hiểu và á p dụng lời của Đức chúa tr i · pdf filehiểu...
TRANSCRIPT
Hiểu và Á p Dụng
Lời của Đức Chú a Trời
GIÁ O TRÌNH MÔ N
PHƯƠNG PHÁP GIẢI KINH CĂN BẢN
HIỂU VÀ Á P DỤNG
LỜI CỦA ĐỨC CHÚ A TRỜI
Tác Giả
J. Scott Duvall và J. Daniel Hays
Dịch Giả
Mục sư Phạm Văn Lộc
VAD
(BAN HỌC VỤ của VCFK)
MỤC LỤC
Phần I Những Công Cụ Căn Bản
Chương 1 Hành Trình Giải Kinh ······················································································ 1
Chương 2 Cách Đọc Kinh Thánh – Câu ·········································································· 10
Chương 3 Cách Đọc Kinh Thánh - Phân Đoạn ···························································· 22
Chương 4 Cách Đọc Kinh Thánh - Đoạn ······································································· 31
Phần II Bối Cảnh - Bây Giờ và Trước Đây
Chương 5 Chúng Ta Mang Gì Đến Bản Văn? ································································· 43
Chương 6 Bối Cảnh Văn Hóa-Lịch Sử ············································································· 51
Chương 7 Bối Cảnh Văn Chương ···················································································· 66
Chương 8 Nghiên Cứu Từ ································································································ 77
Chương 9 Ai Điều Khiển Ý Nghĩa? ················································································· 83
Chương 10 Mức Độ Ý Nghĩa ··························································································· 89
Chương 11 Vai Trò Của Đức Thánh Linh ········································································ 99
Chương 12 Á p Dụng ······································································································ 106
Phần III Hành Trình Giải Kinh - Tân Ước
Chương 13 Tân Ước - Các Thư Tín ············································································ 116
Chương 14 Tân Ước - Các Sách Phúc  m ··································································· 131
Chương 15 Tân Ước - Công Vụ Các Sứ Đồ ································································· 151
Chương 16 Tân Ước - Khải Huyền ·············································································· 169
Phần IV Hành Trình Giải Kinh - Cựu Ước
Chương 17 Cựu Ước - Chuyện Kể ··············································································· 190
Chương 18 Cựu Ước - Luật Pháp ················································································· 212
Chương 19 Cựu Ước - Văn Thơ ··················································································· 229
Chương 20 Cựu Ước - Tiên Tri ···················································································· 247
Chương 21 Cựu Ước - Khôn Ngoan ············································································ 264
1
PHẦN I
NHỮNG CÔ NG CỤ CĂN BẢN
Chương một giới thiệu cho chúng ta tiến trình đọc, giải nghĩa và áp dụng Kinh Thánh.
Chúng ta gọi tiến trình này là “Hành Trình Giải Nghĩa”. Hành trình này bắt đầu bằng việc đọc
cẩn thận vì đây là nơi mà chúng ta có thể xác định được bản kinh văn có nghĩa gì trong bối cảnh
nguyên thủy của nó. Trước khi chúng ta có thể sẵn sàng áp dụng ý nghĩa đó vào cuộc sống của
chúng ta, chúng ta cần phải xác định chiều rộng của con sông chia cắt chúng ta với thế giới của
bản văn. Một khi chúng ta vượt qua được dòng sông rồi, chúng ta sẽ có thể áp dụng ý nghĩa của
Kinh Thánh một cách thích hợp và đáng tin cậy.
Trong chương hai, chúng ta sẽ bắt đầu học cách đọc để tìm ý tưởng và hiểu biết nhiều
hơn. Chúng ta phải đọc nghiêm túc thay vì đọc lướt. Chúng tôi sẽ giúp bạn cách quan sát những
phân đoạn nhỏ hơn của bản văn, tìm những điều đại loại như những từ ngữ được lặp đi lặp lại
nhiều lần, những so sánh, đối chiếu, bảng liệt kê, những động từ, danh từ và từ nối quan trọng.
Tại đây chúng ta sẽ học cách đọc cẩn thận ở mức độ câu.
Trong chương ba và bốn, chúng ta sẽ chuyển sang những đơn vị phức tạp và dài hơn của
bản văn – đoạn và phân đoạn. Chúng ta sẽ xem xét những điều đại loại như đối thoại, câu hỏi và
trả lời, nhấn giọng, những liên kết giữa những chương và những chuyển đổi của những câu
chuyện. Đây là điều quan trọng để biết liệu chúng ta có thật sự muốn nghe những điều Đức Chúa
Trời muốn phán qua Lời của Ngài không. Trong bốn chương đầu này, quý vị sẽ lấm tay khi quý
vị đào sâu vào tiến trình giải kinh.
2
Chương 1
Hành Trình Giải Kinh
Lời Giới Thiệu
Một cụ già trên vùng núi của Ê-thi-ô-pia vừa uống cà phê vừa đọc lại câu chuyện Đa-vít
và Gô-li-át trong thời tiết lạnh giá. Một người phụ nữ trung niên Trung Quốc đọc và suy gẫm
trong Thi-thiên 1 trên xe buýt về nhà. Một nhà quản trị trẻ Hàn Quốc đọc thư tín của sứ đồ Phao-
lô trên độ cao 40,000 mét trên máy bay từ Sing-ga-po về Seoul. Và trong căn phòng ấm cúng ở
San Diego, California, một sinh viên đại học vừa uống trà vừa đọc câu chuyện về Chúa Giê-xu
quở sóng biển yên lặng trong sách Tin Lành Mác từ máy tình xách tay của mình.
Con người trên khắp thế giới yêu thích đọc Kinh Thánh – và họ yêu thích điều đó từ
ngàn năm nay. Vì sao? Người ta đọc Kinh Thánh vì đó là một quyển sách kỳ diệu, đầy những lời
dạy dỗ hữu ích và khích lệ. Người ta đọc nó vì đó là quyển sách quan trọng, liên quan đến những
vần đề lớn trong cuộc đời – Đức Chúa Trời, sự sống, sự chết đời đời, tình yêu, tội lỗi và đạo đức.
Người ta đọc nó vì họ tin rằng trong Kinh Thánh Đức Chúa Trời phán với họ. Kinh Thánh khích
lệ chúng ta, nâng linh hồn chúng ta lên, an ủi chúng ta, chỉ dẫn chúng ta, gây dựng chúng ta, đem
cho chúng ta hi vọng, đem chúng ta đến gần với Đức Chúa Trời hằng sống.
Một vài phần trong Kinh Thánh dễ hiểu nhưng đa phần là khó hiểu. Nhưng hầu hết Cơ
Đốc Nhân mong muốn hiểu hết Lời Đức Chúa Trời chứ không chỉ những phần dễ. Nhiều người
trong chúng ta muốn đào sâu hơn vào Lời đó. Chúng ta muốn thấy nhiều hơn để hiểu nhiều hơn
Kinh Thánh. Chúng ta muốn hiểu đúng Kinh Thánh. Tức là chúng ta muốn tự tin rằng chúng ta
có thể tìm được lẽ thật thực sự từ Kinh Thánh mà không sợ phải giải nghĩa sai. Nếu quý vị là
những người như vậy thì đây là sách cho bạn.
Thông thường chúng ta muốn áp dụng trực tiếp ý nghĩa Kinh Thánh vào đời sống mình
nhưng chúng ta vấp phải nhiều vấn đề. Chúng ta bị phân cách với độc giả thời Kinh Thánh qua
văn hóa, phong tục, ngôn ngữ, hoàn cảnh và một quãng thời gian diệu vợi. Những khác biệt này
tạo nên một rào cản – một dòng sông chia cách chúng ta với bản văn và ngăn cản chúng ta nắm
bắt được ý nghĩa thật của bản văn cho chúng ta.
Cựu Ước lại là dòng sông rộng hơn nữa, chia cắt chúng ta với độc giả từ ngàn xưa. Giữa
độc giả Cựu Ước và độc giả Cơ Đốc ngày nay thay đổi trong giao ước. Chúng ta, là những tín
hữu Tân Ước đang ở dưới giao ước mới và đến với Đức Chúa Trời thông qua của lễ chuộc tội
của Đấng Christ. Dân sự trong thời Cựu Ước ở dưới giao ước cũ và trọng tâm của họ là luật pháp.
Nói cách khác, hoàn cảnh thần học giữa hai nhóm này khác nhau. Có một rào cản giao ước giữa
độc giả Cựu Ước và chúng ta vì chúng ta đang ở dưới một giao ước khác.
3
Do đó, dòng sông phân cách giữa bản văn Cựu Ước và chúng ta gồm văn hóa, ngôn ngữ,
hoàn cảnh, thời gian và giao ước. Chúng ta có nhiều điểm giống với độc giả thời Tân Ước hơn.
Dầu vậy, ngay cả trong thời Tân Ước, cũng có những điểm khác biệt về văn hóa, ngôn ngữ và
những hoàn cảnh khác biệt tạo nên những rào cản cho sự hiểu biết lời Chúa. Dòng sông thường
quá sâu, quá rộng để vượt qua.
Cơ Đốc Nhân ngày nay thường không chắc về cách họ giải kinh. Làm sao chúng ta có thể
hiểu Lê-vi-ký 19:19 về việc cấm mặc một áo có nhiều màu chỉ? Phải chăng Cơ Đốc Nhân vâng
theo Kinh Thánh thì phải mặc quần áo 100% vải cót tông sao? Trong Các Quan Xét 6:37, Ghê-
đê-ôn đặt một miếng lót chiên để xác nhận điều Đức Chúa Trời đã phán với ông. Điều này cũng
có nghĩa là chúng ta cần phải đặt một miếng lót chiên để tìm kiếm sự hướng dẫn của Chúa chăng?
Những phân đoạn trong Tân Ước cũng không hẳn rõ ràng hơn. Ví dụ việc Phi-e-rơ đi bộ
trên mặt nước trong Ma-thi-ơ 14:29. Điều này cũng có nghĩa là chúng ta có thể cố gắng đi trên
mặt nước để vâng lời Chúa Giê-xu không? Nếu không, thì điều này có nghĩa gì và làm sao chúng
ta có thể áp dụng vào đời sống của chúng ta ngày nay. Ngay cả khi chúng ta không thể đi trên
mặt nước thì làm sao chúng ta có thể vượt qua dòng sông ngăn cách giữa chúng ta với bản văn?
Bất cứ nỗ lực giải nghĩa và áp dụng Kinh Thánh là nỗ lực vượt qua dòng sông. Chúng ta
thông thường không dùng phương pháp giải kinh rõ ràng nhưng chỉ dùng cảm giác để giải nghĩa.
Nếu phân đoạn Kinh Thánh có thể áp dụng trực tiếp, chúng ta áp dụng trực tiếp. Nếu không thể
áp dụng trực tiếp, chúng ta thường hay thiêng liêng hóa ý nghĩa. Nếu không thể làm được gì nữa
thì chỉ biết lắc đầu, nhún vai rồi mở sang phân đoạn khác.
Những phương cách như vậy không thể giúp chúng ta đáp qua bờ sông bên kia một cách
an toàn được. Những người chỉ dùng cảm giác giải kinh thì giống như người cứ băng qua sông
với hi vọng là mực nước chỉ sâu tới đầu gối. Thỉnh thoảng may mắn thì có thể gặp vài đụn cát
nhưng rồi sẽ ngụp xuống nước sâu và bị dòng sông cuốn đi. Những người thiêng liêng hóa ý
nghĩa thì giống như những người nhảy thật mạnh qua tới bờ bên kia nhưng rồi phải rơi xuống
sông và bị cuốn trôi đi. Còn những người lắc đầu và bỏ qua ý nghĩa thì không bao giờ có thể
băng qua dòng sông được.
Nhiều người ngày nay không thỏai mái với những phương pháp trên. Họ thấy cần đến
phương pháp thích hợp để giải kinh nhưng cuối cùng cũng phải dùng những phương pháp đó đơn
giản vì họ không tìm thấy phương pháp nào khác. Làm sao chúng ta có thể chuyển từ thế giới
của độc giả thời Kinh Thánh qua thế giới của chúng ta ngày nay?
Quyển sách này giúp chúng ta vượt qua dòng sông này để đến với thế giới của chúng ta
ngày nay. Chúng ta cần một phương pháp hợp lý để giải kinh, không dựa vào cảm giác của
chúng ta. Chúng ta cần một phương pháp để tìm ý nghĩa từ trong bản văn, nhưng cũng có thể đưa
nó đến với hoàn cảnh Cơ Đốc của chúng ta hiện nay.
4
Chúng ta cũng cần một phương pháp nhất quán có thể áp dụng để giải nghĩa bất cứ phân
đoạn Kinh Thánh nào. Một phương pháp như vậy đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ thói quen nhảy cóc
từ đoạn này đến đoạn khác trong Kinh Thánh để tìm những đoạn có thể áp dụng được. Một
phương pháp nhất quán cho phép chúng ta đào sâu vào bất cứ phân đoạn Kinh Thánh nào với
một phương pháp để xác định ý nghĩa của đoạn Kinh Thánh đó cho chúng ta ngày nay. Chúng ta
cần học và hiểu Kinh Thánh một cách hợp lý và chính xác. Mục tiêu của sách này là giúp quý vị
trên hành trình vượt sông, chuyển quý vị từ bản văn và thế giới của độc giả trong Kinh Thánh
đến một sự hiểu biết và áp dụng thích hợp bản văn cho Cơ Đốc Nhân ngày nay.
Những Căn Bản của Cuộc Hành Trình
Hãy luôn nhớ mục tiêu của chúng ta là nắm bắt ý nghĩa của bản kinh văn mà Đức Chúa
Trời đã dự định. Chúng ta không tạo nên ý nghĩa bên ngoài bản kinh văn mà là khám phá ý nghĩa
có sẵn trong đó. Dầu vậy, chúng ta không thể áp dụng ý nghĩa cho độc giả cổ trực tiếp cho chúng
ta ngày nay vì dòng sông ngăn cách chúng ta (văn hóa, thời gian, hoàn cảnh, giao ước…). Những
bước trong Hành Trình Giải Kinh sau đây sẽ cung cấp cho chúng ta tiến trình đem ý nghĩa cho
độc giả cổ vượt qua sông để giúp chúng ta xác định được ý nghĩa hợp lý cho chúng ta ngày nay.
Hành trình này thực hiện trên căn bản công nhận Kinh thánh là Lời của Đức Chúa Trời
về chính mình Ngài và ý chỉ của Ngài cho chúng ta. Chúng ta phải tôn trọng Kinh Thánh và xem
Kinh Thánh là thánh vì đó là Lời của Đức Chúa Trời và vì Đức Chúa Trời tỏ chính mình Ngài
cho chúng ta thông qua lời này. Nhiều phân đoạn trong Kinh Thánh là những lời riêng biệt, rõ
ràng về những thực tế phổ thông và rộng rãi hay là những nguyên tắc thần học. Trong khi những
sự riêng biệt trong một đoạn Kinh Thánh nhất định chỉ có thể áp dụng cho một hoàn cảnh nhất
định cho một số độc giả nhất định, thì những nguyên tắc thần học được mặc khải trong đoạn
Kinh Thánh có thể được áp dụng cho mọi người của Đức Chúa Trời trong mọi thời điểm. Do đó,
nguyên tắc thần học có ý nghĩa và áp dụng cả cho độc giả Kinh Thánh thời cổ đại và cả cho Cơ
Đốc Nhân ngày nay.
Vì nguyên tắc thần học có ý nghĩa và áp dụng cho cả hai độc giả nên chức năng của nó là
làm cầu nối giữa hai bờ sông. Thay vì vượt sông bằng cảm giác hay nhảy qua thì chúng ta sử
dụng cây cầu nguyên tắc thần học để băng qua một cách an toàn. Xây dựng một cây cầu nguyên
tắc là một trong những bước quan trọng trong Hành Trình Giải Kinh.
Do đó, hành trình của chúng ta bắt đầu bằng việc đọc Kinh Thánh cẩn thận. Đích đến
cuối cùng của chúng ta là nắm bắt ý nghĩa của bản kinh văn để nó thay đổi cuộc đời của chúng ta.
Đó là một hành trình thú vị nhưng đòi hỏi công sức. Không có con đường tắt dễ dàng.
5
Hành Trình Giải Kinh bao gồm bốn bước:
Bước 1: Nắm Bắt Đoạn Kinh Thánh Trong Bối Cảnh Của Họ
Câu hỏi: Đoạn Kinh Thánh này có ý nghĩa gì đối với độc giả thời Kinh Thánh?
Phần đầu tiên của Bước 1 là đọc cẩn thận đoạn Kinh Thánh và quan sát nó. Trong Bước 1,
cố gắng quan sát đoạn Kinh Thánh càng nhiều càng tốt. Tìm, tìm, tìm lần nữa, quan sát tất cả
những chi tiết bạn có thể tìm được. Phân tích ngữ pháp và tất cả những từ ngữ quan trọng.
Nghiên cứu bối cảnh văn chương và lịch sử. Đoạn Kinh Thánh này liên hệ với những đoạn Kinh
Thánh trước và sau như thế nào?
Sau khi hoàn tất tất cả những nghiên cứu này, tổng hợp ý nghĩa của đoạn Kinh Thánh cho
độc giả thời Kinh Thánh vào một hay hai câu. Tức là viết lại ý nghĩa của đoạn Kinh Thánh đó
cho cho độc giả thời đó. Dùng động từ ở thì quá khứ và liên hệ chúng với độc giả thời Kinh
Thánh.
Ví dụ:
Đức Chúa Trời đã truyền lệnh cho dân Y-sơ-ra-ên trong Giô-suê 1 đến…
Phao-lô đã khuyên tín hữu tại Ê -phê-sô là phải…
Chúa Giê-xu đã khích lệ các môn đồ bằng cách…
Bước 2: Đo Chiều Rộng Của Dòng Sông
Câu hỏi: Có sự khác biệt gì giữa độc giả thời Kinh Thánh và chúng ta?
Như đã đề cập ở trên, Cơ Đốc Nhân ngày nay bị chia cách với độc giả thời Kinh Thánh
bởi sự khác biệt về văn hóa, ngôn ngữ, hoàn cảnh, thời gian và giao ước. Những khác biệt này
ngăn trở chúng ta chuyển thẳng ý nghĩa trong bối cảnh của họ đến ý nghĩa trong bối cảnh của
chúng ta. Dầu vậy, chiều rộng của dòng sông thay đổi theo phân đoạn Kinh Thánh. Thỉnh thoảng
nó rất rộng cần một cây cầu dài để bắt qua. Đôi khi rất hẹp, chỉ cần bước qua thôi. Điều quan
trọng là chúng ta cần biết chiều rộng của dòng sông để lập một cây cầu thích hợp để bước qua.
Trong bước 2, quý vị sẽ quan sát kỹ dòng sông và xác định chiều rộng của phân đoạn bạn
đang học. Trong bước này quý vị tìm những khác biệt quan trọng giữa hoàn cảnh của chúng ta
hôm nay và hoàn cảnh của độc giả thời Kinh Thánh. Nếu bạn đang nghiên cứu Cựu Ước, hãy
bảo đảm bạn nhận ra những khác biệt thần học đã ứng nghiệm trong cuộc đời và chức vụ của
Chúa Giê-xu.
Hơn nữa, dù Cựu hay Tân Ước, cố gắng nhận ra những khía cạnh độc đáo của hoàn cảnh
của phân đoạn của quý vị. Ví dụ, trong Giô-suê 1:1-9, dân Y-sơ-ra-ên chuẩn bị vào đất hứa.
6
Môi-se đã chết và Giô-suê được chỉ định thay thế Môi-se. Trong phân đoạn này, Đức Chúa Trời
phán với Giô-suê để khích lệ ông nên mạnh mẽ và trung tín trong công cuộc chinh phục đất hứa
sắp tới. Có những khác biệt nào? Chúng ta không bước vào đất hứa. Chúng ta không phải là
người lãnh đạo mới của dân Y-sơ-ra-ên. Chúng ta không ở dưới giao ước cũ.
Bước 3: Vượt Qua Cây Cầu Nguyên Tắc
Câu hỏi: Có những nguyên tắc thần học nào trong phân đoạn này?
Đây có lẽ là bước thách thức nhất. Trong phần này, quý vị đang tìm nguyên tắc thần học
đã được phản ánh trong ý nghĩa của phân đoạn Kinh Thánh mà quý vị vừa tìm thấy trong Bước 1.
Hãy nhớ rằng nguyên tắc thần học này là phần của ý nghĩa. Công việc của quý vị không phải là
tạo ra ý nghĩa mà là khám phá ý nghĩa gốc của tác giả. Khi Ngài ban cho những lời phán riêng
biệt cho một số độc giả riêng trong Kinh thánh thì Ngài cũng ban cho những sự dạy dỗ thần học
phổ thông cho tất cả mọi người qua cùng phân đoạn Kinh Thánh.
Để xác định được nguyên tắc thần học, trước hết phải tìm lại những khác biệt mà quý vị
mới tìm thấy trong Bước 2. Tiếp theo, cố gắng nhận ra những tương đồng giữa hoàn cảnh của
độc giả trong Kinh Thánh và hoàn cảnh của chúng ta. Ví dụ, xem Giô 1:1-9 lần nữa. Xem lại
những khác biệt mà chúng ta mới tìm thấy trong bước 2. Nhưng sau đó ghi lại những tương đồng
giữa hoàn cảnh trong Kinh Thánh và hoàn cảnh của chúng ta: Chúng ta cũng là dân sự của Đức
Chúa Trời, trong mối quan hệ giao ước (giao ước mới); chúng ta không phải là người lãnh đạo
của dân Y-sơ-ra-ên nhưng có thể đang ở trong vị trí lãnh đạo nào đó trong Hội Thánh; chúng ta
không chinh phục Đất Hứa nhưng chúng ta đang tìm cách để vâng theo ý chỉ của Đức Chúa Trời
và hoàn thành những gì Ngài đã truyền cho chúng ta.
Sau khi ôn lại những khác biệt và nhận ra những tương đồng, hãy trở lại với ý nghĩa cho
độc giả thời Kinh Thánh mà quý vị vừa mô tả trong Bước 1. Cố gắng nhận ra một nguyên tắc
thần học rộng hơn được tìm thấy trong đoạn Kinh Thánh. Nguyên tắc thần học này cũng phải
liên hệ đến sự tương đồng giữa chúng ta và độc giả Kinh Thánh. Chúng ta sẽ dùng nguyên tắc
thần học này để làm cầu nối nguyên tắc qua đó giúp chúng ta vượt qua rào cản của dòng sông.
Thêm vào đó, trong bước này, quý vị phải bước vào phần liên kết toàn phần. Tức là, quý
vị phải đi tới đi lui giữa phân đoạn Kinh Thánh đó và những sự dạy dỗ còn lại của Kinh Thánh.
Nguyên tắc thần học mà quý vị tìm thấy không chỉ hiện diện trong phân đoạn Kinh Thánh đó mà
thôi, nhưng nó cũng phải phù hợp với phần còn lại của Kinh Thánh. Chúng ta có thể tóm tắt lại
những tiêu chuẩn để hình thành nguyên tắc thần học như sau:
Nguyên tắc phải được phản ánh ngay trong đoạn Kinh Thánh.
Nguyên tắc phải vượt thời gian và không bị trói buộc với một tình huống nhất định nào.
7
Nguyên tắc không bị văn hóa ràng buộc.
Nguyên tắc phải thích ứng với sự dạy dỗ còn lại của Kinh Thánh.
Nguyên tắc phải thích hợp cả với độc giả thời Kinh Thánh và độc giả thời nay.
Viết lại nguyên tắc thần học đó trong một hoặc hai câu. Dùng động từ theo thì hiện tại.
Bước 4: Nắm Bắt Đoạn Kinh Thánh Trong Thời Đại của Chúng Ta
Câu hỏi: Từng Cơ Đốc Nhân ngày nay có thể áp dụng nguyên tắc thần học đó trong đời sống
của chúng ta như thế nào?
Trong bước 4 chúng ta áp dụng nguyên tắc thần học vào hoàn cảnh riêng biệt của từng
Cơ Đốc Nhân trong Hội Thánh ngày nay. Chúng ta không thể tìm thấy nguyên tắc thần học rồi
bỏ đó nhưng phải áp dụng nó trong hoàn cảnh của chúng ta. Làm sao áp dụng nó trong tình
huống thật trong cuộc sống của chúng ta hôm nay?
Đối với từng phân đoạn Kinh Thánh sẽ có chỉ một vài (hoặc một) nguyên tắc thần học
thích ứng cho mọi Cơ Đốc Nhân ngày nay, nhưng chúng có thể được áp dụng trong nhiều tình
huống khác nhau. Lý do là Cơ Đốc Nhân ngày nay đang sống trong nhiều hoàn cảnh khác biệt.
Mỗi chúng ta phải nắm bắt và áp dụng cùng nguyên tắc thần học trong nhiều cách khác nhau, tùy
vào hoàn cảnh sống hiện tại của mình và mức độ mối quan hệ của mỗi người với Đức Chúa Trời.
Trong phần minh họa của chúng tôi, chúng tôi đang cố gắng trình bày những áp dụng khác nhau
bằng cách trình bày từng người đi vào nhiều con đương khác nhau. (Chúng ta sẽ thảo luận điều
này kỹ hơn trong chương 12).
Do đó, Hành Trình Giải Kinh như thế này:
Bước 1: Nắm bắt được đoạn Kinh Thánh trong thời xưa. Đoạn Kinh Thánh này có ý nghĩa gì đối
với những độc giả trong thời Kinh Thánh?
Bước 2: Đo được chiều rộng của dòng sông. Có những sự khác biệt nào giữa độc giả thời Kinh
Thánh với chúng ta?
Bước 3: Vượt qua cây cầu nguyên tắc. Có những nguyên tắc thần học nào trong đoạn Kinh
Thánh này?
Bước 4: Nắm bắt được phân đoạn Kinh Thánh trong thời của chúng ta. Từng Cơ Đốc Nhân ngày
nay áp dụng nguyên tắc thần học đó trong đời sống của mình như thế nào?
8
Một Ví Dụ - Giô-suê 1:1-9
Chúng ta đã đề cập đến phân đoạn Kinh thánh này nhiều lần. Chúng ta hãy cùng thực
hiện một hành trình giải kinh từ phân đoạn Kinh Thánh Cựu Ước đến cuộc sống của chúng ta
ngày nay để minh họa cho Hành Trình Giải Kinh của chúng ta.
Bước 1: Đoạn Kinh thánh này có ý nghĩa gì đối với độc giả thời đó?
Chúa truyền lệnh cho Giô-suê, nhà lãnh đạo mới của dân Y-sơ-ra-ên, để thêm sức và
lòng can đảm qua sự hiện diện đầy quyền năng của Ngài, để ông vâng theo luật pháp của Môi-se
và để suy gẫm luật pháp ấy hầu cho ông được thành công trong công cuộc chinh phục đất hứa.
Bước 2: Những sự khác biệt nào giữa thời Kinh thánh và thời của chúng ta?
Chúng ta không phải là nhà lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên (dầu một vài người trong chúng
ta đang là lãnh đạo trong Hội Thánh). Chúng ta cũng không phải chinh phục xứ Ca-na-an, vùng
đất hứa. Chúng ta cũng không phải ở dưới luật pháp.
Bước 3: Nguyên tắc thần học nào được tìm thấy trong phân đoạn Kinh thánh này?
Để hiệu quả trong việc phục vụ Chúa và thành công trong công tác Ngài gọi chúng ta,
chúng ta cần phải tìm sức mạnh và lòng can đảm từ trong sự hiện diện của Chúa. Chúng ta cũng
phải vâng lời Đức Chúa Trời và suy gẫm lời đó thường xuyên.
Bước 4: Từng Cơ Đốc Nhân ngày nay áp dụng nguyên tắc thần học đó cho đời sống của mình
như thế nào?
Có nhiều áp dụng. Sau đây là vài gợi ý:
Dành nhiều thời gian hơn để suy gẫm lời của Chúa.
Nếu Đức Chúa Trời kêu gọi tôi vào một chức vụ mới, như đi truyền giáo, giảng dạy, tôi
cần tìm sức mạnh từ nơi Chúa. Vâng phục Ngài và tập trung vào Lời của Chúa.
Nếu tôi đang là người lãnh đạo trong Hội thánh, tôi cần phải nhận biết rằng người lãnh
đạo Cơ Đốc thành công là người tìm kiếm sức mạnh và lòng can đảm từ nơi Chúa.
Hành Trình Giải Kinh và Nắm Bắt Lời Của Đức Chúa Trời
Hành Trình Giải Kinh thật sự là trọng tâm của sách này. Trong Phần 1, chúng ta sẽ học
cách quan sát và đọc cẩn thận. Chúng ta sẽ bắt đầu với những phân đoạn ngắn hơn (chương 2)
rồi sau đó chuyển qua phân đoạn dài và phức tạp hơn (ch. 3 và 4).
Trong phần 2, chúng ta sẽ dành thời giờ thảo luận bối cảnh, cả trong thời Kinh Thánh lẫn
trong thời của chúng ta. Chúng ta sẽ đi vào phần tiền hiểu biết trong chương 5 (ví dụ, bối cảnh
của chúng ta). Sau đó chúng ta khai phá bối cảnh văn hóa/lịch sử, văn chương trong chương 6&7.
9
Chúng ta cũng học cách học Kinh thánh theo từ ngữ trong những bối cảnh này (ch. 9). Tất cả
những chương này giúp cung cấp cho chúng ta những kỷ năng cần thiết để bắt đầu bước vào
Bước 1.
Phần 3 tập trung vào lý thuyết cần thiết để nhận ra và xây dựng cây cầu nguyên tắc để
vượt qua dòng sông khác biệt, đồng thời nắm bắt được ý nghĩa của phân đoạn Kinh thánh giúp
thay đổi cuộc đời chúng ta trong thế giới hiện đại. Chương 10 nói đến định nghĩa của ý nghĩa và
ai là người điều khiển ý nghĩa (độc giả hay tác giả?). Chương 11 đi vào vài vấn đề liên quan đế
nguyên tắc thần học và quan niệm về ý nghĩa. Có mức độ sâu hơn của ý nghĩa không? Có nhiều
ý nghĩa hay chỉ một ý nghĩa trong một phân đoạn Kinh Thánh. Chương 12 nói đến vai trò của
Đức Thánh Linh trong suốt tiến trình giải kinh. Bước 4 (áp dụng) trong chương 13 giúp chúng ta
chuyển từ tri thức của đầu óc xuống hành vi thực sự của chúng ta và thay đổi nó. Nói cách khác,
trong khi chương 1 giới thiệu cho quý vị về Hành Trình Giải Kinh, thì phần còn lại của phần 1
cũng như phần 2 và phần 3 mở rộng Hành trình này. Nó giải thích chi tiết hơn những vấn đề giải
kinh mà chúng ta sẽ phải đối diện trong suốt hành trình này.
Trong Phần 4, chúng ta sẽ cùng Giải Kinh phần Tân Ước. Trong phần này chúng ta sẽ
không còn học về lý thuyết như ở phần 3 nhưng chuyển qua thực hành việc giải kinh và áp dụng
Tân Ước. Chúng ta sẽ cùng thực hành nhiều thể loại văn chương khác nhau trong Tân Ước.
Chương 14-17 sẽ học cách giải kinh lần lượt các Thư Tín, Sách Phúc Âm, Công vụ và Khải
huyền. Những chương này sử dụng lại mọi điều quý vị đã được học trong phần 1-3 và giúp cho
quý vị biết cách áp dụng những kỹ năng mới vào Tân Ước.
Cuối cùng phần 5 nói đến những thách thức và cơ hội khi giải kinh và áp dụng Cựu Ước.
Trước hết trong phần giới thiệu, chúng ta đã lượt lại những bước của Hành Trình để thích hợp
với hoàn cảnh trong Cựu Ước hơn. Sau đó, như trong Phần 4, chúng tôi sẽ giúp quý vị thực hành
với nhiều thể loại văn chương khác nhau trong Cựu Ước. Chương 18-22 dẫn chúng ta đến nhiều
thể loại văn chương trong Cựu Ước, văn xuôi, luật pháp, thơ ca, tiên tri và văn chương khôn
ngoan.
Quý vị đã sẵn sàng để bước vào Hành Trình Giải Kinh và áp dụng đầy thú vị này chưa?
Có nhiều phân đoạn Kinh Thánh thú vị đang chờ quý vị. Hãy làm việc chăm chỉ! Phần thưởng sẽ
lớn lắm.
Bài Tập:
1. Mô tả bốn bước trong Hành Trình Giải Kinh
2. Những hướng dẫn trong việc phát triển những nguyên tắc thần học là gi?
3. Những khác biệt xác định chiều rộng của dòng sông là gì?
10
Chương 2
Cách Đọc Kinh Thánh - Câu
Lời Giới Thiệu
Nếu có ai đó mời bạn ăn tối, bạn sẽ mong được ăn thức ăn gì? Bạn đoán mình sẽ ăn món
gì? Chúng ta thường rất dễ thoải mãn. Cho tôi một đĩa thịt bò bít tết với khoai tây là đủ rồi. Thêm
một ít rau. Trên cùng là cái bánh táo, dâu… Chúng ta cũng không đòi hỏi lắm. Chúng ta cũng
thích bách mì, pizza hay là mì Ý, sườn nướng và những loại thức uống khác.
Còn bạn thì sao? Bạn sẽ mong thức ăn nào? Nếu mong đợi của bạn không được đáp ứng
thì bạn sẽ phản ứng thế nào? Giả dụ nếu bạn đến nhà của một người bạn và người ấy đãi bạn
món cháo của trẻ em thì bạn sẽ như thế nào? Đấy là thức ăn bổ dưỡng cho trẻ em sáu tháng tuổi.
Nhưng bạn không phải trẻ em sáu tháng tuổi. Bạn mong đợi một vài loại thức ăn mà bạn nhai
thấy ngon hơn. Thức ăn trẻ em có thể làm bạn thất vọng và tình bạn cũng có thể bị sứt mẻ.
Học Kinh Thánh cũng tương tự như vậy. Nếm Lời của Đức Chúa Trời cũng giống như
thưởng thức món ăn. Chúng ta mong đợi ăn một cái gì đó bổ dưỡng, chất lượng, hợp với mức
trưởng thành của mình. Chúng ta muốn đào sâu vào món ăn. Nhưng thường chúng ta chỉ có thể
ăn được vài món của trẻ em. Điều này không có nghĩa là tại vì thịt nhưng tại vì chúng ta không
có khả năng để ăn thịt và thưởng thức nó. Chúng ta không hưởng lấy chất bổ từ lời của Chúa
không phải tại vì Kinh thánh mà tại vì chúng ta không có khả năng để thưởng thức nó. Thật sự,
nhiều Cơ Đốc Nhân ngày nay quá quen với thức ăn trẻ con nên không còn muốn thức ăn cứng
hơn. Còn bạn thì sao? Bạn có mong ước đào sâu vào Lời của Đức Chúa Trời không? Bạn có
mong ước những thức ăn chất lượng hơn không? Mục đích của chúng tôi trong sách này là giúp
bạn “ăn ngon”.
Vì vậy, chúng ta hãy bắt đầu!
Nếu bạn đi thẳng từ phần đọc phân đoạn Kinh thánh đến phần áp dụng phân đoạn đó, bạn
sẽ bị những hiểu biết trước đây về phần Kinh Thánh đó chi phối bạn. Bạn ít khi tìm thấy điều
mới mẻ hay thú vị trong đoạn đó và bạn sẽ chán Kinh thánh. Những kiến thức cũ của bạn qua các
bài giảng và dạy sẽ giết chết khả năng tìm kiếm những sự dạy dỗ mới từ Kinh thánh. Kinh thánh
là Lời của Đức Chúa Trời và không bao giờ làm bạn chán. Chúng ta đơn giản cần học cách đọc
nó với sự hiểu biết.
Một khi chúng ta thay vì đọc chiếu lệ nhưng đọc nghiêm túc thì phân đoạn Kinh Thánh
đó mở ra cho chúng ta và chúng ta sẽ tìm được những báu vật từ phân đoạn đó mãi mãi. Mỏ vàng
Kinh thánh vô tận. Nhưng chúng ta phải kiên nhẫn đào. Chúng ta không thể đơn giản nhảy vào
11
trong mỏ, lấy chân tìm vài cục đá và cho rằng mình đã tìm được tất cả trong mỏ đó. Đó là cách
mà nhiều Cơ Đốc Nhân ngày nay đọc Kinh Thánh. Họ thất vọng trong việc đọc Kinh Thánh là
phải lắm. Cũng không khó hiểu sao lời giảng dạy của họ cạn cợt.
Nếu bạn muốn đào được vàng thật từ trong Kinh Thánh- nếu bạn mong ước nhận được
lời Hằng Sống làm thỏa mãn bạn, bạn phải nỗ lực. Phải nỗ lực! Chính bạn là người quyết định
bạn muốn thức ăn của trẻ em hay là thức ăn của người lớn tùy vào nỗ lực học Kinh thánh cá nhân
của bạn.
Đọc Nghiêm Túc và Những Lá Thư Tình
Đọc nghiêm túc là gì? Xem xét đọc đoạn sau về “độc giả nghiêm túc”
Cách Đọc Một Lá Thư Tình
Chàng thanh niên này vừa mới nhận được lá thư tình đầu tiên của mình. Anh ta
đọc nó ba hay bốn lần rồi, nhưng chỉ là mới khởi đầu đọc. Để đọc nó một cách hết sức
chính xác, anh ta phải dùng đến vài quyển từ điển và nhiều sách hỗ trợ từ những chuyên
gia về ngôn ngữ học và hàm nghĩa học.
Dầu vậy, anh ta có thể đọc được hết mà không cần những thứ đó.
Anh ta chăm chú vào từng nghĩa đen và bóng của từng từ và từng dấu. Đầu thư, cô ta đề,
“anh Mạnh Hà yêu dấu!” Anh ta tự hỏi mình: “Chính xác từ này quan trọng như thế nào?”
Cô ta chưa dùng từ “yêu quý nhất” vì cô ta còn e thẹn hay sao? Có phải từ “Yêu dấu” có vẻ
trang trọng quá không?
Có lẽ cô ta cũng có thể ghi “A-B yêu dấu” cho bất cứ người nào! Anh ta bắt đầu nhíu mày
lo lắng. Nhưng nỗi lo đó biến mất ngay khi anh ta nghĩ đến câu đầu tiên. Cô ta chắc chắn sẽ
không viết cho ai như vậy đâu.
Và anh ta bắt đầu đọc lá thư. Thi thoảng anh ta vui sướng như lên mây. Thi thoảng anh lại
nhăn mặt đau khổ. Hàng trăm câu hỏi đến trong đầu anh ta. Anh ta có thể thuộc lầu nó từng
câu. Thực sự anh ta còn tiếp tục đọc nó nhiều tuần sau nữa!
Chàng trai si tình này là một độc giả lý tưởng vì anh ta tập trung vào mọi chi tiết của bản
văn, ngay cả chi tiết nhỏ nhất. Một trong những kỹ năng quan trọng trong việc đọc Kinh Thánh
là khả năng nhìn thấy những chi tiết. Nhiều người trong chúng ta đọc Kinh Thánh quá nhanh và
bỏ qua nhiều chi tiết trong phân đoạn Kinh Thánh. Nhưng ý nghĩa của Kinh Thánh nằm sâu
trong những chi tiết của mỗi câu. Bước đầu tiên của chúng ta trong việc nắm bắt đoạn Kinh
Thánh là quan sát càng nhiều chi tiết càng tốt. Chúng ta muốn nhìn thấy càng nhiều càng tốt.
Trong giai đoạn đầu của phần phân tích, cố gắng tránh giải thích hay áp dụng. Những bước này
12
là quan trọng nhưng đến sau, sau bước quan sát. Bước đầu của chúng ta là đọc kỹ, ghi chú lại
càng nhiều chi tiết càng tốt.
Làm sao chúng ta có thể phát triển được kỹ năng quan sát Kinh Thánh? Chúng ta đọc
phân đoạn đó nhiều lần và ghi lại càng nhiều chi tiết càng tốt. Có nhiều điểm căn bản để tìm
kiếm trong phần quan sát. Những điểm này gồm: những từ lặp, so sánh, đối chiếu, bảng liệt kê,
nhân quả, cách nói, từ nối, động từ và đại từ. Đây chỉ là vài điểm bạn dùng để nghiên cứu. Quan
sát bao gồm việc tìm mọi chi tiết một cách cẩn thận trong phân đoạn.
Luôn nhớ rằng chúng ta chưa hỏi câu hỏi: “Phân đoạn này có nghĩa gì?” nhưng chỉ hỏi:
“Phân đoạn này nói về điều gì?” Chúng ta chưa bắt đầu khai phá phần ứng dụng của phần quan
sát. Cũng đừng giới hạn phần quan sát của bạn với cái gọi là ý tưởng sâu sắc hay đặc điểm quan
trọng. Trong phần quan sát, chúng ta muốn nhìn thấy mọi thứ, mọi chi tiết. Phần sau của sách
này sẽ chỉ cho chúng ta cách để tìm ý nghĩa trong những chi tiết vừa tìm được.
Một điều khác cần nhớ khi bắt đầu ấy là đọc và giải nghĩa là một sự kết hợp của việc
phân tích những mảng nhỏ và lớn của phân đoạn Kinh thánh. Chúng ta phải hiểu được những
phần nhỏ của phân đọan (từ ngữ, câu) để hiểu được những phần lớn hơn (đoạn, chương, câu
chuyện). Những mảng lớn hơn cũng cung cấp bối cảnh quan trọng để hiểu được những mảng nhỏ
hơn. Vì vậy tiến trình này đòi hỏi cả hai – đọc tổng thể để nắm lấy toàn cảnh và sau đó phân tích
từng phần để tìm ý nghĩa của chi tiết.
Chương 1, Hành Trình Giải Kinh, nói về một bức tranh tổng thể. Những chương tiếp theo
sẽ tập trung vào việc đọc và quan sát những phần nhỏ. Chương này nhấn mạnh đến việc đọc kỹ
những phần nhỏ của phân đoạn, tập trung vào mức độ câu. Chúng ta sẽ đi đến mức độ phân đoạn
trong chương 3 và nhiều phân đoạn (đoạn) trong chương 4.
Hãy làm việc chăm chỉ! Đào sâu! Yến tiệc đang chờ bạn!
Những Điều Cần Tìm Trong Câu
1. Những Từ Lặp
Tìm những từ lặp đi lặp lại nhiều lần. Trước hết, ghi lại những từ lặp đi lặp lại nhiều lần
trong câu bạn đang nghiên cứu. Sau đó, khảo sát những câu xung quanh đoạn Kinh Thánh bạn
đang đọc để tìm những từ lặp trong phân đoạn lớn hơn.
Ví dụ, xem I Giăng 2:15-17
15 Chớ yêu thế gian, cũng đừng yêu các vật ở thế gian nữa; nếu ai yêu thế gian, thì sự
kính mến Đức Chúa Cha chẳng ở trong người ấy. 16 Vì mọi sự trong thế gian, như sự mê
tham của xác thịt, mê tham của mắt, và sự kiêu ngạo của đời, đều chẳng từ Cha mà đến,
13
nhưng từ thế gian mà ra. 17 Vả thế gian với sự tham dục nó đều qua đi, song ai làm theo ý
muốn Đức Chúa Trời thì còn lại đời đời.
Từ nào lặp trong câu đầu? Từ này (“thế gian”) có xuất hiện trong câu tiếp theo không?
Từ “thế gian” có xuất hiện nhiều lần trong phân đoạn này không? Nó có trong mỗi câu không?
Bạn có để ý đến từ “yêu” cũng được lặp lại nhiều lần không? “Yêu” xuất hiện bao nhiêu lần? Khi
quan sát những từ lặp, chúng ta có những ý tưởng sơ khởi về nội dung của đoạn Kinh Thánh nói
về gì. Có điều gì đó cần làm với thế gian – đặc biệt, về yêu thế gian.
Chúng ta hãy cùng thử một đoạn khác. Cùng đọc cẩn thận II Cô-rinh-tô 1:3-7:
3 Chúc tạ Đức Chúa Trời, Cha Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, là Cha hay thương xót, là Đức
Chúa Trời ban mọi sự yên ủi. 4 Ngài yên ủi chúng tôi trong mọi sự khốn nạn, hầu cho nhơn sự yên
ủi mà Ngài đã yên ủi chúng tôi, thì chúng tôi cũng có thể yên ủi kẻ khác trong sự khốn nạn nào họ
gặp! 5 Vì như những sự đau đớn của Đấng Christ chan chứa trong chúng tôi thể nào, thì sự yên ủi
của chúng tôi bởi Đấng Christ mà chứa chan cũng thể ấy. 6 Như vậy, hoặc chúng tôi gặp hoạn nạn,
ấy là cho anh em được yên ủi và được rỗi; hoặc chúng tôi được yên ủi, ấy là cho anh được em yên ủi,
mà sự yên ủi đó được hiện ra bởi anh em chịu cách nhịn nhục những sự đau đớn mà chúng tôi cùng
chịu. 7 Sự trông cậy của chúng tôi về anh em thật vững vàng; vì biết rằng bởi anh em có phần trong
sự đau đớn, thì cũng có phần trong sự yên ủi vậy.
Đọc lại câu đầu. Bao nhiêu lần từ “yên ủi” xuất hiện? Bốn lần! Trong một câu! Bạn đã
nhìn thấy rõ: đoạn này có điều gì đó cần làm với sự yên ủi. Có gì nữa không? Nhìn phần còn lại
của phân đoạn này. Bao nhiêu lần từ “yên ủi” tái xuất hiện? Có trong mỗi câu không? Từ “yên
ủi” có được dùng giống nhau trong mỗi lần xuất hiện không? Từ “yên ủi” được dùng như một
động từ ở đâu và một danh từ ở đâu? Có những trợ từ nào được dùng với từ “yên ủi” và chúng
thay đổi như thế nào (“mọi sự yên ủi”, “yên ủi chúng tôi”, “yên ủi kẻ khác”)? Ai được yên ủi? Ai
yên ủi? Cũng xem từ “khốn nạn”. Câu nào đề cập đến “khốn nạn”? Từ “khốn nạn” xuất hiện bao
nhiêu lần? Ai khốn nạn? Có liên hệ gì giữa khốn nạn và yên ủi?
Xem sự lặp lại của vài đoạn khác. Ví dụ, chú ý đến số lần những từ này được lặp lại trong
những phần sau:
Giăng 15:1-10 (tìm từ “ở trong”)
Ma-thi-ơ 6:1-18 (tìm từ “cha”)
I Cô-rinh-tô 15:50-54 (tìm từ “sự hư nát” và “sự không hay hư nát”)
14
2. Đối Lập
Tìm những ý tưởng hay cá nhân đối lập nhau. Ví dụ tìm trong Châm ngôn 14:31:
Kẻ hà hiếp người nghèo khổ làm nhục Đấng Tạo hóa mình;
Còn ai thương xót người bần cùng tôn trọng Ngài.
Hai dạng người khác nhau được đối chiếu trong câu này, cả trong cách họ đối xử với
người nghèo và trong cách hành vi của họ đối với người phản ánh thái độ của họ với Đức Chúa
Trời. Một dạng người hà hiếp người nghèo, một hành động làm nhục Đức Chúa Trời, Đấng Tạo
Hóa. Một dạng người khác là thương xót người nghèo, hành động của người đó với người nghèo
là tôn trọng Đức Chúa Trời.
Còn trong Châm ngôn 15:1
Lời đáp êm nhẹ làm nguôi cơn giận; Còn lời xẳng xớm trêu thạnh nộ thêm.
Các trước giả trong Tân Ước cũng thường dùng hình thức đối lập. Đọc Rô-ma 6:23 và
nhận ra hai đối chiếu:
Vì tiền công của tội lỗi là sự chết nhưng sự ban cho của Đức Chúa Trời là sự sống đời đời
trong Đức Chúa Giê-xu Christ, Chúa chúng ta.
Đối lập trong Ê -phê-sô 5:8:
Vả, lúc trước anh em đang còn tối tăm, nhưng bây giờ đã nên người sáng láng trong Chúa.
Tương tự, Giăng dùng đối lập giữa sự sáng/sự tối và phát triển nó trong nhiều câu trong I
Giăng 1:5-7:
5 Nầy là lời truyền giảng mà chúng tôi đã nghe nơi Ngài và truyền lại cho anh em rằng
Đức Chúa Trời là sự sáng, trong Ngài chẳng có sự tối tăm đâu. 6 Ví bằng chúng ta nói
mình được giao thông với Ngài, mà còn đi trong sự tối tăm, ấy là chúng ta nói dối và
không làm theo lẽ thật. 7 Nhưng, nếu chúng ta đi trong sự sáng cũng như chính mình
Ngài ở trong sự sáng, thì chúng ta giao thông cùng nhau; và huyết của Đức Chúa Jêsus,
Con Ngài, làm sạch mọi tội chúng ta.
Đối lập chính trong phân đoạn này là gì? “Sự sáng” và “sự tối”. Chúng ta có thể nói chi
tiết hơn về bản chất của sự đối lập này không? Có. Hãy nhớ rằng đối lập chỉ ra hai phần: (1) bản
chất của Đức Chúa Trời (sự sáng và không có sự tối) và (2) hành động bước đi của chúng ta
(trong sự sáng đối lập với trong sự tối).
3. So Sánh
Đối lập tập trung vào sự khác biệt. Còn so sánh tập trung vào sự tương đồng. Tìm những
ý tưởng hay cá nhân được so sánh với nhau.
15
Châm ngôn 25:26 là một điển hình:
Người công bình xiêu tó trước mặt kẻ gian ác, Khác nào một suối nước bị dấy đục, một
nguồn nước bị hư.
Làm thế nào người công bình xiêu tó trước mặt kẻ gian ác lại được ví như dòng suối bị
dấy đục? Bởi vì dòng suối, như con người, trước đây được sạch, tinh khiết và hữu dụng, nhưng
bây giờ bị vẫn đục và vô dụng.
Trong Gia-cơ 3:3-6 cái lưỡi được so sánh với ba điều. Điều đó là gì?
Chúng ta tra hàm thiếc vào miệng ngựa, cho nó chịu phục mình, nên mới sai khiến cả và
mình nó được. 4 Hãy xem những chiếc tàu: dầu cho lớn mấy mặc lòng, và bị gió mạnh
đưa đi thây kệ, một bánh lái rất nhỏ cùng đủ cạy bát nó, tùy theo ý người cầm lái. 5 Cũng
vậy, cái lưỡi là một quan thể nhỏ, mà khoe được những việc lớn. Thử xem cái rừng lớn
chừng nào mà một chút lửa có thể đốt cháy lên! 6 Cái lưỡi cũng như lửa; ấy là nơi đô hội
của tội ác ở giữa các quan thể chúng ta, làm ô uế cả mình, đốt cháy cả đời người, chính
mình nó đã bị lửa địa ngục đốt cháy.
Cuối cùng một so sánh tuyệt vời trong Ê-sai 40:31. Sự phục hồi sức lực từ việc đặt hi
vọng vào Chúa được so sánh với chim ưng:
Nhưng ai trông đợi Đức Giê-hô-va thì chắc được sức mới, cất cánh bay cao như chim ưng;
chạy mà không mệt nhọc, đi mà không mòn mỏi.
4. Bảng Liệt Kê
Bất cứ khi nào bạn gặp hơn hai điểm thì bạn có thể xem chúng như là một bảng liệt kê.
Viết bảng liệt kê xuống và khám phá tầm quan trọng của chúng. Có thứ tự nào không? Có những
điểm nào được nhóm lại trong một cách nào đó không? Ví dụ, ba điều nào được liệt kê trong I
Giăng 2:16?
Vì mọi sự trong thế gian, như sự mê tham của xác thịt, mê tham của mắt, và sự kiêu ngạo
của đời, đều chẳng từ Cha mà đến, nhưng từ thế gian mà ra.
5. Nhân Quả
Thông thường tác giả Kinh thánh nói đến nguyên nhân trước rồi đề cập đến kết quả sau.
Chúng ta đã xem Châm ngôn 15:1 ở trên và thấy câu này có sự đối lập. Nó cũng có hai quan hệ
nhân-quả. Hãy cùng nhìn lại:
Lời đáp êm nhẹ làm nguôi cơn giận; Còn lời xẳng xớm trêu thạnh nộ thêm.
Nguyên nhân đầu tiên là “lời đáp êm dịu”. Kết quả của nguyên nhân này là gì? “Làm
nguôi cơn giận”. Nguyên nhân thứ hai là “lời xẳng xớm”. Hậu quả là gì? “trêu thạnh nộ thêm”.
16
Chúng ta cùng xem Rô-ma 6:23 lần nữa:
Vì tiền công của tội lỗi là sự chết nhưng sự ban cho của Đức Chúa Trời là sự sống đời đời
trong Đức Chúa Giê-xu Christ, Chúa chúng ta.
Trong phân đoạn này “tội lỗi” là nguyên nhân, còn “sự chết” là hậu quả. Tương tự, đọc
Rô-ma 12:2:
Đừng làm theo đời nầy, nhưng hãy biến hóa bởi sự đổi mới của tâm thần mình, để thử cho
biết ý muốn tốt lành, đẹp lòng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời là thể nào.
Nguyên nhân là gì? “Biến hóa bởi sự đổi mới của tâm thần mình”. Hiệu quả liên
quan? Khả năng nhận biết ý muốn của Chúa.
Nhân quả trong Giăng 3:16 là gì? Có nhiều hơn một mối quan hệ nhân-quả:
Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai
tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời.
Mối quan hệ nhân-quả đóng vai trò quan trọng trong Kinh Thánh. Hãy chú ý đến nó.
6. Cách Ngôn
Cách ngôn là những hình ảnh trong đó những từ ngữ được dùng theo một ý nghĩa khác
hơn nghĩa đen và thông thường. Ví dụ nghĩ về hình ảnh đèn trong Thi thiên 119:105:
Lời Chúa là ngọn đèn cho chơn tôi
Ánh sáng cho đường lối tôi.
Lời Đức Chúa Trời không phải là một “cây đèn” theo nghĩa đen để xua tan bóng tối.
Nhưng nó là một cây đèn theo nghĩa bóng, giúp chúng ta nhìn thấy con đường của cuộc đời
(chân, đường lối) một cách rõ ràng. Nên nhớ rằng cả “đèn” và “chân/ đường lối” là cách ngôn.
Khi bạn quan sát đoạn Kinh Thánh, hãy chú ý đến cách ngôn. Cố gắng nhận ra cách ngôn.
Tự hỏi chính mình: “Tác giả đang cố gắng chuyển tải đến chúng ta bằng cách ngôn qua hình ảnh
nào?” Ví dụ, cùng xem Ê-sai 40:31 lần nữa”
Nhưng ai trông đợi Đức Giê-hô-va
thì chắc được sức mới,
cất cánh bay cao như chim ưng;
chạy mà không mệt nhọc,
đi mà không mòn mỏi.
“Cất cánh bay cao như chim ưng” là hình thức cách ngôn. Bạn có nhìn thấy hình ảnh cất cánh
bay cao… trên bầu trời ấm áp…bay vô hạn chưa?
17
Cách ngôn là những hình thức văn chương mạnh mẽ vì chúng vẽ lên những hình ảnh mà
chúng ta có thể liên hệ đến cảm xúc. Những hình ảnh này có thể là những phước hạnh, như cánh
chim ưng trong Ê-sai 40, nhưng cũng có thể là những hình ảnh phán xét. Ví dụ, xem hình ảnh
trong Ma-thi-ơ 23:27 và mô tả cảm xúc của mình khi phản ứng lại với hình ảnh này:
Khốn cho các ngươi, thầy thông giáo và người Pha-ri-si, là kẻ giả hình! vì các ngươi giống như
mồ mả tô trắng bề ngoài cho đẹp, mà bề trong thì đầy xương người chết và mọi thứ dơ dáy.
Kinh Thánh có nhiều cách ngôn, cả trong Cựu Ước và Tân Ước. Hãy đọc những phân
đoạn sau. Sau khi đọc xong từng phân đoạn và nhận ra những hình thức cách ngôn. Sau đó dừng
lại ở từng cách ngôn. Cố gắng hình dung ra hình ảnh này. Bạn nhìn thấy gì?
Đức Giê-hô-va là hòn đá tôi, đồn lũy tôi, Đấng giải cứu tôi; Đức Chúa Trời là hòn đá tôi,
nơi Ngài tôi sẽ nương náu mình; Ngài cũng là cái khiên tôi, sừng cứu rỗi tôi, và là nơi náu
ẩn cao của tôi. (Thi thiên 18:2)
Tôi đã trồng, A-bô-lô đã tưới, nhưng Đức Chúa Trời đã làm cho lớn lên. (I Cô.3:6)
Hỡi Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-sa-lem, ngươi giết các tiên tri, và quăng đá các đấng chịu sai
đến cùng ngươi, bao phen ta muốn nhóm họp con cái ngươi, như gà mái túc và ấp con
mình dưới cánh, mà các ngươi chẳng muốn! (Luca 13:34)
Chúng ta thảy đều như chiên đi lạc, ai theo đường nấy; Đức Giê-hô-va đã làm cho tội lỗi
của hết thảy chúng ta đều chất trên người. (Ê -sai 53:6)
7. Từ Nối
Hãy tưởng tượng đoạn Kinh Thánh giống như một cái nhà bằng gạch và những từ nối là
chất keo dính những viên gạch (ngữ, câu) lại với nhau. Một thao tác quan trọng của việc đọc kỹ
là ghi lại tất cả những từ nối (“và”, “vì”, “nhưng”, “do đó”, “bởi vì”…). Chúng ta thường hay bỏ
qua những từ đó. Không có chất keo, những viên gạch sẽ đổ ra thành một đống ngỗn ngang. Do
đó, luôn ghi lại những từ nối và nhận ra mục đích và chức năng của nó. Tức là cố gắng xác định
xem thử những từ nối này đang kết nối những điều gì.
Ví dụ, nếu bạn gặp từ “nhưng” bạn sẽ nghĩ ngay đến sự đối lập. Hãy xem trong phân
đoạn đó có những đối lập gì. Xem lại Rô-ma 6:23:
Vì tiền công của tội lỗi là sự chết,nhưng sự ban cho của Đức Chúa Trời là sự sống đời đời
trong Đức Chúa Giê-xu Christ, Chúa chúng ta.
Từ nối “nhưng” xác định một sự đối lập giữa tiền công của tội lỗi (sự chết) và sự ban cho
của Đức Chúa Trời (sự sống đời đời).
18
“Do đó” hay “vì vậy” thường là một kết luận dựa trên những biện luận và những lý do
phía trên. Khi bạn gặp từ “vậy”, hãy đọc lại phần Kinh Thánh phía trên và xác định những lý do
trên là gì. Thỉnh thoảng lý do dễ thấy, nằm rõ ràng trong những câu trước. Dầu vậy, có những lý
do khó thấy. Nó có thể nằm ở phần biện luận lớn hơn ở vài chương phía trước.
Rô-ma 12:1 là minh họa cho dạng khó tìm này:
Vậy, hỡi anh em, tôi lấy sự thương xót của Đức Chúa Trời khuyên anh em dâng thân thể
mình làm của lễ sống và thánh, đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là sự thờ phượng phải lẽ của
anh em.
Từ “vậy” ở phần đầu của đoạn 12, nối câu này với mười một đoạn phía trước. Trong
mười một đoạn đầu, Phao-lô đã bàn luận về thần học – sự kiện tuyệt vời về sựu cứu rỗi của
chúng ta bởi ân điển qua đức tin. Trong đoạn 12, ông chuyển đề tài sang hành vi. Chúng ta phải
hành động thế nào? Chúng ta phải sống ra sao? Từ “vậy” trong 12:1 nối bản chất của chúng ta
với hành vi của chúng ta. Hành vi của chúng ta được mô tả trong Rô-ma 12 (và sau đó) là kết
quả trực tiếp của ân điển của Đức Chúa Trời trong đời sống của chúng ta (được thảo luận trong
đoạn 1-11).
Từ “vậy”, “thế thì” dễ hơn được tìm thấy trong Hê-bơ-rơ 12:1:
Thế thì, vì chúng ta được nhiều người chứng kiến vây lấy như đám mây rất lớn, chúng ta
cũng nên quăng hết gánh nặng và tội lỗi dễ vấn vương ta, lấy lòng nhịn nhục theo đòi
cuộc chạy đua đã bày ra cho ta,
Lý do cho từ “thế thì” dễ dàng được tìm thấy trong đoạn trước đó, đoạn 11. Trong 12:1
nói đến “vì chúng ta được nhiều người chứng kiến vây lấy như đám mây rất lớn”. Mà đám mây
làm chứng đó có trong bối cảnh ở đoạn 11.
Từ “vậy” trong Cô-lô-se 3:12 thì không rõ ràng:
Vậy anh em là kẻ chọn lựa của Đức Chúa Trời, là người thánh và rất yêu dấu của
Ngài, hãy có lòng thương xót. Hãy mặc lấy sự nhân từ, khiêm nhường, mềm mại,
nhịn nhục,
Từ “vậy” nói gì trong phần trước? Đọc mười một câu trước và tìm lý do quan trọng sau
câu 12. Trong những câu trước, Phao-lô dạy người Cô-lô-se mặc lấy người mới (đặc biệt trong
câu 10). Vì họ đã mặc lấy người mới nên từ “vì vậy” họ cũng phải mặc lấy tính cách mới – lòng
thương xót, nhơn từ …
Những từ nối khác cũng quan trọng. Xem II Ti-mô-thê 1:7-8:
7.Vì Đức Chúa Trời chẳng ban cho chúng ta tâm thần nhút nhát, bèn là tâm thần mạnh
mẽ, có tình thương yêu và dè giữ. 8 Vậy con chớ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa
19
chúng ta, cũng đừng lấy sự ta vì Ngài ở tù làm xấu hổ; nhưng hãy cậy quyền phép Đức
Chúa Trời mà chịu khổ với Tin Lành.
Hãy chú ý đến những từ nối trong câu 7 (“vì”, “bèn”, “và”) và trong câu 8 (“vậy”,
“nhưng”). Hai điều này được đối lập qua từ nối “nhưng” trong câu 7? Từ “vậy” trong câu tiếp
theo liên quan gì với câu 7? Tương tự, từ “nhưng” trong câu 8 đối lập điều gì?
Từ nối “nhưng” trong Sáng Thế Ký 6:8 quan trọng thế nào? Hãy để ý đến sự đối lập
trong hai câu trước đó.
5 Đức Giê-hô-va thấy sự hung ác của loài người trên mặt đất rất nhiều, và các ý tưởng của
lòng họ chỉ là xấu luôn; 6 thì tự trách đã dựng nên loài người trên mặt đất, và buồn rầu
trong lòng. 7 Đức Giê-hô-va phán rằng: Ta sẽ hủy diệt khỏi mặt đất loài người mà ta đã
dựng nên, từ loài người cho đến loài súc vật, loài côn trùng, loài chim trời; vì ta tự trách đã
dựng nên các loài đó. 8 Nhưng Nô-ê được ơn trước mặt Đức Giê-hô-va.
8. Động Từ - Tất Cả Những Hành Động
Những động từ rất quan trọng vì nó trình bày hành động của câu. Khi bạn quan sát phân
đoạn Kinh Thánh, hãy để ý đến những hành động. Cố gắng nhận ra những động từ nào được
dùng. Động từ nằm trong thì quá khứ, hiện tại, hay tương lại? Nó có diễn đạt một hành động tiếp
diễn, tức là hành động liên tục hay không? Động từ có theo thể mệnh lệnh không? (hãy, chớ).
Đặc biệt chú ý đến những động từ theo thể mệnh lệnh! Nó có thể là mệnh lệnh Đức Chúa
Trời truyền cho chúng ta. Ví dụ, hãy xem những động từ mệnh lệnh trong Ê-phê-sô 4:2-3:
2 phải khiêm nhường đến điều, mềm mại đến điều, phải nhịn nhục, lấy lòng thương yêu
mà chìu nhau, 3 dùng dây hòa bình mà giữ gìn sự hiệp một của Thánh Linh.
Một cách tìm động từ quan trọng khác là xem thử nó ở dạng chủ động hay bị động. Điều
này quan trọng trong các thư tín của Phao-lô vì nó thường liên hệ giữa những điều chúng ta làm
và những điều Đức Chúa Trời làm cho chúng ta. Động từ ở thể bị động thường nói đến những
điều Chúa làm cho chúng ta.
Chú ý những động từ chủ động và bị động sau:
Vậy nếu anh em được sống lại với Đấng Christ, hãy tìm các sự ở trên trời, là nơi Đấng
Christ ngồi bên hữu Đức Chúa Trời (Cô-lô-se 3:1)
Ta sẽ ban phước cho người nào chúc phước ngươi, rủa sả kẻ nào rủa sả ngươi; và các chi
tộc nơi thế gian sẽ nhờ ngươi mà được phước (Sáng – thế Ký 12:3).
20
9. Đại Từ
Ghi lại tất cả những đại từ và nhớ nhận biết đại từ đó đại diện cho ai. Ví dụ, ai là “chúng
ta” trong Ê-phê-sô 1:3:
Ngợi khen Đức Chúa Trời, Cha Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, Ngài đã xuống phước
cho chúng ta trong Đấng Christ đủ mọi thứ phước thiêng liêng ở các nơi trên trời
Tìm tất cả các đại từ trong phân đoạn sau (Phi-líp 1:27-30):
27 Duy anh em phải ăn ở một cách xứng đáng với đạo Tin Lành của Đấng Christ, để hoặc
khi đến thăm anh em, hoặc khi vắng mặt, tôi cũng biết rằng anh em một lòng đứng vững,
đồng tâm chống cự vì đức tin của đạo Tin Lành, phàm sự chẳng để cho kẻ thù nghịch
ngăm dọa mình; 28 điều đó là một chứng nghiệm chúng nó phải hư mất, còn anh em được
cứu rỗi; và ấy là từ nơi Đức Chúa Trời, 29 Ngài nhân Đấng Christ, ban ơn cho anh em,
không những tin Đấng Christ mà thôi, lại phải chịu khổ vì Ngài nữa, 30 là phải chịu cùng
một cuộc chiến tranh như anh em đã thấy ở nơi tôi và hiện nay còn nghe nói có nơi tôi.
Ví dụ: Rô-ma 12:1-2
Cho đến lúc này chúng ta đã quan sát được những đặc điểm quan trọng mà chúng ta đã
gặp trong đoạn Kinh Thánh. Chúng ta hãy cùng dùng lại tất cả những điều vừa học ở trên để áp
dụng vào một phân đoạn. Chúng ta hãy cùng xem Rô-ma 12:2. Chúng ta đã quan sát đoạn này
rồi nhưng giờ chúng ta làm rõ hơn. Hãy đọc lại phần quan sát. Hãy quan sát tất cả những gì bạn
có thể quan sát được.
Tóm Tắt
Chúng ta hãy cùng lướt lại những gì chúng ta vừa học qua:
Những từ lặp – Tìm những từ hay ngữ được lặp lại.
Đối lập – Tìm những ý tưởng, cá nhân hay phần đối lập nhau.
So sánh – Tìm những từ, ngữ hay phần so sánh với nhau. Cũng tìm những
điểm tương đồng.
Liệt kê – Để ý đến phân đoạn có đề cập nhiều hơn hai điều
Nhân Quả - Có thể có nhiều hơn một kết quả của một nguyên nhân đã được
đề cập trong đoạn văn.
Cách ngôn – Tìm những diễn đạt chuyển tải một hình ảnh, sử dụng những từ
trong một nghĩa khác hơn nghĩa đen.
Từ nối - Chú ý những từ nối những đơn vị lại với nhau, như “và”, “nhưng”,
“vì”. Để ý chúng liên kết điều gì.
21
Động từ - Để ý một động từ đang ở thì quá khứ, hiện tại hay tương lai; chủ
động hay bị động, cũng tìm những mệnh lệnh.
Đại từ - Nhận ra những điều hay người mà nó đại diện cho.
Kết Luận
Bước đầu trong việc giải kinh là tìm càng nhiều quan sát càng chi tiết càng tốt. Chúng ta
muốn đào sâu và tìm càng nhiều chi tiết càng tốt. Những điều liệt kê ở trên chưa phải là tất cả
nhưng nó chỉ mới là khởi đầu. Có nhiều chi tiết đang chờ chúng ta quan sát. Hãy tìm cẩn thận
trong phân đoạn Kinh Thánh. Đọc nó nhiều lần! Quan sát. Viết xuống tất cả những quan sát của
bạn. Đọc nó lần nữa. Tìm nhiều hơn. Viết xuống nhiều hơn. Những quan sát nào bạn đã bỏ qua?
Có nhiều điều nữa mà chưa tìm thấy. Đừng bỏ cuộc! Hãy cùng đào!
22
Chương 3
Cách Đọc Kinh Thánh – Phân Đoạn
Lời Giới Thiệu
Trong chương 2 bạn đã học cách để quan sát ở mức độ câu. Trong chương này bạn sẽ tiếp
tục phát triển kỹ năng quan sát nhưng ở mức độ phân đoạn. Tiếp tục tìm! Tiếp tục quan sát! Tiếp
tục đào bới Lời của Đức Chúa Trời.
Nghệ Thuật Quan Sát – Học Cách Tìm
Học cách tìm chi tiết là một kỹ năng không phải tự nhiên mà có, bèn là bởi luyện tập mà được.
Những Điều Cần Tìm Trong Phân Đoạn
I. Phép Diễn Dịch/ Phép Qui Nạp
Thỉnh thoảng một tác giả sẽ giới thiệu một ý tưởng với một ý chung – tức là một tổng
quan hay tóm tắt ý chính. Tác giả phát triển câu chủ đề đó ra những ý chi tiết hơn. Thông thường
những ý chi tiết đó giải thích rõ hơn ý chính đó. Ví dụ, một ý chung: “tôi thích món khai vị”. Sau
đó tôi bắt đầu giải thích chi tiết hơn về việc thích món khai vị: “Tôi thích bánh táo, bánh dâu,
kem sô cô la hay bánh kem.”
Tác giả Kinh Thánh thường dùng những phép diễn dịch để trình bày với chúng ta. Ví dụ,
Phao-lô nêu một ý chung trong Ga-la-ti 5:16:
Vậy tôi nói rằng: Hãy bước đi theo Thánh Linh, chớ hề làm trọn những điều ưa muốn của
xác thịt.
“Bước đi theo Thánh Linh” và “làm trọn điều ưa muốn của xác thịt” là những ý tổng thể.
Nó có tính chất chung hơn. Chúng ta, là độc giả, muốn biết chi tiết hơn và cụ thể hơn về từng cái
một. Phao-lô trình bày tiếp cho chúng ta những điều chi tiết hơn về làm trọn những điều ưa muốn
của xác thịt trong 5:19-21a:
Vả, các việc làm của xác thịt là rõ ràng lắm: ấy là gian dâm, ô uế, luông tuồng, 20 thờ
hình tượng, phù phép, thù oán, tranh đấu, ghen ghét, buồn giận, cãi lẫy, bất bình, bè đảng,
21 ganh gổ, say sưa, mê ăn uống, cùng các sự khác giống như vậy.
23
Rồi ông chuyển sang những cái cụ thể của việc bước theo Thánh Linh là thế nào trong
5:22-23:
22 Nhưng trái của Thánh Linh, ấy là lòng yêu thương, sự vui mừng, bình an, nhịn nhục,
nhân từ, hiền lành, trung tín, mềm mại, tiết độ: 23 không có luật pháp nào cấm các sự đó.
Rô-ma 12 cũng là từ tổng thể đến cụ thể. Phao-lô nêu ý tổng thể trong câu 1:
Vậy, hỡi anh em, tôi lấy sự thương xót của Đức Chúa Trời khuyên anh em dâng thân thể
mình làm của lễ sống và thánh, đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là sự thờ phượng phải lẽ của
anh em.
Những điều cụ thể bắt đầu ở vài câu sau trong 12:9 và tiếp tục cho đến chương 15. Rô-ma
12:9-13 được xem như là một điển hình. Chú ý những bản chất cụ thể của lời dạy
9 Lòng yêu thương phải cho thành thật. Hãy gớm sự dữ mà mến sự lành. 10 Hãy lấy
lòng yêu thương mềm mại mà yêu nhau như anh em; hãy lấy lẽ kính nhường nhau. 11
Hãy siêng năng mà chớ làm biếng; phải có lòng sốt sắng; phải hầu việc Chúa. 12 Hãy
vui mừng trong sự trông cậy, nhịn nhục trong sự hoạn nạn, bền lòng mà cầu nguyện. 13
Hãy cung cấp sự cần dùng cho các thánh đồ; hãy ân cần tiếp khách.
Cũng nhớ rằng tác giả cũng thường hay đảo ngược vị trí và đi từ cụ thể đến tổng thể. Tác
giả liệt kê những điều cụ thể trước rồi sau đó tóm lại trong một ý chung, tóm tắt điểm chính. Ta
gọi thuật này là phép qui nạp.
I Cô 13:1-12 là một điển hình:
1 Dầu tôi nói được các thứ tiếng loài người và thiên sứ, nếu không có tình yêu thương, thì
tôi chỉ như đồng kêu lên hay là chập chỏa vang tiếng. …
Tình yêu thương hay nhịn nhục; tình yêu thương hay nhơn từ; tình yêu thương chẳng
ghen tị, chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,…
Cuối cùng ông tóm lại trong câu 13 như là ý chính của phân đoạn này:
Nhưng bây giờ còn có ba điều này: đức tin, sự trông cậy và tình yêu thương. Nhưng điều
trọng hơn trong ba điều đó là tình yêu thương.
2. Hỏi-Đáp
Thỉnh thoảng, tác giả cũng đặt ra câu hỏi tu từ rồi đưa ra câu trả lời câu hỏi đó. Phao-lô
sử dụng điều này nhiều lần trong Rô-ma. Ví dụ trong Rô-ma 6:1, ông hỏi:
Vậy chúng ta sẽ nói làm sao? Chúng ta phải cứ ở trong tội lỗi, hầu cho ân điển được dư dật
chăng?
24
Rồi ông trả lời chính câu hỏi của mình trong câu 2:
Chẳng hề như vậy! Chúng ta đã chết về tội lỗi, lẽ nào còn sống trong tội lỗi nữa?
Trong những câu tiếp theo đó, vị sứ đồ tiếp tục bàn luận câu trả lời cho câu hỏi mở đầu
của ông trong 6:1. Ô ng sử dụng hình thức hỏi-đáp này nhiều lần trong những phân đoạn Kinh
Thánh khác trong Rô-ma (3:1,5,9,27-31;4:1,9;6:15; 7:1,7,13; 8:31-35;11:1,7,11).
Không chỉ riêng Phao-lô sử dụng hình thức hỏi đáp này. Mác cũng dùng hình thức này
trong vài nơi trong câu chuyện về Chúa Giê-xu. Ví dụ trong Mác 2:1-3:6, có năm phân đoạn
xoay quanh một câu hỏi và một câu trả lời. Năm câu hỏi đó là:
1. “Ngoài một mình Đức Chúa Trời, còn có ai tha tội được chăng?” (2:7)
2. “Người cùng ăn với kẻ thâu thuế và kẻ có tội sao?” (2:16)
3. “Bởi cớ nào môn đồ của Giăng và môn đồ của người Pha-ri-si đều kiêng ăn, còn môn đồ của thầy
không kiêng ăn?” (2:18)
4. “Sao môn đồ thầy làm điều không nên làm trong ngày Sa-bát?” (2:24)
5. “Trong ngày Sa-bát, nên làm việc lành hay việc dữ, cứu người hay giết người?” (3:4)
Bốn câu hỏi cuối do những người chống đối Chúa nêu ra. Những người Pha-ri-si và
những người khác đang thách thức hành vi tôn giáo của Chúa Giê-xu và các môn đồ Ngài. Sau
mỗi câu hỏi, Chúa Giê-xu trả lời từng vấn đề một.
1. “Vả, để cho các ngươi biết Con người ở thế gian có quyền tha tội, thì Ngài phán cùng kẻ bại rằng:
Ta biểu ngươi, hãy đứng dậy, vác giường đi về nhà.” (2:10-11)
2. “Ta chẳng phải đến gọi người công bình, nhưng gọi kẻ có tội.” (2:17b)
3. “Bạn hữu của chàng rể có kiêng ăn được trong khi chàng rể còn ở cùng mình chăng?” (2:19)
4. “Các ngươi chưa đọc đến sự vua Đa-vít làm …. Con người cũng làm chủ ngày Sa-bát.” (2:25,27b)
Câu hỏi thứ năm do Chúa Giê-xu hỏi cho người Pha-ri-si. Câu trả lời là rõ ràng vì điều
hợp pháp là làm điều tốt, như Chúa Giê-xu đã làm khi chữa lành người teo tay, không làm điều
ác và không giết người như người Pha-ri-si mưu hại Chúa Giê-xu (3:6). Tuy nhiên, dầu Chúa
Giê-xu đã trả lời câu hỏi cho họ nhưng họ lại không thể trả lời câu hỏi của Chúa Giê-xu.
Để ý rằng Mác cân bằng năm phần câu hỏi này trong phần đầu và năm trong phần cuối
của sách Phúc  m Mác (11:27-12:40). Trong mỗi phần những người chống đối cũng hỏi bốn câu
hỏi và Chúa Giê-xu hỏi câu hỏi cuối cùng.
3. Hội thoại
Hội thoại có phần trùng với phần hỏi-đáp được thảo luận ở trên. Bốn câu hỏi trong Mác
2:15-3:6 là phần của đối thoại giữa Chúa Giê-xu và người Pha-ri-si. Mới nhìn, hội thoại có vẻ
quá rõ ràng, không cần phải lo lắng gì. Trong văn xuôi, hội thoại được dùng thường xuyên và dễ
sắp xếp hơn. Nhưng đừng chỉ đọc lướt qua phần hội thoại. Hãy nhớ sự kiện mà cuộc hội thoại
25
đang diễn ra. Sau đó hỏi những câu hỏi về cuộc hội thoại đó. Người tham gia là ai? Ai nói với ai?
Nói trong hoàn cảnh nào? Có người nào xung quanh đó không? Họ có lắng nghe không? Họ có
tham gia vào cuộc hội thoại đó không? Cuộc hội thoại đó có tranh luận không? Có thảo luận
không? Có thân mật không? Nội dung chính của cuộc hội thoại đó là gì? Bạn sẽ thấy hữu ích khi
tô điểm cho cuộc hội thoại đó.
Những câu chuyện trong Kinh Thánh chứa đựng rất nhiều cuộc hội thoại tuyệt diệu. Hãy
xem lại cuộc hội thoại với người đàn bà Sa-ma-ri bên giếng Gia-cốp trong Giăng 4. Một cuộc hội
thoại nổi tiếng giữa Chúa Giê-xu và Phi-e-rơ trong Giăng 13:6-10 về việc Chúa Giê-xu có nên
rửa chân cho ông hay không. Nhưng bất thường nhất là cuộc nói chuyện giữa Ba-la-am và con
lừa trong Dân Số Ký 22.
Một số cuộc hội thoại không dễ nhận ra. Những hội thoại không rõ ràng này thường
mang ý nghĩa sâu sắc cho đoạn Kinh Thánh. Ví dụ, sách Ha-ba-cúc chứa đựng nhiều cuộc hội
thoại giữa Đức Chúa Trời và nhà tiên tri. Trong 1:1-4, Ha-ba-cúc hỏi Đức Chúa Trời tại sao Ngài
cho phép bất công tiếp diễn trong Giu-đa mà không có một động thái nào để ngăn chặn. Đức
Chúa Trời trả lời trong 1:5-11 bằng lời hứa sẽ sai dân Ba-by-lôn xâm chiếm Giu-đa và hủy diệt
đất nước này. Ha-ba-cúc phản đối trong 1:12-2:1 vì sự xâm lăng là điều mà Ha-ba-cúc không hề
nghĩ đến. Dầu vậy, Đức Chúa Trời giải đáp sự phản đối của ông trong 2:2-20 rằng sự xâm lăng là
không thể tránh khỏi. Một khi bạn nhận ra được cấu trúc của hội thoại trong sách Ha-ba-cúc, sứ
điệp của sách này trở nên rõ ràng.
4. Những Câu Về Mục Đích
Phải luôn nhận ra những câu chỉ về mục đích. Những câu hay ngữ này mô tả lý do, kết
quả hay hậu quả của một vài hành động. Chúng thường xuyên được giới thiệu bằng những từ nối
chỉ về kết quả như “để”, “để mà”… nhưng cũng có thể được giới thiệu bởi một động từ đơn giản.
Những ví dụ sau đây minh họa cho câu chỉ mục đích.
vì chúng ta là việc Ngài làm ra, đã được dựng nên trong Đức Chúa Jêsus Christ để làm
việc lành mà Đức Chúa Trời đã sắm sẵn trước cho chúng ta làm theo (Ê -phê-sô 2:10).
Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài (Giăng 3:16)
Ấy chẳng phải các ngươi đã chọn ta, bèn là ta đã chọn và lập các ngươi, để các ngươi đi
và kết quả, hầu cho trái các ngươi thường đậu luôn: lại cũng cho mọi điều các ngươi sẽ
nhân danh ta cầu xin Cha, thì Ngài ban cho các ngươi (Giăng 15:16).
Hỡi Y-sơ-ra-ên, ngươi hãy nghe lấy và cẩn thận làm theo, hầu cho ngươi được phước và
thêm lên nhiều trong xứ đượm sữa và mật, y như Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ
ngươi đã phán hứa cùng ngươi (Phục-Truyền Luật Lệ Ký 6:3).
Tôi đã giấu lời Chúa trong lòng tôi, Để tôi không phạm tội cùng Chúa (Thi-thiên 119:11).
26
5. Phương Tiện (nhờ đó mà một điều gì đó có thể đạt được)
Khi một hành động, một kết quả hay một mục đích được nói đến, hãy tìm phương tiện
dẫn đến hành động, kết quả hay mục đích đó. Làm thế nào hành động hay kết quả này được
thành tựu? Làm sao đạt được mục đích đó? Ví dụ , đọc phần thứ hai của Rô-ma 8:13:
… song nếu nhờ Thánh Linh, làm cho chết các việc của thân thể, thì anh em sẽ sống.
Phương tiện làm cho chết các việc của chi thể là Thánh Linh.
Tương tự, hãy xem Thi thiên 119:9:
Người trẻ tuổi phải làm sao cho đường lối mình được trong sạch? Phải cẩn thận theo lời Chúa.
Mục đích hay hành động được mong đợi là người trẻ tuổi phải giữ cho đường lỗi mình
được trong sạch. Phương tiện là gì? Sống theo Lời Chúa.
6. Mệnh Đề Điều Kiện
Nhận diện tất cả những mệnh đề điều kiện. Đây là những mệnh đề trình bày những điều
kiện mà qua đó những hành động, kết quả, thực tế hay hậu quả sẽ xảy ra. Mệnh đề điều kiện
thường được giới thiệu bởi từ nối “nếu”. Kết quả thì thường được giới thiệu bởi từ “thì”, nhưng
có khi không có từ nối nào. Bất cứ khi nào bạn gặp một mệnh đề điều kiện, luôn xác định chính
xác hành động điều kiện là gì (phần nếu) và kết quả là gì (phần thì).
Hãy nhận diện mệnh đề điều kiện và mệnh đề kết quả trong những câu sau:
Ví bằng chúng ta nói mình được giao thông với Ngài, mà còn đi trong sự tối tăm, ấy là
chúng ta nói dối và không làm theo lẽ thật (I Giăng 1:6)
Điều kiện: Nếu chúng ta nói mình giao thông với Ngài mà còn bước đi trong sự tối tăm.
Kết quả: chúng ta nói dối và không sống theo lẽ thật.
Vậy, nếu ai ở trong Đấng Christ, thì nấy là người dựng nên mới; những sự cũ đã qua đi,
nầy mọi sự đều trở nên mới (II Cô-rinh-tô 5:17).
Điều kiện: nếu ai ở trong Đấng Christ
Kết quả: người đó được dựng nên mới, những sự cũ qua đi, mọi sự đều trở nên mới.
Nếu ngươi nghe theo tiếng phán của Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi cách trung thành,
cẩn thận làm theo mọi điều răn của Ngài, mà ta truyền cho ngươi ngày nay, thì Giê-hô-va
Đức Chúa Trời ngươi sẽ ban cho ngươi sự trổi hơn mọi dân trên đất (Phục-Truyền Luật-lệ
Ký 28:1).
27
Điều kiện: nếu trung thành vâng phục Chúa và cẩn thận làm theo mọi mạng lịnh của Chúa
Kết quả: Chúa sẽ ban cho nhiều hơn mọi dân khác trên đất.
7. Hành Động/Vai trò của Con Người và Hành Động/Vai Trò của Đức Chúa Trời
Nhiều đoạn Kinh Thánh cũng nói đến hành động của con người cũng như của Đức Chúa
Trời. Hãy nhận ra những hành động này và ghi chúng riêng ra. Hỏi những câu hỏi: Đức Chúa
Trời (Chúa Cha, Chúa Con, Thánh Linh) làm gì trong phân đoạn này? Con người làm gì trong
phân đoạn này? Sau đó xem thử có liên hệ nào giữa những điều Đức Chúa Trời làm và con người
làm.
Ví dụ, đọc Ê-phê-sô 5:1-2:
Vậy anh em hãy trở nên kẻ bắt chước Đức Chúa Trời như con cái rất yêu dấu của Ngài;
hãy bước đi trong sự yêu thương, cũng như Đấng Christ đã yêu thương anh em, và vì
chúng ta phó chính mình Ngài cho Đức Chúa Trời làm của dâng và của tế lễ, như một
thức hương có mùi thơm.
Những hành động/ vai trò nào của con người trong đoạn Kinh Thánh này? Chúng ta phải
bắt chước Đức Chúa Trời như là con cái bắt chước cha mình vậy. Chúng ta cũng phải sống cuộc
đời đầy yêu thương như Đấng Christ đã yêu chúng ta vậy. Vai trò của Đấng Christ hay Đức
Chúa Trời trong phân đoạn này là gì? Hành động của Đấng Christ là dâng chính mình Ngài cho
Đức Chúa Trời vì chúng ta; vai trò của Đức Chúa Trời là Đấng làm kiểu mẫu cho chúng ta bắt
chước.
Hơn nữa, hãy bảo đảm chính xác khi liên hệ Đức Chúa Trời với những từ liên quan (ví dụ
như cha, chồng, vua). Ví dụ, trong Ma-thi-ơ 5:43-6:34 có 14 lần liên hệ Đức Chúa Trời như là
“Cha” (5:45,48;6:1,4,6,8,9,14,15,18,26,32). Bằng cách dùng từ “Cha” nhiều lần trong phân đoạn
này (từ Bài Giảng Trên Núi), Chúa Giê-xu rõ ràng đang muốn chuyển tải ý của Ngài về mối
quan hệ với Đức Chúa Trời như là Cha (cả của Ngài và của chúng ta).
8. Những Từ Chỉ Cảm Xúc
Kinh Thánh không phải là một quyển sách trừu tượng hay khó hiểu. Nó chủ yếu là về
mối quan hệ, mà mối quan hệ chính yếu là giữa Đức Chúa Trời và con người. Cảm xúc đóng vai
trò rất lớn trong các mối quan hệ. Khi đọc Kinh Thánh, bạn cần phải để ý đến những từ, ngữ mà
chuyển tải cảm xúc, cảm giác trong phân đoạn Kinh Thánh. Hãy đặc biệt chú ý đến những từ như
“cha”, “mẹ”, “con”, “con gái”, “con trai” hay những từ đại loại như vậy. Những từ này hàm chứa
cảm xúc.
Hãy đọc Ga-la-ti 4:12-16 và ghi lại những hàm ý chỉ cảm xúc trong những từ in nghiêng:
Hỡi anh em, tôi xin anh em hãy giống như tôi; vì tôi cũng như anh em. Anh em không làm
hại gì cho tôi. Anh em biết rằng ấy là đang lúc xác thịt yếu đuối mà tôi truyền Tin Lành
28
cho anh em lần thứ nhất, vì xác thịt tôi yếu đuối sanh ra sự rèn thử cho anh em mặc dầu,
anh em cũng chẳng khinh tôi, chẳng chối tôi, mà lại tiếp rước tôi như một vị thiên sứ của
Đức Chúa Trời, thật như chính mình Đức Chúa Jêsus Christ. Vậy thì sự vui mừng của anh
em đã trở nên thể nào? Vì tôi làm chứng cho anh em rằng, lúc bấy giờ, nếu có thể được thì
anh em cũng móc con mắt mà cho tôi. Tôi lấy lẽ thật bảo anh em, lại trở nên thù nghịch
của anh em sao?
“Xin” chứa đựng nhiều cảm xúc hơn yêu cầu phải không? Phao-lô dường như chủ ý chọn
những từ cảm xúc để bày tỏ lòng mình trong phân đoạn này. Cảm giác mà Phao-lô bày tỏ ở đây
là gì? Tại sao ông gợi lại những mối quan hệ trong quá khứ, và gợi lại cách họ đã đón tiếp ông?
Câu “móc con mắt” diễn tả cảm xúc rất mạnh. Tương tự, ông có hàm ý gì khi dùng đến từ “kẻ
thù” ở đây?
Cựu Ước dùng những từ ngữ chỉ cảm xúc nhiều hơn trong Tân Ước. Chính Đức Chúa
Trời dường như muốn vỡ tung trái tim của Ngài vì dân sự cứng lòng và bội nghịch như Giê-rê-
mi 3:19-20 làm chứng:
Ta từng phán rằng: Ta sẽ đặt ngươi giữa vòng các con cái, ta sẽ cho ngươi một đất tốt, cơ
nghiệp quí giá của cơ binh các nước là dường nào! Ta từng phán: Ngươi sẽ gọi ta bằng
Cha tôi! và chớ xây lại mà không theo ta. Nhưng hỡi nhà Y-sơ-ra-ên, thật như một người
đàn bà lìa chồng mình cách quỉ quyệt thể nào, thì các ngươi cũng quỉ quyệt với ta thể ấy,
Đức Giê-hô-va phán vậy.
Hãy quan sát hai sự so sánh cảm xúc mà Đức Chúa Trời dùng. Dân Y-sơ-ra-ên giống như
một đứa con trai khước từ mối quan hệ với cha mình, và nó giống như một người vợ phản bội
chồng mình để chạy theo người đàn ông khác. Hai mối quan hệ này (cha/con và vợ/chồng) là hai
mối quan hệ mang nhiều cảm xúc nhất mà con người từng trãi qua. Những mối quan hệ này
khiến vui tột đỉnh nhưng cũng đau đớn tột cùng. Trong Giê-rê-mi 3, Đức Chúa Trời muốn dân sự
của Ngài phải biết rằng họ đã làm tổn thương cảm xúc của Ngài vì đã khước từ Ngài.
9. Giọng Điệu
Cố nhận ra giọng điệu của phân đoạn Kinh Thánh. Giọng điệu thường liên quan đến
những từ chỉ cảm xúc. Dầu vậy, một khi bạn đã nhận ra được những từ chỉ cảm xúc, hãy tiếp tục
xác định giọng điệu của phân đoạn Kinh Thánh. Có giận dữ không? Âm điệu có chế diễu không?
Đau buồn không?
Ví dụ, đối chiếu giọng điệu của Cô-lô-se 3:1-4 với Ga-la-ti 3:1-4:
Vậy nếu anh em được sống lại với Đấng Christ, hãy tìm các sự ở trên trời, là nơi Đấng
Christ ngồi bên hữu Đức Chúa Trời. Hãy ham mến các sự ở trên trời, đừng ham mến các
sự ở dưới đất; vì anh em đã chết, sự sống mình đã giấu với Đấng Christ trong Đức Chúa
Trời. Khi nào Đấng Christ, là sự sống của anh em, sẽ hiện ra, bấy giờ anh em cũng sẽ hiện
ra với Ngài trong sự vinh hiển (Cô. 3:1-4).
29
Hỡi người Ga-la-ti ngu muội kia, ai bùa ếm anh em là người mà trước mắt đã được rõ bày
ra Đức Chúa Jêsus Christ bị đóng đinh trên thập tự giá? Tôi chỉ hỏi anh em một câu nầy:
Ấy là cậy các việc luật pháp hay là bởi nghe và tin mà anh em đã nhận được Đức Thánh
Linh? Sao anh em ngu muội dường ấy? Sau khi đã khởi sự nhờ Đức Thánh Linh, nay sao
lại cậy xác thịt mà làm cho trọn? Anh em há luống công mà chịu sự khốn khó dường ấy
sao? nếu quả là luống công! (Ga-la-ti 3:1-4).
Trong Cô-lô-se 3:1-4, Phao-lô dùng giọng điệu nhẹ nhàng, giải thích. Ô ng không dùng
những từ có cảm xúc mạnh. Nhưng trong Ga-la-ti 3:1-4, giọng điệu của ông khác. Ông đang quở
trách người Ga-la-ti. Lời của ông có vẻ như ông đang giận hay thất vọng. Giọng điệu của ông là
một phần của sứ điệp và cần phải lưu ý đến giọng điệu trong mỗi phân đoạn mà bạn học.
Giọng điệu của Chúa Giê-xu trong Ma-thi-ơ 23:33-35 thế nào? Giọng điệu của Ngài có
nhẹ nhàng, yêu thương không?
Hỡi loài rắn, dòng dõi rắn lục kia, thế nào mà tránh khỏi sự đoán phạt nơi địa ngục được?
Vậy nên, nầy, ta sai những đấng tiên tri, kẻ khôn ngoan, và thầy thông giáo đến cùng các
ngươi; trong những người ấy, kẻ thì các ngươi sẽ giết và đóng đinh trên cây thập tự, kẻ thì
các ngươi sẽ đánh đập trong nhà hội mình, và các ngươi sẽ đuổi bắt họ từ thành nầy qua
thành kia, hầu cho hết thảy máu vô tội bị tràn ra trên mặt đất, đổ về các ngươi, từ máu A-
bên là người công bình cho đến máu Xa-cha-ri là con của Ba-ra-chi, mà các ngươi đã giết
ở giữa khoảng đền thờ và bàn thờ.
Hay giọng điệu đau buồn và tuyệt vọng trong Ca thương 3:1-6:
1.Ta là người đã thấy khốn khổ bởi gậy thạnh nộ của Ngài. 2 Ngài đã dắt ta và khiến ta
bước đi trong tối tăm, chẳng bước đi trong sáng láng. 3 Chắc Ngài trở tay cả ngày nghịch
cùng ta nhiều lần. 4 Ngài đã làm hao mòn thịt và da, đã bẻ gãy xương ta, 5 Đã xây đắp
nghịch cùng ta, vây ta bằng mật đắng và sự nhọc nhằn, 6 Khiến ta ở trong nơi tối tăm,
như người đã chết từ lâu đời.
Tóm Tắt
Phần này là phần tóm tắt những điều chúng ta vừa học trong chương 3.
Hỏi – Đáp – Xem thử phân đoạn có được xây dựng bằng hình thức hỏi-đáp không.
Hội Thoại – Xem phân đoạn có phần hội thoại không. Nhận ra ai đang nói và nói với ai.
Phương tiện – Xem có câu nào xác định rằng một điều gì đó được thực hiện nhờ phương
tiện của một người nào đó/ một điều gì đó (trả lời câu hỏi “như thế nào?”). Thường bạn
có thể thêm ngữ “bằng cách” vào trong câu.
30
Những câu nói chỉ mục đích/kết quả - Có một dạng cụ thể hơn của “phương tiện”,
thường cho biết tại sao. Mục đích và kết quả tương tự nhau nhưng thỉnh thoảng cũng
khác nhau. Trong một câu chỉ mục đích, bạn thường có thể thêm vào từ “để”. Trong
mệnh đề chỉ kết quả, bạn thường thêm vào từ “để mà”.
Phép diễn dịch/ qui nạp - Tìm những ý tổng thể được đi theo bởi những minh họa hay
áp dụng cụ thể. Cũng tìm những ý cụ thể được tóm tắt bởi một ý tổng thể.
Mệnh đề điều kiện – Một mệnh đề có thể trình bày điều kiện mà qua đó một hành động
được kết quả. Thường những ý như vậy đi với từ “nếu…thì”.
Những hành động/ vai trò của Đức Chúa Trời – Nhận ra những hành động/vai trò của
Đức Chúa Trời.
Những hành động/vai trò của con người – Nhận ra những hành động/vai trò mà phân
đoạn chỉ về con người hay khuyến khích con người làm.
Những từ cảm xúc – Phân đoạn có dùng những từ chỉ cảm xúc, quan hệ ruột thịt không?
Giọng điệu – Có giọng điệu nào như hạnh phúc, buồn bã, khích lệ… trong phân đoạn
Kinh Thánh không?
Kết luận
Trong chương 2&3, chúng tôi đề nghị nhiều điều để tìm trong khi đọc Kinh Thánh.
Chúng tôi khuyến khích bạn đọc Kinh Thánh như một người đang yêu đọc lá thư của mối tình
đầu. Chúng tôi cũng khuyến khích bạn đọc nhiều lần, tìm càng nhiều chi tiết càng tốt, tìm những
từ nối…
Điều quan trọng là khi bạn học phải viết tất cả những chi tiết và ý tưởng xuống. Phát triển
kỹ năng quan sát của bạn. Có thể pho to phân đoạn Kinh thánh và tự do viết lên trên đó để bạn
không hủy hoại Kinh Thánh của mình.
Nên nhớ đừng bao giờ giải thích gì cả trong bước quan sát này. Bước giải nghĩa sẽ đến
sau. Đây là bước đầu tiên – rất quan trọng- là bước quan sát. Chúng ta chỉ hỏi: “đoạn Kinh
Thánh này nói gì?” Vậy bây giờ, hãy ở trong giai đoạn này. Cố gắng quan sát tất cả điều bạn có
thể thấy. Phần sau trong quyển sách này chúng ta sẽ đi đến phần giải nghĩa (phân đoạn Kinh
Thánh này có ý nghĩa gì?) và áp dụng (Tôi phải làm gì theo như lời dạy?).
31
Chương 4
Cách Đọc Kinh Thánh - Đoạn
Lời giới thiệu
Cho đến bây giờ bạn đang trên đường trở thành chuyên gia đọc và quan sát Kinh Thánh.
Chúng ta đã thảo luận cách đọc câu và cách đọc phân đoạn. Chúng tôi đã đề nghị những điều cần
tìm khi đọc. Chúng tôi cũng khuyến khích bạn tìm, tìm và tìm nhiều hơn nữa. Cho đến bây giờ
chúng tôi tin bạn đã đọc kỹ và tìm kiếm nghiêm túc Lời của Đức Chúa Trời. Hãy tiếp tục làm
việc chăm chỉ! Tiến lên! Những điều tốt đẹp nhất đang đến.
Chương này tập trung vào đoạn. Chúng tôi dùng từ đoạn để nói đến đơn vị của bản văn
liên kết dài hơn phân đoạn. Có những từ khác có thể được dùng như câu chuyện, chương…
nhưng chúng tôi thích dùng từ đoạn. Một đoạn có thể một chương nhỏ hơn trong một câu chuyện
(Đavít và Gô-li-át) hay có thể câu chuyện dài hơn (những câu chuyện của Đavít). Một đoạn có
thể là hai phân đoạn liên kết trong một thư tín của Phao-lô. Chúng ta không quan trọng về thuật
ngữ trong chương này. Mục tiêu của chúng tôi là giúp bạn giải nghĩa phần dài hơn trong bảng
kinh văn.
Kinh Thánh không phải là một tập hợp của những phân đoạn ngắn, những câu tách biệt.
Kinh Thánh là một câu chuyện. Những chủ đề được đan xen với nhau từ phân đoạn này đến phân
đoạn khác. Nhiều điểm liên kết nối các phân đoạn lại với nhau. Bắt đầu với những chi tiết nhỏ ở
mức độ câu là quan trọng nhưng chúng ta cần chuyển đến mức độ đoạn. Sứ điệp của Đức Chúa
Trời không bị giới hạn trong những đơn vị nhỏ của bản văn. Nhiều sứ điệp được tìm thấy trong
những phần lớn hơn của bản văn. Khám phá những sứ điệp này đòi hỏi chúng ta phải quan sát ở
mức độ đoạn. Làm sao chúng ta có thể quan sát phần lớn hơn của bản văn?
Câu trả lời rất đơn giản. Mọi điều chúng ta đã học trong chương 2 và 3 về câu và phân
đoạn có thể được áp dụng cho đoạn. Từ lặp, nhân-quả, tổng thể đến chi tiết, từ nối… - tất cả
những điều này đều có thể áp dụng để nghiên cứu đoạn. Những bước căn bản trong phần trước
có thể được phát triển cho đoạn. Dầu vậy, trong phần này chúng tôi muốn thêm vào vài phần
được dùng để đọc ở mức độ đoạn. Chúng tôi cũng sẽ minh họa những nguyên tắc này qua những
đoạn trong Kinh Thánh.
Những Điều Cần Tìm Trong Đoạn:
1. Những Liên Kết Giữa Các Phân Đoạn và Các Chương
32
Sau khi đọc và quan sát cẩn thận ở mức độ câu và phân đoạn, chúng ta cần hỏi phân đoạn
hay chương này có liên hệ gì với những phân đoạn/chương ở phía trước và sau.
Cho đến nay, chúng ta đã tập trung vào mối quan hệ giữa những ngữ, mệnh đề và câu.
Chúng ta đã tìm mối quan hệ nhân-quả, phép qui nạp, phép diễn dịch, mệnh đề điều kiện chỉ kết
quả/hiệu quả và những đặc điểm liên hệ khác trong các câu và giữa các câu. Những đặc điểm
giống nhau này cũng sẽ thường nối những phân đoạn và các chương với nhau.
Tìm những liên kết. Tìm những từ lặp và chủ đề lặp. Tìm những liên kết logic như nhân-
quả. Hãy nhớ ghi lại những từ nối giữa các phân đoạn. Trong những phần văn xuôi (kể chuyện)
chú ý đến tiến triển thời gian. Luôn nhớ - tiếp tục tìm và tiếp tục đào bới và tiếp tục đọc và tiếp
tục tìm và bất cứ điều gì bạn làm, đừng dừng lại sau khi nhìn lướt qua. Đặt mình trong đoạn đó.
Tìm những nối kết. Những nối kết này giúp chúng ta tìm thấy ý nghĩa.
_____________
Ví dụ Mác 8:22-26
Chúng ta hãy cùng nhìn trong Mác 8:22-26 và tìm xem chúng ta có thể xác định vài liên
kết giữa nó và những đoạn trước (8:14-21) và sau (8:27-30).
Trước hết, hãy đọc Mác 8:22-26
22 Kế đó, Đức Chúa Jêsus và môn đồ đi đến làng Bết-sai-đa. Người ta đem cho Ngài
một người mù và cầu xin Ngài rờ đến người. 23 Ngài bèn nắm tay người mù, dắt ra
ngoài làng, thấm nước miếng trên mắt người, đặt tay trên người, và hỏi, có thấy chi
không? 24 Người mù ngó lên rồi thưa rằng: Tôi thấy người ta, và nhìn họ đi giống như
cây. 25 Rồi Đức Chúa Jêsus lại đặt tay trên mắt người; người nhìn xem, được sáng mắt,
thấy rõ ràng cả thảy. 26 Đức Chúa Jêsus khiến người về nhà, và truyền rằng: Đừng trở
vào trong làng.
Nếu chỉ nhìn phân đoạn này không thôi thì chúng ta sẽ thấy nó lạ và khó hiểu. Tại sao
Chúa Giê-xu ban đầu chỉ chữa lành một phần? Ngài không có khả năng để chữa lành hoàn toàn
cùng một lúc sao? Tại sao Chúa Giê-xu hỏi người này có thấy gì không? Ngài không biết sao?
Ngài không tin vào khả năng chữa lành của Ngài sao? Ban đầu người này chẳng thấy gì hết; sau
đó ông có thể nhìn thấy một phần, nhưng không rõ ràng. Cuối cùng, Chúa Giê-xu giúp ông nhìn
thấy rõ hoàn toàn. Có điểm gì cần để ý ở đây không? Chúng ta hãy xem những phân đoạn xung
quanh và tìm một vài liên kết. Vài liên hệ có thể giúp chúng ta hiểu được phân đoạn khó này.
Phân đoạn trước là Mác 8:14-21:
14 Vả, môn đồ quên đem bánh theo, trong thuyền chỉ có một cái bánh mà thôi. 15 Ngài
răn môn đồ rằng: Hãy giữ mình cẩn thận về men người Pha-ri-si, và men đãng Hê-rốt. 16
Môn-đồ nói cùng nhau rằng: Ấy là vì chúng ta không có bánh. 17 Nhưng Đức Chúa Jêsus
33
biết điều đó, thì phán rằng: Sao các ngươi nói cùng nhau rằng đó là tại các ngươi không có
bánh? Chớ các ngươi còn chưa nghe, chưa hiểu sao? Các ngươi có lòng cứng cỏi luôn ư?
18 Các ngươi có mắt mà sao không thấy? Có tai mà sao không nghe? Các ngươi lại không
nhớ hay sao? 19 Khi ta bẻ năm cái bánh cho năm ngàn người, các ngươi thâu được mấy
giỏ đầy bánh vụn? Thưa: Mười hai giỏ. 20 Còn khi ta bẻ bảy cái bánh cho bốn ngàn người,
các ngươi thâu được mấy giỏ đầy bánh vụn? Thưa: Bảy giỏ. 21 Ngài phán: Các ngươi còn
chưa hiểu sao?
Phân đoạn sau là Mác 8:27-30:
27 Đức Chúa Jêsus đi khỏi đó với môn đồ mình, đến trong các làng gần thành Sê-sa-rê
Phi-líp. Dọc đường, Ngài hỏi môn đồ rằng: Người ta nói ta là ai? 28 Thưa rằng: Kẻ thì nói
là Giăng Báp-tít; người thì nói là Ê -li; kẻ khác thì nói là một trong các đấng tiên tri. 29
Ngài hỏi: Nhưng các ngươi thì nói ta là ai? Phi-e-rơ thưa rằng: Thầy là Đấng Christ. 30
Đức Chúa Jêsus bèn cấm ngặt môn đồ chớ nói sự mình cùng ai hết.
Bây giờ chúng ta cùng tìm những liên hệ giữa ba phân đoạn này. Để ý đến những quan
sát sau:
1. Cả ba phân đoạn này đều là đối thoại.
2. Trong cả ba phân đoạn này Chúa Giê-xu đều hỏi một câu hỏi.
3. Trong phân đoạn đầu (8:14-21), đoạn hội thoại của Chúa Giê-xu với các môn đồ. Trong
phân đoạn thứ ba (8:27-30), đoạn hội thoại của Chúa Giê-xu cũng với các môn đồ. Phân
đoạn giữa (8:22-26) thì khác: đoạn hội thoại với người mù. Nói cách khác, đoạn hội thoại
với người mù nằm lọt giữa hai đầu của đoạn hội thoại với các môn đồ. Có sự so sánh hay
đối chiếu gì ở đây không?
4. Phân đoạn giữa (8:22-26) nói đến “làng” hai lần (8:23,26). Phân đoạn thứ ba nói đến
“làng” (8:27).
5. Chúa Giê-xu kết thúc phân đoạn người mù (8:22-26) bằng việc cấm ông đi vào làng.
Chúa Giê-xu kết thúc phân đoạn thứ ba (8:27-30) bằng việc cấm các môn đồ nói cho bất
cứ ai về Ngài.
6. Phân đọan giữa (8:22-26) xoay quanh những từ liên hệ đến việc thấy. Quan sát những từ
lặp sau:
o Người mù (c. 23)
o thấm nước miếng trên mắt người (c. 23).
o có thấy chi không? (c.23)
o Người mù ngó lên (c.24).
o Tôi thấy người ta (c. 24).
o nhìn họ đi giống như cây (c.24)
o Rồi Đức Chúa Jêsus lại đặt tay trên mắt người (c.25)
o người nhìn xem (c.25)
34
o được sáng mắt, (c.25)
o thấy rõ ràng cả thảy (c.25)
7. Có nhiều từ vượt trội hơn về từ liên quan đế thấy trong phân đoạn người mù. Bây giờ
chúng ta cùng xem những từ tương tự được dùng cho các môn đồ trong phân đọan đầu
(8:14-21).:
o Chớ các ngươi còn chưa nghe, chưa hiểu (thấy) sao? (c.17)
o Các ngươi có mắt mà sao không thấy? (c.18)
Từ Hy-lạp thấy trong hai phân đoạn đầu chắc chắn là một sự liên hệ quan trọng giữa hai
phân đoạn đó.
8. Để ý từ thấy trong phân đoạn người mù được dùng theo nghĩa đen, nói đến cái nhìn thể
chất. Nhưng trong phân đoạn đầu, từ thấy được dùng theo nghĩa bóng, nói đến hiểu. Chúa
Giê-xu nói rõ rằng: “Các ngươi còn chưa hiểu sao?” (c.17). Chúa Giê-xu lặp lại hàm ý
này khi Ngài kết thúc đoạn hội thoại bằng câu hỏi giống nhau: “Các ngươi còn chưa hiểu
sao?” (c.21).
9. Phi-e-rơ xác nhận trong 8:29: “Thầy là Đấng Christ”. Điều này khẳng định rằng Phi-e-rơ
bây giờ hiểu được Chúa Giê-xu là ai, dầu những người khác có lẽ chưa hiểu. Nói cách
khác, bây giờ ông thật sự nhìn thấy rõ ràng.
Kết luận về sự liên kết. Trong phân đoạn đầu, Chúa Giê-xu hỏi các môn đồ vài câu hỏi và
nhận ra rằng họ chưa thật sự hiểu Ngài là ai. Họ chỉ thấy được một phần. Nhưng trong phân đoạn
thứ ba, họ nhìn thấy rõ ràng, nhận biết Ngài là Đấng Christ. Câu chuyện ở giữa, phân đoạn người
mù, là một minh họa cho tiến trình các môn đồ kinh nghiệm. Đây không phải chỉ đơn thuần là
một câu chuyện về sự chữa lành của Chúa Giê-xu như thể nó là về người mù được nhìn thấy.
Ô ng chỉ nhìn thấy một phần lúc đầu như các môn đồ. Sau đó ông nhìn thấy rõ ràng, giống như
các môn đồ. Do đó, phân đoạn người mù là một phần xen vào dòng chảy của phần các môn đồ
hiểu về Chúa Giê-xu. Nó tạo nên một minh họa sặc sỡ, đời thật về những gì đang xảy ra trong
cuộc đời của các môn đồ.
Ví dụ: Cô-lô-se 1:3-8 và 1:9-14
Trong chương 3, chúng ta đã học trong Cô-lô-se 1:3-8 và đã quan sát được nhiều điều
trong phân đoạn này. Bây giờ chúng ta hãy cùng quan sát phân đoạn sau đó (1:9-14) để tìm vài
liên hệ giữa hai phân đoạn. Chúng ta xem lại Cô. 1:3-8:
3 Trong khi chúng tôi cầu nguyện cho anh em không thôi, thì cảm tạ Đức Chúa Trời là
Cha Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta. 4 Vì chúng tôi đã nghe về đức tin của anh em nơi
Đức Chúa Jêsus Christ và về sự yêu thương của anh em đối với mọi thánh đồ, 5 vì cớ sự
trông cậy để dành cho anh em ở trên trời là sự trước kia anh em đã nhờ đạo Tin Lành chân
thật mà biết đến. 6 Đạo Tin Lành đó ở giữa anh em cũng như ở trong cả thế gian; lại kết
35
quả và tấn bộ cũng như trong anh em, từ ngày mà anh em đã nghe rao truyền ơn Đức Chúa
Trời và đã học cho thật biết ơn đó, 7 y như Ê-pháp-ra là bạn đồng sự thiết nghĩa với
chúng tôi đã dạy anh em; người giúp đỡ chúng tôi như một kẻ giúp việc trung thành của
Đấng Christ, 8 và đã tỏ ra cho chúng tôi biết lòng yêu thương mà anh em cảm chịu bởi
Đức Thánh Linh.
Phần tiếp theo, Cô-lô-se 1:9-14:
9 Cho nên, chúng tôi cũng vậy, từ ngày nhận được tin đó, cứ cầu nguyện cho anh em
không thôi, và xin Đức Chúa Trời ban cho anh em được đầy dẫy sự hiểu biết về ý muốn
của Ngài, với mọi thứ khôn ngoan và hiểu biết thiêng liêng nữa, 10 hầu cho anh em ăn ở
cách xứng đáng với Chúa, đặng đẹp lòng Ngài mọi đường, nẩy ra đủ các việc lành, càng
thêm lên trong sự hiểu biết Đức Chúa Trời, 11 nhờ quyền phép vinh hiển Ngài, được có
sức mạnh mọi bề, để nhịn nhục vui vẻ mà chịu mọi sự. 12 Hãy tạ ơn Đức Chúa Cha, Ngài
đã khiến anh em có thể dự phần cơ nghiệp của các thánh trong sự sáng láng: 13 Ngài đã
giải thoát chúng ta khỏi quyền của sự tối tăm, làm cho chúng ta dời qua nước của Con rất
yêu dấu Ngài
Chúng ta cùng tóm tắt những liên hê như sau:
1. Trong cả hai phân đoạn, Phao-lô đều nói đến việc nghe về người Cô-lô-se qui đạo
(1:4;1:9).
2. Trong cả hai phân đoạn, Phao-lô và Ti-mô-thê đều cầu nguyện cho người Cô-lô-se
(1:3;1:9).
3. Trong phân đoạn đầu, Phao-lô và Ti-mô-thê cảm tạ Đức Chúa Trời trong khi cầu
nguyện vì họ nghe về đức tin và tình yêu của người Cô-lô-se (1:4). Trong phân đoạn
thứ hai, Phao-lô và Ti-mô-thê cầu xin Đức Chúa Trời trong sự cầu nguyện để được đổ
đầy sự hiểu biết ý muốn của Ngài trên người Cô-lô-se (1:9). Do đó, phân đoạn đầu là
nguyên nhân của lời cầu nguyện, trong khi đó phân đoạn thứ hai là nội dung của lời
cầu nguyện.
4. Trong phân đoạn đầu, Phao-lô và Ti-mô-thê cảm tạ Đức Chúa Trời (1:3), nhưng trong
phân đoạn thứ hai thì họ muốn người Cô-lô-se cảm tạ Đức Chúa Trời (1:12).
5. Trong phân đoạn thứ nhất Tin lành đang kết quả và phát triển (1:6). Kết quả của Tin
Lành là Hội Thánh mới Cô-lô-se. Đây là lối cách ngôn và Phao-lô dùng cùng một
hình ảnh (trái và tấn tới) trong phân đoạn thứ hai (1:10), nhưng với những liên hệ
khác. Tại đây, người Cô-lô-se kết trái và đang tấn tới. Trái của họ là “mọi việc lành”
và sự tấn tới của họ trong “sự hiểu biết Đức Chúa Trời”.
Kết luận về liên hệ này: Trong phân đoạn đầu, Phao-lô và Ti-mô-thê nghe về đức tin cứu
chuộc và tình yêu của người Cô-lô-se. Phao-lô và Ti-mô-thê cảm tạ Đức Chúa Trời về việc này.
36
Tuy nhiên họ không dừng lại ở việc họ cảm tạ Đức Chúa Trời cho người mới. Trong phân đoạn
thứ hai họ tiếp tục cầu nguyện rằng những người mới này sẽ tiến tới sự trưởng thành, được đầy
dẫy sự hiểu biết ý muốn của Đức Chúa Trời, làm việc lành và tiếp tục tấn tới trong sự hiểu biết
Đức Chúa Trời.
2. Những Chuyển Đổi
Khi bạn đọc những phần lớn hơn của bản văn, tìm những nơi quan trọng mà câu chuyện
dường như đang chuyển sang một hướng mới. Trong những thư tín, điều này thường xảy ra. Tác
giả thường chuyển đề tài, thường thay đổi từ phần biện luận về giáo lý đến phần thực hành. Phải
chú ý đặc biệt đến những phần chuyển đổi quan trọng này. Những chuyển đổi này cũng có thể
gặp ở những chương văn kể chuyện, nhưng thường hay gặp nhất trong các đoạn trung tâm.
Thông thường một sự đổi hướng như vậy nằm ở một đoạn rất quan trọng, đúc kết phần vừa mới
biện luận và dẫn sang hướng mới. Chúng ta hãy cùng xem một vài ví dụ về từng cái một.
Trong ba chương đầu của thư tín Phao-lô gởi cho người Ê -phê-sô, ông giải thích giáo lý
về đời sống mới trong Đấng Christ và sự ứng dụng của đời sống mới đó, đặc biệt liên quan đến
sự hiệp nhất của người Giu-đa và người ngoại bang trong đời sống mới. Dầu vậy, Ê -phê-sô 4:1
đánh dấu một sự chuyển tiếp. Phao-lô sau đó bắt đầu dạy về sự thực hành giáo lý trong chương
1-3 trong đời sống của người Ê -phê-sô. Vì vậy, trong khi chương 1-3 trình bày chính về giáo lý
thì chương 4-6 tập trung vào đời sống thực tế.
Một cách nhận biết sự chuyển đổi là quan sát kỹ sự thay đổi trong động từ. Trong Ê-phê-
sô 1-3, Phao-lô dùng nhiều loại từ “giải thích” và “mô tả”. Có nhiều động từ chỉ mệnh lệnh trong
chương 4-6. Ví dụ:
Ngài đã xuống phước cho chúng ta (1:3).
khiến chúng ta biết sự mầu nhiệm của ý muốn Ngài (1:9)
Còn anh em đã chết vì lầm lỗi và tội ác mình (2:1)
Ngài làm cho chúng ta sống với Đấng Christ (2:5)
ấy là nhờ ân điển mà anh em được cứu (2:6)
chính Ngài là sự hòa hiệp của chúng ta (2:14)
Lẽ mầu nhiệm đó tức là: Dân ngoại là kẻ đồng kế tự, là các chi của đồng một thể (3:6)
Nhưng bắt đầu trong Ê -phê-sô 4:1, những động từ mệnh lệnh chiếm đa số:
phải khiêm nhường đến điều (4:2)
dùng dây hòa bình mà giữ gìn sự hiệp một của Thánh Linh (4:3)
anh em chớ nên ăn ở như người ngoại đạo nữa (4:17)
37
phải chừa sự nói dối (4:25)
đừng cho ma quỉ nhân dịp (4:27)
Hãy ở với nhau cách nhân từ, đầy dẫy lòng thương xót (4:32)
phải đầy dẫy Đức Thánh Linh (5:18)
Hỡi người làm chồng, hãy yêu vợ mình (5:25)
Hãy mang lấy mọi khí giới của Đức Chúa Trời (6:11)
Động từ được thay đổi này báo hiệu sự chuyển đổi lớn trong sách. Nhìn chung, hai nửa
này liên kết với nhau như một mối quan hệ nhân quả. Nguyên nhân được giải thích trong chương
1-3 (những gì Đấng Christ đã làm cho chúng ta và ứng dụng của nó), trong khi kết quả được nói
đến trong chương 4-6 (sống xứng đáng với Đấng Christ và xứng đáng với tất cả những gì Ngài
đã làm cho chúng ta). Một sự chuyển đổi tương tự cũng xảy ra giữa Rô-ma 1-11 (giáo lý) và Rô-
ma 12-16 (ứng dụng thực tế).
Trong những phần câu chuyện, những chuyển đổi này thường nằm trong những chương.
Những chương này đóng vai trò trọng tâm vì câu chuyện sẽ tập trung vào chương đó và chuyển
qua diễn biến khác. Một ví dụ điển hình trong II Sa-mu-ên. Trong phần đầu của II Sa-mu-ên,
câu chuyện kể về quyền lực tăng lên của Đa-vít. Mọi thứ rất vĩ đại với Đa-vít. Ô ng dẹp yên nội
chiến và thay Sau-lơ làm vua (chương 1-15). Ô ng chinh phục Giê-ru-sa-lem, đem hòm giao ước
về thủ đô mới của mình và nhận lấy một giao ước của Chúa (chương 5-7). Ô ng chiến thắng tất cả
các trận đấu, đánh bại dân Phi-li-tin, Mô-áp, A-ram, Ê -đôm, và Am-môn (chương 8-10). Cuộc
sống tốt lành cho Đa-vít và đất nước của ông.
Dầu vậy, nửa sau của sách này hoàn toàn khác. Những sự kiện trong nửa này dường như
tất cả đều tiêu cực cho vị vua này. Con trai trưởng của Đa-vít, Am-nôn, hãm hiếp Ta-ma, em gái
của Am-nôn khiến cho Á p-sa-lôm, anh của Ta-ma giết Am-nôn (chương 13). Tiếp theo, Á p-sa-
lôm, con trai mà Đa-vít yêu mến, nổi loạn chống lại ông và tạo nên một cuộc nội chiến đẫm máu.
Đa-vít bắt buộc phải chạy trốn khỏi Giê-ru-sa-lem. Cuối cùng, Á p-sa-lôm bị giết chết nhưng
lòng của Đa-vít tan vỡ (chương 14-19). Một sự dấy loạn nữa lại nổi lên (chương 20). Đa-vít kết
thúc sự nghiệp của mình bằng sự kiện chiến đấu chống lại quân Phi-li-tin lần nữa (chương 21).
Ngược lại với lần đầu đánh bại Gô-li-át, Đa-vít cảm thấy đuối sức và được quân đội giải cứu;
những người anh hùng khác giết những người khổng lồ lần này ( II Sa-mu-ên 21:15-22).
Sự khác nhau giữa phần đầu và phần thứ nhì rất quan trọng. Một Đa-vít bách chiến bách
thắng, mạnh mẽ và can đảm trong nửa đầu của sách đối lập với hình ảnh một Đa-vít bất an, yếu
đuối và thiếu quyết đoán trong nửa hiệp hai. Điều xảy ra ở giữa hai phần đó dẫn đến sự thay đổi
này? Trọng tâm nằm ở đâu và điều gì xảy ra dẫn đến điều đó?
Trọng tâm nằm ở II Sa-mu-ên 11-12. Đa-vít phạm tội ngủ với Bát-sê-ba và giết U-ri.
Trước chương này, Đa-vít là một anh hùng dân tộc, được tôn trọng và yêu quý; nhưng sau
38
chương này, Đa-vít trở nên bạt nhược. Rất quan trọng để hiểu II Sa-mu-ên khi nhìn thấy trọng
tâm này và chú ý vai trò then chốt trong việc định hướng câu chuyện.
3. Liên Kết
Liên kết là một công cụ văn chương, được dùng chủ yếu trong văn xuôi hay văn kể
chuyện. Nó liên quan đến so sánh hoặc đối chiếu hai câu chuyện cùng lúc như là một phần của
sự phát triển câu chuyện chung. Thông thường chuyện kể sẽ đi tới đi lui từ câu chuyện này đến
câu chuyện khác, thường là để chỉ ra sự đối lập.
Trong những chương đầu của sách I Sa-mu-ên cho thấy đặc điểm này. Trong vài chương
đầu câu chuyện phát triển hai gia đình đối lập nhau. Hê-li, thầy tế lễ mập, lười biếng và hai con
trai gian ác, Hóp-ni và Phi-nê-a đối lập với An-ne tin kính và đứa con trai Sa-mu-ên vâng phục.
Hai câu chuyện này được ghi lại cùng một lúc, câu chuyện chuyển tới và lui từ gia đình này đến
gia đình khác. Khi bạn đọc chuyện kể, hãy tìm liên kết giữa hai câu chuyện khác nhau. Tiếp theo
tìm mục đích trong sự liên kết đó. Tại sao tác giả dùng hình thức văn chương này để kể chuyện
này? Trong I Sa-mu-ên, sự liên kết này được dùng để phát họa sự đối lập mạnh mẽ giữa Sa-mu-
ên và chức thầy tế lễ suy đồi mà ông sắp thay thế.
Lu-ca dùng hình thức liên kết này ở những chương giữa của sách Công-vụ-các-sứ-đồ để
trình bày sự chuyển tiếp những nhân vật trọng tâm từ Phi-e-rơ sang Phao-lô. Phi-e-rơ là nhân vật
trung tâm trong bảy chương đầu. Phao-lô (Sau-lơ) được giới thiệu trong Công. 7:58; 8:1-3. Phi-
e-rơ trở lại giai đoạn trung tâm trong 8:14-25. Phao-lô trở lại là tâm điểm trong 9:1-30 (qui đạo),
nhưng Phi-e-rơ có cuộc gặp gỡ quan trọng tại nhà Cọt-nây trong 10:1-11:18. Phao-lô trở lại
ngắn gọn trong 11:19-30 rồi Phi-e-rơ lại xuất hiện trong câu chuyện vượt ngục thần kỳ và hành
trình đi đến Giê-ru-sa-lem trong 12:1-19. Trong chương 13, Phao-lô được chuyển vào làm nhân
vật trung tâm cho đến cuối mười lăm chương tiếp theo.
Liên kết này có mục đích gì trong Công vụ? Lu-ca đang có ý gì khi đi qua đi lại nhiều lần?
Rõ ràng ông không đối chiếu giữa một nhân vật tiêu cực với một nhân vật tích cực như trong
trường hợp của I Sa-mu-ên. Cả Phao-lô và Phi-e-rơ đều là những nhân vật điển hình trong sách
Công vụ. Thực ra, Lu-ca dường như đang nhấn mạnh đến những tương đồng của hai vị này.
Phao-lô có thể làm được những phép lạ mà Phi-e-rơ đã làm và giảng cũng uy quyền như Phi-e-rơ
giảng. Lu-ca dùng liên kết này để chứng minh rằng Phao-lô là một vị sứ đồ uy quyền giống như
Phi-e-rơ và cho thấy rằng sứ điệp của Đấng Christ bắt đầu giảng cho người Giu-đa cũng sẽ được
giảng ra một cách thành công cho dân ngoại.
4. Đối Xứng
Hình thức đối xứng ít được dùng trong tiếng Việt nhưng được dùng rất phổ biến trong
văn chương Kinh Thánh, đặc biệt là trong Cựu Ước. Trong hình thức đối xứng, một loạt các ý
39
tưởng, sự kiện được cấu trúc mà điểm đầu tiên đối xứng với điểm cuối cùng, điểm thứ hai đối
xứng với điểm thứ hai từ điểm cuối cùng và tương tự như vậy.
Ví dụ này không dùng hình thức đối xứng rõ ràng:
Tôi thức dậy sáng nay, thay đồ, lái xe đi xuống phố. Tôi làm việc vất vả cả ngày, trở về nhà, mặc đồ ngủ
và lên giường ngủ.
Để phân tích được đối xứng, chúng ta liệt kê những sự kiện và tìm những đối xứng (song song).
Chúng ta sẽ liệt kê điểm đầu tiên là a và điểm tương ứng là á.
a Tôi thức dậy sáng nay,
b thay đồ,
c lái xe đi xuống phố.
d Tôi làm việc vất vả cả ngày,
c’ trở về nhà,
b’ mặc đồ ngủ
a’ lên giường ngủ.
Tôi thức dậy sáng nay được đánh dấu là a, và nó tương ứng với sự kiện cuối cùng, lên
giường ngủ, được đánh dấu là a’. Tương tự, thay đồ tương ứng với mặc đồ ngủ và tương tự. Chú
ý sự kiện ở giữa (Tôi làm việc vất vả cả ngày) không có tương ứng. Thông thường trong cấu trúc
tương xứng, nếu sự kiện ở giữa không có tương xứng thì nó đóng vai trò như là điểm chính hay
điểm trọng tâm của tương xứng đó. Nhấn mạnh đến các hành động là làm việc vất vả cả ngày.
Dầu vậy, thường cũng không có sự kiện ở giữa trong hình thức tương xứng.
Có hình thức tương xứng ngắn và đơn giản. Ví dụ, xem Thi-thiên 76:1:
Trong Giu-đa người ta biết Đức Chúa Trời,
Danh Ngài lớn tại Y-sơ-ra-ên.
Có đặc điểm của tương xứng ở đây không? Những tương ứng giống như thế này:
a Trong Giu-đa
b người ta biết Đức Chúa Trời
b’ danh Ngài là lớn
a’ tại Y-sơ-ra-ên
Thỉnh thoảng hình thức tương xứng dài và phức tạp. Chúng có thể khó nhận ra. Thường
có bất đồng giữa các học giả về việc tác giả thật có ý dùng hình thức tương xứng hay cấu trúc
tương xứng chỉ là tưởng tượng của độc giả. Đọc câu chuyện sau trong Sáng-thế-ký 11:1-9 và
xem thử bạn có đồng ý phân đoạn này có mang cấu trúc tương xứng không.
40
1 Vả, cả thiên hạ đều có một giọng nói và một thứ tiếng. 2 Nhưng khi ở Đông phương
dời đi, người ta gặp một đồng bằng trong xứ Si-nê-a, rồi ở tại đó. 3 Người nầy nói với
người kia rằng: Hè! chúng ta hãy làm gạch và hầm trong lửa. Lúc đó, gạch thế cho đá,
còn chai thế cho hồ. 4 Lại nói rằng: Nào! chúng ta hãy xây một cái thành và dựng lên
một cái tháp, chót cao đến tận trời; ta hãy lo làm cho rạng danh, e khi phải tản lạc khắp
trên mặt đất. 5 Đức Giê-hô-va bèn ngự xuống đặng xem cái thành và tháp của con cái
loài người xây nên. 6 Đức Giê-hô-va phán rằng: Nầy, chỉ có một thứ dân, cùng đồng một
thứ tiếng; và kia kìa công việc chúng nó đang khởi làm; bây giờ chẳng còn chi ngăn
chúng nó làm các điều đã quyết định được. 7 Thôi! chúng ta, hãy xuống, làm lộn xộn
tiếng nói của chúng nó, cho họ nghe không được tiếng nói của người nầy với người kia.
8 Rồi, từ đó Đức Giê-hô-va làm cho loài người tản ra khắp trên mặt đất, và họ thôi công
việc xây cất thành. 9 Bởi cớ đó đặt tên thành là Ba-bên, vì nơi đó Đức Giê-hô-va làm lộn
xộn tiếng nói của cả thế gian, và từ đây Ngài làm cho loài người tản ra khắp trên mặt đất.
Hãy đọc qua bản văn và tìm những từ lặp. Cũng tìm những ý tương đồng và ý đối lập.
Cũng tìm xem thử phần cuối của chương này có tương ứng với phần đầu không. Tiếp theo sắp
những điểm tương xứng lại với nhau và xem thử có một trọng tâm nào và một ý trọng tâm liên
quan nào đang được nhấn mạnh.
Có một học giả phân cấu trúc tương xứng của phân đoạn này như sau:
a Vả, cả thiên hạ
b đều có một giọng nói và một thứ tiếng.
c Si-nê-a, rồi ở tại đó.
d Hè! chúng ta hãy làm gạch
e “Nào! chúng ta hãy xây
f một cái thành và dựng lên một cái tháp
g Đức Giê-hô-va bèn ngự xuống
f’ đặng xem cái thành và tháp
e’ của con cái loài người xây nên.
d’ Thôi! chúng ta, hãy xuống, làm lộn xộn tiếng nói của chúng nó
c’ Ba-bên, vì nơi đó
b’ Đức Giê-hô-va làm lộn xộn tiếng nói
a’ của cả thế gian
Bằng chứng này thuyết phục chúng ta rằng Sáng-thế Ký 11:1-9 được viết theo hình thức
văn chương tương xứng. Sáu từ hay quan niệm trong phần đầu tương ứng với phần sau. Chú ý
41
rằng hình thức tương xứng tập trung vào từ ngữ trong câu 5: “Đức Giê-hô-va bèn ngự xuống”.
Đây là sự kiện trọng tâm trong câu chuyện và điểm trọng tâm trong tương xứng này.
Kết Luận
Để chúng ta có thể giải nghĩa và hiểu được Kinh Thánh, chúng ta phải trước hết đọc phân
đoạn Kinh Thánh đó cẩn thận, quan sát tất cả các chi tiết. Chúng ta phải quan sát nó ở mức độ
câu, phân đoạn rồi đến mức độ đoạn. Trong chương 2 và 3, chúng tôi đã liệt kê vài đặc điểm để
tìm – nhân-quả, từ lặp, tổng thể đến chi tiết, vv...Trong chương 4 chúng tôi thêm vào bốn đặc
điểm để tìm khi đọc ở mức độ đoạn: Những liên kết giữa các phân đoạn và các chương, câu
chuyện chuyển tiếp, liên kết và hình thức tương xứng. Danh sách mở rộng này vẫn chưa hết.
Mục đích của những đặc điểm mà chúng tôi liệt kê ở đây là để giúp bạn bắt đầu đọc cẩn thận.
Chúng tôi cũng trình bày vài đặc điểm văn chương chính để tìm. Nhưng khi bạn tìm, phải đọc
cẩn thận – quan sát thật sự kỹ - tìm tất cả chi tiết và đặt nhiều câu hỏi về bản văn.
Hãy luôn ghi nhớ rằng chúng ta chỉ mới khởi đầu nắm bắt lời Chúa. Phần sau trong sách
này chúng ta sẽ khám phá ý nghĩa và áp dụng ý nghĩa đó. Dầu vậy, bốn chương đầu này hết sức
quan trọng vì nếu bạn bỏ qua phần đọc kỹ này và đi thẳng tới phần ứng dụng sau khi đọc qua loa
thì bạn chắc chắn sẽ đánh mất ý nghĩa của phân đoạn. Hơn nữa, việc đọc Kinh Thánh sẽ trở nên
nhàm chán khi bạn không bao giờ khám phá điều gì trong đó khi bạn đọc lướt qua. Ngược lại,
nếu bạn đọc cẩn thận, quan sát, quan sát, quan sát, bạn sẽ tìm đến được ý nghĩa thật của Kinh
Thánh và Kinh Thánh sẽ trở nên thú vị với bạn vì bạn tìm được những điều mới mẽ.
Vì đây là Lời của Đức Chúa Trời nên Kinh Thánh có hình thức văn chương độc đáo của
nó. Nó giống như một cái mỏ không bao giờ cạn kiệt. Một người có thể đào nó suốt cả đời mà
không bao giờ hết.
42
PHẦN 2
BỐI CẢNH
BÂ Y GIỜ VÀ TRƯỚC ĐÂY
Trong phần 2, chúng ta sẽ nghiên cứu kỹ bối cảnh, chìa khóa để xác định ý nghĩa của
Kinh Thánh. Chúng ta sẽ dành thời gian trong chương 5 để học về một bối cảnh thường bị nhiều
người quá nhấn mạnh – bối cảnh của chúng ta là độc giả hiện đại. Chúng ta mang gì với mình
đến bản văn? Tại đây chúng ta cùng nhìn về vấn đề gọi là định kiến – tất cả ý tưởng và kinh
nghiệm chúng ta đem đến thao tác giải nghĩa. Làm sao chúng ta có thể giải quyết vấn để định
kiến của chúng ta để nó không ngăn trở chúng ta nhận biết thật sự những điều Đức Chúa Trời
đang muốn phán với chúng ta?
Từ bối cảnh của chúng ta, chúng ta sẽ chuyển đến bối cảnh của chính Kinh Thánh. Trong
chương 6, chúng ta sẽ khai phá bối cảnh lịch sử-văn hóa của Kinh Thánh. Chúng ta sẽ quan sát
kỹ thế giới của Kinh Thánh để thấy Đức Chúa Trời đã phán với những người cổ đại đang sống
trong những văn hóa riêng, đang đối diện với những hoàn cảnh riêng. Một khi chúng ta hiểu
được điều Đức Chúa Trời đã phán với họ ngày xưa thì chúng ta cũng có thể hiểu rõ được điều
Ngài muốn phán với chúng ta ngày hôm nay. Trong chương 7, chúng ta sẽ học cách nhận ra bối
cảnh văn chương – những bản văn xung quanh đoạn Kinh Thánh chúng ta đang nghiên cứu.
Chúng ta sẽ kết thúc phần này bằng hai chủ đề liên quan mật thiết đến bối cảnh. Trong
chương 8, chúng ta sẽ học cách để học từ ngữ (word studies) đúng cách (tức là, trong bối cảnh).
Cuối phần 2, các bạn sẽ thấy được tầm quan trọng của bối cảnh, cả bối cảnh của chúng ta và của
tác giả thời Kinh Thánh.
43
Chương 5
Chúng Ta Mang Gì Đến Bản Văn?
Lời Giới Thiệu
Trong vài chương tới đây chúng ta sẽ cùng thảo luận với nhau về tầm quan trọng của bối
cảnh đối với việc giải kinh. Một bối cảnh thường bị lạm dụng là bối cảnh của độc giả - tức là tiếp
cận bản văn từ thế giới của độc giả. Chúng ta, là độc giả Kinh Thánh không bao giờ trung dung
hay khách quan. Chúng ta thường đem nhiều định kiến và ảnh hưởng của chúng ta vào trong bản
văn khi chúng ta đọc. Do đó, chúng ta cần thảo luận và định giá những ảnh hưởng “định kiến”
này, e rằng chúng dẫn chúng ta đi sai lệch với ý nghĩa thật của bản văn.
Chúng ta cùng bắt đầu với một câu chuyện. Cô Gia Hân và gia đình làm giáo sĩ ở Ê -thi-ô-
pi nhiều năm. Ngay khi cô và gia đình đến đó là lúc Hội Thánh Tin Lành tại Dilla tổ chức lễ
Giáng sinh. Đây là một trải nghiệm thật lạ với Gia Hân. Chẳng có cây thông giáng sinh với đèn
màu lấp lánh, cũng chẳng có tuyết rơi như ở Hàn Quốc. Thời tiết thì ấm áp. Chuối mọc quanh
nhà thờ. Có khoảng 400 người tập trung trong một nhà thờ có sức chứa chỉ 150 người. Nếu dùng
từ ghế ngồi thì thiếu chính xác, nhưng thực ra là những tấm đòn lót dưới nền đất. Mái nhà thờ
lợp bằng tôn cũ.
Ngay khi mây che mặt trời thì nhiệt độ thay đổi và những tấm tôn trở mình gây nên
những âm thanh lạ tai. Khi mặt trời ló dạng trở lại thì nhiệt độ cũng thay đổi theo đó và những
tấm tôn lại phải giãn nở ra và âm thanh lại xuất hiện. Bên trong nhà thờ thắp hai mươi bốn cây
đèn cầy. Á nh sáng trong nhà thờ thì lấy từ các cửa sổ. Nhưng vào ngày giáng sinh thì các cửa sổ
lại quá tải và bịt kín bởi những người dân xung quanh tò mò đến xem. Họ không có chỗ ngồi nên
phải ngồi trên các cửa sổ.
Gia Hân cứ nghĩ giáng sinh chắc sẽ diễn ra giống như ở Hàn Quốc. Thật sự bất ngờ với
cô ta khi buổi lễ vượt quá trí tưởng tượng của mình. Bắt đầu giờ lễ, có một người cầm cái loa tay
đi tới đi lui trong nhà thờ hô to chiếu lệnh của hoàng đế Sê-sa về việc kiểm tra dân số trong Lu-
ca 2:1. Sau đó, gia đình Giô-sép và Ma-ri khởi hành đến Bết-lê-hem.
Tới đây, buổi diễn bắt đầu khác, Giô-sép và Ma-ri không đi một mình. Ma-ri với chiếc
bụng bầu to đi cùng với một đoàn người, gồm các dì và các chị em bạn dì. Giô-sép một mình đi
phía trước còn những người phụ nữ thì đi sau, nói chuyện vui vẻ về hài nhi sắp ra đời và về việc
sắp sinh nở. Gia-Hân nghĩ: “điều này khác với cảnh thông thường chỉ có Giô-sép, Ma-ri và con
lừa. Mấy người phụ nữ này ở đâu ra? Họ không có trong câu chuyện giáng sinh!”
44
Vài phút sau, họ đến thành Bết-lê-hem ồn ào và đi thẳng đến chuồng chiên. Tại đây có
nhiều con chiên. Ma-ri bắt đầu trở dạ và đau đớn kêu la. Còn Giô-sép thì chạy tới chạy lui bối rối.
Các bà mụ và những người đi theo thì đứng quanh để đỡ đẻ. Sau một lúc, một người phụ nữ la
to sung sướng, theo lệ của người Ê -thi-ô-pi, thông báo cho cộng đồng là một hài nhi đã được
sinh hạ bình an, khỏe mạnh. Nghe tiếng la, Giô-sép chạy ngay vào chuồng chiên để xem em bé
vừa sinh. Sau đó, những người chăn chiên đến, rồi các nhà thông thái cũng đến. Buổi diễn kéo
dài trong vòng hai tiếng đồng hồ.
Điều khiến cho Gia-Hân thích thú là người Ê -thi-ô-pi đã giải nghĩa câu chuyện theo văn
hóa của họ. Họ không chủ ý bối cảnh hóa nó theo cách người Ê -thi-ô-pi. Họ cố gắng phát họa nó
theo cách họ nghĩ rằng một đứa trẻ phải được sinh ra là như vậy. Hãy để ý những điều họ làm
nhé. Họ cố gắng hiểu và tái hiện lại câu chuyện theo văn hóa của họ. Ví dụ, đối với người Ê -thi-
ô-pi, họ không thể hiểu nổi làm sao gia đình của Ma-ri lại để cho cô ta đi một mình. Cô là một
phụ nữ trẻ, sinh đứa con đầu lòng và người Ê -thi-ô-pi không thể tưởng tượng nổi làm sao cô đi
một mình mà chỉ có thanh niên Giô-sép giúp đỡ. Làm sao sinh được em bé như vậy? Chỉ người
vô trách nhiệm mới đi trong hoàn cảnh đó mà không có người dì làm người đỡ đẻ.
Nếu ở Hàn Quốc hay ở Việt Nam thì dường như không có vấn đề gì vì chúng ta đang
sống trong một thế giới với đầy đủ tiện nghi y tế, bác sĩ và bệnh viện. Chúng ta không cần người
đỡ đẻ trong câu chuyện này. Thật ra chúng ta cũng không nghĩ đến việc ai sẽ đỡ đẻ cho. Chúng
ta chỉ xem đôi vợ chồng trẻ xuất hiện rồi đóng màn. Hài Nhi Giê-xu lại xuất hiện trong vòng tay
của Ma-ri. Nhưng hãy suy nghĩ về điều đó. Chẳng lẽ Giô-sép đỡ đẻ? Người Ê -thi-ô-pi sẽ chế
nhạo chúng ta ngay. Làm sao một thanh niên chưa lần nào có con lại có thể đỡ đẻ? Điều như thế
không bao giờ có thể xảy ra ở Ê -thi-ô-pi.
Để ý điều này. Khi chúng ta ở Việt Nam, chúng ta suy nghĩ câu chuyện này theo cách
hiểu của người Việt. Trong thế giới của chúng ta, chúng ta chủ yếu sống trong gia đình hạt nhân
(tức là chỉ có cha, mẹ và con cái) cho nên chúng ta thấy Giô-sép và Ma-ri đi một mình là bình
thường. Chúng ta cũng không cần đến bà mụ. Chúng ta quen với cảnh là một thanh niên một
mình chở vợ xuống bệnh viện để đẻ. Người thanh niên này ở trong bệnh viện một lát với vợ rồi
cửa đóng lại. Đóng màn! Em bé xuất hiện. Do đó chúng ta thấy dễ chịu khi đóng lại cảnh này
đơn giản như từng thấy theo cách nghĩ của chúng ta.
Người Ê -thi-ô-pi thì ngược lại. Họ có một trải nghiệm văn hóa rất khác trong việc sinh
con. Người phụ nữ trẻ mang thai thường được những người phụ nữ bà con đến giúp đỡ vào tuần
cuối kỳ mang thai. Cô ta không bao giờ ở một mình. Việc sinh em bé không phải diễn ra ở bệnh
viện nhưng ở nhà. Đó là một gia đình nhiều thế hệ. Người bà con hoặc là người hàng xóm làm
người đỡ đẻ. Việc một người nữ trẻ mang thai gần sinh đi một mình với một thanh niên trẻ là
một điều mà người Ê -thi-ô-pi không thể tưởng tượng nổi. Vì người Việt thường hay xem những
hoạt cảnh quen thuộc như vậy nên tin rằng nó thật như vậy. Nhưng cả người Việt và người Ê -thi-
ô-pi đều tự do suy nghĩ về những tình tiết im lặng trong câu chuyện này và diễn tả nó theo văn
hóa của mỗi dân tộc. Theo bạn nghĩ thì văn hóa của ai gần với Kinh Thánh hơn?
45
Định Kiến
Một ảnh hưởng lớn có thể làm lệch tiến trình giải kinh của chúng ta và dẫn chúng ta đi xa
ý nghĩa thật trong bản văn là định kiến. Định kiến nói đến tất cả những khái niệm, hiểu biết của
chúng ta được hình thành, dù vô thức hay hữu ý, được đem vào bản văn trước khi chúng ta thật
sự học chi tiết bản văn đó. Vấn đề định kiến liên quan đến vấn đề văn hóa được giới thiệu ở trên
và sẽ được giới thiệu cụ thể ở dưới. Định kiến bao gồm những từng trãi đặc biệt và sự học hỏi
bản văn trước đây. Nó có khuynh hướng khiến cho chúng ta nghĩ rằng mình đã hiểu bản văn đó
rồi.
Định kiến được hình thành bởi những ảnh hưởng cả tốt lẫn xấu, một số chính xác và một
số không. Nó bao gồm cả trong những điều bạn nghe ở Trường Chúa Nhật, ở nhà thờ, giờ học
Kinh Thánh, và trong giờ đọc Kinh Thánh cá nhân. Dầu vậy, định kiến về kinh văn còn được
hình thành qua những bài thánh ca, những bài hát, âm nhạc, nghệ thuật Cơ Đốc và văn phẩm
ngoài Kinh Thánh, cả Cơ Đốc lẫn ngoài đời. Tương tự, văn hóa nhanh chóng bước vào.
Để ý là thỉnh thoảng, định kiến của bạn về một đoạn Kinh Thánh nào đó có thể đúng.
Nhưng thường thì không đúng. Nếu bạn không thật sự học đoạn Kinh Thánh đó một cách
nghiêm túc thì bạn không thể biết nó có chính xác hay không. Điều này nguy hiểm cho những
người tưởng rằng định kiến của mình luôn luôn đúng. Vanhoozer cho thái độ này là kiêu ngạo.
Ô ng viết rằng loại kiêu ngạo này “khuyến khích chúng ta nghĩ rằng chúng ta đã nắm được ý
nghĩa thật trước khi chúng ta cố gắng nắm bắt được. Kiêu ngạo không lắng nghe. Nó biết rồi”.1
Một khía cạnh nguy hiểm khác của định kiến là khi chúng ta đến với bản văn với một ý
tưởng thần học đã được định hình. Tức là chúng ta bước vào đoạn Kinh Thánh với một ý tưởng
có sẵn thay vì tìm ý tưởng đó trong đoạn Kinh Thánh. Chúng ta dùng đoạn Kinh Thánh đó để tìm
những chi tiết thích hợp với ý tưởng có sẵn của chúng ta. Bất cứ điều gì không thích hợp với ý
chúng ta đang có, chúng ta thường hay bỏ qua. Vanhoozer mô tả hành động này là “đứng trên”.
Tức là, chúng ta là độc giả đứng trên Lời của Đức Chúa Trời và xác định ý nghĩa của nó chứ
không phải đặt mình dưới Lời đó rồi kiên nhẫn tìm điều Đức Chúa Trời muốn nói gì qua đoạn
Kinh Thánh đó.
Một nguy hiểm liên quan là sự quen thuộc. Nếu chúng ta quá quen với một đoạn Kinh
Thánh rồi, chúng ta thường có khuynh hướng nghĩ rằng mình đã biết hết về nó rồi và thường thì
chúng ta hay bỏ qua mà không học nó một cách cẩn thận. Hi vọng bạn còn nhớ trong Phần 1
rằng hầu hết các đoạn Kinh Thánh đều có chiều sâu riêng của nó và chúng ta không thể nắm bắt
hết được trong một hoặc hai lần học nó. Sự quen thuộc một đoạn văn tạo nên định kiến. Khi
chúng ta học lại đoạn Kinh Thánh nào thì phải chiến thắng cám dỗ của sự quen thuộc khiến
1 Kevin J. Vanhoozer, Is There a Meaning in this Text? The Bible, the Reader, and the Morality of Literary Knowledge
(Grand Rapids: Xondervan, 1998), 462.
46
chúng ta có kết luận trước đây. Rồi chúng ta sẽ bắt đầu học đoạn Kinh Thánh đó. Chúng ta cần
học nó mới mẻ, kẻo định kiến khiến chúng ta kiêu ngạo như được đề cập ở trên. Hơn nữa, như đã
đề cập trong Phần 1, nếu chúng ta không học một đoạn Kinh Thánh một cách mới mẻ và nghiêm
túc vì chúng ta nghĩ rằng mình đã biết rồi thì tất cả điều chúng ta có thể học được chỉ là những
điều của những lần trước. Việc học của chúng ta trở nên nhàm chán và mệt mỏi. Sự trưởng thành
và hiểu biết của chúng ta trở nên cằn cỗi.
Một trong những khía cạnh mạnh mẽ nhưng tế nhị nhất của định kiến là khía cạnh văn
hóa. Chắc chắn văn hóa của chúng ta có một ảnh hưởng lớn trên cách chúng ta đọc và giải nghĩa
Kinh Thánh. Ví dụ, mặc dầu chúng ta tin Giê-xu là Chúa và Cứu Chúa của chúng ta, nhưng khi
Ngài bảo chúng ta xây má bên kia để kẻ thù tát thì một tiếng nói trong người chúng ta phản đối.
Đưa má bên kia cho kẻ thù tát thì không phải là cách của người Việt Nam. Có lẽ chúng ta có thể
đưa má cho người ta tát lần thứ hai để chứng tỏ sự kiên nhẫn của chúng ta. Nhưng chắc chắn sau
cái tát thứ hai, chúng ta sẽ đập cho gã đó một hồi. Không có hành động anh hùng nào của chúng
ta là đưa má kia cho người ta tát cả!
Do đó, khi chúng ta đọc một mạng lịnh như vậy từ Chúa Giê-xu, chúng ta ngay tức thì cố
gắng giải thích nó theo cách không mâu thuẫn với những chuẩn văn hóa, đặc biệt những văn hóa
đã được thiết lập bởi văn hóa của những anh hùng. Chúng ta gọi thiên hướng chạy theo văn hóa
này là túi văn hóa. Hãy tưởng tượng bạn sẽ đi leo núi vào một ngày nắng nóng. Bạn mang theo
giày, mũ, kính râm và gậy. Bạn có mang theo cùng ba hay bốn va li không? Thật buồn cười phải
không? Bạn có thể tưởng tượng leo núi cao mang theo nhiều va li như vậy không? Tương tự, nếu
bạn không cẩn thận, văn hóa của chúng ta sẽ trì nặng chúng ta xuống và không thể tiến nhanh
trên Hành Trình Giải Kinh. Nó cũng ngăn chúng ta không khám phá và nắm bắt được Lời của
Đức Chúa Trời cho chúng ta. Văn hóa của chúng ta có khuynh hướng làm cho chúng ta hiểu lệch
Kinh Thánh khi chúng ta đọc nó, bắt chúng ta phải đi theo thế giới văn hóa của mình.
Một minh họa về ảnh hưởng tiềm thức của văn hóa trên sự hiểu biết của chúng ta là trong
sách Giô-na. Hãy cố gắng tưởng tượng Giô-na ở trong bụng cá. Bạn thấy gì? Bạn có thấy Giô-na
đang nằm co quắp trong bụng cá chật hẹp không? Nhiều người dường như không nhìn thấy hình
ảnh đó. Nhiều người nhìn thấy Giô-na nằm trong bụng cá hình tròn và có một ít nước ở dưới đáy.
Thật sự đây không phải là những gì bên trong bụng cá.
Vậy thì tại sao chúng ta nhìn thấy hình ảnh này? Hình ảnh này đến từ đâu? Tôi nghĩ hình
ảnh này đến từ bộ phim (hay quyển sách), Pinocchio. Trong bộ phim này, Walt Disney dựng một
cảnh một con cá voi nuốt nhân vật chính, Pinocchio. Bộ phim vẽ lên cảnh Pinocchio đang ngồi
bên trong con cá voi. Bộ phim này đọng lại trong tiềm thức của chúng ta về hình ảnh một người
đang ngồi trong một con cá voi. Khi chúng ta đọc câu chuyện con cá voi nuốt Giô-na, đầu óc
chúng ta bắt đầu tìm hình ảnh trong ngân hàng trí nhớ của mình, tìm một hình ảnh có thể nhìn
thấy được sự kiện. Khi đầu óc của chúng ta tìm trong các ngăn của trí nhớ thì gặp phải ngăn
Pinocchio và một bức tranh gợi lại trong đầu mà không nhận ra hình ảnh đó bắt gặp ở đâu.
Chúng ta bắt đầu nghĩ về câu chuyện của Giô-na với hình ảnh trong phim Holiwood. Do đó,
47
chúng ta thấy mình bị ảnh hưởng trong việc đọc Kinh Thánh của mình mà không nhận ra những
gì đang diễn ra.
Chính xác văn hóa có nghĩa là gì? Văn hóa của chúng ta là một sự kết hợp của những
điều mình thừa hưởng từ gia đình và dân tộc. Bạn học nó từ người mẹ vào giờ ăn sáng, từ những
đứa trẻ ở sân chơi ở trường, từ ti vi. Nó là một sự trộn lẫn giữa ngôn ngữ, phong tục, câu chuyện,
phim ảnh, chuyện cười, văn chương và thói quen dân tộc. Nó có thể khác nhau trong cùng một
thành phố. Nếu bạn lớn lên bên trong một thành phố, gia đình Công giáo cả cha mẹ, trong nhiều
khía cạnh văn hóa của bạn sẽ khác với một người lớn lên ở ngoại ô, chỉ có mẹ thôi, gia đình Tin
Lành. Dầu vậy, bạn cũng có cùng nhiều ảnh hưởng văn hóa giống nhau. Mặc dầu bạn có cùng
một số đặc điểm văn hóa chung, nhưng người miền nam, miền bắc và miền tây cũng khác nhau.
Một khi bạn đi ra khỏi Việt Nam bạn sẽ thấy người Việt ở nước ngoài cũng khác nhau.
Nền tảng gia đình của bạn cũng là một yếu tố căn bản trong thế giới văn hóa của bạn.
Bạn đã thừa hưởng nhiểu, nhiều giá trị, tư tưởng và hình ảnh (cả tốt lẫn xấu) từ gia đình của bạn.
Ví dụ, quan điểm của bạn về tiền bạc, công việc, người nghèo hay người thất nghiệp là gì? Quan
điểm của bạn chắc chắn được hình thành từ vị trí kinh tế xã hội của gia đình bạn. Nếu bạn được
sinh ra trong một gia đình trung lưu, bạn có thể đọc những đoạn Kinh Thánh về người nghèo
khác với những người được sinh ra và lớn lên trong nghèo khó ở Tây Nguyên. Cơ Đốc Nhân cần
nhận thức rằng nền tảng gia đình và tình trạng kinh tế, xã hội của gia đình tác động lớn đến việc
đọc Kinh Thánh của chúng ta.
Gia đình của bạn cũng giúp cho bạn có liên hệ tốt hơn trong các mối quan hệ. Nếu bạn
may mắn được lớn lên trong một gia đình yêu thương, chăm sóc, bạn sẽ dễ liên hệ đến hình ảnh
của một Đức Chúa Trời yêu thương. Nếu bạn có một người cha thương yêu, thì hình ảnh về Đức
Chúa Trời như người cha yêu thương dễ nắm bắt hơn. Trong trường hợp này, ảnh hưởng văn hóa
của bối cảnh gia đình của bạn giúp bạn nắm bắt lẽ thật Kinh thánh về Đức Chúa Trời.
Dầu vậy, rất tiếc không phải ai cũng có người cha yêu thương. Những người lớn lên với
những người cha vô trách nhiệm hay lạm dụng sẽ đem hết hình ảnh người cha đó vào trong Kinh
Thánh, và người đó khó hình dung ra hình ảnh người cha yêu thương trong Kinh Thánh là Đức
Chúa Trời. Điều này không có nghĩa là những người này không thể nắm bắt được khía cạnh này
trong lẽ thật của Kinh Thánh. Nhưng nó có nghĩa là những người như thế này cần phải nỗ lực
nhiều hơn để vượt qua được những hình ảnh tiêu cực thời trẻ. Những hình ảnh khác về Đức Chúa
Trời và sự chăm sóc của Ngài có thể được liên hệ tốt hơn. Khi chúng ta tìm cách để hiểu Lời
Đức Chúa Trời, việc nhận ra những ảnh hưởng văn hóa đang tác động đến suy nghĩ và cảm xúc
của chúng ta là vô cùng quan trọng.
Chúng ta nhận ra rõ ràng rằng Cơ Đốc Nhân không cố ý đọc Kinh Thánh sai văn hóa.
Nhưng như đã trình bày ở trên, tất cả chúng ta có khuynh hướng bị văn hóa ảnh hưởng chúng ta
từ trong tiềm thức. Sự chuyển tải tự động này của bản kinh văn vào thế giới văn hóa của chúng ta
được gọi là “phản xạ giải kinh”.
48
Phản xạ giải kinh tác động đến việc giải kinh của chúng ta trong hai cách: (1) Như đã
đề cập ở hoạt cảnh lễ Giáng sinh, chúng ta có khuynh hướng lấp đầy tất cả những khoảng cách
và những sự khó hiểu trong bản kinh văn bằng những giải thích và bối cảnh trong văn hóa của
chúng ta. (2) Một điều tai hại hơn trong việc giải kinh của chúng ta là bối cảnh văn hóa của
chúng ta hình thành trước trong đầu chúng ta để rồi chúng ta phải giới hạn khả năng nắm bắt ý
nghĩa thật trong Kinh Thánh.
Chúng ta hãy cùng xem lại mạng lệnh của Chúa Giê-xu bảo chúng ta xây má bên kia
cho kẻ thù tát. Từ trong tiềm thức của chúng ta đang tìm cách để hợp thức hóa thế giới quan văn
hóa của chúng ta, tức là, những điều có sẵn trong văn hóa của chúng ta. Do đó, trước khi chúng
ta bắt đầu khai phá ý của Chúa Giê-xu muốn nói trong việc này, chúng ta phải hình thành giới
hạn khả năng xung quanh bản văn và loại bỏ những ý nghĩa khả dĩ mâu thuẫn văn hóa của chúng
ta. Điều này không có nghĩa là ai đó đánh bạn một cái thì hãy để cho họ đánh thêm cái nữa. Nếu
làm như vậy, chúng ta đang đặt văn hóa của chúng ta trên Kinh Thánh và đọc Kinh Thánh qua
lăng kính văn hóa. Bằng cách này, chúng ta đang lỡ mất một trong những điểm chính của Kinh
Thánh, tức là sứ điệp Kinh Thánh đến từ Đức Chúa Trời và ở trên văn hóa. Thách thức cho
chúng ta là phê bình văn hóa của mình bằng Kinh Thánh và ngược lại. Chúng ta cần phải tìm
kiếm điều Đức Chúa Trời phán chứ không phải điều văn hóa của chúng ta nói. Chúng ta phải tìm
chi tiết và trong bối cảnh lịch sử của nó để xác định giải đáp, chứ không phải bằng định kiến bị
chi phối bởi văn hóa.
Định kiến, gồm cả văn hóa, không phải là xấu, nhưng nó thường làm lệch sự hiểu biết
Kinh Thánh của chúng ta, khiến chúng ta có thể giải nghĩa sai Kinh Thánh.
Chúng ta không có ý từ bỏ tất cả định kiến của chúng ta và vứt tất cả những điều mình
học trước đây vào sọt rác. Điều chúng ta cần làm là để định kiến ở dưới bản văn Kinh Thánh hơn
là ở trên Kinh Thánh. Chúng phải có khả năng nhận ra điều đến từ định kiến và điều chỉnh nó
theo tiến trình giải kinh nghiêm túc của mình. Điều này có nghĩa là sau khi chúng ta nghiên cứu
đoạn Kinh Thánh một cách thấu đáo rồi thì chúng ta sẽ định giá định kiến của chúng ta và bổ
sung nó một cách hợp lý theo điều mình vừa tìm thấy trong Kinh Thánh.
Những Giả Định Trước (Pressuppositions)
Chúng ta không bao giờ đọc và giải nghĩa Kinh Thánh mà hoàn toàn trung dung, không
có một quan điểm giả định nào, ví dụ như đức tin. Một người đọc Kinh Thánh không thể đọc một
cách hoàn toàn khách quan được. Mục tiêu của chúng ta cũng không phải như vậy. Cố gắng tìm
kiếm tính khách quan trong việc giải kinh không có nghĩa là từ bỏ đức tin hay đi theo những
phương pháp của những người không tin. Đọc Kinh Thánh mà không có đức tin không sản sinh
ra tính khách quan được. Chúng ta định nghĩa định kiến và giả định như là hai thực thể riêng biệt
mà chúng ta sẽ nói đến trong hai cách khác nhau. Chúng ta phải để định kiến của chúng ta thay
đổi mỗi khi chúng ta học một đoạn Kinh Thánh. Chúng ta định kiến dưới bản văn và định giá nó
49
trong ánh sáng của những điều chúng ta vừa học được. Ngược lại, giả định trước không thay đổi
mỗi lần đọc. Nó không liên quan đến những đoạn Kinh Thánh riêng biệt nhưng liên quan đến
tổng thể Kinh Thánh.
Là Cơ Đốc Nhân, chúng ta phục sự Chúa hằng sống và có Đức Thánh Linh ngự trong
chúng ta. Mối quan hệ mà chúng ta có với Đức Chúa Trời là một khía cạnh liên lạc quan trọng
mà chúng ta có với Ngài qua việc đọc Lời của Ngài. Mối quan hệ này ảnh hưởng rất lớn đến việc
giải kinh của chúng ta. Nó không phải là điều gì đó chúng ta muốn tái thương lượng khi chúng ta
đọc từng bản văn như đối với khía cạnh định kiến. Nhưng đó là một điều gì đó mà chúng ta
muốn sử dụng. Chúng ta sẽ khai phá việc giải kinh giữa Đức Thánh Linh và sự hiểu biết của
chúng ta chi tiết hơn trong chương 11: “Vai Trò Của Đức Thánh Linh”. Là Cơ Đốc Nhân, chúng
ta cần có vài giả định trước về chính Kinh Thánh, điều phát triển mối quan hệ của chúng ta với
Đấng Christ. Chúng ta sẽ không thể phớt lờ mỗi lần chúng ta đi qua một phân đoạn, như chúng ta
làm với định kiến.
Vài giả định về Kinh Thánh mà Cơ Đốc Nhân cần phải nắm lấy:
1. Kinh Thánh là Lời của Đức Chúa Trời. Dầu Đức Chúa Trời dùng nhiều người để viết
nên nó nhưng nó là lời được linh cảm bởi Đức Thánh Linh và đó là Lời của Đức
Chúa Trời cho chúng ta.
2. Kinh Thánh đáng tin và chân thật.
3. Đức Chúa Trời bước vào lịch sử của con người, do đó những phép lạ, điều siêu nhiên
có thể xảy ra.
4. Kinh Thánh không mâu thuẫn nhau; Kinh Thánh hiệp nhất nhưng đa dạng. Dầu vậy,
Đức Chúa Trời vĩ đại hơn chúng ta nên chúng ta không phải lúc nào cũng hiểu Ngài
dễ dàng. Do đó Kinh Thánh luôn mầu nhiệm.
Có những giả định khác có thể được thêm vào, nhưng đây là những giả định chính cần
phải được đề cập trong chương này. Những giả định này xác định chúng ta nhìn tổng thể Kinh
Thánh như thế nào, và nó lập nền tảng cho phương pháp của chúng ta xây dựng trên đó.
Kết Luận - Chúng Ta Có Thể Khách Quan?
Nhiều tác giả đã chỉ ra rằng khách quan hoàn toàn trong việc giải kinh là không thể và
chúng ta công nhận điều đó. Dầu vậy hoàn toàn khách quan không phải là mục tiêu của chúng ta.
Là Cơ Đốc Nhân, chúng ta có mối quan hệ mật thiết với Đức Chúa Trời qua Đức Chúa Giê-xu
Christ. Chúng ta không cố gắng tìm một quan điểm khách quan, trung tính. Chúng ta không học
cách của các nhà sử học thế tục khi chúng ta nghiên cứu bản kinh văn. Chúng ta đang muốn lắng
nghe những điều Đức Chúa Trời phán với chúng ta. Do đó, chúng ta đến với bản văn bằng đức
tin và Đức Thánh Linh (xem chương 11). Vì vậy, chúng ta muốn tính khách quan bên trong
phạm vi của những giả định được nêu ở trên. Loại khách quan này là để ngăn định kiến của
50
chúng ta, văn hóa của chúng ta, những sự quen thuộc của chúng ta hay sự lười biếng của chúng
ta làm lu mờ ý nghĩa mà Đức Chúa Trời dự định cho chúng ta trong bản kinh văn.
Mỗi chương trong sách này liên hệ đến vài khía cạnh sửa lại định kiến hay làm trung tính
hóa những ảnh hưởng văn hóa tiêu cực trên sự hiểu biết của chúng ta. Những công cụ quan sát
mà chúng ta đã học trong Phần 1 sẽ giúp chúng ta trở nên khách quan. Phương pháp đọc cẩn thận
được trình bày trong những chương đó đòi hỏi chúng ta phải đặt định kiến của chúng ta dưới bản
văn khi nghiên cứu bản văn chi tiết. Chỉ cần khám phá những chi tiết trong bản văn thường sửa
lại nhiều định kiến và áp dụng sai lệch văn hóa của chúng ta.
Phần 2 nhấn mạnh đến bối cảnh vì một nghiên cứu nghiêm túc bối cảnh giúp cho ý nghĩa
thật được rõ ràng và sửa lại những định kiến của chúng ta. Chương tiếp theo: “Bối Cảnh Lịch
Sử-Văn Hóa” sẽ giúp chúng ta lấp đầy khoảng trống và bối cảnh của những phân đoạn Kinh
Thánh bằng những thông tin văn hóa, lịch sử chính xác. Phần 3 sẽ thảo luận về ý nghĩa và nguồn
gốc của nó. Nó sẽ giúp chúng ta tìm cách để khám phá ý nghĩa của Đức Chúa Trời từ trong bản
văn hơn là cố tình tạo nên một sự hiểu biết lệch lạc từ trong xác thịt kiêu ngạo của chúng ta. Cuối
cùng trong phần 4 và 5 sẽ nói đến những thể loại văn chương khác nhau được tìm thấy trong
Kinh Thánh. Nếu hiểu rõ những thể loại văn chương khác nhau sẽ giúp chúng ta tránh võ đoán
của chuẩn văn chương/văn hóa hiện thời trên bản văn chương cổ đại của thời Kinh Thánh.
51
Chương 6
Bối Cảnh Văn Hóa – Lịch Sử
Lời Giới Thiệu
Nếu bạn phải chọn một nhân vật ưa thích trong Kinh Thánh, thì chắc hẳn nhiều người
trong các bạn sẽ chọn sứ đồ Phao-lô. Sự nhiệt thành phục vụ Chúa Giê-xu Christ của ông tiếp tục
thách thức chúng ta. Trong Tân Ước, chúng ta có mười ba thư tín được cho là do Phao-lô viết.
Trong chương cuối của lá thư cuối cùng (II Ti-mô-thê), Phao-lô nói lên cảm xúc của mình về
ngày cuối cuộc đời ông đang đến:
6 Về phần ta, ta đang bị đổ ra làm lễ quán, kỳ qua đời của ta gần rồi. 7 Ta đã đánh trận
tốt lành, đã xong sự chạy, đã giữ được đức tin. 8 Hiện nay mão triều thiên của sự công
bình đã để dành cho ta; Chúa là quan án công bình, sẽ ban mão ấy cho ta trong ngày đó,
không những cho ta mà thôi, nhưng cũng cho mọi kẻ yêu mến sự hiện đến của Ngài.
Khi Phao-lô kết luật lá thư này, ông nhắc lại một sứ điệp đơn giản cho Ti-mô-thê, người
bạn đồng lao: “Hãy cố gắng đến cùng ta cho kíp” (4:9). Sau đó trong 4:21 ông tiếp thêm: “Con
hãy cố sức đến trước mùa đông”. Chúng ta có thể hiểu rằng Phao-lô muốn Ti-mô-thê đến thăm
ông. Nhưng khi chúng ta chỉ cần hiểu về bối cảnh văn hóa-lịch sử nằm đằng sau những từ này có
thể chỉ ra sự sâu sắc và cảm xúc của lời cầu xin của Phao-lô.
Hầu hết các học giả tin lành tin rằng Ti-mô-thê đang hầu việc Chúa tại Ê -phê-sô còn
Phao-lô thì đang ở tù tại Rô-ma. Họ cách nhau hàng trăm cây số. Di chuyển bằng thuyền được
xem là nguy hiểm từ giữa tháng Chín đến cuối tháng Năm và hoàn toàn không thể đi được từ đầu
tháng Mười Một đến đầu tháng Ba. Dĩ nhiên cả Phao-lô và Ti-mô-thê biết điều này. Nếu Phao-lô
gởi lá thư II Ti-mô-thê do Ty-chi-cơ đem đến vào mùa hè thì Ti-mô-thê dường như không có kịp
thời gian để đi đến Rô-ma. Bối cảnh lịch sử trong đoạn này giúp chúng ta nhìn thấy được điều
Phao-lô thật sự muốn nói với người bạn trẻ Ti-mô-thê này: “Hãy thu xếp mọi thứ tại Ê -phê-sô và
lên tàu gấp. Nếu con không xuất hành bây giờ trước khi mùa đông đến, đường tàu sẽ đóng lại và
con không thể đến đây kịp giờ. Ti-mô-thê ơi, con hãy gắng sức đến đây trước khi người ta xử tử
ta. Hãy đến nhanh trước khi quá trễ”. Biết được bối cảnh văn hóa-lịch sử của đoạn Kinh Thánh
này giúp cho đoạn Kinh Thánh này sống động với cảm xúc và sự căng thẳng. Phao-lô không chỉ
yêu cầu Phao-lô đến thăm. Ông còn muốn hơn thế nữa như là người cha khẩn khoản con mình
đến với mình trước khi ông qua đời.
Để nắm bắt được Lời của Chúa, chúng ta phải hiểu được ý nghĩa của bản kinh văn
trong bối cảnh của nó và áp dụng ý nghĩa đó vào đời sống của chúng ta. Bối cảnh có hai hình
thức chính: bối cảnh văn chương và bối cảnh lịch sử-văn hóa. Trong chương này bạn sẽ học về
52
bối cảnh lịch sử-văn hóa khi chúng ta hỏi và trả lời vài câu hỏi quan trọng. Tại sao chúng ta cần
nghiên cứu bối cảnh lịch sử-văn hóa của một đoạn kinh văn? Điều đó có thật sự quan trọng
không? Nghiên cứu bối cảnh lịch sử-văn hóa chính xác liên quan đến những gì? Những công cụ
nào có sẵn để giúp chúng ta tìm được bối cảnh lịch sử-văn hóa? Mục tiêu của chương này là để
chỉ cho bạn cách để nghiên cứu bối cảnh lịch sử-văn hóa của một phân đoạn và để khẳng định
với bạn rằng biết được bối cảnh của một đoạn kinh văn có thể giúp ý nghĩa của nó rõ ràng hơn và
áp dụng vào đời sống của mình thích ứng hơn.
Tại Sao Cần Bối Cảnh Lịch Sử-Văn Hóa?
Trong quyển giải nghĩa Bối cảnh của Kinh Thánh, Craig Keener nhắc chúng ta rằng Đức
Chúa Trời không nói về Ngài bằng ngôi thứ nhất trong đa số các đoạn Kinh Thánh. Ngài không
phán: “Vì Ta là Đức Chúa Trời, Ta sẽ phán trực tiếp với mọi người trong mọi thời đại và trong
mọi văn hóa”2. Nhưng Đức Chúa Trời (là nguồn tối thượng) phán qua những tác giả của Kinh
Thánh là con người (nguồn trung gian) để nói đến những nhu cầu thật trong cuộc sống của con
người ở một thời điểm nhất định trong một văn hóa nhất định. Đức Chúa Trời chọn phán với con
người theo cách như vậy.
Xin đừng hiểu lầm điều chúng tôi đang nói ở đây. Dĩ nhiên Đức Chúa Trời ban cho
chúng ta những nguyên tắc đời đời trong Lời của Ngài. Lời này có thể áp dụng cho mọi người
trong mọi thời đại trong mọi nền văn hóa. Mục tiêu của chúng tôi trong sách này là chỉ dẫn cho
bạn biết cách khám phá và áp dụng những nguyên tắc thần học đó cho đời sống của bạn. Chúng
ta không nghi ngờ có phải Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta những nguyên tắc thích hợp đời
đời này không. Nhưng đơn giản chúng ta đang tìm biết Ngài đã ban cho chúng ta những nguyên
tắc đó như thế nào. Chúng ta tin rằng cách mà chúng ta đến với Kinh Thánh (tức là cách chúng ta
lắng nghe tiếng Chúa) phải hòa hợp với cách mà Chúa ban cho chúng ta Kinh Thánh (tức là cách
Chúa đã chọn để phán). Ngược lại, chúng ta sẽ hiểu sai những gì Đức Chúa Trời đang cố phán
với chúng ta.
Vì Đức Chúa Trời đã phán sứ điệp của Ngài trong những hoàn cảnh lịch sử nhất định (tức
là với những con người đang sống trong những vị trí địa lý nhất định, nói những ngôn ngữ nhất
định, chấp nhận một cách sống nhất định), nên chúng ta cần phải xem xét những hoàn cảnh lịch
sử-văn hóa cổ đại một cách nghiêm túc. Điều căn bản ở đây là chúng ta không thể bỏ qua
những người sống thời đó mà nhảy ngay đến những gì Đức Chúa Trời muốn phán với chúng ta
hôm nay. Tại sao? Một lần nữa, vì cách của chúng ta lắng nghe Đức Chúa Trời (trong cách
chúng ta giải kinh) phải tôn trọng cách Đức Chúa Trời chọn để phán. Chúng ta không nên cứng
lòng và kiêu ngạo khi nghĩ rằng Đức Chúa Trời chẳng quan tâm đến độc giả nguyên thủy mà chỉ
dùng nó làm sứ điệp cho chúng ta.
2 Craig Keener, The VIP Bible Background Commentary: New Testament (Downers rove, Ill.: InterVarsity, 1993), 24.
53
Một lẽ thật căn bản rằng từng phân đọan Kinh Thánh là Lời của Đức Chúa Trời phán với
những người khác trước khi nó trở thành Lời của Đức Chúa Trời cho chúng ta. Đức Chúa Trời
quan tâm sâu sắc đến những thính giả ban đầu và phán với họ trong hoàn cảnh lịch sử-văn hóa
của họ. Đức Chúa Trời cũng quan tâm sâu sắc đến chúng ta và cũng muốn phán với chúng ta. Sứ
điệp có thời gian của Kinh Thánh bao gồm những nguyên tắc thích hợp đời đời mà chúng ta có
thể khám phá và áp dụng cho đời sống của chúng ta.
Một lần nữa hãy suy nghĩ Hành Trình Giải Kinh di chuyển như thế nào từ ý nghĩa của
bản văn cho độc giả thời Kinh Thánh băng qua dòng sông khác biệt (tức là thời gian, nơi chốn,
văn hóa, hoàn cảnh) bằng phương tiện là chiếc cầu nguyên tắc để áp dụng những nguyên tắc thần
học đó cho cuộc sống của chúng ta.
Trở lại với câu hỏi của chúng ta: Tại sao cần làm quen với bối cảnh lịch sử-văn hóa gốc?
Chúng ta làm vậy vì nó mở cho chúng ta cánh cửa để dẫn vào những điều Đức Chúa Trời phán
cho độc giả thời Kinh Thánh. Vì chúng ta đang sống trong một bối cảnh rất khác, chúng ta phải
nắm bắt được ý nghĩa ban đầu của Đức Chúa Trời được phản ánh trong bản văn và được đóng
khung bằng bối cảnh lịch sử-văn hóa cổ. Một khi chúng ta hiểu được ý nghĩa của bản văn trong
bối cảnh gốc của nó thì chúng ta có thể áp dụng nó cho đời sống của chúng ta theo cách thích
hợp với chúng ta. Lời của Đức Chúa Trời luôn thích hợp đời đời. Việc của chúng ta, là những
người học Kinh Thánh, là khám phá những sự thích hợp đó bằng cách bối cảnh hóa nó.
Điều này dẫn chúng ta đến một nguyên tắc giải kinh quan trọng: Để giải nghĩa một đoạn
Kinh Thánh đúng đắn, việc giải kinh đó phải nhất quán với bối cảnh lịch sử-văn hóa của phân
đoạn Kinh Thánh đó. Nếu việc giải kinh của chúng ta không liên hệ đến với bối cảnh xưa thì có
thể chúng ta đang đi sai đường. Fee và Stuart nhấn mạnh rằng ý nghĩa thật của của bản kinh văn
cho chúng ta là những gì Đức Chúa Trời có ý phán từ lúc đầu. Nó có ý nghĩa khi lần đầu được
phán.3 Trước hết chúng ta phải xác định được đoạn Kinh Thánh đó đã có ý nghĩa gì vào thời xưa
trước khi chúng ta có thể xác định được nó đang có ý nghĩa gì và làm cách nào chúng ta có thể
áp dụng ý nghĩa đó trong thời đại và văn hóa của chúng ta. Mục tiêu của chúng ta là để hiểu được
bối cảnh lịch sử-văn hóa của phân đoạn Kinh Thánh một cách rõ ràng nhất để nắm bắt được ý
nghĩa của đoạn Kinh Thánh đó.
Bối Cảnh Lịch Sử-Văn Hóa Là Gì?
Bối cảnh lịch sử-văn hóa chính xác có ý nghĩa gì? Nhìn chung, loại bối cảnh này liên
quan đến tác giả Kinh Thánh, độc giả Kinh Thánh và bất cứ yếu tố lịch sử-văn hóa nào mà phân
đoạn Kinh Thánh đó động đến. Bối cảnh lịch sử-văn hóa chỉ liên quan đến những yếu tố nằm
ngoài bản kinh văn và nó giúp bạn hiểu được chính bản văn đó (ví dụ, cuộc sống của dân Y-sơ-
ra-ên như thế nào khi họ lang thang trong sa mạc, người Pha-ri-si tin gì về ngày Sa-bát, Phao-lô
đang ở đâu khi ông viết sách Rô-ma). Bối cảnh văn chương (xem chương 7) liên quan đến bối
3 Gordon Fee and Douglas Stuart, How to Read the Bible for All Its Worth: A Guide to Understanding the Bible, 3
rd
ed. (Grand Rapdis: Zondervan, 2003),30.
54
cảnh bên trong sách đó (ví dụ: phân đoạn thuộc thể loại văn chương gì, dòng chảy của sự biện
luận trong sách đó, ý nghĩa của những từ và câu xung quanh phân đoạn Kinh Thánh mà bạn đang
nghiên cứu). Trong chương này chúng tôi sẽ trích những nguồn mà bạn có thể dùng để nhận ra
bối cảnh lịch sử-văn hóa, nhưng trước hết chúng tôi muốn minh họa định nghĩa trên bằng vài ví
dụ điển hình. Chúng ta bắt đầu với tác giả Kinh Thánh.
Tác Giả Kinh Thánh
Vì Đức Chúa Trời chọn hành động qua những tác giả là con người như là nguồn trung
gian của Lời được linh cảm của Ngài nên chúng ta biết càng nhiều về tác giả càng tốt. Cố gắng
khám phá càng nhiều lai lịch của tác giả càng tốt. Ví dụ, khi chúng ta học một trong những thư
tín của Phao-lô, việc biết rằng trước khi Chúa thay đổi cuộc đời của ông, ông từng xin giấy phép
từ thầy tế lễ thượng phẩm Do Thái để bắt bớ Cơ Đốc Nhân là rất hữu ích. Ô ng bắt bớ Hội Thánh
từ lòng nhiệt thành sai lệch mà tưởng là hầu việc Đức Chúa Trời. Điều này giải thích tại sao các
Cơ Đốc Nhân ban đầu rất sợ Phao-lô ngay cả thời gian đầu qui đạo của ông: “Phàm những người
nghe điều lấy làm lạ, mà nói rằng: Há chẳng phải chính người đó đã bắt bớ tại thành Giê-ru-sa-
lem những kẻ cầu khẩn danh nầy, lại đến đây để trói họ điệu về cho các thầy tế lễ cả hay sao?”
(Công vụ 9:21). Điều này lý giải tại sao Phao-lô gọi mình là “tội khôi” trong I Ti-mô-thê 1:15.
Chúng ta thường không nghĩ về Phao-lô, một người được Đức Chúa Trời dùng để thay đổi thế
giới, là người tranh chiến với những ký ức kinh khủng của thời trước khi ông gặp Đấng Christ.
Cuộc đời của Phao-lô chắc chắn là một bức tranh về ân điển của Đức Chúa Trời.
Chúng ta nghĩ về tiên tri A-mốt, một vị tiên tri phục vụ Chúa vào thời gian khoảng năm
760 T.C. Dầu A-mốt đến từ Thê-cô-a trong đất Giu-đa (vương quốc phía nam), nhưng Đức Chúa
Trời đã kêu gọi ông làm tiên tri trong Y-sơ-ra-ên, vương quốc phía bắc. A-mốt nói về mình như
thế này: “A-mốt trả lời cho A-ma-xia rằng: Ta không phải là đấng tiên tri, cũng không phải con
đấng tiên tri; nhưng ta là một kẻ chăn, sửa soạn những cây vả rừng” (A-mốt 7:14). A-mốt không
phải là tiên tri chính thức nhận lương, cũng không phải là người kế nghiệp cha mình. Công tác
tiên tri hoàn toàn mới đối với ông. Người nông dân này đáp lại tiếng gọi của Chúa rao giảng sứ
điệp của Ngài cho một dân tộc bịnh hoạn thuộc linh và đang đối diện với sự phán xét của Đức
Chúa Trời.
Cùng với hiểu biết về lai lịch của tác giả, bạn cũng có thể hỏi: ông viết khi nào và loại
chức vụ nào ông đang giữ? Trong khi chúng ta đang nói về những tiên tri của thế kỷ thứ tám
trước công nguyên, bạn có nhớ người vợ của Ô -sê, tên là Gô-me không? Bạn có suy nghĩ về
hôn nhân của ông có liên quan đến chức vụ của ông không? Hôn nhân đau lòng của ông với Gô-
me trở nên một phương tiện để hiểu và diễn tả ngoại tình thuộc linh nghịch lại với Đức Chúa
Trời. Giống như Gô-me đã khước từ Ô -sê, dân Y-sơ-ra-ên cũng đã khước từ Đức Chúa Trời chân
thật, Yahweh, để thờ các thần ngoại giáo.
Cùng với hiểu biết về lai lịch và chức vụ của tác giả, bạn cũng muốn hiểu nhiều hơn về
mối quan hệ đặc biệt giữa tác giả và những người mà ông đang nói đến. Ví dụ từ giọng điệu và
55
nội dung của sách Ga-la-ti, bạn có thể thấy rằng Phao-lô không vui với các Hội Thánh tại Ga-la-
ti và việc họ đi theo một tin lành khác. Ông cũng từ bỏ cách bày tỏ sự cảm tạ thông thường mà
quở trách ngay. Ngược lại, Phao-lô khen ngợi người Tê-sa-lô-ni-ca vì đức tin và sự chịu đựng
của họ dầu ông chia tay với họ khi họ chưa trưởng thành. Ô ng nhắc cho họ tình yêu thương của
người mẹ (I Tê-sa-lô-ni-ca 2:7) và của người cha (2:11) đối với họ và tái khẳng định về lòng
mong ước cháy bỏng muốn gặp họ của ông.
Mối quan hệ nào Giô-na có với độc giả đầu tiên của mình, người Ni-ni-ve? Vào khoảng
cùng thời điểm đó, A-mốt và Ô -sê đang cảnh cáo dân Y-sơ-ra-ên về sự phán xét của Đức Chúa
Trời sẽ sớm giáng xuống bởi tay người A-si-ry thì Giô-na được sai đến cảnh cáo dân Ni-ni-ve.
Có sự khác biệt nào khi biết rằng Ni-ni-ve là thành phố thủ đô của A-si-ry? Nó giúp chúng ta
thấy rằng trọng tâm của câu chuyện nằm ở thái độ của Giô-na đối với dân Ni-ni-ve (người A-si-
ry) và ông sợ rằng Đức Chúa Trời sẽ thương xót đến kẻ thù của ông. Nhưng Đức Chúa Trời làm
ông thất vọng.
Có lẽ điều quan trọng nhất cần biết về tác giả Kinh Thánh là lý do họ viết. Tại sao tác giả
của I&II Sử ký lặp lại nhiều phần trong sách Sa-mu-ên và Các Vua? Câu trả lời nằm trong mục
đích của trước giả. Người viết Sử ký (có thể là E-xơ-ra) đang viết về dân Y-sơ-ra-ên sau thời
Lưu Đày (tức là cộng đồng đã được tái lập). Ô ng cố gắng cho họ thấy rằng Đức Chúa Trời vẫn
còn đang chăm sóc dân của Ngài sau khi đoán xét họ qua sự Lưu Đày. Ví dụ, tác giả sách Sử Ký
dường như lý tưởng hóa Đa-vít và Sa-lô-môn khi ông bỏ những lý lịch đen của họ (ví dụ Đa-vít
phạm tội cùng Bát-sê-ba). Bằng cách này, tác giả muốn tái khẳng định cho độc giả của ông rằng
dầu Đức Chúa Trời có hình phạt dân Ngài nhưng Ngài vẫn yêu họ và muốn dùng họ để hoàn tất
mục đích của Ngài.
Sách Công-vụ-các-sứ-đồ là một ví dụ khác về tầm quan trọng của việc biết mục đích của
tác giả. Nếu bạn đang học Công. 28, bạn có thể tự hỏi tại sao Lu-ca kết thúc sách này một cách
quá chóng vánh sau khi đã dùng đến hai chương dài mô tả về hành trình đến Rô-ma của Phao-lô.
Tại sao ông không đề cập gì hết về kết quả của cuộc điều trần của Phao-lô tại Rô-ma? Lý do hợp
lý nhất là trở lại với mục đích Lu-ca viết sách này. Ô ng muốn trình bày sự bành trướng mạnh mẽ
của tin lành từ Giê-ru-sa-lem, cái nôi của Hội Thánh, đến Rô-ma, trung tâm của đế chế. Một khi
ông đạt được mục đích của mình, ông nhanh chóng gói dự án của mình lại. Điều Lu-ca quan tâm
nhất là sự thành công của sứ điệp Tin Lành chứ không phải tiểu sử của sứ giả.
Chúng ta cùng ôn lại. Khi chúng ta nghĩ về bối cảnh lịch sử-văn hóa, chúng ta trước hết
cần xem xét tác giả Kinh Thánh. Lai lịch của tác giả này như thế nào? Ô ng từ đâu đến? Ô ng viết
khi nào? Ông đang làm chức vụ gì? Mối quan hệ của ông với người mà ông đang viết là gì? Cuối
cùng, tại sao ông viết? Trả lời được những loại câu hỏi này giúp chúng ta có nhiều kiến thức hơn
về hoàn cảnh của tác giả Kinh Thánh và làm rõ hơn ý nghĩa của những điều họ đang viết.
56
Độc Giả Kinh Thánh
Khám phá bối cảnh lịch sử-văn hóa cũng liên quan đến việc hiểu biết điều gì đó về độc
giả Kinh Thánh và hoàn cảnh của họ. Ví dụ như trong Tin Lành Mác. Mác đang nhấn mạnh đến
thập tự giá của Đấng Christ và điều kiện để làm môn đồ của Đấng Christ xuyên suốt Tin Lành
của mình. Nhiều học giả cho rằng độc giả gốc của sách Mác là Hội Thánh trong vùng Rô-ma.
Ô ng viết điều này để chuẩn bị cho họ đối diện với bách hại họ sẽ sớm đối diện dưới tay của
hoàng đế Nê-rô vào giữa những năm 60 S.C. Để khích lệ những tín hữu này trung tín trong sự
đau khổ, Mác nhấn mạnh đến hình ảnh Chúa Giê-xu đã trung tín trong sự đau khổ của Ngài như
thế nào.
Khi bạn đọc các tiên tri Cựu Ước, bạn cần biết vài điều về những hoàn cảnh tổng quát
của độc giả Kinh Thánh để hiểu được những sứ điệp tiên tri này. Ví dụ, khi học về tiên tri Giê-
rê-mi, biết rằng chức vụ của vị tiên tri này bắt đầu vào khoảng 627 T.C và kết thúc một thời gian
ngắn sau năm 586 TC. sẽ giúp ích cho chúng ta rất nhiều. Điều này có nghĩa là Giê-rê-mi chứng
kiến sự hưng thịnh dưới thời vua Giô-si-a, sự suy sụp của A-si-ry, sự nổi lên của Ba-by-lôn, sự
thất bại đầu tiên của Giê-ru-sa-lem (598/97 T.C.) và sự sụp đổ của quốc gia của ông năm 586
T.C. Giê-rê-mi giảng nghịch lại Giu-đa và báo trước về sự sụp đổ của Giê-ru-sa-lem và cuộc lưu
đày sang Ba-by-lôn.
Dầu vậy, Giê-rê-mi cũng mạnh mẽ khuyến khích và hy vọng trong những ngày đen tối
của sự vây thành Giê-ru-sa-lem. Để ý đến Giê-rê-mi 29:11: “Đức Giê-hô-va phán: Vì ta biết ý
tưởng ta nghĩ đối cùng các ngươi, là ý tưởng bình an, không phải tai họa, để cho các ngươi được
sự trông cậy trong lúc cuối cùng của mình.” Những lời này là một phần lá thư mà Giê-rê-mi viết
cho dân sự đang trải nghiệm sự sửa phạt của Chúa – những người bị lưu đày năm 597 T.C. Bối
cảnh lịch sử của câu này chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến cách chúng ta hiểu ý nghĩa của nó. Mặc
dầu kết quả tang thương vì sự bất tuân của Giu-đa, lời cuối cùng của Đức Chúa Trời không phải
là sự phán xét mà là hy vọng. Dầu vậy, sự giải cứu của Chúa là chắc chắn nhưng nó sẽ không
đến ngay (xem 29:10).
Hầu hết các lá thư trong Tân Ước mang tính hoàn cảnh, cơ hội. Điều này có nghĩa là
chúng được viết cho các Hội Thánh đang đối diện với những hoàn cảnh khác nhau. Ví dụ, sách
Cô-lô-se được viết cho một nhóm tín hữu đang tranh chiến với tà giáo cho rằng Đấng Christ
không phải là tối thượng (Cô. 2:4-5,8,16). Phao-lô viết thư tín này để phản bác tà giáo này bằng
cách nhấn mạnh quyền tối thượng tuyệt đối của Đấng Christ (1:15-20;2:9-15).
Tương tự, Giăng viết thư tín thứ nhất của mình cho các tín hữu đang chiến đấu với một
hình thức tiên khởi của trí huệ giáo. Trọng tâm của tà giáo này cho rằng tinh thần là hoàn toàn tốt
còn thể xác là hoàn toàn gian ác. Sự cứu rỗi có nghĩa là thoát khỏi thân thể và đạt được bằng một
57
sự hiểu biết đặc biệt. Trong trường hợp của I Giăng, biết được bối cảnh lịch sử-văn hóa sẽ hiểu
rõ được những chủ đề chính của thư tín: Sự nhập thể của Đấng Christ tức là Đức Chúa Trời thật
sự trở nên người, nhu cầu bước đi trong sự sáng hơn là trong sự vô đạo đức và nhu cầu về tình
yêu (ngược lại với sự kiêu ngạo của những người cho mình đã sở hữu được kiến thức đặc biệt).
Những Yếu Tố Lịch Sử-Văn Hóa Khác
Như đã trình bày ở trên, bối cảnh lịch sử-văn hóa liên quan đến tác giả và độc giả thời
Kinh Thánh cộng với những yếu tố lịch sử-văn hóa mà đoạn Kinh Thánh gặp phải. Thỉnh thoảng
khó biết nhiều về tác giả và độc giả thời Kinh Thánh hay những hoàn cảnh riêng của họ. Thông
thường bạn sẽ tập trung vào những yếu tố lịch sử, xã hội, tôn giáo, chính trị và kinh tế. Những
yếu tố này hình thành phân đoạn Kinh Thánh của bạn. Sau đây là vài ví dụ để thấy rằng hiểu
được những yếu tố này giúp soi sáng ý nghĩa của phân đoạn Kinh Thánh.
Nhiều khi hiểu biết nhiều hơn về địa lý hay địa hình liên hệ trong đoạn Kinh Thánh có
thể giúp chúng ta nắm bắt được ý nghĩa của nó. Chúa Giê-xu bắt đầu ẩn dụ của mình về người
Sa-ma-ri bằng những câu sau: “Có một người từ thành Giê-ru-sa-lem xuống thành Giê-ri-cô”
(Lu-ca 10:30). Bạn hiểu chắc rằng người này đi xuống từ thành Giê-ru-sa-lem đến thành Giê-ri-
cô, đi xuống từ độ cao khoảng 2,500 mét trên mực nước biển xuống khoảng 800 mét dưới mực
nước biển. Hơn nữa, hành trình này không giống như đi dạo công viên. Khoảng cách khoảng ba
mươi cây số và phải đi ngang qua những vùng miền quê vắng vẻ có nhiều tên cướp ẩn núp. Biết
được địa lý này giúp chúng ta hiểu rằng để băng qua quãng đường này thật khó cho người bị nạn
làm sao. Và cũng để hiểu rằng người Sa-ma-ri phải hi sinh dường nào nếu đi trên quãng đường
nguy hiểm này với một người bị nạn.
Một trong những lĩnh vực tốt nhất là học về bối cảnh liên quan đến phong tục xã hội. Ví
dụ nếu bạn đang học Ê-phê-sô 5:21-6:9, bạn cần biết vài điều về luật gia đình của người La-mã
để hiểu được đoạn Kinh Thánh này. Những luật này dạy cho người chủ hộ về cách ứng xử với
các thành viên trong gia đình mình. Sứ đồ Phao-lô sử dụng quan niệm về luật hộ gia đình này
nhưng ông chuyển nó sang những cách uy quyền hơn. Ví dụ, luật người La-mã dạy người chồng
phải làm cho người vợ phục mình, nhưng không hề nói đến người chồng phải có bổn phận yêu
vợ mình. Trong Ê -phê-sô 5:25, Phao-lô vượt ra ngoài khuôn khổ này: “hãy yêu vợ mình như
Đấng Christ yêu Hội Thánh và phó chính mình Ngài vì Hội Thánh”. Phao-lô dạy mọi thành viên
trong gia đình phải “kính sợ Đấng Christ mà vâng phục nhau” (5:21).
Thường trong Kinh Thánh những phong tục xã hội đi chung với tầm quan trọng của tôn
giáo. Chúng ta cùng trở lại với ẩn dụ người Sa-ma-ri nhơn lành. Độc giả thời đó của Chúa Giê-
xu có lẽ bị sốc và bị sỉ nhục khi Chúa Giê-xu đề cập đến hai vị lãnh đạo tôn giáo của người Giu-
đa chẳng làm gì để giúp người bị nạn, trong khi đó, người Sa-ma-ri chứng minh ông là người lân
cận của người bị hại này (và là anh hùng trong câu chuyện). Chúng ta biết điều này vì trong văn
hóa đó, người Giu-đa khinh miệt người Sa-ma-ri.
58
Trong câu chuyện về người con trai hoang đàng, chúng ta chẳng nghĩ gì về người cha
chạy ra đón đứa con trở về. Nhưng chúng ta cần phải biết rằng những người Giu-đa lớn tuổi sẽ là
không đáng được tôn trọng nếu họ chạy. Khi học được điều này, chúng ta nhận thấy được cảm
xúc và sự đáp ứng của Đức Chúa Trời dành cho tội nhân lớn là dường nào khi họ quay trở về
cùng Ngài. Ngài vui mừng quá đỗi đến nỗi Ngài quên đi cái “sự tôn trọng” để đón tội nhân.
Sách Ru-tơ cũng cho chúng ta những yếu tố xã hội và tôn giáo liên kết với nhau trong
nhiều phân đoạn. Để hiểu được sách Ru-tơ, bạn cần biết vài điều về vai trò của người có quyền
chuộc sản nghiệp.
Thỉnh thoảng, bạn cũng có thể gặp những vấn đề liên quan đến kinh tế. Trong chuyến
truyền giáo thứ hai của mình (Công-vụ-các sứ đồ 15:39-18:22), Phao-lô lập Hội Thánh tại Phi-
líp. Tại đó, Phao-lô và Si-la gặp một đầy tớ gái bị quỷ ám. Cô ta cứ quấy rầy đoàn truyền giáo
cho đến khi Phao-lô đuổi con quỷ ra khỏi cô ta. Người chủ của cô này bắt Phao-lô và Si-la ra nơi
công cộng và quan tòa truyền đánh đòn hai người và bỏ vào ngục. Tất cả những điều này xảy ra
vì cô đầy tớ gái bị quỷ ám đó kiếm được nhiều tiền cho người chủ. Khi quỷ ra khỏi thì tiền cũng
rời họ và họ trả thù giáo sĩ.
Bạn cũng cần chú ý đến yếu tố chính trị có thể nổi lên trong đoạn Kinh Thánh của bạn.
Trong Công. 16, chú ý những điều xảy ra tiếp theo với Phao-lô và Si-la. Sau một thời gian ở
trong ngục, quan tòa mới truyền các giáo sĩ rời khỏi thành phố. Sau đây là phần còn lại của câu
chuyện (Công-vụ-các sứ đồ 16:36-40).
Người trình lời đó cùng Phao-lô rằng: Các thượng quan đã khiến truyền cho tôi thả các
ông; vậy, hãy ra, và xin đi cho bình yên. 37 Nhưng Phao-lô nói cùng lính rằng: Chúng ta
vốn là quốc dân Rô-ma, khi chưa định tội, họ đã đánh đòn chúng ta giữa thiên hạ, rồi bỏ
vào ngục; nay họ lại thả lén chúng ta ư! Điều đó không được. Chính các quan phải tới
đây mà thả chúng ta mới phải! 38 Các thượng quan nghe lính trình lại bấy nhiêu lời, biết
hai người đó là người Rô-ma, thì sợ hãi. 39 Họ bèn đến nói với hai người, thả đi, và xin
lìa khỏi thành. 40 Khi ra ngục rồi, hai sứ đồ vào nhà Ly-đi, thăm và khuyên bảo anh em,
rồi đi.
Vì đánh đòn và bỏ tù công khai một công dân Rô-ma, đặc biệt chưa được xét xử là bất
hợp pháp, nên những quan chức La-mã nhanh chóng xin lỗi vì những hành động của họ. Phao-lô
và Si-la yêu cầu phải công khai đưa họ ra khỏi thành phố để chứng minh cho công chúng là họ
vô tội và giải tiếng oan cho Hội Thánh Phi-líp.
Bối cảnh lịch sử-văn hóa bao gồm những thông tin về tác giả và độc giả - lai lịch, hoàn
cảnh và mối quan hệ của họ - cũng như những yếu tố địa lý, xã hội, tôn giáo, kinh tế và chính trị
có liên hệ đến đoạn Kinh Thánh đó. Khi chúng ta để thời gian hiểu được bối cảnh, đoạn Kinh
Thánh trở nên sống động và hợp lý hơn. Chúng ta có thể nhìn thấy rằng Đức Chúa Trời đang
59
phán với những con người thật sự đang tranh chiến với cuộc sống thật và Ngài cũng tiếp tục còn
phán với chúng ta nữa.
Trước khi liệt kê những nguồn khác nhau mà một người có thể dùng để nghiên cứu bối
cảnh lịch sử-văn hóa, chúng tôi muốn đề cập đến một vài nguy hiểm liên quan đến việc nghiên
cứu loại tài liệu này.
Những Nguy Hiểm Liên Quan Đến Nghiên Cứu Bối Cảnh
Khi mà nguy hiểm lớn nhất là bỏ qua bối cảnh lịch sử-văn hóa thì cũng có những nguy
hiểm liên quan đến việc học bối cảnh đó. Trước hết, hãy chú ý đến những thông tin bối cảnh
không chính xác. Ví dụ trong Ma-thi-ơ 19:23-24:
Đức Chúa Jêsus bèn phán cùng môn đồ rằng: Quả thật, ta nói cùng các ngươi, người giàu
vào nước thiên đàng là khó lắm. Ta lại nói cùng các ngươi, lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ
hơn một người giàu vào nước Đức Chúa Trời.
Bạn có thể nghe nhiều người giải thích “lỗ kim” của lạc đà như là một cái cổng nhỏ mà
con lạc đà có thể lách qua được nếu nó bỏ hết hành lý và quỳ xuống. Vấn đề nằm ở chỗ là không
có bằng chứng cho cái loại cổng này. “Lỗ kim” phải được hiểu theo cái nghĩa nó như của ngày
nay (tức là lỗ kim may). Chúa Giê-xu đang dùng con vật lớn nhất xứ Pa-lét-tin và một cái lỗ nhỏ
nhất để nói rằng người giàu và quyền thế vào nước Đức Chúa Trời là rất khó.
Nguy hiểm thứ hai là nâng bối cảnh của đoạn Kinh Thánh lên trên ý nghĩa của đoạn
Kinh Thánh đó. Ví dụ khi bạn học về câu chuyện về người Pha-ri-si và người thâu thuế trong Lu-
ca 18:9-14, bạn thường bị cám dỗ dùng hết thời gian học về người Pha-ri-si và người thâu thuế.
Dĩ nhiên bạn cần biết vai trò và danh tiếng của hai nhóm người này trong thời Chúa Giê-xu.
Nhưng bạn quên rằng điều cần tìm là là ý nghĩa của phân đoạn đó: Đức Chúa Trời phán xét
người kiêu ngạo nhưng nhắc người khiêm nhường lên.
Cuối cùng là tập trung vào dữ liệu thông tin nhiều hơn chính bản kinh văn. Đừng đánh
mất mục tiêu của mình là giải kinh. Học bối cảnh lịch sử-văn hóa không phải là mục tiêu của
chúng ta, nhưng mục tiêu của chúng ta là biết được những công cụ để nắm bắt được ý nghĩa và
áp dụng ý nghĩa của phân đoạn Kinh Thánh đó cho chính mình.
Nguy hiểm lớn nhất là cho rằng mình không cần biết bối cảnh để hiểu Kinh Thánh. Bạn
không thể khởi đầu Hành Trình Giải Kinh nếu bỏ qua bước thứ nhất – nắm bắt được bản kinh
văn trong bối cảnh của nó. Và bạn sẽ không nắm được bản kinh văn nếu bạn không biết bối cảnh
lịch sử-văn hóa. Bây giờ chúng ta sẽ qua những nguồn mà chúng ta sử dụng để nhận ra bối cảnh
lịch sử-văn hóa trong một phân đoạn.
60
Những Công Cụ Nhận Biết Bối Cảnh Lịch Sử-Văn Hóa
Để nhận ra được bối cảnh lịch sử-văn hóa, bạn cần (1) nắm được bối cảnh lịch sử-văn
hóa của cả sách của phân đoạn Kinh Thánh đó và (2) nhận ra được bối cảnh lịch sử-văn hóa
riêng của chính phân đoạn Kinh Thánh đó.
Bối Cảnh Lịch Sử -Văn Hóa của Toàn Sách
Như đã đề cập ở trên, nắm được bối cảnh lịch sử-văn hóa của cả sách có nghĩa là khám
phá tác giả và độc giả cũng như hoàn cảnh tổng quát của sách đó. Những câu hỏi sau đây sẽ giúp
bạn khởi động:
Ai là trước giả?
Lai lịch của ông ta như thế nào?
Ô ng viết khi nào?
Bản chất của chức vụ của ông là gì?
Ô ng có quan hệ gì với độc giả?
Tại sao ông viết sách này?
Ai là độc giả thời Kinh Thánh?
Hoàn cảnh của họ như thế nào?
Mối quan hệ của họ với Đức Chúa Trời như thế nào?
Họ có quan hệ gì với nhau?
Điều gì xảy ra khi ông viết sách này?
Có những yếu tố lịch sử-văn hóa khác soi sáng sách này không?
Để trả lời được những câu hỏi này, bạn cần phải làm quen với một số công cụ căn bản. Vì
chúng tôi không thể liệt kê tất cả những nguồn có sẵn nên chúng tôi chỉ đề cập đến vài công cụ
đáng tin nhất cho sinh viên ở cấp độ này. Để hiểu được bối cảnh lịch sử-văn hóa của cả sách,
chúng tôi đề nghị bạn tham khảo những sách cẩm nan Kinh Thánh, Tân & Cựu Ước lược khảo
và đặc biệt là những sách giải kinh.
Cẩm Nam Kinh Thánh
CẨM NAN Kinh Thánh thường bắt đầu với những bài viết tổng quát về Kinh Thánh và
thế giới của Kinh Thánh (ví dụ: bản chất của Kinh Thánh, cuộc sống trong thời đại Kinh Thánh).
Cẩm nan này thường bao gồm một phần giới thiệu ngắn cho từng sách của Kinh Thánh và một
phần giải nghĩa chung cho cả sách. Cẩm nan Kinh Thánh giúp bạn làm quen với bối cảnh lịch
sử-văn hóa của sách mà bạn đang học.
Ví dụ, nếu bạn đang học sách Gia-cơ và quyết định tham khảo cẩm nan Kinh Thánh, bạn
mong tìm được điều gì? Phần giới thiệu sách Gia-cơ có thể bao gồm một phần thảo luận ngắn về
quyền tác giả, ngày viết, người nhận và những chủ đề chính. Chúng ta cùng xem ví dụ sau:
61
3:1-12 Cai Trị Lưỡi
Những người muốn trở thành giáo sư trong Hội Thánh trước hết phải biết điều khiển lưỡi
của mình. Nếu điều khiển được chi thể bất trị này là một người hoàn hảo. Một chút lửa có thể
làm cháy một khu rừng. Một lời nói có thể làm hủy họa thân mình. Cùng một cái lưỡi có thể
chúc phước và rủa sả, làm điều tốt và hãm hại. Gia-cơ cho rằng sự không đồng nhất này ngược
lại với tất cả các luật tự nhiên.
Chúng ta có thể tìm thấy vài cẩm nan Kinh Thánh hữu dụng sau đây:
Alexander, Pat and David Alexander, eds. Zondervan Handbook to the Bible. Grand
Rapids: Zondervan, 1999.
Dockery, David S., ed. Holman Bible Handbook. Nashville: Holman, 1992.
Thompson, J. A. Handbook of Life in Bible Times. Downers Grove, Ill: InterVarsity Press,
1986.
Lược Khảo Cựu & Tân Ước
Những nguồn này cung cấp những thông tin bối cảnh chi tiết của từng sách cũng như
nhìn tổng thể nội dung của sách. Thông thường, những sách này thảo luận về quyền tác giả, niên
đại, người nhận, hoàn cảnh, mục đích và hơn thế nữa. Nói chung, giới thiệu cung cấp nhiều thảo
luận chi tiết kỹ thuật về những vấn đề của bối cảnh nhưng thảo luận ít hơn về nội dung của sách.
Nếu bạn tham khảo một sách giới thiệu về Tân Ước để tìm thông tin bối cảnh của sách
Khải huyền thì sau đây là những gì bạn có thể tìm được:
Định nghĩa của từ “Khải huyền”
Thảo luận về tác giả
Thảo luận về hai luận điểm chính của niên đại
Thảo luận về người nhận và hoàn cảnh của họ
Chủ đề và mục đích của sách
Mô tả phong cách khải thị của sách Khải huyền
Giải thích bốn hướng giải nghĩa Khải huyền
Tóm tắt từng vấn đề (ví dụ, Sự cất lên, Nghìn năm bình yên)
Dàn bài chi tiết của sách
Tổng quan nội dung của sách
Sách tham khảo để đọc thêm
62
Những loại sách này thông thường giải thích chi tiết hơn là sách cẩm nang Kinh Thánh.
Do đó, có rất nhiều thông tin trong một sách như vậy.
Achtemeier, Paul, Joel Green, and Marianne Meye Thompson. Introducing the New
Testament. Grand Rapids: Eerdmans, 2001.
Arnold, Bill, and Bryan Beyer. Encountering the Old Testament. Grand Rapids: Baker,
1999.
Carson A.D., and Douglas J. Moo. An Introduction to the New Testament, 2 nd edition.
Grand Rapids: Zondervan, 2005.
Dillard, Raymond B., and Tremper Longman III. An Introduction to the Old Testament.
Grand Rapids: Baker, 1994.
Sách Giải Kinh
Một sách giải kinh tốt là sách cập nhật những thông tin chi tiết về bối cảnh lịch sử-văn
hóa của sách có phân đoạn bạn đang học. Ví dụ trong sách giải kinh sách Phi-líp dài 462 trang
của Gordon Fee trong loạt New International Commentary on the New Testament, ông dành hơn
năm mươi trang để giới thiệu. Ô ng thảo luận về hình thức của một lá thư cổ, thành phố Phi-líp và
con người của nó, hoàn cảnh của Hội Thánh, hoàn cảnh của Phao-lô, biện luận hay tư tưởng
xuyên suốt lá thư và chủ đề thần học. Sau khi đọc hết những phần thảo luận đó, bạn sẽ có một cái
nhìn tổng quát cần thiết về bối cảnh lịch sử-văn hóa của thư tín của Phao-lô gởi cho Hội Thánh
Phi-líp.
Bởi vì sách giải kinh thường được viết từ một quan điểm riêng và vì chất lượng và chiều
dài khác nhau nên tốt nhất là nên tham khảo nhiều sách giải kinh khác nữa.
Bối Cảnh Lịch Sử-Văn Hóa Của Từng Phân Đoạn
Sau khi bạn đã có một cái nhìn tổng quát về bối cảnh của sách có phân đoạn bạn đang
học, bạn cần nhận ra bối cảnh lịch sử-văn hóa của chính phân đoạn đó. Điều này liên quan đến
vài yếu tố lịch sử, văn hóa trong phân đoạn đó (ví dụ như địa lý, chính trị, tôn giáo, kinh tế, đời
sống gia đình, phong tục xã hội). Để đạt điều này, bạn có thể dùng bản đồ Kinh Thánh, từ điển
Kinh Thánh, sách giải kinh, sách giải nghĩa bối cảnh, lịch sử Cựu & Tân ước và những nghiên
cứu chuyên biệt về đời sống và văn hóa cổ đại.
63
Bản Đồ Kinh Thánh
Nếu bạn muốn học nhiều hơn về con người, nơi chốn và những sự kiện liên quan đền
phân đoạn Kinh Thánh đó, hãy tìm trong một bản đồ Kinh Thánh. Bạn sẽ tìm thấy những bản đồ
về vùng đất, những bức hình về nhiều cảnh quan quan trọng, những bảng thông số chính trị và
tôn giáo hữu ích, những phần thảo luận về những giai đoạn khác nhau của lịch sử Kinh thánh và
hơn thế nữa.
Ví dụ, bạn muốn nghiên cứu về tuần lễ cuối cùng trong chức vụ của Chúa Giê-xu trên đất,
thường được gọi là Tuần Lễ Khổ Nạn. Bạn cần bản đồ của thành Giê-ru-sa-lem trong thời Tân
Ước để bạn có thể tìm thấy nhiều nơi quan trọng mà những sự kiện diễn ra.
Từ Điển Kinh Thánh
Đây là nơi bạn cần đến khi bạn cần thông tin về một chủ đề nào đó được đề cập trong
phân đoạn của bạn. Ví dụ, nếu bạn muốn biết nhiều hơn về vườn Ghết-sê-ma-nê, hãy tham khảo
một thánh kinh từ điển. Những nguồn này bao gồm nhiều chủ đề trong Kinh thánh và được sắp
xếp theo thứ tự abc. Điều bạn cần làm là tìm từ “Ghết-sê-ma-nê” và đọc nó. Sau đây là một ví dụ:
Ghết-sê-ma-nê (PLACE) Khu vườn nằm ở phía đông của thung lũng Kidron tính từ
phía Giê-ru-sa-lem (Giăng 18:1), trên sườn Núi Ô -li-ve (Mat. 26:30; Lu. 22:39). Chúa
Giê-xu thường hay đến vườn Ghết-sê-ma-nê để nghỉ ngơi, cầu nguyện và thông công
với các môn đệ (Luc. 21:37,22:39; Giăng 18:2). Sau khi ăn lễ Vượt Qua với các môn đồ,
Chúa Giê-xu đi đến vườn Ghết-sê-ma-nê để cầu nguyện. Sau đó Ngài bị Giu-đa phản
bội (Mat. 26:36-56; Mác 14:32-52; Luca 22:39-53; Giăng 18:1-12).
I.Howard Marshall. A.R.Millard. J.I. Packer. D.J. Wiseman. Ed. Thánh Kinh Tân Từ Điển.
Ấn Bản Thứ Ba, Viện Thần Học Tin Lành Việt Nam xuất bản, Nhà Xuất Bản Phương Đông,
HoChiMinh city, 2009.
Sách Giải Kinh
Chúng ta đề cập đến sách giải kinh một lần nữa vì những sách giải kinh tốt sẽ cung cấp
cho chúng ta bối cảnh hữu ích cho đoạn Kinh Thánh bạn đang học. Bạn có nhớ những lời của
Phao-lô cho các Cơ Đốc Nhân Hội Thánh Cô-rinh-tô về việc giữ lễ Tiệc Thánh không? Đây là
một phần của những điều Phao-lô nói trong I Cô. 11:17-22.
G.J. Wenham. J.A. Motyer. D.A.Carson. R.T. France. Ed. Giải Nghĩa Kinh Thánh.
Viện Thần Học Việt Nam xuất bản, 2001.
64
Warren W. Wiersbe. Giải Nghĩa Kinh Thánh. Văn Phẩm Nguồn Sống, Chariot
Victor Publishing House, CO, 2005.
Sách Giải Nghĩa Bối Cảnh
Loại sách giải kinh này không tập trung vào ý nghĩa của từng đoạn nhưng tập trung vào
bối cảnh lịch sử-văn hóa quan trọng để nắm bắt được ý nghĩa. Những sách giải kinh bối cảnh rất
là hữu ích vì chúng cung cấp nhiều thông tin được sắp xếp thuận tiện theo hình thức từng câu
một.
Sách Lịch Sử Cựu &Tân Ước
Những sách lịch sử là hữu dụng nhất khi bạn muốn thông tin bối cảnh chi tiết về những
chủ đề riêng biệt trong phân đoạn của bạn. Bạn cũng có thể tìm thấy những từ khóa trong bảng
chú dẫn. Ví dụ, nếu bạn muốn kiểm tra I Phi-e-rơ 4:9 (“Người nầy người khác phải tiếp đãi nhau,
chớ có cằn rằn”), bạn có thể tham khảo một sách lịch sử Tân Ước để biết nhiều hơn về sự hiếu
khách trong thế giới của thế kỷ thứ nhất.
Những Nghiên Cứu Đặc Biệt về Cuộc Đời và Văn Hóa Cổ Đại
Những nguồn này thường cung cấp những phần biện luận chi tiết về những chủ đề đã
được chọn. Chúng hữu ích khi bạn muốn học sâu về một chủ đề nào đó. Bạn có thể tìm thấy
những bài viết về những thành phố trong Kinh Thánh, cuộc sống xã hội, những vấn đề pháp lý,
những tôn giáo, chiến tranh, đời sống kinh tế và hàng loạt những chủ đề khác. Những chủ đề đặc
biệt này gần giống với Thánh Kinh Từ Điển nhưng tập trung hơn. Tìm những chủ đề này ở phần
chú dẫn.
Phần Mềm Vi Tính và Internet
Bạn có thể tìm những nguồn mà chúng tôi đề cập trên phần mềm điện tử. Chúng tôi
khích lệ bạn sử dụng tối đa phần mềm vi tính gồm những nguồn tốt nhất.
Dầu vậy bạn cũng cần cảnh giác với các nguồn trên máy tính. Giữa nhiều trường phái học
thuật khác nhau, để tìm những nguồn tài liệu đáng tin cậy không phải dễ. Hãy cẩn thận.
http://vietbible.software.informer.com/3.0/
65
Kết Luận
Chúng ta nghiên cứu bối cảnh lịch sử-văn hóa của Kinh Thánh vì Đức Chúa Trời chọn
phán trước hết cho những người cổ đại đang sống trong những nền văn hóa hoàn toàn khác với
văn hóa của chúng ta. Khi chúng ta nắm được bối cảnh gốc của Lời Đức Chúa Trời rồi thì chúng
ta có thể nắm bắt được ý nghĩa của nó và áp dụng vào đời sống của chúng ta. Hãy nhớ rằng, bất
cứ một sự giải nghĩa chính xác nào phải thống nhất với bối cảnh lịch sử-văn hóa của bản văn đó.
Trong chương này chúng ta đã thảo luận về những công cụ mà bạn cần để nhận ra bối
cảnh lịch sử-văn hóa của một sách và một phân đoạn. Cẩm nan Kinh Thánh, Lược khảo Cựu &
Tân Ước, sách giải kinh là những công cụ hữu ích để nắm được bối cảnh lịch sử-văn hóa của một
sách. Những bản đồ, từ điển, sách giải kinh, sách giải kinh bối cảnh, sách lịch sử Cựu &Tân Ước
và những nghiên cứu đặc biệt để khám phá bối cảnh lịch sử-văn hóa của một đoạn Kinh Thánh.
Chúng tôi khuyến khích bạn sở hữu những công cụ này.
66
Chương 7
Bối Cảnh Văn Chương
Lời Giới Thiệu
Hãy tưởng tượng bạn là một sinh viên mới, một ngày nọ bạn đến lớp và tất cả những
người trong lớp là những người lạ và bảo bạn: “hãy đi lấy nó!” Bạn phản ứng lại như thế nào?
Có phải bạn trả lời “đúng rồi!” rồi bạn đi và nghĩ mình sẽ đi lấy một thứ gì mình cần? Hay bạn
nghĩ rằng có lẽ Chúa muốn phán với bạn thông qua những người đó và trả lời cho những nan đề
hay những quyết định của bạn liên quan đến ngành học hay công việc?
Để hiểu được ý nghĩa của “hãy đi và nhận lấy nó!”, hầu hết chúng ta trở lại với vài câu
hỏi: “Ý bạn thật sự muốn nói gì?” hay “hãy đi lấy cái gì?” Chúng ta đang hỏi để tìm bối cảnh cho
ý nghĩa của sáu từ trên. Không có một bối cảnh, “hãy đi và nhận lấy nó!” dường như vô nghĩa.
Khi bạn muốn giải kinh và áp dụng Kinh Thánh, bối cảnh vô cùng quan trọng. Cho đến
nay, chúng ta có thể xác định chắc chắn rằng nguyên tắc quan trọng nhất của giải kinh là bối
cảnh xác định ý nghĩa. Khi chúng ta bỏ qua bối cảnh, chúng ta coi thường Kinh Thánh và chẳng
chứng minh được điều gì. Chúng ta cùng xem một ví dụ về một cô gái trẻ đang tìm kiếm sự chỉ
dẫn từ Lời của Đức Chúa Trời về việc cô ta có nên cưới anh bạn trai của mình hay không. Cô ta
tìm mò trong Kinh Thánh và tìm được vài câu giúp trả lời thắc mắc trong đầu mình. Cô ta tìm
thấy:
I Cô-rinh-tô 7:36a: “người con gái nên lấy chồng”
Giăng 13:27: “Sự ngươi làm hãy làm mau đi”
Cô gái nhận thấy trong câu đầu là một mạng lệnh phải lấy chồng và câu thứ hai là phải
lấy chồng bây giờ! Chúa đã phán vậy!
Điều gì giúp chúng ta không lặp lại ví dụ buồn cười như vậy? Bối cảnh! Rõ ràng cô này
không đọc hết phần bối cảnh của I Cổ-rinh-tô 7:36c. Tại đây Phao-lô khuyên những người đã
đính hôn trong hoàn cảnh ở Cô-rinh-tô.
36 Nếu có ai tưởng chẳng nên cho con gái đồng trinh mình lỡ thì, và phải gả đi, thì người
đó có thể tùy ý mình mà làm, không phạm tội gì; trong cơn đó, người con gái nên lấy chồng.
37 Song có ai được tự chủ về việc mình làm, không bị sự gì bắt buộc, mà trong lòng đã
quyết định cách vững vàng giữ con gái mình đồng trinh, thì nấy làm phải lẽ mà cứ theo như
mình đã quyết chí. 38 Thế thì kẻ gả con gái mình làm phải lẽ; song kẻ không gả, còn làm
phải lẽ hơn nữa.
67
Theo tình huống này, ý Phao-lô muốn nói là tốt hơn thì đừng kết hôn. Trong câu thứ hai
(Giăng 13:27), câu “sự ngươi làm hãy làm mau đi” nói đến sự phản bội của Giu-đa và chằng có
một chút nào liên quan đến hôn nhân. Trong ánh sáng của bối cảnh, chúng ta thấy rằng hai câu
này chẳng cung cấp cho cô gái này một nền tảng Kinh Thánh cho việc kết hôn.
Để có thể hiểu và áp dụng Kinh Thánh, chúng ta cần phải chú ý đến hai loại bối cảnh
chính: lịch sử và văn chương. Bối cảnh lịch sử là bối cảnh lịch sử-văn hóa mà chúng ta đã học
trong chương 6. Bối cảnh văn chương liên quan đến hình thức đặc biệt của một phân đoạn (thể
loại văn chương) và những từ ngữ, câu và phân đọan xoay quanh đoạn Kinh Thánh mà bạn đang
học (bối cảnh xung quanh). Bối cảnh văn chương là chủ đề của chương này.
Thể Loại Văn Chương Là Gì?
Trong mỗi đoạn Kinh Thánh, chúng ta trước hết phải để ý đến hình thức mà nó đang có
(ví dụ nó có nghĩa như thế nào?) trước khi chúng ta tìm nội dung (ví dụ: điều đó có nghĩa gì?).
Khi được áp dụng vào việc giải kinh, từ thể loại văn chương đơn giản nói đến những phạm trù
hay loại văn chương được tìm thấy trong Kinh Thánh. Trong Cựu Ước bạn sẽ gặp thể loại
chuyện kể, luật pháp, thơ ca, tiên tri và văn chương khôn ngoan. Tân ước gồm Phúc âm, lịch sử,
thư tín và văn chương khải thị. Cả trong Cựu và Tân Ước đều có những sắc thái của một văn thể
loại phụ (như ẩn dụ, câu đố, bài giảng). Chúng ta sẽ bàn về thể loại văn chương trong phần cuối
của sách này. Bây giờ, chúng ta sẽ tìm xem tại sao chúng ta cần nhận biết thể loại văn chương để
đọc một phân đoạn “trong bối cảnh”.
Một phép liên tưởng mà những nhà ngôn ngữ học dùng để mô tả thể loại văn chương là
liên tưởng đến một trò chơi. Bạn có thể suy nghĩ mỗi thể loại giống như một loại trò chơi khác
nhau và phải tuân theo luật của nó. Điều này cho chúng ta thấy rằng chúng ta là độc giả phải chơi
theo luật khi chúng ta nhận ra thể loại văn chương.
Hãy suy nghĩ về môt người hâm mộ bóng đó ở châu  u lần đầu chơi bóng bầu dục
và bóng rổ. Trong bóng bầu dục, tiền đạo và hậu vệ đều có thể dùng tay để đẩy đối
thủ. Trong bóng rỗ và bóng đá thì không được. Trong bóng rổ, cầu thủ không được
phép đá bóng, nhưng họ có thể dùng tay để chơi bóng. Trong bóng đá thì ngược lại.
Trong bóng bầu dục, mọi người có thể giữ bóng bằng tay nhưng chỉ có một người
được phép đá bằng chân. Trong bóng đá, mọi người đều có thể đá quả bóng bằng
chân nhưng chỉ có một người bắt bóng bằng tay. Nếu chúng ta không hiểu được
luật chơi thì chúng ta sẽ nhầm lẫn.
Tương tự như vậy, có những luật “chơi” khác nhau trong việc giải nghĩa những thể
loại văn chương khác nhau. Trước giả đã “chơi trò chơi của mình”, tức là cố gắng
chuyển tải ý nghĩa của mình bằng những luật theo từng hình thức văn chương mà
trước giả sử dụng. Nếu chúng ta không biết những luật này, chúng ta chắc chắn sẽ
giải nghĩa sai ý nghĩa của nó.
68
Để hiểu được ý nghĩa của đoạn Kinh Thánh, độc giả phải đứng chung với tác giả
trong thể loại đó. Khi người lạ nói “hãy đi nhận lấy nó!” thì bạn có thể phản ứng bằng nhiều câu
hỏi để làm rõ ý của người nói hơn. Nhưng làm sao chúng ta có thể làm rõ ý nghĩa của tác giả cổ
đại khi họ không ở đây với chúng ta? Câu trả lời là thể loại văn chương. Mặc dầu tác giả và độc
giả không thể đối thoại trực tiếp với nhau nhưng họ có thể gặp nhau trong đoạn kinh văn để trao
đổi bởi vì họ tuân thủ cùng một luật chơi – luật của từng thể loại.
Bằng cách này, thể loại văn chương đóng vai trò là một loại giao ước truyền thông,
một thỏa ước đã định giữa trước giả và độc giả về cách thức trao đổi thông tin. Để có thể “giữ
được giao ước”, chúng ta phải để sự lựa chọn thể loại của tác giả xác đinh những luật mà chúng
ta dùng để hiểu lời của tác giả đó. Xem thường thể loại văn chương trong Kinh Thánh là vi phạm
giao ước với tác giả Kinh Thánh và với Đức Thánh Linh, Đấng linh cảm sứ điệp của Ngài.
Chúng ta thường gặp nhiều thể loại khác nhau trong cuộc sống thường ngày. Trong
vòng một ngày, bạn đọc một tờ báo, tìm một con số trong danh bạ điện thoại, gọi một món ăn,
viết vài dòng thơ, thưởng thức lá thư tình, suy gẫm một quyển sách bồi linh. Khi bạn gặp những
thể loại khác nhau này, bạn cần phải tuân theo những qui luật thông tin của nó. Những qui luật
này được thiết lập trong chính thể loại của nó. Nếu bạn không thể tuân theo những qui luật này
thì bạn đang rất mạo hiểm trong việc đọc Kinh Thánh.
Bạn đang rất nguy hiểm nếu bạn nhầm lẫn một danh bạ điện thoại với một lá thư tình.
Rõ ràng chúng ta không thể đọc thực đơn giống như cách chúng ta đọc thư tình hay đọc báo
giống như chúng ta đọc sách bồi linh. Chúng ta biết điều này vì những thể loại khác nhau phải
được đọc theo cách khác nhau. Khi chúng ta đọc trong Kinh Thánh và nhận thấy nó ở thể loại
nào thì chúng ta phải sử dụng luật thích hợp để giải nghĩa. Khi độc giả chú ý đến những thể loại
này trong Kinh Thánh thì họ sẽ có nhiều cơ hội để tìm thấy ý nghĩa thật của đoạn Kinh Thánh đó.
Thể loại định hướng cho chúng ta đọc đoạn Kinh Thánh đó. Thể loại văn chương trong Kinh
Thánh có liên hệ mật thiết với nội dung của đoạn Kinh Thánh đó. Vì lý do đó, chúng ta cần phải
học thể loại văn chương một cách nghiêm túc.
Bối Cảnh Xung Quanh Là Gì?
Bối cảnh xung quanh đơn thuần nói đến những đoạn Kinh Thánh xung quanh đoạn
Kinh Thánh mà bạn đang học. Bạn có thể nghĩ về nó như là một thế giới bản văn mà phân đoạn
Kinh Thánh của bạn đang sống trong đó. Bối cảnh này ta thường gọi là thượng hạ văn. Ví dụ, bối
cảnh xung quanh của Rô-ma 12:1-2 gồm mười một đoạn đầu của sách Rô-ma cũng như từ đoạn
12:3 đến hết sách. Theo một nghĩa rộng hơn, bối cảnh xung quanh của Rô-ma 12:1-2 là phần còn
lại của những sách trong Tân Ước và ngay cả toàn bộ Cựu Ước. Những bối cảnh khác nhau này
hình thành nên những vòng tròn xung quanh đoạn Kinh Thánh bạn đang học.
Vòng tròn bối cảnh trực tiếp là vòng tròn gần nhất với trọng tâm vì nó miêu tả những
điều ngay trước và sau phân đoạn Kinh Thánh của bạn. Bạn có nhớ câu Kinh Thánh trong I Phi-
69
e-rơ 5:7: “lại hãy trao mọi điều lo lắng mình cho Ngài, vì Ngài hay săn sóc anh em” không? Bạn
có nhận ra được bối cảnh trực tiếp của nó không? Bối cảnh trực tiếp của nó gồm từ câu 5-9, hoặc
là nhiều hơn nữa.
5 Cũng khuyên bọn trẻ tuổi, hãy phục theo các trưởng lão. Hết thảy đối đãi với nhau
phải trang sức bằng khiêm nhường; vì Đức Chúa Trời chống cự kẻ kiêu ngạo, mà ban
ơn cho kẻ khiêm nhường. 6 Vậy, hãy hạ mình xuống dưới tay quyền phép của Đức
Chúa Trời, hầu cho đến kỳ thuận hiệp Ngài nhắc anh em lên; 7 lại hãy trao mọi điều
lo lắng mình cho Ngài, vì Ngài hay săn sóc anh em. 8 Hãy tiết độ và tỉnh thức: kẻ
thù nghịch anh em là ma quỉ, như sư tử rống, đi rình mò chung quanh anh em, tìm kiếm
người nào nó có thể nuốt được. 9 Hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự nó, vì biết
rằng anh em mình ở rải khắp thế gian, cũng đồng chịu hoạn nạn như mình.
Chúng tôi khuyến khích bạn dành ưu tiên nhất cho bối cảnh trực tiếp khi xác định ý
nghĩa của phân đoạn của bạn. Như biểu đồ vòng tròn bối cảnh minh họa ở trên, thì tầm ảnh
hưởng của nó lên ý nghĩa của đoạn Kinh Thánh đó càng lớn.
Nhìn kỹ bối cảnh trực tiếp của I Phi-e-rơ 5:7 cho thấy rằng trao mọi điều lo lắng mình
cho Chúa kết nối với hạ mình xuống trước mặt Chúa.
Bối cảnh trực tiếp cho chúng ta thấy rằng hạ mình xuống trước mặt Đức Chúa Trời có
nghĩa là chúng ta trao phó những lo lắng của mình cho Chúa vì chúng ta biết rằng Ngài yêu
chúng ta và sẽ không để chúng ta thấp hèn. Kiêu ngạo có thể nói với Đức Chúa Trời rằng: “tự ta
có thể gánh gánh nặng này”, trong khi đó sự khiêm nhường liên quan đến việc trao mọi điều lo
lắng mình cho Ngài. Đây thật là một định nghĩa tích cực. Việc hiểu được điều này là do đọc kỹ
bối cảnh trực tiếp.
Bước tiếp theo là học cách nhận diện bối cảnh xung quanh của phân đoạn Kinh
Thánh của mình. Dầu vậy, trước khi làm điều này, chúng ta hãy cùng xem xét vài hiểm họa liên
quan đến việc phớt lờ bối cảnh này.
Những Hiểm Họa Của Việc Xem Thường Bối Cảnh Văn Chương
Bạn có lẽ đã từng nghe người ta nói rằng bạn có thể khiến Kinh Thánh nói bất cứ điều
gì bạn muốn. Điều đó chỉ đúng khi bạn xem thường bối cảnh văn chương. Khi bạn tôn trọng bối
cảnh văn chương (gồm giao ước truyền thông ám chỉ thể loại), bạn không thể khiến Kinh Thánh
nói bất cứ điều gì bạn muốn. Hầu hết những tà giáo đều nổi tiếng hiểu sai và áp đặt Kinh Thánh
vì xem thường bối cảnh văn chương. Có nhiều nguy hiểm liên quan đến việc xem thường bối
cảnh văn chương. Tại đây chúng tôi muốn nêu ra hai vấn đề phổ biến nhất – vấn đề thứ nhất liên
quan đến người giải kinh, còn vấn đề thứ hai liên quan đến người giảng kinh.
70
Bỏ Qua Bối Cảnh Xung Quanh
Hiểm họa thứ nhất là bỏ qua bối cảnh xung quanh. Điều này thường xảy ra khi những
người giải kinh chỉ tập trung vào một câu duy nhất mà không để ý đến những câu xung quanh có
thể ảnh hưởng đến ý nghĩa của nó như thế nào. Ví dụ, những câu sau đây là những câu ưa thích
thường hay được trích dẫn. Bạn có biết bối cảnh của nó không?
“Nầy, ta đứng ngoài cửa mà gõ; nếu ai nghe tiếng ta mà mở cửa cho, thì ta sẽ vào cùng
người ấy, ăn bữa tối với người, và người với ta.” (Khải –huyền 3:20)
“Vì nơi nào có hai ba người nhân danh ta nhóm nhau lại, thì ta ở giữa họ.” (Ma-thi-ơ
18:20)
“Cũng hãy tránh khỏi tình dục trai trẻ, mà tìm những điều công bình, đức tin, yêu
thương, hòa thuận với kẻ lấy lòng tinh sạch kêu cầu Chúa”. (II Ti-mô-thê. 2:22)
Khải huyền 2:20 thường được dùng để mô tả lời hứa của Chúa Giê-xu cho mọi người
tin nhận Ngài là Cứu Chúa và Chủ, tức là nó thường dùng trong khi truyền giảng, kêu gọi tội
nhân tiếp nhận Chúa: “Nếu quý vị mở cửa lòng mình thì Đấng Christ hứa sẽ bước vào”. Nhưng
trong bối cảnh của nó, Khải-huyền 3:20 là một lời hứa từ Đấng Christ phục sinh phán với một
hội thánh gồm những Cơ Đốc Nhân “hâm hẩm”. Ngài quả quyết với những tín hữu bất tuân này
rằng Ngài sẵn lòng và đang chờ đợi để làm mới lại mối quan hệ với họ (đứng ngoài cửa mà gõ)
nếu họ ăn năn (mở cửa cho). Câu này áp dụng trực tiếp đến những Cơ Đốc Nhân đang sống
ngoài mối quan hệ với Đấng Christ. Là một tín hữu, bạn có bao giờ lìa xa Chúa đến nỗi bạn
không chắc rằng Ngài có còn muốn cho phép bạn trở về chưa? Khải-huyền 3:20 hứa rằng Ngài
yêu bạn và mong chờ phục hồi bạn nếu bạn ăn năn.
Ma-thi-ơ 18:20 thường được trích để nhắc mọi người rằng cầu nguyện theo nhóm là
đặc biệt hiệu quả. Nhưng chúng ta ít khi dừng lại để suy nghĩ về những gì chúng ta thật sự đang
nói. Chúa Giê-xu chỉ ở với chúng ta khi chúng ta hiệp với các tín hữu khác? Bối cảnh của Mat-
thi-ơ 18:20 là bối cảnh của kỷ luật Hội Thánh. Điều này rõ ràng hơn khi đọc câu 15-17:
15 Nếu anh em ngươi phạm tội cùng ngươi, thì hãy trách người khi chỉ có ngươi với
một mình người; như người nghe lời, thì ngươi được anh em lại. 16 Ví bằng không
nghe, hãy mời một hai người đi với ngươi, hầu cứ lời hai ba người làm chứng mà mọi
việc được chắc chắn. 17 Nếu người không chịu nghe các người đó, thì hãy cáo cùng
Hội thánh, lại nếu người không chịu nghe Hội thánh, thì hãy coi người như kẻ ngoại và
kẻ thâu thuế vậy.
Nói cách khác, Chúa Giê-xu phán rằng nếu cộng đoàn nào (dù nhỏ với vài ba người)
mà đi theo sự hướng dẫn của Chúa vì kỷ luật hiệp nhất thì họ sẽ được phước.
71
II Ti-mô-thê 2:22 là một câu ưa thích nói về nỗ lực chiến đấu chống lại sự cám dỗ
tình dục. Nhưng bối cảnh xung quanh định nghĩa “tình dục trai trẻ” như thế nào? Phao-lô đang
viết cho Ti-mô-thê, người đang đối diện với vấn đề của giáo sư giả bên trong các nhà lãnh đạo
Hội Thánh tại Ê -phê-sô. Phân đoạn trước (2:14-19) nói rõ rằng Ti-mô-thê phải chống trả lại các
giáo sư giả. Điều này được hỗ trợ bởi hình ảnh của gia đình (2:20-21). Tương tự, đoạn 2:23 -26
nói về tà giáo. Trong câu 22, Phao-lô khuyên Ti-mô-thê hãy tránh khỏi những sự biện luận ngu
xuẩn đó, điều mà thường thu hút những mục sư trẻ tuổi (tức là “tình dục trai trẻ”) mà đeo đuổi sự
công bình, đức tin, tình yêu thương và sự hòa thuận với những con người thật của Đức Chúa Trời.
Câu này dường như chẳng có điều gì liên quan đến cám dỗ tình dục.
Những ví dụ trên cho thấy vấn đề của việc bỏ qua bối cảnh xung quanh. Cách mà
Kinh Thánh của chúng ta được phân chia thành câu và đoạn không giúp chúng ta giải quyết vấn
đề này nhiều. Số câu và đoạn giúp chúng ta tìm các phân đoạn dễ hơn nhưng cũng khiến cho
chúng ta dễ nghĩ rằng mỗi câu, đoạn đứng riêng rẽ như là một đơn vị ý tưởng độc lập, giống như
một số điện thoại riêng rẽ trong danh bạ điện thoại. Chúng ta thường hay nhóm các số câu vào
một phân đoạn. Nhưng điều đó không có nghĩa là nếu chúng ta muốn tách nó riêng ra khỏi bối
cảnh của nó thì được mà không liên hệ gì đến những phần phía trước và phía sau.
Chúng ta cũng cần nhớ rằng trong những bản gốc của Kinh Thánh không có phân
đoạn và câu, nhưng chúng được thêm vào sau đó. Khi chúng ta nói về Kinh Thánh được Đức
Thánh Linh linh cảm tức là chúng ta đang nói về chính bản kinh văn đó, không phải về con số.
Đừng để phần biên tập sau này tách chúng ta ra khỏi bối cảnh xung quanh của nó và đặt cho nó
một ý nghĩa khác với ý nghĩa mà Chúa đã định.
Giảng Theo Chủ Đề
Một hiểm họa thứ hai liên quan đến việc xem thường bối cảnh văn chương là hiểm
họa giảng theo chủ đề. Theo chủ đề là một cách giảng thích hợp khi những phân đoạn khác được
hiểu trong bối cảnh và sứ điệp tổng quát không phá vỡ những bối cảnh riêng khác. Nhưng có
nhiều lời giảng theo chủ đề bóp méo ý nghĩa của Kinh Thánh vì họ xem thường bối cảnh văn
chương.
Biểu đồ bên dưới cho thấy dòng ý tưởng của trước giả Kinh Thánh như thế nào trong
một phân đoạn Kinh Thánh riêng biệt. Giảng giải kinh (ngược lại với giảng theo chủ đề) sẽ đi
theo dòng ý tưởng của tác giả xuyên một phân đoạn riêng biệt (ví dụ, Giăng 10) để nắm bắt được
ý nghĩa gốc và truyền đạt ý nghĩa cho tín hữu.
Ngược lại, giảng theo chủ đề thường nhảy từ một phân đoạn này đến một phân đoạn
khác bằng cách nối các ý tưởng không liên quan ban đầu lại với nhau (xem biểu đồ bên dưới).
Nó giống như nhảy từ một tờ báo đến thực đơn đến bài thơ rồi đến lá thư tình, nhặt những ý
tưởng lại với nhau để tạo nên một sứ điệp mà bạn chọn. Bạn có thể thấy rằng cách giảng như thế
này rất dễ phá vỡ bối cảnh văn chương và dẫn đến nhiều kết luận không theo Kinh Thánh.
72
Lấy những đoạn Kinh Thánh ra khỏi bối cảnh của nó có thể tạo nên một bài giảng hay
nhưng nó có thể sẽ che giấu ý nghĩa thật của Đức Chúa Trời. Đọc sai Kinh Thánh làm tổn
thương người nghe vì bắt họ làm tôi mọi hơn là giải phóng họ. Sẽ như thế nào nếu cô gái trẻ
được đề cập ở phần đầu thật sự tin cậy Đức Chúa Trời đã phán với cô cưới bạn trai của mình khi
mà thật sự Chúa không hề có ý như vậy? Việc cô gái trẻ này không thể nhìn thấy bối cảnh đã
khiến cô đọc sai Kinh Thánh và dẫn đến kết cuộc đau buồn. Ai muốn bước vào mối liên hệ quan
trọng như vậy mà không được Đức Chúa Trời ban phước? Dĩ nhiên người bạn trai của cô ta sẽ
nói “không” với lời cầu hôn này và khuyến khích cô ta tham dự một khóa học về giải kinh. Sau
đó tất cả sẽ ổn.
Cách Để Có Thể Nhận Diện Bối Cảnh Xung Quanh
Cho đến bây giờ chúng ta đã học cách để quan sát chi tiết và phân tích những phần
của một phân đoạn Kinh Thánh. Thật sự Kinh Thánh không phải là một bộ sưu tầm của những
phần không liên hệ. Đức Thánh Linh đã cảm động các tác giả Kinh Thánh để kết nối những từ,
câu và những phân đoạn thành một thể văn chương thống nhất theo cách sử dụng ngôn ngữ giao
tiếp của con người bình thường.
Thông thường một câu xây dựng trên những câu đi trước và dẫn đến những câu sau
để tạo thành một sứ điệp thống nhất. Khi Đức Chúa Trời phán với chúng ta, những phần của
Kinh Thánh kết nối tạo thành một tổng thể, trong khi đó phần tổng thể cung cấp những chỉ dẫn
hay giới hạn để hiểu được các phần khác. Sự hiểu biết về một phân đoạn Kinh Thánh nhất định
nào đó của chúng ta luôn luôn được xác định bởi sứ điệp tổng thể của cả sách. Nếu một độc giả
không thể nắm được ý của tác giả vừa mới nói và sắp nói thì người đó dễ đánh mất ý nghĩa của
phân đoạn Kinh Thánh đó.
Khi chúng tôi yêu cầu bạn nhận diện bối cảnh xung quanh, chúng tôi muốn bạn nhìn
thấy những câu này (những phần này) thích hợp với nhau trong một sách để thông tin cho sứ
điệp lớn hơn (tổng thể). Chúng ta không thể đọc được ý tưởng của tác giả nhưng chúng ta có thể
truy tìm ý tưởng của người đó khi đi theo dòng chảy của những câu và phân đoạn để hình thành
một tổng thể của sách. Chúng ta muốn thấy những đơn vị nhỏ hơn kết nối để tạo nên những đơn
vị lớn hơn. Điều này sẽ giúp chúng ta giải nghĩa phân đoạn riêng của mình trong ánh sáng của
phần lớn hơn (ví dụ trong bối cảnh văn chương gốc của nó). Biết được bối cảnh văn chương sẽ
giúp trả lời những câu hỏi như là:
Vai trò hay chức năng của đơn vị này trong sách này là gì?
Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta bỏ phần này ra khỏi sách này?
Tại sao tác giả lại đặt phần này như là phần quan trọng trong tổng thể của sách này?
73
Hơn nữa, giải nghĩa chính xác nhất một phân đoạn Kinh Thánh là tìm thấy phân đoạn
đang học thích hợp với bối cảnh xung quanh (ví dụ những đơn vị nhỏ thích hợp nhất với những
phần lớn hơn). Khi việc giải nghĩa của chúng ta mâu thuẩn với bối cảnh văn chương (gồm thể
loại văn chương và bối cảnh xung quanh) thì chúng ta đã vi phạm cách thông thường mà người
ta sử dụng để thông tin và việc giải nghĩa của chúng ta không thích hợp.
Chúng ta cùng lấy sách Phi-lê-môn là ví dụ để minh họa cho cách nhận diện bối cảnh
xung quanh của một phân đoạn. Giả sử chúng ta được giao giải nghĩa câu 4-7. Phần cần được
giải nghĩa ở trong phần in đậm.
1 Phao-lô, kẻ tù của Đức Chúa Jêsus Christ, và Ti-mô-thê, anh em chúng ta, gởi cho
Phi-lê-môn, là người rất yêu dấu và cùng làm việc với chúng ta, 2 cùng cho Á p-bi và
người chị em, A-chíp, là bạn cùng đánh trận, lại cho Hội thánh nhóm họp trong nhà anh:
3 nguyền xin anh em được ân điển và sự bình an ban cho bởi Đức Chúa Trời, Cha
chúng ta, và bởi Đức Chúa Jêsus Christ!
4 Tôi cảm tạ Đức Chúa Trời tôi, hằng ghi nhớ anh trong lời cầu nguyện, 5 vì
nghe nói anh có lòng yêu thương và đức tin trong Đức Chúa Jêsus và cùng các
thánh đồ. 6 Tôi cầu xin Ngài rằng đức tin đó, là đức tin chung cho chúng ta, được
có hiệu nghiệm, khiến người ta biết ấy là vì Đấng Christ mà mọi điều lành được
làm trong chúng ta. 7 Vả, hỡi anh, tôi đã được vui mừng yên ủi lắm bởi lòng yêu
thương của anh, vì nhờ anh mà lòng các thánh đồ được yên ủi.
8 Vậy nên, dầu trong Đấng Christ, tôi có quyền truyền dạy anh việc nên làm, 9 song
vì lòng yêu thương của anh, nên tôi nài xin thì hơn. Tôi, Phao-lô, đã già rồi, hiện nay
lại vì Đức Chúa Jêsus Christ chịu tù nữa, 10 tôi vì con tôi đã sanh trong vòng xiềng
xích, tức là Ô -nê-sim, mà nài xin anh; 11 ngày trước người không ích gì cho anh,
nhưng bây giờ sẽ ích lắm, và cũng ích cho tôi nữa: tôi sai người về cùng anh, 12 người
như lòng dạ tôi vậy. 13 Tôi vốn muốn cầm người ở lại cùng tôi, đặng thế cho anh mà
giúp việc tôi trong cơn vì Tin Lành chịu xiềng xích. 14 Nhưng tôi không muốn làm
điều gì mà chưa được anh đồng ý, hầu cho điều lành anh sẽ làm chẳng phải bởi ép buộc,
bèn là bởi lòng thành. 15 Vả, có lẽ người đã tạm xa cách anh, cốt để anh nhận lấy
người mãi mãi, 16 không coi như tôi mọi nữa, nhưng coi hơn tôi mọi, coi như anh em
yêu dấu, nhứt là yêu dấu cho tôi, huống chi cho anh, cả về phần xác, cả về phần trong
Chúa nữa. 17 Vậy nếu anh coi tôi là bạn hữu anh, thì hãy nhận lấy người như chính
mình tôi vậy. 18 Nhược bằng người có làm hại anh hoặc mắc nợ anh điều chi, thì hãy
cứ kể cho tôi. 19 Tôi, Phao-lô, chính tay tôi viết điều nầy: sẽ trả cho anh, còn anh mắc
nợ tôi về chính mình anh thì không nhắc đến. 20 Phải, hỡi anh em, ước chi tôi được
nhận sự vui vẻ nầy bởi anh trong Chúa; anh hãy làm cho tôi được thỏa lòng trong Đấng
Christ. 21 Tôi viết cho anh, đã tin chắc anh hay vâng lời, biết anh sẽ làm quá sự tôi nói
74
đây. 22 Nhân thể hãy liệu sắm nhà trọ cho tôi, vì tôi mong rằng nhờ anh em cầu
nguyện, sẽ được trở về cùng anh em. 23 Ê -pháp-ra, là bạn đồng tù trong Đức Chúa
Jêsus Christ với tôi, có lời thăm anh, 24 Mác, A-ri-tạc, Đê-ma và Lu-ca, cùng là bạn
cùng làm việc với tôi cũng vậy. 25 Nguyện xin ân điển của Đức Chúa Jêsus Christ ở
với tâm thần anh em!
Khi chúng ta đọc phân đoạn này, bạn sẽ hỏi: Tại sao Phao-lô nói điều này về Phi-lê-
môn? Ô ng chỉ cầu nguyện cho Phi-lê-môn như chúng ta cầu nguyện cho một người bạn hay là
hơn thế nữa? Phao-lô cảm tạ Đức Chúa Trời đơn giản vì Phi-lê-môn là môt nhà lãnh đạo thuộc
linh được tôn trọng phải không? Rõ ràng, Phao-lô đang khen Phi-lê-môn về một điều gì đó. Tại
sao có sự mô tả này?
Bạn sẽ không biết câu trả lời cho đến chừng bạn biết được bối cảnh xung quanh. Để
nắm được ý của Phao-lô muốn nói trong câu 4-7, bạn cần phải kiểm tra lại những điều Phao-lô
nói trước và sau phân đoạn này. Đó là “bối cảnh xung quanh” - một phần thích hợp với phần đi
trước và đi sau. Nếu bạn không biết bối cảnh xung quanh của phân đoạn này, bạn sẽ có thể chỉ đi
trên bề mặt và đánh mất ý nghĩa thật của nó. Bạn cần khám phá bối cảnh xung quanh của câu 4-7
để nắm được sứ điệp của Phao-lô trong phần đó. Hãy nhớ, bối cảnh xác định ý nghĩa!
Tìm bối cảnh xung quanh của bất cứ đoạn nào cũng cần đến ba bước sau: (1) Nhận ra
sách đó được chia thành những phân đoạn hay phần như thế nào; (2) Tóm tắt ý chính của mỗi
phần; (3) Giải thích đoạn Kinh Thánh này có liên hệ như thế nào đến những phần xung quanh.
Chúng ta hãy cùng tiếp tục ví dụ trong Phi-lê-môn.
1. Nhận ra các sách đó được phân chia thành những phân đoạn hay phần như thế
nào.
Tham khảo vài bản dịch Kinh Thánh khác nhau để thấy các dịch giả đã chia sách này
thành những đơn vị nhỏ như thế nào.
Nhiều bản dịch không giống nhau trong cách phân chia. Hãy nhớ là những người hiệu
đính đã chia nhỏ đoạn Kinh Thánh để giúp đỡ độc giả chứ không phải được linh cảm. Nếu bạn
muốn tự mình phân chia, bạn cần tìm những thay đổi trong bản văn như là sự chuyển đổi dòng
chảy ý tưởng của tác giả. Những điểm sau đây đánh dấu sự thay đổi hay chuyển đổi gồm những
điều sau:
Từ nối (ví dụ: do đó, vậy, nhưng…)
Thay đổi thể loại (ví dụ: từ lời chào thăm đến một lời cầu nguyện)
Những thay đổi chủ đề (ý chính)
Những thay đổi về thời gian, không gian
75
Những thay đổi ngữ pháp (ví dụ: chủ ngữ, tân ngữ, đại từ, thời của động từ, con người
hay con số)
Chúng ta cùng xem vài điểm chuyển đổi trong sách Phi-lê-môn. Có một sự thay đổi
chủ đề giữa câu 3 và 4 khi Phao-lô chuyển từ lời chào thăm sang lời cầu nguyện. Đừng bỏ qua từ
“vậy nên” trong câu 8 và từ “vậy” trong câu 17, cả hai bắt đầu phần mới. Bạn cũng có thể tìm
thấy vài dấu thay đổi của vài câu ở phần cuối: “nhân thể” (c.22), thay đổi thành lời chào (c.23)
và một lời chúc phước cuối cùng (c.25).
Trong ví dụ của chúng ta, đa số các bản dịch đều cho rằng câu 4-7 tạo thành một phần
và câu 8-16 tạo nên phần khác. Viết lại phần tóm tắt trong bước thứ 2 là một cách để kiểm tra
tính hợp lý của những phần phân chia của bạn trong bước 1.
2. Tóm tắt ý chính của từng phần trong khoảng trên dưới mười từ.
Trong từng tóm tắt của bạn, luôn nhớ tóm tắt điểm chính của cả phần lớn. Sau khi
viết phần tóm tắt của mình rồi, bạn có thể đọc lại phần này một lần nữa và xem thử phần tóm tắt
có phản ánh đúng toàn phần không. Coi chừng bị cuốn vào các chi tiết trong phần này. Chỉ nhắm
vào ý chính, ý tưởng lớn. Hãy cùng nhìn những tóm tắt của chúng tôi trong mỗi phần của Phi-lê-
môn:
C.1-3 – Phao-lô cho biết người gởi/người nhận lá thư và chào thăm.
C.4-7 – Phao-lô cảm tạ Đức Chúa trời về đức tin, tình yêu của Phi-lê-môn và cầu thay
cho ông.
C.8-16 – Phao-lô cầu xin Phi-lê-môn cho “con” Ô-ni-sim của mình và mở cho ông thấy
sự quan phòng của Chúa trong vấn đề này.
C. 17-20 – Phao-lô khuyên Phi-lê-môn tiếp nhận Ô -nê-sim như tiếp nhận chính mình ông.
C. 21 – Phao-lô tin rằng Phi-lê-môn có thể làm nhiều hơn điều ông cầu xin.
C.22 – Phao-lô chia xẻ hi vọng trực tiếp đến gặp và thăm ông.
C. 23-24 – Phao-lô chào thăm những người bạn đồng lao.
C. 35 – Phao-lô kết thúc lá thư bằng lời chúc phước.
Khi bạn viết một tóm tắt cho từng phân đoạn hay từng phần, bạn có thể định giá lại
quyết định phân chia của mình. Đừng sợ phải chia lại các phần đó.
3. Giải thích phân đoạn của mình liên quan đến những phần xung quanh như thế nào.
Bây giờ bạn có thể nhìn thấy được dòng tư tưởng của tác giả trong suốt sách này khi
đọc những phần tóm tắt của mình. Đây là lúc nhận thấy phân đoạn của mình thích hợp với những
phân đoạn xung quanh thế nào. Trọng tâm của việc nhận biết bối cảnh xung quanh là quan sát
phần của bạn có liên quan đến những phần trước và sau như thế nào. Chúng ta cùng nhận diện
bối cảnh xung quanh của Phi-lê-môn 4-7.
76
Phần của chúng ta (c. 4-7) nằm giữa phần mở đầu của lá thư (c. 1-3) và phần chính
của lá thư (c. 8-22). Hầu hết những điều Phao-lô nói trong phân đoạn cảm tạ và cầu nguyện
chuẩn bị độc giả cho những điều ông sẽ nói trong phần chính. Trong phần này, phần cảm tạ trở
thành nền tảng cho lời đề nghị đi theo sau. Phao-lô nêu ra nhiều phẩm chất của Phi-lê-môn trong
câu 4-7, và chính những phẩm chất này sẽ giúp Phi-lê-môn đáp ứng tích cực lại lời yêu cầu của
Phao-lô sắp nói đến. Phao-lô cảm tạ Đức Chúa Trời rằng Phi-lê-môn tin cậy Chúa và yêu thương
anh em. Phao-lô tiếp tục, tình yêu này làm “cho tôi được vui mừng và yên ủi”. Ông cũng khen
Phi-lê-môn đã làm cho nhiều tấm lòng của các thánh đồ được tươi mới. Bây giờ Phao-lô cầu xin
một ân huệ cho một vị thánh đồ, tên là Ô -nê-sim. Do đó, phần cảm tạ và cầu nguyện (c. 4-7) dọn
đường cho phần chính của lá thư. Những phẩm chất cao quý của Phi-lê-môn như được nhấn
mạnh ở trong câu 4-7 khuyến khích Phi-lê-môn làm theo điều mà Phao-lô sẽ yêu cầu trong phần
còn lại của lá thư. Khi chúng ta học Phi lê môn 4-7 với những bối cảnh xung quanh, chúng ta có
thể thật sự nắm được ý nghĩa của phân đoạn này.
Kết Luận
Chúng ta học bối cảnh văn chương vì sự giải nghĩa thích hợp nhất với bối cảnh là sự
giải nghĩa đúng nhất. Khi chúng ta xem thường bối cảnh văn chương, chúng ta đang mạo hiểm
bắt Kinh Thánh nói những điều chúng ta muốn Kinh Thánh nói. Điều này có thể đáp ứng nhu
cầu tức thì của một số người nhưng căn bản nó làm tổn thương con người và trói buộc con người
hơn là giải phóng con người. Khi chúng ta dùng bối cảnh văn chương một cách nghiêm túc,
chúng ta đang nói: “Chúng tôi muốn nghe điều Đức Chúa Trời phán với chúng tôi”.
Trong chương này chúng ta đã học về bối cảnh văn chương bao gồm cả thể loại văn
chương và bối cảnh xung quanh phân đoạn Kinh Thánh của bạn. Thể loại văn chương đóng vai
trò như là một giao ước truyền thông giữa tác giả và độc giả. Là độc giả, chúng ta cần phải trung
thành với giao ước này bằng cách nắm chắc lấy những luật giải kinh do tác giả thiết lập. Bối
cảnh xung quanh cho chúng ta thấy rằng mỗi phân đoạn sống trong một thế giới được bao quanh
bởi những phân đoạn khác. Chính chúng ta cũng thông tin với nhau bằng cách kết nối những từ,
câu và phân đoạn thành một sứ điệp thống nhất và Kinh Thánh cũng làm như vậy. Chúng ta ôn
lại hai hiểm hoạ phổ biến nhất liên quan đến việc xem thường bối cảnh văn chương và bỏ qua
bối cảnh trực tiếp của phân đoạn. Chúng tôi kết chương này bằng ba bước để nhận diện bối cảnh
xung quanh, sử dụng sách Phi-lê-môn làm ví dụ. Khi bạn thật sự tôn trọng bối cảnh văn chương
của một phân đoạn trong Kinh Thánh, bạn sẽ xác nhận rằng trên hết mọi sự bạn muốn nghe
những gì Đức Chúa Trời muốn phán với mình qua chính Lời của Ngài.
77
Bài 8
Nghiên Cứu Từ
Lời Giới Thiệu
Nhiều từ ngữ được gắn với nhau tạo thành một câu chuyện hoặc một đoạn trong một
lá thư. Nếu bạn không nắm bắt được ý nghĩa của những từ đó, bạn sẽ không thể nắm bắt được ý
nghĩa của cả đoạn. Những từ vựng đem đến bức tranh rộng hơn cho cuộc sống. Từ vựng đáng
được học kỹ.
Mục tiêu của học từ là cố gắng hiểu càng rõ càng tốt điều mà tác giả muốn chuyển tải
bằng cách dùng từ này trong bối cảnh này. Là độc giả, chúng ta không quyết định được ý nghĩa
của những từ trong Kinh Thánh nhưng chúng ta có thể khám phá điều tác giả muốn nói gì khi
ông dùng một từ nào đó. Chúng ta luôn nhớ phân biệt sự khác nhau giữa quyết định ý nghĩa và
khám phá ý nghĩa.
Trong chương này chúng ta sẽ học về những từ vựng trong Kinh Thánh. Ngay cả khi
bạn không biết ngôn ngữ gốc của Kinh Thánh, Hy-lạp và Hê-bơ-rơ, bạn cũng có thể học được
cách sử dụng những công cụ giải nghĩa để học từ vựng và chúng tôi sẽ chỉ cho bạn cách học đó.
Những Sai Lầm Thường Gặp Khi Học Từ Vựng
1. Chỉ cần dùng ngôn ngữ của bản dịch mà bỏ qua tiếng gốc của Kinh Thánh (Hy-lạp và
Hê-bơ-rơ).
2. Ý nghĩa thật của một từ chỉ được tìm thấy trong cấu trúc của gốc từ của nó (tức là ngữ
nghĩa học).
3. Đọc từ vựng trong ngôn ngữ mẹ đẻ hiện đại của mình rồi sau đó mới tra nghĩa từ gốc.
4. Một từ sẽ bao gồm tất cả các nghĩa của một từ đó bất cứ khi nào được sử dụng. Hầu hết
các từ đều có nhiều nghĩa khác nhau.
5. Một từ phải có cùng nghĩa mỗi khi nó xuất hiện.
6. Một khi học một từ thì cho rằng học được cả ý tưởng (concept) của nó.
7. Chúng ta chỉ trích những bằng chứng ủng hộ việc giải kinh ưa thích của chúng ta mà bỏ
qua những bằng chứng dường như ngược lại với quan điểm của chúng ta.
Cẩn Thận Chọn Từ Nghiên Cứu
Học từ vựng một cách đúng đắn cần thời gian. Hãy thực tế và chấp nhận rằng bạn
không thể học tất cả các từ trong phân đoạn của mình. Thật ra, bạn không cần phải học tất cả các
từ vựng. Hầu hết các đoạn Kinh thánh đầy những từ có ý nghĩa đã rõ ràng cho người đọc trung
bình. Nhưng một vài từ đòi hỏi phải học sâu hơn và bạn cần phải khôn ngoan để biết nên học từ
78
nào. Trong trương hợp này, bạn phải làm gì? Hãy sử dụng những hướng dẫn sau đây để giúp bạn
chọn được những từ bạn cần học:
1. Tìm những từ quan trọng đối với phân đoạn. Mọi thứ trong phân đoạn này phụ thuộc
vào những từ này. Chúng mang tầm quan trọng của lịch sử hoặc thần học. Những từ
này thường là những danh từ, động từ chủ chốt.
2. Tìm những từ lặp. Thông thường trước giả nhấn mạnh những từ chủ đề bằng cách lặp
lại chúng. Do đó, hãy lưu ý đến những từ được lặp đi lặp lại. Học chắc những từ này.
3. Tìm cách ngôn. Những từ được dùng ở đây không mang nghĩa đen mà là những từ
mang tính hình ảnh, biểu tượng. Khi bạn đọc câu nói của Chúa Giê-xu: “Ta là cái cửa”
(Giăng 10:9), bạn tìm ý nghĩa của hình ảnh này. Vì ý nghĩa của nhiều hình ảnh hay
biểu tượng không phải lúc nào cũng rõ ràng nên bạn cần phải học chúng kỹ hơn. Hình
ảnh sư tử nói về Chúa Giê-xu Christ trong Khải huyền 5:5 và chỉ về Sa-tan trong I
Phi-e-rơ 5:8.
4. Tìm những từ không rõ hay khó. Có lẽ bạn không hiểu nghĩa của một từ tiếng Việt
trong phân đoạn Kinh thánh nào đó, bạn cần phải tham khảo một bản dịch tiếng Việt
khác, hoặc bạn có khả năng ngoại ngữ thì tham khảo bản dịch trong ngôn ngữ đó.
Một tác giả cũng có thể dùng một thuật ngữ theo nghĩa đặc biệt. Một luật quan trọng
ở đây là “những từ quan trọng nhất là những từ gây khó khăn cho bạn” và nếu một từ
làm cho bạn khó hiểu, hãy để nhiều thời gian hơn cho những từ đó.
Bây giờ chúng ta hãy cùng thử nhé. Vòng tròn những từ trong Rô-ma 12:1-2 và trong
Ma-thi-ơ 28:19-20 mà bạn nghĩ bạn cần nghiên cứu kỹ hơn. Hãy nhớ tìm những từ quan trọng,
những từ lặp, những hình ảnh và những từ khó.
Xác Định Ý Nghĩa Khả Dĩ Của Từ Vựng
Tại sao chúng ta cần xác định từ đó có thể có nghĩa gì trước khi chúng ta quyết định
từ đó có nghĩa gì? Bởi vì hầu hết các từ đều có nhiều nghĩa khác nhau, nhưng chỉ có một trong
nhiều nghĩa đó được dùng trong bối cảnh riêng của chúng ta đang học. Để không phải nhầm lẫn
nhiều ý nghĩa của một từ khi giải nghĩa một đoạn Kinh Thánh nào đó, bạn cần phải làm rõ một từ
có thể có nghĩa gì.
Sắp Xếp Ngữ Nghĩa
Một khi chúng ta nhìn thấy được tất cả ý nghĩa khả dĩ của một từ - chúng ta gọi nó là
sự sắp xếp ý nghĩa hay ngữ nghĩa – chúng ta đang ở trong một vị trí thuận lợi hơn để quyết định
từ này thật sự có nghĩa là gì trong một bối cảnh nhất định. Ví dụ, chúng ta hãy nhìn sự sắp xếp
của từ “cánh tay” trong tiếng Việt. Để tìm được sự sắp xếp ý nghĩa của một từ, chúng ta cần tra
trong một cuốn từ điển tiếng Việt chuẩn.
79
Sự sắp xếp ý nghĩa của một từ là một bảng liệt kê tất cả ý nghĩa khả dĩ của một từ -
tức là, danh sách của từ đó có thể có nghĩa là gì.
Bạn có thể nghĩ rằng, không sao, điều mình cần làm là tìm sự sắp xếp ý nghĩa của từ
của mình trong một cuốn từ điển là xong. Không hẳn như vậy. Bạn phải nhớ rằng từ của bạn
được dịch từ tiếng Hy-lạp hoặc Hê-bơ-rơ nên ý nghĩa có thay đổi. Vì ngôn ngữ gốc của Kinh
Thánh không phải bằng tiếng Việt nên việc bạn cần tìm là sự sắp xếp nghĩa theo từ Hy-lạp hay
Hê-bơ-rơ, không phải từ tiếng Việt trong bản dịch. Bạn có thể dùng từ điển tiếng Việt của mình
để tìm ý nghĩa nhưng phụ thuộc vào từ điển tiếng Việt là một sai lầm lớn.
Cả từ trong ngôn ngữ gốc (Hy-lạp hay Hê-bơ-rơ) lẫn từ tiếng Việt được dùng để dịch
từ đó sẽ có một sự sắp xếp ngữ nghĩa. Sẽ có một bài chồng chéo giữa những sự sắp xếp ngữ
nghĩa của hai từ đó. Điều đó làm cho việc dịch thuật có thể xảy ra. Dầu vậy, sự sắp xếp này sẽ
không tương xứng nhau. Chúng ta phải luôn nhớ rằng chúng là những từ khác nhau và sẽ luôn có
những sắp xếp ý nghĩa khác nhau.
Chúng ta hãy xem một từ mà Chúa Giê-xu dùng trong ẩn dụ về các ta-lâng: ‘Vả, nước
thiên đàng sẽ giống như một người kia, khi đi đường xa, gọi các đầy tớ mà giao của cải mình”
(Mat. 25:14, cũng xem câu 20,22). Nếu bạn tìm từ “giao” trong từ điển tiếng Việt, bạn sẽ thấy
một loạt nghĩa của nó.
Bây giờ hãy quay lại công việc chính: xác định từ -từ Hy-lạp hoặc từ Hê-bơ-rơ, chứ
không phải từ tiếng Việt – có thể có nghĩa gì. Làm sao chúng ta tìm được sự sắp xếp ý nghĩa cho
từ ngôn ngữ gốc? Có hai điều cần làm sau:
Thánh Kinh Đối Chiếu
Bước đầu tiên là dùng một Thánh Kinh đối chiếu để xác định được từ Hy-lạp hay Hê-
bơ-rơ gốc. Khi bạn nhìn thấy những định nghĩa của từ đó và những cách dịch từ đó khác nhau,
bạn sẽ bắt đầu có cảm giác từ đó có nghĩa là gì (tức là sự sắp xếp ngữ nghĩa của nó).
Nghiên Cứu Bối Cảnh
Chúng ta cần học từ vựng trong chính bối cảnh của nó. Bạn học được gì từ từ “cửa”
trong bối cảnh của II Cô. 2:12: “Lại khi tôi đã đến thành Trô-ách đặng giảng Tin Lành của Đấng
Christ, dầu Chúa đã mở cửa cho tôi ở đó”? Trong bối cảnh này, Phao-lô đang nói về cơ hội cho
chức vụ của ông chứ không nói về cái cửa vật chất. Trong trường hợp này, Thánh Kinh Đối
Chiếu cho bạn nhiều nghĩa của từ cửa, nhưng nó không nói đến nghĩa này. Chỉ có cách duy nhất
chúng ta xác định được ý nghĩa thật mà Phao-lô đang muốn nói đến tại đây khi bạn tìm cẩn thận
trong bối cảnh đặc biệt của nó.
80
Điều này dẫn bạn đến điều thứ hai là bạn cần khám phám sự sắp xếp ý nghĩa của từ
đó. Bạn phải kiểm tra bối cảnh để thấy được từ của bạn được sử dụng như thế nào. Một qui luật
trên hết các qui luật là bối cảnh xác định ý nghĩa của từ. Nếu bạn lấy một từ ra khỏi bối cảnh,
bạn sẽ không thể tìm thấy ý nghĩa của nó. Nhất là trong tiếng Việt chúng ta có nhiều hàm ý mà
cần phải có bối cảnh mới hiểu được ý của tác giả.
Để kiểm tra bối cảnh, bạn cần biết vị trí của từ Hy-lạp hay Hê-bơ-rơ trong Kinh
Thánh. Kiểm tra bối cảnh là một bước quan trọng để xác định được từ này có thể có nghĩa là gì.
Kinh Thánh đối chiếu có thể giúp bạn.
Nói tóm lại, trước khi bạn quyết định ý nghĩa của một từ, bạn cần xác định nó có thể
có nghĩa gì. Bạn có thể dùng một bản Kinh Thánh đối chiếu để tìm từ gốc Hy-lạp hoặc Hê-bơ-rơ,
tìm định nghĩa và bản dịch của nó. Sau đó bạn phải dùng Kinh Thánh đối chiếu một lần nữa để
kiểm tra bối cảnh xung quanh từ của bạn. Bây giờ là lúc quyết định từ của bạn thật sự có nghĩa là
gì trong bối cảnh của phân đoạn Kinh Thánh đó.
Quyết Định Ý Nghĩa Của Một Từ Trong Bối Cảnh
Trong ánh sáng của bối cảnh, điều trước hết bạn phải làm là chọn từ trong những ý
nghĩa khả dĩ một ý nghĩa thích hợp nhất với từ của bạn. Cần lặp lại tầm quan trọng của bối cảnh
là: Bối cảnh xác định ý nghĩa! Bối cảnh là mọi thứ xung quanh từ của bạn, như là phân đoạn
chứa từ, chủ đề căn bản, biện luận của tác giả hay dòng ý tưởng cũng như những yếu tố ngoại
cảnh như là hoàn cảnh lịch sử của tác giả và độc giả gốc.
Một trong những cách đáng tin nhất để bối cảnh hướng dẫn quyết định của bạn là qua
ý tưởng được gọi là “những vòng tròn bối cảnh”.
Nói chung, vòng tròn càng gần với tâm thì càng có ảnh hưởng lớn hơn trong quyết
định của bạn về ý nghĩa của từ đó. Ví dụ khi cố gắng xác định ý nghĩa của một từ trong Tân Ước,
bạn thường quan tâm đến những sách cùng tác giả (và đặc biệt đối với bối cảnh trực tiếp của từ
đó) hơn là những phần khác của Tân Ước. Tât cả điều này được dựa trên một ý niệm rằng chúng
ta trước hết và trên hết tìm trước giả gốc để khám phá ý nghĩa của từ đó.
Mục tiêu của bạn khi dùng vòng tròn bối cảnh là khởi đầu với bối cảnh trực tiếp và
tiếp tục tìm kiếm cho đến khi bạn tìm được giải đáp của bạn. Hiếm khi bạn phải di chuyển ra
ngoài vòng tròn “cùng tác giả” để trả lời cho câu hỏi về ý nghĩa của từ.
Bạn muốn dành nhiều thì giờ làm việc trong những vòng tròn bối cảnh nhỏ hơn (tức
là mọi điều do cùng tác giả viết). Nên nhớ là mục đích của chúng ta khi học từ là để hiểu được ý
nghĩa của từ đó một cách rõ ràng đúng với ý của tác giả dùng từ đó trong bối cảnh riêng của nó.
Chúng ta không thể ngừng phân tích khi chúng ta biết được những ý nghĩa khả dĩ của từ đó.
81
Chúng ta phải tiếp tục chọn ý nghĩa thích hợp nhất. Nếu bạn phải tranh chiến để quyết định ý
nghĩa gần nhất của từ đó trong bối cảnh của nó, thì những câu hỏi gợi ý sau đây sẽ giúp bạn:
Có một so sánh hay đối lập nào để định nghĩa từ đó không?
Ví dụ, Ê -phê-sô 4:29 nói rằng: “chớ có một lời dữ nào ra từ miệng anh em; nhưng khi
đáng nói hãy nói một vài lời lành giúp ơn cho và có ích lợi cho kẻ nghe đến”. Đối lập trong bối
cảnh trực tiếp giữa “lời dữ” và những lời gây dựng và giúp ích. Sự đối lập này giúp chúng ta hiểu
“lời dữ” là bất cứ phát ngôn nào gây tổn hại đến các mối quan hệ.
Có chủ đề nào của phân đoạn này xác định một ý nghĩa của từ này không?
Có cách dùng cùng một từ đó ở chỗ khác trong cùng bối cảnh tương tự giúp bạn xác định
được ý nghĩa nào là gần nhất với từ đó không?
Giả sử bạn đang học từ “thế gian” trong Giăng 3:16 (“vì Đức Chúa Trời yêu thương
thế gian…”), bạn cũng phải quan tâm đến cách Giăng dùng từ này trong những phần khác của
ông. Giăng dùng từ “thế gian” nhiều cách khác nhau, nhưng ông thường dùng từ thế gian theo
nghĩa con người phản loạn chống nghich laị với Đức Chúa Trời và chống lại mục đích của Ngài.
Giăng cũng có thể đang dùng ý nghĩa này trong Giăng 3:16 nữa. Khi chúng ta đọc thấy rằng Đức
Chúa Trời yêu thương “thế gian”, chúng ta không cho rằng Ngài đang bày tỏ cảm xúc của mình
với loài thọ tạo vật chất này, nhưng nghĩ về sự sẵn lòng sai Con Một của Ngài để chết cho những
người khinh thường Ngài. Biết được cách dùng từ “thế gian” của Giăng giúp chúng ta hiểu được
tấm lòng hi sinh ban cho của Đức Chúa Trời.
Biện luận của trước giả trong sách này có gợi mở một ý nghĩa nào không?
Thông thường, biện luận của trước giả có tác dụng đến quyết định chọn ý nghĩa từ
của bạn. Trong Ga-la-ti 3:4, Phao-lô hỏi người Ga-la-ti một câu hỏi: “Anh em há luống công mà
chịu sự khốn khó dường ấy sao?” (bản dịch truyền thống). Từ “khốn khó” trong tiếng Hy-lạp
(pascho) được dịch là “đau khổ” với hai nghĩa chính: (a) trải nghiệm tiêu cực (tức là sự khốn khó)
hay (b) những trải nghiệm tích cực. Tân Ước phần nhiều dường như dùng từ này theo nghĩa tiêu
cực (đau khổ), trong đó Phao-lô dùng sáu lần (I Cô. 12:26).
Bối cảnh lịch sử có lái bằng chứng vào một hướng nhất định không?
Thông thường bối cảnh lịch sử sẽ ưu ái một chọn lựa riêng biệt. Với các tín hữu tại
Phi-líp, Phao-lô viết: “Duy anh em phải ăn ở một cách xứng đáng với đạo Tin Lành của Đấng
Christ” (1:27). Từ khóa ở đây là “ăn ở” (politeuomai) có thể mang hàm nghĩa chính trị mà Phao-
lô dùng để liên kết với người Phi-líp. Người dân Phi-líp rất tự hào về địa vị của mình là công dân
La-mã. Cơ Đốc Nhân ở Phi-líp có lẽ cũng có cùng sự tự hào đó. Phao-lô dường như muốn bảo
các tín hữu tại đó phải bảo đảm rằng mình phải sống giống như công dân trên trời ở thành Phi-líp
82
chứ không phải chỉ như công dân của La-mã. Chúa thật của họ không phải là Sê-sa mà là Giê-xu!
Biết được bối cảnh lịch sử có thể giúp bạn nhận ra được ý nghĩa của một từ.
Bây giờ sử dụng những câu hỏi này và những câu hỏi tương tự, chọn ý nghĩa thích
hợp nhất. Thỉnh thoảng bạn sẽ khám phá nhiều hơn một nghĩa. Nhưng bạn cần phải quyết định ý
nghĩa nào thích hợp nhất với bối cảnh đó. Đừng chọn ý nghĩa của một từ chỉ vì nó thú vị hơn
những từ khác hay vì nó sẽ giúp mình giảng tốt hơn những từ còn lại. Nếu tìm được ý nghĩa của
một từ mà không đúng với bối cảnh của nó là điều nguy hiểm. Khi bạn quyết định, phải nhớ là
giải nghĩa luôn luôn liên quan đến một yếu tố chủ quan. Do đó, chúng ta cần phải chọn lọc khi
giải nghĩa và phải xác tín với sự khiêm nhường. Chúng ta có thể sai.
Tóm lại, chúng ta cần xác định được từ đó có nghĩa gì (tức là sự sắp xếp ngữ nghĩa),
sau đó quyết định từ đó có nghĩa gì trong bối cảnh riêng của nó. Vì bối cảnh chứ không phải định
nghĩa trong từ điển xác đinh ý nghĩa của một từ, chúng tôi hi vọng bạn chỉ tham khảo những
nguồn căn bản như là bước cuối cùng.
Kết luận
Từ ngữ giống như những viên gạch ngôn ngữ để xây nên căn nhà lớn hơn. Khi chúng
ta nắm được ý nghĩa của những từ riêng biệt, chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa của toàn phân
đoạn. Như chúng ta đã học, ý nghĩa của một từ được xác định bởi bối cảnh xung quanh từ đó.
Bối cảnh xác định ý nghĩa từ cũng như ý nghĩa từ giúp xây dựng bối cảnh. Khi học từ, bạn có thể
nhìn thấy rõ ràng sự liên kết năng động giữa những phần và tổng thể.
83
Chương 9
Ai Điều Khiển Ý Nghĩa?
Lời Giới thiệu
Trong chương 1, chúng tôi đã trình bày những cách căn bản để đọc, giải nghĩa và áp
dụng Kinh Thánh hầu nắm Lời của Chúa. Chúng ta bắt đầu đọc cẩn thận để xác định ý nghĩa cho
độc giả thời Kinh Thánh. Tiếp theo chúng ta nhận ra được dòng sông ngăn cách chúng ta với tác
giả thời Kinh Thánh. Sau đó chúng ta thiết lập nguyên tắc thần học từ bản văn và băng qua dòng
sông trên cây cầu nguyên tắc đó. Cuối cùng chúng ta áp dụng nguyên tắc đó cho hoàn cảnh sống
riêng của chúng ta.
Tuy nhiên có một vài câu hỏi căn bản mà chúng ta cần được giải đáp trước khi chúng
ta đi xa hơn trong Hành Trình Giải Kinh. Những câu hỏi này có một hiệu quả sâu sắc trên cách
chúng ta thật ứng dụng hành trình đó. Câu hỏi quan trọng là: Ý nghĩa là gì? Ai điểu khiển nó, tác
giả hay độc giả? Trong chương này chúng ta sẽ cùng học về những vấn đề quan trọng đó.
Ai Điều Khiển Ý Nghĩa, Độc Giả hay Tác Giả?
Câu hỏi này đã gây ra tranh cãi dữ dội không chỉ trong vòng văn chương ngoài đời
mà còn giữa các sinh viên và học giả Kinh Thánh. Đầu thế kỷ hai mươi, hướng truyền thống giải
nghĩa bất cứ văn chương nào dù Kinh Thánh hay thế tục cũng đều công nhận rằng tác giả xác
định ý nghĩa và công việc của độc giả là để tìm ra ý nghĩa đó. Trong vòng các nhà phê bình văn
chương thế tục, hướng này vấp phải sự phản đối kịch liệt vào nửa sau thế kỷ hai mươi. Nhiều
nhà phê bình văn học hôm nay cho rằng chính độc giả chứ không phải tác giả xác định ý nghĩa
của bản văn.
Quan điểm này của các nhà phê bình thế tục lại xâm nhập vào lĩnh vực giải kinh.
Nhiều học giả bắt đầu đặt câu hỏi: Ý nghĩa là gì? Họ kết luận rằng từ ý nghĩa chỉ áp dụng khi
một độc giả tương tác với bản văn – tức là cả độc giả và bản văn tạo ra ý nghĩa. Tác giả không
còn liên quan gì.
Dĩ nhiên cũng có nhiều người vẫn giữ quan điểm rằng tác giả gốc vẫn điều khiển ý
nghĩa. Họ cho rằng, khi tác giả viết, ông ta có chủ ý chuyển tải một ý nghĩa nhất định nào đó
trong bản văn. Ý nghĩa chủ ý đó của tác giả là ý nghĩa thật của bản văn.
Những người nhấn mạnh tác giả xác định ý nghĩa được gọi là chủ ý của tác giả. Quan
điểm ngược lại tập trung vào độc giả là nhân vật chính trong việc xác định ý nghĩa được gọi là
đáp ứng của độc giả. Cả hai quan điểm này đều có lý do của nó. Vậy chúng ta nên theo hướng
nào?
84
Truyền Thông (Communication) – Vấn Đề Trọng Tâm
Dĩ nhiên độc giả có quyền tự do trong việc giải nghĩa một bản văn theo cách người đó
chọn. Do đó, tác giả điều khiển ý nghĩa chỉ khi độc giả cho phép. Ví dụ, bạn nhận được một bài
thơ tình cũ mốc mà người yêu của bạn viết cho bạn (nhớ lại lá thư tình trong phần trước). Khi
bạn đọc từng lời, từng dòng của bài thơ, bạn sẽ cố tìm ý nghĩa mà người yêu đang gởi gắm trong
đó. Bạn muốn biết người yêu của mình muốn nói gì với bạn. Trong trường hợp này bạn đang đi
theo hướng chủ ý của tác giả vì bạn đang xem bản văn như là sự truyền thông giữa tác giả và
chính bạn. Bạn biết tác giả và bạn muốn biết tác giả đang muốn nói gì với bạn. Bạn sẽ hỏi những
câu hỏi mang tính giải thích: Tác giả có ý gì?
Giả dụ như một ngày nào đó khi bạn đang đi trong rừng, bạn nhặt được một bài thơ
tình. Bạn không nhận ra được tác giả của bài thơ đó là ai. Dầu vậy, bài thơ đó tuyệt hay và bạn
thích thú đọc nó. Trong trường hợp này, bạn không quan tâm đến ý của tác giả muốn nói gì.
Ngay cả bạn không biết tác giả đó là ai. Trong trường hợp này, bạn có quyền tự do để đọc và giải
nghĩa bài thơ đó theo đáp ứng của bạn. Câu hỏi giờ sẽ thay đổi: Điều này có nghĩa gì đối với tôi?
Với bài thơ vô danh trong rừng, bạn có quyền bỏ qua ý của tác giả.
Thỉnh thoảng chúng ta chủ động thay đổi ý nghĩa chủ ý của tác giả vì chúng ta không
thích ý nghĩa đó. Ví dụ, John Lennon của ban nhạc Beatles viết một bản nhạc vào những năm 60
có tựa đề: “Một Chút Giúp Sức Từ Những Người Bạn”. Đây là bài hát hay để hát trong mưa.
Dòng đầu đặc biệt thích hợp với chúng ta (“Bạn sẽ làm gì nếu bạn hát mà không có sáo?”). Bài
hát có giai điệu và âm tiết thật tuyệt nếu người nào đó giải nghĩa nó theo nghĩa đen khi nói đến
những người mà chúng ta gọi là bạn
Dầu vậy, nếu chúng ta học về bối cảnh lịch sử và xem chủ ý của tác giả thì chúng ta
nhận ra rằng Lennon đang có lẽ dùng từ bạn để nói đến thuốc. Dĩ nhiên sự liên hệ này làm hỏng
bài hát cho chúng ta, do đó, chúng ta cố tình thay đổi ý nghĩa của Lennon với từ bạn khi chúng ta
hát bài bài này và gọi bạn là con người. Trong trường hợp đó, chúng ta không quan tâm Lennon
đang cố gắng nói lên điều gì trong bài hát đó. Chúng ta không nhìn ông ta để tìm sự hướng dẫn
triết lý nào. Do đó bài hát không có chức năng như là sự truyền thông giữa chúng ta. Một khi bài
hát mất đi chức năng là môt phương tiện truyền thông, chúng ta, là độc giả, có quyền tự do để
giải thích theo ý chúng ta thích. Nhưng chúng ta chỉ có thể làm điều này vì chúng ta không quan
tâm đến ý tưởng và nỗ lực chuyển tải chúng cho chúng ta qua bài hát của mình. Hơn nữa, không
có hậu quả tiêu cực nào của việc thay đổi ý nghĩa của Lennon. Thực tế thì kết quả là tích cực.
Dầu vậy, trong nhiều trường hợp, thật sự rất quan trọng khi chúng ta thấy chủ ý của
tác giả mang hậu quả tiêu cực vì chúng ta hiểu sai hay cố tình phớt lờ ý nghĩa chủ ý của tác giả.
Ví dụ, ở Mỹ, một trong những bản văn phổ biến nhất là từ STOP lớn được ghi ở nhiều ngã rẽ
trên cao tốc. Nếu bạn chọn, bạn có thể đi theo hướng đáp ứng của độc giả và giải nghĩa từ (bản
85
văn) đó: giảm tốc độ một chút, coi chừng xe khác. Tuy nhiên cảnh sát đi theo hướng chủ ý của
tác giả để xác định ý nghĩa. Họ sẽ đáp lại sự giải nghĩa của bạn bằng hình phạt.
Tương tự, nếu bạn nhận một giấy đóng tiền điện từ công ty điện, bảo bạn phải đóng
100,000 đồng tiền điện bạn sử dụng trong tháng trước. Bạn có sự lựa chọn nào để xác định ý
nghĩa của bản văn đó (giấy đóng tiền) không? Bạn có thể cho rằng tờ giấy đó có nghĩa với tôi là
tôi nên trả mười nghìn đồng chứ không phải một trăm nghìn đồng không? Có thể bạn sẽ nói như
vậy. Nhưng bạn sẽ sớm đọc tờ giấy đó trong bóng tối vì công ty được sẽ cắt điện của bạn. Rõ
ràng một số bản văn được viết để chuyển tải thông điệp quan trọng cho độc giả của họ. Khước từ
chủ ý của tác giả có thể tạo nên những hậu quả nghiêm trọng cho độc giả.
Do đó, vấn đề truyền thông là trọng tâm của quyết định của một người trong việc giải
nghĩa một bản văn. Nếu bạn, là độc giả, thấy bản văn là một sự truyền thông giữa tác giả và
chính bạn, thì bạn nên tìm ý nghĩa gốc của tác giả. Dầu vậy, nếu bạn là độc giả không quan tâm
đến ý của tác giả thì bạn có thể đi theo hướng đáp ứng của độc giả và giải nghĩa bản văn đó mà
không cần biết ý của tác giả là gì. Dầu vậy, trong một số trường hợp có thể có những hậu quả
tiêu cực nếu đọc theo cách đó.
Vấn đề truyền thông là vấn đề quan trọng. Nó là nền tảng của hướng giải kinh của
chúng ta. Nếu bạn đọc Kinh Thánh chỉ như là một án văn chương vĩ đại, chỉ vì giá trị đạo đức
hay chỉ để hướng dẫn cách sống chứ không phải để tương giao từ Đức Chúa Trời, thì bạn có thể
giải nghĩa bản văn tùy theo cách bạn chọn. Câu hỏi giải nghĩa chính của bạn là: Bản Kinh văn
này có ý nghĩa gì đối với tôi? Dầu vậy, nếu bạn tin rằng Kinh Thánh là Lời mặc khải từ Đức
Chúa Trời cho bạn và rằng Kinh Thánh có chức năng là sự truyền đạt ý tưởng của Đức Chúa
Trời cho bạn thì bạn sẽ giải nghĩa Kinh Thánh bằng cách tìm ý nghĩa mà Đức Chúa Trời, tác giả,
đang chủ ý. Câu hỏi giải kinh của bạn sẽ là: Ý của Đức Chúa Trời trong đoạn kinh văn này là gì?
Chúng ta tin rằng Kinh Thánh là Lời mặc khải của Đức Chúa Trời cho chúng ta. Mục
đích của Đức Chúa Trời là để chuyển tải chính mình Ngài và ý muốn của Ngài cho chúng ta.
Chúng ta có thể chọn bỏ qua sứ điệp của Ngài và giải nghĩa bản kinh văn theo cảm giác và ước
muốn của mình, nhưng nếu chúng ta làm như vậy chúng ta sẽ chịu hậu quả đau đớn vì sự bất
tuân. Chúng ta sẽ không thể hiểu Ngài như Ngài muốn chúng ta phải hiểu. Trong việc giải kinh,
độc giả không điều khiển ý nghĩa nhưng tác giả điều khiển ý nghĩa. Kết luận này dẫn chúng ta
đến một trong những nguyên tắc căn bản của giải kinh: Chúng ta không tạo ra ý nghĩa. Nhưng
chúng ta khám phá ý nghĩa mà tác giả đã đặt tại đó cho chúng ta.
Những Định Nghĩa
Từ đầu tiên cần định nghĩa là từ tác giả. Khi thảo luận về văn chương ngoài Kinh
Thánh thì từ tác giả chỉ về người viết án văn chương đó. Khi chúng ta nói đến từ tác giả trong
bối cảnh Kinh Thánh thì chúng ta chỉ cả tác giả con người và thiêng liêng. Trên hết, khi chúng ta
học Kinh Thánh, chúng ta tìm ý nghĩa mà Đức Chúa Trời chủ ý cho chúng ta.
86
Dầu vậy, Kinh Thánh được mặc khải thiêng liêng nhưng chắc chắn có yếu tố con
người trong đó. Đức Chúa Trời chọn cách làm việc thông qua những tác giả con người để chuyển
tải thông điệp của Ngài cho chúng ta. Ngôn ngữ Ngài chọn dùng là ngôn ngữ con người. Những
yếu tố của con người và thiêng liêng trong Kinh Thánh thường khó nhận ra. Do đó, chúng tôi
dùng chung với nhau trong từ tác giả.
Chúng ta cũng cần định nghĩa từ ý nghĩa và áp dụng. Chúng ta sẽ dùng từ ý nghĩa để
nói đến điều mà tác giả muốn chuyển tải bằng những ký hiệu. Những ký hiệu đơn giản là những
cách dùng ngôn ngữ khác nhau – ngữ pháp, ngữ nghĩa, ý nghĩa của từ…. Do đó, trong giải kinh,
ý nghĩa không do độc giả xác định. Ý nghĩa là những gì tác giả chủ ý để truyền tải khi người đó
viết bản văn đó.
Điều mà độc giả đáp ứng với ý nghĩa được gọi là áp dụng. Một khi chúng ta nhận ra
được ý nghĩa trong bản văn mà Đức Chúa Trời muốn chuyển tải cho chúng ta, thì chúng ta phải
đáp ứng lại với ý nghĩa đó. Chúng ta dùng từ áp dụng để nói đến sự đáp ứng của độc giả với ý
nghĩa của bản văn. Do đó, sẽ không đúng nếu chúng ta hỏi trong khi học Kinh Thánh rằng:
“đoạn Kinh Thánh này có ý nghĩa gì đối với bạn?” Thay vào đó, chúng ta phải hỏi: “Đoạn Kinh
Thánh này có ý nghĩa gì? Bạn áp dụng ý nghĩa đó vào đời sống của bạn như thế nào?”
Đây là điều quan trọng chúng ta cần quan tâm. Ý nghĩa là điều không bàn cãi. Nó gắn
với bản văn với dự định của tác giả, không phải của độc giả. Do đó, ý nghĩa của bản văn là giống
nhau với mọi Cơ Đốc Nhân. Nó không chủ quan. Nó không thay đổi từ độc giả này đến độc giả
khác. Ngược lại, áp dụng phản ảnh ảnh hưởng của bản văn trên đời sống của độc giả. Nó có tính
chủ quan hơn và nó phản ảnh hoàn cảnh sống riêng của từng độc giả. Áp dụng ý nghĩa sẽ thay
đổi từ Cơ Đốc Nhân này sang Cơ Đốc Nhân khác, nhưng nó vẫn có giới hạn được ảnh hưởng bởi
ý nghĩa của tác giả (xem chương 3).
Làm sao những định nghĩa này thích hợp trong Hành Trình Giải Kinh mà chúng ta đã
thảo luận trong chương 1? Chúng ta hãy cùng ôn lại Hành Trình này trình bên dưới:
Bước 1: Nắm bắt được đoạn Kinh Thánh trong thời xưa. Đoạn Kinh Thánh này có ý nghĩa gì đối
với những độc giả trong thời Kinh Thánh?
Bước 2: Đo được chiều rộng của dòng sông. Có những sự khác biệt nào giữa độc giả thời Kinh
Thánh với chúng ta?
Bước 3: Vượt qua cây cầu nguyên tắc. Có nhưng nguyên tắc thần học nào trong đoạn Kinh
Thánh này?
Bước 4: Nắm bắt được phân đoạn Kinh Thánh trong thời của chúng ta. Từng Cơ Đốc Nhân ngày
nay áp dụng nguyên tắc thần học đó trong đời sống của mình như thế nào?
87
Trong Hành Trình Giải Kinh, cả hai bước 1&3 (nói về ý nghĩa cho độc giả thời Kinh
Thánh và nguyên tắc thần học) là phần của ý nghĩa của bản văn. Thông qua Kinh Thánh, Đức
Chúa Trời truyền thông cho dân sự của Ngài cả cho độc giả thời Kinh Thánh và nguyên tắc thần
học cho độc giả tương lai. Khi Đức Chúa Trời hướng dẫn các tác giả của Kinh Thánh để viết nên
những bản kinh văn thì Ngài cũng đã nghĩ về độc giả tương lai. Ví dụ khi Phao-lô viết lá thư của
mình cho người Rô-ma, thì chắc chắn Đức Thánh Linh cùng hành động với ông để cho lá thư
này có ý nghĩa cho các Cơ Đốc Nhân tương lai nữa. Chính Phao-lô, tác giả con người, có thể
nhận thức điều này nhưng chắc chắn Đức Chúa Trời, tác giả thiêng liêng, cũng có thể nhận thức
điều này khi Ngài hướng dẫn Phao-lô viết lá thư này.
Do đó, cả những chi tiết riêng biệt của lá thư lẫn nguyên tắc thần học trong mỗi bản văn
đều do tác giả chủ định. Đây là ý nghĩa mà chúng ta cần tìm trong khi học Kinh Thánh. Sau khi
chúng ta nhận biết được ý nghĩa này, thì chúng ta có thể bắt đầu hỏi chúng ta nên làm gì với bản
văn này và từ đó bước vào phần áp dụng.
Xác Định Ý Nghĩa Chủ Định Của Tác Giả
Những giả định của chúng ta về chủ định tác giả sẽ ảnh hưởng đế cách học của chúng
ta. Hãy nhớ rằng ý nghĩa mà chúng ta định nghĩa là điều mà tác giả muốn chuyển tải bằng những
ký hiệu. Những ký hiệu mà chúng ta đang nói đến là những yếu tố ngôn ngữ - ngữ nghĩa, ngữ
pháp, ý nghĩa từ…. Tác giả dùng những ký hiệu này để truyền đạt thông điệp của Ngài cho
chúng ta. Mục đích của chúng ta là sử dụng những ký hiệu này như là công cụ để khám phá điều
mà tác giả muốn chuyển tải. Các bối cảnh, cả văn chương lẫn lịch sử - văn hóa, đều là những
công cụ hữu ích để khám phá ý nghĩa chủ định của tác giả.
Bạn cũng cần phải nhớ rằng bối cảnh xác định ý nghĩa chứ không phải chỉ là ngữ
pháp và định nghĩa của từ điển. Tức là bạn không thể đơn thuần tìm những từ trong từ điển và
ngữ pháp trong sách ngữ pháp và xác định ý nghĩa. Ý nghĩa gắn kết với người tạo ra ký hiệu và
với bối cảnh mà tác giả muốn tạo ra chúng trong đó. Giả dụ khi bạn hỏi một cậu bé năm tuổi có
gì dưới gầm xe. Cậu bé sẽ trả lời là có động cơ dưới gầm xe. Tuy nhiên, cầu ta không nhìn thấy
được động cơ là gì. Cậu bé có thể dùng từ này với ý là một cái gì đó lớn, ồn ào và một điều gì đó
kỳ diệu, bí ẩn mà làm cho chiếc xe có thể chạy được. Chúng ta không thể xác định ý nghĩa động
cơ trong đoạn hội thoại với cậu bé bằng cách tìm trong một từ điển. Tương tự, nếu chúng ta hỏi
một thợ máy cái gì ở dưới gầm xe, ông ta cũng sẽ nói “động cơ”, nhưng với một sự hiểu biết
khác hẳn em bé. Chúng ta sẽ hiểu sai hai người nếu chúng ta dùng định nghĩa của người thợ máy
về động cơ để giải nghĩa câu nói của em bé hay nếu chúng ta dùng định nghĩa động cơ của em bé
để hiểu được người thợ máy. Để hiểu đúng đắn, chúng ta cần phải hỏi ý của tác giả là gì khi dùng
từ đó.
88
Tác giả không phải lúc nào cũng bày tỏ chính xác những gì họ muốn nói trong văn
chương. Ngôn ngữ có giới hạn của nó và một vài điều như cảm xúc chẳng hạn cũng khó chuyển
tải chính xác. Thật sự, hạn chế này tạo nên những tranh cãi về chủ định của tác giả. Tuy nhiên,
thực tế cho thấy rằng ngôn ngữ là phương tiện chính để chuyển tải ý niệm và cảm giác. Nó
không phải là phương tiện hoàn hảo nhưng hiệu quả trong việc chuyển tải ý nghĩa từ người này
đến người khác. Cả người nói lẫn người nghe (tác giả lẫn độc giả) thường nhận ra hạn chế của
ngôn ngữ và cả hai đều cố gắng vượt qua hạn chế này. Ngôn ngữ của chúng ta phức tạp đơn giản
vì chúng ta cần bày tỏ sự phong phú của những ý niệm phức tạp với nhau một cách rõ ràng nhất.
Chúng ta dùng ngữ pháp, ngữ nghĩa và ý nghĩa từ để chuyển tải cho những người khác những
điều chúng ta muốn chuyển tải. Chúng ta cũng dùng cách ngôn, thành ngữ, những câu trích dẫn
trực tiếp và hàng loạt những công cụ văn chương khác để chuyển tải ý nghĩa của mình.
Tác giả của Kinh Thánh (cả con người lẫn thiêng liêng) đều chuyển tải ý nghĩa của
mình qua ngôn ngữ thông thường. Tác giả sử dụng ngữ pháp, ngữ nghĩa, ý nghĩa từ, bối cảnh văn
chương, bối cảnh lịch sử và hàng loạt công cụ văn chương khác để chuyển tải thông điệp của
Đức Chúa Trời cho chúng ta. Đó là lý do tại sao chúng ta dành nhiều thời gian trong Phần 1 để
nhấn mạnh tầm quan trọng của việc học cách đọc cẩn thận, quan sát, quan sát và quan sát. Nếu ý
nghĩa nằm bên trong chúng ta – tức là chúng tạo ra ý nghĩa – thì việc học và đọc của chúng ta đủ
rồi. Tuy nhiên như chúng ta bàn luận ở trên, đây không phải là điều đúng. Ý nghĩa được chuyển
tải cho chúng ta qua bản văn.
Nói cách khác, Đức Chúa Trời hành động qua tác giả con người để chuyển tải ý nghĩa
của Ngài qua ngôn ngữ thông thường. Thỉnh thoảng ý nghĩa rõ ràng và đơn giản; nhưng có lúc
nó phức tạp. Chúng ta phải tìm kiếm nó với tấm lòng cầu nguyện vào bản văn và kiên nhẫn tìm
kiếm ý nghĩa mà Đức Chúa Trời đặt ở đó.
Kết Luận
Hướng của của chúng ta trong việc giải nghĩa Kinh Thánh tập trung vào chủ định của
tác giả hơn là đáp ứng của độc giả. Đức Chúa Trời chuyển tải thông điệp của Ngài qua Kinh
Thánh. Là độc giả, chúng ta không tạo nên ý nghĩa, nhưng chúng ta tìm ý nghĩa đã có sẵn trong
bản văn. Đó là lý do tại sao việc đọc cẩn thận, bối cảnh lịch sử, học từ, dịch và thể loại rất quan
trọng. Đó là những mục mà chúng ta phải nắm lấy để hiểu được ý nghĩa chủ định của tác giả.
89
Chương 10
Mức Độ Ý Nghĩa
Lời Giới Thiệu
Kinh Thánh có nhiều mức độ ý nghĩa khác nhau sao? Tức là sau khi chúng ta đã tìm
được ý nghĩa bề mặt hay nghĩa đen, có những ý nghĩa thuộc linh sâu hơn nữa sao? Chương này
sẽ trả lời câu hỏi này. Đây không phải là vấn đề của các học giả nhưng mỗi Cơ Đốc Nhân đọc
Kinh Thánh để biết ý muốn của Chúa cho đời sống của mình sẽ gặp vấn đề này.
Hãy tưởng tượng một ngày bạn tham gia học Kinh Thánh với một nhóm sinh viên đại
học. Đây là lần đầu tiên bạn tham gia lớp học Kinh Thánh như thế này. Anh Hạnh, cao, đẹp trai
khởi đầu buổi học bằng lời cầu nguyện. Sau đó anh đọc đoạn Kinh Thánh trong Luca 15:8-10:
8 Hay là, có người đàn bà nào có mười đồng bạc, mất một đồng, mà không thắp đèn,
quét nhà, kiếm kỹ càng cho kỳ được sao? 9 Khi tìm được rồi, gọi bầu bạn và người lân
cận mình, mà rằng: Hãy chung vui với ta, vì ta đã tìm được đồng bạc bị mất. 10 Ta nói
cùng các ngươi, trước mặt thiên sứ của Đức Chúa Trời cũng như vậy, sẽ mừng rỡ cho
một kẻ có tội ăn năn.
Anh Hạnh tiếp “Bây giờ, bạn nghĩ đoạn Kinh Thánh này có nghĩa là gì? Đức Chúa
Trời muốn dạy chúng ta điều gì ở đây?”
Chị Quý phát biểu: “Mình không biết. Nhưng khi học đoạn Kinh Thánh này thì mình
thấy ngôi nhà trong những ngày đó có mái thấp và có ít cửa sổ. Do đó, khó tìm thứ gì trong đó.
Đó là lý do tại sao cô ta cần cái đèn”.
Anh Jet thì cho rằng: “Cô ta phải quét nhà vì nhà nhớp. Do đó, chúng ta có một căn
nhà tối tăm và nhớp nhúa. Căn nhà là thế gian. Ý của mình là khi chúng ta quay trở lại với thế
gian thì giống như đồng tiền đó…không thể thấy rõ được… bị mất trong bóng tối và nhớp
nhúa…không thể nhìn thấy Chúa Giê-xu. Vì vậy ngôi nhà chỉ về thế gian còn chúng ta là đồng
tiền khi chúng ta sa ngã. Dĩ nhiên Chúa Giê-xu là người đến tìm chúng ta và thấy chúng ta trong
bóng tối”. Bạn nghĩ anh Jet nói hay và đúng quá nên bạn gật đầu đồng ý.
Anh Hà phản đối: “Thế thì bạn nghĩ người phụ nữ đó là Chúa Giê-xu à? Mình không
thể nghĩ như vậy.
Jet trả lời: “Đó là một ẩn dụ. Vấn đề không phải là mô tả Chúa Giê-xu là phụ nữ”.
90
Anh Thi Ô ng thì cho rằng: “Mình không thành vấn đề là Chúa Giê-xu là phụ nữ hay
không. Nhưng Jet à, Mình không cho rằng căn nhà chỉ về thế gian. Khi mình nghĩ về một nơi tối
tăm mà tại đó người ta lạc mất, thì mình nghĩ về hội thánh ngày nay. Ý của mình là chỉ nghĩ về
những hội thánh mà không thật sự theo Chúa Giê-xu và chỉ giảng tâm lý hay những thứ đại loại
như vậy. Nó giống như hội thánh trong sách Khải huyền mà Chúa Giê-xu gọi là hâm hẩm – một
hội thánh mà Ngài phải nhả ra. Hội Thánh thật sự cần ánh sáng của tin lành hôm nay. Và nhớ
rằng tất cả những hội thánh đầu tiên là hội thánh tư gia phải không? Họ gặp nhau ở nhà riêng
thay vì ở nhà thờ như chúng ta. Do đó, căn nhà có thể chỉ về hội thánh. Mình thấy có ý nghĩa đối
với mình”. Bạn thấy Thi Ông nói cũng có lý quá.
Quốc Anh hỏi: “Còn đồng tiền thì sao, Thi Ông?”
Thi Ô ng trả lời: “Có lẽ đồng tiền đại diện cho những hội thánh dường như bị lạc mất
giữa những hội thánh khác không biết phải làm gì tiếp theo. Ít nhất đó cũng có nghĩa với mình.”
Jet thêm vào: “Có lẽ người phụ nữ trong câu chuyện chỉ về vị mục sư chân thật của
một hội thánh thật. Ông ta đang cố gắng quét đi tất cả những giáo lý sai trật đang tấn công những
tín hữu thật.”
Hà thắc mắc: “Còn người phụ nữ thì sao?” Khi nãy nói là Chúa Giê-xu bây giờ lại nói
đến mục sư. Thế thì không được!”
Chị Quý cho ý kiến: “Mình chưa bao giờ nghĩ ngôi nhà là hội thánh. Nếu ngôi nhà là
tối tăm, bẩn thỉu thì có thể đó là tấm lòng của chúng ta. Cuộc đời của chúng ta không phải sống
trong tối tăm và bẩn thỉu đó sao? Chúng ta nỗ lực đi theo Chúa Giê-xu nhưng chúng ta thất bại vì
tấm lòng của chúng ta chưa được rửa sạch. Dầu vậy Chúa Giê-xu đến và rửa sạch tấm lòng của
chúng ta như người phụ nữ trong câu chuyện này. Ngài quét hết tội lỗi ra khỏi đời sống của mình
và tha thứ cho chúng ta. Mình muốn nghĩ về Chúa Giê-xu giống như là một người quét sạch tấm
lòng của mình. Nhìn này, mình khám phá ra rằng ngày xưa trong Kinh Thánh cái chổi được làm
từ những cây rơm bó lại với nhau. Các bạn biết không, giống như một cọng rơm không thể làm
gì được nhưng khi chúng được bó lại với nhau thì thật sự rất chắc. Cái chổi được ví như Kinh
Thánh. Ý mình nói là giống như Chúa Giê-xu quét sạch trong tấm lòng của mình, phải không?
Ngài dùng gì để tẩy sạch chúng ta? Kinh Thánh phải không? Kinh Thánh cũng được hình thành
từ nhiều sách khác nhau, sáu mươi sáu sách. Rồi chúng được bó lại với nhau để chúng chắc chắn.
Chúa Giê-xu tẩy sạch tấm lòng của chúng ta bằng Kinh thánh.. Tuyệt vời nhỉ?”
Bạn thấy chị Quý cung cấp cho bạn những kiến thức sâu sắc không? Bạn có muốn
thấy một điều gì đó thật sự sâu sắc và thiêng liêng không? Bạn đọc trong Kinh Thánh nhưng
chẳng thấy điều gì sâu sắc và thiêng liêng về ngôi nhà hay người phụ nữ hay đồng tiền. Bạn thấy
mình bối rối. Phải chăng ngôi nhà chỉ về tất cả những thứ đó không? Nó có thể là thế gian, hội
thánh sa ngã hay tấm lòng của chúng ta chăng? Bạn tự hỏi cái nào trong số ý nghĩa này Chúa
91
Giê-xu đang chủ ý muốn nói đến. Bạn có nên chọn một trong số những ý nghĩa này chăng? Bạn
nghĩ rằng chị Quý nói có nhiều ý nghĩa. Bạn đang cố gắng nhớ lại cái nào là của chị.
Thiêng Liêng Hóa
Bạn có thấy tính vỏ đoán trong việc giải kinh khác nhau trong câu chuyện trên không?
Những thành viên trong nhóm học Kinh Thánh cảm thấy tự do phát triển bất cứ ý nghĩa nào mà
họ khám phá. Không có ai quan tâm đến việc xác định ý nghĩa mà Chúa Giê-xu muốn nói đến
khi Ngài phán những lời này hay Lu-ca chủ ý khi ông viết đoạn này dưới sự hướng dẫn của Chúa
Thánh Linh.
Hơn nữa, chẳng ai trong nhóm để ý đến bối cảnh của câu chuyện. Ví dụ câu chuyện
trước đó nói về ẩn dụ của người chăn chiên mất một con chiên. Ông để chín mươi chín con kia ở
lại và đi tìm cho đến kỳ được con chiên bị mất. Khi tìm được rồi ông vui mừng vác nó trên vai.
Phân đoạn tiếp sau đó là ẩn dụ về đứa con lạc mất và người cha vui mừng khi đứa con lạc mất
trở về. Thật sự cả ba câu chuyện này đi với nhau và chúng cùng nói về niềm vui của Đức Chúa
Trời khi một người lạc mất trở về với đức tin và được cứu. Chúng cũng nhấn mạnh đến mối quan
tâm của Đức Chúa Trời trên những điều đã mất và cho thấy nỗ lực tìm và phục hồi những gì đã
mất. Thật sự câu cuối trong câu chuyện về người phụ nữ và đồng tiền nó rõ rằng: “Ta nói cùng
các ngươi, trước mặt thiên sứ của Đức Chúa Trời cũng như vậy, sẽ mừng rỡ cho một kẻ có tội ăn
năn”.
Do đó, Chúa Giê-xu không dùng ngôi nhà để chỉ về bất cứ điều gì riêng biệt trong đời
sống của chúng ta. Ngài đơn giản chỉ làm phép so sánh. Người phụ nữ cố tìm đồng tiền vì đồng
tiền quan trọng với bà. Đức Chúa Trời cũng cảm thấy giống như vậy. Người phụ nữ nỗ lực để
tìm đồng tiền. Cũng vậy, Đức Chúa Trời cũng nỗ lực để đem bạn và tôi vào vương quốc của
Ngài. Cuối cùng, bà vui mừng sau khi tìm được đồng tiền. Đức Chúa Trời cũng vui mừng sau
khi Ngài “gặp” và phục hồi chúng ta. Đây dường như là ý nghĩa chủ ý của tác giả. Hãy nhớ
những bài học trong chương trước. Chúng ta không tìm cách tạo ra ý nghĩa, nhưng chúng ta tìm
cách để khám phá ý nghĩa đã có sẵn trong đó.
Tuy nhiên những sinh viên này bỏ qua ý nghĩa rõ ràng của bản văn này vì họ muốn
khám phá một ý nghĩa sâu,”thuộc linh”. Mong muốn tìm ý nghĩa sâu hơn khiến họ bỏ qua ý
nghĩa thật mà Lu-ca (và Đức Thánh Linh) chủ ý. Do đó, khi tìm ý nghĩa thuộc linh, họ đánh mất
những gì Đức Thánh Linh đang phán thông qua bản văn! Đấng Christ tìm những người lạc mất
và vui mừng khi Ngài tìm được họ. Đây là ý nghĩa thuộc linh. Tuy nhiên, ý nghĩa này được
truyền đạt qua những công cụ văn chương thông thường (ngữ pháp, bối cảnh…). Ý nghĩa đó
không phải được tạo ra qua sự tưởng tượng của con người. Kinh Thánh là quyển sách thuộc linh
liên quan đến những vấn đề thuộc linh. Chúng ta không cần phải thuộc linh hóa nó bằng trí tưởng
tượng của mình.
92
Hơn nữa, khi chúng ta cố gắng tìm một ý nghĩa sâu hơn, “siêu thuộc linh”, chúng ta
thường thấy mình đang đi theo hướng phản ứng của độc giả. Tức là độc giả là người xác định ý
nghĩa hơn là bản văn. Vì quá mong muốn tìm ý nghĩa siêu thuộc linh, chúng ta thường đánh mất
hoàn toàn thông điệp mà Đức Chúa Trời đã chủ ý cho chúng ta.
Thông thường khi thảo luận về giải kinh, có một lưỡng phân giữa nghĩa đen và nghĩa
thiêng liêng. Thỉnh thoảng, độc giả được khuyên là nên tìm nghĩa đen chứ không phải nghĩa
thiêng liêng. Chúng ta thường không thấy thỏa mái với lưỡng phân này. Thật sự, chúng ta nghĩ
rằng từ nghĩa đen (literal) làm cho mình nhầm lẫn hơn là làm rõ. Nhiều người dùng từ giải nghĩa
theo nghĩa đen để nhấn mạnh rằng họ tin những chi tiết lịch sử thật sự của Kinh Thánh, đặc biệt
là các phép lạ. Chúng ta dĩ nhiên khẳng định tính lịch sử của Kinh Thánh, gồm những phép lạ.
Nhưng chúng tôi nghĩ rằng từ nghĩa đen hơi mù mờ. Như chúng ta đã đề cập ở trên, Kinh Thánh
đầy những cách ngôn và ngôn ngữ hình bóng. Việc xác định ý nghĩa phải đặc biệt được chú ý.
Những hình ảnh, biểu tượng phản ánh một cách dùng ngôn ngữ phi nghĩa đen.
Dầu vậy, chúng tôi vẫn thích dùng từ ý nghĩa đen. Nghĩa đen nói đến ý nghĩa mà tác
giả đã đặt trong bản văn. Nó phản ánh loại văn chương được dùng, bối cảnh lịch sử, ngữ pháp, ý
nghĩa từ - căn bản là mọi thứ chúng ta đã học. Nghĩa đen này không thay thế nghĩa thiêng liêng.
Vì Kinh Thánh căn bản là về Đức Chúa Trời và mối quan hệ của Ngài với chúng ta, nên nghĩa
đen này cũng sẽ mang một nghĩa thiêng liêng nữa. Nói cách khác, lưỡng phân này không phải
giữa nghĩa đen và nghĩa thiêng liêng. Lưỡng phân là giữa ý nghĩa mà tác giả chủ ý với ý nghĩa
một độc giả đặt vào bản văn. “Thiêng liêng hóa” dựa trên độc giả này là một sự nguy hiểm. Việc
“thiêng liêng hóa” như vậy xảy ra khi chúng ta “khám phá” những ý nghĩa sâu, bí mật mà tác giả
không bao giờ chủ ý. Loại “thiêng liêng hóa” này không dựa trên bản văn hay Thánh Linh của
Đức Chúa Trời. Đó là sản phẩm của trí tưởng tượng của chúng ta. Do đó, câu hỏi đặt ra là phải
chăng chúng ta tìm ý nghĩa đen do tác giả chủ ý và được linh cảm bởi Đức Thánh Linh hay là ý
nghĩa do trí tưởng tượng của con người tạo ra.
Phúng Dụ
Thảo luận về sự khác nhau giữa ý nghĩa “thiêng liêng” và nghĩa đen quay lại vài thế
kỷ đầu sau Đấng Christ. Nhiều học giả Cơ Đốc đầu tiên cảm thấy rằng Cựu Ước chỉ thích hợp
nếu nó nói trực tiếp về Đấng Christ. Do đó, họ phát triển một hệ thống giải nghĩa công nhận
nghĩa đen của bản văn, nhưng khuyến khích người giải kinh tìm ý nghĩa thuộc linh sâu hơn, đầy
đủ hơn và thiêng liêng hơn bên dưới bề mặt của bản văn. Thực tế, một số học giả ủng hộ hệ
thống hai-cấp độ (đen và thiêng liêng), trong khi những người khác mở rộng nó vào hệ thống
nhiều-cấp độ - có thể là ba (ứng với thân thể, linh hồn và tâm linh) hay bốn (nghĩa đen, nghĩa
bóng, đạo đức và tương đương).
Ví dụ, hệ thống bốn chiều sẽ thấy bốn mức độ ý nghĩa cho thành Giê-ru-sa-lem: (1)
đen: dân Y-sơ-ra-ên / Giê-bu-sít thật sự; (2) bóng: Hội thánh của Đấng Christ; (3) đạo đức: linh
93
hồn của một con người; và (4) tương đương: thành phố trên trời của Đức Chúa Trời. Vào thế kỷ
thứ tư, hướng giải kinh này rất phổ biến giữa vòng nhiều học giả của Hội Thánh. Giải nghĩa theo
nghĩa bóng trở nên cách bình thường đển đọc Cựu Ước. Phong cách giải kinh này cũng tồn tại
cho đến thời Cải Chánh (thế kỷ thứ mười sáu) khi những nhà cải chánh (chủ yếu là Calvin và
Luther) dẫn Hội Thánh Tin Lành ra khỏi hướng nghĩa bóng.
Mặc dù những nhà cải chính thỉnh thoảng cũng dùng giải nghĩa theo nghĩa bóng, nói
chung họ dẫn Hội Thánh trở lại với bối cảnh văn chương của Kinh Thánh để xác định ý nghĩa.
Các học giả tin lành hiện nay cũng đã tiếp bước các nhà cải cách và nỗ lực cảnh báo hội thánh
chống lại cách giải nghĩa theo nghĩa bóng. Đây là cách giải nghĩa dựa vào trí tưởng tượng mình
nhiều hơn là dựa trên bản văn. Dầu vậy, giải kinh theo nghĩa bóng vẫn được một số diễn giả nổi
tiếng sử dụng trong suốt thế kỷ thứ hai mươi với nhiều hình thức khác nhau. Một khi tác giả
không thể điều khiển được ý nghĩa nữa, nhiều độc giả sẽ tự động thiêng liêng hóa bản văn lên
theo trí tưởng tượng theo nghĩa bóng của mình.
Phúng dụ có nghĩa là gì? Một phúng dụ là một câu chuyện dùng một số biểu tượng.
Nó tương tự như một ẩn dụ nhưng nhìn chung có một mức độ tương xứng cao hơn – tức là hầu
hết, hay nhiều chi tiết trong câu chuyện đại diện cho một điều gì đó hay mang một sắc thái ý
nghĩa riêng biệt nào đó. Phúng dụ là một thuật văn chương. Thỉnh thoảng nguyên một sách dùng
thuật phúng dụ để chuyển tải sứ điệp của nó. Thiên Lộ Lịch Trình là một sách như vậy. Do đó,
khi một người đọc Thiên Lộ Lịch Trình thì phải đọc nó theo cách phúng dụ chứ không phải như
lịch sử hay tiểu thuyết lịch sử.
Kinh Thánh thỉnh thoảng cũng dùng phúng dụ. Ê -sai 5:1-7 là một phúng dụ. Hãy đọc
phân đoạn này và để ý đến cách dùng phúng dụ:
1 Ta sẽ hát cho bạn rất yêu dấu ta một bài ca của bạn yêu dấu ta về việc vườn nho
người. Bạn rất yêu dấu ta có một vườn nho ở trên gò đất tốt. 2 Người khai phá ra; cất
bỏ những đá; trồng những gốc nho xinh tốt; dựng một cái tháp giữa vườn, và đào một
nơi ép rượu. Vả, người mong rằng sẽ sanh trái nho; nhưng nó lại sanh trái nho hoang. 3
Hỡi dân ở Giê-ru-sa-lem cùng người Giu-đa, vậy thì bây giờ ta xin các ngươi hãy đoán
xét giữa ta với vườn nho ta. 4 Có điều chi nên làm cho vườn nho ta mà ta không làm
cho nó chăng? Cớ sao khi ta mong sanh trái nho, thì nó lại sanh trái nho hoang vậy? 5
Nầy, ta sẽ bảo các ngươi về điều ta định làm cho vườn nho ta: Ta phá rào, nó sẽ bị cắn
nuốt; ta hạ tường xuống, nó sẽ bị giày đạp. 6 Ta sẽ để nó hoang loạn, chẳng tỉa sửa,
chẳng vun xới; nhưng tại đó sẽ mọc lên những gai gốc và chà chuôm; ta lại truyền cho
mây đừng làm mưa xuống trên nó nữa. 7 Vả, vườn nho của Đức Giê-hô-va vạn quân,
ấy là nhà Y-sơ-ra-ên, và những người của Giu-đa tức là cây mà Ngài ưa thích. Ngài
trông họ được công chánh, mà nầy, có sự bạo ngược; trông được công bình, mà nầy, có
tiếng kêu la.
94
Ê -sai giảng sứ điệp này cho dân Y-sơ-ra-ên để cảnh cáo họ rằng Đức Chúa Trời sẽ
đoán phạt họ vì thiếu công bằng và công bình. Ê -sai sử dụng một ẩn dụ với nhiều yếu tố tương
xứng. Trong câu 7, chính Ê -sai nhận diện ý nghĩa của phúng dụ và cho chúng biết yếu tố tương
ứng là gì. Đức Chúa Trời là chủ của vườn nho. Dân Y-sơ-ra-ên là vườn nho. Trái nho tốt. Những
trái nho tốt mà người chủ cố tìm nhưng không thấy là sự công bằng.
Do đó, phúng dụ không phải là điều xấu; nó chỉ là một công cụ văn chương khác
thỉnh thoảng được dùng trong Kinh Thánh để chuyển tải một sứ điệp theo một cách sặc sỡ hơn.
Dầu vậy, giải kinh theo phúng dụ là một phương pháp giải nghĩa hoàn toàn khác với phúng dụ và
nó sẽ dẫn chúng ta đi sai lệch hoàn toàn nếu chúng ta dùng nó để giải nghĩa một phân đoạn
không phải là phúng dụ. Một vài phân đoạn Kinh Thánh là phúng dụ. Do đó, bạn sẽ tìm được vài
cơ hội để sử dụng nó. Đừng dùng nó với chỉ Cựu Ước! Đừng có thói quen “thuộc linh hóa” Cựu
Ước thông qua giải nghĩa theo nghĩa bóng. Luôn giữ ý nghĩa của bạn gắn liền với bối cảnh văn
chương và lịch sử-văn hóa. Dùng Hành Trình Giải Kinh để tìm đến ý nghĩa và áp dụng, không
phải đi theo hướng nghĩa bóng tưởng tượng.
Có lẽ vài minh họa về giải kinh theo nghĩa phúng dụ (nghĩa bóng) không thích hợp
sau đây sẽ giúp ích cho bạn.
Martin DeHaan đã giải nghĩa Sáng-thế Ký 2:18-25 như sau:
18 Giê-hô-va Đức Chúa Trời phán rằng: Loài người ở một mình thì không tốt; ta sẽ
làm nên một kẻ giúp đỡ giống như nó. 19 Giê-hô-va Đức Chúa Trời lấy đất nắn nên
các loài thú đồng, các loài chim trời, rồi dẫn đến trước mặt A-đam đặng thử xem người
đặt tên chúng nó làm sao, hầu cho tên nào A-đam đặt cho mỗi vật sống, đều thành tên
riêng cho nó. 20 A-đam đặt tên các loài súc vật, các loài chim trời cùng các loài thú
đồng; nhưng về phần A-đam, thì chẳng tìm được một ai giúp đỡ giống như mình hết.
21 Giê-hô-va Đức Chúa Trời làm cho A-đam ngủ mê, bèn lấy một xương sườn, rồi lấp
thịt thế vào. 22 Giê-hô-va Đức Chúa Trời dùng xương sườn đã lấy nơi A-đam làm nên
một người nữ, đưa đến cùng A-đam. 23 A-đam nói rằng: Người nầy là xương bởi
xương tôi, thịt bởi thịt tôi mà ra. Người nầy sẽ được gọi là người nữ, vì nó do nơi người
nam mà có. 24 Bởi vậy cho nên người nam sẽ lìa cha mẹ mà dính díu cùng vợ mình,
và cả hai sẽ trở nên một thịt. 25 Vả, A-đam và vợ, cả hai đều trần truồng, mà chẳng hổ
thẹn.
DeHaan đã giải nghĩa bóng (phúng dụ) như sau:
Trong khi A-đam ngủ, Đức Chúa Trời tạo một người vợ từ hông bị thương của ông.
Người này là phần của ông và ông phải trả giá là đổ huyết của mình để có được Ê-va….
Bây giờ, mọi thứ đều rõ ràng. A-đam là bức tranh về Chúa Giê-xu, đấng đã lìa nhà Cha
mình để sở hữu nàng dâu của Ngài bằng cái giá là chính sự sống của Ngài. Chúa Giê-
95
xu, A-đam cuối cùng, giống như người đầu tiên phải ngủ để mua nàng dâu của mình là
Hội Thánh. Rồi Chúa Giê-xu chết trên thập tự giá và ngủ trong phần mộ ba ngày ba
đêm, hông Ngài cũng mở ra sau khi Ngài ngủ và từ hông bị thương đó sự cứu chuộc đã
tuôn chảy.
DeHaan khá tưởng tượng khi liên hệ giữa phân đoạn này và cái chết của Đấng Christ.
Dầu DeHaan cố gắng đặt Chúa Giê-xu là trọng tâm của bài giảng của mình nhưng ông phải trả
giá là ông đánh mất ý nghĩa của đoạn Kinh thánh đó.
Trong tiến trình phúng dụ hóa (nghĩa bóng), sứ điệp thật sự của nó đã bị để lại phía
sau. Đoạn Kinh Thánh này là về Đức Chúa Trời ban đầu tạo một người phối ngẫu cho người đàn
ông cô đơn. Sứ điệp của tác giả cho dân Y-sơ-ra-ên là về món quà hôn nhân tuyệt diệu từ Đức
Chúa Trời. Vì dân Y-sơ-ra-ên sống trong một văn hóa mà đa thê là điều bình thường và người
phụ nữ không được đánh giá như một người phối ngẫu đúng nghĩa, nên sứ điệp về dự định của
Đức Chúa Trời ban đầu cho hôn nhân là để dạy dân Y-sơ-ra-ên về tiêu chuẩn hôn nhân của Đức
Chúa Trời. Sứ điệp đó phải được giảng vì đó vẫn là tin mừng cho người nam và nữ ngày hôm
nay. Nó cũng được Chúa Giê-xu khuyến khích khi Ngài dạy dựa trên phân đoạn này: “Cho nên,
loài người không được phân rẽ người mà Đức Chúa Trời đã kết hiệp” (Mác 10:9).
Do đó, vì cố tìm một ý nghĩa sâu và “thuộc linh” trong Sáng Thế Ký 2 nên DeHaan
đã bỏ qua bối cảnh của đoạn này và đánh mất một lời dạy quan trọng về hôn nhân. Sứ điệp của
Đức Chúa Trời cho chúng ta về hôn nhân là môt sứ điệp thiêng liêng, và chúng ta không cần phải
tìm những liên kết trong trí tưởng tượng của chúng ta với sự chết của Đấng Christ để làm cho
phân đoạn này thích hợp. Mọi điều DeHaan nói về tầm quan trọng của Đấng Christ và sự chết
của Ngài là đúng. Đấng Christ đã chết vì nàng dâu của Ngài, là Hội Thánh và sự cứu chuộc chảy
ra từ hông Ngài. Tuy nhiên chỉ vì một người hiểu tầm quan trọng về sự chết của Đấng Christ
không có nghĩa là người đó hiểu được Sáng Thế Ký 2. Chúng ta không định giá giải nghĩa của
Sáng Thế Ký 2 chỉ dựa trên căn bản của thần học Tân Ước đúng đắn. Chúng ta định giá nó trên
căn bản phải chăng chúng ta có bằng chứng rằng đó là là ý nghĩa chủ ý mà Đức Thánh Linh đã
đặt trong phân đoạn đó. “Chúa Giê-xu đã chết trên thập tự giá để cứu tội nhân giống như tôi” là
một lẽ thật Thánh kinh quan trọng. Nhưng không phải tất cả đoạn Kinh thánh Cựu Ước đều nói
về điều đó.
Hình Bóng
Nhiều đoạn trong Cựu Ước mô tả những thứ hình bóng cho những gì Đấng Christ
ứng nghiệm. Ví dụ cả hệ thống tế lễ của dân Y-sơ-ra-ên là hình bóng về của tế lễ của Đấng
Christ. Như sách Hê-bơ-rơ cho chúng ta biết, Đấng Christ là của lễ tối cao, loại bỏ vĩnh viễn nhu
cầu cho bất cứ của lễ nào khác. Tuy nhiên, để thấy được hệ thống tế lễ trong Cựu Ước tổng thể là
một hình bóng về của tế lễ của Đấng Christ khác xa với việc giải nghĩa mọi khía cạnh của hệ
thống tế lễ theo nghĩa bóng. Hệ thống tế lễ liên quan đến bồ câu, dê, bò, lúa mì, tro, khói, lửa,
dao và nhiều thứ khác. Giải nghĩa theo nghĩa bóng (phúng dụ) trình bày tầm quan trọng của
96
Đấng Christ trên từng chi tiết một. Ngược lại ý niệm về hình bóng nó đến sự liên kết tổng thể
(cái chết, huyết, không vít…) và không giải thích từng chi tiết một.
Hơn nữa, hầu hết các hình bóng về Đấng Christ được nhận thấy trong Tân Ước. Do
đó, chúng ta cần dựa vào sự hướng dẫn của Tân Ước để giúp chúng ta nhận ra được phải chăng
một đoạn Kinh Thánh là hình bóng về Đấng Christ hay không. Chúng ta đang nỗ lực để xác định
được ý nghĩa mà Chúa đã đặt trong phân đoạn Kinh Thánh. Chúng ta không được tìm cách tạo ra
ý nghĩa cũng không nên cố gắng tìm những nối kết ẩn mà chưa có ai từng nhìn thấy trước đó. Do
đó, chúng tôi khuyên bạn nên dùng Tân ước như là một kim chỉ nam để xác định được những
phân đoạn hình bóng trong Cựu Ước. Đừng gắng ép Đấng Christ vào từng phân đoạn như những
nhà giải kinh phúng dụ làm.
Do đó, chúng ta xem thể hình bóng có tính chất tiên tri – một sự kiện hay con người
lịch sử trong Cựu Ước phục vụ như là một hình ảnh tiên tri của một sự kiện hay con người trong
Tân ước. Dầu vậy, điều quan trọng là ý nghĩa tiên tri này phải là một ý nghĩa được tác giả thiêng
thượng chủ ý. Do đó, sự nhận diện phải nằm trong Kinh Thánh, không phải chỉ tưởng tượng của
chúng ta. Hơn nữa, chúng tôi không cho rằng tác giả con người luôn luôn nhận thức về sự ứng
nghiệm hoàn toàn sẽ đến mặc dù chúng ta công nhận rằng có nhiều bất đồng giữa các học giả ở
điểm này.
Thi thiên 22 cung cấp cho chúng ta một ví dụ về hình bóng rất hay. Dầu Đa-vít viết
Thi thiên này khoảng một nghìn năm trước sự đến của Đấng Christ, nhưng để ý sự tương xứng
giữa những câu được chọn bên dưới và sự đau khổ của Đấng Christ trên thập tự giá.
1 Đức Chúa Trời tôi ôi! Đức Chúa Trời tôi ôi! sao Ngài lìa bỏ tôi? Nhân sao Ngài
đứng xa, không giúp đỡ tôi, và chẳng nghe lời rên siếc tôi? 7 Hễ kẻ nào thấy tôi đều
nhạo cười tôi. Trề môi, lắc đầu, mà rằng: 8 Người phú thác mình cho Đức Giê-hô-va,
Ngài khá giải cứu người; Ngài khá giải cứu người, vì Ngài yêu mến người! 9 Phải, ấy
là Chúa rút tôi khỏi lòng mẹ, Khiến tôi tin cậy khi nằm trên vú của mẹ tôi. 10 Từ trong
tử cung tôi đã được giao cho Chúa; Chúa là Đức Chúa Trời tôi từ khi tôi lọt lòng mẹ.
11 Xin chớ đứng xa tôi, vì sự gian truân hầu gần, Chẳng có ai tiếp cứu cho. 12 Có
nhiều bò đực bao quanh tôi, Những bò đực hung mạnh của Ba-san vây phủ tôi. 13
Chúng nó hả miệng ra cùng tôi, Khác nào sư tử hay cắn xé và gầm hét. 14 Tôi bị đổ ra
như nước, Các xương cốt tôi đều rời rã; Trái tim tôi như sáp, Tan ra trong mình tôi. 15
Sức lực tôi khô như miếng gốm, Và lưỡi tôi dính nơi ổ gà; Chúa đã để tôi nằm trong
bụi tro sự chết. 16 Vì những chó bao quanh tôi, Một lũ hung ác vây phủ tôi; Chúng nó
đâm lủng tay và chân tôi; 17 Tôi đếm được các xương tôi. Chúng nó xem và ngó chân
tôi; 18 Chúng nó chia nhau áo xống tôi, Bắt thăm về áo dài tôi.
97
Đa-vít rõ ràng viết thi thiên này trong một thời điểm đau khổ của cuộc đời ông.
Chúng ta không nghĩ rằng Đa-vít có thật sự nhìn thấy được sự đóng đinh của Đấng Christ trong
tương lai. Chúng ta tin rằng Đức Thánh Linh hướng dẫn ông trong việc chọn lời khi ông viết thi
thiên đau khổ này. Đa-vít dùng cách ngôn (trong bản Hê-bơ-rơ) để mô tả sự đau khổ thể xác của
mình. Do đó, lời mô tả của ông trong Thi thiên 22 là môt bức tranh trừu tượng về một thời kỳ
đau khổ thật sự trong đời sống của ông. Tuy nhiên, Chúa Giê-xu mang nhiều khía cạnh của thi
thiên này trên thập tự giá. Hơn nữa trong trường hợp của Ngài, ngôn ngữ có khuynh hướng mô
tả sự đau khổ của Ngài theo nghĩa đen hơn là nghĩa bóng.
Chúng ta thấy những yếu tố tiên tri rõ ràng trong Thi thiên 22 liên quan đến thập tự
giá. Sự đau khổ của Đa-vít trong thi thiên này là loại hình đau khổ của Đấng Christ trên thập tự
giá. Sự mô tả bóng về sự đau khổ của Đa-vít tìm được sự ứng nghiệm thật trong sự đau khổ của
Đấng Christ. Dĩ nhiên, điều xác quyết cho liên kết hình bóng này là việc Chúa Giê-xu trích Thi
thiên 22 trên thập tự giá (Mat. 27:46; Mác 15:34) và Giăng nói rõ rằng khi những người lính La-
mã bốc thăm áo của Chúa Giê-xu, họ làm ứng nghiệm Thi thiên 22:18. Do đó, Tân ước hướng
dẫn chúng ta đến sự thật rằng Thi thiên 22 được ứng nghiệm trong sự chết của Đấng Christ. Vì
nó cũng áp dụng cho hoàn cảnh lịch sử trong cuộc đời Đa-vít nên chúng ta phân loại thi thiên
này thuộc dạng hình bóng.
Theo ý của chúng tôi, một đoạn Kinh Thánh Cựu ước thường không thể được xác
nhận là hình bóng nếu Tân ước không nhận nó là như vậy. Do đó, trong khi những phân đoạn
Cựu ước khác có thể mang vài điểm tương tự với thực tế Tân ước nhưng chúng không thể được
xếp vào lọai hình bóng nếu Tân Ước không xác định ứng nghiệm của nó.
Kết Luận
Chúng ta hãy cùng trở lại với câu hỏi ban đầu: “Kinh Thánh có nhiều mức độ ý nghĩa
khác nhau không?” Chúng tôi tin là không có. Có một mức độ ý nghĩa – một ý nghĩa gắn kết với
bối cảnh lịch sử-văn hóa và văn chương. Ý nghĩa này bao gồm ý nghĩa của nó cho độc giả Kinh
thánh và những nguyên tắc thần học đằng sau ý nghĩa đó. Có thể có những khía cạnh khác nhau
của một bản văn và ngay cả nhiều nguyên tắc đằng sau những khía cạnh đó. Nhưng không có
những ý nghĩa sâu, “thuộc linh” được giấu kín trong bản văn mà không liên hệ với bối cảnh lịch
sử-văn hóa và văn chương.
Hình bóng là một hình thức duy nhất được ngoại lệ. Tuy nhiên, mặc dầu chúng ta
khẳng định khía cạnh tiên tri của thể hình bóng, chúng tôi không tin thể hình bóng mở cửa cho
việc tạo nên những mức độ ý nghĩa khác, phi lịch sử và “thuộc linh”. Hơn nữa hình bóng trong
Cựu ước bị giới hạn với những điều được nhận thấy trong Tân ước. Nó không phải là một điều gì
có thể tìm thấy hay tạo ra bằng sự thông minh của mình. Tương tự, giải kinh theo nghĩa bóng hay
phúng dụ không phải là cách tốt.
98
Chúng tôi muốn khuyến khích bạn trong chương này nên tránh cám dỗ của việc
thiêng liêng hóa hay phúng dụ hóa. Cố tìm ý nghĩa trong bối cảnh văn chương và lịch sử của
phân đoạn Kinh thánh đó. Dùng Hành Trình Giải Kinh để giải nghĩa Kinh Thánh. Trong suốt
khóa học này, chúng tôi sẽ cố hết sức giúp cho các bạn những kỹ năng để đào sâu Kinh Thánh –
những kỹ năng sẽ giúp bạn năm lấy được Lời của Đức Chúa Trời cho cuộc đời của bạn. Chúng
tôi muốn bạn tìm thấy ý nghĩa thuộc linh, nhưng ý nghĩa thuộc linh đó phải nằm trong bản văn,
không phải ý nghĩa mà con người đặt vào trong bản văn.
Vai trò của Đức Thánh Linh trong tất cả điều này là gì? Đức Thánh Linh có thể dẫn
chúng ta vào một ý nghĩa sâu hơn và thiêng liêng hơn ở bên ngoài bản văn không? Chương tiếp
theo sẽ giúp giải đáp những thắc mắc trên.
99
Chương 11
Vai Trò Của Đức Thánh Linh
Lời Giới Thiệu
Bạn đã từng chơi một loại nhạc cụ nào chưa – piano, kèn, hay ghi ta? Học chơi một
nhạc cụ phải tốn nhiều thời gian để nắm bắt được những căn bản. Bạn học những nốt đang nằm ở
đâu và làm sao chơi chúng cho chính xác. Bạn tập luyện nhiều lần cho đến khi bạn nắm được nó.
Khi chơi piano, thực tập với cây đàn nhiều sẽ giúp bạn thành thạo hơn là chỉ ngồi đọc bản nhạc
hay vị trí tay. Đến một lúc, bạn không còn quan tâm đến vị trí tay nữa nhưng nó là điều tự nhiên
và giai điệu bắt đầu cất cao với dòng cảm hứng dạt dào. Tương tự như vậy, khi chúng ta nói về
vai trò của Đức Thánh Linh trong việc giải kinh, chúng ta chuyển từ việc phụ thuộc vào kỹ thuật
và máy móc để đến bản chất linh hoạt của một mối quan hệ. Đức Chúa Trời ban cho chúng ta lời
của Ngài để tương giao với chúng ta; Ngài ban cho chúng ta Thánh Linh của Ngài để giúp chúng
ta hiểu được những gì Ngài phán.
Mục đích của chúng tôi trong sách này là để giúp bạn biết cách khám phá ý nghĩa của
bản kinh văn và áp dụng ý nghĩa đó vào đời sống của bạn. Chúng ta đã dành nhiều thời gian nói
về phương pháp, bước đi, tiến trình và những điều tương tự. Chúng tôi cũng khuyến khích bạn
phân tích từ, câu, phân đoạn và đoạn. Chúng tôi nhấn mạnh việc suy nghĩ, đào và tìm. Một số
bạn có lẽ sẽ hỏi: “Đó là tất cả của việc học Kinh Thánh sao? Mối quan hệ của tôi với Kinh Thánh
được rút ngắn lại bằng những bước giải kinh thế này sao?” Chúa Giê-xu trong Giăng 16:13 phán
rằng Đức Thánh Linh sẽ “dẫn ngươi vào mọi lẽ thật”. Một câu hỏi khác là: “Nếu chúng ta có
Đức Thánh Linh thì tại sao chúng ta cần những tiến trình giải kinh?” Vậy thì, vai trò của Đức
Thánh Linh trong việc giải kinh là gì? Đây là điều mà chương này sẽ trình bày.
Đức Thánh Linh là Tác Giả Thiêng Liêng
Như đã đề cập trong chương 10, khi chúng ta nói về tác giả của Kinh Thánh, chúng ta
nói về cả tác giả con người và Tác giả thiêng liêng. Từ linh cảm nói đến công việc của Đức
Thánh Linh trong đời sống của những tác giả con người của Kinh Thánh nhờ đó mà họ viết theo
điều Đức Chúa Trời muốn họ chuyển tải (tức là Lời của Đức Chúa Trời). Trong II Ti-mô-thê
3:16-17, sứ đồ Phao-lô nói rằng “cả Kinh thánh đều là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn, có ích cho sự
dạy dỗ, bẻ trách, sửa trị và dạy người trong sự công bình hầu cho người thuộc về Đức Chúa Trời
được trọn vẹn và sắm sẵn để làm mọi việc lành.” Thánh Linh của Đức Chúa Trời hà tính cách
của Đức Chúa Trời vào Kinh Thánh.
100
Từ “linh cảm” (theopneustos) trong tiếng Hy-lạp có liên hệ tới “linh” (pneuma). Kinh
Thánh có uy quyền và năng lực để uốn nắn đời sống của chúng ta vì nó đến từ chính Đức Chúa
Trời. Chúng ta nắm lấy uy quyền của Kinh Thánh vì nó được linh cảm. Câu nói của Phao-lô
trong II Ti-mô-thê cũng nhắc chúng ta rằng Đức Thánh Linh và Kinh Thánh đi với nhau – Lời
của Đức Chúa Trời xuất phát từ Thánh Linh của Đức Chúa Trời.
Công việc mặc khải của Đức Thánh Linh đã hoàn tất nhưng công việc giúp tín hữu
hiểu và nhận lãnh lẽ thật của Kinh Thánh của Ngài vẫn còn tiếp diễn. Các nhà thần học dùng từ
soi sáng để nói đến công việc tiếp diễn này của Đức Thánh Linh. Vào đêm trước khi Chúa chịu
đóng đinh, Ngài hứa với những người theo Ngài rằng Đức Thánh Linh sẽ hướng dẫn họ vào mọi
lẽ thật:
12 Ta còn có nhiều chuyện nói với các ngươi nữa; nhưng bây giờ những điều đó cao
quá sức các ngươi. 13 Lúc nào Thần lẽ thật sẽ đến, thì Ngài dẫn các ngươi vào mọi lẽ
thật; vì Ngài không nói tự mình, nhưng nói mọi điều mình đã nghe, và tỏ bày cho các
ngươi những sự sẽ đến. 14 Ấy chính Ngài sẽ làm sáng danh ta, vì Ngài sẽ lấy điều
thuộc về ta mà rao bảo cho các ngươi. (Giăng 16:12-14).
Chú ý đến cách Chúa Giê-xu nhấn mạnh rằng công việc của Chúa Thánh Linh có liên
hệ trực tiếp đến lời dạy của Chúa Giê-xu (tức là Lời của Đức Chúa Trời),
Vì công việc linh cảm và soi dẫn của Đức Thánh Linh, chúng ta biết rằng Đức Thánh
Linh và Lời cùng hành động với nhau và không bao giờ tách rời nhau. Vì Đức Thánh Linh linh
cảm Kinh Thánh trong lần đầu nên chúng ta sẽ không sợ Ngài mâu thuẩn chính Ngài trong sự soi
dẫn. Điều này có nghĩa là chúng ta không được phép để kinh nghiệm cá nhân, truyền thống tôn
giáo hay cảm nhận cộng đồng đứng trên Lời được linh cảm của Đức Chúa Trời. Đức Thánh Linh
không thêm ý nghĩa mới vào bản kinh văn nhưng Ngài giúp đỡ người tin hiểu và áp dụng ý nghĩa
mà Ngài đã đặt ở trong đó.
Chúng Ta Có Thể Hiểu Được Lời Của Đức Chúa Trời Mà Không Cần Đức Thánh Linh
Không?
Nhìn vai trò của Đức Thánh Linh trong việc giải kinh gợi lên thắc mắc rằng con
người có thể hiểu được lời của Đức Chúa Trời mà không cần đến Đức Thánh Linh được chăng?
Chúng ta có thể trả lời câu hỏi quan trọng này bằng nhiều cách khác nhau:
“Được”
Nếu người không tin dùng những phương pháp thích hợp họ có thể hiểu nhiều điều
trong Kinh Thánh (ví dụ, ý nghĩa của từ, luật ngữ pháp và tính hợp lý của phân đoạn Kinh
Thánh). Người có khả năng đọc văn chương một cách hiệu quả chắc chắn sẽ có thể nhận ra sự
đối lập hay một mạng lệnh hay một cách ngôn trong Kinh Thánh khi họ tìm thấy nó. Kinh thánh
101
không khẳng định rằng một người không tin thì không thể hiểu gì hết về nội dung lịch sử hay
ngữ pháp căn bản của nó. Con người có thể hiểu được ý nghĩa tối thiểu của Kinh Thánh.
“Được Nhưng Chỉ Ở Một Mức Độ”
Một người không có Thánh Linh có thể hiểu được ý nghĩa của một đoạn Kinh Thánh
không? Câu trả lời là “Có, nhưng chỉ ở một mức độ”. Chúng ta có thể nói rằng sự hiểu biết của
họ có giới hạn (tức là “chỉ ở một mức độ”) với ít nhất ba lý do.
(1) Tội lỗi đã tác dụng trên cả mọi người bao gồm tư tưởng của con người. Chúng tôi
không nói rằng tội lỗi ngăn trở chúng ta không thể nhận ra những ngữ giới từ hay những ký hiệu
văn chương. Tuy nhiên, chúng tôi tin rằng vì tội lỗi đã làm mù khả năng nhận biết lẽ thật thuộc
linh của Kinh Thánh.
(2) Khả năng hiểu ý nghĩa của một phân đoạn Kinh Thánh của một người không tin bị
giới hạn bởi những hiệu quả của giả định “vô tín” mà người đó đem đến bản văn.
Vì Đức Thánh Linh có vai trò quan trọng trong việc giúp những nhà giải kinh Cơ Đốc
giải quyết những giả định nên một người không có Thánh Linh sẽ bóp méo lẽ thật của Kinh
Thánh.
(3) Chúng ta nói rằng một người mà không có Thánh Linh có thể hiểu ý nghĩa một
đoạn Kinh Thánh “chỉ ở một mức độ” vì sự hiểu biết liên hệ đến nhiều hơn chỉ là nhận thông tin
bằng đầu óc. Hiểu biết ý nghĩa của một đoạn Kinh Thánh liên quan đến cả con người đó –tư
tưởng, cảm xúc, thân thể…. Rõ ràng những người vô tín không chấp nhận những điều này của
Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời.
“Không”
Những người không có Đức Thánh Linh sẽ chấp nhận lẽ thật của Kinh Thánh và áp
dụng nó vào đời sống của họ không? Chính Kinh Thánh nói “không”. Trong I Cô-rinh-tô 2:14,
sứ đồ Phao-lô nói rằng: “Vả, người có tánh xác thịt không nhận được những sự thuộc về Thánh
Linh của Đức Chúa Trời; bởi chưng người đó coi sự ấy như là sự dồ dại, và không có thể hiểu
được, vì phải xem xét cách thiêng liêng.” Phao-lô không có ý nói rằng người không có Thánh
Linh là không có tri thức để hiểu được những gì Kinh Thánh nói. Nhưng ý ông nói rằng người vô
tín có thể hiểu được sứ điệp căn bản của nó nhưng khước từ sứ điệp đó. Khi Phao-lô tiếp tục nói
rằng người không có Thánh Linh “không thể hiểu” những điều của Đức Chúa Trời, ông đang nói
đến một loại hiểu biết theo cá nhân, theo kinh nghiệm. Người không có Thánh Linh không biết
những điều thuộc về Đức Chúa Trời vì họ không kinh nghiệm những điều đó. Không có Thánh
Linh, họ sẽ không được thuyết phục về lẽ thật của nó và sẽ không áp dụng nó vào đời sống của
mình. Họ có thể nắm bắt được ý nghĩa của đoạn Kinh Thánh nhưng họ từ chối để đoạn Kinh
102
Thánh đó nắm lấy họ. Chúng ta không thể áp dụng Lời của Đức Chúa Trời mà không có sự giúp
sức của Đức Thánh Linh.
Bạn có thể nắm bắt được lời của Đức Chúa Trời mà không có Thánh Linh chăng?
Bây giờ bạn có thể thấy tại sao chúng tôi có ba câu trả lời khác nhau cho câu hỏi quan trọng này.
Khi giải kinh, Đức Thánh Linh đến hành động một ít trong sự hiểu biết chung, nhiều hơn trong
lĩnh vực nhận biết lẽ thật và nhiều nhất trong lĩnh vực áp dụng. Vì nhiều người trong các bạn có
Thánh Linh của Đức Chúa Trời sống trong các bạn nên chúng ta hãy chú ý đến vai trò của Đức
Thánh Linh trong đời sống của các bạn khi bạn giải nghĩa Kinh Thánh.
Đức Thánh Linh và Người Giải Kinh Cơ Đốc
Là một tín hữu, bạn mong đợi Đức Thánh Linh có thể làm gì và không làm gì cho bạn
khi bạn giải kinh? Chúng tôi muốn mô tả vài cách chính yếu mà Đức Thánh Linh hành động
trong mối quan hệ với Kinh Thánh.
1.a. Khi giải kinh, có Đức Thánh Linh không có nghĩa là Đức Thánh Linh làm tất cả
điều bạn cần làm. Đức Thánh Linh không vận hành việc giải kinh một cách tự động. Thoạt nhìn
thì quan sát này nghe có vẻ không thích hợp và phản cảm nhưng chúng tôi không có ý như vậy.
Có lẽ minh họa sau sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn. Khi một em bé học đi, nó thường
muốn cha mẹ mình giúp chúng có kinh nghiệm. Thường một người (cha hoặc mẹ) ngồi đối diện
với em bé, còn người kia thì bồng em bé đặt ở hướng tới người kia. Rồi người phía sau thả cho
em bé tự chạy tới người phía trước và người phía trước đưa tay ra đón. Sau vài lần tập như vậy
thì em bé có thể tự đi được. Sẽ như thế nào nếu em bé nghĩ “Vì có cha mẹ cháu ở đây nên em
không phải làm gì hết. Em không phải nhích chân này rồi chân kia rồi phải vấp ngã. Có cha, có
mẹ ở gần thì việc đi sẽ tự động đến”.
Mặc dầu minh họa này có phần phiến diện nhưng nhiều người lý giải giống như em
bé này khi nghĩ đến vai trò của Đức Thánh Linh trong việc giải kinh. Họ nói rằng: “Vì tôi là Cơ
Đốc Nhân và tôi có Đức Thánh Linh đang sống trong tôi nên tôi không cần phải làm gì để giải
nghĩa Kinh Thánh; nó sẽ tự động đến. Việc giải kinh không xảy ra theo cách như vậy. Có Đức
Thánh Linh trong đời sống mình không có nghĩa là Đức Thánh Linh làm tất cả cho sự giải kinh
của bạn.
b..Đức Thánh Linh mong chúng ta dùng tâm trí của chúng ta, những phương pháp
giải kinh thích hợp và những nghiên cứu tốt giúp chúng ta giải kinh chính xác. Việc linh cảm và
việc giải kinh có lối đi song song với nhau. Trong việc linh cảm, Thánh Linh hành động cùng với
con người và trong việc giải kinh, con người cũng tham gia nữa. Đức Chúa Trời ban cho chúng
ta tâm trí và mong chúng ta sử dụng nó để giải kinh. Ngài muốn chúng ta suy nghĩ rõ ràng và lý
giải sâu sắc. Ngài muốn chúng ta học Kinh Thánh một cách cần mẫn và trung tín. Vì Chúa tạo
dựng nên chúng ta để suy nghĩ nên việc học là “thiêng liêng” (tức là trong ý muốn của Đức
103
Thánh Linh). Chúng ta cũng có thể học được nhiều điều từ những tín hữu khác bằng những trợ
giúp tốt khác như từ điển Kinh Thánh, bản đồ Kinh Thánh, sách giải kinh….Là Đấng Giúp Sức,
Đức Thánh Linh muốn nắm tay của chúng ta và hướng dẫn chúng ta khi chúng ta học đi, nhưng
Ngài sẽ không đi thế cho chúng ta.
2.a.Đức Thánh Linh không tạo nên ý nghĩa mới hay cung cấp thông tin mới. Kinh
điển đã đóng. Điều này có nghĩa là chúng ta không nên mong Đức Thánh Linh thêm vào một
sách mới trong Kinh Thánh hay một điều gì mới trong sáu mươi sáu sách mà chúng ta đang có,
nhưng Ngài giúp chúng ta hiểu sâu hơn lẽ thật có sẵn trong đó. Tương tự, chúng ta không nên
mong đợi Đức Thánh Linh phán vào tai của chúng ta những kiến thức mới mà những người giải
kinh khác không biết.
b.Chúng ta có thể nương cậy vào Đức Thánh Linh giúp chúng ta nắm bắt được ý
nghĩa của Lời của Đức Chúa Trời. Đức Thánh Linh và Lời cùng hành động với nhau. Chắc chắn
điều này bao gồm khả năng áp dụng ý nghĩa của Kinh Thánh, nhưng nó cũng bao gồm khả năng
nhận biết thần học của một phân đoạn (điều mà chúng ta gọi là “nguyên tắc thần học”). Đức
Thánh Linh ban cho chúng ta “lỗ tai để nghe” điều Đức Chúa Trời đang phán với chúng ta trong
Lời của Ngài. Sự hiểu biết này có thể đến sau nhiều giờ học và đáp ứng hoặc nó có thể đến bất
ngờ. Cả hai cách này đều không đem đến sự mặc khải mới nhưng làm tươi mới sự hiểu biết ý
nghĩa của Kinh Thánh.
3. a. Đức Thánh Linh không thay đổi Kinh Thánh để thích hợp với mục đích của
chúng ta hay hoàn cảnh của chúng ta. Giữa môi trường linh hoạt này, chúng ta thường hay bị
cám dỗ để điều chỉnh ý nghĩa của Kinh thánh cho thích hợp với hoàn cảnh của chúng ta, mục
đích của chúng ta hay cảm giác của chúng ta. Nhiều khi chúng ta hay cảm thấy mình đang bỏ
qua hay vi phạm bối cảnh khi chúng ta quá muốn tìm một liên hệ của Kinh Thánh với hoàn cảnh
của chúng ta. Đặc biệt tân tín hữu thường rất dễ nhầm lẫn cảm giác của mình với tiếng phán của
Đức Thánh Linh. Nhưng chúng ta không thể mong đợi Đức Thánh Linh thay đổi ý nghĩa của
Kinh Thánh để thích ứng với cảm giác của chúng ta. Nhưng Đức Thánh Linh hành động cùng
với Lời để biến đổi cuộc đời của người giải kinh.
b. Đức Thánh Linh mang ý nghĩa của Kinh Thánh đặt trên độc giả. Có ba cách mà
Đức Thánh Linh hành động trong đời sống của người giải kinh. (1) Đức Thánh Linh xác quyết
cho chúng ta rằng Kinh Thánh được linh cảm thiêng liêng. Chúng ta tin rằng Kinh Thánh, Lời
của Đức Chúa Trời là nhờ công việc của Đức Thánh Linh. (2) Đức Thánh Linh hành động trong
tư tưởng của chúng ta để tỏ cho chúng ta ý nghĩa trọn vẹn của Kinh Thánh. Chúng ta hiểu rằng
một mạng lịnh thật sự là một mạng lịnh, một lời hứa thật sự là một lời hứa… và chúng ta được
ban cho quyền năng để nắm bắt tầm quan trọng của từng điều một. (3) Đức Thánh Linh hành
động trong lòng của chúng ta để chúng ta có thể nhận Lời của Đức Chúa Trời (áp dụng).
104
Cách cuối này liên hệ mật thiết với điều mà các nhà thần học gọi là tiến trình thánh
hóa – Đức Thánh Linh đang tiếp tục hành động để biến đổi tính cách của chúng ta trở nên giống
như tính cách của Đức Chúa Trời (Rô. 12:1-2). Bạn có bao giờ có cảm giác khi bạn học Kinh
Thánh là trong khi bạn đang giải nghĩa đoạn Kinh Thánh, thì chính đoạn Kinh Thánh đó cũng
giải nghĩa bạn chưa? Đó là công việc của Đức Thánh Linh. Công việc của Đức Thánh Linh trong
việc giải kinh không phải là thay đổi ý nghĩa nhưng để phục hồi chúng ta trở lại với ý nghĩa đó.
Được phục hồi lại với ý nghĩa là điều quan trọng vì sự trưởng thành thuộc linh của
chúng ta tác động đến khả năng nghe tiếng của Đức Thánh Linh (Tác giả thiêng liêng) trong
Kinh Thánh. Điều thường phân biệt một người giải kinh Cơ Đốc hiệu quả và người giải kinh Cơ
Đốc không hiệu quả nằm ở mức độ trưởng thành thuộc linh của người đó. Tín hữu sốt sắng
nhưng không trưởng thành là dạng tín hữu thông thường giải nghĩa cạn cợt. Người đó yêu Chúa
và hiểu tốt nhưng cách một tín hữu giải nghĩa Kinh Thánh xác định tín hữu đó trưởng thành hay
chưa. Sự trưởng thành thuộc linh bao gồm việc học cách lắng nghe Tác Giả thiêng liêng bằng
cách vâng phục Lời của Ngài.
Đức Thánh Linh thường dùng lời cầu nguyện và giờ tĩnh nguyện suy gẫm để khích lệ
sự trưởng thành thuộc linh. Nhiều lần Phao-lô khuyên các tín hữu trưởng thành trong sự hiểu biết
qua công việc của Đức Thánh Linh (vd. Phi-líp 1:9-11; Cô-lô-se 1:9-14). Chú ý đến mối quan hệ
giữa sự cầu nguyện, Đức Thánh Linh và sự hiểu biết trong Ê-phê-sô 1:17-19:
17 Tôi cầu Đức Chúa Trời của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, là Cha vinh hiển, ban
thần trí của sự khôn sáng và của sự tỏ ra cho anh em, để nhận biết Ngài, 18 lại soi sáng
con mắt của lòng anh em, hầu cho biết điều trông cậy về sự kêu gọi của Ngài là thể nào,
sự giàu có của cơ nghiệp vinh hiển Ngài cho các thánh đồ là làm sao, 19 và biết quyền
vô hạn của Ngài, đối với chúng ta có lòng tin, là lớn dường nào, y theo phép tối thượng
của năng lực mình,
Khi bạn ngồi với Kinh Thánh của mình và lắng nghe Chúa phán với mình bằng cả
tấm lòng tức là bạn đang đọc suy gẫm. Trọng tâm ít phân tích và nghiên cứu hơn nhưng quan
tâm đến mối quan hệ cá nhân, thân mật với Chúa. Trong những lúc đó, Đức Thánh Linh dùng
Lời để đổi mới linh hồn của bạn. Cả cầu nguyện và đọc tĩnh nguyện có mối liên hệ chặt chẽ với
sự suy gẫm Kinh Thánh. Đừng nghĩ rằng khi bạn cầm Kinh Thánh lên là bạn phải học sâu về từ
ngữ hay phải quan sát năm mươi chi tiết trong phân đoạn đó. Thỉnh thoảng bạn cần yên lặng,
bước vào trong sự hiện diện sống động của Đức Chúa Trời. Tại đó, bạn có thể ăn nuốt sâu Lời
của Ngài và đáp ứng với cả tấm lòng trong sự thờ phượng.
Tóm lại, khi chúng ta giải kinh, có Đức Thánh Linh không có nghĩa là Đức Thánh
Linh làm tất cả điều chúng ta cần vì Ngài sẽ không khiến cho việc giải kinh diễn ra tự động. Ngài
mong chúng ta sử dụng tâm trí của mình, những phương pháp giải kinh hợp lý và những trợ giúp
hữu ích khác. Đức Thánh Linh không tạo nên ý nghĩa mới hay là cung cấp thông tin mới nhưng
105
Ngài giúp chúng ta chấp nhận Kinh Thánh như là Lời của Đức Chúa Trời và nắm bắt được ý
nghĩa của nó. Đức Thánh Linh cũng sẽ không thay đổi Kinh Thánh để thích ứng với mục đích và
hoàn cảnh của chúng ta nhưng Ngài sẽ hành động trong đời sống của chúng ta, là người giải kinh.
Ngài phục hồi chúng ta theo ý nghĩa của Lời Ngài và giúp chúng ta trưởng thành thuộc linh để
chúng ta có thể nghe tiếng phán của Ngài trong Kinh Thánh rõ ràng hơn.
Kết Luận
Tiến trình và phương pháp giải kinh cần thiết để hiểu được Kinh Thánh luôn là điều
quan trọng. Không hề có khái niệm giải nghĩa tự động trong chúng ta. Chúng tôi không muốn
bạn hiểu rằng nắm được lời của Chúa chỉ liên quan đế một phương pháp áp dụng nhất định mà
thôi. Có một nguy hiểm thật sự là cố tình hiểu Tác Giả thiêng liêng qua tri thức. Công việc giải
kinh không đơn giản là một công việc tri thức, nó liên quan đến toàn thể của chúng ta và sự giúp
đỡ của Đức Thánh Linh. Do đó, sự chuẩn bị thuộc linh trở nên quan trọng cho việc nhận biết lẽ
thật của Kinh Thánh và nhận lẽ thật đó cho đời sống của mình.
Khi chúng ta thật sự nắm được Lời của Đức Chúa Trời, chúng ta vượt ra khỏi những
bước cứng nhắc để tương tác linh hoạt với Thánh Linh của Đức Chúa Trời. Chúng ta phải quăng
xa sự kiêu ngạo và lười biếng nhưng phải học tận tâm và vâng phục, không phải vì chúng ta yêu
thích việc học chỉ vì học nhưng vì chúng ta yêu Chúa. Không phải là một gánh nặng nữa nhưng
việc học Lời của Đức Chúa Trời trở thành một hành động thờ phượng vui thỏa khi chúng ta bước
vào một sự đối thoại thiêng thượng. Khi chúng ta học Kinh Thánh, hãy nhớ cầu nguyện xin Đức
Thánh Linh hành động trong lòng của bạn để bạn có lỗ tai để nghe điều Ngài đang phán.
106
Chương 12
Á p Dụng
Lời Giới Thiệu
Trong cuốn sách Áp Dụng Kinh Thánh, Jack Kuhatschek kể một câu chuyện lạ lùng
về một người biết Kinh Thánh của mình:
Khi đang học ở Đất Thánh, một giáo sư chủng viện của tôi gặp một người cho rằng
mình nhớ hết Cựu Ước – bằng tiếng Hy-bá-lai. Không cần nói, vị giáo sư này muốn kiểm chứng.
Vài ngày sau, họ ngồi với nhau trong nhà của người này. Người này hỏi: “Chúng ta sẽ bắt đầu từ
đâu?” Vị giáo sư trả lời: “từ Thi thiên 1”. Người này bắt đầu đọc vanh vách từ Thi Thiên 1 trở đi
bằng tiếng Hy-bá-lai mà không hề có chút lỗi nào trong vòng hai tiếng đồng hồ. Sau khi kiểm
chứng xong, vị giáo sư này mới phát hiện ra rằng người này là một người vô thần. Đây là người
biết Kinh Thánh giỏi hơn hầu hết những Cơ Đốc Nhân khác, nhưng ông không tin Đức Chúa
Trời.4
Người này chắc chắn biết Kinh Thánh – ngay cả bằng Tiếng Hy-bá-lai – nhưng
không thật sự hiểu được Lời của Đức Chúa Trời. Khi chúng ta nắm được Lời của Chúa, chúng ta
không chỉ hiểu ý nghĩa của nó mà cần phải đi một bước cuối là áp dụng ý nghĩa đó cho đời sống
của chúng ta. Chúa Giê-xu phán rõ ràng rằng: “Ai có các điều răn của ta và vâng giữ lấy, ấy đó là
kẻ yêu mến ta” (Giăng 14:21a). Tại đây chúng ta có công thức:
Có + vâng giữ = yêu
Chúng ta không thể áp dụng Kinh Thánh mà không biết ý nghĩa của nó, nhưng chúng
ta có thể biết Kinh Thánh mà không áp dụng nó. Chúng ta có thể đầu tư vào bối cảnh, phân tích
từ và ngay cả nhớ hết cả đoạn nhưng nếu chúng ta không hành động theo những gì chúng ta biết
thì chúng ta không thật sự nắm được Lời của Đức Chúa Trời. Chỉ kiến thức không là không đủ;
nó phải dẫn đến hành động.
Chúng ta bắt đầu Hành Trình Giải Kinh bằng cách khám phá ý nghĩa của đoạn kinh
văn trong thời của độc giả thời Kinh Thánh. Sau đó chúng ta đo chiều rộng của dòng sông khác
biệt và băng qua cây cầu nguyên tắc. Bây giờ là lúc chúng ta phải hỏi: “Làm sao chúng ta có thể
áp dụng ý nghĩa của đoạn Kinh Thánh vào đời sống hay hoàn cảnh của chúng ta?”
Luôn nhớ rằng có một sự khác biệt vô cùng lớn giữa việc biết cách áp dụng một đoạn
Kinh Thánh và thật sự áp dụng đoạn Kinh Thánh đó trong đời sống của bạn. Một khi bạn biết
4 Jack Kuhatschek, Applying the Bible (Grand Rapids: Zondervan, 1990), 15-16.
107
một đoạn Kinh Thánh có thể được áp dụng như thế nào rồi thì tùy bạn có vâng phục Thánh Linh
của Đức Chúa Trời và sống theo sự áp dụng đó. Ví dụ, trong Ê-phê-sô 4:26 dạy chúng ta không
giận cho đến khi mặt trời lặn. Chúng ta tìm thấy trong câu này, nguyên tắc thần học là giận phải
trong một khoảnh khắc ngắn thôi. Nếu cơn giận mà không được kiềm chế thì sẽ gây nên hậu quả
nghiêm trọng. Một áp dụng của nguyên tắc này là phải bảo đảm khi bạn giận với người vợ
(chồng) hay bạn cùng phòng thì phải giải quyết ngay (vd. Trước khi kết thúc một ngày).
Nhưng biết được nguyên tắc thần học và cách áp dụng nó không cùng nghĩa với việc
áp dụng vào cuộc đời của bạn. Chương này sẽ tập trung giúp bạn biết cách để áp dụng một đoạn
kinh văn. Còn việc áp dụng thật sự thì chính bạn phải thực hiện khi bạn nhờ cậy nơi Đức Thánh
Linh, trong quyền năng của sự cầu nguyện và nhận sự giúp đỡ từ những Cơ Đốc Nhân khác.
Chắc chắn Đức Chúa Trời muốn chúng ta biết những nguyên tắc Kinh Thánh và áp dụng nó một
cách thích hợp, nhưng mục tiêu tối thượng của Ngài trong sự tương giao với chúng ta là biến đổi
suy nghĩ và hành động của chúng ta để chúng ta có thể trở nên giống như hình ảnh của Con Ngài,
Chúa Giê-xu Christ. Khi chúng ta nắm được Lời của Chúa thì chính Lời của Chúa sẽ nắm lấy
chúng ta.
Ý Nghĩa và Áp Dụng
Bạn có nhớ chúng ta định nghĩa ý nghĩa và từ áp dụng như thế nào trong chương 9
không? Ý nghĩa nói đến những điều tác giả chủ định để truyền đạt thông qua đoạn Kinh Thánh.
Bởi vì ý nghĩa của một đoạn Kinh Thánh được gắn kết với tác giả, nên đối với mọi Cơ Đốc Nhân
cũng vậy. Độc giả không xác định ý nghĩa và ý nghĩa cũng không thay đổi từ độc giả này đến
độc giả kia. Là độc giả, chúng ta cần đáp ứng lại ý nghĩa mà Đức Chúa Trời đã đặt trong đoạn
Kinh Thánh đó. Chúng ta dùng từ áp dụng để nói đến sự đáp ứng của độc giả đối với ý nghĩa của
bản văn được linh cảm. Á p dụng phản ánh hoàn cảnh sống riêng của độc giả và sẽ thay đổi từ Cơ
Đốc Nhân này qua Cơ Đốc Nhân khác, dầu nó có cùng ý nghĩa. Do đó, chúng ta nên hỏi: “Đoạn
Kinh Thánh này có ý nghĩa gì và làm thế nào tôi áp dụng ý nghĩa này vào đời sống của tôi?” thay
vì hỏi: “Đoạn Kinh Thánh này có nghĩa gì với tôi?”. Sự phân biệt giữa ý nghĩa và áp dụng là một
điều quan trọng.
Chúng ta hãy kiểm tra lại chúng ta hiểu ý nghĩa và áp dụng nằm chỗ nào trong Hành
Trình Giải Kinh.
Bước 1: Nắm bắt được đoạn Kinh Thánh trong thời xưa. Đoạn Kinh Thánh này có ý nghĩa gì đối
với những độc giả trong thời Kinh Thánh?
Bước 2: Đo được chiều rộng của dòng sông. Có những sự khác biệt nào giữa độc giả thời Kinh
Thánh với chúng ta?
Bước 3: Vượt qua cây cầu nguyên tắc. Có những nguyên tắc thần học nào trong đoạn Kinh
Thánh này?
108
Bước 4: Nắm bắt được phân đoạn Kinh Thánh trong thời của chúng ta. Từng Cơ Đốc Nhân ngày
nay áp dụng nguyên tắc thần học đó trong đời sống của mình như thế nào?
Bước 1 và 3 liên quan đến ý nghĩa của đoạn Kinh Thánh. Qua Kinh Thánh, Đức Chúa
Trời tương giao với con người qua cả sự dạy dỗ tức thì cho độc giả thời Kinh Thánh (bước 1) và
nguyên tắc thần học cho độc giả tương lai (bước 3). Đây là ý nghĩa mà chúng ta tìm thấy trong
việc học Kinh Thánh của chúng ta. Sau khi chúng ta nhận ra được ý nghĩa này, chúng ta có thể
bắt đầu hỏi làm sao chúng ta có thể áp dụng ý nghĩa này trên đời sống của chúng ta (bước 4).
Cách Á p Dụng Ý Nghĩa
Trong phần này chúng tôi sẽ chỉ cho bạn cách xác định sự áp dụng hợp lý theo những
nguyên tắc thần học mà bạn đã khám phá trong đoạn Kinh Thánh. Vì việc áp dụng có thể thay
đổi từ độc giả này đến độc giả kia nên chúng ta cần một phương pháp đáng tin cậy để bảo đảm
rằng việc áp dụng của chúng ta nằm trong phạm vi được thiết lập bởi ý nghĩa của tác giả. Hướng
áp dụng ý nghĩa Kinh Thánh của chúng tôi đi theo những bước trong Hành Trình Giải Kinh mà
bạn mới vừa làm quen. Chúng tôi có thể mở rộng Bước 4 ra những bước phụ:
a. Quan sát những nguyên tắc thần học trong đoạn Kinh Thánh nói gì về hoàn cảnh ban đầu.
b. Khám phá hoàn cảnh tương tự trong bối cảnh hiện tại.
c. Á p dụng một cách cụ thể.
Chúng tôi sẽ minh họa việc áp dụng những nguyên tắc Kinh thánh qua Phi-líp 4:13.
Một đoạn nhiều người thường áp dụng sai: “Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho
tôi”. Trong mỗi phần chúng tôi sẽ trích từng bước và thảo luận tiến trình sau đó áp dụng nó vào
ví dụ của chúng ta.
Bước 1: Nắm được đoạn Kinh Thánh trong bối cảnh thời đó bằng cách tóm tắt hoàn cảnh
gốc (bối cảnh lịch sử-văn hóa) và ý nghĩa của đoạn Kinh Thánh cho độc giả thời Kinh
thánh.
Trong ánh sáng của bối cảnh lịch sử-văn hóa, hãy tóm tắt những điều bạn vừa khám
phá về hoàn cảnh hay vấn đề gốc. Xem tổng thể cả sách cũng như đoạn Kinh Thánh mà bạn đang
muốn áp dụng. Bạn có thể viết một phân đoạn tóm tắt hay đơn giản liệt kê những quan sát của
bạn về hoàn cảnh đó. Dù cách nào đi nữa nhưng bạn cũng phải bảo đảm nhìn thấy toàn cảnh rõ
ràng về hoàn cảnh lịch sử-văn hóa gốc.
Trong Phi-líp 4:13, chúng ta để ý rằng Phao-lô viết lá thư này trong khi đang ở tù chờ
ngày ra tòa (1:7,13-14,17). Vì trung thành trong chức vụ giảng tin lành nên ông phải ngồi tù.
Trong lá thư đầy tình bằng hữu này, ông khuyên người Phi-líp đứng vững trong cơn bách hại từ
109
bên ngoài và cảnh báo những tranh chiến từ bên trong. Ô ng báo cho họ biết về hoàn cảnh của
mình và cám ơn họ vì chức vụ của họ đối với ông. Trong Phi-líp 4:10-13, Phao-lô nhận biết món
quà bằng hiện kim của họ nhờ Ép-ba-phô-đích chuyển tới. Ông cũng muốn làm rõ rằng ông rất
biết ơn họ về món quà quý giá nhưng chức vụ của ông hoàn toàn phụ thuộc vào Đấng Christ.
Là phần của bước này, hãy viết một câu về ý nghĩa của đoạn Kinh Thánh cho độc giả
thời Kinh thánh, luôn nhớ để mọi thứ trong thì quá khứ. Từ câu trong thì quá khứ này, bạn sẽ dễ
chuyển qua nguyên tắc thần học. Trong phân đoạn Kinh thánh này, Phao-lô cho người Phi-líp
biết rằng ông học cách thỏa lòng trong mọi hoàn cảnh khó khăn khác nhau nhờ Đấng Christ,
Đấng đã ban cho ông sức mạnh.
Bước 2: Đo chiều rộng của con sông để vượt qua. Có sự khác nhau nào giữa hoàn cảnh thời
Kinh thánh và hoàn cảnh của chúng ta?
Cơ Đốc Nhân ngày nay bị chia cách với độc giả thời Kinh Thánh bằng một “dòng
sông” của sự khác biệt (vd, ngôn ngữ, văn hóa, hoàn cảnh). Dòng sông này ngăn trở chúng ta
chuyển thẳng từ ý nghĩa trong bối cảnh của họ đến ý nghĩa trong bối cảnh của chúng ta. Thỉnh
thoảng, dòng sông này rộng, đòi hỏi một cây cầu dài để đi qua. Một số nơi khác, nó hẹp và chúng
ta bước qua một cách dễ dàng. Chúng ta cần biết dòng sông này rộng bao nhiêu trước khi chúng
ta bắt đầu lập một cây cầu nguyên tắc xuyên qua đó.
Khi chúng ta giải nghĩa những thư tín trong Tân Ước, thông thường dòng sông này
không rất rộng hay sâu. Dĩ nhiên có những ngoại lệ (vd. Liên hệ đến đoạn Kinh Thánh về thịt
cúng cho thần tượng trong I Cô-rinh-tô), nhưng thông thường không quá phức tạp. Trở lại với
thơ Phi-líp, có một vài khác biệt. Phao-lô là một sứ đồ còn chúng ta không phải là sứ đồ. Phao-lô
đang ở trong tù còn hầu hết chúng ta không ở trong tù vì đức tin của mình (chúng ta có hy vọng).
Cả Phao-lô và chúng ta đều không phải là thành viên của Hội Thánh Phi-líp đã ủng hộ chức vụ
của Phao-lô bằng tài chính.
Nhưng cũng có những tương đồng. Chúng ta là những Cơ Đốc Nhân thời Tân Ước có
cùng một giao ước. Chúng ta cũng cùng là thành viên của thân thể Đấng Christ, Hội Thánh. Hơn
nữa, nhiều người trong chúng ta cũng đã trải qua những hòan cảnh khó khăn khi chúng ta quyết
sống theo đức tin của mình. Nói chung, dòng sông khác biệt này không quá rộng trong Phi-líp
4:13.
Bước 3: Băng qua cây cầu nguyên tắc. Liệt kê những nguyên tắc thần học được chuyển tải
trong đoạn Kinh Thánh.
Chỉ viết xuống những nguyên tắc mà đoạn Kinh Thánh này chuyển tải. Khi bạn nhận ra
được những lẽ thật hay nguyên tắc thần học được chuyển tải trong đoạn Kinh Thánh này, bạn
đang nhận ra những điều vượt thời gian trong đoạn này và bắt đầu lấp đầy khoảng trống giữa
đoạn Kinh Thánh và thế giới hiện tại.
110
Trong trường hợp của Phi-líp 4:13, bạn có thể nói: “Tín hữu có thể học cách thỏa lòng
trong mọi hoàn cảnh nhờ Đấng Christ, Đấng ban cho họ sức mạnh”.
Bước 4: Nắm bắt đoạn Kinh Thánh trong bối cảnh của chúng ta. Làm sao từng Cơ Đốc
Nhân hôm nay áp dụng những nguyên tắc thần học trong đời sống của mình?
Bước này bao gồm nhiều bước phụ:
a.Quan sát những nguyên tắc trong đoạn Kinh Thánh phản ánh hoàn cảnh gốc như thế
nào.
Nhìn cẩn thận nguyên tắc Kinh Thánh nói gì về hoàn cảnh lịch sử-văn hóa. Những điều
bạn quan sát được trong phần giao kết giữa đoạn Kinh thánh và hoàn cảnh là trái tim và linh hồn
của tiến trình áp dụng. Chắc chắn sẽ có những yếu tố then chốt hiện diện trong phần giao kết của
đoạn Kinh thánh và hoàn cảnh.
Như nguyên tắc trong Phi-líp 4:13 giao kết với hoàn cảnh lịch sử-văn hóa, vài yếu tố then
chốt được tìm thấy:
Yếu tố 1: Một Cơ Đốc Nhân (Phao-lô)
Yếu tố 2: Một Cơ Đốc Nhân kinh nghiệm được nhiều hoàn cảnh khó khăn khác nhau vì
trung tín theo Đấng Christ (Phao-lô ở trong tù vì sự phục vụ Đấng Christ)
Yếu tố 3: Đấng Christ ban cho sức mạnh để chịu được mọi hoàn cảnh
Với những yếu tố then chốt này trong tay, chúng ta sẵn sàng liên kết chúng với thế giới
của chúng ta và áp dụng nó vào đời sống của chúng ta.
b.Khám phá một hoàn cảnh tương đương trong bối cảnh hiện tại
Trong việc áp dụng Kinh Thánh, chúng ta không chỉ là học viên của thế giới Kinh
Thánh mà còn là học viên của thế giới của chính mình. Tìm một hoàn cảnh tương tự trong cuộc
đời của bạn (hoặc thế giới của bạn) tương đương với hoàn cảnh trong Kinh thánh. Khi chúng ta
nói về một hoàn cảnh tương đương, chúng ta đang nói về một hoàn cảnh bao gồm mọi yếu tố
then chốt mà bạn mới vừa nhận ra trong bước trên. Nếu chúng ta bỏ qua một hay nhiều yếu tố
then chốt này, chúng ta không còn thật sự áp dụng nguyên tắc được tìm thấy trong đoạn Kinh
thánh.
Chúng tôi cung cấp hai ví dụ bên dưới. Cái đầu tiên chỉ là một hoàn cảnh tương đối
tương đương vì nó không gồm những yếu tố then chốt; cái thứ hai và thứ ba là những tương
đương đúng nghĩa vì bao gồm tất cả các yếu tố then chốt.
Ví dụ 1: Phi-líp 4:13 trở thành một câu chủ đề phổ biến giữa vòng các vận động viên
Cơ Đốc ở Mỹ. Câu này được gắn trên sợi dây thừng trên đấu đài trong những trận chung kết
111
quyền anh. Câu: “Tôi làm được mọi sự” chắc chắn kích thích võ sĩ đánh bại đối phương hoặc là
gắng hết sức.
Giả sử cả Phao-lô và võ sĩ đều là Cơ Đốc Nhân (yếu tố 1) và cả hai đều tìm sức mạnh
từ nơi Đấng Christ (yếu tố 3), chúng ta vẫn đánh mất một yếu tố then chốt của phần giao kết giữa
hoàn cảnh gốc và bản văn (yếu tố 2). Phao-lô và võ sĩ hiểu câu: “tôi làm được mọi sự” hoàn toàn
khác nhau. Nhìn kỹ bối cảnh văn chương của Phi-líp 4:13 thì từ “mọi sự” nói đến những hoàn
cảnh khó khăn khác nhau. Vào thời điểm này trong cuộc đời của mình, Phao-lô trải nghiệm chỉ
một thử thách khó khăn thôi chứ không phải nhiều. Khi Phao-lô nói “làm được mọi sự”, ông
đang nói đến việc thỏa lòng hay chịu đựng hơn là chinh phục. Có một sự khác biệt lớn giữa sự
“thách thức” của cuộc thi thể thao và thử thách của việc bị tù đày vì đức tin.
Chúng ta áp dụng sai Kinh Thánh khi chúng ta nắm lấy một hoàn cảnh không tương
đương thật sự. Có lẽ có một vài liên kết tương đối khi một hay hai yếu tố then chốt bị bỏ lỡ.
Nhưng trên hết, khi chúng ta áp dụng sai Kinh Thánh, chúng ta làm tổn thương người nghe vì chỉ
cho họ những thực tế sai lệch. Những người đặt hi vọng vào một điều gì đó họ nghĩ là đúng
nhưng thực tế nó không đúng và chúng ta làm tổn thương họ. Ở ví dụ trong Phi-líp, nguyên tắc
thỏa lòng trong Đấng Christ trong mọi hoàn cảnh được thay thế bởi sự kêu gọi Đức Chúa Trời
giúp đỡ thắng cuộc chơi. Võ sĩ không thật sự áp dụng câu Kinh thánh này. Đức Chúa Trời sẽ xử
lý sao đây khi cả hai võ sĩ đều là Cơ Đốc Nhân và đều nương cậy vào sức mạnh của Chúa trong
Phi-líp 4:13?
Ví dụ 2: Bạn là một sinh viên Cơ Đốc đang gặp khó khăn về tài chính. Bạn có tất cả
cần dùng khi ở nhà với cha mẹ. Nhưng khi bạn vâng theo tiếng gọi của Chúa để bước vào chức
vụ, bạn bắt đầu đối diện với khó khăn tài chính. Vì cha mẹ bạn không thể trả tiền cho việc học
của bạn nên bạn phải trả tất cả. Bạn phải tranh chiến làm sao cho đủ tiền khi nó đang đến hạn
nộp. Phải đi làm vào những giờ đêm khiến giờ lên lớp của bạn mệt mỏi. Lúc nào bạn cũng mệt
mỏi và tâm linh của bạn cũng vì đó bị ảnh hưởng. Dầu vậy, bạn đang tin cậy Đấng Christ để có
sức mạnh mà tiếp tục công việc.
Ví dụ 3: Bạn là người mẹ độc thân. Người chồng không tin Chúa của bạn gần đây đã
từ bỏ bạn vì bạn dâng mình cho Chúa. Hai đứa con bé bỏng của bạn chợt nhận thấy mình không
có cha. Cảm giác thất bại cá nhận nặng nề. Á p lực từ những xung quanh về tình trạng của mình.
Bạn đối diện với gánh nặng tài chính quá lớn và lo lắng làm sao có thể kham nổi với đồng lương
ít ỏi mà lạm phát lại tăng cao. Khi cuộc sống dường như tối tối tăm với bạn thì Đức Chúa Trời
ban cho bạn một sự bình an chẳng đổi dời rằng Chúa Giê-xu Christ luôn ở với bạn. Ngài hiểu và
Ngài nhìn thấy mọi điều bạn đang trải qua.
Trong hai trường hợp cuối, mọi yếu tố then chốt đều có mặt: (1) một Cơ Đốc Nhân;
(2) người đang trải qua những hoàn cảnh khó khăn vì dâng mình cho Đấng Christ. (3) Người
đang hướng về Đấng Christ để tìm kiếm sức mạnh. Khi bạn nhận ra được hoàn cảnh hiện tại
112
tương đương bạn có thể mạnh dạn áp dụng ý nghĩa của đoạn Kinh thánh hơn là tạo nên ý nghĩa
mới.
c.Á p dụng trong hoàn cảnh riêng
Một khi bạn đã nhận ra được hoàn cảnh tương đương – tương đương thật sự - bạn
nghĩ về một vài cách riêng mà nguyên tắc Kinh thánh có thể áp dụng. Người sinh viên và người
mẹ độc thân đó suy nghĩ hay làm gì khi họ quay đến Đấng Christ để tìm sức mạnh? (Chúng tôi
dùng từ suy nghĩ hay làm vì áp dụng có thể đụng đến cách nghĩ cũng như cách hành động hay
đối xử). Nếu chúng ta chưa bao giờ áp dụng vào hoàn cảnh riêng, chúng ta có lẽ không biết một
cách rõ ràng làm sao sứ điệp của Kinh Thánh giúp mình sống trong đời sống thật của mình.
Đừng ngại áp dụng riêng tư. Người ta không chỉ cần biết những gì phải làm, nhưng họ cũng cần
biết cách để thực hiện nó.
Chúng ta cùng xem một vài ví dụ trong việc áp dụng vào hoàn cảnh riêng.
Ví dụ 1:
Là một sinh viên, bạn có thể nhận được sự khích lệ và sức mạnh khi nói chuyện với
vị mục sư hay giáo sư của bạn. Họ là những người đã trãi qua những khó khăn và được tưởng
thưởng trong quá trình chuẩn bị cho chức vụ. Đấng Christ thường hành động qua những con
người để đem đến sức mạnh và bạn có thể sử dụng một cuộc nói chuyện tốt với vài người ở đó.
Hỏi họ một cách cụ thể về cách họ quản lý thời gian và những lựa chọn trong việc tạo mãi cho
giáo dục của bạn. Họ có thể đề nghị những người khác tham vấn. Bạn cũng có thể làm như Phao-
lô đã làm và tin cậy vào Đấng Christ một cách công khai bằng cách trình bày ý nghĩ của bạn
trong bài viết, trong lá thư cho một người bạn. Khi bạn xưng nhận khả năng của Đấng Christ
đang giúp sức cho bạn trong suốt thời gian tối tăm đó, đức tin của bạn sẽ trở nên mạnh mẽ hơn.
Đừng ngần ngại kêu xin với Đức Chúa Trời trong sự cầu nguyện và thành thật với
Ngài về hoàn cảnh khó khăn của bạn. Cầu nguyện hết lòng có lẽ không thay đổi hoàn cảnh của
bạn nhưng nó sẽ giúp bạn nhận thức rõ hơn về sự hiện diện quyền năng của Đức Chúa Trời. Đức
Chúa Trời đã chọn lựa bạn để chuẩn bị cho chức vụ. Công việc thì vất vả và thời gian thì dài –
nó cực khổ hơn bạn tưởng. Nhưng bạn có thể làm được vì Chúa Giê-xu Christ ở với bạn. Ngài
yêu bạn và có chương trình cho bạn. Ngài cũng sẽ ở đó trong từng phút giây mỗi ngày để ban
cho bạn sức mạnh để tiến lên. Bạn có thể làm được mọi sự nhờ Đấng Christ ban thêm sức cho
bạn.
Ví dụ 2:
Là một người mẹ độc thân, bạn có thể làm nhiều điều giống như anh sinh viên ở trên
– tìm tư vấn từ một Cơ Đốc Nhân trưởng thành, viết xuống những ý tưởng của bạn và cầu
113
nguyện chân thành. Bạn cũng có thể học những phân đoạn Kinh thánh liên quan đến mối quan hệ
vợ-chồng, ly dị, tái hôn …Đức Chúa Trời sẽ ban cho bạn sự khôn ngoan khi bạn tìm kiếm Lời
của Ngài. Có những doanh nhân trong Hội Thánh có thể giúp cho bạn lập kế hoạch tài chính. Có
kế hoạch giúp cho con cái sẽ dễ chịu hơn.
Còn về người chồng của bạn? Cho đến thời điểm này, bạn là người vợ chung thủy.
Bạn đã cầu nguyện thường xuyên cho người chồng của bạn để Chúa làm dịu linh hồn lo lắng của
chồng, nhưng ông ta đã quyết định ra đi. Ô ng ta biết rằng bạn trung thành với Chúa của bạn trên
hết và đi theo Ngài trên cả ông ta. Khi ông ta ra đi, cuộc sống khó khăn hơn bạn tưởng. Bạn đã
biết ân điển và sự bình an của Chúa trong những cách mà bạn không thể giải thích được. Khi bạn
sợ phải đối diện mọi thứ một mình thì bạn không phải một mình đâu. Có một điều bạn luôn chắc
là: Chúa của bạn sẽ không bao giờ lìa bỏ bạn – không bao giờ! Ngài luôn luôn giữ lời hứa. Bạn
có thể làm được mọi sự nhờ Đấng Christ ban thêm sức cho bạn.
Hướng này có tác dụng tốt khi giải nghĩa những chuyện kể trong Kinh Thánh. Bạn kể
lại câu chuyện trong Kinh Thánh cho độc giả thời nay. Để hiện đại hóa một câu chuyện trong
Kinh Thánh, bạn kể lại câu chuyện có hiệu quả trên độc giả hiện tại tương đương với hiệu quả
của độc giả thời xưa. Chúng ta dịch ý nghĩa của câu chuyện vào bối cảnh của chúng ta tạo lại
những hiệu quả của nó trên độc giả hiện tại. Để vài phút đọc lại ẩn dụ của Chúa Giê-xu về đứa
con lạc mất trong Lu-ca 15:11-24:
11 Ngài lại phán rằng: Một người kia có hai con trai. 12 Người em nói với cha rằng:
Thưa cha, xin chia cho tôi phần của mà tôi sẽ được. Người cha liền chia của mình cho
hai con. 13 Cách ít ngày, người em tóm thâu hết, đi phương xa, ở đó, ăn chơi hoang
đàng, tiêu sạch gia tài mình. 14 Khi đã xài hết của rồi, trong xứ xảy có cơn đói lớn; nó
mới bị nghèo thiếu, 15 bèn đi làm mướn cho một người bổn xứ, thì họ sai ra đồng chăn
heo. 16 Nó muốn lấy vỏ đậu của heo ăn mà ăn cho no, nhưng chẳng ai cho. 17 Vậy nó
mới tỉnh ngộ, mà rằng: Tại nhà cha ta, biết bao người làm mướn được bánh ăn dư dật,
mà ta đây phải chết đói! 18 Ta sẽ đứng dậy trở về cùng cha, mà rằng: Thưa cha, tôi đã
đặng tội với trời và với cha, 19 không đáng gọi là con của cha nữa; xin cha đãi tôi như
đứa làm mướn của cha vậy. 20 Nó bèn đứng dậy mà về cùng cha mình. Khi còn ở
đàng xa, cha nó thấy thì động lòng thương xót, chạy ra ôm lấy cổ mà hôn. 21 Con thưa
cùng cha rằng: Cha ơi, tôi đã đặng tội với trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con
của cha nữa. 22 nhưng người cha bảo đầy tớ rằng: Hãy mau mau lấy áo tốt nhất mặc
cho nó; đeo nhẫn vào ngón tay, mang giày vào chân. 23 Hãy bắt bò con mập làm thịt
đi. Chúng ta hãy ăn mừng, 24 vì con ta đây đã chết mà bây giờ lại sống, đã mất mà bây
giờ lại thấy được. Đoạn, họ khởi sự vui mừng.
……
114
Trong khi bạn hiện thời hóa (contemporization), bạn cần nghiên cứu đoạn Kinh
Thánh cẩn thận, đặc biệt bối cảnh lịch sử-văn hóa và văn chương để bạn có thể phản ánh đúng ý
nghĩa thật của đoạn Kinh thánh.
Cách tốt nhất để giữ sự trung tín với ý nghĩa của đoạn Kinh Thánh là ở gần với những
yếu tố then chốt mà bạn nhận thấy trong bước 4a. Đơn giản là sau khi bạn viết một bản thảo, bạn
tự hỏi: “câu chuyện hiện thời này có chứa đựng tất cả những yếu tố then chốt không?” Nếu
không, xem lại toàn bộ câu chuyện cho đến khi nó hội đủ tất cả các yếu tố then chốt.
Kết luận
Vì tính cách của Đức Chúa Trời và bản chất của con người không thay đổi nên Lời
Chúa vẫn luôn thích hợp. Nguyên tắc của chúng tôi cung cấp cho bạn một cách hiểu về sự thích
hợp của Kinh thánh cho mọi thế hệ - không chỉ cho chúng ta nhưng cũng cho con cái, cháu chít
của chúng ta nữa.
Một số người nghĩ rằng phương pháp này sẽ hạn chế sự tự do của bạn trong việc áp
dụng Kinh Thánh. Chúng tôi muốn nhắc lại rằng, là độc giả trung thành, công việc của chúng ta
không tạo nên ý nghĩa mới nhưng áp dụng ý nghĩa đã có sẵn trong đoạn Kinh Thánh. Đừng lo!
Bạn sẽ tìm thấy nhiều hoàn cảnh tương đương trong đời sống của bạn hay trong thế giới của bạn
gồm chứa tất cả các yếu tố then chốt. Và khi bạn tìm thấy được điểm tương đương thật rồi thì
bạn sẽ vững tin để áp dụng ý nghĩa thật của đoạn Kinh Thánh đó.
Trước khi đi tiếp, chúng tôi muốn nhắc lại mục tiêu học cách giải kinh của chúng ta
không phải để học nhiều hơn về Đức Chúa Trời nhưng biết và yêu Đức Chúa Trời nhiều hơn.
Ngài ban cho chúng ta Lời của Ngài không phải để thỏa mãn ham muốn học biết của chúng ta
nhưng để thay đổi cuộc đời của chúng ta.
115
Phần III
Hành Trình Giải Kinh
Tân Ước
Trong phần này chúng ta đang học cách để áp dụng Hành Trình Giải Kinh theo các
thể loại văn chương khác nhau trong Kinh Thánh. Bạn đã học đọc cẩn thận và nhìn nhiều vấn đề
quan trọng liên quan để việc hiểu biết Kinh Thánh. Bây giờ là lúc thực tế lần nữa khi chúng ta
nhìn cách giải nghĩa và áp dụng những thể loại văn chương khác nhau trong Lời của Đức Chúa
Trời.
Phần 4 tập trung vào Tân ước. Thứ tự này khác với mong đợi của bạn. Chúng ta bắt
đầu với Tân Ước vì chúng ta quen với nó và nói chung, dòng sông khác biệt không quá rộng
trong Tân Ước.
Có bốn thể loại chính trong Tân Ước. Chúng ta sẽ học từng thể loại một. Chương 13
sẽ bàn về các thư tín, chương 14 về các sách Phúc Âm, chương 15 về sách Công vụ Các Sứ Đồ
và chương 16 với sách Khải huyền. Trong từng trường hợp, bạn sẽ học những cách thực tế và
thích hợp để đọc những thể loại văn chương khác nhau.
116
Chương 13
Tân Ước – Các Thư Tín
Lời Giới Thiệu
Những Đặc Điểm Của Lá Thư Trong Tân Ước
Có Thể So Sánh Với Những Lá Thư Cổ Khác
Làm sao những thư tín trong Tân Ước lại có thể so sánh với các cổ thư khác? Thư tín
trong Tân Ước dài hơn so với các cổ thư khác. Chiều dài của các thư tín được lý giải vì nhu cầu
của các nhà lãnh đạo Cơ Đốc ban đầu để hướng dẫn công việc truyền giáo và chăn bầy từ xa.
Chúng cần chỗ để nói xin chào và tạm biệt, ngày viết, lời khuyến khích và chỉ dạy, giải quyết
những tình huống khó khăn, cảnh báo chống lại tà giáo và hơn thế nữa.
Những cổ thư có hai dạng. Nhiều lá thư riêng và thông thường – những bản hợp đồng
kinh doanh, những ghi nhận việc đời thường, những lá thư giữa các thành viên trong gia đình hay
bạn bè hay tương tự như vậy. Những lá thư như vậy thường được viết mỗi ngày và chỉ người
nhận mới được đọc. Những lá thư khác thì trang trọng, nghệ thuật, văn chương được viết để trình
bày trước công chúng. Những thư tín Tân Ước không nằm trong hai phạm trù này nhưng ở giữa
hai dạng này. Trong Tân Ước chúng ta thấy nhiều lá thư riêng như trong Phi-lê-môn, II Giăng và
III Giăng cũng như nhiều lá thư trang trọng như Rô-ma, Ê -phê-sô, Hê-bơ-rơ, Gia-cơ và I Phi-e-
rơ.
Sự Thay Thế Có Thẩm Quyền Cho Sự Hiện Diện Cá Nhân
Những người trong thế giới cổ viết thư phần nhiều có cùng lý do như chúng ta có
hôm nay. Chúng ta muốn ở với những người mà chúng ta quan tâm nhưng chúng ta không thể ở
đó, nên chúng ta viết thư thay cho sự hiện diện cá nhân của mình tại đó. Những độc giả ban đầu
đã xem lá thư của Phao-lô, Phi-e-rơ như là sự thay thế cho chính các sứ đồ vậy. Khi các sứ đồ
này và các lãnh đạo khác không thể giải quyết một vấn đề hay tình huống nào trực tiếp thì họ
viết thư. Thư tín cung cấp một cách cho các nhà lãnh đạo Cơ Đốc đầu tiên bày tỏ quan điểm và
chăm sóc mục vụ từ xa.
Nhưng những thư tín trong Tân Ước còn hơn chỉ là sự thay thế cho sự hiện diện cá
nhân. Chúng là những sự thay thế có thẩm quyền. Thường trong câu đầu tiên của lá thư, tác giả
nhận mình là sứ đồ của Chúa Giê-xu Christ.
117
Phao-lô, Phi-e-rơ và Giăng viết thư của mình không đơn thuần là cho những người
bạn hay gởi những lời khuyên các nhân. Họ viết với tư cách là sứ đồ (tức là những người làm
chứng về Đấng Christ phục sinh). Thư của họ gồm lời chỉ dạy, cảnh cáo, và khuyến khích với uy
quyền vì họ viết như là đại diện thẩm quyền của Đấng Christ. Ngay cả những tác giả khác không
phải là sứ đồ theo nghĩa hẹp nhưng có liên hệ gần gũi với sứ đồ và được xem như những nhà
lãnh đạo được Chúa chỉ định cho Hội Thánh mà họ viết cho. Do đó, những lá thư này có thẩm
quyền.
Mang Tính Tình Huống
Những thư tín Tân Ước mang tính tình huống. Điều này có nghĩa là chúng được viết
để nói đến những tình huống hay vấn đề riêng có liên quan đến tác giả hay độc giả. Những người
viết thư tín Tân Ước làm như vậy để đáp ứng nhu cầu thực tế của những người nhận lá thư đó.
Họ viết để làm rõ một vấn đề nào đó (vd. Tê-sa-lô-ni-ca), hay về vấn đề giáo lý (vd. Cô-lô-se)
hay quở trách độc giả về những hành vi của họ (vd. Gia-cơ).
Những lá thư này không bao giờ có nghĩa là những từ điển hoàn hảo của giáo lý Cơ
Đốc. Thay vì viết những thần học hệ thống, tác giả dùng những lá thư để áp dụng thần học bằng
những cách thực tiễn vào từng tình huống riêng trong Hội Thánh.
Do đó, khi giải nghĩa những thư tín Tân Ước, chúng ta phải cẩn thận không kết luận
quá nhiều qua chỉ một lá thư. Thư tín của Phao-lô cho người Ga-la-ti nhấn mạnh đến sự tự do
trong Đấng Christ cho một Hội Thánh đang tranh chiến với chủ nghĩa duy luật. Trong I Cô-rinh-
tô, ông nhấn mạnh đến sự vâng lời cho một Hội Thánh đang dùng sự tự do cho sự quá độ về đạo
đức. Dầu vậy, không phải tất cả các lá thư ông đều nhấn mạnh đến cả sự tự do và sự vâng phục.
Ô ng nhấn mạnh sự tự do trong Ga-la-ti và sự vâng phục trong I Cô-rinh-tô để sửa lại những sai
trật mà mỗi hội thánh đang đối diện. Nếu chúng ta không thể nhìn thấy được tính tình huống
trong các thư tín thì chúng ta dễ bị cám dỗ kết luận quá nhiều từ một lá thư. Điều này có thể dễ
dẫn chúng ta đến việc giải nghĩa sai các thư tín.
Vì các thư tín mang tính hình huống nên chúng ta phải cố tái tạo lại tình huống trong
lá thư đó. Ví dụ những gì đang xảy ra tại Tê-sa-lô-ni-ca hay Phi-líp khiến cho Phao-lô viết I&II
Tê-sa-lô-ni-ca hay Phi-líp? Biết được tình huống gốc sẽ giúp chúng ta khi nhận định những
nguyên tắc thần học trong chính lá thư đó. Nhưng tái tạo tình huống của một lá thư thì không dễ.
Đọc một lá thư Tân Ước thì giống như nghe từ một đầu của cuộc nói chuyện trên điện thoại.
Chúng ta chỉ nghe những điều các tác giả lá thư Tân Ước như Phi-e-rơ hay Giăng đang nói.
Chúng ta không nghe những gì độc giả đang nói với họ. Chúng ta nghe phản hồi hay trả lời
nhưng chúng không biết chắc câu hỏi là gì. Dầu vậy những tác giả này đang đáp ứng lại với tình
huống thật của cuộc sống. Phần sau của chương này chúng ta sẽ nói về cách để tái tạo tình huống
gốc.
118
Viết Và Gởi Một Cách Cẩn Thận
Tiến trình soạn và gởi một lá thư trong Tân Ước phức tạp hơn chúng ta tưởng. Công
việc thật sự của việc viết một lá thư thường được giao cho một thư ký. Trong Rô-ma 16:22,
người thư ký tự nhận mình là: “Tôi, Ti-tút, người viết lá thư này chào thăm anh em trong Chúa”.
Điều này không có nghĩa Ti-tút là tác giả của lá thư này nhưng ông làm thư ký cho Phao-lô trong
trường hợp này. Một vài thư ký được quyền tự do nhiều hơn nhưng một số thì ít hơn trong việc
viết thư. Cho dù trường hợp nào, tác giả (không phải thư ký) chịu trách nhiệm cho nội dung cuối
cùng của lá thư. Ở phần cuối của lá thư, thông thường tác giả cầm bút và thêm vào lời chào thăm
cuối cùng bằng chính chữ viết của mình.
Tôi là Phao-lô, chính tay tôi viết chào thăm anh em (I Cô. 16:21; Cô. 4:18).
Chính tay tôi, là Phao-lô, viết lời chào thăm nầy cho anh em: ấy đó là dấu ký của tôi trong
mọi thơ từ của tôi, tôi viết như vậy. (II Tê. 3:17)
Điều này khẳng định rằng thư ký viết tất cả trừ dòng cuối. Hầu hết các lá thư trong
Tân Ước đều viết theo cách này.
Cùng với thư ký, người đồng gởi thư đóng vai trò quan trọng trong những lá thư Tân
Ước. Khởi đầu của tám lá thư của mình, Phao-lô đề cập đến người đồng gởi. Trong sáu lá thư
ông đề cập đến Ti-mô-thê (II Cô-rinh-tô, Phi-líp, Cô-lô-se, I&II Tê-sa-lô-ni-ca, Phi-lê-môn);
Trong I&II Tê-sa-lô-ni-ca, ông còn đề cập đến cả Si-la và Ti-mô-thê. Trong Ga-la-ti ông nói đến
“hết thảy anh em ở với tôi” và trong I Cô-rinh-tô chính Phao-lô và “anh Sốt- then của chúng ta”.
Chúng ta có thể thấy rằng có lẽ Phao-lô và những cộng sự thảo luận, phát họa, hiệu đính và viết
lại một lá thư nhiều lần trước khi nó hoàn tất. Những người đồng viết thư này không chỉ được đề
cập một cách trân trọng. Cùng với Phao-lô, họ tham gia tích cực vào chức vụ giữa những người
mà lá thư này gởi đến.
Sau khi hoàn tất một lá thư, nó được gởi đi. Có hệ thống bưu chính trong thế kỷ thứ
nhất, nhưng nó chỉ được nhân viên chính phủ dùng mà thôi (báo cáo quân sự, thư ngoại giao…).
Những công dân giàu có thì dùng nô lệ hay thuê người mang thư nhưng những công dân bình
thường thì phải phụ thuộc vào những người mà họ có công việc đi về hướng mà lá thư cần đến.
Phao-lô dùng những người bạn đáng tin như Ti-chi-cơ mang thư cho mình:
Vả, muốn cho anh em cũng biết những sự thuộc về tôi và việc tôi làm, thì có Ti-chi-cơ,
anh em rất yêu dấu của chúng ta, là tôi tớ trung thành của Chúa, sẽ báo tin mọi sự cho
anh em. Tôi đã sai người đi, có ý cho anh em biết tình cảnh chúng tôi là thể nào, để yên
ủi lòng anh em. (Ê-phê-sô 6:21-22).
119
Ti-chi-cơ là anh em rất yêu của chúng tôi, một người tôi tớ trung thành của Chúa và
bạn cùng làm việc với tôi, sẽ báo tin cho anh em về các việc của tôi Tôi có ý sai người
đến cùng anh em, hầu cho anh em biết tình cảnh chúng tôi là thể nào, đặng người yên
ủi lòng anh em. Kẻ cùng đi với người là Ô -nê-sim, anh em trung tín và rất yêu của
chúng tôi, tức là người đồng xứ với anh em vậy. Hai người đó sẽ nói cho biết hết mọi
điều xảy ra ở đây. (Cô. 4:7-9).
Những lá thư được những người trung tín mang đi vô cùng quan trọng vì không
những đưa thư an toàn mà còn có thể trực tiếp giải thích chi tiết.
Được Chủ Định Cho Cộng Đồng Cơ Đốc
Những thư tín Tân Ước được đọc lớn nhiều lần cho nhiều hội thánh. Khi chúng ta đọc
những thư tín Tân Ước, chúng ta thường đọc một cách yên lặng. Nhưng vì một số lý do, những
người trong thế kỷ thứ nhất thích đọc những lá thư đó lớn cho nhiều người cùng nghe. Một lý do
là những lá thư như vậy rất giá trị nên không thể cho từng gia đình mượn đem về nhà. Những Cơ
Đốc Nhân người Do Thái cũng quen nghe đọc Kinh Thánh lớn trong buổi thờ phượng trong nhà
hội. Và dĩ nhiên, cũng có một số người không biết đọc. Do đó những thư tín thường được đọc
lớn vì lợi ích chung. Chúng ta có thể thấy điều này trong sách Khải huyền. Một phước hạnh được
dành cho người đọc (lớn) và phước hạnh dành cho người nghe những lời tiên tri này:
Phước cho kẻ đọc cùng những kẻ nghe lời tiên tri nầy, và giữ theo điều đã viết ra đây.
Vì thì giờ đã gần rồi. (Khải 1:3)
Trong phần trong lá thư của mình, Phao-lô cũng nó rõ đến việc đọc lớn thư của mình:
Anh em đọc thơ nầy rồi, hãy đưa cho Hội thánh Lao-đi-xê đọc với, anh em cũng phải
đọc thơ ở Lao-đi-xê gởi đến nữa. (Cô.4:16)
Tôi nhân Chúa nài xin anh em hãy đọc thơ nầy cho hết thảy anh em đều nghe. (I Tê. 5:27)
Hỡi anh em, vậy thì hãy đứng vững, hãy vâng giữ những điều dạy dỗ mà chúng tôi đã
truyền cho anh em, hoặc bằng lời nói, hoặc bằng thơ từ của chúng tôi. (II Tê. 2:15)
Ngay cả lá thư cá nhân Phao-lô gởi cho Phi-lê-môn không chỉ cho Phi-lê-môn đọc
mà cho Hội Thánh nhóm lại tại nhà của ông (Phi. 1-2). Mọi người trong cộng đồng Cơ Đốc được
hưởng phước từ việc nghe đọc lá thư lớn tiếng nhiều lần.
Hơn nữa, những thư tín Tân Ước còn được trao đổi cho các Hội Thánh khác. Khi viết
thư cho một số hội thánh nào đó, những tác giả thường thấy lời của họ thích hợp và ích lợi cho
cộng đồng Cơ Đốc lớn hơn. Từ Cô. 4:16, chúng ta biết Phao-lô muốn lá thư cho người Cô-lô-se
cũng được đọc cho người Lao-đi-xê và ông muốn lá thư ông gởi cho người Lao-đi-xê cũng được
đọc trong hội thánh Cô-lô-se.
120
Tóm lại, thư tín Tân Ước thường dài hơn những cổ thư khác và nằm giữa hai cực của
lá thư cá nhân và lá thư văn chương trang trọng. Những lá thư có chức năng thay thế cho sự hiện
diện của tác giả. Chúng thường mang tính tình huống, có nghĩa là chúng được viết cho những
hoàn cảnh riêng nào đó trong cộng đồng nhận lá thư đó. Tác giả quan tâm đến viết áp dụng thần
học vào thực tế của đời sống nhất định. Những thư tín này được viết và gởi một cách cẩn thận
đến các Hội Thánh. Những hội thánh này thường đọc to nhiều lần và chia xẻ với các hội thánh
khác.
Hình Thức Của Thư Tín Tân Ước
Khi chúng ta viết thư, chúng ta dùng một hình thức hay cấu trúc tương tự như trong
khung bên dưới:
Ngày tháng năm
Tên
Địa chỉ
Lời chào
Phần chính
Kết luận
Ký tên
Thế giới cổ cũng có một hình thức chuẩn và hầu hết những thư tín Tân Ước đi theo
dạng này. Hình thức đó bao gồm phần giới thiệu, thân bài và kết luận. Chúng ta cùng xem từng
phần cụ thể hơn.
Phần Giới Thiệu
Có bốn yếu tố trong phần giới thiệu – tên tác giả, tên người nhận, lời chào thăm và
một lời cầu nguyện giới thiệu. Trong những lá thư của chúng ta, chúng ta thường đề cập tên của
người viết ở cuối cùng, nhưng trong những cổ thư, tên của người viết được ghi trước rồi đến tên
của người nhận. Sau đây là vài ví dụ:
121
Phao-lô, làm sứ đồ, chẳng phải bởi loài người, cũng không nhờ một người nào, bèn là bởi
Đức Chúa Jêsus Christ và Đức Chúa Trời, tức là Cha, Đấng đã khiến Ngài từ kẻ chết sống
lại, cùng hết thảy anh em ở với tôi, gởi cho các Hội thánh ở xứ Ga-la-ti (Ga.1:1-2).
Thông thường người viết và người nhận được miêu tả cụ thể hơn trong phần đầu để
cung cấp cho chúng ta sự hiểu biết nhiều hơn về lá thư. Ví dụ, vì quyền sứ đồ của Phao-lô bị
nghi vấn ở Ga-la-ti nên ông bắt đầu lá thư cho người Ga-la-ti bằng cách nhấn mạnh rằng chức sứ
đồ của ông xuất phát từ Đức Chúa Trời. Cũng thiếu từ ngữ tình cảm trong thư Ga-la-ti (như
“thánh đồ” hay “yêu dấu”) khiến cho lá thư có giọng điệu gay gắt. Khi viết thư cho tín hữu Phi-
líp đang tranh chiến với sự chia rẽ, Phao-lô không gọi mình là sứ đồ mà gọi mình là “đầy tớ”. Có
lẽ từ đầu ông đang muốn dạy cho người Phi-líp rằng họ cần sự khiêm nhường của một người đầy
tớ để giữ sự hiệp một.
Gia-cơ không đề cập gì về thân thế của ông là em của Chúa Giê-xu nhưng ông miêu
tả mình là một “đầy tớ của Đức Chúa Trời và của Đức Chúa Giê-xu Christ”. Uy quyền lãnh đạo
của ông đến từ thiên thượng chứ không phải vì mối quan hệ máu mủ với Chúa Giê-xu. Gia-cơ
cũng viết cho “mười hai chi phái tản lạc khắp thế gian” để khẳng định ông đang viết cho các tín
hữu người Giu-đa đang bị tản lạc vì sự bách hại.
Lời chào thăm thường đi theo lời giới thiệu của tác giả và người nhận. Hầu hết các cổ
thư đều bắt đầu với từ “chairein” (chào thăm). Cả Phao-lô và Phi-e-rơ thay thế từ chairein bằng
từ charis (ân điển) và thêm vào lời chào thăm thông thường của người Do Thái “bình an”. Bằng
cách này họ hoàn toàn thay đổi lời chào thăm chuẩn của người xưa và nó mang ý nghĩa Cơ Đốc.
“Ân điển và sự bình an cho anh em” là một lời chào thăm, nhưng nó cũng là lời cầu nguyện để
người nhận có thể tiếp tục kinh nghiệm được ân điển và sự bình an vô hạn của Đức Chúa Trời.
Yếu tố cuối cùng trong phần giới thiệu là lời cầu nguyện. Những cổ thư Hy-lạp
thường bắt đầu với lời cầu nguyện cùng các thần. Hầu hết các thư tín của Phao-lô bắt đầu với
một lời cầu nguyện cảm tạ Đức Chúa Trời vì những điều Ngài đã làm trên người nhận. Dưới đây
là lời cầu nguyện mở đầu trong I Cô-rinh-tô:
Tôi hằng vì anh em tạ ơn Đức Chúa Trời, bởi cớ anh em đã được Đức Chúa Trời ban
ơn trong Đức Chúa Jêsus Christ; vì chưng anh em đã được dư dật về mọi điều ban cho,
cả lời nói và sự hiểu biết, như lời chứng về Đấng Christ đã được vững bền giữa anh em.
Anh em đang trông đợi kỳ Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta hiện đến, cũng chẳng thiếu
một ơn nào. Ngài sẽ khiến anh em được vững bền đến cuối cùng, để khỏi bị quở trách
trong ngày của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta. Đức Chúa Trời là thành tín, Ngài đã
gọi anh em được thông công với Con Ngài là Đức Chúa Jêsus Christ, Chúa chúng ta
(1:4-9).
Cùng với việc bày tỏ lòng biết ơn vì những gì Đức Chúa Trời đã làm, Phao-lô dùng
phần cầu nguyện để giới thiệu những chủ đề quan trọng sẽ được phát triển sau này trong lá thư.
Ví dụ, trong phân đoạn ở I Cô-rinh-tô ở trên, ông nói với độc giả rằng họ được giàu có trong mọi
122
hiểu biết và “không thiếu một ân tứ thiêng liêng nào”. Phần sau trong I Cô-rinh-tô, Phao-lô sẽ
mở rộng về sự hiểu biết và ân tứ thiêng liêng – hai vấn đề của người Cô-rinh-tô.
Khi có những thay đổi trong lời cầu nguyện/cảm tạ thì chúng ta phải chú ý. Ví dụ, khi
Phao-lô bỏ lời cầu nguyện cảm tạ trong thơ Ga-la-ti và chuyển thẳng từ phần chào thăm đến sự
quở trách, ông gởi một dấu hiệu rằng ông đang rất buồn vì họ đã lìa bỏ tin lành của Đấng Christ
để đi theo chủ nghĩa giáo điều.
Phần Nội Dung Chính
Vì phần chính của lá thư là phần mà tác giả nói về những tình huống riêng mà hội
thánh đang đối diện nên nó thường là phần dài nhất trong lá thư. Không có thể thức nhất định
cho phần nội dung của thư tín Tân Ước. Những mục đích khác nhau của tác giả và những hoàn
cảnh khác nhau của độc giả tạo nên những thể thức khác nhau của lá thư. Trong nội dung chính
của một lá thư bạn sẽ thấy lời chỉ dạy, thuyết phục, quở trách, khuyên lơn và hơn thế nữa.
Phần Kết Luận
Có nhiều yếu tố khác nhau trong phần kết luận của thư tín Tân Ước
o Kế hoạch hành trình: ví dụ: Tít 3:12; Phi-lê-môn 22
o Khen người bạn đồng lao: ví dụ: Rô. 16:1-2
o Lời cầu nguyện: ví dụ: II Tê. 3:16: Hê. 13:20-21
o Xin cầu nguyện: ví dụ: I Tê. 5:25; Hê. 14:18-19
o Chào thăm: ví dụ: Rôm 16:3-16,21-23; Hê. 13:24; II Giăng 13
o Lời khuyên dạy cuối cùng: ví dụ: Cô. 4:16-17; I Tim. 6:20-21
o Cái hôn thánh: ví dụ: I Tê. 5:26; I Phi. 5:14
o Lời chúc phước: ví dụ: I Cô. 16:23-24; Ê -phê-sô 6:23-24
Không phải tất cả các yếu tố này đều có mặt trong mỗi lá thư và tác giả không đi theo
một khuôn mẫu nhất định nào. Dầu vậy, yếu tố cuối cùng thông thường là lời chúc phước ân
điển (“ân điển ở với anh em”)
Không phải mọi thư tín Tân Ước đều đi theo hình thức viết thư chuẩn như trên. Thư
Hê-bơ-rơ không bắt đầu như những lá thư thông thường khác nhưng kết thúc tương tự. Tác
giả vô danh của sách Hê-bơ-rơ nói về sách của mình như là “lời khuyên dạy” hay một bài
giảng (Hê-bơ-rơ 13:22). Gia-cơ khởi đầu lá thư của mình như là lá thư thông thường nhưng
kết thúc thì không như một lá thư. Nó được tổ chức như một sự thu thập các bài giảng ngắn
hướng đến độc giả chung hơn. I Giăng không bắt đầu và kết thúc như là một lá thư thông
thường, nhưng nó được viết cho một nhóm người nhất định (I Giăng 2:7,12-14, 19,26).
123
Bây giờ bạn đã có một hiểu biết tổng quát về những đặc điểm quan trọng của những
thư tín tân Ước và những hình thức của nó. Chúng ta hãy cùng xem cách giải nghĩa những
thư tín này.
Cách Giải Nghĩa Thư Tín Tân Ước
Để giải nghĩa thư tín Tân ước, chúng ta hãy quay về với bốn bước của Hành Trình
Giải Kinh trong chương 1.
Bước 1: Nắm bắt được đoạn Kinh Thánh trong thời xưa. Đoạn Kinh Thánh này có ý nghĩa
gì đối với những độc giả trong thời Kinh Thánh?
Bắt đầu đọc toàn bộ lá thư một lần. Điều này tốn thời gian hơn với những lá thư dài hơn
nhưng đó là cách duy nhất có thể nhìn thấy được bức tranh tổng quát của lá thư. Trước khi bước
vào lá thư, bạn phải chịu khó nắm được những yếu tố vừa trình bày ở trên. Bạn có thể muốn ghi
lại những chủ đề chính mà bạn gặp khi đọc lá thư hoặc là bạn có thể chờ cho đến khi kết thúc và
tóm tắt ý chính của lá thư trong một hoặc hai câu.
Cả lá thư cổ và hiện đại đều phải được đọc từ đầu đến cuối. Đừng để những sự phân chia
đoạn-câu trong lá thư khiến bạn bỏ qua một vài phần mà chỉ tập trung vào những phần nhỏ một
cách tách biệt. Chúng ta bắt đầu hiểu đoạn Kinh Thánh có nghĩa gì đối với độc giả thời Kinh
Thánh bằng cách đọc toàn bộ lá thư từ đầu đến cuối.
Vì thư tín mang tính tình huống nên bước tiếp theo trong việc khám phá ý nghĩa của phân
đoạn Kinh thánh cho độc giả thời đó là tái dựng bối cảnh lịch sử-văn hóa của tác giả Kinh thánh
và độc giả của mình. Bạn có nhớ cách thức này trong chương 6 không? Dùng những trợ cụ như
thánh kinh từ điển và sách giải kinh sẽ giúp bạn trả lời được những câu hỏi sau:
Ai là tác giả?
Xuất thân của ông?
Ô ng viết khi nào?
Bản chất của chức vụ của ông là gì?
Ô ng có mối quan hệ gì với độc giả?
Tại sao ông viết thư này?
Độc giả thời Kinh thánh là ai?
Hoàn cảnh của họ như thế nào?
Mối quan hệ của họ với Đức Chúa Trời như thế nào?
Mối quan hệ của họ đối với tác giả và với nhau như thế nào?
Điều gì xảy ra ở thời điểm ông viết thư tín này?
Có yếu tố lịch sử-văn hóa nào giúp làm sáng tỏ thư tín này không?
124
Tái dựng tình huống gốc không phải lúc nào cũng dễ dàng. Vì đọc thư tín Tân Ước giống
như nghe một chiều từ cuộc nói chuyện trên điện thoại, nên chúng ta phải tìm hiểu ẩn ý để tái
dựng tình huống gốc. Điều này có thể nguy hiểm nếu chúng ta tạo một tình huống mà không có
bằng chứng từ chính lá thư. Dầu vậy, chúng ta không có nhiều lựa chọn ngoại trừ tìm hiểu ẩn ý
của lá thư. Làm sao chúng ta có thể làm được điều này? Cách tốt nhất là đọc lá thư cẩn thận và
thu thập những mảng thông tin mà bạn có thể dùng để tái dựng lại tình huống. (Nếu bạn đang
học các thư tín của Phao-lô, bạn có thể tìm được nhiều thông tin từ sách Công vụ Các Sứ đồ).
Sau đó dùng từ điển, sách giải kinh và những học cụ khác để thấy những học giả nói gì về bối
cảnh lịch sử-văn hóa của lá thư. Tóm tắt tình huống được tái dựng của bạn thành một hoặc hai
câu.
Sau khi bạn có được một ý tưởng về hoàn cảnh của tác giả và độc giả, bạn cần nhận ra
bối cảnh văn chương của phân đoạn Kinh Thánh mà bạn đang học. Như đã học trong chương 7,
mục đích chính khi tìm bối cảnh văn chương là để truy lại dòng suy nghĩ của tác giả. Trong
trường hợp của thư tín Tân Ước, hãy nhớ suy nghĩ về phân đoạn đó. Tóm tắt ý chính trong các
phân đoạn thượng hạ và chính phân đoạn đang học. Tìm xem những phân đoạn này liên kết với
nhau như thế nào để truyền tải sứ điệp của tác giả. Đặc biệt, tìm vai trò phân đoạn Kinh Thánh
của bạn trong dòng suy nghĩ của tác giả. Tóm tắt những điều bạn đã tìm được.
Sau khi đọc toàn bộ lá thư, tái dựng hoàn cảnh lịch sử-văn hóa và tìm dòng suy nghĩ của
tác giả trong những phân đoạn xung quanh phân đoạn bạn đang học. Xác định phân đoạn đó có
ý nghĩa gì đối với độc giả thời đó. Dùng khả năng quan sát của bạn để đọc đoạn Kinh Thánh một
cách cẩn thận. Tìm chi tiết. Chú ý những nối kết quan trọng. Học những từ quan trọng. Cuối
cùng, viết một câu về ý nghĩa của phân đoạn Kinh Thánh đó cho độc giả của thế kỷ thứ nhất.
Bước 2: Đo được chiều rộng của dòng sông. Có những sự khác biệt nào giữa độc giả thời
Kinh Thánh với chúng ta?
Trong các thư tín Tân Ước, dòng sông khác biệt thường không rộng. Những thư tín được
viết cho các tín hữu (thường là cho tín hữu người Do Thái), không phải cho dân Y-sơ-ra-ên thời
Cựu Ước hay cho những nhà lãnh đạo Do Thái chống nghịch với Chúa Giê-xu và Hội Thánh đầu
tiên.
Dầu vậy, ngay cả trong các thư tín, dòng sông khác biệt cũng là một thách thức lớn. Mặc
dầu những thư tín đó được viết cho các Cơ Đốc Nhân như chúng ta nhưng thỉnh thoảng nó cũng
liên quan đến những tình huống khác với của chúng ta. Tại đây, dòng sông trở nên rộng hơn và
khó vượt qua hơn. Ví dụ, khi Phao-lô nói về vấn đề ăn thịt cúng cho thần tượng trong I Cô. 8,
dòng sông khá rộng. Lần gần nhất bạn phải tranh chiến với việc có nên ăn thịt cúng cho thần
tượng là khi nào? Nhưng khi Phao-lô viết về việc tránh xa khỏi phạm tội tà dâm (I Cô. 6:18-20)
hoặc sự nổi bật của tình yêu (I Cô. 13:1-13), dòng sông có lẽ hẹp hơn và dễ nhảy qua hơn. Sau
khi kiểm tra lại phân đoạn của bạn, viết lại một phân đoạn mô tả những sự khác biệt xác định
chiều rộng của dòng sông bạn cần vượt qua.
125
Bước 3: Vượt qua cây cầu nguyên tắc. Có những nguyên tắc thần học nào trong đoạn Kinh
Thánh này?
Tại đây, chúng ta tìm những nguyên tắc thần học được phản ảnh trong ý nghĩa của đoạn
Kinh Thánh mà bạn vừa nhận thấy trong bước 1. Đức Chúa Trời không chỉ bày tỏ ý nghĩa đặc
biệt cho những độc giả thời Kinh Thánh mà cũng gởi một sứ điệp thần học lớn hơn qua cùng một
đoạn Kinh Thánh cho tất cả dân sự của Ngài. Khi tìm được sự khác nhau và giống nhau của hoàn
cảnh của chúng ta với hoàn cảnh của thời Kinh Thánh rồi, chúng ta cố gắng nhận ra những
nguyên tắc thần học được phản ảnh trong đoạn Kinh Thánh. Viết xuống những nguyên tắc trong
một hoặc hai câu, dùng thì hiện tại. Ví dụ trong chương 1, chúng tôi cung cấp cho bạn một
nguyên tắc thần học như sau trong Giô-suê 1:1-9: “Để hiệu quả trong sự phục vụ Đức Chúa Trời
và thành công trong công tác mà Chúa đã giao cho chúng ta, chúng ta phải tìm sức mạnh và lòng
can đảm từ sự hiện diện của Ngài. Chúng ta cũng phải vâng phục Lời của Đức Chúa Trời, suy
gẫm nó thường xuyên.”
Trong cuốn sách Áp dụng Kinh Thánh, Jack Kyhatschek đề cập đến ba câu hỏi có thể
giúp chúng ta tìm được những nguyên tắc thần học trong một phân đoạn Kinh thánh. (1) Tác giả
có khẳng định một nguyên tắc nào không? Thông thường trong các thư tín Tân Ước, tác giả
khẳng định sứ điệp của mình trong hình thức của một nguyên tắc thần học (vd. Ê -phê-sô 6:1:
“Hỡi người là con, hãy vâng phục cha mẹ mình trong Chúa”). Khi gặp điều này, bạn vừa mới có
một nguyên tắc cho mình.
(2) Bối cảnh rộng hơn có bày tỏ một nguyên tắc thần học không? Thỉnh thoảng, tác giả
cung cấp nguyên tắc thần học trong bối cảnh xung quanh. Ví dụ, trong Ê-phê-sô 5:12, Phao-lô
viết: “Hãy kính sợ Đấng Christ mà vâng phục nhau”. Ông tiếp với nguyên tắc chung này bằng
những điển hình khác nhau về những người trong gia đình cổ vâng phục nhau (vợ/chồng, con
cái/cha mẹ, đầy tớ/chủ). Nếu bạn gặp một trong những điển hình này, bạn cần nhận thức được
nguyên tắc chung được cung cấp trong phần trước 5:21.
(3) Chúng ta nên hỏi tại sao một mạng lịnh hay lời dạy riêng biệt được chỉ bảo. Thỉnh
thoảng, khi bạn suy gẫm đằng sau mạng lịnh hay lời chỉ dẫn nào đó, bạn cũng sẽ tìm thấy nguyên
tắc thần học. Ví dụ, trong Ga-la-ti 5:2 Phao-lô viết: “Tôi là Phao-lô nói với anh em rằng, nếu anh
em chịu làm phép cắt bì, thì Đấng Christ không bổ ích chi cho anh em hết.” Khi chúng ta hỏi tại
sao sứ đồ Phao-lô cấm người Ga-la-ti cắt bì, chúng ta tìm thấy nguyên tắc thần học là con người
không đạt được sự chấp nhận của Đức Chúa Trời nhờ giữ luật pháp hay bởi công đức của con
người. Ân điển của Chúa ban cho miễn phí.
Sau khi bạn viết ra những nguyên tắc của bạn trong một hoặc hai câu trong thì hiện tại,
hãy kiểm tra thử nó có thích ứng với tiêu chuẩn được nêu trong chương 1 không (xem bên dưới).
Điều này giúp bạn xác định được bạn có thật sự tìm được nguyên tắc thần học đúng hay không:
Nguyên tắc phải được phản ánh ngay trong đoạn Kinh Thánh.
126
Nguyên tắc phải vượt thời gian và không bị trói buộc với một tình huống nhất định nào.
Nguyên tắc không bị văn hóa ràng buộc.
Nguyên tắc phải thích ứng với sự dạy dỗ còn lại của Kinh Thánh.
Nguyên tắc phải thích hợp cả với độc giả thời Kinh Thánh và độc giả thời nay.
Những nguyên tắc thần học đóng vai trò như là chiếc cầu bắt qua dòng sông ngăn cách
của lịch sử và văn hóa. Dòng sông này chia cắt bản kinh văn cổ với độc giả thời hiện đại.
Bước 4: Nắm bắt được phân đoạn Kinh Thánh trong thời của chúng ta. Từng Cơ Đốc
Nhân ngày nay áp dụng nguyên tắc thần học đó trong đời sống của mình như thế nào?
Trong bước cuối của việc giải nghĩa thư tín Tân Ước, chúng ta áp dụng nguyên tắc thần
học cho Cơ Đốc Nhân ngày nay. Hãy nhớ rằng khi những nguyên tắc này được xác định bằng ý
nghĩa của đoạn Kinh Thánh thì chúng có thể được áp dụng trong nhiều cách khác nhau ngày nay.
Trong chương 12, chúng ta đã học về cách để áp dụng những nguyên tắc thần học và đã dùng
một phân đoạn Kinh Thánh từ một lá thư Tân Ước để minh họa cho tiến trình đó (Phi. 4:13).
Có ba bước. (a) Chúng ta quan sát những nguyên tắc thần học trong đoạn Kinh thánh
phản ảnh hoàn cảnh gốc như thế nào. Chúng ta nhận ra những yếu tố then chốt có mặt trong phần
giao kết giữa nguyên tắc và hoàn cảnh. (b) Chúng ta tìm một hoàn cảnh trong đời sống hay thế
giới của chúng ta mà bao gồm tất cả những yếu tố then chốt này. Khi chúng ta tìm được hoàn
cảnh tương đương hiện tại, chúng ta có thể quả quyết rằng chúng ta đang áp dụng đúng ý nghĩa
của đoạn Kinh Thánh. (c) Chúng ta cần làm cho sự áp dụng của chúng ta cụ thể. Hãy nhớ là để
nắm bắt được Lời của Chúa, chúng ta cần áp dụng những điều chúng ta học.
Thực Hiện Hành Trình Giải Kinh
Trong phần trước, chúng ta đã ôn lại bốn bước của Hành Trình Giải Kinh. Những
bước này rất quan trọng cho sự hiểu biết và áp dụng các thư tín Tân Ước. Chúng ta cần một ví dụ
để minh họa cho những gì chúng ta đã nêu lên. Chúng ta hãy cùng dùng Hê. 12:1-2 để minh họa
bốn bước trong Hành Trình Giải Kinh của chúng ta. Chúng tôi hi vọng điều này sẽ làm rõ những
điều bạn cần làm trong việc giải nghĩa các thư tín Tân Ước.
Hê-bơ-rơ 12:1-2
1 Thế thì, vì chúng ta được nhiều người chứng kiến vây lấy như đám mây rất lớn, chúng ta
cũng nên quăng hết gánh nặng và tội lỗi dễ vấn vương ta, lấy lòng nhịn nhục theo đòi cuộc
chạy đua đã bày ra cho ta, 2 nhìn xem Đức Chúa Jêsus, là cội rễ và cuối cùng của đức tin,
tức là Đấng vì sự vui mừng đã đặt trước mặt mình, chịu lấy thập tự giá, khinh điều sỉ nhục,
và hiện nay ngồi bên hữu ngai Đức Chúa Trời.
127
Bước 1: Nắm bắt được đoạn Kinh Thánh trong thời xưa. Đoạn Kinh Thánh này có ý nghĩa
gì đối với những độc giả trong thời Kinh Thánh?
Khi bạn đọc sách Hê-bơ-rơ từ đầu đến cuối, bạn sẽ để ý đến một giọng khá căng
thẳng khi Đức Chúa Trời phán mạnh mẽ qua tác giả về cái giá của một môn đệ. Đọc sách này có
phần giống với một bài giảng (13:22). Bạn cũng có thể để ý đến sự tập trung vào Chúa Giê-xu
với nhiều từ sử dụng từ Cựu ước. Khi bạn tham khảo những học cụ để tái dựng lại hoàn cảnh lịch
sử-văn hóa, bạn có thể dễ dàng nhìn thấy tại sao sách Hê-bơ-rơ nghe có vẻ khẩn cấp.
Những tín hữu được nói đến trong sách Hê-bơ-rơ có thể xuất thân từ người Do Thái
và đã thành lập hội thánh tư gia ở trong hay ở gần thành phố Rô-ma. Lá thư này được viết vào
khoảng giữa những năm sáu mươi sau Chúa, chỉ trước khoảng thời gian bị bắt bớ nghiêm trọng
dưới thời hoàng đế Nê-rô. Một nhóm tín hữu đang đối diện với cám dỗ từ bỏ Cơ Đốc giáo để trở
lại với Do Thái giáo hầu cho họ có được cuộc sống dễ chịu hơn. Cũng có sự ngã lòng cũng như
lung lạc lòng tận hiến của họ với Đấng Christ. Không ai biết chắc ai là tác giả của thư tín này
nhưng mục đích thì rõ ràng. Ông viết thư này để khuyến khích các tín hữu đang đối diện với
thách thức là sự cám dỗ từ bỏ Cơ Đốc Giáo để trở lại với Do Thái giáo và lung lạc lòng tận hiến
của họ với Đấng Christ. Thư tín này đầy những lời chỉ dạy về sự vượt trội của Đấng Christ và
cảnh báo họ phải giữ đức tin.
Bước tiếp theo để nắm bắt được ý nghĩa gốc của Hê-bơ-rơ 12:1-2 là nhận biết bối
cảnh văn chương. Ý tưởng của tác giả chạy suốt phần này của lá thư như thế nào? Từ “thế thì”
trong đoạn 12:1-2 cho chúng ta thấy rằng phân đoạn của chúng ta có liên hệ chặt chẽ với chương
trước. Hê-bơ-rơ 11 – thường được gọi là “Nhà Đức Tin” – trình bày từng hình ảnh của những vị
thánh thời xưa chịu đựng trong đức tin. Trong Hê-bơ-rơ 12:1-2 tác giả dùng hình ảnh cuộc đua
và gương mẫu của Chúa Giê-xu để dạy cho độc giả của mình chịu đựng trong đức tin. Trong
phân đoạn tiếp theo (12:3-11), tác giả dùng một liên hệ về tình yêu của người cha đối với con
mình để giải thích tại sao các tín hữu phải chịu lấy sự khó nhọc như là sự bày tở tình yêu của
mình với Đức Chúa Trời. Chủ đề về sự chịu đựng trong thời ký khó khăn nối những phân đoạn
này lại với nhau.
Sau khi chúng ta nắm được bối cảnh của phân đoạn Kinh Thánh trước khi chúng ta
tóm tắt ý nghĩa của đoạn Kinh Thánh cho độc giả ngày xưa, chúng ta cần quan sát đoạn Kinh
thánh này một cách cẩn thận. Câu: “chúng ta được nhiều người chứng kiến vây lấy như đám mây
rất lớn” nói đến những gương mẫu đức tin được liệt kê trong Hê. 11. Những gương mẫu đức tin
này là một sự khích lệ cần thiết cho những hội thánh tư gia đang tranh chiến. Biết rằng nhiều
người đã bước đi con đường gian khó và nhận thấy Đức Chúa Trời là thành tín, độc giả thời Kinh
Thánh được kêu gọi “quăng hết” những điều ngăn trở và tội lỗi dễ vấn vương, (2) chạy cuộc đua
với sự kiên trì, (3) chăm xem Chúa Giê-xu là gương mẫu cao nhất của đức tin.
128
Tác giả dùng hình ảnh của một cuộc đua để minh họa cho bản chất của cuộc đời Cơ
Đốc. Hình ảnh này áp đảo cách chúng ta hiểu được nhiều từ và ngữ then chốt trong đoạn Kinh
Thánh này. Chạy cuộc đua này đòi hỏi cả nỗ lực lẫn kiên nhẫn. Nó cũng cho chúng ta thấy rằng
ý của tác giả muốn nói đến một cuộc đua đường trường hơn là chặng đường ngắn. Người chạy
phải bỏ mọi thứ ngăn trở.
Những người chạy này được thách thức để chạy cuộc đua đã được định. Điều này có
nghĩa là người đua phải đặt đức tin vào hành trình đua và chấp nhận khó khăn. Nhưng những
người chạy như vậy không phải chạy theo sức riêng của mình. Tức là, một phần tại sao họ được
khuyên là phải chăm xem Chúa Giê-xu “là cội rễ và cuối cùng của đức tin”. Guthrie nhận định
rằng, từ “cội rễ” có thể gần với ý về người tiên phong hay người khởi xướng”. Từ người tiên
phong thích hợp với hình ảnh cuộc đua và khi được so sánh với ý tưởng “cuối cùng”, từ này dạy
rằng Chúa Giê-xu “đã dọn sạch con đường của đức tin để chúng ta có thể chạy cuộc đua. Con
đường được mở ra và mặc dầu khó khăn vẫn còn nhưng những ngăn trở đã được dọn trước rồi”.5
Chúa Giê-xu không chỉ là là gương mẫu cao cả nhất về sự chịu đựng mà Ngài còn
giúp đỡ những người đi theo Ngài trong sự chịu đựng vì chính Ngài tập trung vào phần thưởng
đặt ngoài sự ngăn trở của sự đau khổ. Niềm vui tương lai đặt trước Chúa Giê-xu giúp Ngài chịu
được thập tự giá. Hơn nữa Ngài còn “khinh” điều sỉ nhục của thập tự giá hay xem nó không quan
trọng so với những phần thưởng cao quý sắp đến. Vì chịu đựng, Ngài được ‘ngồi bên hữu ngai
của Đức Chúa Trời”.
Chúng ta có thể tóm tắt ý nghĩa của Hê. 12:1-2 cho độc giả thời Kinh Thánh theo
cách sau đây: Tác giả dùng hình ảnh về một cuộc đua đường trường để thách thức độc giả của
mình chịu đựng vì sự tận hiến của họ với Đấng Christ dù phải chịu chống đối. Thay vì tránh xa
khỏi Đấng Christ và trở lại với Do Thái giáo, họ cần phải chạy cuộc đua với sự kiên nhẫn. Họ
được khích lệ và thức tỉnh khi nhìn các thánh trung tín đã chịu đựng trong đức tin. Họ được
khuyến khích chăm xem Chúa Giê-xu, là gương mẫu tối cao về sự chịu đựng hơn là những hoàn
cảnh khó khăn hiện thời.
Bước 2: Đo được chiều rộng của dòng sông. Có những sự khác biệt nào giữa độc giả thời
Kinh Thánh với chúng ta?
Giống như hầu hết các các tình huống trong các thư tín, dòng sông khác biệt giữa độc
giả thời Kinh Thánh với chúng ta không quá rộng. Là Cơ Đốc Nhân, chúng ta sống theo sự chết
và phục sinh của Đấng Christ giữa một thế giới hận thù, chúng ta cũng xem mình đang tranh đấu
trong một chặng đua trường kỳ trong sự chịu đựng. Chúng ta có nhiều gương trung tín đi trước
chúng ta và chúng ta phải nhìn xem Chúa Giê-xu, là cuối cùng và cội rễ của đức tin của chúng ta.
5 Guthrie, Hebrew, 398.
129
Tuy nhiên, có một vài khác biệt mà chúng ta cần phải nhận biết khi chúng ta giải
nghĩa đoạn Kinh Thánh này. Nhiều người trong chúng ta không đối diện cùng mức độ chịu bắt
bớ như các tín hữu ban đầu. Chúng ta chịu đựng sự đau khổ ở khía cạnh khác ở thế gian này khi
chúng ta muốn sống cho Chúa và ảnh hưởng đến thế giới này. Hơn nữa hầu hết chúng ta không
bị cám dỗ để quay trở lại với Do Thái giáo hầu cho được thoải mái. Nhưng có những nhóm tà
giáo mà thế gian có thể “chấp nhận” và thường bị cám dỗ để chạy theo con đường an toàn và dễ
chịu đó. Đây có thể là những điểm tương đương.
Bước 3: Vượt qua cây cầu nguyên tắc. Có nhưng nguyên tắc thần học nào trong đoạn Kinh
Thánh này?
Chúng ta có thể tìm thấy ít nhất ba nguyên tắc thần học trong Hê-bơ-rơ 12:1-2:
Cuộc đời của Cơ Đốc Nhân giống như một cuộc đua đường trường gian khó, đòi hỏi phải
nỗ lực và kiên nhẫn.
Các thánh đồ đi trước chúng ta lập cho chúng ta những gương mẫu về sự hi sinh và chịu
đựng vì đức tin. Chúng ta nên tìm sự khích lệ từ nơi này.
Để chạy thành công cuộc đua, chúng ta cần từ bỏ những thứ ngăn trở sự tiến bộ của
chúng ta, và quan trọng nhất chúng ta phải tập trung chăm xem Chúa Giê-xu và mối liên
hệ của chúng ta với Ngài.
Bước 4: Nắm bắt được phân đoạn Kinh Thánh trong thời của chúng ta. Từng Cơ Đốc
Nhân ngày nay áp dụng nguyên tắc thần học đó trong đời sống của mình như thế nào?
Để minh họa cho bước áp dụng, chúng ta hãy dùng nguyên tắc đầu tiên trong ba
nguyên tắc trên: “Cuộc đời của Cơ Đốc Nhân giống như một cuộc đua đường trường gian khó,
đòi hỏi phải nỗ lực và kiên nhẫn.” Khi chúng ta tìm cách hiểu được đoạn Kinh thánh trong thời
của chúng ta, chúng ta phải tìm những yếu tố then chốt đang hiện diện trong phần giao kết giữa
nguyên tắc thần học này và hoàn cảnh gốc. Trong trường hợp này, chúng ta tìm thấy vài yếu tố
quan trọng:
Người chạy là Cơ Đốc Nhân và cuộc đua là chính cuộc đời.
Cuộc đua khó khăn và chúng ta có khuynh hướng chạy con đường dễ hơn hoặc bỏ cuộc.
Chạy một cuộc đua thành công đòi hỏi cả nỗ lực lẫn sự chịu đựng.
Chúng ta tiếp tục Hành Trình bằng cách tìm một tình huống hiện tại bao gồm tất cả
những yếu tố then chốt. Vì những yếu tố then chốt trong trường hợp này tổng quát hơn nên
chúng ta có thể dễ tìm một tình huống tương đương. Bất cứ Cơ Đốc Nhân nào có khuynh hướng
bỏ cuộc vì trung tín theo Chúa là quá khó khăn thì cần được nhắc nhở rằng cuộc đua đòi hỏi nỗ
lực và sự chịu đựng. Để nắm được đoạn Kinh Thánh trong thời của chúng ta, chúng ta cần phải
áp dụng một cách cụ thể.
130
Trong những phần khác của Kinh Thánh, ân điển mà Đức Chúa Trời ban cho được
nhấn mạnh. Tuy nhiên đoạn Kinh Thánh này nhấn mạnh đến cách chúng ta đáp ứng lại ân điển
của Ngài. Chúng ta phải nhận ra rằng cuộc đời của chúng ta không phải là một thảm đỏ đầy hoa
hồng. Xã hội của chúng ta không xem sự nhịn nhục như là đức tính tốt, nhưng Đức Chúa Trời
kêu gọi chúng ta từ bỏ sự nóng nảy nhưng phải nhịn nhục. Ngài muốn chúng ta kiên định trước
áp lực và duy trì trong cuộc đua. Ngày nay, để chạy cuộc đua thành công có nghĩa là lựa chọn
đúng đường hôm nay, ngày mai và tuần tới, tháng tới, năm tới và còn nữa. Đức Chúa Trời kêu
gọi chúng ta trung tín duy trì tại đó luôn luôn. Chúng ta phải nhận biết rằng chạy thắng cuộc có
nghĩa là chọn Đấng Christ ngay cả khi bị chế nhạo, bị từ bỏ hay bị đối xử bất công. Chạy với sự
nhịn nhục có nghĩa là giữ thăng bằng và chăm xem Đấng Christ ngay cả khi chúng ta cảm thấy
kiệt sức.
Kết Luận
Chúng ta dùng những lá thư để chuyển tải những cảm xúc, ý nghĩ sâu thẳm của mình.
Khi chúng ta học hai mươi mốt lá thư của Tân Ước, chúng ta chứng kiến những công việc thực
tế của những người môn đồ hóa Cơ Đốc. Những lá thư này như là sự thay thế sự hiện diện của họ
khi họ phải phục vụ từ xa. Chúng được viết để nói đến những hoàn cảnh riêng và để đáp ứng
những nhu cầu thực tế của độc giả của họ. Những lá thư này được chuẩn bị cẩn thận và được đọc
lớn cho cả Hội Thánh cùng nghe.
Khi bạn đến với một thư tín Tân Ước bạn phải nhớ rằng đó là một lá thư chứ không
phải là một danh bạ điện thoại. Những lá thư có nghĩa là được đọc từ đầu đến cuối, giống như
chúng ta đọc thư ngày nay. Xem xét hoàn cảnh lịch sử-văn hóa một cách nghiêm túc và đặt ưu
tiên trong việc tìm dòng ý tưởng của tác giả (tức là bối cảnh văn chương). Sau đó, dùng cây cầu
nguyên tắc để băng qua dòng sông khác biệt và áp dụng ý nghĩa của đoạn Kinh Thánh đó vào đời
sống của bạn.
Những thư tín của Tân Ước cho chúng ta một cái nhìn về sự tranh chiến và chiến
thắng của hội thánh đầu tiên. Chúng cung cấp những lời dạy và lời khuyên cho đời sống thánh
thiện. Chúng ta kết thúc chương này với lời kết thúc của thư tín Tân Ước: “Sự bình an ở với anh
em, Amen!”
131
Chương 14
Tân Ước – Các Sách Phúc  m
Lời Giới Thiệu
Ngay chính trọng tâm của đức tin của chúng là một con người – Giê-xu Christ. Ngài
làm những phép lạ và phán chính “lời của sự sống đời đời” (Giăng 6:68). Một điều mà Chúa Giê-
xu chưa hề làm là xuất bản tiểu sử của Ngài. Không có một quyển sách về chính Chúa Giê-xu thì
làm sao chúng ta biết điều gì về Ngài?
Chắc chắn chúng ta có đủ thông tin về Chúa Giê-xu từ những nguồn bên ngoài Tân
Ước để biết rằng Ngài thật sự hiện hữu. Nhưng hầu hết những chứng nhân trực tiếp về Chúa Giê-
xu đến từ bốn sách Phúc Âm trong kinh điển: Ma-thi-ơ, Mác, Luca và Giăng. Bốn sách Phúc  m
này chứa đựng gần như một nửa của Tân Ước theo số phần trăm. Theo đó, những người theo
Chúa Giê-xu đầu tiên đã cung cấp cho chúng ta những thông tin tương tự như một tiểu sử của
Chúa Giê-xu. Bốn sách Phúc  m quan trọng vì chúng kể cho chúng ta câu chuyện về Chúa Giê-
xu, con Độc sanh của Đức Chúa Trời.
Trong chương này bạn có thể học được hai điều chính. Trước hết, chúng ta sẽ trả lời
câu hỏi: “Các sách Phúc Âm là gì?” Đặc biệt loại câu chuyện nào mà các tác giả Phúc  m dự
định kể? Chúng có giống như tiểu sử hiện đại không? Nếu vậy, tại sao họ không kể cho chúng ta
mọi điều chúng ta muốn biết về Chúa Giê-xu, như là những gì xảy ra trong thời niên thiếu của
Chúa Giê-xu? Tại sao bốn sách này không đi theo cùng thứ tự thời gian? Chúng ta cần hiểu càng
nhiều càng tốt về thể loại của sách Phúc Âm để có thể đọc các sách Phúc  m.
Một khi chúng ta hiểu được bản chất của các sách Phúc  m, chúng ta có thể chuyển
qua giai đoạn tiếp theo: “Làm thế nào để giải nghĩa các sách Phúc Âm? Có cách nào để nắm bắt
được những ý nghĩa trong các sách Phúc Âm để chúng ta có thể áp dụng vào đời sống của mình
không? Chúng tôi gợi ý một cách để đọc câu chuyện của Chúa Giê-xu. Chúng ta hãy bắt đầu
xem phần quan tâm đầu tiên: thể loại của sách Phúc âm.
Các Sách Phúc  m Là Gì?
Từ phúc âm được dịch từ tiếng Hy-lạp là euangelion, có nghĩa là “tin tức tốt lành”.
Trước thời Tân Ước, từ này thường được dùng để nói về tin tốt lành của một sự đắc thắng về
quân sự hay chính trị. Trong Tân Ước, từ này chỉ về tin tốt lành được Chúa Giê-xu công bố (Mác
1:14-15) hoặc tin tốt lành về Đức Chúa Giê-xu (I Cô-rinh-tô 15:1). Điều dễ thấy là các Cơ Đốc
Nhân ban đầu gọi các sách Ma-thi-ơ, Mác, Luca và Giăng là các sách Phúc Âm. Nhưng làm sao
132
Đức Thánh Linh linh cảm các tác giả Phúc Âm để trình bày tin tốt lành này? Một sự giải nghĩa
đúng tùy thuộc vào sự nhận biết đúng về thể loại truyền tải đang diễn ra.
Trước hết và trên hết, các sách Phúc  m là những câu chuyện. Mọi người đều thích
câu chuyện nhưng tại sao? Những câu chuyện có gì mà hấp dẫn người ta đến vậy? Chúng ta thấy
mình “bước” vào câu chuyện và liên hệ với các nhân vật trong đó. Bằng cách này chúng ta tham
gia vào câu chuyện. Chúng ta có thể dùng trí tưởng tượng của mình để nhìn thấy được các nhân
vật đang hoạt động trong đó. Các sách Phúc Âm có sức mạnh vì chúng là những câu chuyện.
Nhưng chúng thuộc loại chuyện gì?
Ma-thi-ơ, Mác, Lu-ca và Giăng được xem như những câu chuyện về Chúa Giê-xu
được viết nên từ những kinh nghiệm cá nhân của các sứ đồ. Khi chúng ta đọc các sách Phúc  m
chúng ta có thể thấy ngay rằng chúng khác với những tiểu sử hiện đại. Các sách Phúc Âm dường
như khác với các tiểu sử hiện đại.
Không giống như những tiểu sử hiện đại, các sách Phúc  m không bao gồm hết cuộc
đời của Chúa Giê-xu, nhưng nhảy từ sự ra đời đến chức vụ công khai. Ma-thi-ơ và Lu-ca có ghi
lại sự giáng sinh của Chúa Giê-xu trong khi Tin lành Mác đi thẳng đến sông Giô-đanh nơi Chúa
Giê-xu chịu phép báp têm lúc đã trưởng thành (Mác 1:9). Mác không đề cập bất cứ điều gì về sự
giáng sinh hay thời trẻ của Chúa Giê-xu.
Thông thường các tác giả Phúc  m sắp xếp những công việc của Chúa Giê-xu theo
chủ đề hơn là theo thứ tự thời gian. Họ ghi lại lời dạy của Ngài bằng nhiều cách khác nhau. Một
sự khác biệt nữa giữa các sách Phúc  m và hầu hết các bản tiểu sử hiện đại là các sách Phúc  m
dành nhiều không gian cho tuần cuối cùng của cuộc đời Chúa Giê-xu. Ví dụ, trong Phúc  m
Giăng, tuần lễ cuối của cuộc đời Chúa Giê-xu bắt đầu từ chương 12. Chúng ta cũng không tìm
thấy điều gì như là sự phân tích tâm lý của Chúa Giê-xu hay những tính cách của Ngài trong các
sách Phúc Âm. Điều dễ thấy là các sách Phúc  m khác với tiểu sử hiện đại.
Nhưng chỉ vì các sách Phúc  m khác với tiểu sử hiện không có nghĩa là chúng không
phải là tiểu sử - nó đơn giản không phải là bản tiểu sử hiện đại. Các nhà viết tiểu sử cổ viết theo
một luật riêng. Những bản tiểu sử cổ thường có một dàn bài, bắt đầu với sự được sinh ra và kết
thúc với sự chết của người đó. Tài liệu giữa sự sinh ra và sự chết của nhân vật gồm những câu
chuyện và phát ngôn được tác giả chọn lọc và sắp xếp để kể cho độc giả một điều quan trọng nào
đó về nhân vật. Khi chúng ta đọc Ma-thi-ơ, Mác, Lu-ca và Giăng, chúng ta thấy rõ có nhiều
điểm chung với thể loại tiểu sử cổ.
Nếu bạn dành thời gian đọc hết các sách Phúc  m, bạn sẽ để ý rằng trong khi cả bốn
sách đều kể cùng một câu chuyện, thì những chi tiết thay đổi từ sách Phúc Âm này đến sách
Phúc  m khác. Chúng ta thật sự có bốn bản viết về một câu chuyện của Chúa Giê-xu.
133
Trên một bình diện lớn hơn, bạn thỉnh thoảng cũng thấy một sự thay đổi đáng kể
trong thứ tự của cùng sự kiện được trình bày trong ba sách Phúc Âm đầu tiên. Những sách này
thường được gọi là các sách Phúc Âm Cộng Quan vì chúng có nhiều điểm giống nhau khi đặt
gần nhau. Giăng thường được liệt vào một loại khác. Trong bản bên dưới bạn có thể thấy các tác
giả sách Phúc Âm đặt cùng sự kiện hay câu chuyện theo thứ tự tương đối khác nhau.
Sự kiện Ma-thi-ơ Mác Luca
Chữa lành người phung 8:1-4 1:40-45 5:12-16
Vị quan thành Ca-bê-na-um 8:5-13 Không có 7:1-10
Bà gia Phi-e-rơ 8:14-15 1:29-31 4:38-39
Chữa lành người bịnh 8:16-17 1:32-34 4:40-41
Đi theo Chúa Giê-xu 8:18-22 Không có 9:57-62
Quở sóng gió 8:23-27 4:35-41 8:22-25
Chữa lành người bại 9:1-8 2:1-12 5:17-26
Là người viết tiểu sử cổ, các tác giả sách Phúc  m cảm thấy tự do viết lại hay tóm tắt
những điều Chúa Giê-xu phán và sắp xếp chúng theo những sự kiện theo chủ đề riêng hơn là
theo thứ tự thời gian. Trong phần mở đầu (Luca 1:1-4), Lu-ca chấp nhận là dùng lời chứng của
những người làm chứng trực tiếp và nghiên cứu cẩn thận trong việc kể lại câu chuyện của Chúa
Giê-xu. Mục tiêu của các tác giả Phúc  m là kể câu chuyện về Chúa Giê-xu một cách trung
thành, hợp lý và thuyết phục nhất cho độc giả của mình. Thay vì nhìn những sự khác nhau giữa
các bản văn để tìm lỗi, chúng ta nên xem chúng như là những minh họa của những mục đích thần
học khác nhau và những nhấn mạnh về tác giả Phúc  m.
Một khi chúng ta nhận ra rằng những tác giả sách Phúc Âm đã viết dưới dạng văn
chương cổ thay vì những luật hiện đại thì những sự khác biệt trong các sách Phúc  m sẽ không
còn nữa. Ví dụ như thứ tự của lần cám dỗ thứ hai và ba của Chúa Giê-xu. Chủ để trọng tâm của
Phúc  m Ma-thi-ơ là vương quốc của Đức Chúa Trời. Điều này dễ hiểu khi Ma-thi-ơ kết thúc
câu chuyện về sự cám dỗ của mình khi nhìn thấy các nước trên thế gian (Ma. 4:8-10). Bởi trong
Phúc  m Lu-ca thành Giê-ru-sa-lem được mô tả nổi bật nên bạn có thể hiểu dễ dàng tại sao Lu-
ca muốn kết luận câu chuyện bằng việc nhảy xuống khỏi đền thờ (Luca. 4:9-12). Ma-thi-ơ và Lu-
ca thay đổi chi tiết trong việc kể chuyện về Chúa Giê-xu để tạo nên một quan điểm thần học.
Điều này dẫn chúng ta đến điểm quan trọng cuối cùng về thể loại của sách Phúc  m.
Chúng ta đã thấy các sách Phúc  m có thể loại tương tự với tiểu sử cổ. Nhưng có một
khía cạnh nữa mà chúng ta cần nhấn mạnh. Các sách Phúc  m không chỉ là tiểu sử nhưng chúng
134
là tiểu sử có trọng tâm là Chúa Giê-xu. Các tác giả Phúc  m kể cho chúng ta chuyện của Chúa
Giê-xu nhưng chúng đơn thuần ghi lại những sự kiện lịch sử. Họ đang kể cho chúng ta câu
chuyện này để dạy cho độc giả một điều gì đó về con người và chức vụ của Chúa Giê-xu. Các tác
giả sách Phúc  m chọn lọc và sắp xếp tư liệu của họ về Đấng Christ để chuyển tải lẽ thật thần
học cho độc giả. Tất cả việc kể chuyện là kể chuyện với một mục đích cụ thể và mục đích của
Ma-thi-ơ, Mác, Luca và Giăng rõ ràng có trọng tâm là Đấng Christ.
Tất cả những điều này dẫn chúng ta đi đâu? Chúng ta cần nắm được thể loại của Phúc
Âm để đọc các sách Phúc Âm đúng đắn hơn. Các sách Phúc Âm tương đối giống với tiểu sử cổ,
nhưng hơn cả bản tiểu sử cổ. Bằng cách tập trung vào cuộc đời và lời dạy của Chúa Giê-xu,
chúng ta có thể mô tả các sách Phúc  m một cách chính xác là tiểu sử mang tính Đấng Christ.
Điều này dẫn chúng ta đến hai mục đích chính mà các tác giả Phúc  m chủ ý khi viết các sách
Phúc  m của mình. (1) Họ đã chọn lọc và sắp xếp tư liệu để kể câu chuyện về Chúa Giê-xu. (2)
Qua câu chuyện về Chúa Giê-xu họ nói một điều gì đó quan trọng cho những độc giả đầu tiên
(và cho chúng ta).
Cách Đọc Các Sách Phúc  m
Phương pháp đọc các sách Phúc  m phải tôn trọng phương tiện mà Đức Chúa Trời
dùng để linh cảm chúng. Các tác giả Phúc  m nói một điều gì đó về Chúa Giê-xu trong từng
chương và họ nói một điều gì đó bằng cách họ nối kết những câu chuyện nhỏ với nhau để tạo
thành một câu chuyện lớn hơn.
Để đến được một phương pháp đọc các sách Phúc  m thích hợp với phương cách
truyền đạt của Đức Chúa Trời, chúng ta hãy đổi hai mục đích trọng tâm ở trên thành hai câu hỏi
giải nghĩa đơn giản. (1) Câu chuyện nhỏ này kể cho chúng ta điều gì về Chúa Giê-xu? (2) Các
tác giả Phúc Âm đang muốn nói điều gì với độc giả của mình khi họ đặt những câu chuyện nhỏ
lại với nhau? Biểu đồ bên dưới miêu tả hai câu hỏi giải nghĩa trọng tâm này để đọc các sách
Phúc  m.
↓ Chương 1 ↓ Chương 2 ↓ Chương 3
Chương này kể cho chúng
ta điều gì về Chúa Giê-xu?
Chương này kể cho chúng
ta điều gì về Chúa Giê-xu?
Chương này kể cho chúng ta
điều gì về Chúa Giê-xu?
→ Chương 1,2 và 3
Tác giả Phúc Âm đang muốn truyền thông điệp gì cho độc giả bằng cách nối kết những câu
chuyện này lại với nhau?
135
Dùng câu chuyện tương tự về Ma-ri và Ma-thê trong Luca 10:38-42 làm ví dụ. Bước
1 là đọc câu chuyện và hiểu sứ điệp của nó, thông thường một sứ điệp xoay quanh Chúa Giê-xu.
Luca 10:25-37 Luca 10:38-42 Luca 11:1-13
Ở đây chúng ta khám phá ra nguyên tắc rằng khi chúng
ta làm công việc Chúa nhiều khi có thể đánh mất chính
Chúa. Mong ước của Ma-thê dọn cho Chúa bữa ăn ngon
khiến cô ta lỡ mất điều tốt nhất: lắng nghe Chúa Giê-xu.
Trước khi đi tiếp, hãy đọc Lu-ca 10:25-37 và Lu-ca 11:1-13 và hỏi câu hỏi: ý chính
của từng câu chuyện là gì? Câu chuyện này dạy tôi điều gì về Chúa Giê-xu? Chúa Giê-xu dạy tôi
điều gì trong câu chuyện này? Tôi học được điều gì từ những hành động của Chúa Giê-xu trong
câu chuyện này? Chúng ta sẽ học nhiều hơn về cách đọc từng đoạn riêng trong chương này.
Nhưng bây giờ chúng tôi muốn bạn tóm lại ý chính. Hãy nhìn cách chúng tôi cố gắng nắm được
sứ điệp của Lu-ca.
↓ Luca 10:25-
37
↓ Luca 10:38-42 ↓ Luca 11: 1-13
Chúng ta thấy nguyên
tắc rằng yêu người lân
cận mình nên vượt trên
tất cả giới hạn của con
người như là quốc tịch,
tôn giáo hay tình trạng
kinh tế
Ở đây chúng ta khám phá ra
nguyên tắc rằng khi chúng ta làm
công việc Chúa nhiều khi có thể
đánh mất chính Chúa. Mong ước
của Ma-thê dọn cho Chúa bữa ăn
ngon khiến cô ta lỡ mất điều tốt
nhất: lắng nghe Chúa Giê-xu.
Chúa Giê-xu dạy chúng ta cách
tương giao với Đức Chúa Trời
thông qua sự cầu nguyện (11:1-
4). Tiếp theo điều này là một ẩn
dụ về sự cầu nguyện (11:5-8)
và một lời khuyên về sự cầu
nguyện (11:9-13).
Bước 1 là để hiểu được sứ điệp chính của từng câu chuyện, một sứ điệp thường tập
trung vào cuộc đời và lời dạy của Chúa Giê-xu. Trong bước 2, chúng ta cần đặt chương của Ma-
ri và Ma-thê song song với những chương xung quanh để thấy Lu-ca đang cố gắng chuyển tải
điều gì đến độc giả của mình (và cho chúng ta) theo cách ông sắp xếp tư liệu. Hãy nhìn những
tóm tắt của chúng tôi và suy nghĩ đến ba câu chuyện này có điểm gì chung. Bạn có thấy sự liên
kết nào không? Chúng tôi tóm lại trong phần ở dưới như sau:
→ Luca 10:25-37; 10:38-42;11:1-13
Chủ đề chung là các mối quan hệ. Trong câu chuyện đầu, chúng ta thấy rằng những người đi
theo Chúa Giê-xu nên là những người lân cận tốt đối với những người đang có nhu cầu. Trong
câu chuyện thứ hai, chúng ta thấy rằng lắng nghe Chúa Giê-xu nên được ưu tiên trên cả “những
hoạt động tôn giáo”. Cuối cùng Lu-ca nhấn mạnh đến mối quan hệ với Đức Chúa Trời trong
11:1-13. Những người đi theo Chúa Giê-xu cần phải biết cách để liên hệ với những người lân cận
(phục vụ), cách để liên hệ với Chúa của họ (dấn thân) và cách để liên hệ với Cha của mình.
136
Chúng tôi cũng không chắc 100% là chúng tôi đã nắm được chủ định của Lu-ca tại
đây và những độc giả khác có thể thấy những liên hệ khác nhau. Đừng ép điều gì. Cố gắng nối
kết ý chính của từng phân đoạn và bạn sẽ khám phá ra vài kiến thức lớn trong các sách Phúc  m.
Cho đến điểm này, chúng ta đã nhìn thấy rằng đọc các sách Phúc  m bao gồm hỏi hai
câu hỏi chính, những câu hỏi đáp ứng lại hai mục đích trọng tâm của các tác giả Phúc  m:
Chúng ta tìm những sự dạy dỗ trong từng phân đoạn và chúng ta tìm những sự dạy dỗ qua cách
mà những phân đoạn đó được liên kết với nhau để tạo nên câu chuyện lớn hơn. Trong phần tiếp
theo của chương này, chúng tôi sẽ khám phá cả hai câu hỏi cụ thể hơn.
1. Cách Đọc Những Câu Chuyện Riêng
Có những hướng dẫn giải nghĩa căn bản để khám phá những nguyên tắc thần học
trong những câu chuyện riêng. Chúng tôi sẽ minh họa những luật này bằng cách dùng câu
chuyện Chúa Giê-xu quở sóng gió (Mác 4:35-41) và vài phân đoạn khác.
35 Đến chiều ngày ấy, Ngài phán cùng môn đồ rằng: Chúng ta hãy qua bờ bên kia. 36 Khi
cho dân chúng tan về rồi, Đức Chúa Jêsus cứ ở trong thuyền, và môn đồ đưa Ngài đi; cũng
có các thuyền khác cùng đi nữa. 37 Vả, có cơn bão lớn nổi lên, sóng tạt vào thuyền, đến
nỗi gần đầy nước; 38 nhưng Ngài đang ở đằng sau lái, dựa gối mà ngủ. Môn đồ thức Ngài
dậy mà thưa rằng: Thầy ôi, thầy không lo chúng ta chết sao? 39 Ngài bèn thức dậy, quở
gió và phán cùng biển rằng: Hãy êm đi, lặng đi! Gió liền dứt và đều yên lặng như tờ. 40
Đoạn, Ngài phán cùng môn đồ rằng: Sao các ngươi sợ? Chưa có đức tin sao? 41 Môn đồ
kinh hãi lắm, nói với nhau rằng: Vậy thì người nầy là ai, mà gió và biển cũng đều vâng lịnh
người?
a. Hỏi những câu hỏi chuẩn mà bạn cần phải hỏi với bất cứ câu chuyện nào: Ai? Cái gì?
Khi nào? Ở đâu? Tại sao? Và Như Thế Nào? Chúng tôi sẽ liệt kê một vài quan sát trong
phân đoạn này để minh họa cho tiến trình này.
Ai?
(nhân vật) Chúa Giê-xu (c. 35,36,38,39,40,41)
Các môn đồ (c. 35,36,38,40,41)
Đám đông (c. 36)
Cái Gì?
(Nội dung câu chuyện)
Khi băng qua biển, một cơn bão đến và sóng
đánh gần đắm con tàu (c.37)
Các Môn đồ đánh thức Chúa Giê-xu đang ngủ trên mui
(c.38)
Chúa Giê-xu quở sóng gió và quở trách các môn đồ
vì họ thiếu đức tin (c. 39-40)
Các môn đồ kinh hãi vì uy quyền của Chúa trên biển
và hỏi: “Người này là ai?” (c. 41)
137
Khi Nào
(Thời điểm)
Khi trời tối, các môn đồ và Chúa Giê-xu bắt đầu
vượt qua biển (c. 35).
Trong cơn bão, Chúa Giê-xu (một người thợ mộc)
đang ngủ và các môn đồ (những ngư phủ) sợ chết (c.
38).
Sau khi Chúa Giê-xu quở sóng gió thì biển yên lặng
(c.39).
Sau khi cơn bão yên lặng, Chúa Giê-xu hỏi các môn
đồ vài câu hỏi khó (c.40).
Sau khi cơn bão yên lặng và Chúa Giê-xu hỏi, các
môn đồ kinh hãi (c. 41).
Ở Đâu?
(Địa điểm)
Chúa Giê-xu và các môn đồ đi qua bờ biển bên kia
(c. 35).
Họ ở trên thuyền (c. 36).
Sóng đang đánh vào thuyền (c. 37)
Chúa Giê-xu đang ngủ ngon trên mui thuyền (c. 38).
Tại Sao?
(Lý do)
Chúa Giê-xu đánh thức Chúa Giê-xu vì họ giận thầy
thờ ơ với sự an toàn của họ (c. 38).
Sóng và gió yên lặng vì Chúa Giê-xu quở chúng nó
(c. 39,41).
Các môn đồ kinh hãi vì họ nhận ra rằng Chúa Giê-xu
có uy quyền trên biển cả (c. 40-41).
Như Thế
Nào?
(Phương tiện)
Các môn đồ dùng một câu hỏi để quở trách Chúa
Giê-xu (c. 38).
Chúa Giê-xu làm lặng sóng gió bằng lời phán của
Ngài (c. 39).
Chúa Giê-xu dùng những câu hỏi để quở trách các
môn đồ (c. 40).
Các môn đồ thốt ra sự kinh hãi bằng một câu hỏi :”
Người này là ai?” (c. 41).
Từ những câu hỏi đơn giản này chúng ta khám phá được những điều quan trọng trong
câu chuyện. Vì Chúa Giê-xu và các môn đồ dường như xuất hiện trong mỗi câu, chúng ta biết
rằng câu chuyện này tập trung vào mối quan hệ của Chúa Giê-xu với các môn đồ của Ngài. Chúa
Giê-xu đang cố gắng dạy cho những người theo Ngài điều gì? Họ có học được bài học này không?
Bằng cách đối chiếu phản ứng của Chúa Giê-xu với cơn bão và phản ứng của các môn đồ với
cơn bão, chúng ta tìm thấy sự khác nhau giữa đức tin và sự sợ hãi. Chúa Giê-xu ngủ an bình trên
thuyền còn những người đánh cá chuyên nghiệp lại sợ chìm thuyền. Chúng ta cũng để ý đến uy
quyền của lời phán của Chúa Giê-xu. Ngay cả sóng gió cũng vâng phục Ngài. Vai trò của câu hỏi
trong đoạn này cũng khá thú vị. Các môn đồ hỏi Chúa Giê-xu vì sự thờ ơ của Ngài. Chúa Giê-xu
hỏi các môn đồ về sự thiếu đức tin của họ. Điều này khiến cho các môn đồ quay lại hỏi Chúa
Giê-xu là ai mà sóng gió cũng vâng lịnh Ngài.
138
b. Tìm những lời chỉ dạy giải nghĩa từ chính tác giả.
Thông thường một tác giả Phúc Âm giúp độc giả nhìn thấy ý của mình qua những gợi
ý trong phần giới thiệu câu chuyện. Tác giả có thể nói một điều gì đó như là: “Ngài thấy những
kẻ được mời đều lựa chỗ ngồi trên, nên phán cùng họ thí dụ nầy:” (Lu. 14:7). Dù không nghe
được thí dụ nhưng bạn có thể đoán là có một điều gì đó liên quan đến sự kiêu ngạo thuộc linh
hoặc là sự khiêm nhường hay là cả hai.
Phần giới thiệu trong bài giảng trên núi cũng giống như vậy: “Đức Chúa Jêsus xem
thấy đoàn dân đông, bèn lên núi kia; khi Ngài đã ngồi, thì các môn đồ đến gần. Ngài bèn mở
miệng mà truyền dạy rằng:…” (Mat. 5:1-2). Từ phần giới thiệu này chúng ta biết rằng bài giảng
trên núi dành trực tiếp cho những người đang theo Ngài chứ không phải chỉ các môn đồ của Ngài.
Thông thường những mẹo giải nghĩa của tác giả cũng xuất hiện ở phần kết luận của
câu chuyện. Trong Mác 4, câu chuyện lên đỉnh điểm bằng câu hỏi của các môn đồ trong câu cuối:
“Vậy thì người nầy là ai, mà gió và biển cũng đều vâng lịnh người?” Câu hỏi này để lại cho độc
giả một ấn tượng đặc biệt: Mác muốn độc giả của mình biết rằng Chúa Giê-xu hơn cả một ra-bi
(“thầy”). Ngài có uy quyền thiêng liêng trên cả những lực lượng mạnh mẽ của thiên nhiên.
Trong câu chuyện Chúa Giê-xu gặp người trai trẻ giàu có trong Mat. 19, câu cuối
cùng như sau: “Song có nhiều kẻ ở đầu sẽ nên rốt, và nhiều kẻ ở rốt sẽ nên đầu” (19:30). Chúa
Giê-xu đảo lộn giá trị của thế giới. Những người từ bỏ mọi sự để theo Ngài bây giờ không còn lo
lắng nữa. Bây giờ họ có trước hết là Nước của Đức Chúa Trời.
Thỉnh thoảng, tác giả sách Phúc Âm cũng thêm một phần trong dấu ngoặc đơn để làm
rõ hơn ý nghĩa chủ định của câu chuyện. Trong Mác 7:1-23 Chúa Giê-xu đối diện với người Pha-
ri-si và các thầy thông giáo về vấn đề sự tinh sạch. Mác sau đó thêm vào những từ này: “Vả, sự
đó không vào lòng người, nhưng vào bụng, rồi bị bỏ ra nơi kín đáo, như vậy làm cho mọi đồ ăn
được sạch” (7:19). Bằng lời giải thích này, Mác nói lên được ứng dụng của câu chuyện cho độc
giả của mình. Điều làm cho một người tinh sạch hay không tinh sạch nằm ở tấm lòng chứ không
phải dạ dày.
Trong câu chuyện khi Giăng và Phi-e-rơ chạy tới ngôi mộ trống, Phi-e-rơ chạy trước.
Kinh thánh nói rằng khi Giăng bước vào mộ sau, ông “thấy và tin” (Giăng 20:8). Tác giả sách
Phúc  m này giải nghĩa thêm: “Vì chưng hai người chưa hiểu lời Kinh Thánh rằng Đức Chúa
Jêsus phải từ kẻ chết sống lại” (Giăng 20:9). Câu này giải thích rằng vào thời điểm đó, đức tin
của Giăng không dựa vào việc đọc Kinh Thánh Cựu ước nhưng dựa vào việc thấy vải liệm mà
không có xác; ngôi mộ trống, Chúa Giê-xu đã sống lại, Giăng thấy và tin.
Bạn có thể tìm thấy những nguyên tắc thần học trong câu chuyện nhờ sự giúp đỡ của
chính tác giả. Thông thường bạn sẽ tìm thấy những chỉ dẫn rõ ràng như vậy trong phần giới thiệu
hay phần kết luận của câu chuyện hay là trong phần mở ngoặc của tác giả.
139
c. Ghi lại bất cứ điều gì được lặp lại trong câu chuyện.
Những câu chuyện thường dùng từ lặp lại để chuyển tải lẽ thật thần học. Khi bạn đọc
những phân đoạn riêng trong các sách Phúc Âm, hãy để ý đến những từ hay điểm được lặp đi lặp
lại. Khi bạn đọc Giăng 15, bạn để ý đến từ “ở trong” được lặp đi lặp lại nhiều lần. Trong Ma-thi-
ơ 23 từ “khốn thay” được lặp chuyển tải một giọng điệu không thể nhầm lẫn đâu được để cảnh
cáo độc giả. Trong Mat. 5, Chúa Giê-xu lặp lại sự độc đáo của lời dạy của Ngài bằng câu: “Các
ngươi có nghe lời phán rằng…Song ta nói cùng các ngươi…”.
Khi tác giả Phúc  m lặp lại một từ hay chủ đề hay khi một nhân vật nào đó nổi bật
thì hãy chú ý đến. Tác giả đang dùng sự lặp lại để trình bày lẽ thật quan trọng nào đó, đừng bỏ
mất nó. Bạn thấy chủ đề nào được lặp đi lặp lại trong Luca 12: 22-34 bên dưới? Gạch dưới
những từ hay ngữ lặp lại chủ đề đó).
22 Đức Chúa Jêsus bèn phán cùng môn đồ rằng: Ấy vậy, ta nói cùng các ngươi, đừng vì sự
sống mà lo đồ mình ăn, cũng đừng vì thân thể mà lo đồ mình mặc. 23 Sự sống trọng hơn
đồ ăn, thân thể trọng hơn đồ mặc. 24 Hãy xem con quạ: nó không gieo, không gặt, cũng
không có hầm vựa kho tàng chi, mà Đức Chúa Trời còn nuôi nó; huống chi các ngươi quí
hơn chim chóc là dường nào! 25 Có ai trong các ngươi lo lắng mà làm cho đời mình dài
thêm một khắc không? 26 Vậy nếu đến việc rất nhỏ các ngươi cũng không có thể được sao
các ngươi lo việc khác? 27 Hãy xem hoa huệ mọc lên thể nào: nó chẳng làm khó nhọc,
cũng không kéo chỉ; song ta phán cùng các ngươi, dầu vua Sa-lô-môn sang trọng đến đâu,
cũng không được mặc áo như một hoa nào trong giống ấy. 28 Hỡi kẻ ít đức tin, nếu loài cỏ
ngoài đồng là loài nay sống mai bỏ vào lò, mà Đức Chúa Trời còn cho mặc thể ấy, huống
chi là các ngươi! 29 Vậy các ngươi đừng kiếm đồ ăn đồ uống, cũng đừng có lòng lo lắng.
30 Vì mọi sự đó, các dân ngoại ở thế gian vẫn thường tìm, và Cha các ngươi biết các ngươi
cần dùng mọi sự đó rồi. 31 Nhưng thà các ngươi hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời, rồi
mọi sự đó sẽ được cho thêm. 32 Hỡi bầy nhỏ, đừng sợ chi; vì Cha các ngươi đã bằng lòng
cho các ngươi nước thiên đàng. 33 Hãy bán gia tài mình mà bố thí. Hãy sắm cho mình túi
không hư, và của báu không hề hao kém ở trên trời, là nơi kẻ trộm không đến gần, sâu mọt
không làm hư nát. 34 Vì của báu các ngươi ở đâu, thì lòng cũng ở đó.
d. Chú ý đến những câu nói trực tiếp trong câu chuyện.
Khi nhân vật nói trực tiếp, tức là những từ họ nói được đặt trong dấu ngoặc kép, thì
phải để ý đến. Khi để riêng những câu nói trực tiếp thì bạn thường có thể thấy được trọng tâm
của câu chuyện. Chú ý đến những câu nói trực tiếp trong Mác 4:35-41:
c.35: “Chúng ta hãy đi qua bờ bên kia”.
c.38: “Thầy ơi, thầy không lo chúng ta chết sao?”
140
c.39: “Hãy yên đi! Lặng đi!”
c.40: “Sao các ngươi sợ? Các ngươi không có đức tin sao?”
c.41: “Người này là ai mà sóng gió cũng vâng lệnh người?”
Trong câu chuyện Chúa Giê-xu hóa hình, chúng ta nghe tiếng phán của Đức Chúa
Trời: “Ngày là Con yêu dấu của ta, đẹp lòng ta mọi đường. Hãy nghe lời Con đó!” (Mat. 17:5).
Sau khi Chúa Giê-xu báo trước về sự chết của mình, những lời tái xác nhận của Đức Chúa Trời
có ý nghĩa rất lớn đối với các môn đồ. Họ đang tranh đấu với ý tưởng tại sao Đấng Mê-si-a phải
chết.
Một số phân đoạn khác cũng mô tả đặc biệt cuộc nói chuyện giữa các nhân vật chính.
Trong Giăng 4:4-26, chúng ta nghe cuộc nói chuyện giữa Chúa Giê-xu với người đàn bà Sa-ma-
ri. Có lẽ cuộc nói chuyện giữa một người đàn ông Do Thái với một người đàn bà Sa-ma-ri là một
cú sốc lớn về giá trị đối với nhiều người vì Giăng có ghi chú: “số là người Giu-đa không giao
thiệp với người Sa-ma-ri” (4:9). Khi học nội dung của cuộc đối thoại, bạn có thể thấy rõ điều
Giăng đang muốn chuyển tải đến độc giả của mình về Chúa Giê-xu. Những câu nói trực tiếp
thường chuyển tải sứ điệp thần học của câu chuyện.
Khi cố gắng nhận diện những nguyên tắc thần học trong những câu chuyện riêng
chúng ta phải hỏi những câu hỏi chuẩn, chú ý đến những hướng dẫn giải nghĩa của chính tác giả,
ghi lại những điều lặp lại và tập trung vào những câu nói trực tiếp bên trong câu chuyện.
2. Cách Đọc Một Loạt Câu Chuyện
Câu hỏi giải kinh thứ hai cần được hỏi khi đọc các sách Phúc Âm liên quan đến bối
cảnh xung quanh câu chuyện: “Tác giả Phúc  m muốn nói gì qua cách ông sắp xếp các câu
chuyện riêng lại với nhau?” Vì các tác giả Phúc  m không thể kể cho chúng ta mọi thứ về Chúa
Giê-xu nên họ chỉ chọn tư liệu và sắp xếp tư liệu đó để gởi cho các độc giả ban đầu (cả cho
chúng ta) một sứ điệp mạnh mẽ, thay đổi đời sống.
Có những hướng dẫn đáng tin nào để đọc một loạt câu chuyện không? Chúng tôi tin
rằng có một hướng dẫn căn bản có thể áp dụng trong nhiều cách khác nhau. Điều quan trọng
nhất khi đọc một loạt câu chuyện là tìm những kết nối. Đây chính xác là điều bạn đã thực tập
trong chương 4, sử dụng Mác 8. Tìm những chủ đề chung. Tìm những kết nối hợp lý như nhân-
quả. Để ý đến cách những chương kết hợp với nhau (ví dụ, những câu nói chuyển tiếp hay những
từ nối). Để ý đến những câu chuyện thay đổi điểm chính. So sánh các nhân vật, để ý đặc biệt đến
Chúa Giê-xu, nhân vật chính của các sách Phúc  m. Tập trung vào con người, chức vụ và lời
dạy của Ngài và cách người ta phản ứng lại với Ngài. Tìm những kết nối mà tác giả dùng sẽ giúp
chúng ta nhận ra được sứ điệp chủ ý của tác giả.
141
Hãy tìm những nối kết giữa Mác 4:35-41 và những câu chuyện xung quanh. Khi
chúng ta nhìn những gì xảy ra trước 4:35-41, chúng ta thấy một phần lớn các thí dụ của Chúa
Giê-xu bên bờ hồ (4:1). Hàng loạt thí dụ được thiết lập bằng từ “thí dụ” đầu tiên (4:2) và cuối
cùng (4:33-34) xác định rằng 4:1-34 có thể được xem là một đoạn thống nhất. Bắt đầu trong Mác
4:35, các thí dụ dừng lại và chúng ta thấy sự thay đổi về vị trí (từ bên cạnh bờ hồ đến chính hồ)
cũng như thính giả (từ đám đông đến các sứ đồ). Những thay đổi này cho thấy rằng Mác đang
bắt đầu một phần lớn khác trong 4:35. Do đó, chúng ta nên đọc câu chuyện về Chúa Giê-xu quở
sóng gió (4:35-41) với những cảnh theo sau hơn là những thí dụ đi trước.
Vậy thì Mác 4:35-41 kết nối với phần lớn hơn bắt đầu trong 4:35 và kết thúc trong 5:43 như thế
nào? Bảng sau tóm tắt lại sứ điệp của từng câu chuyện:
Mác 4:35-41 Mác 5:1-20 Mác 5:24b-34 Mác 5:21-24a
Mác 5:35-43
Chúa Giê-xu bày tỏ
quyền năng Ngài
trên biển và phản
ứng bằng đức tin
trong hoàn cảnh khó
khăn.
Chúa Giê-xu đuổi
một quân đội quỷ,
phục hồi một người
và sai người đó ra đi
như là một môn đệ
trung thành.
Chúa Giê-xu chữa
lành người đàn bà bị
bịnh băng huyết nhờ
tin và chạm vào Ngài,
sau đó bà đã xưng
nhận với Ngài.
Chúa Giê-xu kêu
con gái Gia-ru sống
lại từ kẻ chết trong
sự hiện diện của Phi-
e-rơ, Gia-cơ và
Giăng và cha mẹ của
cô gái.
Khi chúng ta tìm được những kết nối giữa những câu chuyện với nhau trong 4:35-
5:43, chúng ta để ý đến vào chủ đề chung.
Cuộc sống đầy khó khăn. Con người phải trải qua sự đe dọa của sự chết, sự tấn công của
sa tan, bịnh tật và sự chết.
Chúa Giê-xu thống trị trên các thế lực chống lại Đức Chúa Trời. Con người trong thế kỷ
thứ nhất sợ vài điều tương tự như chúng ta ngày nay: biển, ma quỷ, bịnh tật và sự chết.
Chúa Giê-xu có quyền trên những điều này.
Chúng ta nên tin cậy Chúa Giê-xu giữa những hoàn cảnh tuyệt vọng của cuộc đời. Nước
có thể nhấn chìm con thuyền, ma quỷ có thể không thối lui, băng huyết kéo dài mười hai
năm và con gái chết. Chủ đề chung đi xuyên suốt cả phần này là sự vô vọng trước nghịch
cảnh. Chúa Giê-xu kêu gọi chúng ta phải có đức tin. Ngài quở trách các môn đồ vì không
có đức tin giữa bão tố (4:40). Ngài khen người đàn bà bị băng huyết vì đã có đức tin
(5:34) và Ngài bảo Gia-rai đừng sợ những hãy tin (5:36).
Sứ điệp của Mác cho độc giả thế kỷ thứ nhất và cho chúng ta trở nên rõ ràng (xem bản
bên dưới):
142
Mác 4:35-41 Mác 5:1-20 Mác 5:24b-34 Mác 5:21-24a
Mác 5:35-43
Chúa Giê-xu bày tỏ
quyền năng Ngài trên
biển và phản ứng
bằng đức tin trong
hoàn cảnh khó khăn.
Chúa Giê-xu đuổi
một quân đội quỷ,
phục hồi một người
và sai người đó ra đi
như là một môn đệ
trung thành.
Chúa Giê-xu chữa lành
người đàn bà bị bịnh
băng huyết nhờ tin và
chạm vào Ngài, sau đó
bà đã xưng nhận với
Ngài.
Chúa Giê-xu kêu con
gái Gia-ru sống lại từ
kẻ chết trong sự hiện
diện của Phi-e-rơ, Gia-
cơ và Giăng và cha mẹ
của cô gái.
Qua công việc quyền năng của Ngài, Chúa Giê-xu bày tỏ chính Ngài có uy quyền trên
những thế lực chống nghịch với Đức Chúa Trời. Ma quỷ, bịnh tật và sự chết đem sự sợ hãi và vô
vọng vào lòng người. Các độc giả thế kỷ thứ nhất của Mác đang đối diện với sự bách hại và ghen
ghét. Qua loạt chuyện này, ông bảo đảm với họ rằng Chúa Giê-xu có quyền trên mọi điều họ sợ.
Ngài có thể làm câm lặng bão tố, Ngài có thể đuổi quỷ, Ngài có thể chữa lành bịnh tật và Ngài có
thể kêu kẻ chết sống lại. Họ cần phải tin cậy vào Ngài giữa những hoàn cảnh tuyệt vọng của cuộc
đời.
Như Mác tiếp tục trong 6:1-6a, Chúa Giê-xu trở về quê hương mình ở Na-xa-rét. Tại
đó Ngài bị những người tưởng chừng biết Ngài rõ nhất khước từ. “Đây có phải là gã thợ mộc
không?” Mác kết luận cay đắng cho sự vô tín và lạnh nhạt của họ: “Ở đó, Ngài không làm phép
lạ nào được, chỉ đặt tay chữa lành một vài người đau ốm; và Ngài lấy làm lạ vì chúng chẳng tin”
(6:5-6a). Thật là một đối lập buồn với sứ điệp hi vọng trong bốn câu chuyện trên (4:35-5:43).
3. Á p Dụng Sứ Điệp Của Sách Phúc  m
Hầu hết những điều chúng ta học trong chương 12 được áp dụng tại đây. Một điều
quan trọng nhất cần phải nhớ khi tìm cách áp dụng những lẽ thật từ những câu chuyện này là
luôn để mắt đến bối cảnh lớn hơn. Cho rằng Chúa Giê-xu có quyền trên những thế lực thù địch
không bảo đảm rằng Ngài sẽ luôn luôn giải cứu chúng ta khỏi bịnh ung thư hay tai nạn xe hơi
hay thiên tai. Chúng ta cần tin cậy Chúa Giê-xu trong mọi hoàn cảnh tuyệt vọng của cuộc đời,
nhưng phần còn lại của Kinh Thánh và cả lịch sử minh chứng rằng sự giải cứu của Chúa ở nhiều
hình thức khác nhau. Có khi Ngài giải cứu chúng ta khỏi nguy hiểm tức thì qua sự chữa lành hay
bảo vệ. Có khi Ngài giải cứu chúng ta khỏi nguy hiểm tức thì qua việc kêu kẻ chết sống lại. Khi
Phao-lô nói trong II Tim. 4:18 rằng: “Chúa sẽ giải thoát ta khỏi mọi điều ác và cứu vớt ta vào
trong nước trên trời của Ngài”, ông đang nói về sự giải cứu tối cao cuối cùng vì theo truyền
thống thì chính ông tuận đạo.
Làm sao chúng ta có thể áp dụng đúng những câu chuyện trong Mác 4-5? Trong số
những nạn nhân sóng thần tại Nhật Bản xảy ra năm 2011, chắc chắn có những Cơ Đốc Nhân.
Làm sao sứ điệp của Mác 4-5 áp dụng cho những Cơ Đốc Nhân này? Hãy nhớ những nguyên tắc
143
thần học trong những câu chuyện này: (a) cuộc đời đầy khó khăn, (b) Chúa Giê-xu tể trị trên mọi
thế lực thù nghịch với Đức Chúa Trời và (c) chúng ta nên tin vào Chúa Giê-xu trong mọi hoàn
cảnh của cuộc đời.
Nguyên tắc đầu tiên dễ áp dụng: Cuộc đời đầy khó khăn! Cơ Đốc Nhân không nên
mong chờ một ngoại lệ nào đối với những hoàn cảnh khó khăn của cuộc sống như là bịnh tật và
sự chết.
Nguyên tắc thứ hai thì khó áp dụng hơn. Nếu Chúa Giê-xu dẹp yên cơn bão thì tại sao
Ngài không “dẹp yên cơn bão” cho những người bạn của chúng ta? Chúng ta hãy trở lại với bối
cảnh lớn hơn. Ngay khi còn trên đất, Chúa Giê-xu không chữa lành mọi kẻ đau hay kêu mọi kẻ
chết sống lại. Những độc giả đầu tiên của Mác đang đối diện với những sự ghen ghét của thế
gian vì sống trung tín ở giữa thế gian sa ngã này. Khi Mác chuyển tải rằng Chúa Giê-xu tể trị
trên các thế lực chống đối với Đức Chúa Trời thì chúng ta tin rằng ông đang có ý cho độc giả của
mình hiểu điều này theo nghĩa cao nhất. Những phép lạ của Chúa Giê-xu cho thấy trước những
gì sẽ xảy ra và nhìn thấy cuộc đời sẽ như thế nào khi Chúa trở lại.
Sứ điệp của toàn bộ Tân Ước rõ ràng đối với những người có mối quan hệ với Đức
Chúa Trời qua Chúa Giê-xu: Vào lúc đó “Ngài sẽ lau ráo hết nước mắt khỏi mắt chúng, sẽ không
có sự chết ,cũng không có than khóc, kêu ca, hay là đau đớn nữa; vì những sự thứ nhất đã qua rồi”
(Khải 21:4). Nếu bạn xem sự áp dụng này là trống rỗng và không hợp lý, bạn thấy thế nào khi
bạn đối diện với cùng khó khăn trong đời này mà không có sự giúp sức từ Đức Thánh Linh hay
thân thể của Đấng Christ và không có hi vọng trên trời?
Điều này dẫn chúng ta đến nguyên tắc thứ ba: tin cậy vào Chúa Giê-xu. Khi chúng ta
nói về đức tin, chúng ta đang nói đến sự tin cậy hoàn toàn vào Chúa Giê-xu. Đức tin có nghĩa là
nương nơi Chúa Giê-xu ngay cả những hoàn cảnh trước mắt dường như nghịch lại với chính
mình. Dù cho sự giải cứu là tức thì hay lâu dài, chúng ta cũng phải tin cậy vào Chúa Giê-xu vì
Chúa Giê-xu là thành tín.
Chúng ta hãy cùng trở lại Lu-ca 10 để làm ví dụ áp dụng. Một nguyên tắc chúng ta
tìm thấy trong Lu-ca 10: 25-37 là yêu người lân cận mình vượt qua mọi rào cản của con người.
Ngay cả trong các trường Cơ Đốc cũng xuất hiện những sự phân biệt đối xử vì điều kiện kinh tế,
sự thông minh hay những kỹ năng xã hội… Câu chuyện này kêu gọi chúng ta yêu theo cách của
Chúa để vượt qua những rào cản này – kết bạn với những người “ít hấp dẫn hơn”, giúp đỡ những
người bạn cùng lớp đang gặp khó khăn….Chúa Giê-xu dạy chúng ta trong câu chuyện này rằng
không có một công việc tôn giáo nào có thể chấp nhận nếu chúng ta khước từ yêu người lân cận
mình.
Trong câu chuyện của Ma-ri và Ma-thê trong Lu-ca 10:38-42, chúng ta khám phá ra
nguyên tắc rằng làm điều tốt cho Chúa có khi khiến chúng ta đánh mất Chúa. Á p dụng điều này
thì không khó. Hãy xem những câu hỏi này. Chúng ta có dành thời gian để lắng nghe lời Chúa
144
đều đặn mỗi ngày không? Chúng ta có say mê công việc của Hội Thánh đến nỗi không có thời
gian cho Chúa không? Chúng ta có học cách để nói không với một vài điều tốt để nói có với điều
tốt nhất của Đức Chúa Trời không? Chúa Giê-xu mong muốn mối quan hệ.
Tóm lại, chúng ta học được rằng chúng ta nên đọc các sách Phúc Âm theo cách đã
được sắp xếp của tác giả. Các tác giả Phúc  m viết (1) để kể những câu chuyện về Chúa Giê-xu
và (2) để gởi một sứ điệp cho độc giả của mình (ví dụ tin cậy thay vì sợ hãi) theo cách họ đã sắp
xếp những câu chuyện nhỏ lại với nhau thành một câu chuyện lớn. Bây giờ chúng ta cùng chú ý
đến những hình thức văn chương mà chúng ta sẽ gặp khi đọc các sách Phúc  m.
Những Hình Thức Văn Chương Đặc Biệt Trong Các Sách Phúc  m
Một trong những lý do mà lời dạy của Chúa Giê-xu hấp dẫn đến lạ thường là vì Ngài
dùng những hình thức văn chương và kỹ năng văn chương để chuyển tải sứ điệp của Ngài cho
chúng ta. Chúng ta không thể thảo luận tất cả những hình thức này nhưng chúng tôi muốn cung
cấp vài hướng dẫn để hiểu cách dùng những câu hỏi tu từ, ẩn dụ, sự tương đương, hình thức nói
quá… của Chúa Giê-xu.
Hình Thức Cường Điệu
Một trong những hình thức mà Chúa Giê-xu thường dùng là hình thức cường điệu
(nói quá) để liên hệ với thính giả và chuyển tải ý của Ngài. Hình thức cường điệu xảy ra khi một
lẽ thật được nói quá để đạt được hiệu quả tối đa của mình đến một mức mà thính giả nghe đến
phải phì cười. Ví dụ như: “Tôi đói quá đến nỗi phải ăn hết một con bò”. Người này thật sự
không thể ăn hết con bò, nhưng chuyển tải sứ điệp là người này quá đói. Sau đây là vài ví dụ:
“Vậy nếu con mắt bên hữu xui cho ngươi phạm tội, thì hãy móc mà quăng nó cho xa
ngươi đi; vì thà chịu một phần thân thể ngươi phải hư, còn hơn là cả thân thể bị ném
vào địa ngục. Lại nếu tay hữu xui cho ngươi phạm tội, thì hãy chặt mà liệng nó cho xa
ngươi đi; vì thà chịu một phần thân thể ngươi phải hư, còn hơn là cả thân thể vào địa
ngục” (Mat. 5:29-30).
Nếu có ai đến theo ta mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh em, chị em mình, và chính sự
sống mình nữa, thì không được làm môn đồ ta (Lu-ca 14:26).
Hỡi các con, những kẻ cậy sự giàu có vào nước Đức Chúa Trời khó là dường nào! Con
lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Đức Chúa Trời. (Mác 10:24a-
25).
Khi bạn tìm thấy tính cường điệu trong các sách Phúc  m thì đừng cố giải nghĩa theo
nghĩa đen, còn không bạn sẽ đánh mất ý nghĩa thật của đoạn Kinh Thánh. Hãy tưởng tượng làm
145
sao móc con mắt của mình thì hết ham muốn. Chúng ta học Kinh Thánh nghiêm túc nhưng
không phải lúc nào cũng theo nghĩa đen. Ngôn ngữ hình bóng có thể mang ý nghĩa sống động.
Khi bạn gặp tính cường điệu, hãy hỏi câu hỏi đơn giản: “Điều mà tác giả thật sự
muốn nói là gì?” Trong Mat. 5:29-30, Chúa Giê-xu phán bảo những người theo Ngài phải có
hành động dứt khoát với tội dâm dục. Trong Lu-ca 14:26, Chúa Giê-xu nhấn mạnh đến tình yêu
của chúng ta quá lớn đến nỗi vượt trên cả tình cảm tự nhiên của mình đối với những thành viên
của gia đình mình và ngay cả chính mình. Trong Mác 10:24b-25, Chúa Giê-xu dùng hình thức
cường điệu để chỉ ra rằng người giàu vào nước trời khó là dường nào.
Phép Ẩn Dụ và Ví Von
Khi Chúa Giê-xu phán với các môn đệ của Ngài rằng: “Các người là muối của đất”
(Mat. 5:13) hay với thầy dạy luật rằng: “các người giống như mồ mả tô trắng” (Mat. 23:27), Ngài
đang dùng ẩn dụ và phép ví von. Cả hai phương tiện văn chương này thuộc thể so sánh. Theo
phép ẩn dụ, sự so sánh gián tiếp còn với phép ví von thì trực tiếp hơn khi dùng những từ “giống
như” hay “như”. Các sách Phúc Âm đầy những phép ẩn dụ và ví von. “Hãy khôn ngoan như rắn
và đơn sơ như chim bò câu” (Mat. 10:16). “Ta là bánh của sự sống” (Giăng 6:35)….
Khi giải nghĩa các ẩn dụ và ví von, đặc biệt chú ý đến điểm so sánh chủ định. Các sứ
đồ được ví như muối để nhấn mạnh đến trách nhiệm ngăn chặn sự sa đọa của xã hội. Các thầy
thông giáo được ví như là mô mả tô trắng để nói rằng bên ngoài thì có vẻ thiêng liêng nhưng bên
trong thì đầy dẫy gian tà. Bạn nắm lấy ý của tác giả. Tìm so sánh được tác giả chủ ý và bạn tìm ý
nghĩa của ẩn dụ hay ví von. Nó có thể giúp bạn nhìn thấy được những cách ngôn thường mang
ảnh hưởng cảm xúc.
Cẩn thận đừng tập trung quá mức vào các chi tiết của so sánh. Dù là gián tiếp trong
phép ẩn dụ hay trực tiếp trong phép ví von, sự so sánh thường giữa những điều khác nhau (ví dụ:
Chúa Giê-xu với bánh). Chúng được so sánh để tạo nên một ý tưởng. Khi nhấn mạnh quá mức,
sự so sánh sẽ vỡ và sẽ mất điểm chính.
Tính Khôi Hài
Tính khôi hài nằm trong nguyên tắc đối lập – đối lập giữa những gì được mong đợi và
những gì thật sự xảy ra. Bạn có thể nói rằng có một nút xoắn không mong đợi trong câu chuyện.
Một số người nghe câu chuyện của Ma-ri và Ma-thê lần đầu có thể mong đợi Chúa Giê-xu bảo
Ma-ri đứng dậy và giúp chị mình, nhưng, như bạn biết, điều đó không xảy ra. Trong Mác 4-5,
người bị quỷ ám được chữa lành trong tâm trí trong khi đó bầy heo bị quỷ ám nhào xuống biển,
cùng một biển tạo nên cơn bão.
146
Bạn sẽ nhìn thấy tính khôi hài trong nhiều câu chuyện của Chúa Giê-xu. Hãy xem
những ẩn dụ sau trong Lu-ca 12:16-21:
16 Ngài lại phán cùng chúng lời ví dụ nầy: Ruộng của một người giàu kia sinh lợi
nhiều lắm, 17 người bèn tự nghĩ rằng: Ta phải làm thể nào? Vì không có đủ chỗ chứa
hết sản vật. 18 Lại nói: Nầy, việc ta sẽ làm: ta phá cả kho tàng và cất cái khác lớn hơn,
thâu trữ sản vật và gia tài vào đó; 19 rồi sẽ nói với linh hồn ta rằng: Linh hồn ơi, mầy
đã được nhiều của để dành dùng lâu năm; thôi, hãy nghỉ, ăn uống, và vui vẻ. 20 Song
Đức Chúa Trời phán cùng người rằng: Hỡi kẻ dại! Chính đêm nay linh hồn ngươi sẽ bị
đòi lại; vậy những của cải ngươi đã sắm sẵn sẽ thuộc về ai? 21 Hễ ai thâu trữ của cho
mình mà không giàu có nơi Đức Chúa Trời thì cũng như vậy.
Mục đích giải kinh chính trong trường hợp khôi hài là chú ý đến nó trước hết. Sau khi
bạn tìm thấy tính khôi hài, để thời gian phát hiện ra điểm chuyển tiếp không được mong đợi của
các sự kiện. Có sự đối lập nào? Điều gì nếu những điều này xảy ra như mong đợi? Điểm xoắn
trong câu chuyện bày tỏ điều gì về những mong đợi của chúng ta?
Những Câu Hỏi Tu Từ
Chúa Giê-xu rất thích hỏi những câu hỏi tu từ. Những câu hỏi tu từ này nhấn mạnh
điểm muốn nói mà không cần phải trả lời. Ví dụ:
Nếu các ngươi yêu những kẻ yêu mình, thì có được thưởng gì đâu? Những kẻ thâu thuế
há chẳng làm như vậy sao? (Mat. 5:46)
Có ai trong các ngươi lo lắng mà làm cho đời mình dài thêm một khắc không? (Mat.
6:27)
Sao các ngươi sợ? Chưa có đức tin sao? (Mác 4:40)
Các ngươi tưởng ta đến đem sự bình an cho thế gian sao? (Luca 12:51)
Khi bạn gặp câu hỏi tu từ thì đừng cố gắng trả lời. Cách tốt nhất để giải nghĩa những
câu hỏi tu từ là biến câu hỏi thành câu khẳng định. Hãy nhìn cách chúng tôi chuyển những ví dụ
trên thành câu khẳng định:
Các ngươi không được thưởng vì chỉ yêu những người yêu mình (Mat. 5:46)
Các người không thể làm cho đời mình dài thêm một khắc vì lo lắng (Mat. 6:27)
Các người sợ và vẫn chưa có đức tin (Mác 4:40).
Ta không đến để đem sự bình an cho thế gian (Luca 12:51)
147
Bằng cách chuyển câu hỏi thành câu khẳng định, bạn có thể dễ dàng nhận thấy ý
Chúa Giê-xu muốn chuyển tải cho chúng ta.
Hình Thức Song Song
Hình thức song song trong thơ ca là một sự biểu lộ mà chúng ta sử dụng để mô tả
một mối quan hệ giữa hai dòng hay nhiều hơn trong đoạn Kinh Thánh. Cách dùng song song này
nhắc chúng ta phải đọc các dòng cùng với nhau như là một ý tưởng chung, không chia các dòng
riêng ra. Những dòng thuộc về nhau và chúng ta nên đọc cùng với nhau. Đây là đặc điểm chính
của thơ ca trong Cựu ước và chúng ta sẽ thảo luận cụ thể hơn đặc điểm này trong chương 19.
Dầu vậy, bạn cũng có thể gặp hình thức song song này trong các sách Phúc  m:
Đồng nghĩa – những dòng này nói cùng một thứ căn bản tương tự nhau:
Hãy xin sẽ được,
Hãy tìm sẽ gặp,
Hãy gõ cửa, cửa sẽ mở cho. (Mat. 7:7)
Vì chẳng có điều chi kín mà không phải lộ ra,
chẳng có điều chi giấu mà không phải rõ ràng. (Mác 4:22)
Đối lập- Dòng thứ hai đối lập với dòng thứ nhất:
Vì sẽ ban thêm cho kẻ nào có;
nhưng kẻ nào không có, sẽ bị cất lấy điều mình đã có. (Mác 4:25)
Người lành do nơi đã chứa điều thiện mà phát ra điều thiện;
nhưng kẻ dữ do nơi đã chứa điều ác mà phát ra điều ác. (Mat. 12:35)
Tăng tiến- Dòng thứ hai lặp lại dòng thứ nhất, sau đó mở rộng ý của dòng thứ nhất tới
đỉnh điểm:
Ai rước các ngươi, tức là rước ta;
ai rước ta, tức là rước Đấng đã sai ta. (Mat.10:40)
Phàm những kẻ Cha cho ta sẽ đến cùng ta,
kẻ đến cùng ta thì ta không bỏ ra ngoài đâu. (Giăng 6:37)
148
Phúng Dụ
Một phúng dụ là một câu chuyện với hai mức độ ý nghĩa. Tại đó, những chi tiết nhất
định trong câu chuyện đại diện cho một điều khác (ví dụ: trong thí dụ về người con trai hoang
đàng, người cha đại diện cho Đức Chúa Trời). Điều khó là làm sao biết bao nhiêu chi tiết trong
câu chuyện chỉ về những điều khác.
Qua nhiều thế kỷ, một số Cơ Đốc Nhân quá tự do trong việc dùng hầu như mọi chi
tiết trong từng câu chuyện để chỉ về một điều gì đó. Có lẽ minh họa nổi tiếng nhất về phúng dụ
hóa là câu chuyện về người Sa-ma-ri nhân lành do Augustine giải nghĩa:
Người đi xuống thành Giê-ri-cô = A-đam
Thành Giê-ru-sa-lem = thành trên trời mà từ đó A-đam thất bại
Thành Giê-ri-cô = mặt trăng (chỉ về sự tạm bợ của A-đam)
Những tên cướp = ma quỷ và các quỷ sứ nó
Đánh = lấy đi sự vĩnh cữu của ông
Đập = thuyết phục ông phạm tội
Để cho nửa sống nửa chết = một người đang sống nhưng chết về phần thuộc linh.
Do đó, người đó nửa sống nửa chết.
Thầy tế lễ và người Lê-vi = chức tế lễ và chức vụ của họ trong Cựu Ước
Người Sa-ma-ri = Chính Đấng Christ
Rịt lành vết thương = rịt lành vết thương tội lỗi
Rượu = lời khuyên dạy để hành động thuộc linh
Con lừa = xác thịt của sự nhập thể của Đấng Christ
Nhà quán = Hội thánh
Hai đơ-ni-ê = lừa hứa về sự sống đời này và sự sống đời sau
Người chủ quán = sứ đồ Phao-lô
Bạn có thể thấy tại sao hướng giải kinh này có vấn đề. Dường như không có nhà giải
kinh nào đồng ý với những chi tiết chính xác như vậy. Vì bỏ qua bối cảnh nên người giải kinh
149
chẳng có liên hệ gì đến chủ ý của Chúa Giê-xu cho khán giả ban đầu của mình. Trong phúng dụ
hóa của Augustine, ông đánh mất điểm trọng tâm của Chúa Giê-xu là yêu người lân cận.
Kể từ cuối thế kỷ 19, phần lớn các học giả Tân ước khẳng định rằng mỗi thí dụ chỉ có
một điểm chính thôi, và nó thường đến ở phần cuối. Nhưng “qui luật một điểm” giới hạn ý nghĩa
nhiều mà Chúa Giê-xu chủ định không? Lấy ví dụ người con trai hoang đàng. Một điểm là gì?
Một điểm này đến trong đầu bạn liên quan đến đứa con phản loạn, người anh ghen tị hay người
cha tha thứ không? Bạn có thật sự muốn lấy chỉ một và nói rằng Chúa Giê-xu không có ý định
nói về hai người kia không? Hướng một điểm này không thích hợp với chúng ta.
Chúng tôi đề nghị hai nguyên tắc giải nghĩa thí dụ của Chúa Giê-xu”
(1) Tìm một điểm chính cho từng nhân vật chính hoặc một nhóm các nhân vật. Hầu hết các
thí dụ thường có một hoặc hai điểm nhưng thường không quá ba điểm chính. Tất cả
những chi tiết khác hỗ trợ trong câu chuyện. Nhìn ví dụ về người con trai hoang đàng
(Lu-ca 14:11-32), chúng ta có thể nhìn thấy được hướng dẫn giải kinh này giúp chúng ta
nhận ra ba điểm chính, mỗi điểm cho một nhân vật.
Đứa con hoang đàng Những tội nhân có thể xưng tội mình và trở về với Đức
Chúa Trời trong sự ăn năn.
Người cha tha thứ Đức Chúa Trời tha thứ cho người không xứng đáng
Người anh ghanh tị Những người xưng mình là dân sự của Đức Chúa Trời
không nên ganh tị khi Chúa mở rộng ân điển mình cho
những người không xứng đáng.
Sau đây là nguyên tắc áp dụng trong thí dụ về người Sa-ma-ri (Lu. 10:25-37):
Người bị tên cướp
đánh
Ngay cả những kẻ thù (ở đây là người Sa-ma-ri) có thể bày tỏ
tình yêu
Những nhà lãnh đạo
Do Thái
Ngay cả trách nhiệm tôn giáo cũng không thể biện hộ cho sự
thiếu yêu thương
Người Sa-ma-ri Ngay cả một “người ngoại bang đáng ghét” cũng có thể phục
vụ như là một kiểu mẫu của tình yêu.
(2) Những điểm chính mà bạn khám phá phải là những điểm mà thính giả gốc của Chúa Giê-
xu hiểu. Nếu bạn đến một điểm mà độc giả của Chúa Giê-xu không nắm được, bạn có thể
đã mất điểm đó. Điều này giúp chúng ta không đọc các thí dụ của Chúa Giê-xu mà Ngài
không có chủ định từ lúc đầu.
(3) Bất cứ khi nào chúng ta đọc các sách Phúc  m, chúng ta phải bày tỏ cách chúng ta áp
dụng sứ điệp cho đời sống của chúng ta. Khi chúng ta thật sự nắm bắt được lời của Ngài,
chúng ta phải phải áp dụng.
150
Kết Luận
Đức Chúa Trời ban cho chúng ta bốn sách Phúc  m về Chúa Giê-xu Christ – Ma-thi-
ơ- Mác – Lu-ca và Giăng. Khi chúng ta đem những sách Phúc  m này vào Hành Trình Giải
Kinh, nhận ra rằng chúng ta đang liên quan đến tiểu sử Đấng Christ – những câu chuyện về
Chúa Giê-xu được kể với mục đích nhất định là quan trọng. Để băng qua được cây cầu nguyên
tắc, chúng ta nên hỏi hai câu hỏi quan trọng: Sứ điệp chính của từng đoạn là gì? Và Tác giả Phúc
Âm đang cố gắng chuyển tải điều gì qua cách sắp xếp những câu chuyện nhỏ lại với nhau?
Chúng ta có thể tìm thấy những nguyên tắc từ cả hai mức độ, chúng ta đã học cách đọc những
câu chuyện riêng và một loạt câu chuyện.
Chúng ta cũng học được trong chương này rằng nắm bắt được Lời của Chúa không
dừng lại khi chúng ta băng qua dòng sông cách biệt giữa độc giả thời Kinh Thánh và ngày nay.
Chúng ta phải học cách làm sao chúng ta có thể áp dụng những lẽ thật vĩ đại này của Phúc  m
vào đời sống của chúng ta. Một số người áp dụng trực tiếp thì không khó nhưng đối với một số
người thì phức tạp và khó khăn. Chúng ta cảm tạ Chúa vì các sách Phúc  m được viết ra để
chúng ta có thể lấy, đọc và áp dụng chúng bất cứ lúc nào. Khi chúng ta nắm lấy Lời của Chúa,
chúng ta cũng cảm nhận chính Đức Chúa Trời cũng đang ôm lấy chúng ta và dùng chúng ta cho
sự vinh hiển của danh Ngài.
151
Chương 15
Tân Ước - Công Vụ Các Sứ Đồ
Lời Giới Thiệu
Trong khi chúng ta có bốn sách Phúc  m về cuộc đời và chức vụ của Chúa Giê-xu,
chúng ta chỉ có một sách về sự ra đời và phát triển của Hội Thánh đầu tiên. Điều này khiến cho
sách Công Vụ Các Sứ Đồ độc đáo và không thể thay thế. Đây là câu chuyện về sự bành trướng
của Cơ Đốc Giáo trong thế giới thời Tân Ước. Theo truyền thống, sách này là cầu nối giữa các
sách Phúc Âm và các thư tín Tân Ước. Vì Lu-ca tập trung vào Phi-e-rơ, Phao-lô và những nhân
vật ít tiếng tăm như Ê-tiên và Phi-líp nhiều hơn là mười hai sứ đồ nên tựa đề của sách này là:
“Công Vụ Tiếp Nối Của Chúa Giê-xu Bởi Đức Thánh Linh Qua Các Sứ Đồ và Những Nhà Lãnh
Đạo Cơ Đốc Ban Đầu Khác”. Tựa đề này quá dài nên nó được rút lại thành “Công Vụ”. Sách
Công Vụ cho chúng ta biết cách Đức Chúa Trời hành động qua Hội Thánh đầu tiên để thay đổi
thế giới.
Trong sách Công Vụ, chúng ta đọc về sự giáng lâm của Chúa Thánh Linh trên các tín
hữu, về bài giảng của Phi-e-rơ trong ngày lễ Ngũ Tuần có tới hàng ngàn người được cứu, về
những dấu kỳ phép lạ, và về một cộng đồng Cơ Đốc sống động. Chúng ta đọc về Ê -tiên tuận đạo,
về Phi-líp đem tin lành đến Sa-ma-ri và về những chuyến hành trình truyền giáo nổi tiếng của
Phao-lô, cuối cùng đưa ông đến La-mã. Trong Phúc âm Lu-ca, Chúa Giê-xu phải đi đến Giê-ru-
sa-lem để hoàn tất sự cứu rỗi cho toàn thế giới. Trong sách Công Vụ, tin lành cứu rỗi đó lan từ
Giê-ru-sa-lem đến cùng thế giới. Là một ghi nhận cách Tin lành đắc thắng từ Giê-ru-sa-lem đến
La-mã, sách Công Vụ được gói trong quyền phép thiêng liêng và cuộc phiêu lưu thiêng thượng.
Ai không muốn đọc sách Công Vụ?
Cùng với sự phiêu lưu, sách Công Vụ thách thức về giải kinh. Sách Công Vụ liên
quan đến Phúc  m Lu-ca như thế nào? (hai sách này có cùng một tác giả). Sách Công Vụ chỉ là
một ghi nhận của những gì đã xảy ra (lịch sử) hay nó cũng phát huy niềm tin Cơ Đốc về Đức
Chúa Trời (thần học)? Tại sao Lu-ca viết sách Công vụ và sứ điệp của nó liên hệ với chúng ta
như thế nào? Quan trọng nhất, chúng ta nhận được sứ điệp của sách Công Vụ bằng cách nào?
Câu hỏi cuối cùng này đặc biệt vì khuynh hướng của chúng ta là lý tưởng hóa hội
thánh đầu tiên, nghĩ về nó lớn hơn cả sự sống. Chúng ta quên rằng hội thánh đầu tiên gồm những
con người có tội, yếu đuối và nhiều vấn đề - những người giống như chúng ta. Chúng ta có
khuynh hướng nhìn vào sách Công vụ như là tiêu chuẩn cho mọi thời đại. Điều này nổi lên câu
hỏi giải nghĩa trọng tâm liên quan đến việc nắm bắt được sứ điệp của Công Vụ: Chúng ta có nên
xem sách Công Vụ như là chuẩn mực để hội thánh trong mọi thời đại noi theo kinh nghiệm và
công việc của Hội thánh đầu tiên không? Hay chúng ta đọc sách Công Vụ chỉ như là bảng mô tả
những điều giá trị và linh cảm trong Hội thánh đầu tiên mà không cần thiết phải liên kết với
152
chúng ta ngày nay? Trong chương này chúng ta sẽ gặp những câu hỏi giải nghĩa này và cung cấp
cho bạn hiểu biết trong việc đọc một trong những câu chuyện phiêu lưu thật của mọi thời đại.
Sách Công Vụ: Cái Hậu của Lu-ca
Hầu hết các học giả tin rằng tác giả của Phúc  m Lu-ca cũng là tác giả của sách Công
Vụ và họ tin rằng ông cố tình viết thành một tác phẩm với hai phần: Luca-Công Vụ. Ban đầu hai
sách này được lưu hành trong các hội thánh bằng một sách mà thôi, nhưng trong thế kỷ thứ hai,
Phúc  m Lu-ca kết hợp với ba sách Phúc  m khác và sách Công vụ bắt đầu lưu hành một mình.
Có những bằng chứng cho thấy Lu-ca dự định kết hợp hai sách này thành một trong khi ông kể
chuyện:
1. So sánh những câu mở đầu của cả hai sách:
1 Hỡi Thê-ô-phi-lơ quí nhân, vì có nhiều kẻ dốc lòng chép sử về những sự đã làm
nên trong chúng ta, 2 theo như các người chứng kiến từ lúc ban đầu và trở nên
người giảng đạo đã truyền lại cho chúng ta, 3 vậy, sau khi đã xét kỹ càng từ đầu
mọi sự ấy, tôi cũng tưởng nên theo thứ tự viết mà tỏ ra cho ông, 4 để ông biết
những điều mình đã học là chắc chắn. (Luca 1:1-4)
1 Hỡi Thê-ô-phi-lơ, trong sách thứ nhất ta, ta từng nói về mọi điều Đức Chúa
Jêsus đã làm và dạy từ ban đầu, 2 cho đến ngày Ngài được cất lên trời, sau khi
Ngài cậy Đức Thánh Linh mà răn dạy các sứ đồ Ngài đã chọn. (Công vụ 1:1-2)
Lu-ca nói “trong sách thứ nhất ta” trong Công vụ 1:1 rõ ràng chỉ về Phúc  m Lu-ca.
Ô ng viết trong Lu-ca “ta từng nói về mọi điều Đức Chúa Jêsus đã làm và dạy từ ban đầu”. Trong
sách sau này (Công vụ), Lu-ca tiếp tục câu chuyện bằng cách chỉ cho thấy Chúa Giê-xu đã hành
động như thế nào bởi Đức Thánh Linh qua hội thánh của Ngài. Hơn nữa, bạn thấy rằng Lu-ca
gởi cả hai sách này cho Thê-ô-phi-lơ.
2. Có những cầu trúc và chủ đề song song giữa hai sách.
Một số chủ đề nổi bật trong Phúc  m Lu-ca lại xảy ra trong Công vụ (ví dụ, sự cầu
nguyện, công việc của Chúa Thánh Linh, tin lành cho mọi người). Có những phép lạ trong Công
Vụ gần giống với những phép lạ trong Lu-ca (so sánh sự chữa lành Ê -nê trong Công vụ 9:32 và
sự chữa lành người bại trong Luca 5:17-26; kêu Ta-bi-tha sống lại trong Công 9:43 với kêu con
gái Giai-ru sống lại trong Lu-ca 8:40-42, 49-56). Cả Lu-ca và Công vụ đều mô tả về chủ đề hành
trình. Trong Luca, Chúa Giê-xu đi từ Giê-ru-sa-lem đến thập tự giá (Luca 9:51,33; 17:11;18:31;
19:41). Trong Công vụ Phao-lô thực hiện nhiều hành trình mà cao điểm là hành trình từ Giu-đê
đến La-mã để giải trình trước Sê-sa (Công. 27-28).
153
3. Có một sự trùng khớp giữa phần kết của sách Lu-ca và phần đầu của sách Công Vụ.
Lời của Chúa Giê-xu với các sứ đồ trong Lu-ca 24:49 - “Còn về phần các ngươi, hãy
đợi trong thành cho đến khi được mặc lấy quyền phép từ trên cao” – được ứng nghiệm trong
Công 1-2. Khi Chúa Giê-xu phán về sự ăn năn và tha thứ tội lỗi được giảng ra trong danh của
Ngài cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem (Lu-ca. 24:47), thì chúng ta nghĩ ngay đến Công
vụ 1:8. Có lẽ đáng để ý nhất là phần thăng thiên của Chúa Giê-xu trong cả Lu-ca ca (24:51) và
Công vụ (1:9-11). Chỉ có hai nơi trong Tân Ước mô tả lại sự kiện này.
Lu-ca kết nối sách Phúc  m và Công vụ lại với nhau như là hai phần của một sách.
Đức Chúa Trời hành động mạnh mẽ trong Cựu ước và bày tỏ chính mình Ngài trong Chúa Giê-
xu thì bây giờ đang hành động trong Đức Thánh Linh của Ngài. Lu-ca trình bày cho chúng ta câu
chuyện vĩ đại về sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Do đó, chúng ta luôn nhớ khi đọc sách Công vụ,
chúng ta phải bắt đầu từ sách Lu-ca. Những điều Chúa Giê-xu đã bắt đầu làm trong chức vụ của
Ngài trên đất thì bây giờ Ngài tiếp tục hành động qua những người được đầy dẫy Đức Thánh
Linh. Trước khi đọc sách Công vụ, bạn nên dành thời gian để đọc sách Lu-ca.
Sách Công Vụ Thuộc Loại Gì?
1. Sách Công Vụ là một Câu Chuyện
Giống như các sách Phúc Âm, sách Công vụ là một câu chuyện. Bạn nhớ rằng khi
chúng tôi mô tả các sách Phúc  m là tiểu sử thần học. Các tác giả Phúc  m viết với hai mục
đích chính: (a) kể về Chúa Giê-xu và (b) gởi một sứ điệp cho các độc giả của họ theo cách họ sắp
xếp những câu chuyện riêng thành một câu chuyện lớn hơn. Vì sự liên hệ chặt chẽ này, chúng ta
có thể mong đợi hai sách này có những điểm giải kinh chung. Nhiều người cho rằng cách chúng
ta đọc các sách Phúc Âm cũng có thể áp dụng cho sách Công vụ nữa, gồm cả hai câu hỏi giải
nghĩa. Sự khác nhau là các sách Phúc  m tập trung vào một con người, Giê-xu người Na-xa-rét
còn câu chuyện trong Công vụ tập trung vào vài nhà lãnh đạo hội thánh then chốt, mà chủ yếu là
Phi-e-rơ và Phao-lô.
2. Sách Công Vụ là Lịch Sử Thần Học
Như Lu-ca mở rộng góc nhìn của mình từ Chúa Giê-xu trong các sách Phúc Âm đến
các nhà lãnh đạo hội thánh đầu tiên, ông chuyển từ tiểu sử thần học trong sách Phúc  m của
mình sang lịch sử thần học trong sách Công vụ. Lu-ca là một nhà sử học. Ông đã soạn một bảng
lịch sử đáng tin về những gì đã xảy ra trong quá trình bành trướng của tin lành. Chúng ta cũng
không nên nghĩ rằng Lu-ca chấp nhận tất cả những gì đã xảy ra. Như trong các sách lịch sử trong
Cựu ước, có lúc con người làm những điều không đẹp lòng Chúa. Khi Phao-lô mô tả một điều gì
đó xảy ra (ví dụ, Phao-lô cãi với Ba-na-ba trong Công. 15:36-40), chúng ta cần hiểu là chúng ta
không phải chấp nhận điều này.
154
Lu-ca cũng là một nhà thần học. Ô ng kể câu chuyện của mình với mục đích phát triển
đức tin Cơ Đốc. Ô ng có thể vừa là nhà sử học vừa là nhà thần học được không? Chúng ta tin như
vậy. Tất cả các bản viết lịch sử đều có sự chọn lọc (tức là bạn không thể kể mọi điều) và được
viết từ nhãn quan đức tin. Các nhà sử học không phải là người quan sát trung dung mà không có
bất cứ hệ thống đức tin nào. Họ là con người và có quan điểm giống như chúng ta. Quan điểm
của họ ảnh hưởng đến cách họ giải nghĩa sự kiện, chọn lọc những điều nên cho vào và ấn định
câu chuyện. Trong Công vụ, Lu-ca cung cấp một lịch sử chính xác và đáng tin nhưng ông đã thu
thập và sắp xếp tư liệu của mình với mục đích thần học.
Ví dụ, trong các bài giảng trong Công vụ, Lu-ca kể lại những gì thật sự xảy ra với
mục đích thần học. Những bài giảng chiếm khoảng một phần tư đến một phần ba của sách. Điều
này làm cho sách Công vụ thật sự là một sự tiếp tục mọi điều Chúa Giê-xu đã làm và dạy. Chúng
ta không nên cho rằng tất cả các bài giảng của sách Công vụ được ghi lại trọn vẹn từng chữ vì (a)
Lu-ca không có mặt để nghe lại hết từng bài giảng, (b) ông chẳng có máy ghi âm và (c) Những
bài giảng quá ngắn. Ví dụ cho điểm cuối này, trong Công vụ 3, Phi-e-rơ bắt đầu giảng ngay sau
ba giờ chiều (3:1) và dừng lại cho đến buổi tối 4:3, nhưng Lu-ca chỉ dùng có mười lăm câu để
ghi lại bài giảng dài của Phi-e-rơ (3:12-26). Những bài giảng này là những tóm tắt đáng tin cậy
của những gì thật sự đã nói đến. Lu-ca không tạo nên chúng nhưng ông ghi lại bằng chính ngôn
ngữ của ông để phát triển mục đích thần học của mình về sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời.
Làm sao chúng ta có thể nhận biết được những mục đích thần học đó khi đọc sách
Công vụ? Nói tổng quát hơn, làm sao chúng ta đặt thần học trong câu chuyện? Chúng ta sử dụng
nhiều nguyên tắc giống như chúng ta đã sử dụng để tìm nguyên tắc thần học trong các Sách Phúc
 m. Chúng ta hỏi những câu hỏi chuẩn, chú ý đến những lời chỉ dạy của tác giả, tập trung vào
những lời trích dẫn trực tiếp….
Có lẽ một hướng dẫn hữu ích nhất để nắm bắt được những lẽ thật thần học của sách
Công vụ là tìm những chủ đề được lặp lại. Trong những chủ đề chính của sách Công vụ, bạn có
thể thấy Lu-ca đang thiết kế mục đích thần học của mình. Khi bạn tìm được những mục đích thần
học của Lu-ca, bạn sẽ tìm thấy trọng tâm của sứ điệp của ông cho độc giả ban đầu của mình và
cho chúng ta. Bây giờ chúng ta hãy cùng xem vài chủ đề chính trong sách Công vụ.
Tại Sao Lu-ca Viết Sách Công Vụ?
Lu-ca khẳng định mục đích viết sách Lu-ca-Công vụ của mình trong vài câu đầu của
sách Phúc  m của mình. Cả hai được viết cho Thê-ô-phi-lơ, có lẽ là một người mới qui đạo và
có địa vị trong xã hội để ông biết chắc chắn những điều đã được học. Có lẽ Thê-ô-phi-lơ không
hiểu rõ hết lời dạy của Phúc âm. Lu-ca viết sách này để khuyến khích Thê-ô-phi-lơ và những
người khác để ông hiểu trọn vẹn hơn về đức tin mới của mình.
155
Chúng ta có thể nghĩ về sách Công vụ như là bảng chỉ dẫn dễ hiểu về huấn luyện môn
đồ, được dùng để làm vững đức tin của những tân tín hữu. Lu-ca đã cho họ thấy những gì Đức
Chúa Trời đã hứa trong Cựu ước được ứng nghiệm trong Chúa Giê-xu và giờ đây tiếp tục hành
động. Tóm lại, Đức Thánh Linh mặc quyền phép cho Hội Thánh (cả cho người Giu-đa lẫn người
ngoại bang) để đem Tin Lành của Chúa Giê-xu Christ cho thế giới (Công. 1:8).
Đức Thánh Linh → Hội Thánh → Tin Lành → Thế Giới
Đây là lịch sử hội thánh tốt nhất, được mô tả để khẳng định cho các Cơ Đốc Nhân
rằng họ là phần của chương trình vĩ đại của Đức Chúa Trời. Chúng ta có thể nghe Lu-ca nói rằng:
“quý vị đang đi đúng hướng. Quý vị là một phần quan trọng của những gì Đức Chúa Trời đang
thực hiện. Đừng bỏ cuộc!” Mục đích lớn của Lu-ca được chia thành những mục đích hay chủ đề
phụ: Chúng ta cùng xem những chủ đề này:
1. Đức Thánh Linh
Tất cả sự kiện bắt đầu với Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời. trong Công vụ 1
Chúa Giê-xu hứa rằng Cha sẽ sai Đức Thánh Linh xuống. Vào ngày Lễ Ngũ Tuần (công 2) Đức
Thánh Linh đã giáng xuống ở trong và mặc quyền phép cho các sứ đồ của Chúa Giê-xu. Phần
còn lại của sách là phần ghi lại những hành động hay công việc của Chúa Thánh Linh qua Hội
Thánh. Đức Thánh Linh mặc lấy quyền phép cho tín hữu để làm chứng (4:8,31), hướng dẫn họ
(8:29, 39; 10:19; 16:6-7; 20:22), phá vỡ ngăn cách (10:44-46), biệt riêng tín hữu cho truyền giáo
(13:2)…. Những gì Chúa Giê-xu bắt đầu làm (sách Phúc  m) Ngài sẽ tiếp tục làm qua Đức
Thánh Linh.
2. Quyền Tể Trị của Đức Chúa Trời
Khi chúng ta đọc sách Công vụ, chúng ta có cảm nhận rõ rằng Đức Chúa Trời đang tể
trị. Kinh Thánh Cựu ước được ứng nghiệm khi Đức Chúa Trời làm thành kế hoạch của Ngài (vd,
1:16; 3:16-21,25-28,34-35; 4:24-25; 13:32-37,47). Ý muốn của Đức Chúa Trời được hoàn tất
qua Chúa Giê-xu (2:23-24) và mục đích của Ngài được hoàn thành qua dân sự Ngài. Ngài cai trị
trên việc tù đày (4: 23-31), trên kế hoạch đi lại của con người (16:6-10), trên tòa công luận Giu-
đa (23:11) và ngay cả trên những cơn bão tố dữ tợn (27:13-44) để hoàn thành công việc của Ngài.
Các sứ đồ làm những dấu kỳ phép lạ bằng quyền phép của Đức Chúa Trời. Công việc tể trị của
Ngài là vì sứ điệp tin lành, không phải lúc nào cũng dễ chịu đối với các sứ giả của Ngài.
156
3. Hội Thánh
Đức Thánh Linh hành động chính yếu qua hội thánh để hoàn thành ý muốn của Ngài.
Như những phần tóm tắt sau minh họa, Đức Thánh Linh tạo nên một cộng đồng khỏe mạnh và
năng động. Tại đó người ta thờ phượng Đức Chúa Trời, chăm sóc cho nhau, phát triển tâm linh
và tham gia vào truyền giáo:
42 Vả, những người ấy bền lòng giữ lời dạy của các sứ đồ, sự thông công của anh em,
lễ bẻ bánh, và sự cầu nguyện. 43 Mọi người đều kính sợ vì có nhiều sự kỳ phép lạ làm
ra bởi các sứ đồ. 44 Phàm những người tin Chúa đều hiệp lại với nhau, lấy mọi vật làm
của chung. 45 Bán hết gia tài điền sản mình mà phân phát cho nhau, tùy sự cần dùng
của từng người. 46 Ngày nào cũng vậy, cứ chăm chỉ đến đền thờ; còn ở nhà, thì bẻ
bánh và dùng bữa chung với nhau cách vui vẻ thật thà, 47 ngợi khen Đức Chúa Trời và
được đẹp lòng cả dân chúng. Mỗi ngày Chúa lấy những kẻ được cứu thêm vào Hội
thánh. (Công. 2:42-47)
32 Vả, người tin theo đông lắm, cứ một lòng một ý cùng nhau. Chẳng ai kể của mình
là của riêng; nhưng kể mọi vật là của chung cho nhau. 33 Các sứ đồ lại lấy quyền phép
rất lớn mà làm chứng về sự sống lại của Đức Chúa Jêsus Christ; và hết thảy đều được
phước lớn. 34 Vì trong tín đồ không ai thiếu thốn cả, bởi những người có ruộng hay
nhà, đều bán đi, bán được bao nhiêu tiền cũng đem đến 35 đặt dưới chân các sứ đồ; rồi
tùy theo sự cần dùng của mỗi người mà phát cho. (Công 4:32-35)
4. Sự Cầu Nguyện
Như trong sách Phúc Âm Lu-ca, sự cầu nguyện là chủ đề chính trong sách Công vụ.
Các tín hữu đầu tiên được xem như là những con người cầu nguyện và bạn thấy họ cầu nguyện
trong từng chương của Công vụ. Hội thánh được khai sinh trong buổi cầu nguyện (1:14). Họ cầu
nguyện khi đối diện với sự chống đối và nguy hiểm (4:24; 12:5;16:25;18:9). Họ cầu nguyện xin
sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời (1:24;9:11;22:17,18). Họ cầu nguyện cho nhu cầu thuộc linh
của nhau (8:15;19:6). Họ chăm sóc người bịnh và người vô vọng qua sự cầu nguyện (9:40;
16:16;28:8). Họ cầu nguyện khi họ sai những người đi làm những công việc đặc biệt
(6:6;13:3;14:23). Họ cầu nguyện khi chia tay (20:36; 21:5). Họ cầu nguyện khi đối diện với sự
chết (7:59,60). Sự cầu nguyện là trọng tâm của sự sống của hội thánh đầu tiên.
157
5. Sự Đau Khổ
Khi chúng ta đọc thấy những điều kỳ diệu mà Đức Chúa Trời làm trong sách Công vụ,
chúng ta thấy cái giá mà Cơ Đốc Nhân đầu tiên phải trả. Họ chịu tù đày, đánh đập và bị khước từ;
họ đối diện với những đám đông nổi loạn, với những cơn bão, với sự bách hại và ngay cả với sự
chết (vd, 5:41;7:59-60; 9:15-16;12:4;14:22;16:22-23;20:23-24;21:30-33;27:13-44). Lời của
Phao-lô cho các trưởng lão tại thành Ê-phê-sô trở thành chuẩn cho niềm tin Cơ Đốc: đau khổ là
qui luật chứ không phải là ngoại lệ:
23 duy Đức Thánh Linh đã bảo trước cho tôi rằng từ thành nầy sang thành khác dây
xích và hoạn nạn đang đợi tôi đó. 24 nhưng tôi chẳng kể sự sống mình là quí, miễn
chạy cho xong việc đua tôi và chức vụ tôi đã lãnh nơi Đức Chúa Jêsus, để mà làm
chứng về Tin Lành của ơn Đức Chúa Trời. (20:23-24)
6. Người Ngoại Bang
Trong Công vụ, Tin lành đến với người Giu-đa trước nhất nhưng nhanh chóng lan ra
“đến cùng trái đất” – đến với dân ngoại. (từ người ngoại bang chỉ về những người không thuộc
Do Thái). Dân Y-sơ-ra-ên thật của Đức Chúa Trời được cấu thành từ người Do thái và người
ngoại bang, là những người tin nhận Chúa Giê-xu là Đấng Christ. Trong ngày lễ Ngũ Tuần, Phi-
e-rơ trích tiên tri Giô-ên: “Ta sẽ đổ thần ta khắp trên mọi loài xác thịt… và hễ ai kêu cầu danh
Chúa thì sẽ được cứu” (2:17b,21). Sau đó Phi-e-rơ nhận rằng Đức Chúa Trời quan tâm đặc biệt
đến việc truyền giáo cho dân ngọai. Sau khi thấy Đức Thánh Linh giáng trên người Sa-ma-ri
(8:14-17) và dân ngoại (10:1-48), ông xưng nhận rằng: “Quả thật, ta biết Đức Chúa Trời chẳng
hề vị nể ai, nhưng trong các dân, hễ ai kính sợ Ngài và làm sự công bình, thì nấy được đẹp lòng
Chúa.” (10:34-35). Diễn tiến trong sách Công vụ là từ Giê-ru-sa-lem đển Rô-ma, từ Phi-e-rơ đến
Phao-lô, từ chỉ người Giu-đa đến người Giu-đa và ngoại bang.
7. Lời Chứng
Các sứ đồ tập trung lời chứng của họ vào sự phục sinh của Chúa Giê-xu từ trong kẻ
chết (vd. 1:8,22;2:32-36;4:2,20,33; 5:20,32,42; 10:39-41). Công vụ 3:15: “các ngươi đã giết
Chúa của sự sống, mà Đức Chúa Trời đã khiến từ kẻ chết sống lại, và chúng ta là người làm
chứng về điều đó” là tiêu biểu. Đức Thánh Linh không chỉ ban quyền phép của Ngài cho các sứ
đồ. Ê -tiên trung thành trong sự làm chứng (tuận đạo) cho đến cuối cùng (6:8-8:1; 22:20). Phi-líp
giảng về: “Tin Lành của nước Đức Chúa Trời và danh Đức Chúa Jêsus Christ” (8:12,35,40).
Phao-lô được chính Đấng Phục sinh sai đi giảng tin lành cho người ngoại (9:15) và lời chứng của
ông chiếm một nửa còn lại của sách Công vụ. Sứ điệp của Lu-ca trong sách Công vụ là rõ ràng:
Theo Chúa Giê-xu nghĩa là trung thành làm chứng cho Ngài.
158
Sách Công Vụ Được Sắp Xếp Như Thế Nào?
Công vụ 1:8 là chìa khóa để hiểu được toàn sách được sắp xếp như thế nào: “Nhưng
khi Đức Thánh Linh giáng trên các ngươi, thì các ngươi sẽ nhận lấy quyền phép, và làm chứng
về ta tại thành Giê-ru-sa-lem, cả xứ Giu-đê, xứ Sa-ma-ri, cho đến cùng trái đất.” Tin Lành của
Chúa Giê-xu trước hết được giảng cho người Giu-đa trong và quanh thành Giê-ru-sa-lem (ch. 1-
12) trước khi lan đến người ngoại bang (ch. 13-28). Dàn bài bên dưới trình bày sách Công vụ của
Lu-ca mở mang sự đắc thắng của tin lành từ Giê-ru-sa-lem (trung tâm của Y-sơ-ra-ên) đến Rô-
ma (trung tâm của đế quốc).
1-12 Truyền Giáo cho người Giu-đa
1 Chuẩn bị cho ngày lễ Ngũ Tuần Tại Giê-ru-sa-lem
2 Ngày lễ Ngũ Tuần: Đức Thánh Linh giáng lâm
3-4 Đức Thánh Linh hành động qua các sứ đồ
5-6 Những đe dọa đến Hội Thánh
6-8 Ê -tiên, người tuận đạo đầu tiên ở Giu-đê và Sa-ma-ri
8 Nhà truyền giáo Phi-líp
9 Phao-lô qui đạo
9-11 Chức vụ của Phi-e-rơ vượt ra ngoài Giê-ru-sa-lem
11 Cơ Đốc Giáo đến An-ti-ốt
12 Tin lành được lan rộng dầu có nhiều trở ngại
13-18 Truyền Giáo cho dân Ngoại
13-14 Hành trình truyền giáo thứ nhất của Phao-lô Đến cùng trái đất
15 Giáo Hội Nghị Giê-ru-sa-lem
15-18 Hành trình truyền giáo thứ hai của Phao-lô
18-21 Hành trình truyền giáo thứ ba của Phao-lô
21-23 Lời chứng của Phao-lô tại Giê-ru-sa-lem
24-26 Lời chứng của Phao-lô tại Sê-sa-rê
27-28 Lời chứng của Phao-lô tại Rô-ma
159
Trong khi Phi-e-rơ là nhân vật chính trong công cuộc truyền giáo cho người Giu-đa
trong Công vụ 1-12 thì sự chú ý lại chuyển qua Phao-lô trong Công vụ 13-28 khi Tin lành được
truyền đến “cùng trái đất” (1:8). Thật sự nhân vật chính trong tất cả các nhân vật sách Công vụ là
Đức Thánh Linh, Đấng hành động qua cả Phao-lô và Phi-e-rơ. Chúng ta thấy điều này khi chúng
ta so sánh một vài điểm tương đương giữa Phi-e-rơ và Phao-lô trong sách Công vụ. (Tại đây
chúng ta có một ví dụ khác về cách một tác giả Kinh Thánh dùng kỹ năng so sánh của mình để
chuyển một câu chuyện).
Phi-e-rơ Phao-lô
Bài giảng của Phi-e-rơ trong lễ Ngũ Tuần
(2:22-29)
Bài giảng của Phao-lô tại thành An-ti-ốt,
Pi-si-đi (13:26-41)
Chữa lành người què (3:1-10) Chữa lành người què (14:8-11)
Rúng động tòa nhà qua sự cầu nguyện (4:31) Rúng động tòa nhà qua sự ngợi khen
(16:25-26)
Quở trách A-na-nia và Sa-phi-ra (5:1-11) Quở trách Ê-ly-ma (13:8-12)
Chữa lành qua bóng của Phi-e-rơ (5:15-16) Chữa lành qua chiếc khăn của Phao-lô
(19:11-12)
Đặt tay (8:17) Đặt tay (19:6)
Quở trách thầy phù thủy Si-môn (8:18-24) Quở trách thầy phù thủy Giu-đa (13:6-11)
Kêu Ta-bi-tha sống lại (9:36-42) Kêu Ơ-tích sống lại (20:7-12)
Tháo xiềng trong tù (12:5-7) Tháo xiềng trong tù (16:25-28)
Hơn nữa, Lu-ca dừng lại một chút sau mỗi câu chuyện để tóm tắt sự tiến triển của Tin
Lành và sự phát triển của cộng đồng Cơ Đốc. Có năm tóm tắt như vậy:
6:7: “Đạo Đức Chúa Trời càng ngày càng tràn ra, số môn đồ tại thành Giê-ru-sa-lem thêm lên
nhiều lắm. Cũng có rất nhiều thầy tế lễ vâng theo đạo nữa.”
9:31: “Ấy vậy, Hội-thánh trong cả xứ Giu-đê, xứ Ga-li-lê và xứ Sa-ma-ri được hưởng sự bình an,
gây dựng và đi trong đường kính sợ Chúa, lại nhờ Đức Thánh Linh vùa giúp, thì số của hội được
thêm lên.”
12:24: “Bấy giờ, đạo Đức Chúa Trời tấn tới rất nhiều, càng ngày càng tràn thêm ra.”
16:5 “Ấy vậy, các Hội thánh được vững vàng trong đức tin, và số người càng ngày càng thêm lên.”
19:20: “Ấy vậy, nhờ quyền phép của Chúa, đạo bèn đồn ra, càng ngày càng được thắng”
160
Trong chính những câu cuối (28:30-31) khi Phao-lô đang ở Rô-ma, Lu-ca viết:
Phao-lô ở trọn hai năm tại một nhà trọ đã thuê. Người tiếp rước mọi người đến thăm
mình, giảng về nước Đức Chúa Trời, và dạy dỗ về Đức Chúa Jêsus Christ cách tự do
trọn vẹn,chẳng ai ngăn cấm người hết.
Trong bản Hy-lạp, từ “chẳng ai ngăn cấm người hết” thật sự là từ cuối cùng của sách
này. Đây thật sự là một sự kết thúc có chủ ý. Phao-lô bây giờ có lẽ đang ở trong tù nhưng tin
lành của Chúa Giê-xu Christ tiến lên…mà không ai ngăn trở được.
Nắm Lấy Sứ Điệp Của Sách Công Vụ
Vì sách Công vụ thuộc loại văn kể chuyện nên chúng ta có thể giải nghĩa nó giống
như cách chúng ta giải nghĩa các sách Phúc  m. Hai câu hỏi giải nghĩa quan trọng: (1) sứ điệp
trọng tâm của từng đoạn là gì?(2) Lu-ca đang nói với độc giả điều gì qua cách sắp xếp những câu
chuyện và bài giảng lại với nhau để tạo thành câu chuyện lớn hơn?
Để tìm được những nguyên tắc thần học trong những đoạn riêng của sách Công vụ,
chúng ta phải tập trung vào những câu hỏi giải nghĩa chuẩn: Ai? Cái gì? Khi nào? Ở đâu? Tại
sao? Như thế nào? Những câu hỏi này cung cấp kế hoạch để hiểu bất cứ câu chuyện nào. Khi tìm
những nguyên tắc thần học trong nhiều đoạn liên tiếp, hãy tìm những kết nói giữa những câu
chuyện. Tại sao câu chuyện này lại được đặt ở đây? Độ dài của mỗi đoạn cho chúng ta biết Lu-
ca đang nghĩ gì? Trên hết, những chủ đề nào được lặp lại nhiều lần xuyên suốt sách Công vụ?
Khi đọc và áp dụng sách Công vụ, chúng ta đối diện với một thách thức giải kinh
chính mà chúng ta không gặp phải khi đọc các sách Phúc  m, dầu cả hai đều thuộc văn kể
chuyện. Trong các sách Phúc Âm, chúng ta đọc về Chúa Giê-xu và các sứ đồ đầu tiên mà không
mảy may nghĩ rằng mình cũng ở trong cùng hoàn cảnh như vậy. Chúng ta không bao giờ bước
vào thuyền với Chúa Giê-xu băng qua biển hay đi trên các đường phố Giê-ru-sa-lem. Tuy nhiên,
hoàn cảnh thì khác trong sách Công vụ. Từ các sách Phúc Âm đến sách Công vụ, có một sự
chuyển đổi lớn trong lịch sử Thánh Kinh từ giai đoạn chức vụ của Chúa Giê-xu đến giai đoạn
chức vụ của Đức Thánh Linh qua Hội thánh. Là những độc giả có đức tin, chúng ta là một phần
của Hội Thánh được Đức Thánh Linh hành động. Đây là phần hết sức quý báu!
Chúng ta có nên xem sách Công vụ như là mẫu mực để hội thánh trong mọi thời đại
noi theo kinh nghiệm và thực hành của hội thánh đầu tiên không? Hay chúng ta nên đọc sách
Công vụ chỉ là bảng mô tả những gì giá trị và cảm động trong hội thánh đầu tiên nhưng không
cần thiết phải liên hệ với chúng ta ngày nay không? Chắc chắn đây là vấn đề quan trọng nhất mà
chúng ta đối diện khi chúng ta học cách giải nghĩa sách Công vụ.
161
Một mặt, nếu chúng ta đọc sách Công vụ chỉ như là bảng mô tả thì tại sao chúng ta
phải đọc nó nhiều lần? Nếu là mô tả thôi thì có đóng góp gì cho chúng ta ngày nay không? Bên
cạnh đó, Lu-ca không để lại cho chúng ta một gợi ý nào là ông ta hiểu rằng thời của hội thánh
đầu tiên hoàn toàn là độc đáo và không thể lặp lại. Mặc khác, nếu chúng ta xem sách Công vụ là
chuẩn mực, chúng ta có phải lặp lại tất cả hoạt động của hội thánh đầu tiên, như là vô đạo đức, tà
giáo không? Chúng ta có phải thống nhất quyết định bằng việc bốc thăm không? Chúng ta có
phải góp chung của cải không? Đức Chúa Trời có đoán phạt chúng ta giống như Ngài đoán phạt
A-na-nia và Sa-phi-ra không? Chúng ta nên đọc sách Công vụ như chuẩn mực hay là mô tả?
Trong việc thực hiện Hành Trình Giải Kinh trong sách Công vụ, chúng tôi tin rằng cả
hai hướng đều có thể được áp dụng (tức là, xem một số phần của sách Công vụ như chuẩn mực
và một số phần khác là mô tả). Điều này có nghĩa là băng qua cây cầu nguyên tắc trong sách
Công vụ thật sự phức tạp. Khó khăn này nằm ở chỗ biết cái nào là chuẩn mực cho hội thánh ngày
nay và cái nào là không phải. Dựa trên căn bản nào chúng ta quyết định? Nếu chúng ta không
thông suốt vấn đề này, chúng ta chắc chắn sẽ chọn dựa trên cảm giác của mình. Chúng tôi muốn
cung cấp một số hướng dẫn để xác định cái nào trong sách Công vụ là chuẩn mực cho hội thánh
ngày nay.
1. Tìm những điều Lu-ca có chủ định để chuyển tải cho độc giả.
Khi chúng ta tìm thấy sứ điệp mà Lu-ca dự định thì chúng ta có thể tìm được ý nghĩa
chuẩn của đoạn Kinh Thánh. Ví dụ trong Công. 8, chúng ta đọc về sự qui đạo và báp têm của
người Sa-ma-ri và hoạn quan Ê-thi-ô-pi trong chức vụ của Phi-líp. Sau khi đọc phân đoạn này
chúng ta hỏi nhiều câu hỏi. Bản chất phù thủy là gì? Tại sao Đức Thánh Linh không đến với
người Sa-ma-ri vào thời điểm họ tin? Si-môn có mất sự cứu rỗi hay không bao giờ được cứu
không? Thiên sứ của Đức Chúa Trời phán với Phi-líp bằng cách nào? Bao nhiêu nước cần để báp
têm? Khi đoạn Kinh Thánh cho biết: “Đức Thánh Linh của Chúa đem Phi-líp đi”, điều này có
nghĩa là gì?
Đây là những câu hỏi tốt nhưng chúng không phải là trọng tâm của những điều Lu-ca
chủ định để chuyển tải trong chương này. Chúng ta đồng ý với Klein, Blomberg và Hubbard viết
về chủ định của Lu ca trong Công. 8:
Đoạn này xảy ra trong phần dàn bài của Lu-ca, tập trung vào cách tin lành bắt đầu rời
khỏi địa phận người Giu-đa. Do đó, hai hình ảnh nổi bật trong đoạn 8 trong sứ điệp của
Phi-líp trước hết bởi người Sa-ma-ri và sau đó là hoạn quan, cả hai đều bị người Giu-đa
truyền thống xem là ô uế . Do đó, áp dụng chính của Công 8 cho đời sống Cơ Đốc ngày
nay không nên tập trung vào thời điểm Đức Thánh Linh đến và hiệu quả của việc đó,
cũng không tập trung vào chi tiết bao nhiêu nước cho việc báp têm hay sự qui đạo diễn ra
nhanh thế nào. Nhưng những phân đoạn này kêu gọi mọi Cơ Đốc nhân hôm nay xác định
ai là người Sa-ma-ri và hoạn quan trong thế giới của chúng ta. Chức vụ Cơ Đốc không
162
được từ bỏ những người “thấp hèn” ngày nay – nạn nhân SIDA, người vô gia cư, những
người mẹ độc thân ….6
Chúng ta không phải lúc nào cũng có thể biết được chủ định của Lu-ca, nhưng chúng
ta có thể tìm những chủ đề chung nối những câu chuyện lại với nhau. Tại đây chúng ta sẽ khám
phá sứ điệp của Lu-ca cho độc giả của ông (và cho chúng ta). Chúng ta có thể hỏi: “Người Sa-
ma-ri và vị hoạn quan có điểm gì chung?” Người Sa-ma-ri là “dân tạp” còn vị hoạn quan là
người bị khước từ; Cả hai nhóm người này đều bị xem là thấp hèn về tôn giáo và xã hội ở một
mức độ nào đó. Sứ điệp chuẩn của Lu-ca là Tin Lành của Chúa Giê-xu Christ đập tan mọi rào
cản của con người. Chính những rào cản này ngăn trở con người đến với Đức Chúa Trời. Đức
Chúa Trời chấp nhận chúng ta không phải vì chúng ta có một thân thể hoàn hảo hay được sinh ra
ở một khu vực nào trên thế giới này, nhưng vì những điều Ngài đã làm cho chúng ta thông qua
Con Ngài là Chúa Giê-xu. Chủ định của tác giả nên đi trước tất cả sự tò mò của chúng ta khi tìm
điều chuẩn trong sách Công vụ.
2. Tìm những gương tích cực và tiêu cực trong các nhân vật của câu chuyện.
Lu-ca muốn chúng ta noi theo những nhân vật tích cực giống như Ê-tiên, Ba-na-ba,
Ly-đi và Si-la, nhưng không muốn chúng ta đi vết xe đỗ của A-na-nia, Sa-phi-ra, thầy phù thủy
Si-môn và vua Ạt-ríp-ba. Lu-ca có lẽ chủ định rằng tất cả những điều mà các Cơ Đốc nhân thực
hiện trong câu chuyện của sách Công vụ nên xem là chuẩn mực cho các thế hệ Cơ Đốc tương lai.
Điều này không phải lúc nào cũng đúng (vd. Giăng Mác bỏ cuộc trong 13:13; 15:38), nhưng đó
là qui luật tốt.
Chỉ dẫn về việc làm theo vai trò kiểu mẫu tích cực và tránh những kiểu mẫu tiêu cực
này dấy lên một vấn đề quan trọng khi nói đến các sứ đồ. Chỉ có một ngoại lệ trong Công
14:4,14, nơi mà Phao-lô và Ba-na-ba được gọi là sứ đồ, Lu-ca giới hạn từ sứ đồ chỉ cho mười hai
người được Chúa Giê-xu chọn. Phi-e-rơ giải thích về điều kiện để trở thành một sứ đồ trong
Công 1. Tại đây Ma-thia được chọn để thay thế Giu-đa:
21 Vậy, nội những kẻ đã theo cùng chúng ta trọn lúc Đức Chúa Jêsus đi lại giữa chúng
ta, 22 từ khi Giăng làm phép báp-tem cho đến ngày Ngài được cất lên khỏi giữa chúng
ta, phải có một người làm chứng cùng chúng ta về sự Ngài sống lại.
Theo nghĩa này, chức sứ đồ là duy nhất và không phải một điều gì đó mà chúng ta có
thể lặp lại. Hãy nhớ bước trong Hành Trình Giải Kinh, chúng ta nhận ra những khác biệt giữa
độc giả thời Kinh thánh và chúng ta. Chức sứ đồ là phần của dòng sông khác biệt. Đơn giản,
chúng ta không phải là sứ đồ. Chúng ta mong đợi Chúa làm những dấu kỳ, phép lạ qua các sứ đồ
ở một giai đoạn đặc biệt trong lịch sử cứu chuộc và thật đây là trường hợp, hầu hết các phép lạ
trong sách Công vụ qua tay của các sứ đồ.
6 Klein, Blomberg, and Hubbard, Biblical Interpretation, 346-47.
163
Nhưng Chúa cũng giúp cho Ê-tiên (6:8), Phi-líp 8:6) và Ba-na-ba (14:3; 15:12) để
làm dấu kỳ và phép lạ và những người này không phải là thành viên của mười hai sứ đồ ban đầu
(dầu Ba-na-ba được gọi là sứ đồ theo nghĩa rộng hơn). Mục đích của chúng tôi tại đây không
phải là giới hạn công việc của Đức Thánh Linh qua một phương pháp giải kinh, nhưng chúng tôi
không thấy Lu-ca đề cập là mỗi nhân vật trong Công vụ phải bày tỏ một phép lạ “của sứ đồ” để
được gọi là những môn đồ của Đấng Christ. Có nhiều nhân vật trong Công vụ làm gương tích
cực (chúng ta xem là kiểu mẫu) mà không làm “dấu kỳ, phép lạ”. Bạn cũng có thể thấy ấn tượng
đặc biệt khi đọc sách Công vụ là Lu-ca nhìn thấy phép lạ vĩ đại nhất là công việc siêu nhiên của
Đức Thánh Linh trong lòng người khi con người đáp lại tin lành của Chúa Giê-xu.
3. Đọc những phân đoạn nhỏ trong ánh sáng của cả câu chuyện lớn của sách Công vụ và
phần còn lại của Tân Ước.
Diễn tiến của cả câu chuyện cho thấy những giới hạn để xác định điều gì là chuẩn
mực trong những phần Kinh Thánh khác nhau. Chúng ta không nên cho một lời giải nghĩa nào là
chuẩn nếu nó không tôn trọng cả diễn tiến của cả câu chuyện. Ví dụ, bạn đang học Công. 19:1-7
và không hiểu rõ về câu hỏi của Phao-lô trong câu 2: “Từ khi anh em tin, có lãnh được Đức
Thánh Linh chăng?”
1 Trong khi A-bô-lô ở thành Cô-rinh-tô, Phao-lô đã đi khắp những miền trên, rồi
xuống thành Ê-phê-sô, gặp một vài người môn đồ ở đó. 2 Người hỏi rằng: Từ khi anh
em tin, có lãnh được Đức Thánh Linh chăng! Trả lời rằng: Chúng tôi cũng chưa nghe
có Đức Thánh Linh nào. Người lại hỏi: Vậy thì anh em đã chịu phép báp-tem nào? 3
Trả lời rằng: Phép báp-tem của Giăng. 4 Phao-lô bèn nói rằng: Giăng đã làm phép báp-
tem về sự ăn năn tội, mà truyền dân phải tin Đấng sẽ đến sau mình, nghĩa là tin Đức
Chúa Jêsus. 5 Chúng nghe bấy nhiêu lời, bèn chịu phép báp-tem nhân danh Đức Chúa
Jêsus. 6 Sau khi Phao-lô đã đặt tay lên, thì có Đức Thánh Linh giáng trên chúng, cho
nói tiếng ngoại quốc và lời tiên tri. 7 Cọng hết thảy độ mười hai người.
Chúng ta có nên giải nghĩa phân đoạn này để ủng hộ một sự qui đạo có hai giai đoạn
như là chuẩn mực cho mọi Cơ Đốc Nhân không? Nói cách khác, chúng ta có nên mong đợi mọi
Cơ Đốc Nhân trước hểt tin Chúa Giê-xu (giai đoạn 1) và sau đó mới nhận lãnh Đức Thánh Linh
(giai đoạn 2) không?
Khuôn khổ của câu chuyện lớn hơn trong Công 1:8 (Giê-ru-sa-lem, Giu-đê, Sa-ma-ri
và cùng trái đất) cho thấy rằng chúng ta không nên giải nghĩa một sự qui đạo với hai giai đoạn là
chuẩn. Khi bạn nhìn biểu đồ bên dưới, câu chuyện của sách Công vụ cho thấy Đức Thánh Linh
được ban xuống trên các tín hữu trong những giai đoạn thuộc quốc gia và giống người: trước hết
người Giu-đa, sau đó cho người Sa-ma-ri và cuối cùng cho người ngoại bang. Điều đơn giản là
cách mà câu chuyện trong lịch sử Kinh thánh mở ra.
164
Công vụ 2 Công vụ 8 Công vụ 10
Đức Thánh Linh đến trên Cơ
Đốc Nhân Giu-đa vào ngày lễ
Ngũ Tuần
Đức Thánh Linh đến trên Cơ
Đốc Nhân Sa-ma-ri
Đức Thánh Linh đến trên Cơ
Đốc nhân ngoại bang
Kể từ đoạn 10 trở đi, chúng ta chẳng thấy rào cản về chủng tộc nữa. Tin Chúa Giê-xu
và nhận lãnh Đức Thánh Linh là một kinh nghiệm duy nhất (Công. 11:17, Rô. 8:9b). Điều này
cũng đúng ngay cả trong Công vụ 19. Câu hỏi của Phao-lô xác định rằng “các môn đồ” ông gặp
ở thành Ê-phê-sô chưa phải là tín hữu của Chúa Giê-xu nhưng là môn đồ của Giăng Báp-tít. Họ
không nhận biết Lễ Ngũ Tuần và họ chỉ nhận phép báp têm của Giăng về sự ăn năn hơn là phép
báp têm trong danh Chúa Giê-xu. Tóm lại, họ vẫn cần xưng nhận Chúa Giê-xu là Đấng Christ và
nhận lãnh Đức Thánh Linh – và họ làm như vậy. Chúng tôi khích lệ bạn để toàn câu chuyện
trong sách Công vụ làm ranh giới cho những điều chuẩn trong những phân đoạn Kinh Thánh nhỏ.
4. Tìm những phần khác trong sách Công vụ để làm rõ điều nào là chuẩn.
Khi bạn đọc trong Công. 2:42-47 và 4:32-35 về hội thánh đầu tiên bán hết tài sản
mình và chia xẻ với những người khác, bạn có thể tự hỏi phải chăng sách Công vụ dạy rằng Cơ
Đốc nhân nên từ bỏ những tài sản riêng và góp vào làm của chung trong cộng đồng Cơ đốc. Có
điều gì đó về cảm nhận nhu cầu của những người khác, sự rộng rãi và tinh thần vâng phục khiến
chúng ta muốn đi theo gương của họ không? Sách Công vụ có dạy rằng sống cộng sản là chuẩn
cho một hội thánh Tân Ước thật trong mọi thời đại không? Thỉnh thoảng bạn sẽ tìm thấy câu trả
lời khi nhìn vào những phần khác của sách Công vụ.
Công vụ 5 có thể giúp giải quyết vấn đề trong đoạn 2 và 4. Trong 5:3-4, Phi-e-rơ đối
diện với A-na-nia về việc nói dối Đức Thánh Linh liên quan đến việc bán tài sản của mình:
3 Phi-e-rơ bèn nói với người rằng: Hỡi A-na-nia, sao quỉ Sa-tan đã đầy dẫy lòng ngươi,
đến nỗi ngươi nói dối cùng Đức Thánh Linh, mà bớt lại một phần giá ruộng đó? 4 Nếu
ngươi chưa bán ruộng đó, há chẳng phải là của ngươi sao? Khi bán rồi, giữ giá đó há
chẳng được sao? Điều đó nhập vào lòng ngươi thế nào? Ấy chẳng phải ngươi nói dối
loài người, bèn là nói dối Đức Chúa Trời.
Theo Phi-e-rơ, tài sản thuộc về A-na-nia trước khi bán và tiền thuộc về A-na-nia sau
khi bán. Ô ng không phải bán tài sản của mình cũng không phải dâng tiền từ việc bán đó để trở
thành một thành viên trung tín của cộng đồng. Công vụ 5 nói rõ rằng việc chia xẻ tài sản trong
cộng đồng Cơ Đốc đầu tiên là hoàn toàn tự nguyện. Do đó, chúng ta không thể kết luận rằng
sống cộng sản là chuẩn cho mọi hội thánh. Điều chuẩn có thể tìm thấy ở đây là sống rộng rãi để
165
đáp ứng nhu cầu của những thành viên khác trong cộng đồng Cơ Đốc. Thỉnh thoảng, chính bối
cảnh trong sách Công vụ chỉ rõ điều nào là chuẩn và điều nào là mô tả.
5. Tìm những chủ đề được lặp lại.
Có lẽ nguyên tắc quan trọng nhất để nhận ra điều nào là chuẩn cho hội thánh ngày
nay là tìm những chủ đề được lặp đi lặp lại nhiều lần trong các câu chuyện trong sách Công vụ.
Trước đây chúng ta đã nhận ra một số chủ để chung trong sách Công vụ: công việc của Đức
Thánh Linh, quyền tể trị của Đức Chúa Trời, vai trò của Hội thánh, sự cầu nguyện, sự đau khổ,
tin lành cho người Giu-đa và người ngoại bang và quyền năng của lời làm chứng. Chúng ta cũng
xem một vài ví dụ về những điều liên quan đến việc tìm những chủ đề nhất quán như là một chỉ
dẫn cho điều nào là chuẩn.
Hãy xem cách các tín hữu chọn người thay thế Giu-đa trong 1:23-26:
23 Môn đồ cử ra hai người: Giô-sép tức là Ba-sa-ba, cũng gọi là Giúc-tu, và Ma-thia,
24 rồi cầu nguyện rằng: Lạy Chúa, Ngài biết lòng mọi người, xin tỏ ra cho chúng tôi
nội hai người nầy ai là người Chúa đã chọn, 25 đặng dự vào chức vụ sứ đồ, thay vì
Giu-đa đã bỏ đặng đi nơi của nó. 26 Đoạn bắt thăm, trúng nhằm Ma-thia; người bèn
được bổ vào mười một sứ đồ.
Chúng ta có dám nói rằng vì họ bắt thăm để chọn Ma-thia nên chúng ta cũng chọn
những người lãnh đạo hội thánh bằng cách dùng cùng phương pháp đó không? Vì phương pháp
khám phá ý muốn Đức Chúa Trời này xuất hiện trong sách Công vụ, chúng ta có nên xem nó là
chuẩn cho Cơ Đốc nhân ngày nay chăng? Theo như nguyên tắc của chúng ta, bắt thăm là một
phương pháp chuẩn để nhận biết ý của Chúa chỉ khi nào phương pháp này được dung thường
xuyên trong sách Công vụ. Thật sự đây không phải là trường hợp.
Công vụ 1:22 là nơi duy nhất trong cả sách về một người lãnh đạo hội thánh được
chọn bằng phương pháp bắt thăm. Khi câu chuyện trong sách Công vụ diễn tiến, và Đức Thánh
Linh giáng trên các môn đồ của Chúa Giê-xu, những nhà lãnh đạo được lựa chọn bằng nhiều
cách khác nhau (vd 6:1-6;13:1-3). Điều này không có nghĩa là chọn Ma-thia là một sai lầm hay
là chỉ định Phao-lô là không được Kinh Thánh hỗ trợ. Vấn đề nằm ở chỗ quyết định bằng cách
bắt thăm không xảy ra trong phần còn lại của sách Công vụ (hay là cả phần còn lại của Tân Ước).
Do đó, nó không nên được xem là phương pháp chuẩn để tìm biết ý Chúa.
Đức Chúa Trời tỏ ý muốn của Ngài như thế nào trong sách Công vụ? Có chủ đề nào
được lặp lại không? Đọc cẩn thận sách Công vụ, chúng ta thấy rằng Đức Chúa trời dùng nhiều
phương cách khác nhau để hướng dẫn dân của Ngài. Ngài dùng thiên sứ (8:26;12:7), Đức Thánh
Linh của Ngài (8:39;10:19;16:6-7), khải tượng (9:10-12;16:9-10), Kinh Thánh (1:20;8:30-35;
18:24-26), hoàn cảnh (3:1-10;8:1), sự cầu nguyện (13:1-3), thảo luận (15:1-21) và những tín hữu
166
khác (6:1-6;9:17-19)….Điều chuẩn không phải là cách Chúa hướng dẫn dân Ngài mà chính
Chúa hướng dẫn dân Ngài. Chúng ta tin rằng Chúa hướng dẫn dân Ngài bằng nhiều cách khác
nhau.
Một ví dụ khác để tìm biết điều nào là chuẩn khi nhìn những người nhận lãnh Đức
Thánh Linh. Trong 2:4, sau khi nhận lãnh Đức Thánh Linh, người ta nói “các thứ tiếng khác theo
như Đức Thánh Linh cho mình nói”. Chúng ta có thể kết luận rằng một người nhận lãnh Đức
Thánh Linh thì phải nói tiếng lạ không? Nguyên tắc giải kinh của chúng ta nhắc chúng ta phải
xem xét chủ đề đó có được lặp lại trong sách Công vụ không. Tại đây chúng ta tìm thấy điều gì
xảy ra khi một người nhận lãnh Đức Thánh Linh trong sách Công vụ:
1:8: làm chứng về Chúa Giê-xu
2:4: nói các thứ tiếng khác (ngôn ngữ)
2:17-18 nói tiên tri
4:31 giảng lời của Đức Chúa Trời cách dạn dĩ
8:15-17 (không mô tả)
9:17-20 Giảng rằng Chúa Giê-xu là Con Đức Chúa Trời
10:44-46 Nói tiếng lạ và ngợi khen Đức Chúa Trời
19:6 Nói tiếng lạ và nói tiên tri
Khi một người nhận lãnh Đức Thánh Linh, họ nói về từng trải của họ, nhưng không
phải lúc nào cũng nói tiếng lạ. Họ có thể làm chứng hay nói tiên tri hay nói lời của Đức Chúa
Trời. Điều thường xảy ra là khi họ nhận lãnh Đức Thánh Linh thì họ nói về từng trải của họ.
Chúng ta có thể nói rằng bài giảng được xức dầu bởi Thánh Linh là chuẩn ở đây. Những người
kinh nghiệm Đức Chúa Trời nói về điều này.
Một ví dụ cuối cùng về nguyên tắc tìm những chủ đề được lặp lại liên quan đến bản
chất của bài giảng truyền giảng trong sách Công vụ. Có điều gì về những bài giảng trong sách
Công vụ làm chuẩn cho việc truyền giảng Cơ Đốc của chúng ta hôm nay không? Có, chúng ta
thấy ba đặc điểm trọng tâm xuất hiện thường xuyên suốt sách Công vụ (1) Sứ điệp thường được
lan rộng. Tin lành của Chúa ảnh hưởng ra những khu vực rộng hơn. Theo sách Công vụ, chúng
ta có thể mong đợi rằng Tin lành thật của Chúa Giê-xu Christ sẽ ảnh hưởng và thay đổi xã hội và
đời sống.
(2) Tin lành của Chúa Giê-xu luôn bất biến. Sứ điệp luôn giống nhau: sự sống, chết
và phục sinh của Chúa Giê-xu Christ và lời mời tiếp nhận (2:22-24,31-33,36-39;3:13-21;8:34-35;
10:36-43;13:23-39; 17:29-31). Công vụ 10:39-43 là đặc trưng:
167
39 Chúng ta từng chứng kiến về mọi điều Ngài đã làm trong xứ người Giu-đa và tại thành
Giê-ru-sa-lem. Chúng đã treo Ngài trên cây gỗ mà giết đi. 40 Nhưng ngày thứ ba, Đức
Chúa Trời đã khiến Ngài sống lại, lại cho Ngài được tỏ ra, 41 chẳng hiện ra với cả dân
chúng, nhưng với những kẻ làm chứng mà Đức Chúa Trời đã chọn trước, tức là với chúng
ta, là kẻ đã ăn uống cùng Ngài, sau khi Ngài từ trong kẻ chết sống lại. 42 Lại Ngài đã biểu
chúng ta khá giảng dạy cho dân chúng, và chứng quyết chính Ngài là Đấng Đức Chúa Trời
đã lập lên để đoán xét kẻ sống và kẻ chết. 43 hết thảy các đấng tiên tri đều làm chứng nầy
về Ngài rằng hễ ai tin Ngài thì được sự tha tội vì danh Ngài.
(3) Sứ điệp thích hợp cho từng khán giả riêng. Sứ điệp tin lành không thay đổi nhưng được điều
chỉnh để cho nhiều người có thể nhận được. Trong từ xuyên văn hoá, chúng ta gọi là bối cảnh
hóa tin lành. Khi giảng cho người Giu-đa, diễn giả thường dùng Kinh Thánh và lịch sử của dân
Y-sơ-ra-ên để làm nền tảng (2:;3;13). Khi giảng cho người ngoại bang, họ lập một kết nối bằng
cách gọi Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa (14;17). Về việc giảng tin lành, chúng ta có thể nói
rằng sách Công vụ dạy chúng ta nắm chắc sứ điệp căn bản của Tin lành nhưng phải sẵn sàng
điều chỉnh sự trình bày của chúng ta cho thích hợp với từng đối tượng nghe.
Nguyên tắc tìm những chủ đề lặp để tìm điều gì là chuẩn là quan trọng nhưng có thể
bị lạm dụng. Ví dụ, một số người cho rằng vì Phao-lô liên tục di chuyển bằng tàu thủy nên tất cả
giáo sĩ phải di chuyển bằng tàu thủy chứ không được bằng máy bay. Nhưng khi nhìn kỹ thì
không phải lúc nào Phao-lô cũng di chuyển bằng tàu thủy, nhiều lần ông đi bộ. Di chuyển bằng
tàu đại diện cho phương tiện nhanh nhất, hiện đại nhất thời bấy giờ. Nguyên tắc nổi lên trong
sách Công vụ là không phải chúng ta phải đi bộ hay đi bằng tàu thủy, nhưng chúng ta phải sử
dụng phương tiện thích hợp nhất để phục vụ Chúa.
168
Kết Luận
Sách Công vụ thật sự là một cuộc phiêu lưu thuộc linh. Những điều Chúa Giê-xu bắt
đầu thực hiện trên đất trong chức vụ của mình bây giờ Ngài tiếp tục thực hiện khi Thánh Linh
ban quyền năng cho Hội Thánh để đem tin lành đến khắp thế giới. Để nắm được ý nghĩa của
sách Công vụ, chúng ta trước hết phải tôn trọng rằng nó là một câu chuyện được kể với những
mục đích thần học (tức là lịch sử thần học). Điều này có nghĩa là chúng ta giải nghĩa sách Công
vụ giống như cách chúng ta giải nghĩa các sách Phúc  m. Vấn đề lớn nhất khi đọc sách Công vụ
là biết làm sao để giải quyết dòng sông khác biệt và nhận ra được điều gì là chuẩn cho hội thánh
ngày nay. Chúng tôi đề nghị những hướng dẫn sau:
Tìm những gì Lu-ca chủ định để chuyển tải cho độc giả của mình (và cho chúng ta)
Tìm những gương tích cực và tiêu cực trong các nhân vật.
Đọc từng phân đoạn trong ánh sáng của cả câu chuyện.
Tìm những phần khác của sách Công vụ để làm rõ thêm.
Tìm những chủ đề được lặp lại.
Thách thức để xác định điều gì là chuẩn và điều gì chỉ là mô tả rất phức tạp. Là tín
hữu, chúng ta muốn nắm bắt được đầy đủ sứ điệp của sách Công vụ nhưng chúng ta không muốn
nhận sai những gì Đức Chúa Trời chủ định. Để quân bình thì không phải dễ. Nếu bạn khám phá
điều gì từ sách Công vụ mà không nằm trong năm chỉ dẫn này, hãy suy nghĩ cẩn thận trước khi
bạn công bố nó là chuẩn. Chúng tôi chấp nhận là năm chỉ dẫn của chúng tôi không phải là tất cả..
Có những chỉ dẫn khác bên cạnh năm chỉ dẫn này có thể giúp bạn phân biệt được giữa điều
chuẩn và mô tả. Chúng tôi cầu nguyện rằng những gì chúng tôi chia xẻ sẻ khích lệ bạn để trở
thành một người giải kinh trung tín hơn cho câu chuyện mạnh mẽ về sự ra đời và phát triển của
hội thánh đầu tiên.
169
Chương 16
Tân Ước – Khải Huyền
Lời Giới Thiệu
Bạn có nhớ lần đầu tiên bạn đọc sách Khải huyền không? Bạn có cảm giác gì? Lẫn
lộn? Khủng hoảng? Vui sướng? Thỏa mái? Bạn có thể hiểu được phần nào trong chương 1 về
khải tượng bất thường về một người “giống như một con người” ở cuối cùng. Bạn cũng có thể
cảm thấy thoải mái với những sứ điệp cho bảy hội thánh trong chương 2 và 3. Nhưng bạn hiểu
bốn con sinh vật trong chương 4 hay Chiên Con có bảy sừng và mắt trong chương 5 như thế nào?
Hay bạn nghĩ gì về mặt trăng biến thành máu hay con số 144,000 hay con phượng hoàng đang
nói hay Ba-by-lôn, người mẹ tà dâm? Nếu bạn giống như nhiều người khác, khi bạn đọc xong
trang cuối, bạn để Kinh Thánh xuống và kết luận rằng sách Khải huyền là một sách kỳ dị.
Sách cuối của Kinh Thánh tự giới thiệu mình trong 1:1 như là một “khải thị của Đức
Chúa Giê-xu Christ”. Đây là chủ đề của toàn sách. Chữ khải thị (apokalypsis trong tiếng Hy-lạp)
cho thấy rằng một điều gì đó trước đây bị giấu kín giờ được mở ra, tỏ ra (tức là từ thế hệ của
Giăng trở đi). Nói đến sách này như là một khải thị “về Chúa Giê-xu Christ” có nghĩa là nó cho
chúng ta biết một điều gì đó về Chúa Giê-xu Christ, hay nó là một sự tương giao từ Chúa Giê-xu
Christ hay có lẽ cả hai.
Trong “chương cuối” của câu chuyện về sự cứu rỗi , Đức Chúa Trời đã mở bức màn
của Ngài cho dân sự Ngài nhìn thấy được những kế hoạch của Ngài cho lịch sử nhân loại, những
kế hoạch này xoay quanh Chúa Giê-xu. Sách Khải huyền mạnh mẽ, khó, phức tạp, sặc sỡ, đau
khổ và kỳ diệu. Nó giống như một dòng sông giận dữ, một trận chiến đẫm máu, một sự huyền
diệu và một đám cưới hồi hộp cuộc trộn thành một. Bạn nên thắt dây an toàn vì Khải huyền sẽ
đưa bạn đến một Hành Trình Giải Kinh cho cuộc đời của bạn. Chúng ta cùng nhìn vào bối cảnh
lịch sử của sách Khải huyển.
Bối Cảnh Lịch Sử
Để hiểu được tại sao cần có một sự tỏ bày này, hãy tưởng tượng chính bạn đang ở
trong hoàn cảnh sau:
Các Cơ Đốc Nhân đầu tiên háo hức mong đợi sự trở lại của Đấng Christ. Nhưng sáu
mươi năm sau cái chết của Chúa Giê-xu, Ngài vẫn chưa trở lại. Trong khi đó bách hại lại càng
gia tăng và một số người bắt đầu nghi ngờ. Do đó, những lá thư trong sách Khải huyền cho các
hội thánh cũng như toàn bộ sách này cần thiết để khuyến khích họ đứng vững. Đức Chúa Trời
170
vẫn đang tể trị cho dù có điều gì xảy ra đi nữa. Đấng Christ, chứ không phải hoàng đế, là Chúa
của lịch sử. Ngài cầm chìa khóa của số phận. Ngài đang trở lại để xử đoán công bình. Một tương
lai vinh hiển và tuyệt diệu đang chờ đợi mọi người trung tín và đặc biệt cho những người liều sự
sống mình vì Đấng Christ!
Chính sách Khải huyền cũng xác nhận sự bách hại dữ dội đang gia tăng mỗi ngày một
khốc liệt hơn. Chính Giăng cũng đang bị đày vì tận hiến cho Đấng Christ (1:9):
Tôi là Giăng, là anh em và bạn của các anh em về hoạn nạn, về nước, về sự nhịn nhục
trong Đức Chúa Jêsus, tôi đã ở trong đảo gọi là Bát-mô, vì cớ lời Đức Chúa Trời và
chứng của Đức Chúa Jêsus.
Chúng ta cũng thấy Hội thánh Ê-phê-sô cũng đang chịu khổ nhưng không ngã lòng
(2:3). Cũng để ý đến những điều Chúa Giê-xu đang phán với hội thánh Sy-miệc-nơ (2:9-10):
9 Ta biết sự khốn khó nghèo khổ của ngươi (dầu ngươi giàu có mặc lòng), và những
lời gièm pha của kẻ xưng mình là người Giu-đa, mà kỳ thực không phải, chúng nó vốn
thuộc về hội quỉ Sa-tan. 10 Ngươi chớ ngại điều mình sẽ chịu khổ. Nầy, ma quỉ sẽ
quăng nhiều kẻ trong các ngươi vào ngục, hầu cho các ngươi bị thử thách; các ngươi sẽ
bị hoạn nạn trong mười ngày. Khá giữ trung tín cho đến chết, rồi ta sẽ ban cho ngươi
mũ triều thiên của sự sống.
An-ti-pa, một chứng nhân trung tín cho Đấng Christ, bị giết trong thành Pẹt-găm
(2:13). Các tín hữu tại Phi-la-đen-phi-a có ít sức mạnh nhưng đã giữ lời của Chúa Giê-xu và
không chối danh Ngài (3:8). Khi mở ấn thứ năm, Giăng nhìn thấy “những linh hồn của kẻ đã
chịu giết vì đạo Đức Chúa Trời và vì lời chứng họ đã làm” 6:9). Cũng có nhiều chỗ xác nhận
quyền lực ngoại giáo làm đổ huyết các thánh (13;16:5-6;17:6;18:24;19:2;20:4).
Phần đa những cuộc bách hại này xảy ra vào cuối thế kỷ thứ nhất trong thời trị vì của
hoàng đế Đô-mi-ti-an (SC 81-96). Những nguồn tài liệu đáng tin vào thời đó (vd. Pliny, Tacitus,
Seutonius) mô tả Đô-mi-ti-an là hoàng đế gian ác, tham lam, vô đạo, điên cuồng, tội ác.
Đô-mi-ti-an muốn những vua chư hầu và thần dân gọi ông là “chúa và thần của chúng
tôi”. Những hoàng đế La-mã thế kỷ thế nhất muốn gọi mình với những danh hiệu tương tự như
với Chúa Giê-xu. Xưng nhận trước nhất và căn bản nhất của Cơ Đốc Nhân là “Giê-xu là Chúa”.
Khi các Cơ Đốc Nhân từ chối xưng nhận “Sê-sa là Chúa” trong khi thờ phượng hoàng đế, họ bị
xem là bất trung với chính quyền và là mục tiêu để bách hại. Vào thời điểm này trong lịch sử, áp
lực để quì lạy hoàng đế trở nên phổ biến và có hệ thống.
Đừng vội quá ấn tượng rằng mọi Cơ Đốc Nhấn trong vùng Tiểu Á đều đứng vững
trong cơn bách hại. Khi đối diện với những đe dọa vì đức tin của mình, nhiều người vẫn trung tín
và chịu đau khổ nhưng cũng có những người công khai chối bỏ Đấng Christ, những người khác
171
cố gắng chạy theo những quyền lực ngoại giáo. Một số Cơ Đốc Nhân quay trở lại với Do Thái
giáo, một tôn giáo hợp pháp của đế quốc La-mã để tránh rắc rối. Những người khác tham gia vào
những hiệp hội thương mại để tránh khó khăn về kinh tế. Nhưng những người thuộc hiệp hội
thương mại thời bấy giờ thường tham dự vào sự thờ hình tượng. Còn một số người khác bị dẫn
dụ bởi các giáo sư giả.
Sứ điệp cho bảy hội thánh đầy những cảnh cáo cho những người bị cám dỗ lìa xa
Đấng Christ và thỏa hiệp với hệ thống của thế gian. Hội Thánh Ê -phê-sô bỏ tình yêu ban đầu
(2:4) Một số người ở hội thánh Pẹt-găm và Thy-a-ti-rơ đi theo tà giáo (2:14-15,20). Hội Thánh
Sạt-đe có tiếng là sống mà là chết (3:1). Cuối cùng có Hội Thánh Lao-đi-xê hâm hẩm mà Chúa
sẽ nhả ra khỏi miệng Ngài (3:16).
Sách Khải huyền đầy những lời an ủi cho những người bị bách hại và cảnh cáo những
người cố gắng tránh bách hại. Theo bối cảnh lịch sử, tà giáo đã hợp tác với quyền lực chính trị
ngoại giáo. Kết quả là những người xưng mình là môn đồ Đấng Christ bắt đầu đối diện với sức
ép lớn. Họ sẽ thỏa hiệp với thế gian để tránh bách hại hay họ công khai xưng nhận Đấng Christ,
biết rằng mình phải đổi bằng sự sống của mình? Khi đọc Khải huyền trong ánh sáng của bối
cảnh lịch sử, chúng ta thấy rằng sách này đem hi vọng cho những người đang đau khổ và thách
thức những người đang thỏa hiệp.
Giải kinh chú ý nhiều đến thể loại văn chương. Giống như chơi trò chơi bằng cách lập
luật cho mình. Nếu chúng ta thật sự muốn hiểu được quyển sách mầu nhiệm này, chúng ta phải
hiểu được sách này thuộc thể loại nào mà tác giả chủ định. Chúng ta hãy cùng nhìn kỹ hơn về
thể loại văn chương của sách Khải huyền.
Thể Loại Văn Chương
Khải huyền chỉ như một sách “bình thường” của Kinh Thánh khi đọc những chương
đầu trước khi chuyển vào vùng không quen thuộc. Sách này khá lạ vì nó kết hợp cả ba thể loại
văn chương khác nhau: thư tín, tiên tri và khải thị.
1. Khải huyền là một thư tín. Đầu sách và cuối sách giống như một thư tín Tân Ước thông
thường.
4 Giăng gởi cho bảy Hội thánh ở xứ A-si: nguyền xin ân điển và sự bình an ban cho anh
em từ nơi Đấng Hiện Có, Đã Có Và Còn Đến, cùng từ nơi bảy vị thần ở trước ngôi Ngài, 5
lại từ nơi Đức Chúa Jêsus Christ là Đấng làm chứng thành tín, sanh đầu nhất từ trong kẻ
chết và làm Chúa của các vua trong thế gian! (1:4-5)
Nguyền xin ân điển của Đức Chúa Jêsus ở với mọi người! (22:21)
172
Điều này cho thấy rằng cả sách Khải huyền là một lá thư duy nhất được lưu truyền
trong số bảy Hội thánh trong cõi Tiểu á: Ê -phê-sô, Sy-miệc-nơ, Pẹt-găm, Thy-a-ty-rơ, Sạt-đe,
Phi-la-đen-phi-a và Lao-đi-xê. Những sứ điệp cho bảy hội thánh trong chương 2-3 không phải là
“những lá thư” tách biệt nhưng chúng là những sứ điệp riêng giới thiệu phần còn lại của sách.
Khải huyền thật sự là một lá thư được gởi đến cả bảy hội thánh.
Giống như những thư tín Tân Ước khác, Khải huyền mang tính “tình huống”. Tức là
nói lên những vấn đề hay hoàn cảnh riêng xảy ra trong các hội thánh địa phương. Chúng ta phải
đọc sách Khải huyền trong ánh sáng của hoàn cảnh gốc mà những hội thánh đó đối diện (tức là,
an ủi những người bị bắt bớ và thách thức những người thỏa hiệp). Nếu chúng ta bỏ qua hoàn
cảnh gốc, chúng ta sẽ bóp méo ý nghĩa của lá thư. Chúng ta không nên lo lắng rằng Khải huyền
không có giá trị cho những người như chúng ta vì chúng ta đang sống trong một thời gian và
không gian khác. Khi đem bất cứ thư tín Tân Ước nào vào Hành Trình Giải Kinh của mình (bao
gồm sách Khải huyền), chúng ta có thể nghe được lời vượt thời gian của Đức Chúa Trời về cách
chúng ta nên sống trong thế giới này.
Thông thường trong phần giới thiệu của một thư tín Tân ước, bạn thấy những chủ đề
chính được phát triển về sau trong toàn bộ lá thư. Khải huyền cũng giống như vậy. Nếu sứ điệp
cho bảy hội thánh thật sự là một phần giới thiệu cho Khải huyền thì chúng ta nên mong đợi điều
gì từ phần còn lại của sách? Lời hứa dành cho của người “thắng” ở mỗi cuối sứ điệp cho bảy hội
thánh có thể cung cấp những gợi ý chính (2:7,11,17,26-29;3:5-6,12-13,21-22).
Chiến thắng trở nên chủ đề chung cho cả sách. Phần giới thiệu của lá thư cho chúng
ta thấy rằng toàn bộ lá thư tập trung xung quanh việc chiến thắng. Trong phần trọng tâm của sách
này, chúng ta đọc thấy rằng những tín hữu “đã thắng nó bởi huyết Chiên Con và bởi lời làm
chứng của mình; chúng chẳng tiếc sự sống mình cho đến chết” (12:11). Ở cuối của sách này
trong khải tượng về Giê-ru-sa-lem mới, chúng ta nghe thấy lời hứa rằng “Kẻ nào thắng sẽ được
những sự ấy làm cơ nghiệp, ta sẽ làm Đức Chúa Trời người và người sẽ làm con ta” (21:7). Nói
cách khác, bắt đầu của sách Khải huyền, chúng ta được thách thức để chiến thắng; ở giữa chúng
ta thấy sự tranh chiến để chiến thắng; phần cuối chúng ta thấy cơ nghiệp mà người chiến thắng sẽ
nhận được.
2. Khải huyền cũng là một lá thư tiên tri:
“Phước cho kẻ đọc cùng những kẻ nghe lời tiên tri nầy, và giữ theo điều đã viết ra đây.
Vì thì giờ đã gần rồi” (1:3)
6 Bấy giờ thiên sứ nói với tôi rằng: Những lời nầy là trung tín và chân thật, Chúa là
Đức Chúa Trời của thần các đấng tiên tri, đã sai thiên sứ mình đặng tỏ cùng các tôi tớ
Ngài những điều kíp phải xảy ra. 7 Kìa, ta đến mau chóng. Phước thay cho kẻ nào giữ
những lời tiên tri trong sách nầy! (22:6-7)
173
Rồi người lại phán cùng tôi rằng: Chớ niêm phong những lời tiên tri trong sách nầy; vì
thì giờ đã gần đến. (22:10)
18 Tôi ngỏ cho kẻ nào nghe lời tiên tri trong sách nầy: nếu ai thêm vào sách tiên tri
nầy điều gì, thì Đức Chúa Trời sẽ thêm cho người ấy tai nạn đã ghi chép trong sách nầy.
19 Và kẻ nào bớt điều gì trong những lời ở sách tiên tri nầy, thì Đức Chúa Trời sẽ cất
lấy phần họ về cây sự sống và thành thánh, mà đã chép ra trong sách nầy.
Lời tiên tri trong Kinh thánh bao gồm cả lời dự ngôn về tương lai và lời tuyên ngôn
về lẽ thật của Đức Chúa Trời cho hiện tại (thường nhấn mạnh đến tuyên ngôn). Trong chính
những nơi mà Khải huyền được mô tả như là một lời tiên tri, độc giả nên thực hiện những gì Đức
Chúa Trời phán (tức là tiếp nhận lời tuyên ngôn đó). Những người nghe lời tiên tri này sẽ được
phước nếu họ nhận vào lòng (1:3) và giữ lấy lời đó (22:7). Chúng ta nhớ rằng Khải huyền không
phải chỉ về tương lai; nó cũng là một sách về những điều Đức Chúa Trời muốn thấy xảy ra tại
đây ngay bây giờ. Ngay cả trong ngày của Giăng, sách này được gọi là “mở ra” và sứ điệp của
nó dành cho mọi người có tai mà nghe (22:10).
Vì là một lá thư tiên tri nên Khải huyền đứng trong truyền thống của các tiên tri Cựu
Ước. Nó đầy những lời ám chỉ và hình ảnh được các tiên tri Cựu Ước sử dụng. Ví dụ lời tiên tri
của Giăng nghịch lại với Ba-by-lôn trong Khải 18-19 gợi lại mọi chi tiết của những lời tiên tri về
Ba-by-lôn được tìm thấy trong các tiên tri Cựu Ước. Sự khác biệt chính giữa Khải huyền và các
tiên tri Cựu Ước là lá thư tiên tri của Giăng dành cho các Cơ Đốc Nhân đang sống giữa thời kỳ
thập tự giá và sự phục sinh đã qua (already) và thời kỳ chưa xảy đến (not yet) của sự trở lại vinh
hiển của Đấng Christ.
3. Khải huyền là một lá thư khải thị-tiên tri.
Như chúng ta thấy trong 1:1 rằng sách này là một khải thị đến từ Đức Chúa Trời qua
Chúa Giê-xu Christ, qua một thiên sứ và qua Giăng đến các đầy tớ của Đức Chúa Trời:
Sự mặc thị của Đức Chúa Jêsus Christ mà Đức Chúa Trời đã ban cho Ngài đặng đem tỏ
ra cùng tôi tớ Ngài những điều kíp phải xảy đến, thì Ngài đã sai thiên sứ đến tỏ những
điều đó cho Giăng, tôi tớ Ngài.
Từ khải thị chỉ về một nhóm văn chương bao gồm một sự mặc khải thiêng liêng,
thường qua một trung gian thiên thượng đến một con người nổi tiếng nào đó. Trong mặc khải đó,
Đức Chúa Trời hứa can thiệp vào lịch sử con người, giày đạp những thế lực tội ác và thiết lập
vương quốc của Ngài. Hầu hết các học giả cho rằng văn chương khải thị xuất phát từ lời tiên tri
Do Thái và là một hình thức tiên tri được viết trong một thời kỳ khủng hoảng. Chúng ta cũng
thấy những điển hình khác về văn chương mặc thị trong sách Ê -xê-xhi-ên, Đa-ni-ên, Xa-cha-ri
và trong những thứ kinh Do thái khác như 1 Enoch và 4 Ezra. Mặc dầu văn chương mặc thị được
những người sống trong khoảng 200 TC đến 200 SC biết đến, nhưng với chúng ta vẫn còn xa lạ.
174
Chúng ta chỉ thấy những hình ảnh này trong một vài bộ phim chính trị nào đó thôi, nhưng khi
đem ra so sánh với thời chúng ta, chúng ta có thể học được nhiều điều.
Đặc điểm chính khiến cho văn chương mặc thị không quen thuộc với chúng ta là cách
dùng hình ảnh của nó. Trong việc sử dụng qua nhiều hình ảnh tượng hình, Sách Khải huyền vượt
ra xa bất cứ tác phẩm mặc thị khác. Trong khi chúng ta quen với những hình ảnh tượng hình
trong những phần khác của Kinh Thánh, văn chương mặc thị dùng những hình ảnh trong hình
thức trừu tượng hơn là thực tiễn –vd. Cào cào có đuôi của bọ cạp và đầu người (9:10), một người
đàn bà mặc mặt trời (12:1), một con thú có bảy đầu và mười sừng (13:11). Khi Chúa Giê-xu ví
chúng ta với muối và ánh sáng, chúng ta biết ý của Ngài muốn điều gì (Mat. 5:13-14). Nhưng có
ai thấy một con thú có bảy đầu và mười sừng bao giờ chưa?
Thông thường điều làm cho hình ảnh đó trừu tượng đến lạ lùng là cách những chi tiết
cấu thành nên hình ảnh đó. Ví dụ, chúng ta có thể biết về người phụ nữ và chúng ta có thể biết về
mặt trời. Nhưng ít ai trong chúng ta biết về một người phụ nữ mặc mặt trời. Là một lá thư tiên
tri-mặc thị, sách Khải huyền đầy những khải tượng lạ lùng và những hình ảnh kỳ lạ. Mục đích
của tất cả những hình ảnh và biểu tượng này là gì? Chúng ta hãy cùng xem mục đích của sách
này là gì.
Mục Đích Của Sách Khải Huyền
Mục đích của sách Khải huyền gắn liền với thể loại văn chương như là một lá thư tiên
tri-mặc thị, đặc biệt với những hình ảnh của nó. Những hình ảnh của sách Khải huyền tạo nên
một thế giới biểu tượng mà người đọc đang sống khi họ đọc hay nghe sách này. Khi họ bước vào
thế giới biểu tượng này, sứ điệp của nó tác động đến chúng và thay đổi hoàn toàn cách nhìn về
thế giới mà họ đang sống. Họ có thể nhìn thấy hoàn cảnh của chính mình trong thế giới này từ
một cái nhìn thiên thượng bằng khải tượng của sách Khải huyền đem họ vào tương lai. Tại đó họ
có thể thấy được hiện tại từ khía cạnh của kết quả cuối cùng của nó – sự đắc thắng trọn vẹn của
Đức Chúa Trời. Bằng cách này, Khải huyền cung cấp cho các tín hữu một loạt hình ảnh tiên tri
để kích thích trí tưởng tượng của quan điểm ngoại giáo về thế giới này và phục hồi nó bằng một
quan niệm về những gì là thật và thế giới này sẽ như thế nào một ngày dưới quyền cai trị của
Đức Chúa Trời. Bauckham minh họa việc dùng Khải 17:
Ví dụ trong chương 17, độc giả của Giăng chia xẻ khải tượng về một người đàn bà.
Mới nhìn, người đàn bà này có lẽ dường như là nữ thần Rô-ma trong sự vinh hiển của
mình, một sự nhân cách hóa về một nền văn minh Rô-ma, khi bà ta được nhiều người
thờ lạy trong nhiều đền thờ trong các thành phố của xứ A-si. Khi Giăng nhìn thấy
người đàn bà này, bà ta là một đại dâm phụ Rô-ma, một người quyến dụ người khác và
một mụ phù thủy gian tà và sự giàu có và rực rỡ của mình đại diện cho những lợi ích
của việc buôn bán gian trá của mình.”
175
Khi các Cơ đốc nhân trong hoàn cảnh cay đắng đọc sách này nhiều lần, họ tiếp tục
được nhắc nhở rằng “những gì họ tin không phải xa lạ mà là thật sự bình thường từ nhãn quan
của Đức Chúa Trời”.
Bằng cách dùng những hình ảnh theo cách này, sách Khải huyền trả lời câu hỏi: “Ai
là Chúa?” Trong suốt những thời kỳ bị bắt bớ và chống đối, sự đau khổ, công bình và sự gian ác
dường như đang thăng tiến. Điều này nảy sinh thắc mắc liệu Đức Chúa Trời có còn ngồi trên
ngôi hay không và Ngài vẫn đang cai trị thế giới này không. Sách Khải huyền khẳng định rằng
cho dù điều gì xảy ra, Sê-sa không phải là Chúa và Sa-tan cũng không phải là Chúa. Giê-xu mới
là Chúa và Ngài đang sớm trở lại để định lại điều đúng đắn. Sách Khải huyền khẳng định rằng
lời tiên tri từ Đức Chúa Trời cần cho những người đang ở trong sự bách hại để giữ lòng trung tín
của mình với Chúa.
Đức Chúa Trời sử dụng lá thư tiên tri-mặc thị này để mở bức màn của vở sân khấu
thế gian và cho thấy những điều sẽ xảy ra trong dân của Ngài trong thì cuối cùng. Sứ điệp chính
trong sách Khải huyền là “Đức Chúa Trời sẽ chiến thắng!” Những người không thỏa hiệp với thế
gian sẽ nhìn thấy tương lai của Đức Chúa Trời và đầy lòng hi vọng trong hiện tại. Những người
đang thỏa hiệp với thế gian sẽ bị sốc vì sự hư mất tâm linh của mình và cảnh báo họ cần phải ăn
năn. Là “chương cuối” của câu chuyện cứu rỗi, Khải huyền giúp dân Ngài nếm trước sự đắc
thắng tột đỉnh của Đức Chúa Trời và cho họ một nhãn quan thiên thượng và khích lệ họ để vượt
qua.
Giải Nghĩa Sách Khải Huyền
Theo những nhà giải kinh truyền thống, có bốn cách chính để giải nghĩa sách Khải
huyền. Hướng quá khứ xem bối cảnh lịch sử của sách Khải huyền là quan trọng và cố gắng để
hiểu sách này theo cách mà độc giả của Giăng đã hiểu nó. Nhiều sự kiện trong Khải huyền được
coi như đã được ứng nghiệm trong thế kỷ thứ nhất. Hướng lịch sử xem sách Khải huyền như là
một bản đồ hay một dàn ý của những gì đã và đang xảy ra trong lịch sử của Hội Thánh từ thế kỷ
thứ nhất cho đến sự trở lại của Đấng Christ. Hướng tương lai xem hầu hết sách này liên hệ đến
những sự kiện tương lai ngay trước chung kết của lịch sử. Cuối cùng, hướng lý tưởng hiểu sách
Khải huyền không liên quan đến bất cứ sự liên hệ nào với thời đại nhưng liên hệ nó với những sự
tranh chiến đang diễn ra giữa thiện và ác.
Trong chương này, chúng tôi chọn một hướng chọn lọc để đọc sách Khải huyền – một
hướng tổng hợp những điểm mạnh của vài hướng trên. Sách Khải huyền chắc chắn được gởi trực
tiếp đến các tín hữu đầu tiên. Chúng ta nên đọc sách Khải huyền giống như cách chúng ta đọc
trong những sách khác của Kinh Thánh – bằng cách xem xét bối cảnh lịch sử một cách nghiêm
túc. Sách Khải huyền cũng trình bày những lẽ thật vượt thời gian về sự tranh chiến giữa thiện và
ác. Những sự hiện thấy của sách Khải huyền khích lệ chúng ta từ bỏ sự thỏa hiệp và trung tín
trong những thời điểm bị bách hại. Chắc chắn, sách này cũng nói đến những sự kiện chưa xảy ra.
176
Một số sự kiện mô tả sự chờ đợi để được ứng nghiệm trong tương lai (như là, sự trở lại của Đấng
Christ, tòa án trắng và lớn và sự đến của thành thánh).
Thêm vào những hướng tổng quát này, chúng ta cần có những nguyên tắc cụ thể để
đọc lá thư tiên tri-mặc thị này. Sau đây là bảy nguyên tắc:
1. Đọc sách Khải huyền trong sự khiêm nhường.
Đọc sách Khải huyền không phải là dễ. Những người cho rằng mình có thể giải thích
tường tận từng chi tiết của sách Khải huyền là những người chúng ta cần để ý vì họ đáng nghi
ngờ nhất. Do đó, đọc sách Khải huyền trong sự khiêm nhường có nghĩa là chúng ta sẽ sẵn lòng
chấp nhận rằng chúng ta có thể sai và sẵn lòng thay đổi quan điểm của mình khi những bằng
chứng trong Kinh Thánh chỉ cho thấy một hướng khác.
2. Cố gắng khám phá sứ điệp của những độc giả gốc.
Khám phá sứ điệp cho độc giả gốc là ưu tiên một cho bất cứ sách nào trong Kinh
Thánh, nhưng đặc biệt hơn trong trong sách Khải huyền. Khi chúng ta đọc sách Khải huyền,
chúng ta thường có khuynh hướng bỏ qua các tín hữu ban đầu và nhảy thẳng vào sứ điệp của
Đức Chúa Trời cho chúng ta. Một số người dùng thời sự như là chìa khóa để giải nghĩa sách
Khải huyền. Nhưng đây không phải là cách thích hợp với quan điểm giải nghĩa chuẩn. Hướng
dùng “thời sự” cho rằng chúng ta chắc chắn đang sống trong thời kỳ cuối cùng. Do đó, chúng ta
phải xem sứ điệp của Khải huyền là cho những thế hệ cuối cùng như chúng ta. Những điều xảy
đến trong thời sự có thể là ứng nghiệm của những điều được nói đến trong Khải huyền. Điều gì
xảy ra nếu Đấng Christ trở lại vào năm 4000 SC? Sách Khải huyền có cho chúng ta sự dạy dỗ vì
chúng ta không sống trong thời cuối cùng không? Chúng ta phải nhớ rằng các tín hữu đầu tiên
được phước vì vâng theo sách Khải huyền (1:3) và sách này được xem như là sách mở, ngay cả
cho những người đang sống trong thời kỳ của Giăng (22:10).
Cách tốt nhất để bắt đầu giải nghĩa là với câu hỏi: “Giăng đã cố gắng chuyển tải điều
gì cho độc giả của mình?” Nếu việc giải nghĩa của chúng ta không có liên quan gì đến độc giả
ban đầu thì chúng ta có thể đánh mất ý nghĩa của đoạn Kinh Thánh này. Sứ điệp cho độc giả ban
đầu là vô cùng quan trọng. Như là với các thư tín, ý nghĩa chính của sách Khải huyền là những
điều mà Giăng đã chủ định cho nó, mà độc giả ban đầu có thể hiểu được ý nghĩa mà ông muốn
nói đến. Hành Trình Giải Kinh sẽ giúp chúng ta hiểu ý nghĩa trong thời kỳ của Giăng để hiểu
được nó có ý nghĩa gì trong thời đại của chúng ta.
3. Đừng cố gắng khám phá một biểu đồ thời gian cứng nhắc về các sự kiện tương lai.
Sách Khải huyền đầy những sự hiện thấy tiên tri-mặc thị giúp ảnh hưởng đến độc giả
hơn là trình bày một chuỗi thời gian nhất định cho những sự kiện tương lai. Ví dụ, chú ý rằng sáu
ấn (6:12-17) đem chúng ta đến tận cùng của thời đại.
177
12 Tôi nhìn xem, khi Chiên Con mở ấn thứ sáu, thì có một cơn động đất lớn; mặt trời bèn
trở nên tối tăm như túi lông đen, cả mặt trăng trở nên như huyết. 13 Các vì sao trên trời sa
xuống đất, như những trái xanh của một cây vả bị cơn gió lớn lung lay rụng xuống. 14 Trời
bị dời đi như quyển sách cuốn tròn, và hết thảy các núi các đảo bị quăng ra khỏi chỗ mình;
15 các vua ở trên đất, các quan lớn, các tướng quân, các kẻ giàu, các kẻ quyền thế, các kẻ
tôi mọi, các người tự chủ đều ẩn mình trong hang hố cùng hòn đá lớn trên núi, 16 chúng
nói với núi và đá lớn rằng: Hãy rơi xuống chận trên chúng ta, đặng tránh khỏi mặt của
Đấng ngự trên ngôi, và khỏi cơn giận của Chiên Con! 17 Vì ngày thạnh nộ lớn của Ngài đã
đến, còn ai đứng nổi?
Nhưng khi ấn thứ sáu được mở ra, chúng ta lại thấy một loạt sự phán xét – tiếng kèn –
và bảy kèn (11:15-19) cũng đưa chúng ta đến tận cùng của thời đại:
15 Vị thiên sứ thứ bảy thổi loa, có những tiếng lớn vang ra trên trời rằng: Từ nay nước
của thế gian thuộc về Chúa chúng ta và Đấng Christ của Ngài, Ngài sẽ trị vì đời đời.
16 Hai mươi bốn trưởng lão đang ngồi ở trước mặt Đức Chúa Trời, trên ngai mình,
đều cúi mình sấp mặt xuống, thờ lạy Đức Chúa Trời, 17 mà rằng: Hỡi Chúa là Đức
Chúa Trời Toàn năng, là Đấng Hiện Có, Trước Đã Có, chúng tôi cảm tạ Ngài, vì Ngài
đã cầm quyền rất cao trong tay và đã trị vì. 18 Các dân tộc vốn giận dữ, nhưng cơn
thạnh nộ của Ngài đã đến: giờ đã tới, là giờ phán xét kẻ chết, thưởng cho tôi tớ Chúa là
các đấng tiên tri, thưởng cho các thánh và các người kính sợ danh Chúa, thưởng cho kẻ
nhỏ cùng kẻ lớn, và hủy phá những kẻ đã hủy phá thế gian. 19 Đền thờ Đức Chúa Trời
bèn mở ra ở trên trời, hòm giao ước bày ra trong đền thờ Ngài, rồi có chớp nhoáng,
tiếng, sấm sét, động đất và mưa đá lớn.
Với bát đầu tiên trong 16:1-2 chúng ta thấy một loạt sự phán xét. Khải. 10-22 vẽ ra
một bức tranh chi tiết và sặc sỡ nhất về thời cuối cùng, nhưng như chúng ta thấy, đây không phải
là lần đầu tiên độc giả được đưa đến thời kỳ cuối cùng.
Trên một bình diện nhỏ hơn, trong Khải 6: 12-16, chúng ta nhìn thấy rằng: “Các vì
sao trên trời sa xuống đất, … Trời bị dời đi như quyển sách cuốn tròn, và hết thảy các núi các
đảo bị quăng ra khỏi chỗ mình”. Nhưng trong 7:3 bốn thiên sứ được truyền lịnh không được
“làm hại đất, biển và cây cối, cho đến chừng nào chúng ta đã đóng ấn trên trán những tôi tớ Đức
Chúa Trời chúng ta”. Cố gắng ép vào một chuỗi thời gian sẽ không có nghĩa gì. Thay vì tìm một
biểu đồ thời gian cứng nhắc về các sự kiện tương lai trong Khải huyền, chúng tôi khuyến khích
bạn nắm được sứ điệp chính trong từng sự hiện thấy cho cuộc sống bây giờ và tại đây.
4. Giải nghĩa Khải huyền một cách nghiêm túc nhưng đừng luôn luôn giải nghĩa theo nghĩa
đen.
178
Một số người cho rằng giải kinh theo nghĩa bóng là khước từ thực tế của lẽ thật Kinh
Thánh hay sự kiện lịch sử. Khi họ nói rằng một điều gì đó mang tính biểu tượng hay nghĩa bóng,
họ cho rằng nó không thật hay là không bao giờ xảy ra. Đây không phải là ý của chúng tôi trong
sách này. Chúng tôi muốn khẳng định rằng ngôn ngữ tượng hình với những biểu tượng, hình ảnh
có khả năng chuyển tải lẽ thật theo nghĩa đen và mô tả những sự kiện theo nghĩa đen. Ngôn ngữ
tượng hình chỉ là một phương tiện ngôn ngữ khác, một cách khác để chuyển tải thực tế. Theo
cách nghĩ của chúng tôi, sách Khải huyền dùng ngôn ngữ tượng hình để nhấn mạnh thực tế lịch
sử hơn là từ bỏ thực tế đó.
Một trong những qui luật giải kinh căn bản của chúng ta là phương pháp giải kinh của
chúng ta phải luôn thích ứng với thể loại văn chương được tác giả dùng. Do đó, chúng ta nên
tránh dùng ngôn ngữ tượng hình theo nghĩa đen. Khi chúng ta cố gắng ép theo nghĩa đen vào thể
loại của ngôn ngữ tượng hình, chúng ta đang mạo hiểm với ý nghĩa chủ định của tác giả.
Ví dụ, điều gì xảy ra khi chúng ta cố gắng để giải nghĩa người đàn bà ngồi trên bảy
ngọn núi trong Khải. 17:9 theo nghĩa đen? Ép hình ảnh này theo nghĩa đen thì hoặc là người đàn
bà này rất lớn hoặc là bảy ngọn núi rất nhỏ. Nhưng khi chúng ta cho rằng người đàn bà trong
17:9 không phải là người đàn bà theo nghĩa đen, chúng ta không từ bỏ thực tế của Kinh thánh.
Chúng ta không giải nghĩa hình ảnh này theo nghĩa đen, nhưng chúng ta giải nghĩa nó một cách
nghiêm túc. Các tín hữu thế kỷ thứ nhất tự nhiên hiểu người đàn bà này đại diện cho Rô-ma, một
thành phố được xây trên bảy ngọn đồi. Đoạn Kinh Thánh này cũng có thể đi xa hơn Rô-ma đến
những quyền lực ngoại giáo mạnh mẽ chống lại Đức Chúa Trời. Chúng ta giải nghĩa ngôn ngữ
tượng hình một cách nghiêm túc nhưng không theo nghĩa đen.
Trong Khải. 1:1 Đức Chúa Trời “tỏ ra” sách này cho Giăng. Từ “tỏ ra” cho thấy rằng
Đức Chúa Trời chuyển tải sách này cho Giăng bằng những dấu hiệu và biểu tượng. Theo như
Beale, nguồn gốc của từ này là trong Đa-ni-ên 2. Tại đây, Đức Chúa Trời “tỏ cho” vua những gì
sẽ xảy ra trong những ngày sau bằng cách cho ông thấy một sự mặc khải bằng hình ảnh
(Đa.2:45). Khi giải nghĩa phần nhiều trong Kinh Thánh, qui luật chung là giải nghĩa theo nghĩa
đen ngoại trừ những bối cảnh rõ ràng yêu cầu phải giải nghĩa theo nghĩa bóng. Từ “tỏ ra” trong
1:1 cho thấy rằng khi chúng ta đến với sách này, chúng ta đi ngược lại với qui luật chung: Giải
nghĩa theo nghĩa bóng nếu bối cảnh không yêu cầu giải nghĩa theo nghĩa đen.7
5. Để ý khi Giăng nhận ra một hình ảnh.
Khi chính Giăng cho một gợi ý phải giải nghĩa một hình ảnh, chúng ta phải để ý. Nói
cách khác, chúng ta đặc biệt để ý khi Giăng nhận ra hay xác định những hình ảnh cho độc giả
của mình. Ví dụ, trong 1:17, Con Người là Đấng Christ, trong 1:20 chân đèn bằng vàng là hội
thánh, trong 5:5-6 Sư Tử là Chiên Con, trong 12:9 con rồng là Sa-tan và trong 21:9-10 Giê-ru-sa-
7 Beale, Revelation, 50-55.
179
lem trên trời là vợ của Chiên Con hay Hội thánh. Khi những hình ảnh mà Giăng đã nhận diện
được lặp đi lặp lại phần sau trong sách, chúng ta xem chúng nói đến cùng một đối tượng.
Ví dụ, các chân đèn được nhận diện rõ ràng trong 1:20 là Hội thánh: “Bảy ngôi sao là
thiên sứ của bảy hội thánh và bảy chơn đèn là bảy hội thánh.” Khi hình ảnh của chơn đèn xảy ra
phần sau trong 11:3-4, chúng ta xem nó nói đến hội thánh ở đó nữa dựa trên sự nhận diện của
Giăng ở phần trước:
3 Ta sẽ cho hai người làm chứng ta mặc áo bao gai đi nói tiên tri trong một ngàn hai trăm
sáu mươi ngày. 4 Hai người làm chứng ấy tức là hai cây ô-li-ve và hai chân đèn đứng
trước mặt Chúa của thế gian.
Trong trường hợp này, hai người làm chứng của Khải. 11 chỉ về hội thánh làm chứng.
Bạn phải cẩn thận không lẫn lộn giữa sự nhận diện trực tiếp của Giăng về một hình
ảnh (như đề cập ở trên) với cách dùng những hình ảnh khác của Giăng. Nói cách khác, Giăng tự
do trong việc dùng cùng một hình ảnh để nói đến những điều khác nhau. Ví dụ, bảy ngôi sao là
bảy thiên sứ của bảy hội thánh (1:16,20;2:1;3:1). Nhưng Giăng cũng dùng hình ảnh của một ngôi
sao (không phải bảy ngôi sao) để nói đến những điều khác như là những công cụ phán xét của
Đức Chúa Trời (8:10-12) hay về chính Chúa Giê-xu (22:16). Tương tự, hình ảnh của một người
đàn bà có thể được dùng để chỉ về một nữ tiên tri giả (2:20), cộng đồng Mê-si (12), thành phố
hay đế quốc tà dâm(17) và nàng dâu của Đấng Christ (19:7;21:9). Dầu Giăng tự do sử dụng hình
ảnh để nói đến những điều khác nhau, nhưng khi ông nhận ra một hình ảnh nào, chúng ta phải để
ý.
6. Tham khảo Cựu Ước và bối cảnh lịch sử khi giải nghĩa những hình ảnh và biểu
tượng.
Khải huyền sử dụng ngôn ngữ với nhiều mức độ khác nhau:
Mức độ bản văn: những lời được viết trên giấy
Mức độ khải tượng: bức tranh là những lời đó vẽ nên
Mức độ liên hệ: những gì khải tượng đó nói đến trong đời sống thật
Một trong những khía cạnh khó nhất trong việc đọc sách Khải huyền là biết những
hình ảnh và biểu tượng đó chỉ về cái gì. Ngay cả khi chúng ta hiểu được những điều đang xảy ra
ở mức độ bản văn và mức độ khải tượng, nhưng chúng ta có lẽ không biết những điều đang nói
đến đang ở mức độ nào. Nói cách khác, chúng ta thường biết Khải huyền đang nói gì nhưng
chúng ta thường không chắc nó đang nói về điều gì.
180
Chúng ta có thể tìm giải đáp trong hai nơi: bối cảnh lịch sử của thế kỷ thứ nhất và Cựu Ước.
Trong phần đầu của chương này, chúng ta đã thảo luận về bối cảnh lịch sử nhưng chúng ta không
nói nhiều về cách Khải huyền sử dụng Cựu Ước như thế nào. Mặc dầu không có trích trực tiếp từ
Cựu Ước trong sách Khải huyền nhưng sách này đầy những hình ảnh, ám thị của Cựu Ước. Thực
sự sách Khải huyền chứa đựng nhiều liên hệ đến Cựu Ước hơn bất cứ sách nào trong Tân Ước.
Cựu Ước chiếm gần như 70% trong số đoạn của Khải huyền. Thi thiên, Ê -sai, Đa-ni-ên và Ê -xê-
chi-ên là những đóng góp quan trọng nhất.
Giăng đã sử dụng sách Đa-ni-ên trong Cựu Ước để mô tả khải tượng của ông về Chúa Giê-xu
trong Khải huyền 1. Để ý bao nhiêu từ ngữ trong sách Đa-ni-ên mà Giăng dùng để mô tả Chúa
Giê-xu là Đấng thiêng liêng, vinh hiển (xem những từ in nghiêng bên dưới):
9 Ta nhìn xem cho đến chừng các ngôi đã đặt, và có Đấng Thượng Cổ ngồi ở trên. Á o Ngài
trắng như tuyết, và tóc trên đầu Ngài như lông chiên sạch. Ngôi Ngài là những ngọn lửa, và các
bánh xe là lửa hừng….
13 Ta lại nhìn xem trong những sự hiện thấy ban đêm, nầy, có một người giống như con người
đến với những đám mây trên trời; người tới đến Đấng Thượng Cổ và bị dẫn đến trước mặt Ngài.
14 Người được ban cho quyền thế, vinh hiển, và nước; hầu cho hết thảy các dân, các nước, các
thứ tiếng đều hầu việc người. Quyền thế người là quyền thế đời đời chẳng qua đi, và nước
người không bao giờ phải hủy” (Đa. 7:9,13-14).
5 Ta nhướng mắt nhìn xem, nầy, một người mặc vải gai, chung quanh lưng thắt đai bằng vàng
ròng U-pha. 6 Mình người như bích ngọc; mặt người như chớp, và mắt như đuốc cháy; tay và
chân như đồng đánh bóng, và tiếng nói như tiếng đám đông. (Đa. 10:5-6).
7 Kìa, Ngài đến giữa những đám mây, mọi mắt sẽ trong thấy, cả đến những kẻ đã đâm Ngài
cùng trông thấy; hết thảy các chi họ trong thế gian sẽ than khóc vì cớ Ngài. Quả thật vậy. A-
men! ….
12 Bấy giờ tôi xây lại đặng xem tiếng nói với tôi đó là gì; 13 vừa xây lại thấy bảy chân đèn
bằng vàng, và ở giữa những chân đèn có ai giống như con người, mặc áo dài, thắt đai vàng
ngang trên ngực. 14 Đầu và tóc người trắng như lông chiên trắng, như tuyết; mắt như ngọn lửa;
15 chân như đồng sáng đã luyện trong lò lửa, và tiếng như tiếng nước lớn. (khải. 1:7,12-15)
Hiểu được Đa-ni-ên giúp chúng ta hiểu được Khải huyền tại đây. Giăng thường dùng
ngôn ngữ trong Cựu Ước để mô tả những gì ông thấy và nghe. Khi chúng ta khó tìm biết khải
tượng nói về điều gì, quay trở lại tìm trong bối cảnh lịch sử và Cựu Ước.
181
7. Trên hết, tập trung vào ý chính và đừng quan tâm quá nhiều đến tất cả mọi chi tiết.
Hướng dẫn giải kinh cuối cùng này có lẽ là quan trọng nhất. Trong hầu hết các thể
loại văn chương trong Kinh Thánh, chúng ta bắt đầu với những chi tiết trước rồi sau đó mới xây
dựng sự hiểu biết tổng thể qua những chi tiết đó. Tuy nhiên, với Khải huyền, chúng ta nên bắt
đầu với bức tranh lớn trước rồi sau đó mới hiểu những chi tiết. Khi chúng ta tìm cách nhận ra
những nguyên tắc thần học trong Khải huyền, chúng ta nên tập trung vào những ý chính. Thử
điều này: Đọc một phần của Khải huyền và ghi lại ý chính bằng một câu ngắn. Ví dụ, ý chính
của Khải 4-5 liên quan đến Chúa được tôn cao, duy chỉ có mình Ngài mới xứng đáng để phán xét
thiêng liêng.
Những chi tiết của bất cứ phần nào cũng sẽ ảnh hưởng để độc giả nhưng nó sẽ không
thay đổi ý chính. Đừng tập trung vào chi tiết trước và chúng ta sẽ đánh mất ý chính.
Nếu luật giải kinh trọng tâm là để nắm được ý chính của mỗi khải tượng thì chúng ta
sẽ hiểu được toàn sách. Chúng ta sẽ thấy sách này được mở ra trong bảy phân đoạn rộng trong
phần giữa của sách.
Cầu Trúc Của Khải Huyền
Phần Giới Thiệu (1:1-3:22)
Một vài câu đầu của lá thư tiên tri-mặc thị cho chúng ta thấy phước hạnh của người
nghe và tiếp nhận sứ điệp đó vào lòng. Phần còn lại của chương 1 giới thiệu về Giăng và mô tả
khải tượng của ông về “một người giống như con người” (Chúa Giê-xu) đang đi lại giữa bảy chơn
đèn vàng (các hội thánh). Giăng được chọn để viết khải thị về Chúa Giê-xu trên giấy và gởi đến
cho các hội thánh này.
Chương 2-3 là bảy sứ điệp gởi cho các hội thánh. Những sứ điệp này nhìn chung là
mô tả Đấng Christ, lời khen, lời phàn nàn, lời quở trách và lời hứa cho hội thánh. Ở cuối của
phần giới thiệu dài này, độc giả có cái nhìn rõ ràng hơn Chúa Giê-xu là ai (Chúa tể trị) và Ngài
mong đợi những người theo Ngài điều gì.
Khải Tượng Về Đức Chúa Trời và Chiên Con (4:1-5:14)
Bảy sứ điệp mô tả quan cảnh trên đất và những hiểm họa mà hội thánh đang đối diện:
sự bách hại và thỏa hiệp. Trong chương 4-5, quan cảnh này được chuyển lên trời nơi Đức Chúa
Trời đang cai trị trên ngôi trong quyền năng uy nghi. Mọi điều trên trời đều thờ phượng Đấng
Tạo Hóa. Sự khen ngợi không dứt cũng thuộc về Sư-tử-Chiên Con, chỉ mình Ngài mới có thể mở
quyển sách. Bởi sự chết chuộc tội của Ngài mà Chiên Con đã cứu chuộc một dân để thờ phượng
Đức Chúa Trời.
182
Mở Bảy Ấn (6:1-8:1)
Giai đoạn này được thiết lập và mở ra sự đắc thắng tối cao của Đức Chúa Trời bắt
đầu. Phần này đánh dấu loạt đầu của ba khải tượng phán xét, mỗi cái có bảy yếu tố”
Bảy ấn (6:1-8:1)
Bảy kèn (8:2-11:19)
Bảy bát (15:1-16:21)
Trong hai loạt đầu - ấn và kèn – có một sự giới thiệu giữa yếu tố thứ sáu và bảy.
Chương 6 bắt đầu bằng việc mở bốn ấn đầu tiên – bốn người cỡi ngựa của khải thị:
chinh phục, chiến tranh, đói kém và sự chết. Ấn thứ năm gồm câu hỏi của những người tuận đạo:
“Cho đến chừng nào, hỡi Chúa?” Ấn thứ sau gồm câu hỏi: “Ai có thể đứng nổi?” khi Chiên Con
đổ rủa sả của Ngài.
Trước khi mở ấn cuối cùng này, có một đoạn ngắn trong chương 7 gồm hai khải
tượng. Trong khải tượng đầu tiên, những đầy tớ của Đức Chúa Trời, con số 144,000 được niêm
phong với sự bảo vệ thiêng liêng (7:1-8). Khải tượng thứ hai mô tả một đám đông lớn của những
người tin đang đứng trước ngai của Đức Chúa Trời (7:9-17). Ngay cả khi những ấn đó đã được
cất đi, Đức Chúa Trời cẩn thận khuyến khích và bảo đảm dân Ngài bằng cách mở ra những điều
đang chờ đợi họ trên trời. Với việc mở ấn thứ bảy trong 8:1, có một khoảng dừng trước loạt bảy
tiếng kèn tiếp theo.
Thổi Bảy Kèn (8:2-11:19)
Tiếng kèn mở ra sự phán xét của Đức Chúa Trời trên một thế giới gian ác. Chúng
được đặt trước những tai họa của xứ Ai-cập trên đường vào đất hứa. Mặc dầu sự phán xét kinh
khủng nhưng “dân cư trên đất” (một từ thông dụng trong Khải huyền chỉ về người vô tín) không
chịu ăn năn (9:20-21).
Một lần nữa trước khi yếu tố thứ bảy trong loạt này, có hai khải tượng xen vào: thiên
sứ và quyển sách nhỏ (10:1-11) và hai chứng nhân (11:1-14). Những khải tượng này một lần nữa
như là sự khích lệ và chỉ dẫn cho các thánh về những gì họ nên làm khi Đức Chúa Trời thực thi
mục đích của Ngài trong lịch sử. Với tiếng kèn thứ bảy, chúng ta trở lại lần nữa quan cảnh thờ
phượng trên trời và lời công bố rằng: “Từ nay nước của thế gian thuộc về Chúa chúng ta và
Đấng Christ của Ngài, Ngài sẽ trị vì đời đời” (11:15).
Dân Của Đức Chúa Trời với Quyền Lực Của Tội Á c (12:1-14:20)
Khải huyền 12 giải thích lý do thật sự vì sao dân của Đức Chúa trời chịu ghen ghét
trong thế gian này: sự xung đột giữa Đức Chúa Trời và Sa-tan (con rồng). Sa-tan cố gắng hủy
diệt Đấng Christ (con trai) nhưng bị đánh bại nhờ sự chết và phục sinh của Đấng Christ. Là một
183
kẻ thù bị đánh bại còn một chút thời gian để phá hoại, Sa-tan cố hết sức để tấn công dân của Đức
Chúa Trời. Fee và Stuart nhìn thấy rằng: “chương 12 là chìa khóa thần học của sách này”.8 Biết
được lý do chịu bách hại và kết quả là sự chiến thắng khích lệ dân của Đức Chúa Trời chịu đựng
cho đến cuối cùng.
Chương 13 giới thiệu hai đầy tớ của Sa-tan phát động chiến tranh chống lại dân của
Đức Chúa Trời – con thú lên từ biển (13:1-10) và con thú ra từ đất (13:11-18). Quyền lực chính
trị ngoại giáo hợp với những lực lượng của tà giáo. Con rồng và hai con thú tạo thành ba ngôi bất
khiết để dụ dỗ và phá hủy dân của Đức Chúa Trời.
Nhưng trong chương 14, độc giả một lần nữa nhìn thấy phước hạnh của tương lai mà
Đức Chúa Trời để dành cho dân Ngài. Dầu phải bị bách hại trên thế giới này nhưng những người
đi theo Chiên Con một ngày sẽ đứng trước Ngài trên Núi Si-ôn và hát một bài ca mới về sự cứu
chuộc. Đi theo quan cảnh thiên thượng này Giăng ghi lại ba lời công bố của thiên sứ về sự phán
xét của Đức Chúa Trời và tiếp theo là hai khải tượng về sự phán xét bằng cách sử dụng hình ảnh
về mùa gặt và bàn ép rượu. Phần cuối của chương 14 nhắc chúng ta rằng sự phán xét tội ác là
điều chắc chắn và khích lệ các thánh đồ giữ vững đức tin nơi Chúa Giê-xu.
Đổ Bảy Bát (15:1-16:21)
Chương 15 mô tả bảy thiên sứ cầm bảy bát bằng vàng trong đó chứa đầy sự rủa sả của
Đức Chúa Trời. Những bát đi theo những ấn và kèn là loạt cuối cùng của loại bảy. Chương 16
mô tả việc đổ bảy bát này trên thế giới không chịu ăn năn. Những tai hoạn là những minh chứng
hủy diệt, liên tục và rộng khắp của cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời dành cho tội lỗi và tội ác.
Đức Chúa Trời sẽ khiến cho Ba-by-lôn (đế quốc La-mã ở thế kỷ thứ nhất) uống “chén rượu
thạnh nộ” (16:19). Đáp lại, dân cư trên đất không những không chịu ăn năn mà còn rủa sả Đức
Chúa Trời (16:9,11,21).
Sự Phán Xét Ba-by-lôn (17:1-19:5)
Từ điểm này trở đi trong sách Khải huyền, Giăng đặt trước mặt chúng ta “câu chuyện
của hai thành phố” – thành phố của con người (thành Ba-by-lôn trên đất bị định cho sự hủy diệt)
và thành của Đức Chúa Trời (thành Giê-ru-sa-lem trên trời nơi Đức Chúa Trời ngự giữa dân
Ngài đời đời). Chương 17-18 miêu tả cái chết của Ba-by-lôn, là mẹ của những kẻ dâm phụ. Ba-
by-lôn chắc chắn chỉ về La-mã, một quyền lực ngoại giáo “say huyết các thánh đồ và huyết
những kẻ chết vì Đức Chúa Jêsus; tôi thấy mà lấy làm lạ lắm” (17:6). Lời ca thương tang chết
của chương 18 mở ra một sự mừng rỡ trên trời khi dân của Đức Chúa Trời vui mừng trên sự sụp
đổ của Ba-by-lôn (19:1-5).
8 Fee and Stuart, How to Read the Bible, 261.
184
Sự Chiến Thắng Tột Cùng Của Đức Chúa Trời (19:6-22:5)
Phần này mô tả chiến thắng tột cùng của Đức Chúa Trời trên những thế lực của tội ác
và phần thưởng cuối cùng cho dân Ngài. Quan cảnh mở ra với lời loan báo về tiệc cưới Chiên
Con (19:6-10) và Đấng Christ trở lại để gặp nàng dâu mình (19:11-16). Người Dõng Sĩ – Đấng
Christ trở lại, bắt hai con thú và đồng lõa của nó mà ném chúng vào hồ có lửa và diêm cháy bừng
bừng (19:17-21). Con rồng hay Sa-tan bị trói (20:1-3), trong thời gian đó những người trung tín
theo Chúa Giê-xu đồng trị với Đấng Christ (20:4-6). Sa-tan được thả ra khỏi ngục tạm thời chỉ để
kết hợp với hai con thú và bị hình phạt đời đời (20:7-10). Người chết được xét đoán bởi Đấng
ngồi trên tòa án trắng và lớn. Những người không có tên trong sách sự sống sẽ bị ném vào hồ lửa
(20:11-15). Lúc này, chính sự chết bị đoán xét.
Xét đoán tội lỗi, Sa-tan và sự chết, Đức Chúa Trời bày tỏ sự vinh hiển đời đời của
mình. “Trời mới và đất mới” được mô tả tổng quát trong 21:1-8 và được trình bày chi tiết hơn
trong 21:9-22:5. Sẽ không còn đau đớn, than khóc hay là sự chết nữa – Đức Chúa Trời sẽ làm
mọi sự mới (21:4). Lời hứa trong Cựu Ước rằng Đức Chúa Trời sẽ sống giữa dân Ngài đã được
ứng nghiệm trọn vẹn tại đây (21:3). Không có đền thờ trong thành của Đức Chúa Trời vì Đức
Chúa Trời toàn năng và Chiên Con là đền thờ (21:22).
Sự chiến thắng toàn diện của Đức Chúa Trời được hoàn tất và sự thông công mà Ngài
mong đợi với A-đam và Ê-va bây giờ được phục hồi trong vườn Ê-đen được phục hồi hoàn toàn
với cây sự sống (22:1-2). Sự rủa sả vì tội lỗi đã được cất đi và nhân loại được chuộc một lần nữa
có thể bước đi với Đức Chúa Trời và nhìn thấy mặt Ngài (22:4).
Kết Luận (22:6-21)
Sách Khải huyền đóng lại bằng một phước hạnh trên những người giữ “lời tiên tri
trong sách này” (22:7) và lời cảnh cáo cho những người phạm tội tà dâm, thờ hình tượng và
tương tự như vậy (22:15). Sách này là một sự mặc khải uy quyền từ Đức Chúa Trời và nên đọc
một cách trung tín cho các Hội Thánh (22:6,16). Chúa Giê-xu bảo đảm cho dân Ngài rằng Ngài
sẽ trở lại mau chóng (22:7,12,20). Và Giăng đáp lại với lời cầu nguyện mà mỗi Cơ Đốc Nhân
trong mọi thời đại có thể đáp ứng như vậy – “Lạy Chúa Giê-xu, xin hãy đến”. Giăng cũng viết
rằng : “ân điển của Chúa Giê-xu ở với mọi người. Amen!” (22:21).
Khải Huyền 12:1-17 và Hành Trình Giải Kinh
Chúng tôi muốn chỉ cho bạn thấy làm sao một đoạn Kinh thánh trong Khải huyền có
thể được đem vào Hành Trình Giải Kinh. Khải 12:1-17 là một ví dụ hữu ích. Chúng tôi nhận biết
rằng không phải ai cũng đồng ý với cách giải kinh của chúng tôi trong phân đoạn này, nhưng
chúng ta đi qua tiến trình này để bạn có thể thấy những điều liên quan với Hành Trình của chúng
ta.
185
Bước 1: Nắm bắt được đoạn Kinh Thánh trong thời xưa. Đoạn Kinh Thánh này có ý nghĩa
gì đối với những độc giả trong thời Kinh Thánh?
Bước này bao gồm việc hiểu bối cảnh chương 12 để chúng ta có thể giải nghĩa những
biểu tượng (dấu hiệu trong 12:1,3) trong ánh sáng của bối cảnh đó. Khởi đầu chương này là về
một người đàn bà sắp sinh một bé trai. Một con rồng đỏ đang chực sẵn để ăn thịt em bé đó.
Nhưng khi đứa bé được sinh ra, thì được đem lên đến Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời cũng
chuẩn bị cho người một nơi an toàn. Quan cảnh sau đó chuyển lên trời. Tại đó thiên sứ trưởng
Mi-chê và các thiên sứ đang chiến đấu chống lại với con rồng và các thiên sứ nó. Con rồng (rõ
ràng bây giờ gọi là “ma quỷ” hay “Sa-tan”) bị đánh bại và bị ném xuống đất. Là một kẻ thù bị
đánh bại và phải rời khỏi nơi của mình trên trời, ma-quỷ đuổi theo người đàn bà để trả thù và gây
chiến tranh chống lại phần còn lại của dòng dõi của người đàn bà.
Độc giả thế kỷ thứ nhất hiểu những nhân vật này như thế nào? Họ không xem người đàn
bà này là Ma-ri, mẹ Chúa Giê-xu (như nhiều nhà giải kinh sau này nghĩ). Nhưng họ nghĩ về
người đàn bà này như là dân Y-sơ-ra-ên thật, cộng đồng đức tin đã sinh ra cả đấng Mê-si-a và
Hội Thánh. Cả em bé trai và hậu tự (12:7) là chìa khóa để nhận diện được người đàn bà này. Chú
ý là những nhà tiên tri thường mô tả dân Y-sơ-ra-ên công bình như là một người mẹ và những
biểu tượng được dùng trong 12:1 xác nhận điều này (xem Sáng. 37:9). Sau khi sinh đấng Mê-si-
a, người đàn bà chạy trốn vào một nơi ẩn nấp thiêng liêng trong thời gian 1,260 ngày. Đây là
khỏang thời gian chịu bách hại giữa sự thăng thiên và tôn cao của Đấng Christ và sự trở lại trong
tương lai (xem Khải 11:2;12:14;13:5).
Con rồng rõ ràng chỉ về ma-quỷ hay Sa-tan (12:9). Kẻ thù này của Đức Chúa Trời cố
gắng nuốt đứa con trai và dẫn cả thế giới đi sai lệch. Mô tả chi tiết về con rồng là màu đỏ, có bảy
đầu, mười sừng và bảy mão triều khiến cho nó có một ảnh tượng rất kỳ lạ.
Đứa trẻ đó sẽ cai trị mọi dân bằng một cây gậy sắt” (12:5). Điều này ám chỉ về Thi thiên
2 được áp dụng rõ ràng hơn cho Chúa Giê-xu trong Khải. 19:5. Đứa trẻ này chắc chắn chỉ về
Chúa Giê-xu Christ. Sau khi được sinh ra, Ngài được đưa lên với Đức Chúa Trời. Bằng cách
chuyển thẳng từ sự giáng sinh của Chúa Giê-xu đến sự thăng thiên và trị vì của Ngài, Giăng nhấn
mạnh rằng kế hoạch gian ác của Sa-tan đã bị phá sản qua sự nhập thể, cuộc đời, sự chết, sự phục
sinh, sự thăng thiêng và sự tôn cao của Chúa Giê-xu.
Độc giả ban đầu hiểu được cuộc chiến trên trời (12:7-12) và những tấn công sau đó của
ma quỷ (12:13-17) như là một lời giải thích cho hai thực tế quan trọng. (1) Đức Chúa Trời đã
đánh bại Sa-tan và sự chiến thắng là chắc chắn. (2) Dân của Đức Chúa Trời sẽ tiếp tục đau khổ
như là nạn nhân của những cuộc tấn công của ma-quỷ. Một cái nhìn thấy trên trời giúp cho độc
giả đầu tiên hiểu được môi trường ghen ghét và khích lệ họ chịu đựng. Họ cũng có thể chiến
thắng và vượt qua được ma quỷ nhờ “huyết Chiên Con và lời làm chứng của họ”, tức là trung
thành làm chứng về tin lành của Chúa Giê-xu Christ ngay cả phải trả giá bằng mạng sống của
mình (12:11).
186
Bước 2: Đo được chiều rộng của dòng sông. Có những sự khác biệt nào giữa độc giả thời
Kinh Thánh với chúng ta?
Giống như độc giả ban đầu, chúng ta đang nhìn lại sự đến đầu tiên của Chúa Giê-xu và
mong đợi sự đến lần thứ hai của Ngài. Cả độc giả thời Kinh thánh và chúng ta đang ở trong một
giai đoạn được gọi là đã xảy ra nhưng chưa kết thúc. Vì chúng ta có cùng hoàn cảnh với những
độc giả đầu tiên nên chúng ta có thể bị đau khổ và bắt bớ. Là dòng dõi của người đàn bà (12:17),
chúng ta cũng sẽ gặp sự tấn công của ma-quỷ. Dầu vậy, vì chúng ta đang sống trong một địa
phương khác trong một thời đại khác (tức là chúng ta không phải là một phần của đế quốc La-mã
của Đô-mi-ti-an), nên sự đau khổ của chúng ta có thể khác. Nhìn chung, chúng ta ngày nay
không bị bách hại theo cách mà các độc giả thời Kinh thánh chịu.
Dầu vậy, chúng ta đang tranh chiến với nhiều cám dỗ về sự bội đạo và thỏa hiệp giống
như các hội thánh ở Tiểu Á đối diện. Sự vô đạo đức, thờ hình tượng, tà giáo, chủ nghĩa vật chất
và những tội lỗi khác vẫn đang sống động trong thời đại của chúng ta. Giống như tổ phụ của
chúng ta, chúng ta cũng đang bị ma quỷ tấn công để khiến chúng ta không trung tín giữa hệ
thống của thế giới chống nghịch lại với Đức Chúa Trời. Chúng ta biết chiến tranh chống lại với
những điều gian ác có nghĩa là gì. Lời dạy trong 12:11 rằng những tín hữu thế kỷ thứ nhất
“chiến thắng nó (Sa-tan) nhờ huyết của Chiên Con và nhờ lời làm chứng của họ” và không yêu
sự sống mình để khỏi phải chết” là những thách thức cho chúng ta ngày nay. Chúng ta không
quen hi sinh vì cớ Đấng Christ, ngay cả tuận đạo.
Bước 3: Vượt qua cây cầu nguyên tắc. Có những nguyên tắc thần học nào trong đoạn Kinh
Thánh này?
Nguyên tắc thần học được thành lập dựa trên những tương đồng giữa hoàn cảnh của họ
và của chúng ta. Có một vài nguyên tắc được tìm thấy trong đoạn này như sau:
Có một ma quỷ thật đang chống nghịch lại với Đức Chúa Trời và đang tìm cách lừa gạt
và hủy phá dân của Đức Chúa Trời. Chiến trường thuộc linh là thật.
Sa-tan đã bị đánh bại nhờ sự sống và công cuộc cứu chuộc của Đấng Christ.
Cơ Đốc Nhân có thể vượt qua được ma quỷ nhờ sống và công bố phúc âm của Chúa Giê-
xu Christ một cách trung tín.
Cơ Đốc Nhân có thể chịu đau khổ vì trung tín trong lời làm chứng cho Đấng Christ.
Bước 4: Nắm bắt được phân đoạn Kinh Thánh trong thời của chúng ta. Từng Cơ Đốc
Nhân ngày nay áp dụng nguyên tắc thần học đó trong đời sống của mình như thế nào?
Chúng ta cần biết những nguyên tắc trong đoạn Kinh thánh bày tỏ điều gì về hoàn cảnh
ban đầu. Chúng ta dùng nguyên tắc thần học thứ ba ở trên để làm ví dụ. Có vài yếu tố chung
trong phần liên kết giữa nguyên tắc này với hoàn cảnh gốc: (1) Cơ Đốc Nhân (2) kinh nghiệm sự
đắc thắng trên ma quỷ (3) nhờ đời sống và lời làm chứng về Chúa Giê-xu (4) ngay cả bị đe dọa
chết.
187
Tiếp theo, chúng ta phải khám phá một tình huống tương đương trong một bối cảnh hiện
nay. Trong bối cảnh gốc, sự tấn công của Sa tan trong hình thức bách hại. Do đó, chúng ta có thể
nói rằng bất cứ lúc nào, Cơ Đốc Nhân đều có thể chịu bách hại vì trung tín với tin lành của Đấng
Christ. Đây là hoàn cảnh tương đương.
Kết Luận
Trong sách Khải huyền Đức Chúa Trời mở bức màn ra để dân Ngài thấy những kế
hoạch của Ngài cho lịch sử nhân loại. Nhân vật chính trên sân khấu này là Chúa Giê-xu Christ,
Sư Từ và Chiên Con, đấng bảo đảm sự đắc thằng qua sự hi sinh. Sách Khải huyền có nhiều yếu
tố lạ vì nó mang một thể loại văn chương khác, nhưng nó không phải là quyển sách đóng. Chúng
ta có thể năm được ý nghĩa của sách Khải huyền và áp dụng nó cho cuộc đời của chúng ta nhưng
chúng ta cần phải đi theo qui luật của nó, chứ không phải của chúng ta.
Khi chúng ta học bối cảnh lịch sử của sách Khải huyền, chúng ta thấy một hoàn cảnh
mà Cơ Đốc Nhân chịu bách hại vì đức tin của mình bởi vì họ khước từ tham gia vào công việc
của ngoại giáo. Á p lực phải quỳ lạy Sê-sa thay vì Chúa Giê-xu mỗi ngày càng lớn và hi vọng bắt
đầu phai nhạt. Hơn nữa, một số Cơ Đốc Nhân cảm thấy thoải mái với môi trường ngoại giáo
xung quanh họ và họ thỏa hiệp với thế gian. Sách Khải huyền khích lệ những người bị bách hại
và cảnh báo những người thỏa hiệp.
Chúng ta có thể nói rằng mục đích của sách Khải huyền là trả lời câu hỏi “Ai là
Chúa?” Sách Khải huyền trả lời câu hỏi này bằng cách tạo nên một thế giới biểu tượng mà trong
đó độc giả có thể nhìn thấy được thiên đàng họ cần để chịu đựng trong cơn bách hại. Khi chúng
ta đọc về Đức Chúa Trời trên ngôi hay về Chiên Con đang thống trị con thú hay về khu vườn nơi
chúng ta sẽ sống trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời, chúng ta được khích lệ để chăm xem nơi
đó và giữ trung tín. Mục đích của sách này là để chỉ cho chúng ta trong ngôn ngữ tượng hình
rằng Chúa Giê-xu chứ không phải Sê-sa là Chúa. Khi chúng ta đọc, chúng ta được nhắc nhở rằng
Đức Chúa Trời chiến thắng và chúng ta có thể tiếp tục hi vọng.
Khi chúng ta quỳ xuống thờ lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời toàn năng vì mọi điều Ngài
đã làm để giải cứu chúng ta, thì thế gian sẽ mất sức mạnh để cướp lấy linh hồn của chúng ta.
Chúng ta cũng cầu nguyện: “Lạy Chúa Giê-xu, xin hãy đến!”
PHẦN IV
188
HÀ NH TRÌNH GIẢI KINH
CỰU ƯỚC
Chúng ta đã đi qua Hành Trình Giải Kinh trong Tân Ước, giờ đây chúng ta cùng
phiêu lưu Hành Trình này trong Cựu Ước. Tất cả những gì bạn học được trong những phần trước
đều có thể được áp dụng trong phần này. Bạn sẽ học cách giải nghĩa và áp dụng các câu chuyện,
tài liệu luật pháp, thơ ca, tiên tri và văn chương khôn ngoan của Cựu Ước. Dòng sông khác biệt
có lẽ lớn hơn và chiếc cầu nguyên tắc sẽ dài hơn. Sự khác nhau về thể loại cũng là điều quan
trọng. Dầu vậy những câu chuyện và thơ ca trong Cựu ước tuyệt hay và thú vị. Đức Chúa Trời
bày tỏ nhiều điều về chính Ngài qua những đoạn Kinh Thánh này. Chắc chắn thời gian bạn dành
để học Cựu Ước sẽ được trọng thưởng.
Luôn nhớ rằng chúng ta giải nghĩa và áp dụng Cựu ước với tư cách là một Cơ Đốc
Nhân. Tức là, dầu chúng ta tin rằng Cựu Ước là phần của Lời được linh cảm của Đức Chúa Trời
cho chúng ta nhưng chúng ta không muốn bỏ qua thập tự giá và giải nghĩa, áp dụng án văn
chương này như thể chúng ta là người Do Thái Cựu Ước. Chúng ta xác nhận rằng chúng ta là Cơ
Đốc Nhân Tân Ước và chúng ta sẽ giải nghĩa Cựu Ước từ điểm đó.
Trong bước 1, chúng ta sẽ tập trung vào bản kinh văn có nghĩa gì cho những người
đang sống trong thời đại Cựu Ước. Dầu vậy, chúng ta không thể dừng lại tại đây. Sau khi chúng
ta xác định được chiều dài của dòng sông (bước 2), và lập cây cầu nguyên tắc (bước 3), chúng ta
cần thêm vào một bước mới. Trước khi chúng ta chuyển qua phần áp dụng, chúng ta muốn chạy
nguyên tắc thần học xuyên qua Tân Ước, và tìm điều Tân Ước muốn thêm vào nguyên tắc đó
hay Tân Ước bổ sung nó như thế nào. Do đó, trong Hành Trình Giải Kinh có có bốn bước trong
Tân Ước nhưng có năm bước trong Cựu Ước. Chúng tôi sẽ giải thích bước mới này trong phần
tiếp theo. Chúng tôi muốn giới thiệu cho bạn đầy đủ Hành Trình tại đây:
189
Bước 1: Nắm bắt được đoạn Kinh Thánh trong thời xưa. Đoạn Kinh Thánh này có
ý nghĩa gì đối với những độc giả trong thời Kinh Thánh?
Bước 2: Đo được chiều rộng của dòng sông. Có những sự khác biệt nào giữa độc
giả thời Kinh Thánh với chúng ta?
Bước 3: Vượt qua cây cầu nguyên tắc. Có những nguyên tắc thần học nào trong
đoạn Kinh Thánh này?
Bước 4: Chuyển vào Tân Ước. Lời dạy trong Tân Ước có bổ sung hay thỏa mãn
nguyên tắc này không và nếu có thì như thế nào?
Bước 5: Nắm bắt được phân đoạn Kinh Thánh trong thời của chúng ta. Từng Cơ
Đốc Nhân ngày nay áp dụng nguyên tắc thần học đó trong đời sống của
mình như thế nào?
190
Chương 17
Cựu Ước – Chuyện Kể
Lời Giới Thiệu
Chuyện kể chiếm gần một nửa Cựu Ước. Những sách sau đều là những chuyện kể:
Sáng Thế Ký, Xuất Ê -díp-tô Ký, Dân Số Ký, Giô-suê, Các Quan Xét, Ru-tơ, I&II Sa-mu-ên,
I&II Các Vua, I&II Sử Ký, Ê -xơ-tê, Nê-hê-mi, Đa-ni-ên, Giô-na và A-ghê. Một vài sách khác
cũng có số lượng chuyện kể khá nhiều như: Gióp, Ê-sai, Giê-rê-mi và Ê-xê-chi-ên. Rõ ràng
chuyện kể là một thể loại quan trọng.
Chúng ta sẽ dùng từ chuyện kể để nói đến thể loại văn chương này. Chuyện kể là một
hình thức văn chương được mô tả qua chuỗi thời gian hành động và xoay quanh cốt truyện và
nhân vật. Ý nghĩa của một chuyện kể xuất phát chính từ những hành động của những nhân vật
của nó. Thay vì nói cho chúng ta sống thế nào hay không nên sống thế nào, chuyện kể cho chúng
ta biết cách sống như thế nào và không nên sống như thế nào qua những hành động của nhân vật.
Ví dụ, thay vì bảo chúng ta phải tin cậy Đức Chúa Trời và sống bằng đức tin vào lời hứa của
Chúa, Sáng thế ký trình bày cho chúng ta câu chuyện của Á p-ra-ham. Cũng phải luôn nhớ rằng
Đức Chúa Trời là một trong những nhân vật trung tâm của câu chuyện trong Cựu Ước. Chúng ta
có thể học được nhiều điều về Ngài khi học những hành động của Ngài và những lời hội thoại
của Ngài trong các chuyện kể. Chúng sẽ thảo luận vai trò của Đức Chúa Trời trong chuyện kể
nhiều hơn bên dưới.
Đối với một số người, từ chuyện kể ám chỉ rằng những sự kiện được mô tả có thể
không phải là thật và mang tính lịch sử. Chúng tôi không dùng từ này theo cách này vì chúng tôi
tin rằng chuyện kể mô tả những sự kiện thật. Dầu vậy, hình thức văn chương này còn nhiều hơn
chỉ là lịch sử. Cựu Ước kể cho chúng ta nhiều điều hơn là chỉ về lịch sử dân Y-sơ-ra-ên. Mục
đích của những câu chuyện này là về thần học – tức là Đức Chúa Trời đang sử dụng chúng để
dạy cho chúng ta thần học. Điều này không bác bỏ tính lịch sử của bản kinh văn và từ lịch sử
thần học là một phạm trù chính xác. Tuy nhiên, lịch sử thần học này liên quan đếnhình thức
chuyện kể và chúng ta thích dùng từ này hơn. Chúng ta cũng sẽ dùng từ người kể chuyện thay
cho từ tác giả.
Tại sao Đức Chúa Trời chọn văn chương kể chuyện để chuyển tải lẽ thật
thần học cho chúng ta? Tại sao Ngài không chuyển tải mọi điều qua luật pháp? Hãy suy
nghĩ về điều này. Cố gắng ghi ra những thuận lợi và bất lợi trong việc dùng chuyện kể
để chuyển tải lẽ thật thần học cho chúng ta.
191
Những Thuận Lợi Trong Việc Sử Dụng Chuyện Kể Để Chuyển Tải Lẽ Thật Thần Học
1. Chuyện kể hấp dẫn cả cho người lớn và trẻ em.
2. Chuyện kể kéo chúng ta vào hành động của câu chuyện.
3. Chuyện kể thường minh họa cuộc sống thật và vì thế dễ dàng liên hệ . Chúng ta tìm thấy
được chính mình và tự hỏi rằng chúng ta sẽ làm gì trong hoàn cảnh như vậy.
4. Chuyện kể thường dễ nhớ.
5. Đức Chúa Trời có thể đặt để chính Ngài như một nhân vật trong câu chuyện. Và qua đó
Chúa có thể dạy chúng ta về chính Ngài thông qua những gì Ngài nói và làm trong từng
bối cảnh cụ thể.
6. Chuyện kể thường bao quát. Chúng ta có thể thấy những nhân vật trăn trở, nhưng chúng
ta cũng có thể thấy kết quả của những trăn trở đó. Chúng ta có thể nhìn thấy toàn bộ nhân
vật.
7. Chuyện kể liên hệ cả những chi tiết nhỏ và sự kiện đến toàn cảnh câu chuyện.
Chuyện kể có những điểm bất lợi nào cũng như những hạn chế nào? Có những hạn chế nào trong
việc chuyển tải những lẽ thật thần học? Xem thử bạn có thể thêm vào những bất lợi nào trong
danh sách những điều chúng tôi nêu ra dưới đây.
Những Bất Lợi Trong Việc Sử Dụng Chuyện Kể Để Diễn Tả Lẽ Thật Thần Học
1. Ý nghĩa của câu chuyện kể có thể bị nhầm lẫn và không được xác định cách rõ ràng;
những người đọc thông thường có thể bỏ lỡ ý nghĩa của nó.
2. Người đọc có thể nhầm lẫn chuyện kể với một câu chuyện thông thường và bỏ qua ý
nghĩa thật của nó.
3. Người đọc có thể cho rằng vì nó thuộc một dạng văn kể chuyện nên nó chỉ liên quan
tới lịch sử chứ không liên quan đến thần học
4. Người đọc có thể giải thích quá nhiều thần học trong câu chuyện kể. (allegorizing)
Tuy nhiên, những điểm lợi có vẻ chiếm ưu thế hơn những điểm bất lợi. Hiển nhiên là
những tác giả của Kinh thánh cũng biết điều này. Trọng tâm của danh sách những điểm thuận lợi
là những vấn đề liên quan xung quanh việc làm thế nào mà văn học có thể kết nối với con người.
Theo ý kiến của chúng tôi, Đức Chúa Trời đã chọn phương tiện văn chương là chuyện kể làm
yếu tố chính để chuyển tải câu chuyện vĩ đại của Ngài một cách cô đọng cho chúng ta bởi vì
chuyện kể Kinh thánh lôi cuốn chúng ta một cách mạnh mẽ. Chúng thách thức, thu hút, quở trách,
thách đố và an ủi chúng ta. Chúng gắn chặt trong tâm trí của chúng ta. Chúng khiến chúng ta suy
192
nghĩ và ngẫm nghĩ. Chúng thu hút chúng ta cả tình cảm lẫn lí trí. Chúng dạy chúng ta về Đức
Chúa Trời và chương trình của Ngài cho dân sự. Chúng dạy chúng ta về tất cả các loại người-
người tốt, người xấu, người trung tín, thuận phục hay người cứng đầu, không vâng phục. Chúng
dạy chúng ta về cuộc sống với tất cả sự phức tạp cũng như đa dạng của nó.
Những người viết chuyện kể Kinh thánh đã viết với kỹ năng và năng quyền. Có
những lúc ý nghĩa của nó rõ ràng nhưng cũng có những lúc người viết không rõ ràng và ý nghĩa
của đoạn văn cũng không rõ. Chúng ta có cả một dòng sông giải nghĩa thật sự phải bước qua khi
chúng ta đọc những chuyện kể trong Cựu ước. Phần còn lại của chương sách này sẽ giúp chúng
ta vượt qua dòng sông đó và làm một cuộc Hành Trình Giải Kinh từ bối cảnh kinh văn Cựu Ước
đến ứng dụng cho ngày hôm nay. Chúng ta sẽ tập trung vào việc làm thế nào để đọc một phân
đoạn chuyện kể cách cẩn thận và rút ra được những nguyên tắc thần học vững chắc từ những
phân đoạn này- những nguyên tắc có thể ứng dụng cho ngày hôm nay.
Đọc Chuyện Kể
Nền tảng của việc giải nghĩa chuyện kể Kinh thánh Cựu ước cách chính xác chính là
việc đọc đoạn văn một cách kĩ càng. Bạn có nhớ tất cả những kỹ năng quan sát mà bạn đã học ở
chương 1 không? Bạn sẽ cần chúng khi đọc những câu chuyện kể trong Cựu Ước. Hãy trở lại
chương 4 và ôn lại cách ngắn gọn. Bạn có nhớ việc cần phải lưu ý thế nào tất cả những chi tiết
nhỏ nhặt trong Mác 8:22-26 và những đoạn Kinh thánh lân cận đã giúp bạn giải nghĩa đoạn Kinh
thánh đó? Cũng vậy hãy ôn lại phần thảo luận của chúng ta trong chương 4 về Sáng thế kí 11:1-9.
Bạn có nhớ rằng đoạn Kinh thánh đó có cấu trúc tương xứng không? Cấu trúc phức tạp đó chỉ
cho chúng ta rằng những người viết chuyện kể Cựu Ước có thể tinh tế trong việc viết của họ và
họ có thể sử dụng vài công cụ văn chương phức tạp hơn để kể chuyện.
Cũng ôn lại những kỹ năng bạn đã học trong chương 15 về các sách Phúc âm. Có rất
nhiều điểm tương đồng giữa việc đọc các sách Phúc âm trong Tân ước và đọc những chuyện kể
trong Cựu Ước. Những kỹ năng bạn phát triển với những sách phúc âm cũng sẽ giúp bạn rất
nhiều trong việc nắm bắt những chuyện kể trong Cựu Ước. Tuy nhiên, một trong những sự khác
biệt là những phần (episode) trong Cựu Ước thường dài hơn những phần (episode) trong Tân
Ước. Trong các sách Phúc âm hầu hết những câu chuyện mà chúng ta xem xét đều ngắn. Hơn thế
nữa, bối cảnh mà chúng ta phân tích thường là những phân đoạn kế trước hoặc theo sau những
phân đoạn đó. Vì thế việc phân tích các sách Phúc âm thường khá chặt chẽ. Tuy nhiên, những
phần trong chuyện kể Cựu ước thường dài hơn và thường bao gồm cả chương.
Hơn thế nữa, bối cảnh văn phong cần khám phá có lẽ thậm chí dài hơn, thường bao
gồm nhiều chương. Đừng có đi tắt! Đừng cho rằng những chuyện kể trong Cựu Ước là những
câu chuyện đơn giản! Hãy quan sát! Hãy phân tích đoạn văn giống như Sherlock Holmes phân
tích một hiện trường tội phạm. Hãy tìm kiếm những điểm lặp lại, so sánh, tương phản hay những
193
di chuyển từ tổng quát đến cụ thể, và v.v…Hãy để ý đến những chi tiết nhỏ tại sao những chi tiết
đó lại xuất hiện ở đây.
Hãy nhìn vào đoạn văn một bối cảnh hấp dẫn tại Giô suê đoạn 2. Vào những chương
đầu của sách Giô suê, dân Y-sơ-ra-ên bắt đầu cuộc chinh phục đất hứa. Trong chương 1, Chúa
động viên Giô-suê can đảm dẫn dân Y-sơ-ra-ên qua sông Giô-đanh đến vinh quang của vùng đất
hứa. Tuy nhiên, trong Giô-suê đoạn 2, câu chuyện chinh phục dường như đã giảm xuống và chen
ngang bởi câu chuyện về người kỵ nữ Ra-háp. Câu chuyện này cung cấp nhiều chi tiết, người kể
chuyện đã chia sẻ một lượng lớn thông tin về Ra-háp. Chúng ta biết tên và nghề nghiệp của nàng
(điều gây thắc mắc). Chúng ta cũng được cung cấp rất nhiều chi tiết. Ví dụ như, nàng giấu các
thám tử trên mái nhà, nơi nàng phơi cộng gai; nàng nói với họ về Đức Chúa Trời, và bày tỏ đức
tin của mình nơi Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên dựa trên những gì nàng đã nghe về Ngài; gia
đình của nàng cũng được nhắc đến hai lần (2:13,18); nàng khuyên các thám tử nên đi đường nào
để trốn, nàng đánh lừa những người lính của nhà vua; nhìn chung nàng là một phụ nữ rất khôn
khéo.
Chính vần đề này đã kích thích suy nghĩ chúng ta, dẫn chúng ta tới vô số câu hỏi quan
sát. Tại sao lại là tất cả những chi tiết này? Mái nhà? Sợi chỉ đỏ? Thậm chí tại sao lại đề cập đến
Ra-háp? Đặt câu chuyện này vào phần đầu của câu chuyện chinh phục, câu chuyện Ra-háp được
nhấn mạnh. Điều này không phải là bất thường sao? Dân Y-sơ-ra-ên được ra lệnh tiêu diệt tất cả
mọi người ở vùng Đất hứa, thế nhưng câu chuyện đầu tiên của cuộc chinh phục lại là một ngoại
lệ - một người gái điếm của xứ Ca-na-an trở về với Chúa và được cứu. Dĩ nhiên là vị trí của câu
chuyện này và sự nhấn mạnh của nó bởi lượng văn từ dược dùng để diễn tả nó chỉ ra rằng đây là
một câu chuyện quan trọng để có thể hiểu được cuộc chinh phục và sách Giô-suê. Có phải Ra-
háp là một cá nhân đơn lẻ hay nàng là một nhân vật đại diện cho một nhóm người lớn hơn- có lẽ
đó là những người có đức tin? Vì thế chúng ta bám vào Giô-suê đoạn 2, quan sát kỹ và đặt câu
hỏi.
Phần kế tiếp chúng ta bắt đầu khám phá những chương lân cận, khám phá những kết
nối và thông tin cần thiết. Giô-suê đoạn 3 đến đoạn 5 mô tả sự chuẩn bị của dân Y-sơ-ra-ên cho
cuộc tấn công vào Giê-ri-cô (thành phố của Ra-háp). Giô-suê đoạn 6 mô tả cảnh chinh phục
thành Giê-ri-cô một cách kì diệu. Ra-háp lại xuất hiện trong Giô-suê đoạn 6 (c. 17,23,25), vì thế
chúng ta cần chậm lại để xem xét. Một lần nữa gia đình của nàng và tài sản của nàng được nhắc
đến: “Tất cả người ở cùng nàng trong nhà sẽ được sống” (c.17), “cha mẹ nàng, anh em, và mọi
vật chi thuộc về nàng đi ra” (c.23), “luôn nội nhà cha của nàng, và mọi vật chi thuộc về nàng”
(c.25). Cũng có lời chép về việc gia đình nàng được giải cứu tương phản với số phận của những
người khác ở Giê-ri-cô trong 6:21 “đưa gươm qua diệt mọi vật ở trong thành, nào nam phụ lão
ấu, cho đến bò, chiên và lừa.”
Tuy nhiên, Giô-suê đoạn 7 giới thiệu với chúng ta một nhân vật khác tên là A-can.
Người đàn ông Y-sơ-ra-ên này đã lấy cắp một vài vật đã được dâng cho Đức Chúa Trời. Vì việc
194
của ông làm mà Y-sơ-ra-ên bại trận kế tiếp. Cuối cùng Giô-suê đã tìm thấy A-can và Y-sơ-ra-ên
đã kết tội ông và gia đình của ông, cùng với bò, chiên, và lừa. Wow, đến lúc này thì tiếng chuông
cảnh báo trong đầu quí vị nên tắt đi. Bò, chiên, và lừa được đặc biệt nhắc đến trong 6:21 nói về
sự hủy diệt của Giê-ri-cô. Có phải sự chết của A-can được đem so sánh với sự hủy diệt của Giê-
ri-cô? Và còn về việc hủy diệt cả gia đình ông thì sao? Hãy nhớ lại rằng việc giải cứu gia đình
được nhấn mạnh trong câu chuyện của Ra-háp. Có sự liên hệ nào ở đây không? Có phải Ra-háp
và A-can là hai hình ảnh trái ngược nhau?
Hãy có cái nhìn gần hơn vào A-can với hình ảnh Ra-háp trong đầu. Khi chúng ta đọc
qua Giô-suê đoạn 7 chúng ta nhận ra rằng A-can là những gì chính xác đối lập với Ra háp. Thực
sự, Ra-háp và A-can là hai nhân vật chính mới được giới thiệu trong câu chuyện trong bảy đoạn
đầu của sách Giô suê. Những câu chuyện của họ hình thành nên đoạn kết gần những chương liên
quan đến sự sụp đổ của Giê-ri-cô. Khi chúng ta khám phá những chi tiết trong câu chuyện của A-
can, chúng ta nhận ra rằng có rất nhiều chi tiết trong câu chuyện của A-can tương phản với
những chi tiết trong câu chuyện của Ra-háp. Điều đó có vẻ như là mặc dầu người kể chuyện cố ý
kể tương phản giữa hai câu chuyện trong phần nền là sự hủy diệt của thành Giê-ri-cô. Đọc lại
Giô suê đoạn 2 tới đoạn 7 và liệt ra những tương phản mà bạn có thể. Sau đó so sánh với những
điểm khác biệt chúng tôi nêu ra sau đây:
Ra háp A can
Nữ Nam
Người Ca na an Người Hê bơ rơ
(thuộc chi phái Giu đa, chi phái tốt nhất)
Là gái điếm Là người đáng được tôn trọng
Lẽ ra phải chết nhưng được
sống và thịnh vượng Lẽ ra phải được thạnh vượng thì bị chết mất
Nàng và tất cả những gì của nàng đều
được sống Ô ng và tất cả những gì của ông bị diệt
Đất nước bị diệt Đất nước được thịnh vượng
Dấu các thám tử khỏi lính của vua Dấu tài sản với Chúa và Giô suê
Dấu các thám tử trên mái nhà Dấu tài sản dưới lều
Kính sợ Chúa của Y-sơ-ra-ên Không kính sợ Chúa của Y-sơ-ra-ên
Chỉ mới nghe về Đức Chúa
Trời nhưng đã tin Ngài
Đã nhìn thấy công việc của Đức Chúa Trời nhưng
không vâng lời
Nhà của nàng được sống trong
khi thành phố bị tiêu diệt Lều của ông bị thiêu đốt
Bò, chiên, lừa của Giê-ri-cô bị diệt Bò, chiên, lừa của A-can bị diệt
Nàng trở nên giống như người Y sơ ra
ên và sống
Ô ng trở nên giống như người Ca na an và
bị diệt vong
195
Thực chất thì Ra-háp và A-can đổi chỗ cho nhau. Nàng trở nên người Y-sơ-ra-ên và
sống giữa vòng dân sự của Đức Chúa Trời. Nàng thậm chí còn xuất hiện trong gia phổ của Chúa
Giê-xu. Ngược lại, A-can, một người Y-sơ-ra-ên thì chết như một người Ca-na-an. Thực ra sự
hủy diệt A-can và cả nhà của ông tương đương với sự hủy diệt của thành Giê-ri-cô. Sự khác biệt
chính của Ra-háp và A-can chính là thái độ của họ đối với Chúa. Ra-háp kính sợ Chúa, đặt đức
tin nơi Ngài và liều mạng sống mình để bảo vệ hai thám tử của Y-sơ-ra-ên. A-can thì đã hành
động như thể Đức Chúa Trời không tồn tại và cho rằng dầu có không vâng lời Đức Chúa Trời thì
cũng sẽ chẳng gánh phải hậu quả nào.
Hai chuyện kể này cùng hỗ trợ cho sự hủy diệt của thành Giê-ri-cô. Hãy để ý sự trái
ngược. Khi chúng ta bắt đầu đọc câu chuyện về sự chinh phục Ca-na-an của người Y-sơ-ra-ên,
hai người đầu tiên chúng ta gặp trong câu chuyện là những ngoại lệ. Ra-háp người Ca-n- an
được sống và A-can người Y-sơ-ra-ên thì chết. Người kể chuyện cho chúng ta biết rằng có nhiều
nơi cần phải chinh phục hơn là chỉ sự hủy diệt của Giê-ri-cô. Có sự ảnh hưởng sâu sắc của đức
tin và sự vâng lời của cá nhân trong đó. Cũng vậy, có nhiều điều để tin nơi Chúa hơn là vấn đề
của quốc gia hay sự kính trọng. Một người kỵ nữ Ca-na-an có thể tìm thấy nó và một người Y-
sơ-ra-ên đáng kính đã bỏ lỡ nó.
Vì thế, hãy đọc một cách cẩn thận. Để ý những chi tiết. Quan sát! Đọc xuyên thấu
nhưng chương liên quan. Tìm những kết nối. Dùng tất cả những kỹ năng mà bạn đã phát triển
trong chương 1. Hãy đặt câu hỏi cho đoạn văn. Hỏi tại sao những chi tiết lại xuất hiện ở đó. Tiếp
tục đọc và đào sâu.
Những đặc điểm văn chương của chuyện kể
Trong chương 1 chúng ta đã học những kỹ năng để bản văn một cách cẩn thận. Một
vài đặc điểm văn chương chúng ta đã học cách tìm kiếm cũng là những đặc điểm văn chương
quan trọng của chuyện kể.
Chúng ta sẽ thăm lại một vài đặc điểm văn chương trong chương này nhưng chúng ta
cũng sẽ thêm vào một vài đặc điểm đặc biệt để tìm kiếm trong khi chúng ta quan sát những
chuyện kể trong Cựu Ước.
Bốn yếu tố quan trọng của chuyện kể mà chúng ta không đề cập đến trong bài 1 đó là:
(1) bố cục, (2) bối cảnh, (3) nhân vật, (4) quan điểm của người kể chuyện. Trong phần thảo luận
các sách Phúc  m (chương 14) chúng tôi khuyến khích bạn hỏi những câu hỏi tiêu chuẩn về
chuyện kể như là: Ai? Cái gi? Khi nào? Ở đâu? Tại sao? Và thế nào? Những câu hỏi này sẽ giúp
bạn bắt đầu nghiên cứu chuyện kể, nhưng chúng ta cần mở rộng những câu hỏi này cho bốn yếu
tố mà chúng ta đề cập ở trên.
196
1. Cốt chuyện.
Khám phá cốt chuyện là sự mở rộng của những câu hỏi: Ai? Và thế nào? Cốt chuyện
là cấu trúc gắn kết các chuyện kể lại với nhau. Dòng chảy của sự kiện, cùng với sự lên xuống của
các hành động kịch tính vạch ra cấu trúc của cốt chuyện và di chuyển câu chuyện về phía trước.
Cốt chuyện cũng chính là yếu tố kết nối các phần riêng lẻ lại với nhau để tạo thành một câu
chuyện logic. Ví dụ: Trong chuyện kể về Á p-ra-ham (Sáng-thế ký 12-25) chúng ta gặp rất nhiều
phần kể về cuộc đời của ông (ông nhận lấy lời hứa, ông đi đến Ai cập, ông giải cứu Lót, ông đuổi
A-ga đi…). Tất cả những phần ngắn này là một phần của cốt chuyện lớn của câu chuyện kể về
lời hứa của Đức Chúa Trời với Á p-ra-ham và việc hoàn thành lời hứa đó.
Hầu hết cốt chuyện của chuyện kể có ba phần. Câu chuyện bắt đầu với phần trình bày,
là phần mô tả nền tảng cơ bản và bắt đầu loạt sự kiện chính. Phần tiếp theo là phần mâu thuẫn.
Thông thường trong phần trình bày, một điều gì đó được mô tả qua những chi tiết chưa hoàn
thành, lộn xộn hay mong ước chưa được trọn. Phần thiếu hụt này dẫn đến mâu thuẩn. Mâu thuẫn
có thể là nội tại (bên trong một nhân vật) hoặc là ngoại tại (giữa hai nhân vật hay hai nhóm nhân
vật). Thông thường, trong Cựu Ước, mâu thuẫn chính là giữa Đức Chúa Trời với dân cứng đầu
của Ngài. Phần tiếp theo thường là căng thẳng và được đẩy lên tới đỉnh điểm và yếu tố cuối cùng
được nối tiếp: phần giải quyết cốt truyện. Tại đây, mâu thuẫn được giải quyết. Khi bạn đọc một
câu chuyện, hãy chắc là bạn nhận ra được cốt chuyện chính. Hỏi: “Câu chuyện này nói về điều
gì?” Cố gắng tìm xem những sự kiện nào đẩy câu chuyện đi: Điều gì là mâu thuẫn chính? Căng
thẳng này tiến triển như thế nào? Mâu thuẫn được giải quyết như thế nào?
2. Bối cảnh.
Bối cảnh liên quan đến những câu hỏi: “Khi nào? Và ở đâu? Các tác giả Cựu ước
không cung cấp số lượng tài liệu mô tả giống nhau về bối cảnh giống như các tác giả hiện đại,
nhưng họ vẫn thường nhận ra bối cảnh. Những câu chuyện trong Kinh Thánh không diễn ra
trong môi trường trống, cũng không diễn ra trong môi trường tưởng tượng hay huyền bí. Những
bối cảnh của Cựu ước thường là những quan cảnh rõ ràng, nghĩa đen: trong triều đình đẹp đẽ của
Pha-ra-ôn tại Ai-cập, trong sa mạc Si-na-i, trong một cái hang, trên những đỉnh núi hay trên sân
đạp lúa…. Bối cảnh là quan trọng. Để ý đến bất cứ bối cảnh thay đổi trong câu chuyện. Chú ý
đặc biệt khi người nào đó rời khỏi Đất Hứa. Hãy nhớ rằng đất đó là một nơi đặc biệt cho dân Y
sơ ra ên của Cựu Ước vì nó liên kết với mối quan hệ giao ước với Đức Chúa Trời.
Ví dụ, Ru-tơ 1:1 nói:
Trong đời các quan xét, một cơn đói kém xảy đến trong xứ, có một người từ Bết-
lê-hem xứ Giu-đa, đi với vợ và hai con trai mình đến kiều ngụ trong xứ Mô-áp.
Có vài khía cạnh về bối cảnh được trình bày trong cầu đầu tiên của sách Ru-tơ. Phần
này đóng vai trò quan trọng để hiểu được phần còn lại của sách này. Bối cảnh thời gian: “Trong
197
đời các quan xét” kết nối câu chuyện với bối cảnh của sách Các Quan Xét. Khi chúng ta trở lại
với sách Các Quan Xét, chúng ta nhận thấy rằng đó là một thời kỳ kinh khủng. Sự lộn xộn tràn
đầy. Sự bất tuân luật pháp và bất tuân Đức Chúa Trời và những cuộc tấn công của người ngoại
bang là phổ biến. Bối cảnh này cho thấy hành trình đơn độc của Ru-tơ và Na-ô-mi vô cùng nguy
hiểm. Đặc biệt với Ru-tơ, một người ngoại bang lại vào vùng đất đầy những người đàn ông. Nó
cũng chỉ ra rằng việc gặp được một người tốt bụng và chân thành như Bô-ô là điều bất thường.
Bối cảnh địa lý cũng quan trọng, đặc biệt khi nó thay đổi nhiều lần trong câu chuyện.
Người đàn ông này rời xứ Bết-lê-hem để đến đất Mô-áp. Trong Cựu Ước, rời vùng đất nầy
thường cho là thiếu đức tin nơi Đức Chúa Trời. Những thảm họa đổ trên gia đình này trong vài
câu tiếp theo. Phải chăng vì họ đã rời vùng đất này? Sau đó trong câu chuyện, Na-ô-mi và Ru-tơ
sẽ trở lại vùng đất đó. Phước hạnh có bảo đảm khi họ quay trở lại không? Có lẽ có. Cũng để ý
rằng bối cảnh mô tả trong câu mở đầu câu chuyện mang âm hưởng khôi hài. Tên của thành phố
“Bết-lê-hem”, có nghĩa là “nhà bánh”. Có một “cơn đói” ở “nhà bánh”.
3. Nhân Vật.
Khi trả lời câu hỏi Ai? bạn sẽ khám phá được nhân vật. Nhân vật đặc biệt quan trọng
trong văn kể chuyện. Họ hành động và chuyển cốt chuyện về phía trước. Thông thường ý nghĩa
được chuyển tải trong phân đoạn Kinh Thánh được nối với thái độ của một hay nhiều nhân vật
trong câu chuyện. Dầu vậy, nhân vật rất phức tạp. Hơn nữa, người kể chuyện (tác giả) không cho
chúng ta biết từng nhân vật nghĩ và cảm giác như thế nào. Họ thường để lại những khoảng trống
mù mờ về các nhân vật và chúng ta là độc giả phải tranh chiến để tìm cách lấp đầy những khoảng
trống này. Giống như chính những người tham dự vào câu chuyện, chúng ta, là độc giả, thường
không có tất cả thông tin chúng ta muốn. Người kể chuyện đẩy chúng ta theo câu chuyện một
cách chậm chạp và chỉ bày tỏ những mảng thông tin quan trọng để giữ chúng ta đọc câu chuyện
đó và tiếp tục đọc. Đây là một phần của một câu chuyện hay.
Hãy xem ví dụ về nhân vật U-ri, là chồng của Bát-sê-ba. Trong II Sa-mu-ên 11, khi
U-ri đang đi đánh trận cho vua thì vua Đa-vít phạm tội tà dâm với vợ của U-ri là Bết-sê-ba. Sau
khi cô có thai, Đa-vít gọi U-ri về và cho phép ông ngủ với vợ để kết luận rằng Ủ-ri là cha của
đứa trẻ. Kế hoạch của Đa-vít phá sản và cuối cùng ông đã giết U-ri. Cảnh trọng tâm trong câu
chuyện này – có người cho là đỉnh điểm – là cuộc gặp gỡ giữa Đa-vít và U-ri, được mô tả trong
II Sam. 11:10-12. U-ri không chịu về nhà với vợ và điều này phá sản kế hoạch của Đa-vít.
Đây là nơi mà chúng ta, là độc giả muốn biết nhiều thông tin hơn. U-ri có biết về vụ
việc này không? Có thật sự Đa-vít muốn cho ông về nhà? Khi chúng ta đọc qua câu chuyện,
chúng ta nhận ra rằng nhiều người liên quan đến việc che đậy. Có người nào đó trong cung vua
tiết lộ vụ việc này cho U-ri không? Ô ng chắc biết nhiều người trong cung vua. Trong câu 10, Đa-
vít hỏi U-ri: “Cớ sao ngươi không về nhà?” Chúng ta lắng nghe câu trả lời của U-ri và tự hỏi liệu
anh ta có thật sự chân thật và trả lời thẳng hay liệu có lẽ câu trả lời của anh ta là cay đắng, xác
198
định là anh ta biết sự việc. Câu trả lời của U-ri thật buồn cười nhưng nếu anh ta biết về vụ việc
này thì câu trả lời của anh ta là một nhát dao đâm vào Đa-vít: “Hòm giao ước, Y-sơ-ra-ên, và
Giu-đa, vẫn ở dưới trại, Giô-áp, là chúa tôi, luôn với các tôi tớ chúa tôi đang hạ trại nơi đồng
trống, còn tôi lại vào nhà mình đặng ăn, uống, và ngủ cùng vợ mình sao? Tôi chỉ mạng sống và
linh hồn của vua mà thề rằng, tôi chẳng biết làm một sự như vậy!”
Đa-vít không đi ra trận nhưng đã làm chính điều U-ri từ chối làm. U-ri đóng vai trò
quan trọng trong câu chuyện này. Cách chúng ta lấp đầy khoảng trống về sự hiểu biết và thái độ
của U-ri ảnh hưởng đến cách chúng ta hiểu câu trả lời của ông. Người kể chuyện không bao giờ
cho chúng ta biết thông tin này nhưng cố tình để tự chúng ta nhận ra sự bối rối và sợ hãi trong
lòng của Đa-vít. Đa-vít cũng không chắc là U-ri có biết hay không.
4. Quan điểm của người kể chuyện
Người kể chuyện chịu trách nhiệm chuyển tải ý nghĩa đến độc giả qua câu chuyện.
Thỉnh thoảng, người kể chuyện bày tỏ quan điểm của mình rõ ràng cho chúng ta bằng cách dùng
những câu tóm tắt hay nhận xét. Ví dụ, trong II Các. 17:7 người kể chuyện giải nghĩa những sự
kiện trước đó cho chúng ta và giải thích: “Vả, dân Y-sơ-ra-ên đã phạm tội cùng Giê-hô-va Đức
Chúa Trời của họ, là Đấng đã rút họ ra khỏi xứ Ê -díp-tô, và khỏi tay hà hiếp của Pha-ra-ôn, vua
Ê-díp-tô; chúng đã kính thờ các thần khác”. Nhưng người kể chuyện thường đứng trung lập. Ý
nghĩa ông chuyển tải qua câu chuyện là một ý nghĩa gián tiếp, không phải trực tiếp. Ô ng không
đến và nói cho chúng ta ý nghĩa nhưng để cho các nhân vật và thái độ của họ nói về chính họ.
Ông mong độc giả có thể nhận ra điều tốt từ điều xấu.
Ví dụ, trong phần sau của sách Các Quan Xét, dân Y-sơ-ra-ên phạm tội nặng nề. Lời
phán xét tồi tệ nhất mà người kể chuyện thật sự nói trực tiếp trong 21:25: “Đang lúc đó, không
có vua trong Y-sơ-ra-ên; ai nấy làm theo ý mình lấy làm phải”. Trong vài chương cuối của sách
Các Quan Xét, dân sự đã trượt dài xuống tận cùng của suy đồi trong phương diện thần học và
đạo đức. Không những họ đã thất bại trong việc đánh đuổi dân Ca-na-an như Chúa đã truyền
lệnh mà còn (1) những quốc gia khác xâm chiếm nó, (2) họ chém giết nhau thay vì sống hòa bình
trên vùng đất đó, (3) họ xây qua các thần khác, (4) một thầy tế lễ Lê-vi dẫn chi phái Đan đi thờ
thần tượng ngoại bang, (5) một thành Y-sơ-ra-ên cố gắng tấn công một thầy tế lễ và hãm hiếp
người vợ thứ của ông ta….Bạn có nắm được bức tranh chưa? Tình hình thật tồi tệ.
Người kể chuyện hoàn toàn có thể đem ra một cơ hội phán xét về đạo đức trên sự lộn
xộn này không? Không. Tuy nhiên người kể chuyện đã trình bày sự phán xét của mình một cách
thích hợp qua phương cách nghệ thuật mà ông kể trong câu chuyện. Có sự phán xét của ông
nhưng rất tế nhị. Ví dụ, trong Các Quan Xét 19 ông kể câu chuyện kinh khủng về cách mà đám
nổi loạn Y-sơ-ra-ên trong thành Ghi-bê đe dọa tấn công một thầy tế lễ Lê-vi, la ó với người
muốn bảo vệ ông: “ Hãy đem người đã vào nhà ngươi đó ra, cho chúng ta biết (quan hệ tình dục)
hắn” (19:22). Chương này trông có vẻ quen thuộc phải không? Nó nhắc lại một sự kiện trước đó
199
không? Chắc chắn có! Trở lại Sáng. 19, người dân Sô-đôm đã làm điều giống hệt như vậy. Bạn
có cảm nhận người kể chuyện sách Các Quan Xét đang làm gì không? Ông ta không lên án trực
tiếp chương này ở Ghi-bê, nhưng ông chắc chắn lên án một cách gián tiếp. Ô ng trình bày sự kiện
theo cách nổi bật bằng cách so sánh sự kiện này với sự kiện tại thành Sô-đôm. Sau đó ông để độc
giả tự kết luận lấy.
Đức Chúa Trời phán xét nghiêm khắc tội lỗi của dân Sô-đôm trong Sáng. 19 và cả
dân thành đều bị hủy diệt. Cựu ước mô tả chương này như là đỉnh cao của mọi tội ác. Tội lỗi
đỉnh điểm của dân Ca-na-an như được minh họa trong thành Sô-đôm, giải thích cuộc chinh phục.
Hãy xem dân Ca-na-an tội lỗi dường nào trong câu chuyện được kể trong Sáng Thế Ký. Nhưng
hãy để ý đến tính khôi hài trong Các Quan Xét 19. Người ở Ghi-bê không phải là người Ca-na-an.
Những người này là người Y-sơ-ra-ên! Họ cần phải trung tín với Đức Chúa Trời và đuổi dân Ca-
na-na tội lỗi này ra khỏi vùng đất. Nhưng như người kể chuyện cho chúng ta thấy, dân Y-sơ-ra-
ên trở nên giống dân Ca-na-an, quên mất Đức Chúa Trời và phạm cùng tội lỗi kinh khủng như họ
đã từng phạm ở thành Sô-đôm. Đức Chúa Trời cũng không đoán phạt dân Y-sơ-ra-ên như vậy
sao? Dân Y-sơ-ra-ên có quyền gì để ở trong Đất Hứa khi họ không khác gì hơn người Ca-na-an?
Người kể chuyện có thể cũng tỏ vẻ tích cực với một sự kiện nào đó nhưng thực tế ông
không tích cực chút nào. Trong những trường hợp này ông cung cấp cho chúng ta những gợi ý tế
nhị với quan điểm thật của mình. Ví dụ, nhìn I Các Vua 1-11. Những chương này tập trung chính
yếu vào vẻ đẹp hoành tráng của vương quốc Sa-lô-môn. Câu chuyện nhấn mạnh đến sự khôn
ngoan và giàu có của ông. Ô ng xây cất những toà nhà vĩ đại, đặc biệt đền thờ của Chúa. Mọi thứ
xuất hiện thịnh vượng và tuyệt vời. Người kể chuyện dường như đang nâng cao Sa-lô-môn và
vương quốc của ông lên. Tuy nhiên, nếu chúng ta xem cẩn thận, chúng ta sẽ thấy người kể
chuyện đang nháy mắt chúng ta. Ô ng không kể câu chuyện này bằng mặt thẳng của mình. Trên
bề mặt, mọi thứ dường như tuyệt vời nhưng bên dưới, có một điều gì đó sai trận nghiêm trọng.
Người kể chuyện tiếp tục vẽ lên bức tranh của vương quốc hoành tráng của Sa-lô-môn nhưng
ông cũng bắt đầu để lại vài gợi ý cho quan điểm thật về Sa-lô-môn. Chú ý điều kiện lặng trong I
Các 3:3: “Sa-lô-môn kính mến Đức Giê-hô-va, và đi theo các luật lệ của Đa-vít, cha mình; song
người dâng của lễ và xông hương tại trên nơi cao.”
Người kể chuyện tiếp tục khen ngợi thành tựu của Sa-lô-môn nhưng ông khiến cho
chúng ta phải tự hỏi liệu đó là điều ông chủ định hay không. Chính trọng tâm của vấn đề nằm
trong Phục truyền 17:14-17. Nhiều lần trong I Các. 1-11, Sa-lô-môn được cho là vâng theo luật
pháp và điều răn của Chúa. Những luật có thể được áp dụng nhiều nhất cho Sa-lô-môn được tìm
thấy trong Phục truyền 17:14-17 vì phân đoạn này liên hệ cụ thể với những mạng lệnh cho nhà
vua. Đoạn Kinh Thánh này như sau:
14 Khi ngươi đã vào xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi ban cho, được nhận
lấy và ở tại xứ đó rồi, nếu ngươi nói: Tôi sẽ lập một vua lên cai trị tôi, như các
dân tộc chung quanh, 15 thì khá lập một vua lên cai trị ngươi, mà Giê-hô-va Đức
200
Chúa Trời ngươi sẽ chọn; phải lập lên một vua thuộc về anh em ngươi; chớ nên
lập một người ngoại bang lên, không phải anh em ngươi. 16 Song vua ấy chẳng
nên lo cho có nhiều ngựa, chớ vì muốn thêm nhiều ngựa mà dẫn dân sự trở lại xứ
Ê -díp-tô; bởi Đức Giê-hô-va đã phán cùng các ngươi rằng: Các ngươi sẽ chẳng
trở về đường đó nữa. 17 Vua cũng không nên kén nhiều phi tần, e lòng người trở
xấu xa; lại chẳng nên thâu góp nhiều bạc vàng.
Ba điều cấm với một vị vua trong Phục. 17 là: (1) nhiều ngựa, đặc biệt từ Ai-cập, (2)
nhiều vợ, (3) thâu góp nhiều bạc vàng. Nhớ đoạn Kinh Thánh này và xem bình luận của người kể
chuyện về Sa-lô-môn trong I Các. 10:26-28 và 11:3:
26 Sa-lô-môn cũng nhóm xe và lính kỵ; có một ngàn bốn trăm xe và mười hai
ngàn lính kỵ, để trong các thành chứa xe, và tại Giê-ru-sa-lem, gần bên vua. 27
Tại Giê-ru-sa-lem vua làm cho bạc ra thường như đá, và cây bá hương nhiều như
cây sung mọc nơi đồng bằng. 28 Vua Sa-lô-môn do nơi Ê-díp-tô mà được ngựa;
một đoàn con buôn của vua đi kiếm mua từng bầy, giá phải chăng….
…. 3 Người có bảy trăm hoàng hậu, và ba trăm cung nữ; chúng nó bèn làm cho
người trở lòng.
Người kể chuyện có nghĩ là chúng ta, những độc giả, biết Phục truyền 17:16-17
không? Có lẽ có. Sách Phục truyền vươn bóng mình xuyên suốt Cựu Ước và đó là sách quan
trọng phải ghi nhớ. Đó cũng không phải là điều vô tình mà người kể chuyện nhấn mạnh chính
những điều mà Phục truyền 17 cấm, đặc biệt đặt việc thâu gom nhiều ngựa chung với thâu gom
nhiều bạc trong cung lại thành một bối cảnh. Trên hết, ông muốn ngay cả đề cập rằng Sa-lô-môn
yêu cầu nhiều ngựa từ Ai-cập. Nếu thật như vậy thì người kể chuyện không phải đang ca ngợi
Sa-lô-môn nhưng ông đang lên án Sa-lô-môn. Qua I Các. 11, con mèo đã chui ra khỏi giỏ và
người kể chuyện bày tỏ quan điểm của mình một cách rõ ràng. “Như vậy, Sa-lô-môn làm điều ác
trước mặt Đức Giê-hô-va, chẳng vâng theo Đức Giê-hô-va cách trọn lành như Đa-vít, cha người,
đã làm” (I Các 11:6); “Đức Giê-hô-va nổi giận cùng Sa-lô-môn, bởi vì lòng người trở bỏ Giê-hô-
va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên” (11:9).
Ngay cả trong phần đầu của câu chuyện, người kể chuyện đã bày tỏ quan điểm không
đồng tình của mình. Ví dụ, Sa-lô-môn xây dựng một đền thờ nguy nga cho Đức Chúa Trời.
Người kể chuyện tự hào kể cho chúng ta trong I Các. 6:38 rằng Sa-lô-môn đã tốn bảy năm để
hoàn thành đền thờ. Tuy nhiên ngay trong câu tiếp theo, 7:1, người kể chuyện cho chúng ta biết
rằng Sa-lô-môn phải tốn đến mười ba năm để xây nhà của mình! Bảy năm để xây nhà của Đức
Chúa Trời và mười ba năm xây nhà cho mình! Vĩ đại chứ? Hơn nữa, Sa-lô-môn lại xây một ngôi
nhà tương tự cho “con gái của Pha-ra-ôn, người mà ông cưới làm vợ” (7:8). Ông phải tốn mười
ba năm nữa để xây nhà cho cô ta chắc?
201
Do đó, phải đọc cẩn thận. Xem kỹ những chi tiết xác định quan điểm của người kể
chuyện. Hãy chú ý câu chuyện có thể ẩn trong hình thái trình bày của nó. Tuy nhiên, nếu bạn
quan sát kỹ và đọc cẩn thận, bạn sẽ có thể thấy được những chi tiết ẩn đó và những gợi mở của
người kể chuyện đặt để giữ chúng ta đi đúng hướng và cho phép chúng ta nắm bắt được ý nghĩa
chủ định của người kể.
Như bạn thấy, cốt chuyện, bối cảnh, nhân vật và quan điểm của người kể là bốn đặc
điểm quan trọng của chuyện kể. Có những đặc điểm khác mà chúng tôi đã trình bày ngắn gọn
trong Phần I, và chúng ta cùng xem lại một chút tại đây. Đó là so sánh/đối lập và tính mỉa mai.
5. So sánh/đối lập.
Thuật văn chương này là một công cụ chính được dùng trong chuyện kể Cựu ước để
phát triển cốt truyện và dẫn dắt câu chuyện. Chúng tôi đã ghi lại ở trên sự đối lập giữa Ra-háp và
A-can. Dầu vậy, có nhiều so sánh và đối lập khác xuất hiện trong những chuyện kể Cựu Ước. Ví
dụ những chương đầu của sách I Sa-mu-ên được xây dựng xung quanh đối lập giữa An-ne và
Hê-li. Tương tự, người con tốt lành Sa-mu-ên của An-ne đối lập với những đứa con hư hỏng của
Hê-li, Hóp-ni và Phi-nê-a. Phước hạnh theo đó cũng đảo ngược khi cuộc đời của An-ne thì được
phước qua Sa-mu-ên trong khi đó cuộc đời của Hê-li gặp trắc trở vì Hóp-ni và Phi-nê-a. Kết cuộc,
Hê-li cùng với hai con mình chết. An-ne thì được thịnh vượng và Sa-mu-ên trở nên quan trọng
trong đất nước minh, cuối cùng thay thế Hê-li làm thầy tế lễ.
Có lẽ sự đối lập dài nhất trong Cựu Ước là giữa Sau-lơ và Đa-vít. Mâu thuẫn này
được cụ thể hóa và mở rộng trên nhiều chương trong I Sa-mu-ên. Một vài chi tiết đối lập thì rõ
ràng nhưng cũng có nhiều chi tiết ẩn, chỉ những người đọc cẩn thận mới nhìn thấy được. Ví dụ,
xem cách mà mỗi nhân vật được giới thiệu vào câu chuyện. Sau-lơ được giới thiệu trong I Sam.
9:1-2. Người kể chuyện cho chúng ta biết rằng Sau-lơ “còn trẻ và lịch sự”. Trong dân Y-sơ-ra-ên
chẳng ai lịch sự bằng người; người cao hơn cả dân sự từ vai trở lên.” Ngược lại, Đa-vít được giới
thiệu trong I Sam. 16 ngay cả không được ra mắt Sa-mu-ên để chọn người được xức dầu vì ông
còn trẻ và chiều cao không ấn tượng. Sa-mu-ên nhìn thấy Ê-li-áp, anh của Đa-vít thì tự nghĩ rằng
chắc người này được Chúa chọn để làm vua. Nhưng, Đức Chúa Trời sửa ý nghĩ của ông:
Chớ xem về bộ dạng và hình vóc cao lớn của nó, vì ta đã bỏ nó. Đức Giê-hô-va
chẳng xem điều gì loài người xem; loài người xem bề ngoài, nhưng Đức Giê-hô-
va nhìn thấy trong lòng. (I Sam. 16:7)
Sự đối lập giữa Đa-vít và Sau-lơ lại nổi lên một lần nữa trong I Sam. 17. Trong 17:8-
9 người khổng lồ Gô-li-át thách đấu dân Y-sơ-ra-ên sai một anh hùng ra đánh ông. Ai là người
anh hùng của Y-sơ-ra-ên? Ai cao hơn những người khác từ vai trở lên? Dĩ nhiên là Sau-lơ! Sau-
lơ là lớn nhất trong Y-sơ-ra-ên và ông là vua. Ô ng rõ ràng phải được chọn. Tuy nhiên vị vua cao
to này phủi trách nhiệm của mình và cố gắng tìm đường thoát (17:25). Đa-vít, một chàng trai thì
khác. Anh nhận nhiệm vụ đánh với Gô-li-át dầu anh ta chẳng có trách nhiệm phải làm như vây;
202
thật ra anh không phải là một phần của quân đội. Một vua Sau-lơ cao to ẩn mình trong trại trong
khi đó chàng Đa-vít nhỏ bé, non trẻ đánh bại tên khổng lồ đe dọa Y-sơ-ra-ên.
Những đối lập này có thể dễ thấy. Bây giờ chúng ta cùng xem vài đối lập khó thấy
hơn. Khi Sau-lơ được giới thiệu trong I Sam. 9, ông đang tìm những con lừa đi lạc của cha mình.
Người kể chuyện không cho chúng ta biết ai làm mất lừa, chỉ nói rằng Sau-lơ đang đi tìm nó. Có
thể ông là người làm mất lừa. Đoạn Kinh Thánh nhấn mạnh sự kiện này, cung cấp nhiều chi tiết
mô tả hành trình của Sau-lơ và các đầy tớ của mình tìm con lừa mất này. Một sự giới thiệu anh
hùng làm sao! Một Sau-lơ can đảm xuất hiện như thế nào? Ông không tìm được con lừa của cha
mình và ông đề nghị người đầy tớ bỏ cuộc và về nhà. Người đầy tớ của Sau-lơ thuyết phục Sau-
lơ đi tới thành phía trước để hỏi Sa-mu-ên, người của Đức Chúa Trời về con lừa. Sau-lơ làm theo
lời khuyên của người đầy tớ, nhưng khi ông gặp Sa-mu-ên, ông ngay cả không nhận ra Sa-mu-ên
trong thành.
Tất cả chi tiết này thật là buồn cười. Vị vua tương lai của Y sơ ra ên được giới thiệu
cho chúng ta như là người vấp phạm và vô vọng tìm con lừa của cha mình và đi theo sự hướng
dẫn của một người đầy tớ. Ô ng không xuất hiện rực rỡ và mạnh bạo. Nhưng Đa-vít được giới
thiệu như thế nào? Người kể chuyện nhấn mạnh rằng Đa-vít đang chăn chiên của cha mình. Chi
tiết này được lặp đi lặp lại ít nhất sáu lần trong I Sam. 16-17, phân đoạn giới thiệu ông. Hơn nữa
ông bảo vệ chiên của cha mình khỏi sư tử và gấu. Ô ng không phải là người đánh mất chiên hay
đi lòng vòng vô định để tìm con lừa đi lạc.
Tương tự, Đa-vít xuất hiện trong chương 17 như là một anh hùng chiến đấu và giết
chết Gô-li-át. Đa-vít có mọi sự mà Sau-lơ không có. Người kể chuyện nhấn mạnh những chi tiết
về ông. Sau-lơ là người vô trách nhiệm. Ô ng bị Gô-li-át làm cho khiếp đảm (17:11) và có thể
chạy trốn với phần còn lại của đạo binh Y-sơ-ra-n (17:24). Đa-vít quyết đoán, nhận trách nhiệm.
Ô ng không chạy trốn khỏi sư tử tấn công bầy chiên của cha mình. Ông cũng không bỏ qua
những lời sỉ nhục của Gô-li-át và chạy trốn. Đa-vít không bị Gô-li-át làm khiếp đảm. Thay vì
chạy trốn khỏi tên khổng lồ, Đa-vít chạy đến để gặp nó trên chiến trường (17:48). Suốt chương
này, Đa-vít thay đổi bầy. Ô ng chuyển từ việc chăn bầy chiên của cha mình sang chăn bầy của
Đức Chúa Trời, dân Y-sơ-ra-ên. Ô ng nhận trách nhiệm này dù có hiểm nguy. Sau-lơ thì ngược
lại, là người đi tìm con lừa lạc, phủi trách nhiệm và chạy trốn khỏi hiểm nguy. Ngược lại với Đa-
vít, Sau-lơ đáng khinh. Đối lập tiếp tục trong nhiều chương và nhiều chi tiết trong I Sa-mu-ên
xoay quanh đó. Nhận ra được sự đối lập này là điều quan trọng để hiểu được I Sa-mu-ên.
6. Tính Mỉa Mai
Tình mỉa mai là thuật văn chương được dùng để mô tả những tình huống nơi mà
nghĩa đen hay bề mặt của một sự kiện hay một chương hoàn toàn khác – ngay cả đối lập – với ý
nghĩa chủ định thật của người kể chuyện. Điều này không phải là để giấu ý nghĩa với độc giả mà
để trình bày ý nghĩa trong hình thức mạnh hơn. Nó cho phép người kể chuyện làm ngạc nhiên
203
độc giả với những điều không mong đợi. Thông thường nó cũng có tính khôi hài. Đó là một hiệu
quả mà những người kể chuyện thường cố tạo ra bằng những nghĩa ẩn. Trong hình thức mỉa mai,
những hành động và sự kiện có lẽ nhấn mạnh đến sự áp dụng đến gấp nhiều lần. Khi điều đó xảy
ra một hay hai nhân vật trong câu chuyện không hiểu được và không thể nhìn thấy điều gì hơn
chỉ là những ứng dụng trên bề mặt. Các tác giả của Cựu Ước thích dùng thuật này và dùng
thường xuyên hình thái này giúp cho câu chuyện trở nên hấp dẫn và sâu sắc hơn.
Sa-lô-môn là một ví dụ hay. Trong I Các-vua 1-11, trên bề mặt, người kể chuyện
dường như đang ca ngợi Sa-lô-môn về những tòa lâu đài, sự giàu có, ngựa và vợ của ông. Nhưng
khi hiểu được Phục-truyền Luật-lệ Ký 17, chúng ta nhận thấy người kể chuyện thật sự đang lên
án Sa-lô-môn hơn là ngợi ca ông. Đây là sự mỉa mai.
Một ví dụ khác về tính mỉa mai trong I Sa-mu-ên 5-6. Không hỏi ý Đức Chúa Trời,
những người con ngu mụi và gian ác của Hê-li là Hóp-ni và Phi-nê-a đã đem hòm giao ước (sự
hiện diện của Đức Chúa Trời) ra mặt trận như là một bùa may mắn. Dầu vậy, người Phi-li-tin đã
đánh bại dân Y-sơ-ra-ên và cướp lấy hòm giao ước. Họ nghĩ rằng họ không chỉ đánh bại dân Y-
sơ-ra-ên mà còn đánh bại luôn Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Họ đối xử hòm giao ước như là
thần tượng của một đất nước bị trị và đặt nó ở dưới chân của thần Đa-gôn của họ. Chúng ta, là
độc giả, căng thẳng. Chúa đã bị đánh bại? Làm sao hòm của Chúa bị dân ngoại Phi-li-tin cướp
lấy?
Tuy nhiên, Chúa đang đặt sự mỉa mai tại đây trên dân Phi-li-tin. Thần Đa-gôn ngã úp
mặt xuống mỗi ngày trước hòm trong sự vâng phục với Chúa. Cuối cùng tay và đầu của nó vỡ ra
(một số phận phổ biến cho những bại vua). Một tai họa giáng trên thành phố Phi-li-tin và sự sợ
hãi lan tỏa đến nỗi người ta phải chuyển hòm giao ước đến một thành phố Phi-li-tin khác. Đức
Chúa Trời đánh thành phố đó bằng những tai vạ và ném chúng vào sự hỗn loạn. Người Phi-li-tin
sau đó dâng những của lễ bằng vàng lên cho Đức Chúa Trời để tạ lỗi và để cho hòm giao ước trở
về Y-sơ-ra-ên.
Mới nhìn, dân Phi-li-tin nghĩ rằng họ đã thắng trận, đánh bại dân Y-sơ-ra-ên và bắt
được Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Nhưng thực tế Chúa đang xâm chiếm Phi-li-tin. Ngài phá
hủy thần Đa-gôn và tiếp tục di chuyển đến các thành phố trên khắp nước Phi-li-tin, đánh chúng
trên từng thành phố và trên trại quân Phi-li-tin nữa. Cuối cùng, người Phi-li-tin phải chấp nhận
dâng của lễ cho Đức Chúa Trời. Ngài trở lại Y-sơ-ra-ên trong sự đắc thắng với của cống nộp
bằng vàng. Hai tên gian ác Hóp-ni và Phi-nê-a bị dân Phi-li-tin đánh bại nhưng Đức Chúa Trời
của Y-sơ-ra-ên thì không hề bị đánh bại; Ngài đang đắc thắng. Sự mỉa mai tại đây thật phong
phú.
204
Bối cảnh Văn Chương – Câu Chuyện Lớn
Trong chương 17, chúng ta đã thảo luận tầm quan trọng của bối cảnh văn chương.
Chúng ta lại gặp điều này trong chương 15 về các sách Phúc Âm. Do đó, không lạ khi chúng ta
trở lại vấn đề này trong chương này. Rõ ràng, đặt chương bạn đang học vào bối cảnh của những
chuyển kể xung quanh nó là vô cùng cần thiết. Tương tự, để giữ liên kết các phần của tổng thể là
quan trọng. Nghĩa là khi đang học một câu chuyện nhỏ trong một sách nào đó, bắt buộc bạn phải
liên hệ câu chuyện đó với bố cục tổng thể của sách đó. Đoạn Kinh Thánh của bạn có vai trò gì
trong câu chuyện lớn hơn của toàn sách? Những phần/hành động liên kết tổng thể cần phải nhớ
khi cố gắng giải nghĩa những câu chuyện riêng một cách chính xác. Một sự giải nghĩa không
thích ứng với câu chuyện tổng thể có thể sai. Hơn nữa, hiểu được chính xác nhiều sự kiện chỉ khi
bạn đọc chúng trong ánh sáng của câu chuyện lớn hơn.
Ví dụ, câu chuyện nhỏ hơn trong Dân-số Ký 14 mô tả sự phản loạn của dân Y-sơ-ra-
ên và họ khước từ đi vào Đất Hứa và chinh phục nó như Đức Chúa Trời đã truyền lịnh cho họ
qua Môi-se. Sự kiện này liên hệ với câu chuyện lớn hơn như thế nào? Đức Chúa Trời hứa vùng
đất này cho hậu tự của Á p-ra-ham trong Sáng-thế Ký 12. Trong cả sách Sáng thế ký, lời hứa này
được lặp đi lặp lại. Trong Xuất Ê -díp-tô ký, Đức Chúa Trời đã giải phóng dân Y-sơ-ra-ên khỏi
ách nô lệ với mục đích rõ ràng là để đưa họ vào đất hứa. Do đó, sau khi Ngài đánh dân Ai-cập
bằng những tai vạ, rẽ biển đỏ, lập mối quan hệ giao ước với dân Y-sơ-ra-ên để sống giữa họ và
dẫn họ qua sa mạc một cách kỳ diệu để vào đất hứa, nhưng họ từ chối. Họ không muốn vào đất
hứa nếu họ phải chiến đấu để được nó.
Khi chúng ta nhìn sự từ chối của dân Y-sơ-ra-ên trong ánh sáng của toàn câu chuyện
thay vì chỉ câu chuyện nhỏ, thái độ của họ thật kỳ quặc. Làm sao họ từ chối đất hứa? Vào chiếm
đất hứa là lý do họ ra khỏi Ai-cập. Chiếm lấy đất hứa là làm trọn chương trình mà Đức Chúa
Trời đã phát triển hàng thế kỷ. Sự từ chối vào đất hứa của họ không phải là một chương khác
mỗi ngày về sự bất tuân của họ. Nhưng đó là đỉnh điểm của sự bất tuân trong sách này.
Một phân đoạn khác minh họa tầm quan trọng của bối cảnh văn chương trong II Sa-
mu-ên11-12 được thảo luận trong chương 4 về Đa-vít và Bết-sê-ba. Sau khi Đa-vít phạm tội tà
dâm và giết người kinh khủng, tiên tri Na-than đến và quở trách ông. Đa-vít nhận biết tội lỗi của
mình và ăn năn thật lòng. Đức Chúa Trời tha thứ cho ông và ông cưới Bết-sê-ba. Phần cuối của
II Sam 12 Đa-vít ra trận (giống như hình ảnh của ông trong đầu câu chuyện). Nếu chúng ta dừng
lại ở chương này, tất cả điều chúng ta thấy dường như tốt đẹp. Đa-vít đã được tha thứ và mọi thứ
trở lại bình thường.
Tuy nhiên, câu chuyện tổng quát của II Sa-mu-ên cho thấy sự soi sáng khác trên phân
đoạn này. Mười chương đầu của II Sa-mu-ên trình bày sự hưng thịnh của Đa-vít. Ô ng tiếp tục
chiến thắng. Ô ng là anh hùng của đất nước cả trên phương diện quân sự lẫn thần học. Ông đã sửa
sai những tình huống sai trật trong sách Các Quan Xét và đất nước của ông đang đi đúng hướng.
205
Người kể chuyện tóm tắt tình huống này trong II Sa-mu-ên 8:15: “Đa-vít làm vua trên cả Y-sơ-
ra-ên, cai trị cả dân sự mình cách ngay thẳng và công bình.”
Tuy nhiên nửa sau của sách này hoàn toàn khác. Bắt đầu trong II Sa-mu-ên 13, mọi
thứ bắt đầu cay đắng với Đa-vít. Con trai Am-nôn hãm hiếp em gái Ta-ma rồi sau đó bị Á p-sa-
lôm giết chết. Sau đó, Áp-sa-lôm dấy loạn chống lại Đa-vít và nhiều người quay mặt lại “người
hùng” của họ. Điểm thấp của câu chuyện khi Đa-vít chạy trốn, ông bị một người ném đá khi đi
trên đường (đối lập với chương Gô-li-át). Á p-sa-lôm bị giết chết và lòng của Đa-vít tan vỡ nhưng
sự phản loạn và khủng hoảng chính trị lại tiếp tục vây lấy Đa-vít hết cả thời trị vì của ông.
Không ai trong câu chuyện này có thể đưa ông trở lại.
Nói cách khác, nửa đầu của sách thật tuyệt vời cho Đa-vít nhưng nửa sau thật là một
thảm họa. Điều gì nằm ở giữa? Tội tà dâm với Bết-sê-ba và giết U-ri! Câu chuyện lớn hơn giúp
chúng ta hiểu những lựa chọn thay đổi cuộc đời của Đa-vít như thế nào? Người kể chuyện đang
cố tình trình bày cho chúng ta nguyên tắc gì? Đức Chúa Trời tha thứ cho Đa-vít nhưng Ngài
không cho lại mọi điều đã xảy ra. Đa-vít khám phá ra rằng tội của ông gây hậu quả nghiêm trọng
trong mối quan hệ của ông với con cái và dân tộc của ông. Khi một người ăn năn tội, Đức Chúa
Trời sẽ tha thứ cho người đó, nhưng kết quả của tội đó vẫn tiếp diễn.
Chúng ta có thể áp dụng được gì từ điều này? Giả dụ một Cơ Đốc Nhân, do áp lực
của bạn bè, đã uống say. Sau đó, trong khi say, anh ta lái xe về nhà và đụng một em bé bốn tuổi,
khiến cho em bé tử vong. Sáng hôm sau, nhận ra những điều mình làm, anh ta hết lòng ăn năn.
Đức Chúa Trời có tha thứ cho người đó không? Chắc chắn là có. Nhưng đứa trẻ đã chết và cha
mẹ đứa trẻ đau khổ vì đứa con đó trong một thời gian dài.
Bối cảnh văn chương là quan trọng. Đặt những câu chuyện nhỏ mà chúng ta đang học
vào bối cảnh phù hợp trong toàn câu chuyện là điều rất quan trọng để phát triển sự hiểu biết đúng
đắn phân đoạn này. Làm sao để làm được điều đó? Chúng ta phải đọc bao nhiêu đoạn để đặt
chương này vào bối cảnh thích hợp? Chúng tôi đề nghị những hướng dẫn sau, chuyển từ bối cảnh
lớn hơn đến bối cảnh nhỏ hơn:
Nhận biết tổng thể của câu chuyện trong Cựu ước. Khám phá nhân vật hay phân đoạn
bạn đang học thích hợp với toàn cảnh như thế nào.
Nghiên cứu những chủ đề và sứ điệp tổng thể của sách chứa phân đoạn của bạn. Đọc một
câu tóm tắt của sách trong thánh kinh từ điển. Nếu có thể được thì đọc toàn bộ sách. Tìm
những kết nối giữa chương bạn đang học và phần còn lại của sách. Phân đoạn của bạn
đóng vai trò gì trong bố cục tổng thể của sách?
Đọc toàn bộ chương lớn hơn. Ví dụ, nếu bạn đang học một sự kiện trong cuộc đời của
Á p-ra-ham, bạn nên đọc tất cả những câu chuyện về Á p-ra-ham (Sáng-thế Ký 12-25). Cố
gắng xác định sự kiện bạn đang học thích hợp với phần lớn hơn như thế nào. Hãy nhớ
đọc cẩn thận và tìm những nối kết.
206
Ít nhất phải đọc ba chương: toàn bộ chương mà bạn đang học, chương trước đó và
chương sau đó.
Những Nhân Thiện Lúc Nào Cũng Đội Mũ Trắng?
Khi chúng tôi còn nhỏ, chúng tôi thường thích xem phim. Có hai loại nhân vật rõ ràng:
“nhân vật thiện” và “nhân vật ác”. Không khó để chúng ta phân biệt chúng. Để cho chúng ta dễ
nhận diện, thỉnh thoảng những nhân vật thiện đội mũ trắng còn những nhân vật xấu đội mũ đen.
Nhưng những nhân vật như vậy trở nên phức tạp hơn. Có khi những nhân vật ác lại đội mũ trắng
còn những nhân vật thiện lại đội mũ đen. Điều này khiến cho khán giả nhầm lẫn không biết ai là
thiện ai là ác. Sự phân biệt giữa thiện và ác vẫn còn đó nhưng đòi hỏi chúng ta phải suy nghĩ để
nhận ra nó.
Cựu ước thì không giống như các bộ phim trên. Kinh thánh mô tả những nhân vật rất
đơn giản và không có lĩnh vực lưng chừng. Kinh Thánh liên quan đến cuộc sống thật và con
người thật. Con người là phức tạp nên những câu chuyện về họ cũng phức tạp. Chúng ta không
nên cố gắng tìm những tính cách phức tạp trong Cựu Ước.
Quan sát này là quan trọng vì khi chúng ta thực hiện Hành Trình Giải Kinh, chúng ta
sẽ học được những nguyên tắc thần học từ tính cách của những nhân vật chính. Nhiều nhân vật
trở thành kiểu mẫu cho chúng ta, làm gương sáng trong đời sống đức tin trước mặt Đức Chúa
Trời. Điều quan trọng là chúng ta có thể nhận biết được những nhân vật thiện từ những nhân vật
ác. Một trong những sai lầm phổ biến nhất trong việc giải nghĩa chuyện kể Cựu ước là cho rằng
mọi người trong câu chuyện đều là anh hùng, là kiểu mẫu cho chúng ta noi theo. Điều này không
đúng. Nhiều người là những nhân nhật tiêu cực và chúng ta cần cảnh giác. Nếu chúng ta nhầm
lẫn nhân vật thiện và nhân vật ác, chúng ta sẽ đánh mất điểm chính trong câu chuyện.
Cũng nên nhớ rằng hầu hết những nhân vật chính (ngoại trừ Đức Chúa Trời) bao gồm
sự trộn lẫn giữa thiện và ác. Dường như không có nhân vật nào nổi lên mà hoàn toàn sạch sẽ.
Người kể chuyện mong chúng ta đọc và nhận ra.
Sa-lô-môn là một ví dụ rất hay. Ô ng là một người thiện hay ác? Ông dường như khởi
đầu rất thiện. Vào lúc đó, ông xuất hiện như là một kiểu mẫu tốt, tin cậy Đức Chúa Trời. Dầu
vậy, phần lớn thời gian tính cách của ông đáng nghi ngờ đến nỗi người kể chuyện, như đề cập ở
trên, dường như đang chỉ trích ông hơn là tôn kính ông. Dĩ nhiên, trên hết vị trí của Sa-lô-môn là
rõ ràng. Ông lìa xa Đức Chúa Trời và đi theo thần tượng. Ô ng là một nhân vật đau thương. Với
tất cả sự khôn ngoan vĩ đại và sự xây dựng tuyệt vời của ông, ông kết thúc trong sự thất bại. Ô ng
để lại gương thờ thần tượng cho hậu tự mình và đất nước tiếp tục đi theo sự hướng dẫn của ông
khi họ chạy theo thần tượng.
Còn Sam-son thì sao? Ô ng là một anh hùng hay tội đồ? Chúng ta có thể tìm thấy gợi
ý từ người kể chuyện. Ô ng cho chúng ta biết rằng Đức Chúa Trời thêm sức cho Sam-son và Ngài
207
cho ông sức mạnh vô địch. Về quân đội, ông có nhiều chiến thắng cá nhân vang dội trên dân Phi-
li-tin. Ông đánh đuổi những kẻ gian ác (người Phi-li-tin). Điều đó không khiến ông trở nên anh
hùng sao? Người kể chuyện trả lời trong sự tiêu cực. Cả cuộc đời thần học và đạo đức của Sam-
son bị phá sản. Ông xem thường tiếng gọi làm người Na-xi-rê và ông vi phạm tất cả luật của
người Na-xi-rê. Ô ng phạm luật và cố tình cho cha mẹ mình ăn thức ăn không tinh sạch. Ô ng
dành hầu hết thời gian của mình theo đuổi phụ nữ ngoại bang. Ô ng chỉ biết chính mình và chỉ
chạy theo ham muốn riêng của mình. Ô ng không phải là kiểu mẫu tích cực. Ô ng có thể là hình
ảnh của người có tiềm năng nhưng phí phạm sức mạnh và cơ hội mà Đức Chúa Trời đã ban cho
ông vì đi theo tham dục mình.
Như đã đề cập ở trên, một tiến trình quan trọng khác để đi theo trong việc giải nghĩa
những nhân vật này liên hệ câu chuyện của họ với bối cảnh lớn hơn. Điều gì đang xảy ra trong
câu chuyện lớn hơn và phân đoạn Kinh thánh nhỏ đó đóng vai trò gì trong bức tranh lớn hơn? Câu
chuyện của Sam-son thích hợp với toàn câu chuyện trong sách Các Quan Xét như thế nào? Nên
nhớ rằng sách Các Quan Xét căn bản là một sách nói về sự trượt dài về thần học và đạo đức của
dân Y-sơ-ra-ên sau khi họ ở trong vùng đất đó. Sam-son là một phần trong sự sa ngã đó. Dầu Đức
Chúa Trời có ban cho ông sức mạnh nhưng ông không quan tâm đến việc phục vụ và vâng lời
Ngài. Hiểu Sam-son như là người được ban ân tứ vĩ đại từ Đức Chúa Trời, nhưng ông mang mọi
thứ vào tính ích kỷ của mình rất thích hợp với sách Các Quan Xét. Do đó, mặc dầu Sam-son có
thể đạt được vài điều tốt cho dân Y-sơ-ra-ên nhưng ông không phải là một trong những “người
thiện”; ông là một hình mẫu tiêu cực.
Ghê-đê-ôn, một quan xét khác, thì phức tạp hơn Sam-son nhiều. Chúng ta đã nghe
nhiều bài giảng ca ngợi đức tin của Ghê-đê-ôn. Trong Các Quan xét 7, Đức Chúa Trời hướng
dẫn Ghê-đê-ôn sai hầu như cả quân đội về nhà, cuối cùng chỉ còn lại có ba trăm người cùng với
ông chống lại dân Ma-đi-an. Nhưng Đức Chúa Trời giúp đỡ quân đội nhỏ bé của Y-sơ-ra-ên một
cách kỳ diệu để đánh bại quân đội Ma-đi-an thiện chiến hơn. Chắc chắn Ghê-đê-ôn là anh hùng.
Tuy nhiên, người kể chuyện hình như đang nghi ngờ Ghê-đê-ôn và nếu chúng ta đọc kỹ, chúng
ta có thể thấy được những khía cạnh tiêu cực trong nhân vật Ghê-đê-ôn. Trước hêt, để giữ cho
Ghê-đê-ôn đi đúng hướng, Đức Chúa Trời phải cho ông bốn dấu hiệu lạ lùng: lửa từ hòn đá
(6:21), lông chiên ướt (6:38), sau đó miếng lông chiên khô (6:40) và cuối cùng là giấc mơ về dân
Ma-đi-an (7:13). Sự sợ hãi của Ghê-đê-ôn được nhắc đến hai lần (6:27;7:10-11). Phần quan trọng
nằm ở phần cuối của câu chuyện mà nhiều người thường hay bỏ qua (phần kết câu chuyện là
quan trọng!). Xem một trong những lời bình luận cuối cùng của người kể chuyện về Ghê-đê-ôn
trong Các-quan-xét 8:27.
Ghê-đê-ôn lấy vật đó làm một cái ê-phót, để trong thành mình tại Ó p-ra. Cả Y-
sơ-ra-ên đều cúng thờ cái ê-phót đó; nó trở thành một cái bẫy cho Ghê-đê-ôn và
cả nhà người.
208
Phần theo sau về Ghê-đê-ôn cũng không tốt vì ông không để lại một hình ảnh tốt nào.
Ghê-đê-ôn (cũng có tên là Giê-ru-Ba-anh) có bảy mươi mốt con trai, một trong số đó tên là A-bi-
mê-léc (có nghĩa là “cha tôi là vua”). Trong Các. 9, A-bi-mê-léc giết bảy mươi anh mình (thật sự
thì có một người thoát được) và tự lập mình làm vua.
Khi xem tổng quát thì thấy Ghê-đê-ôn là một nhân vật được trộn lẫn giữa thiện và ác.
Ô ng không hẳn là một người tốt cũng ông không hẳn là một người xấu. Ông là người trộn lẫn cả
hai. Ô ng vâng lời Chúa và đạt được những điều vĩ đại nhưng ông chần chừ để thực hiện điều đó
và Đức Chúa Trời đã quở trách ông về điều đó (đối lập với ông, ví dụ Đa-vít chạy ra để đánh với
Gô-li-át). Khi Đức Chúa Trời giúp Ghê-đê-ôn đạt được sự đắc thắng, nổi tiếng và giàu có, ông đã
đánh mất ưu tiên của mình. Khi chúng ta lấy những nguyên tắc ra khỏi cuộc đời của Ghê-đê-ôn,
chúng ta cần xem những khía cạnh tiêu cực cũng như tích cực, vì cả hai đều có thể dạy chúng ta.
Đức Chúa Trời ban cho Ghê-đê-ôn sự thành công, nhưng Ghê-đê-ôn không nắm giữ nó tốt. Đây
cũng là bài học quý báu cho chúng ta.
Xuyên suốt văn chương chuyện kể trong Cựu Ước, Đức Chúa Trời là nhân vật trung
tâm. Đức Chúa Trời không xa rời trong Cựu Ước, chỉ nói qua cái bóng qua người kể chuyện.
Ngài là nhân vật chính trong câu chuyện. Đặc điểm trọng tâm của văn kể chuyện là hội thoại, và
Đức Chúa Trời tham dự vào trên hai trăm bài hội thoại khác nhau trong Cựu Ước. Nếu chúng ta
đánh mất Đức Chúa Trời trong câu chuyện, chúng ta sẽ đánh mất câu chuyện. Chuyện kể mạnh
mẽ và hiệu quả ở việc bày tỏ nhân cách của người tham dự cho chúng ta. Một trong những mục
đích trọng tâm của tư liệu này là để bày tỏ Đức Chúa Trời cho chúng ta. Chúng ta có cơ hội để
nhìn thấy Đức Chúa Trời hành động trong nhiều tình huống khác nhau, liên quan đến những vấn
đề khác nhau của con người.
Ví dụ, Ghê-đê-ôn thật sự không phải là người giải phóng dân Y-sơ-ra-ên khỏi tay dân
Ma-đi-an. Anh hùng thật là Đức Chúa Trời. Nếu Ghê-đê-ôn yếu đuối, sợ hãi và chậm chạp, điều
đó dạy cho chúng ta điều gì về Đức Chúa Trời? Đức Chúa Trời có chọn những con người yếu
đuối không? Dĩ nhiên có! Đức Chúa Trời có kiên nhẫn với những đầy tớ yếu đuối không? Chắc
chắn có. Vì vậy, đừng đánh mất Đức Chúa Trời trong chuyện kể. Xem Ngài là nhân vật chính
trong câu chuyện. Hãy phân tích hành động và lời nói của Ngài. Để cho cảm xúc và lý trí tự do
hành động.
Điều này dẫn chúng ta đến một điểm quan trọng khác. Hãy để Đức Chúa Trời là Đức
Chúa Trời. Nhiều lần chúng ta tìm cách để hệ thống hóa Đức Chúa Trời. Chúng ta đặt Ngài vào
những phạm trù thần học hay triết học (Đức Chúa Trời là đấng toàn năng, toàn tri và toàn tại…).
Chắc chắn những giáo lý này đúng nhưng chúng là những ý tưởng trừu tượng và nếu chúng
không được cân bằng với những khía cạnh cá nhân của Đức Chúa Trời, chúng có khuynh hướng
tách chúng ta khỏi Đức Chúa Trời. Nếu chúng ta không cẩn thận, Đức Chúa Trời sẽ trở nên bản
thể trừu tượng, vô tri và xa cách đối với chúng ta. Những câu chuyện trong Cựu Ước không chấp
nhận quan điểm này về Đức Chúa Trời. Chúa không phải là điều gì đó trừu tượng mà chúng ta
209
cảm nhận, nhưng là một đấng đang nói, liên hệ, đói, đau, đổi ý, biện luận và yêu. Ngài liên hệ
với con người trên mức độ con người nhưng Ngài tiếp tục nhiều hơn chúng ta, vẫn ở trên chúng
ta. Ngài là anh hùng của câu chuyện.
Nhiều Cơ Đốc Nhân đến với các câu chuyện trong Cựu ước với Đức Chúa Trời trong
cái hộp thần học nhỏ bé. Dầu vậy, khi họ đọc cẩn thận, họ thường kinh ngạc qua thái độ của
Ngài vì Ngài không hành động theo định kiến của họ về Ngài. Ví dụ trong Xuất Ê -díp-tô Ký
32:10 sau sự việc đúc con bò vàng, Đức Chúa Trời phán với Môi-se: “bây giờ hãy để mặc ta làm,
hầu cho cơn thạnh nộ ta nổi lên cùng chúng nó, diệt chúng nó đi.” Trong ba câu tiếp theo, Môi-se
biện luận với Chúa và thuyết phục Ngài đổi ý. Xuất Ê -díp-tô Ký 32:14 ghi lại kết quả: “Đức
Giê-hô-va bèn bỏ qua điều tai họa mà Ngài nói rằng sẽ giáng cho dân mình”. Làm sao chúng ta
có thể giải quyết đoạn Kinh Thánh này? Làm sao Đức Chúa Trời, Đấng nhìn thấy mọi điều và
biết mọi điều lại đổi ý?
Chúng tôi đề nghị bạn hãy để Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời. Ngài đã chọn để bày
tỏ chính mình Ngài cho chúng ta qua những chuyện kể này. Rõ ràng có những khía cạnh về bản
chất và đặc tính của Ngài mà Ngài muốn chuyển tải đến chúng ta qua những câu chuyện này.
Khi chúng ta đọc trong Cựu Ước, đừng cố gắng giải thích hết những điều này. Đem chúng đến
trước mặt và nghiên cứu chúng cẩn thận để thấy những chuyện kể này bày tỏ cho chúng điều gì
về nhân vật Đức Chúa Trời. Đừng cố đóng khung Đức Chúa Trời.
Chúng tôi thấy rằng thật khó để giữ Đức Chúa Trời trong cái hộp nếu bạn đọc nhiều
câu chuyện Cựu Ước. Ngài sẽ phá vỡ cái hộp và không chịu bị giới hạn trong một cách đơn giản
như vậy. Nếu con người trong cuộc đời thật là những nhân vật phức tạp rồi làm sao Đức Chúa
Trời không phức tạp hơn chứ! Tuy nhiên, Đức Chúa Trời phức tạp này chọn liên hệ với chúng ta
một cách riêng tư và tỏ bày tính cách của Ngài cho chúng ta qua những đoạn Kinh Thánh này.
Nếu mục đích của chúng ta thật sự để biết Đức Chúa Trời, điều bắt buộc là chúng ta tìm cách
nghe những gì Ngài đang cố phán với chúng ta về chính Ngài trong những đoạn Kinh Thánh kể
chuyện này.
Kết Luận
Tất cả những tài liệu trên sẽ giúp chúng ta khi chúng ta thực hiện Hành Trình Giải
Kinh. Chúng ta hãy cùng ôn lại những bước của hành trình này trong chuyện kể Cựu Ước.
Chúng ta sẽ dùng câu chuyện Ra-háp và A-can để minh họa (Giô. 2:1-24;7:1-2).
Bước 1: Nắm bắt được đoạn Kinh Thánh trong thời xưa. Đoạn Kinh Thánh này có ý nghĩa gì đối
với những độc giả trong thời Kinh Thánh?
Dùng hết khả năng quan sát của bạn để đọc kỹ đoạn Kinh Thánh này. Để ý đến tất cả chi
tiết. Tìm nhưng kết nối. Phân tích bối cảnh lịch sử và văn chương. Phải chắc là bạn nhận thấy
210
được câu chuyện tổng thể trong sách mà bạn đang đọc và cố gắng đặt câu chuyện của bạn vào
câu chuyện lớn hơn. Viết một câu về ý nghĩa của bản văn đối với độc giả thời Kinh Thánh.
Trong câu chuyện Ra-háp và A-can: Ra-háp, gái mại dâm người Ca-na-an đối lập với A-
can, người Y-sơ-ra-ên. Cô ta tin cậy Đức Chúa Trời của người Y-sơ-ra-ên hết lòng, kết quả là cô
ta và gia đình cô ta được giải cứu khỏi sự sụy đổ của thành Giê-ri-cô. Tuy nhiên, A-can khinh
thường Đức Chúa Trời và mạng lịnh nghiêm khắc của Ngài, kết quả là ông và cả gia đình ông
phải chết.
Bước 2: Đo được chiều rộng của dòng sông. Có những sự khác biệt nào giữa độc giả thời Kinh
Thánh với chúng ta?
Nhận ra sự khác biệt giữa độc giả thời Kinh Thánh và chúng ta. Phải bảo đảm nhớ sự
thay đổi trong giao ước (chúng ta không còn ở dưới luật pháp). Những khác biệt khác mà bạn có
thể gặp có lẽ liên quan đến vùng đất, sự chinh phục xứ Ca-na-an, các của lễ và cuộc nói chuyện
trực tiếp với Đức Chúa Trời.
Trong câu chuyện Ra-háp và A-can: Chúng ta đang ở dưới một giao ước khác với của A-
can. Hoàn cảnh của chúng ta cũng khác. Chúng ta không ở trong Cuộc Chinh Phục và chúng ta
cũng không liên quan đến bất cứ loại thánh chiến theo nghĩa đen nào. Chúng ta không phải là
người Ca-na-an (hay là gái mại dâm) đang sống trong một thành phố sắp bị đánh chiếm. Đức
Chúa Trời không ban cho chúng ta cùng mạng lịnh như cho A-can.
Bước 3: Vượt qua cây cầu nguyên tắc. Có những nguyên tắc thần học nào trong đoạn Kinh
Thánh này?
Nhận ra những điểm tương đồng giữa hoàn cảnh của độc giả thời Kinh Thánh và chúng ta.
Tìm những nguyên tắc thần học liên quan để cả hai nhưng phải từ trong bản văn. Đừng cố phúng
dụ hóa! Đừng bỏ qua ý nghĩa của Cựu Ước và đơn giản nhảy thẳng vào Tân Ước. Nhớ những chỉ
dẫn về việc phát triển những nguyên tắc thần học mà chúng ta thảo luận ở trên:
Nguyên tắc phải được phản ánh ngay trong đoạn Kinh Thánh.
Nguyên tắc phải vượt thời gian và không bị trói buộc với một tình huống nhất định nào.
Nguyên tắc không bị văn hóa ràng buộc.
Nguyên tắc phải thích ứng với sự dạy dỗ còn lại của Kinh Thánh.
Nguyên tắc phải thích hợp cả với độc giả thời Kinh Thánh và độc giả thời nay.
Trong câu chuyện Ra-háp và A-can: Đức Chúa Trời nhìn thấy những hành động trong
quá khứ của chúng ta và Ngài cứu những người đặt niềm tin của mình vào nơi Ngài một cách rất
đặc biệt. Điều này có thể xảy ra bởi vì sự giải cứu được dựa trên đức tin thật (được minh chứng
qua hành động) chứ không phải vẻ ngoài như dòng dõi hay truyền thống tôn giáo. Đức Chúa
Trời là Đức Chúa Trời của ân điển. Nhưng sự phán xét đến trên những người khinh thường Đức
Chúa Trời và đối xử với Ngài như thể Ngài không hiện hữu.
211
Bước 4: Chuyển vào Tân Ước. Sự dạy dỗ trong Tân Ước có hỗ trợ cho nguyên tắc này hay
không, và nếu có thì như thế nào?
Cố gắng xác định thử Tân Ước có nói đến những vấn đề nêu ra trong bản văn hay không.
Tân Ước có ủng hộ nguyên tắc thần học đó hay không hay nó có làm cho nguyên tắc đó cụ thể
hơn không? Đừng bỏ qua Cựu Ước trong bước này. Chúng ta cũng vẫn đang nắm bắt ý nghĩa
trong Cựu Ước đã được chủ định của tác giả. Chúng ta đang tìm cách để xác định ý nghĩa đó có
vai trò gì trong bối cảnh Tân Ước. Ý nghĩa mà chúng ta xác định trong bước này sẽ có thể áp
dụng cho bất cứ tín hữn Tân Ước nào.
Trong câu chuyện về Ra-háp và A-can: Tân Ước tái khẳng định rằng Đức Chúa Trời
không coi trọng vẻ ngoài nhưng cứu con người dựa trên đức tin vào Chúa Giê-xu. Việc Đức
Chúa Trời chọn một số người bất thường như thế này được tái khẳng định trong Tân Ước. Chỉ có
quan hệ với Hội Thánh mà không có đức tin thật thì sẽ không được cứu.
Bước 5: Nắm bắt được phân đoạn Kinh Thánh trong thời của chúng ta. Từng Cơ Đốc
Nhân ngày nay áp dụng nguyên tắc thần học đó trong đời sống của mình như thế nào?
Càng cụ thể càng tốt. Phải nhớ rằng có nhiều áp dụng riêng biệt cho những nguyên tắc
thần học.
Trong câu chuyện Ra-háp và A-can: Chúng ta có khuynh hướng phán xét con người dựa
vào vẻ bề ngoài. Chúng ta gặp một người có địa vị cao mà tin Chúa thì chúng ta ngưỡng mộ vì
đức tin của họ. Tương tự, khi chúng ta gặp một người mà đã từng liên hệ với những hoạt động
tội lỗi (nghiện ma túy, mại dâm, cờ bạc, trộm cắp…), chúng ta thường có khuynh hướng khinh
thường và cho rằng họ không bao giờ tin Chúa được. Đây là điều sai lầm vì Đức Chúa Trời
mong muốn cứu những con người bất bình thường nhất. Ngài muốn chúng ta có cùng thái độ đối
với những con người như thế này.
212
Chương 18
Cựu Ước – Luật Pháp
Lời Giới Thiệu
Một phần lớn của Ngũ Kinh là luật pháp. Thật sự có sáu trăm mạng lịnh trong những
sách này. Chúng ta tìm thấy tài liệu pháp lý này hầu hết trong sách Lê-vi Ký và Phục Truyền
Luật Lệ Ký. Cũng như nửa sách Xuất Ê -díp-tô Ký cùng với một phần của Dân Số Ký trình bày
nhiều loại luật khác nhau mà Đức Chúa Trời đã ban cho dân Y-sơ-ra-ên. Rõ ràng, những luật
pháp này là quan trọng. Nhưng nhiều luật dường như xa lạ với chúng ta. Chúng ta cùng xem
những luật sau:
Xuât Ê -díp-tô Ký 34:26: “Ngươi chớ nấu thịt dê con trong sữa mẹ nó”.
Lê-vi Ký 19:19: “chớ mặc mình bằng áo dệt nhiều thứ chỉ”.
Lê-vi Ký 12:2: “Khi nào một người đàn bà thọ thai và sanh một con trai, thì phải bị ô uế trong bảy
ngày, như trong kỳ kinh nguyệt”.
Lê-vi Ký 13:40: “Khi một người nào đầu rụng tóc, ấy là một người sói đầu: người vẫn tinh sạch”.
Phục-truyền luật-lệ Ký 22:12: “Ngươi phải kết tua nơi bốn chéo áo choàng của mình mặc”.
Hơn nữa, có nhiều luật trong Cựu ước mà chúng ta, là những Cơ Đốc Nhân hiện đại,
thường hay vi phạm. Cái nào sau đây mà bạn thường hay phạm?
Phục-truyền luật-lệ Ký 22:5: “Người nữ không phép mặc quần áo của người nam, và
người nam cũng chẳng được mặc quần áo của người nữ.”
Lê-vi Ký 19:32: “Trước mặt người tóc bạc, ngươi hãy đứng dậy”.
Lê-vi Ký 19:28: “chớ xăm vẽ trên mình”.
Phục-truyền luật-lệ Ký 14:8: “Con heo cũng vậy; vì nó có móng rẽ ra, nhưng không
nhơi: phải cầm nó là không sạch cho các ngươi. Chớ ăn thịt của các con vật đó, và chớ
đụng đến xác chết chúng nó.”
Trong khi chúng ta bỏ qua những luật như vậy, có những luật Cựu Ước khác mà
chúng ta phải giữ như là hành vi Cơ Đốc:
Lê-vi Ký 19:18: “hãy yêu thương kẻ lân cận ngươi như mình”.
Xuất Ê -díp-tô Ký 20:13: “Ngươi chớ giết người”.
213
Phục-truyền luật-lệ Ký 5:18: “Ngươi chớ phạm tội tà dâm”.
Do đó, tại sao chúng ta giữ một số luật mà bỏ những luật khác? Luật nào thích hợp
còn luật nào là không thích hợp? Nhiều Cơ Đốc Nhân ngày nay khó xử trong vấn đề giải nghĩa
luật pháp. Một số chúng ta đọc qua những đoạn luật pháp và bỏ qua những luật dường như
không thể áp dụng với chúng ta. Đây là những luật mà chính chúng ta bỏ qua. Nhưng khi chúng
ta gặp một luật dường như có ý nghĩa với thế giới ngày nay, chúng ta nắm lấy nó, gạch dưới và
sử dụng nó như là một hướng dẫn cho cuộc sống của mình. Chắc chắn hướng giải kinh như vậy
là không thích hợp. Nhưng chúng ta nên giải nghĩa luật pháp như thế nào?
Trong chương này bạn sẽ học một hướng thống nhất để giải nghĩa luật pháp Cựu ước.
Trước hết chúng ta xem xét vài hướng truyền thống phổ biến mà chúng ta xem như không hợp lý.
Sau đó chúng tôi sẽ trình bày phương pháp mà chúng tôi cảm thấy hợp lý nhất cho việc giải
nghĩa luật pháp. Như một phần của hướng gợi ý của chúng tôi, chúng ta trước hết sẽ khai phá bối
cảnh của giao ước và chuyện kể của tài liệu pháp lý Cựu Ước và thảo luận những ứng dụng của
bối cảnh đó cho việc giải kinh. Cuối cùng chúng ta áp dụng Hành Trình Giải Kinh vào công tác
giải nghĩa luật pháp. Rồi chúng ta sẽ cùng tham khảo vài ví dụ.
Hướng Giải Kinh Truyền Thống
Trãi qua nhiều năm, hướng giải nghĩa luật pháp Cựu ước truyền thống nhấn mạnh sự
khác biệt giữa những luật đạo đức, dân sự và lễ nghi. Luật đạo đức là những luật liên quan đến
những lẽ thật vượt thời gian về dự định của Đức Chúa Trời cho cách đối xử của con người. “Hãy
yêu người lân cận như mình” là một ví dụ về luật đạo đức. Luật dân sự là những luật mô tả
những khía cạnh mà chúng ta thường thấy trong hệ thống luật pháp của một đất nước. Những
luật này liên quan đến tòa án, kinh tế, đất đai, hình sự và sự hình phạt. Một ví dụ cho luật dân sự
có thể được tìm thấy trong Phục truyền 5:1: “cuối năm thứ bảy ngươi phải xóa hết nợ”. Luật lễ
nghi là những luật liên quan đến việc tế lễ, kỳ lễ và những hoạt động của thầy tế lễ. Ví dụ, Phục
truyền 16:13 dạy cho dân Y-sơ-ra-ên: “Khi ngươi đã thâu huê lợi của sân đạp lúa và hầm rượu
mình rồi, thì phải giữ lễ lều tạm trong bảy ngày”.
Theo hướng này, phân biệt giữa các luật đạo đức, dân sự và tế lễ là vô cùng quan
trọng bởi vì khi nhận ra được thì mới biết cái nào áp dụng cho cái nào. Luật đạo đức là phổ
thông và vượt thời gian. Chúng vẫn được áp dụng cho tín hữu Cơ Đốc ngày nay. Hệ thống này
rất hữu ích cho nhiều người, giúp cho một phương pháp mà qua đó những đoạn Kinh Thánh như:
“yêu người lân cận như mình” có thể được công bố như là luật cho Cơ Đốc nhân trong khi tất cả
những phân đoạn Kinh Thánh liên quan đến những tế lễ và hình phạt có thể bỏ qua.
Dầu vậy, trong những năm gần đây, nhiều Cơ Đốc Nhân không cảm thấy thỏa mái
lắm với hướng này. Trước hết, những sự phân biệt giữa những luật đạo đức, dân sự và lễ nghi rất
võ đoán. Không có sự phân biệt như vậy trong Kinh Thánh. Ví dụ, “yêu người lân cận như mình”
(Lê-vi Ký 19:18) đứng ngay trước câu khác với một loại luật khác: “Ngươi chớ mặc áo với hai
214
màu chỉ” (19:19). Chúng ta xem câu 18 có thể áp dụng cho chúng ta nhưng bỏ câu 19 vì nó
không áp dụng cho chúng ta sao? Đoạn Kinh Thánh này không xác định được điểm thay đổi giữa
hai câu này.
Hơn nữa, thật khó xác định được luật nào ở trong phạm trù đạo đức còn luật nào ở
trong những phạm trù khác. Vì luật xác định mối quan hệ giao ước giữa Đức Chúa Trời và dân
Y-sơ-ra-ên nên bản chất của luật pháp là mang tính thần học. Tất cả các luật đều có nội dung
thần học. Câu hỏi được đặt ra là: “Một luật có thể là một luật thần học nhưng không phải là một
luật đạo đức?”.
Ví dụ, xem mạng lịnh trong Lê-vi Ký 19:19: “Các ngươi hãy giữ những mạng lịnh ta.
Chớ để loài vật khác giống phủ lẫn nhau; chớ gieo ruộng ngươi hai thứ giống, và chớ mặc mình
bằng áo dệt nhiều thứ chỉ.” Một trong những chủ đề trọng tâm xuyên suốt sách Lê-vi Ký là sự
thánh khiết của Đức Chúa Trời. Phần của chủ đề này là lời dạy rằng những điều thánh phải phân
rẽ với những điều phàm tục và phổ thông. Trong khi chúng ta không hiểu hết được những sắc
thái của mạng lịnh này chống lại với việc trộn lẫn những chất liệu của vải hay trộn lẫn hạt giống,
chúng ta biết rằng nó liên quan đến sự thánh khiết của Đức Chúa Trời. Thực sự, tất cả các luật
liên quan đến sự phân rẽ đều liên hệ đến nguyên tắc chung về sự thánh khiết của Đức Chúa Trời
và sự phân rẽ. Vì vậy loại luật nào trong Lê-vi Ký 19:19? Luật dân sự? Không phải vậy. Nó
không liên quan đến nhu cầu của xã hội. Luật tế lễ? Có thể, dầu luật này không áp dụng cho các
tế lễ. Cách mà dân Y-sơ-ra-ên gieo hạt giống và cách họ may quần áo có tầm quan trọng thần
học cho việc đó. Tại sao luật này không thể là luật đạo đức?
Một ví dụ khác của một luật khó phân loại với hệ thống trên là Dân-số Ký 5:11-28:
11 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se rằng: 12 Hãy nói cho dân Y-sơ-ra-ên rằng:
Nếu một người đàn bà lỗi đạo và phạm tội bất chánh cùng chồng, 13 nếu có một người
nam gian dâm cùng nàng mà việc nhẹm khuất mắt chồng; nếu nàng bị ô uế kín nhiệm,
không có chứng cớ đối cùng nàng, và nàng không bị bắt tại trận; 14 nếu tánh ghen phát
nơi người chồng ghen vợ mình, hoặc đã thật bị ô uế, hoặc không có bị ô uế, 15 thì
người nầy phải dẫn vợ mình đến trước mặt thầy tế lễ, và vì nàng đem theo một phần
mười ê-pha bột mạch nha dùng làm của tế lễ. Người chớ nên chế dầu vào, và cũng
chẳng nên bỏ nhũ hương lên trên, vì là một của lễ chay về sự ghen tương, một của lễ
chay kỷ niệm đặng nhắc tội gian ác. 16 Thầy tế lễ sẽ biểu người nữ đến gần, đứng
trước mặt Đức Giê-hô-va. 17 Kế đó thầy tế lễ lấy nước thánh đổ vào chậu đất, hốt bụi
ở trên đất của đền tạm mà bỏ trong nước. 18 Đoạn, thầy tế lễ phải biểu người nữ đứng
trước mặt Đức Giê-hô-va, lột trần đầu nàng, để của lễ kỷ niệm trên lòng bàn tay nàng,
nghĩa là của lễ chay về sự ghen tương; và thầy tế lễ phải có nước đắng giáng rủa sả
trong tay mình. 19 Thầy tế lễ phải bắt người nữ thề, và nói cùng nàng rằng: Nếu chẳng
một người nam nào nằm cùng ngươi, và nếu đang dưới quyền chồng ngươi không có
lỗi đạo và không bị ô uế, thì chẳng phải mắc một điều hại nào của nước đắng giáng rủa
215
sả nầy. 20 Còn nếu đang dưới quyền chồng, mà ngươi lỗi đạo; nếu ngươi bị ô uế, và
nếu một người nào khác hơn chồng đã nằm cùng ngươi 21 bấy giờ thầy tế lễ phải bắt
người nữ lấy một lời thề trù ẻo mà thề, và nói cùng nàng rằng: Cầu Đức Giê-hô-va
khiến cho ngươi trở nên một mầm rủa sả và trù ẻo giữa vòng dân sự ngươi, làm cho
ngươi ốm lòi hông và phình bụng lên; 22 nước đắng giáng rủa sả nầy khá chun vào
ruột gan làm cho bụng ngươi phình lên và ốm lòi hông. Người nữ sẽ nói rằng: A-men,
a-men! 23 Kế đó, thầy tế lễ phải viết các lời trù ẻo nầy trong một cuốn sách, rồi lấy
nước đắng bôi đi. 24 Thầy tế lễ sẽ biểu người nữ uống nước đắng giáng rủa sả, nước
đắng giáng rủa sả sẽ vào trong mình nàng đặng làm cay đắng cho nàng. 25 Đoạn, thầy
tế lễ sẽ lấy khỏi tay người nữ của lễ chay về sự ghen tương, đưa qua đưa lại trước mặt
Đức Giê-hô-va và dâng lên trên bàn thờ. 26 Rồi lấy một nắm của lễ chay kỷ niệm và
xông trên bàn thờ; kế biểu người nữ uống nước đắng. 27 Vả, khi nào thầy tế lễ biểu
người uống nước đắng rồi, nếu quả người có bị ô uế phạm tội bất chánh cùng chồng
mình, thì nước đắng giáng rủa sả sẽ vào mình làm cay đắng cho nàng, bụng nàng sẽ
phình lên, hông nàng ốm lòi, và người nữ nầy sẽ làm một mầm rủa sả giữa vòng dân sự
mình. 28 Còn nếu người nữ không bị ô uế, vẫn thanh sạch, thì nàng sẽ chẳng bị một
điều hại nào, và sẽ sanh con.
Đoạn Kinh Thánh này mô tả một người phụ nữ bị nghi ngờ phạm tội tà dâm bị thầy tế
lễ xử như thế nào. Chắc chắn phạm tội tà dâm là một vấn đề đạo đức. Luật này có phổ thông và
vượt thời gian cho chúng ta không? Để xác định người đó có tội hay vô tội, thầy tế lễ bắt người
phụ nữ đó uống một loại nước đắng. Nếu cô ta bị bịnh, là cô ta có tội. Nếu cô ta không bị bịnh,
cô ta vô tội. Điều này có thể được áp dụng cho chúng ta ngày nay không?
Theo ý của chúng tôi, hướng giải nghĩa này quá mơ hồ và không thống nhất. Chúng
ta đơn giản không nhìn thấy rõ sự phân biệt trong Kinh Thánh giữa những phạm trù luật khác
nhau này. Sự mơ hồ trong sự phân biệt này khiến cho chúng ta cảm thấy không thoải mái về cách
dùng một sự phân biệt để xác định cái nào là luật đặc biệt cần phải vâng lời và cái nào phải bỏ
qua. Chúng ta thấy việc bỏ qua cái gọi là luật dân sự hay tế lễ như là điều không thể áp dụng
được là không hợp lý. Cả Kinh Thánh đều có thể áp dụng được cho các tín hữu thời Tân Ước.
Do đó, chúng tôi cho rằng phương pháp tốt nhất để giải nghĩa luật pháp là phương
pháp mà được áp dụng thống nhất với tất cả các đoạn Kinh thánh về luật. Đó là cách không tạo
nên những sự phân biệt võ đoán không có bối cảnh giữa các câu và sự áp dụng của chúng.
Hướng giải nghĩa luật pháp truyền thống chắc chắn sẽ tiếp tục là một phương pháp tiêu chuẩn
cho nhiều Cơ Đốc Nhân. Đó là một phương pháp đi cùng với lịch sử và một phương pháp mà
chúng ta tôn trọng. Tuy nhiên, trong những chương tiếp theo, chúng tôi đề nghị một phương
pháp giải nghĩa luật pháp thay thế - một phương pháp có thể giúp chúng ta thống nhất trong việc
học và áp dụng luật Cựu Ước.
216
Bối Cảnh Chuyện Kể
Tài liệu luật pháp của Cựu Ước không tách biệt với phần còn lại của Kinh Thánh.
Luật Cựu Ước khác với cách trình bày của các sách Thơ ca như Châm ngôn. Sách Châm ngôn có
phần tách biệt với những phần Kinh Thánh khác. Nó không liên kết với một câu chuyện. Có vài
kết nối lịch sử nhưng không rõ ràng dù nó vẫn đứng trong sự liên hệ thần học chung.
Ngược lại, luật Cựu ước dính chặt với câu chuyện lịch sử thần học của dân Y-sơ-ra-
ên. Đó là phần chuyện kể chạy từ Sáng Thế Ký 12 đến II Các Vua 25. Luật pháp không được
trình bày như là một nguyên tắc vượt thời gian phổ thông. Nhưng nó được trình bày như là phần
của chuyện kể thần học mô tả cách Đức Chúa Trời giải cứu dân Y-sơ-ra-ên khỏi Ai-cập và lập họ
là dân của Ngài trong Đất hứa.
Điều này luôn đúng với từng sách có chứa những yếu tố của luật pháp Cựu Ước. Ví
dụ, tài liệu luật pháp chính trong Xuất Ê -díp-tô Ký nằm trong Xuất Ê -díp-tô Ký 20-23. Phần này
cũng bao gồm Mười Điều Răn. Nhưng chú ý đến bối cảnh chuyện kể. Mười chín đoạn đầu của
sách Xuất Ê -díp-tô Ký kể về sự nô lệ của dân Y-sơ-ra-ên tại Ai-cập và họ được Đức Chúa Trời
giải cứu thần kỳ. Nó cũng mô tả Môi-se được kêu gọi và gặp Pha-ra-ôn. Nó cũng trình bày câu
chuyện về những tai vạ trên dân Ai-cập và sự chết con đầu lòng. Tiếp theo Môi-se dẫn dân Y-sơ-
ra-ên ra khỏi Ai-cập và vượt qua Biển Đỏ. Sau đó sách Xuât Ê-díp-tô ký tiếp tục mô tả hành
trình trong sa mạc cho đến đoạn19, dân Y-sơ-ra-ên đến Núi Si-na-i. Tại đó Đức Chúa Trời kêu
gọi vào mối quan hệ giao ước.
Mười Điều Răn trong Xuất Ê -díp-tô Ký 20 và những luật tiếp theo (Xuất Ê -díp-tô Ký
21-23) là phần của câu chuyện này. Đoạn Kinh Thánh này liên kết với câu chuyện Đức Chúa
Trời gặp Môi-se và dân Y-sơ-ra-ên tại núi Si-na-i. Ví dụ, để ý rằng Mười Điều răn được liệt kê
trong Xuất 20:1-17, liền theo đó là chuyện kể trong câu 18: “cả dân sự nghe sấm vang, tiếng kèn
thổi, thấy chớp nhoáng, núi ra khói, thì run rẩy và đứng cách tận xa.” Tương tự, Đức Chúa Trời
ban nhiều luật khác cho dân Y-sơ-ra-ên trong Xuất. 21-23 nhưng chúng cũng là phần của chuyện
kể. Chúng là phần của cuộc hội thoại giữa Đức Chúa Trời và dân Y-sơ-ra-ên, qua Môi-se là
người trung gian. Để ý đến phản ứng của dân chúng trong Xuất. 24:3 khi Đức Chúa Trời ban luật
pháp: “Môi-se bèn đến thuật lại cho dân sự mọi lời phán của Đức Giê-hô-va và các luật lệ, thì
chúng đồng thinh đáp rằng: Chúng tôi sẽ làm mọi lời Đức Giê-hô-va phán dạy”.
Tương tự sách Lê-vi ký cũng trình bày những câu chuyện giữa Đức Chúa Trời và dân
sự tại Núi Si-na-i (Lê-vi Ký 26:46;27:34). Những luật trong Lê-vi ký được trình bày như là phần
của cuộc hội thoại giữa Đức Chúa Trời và Môi-se. Hội thoại là một đặc điểm chuẩn của chuyện
kể. Sách này bắt đầu: “Đức Giê-hô-va từ trong hội mạc gọi Môi-se” (1:1). Từ “Đức Giê-hô-va
gọi Môi-se” xảy ra nhiều lần xuyên suốt sách này. Hơn nữa, sách Lê-vi Ký gồm nhiều ngữ theo
thứ tự thời gian, xác định một sự chuyển biến theo thời gian của một câu chuyện, một đặc điểm
khác của chuyện kể:
217
“Môi-se lấy…” (8:10)
“Người biểu…” (8:14)
“Đoạn, Môi-se nói…” (8:31)
“Qua ngày thứ tám, Môi-se gọi…”(9:1)
“A-rôn bèn lại gần bàn thờ…” (9:8)
“Một ngọn lửa từ trước mặt Đức Giê-hô-va lòe ra, nuốt tiêu họ và họ chết…” (10:2)
“Sau khi hai con trai của A-rôn chết trong lúc đến gần trước mặt Đức Giê-hô-va, thì
Ngài phán cùng Môi-se…” (16:1)
Sách Dân số ký lại kể chuyện vào năm thứ hai sau khi ra khỏi Ai-cập (Dân-số Ký 1:1)
và mô tả hành trình của dân Y-sơ-ra-ên đi lang thang trong bốn mươi năm tiếp theo (33:38).
Trọng tâm của sách này là sự từ chối vào Đất Hứa của dân Y-sơ-ra-ên trong chương 13-14. Kết
quả của sự bất tuân này là bốn mươi năm lang thang mà sách này ghi lại. Ở những thời điểm
khác nhau, Đức Chúa Trời đã ban thêm luật cho dân Y-sơ-ra-ên. Giống như trong Xuất Ê -díp-tô
ký và Lê-vi ký, những luật trong Dân số ký liên hệ chặt chẽ với tư liệu chuyện kể.
Bối cảnh chuyện kể trong sách Phục truyền là vào tháng thứ mười một của năm thứ
bốn mươi sau khi ra khỏi Ai-cập (Phục-truyền luật-lệ Ký 1:3), chỉ trước khi bước vào xứ Ca-na-
an. Vị trí cũng được xác định – ngay phía đông của sông Giô-đanh (1:1,5). Trong tổng thể của
câu chuyện, dân Y-sơ-ra-ên hoàn tất bốn mươi năm lang thang mà Đức Chúa Trời đã định để
hình phạt họ vì từ chối vào đất hứa. Một thế hệ mới được lớn lên và Đức Chúa Trời tái xác định
giao ước mà Ngài đã lập với tổ phụ họ bốn mươi năm trước (trong Xuất Ê -díp-tô Ký).
Sách Phục truyền chứa đựng hầu hết một loạt bài giảng mà Môi-se thay mặt Đức
Chúa Trời giảng cho dân Y-sơ-ra-ên. Những bài giảng này liên hệ với chuyện kể vì chúng được
giảng trong cùng thời gian và không gian và chúng có một người giảng nhất định và thính giả
nhất định. Cả hai điều này là nhân vật chính trong toàn bộ câu chuyện. Hơn nữa, cuối của sách
này là một tài liệu không phải luật pháp: chỉ định Giô-suê làm lãnh đạo (31:1-8), bài ca của Môi-
se (32:1-47), lời chúc phước của Môi-se trên các chi phái (33:1-29) và sự chết của Môi-se (34:1-
12). Những sự kiện này cũng được trình bày theo dạng chuyện kể. Hơn nữa, những sự kiện trong
Phục truyền chảy thẳng vào sách Giô-suê mà không bị gián đoạn.
Do đó, luật pháp Cựu ước gắn liền với câu chuyện ra khỏi Ai-cập, lang thang và
chinh phục của dân Y-sơ-ra-ên. Hướng giải nghĩa luật pháp của chúng ta phải sử dụng hình thức
chuyện kể này. Hãy nhớ lại tầm quan trọng của bối cảnh mà bạn đã học trong chương 6 và 7.
Luật pháp là phần của một câu chuyện và câu chuyện này cung cấp một bối cảnh quan trọng để
218
giải nghĩa luật pháp. Thực chất, phương pháp giải nghĩa luật pháp Cựu Ước tương tự với phương
pháp giải nghĩa chuyện kể Cựu Ước vì luật pháp là một phần của chuyện kể.
Bối Cảnh Giao Ước
Đức Chúa Trời giới thiệu luật pháp trong một bối cảnh giao ước: “Vậy, bây giờ, nếu
các ngươi vâng lời ta và giữ sự giao ước ta, thì trong muôn dân, các ngươi sẽ thuộc riêng về ta”
(Xuất Ê -díp-tô Ký 19:5). Dân sự chấp nhận giao ước (24:3) và Môi-se đóng dấu thỏa thuận này
bằng huyết: “Môi-se bèn lấy huyết rưới trên mình dân sự mà nói rằng: Đây là huyết giao ước của
Đức Giê-hô-va đã lập cùng các ngươi y theo mọi lời nầy” (24:8).
Phần của giao ước này là lời hứa của Đức Chúa Trời sẽ ngự giữa dân Y-sơ-ra-ên.
Điều này được nhấn mạnh nhiều lần trong nửa sau của sách Xuất Ê -díp-tô Ký (25:8;29:45;34:14-
17;40:34-38). Tiếp theo là lời chỉ dẫn của Chúa để làm hòm giao ước và đền tạm, nơi Chúa ngự
(25-31;35-40). Sách Lê-vi ký là chuỗi tự nhiên của phần nửa sau của sách Xuất Ê -díp-tô vì nó
nói đến cách dân Y-sơ-ra-ên sẽ sống với Đức Chúa Trời. Họ đến với Ngài bằng cách nào? Họ
phải giải quyết tội lỗi cá nhân và đất nước trước một Đức Chúa Trời thánh đang sống giữa họ
làm sao? Họ thờ phượng và tương giao với Đức Chúa Trời thánh như thế nào? Sách Lê-vi Ký trả
lời cho những câu hỏi này và cung cấp những chỉ dẫn thực tế về cách sống với Đức Chúa Trời
dưới dạng giao ước của Môi-se.
Sau khi dân Y-sơ-ra-ên bất tuân Đức Chúa Trời, từ chối vào Đất Hứa (Dân-số Ký 13-
14), Đức Chúa Trời dẫn họ đi lòng vòng ba mươi tám năm hầu cho thế hệ bất tuân này phải chết
đi. Sau đó Ngài dẫn dân sự trở lại Ca-na-an. Dầu vậy, trước khi họ vào, Ngài làm mới lại giao
ước. Với thế hệ mới, trẻ này, Ngài nhắc lại giao ước mà Ngài đã lập với tổ phục họ trong sách
Xuất Ê -díp-tô ký. Việc này được thực hiện trước khi họ tiến vào Đất Hứa. Thực sự, trong Phục
truyền, Đức Chúa Trời giải thích và ban nhiều chi tiết hơn về giao ước so với giao ước trong
Xuất Ê -díp- tô Ký. Phục truyền mô tả chi tiết cách họ sống thành công trong Đất Hứa và cách để
được Đức Chúa Trời ban phước.
Vì luật pháp Cựu Ước có liên hệ chặt chẽ với giao ước Môi-se nên cần phải học biết
bản chất của giao ước này. (1) Giao ước Môi-se liên quan đến cuộc chinh phục và đất hứa của
dân Y-sơ-ra-ên. Giao ước qui định thế nào dân Y-sơ-ra-ên có thể chiếm lấy đất hứa và sống thịnh
vượng với Đức Chúa Trời trong Đất Hứa. Sự liên kết chặt chẽ giữa giao ước và đất hứa được
nhấn mạnh nhiều lần trong Phục truyền (4:1,5,14,40; 5:16;6:1,18,20-25;8:1;11:8;12:1;15:4-
5;26:1-2;27:1-3;30:5,17-18; 31:13).
(2) Những phước hạnh từ giao ước Môi-se đều có điều kiện. Một lời cảnh cáo liên tục
xuyên suốt sách Phục truyền, giải thích cho dân Y-sơ-ra-ên rằng vâng phục giao ước sẽ đem đến
phước hạnh nhưng bất tuân giao ước sẽ bị hình phạt và rủa sả. Phục. 28 đặc biệt nói rõ điều này:
câu 1-14 ghi lại danh sách của phước hạnh dành cho dân Y-sơ-ra-ên nếu họ vâng theo giao ước
(luật pháp) trong khi câu 15-68 cũng liệt kê những hậu quả kinh khiếp nếu họ bất tuân giao ước.
219
Liên hệ giữa giao ước với đất hứa và khía cạnh phước hạnh có điều kiện của giao ước được liên
kết chặt chẽ với nhau. Xem Phục truyền 30:15-18:
15 Hãy xem, ngày nay ta đặt trước mặt ngươi sự sống và phước lành, sự chết và tai
họa, 16 vì ngày nay, ta bảo ngươi thương mến Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, đi
trong các đường lối Ngài, và gìn giữ những điều răn luật lệ và mạng lịnh Ngài, để
ngươi sống, gia thêm, và Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi ban phước cho ngươi trong
xứ mà ngươi sẽ vào nhận lấy. 17 Nhưng nếu lòng ngươi xây trở, không khứng nghe
theo, chịu dụ dỗ thờ lạy và hầu việc các thần khác, 18 thì ngày nay ta tỏ cùng các
ngươi rằng các ngươi hẳn phải tuyệt diệt, không được sống lâu trên đất mà ngươi sẽ đi
qua sông Giô-đanh đặng nhận lấy.
(3) Giao ước Môi-se không còn là một giao ước chức năng. Tín hữu Tân ước không
còn ở dưới giao ước cũ của Môi-se nữa. Hê-bơ-rơ 8-9 khẳng định rõ rằng Chúa Giê-xu đến làm
một đấng trung gian của giao ước mới thay thế giao ước cũ. “Gọi ước đó là mới, thì đã xưng ước
trước là cũ; vả, điều chi đã cũ đã già, thì gần tiêu mất đi” (Hê-bơ-rơ 8:13). Luật pháp Cựu Ước
trình bày những qui định nhờ đó dân Y-sơ-ra-ên nhận được phước hạnh trong đất hứa dưới giao
ước cũ (Môi-se). Nếu giao ước cũ không còn thích hợp thì làm sao luật pháp lập nên giao ước đó
có thể thích hợp? Nếu giao ước cũ bị bỏ, chúng ta cũng xem hệ thống của luật pháp chứa giao
ước đó cũng bị bỏ sao?
(4) Luật pháp Cựu Ước như là một phần của giao ước Môi-se không thể áp dụng trên
chúng ta như là luật nữa. Phao-lô cho biết rõ rằng Cơ Đốc Nhân không còn ở dưới luật pháp
Cựu Ước nữa. Ví dụ trong Ga-la-ti 2:15-16 ông viết: “Về phần chúng tôi, thì sanh ra là người
Giu-đa, không phải là kẻ có tội từ trong dân ngoại. Dầu vậy, đã biết rằng người ta được xưng
công bình, chẳng phải bởi các việc luật pháp đâu, bèn là cậy đức tin trong Đức Chúa Jêsus Christ,
nên chính chúng tôi đã tin Đức Chúa Jêsus Christ, để được xưng công bình bởi đức tin trong
Đấng Christ, chớ chẳng bởi các việc luật pháp; vì chẳng có ai được xưng công bình bởi các việc
luật pháp”. Trong Rô-ma 7:4, Phao lô nói: “Hỡi anh em ta, anh em cũng như vậy, bởi thân thể
của Đấng Christ, anh em đã chết về luật pháp, đặng thuộc về người khác, tức là người đã từ kẻ
chết sống lại, hầu cho chúng ta được kết quả cho Đức Chúa Trời.” Tương tự trong Ga-la-ti 3:25:
“Song khi đức tin đã đến, chúng ta không còn phục dưới thầy giáo ấy nữa”. Phao-lô mạnh mẽ
khuyến cáo Cơ Đốc Nhân trở về với luật pháp Cựu Ước. Khi giải nghĩa và áp dụng luật pháp
Cựu Ước, chúng ta phải hết sức để ý đến những lời dạy của Phao-lô. Bây giờ khi chúng ta được
giải phóng khỏi luật pháp qua Đấng Christ, chúng ta không muốn áp đặt ai phải ở dưới luật pháp
qua phương pháp giải nghĩa của chúng ta.
Nhưng còn Chúa Giê-xu phán trong M-thi-ơ 5:17: “Các ngươi đừng tưởng ta đến
đặng phá luật pháp hay là lời tiên tri; ta đến, không phải để phá, song để làm cho trọn” thì sao?
Chúa Giê-xu có mâu thuẫn với Phao-lô không? Không hề! Trước hết để ý từ “Luật pháp và lời
tiên tri” nó đến toàn bộ Cựu Ước. Vì vậy Chúa Giê-xu không chỉ nói về luật Môi-se. Cũng để ý
220
đến phản đề không phải giữa phá và giữ mà là giữa phá và làm trọn. Chúa Giê-xu không nói là
Ngài đến để giữ luật pháp mà Ngài đến để làm trọn luật pháp.
Ma-thi-ơ dùng từ Hy-lạp cho từ ”làm trọn” nhiều lần, nó có nghĩa thông thường là
“đem đến ý nghĩa chủ định của nó”. Chúa Giê-xu không nói rằng luật pháp liên kết mãi mãi với
tín hữu Tân Ước. Nếu liên kết mãi mãi thì chúng ta bắt buộc phải giữ các luật lễ nghi cũng như
luật đạo đức. Điều này rõ ràng ngược lại với lời dạy trong Tân Ước. Điều Chúa Giê-xu muốn nói
là Ngài đến không phải để quét sạch những đòi hỏi công bình của luật pháp nhưng Ngài muốn
nói rằng Ngài đến để làm trọn những đòi hỏi của luật pháp. Hơn nữa, luật pháp và lời tiên tri có
những yếu tố tiên tri, đặc biệt nói đến những yêu cầu cao cả của sự thánh khiết vì sự hiện diện
của Đức Chúa Trời. Chúa Giê-xu là sự trọn vẹn của khía cạnh này trong lịch sử cứu chuộc. Ngài
làm trọn hết những yêu cầu công bình và cái bóng tiên tri của “Luật Pháp và Lời Tiên Tri”.
Hơn nữa, Chúa Giê-xu là người giải nghĩa cuối cùng của luật pháp – thật sự có uy
quyền trên ý nghĩa của luật pháp. Một số luật Chúa Giê-xu tái khẳng định (19:18-19) nhưng một
số Ngài bổ sung (5:31-32). Một số luật Ngài nhấn mạnh (5:21-22,27-28) và một số luật Ngài
thay đổi (5:33-37,38-42,43-47). Cũng có những luật Ngài bãi bỏ hoàn toàn (Mác 7:15-19). Chúa
Giê-xu không ủng hộ tính liên tục của hướng Do Thái truyền thống đối với luật pháp. Ngài cũng
không ủng hộ việc chúng ta từ bỏ luật pháp. Ngài muốn chúng ta phải tái giải nghĩa ý nghĩa của
luật pháp trong ánh sáng của sự đến của Ngài và trong ánh sáng của những thay đổi sâu sắc mà
giao ước mới đem đến. Điều này dẫn chúng ta đến nguyên tắc cuối cùng.
(4) Chúng ta phải giải nghĩa luật pháp thông qua lăng kính của lời dạy Tân Ước.
II Ti-mô-thê 3:16 cho chúng ta biết rằng: “Cả Kinh Thánh đều là bởi Đức Chúa Trời
soi dẫn, có ích cho sự dạy dỗ, bẻ trách, sửa trị và dạy người trong sự công bình”. Chắc chắn
Phao-lô gồm tóm luôn cả luật pháp trong từ “cả Kinh Thánh”, Là phần của Lời của Đức Chúa
Trời, giá trị của luật pháp Cựu Ước là vĩnh cữu. Chúng ta cần phải học và tìm cách áp dụng tất
cả. Dầu vậy, luật pháp không có chức năng như là qui định của giao ước cho chúng ta, và do đó,
nó không còn áp dụng trực tiếp theo nghĩa đen là luật pháp cho chúng ta. Sự đến của Đấng Christ
là sự làm trọn luật pháp đã thay đổi điều đó mãi mãi. Tuy nhiên tài liệu luật pháp chứa đựng
những nguyên tắc phong phú và những bài học cho đời sống và luôn thích ứng khi chúng ta giải
nghĩa chúng qua lăng kính của Tân Ước.
Làm sao chúng ta có thể khám phá những bài học và nguyên tắc này? Chúng ta dùng
phương pháp nào để giải nghĩa luật pháp Cựu ước cho tín hữu Tân Ước? Cách tốt nhất là sử
dụng Hành Trình Giải Kinh.
Hành Trình Giải Kinh
Chúng tôi đã giới thiệu Hành Trình Giải Kinh cho bạn trong chương 1 và chúng ta đã
thảo luận nó có liên hệ đặc biệt với giải nghĩa Cựu Ước như thế nào trong phần giới thiệu của
221
Phần 5. Trong chương 17, chúng ta đã học cách sử dụng Hành Trình Giải Kinh để giải nghĩa
chuyện kể Cựu ước. Cách áp dụng để giải nghĩa luật pháp Cựu ước cũng tương tự như để giải
nghĩa chuyện kể. Chúng ta hãy ôn lại. Hành Trình Giải Kinh cho chũng ta một hướng thống nhất,
hợp lý để giải nghĩa luật pháp Cựu Ước. Nó cũng cho phép chúng ta áp dụng cùng một phương
cho mọi phân đoạn liên quan đến luật pháp.
Hành Trình Giải Kinh Cựu Ước được trình bày như sau:
Bước 1: Nắm bắt được đoạn Kinh Thánh trong thời xưa. Đoạn Kinh Thánh này có ý nghĩa gì đối
với những độc giả trong thời Kinh Thánh?
Bước 2: Đo được chiều rộng của dòng sông. Có những sự khác biệt nào giữa độc giả thời Kinh
Thánh với chúng ta?
Bước 3: Vượt qua cây cầu nguyên tắc. Có những nguyên tắc thần học nào trong đoạn Kinh
Thánh này?
Bước 4: Chuyển vào Tân Ước. Lời dạy trong Tân Ước có bổ sung hay thỏa mãn nguyên tắc này
không và nếu có thì như thế nào?
Bước 5: Nắm bắt được phân đoạn Kinh Thánh trong thời của chúng ta. Từng Cơ Đốc Nhân ngày
nay áp dụng nguyên tắc thần học đó trong đời sống của mình như thế nào?
Bây giờ chúng ta cùng sử dụng Hành Trình Giải Kinh này để giải nghĩa và áp dụng
luật pháp Cựu Ước.
Bước 1: Nắm bắt được đoạn Kinh Thánh trong thời xưa. Đoạn Kinh Thánh này có ý nghĩa
gì đối với những độc giả trong thời Kinh Thánh?
Dùng kỹ năng quan sát mà bạn học trong Phần 1, đọc đoạn Kinh Thánh cẩn thận và
quan sát càng nhiều càng tốt. Hãy nhớ rằng luật pháp Cựu Ước là phần của một chuyện kể lớn
hơn. Hãy đọc và học nó như bạn học một chuyện kể. Nhận ra những bối cảnh lịch sử và văn
chương. Dân Y-sơ-ra-ên có ở trên bờ sông Giô-đanh, chuẩn bị tiến vào đất hứa (Phục truyền)
không? Hay họ có trở lại núi Si-na-i ngay sau Xuất Ê -díp-tô ký (Lê-vi ký) không?
Luật pháp mà bạn đang học có phải là một đáp ứng với một tình huống nhất định nào
hay nó có mô tả những yêu cầu cho dân Y-sơ-ra-ên sau khi họ tiến vào đất hứa không? Có những
luật nào khác trong bối cảnh trực tiếp này không? Có liên hệ gì giữa các luật này không? Nghiên
cứu bản chất của luật mà bạn đang học. Cố gắng nhận ra luật này liên hệ với giao ước cũ như thế
nào. Nó có nhấn mạnh đến cách dân Y-sơ-ra-ên đến với Đức Chúa Trời không? Nó có đặc biệt
liên kết với cuộc sống trong Đất Hứa không? Bây giờ, hãy xác định luật pháp này có ý nghĩa đặc
biệt gì đối với độc giả Cựu Ước. Nhận ra rõ ràng điều luật pháp yêu cầu họ. Đừng khái quát
trong bước 1, nhưng hãy cụ thể trong thời của họ.
222
Bước 2: Đo được chiều rộng của dòng sông. Có những sự khác biệt nào giữa độc giả thời
Kinh Thánh với chúng ta?
Xác định sự khác biệt giữa chúng ta hôm nay là Cơ Đốc Nhân và độc giả thời Cựu
Ước. Ví dụ, chúng ta ở dưới giao ước mới và không ở dưới giao ước cũ như họ. Do đó, chúng ta
không còn ở dưới luật pháp như những qui định của giao ước. Hơn nữa, chúng ta không phải là
dân Y-sơ-ra-ên chuẩn bị sống trong đất hứa với Đức Chúa Trời đang sống trong đền tạm hay đền
thờ. Chúng ta là Cơ Đốc Nhân có Đức Chúa Trời sống ở trong mỗi chúng ta. Chúng ta không
đến với Đức Chúa Trời thông qua sinh tế, chúng ta đến với Đức Chúa Trời thông qua sự hi sinh
của Chúa Giê-xu Christ. Chúng ta đang sống dưới thế quyền chứ không ở dưới thần quyền như
dân Y-sơ-ra-ên. Chúng ta không đối diện áp lực từ tôn giáo Ca-na-an nhưng từ thế giới quan và
triết học phi Cơ Đốc. Hầu hết chúng ta không sống trong xã hội du mục nhưng đô thị. Bạn có
thấy những khác biệt nào nữa không?
Bước 3: Vượt qua cây cầu nguyên tắc. Có những nguyên tắc thần học nào trong đoạn Kinh
Thánh này?
Đằng sau ý nghĩa cho độc giả gốc có một nguyên tắc thần học. Từ luật Cựu Ước trình
bày một ý nghĩa trực tiếp cho độc giả Cựu ước, một ý nghĩa gắn với bối cảnh giao ước cũ.
Nhưng ý nghĩa đó thường dựa trên một lẽ thật phổ thông rộng hơn, một lẽ thật có thể áp dụng
cho mọi dân của Đức Chúa Trời cho dù họ sống khi nào và sống ở dưới giao ước nào. Trong
bước này, chúng ta sẽ băng qua cây cầu và hỏi: “Nguyên tắc thần học nào được phản ảnh trong
luật này? Đức Chúa Trời đặt nguyên tắc rộng nào đằng sau đoạn Kinh Thánh này để dẫn đến áp
dụng cho ngày đó?”
Luôn nhớ rằng khi phát triển nguyên tắc thần học này, chúng ta phải sử dụng những tiêu chuẩn
sau:
Nguyên tắc phải được phản ánh ngay trong đoạn Kinh Thánh.
Nguyên tắc phải vượt thời gian và không bị trói buộc với một tình huống nhất định nào.
Nguyên tắc không bị văn hóa ràng buộc.
Nguyên tắc phải thích ứng với sự dạy dỗ còn lại của Kinh Thánh.
Nguyên tắc phải thích hợp cả với độc giả thời Kinh Thánh và độc giả thời nay.
Trong những phân đoạn về luật pháp, những nguyên tắc này thường liên hệ trực tiếp
đến tính cách của Đức Chúa Trời và sự thánh khiết của Ngài, bản chất của tội lỗi hay liên quan
đến những người khác.
Bước 4: Chuyển vào Tân Ước. Lời dạy trong Tân Ước có bổ sung hay thỏa mãn nguyên tắc
này không và nếu có thì như thế nào?
Bây giờ hãy chuyển nguyên tắc thần học qua Tân Ước và lọc nó bằng lời dạy trong
Tân Ước về nguyên tắc hay luật mình đang học. Ví dụ, nếu bạn đang giải nghĩa Xuất. 20:14:
223
“Ngươi chớ phạm tội tà dâm”, nguyên tắc thần học sẽ liên quan đến sự thánh khiết của hôn nhân
và nhu cầu chung thủy trong hôn nhân. Khi bạn chuyển nó qua Tân Ước, bạn phải hợp tác với lời
dạy Chúa Giê-xu về chủ đề đó. Trong Mat. 5:28, Chúa Giê-xu phán: “Nhưng ta phán cùng các
người hễ ai ngó người đàn bà mà động tình tham muốn thì người đó đã phạm tội tà dâm trong
lòng”. Chúa Giê-xu mở rộng giới hạn của luật này. Ngài áp dụng nó không chỉ hành động tà dâm
mà còn ý nghĩ tà dâm. Do đó, mạng lịnh chớ phạm tội tà dâm cho chúng ta sẽ như thế này:
“Ngươi chớ phạm tội tà dâm trong hành động hay trong ý tưởng”.
Cũng có một rào cản văn hóa liên quan đến mạng lịnh tà dâm. Trong văn hóa Cựu
Ước, người phụ nữ có chồng rất sớm. Cho nên dường như không có cơ hội để quan hệ tình dục
tiền hôn nhân. Phần lớn cám dỗ tình dục đối với văn hóa đó là ngoại tình. Tuy nhiên, văn hóa của
chúng ta gồm cả hai cám dỗ đó: vi phạm vừa tính thánh khiết của hôn nhân vừa tính chung thủy
trong hôn nhân. Do đó, diễn tả nguyên tắc này cho độc giả ngày nay nên trình bày cả hai phạm
trù cám dỗ và thách thức tính thánh khiết trong hôn nhân (quan hệ tình dục tiền hôn nhân và
ngoại tình). Vì thế, diễn tả nguyên tắc này cho chúng ta ngày nay là: “Chớ có quan hệ tình dục
ngoài hôn nhân, trong hành động hay trong tư tưởng”.
Hãy nhớ rằng bước 4 diễn tả rõ ràng nguyên tắc thần học cho độc giả Cơ Đốc ngày
nay. Diễn đạt này phải đủ rộng để trình bày cho cả cộng đồng hay hội thánh Cơ Đốc nhưng rất
riêng cho các tín hữu Tân Ước ngày nay.
Bước 5: Nắm bắt được phân đoạn Kinh Thánh trong thời của chúng ta. Từng Cơ Đốc
Nhân ngày nay áp dụng nguyên tắc thần học đó trong đời sống của mình như thế nào?
Dùng diễn tả được phát triển trong bước 4 để áp dụng nó cho những tình huống riêng
mà từng Cơ Đốc Nhân gặp phải.
Ví dụ 1: Lê-vi Ký 5:2
Chúng ta cùng xem hai ví dụ để làm rõ hơn Hành Trình Giải Kinh dành cho luật pháp.
Khi ai sẽ đụng đến một vật ô uế, hoặc thây của con thú nhà không tinh sạch, hoặc thây của
con thú rừng không tinh sạch, hoặc thây của loài côn trùng nào không tinh sạch, mà không
tự biết, thì sẽ bị ô uế và mắc tội.
Để hiểu rõ hơn về tình trạng ô uế trong câu này, chúng ta cần phải tham khảo thêm
Lê-vi Ký 5:5-6 và cùng học chung với câu trên:
Vậy, khi nào ai mắc tội về một trong các điều nầy, thì phải xưng mình phạm tội chi, rồi vì
tội mình đã phạm, dẫn đến Đức Giê-hô-va một con cái trong bầy súc vật nhỏ, hoặc chiên
cái hay là dê cái, đặng làm của lễ chuộc tội; thì thầy tế lễ sẽ làm lễ chuộc tội cho người
224
Bước 1: Nắm bắt được đoạn Kinh Thánh trong thời xưa. Đoạn Kinh Thánh này có ý nghĩa
gì đối với những độc giả trong thời Kinh Thánh?
Bối cảnh rộng hơn của Lê-vi ký liên quan đến cách dân Y sơ ra ên phải sống như thế
nào với Đức Chúa Trời đang ngự giữa họ. Họ đến với Đức Chúa Trời bằng cách nào? Làm sao
họ giải quyết với vấn đề tội lỗi và những điều không tinh sạch khi mà họ phải sống với Đức
Chúa Trong đang sống giữa họ? Những câu này nằm trong bối cảnh văn chương nhỏ hơn, tức là
Lê-vi ký 4:1-5:13. Phần này liên quan đến những của lễ tinh sạch – cách để làm mình tinh sạch
trở lại sau khi bị ô uế về lễ nghi. Lê-vi ký 4 liên quan chính đến người lãnh đạo; Lê-vi ký 5 tập
trung vào dân thường. Lê-vi ký 5:2 cho dân Y-sơ-ra-ên biết rằng nếu họ đụng vào một vật không
tinh sạch (động vật chết hay không sạch), họ bị ô uế, dù họ vô tình. Vì tình trạng ô uế của mình,
họ không thể đến gần Đức Chúa Trời và thờ phượng Ngài. Để được tinh sạch, họ phải xưng tội
mình và đem một con cừu đến thầy tế lễ để làm của lễ chuộc tội (5:5-6). Thầy tế lễ sẽ đại diện họ
dâng con chiên và họ sẽ được tinh sạch lại và họ có thể đến và thờ phượng Đức Chúa Trời trở lại.
Bước 2: Đo được chiều rộng của dòng sông. Có những sự khác biệt nào giữa độc giả thời
Kinh Thánh với chúng ta?
Hãy nhớ rằng chúng ta không ở dưới giao ước cũ và tội lỗi của chúng ta bây giờ được
khỏa lấp bởi sự chết của Đấng Christ. Hơn nữa, chúng ta được trực tiếp đến với Cha thông qua
Đấng Christ và không còn cần thầy tế lễ là con người để làm trung gian nữa.
Bước 3: Vượt qua cây cầu nguyên tắc. Có những nguyên tắc thần học nào trong đoạn Kinh
Thánh này?
Nguyên tắc thần học đằng sau ý niệm này là Đức Chúa Trời là thánh. Khi Ngài ngự
giữa dân Ngài, sự thánh khiết của Ngài đòi hỏi dân Ngài phải lánh tội lỗi và những điều ô uế.
Nếu họ thất bại và bị ô uế, họ phải được rửa sạch nhờ của lễ có huyết.
Để ý nguyên tắc này được phản ánh trong đoạn Kinh Thánh Lê-vi ký 5:2,5-6, nhưng
nó cũng khái quát hơn diễn đạt được tìm thấy trong đoạn Kinh Thánh và được mô tả trong bước
1. Hơn nữa, nguyên tắc này phản ánh tổng thể thần học của Lê-vi ký và phần còn lại của Kinh
Thánh. Nó được diễn đạt trong một hình thức mà có thể áp dụng rộng rãi cho cả dân Cựu và Tân
Ước.
Bước 4: Chuyển vào Tân Ước. Lời dạy trong Tân Ước có bổ sung hay thỏa mãn nguyên tắc
này không và nếu có thì như thế nào?
Khi chúng ta đi qua Tân Ước, chúng ta phải kiểm tra Tân Ước dạy gì về chủ đề này.
Đức Chúa Trời không còn sống ở giữa chúng ta tại trong đền tạm nữa mà Ngài bây giờ đang
sống trong mỗi người chúng ta qua sự hiện diện của Đức Thánh Linh. Dầu vậy, sự hiện diện của
Ngài đòi hỏi chúng ta phải thánh khiết. Ngài yêu cầu chúng ta không được phạm tội và phải lánh
225
khỏi điều ô uế. Nhưng Tân Ước tái định nghĩa rõ ràng từ tinh sạch và ô uế. Hãy xem lời Chúa
Giê-xu phán trong Mác 7:15,20-23:
15 Chẳng sự gì từ ngoài người vào trong cơ thể làm dơ dáy người được; nhưng sự gì từ
trong người ra, đó là sự làm dơ dáy người…
20 Vậy, Ngài phán: Hễ sự gì từ người ra, đó là sự làm dơ dáy người! 21 Vì thật là tự
trong, tự lòng người mà ra những ác tưởng, sự dâm dục, trộm cướp, giết người, 22 tà
dâm, tham lam, hung ác, gian dối, hoang đàng, con mắt ganh đố, lộng ngôn, kiêu ngạo,
điên cuồng. 23 Hết thảy những điều xấu ấy ra từ trong lòng thì làm cho dơ dáy người.
Nói cách khác, chúng ta là người sống dưới giao ước mới không bị ô uế vì đụng phải
xác chết. Chúng ta trở nên ô uế bởi ý nghĩ ô uế và những hành động tội ác. Đoạn Kinh Thánh
trong Lê-vi ký cũng nhấn mạnh rằng cá nhân bị ô uế khi tình cờ đụng phải vật ô uế. Nguyên tắc
này không thay đổi trong Tân Ước. Những hành động và ý tưởng tội ác dù tình cờ cũng vẫn làm
chúng ta ô uế.
Giao ước mới cũng thay đổi cách chúng ta, là dân của Đức Chúa Trời giải quyết vấn
đề tội lỗi và ô uế. Chúng ta không còn đem con chiên hay dê để chuộc tội lỗi của mình và để
phục hồi chúng ta trở lại tình trạng tinh sạch. Tội của chúng ta bây giờ được khỏa lấp bởi sự hi
sinh của Đấng Christ. Sự chết của Đấng Christ rửa sạch tội lỗi của chúng ta và thay đổi tình trạng
của chúng ta từ ô uế sang tinh sạch. Xưng tội vẫn là hành động quan trọng đối với chúng ta ở
dưới giao ước mới (I Giăng 1:9), cũng giống như dưới giao ước cũ.
Do đó, nguyên tắc thần học rõ ràng cho chúng ta, là độc giả Tân Ước là: Hãy tránh xa
những hành động tội lỗi và ý tưởng ô uế vì Đức Chúa Trời thánh khiết đang ngự trong bạn. Nếu
bạn phạm những hành động ô uế hay những ý tưởng ô uế, hãy xưng tội này ra và tiếp nhận sự tha
thứ qua sự chết của Đấng Christ.
Bước 5: Nắm bắt được phân đoạn Kinh Thánh trong thời của chúng ta. Từng Cơ Đốc
Nhân ngày nay áp dụng nguyên tắc thần học đó trong đời sống của mình như thế nào?
Trong bước 5, chúng ta cố gắng nhận ra những áp dụng riêng cho nguyên tắc thần
học mới vừa tìm được trong bước 4. Có nhiều áp dụng khả dĩ. Ví dụ, một áp dụng có thể liên
quan đến vấn đề này là hình khỏa thân trên internet. Nhiều Cơ Đốc Nhân ngày nay dễ dàng vào
những trang web lõa thể ở nơi riêng tư của mình như nhà riêng hay ký túc xá. Đoạn Kinh Thánh
này dạy chúng ta rằng sự thánh khiết của Đức Chúa Trời, đấng đang ngự trong chúng ta yêu cầu
chúng ta sống đời sống thánh khiết. Xem hình lõa thể rõ ràng là điều Tân Ước xem là ô uế.
Những hành động như vậy là xúc phạm đến sự thánh khiết của Đức Chúa Trời và ngăn trở khả
năng của một người đến gần và thờ phượng hay tương giao với Đức Chúa Trời. Do đó, chúng ta
phải tránh xa những tranh lõa thể trên internet, phải nhận biết rằng nó sẽ làm cho chúng ta ô uế
và xúc phạm đến Đức Chúa Trời thánh khiết đang ngự trong chúng ta và ngăn cản mối tương
226
giao với Ngài. Dầu vậy, nếu bạn đã sa vào tội này, bạn phải xưng tội và thông qua sự chết của
Đấng Christ, bạn sẽ được tha thứ và mối tương giao với Đức Chúa Trời được phục hồi.
Có những áp dụng khả dĩ khác. Tính tham lam? Ghen ghét? Hãy nhìn lại cuộc đời của
chính bạn. Điều nào còn ô uế trong đời sống của bạn?
Ví dụ 2: Phục Truyền 8:6-18
Hành Trình Giải Kinh này có ý nghĩa đối với bạn không? Bạn có thể đi theo
tiến trình trong ví dụ trên không? Bạn có thể áp dụng phương pháp này cho những đoạn
Kinh Thánh khác được không? Chúng ta hãy cùng xem một ví dụ khác: Phục truyền
8:6-18:
6 Hãy kính sợ Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, gìn giữ những điều răn của Ngài, đi
theo các đường lối Ngài; 7 vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi sẽ khiến ngươi vào xứ
tốt tươi, có nhiều khe, suối, nước sâu phun lên trong trũng và trên núi; 8 xứ có lúa mì,
lúa mạch, dây nho, cây vả, cây lựu; dầu ô-li-ve và mật; 9 xứ đó ngươi sẽ ăn bánh đầy
đủ, chẳng thiếu món chi; đá xứ đó là sắt, và từ trong núi ngươi lấy đồng ra. 10 Vậy,
ngươi sẽ ăn no nê, và ngợi khen Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, vì cớ xứ tốt tươi mà
Ngài đã ban cho. 11 Ngươi khá cẩn thận, e quên Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi,
không giữ gìn những điều răn, mạng lịnh và luật lệ của Ngài, mà ngày nay ta truyền
cho ngươi chăng; 12 lại e sau khi đã ăn no nê, cất nhà tốt đặng ở, 13 thấy bò chiên của
mình thêm nhiều lên, bạc, vàng, và mọi tài sản mình dư dật rồi, 14 thì bấy giờ lòng
ngươi tự cao, quên Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, là Đấng đã đem ngươi ra khỏi xứ
Ê -díp-tô, tức khỏi nhà nô lệ chăng. 15 Ấy là Ngài đã dẫn ngươi đi ngang qua đồng
vắng mênh mông gớm ghiếc nầy, đầy những rắn lửa, bò kẹp, đất khô khan, chẳng có
nước; Ngài khiến nước từ hòn đá rất cứng phun ra cho ngươi; 16 lại trong đồng vắng,
Ngài ban cho ngươi ăn ma-na mà tổ phụ ngươi chưa hề biết, để hạ ngươi xuống và thử
ngươi, hầu về sau làm ơn cho ngươi. 17 Vậy, khá coi chừng, chớ nói trong lòng rằng:
Ấy nhờ quyền năng ta và sức lực của tay ta mà đoạt được những sản nghiệp nầy. 18
Hãy nhớ lại Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, vì ấy là Ngài ban cho ngươi sức lực đoạt
được những sản nghiệp, để làm trọn sự giao ước Ngài đã thề cùng tổ phụ ngươi, y như
Ngài đã làm ngày nay.
Hãy luôn nhớ rằng những bước giải nghĩa này luôn đi sau bước quan sát. Đừng quên
quan sát, quan sát và quan sát! Học bối cảnh. Nghiên cứu từ. Quan sát nhiều hơn.
Bước 1: Nắm bắt được đoạn Kinh Thánh trong thời xưa. Đoạn Kinh Thánh này có ý nghĩa
gì đối với những độc giả trong thời Kinh Thánh?
227
Dân Y-sơ-ra-ên phải tiếp tục vâng theo mạng lệnh của Đức Chúa Trời. Khi họ vào
Đất Hứa, họ không được kiêu ngạo và cho rằng chính họ là người đem đến phước hạnh của Đất
Hứa chứ không phải Đức Chúa Trời. Họ không được phép quên rằng Đức Chúa Trời là nguồn
phước hạnh và Ngài là Đấng giải phóng họ khỏi Ai-cập.
Bước 2: Đo được chiều rộng của dòng sông. Có những sự khác biệt nào giữa độc giả thời
Kinh Thánh với chúng ta?
Chúng ta không ở giao ước cũ. Hơn nữa chúng ta không bước vào Đất Hứa và nhận
những phước hạnh vật chất của Đất Hứa.
Bước 3: Vượt qua cây cầu nguyên tắc. Có những nguyên tắc thần học nào trong đoạn Kinh
Thánh này?
Dân của Đức Chúa Trời phải vâng phục Đức Chúa Trời. Chúng ta không được kiêu
ngạo và nghĩ rằng chúng ta là những người đã tạo nên phước hạnh mà quên rằng nó đến từ Đức
Chúa Trời. Chúng ta phải luôn nhớ Đức Chúa Trời và cách Ngài giải cứu chúng ta.
Bước 4: Chuyển vào Tân Ước. Lời dạy trong Tân Ước có bổ sung hay thỏa mãn nguyên tắc
này không và nếu có thì như thế nào?
Sự vâng lời Đức Chúa Trời vẫn được nhấn mạnh nhưng Tân Ước chuyển tâm điểm từ
vâng phục luật pháp sang vâng phục trong sự bước đi với Đấng Christ. Chúa Giê-xu nhấn mạnh
vâng theo “điều răn mới” là yêu nhau (Giăng 13:34). Sự kiêu ngạo và thái độ tự mãn bị lên án
trong Tân Ước cũng như trong Cựu Ước. Dầu vậy, phước hạnh trong Tân Ước nghiêng về thuộc
linh hơn là vật chất (Ê-phê-sô 1). Cuối cùng, Đức Chúa Trời không giải phóng chúng ta khỏi Ai-
cập nhưng Ngài cứu chúng ta khỏi tội lỗi thông qua Chúa Giê-xu Christ. Tất cả phước hạnh
chúng ta nhận được lưu xuất từ mối quan hệ của với Đấng Christ. Chúng ta phải tiếp tục đi theo
Đấng Christ và vâng theo điều răn của Ngài. Đừng bao giờ nghĩ rằng chúng ta tạo nên phước
hạnh cho cuộc đời của mình; tất cả những phước hạnh tốt lành trong cuộc đời chúng ta đến từ
nơi Đức Chúa Trời, lưu xuất từ mối quan hệ của chúng ta với Đấng Christ. Chúng ta luôn nhớ
đến Đức Chúa Trời và ngợi khen Ngài vì đã cứu chúng ta qua Đấng Christ.
Bước 5: Nắm bắt được phân đoạn Kinh Thánh trong thời của chúng ta. Từng Cơ Đốc
Nhân ngày nay áp dụng nguyên tắc thần học đó trong đời sống của mình như thế nào?
Có nhiều cách mà sự thành công hay phước hạnh trong cuộc đời một Cơ Đốc Nhân có
thể sản sinh ra sự kiêu ngạo và dẫn đến sự sai trật trong suy nghĩ của mình về nguồn phước hạnh.
Ví dụ nếu một người thành công trong doanh nghiệp, người đó thường bị cám dỗ nghĩ rằng anh
ta là người tạo nên sự thành công đó chứ không phải là Đức Chúa Trời. Sự giàu có có thể là hiểm
họa thật sự ngày nay vì có thể khiến chúng ta quên Đức Chúa Trời. Tương tự, những sinh viên
thông minh và thành công trong học vấn thường hay nghĩ mình giỏi thay vì nhận biết rằng Đức
228
Chúa Trời là Đấng ban cho họ đầu óc và môi trường tối giúp họ thành đạt. Tất cả phước hạnh
thật đến từ mối quan hệ của chúng ta với Đấng Christ.
Kết Luận
Trong chương này, chúng ta nhìn thấy cách giải nghĩa luật pháp Cựu Ước truyền
thống được phân vào những phạm trù như luật đạo đức, dân sự và lễ nghi. Tuy nhiên, chúng ta
kết luật rằng hướng này không thích hợp và chúng tôi đề nghị một hướng thay thế. Chúng tôi ghi
lại bối cảnh chuyện kể của luật pháp và thảo luận bối cảnh giao ước của luật pháp. Từ hai bối
cảnh này chúng ta áp dụng Hành Trình Giải Kinh để giải nghĩa luật pháp Cựu Ước. Phương pháp
này là hướng tốt nhất đối với luật pháp.
Sau khi quan sát, chúng ta xác định đoạn Kinh Thánh có ý nghĩa gì đối với độc giả
thời Kinh Thánh. Sau đó chúng ta nhận ra sự khác biệt giữa độc giả thời Kinh Thánh và chúng ta.
Tiếp theo chúng ta vượt qua cây cầu nguyên tắc và lọc chúng qua lời dạy của Tân Ước để nhận
ra ý nghĩa cho độc giả Cơ Đốc ngày nay. Cuối cùng, chúng ta xác định những áp dụng riêng ý
nghĩa này cho từng tình huống riêng.
Hướng này cho phép chúng ta giải nghĩa tất cả đoạn Kinh Thánh luật pháp với cùng
một phương pháp. Nó cung cấp cho chúng ta một hệ thống từng bước một nhờ đó chúng ta có
thể tìm thấy áp dụng thích hợp cho diện rộng của luật pháp Cựu Ước. Bạn đã sẵn sàng tự giải
nghĩa những đoạn Kinh Thánh luật pháp chưa?
229
Chương 19
Cựu Ước – Văn Thơ
Lời Giới Thiệu
Hơn một phần ba của Kinh Thánh chứa đựng thơ ca. Các sách Thi thiên, Gióp, Châm
ngôn, Nhã Ca và Ca thương là các sách thơ ca. Hơn nữa, thơ ca cũng là đặc điểm văn chương
chính trong các sách tiên tri. Thật ra, mỗi sách Cựu Ước đều có một vài bài thơ trong đó. Ngay
cả nhiều bản văn kể chuyện cũng có những bài thơ trong đó. Vì thơ ca bao gồm phần lớn của
Cựu Ước nên việc học cách để đọc và giải nghĩa nó là điều quan trọng. Chúng tôi hi vọng rằng
bạn học được cách để thưởng thức nó nữa.
Một số đoạn Kinh Thánh đẹp nhất và được yêu thích nhất trong Kinh Thánh nằm
trong những phần thơ ca của Cựu Ước. Cơ Đốc nhân trong mọi thời đại đều nhận được những sự
khích lệ trong những lúc khó khăn trong các sách Thi thiên và tâm linh của họ được tươi mới qua
những bài thơ nhiều màu sắc và đầy uy quyền của tác giả Thi Thiên. Những tín hữu cất cánh bay
cao như chim ưng với Ê -sai nhưng cũng có lúc họ nhìn thấy sự tàn phá đau đớn của Giê-ru-sa-
lem với Giê-rê-mi. Thật sự, thơ ca Cựu Ước có một cách hành động đặc biệt trong chúng ta. Nó
có thể đâm thấu vào linh hồn và lặng lẽ nói với chúng ta một cách mạnh mẽ. Đây là điều phổ
thông. Không phân biệt tuổi tác, giáo dục hay văn hóa, Cơ Đốc Nhân trên khắp thế giới đều thỏa
vui với thơ ca trong Cựu Ước, đặc biệt là Thi thiên.
Thi Thiên hấp dẫn chúng ta không? Tại sao bạn thưởng thức Thi thiên? Có phải vì nó
là sách dẫn bạn vào sự thờ phượng Đức Chúa Trời sâu sắc hơn không? Nó có phải là những hình
ảnh tuyệt vời và những cách ngôn mạnh mẽ không? Có phải vì các Thi thiên có một cách kết nối
những hoàn cảnh đời thật và phản ảnh một sự trung thực mà chúng ta có thể liên hệ trong hoàn
cảnh sống thật của chúng ta. Trong nhiều Hội thánh, nhiều tín hữu thường ngại bày tỏ nghi ngờ,
thất vọng hay đau đớn một cách công khai. Nếu họ bày tỏ những cảm xúc đó thì sẽ bị cho là
chưa có đức tin trưởng thành. Nhưng các tác giả Thi thiên thì ngược lại. Họ không ngần ngại bày
tỏ nhiều dạng thái cảm xúc khác nhau. Những cảm xúc đến và họ bày tỏ những điều mà họ thấy
khó khăn.
Ví dụ, tác giả trong Thi thiên 88:14 thỏa mái la lên: “Đức Giê-hô-va ôi! vì sao Ngài
từ bỏ linh hồn tôi, Và giấu mặt Ngài cùng tôi?” Nếu bạn đứng giữa Hội Thánh và cầu nguyện
những lời cầu nguyện như thế này thì chắc lần sau bạn sẽ không được mời cầu nguyện nữa.
Những bày tỏ như thế này thường không được chấp nhận trong một số Hội Thánh và điều này
khiến chúng ta không có căn bản Kinh Thánh khi đối diện với sự tuyệt vọng hay đau khổ.
230
Hội Thánh ngày nay thường có khuynh hướng hạn chế tối đa khía cạnh cảm xúc của
đời sống thuộc linh của Cơ Đốc Nhân. Chúng tôi nghĩ rằng điều này thui chột sự trưởng thành
của tín hữu tệ như hạn chế khía cạnh tri thức vậy. Thơ ca Cựu ước thật sự tập trung vào đáp ứng
cảm xúc của chúng ta với Đức Chúa Trời cũng như đáp ứng cảm xúc của chúng ta với những
người chống nghịch với Đức Chúa Trời và dân sự của Ngài. Thơ ca Cựu Ước kết nối chúng ta
sâu thẳm cả trong niềm vui và trong sự tuyệt vọng. Nó khơi gợi tấm lòng của chúng ta và nâng
đời sống tâm linh và cảm xúc của chúng ta lên. Chúng ta không nên đè nén nó. Nhưng chúng ta
phải ăn nuốt lấy nó.
Trong chương này, chúng ta sẽ khai phá bản chất của thơ ca Cựu Ước. Chúng ta sẽ
thảo luận tại sao và như thế nào nó ảnh hưởng mạnh mẽ đến chúng ta. Chúng ta sẽ học vài thuật
và đặc điểm của thơ ca Cựu ước để có thể đánh giá cao tính nghệ thuật mà những thi sĩ này đã sử
dụng. Chúng tôi hi vọng bài học này sẽ giúp bạn nhìn thấy và thích thú thơ ca trong Cựu Ước
hơn bây giờ. Chúng tôi cũng khai phá những vấn đề về giải nghĩa và áp dụng để hướng dẫn cho
bạn biết cách đọc và hiểu được lời ca Đức Chúa Trời trong hình thức thơ ca Cựu Ước.
Các thi sĩ Cựu Ước viết các bài thơ của mình khác với Phao-lô viết các thơ tín. Chúng
tập trung nhiều vào cảm xúc của chúng ta. Hơn nữa chúng không xây dựng những biện luận
phức tạp về ngữ pháp nhưng dùng những hình ảnh để chuyển tải ý nghĩa. Chúng vẽ lên những
bức tranh nhiều màu sắc bằng từ ngữ để chuyển tải sứ điệp với ảnh hưởng cảm xúc. Điều này
không có nghĩa là chúng bỏ qua tính logic. Điều này có nghĩa là chúng tập trung nhiều về khía
cạnh cảm xúc hơn là khía cạnh logic. Đúng vậy, Phao-lô không bỏ qua cảm xúc nhưng tập trung
nhiều hơn về biện luận.
Có thể thấy sự khác nhau này trong bảng so sánh bên dưới:
Phao-lô và Thư Tín Tân Ước Thi Sĩ Cựu Ước
Tập trung vào tính logic Tập trung vào cảm xúc
Trọng tâm là những biện luận trí tuệ Trọng tâm là những hình ảnh
Dùng ngữ pháp để phân tích Dùng cách ngôn để phân tích
Một trong những vấn để mà nhiều Cơ Đốc nhân ngày nay gặp khi đối diện với thơ ca
Cựu Ước là họ cố gắng giải nghĩa những bài thi thiên này bằng phương pháp của thư tín Tân
Ước. Những phương pháp giải kinh này không thích hợp và thường là sai lệch đối với các thơ ca
Cựu Ước. Chúng ta không thể đến với Thi thiên 51 cùng một phương pháp như chúng ta dùng
trong Rô ma 3. Do đó chúng ta cần giải nghĩa thơ ca Cựu Ước bằng một phương pháp giúp nhận
ra được chức năng của những hình ảnh và liên kết những hình ảnh này với khía cạnh cảm xúc về
mối quan hệ của chúng ta với Đức Chúa Trời và với con người. Một phương pháp như vậy sẽ
giúp chúng ta hiểu được những yếu tố khác nhau của thơ ca Cựu Ước.
231
Những Yếu Tố Trong Thơ Ca Cựu Ước
Chính bản chất nghệ thuật của văn thơ Cựu ước khiến chúng ta khó định nghĩa súc
tích. Thật ra, văn xuôi và thơ ca không hoàn toàn tách biệt nhau. Trong Cựu Ước sự phân biệt
này không rõ ràng. Có ba yếu tố chính trong thơ ca Cựu Ước:
Tính Súc Tích
Điều này có nghĩa đơn giản là thơ ca sử dụng tối thiểu số lượng từ. Những từ được
chọn cẩn thận để bày tỏ ảnh hưởng và sức mạnh của nó. Văn kể chuyện thường có những câu dài
và mô tả nhưng thơ ca thì thường có những dòng ngắn với chỉ vài từ. Hãy xem Thi. 25:4:
Hỡi Đức Giê-hô-va, xin cho tôi biết các đường lối Ngài,
Và dạy dỗ tôi các nẻo đàng Ngài.
Trong bản Hê-bơ-rơ thì dòng đầu chỉ có ba từ và dòng thứ hai chỉ có hai từ. Văn xuôi
thì có khuynh hướng sử dụng nhiều từ hơn. Đối chiếu tính súc tích của bài thơ Thi. 25:4 với văn
xuôi dài dòng trong Sáng-thế Ký 12:10:
Bấy giờ, trong xứ bị cơn đói kém; sự đói kém ấy lớn, nên Á p-ram xuống xứ Ê -díp-tô
mà kiều ngụ.
Cấu Trúc
1. So sánh.
Một trong những đặc điểm rõ nhất trong thơ ca Cựu ước là đoạn kinh văn được cấu
trúc xung quanh những dòng thơ hơn là quanh những câu và phân đoạn. Dấu chấm dường như
không quan trọng trong thơ ca giống như trong chuyện kể hay trong thư tín Tân Ước. Nhưng
đừng thất vọng, dòng thơ chứa đựng nhiều ý tưởng hơn là câu. Hãy tập đọc từng dòng một thay
vì từng câu một.
Hơn nữa những dòng thường nhóm lại theo đơn vị của hai hay ba. Tức là hai dòng
thơ Cựu Ước được nhóm lại với nhau để diễn đạt một ý tưởng. Hầu hết những câu thơ trong Thi
thiên được cấu trúc theo cách này. Ví dụ hãy cùng xem Thi-thiên 3:1-2:
1.Đức Giê-hô-va ôi! kẻ cừu địch tôi đã thêm nhiều dường bao!
Lắm kẻ dấy lên cùng tôi thay!
2 Biết bao kẻ nói về linh hồn tôi rằng:
Nơi Đức Chúa Trời chẳng có sự cứu rỗi cho nó.
232
Đặc điểm này được gọi là thể song song. Nó là đặc điểm cấu trúc chủ đạo của thơ ca
Cựu Ước. Thông thường một ý tưởng sẽ được diễn đạt bằng hai dòng thơ (mặc dầu thỉnh thoảng
có ba hay bốn dòng để chuyển tải một ý tưởng). Mỗi câu bao gồm hai dòng. Điều này giúp
chúng ta khi đọc vì chúng ta cần giải nghĩa đoạn Kinh thánh này bằng cách đọc từng cấu trúc
song song với nhau. Tức là chúng ta tìm hai dòng chuyển tải cùng một ý tưởng.
Hai dòng song song thường liên hệ với nhau trong một vài cách khác nhau. Để rõ
ràng hơn, chúng tôi gọi dòng đầu là A và dòng thứ hai là B như là ví dụ minh họa.
a. Đồng Nghĩa.
Hình thức này liên quan đến một sự tương đồng giữa những dòng dùng những từ có ý
nghĩa tương đương. Tức là dòng thứ hai lặp lại cùng ý tưởng với dòng thứ nhất dùng cùng thuật
ngữ. Ví dụ, xem Thi-thiên 2:4:
(A) Đấng ngự trên trời sẽ cười,
(B) Chúa sẽ nhạo báng chúng nó.
Để ý rằng: “Đấng ngồi ngự trên trời” trong dòng A song song với “Chúa” trong dòng
B. Tương tự, “cười” trong dòng A song song với “nhạo báng” trong dòng B. Hai dòng này diễn
đạt cùng một điều. Cả hai nên được đọc như là một đơn vị và được giải nghĩa như là một đơn vị.
Thỉnh thoảng, song song đồng nghĩa có thể có đến bốn dòng thơ. Thi-thiên
19:8:
(A) Giềng mối của Đức Giê-hô-va là ngay thẳng,
(B) làm cho lòng vui mừng;
(A’) Điều răn của Đức Giê-hô-va trong sạch,
(B’) làm cho mắt sáng sủa.
Trong câu này dòng “Giềng mối của Đức Giê-hô-va là ngay thẳng” (A) song song,
không phải với dòng tiếp theo (B) mà là với dòng (A’): “Điều răn của Đức Giê-hô-va trong sạch”.
Tương tự, dòng (B): “làm cho lòng vui mừng;” song song với dòng (B’): “làm cho mắt sáng sủa.”
Do đó ý tưởng diễn đạt trong A+B song song đồng nghĩa với A’+B’.
b. Diễn Tiến.
Trong song song diễn tiến, dòng thứ hai phát triển ý tưởng của dòng thứ nhất. Ví dụ:
(A) Ngài không để cho chân ngươi xiêu tó;
(B) Đấng gìn giữ ngươi không hề buồn ngủ. (Thi-thiên 121:3)
233
Dòng B có thể liên quan đến dòng A trong nhiều cách để phát triển nhiều hơn ý tưởng
của A. Ví dụ, A có thể tạo một câu khẳng định còn B nêu ra lý do:
(A) Đáng ngợi khen Đức Giê-hô-va thay,
(B) Vì tại trong thành vững bền Ngài đã tỏ cho tôi sự nhân từ lạ lùng của
Ngài! (Thi-thiên 31:21)
Hoặc A có thể đặt câu hỏi và B trả lời:
(A) Người trẻ tuổi phải làm sao cho đường lối mình được trong sạch?
(B) Phải cẩn thận theo lời Chúa. (Thi-thiên 119:9)
Cả hai quan hệ trên có thể hoán đổi. Lý do có thể đến trước trong dòng A với câu
khẳng định chính đi theo trong dòng B. Tương tự câu hỏi không cần phải bị giới hạn trong dòng
A nhưng có thể xảy ra trong dòng B nữa.
c. Minh Họa
Trong song song minh họa, dòng A chuyển tải ý tưởng và dòng B minh họa nó bằng
một ví dụ hay một biểu tượng.
(A) Hỡi Chúa Giê-hô-va, là sức lực về sự cứu rỗi tôi,
(B) Chúa che chở đầu tôi trong ngày chiến trận.
Trong dòng A Đa-vít gọi Đức Chúa Trời là “sức lực về sự cứu rỗi của ông”. Trong
dòng B ông minh họa điều này đúng như thế nào – Đức Chúa Trời, giống như một mão trụ bảo
vệ đầu của Đa-vít trong chiến trận.
d. Đối lập
Dạng song song này dùng hình thức đối lập, trong đó dòng B đối lập với dòng A”
(A) Vì Đức Giê-hô-va biết đường người công bình,
(B) Song đường kẻ ác rồi bị diệt vong. (Thi-thiên 1:6)
Dạng song song này thường phổ biến trong Châm ngôn. Ví dụ, đọc Châm-ngôn10:12:
(A) Sự ghen ghét xui điều cãi lộn;
(B) Song lòng thương yêu lấp hết các tội phạm
234
e. Khác
Ta gọi dạng này là khác vì nó không thuộc vào những dạng song song thông thường
được liệt kê ở trên. Trong dạng song song này, hai dòng hay hai ngữ chỉ đơn thuần kết hợp với
nhau:
(A) Dầu vậy, ta đã lập Vua ta
(B) Trên Si-ôn là núi thánh ta
Chúng ta liệt kê năm loại song song này để đọc thơ ca Hê-bơ-rơ: đồng nghĩa, diễn
tiến, minh họa, đối lập và khác. Nhưng phải nhớ rằng chúng ta đang dối diện với hình thức thơ
ca. Các thi sĩ không bắt buộc phải đi theo những hình thức hay luật thông thường. Những dạng
song song mà chúng tôi trình bày là những hình thức song song phổ biến nhất. Các thi sĩ Hê-bơ-
rơ rất sáng tạo và họ dùng thể song song trong nhiều hình thức phức tạp, nhiều lúc khó xác định.
2. Thơ Chữ Đầu
Một đặc điểm cấu trúc thú vị khác của thơ ca Cựu ước là cách dùng chữ đầu. Một
hình thức chữ đầu là một bài thơ mà mỗi dòng tiếp theo bắt đầu với từ tiếp theo của bảng chữ cái
Hê-bơ-rơ. Trong trường hợp của tiếng Việt, dòng đầu bắt đầu với “a”, dòng thứ hai bắt đầu với
“ă” và dòng thứ ba với “â)…Nếu chỉ tách riêng chữ đầu của mỗi bài thơ, chúng ta sẽ có bảng chữ
cái.
Có nhiều hình thức thơ chữ đầu trong Cựu Ước: Thi-thiên 25,34,111,112 và 145; Ca
thương 1,2,3,4; Châm-ngôn 31:10-31. Có lẽ thú vị nhất là Thi-thiên 119. Dầu vậy khi dịch sang
tiếng Việt hay ngôn ngữ khác thì dịch giả thường khó theo kịp hình thức chữ đầu này.
Hình Ảnh Bóng
Phương tiện chính mà thi sĩ Cựu ước dùng để chuyển tải ý tưởng là hình ảnh bóng.
Nó không phải là bài văn xuôi, mà là một bức tranh. Những màu sắc mà họ vẽ bức tranh này là
cách ngôn và chơi chữ. Chúng ta không xa lạ với hình thức này.
Thơ ca Cựu Ước dùng nhiều cách ngôn. Ví dụ trong sách Thi thiên, mỗi câu dường
như đều có cách ngôn. Là độc giả, chúng ta không ở trong bối cảnh và thế giới văn chương của
họ. Nếu chúng ta giải nghĩa cách ngôn đó theo nghĩa đen, chúng ta sẽ hiểu sai đoạn kinh văn.
Nếu chúng ta muốn hiểu được tác giả Cựu Ước, chúng ta phải công nhận cách ngôn khi chúng
được dùng và chúng ta cần phải giải nghĩa chúng như là cách ngôn theo nghĩa bóng chứ không
theo nghĩa đen được.
Luôn nhớ rằng đây không phải là cách từ bỏ thực tế văn chương đằng sau cách ngôn.
Một số cách ngôn có thể nhạy cảm và phức tạp. Dầu vậy, chúng ta có thể nhận ra và giải nghĩa
hầu hết cách ngôn. Nhìn chung, cách ngôn trong thơ ca Cựu ước có thể chia thành hai phạm trù:
235
Những hình ảnh liên quan đến so sánh và những hình ảnh liên quan đến thay thế. Trong một vài
cách nói không thật sự nằm trong một hay hai phạm trù nhất định và chúng ta thảo luận chúng
riêng, gọi là phạm trù khác. Cuối cùng chúng ta thảo luận thuật chơi chữ, một phạm trù tương tự
với cách ngôn nhưng có phần khác một chút.
1. Cách ngôn liên quan đến so sánh
Nhiều cách ngôn liên quan đến so sánh giữa hai điều. Có nhiều cách diễn tả sự so
sánh về hình ảnh, đặc biệt trong Cựu Ước. Những phép so sánh phổ biến nhất là phép ví von,
phép ẩn dụ, so sánh gián tiếp, phép ngoa dụ, nhân cách hóa/ thần nhân tương đồng, động vật
hóa.
a. Phép ví von
Cách ngôn này là cách so sánh bằng cách sử dụng những từ “như”, “giống như”… để
diễn tả một điều tương tự với cái khác. Đây là một cách ngôn phổ biến trong thơ ca Cựu Ước.
Một người đàn bà đẹp đẽ mà thiếu dè dặt,
Khác nào một vòng vàng đeo nơi mũi heo (Châm-ngôn 11:22)
Dầu tội các ngươi như hồng điều, sẽ trở nên trắng như tuyết;
dầu đỏ như son, sẽ trở nên trắng như lông chiên.(Ê-sai 1:18)
Đức Chúa Trời ôi! linh hồn tôi mơ ước Chúa,
Như con nai cái thèm khát khe nước.(Thi-thiên 42:1)
b. Phép Ẩn Dụ
Phép ẩn dụ là một sự so sánh giữa hai điều bằng câu khẳng định trực tiếp mà không
dùng từ như hay giống như.
Đức Giê-hô-va là Đấng chăn giữ tôi (Thi-thiên 23:1)
Đức Chúa Trời ở nơi thánh Ngài,
Là Cha kẻ mồ côi, và quan xét của người góa bụa (Thi-thiên 68:5)
Lòng vui mừng vốn một phương thuốc hay;
Còn trí nao sờn làm xương cốt khô héo. (Châm-ngôn. 17:22)
c. So sánh gián tiếp
Đây là là một công cụ văn chương sử dụng sự so sánh mà không nói trực tiếp sự so
sánh đó. Nó sẽ để cho độc giả so sánh mà không cần phải nói rõ so sánh đó. Ví dụ, giả dụ như
236
tác giả muốn so sánh giữa cơn thạnh nộ của Chúa với một cơn bão. Phép ví von sẽ nói rằng:
“Cơn thạnh nộ của Chúa giống như một cơn bão”. Phép ẩn dụ sẽ nói: “Cơn thạnh nộ của Chúa là
một cơn bão”. Nhưng phép so sánh gián tiếp thì không dùng trực tiếp đến sự so sánh và diễn đạt
như thế này: “cơn bão của Đức Giê-hô-va, tức là cơn thạnh nộ của Ngài, đã phát ra, một cơn bão
lớn: nó sẽ phát ra trên đầu kẻ dữ” (Giê-rê-mi 30:23). Xem một số ví dụ khác.
Chúng nó hả miệng ra cùng tôi, Khác nào sư tử hay cắn xé và gầm hét. (Thi-thiên
22:13)
(Nguyên bản: “sư tử cắn xé và gầm thét hả miệng nghịch cùng tôi”)
Từ trên cao Ngài giơ tay ra nắm tôi, Rút tôi ra khỏi nước sâu. (Thi-thiên 18:16)
Sự chân thật Ngài là cái khiên và cái can của ngươi.(Thi-thiên 91:4)
Trong mỗi ví dụ trên, để ý sự khác nhau giữa so sánh gián tiếp và phép ví von hay
phép ẩn dụ. Ví dụ, trong Thi-thiên 22:13 tác giả Thi thiên không nói kẻ thù ông giống như (theo
nguyên bản) sư tử hay cũng không nói kẻ thù là sư tử. Ô ng chỉ nói rằng sư tử cắn xé và gầm thét
hả miệng nghịch cùng ông. Ông đang so sánh giữa kẻ thù và sư tử. Ý nghĩa cũng giống nhau khi
dùng một phép ẩn dụ hay phép ví von nhưng cách so sánh gián tiếp này tạo nên một hình ảnh
mạnh mẽ hơn. Đa-vít muốn tập trung vào ngay hình ảnh mà độc giả đang nghĩ trong đầu và ông
mô tả chỉ hình ảnh đó thôi.
d. Phép ngoa dụ
Phép ngoa dụ được định nghĩa như là một sự khuếch đại có chủ đích để tạo hiệu quả
mạnh hơn. Phép ngoa dụ không phản ánh tính chân thật của người nói.
Các thi sĩ Cựu ước sử dụng phép ngoa dụ rất thường xuyên. Họ chủ ý khuếch đại để
diễn tả cảm xúc sâu sắc. Ví dụ xem những ví dụ sau:
Nước mắt làm đồ ăn tôi ngày và đêm.(Thi-thiên 42:3)
Bấy giờ tôi đánh nát chúng nó ra nhỏ như bụi bị gió thổi đi;
Tôi ném chúng nó ra như bùn ngoài đường.(Thi-thiên 18:42)
Vì vô số tai họa đã vây quanh tôi; (Thi-thiên 40:12).
Trong từng ví dụ, tác giả Thi thiên chủ ý nói quá hay khuếch đại ý của mình để diễn
tả cảm giác sâu sắc mà ông cảm thấy. Ví dụ để giải nghĩa câu Thi-thiên 40:12, tác giả Thi thiên
không phải muốn nói đến một thực tế rằng tai họa quá nhiều đến nỗi ông không đếm hết được.
Nhưng ông đang bị căng thẳng quá mức vì tai họa của ông và ông muốn bày tỏ thái độ của ông
với những tai họa đó. Ô ng không có ý nói là số lượng tai họa lên đến hàng nghìn, hàng tỷ hay
một con số nào đó.
237
e. Nhân cách hóa/thần nhân đồng nhất hóa/thần-động vật đồng nhất hóa
Ba cách ngôn này tương tự nhau và chúng nói về một thực thể để diễn tả về một thực
thể hoàn toàn khác. Nhân cách hóa chỉ về những điểm của con người cho những thực thể phi con
người (nhân cho phi nhân)
Hỡi các cửa, hãy cất đầu lên! (Thi-thiên 24:7)
Hỡi các núi, rừng cũng mọi cây cối trên rừng,
hãy cất tiếng mà hát! (Ê -sai 44:23)
Hỡi các từng trời, hãy nghe; hỡi đất, hãy lắng tai; (Ê-sai 1:2)
Sự khôn ngoan hô lên ngoài đường, Cất tiếng dội ra nơi phố chợ; (Châm-ngôn 1:20)
Thần nhân đồng nhất hóa là một diễn tả về Đức Chúa Trời bằng đặc điểm hay tính
cách của con người (thiên cho nhân). Đức Chúa Trời được mô tả có tay, có chân, có lỗ mũi, có
hơi thở, có tiếng nói và có tai. Ngài bước đi, ngồi, nhìn, nghĩ nói, nhớ, giận, la to, sống trong
cung điện, chuẩn bị bàn tiệc, xức dầu, xây nhà và dựng trại. Ngài có roi, gậy, cây phủ việt, áo,
trại, ngai, bệ chân, vườn nho, cánh đồng, xe, cái khiên và gươm. Ngài được gọi là cha, chồng,
vua, và người chăn. Tất cả những hành động hay đặc điểm của con người này được dùng theo
nghĩa bóng để mô tả Đức Chúa Trời và hành động của Ngài. Hãy cùng xem vài ví dụ sau:
Khi Chúa phán rằng: Các ngươi hãy tìm mặt ta (Thi-thiên 27:8)
Đức Chúa Trời từ trên trời ngó xuống con loài người (Thi-thiên 53:2)
Tiếng Đức Giê-hô-va rất mạnh (Thi-thiên 29:4)
Nơi chúng nó Ngài đã đóng trại cho mặt trời (Thi-thiên. 19:4)
Có phải tất cả những mô tả về Đức Chúa Trời trong ngôn từ của con người đều liên
hệ đến cách ngôn không? Đây là vấn đề giải kinh đem chúng ta đến những lĩnh vực rộng hơn của
thần học. Đức Chúa Trời thật sự giống như gì? Vì chúng ta được tạo dựng nên trong hình ảnh
của Đức Chúa Trời (Sáng-thế Ký 2:27), vậy chúng ta giống với Ngài như thế nào? Rõ ràng, nếu
Đức Chúa Trời là thần thì sự mô tả về Đức Chúa Trời như là “nhìn xuống” hay đề cập đến tay
Ngài là môt cách ngôn (thần nhân đồng nhất hóa). Tuy nhiên, còn về cơn giận, tình yêu, sự nhịn
nhục, lòng thương xót của Đức Chúa Trời thì thế nào? Những điều này có thể được hiểu theo
nghĩa đen chứ không phải là cách ngôn. Chúng ta có thể hiểu những cảm xúc theo cách hiểu của
con người bởi vì chúng ta kinh nghiệm cùng cảm xúc này nhưng điều đó không đồng nghĩa
238
chúng là cách ngôn. Mặt khác, Đức Chúa Trời có tai không? Có lẽ không. Chúng ta nghĩ rằng tất
cả những liên hệ đối con người thể chất về Đức Chúa Trời là theo nghĩa bóng.
Thần - Động vật đồng nhất hóa. Những hình ảnh phi nhân dùng cho Đức Chúa Trời
cũng được sử dụng. Khi hình ảnh động vật được dùng thì đặc điểm này được gọi là thần-động
vật đồng nhất hóa. Hãy xem những ví dụ sau:
Ngài sẽ lấy lông Ngài mà che chở ngươi,
Và dưới cánh Ngài, ngươi sẽ được nương náu mình;(Thi-thiên 91:4)
Đức Giê-hô-va là hòn đá tôi, đồn lũy tôi, Đấng giải cứu tôi;
Đức Chúa Trời là hòn đá tôi, nơi Ngài tôi sẽ nương náu mình;
Ngài cũng là cái khiên tôi, sừng cứu rỗi tôi, và là nơi náu ẩn cao của tôi. (Thi-thiên 18:2)
Dĩ nhiên, đoạn Kinh thánh trong Thi thiên 91:4 không ám chỉ rằng Đức Chúa Trời là
một con chim hay Ngài giống như một con chim theo nghĩa thể chất. Nhưng có một sự tương
đồng trong đoạn Kinh Thánh giữa Đức Chúa Trời và chim – hình ảnh về gà mẹ ấp con mình
trong cánh để bảo vệ và an ủi chúng. Đức Chúa Trời an ủi và bảo vệ dân Ngài tương tự như vậy.
Cũng phải nhớ rằng thần nhân đồng nhất hóa và thần-động vật đồng nhất hóa cũng có
thể là một phép ví von, ẩn dụ hay một sự so sánh gián tiếp. Ví dụ, trong Thi thiên 23:1, Đa-vít
nói: “Đức Giê-hô-va là đấng chăn giữ tôi”. Đây là một ẩn dụ và một phép thần nhân đồng nhất
hóa (chỉ về đặc điểm con người với Đức Chúa Trời). Tương tự, Ê -sai 44:23: “Hỡi các núi, rừng
cũng mọi cây cối trên rừng, hãy cất tiếng mà hát!”, cả hai đều là nhân cách hóa và phép ngoa dụ.
2. Cách ngôn về sự thay thế
a. Nhân-quả
Các thi sĩ Cựu Ước thường dùng hình thức văn chương nhiều màu sắc và đầy cảm
xúc. Ví dụ trong Thi-thiên 51:8, Đa-vít nói rằng: “Hãy cho tôi nghe sự vui vẻ mừng rỡ”. Đây là
hiệu quả. Nguyên nhân, hành động mà Đa-vít đang thật sự kêu cầu, là sự tha thứ tội của ông với
Bát-sê-ba. Nhưng điều ông nói là kết quả của sự tha thứ - sự vui vẻ mừng rỡ. Do đó, Đa-vít đã
dùng cách ngôn, thay thế hiệu quả bằng một nguyên nhân.
Tương tự, Châm-ngôn 19:3 nói rằng: “Con trai ngu muội là tai họa cho cha nó”. Ngữ
“tai họa cho cha nó” là một hậu quả, thay thế cho nguyên nhân được chủ định (những điều mà
con trai ngu muội làm để dẫn đến sự tai họa). Giê-rê-mi 14:17 có cùng cách như vậy. “Mắt ta rơi
lệ đêm ngày chẳng thôi”. Nước mắt của nhà tiên tri là hậu quả. Điều ông đang thật sự nói đến là
sự xâm chiếm sắp đến của dân Ba-by-lôn (nguyên nhân). Thay vì nói rằng, “Quân Ba-by-lôn
đang đến đó là điều đau buồn”, Giê-rê-mi diễn tả hậu quả đầy cảm xúc mà sự xâm chiếm sẽ
giáng trên dân ông: “mắt ta rơi lệ đêm ngày chẳng thôi”.
239
Hình thức này có thể được dùng ngược lại nữa – nguyên nhân có thể được nói đến khi
hiệu quả là chủ định – nhưng cách dùng này không phổ biến.
b. Đại diện
Thông thường các thi sĩ thay thế một phần đại diện của một tổng thể thay cho chính
tổng thể đó. Chúng ta cũng hay dùng thuật này trong tiếng Việt của mình. Ví dụ, chính quyền
Seoul vừa ra thông báo rằng tất cả các công nhân lao động làm việc từ năm năm trở lên tại Hàn
Quốc sẽ được ký hợp đồng thêm năm năm nữa. Thật sự, đây không phải là chính quyền của
thành phố Seoul nhưng là đại diện cho chính phủ Hàn Quốc vì Seoul là thủ đô. Tương tự như vậy,
các thi sĩ Cựu Ước sử dụng những thành phố hay chi phái để đại diện cho toàn quốc theo nghĩa
bóng. Do đó, “Ép-ra-im” (chi phái lớn nhất phía bắc) và “Sa-ma-ri” (thành phố thủ đô) được
dùng để chỉ về vương quốc phía bắc Y-sơ-ra-ên trong khi “Giu-đa” (chi phái chính phía nam) và
Giê-ru-sa-lem (thành phố thủ đô) có thể chỉ về vương quốc phía nam của Giu-đa.
Có nhiều cách ngôn đại diện khác trong Cựu Ước. Thi. 44:6 dùng từ “cung” và
“gươm” để đại diện cho vũ khí nói chung: “Vì tôi chẳng nhờ cậy cung tôi, Thanh gươm tôi cũng
sẽ chẳng cứu tôi đâu”. Thi-thiên 20:7 dùng từ “xe” và “ngựa” để đại diện cho sức mạnh quân sự:
“Kẻ nầy nhờ cậy xe cộ, kẻ khác nhờ cậy ngựa, Nhưng chúng tôi nhờ cậy danh Giê-hô-va, là Đức
Chúa Trời chúng tôi.” Cung, gươm, xe và ngựa thuộc về một nhóm lớn của vũ khí quân đội. Chỉ
nói đến vài vũ khí nhỏ có thể đại điện cho các loại vũ khí nói chung hay sức mạnh quân sự.
“Chân” có thể được dùng để đại diện cho toàn bộ con người (Thi-thiên
40:2;44:18:122:2), đặc biệt trong bối cảnh di chuyển hay đứng vững. “Xương” cũng đại diện cho
toàn thể toàn thân, đau thương trong bối cảnh của sự đau đớn ( Thi-thiên 6:2;31:10; 32:3; 42:10).
Tương tự các thi sĩ dùng “môi” như là hình ảnh thay thế cho lời nói của một người (Thi-thiên
22:2;17:1;31:18;63:3).
3. Những cách ngôn khác
Vì cách ngôn mang tính nghệ thuật nên khó để phân loại chúng vào một phạm trù
nhất định. Dầu hầu hết các cách ngôn rơi vào những phạm trù so sánh hay thay thế lớn, một số
nằm ngoài những phạm trù đó. Hai trong số cách ngôn khác khá phổ biến là hô ngữ và mỉa mai.
a. Hô ngữ.
Tác giả dùng hô ngữ khi họ gọi một người hay thực thể thật sự không hiện diện. Tác
giả dùng thuật này để diễn tả cảm giác mạnh hay nhấn mạnh một điểm đặc biệt nào đó. Hô ngữ
xuất hiện mà không báo trước. Tác giả chợt nhìn thấy một người nghe vắng mặt và nói ngay về
người đó. Hô ngữ cũng thường liên hệ với thuật nhân cách hóa vì các thi sĩ thường gọi những vật
thể vô tri (trời, đất, cửa). Để ý những ví dụ về hô ngữ sau. Ai được nói đến trong từng ví dụ sau?
240
Vì vậy, hỡi các vua, hãy khôn ngoan;
Hỡi các quan xét thế gian, hãy chịu sự dạy dỗ. (Thi-thiên 2:10)
Hỡi kẻ làm ác kia, khá lìa xa ta hết thảy;
Vì Đức Giê-hô-va đã nghe tiếng khóc lóc ta. (Thi-thiên 6:8)
Hỡi các cửa, hãy cất đầu lên!
Hỡi các cửa đời đời, hãy mở cao lên!
Thì Vua vinh hiển sẽ vào. (Thi-thiên 24:7)
Ớ biển, nhân sao ngươi chạy trốn?
Ớ Giô-đanh, vì cớ gì mà ngươi chảy trở lại sau? (Thi-thiên 114:5)
Thỉnh thoảng một trong những thi sĩ gọi chính mình như thể ông cũng đang hiện diện
như là một thực thể riêng. Đây cũng là một loại hô ngữ. Ví dụ:
Hỡi linh hồn ta, khá ngợi khen Đức Giê-hô-va!
Mọi điều gì ở trong ta hãy ca tụng danh thánh của Ngài! (Thi-thiên 103:1)
Hỡi linh hồn ta, vì sao ngươi sờn ngã và bồn chồn trong mình ta? (Thi-thiên 42:5)
b. Mỉa mai
Khi sử dụng hình thức mỉa mai, tác giả nói ngược lại hoàn toàn với ý của ông. Thỉnh
thoảng hình thức mỉa mai cũng được dùng trong sự châm chọc. Thơ ca Cựu Ước thường hay kết
hợp cả mỉa mai và châm chọc. Chú ý Đức Chúa Trời dùng hình thức châm chọc, mỉa mai khi
Ngài thách thức Gióp về sự khôn ngoan thiêng liêng của Ngài.
Lằn mắt ngươi có thấu đến nơi khoan khoát mênh mông của đất chăng?
Nếu ngươi biết các điều đó, hãy nói đi.
Con đường dẫn đến nơi ở của ánh sáng là đâu? Còn nơi của tối tăm thì ở đâu?
Chớ thì ngươi có thế dẫn nó lại vào địa giới nó sao? Có biết các đường lối của nhà nó ở
chăng?
241
Không sai, người biết mà! Vì ngươi đã sanh trước khi ấy, Số ngày ngươi lấy làm nhiều
thay (Gióp 38:18-21)
Cũng để ý trong A-mốt 4:4, Đức Chúa Trời dùng hình thức mỉa mai để nói với dân Y-
sơ-ra-ên “đi đến Bê-tên và phạm tội”. Tương tự, trong Ê -sai 41:22-23, Đức Chúa Trời phán bằng
hình thức mỉa mai về những hình tượng mà dân Y sơ ra ên thờ phượng.
22 Phải, hãy thuật lại đi! Hãy rao cho chúng ta điều sẽ xảy đến! Hãy tỏ ra những điều
đã có lúc trước, cho chúng ta để ý nghiệm sự cuối cùng nó là thế nào, hay là bảo cho
chúng ta biết những sự hầu đến.
23 Hãy rao những việc sẽ xảy đến sau nầy, cho chúng ta biết các ngươi là thần, cũng
hãy xuống phước hoặc xuống họa đi, hầu cho chúng ta cùng nhau xem thấy và lấy làm
lạ. (Ê -sai 41:22-23)
4. Chơi chữ
Nhiều tác giả Hê-bơ-rơ sử dụng hình thức chơi chữ trong Cựu Ước. Họ có thể chơi
chữ trên những ý nghĩa khả dĩ khác nhau của một từ hoặc trên những điều gần tương tự. Nhưng
trong ngôn ngữ Kinh Thánh bằng tiếng Việt thường không dịch những hình thức chơi chữ trong
Cựu Ước. Chúng tôi muốn trình bày vài ví dụ về chơi chữ để giúp cho bạn đánh giá cao tình
nghệ thuật phong phú của văn chương thơ ca Cựu Ước.
Tiên tri Giê-rê-mi dùng thuật chơi chữ xuyên suốt sách của mình khi ông dùng từ
trong tiếng Hê-bơ-rơ shub. Từ này có nghĩa là “chuyển đổi”. Nó có thể có nghĩa là “chuyển đến
một điều gì đó” hay “chuyển ra xa khỏi một điều gì đó”. Do đó, nó có thể được dùng với nghĩa
chuyển đến với Đức Chúa Trời (ăn năn) hay chuyển đi xa khỏi Đức Chúa Trời (sa ngã). Hai
nghĩa của một từ này hoàn toàn trái ngược nhau. Giê-rê-mi không ngần ngại dùng cả hai nghĩa
này. Ô ng dùng từ shub mười một lần từ chỉ Giê-rê-mi 3:1 đến 4:1. Ô ng dùng từ này ba lần trong
một câu (3:22). Trong tiếng Việt nó như thế này:
Hỡi con cái bội nghịch, hãy trở lại!
Ta sẽ chữa sự bội nghịch cho.
Khi tham khảo các sách giải nghĩa từ trong Kinh Thánh của tiếng Hê-bơ-rơ, từ “bội
nghịch” (2 lần), “trở lại” có cùng một nghĩa là shub. Dịch sát theo nghĩa này là:
Hỡi con cái đang trở lại, hãy trở lại,
Ta sẽ chữa lành sự trở lại của các ngươi.
242
Giải Nghĩa Thơ Văn Cựu Ước
Cũng như với bất kỳ đoạn văn nào trong Cựu Ước, giải nghĩa thơ văn cũng phải đặt
vào Hành Trình Giải Kinh. Bạn còn nhớ Hành Trình Giải Kinh không? Chúng ta hãy áp dụng
vào đoạn Thi thiên tiêu biểu cho văn thơ Cựu Ước: Thi-thiên 116:1-4.
Bước 1: Nắm bắt được đoạn Kinh Thánh trong thời xưa. Đoạn Kinh Thánh này có ý nghĩa
gì đối với những độc giả trong thời Kinh Thánh?
Bước đầu tiên là hỏi đoạn Kinh Thánh này có nghĩa gì đối với độc giả thời Kinh
Thánh. Chúng ta bắt đầu bằng cách đọc kỹ phân đoạn Kinh thánh đó. Nhớ lại những điều bạn đã
học trong chương 2-4. Đừng quên đọc kỹ và quan sát. Là một phần của phần quan sát cẩn thận
trong Thi-thiên 116:1-4, nhận ra từng phép so sánh trong phân đoạn Kinh Thánh như chúng ta
đã học trong chương này (đồng nghĩa, diễn tiến, minh họa, đối lập và khác). Gộp những đoạn
song song lại thành những ý tưởng hay hình ảnh và sau đó học phân đoạn này theo từng ý một.
Như đã trình bày ở trên trong chương này, điều này liên quan đến việc đọc hai dòng với một ý
tưởng hơn là chỉ đọc một dòng mà thôi hay đọc một câu mà thôi.
Những câu đầu của Thi-thiên 116 có thể được chia thành những ý căn bản như sau
dựa trên phép song song:
Ý tưởng 1 Tôi yêu mến Đức Giê-hô-va, vì Ngài nghe tiếng tôi, Và lời nài xin của tôi.
Ý tưởng 2 Tôi sẽ cầu khẩn Ngài trọn đời tôi, Bởi vì Ngài có nghiêng tai qua tôi
Ý tưởng 3 Dây sự chết vương vấn tôi, Sự đau đớn âm phủ áp hãm tôi, Tôi gặp sự gian
truân và sự sầu khổ
Ý tưởng 4 Nhưng tôi kêu cầu danh Đức Giê-hô-va, rằng: Đức Giê-hô-va ôi! cầu xin Ngài
giải cứu linh hồn tôi
Tiếp theo, nhận ra từng cách ngôn. Trước hết, cố gắng nhìn thấy hình ảnh. Ví du,
khai phá ý tưởng 2 của Thi-thiên 116 ở trên (“Bởi vì Ngài có nghiêng tai qua tôi”). Người ta sẽ
thường nghiêng đầu hay xoay đầu mình về hướng âm thanh để nghe rõ hơn. Bạn có nhìn thấy tác
giả Thi thiên kêu xin cùng Đức Chúa Trời, Đấng nghiêng tai qua nghe tiếng của tác giả một cách
cẩn thận không? Còn ý tưởng thứ 3 thì sao? Chúng ta nhìn thấy những sợi dây từ trong mồ mả
giăng ra quấn quanh chân của tác giả và kéo ông xuống mồ.
Sau đó, phải bảo đảm bước vào thế giới cảm xúc của hình ảnh đó. Cảm thấy sự an ủi
mà tác giả Thi thiên nhận được khi ông nhìn thấy Đức Chúa Trời nghiêng đầu Ngài lắng nghe
ông. Hãy tưởng tượng đến ác mộng về hình ảnh dây của sự chết. Những sợi dây đó quấn quanh
bạn và kéo bạn xuống một cái mồ tối tăm và rộng lớn. Bạn rơi vào nấm mồ đó và kêu cứu. Sự
243
chết nắm lấy bạn nhưng Đức Chúa Trời lắng nghe lời kêu cầu của bạn và giáng xuống để cứu
bạn.
Khi nhịp tim của bạn trở lại bình thường, hãy cố gắng nhận ra từng cách ngôn dựa
trên những phân loại mà chúng ta vừa học trong chương này (ví von, ẩn dụ, so sánh gián tiếp,
ngoa dụ, nhân cách hóa, thần nhân đồng nhất hóa, thần-động vật đồng nhất hóa, phép thay thế,
đại diện, hô ngữ và mỉa mai). Phải nhớ rằng nhiều cách ngôn rơi vào nhiều hơn một phạm trù.
Nói đến tai của Đức Chúa Trời là một thần nhân đồng nhất hóa. Dầu vậy, hình ảnh Đức Chúa
Trời nghiêng tai của Ngài cũng là một phép thay thế. Hành động nghiêng ta của Đức Chúa Trời
(nguyên nhân) dẫn đến hành động giải cứu của Ngài (kết quả) và chính hành động giải cứu của
Đức Chúa Trời là điều mà tác giả Thi thiên thật sự đang muốn nói đến.
Bây giờ, chúng ta đã sẵn sàng tóm tắt ý nghĩa của đoạn Kinh Thánh cho độc giả thời
Kinh Thánh. Hãy nhớ những cách ngôn này là những cách ngôn cho độc giả cổ nữa. Đừng cố
gắng giải thích những hình ảnh đó theo nghĩa đen cho họ mà theo nghĩa bóng cho chúng ta. Tác
giả Thi thiên 116 không bị kéo xuống mồ mả bằng dây theo nghĩa đen. Chúng ta cùng tóm tắt ý
nghĩa của Thi-thiên 116:1-4 cho độc giả thời Kinh Thánh như sau:
Tác giả đang đối diện một tình huống khó khăn, nguy kịch và nan giải. Có lẽ ông đang ở
gần sự chết. Ông kêu gào cũng Đức Chúa Trời là đấng lắng nghe ông và giải cứu ông khỏi
hoàn cảnh đó. Bởi đó, ông bày tỏ tình yêu của ông đối với Đức Chúa Trời.
Bước 2: Đo được chiều rộng của dòng sông. Có những sự khác biệt nào giữa độc giả thời
Kinh Thánh với chúng ta?
Dĩ nhiên, một trong những khác biệt căn bản phải luôn nhớ khi băng qua dòng sông
từ Cựu Ước là chúng ta, tín hữu thời Tân Ước đang ở dưới một giao ước khác. Dầu sự khác biệt
này không quá quan trọng với chúng ta khi giải nghĩa Thi thiên 116, nhưng yếu tố này phải luôn
nhớ. Có sự khác biệt gì tại đây? Chúng ta có lẽ không ở trong một hoàn cảnh khó khăn hay kinh
sợ như tác giả Thi thiên đã có. Chúng ta có thể không đối diện với sự chết nguy ngập.
Một sự khác biệt quan trọng khác là Cựu Ước tập trung vào một quan niệm về sự chết
khác với quan niệm về sự chết trong Tân Ước. Dường như không có quan niệm về đời sau (sự
phục sinh và trời) trong Cựu Ước. Giáo lý về sự chết trong Cựu Ước rất mơ hồ và cạn cợt. Sự
bảo đảm sự sống đời đời chỉ có sau sự sống, sự chết và sự phục sinh của Chúa Giê-xu.
Bước 3: Vượt qua cây cầu nguyên tắc. Có những nguyên tắc thần học nào trong đoạn Kinh
Thánh này?
Một nguyên tắc thần học có thể được tìm thấy trong Thi-thiên 116:1-4 là dân của Đức
Chúa Trời phải bày tỏ tình yêu của mình với Đức Chúa Trời khi Ngài nghe họ và giải cứu họ
khỏi những hoàn cảnh kinh sợ và khó khăn giống như là sự chết.
244
Bước 4: Chuyển vào Tân Ước. Lời dạy trong Tân Ước có bổ sung hay thỏa mãn nguyên tắc
này không và nếu có thì như thế nào?
Nguyên tắc này được tái khẳng định trong Tân Ước rằng chúng ta cần bày tỏ tình yêu
của mình với Đức Chúa Trời vì Ngài đã lắng nghe và giải cứu chúng ta khỏi những hoàn cảnh
khó khăn. Hơn nữa, Tân Ước nói nhiều về sự giải cứu chúng ta khỏi sự chết (và tội lỗi). I Cô-
rinh-tô 15 nói nhiều về cách Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta đắc thắng sự chết qua Chúa
Giê-xu. Chúng ta cũng được hứa sự phục sinh và sự sống đời đời. Những người không có Đấng
Christ đang trừng trừng nhìn sự chết và “dây của mồ mả” thật sự kéo họ vào. Chúng ta cũng có
những từng trãi này trước khi chúng ta đến với Đấng Christ nhưng Đức Chúa Trời đã lắng nghe
lời kêu cầu của chúng ta và giải cứu chúng ta.
Dầu vậy, để ý rằng cả Tân Ước và Cựu Ước đều không dạy rằng Đức Chúa Trời luôn
luôn can thiệp để cứu chúng ta khỏi mọi hoàn cảnh khó khăn thể chất. Dân sự của Đức Chúa
Trời cũng chịu đau khổ và chịu chết về thể xác trong suốt Kinh Thánh. Cơ Đốc Nhân vẫn bị ung
thư và chết. Tai nạn giao thông vẫn xảy ra. Nhưng đối với Cơ Đốc Nhân sự chết không bao giờ
thật sự có thể chiến thắng chúng ta. Dây của sự chết không bao giờ có thể kéo chúng ta xuống
mồ mả. Đấng Christ đã đánh bại quyền lực của sự chết và Ngài đã ban cho chúng ta sự đắc thắng
trên sự chết.
Bước 5: Nắm bắt được phân đoạn Kinh Thánh trong thời của chúng ta. Từng Cơ Đốc
Nhân ngày nay áp dụng nguyên tắc thần học đó trong đời sống của mình như thế nào?
Có nhiều áp dụng khác nhau tùy thuộc vào từng hoàn cảnh của mỗi người. Đối với
những Cơ Đốc Nhân đang thật sự đối diện với sự chết, đoạn Kinh Thánh này cho họ sự bảo đảm
rằng Đức Chúa Trời sẽ giải cứu họ khỏi quyền lực của sự chết qua sự phục sinh và sự sống đời
đời. Những Cơ Đốc Nhân như vậy bày tỏ tình yêu của mình với Đức Chúa Trời vì Ngài đã cứu
họ khỏi sự chết đời đời. Chúng ta cũng nhớ lại những lần Ngài đã đáp lời và giải cứu chúng ta
khỏi những tình huống bi đát khác. Chúng ta cũng bày tỏ tình yêu của chúng ta với Ngài vì Ngài
đã lắng nghe chúng ta và giải cứu chúng ta khỏi những tình huống đó.
Những Khía Cạnh Độc Đáo Của Thi Thiên
Thơ ca thường được dùng trong văn chương tiên tri, văn chương khôn ngoan và trong
Thi thiên. Văn chương tiên tri và khôn ngoan sẽ được thảo luận trong hai chương sau. Chúng
phản ảnh những dạng thể loại rất riêng và đòi hỏi hướng giải kinh riêng. Những hướng này sẽ
được thảo luận tại đây. Tương tự, Thi thiên cũng rất độc đáo và giải nghĩa chúng phải đòi hỏi
những khía cạnh đặc biệt mà chúng ta sẽ cùng thảo luận tại đây.
Trước hết chúng ta phải công nhận rằng chức năng chính của Thi thiên không phải là
dạy về giáo lý hay cách hành xử đạo đức. Chúng tôi nghiêm túc cảnh báo bạn rằng đừng bao giờ
245
giải nghĩa Thi thiên theo như cách bạn giải nghĩa sách Rô-ma, tập trung vào giáo lý và cách sống.
Dĩ nhiên có những yếu tố giáo lý trong Thi thiên và những yếu tố nói về cách hành xử đạo đức
(Thi-thiên 1), nhưng đó không phải là điểm chính được chủ định tại đây.
Chức năng của Thi thiên là giúp chúng ta những kiểu mẫu về cách chúng ta thưa
chuyện và hát ca ngợi Đức Chúa Trời một cách thiêng liêng. Hơn nữa, Thi thiên cung cấp cho
chúng ta những kiểu mẫu về cách chúng ta suy gẫm về Đức Chúa Trời, tức là cách suy nghĩ và
phản ánh về Đức Chúa Trời và những điều Ngài đã làm cho chúng ta. Sự tương giao hai chiều
này trong Thi thiên giữa con người với Đức Chúa Trời có thể xảy ra trong nhiều bối cảnh khác
nhau, phản ảnh sự phong phú trong kinh nghiệm sống mà con người đối diện và gặp gỡ Đức
Chúa Trời. Có ba bối cảnh sống chính của con người trong Thi thiên: (1) những kỳ thịnh vượng
với lòng biết ơn về phước hạnh tuôn tràn, (2) kỳ đau khổ, xa lánh, và chết chóc, và (3) kỳ ngạc
nhiên khi chúng ta được tuôn tràn với những ân điển mới từ nơi Chúa, khi niềm vui được bùng
phát trong tuyệt vọng.
Do đó, chúng ta thấy rằng mặc dầu Thi Thiên là Lời của Đức Chúa Trời cho chúng ta
nhưng nó không trình bày những hướng dẫn về giáo lý mà nó trình bày những gương mẫu về
cách tương giao với những cảm xúc và nhu cầu sâu xa nhất với Đức Chúa Trời. Ví dụ, khi chúng
ta gặp đau khổ và tuyệt vọng, chúng ta kêu gào cùng Đức Chúa Trời. Bài học ở đây không phải
là chúng ta cũng phải kêu gào trong tuyệt vọng giống như họ. Nhưng bài học là khi chúng ta thấy
mình đang ở trong sự tuyệt vọng, điều chúng ta cần làm là kêu gào cùng Chúa trong sự đau khổ
như tác giả Thi thiên đã làm. Khi chúng ta làm như vậy, chúng ta có thể bắt đầu kinh nghiệm sự
an ủi và dĩ nhiên được Ngài nâng đỡ mình lên từ nơi vũng bùn nhớp nhúa (Thi-thiên 40:2).
Thành thật với Đức Chúa Trời là bài học chúng ta có thể học được trong các Thi thiên.
Tác giả Thi thiên thưa với Đức Chúa Trời chính xác cảm xúc của họ. Những cảm xúc đó thường
không có vẻ thiêng liêng và trưởng thành. Cơ Đốc Nhân ngày nay có khuynh hướng kiềm nén
cảm xúc của mình và không bày tỏ tự do với Đức Chúa Trời nên không kinh nghiệm được sự đổ
đầy của Đức Chúa Trời. Cơ Đốc Nhân cần phải dốc đổ mình trước mặt Đức Chúa Trời. Thi thiên
lên án hình ảnh sai trật về tính cách của Cơ Đốc Nhân và giúp cho chúng ta những gương mẫu
tuyệt với về sự tương giao chân thành với Đức Chúa Trời, đầy tràn cảm xúc dù trong lúc tốt hay
xấu, vui hay buồn.
Tóm lại, Thi thiên giúp đời sống Cơ Đốc của chúng ta trong nhiều phương diện.
Trước hết, Thi thiên hướng dẫn chúng ta cách thức thờ phượng một cách nghiêm túc. Tiếp theo,
Thi thiên giúp chúng ta tương giao với Đức Chúa Trời một cách thành thật. Cuối cùng, Thi thiên
dẫn chúng ta vào trong sự suy gẫm và phản ánh về những điều Đức Chúa Trời đã làm cho chúng
ta.
246
Kết Luận
Một điều chúng ta biết chắc về Đức Chúa Trời là Ngài không bao giờ nhàm chán.
Ngài quyết định chuyển tải lời của Ngài cho chúng ta thông qua những hình thức văn chương thú
vị. Thật vậy, văn thơ là một trong những thể loại văn chương sống động và đụng chạm nhất. Đức
Chúa Trời muốn kết nối với tâm trí của chúng ta nhưng Ngài cũng muốn kết nối với tấm lòng
của chúng ta (Thi-thiên 103:1). Do đó, chúng ta phải đọc Thi thiên khác với cách chúng ta đọc
các thư tín Tân Ước. Chúng ta đang nhìn những tuyệt tác nghệ thuật thay vì khoa học. Nhấn
mạnh của các thi sĩ là về ảnh hưởng cảm xúc mà thơ ca tác động đến đời sống của độc giả. Thơ
ca mang tính súc tích và cấp độ cấu trúc cao (thể song song) và hình ảnh biểu tượng.
Nhận ra những yếu tố này giúp chúng ta trân trọng và giải nghĩa những sứ điệp quyền
năng mà thơ ca Cựu Ước đem đến. Hơn nữa, để hiểu được những lời này trọn vẹn, chúng ta phải
bước vào Hành Trình Giải Kinh, bắt đầu với thế giới của họ và băng qua dòng sông cách biệt
trên cây cầu nguyên tắc. Cuối cùng, chúng ta phải mở lòng của mình với sứ điệp và để sứ điệp đó
biến đổi chúng ta và thay đổi chúng ta để chúng ta trở nên giống như hình ảnh của Đấng Christ.
Bài Tập
1. Đọc Thi thiên 20 và tìm ra những đặc điểm song song.
2. Đọc Thi thiên 102:1-14 và tìm ra những cách ngôn.
3. Á p dụng Thi thiên 1 vào Hành Trình Giải Kinh.
Đọc qua Thi thiên 1 nhiều lần và tìm cũng như đánh dấu càng nhiều quan sát càng tốt.
Mô tả và định nghĩa từ cách ngôn trong từng câu.
Đặt Thi thiên 1 vào Hành Trình Giải Kinh.
247
Chương 20
Cựu Ước – Tiên Tri
Lời Giới Thiệu
Các sách Tiên tri! Một tập hợp thú vị và tuyệt vời. Các sách tiên tri trong Cựu Ước
chứa đựng những đoạn đầy linh cảm trong Kinh Thánh. Sách Ê -sai là một ví dụ. Nhớ lại Ê -sai
40:31:
Nhưng ai trông đợi Đức Giê-hô-va thì chắc được sức mới, cất cánh bay cao như chim ưng;
chạy mà không mệt nhọc, đi mà không mòn mỏi.
Cơ Đốc Nhân yêu thích câu Kinh Thánh này. Nó không đưa linh hồn của bạn lên cao
sao? Hãy xem lẽ thật sâu sắc trong Ê-sai 53:6 về Chúa Giê-xu Christ và chúng ta:
Chúng ta thảy đều như chiên đi lạc, ai theo đường nấy; Đức Giê-hô-va đã làm cho tội lỗi
của hết thảy chúng ta đều chất trên người.
Chúng ta cũng tiếp tục trích những đoạn Kinh Thánh trong các sách tiên tri. Tuy
nhiên, các sách tiên tri cũng chứa nhiều câu khó hiểu và bất thường. Ví dụ trong A-mốt 3:12:
Đức Giê-hô-va phán như vầy: Như kẻ chăn chiên chỉ gỡ được hai giò hay một tai ra khỏi
họng sư tử, thì những con cái Y-sơ-ra-ên, là những kẻ ngồi tại Sa-ma-ri nơi góc giường
và trên thảm của Đa-mách, cũng sẽ được cứu cách như vậy.
Một số đoạn dường như xúc phạm nặng nề đến độc giả giống như trong Giê-rê-mi. 2:23b-24:
Hãy xem đường ngươi trong nơi trũng; nhận biết điều ngươi đã làm, như lạc đà một gu
lanh lẹ và buông tuồng, như lừa cái rừng, quen nơi đồng vắng, động tình dục mà hút gió.
Trong cơn nóng nảy, ai hay xây trở nó được ư? Những kẻ tìm nó không cần mệt nhọc,
đến trong tháng nó thì sẽ tìm được.
Và một vài phân đoạn mạnh mẽ về sự phán xét được thể hiện trong Giê-rê-mi 15:1-2:
Đức Giê-hô-va bèn phán cùng tôi rằng: Dầu Môi-se và Sa-mu-ên đứng trước mặt ta,
nhưng lòng ta cũng chẳng hướng về dân nầy. Hãy đuổi chúng nó khỏi trước mặt ta, cho
chúng nó đi ra. Sẽ xảy ra khi chúng nó khỏi ngươi rằng: Chúng tôi sẽ đi đâu? thì hãy bảo
chúng nó rằng: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Ai đã được định cho chết, hãy chịu chết; ai
đã được định cho phải gươm dao, hãy chịu gươm dao; ai đã được định cho phải đói kém,
hãy chịu đói kém; ai đã được định cho sự phu tù, hãy chịu phu tù.
Một số đoạn trong sách tiên tri Cựu Ước dễ hiểu và tuyệt vời nhưng cũng có những
đoạn thật sự khó và rắc rối. Trong chương này chúng tôi sẽ giúp cho bạn biết cách để giải nghĩa
phần tuyệt vời này của Cựu Ước. Trước hết chúng ta sẽ thảo luận về bản chất của văn chương
248
tiên tri Cựu Ước. Tiếp theo, chúng ta sẽ khai phá những bối cảnh thần học và lịch sử quan trọng
qua đó các tiên tri đã viết. Qua những bối cảnh này, chúng ta sẽ thảo luận sứ điệp chung của các
sách tiên tri để xác định chính xác chúng đang muốn nói với những người ở thời đó điều gì. Một
khi chúng ta hiểu được ý nghĩa của đoạn Kinh Thánh đó cho độc giả thời Kinh Thánh, chúng ta
sẽ sẵn sàng hoàn tất Hành Trình Giải Kinh và bắt đầu giải nghĩa và áp dụng những phân đoạn
tiên tri riêng. Chúng tôi cũng sẽ tóm tắt chương nói với một phần thảo luật tóm tắt và kếu thúc
với vào bài tập.
Bản Chất Của Văn Chương Tiên Tri Cựu Ước
Các sách tiên tri được chia làm bốn đại tiên tri (Ê -sai, Giê-rê-mi, Ê -xê-chi-ên và Đa-
ni-ên) và mười hai tiểu tiên tri (Ô -sê, Giô-ên, A-mốt, Á p-đia, Giô-na, Mi-chê, Na-hum, Ha-ba-
cúc, Sô-phô-ni, A-ghê, Xa-cha-ri và Ma-la-chi). Gọi là đại và tiểu không phải theo tầm quan
trọng của nó mà là theo độ dài của nó. Bốn sách tiên tri đầu tiên dài hơn mười hai sách sau.
Số lượng các văn chương tiên tri chiếm khá lớn trong nửa sau của Cựu ước. Thực ra,
các sách tiên tri chiếm nhiều không gian trong Kinh Thánh bằng cả Tân Ước. Rõ ràng chúng
mang một lượng sứ điệp lớn của Đức Chúa Trời cho chúng ta.
Trong số các thể loại trong Kinh Thánh thì văn chương tiên tri là khó hiểu nhất. Tại
sao? Lý do chính có lẽ chúng liên hệ đến những điều mà chúng ta không quen lắm trong tiếng
Việt của mình. Chúng ta quen với chuyện kể vì chúng ta đọc nó suốt. Chúng ta quen với Thi
thiên vì chúng ta biết những bài hát và bản nhạc. Những thư tín trong Tân Ước cũng quen thuộc
với những độc giả hiện đại như chúng ta. Do đó, chúng ta cảm thấy thỏa mái khi đọc những thể
loại này. Nhưng thể loại tiên tri thì dường như xa lạ.
Dầu vậy, trong văn chương của ngôn ngữ chúng ta và văn hóa của chúng ta cũng có
một chút tương đồng với thể loại văn chương tiên tri Cựu ước. Thế giới của các tiên tri có thể xa
lạ. Nhưng dầu chúng ta không quen với thể loại văn chương này nhưng chúng ta cũng có thể học
cách để nhận ra những yếu tố của thể loại tiên tri và chúng ta có thể học những nguyên tắc giải
kinh cho thể loại này. Hơn nữa, như chúng tôi đề cập bên dưới, có lẽ có một gợi ý về sự tương
đồng thể loại giữa tiên tri Cựu Ước và một vài thể loại trong âm nhạc của chúng ta. Vì vậy,
chúng ta hãy bắt đầu!
Các sách tiên tri bao gồm chính yếu nhiều sứ điệp nói và giảng ngắn, thường do các
tiên tri công bố hoặc là cho quốc gia Y-sơ-ra-ên hoặc là cho quốc gia Giu-đa. Chúng cũng bao
gồm những khải tượng từ Đức Chúa Trời cũng như những phần kể chuyện ngắn và những hành
động biểu tượng.
Chỉ có phần nhỏ trong các lời tiên tri Cựu Ước liên quan đến những sự kiện về
tương lai cho chúng ta. Điều này có lẽ làm cho bạn ngạc nhiên. Nhiều người tưởng rằng từ tiên
tri chỉ nói về những sự kiện của thời kỳ cuối cùng và những nhà tiên tri chỉ nói chủ yếu về tiên
báo về thời kỳ cuối cùng. Thật ra ít hơn hai phần trăm của lời tiên tri Cựu Ước nói về Đấng Mê-
249
si-a. Ít hơn năm phần trăm đặc biệt mô tả về thời kỳ giao ước mới. Ít hơn một phần trăm liên
quan đến những sự kiện chưa xảy đến trong thời của chúng ta. Phần lớn nội dung của các sách
tiên tri nói về sự bất tuân của dân Y-sơ-ra-ên và/ hoặc dân Giu-đa và về sự đoán phạt chắc sẽ xảy
ra. Vai trò của nhà tiên tri là công bố về sự bất tuân này và sự đoán xét tức thì cũng như tiên báo
về những điều sẽ xảy đến trong tương lai xa hơn.
Các tiên tri sử dụng phần nhiều thơ ca trong sứ điệp của mình và nó mang sắc thái
thơ ca nên có phần xa lạ với chúng ta. Trong chương 19, chúng ta đã học về thơ ca Hê-bơ-rơ.
Hãy nhớ áp dụng những bài học đó cho những phần thơ ca trong các sách tiên tri nữa. Một đặc
điểm trọng tâm của thơ ca Hê-bơ-rơ là sử dùng cách ngôn một cách rộng rãi. Những cách ngôn
này là vũ khí chính để bắn hạ các sách tiên tri. Những ngôn ngữ đó khiến cho các sách tiên tri
thêm sặc sỡ và thú vị.
A-mốt không đơn giản nói: “Đức Chúa Trời giận dữ”. Nhưng ông nói: “sư tử đang gầm”.
Ê-sai không đối lập sự xấu xí của tội lỗi với sự tuyệt diệu của sự tha thứ, nhưng ông dùng
ngôn ngữ tượng hình để công bố rằng: “Dầu tội các ngươi đỏ như hồng điều sẽ trở nên
trắng như tuyết dầu đỏ như son cũng trở nên trắng như lông chiên”.
Giê-rê-mi thất vọng với thái độ bất trung của dân Giu-đa với Đức Chúa Trời và muốn
chuyển tải nỗi đau mà Ngài đang chịu vì dân Giu-đa lìa bỏ Ngài để thờ hình tượng. Do đó,
xuyên suốt sách của ông, ông so sánh dân Giu-đa với một người vợ bất trung, người đã
trở thành người đàn bà tà dâm. “Người đã sống như một người đàn bầ tà dâm với nhiều
tình nhân”. Ông đang nói về sự thờ hình tượng của dân Giu-đa.
Hãy nhớ rằng sứ mạng của thơ ca nằm trong khả năng tác dụng đến cảm xúc của độc
giả và thính giả. Chắc chắn văn chương tiên tri là văn chương xúc cảm nhất trong Kinh Thánh.
Các tiên tri bày tỏ tình yêu sâu đậm của Chúa với dân Ngài và nỗi đau mà Ngài chịu vì họ khước
từ Ngài. Tuy nhiên, các tiên tri cũng thẳng thắn mô tả sự đoán xét kinh khiếp sắp đến (xâm lược
của dân A-sy-ri và Ba-by-lôn). Họ đối diện với sự chống đối và ghen ghét của xã hội, đặc biệt là
vua và những thầy tế lễ mất chất.
Một đặc điểm quan trọng của các sách tiên tri là các sách này chính yếu là những bộ
sưu tầm. Các sách này tập trung những đơn vị nhỏ hơn, thường là những sứ điệp nói mà các tiên
tri công bố giữa công chúng Y-sơ-ra-ên hoặc Giu-đa. Những đơn vị văn chương khác như
chuyện kể, khải tượng thường được trộn lẫn với nhau.
Bản chất sưu tầm của các sách này cũng chứa nhiều điều quan trọng. Giống như
những sưu tầm về thơ ca của một tác giả hiện đại, các sách tiên tri bao gồm những đơn vị độc lập
và ngắn hơn. Những đơn vị này thường không được sắp xếp theo thời gian và thường không
được sắp xếp theo thứ tự chủ đề (đặc biệt sách Giê-rê-mi). Thông thường một chủ đề lớn, bao
quát (sự đoán xét và giải cứu) gắn kết những phần lớn lại với nhau nhưng đối với một số phần thì
đơn vị chủ đề cũng không có nữa.
250
Vì đặc điểm sưu tầm này, hầu hết các sách tiên tri dường như không thể tìm ra dàn
bài thích hợp được. Ngược lại chúng ta có thể lập dàn bài cho các thư tín Tân Ước và hiểu được
từng sách theo dàn bài. Ngay cả những chuyện kể của Kinh Thánh cũng có thể lập dàn bài được.
Thông thường dàn bài của các sách tiên tri thường không tác dụng. Là những sưu tầm, chúng tập
trung vào vài chủ đề chính mà chúng lặp lại nhiều lần. Do đó cũng có nhiều sự lặp lại.
Nhưng đừng thất vọng, không thể lập được dàn bài sứ điệp của các sách tiên tri
không có nghĩa là chúng ta không hiểu được sứ điệp của chúng. Những sưu tầm có thể rõ ràng
trong việc chuyển tải sứ điệp của nó. Ví dụ, trong khi chúng ta không thể lập dàn bài sách Giê-
rê-mi được nhưng sứ điệp xuyên suốt rất rõ ràng. Cũng không phải vì thể loại hay hình thức văn
chương của các sách tiên tri không quen thuộc với chúng ta không có nghĩa là chúng ta không
thể cảm nhận được cảm xúc của đoạn Kinh thánh đó hay nắm được điều Đức Chúa Trời đang
phán qua các sách tiên tri. Tuy nhiên, chúng ta không thể học được văn chương tiên tri Cựu Ước
cùng một cách chúng ta học đoạn văn chương hiện đại.
Bối Cảnh Lịch Sử-Văn Hóa và Thần Học
Trong chương sáu và bảy chúng ta đã học về tầm quan trọng của bối cảnh lịch sử-
văn hóa và văn chương trong việc giải kinh. Vì văn chương tiên tri Cựu ước là độc đáo nên cố
gắng giải nghĩa nó bên ngoài bối cảnh là điều sai lầm. Trước hết chúng ta phải nhận ra bối cảnh
lịch sử-văn hóa mà các tiên tri đã giảng. Để làm được điều này, chúng ta phải ôn lại lịch sử dân
Y-sơ-ra-ên và đặt các sách tiên tri vào thời kỳ thích hợp của họ trong câu chuyện Kinh Thánh.
Một câu chuyện liên tục chạy từ Sáng Thế Ký 12 đến II Các vua 25. Trong Sáng Thế
Ký Đức Chúa Trời kêu gọi Á p-ra-ham và hứa ban cho ông hậu tự, đất đai và phước hạnh. Lời
hứa này được lặp lại cho con trai của Á p-ra-ham là Y-sác và con trai của Y-sác là Gia-cốp, rồi
đến lượt mười hai con trai. Một trong những con trai này là Giô-sép, người bị các anh mình bán
sang Ai-cập làm nô lệ. Ô ng bị đem xuống Ai-cập và sau đó gia đình ông cũng theo xuống và họ
sống ở đất Ai-cập. Sách Sáng Thế Ký kết thúc với gia đình đặc biệt này tại nước Ai-cập.
Trong vòng một thời gian bốn trăm năm, người Do Thái phải bị bắt làm tôi mọi cho
người Ai-cập. Đức Chúa Trời đến với họ và dấy Môi-se lên để giải phóng họ một cách thần kỳ ra
khỏi nước Ai-cập (sách Xuất Ê -díp-tô Ký). Sau đó, Đức Chúa Trời lập giao ước với họ, phán
rằng: “Ta sẽ làm Đức Chúa Trời của các ngươi và các ngươi sẽ làm dân ta. Ta sẽ ngự giữa các
ngươi”. Đức Chúa Trời ban cho họ nhiều loại luật pháp khác nhau trong Xuất Ê -díp-tô Ký, Lê-vi
Ký và Dân số Ký. Những luật này là những nguyên tắc mà họ phải tuân thủ khi vào Đất Hứa, nơi
có Đức Chúa Trời ở giữa họ và được Ngài ban phước trong vùng đất đó.
Tuy nhiên, thế hệ thứ nhất không chịu vào đất hứa nên Đức Chúa Trời để cho họ
chết trong sa mạc. Sau đó Ngài dấy thế hệ thứ hai và dẫn vào đất hứa. Ngài tái lập mối quan hệ
giao ước với họ. Giống như trước đây, những nguyên tắc của giao ước qui ước cho họ cách sống
trong đất mà có Đức Chúa Trời ngự giữa. Mối quan hệ này được ghi lại trong sách Phục truyền
251
luật lệ Ký. Sách này chỉ rõ cho dân sự rằng nếu họ vâng theo Đức Chúa Trời và giữ luật pháp thì
họ sẽ được phước. Ngược lại, nếu họ bất tuân luật pháp và lìa xa Đức Chúa Trời, họ sẽ bị hình
phạt và nếu họ không ăn năn, họ sẽ mất đất hứa.
Phần còn lại của câu chuyện cho đến II Các vua liên quan đến vấn đề là dân Y-sơ-ra-
ên có tiếp tục giữ giao ước của Chúa hay không. Trong sách Giô-suê, dân sự tiếp tục trung thành
với Chúa. Nhưng trong Các Quan Xét, họ xây khỏi Ngài và phạm tội thờ hình tượng. Sách Ru-tơ
giới thiệu về Đa-vít, người sẽ là nhân vật chủ đạo trong I&II Sa-mu-ên. Đa-vít trung tín với Đức
Chúa Trời và ông đem quốc gia mình trở về vâng phục giao ước. Tuy nhiên, ngay cả Đa-vít cũng
không thể trung tín trọn vẹn với Đức Chúa Trời khi ông phạm tội với Bát-sê-ba. Con trai Đa-vít
là Sa-lô-môn có thể trung tín với Đức Chúa Trời của cha mình trong một thời gian nhưng sau đó
ông sớm thờ hình tượng và làm gương xấu cho những vị vua tiếp theo và cả dân sự nữa.
Sách I& II Các Vua kể câu chuyện như thế nào hai quốc gia của người Do Thái, Y-
sơ-ra-ên và Giu-đa, tiếp tục xây khỏi Đức Chúa Trời và thờ thần tượng của những dân tộc lân
bang. Trên hết, Đức Chúa Trời đoán phạt họ và họ mất quyền sống trong Đất Hứa. Vương quốc
phía bắc, Y-sơ-ra-ên, thờ thần tượng rất sớm và bị người A-sy-ri hủy diệt (năm 722 TC). Sau đó,
vương quốc phía nam, Giu-đa cũng xây khỏi Chúa và bị dân Ba-by-lôn hủy diệt (năm 586 TC.).
Sách II Các Vua kết thúc với sự sụp đổ của thành Giê-ru-sa-lem và lưu đày của dân cư vương
quốc phía nam đến Ba-by-lôn.
Các tiên tri giảng chính trong bối cảnh của phần sau của câu chuyện này. Khi dân sự
từ bỏ Chúa và quên giao ước họ đã lập với Ngài trong Xuất Ê -díp-tô và Phục truyền, các tiên tri
được dấy lên làm người phát ngôn của Đức Chúa Trời để kêu gọi dân sự trở về vâng phục giao
ước. Do đó, theo bối cảnh lịch sử này, hầu hết các tiên tri giảng trong một trong hai bối cảnh:
ngay trước khi dân A-sy-ri xâm chiếm và hủy phá vương quốc phía bắc, Y-sơ-ra-ên; hoặc là
ngay trước khi dân Ba-by-lôn xâm lược và hủy diệt vương quốc phía nam, Giu-đa.
Những bối cảnh này đặc biệt quan trọng để hiểu được các sách tiên tri. Chúng ta
phải giữ những bối cảnh này luôn ở trước mặt mình khi đọc và giải nghĩa văn chương tiên tri
Cựu Ước. Theo thần học, các tiên tri công bố sứ điệp của họ từ bối cảnh giao ước Môi-se, được
mô tả chính trong Phục truyền. Họ cảnh báo dân sự phải ăn năn, từ bỏ thần tượng và quay về với
giao ước mà họ đã lập trong Phục truyền. Họ cảnh cáo dân Y-sơ-ra-ên về những hình phạt kinh
khiếp mà Đức Chúa Trời đã nói đến trong Phục truyền. Hình phạt kinh khiếp nhất mà họ công bố
trong sự đau đớn, ấy là họ đánh mất sự hiện diện của Đức Chúa Trời và mất Đất Hứa.
Sứ Điệp Tiên Tri Căn Bản
Chúng ta vừa thấy các sách tiên tri được viết trong bối cảnh thần học của sách Phục
truyền và trong bối cảnh lịch sử của sự xâm lăng của hoặc là người A-sy-ri (chống lại dân Y-sơ-
ra-ên) hoặc là người Ba-by-lôn (chống lại dân Giu-đa). Sứ điệp của họ trong bối cảnh này là gì?
252
Các tiên tri phục vụ Đức Chúa Trời như là người thừa sai của Chúa. Họ đứng trước
mặt Chúa, lên án và cảnh cáo dân sự về hậu quả của việc từ bỏ giao ước. Trong khi có nhiều sắc
thái và điểm phụ khác trong các lời công bố, sứ điệp tổng thể của họ có thể được tóm trong ba
điểm căn bản:
1. Các ngươi đã vi phạm giao ước; các ngươi phải ăn năn.
2. Không ăn năn, sẽ bị đoán phạt
3. Nhưng, có hi vọng vượt trên sự đoán phạt cho một sự phục hồi tương lai vinh hiển.
1. Dưới điểm 1
Các tiên tri nhấn mạnh đến mức độ nghiêm trọng của sự vi phạm giao ước của đất
nước. Họ trình bày nhiều bằng chứng cho điều này. Bằng chứng vi phạm giao ước này được gom
lại trong ba phạm trù. Tất cả những phạm trù đó được liệt kê trong Phục truyền. Những phạm trù
này phản ánh ba dạng cáo buộc chính chống lại Y-sơ-ra-ên hoặc những lĩnh vực chính của việc
vi phạm giao ước: thờ hình tượng, bất công xã hội và chủ nghĩa lễ nghi tôn giáo.
a. Thờ thần tượng có lẽ là sự vi phạm giao ước căn bản nhất và các tiên tri tiếp tục
giảng chống lại điều này. Dân Y-sơ-ra-ên thờ thần tượng ngay từ ban đầu trong thể chế chính trị
của họ bằng con bò vàng tại Bê-tên và Đan. Nhưng ngay cả dân Giu-đa cũng thờ thần tượng
nghiêm trọng. Chủ nghĩa thỏa hiệp, muốn trở nên giống như các quốc gia lân cận và dân Giu-đa
đã cảm thấy thỏa mái tạo nên cách thờ phượng riêng cho mình, vừa thờ phượng Ba-anh, Á t-tạt-tê
và những thần khác vừa thờ phượng Giê-hô-va Đức Chúa Trời. Họ cố gắng giữ những lễ nghi
thờ phượng Đức Chúa Trời trong đền thờ trong khi đó cũng dâng của lễ lên các thần khác và
tham dự vào các lễ hội của họ.
Sự thờ thần tượng thỏa hiệp này lên đến đỉnh điểm trong Ê-xê-chi-ên 8. Đức Thánh
Linh đưa Ê-xê-chi-ên dạo quanh đền thờ tại Giê-ru-sa-lem. Tại đó ông nhìn thấy một hình tượng
ở lối vào của cổng phía bắc, những hình vẽ và những hình khắc cùng những con vật ô uế trên
tường, những người phụ nữ đốt hương cho thần Tham-mu của người Ba-by-lôn và các trưởng lão
xây lưng về sự hiện diện của Đức Chúa Trời, xây mặt về phía đông và lạy mặt trời. Chúa phán
Ngài sẽ lìa khỏi đền thờ Ngài. Thật sự trong Ê -xê-chi-ên 10, sự vinh hiển của Chúa rời khỏi.
Giao ước cũ của Môi-se được qui định trong Phục truyền đã đến hồi kết bằng sự hiện diện của
Chúa lìa khỏi trong Ê-xê-chi-ên 10.
Thờ thần tượng không chỉ vi phạm luật pháp. Nó còn đánh đổ trọng tâm của mối
quan hệ giữa Đức Chúa Trời với dân sự Ngài. Nguyên tắc chủ đạo của giao ước trong Cựu Ước
là lời khẳng định của Chúa: “Ta sẽ làm Đức Chúa Trời các người; các ngươi sẽ là dân ta. Ta sẽ
ngự giữa các ngươi”. Thờ thần tượng khước từ mối quan hệ này. Nhiều tiên tri nhấn mạnh đến sự
đau đớn mà Đức Chúa Trời phải chịu khi bị khước từ. Đối với Ngài, vấn đề không chỉ đau đớn
về cảm xúc mà còn luật pháp nữa.
253
Để minh họa cho điều này, nhiều tiên tri sử dụng hình ảnh người chồng chung thủy/
người vợ bất trung. Đây có lẽ là hình ảnh chủ đạo vẽ lên sự nghiêm trọng của sự thờ hình tượng.
Hình ảnh người vợ tà dâm, bất tín chạy suốt sách Giê-rê-mi như là hình ảnh trung tâm của ông.
Ê-xê-chi-ên cũng dùng hình ảnh quan hệ trong chương 16. Ô-sê sống một vở kịch đau lòng trong
chính cuộc đời của mình.
Các tiên tri không chỉ công bố rằng thờ thần tượng là vi phạm những khía cạnh quan
hệ và pháp lý của giao ước mà còn biện giáo chống lại hình tượng, chứng minh rằng thờ hình
tượng là vô nghĩa và ngu muội (Ê-sai 41:22-24; Giê-rê-mi 10:5).
b.Bất công xã hội.
Giao ước trong Phục truyền buộc con người nhiều hơn chỉ là thờ phượng Chúa. Mối
quan hệ với Đức Chúa Trời đòi hỏi mối quan hệ đúng đắn với con người. Chúa quan tâm đến
công bằng xã hội cho mọi người và Ngài đặc biệt quan tâm đến những cá thể yếu hơn trong xã
hội. Phục truyền yêu cầu sự đối xử công bằng với mọi người làm công (24:14), công bằng trong
hệ thống tòa án (19:15-21), và chăm sóc đặc biệt cho những người góa, trẻ mồ côi và khác ngoại
bang (24:17-22). Khi dân Y-sơ-ra-ên rời khỏi Chúa, họ cũng rời khỏi mệnh lệnh về sự công bằng
xã hội của Chúa. Các tiên tri liên tục lên án điều này và xem nó như là phần trọng tâm của việc
vi phạm giao ước. Họ thường trích sự đối xử với kẻ mồi côi và người góa bụa như là minh họa
cho sự thất bại xã hội của con người. Họ cũng cho rằng vì thiếu công bằng xã hội này nên việc
dâng của lễ của họ cũng chẳng có ý nghĩa nữa.
Ví dụ trong phần mở đầu của chương 1, Ê-sai công bố rằng Chúa sẽ xây mắt Chúa
và không nghe khi họ dâng của lễ vì sự bất công xã hội của họ. Tương tự, Giê-rê-mi công bố
rằng: “Chúng nó mập béo và mởn mờ. Sự hung ác chúng nó quá đỗi; chẳng xét lẽ cho kẻ mồ côi,
hầu cho được thạnh lợi! Chúng nó chẳng làm sự công bình cho kẻ nghèo. Đức Giê-hô-va phán:
Ta sẽ chẳng thăm phạt về những sự ấy sao? Thần ta chẳng trả thù một nước dường ấy sao?”
(Giê-rê-mi 5:28-29). Trong cùng một cách như vậy, Mi-chê cáo buộc rằng công bằng quan trọng
đối với Đức Chúa Trời hơn là dâng lễ nghi. Trong Mi-chê 6:7-8 ông khẳng định:
7 Đức Giê-hô-va há có thích những hàng ngàn chiên đực hay là hàng vạn sông dầu sao?
Ta há nên dâng con đầu lòng của ta vì sự phạm pháp ta, và trái của thân thể ta vì tội lỗi
linh hồn ta sao?
8 Hỡi người! Ngài đã tỏ cho ngươi điều gì là thiện; cái điều mà Đức Giê-hô-va đòi
ngươi há chẳng phải là làm sự công bình, ưa sự nhân từ và bước đi cách khiêm nhường
với Đức Chúa Trời ngươi sao?
c. Lễ Nghi Tôn Giáo
Dân sự coi trọng lễ nghi tôn giáo thay vì mối quan hệ. Dân sự quên rằng lễ nghi là
phương tiện cho mối quan hệ, chứ không phải là sự thay thế cho mối quan hệ. Khi dân Y-sơ-ra-
254
ên chú tâm vào hình thức dâng của lễ thì họ quên mất ý niệm về mối quan hệ với Chúa. Họ bỏ
qua tầm quan trọng của sự hiện diện của Ngài ở giữa họ. Họ nghĩ rằng chỉ lễ nghi là được đòi hỏi.
Họ kết luận sai lầm rằng lễ nghi đúng cách sẽ khỏa lấp được những sự vi phạm giao ước như là
bất công xã hội và thờ thần tượng. Họ đánh đồng công bằng xã hội với sự dâng của tế lễ. Đây
chỉ là hành động giả hình của họ. Trong Ê-sai 1:11-13a, Chúa hỏi: “Muôn vàn của lễ các ngươi
nào có can hệ gì đến ta?... Ai khiến các ngươi giày đạp hành lang ta? Thôi, đừng dâng của lễ
chay vô ích cho ta nữa!”
Dâng của lễ không chỉ là lễ nghi mà nhà tiên tri chỉ trích. Trong Ê-sai 58, nhà tiên tri
quở trách sự kiêng ăn nữa. “Các ngươi không thể kiêng ăn như đã làm ngày nay và mong lời của
các người được nhậm từ trên cao”. Ê-sai trích câu nói của Chúa. Ô ng tiếp tục.
Sự kiêng ăn mà ta chọn lựa, há chẳng phải là bẻ những xiềng hung ác, mở những trói của
ách, thả cho kẻ bị ức hiếp được tự do, bẻ gãy mọi ách, hay sao? Há chẳng phải là chia
bánh cho kẻ đói, đem những kẻ nghèo khổ đã bị đuổi đi về nhà mình, khi thấy kẻ trần
truồng thì mặc cho, và chớ hề trớ trinh những kẻ cốt nhục mình, hay sao? (Ê-sai 58:6-7)
Thờ thần tượng, bất công xã hội và chủ nghĩa lễ nghi tôn giáo – đây là ba cáo buộc
liên quan nhau tạo nên Điểm 1 của sứ điệp tiên tri: Các ngươi đã phá vỡ giao ước; các ngươi
phải ăn năn. Lời kêu gọi ăn năn là khía cạnh khác của Điểm 1. Các tiên tri nài xin dân sự ăn năn
và phục hồi mối quan hệ với Đức Chúa Trời. Ngay cả sau khi các nhà tiên tri công bố sự đoán
xét tức thì, thì họ cũng tiếp tục nài nỉ họ ăn năn. Giê-rê-mi là ví dụ điển hình.
2. Dưới Điểm 2
Điểm thứ hai của sứ điệp tiên tri là Không Ăn Năn? Thì bị Đoán Phạt. Các tiên tri
nài xin dân sự hãy ăn năn và trở về vâng phục giao ước. Tuy nhiên, cả dân Y-sơ-ra-ên và dân
Giu-đa đều không ăn năn và các tiên tri nhận biết sự cứng lòng của họ và công bố hậu quả kinh
khiếp. Nhiều tư liệu của các sách tiên tri liên quan đến sự đoán xét tức thì kinh khiếp về sự sụp
đỗ của dân Y-sơ-ra-ên và Giu-đa. Những sự đoán xét chính được các nhà tiên tri tiên báo là sự
xâm chiếm khủng khiếp của trước hết là dân A-sy-ri và sau đó là dân Ba-by-lôn. Khía cạnh
nghiêm trọng nhất của điều này là mất Đất Hứa. Đức Chúa Chúa sẽ đuổi họ ra khỏi đất hứa như
Ngài đã cảnh báo họ trong Phục truyền.
3. Dưới Điểm 3
Điểm cuối của sứ điệp tiên tri là: Nhưng, có hi vọng trên cả sự đoán phạt về một sự
phục hồi tương lai vinh hiển. Những lời hứa về đấng Mê-si-a và những tiên báo của các tiên tri
tạo nên một phần lớn của Điểm 3. Các tiên tri không công bố một sự phục hồi sau sự sụp đổ để
trở lại với hiện trạng ban đầu. Nhưng bức tranh quan hệ và thần học của dân sự của Đức Chúa
Trời trong tương lai khác hơn và…tốt lành hơn. Trong tương lai, các nhà tiên tri công bố rằng sẽ
có một Xuất Ê -díp-tô mới (Ê-sai), một giao ước mới (Giê-rê-mi) và một sự hiện diện mới của
255
linh của Chúa (Ê-xê-chi-ên và Giô-ên). Sự tha thứ và bình an sẽ mô tả hệ thống mới này. Mối
quan hệ thay cho lễ nghi.
Tất cả những lời tiên tri tuyệt diệu về Đấng Christ nằm trong phạm trù này. Nhà tiên
tri công bố rằng dân sự đã không giữ được giao ước và luật pháp của Chúa. Do đó, sự đoán phạt
đang đến. Tuy nhiên, sau sự phá hủy sẽ có một sự phục hồi vinh hiển bao gồm cả những dân tộc
ngoại bang (không phải người Do Thái). Đấng Mê-si-a sẽ đến và Ngài sẽ thiết lập một giao ước
mới và tốt hơn. Hơn nữa, nhà tiên tri nhấn mạnh rằng, những sự kiện này không phải là ngẫu
nhiên hay được quyết định bởi các nước thế giới. Ngược lại, các nhà tiên tri mạnh dạn công bố
rằng tất cả những sự kiện này, sự đoán phạt và phục hồi là phần của chương trình của Đức Chúa
Trời và việc mở ra những sự kiện này là bằng chứng rằng Đức Chúa Trời là Chúa của cả lịch sử.
Hầu hết các sách tiên tri được tóm tắt bởi ba điểm được thảo luận ở trên. Ví dụ, các
sách Ê-sai, Giê-rê-mi, Ê -xê-chi-ên, Ô -sê, Mi-chê và Sô-phô-ni đều chứa đựng tất cả ba điểm này.
Tuy nhiên A-mốt tập trung chính chỉ trong Điểm 1 và 2 (phá vỡ giao ước và sự đoán phạt). Cho
đến chương 8 thì ông mới đề cập đến hi vọng tương lai và sự phục hồi. Ngược lại, Giô-ên bỏ qua
Điểm 1 và ngầm hiểu rằng dân sự đã nhận ra là họ đã vi phạm giao ước. Ông đi thẳng đến sự
đoán phạt (Điểm 2) và sau đó đến sự phục hồi tương lai (Điểm 3). Á p-đia và Na-hum không đi
theo những phạm trù trên. Họ khác nhau vì họ giảng chống lại các nước ngoại bang (Ê-đôm và
Ni-ni-ve) thay vì chống lại Y-sơ-ra-ên hay Giu-đa. Họ đóng một vai trò nhỏ trong bức tranh tiên
tri tổng thể. Các sách tiên tri hậu lưu đày (Xa-cha-ri, A-ghê, Ma-la-chi) tương tự có một sứ điệp
khác bởi vì họ viết sau lưu đày.
Dầu vậy, sách Giô-na quan trọng đối với sứ điệp tiên tri căn bản hơn nhiều dầu ông
cũng giảng cho một thành phố ngoại bang (Ni-ni-ve) và không chống lại dân Y-sơ-ra-ên hay
Giu-đa. Chúng ta hiểu sách Giô-na như thế này: trong khi sứ điệp lịch sử được giảng thật sự là
cho dân thành Ni-ni-ve nhưng sứ điệp tiềm ẩn trong đó là lời quở trách nghịch lại dân Y-sơ-ra-ên
và Giu-đa. Giô-na là một trong những nhà tiên tri sớm nhất, đã thiết lập một tiền đề cho các tiên
tri đến sau. Sự ăn năn của dân thành Ni-ni-ve ngược lại với sự cứng lòng của dân Y-sơ-ra-ên.
Những điều xảy ra trong thành Ni-ni-ve là những điều cần phải xảy ra ở Giê-ru-sa-lem và Sa-ma-
ri, nhưng điều đó không xảy ra.
Ví dụ, Giê-rê-mi giảng trong thành Gê-ru-sa-lem hàng thập niên nhưng đáp lại là sự
ghen ghét của họ. Không một người nào ăn năn, từ người lớn nhất đến người nhỏ nhất. Ngược lại,
Giô-na giảng một bài giảng rất ngắn ở thành Ni-ni-ve và cả thành đều ăn năn, từ người lớn nhất
đến người nhỏ nhất. Sách Giô-na cáo buộc sự đáp ứng của dân Y-sơ-ra-ên và Giu-đa là không
thể bào chữa được.
Giải Nghĩa và Áp Dụng
Điều quan trọng là nắm được sứ điệp trọng tâm của các sách tiên tri như đã thảo luận
ở trên bởi vì hầu hết các sách tiên tri mà bạn gặp trình bày một trong ba điểm chính này. Những
256
điểm tương tự trong cái nhìn tổng thể giúp bạn xác định được Bước 1 của Hành Trình Giải Kinh:
Nắm được đoạn Kinh Thánh có ý nghĩa gì với độc giả thời Kinh Thánh. Hãy nhớ những bối cảnh
lịch sử và thần học. Đọc cẩn thận và quan sát, quan sát và quan sát!
Tiếp theo, bạn phải nhận ra được những sự khác biệt giữa độc giả thời Kinh Thánh
và chúng ta (Bước 2). Chúng ta không ở dưới luật pháp cũ, cũng không đối diện với những rủa
sả của giao ước trong Phục truyền. Tương tự, chúng ta cũng không đối diện với sự xâm lăng của
quân Ba-by-lôn và A-sy-ri. Chúng ta cũng không phải là một thể chế thần quyền. Nước Việt
Nam không giống như nước Y-sơ-ra-ên cổ.
Bước 3 là băng qua cây cầu nguyên tắc và phát triển những nguyên tắc thần học. Giả
dụ như bạn đang học một đoạn Kinh thánh tiên tri nằm trong điểm đầu tiên của sứ điệp tiên tri:
Các ngươi đã phá vỡ giao ước; các ngươi phải ăn năn! Lẽ thật thần học rõ ràng và phổ biến nhất
ở đây là bất tuân Đức Chúa Trời là tội lỗi và tội lỗi đó đem đến sự hình phạt nếu không giải
quyết nó một cách đúng đắn. Điều bắt buộc là chúng ta phải chuyển lẽ thật thần học này vào lời
dạy của Tân Ước trong Bước 4, chúng ta hiểu được lẽ thật này một cách mới mẻ trong ánh sáng
của thập tự giá.
Trong lời dạy về tội lỗi và vi phạm giao ước, chúng ta phải cẩn thận kẻo chúng ta
quên Phao-lô và ân điển và trở nên Giu-đa hóa. Hãy nhớ những thảo luận của chúng ta trong
chương 18 về luật pháp. Chúng ta không còn ở dưới giao ước luật pháp nữa, do đó chúng phải
cẩn thận trong việc chuyển nguyên tắc này xuống cho độc giả của ngày nay. Chúng ta thấy hai
tình huống khác nhau cho cách nguyên tắc này chuyển xuống cho những người ngày nay: một
cho những người tin và một cho những người không tin. Tội lỗi nghịch lại với Đức Chúa Trời do
những người vô tín thực hiện dẫn đến sự đoán phạt. Tuy nhiên khi một tín hữu phạm tội, người
đó vẫn được khỏa lấp bởi sự chuộc tội của Đấng Christ.
Trong việc cố gắng để hiểu được ý nghĩa của những đoạn Kinh Thánh công bố sư vi
phạm giao ước, chúng ta thường thấy rất hữu ích nếu chúng ta tập trung vào những khía cạnh mà
tội lỗi hay sự vi phạm giao ước của chúng ta tác dụng. Trong các sách tiên tri, Đức Chúa Trời
dùng hình ảnh hôn nhân và hình ảnh người vợ bất trung để chuyển tải cảm giác đau đớn khi dân
Y-sơ-ra-ên và Giu-đa bất trung. Dầu vậy, trong bối cảnh của Việt Nam, chúng ta vi phạm luật
pháp thì chúng ta phải bị phạt nhưng không có cảm xúc thật sự khi vi phạm luật.
Một trong những lẽ thật thần học quan trọng nhất của sứ điệp tiên tri là khi chúng ta
bất trung với Chúa, chúng ta phá hủy mối quan hệ của chúng ta với Ngài, khiến cho Ngài bị tổn
thương. Khi chúng ta yêu một người nào đó tha thiết mà họ trở mặt và bất trung với chúng ta,
chúng ta cảm thấy thế nào? Đối với tín hữu thời Tân Ước, hậu quả của tội lỗi không được xưng
ra không phải là sự xâm lăng của người Ba-by-lôn hay sự đi đày nhưng là phá họa mối quan hệ
với Đức Chúa Trời, Đấng bị tổn thương vì sự bất tín của chúng ta.
Để hoàn tất Hành Trình Giải Kinh, chúng ta phải chuyển đến mức độ áp dụng (Bước
5). Lẽ thật này phải được chuyển đến hoàn cảnh sống thật riêng biệt của từng Cơ Đốc Nhân. Ví
dụ một Cơ đốc nhân ngày nay tham gia thờ phượng Chúa và xưng nhận Giê-xu là Chúa nhưng
vẫn còn dung túng sự phạm tội tà dâm thì chẳng khác gì dân Y-sơ-ra-ên thường xuyên dâng của
lễ cho Chúa nhưng cũng tham dự vào sự cùng thờ thần Ba-anh. Cả hai hành động đó đều làm tổn
257
thương Đức Chúa Trời và phá hủy mối quan hệ đó. Sự ăn năn thật và một sự thay đổi của tấm
lòng cần thiết cho cả hai tình huống đó.
Khi bạn đọc và học các sách tiên tri, bạn cũng sẽ thường xuyên gặp những phân
đoạn chứa đựng một trong ba lời quở trách (thờ hình tượng, bất công xã hội và chủ nghĩa lễ nghi
tôn giáo). Từng lời quở trách này cũng cần phải đi vào Hành Trình Giải Kinh, băng qua dòng
sông và đi vào Tân Ước để đến với bối cảnh hiện đại.
Ví dụ, bị cáo buộc là thờ thần tượng cho chúng ta ngày nay là trong bất cứ hình thức
nào mà chúng ta thờ phượng và khiến chúng ta xa cách mối quan hệ với Đức Chúa Trời. Đối với
nhiều người trẻ như là thành công, sự nghiệp, tiền bạc, sự nổi tiếng, quần áo, máy tính, Ti vi, xe
hơi, thể thao và ngay cả điểm số….
Tuy nhiên, bất công xã hội khó chuyển vào bối cảnh hiện nay. Các tiên tri thường
giảng chống lại bất công xã hội và họ xem vi phạm công bằng xã hội cũng nghiêm trọng như thờ
hình tượng. Họ lên án nhiều trường hợp bất công xã hội như hối lộ nơi tòa án, không thành thật
nơi thị trường hay không chịu trả lương đúng. Một trong những chủ đề xã hội chính chạy suốt
các sách tiên tri là sự lạm dụng, áp bức và ngay cả khước từ tầng lớp thấp hơn. Các nhà tiên tri
nói đến những hạng người này như là người góa bụa, trẻ mồ côi và khách lạ. Sách Phục truyền
đề cập sự sai trật này đến tám lần và yêu cầu dân của Đức Chúa Trời phải cung ứng cho họ cả
công bằng xã hội lẫn thực phẩm (10:18; 24:17, 19,20,21; 26:12,13; 27:19). Rõ ràng nhóm người
này không có đủ quyền về chính trị lẫn kinh tế trong xã hội để có thể tự bảo vệ mình. Do đó, Đức
Chúa Trời truyền lệnh cho dân Ngài phải đặc biệt chú ý và chăm sóc cho những người như vậy.
Cả dân Y-sơ-ra-ên lẫn dân Giu-đa đều không thể giữ mạng lệnh này và các tiên tri quở trách họ
một cách nghiêm túc.
Vì vậy nguyên tắc thần học cho lời quở trách này được liên hệ đến sự thật rằng Đức
Chúa Trời quan tâm đến những người yếu đuối cả về thể chất lẫn xã hội, kinh tế. Hơn nữa, Ngài
mong dân Ngài, vì Ngài đang sống giữa họ, phải nên tích cực trong việc giúp đỡ và bảo vệ
những người như vậy. Chắc chắn khi đem lẽ thật này vào Tân Ước thì không thể thay thế mạng
lệnh về công bằng xã hội được. Chúa Giê-xu áp dụng mạng lệnh trong Lê-vi Ký: “Yêu người lần
cận như mình” trong câu chuyện người Sa-ma-ri nhân lành khẳng định rằng Chúa Giê-xu tiếp tục
dạy chúng ta chăm sóc những người đang có nhu cầu, ngay cả đối với những người không cùng
chủng tộc hay văn hóa như chúng ta.
Á p dụng lẽ thật này thường khó ngày nay vì chúng ta phải đối diện với sự thống trị
của thể chế chính trị. Trong trường hợp của Việt Nam, thể chế chính trị có vai trò rất lớn trong
việc định hình công bằng xã hội. Những quyền căn bản của con người phải được bảo đảm. Dầu
vậy, Hội Thánh, là dân của Đức Chúa Trời phải phát huy công bằng xã hội càng mạnh mẽ càng
tốt để làm trọn mệnh lệnh Đức Chúa Trời muốn chúng ta làm. Những việc làm cụ thể để chứng
minh rằng chúng ta đang thực hiện công bằng xã hội là chống tham nhũng, đút lót, phải quan tâm
đến những người nghèo khó và yếu đuối hơn chúng ta, đặc biệt những tầng lớp hay đối tượng bị
xã hội coi thường như những người neo đơn, bị bịnh nan y, trẻ mồ côi và người góa bụa. Đây là
lời dạy rõ ràng trong Tân Ước.
Điều quan trọng cần để ý là các tiên tri đứng nghịch lại với thái độ của họ đối với
văn hóa. Phần của sứ điệp của họ là quan điểm xã hội của dân của Đức Chúa Trời phải dựa trên
Lời của Đức Chúa Trời chứ không phải trên văn hóa. Một trong những thách thức cho chúng ta
258
ngày nay là nhận ra rằng chúng ta mang nhiều quan điểm văn hóa/chính trị của chính mình vào
trong vấn đề này. Thách thức giải nghĩa cho chúng ta là không phải theo quan điểm của Cộng
Hòa hay Dân Chủ, nhưng quan điểm Cơ Đốc – những quan điểm được neo kỹ trong thần học
Kinh thánh thay vì trong văn hóa thế tục.
Do đó, chúng ta cần hỏi vài câu hỏi áp dụng. Ai là người không có đủ quyền kinh tế
và chính trị để có công bằng hay thực phẩm? Những người thiểu số? Những người nhập cư bất
hợp pháp? Người nghèo? Người già? Trẻ em? Phụ nữ bị lạm dụng? Trẻ em chưa được sinh ra?
Tiến trình áp dụng này chưa hoàn tất cho đến khi chúng ta nắm được tầm quan trọng của vấn đề
và cho đến khi chúng ta nhận ra rằng Đức Chúa Trời muốn chúng ta nhận lấy trách nhiệm chăm
sóc những người không có quyền lợi kinh tế hay chính trị nào.
Cuối cùng, bạn cũng sẽ gặp nhiều phân đoạn liên quan đế lời quở trách thứ ba của
các tiên tri, cáo buộc họ về chủ nghĩa lễ nghi tôn giáo. Đặc biệt trong Giu-đa, nhiều người tin
rằng cứ giữa lễ nghi thờ phượng là tất cả điều Đức Chúa Trời đòi hỏi. Họ tin rằng hành động lễ
nghi như dâng của lễ làm trọn trách nhiệm của họ với Đức Chúa Trời và do đó họ không cần
phải làm điều gì khác bên ngoài giao ước họ đã chọn. Các tiên tri lên án thái độ này của họ. Dĩ
nhiên phải nhớ rằng chính lễ nghi không phải là điều xấu. Chính Chúa đã ban nhiều lễ nghi mà
các tiên tri quở trách. Do đó sứ điệp tiên tri không phải là tẩy chay lễ nghi. Vấn đề của dân Giu-
đa là họ dùng lễ nghi để thay thế mối quan hệ hơn là phát huy mối quan hệ.
Nguyên tắc thần học nổi lên trong lời quở trách này là Đức Chúa Trời mong muốn
mối quan hệ hơn là lễ nghi. Lễ nghi chỉ có thể thích hợp nếu nó giúp phát triển mối quan hệ. Khi
chúng ta chuyển qua Tân Ước, nguyên tắc này cũng được tái khẳng định. Những người Pha-ri-si
trong thời Chúa Giê-xu quan tâm đến việc giữ ngày Sa-bát hơn là quan tâm đến nhu cầu và nỗi
đau của con người. Chúa Giê-xu quở trách họ mạnh mẽ. Hầu hết các lễ nghi trong Cựu Ước
không còn được giữ trong thời Tân Ước, nhưng có những hội thánh bắt đầu phát triển lễ nghi của
mình. Dầu vậy, mục tiêu của đức tin là phát triển mối quan hệ với Đức Chúa Trời. Lễ nghi có thể
giúp dân sự của Đức Chúa Trời phát triển mối quan hệ đó.
Dầu vậy, không có mối quan hệ, lễ nghi trở nên vô nghĩa. Một khi lễ nghi trở thành
mục tiêu hơn là phương tiện để đạt mục tiêu, nó trở thành vô nghĩa – ngay cả tệ hơn. Nó có thể là
mục đích sống của một cuộc đời thì công bằng xã hội và mối quan hệ đúng với Đức Chúa Trời bị
tổn thương. Lúc đó, lễ nghi có cùng mức độ giống như là thờ hình tượng. Nguyên tắc cho chúng
ta ngày nay là những lễ nghi Cơ Đốc của chúng ta chỉ thích hợp khi chúng giúp phát huy mối
quan hệ của chúng ta với Đức Chúa Trời. Lễ nghi là phương tiện để đạt mục đích (mối quan hệ),
chứ chính chúng nó không phải là mục tiêu. Tương tự, giữ lễ nghi mà không giữ mối quan hệ thì
không được xem là giữ công bằng xã hội và sự thờ phượng thật của Đức Chúa Trời.
Để vài phút định giá lại lễ nghi trong đời sống tín ngưỡng của bạn. Những lễ nghi
của bạn có đóng vai trò như là công cụ để giúp bạn phát triển mối quan hệ với Đức Chúa Trời
không? Có lễ nghi nào giúp bạn thừa hưởng đức tin và mối quan hệ của thế hệ đi trước và sẽ
giúp bạn chuyển tải đức tin và mối quan hệ đến thế hệ kế tiếp không? Hay lễ nghi của bạn đang
thay thế cho mối quan hệ với Đức Chúa Trời? Mục đích của bạn vào ngày Chúa nhật là để quan
hệ với Đức Chúa Trời hay chỉ giữ lễ nhà thờ?
Bây giờ chúng ta hãy cùng suy nghĩ về ý trong Điểm 2 của sứ điệp tiên tri: Không ăn
năn? Bị đoán phạt! Như trong phần thảo luận trên, đối với độc giả thời Kinh Thánh, sự đoán
259
phạt này xảy ra trong hình thức ngoại xâm, hủy diệt đất nước, đánh mất sự hiện diện của Đức
Chúa Trời và đánh mất quyền được sống trong Đất Hứa. Nguyên tắc thần học nằm đằng sau sứ
điệp tiên tri phản ảnh một sự thật rằng tội lỗi là một sự xúc phạm đến sự thánh khiết của Đức
Chúa Trời. Do đó, tội lỗi sẽ dẫn đến sự đoán phạt. Hơn nữa, vì sự thánh khiết của Đức Chúa Trời,
tội lỗi tiếp tục đặt một bức tường ngăn cách giữa dân sự của Đức Chúa Trời và mối quan hệ của
Ngài đối với chính Đức Chúa Trời, đấng đang ngự giữa họ.
Khi chúng ta soi nguyên tắc này qua Tân Ước, chúng ta nhận thấy rằng tội lỗi đã
không thay đổi và hậu quả của tội lỗi cũng không thay đổi. Điều thay đổi là Đức Chúa Trời đã
chuyển sự đoán phạt sự chết vì tội lỗi của Cơ Đốc nhận vào Đấng Christ. Dầu vậy, tội lỗi trong
đời sống của tín hữu Tân Ước vẫn là sự xúc phạm đến sự thánh khiết của Đức Chúa Trời. Đức
Chúa Trời đang ngự trong mỗi tín hữu và tội lỗi trong đời sống của tín hữu xúc phạm Đức Chúa
Trời thánh đang ngự trong chúng ta. Nếu chúng ta không ăn năn và lìa bỏ tội lỗi, mối quan hệ
của chúng ta với Đức Chúa Trời sẽ bị phá hủy. Chúng ta sẽ mất quyền tương giao mật thiết với
Ngài và nhiều hậu quả tiêu cực sẽ xảy ra.
Cuối cùng, chúng ta cùng giải nghĩa và áp dụng Điểm 3: Nhưng, có hi vọng bên trên
sự đoán phạt về một sự phục hồi tương lai vinh hiển. Nhiều đoạn Kinh Thánh Cựu Ước công bố
điều này. Dĩ nhiên, chúng ta thấy rõ sự ứng nhiệm tối thượng của những lời hứa này trong Đấng
Christ, nhưng sứ điệp tiên tri về sự tha thứ và phục hồi cũng có thể được chuyển từ mức độ quốc
gia của người Do Thái cổ đến một nguyên tắc thần học và sau đó chuyển đến cho chúng ta ngày
nay. Nguyên tắc thần học diễn tả một thực tế rằng Đức Chúa Trời đang tha thứ và phục hồi con
người. Khi chúng ta chuyển vào trong Tân Ước, chúng ta thấy rằng sự tha thứ và phục hồi được
tìm thấy trong Chúa Giê-xu Christ. Do đó, không có tội lỗi hay hoàn cảnh nào trong cuộc đời của
chúng ta mà Đức Chúa Trời không tha thứ hay phục hồi nếu chúng ta hạ mình quay về với Ngài
qua Đấng Christ.
Có nhiều áp dụng riêng cho từng hoàn cảnh. Nhiều tín hữu ngày nay đang suy sụp.
Nhiều người đang ở trong rắc rối gia đình. Nhiều người đang bị ám ảnh bởi những sự kiện trong
quá khứ. Những đoạn Kinh Thánh nào được áp dụng cho họ bằng cách chứng minh rằng Đức
Chúa Trời có thể phục hồi hoàn toàn những gì đã bị phá hủy và hư hại. Đức Chúa Trời có thể
làm mới lại bất cứ người nào và ban cho con người hi vọng. Đức Chúa Trời đang tha thứ và phục
hồi sự mới mẻ trong từng đời sống.
Ví dụ, nếu chúng ta áp dụng Ê-xê-chi-ên 37, chúng ta cần đứng với Ê -xê-chi-ên và
nhìn xuống trũng xương khô khi Đức Chúa Trời hà hơi sống của Ngài vào chúng và phục hồi sự
sống trọn vẹn cho chúng. Tình huống đó vô vọng làm sao? Những người đó chết chóc làm sao?
Đức Chúa Trời, đấng mà Ê-xê-chi-ên mô tả không thể hà hơi sống mới vào bạn nữa sao? Nếu
bạn học các sách tiên tri với một tâm thái bi quan và suy sụp về cuộc sống, bạn thất bại trong
việc nắm được những yếu tố quan trọng nhất của sứ điệp tiên tri.
Những Vấn Đề Đặc Biệt – Những Đoạn Tiên Tri
Hầu hết các lời tiên tri chỉ về những sự kiện trong thời của họ nhưng cũng có một
phần nhỏ nói về những sự kiện trong tương lai cho chúng ta. Dĩ nhiên chúng ta đặc biệt quan tâm
đến phần tiên tri đang nằm trong thời của chúng ta. Dầu vậy, những phân đoạn này khơi gợi một
thách thức đặc trưng, đặc biệt khi chúng ta cố gắng giải thích những chi tiết của những điều
260
thuộc về tương lai. Thật sự ngày nay có nhiều bất đồng về những cách giải nghĩa những đoạn
Kinh Thánh như vậy.
Một trong những vấn đề chính nổi lên khi chúng ta cố gắng giải nghĩa những lời tiên
báo là vấn đề quan điểm gần – quan điẻm xa. Khi các nhà tiên tri nhìn vào tương lai, họ thấy rõ
dân Y-sơ-ra-ên hay Giu-đa sẽ bị quân A-sy-ri hay Ba-by-lôn hủy diệt. Tuy nhiên, họ cũng nhìn
thấy sự hủy diệt của các quốc gia khác nữa; thực ra họ thấy sự đoán phạt trên toàn thế giới (Ngày
của Đức Giê-hô-va). Sự đoán phạt gần (quân A-sy-ri hoặc Ba-by-lôn) thì dễ nhận ra theo bối
cảnh lịch sử nhưng sự đoán phạt xa thì có vẻ xa vời hơn.
Tương tự, khi các nhà tiên tri vẽ lên hình ảnh của những sự kiện liên quan đế hi
vọng và sự phục hồi tương lai, họ có thể nói đến ba điều: (1) Sự trở về của dân Do Thái bị lưu
đày dưới sự chỉ huy của E-xơ-ra và Nê-hê-mi, (2) sự đến lần đầu của Đấng Christ, hoặc (3) lần
đến thứ hai của Đấng Christ. Vấn đề giải nghĩa của chúng ta là các nhà tiên tri không nói rõ khi
nào họ nhìn vào những sự kiện gần và khi nào họ nhìn vào những sự kiện xa. Các nhà tiên tri đi
tới rồi đi lui từ việc mô tả những sự kiện sẽ xảy ra trong thời của chính họ (quan điểm gần) đến
những sự kiện xảy ra trong sự đến lần thứ nhất của Đấng Christ (quan điểm xa) đến những sự
kiện vẫn thuộc tương lai đối với chúng ta (quan điểm xa hơn). Những sự kiện này dường như đan
xen với nhau trong những hình ảnh mà chúng trình bày.
Quan điểm gần-xa này tương tự với hình ảnh mà khi chúng ta nhìn một dãy núi từ
xa. Ví dụ, giả dụ bạn đang đứng ở nơi thoáng và nhìn một dãy núi từ đàng xa. Bạn thấy gì?
Khi chúng ta nhìn quang cảnh từ đàng xa, những đỉnh núi dường như có hai chiều
kích; tức là tất cả chúng nó đều ở cùng một khoảng cách xa chúng ta. Những đỉnh núi phía trước
không có vẻ gần hơn những đỉnh núi phía sau. Dầu vậy, trong thực tế có một thung lũng rộng lớn
phân cách các đỉnh núi với nhau. Những đỉnh núi phía sau của quang cảnh có lẽ xa hàng dặm với
đỉnh núi phía trước. Nhưng từ tầm nhìn của chúng ta, chúng ta thấy dường như chúng có cùng
khoảng cách với chúng ta.
Các nhà tiên tri vẽ lên những hình ảnh về những sự kiện tương lai trong cùng một
kiểu cách như vậy. Bức tranh trở về từ lưu đày dưới thời E-xơ-ra và Nê-hê-mi giống như đỉnh
núi phía trước; những đỉnh núi phía sau là những sự kiện liên quan đến sự đến lần thứ nhất và lần
thứ hai của Đấng Christ. Đối với nhà tiên tri thì tất cả những sự kiện này đều là tương lai và xa,
do đó họ không phải lúc nào cũng xác định sự kiện họ đang mô tả. Thực sự, dường như họ
thường chuyển từ một sự kiện tương lai đến một sự kiện khác, ngay cả trong cùng một đoạn và
thỉnh thoảng bên trong cùng một câu.
Sự việc này khiến chúng ta phải cẩn trọng về giáo lý trong việc giải nghĩa những chi
tiết của những sự kiện tương lại. Chúng ta cũng để ý đến đặc điểm gần-xa của những đoạn Kinh
Thánh này. Dầu vậy, tinh thần mô tả sự kiện tương lai này không ngăn được chúng ta sử dụng
Hành Trình Giải Kinh và phát triển những nguyên tắc thần học như bình thường. Những chủ đề
rộng mà chúng ta thảo luận ở trên vẫn rõ ràng. Hơn nữa, có thể những nhà tiên tri nối những sự
kiện lại với nhau để độc giả của họ tập trung nhiều hơn vào những nguyên tắc rộng lớn hơn là
những chi tiết (vd. Cố gắng xác định chính xác khi nào Đấng Mê-si-a sẽ trở lại).
261
Một vấn đề giải kinh khác mà chúng ta sẽ gặp thường xuyên là một số lời tiên tri
Kinh thánh có những khía cạnh đòi hỏi điều kiện để được ứng nghiệm. Chính Đức Chúa Trời nói
những điều rõ ràng trong Giê-rê-mi 18:7-19:
7 Chim hạc giữa khoảng không tự biết các mùa nhất định cho nó; chim cu, chim yến,
chim nhạn, giữ kỳ dời chỗ ở. Nhưng dân ta chẳng biết luật pháp của Đức Giê-hô-va! 8
Sao các ngươi nói được rằng: Chúng ta là khôn sáng, có luật pháp Đức Giê-hô-va ở với
chúng ta? Nhưng, nầy, ngọn bút giả dối của bọn thông giáo đã làm cho luật pháp ấy ra sự
nói dối! 9 Những kẻ khôn sáng bị xấu hổ, sợ hãi, và bị bắt. Chúng nó đã bỏ lời của Đức
Giê-hô-va; thì sự khôn ngoan nó là thể nào? 10 Vậy nên, ta sẽ ban vợ chúng nó cho kẻ
khác, ruộng chúng nó cho chủ mới; vì từ kẻ rất nhỏ cho đến người rất lớn, ai nấy đều tham
lam; từ tiên tri cho đến thầy tế lễ, ai nấy đều làm sự gian dối.
Đức Chúa Trời dường như muốn nói rằng trong nhiều trường hợp kết quả cuối cùng
của một lời tiên tri được giới hạn bởi sự đáp ứng của con người với sứ điệp tiên tri đó. Điều này
không có nghĩa là Lời của Chúa thất bại nhưng để khẳng định rằng điều kiện này là phần của ý
muốn tể trị của Ngài và được liên hệ với quyền tể trị của Ngài trong việc quyết định những điều
như vậy (Giê-rê-mi 18:6).
Một minh họa rất hay cho lời tiên tri có điều kiện này là trong sách Giô-na. Trong
Giô.3:4, Giô-na công bố: “còn bốn mươi ngày nữa, thành Ni-vi-ve sẽ bị sụp xuống”. Tuy nhiên
dân thành Ni-ni-ve đáp ứng sứ điệp của Giô-na bằng cách tin ông và ăn năn công việc của mình.
Họ mặc áo bao gai, kiêng ăn. Đức Chúa Trời đáp lại những hành động của dân Ni-ni-ve với lòng
thương xót, xóa bỏ lời tiên tri nghịch lại dân này (3:10). Do đó, như được khẳng định trong Giê-
rê-mi 18:7-10, Đức Chúa Trời tự do thực thi sự lựa chọn tối thượng của Ngài và thay đổi ứng
nghiệm của lời tiên tri như là kết quả của lòng nhân từ rất lớn của Ngài và sự ăn năn cùng lời cầu
nguyện của dân sự dưới sự đoán phạt.
Một đặc điểm văn chương trong các sách tiên tri trình bày cho chúng ta với những
thách thức là cách dùng hình ảnh và cách ngôn của nhà tiên tri để mô tả những sự kiện tương lai.
Hãy nhớ rằng các nhà tiên tri thường hay dùng ngôn ngữ thơ ca. Họ vẽ lên những bức tranh sống
động bằng hình ảnh và dùng cách ngôn tuyệt vời để chuyển tải những lời tiên báo về tương lai.
Thông thường khó nhận biết được bức tranh nào họ vẽ chứa đựng những lời tiên báo theo nghĩa
đen về tương lai hay là theo nghĩa bóng. Chắc chắn hình ảnh tiên báo của họ nói đến những thực
tế tương lai, nhưng xác định chắc chắn có phải là theo nghĩa đen hay nghĩa bóng có thể là điều
khó khăn.
Ví dụ xem Ê-sai 11:6:
Bấy giờ muông sói sẽ ở với chiên con, beo nằm với dê con; bò con, sư tử con với bò nuôi
mập cùng chung một chỗ, một đứa con trẻ sẽ dắt chúng nó đi.
Rõ ràng đoạn Kinh Thánh này nói về sự bình an, nhưng nó ở nghĩa đen ở mức nào?
Có phải “muôn sói” và “chiên con” là cách ngôn chỉ về những kẻ thù truyền kiếp không? Tức là,
đoạn Kinh Thánh này chủ yếu nói về một thời kỳ khi các nước không còn chiến tranh với nhau
không? Hay nó hoàn toàn là nghĩa đen? Trong thời kỳ vương quốc sắp đến, muôn sói và chiên
con sẽ thật sự sống chung với nhau trong sự bình an theo nghĩa đen không? Chủ ý của tác giả
trong đoạn Kinh Thánh này là gì?
262
Hay xem Ê-sai 65:17-20. Chúa phán trong 65:17 rằng Ngài sẽ tạo trời mới và đất
mới”. Trong 65:20 Ngài thêm vào:
Tại đó sẽ không có trẻ con chết non, cũng chẳng có ông già nào chẳng trọn đời mình; vì
chết lúc trăm tuổi, còn là chết trẻ, và kẻ có tội lúc trăm tuổi, ấy là bị rủa sả.
Tất cả những điều này được hiểu theo nghĩa đen hay nghĩa bóng? Phải chăng Đức
Chúa Trời sẽ dựng nên trời mới và đất mới theo nghĩa vật chất? Đó là một quả đất mà người ta
sống khá lâu nhưng vẫn chết theo nghĩa đen? Hay nó là nghĩa tượng trưng.
Nhiều Cơ Đốc Nhân có nhiều ý kiến khác nhau trong việc giải nghĩa những đoạn
Kinh Thánh tiên báo này. Những bất đồng xoay quanh hai câu hỏi trọng tâm: Câu hỏi thứ nhất là
một câu hỏi rộng: Những hình ảnh mà các nhà tiên tri sử dụng để tiên báo về tương lai nằm ở
mức độ nghĩa đen nào? Câu hỏi thứ nhất liên hệ đến một vấn đề có liên quan: Hội Thánh Tân
Ước có ứng nghiệm những lời tiên tri trong Cựu Ước liên quan đến dân Y-sơ-ra-ên không?
Chúng tôi muốn giúp bạn một phương pháp giải nghĩa. Chúng tôi không cố gắng
thuyết phục bạn một vị trí thần học nào. Nhưng về vấn đề này, kiến thức thần học rộng về những
sự kiện tương lai và về mối quan hệ giữa hội thánh và Y-sơ-ra-ên thường xác định câu trả lời về
phương pháp của một người đối với hai câu hỏi giải kinh trên. Phải nhớ rằng khi chúng ta giải
kinh, chúng ta phải đi tới đi lui giữa những phần nhỏ và phần tổng thể. Chúng ta phải giải nghĩa
những đoạn Kinh Thánh bên trong bối cảnh của toàn Kinh Thánh.
Tuy nhiên, chúng tôi cũng cảnh báo bạn đừng để những định kiến thần học trộn lẫn
chi phối cách bạn giải nghĩa một đoạn Kinh Thánh nhất định ngay cả trước khi bạn bắt đầu tranh
chiến với nó. Chúng ta phải giữ cân đối khi chúng ta cho phép những phần nhỏ và tổng quát để
thông tin cho nhau. Tức là chúng ta mang sự hiểu biết thần học tổng quát với chúng ta vào những
đoạn Kinh Thánh giải nghĩa này, nhưng chúng ta cũng thường xuyên tìm cách cập nhật và phát
triển sự hiểu biết thần học tổng quát (chung) qua việc học những đoạn Kinh Thánh nhỏ hơn
(từng phần).
Trong Hành Trình Giải Kinh, vấn đề này nổi lên trong Bước 3 (nguyên tắc thần học)
và Bước 4 (ý nghĩa cho Hội thánh Tân Ước). Nên nhớ rằng nguyên tắc thần học được phát triển
trong Bước 3 phải trung thành với đọan Kinh Thánh đồng thời cũng thích ứng với toàn bộ phần
còn lại của Kinh Thánh. Tương tự, chúng ta phải chuyển qua cái nhìn Tân Ước. Tân Ước cũng
nói nhiều về những sự kiện tương lai, cung cấp cho chúng ta nhiều đoạn Kinh Thánh nói về bản
chất của vương quốc của Đức Chúa Trời, mối quan hệ giữa dân Y-sơ-ra-ên và Hội thánh, sự tái
lâm của Đấng Christ và những sự kiện về thời cuối cùng. Do đó, hiểu được những lời dạy Tân
ước này sẽ ảnh hưởng đến cách chúng ta chuyển ý nghĩa của độc giả Cựu Ước vào ý nghĩa cho
Hội thánh ngày nay.
Chúng tôi cung cấp vài chỉ dẫn. Thứ nhất, đừng quá quan tâm đế khía cạnh văn thơ
của lời tiên tri. Tức là đừng cho phép những định kiến thần học của bạn ngăn trở bạn tôn quý và
hiểu được những hình ảnh và cách ngôn. Bạn nên dành thời gian nhiều hơn cố gắng nắm những
hình ảnh mà nhà tiên tri vẽ lên hơn là cố gắng đặt những sự kiện họ mô tả vào thứ tự thời gian
cho tương lai chúng. Nhưng phải giải thích hình ảnh và cách ngôn chắc chắn không có nghĩa là
xem thường thực tế nghĩa đen đằng sau hình ảnh đó. Chúa Giê-xu Christ xuống thế gian là một
263
sự ứng nghiệm của các hình ảnh tiên tri trong Cựu Ước theo nghĩa đen và vật chất. Cách mà
Ngài ứng nghiệm lời tiên tri trong lần đến đầu đến thế gian có lẽ khẳng định cách Ngài có thể sẽ
ứng nghiệm lời tiên tri trong sự tái lâm trong tương lai.
Chúng tôi cũng đề nghị bạn tập trung nhiều hơn vào việc chuyển tải và áp dụng
những nguyên tắc thần học rộng hơn thay vì cố gắng áp đặt tất cả những sự kiện đó vào một hệ
thống. Các nhà tiên tri cất cánh bay cao như chim ưng, vẽ lên hình ảnh về tương lai với những
chuyển biến rộng hơn. Họ không quan tâm nhiều đến việc trình bày một sự mô tả chi tiết, có tổ
chức và có cấu trúc về thời kỳ cuối cùng.
Cuối cùng đừng quên cách mà các nhà tiên tri sử dụng quan điểm xa-gần. Những sự
kiện tương lai thường được trộn lẫn với nhau.
Kết Luận
Có nhiều sứ điệp quan trọng trong các sách tiên tri. Chắc chắn những phát ngôn viên
của Đức Chúa Trời cung cấp cho chúng ta nhiều lời dạy phong phú và sâu sắc về bản tính của
Đức Chúa Trời. Họ cũng nói một cách mạnh mẽ với chúng ta về tính cách và nhân cách của
chúng ta. Họ sử dụng ngôn ngữ thơ ca đầy màu sắc. Sau đây là phần tóm tắt ba điểm đơn giản:
1. Các ngươi đã vi phạm giao ước; các ngươi phải ăn năn.
2. Không ăn năn, sẽ bị đoán phạt
3. Nhưng, có hi vọng vượt trên sự đoán phạt cho một sự phục hồi tương lai vinh hiển.
Trọng tâm của sứ điệp của các sách tiên là chủ đề về mối quan hệ của Đức Chúa
Trời với dân sự của Ngài. Học các sách tiên tri có thể giúp chúng ta hiểu nhiều hơn bản chất của
Đức Chúa Trời và biết được điều Đức Chúa Trời mong đợi ở bạn trong mối quan hệ của bạn với
Ngài và với những người lân cận.
Bài tập:
Đọc từng phân đoạn bên dưới, áp dụng Hành Trình Giải Kinh. Trả lời những câu hỏi trong các
bước của Hành Trình Giải Kinh. Sau đó ghi lại cho mỗi bước một phân đoạn nhỏ theo như
những gì bạn tìm được.
1. Mi-chê 6:6-8
2. Giê-rê-mi 7:1-7
3. Giê. 31:10-14
264
Chương 21
Cựu Ước – Khôn Ngoan
Lời Giới Thiệu
Đây là chương cuối của sách này và chúng ta đã đi gần hết chặng đường quan trọng.
Tác giả sách Truyền Đạo, một trong những sách khôn ngoan có một lời có lẽ có thể áp dụng cả
cho bạn, là độc giả và cho chúng tôi, là tác giả: “người ta chép nhiều sách chẳng cùng; còn học
quá thật làm mệt nhọc cho xác thịt.” (12:12b).
Chúng ta kết luận phần nghiên cứu của mình về nhiều thể loại Kinh thánh khác nhau
bằng cuộc hành trình vào các sách khôn ngoan Cựu Ước (Châm ngôn, Truyền đạo Nhã ca và
Gióp). Chắc chắn các sách này chứa đựng nhiều sự dạy dỗ thú vị trong Kinh Thánh. Một mặt,
các sách khôn ngoan dễ đọc và dễ nắm bắt. Những câu châm ngôn như: “Kẻ đi thèo lẻo tỏ ra
điều kín đáo; Còn ai có lòng trung tín giữ kín công việc” (Châm-ngôn 11:13) hay “Sự ghen ghét
xui điều cãi lộn; Song lòng thương yêu lấp hết các tội phạm.” (10:12) dường như đơn giản dễ
hiểu.
Mặt khác, nhiều đoạn trong văn chương khôn ngoan rất khó hiểu. Ví dụ, Châm-ngôn
22:4 dường như là lời hứa về sự giàu có cho những người kính sợ Đức Chúa Trời và khiêm
nhường: “Phần thưởng của sự khiêm nhượng và sự kính sợ Đức Giê-hô-va, Ấy là sự giàu có, sự
tôn trọng, và mạng sống.” Có phải câu này dạy rằng nếu Cơ Đốc Nhân nghèo, thì họ hoặc là
chưa khiêm nhường hoặc là chưa kính sợ Đức Chúa Trời? Điều này có nghĩa là Cơ Đốc Nhân
giàu có thì khiêm nhường và kính sợ Chúa hơn Cơ Đốc Nhân nghèo phải không?
Tương tự, sách Gióp cũng là sách làm nhiều người nhức đầu. Hãy nhìn Gióp 3:1:
“Sau việc ấy, Gióp mở miệng rủa ngày sanh mình.” Làm sao chúng ta có thể giải nghĩa và áp
dụng câu này? Đây có phải là kiểu mẫu cho chúng ta phản ứng lại với sự hoạn nạn? Còn sách
Truyền đạo thì thật sự lạ với nhiều câu bất thường. Cùng xem:
Người ta bày tiệc đặng vui chơi; rượu khiến cho đời vui; có tiền bạc thì ứng cho mọi sự.(Truyền-đạo
10:19)
Có phải tác giả khuyến khích ăn uống, tiệc tùng và đeo đuổi tiền bạc không?
Hơn nữa sách Nhã ca dường như chứa đựng những từ ngữ lãng mạn và thân mật
giữa hai người đang yêu nhau. “Hỡi bạn tình ta, nầy mình đẹp đẽ thay, mình đẹp đẽ thay! Mắt
mình trong lúp giống như mắt bò câu; Tóc mình khác nào bầy dê nằm nơi triền núi Ga-la-át.
Răng mình như thể bầy chiên mới hớt lông, Từ ao tắm rửa đi lên, Thảy đều sanh đôi, không một
con nào son sẻ.” (Nhã-ca 4:1-2) Rõ ràng cô gái của chàng thanh niên này có răng trắng và còn
nguyên vẹn. Nhưng nó có nghĩa gì đối với chúng ta? Phải chăng Kinh thánh dạy chúng ta cách
trồng và cấy răng?
Do đó, có nhiều vấn đề về giải kinh mà chúng ta cần phải học để giải nghĩa các sách
khôn ngoan. Cho đến bây giờ bạn đều nhận biết rằng bối cảnh quan trọng như thế nào đến việc
265
giải nghĩa Kinh Thánh. Thật sự, làm sao bối cảnh có thể giải quyết được những nhầm lẫn cho
những ví dụ trên. Bạn đang nói đúng vì đặt văn chương khôn ngoan vào trong bối cảnh đúng sẽ
là một bước quan trọng để hiểu được ý của Đức Chúa Trời cho chúng ta trong những sách này.
Trong chương này, chúng ta trước hết sẽ thảo luận về mục đích của các sách khôn ngoan vì mục
đích là một khía cạnh quan trọng của thể loại khôn ngoan và bối cảnh văn chương của nó. Tiếp
theo chúng ta sẽ tìm bức tranh lớn – chủ đề chính xuyên suốt từng sách và cách những sách này
liên hệ với nhau. Sau đó, chúng ta cùng thảo luận khía cạnh thơ ca của thể loại văn chương này.
Chúng ta cũng áp dụng Hành Trình Giải Kinh trong từng sách khôn ngoan, chỉ ra những khác
biệt và tìm những nguyên tắc giúp chúng ta có thể áp dụng trên đời sống của mình ngày nay.
Cuối cùng, chúng ta sẽ có phần tóm tắt và bài tập.
Mục Đích của Các Sách Khôn Ngoan
Mặc dầu các sách khôn ngoan hoàn toàn khác với phần còn lại của Cựu Ước nhưng
chúng dường như đang đóng vai trò quan trọng trong sự mặc khải của Đức Chúa Trời cho chúng
ta. Các chuyện kể và sách tiên tri nhấn mạnh đến những mệnh lệnh: “Hãy Tin!” và “hãy vâng
phục” trong khi đó các sách khôn ngoan nhấn mạnh đến mệnh lệnh “Hãy suy nghĩ”. Giống như
tin và vâng phục dẫn đến hành động thì thách thức suy nghĩ cũng dẫn đến hành động.
Dầu các sách khôn ngoan không nhấn mạnh đến những yếu tố chuẩn của câu chuyện
cứu rỗi (giao ước, lời hứa, sự cứu chuộc, sự tha thứ) nhưng chúng lập nền thần học cho phần còn
lại của Cựu Ước. Châm-ngôn 1:7 nhấn mạnh: “Sự kính sợ Đức Giê-hô-va là khởi đầu của tri
thức”. Các sách khôn ngoan bắt đầu bằng căn bản thần học này và sau đó sử dụng câu chuyện
cứu chuộc làm nền tảng để xây dựng một thần học thực hành cho đời sống thánh khiết mỗi ngày
trong một thế giới phức tạp này.
Những câu mệnh lệnh của văn chương khôn ngoan – hãy nghe, hãy nhìn, hãy nghĩ,
hãy phản ứng – kết hợp lại để tập trung vào mục đích tổng thể của các sách này: phát triển nhân
cách trong độc giả. Các sách khôn ngoan không phải là bộ sưu tầm của những lời hứa phổ thông.
Nhưng chúng là một bộ sưu tầm của những hiểu biết giá trị về đời sống thánh thiện mà nếu nhận
vào lòng (vào đầu) sẽ phát triển nhân cách thánh thiện, một nhân cách sẽ giúp độc giả có sự chọn
lựa khôn ngoan trong cuộc đời đầy cạm bẫy này. Văn chương khôn ngoan đề nghị rằng sống đời
thánh khiết liên quan đến việc lựa chọn đúng đắn. Do đó, người sống trong tính cách ngu dại hay
tối tăm phản ảnh trong đời sống bất khiết.
Sự khôn ngoan có một giọng điệu thực tế. Tính cách được phát triển không phải qua
ý tưởng lý tưởng hay lý thuyết nhưng là tính cách thực tế, gần gũi. Do đó sự khôn ngoan có thể
được định nghĩa như là sự kết hợp của hiểu biết và nhân cách cho phép một người sống trong thế
giới thật với tinh thần thánh khiết và đúng đắn.
Bức Tranh Lớn
Từng sách trong bốn sách khôn ngoan (Châm ngôn, Gióp, Truyền Đạo, Nhã ca) khác
nhau trong sự đóng góp cho sự giáo dục chúng ta trong đời sống khôn ngoan. Nhận biết những
vai trò khác nhau của từng sách là quan trọng nhưng chúng ta cũng phải có thể nhìn thấy cách
chúng thống nhất với nhau để tạo nên bối cảnh văn chương khôn ngoan rộng lớn. Về thần học,
bốn sách đều cân bằng nhau và bất kỳ ai đọc chúng bên ngoài bối cảnh của sách khác có thể dễ
dàng bị hiểu nhầm. Căn bản, sách Châm ngôn trình bày những chuẩn mực sống trật tự và hiểu
266
biết trong khi ba sách khác trình bày những ngoại lệ và giới hạn với hướng sống trật tự và hiểu
biết đó. Tóm tắt căn bản này có thể được giải thích rõ ràng hơn bên dưới.
Hướng Căn Bản Cho Cuộc Sống (Châm Ngôn)
Sách Châm-ngôn trình bày những chuẩn mực có thứ tự và lý trí của cuộc sống.
Nhiều câu châm ngôn trong sách không phải là phổ thông (tức là những điều luôn luôn đúng) mà
là những chuẩn mực của cuộc sống (tức là những điều tự nhiên đúng). Đức Chúa Trời đã thiết
lập một thế giới trật tự và tri thức và nó có ý nghĩa đối với chúng ta. Nếu bạn làm việc chăm chỉ,
bạn sẽ được thịnh vượng; nếu bạn không làm việc chăm chỉ, bạn sẽ nghèo khó. Những người làm
việc chăm chỉ, khôn ngoan và công bình có thể mong đợi một đời sống được phước và thịnh
vượng trong khi những người lười biếng, tội lỗi, ngu muội có thể mong đời sống khó khăn.
Ngoại lệ 1: Sự Đau Khổ của Người Công Bình (Gióp)
Sách Gióp chứng minh rằng thường có nhiều sự kiện trong cuộc đời mà con người
không thể hiểu hết nhờ sự khôn ngoan được trình bày trong Châm ngôn. Thỉnh thoảng sự đau
khổ đánh người công bình, khôn ngoan và làm việc chăm chỉ và Đức Chúa Trời dường như im
lặng đằng sau sự đau khổ đó. Sách Châm ngôn dạy rằng cuộc sống có lý trí và người khôn ngoan
có thể hiểu được. Gióp hoàn tất điều này bằng kinh nghiệm trong đời sống thật. Nếu chúng ta đối
chiếu cả hai sách với nhau, chúng ta kết luận rằng hầu hết cuộc sống của chúng ta có thể hiểu
được và là lý trí. Tuy nhiên, một vài sự kiện trong cuộc đời thì không thể giải thích được vì
chúng ta là con người. Chúng ta có thể thất bại trong sách Châm ngôn trong tình huống của
chúng ta và chúng ta bắt buộc phải đặt trọn đức tin của mình nơi Đấng Tạo Hóa. Đây là điều
chúng ta có thể học được từ sách Gióp.
Ngoại lệ 2: Sự thất bại của hướng có trật tự và hợp lý cung cấp ý nghĩa tối
thượng cho cuộc sống (Truyền đạo)
Sách Truyền đạo là một sự tìm kiếm ý nghĩa trong cuộc sống mang tính trí tuệ cao.
Dầu tác giả nhận biết rằng khôn tốt hơn dại nhưng ông kết luận rằng sự khôn ngoan chính nó
không đem đến ý nghĩa cho cuộc sống. Trong khi Gióp kể câu chuyện về một ngoại lệ cho chuẩn
mực của Châm ngôn thì sách Truyền đạo cũng cho thấy hàng chuỗi ngoại lệ của thế giới trí thức
và trật tự. Kết luận cao nhất trong Truyền đạo nằm trong câu cuối cùng. Tại đây ông chỉ ra con
đường duy nhất để tìm thấy ý nghĩa trong cuộc đời là bước vào mối quan hệ với Đức Chúa Trời.
Ý tưởng tri thức và logic (sự khôn ngoan) có thể giúp bạn trên căn bản hàng ngày nhưng ý nghĩa
tối thượng trong cuộc sống đòi hỏi mối quan hệ với Đức Chúa Trời.
Ngoại lệ 3: Tính Phi Lý Trí của Tình Yêu Lãng Mạn Trong Mối Quan Hệ
Chồng và Vợ (Nhã Ca)
Châm ngôn cho những lời khuyên khôn ngoan, thực tế và tốt lành về hôn nhân. Nó
khuyên người đàn ông không nên cưới người phụ nữ lắm chuyện hay cáu ghét (21:9,19). Và mô
tả rõ ràng về người phụ nữ sống phận của kẻ ngu dại, biếng nhác, nghiện ngập và gián tiếp cảnh
báo đừng nên cưới những người đàn ông như vậy. Xuyên suốt sách Châm ngôn bức tranh về một
người đàn ông có tư cách tốt và khôn ngoan được trình bày và trong phần cuối (31:10-31) bức
tranh về một người phụ nữ cao quý, khôn ngoan và tốt đẹp cũng được trình bày. Tất cả những lời
khuyên này là tốt lành và hợp lý.
267
Tuy nhiên, thật khó để xây dựng một mối quan hệ yêu thương vĩ đại trong hôn nhân
chỉ bằng ý tưởng logic và hợp lý. Sách Nhã Ca khuyến khích khía cạnh hoang dại, phi lý trí và
lãng mạn của tình yêu chân thật. Sách này đề nghị chúng ta rằng ở nơi công cộng người chồng và
vợ có thể cần yên lặng, nhận biết và làm việc chăm chỉ như Châm ngôn đã trình bày. Nhưng
trong nơi riêng tư ở nhà, họ cần phải điên cuồng trong tình yêu say đắm trong Nhã Ca.
Văn Chương Khôn Ngoan như là Thơ Ca
Phần lớn của văn chương khôn ngoan là thơ ca. Có một vài phần kể chuyện trong
sách Gióp và một số văn xuôi trong sách Truyền đạo, nhưng phần lớn các tư liệu được viết bằng
hình thức thơ ca. Do đó, nhớ những nguyên tắc giải nghĩa thơ ca mà chúng ta đã học trong
chương 19 là điều quan trọng.
Do đó, chúng tôi nhận thấy rằng các sách khôn ngoan sử dụng tính song song làm
đặc điểm cấu trúc chuẩn của chúng. Điều này rõ ràng trong Châm ngôn nơi mà từng câu đều
chứa hai dòng liên kết để tạo thành một ý tưởng. Bởi đó hình thức phàn nàn của Gióp trong 6:2
là song song đồng nghĩa:
Ô i! Chớ gì nỗi buồn tôi nhắc cân cho đúng,
Và các tai nạn tôi để lên cân thăng bằng!
Ngay cả lời đáp của Đức Chúa Trời ở cuối sách cũng ở thể thơ ca, đi theo hình thức
văn chương song song chuẩn ( song song đồng nghĩa trong ví dụ này):
Chớ thì ngươi có thấu đến nguồn của biển sao?
Há có bước dưới đáy của vực sâu chăng? (Gióp 38:16)
Tương tự, nhiều câu trong Truyền đạo và hầu hết các câu trong Nhã ca đều là song song.
Vì nếu sự khôn ngoan nhiều, sự phiền não cũng nhiều;
ai thêm sự tri thức ắt thêm sự đau đớn. (Truyền-đạo 1:18)
Đôi má mình đẹp với đồ trang sức;
Cổ mình xinh với hột trân châu. (Nhã-ca 1:10)
Một đặc điểm quan trọng khác của thơ ca Hê-bơ-rơ là thường xuyên sử dụng hình
ảnh trừu tượng. Trong chương 19 chúng ta đã học rằng hình ảnh trừu tượng có hiệu quả đặc biệt
khi tác giả đang cố gắng kết nối cảm xúc với độc giả. Tuy nhiên, nhấn mạnh của văn chương
khôn ngoan, đặc biệt sách Châm ngôn không phải trên cảm xúc mà là trên suy nghĩ. Do đó, việc
sử dụng thơ ca và hình ảnh trừu tượng có thể là điều ngạc nhiên. Thực chất, sách Châm ngôn ít
khi sử dụng hình ảnh trừu tượng. Mặc dầu nhiều cách ngôn xảy ra xuyên suốt sách này nhưng
chúng không xuất hiện thường xuyên trong các sách thơ ca khác. Hình thức mà chúng ta tìm thấy
xuyên suốt sách này được định nghĩa là châm ngôn là một thể loại thơ ca, nhưng nó độc đáo và
khác với thơ ca truyền thống Hê-bơ-rơ trên một vài phương diện, như là sử dụng tối thiểu ngôn
ngữ tượng hình. Điều này xảy ra trong mức độ cảm xúc thấp trong sách Châm ngôn.
268
Dầu vậy, sách Nhã Ca hoàn toàn khác. Nó có tính cảm xúc cao và cố gắng kết nối
với độc giả ở một mức độ cảm xúc. Do đó, không ngạc nhiên khi thấy có nhiều hình ảnh trừu
tượng trong sách này. Gióp cũng là sách mang tính cảm xúc cao thường được mô tả bằng cách
ngôn, trong khi đó thì Truyền đạo nằm ở giữa Châm ngôn và Gióp trong mức độ cảm xúc của nó.
Tương tự sách Truyền đạo sử dụng nhiều cách ngôn hơn Châm ngôn nhưng ít hơn Gióp. Do đó,
nếu chúng ta đặt những sách này theo thứ tự diễn tiến của cảm xúc (Châm ngôn, Truyền đạo,
Gióp và Nhã ca), chúng ta sẽ nhận ra rằng cùng một thứ tự như thế này cũng phản ảnh một sự
diễn tiến tương xứng về cách dùng hình ảnh trừu tượng.
Nắm Bắt Được Sách Khôn Ngoan
Trong phần này chúng tôi sẽ thảo luận từng sách khôn ngoan và ghi lại những đặc
điểm độc đáo của từng sách và ảnh hưởng của những đặc điểm đó trên việc giải kinh của chúng
ta. Chúng ta cũng sẽ liên hệ những đặc điểm này với Hành Trình Giải Kinh, cung cấp cho bạn
những nguyên tắc rộng để học và áp dụng các sách khôn ngoan. Các sách khôn ngoan thật thú vị
và vui. Chúng tôi nghĩ bạn sẽ thích học chúng.
Châm Ngôn
Sách Châm ngôn có lẽ là sách dễ hiểu nhất trong các sách khôn ngoan bởi vì nó nói
đến những khía cảnh phổ biến hàng ngày của cuộc sống: công việc, tình bạn, hôn nhân, tiền bạc,
sự thành thật. Châm ngôn cũng gần gũi với chúng ta.
Sách Châm ngôn phổ biến trong nhiều nền văn hóa khác. Thông thường chúng là
những câu ngắn và đơn giản để dạy sự khôn ngoan thực tế về cuộc sống. Các châm ngôn trong
Kinh Thánh đều tương tự nhau. Chúng thường bao gồm hai dòng của thơ song song. Chúng ngắn
và dễ nhớ.
Bản chất thực tế của những châm ngôn này khiến chúng dễ áp dụng cho hầu hết mọi
người. Sách Châm ngôn hướng con người đặt đức tin mình nơi Đức Chúa Trời.
Có lẽ điều quan trọng nhất để nhớ khi giải nghĩa và áp dụng sách Châm ngôn là
những châm ngôn riêng phản ánh đặc thù chung của sự khôn ngoan chứ không phải là lẽ thật phổ
thông. Giải nghĩa châm ngôn như là lời hứa tuyệt đối từ Đức Chúa Trời là hiểu sai ý định của tác
giả. Sách Châm ngôn cung cấp những hướng dẫn cho cuộc sống, trình bày những tình huống tự
nhiên đúng.
Ví dụ xem Châm-ngôn 10:4:
Kẻ làm việc tay biếng nhác trở nên nghèo hèn;
Còn tay kẻ siêng năng làm cho được giàu có.
Câu Châm ngôn này là tự nhiên đúng. Nếu bạn làm việc chăm chỉ bạn sẽ được thịnh
vượng nhưng nếu bạn lười biếng bạn sẽ không thịnh vượng. Bài học này đặc biệt đúng trong Y-
sơ-ra-ên cổ. Người dân đa số làm nông nghiệp. Để thành công trong nông nghiệp đòi hỏi phải
làm việc chăm chỉ và sự lười biếng là một tai họa. Đây cũng là lời khuyên hữu ích cho bất cứ
người nào đang làm việc ngày nay: Đừng lười biếng! Hãy làm việc chăm chỉ! Tuy nhiên trong
269
thời kinh tế ngày nay, có nhiều người làm việc chăm chỉ nhưng chẳng được thịnh vượng hoặc
ngược lại. Những nông dân, công nhân các xí nghiệp, thợ xây nhà…làm việc hết sức cực nhọc
nhưng thu nhập của họ không bằng một phần của bác sĩ, luật sư… Sự giàu có có thể đến trong
nháy mắt. Do đó cẩn thận đừng giải nghĩa Châm. 10:4 như là lời hứa phổ thông có thể áp dụng
được cho mọi hoàn cảnh.
Tương tự, hãy suy nghĩ về sự khôn ngoan trong Châm-ngôn 3:9-10:
9 Hãy lấy tài vật và huê lợi đầu mùa của con,
Mà tôn vinh Đức Giê-hô-va;
10 Vậy, các vựa lẫm con sẽ đầy dư dật,
Và những thùng của con sẽ tràn rượu mới.
Câu Châm ngôn này bảo con người (nông dân) rằng nếu họ tôn vinh Đức Chúa Trời
và dâng một phần mười sản vật của mình, họ sẽ giàu có và luôn bội thu. Chắc chắn câu châm
ngôn này phải ảnh sự khôn ngoan thực tế. Nhưng đây có phải là một lời hứa không? Đây có phải
là phổ thông cho mọi người theo nguyên tắc nhân-quả không? Có một giáo sĩ phục vụ truyền
giáo tại Phi-líp-pin vào những năm tám mươi và tại đây một nạn đói đang hoành hành vì hạn hán.
Trong khu vực đó có đến hơn chín trăm hội thánh với hàng ngàn tín hữu trung tín và mạnh mẽ.
Họ trung tín dâng một phần mười cho Chúa. Nhưng nhiều năm không mưa, vụ mùa thất bát và
đói kém hoành hành trong xứ thay vì “không chỗ chứa”. Họ nhận thấy rằng sự khôn ngoan trong
sách Gióp có lẽ có thể áp dụng trực tiếp cho họ hơn là những câu trong sách Châm ngôn này.
Bước 1: Nắm bắt được đoạn Kinh Thánh trong thời xưa. Đoạn Kinh Thánh này có ý nghĩa
gì đối với những độc giả trong thời Kinh Thánh?
Do đó, khi vào bước 1, điều quan trọng cần nhớ là những châm ngôn này không bao
giờ là lời hứa phổ thông cho mọi người trong mọi hoàn cảnh. Chúng là những chỉ dẫn và lời
khuyên sâu sắc để hình thành nhân cách và thực hiện quyết định. Sách Châm ngôn liên quan đến
những chuẩn của cuộc sống, không phải ngoại lệ.
Trong bước 1, chúng ta cần khai phá bối cảnh văn chương. Trước hết, ghi lại những
liên kết tổng quát của sách Châm ngôn với phần còn lại của văn chương khôn ngoan và luôn nhớ
rằng thỉnh thoảng có những câu châm ngôn ngoại lệ. Tiếp theo, ghi lại cấu trúc của chính sách đó.
Châm-ngôn 1-9 giới thiệu sách này bằng lời khuyên dạy của người cha đối với con trẻ của mình.
Có thể để ý thấy rằng người trẻ là độc giả của Châm ngôn này. Có thể nói phần lớn của của sách
Châm ngôn là để giáo dục thanh thiếu niên.
Hướng này sẽ ảnh hưởng đến cách chúng ta nhìn những châm ngôn khác bên ngoài
phần này. Ví dụ, Châm-ngôn 25:24:
Thà ở một góc trên mái nhà,
Hơn là ở chung nhà với người đàn bà hay tranh cạnh.
270
Bài học trong câu châm ngôn này không phải bảo người đàn ông có vợ là người hay
tranh cạnh phải lên mái nhà để ở hơn là ở chung với bà ta. Nhưng câu châm ngôn này định
hướng cho những người trẻ độc thân và chỉ cho họ thấy họ nên tránh kết hôn với loại phụ nữ nào.
Châm ngôn 1-9 chứa đựng những đơn vị thơ ca dài hơn chỉ là hai dòng song song
của châm ngôn bình thường. Vì vậy mặc dầu phần này là phần của sách Châm ngôn nhưng nó
không thật sự bao gồm bất kỳ đơn vị hai dòng nhỏ, riêng mà chúng ta gọi là châm ngôn. Nhưng
nó phản ánh về cuộc sống, thường được đi theo bởi những ví dụ và lời khuyên dạy. Ví dụ, cả
Châm ngôn 5 phải đi chung với nhau vì nó chứa một đơn bị hoàn chỉnh cảnh cáo độc giả của nó
về hậu quả nguy hiểm của phạm tội tà dâm. Do đó, khi đọc phần này bạn phải ghi lại đơn vị văn
chương lớn hơn (thường về một chương dài) như là phần của bối cảnh của chúng ta.
Châm ngôn 10-19 chứa đựng hình thức văn chương mà chúng ta thường gọi châm
ngôn – thông thường hai dòng ngắn của bài thơ diễn tả một lẽ thật chung về sự khôn ngoan. Chú
ý là hầu hết những châm ngôn này được đặt tự do. Không có thứ tự rõ ràng xuyên suốt hầu hết
phần này. Do đó đơn vị lớn hơn (chương, phân đọan…) không đóng vai trò trong bối cảnh văn
chương của phần này. Những câu châm ngôn này từng cái một thích ứng với bối cảnh của toàn
sách và phần còn lại của các sách khôn ngoan. Chúng không liên quan đến những câu đi liền
trước và sau. Bởi vì bối cảnh văn chương bị giới hạn quá nhiều trong những câu này nên bối
cảnh lịch sử-văn hóa đóng vai trò quan trọng.
Phần tiếp theo, Châm-ngôn 30:1-31:9 có những đơn vị đoạn văn dài hơn, trải qua
nhiều câu. Nó được đi theo bởi phần kết của sách Châm-ngôn 31:10-31. Phần cuối này là phần
theo thứ tự chữ cái đứng ở đầu dòng. Những câu này mô tả người vợ có tính cách khôn ngoan và
chân thật. Đoạn này được đưa vào một đơn vị riêng.
Bước 2: Đo được chiều rộng của dòng sông. Có những sự khác biệt nào giữa độc giả thời
Kinh Thánh với chúng ta?
Chúng ta chuyển sang Bước 2 của Hành Trình Giải Kinh. Như đã đề cập ở trên, mỗi
châm ngôn thường trình bày một nguyên tắc chung để bắt đầu. Nó bày tỏ những khía cạnh thực
tế của cuộc sống mỗi ngày. Do đó dòng sông phía chúng ta quá hẹp và cạn. Chúng ta phải ghi lại
bối cảnh của những câu châm ngôn đó liên quan đến công việc và liên hệ thường xuyên đến vị
vua, nhưng hầu hết các câu châm ngôn nói đến những tình huống không thay đổi nhiều qua lịch
sử nhân loại.
Bước 3: Vượt qua cây cầu nguyên tắc. Có những nguyên tắc thần học nào trong đoạn Kinh
Thánh này?
Bởi vì dòng sông này hẹp nên chuyển qua bước 3 không khó. Thông thường câu
châm ngôn đã được lập nguyên tắc trong chính các từ của nó. Tuy nhiên hãy nhớ những cảnh
báo về việc giải nghĩa sai những châm ngôn như những lời hứa phổ thông và thường xuyên.
Chúng ta phải giữ những ngoại lệ từ những sách khôn ngoan khác trong đầu và chúng ta phải
271
nhắc lại rằng những nguyên tắc từ sách Châm ngôn là những hướng dẫn để phát triển nhân cách
và để giúp chọn lựa trong cuộc sống. Những nguyên tắc thường là đúng nhưng không phải lúc
nào cũng phổ thông như vậy.
Bước 4: Chuyển vào Tân Ước. Lời dạy trong Tân Ước có bổ sung hay thỏa mãn nguyên tắc
này không và nếu có thì như thế nào?
Nhiều chủ đề trong sách Châm ngôn tương tự được phản ánh trong Tân Ước (sự
khiêm nhường, quan tâm đến người nghèo, cảnh báo về sự tranh cạnh, và những lời nói ngu dại,
lẽ thật, làm việc chăm chỉ, ích kỷ và quan tâm cho nhưng người khác, sống công bình thay vì
gian ác…) và những nguyên tắc từ trong các câu của Châm ngôn liên quan đến những chủ đề này
được chuyển sang phần Tân Ước mà không có sự thay đổi nào.
Tuy nhiên chủ đề về sự giàu có như là phước hạnh từ Đức Chúa Trời có một chút
thay đổi trong Tân Ước. Châm ngôn khuyên người giàu giúp đỡ người nghèo và Tân Ước cũng
lặp lại thái độ này. Tuy nhiên Cựu ước nói chung và Châm ngôn nói riêng trình bày sự giàu có
vật chất là một phước hạnh đến từ Đức Chúa Trời và phần thưởng cho đời sống công bình.
Nhưng trong Tân Ước phước hạnh giàu có trở thành phước hạnh lai thế, tức là phước hạnh được
hưởng trong đời sau. Chúa Giê-xu khuyên trong Ma-thi-ơ 6:20: “Hãy thâu chứa của cải các
ngươi ở trên trời”
Kiểu mẫu của giao ước Cựu ước cho rằng phần thưởng vật chất cho sự tin kính không
bao giờ tái hiện trong lời dạy của Chúa Giê-xu và hoàn toàn đối lập với lời dạy của Ngài. Tương
tự, Phao-lô trong các thơ tín của mình hứa nhiều phước hạnh cho những người phục vụ Chúa
nhưng không nơi nào ông hứa sự giàu có vật chất như là một phước hạnh. Thực tế Tân Ước cảnh
báo chúng ta rằng đi theo Chúa Giê-xu có thể sẽ bị mất sự giàu có vật chất trên đất. Vì vậy chúng
ta không thể chấp nhận từ sách Châm ngôn rằng trung tín với Đức Chúa Trời sẽ nhận được sự
giàu có vật chất và áp dụng trực tiếp đến các tín hữu Tân Ước như một loại thần học “sức khỏe
và giàu có”.
Bước 5: Nắm bắt được phân đoạn Kinh Thánh trong thời của chúng ta. Từng Cơ Đốc
Nhân ngày nay áp dụng nguyên tắc thần học đó trong đời sống của mình như thế nào?
Hãy nhớ rằng một trong những mục tiêu của sách khôn ngoan là để phát triển nhân
cách. Vì vậy, chúng ta quan tâm đến sách Châm ngôn khuyên ta phải làm điều gì, nhưng điều
quan trọng hơn là đoạn Kinh Thánh đó bảo chúng ta phải trở thành con người như thế nào. Khi
tính cách của chúng ta thay đổi thì hành vi cũng thay đổi theo.
Ví dụ có nhiều câu châm ngôn dạy chúng ta phải nói nhẹ nhàng, dùng lời nói của
mình để làm phương tiện chữa lành những mối quan hệ chứ không phải là phương tiện để làm
tổn thương người khác (Châm-ngôn 12:18,25; 15:4). Ví dụ Châm-ngôn 15:1 nói rằng:
272
Lời đáp êm nhẹ làm nguôi cơn giận;
Còn lời xẳng xớm trêu thạnh nộ thêm.
Dòng sông ở đây hẹp và nguyên tắc cho chúng ta cũng giống như cho các độc giả cổ.
Chúng ta nên nói dịu dàng chứ không nạt nộ, đặc biệt trong tình huống khó khăn. Tân Ước tái
khẳng định tầm quan trọng của sự dịu dàng và kiểm soát lời nói của mình (Ê-phê-sô 4:2; Gia.
1:19-26). Để áp dụng, mỗi chúng ta nên kiểm tra lại những thói quen nói của mình và phản ứng
của mình trong tình huống khó chịu. Lời nói dịu dàng có phải là đặc tính của đời sống của bạn
không? Những người bạn của bạn nói gì? Cha mẹ? Vợ/chồng? con cái? Hiểu được đoạn Kinh
Thánh có nghĩa là chúng ta phải nỗ lực thay đổi tính cách của mình để tốt hơn.
Dĩ nhiên chúng ta cần cầu nguyện và tìm kiếm sức mạnh của Thánh Linh để giúp
chúng ta tiến bộ trong một lĩnh vực khó khăn nào đó trong đời sống của chúng ta. Có điều quan
trọng nữa là chúng ta sử dụng những nguyên tắc trong những câu như Châm 15:1 để tạo nên hình
ảnh trong tư tưởng của chúng ta về điều chúng ta muốn trở thành. Để phát triển sự dịu dàng trong
lời nói, chúng ta phải thiết lập mục tiêu và sau đó nỗ lực đạt mục tiêu đó, nhận ra rằng chúng ta
không thật sự sống khôn ngoan cho đến khi câu này xác định tính cách của chúng ta.
Gióp
Câu chuyện của Gióp là một câu chuyện nổi tiếng trong Kinh thánh. Mọi người qua
nhiều thế kỷ đều có liên hệ đến sách này vì nó liên quan một cách thành thật đến sự đau khổ.
Thực tế mọi người trên thế giới này, ngay cả con cái Đức Chúa Trời, cũng có lần đối diện với bi
kịch cuộc đời. Tại sao có nhiều người yêu mến Chúa, năng động phải qua đời vì một tai nạn ô tô?
Câu hỏi cứ lẩn quẩn trong đầu của nhiều người: “làm sao chúng tôi hiểu được những điều vừa
xảy ra?” Vì những tình huống này mà sách Gióp được viết ra.
Như đã đề cập ở trên, sách Gióp là một đối chiếu mạnh mẽ với sách Châm ngôn.
Trong sách Châm ngôn, thế giới có trật tự và lý trí. Nếu chúng ta phục sự Đức Chúa Trời cách
trung tín, làm việc siêng năng và đối xử với người khác đúng mực, chúng ta sẽ được phước và
thạnh vượng. Dầu vậy, kinh nghiệm của Gióp đối lập với sách Châm ngôn. Ông đã làm tất cả
những điều Châm ngôn đòi hỏi nhưng thay vì nhận được phước hạnh, ông bước vào thế giới ác
mộng khi tất cả con cái chết, tài sản mất hết, đau đớn thể chất đến cùng cực và bị bạn bè chỉ trích.
Hầu hết thời gian chúng ta sống trong Châm ngôn nhưng có những lúc không tránh khỏi chúng ta
sống trong trường hợp của Gióp.
Mặc dầu câu chuyện của Gióp nổi tiếng nhưng để hiểu được nó không phải là dễ
dàng. Những nguyên tắc học được từ trong sách này không nổi lên bề mặt như trong sách Châm
ngôn. Sách Gióp có phần nhạy cảm hơn. Nên nhớ là sách này dài đến bốn mươi hai chương nên
có nhiều tư liệu liên quan.
Điều quan trọng hơn hết trong vấn đề giải kinh và áp dụng là bối cảnh văn chương.
Sách Châm ngôn chứa đựng phần lớn những câu châm ngôn ngắn và không liên quan. Ngược lại,
273
sách Gióp là một câu chuyện. Sách Gióp có hành động, có chuỗi thời gian và có bố cục. Khi
chúng ta tìm cách hiểu những đoạn Kinh thánh trong đó, điều quan trọng là những phân đoạn
nhỏ hơn đó phải được đặt vào bối cảnh của toàn bộ câu chuyện. Một sai lầm lớn trong giải kinh
nếu chúng ta đem những câu trong sách Gióp ra khỏi bối cảnh của nó và cố gằng giải nghĩa
chúng như chúng ta giải nghĩa những câu độc lập trong sách Châm ngôn. Dầu sách này khá dài
nhưng câu chuyện không quá phức tạp và có thể được lập dàn ý như sau:
1:1-2:10: Gióp gặp hoạn nạn. Hai chương đầu trong thể chuyện kể. Vì Sa-tan thách
thức (và Gióp không hề biết), Đức Chúa Trời cho phép Sa-tan cất đi tất cả phước hạnh trong
cuộc đời của Gióp. Gióp mất hết con cái và sự giàu có vật chất. Hơn nữa, Gióp bị ghẻ lở đầy
người. Vợ Gióp chỉ trích ông nhưng ông vẫn một mực trung tín với Chúa. Ông nói: “Sự phước
mà tay Đức Chúa Trời ban cho chúng ta, chúng ta lãnh lấy, còn sự tai họa mà tay Ngài giáng trên
chúng ta, lại chẳng lãnh lấy sao?”
2:11-37:24: Gióp và các bạn tìm giải đáp theo lý trí nhưng không thành công.
Những chương này dài nhưng ít được biết đến nhất. Cũng để ý rằng tác giả chuyển qua phần thơ
ca trong phần này thay vì chuyện kể. Trong phần này, Gióp và các bạn của ông tìm cách giải
thích sự đau đớn này. Họ cố gắng giải thích hoàn cảnh của Gióp. Trong 2:11-31:40 Gióp biện
luận cùng ba người bạn của mình (Ê -li-pha, Binh đát và Sô-pha), tất cả những người này là
những người khôn ngoan tìm cách áp dụng sự khôn ngoan cho những sự kiện của cuộc sống. Họ
nhìn thấy sự đau khổ của Gióp có vẻ xuất phát từ thần linh. Vì Đức Chúa Trời là đạo đức và
ngay thẳng nên rõ ràng Gióp đang bị Đức Chúa Trời đoán phạt vì tội lỗi nào đó. Họ lên án ông
điều này và khuyên ông nên ăn năn.
Tuy nhiên Gióp biết ông không có phạm tội lỗi nào. Ô ng bối rối về hành động của
Đức Chúa Trời và căng thẳng vì lời kết tội của các bạn của ông. Gióp trở nên cay đắng và chất
vấn Đức Chúa Trời về sự bất công trong cách Ngài cai trị vũ trụ. Ô ng yêu cầu một ngày ra hầu
trước tòa của Chúa và đứng trước mặt Đức Chúa Trời để trình bày duyên cớ vô tội của ông.
Trong 32:1-37:24, một người bạn khác của ông (Ê-li-hu) dùng sự khôn ngoan của mình để khẳng
định rằng Gióp nên nghi ngờ sự công bằng của Đức Chúa Trời. Ê -li-hu biện luận rằng: “Ngài báo
ứng loài người tùy công việc mình làm, Khiến mỗi người tìm được lại chiếu theo tánh hạnh
mình.” (34:11).
38:1-42:6: Đức Chúa Trời trả lời duyên cớ của Gióp. Trong những chương trước
Gióp yêu cầu Đức Chúa Trời phải lắng nghe ông hỏi về những gì đang xảy ra và cách Ngài vận
hành vũ trụ. Trong phần này, Đức Chúa Trời xuất hiện và lắng nghe ông trước quan tòa thiêng
liêng, nhưng ông sớm nhận ra rằng Đức Chúa Trời là Đấng hỏi ông mọi câu hỏi chứ không phải
trả lời. “Gióp, con biết gì về sự vận hành vũ trụ?” Đức Chúa Trời hỏi có tính mỉa mai. Đức Chúa
Trời không trả lời cho duyên cớ trước đây của ông nhưng nhấn mạnh đến sự hiểu biết và sức
mạnh thiêng liêng vô hạn của Ngài ngược lại với những hạn chế của con người nhỏ bé của Gióp.
Gióp nhận ra sai lầm lớn của mình và ông ăn năn. Phần này cũng là phần thơ ca.
42:7-17: Bạn của Gióp bị quở trách và Gióp được phục hồi. Phong cách văn chương
quay lại với chuyện kể, do đó cân bằng với phần mở đầu. Đức Chúa Trời quở trách ba người bạn
của Gióp và từ đó, Gióp được binh vực trước mặt họ. Dầu vậy, Ngài bỏ qua Ê-li-hu (32:1-37:24),
tha cho ông mà không ý kiến gì. Gióp sau đó được phục hồi nhưng Đức Chúa Trời chưa bao giờ
giải thích cho ông lý do cho toàn cảnh của câu chuyện.
274
Chúng ta đã học về phần giới thiệu của sách này và tổng quan về bối cảnh văn
chương. Chúng ta cùng xem sách Gióp trong ánh sáng của Hành Trình Giải Kinh.
Bước 1: Nắm bắt được đoạn Kinh Thánh trong thời xưa. Đoạn Kinh Thánh này có ý nghĩa
gì đối với những độc giả trong thời Kinh Thánh?
Hãy bảo đảm là bạn đã đặt đoạn Kinh Thánh bạn đang học vào bối cảnh văn chương
thích hợp chưa. Chú ý vai trò mà đoạn Kinh Thánh riêng biệt này đang có bên trong tổng thể câu
chuyện. Điều quan trọng phải nhớ là những bài học trọng tâm của sách này không rõ ràng cho
đến hai phần cuối (38:1-42:17). Chính Đức Chúa Trời công bố những bài học này. Những bài
học đó đối lập với lời chỉ trích của Gióp và các người bạn của ông ở phần giữa sách. Hầu hết
những đoạn trong phần giữa sách phản ánh sự tìm kiếm sai lệch của Gióp và các bạn. Đừng giải
nghĩa phần tìm kiếm sai lạc này như là bảng chỉ dẫn cho chúng ta. Luôn nhớ rằng thần học của
thời đó tương tự với thời của Châm ngôn, do đó sách này nên có thể làm cho các độc giả đầu tiên
bị sốc. Nhưng nhiều bài học nổi lên trong câu chuyện này.
Trước hết, có nhiều bài học có thể học được từ những người bạn sai lệch của Gióp.
Họ cố gắng giải thích sự đau khổ bằng cách áp dụng sai sự khôn ngoan truyền thống. Họ giả định
hai điều: (1) qua sự khôn ngoan họ có thể tìm được tất cả thông tin họ cần để phân tích vấn đề;
(2) qua sự khôn ngoan và dựa trên thông tin này, họ có thể hiểu đúng vấn đề. Cả hai giả định
trên đều sai. Từ đó, giới hạn của sự khôn ngoan lộ diện. Vì giả định sai nên những người bạn
tiếp tục mắc phải sai lầm khác. Họ đánh giá quá cao về sự hiểu biết lẽ thật của mình và áp dụng
sai lẽ thật họ biết và xoay mặt khỏi những sự kiện mâu thuẫn với những gì họ giả định.
Sau vài lời cảm thông, các người bạn của Gióp đặt mình lên trên Gióp và sự đau khổ
của ông. Họ không tìm cách để an ủi ông nhưng tìm cách để giải thích. An ủi và giải thích là hai
điều hoàn toàn khác nhau. Thần học căn bản của những người bạn này không tệ lắm nhưng sự áp
dụng của họ không đúng. Những người bạn là những gương mẫu tiêu cực cho độc giả. Nhiều
điều họ nói là đúng nhưng họ nói điều đó ở sai thời điểm và áp dụng nó sai tình huống.
Cũng có những bài học mà dân Y-sơ-ra-ên cổ cần học từ chính Gióp, đặc biệt qua
cuộc đối thoại cuối cùng giữa ông với Đức Chúa Trời. Gióp và các bạn không những tìm giải
đáp sai mà còn hỏi những câu hỏi sai. Đức Chúa Trời chỉ cho Gióp thấy rằng ông không phải là
cái rún của vũ trụ. Ô ng chỉ là một phần của sự sáng tạo nhiệm mầu – một vật thọ tạo như Gióp
không thể hiểu được như Đức Chúa Trời hiểu. Do đó, từ Gióp độc giả cổ học được rằng họ
không thể lấn át vai trò của Đức Chúa Trời trên thế giới này. Vài nguyên tắc được tìm thấy cho
độc giả này: (1) Đức Chúa Trời là Đấng tể trị còn họ thì không phải, (2) Đức Chúa Trời biết mọi
sự còn họ biết một chút, (3) Đức Chúa Trời luôn luôn công bằng nhưng Ngài không cần phải giải
thích cho họ và (4) Đức Chúa Trời mong đợi họ tin cậy vào bản chất và quyền tể trị của Ngài khi
sự đau khổ không diễn tả được tấn công.
275
Một điều quan trọng nữa là Đức Chúa Trời quở trách Gióp một cách nhẹ nhàng trong
Gióp 38-41. Sau đó trong 42:7 Ngài phán với ba người bạn rằng họ “bởi vì các ngươi không có
nói về ta cách xứng đáng, y như Gióp, kẻ tôi tớ ta, đã nói”. Đức Chúa Trời dường như không
buồn với sự thắc mắc, thách thức của Gióp. Nhưng Ngài dường như nặng tay với ba người bạn
đã giải thích sai sự đau khổ của Gióp như là một sự hình phạt vì tội lỗi và vì cố gắng giải thích
thay vì an ủi.
Bước 2: Đo được chiều rộng của dòng sông. Có những sự khác biệt nào giữa độc giả thời
Kinh Thánh với chúng ta?
Trong bước này, chúng ta không nhận thấy nhiều khác biệt giữa độc giả thời Kinh
Thánh với chúng ta. Đúng vậy, chúng ta đang ở dưới những giao ước khác nhau nhưng những
giao ước có thể bỏ qua trong sách Gióp. Chúng ta vẫn có cùng mong muốn giải thích đơn giản và
hợp lý cho tất cả nhưng điều kinh khủng đang xảy ra và chúng ta có khuynh hướng áp dụng sai
thần học của sách Châm ngôn giống như các bạn của Gióp. Chúng ta không thể giả định rằng tất
cả những đau khổ là do Sa-tan đem đến và do đó, chúng ta khác với thời của Gióp. Dầu vậy,
Gióp cũng không biết nguồn cội của sự đau khổ của mình. Chúng ta cũng có thể không biết được.
Bước 3: Vượt qua cây cầu nguyên tắc. Có những nguyên tắc thần học nào trong đoạn Kinh
Thánh này?
Có nhiều nguyên tắc chung được liệt kê trong bước 1. Những nguyên tắc đó như vầy:
1. Đức Chúa Trời tể trị còn chúng ta thì không.
2. Đức Chúa Trời biết mọi điều còn chúng ta biết một chút.
3. Đức Chúa Trời luôn luôn công bình nhưng Ngài không cần giải thích cho chúng ta.
4. Đức Chúa Trời mong chúng ta tin cậy vào bản chất và quyền tể trị của Ngài khi những
đau khổ không lý giải được xảy ra.
Bước 4: Chuyển vào Tân Ước. Lời dạy trong Tân Ước có bổ sung hay thỏa mãn nguyên tắc
này không và nếu có thì như thế nào?
Như được đề cập trong phần thảo luận về sách Châm ngôn, Tân Ước không lặp lại
bức tranh Cựu Ước về sự bình an và thịnh vượng do đời sống công bình. Thực tế Tân Ước báo
trước trong nhiều nơi rằng những người sống trong sự vâng phục Đấng Christ sẽ chịu bách hại.
Chúa Giê-xu báo trước cho các môn đệ của Ngài: “Mọi người sẽ ghen ghét các ngươi…Khi các
người bị bách hại trong nơi này hãy lánh qua nơi khác…Đừng sợ kẻ giết được thân thể mà không
giết được linh hồn” (Ma-thi-ơ 10:22,23,28).
Tương tự hãy xem phần thưởng mà Phao-lô nhận được nhờ trung tín phục vụ: “năm lần bị người
Giu-đa đánh roi, mỗi lần thiếu một roi đầy bốn chục; ba lần bị đánh đòn; một lần bị ném đá; ba
lần bị chìm tàu. Tôi đã ở trong biển sâu một ngày một đêm.” (II Cô-rinh-tô 11:24-25). Phao-lô
cũng trải qua nhiều năm trong tù và truyền thống kể lại rằng cuối cùng ông bị người La mã xử tử.
276
Do đó, không giống như Cựu Ước, Tân Ước trình bày sự đau khổ như là một đặc điểm bình
thường của một đời sống thánh khiết. Gia-cơ cũng trích Gióp như là một gương mẫu về sự đau
khổ, kiên trì (Gia-cơ. 5:11).
Hơn nữa, Tân Ước dạy rằng tín hữu công bình làm vinh hiển Đức Chúa Trời qua việc
chịu đựng sự khổ nạn bất công. Phao-lô cũng nhắc chúng ta rằng chúng ta chiến thắng sự đau
đớn và khổ nạn qua kinh nghiệm tình yêu của Đấng Christ (Rô-ma 8:35-39). Cũng nhớ những lời
của Phi-e-rơ cho những người làm tôi mọi trong I Phi-e-rơ 2:19-21:
19 Vì nhân cớ lương tâm đối với Đức Chúa Trời, mà chịu khốn nạn trong khi bị oan ức, ấy
là một ơn phước. 20 Vả, mình làm điều ác, bị đánh mà hay nhịn chịu, thì có đáng khoe gì:
Nhưng nếu anh em làm lành, mà nhịn chịu sự khốn khó, ấy là một ơn phước trước mặt Đức
Chúa Trời. 21 anh em đã được kêu gọi đến sự đó, vì Đấng Christ cũng đã chịu khổ cho anh
em, để lại cho anh em một gương, hầu cho anh em noi dấu chân Ngài;
Hãy cẩn thận đừng lặp lại những sai lầm của những người bạn của Gióp và dùng sai
lẽ thật, có lẽ gieo thêm đau đớn cho một người bạn hơn là an ủi. Xem Rô-ma 8:28: “Chúng ta
biết rằng mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời, tức là cho kẻ được gọi theo ý
muốn Ngài đã định.” Thật là một sự vô cảm kinh khiếp nếu chúng ta nói với cặp vợ chồng có
đứa con bốn tuổi bị một gã say rượu tông chết rằng mọi sự hiệp lại là tốt lành rồi trích câu này
cho họ. Cuối cùng những người gặp hoạn nạn sẽ hiểu được khía cạnh về quyền tể trị của Đức
Chúa Trời. Nhưng đánh vào những người này bằng câu Kinh thánh này giữa nỗi đau của họ như
thế giải pháp này giải đáp thắc mắc của họ và xoa dịu vết đau của họ. Nhưng vô hình chung
chúng ta đang đi đúng con đường của ba người bạn của Gióp. An ủi khác hoàn toàn với giải
thích. Khi những người bạn của bạn gặp sự đau thương không nói hết được thì nhiệm vụ của bạn
là đau và khóc với họ. Trách nhiệm của chúng ta là an ủi những người đang tổn thương được tái
khẳng định trong Tân Ước, đặc biệt trong những đoạn Kinh Thánh như II Cô-rinh-tô 1:3-8.
Bước 5: Nắm bắt được phân đoạn Kinh Thánh trong thời của chúng ta. Từng Cơ Đốc
Nhân ngày nay áp dụng nguyên tắc thần học đó trong đời sống của mình như thế nào?
Khi mọi thứ dường như sụp đổ thì sách Gióp đóng vai trò như là nơi nương náu và
một lời an ủi. Nó nói với chúng ta rằng không sai khi kêu la trong giận dữ và bối rối với Đức
Chúa Trời. Nó nói với chúng ta rằng có thể không có câu trả lời trong lĩnh vực con người cho
câu hỏi “tại sao?” Hướng nỗi đau của mình vào Đức Chúa Trời và bản chất của Ngài thay vì vào
tại sao. Nhận biết rằng chúng ta không hiểu sự đau khổ nên chúng ta chỉ biết tin cậy vào khả
năng của Đức Chúa Trời vận hành vũ trụ và tái khẳng định rằng trong thế giới sắp tới những đau
khổ như thế này sẽ không xảy ra.
Như đã đề cập ở trên, một lĩnh vực khác của sự áp dụng là an ủi những người đang
trong cơn đau đớn. Chúng ta nên đau với họ. Chúng ta nên nhận biết như Gióp rằng sự hiểu biết
của chúng ta về vũ trụ có hạn. Do đó, chúng ta nên tránh giải thích hay cố gắng hiểu những sự
277
kiện đau buồn. Vai trò của chúng ta là chia xẻ nỗi đau và nhắc lại cho người bạn qua hành động
của chúng ta rằng chúng ta, cũng như Đấng Cứu Chuộc của họ, yêu họ sâu xa và cảm thấy đau
đớn nữa.
Truyền Đạo
Sách Truyền Đạo tương tự với sách Gióp là để phân tích được những phần nhỏ hơn
của sách này thì chúng ta phải xem xét bối cảnh văn chương của toàn sách. Sách Truyền Đạo
phải được giải nghĩa một cách tổng thể. Sách này không phải là một bộ sưu tầm của các chỉ dẫn
về cuộc sống giống như sách Châm ngôn. Nhưng sách này là một sự tìm kiếm ý nghĩa trí tuệ
trong cuộc sống. Hầu hết những sự tìm kiếm này là hư không; ý nghĩa thật không được tìm thấy
cho đến cuối sách này. Do đó, giải nghĩa của bất cứ phần nào của sách này phải được hiểu trong
ánh sáng của toàn bộ và câu trả lời tối thượng nằm trong phần cuối cùng.
Nhân vật tự giới thiệu trong sách Truyền Đạo được gọi là “người truyền đạo”. Bằng
cách sử dụng những công cụ khôn ngoan (phản ánh nghiêm túc, lý trí và logic), ông đã nỗ lực
phân tích chính cuộc đời và nắm bắt được ý nghĩa của sự tồn tại của mình. Sách này trình bày
những quan sát về cuộc đời, sau đó bình luận và kết luận. Sách Truyền đạo đầy dẫy thuật châm
biếm. Từ đầu cho đến cuối, giọng điệu mang bản chất hoài nghi và cay đắng.
Một trong những từ then chốt ở đây là “hư không”. Từ này trong nguyên nghĩa tiếng
Hê-bơ-rơ là hebel – xảy ra ba mươi tám lần (năm lần chỉ trong 1:2). Từ này thường được dùng để
mô tả hơi thở hay hơi nước –những chất trông có vẻ như rờ được nhưng thực tế thì không.
Truyền-đạo 1:2 thiết lập giọng điệu hoài nghi của sách này. Nhà Truyền Đạo khám phát ra rằng
nếu một người cố gắng hiểu cuộc đời bằng lý trí thì ý nghĩa của cuộc đời giống như hơi nước, ảo
tưởng của một thực tế không tồn tại.
Sau phần đầu tóm tắt ngắn gọn về sự hư không, nhà Truyền Đạo bắt đầu chất vấn về
ý nghĩa. Wright tóm tắt sáu chương đầu như sau:
Mục đích của cuộc đời có thể được tìm thấy trong tự nhiên, tiền bạc, sự dung túng,
của cải, địa vị, sự thông minh, triết lý và những lễ nghi tôn giáo không? Rõ ràng một
vài điều đang đeo đuổi này tốt hơn những cái khác, nhưng tất cả vấp phải sự phản
kháng không thích hợp để làm giải pháp cho vấn đề cuộc sống. Thế giới không có bí
quyết của chính nó.9
Nhà Truyền Đạo sau đó khai phá bản chất và giới hạn của chính sự khôn ngoan
(Ch. 7-11), Ô ng kết luận trong 8:17: “cũng thấy mọi công việc của Đức Chúa Trời, và hiểu
biết người ta không thể dò được mọi việc làm ra dưới mặt trời, dầu chịu cực nhọc ngần nào
đặng tìm biết, cũng chẳng tìm được; và dầu cho người khôn ngoan tưởng rằng sẽ chắc biết,
thì cũng chẳng tìm được.” Nhà Truyền Đạo gợi ý rằng dù con người không thể hiểu được
cuộc đời nhưng cũng nên hưởng lấy nó. Nhà Truyền Đạo tiếp theo than khóc cho một điều
rằng số phận chung về sự chết thống trị tất cả, cả người công bình lẫn gian ác. Ô ng không
cho sự khôn ngoan là vô giá trị nhưng ông cho rằng khôn ngoan tốt hơn ngu muội. Nhưng
sự khôn ngoan bị giới hạn và hư không khi nó làm phương tiện để hiểu được điều cao cả.
9 J. Stafford Wright, “Ecclesiates”, Expositor’s Bible Commentary, ed. F. Gaebelein (Grand Rapids: Zondervan, 1991),
5:1145.
278
Cuối cùng trong chương 12, nhà Truyền Đạo kết luận: “Khá kính sợ Đức Chúa Trời và giữ
các điều răn Ngài” ám chỉ rằng sự vâng lời Đức Chúa Trời là tốt hơn những đeo đuổi liên
tục sự hiểu biết.
Bước 1: Nắm bắt đoạn Kinh Thánh trong thời đó
Quyển sách lạ lùng này có ý nghĩa gì với độc giả thời Kinh Thánh? Ba kết luận nổi
lên trong sự tìm kiếm của người Truyền đạo:
1. Ngoài Đức Chúa Trời, cuộc đời vô nghĩa. Sự khôn ngoan không phải là xấu, nhưng nó
không đem ý nghĩa cho cuộc đời.
2. Sự khôn ngoan không giải thích những mâu thuẩn của cuộc đời; nó chỉ chỉ ra những mâu
thuẫn đó. Do đó con người chỉ đơn giản tin cậy Đức Chúa Trời (giống ý nghĩa của Gióp).
3. Do đó, cuộc đời không thể hiểu trọn vẹn được nhưng vẫn là một món quà mà con người
có thể thưởng thức (tương tự như Nhã ca).
Hầu hết những câu châm ngôn mà nhà Truyền Đạo trích dẫn, những phản ảnh mà ông
chia xẻ, những quan sát mà ông thấy được hay những kinh nghiệm mà ông thảo luận đều chỉ ra
một trong ba kết luận này.
Bước 2: Đo được chiều rộng của dòng sông. Có những sự khác biệt nào giữa độc giả thời
Kinh Thánh với chúng ta?
Khuynh hướng tìm kiếm ý nghĩa thông qua con đường tri thức cũng phổ biến trong
thời đại của chúng ta, do đó về vấn đề này dòng sông không quá rộng. Nhu cầu con người tìm ý
nghĩa trong cuộc đời và những nỗ lực hư không của chúng ta để tìm ý nghĩa qua sự giàu có, vui
chơi, công việc, triết lý và vân vân cũng khá phổ biến, do đó dòng sông cũng khá cạn ở điểm này
nữa.
Tuy nhiên, có một sự khác biệt quan trọng đang tồn tại. Nhà Truyền đạo dường như
hiểu biết giới hạn về sự chết mà không có ý niệm về đời sau. Ngược lại, chúng ta là Cơ Đốc
Nhân, sống với niềm tin chắc về sự phục sinh. Tương tự, nhà Truyền đạo chỉ quan tâm đến ý
nghĩa liên quan chỉ đời này. Là tín hữu Tân Ước, chúng ta biết rằng ý nghĩa cho con người được
gắn với vương quốc của Đấng Christ và có chiều kích quan trọng về phần thuộc linh chứ không
phải chỉ thể chất. Hãy nhớ rằng chúng ta đang ở dưới một giao ước khác. Kết luận của nhà
Truyền đạo: “khá kính sợ Đức Chúa Trời và giữ các điều răn Ngài” sẽ có những sắc thái khác
với chúng ta là người biết Chúa Giê-xu Christ và do đó, ở dưới giao ước mới.
Bước 3: Vượt qua cây cầu nguyên tắc. Có những nguyên tắc thần học nào trong đoạn Kinh
Thánh này?
279
Bởi vì dòng sông này hẹp nên những nguyên tắc thần học có thể được phát triển từ
những bản kinh văn khác nhau trong sách Truyền đạo tương tự với những nguyên tắc được liệt
kê trong Bước 1.
Bước 4: Chuyển vào Tân Ước. Lời dạy trong Tân Ước có bổ sung hay thỏa mãn nguyên tắc
này không và nếu có thì như thế nào?
Tân Ước nhấn mạnh rằng mối quan hệ với Đức Chúa Trời ở dưới giao ước mới phải
tập trung vào cuộc đời, sự chết và sự sống lại của Con Ngài, Chúa Giê-xu Christ. Do đó, tất cả
cuộc sống bên ngoài Chúa Giê-xu Christ đều hư không và vô nghĩa. Do đó, kết luận đầu tiên
trong bước 1 ở trên nên được được bổ sung: “Ngoài mối quan hệ với Chúa Giê-xu Christ, cuộc
đời vô nghĩa. Tư duy trí tuệ, logic không xấu nhưng nó không đem ý nghĩa đến cho cuộc đời”.
Tương tự như đã thảo luận trong Bước 2, ngược lại với sự hiểu biết của nhà Truyền
đạo phản ảnh trong sự tìm kiếm của mình, Tân Ước trình bày một bức tranh rõ ràng về một đời
sau vinh hiển, đắc thắng khi mà mọi sai trật đều được sửa lại và mọi đau khổ sẽ trôi qua. Do đó,
bắt buộc chúng ta phải nhìn thấy tính hoài nghi và cay đắng của nhà Truyền đạo như là kết quả
của phần hư không của sự tìm kiếm của ông và không như phần của những nguyên tắc cuối cùng.
Chẳng có điều gì cay đắng hay hoài nghi trong Phúc  m!
Như bạn đã chú ý, sách Gia-cơ nói nhiều về những vấn đề đến từ văn chương khôn
ngoan Cựu ước. Chắc chắn, Gia-cơ suy nghĩ nhiều từ những sách khôn ngoan Cựu Ước, trong đó
có sách Truyền Đạo. Gia-cơ nghe có vẻ giống như nhà Truyền Đạo khi ông quở trách những
người đi lệch khi cho rằng giàu có là phương tiện bảo đảm cho tương lai (Gia-cơ 5:1-6). Chắc
chắn, Gia-cơ đang liên hệ ý niệm của hebel (hơi nước, hơi thở) khi ông viết: “Sự sống của anh
em là chi? Chằng qua như hơi nước hiện ra một lát rồi lại tan đi” (4:14).
Bước 5: Nắm bắt được phân đoạn Kinh Thánh trong thời của chúng ta. Từng Cơ Đốc
Nhân ngày nay áp dụng nguyên tắc thần học đó trong đời sống của mình như thế nào?
Hầu hết chúng ta cần được thường xuyên nhắc nhở rằng: ngoài mối quan hệ với Chúa
Giê-xu Christ, cuộc đời là vô nghĩa”. Thế giới xung quanh chúng ta (phim ảnh, TV, văn chương)
đều cho chúng ta ảo tưởng (hebel) rằng ý nghĩa có thể được tìm thấy trong giáo dục, công việc,
sự giàu có hay giải trí. Nhà Truyền Đạo chỉ ra rằng tìm kiếm những điều đó đem đến sự vô nghĩa
của cuộc đời. Chỉ có mối quan hệ với Đấng Tạo Hóa mới ban cho chúng ta ý nghĩa thật. Chúng
ta, là tín hữu, phải tập trung cuộc đời mình vào khía cạnh này của cuộc đời trong việc tìm kiếm ý
nghĩa cho cuộc đời của chúng ta.
280
Nhã Ca
Sách Nhã Ca có lẽ là một trong những sách gây sốc nhất trong Kinh Thánh bởi vì nó
nói cởi mở và vui thích về tình dục của con người. Nó thật ra là một bản sưu tầm của những lá thư
tình giữa một chàng thanh niên và cô thiếu nữ (được gọi là Su-la-me).
Không giống như sách Châm ngôn, sách Nhã Ca được cấu trúc theo ba đơn vị logic:
Nơi công đường (:2-3:5), Đám Cưới (3:6-5:1) và cuộc sống của Tình yêu (5:2-8:14). Trong một
số phần người nam và người nữ đang diễn tả tình yêu của họ đối với nhau; trong những phần
khác, chúng diễn tả vẻ đẹp của người dối diện. Người nữ, người nói hầu hết trong phần này, cũng
diễn tả giấc mơ mà cô mơ về người chồng của mình khi người đi xa và chia xẻ nỗi nhớ của mình.
Sách này có tính cảm xúc cao và đầy những hình ảnh tượng hình như người nam và người nữ
dùng một loạt so sánh đầy màu sắc để diễn tả người tình tuyệt vời của mình và tình yêu hoang
dại mà họ có với nhau.
Qua nhiều năm, Hội thánh cũng gặp nhiều khó khăn trong việc giải nghĩa và áp dụng
một sách bất thường như thế này. Bắt đầu từ thế kỷ thứ ba S.C. và tiếp tục qua lịch sử của Hội
Thánh, hướng giải nghĩa chủ đạo cho sách Nhã Ca là giải nghĩa nó theo nghĩa bóng. Nên nhớ
rằng sau thời các sứ đồ và trước thời cải chánh (thế kỷ 16), hầu hết các nhà giải kinh là những
thầy tu, thầy tế lễ độc thân. Chúng ta nghĩ rằng họ gặp khó khăn trong việc liên hệ khía cạnh
nghĩa đen của sách này. Hơn nữa, hội thánh đầu tiên thường dùng phương pháp nghĩa bóng để
giải nghĩa những sách Cựu Ước khác. Vì họ muốn tìm thấy Đấng Christ trong từng đoạn Kinh
Thánh, họ bỏ qua nghĩa đen và bối cảnh văn chương và thiêng liêng hóa tất cả các đoạn Kinh
Thánh Cựu Ước.
Do đó, người nam và người nữ trong sách Nhã Ca trở thành biểu tượng của Đấng
Christ và hội thánh (xem Ê-phê-sô 5:23-33) và như thế sách này bị chuyển từ một sách khôn
ngoan về tình yêu và hôn nhân sang một hướng thần học về tình yêu của Đấng Christ cho nàng
dâu mình là hội thánh. Điều này chắc chắn khiến cho sách này dễ giảng hơn vào sáng Chúa nhật.
Âm hưởng của giải kinh theo nghĩa bóng vẫn vang vọng đâu đây, đặc biệt trong những bài hát.
Thực sự nhiều Cơ Đốc Nhân ngày này hát những dòng tương tự: “Người đưa tôi vào phòng yến
tiệc, Ngọn cờ người phất trên tôi ấy là ái tình” (2:4) và họ giải nghĩa “người” ở đây chỉ về Đấng
Christ. Đây là một sự giải nghĩa khác nhiều so với bối cảnh của sách Nhã Ca 2.
Dầu vậy, khi chúng ta đọc kỹ sách này và chú ý đến bối cảnh, thì phương pháp giải
nghĩa bóng dành cho sách Nhã Ca không còn phù hợp nữa. Các học giả ngày nay loại bỏ phương
pháp giải kinh theo nghĩa bóng. Cơ Đốc Nhân ngày nay cũng công nhận rằng tình dục trong hôn
nhân là một phần lớn của cuộc sống và nếu văn chương khôn ngoan muốn nói đến những vấn đề
lớn của cuộc sống thì chúng ta không nên bỏ qua (hay bị sốc) khi nhìn thấy một thảo luận rõ về
niềm khoái lạc liên quan đến sự thân mật trong hôn nhân. Chắc chắn tình dục trong hôn nhân
cũng là một đề tài khi sách này được viết nên.
281
Bước 1: Nắm bắt đoạn Kinh Thánh trong thời đó
Roland Murphy kết luận rằng: “dân Y-sơ-ra-ên cổ đại cảm nhận sự tuyệt đỉnh của
tình dục con người, được thỏa mãn trong tình yêu hôn nhân là một phước hạnh thiêng liêng.”10
Kinh thánh không xem hôn nhân là thứ yếu trong cuộc sống, cũng không phải là điểm yếu
của con người. Kinh Thánh cũng không xem tình yêu thể chất bình thường bên trong mối
quan hệ đó là bất khiết. Hôn nhân do chính Đức Chúa Trời thiết lập trước khi sa ngã với
mạng lịnh là cả hai phải trở nên một thịt. Do đó, tình yêu thể chất bên trong sự kết hiệp này
là tốt lành, là ý của Đức Chúa Trời và nên hưởng lấy trong niềm hân hoan của cả hai bên.
Sinh con cái không cần thiết biện hộ cho tình yêu tình dục trong hôn nhân. Rõ ràng, sách
Nhã Ca không có liên hệ nhiều đến sự sinh sản. Nhớ rằng sách Nhã Ca được viết trong một
thế giới đề cao sự sinh sản và con cháu. Giá trị của người phụ nữ dựa trên số con cái họ có.
Tình dục thường được xem như là phương tiện để sinh sản; nhưng không có một chút liên
hệ gì tại đây. Sách Nhã Ca là một bài hát ca ngợi tình yêu trong danh của tình yêu và chỉ
tình yêu thôi. Mối quan hệ này không cần phải được biện minh bên ngoài nó.11
Chúng ta không biết chắc bối cảnh mà sách này được dân Y-sơ-ra-ên cổ dùng, nhưng
chúng tôi nghĩ rằng nó được đọc (hay hát) ở những đám cưới. Giống như Thi thiên ca ngợi Đức
Chúa Trời về những kỳ diệu của thiên nhiên thì sách Nhã Ca cũng ca ngợi Đức Chúa Trời về sự
diệu kỳ của tình thân mật trong hôn nhân.
Dĩ nhiên điều quan trọng phải nhớ là tính trữ tình của Nhã Ca nói về người nam hay
người nữ trong câu chuyện này và không nói về Đức Chúa Trời. Nếu chúng ta cho điều này là
phần của văn chương khôn ngoan và phần của lời dạy về nhân cách và cách sống đúng, chúng ta
kết luận rằng sách này cũng cung cấp một kiểu mẫu về cách một người chồng và vợ cảm nhận
nhau và cách họ bày tỏ cảm xúc của mình. Như đã đề cập ở trên, sự khôn ngoan của Châm ngôn
trình bày một kiểu mẫu cho dân Y-sơ-ra-ên cổ về một người khôn ngoan yêu lặng, chu đáo và
đáng kính. Người đó hành động chân thành trong thế giới công cộng. Hình ảnh này thay đổi
trong Nhã ca. Người khôn ngoan và công bình bây giờ được nhìn thấy như một người đang yêu
say đắm với người phối ngẫu của mình, từng dòng một diển tả sự ngợi ca về tình dục yêu đương
của hai người trong hôn nhân.
Bước 2: Đo được chiều rộng của dòng sông. Có những sự khác biệt nào giữa độc giả
thời Kinh Thánh với chúng ta?
Mặc dầu tác giả của sách này được cho là Sa-lô-môn nhưng chính sách này dường như
không mô tả bất kỳ mối liên hệ lịch sử gì trong cuộc đời của ông. Chúng tôi nghĩ nó được viết để
mô tả một mối quan hệ lý tưởng hóa, một mối quan hệ của bất cứ đôi uyên ương nào trong dân
10
Roland E. Murphy, A Commentary on the Book of Canticles or Song of Songs (Hermeneia; Minneapolis: Fortress, 1990), 99. 11
Kinlaw,” Song of Songs”, 5:1207.
282
Y-sơ-ra-ên có thể có. Chỉ một ngoại lệ đề cập hình ảnh đám cưới của Sa-lô-môn trong 3:7-10,
dường như không có chút nào phản ảnh tình trạng độc đáo của Sa-lô-môn trong sách này. Tính
khoái cảm và phi lý trí của đôi uyên ương say đắm trong tình yêu thật sự không thay đổi.
Tuy nhiên chúng ta cũng gặp trở ngại trong việc đánh giá hình ảnh được mô tả trong
sách này. Chúng tôi nghĩ rằng người vợ của chúng ta sẽ không bị nịnh nếu chúng ta bảo họ rằng
tóc của họ giống như bầy dê nằm trên triền Núi Ga-la-át (4:1) hay mũi nàng như ngọn tháp Li-
ban hướng về Đa-mách (7:4). Khen người phối ngẫu của mình mang tính văn hóa cụ thể. Chúng
ta có thể cười những thành ngữ và cách ngôn được dùng trong Nhã Ca, nhưng phải nhớ rằng độc
giả cổ cũng sẽ cười lời khen của chúng ta: “ôi con chim bé bỏng của anh!” Do đó, ngôn ngữ
tượng hình tạo nên một bố cục rộng trong dòng sông khác biệt. Chúng tôi không khuyến khích
các bạn chuyển những lời khen tặng trong sách Nhã ca trực tiếp vào những khoảnh khắc thân
mật của hôn nhân của bạn. Chúng ta cần hợp thời ngôn ngữ của mình.
Hơn nữa, hầu hết độc giả sẽ cảm thấy ngôn ngữ của sách này có thể quá ủy mị. Dầu
vậy, chúng tôi không nghĩ đây là sự khác biệt lớn nếu những đoạn Kinh thánh đó được đặt trong
bối cảnh đúng. Một đôi Cơ Đốc ngày nay, nếu họ ở trong tình yêu hoang dại như vậy cũng sẽ nói
với nhau những điều ngọt ngào, âu yếm khi họ ở với nhau một mình. Hầu hết những cặp đang
yêu nhau chúng ta biết sẽ chết vì xấu hổ nếu những lời riêng tư của họ với nhau bị công khai cho
cả hội thánh đọc. Chất ướt át, thân mật, riêng tư mà một người thì thầm với người yêu của mình
trong bóng tối là sự nhàm chán so với những người ngoài cuộc, nhưng thú vị, tuyệt vời đối với
những người ở trong cuộc. Người khôn ngoan, đứng đắn làm gương cho chúng ta trong Châm
ngôn không nói những điều thân mật, ướt át về người yêu của mình trong nơi công chúng. Tuy
nhiên, Nhã ca cho chúng ta biết rằng người khôn ngoan nên bày tỏ hết công suất của mình khi ở
nhà. Bên cạnh sự chuẩn mực của sách Châm ngôn thì cũng có tính lãng mạn tự nhiên trong sách
Nhã ca.
Bước 3: Vượt qua cây cầu nguyên tắc. Có những nguyên tắc thần học nào trong đoạn Kinh
Thánh này?
Như đề cập ở trên, nguyên tắc thần học phải được xây dựng trên những tương đồng
giữa hoàn cảnh của họ và của chúng ta. Một trong những nguyên tắc thần học nổi lên từ nhiều
đoạn Kinh Thánh trong Nhã ca là con người tìm cách sống một đời sống khôn ngoan và thánh
thiện nên là người say đắm trong tình yêu với người chồng hay người vợ của mình và nên bày tỏ
tình yêu đó trong những từ ngữ cảm xúc mạnh.
Bước 4: Chuyển vào Tân Ước. Lời dạy trong Tân Ước có bổ sung hay thỏa mãn nguyên tắc
này không và nếu có thì như thế nào?
Tân Ước không cần bổ sung nguyên tắc trong Bước 3. Trong Ê-phê-sô 5:21-33 lời
khuyên của Phao-lô cho những người chồng và vợ (vâng phục, yêu) thích hợp với nguyên tắc
chính trong Bước 3.
283
Bước 5: Nắm bắt được phân đoạn Kinh Thánh trong thời của chúng ta. Từng Cơ Đốc
Nhân ngày nay áp dụng nguyên tắc thần học đó trong đời sống của mình như thế nào?
Hãy luôn nhớ rằng sự tôn cao tình dục trong Nhã ca rõ ràng được nói về những cặp
vợ chồng trong hôn nhân. Nó đặc biệt thích hợp cho những người mới cưới. Chúng tôi đề nghị
rằng những cặp mới cưới nên đọc Nhã Ca cho nhau nghe vào dịp trăng mật của mình. Vâng, nó
có phần ướt át nhưng vui và thú vị.
Sách này không áp dụng nhiều cho những cặp chưa đám cưới. Dầu vậy, những cặp
vợi chồng có thể áp dụng nó bằng cách diễn tả bằng lời tình yêu của họ cho người phối ngẫu của
mình với nhiều lời khen ngợi lãng mạn và tình cảm. Sách này hình thành tính cách của chúng ta,
tức là khi chúng ta trở nên hoang dại trong tình yêu của mình với người phối ngẫu. Chúng ta bày
tỏ cách sống của chúng ta với cả Châm Ngôn và Nhã Ca. Ở nơi công cộng, chúng ta đi theo kiểu
mẫu trịch thượng, yên lặng, chu đáo, khôn ngoan nhưng khi ở một mình với người phối ngẫu của
mình thì chúng ta nên yêu điên cuồng giống như hai người yêu nhau trong Nhã ca. Đây cũng là
sự khôn ngoan
Kết Luận
Một điều chúng tôi hi vọng bạn quan sát được là các sách khôn ngoan có thể áp
dụng triệt để với Cơ Đốc Nhân ngày nay. Nhiều nguyên tắc từ những sách này liên quan đến
những vấn đề hằng ngày mà tín hữu ngày nay đang tranh chiến. Đừng bỏ qua những sách
này! Các sách khôn ngoan rất phong phú và sâu sắc, giúp đỡ cho đời sống hằng ngày của
chúng ta một cách thực tế. Chúng giúp chúng ta trở nên khôn ngoan và phát triển nhân cách
thánh khiết – một nhân cách có thể giúp chúng ta có quyết định đúng trong cuộc sống.
Bài Tập
Á p dụng Hành Trình Giải Kinh vào những đoạn Kinh Thánh sau:
1. Châm ngôn 10:12
2. Châm ngôn 11:1
3. Châm ngôn 18:24
4. Gióp 38:18-21