hai ĐỨa trẺ - thẠch lam -...
TRANSCRIPT
CHUYÊN ĐỀ:
HAI ĐỨA TRẺ - THẠCH LAM
A. TÁC GIẢ - TÁC PHẨM
1. Tác giả: Thạch Lam (1910-1942)
a. Cuộc đời:
- Ông là nhà văn trong Tự Lực Văn Đoàn.
- Đặc điểm con người: Sống trầm tĩnh và điềm đạm, rất tinh tế. Đặc điểm ấy để
lại dấu ấn rõ nét trong sáng tác của ông.
b. Quan điểm sáng tác:
- “Văn chương không phải đem đến cho người đọc sự thoát li, sự quên những
thứ đen tối trước mặt mà trái lại văn chương là một thứ vũ khí thanh cao để vừa
tố cáo vừa thay đổi thế giới giả dối và tàn ác và làm cho lòng người được trở nên
trong sạch và phong phú hơn.” Vì thế tuy là một nhà văn lãng mạn nhưng sáng
tác của ông có xu hướng nghiêng về hiện thực mà “Hai đứa trẻ” là một minh
chứng cho điều đó.
c. Đặc điểm sáng tác.
- Là nhà văn chuyên viết truyện ngắn với một lối viết riêng: truyện của ông
thường không có cốt truyện, li kì, đặc biệt. Các tình huống truyện, sự kiện chủ
yếu mang chức năng bộc lộ trạng thái tâm trạng. ( Các nhân vật thường ít nói
năng, hành động. Vì thế truyện ngắn của ông được gọi là truyện ngắn tâm tình
giàu sắc thái trữ tình và mang đậm chất thơ)
- Ông là nhà văn mở đường cho kiểu viết truyện ngắn không có cốt truyện li kì.
- Thế giới nhân vật trong truyện của ông thường là lớp trí thức nghèo khổ ở
những làng quê nghèo, phố huyện nghèo khổ.
- Không khí chung trong nhiều truyện ngắn của ông thường có nét buồn, tiêu
điều, xơ xác. Sự sống như tàn lụi, mòn mỏi.
>>> Các đặc điểm trên được thể hiện rõ trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ”.
2. Tác phẩm:
- Là truyện ngắn được in trong tập “Nắng trong vườn” xuất bản năm 1938. Đây
là tác phẩm được coi là tiêu biểu nhất trong phong cách viết truyện ngắn của
Thạch Lam.
B. ĐỌC HIỂU TÁC PHẨM
1. Phần 1: Từ đầu … tiếng cười khanh khách nhỏ dần về cuối làng: Cảnh phố
huyện lúc chiều xuống. >>> Tác giả tập trung thể hiện tâm trạng buồn man mác,
mơ hồ, khó hiểu của chị em Liên trước cảnh ngày tàn.)
2. Phần 2: “Trời đã bắt đầu đêm… tâm hồn Liên tĩnh hẳn, có những cảm giác
mơ hồ không hiểu: Cảnh phố huyện trong đêm tối". >>> Tác giả tập trung mô tả
tâm trạng buồn khắc khoải trong cảnh đời chờ mong ước một cái gì tốt đẹp, tươi
sáng hơn cho cuộc sống leo lét, tù đọng trong hiện tại.
3. Phần 3: Đoạn còn lại >>> Cảnh phố huyện nghèo lúc đoàn tàu từ Hà Nội về
và tâm trạng buồn thấm thía về cuộc sống mỏi mòn không thể đổi thay còn
những gì tốt đẹp, tươi sáng mà hai chị em Liên mong ước chỉ là kì vọng quá xa
xôi giống như một đoàn tàu từ Hà Nội về vụt qua phố huyện.
>>> Nhận xét chung: Bố cục 3 phần của câu truyện đều tập trung lí giải lí do
thức đợi được nhìn chuyến tàu từ Hà Nội về.
I. Nội dung tác phẩm:
1. Tác phẩm tập trung thể hiện cuộc sống lụi tàn leo lét của những kiếp
người sống nghèo đói không ánh sáng, không hạnh phúc, không tương lai.
Mở đầu là cảnh ngày tàn:
- Ánh mặt trời trong buổi chiều ấy được tác giả ví như hòn than sắp tàn.
- Đồng điệu với ngày tàn là chợ tàn: mọi người về hết, tiếng ồn ào cũng mất,
trên mặt đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía… Các sự vật
cũng tàn tạ: cái chõng cũng sắp tàn.
- Cuối cùng hiện lên giữa cái không gian và thời gian tàn tạ ấy là những mảnh
đời, những kiếp người cũng tàn tạ:
+ Những đứa trẻ đi nhặt rác, tiếp đó là hình ảnh bà cụ Thi điên xuất hiện – người
điên thì cuộc đời cũng gần như tàn tạ, vô nghĩa.
+ Gánh hàng nước của hai mẹ con chị Tí với một gia tài còm cõi – tất cả chỉ trên
vai người mẹ và bàn tay đứa trẻ. Hai mẹ con chị ngày thì đi bắt cua, bắt ốc, đêm
đến dọn hàng nước nhưng cũng như mọi hôm, hai mẹ con chị cũng không hi
vọng vì chi thốt lên: “Ôi chao, sớm với muộn mà có ăn thua gì.”
+ Gánh phở của bác Siêu xuất hiện bằng hình ảnh có vẻ như tươi sáng, đáng giá
nhất nhưng lại ế ẩm vì quá xa xỉ, nhiều tiền, không phải ai cũng mua được.
+ Gia đình bác xẩm với tiếng đàn ế ẩm không có người nghe.
+ Nổi bật lên giữa những mảnh đời ấy là hình ảnh hai chị em Liên. Mặc dù họ
có một gian hàng để bán nhưng gia tài chẳng đáng bao nhiêu. Với gia tài như
thế, họ cũng không hi vọng có một cuộc sống khá giả hơn.
>>> NX chung: Có thể nói mỗi con người xuất hiện trong câu truyện đều có một
cảnh ngộ riêng nhưng đều mang một đặc điểm chung là tất cả đều sống trong
mòn mỏi, buồn chán, bế tắc, không một chút hi vọng gì về cuộc sống hạnh phúc,
tươi sáng hơn nhưng điều quan trọng nhất là tất cả những mảnh đời ấy, cảnh ngộ
ấy đã hiện lên qua cái nhìn bùi ngùi, thương cảm của nhà văn. Tất cả được thể
hiện rất rõ qua cách hành văn, qua những chi tiết tưởng như ngẫu nhiên: mùi vị
của đất, cảnh chợ tàn, hai đứa trẻ nghĩ đến bát phở…đặc biệt là chi tiết ánh đèn
leo lét nơi ngọn đèn hàng nước của chị Tí cứ láy đi láy lại (xuất hiện 7 lần trong
tác phẩm) tạo ra ở người đọc nỗi thương cảm trong khi đó hiện tại là một màn
đêm dày đặc đầy bóng tối. Kết thúc tác phẩm, hình ảnh ngọn đèn ấy gây một ấn
tượng day dứt cuối cùng đi vào giấc ngủ của chị em Liên: “Liên thấy mình sống
giữa bao sự xa xôi không biết như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một
vùng đất nhỏ”.
2. Nhịp sống ở phố huyện nghèo trong câu truyện cứ lặp đi lặp lại một cách
quẩn quanh đơn điệu, tẻ nhạt và tù túng:
- Chị em Liên chiều nào cũng ngồi đếm tiền dù họ chẳng bán được bao nhiêu,
ngày nào cũng ngồi trên chiếc chõng sắp tàn và đêm nào cũng kiên nhẫn thức
chờ đợi để được nhìn tàu từ Hà Nội về.
- Mẹ con chị Tí dù chẳng kiếm được bao nhiêu nhưng chiều nào cũng dọn hàng
- Gia đình bác xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau sắt để trước mặt, nhưng bác
chưa hát vì chưa có khách nghe thì thỉnh thoảng góp chuyện bằng tiếng đàn bầu
bật trong yên lặng.
+ Cảnh sống của họ thật bấp bênh, bế tắc. Chừng ấy người trong bóng tối ngày
này qua ngày khác cứ sống trong sự quẩn quanh, tẻ nhạt ấy. Đó là lối sống mà
Xuân Diệu từng viết: “Hết cơm mai rồi lại cơm chiều”.
+ Đó là cuộc sống của những con người trong ao đời bế tắc, tù túng nhưng cũng
chính đó lại là lí do thức đợi tàu của bằng ấy mảnh đời nơi phố huyện nghèo bởi
chuyến tàu đêm từ Hà Nội về như đem đến cho họ một thế giới khác hẳn. Đó là
hình ảnh của một cuộc sống có ánh sáng, hạnh phúc hơn mà bằng ấy con người
trong đêm tối mong ước, hi vọng và hướng tới. Qua đó ta thấy được cái nhìn đầy
cảm thông, trân trọng với những khát vọng, ước mơ đổi đời của những mảnh đời
nghèo khổ, lam lũ trong phố huyện nghèo mặc dù hi vọng đó chỉ mong manh
mơ hồ như chuyến tàu vụt qua. Nó quá xa vời, vô vọng như ánh sao trên trời
không thể vươn tới.
3. Tâm trạng nỗ lực, kiên trì thức đợi tàu của chị em Liên.
a. Lí do thức đợi tàu:
- Để được nhìn chuyến tàu đêm đi qua phố huyện vì đó là hình ảnh của tuổi thơ
hạnh phúc trong quá khứ đã mất. Nay được nhìn đoàn tàu, hai chị em Liên tưởng
như đang được sống lại trong giây lát tuổi thơ hạnh phúc đã mất.
- Vì đó là hình ảnh của một thế giới khác hẳn cuộc sống tăm tối nơi phố huyện.
Đó là hình ảnh của tương lai cuộc sống có ánh sáng, hạnh phúc mà hai đứa trẻ
hằng mong ước, chờ đợi. Bởi thế mà khi đoàn tàu đi rồi “Liên vẫn lặng theo mơ
tưởng”.
- Được nhìn thấy chuyến tàu đêm vì đó là nhịp sống sôi động cuối cùng của một
ngày.
- Không chỉ vậy, hai chị em còn thức đợi tàu để có thể bán thêm một ít hàng cho
hành khách theo như lời của mẹ.
b. Ý nghĩa của tâm trạng thức đợi tàu:
- Chuyến tàu đêm là biểu tượng cho sự sống có ánh sáng, có hạnh phúc, nó hoàn
toàn đối lập với cuộc sống mỏi mòn, quẩn quanh, bế tắc của người dân phố
huyện.
–> Nhà văn lên tiếng đòi thay đổi cuộc sống, đem lại cho những đứa trẻ cuộc
sống xứng đáng hơn, có hạnh phúc, có tương lai.Qua tâm trạng thức đợi tàu,
Thạch Lam đã thể hiện thái độ trân trọng, thương cảm đối với những kiếp người
nhỏ bé sống trong nghèo nàn, tăm tối. Qua tâm trạng đó, nhà văn như muốn lay
tỉnh những con người đang sống trong buồn chán, quẩn quanh, bế tắc: “Hãy nỗ
lực vươn lên một cuộc sống có ánh sáng, hạnh phúc”. Nhà văn hi vọng họ không
chấp nhận, không cam chịu đựng sống trong ao đời tù túng, mòn mỏi nơi phố
huyện mà hãy chờ đợi, hi vọng hướng tới một cuộc sống hạnh phúc, tươi sáng
hơn. Đó cũng là niềm tin của nhà văn: cho dù họ sống trong tù túng, mòn mỏi
vẫn không mất đi khát vọng hướng tới cuộc sống hạnh phúc.Mặt khác qua tâm
trạng đó, nhà văn Thạch Lam lên tiếng tố cáo, lên án xã hội đã vùi dập, đẩy con
người vào cuộc sống tăm tối, nhất là trẻ thơ. Cuộc sống nơi phố huyện có khác
nào mảnh đất cằn cỗi, bạc phếch mà hai chị em Liên như hai mầm non mọc trên
đó sẽ ra sao? Nó sẽ tàn héo, lụi tàn.
4. Qua “Hai đứa trẻ” nhà văn còn thể hiện tấm lòng thiết tha gắn bó với
quê hương, đất nước, thiên nhiên.
- Qua câu truyện, tác giả đã dựng lên cái gần gũi, thân thiết, rất gần gũi, thân
thiết, gợi cảm.
- Các nhân vật trong câu truyện dù sống trong cuộc sống tù đọng, leo lét, mòn
mỏi vẫn thiết tha với cuộc sống nơi phố huyện: “Một mùi ẩm thấp bốc lên, hơi
nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng
là mùi riêng của đất, của quê hương này”.
- Dù sống trong nghèo khổ, lam lũ, hai đứa trẻ vẫn thiết tha ngắm sao và tìm
sông Ngân Hà và con vịt theo sau ông thần Nông, ngắm những đợt hoa bàng khẽ
rơi khe khẽ, vệt sáng của những con đom đóm bay là là trên mặt đất hay len vào
những cành cây.
>>> Đó là những hình ảnh của quê hương, đất nước rất thân thuộc quanh ta
nhưng qua cách hành văn nhẹ nhàng, dịu dàng đầy chất thơ đã trở nên gợi cảm
biết bao. Từ đó nhà văn bồi đắp cho người đọc tình yêu quê hương đất nước.
C. ĐỀ VĂN ÔN TẬP
ĐỀ 1: Phân tích hình ảnh thiên nhiên và con người nơi phố huyện nghèo lúc
chiều tối trong tác phẩm “Hai đứa trẻ” của nhà văn Thạch Lam.
A. LẬP DÀN Ý:
1. Mở bài: Giới thiệu khái quát về Thạch Lam và tác phẩm “Hai đứa trẻ” cùng
yêu cầu của đề.
Thạch Lam là nhà văn lãng mạn tiêu biểu của Tự Lực Văn Đoàn với lối viết
mang phong cách riêng độc đáo. Ông rất nổi tiếng với những truyện ngắn vừa
mang đậm chất trữ tình vừa thể hiện một cảm quan hiện thực sâu sắc. Tuy thời
gian cầm bút chỉ 6 năm ngắn ngủi với số lượng tác phẩm không nhiều nhưng
cho đến nay có lẽ ông là nhà văn duy nhất của Tự Lực Văn Đoàn vượt qua được
thử thách của thời gian mà “Hai đứa trẻ” là một trong số đó. Ở đó, nhà văn
không tạo ra một cốt truyện đặc biệt đầy những tình huống éo le mà chỉ dựng lên
một bức tranh đời sống đầy ấn tượng qua hình ảnh thiên nhiên và con người nơi
phố huyện nghèo lúc chiều tối.
2. Thân bài:
Phân tích hình ảnh thiên nhiên
a. Những biểu hiện của cảnh vật thiên nhiên: (hình ảnh thiên nhiên)
+ Màu sắc.
+ Âm thanh.
+ Mùi vị.
>>> Tất cả được thể hiện một cách tinh tế, chân thật –> Gợi hồn quê.
Bức tranh đời sống ở phố huyện nghèo lúc chiều tối được bắt đầu bằng âm
thanh của một “tiếng trống thu không” vang vọng như đang gọi “Chiều, chiều
rồi”. Đó không phải là giọng của Thạch Lam mà là giọng của Liên, một tiếng
kêu ngậm ngùi trước cảnh ngày tàn. Lại một buổi chiều nữa Liên phải chứng
kiến cảnh vật thiên nhiên trong ánh mặt trời đang lụi tàn “đỏ rực” như lửa đang
cháy khiến cho những đám mây ánh hồng lên như “hòn than sắp tàn”. Tiếp đến
là những luỹ tre làng đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời. Đó là một buổi chiều
“êm ả như ru” trong những âm thanh “văng vẳng râm ran của tiếng ếch nhái
ngoài đồng ruộng” được “ngọn gió nhẹ hoang vu” mang theo vào phố huyện.
Hòa vào đó là tiếng muỗi kêu vo ve thật gợi buồn.
Cảnh vật thiên nhiên trên phố huyện lúc chiều xuống càng trở nên ám ảnh
khi “mùi âm ẩm bốc lên hoà vào hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi”.
Với hai chị em Liên, đó là “mùi riêng của đất”, của quê hương bình dị, quen
thuộc. Đêm xuống, âm thanh như thưa thớt và mờ nhạt hơn đến mức Liên chỉ
còn nghe hoa bàng rụng xuống trên vai mình khe khẽ, thỉnh thoảng từng loạt
một. Phố huyện nghèo giờ đây chìm ngập trong bóng tối dày đặc, mênh mông
“Tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ
vào làng lại càng xẫm đen hơn nữa”. Bóng tối càng mênh mông dày đặc hơn khi
tác giả điểm vào đó những điểm sáng “le lói, lập loè, yếu ớt” của đàn đom đóm,
một “quầng sáng lờ mờ” của ngọn đèn hàng nước chị Tí, những “hột sáng” nhỏ
nhoi lọt qua phên nứa nơi gian hàng của chị em Liên.
b. Nghệ thuật mô tả của tác giả:
- Tác giả không trực tiếp mô tả qua cảm nhận của mình mà qua cảm nhận và
quan sát của Liên.
- Được thể hiện bằng những motip của ánh sáng, bóng tối.
- Cảnh vật có một sự kết hợp hài hoà giữa màu sắc, âm thanh và mùi vị.
- Lối hành văn giàu chất nhạc, gần với thơ ca.
Cảnh vật thiên nhiên lúc chiều tối trên phố huyện thật gợi buồn vì được cảm
nhận và mô tả qua ánh mắt của nhân vật Liên, một cô bé mới lớn lên đã có
những ngày tháng sống ở Hà Nội đầy ánh sáng và hạnh phúc. Tất cả như được
bắt đầu từ tiếng kêu ngậm ngùi, thoảng thốt của cô bé Liên: “Chiều, chiều rồi”.
Dưới ngòi bút tinh tế của nhà văn, cảnh vật thiên nhiên trên phố huyện hiện ra
trong sự hoà hợp thật khéo léo của hình ảnh, màu sắc, âm thanh và mùi vị. Đặc
biệt là hình ảnh bóng tối và ánh sáng cứ trở đi trở lại như một motip nghệ thuật
rất giàu sức gợi cảm. Góp phần làm nên nét riêng cho đặc sắc nghệ thuật mô tả
thiên nhiên của Thạch Lam còn là lối hành văn giàu nhạc điệu, rất uyển chuyển,
tinh tế cứ nhẹ nhàng cuốn hút người đọc vào thế giới thiên nhiên của phố huyện
nghèo lúc chiều tối. Nó không những cho người đọc nhìn thấy mà quan trọng
hơn là còn khơi gợi ở họ những tình cảm, xúc cảm đối với cảnh vật bởi dưới
ngòi bút của Thạch Lam mọi cảnh vật đều trở nên thật gợi cảm biết bao.
c. Vai trò của bức tranh thiên nhiên:
- Làm nền để trên đó khắc hoạ những mảnh đời nghèo khổ, lam lũ, bế tắc, quẩn
quanh và không ánh sáng.
- Tạo ra cho tác phẩm nét trữ tình riêng biệt trong lối hành văn của nhà văn
Thạch Lam và cũng tạo ra cho câu truyện một bối cảnh không gian mang đặc
trưng của phố huyện nghèo rất chân thật.
- Gián tiếp thể hiện tâm trạng nhân vật.
Trên cái nền của bức tranh thiên nhiên ấy lần lượt hiện ra những mảnh đời thật
tội nghiệp. Đó là hình ảnh của những kiếp người lam lũ, tàn tạ, sống mòn mỏi,
héo hắt trong mong đợi mơ hồ, xa xôi. Tất cả như đồng điệu với sự tàn tạ của
cảnh vật thiên nhiên lúc chiều tối.
Phân tích hình ảnh con người
a. Những biểu hiện của con người trong tác phẩm:
-Trong cảnh chiều tàn: những đứa trẻ nhặt rác, mẹ con chị Tí, bác Siêu, gia đình
bác xẩm, bà cụ Thi điên, chị em Liên.
b. Đặc điểm chung của các mảnh đời:
- Nhếc nhác, lam lũ, mỏi mòn, héo hắt.
>>> Tất cả đều buồn bã, ít hi vọng vào lối sống có tính cầu may nhưng họ đều
mong đời có một cái gì tươi sáng hơn cho cuộc sống hiện tại nhưng thật mỏng
manh, mơ hồ vì đó chỉ là một chuyến tàu.
Giữa cảnh ngày tàn, chợ tàn hiện ra mấy đứa trẻ nghèo lom khom đi nhặt nhạnh
những thanh nứa, thanh tre giữa những “rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá
mía”. Nhìn cảnh ấy, Liên “động lòng thương” nhưng không có tiền để cho
chúng nó. Khi trời nhá nhem tối, khung cảnh phố huyện xuất hiên thêm mẹ con
chị Tí với gánh hàng nước thật nghèo nàn mà “tuy chẳng kiếm được bao nhiêu
nhưng chiều nào chị cũng dọn hàng từ chiều đến đêm”. Tiếp đến là hình ảnh bà
cụ Thi điên “lảo đảo đi lẫn vào bóng tối” với “tiếng cười khanh khách nhỏ dần
về phía cuối làng”. Đêm xuống, phố huyện có thêm gánh phở của bác Siêu với
chấm lửa nhỏ lơ lửng đi trong đêm mất đi rồi lại hiện ra trong những chập chờn,
có lẽ đây là hình ảnh có phần sáng sủa nhất của những kiếp người nơi đây nhưng
cũng rất ế ẩm.
Khép lại những mảnh đời bé mọn, tội nghiệp là gia đình bác xẩm “ngồi trên
manh chiếu rách, bác chưa hát vì không có người nghe”. Nổi bật lên thật ấn
tượng và ám ảnh nhất giữa những mảnh đời ấy là chị em Liên. Cha của hai em
mất việc phải rời Hà Nội về quê kiếm sống nên hai em phải giúp mẹ bán hàng
và trông coi gian hàng tạp hoá nhỏ xíu nghèo nàn. Nhớ lại cuộc sống phong lưu
giữa “một vùng sáng rực” của Hà Nội khiến hai em càng buồn hơn cho hiện tại.
Giờ đây mùi phở bác Siêu trong đêm thật hấp dẫn nhưng quá xa xỉ, nhiều tiền
mà hai em không thể nào mơ tưởng.
c. Nghệ thuật:
- Tạo ra được sự tương đồng giữa cảnh vật và con người.
- Dựng lên những mẩu đối thoại vẩn vơ có vẻ ngẫu nhiên nhưng đều gợi tâm
trạng buồn chán, thất vọng.
- Các nhân vật được xây dựng trong sự đối lập: giữa cái dày đặc mênh mông của
bóng tối với những luồng sáng, giữa quá khứ hạnh phúc và thực tại phũ
phàng,… rất gợi trạng thái tâm trạng của con người.
Hai đứa trẻ đã để lại trong lòng người đọc một ấn tượng khó quên là tâm hồn rất
nhạy cảm, giàu yêu thương, dễ chạnh buồn của cô bé Liên và cảnh ngộ những
người nghèo khổ nơi phố huyện. Có thể nói bằng ấy những mảnh đời nơi phố
huyện đều sống trong cảnh nhếc nhác, quẩn quanh cùng một tâm trạng buồn bã
ít hi vọng vào lối sống bấp bênh có tính cầu may của mình. Đó là một cuộc sống
mòn mỏi lay lắt rất tương đồng với sự tàn tạ của cảnh vật thiên nhiên lúc chiều
tối của phố huyện. Tất cả những mảnh đời ấy đều được nhà văn mô tả bằng nét
bút chân thực nhưng khác với các nhà văn hiện thực Thạch Lam không đi vào
mô tả cụ thể chi tiết mà chỉ được vẽ bằng nét chấm phá thoáng nhẹ nhưng rất
tinh tế, giàu sức gợi tả và gợi cảm. Tất cả các nhân vật cứ hiện ra từ từ trong
lặng lẽ, âm thầm như những cái bóng, ít nói năng, ít hành động nhưng nhờ đó
mà nhà văn đã tô đậm, khắc sâu hơn ở người đọc ấn tượng về kiếp sống héo hắt,
leo lét, tội nghiệp của cư dân phố huyện. Bên cạnh đó, nhà văn cũng rất thành
công trong việc diễn đạt các trạng thái tâm trạng vừa mong manh, mơ hồ buồn
vừa khắc khoải da diết của cô bé Liên lúc chiều tối.
Ý nghĩa tư tưởng toát lên từ cảnh vật và con người
- Sự đồng cảm, thái độ trân trọng, nâng niu trước niềm tin và hi vọng dù có mơ
hồ về tương lai tươi sáng hơn.
- Qua cảnh vật, thiên nhiên và con người, nhà văn gửi vào đó niềm ước mong
một sự đổi thay sẽ đến với những mảnh đời tội nghiệp nơi phố huyện.
Từ bức tranh thiên nhiên và những mảnh đời tội nghiệp của phố huyện lúc chiều
tối ta bỗng nhận ra có một nhà văn đang lặng lẽ, âm thầm rảo bước giữa chiều
hôm mà tâm hồn nặng tình gắn bó với mọi cảnh vật và con người bình dị, lam lũ
nơi đây. Ở đó, người đọc không ai không xúc động khi tấm lòng bùi ngùi thương
cảm kín đào, nhẹ nhàng mà chân thành, thấm thía của nhà văn đối với những
kiếp người sống quẩn quanh,leo lét trong xã hội cũ trước cách mạng. Ở đó, ta
còn thấy thái độ rất mực trân trọng và sự đồng cảm sâu xa của nhà văn đối với
những mong ước tuy mơ hồ, mong manh và xa vời trong tâm hồn họ vì đó chỉ là
một chuyến tàu đêm từ Hà Nội về vụt đi qua phố huyện. Quả thật, tâm hồn nhà
văn đã được thể hiện qua những lời văn nhiều hình nhiều vẻ nhưng bao giờ cũng
đằm thắm và nhân hậu, cũng ngẹn ngào một chút lệ thầm kín của tình thương.
Bên cạnh đó, nhà văn còn đưa đến cho người đọc những cảnh quê hương thật
quen thuộc mà không kém phần thơ mộng, gợi cảm. Từ đó cứ gợi nhắc mọi
người về tình cảm đối với nguồn cội quê hương, với những mẩu kí ức đẹp mà
buồn. Có lẽ tình yêu quê hương đất nước của mỗi con người Việt Nam có phần
được bồi đắp bởi những kí ức hết sức bình dị như vậy đó.
3. Kết bài: Đánh giá và cảm nghĩ.
Bức tranh thiên nhiên và đời sống con người ở phố huyện lúc chiều tối không có
nhiều sự kiện, nhân vật, ít hành động, ít nói năng. Nhưng với lối viết giàu hình
ảnh, giàu nhạc điệu, ngôn ngữ trong sáng Thạch Lam đã gợi được tinh tế những
không khí của câu truyện, những cảnh sinh hoạt, những xúc cảm trong tâm hồn
con người khiến cho bức tranh đời sống của phố huyện đầy ắp suy tư rung cảm.
Từ bức tranh ấy cũng tủa ra một mảng sáng lung linh ấm áp trong tâm hồn người
lao động nghèo và tấm lòng đầy nhân ái của Thạch Lam.
ĐỀ 2: Phân tích tâm trạng đợi tàu của chị em Liên trong truyện ngắn “Hai
đứa trẻ” của nhà văn Thạch Lam.
1. Mở bài: Giới thiệu khái quát về Thạch Lam, tác phẩm “Hai đứa trẻ” dẫn dắt
vào yêu cầu của đề.
Thạch Lam là một nhà văn lãng mạn tiêu biểu của nhóm Tự Lực Văn Đoàn.
Sáng tác của ông thiên về phản ánh hiện thực đời sống của tầng lớp người nghèo
ở các phố huyện nhỏ và làng quê nghèo. Đọc những truyện ngắn “Gió lạnh đầu
mùa”, “Dưới bóng hoàng lan”… nhất là truyện ngắn “Hai đứa trẻ” ta dễ dàng
nhận ra một lối viết thật tinh tế cùng tấm lòng rất mực nhạy cảm và nhân hậu. Ở
đó, ông chủ yếu đi sâu thể hiện những xúc cảm mong manh mơ hồ trong thế giới
nội tâm nhân vật vì thế truyện ngắn của ông còn được ví như “một bài thơ trữ
tình đượm buồn”.
Một truyện ngắn hay theo quan niệm truyền thống phải có cốt truyện đặc biệt
được tạo ra bởi những tình huống éo le đầy kịch tính. Không đi theo lối mòn đó,
truyện “Hai đứa trẻ” in trong tập “Nắng trong vườn” của Thạch Lam chỉ là một
chuyện tâm tình nhỏ nhẹ nhưng không vì thế mà ta có thể dễ dàng quên được
tâm trạng thức đợi tàu của chị em Liên. Ngày lại ngày khi đêm về khuya, chuyến
tàu từ Hà Nội về đi qua phố huyện vậy mà hai chị em Liên vẫn khắc khoải thao
thức và nhẫn lại, hồi hộp chờ đợi được nhìn nó với bao vui buồn và hi vọng.
2. Thân bài:
- Nêu hoàn cảnh và lí do thức đợi tàu của hai chị em Liên.
Câu truyện được bắt đầu với những xao động trong tâm hồn hai đứa trẻ khi nghe
tiếng trống thu không gọi chiều về trên phố huyện. Tiếp đó, màn đêm buông
xuống, bóng tối “ngập đầy dần đôi mắt Liên”. Đêm tối như ôm trùm lên tất cả
phố huyện và càng dày đặc mênh mông hơn khi nhà văn điểm vào đó những
“hột sáng”, “quầng sáng” leo lét, lờ mờ và một chấm lửa nhỏ lơ lửng trôi đi
trong đêm… Nổi bật lên giữa thế giới đầy bóng tối và sự tàn tạ của cảnh vật:
chiều tàn, chợ tàn, chõng tàn… là cảnh sống lam lũ quẩn quanh của những đứa
trẻ nhặt rác, mẹ con chị Tí với gánh hàng nước ế ẩm, gia đình bác xẩm, bà cụ
Thi điên và hai chị em Liên và An với gian hàng tạp hoá còm cõi, lèo tèo, xơ
xác. Cuộc sống của hai chị em thật lay lắt, tẻ nhạt, ngày cũng như đêm cứ lặp đi
lặp lại thật đơn điệu và buồn chán. Hai em như hai cái mầm non mọc trên mảnh
đất cằn cỗi, bạc phếch.
Nhưng con người tự muôn đời nay luôn luôn sống trong khao khát và hi vọng
những gì tươi sáng hơn dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Sống giữa phố huyện
nghèo đầy bóng tối nhưng chị em Liên cũng như chừng ấy người nơi phố huyện
vẫn luôn “mong đợi một cái gì tươi sáng hơn cho sự sống nghèo khổ hàng ngày
của họ”. Đó chính là lí do khiến chị em Liên đêm đêm vẫn cố thức để được nhìn
chuyến tàu đi qua bởi chuyến tàu chỉ vụt qua nhưng đã mang đến cho họ một thế
giới khác hẳn vừng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa trong gian hàng bác
Siêu chứ không đơn thuần là vâng lời mẹ dặn để có thể bán thêm một ít hàng bởi
“họ chỉ mua bao diêm hay gói thuốc là cùng”. Bởi lẽ đó mà Liên “dù buồn ngủ
díu cả mắt vẫn cố thức, còn An “đã nằm xuống, mi mắt sắp sửa rơi xuống vẫn
không quên dặn chị “Tàu đến chị đánh thức em dậy nhé”.
- Diễn biến tâm trạng của chị em Liên.
Có lẽ bởi vậy mà chuyến tàu được nhà văn tập trung bút lực miêu tả một cách tỉ
mỉ theo trình tự thời gian, qua tâm trạng của hai chị em Liên và An. Khi đêm đã
về khuya, Liên vẫn thao thức không ngủ cho tới lúc “tiếng còi xe lửa ở đâu vang
lại, trong đêm khuya kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi”. Liên đã reo lên “Dậy đi,
An. Tàu đến rồi”. Chuyến tàu chỉ dừng lại trong giây lát rồi đi vào đêm tối mênh
mông giống như một ánh sao băng lấp lánh bất chợt bay qua nền trời rồi vụt tắt,
mang theo bao ước mơ và hoài bão đi tới nơi nào chẳng rõ vậy nên hai chị em
Liên “vẫn nhìn theo cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa
xa mãi rồi khuất hẳn sau rặng tre”. Chuyến tàu đêm nay không đông và kém
sáng hơn mọi ngày nhưng Liên vẫn “lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà
Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã đem một thế giới khác đi qua.
Một thế giới khác hẳn, đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng của ngọn đèn của
chị Tí và ánh lửa của bác Siêu”. Đó là hình ảnh của Hà Nội trong kí ức tuổi thơ,
Hà Nội của những kỉ niệm đẹp mà bấy lâu nay chị em Liên vẫn tha thiết hướng
về dù chỉ trong giây lát “theo dòng mơ tưởng”. Phải chăng những kỉ niệm tươi
sáng thường in đậm và khắc sâu trong tâm hồn tuổi thơ giống như một chiếc gối
êm đềm ru ta vào giấc ngủ dịu êm dù thực tại có phũ phàng hay ảm đạm. Xa Hà
Nội đã lâu rồi nhưng chị em Liên vẫn “nhớ như in” những lần “đi chơi bờ hồ
được uống những cốc nước lạnh xanh đỏ, ăn những thức ăn ngon lạ”. Họ nhớ
như in “một vùng sáng rực và lấp lánh” dù hiện tại với hai em mùi phở của bác
Siêu thật hấp dẫn nhưng “quá xa xỉ, nhiều tiền, hai chị em không bao giờ mua
được”. Tuy vậy, nó cứ gợi nhớ mùi thơm của hồi nào… Hình ảnh chuyến tàu
đêm là kí ức đẹp của tuổi thơ một thời nhớ lại trong tiếc nuối. Chuyến tàu càng
sáng rực, vui vẻ thì Liên càng ý thức rõ hơn cảnh sống tăm tối, buồn tẻ và chìm
lặng của phố huyện nghèo. Đoàn tàu đi rồi, đêm tối vẫn “bao bọc chung quanh”.
Liên gối đầu lên tay và nhắm mắt lại để “hình ảnh thế giới xung quanh mình mờ
mờ đi trong mắt chị”. Đó là lúc thấm thía sâu sắc nỗi buồn về một cuộc sống
mòn mỏi, quẩn quanh không thể đổi thay, Liên “thấy mình sống giữa bao nhiêu
sự xa xôi không biết như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất
nhỏ”. Đó là hình ảnh gây ấn tượng day dứt buồn cuối cùng đi vào giấc ngủ của
cô bé Liên. Nhưng đâu chỉ buồn và tiếc nuối, hai chị em Liên còn hồi hộp vui
sướng khi tàu về như “mong đợi một cái gì tươi sáng hơn đến với cuộc sống
nghèo khổ thường ngày của họ”. Cuộc sống hiện tại xung quanh Liên thật buồn
tẻ, chuyến tàu từ Hà Nội về như đã đem lại một chút thế giới khác đi qua phố
huyện nghèo. Bởi vậy, khi tàu về rồi “khuất dần sau rặng tre” mà Liên vẫn cứ
“lặng theo mơ tưởng”. Dường như Liên đang ấp ủ trong lòng một khát khao thay
đổi cuộc sống của hiện tại vẫn le lói một niềm hi vọng rồi một ngày nào đó được
trở lại cuộc sống tươi sáng của ngày xưa như khi còn ở Hà Nội. Trong ý nghĩ
hồn nhiên, non nớt và tội nghiệp của Liên, Hà Nội là một thiên đường ở trong
mơ. Nhìn theo đoàn tàu đang xa dần, xa dần trong lòng Liên cứ rộn lên những
bồi hồi, xao xuyến, ánh mắt của Liên cứ đắm chìm vào cõi mơ tưởng. Liên nghĩ
về quá khứ, nghĩ về tương lai và hiện tại. Quá khứ tuổi thơ tươi sáng qua lâu rồi,
tương lai thì mờ mịt mong manh còn hiện tại thì đầy bóng tối. Những trạng thái
tâm trạng ấy thật mơ hồ, mong manh mà chỉ có một tâm hồn nhạy cảm cùng với
một tấm lòng nhân hậu của Thạch Lam mới có thể phát hiện và thể hiện được.
Với chị em Liên, chuyến tàu từ Hà Nội về không chỉ là kí ức mà còn là hình ảnh
của một tương lai tuy mơ hồ nhưng đẹp như một giấc mơ trong truyện cổ tích
thần kì. Nó như một ảo ảnh vụt sáng lên rồi tắt dần, xa dần trong tâm trạng tiếc
nuối của cô bé Liên. Nhưng dẫu sao nó vẫn là niềm vui, một niềm an ủi làm vơi
đi mọi tẻ nhạt, buồn chán của hiện tại để hai chị em Liên đi vào giấc ngủ sau
một ngày dài đầy buồn tẻ.
- Ý nghĩa tư tưởng toát lên từ đó nói về nghệ thuật biểu hiện tâm trạng.
Không một chi tiết éo le, truyện hai đứa trẻ chỉ xoay quanh tâm trạng hồi hộp,
khắc khoải đợi tàu trong đêm của chị em Liên. Bắt đầu từ tiếng trống thu không,
thời gian cứ trôi qua theo sự xuất hiện từng mảnh đời tàn tạ của phố huyện
nghèo, người đọc bỗng nhận ra trong tiếng reo “Dậy đi, An. Tàu đến rồi” là tình
cảm bùi ngùi thương cảm của nhà văn dành cho những con người nhỏ bé, tội
nghiệp như bị chôn vùi trong cuộc sống leo lét vô nghĩa trong xã hội cũ trước
cách mạng. Còn gì thương cảm hơn khi niềm vui, niềm an ủi và ước mơ, hi vọng
của họ chỉ là một chuyến tàu đêm từ Hà Nội về vụt qua trong giây lát. Trang
sách cuối cùng khép lại mà tâm trạng thức đợi tàu của chị em Liên cứ ám ảnh,
cứ vấn vương ta hoài cứ như thầm thì nói hộ Thạch Lam: có những cuộc đời
mới đáng thương và tội nghiệp làm sao nhưng cũng thật cảm động và đáng trân
trọng biết bao khi họ vẫn vượt lên mọi tối tăm, lầm than trong hiện thực để ước
mơ và hi vọng, để không mất đi niềm tin vào cuộc sống có chút ánh sáng trong
tương lai. Ngày lại ngày, đêm lại đêm, Liên vẫn cố thức đợi tàu là những nỗ lực
vừa cụ thể vừa mơ hồ muốn thoát ra khỏi hiện tại. Niềm tin và ước vọng ấy tuy
mong manh nhưng tha thiết vô cùng trong tâm hồn hai đứa trẻ. Qua đó, ta nhận
ra một tiếng kêu thổn thức trong trái tim của Thạch Lam. Cần phải thay đổi thế
giới tăm tối này, cần phải đem đến cho con người nhất là trẻ thơ một cuộc sống
hạnh phúc. Phải chăng hình ảnh hai chị em Liên cũng là hình ảnh của hai chị em
cậu bé Vinh (tên hồi nhỏ của nhà văn Thạch Lam) ngày nào trên một phố huyện
nghèo nay đã lùi sâu vào dĩ vãng của ông.
- Ý nghĩa - Nghệ thuật.
Là một truyện ngắn không có cốt truyện, đặc biệt nhà văn chỉ đi sâu vào thế giới
nội tâm của hai đứa trẻ, đó là những biến thái mơ hồ, mong manh trong tâm
trạng hai đứa trẻ nhưng đã được cảm nhận và thể hiện thật tinh tế trong lối viết
văn mềm mại, trong sáng, giàu hình ảnh và nhạc điệu. Chỉ một âm thanh “tiếng
còi xe lửa ở đâu vang lại trong đêm kéo dài ra theo ngọn gió xa xôi” cũng đủ để
ta hình dung ra cô bé Liên đang sống trong mơ tưởng. Đó là âm thanh của chờ
đợi và hi vọng nhưng cũng là dư âm của tiếc nuối. Đặc biệt là hình ảnh chuyến
tàu đêm đi qua phố huyện vừa như là niềm tiếc nuối một quá khứ tươi sáng đã
mất vừa là niềm an ủi vỗ về đối với hiện tại nhưng nó lại vừa gióng lên một cái
gì tươi sáng ở tương lai. Vì thế chuyến tàu đêm được coi là một “nhãn tự” của
bài thơ trữ tình đượm buồn này.
3. Kết luận: đánh giá và cảm nghĩ.
Đọc truyện ngắn “Hai đứa trẻ” ta có cảm giác như được đọc một “bài thơ trữ
tình đượm buồn” bởi qua tâm trạng đợi tàu của hai chị em Liên ta rất dễ nhận ra
một tiếng nói trữ tình thầm kín, nhẹ nhàng nhưng thấm thía vô cùng trong lòng
người đọc.
ĐỀ 3: CHẤT THƠ TRONG TRUYỆN NGẮN "HAI ĐỨA TRẺ"
1. Mở bài:
- Đọc truyện ngắn Thạch Lam, dễ thấy cốt truyện của ông không có gì đặc biệt,
thậm chí đôi khi đơn giản đến như không có. Nhân vật của ông cũng không
thuộc vào những lớp người có sức ảnh hưởng lớn trong xã hội. Vậy mà tác phẩm
vẫn có được một sức truyền cảm lớn để có thể neo đậu lâu bền trong lòng người
đọc, tạo nên một sức cuốn hút nhẹ nhàng mà da diết cho người đọc mỗi lần đọc
lại, sống lại cùng với nó. Một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sức truyền
cảm, sự hấp dẫn, cuốn hút ấy chính là chất thơ lắng đọng lan toả từ những trang
văn.
- Truyện ngắn "Hai đứa trẻ" ("Nắng trong vườn" - 1938) là một truyện ngắn giàu
chất thơ.
2. Thân bài:
a. Chất thơ và chất thơ trong truyện ngắn:
- "Chất thơ": Tính chất trữ tình - tính chất được tạo nên từ sự hoà quyện giữa vẻ
đẹp của cảm xúc, tâm trạng, tình cảm với vẻ đẹp của cách biểu hiện nó để có thể
khơi gợi những rung động thẩm mĩ và tình cảm nhân văn.
- Chất thơ trong truyện ngắn: Được tạo nên khi nhà văn chú ý khai thác và biểu
hiện một cách tinh tế cái mạch cảm xúc, tâm trạng, tình cảm của nhân vật hoặc
của chính mình trước thế giới bằng những chi tiết, hình ảnh đầy gợi cảm và một
lối văn trong sáng, truyền cảm, phù hợp với nhịp điệu riêng của cảm xúc, tâm
hồn.
- Một truyện ngắn (hoặc tác phẩm văn xuôi) được coi là giàu chất thơ khi mối
bận tâm của người viết không đặt vào việc kể lại một biến cố, sự việc, hành
động mà là việc làm bật lên một trạng thái của đời sống hoặc của tâm hồn con
người.
b. Chất thơ trong truyện ngắn "Hai đứa trẻ"
Vẻ đẹp của cảm xúc, tâm trạng, tình cảm:
- Ở nhân vật Liên có vẻ đẹp của một tâm hồn trẻ thơ trong sáng và thuần khiết,
tự nhiên như chưa từng chịu một tác động tiêu cực nào của cuộc sống:
+ Những rung động tinh tế trước cuộc sống xung quanh: Chỉ một mùi nồng
nồng, âm ẩm bốc lên đã khiến Liên ngỡ đó là mùi riêng của đất quê; không khí
vắng lặng đìu hiu của phố huyện đã lay động tâm hồn Liên để cô cảm nhận được
cái buồn của buổi chiều quê và khiến đôi mắt cô cũng như ngập đầy bóng tối của
buổi chiều quê đó; khi đêm xuống, Liên thích thú ngắm bầu trời đêm với ngàn
sao lấp lánh để mơ mộng về con vịt theo sau ông Thần Nông, về dòng sông
Ngân Hà trong các câu chuyện cổ; tâm hồn Liên trong sáng và nhạy cảm đến độ
có thể bắt nhạy với những dấu hiệu mơ hồ nhất của thế giới quanh mình: những
con đom đóm lập loè, những khe sáng, hột sáng lọt qua khe cửa, từng loạt hoa
bàng rụng khẽ xuống vai áo…
+ Hoài niệm về quá khứ và mơ mộng với đoàn tàu: Cuộc sống thường nhật với
gánh nặng mưu sinh không thể xoá bỏ trong Liên niềm nhớ tiếc quá khứ. Thậm
chí, chính cuộc sống tẻ nhạt hàng ngày lại khiến nỗi nhớ ấy thêm da diết, khắc
khoải: dù kỉ niệm còn lại không nhiều, nhưng quá khứ luôn trở về trong Liên
bằng ánh hồi quang rạng rỡ nhất "Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ và
huyên náo". Chính nỗi nhớ quá khứ luôn thường trực đã khiến Liên khi đối diện
với hình ảnh thực của chuyến tàu đêm lại đắm mình trong những mơ tưởng xa
xôi để "sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết" mà chuyến tàu ấy gợi lên
trong tâm hồn cô.
+ Lòng trắc ẩn đối với những cảnh ngộ đáng thương: Bản thân Liên đang sống
một cuộc sống nghèo khó, Liên cũng thấm thía sâu sắc cảnh nghèo và buồn mà
cô đang phải trải qua song không vì thế mà Liên đóng kín tâm hồn đối với con
người và cuộc sống quanh mình. Nhìn những đứa trẻ nghèo đang nhặt nhạnh,
tìm kiếm trên bãi chợ, Liên thấy "động lòng thương" tuy chính chị cũng không
có gì để cho chúng. Sẵn có một tấm lòng thơm thảo, Liên đã rót đầy hơn vào cút
rượu của bà cụ Thi điên dù trong em không phải không có cảm giác sờ sợ rất tự
nhiên ở một đứa trẻ khi phải đối diện với một người không hoàn toàn bình
thường. Chính những tình cảm ngỡ như rất giản dị ấy lại làm cho người ta cảm
động như được "thanh lọc tâm hồn" để trở về với những gì tự nhiên thuần khiết
nhất.
- Ở cái "tôi" Thạch Lam ẩn kín sau nhân vật: Dường như, Thạch Lam đã viết
truyện ngắn "Hai đứa tre" bằng chính những trải nghiệm tuổi thơ ở phố huyện
Cẩm Giàng. Đọc truyện, không thể không nhận thấy cái tình âu yếm mà Thạch
Lam dành cho nhân vật. Cái tình âu yếm ấy một mặt xuất phát từ cái nhìn nhân
hậu, yêu thương mà người lớn dành cho lứa tuổi này, một mặt là do nhà văn đã
hoá thân vào nhân vật, là sự ám ảnh của tuổi thơ gắn liền với phố huyện Cẩm
Giàng. Sự cộng hưởng của những cảm xúc này để tạo cho những trang viết
Thạch Lam một sự hoà quyện giữa chất thực và chất thơ để tạo thành một sức
hút da diết, bền lâu của tác phẩm.
Vẻ đẹp của hình thức nghệ thuật:
- Trong truyện, Thạch Lam đã xây dựng được một thế giới hình ảnh vừa chân
thực, sinh động lại vừa vô cùng gợi cảm bởi chính vẻ đẹp của nó.
+ Quan niệm của Thạch Lam: "Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, len lỏi khắp hang
cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật bình thường".
+ Không gian được lựa chọn trong tác phẩm: Một phố huyện nghèo nơi tiếp giáp
giữa thành thị và thôn quê song dưới ngòi bút Thạch Lam dường như tính chất
làng đã nhiều hơn tính chất phố.
+ Trong không gian êm ả, tĩnh lặng của phố huyện, mỗi hình ảnh được ngòi bút
Thạch Lam gợi ra đều chan chứa chất thơ: Phương Tây "đỏ rực như lửa cháy",
đám mây "ánh hồng như hòn than sắp tàn", tiếng trống thu không "vang xa để
gọi buổi chiều", đêm mùa hạ "êm như nhung và thoảng qua gió mát", vòm trời
"hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh", những con đom đóm "bay là là trên
mặt đât hay len vào những cành cây", bóng bác phở Siêu "mênh mông ngả
xuống đất một vùng và kéo dài đến tận hàng rào hai bên ngõ"…Tất thảy đều là
những hình ảnh, màu sắc, âm thanh vô cùng quen thuộc, bình dị mà ngỡ như rất
mới mẻ, rất gợi cảm trong những câu văn Thạch Lam bởi nó không chỉ hiện diện
như một khái niệm mà như một trạng thái của sự sống đang xao động để chuyển
dần một cách tinh tế cái xao động ấy vào tâm hồn con người. Dưới ngòi bút
Thạch Lam, thậm chí đến cả rác rưởi của một phiên chợ quê cũng gợi nhớ bao
điều thân thuộc "Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng
mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía. Một mùi âm
ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em
Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này". Sức gợi cảm của thứ mùi
vị này ở chỗ nó đánh thức cảm xúc, cảm giác ấu thơ của rất nhiều người Việt.
- Truyện có những chi tiết được lựa chọn đích đáng để thể hiện tinh và sâu thế
giới của những cảm xúc, cảm giác và tình cảm vừa mơ hồ, vừa da diết trong tâm
hồn nhân vật: Liên ngồi lặng lẽ bên mấy quả thuốc sơn đen lúc chiều muộn với
đôi mắt ngập đầy dần bóng tối; Liên cùng em nhìn ngắm những vì sao để mà
thấy chúng như thuộc về vũ trụ thăm thẳm bao la, đầy bí mật và xa lạ; Liên và
An chờ đợi chuyến tàu đêm… Trong số đó, có thể nói, chi tiết đợi tàu của hai
đứa trẻ chính là đỉnh điểm của chất thơ trong tâm hồn người. Với hai chị em
Liên, đoàn tàu vừa là một thực tế, vừa là một ảo ảnh trong cái nhìn non trẻ và
đầy khát khao. Đoàn tàu đi rồi, ánh sáng vụt loé lên cũng đã tắt, hai chị em cũng
đã chìm vào giấc ngủ song dư âm của khát vọng thì vẫn còn vang vọng mãi bởi
đó là yếu tố cơ bản để "gióng lên cái gì đó còn ở tương lai" (Nguyễn Tuân). ánh
sáng của đoàn tàu đã làm cháy lên một thứ ánh sáng khác - ánh sáng của khát
vọng da diết trong tâm hồn những đứa trẻ. Trân trọng và nâng niu khi khám phá
ra thứ ánh sáng này, tác phẩm của Thạch Lam đã đạt tới một giá trị nhân văn
đáng quý.
- Mạch truyện của "Hai đứa trẻ" rất đậm chất trữ tình:
+ Quan niệm của Thạch Lam: "Nhà văn cốt nhất phải đi sâu vào tâm hồn mình,
tìm thấy những tính tình và cảm giác thành thực: tức là tìm thấy tâm hồn mọi
người qua tâm hồn của chính mình". Từ đó có thể thấy, cái hiện thực mà nhà
văn quan tâm và đặt lên hàng đầu là hiện thực tâm trạng, là những xúc cảm, rung
động của tâm hồn con người.
+ Truyện "Hai đứa trẻ" không có cốt truyện, mạch truyện không vận động theo
mạch của những tình tiết, sự kiện mà vận động theo mạch cảm xúc, tâm trạng
nhân vật. Để làm được điều này, nhà văn đã đặt điểm nhìn trần thuật vào nhân
vật Liên - một cô gái chưa hoàn toàn bước ra khỏi thời ấu thơ, một cô gái có tâm
hồn thuần khiết và nhạy cảm. Từ điểm nhìn ấy, bức tranh đời sống được tái hiện
với sự đan xen, song hành và xâm nhập của cảm giác thực tại và hồi ức quá khứ
mà dường như, cái nổi trội lên, chi phối sự vận động của mạch truyện lại là hành
trình tìm lại những kí ức quá khứ từ chính cái hình ảnh đang hiện diện trong
thực tại - hình ảnh đoàn tàu. Triển khai mạch truyện theo hướng này, ngòi bút
Thạch Lam có xu hướng hướng nội, đi vào thế giới bên trong với những cảm
xúc, cảm giác nhiều khi rất mong manh, mơ hồ, thoáng qua, những biến thái tinh
vi của tâm hồn trước ngoại cảnh: nỗi buồn man mác trước cái giờ khắc của ngày
tàn, những hoài niệm da diết về một Hà Nội trong kí ức tuổi thơ, những cảm
giác xa xôi không biết…
- Để thể hiện thành công tất cả những điều trên, Thạch Lam đã sử dụng một bút
pháp trữ tình đặc sắc trong lời kể, giọng kể, một bút pháp hoà hợp sự trong sáng,
chính xác và dịu dàng, hoà hợp sự kín đáo và giản dị như một lời thủ thỉ vừa
phải, êm đềm nhỏ nhẹ nhưng có thể phân biệt được từng âm vị.
+ Thạch Lam ít dùng những chữ to tát, những nhịp điệu gấp gáp vội vàng, lời
văn của ông nhuần nhuyễn, tinh tế để phô diễn những trạng thái, những cảm xúc
trong tâm hồn. Câu văn của Thạch Lam nhiều thanh bằng gợi một nhịp điệu
chậm buồn nhưng có sức lan toả. Chẳng hạn khi miêu tả vẻ trầm buồn nhưng
cũng rất đỗi nên thơ của phố huyện, Thạch Lam đã viết: "Chiều, chiều rồi, một
chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió
nhẹ đưa vào…" Hay miêu tả cảnh đêm tối sau khi chuyến tàu đi qua: "Đêm tối
vẫn bao bọc xung quanh, đêm của đất quê, và ngoài kia đồng ruộng mênh mang
và yên lặng".
+ Thạch Lam đã sáng tạo ra một thứ ngôn ngữ nghệ thuật riêng để biểu đạt cái
xao động của sự sống khẽ vang lên trong không gian, thời gian tĩnh mịch để diễn
tả cái thanh thoát, dịu hiền của tâm hồn Liên: êm ả, yên lặng, thong thả, gượng
nhẹ, nhỏ xíu, yên tĩnh, mơ hồ, miên man, tĩnh mịch … Những từ ngữ này liên
kết với nhau như một dải lụa nhẹ bay để tạo một dư âm sâu lắng trong tâm hồn
người đọc.
+ Văn phong Thạch Lam rất bình dị: Câu văn ngắn, nhịp văn chậm rãi, thong
thả. Dù diễn tả cái náo nức bên trong, cái sôi động của ước mơ, Thạch Lam vẫn
rất nhẹ nhàng, vẫn tự nén ngòi bút. Chuyến tàu rực sáng vụt qua, Liên xúc động
mạnh khi kỉ niệm xưa dồn dập hiện về "Hà Nội xa xăm, Hà nội sáng rực, vui vẻ
và huyên náo". Đây là một trong số ít những câu văn kết hợp lối trùng điệp và
những thanh trắc tạo điểm nhấn và ngay câu sau Thạch Lam viết ngắn hơn, nhẹ
hơn, như ghìm giữ lại niềm xúc động: "Con tàu như đem một chút thế giới khác
đi qua". Thạch Lam thường sử dụng kiểu cú pháp đẳng lập, đều đều, nhịp độ
khoan thai điềm tĩnh mà vẫn gây những chấn động nhẹ nhàng, thấm thía chính là
ở độ nén của cảm xúc mà nhà văn tạo ra trong những câu văn.
c. Kết luận:
- Truyện ngắn "Hai đứa trẻ", từ hình thức nghệ thuật tới nội dung được biểu hiện
đều chan chứa chất thơ - cái chất thơ được chưng cất từ đời sống bình dị, thường
nhật bằng chính rung động của tâm hồn nhà văn, chất thơ toả ra từ tình yêu cái
đẹp, từ cái nhìn tinh tế trước thiên nhiên, đời sống và niềm tin ở thiện căn của
con người…
- Với những gì được khai thác và biểu hiện trong tác phẩm, có thể nói, truyện
"Hai đứa trẻ" tựa như một bài thơ trữ tình, dù không thật giàu có sâu sắc về ý
nghĩa xã hội thì vẫn "đem đến cho người đọc một cái gì nhẹ nhõm, thơm lành và
mát dịu" (Nguyễn Tuân). Đó vừa là giá trị riêng của tác phẩm, vừa là cốt cách
văn chương của Thạch Lam để tạo ra một sức hấp dẫn bền lâu trong lòng độc
giả.
ĐỀ 4: Ánh sáng và bóng tối trong "Chữ người tử tù" &"Hai đứa trẻ"
Ánh sáng và bóng tối vốn là hai phương diện quan trọng của cuộc sống, luôn
luôn tồn tại bên cạnh nhau, bổ sung cho nhau. Trong hội họa, ánh sáng và bóng
tối là một thủ pháp cơ bản được dùng để khắc họa con người và sự vật trong
cuộc sống.
Trong văn chương, ánh sáng và bóng tối cũng được sử dụng như một thủ pháp
nghệ thuật nhằm tạo tình huống truyện, chuyển tải nội dung tư tưởng, chủ đề của
tác phẩm. Với Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân và Hai đứa trẻ của Thạch Lam,
ánh sáng và bóng tối được sử dụng như một thủ pháp nghệ thuật nòng cốt "biểu
hiện cách khai thác hình tượng đối với cuộc sống, như thủ pháp thuyết phục và
thu hút độc giả" của tác giả. Nguyễn Tuân và Thạch Lam tuy cùng thuộc dòng
văn học lãng mạn nhưng mỗi người có một cách sử dụng các thủ pháp nghệ
thuật hoàn toàn khác nhau, tạo nên những thế giới nghệ thuật riêng biệt và độc
đáo, mang đậm phong cách cá nhân của tác giả.
Miệt mài trong hành trình kiếm tìm cái đẹp, ngợi ca cái đẹp, Nguyễn Tuân và
Thạch Lam, trong Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ, ánh sáng và bóng tối được sử
dụng không chỉ như một nguyên tắc tạo tình huống truyện mà còn vươn đến ý
nghĩa biểu tượng về cái đẹp trong cuộc đời. Nguyễn Tuân viết Chữ người tử tù
từ cảm hứng về một thú chơi tao nhã của người xưa, trong một tình huống đặc
biệt mà người viết chữ và người chơi chữ là người tử tù và người quản ngục. Hai
nhân vật này xuất hiện trong tác phẩm như một kiểu song trùng của sự tồn tại
không thể thiếu nhau giữa hai khách thể đối cực, như ánh sáng và bóng tối, thậm
chí là đối thủ trong một hoàn cảnh đặc biệt. Song chính vì là đối cực như ánh
sáng với bóng tối nên bản thân sự khác nhau này cũng đã hàm chứa một sự
tương liên, bổ sung cho nhau, thậm chí chuyển hóa từ tối ra sáng như một quy
luật tất yếu.
“Chữ” hiểu theo nghĩa của tác phẩm chính là Thư pháp, một “nghệ thuật thể
hiện chữ viết và là phương tiện để biểu lộ tâm thức của con người... Thư pháp
gắn với tính cách, tâm tư, tình cảm, quan niệm triết học, nhân sinh quan của
người viết”. Từ nét chữ, người ta có thể đọc được tính tình, nhân cách, khí phách
người viết, nó thể hiện thế giới nội tâm của người viết chữ. Vì vậy người xưa coi
việc chơi chữ như một cách di dưỡng tính tình, hun đúc tinh thần. Viên quản
ngục yêu chữ của Huấn Cao là yêu nhân cách, khí phách, tài hoa của người viết
chữ, yêu cái đẹp tỏa ra từ thế giới nội tâm của con người này.
Không gian nghệ thuật của Chữ người tử tù chủ yếu được xây dựng dựa trên
không gian nhà tù - một "trại giam tối om", khung cảnh nền ấy ngập tràn bóng
tối, "quạnh quẽ" và "tối mịt", tất cả đều nhuốm vẻ âm thầm, u ám. Mẩu đối thoại
ngắn đầy e dè, gìn giữ, nghi ngại lẫn nhau giữa quản ngục và thầy thơ lại như
khắc họa rõ hơn số phận những con người quanh năm trong bóng tối, tuy tự do
về nhân thân nhưng lại bị cầm tù về nhân cách. Không gian nghệ thuật của tác
phẩm được giới hạn ở một nhà tù nhỏ, một cõi nhân sinh mà bóng tối nhiều hơn
ánh sáng, ánh sáng chỉ là một ngọn đèn leo lét lọt thỏm giữa bóng tối mịt mù và
quạnh quẽ, chỉ là một vài vì tinh tú nhấp nháy xa xa, trong đó có một "ngôi sao
chính vị muốn từ biệt vũ trụ". Chút ánh sáng ấy quá nhỏ nhoi so với toàn bộ màn
đêm bao phủ nơi đây, nhưng giữa sự tương phản có vẻ không cân đối ấy, tác giả
muốn gởi gắm niềm tin về thiên lương con người, dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào, dù
le lói nhưng không bao giờ tắt, và nếu có cơ hội nó lại bùng lên mạnh mẽ như
niềm tin của con người vào cái tốt cái đẹp, vào ánh sáng. Đó là nét đẹp, là chút
ánh sáng còn sót lại trong tâm hồn ngục quan. Con người đang tồn tại ở một nơi
mà những vẻ đẹp và những điều xấu xa luôn kế cận nhau, ánh sáng luôn có nguy
cơ bị dập tắt bởi bóng tối.
Trong thế giới tăm tối ấy, quản ngục như lạc lõng cô độc trong thế giới riêng của
mình: một ngọn đèn leo lét, một bóng tối mịt mù quạnh quẽ, tiếng trống thu
không, tiếng kiểng tiếng mõ thưa thớt, tiếng chó sủa vào những bóng ma mơ hồ
huyền bí cứ ám mãi vào màn đêm hoang hút... Những sợi dây, những vòng dây
trói vô hình cứ tròng lên, thít vào cuộc đời mòn rỉ của con người mà Nguyễn
Tuân nói là "đang băn khoăn ngồi bóp thái dương", với một ngoại hình mòn
mỏi, cô đơn "tóc hoa râm, râu đã ngả màu". Tuy vậy ẩn sâu bên trong con người
này là một đời sống tâm hồn như "một thanh âm trong trẻo chen vào giữa bản
đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn và xô bồ. Nguyễn Tuân đã rất thành công khi tạo
lập bối cảnh và không khí để xây dựng tình huống truyện. Nỗi băn khoăn dẫn
đến quyết định biệt đãi Huấn Cao của quản ngục được đặt trong một không gian
nền đầy bóng tối - nơi chỉ có vài đốm sáng nhấp nháy trên bầu trời, thậm chí có
một ngôi sao chính vị sắp từ biệt vũ trụ, tất cả như chòng chành giữa hai thế
đứng để rồi ánh sáng của thiên lương tuy nhỏ nhoi vẫn chiến thắng, dẫn đến một
thái độ ứng xử đẹp.
Cuộc gặp gỡ giữa hai con người tưởng như đối địch quyết liệt nhưng lại hòa hợp
vô cùng ở kết thúc của truyện. Huấn Cao càng khí khái, cương trường, khinh thế
ngạo vật bao nhiêu, quản ngục càng nhẫn nhịn, lễ phép, cam chịu bấy nhiêu. Tất
cả chỉ vì sự tác động của cái đẹp, của ánh sáng tỏa ra từ một nhân cách, vì quý
trọng một tài năng, xót xa một báu vật văn hóa sắp bị chôn vùi vĩnh viễn. Mạch
ngợi ca tăng lên từ hai phía đối lập của hai thế đứng, hai tâm trạng, hai thái độ
ứng xử, hai mặt của cuộc sống. Chính công việc, môi trường trại giam đã ràng
buộc quản ngục vào một giới hạn nghiệt ngã, con người này hàng ngày là công
cụ, là người máy, còn sâu trong cõi lòng kia chất chứa một nỗi cô đơn không kẻ
tỏ bày, không người tri âm tri kỷ. Một con người mà mới thoạt trông bên ngoài
tưởng như là một khối bóng tối khổng lồ nhưng rồi cái tài hoa của Nguyễn Tuân
là đã biết chớp lấy cái khoảnh khắc thuận lợi nhất để chút ánh sáng le lói trong
tâm hồn quản ngục có cơ hội bừng sáng lên. Không những thế tác giả còn dựng
tình huống cho phút giây bừng sáng đó thành thiên thu vĩnh viễn ở đoạn kết - ở
sự chiến thắng của ánh sáng với bóng tối, trong "cảnh cho chữ", “một cảnh
tượng xưa nay chưa từng có".
Về truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam có thể nói đây là một truyện ngắn
"phi cốt truyện". Đó là điểm đặc biệt đồng thời cũng là một trong những nét làm
nên phong cách riêng trong nghệ thuật viết truyện của Thạch Lam.
Ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ được sử dụng như một thủ pháp chính
trong nghệ thuật dựng truyện của Thạch Lam. Sở dĩ nói như vậy bởi ánh sáng và
bóng tối được tác giả sử dụng trong cách xây dựng bối cảnh tác phẩm, nhân vật
lẫn trong các chi tiết nhỏ nhằm biểu đạt chủ đề của tác phẩm.
Bối cảnh của Hai đứa trẻ là không gian phố huyện buồn tẻ - một không gian
nghệ thuật đặc trưng xuất hỉện khá nhiều trong truyện ngắn của ông. Đó là một
không gian đan xen giữa làng quê và thành thị. Thời gian là một buổi chiều “êm
ả như ru” đang sắp nhường chỗ cho bóng đêm, "dãy tre làng trước mặt đen lại và
cắt hình rõ rệt trên nền trời". Khung cảnh phố huyện trong bóng tối gợi không
khí buồn buồn, hiu hắt, chậm chậm, đơn điệu của cuộc sống nơi đây. Bóng tối
ngập đầy trong đôi mắt của Liên. Số phận của lũ trẻ bới rác và những người lao
động nghèo ở đây cũng nhạt nhòa trong bóng tối. Bối cảnh phố huyện và tâm
trạng nhân vật được tác giả xây dựng vào những thời điểm khác nhau: lúc hoàng
hôn, khi đêm về và lúc đêm đã khuya. Trong ánh sáng của ngọn đèn leo lét trên
chõng hàng chị Tý, trên bếp lửa của bác Siêu và những hột sáng lọt qua phên
nứa từ ngọn đèn của chị em Liên, con người hiện lên như những cái bóng vật vờ
không số phận, không tính cách. Ngoài cuộc sống mò cua bắt ốc ban ngày ra, tối
đến họ tập trung ở đây như để bắt đầu một cuộc sống thứ hai trong bóng tối,
nhưng là để hướng đến ánh sáng. Tất cả cùng chờ đợi một điều gì đó mới mẻ,
khác lạ so với cảnh đời buồn tẻ, quẩn quanh, tù hãm của cái "ao đời bằng phẳng"
hàng ngày họ nếm trải.
Hình tượng ánh sáng ở đây được xây dựng như một hình tượng nghệ thuật độc
đáo, gây nhiều ám ảnh. Những hột sáng ít ỏi, nhỏ nhoi lọt thỏm giữa không gian
phố huyện ngập tràn bóng tối tăng thêm độ mênh mông tối tăm, không khí buồn
lặng của khung cảnh phố huyện vào đêm. Nỗi buồn chán của hai đứa trẻ và
những người dân phố huyện nếu khi chớm đêm mới chỉ ở mức độ mơ hồ thì
càng về khuya nó càng rõ nét. Bầu trời đầy sao và vũ trụ bao la như tương phản,
đối lập gay gắt với cuộc sống tù đọng đơn điệu ở phố huyện, hé mở tâm hồn
khao khát hạnh phúc của chị em Liên. Lúc này nỗi buồn không còn nhòa nhạt
mơ hồ nữa mà đã sắc nét, rõ rệt hơn khi cô nhớ về Hà Nội, một thứ "siêu cảm
giác" bởi cô đang hồi tưởng về quá khứ, cảm thấy bằng tâm hồn về một thời
khác với thời hiện tại Liên đang sống - "một vùng sáng rực và lấp lánh".
Ánh sáng từ đoàn tàu thì đã tới, nhưng ánh sáng thực sự, hạnh phúc thực sự của
những con người nơi đây thì mãi vẫn tồn tại trong tâm tưởng mà không biết khi
nào mới thành hiện thực. Hình tượng ánh sáng và bóng tối ở Hai đứa trẻ khi đặt
vào diễn biến nội tâm tinh tế, phức tạp của Liên trong cảm nhận độ dày của
bóng tối từ chiều đến đêm khuya mới thấy rõ giá trị của nó, thấy được độ "khát
thèm được chiếu sáng và được đổi thay" của hai đứa trẻ và những người dân nơi
đây. Giá trị nghệ thuật và giá trị tư tưởng của tác phẩm vì vậy được nâng lên
một tầm khác hẳn khiến Hai đứa trẻ của Thạch Lam trở thành một trong những
truyện ngắn hay, đặc sắc của văn học Việt Nam.
Nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối như một thủ pháp trong Chữ người tử
tù và Hai đứa trẻ vừa có điểm giống nhau lẫn khác nhau. Cả hai tác giả đều sử
dụng ánh sáng và bóng tối như một nguyên tắc đối lập, một thủ pháp nghệ thuật
trong xây dựng tình huống truyện. Nhưng với Nguyễn Tuân ánh sáng và bóng
tối vừa đối lập, vừa bổ sung, nâng đỡ nhau, đồng thời có sự chuyển hóa từ bóng
tối ra ánh sáng. Nhân vật viên quản ngục khi được Huấn Cao “khai tâm” đã
nghẹn ngào “xin bái lĩnh”, là một minh chứng cho sự chuyển hóa này. Ánh sáng
và bóng tối ở đây từ nghĩa thực đã chuyển thành nghĩa tượng trưng. Đều hướng
tới mục đích ngợi ca cái đẹp, nhưng cái đẹp trong văn Nguyễn Tuân là cái đẹp
thiêng liêng, sang trọng đã ổn định và có giá trị như một bảo vật văn hóa của dân
tộc, như một kiểu chơi đẹp, thú uống trà, chơi chữ, một kiểu sống đẹp, một nhân
cách đẹp... Chính vì vậy ánh sáng trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là
ánh sáng của chân lý, của cái đẹp trong tài hoa, nhân cách, nên tác phẩm cũng
được kết thúc đẹp bằng sự chiến thắng của ánh sáng với bóng tối, của thiên
lương con người với cái xấu cái ác. Bóng tối ở đây vừa là cuộc sống tù đọng,
quẩn quanh mòn mỏi âm u - là nét giống với bóng tối trong Hai đứa trẻ - nhưng
nó cũng vừa đại diện cho cái xấu cái ác trong cuộc sống cũng như trong bản chất
con người, điểm khác với truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam.
Với Thạch Lam, bóng tối vừa mang nghĩa biểu trưng cho cuộc sống tù đọng,
quẩn quanh nơi phố huyện vừa được sử dụng như phông nền chính nhằm làm
nổi bật ba loại ánh sáng: a) Ánh sáng nơi phố huyện - những quầng sáng giới
hạn, nhỏ nhoi, leo lét, những hột sáng... tượng trưng cho số phận mòn mỏi của
những con ngưòi nơi đây; b) Ánh sáng đô thị - vừa là quá khứ, vừa là tương lai,
là miền mơ ước của hai đứa trẻ; c) Ánh sáng con tàu - ánh sáng thức tỉnh đời
sống tỉnh lẻ, như một cầu nối từ hiện tại (ánh sáng phố huyện) về quá khứ (ánh
sáng đô thị), rồi hướng tới tương lai (ánh sáng đô thị). Từ đây ánh sáng, bóng tối
không còn mang nghĩa thực nữa mà mang nghĩa biểu tượng, biểu tượng của ước
mơ, của khát khao hạnh phúc và những điều tốt đẹp trong cuộc sống.
Còn với Nguyễn Tuân, cảm hứng thẩm mỹ của ông bắt nguồn từ cái đẹp lớn lao,
cái cao cả, bi hùng hoặc mô tả những nhân cách lớn... nên thủ pháp nghệ thuật
cũng xây dựng dựa trên sự đối lập gay gắt, ánh sámg và bóng tối cũng được sử
dụng nhằm miêu tả những tương phản mạnh mẽ, những chuyển biến bất ngờ,
đột ngột. Đó vừa là một thủ pháp trong xây dựng tình huống truyện, vừa là sự
dẫn dắt đi đến kết thúc của sự chiến thắng giữa chân lý, cái đẹp với cái xấu, cái
ác. Thạch Lam do chỉ chú ý đến những cái bình thường, giản dị, nhỏ nhoi trong
cuộc sống nên ánh sáng và bóng tối trong tác phẩm của ông không có sự chuyển
biến dữ dội, bất ngờ.
Chính từ tính quy phạm của ánh sáng và bóng tối trong hội họa, vào văn chương
nó đã vừa kế tục vừa phá vỡ tạo ra hiệu quả thẩm mỹ mới, góp phần đắc lực cho
xây dựng tình huống truyện, được sử dụng như một tình tiết nghệ thuật đặc sắc.
So sánh hai tác phẩm để thấy sự giống nhau và khác nhau trong nghệ thuật sử
dụng ánh sáng và bóng tối, lý giải nó từ quan niệm nghệ thuật, vốn văn hóa của
tác giả để thấy tài năng của nhà văn và giá trị nghệ thuật to lớn của tác phẩm. Từ
đó có thể khắc họa rõ hơn diện mạo của tác giả, tác phẩm, xác lập một cách thức
tiếp cận văn bản không phải chỉ từ chính nó mà bằng liên văn bản. Điều này
không nằm ngoài mục đích khám phá các vẻ đẹp tiềm ẩn của tác phẩm văn
chương khiến nó luôn mới mẻ, lấp lánh nhiều giá trị.
Đề 6: " Hai đứa trẻ " của Thạch Lam là một thiên truyện ngắn không có
cốt truyện, nhưng lại hấp dẫn và gợi lên trong lòng người đọc nhiều suy
nghĩ .Điều gì làm nên sự hấp dẫn và gợi lên trong lòng người đọc chúng ta
những suy nghĩ gì về cảnh đời cũ ( trước Cách mạng tháng Tám ) ?
1. Yêu cầu chung
+ Hiểu rằng Thạch Lam là cây bút tài hoa trong nhóm " Tự lực văn đoàn ". Khác
với thành viên khác của nhóm, ông thành công với lối viết truyện ngắn không có
cốt truyện hoặc cốt truyện vô cùng đơn giản.
+ Tuy là một nhà văn thuộc khuynh hướng lãng mạn nhưng truyện ngắn của ông
lại phản ánh một cách sâu sắc hiện thức cuộc sống. Truyện ngắn " Hai đứa trẻ "
là sự hòa quyện giữa hai yếu tố: Lãng mạn và hiện thực
+ " Hai đứa trẻ là một truyện ngắn trữ tình , được Thạch Lam thể hiện nhẹ nhàng
mà thấm thía niềm xót thương với những kiếp người sống cơ cực, tù túng, quẩn
quanh,bế tắc trong xã hội cũ. Đồng thời cũng thể hiện niềm cảm thông và trân
trọng sâu sắc của một tấm lòng rất đỗi nhân hậu trước những ước mơ, khát vọng
vươn tới cuộc sống tốt đẹp hơn.
2. Dàn bài cụ thể.
* " Hai đứa trẻ " là truyện ngắn không có cốt truyện.
Cốt truyện hai đứa trẻ đơn giản, " có mà như không "
- Chỉ là một buổi chiều nơi phố huyện nghèo khổ tăm tối tăm, với tiếng trống
thu không rời rạc và cảnh chợ chiều hiu hắt
-Chỉ là câu chuyện lặp đi lặp lại mỗi ngày nơi một quán hàng nghèo, một gánh
hàng phở, một chị tí với gánh hàng nước vắng khách, một gia đình bác xẩm, một
bà già điên nghiện rượu, hai chị em Liên và một chuyến chờ tàu kì lạ
-Truyện ngắn không chứa những tình tiết li kì, cốt truyện hấp dẫn hay tình
huống truyện đầy kịch tính ...vv
* Dù vậy truyện ngắn " Hai đứa trẻ" vẫn hấp dẫn người đọc
-Đó là nghệ thuật đối lập tương phản được sử dụng nhuần nhuyễn từ đầu đến
cuối truyện: Sự tương phản giữa bóng tối và ánh sáng; giữa ước mơ khát vọng
nhỏ nhoi nhưng vô cùng ddẹp đẽ và mãnh liệt với thực tai cuộc sống tù túng,
nghèo khổ; giữa chuyến tàu đêm đầy màu sắc, rực rỡ đầy ánh sáng với khung
cảnh phố huyện tối tăm, mù mịt.
- Là khung cảnh trong truyện. Đó là một khung cảnh thiên nhiên, cảnh vật nơi
một làng quê yên bình, hiền hòa nhưng cũng ẩn chứa những nỗi buồn sâu lắng,
nỗi buồn của những kiếp người, mảnh đời tàn
-Truyện lôi cuốn người đọc còn bởi giọng văn tâm tình nhỏ nhẹ, thấm thía
niềm cảm thông sâu sắc của một tâm hồn nhạy cảm đầy tình yêu thương.
- Trruyện lôi cuốn người đọc còn bởi hình ảnh ngọn đèn dầu của chị Tí leo lét,
yếu đuối nhưng cũng dai dẳng, kiên cường bám trụ giữa bóng đêm u tối, lặp đi
lặp lại đến bảy lần mang đầy ý nghĩa biểu tượng
- Nghệ thuật khặc họa tâm trạng nhân vật tài tình, khéo léo. Nhà văn đã khiến
cho tâm trạng của Liên trở thành mạch nguồn cảm xúc bất tận cho tác phẩm, đầy
lôi cuốn, hấp dẫn và có sức ám ảnh với người đọc.
* Truyện ngắn " Hai đứa trẻ " đã gợi cho người đọc nhiều suy nghĩ
-Truyện như một lời cảm thông đầy xót thương gửi đến những số phận nhỏ bé,
khắc khổ, là lay lắt trong xã hội cũ
- Ý nghĩa nhân văn sâu sắc của tác phẩm còn ở chỗ không chỉ mong ước một
cuộc sống no đủ về vật chất cho những con người nghèo khổ mà còn đã thấu
hiểu được niềm khao khát có một cuộc sống đầy đủ về tinh thần của họ.
-Thạch Lam còn muốn lay tỉnh những tâm hồn đang khắc khoải, uể oải, đang
lụi tắt hướng đến một cuộc sống tinh thần đầy đủ hơn.
-Tác giả còn quan tâm đến đời sống tinh thần à trân trọng nó dù cho đó chỉ là
những " ước vọng mơ hồ " vươn đến ánh sáng cuộc đời của những đứa trẻ đáng
thương trong xã hội đầy bất công và tối tăm
-Truyện để lại nhiều dư vị, dư âm ấm áp tình người, tình đời.
* Mở rộng
-Truyện đã cho thấy được tài năng viết truyện ngắn của Thạch Lam và tâm
hồn đầy tình yêu thương cao quý của ông.
-Truyện ngắn đã minh chứng một điều rằng một truyện ngắn hấp dẫn không
phải bao giờ cũng bởi nhứng tình tiết li kì, tình huống truyện độc đáo...vv mà
còn do lối viết truyện, giọng văn và những ý nghĩa nhân văn, nhân đạo sâu sắc
của người viết muốn gửi gắm.
-truyện ngắn cùng ý nghĩa của nó đã để lại cho chúng ta nhiều bài học sâu sắc.
ĐỀ 7: Nghệ thuật miêu tả tương phản của Nguyễn Tuân và Thạch Lam
trong hai tác phẩm Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ.
Gợi ý:
MỞ BÀI: Giới thiệu khái quát về các đối tượng so sánh.
THÂN BÀI:
1. Làm rõ yêu cầu của đề:
a. Giải thích: Đặc điểm của sáng tác lãng mạn và yêu cầu sử dụng nghệ thuật
tương phản:
- Đặc điểm của sáng tác lãng mạn:
+ Biểu hiện cái nhìn chủ quan của nhà văn trước cuộc đời- hình tượng
nhân vật ít nhiều mang phảng phất bóng dáng cái tôi tác giả.
+ Hướng tới khám phá và thể hiện những gì độc đáo, khác thường, kì lạ.
- Yêu cầu sử dụng nghệ thuật miêu tả tương phản:
+ Hiệu quả của miêu tả tương phản: làm nổi bật các đặc điểm của từng đối
tượng, gây ấn tượng mạnh mẽ- phù hợp với yêu cầu của sáng tác lãng mạn.
+ Trở thành biện pháp nghệ thuật đặc thù của sáng tác lãng mạn.
b. Phân tích nghệ thuật miêu tả tương phản trong hai tác phẩm:
* Làm rõ đối tượng thứ nhất:
- Chữ người tử tù:
+ Tính cách và hoàn cảnh:
. Hoàn cảnh: Môi trường tù ngục đen tối, xấu xa, cảnh ngộ éo le với
những áp lực nặng nề phải đối mặt dễ khiến con người ta tha hoá.
. Tính cách: Có nhân cách, lương tâm- khác biệt với thế giới đen tối, tội
lỗi; có dũng khí- ở Huấn Cao là dũng khí của bậc anh hùng, ở quản ngục là dũng
khí của bậc hiền nhân. Chính nhân cách, lương tâm và dũng khí giúp họ chiến
thắng hoàn cảnh.
=> Nguyễn Tuân luôn nhìn con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ.
+ Ánh sáng và bóng tối:
. Bóng tối: Theo nghĩa thực là của đêm khuya, của buống giam tử tù-
nơi ánh sáng không thể lọt qua được; theo nghĩa tinh thần lại chính là cảnh ngộ
éo le mà con người phải đối mặt( Huấn Cao- án tử hình, quản ngục- môi trường
sống không phù hợp với tính cách con người ông). Là biểu tượng cho cái xấu xa.
. Ánh sáng: Theo nghĩa thực là bó đuộc tẩm dầu khói toả như đám cháy
nhà- thứ ánh sáng khá mờ nhạt; theo nghĩa tinh thần là ánh sáng toả ra từ cái đẹp
của nghệ thuật ( chữ Huấn Cao) và của tư thế tâm hồn con người. chính thứ ánh
sáng này soi sáng con đường để những kẻ tri âm đến với nhau.
=> Đó là sự đối lập giữa cái đẹp với cái xấu xa.
* Làm rõ đối tượng thứ 2:
- Hai đứa trẻ:
+ Hoàn cảnh và tính cách:
. Hoàn cảnh: Nghèo khó, tù túng, đơn điệu, buồn tẻ-một kiểu hoàn cảnh
có thể tạo ra sự chết mòn về tinh thần.
. Tính cách: sự hồn nhiên, ngây thơ trong cách nhìn và rung động; sống
với một tấm lòng nhân hậu và thế giới tâm hồn trong sáng, phong phú.
=> Tấm lòng yêu thương, cái nhìn trìu mến của nhà văn dành cho những
tâm hồn trẻ thơ.
+ Bóng tối và ánh sáng:
. Bóng tối: Theo nghĩa thực là của phố huyện trong thời khắc chiều
muộn và đêm khuya; theo nghĩa tinh thần là nỗi buồn đang lan toả, thấm thía và
trĩu nặng dần trong tâm hồn nhân vật.
. Ánh sáng: Theo nghĩa thực là của thiên nhiên( ráng chiều, vì sao đom
đóm) và của cuộc sống con người ( các loại đèn, bếp lửa); theo nghĩa tinh thần là
hồi quang kí ức về một thiên đường đã mất và niềm hi vọng dù le lói, mong
manh.
=> Đó là sự đối lập, tương phản giữa cuộc đời thường nhật và khát vọng
trong tâm hồn con người.
* So sánh:
- Điểm giống:
+ Cả hai tác phẩm đều phát hiện và miêu tả sự đối lập giữa tính cách và
hoàn cảnh.
+ Cả hai tác phẩm đều phát hiện và miêu tả sự đối lập, tương phản giữa
ánh sáng và bóng tối mà cả ánh sáng và bóng tối đều hiện diện với nghĩa thực và
nghĩa tinh thần.
- Điểm khác: Cách xử lí mối quan hệ cụ thể của tương quan bóng tối-
ánh sáng, tính cách- hoàn cảnh:
+ Ánh sáng và bóng tối:
. Chữ người tử tù: Sự chiến thắng tuyệt đối của ánh sáng với bóng tối,
của cái đẹp với cái xấu xa.
. Hai đứa trẻ; Ở cảnh thực, ánh sáng có nguy cơ bị bóng tối nuốt chửng,
đè bẹp để rồi thay thế hoàn toàn. Ở đời sống tinh thần, ánh hồi quang kí ức có
rực rỡ nhưng cũng nhanh chóng vụt tắt, hi vọng có tồn tại song rất mong manh.
+ Tính cách và hoàn cảnh:
. Chữ người tử tù: Sự chiến thắng tuyệt đối của tính cách với hoàn
cảnh:
Quản ngục dù sống trong hoàn cảnh đen tối vẫn giữ niềm đam mê cái
đẹp và một thiên lương trong sáng.
Huấn Cao dù phải đối diện với án tử hình, với cả một hệ thống hiện
thân của thế lực đen tối vẫn hiên ngang bất khuất, vẫn bộc lộ tài năng và tấm
lòng đáng quý.
. Hai đứa trẻ: hoàn cảnh có sự tác động ở mức độ nhất định:
Cuộc sống nghèo khó, buồn tẻ và không khí buồn lặng của cảnh ngày
tàn, chợ tàn thấm vào tâm hồn Liên nỗi buồn man mác.
Những khó khăn trong cuộc sống khiến Liên già trước tuổi- đảm
đang tháo vát khi vẫn đang còn tuổi trẻ con.
* Lí giải sự khác biệt:
- Do bối cảnh xã hội, văn hoá đặc biệt và quan điểm sáng tác khác nhau
của các nhà văn cùng thời nên tạo nên những nét vừa tương đồng, vừa dị biệt
của Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ trong sử dụng nghệ thuật miêu tả tương
phản.
- Với Nguyễn Tuân, cảm hứng thẩm mỹ của ông bắt nguồn từ cái đẹp
lớn lao, cái cao cả, bi hùng hoặc mô tả những nhân cách lớn... nên thủ pháp nghệ
thuật cũng xây dựng dựa trên sự đối lập gay gắt, ánh sáng và bóng tối; tính cách
và hoàn cảnh cũng được sử dụng nhằm miêu tả những tương phản mạnh mẽ,
những chuyển biến bất ngờ, đột ngột. Đó vừa là một thủ pháp trong xây dựng
tình huống truyện, vừa là sự dẫn dắt đi đến kết thúc của sự chiến thắng giữa
chân lý, cái đẹp với cái xấu, cái ác.
- Thạch Lam do chỉ chú ý đến những cái bình thường, giản dị, nhỏ nhoi
trong cuộc sống nên tính cách và hoàn cảnh; ánh sáng và bóng tối trong tác
phẩm của ông không có sự chuyển biến dữ dội, bất ngờ.
KẾT LUẬN:
- Cả hai tác phẩm đều mang màu sắc lãng mạn, thể hiện cái nhìn và
những ấn tượng riêng- chủ quan của nhà văn về cuộc sống và con người.
- Xét về mức độ và những biểu hiện cụ thể, có thể thấy Chữ người tử tù
làm mẫu mực của kiểu sáng tác lãng mạn còn Hai đứa trẻ dường như đi chênh
vênh trên ranh giới giữa hiện thực và lãng mạn nên tuy có gieo vào lòng người
đọc những cảm xúc bâng khuâng, những tình cảm man mác và trí tưởng tượng
bay bổng, song đồng thời nó cũng đem đến những cảm nhận thấm thía về đời
sống hiện thực của con người.