nhất để chơi các giai điệu trên guitar là chơi chúng trong vị trí đầu hoặc vị trí 2 – đó là việc sử dụng các phím từ 1 tới 4 hoặc các phím từ tới 5 – bởi vì các vị trí này gần với Nut, sẽ cho phép bạn sử dụng dễ dàng và trơn tru các dây buông cũng như các note được nhân trong việc chơi một giai điệu.

Vị trí mở bản thân nó bao gồm sự kết hợp của tất cả các dây mở cộng với các note ở vị trí số 1 và vị trí số 2 – cũng như các hợp âm mà bạn chơi ở vị trí thấp trên cần đàn sử dụng các dây buông (A, D, Em và v.v) được gọi là các hợp âm mở. (Để biết thêm thông tin về các hợp âm mở, xem lại Chương 4.)

Trong bất kỳ vị trí nào, mỗi ngón chơi các note của một phím nào đó và chỉ chơi phím đó. Ngón trỏ thì luôn luôn chơi các note của phím thấp nhất ở vị trí đó (thấp nhất ở đây nghĩa là hướng về Nut), với các ngón khác bao hàm các ngón khác theo dãy thứ tự. Ở vị trí đầu, chẳng hạn, các số phím phù hợp với các ngón – ngón đầu tiên (trỏ) chơi các note trong phím đầu; ngón thứ 2 (ngón giữa) chơi các note trong phím thứ 2; và v.v. Việc sử dụng một ngón tay trên một phím cho phép bạn chuyển đổi giữa các note nhanh chóng.

Khi bạn chơi các giai điệu vị trí mở trong chương này, hãy chắc rằng bạn nhấn các ngón tay trái của bạn xuống đúng như sau:

- Nhấn xuống trên dây đàn với đầu ngón tay của bạn trước thanh phím kim loại (hướng về Nut).

- Giữ cho khớp xương cuối thẳng đứng (càng thẳng đứng càng càng tốt) trên bàn phím.

Dùng kỹ thuật đánh luôn phiên (alternate picking)

72

Khi bạn chơi một bản nhạc, bạn sử dụng cả hai tay một lúc. Sau khi bạn hình dung ra các note để nhấn với tay trái, bạn cần biết cách đánh các dây đàn như thế nào với tay phải.

Bạn có thể sử dụng học là một miếng khảy hoặc là các ngón tay phải để đánh các note đơn; bây giờ, hãy sử dụng miếng khảy, cằm nó chắc giữa ngón cái và ngón trỏ (thẳng đứng so với ngón cái và chỉ để lòi đầu miếng khảy ra). Hãy xem lại Chương 3 để biết thêm về thông tin trong việc cầm miếng khảy. (Chúng tôi sẽ thảo luận việc chơi guitar bằng các ngón tay trong chương 12 và 13.)

Gảy luôn phiên (alternate picking: gảy note đơn, gảy ngắn) là kỹ thật gảy tay phải mà sử dụng cả đánh xuống –downstroke (hướng xuống sàn) và đánh lên upstroke (hướng lên trần). Lợi điểm của alternate picking là bạn có thể chơi các note nhạc mau lẹ, liên tiếp một cách trơn tru, trôi chảy. Các note đơn mà bạn cần chơi tương đối nhanh thì hầu hết luôn luôn đòi hỏi kỹ thuật alternate picking.

Hãy thử thực nghiệm sau:

1. Hãy giữ miếng khảy giữa ngón cái và ngón trỏ trong tay phải của bạn.

Một lần nữa, hãy xem chương 3 để biết thêm về việc cầm phím.

2. Chỉ sử dụng downstrokes(gảy (ngắn) xuống), gảy dây mở số 1 lặp đi lặp lại nhiều làn càng nhanh nếu có thể (xuống-xuống-xuống-xuống, và v.v).

Cố gắng chơi càng trơn tru và đều đặn như có thể.

3. Bây giờ hãy làm điều tương tự nhưng thay phiên gảy downstrokes và upstrokes (xuống-lên-xuống-lên, và v.v).

Di chuyển luôn phiên này sẽ cảm thấy nhanh hơn và trơn tru hơn, đúng không?

Lý do mà bạn có thể chơi nhanh hơn với alternate picking thì rõ ràng. Để chơi 2 lần downstrokes liên tiếp, bạn cần đưa miếng khảy về vị trí ở trên dây E. Nhưng trên thực tế bằng cách gảy dây đàn với miếng khảy theo chiều quay lại (sử dụng upstroke) thay cho việc phải tránh các dây đàn, bạn có thể nâng cao tốc độ của bạn rất lớn.

Hãy kiểm tra để chắc rằng bạn hiểu khái niệm về alternate picking bằng 2 bước sau đây. Các ký tự để gảy xuống và gảy lên thì cùng giống như các ký tự sử dụng trong chương 4 cho khái niệm strumming(gảy dài).

Để chơi downstroke (ký tự nằm ở trên tab), hãy theo các bước sau:

1. Hãy bắt đều với miếng khảy nhẹ từ phía trên dây đàn (trên phía trần).

2. Khảy dây đàn theo chuyển động đi xuống (hướng xuống sàn).

Để chơi upstroke (ký tự V nằm trên tab), hãy theo các bước sau:

73

1. Hãy bắt đầu pick từ bên dưới dây đàn (phía nền).

2. Gảy dây đàn theo chuyển động hướng lên (hướng lên trần).

Giai điệu trong ví dụ khuông tab mà chúng tôi trình bày trong hình 5-1 thực sự là bài “Old MacDonald Had a Farm.” Hãy thử chơi giai điệu đó để biết nó phát ra như thế nào. Trước hết, hãy chơi giai điệu chậm, chỉ sử dụng downstrokes. Sau đó hãy chơi nhanh hơn bằng cách sử dụng alternate picking, như các ký tự nằm trên khuông tab chỉ dẫn. Đây là một pick, đó là một pick, mọi nơi một pick-pick…

Chơi các bài nhạc với giai điệu đơn giản

Trong chương 4, tất cả các bài hát các đã đều chơi trong nhịp 4/4. Các bài hát trong chương này, mặt khác, ở các nhịp khác nhau(meter:thước đo). (Meter chi ra số nhịp trong một ô nhịp: 4,3,2 và v.v; hãy xem phụ lục A để biết thêm thông tin về nhịp và ô nhịp.) Bạn hãy chơi tất cả các bài hát ở vị trí mở. (hãy xem phần “Nắm vững về các ngón bấm tay trái”) ở đầu chương này.)

Bạn có thể đã biết các bài hát trong chương này cả đời bạn, nhưng không bao giờ nghĩ về chúng trong ý thức âm nhạc – Meter(nhịp của một bài hát 2/4,3/4,..) của chúng là gì và chúng sử dụng giai điệu (rhythms) gì – và hầu hết chắc chắn bạn không bao giờ nghĩ “E-I-E-I-O” như là luôn phiên downstrokes và upstrokes.

Sự thật rằng có một số lượng đáng kể các bài hát dân ca cho là đơn giản – những giai điệu mà bạn chưa bao giờ nghĩ 2 lần về chúng trước đây – bây giờ làm cho bạn cảm thấy chậm và vụng về khi bạn cố chơi chúng có thể như một chút xả hơi. Nhưng việc chơi guitar là một sự nỗ lực tích lũy. Mọi kỹ thuật bạn đạt được, thậm chí nếu bạn thực hành nó trong bài “Little Brown Jug,” áp dụng cho ất cả các bài hát mà sử dụng cùng kỹ thuật, từ Van Morrison tới Beethoven, từ “Moondance” tới “Moonlight Sonata.” Hãy đi đến cùng với món kỹ thuật đó và những thứ theo sau đó.

Ở đây là một vài thông tin hữu ích về các bài hát để giúp bạn tiến lên:

- Little Brown Jug: Để chơi bài hát này, bạn cần biết cách đếm 2 nhịp trên một ô nhịp ( hãy xem phụ lục A và lắng nghe CD); các nhấn các note trong vị trí(position) đầu (hãy xem đoạn “Nắm vững về các ngón bấm tay trái”, phần đầu trong chương này); và cách làm một bài hát âm thanh say sưa thích hợp cho trẻ nhỏ.

Bài hát này chỉ có 2 nhịp trên một ô nhịp (không phải 4). Time signature (2/4) chi cho bạn biết điều này. Hãy chơi tất các note được nhấn trong vị trí(position) đầu bằng cách sử dụng các ngón tay trái được đánh cùng số như các số phím – đó là, sử dụng ngón đầu tiên (1) cho phím đầu tiên (phím 1), ngón số 2 cho phím số 2, và v.v. Theo chỉ dẫn và V nằm trên những con số tab để đánh downstroke và upstroke. Từ “sim.” nghĩa là hãy tiếp tục mẫu gảy(picking) tương tự cho phần còn lại của bài hát.

74

- On Top of Old Smoky: Để chơi bài hát này, bạn cần biết cách để đếm 3 nhịp trên một ô nhịp (hãy xem phụ lục A và lắng nghe CD); cách bấm các note ở vị trí đầu (first position) (hãy xem đoạn “Nắm vững về các ngón bấm tay trái” phần đầu trong chương này); và cách làm một bài hát hướng về âm thanh của sự bội tín như trẻ con và kỳ quái.

Bài hát yêu thích cũ này có 3 nhịp trên một ô nhịp, như time signature chỉ ra (3/4). Bài hát này là ở vị trí buông (open position) – vị trí mà kết hợp vị trí đầu với các dây mở. Hãy dùng các số ngón tay tương tự cho việc nhấn như được dùng để chỉ số của phím. Chúng tôi không chỉ bất kỳ ký tự nào cho việc pickup lên hay xuống cho bạn trong bài hát này; hãy sử dụng cách nhìn riêng của bạn và gảy (pick) các note của bài hát theo cách mà bạn cảm thấy tự nhiên nhất. Một vài note này bạn có thể chơi bằng cách dùng up- hoặc downstroke đều được.

- Swanee River: Để chơi bài hát này, bạn cần biết cách đếm 4 nhịp trên một ô nhịp (hãy xem phụ lục A và lắng nghe CD); cách bấm các note ở vị trí thứ 2 (second position) (xem phần “Nắm vững các ngón bấm tay trái,” phần đầu trong chương này); và cách phát âm đúng một cách khôn ngoan trong khi chơi một bài hát về sự di dân sang thuộc địa cũ.

Giai điệu cổ này của miền Nam (South) có 4 nhịp trong một ô, như 4/4 time signature của nó chỉ ra. Hãy chơi bài hát này bằng cách dùng vị trí buông (open position), vị trí mà kết hợp vị trí thứ 2 với các dây buông – đó là, ngón tay đầu tiên (trỏ) chơi các note ở phím thứ 2; ngón tay thứ 2 chơi các note của phím thứ 3; và ngón thử chơi các note ở phím 4. Bạn cũng có thể chơi bài hát bằng cách dùng vị trí đầu (first position với các dây mở, nhưng chơi theo cách này thì khó hơn nhiều. (ngón số 1 và 3 thì khỏe hơn ngón 2 và 4.) Hãy thử đi nếu bạn không tin chúng tôi. Hãy xem – điều chúng tôi nói với bạn! (Oh, và hãy xem đoạn “Nắm vững các ngón bấm tay trái,” phần đầu trong chương, nếu bạn không biết vị trí nào mà bạn đang chơi ở đây).

Hãy chú ý các ký tự picking lên và xuống nằm trên khuông tab. Hãy chơi downstroke( ) cho các note mà nằm trên các nhịp và upstroke (V) cho các note mà nằm giữa các nhịp. Một lần nữa, sim. nghĩa là hãy tiếp tục chơi mẫu picking tương tự cho tới kết. Nhân tiện, tựa đề thực của bài hát này là “Old Folks at Home,” nhưng hầu hết mọi người chỉ gọi là “Swanee River.” ( đó là bài hát mà đã đánh bóng Ralph Kramden trong game show The $99,000 Answer trên tập phim cũ Honeymooners. Giai điệu (tune) được viết bởi Stephen Foster – không phải Ed Norton!)

75

76

77

Chương 6: Thêm vào một chút hương vị:

Các hợp âm 7th căn bản

Trong chương này

- Việc chơi các hợp âm 7th át/trội (dominant)

- Việc chơi các hợp âm 7th thứ(minor)

- Việc chơi các hợp âm 7th trưởng (major)

78

- Việc chơi các bài hát mà sử dụng hợp âm 7th

- Vui một chút với các hợp âm 7th

Trong chường này, chúng tôi trình bày cho bạn cách chơi cái mà được gọi là các hợp âm 7th vị trí mở. Các hợp âm 7th không khó hơn để chơi so với các hợp âm trưởng thứ đơn giản mà chúng tôi đã thảo luận ở chương 4, nhưng âm thanh của chúng thì phức tạp hơn âm thanh của các hợp âm trưởng và thứ (bởi vì chúng được cấu thành bởi 4 note khác nhau thay vì 3), và sự sử dụng của chúng trong âm nhạc thì đặc biệt hơn một chút.

Tình huống này phần nào giống như các con dao trong bếp của bạn. Bất kỳ con dao lớn, bén nào cũng có thể cắt cả bánh pizza và dứa, nhưng nếu bạn mất nhiều thời gian để làm cả 2, thì bạn nhận ra rằng bạn cần sử dụng gizmo lưỡi dao được làm dạng tròn để cắt pizza và dao phay để cắt dứa. Các dụng cụ này có thể không đa năng hoặc không phổ biến như các con dao với mục đích thông thường, nhưng nếu bạn làm bánh pizza kiểu Hawaiian, thì không có dụng cụ nào tốt hơn chúng. Kỹ năng nấu nướng của bạn càng phát triển, thì bạn càng thấy rõ tính chuyên dụng của dao kéo hơn. Và các kỹ năng về tai nghe của bạn càng phát triển, thì bạn càng hiểu rõ hơn nơi đâu cần thay các hợp âm 7th cho các hợp âm trưởng và thứ bình thường hơn. Các hợp âm 7th khác nhau có thể làm làm ra âm thanh blues “bluesy” (điệu nhảy blue, nhạc blues) và âm thanh jazz “jazzy.”(thuộc về nhạc jazz, vui nhộn, tức cười).

Các hợp âm 7th có ở nhiều loại khác nhau, và mỗi loại có một âm thanh khác nhau, hoặc tính chất khác nhau. Trong chương này, chúng tôi giới thiệu cho bạn 3 loại hợp âm 7th quan trong nhất mà bạn sẽ bắt gặp trong việc chơi guitar – 7th át(dominant), 7th thứ(minor), và 7th trưởng(major).

Các hợp âm 7th át (Dominant : át, trội)(Dominant 7th Chords)

Âm át (dominant) có vẻ như khôi hài, tên chuyên môn cho một hợp âm mà được gọi đơn giản là “7” nếu bạn phân loại lại nó với một ký tự hợp âm bằng chữ. Nếu bạn chỉ nói C7 hoặc A7, chẳng hạn, bạn đang ám chỉ hợp âm 7th át(dominant).

Thực tế, khái niệm át (dominant) dựa vào bậc 5th của thang âm trưởng – nhưng bạn đừng lo lắng về lý thuyết.

Điều quan trọng là bạn gọi các hợp âm “7ths át” hiếm khi để phân biệt chúng với các loại của các hợp âm 7th khác (các hợp âm 7th thứ và 7th trưởng). Chú ý, cũng, rằng at không có bất kỳ gì gắn với da thuộc và các cổ áo mà được xem xét cẩn trọng. Bạn có thể nghe âm thanh của các hợp âm 7th át trong các bài hát như “Wooly Bully” của Sam the Sham and the Pharaohs và “I Saw Her Standing There” của Beatles.

D7, G7, và C7

79

Các hợp âm D7, G7, và C7 là các hợp âm át mở phổ biến nhất. (Để biết thêm về hợp âm mở, hãy xem chương 4.) Hình 6-1 trình bày cho bạn các sơ đồ của 3 hợp âm này mà các tay guitar thường sử thụng cùng nhau để chơi các bài hát.

Nếu bạn đã biết cách chơi hợp âm C (chúng tôi đã giới thiệu trong chương 4), bạn có thể hình thành hợp âm C7 bằng cách đơn giản thêm ngón tay út vào dây thứ 3( tại phím thứ 3).

Chú ý các dấu X ở trên các dây số 5 và 6 trên hợp âm D7. Đừng chơi các dây đó khi bạn gảy (strum: gảy dài). Tương tự, cho hợp âm C7, đừng chơi dây số 6 khi bạn gảy(strum).

Hãy thực hành strumming(gảy dài) D7, G7, và C7. Bạn không cần nhạc đã được việt cho bài tập này, so you’re on the honor system to do it. Hãy cố gắng strumming(gảy dài) D7 4 lần, G7 4 lần, và sau đó là C7 4 lần. Bạn muốn tập cho quen tay trái của bạn để cảm nhận bản thân các hợp âm và để di chuyển giữa chúng.

Nếu bạn muốn chơi một bài hát ngay bây giờ trong việc sử dụng các hợp âm mới này, hãy nhãy tới đoạn “Chơi các bài nhạc với các hợp âm 7th,” đoạn sau trong chương này. Bạn có thể chơi bài “Home on the Range” với các hợp âm mà bạn biết ngay bây giờ.

E7 và A7

Hai hợp âm 7 nữa mà bạn thường sử dụng cùng nhau để chơi các bài hát là E7 và A7. Hình 6-2 cho bạn biết cách chơi 2 hợp âm 7th mở này.

80

Nếu bạn biết cách chơi E (xem lại chương 4), bạn có thể hình thành E7 bằng cách đơn giản nhấc ngón tay thứ 3 khỏi dây số 4

Phiên bản này của hợp âm E7, như trong hình chỉ, chỉ sử dụng 2 ngón tay. Bạn cũng có thể chơi một hợp âm E7 vị trí mở với 4 ngón tay (như chúng tôi thảo luận trong đoạn sau đây). Bây giờ, tuy nhiên, hãy chơi phiên bản 2 ngón, bởi vì nó dễ dàng để nhấn phím nhanh, đặc biệt nếu bạn mới bắt đầu.

Hãy thực hành E7 và A7 bằng cách strumming(gảy dài) mỗi hợp âm 4 lần, chuyển tới lui giữa chúng. Hãy nhớ tránh gảy dây số 6 trong hợp âm A7.

Nếu bạn muốn chơi một bài hát mà sử dụng các hợp âm 7th mở này ngay bây giờ, hãy nhãy tới đoạn “Chơi các bài nhạc với các hợp âm 7th”, đoạn sau trong chương này, và chơi bài “All Through the Night.”

E7 (kiểu-4 ngón) và B7

Thêm 2 hợp âm 7th mở phổ biến nữa là hợp âm E7 phiên bản 4 ngón và B7. Hình 6-3 chỉ bạn cách nhấn hợp âm E7 phiên bản 4 ngón và B7. Hầu hết mọi người nghĩ rằng E7 4 ngón có âm tốt hơn (sự sắp xếp thẳng đứng của các note) so với E7 2 ngón. Bạn thường sử dụng hợp âm B7 cùng với E7 để chơi các bài hát nào đó. Hãy nhớ tránh gảy dây số 6 trên hợp âm B7.

Nếu bạn đã biết cách chơi hợp âm E (xem chương 4), bạn có thể hình thành dạng E7 4 ngón đơn giản bằng cách thêm ngón út của bạn trên dây số 2(phím thứ 3).

Hãy thực hành các hợp âm này bằng cách strumming(gảy dài) mỗi hợp âm 4 lần, chuyển đổi qua lại giữa chúng. Khi bạn thực hành, chú ý rằng ngón tay số 2 của bạn chơi cùng note ở cùng phím trong mỗi hợp âm – đó là note ở phím thứ 2 của dây số 5. Note này là âm chung (chung giữa 2 hợp âm). Trong việc chuyển tới lui giữa 2 hợp âm, hãy giữ ngón

81

tay này trên dây số 5 – làm vậy để việc chuyển dễ dàng hơn. Hãy chú ý: luôn luôn giữ nguyên các âm chung bất kỳ khi nào bạn chuyển hợp âm. Chúng cung cấp một mỏ neo vững chắc cho tay trái của bạn.

Để sử dụng các hợp âm này trong một bài hát ngay bây giờ, hãy nhảy tới đoạn “Chơi các bài nhạc với các hợp âm 7th “ đoạn sau trong chương này, và chơi bài “Over the River and Through the Woods.”

Các hợp âm 7th thứ (minor) – Dm7, Em7, và Am7

Các hợp âm 7th thứ khác với các hợp âm 7th át về đặc điểm của chúng thì softer(nhẹ hơn, dịu, ôn hòa) và jazzier(nhạc jazz, vui nhộn). Các hợp âm 7th thứ là các hợp âm mà bạn nghe thấy trong bài “Moondance,” bởi Van Morrison, và đoạn thơ của bài “Light My Fire,” bởi the Doors.

Hình 6-4 chi bạn các sơ đồ cho 3 hợp âm 7th thứ mở(m7). (Xem chương 8 và phụ lục B để biết thêm về các hợp âm 7th thứ.)

Chú ý rằng Dm7 sử dụng chặn 2 dây – đó là, khi bạn nhấn xuống 2 dây với một ngón tay (ngón đầu tiên, trong trường hợp này) tại phím đầu. Hãy tạo một góc nhỏ hoặc là xoay ngón tay theo phía mà giúp bạn nhấn các note này một cách vững chắc và khử đi bất kỳ tiếng dơ/nhiễu nào khi bạn chơi các hợp âm. Các dây đàn số 6 và 5 có ký tự X nằm bên trên chúng. Đừng khảy các dây đó khi strumming(gảy dài).

Bạn nhấn hợp âm Am7 giống như hợp âm C mà chúng tôi chỉ bạn trong chương 4; chỉ có điều hãy nhấc ngón tay thứ 3 khỏi hợp âm C – và bạn có hợp âm Am7. Trong việc chuyển giữa C và Am7, hãy nhớ giữ nguyên 2 note chung với các ngón đầu và ngón thứ 2. Cách này, bạn có thể chuyển giữa các hợp âm nhanh hơn nhiều. Và nếu bạn biết cách chơi hợp âm F (xem chương 4), bạn có thể hình thành nên Dm7 đơn giản bằng việc nhấc ngón tay thứ 3 của bạn ra.

82

Các hợp âm 7th trưởng (major) – Cmaj7, Fmaj7, Amaj7, và Dmaj7

Các hợp âm 7th trưởng khác với các hợp âm 7th át và 7th thứ về đặc điểm của chúng là bright(sáng) và jazzy. Bạn có thể nghe loại hợp âm này ở đoạn đầu của bài “Venture Hightway,” bởi America, và “Don’t Let the Sun Catch You Crying,” bởi Gerry and the Pacemakers.

Hình 6-5 trình bày 4 hợp âm 7th trưởng mở. (Để biết thêm các hợp âm 7th trưởng, hãy xem chương 8 và phụ lục B.)

Chú ý rằng Dmaj7 sử dụng 1 chặn 3 dây với ngón trỏ. Hãy xoay ngón tay trỏ nhẹ theo phía giúp nhấn hợp âm dễ dàng hơn để chơi. Đừng chơi các dây số 6 và 5 khi bạn gảy các hợp âm Dmaj7 và Fmaj7 (hãy nhìn các ký tự X trên các sơ đồ trong hình 6-5). Và đừng chơi dây số 6 trong hợp âm Amaj7 hoặc Cmaj7.

Trong việc di chuyển giữa hợp âm Cmaj7 và Fmaj7, chú ý rằng các ngón tay số 2 và 3 di chuyển theo một hình dạng cố định ngang qua các dây đành trong việc chuyển giữa các hợp âm này. Ngón tay đầu tiên không nhấn bất kỳ dây nào trong hợp âm Cmaj7, nhưng hãy giữ nó được uốn cong và sẵn sàng trên phím đầu tiên của dây số 2 để bạn có thể đặt nó xuống nhanh chóng khi chuyển sang Fmaj7.

Hãy thực hành di chuyển tới lui (strumming 4 lần mỗi hợp âm) giữa Cmaj7 và Fmaj7 và giữa Amaj7 và Dmaj7.

83

Chơi các bài nhạc với các hợp âm 7th

Hãy lắng nghe CD để thấy giai điệu (rhythm) của các mẫu strum(gảy dài) của các bài hát khi bạn nhìn theo ký hiệu gạch sắc / (slash) trong phần cho guitar. Nếu bạn khó nhơ cách bấm các hợp âm, hãy lật lại trang mẹo(cheat sheet) ở phía trên của buốn sách và tham khảo phía sau của nó đối với vài note crib. Đừng cố gắng chơi dòng của vocal. Đó chỉ là để tham khảo.

Đây là một vài thông tin hữu ích về các bài hát để giúp bạn theo cùng:

- Home on the Range: Để chơi “Home on the Range,” bạn cần biết cách chơi các hợp âm C, C7, F, D7, và G7 (xem chương 4 để biết các hợp âm C và F và đoạn “Các hợp âm 7th át,” phần trên trong chương này, cho các hợp âm khác); cách chơi một mẫu “bass strumm strum”; và cách than vãn như một kẻ vô lại (coyote).

Trong đoạn nhạc, bạn nhìn thấy các từ “Bass strum strum” nằm trên các gách sắc (slash/) giai điệu (rhythm). Thay vì strumming (gảy dài) đơn gian hợp âm cho 3 nhịp, chỉ chơi note thấp nhất của hợp âm ở nhịp đầu tiên và sau đó strum(gảy dài) cho các note còn lại của hợp âm ở nhịp 2 và 3. Từ Sim. có nghĩa là hãy tiếp tục chơi theo mẫu xuyên suốt.

- All Through the Night: Để chơi “All Through the Night,” bạn cần biết cách chơi các hợp âm D, E7, A7, và G(xem chương 4 để biết hợp âm D và G và đoạn trước trong chương này để biết các hợp âm E7 và A7); biết cách đọc các ký hiệu lặp lại; và cách tỉnh thức trong suốt bài hát ngắn gây buồn ngủ dữ dội này.

Trong đoạn nhạc, bạn nhìn các tín hiệu lặp lại, sẽ nói cho bạn chơi các ô nào đó 2 lần. Trong trường hợp này, bạn chơi các ô nhịp 1,2,3,4 và sau đó 1,2,3,5. Hãy xem phụ lục A để biết thêm thông tin về các tín hiệu lặp lại. Hãy sử dụng E7 2 ngón cho bài hát này.

84

- Over the River and Through the Woods: Để chơi “Over the River and Through the Woods,” bạn cần biết cách chơi các hợp âm A,D, E7, và B7 (hãy xem chương 4 để biết các hợp âm A và D và đoạn trước trong chương này để biết phiên bản 4 ngón của hợp âm E7 và B7); cách strum(gảy dài) trong nhịp 6/8 (hãy xem sơ đồ sau); và đường tới nhà của Grandma (trong trường hợp ngựa của bạn vấp và bạn cần vượt qua nó).

Nhịp 6/8 (time signature) có cảm giác du dương – dù vậy đoạn nhạc phần nào có nhịp gallop(phi nước đại, chạy nhanh) hoặc nhịp limp(tập đi khập khiễng). Bài “When Johny Comes Marching Home Again” là bài hát quen thuộc khác mà bạn chơi ở nhịp 6/8. (hãy xem phụ lục A để biết thêm thông tin về nhịp bài hát –time signatures). Chỉ đếm 2 nhịp trên một ô – chứ không phải 6 (trừ khi bạn muốn âm thanh như một rabbit(con thỏ, đối thủ xoàng, người nhút nhát) có 3 tách coffee). Hãy sử dụng E7 4 ngón cho bài hát này.

- It’s Raining, It’s Pouring: Để chơi “It’s Raining, It’s Pouring,” bạn cần biết cách chơi các hợp âm Amaj7 và Dmaj7 (xem đoạn , “Các hợp âm 7th trưởng”, đoạn trước trong chương này) và cách hát như tiếng hí ngựa(whiny) thực sự, âm thanh gây khó chịu.

Bài hát này là một phiên bản jazzed-up của vần điệu trẻ thơ cổ “It’s Raining, It’s Pouring,” cũng được biết như lời mắng nhiếc “Billy Is a Sissy” (hoặc whichever personal childhood nemesis you plug in to the title). Các hợp âm 7th trưởng mà bạn chơi trong bài hát này phát âm thanh jazzy(thuộc về nhạc jazz, vui nhộn, tức cười) và làm cho bất kỳ bài hát nào một âm thanh hiện đại. Tất cả sử dụng strum(gảy dài) xuống (downstroke).

- Oh, Susanna: Để chơi bài “Oh, Susanna,” bạn cần biết cách chơi các hợp âm Cmaj7, Dm7, Em7, Fmaj7, Am7, D7, Dm7, G7, và hợp âm C (xem chương 4 để biết hợp âm C và các đoạn khác ở các phần trước trong chương này để biết các hợp âm 7th khác) và cách thăng bằng một cây đàn banjo trên đầu gối của bạn trong khi du lịch Southern United States.

Sự sắp xếp này của bài “Oh, Susanna” sử dụng 3 loại hợp âm 7th: 7th át (D7 và G7), 7th thứ (Dm7, Em7, và Am7), và 7th trưởng (Cmaj7 và Fmaj7). Việc dùng các hợp âm 7th thứ và 7th trưởng làm cho bài hát có âm thanh hip(u uất, ưu phiền). Để bạn khỏi nghĩ việc thử “jazz up” một bài hát dân gian đơn giản này làm cho nó mất đi chất nhạc blue, hãy lắng nghe phần biểu diễn đẹp của James Taylor’s bài “Oh, Susanna” trong album Sweet Baby James thập niên 1970 để thấy một lối tiếp cận tương tự. Thực tế ông ấy nói “banjo” mà không phát âm kiểu cũ rích. Hãy strum(gảy dài) tất cả dùng downstroke.

85

86

87

88

89

Vui với các hợp âm 7th: 12 – Khuông nhạc Blues

Việc chơi guitar không phải toàn cho các bài hát dân gian (folk) và các vần điệu trẻ thơ, bạn biết. Thỉnh thoảng bạn có thể làm được một vài điều thực sự tuyệt. Và điều gì mà tuyệt hơn Blues? Qua việc biết vài hợp âm 7th át và có thể strum(gảy dài) 4 nhịp trên một ô nhịp, bạn đã có những cái vỗ nhẹ xuống cơ bản để chơi 99% tất cả các bài hát nhạc Blues từng được viết.

90

99%?! Được rồi! 12-bar Blues đi theo một công thức hợp âm, hoặc một chuỗi hợp âm (progression), mà bao hàm 3 hợp âm át. Trong chuỗi này(progression), bạn không cần biết bất kỳ hợp âm mới nào hoặc kỹ thuật mới nào; bạn chỉ cần biết 3 hợp âm át để chơi thôi – và theo thứ tự.

Chơi 12 khuông nhạc blues

Khóa của E là một trong những “khóa guitar” tốt nhất trong việc chơi nhạc Blues. Hình 6-6 trình bày chuỗi hợp âm của 12-bar blues ở khóa của E. Hãy thực hành mẫu này và trở nên quen thuộc với cách thay đổi các hợp âm trong một chuỗi Blues.

Các bài hát nổi tiếng 12-bar Blues bao gồm “Rock Around the Clock,” “Blue Suede Shoes,” “Roll Over Beethoven,” “Long Tall Sally,” “Kansas City,” “The Twist,” “The Peppermint Twist,” và “Johnny B.Goode.” Bạn có thể chơi bất kỳ bài nào vừa kể ngay bây giờ và hãy hát cùng và theo dõi công thức 12-bar trong hình 6-6. (Để thêm thông tin về 12-bar Blues, hãy xem chương 10 và 11.)

Viết các bài nhạc Blues của riêng bạn

Các bài hát nhạc Blues thì đơn giản để viết lời. (Hãy nghĩ về bất kỳ bài hát nào của Little Richard.) Thường, bạn lặp lại các dòng và kết thúc với một tiếng zinger – chẳng hạn:

My baby she done left me, and she stole my best friend Joe. My baby she done left me, and she stole my best friend Joe. Now I’m all alone and cryin’, ‘cause I miss him so.

91

Thử soạn một vài lời nhạc bởi chính bạn, ứng khẩu một giai điệu, và áp dụng chúng vào chuỗi blues mà chúng tôi sẽ phác thảo ở đây.

Theo luật, một bài hát blues tốt phải gồm các phần sau:

- Một chủ đề về sự khốn khó hoặc bất công.

- Một nơi diễn ra hoặc tình thế dẫn tới cảnh cực khổ.

- Ngữ pháp tồi.

Hãy sử dụng bảng sau để tìm kiếm pha trộn và làm cho hợp các phần đối với các bài hát Blues của bạn.

Các phần bài hát Good Blues Bad Blues

Chủ để Sự phản bội, sự bội tín, mojo của bạn

Rising interest rates, sự hiệu chỉnh thị trường đang đe dọa, việc thiếu sự giúp đỡ hảo tâm

Nơi xảy ra Memphis, the Bayou, prison Aspen, Rodeo Drive, Starbucks

Ngữ pháp “My baby done me wrong.” “My life-partner has been insensitive(không nhạy cảm) to needs.”

Tại sao không soạn nhạc của chính bạn? Hãy gọi nó “Left-Hand Callus Blues” và nói về cách chúng các dây đàn cũ tồi làm đau dữ trên các đầu ngón tay của bạn. Sau đó hãy xem chương 11 để thêm thông tin về Blues.

Phần 3

Vượt trên các điều

căn bản: Bắt đầu hướng tới Sound Cool

Trong phần này…

Sau khi bạn nắm vững những điều căn bản về việc chơi guitar và các ngón tay của bạn ngừng đau nhức sau một thời gian tập luyện, bạn sẽ muốn mở rộng hơn nữa. Tại chương này là lúc để tìm kiếm điều đó! Chương 7 giới thiệu tới bạn vị trí chơi, trong trường hợp bạn không muốn pick(gảy ngắn) hoặc strum(gảy dài) các dây mở nữa; thay vào đó, tất cả chúng được nhấn. Chương 8 chỉ bạn về các hợp âm chặn, chúng thật sự rất hữu ích bởi vì sau khi làm chủ một vị trí ngón tay, bạn có thể di chuyển vị trí đó lên và xuống cần đàn để tạo ra các hợp âm mới. Chương 9 chỉ cho bạn về các câu lick đặc biệt mà bạn có thể sử dụng để thực sự oai vệ về món của bạn.

92

Chương 7

Chơi các giai điệu theo thế/vị trí (Position)

và theo Double-Stops(chơi cùng lúc trên hai dây)

Trong chương này

- Chơi các note đơn theo thế/vị trí

- Chơi double-stops as string pairs

- Chơi double-stops across the neck

- Chơi các bài hát theo thế/vị trí và theo double-stops

Một trong những điều bị phát giác của những người bắt đầu chơi guitar là họ chỉ có thể chơi phần dưới(trầm) của cần đàn, ở vị trí mở, và họ chỉ có thể chơi các giai điệu dây đơn. Khi bạn biết về guitar hơn nữa, bạn thấy là bạn có thể sử dụng tất cả cần đàn để diễn đạt các ý tưởng âm nhạc của bạn, và bạn khộng bị giới hạn với việc chỉ gảy đàn với các note đơn.

Trong chương này, bạn sẽ mạo hiểm ra ngoài vị trị mở cơ bản để chơi ở các vị trí cao hơn. Bạn cũng sẽ đạt được kỹ thuật của việc chơi theo double-stops dọc theo con đường.

Chơi theo thế

Khi bạn lắng nghe bài nhạc guitar phức tạp được chơi bởi các tay guitar bậc thầy, bạn có thể tưởng tượng tay trái của họ nhấp nhô quanh trên bàn phím với sự tự do. Nhưng thường, khi bạn xem các tay guitar đó trên sân khấu hoặc TV, bạn khám phá ra rằng tay trái của họ hầu như không di chuyển tí nào. Các tay guitar này đang chơi theo thế.

Việc chơi theo vị trí có nghĩa rằng tay trái của bạn vẫn ở một vị trí cố định trên cần đàn, với mỗi ngón tay không ít thì nhiều giữ cố định ở một phím nào đó, và mọi note mà bạn nhấn – bạn không sử dụng bất kỳ dây mở nào. Nếu bạn chơi ở vị trí thứ 5, chẳng hạn, ngón tay trỏ của bạn chơi phím thứ 5, ngón giữa của bạn chơi phím 6, ngón nhẫn (thứ 3) của bạn chơi phím thứ 7, và ngón út (thứ 4) của bạn chơi phím thứ 8. Một vị trí, vì thế, tên của nó được đặt theo phím mà ngón trỏ của bạn đảm nhiệm.

Hơn nữa để cho phép bạn chơi các note tại nơi mà các ngón tay cảm nhận và phát âm tốt nhất trên bàn phím – không chỉ là nơi mà bạn có thể chộp được các note dễ dàng( chẳng hạn các note dây buông trong vị trí mở), việc chơi theo vị trí làm bạn trông tuyệt – giống một người không phải mới chơi! Hãy nghĩ nó thế này: a layup and a slam dunk are both worth

93

two point in basketball, but only in the later case does the announcer scream, “And the crowd goes wild!”

Chơi theo thế đối lại với chơi với các dây mở

Tại sao lại chơi theo thế? Tại sao không sử dụng vị trí mở và các dây buông mọi lúc? Chúng tôi có thể cho bạn 2 lý do chính:

- Giúp dễ dàng chơi các giai điệu note cao. Việc chơi ở vị trí mở chỉ cho phép chơi lên tới các phím 4 hoặc 5. Nếu bạn muốn chơi ở vị trí cao hơn, vị trí mà cho phép bạn chơi các note một cách trôi chảy và economically(về mặt kinh tế).

- Bạn có thể chuyển đổi vị trí nhanh chóng cho bất kỳ mẫu hoặc chuỗi nhạc nào mà bạn theo thế tới một khóa khác một cách đơn giản bằng cách di chuyển tay của bạn tới vị trí khác. Bởi vì việc chơi theo thế không đòi hỏi các dây buông, mọi thứ bạn chơi theo thế thì có thể di chuyển được.

Mọi người có ý kiến rằng việc chơi guitar ở các vị trí thấp hơn thì dễ hơn so với các vị trí cao hơn. Thực tế các note cao hơn không khó hơn trong việc chơi; chúng chỉ khó đọc hơn trong dàn ký hiệu chuẩn nếu bạn không đi quá xa theo một cuốn sách theo phương pháp cổ điển (ở đây việc đọc các note cao thường được để dành cho tới đoạn cuối của sách). Nhưng ở đây, bạn không tập chung vào việc đọc nhạc nhưng là việc chơi guitar – vì thế hãy tiến tới các note cao bất kỳ khi nào bạn muốn.

Chơi các bài tập theo thế

Thang âm trưởng (major scale) (bạn biết, âm thanh quen thuộc do-re-mi-fa-sol-la-si-do có được bằng cách chơi các phím trắng trên đàn piano mà bắt đầu từ note C) là một điểm tốt để bắt đầu việc thực hành các kỹ năng bạn cần để chơi theo thế. Hình 7-1 trình bày thang âm trưởng C ở vị trí thứ 2. Mặc dầu bạn có thể chơi thang âm này theo vị trí mở, hãy chơi nó như khuông tab trong hình chỉ ra, bởi vì bạn đang muốn bắt đầu thực hành việc chơi theo thế.

94

Điều quan trọng nhất về việc chơi theo thế là chỗ đặt tay trái của bạn – đặc biệt, thế và việc đặt các ngón tay trái của bạn. Danh sách sau gồm các mẹo cho việc xếp vị trí tay trái và các ngón tay của bạn:

- Hãy giữ các ngón tay của bạn nằm trên các phím tương ứng toàn thời gian mà bạn chơi. Bởi vì bạn đang ở position thứ 2 cho thang âm này, hãy ngón tay thứ nhất(ngón trỏ) của bạn nằm trên phím thứ 2, ngón tay thứ 2(ngón giữa) nằm trên phím thứ 3, ngón tay thứ 3(ngón nhẫn) nằm trên phím thứ 4, và ngón tay thứ 4(ngón út) nằm trên phím thứ 5 bất kỳ lúc nào – thậm chí khi các ngón tay không nhấn bất kỳ note nào.

- Hãy giữ các ngón tay gần với bàn phím, để sẵn sàng chơi. Lúc đầu, các ngón tay của bạn có xu hướng duỗi thẳng và hướng ra xa bàn phím. Xu hướng này là tự nhiên, vì thế hãy thực hiện giữ các ngón tay uốn cong và giữ chúng hướng xuống trên các phím nơi mà chúng thuộc về vị trí đó.

- Hãy thoải mái! Mặc dầu bạn nghĩ bạn cần tập trung dữ dội tất cả sức lực vào việc thực hiện vận động một cách chính xác hoặc việc sắp xếp vị trí mà các ngón tay, bạn đừng làm như vậy. Điều mà bạn thực sự cần làm là đơn giản làm theo sự tự nhiên nhất và việc tiếp cận thoải mái để chơi guitar. ( Bạn có thể không nghĩ tất cả điều đó là tự nhiên lúc này, nhưng dần dần, bạn sẽ đạt được mục tiêu. Chân thật!) Vì thế hãy thực hiện các này thật dễ dàng, nhưng vẫn giữ cảm nhận các chuyển động của bạn. Vai trái của bạn, chẳng hạn, hãy điều khiển nó như Quasimodo’s? Hãy kiểm tra nó thường xuyên để đảm bảo rằng vai của bạn không trong tình trạng căng thẳng. Và nhớ thực hiện hít thở sâu thường xuyên, đặc biết nếu bạn cảm thấy như bị xiết chặt hơn.

Hãy nhìn vào hình 7-1 và chú ý rằng các chỉ số chỉ cho biết các ngón bâm tay trái nằm bên dưới các số của tab. Các chỉ dẫn này thì không cần thiết bởi vì một position bản thân nó đã chỉ ra các ngón bấm cho các vị trí rồi. Nhưng nếu bạn muốn, bạn có thể đọc các số chỉ ngón bấm (thay cho việc các số tab) và chơi thang âm C theo cách đó ( hãy giữ mắt của bạn trên khuông tab để kiểm tra dây nào bạn đang chơi). Sau đó, nếu bạn đã ghi nhớ các ngón bấm, bạn có thể di chuyển mẫu để cho phép bạn chơi ở thang âm trưởng trong một khóa khác.

Hãy chơi thang âm nhóm 8 (một dãy tám 8) trình bày trong hình 7-1 bằng cách sử dụng cả up- và downstroke – đó là, việc sử dụng alternate (up and down) picking. Hãy thử thực hiện nó xuôi cũng như ngược (bạn nên thực hành tất cả các thang âm theo cách xuôi và ngược). (Hãy xem chương 5 để biết thêm thông tin về alternate picking.) Thang âm này không có trên CD; bạn đã biết nó phát âm ra như thế nào rồi – nó là do-re-mi-fa-sol-la-si-do quen thuộc.

95

Hình 7-2 trình bày thang âm C trưởng 2 nhóm 8 ( thang âm với một dãy 15 note) ở vị trí số 7. Chú ý rằng thang âm này đòi hỏi bạn chơi tất cả 6 dây.

Để giữ bạn nhớ giữ các ngón tay nằm trên các phím tương ứng mọi lúc, thâm chí cả lúc không chơi, và giữ các ngón tay của bạn gần với bàn phím, chúng tôi có cặp thành ngữ này: Hãy giữ các ngón tay của bạn gần, thì giờ của bạn gần hơn, và các phím của bạn thâm chí gần hơn nữa.

Hãy thực hành việc chơi thang âm trong hình 7-2 di chuyển lên và xuống trên cần đàn, bằng cách sử dụng alternate picking (xem chương 5). Nếu bạn nhớ mẫu ngón bấm (chỉ bên dưới các số chỉ tab), bạn có thể chơi bất kỳ thang âm trưởng nào đơn giản bằng cách di chuyển tay của bạn lên hoặc xuống một vị trí khác. Hãy thử đi. Và sau đó thách người chơi piano ở gần bạn nhất về việc chuyển giọng (key-changing) trong ngữ cảnh sử dụng thang âm trưởng.

Hãy chơi các thang âm chậm lúc đầu để bảo đảm rằng các note nhạc của bạn rõ ràng và trơn tru; sau đó tăng dần tốc độ lên.

Dịch chuyển các vị trí

Âm nhạc không quá đơn giản rằng bạn có thể chơi tất cả trong một vị trí, và cuộc sống sẽ là tĩnh nếu bạn có thể. Tình hình trong thế giới thực, bạn thường phải chơi một đoạn liên tục mà sẽ đưa bạn qua nhiều vị trí(position) khác nhau. Để thực hiện điều này một cách thành công, bạn cần phải làm chủ việc dịch chuyển các vị trí với sự tự tin của một người khéo léo lão luyện.

Andrés Segovia, huyền thoại guitar classical, nghĩ ra các ngón bấm cho tất cả 12 thang âm trưởng và thứ. (Hãy xem chương 19 để biết thêm thông tin về Segovia.) Hình 7-3 trình bày cách Segovia chơi thang âm trưởng C 2 nhóm 8. Nó khác với các

96

thang âm 2 nhóm tám trong đoạn trước cách này đòi hỏi một sự dịch chuyển vị trí ở giữa của thang âm.

Hãy chơi 7 note đầu ở vị trí(thế) số 2 và sau đó chuyển tới vị trí thứ 5 bằng cách trượt một cách trơn tru ngón tay đầu tiên(ngón trỏ) tới phím thứ 5 (dây số 3). Khi bạn chơi thang âm theo chiều ngược lại, hãy chơi 8 note đầu ở vị trí thứ 5, và sau đó chuyển về vị trí thứ 2 bằng cách trượt một cách trơn tru ngón tay thứ 3 của bạn (ngón nhẫn) lùi về phím thứ 4 (dây số 3). Điều quan trọng là âm thanh của việc chuyển đổi vị trí đó phải liền một mạch.

Một người nào đó lắng nghe sẽ không có thể nhận ra rằng bạn đã chuyển đổi vị trí. Mẹo ở đây là trong việc trượt trơn tru của ngón tay thứ nhất(ngón trỏ) (trong lúc đánh xuôi) hoặc thứ ba (trong lúc đánh ngược lại).

Bạn phải thực hành việc trượt trơn tru này để làm cho âm thanh không bị ngắt và liền mạch. Hãy cô lập 2 note có liên quan (dây số 3, phím 4, và dây 3, phím 5) và chơi chúng lặp đi lặp lại như đã chỉ ra trong thang âm cho tới khi bạn có thể tạo ra âm thanh như khi bạn không thực hiện chuyển vị trí bất kỳ lúc nào.

Xây dựng độ bền (strength: sức mạnh, độ bền) và sự khéo léo (dexterity) bằng cách chơi theo thế

Một vài người dùng tất cả các loại bài tập để phát triển việc chơi theo vị trí của họ. Họ mua các cuốn sách mà chẳng có gì cả nhưng có các bài tập của việc chơi theo thế. Một vài cuốn sách này nhằm mục đích phát triển các kỹ năng nhìn đọc, và các cuốn khác nhằm mục đích phát triển độ bền (sức mạnh) và sự khéo léo cho các ngón tay trái của bạn. Nhưng bạn không cần các cuốn sách như vậy. Bạn có thể làm ra các bài tập riêng của bạn để xây dựng độ bền (sức mạnh) và sự khéo léo cho các ngón tay. (Và việc nhìn đọc không còn dính líu tới bạn nữa, bởi vì bạn sẽ đọc các số tab).

97

Để tạo ra các bài tập riêng của bạn, chỉ cần lấy thang âm trưởng 2 nhóm 8 như đã trình bày trong hình 7-2 và số chỉ 15 note của thang âm từ 1 tới 15. Sau đó thực hiện một vài sự kết hợp toán học đơn giản mà bạn có thể thực hiện việc thực hành. Sau đây là vài ví dụ:

+ 1-2-3-1, 2-3-4-2, 3-4-5-3, 4-5-6-4, và v.v. (xem hình 7-4a.)

+ 1-3-2-4, 3-5-4-6, 5-7-6-8, 7-9-8-10, và v.v (Xem hình 7-4b.)

+ 15-14-13, 14-13-12, 13-12-11, 12-11-10, và v.v (Xem hình 7-4c.)

Hình 7-4 trình bày các số này nhìn như thế nào trong nhạc và tab. Hãy nhớ, các note này chỉ là các mẫu đề nghị thôi để nhớ và giúp xây dựng sự khéo léo.

98

Bạn có ý tưởng. Thật vậy bạn có thể thực hiện hàng trăm sự hoán vị và thực hiện chúng đến liên tục bất tận – hoặc cho tới khi bạn thấy chán. Các sinh viên piano có một cuốn sách tên gọi là Hanon bao gồm nhiều sự hoán vị để giúp phát triển độ bền (sức mạnh) và sự độc lập của các ngón tay. Bạn có thể xem cuốn sách này cho các ý tưởng về sự hoán vị, nhưng việc tạo ra các bài tập của riêng bạn có thể rất dễ dàng.

Double-Stops

Khái niệm double-stop ở đây không có ý chỉ việc quay lại cửa tiệm vì việc quên sữa. Double-stop là tiếng lóng guitar chỉ việc chơi 2 note cùng lúc – một vài điều mà guitar có thể thực hiện tương đối dễ dàng nhưng nó không thể thực hiện trên các nhạc cụ hơi làm bằng gỗ trong một dàn nhạc (woodwind) và chỉ thực hiện được ở gần lề trên các nhạc cụ dây có hình thức cong như cái cung. (Thực sự, các guitarist đã nâng khái niệm này từ việc chơi violin nhưng một cách thật nhanh làm thành double-stops đúng thật của riêng họ). Bằng cách này, chẳng làm điều gì đặc biệt trong việc nhấn các note của nhóm double-stop. Hãy nhấn chúng giống cách mà bạn nhấn các hợp âm hoặc các note đơn.

Bạn đã trải nghiệm khả năng của guitar về việc chơi hơn một note một một cách đồng thời khi bạn strum(gảy dài) một hợp âm, nhưng bạn cũng có thể chơi hơn một note trong ngữ cảnh du dương. Việc chơi double-stop là một cách tuyệt để chơi trong sự hòa hợp với bản thân bạn. Vì thế người lão luyện là guitar mà chơi double-stops, sự thực, đó là vài mẫu nhạc – chẳng hạn như ‘50’s rock ‘n’ roll, country, và âm nhạc Mariachi (bạn biết, loại âm nhạc mà các ban nhạc đường phố Mexican chơi ) – sử dụng double-stop như một dấu xác nhận phẩm chất cho những phong cách của họ.

Hiểu về Double Stops

Một double-stop thì không gì hơn là 2 note mà bạn chơi cùng một thời điểm. Nó rơi vào một chỗ nào đó giữa một note đơn và một hợp âm (3 hoặc hơn 3 note). Bạn có thể chơi một double-stop trên các dây liền kề hoặc trên các dây không liền kề (bằng

99

cách bỏ các dây). Các ví dụ và các bài hát mà bạn sẽ thấy trong chương này, tuy nhiên, chỉ cần các double-stop trên dây gần kề, bởi vì chúng dễ chơi nhất.

Nếu bạn chơi một giai điệu ở dạng các double-stop, nó sẽ phát âm êm hơn(sweeter) và phong phú hơn(richer), đầy hơn và hay hơn khi bạn chơi mà chỉ sử dụng các note đơn. Và nếu bạn chơi một câu riff ở dạng double-stop, thì nghe gan góc và đầy hơn – các double-stop tạo ra một âm thanh lớn hơn(bigger). Hãy kiểm tra vài câu riff của Chuck Berry – “Johnny B.Goode,” chẳng hạn – và bạn có thể nghe ông ấy sử dụng double-stops mọi lúc.

Chơi các bài tập theo Double-Stops

Có 2 cách thông thường để chơi các double-stop: Bạn có thể chơi các đoạn double-stop chỉ sử dụng một cặp dây (2 dây đầu, chẳng hạn) – việc di chuyển các double-stop lên và xuống trên cần đàn – hoặc trong một khu vực của cần đàn bằng cách sử dụng 5 cặp dây khác nhau và di chuyển các double-stop xuyên qua cần đàn (đầu tiên chơi các dây thứ 5 và thứ 4, chẳng hạn, và sau đó là dây thứ 4 và thứ 3, và v.v).

Chơi các double-stop lên và xuống trên cần đàn

Hãy bắt đầu với một thang âm trưởng C mà bạn sẽ chơi nó trong các double-stop quãng ba(third) (các note mà 2 ký tự tên đứng riêng, chẳng hạn như C-E, D-F và v.v), dành riêng trên 2 dây đầu, hãy di chuyển lên ở cần đàn. Loại mẫu double-stop này xuất hiện trong hình 7-5. Các ngón bấm tay trái không xuất hiện bên dưới các số tab trong chỉ số này, nhưng chúng không khó để nhận ra. Hãy bắt đầu với ngón tay đầu tiên (ngón trỏ) cho double-stop đầu tiên. (Bạn chỉ cần một ngón tay để nhấn double-stop đầu tiên bởi vì dây đâu tiên vẫn buông.) Sau đó, cho tất cả các double-stop khác trong thang âm, hãy dùng các ngón 1 và 3 nếu các note xa cách nhau 2 phím (double-stop thứ 2 và 3, chẳng hạn) và hãy sử dụng các ngón 1 và 2 nếu các note xa cách nhau 1 phím(các double-stop thứ 4 và 5, chẳng hạn). Với tay phải của bạn, chỉ đánh các dây số 1 và số 2.

Chơi các double-stop ngang qua cần đàn

100

Việc chơi các double-stop ngang qua cần đàn thì phổ biến hơn việc chơi lên và xuống trên cần đàn trên một cặp dây. Hình 7-6 trình bày thang âm C trưởng mà bạn sẽ chơi trong quãng 3 ở vị trí mở, di chuyển ngang qua cần đàn.

Điều đặc biệt phổ biến trong các bài hát rock và blues là chơi double-stop ngang qua cần đàn nơi mà 2 note cấu thành double-stop là trên cùng phím (mà bạn sẽ chơi theo kiểu chặn 2 dây). Xem chương 10 và 11 để biết thêm thông tin về rock và blues.

Lần nữa, về ví dụ trong hình 7-6 không chỉ ra các ngón bấm cho mỗi double-stop. Nhưng bạn có thể sử dụng các ngón 1 và 2 nếu các note cách xa nhau một phím và các ngón 1 và 3 nếu các note cách xa nhau 2 phím.

Để nghe các double-stop trong sự diễn tiến (action), hãy lắng nghe phần đầu của bài “Margaritaville,” của Jimmy Buffett, “Little Martha” của Allman Brothers theo phiên bản của Leo Kottke, “Brown-Eyed Girl,” của Van Morrison, “Johnny B. Goode,” của Chuck Berry và intro của các bài “Homeward Bound” và “Bookends” của Simon and Garfunkel.

Chơi các bài nhạc theo thế và theo Double-Stops

Có những khóa (key) nào đó rơi vào các vị trí thuận tiện nào đó trên guitar. Các bài hát được đặt cơ sở trên các khóa, vì thế nếu bạn chơi một bài hát ở một khóa (key) nào đó, bài hát đó cũng rơi vào một vị trí thuận tiện nào đó. Bạn có thể hiểu tầm quan trọng của vị trí chơi một cách thấu đáo trong các chương khác ở phần 4 của cuốn sách này. Việc chơi lead của Rock, jazz, blues và country tất cả đòi hỏi các vị trí nào đó để làm ra một âm thanh chính xác.

Việc chúng tôi nói với bạn rằng giai điệu (melody) của một bài hát phát ra tốt nhất khi bạn chơi nó ở vị trí này hơn là ở vị trí khác có thể như điều gì đó độc đoán với bạn. Nhưng hãy tin chúng tôi trong vấn đề này – việc chơi một câu lick của Chuck Berry ở khóa A thì hầu như không thể thực hiện được ở bất kỳ vị trí nào nhưng nó phải là vị trí số 5.

101

Các câu lick mà bạn chơi ở khóa A, mặt khác, hầu hết nằm thuận tiện ở vị trí thứ 2, và việc cố gắng chơi chúng ở bất kỳ vị trí nào khác thì chỉ làm cho mọi điều nên khó khăn cho chính bạn.

Đó là 1 điều trong những điều tuyệt nhất về guitar: Vị trí tốt nhất cho một phong cách nào đó không chỉ cho âm thanh tốt nhất với đôi tai của bạn, mà còn cho cảm giác tốt nhất với đôi tay của bạn. Và đó là điều làm cho việc chơi guitar thật vui.

Hãy chơi các bài hát này bằng cách đọc các số tab và lắng nghe CD; chú ý cảm giác tuyệt thế nào khi chơi hướng lên phía trên của cần đàn thay vì chơi hướng xuống ở vị trí mở, vị trí mà những người mới bắt đầu chơi.

Bất kỳ khi nào bạn chơi theo thế, hãy nhớ giữ tay trái của bạn ở một vị trí cố định, vuông góc với cần đàn, với ngón đầu tiên(ngón trỏ) nằm ở phím như quy định và các ngón khác nằm theo thứ tự, mỗi ngón một phím. Hãy giữ các ngón tay nằm trên mỗi phím tương ứng, thật gần với bàn phím, thậm chí khi chúng không nhấn bất kỳ note nào.

Đây là một vài thông tin hữu ích để giúp bạn chơi các bài hát:

- Simple Gifts. Để chơi bài này, bạn cần biết cách chơi ở vị trí số 4 ( hãy xem đoạn “Chơi theo thế,” phần trước trong chương này) và nghĩa của ‘tis(viết tắt của it is) và ‘twill(it will).

Bài hát này ở khóa A, chơi ở vị trí lý tưởng số 4, bởi vì bạn sẽ thấy tất cả các note nằm giữa các phím 4 và 7. Bởi vì bạn không chơi các dây buông trong bài này, hãy ghi nhớ ngón bấm và sau đó cố gắng chơi cùng giai điệu này ở các vị trí khác và khóa khác. Các ngón bấm là tương tự ở mọi vị trí, thâm chí các số tab có thay đổi. Tiến lên nào – hãy thử nó.

- Turkey in the Straw. Để chơi bài hát này, bạn cần biết cách chơi ở vị trí số 7 (xem phần “Chơi theo thế,” ở đoạn trước trong chương này) và câu nói “day-day to the wagon tongue” nghĩa gì.

- Aura Lee. Để chơi bài hát này, bạn cần biết cách chơi double-stops lên và xuống trên cần đàn trên các dây số 1 và số 2 (hãy xem phần được đặt tên một cách khéo léo “Chơi các double-stop lên và xuống trên cần đàn” phần trước trong chương này) và how to gyrate(xoay tròn) your pelvis(khung xương chậu) while raising one side of your upper lip.

Bạn chơi bản soạn lại này của “Aura Lee” – một bài hát nổi tiếng bởi Elvis Presley như “Love Me Tender” – dành riêng trên 2 dây đầu tiên, di chuyển lên và xuống trên cần đàn. Theo thang âm dạng double-stop mà bạn thực hành trong hình 7-5 và 7-6, 2 note của double-stop này di chuyển lên hoặc xuống cùng nhau. Trong “Aura Lee” 2 note của double-stop thỉnh thoảng di chuyển theo cùng hướng và thing3 thoảng theo các hướng đối nhau. Chỗ khác, một note của cặp di chuyển lên hoặc xuống trong khi note khác vẫn đứng yên. Những hướng pha trộn làm cho một bản soạn lại thú vị hơn. Hãy chơi và lắng nghe “Aura Lee” và bạn sẽ hiểu ý chúng tôi là gì.

102

Chú ý rằng các ngón bấm tay trái xuất hiện bên dưới các số tab. Nếu cùng một ngón tay chơi liên tiếp các note, nhưng ở các vị trí phím khác nhau, thì có một gạch nghiêng để chỉ cho biết việc dịch chuyển thế(vị trí) (như trong các ô 5, 7, và 9). Đối với việc picking của tay phải, hãy đánh tất cả dùng downstroke. Nhớ lập lại 4 ô nhịp đầu (như tín hiệu lặp lại đã chỉ ra) trước khi tiếp tục ô thứ 5. (Xem phụ lục A để biết thêm thông tin về các ký hiệu lặp lại.) Và thực hiện bài hát một cách mềm mại, như Elvis đã làm. Uh- Xin cảm ơn rất nhiều.

- The Streets of Laredo. Để chơi bài này, bạn cần biết cách chơi double-stops ngang qua cần đàn (hãy xem đoạn “Chơi các double-stop ngang qua cần đàn,” phần trước trong chương này) và cách phát âm light-hearted(vui vẻ, thư thái, hững hờ) trong khi chơi một bài nhạc về cuộc đối thoại với xác chết.

Trong bản soạn lại này, bạn sẽ chơi double-stop ngang qua các dây đàn, gần phần dưới(thấp) của cần đàn. Các double-stop làm cho bài hát có âm thanh sweet, pretty – just the thing for a tête-à-tête between a passerby (như passer: người trúng tuyển hạng thứ ở trường đại học) and a mummified(làm héo, làm khô) cowboy. Phần tab không chỉ ra các ngón bấm, nhưng bạn có thể sử dụng các ngón 1 và 2 cho các double-stop mà cách xa nhau một phím và ngón 1 và 3 cho các double-stop cách xa nhau 2 phím. Đối với việc picking của tay phải, hãy sử dụng downstrokes cho tất cả.

103

104

105

106

Chương 8. Mở rộng ra (Stretch out):Hợp âm chặn (Barre Chords)

Trong chương này

- Chơi các hợp âm chặn dựa trên E

- Chơi các hợp âm chặn dựa trên A

- Chơi các hợp âm power

- Chơi các bài hát với các hợp âm chặn và các hợp âm power

Trong chương này, chúng tôi sẽ chỉ bạn cách chơi các hợp âm mà giúp bạn có thể di chuyển trên toàn bộ cần đàn. Không như các hợp âm mở, các hợp âm mà chỉ có thể chơi ở một vị trí, các hợp âm có thể di chuyển sẽ có thể được chơi ở bất kỳ phím nào. Trong hầu hết các hợp âm có thể di chuyển này, mà bạn chơi được gọi là barre (chặn) (phát âm là “bar”).

Khi bạn chơi một hợp âm chặn, một trong những ngón tay trái của bạn (thường là ngón trỏ) sẽ nhấn xuống trên tất cả hoặc hầu hết các dây tại một phím nào đó, cho phép các ngón còn lại chơi một dạng hợp âm ở trên ngón chặn ngay tức thì. Hãy nghĩ ngón tay chặn của bạn như một dạng Nut có thể di chuyển được hoặc capo và các ngón tay còn lại của bạn sẽ chơi các dạng hợp âm mở nào đó phía trên nó một cách trực tiếp. ( Hãy xem chương 12 nếu bạn không chắc về cách một capo hoạt động.) Một hợp âm chặn có thể di chuyển được thì không bao gồm các dây buông – mà chỉ là các note được nhấn. Bạn có thể trượt các note

107

được nhấn này theo chiều lên hoặc xuống trên cần đàn để tới các vị trí khác nhau để hình thành lên các hợp âm khác với cùng tính chất.

Các hợp âm chặn hoặc đặt cơ sở trên E, các hợp âm mà tên của chúng lấy từ các note mà bạn chơi trên dây thứ 6( E thấp), hoặc trên cơ sở A, các hợp âm mà tên của chúng lấy từ các note mà bạn chơi trên dây số 5 (A). Chúng tôi bao hàm cả hai loại hợp âm này trong chương này. Chúng tôi cũng cung cấp cho bạn một bài học nhanh về các hợp âm power.

Chơi các hợp âm chặn trưởng dựa trên cơ sở E

Một trong những hợp âm chặn có thể di chuyển được hữu ích nhất là hợp âm dựa trên cơ sở hợp âm E mở. (Xem chương 4 nếu bạn không biết chắc về các ngón bấn của hợp âm E mở.) Cách tốt nhất để nắm bắt về hợp âm chặn này là bắt đầu với hợp âm E vị trí mở. Hãy theo các bước sau (như hình 8-1):

1. Hãy chơi hợp âm E mở, nhưng thay vì sử dụng các ngón bấm 2-3-1 thông thường trên tay trái, thì hãy dùng các ngón 3-4-2.

Cách bấm này để cho ngón tay trỏ của bạn được rảnh, nằm lượn trên các dây đàn.

2. Đặt ngón tay trỏ của bạn nằm ngang qua tất cả 6 dây đàn trên cạnh khác của Nut (cạnh mà hướng về phía các khóa đàn).

Việc đặt ngón trỏ của bạn ngang qua các dây đàn ở vị trí này không ảnh hưởng tới âm thanh của hợp âm bởi vì các dây đàn không rung động ở phía đó của Nut. Việc mở rộng ngón tay trỏ của bạn ngang theo chiều rộng của các dây đàn, tuy nhiên, giúp bạn “cảm nhận” được một vị trí hợp âm chặn. Đừng nhấn qúa mạnh đối với bất kỳ ngón tay nào của bạn, bởi vì bạn sẽ thực hiện di chuyển hợp âm.

3. Thực hiện xếp hình dạng của tay trái như ở bước 2 và trượt tay trái lên (hướng về phía thân của đàn) một phím để ngón tay trỏ của bạn sẽ chặn ngang phím đầu tiên và các ngón bấm hợp âm E tất cả cũng được dịch lên một phím.

Bây giờ bạn đang ở vị trí hợp âm F (bởi vì F thì nằm cao hơn E một phím), và bạn có thể nhấn xuống ngang qua tất cả các dây đàn với ngón tay trỏ.

4. Cố gắng chơi các note của hợp âm này một loạt cùng lúc (từ dây số 6 đến dây số 1) để xem tất cả các note có rung lên một cách rõ ràng hay không.

108

Vài lần đầu khi bạn thử chơi hợp âm này, có thể là khá may rủi bởi vì một vài note sẽ không kêu rõ ràng và các ngón tay trái của bạn sẽ bị đau.

Bạn có thể sử dụng kĩ thuật “trượt lên từ một hợp âm vị trí mở” để hình thành nên tất cả các hợp âm chặn trong chương này. (Nhưng chúng tôi cũng cung cấp cho bạn một cách tiếp cận khác trong các đoạn sau).

Sự khó khăn khi lần đầu bấm hợp âm chặn F là điều bình thường( có thể làm nản long, nhưng điều này là bình thường). Vì thế trước khi bạn từ bỏ cây guitar và mang lấy cây kèn sousaphone, ở đây là vài mẹo để giúp bạn nắm chặt được hợp âm quấy rầy này:

- Phải chắc rằng bạn đã xếp ngón tay cái của tay trái trên lưng của cần đàn guitar ở giữa ngón trỏ(first) và ngón giữa(second). Vị trí này cho bạn lực đòn bẩy tối đa trong việc sử dụng lực ấn.

- Thay vì giữ ngón tay trỏ thẳng hoàn toàn, thì hãy xoay nó một ít về phía các ngón cạnh nó.

- Di chuyển khuỷu tay trái của bạn gần với thân thể bạn, thậm chí gần đến điểm chạm vào thân thể bạn tại eo. Khi bạn chơi các hợp âm vị trí mở, bạn thấy rằng bạn thường giữ cho khuỷu tay hơi xa so với thân thể bạn. Điều này không giống với các hợp âm chặn đầy đủ.

- Nếu bạn nghe thấy tiếng các dây bị nghẹt, hãy kiểm tra xem rằng các ngón tay trái của bạn chỉ chạm vào các dây tương ứng và không ngăn chặn các dây gần kề kêu. Hãy cố gắng sử dụng nhiều lực nhấn hơn với các ngón tay và make sure to play on the very tips for extra clearance. Các cục chai và kinh nghiệm sẽ giúp bạn có được một âm thanh rõ ràng từ một hợp âm chặn.

109

Bạn cần sử dụng nhiều lực ấn hơn lên phím đàn ở phần đáy của cần đàn ( tại phím đầu tiên) so với khi ấn ở phím thứ 5. Thử di chuyển hợp âm F lên và xuống trên cần đàn đến các phím khác nhau trên cây guitar để chính bạn nhận ra rằng việc chơi hợp âm trở nên dễ dàng hơn khi bạn di chuyển lên phía trên(thanh hơn, phía thân đàn) cần đàn. Hãy nhớ rằng tính chất của dạng hợp âm này(hợp âm chăn) đó là có thể di chuyển. Không giống như điều mà những giáo viên trường sơ cấp đã nói với bạn, đừng ngồi tĩnh lặng như thế! Hãy di chuyển vòng quanh đi!

Việc chơi các hợp âm chặn trên một cây guitar điên thì dễ hơn so với trên một cây guitar mộc. Các cỡ dây (độ dày của các dây đàn) trên một cây guitar điện thì nhẹ hơn và action (khoảng cách của các dây tới bàn phím) thì ngắn hơn so với trên cây guitar mộc. Nếu bạn đang dùng một cây guitar mộc và gặp vấn đề với các hợp âm chặn, thì hãy thử chơi chúng trên một cây guitar điện (but not one of those el-cheapo ones from the pawn shop) và cảm nhận sự khác biệt. Thực hiện điều đó có thể tạo cảm hứng cho bạn kiên trì với hợp âm chận đó.

Tìm phím đúng

Bởi vì bạn có thể chơi hợp âm F theo dạng hợp âm chặn, bây giờ, thông qua sự kì diệu của các hợp âm có thể di chuyển, hãy chơi mọi hợp âm trưởng – tất cả là 12 hợp âm- đơn giản bằng cách di chuyển về phía trên của cần đàn(phía thân đàn). Để xác định tên của mỗi hợp âm, bạn đơn giản chỉ cần biết tên của note mà bạn đang chơi ở dây số 6(E trầm) – bởi vì tất các hợp âm chặn trên cơ sở E có tên từ dây số 6 (giống như hợp âm E mở vậy).

Hãy nhớ rằng mỗi phím là cách nửa cung so với mỗi phím gần kề. Vì thế nếu hợp âm chặn phím đầu tiên là F, thì hợp âm chặn ở phím thứ 2 là F#; hợp âm chặn ở phím thứ 3 là G; phím thứ 5 là G#; và tiếp tục như vậy xuống tới phím 12. Hãy xem phần phụ lục A có liệt kê tên của các note trên dây E trầm.

Sau khi bạn đã chạm tới phím thứ 12, các note lặp lại và vì thế các hợp âm chặn cũng lặp lại: Hợp âm chặn phím 13 là tương tự như phím đầu (F); phím thứ 14 thì tương tự như phím thứ 2 (F#); và vân vân. Các phím đàn hoạt động kiểu như một đồng hồ: 13 tương ứng với 1, 14 tương ứng 2, và vân vân.

Chơi các diễn tiến sử dụng các hợp âm chặn trưởng dựa trên E

Một cách tốt để hình thành sự thoải mái(comfort: an nhàn) và tự tin trong việc chơi các hợp âm chặn là hãy thực hành một chuỗi diễn tiến, đó là một chuỗi các hợp âm. Hãy nghe trên CD để thấy chuỗi 4 ô nhạc sử dụng các hợp âm chặn trưởng dựa trên cơ sở E

110

vang lên như thế nào. Hình 8-2 trình bày bài tập. Bên dưới khuông nhạc, bạn sẽ nhìn thấy phím đúng để đặt ngón tay trỏ cho mỗi hợp âm.

Chỉ sử dụng các hợp âm chặn cho bài tập này (và cho tất cả các bài tập trong chương này), thậm chí khi bạn biết chơi các hợp âm này ở dạng vị trí buông. Chơi hợp âm C, chẳng hạn, bằng cách chặn ở phím thứ 8. Sau đó chơi hợp âm A ở phím thứ 5, G ở phím thứ 3, và F ở phím đầu. Hãy sử dụng ngón bấm hợp âm F cho tất cả các hợp âm này.

Việc cố gắng làm cho tất cả 6 dây đều kêu một cách rõ ràng trong mỗi hợp âm có thể hơi mệt một chút. Bạn có thể để các ngón tay trái nghỉ ngơi một chút bằng cách nhả lực ấn khi bạn trượt từ hợp âm này tới hợp âm kế tiếp. Hành động nhấn và nhả có thể giúp bạn phát triển một chút khéo léo và giúp bạn khỏi bị mệt một cách dễ dàng. Bạn không cần phải lúc nào cũng giữ Vulcan Death grip trên cần đàn - mà chỉ cần giữ trong khi bạn đang strumming hợp âm.

Mặc dầu bạn có thể ngừng lại hoàn toàn nếu tay của bạn bắt đầu bị chuột rút, hãy cố gắng giữ ở đó; bởi vì bất kỳ sự gắng sức của thân thể, suy cho cùng sẽ xây dựng độ bền (sức mạnh) và độ ổn định của bạn. Without question, barre chords are the triathlon of guitar playing, so strap on your best Ironman regalia and feel the burn.

Để minh họa tính linh hoạt của các chuỗi hợp âm chặn, sau đây là một ví dụ có một gảy (strum) nhấn lệch (đảo phách) và âm thanh nghe một chút giống như âm nhạc của the Kinks. Trong sự nhấn lệch(đảo phách), hoặc là bạn strike (đánh) một hợp âm (hoặc note) tại nơi(thời điểm) mà bạn không mong đợi để nghe nó hoặc như lỗi khi đánh một một âm (hoặc note) so với nơi (thời điểm) mà bạn mong đợi để nghe nó. (The Kinks, trong trường hợp bạn không nhớ, là band proto-punk của Anh ở thập niên 60, đã cho chúng ta các bài hit cổ điển như “You Really Got Me,” “So Tired,” và “Lola.”) Hình 8-3 trình bày cho bạn cách chơi chuỗi diễn tiến này bằng cách sử dụng các hợp âm chặn trưởng. Bởi vì 2 hợp âm di chuyển lùi và tới quá nhanh, nên thời gian nhả (release time) (khoảng thời gian mà bạn có thể thả lỏng các ngón tay) thì rất ngắn. Hãy kiểm tra CD để nghe bài tập này vang lên như thế nào trước khi bạn thay thế cho Ray Davies trong một tour diễn thế giới.

111

Chơi các hợp âm chặn thứ, chặn 7th át, và chặn 7th thứ dựa trên E

Sau khi bạn quen thuộc với cảm nhận cơ bản và sự di chuyển của các hợp âm chặn trưởng, hãy bắt đầu việc thêm vào các đặc trưng hợp âm vào danh mục của bạn (which is a fancy French word for “bag of tricks” that musicians frequently use in discussing their music).

Một tin tức tốt lành là mọi thứ bạn biết về việc di chuyển các hợp âm quanh cần đàn – đạt được âm sắc rõ ràng, sự ngân vang của các note nhạc trong hợp âm (bạn có đang thực hành không?) và sự nhấn và nhả hợp âm mà bạn sử dụng trong việc chơi các hợp âm chặn trưởng – sẽ áp dụng cho các dạng khác của các hợp âm chặn. Việc chơi một hợp âm thứ(minor), một hợp âm 7th, hoặc một hợp âm 7th thứ dạng chặn thì một cách tự nhiên không khó hơn việc chơi một hợp âm chặn trưởng, vì thế khi bạn thực hành tất cả các hợp âm chặn khác nhau, bạn sẽ bắt đầu thấy rằng công việc đạt được dễ dàng hơn.

Các hợp âm thứ

Việc tạo hình một hợp âm chặn thứ dựa trên cơ sở E thì tương tự như tạo hình một hợp âm chặn trưởng, như chúng tôi diễn giải theo các bước ở đoạn “Chơi các hợp âm chặn trưởng dựa trên cơ sở E”, nằm ở trên trong chương này. Bạn có thể theo một tập hợp các bước đó, việc bắt đầu với một hợp âm mở Em nhưng các ngón bấm sẽ là 3-4( thay cho các ngón bạn thường nhấn hợp âm này, như chúng tôi trình bày trong chương 4). Kế tiếp, hãy đặt ngón trỏ của bạn ngang qua tất cả các dây đàn lên mặt trên của Nut và sau đó trượt nguyên hình dạng này lên một phím, kết quả ta được hợp âm Fm.

Như chúng tôi nói rõ trong đoạn “Chơi các hợp âm chặn trưởng dựa trên cơ sở E” nằm trước trong chương này, bạn có thể sử dụng kỹ thuật “trượt lên từ một hợp âm vị trí mở” để hình thành tất cả những hợp âm chặn trong chương này. Nhưng bạn không cần phải thực hiện xuyên suốt tất cả. Các bước đơn giản sau diễn giải cách khác để hình thành hợp âm chặn Fm:

1. Hãy chơi hợp âm chặn trưởng F.

Xem đoạn “Chơi các hợp âm chặn trưởng dựa trên cơ sở E” nằm ở trước trong chương này.

112

2. Nhấc ngón tay giữa khỏi dây số 3.

Ngón trỏ chặn, đã nhấn tất cả các dây đàn xuống rồi, nên bây giờ một note mới ở dây số 3 đã được nhấn.

Đó là mọi điều mà bạn cần làm. Bạn sẽ thay đổi ngay lập tức một hợp âm chặn trưởng thành một hợp âm chặn thứ chỉ bằng cách nhấc một ngón tay ra. Bây giờ, bằng việc sử dụng mô hình dây E thấp trong phụ lục A một lần nữa để tham khảo, bạn có thể chơi bất kỳ 12 hợp âm thứ nào bằng cách di chuyển hợp âm Fm đến các phím tương ứng. Để chơi hợp âm chặn Am, ví dụ, bạn chỉ cần di chuyển dạng chặn Fm đến phím thứ 5.

Nếu bạn không chắc rằng bạn có đang chơi một hợp âm chặn đúng phím hay không, hãy chơi luôn phiên hợp âm đó với dạng mở của nó, trước hết chơi dạng chặn và sau đó chơi dạng mở. Hãy chơi 2 phiên bản một cách kế tiếp mau lẹ vài lần. Bạn có thể nhận ra rằng hai hợp âm đó có giống hay khác nhau.

Hãy thử chơi chuỗi diễn tiến đơn giản sau trong hình 8-4, ở đây sử dụng cả hợp âm chặn trưởng và thứ.

Các dấu chấm nằm trên gạch (/ slash) trong ô 2 và 4 ở hình 8-4 được gọi là dấu ngắt âm (staccato). Chúng chỉ cho bạn hãy chơi các note ngắn lại. (Thay vì chơi daahh-daahh-daahh, hãy chơi di-di-di.) Cách tốt nhất để ngắt các note này là nhả tay bấm (tay trái) một cách nhẹ nhàng sau khi tay phải strum hợp âm. Các ký tự ở cuối của ô 2 và ô 4 được gọi là dấu lặng(rest). Đừng chơi gì trong suốt dấu lặng.

Còn bây giờ hãy thử chơi đoạn diễn tiến trình bày ở hình 8-4 cao hơn 2 phím so với các chỉ dẫn trong hình. Sự khác biệt 2 phím cho bạn một chuỗi D-Bm-Gm-A. Bạn sẽ dịch giọng chuỗi diễn tiến một cách nhanh chóng và dễ dàng – thông qua sự diệu kì của các hợp âm có thể di chuyển!

Các hợp âm 7th át

113

Các hợp âm 7th át (dominant) có âm thanh sắc nét hơn, phức tạp hơn so với các hợp âm trưởng thông thường. (Hãy xem chương 6 để biết thêm thông tin về các hợp âm 7th át.) Việc chuyển một hợp âm 7th át chặn từ một hợp âm chặn trưởng, tuy nhiên, cũng dễ dàng như chuyển từ một hợp âm chặn trưởng sang một hợp âm chặn thứ - bạn chỉ cần đơn giản nhấc một ngón tay ra khỏi( mặc dầu là ngón tay khác).

Để thay đổi một hợp âm chặn trưởng F thành một hợp âm chặn F7, hãy thực hiện các bước sau:

1. Hãy nhấn hợp âm chặn trưởng F, như chúng tôi trình bày ở đoạn “Chơi các hợp âm chặn trưởng dựa trên cơ sở E” nằm ở trước trong trường này.

2. Nhấc ngón tay thứ 4 (ngón út) khỏi dây số 4.

Ngón trỏ chặn bây giờ đã đè lên các note mới của hợp âm mới.

Hãy thử chơi đoạn diễn tiến đơn giản sau như trong hình 8-5 sử dụng các hợp âm chặn trưởng và 7th át.

Việc chơi đoạn diễn tiến ở hình 8-5 ở các khóa khác nhau thì cũng đơn giản như việc bắt đầu ở một vị trí khác ngoài phím thứ 13 và di chuyển cùng khoảng cách. Từ bất kỳ đầu mà bạn bắt đầu, đơn giản hãy di chuyển lên 2 phím cho hợp âm thứ 2, lên 3 phím cho hợp âm thứ 3, và sau đó lên 2 phím cho hợp âm thứ 4 và cuối cùng.

Hãy gọi tên của các hợp âm mà bạn chơi thật lớn lên để giúp bạn liên kết tên của chúng với các vị của chúng. Mặc dầu các hợp âm loại có thể di chuyển được thực hiện chuyển giọng trên guitar ngon ơ, nhưng việc ghi nhớ mẫu di chuyển tay thay vì nhớ các tên hợp âm thực sự mà bạn đang chơi thì quá dễ dàng. Vì thế hãy đọc các tên của các hợp âm khi bạn chơi chúng. Sau khi mà làm điều đó đủ thời gian, theo bản năng bạn sẽ biết rằng bạn chơi hợp âm B7 ở phím thứ 7.

114

Các hợp âm 7th thứ

Các hợp âm 7th thứ có âm thanh dịu hơn(softer), jazzier (jazzy: thuộc về nhạc jazz, vui nhộn, tức cười) và phức tạp hơn so với các hợp âm thứ thông thường. (Hãy xem chương 6 để biết thêm thông tin về các hợp âm 7th thứ.) Bạn có thể hình thành một hợp âm chặn 7th thứ dựa trên E đơn giản bằng cách kết hợp động tác mà bạn thực hiện đổi từ hợp âm trưởng sang thứ và động tác đổi tử trưởng qua 7th át.

Để thay đổi hợp âm chặn trưởng F thành hợp âm chặn Fm7, hãy theo các bước sau:

1. Hãy nhấn hợp âm chặn trưởng F, như chúng tôi đã trình bày trong đoạn “Chơi các hợp âm chặn trưởng dựa trên cơ sở E,” nằm ở trước trong chương này.

2. Nhấc ngón tay thứ 2(ngón giữa) khỏi dây số 3 và ngón tay thứ 4 (ngón út) khỏi dây số 4.

Ngón trỏ chặn, đã đè tất cả các dây đàn xuống, nên các note mới đã được nhấn ở dây số 3 và 4.

Để giúp bạn quen với các hợp âm chặn 7th thứ, chúng tôi đưa ra bài tập như trong hình 8-6. Hãy lắng nghe CD để thấy âm thanh vang lên thế nào.

Bạn có thể chơi chuỗi diễn tiến này ở các khóa khác nhau đơn giản bằng cách hãy bắt đầu từ các hợp âm khác G và di chuyển theo cùng số phím trong quan hệ để có được hợp âm tiếp theo. Sau hợp âm đầu tiên, đơn giản hãy di chuyển lên 4 phím để có được hợp âm thứ 2 và sau đó lùi về 2 phím để có hợp âm thứ 3; sau đó lùi về 2 phím nữa để có hợp âm cuối. (Bạn có thể dịch giọng các chuỗi diễn tiến khác trong phần này theo cách tương tự.)

Hãy đọc tên của các hợp âm khi bạn chơi chúng. Hãy đọc chúng thật to. Chúng tôi không nói đùa đâu. Bạn muốn bệnh vì nghe giọng của bạn khi đọc tên của các hợp âm này tại các vị trí đúng của chúng để mà bạn có thể không bao giờ quên rằng bạn chơi hợp âm Am7 – hợp âm thứ 3 của dãy diễn tiến này – tại phím thứ 5.

115

Điều mà chúng tôi nghe thấy là gì? Đó phải là tiếng bước chân của tuần lộc nhỏ. Trong bài tập tiếp theo, như trong hình 8-7, bạn có thể thực hành nhiều các hợp âm chặn dựa trên E trên cả cần đàn bằng cách chơi chuỗi hợp âm trong bài hát “We Wish You a Merry Christmas.” Để giúp bạn “hạ đo ván” bài tập này, chúng tôi có chỉ phím nào mà ngón tay trỏ cần chặn cho mỗi hợp âm.

Nếu bạn đang chơi một cây guitar mộc dây nylon, bạn không có thể chơi hợp âm Em ở phím thứ 12 – vì thân của cây đàn nằm tại đó. (thâm chí trên một cây guitar mộc dây thép, hợp âm này thì hầu hết là không thể chơi.) Hãy thay thế bằng hợp âm Em vị trí mở, nhưng hãy chơi nó với các ngón bấm 3 và 4 để giữ cho tay của bạn ở dạng chặn.

Trong phần “Chơi các bài nhạc với các hợp âm chặn và các hợp âm power” nằm ở sau trong chương này, bạn có thể thấy một phiên bản khác của bài nhạc này, với giai điệu và lời – nhưng đừng nhảy tới đó cho tới khi bạn làm chủ được các hợp âm chặn dựa trên A!

Chơi các hợp âm chặn trưởng (Major) dựa trên A

Trong đoạn sau, chúng tôi sẽ giới thiệu một nhóm các hợp âm chặn trưởng khác, các hợp âm chặn dựa trên A. Hợp âm chặn trưởng dựa trên A trông giống như hợp âm mở A (nhưng khác ngón bấm, mà chúng tôi sẽ cung cấp cho bạn trong đoạn sau) và tên của nó lấy từ dây số 5 tại nơi mà bạn đặt ngón trỏ chặn.

Phần lý thuyết dường như đơn giản, nhưng bạn có thể thấy rằng hợp âm này khó hơn một chút khi chơi so với hợp âm chặn trưởng dựa trên E. Đừng lo lắng, tuy nhiên, bởi vì chúng tôi có một sự đợi thay thế cho bạn mà chỉ bao hàm 2 ngón tay thôi. Nhưng bây giờ, theo ý định chúng tôi và hãy tạo ra hợp âm chặn dựa trên A theo hướng của đoạn sau.

Ngón bấm hợp âm chặn trưởng dựa trên A

116

Để nhấn một hợp âm chặn trưởng dựa trên A, hãy theo các bước sau:

1. Hãy nhấn hợp âm A mở, nhưng thay vì sử dụng các ngón bấm thông thường 1-2-3, thì hãy dùng 2-3-4.

Các ngón bấm này để cho ngón tay trỏ(index) được rảnh rang và sẵn sàng là ngón chặn. (Nếu bạn không chắc về cách nhấn hợp âm A mở, hãy xem chương 4.)

2. Hãy đặt ngón tay trỏ nằm ngang qua tất cả 6 dây đàn, ở đây là nằm trên Nut (phía hướng về the tuning pegs).

Bởi vì bạn chỉ gảy (strum) 5 dây trên đối với các hợp âm chặn dựa trên A, nên bạn có thể đặt ngón tay trỏ chỉ ngằm ngang qua 5 dây thôi. Nhưng hầu hết các tay guitar đặt ngón trỏ ngang qua hết cả 6 dây bởi vì họ cảm thấy thoải mái và nó cũng ngăn dây mở số 6 khỏi kêu lên tình cờ.

Việc đặt ngón trỏ nằm ngang qua các dây đàn tại điểm này không ảnh hưởng tới âm thanh của hợp âm bởi vì các dây đàn không rung động về phía đầu cần của Nut. Bây giờ thì, bạn hãy cảm nhận vị trí của hợp âm. Đừng nhấn quá mạnh với bất kỳ ngón tay nào của bạn bởi vì bạn sẽ thực hiện di chuyển hợp âm.

3. Giữ lấy hình dạng tổng thể tay trái từ bước 2 và trượt lên một phím để ngón tay trỏ của bạn chặn vào phím đầu tiên, kết quả ta có hợp âm Bb, như trong hình 8-8.

Sau khi bạn nhấn hợp âm Bb, hãy thử chơi các note của hợp âm này 1 dây một lần khảy (từ dây 5 tới dây 1) để xem tất cả các note có vang lên một cách rõ ràng không. Nếu bạn thấy các note bị nghẹt, hãy kiểm tra xem các ngón bấm tay trái của bạn có chỉ đang chạm vào các dây tương ứng hay không và không ngăn chặn các dây kế cận rung động. Nếu âm thanh vẫn còn bị nghẹt, bạn cần sử dụng thêm lực nhấn với các ngón tay của bạn.

117

Tìm phím đúng

Bởi vì bạn có thể chơi hợp âm Bb dạng một hợp âm chặn, nên bạn có thể chơi tất cả 12 hợp âm chặn trưởng dựa trên A – nhưng chỉ khi bạn biết tên của tất cả các note trên dây 5. Tất cả các hợp âm chặn dựa trên A có được tên của chúng từ dây số 5( cũng giống như tên của hợp âm A mở). Hãy kiểm tra trong phụ lục A để biết tên của các note trên số 5.

Các note và các phím đàn làm việc như một đồng hồ vậy. Sau khi bạn đi qua 12, chúng lại lặp lại, vì thế phím thứ 13 là tương đương như phím đầu (Bb); phím thứ 14 là tương đương như phím thứ 2(B); và vân vân.

Các diên tiến sử dụng các hợp âm chặn trưởng dựa trên A

Trước khi chơi bất kì chuỗi diễn tiến nào mà sử dụng các hợp âm chặn trưởng dựa trên A, bạn cần biết rằng hầu hết các tay guitar không nhấn chúng như chúng tôi diễn giải ở trước (tham khảo hình 8-8). Hãy nhìn vào hình 8-9 sẽ thấy một cách khác để nhấn hợp âm này (dùng hợp âm Bb ở phím đầu tiên làm ví dụ). Hãy dùng ngón nhẫn của bạn để chặn 3 note ở phím thứ 3.

118

Điều đòi hỏi khéo léo về ngón bấm ở bức hình 8-9 đó là, để dây số có thể kêu được, bạn cần phải uốn cong ngón tay thứ 3(ngón nhẫn), cần nâng cao khớp đốt giữa của ngón tay khỏi chạm vào dây số 1 (hãy xem hình). Một số người có thể thực hiện được tư thế này và một số người thì không thể - Nó gần giống như việc lắc lư đôi tai của bạn. Người mà không thể (nhấc khớp ngón tay, chứ không phải lắc lư đôi tai) có thể sử dụng kiểu bấm trong hình 8-10.

Nếu bạn bấm gam chặn Bb như trong hình 8-10 (dây số 1 không được chơi), phải chắc rằng dây số 1 không được kêu lên ngẫu nhiên. Để giữ cho dây số 1 hoàn toàn hoặc là tránh đánh vào nó hoặc là làm câm nó (làm mờ nó bằng cah1 chạm nhẹ vào) với ngón tay nhẫn.

Hãy thử nghiệm với tất cả 3 ngón tay và chọn một cách bấm hợp âm này mà bạn cảm thấy tốt nhất với bạn, nhưng chúng tôi đoán rằng bạn sẽ quết định chọn dạng như trong hình 8-10.

Bài tập trình bày trong hình 8-11 sử dụng các hợp âm chặn trưởng dựa trên cơ sở A và có âm thanh rock nhẹ thời kỳ đầu. Bạn có thể để cho các ngón bấm được nghỉ bằng cách nhả lực ần khi bạn trượt từ hợp âm này tới hợp âm kế. Đừng quên rằng bạn có thể (và nên như vậy) chuyển giọng chuỗi diễn tiến này sang các key khác bằng cách di chuyển tổng thể mẫu tới một điểm bắt đầu mới. Hãy làm như vậy cho tất cả các bài tập trong chương này. Chú ý, cũng, các dấu ngắt tiếng trong ô thứ 4 (play it di-di-di).

Chơi các hợp âm chặn thứ, 7th át, 7th thứ, và 7th trưởng dựa trên A

119

Chúng tôi thừa nhận rằng hợp âm chặn trưởng dựa trên A có chút gì đó hơi gượng so với các ngón bấm tay trái. Nhưng tất cả các dạng hợp âm khác thì mà dựa trên A lại rất hợp lý và phù hợp với các ngón bấm tay trái.

Với phần còn lại của các dạng hợp âm dựa trên A, bạn sẽ không đụng với việc phải xoắn ngón tay một cách không tự nhiên hoặc đụng phải các kỹ thuật mới. Mọi điều bạn cần làm là nắm được nhiều dạng khác nhau để làm giàu thêm tự điển hợp âm của bạn.

Các hợp âm thứ

Để hình thành một hợp âm chặn thứ dựa trên A bạn có thể theo các bước tương tự như chúng tôi đã diễn giải trong đoạn “Chơi các hợp âm chặn trưởng (Major) dựa trên A” nằm ở trước trong chương này: Hãy chơi hợp âm Am mở bằng cách dùng các ngón bấm 3-4-2 thay vì 2-3-1 (xem chương 4 nếu bạn cần trợ giúp về hợp âm Am mở); hãy đặt ngón tay trỏ nằm ngang qua tất cả các dây đàn trên mặt của Nut; và sau đó trượt hình dạng này lên một phím và nhấn chắc xuống, kết quả được hợp âm Bbm.

Nhưng nếu bạn muốn, bạn có thể hình thành hợp âm Bbm bằng cách bỏ việc “trượt hình dạng lên trên từ một hợp âm mở” và chỉ cần đặt các ngón bấm trực tiếp lên các phím, như được chỉ trong sợ đồ hợp âm đầu tiên trong hình 8-12. Hãy kiểm tra từng dây đàn một để thấy được rằng chúng có rõ ràng và không bị dơ. (Chú ý rằng chúng tôi sẽ đi thằng về trước và cũng sẽ cung cấp cho bạn các ngón bấm của các hợp âm Bb7, Bbm7, và Bbmaj7 trong hình 8-12. Sẽ có thêm các hợp âm này trong những đoạn sau.)

Chuỗi diễn tiến trong hình 8-13 là đặc trưng của một bài hát rock, folk, hoặc country và sử dụng cả 2 loại hợp âm chặn trưởng và thứ dựa trên A. Hãy tham khảo phụ lục A nếu bạn cần phím thích hợp (trên dây A) cho mỗi hợp âm.

120

Các hợp âm 7th át

Các hợp âm 7th át kêu lên kiểu bluesy(blues: điệu nhảy blues, nhạc blues) và funky(sôi nổi, hiện đại) so với các hợp âm trưởng. Hãy tham khảo hình 8-12 để thấy các ngón bấm của hợp âm chặn Bb7 (dựa trên A). Hãy nhớ rằng bạn có thể “trượt hình dạng lên” tới hợp âm này từ một hợp âm A7 vị trí mở, 2 ngón tay (nhưng chỉ khi bạn dùng các ngón bấm 3-4 cho hợp âm A7).

Bây giờ thì, hãy dùng sơ đồ dây A(dây số 5) trong phụ lục A để tìm được phím thích hợp cho bất kỳ hợp âm chặn nào dựa trên A, hãy thử chơi chuỗi diễn tiến đơn giản như trong hình 8-14, mà trong đó dùng các hợp âm chặn trưởng, thứ, và 7th át dựa trên A.

Các hợp âm 7th thứ

Các hợp âm 7th thứ âm nghe soft(mềm, dịu) và jazzy(jazzy: thuộc về nhạc jazz, vui nhộn, tức cười) so với các hợp âm trưởng. Bạn có thể hình thành hợp âm Bbm7 bằng cách “trượt hình dạng lên” từ hợp âm Am7 thế mở (sử dụng các ngón bấm 3-2), hoặc bạn có thể tham khảo ví dụ trình bày trong hình 8-12 và đặt ngón tay trỏ trực tiếp lên các phím để có được hợp âm Bbm7.

Chuỗi diễn tiến đơn giản mà hình 8-15 trình bày có sử dụng dành riêng cho các hợp âm 7th thứ. Nếu bạn cần, hãy sử dụng phụ lục A để tìm ra phím thích hợp cho mỗi hợp âm.

121

Các hợp âm 7th trưởng

Các hợp âm 7th trưởng nghe âm thanh bright (sáng, tươi) và jazzy(thuộc về nhạc jazz, vui nhộn, tức cười) so với các hợp âm trưởng. (Bạn có thể chú ý rằng, trong đoạn các hợp âm chặn dựa trên E nằm ở trước trong chương này, chúng tôi không bao gồm vào hợp âm 7th trưởng. Đó là bởi vì bạn không chơi các hợp âm này ở dạng chặn.)

Bạn có thể hình thành hợp âm Bbmaj7 bằng cách “trượt hình dạng lên” từ hợp âm Amaj7 vị trí mở (hãy sử dụng các ngón bấm 3-2-4) hoặc bạn có thể tham khảo ví dụ trình bày trong hình 8-12 và hãy đặt các ngón bấm trực tiếp lên các phím đối với hợp âm chặn, như trong hình chỉ cho bạn.

Chuỗi diễn tiến đơn giản trong hình 8-16 sử dụng các hợp âm chặn 7th trưởng và các hợp âm chặn 7th thứ dựa theo A. Hãy dùng phụ lục A để tìm ra phím thích hợp cho mỗi hợp âm, nếu cầu thiết.

Bài tập trình bày trong hình 8-17 sử dụng chuỗi diễn tiến hợp âm của bài hát “We Wish You a Merry Christmas.” Hãy chơi chuỗi diễn tiến này mà chỉ sử dụng các hợp âm chặn dựa trên A. Để giúp bạn hạ đo ván bài tập này, chúng tôi có chỉ dẫn phím cần đặt ngón chặn cho mỗi hợp âm. Bạn có thể chú ý rằng các hợp âm các hợp âm sử dụng khác với những hợp âm cũng cho bài này ở ví dụ khác (hình 8-7), nhưng đó chỉ bởi vì chúng ta dùng một hợp âm khởi đầu khác ở đây.

Nếu bạn đang dùng một cây guitar mộc dây nylon, bạn sẽ gặp rắc rồi trong việc chơi hợp âm Am ở phím 12 – bởi vì thân đàn nằm vào vị trí đó. ( và việc chơi hợp âm này cũng khó khăn trên một cây guitar mộc dây thép) Hãy thay thế bằng hợp âm Am thế mở nhưng sử dụng các ngón bấm 3-4-2 để giữ cho tay của bạn ở thế chặn.

Bạn có thể chú ý rằng, việc chơi các bài tập trong chương này – và đặc biệt trong các bài tập “We Wish You a Merry Christmas” – tay trái của phải phải nhảy quãng đột

122

xuất, giật giật. Đó là bởi vì bạn đang chơi tất cả những hợp âm được yêu cầu là chỉ sử dụng một dạng hợp âm – hoặc là dạng dựa trên E hoặc dạng dựa trên A. Nếu bạn kết hợp các dạng lại, bạn hãy chọn lựa hợp âm dựa trên cơ sở tiết kiệm thời gian di chuyển. Các hợp âm F và Bb cách nhau đến 5 phím nếu bạn dùng cùng dạng chặn, nhưng chúng sẽ ở cùng một phím (phím đầu) nếu bạn sử dụng dạng dựa trên E cho hợp âm F và dạng dựa trên A cho hợp âm Bb. Việc chơi các bài hát sẽ thực sự trở nên dễ dàng hơn khi bạn thêm vào các hợp âm vào trong kho kiến thức của bạn.

Hãy xem nó dễ hơn nhiều thế nào trong việc chơi bài “We Wish You a Merry Christmas” khi bạn sử dụng cả các hợp âm chặn dựa trên A và các hợp âm chặn dựa trên E cùng nhau, hãy kiểm tra trong đoạn “Chơi các bài nhạc với các hợp âm chặn và các hợp âm power”, nằm ở sau trong chương này.

Wailing on Power Chords

Hợp âm Power – đừng nhầm lẫn với power cord (cable mà cung cấp điện tới your motorized shoe buffer) –thông thường không gì hơn là 2 hoặc 3 note trầm nhất của hợp âm chặn hoặc hợp âm vị trí mở. Các tay guitar thường dùng các hợp âm power trong nhạc rock để tạo ta âm thanh thấp(cao độ,trầm). Các hợp âm Power thì dễ chơi hơn so với các hợp âm phiên bản đầy đủ của chúng và không chứa đựng tính chất trưởng hoặc thứ trong chúng, vì thế chúng có thể thay thế cho cả 2 loại hợp âm (trưởng, thứ). Plus they’re loads of fun to play!

Ngón bấm các hợp âm power

Một hợp âm power chỉ bao gồm 2 note khác nhau mà luôn luôn cách nhau 5 bậc, chẳng hạn như A-E hoặc C-G. (Hãy đếm các tên ký tự trên các ngón tay của bạn để chứng thực rằng A tới E và C tới G là cách nhau 5 bậc. ) Nhưng hợp âm thực sự khi bạn chơi có thể bao gồm nhiều hơn 2 dây, bởi vì bạn có thể gấp đôi mỗi note mà làm thành hợp âm power – đó là, việc chơi cùng note ở các octave khác nhau (và trên các dây khác nhau).

123

Cũng như hầu hết các hợp âm khác, các hợp âm power cũng ở 2 dạng:

- Vị trí mở: Chúng tôi sẽ trình bày cho bạn các hợp âm power vị trí mở thông dụng nhất – E5, A5, và D5 trong hình 8-18. Các hợp âm này đơn thuần là 2 hoặc 3 note trầm nhất của các hợp âm E, A và D ở vị trí mở mà chúng tôi đã diễn giải trong chương 4.

- Có thể di chuyển được: Các hợp âm power có thể di chuyển được đơn giản là 2 hoặc 3 note trầm nhất của các hợp âm chặn có thể di chuyển được mà chúng tôi đã diễn giải trong đoạn trước của chương này. Bởi vì là trường hợp các hợp âm chặn có thể di chuyển được, nên các hợp âm power có thể di chuyển được thì hoặc là dựa trên E, có được tên của chúng từ các note mà bạn chơi trên dây số 6th( E trầm), hoặc là dựa trên A, có được tên của chúng từ các note mà bạn chơi trên dây số 5th (A). Hình 8-19 trình bày các hợp âm F5 và Bb5 mà bại chơi ở phím đầu tiên, nhưng bạn có thể di chuyển các hợp âm này tới bất kỳ phím nào, việc xác định tên của chúng từ các sơ đồ trong phụ lục A trên dây E thấp và dây A. Hoặc, tốt hơn, bạn có thể xác định các tên của hợp âm power bằng cách ghi nhớ tên của các note trên dây số 6 và số 5 – và sau đó bạn không cần sử dụng đến phụ lục A nữa! (gợi ý, gợi ý.)

124

Đối với hầu hết các bè, các hợp âm power 2 và 3 dây thì có thể thay thế cho nhau. Đối với một vài hoàn cảnh, chẳng hạn như chơi những hình nhịp điệu phong cách Chuck Berry mà chúng tôi sẽ trình bày trong chương 10, thì phiên bản 2 dây là thích hợp hơn.

Sử dụng các hợp âm power như thế nào

Trong nhạc rock đi về trước đây (và thậm chí trong nhạc pop), các tay guitar thường thay thế các hợp âm power cho các hợp âm full để dành cho phần đệm nhạc (đặc biệt, phần guitar rhythm) một âm thanh mỏng hơn, thưa thớt hơn so với các hợp âm full. Theo chiều hướng này thì đôi khi làm cho phần vocal được nổi bật lên hơn so với phần nhạc. Bạn có thể nghe loại âm thanh hợp âm power này trong các bài hát cũ chẳng hạn như “Johnny B.Goode” và “Peggy Sue.” Chuỗi diễn tiến trong hình 8-20 minh họa các hợp âm power mà bạn dùng để sản sinh ra kiểu âm thanh này. Hãy chơi chuỗi diễn tiến này bằng cách dùng các hợp âm power 2 dây hoặc 3 dây.

125

Ký tự > được gọi là dấu trọng âm (accent). Nó nói cho bạn rằng hãy chơi các note được nhấn to hơn một chút so với các note khác – để làm nổi bật chúng. Thỉnh thoảng những dấu nhấn hình thành một mẫu nhịp điệu (rhythmic) mà cung cấp cho bài hát một hương vị nào đó, chẳng hạn như hương vị Latin, hương vị Bo Diddley, hương vị polka, hoặc thậm chí là hương vị tutti-frutti(mứt quả thập cẩm).

Trong nhạc Hard-rock và heavy-metal, các guitarist thường thích sử dụng một âm thanh nặng hoặc gở trong các hợp âm. Họ đạt được điều này bằng cách chơi các note thấp với sự bóp méo âm thanh (distortion) – một tín hiệu âm thanh fuzzy(xoán, mờ) kết quả đó có được khi tín hiệu quá mạnh đối với sơ đồ mạch điện của amply và các loa để có thể xử lý hiệu quả.

Các tay guitar hard-rock và heavy-metal thích chơi các hợp âm power power thay vì các hợp âm full ngay lập tức, bởi vì âm thanh của các hợp âm power thấp hơn (chính bởi vì chúng không bao gồm các dây cao). Hơn nữa, âm sắc bị méo thực sự giới hạn họ về các hợp âm power, bởi vì các hợp âm full (các hợp âm với hơn 2 note khác nhau) có thể phát âm như bùn với sự bóp méo âm thanh nặng.

Chuỗi diễn tiến trình bày trong hình 8-21 minh họa một câu riff đặc trưng của nhạc heavy-metal sử dụng cả những hợp âm power ở vị trí mở và các hợp âm có thể di chuyển. Nếu bạn có một cây guitar điện và một amply hoặc thiết bị effect mà cho phép bạn overdrive(bắt làm quá sức) nó (hãy xem chương 15), dùng để bóp méo âm thanh trong khi thực hành chuỗi diễn tiến này, cũng như khi bạn nghe trên CD. Bạn có thể sử dụng hoặc là các hợp âm phiên bản 2 hoặc là 3 dây, nhưng phiên bản 2 dây là cái bạn sẽ nghe được trên CD.

126

Để chơi một bài hát với các hợp âm power đúng cách, hãy xem “Power Play” trong đoạn sau, “Chơi các bài nhạc với các hợp âm chặn và các hợp âm power”.

Chơi các bài nhạc với các hợp âm chặn và các hợp âm power

Bây giờ thì điều vui bắt đầu. Bạn sẽ thăm lại một bài hát mà bạn có thể đã chơi rồi ở một vài điểm (tham khảo hình 8-7 và 8-17, nằm ở trước trong chương này), nhưng trong đoạn này, chúng tôi chỉ cho bạn cách chơi một bài hát dễ hơn nếu bạn kết hợp các dạng hợp âm khác nhau.

Dưới đây là một vài thông tin hữu ích về các bài hát để giúp bạn dọc đường:

- We Wish You a Merry Christmas. Để chơi bài “We Wish You a Merry Christmas,” bạn cần biết cách chơi các hợp âm chặn dựa trên E (xem đoạn “Chơi các hợp âm chặn dựa trên E” và “Chơi các hợp âm chặn thứ, 7th át, và 7th thứ dựa trên E” nằm ở trước trong chương này); cách chơi các hợp âm chặn dựa trên A (xem đoạn “Chơi các hợp âm chặn trưởng (Major) dựa trên A” và đoạn “Chơi các hợp âm chặn thứ, 7th át, 7th thứ, và 7th trưởng dựa trên A” , nằm ở trước trong chương này); and how to play guitar dressed in a stuffy costume with a pillow strapped to your belly.

Chuỗi diễn tiến hợp âm cho bài hát này xuất hiện 2 lần trong các bài tập ở chương này, lần đầu là trong bài tập hinh 8-7, khi thực hành các hợp âm chặn dựa trên E, và sau đó một lần nữa trong bài tập hình 8-17, khi thực hành các hợp âm chặn dựa trên A. Trong mỗi bài tập đó, tay trái của bạn phải nhảy vòng quanh cả bàn phím. Bằng cách kết hợp cả 2 loại hợp âm chặn (dựa trên E và dựa trên A), bạn có thể chơi bài nhạc này mà sự di chuyển của tay trái được giảm đi nhiều. Việc tối thiểu hóa sự di chuyển của tay trái cho phép bạn chơi vừa nhanh hơn và mượt mà hơn cũng như đạt được voice leading tốt hơn, hoặc sự mượt mà của chuyển động giữa các note riêng biệt của các hợp âm chuyển đổi. ( Voice leading tốt sẽ sinh ra một âm thanh dễ chịu.)

- Power Play. Để chơi “Power Play” bạn cần biết cách nhấn và chơi các hợp âm power A5, G5, và D5 (hãy xem đoạn “Ngón bấm các hợp âm power” nằm ở trước 1 chút trong chương này) và cách quay amply của bạn lên tới 11 (à laSpinal Tap).

“Bài hát này” là 4 ô diễn tiến rock mà chỉ sử dụng các hợp âm power. Có vô số các bài hát rock sử dụng chuỗi diễn tiến này, gồm có như bài kinh điển “Takin’ care of Business,” bởi Bachman-Turner Overdrive (được biết như là BTO với các bạn bè của họ).

Hãy nhớ rằng các hợp âm power đó thì rất phù hợp với âm thanh nặng, được bóp méo, và bạn có thể sử dụng chúng tại chỗ của các hợp âm phiên bản full của hợp âm bởi vì chúng thường chúng thường có cùng 2 hoặc note trầm. Ví thế nếu bạn cảm nhận được một chút nổi loạn, tinh qoái, hãy vặn amply của bạn và chơi bài “We Wish You a Merry Christmas” với các hợp âm power, âm thanh vị vặn méo, và ở một tư thế rất tệ.

127

128

Chương 9: Special Articulation (sự khớp lại với nhau, khớp, cách đọc rõ ràng): Making the Guitar Talk

Trong chương này

- Chơi hammer-on

- Chơi pull-off

- Chơi trượt(slides)

- Chơi đẩy dây (bends)

- Chơi vibratos( tiếng rung)

- Muting (nghẹt tiếng)

- Chơi theo một phong cách tích hợp

Articulation(sự khớp lại) ám chỉ đến cách bạn chơi và kết nối các note nhạc trên cây guitar. Hãy xem xét nó theo cách này: Nếu các cao độ và nhịp điệu(rhythms) là những gì bạn chơi, thì articulation là cách bạn chơi chúng như thế nào. Ariticulation làm cho âm nhạc của bạn nên diễn cảm và cho phép bạn làm cho cây guitar trở nên nói được, hát, và thậm chí là khóc. Từ quan điểm chuyên môn, những kỹ thuật articulation như là hammer-ons, pull-offs, slides(trượt), và đẩy dây(bends) cho phép bạn kết nối các note nhạc lại với nhau một cách mượt mà, cho vào việc chơi guitar của bạn một chút “mỡ” (một điều tốt, đặc biệt là khi chơi nhạc blues). Vibratos thêm vào cuộc sống để kéo dài (hoặc giữ) các note nhạc otherwise just sit there like a dead turtle, và muting(nghẹt tiếng) tạo hình cho âm thanh của các note nhạc, tao cho chúng một âm thanh tight(căng), ngắt(clipped).

Khi bạn bắt đầu kết hợp articulation trong việc chơi của bạn, bạn bắt đầu để làm chủ hơn nữa cây guitar của bạn. Bạn không đơn thuần là chơi “cho đúng” – nhưng bạn sẽ chơi với một phong cách nào đó.

129

Chương này sẽ chỉ cho bạn cách chơi tất cả các kỹ thuật articulation mà bạn cần để làm cho cây guitar biết nói. Sau khi chúng tôi trình bày mỗi kỹ thuật, chúng tôi sẽ trình bày vài câu lick có đặc tính rõ rệt (idiomatic licks) ( chuỗi note nhạc mà phù hợp một cách tự nhiên với một kỹ thuật hoặc phong cách nào đó) để bạn có thể chơi kỹ thuật đó đúng trong ngữ cảnh.

Hiểu rõ ý nghĩa( Getting the hang of sth) của Hammer-Ons

Hammer-on không ám chỉ tới việc chơi guitar trong khi mang dây lưng; mà hammer-on là một kỹ thuật tay trái để cho phép bạn chơi 2 note từ dưới(trầm trước, cao sau) lên kề nhau bằng cách chỉ khảy note đầu tiên. Kỹ thuật hammer-on tên của nó xuất phát từ động tác của ngón tay trái, những động tác mà như đánh búa xuống bàn phím, làm cho note của phím đó vang lên. Kỹ thuật này thực hiện sự kết nối giữa các note nhạc phát âm mượt mà – sẽ mượt mà hơn so với khi bạn đơn thuần chỉ khảy từng note riêng biệt.

Trong kí hiệu tab (và chuẩn) trong sách này, ký tự H với một dấu luyến âm (slur) (một đường vòng cung) chỉ cho biết đó là hammer-on. (Dấu luyến âm(slur) kết nối số phím đầu tiên, hoặc note, của hammer-on với note cuối và ký tự H sẽ xuất hiện ở trung tâm của dấy luyến âm. Nếu 2 ký tự H xuất hiện bên trên dấu luyến âm, Hammer-on gồm 3 note).

Chơi kỹ thuật hammer-on

Hammer-on trên dây mở (hoặc hammer, dạng ngắn) là kiểu dễ nhất khi chơi. Hãy theo các bước sau để thực hiện Hammer-on trên dây mở, như trong hình 9-1a:

1. Gảy dây G mở (dây thứ 3) như bạn thường gảy.

2. Trong khi dây mở này vẫn còn đang vang, hãy sử dụng một ngón tay trái của bạn(lấy ví dụ, ngón trỏ) để gõ một cách thật nhanh và thật chắc (hoặc slam hoặc vỗ, nếu bạn thích) vào phím thứ 2 của cùng dây đó.

Nếu bạn đưa ngón tay của bạn xuống với đủ lực, bạn sẽ nghe thấy một note mới (note A phím thứ 2) vang lên. Thông thường, tay trái của bạn sẽ không gảy vào một phím; đại thể nó nhấn xuống trên phím đó. Nhưng để sản sinh ra một âm thanh có thể nghe được mà không cần picking, bạn phải chạm vào dây đàn mạnh một chút, dường như ngón tay của bạn là một cái búa nhỏ lao xuống trên bàn phím.

Hình 9-1b trình bày một hammer-on từ một note được nhấn trên dây số 3. Hãy sử dụng ngón tay trỏ của bạn để nhấn note đầu tiên ở phím thứ 4 và hãy khảy dây; sau đó, trong khi note đó vẫn còn đang vang, hãy sử dụng ngón tay giữa của bạn để búa xuống trên phím thứ 5.

Double hammer-on

Hình 9-1c trình bày một double hammer-on trên số 3.Hãy chơi dây buông và búa xuống phím thứ 2 với ngón tay thứ nhất; sau đó, trong khi note này vẫn còn vang,

130

hãy búa xuống dây đàn này một lần nữa (ở phím thứ 4) với ngón nhẫn, sẽ sản sinh ra một sự kết nối siêu mượt mà (super-smooth) giữa 3 note này.

Đừng rush(xô, đẩy, đánh gấp) các note cùng nhau; rushing là khuynh hướng khi bạn lần đầu làm việc với hammer-on.

Hình 9-1d trình bày một double hammer-on trên cùng dây đàn mà sử dụng 3 note được nhấn. Kiểu hammer-on này là khó chơi nhất và đòi hỏi phải thực hành một chút. Hãy chơi note nằm ở phím thứ 4, nhấn nó bằng ngón trỏ; hammer-on note ở phím thứ 5 với ngón giữa; sau đó búa note ở phím thứ 7 với ngón tay út của bạn.

Double-stop hammer-on

Bạn cũng có thể chơi các hammer-on kiểu double-stops. Những kiểu double-stop hammer-on thông thường nhất – và là kiểu dễ chơi nhất – là kiểu mà cả hai note double-stop nằm trên cùng phím, điều này cho phép bạn chặn(barre) chúng (chơi chúng với một ngón tay). (Hãy xem chương 7 để biết thêm chi tiết về double-stops).

Hình 9-21 trình bày một double-stop hammer-on từ các dây mở (dây số 2 và 3). Sau khi gảy 2 dây mở này bằng pick, và trong khi hai dây này vẫn còn vang, hãy slam xuống với ngón tay trỏ ở phím thứ 2, nằm ngang qua cả 2 dây ở cùng thời điểm.

Tiếp theo, hãy thử một double-stop hammer-on từ phím thứ 2 tới phím thứ 4, cũng trên các dây số 2 và 3, như trình bày trong hình 9-2b. Hãy sử dụng ngón tay trỏ của bạn để chặn phím thứ 2 và ngón kế của bạn để chặn phím thứ 4. Bây giờ, để có được nhiều màu sắc, hãy thử một double double-stop hammer-on trên cùng các dây, như trong hình 9-2c. Hãy bắt đầu với các dây buông; búa xuống chặn phím thứ 2 với ngón tay trỏ; sau đó búa xuống chặn phím thứ 4 với ngón nhẫn.

Hammer-on from nowhere(không ở đâu)

Hình 9-3 trình bày cái mà chúng ta gọi là “hammer-on from nowhere.” Nó không phải là một hammer-on tiêu biểu vì rằng note được búa xuống không theo

131

sau một note thấp hơn đang vang lên trước đó rồi. Sự thật, note được búa thì hoàn toàn ở trên một dây khác so với note trước đó. Làm cho kêu note được búa bằng cách nhấn nó thật mạnh (búa mạnh nó) với một ngón tay trái – đủ mạnh để note đó kêu lên mà không cần gảy nó với pick.

Tại sao bạn lại còn dùng kiểu hammer-on này? Thỉnh thoảng, trong các đoạn nhạc nhanh, mẫu khảy ở tay phải của bạn không cho bạn đủ thời gian để bạn thực hiện thêm một lần gảy nữa khi bạn cần nó. Nhưng bạn có thể làm cho note nhạc đó vang lên cách gì cũng được bằng cách nhấn nó đủ mạnh với một ngón tay trái – búa nó từ không đâu cả.

Đạt được đặc tính rõ rệt với kỹ thuật hammer-ons

Trong các hình 9-4 đến 9-7, bạn sẽ thấy các câu lick đặc trưng sử dụng hammer-on. (Các số nhỏ kế các đầu note nhạc trong ký hiệu chuẩn chỉ cho biết các ngón bấm tay phải.). Câu lick hình 9-4 sử dụng các single-note hammer-on từ các dây mở. Bạn có thể nghe loại câu lick này trong một bài hát nhạc rock, blues, hoặc country. Hãy thử chơi nó để thực hành thêm một chút với hammer-on.

132

Một điều tuyệt với khác nữa là để gảy một hợp âm trong khi đang búa(hammering) một trong những note đó. Hình 9-5 trình bày kỹ thuật này – kỹ thuật này James Taylor thường sử dụng – trong ngữ cảnh của một đoạn nhạc.

Hình 9-6 trình bày các single-note hammer-on mà chỉ bao gồm các note được nhấn. Bạn có thể nghe loại câu lick này trong nhiều bài hát nhạc rock và blues. Các khảy down-picks được chỉ ra bởi ký tự và khảy up-pick( khảy lên) được chỉ ra bởi ký tự . (sim. có nghĩa là hãy tiếp tục chơi theo lối tương tự - ở đây ám chỉ đến việc khảy (picking) theo mẫu đã được chỉ).

133

Hãy giữ ngón tay trỏ chặn lấy phím thứ 5 đối với câu lick này khi bạn chơi. Bạn sẽ có được một âm thanh mượt mà hơn, và bạn thấy rằng nó cũng sẽ dễ chơi hơn.

Hình 9-7 kết hợp một double-stop hammer-on với một hammer-on từ không đâu ở vị trí thứ 5. (Hãy xem chương 7 để biết thêm thông tin về việc chơi theo vị trí(thế).) Hãy thử picking note cuối đó, và bạn sẽ thấy một cách dễ dàng rằng hammer-on từ không đâu sẽ thuận tiện hơn so với phiên bản khảy note đó.

Vui đùa với Pull-Offs

Pull-off là một kỹ thuật khác mà cho phép bạn kết nối các note nhạc một cách mượt mà. Nó cho phép bạn chơi 2 note tiếp liền nhau theo thứ tự giảm dần bằng cách chỉ khảy một lần với tay phải và, khi note đầu tiên vang lên, hãy giật ngón tay của bạn khỏi phím đó. Khi bạn giật ngón tay của bạn khỏi một phím, thì note thấp hơn sẽ được nhấn (hoặc note dây buông) trên dây sau đó sẽ vang lên thay cho note đầu tiên. Bạn có thể nghĩ kiểu pull-of như là đảo ngược của hammer-on, nhưng sự trái ngược đặc biệt đó thực sự không mô tả đầy đủ toàn bộ mọi điều. Pull-off cũng đòi hỏi bạn phải sử dụng một sự giật nghiêng nhẹ dây đàn tại chỗ mà bạn đang nhấn note được khảy và sau đó nhả dây đàn khỏi ngón tay của bạn trong một cái snap khi bạn giật ngón tay của bạn khỏi phím đó – một vài điều giống như khi bạn thực hiện đúc đẩy trong trò chơi tiddly-wink.

134

Ký hiệu tab (và chuẩn) trong cuốn sách này trình bày một pull-off bằng cách đưa ra ký tự P nằm ở giữa bên trên một dấu luyến âm slur (một đường cong ngắn) kết nối 2 số tab(hoặc note).

Chơi kỹ thuật pull-offs

Pull-off(hoặc pull, dạng ngắn) lên một dây mở là kiểu chơi dễ nhất. Hãy theo các bước sau để pull-of dây mở như trình bày trong hinh 9-8a:

1. Nhấn dây số 3 ở phím thứ 2 với ngón tay trỏ hoặc ngón cái (ngón nào thấy thoải mái hơn) và khảy note như bình thường với tay phải.

2. Trong khi note đó vẫn đang vang, hãy giật ngón tay của bạn khỏi dây đàn đó theo chuyển động nghiêng (hướng về dây thứ 2) sẽ gây cho dây mở số 3 vang lên – hầu hết như khi bạn đang thực hiện một giật ngón tay trái.

Nếu bạn chơi tăng tốc lên, bạn thực không thể giật dây đàn như khi bạn bỏ ngón tay ra – lúc đó bạn đang nữa nhấc ngón tay ra và nữa thì giật… hoặc dạng giữa chừng vậy. Hãy thử nghiệm để thấy được chuyển động ngón tay trái mà làm việc tốt nhất đối với bạn.

Hình 9-8b trình bày một pull-off chỉ bao gồm các note được nhấn. Nhân tố chính trong việc chơi kiểu pull-off này là bạn phải nhấn cả 2 note pull-off trước (ahead of time). Chúng để phần cuối dạng in nghiêng bởi vì nó rất quan trọng. Điều đòi hỏi này là một khác biệt lớn giữa kỹ thuật hammer-on và pull-off. Bạn phải biết trước, hoặc thiết lập, sớm pha trong kỹ thuật pull-off. Hãy theo các bước sau để chơi đoạn pull-off được nhấn trong hình 9-8b:

1. Hãy nhấn cả phím thứ 2 của dây số 3 với ngón trỏ và phím thứ 4 của dây số 3 với ngón kết cùng một thời điểm.

2. Hãy gảy dây số 3 với miếng khảy và, trong khi note ở phím thứ 4 vẫn đang vang lên, hãy giật ngón tay kết khỏi phím số 4 (dạng nửa giật, nửa nhấc) để làm vang lên note của phím thứ 2 (phím mà bạn đã nhấn rồi).

Cố gắng để tránh việc vô tình khảy vào dây số 2 khi bạn thực hiện pull off. Cũng vậy, bạn có thể thấy rằng nếu bạn đã không bấm trước ở note phím thứ 2, bạn sẽ kết thúc pull off với dây buông thay vì là phím thứ 2.

Double pull-off

Hình 9-8c trình bày đoạn double pull-off lên dây thứ 3 mở. Hãy nhấn đồng thời hai note đầu tiên (bằng ngón trỏ và ngón kế). Hãy khảy dây đàn và sau đó pull

135

off với ngón kế để làm cho note ở phím thứ 2 vang lên; sau đó pull off với ngón trỏ để làm cho dây mở được vang lên. (Chú ý rằng ký tự Ps xuất hiện trên dấu luyến âm kết nối 3 note; dấu hiệu đó chỉ rằng bạn sẽ phải thực hiện pull off 2 note chứ không phải chỉ một note.)

Hình 9-8d trình bày một đoạn double pull-off trên dây thứ 3 chỉ sử dụng các note được nhấn. Hãy nhấn tất cả 3 note (dùng ngón trỏ, ngón giữa, và ngón út). Hãy khảy dây đàn đó và sau đó pull off với ngón tú để làm cho note ở phím thứ 5 vang lên; sau đó pull off với ngón giữa để làm note của phím thứ 4 vang lên.

Double-stop pull-off

Bạn cũng có thể chơi kỹ thuật pull-off dạng double-stop. Như thực tế với kỹ thuật hammer-on, double-stop pull-off mà phổ biết nhất và chơi dễ nhất là dạng cả hai note double-stop nằm trên cùng phím, điều này cho phép bạn chặn chúng. (Xem chương 7 để biết thêm thông tin về double-stops.)

Hình 9-9a trình bày một đoạn double-stop pull-off lên các dây mở số 2 và số 3. Sau khi khảy các note ở phím thứ 2, và trong khi các dây đàn vẫn còn rung, hãy pull off ngón tay trỏ của bạn (nữa giật, nửa nhấc) khỏi cả 2 dây đàn cùng một thời điểm (trong một động tác) để làm cho dây mở vang lên.

Kế tiếp, hãy thử một đoạn double-stop pull-off từ phím thứ 4 về phím thứ 2, như trong hình 9-9b. Hãy đặt ngón trỏ của bạn ở phím thứ 2, chặn ngang dây số 2 và 3, và đặt ngón tay kế của bạn tại phím thứ 4 (cũng chặn ngang dây số 2 và 3) cùng một thời điểm. Hãy khảy các dây đàn và sau đó giật ngón kế khỏi phím thứ 4 để làm cho các note ở phím thứ 2 trên cả 2 dây vang lên.

Bây giờ hãy thử đoạn double double-stop pull-off, trên các dây tương tự, như trong hình 9-9c. Loại pull-off này thì tương tự như loại bạn chơi trong ví dụ ở hình 9-9b ngoại trừ rằng, sau khi các note trên phím thứ 2 vang lên, bạn sẽ giật ngón trỏ khỏi phím thứ 2 để làm cho các dây buông vang lên.

136

Đạt được đặc tính rõ rệt với kỹ thuật pull-offs

Trong hình 9-10 và 9-11, bạn thấy 2 câu lick đặc trưng sử dụng pull-off. Hình 9-10 bao gồm các pull-off note đơn trên các dây mở. Bạn có thể nghe dạng câu lick này trong nhiều bài hát nhạc rock và nhạc blues.

Hình 9-5, trong đoạn “Đạt được đặc tính rõ rệt với kỹ thuật hammer-ons,” nằm ở trước trong chương này, chỉ cho bạn cách khảy(strum) một hợp âm trong khi đang hammering on trên một note của hợp âm đó. Hình 9-11 chỉ cho bạn kỹ thuật ngược lại: Khảy (strumming) một hợp âm trong khi pulling off một note. Đoạn nhạc trong hình này khởi đầu với 2 pull-off note đơn, chỉ để làm hâm nóng bạn thôi.

137

Trơn với kỹ thuật Slides (Getting Slippery with Slides”)

Slide là một kỹ thuật articulation (kỹ thuật khớp nối) trong trường hợp bạn chơi một note nhạc và sau đó di chuyển ngón tay trái của bạn dọc theo dây đàn đó tới một phím khác. Kỹ thuật này cho phép bạn kết nối 2 hoặc hơn 2 note một cách mượt mà và nhanh chóng. Nó cũng cho phép bạn thay đổi các vị trí trên bàn phím một cách trơn tru.

Có nhiều kiểu slide khác nhau. Các kiểu cơ bản nhất được trình bày trong danh sách dưới đây:

- Slide giữa 2 note mà ở đó bạn chỉ khảy (pick) note đầu tiên.

- Slide giữa 2 note mà ở đó bạn khảy (pick) cả 2 note.

- Slide từ một cao độ không xác định nằm trên hoặc dưới note đích vài phím. (Cao độ ở đây không xác định bởi vì bạn khởi đầu slide với lực nhấn tay rất nhỏ, rồi tăng dần lên cho tới khi bạn chạm tới phím đích).

- Slide tới một cao độ không xác định nằm trên hoặc nằm dưới vài phím so với note khởi đầu. (Cao độ ở đây không xác định bởi vì bạn giảm dần lực nhấn ngón tay khi bạn di chuyển xa khỏi phím khởi đầu).

- Slide into home plate.

Trong ký hiệu tab (và dạng chuẩn), chúng tôi ký hiệu slide bằng các ký tự sl. nằm giữa bên trên một đường gạch nghiêng.

Chơi kỹ thuật slides

138

Tên của kỹ thuật này, slide, cho bạn một manh mối tốt về cách để mà thực hiện nó. Bạn hãy trượt ngón tay trái lên hoặc xuống trên 1 dây, vẫn duy trì tiếp xúc với dây đàn, cho tới khi chạm tới một note mới. Đôi khi, bạn kết nối 2 note (ví dụ, bạn trượt từ phím 7th tới phím 9th), và đôi khi bạn kết nối 1 note (tại một phí đã cho) với một cao độ không xác định (bạn sản sinh ra các cao độ không xác định bằng cách gảy một dây trong khi bạn thêm vào hoặc giảm đi từ từ lực nhấn ngón tay khi bạn đang trượt).

Kết nối 2 note

Hình 9-12a trình bày một dấu luyến (slur) (đường cong: curved line) dọc theo với một đường nghiêng. Dấu luyến (slur) chỉ rằng đây là trượt đều đều(legato) (legato slide), có nghĩa là bạn đừng gảy note thứ 2. Hãy chơi note thứ nhất ở phím thứ 9 một cách bình thường, kéo dài note đó trong một nhịp. Ở nhịp thứ 2, trong khi dây đàn vẫn còn rung, hãy trượt lẹ ngón tay trái của bạn tới phím thứ 12, vẫn giữ nguyên lực nhấn trong suốt cả thời gian của note. Động tác này làm cho note ở phím thứ 12 vang lên mà không cần phải gảy.

Trong hình 9-12b, chú giải một slide mà không có dấu luyến (slur), bạn hãy gảy note thứ 2. Hãy gảy và giữ note ở phím thứ 9 trong 1 nhịp; sau đó, ở nhịp thứ 2 (beat 2), hãy trượt lên phím thứ 12, vẫn duy trì lực nhấn ngón tay nguyên vậy như lúc đầu – và gảy dây đàn đó khi bạn chạm đến phím 12.

Nếu bạn chơi kỹ thuật slide như trong hình 9-12b một cách đủ chậm, bạn sẽ tạo ra một âm thanh như vuốt (glissando). Glissando là một hiệu ứng mà bạn nghe trên những cây đàn harp (đàn hạc), piano, và guitar, ở đó tất cả các note giữa 2 note chính đều vang lên.

139

Làm việc với cao độ không xác định

Cái chúng ta gọi một cú slide tức thì tăng dần (ascending immediate slide) từ dưới lên là một cú slide lẹ, không trong nhịp, chỉ nhằm mục đích tô điểm cho 1 note và đó không phải là cách mà bạn sử dụng để kết nối 2 note khác nhau. Ở ví dụ trong hình 9-13a, bạn trượt tới phím thứ 9 từ một vài phím thấp hơn. Hãy theo các bước này:

1. Hãy bắt đầu slide (trượt) từ note có khoảng cách là 3 phím thấp hơn so với phím đích (phím thứ 6 nếu phím thứ 9 là đích của bạn), hãy dùng một lực nhấn ngón tay tối thiểu.

2. Khi ngón tay của bạn trượt lên, hãy tăng dần đều lực nhấn ngón tay của bạn để, khi bạn tới phím đích, bạn sử dụng lực nhấn full.

3. Gảy dây đàn với miếng khảy trong khi ngón tay trái của bạn đang trong chuyển động, tại một chỗ nào đó giữa các phím bắt đầu và phím đích (phím thứ 6 và phím thứ 9, trong ví dụ này).

Cú Slide trong hình 9-13b là cái mà chúng ta gọi là slide tức thì giảm dần (descending immediate slide”). Loại slide này thường xuất hiện sau khi bạn giữ ngân 1 note một khoảng dài. Nó tạo cho note ngân dài này một sự kết thúc hoa mỹ. Hãy theo các bước sau:

1. Hãy khảy note được chỉ tra trong tab (đó là note ở phím thứ 12 trong trường hợp này) theo như lối khảy thông thường.

2. Sau khi để note đó vang lên theo khoảng thời gian được chỉ, hãy trượt ngón tay trái của bạn theo chiều giảm cao độ dây đàn, với lực nhận ngón tay nhả ra từ từ khi bạn trượt, để tạo ra một hiệu ứng sự mất dần (fade away).

Sau một vài phím, bạn nên nhấc ngón tay của bạn khỏi dây đàn hoàn toàn – trừ khi bạn muốn chơi một cú slide dài (long slide). Trong trường hợp đó, bạn có thể trượt ngón tay của bạn theo chiều giảm cao độ trên cả cần đàn, nhả lực nhấn ngón tay (và cuối cùng nhấc ngón tay của bạn khỏi dây đàn) hướng về đầu cuối của cần đàn, là đầu gần với nut (chặn trên) nếu bạn muốn.

140

Chơi những câu lick đặc trưng sử dụng các Slide

Hình 9-14 và 9-15 trình bày 2 cấu lick đặc trưng sử dụng các cú slide. Hình 9-14 đưa ra các cú slide tăng dần tức thì, bao gồm một cú slide double-stop chặn. Hãy sử dụng ngón tay trỏ (ngón đầu tiên) để chơi double-stop chặn ở phím thứ 5, chỉ thực hiện trượt nó cách từ 1 hoặc 2 phím thấp hơn. Câu click này có mùi âm thanh của Chuck Berry.

Hình 9-15 (cũng bao gồm một cú hammer-on và một cú pull-off) trình bày cách bạn có thể sử dụng các cú slide để thay đổi các thế đánh (vị trí – position) một cách mượt mà. (các con số nhỏ trong ký hiệu dạng chuẩn để chỉ các ngón bấm tay trái). Ở đây bạn hãy di chuyển từ vị trí thứ 3 tới vị trí thứ 5 và quay trở lại ví trí thứ 3. Hãy chú ý rằng dạng tab chỉ ra rằng các cú slide với các dấu luyến (slur) – để bạn đừng gảy note thứ 2 của mỗi cú trượt. Và theo những dấu chỉ gảy lên (V - upstroke) và xuống ( - downstroke) - bạn hãy gảy các note đó 5 lần, mặc dầu thực tế bạn chơi đến 9 note!

141

Getting the Bends (Thực hiện Bend dây đàn)

Hơn bất kỳ kiểu kỹ thuật kết nối nào khác, kỹ thuật đẩy dây string bend là cách để làm cho cây guitar của bạn nói chuyện (talk) (hoặc hát hoặc khóc), tạo cho âm thanh của nhạc cụ hầu như có khả năng diễn cảm. Bending thì không gì hơn là việc sử dụng 1 ngón tay trái để đẩy (push) hoặc kéo (pull) một dây đàn chệch ra khỏi sử thẳng hàng thông thường của nó, việc kéo căng dây đàn hướng về dây số 6th hoặc dây số 1th. (Đoạn sau nữa sẽ nói về hướng để kéo căng dây đàn – hướng bend).

Khi bạn bend 1 dây đàn, bạn làm tăng cao độ của nó bằng cách kéo căng dây đàn. Việc tăng cao độ này có thể là nhẹ hoặc căng nhất, phụ thuộc vào độ chính xác bao xa khi bạn bend dây đàn. Nằm ở giữa những cú bend nhẹ nhất và những cú bend căng nhất thì có vô số các mức độ bend nhẹ căng ở giữa chúng. Vô số các độ bend nhẹ căng này làm cho cây guitar của bạn biết hát.

Ký hiệu dạng tab trong sách này chỉ ra một cú bend bằng cách sử dụng một đường mũi tên uốn cong và hoặc là một số hoặc là một phân số (hoặc cả hai) tại đỉnh của đường mũi tên. Phân số ½, chẳng hạn, có nghĩa rằng bạn bend dây đàn cho tới khi tăng lên nửa cung (tương đương với một phím – fret) so với bình thường. Số 1 ở trên một mũi tên bẻ cong có nghĩa rằng bạn bend dây đàn cho tới khi cao độ tăng lên một cung (tương đương với 2 phím) so với bình thường. Bạn cũng có thể nhìn thấy các phân số chẳng hạn như ¼ và ¾ hoặc các số lớn hơn như 1½ hoặc 2 nằm trên các mũi tên bẻ cong. Các phân số này hoặc là các số để nói cho bạn bao nhiêu cung cần thiết để bend note đó. Nhưng ½ và 1 là các cú bend phổ biến nhất mà bạn sẽ nhìn thấy trong hầu hết các ký hiệu tab.

142

Bạn có thể kiểm tra để thấy rằng bạn đang bend đúng bằng cách gảy note đích một cách bình thường và so sánh với note đã bend. Nếu dấu chỉ rằng, hãy bend toàn cung (1) trên phím số 7 của dây số 3, chẳng hạn, thì bàn hãy chơi phím thứ 9 một cách thông thường và hãy lằng nghe một cách cẩn thận cao độ của nó. Sau đó, cố gắng bend note phím thứ 7 để khớp với cao độ phím thứ 9 mà đang nằm trong đầu bạn.

Mặc dầu gần như tất cả các nhà xuất bản âm nhạc guitar sử dụng các mũi tên được uốn cong và các con số để chỉ các cú bend trong dạng tab, nhưng không phải tất cả các nhà xuất bản đều sử dụng các dấu chỉ này trên khuôn ký hiệu chuẩn. Thay vào đó một số nhà xuất bản trình bày cao độ của cả hai note khi không bend và khi bend, một trong chúng ở trong ngoặc đơn hoặc một trong chúng được viết rất nhỏ. Để tránh bối rối, hãy đảm bảo rằng bạn đã xác minh cách mà mỗi nhà xuất bản ký hiệu cho các note bend trước khi bạn bắt đầu chơi nhạc.

Thông thường bạn sẽ không chơi kỹ thuật bend nhiều dây trên các cây guitar thùng, bởi vì các dây đàn quá dày. Trong việc chơi guitar điện, kỹ thuật bend là một kỹ thuật không thể thiếu, các dây đàn thì mỏng hơn.

Các dây đàn được chia ra theo nhiều cỡ, cỡ này được tính bằng đường kính của dây đàn ở dạng millimet. Một bộ dây đàn guitar thùng cỡ nhỏ bắt đầu với đường kính của dây số 1st là 0.12 millimet, mà thông thường cũng được xem là không thể bend được bởi tất cả các tay guitar ngoại trừ dành riêng cho những người chơi mạnh bạo. (Guitarists refer to the entire set in shorthand as twelves). Đối với các cây guitar điện, các cỡ phổ biến nhất bắt đầu với bộ dây mà sử dụng cỡ .009 hoặc 0.10 millimeter cho dây cao nhất (dây số 1th) (“nines” và “tens” là sử dụng tiếng bản địa). Bạn có thể bend với cỡ 0.11s và 0.12s (“elevens” và “twelves”) trên cây guitar của bạn, nhưng đừng nên chơi mạnh bạo quá nếu không bạn sẽ bị đau.

Chơi các note bend (Playing bends)

Lấy bức hình 9-16a như là một điểm bắt đầu cho việc chơi các note bend. Bạn hãy chơi note bend này ở dây số 3 với ngón thứ 3 (ngón nhẫn), ngón này tiêu biểu cho một vị trí bend rất phổ biến – cũng có thể là phổ biến nhất. Hãy theo những bước sau:

1. Hãy đặt ngón tay thứ 3 (ngón nhẫn) tại phím thứ 7 nhưng hãy hỗ trợ ngón thứ 3 (ngón nhẫn) bằng cách đặt ngón thứ 2 (ngón giữa) ở phím thứ 6 và đặt ngón thứ nhất (ngón trỏ) ở phím thứ 5, tất cả thực hiện cùng lúc ( hãy xem hình 9-16a).

Ngón đầu tiên (ngón trỏ) và ngón thứ 2 không tạo ra âm thanh, nhưng chúng thêm sức mạnh cho việc bend của bạn. Việc hỗ trợ khi bend với bất kỳ ngón tay nào có thế được luôn là một ý tưởng tốt.

143

2. Khảy dây số 3 với tay phải của bạn

3. Sau khi khảy dây số 3, hãy sử dụng tất cả 3 ngón tay cùng nhau để đẩy dây đàn hướng về dây số 6, nâng cao độ lên 1 cung (whole step) (để có cao độ bình thường bạn hãy gảy phím thứ 9 – xem hình Figure 9-16b).

Việc đẩy tay của bạn vào trong cần đàn khi bạn thực hiện bend sẽ giúp cho bạn cộng thêm lực của đòn bẩy. Cũng vậy, việc sử dụng các dây đàn cỡ nhỏ, hoặc mảnh, cho cây guitar của bạn cũng làm cho việc bend dễ dàng hơn.

Hình 9-17 trình bày các note bend trông như thế nào trong dạng ký hiệu chuẩn và dạng tab. Hình 9-17a trình bày kỹ thuật mà chúng ta gọi là “bend tức thì” (immediate bend.”) Hãy khảy note nhạc và sau đó bend nó lên ngay tức thì.

Hình 9-17b được gọi là một note bend and release (bend và thả). Hãy khảy note nhạc; sau đó bend nó (mà không cần khảy lại nữa), và sau đó unbend nó ( thả note nhạc mà không cần khảy lại) về vị trí thông thường của nó. Không giống như trong hình 9-17a, kiểu bend này thì không cần tức thì; thay vào đó, bạn sẽ thấy nó notated trong một giai điệu đặc biệt (mà bạn có thể nghe trong CD). Bạn có thể quy loại bend này là “bend theo giai điệu” (bend in rhythm) hoặc bend giai điệu (measured bend).

144

Hình 9-17c trình bày một cú prebend and release. Bạn prebend (bend trước) note nhạc, hoặc bend nó trước khi bạn khảy nó với miếng khảy. Hãy bend note nhạc như bạn thực hiện trong hình 9-17a nhưng đừng khảy dây đàn khi bạn chưa hoàn thành việc bend nó. Sau khi bạn khảy note nhạc, hãy unbend ( thả note nhạc mà không cần khảy lại) dây đàn về vị trí thông thường của nó.

Thông thường nhất, như trong các ví vụ hình 9-17 đã trình bày, bạn đẩy dây đàn hường về dây số 6th (hoặc hướng lên trần). Nhưng nếu bạn bend các note ở 2 dây trầm (dây 5th và dây 6th), bạn hãy kéo dây đàn hướng về dây số 1st (hoặc là hướng xuống sàn) – mặt khác dây đàn sẽ trượt thẳng bàn phím.

Thực hiên các câu đặc trưng với bends

Hình 9-18 trình bày một hình nhịp điệu (figure) bend rất phổ biến mà bạn có thể sử dụng trong solo rock. Chú ý rằng ngón bấm mà khuôn ký hiệu chuẩn chi dẫn để thực hiện. Chú ý rằng tay trái của bạn hầy như không di chuyển – nó bị khóa ở ví trí thứ 5 ( hãy xem chương 7 để biết thêm thông tin về vị trí/thế), với ngón tay thứ nhất (ngón trỏ) chặn dây thứ 1st và dây thứ 2nd ở phím thứ 5. Note thứ 2 của hình nhịp điệu (figure) (phím thứ 5, dây số 2nd) tình cơ cùng cao độ (E) với note bend đích của bạn, vì thế bạn có thể sử dụng note thứ 2 đó để kiểm tra độ chính xác của note bend bạn thực hiện. Sớm thôi, bạn sẽ bắt đầu cảm nhận được bạn cần bend bao nhiêu để có thể nâng cao độ lên nửa cung (half-step) hoặc một cung (whole-step). Tất cả các note bend trong ví dụ này là các note bend tức thì (immediate bend).

145

Sau khi bạn chơi mỗi note ở dây thứ 3, chỉ trước khi bạn khảy note ở dây số 2nd, hãy giảm lực nhấn ngón tay từ note bend. Động tác này làm cho dây thứ 3 ngừng rung khi bạn khảy dây số 2nd.

Trong hình 9-19, bạn bend dây số 2, 1 note là bend tức thì (immediate bend) và 1 note là bend giai điệu (bend in rhythm). Hãy lắng nghe CD để thấy các âm thanh trong ví dụ này kêu như thế nào. Nói đúng ra, bởi vì bạn đang ở vị trí 12th, bạn nên sử dụng ngón tay thứ tư (ngón út) để chơi phím thứ 15th. Nhưng chúng tôi chỉ cho bạn rằng hãy dùng ngón thứ 3, bởi vì nếu bạn ở trên phím thứ 12th, thì các phím đàn gần nhau hơn, vì thế mà ngón tay thứ 3 (ngón nhẫn) có thể chạm tới các phím dễ dàng và nó cũng mạnh hơn ngón thứ 4 (ngón út).

146

Bạn hãy chơi các ví dụ được trình bày trong hình 9-18 và 9-19 cái mà các tay guitar lead gọi là “box” pattern – là 1 nhóm các note trong một vị trí mà nó gần giống hình dạng một cái hộp. Bạn có thể sử dụng mẫu này (pattern) cho các câu solo ứng khẩu (improvising). (Để biết thêm thông tin về các mẫu hộp – box pattern và solo, hãy xem chương 10 và 11.) Chú ý: dấu chỉ 8va ở trên kí hiệu âm nhạc chuẩn trong hình 9-19 nói cho bạn biết rằng hãy chơi các note cao hơn 1 octave so với note nhạc được viết.

Hình 9-20 sử dụng một box pattern nhỏ ở vị trí thứ 8th. Ví dụ này mô tả nét nổi bật của note bend và thả (bend and release), ở đó bend sẽ là tức thì(immediate) và thả (release) là giai điệu. Hãy lắng nghe CD để cảm nhận âm thanh này.

Mặc dầu bạn bend hầu hết các note bằng cách đẩy 1 dây hướng về dây số 6th, đôi khi bạn cũng cần bend một dây đàn theo hướng khác, thậm chí trên một dây đàn ở giữa hoặc ở trên các dây cao hơn (nhưng không phải trên dây số số 1 bởi vì nó sẽ trượt khỏi cần đàn nếu bạn thực hiện). Bạn cần sử dụng hướng bend ngược này nếu note theo sau note bend nằm trên một dây mà gần kề với dây bend. Bạn cần bend cách xa khỏi dây đàn đến từ ở trên; nếu không thì, ngón bend của bạn sẽ có thể chạm nó tình cờ, làm câm nó một cách tình cờ.

Hình 9-21 trình bày 2 note bend nửa cung trên dây 3rd bằng ngón trỏ. Note bend đầu tiên hướng về dây số 6 bởi vì note theo sau nó là dây số 2nd. (Hãy nhớ rằng bạn đang bend rời xa khỏi note theo sau). Note thứ 2, tuy nhiên, bend hướng về phía sàn bởi vì note theo sau nằm trên dây gần kề là dây số 4. Một lần nữa, bạn lại bend cách xa khỏi note kế tiếp.

147

Bạn có thể tạo ra một hiệu ứng thú vị bằng cách bend 1 note, sau đó để nó vang lên trong trạng thái bend của nó, trong khi khảy một note trên một dây khác, và sau đó khảy lại dây bend và thả nhả nó. Nhiều tay guitar southern-rock và country-rock thích dùng kiểu bend này. Hình 9-22 trình bày kỹ thuật này “held-bend”. Trong ký hiệu, đường thẳng chấm sau mũi tên chỉ ra rằng bạn hãy giữ note không những khi bạn khảy dây số 2, mà còn khảy lại dây số 3 nữa; đường liền nét vẽ cong xuống chỉ ra sự nhả của note bend. Hãy chắc rằng bạn bend dây số 3rd hướng lên phía trần để ngón tay bend rời xa dây số 2nd. Hãy lắng nghe CD để cảm nhận âm thanh của câu lick này.

Bạn cũng có thể chơi các note bend kiểu double-stops – bạn chỉ việc bend 2 dây tại cùng một thời điểm, thông thường bằng cách chặn 2 dây với 1 ngón tay. (Hãy xem Chương 7 để biết thêm thông tin về double-stops). Hình 9-23 trình bày một cú bend double-stop trên dây số 2nd và số 3rd trong mẫu hộp (box pattern) ở phím thứ 5. Hãy sử dụng ngón tay trỏ của bạn để chơi note double-stop ở phím thứ 5; sau đó sử dụng ngón nhẫn để chơi note bend double-stop và nhả (doubloe-stop bend and release) ở phím thứ 7th. Ký hiệu mũi tên đôi chỉ cho bạn hãy bend cả hai note. Nhân tiện, khi double-stop bend and release mà được trình bày bởi một mũi tên đơn trong động tác release chi để tránh sự hỗn độn trong ký hiệu – ví thế hãy tiếp tục thực hiện động rác nhả (release) cho cả 2 note.

148

Đa dạng âm thanh của bạn với kỹ thuật rung(vibrato)

Nghĩ về khái niệm rung (vibrato), và bạn có thể tưởng tượng một sự chập chờn của ca sỹ hoặc một cách tay kéo giật của một nghệ sĩ violin. Trên guitar, tuy nhiên, rung (vibrato) là một sự dao động cao độ một cách vững chắc, đều đặn (và thường là nhẹ), hầu hết có thể đạt được điều này bằng cách bend và release một cách mau lẹ một note nhạc ở một độ dao động nhỏ. Một sự rung (vibrato) có thể làm cho một note nhạc thêm sự sôi nổi, cảm xúc, cảm giác cầm giữ, hoặc được duy trì mãi.

Hiển nhiên thời gian tốt nhất để áp dụng kỹ thuật rung là khi bạn giữ một note nhạc ngân dài. Thời gian đó là lúc bạn có thể thêm một chút cảm xúc cho note nhạc bằng cách sử dụng kỹ thuật rung (vibrato). Rung không chỉ làm cho note nhạc thêm sôi nổi, mà còn tăng thời gian ngân vang của note. Một số tay guitar, chẳng hạn như B.B. King vĩ đại nhạc Blues, thì nổi tiếng với kỹ thuật rung diễn cảm của họ. Cả 2 ký hiệu dạng tab và dạng chuẩn đều chỉ ra một

149

note rung bằng cách đặt một đường gợn sóng nằm trên đỉnh của khuôn nhạc trên note nhạc mà bạn sẽ áp dụng kỹ thuật rung.

Bạn có thể tạo ra một âm rung theo vài cách, như trong danh sách dưới đây diễn tả:

- Bạn có thể bend nhẹ và thả (slightly bend and release) một note nhạc lặp đi lặp lại nhiều lần (over and over again), sẽ tạo ra hiệu ứng wah-wah-wah. Cao độ trung bình của note rung này thì hơi cao hơn một chút so với note đó ở dạng bình thường. Kỹ thuật tay trái đối với phương pháp này thì giống với kỹ thuật bend – bạn hãy di chuyển ngón tay hướng lên và xuống, theo phương vuông góc với dây đàn, sẽ tạo ra sự dao động của cao độ.

- Bạn có thể trượt ngón tay của bạn thật nhanh tới lui dọc theo dây đàn, trong phạm vi phím đó. Mặc dầu bạn không thực sự di chuyển ngón tay ra khỏi phím đó, nhưng cao độ vẫn được thăng lên một chút khi bạn di chuyển hướng về phía Nut và giáng xuống một chút khi bạn di chuyển hướng về bộ nhúng (bridge). Bởi vậy, cao độ trung bình của note rung là tương tự với note ở trạng thái bình thường. Kiểu rung này thì hầu hết dành riêng cho việc chơi guitar classic với các dây nylon. (Hãy xem chương 13 để biết thêm thông tin về việc chơi guitar classic).

- Nếu guitar của bạn có cần rung (whammy bar), bạn có thể di chuyển cần rung lên và xuống với tay phải của bạn, để tạo ra sự dao động về cao độ. Hơn nữa để làm cho giai điệu linh hoạt hơn và vùng dao động cao độ rộng hơn, cần rung cho phép bạn làm rung một dây buông.

Kiểu rung đầu tiên mà chúng tôi đề cập trong danh sách trên, kiểu bend and release (bend và nhả), là kiểu phổ dụng nhất và là kiểu được rình bày trong các ví dụ trong chương này. Hãy hỗ trợ ngón tay rung của bạn với các ngón khác bằng cách đặt chúng nằm cùng nhau trên dây đàn đó tại cùng một thời điểm. Bạn có thể hoặc là di chuyển cả bàn tay bằng cách xoay nó ở cổ tay và giữ nguyên ngón tay bấm note, hoặc bạn có thể chi cần di chuyển các ngón tay bấm. Hãy thử cả 2 cách và cảm nhận cách nào là thích hợp nhất.

Bạn có thể thấy rằng việc chơi một note rung là dễ dàng hơn nếu bạn neo (anchor) tay trái của bạn trên cần đàn khi bạn chơi. Nắm chặt cần đàn một chút ở giữa ngón cái

150

và một phần lòng bàn tay khoảng nửa inch bên dưới ngón tay trỏ. Động tác này giúp bạn tận dụng lực tốt hơn và giúp bạn điều khiển dao động một cách đều đặn.

Hình 9-24a trình bày một note rung ở phím thứ 9 trên dây số 3rd. Hãy neo ngón tay của bạn, như chúng tôi diễn tả ở phần trên, và bend nhẹ và nhả note lặp đi lặp lại nhiều lần. Hãy thử note rung với mỗi ngón tay. Thử note rung ở nhiều phím khác nhau và các dây khác nhau. Ký hiệu cho một note rung không bao giờ nói cho bạn biết phải bend và nhả nhanh hay chậm bao nhiêu – điều này phụ thuộc vào bạn. Nhưng dù bạn có chơi một note rung nhanh hoặc chậm, thì hãy chắc rằng bạn giữ cho sự dao động vững chắc và đều đặn. Ký hiệu rung chỉ cho bạn, tuy nhiên, có chơi note rung hẹp (vibrato narrow) hay không (có nghĩa, bạn chỉ bend dây đàn nhẹ - nhỏ hơn nửa cung – cho mỗi xung động) hoặc chơi note rung rộng (wide) (có nghĩa bạn hãy bend dây đàn với độ dao động lớn hơn – khoảng nửa cung hoặc hơn). Hình 9-24a trình bày một note rung đều đặn (hẹp), và hình 9-24b trình bày một note rung rộng, dấu chỉ này sử dụng một đường gợn sóng quá mức (với các đỉnh và đáy sâu hơn). Hãy thử chơi note rung rộng với mỗi ngón tay. Thử nó ở các phím khác nhau và trên các dây khác nhau.

Nếu note mà bạn đang nhấn là một note bend (hãy xem đoạn “Getting the Bends (Thực hiện Bend dây đàn)” nằm ở trước trong chương này), bạn hãy tạo ra note rung bằng cách nhả và bend (thay cho việc bend và nhả) – bởi vì note đó đã được bend rồi khi bạn bắt đầu rung. Động tác này làm cho cao độ trung bình thấp hơn note bend giữ nguyên, note mà bản thân nó sản sinh ra cao độ cao nhất trong note rung.

Sau một note rung dài, các tay guitar thường chơi một cú trượt giảm dần (descending slide), nhả lực nhấn ngón tay dần dần khi họ trượt, để tạo cho note rung kiểu kết thúc hoa mỹ một chút. Một mưu mẹo khác là chơi một note dài một không cần rung một thời gian dài và sau đó đưa vào một chút rung hướng đến sự kết thúc của note nhạc. Kỹ thuật hoãn rũng (delayed vibrato) là một kỹ thuật ưa thích được các ca sỹ sử dụng thường xuyên.

151

Để thực hành các note rung, hãy chơi các ví dụ được trình bày trong hình 9-19, 9-20, và 9-23 một lần nữa, nhưng hãy thêm rùng vào các note cuối của mỗi hình. Hãy cẩn thận với ví dụ trong hình 9-19 – note cuối là note bend, vì thế bạn cần unbend (realease) và bend note này để sản sinh ra note rung. Nếu bạn muốn, hãy kết thúc mỗi note rung với một cú trượt kết thúc nhẹ. (Hãy xem đoạn “Trơn với kỹ thuật Slides - Getting Slippery with Slides” nằm ở trước trong chương này, để biết thêm thông tin về kỹ thuật này).

Làm dịu (mellow) với kỹ thuật Muting(tiếng câm) – Getting Mellow with Muting

Để làm câm các note nhạc hoặc các hợp âm trên guitar, bạn hãy sử dụng tay phải hoặc tay trái của bạn để chạm vào các dây đàn để làm dịu một phần hoặc hoàn toàn âm thanh. Bạn sẽ áp dụng làm câm tiếng với một trong những lý do sau đây:

- Để tạo ra một âm thanh lùn chắc mập, dày như một hiệu ứng.

- Để ngăn các tiếng nhiễu không mong muốn từ các dây đàn mà bạn không chơi.

- Để làm nín đi các quảng cáo gây khó chịu trên TV.

Tạo ra một âm thanh dày, chắc béo như một hiệu ứng – Creating a thick, chunky sound as an effect.

Để sử dụng kỹ thuật làm câm tiếng trong việc tạo ra các hiệu ứng gõ đập, hãy đặt nhẹ tay trái của bạn ngang qua 6 dây đàn để ngăn chặn các dây đàn khỏi rung khi bạn khảy chúng. Đừng nhấn các dây đàn hướng xuống bàn phím (điều này sẽ làm cho các note được nhấn kêu lên), nhưng hãy nhấn chúng đủ mạnh để ngăn chặn các dây đàn khỏi sự rung động. Sau đó khảy các dây đàn với miếng khảy để lắng nghe các âm thanh câm. Ký hiệu trên tab chỉ cho biết loại kỹ thuật làm câm này bằng cách đặt các dấu X nhỏ trên các đường kẻ dây đàn ( và đặt vào nơi các note thực sự trên khuông nhạc chuẩn), như trong hình 9-25a.

Mặc dầu tay trái muting (left-hand muting) làm dịu các dây đàn hoàn toàn, tay phải muting (right-hand muting) lại làm dịu các dây đàn chỉ một phần – theo bất kỳ mức độ mong muốn của bạn. Với kỹ thuật muting một phần (partial muting), bạn vẫn có thể phân biệt

152

được các cao độ của các dây đàn. Để đạt được kỹ thuật này, hãy đặt gót bàn tay phải của bạn tỳ vào cầu nhúng khi bạn chơi. Điều này có thể là hơi vụng về lần đầu, nhưng đừng lo lắng. Hãy thực hành một chút, bạn có thể giữ cho bàn tay của bạn nằm trên cầu nhúng và vẫn khảy được các dây đàn. Khi bạn di chuyển tay phải của bạn hướng về bàn phím, bạn sẽ tăng lực làm câm. Theo cách này, bạn có thể thay đổi mực độ làm câm. Ký hiệu tab chỉ ra dạng muting này bằng cách đặt các ký tự P.M (palm mute) nằm ở trên khuôn tab, với một đường thẳng chấm chỉ ra việc áp dụng muting trong bao lâu, như trình bày trong hình 9-25b.

Việc ngăn chặn các âm nhiễu dây không mong muốn – Preventing unwanted string noise

Khi mới bắt đầu, bạn thường không lo lắng quá nhiều về việc ngăn chặn các tiếng nhiễu dây không mong muốn – bạn quá bị thu hút tâm chí vào việc đặt để các bàn tay vào một vị trí thoải mái trên nhạc cụ. Nhưng khi là một guitar lão luyện, bạn sẽ ngăn chặn các tiễng nhiễu dây không mong muốn mọi lúc, đôi khi thậm chí không nhận thức về nó. Dưới đây là vài ví dụ về cách ngăn nhiễu:

- Nếu bạn đánh, say, phím thứ 7 của dây thứ 3rd với ngón thứ 3, ngón này sẽ nghiêng áp nhẹ vào dây số 2rd, để ngăn chặn nó khỏi rung động. Và khi bạn khảy dây đàn với tay phải, miếng khảy của bạn cũng đáp tỳ vào dây số 2nd, hơn nữa điều này sẽ ngăn chặn dây số 2nd khỏi sự rung động.

- Nếu bạn chơi một hợp âm D mở, và bạn không muốn đánh vào dây số 6 bởi vì khó không thuộc về hợp âm này, bạn có thể đặt ngón cái tay trái tì nhẹ lên dây số 6th, để chắc rằng nó không rung động.

153

- Nếu bạn chơi một hợp âm mà phải bỏ qua một dây nằm giữa, bạn cần phải mute dây này với một ngón tay trái. Nhiều người, chẳng hạn, bởi vì họ nghĩ nó sẽ phát ra âm tốt hơn, và thích bỏ đi dây số 5th khi họ chơi hợp âm G mở (mặc dầu thông thường bạn sẽ nhấn dây đó cho hợp âm này). Ngón nhấn mà chơi dây số 6 tỳ lên dây số 5th, sẽ làm câm nó hoàn toàn.

Chơi các câu lick có đặc tính rõ rệt bằng sử dụng kỹ thuật muting – Playing idiomatic licks using muting

Nếu bạn khảy cùng một hợp âm lặp đi lặp lại, đặc biệt là một hợp âm chặn trong một mẫu 8 note đều đặn, bạn có thể tạo ra sự hấp dẫn bằng cách thỉnh thoảng nhấc bàn tay trái của bạn lên nhẹ nhàng để làm câm các dây đàn. Sự xem kẽ của các hợp âm được nhấn thông thường và các dây đàn được làm câm có thể tạo ra các hiệu ứng nhấn lệch (syncopation) gây sự chú ý (các hiệu ứng tại chỗ mà dấu nhấn mong đợi thông thường của các note nhạc bị thay đổi một cách cố tình hoặc ngắt). Hình 9-26 trình bày kỹ thuật này.

Hình 9-27 bày cách sử dụng tay phải muting trong hình giai điệu guitar (rhythm-guitar) đặc trưng hard rock hoặc heavy-metal. Hãy giữ gót tay phải tựa lên hoặc gần cầu nhúng khi bạn chơi các note nhạc mà dòng tab chỉ cho biết đó là một note palm mute (P.M.). Đừng làm dịu các note quá nhiều, tuy nhiên, bạn sẽ không thể cảm nhận cao độ của chúng. Hãy nhấc bàn tay của bạn với các note được nhấn mạnh (các note được chi ra với kí tự >).

154

Trong các đĩa Johnny Cash và các đĩa nhạc country cổ điển khác, bạn có thể nghe thấy âm thanh của các guitar country được làm câm đi. Hình 9-28 là đoạn nhạc trên cơ sở hợp âm C đơn giản, nhưng kĩ thuật palm mute làm cho câu riff có được âm thanh nhạc country.

Chơi một bản nhạc với việc kết hợp nhiều kỹ thuật khác nhau – Playing a Song with Varied Articulation

“The Articulate Blues” là một đoạn solo ngắn, trong mẫu 12-bar blues, mà sử dụng tất cả các kỹ thuật kết nối chúng ta đã thảo luận trong chương này. (Hãy xem chương 6, 10, và 11 để biết thêm về mẫu 12-bar blues.) Nó kết hợp các note đơn, các hợp âm, các câu riff. Đó là một phong cách chơi nhạc tích hợp mà các tay guitar thực thụ sử dụng. Hãy xem các ký hiệu của bài hát, bạn sẽ thấy các cú slide, các note Pull-off, các note bend, các note rung

155

(vibratos), và một note hammer-on. Dòng Tab không chỉ ra bất kỳ note mute nào, nhưng bạn có thể sử dụng kỹ thuật này bất kỳ khi nào bạn muốn để tránh các tiếng nhiễu không mong muốn; trong khuôn thứ 5, chẳng hạn, bạn có thể tựa ngón cái tay trái nhẹ lên dây số 6th để ngăn chặn nó khỏi rung trong khi bạn đang chơi hợp âm A7.

156

Phần 4: Sự đa dạng phong cách (A Cornucopia of Styles)

157

Trong chương này…

Có thể bạn đã lớn lên với một một tớ áp phích của Jimi Hendrex trên bức tường của bạn, hoặc có thể sở thích của bạn nghiêng về Roy Clark hơn. Hoắc có thể người hùng guitar của bạn là Stevie Ray Vaughan, Joni Mitchell, B.B.King, Bonnie Raitt, Wes Montgomery, hoặc Andrés Segovia, nhưng một điều chắc chắn: guitar là một nhạc cụ đa năng. Trong phần này, bạn có thể thử một vài kỹ thuật mà cho phép nhạc cụ tương tự thể hiện trong nhiều loại nhạc khác nhau.

158

Chương 10: Rock

Trong chương này

- Chơi guitar giai điệu (rhythm guitar) với nhạc classic rock ‘n’ roll

- Chơi Lead guitar nhạc Rock ‘n’ roll

- Viết các khúc solo

- Sử dụng các kĩ thuật modern-rock và country-rock.

- Chơi các bản nhạc rock.

Người ta cho rằng chơi guitar rock ‘n’ roll là điều vui nhất mà bạn có được với một một vật vô tri vô giác trên đôi tay của bạn. Mở lớn volume lên và với dòng cảm xúc sôi chảy, nothing’s quite like laying down a chungking rhythm or ripping through a searing lead to screaming, adoring fans – or even to your own approving smile coming back at you from the mirror. All you need to do is figure out how to play a couple of simple patterns and you can be gyrating like Elvis, duck-walking like Chuck Berry, and windmilling like Pete Townshend in no time.

Bỏ đi tất cả những vẻ bạo dạn và sự tự đề cao, guitar rock cũng như bất kỳ phong cách guitar nào khác. Bạn sẽ hấp thu nó một cách đơn giản, các bước đơn giản và sau đó thực hành, thực hành, thực hành cho tới khi nó trở nên tự nhiên. Sau khi bạn khảy được một vài giai điệu và các đoạn lead và hạ được các kỹ thuật, thì công việc thực sự mới bắt đầu: Hãy đứng trước một tấm gương và hãy hoàn thiện các động tác di chuyển của bạn.

Trong chương này, chúng ta đánh tất cả các note cao – âm thanh của classic rock, modern rock và Southern rock. Theo cách này, bạn có thể đạt được một vài kỹ năng và các kỹ thuật có thể ap dụng cho các phong cách khác nhau, chẳng hạn như chơi từ các vị trí hộp (box) và sử dụng các cách luôn phiên để chỉnh dây guitar của bạn(tune your guitar).

Classic Rock ‘n’ Roll

Classic rock ‘n’ roll được định nghĩa ở đây là phong cách cởi mở (the straightforward style) được khai mở bởi Chuck Berry và nghe thấy trong âm nhạc thời kỳ đầu của the Beatles, the Rolling Stones, the Who, the Beach Boys, và các nhóm khác. Những nhóm này đặt nền tảng âm thanh của họ trên một âm thanh chắc(solid), guitar giai điệu trên cơ sở hợp âm theo lối cũ. Nó cũng bao gồm âm thanh của các rocker đặt cơ sở trên nhạc Blues, chẳng hạn Jimi Hendrix, Jimmy Page của Led Zepplin’s, và Eric Clapton của Cream.

159

Rhythm guitar

Khoảng 99% việc chơi guitar rock đòi hỏi phải có việc được gọi là chơi guitar rhythm (guitar giai điệu). Đối với một tay guitar, việc chơi giai điệu mang nghĩa rằng cung cấp phần nhạc đệm hoặc chơi phần nền cho một vocal hoặc nhạc cụ đặt biệt khác. Hầu hết, phần nhạc đệm này bao gồm việc gảy (strumming) chords và, ở một phạm vị hẹp hơn, là chơi các câu riff single-note hoặc double-stop ( 2 note được chơi cùng lúc; xem Chương 7) ở vùng hẹp hơn (2 hoặc 3 dây dưới). Hãy lắng nghe đoạn nhạc bài “Johnny B. Goode” của Chuck Berry’s hoặc “I Saw Her Standing There” của the Beatles để thấy được phần nào các câu guitar rhythm hay và thuần khiết, và hãy kiểm tra bài “Day Tripper” của the Beatles đối với việc chơi riff với các note ở dây thấp. Cũng nên nghe bất kỳ điều gì từ Day Townshend của the Who, một guitar rhythm phẩm chất của rock và anh là người làm sống mãi kỹ thuật “windmill” – kỹ thuật chuyển động vòng trong việc quét phím của tay phải mà bạn có thể sử dụng trong việc gảy các hợp âm. Và mặc dầu anh ấy hầu như được biết đến bởi việc chơi các câu lead cách tân, nhưng Eddie Van Halen là một trong những tay guitar rhythm tốt nhất trong thể loại modern-rock.

Đệm nhạc ở vị trí mở (Open-position accompaniment)

Phong cách Chuck Berry, một hình giai điệu đơn giản (rhythm figure) (mẫu nhạc đệm: accompaniment pattern) ở vị trí mở (sử dụng các dây buông), tên của cách đệm này có từ thực tế rằng hầu hết tất cả các bài hát của Berry đều sử dụng mẫu này. Hình 10-1 trình bày mẫu cho phong cách này.

Mẫu trong hình 10-1 là một mẫu đặc trưng trong việc di chuyển hợp âm giữa 2 note, bậc 5th và bậc 6th (degree: bậc – step) của thang âm (đó là thang âm trưởng và nó thích hợp với bất kỳ giọng này mà bạn đang chơi). (Bạn có thể biết thang âm trưởng; là các note thứ tự khi bạn chơi tất cả các phím trắng tư C tới C trên một cây đàn piano – các note quen thuộc do-re-mi-fa-sol-la-ti-do.) Việc biết các bậc không quan trọng, ngoại trừ đó là các nhạc sĩ thỉnh thoảng tham khảo hình giai điệu này được gọi là mẫu 5 tới 6.

Để chơi giai diệu này một cách hiệu quả, hãy sử dụng các kỹ thuật sau:

- Neo ngón trỏ (ở phím thứ 2) và thêm vào ngón thứ 3 (ở phím thứ 4) khi bạn cần nó.

- Khảy tất cả các note nhạc sử dụng kỹ thuật đánh xuống downstroke.

160

- Đừng nhấc ngón tay trỏ lên trong khi thêm vào ngón tay thứ 3.

Chú ý rằng tất cả 3 hợp âm, A, D và E, sử dụng chính xác cùng các ngón bấm và các dây buông để làm cho mẫu này có thể chơi một cách dễ dàng.

Mẫu Blues 12 khuôn (the 12-bar blues pattern)

Mẫu 5-tới-6 âm thanh nghe tuyệt, nhưng để có hiệu quả cho bạn, bạn cần đặt nó vào một tiến trình. Hình 10-2 trình bày cái đuợc gọi là chuỗi (tiến trình) 12 bar blues, một tiến trình hợp âm phổ biến trong nhiều bài hát nhạc rock: “Johnny B.Goode,” “Roll Over Beethoven,” “Tutti Frutti,” “At the Hop,” và “Blue Suede Shoes,” nhưng bài nêu trên chỉ là rất ít.

161

Hãy chú ý rằng tiến trình 12-bar blues ở hình 10-2 là ở khóa A, hãy sử dụng chuyển động 5-tới-6, và sẽ có các ký tự hợp âm trưởng nằm trên các note. Tiến trình 12-bar blues có thể xuất hiện ở bất kỳ khóa nào, và thường sử dụng hợp âm 7th át (dominant-seventh: 7 át/trội) (như trong chương 6) thay cho các hợp âm trưởng.

162

Lead guitar

Sau khi bạn đạt được một cảm nhận vững chắc về giai điệu rock ‘n’ roll căn bản, bạn có thể sẽ muốn thử một chút guitar lead, việc này đơn giản dính líu tới việc chơi các note đơn trên một nền nhạc đệm bên dưới. Bạn có thể chơi các câu lick thuộc lòng, ngắn, những đoạn tự bản thân nghĩ ra, hoặc bạn có thể ứng biến (ứng khẩu) bằng cách tạo ra cách giai điệu

163

on the spot. Trong đoạn này, chúng tôi cung cấp cho bạn các buiding blocks (khối nền tảng) for great classic rock solos (Các khối nền tảng đối với các câu solo classic rock tuyệt nhất), để giúp bạn pha trộn vài kĩ thuật khớp nối, chỉ cho bạn cách để mà kết nối chúng lại cùng nhau, và kết thúc với vài mẹo trong việc xây dựng các đoạn solo của riêng bạn.

Điều gì nằm sau hộp thứ 1? Thang âm thứ ngũ cũng (What’s behind Box 1? The pentatonic minor scale)

Bạn có thể chơi lead ngay tức thì bằng cách ghi nhớ một vài mẫu đơn giản trên cần đàn guitar, được gọi là các box(hộp), để đưa ra kết quả ngay lập tức. Một cách cơ bản, các tay guitar ghi nhớ một mẫu ngón tay mà khi kết nối vào nó gần giống như hình dạng của một cái hộp – kể từ đây khái niệm vị trí hộp (box position) – và hãy sử dụng các note từ mẫu đó (theo các thứ tự khác nhau) rất nhiều lần thông qua một câu solo hoặc một đoạn solo. Trong việc solo dựa trên một tiến trình hợp âm cơ bản, bạn có thể vẫn sử dụng mẫu này thâm chí khi các hợp âm thay đổi. Bằng cách học các box trong chương này, kho kiến thức cho việc solo trên 12-bar blues sẽ hầu như đầy đủ (Để thêm chi tiết về việc solo, hãy xem chương 11.)

Vị trí hộp đầu tiên mà chúng tôi sẽ chỉ cho bạn được hình thành từ các note mà được gọi là thang âm thứ ngũ cung (pentatonic minor scale), và nó là hộp hữu ích nhất của nhạc rock (và nó cũng là cha của các hộp blue – xem chương 11). Bạn không cần phải nghĩ nhiều về lý thuyết, các thang âm, hoặc các hợp âm – nó chỉ là các ngón bấm, mà bạn cần ghi nhớ. Các mẫu này không chứa “các note sai”, bởi vì đức tính tốt của việc di chuyển các ngón tay của bạn đúng thời gian (nhịp) so với track giai điệu, bạn sẽ có thể chơi guitar lead rock ‘n’ roll ngay tức thì. Thậm chí bạn không cần thêm nước (là thứ đặc biệt nguy hiểm khi bạn chơi một cây guitar điện).

Thang âm thứ ngũ cung là một thang âm có 5 note; công thức của nó, trong các bậc thang âm (so sánh với một thang âm trưởng là thang âm mà bắt đầu với note tương tự ) là: 1, 3, 4, 5, 7. Nếu các note của thang âm C trưởng, chẳng hạn, là được đánh số từ 1 tới 7 – như sau: C(1), D(2), E(3), F(4), G(5), A(6), B(7) – thì các note của thang âm ngũ cung thứ C là C(1), E ( 3), F(4), G(5), B ( 7). Đại khái đó là lý thuyết, còn bây giờ, bạn chỉ cần nhớ một mẫu và sử dụng tại của bạn – chứ không phải bộ não – để hướng dẫn cho các ngón tay của bạn.

Hình 10-3 trình bày một thang âm A thứ ngũ cung 2 octave ở vị trí thứ 5. (Hãy xem chương 7 để biết thêm thông tin về vị trí). Vị dụ này là chiếc hộp đầu tiên của bạn, ở đây được gọi là hộp 1 (Box I).

164

Trước khi tiến hành, hãy chắc rằng bạn hiểu các sơ đồ cần đàn và các khuôn tương thích với nhau thế nào. Chú ý rằng sơ đồ cần đàn ở đây không để chỉ cho biết một hợp âm, nhưng sẻ chỉ cho biết thang âm, nơi mà các note nhạc được chơi 1 lần ở một thời điểm, từ note thấp nhất đến note cao nhất (như trình bày trong dạng ký hiệu chuẩn và tab bên dưới).

Chú ý rằng trong hình mà chúng tôi chỉ cho bạn (bên dưới các note ở trong ký hiệu chuẩn) bậc thang âm (không quá quan trọng) và (bên dưới các số của dạng tab) các ngón bấm cho mỗi note; Chúng tôi cũng chỉ cho bạn note nào thì tốt để thực hiện bend. Hãy ghi nhớ các ngón bấm cho tới khi bạn có thể chơi nó trong giấc ngủ. Mẫu này là cần thiết phải biết nếu bạn muốn chơi guitar rock. Hãy ghi nhớ nó. Thực ra hãy chơi nó. Chơi nó nhiều lần, lên và xuống. Thực sụ. (Ý chúng tôi là hãy chơi nó. Thật đấy!)

Chúng tôi sử dụng cung A cho tất cả các ví dụ trong đoạn này bởi vì các hợp âm nền (như trong hình 10-2) thì dễ dàng để chơi và việc solo các note rơi vào quanh phần giữa của cần đàn, vị trí thoải mái để chơi. Nhưng nếu bạn muốn chơi lead ở giọng(cung) khác, hãy di chuyển các mẫu hộp của bạn lên hoặc xuống trên cần đàn theo số phím thích hợp. Ví dụ, để chơi theo giọng B, hãy di chuyển các hộp của bạn lên 2 phím.

Việc có một hộp để sử dụng trong việc ứng khẩu guitar lead là điều làm cho việc chơi classic rock ‘n’ roll (hoặc blues) thật vui; bạn không cần nghĩ – mà chỉ cần cảm nhận. Dĩ nhiên, bạn có thể chỉ chơi 5 note của thang âm lên và xuống, lặp đi lặp lại – điều đó sẽ trở nên nhàm chán rất nhanh. Thay vào đó, bạn có thể sử dụng sử sáng tạo của bạn để tạo ra các câu lick bằng cách sử dụng thang âm và thêm vào các kỹ thuật khớp nối chẳng hạn như bend, trượt, và hammer-on cho tới khi bạn có một đoạn solo hoàn chỉnh. (Hãy xem chương 9 để biết thêm chi tiết về các kỹ thuật khớp nối). Chúng tôi sẽ chỉ cho bạn cách để thêm vào các kỹ thuật kết nối này như thế nào trong đoạn sau.

165

Việc đưa vào các note khớp nối (Adding articulations)

Mẫu hộp chỉ cho bạn cái để chơi, nhưng các khớp nối chỉ cho bạn biết cách chơi như thế nào. Các note khớp nối bao gồm hammer-ons, pull-offs, slides, bends, và vibrato. Các thành phần này là cái làm cho một câu solo trở nên một câu solo thực sự, làm cho câu solo có sự diễn cảm, và làm cho nó nên riêng biệt. Chương 9 diễn đạt mỗi kỹ thuật này bước từng bước, nhưng ở đây chúng tôi nói cho bạn biết cách sử dụng các kỹ thuật này để làm cho nó đúng mùi rock ‘n’ roll.

Hình 10-4 trình bày một câu lick 4-bar sử dụng các note trong Hộp 1 (thang âm thứ ngũ cung) theo chiều tăng dần và giảm dần để bạn kết nối bằng cách sử dụng hammer-ons và pull-offs. Hãy chú ý âm thanh sẽ mượt và và trôi chảy hơn như thế nào, so với khi bạn khảy các note một cách riêng biệt.

Việc bend các note có thể tạo ra âm thanh tuyệt nhất trong các câu lead solo, nhưng mánh lới là ở việc biết các note nào để bend và khi nào thực hiện bend. Khi sử dụng Hộp I, các tay guitar thực sự thích bend các note ở dây số 2nd và dây số 3rd bởi vì cảm giác độ căng dây thích hợp, và các tay guitar bend hướng lên trần – hướng bend yêu thích của họ. Hãy khởi động bằng việc bend note ngón bấm thứ 3 (ngón nhẫn) trên dây số 3 và note ngón bấm thứ 4 (ngón út) trên dây số 2nd. (Hãy xem Chương 9 để biết thêm thông tin về cách bend một note.) Hình 10-5 trình bày một chuỗi 4-bar đặc trưng các note bend ở dây số 3rd và dây số 2nd trong Hộp I.

166

Hình 10-6 trình bày một chuỗi 2 bar đặc trưng 1 note bend double-stop trong hộp I. Note mà nằm trên phím thứ 7th của dây số 2nd không thuộc về thang âm thứ ngũ cung, nhưng nó vẫn nghe tốt như thường, và nó rất dễ chơi bởi vì ngón thứ 3 chặn cả 2 note của double-stop này.

Hãy thêm vào một chút rung (vibrato) cho note cuối để làm cho tăng thêm diễn cảm.

167

Viết một đoạn solo sử dụng Box 1 (Building a solo using Box 1)

Một đoạn solo ứng khẩu là một đoạn nhạc mà bạn tạo ra, và không một ai có thể chỉ cho bạn chính xác cái gì phải chơi. Nhưng chúng tôi có thể chỉ cho bạn các công cụ cho việc solo để bạn có thể thực hành và có được cảm giác với nó. Xa hơn điều đó, tuy nhiên, tính cách riêng của bạn sẽ lên tiếng.

Còn bây giờ, hãy khởi hành bằng cách lấy cảm hứng từ việc chơi lead qua mẫu nhạc đệm 12-bar blues mà chúng tôi trình bày cho bạn trong hình 10-2, nó được kết hợp vào trong track giai điệu trên CD.

Hãy chú ý rằng mỗi chuỗi (trong hình 10-4, 10-5, và 10-6) mà chúng tôi trình bày cho bạn trong các đoạn trước, “Việc đưa vào các note khớp nối (Adding articulations)”, thay phiên 1 nhịp active (chứa nhiều note) với 1 nhịp static (chỉ gồm một note). Sự luôn phiên này giữa hoạt động và nghỉ sẽ ngăn sự đơn điệu. Hãy chơi các chuổi này theo thứ tự mà chúng tôi sẽ diễn giải trong các chỉ dẫn sau đây, và bạn sẽ tạo được sự sẵn sàng để xây dựng solo 12-bar. (Nếu bạn muốn, bạn có thể chơi solo lặp đi lặp lại) Để chơi một đoạn solo, hãy theo các bước sau:

1. Đối với 4 bar đầu của đoạn solo, hãy chơi câu lick double-stop, được trình bày trong hình 10-6 x2 lần.

2. Đối với 4 bar tiếp theo của đoạn solo, hãy chơi câu lick hammer-on/pull-off, như trong hình 10-4.

3. Đối với 4 bar cuối cùng của đoạn solo, hãy chơi câu lick “bend các dây số 3rd và dây số 2nd” (tham khảo Hình 10-5).

168

Chúng tôi lưu ý các bước trước trong hình 10-7. Việc chơi ví dụ này cho bạn cảm hứng của việc chơi lead… đoạn solo ngắn của bạn vang lên như một loạt các đoạn – bởi nó là vậy.

169

Hộp thứ II và thứ III (Boxes II and III)

Hai hộp kế tiếp, mà chúng tôi đặt tên ở đây là Hộp II (Box II) và Hộp III (Box III), sẽ không trình bày các note trên cả 6 dây đàn như Hộp 1 đã trình bày, bởi vì các tay guitar thông thường chỉ chơi các note trên 2 hoặc 3 dây có cao độ cao (top).

Hộp II bao gồm 5 note, như trình bày trong hình 10-8. Chú ý rằng 2 note tại đỉnh của hộp này (ở phím thứ 8th) cũng là một phần của Hộp I, nhưng trong Hộp I, bạn chơi chúng với ngón út và ngón thứ 3. Hộp này chỉ ra các note từ thang âm thứ ngũ cung A ở vị trí thứ 8. Lần nữa, trong hình này, chúng tôi chỉ cho bạn bậc thang âm và ngón bấm cho mỗi note, và chúng tôi chỉ cho bạn note nào tốt để thực hiện bend.

Hộp II là phổ biến nhất bởi vì nó là nét đặc biệt của note bend tốt dưới ngón thứ 3, và note đó cũng xuất hiện là note cao nhất(cao độ cao nhất) của hộp. Trong việc chơi lead, cao là tốt (high). Bạn có thể chơi note cao nhất trong hộp và sau đó làm cho nó thậm chí cao hơn bằng cách bend nó lên 1 bậc (a step). Kỹ thuật này sinh ra một hiệu ứng rất đột ngột mạnh mẽ. Hãy thử nó.

170

Trong hình 10-9 bạn nhìn thấy một câu lick đặc trưng sử dụng các note Hộp II mà đặc biệt có bend ở note cao độ cao nhất của hộp.

Hộp III là hộp lạ bởi vì một vài note cua3no1 không nằm trong thang âm thứ ngũ cung A – nhưng các tay guitar sử dụng hộp này rất nhiều như thường. Danh sách sau đây nói cho bạn tất cả các thứ mà Hộp 3 có:

- Hộp III thì dễ chơi và dễ nhớ - Chính xác thì nó giống như Hộp II nhưng nằm cao hơn(cao hơn về cao độ, gần phía nhúng hơn) 2 phím trên cần đàn.

- Hộp III có 2 note – F# (bậc 6th) và B (Bậc 2) – chúng không rơi vào trong thang âm thứ ngũ cũng A. Và đây là một điều tốt. Hai note này được mượn từ thang âm trưởng gốc (parent major scale) (thang âm trưởng là thang âm bắt đầu cùng note với thang âm thứ - trong trường hợp này là, A), và thỉnh thoảng các tay guitar thích thêm chúng vào thang âm thứ ngũ cung cho đa dạng và thêm hương vị. Đặc tính trội của các note từ thang âm thứ ngũ cung là điều làm cho classic rock ‘n’ roll (và blues) ra hương vị của nó – not the total exclusion of all other notes.

- Note tốt để bend ở hộp III rơi vào ngón thứ 3.

- Bậc đầu tiên của thang âm, note mà bạn thường kết thúc của một đoạn nhạc, là note nằm dưới ngón trỏ trên dây số 2nd trong hộp này. Bạn có khuynh hướng áp dụng kỹ thuật rung cho note kết thúc của một đoạn nhạc (đặc biệt khi bạn giữ nó), và note này cung cấp một ngón lý tưởng và dây lý tưởng trong trường hợp rung.

Hình 10-10 trình bày Hộp III (ở vị trí thứ 10 đối với giọng A). Một lần nữa chúng tôi chỉ cho bạn bậc thang âm và các ngón bấm cho mỗi note – và note tốt để bend chúng tôi khoang tròn một lần nữa.

Thường, các tay guitar tập trung vào dây số 2nd và dây số 3rd của hộp III, như trình bày trong hình 10-11, hình mô tả một đoạn nhạc đặc trưng Hộp III. Đừng quên rung note cuối nhé!

171

Nếu bạn muốn chơi một bài hát theo phong cách classic rock ‘n’ roll ngay bây giờ, hãy nhảy tới chỗ “Chuck’s Duck” trong đoạn “Chơi các bản nhạc theo phong cách Rock (Playing Songs in the Rock Style),” nằm ở dau trong chươn này.

172

Xây dựng một đoạn solo bằng cách sử dụng Hộp I, II, và III (Building a solo by using Boxes I, II, and III)

Đoạn này đơn giản đặt các câu lick lại với nhau từ 3 Hộp mà chúng tôi đã diễn đạt trong các đoạn trước. Bạn không cần bất kỳ thông tin nào mới; Bạn chỉ cần ráp lại với nhau cái bạn biết nếu bạn đã đọc thông tin mà chúng tôi cung cấp trong các đoạn đó. (Nếu bạn chưa đọc, chúng tôi đề nghị rằng bạn hãy thực hiện nó bây giờ, trước khi bạn thử đoạn solo chúng tôi diễn tả ở đây.) Nói cách khác, sau khi bạn xây dựng các viên gạch, thì giờ bạn đặt chúng lại với nhau để tạo thành căn nhà.

Trong danh sách sau, chúng tôi trình bày cho bạn cách để xây dựng một đoạn solo 12-bar đã được viết rồi bao gồm 6 đoạn nhạc 2-bar (sử dụng 3 Hộp) mà chúng tôi đã chỉ cho bạn trong các đoạn trước. Hãy theo các bước sau:

1. Hãy chơi câu lcik double-stop Box I, như trong hình 10-6.

2. Hãy chơi câu lick “bend dây số 3rd (bending the 3rd string)” Hộp I, như trong nửa đầu của hình 10-5.

3. Hãy chơi câu lick Hộp III, như trình bày trong hình 10-11.

4. Chơi câu lick “bend dây số 2 (bending the 2nd string)” Hộp I, như trình bày trong nửa dưới của hình 10-5.

5. Hãy chơi câu lick Hộp II, như trình bày trong hình 10-9.

6. Hãy chơi câu lick double-stop Hộp I một lần nữa, như trình bày trong hinh 10-6.

Hình 10-12 trình bày cho bạn đoạn nhạc từ những đoạn trước. Hãy lắng nghe CD để cảm nhận âm thanh đoạn solo này như thế nào.

Khi bạn chơi đoạn solo này lặp đi lặp lại, bạn sẽ có cảm hứng cho việc solo với 3 Hộp trên tiến trình 12-bar blues. Niềm vui thú bắt đầu sau khi bạn bắt đầu tạo dựng các câu solo của riêng bạn. Sau đây là vài hướng dẫn trong việc tạo ra các câu lead của riêng bạn:

- Nghĩ về việc nối các đoạn nhạc ngắn lại với nhau. Thậm chí bạn có thể chơi 1 đoạn ngắn lặp đi lặp lại, mặc dầu các hợp âm nền thay đổi. Một cách tốt để tạo ra một đoạn solo là làm cho nó có thể hát được. Hãy hát đoạn nhạc ngắn đó trong tâm trí của bạn nhưng hãy sử dụng các note từ Hộp.

173

- Hãy đưa vào vài kỹ thuật khớp nối – đặc biệt là các note bend, bởi vì chúng vang lên tuyệt nhất. Thêm rung vào cho các note dài mà kết thúc muột đoạn, thỉnh thoảng trượt xuống tận cuối.

- Luôn phiên giữa hoạt động (activity – nhiều note liên tục) và nghỉ ngơi (một vài note hoặc chỉ 1 note hoặc thâm chí là im lặng một vài nhịp).

- Di chuyện từ Hộp tới Hộp để làm cho câu solo của bạn nên đa dạng.

Đừng rụt rè hoặc lo lắng về việc mắc lỗi. Theo quan điểm của chúng tôi, bạn thực sự không thể mắc lỗi, bởi vì tất cả các note trong các Hộp đều tốt khi áp vào tất cả các hợp âm trong tiến trình nền. Lỗi duy nhất lỗi mà bạn có thể mắc phải là tránh việc solo for fear of sounding lame (lame: khập khiễng). Việc solo đòi hỏi phải thực hành, nhưng bạn sẽ xây dựng sự tự tin từ từ. Nếu bạn quá xấu hổ khi solo trước mọi người, thì hãy bắt đầu bằng cách thực hiện cùng CD, ở đây sẽ không ai có thể nghe bạn. Sớm thôi, sẽ không ai có thể ngăn cản bạn.

Hãy lắng nghe các bản thu âm để tìm được những ý tưởng mới khi bạn trở nên tự tin hơn trong việc chơi guitar. Khi bạn nghe một bản ghi âm, bạn sẽ có thể hình dung ra một cách chính xác các tay guitar đang chơi gì, bởi vì hầu hết các tay guitar sử dụng cùng các hộp, cùng các note bend, các note rung, và vân vân mà bạn chơi. Một số tay guitar tốt để lắng nghe trong việc tìm ý tưởng là Chuck Berry, Jimi Hendrix, Eric Clapton, và Eddie Van Halen.

174

Modern Rock

175

Trong khi guitar giai điệu classic rock ‘n’ roll sử dụng các hợp âm đơn giản, thì nhạc modern-rock sử dụng các hợp âm các hợp âm vượt trên các hợp âm cơ bản trưởng (major), thứ (minor), và các hợp âm 7th. Các hợp âm Sus, các hợp âm add, các hợp âm slash, và các hợp âm lạ do đó sẽ điều hướng cây guitar của bạn tất cả làm nên thuật ngữ modern-rock.

Các hiệu chỉnh luôn phiên (alternative tunings: hiệu chỉnh cao độ các dây của guitar) cho phép bạn tạo ra những màu sắc guitar giai điệu mới hoàn toàn và các bố cục không thể nằm trong dạng chuẩn, và âm thanh này là một thành phần quan trọng đặc biệt của phần alternative những năm 90.

Cũng trong phần này chúng tôi diễn giải một cách tiếp cận khác trong việc chơi lead mà ở đây bạn sử dụng thang âm trưởng ngũ cung – một thang âm khác với thang âm thứ ngũ cung blueiser mà bạn chơi chủ đạo trong nhạc classic rock ‘n’ roll và nhạc Blues. Bạn có thể sử dụng thang âm trưởng ngũ cung cho các câu lead nhạc Southern- và country-rock, cũng như thêm vào để làm phong phú hơn các câu lead dựa trên cơ sở nhạc blues.

Các hợp âm Sus và add (Sus and add chords)

Các hợp âm thường được xây dựng bằng nhóm các note khác nhau của một thang âm trưởng. Ví dụ, nếu bạn xây dụng một họp âm 3 note bằng cách nhóm các note của thang âm trưởng C (C-D-E-F-G-A-B), bạn có C-E-G (hợp âm C trưởng). Các thành viên của một hợp âm (các note riêng biệt mà tạo thành hợp âm đó) được gán nhãn theo bậc của chúng trong thang âm: C là “1” (hoặc bậc gốc của hợp âm); E là “3” (hoặc bậc 3 của hợp âm); và G là “5” (hoặc bậc 5 của hợp âm).

Trong các hợp âm sus, bạn thay thế bậc 3 của hợp âm bằng bậc 4, như cách viết sus4 (mà bạn sẽ phát âm là suss-four) hoặc đôi khi là bậc 2, như cách viết sus2. Kết quả là âm thanh như thiếu và không thuận tai nhưng tạo ra một âm thanh thú vị không phải trưởng mà cũng không phải thứ.

Một hợp âm add đơn giản là một hợp âm cơ bản (chẳng hạn như một hợp âm trưởng) mà bạn thêm vào một note phụ nữa. Nếu bạn bấm hợp âm C và thêm vào note D, chẳng hạn, bạn sẽ có hợp âm Cadd2 (bạn sẽ phát âm là see-add-two) (gồm các note C-D-E-G). Hợp âm này thì khác với hợp âm Csus2, là hợp âm không có note E. (vì note D đã chiếm vị trí của nó.)

176

Các hợp âm sus vị trí mở (Open-position sus chords)

Mặc dầu bạn có thể chơi các hợp âm sus theo dạng hợp âm chặn có thể di chuyển được, nhưng những hợp âm vị trí mở là dễ nhất để chơi và là những hợp âm mà các tay guitar sử dụng thường xuyên. HÌnh 10-13 trình bày các ngón bấm cho một tiến trình sử dụng các hợp âm Dsus4, Dsus2, Asus4, và Asus2.

Các hợp âm add vị trí mở (Open-position add chords)

Bạn có thể chơi các hợp âm add như dạng các hợp âm chặn có thể di chuyển được, nhưng các hợp âm add vị trí mở là các hợp âm phổ biến nhất và dễ chơi nhất. Hình 10-4 trình bày các ngón bấm và một tiến trình đối với hợp âm Cadd9 (là hợp âm thêm vào note D, bậc 9 của thang âm C, vào 3 note mà tạo thành hợp âm C trưởng căn bản) và các hợp âm G “4 ngón (four-fingered)”. Hợp âm G “4 ngón (four-fingered)” không phải là một hợp âm add, nhưng bạn hầu như luôn luôn dùng kiểu ngón bấm G này trước hoặc sau một hợp âm Cadd9.

177

Các hợp âm Slash (Slash chords)

Các hợp âm Slash thì nhiều màu sắc, các hợp âm thú vị mà tăng thêm gia vị và hương vị cho nhạc modern rock. Một hợp âm slash, đơn giản, là một hợp âm với một dấu gạch “/” (/- dấu gạch slash) nằm trong tên của nó, như Am/C (bạn sẽ phát âm là A minor over C). Bên trái dấu / (slash) là chính hợp âm đó. Bên phải dấu / (slash) là note bass cho hợp âm đó. Thông thưởng, note cao độ thấp nhất của một hợp hợp – bass note – là note gốc của hợp âm (note mà cũng là tên của hợp âm). Vì thế nếu bạn xem tên một hợp âm chẳng hạn Am, bạn cho rằng note bass là A. Nhưng note gốc không phải luôn luôn là note tấp nhất của một hợp âm. Sự thật, bất kỳ note nào cũng có thể đóng vai trò là note bass, nó là một màu sắc hợp âm khác so với thế gốc (chẳng hạn như bậc 3 hoặc bậc 5 của hợp âm) hoặc một note mà thậm chí không là thành viên của một hợp âm. Nếu bạn thực hiện một note bass không phải là note gốc kiểu như thế, bạn hãy chỉ ra note bass đó bằng cách đặt nó bên phải dấu slash. Vì thế Am/C có nghĩa là bạn chơi một hợp âm A thứ - nhưng với note C là note thấp nhất.

Các tay guitar thường dùng các hợp âm slash trong các tiến trình mà ở đó giọng bass sẽ hình thành nên một thang âm tăng hoặc giảm. Mẫu sắp xếp bass này làm cho một tiến trình thú vị và hòa hợp. Bạn có thể nghe một tiến trình như tiến trình này trong bài hát “Whiter Shade of Pale,” bởi Procol Harum. Hình 10-15 trình bày một triến trình khác mà sử dụng các hợp âm slash theo lối này. Để làm lộ ra dòng bass, trong mỗi khuôn nhạc, thì bạn hãy chơi mỗi note đáy của hợp âm tại nhịp 1 (beat 1) và khảy hợp âm đó ở nhịp 2 và 3 ( có nghĩa là “Bass strum strum”).

178

Các hợp âm trong hình 10-15 đưa ra các dấu X trong sơ đồ hợp âm, là ký tự chỉ cho bạn biết các dây đàn không được chơi. Để giữ cho một dây đàn khỏi kêu, hãy sử dụng ngón tay trái mà đang nhấn dây có cao độ thấp hơn liền kề để làm câm tiếng nó bằng cách chạm nhẹ vào nó.

Alternate tunings (Các hiệu chỉnh xen kẽ)

Nhạc guitar modern rock của cuối những năm 80 và những năm 90 thường sử dụng alternate tunings – kiểu hiệu chỉnh khác dạng chuẩn EADGBE (hãy xem chương 2). Bằng cách sử dụng alternate tunings, bạn có thể đạt được những âm thanh mới, hứng thú mà không thể có được ở dạng hiệu chỉnh(lên dây) chuẩn. Alternate tunings cũng có thể cho phép bạn chơi các câu lick hoặc các hợp âm mà khó bấm ở dạng lên dây chuẩn nhưng dễ bấm ở dạng alternate tuning. Nhưng nhớ rằng; sau khi bạn hiệu chỉnh lại cây guitar của bạn, tất cả các ngón bấm quen thuộc không còn. Đó là lý do tại sao khảy các câu lick và câu riff ở dạng alternate tuning bằng cách đọc tab có thể chứng minh sự hữu ích đặc biệt. Các nghệ sĩ theo phong cách đa dạng như Joni Mitchell, the Rolling Stones, và Soundgarden sử dụng rộng rãi alternate tunings.

Drop D (DADGBE)

179

Drop-D tuning (được gọi như vậy bởi vì bạn làm mất điều hướng, hoặc giảm (drop: giảm, hạ), dây E trầm xuống tới D) là kiểu alternate tuning gần dạng lên dây chuẩn nhất – bạn chỉ điều chỉnh lại dây số 6th. Để có được kiểu tuning này, hãy hạ thấp (drop) dây số 6th cho tới khi âm thanh của nó thấp hơn 1 octave so với dây số 4th. Kiểu tuning này cho phép bạn chơi note D hoặc hợp âm Dm với một note D trầm là note gốc trên dây số 6th, tạo ra một âm thanh đầy, đẹp.

Hình 10-16 trình bày một đoạn nhạc đặc biệt ở dạng drop-D tuning. Nó mang âm hương bluesy. Hãy bend note ở phím thứ 3 của dây số 6 thật nhẹ.

Một lợi điểm của drop-D tuning là bạn có thể chơi các hợp âm power trầm trên 2 dây trầm như là các hợp âm chặn 2 dây, điều này sẽ cho phép bạn chơi các câu riff hợp âm power dễ dàng hơn, như trình bày trong hình 10-17.

180

Open D (DADF#AD)

Trong kiểu open tuning, các dây buông hình thành một hợp âm trưởng. Kiểu open-D tuning, sẽ hình thành (ngạc nhiên lớn) một hợp âm D. Trong kiểu tuning này, hầu hết các hợp âm mà bạn chơi không gì khác (nothing but: không gì ngoài, không gì khác) là các dây mở hoặc một ngón chặn xuyên suốt cả 6 dây đàn. Bạn có thể, chẳng hạn, chơi hợp âm G đơn giản bằng cách chặn cả phím thứ 5 với ngón trỏ của bạn. Joni Mitchell đã thực hiện sử dụng mở rộng của kiểu tuning này trong các bài hát chẳng hạn như bài “Big Yellow Taxi.”

Để có được kiểu tuning này, hãy theo các bước sau:

1. Hạ dây số 6th cho tới khi âm thanh của nó thấp hơn một octave so với dây số 4th.

2. Hạ dây số 3 để cao độ của nó bằng với note ở phím thứ 4 của dây thứ 4th.

3. Hạ dây số 2 để nó bằng với note ở phím thứ 3 của dây số 3rd.

4. Hạ dây số 1st xuống để nó bằng với note ở phím thứ 5 của dây số 2 (và nó cao hơn 1 octave so với dây số 4th).

Nếu bạn tăng cao độ cả 6 dây lên 1 cung (2 phím) từ dạng open-D tuning, bạn sẽ được dạng open E-tuning (EBEG#BE), mà về bản chất bạn có thể xem như giống với kiểu tuning như open-D, bởi vì các mối quan hệ giữa các dây đàn vẫn giữ nguyên, mặc dầu các note thực tế có khác nhau.

Trong hình 10-18 bạn thấy một chuỗi đặc trưng dùng open-D tuning mà âm thanh giống như Joni Mitchell có thể đã được chơi trong 1 trong những album đầu của cô ấy.

181

Một kiểu alternate tuning phổ biến khác mà bạn có thể chạy quanh (chạy dài: run across) là open-G (DGDGBD, cao độ từ thấp tới cao), thường được sử dụng bởi Keith Richards của the Rolling Stones chẳng hạn trong các bài hát như “Brown Sugar” và “Start Me Up.” (Hãy xem chương 12 về ví dụ có sử dụng open-G tuning.)

Country-rock và Southern-rock lead

Kể từ thời của Eagles, the Grateful Dead, và Allman Brothers Band, country Rock và Sounthern rock có được thành công chính thống và sức lôi cuốn. Âm thanh của những phong cách này nằm một nơi nào đó giữa nhạc country đúng chất và nhạc Blues, mặc dầu cả hai thì theo hướng quá rock đối với country đúng chất và chưa quá nặng đủ để chuyển qua rock mà được đặt cơ sở trên Blues. Đơn giản 1 chút, âm thanh của những phong cách nhạc này quy về cho các hợp âm mà những tay guitar sử dụng đặc biệt mang màu sắc major hơn và, các thang âm trong một phạm vi rộng hơn, mà họ sử dụng trong các đoạn solo. Để có được cảm nhận về kiểu âm thanh này, hãy lắng nghe âm nhạc của Byrds, the Allman Brothers Band, the Marshall Tucker Band, Pure Prairie League, Lynyrd Skynyrd, the Grateful Dead, và the Eagls, cũng như những rocker gạo cội Jackson Browne, J.D.Souther, và Linda Ronstadt.

Thang âm trưởng ngũ cung (The Pentatonic major scale)

Bạn có thể định nghĩa các note của thang âm thứ ngũ cung ở bất kỳ khóa nào (tông) dạng 1, 3, 4, 5, 7, khi so sánh với thang âm trưởng gốc (parent: nguồn gốc, 7 note nhạc của nhạc Âu Châu). Bạn có thể thực hành về các thang âm kiểu một Hộp thuộc lòng, là 1 cách tốt. Thang âm trưởng ngũ cung, mặt khác, sử dụng các note 1,2,3,5,6 của thang âm trưởng gốc (parent). Đó là một thang âm 5 note mà không có những sự thay đổi nửa cung (đó là, những note mà bạn thay đổi lên hoặc thấp xuống nửa cung – half step: nửa cung), vì thế nó vang lên như một thang âm trưởng với 2 note bỏ lại.

182

Một lần nữa, thang âm trưởng ngũ cung là một thang âm rất hữu ích bởi vì chính bản thân nó tạo ra âm nhạc một cách thiết thực, và bạn không thể chơi bất kỳ note sai nào. (Hãy xem đoạn “Điều gì nằm sau hộp thứ 1? Thang âm thứ ngũ cũng (What’s behind Box 1? The pentatonic minor scale)” ở đoạn trước trong chương này, để biết thêm thông tin về các bậc trong thang âm và thang âm thứ ngũ cung.)

Sau khi bạn thông thạo (master) về thang âm thứ ngũ cung, thì thang âm trưởng ngũ cung là một điều chắc chắn. Chỉ cần di chuyển thang âm thứ ngũ cung xuống 3 phím và voilà, bạn sẽ có một thang âm trưởng ngũ cung. Chỉ cần chơi cùng mẫu, và các note, lý thuyết, and all that nonsense take care of themselves.

Hãy chọn 1 ví dụ, chẳng hạn, bạn biết rằng bạn chơi thang âm thứ ngũ cung A tại phím 5 dựa vào một tiếng trình hợp âm trong khóa của A. Nào, hãy hạ mẫu câu lead đó xuống vị trí thứ 2 (nơi mà ngón trỏ trái chơi các note trên phím thứ 2), và bạn có được thang âm trưởng ngũ cung A, phù hợp cho các tiến trình của country-Rock và Sounthern-Rock. (hãy xem chương 7 để biết thêm thông tin về các vị trị.)

Hình 10-19 trình bày thang âm trưởng ngũ cung A ở vị trí thứ 2 (Box I) và vị trí thứ 5 (Box II), đi kèm với bậc thang âm và các ngón bấm cho mỗi note và note tốt để thực hiện bend trong mỗi hội (được khoanh tròn). Hãy chú ý rằng điều duy nhất khác nhau thực sự so với thang âm thứ ngũ cung là phím bắt đầu.

183

Các câu lick mà bạn đặt cơ sở trên thang âm trưởng ngũ cung (Licks that you base on the pentatonic major scale)

Tin tức tốt là, đúng như thang âm thứ ngũ cung, thang âm trưởng ngũ cung cũng có tất cả những điểm tốt: Các note bend nằm ở các vị trí tốt; bạn hãy sử dụng ngón tay trỏ trên mỗi dây của Hộp I để có 1 cảm nhận chắc chắn; và thang âm này thì phù hợp đặc biệt để sử dụng các note hammer-on, các note pull-off, và các note trượt cho khả năng diễn cảm hơn.

Tin tức xấu là, mặc dầu bạn vẫn ở tông A (trưởng), nhưng các ngón bấm được chuyển đi, vì thế bạn không còn biết nơi để những ngón tay thông thường để thực hiện sự kết thúc câu solo của bạn. Nhưng chúng tôi không nghĩ vấn đề này là một vấn đề đặc biệt lớn. Chỉ cần một chút định hướng lại (và tai của bạn), bạn có thể tìm thấy các note thay thế tốt “in no time”.

Và ở đây là một mẹo: Các note tốt để thực hiện kết thúc trong một câu solo trưởng ngũ cung ở tông A là phím thứ 2 của dây thứ 3 (Hộp I) và phím thứ 5 của dây số 1 (Hộp I hoặc Hộp II).

Hình 10-20 trình bày một câu lick 4 khuôn để bạn bắt đầu bước xuống con đường Southern country. Chú ý rằng câu lick này đặc biệt bend ở cả hai vị trí (Các Hộp I và II) và một cú trượt từ Hộp II trở về Hộp I để đưa bạn trở về.

184

185

Chơi các bản nhạc theo phong cách Rock (Playing Songs in the Rock Style)

Mặc những cái áo vest tour của bạn vào và hãy chất đầy vào xe hơi của bạn, bởi vì bạn sẽ chơi Rock theo phong cách trong phần này của chương.

Những bài hát của đoạn này cover theo 2 phong cách: âm thanh thong thả, classic rock ‘n’ roll những năm cuối 50 và âm thanh tưng tưng thanh thoát của country và Southern-rock những năm 70.

Đây là một vài thông tin đặc biệt về các bài hát để giúp bạn theo cùng:

- Chuck’s Duck. Để chơi bài “Chuck’s Duck,” bạn cần biết cách chơi các câu lick với thang âm thứ ngũ cung (hãy xem đoạn “Điều gì nằm sau hộp thứ 1? Thang âm thứ ngũ cũng (What’s behind Box 1? The pentatonic minor scale)” nằm ở trước trong chương này); cách chơi các double-stops và double-stop bends (hãy xem chương 7 và 9); và cách uốn cong một đầu gối và nhảy lò co ngang qua sân khấu mà không cần phải đi soi khớp về sau này.

Các double-stop, thang âm thứ ngũ cung, và liên tiếp 8 note làm nên đặc điểm âm thanh cho classic rock ‘n’ roll. Chú ý các note bend nhanh, ngập tràn trên dây thứ 3 trong ô nhạc từ 6 đến 9.

- Southern Hospitality. Để chơi “Sounthern Hospitality,” bạn cần biết cách chơi thang âm trưởng ngũ cung (hãy xem đoạn “Thang âm trưởng ngũ cung (The Pentatonic major scale)”, nằm ở trước trong chương này); cách chơi các hợp âm sus, add, và slash (hãy xem đoạn “Modern Rock”, nằm ở trước trong chương này); và cách nuôi một bộ râu dài quá cỡ.

Bằng cách lấy thang âm thứ ngũ cung và di chuyển nó xuống(phía đầu cần) 3 phím, bạn có được thang âm trưởng ngũ cung, thang âm mà bạn dùng để tạo ra âm thanh country-rock và Southern-rock thực sự theo phong cách của Eagles, Poco, và Pure Prairie League. Sau khi chơi phần lead, hãy thử phần guitar giai điệu, là nét đặc biệt của các hợp âm sus, add, và slash. Chúng tôi đã chỉ ra các ngón bấm hợp âm tay trái cho bạn, nhưng hãy lắng nghe CD để biết mẫu khảy tay phải.

186

187

188

189

Chương 11

190

Blues Trong chương này

- Chơi các bản Blues bằng guitar điện.

- Chơi các bản Blues bằng guitar mộc.

- Chơi các bản nhạc nói về nỗi đau buồn xé ruột và sự đau khổ và tìm cách tốt để chơi nó.

Blues là một trong những dạng phổ biến nhất của nhạc guitar, cho cả người nghe và người chơi. Và tại sao không? Ai có thể cưỡng lại những nhịp điệu ung dung, những giai điệu đầy diễn cảm, và những lời nhạc làm xúc động sâu sắc của nhạc Blues? Không phải mọi dạng nhạc có thể làm ấm trái tim bạn khi ca sĩ đang than khóc tuyệt vọng ở nơi giam tử tù về tội giết người mà anh ta không phạm trong khi người yêu anh ta cao chạy xa bay với người bạn thân của anh ấy. Ah, nỗi đau khổ ngọt ngào.

Nhưng trước khi chúng ta trở nên quá đa cảm, chúng tôi muốn nói với bạn tại sao việc chơi nhạc blues được sinh ra chỉ dành cho guitar. Một lý do, đó là một phong cách tương đối dễ để chơi (đặc biết nếu bạn so sánh với jazz hoặc classical): Các mẫu nhạc đệm của Blues thì gần gũi và thoải mái cho tay, và những giai điệu Blues rơi một cách đặc biệt trên cần đàn guitar bởi vì phong cách sử dụng những thang âm và cách mà bạn hiệu chỉnh các dây đàn. Thêm nữa, blues không đòi hỏi khắt khe về kỹ thuật, và bạn chơi nó tốt nhất là bằng tai với sự dẫn đường của con tim.

Việc chơi những bản Blues tuyệt hay – theo sau những bước đi âm nhạc của những huyền thoại chẳng hạn như B.B.King hoặc sau này là Stevie Ray Vaughan – có thể là khó, nhưng chơi những bản Blues hay ngay tức thì vẫn khá dễ nếu bạn biết một vài dạng thang âm, và một vài cách di chuyển blues đơn giản.

Trong chương này, chúng tôi hướng đến Blues điện Blues mộc. Theo tiến trình, chúng tôi sẽ giới thiệu cho bạn thêm các Hộp, thang âm Blues, Roman-numeral naming, và turnarounds

Electric Blues

Các bản Blues điện là loại Blues mà tất cả những người khổng lồ của thể loại chơi: Buddy Guy, B.B.King, Albert King, Albert Collins, Johnny Winter, và Duane Allman, giữa những người khác. Việc chơi Blues bằng guitar điện được phân rõ ràng thành 2 hạng mục: rhythm và lead.

Blues rhythm guitar

191

Việc chơi guitar nhịp điệu (rhythm) là điều mà bạn sẽ chơi bất kỳ lúc nào khi bạn không đang chơi lead – chẳng hạn như việc đệm cho một ca sĩ hoặc đặc biệt là một nhạc cụ khác bằng việc chơi các hợp âm, các hình nhịp điệu nền, và những câu riff note trầm được lặp lại. Thông thường nhịp điệu ít đòi hỏi phải giỏi kỹ thuật so với việc chơi lead và nó dựa vào “cảm nhận” của tay guitar hơn là kỹ thuật của anh ấy. Để đặt hợp âm cho một vài loại bối cảnh, bạn cần bắt đầu với dạng phổ biến nhất, hoặc tiến trình, theo phong cách, 12-bar blues.

Cấu trúc đơn giản của dạng 12-bar blues (The basic structure of the 12-bar blues form)

Guitar Blues và rock thì tương đồng ở chỗ mỗi loại nghiêng mạnh về dạng 12-bar blues trong cấu trúc bài hát (xem chương 10). Lấy giọng A là một ví dụ, tiến trình 12-bar blues bao gồm 4 khuôn hợp âm A, 2 khuôn hợp âm D, 2 khuôn hợp âm A, 1 khuôn hợp âm E, 2 khuôn hợp âm A. Ở dạng ký hiệu âm nhạc chuẩn, tiến trình 12-bạ blues trông giống như ví dụ trình bày trong Hình 11-1.

Các hợp âm trong bất kỳ tiến trình phổ biến nào, bao gồm tiến trình Blues trong hình 11-1, chúng thường được viết dưới dạng ký số La mã. Các ký số này nói chung để nhận dạng các hợp âm thì tốt hơn bằng giọng (key). Bạn luôn luôn gán ký số La mã I cho hợp âm làm giọng của bài hát. Sau đó, bạn đếm lên từng ký tự và gán các số khác cho các hợp âm.

Ví dụ, trong giọng A (như trong hình 11-1) hợp âm A là I (ký số I La mã), hợp âm D là IV(4), và E là V (5). (Bạn có thể đếm những tên ký tự trên các ngón tay, bắt đầu từ A, để xác nhận rằng A là I, D là IV, và E là V.) Trong giọng G, mặt khác, G là I, C là IV, và D là

192

V. Bằng cách sử dụng hệ thống này, nếu bạn quyết định chuyển giọng, bạn luôn luôn có thể nói rằng, “Hãy bắt đầu chơi ở hợp âm bậc IV(4) ở khuôn 5.” Nếu bạn biết hợp âm nào là bậc I, IV, và V ở giọng đó, thì bạn đã sẵn sàng để chơi. Hãy xem bảng 11-1 là bảng tra cứu thuận tiện về các hợp âm ở bậc I, IV, và V ở các giọng phổ biến.

Nếu bạn đang chơi phần nhạc đệm blues bằng cách dùng các hợp âm chặn (xem Chương 8 để biết thêm thông tin về các hợp âm chặn), bạn có thể nhớ các hợp âm mà đơn thuần chỉ là nhớ các vị trí trên cần đàn. Ví dụ nói rằng bạn đang chơi một tiến trình blues ở giọng A. Nếu bạn lấy một hợp âm chặn dựa trên cơ sở E ở phím thứ 5 (A), bạn đang chơi hợp âm bậc I của giọng A. Nếu bạn chuyển tới dạn hợp âm chặn dựa trên cơ sở A ở cùng phím đó, lúc này bạn đang chơi hợp âm bậc IV, hoặc chính là D. Hãy di chuyển thế chặn đó (dựa trên cơ sở A) lên cao 2 phím trên cần đàn – tới phím thứ 7 – và bạn đang chơi hợp âm bậc V, E. Hiểu cách dễ dàng để chơi blues! Hãy sử dụng cùng các vị trí đó ở bất kỳ đâu trên cần đàn – hợp âm chặn trên cơ sở E ở bất kỳ phím nào, theo sau nó là hợp âm chặn dựa trên cơ sở A ở cùng phím đó, và tiếp nữa là di chuyển dạng chặn này lên 2 phím nữa – và bạn đã biết tiến trình I-IV-V cho bất kỳ giọng nào với phím khởi đầu nào đó.

Dưới đây là 2 sự thay đổi quan trọng của dạng 12-bar blues:

- Chuyển sớm bậc IV: Vẫn dùng giọng A làm ví dụ, bạn thay thế hợp âm D (IV) cho A (I) ở khuôn thứ 2. Thông thường, bạn phải chờ tới khuôn thứ 5 để chơi hợp âm bậc IV, vì thế việc chuyển thực hiện ở khuôn thứ 2 cảm giác hơi sớm, hence the name.

- Xoay vòng: một sự xoay vòng là hợp âm bậc V mà bạn chơi ở khuôn cuối (khuôn 12) thay vì là hợp âm bậc I. Sự thay đổi này giúp quay trở lại hợp âm bậc I ở

193

khuôn đầu, “xoay vòng tiến tình” về khuôn 1. Các tay guitar Blues dựa vào nhiều câu lead theo sự xoay vòng vào phần cuối của tiến trình.,

Thử thay thế các hợp âm 7th hoặc 9th (A7, D9, hoặc E9, chẳng hạn) cho các hợp âm cơ bản bậc I-IV-V để làm cho âm thanh blues hơn (xem Chương 6 và 8).

Cảm xúc liên ba (Triplet feel)

Nhạc Blues nghiêng mạnh về cảm xúc giai điệu được biết đến là cảm xúc liên ba (Triplet feel) (đôi khi được gọi là shuffle feel hoặc swing feel). Trong một cảm xúc liên ba, bạn chia mỗi beat thành 3 phần (thay vì 2 phần như thông thường). Bạn có thể nghe cảm xúc này trên CD theo hình note 11-2, nhưng ở đây là một cách tốt để cảm nhận sự khác nhau giữa straight feel( straight: thẳng thắn) và triplet feel. Hãy đọc thuộc lòng mỗi dãy sau thật to, búng ngón tay tại mỗi âm tiết được viết hoa. (Phải chắc rằng bạn búng ngón tay – điều này là quan trọng!)

1. TWIN-kle TWIN-kle LIT-tle STAR.

Đó là straight feel – mỗi búng tay là một beat, và mỗi beat bạn chia thành 2 phần.

2. FOL-low the YEL-low brick ROAD.

Đó là triplet feel – mỗi búng tay là một beat, và mỗi beat bạn chia thành 3 phần. Bởi vì nhiều bài blues dùng triplet feel, bạn cần biết cách chơi một hình nhạc nền 12-bar blues với cảm xúc đó.

Hình 11-2 trình bày cho bạn hình nhạc đệm - ở đây có sự thay đổi là chuyển bậc IV sớm (khuôn 2) và xoay vòng (khuôn 12) – không gì hơn là việc bao gồm các hợp âm được khảy ở dạng giai điệu liên ba. Đặc biệt, khuôn cuối của một bài nhạc blues sử dụng một tiến trình mà bạn đi tới hợp âm gốc từ một phím nằm trên hoặc bên dưới nó (xem khuôn thứ 13). Hãy xem các sơ đồ hợp âm trên hình để biết các ngón bấm của các hợp âm 9th trong bài nhạc.

Nếu bạn biết cách chơi một hình nhạc đệm boogie-woogie rock (theo phong cách Chuck Berry – xem chương 10), bạn sẽ chẳng gặp vấn đề gì cả để chơi theo hình 11-3, nó thực sự tương tự như hình nhạc nền boogie (nhưng có sự di chuyển sớm bậc IV), ngoại trừ khi bạn chơi nó theo dạng triplet feel. Một lần nữa, bạn đi tới hợp âm cuối từ một phím ở trên.

194

Âm nhạc trong hình 11-2, sự tương đương ( ) xuất hiện kế tiếp từ “Triplet feel” chỉ ra rằng bạn nên thay thế các note một phần 8 triplet (hoặc shuffle) cho các note chia 8 đều. Trong các note phần 8 triplet, bạn sẽ ngân note đầu tiên của mỗi beat lâu hơn một chút so với note thứ 2.

195

196

197

Lời nhạc Blues và cấu trúc

Sự phân chia trong các bài nhạc blues, một cách tốt để giữ cấu trúc của bài hát được đúng là nghĩ tới tiến trình 12-bar thành 3 chuỗi mà mỗi chuỗi 4 khuôn. Bạn có thể làm như thế bởi vì lời nhạc của các bài ;blues đặc trưng thường rơi vào dạng AAB (có nghĩa rằng 2 đoạn đầu của bài hát là tương tự và đoạn thứ 3 thì khác), mà mỗi đoạn trong 3 đoạn này chiếm 4 khuôn. Một bài nhạc blues đặc trưng, chẳng hạn, có thể giống như sau:

Đoạn đầu: “I woke up this morning; I was feeling mighty bad.” Đoạn này bạn hát suốt 4 khuôn đầu của tiến trình 12-bar (I,I,I,I hoặc I, IV,I,I dạng biến đổi chuyến sớm bậc IV).

Đoạn thứ 2: “I woke up this morning; I was feeling mighty bad.” Chuỗi này lặp lại lời tương tự như bạn đã hát ở đoạn đầu, và hát suốt 4 khuôn thứ 2 của tiến trình (IV,IV, I, I).

Đoạn thứ 3: “I can’t stop thinking I lost the best gal I ever had.” Đoạn này thì khác với 2 đoạn đầu, và bạn hát nó suốt 4 khuôn cuối của tiến trình (V, IV, I, I – hoặc V,IV, I, V nếu bạn muốn lặp lại tiến trình).

Thông thường, bạn hát một đoạn thật to trong 2 ô nhịp đầu của chuỗi 4 ô nhịp, và để cho nhạc công (thậm chí có thể là bạn!) cơ hội chơi các câu lick tuyệt vời trong suốt ô nhịp 3 và 4 của mỗi đoạn (phrase), tạo cho bài hát một kiểu cảm giác như câu hỏi-trả lời. Nhưng thậm chí nếu bạn không sử dụng một vocalist trong một bài hát nào đó, nhạc công vẫn có thể chơi giai điệu với 2 ô nhịp này cộng thêm 2 ô nhịp tiếp, tạo cảm giác câu hỏi-trả lời trong mỗi đoạn 4 ô nhịp.

Blues lead guitar

Blues lead là dòng giai điệu note đơn, bao gồm một hỗn hợp các dòng được soạn và những đoạn ngẫu hứng. Một câu solo lead tuyệt vời bao gồm cả hai thành phần này trong 1 bài tổng thể trơn tru, đầy cảm hứng.

Các hộp

Các tay guitar Blues hầu hết sử dụng “các hộp” – giống như các tay guitar rock vậy. Một hộp là một mẫu bàn phím – thông thường phác thảo một thang âm thứ ngũ cung – gần giống với hình dạng của một cái hộp. (Hãy xem chương 10 để biết thêm thông tin về các thang âm thứ và các hộp.) Bằng cách sử dụng các note trong hộp, bạn có thể ngẫu hứng trên các dòng lead mà một cách tự động các âm thanh tốt sinh ra khi bạn chơi chúng (các note) trên nhạc đệm 12-bar blues.

198

Bạn có thể đã biết cách sử dụng các hộp để chơi guitar lead rock ‘n’ roll, loại mà sử dụng cùng các thang âm và các hợp âm như nhạc Blues. (Và chúng tôi đã diễn giải những điều này trong chương 10.) Vì thế, bạn sẽ không gặp phải vấn đề gì để hiểu ví dụ ở hình 11-4, ở đây trình bày 3 hộp mà bạn có thể sử dụng để solo ở giọng A mà chúng tôi giới thiệu trong chương 10; chúng tôi khoang tròn các note mà là note tốt để thực hiện bending. (Để biết thêm về bending, hãy xem chương 9).

Hình 11-5 trình bày 2 hộp mới mà bạn có thể sử dụng cho việc solo blues. Một hộp chúng tôi sẽ gọi là “Hộp IV(Box IV)” (bởi bì không có những cái tên chuẩn hoặc các cách đánh số chuẩn dành cho các hộp này) thì tương tự với Hộp III, ngoài trừ rằng chúng ta di chuyển nó lên 3 phím tới vị trí thứ 13th (đối với giọng A) và chúng tôi loại trừ ra 2 note nằm trên dây số 1st (hãy xem chươn g7 để biết thêm thông tin về việc chơi theo vị trí). Một lần nữa, chúng tôi khoanh tròn note tốt để thực hiện bending. Hãy chơi các note trong hộp này bằng cách sử dụng ngón tay thứ 2 của bạn (ngón giữa) trên dây số 3 và ngón tay trỏ và ngón nhẫn trên dây số 2nd. Hộp V thì thỉnh thoảng được nghĩ như là một sử mở rộng thấp hơn của hộp I. Hãy dùng ngón trỏ và ngón nhẫn để chơi các note này trên cả 2 dây.

Bạn có thể chú ý rằng Hộp I bao gồm cả 6 dây trong khi những hộp khác chỉ bao gồm 2 hoặc 3 dây. Sự thực, chúng tôi đang trình bày cho bạn từ Hộp II tới hộp V là những một phần của các hộp đó. Phiên bản đầy đủ (sử dụng cả 6 dây) cho những hộp này

199

cũng có, nhưng trong phiên bản đầy đủ, bạn sẽ kết thúc với một vài ngón bấm “xấu” hoặc các ngón bấm không thoải mái, chẳng hạn như việc chơi các note quan trọng với các ngón số 2 và số 4 thay vì là các ngón mạnh hơn là 1 và 3 hoặc có những note tốt để bend lại rơi vào một ngón xấu để thực hiện bend. Đó là lý do tại sao hầu hết các tay guitar chỉ sử dụng phiên bản một phần của các hộp, như trình bày trong các hình này.

Nếu bạn biết cách để chơi các câu lick đặc trưng bằng cách sử dụng các hộp I, II, và III (hãy xem chương 10), thì câu lick trong hình 11-6 mà sử dụng Hộp IV sẽ chẳng có vấn đề gì cả. Hãy chơi với bộ ba cả hứng (triplet feel), và hãy chắc rằng bạn áp dụng kỹ thuật rung vào note cuối để tạo được hiệu ứng blue thực thụ. (Hãy xem chương 9 để biết thêm thông tin về rung.) Chú ý cách bend note rơi vào ngón nhẫn – ngón tốt nhất để thực hiện bend.

Hình 11-7 trình bày một cấu lick đặc trưng mà sử dụng hộp V. Một kỹ thuật blue phổ biến là trượt trên dây số 5th (ngón nhẫn) lui và tới giữa hộp V và hộp I (Hãy xem chương 9 để biết thêm thông tin về kỹ thuật trượt). Hãy xem cách tất cả các note rơi vào ngón số trỏ và ngón nhẫn đẹp thế nào, thậm chí khi bạn di chuyển giữa các hộp.

200

Thêm độ sâu với các note phụ

Thang âm thứ ngũ cung sinh ra các note blue tốt, nhưng việc thêm vào 2 note nữa cho bạn bảng âm sắc phong phú hơn của việc chọn lựa note. Note flatted fitth(note 5 giảm) và note major third (note 3 trưởng) giúp làm rõ hơn một dòng bằng cách đưa ra âm nghịch tai, hoặc cảm giác căng thẳng, flatted fifth note và major third note tăng cường tính chất trưởng của hợp âm bậc I.

Một note flatted fifth là một note mà thấp hơn nửa cung (hoặc 1 phím) so với note regular fifth của một thang âm. Trong thang âm thứ ngũ cung A, chẳng hạn, note E là not e fifth. (Đếm số thứ tự các ký tự từ A tới E trên ngón tay bạn để chắc rằng tới E là 5 note cao hơn A). Note E vì thế sẽ là note flatted fifth. Note major third là note mà cao hơn nửa cung (hoặc 1 phím) so với note regular (minor) third của một thang âm thứ ngũ cung. Trong thang âm thứ ngũ cung A, chẳng hạn, note C là note minor third. Note C# là note major third. (Hãy xem phụ lục A để biết thêm thông tin về các note thăng và giáng).

Tạo ra thang âm Blue với note 5 giáng

Thang âm ngũ cung 5 note làm việc tốt đối với các bài blue cơ bản, nhưng đối với sự sôi động thực sự, âm thanh than khóc, âm thanh buông nơi nằm trong note 5 giáng (flat-five) (note E trong giọng E) lúc này và về sau. Việc thêm vào note 5 giáng vào thang âm ngũ cung tạo ra thang âm blue 6 note. Note 5 giáng là note chói tai đặc biệt nhưng sẽ thêm vào một chút hương vị để tăng thêm chất lượng “vanilla-sounding” của thang âm thứ ngũ cung đúng. Nhưng như bất kỳ hương vị nào, có hay không muối, thì là, hoặc note 5 giáng, hãy thêm nó vào một cách tiết kiệm và khôn ngoan.

Hộp I, II, và IV, như trình bày trong hình 11-8, bao gồm các note từ thang âm thứ ngũ cung. Các note trong vòng tròn lần này là note được thêm vào E - 5 (5 giáng) – mà không phải là note bend. Hộp I trình bày hoàn chỉnh (2 octave) thang âm blues giọng A ở vị trí 5, trong khi Hộp II và IV trình bày một phần các thang âm blues chúng tốt để sử dụng phiêu.

201

Hình 11-9 trình bày một câu lick nhạc blue Hộp I đặc trưng trong việc sử dụng thang âm blues. Chú ý rằng bạn có thể đưa ra note E theo 2 cách – một là chơi nó ở phím thứ 8 trên dây số 3 hoặc là bend note phím thứ 7 (note đặc biệt tốt cho việc bend trong hộp I) lên nửa cung.

Hình 11-10 và 11-11 trình bày một câu lick thang âm blues đặc trưng, đầu tiên sử dụng Hộp II (ở vị trí 8) và sau đó (cùng câu lick) sử dụng Hộp IV (ở vị trí 13). Một lần nữa, bạn chơi note 5 theo kiểu thông thường và dạng một note bend (với ngón nhẫn) ở mỗi vị trí.

202

Mượn note major third

Một note khác mà những tay chơi nhạc blue thường thêm vào thang âm thứ ngũ cung hoặc thang âm blues là note major third. Bạn có thể nghĩ note này như là note mà bạn mượn từ thang âm trưởng ngũ cung hoặc từ thang âm trưởng đầy đủ. Trong giọng A, note major third được thêm vào là C#, và hình 11-12 trình bày nơi nó nằm trong hộp I (là note trong vòng tròn). Đó chỉ là note mà bạn chơi với ngón số 2 nếu bạn dùng Hộp I (trừ khi bạn cũng sử dụng note 5 giáng mà chúng tôi diễn tả trong phần trước).

Rất phổ biến, bạn sẽ chơi hammer on note major third từ note minor third 1 phím trước nó, như trình bày trong hình 11-13 (Hãy xem chương 9 để biết thêm thông tin về hammer-ons).

203

Mặc dầu bạn sử dụng thang âm thứ ngũ cung để solo, giọng của một bài hát blues đặc trưng là trưởng (như giọng A trưởng) bởi vì những tay guitar nhịp điệu chơi các hợp âm nền trưởng (hợp âm chứa đựng các note major third). Trong các câu lick double-stop, thường nghe trong nhạc của Chuck Berry và the Beach Boys, đoạn kết của một câu lick lead giảm dần thường bao gồm một note major third để giúp thiết lập giọng trưởng hơn là giọng thứ, như trình bày trong hình 11-14.

Phân câu (Phrasing)

Mặc dầu việc solo nhạc blues sử dụng nhiều kĩ thật tương tự, các thang âm, các hợp âm, và các hộp như việc solo nhạc rock, 2 phong cách này thì khác nhau ở chỗ phân câu (Phrasing). Nhiều note phần 8 theo dòng chảy đều đặn thường đặc trưng cho việc solo rock (nghĩ tới solo “Johnny B. Goode”). Nhưng việc solo nhạc blues( nghĩ tới B.B. King) thường dùng những cách diễn đạt ngắn hơn và thưa thớt hơn (tách biệt hơn) so với rock. (Xem phụ lục A để biết thêm thông tin về note phần 8.)

Trong một giai điệu blues đặc trưng, bạn có thể thấy một đoạn rất ngắn, một số chỗ là nghỉ, và sau đó là sự lập lại của một đoạn. Thông thường, các đoạn ngắn

204

này có chất lượng âm thanh lớn (vocal quality) để chúng được diễn cảm, thường trong việc diễn tả nỗi đau hoặc sự buồn phiền. Thỉnh thoảng, nếu tay guitar cũng là ca sỹ, các đoạn nhấn (vocal phrases) và các đoạn nhạc guitar gần như là một và tương tự. Hình 11-15 trình bày cho bạn một đoạn ngắn mình họa về khái niệm đoạn nhạc ngắn (short-phrase). Chú ý hình nhịp điệu tương tự (Pull-off từ phím 8 tới phím thứ 9) vang lên hay thế nào nhưng lại tạo sự khác biệt khi bạn chơi giai điệu đó dựa trên một hợp âm khác (đầu tiên là dựa trên hợp âm A7 và sau đó là D7). Việc lập lại hình nhịp điệu sau khi hợp âm thay đổi là một kĩ thuật blues đặc trưng.

Blues moves

Hình 11-6 trình bày cho bạn 4 di chuyển Blues đặc trưng. Một di chuyển Blues không gì khác hơn là một câu lick ngắn, đẹp (một đoạn nhạc độc lập). Trong CD minh họa các di chuyển này vang lên như thế nào khi bạn chơi chúng trong ngữ cảnh của một tiến trình.

205

Các di chuyển Blues thì dễ tạo ra bởi vì chúng rất ngắn. Hãy tạo ra di chuyển riêng của bạn và hãy cảm nhận chúng vang lên như thế nào khi bạn chơi chúng dựa trên tiến trình 12-bar blues trình bày trong Hình 11-12 và 11-3.

Nếu bạn muốn chơi một bài hát blues điện ngay bây giờ bằng cách sử dụng các di chuyển blues trong hình 11-16, hãy nhảy tới bài “Chicago Shuffle” trong đoạn “Chơi các bản nhạc Blues (Playing Blues Songs)”, nằm ở sau trong chương này.

Acoustic Blues

206

Guitar Blues ngày nay hầu hết thường nghe thấy là guitar điện. B.B. King, Buddy Guy, Muddy Waters, Johnny Winter, Stevie Ray Vaughan, Albert King, Albert Collins, và Eric Clapton, chẳng hạn, tất cả được biết đến qua việc chơi guitar điện. Nhưng Blues đã bắt đầu ở dạng Acoustic, được chơi theo kiểu fingerstyle, và vẫn còn gợi lên hình ảnh dân dã của vùng Mississippi Delta, nơi mà Blues được hình thành và phát triển.

Các khái niệm thông thường(General concepts)

Mặc dầu bạn chơi blues điện ở các giọng khác nhau bằng cách sử dụng các hộp có thể di chuyển được (Hãy xem đoạn “Blues lead guitar”, nằm ở trước trong chương này), nhưng bạn sẽ chơi acoustic blues (đôi khi gọi là Delta Blues) ở vị trí mở ( thường chơi ở vị trí thấp (phía đầu cần) trên cần đàn và sử dụng kết hợp các dây buông và các note được nhấn), hầu hết luôn ở giọng E.

Steady bass với âm giai thứ ngũ cung vị trí mở (Steady bass with open-position pentatonic minor)

Ý tưởng cơ bản đằng sau acoustic blues là bạn sẽ chơi solo qua việc kết hợp chặt chẽ vừa giai điệu (giai điệu cái mà bạn thướng ứng tấu) và phần nhạc đệm cùng một lúc. Phương thức này trái ngược với electric blues, ở đó một tay guitar chơi giai điệu (lead) trong khi một tay guitar khác chơi nhạc đệm (rhythm).

Cốt lõi của phong cách này là như sau: ngón cái tay phải chơi note root của mỗi hợp âm (note mà hợp được đặt tên theo nó) trong các note phần tư đều đặn ở các dây bass. (Hãy xem phụ lục A để biết thêm thông tin về các note phần tư). Trong lúc đó, các ngón tay phải chơi các note giai điệu mà bạn có được từ thang âm thứ ngũ cung E hoặc thang âm Blues E, ở vị trí mở. (Để biết thêm thông tin chi tiết về thang âm thứ ngũ cung và thang âm blue, hãy xem chương 10 và đoạn “Blues lead guitar,” ở trước trong chương này.) Bạn có thể sử dụng hoặc là thang âm hoặc pha trộn chúng. Hình 11-17 trình bày một ô lưới chỉ ra các thang âm E thứ ngũ cung và thang âm blue E ở vị trí mở. Khi không có các note được khoanh tròn, bạn sẽ có thang âm thứ ngũ cung E; khi có các note được khoanh tròn – các note 5 giáng (the flat-five) ( 5), hoặc B trong giọng này – bạn sẽ có được thang âm Blue E.

Chú ý rằng thang âm trong hình 11-17 thực chất là Hộp I ở vị ví mở! Đối với các ngón bấm tay trái, hãy chơi ở vị trí đầu (first position – vị trí số 1) - vị trí này sẽ dùng số

207

kí hiệu ngón bấm như số kí hiệu phím (that is, use the same finger number as the fret number). Bởi vì ngón cái thì thường gảy đều đặn ở các dây trầm, nên bạn thường thực hiện các note giai điệu từ các dây cao.

Hình 11-18 trình bày một bài tập đơn giản mà minh họa cho phong cách acoustic blues căn bản bằng cách sử dụng thang âm blue E, ban đầu là giảm dần và sau đó là tăng dần. Hãy chắc là bạn đang chơi nó ở dạng triplet feel, như trong CD. Bạn có thể thấy cách mà bạn có thể chơi cả giai điệu và nhạc đệm như thế nào ở cùng một thời điểm – Và việc đó thậm chí không khó. Đó là bởi vì phần bass thì rất đơn giản để chơi!

Sự nhắc lại (Repetition)

Một mặt quan trọng của acoustic blues (và electric, cũng vậy) là sự nhắc lại (lặp lại) repetition. Điều này bao hàm một di chuyển (motive) (một đoạn nhạc ngắn) mà bạn lặp lại, thỉnh thoảng 1 lần, thỉnh thoảng lặp đi lặp lại nhiều lần. Với acoustic blues, bạn có thể đạt được hiệu ứng này theo 1 trong 2 cách sau:

208

- Lặp lại một đoạn nhạc ở cùng cao độ khi hợp âm nền thay đổi. Trong hình 11-19, hợp âm thay đổi từ E sáng A. (Các note bass khác mà ngón cái chơi ngụ ý sự thay đổi hợp âm.) Sự di chuyển, tuy nhiên, lặp lại ở cùng cao độ. Chú các note tương tự vang lên khác nhau như thế nào nếu bạn chơi chúng dựa trên các hợp âm khác nhau (even an implied one). Kỹ thuật này là một kỹ thuật cơ bản của blues.

- Lặp lại một đoạn nhạc ở một cao độ khác khi hợp âm nền thay đổi. Khi bạn sử dụng kỹ thuật này, thì mối liên hệ giữa giai điệu và hợp âm nền vẫn tương tự. Kiểu lặp lại này được trình bày trong hình 11-20. Chặn ngăn 5 để chơi hợp âm A ở khuôn thứ 2. (Chúng tôi trình bày các hợp âm chặn trong chương 8.)

Chú ý trong hình 11-20, đối với mỗi hợp âm, bạn sử dụng một note hammer-on để di chuyển từ note minor third tới major third. Kỹ thuật này thì phổ biến trong phong cách acoustic blues. (Hãy xem chương 9 để biết thêm thông tin chi tiết về hammer-ons.)

209

Các kỹ thuật riêng biệt (Specific Techniques)

Bạn có thể sử dụng 2 kĩ thuật căn bản để làm cho việc chơi blues của bạn đa dạng hơn. Việc xen kẽ bố cục (đó là, việc kết hợp các mẫu nhạc khác nhau, chẳng hạn như việc chơi một khuôn rhythm và sau đó là một khuôn lead) sẽ tạo ra một âm thanh không bất ngờ, không đồng nhất. Và việc kết hợp các dây buông với các note phím nhấn tạo ra một vài kết quả khác thường bằng việc để cho một vài note vang lên trong khi các note khác di chuyển du dương.

Alternation (luôn phiên, xen kẽ)

Alternation ý nói đến việc thực hành chơi giai điệu và bass tại cùng thời điểm, theo kiểu xen kẽ, thay vì chơi cùng thời điểm. Thay cho việc dùng ngón cái để chơi các note bass liên tục trong khi các ngón khác chơi đồng thời các note giai điệu, thỉnh thoảng bạn có thể chỉ chơi các note giai điệu hoặc chỉ chơi các note bass. Kỹ thuật này không chỉ thêm sự đa dạng cho bố cục của âm nhạc, mà còn cho phép bạn (bởi vì tất cả các ngón tay của bạn thì hữu dụng) chơi một vài câu lick có âm thanh tuyệt hơn, khó hơn, khéo léo hơn mà có thể với cách khác thì không thể.

Hình 11-21 trình bày một đoạn nhạc mà bắt đầu chỉ với dòng giai điệu (mà bạn sẽ chơi theo các note double-stop, một kỹ thuật acoustic blues phổ biến) và kết thúc với chỉ các note bass (playing a boogie groove). Bạn có thể nhìn thấy phần bass – thay cho việc chỉ chơi các note phần tư rơi vào các note root thấp – trở nên phức tạp hơn như thế nào nếu bạn không phải lo nghĩ về các note giai điệu (Xem chương 7 để biết thêm thông tin về double-stop.)

Một mẹo nhỏ hiệu quả và yêu thích để chơi một câu lick bass thực sự (đó là, một giai điệu bass thay vì chỉ một hình giai điệu boogie) trong mô hình alternation (xen kẽ). Ví dụ trong hình 11-22 bắt đầu giống như hình 11-21. Đó là phần giai điệu đi theo mô hình xen kẽ (alternation). Sau đó, ở khuôn 2, phần bass thực hiện phiên của nó, vì thế bạn có thể đi xuống phố với một câu lick bass đầy kích động. Đặc biệt, các câu lick bass này sử dụng

210

các note của thang âm thứ ngũ cung E (hoặc E blues) với một vài note major thirds ( trên phím thứ 4 của dây số 6) và major sixths ( trên phím thứ 4 của dây số 5) được thêm vào.

Sự kết hợp dây buông và dây nhấn (Open-string/fretted-string)

Một kỹ thuạt acoustic-blues quan trọng khác là xen kẽ giữa một note dây buông và một note nhấn (trên một dây gần kề) mà có cùng cao độ hoặc một note gần cao độ. Bạn thường kĩ thuật này trên các dây treble, nhưng bạn cũng có thể chơi nó trên phần bass.

Trong ví dụ ở hình 11-23, bạn chơi note E cao đầu trên dây số 2nd (note được nhấn); kế đó, bạn chơi note E trên dây số 1st (note buông) và sau đó bạn chơi nó trở lại trên dây thứ 2 lần nữa. Note E buông sau đó tái xuất hiện sau khi bạn chơi vài note gần đó trên dây số 2nd. Tiếp đó với cùng ý tưởng này xuất hiện với các note B trên dây nhấn số 3rd và dây buông số 2nd. Khuông 2 (với phần bass chơi riêng) minh họa cho cùng ý tưởng đó trên phần bass. Ở nhịp 3 và 4, note D buông trên dây 4th xen kẽ với note D dây 5th và note gần đó.

Turnarounds

Trong một câu solo acoustic blues đặc trưng, bạn chơi tiến trình 12-bar blues lặp đi lặp lại; mặt khác, tổng thể câu solo của bạn kết thúc rất, rất ngắn. Thông thường, mỗi khi bạn chơi đoạn kết (khuôn 11 và 12), bạn chơi một câu lick nhỏ fancy được gọi là

211

turnaround lick mà được thiết kế để thực hiện cả cho việc đặt dấu kết thúc và cả cho việc đưa bạn trở lại (hoặc xoay vòng) tới khuôn 1 lần nữa.

Hiểu rộng ra, nếu bạn đang chơi ở giọng E, sự xoay vòng sẽ đặt bạn vào một vài hợp âm của B hoặc B7 (bởi vì hợp âm đó dẫn dắt tốt nhất để trở về hợp âm E – hợp âm trong khuôn 1 của lần trở lại kế (next time through)). Nhưng nếu bạn đơn giản chơi hợp âm E7 ở khuôn 11 và B7 ở khuôn 12, you miss out on a world of musical delights (bạn sẽ bỏ lỡ những điều khoái cảm trong thế giới âm nhạc), như các ví dụ sau chứng minh.

Hình 11-24 trình bày 4 cách xoay vòng phổ biến được acoustic blues chơi. Chú ý rằng hầu hếu các xoay vòng sử dụng vài loại dòng chromatically moving (di chuyển nửa cung) (đó là những bước di chuyển theo các nửa cung).

Slide guitar

Slide guitar là một kĩ thuật quan trọng nữa của blues guitar. Trong việc chơi slide, bạn không sử dụng tay trái để nhấn guitar bằng cách nhấn các dây đàn xuống bàn phím, như bạn vẫn làm thông thường. Thay vào đó, bạn giữ một thanh kim loại hoặc thanh thủy tinh (thanh trượt – the slide) đè lên cần đàn và dừng lên các dây đàn (làm ngắn lại chiều dài rung động) bằng cách nhấn thanh trượt nhẹ tựa lên các dây đàn ở phím được chỉ ra. Để chơi đúng cao độ, bạn phải đặt thanh trượt trực tiếp lên thanh chặn trên bàn phím, chứ không phải đằng sau thanh chặn như khi bạn nhấn thông thường.

Đối với các thanh trượt, bạn có thể sử dụng bất kì gì từ cái cổ chại rượu vang tới một chai thuốc (thuốc ho Coricidin là một ý tưởng về chai và được Duane Allman’s yêu thích), tới một ống đồng ngắn. The back edge of a knife works in a pinch too. Ngày nay, đặc biệt các thanh trượt thủy tinh và đồng có ở nhiều cỡ đường kính khác nhau để có thể phù hợp với các kích cỡ ngón tay khác nhau. Hầu hết mọi người thường xỏ một thanh trượt vào ngón nhẫn hoặc ngón út, làm vậy để cho các ngón tay khác rảnh rỗi để thực hiện nhấn phím. Vật liệu thanh trượt sẽ xác định độ nặng và âm thanh (weight and tone), và bạn chọn một thanh trượt nặng hơn hoặc nhẹ hơn là một vấn đề chủ quan.

Bởi vì thanh trượt nằm ngang qua các dây đàn trên một đường thẳng, việc chơi các hợp âm tại chỗ mà các note được nhấn ở các phím khác nhau trở nên khó hơn. Nhiều ta guitar giải quyết vấn đề này bằng cách lên giây guitar về một dạng open tuning, chẳng hạn như G hoặc D. (Xem chương 10 để biết thêm thông tin về open tunings.) Nhiều thanh trượt blues tuyệt đã được (hoặc vẫn được) sử dụng cho các kiểu open tuning. Robert Johnson đã chơi ở open G; Duane Allman thì chơi ở open D hoặc E; và Bonnie Raitt chơi ở open A.

212

Đặc tính của guitar lead được duy trì, trở nên diễn cảm, và giống như vocal khi bạn chơi với một thanh trượt. Bởi vì thanh trượt lướt trên chốc các dây đàn và không sử dụng các phím để xác định cao độ, âm thanh đáp lại sẽ giống một cây violin hơn hoặc một giọng hát hơn, ở đó cao độ thay đổi mượt mà và âm thanh được liên tục điều này đối lập với âm thanh “tách rời” khi thực hiện bấm phím như thông thường. Khi bạn lắng nghe các nghệ sĩ dùng thanh trượt tuyệt vời, thì hãy đặc biệt nghe sử ngắt câu (phrasing) của họ. Đó là cách tốt nhất để cảm nhận sức mạnh cảm xúc của guitar trượt – trong cảm xúc mê hoạc của dòng giai điệu.

213

Nếu bạn cảm thấy chơi tốt các hình giai điệu trong đoạn “Acoustic Blues”, thì bạn đã sẵn sàng cho việc chơi bài hát “Mississippi Mud,” trong đoạn sau. Get down with your bad self!

Chơi các bản nhạc Blues (Playing Blues Songs)

Một lần B.B. King đã nói “Tôi có quyền hát các bản nhạc blues,” và nếu bản đã sẵn sàng để chơi đôi bài nhạc blue đáng tin, bạn cũng có quyền đó! Hai bài hát trong đoạn này áp dụng nhiều kĩ thuật mà chúng tôi đã trình bày xuyên suốt chương này.

Khi lần đầu tiên bạn thử chơi các đoạn nhạc này, thì đừng cố đẩy nhanh tiến trình. Trong nhạc Blues, cảm xúc tới trước kỹ thuật, và cách tốt nhất để phát triển cảm xúc là giữ cho cho tốc độ chậm và có thể kiểm soát được trong khi bạn làm việc thì tốc độ sẽ tăng lên.

214

Tập trung vào cảm xúc của bạn và hãy để kỹ thuật chạm vào theo cách của riêng nó. Nó luôn luôn hữu hiệu – chúng tôi hứa.

Dưới đây là một vài thông tin đặc biệt về các bài hát để giúp bạn trong khi chơi:

- Chicago Suffle: Để chơi bài hát này, bạn cần biết cách chơi dòng blues note đơn (xem đoạn “Blues lead guitar” nằm ở trước trong chương này); cách để ghép lại các di chuyển blues riêng biệt lại với nhau thành một khối dính liền tổng thể (hãy xem đoạn “Blues moves,” nằm ở trước trong chương này); and how to boogie like your back ain’t got no bone.

Guitar lead trong đoạn nhạc này sử dụng vài phương cách để chơi lead blues: các đoạn ngắn với các khoảng rộng giữa chúng, sự nhắc lại (repetition), thang âm blues, các double sotp, và một turnaround ở đoạn cuối. (Để biết thêm thông tin chi tiết về các kỹ thuật này, hãy xem các đoạn ở trước của chương này.) Phần giai điệu (không được ghi ra ở đây, ngoại trừ chỉ có tên các hợp âm) thì tương tự mẫu mà bạn đã sử dụng trong hinh 11-3 (Cũng không được ghi ra ở đó, nhưng bạn có thể nghe nó trên CD). Chú ý tiến trình đặc biệt này có bao gồm khuôn Quick IV.

- Mississipi Mud: Để chơi bài hát này, bạn cần biết cách chơi dòng bass độc lập với ngón cái làm việc dựa trên phần giai điệu mà bạn chơi với các ngón khác (Hãy xem đoạn “Steady bass với âm giai thứ ngũ cung vị trí mở (Steady bass with open-position pentatonic minor)” nằm ở trước trong chương này); cách chơi turnaround; and how to get your mojo working.

Bài hát này vẽ lên nhiều nét đặc biệt về các khái niệm acoustic blues đã được đề cấp suốt chương này: thang âm thứ ngũ cung E ở vị trí mở, các note steady bass, xen kẽ (alternation) (dòng bass chơi riêng biệt trong khuôn 2, chẳng hạn), lặp lại (repetition) một câu lick với cùng cao độ mặc dầu hợp âm nền thay đổi (khuôn 5), Kết hợp các note nhấn và dây buông (khuôn 9), và turnaround lick (khuôn 11-12).

215

216

217

Chương 12

Folk

Trong chương này

- Chơi theo phong cách fingerstyle

- Sử dụng capo

- Chơi hợp âm rải, thumb-brush, phong cách của Carter, và phong cách của Travis

- Chơi theo các kiểu open tuning

- Chơi các bài nhạc folk

Trong các khái niệm về một phong cách guitar, “folk” mang nghĩa của thời đại ngày nay nhiều hơn là chỉ chơi “Jimmy Crack Corn” trong một buổi lửa trại với một đám cao bồi buồn thảm và một người nấu ăn có tên Stumpy với giọng hát khò khè trên một cây harmonica sai tone. Mặc dầu guitar folk có một khởi đầu tầm thường như một phong cách gảy đàn nghe buồn rầu phù hợp cho các bài hát đơn giản, nhưng từ lúc ấy nó đã tiến triển thành một loại âm nhạc phổ biến theo cách của riêng nó.

Folk guitar đã phát triển từ các bài hát ngắn cowboy của thế kỷ 19th qua các bài hát Appalachian và các bản ballad trong những năm ‘30s và ‘40s, tới những bản hit của các nghệ sĩ nhạc country đầu tiên chẳng han5nhu7 Jimmie Rodgers, Hank Williams, và Johnny Cash, tới nhạc rock chịu ảnh hưởng của nông thôn và phương tây (rockability) của cuối những năm ‘50s. Trong những năm ‘60s, nhạc folk có sự hồi sinh, bắt đầu với Kingston Trio và tiếp túc trên mọi con đường suốt thời hoàng kim của Bob Dylan, Joan Baez, và Peter, Paul, và Mary. Từ đó, guitar folk vượt lên hàng chính thống, thông qua kiểu nhạc pop-folk tinh tế (sophisticated) của John Denver, James Taylor, Joni Mitchell, v2 Crosby, Stills, và Nash.

Trong chương này, chúng tôi đề cập tới một phạm vị rộng của việc tiếp cận để chơi folk guitar, bao gồm hợp âm rải (arpeggio), thumb-brush, và phong cách của Carter và Travis. Chúng tôi cũng trình bày cho bạn cách sử dụng capo để đổi giọng, tạo ra các âm thanh mới với các kiểu open tunings, và chơi các note harmonic.

Chơi theo phong cách Fingerstyle (Playing Fingerstyle)

218

Folk music thiên về sử dụng fingerstyle để chơi (một phong cách mà bạn khảy các dây đàn với các ngón tay phải thay vì dùng miếng khảy). Hãy nghĩ tới các bài hát của Peter, Paul và Mary (“Puff the Magic Dragon”), Boy Dylan (“Don’t Think Twice, It’s Alright”), và Arlo Guthrie (“Alice’s Restaurant”), và bạn có thể nghe thấy dễ dàng, các mẫu rolling mà các ngón tay sinh ra trong phần nhạc đệm.

Nhưng bạn cũng sẽ nghe thấy phong cách fingerstly trong nhạc Rock (“Blackbird” của the Beatles, “Dust in the Wind” của Kansas’s, và phần intro “Stairway to Heaven” của Led Zeppelin), country, và blues. Và, dĩ nhiên, và chơi tất cả các bài nhạc cổ điển (classical) với phong cách fingerstyle.

Việc chơi fingerstyle mở ra một thế giới về các khả năng âm nhạc mà với phong cách dùng pick đơn giản không thể làm được. Bạn có thể chơi 2 hoặc hơn 2 dòng nhạc đồng thời, chẳng hạn, trong khi khảy bằng tay: ngón cái tay phải sẽ chơi dòng bass trong khi các ngón khác chơi dòng giai điệu và inner voices (Các note làm đầy hoặc các note nền trên các dây giữa (dây 3,4) nằm giữa dòng giai điệu và bass) cho một âm thanh đầy đủ đều đặn và phức tạp hơn.

Kỹ thuật Fingerstyle (Fingerstyle technique)

Trong phong cách guitar fingerstyle, bạn khảy các dây đàn với các ngón tay phải riêng biệt thay vì khảy chúng với một miếng khảy. Trong hầu hết các trường hợp, bạn chơi các dây đàn 1 lần tại 1 thời điểm, trong vài trường hợp về mẫu lặp lại, trong khi tay trai1 của bạn nhấn 1 hợp âm. Đặc biệt, ngón cái, khảy xuống (downward), chơi các dây thấp (bass), và các ngón khác, móc lên (upward), chơi các dây cao (một ngón/dây).

Sau khi bạn khảy mỗi note, hãy di chuyển các ngón tay xa khỏi để nó không nằm lên dây gần kề. Kỹ thuật này cho phép tất cả các dây đàn vang lên và sinh ra các hợp âm thay vì chỉ đơn thuần là các note riêng lẻ kế tiếp nhau. Theo cách này, bạn chơi guitar dày như khi chơi một cây đàn harp, ngoại trừ rằng việc chơi theo cách này trên guitar thì trông tuyệt hơn khi chơi trên đàn harp.

Tư thế tay phải (Right-hand position)

Khi bạn chơi với các ngón tay, bạn muốn xoay nhẹ tay phải để các ngón tay vuông góc hoặc kém vuông góc hơn so với dây đàn. Hình 12-1 trình bày một hình trước và sau của tay phải ở trạng thái bình thường, vị trí pick-holding và sau đó là quay, việc đặt tay vuông góc thì phù hợp hơn cho việc chơi fingerstyle. Bằng cách giữ tay phải của bạn vuông góc với các dây đàn, bạn sẽ giữ cho các ngón tay đúng vào các dây đàn – như đối nhau một góc vuống nếu bạn giữ tay của bạn không xoay và thẳng hàng với cánh tay. (Nhân tiện, tư thế này

219

cho là tương tự hướng vuông góc mà bạn sử dụng cho việc chơi guitar classic. Hãy xem chương 13 để biết thêm thông tin về vị trí ta phải).

Bạn có thể làm điều mà nhiều tay guitar đã làm và nuôi móng tay phải dài 1 chút để, khi bạn khảy đàn, bạn sẽ tao 5ra âm thanh sáng hơn và lớn hơn. Nếu bạn muốn có âm thanh cực sáng, hãy sử dụng fingerpicks – các thiết bị bằng nhựa hoặc kim loại mà bạn thực sẽ mang vào ngón tay cái và các ngón khác – hoặc bạn sẽ dính chặt các móng tay bằng acrylic lên các móng tay thật của bạn (một phương pháp thông thường tại bất kỳ salon nail nào và là một cách xử trí khẩn cáp mà nhiều tay guitar classical sử dụng khi họ bị gãy móng tay ngay trước buổi biểu diễn).

220

Ký hiệu âm nhạc trong sách này chỉ ra các ngón tay phải bằng các ký tự p (thumb – ngón cái), i (ngón trỏ - index), m (ngón giữa – middle), và a (ngón nhẫn – ring). Mô hình này đên từ ký hiệu guitar cổ điện. Các ký tự p, i, m, và a là các ký tự đầu tiên của các từ tiếng Tây Ban Nha để chỉ các ngón tay (guitar classic thì rất lớn ở Tây Ban Nha): pulgar (thumb), indice (index), medio (middle), và anular (ring). Thỉnh thoảng bạn nhìn thấy các ký tự tương đương Tiếng Anh t, i, m, và r. Bạn không thưởng sử dụng ngón út của tay phải trong việc chơi fingerstyle.

Sử dụng thiết bị Capo (Using the Capo)

221

Một cái capo là một thiết bị mà kẹp ngang qua bàn phím tại một phím nào đó. Các capo có thể hoạt động dựa vào dây cao su, lò xo, hoặc thậm chí các bu lông có ren, nhưng tất cả chúng có chung mục đích – là làm ngắn đi chiều dài của tất cả các dây đàn ở cùng thời điểm, tạo ra, trên thực tế, một Nut mới. Tất cả các dây mở bây giờ ở cao độ cao hơn so với khi chúng không có Capo.

Cao hơn bao nhiêu? Nữa cung cho mỗi phím. Nếu bạn đặt capo ở phím thứ 3, chẳng hạn, các dây E buông trở thành các dây G buông (cao hơn 3 nửa cung về cao độ so với E). Tất cả các dây đàn do đó trở nên cao hơn về cao độ - B trở thành D; G trở thành Bb; D trở thành F; và A trở thành C. (theo cách này, bạn không thể chơi bất kỳ gì đằng sau capo – mà chỉ có ở đằng trước capo trên cần đàn.)

Đúng cách thức hãy đặt capo, chỉ ở trước phím thứ 3 (hướng về tuning peg: núm lên dây đàn), nhưng không nằm trực tiếp lên thanh phím kim loại thứ 3 này. Hình 12-2 trình bày một thiết lập capo đúng cách trên guitar ở phím thứ 3. Hãy xem chương 16 để biết thêm thông tin chi tiết về các kiểu capo khác nhau.

Tại sao bạn sử dụng capo? Capo cho phép bạn thay đổi giọng của một bài hát ngay lập tức. Lấy ví dụ bạn biết cách chơi bài “Farmer in the Dell” ở khóa C và chỉ ở khóa C thôi. Nhưng bạn muốn đệm cho một ca sĩ (có thể là chính bạn) mà phạm vi giọng thì phù hợp hơn để hát “Farmer in the Dell” là ở giọng D.

Chẳng vấn đề gì cả. Hãy đặt capo tại phím thứ 2 và đơn giản chơi bài hát ở giọng C như bạn thường chơi. Capa làm cho tất cả các dây đàn kêu cao hơn 2 nửa cung so với bình thường, và âm thanh của bài nhạc sẽ là ở giọng D! Sự thực, bạn có thể di chuyển capo tới bất kỳ phím nào, hãy trượt nó lên và xuống trên cần đàn, cho tới khi bạn tìm được phím (giọng) mà phù hợp với phạm vị giọng của bạn.

Dĩ nhiên, nếu các note nhạc và các hợp âm trong bài hát bạn đang chơi không có dây buông, bạn có thể đơn giản là thay đổi thế (vị trí) trên cần đàn (sử dụng các hợp âm có thể di chuyển) để tìm thấy giọng tốt nhất cho việc hát. Hãy sử dụng capo nếu bài hát đòi hỏi việc sử dụng các dây buông.

Người ta cũng sử dụng capo vì lý do mà chẳng liên quan tới phạm vi giọng. Nếu bạn đặt capo trên cần đàn (đặc biệt vị trí cao trên cần đàn), guitar sẽ có âm sáng hơn. Thậm chí âm thanh sẽ giống cây mandolin hơn (bạn biết, đó là nhạc cụ có dây nhỏ hình giọt nước mà những người chèo thuyền đáy bằng chơi trong các bộ phim mở đầu ở Italy).

222

Các Capo có thể minh chứng một cách đặc biệt hữu ích nếu bạn có 2 tay guitar chơi một bài hát cùng nhau. Một người có thể chơi các hợp âm mà không cần capo - ở giọng C, chẳng hạn. Người kia có thể chơi các hợp âm, ví dụ, ở giọng G với một cái capo ở phím thứ 5, âm thanh ở giọng C. Sự khác nhau ở âm sắc (timbre) (âm sắc, là màu sắc của âm thanh hoặc chất lượng của âm thanh) giữa 2 nhạc cụ tạo ra hiệu ứng nổi bật.

Một số người nhắc đến các capo như “những người lừa đảo-cheaters”. Họ nghĩ rằng nếu bạn là người mới chơi guitar thì chỉ có thể chơi ở các giọng đơn giản (A và D, chẳng hạn), bạn cần “người lừa đảo” bằng cách sử dụng một capo nếu bạn muốn chơi ở giọng B . Cuối cùng, khi bạn có được sự lão luyện như một tay guitar, bạn sẽ có thể chơi ở giọng B mà không cần capo bằng cách sử dụng các hợp âm chặn.

Nhưng trong việc chơi folk-guitar, sự kết hợp của các dây buông và những note được nhấn là điểm cốt lõi của phong cách này. Đôi khi sự kết hợp giữa các dây buông và các note được nhấn có thể trở nên rất phức tạp.

Nghĩ về, chẳng hạn, khúc mở đầu “Fire and Rian,” của James Taylor, ông ấy nhấn ở giọng A. James chơi nó, tuy nhiên, bằng cách sử dụng capo ở phím thứ 3, làm cho âm nhạc vang lên cao hơn 3 nửa cung, ra giọng C, bởi vì giọng này là tốt nhất cho phạm vị giọng của ông ấy. Vậy tại sao lại không chơi bài hát ở giọng C mà không cần capo? Bởi vì ngón bấm bài này không phù hợp ở thế đó; các dây buông cần thiết mà James chơi không có trong giọng C – mà chỉ ở giọng A!

223

Một lợi điểm nữa của việc sử dụng capo: Bởi vì các phím trở nên gần nhau hơn khi bạn di chuyển lên phía trên cần đàn, việc chơi với capo đòi hỏi độ giãn ra của tay trái kém hơn, làm cho một số bài hát có thể chơi dễ dàng hơn một chút.

Thông qua chương này, bạn sẽ chơi nhiều bài tập khác nhau và các bài hát, thử nghiệm với capo. Hãy xem bạn có thể sử dụng capo như thế nào để tìm thấy giọng tốt nhất cho phạm vi giọng của bạn. Và ngay cả với các chọn lựa nhạc cụ, hãy thử nghiệm việc đặt capo ở các phím khác nhau để xem sự tác động đến âm sắc như thế nào với sự sắp đặt đó. Bạn sẽ chắc chắn thích điều mà bạn nghe thấy.

Thỉnh thoảng, việc gắn và tháo capo ra khỏi làm cho các dây đàn lệch cao độ đi. Nhớ kiểm tra bộ chỉnh dây và thực hiện các hiệu chỉnh cần thiết bất kỳ khi nào bạn gắn hoặc gỡ capo ra.

Phong cách hợp âm rải (Arpeggio Style)

Để chơi theo phong cách hợp âm rải (arpeggio) (cũng được biết là phong cách broken chord), hãy nhấn một hợp âm bằng tay trái, và chơi từng note tại một thời điểm, một cách liên tiếp, bằng tay phải, hãy để cho các note ngân vang hoặc duy trì. Kỹ thuật này sinh ra một âm thanh trôi chảy sáng hơn cho âm nhạc so với việc bạn chơi tất cả các note tại cùng thời điểm, như khi bạn thực hiện strumming (gảy dài nhanh).

Chơi theo phong cách hợp âm rải (Playing arpeggio style)

Để chơi theo phong cách hợp âm rải, hãy đặt các ngón tay phải lên các dây đàn ở tư thế(vị trí) fingerstyle cơ bản – ngón cái (p) tựa lên dây số 6th, ngón trỏ (i) tựa lên dây số 3, ngón giữa (m) tựa lên dây số 2nd, và ngón nhẫn (a) tựa lên dây số 1st. Tất cả các ngón tay bây giờ đã sẵn sàng để khảy.

Ngay cả khi không có các ngón bấm thực sự lên một hợp âm (bởi vì tất cả các dây đàn mà bạn sẽ gảy là các dây buông trong hợp âm Em), bạn vẫn có thể chơi hợp âm rải Em bằng cách đầu tiên khảy (plucking) p, sau đó i, sau đó m, và cuối cùng là a. Bạn sẽ nghe thấy một hợp âm Em đẹp ngân vang.

Chỉ để bạn biết mẫu này trông thế nào ở dạng ký hiệu, hãy xem hình 12-3, hình này trình bày cho bạn cách chính xác để chơi các dây buông của hợp âm Em theo phong cách hợp âm rải (arpeggio).

224

Bây giờ hãy thử rải lên và xuống trên hợp âm Em mở. Một lần nữa chỉ sử dụng các dây số 6th, 3rd ,2nd, và 1st. Thay vì chơi p-i-m-a, như trước đây, thì bạn hãy chơi p-i-m-a-m-i. Hãy tham khảo ký hiệu trong hình 12-4 để kiểm tra rằng bạn đang chơi các note chính xác.

Tiếp theo thử các ngón bấm những hợp âm khác nhau mà bạn đã học ở chương 4 và chương 6, và việc chơi sử dụng các ngón p-i-m-a hoặc p-i-m-a-m-i. Nhưng với mỗi hợp âm mới, hãy chắc rằng ngón cái của bạn đánh đúng dây bass – note gốc (root) của hợp âm (dây số 6 đối với tất cả các hợp âm E và G, dây số 5th đối với tất cả các hợp âm A và C, và dây 4 cho tất cả các hợp âm D). (note gốc của một hợp âm thì đơn giản là note được đặt tên cho hợp âm đó; chẳng hạn, note gốc của hợp âm C là note C.)

Nhiều mẫu hợp âm rải thì hữu dụng, bởi vì bạn có thể khảy các dây đàn theo nhiều thứ tự khác nhau. Các mẫu p-i-m-a và p-i-m-a-m-I là 2 mẫu phổ biến nhất.

225

Để chơi một bài hát ngay bây giờ hãy dùng mẫu hợp âm rải p-i-m-a-m-i, nhảy tới đoạn “Chơi các bản nhạc Folk (Playing Folk Songs)”, nằm ở sau trong chương này, và hãy kiểm tra bài “House of the Rising Sun.”

Mẫu “Lullaby” (bài hát ru con – “Lullaby” pattern)

Một vài tay guitar tham khảo mẫu nhạc đệm trình bày trong hình 12-5 là mẫu “lullaby” bởi vì đó là một mẫu âm thanh đẹp và phù hợp cho việc đệm các bài hát ru con.

Mẫu này kết hợp với double-stop (2 note vang lên cùng một lúc; hãy xem chương 7) vào mẫu hợp âm rải. Sau khi chơi p và i một cách riêng lẻ, bạn hãy chơi m và a cùng nhau (tại cùng thời điểm) trên 2 dây cao. Nhớ giữ tay bấm mỗi hợp âm trong khi các note đang ngân vang. Một lần nữa, hãy sử dụng capo để tìm thấy giọng tốt nhất của bạn để hát.

Để chơi một bài hát ngay bây giờ mà có sử dụng mẫu “lullaby”, hãy nhảy tới đoạn “Chơi các bản nhạc Folk (Playing Folk Songs)”, nằm ở sau trong chương này, và kiểm qua bài “The Cruel War Is Raging.”

Phong cách Thumb-Brush (Thumb-Brush style)

Phong cách thumb-brush là một mẫu nhạc đệm có âm thanh “boom-chick”. Ở đây, ngón cái chơi một cách thông thường (khảy a dây bass hướng xuống), nhưng các ngón khác khảy (quét, gại) 3 hoặc 4 dây cao từ phía lưng của móng tay theo chuyển động hướng xuống (hướng xuống sàn nhà). Các ngón tay thực sự gảy vào các dây đàn như một miếng khảy nhưng bạn sẽ không phải di chuyển bàn tay hoặc cả cánh tay. Một cách cơ bản, bạn hãy uốn cong các ngón tay vào phía lòng bàn tay và sau đó mở các ngón tay ra một cách thật lẹ, việc thay đổi từ tư thế nắm tay sang tư thế mở tay, sẽ tạo ra động tác khảy các dây đàn với các móng tay.

226

Thumb-brush dạng đơn giản (Simple thumb-brush)

Hình 12-6 trình bày 2 khuôn của mẫu thumb-brush ở hợp âm C. Đừng lo lắng về việc khảy một cách chính xác 3 dây đàn với ngón brush. Để chơi một cách mượt mà, thì chuyển động trôi chảy ở tay phải là quan trọng hơn.

Thumb-brush-chiều lên (Thumb-brush-up)

Sự đa dạng của simple thumb-brush đơn là thumb-brush-up (kỹ thuật tạo ra âm thanh “boom-chick-y”). Sau khi khảy với lưng của các móng tay ngón giữa và ngón nhẫn, bạn hãy sử dụng the flesh (thịt, cùi) của ngón tay trỏ để khảy dây số 1st (hướng lên). Lúc nào cũng vậy bạn thực thi kĩ thuật này trong giai điệu một note phần 8 ở nhịp thứ 2 và 4 (one, two-and, three, four-and). (Hãy xem Phụ lục A để biết thêm thông tin chi tiết về các note phần 8).

Hình 12-7 trình bày một mẫu gồm 2 khuôn có sử dụng kĩ thuật thumb-brush-up. Hãy khảy xuông và lên đều đặn, và không bị ngắt quãng trong nhịp điệu. (Hãy chắc rằng bạn sẽ lắng nghe CD về kỹ thuật này, và đừng nản lòng nếu mẫu này có gì đó hơi quen thuộc)

227

Đừng nghĩ về upstroke (đánh hướng lên) với các ngón tay như là chuyển động fingerpicking, nhưng phải là upward brush (chổi quét) với cả bàn tay. Mặt khác, hãy giữ tay phải lỏng và lưu loát khi bạn kéo tay hướng lên để khảy dây số 1 với ngón trỏ.

Bạn có thể sử dụng mẫu thumb-brush hoặc thumb-brush-up để chơi bất kỳ bài nhạc nào mà có âm thanh “boom-chick” hoặc “boom-chick-y”, chẳng hạn như “Jingle Bells” hoặc bài “I’ve Been Working on the Railroad.”

Phong cách Carter (Carter Style)

Trong phong cách Carter (được đặt tên như vậy sau khi gia đình nổi tiếng Carter, gồm những thành viên June Carter, “Mother” Maybelle, và “Uncle” A.P), bạn chơi giai điệu trên các dây thấp với ngón cái trong khi các ngón khác cung cấp phụ trách phần nhạc đệm theo dạng các brush. Phong cách này khá phù hợp với các bài hát có các note giai điệu nằm hầu hết ở các nhịp 1 và 3. (Các brush xuất hiện ở beat 2 và 4. Nhưng nếu một giai điệu không nằm trên các nhịp 2 hoặc 4, bạn có thể đơn giản bỏ brush trên các nhịp đó.

Bạn có thể chơi theo phong cách này một cách dễ dàng bằng cách sử dụng miếng khảy như bạn có thể làm với các ngón tay, vậy hãy thử theo cả 2 cách và xem cách nào phù hợp với bạn hơn.

Hình 12-8 trình bày một đoạn nhạc mà bạn có thể chơi bằng phong cách Carter, ở đó phần giai điệu nằm hoàn toàn trên các dây thấp. Giai điệu có từ một giai điệu truyền thống, được gọi là “Wildwood Flower,” mà gia đình Carter làm nên sử nổi tiếng. Woody Guthrie đã viết lời riêng của ông ấy và đã gọi nó là “The Sinking of the Ruben James.”

228

Để chơi một bài hát ngay lúc này theo phong cách Carter, hãy nhảy tới đoạn “Chơi các bản nhạc Folk (Playing Folk Songs)”, nằm ở sau trong chương này, và hãy kiểm thử bài “Gospel Ship.”

Travis Picking

Travis picking, được đặt tên như vậy sau khi tay guitar nhạc country Merle Travis, có kĩ thuật folk fingerstyle phổ biến nhất. Ở đây, ngón cái luân phiên giữa 2 (và thỉnh thoảng 3) dây bass một cách đều đặn các note phần tư trong khi các ngón khác khảy các dây treble (dây cao), thông thường ở giữa các note phần tư (vào các off-beat). Kết quả là 1 cảm giác điều khiển, có giai điệu mà bạn có thể sử dụng để làm đa dạng việc phổ nhạc từ nhạc ragtime tới blues, tới mẫu nhạc đệm 4/4 luôn phiên mà bạn nghe trong bài “The Boxer” Simon and Garfunkel và “Dust in the Wind” của Kansas.

Kĩ thuật này thì phức tạp hơn các kỹ thuật mà chúng ta thảo luận trong các đoạn trước, vì thế chúng tôi sẽ trình bày cho bạn từng bước để biết cách chơi nó.

Chơi các mẫu (Playing the Pattern)

Bạn có thể tạo ra các mẫu Travis khác nhau bằng cách thay đổi sự định thời gian mà bạn sẽ khảy các dây treble. Điều tương tự vẫn còn là giai điệu đều đặn mà bạn chơi với ngón cái. Một mẫu của các dây treble thì quá phổ biến mà chúng tôi gọi nó là “mẫu Travis cơ bản.” Bạn có thể chơi nó theo các bước sau:

1. Hãy bắt đầu bằng các ngón bấm hợp âm D của tay trái và giữ hợp âm như vậy suốt cả khuôn.

2. Chỉ sử dụng ngón cái, khảy luôn phiên các dây 4th và 3rd đều đặn theo các note phần tư, như trong hình 12-9a.

Phần của ngón cái là nền tảng của mẫu. Ký hiệu chuẩn đánh dấu phần ngón cái bằng cách sử dụng các downstem (Các vạch thẳng đứng đi xuống được gắn với các notehead). Hãy chơi phần của ngón cái vài lần để nó được đều đặn vững chắc.

3. Bây giờ thêm dây số 2nd vào mẫu bằng cách khảy nó với ngón trỏ sau nhịp thứ 2 (giữa các note của phần ngón cái), như trình bày trong hình 12-9b.

229

Hãy chắc rằng dây số 2nd vẫn tiếp tục ngân vang khi ngón cái của bạn khảy dây số 4th ở nhịp thứ 3. Hãy chơi phần này của mẫu vài lần cho tới khi bạn cảm thấy nó tự nhiên. Hãy lắng nghe CD để biết phần nhịp điệu.

4. Bây giờ hãy thêm dây số 1st vào mẫu bằng cách khảy no với ngón giữa sau nhịp thứ 3 (giữa các note của phần ngón cái), như trong hình 12-9c.

Hãy chơi phần này của mẫu vài lần cho tới khi cảm thấy thoải mái.

5. Cuối cùng, thêm dây số 1st (mà bạn chơi bằng cách sử dụng ngón giữa) vào nhịp 1, hãy chơi dây số 4 cùng lúc với ngón cái, như trình bày trong hình 12-9d.

Trong Travis picking, việc chơi các dây treble và bass cùng nhau được gọi là pinch.

Sự thay đổi của mẫu cơ bản đôi khi được gọi là the roll. Mẫu này không có sử dụng các pinch, và bạn sẽ khảy mọi off-beat, như trình bày trong hình 12-9e. Đặc biệt, bạn chơi off-beat cuối chỉ khi bạn không thay đổi các hợp ấm khi bạn đi tới khuôn kế tiếp. Nếu bạn thay đổi hợp âm, thì hãy bỏ đi off-beat cuối.

Bạn có thể tạo ra sự thay đổi khác của mẫu cơ bạn bằng cách thêm vào hoặc bỏ đi các note pinch và các off-beat – nhưng đừng bao giờ bỏ các note phần ngón cái. Bạn có thể tạo ra các sự thay đổi khi bạn chơi, để bỏ đi tính đơn điệu của một mẫu mặt khác là lặp đi lặp lại.

Đối với các mẫu Travis cơ bản, một cách dễ nhớ các dây đàn phải khảy và thứ tự khảy là nghĩ về nhóm 4 note của các dây đàn mà bạn khảy là một tập hợp của các dây phía ngoài (outside string) và một tập hợp các dây phía trong (inside string). Trong hợp âm D, chẳng hạn, dây số 1st và dây số 4th là “phía ngoài” và dây 2nd và dây 3rd là “phía trong”. Hãy xem hình 12-9d một lần nữa. Hãy đọc các chuỗi sau khi bạn chơi: “Pinch, insides, outsides, thumb.” Các bước sau liên kết các chuỗi này với các hành động tương ứng để bạn thực hiện:

1. Pinch: Ở beat 1, hãy chơi các dây phía ngoài (4th và 1st ) là note pinch – ngón cái khảy dây số 4th và ngón giữa khảy dây số 1st đồng thời.

230

2. Các dây phía trong (Insides): Ở nhịp 2, hãy chơi các dây phía trong (3rd và 2nd ) 1 dây tại một thời điểm – ngón cái khảy trước sau đó tới ngón trỏ.

3. Các dây phía ngoài (Outsides): Ở nhịp 3, hãy chơi các dây phía ngoài (4th và 1st) 1 dây tại một thời điểm – ngón cái khảy trước và sau đó tới ngón giữa.

4. Ngón cái: Ở nhịp 4, chỉ chơi ngón cái trên dây bass thuộc dây phía trong (dây số 3rd).

Chú ý rằng thông thường bạn không sử dụng ngón nhẫn khi chơi các mẫu Travis.

Phong cách nhạc đệm (Accompaniment style)

231

Sau khi bạn biết các mẫu cơ bản, bạn có thể tạo ra toàn thể nhạc nền cho một bài hát bằng cách ghép nối đơn giản một chuỗi các hợp âm lại với nhau và áp dụng mẫu thích hợp cho mỗi hợp âm. Bạn có thể chơi mẫu đó đối với bất kỳ hợp âm nào bằng cách ghi nhớ thông tin sau:

- Nhớ nhóm 4 dây để chơi cho mỗi hợp âm. (Hãy xem sơ đồ trong hình 12-10.)

- Nhớ các ngón tay phải sử dụng trên các dây đó. (Ngón cái và ngón giữa chơi các dây phía ngoài, ngón cái và ngón trỏ chơi các dây phía trong.)

- Nhớ chuỗi “pinch, insides, outsides, thumb.” Bằng cách sử dụng chuỗi này, bạn có thể chơi bất kỳ mẫu nào cho bất kỳ hợp âm nào.

Hình 12-10 trình bày 4 dây mà bạn có thể sử dụng cho đa dạng các hợp âm và để nhận biết các dây “inside” và “outside” cho mỗi nhóm. Hãy thử các nhóm được chỉ đối với mỗi hợp âm, thực hiện trển cả mẫu cơ bản và mẫu the roll.

232

Để chơi một bài hát ngay bây giờ bằng cách sử dụng nhạc đệm phong cách Travis-style, hãy nhảy tới đoạn “Chơi các bản nhạc Folk (Playing Folk Songs)” nằm ở sau trong chương này, và hãy kiểm thử bài “All My Trials.”

Phong cách solo (Solo style)

Bạn có thể sử dụng Travis picking để tạo ra các đoạn solo nhạc cụ hứng thú bằng cách bằng phần giai điệu của bài hát trên các dây treble (như các note pinch hoặc các off-beat) trong khi có các dây bass đi cùng, các off-beat được đặt vào một cách chiến lược – cung cấp một nhạc nền. Trong phong cách solo này, bạn không nhấn thiết phải chơi chính xác các nhóm 4 dây (theo như đoạn phong cách nhạc đệm ở trên) – phần giai điệu hầu như chỉ ra các nhóm rồi, thỉnh thoảng mở rộng ra 5 giây.

233

Hình 12-11 trình bày cách chơi một giai điệu theo phong cách solo Travis picking. Chú ý rằng ở nhịp 1 và nhịp 2 trong mỗi khuôn là các note pinch (ngón cái và ngón khác chơi các dây cùng nhau), bởi vì cả phần giai điệu và bass đều rơi vào các beat đó. Các note giai điệu khác rơi vào các off-beat, đến từ giữa các note bass.

Để chơi một bài hát bằng cách sử dụng phong cách Travis solo ngay bây giờ, hãy nhảy tới đoạn “Chơi các bản nhạc Folk (Playing Folk Songs)”, nằm ở sau trong chương này, và hãy kiểm qua bài “Freight Train.”

Open tuning

Bạn có thể tạo ra một hiệu quả thú vị nếu bạn Travis pick theo các dạng open tunings. Hình 12-12 là một đoạn trong open-G tuning (D-G-D-G-B-D, cao độ thấp tới cao) âm thanh này một chút gì đó giống Joni Mitchell đã chơi trong một trong những album đầu của cô ấy. Chỉ một điều bất thường ở đây là bạn hiệu chỉnh guitar theo một cách khác. Chẳng có gì ở tay phải thay đổi so với Travis pick thông thường.

Để có được open-G tuning hãy theo các bước sau:

1. Hạ dây số 6th cho tới khi âm thanh của nó thấp hơn 1 octave so với dây buông 4th .

2. Hạ dây số 5th cho tới khi âm thanh của nó thấp hơn 1 octave so với dây buông 3rd .

3. Hạ dây số 1st cho tới khi âm thanh của nó cao hơn một octave so với dây buông 4th.

234

Chú ý rằng trong hình 12-12, bạn chỉ sử dụng 1 nhóm 4 note (5th, 4th, 3rd, và 2nd). Các dây 5th và 3rd thì buông cho tới cuối, khi bạn chơi các note harmonics phím 12 chặn (hãy xem đoạn sau để biết thêm về việc sản sinh ra các note harmonics). Hãy nghĩ tới “pinch, insides, outsides, thumb” xuyên suốt ví dụ này.

235

Một note harmonic là một note đẹp, cao độ cao, giống tiếng chuông mà bạn tạo ra bằng cách chạm nhẹ vào một dây đàn (với phần mớm thị của một ngón tay trái) ở một phím nào đó (thông thường là phím 12th, 7th, hoặc 5th) nằm trực tiếp trên thanh phím kim loại chứ không phải nằm ở trước thanh phím kim loại, như khi bạn nhấn thông thường, và sau đó khảy dây đàn.

Chơi các bản nhạc Folk (Playing Folk Songs)

Phạm vi các bài nhạc mà chúng tôi trình bày ở đây xoay quanh toàn bộ từ một mẫu nhạc đệm đơn giản mà bạn lặp đi lặp lại tới việc xử lý phong cách solo của một giai điệu (tune), với phần bass độc lập, phần giai điệu được xếp chồng lên, và đôi mánh khóe được thêm vào. Trong 5 bài hát này, bạn chỉ sẽ chỉ thấy về mọi cách tiếp cận bằng fingerpicking mà phù hợp cho các bài hát theo phong cách folk. Đừng để vẻ tự nhiên đơn giản của các bài hát lừa gạt bạn, tuy nhiên; các phần guitar ở đây sẽ tạo cho chúng âm thanh đầy và hoàn hảo. Sau khi bạn hạ được các bản soạn lại này, tất cả bạn cần là một chiếc áo sơ mi vải flannel và đôi dày hiking boot và bạn trên con đường tới nghề làm rong, tổ chức lao động, và phản đối chính trị.

Ở đây là một số thông tin về các bài hát để giúp đồng hành với bạn. Một vài bài hát áp dụng kỹ thuật được gọi là bass run. Kỹ thuật này là một dòng note nhạc đơn – được chơi bởi ngón cái – sẽ dẫn tới hợp âm kết tiếp và đóng vai trò phá vỡ sự đơn điệu của mẫu được lặp lại.

- House of the Rising Sun: Để chơi bài “House of the Rising Sun,” bạn cần biết cách chơi mẫu hợp âm rải up-and-down (hãy xem đoạn “Phong cách hợp âm rải (Arpeggio Style)” nằm ở trước trong chương này); cách để bấm các hợp âm trưởng và thứ cơ bản (xem chương 4); và cách thực hiện một bài hát về sự lãng phí cuộc đời trong một căn nhà với ánh sáng âm thanh bệnh tật và vô tích sự.

Mẫu hợp âm rải up-and-down (p-i-m-a-m-i) là một mẫu nhạc đệm đẹp cho bài “House of the Rising Sun” và các bài hát khác giống như vậy. Tay trái của bạn nên nhấn giữ mỗi hợp âm trong cả khuôn nhạc. Hãy nghĩ rằng hợp âm rải (broken chords) (ở đây các note nhạc vẫn ngân vang) và không phải là các note riêng lẻ (individual notes) (là các note mà ngừng mau). Chú ý rằng các ngón khảy chỉ chơi 3 dây cao cho mỗi hợp âm trong bài hát, thậm chí khi ngón cái thay đổi các dây từ hợp âm này tới hợp âm khác.

- The Cruel War Is Raging: Để chơi bài “The Cruel War Is Raging,” bạn cần biết cách chơi mẫu “lullaby” (hãy xem đoạn “Phong cách hợp âm rải (Arpeggio Style)” nằm ở trước trong

236

chương này); cách bấm các hợp âm trưởng và thứ cơ bản (xem chương 4); và cách dỗ một đứa trẻ ngủ với một bài hát về sự tiêu diệt và tàn phá.

Hãy nhớ nhấn giữ các hợp âm với tay trái trong khi các note đang ngân vang. Hãy sử dụng capo để tìm ra giọng tốt nhất để hát.

- Gospel Ship: Để chơi bài “Gospel Ship,” bạn cần biết cách chơi một đoạn solo theo phong cách Carter (hãy xem đoạn “Phong cách Carter (Carter Style)” nằm ở trước trong chương này); cách chơi các note hammer-on à pull-off (xem chương 9); và không biết có một ai trên hành tinh này thực sự biết lời bài hát này.

Các note hammer-on, pull-off và bass run là phần quan trọng của phong cách Carter, như khi bạn nhìn thấy trong bản soạn này, đặt cơ sở một cách lỏng lẻo theo bài hát truyền thống “Gospel Ship.” (Hãy xem Chương 9 để biết thêm thông tin về các note hammer-on và pull-off). Ký hiệu chuẩn giúp bạn xác định các note mà bạn cần chơi với ngón cái (ngón này có chiều khảy hướng xuống) và các note mà bạn chơi với các ngón khác (các ngón có chiểu khảy hướng lên). Bài hát này cũng làm việc tốt, tuy nhiên, nếu bạn sử dụng miếng khảy. Hãy thử cả 2 cách.

- All My Trials: Để chơi bài “All My Trials,” bạn cần biết cách chơi một mẫu nhạc đệm phong cách Travis (hãy xem đoạn “Travis Picking,” nằm ở trước trong chương này); cách chơi các note hammer-on (xem chương 9); và cách hát một bài hát một cách lôi cuốn về công việc vất vả và sự thử thách gay go mà không cần vang lên sự kiêu căng bởi vì bạn đã trải qua một cuộc sống của sự thanh thản và đặc quyền tương đối.

Khuôn 1 sử dụng nhóm dây thấp hơn cho hợp âm G, bởi vì nếu bạn sử dụng nhóm cao hơn, bạn sẽ kết thúc với một hợp âm chưa đầy đủ. Bởi vì khuôn 2 chỉ có 2 nhịp, bạn chỉ chơi nửa mẫu trong khuôn đó. Khuôn 5 bắt đầu khi bạn sử dụng bộ dây cao hơn (chuyển thuận tai một cách mượt mà note cao của khuôn trước) , nhưng sau đó ở nhịp 2, lại chuyển về bộ dây thấp hơn, một lần nữa để tránh hợp âm không đầy đủ (incomplete). Khuôn 9 kết hợp chặt chẽ dòng bass ngắn vào trong mẫu đệm theo lối từ hợp âm G tới Em. Ở khuôn 12, một note pinch hammer-on làm tăng thêm hương vị folk (extra-folky).

- Freight Train: Để chơi bản “Freight Train,” bạn cần biết cách chơi một đoạn solo theo phong cách Travis (hãy xem đoạn

237

“Travis Picking,” nằm ở trước trong chương này); cách chơi các note hammer-ons (xem chương 9); và cách để phát âm như một người bán hàng rong đơn giản trong khi chơi một bản soạn lại với fingerpicking phức tạp cùng 4 kỹ thuật mới.

Một bass run để phá vỡ sự đơn điệu trong khuôn 4 và 8. Trong khuôn 9, trong khi đang ấn hợp âm E, và bạn có thể sử dụng ngón trỏ, được đặt dẹt vào một thanh chặn, để chơi dây số 1st, phím đầu tiên. Hãy sử dụng ngón cái trái, ôm quanh cần đàn, để nhấn dây số 6th trong khuôn 11 và 12. Khuôn 14 là nét đặc trưng của một mánh khóa nhỏ có tính trang hoàng – bạn hammer một note treble vào cùng thời điểm mà bạn khảy note bass. Trong khuôn 15, note bass luôn phiên giữa 3 note, chứ không phải 2.

238

239

240

241

242

243

244

245

Chương 13

Classical Trong chương này

- Ngồi đúng

- Tư thế tay phải và tay trái

- Cắt và giũa móng tay

- Free strokes và rest strokes

- Việc chơi hợp âm rải

- Việc chơi đối âm

- Việc chơi các đoạn nhạc cổ điển.

Classical guitar không chỉ đề cập tới một phong cách âm nhạc nào đó, mà còn ám chỉ các tiếp cận với nhạc cụ mà rất khác so với bất kỳ phong cách nào, hoặc là folk, jazz, rock, hoặc blues. Classical guitar chứa đựng một truyền thống lâu đời của kỹ thuật và thực tiễn mà các nhà soạn nhạc và người trình diễn tuân theo nhiều năm tháng và chúng vẫn được giữ vững, thậm chí với việc xuất hiện của các tác phẩm âm nhạc hiện đại hơn và mới hơn.

Để chơi các bản nhạc tuyệt vời của Bach, Mozart, và Beethoven – và để có được âm thanh xác thực – bạn phải chơi nó theo phong cách classical. Kể cả khi bạn không có ý định trở thành một tay guitar classical thực sự, bạn có thể phát triển âm sắc của bạn, kỹ thuật và ngắt câu bằng cách thực hành các kỹ thuật classical.

Đừng giữ một ấn tượng rằng, bởi vì nó gắn liền với các quy tắc nào đó, nên nhạc cổ điển tất cả là những quy tắc và luật lệ cứng nhắc. Nhiều tay guitar có nghề nghiệp trong cả 2 lĩnh vực nhạc pop và classical cảm thấy rằng một vài khía cạnh của guitar classical đang được chơi tự do, và những người theo chủ nghĩa cá nhân có vẻ thô kệch này thực sự cố gằng đưa các kỹ thuật classical vào việc chơi pop và rock. Steve Howe of Yes, Michael Hedges, và Chet Atkins có các kỹ thuật classical classical phù hợp theo phong cách của riêng họ mà không thể bắt trước được. Thêm nữa, chúng ta hoàn toàn không thể hình dung ra Metallica đạt được cùng hiệu ứng headbanging khi họ ngồi trên các ghế straight-backed chair với chân trái nâng lên và cổ tay vòng theo những góc vuông.

Trong chương này, chúng ta sẽ đề cập đúng đắn về classical guitar và trình bày ngồi đúng tư thế và vị trí đúng cho tay phải và tay trái. Thêm nữa, chúng tôi trình bày cho bạn cách kết hợp

246

các giai điệu để tạo ra đối âm và cách sử dụng rest strokes và free strokes để đưa ra một giai điệu từ trong một mẫu hợp âm rải.

Hãy sẵn sàng để chơi Classical Guitar (Getting Ready to Play Classical Guitar)

Bạn luôn luôn chơi guitar classical trên một cây guitar dây nylon (ngược lại với các mẫu dây thép sử dụng cho nhiều phong cách khác), theo một tư thế ngồi. Ngoài ra, bạn phải áp dụng các kiểu stroke tay phải nào đó (các phương pháp khảy các dây đàn) để có được âm thanh như mong đợi. Thêm nữa, bạn phải chấp nhận một cách tiếp cận mới đối với tư thế tay trái.

Ngồi thế nào (How to it)

Những tay guitar classical thực thụ (đó là, hầu hết các tay guitar thực thụ) ngồi khác so với các tay guitar khác ở chỗ họ giữ cây guitar trên đùi trái thay vì trên đùi phải. Họ cũng nâng đùi trái lên khoảng 6 inch bằng cách sử dụng một cái ghế để chân. Nếu bạn thực hiện hành động cân bằng này, bạn sẽ đạt được các mục tiêu sau:

- Bạn dừng phía treble của guitar (mặt gần hơn các dây đàn có cao độ cao hơn) trên đùi trái, với phần lưng của nhạc cụ dừng tựa vào bụng của bạn. Sức nặng của tay phải nằm trên phía bass sẽ giữ cho nhạc cụ nằm đúng vị trí (được cân bằng, ấy là nói như vậy). Hai tay của bạn vì thế hoàn toàn thoải mái để chơi – và chỉ để chơi. Bạn không cần phải dùng đôi tay để giữ guitar khỏi rơi xuống sàn (trừ khi bạn nhảy lên đột ngột để trả lời điện thoại).

- Bạn sắp đặt guitar như thế để tay trái của bạn có thể chơi ở bất kỳ phím nào theo góc đúng (vuông góc) – hãy xem đoạn sau “Tư thế tay trái (Left hand position)” của chương. Điều này cho phép bạn chơi các vị trí cao hơn (vị trí 7th và cao hơn) một cách dễ dàng hơn so với bạn có thể chơi trong vị trí ngồi chơi guitar mộc dây thép (xem chương 3).

Sự thật là, tuy nhiên, có nhiều người thử classical guitar một cách đơn giản thậm chí không bận tấm với các cách làm sao để giữ nhạc cụ. Tại sao? Bởi vì nó có quá nhiều vấn đề. Nơi nào để bạn có thể mua được một cái ghế để chân? (OK, bạn có thể mua được 1 cái tại cửa hàng âm nhạc địa phương – có lẽ vậy.) Nếu bạn chỉ muốn thử một vài đoạn classical guitar cho vui, thì bạn hãy ôm guitar như bình thường. Cảnh sát âm nhạc sẽ không có quyền để mà ngăn cản bạn, và bạn vẫn có thể nghe bản soạn lại các note nhạc thật đẹp, thậm chí khi bạn không chơi “theo luật” một cách nghiêm ngặt.

Tuy nhiên, nếu bạn thực sự đứng đắn về việc chơi classical guitar, hãy mua một ghế kê chân và tham khảo hình 13-1, mà trình bày tư thế đúng để ngồi. Bạn cũng có thể sử dụng vật dụng để đẩy guitar lên từ đùi của bạn, để cho phép cả hai bàn chân của bạn nằm bẹt trên sàn nhà. Các thiết bị này được yêu thích bởi vì chúng không tạo ra sự gồ ghề của việc kéo

247

căng đùi và các cơ lưng của bạn mà thường là kết quả từ việc nhấc cao 1 đùi và giữ đùi kia nặm bẹt. Oh, và nếu bạn muốn theo đuổi classical guitar, thì hãy học cách đọc nhạc (nếu bạn chưa có thể đọc), bởi vì rất nhiều bản nhạc classical guitar được in mà không có tab. (Kiểm tra phụ lục A để khởi đầu việc đọc nhạc.)

Điều quan trọng là phải đảm bảo rằng bạn ngồi theo tư thế thẳng đứng và tại cạnh của ghế, nâng cao đùi trái của bạn (hoặc nâng cao guitar) và giữ nhạc cụ nằm giữa thân người bạn. Giữ đầu guitar (nơi kết nối tuning pegs) cao ngang với vai của bạn, như trong hình 13-1.

Tay phải (The right hand)

Sau khi nói về tư thế, cách tiếp cận của tay phải là một mối quan tâm quan trọng nhất để đạt được âm thanh classical guitar thực sự. Bạn phải chơi với tay phải theo tư thế đúng và thực hiện khẩy tay đúng.

Tư thế tay phải (Right-hand position)

248

Khái niệm quan trọng nhất về tư thế tay phải là bạn phải giữ các ngón tay – trỏ, giữa, và nhẫn – vuông góc với các dây đàn khi thực hiện gảy. (Thông thường bạn không sử dụng ngón út trong classical guitar).

Với việc sắp đặt tư thế này thì không dễ dàng để di chuyển một cách khéo léo. Tại sao? Bởi vì tay của bạn, là phần kéo dài của bàn tay, một cách tự nhiên nghiêng 1 góc khoảng 60o so với các dây đàn. Hãy thử nó. Xem sao? Nhưng nếu bạn giữ các ngón tay của bạn ở một góc nhỏ, bạn không thể có được âm lượng lớn nhất từ các dây đàn. Để đạt được âm thanh mạnh nhất (which you need to do to bring out melodies from the bass and inner voices), bạn phải khảy các dây đàn ở góc vông 90 độ.

Hãy xoay tay phải của bạn ở chỗ cổ tay để các ngón tay nằm vuông góc với các dây đàn và ngón cái nằm cách khoảng 1 ½ inch bên trái (từ điểm lợi thế của bạn) của ngón trỏ, như trình bày trong hình 13-2. Dừng ngón tay cái phải, và các ngón khác (ngón trỏ, giữa, và nhẫn) trên dây số 6th, 3rd, 2nd, và 1st, tương ứng, như trình bày trong hình. Bước thiết lập này là tư thê classical guitar căn bản cho tay phải. Các ngón tay của bạn có vuông góc với các dây đàn không?

249

Nếu bạn đứng đắn về việc hoàn thiện kỹ thuật tay phải classical, đây là một mánh để ép buộc các ngón tay của bạn nằm vào đúng tư thế: Hãy đặt 4 ngón tay (cái, trỏ, giữa, và nhẫn) trên cùng dây (dây số 3rd, chẳng hạn), xắp chúng thành một hàng. Bằng cách sắp đặt các ngón tay theo kiểu này, ngón cái không thể dừng về phía phải của ngón trỏ. Sau đó, đừng có xoay tay của bạn, nhưng hãy di chuyển các ngón tay tới vị trí thông thường của nó: ngón cái về dây 6th, ngón trỏ về dây 3rd, ngón giữa về dây 2nd, ngón nhẫn về dây 1st. Tham khảo hình 13-2 để đảm bảo rằng ngón cái của bạn nằm ở vị trí đúng so với các ngón khác (bên cạnh và không nằm sau chúng).

Các móng tay (The fingernails)

Các móng tay trên tay phải ảnh hưởng tới âm sắc của việc chơi guitar. Nếu móng tay của bạn thật ngắn, chỉ có phần mớm thịt ngón tay khảy dây đàn, và âm sắc tạo ra sẽ dịu và nhẹ hơn. Ngược lại, nếu móng tay của bạn thật dài, chỉ có móng tay khảy các dây đàn, thì âm sắc sẽ bén hơn và kim loại hơn. Hầu hết các tay guitar classical nuôi móng tay của họ dài ở một mức nào đó để cho cả mớm thịt và móng tay đều khảy vào dây đàn cùng lúc, sẽ sản sinh ra một âm sắc dễ chịu, tròn tiếng.

Một vài tay guitar sở hữu một bột công cụ chăm sóc móng tay đặc biệt bao gồm các cái kéo hoặc kìm cắt móng tay, các cái giũa móng tay, các tấm nhám, và các miếng vải nhám tốt để cho phép họ giữ móng tay ở độ dài mong muốn, hình dạng, và sự trơn tru.

Nếu bạn đứng đắn về việc chơi classical guitar, hãy nuôi móng tay của bạn dài một chút và cắt chúng, để chúng được tròn, theo đường viền các đầu ngón tay. Sau đó giũa hoặc đánh bóng chúng với một cái giũa móng tay hoặc tấm nhám. Chỉ nuôi các móng tay phải. Bạn phải giữ các móng tay trái ngắn để chúng không chạm vào bàn phím khi bạn nhấn các dây đàn, để chúng không ngăn chặn các note nhạc khỏi việc vang lên một cách chính xác. Nhưng nếu bạn chơi classical guitar tình cờ, để vui hoặc chỉ thử thôi, thì đừng lo lắng về chiều dài của các móng tay phải của bạn. Nhiều người chơi classical guitar bằng các móng tay ngắn (và với cây guitar được đặt trên đùi phải).

Thay đổi màu sắc âm thanh (Changing tone color)

250

Bạn có thể thay đổi màu sắc âm thanh của các dây đàn bằng cách đặt tay phải của bạn tại các điểm khác nhau dọc theo dây đàn – gần nhúng hơn hoặc gần bàn phím hơn hoặc trực tiếp trên lỗ cộng hưởng. Nếu bạn chơi trực tiếp trên lỗ cộng hưởng, âm thanh sẽ đầy và béo. Khi bạn di chuyển hướng về phía nhúng, âm thanh trở nên sáng hơn và kim loại hơn; khi bạn di chuyển hướng về phía bàn phím, âm thanh trở nên tròn hơn và êm dịu hơn.

Tại sao bạn cần thay đổi timbre (âm sắc: tone color)? Hầu hết là vì mục đích đa dạng hóa. Nếu bạn đang chơi một khúc nhạc với một đoạn lặp lại, bạn có thể chơi với âm thanh tại lỗ cộng hưởng cho lần đầu và sau đó lập lại thì chơi gần chỗ nhúng hơn. Hoặc bạn có thể đang đạt tới điểm cao trào nhất trong một đoạn nhạc và bạn muốn làm tăng thêm nữa hiệu quả bằng cách chơi những âm thanh sáng hơn, kim loại hơn. Bạn có thể chơi như vậy khi ở gần phía nhúng. Các ấn bản nhạc classical guitar thường chỉ ra các vị trí này, và bạn có thể nghe nó thấy rõ sự thay đổi âm thanh này trong các bản thu âm của các đoạn nhạc classical guitar.

Tư thế tay trái (Left hand position)

Khi bạn đang nhấn các phím theo phong cách classical, hãy cố gắng nghĩ rằng tay trái của bạn như một bộ phận máy móc mà bạn khóa vào 1 vị trí (tư thế) – một vị trí mà bạn có thể mô tả đặc điểm bằng các góc vuông (right) và thẳng góc (để tạo được sự thoải mái trong khi chơi và âm thanh tốt nhất). Khi bạn di chuyển lên và xuống trên cần đàn hoặc ngang qua các dây đàn, bộ máy nhỏ (các ngón tay trái) sẽ không bao giờ thay đổi dáng điệu của nó. Đơn giản bạn chỉ di chuyển nó (các ngón tay trái) dọc theo hai hướng của một hệ thống các đường dây – as you would an Etch-a-Sketch. Dưới đây là cách bộ máy nhỏ (các ngón tay trái) làm việc:

- Hãy giữ các ngón tay uốn cong và vòng để mà các đầu ngón tay hướng vào bàn phím theo góc 90 độ và hãy đặt chúng vuông góc với các dây đàn.

- Duỗi thẳng ngón cái và giữ nó đối diện nhiều một chút với ngón trỏ khi bạn nhấn nhẹ ngón tay cái tựa lên lưng của cần đàn. Khi bạn di chuyển lên các phím cao hơn, hãy di chuyển ngón cái theo cùng, hãy luôn giữ cho ngón cái đối diện với ngón trỏ. Bạn có thể di chuyển nó ngang qua cần đàn khi các ngón khác làm việc, nhưng đừng bao giờ để nó nằm lên trên bàn phím.

- Hãy di chuyển cánh tay của bạn với bàn tay để bàn tay vẫn vuông góc với các dây đàn. Khi bạn chơi ở các phím thấp, hãy giữ khuỷu tay của bạn cách xa thân bạn. Ở các phím cao, hãy để khuỷu tay của bạn nằm gần thân bạn hơn.

251

Về lý thuyết mà nói, chẳng có vấn đề gì về dây đàn hoặc phím mà bạn chơi, tư thế thay trái của bạn đều nhìn tương tự - như trình bày trong hình 13-3. Dĩ nhiên , những đòi hỏi đặc biệt của âm nhạc có thể bắt buộc bạn phải bỏ tư thế cơ bản của tay trái từ những thời điểm khác nhau. Vì thế hãy quan niệm những chỉ dẫn trước cũng chỉ là: chỉ dẫn thôi.

Nếu bạn đang chơi theo các phong cách guitar khác (chẳng hạn như rock hoặc blues) một lúc, bạn có thể thường thấy đầu ngón cái tay trái nằm ở mọi hướng quanh cần đàn, và nhô ra phía trên dây số 6th. Thói quen nhô ngón cái ra thì bị giới hạn trong classcal guitar: Ngón cái luôn luôn nằm ở sau cần đàn. May thay, chúng ta có một cách hay để chữa cho bạn khỏi thói quen này (mặc dầu vậy bạn phải quyết tâm chịu đựng đau một chút). Nhờ một người bạn giữ một vật nhọn (chẳng hạn như một cây bút chì) trong khi bạn đang chơi. Mỗi lần ngón tay cái nhó lên khỏi cần đàn, bạn của bạn sẽ chọc nhẹ ngón cái của bạn với vật nhọn đó! Phương pháp huấn luyện đó có thể gây đau một chút, nhưng sau vài lần bị chọc, ngón cái của bạn nằm sâu đằng sau cần đàn, nơi nó thuộc về. Phương pháp này là cách Charles Dickens’ thời trẻ được học để hoàn thiện kỹ thuật tay trái.

Free Strokes and Rest Strokes

Nếu bạn có một huấn luyện viên golf hoặc bowling, ông ấy có thể diễn thuyết ch oban5 về tầm quan trong của một cú đà phát bóng tốt. Vậy thì, tin hoặc không, điều tương tự trong việc khảy một dây đàn guitar. Các ngón tay của bạn có thể phát đà sau khi khảy một dây đàn theo một trong 2 cách, tương ứng 2 cách khảy (stroke). Cách thứ 1 là khảy tự do (free stroke), là cách mà bạn sử dụng các hợp âm rải và các đoạn thang âm nhanh. Cách khác là, rest troke, bạn sẽ sử dụng để nhấn trọng âm các note giai điệu. Ngón cái, tuy nhiên, gần như luôn luôn bạn chơi theo free stroke, thậm chí khi bạn chơi các giai điệu. (Free stroke được sử dụng trong

252

cả việc chơi classical và folk; rest stroke là kĩ thuật chơi classical guitar.) Hãy theo các đoạn sau có diễn tả cả 2 cách stroke.

Playing free Strokes

Nếu bạn khảy một dây đàn theo một góc hướng lên nhẹ, ngón tay của bạn sẽ dừng trong không khí, ở trên dây gần kề. (Dĩ nhiên, ngón tay sẽ không nằm ở đó lâu, vì bạn phải đưa nó về vị trí khởi đầu bình thường của nó để khảy lần tiếp theo.) Kiểu khảy này, nơi mà ngón tay của bạn đu đưa tự do trong không khí, thì được gọi là free stroke. Hình 13-4, có những bức hình về ngón tay trước và sau khi khảy, trình bày cho bạn cách chơi free stroke. (Kiểu này Việt Nam còn gọi là gảy móc).

Trong classical guitar, bạn sẽ sử dụng free stroke để chơi các nguyên liệu phi giai điệu, chẳng hạn như hợp âm rải (các hợp âm được chơi từng note một tại một thời điểm thay vì chơi tất cả các note tại một thời điểm). Thử khảy rải các dây mở (ngón cái dây 6th, ngón trỏ dây 3rd, ngón giữa dây 2nd, ngón nhẫn dây 1st), tất cả sử dụng free strokes.

Hình 13-5 là một đoạn trích từ bản nhạc Tây Ban Nha, “Malagueña,” mà mọi tay guitar gặp được lúc này hoặc lúc khác. Bạn hãy chơi phần giai điệu với ngón cái trong khi ngón giữa chơi free stroke trên dây buông E cao.

Ký hiệu classical guitar chỉ ra các ngón tay phải bằng các ký tự p,I,m, và a, mà đại diện cho các ký tự đầu tiên của Tây Ban Nha đặt tên cho các ngón tay: ngón cái là p (pulgar), ngón trỏ là i (indice), ngón giữa là m (media), và ngón nhẫn a (anular). Bạn cũng sẽ nhìn thấy các ký hiệu này được sử dụng trong fingerstyle folk guitar.

253

Playing rest strokes

Rest stroke sử dụng một kiểu đà phát khác so với free stroke. Thay vì khảy dây đàn theo một góc hướng lên nhẹ, hãy khảy ngang thẳng góc qua (không hướng lên) để ngón tay của bạn đổ bộ, hoặc dừng, tựa lên dây đàn có cao độ thấp hơn gần kề. Bằng di chuyển ngang thẳng góc với dây đàn (thay vì là di chuyển theo góc hướng lên), bạn có được âm thanh lớn nhất của dây đàn. Đó là lý do tại sao rest stroke thì tốt đối với các note giai điệu; các note giai điệu là những note nổi bật – các note mà bạn muốn nhấn mạnh.

Hình 13-6, là hình ảnh trước và sau khi khảy theo kiểu rest stroke, trình bày cho bạn cách để chơi rest stroke.

Hãy sử dụng rest stroke để nhấn các note giai điệu trong các bản nhạc classical mà bao gồm inner voice – là các note làm đầy (filler notes) hoặc các note làm nền trên các dây giữa (middle) (được chơi với free stroke) – và các note bass.

254

Hãy chơi 2 octave thang âm trưởng C được trình bày trong hình 13-7 một cách chậm rãi, tất cả sử dụng rest stroke. Thay đổi từ vị trí thứ 2 tới vị trí thứ 5 tại phần kết của khuôn 1 bằng cách trượt một cách trơn tru ngón trỏ của bạn dọc theo dây thứ 3rd, lên tới phím thứ 5. (Hãy xem chương 7 để biết thêm thông tin về chơi theo vị trí). Theo hướng đi xuống (đánh ngược lại), trở về vị trí thứ 2 bằng cách trượt một cách trơn tru ngón tay thứ 3 dọc theo dây số 3rd, về phím thứ 4. Hãy luôn phiên giữa ngón i (ngón trỏ) và ngón m (ngón giữa) khi bạn thực hiện.

Vì lợi ích về sự tốc độ và độ chính xác, việc luôn phiên giữa 2 ngón tay phải (thường là i và m) là thường lệ trong việc chơi các giai điệu classical guitar.

255

Phong cách hợp âm rải(arpeggio) và phong cách đối âm(contrapuntal) (Arpeggio Style and Contrapuntal Style)

Bạn chơi hầu hết các bản nhạc classical guitar hoặc là theo phong cách hợp âm rải hoặc là theo phong cách đối âm. Theo phong cách hợp âm rải, bạn giữ các hợp âm với tay trái trong khi khảy các dây đàn liên tiếp với tay phải (để mỗi dây đàn kêu lên và ngân vang). Thông thường, bạn chơi đồng thời phần giai điệu trên các dây cao (sử dụng rest stroke) thông qua các hợp âm rải.

Âm nhạc classical guitar đối âm thường có 2 phần – phần bass đó là phần mà bạn chơi với ngón cái, và phần treble (phần giai điệu) mà bạn chơi (thường sử dụng free stroke) luôn phiên với các ngón tay (chẳng hạn, i và m). Từ đối âm (contrapuntal) ý chỉ phong cách đối âm (counterpoint), nơi mà bạn chơi 2 hoặc hơn 2 giai điệu (thường các giai điệu khác nhau hoặc tương phản) một cách đồng thời – phần nào giống như điều bạn thấy khi 2 người với 2 ý tưởng đối nghịch cùng nói tại một thời điểm. Trong âm nhạc, tuy nhiên, các dòng phân biệt hỗ trợ lần nhau hơn là phủ nhận nhau. Hãy tưởng tượng khi các cuộc tranh luận chính trị có kết quả.

Kết hợp free strokes và rest strokes trong các hợp âm rải (Combining free strokes and rest strokes in arpeggios)

Hình 13-8 trình bày một bài tập theo phong cách hợp âm rải. Bạn hãy chơi note đầu tiên của mỗi khuôn và các note có đuôi quay xuống trong ký hiệu chuẩn bằng

256

ngón cái; các note khác thì bạn hãy chơi với các ngón còn lại (i trên dây số 3rd, m trên dây số 2nd, và a trên dây số 1st).

Các note mà bạn chơi trên dây số 1st có một dấu nhấn (accent mark) (>) nằm bên trên chúng trong dạn ký hiệu chuẩn. Các dấu nhấn chỉ cho bạn biết hãy nhấn (accentuate hoặc stress) những note nào đó bằng cách chơi chúng lớn hơn để làm cho chúng nổi bật. Mặt khác, hãy sử dụng rest stroke một cách mạnh mẽ để nhấn mạnh cách note và free stroke cho các note khác. Kí hiệu sim. nghĩa là hãy chơi mẫu ngón bấm tương tự xuyên suốt bài tập.

Nhớ giữ tất cả các note của mỗi khuôn đồng thời bằng tay trái, trong suốt thời gian của khuôn.

Trước khi kết hợp rest stroke và free strokes, hãy chơi hình 13-8 tất cả sử dụng free stroke để có được cảm hứng của bài nhạc. Sau khi bạn thoải mái với bài nhạc, hãy thêm vào rest stroke cho các note trên dây số 1st.

Point/counterpoint(đối âm)

Hình 13-9 là một trích đoạn từ tác phẩm của một nhà soạn nhạc vô danh của kỷ nguyên Baroque – một kỷ nguyên mà âm nhạc đối âm rất phổ biến. Hãy chơi những note có đuôi quay xuống(downstem) (ở dạng ký hiệu chuẩn) bằng cách sử dụng ngón cái. Hãy luân phiên các ngón khác (free stroke) để chơi phần giai điệu.

Bài nhạc không chỉ ra bất kỳ ngón bấm tay phải đặc biệt nào. Miễn là bạn áp dụng khái niệm về luân phiên các ngón tay (thậm chí lỏng lẻo) để đạt được tốc độ và độ chính xác, bạn có thể sử dụng bất kì ngón bấm nào mà cảm thấy thoải mái nhất đối với bạn. Chẳng có cách nào là thực sự đúng hoặc thực sự sai.

Chúng tôi sẽ chỉ ra các ngón bấm tay trái, tuy nhiên, bởi vì ngón bấm đặc biệt này là ngón duy nhất mà phù hợp cho bài nhạc này. Đường nghiêng nằm trước số 2 ở nhịp thứ 2 của khuôn 3 và nhịp thứ 3 của khuôn 5 chỉ rằng bạn hãy dùng cùng ngón bấm mà bạn đã sử dụng để chơi note trước đó.

Hãy thực hành bằng cách chỉ chơi phần cao với (luân phiên) các ngón vài lần. Sau đó chơi dòng bass một mình với ngón cái vài lần. Sau đó chơi cả hai phần đồng thời. Hãy lắng nghe CD để giúp bạn về phần nhịp điệu (rhythm).

257

258

Chơi các đoạn nhạc cổ điển (Playing Classical Pieces)

Việc chơi các tác phẩm cổ điển thì không bao giờ là điều rắc rồi phức tạp bởi vì bạn không cần hat à bạn không cần có amply. Bạn có thể chơi nó bất kỳ lúc nào, bất kỳ nơi nào (miễn là bạn có một bộ dây guitar nylon).

Ký hiệu chuẩn classical guitar sử dụng một vài ký tự đặc biết để chỉ ra các hợp âm chặn (hãy xem chương 8 để biết thêm thông tin về các hợp âm chặn). Ký tự C với một ký số La Mã (Roman) đặt sau nó để chỉ một hợp âm chặn ngang qua tất cả 6 dây đàn. (Ký số La Mã nói cho bạn biết phím nào để chặn.) Ký tự C với một gạch đứng (I) xuyên thẳng qua nó chỉ rằng hãy chặn một phần (ít hơn 6 dây). Và một đượng ngang chấm nằm bên phải của ký tự C nói cho bạn biết phải giữ hợp âm chặn đó bao lâu.

Các bài hát mà bạn chơi trong chương này là các bài hát mà mọi người chơi classical gặp phải lần này hay lần khác. Chúng thật tuyệt nếu bạn muốn một cuộc sống đầy đủ như Romanza, luôn luôn hứng thú và không bao giờ Bourree.

259

- Romanza: Để chơi “Romanza,” bạn cần biết cách chơi free stroke và rest stroke (hãy xem đoạn “Free Strokes and Rest Strokes,” nằm ở trước trong chương này); cách chặn các hợp âm (kiểm tra chương 8); and how to roll your Rs trong khi nói từ “Romanza” (để phát âm thực sự như lục địa).

“Romanza” là một bài nhạc hợp âm rải đơn giản mà cho bạn một cơ hội để nhấn mạnh các note giai điệu bằng rest strokes (tất cả bạn chơi trên dây 1st với ngón a). Để tập luyện, bạn có thể chơi bài nhạc tất cả sử dụng free stroke, sau đó mới thêm rest stroke vào. Hãy sử dụng ngón cái để chơi tất cả các note bass (các note có đuôi quay xuống ở dạng ký hiệu chuẩn). Hãy sử dụng các ngón tay phải mà chúng tôi chỉ cho bạn trong khuôn đầu tiên xuyên suốt bài nhạc. Trong khuôn 9-10, hãy đảm bảo rằng bạn giữ ngón trỏ chặn ở phím thứ 7 với ngón giữa nhấn ở phím thứ 8 (dây số 3rd) xuất cả thời gian. Chú ý rằng đây là phản ánh của những chỉ dẫn cho ngón bấm tay trái.

- Bourree in E minor: Để chơi bài “Bourree in E minor,” bạn cần biết cách chơi phần giai điệu bằng cách sử dụng các ngón khảy luôn phiên trong khi chơi dòng bass với ngón cái (hãy xem đoạn “Point/counterpoint,” nằm ở trước trong chương này); cách để chặn các hợp âm (xem chương 8); và cách để phát âm và đánh vần từ bourree.

Bourree là một người khiêu vũ sống cách đây vài trăm năm (chỉ trước sự xuất hiện của “funky chicken”). Bản nhạc đối âm này là một đoạn trích mà phải mang sự hài hước để chơi bởi vì âm thanh của nó đẹp và phức tạp, nhưng nó thực sự đơn giản để chơi. Leo Kottke chơi bản nhạc theo phiên bản fingerstyle, và Jethro Tull đã soạn lại theo phong cách jazz. Hãy chơi tất cả các note bass (là các note có đuôi quay xuống trong ký hiệu chuẩn) bằng cách sử dụng ngón cái. Hãy luôn phiên các ngón tay (chẳng hạn, m-i-m-i và vân vân) với tay phải. Sự luôn phiên không cần phải hoàn toàn. Hãy sử dụng theo cách thoải mái nhất với bạn. Chúng tôi sẽ chỉ ra một vài ngón bấm tay trái ở các khuôn đầu và để bạn tiếp tục. Sau đó, hãy sử dụng bất kỳ ngón bấm nào cảm thấy tự nhiên. Để có cảm hứng, hãy lắng nghe các bản thu âm của bản nhạc này bởi tay guitar John Williams, cũng như phiên bản folk bởi Kottke và phiên bản swing-jazz bởi Jethro Tull. Tay guitar Heavy metal Yngwie (hãy phát âm là ING-vay) Malmsteen thậm chí chơi phiên bản với âm thanh distortion đến điếc tai. Mặc dầu J.S. Bach không bao giờ tưởng tượng ra tất cả các nhạc phổ lập dị này cho đoạn khiêu vũ ngắn không hấp dẫn của ông ấy, nhưng tất cả đều tuyệt.

260

261

262

263

Chương 14

Jazz Trong chương này

Hiểu jazz guitar nghĩa là gì

Jazz rhythm comping

Chơi các tác phẩm jazz solo

Chơi jazz lead

Chơi các bài hát jazz.

Jazz là một dạng âm nhạc mà các nhạc công tạo ra kh họ bắt đầu đạt được sự tự do với các dạng bài hát hiện hành, ngẫu hứng các giai điệu đã được soạn, và đa dạng hóa cấu trúc hòa âm. Các tay guitar đã đi theo những nỗ lực đầu tiên của các nhạc công khác như tay kèn trumpet vĩ đại Louis Armstrong, là một trong những bậc thầy đầu tiên của việc ứng khẩu giai điệu.

Jazz guitar có thể là khó để làm chủ bởi vì ứng tấu (improvisation) (tạo ra âm nhạc ngay lập tức – making up music on the spot) là một phần quan trọng của phong cách này. Thông thường, tạo ra âm nhạc là công việc của các nhà soạn nhạc. Nhưng trong jazz, những người trình diễn thường sẽ ứng tấu – và để làm điều đó tốt, bạn cần biết nhiều hơn những điều bạn có thể học trong 1 chương của cuốn saach1 For Dummies! Nhưng đừng buồn phiền. Chúng tôi sẽ chỉ cho bạn vài điều đơn giản để làm cho bạn vang lên như một tay guitar jazz, điều sẽ giúp bạn tìm được bản thân theo cách của bạn.

Trong chương này, chúng tôi put on our shades and help you get hip to jazz chords, jazz progressions, chord melody style, chord substitutions, and single-note lead playing. We also show you the difference between inside and outside chords, and how to jazz up a melody. Giới thiệu về hòa âm mới toàn bộ (Introducing a Whole New Harmony) Jazz guitar thì khác với rock và blues guitar đáng kể theo các cách sau: - Jazz guitar không sử dụng distortion, thiên về âm thanh mềm hơn, dịu hơn. - Giai điệu Jazz thì phức tạp một cách hài hòa hơn, tiến hành các cấu trúc hợp âm một cách chặt chẽ hơn – mà bản thân các cấu trúc hợp âm phức tạp hơn. - Các dòng Jazz thường áp dụng nhiều sự nhảy dây (skips) (các khoảng cách âm nhạc mà nhiều hơn một bậc – chẳng hạn như, A tới C) hơn so với các dòng rock hoặc blues. Cách tiếp cận các hợp âm của một Jazz guitar thì sâu sắc hơn(deeper) so với cách của những tay chơi rock hoặc blues. Trong rock và blues, các tay guitar đặc biệt sử dụng một thang âm để chơi trên tất cả các hợp âm, nhưng trong nhạc jazz, họ có thể sử dụng nhiều thang âm.

264

Họ cũng phải nhận thức về các note mà tạo thành mỗi hợp âm, khi chơi hợp âm rải (arpeggiating), hoặc việc chơi các âm sắc hợp âm theo chuỗi, là một điều đảm bảo phẩm chất của âm thanh jazz.

Hầu hết âm nhạc mà bạn nghe – pop, rock, blues, folk, và classical (đặc biệt là nhạc classical từ thế kỷ 17th và 18th, như của Bach và Mozart) – dựa vào hòa âm truyền thống (các hợp âm cơ bản và các tiến trình, như có thể thấy từ chương 4 cho tới chương 13). Nhưng hòa âm jazz sử dụng cái mà hầu hết mọi người gọi là (ngạc nhiên lớn) các hợp âm jazz. Các hợp âm Jazz thường chứa nhiều note hơn các hợp âm căn bản, hoặc thỉnh thoảng chúng có thể có cùng số lượng note như các hợp âm căn bản, nhưng một hoặc hơn một note của chúng được thay đổi theo nửa cung (thăng lên hoặc giáng xuống nửa cung). Các hợp âm mở rộng (Extended chords) Các hợp âm trưởng và thứ đơn giản được tạo thành chỉ từ 3 note (bậc 1st, 3rd, 5th của thang âm trưởng hoặc thứ mà note khởi đầu của thang âm là trùng với note root của hợp âm trưởng hoặc thứ đó). (Để biết thêm về bậc thang âm và việc xây dựng các hợp âm hãy xem chương 10.) Các hợp âm này được gọi là bộ ba (triads) (3 note). Các hợp âm 7th được tạo thành từ 4 note – bậc 1st, 3rd, 5th, và 7th của thang âm trùng tên của hợp âm. Trong jazz bạn sẽ thấy những hợp âm được tạo thành bởi 5 hoặc hơn 5 note. Bằng cách tiếp tục để nhóm các bậc thang âm khác, bạn có thể đi xa hơn bậc 7th để tạo ra các hợp âm 9th (sử dụng các bậc 1st, 3rd, 5th, 7th, và 9th), hợp âm 11th(1st, 3rd, 5th, 7th, 9th, và 11th) và hợp âm 13th (1st, 3rd, 5th, 7th, 9th, 11th, và 13th).

Các hợp âm này bao gồm các note xa hơn bậc 7th được gọi là các hợp âm mở rộng (extended chords). Thông thường, không phải tất cả các note thành viên của một hợp âm mở rộng đều thực sự được chơi. Chẳng hạn, trong hợp âm 13th, bạn chỉ có thể chơi 4 hoặc 5 trong 7 note, vì thế chỉ có thể chơi một hợp âm 13th bằng cách chỉ sử dụng 4 dây. Các hợp âm thay đổi(Altered chords) Các hợp âm Jazz thường chứa các note được gọi là bị thay đổi (altered) (bị thăng hoặc bị giáng xuống nửa cung). Sự thay đổi này sản sinh ra tất cả các loại của các tên hợp âm nghe ngộ ngộ như C7 9, B 13#11, và G7#5. Và mỗi hợp âm jazz này – và có hàng tá về chúng – có một âm thanh duy nhất. Trong việc chơi theo phiên bản jazz cho các bài nhạc phổ biến, các hợp âm thay đổi (altered chord) được dùng thay thế (substitued) cho các hợp âm truyền thống – nhưng việc biết hợp âm nào để thay thế, và khi nào, thì không dễ dàng đạt được sự điêu luyện, và đòi hỏi về kỹ năng của một nhạc sĩ jazz đạt tới hoàn hảo. (Để thêm thông tin về các hợp âm thay thế, hãy xem đoạn “Thực hiện những thay thế (Making Substitutions)”, nằm ở sau trong chương này.) Cũng vậy, hãy nhảy tới đoạn “Chơi các bản nhạc Jazz (Playing Jazz Songs)” trong chương này để thấy vài sự thay thế hợp âm đặc trưng.

265

Rhythm Comping

Comping là khái niệm mà những người chơi jazz sử dụng khi nói đến việc chơi nền hoặc nhạc đệm. Đối với một tay guitar, comping dịch là rhythm guitar – tức việc chơi các hợp âm. Thông thường các tay guitar Jazz dùng các hợp âm phía trong (inside chords), các hợp âm phía ngoài (outside chords), và các hợp âm full, mà chúng tôi đã trình bày trong các đoạn trước. Các hợp âm bên trong(inside chords) Các hợp âm phía trong/bên trong (inside chords) là các hợp âm không sử dụng dây 1st (E cao). Các hợp âm này thường được chơi 4 note trên các dây 2nd, 3rd, 4th, và hoặc 5th hoặc 6th. Các tay guitar nhạc Jazz thích chơi các hợp âm phía trong (inside chord) – và có rất nhiều hợp âm dạng này. Inside voicings (Các dạng/thể hợp âm phía trong) Hình 14-1 trình bày 15 thể hợp âm jazz phía trong đặc trưng. Thể (voicing) là sự sắp xếp lại đặt biệt của các note trong việc chọn lựa một hợp âm qua một kiểu sắp xếp khác để thỏa mãn mục đích âm nhạc hoặc trạng thái âm nhạc. Mỗi hợp âm trong hình 14-1 là dạng có thể di chuyển và được trình bày ở vị trí thấp nhất có thể trên cần đàn. Để sản sinh ra các hợp âm khác cùng loại, chỉ cần di chuyển hợp âm đó 1 phím theo mỗi nửa cũng. Chẳng hạn, hợp âm đầu tiên được trình bày là B7#9. Để chơi C7#9, hãy di chuyển hợp âm này lên 1 phím.

Một vài tên hợp âm có thể nghe lạ. Đây là cách để phát âm 3 hợp âm đầu tiên, đi từ trái sang phải dòng trên cùng (sau đó bạn nên có cách nói riêng (the hang of it: cách nói riêng)): “B bảy thăng chín,” “B bảy giáng chín,” và “F thăng sáu chín.” Một vòng tròn nhỏ trong tên một hợp âm đại diện cho “giảm bớt” (diminished). Hợp âm tiếp cho tới cuối (trong dòng đáy) được phát âm là “F thăng giảm 7.” Nếu bạn không làm gì ngoài việc khảy vài hợp âm này, bạn sẽ tạo ra âm thanh jazzy đúng cách. Thực tế, những người chơi jazz đặc biệt thích búng/đánh các hợp âm này ở phần giữa của cần đàn, hoặc lên trên một chút (thường ở giữa, khi nói, là ở phím thứ 4th và phím thứ 11th). Hãy thử khảy các hợp âm ở đó.

266

Các di chuyển phía trong (Inside moves)

Các tay guitar Jazz thích tập luyện good voice leading; đó là, bởi vì họ thích sự thay đổi hợp âm phải nghe mượt mà và kinh tế (economical). Thường trong các tiến trình jazz, sự khác nhau duy nhất giữa hợp âm hiện tại và hợp âm kế là một trong những note được di chuyển một phím hoặc 2 phím (xem hình 14-2 và 14-4). Tính kinh tế của di chuyển này làm cho bài nhạc dễ chơi hơn và, tại cùng thời điểm, làm cho âm thanh của bài nhạc dễ chịu. Hình 14-2 trình bày 3 di chuyển đặc trưng (các tiến trình) bao gồm các hợp âm phía trong mà những người chơi jazz sử dụng. Hãy chơi mỗi hợp âm một lần, và sau đó chơi hợp âm kế tiếp – bạn sẽ vang lên như một người chơi jazz. Hãy thử các tiến trình ở các phím khác nhau – các di chuyển này thuộc dạng có thể di chuyển!

Các hợp âm bên ngoài(outside chords)

Hợp âm phía ngoài (bên ngoài- Outside chord) là khái niệm được sử dụng cho một hợp âm, đặc biệt là một hợp âm jazz, chỉ sử dụng 4 dây cao – dây E thấp và A bỏ qua. Với các hợp âm phía ngoài, bạn thường không có note root (note mà được dùng để đặt tên cho hợp âm) ở phía đáy, hoặc bạn sẽ không đưa note root vào.

267

Outside voicings (Các dạng/thể hợp âm phía ngoài) Hình 14-3 trình bày 11 hợp âm jazz phía ngoài đặc trưng. Một lần nữa, mỗi hợp âm được trình bày ở vị trí thấp nhất có thể trên cần đàn, và có thể di chuyển được. Hãy thử chơi chúng ở một vị trí nào đó giữa phím thứ 4th và phím 11, vị trí mà các tay guitar jazz hầu hết thích chơi với những hợp âm này.

Các di chuyển phía ngoài (Outside moves) Cũng như các di chuyển phía trong (inside moves), các di chuyển phía ngoài trình bày điểm cơ bản của good voice leading, mà rất quan trong trong jazz guitar. Di chuyển cuối cùng, Hình 14-4c, trông như một chút gì đó ngoại lệ bởi vì bạn phải nhảy quanh cần đàn, nhưng đây lại là một di chuyển đẹp phổ biến. Bạn có thể bấm hình dạng hợp âm 7th giảm (diminished) và di chuyển nó lên hoặc xuống 3 phím mà không cần thay đổi hợp âm (bạn sẽ thay đổi thể (voicing), hoặc thứ tự của các note, nhưng bạn vẫn chơi cùng 4 note đó). Khi các tay guitar jazz chơi một hợp âm 7th giảm, họ thường di chuyển nó tăng trên cần đàn theo kiểu này để nhắm mục đích làm đa dạng hoặc để tạo ra sự cảm nhận của di chuyển.

268

Các hợp âm đầy (Full chords)

Không phải tất cả các hợp âm jazz bị giới hạn trong các hợp âm 4 note phía trong hoặc phía ngoài. Hình 14-5 trình bày 5 hợp âm jazz đầy khác nhau (là các hợp âm mà sử dụng 5 hoặc 6 dây) mà có thể chơi ở bất kỳ phím nào (nhưng trình bày ở đây được đặt ở vị trí thấp nhất có thể).

Chơi solo: Phong cách giai điệu hợp âm (Chord-Melody) Phong cách giai điệu hợp âm (Chord-melody), như tên của nó ngụ ý, một phong cách solo jazz mà kết hợp chặt chẽ giai điệu và các hợp âm của một bài hát. Bạn có thể nghe phong cách chơi này trong âm nhạc của những bậc thầy jazz như Johnny Smith, Jim Hall, và Joe Pass. Phong cách giai điệu hợp âm thường bao hàm việc làm jazz hóa một bài hát không phải

269

nhạc jazz. Mặc dầu giai điệu của bài hát thường được chơi trung thực (straight) (như đã được soạn), người trình diễn sẽ thay đổi các hợp âm từ các hợp âm truyền thống sang các phiên bản jazz. Các hợp âm jazz này, khi chúng thay thế của các hợp âm trung thực, thì được gọi là các hợp âm thay thế (substitutions).

Mặc dầu việc chơi một đoạn solo phong cách giai điệu hợp âm đã được viết thì đặc biệt không khó, nhưng việc tạo ra 1 đoạn theo phong cách này bởi chính bản (điều mà các tay guitar jazz làm) là một nhiệm vụ không dễ. Với những người mới bắt đầu, bạn cần biết cách để làm hòa hợp (tức là đặt những hợp âm bên dưới) một giai điệu; sau đó bạn cần biết cách để áp dụng những hợp âm thay thế. Các kỹ năng này vượt xa hơn việc chơi guitar đơn thuần – chúng đ vào lĩnh vực soạn nhạc và biên soạn lại. Đó là lý do tại sao chúng tôi sẽ không dạy bạn cách để thực hiện nó. Thay vào đó, chúng tôi sẽ cho bạn một ý tưởng về điều gì cần và sau đó trình bày cho bạn một cách dễ dàng để xử lý (cheat: lừa đảo), để bạn vang lên như là bạn đã tạo ra một đoạn solo giai điệu hợp âm. Sau đó ở đoạn “Chơi các bản nhạc Jazz (Playing Jazz Songs)” của chương này, bạn có thể chơi “Greensleeves” là một bản soan lại theo phong cách giai điệu hợp âm bằng cách đọc tab. Thực hiện những thay thế (Making Substitutions)

Những hợp âm thay thế là các hợp âm mang màu sắc jazz (jazzy) mà bạn sử dụng ở vị trí của những hợp âm trung thực. Các hợp âm này đến 1 trong 2 dạng thông thường: - Cùng note root: Thỉnh thoảng bạn thay thế một hợp âm với cùng note root, nhưng sử dụng một phiên bản mở rộng (extended) hoặc sự thay đổi nửa cung (hãy xem đoạn “Giới thiệu về hòa âm mới toàn bộ (Introducing a Whole New Harmony)” nằm ở trước trong chương này). Ví dụ, nếu tiến trình hợp âm của một bài hát bắt đầu với C và sang A7, bạn có thể thay thế Cmaj7 và A7 9, để làm cho âm thanh jazz hóa. - Khác note root: trường hợp khác, bạn có thể thay thế các hợp âm mà thậm chí không có cùng note root. Thay vào đó, hợp âm thay thế có thể có những note chung khác với hợp âm gốc. Lấy ví dụ, thay vì chơi C và A7, bạn có thể chơi các hợp âm như C6/9 và E 7, bởi vì A7 và E 7 có 2 note chung (C# và G). Cách nào cũng được, có vô số những sự thay thế hợp âm mà bạn có thể thực hiện, và nó có thể mất nhiều năm chơi jazz để phát triển cảm nhận trực giác để biết được các hợp âm có thể thay thế ở một vị trí. Ứng tấu với 3 hợp âm (Faking it with three chords) Thay cho việc học hằng trăm sự thay thế, hãy thử ứng tấu một đoạn solo giai điệu hợp âm bằng cách sử dụng 3 hợp âm đơn giản. Hãy xem lại lận nữa hình dạng 3 hợp âm đầu tiên có di chuyển được trong Hình 14-3: các thể hợp âm phía ngoài đối với hợp âm m7, o7, và 6/9. Bởi vì các hợp âm này có âm thanh chút gì đó khó hiểu, thường chúng sẽ không vang lên sai (ngang) ở bất kỳ đâu mà bạn chơi chúng, hoặc thứ tự bạn đặt chúng: Chúng chỉ vang lên mùi jazz.

270

Bạn có thể giữ một hợp âm trong một thời gian dài, khi di chuyển nó tới các phím khác – việc trượt lên hoặc xuống 1 phím tại một thời điểm làm cho âm thanh thật tuyệt. Hoặc bạn có thể chuyển giữa các hợp âm một cách tự do, bằng việc chơi chúng ở các phím khác nhau. Hãy tạo ra điệu nhạc khi bạn chơi. Nếu bạn thích, bạn có thể sử dụng Hình 14-6 để bắt đầu và hãy xem một ví dụ về điều chúng tôi đang nói về. Hãy vui với nó!

Thực hiện Lead: giai điệu Jazz (Taking the Lead: Jazz Melody)

Việc chơi lead trong jazz thì tương tự như cách tiếp cận chơi lead trong blues hoặc rock. Bạn chơi hầu hết những giai điệu note đơn – hoặc là soạn trước hoặc ngẫu hứng – và những câu licks (những đoạn nhạc ngắn có đặc tính phong cách). Bạn không cần phải làm đa dạng kỹ thuật của bạn nhiều hoặc; bạn hãy chơi các note với một miếng khảy, theo lối khảy luôn phiên (hãy xem chương 5). Điều thay đổi là cảm hứng và cách tiếp cận tới giai điệu. Vốn từ, cách phân nhịp, và âm sắc sẽ phân biệt việc chơi lead jazz với các phong cách guitar khác. Vượt xa hơn về chất lượng của những hợp âm, bạn có thể tạo ra một giai điệu hoặc làm cho việc chơi lead của bạn vang lên jazz hơn bằng cách áp dụng vài nguyên lí đơn giản. Ba kỹ thuật sau đây có thể giúp bạn vang lên như một hình tượng jazz ngay tức thì. Các thang âm(scales/gam) với các tone thay đổi luôn phiên (Scales with altered tones)

271

Một điều mà jazz làm là giới thiệu các tone (âm sắc) luôn phiên, hoặc âm sắc không nằm trong khóa (key). Trong Blues, các note được thêm vào một cách tiết kiệm; trong jazz bất kỳ âm sắc nào cũng có thể được thay đổi luôn phiên và bao hàm trong giai điệu ngẫu hứng. Chỉ cần một note luôn phiên được là cho thuận tại (đưa ra tới một sự kết thúc hợp lý thông qua một note giai điệu “trong khóa/thuộc khóa” hoặc một âm sắc hợp âm), thì bất kỳ note nhạc nào đều được đối xử công bằng. Hình 14-7 trình bày một giai điệu được chơi theo 2 cách: Đầu tiên theo cách trung thực, theo lối được soạn; và sau đó với các âm sắc luôn phiên được thêm vào. Chú ý rằng hình nhịp điệu này theo cảm hứng triplet, cũng được gọi là cảm hứng swing (swing feel). Nhiều tác phẩm nhạc jazz được chơi với swing feel. (Để biết thêm thông tin về triplet feel, hãy xem chương 11.)

Tiếp cận những note đích (Approaching target notes)

Một phần phẩm chất phóng túng và lỏng lẻo của jazz là kết quả từ cách mà bạn thỉnh thoảng dùng để tiếp cận một note giai điệu chính (hoặc đích) từ một phím ở trên hoặc bên dưới. Trong lúc làm như vậy, bạn đã thêm vào hương vị và đa dạng cho việc chơi của bạn.

272

Hình 14-8 trình bày một giai điệu được chơi theo 2 cách: 1 theo ngữ cảnh trung thực của nó, và sau đó với các note giai điệu chính được tiếp cận từ một phím bên trên hoặc bên dưới (các mũi tên chỉ ra các note chính).

Thực hiện/tạo giai điệu từ các hợp âm dạng rải (Making melodies from arpeggiated chords)

Thỉnh thoảng, để sản sinh ra một dòng mang âm thanh jazz, mọi điều bạn phải làm là chơi các âm sắc hợp âm chứa đựng trong phần nhịp điệu. Bởi vì các hợp âm jazz thường phức tạp – như hợp âm C7 9#5 – hãy chơi các âm sắc hợp âm là một hợp âm rải (1 note tại một thời điểm, kế tiếp nhau) sẽ tạo ra jazz ngay lập tức (hãy xem hình 14-9). Thông thường, mặc dầu, việc chơi jazz tốt thì kết hợp chặt chẽ một hỗn hợp lành mạnh của những hợp âm rải và việc chơi tuyến tính (stepwise: bậc thang).

273

Chơi các bản nhạc Jazz (Playing Jazz Songs) Trong các bản nhạc dưới đây, bạn sẽ tìm thấy một dãy mở rộng các kĩ thuật jazz: các hợp âm mở rộng, các hợp âm luôn phiên, các hợp âm phía trong và phía ngoài, các sự thay thế hợp âm, các âm sắc thay đổi luôn phiên, và các giai điệu được hình thành từ các âm sắc hợp âm rải. Bạn có thể chơi bài “Greensleeves” hoặc với một miếng khảy hoặc fingerstyle. Hãy chơi bài “Swing Thing” với một miếng khảy (cả các hợp âm và giai điệu). Đây là một vài gợi ý để giúp bạn hiểu và chơi các bài hát: - Greensleeves: Chúng tôi xử lý bài nhạc dân ca Anh cổ thành một bản soạn lại solo giai điệu hợp âm. Các hợp âm trung thực cho bài nhạc này là Em, D, C, B, và vân vân, nhưng ở đây, đặc biệt là một bản soạn lại giai điệu hợp âm jazz, chúng tôi đã sử dụng các sự thay thế hợp âm làm jazz hóa. Để chơi bài hát này, bạn cần biết cách chơi các dạng hợp âm jazz, cách để kết hợp giai điệu note đơn với các hợp âm (hãy xem đoạn “Chơi solo: Phong cách giai điệu hợp âm (Playing Solo: Chord-Melody Style)”), và cách để trông thật tuyệt trong khi chơi một bài dân ca thế kỉ 16th. Thực hiện một cách mượt mà việc kết hợp các note giai điệu đơn với các note giai điệu tựa trên hợp âm. Khi chơi các hợp âm, hãy chắc rằng đưa ra các note cao nhất bằng cách khảy nó mạnh hơn một chút hoặc việc luôn phiên hợp âm (rải nó) nhẹ nhàng để âm thanh của giai điệu được nổi lên. - Swing Thing: Bài hát này áp dụng một vài di chuyển jazz đặc trưng trong cả phần nhịp điệu và lead. Để swing bài nhạc này, bạn cần biết cách để chơi các dạng hợp âm phía trong (hãy xem đoạn “Các hợp âm bên trong(inside chords)” trong chương này), cách để chơi các note thứ 8th dòng đơn phía trên cần đàn (hãy xem chương 7), và cách để đấm nệm cho tới khi bạn ngừng lại (how to bop till you drop.) Tiến trình bắt đầu với một hình nhịp điệu được soạn đặc biệt ở giọng F. Phần lead theo một tiến trình II-V-I-VI (Gm7-C7-F-D7), đối với một chuỗi các sự thay đổi được viết. Hãy chú ý mẫu rải trong nửa đầu của khuôn 6, được theo sau bởi một triplet của các âm sắc được thay đổi luôn phiên. Đây là 2 ví dụ về các kĩ thuật jazz đặc trưng được thảo luận trong chương này. Hãy xem cách bạn có thể kiếm thấy nhiều hơn.

274

275

276