hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh … _ nguyen van quang _nop qd_.pdfngƯỜi...

169
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN VĂN QUANG KHÔNG GIAN VĂN HÓA HUẾ VỚI SỰ HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH HỒ CHÍ MINH LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC HÀ NỘI - 2017

Upload: trinhmien

Post on 06-Apr-2018

221 views

Category:

Documents


3 download

TRANSCRIPT

Page 1: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN VĂN QUANG

KHÔNG GIAN VĂN HÓA HUẾ

VỚI SỰ HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH HỒ CHÍ MINH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC

HÀ NỘI - 2017

Page 2: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN VĂN QUANG

KHÔNG GIAN VĂN HÓA HUẾ

VỚI SỰ HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH HỒ CHÍ MINH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC

Mã số: 62 31 02 04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG

2. TS. LÝ VIỆT QUANG

HÀ NỘI - 2017

Page 3: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa

học của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong

luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn

đầy đủ theo quy định.

Tác giả

Nguyễn Văn Quang

Page 4: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

MỤC LỤC

Trang MỞ ĐẦU 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN

ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI LUẬN ÁN 7

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 7

1.2. Những vấn đề kế thừa và định hướng triển khai của đề tài 24

Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ NHÂN CÁCH HỒ CHÍ

MINH VÀ KHÔNG GIAN VĂN HÓA HUẾ 28

2.1. Nhân cách Hồ Chí Minh 28

2.2. Không gian văn hóa Huế 40

Chương 3: ẢNH HƯỞNG CỦA KHÔNG GIAN VĂN HÓA HUẾ ĐẾN

SỰ HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH HỒ CHÍ MINH 78

3.1. Một số yếu tố của không gian văn hóa Huế ảnh hướng đến sự hình

thành nhân cách Hồ Chí Minh 78

3.2. Biểu hiện của nhân cách Hồ Chí Minh từ ảnh hưởng của không gian văn

hóa Huế 104

Chương 4: Ý NGHĨA CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ĐỐI VỚI SỰ

PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH HỒ CHÍ MINH CHO CON NGƯỜI

VIỆT NAM HIỆN NAY 127

4.1. Một số nhận xét về ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự hình

thành nhân cách Hồ Chí Minh 127

4.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế

đến sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh đối với sự phát triển nhân

cách Hồ Chí Minh cho con người Việt Nam hiện nay 132

KẾT LUẬN 149

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN

QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152

Page 5: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Chủ tịch Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa kiệt

xuất của Việt Nam. Người tượng trưng cho tinh hoa của dân tộc, cho ý chí kiên

cường, bất khuất của con người Việt Nam trong công cuộc dựng xây đất nước. Với

nhân cách cao đẹp, Hồ Chí Minh đã để lại những dấu ấn sâu đậm trong dòng chảy

lịch sử nhân loại, góp phần làm phong phú và phát triển những giá trị chung của loài

người. Vì vậy, nghiên cứu nhân cách Hồ Chí Minh sẽ góp phần làm sáng tỏ những

giá trị đặc sắc của Hồ Chí Minh.

Nhân cách Hồ Chí Minh được hình thành và phát triển từ sự tác động - ảnh

hưởng đa chiều của các điều kiện kinh tế, lịch sử, môi trường văn hóa, xã hội và con

người của những nơi Người từng sống, học tập, làm việc, được biểu hiện qua tư

tưởng và hành động. Trong các không gian văn hóa ảnh hưởng đến sự hình thành và

phát triển nhân cách Hồ Chí Minh, Huế có vị trí đặc biệt quan trọng. Nơi đây hội tụ

tinh hoa văn hóa dân tộc, đồng thời cũng là vùng văn hóa mang sắc thái và dấu ấn

đặc trưng của văn hóa cung đình quyện hòa với văn hóa dân gian, Người cùng gia

đình sinh sống trong một khoảng thời gian khá dài, thời gian bắt đầu hình thành nhân

cách trước khi ra đi tìm đường cứu nước.

Tại kinh đô Huế, sự biến động về kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội đã tác

động mạnh mẽ đến Hồ Chí Minh. Bằng sự mẫn cảm của người học trò thông minh,

sự khát khao tìm tòi học hỏi, chiếm lĩnh tri thức mới, Người sớm thâu nhận những

giá trị của văn hóa Huế, tinh hoa văn hóa của dân tộc và nhân loại. Đó là truyền

thống yêu nước, thương dân, khát vọng độc lập, tự do; lối sống đoàn kết, thương

yêu, đùm bọc trong khó khăn hoạn nạn; lòng tự hào, tự tôn dân tộc của những vị vua

yêu nước, của những thầy dạy học và những nhà cách mạng tiền bối; tư tưởng “Tự

do, Bình đẳng, Bác ái” của văn hóa Pháp; tư tưởng dân tộc, dân chủ của Tân văn,

Tân thư... Để từ đó, Hồ Chí Minh có bước trưởng thành hơn trong suy nghĩ và hành

động, trực tiếp tham gia phong trào Duy Tân, đấu tranh chống thuế cùng nhân dân

Thừa Thiên. Những nhân tố quan trọng đó đã tác động mạnh mẽ đến sự hình thành

và phát triển nhân cách Hồ Chí Minh.

Page 6: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

2

Thời kì Hồ Chí Minh ở Huế cũng là khoảng thời gian không chỉ để lại những

kỉ niệm đẹp về tuổi thơ hồn nhiên, về cuộc sống đầm ấm bên sự giáo dưỡng của

cha, sự yêu thương, đùm bọc của mẹ và làng xóm láng giềng… mà còn là nơi ghi

dấu những kỉ niệm đau buồn, mất mát về sự ra đi của người mẹ kính yêu, tiếng khóc

của em thơ khát sữa. Trên hết, chính nhờ sự giáo dục và nền nếp của một gia đình

nhà Nho yêu nước cùng với tinh thần yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, lối sống trọng

nghĩa trọng tình, đoàn kết, tương ái của văn hóa và con người xứ Huế, đã hun đúc

và hình thành nên nhân cách của một con người mà tương lai làm rạng danh cả một

dân tộc.

Thời gian sống ở Huế, tiếp nối văn hóa xứ Nghệ, văn hóa Huế đã thẩm thấu và

ảnh hưởng sâu sắc đến nhận thức, hành động, góp phần quan trọng định hình nhân

cách của người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành. Đúng như lời khẳng định

của Phạm Văn Đồng: “Thời gian ở Huế là thời gian Nguyễn Tất Thành lớn lên và

bắt đầu đi học. Những năm tháng đó là thời gian cực kỳ quan trọng đối với sự hình

thành con người Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, thời gian hình thành một con

người lạ lùng, với những ý tưởng lạ lùng, đưa đến những thành tựu lạ lùng” [172,

tr.6]. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có nhiều công trình nghiên cứu, luận giải về

sự ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự hình thành và phát triển nhân cách

Hồ Chí Minh.

Trong giai đoạn hiện nay, ý thức được tầm quan trọng của nguồn lực con người

trong phát triển đất nước, Đảng, Nhà nước ta những năm qua đã ban hành nhiều văn

bản quan trọng (Chỉ thị 06-CT/TW, ngày 07/11/2006 về “Tổ chức cuộc vận động

“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; Chỉ thị số 05-CT/TW,

ngày 15/5/2016 “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách

Hồ Chí Minh”) nhằm làm cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhận thức ngày càng

sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong

cách Hồ Chí Minh; làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người thật sự trở

thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội, là cơ sở khoa học để xây

dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ

vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Page 7: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

3

Tuy nhiên, vấn đề nhân cách Hồ Chí Minh và phát huy giá trị nhân cách Hồ Chí

Minh lại chưa được chú trọng nghiên cứu và triển khai; chưa có các chuyên đề học

tập và sinh hoạt trong các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh thiếu niên, học sinh

sinh viên, cán bộ đảng viên, trong khi yêu cầu cấp bách hiện nay là xây dựng con

người Việt Nam phát triển toàn diện, không chỉ về thể lực, trí lực, khả năng lao động

mà cần có đạo đức và trí tuệ, đúng như Hồ Chí Minh nhấn mạnh phải xây dựng

những con người “vừa có đức vừa có tài”, “vừa hồng vừa chuyên”.

Từ ý nghĩa đó, nghiên cứu đề tài Không gian văn hóa Huế với sự hình thành

nhân cách Hồ Chí Minh để thấy được không gian văn hóa Huế ảnh hưởng rất lớn đến

sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh. Đồng thời, góp phần làm sáng rõ hơn về cuộc

đời, tiểu sử, sự nghiệp cách mạng và tư tưởng một con người vĩ đại, một nhân cách vĩ

đại - Hồ Chí Minh.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Luận án nghiên cứu và làm rõ những ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế

đến sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh; trên cơ sở đó, phân tích những biểu hiện

của nhân cách Hồ Chí Minh từ sự ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế, từ đó rút

ra ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu đối với việc phát triển nhân cách Hồ Chí Minh

cho con người Việt Nam hiện nay.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích trên, luận án thực hiện các nhiệm vụ sau:

- Làm rõ khái niệm và cấu trúc nhân cách và nhân cách Hồ Chí Minh.

- Làm rõ những khái niệm, cấu trúc của không gian văn hóa Huế.

- Phân tích và luận giải các nhân tố của không gian văn hóa Huế ảnh hưởng

đến sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh.

- Phân tích những biểu hiện của nhân cách Hồ Chí Minh từ sự ảnh hưởng của

không gian văn hóa Huế.

- Rút ra một số nhận xét về sự ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự

hình thành nhân cách Hồ Chí Minh và ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu đối với sự

phát triển nhân cách Hồ Chí Minh cho con người Việt Nam hiện nay.

Page 8: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

4

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Những ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự hình thành nhân cách

Hồ Chí Minh và những biểu hiện của nhân cách Hồ Chí Minh từ ảnh hưởng của

không gian văn hóa Huế.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu sự ảnh hưởng không gian văn hóa

Huế đến sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh và những biểu hiện của nhân cách

Hồ Chí Minh từ sự ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế.

Tuy nhiên, trong luận án, nghiên cứu sinh chỉ đề cập đến những khía cạnh sau

đây: Thứ nhất, làm rõ các yếu tố cơ bản của không gian văn hóa Huế có ảnh hưởng

đến sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh; Thứ hai, làm rõ những biểu hiện của

nhân cách Hồ Chí Minh trong khoảng thời gian sống ở Huế, dưới sự tác động của

không gian văn hóa Huế.

- Về không gian: Thừa Thiên Huế những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.

- Về thời gian: Luận án nghiên cứu không gian văn hóa Huế trong khoảng cuối

thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, gắn với thời gian Hồ Chí Minh sống, học tập và hoạt

động ở Huế đến trước khi ra đi tìm đường cứu nước.

4. Cơ sở lí luận, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu cụ thể

4.1. Cơ sở lí luận

Cơ sở lí luận của luận án là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng

Hồ Chí Minh; quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong nghiên cứu về cuộc

đời, tiểu sử Hồ Chí Minh và văn hóa.

4.2. Phương pháp luận

Chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là phương pháp luận của việc

nghiên cứu, thực hiện đề tài luận án.

4.3. Phương pháp nghiên cứu cụ thể

- Nghiên cứu ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự hình thành nhân

cách Hồ Chí Minh được thực hiện trên cơ sở tiếp cận của các khoa học tổng hợp

liên ngành; trên nền tảng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam.

Page 9: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

5

- Tiếp cận liên ngành lấy lịch sử, khoa học lịch sử làm nền, sử dụng Hồ Chí

Minh học làm trục chính, văn hóa học, nhân học làm chất liệu nghiên cứu, phân tích

và luận chứng, làm rõ những vấn đề liên quan đến văn hóa, giá trị, nhân cách con

người. Các khoa học tâm lí học, giáo dục học, xã hội học, nghiên cứu con người

làm rõ các vấn đề liên quan đến nhân cách con người, sự ảnh hưởng của đời sống

đến sự hình thành và phát triển nhân cách con người.

- Ngoài cơ sở lí luận và phương pháp luận nêu trên, tác giả còn sử dụng các

phương pháp như: phân tích, tổng hợp, lịch sử, logic, thống kê, so sánh, điền dã,

văn bản học, trao đổi với chuyên gia… nhằm tìm kiếm, phân tích các kết quả nghiên

cứu có sẵn để miêu tả, khái quát hoá toàn cảnh về chủ đề nghiên cứu từ các góc độ

khác nhau.

5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài

- Làm rõ những ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự hình thành

nhân cách Hồ Chí Minh.

- Trên cơ sở nghiên cứu sự ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự

hình thành nhân cách Hồ Chí Minh, luận án góp phần làm rõ những biểu hiện của

nhân cách Hồ Chí Minh từ sự tác động của các yếu tố trong không gian văn hóa

Huế, gắn với quá trình Người sống và học tập tại Huế.

- Rút ra ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu đối với việc phát triển nhân cách Hồ

Chí Minh cho con người Việt Nam hiện nay.

6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của đề tài

6.1. Ý nghĩa lí luận

- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm sáng tỏ thêm về cuộc đời, tiểu

sử, nguồn gốc hình thành tư tưởng và nhân cách Hồ Chí Minh; hệ thống hoá các cứ

liệu lịch sử về những sinh hoạt, hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh thời kì ở

Huế (1895-1901 và 1906-1909).

- Luận án hệ thống hóa và làm rõ ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến

sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh, luận giải về những biểu hiện của nhân cách

Hồ Chí Minh.

Page 10: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

6

- Luận án rút ra một số nhận xét về những tác động của không gian văn hóa

Huế đến sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh và rút ra ý nghĩa của vấn đề nghiên

cứu đối với việc phát triển nhân cách Hồ Chí Minh cho con người Việt Nam

hiện nay.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

- Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, tuyên truyền, học tập,

nghiên cứu, giảng dạy tư tưởng, tiểu sử, sự nghiệp, nhân cách của Hồ Chí Minh tại

địa phương.

- Luận án có thể sử dụng làm cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu nhân cách

Hồ Chí Minh; nghiên cứu những ảnh hưởng của các không gian văn hóa đến Hồ

Chí Minh, cũng như là nguồn tư liệu để giáo dục nhân cách cho học sinh sinh viên.

- Luận án có thể xây dựng thành tài liệu giáo dục lịch sử địa phương, định

hướng để giáo dục và rèn luyện nhân cách cho sinh viên trong các trường cao đẳng,

đại học, giáo dục lối sống trong gia đình, nhà trường và xã hội hiện nay.

7. Cấu trúc của đề tài

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục công trình của tác giả đã công bố

liên quan đến đề tài luận án và Danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4

chương, 8 tiết.

Page 11: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

7

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI LUẬN ÁN

1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu không gian văn hóa Huế

1.1.1.1. Các công trình nghiên cứu nước ngoài

Huế là một trong những trung tâm văn hóa của Việt Nam, luôn thu hút nhiều

nhà nghiên cứu nước ngoài. Tuy nhiên, hiện nay chưa có nhiều công trình nghiên

cứu Huế chuyên sâu, hệ thống và hoàn chỉnh. Khảo sát thực tế cho thấy, các học giả

nước ngoài nghiên cứu Huế trên các lát cắt văn hóa hoặc gắn với các lĩnh vực cụ thể

nhất định. Trong đó, Hội Những người bạn Cố đô Huế (Association des Amis du

Vieux Hué - B.A.V.H) [118] có hẳn chuyên mục là “sưu tầm, bảo tồn và truyền đạt

những dấu tích xưa về chính trị tôn giáo, nghệ thuật và văn học liên quan đến Huế

và phụ cận”. Từ ý nghĩa đó, Tập san B.A.V.H (Bulletin des Amis du Vieux Hué) vốn

là nội san của Hội Những người bạn của Huế xưa (ra đời từ năm 1914 và hoạt động

đến giữa năm 1944 thì bị đình bản vì những biến cố lịch sử) chuyên viết về các vấn

đề văn hóa, lịch sử, địa lí, nghệ thuật, tôn giáo, phong tục, mĩ thuật, ngôn ngữ, dân

tộc học… Nguồn tư liệu viết được đề cập trong B.A.V.H rất phong phú, bao gồm:

tư liệu về Kinh thành Huế và phụ cận, kiến trúc vùng Huế, các vấn đề về tôn giáo,

tín ngưỡng, dân gian, câu hò, câu hát, ca dao hay cuộc sống trong cung đình hoặc

các chủ đề cụ thể như: đền, chùa, am, miếu, lễ nghi cung đình được đề cập sâu sắc.

Ngoài ra, tập san còn có những bài viết chuyên sâu vào các chủ đề như: kiến

trúc cung đình, tín ngưỡng và tôn giáo như đền, chùa, am, miếu như chùa Thiên

Mụ, Quốc Ân, Bảo Quốc, Diệu Đế, Từ Hiếu, Túy Vân, đền Voi Ré, Chiêu Ứng,

điện Huệ Nam.... Tác giả Đào Thái Hanh có nhiều bài nghiên cứu về các vị nữ thần

làm tăng thêm nét cổ kính của Cố đô Huế với một màu sắc huyền hoặc biểu thị lòng

tin vào thần linh của người dân vùng Huế xưa: Histoire de la déesse Thiên Y A

Na (Lịch sử nữ thần Thiên Y A Na), La déesse Liễu Hạnh (Nữ thần Liễu Hạnh),

Histoire de la déesse Thái Dương Phu Nhơn (Chuyện Thánh mẫu Thái Dương phu

Page 12: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

8

nhân), Histoire de la déesse Kỳ Thạch Phù Nhơn (Sự tích của nữ thần Kỳ Thạch

phu nhơn)... Bên cạnh các lễ nghi cung đình, mảng tư liệu về tôn giáo, tín ngưỡng

của người An Nam cũng được đề cập trong B.A.V.H, nổi bật là các công trình có

giá trị của linh mục L.Cadière như: “L'Annam” (An Nam), “Introduction à l'étude

l'Annam et du Champa” (Hướng dẫn nghiên cứu về An Nam và Champa) và “La

Famille et la religion en pays Annamites” (Gia đình và tôn giáo ở các xứ An Nam).

Tác giả Nguyễn Đình Hòe đã có nhiều chuyên đề nghiên cứu về văn hóa lịch sử

Huế có giá trị như: Note sur les pins du Nam Giao (Esplanade des sacrifices) (Ghi

chú về những cây thông ở Nam Giao), La pagode de l’éléphant qui barrit (Miếu

Voi Ré), Note sur les cendres des Tây Sơn dans la prison du Khám Đường (Ghi

chú về các tro di cốt Tây Sơn trong Khám Đường), Histoire de I’Ecole des Hâu Bô

de Hué (Lịch sử trường Hậu Bổ ở Huế), Les Barques royales et mandarinales dans

le vieux Hue (Thuyền ngự và thuyền quan thời Huế xưa), La pagode de Diệu

Đế (Chùa Diệu Đế), Quelques coins de la Citadelle de Hué (Một vài nơi ở Kinh

thành Huế). Các công trình nghiên cứu này được giới nghiên cứu đánh giá cao về sự

tâm huyết trong sưu tầm, công phu về biên soạn.

Đặc biệt, tập san đã dành nhiều trang nghiên cứu về lịch sử Huế và những vấn

đề liên quan từ khi Pháp chiếm Việt Nam, như: Quá trình can thiệp của Pháp vào

Việt Nam, Các cuộc phế lập ở Huế, Cuộc bôn ba của vua Hàm Nghi và căn cứ Tân

Sở, Những lễ nghi của Nam triều... Lịch sử Huế thời cận đại nằm trong khuôn khổ

của lịch sử Việt Nam (An Nam) nửa đầu thế kỉ XX, bao gồm các nguồn lịch sử triều

Nguyễn: từ Gia Long đến Bảo Đại; cuộc xâm lược An Nam của Pháp; công cuộc

bảo hộ của Pháp… Ngày nay, tập san B.A.V.H đã trở thành một nguồn tư liệu rất

phong phú, quý hiếm và có giá trị cho những ai muốn nghiên cứu về Huế.

Các công trình nghiên cứu trong Tập san B.A.V.H rất phong phú, mặc dù

không đi trực tiếp nghiên cứu “không gian văn hóa Huế”, nhưng lại tập trung

nghiên cứu các vấn đề nhỏ hơn của văn hóa Huế.

1.1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước

Thừa Thiên Huế với tư cách là một vùng văn hóa đặc trưng của Việt Nam đã

được nhiều nhà khoa học dày công nghiên cứu. Tuy nhiên, khảo sát các tài liệu

Page 13: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

9

nghiên cứu về Huế, phần nhiều các học giả tập trung vào cấu trúc văn hóa (gồm văn

hóa vật chất và văn hóa tinh thần, hay văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể). Trong

số các công trình nghiên cứu về văn hóa tinh thần, chưa có công trình nghiên cứu

chuyên sâu về các giá trị văn hóa truyền thống của Huế và không gian văn hóa Huế,

cũng như những ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự hình thành nhân

cách Hồ Chí Minh trong những năm Người sống ở Huế. Liên quan đến nhóm công

trình này có thể điểm qua một số tài liệu sau:

Địa chí Thừa Thiên Huế là công trình của nhiều nhà khoa học cung cấp nguồn

tư liệu phong phú, xác thực về đặc điểm của vùng đất và con người Thừa Thiên

Huế. Công trình được xuất bản dưới dang sách và trang tin điện tử. Trang điện tử

Địa chí Thừa Thiên Huế [166] được biên soạn dưới hình thức địa chí tổng hợp gồm:

tự nhiên, lịch sử, dân cư và hành chính, kinh tế, văn hóa. Sau đó, Địa chí Thừa Thiên

Huế - Phần Tự nhiên [167], Phần Lịch sử [168] và Phần Dân cư và hành chính được

xuất bản. Về “Phần Văn hóa”, cho đến nay vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu, bổ

sung và hoàn thiện. Trong khoa học nghiên cứu về Huế, Địa chí Thừa Thiên Huế là

bộ công trình hữu ích, cung cấp hệ thống thông tin cần thiết trên nhiều phương diện

về vùng đất này. Tuy nhiên, bộ công trình này chưa thống nhất trong việc phân tích

lĩnh vực “Văn hóa” - một yếu tố quan trọng làm nên không gian văn hóa Huế.

Bên cạnh đó, hai công trình Văn hóa cố đô [181] và 700 năm Thuận Hóa -

Phú Xuân - Huế [185] do Nguyễn Đắc Xuân biên soạn đã giới thiệu tổng hợp về

triều Nguyễn và Huế xưa. Các công trình cung cấp bức tranh tổng quan về Huế với

địa lí - địa danh, lịch sử - sự kiện, văn hóa - giáo dục, văn hóa nghệ thuật, danh

nhân. Bên cạnh đó, ấn phẩm Thuận Hóa - Phú Xuân - Thừa Thiên Huế - 700 năm

hình thành và phát triển [68] đã đề cập tương đối đầy đủ và toàn diện về quá trình

hình thành và phát triển của vùng đất Thuận Hóa - Phú Xuân - Thừa Thiên Huế

trong hơn 700 năm, trên các lĩnh vực: lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…

Đặc biệt, trong công trình này, nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Tuyết Nga bước đầu

khẳng định Huế là vùng đất đánh dấu sự mở đầu của quá trình nhận thức, tư duy

yêu nước và cách mạng, góp phần quan trọng hình thành nên nhân cách của Nguyễn

Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Chính những cứ liệu quan trọng nêu

trên, cung cấp thông tin cần thiết cho việc nghiên cứu không gian văn hóa Huế.

Page 14: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

10

Nghiên cứu tổng thể văn hóa Huế không thể không kể đến Giáo trình Tổng

quan văn hóa Huế [150] của Trương Minh Trai. Đây là công trình nghiên cứu tổng

quan về văn hóa Huế, hình thành trên cơ sở kế thừa và tiếp thu những thành tự

nghiên cứu về văn hóa Huế của các nhà khoa học và nhà nghiên cứu Huế, cung cấp

hệ thống tri thức về di tích, danh lam, thắng cảnh, các thiết chế văn hóa xưa nay, các

giá trị văn hóa tinh thần được bảo tồn khá nguyên vẹn và hiện hữu qua cuộc sống

thường ngày của người dân xứ Huế. Công trình này còn cung cấp một cách tiếp cận

văn hóa Huế trên ba phương diện gồm văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần, cảnh

quan và con người xứ Huế, đồng thời cung cấp một số khái niệm cần thiết về văn

hóa Huế. Mặc dù khá đầy đủ, tuy nhiên công trình này chưa làm rõ về không gian

văn hóa Huế, những đặc trưng và các giá trị văn hóa truyền thống của vùng đất này.

Tiếng Huế - Người Huế & Văn Hóa Huế [153] của Trung tâm nghiên cứu

Quốc học. Công trình này tổng hợp những bài phát biểu, bài nghiên cứu về Huế,

khám phá Huế ở những giá trị nhân văn về con người Huế - Văn hóa Huế. Đặc biệt,

Lê Nguyễn Lưu với bộ sách Văn Hóa Huế Xưa được biên soạn nhân kỷ niệm 700

năm lịch sử vùng đất Thuận Hóa - Phú Xuân - Thừa Thiên Huế (1306 - 2006). Bộ

sách gồm 3 tập: Đời sống văn hóa gia tộc [87], Đời sống văn hóa làng xã [88] và

Đời sống văn hóa cung đình [89]. Tác giả đã phân tích khá sâu sắc về văn hóa Huế

xưa từ đời sống văn hóa gia tộc (cội nguồn, các thiết chế, đời sống văn hóa vật thể

và phi vật thể), đến đời sống văn hóa làng xã (quá trình hình thành, cơ cấu tổ chức

và các văn hóa vật thể, phi vật thể trong làng xã) và đời sống văn hóa cung đình

(gắn với công cuộc xây dựng Phú Xuân - Huế, văn hóa vật thể và phi vật thể cung

đình Huế). Kết quả nghiên cứu của các công trình trên cung cấp những thông tin

cần thiết cho việc nghiên cứu không gian văn hóa Huế.

Tiếp cận văn hóa Huế từ nhiều khía cạnh và góc độ khác nhau, Trần Đức

Anh Sơn trong công trình Huế - Triều Nguyễn. Một cái nhìn [134] đã giới thiệu

văn hóa Huế dưới “cái nhìn” về sự tinh tế trong văn hóa vật chất đến văn hóa tinh

thần xứ Huế. Với một cách tiếp cận khác, Phan Thuận An qua công trình Quần thể

di tích Huế [4] nhấn mạnh đến “diện mạo” và “giá trị” của giá trị văn hóa vật chất.

Nhà nghiên cứu Phạm Thị Dung qua công trình Huế - Qua miền di sản [31], cung

Page 15: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

11

cấp cái nhìn toàn cảnh về Huế theo tám chủ đề cụ thể: Di tích - Danh thắng xưa và

nay, Địa danh văn hóa, Làng quê nổi tiếng, Kiến trúc tôn giáo, Một phần di sản,

Kinh thành cổ kính, Lăng tẩm các triều vua, Nét riêng xứ Huế. Với các cách tiếp

cận nêu trên của các nhà nghiên cứu, chúng ta vẫn chưa thấy được những giá trị

văn hóa tinh thần của văn hóa Huế. Phải chăng đây là sự thiếu sót của các nhà

nghiên cứu này.

Trong bài viết “Cảm nhận về văn hóa xứ Huế” in trong công trình Văn hóa,

văn hóa tộc người và văn hóa Việt Nam [140] của Ngô Đức Thịnh và “Tiểu vùng

văn hóa xứ Huế” của Trần Quốc Vượng trong Cơ sở văn hóa Việt Nam [179] đã

chỉ ra những nét tiểu biểu của văn hóa Huế với tư cách là một vùng văn hóa,

không gian văn hóa mang tính địa phương, nối tiếp văn hóa Thăng Long - Hà Nội,

là bộ mặt của văn hóa Đại Việt thế kỉ XVIII-XIX. Mặc dù là hai công trình tiêu

biểu về văn hóa nói chung và văn hóa Việt Nam nói riêng, tuy nhiên các tác giả

chưa đi sâu lý giải một thành tố quan trọng cấu thành văn hóa đó là hệ thống các

giá trị văn hóa truyền thống (hiểu theo nghĩa hẹp của định nghĩa văn hóa là các

giá trị văn hóa tinh thần).

Ngoài các công trình nêu trên, liên quan đến luận án còn có một số tài liệu

như: Văn hóa Huế trong dòng chảy văn hóa Việt [33], Di sản văn hóa cố đô Huế

[61], Một vài ý nghĩa về bản chất văn hóa Huế [158], Phác thảo về quá trình phát

triển của văn hóa Phú Xuân - Thời kì thành Hóa Châu [160], Bản sắc văn hóa dân

tộc qua sắc thái Huế” [178]…

Các công trình nêu trên mặc dù đã tiếp cận văn hóa Huế và không gian văn

hóa Huế theo các khía cạnh khác nhau, tuy nhiên hạn chế của các công trình này

chưa có sự thống nhất khi phân tích cấu trúc “không gian văn hóa Huế”, cũng như

hệ thống các giá trị văn hóa truyền thống đặc trưng của vùng đất này.

1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu nhân cách Hồ Chí Minh

1.1.2.1. Công trình nghiên cứu nước ngoài

Các công trình nghiên cứu về nhân cách Hồ Chí Minh ở nước ngoài không

nhiều nên các nghiên cứu chuyên biệt về nhân cách Hồ Chí Minh gần như chưa

được thống kê cụ thể. Khảo sát các công trình, bài viết của các tác giả nước ngoài,

Page 16: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

12

chưa thấy có công trình nào nghiên cứu trực diện và hệ thống về nhân cách Hồ Chí

Minh, đôi khi xuất hiện một số quan điểm, nhân định về các đặc điểm của nhân

cách Hồ Chí Minh gắn với quá trình hoạt động cách mạng của Người.

Đánh giá về Hồ Chí Minh, Hans D’Orville - Phó Tổng giám đốc UNESCO

nhận định: “Các chuyến bôn ba nước ngoài mà Người đã trải qua, những trào lưu tư

tưởng mà ông đã tiếp nhận và đặc biệt là khả năng giao hòa những sự đa dạng mà

Người đã tiếp thu đã khiến Hồ Chí Minh trở thành một người thầy về cuộc sống

trong một thế giới có xu hướng toàn cầu hóa hiện nay” [122, tr.207]. Dấu ấn về

nhân cách Hồ Chí Minh tiếp tục được Charles Fenn viết trong lời tựa của cuốn sách

Hồ Chí Minh - Một chân dung: “Nếu chúng ta so sánh Hồ Chí Minh với các lãnh tụ

nổi tiếng khác của thế kỉ XX, chúng ta không thể không có ấn tượng khi biết rằng

trong một thời gian, Hồ Chí Minh đã đi đến nhiều nơi trên thế giới và đã bắt đầu in

dấu ấn của mình lên các biến cố quốc tế trước cả Mao Trạch Đông, Găng-đi, Nê-ru,

Ru-dơ-ven, Sơc-sin hay Đơ-Gôn được biết đến trên thế giới”.

Lady Borton và C. David Thomas trong công trình Hồ Chí Minh - Một chân

dung (HO CHI MINH - A Portrait) [76] đã tập hợp, nghiên cứu về cuộc đời và sự

nghiệp của Hồ Chí Minh. Tư liệu được tập hợp trong cuốn sách không có gì mới

nhưng lại được trình bày sáng tạo, cung cấp hệ thống tri thức về cuộc đời hoạt

động cách mạng của Người. Các tác giả này đánh giá cao tư tưởng, phẩm chất đạo

đức trong sáng, cao đẹp của một vị lãnh tụ cách mạng vĩ đại, nhưng cũng là một

con người vô cùng giản dị, khiêm tốn, gần gũi thân thiết với tất cả mọi người. Dẫn

lời giới thiệu của Charles Fenn, công trình khẳng định: “Cuộc sống cá nhân mẫu

mực, tính kiên định vì nền độc lập và tự do của Việt Nam, những thành quả phi

thường của Người bất chấp những khó khăn chồng chất, đã có thể đưa Hồ Chí

Minh trong sự phán xét cuối cùng của nhân loại lên hàng đầu danh sách những

lãnh tụ của thế kỉ 20”. Hồ Chí Minh với những cống hiến của mình đã góp phần

tạo nên một khuôn mặt mới của thế giới, đối thoại hòa bình thay cho chiến tranh,

phản ánh khát vọng của các dân tộc trong đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc,

dân chủ và tiến bộ xã hội.

Page 17: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

13

William J. Duiker với công trình Hồ Chí Minh cuộc đời (Ho Chi Minh a life)

[195] xuất bản lần đầu tiên vào năm 2000, được đánh giá là cuốn tiểu sử về Hồ Chí

Minh đầy đủ và có giá trị nhất Hoa Kỳ. Qua công trình này, tác giả nhận định Hồ Chí

Minh là “một trong những nhân vật chính trị có ảnh hưởng nhất trong thế kỉ 20” - một

con người có “một tính cách lãnh đạo riêng bằng thuyết phục và đồng tâm hơn là áp

đặt ý chí quyền lực của mình cho người khác”; là biểu tượng có sức cổ vũ nhất của

đất nước ông, là nhà tổ chức tài ba, nhà chiến lược sắc sảo và nhà lãnh đạo có sức

thuyết phục. Con người Hồ Chí Minh một nửa là Lênin, một nửa là Gandhi; người

kết hợp được trong cá nhân mình hai sức mạnh trung tâm của lịch sử Việt Nam hiện

đại: khát vọng độc lập dân tộc và đòi hỏi công bằng xã hội và kinh tế. “Ông đã có

một vị trí trong ngôi đền các danh nhân cách mạng, những người đấu tranh kiên

cường để đưa lại cho những người cùng khổ trên toàn thế giới tiếng nói trung thực

của họ”.

Bên cạnh đó, Jean Lacouture, là tác giả công trình Ho Chi Minh, A Political

Biography (Hồ Chí Minh: Tiểu sử Chính trị”) in lần đầu năm 1967 [192]. Công trình

gồm 15 chương, mô tả một cách sinh động toàn bộ cuộc đời hoạt động của Hồ Chí

Minh. Lồng ghép trong những trình bày về quá trình hoạt động của Hồ Chí Minh,

Jean Lacouture nêu bật những phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh - cơ sở cho

những thắng lợi mang tính tất yếu của cách mạng Việt Nam. Tác giả cho rằng Hồ Chí

Minh “là kiểu mẫu cao nhất và hầu như độc đáo, một người gắn bó mật thiết với quần

chúng”, là “người có óc xét đoán vượt trội với những năng khiếu đột hứng và trí

thông minh kỳ diệu”.

Đánh giá về những phẩm chất đặc biệt của Hồ Chí Minh, trong cuốn Why

Vietnam? (Tại sao Việt Nam?) [2] A. Pát-ti nhìn nhận ở Người có những phẩm chất

đặc biệt: “Ông Hồ không hiện lên đối với tôi như một nhà cách mạng không thực tế

hay một người cấp tiến cuồng nhiệt, theo đuổi những lời nói rập khuôn, hét to

đường lối của Đảng, hay thiên về phá hoại mà không có những kế hoạch xây dựng

lại. Đây là một con người thông minh, thấu hiểu những vấn đề của đất nước mình,

một con người biết điều và tinh tế” [2, tr.92]. Tầm vóc của Hồ Chí Minh được tác

giả nhận định: “...Hơn một phần tư thế kỉ nay, chỉ có Hồ Chí Minh mới giữ được

Page 18: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

14

cho ngọn đuốc độc lập bập bùng cháy trong trái tim, khối óc của những người Việt

Nam cộng sản cũng như không cộng sản, và duy nhất chỉ có ông đã trở thành hiện

thân của chủ nghĩa quốc gia Việt Nam, một Gioóc-giơ Oa-sinh-tơn của Việt Nam...

Từ lâu ông đã trở thành Bác Hồ của người nghèo và tầm thường với một ánh hào

quang trên đầu mà tất cả các chế độ bù nhìn liên tiếp đã không bao giờ có khả năng

đánh đổ được”.

Nguyên Bí thư thứ nhất ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô -

N. Khơ-rút-sốp đã dành hẳn một chương trong cuốn Hồi ký của mình để viết về Hồ

Chí Minh: “Trong cuộc đời hoạt động chính trị của mình, tôi đã biết rất nhiều người

nhưng không có người nào gây được cho tôi ấn tượng đặc biệt như Hồ Chí Minh.

Người có đầu óc tín ngưỡng thường hay nói đến các vị thánh. Đúng vậy, với cách

sống và uy tín của ông đối với đồng bào trong nước, Hồ Chí Minh đúng là có thể so

sánh với “các vị thánh đỏ, một vị thánh cách mạng”... Mỗi lời nói của ông hình như

dựa vào niềm tin là về nguyên tắc tất cả mọi người cộng sản đều là anh em cùng

giai cấp, học chỉ có thể tỏ ra trung thực và chân thành với nhau mà thôi. Hồ Chí

Minh quả thật là một trong “các vị Thánh” của chủ nghĩa cộng sản” [108, tr.52-54].

Cũng với góc nhìn phẩm chất của Hồ Chí Minh, Stanley Karnow trên tờ Time (Mỹ)

có bài viết nhận định: Một thân hình gầy gò, chòm râu dài, chiếc áo khoác cũ và đôi

dép cao su đã mòn, Hồ Chí Minh đã tạo ra một hình ảnh Bác Hồ hiền lành giản dị.

Nhưng Người là nhà cách mạng dày dạn kinh nghiệm và một nhà dân tộc chủ nghĩa

nồng nhiệt, suốt đời đấu tranh cho một mục đích duy nhất: mang lại độc lập tự do cho

dân tộc mình. Không có sự dao động trong niềm tin của Hồ Chí Minh, không thể lay

chuyển ý chí của Người, ngay cả khi cuộc chiến tranh của Mỹ leo thang, tàn phá đất

nước, Người vẫn giữ niềm tin đối với nền độc lập của Việt Nam. Dưới con mắt

phương Tây, điều dường như không thể tưởng tượng được là Hồ Chí Minh có thể

cống hiến sự hi sinh to lớn như ông đã làm. Cũng với cách nhìn nhận ấy, trong bài

báo “Thăm một chiến sĩ cộng sản Nguyễn Ái Quốc” đăng trên tờ Ogoniok (Ngọn

lửa nhỏ) số 39, ngày 23/12/1923, nhà báo Liên Xô Ô-xíp Man-đen-sơ-tam viết: “Từ

Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa châu Âu, mà có lẽ

là một nền văn hóa tương lai” [92, tr.462]. Ông còn nhận xét: “Qua phong thái

Page 19: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

15

thanh cao, trong giọng nói trầm ấm của Nguyễn Ái Quốc, chúng ta như nghe thấy

ngày mai, như thấy sự yên tĩnh mênh mông của tình hữu ái thế giới” [92, tr.463].

Trong công trình “Ho” (Hồ) của David Halberstam, tác giả đánh giá Hồ Chí

Minh “là hiện thân của một cuộc cách mạng”, “là biểu tượng của cuộc sống, hy vọng,

đấu tranh, hi sinh và thắng lợi”. Tác giả đi tìm nguyên nhân từ những yếu tố thuộc

phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh, đặc biệt nhấn mạnh Người “không cố tìm kiếm

cho mình những cái trang sức quyền lực vì ông tự tin ở mình và ở mối quan hệ của

ông với nhân dân”. Hay trong công trình Chủ tịch Hồ Chí Minh qua cảm nghĩ của

một người Hàn Quốc [1] của Ahn Kyong Hwan, cho rằng tinh thần yêu nước thương

dân, yêu dân tộc của Hồ Chí Minh, một nhân vật vĩ đại nhất xứng đáng là tấm gương

cho tất cả các nhà lãnh đạo chính trị trên thế giới. Người đã không màng đến địa vị

của mình, được công nhận là một nhà lãnh đạo tầm cỡ thế giới, sống như cuộc sống

của người dân bình thường, chăm lo cải thiện cuộc sống của đồng bào Việt Nam.

Khẳng định giá trị và sức sống của phẩm chất nhân cách và giá trị tinh thần của

Hồ Chí Minh trong lòng nhân loại nói chung, đặc biệt là nhân dân các nước Mỹ

Latinh, nhà báo, nhà hoạt động chính trị I-gơ-na-xi-ô Gôn-xa-lết Han-xen trong

Tinh thần Hồ Chí Minh ở Mỹ Latinh [73] đã phân tích tầm nhìn xa và nhãn quan

chính trị thiên bẩm của Hồ Chí Minh. Theo tác giả, đối với những người cách mạng

và những nhà đấu tranh xã hội trên toàn thế giới, tấm gương đấu tranh của nhân dân

Việt Nam luôn gắn liền với tầm nhìn xa của Hồ Chí Minh - tầm nhìn mang tính giác

ngộ, đoàn kết và tập hợp lực lượng, với một niềm tin vào chủ nghĩa yêu nước lịch

sử của quần chúng. Tầm nhìn xa và thiên bẩm chính trị Hồ Chí Minh được nảy sinh

từ mối quan hệ gắn bó với người dân và nhận thức nhạy bén trước những nguyện

vọng của nhân dân.

Trong số học giả nước ngoài nghiên cứu về Hồ Chí Minh, có nhiều người vừa

là “người quen”, vừa là đối thủ của Người trong các cuộc chiến tranh trước đây như

Tổng đại diện của Chính phủ Pháp Jean Sainteny. Trong công trình Face à Ho Chi

Minh (Đối diện Hồ Chí Minh) [193] đã khẳng định: “Chắc chắn, ông Hồ Chí Minh

là con người rất mực tế nhị, đến mức không cảm thấy tính giản dị của mình, lòng

tha thiết với những phong tục, tập quán của địa phương đã làm ông trở nên rất quần

Page 20: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

16

chúng. Ngay kẻ thù của ông cũng không bao giờ hồ nghi cái điều giản dị ấy”. Hay

trong tác phẩm “Một nền hòa bình bị bỏ lỡ”, Sainteny đã viết một cách khách quan:

“Sự hiểu biết văn hóa rộng lớn, trí thông minh, những hoạt động phi thường và lòng

vô tư tuyệt đối đã làm cho uy tín của Người và lòng tin của nhân dân đối với Người

không gì so sánh nổi. Những lời nói, những hành động, thái độ của Người, đều

thuyết phục là Người không muốn dùng giải pháp bạo lực” [152, tr.94].

Tóm lại, khi nghiên cứu nhân cách Hồ Chí Minh, những công trình nghiên cứu

của các học giả nước ngoài đã làm rõ một số nét đặc trưng về phẩm chất và năng lực

đặc biệt của Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, đến nay chưa thấy thống kê các công trình ở

nước ngoài nghiên cứu chuyên biệt về nhân cách Hồ Chí Minh. Mặc dù còn nhiều

vấn đề chưa có sự thống nhất về quan điểm, cách tiếp cận, thậm chí có những sai sót,

song tất cả đều phải thừa nhận rằng Hồ Chí Minh là một con người đặc biệt của dân

tộc và nhân loại, đã hi sinh đời mình cho Tổ quốc, cho phong trào giải phóng dân tộc

và phong trào hòa bình trên thế giới.

1.1.2.2. Các công trình nghiên cứu trong nước

Nhân cách Hồ Chí Minh là một chủ đề khá mới trong khoa học nghiên cứu về

Hồ Chí Minh, do đó chưa có nhiều công trình luận giải về chủ đề này. Liên quan đến

nhóm công trình này có thể kể đến một số công trình nghiên cứu như:

Trong công trình Nhân cách Hồ Chí Minh [136], tác giả Mạch Quang Thắng

luận giải khá sâu sắc về nhân cách Hồ Chí Minh. Tác giả đã luận giải từ “con đường

hình thành, phát triển, hoàn thiện nhân cách Hồ Chí Minh” đến quan niệm “nhân

cách Hồ Chí Minh”, các đặc trưng và giá trị của nhân cách Hồ Chí Minh. Trong

công trình này, tác giả chỉ đề cập đến “nhân tố gia đình, quê hương”, “truyền thống

văn hóa của dân tộc” nói chung, mà chưa đi sâu phân tích những ảnh hưởng của các

không gian văn hóa (trong đó có không gian văn hóa Huế) đến sự hình thành và

phát triển nhân cách Hồ Chí Minh.

Trần Thái Bình với công trình Hồ Chí Minh - Sự hình thành một nhân cách

lớn [25] đã dành hẳn Phần 1 với 2 chương để nói về “Môi trường: Thiên - Địa -

Nhân” đã có những ảnh hưởng nhất định đến Hồ Chí Minh thời trẻ. Tuy nhiên, tác

giả cũng chưa nêu lên được sự ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự hình

thành và phát triển nhân cách Hồ Chí Minh.

Page 21: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

17

Trong công trình Làng Sen năm ấy [146], tác giả Nguyễn Yên Thy cho rằng

nhân cách Hồ Chí Minh được hình thành trong khoảng thời gian từ năm 1901 đến

1906. Tác giả khẳng định thời điểm đó, Hồ Chí Minh ở độ tuổi thiếu niên, nhạy

cảm, theo cha từ kinh thành Huế về quê. Tuổi thơ được sống trong khung cảnh ấm

áp tình người như vậy chắc chắn sẽ có những tác động lớn. Tuy nhiên, tác giả chưa

đưa ra những luận cứ, luận chứng thuyết phục để chứng minh không gian văn hóa

Nghệ - Tĩnh có ảnh hưởng quyết định sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh và

cũng chưa làm rõ được những biểu hiện của nhân cách Hồ Chí Minh. Đây chính là

sự gợi mở để tiếp tục nghiên cứu không gian văn hóa thứ hai có ảnh hưởng lớn đến

Hồ Chí Minh - không gian văn hóa Huế.

Một trong những công trình kiến giải về nhân cách Hồ Chí Minh khá sâu sắc

là Tỏa sáng nhân cách Hồ Chí Minh [5] được in trong Xây dựng con người Việt

Nam theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh [6]. Tác giả Hoàng Anh xác định

“nhân cách Hồ Chí Minh” là một địa hạt nghiên cứu khó, nhưng nó lại có giá

trị trong thực tiễn xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.

Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, tác giả chỉ rõ nhân

cách Hồ Chí Minh được cấu thành từ hai thành tố là phẩm chất đạo đức và phẩm

chất trí tuệ, hay theo như Hồ Chí Minh, nhân cách là sự thống nhất giữa Đức và

Tài. Mặc dù tác giả đã cố gắng luận giải nội hàm của nhân cách Hồ Chí Minh khá

rõ nét, tuy nhiên, tác giả chưa có điều kiện nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng, cơ

sở, nguồn gốc hình thành và phát triển nhân cách Hồ Chí Minh.

Bên cạnh đó, công trình Đặc trưng nhân cách Hồ Chí Minh - Giá trị và sức lan

tỏa [11] của Phạm Ngọc Anh đã chỉ ra tầm quan trọng của giá trị làm người, giá trị xã

hội to lớn của nhân cách Hồ Chí Minh đối với nhiều thế hệ người Việt Nam. Mặc dù

khẳng định việc nghiên cứu di sản Hồ Chí Minh nói chung và nhân cách văn hóa nói

riêng là một công việc hết sức cấp bách và quan trọng, và cho đến nay, những nghiên

cứu về chủ đề này vẫn chỉ là bước đầu, là địa hạt mà chưa có nhiều công trình đào sâu

nghiên cứu. Tác giả đã chỉ ra những đặc trưng của nhân cách Hồ Chí Minh như: (1)

Sự khâm phục, đánh giá cao của xã hội, ở niềm tin và sức sống bất diệt bởi những giá

trị làm người, giá trị xã hội mà nhân cách Hồ Chí Minh đã được các thế hệ người Việt

Page 22: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

18

Nam và nhân loại trên hành tinh chúng ta thừa nhận; (2) Chí hướng, nhân sinh quan,

thế giới quan khoa học, lí tưởng sống, niềm tin sâu sắc vào sự nghiệp cứu dân, cứu

nước, sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam và nhân dân lao động toàn thế

giới; (3) Tình yêu quê hương, đất nước, yêu nhân dân sâu sắc gắn liền với lí tưởng và

tình cảm cách mạng của Người; (4) Tầm vóc và hiểu biết cao về lí luận cách mạng;

khả năng vận dụng lí luận vào thực tiễn một cách sáng tạo là một phẩm chất cơ bản

và cốt lõi; (5) Sức mạnh và ý chí, nghị lực, khát vọng phi thường trong đấu tranh cách

mạng; (6) Sự hòa quyện, sự kết đọng của sự thông tuệ dân gian; là sự thông minh, tế

nhị và mộc mạc của tinh hoa văn hóa Việt Nam thể hiện trong ứng xử hàng ngày; (7)

Tính đồng bộ, hệ thống trong tư tưởng Hồ Chí Minh.

Nhà nghiên cứu Đỗ Long trong Hồ Chí Minh - Những vấn đề tâm lí học [84]

và Nguyễn Khắc Nho trong Hồ Chí Minh - Đỉnh cao truyền thống Nhân - Trí -

Dũng Việt Nam [116] tập trung luận giải hai nội dung quan trọng là “quá trình hình

thành tự ý thức” và “nhân cách Hồ Chí Minh”. Trong bài viết “Hồ Chí Minh: Một

nhân cách lớn” in trong ấn phẩm Hồ Chí Minh - Những vấn đề tâm lí học, nhà

nghiên cứu Đỗ Long đã làm rõ nhân cách Hồ Chí Minh nhất quán với năm đặc

trưng: nhất quán về tư tưởng, nhất quán về trí tuệ, nhất quán về tình cảm, nhất quán

về ý chí, nhất quán về đạo đức và nhất quán về nếp sống.

Trong Kỷ yếu hội thảo Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh

nhân văn hóa [163] nhà nghiên cứu Trần Văn Giàu với công trình “Nhân cách của

Chủ tịch Hồ Chí Minh” đã nêu lên bảy phẩm chất của nhân cách Hồ Chí Minh.

Ngoài ra, một số tác giả như Nguyễn Thị Chuẩn, Trương Minh Dục, Đặng Thị

Nhiệt Thu, Lê Bá Vương trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học toàn quốc “Một thế kỉ

Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước” (5/6/1911 - 5/6/2011) [164] đã luận giải những

điều kiện khách quan và chủ quan, những yếu tố tác động đến Nguyễn Tất Thành

trước khi ra đi tìm đường cứu nước. Các tác giả Võ Văn Minh, Nguyễn Văn Quang

bước đầu lý giải sự chuyển biến từ tinh thần yêu nước đến hành động cứu nước, tư

tưởng và nhân cách Hồ Chí Minh thời trẻ.

Mặc dù không trực tiếp nghiên cứu về Nhân cách Hồ Chí Minh, nhưng trong

công trình Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam [48], Đại

Page 23: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

19

tướng Võ Nguyên Giáp đã nêu rõ những phẩm chất của nhân cách văn hóa Hồ Chí

Minh, đó là: “sống có hoài bão, có lí tưởng yêu nước, thương dân sâu sắc, nhất là

đối với những người cùng khổ bị áp bức, bóc lột, có bản lãnh kiên định, có khí tiết

kiên cường trong đấu tranh thực hiện mục tiêu, lí tưởng đã lựa chọn; thông minh,

sắc sảo, nhạy bén với cái mới, ham học hỏi, có tư duy độc lập sáng tạo; có lòng tin

mãnh liệt ở nhân dân; có ý chí, nghị lực phi thường và đầu óc thực tế, nói đi đôi với

làm; mẫu mực về đạo đức cách mạng; tác phong bình dị, chân tình, khiêm tốn, có

sức cảm hóa lớn đối với mọi người; là bậc đại nhân, đại trí, đại dũng”… Đó là

những phẩm chất nổi bật trong nhân cách văn hóa Hồ Chí Minh, được hình thành từ

tinh hoa văn hóa Đông - Tây, trên nền truyền thống văn hóa Việt Nam; là tổng hợp

nhuần nhuyễn giữa cách thức tư duy, trí tuệ, tình cảm và hành động đến mức giản

dị, khiêm tốn phi thường. Đúng như Tổng thống Cộng hòa Chilê X. Agienđê đã

khái quát: “Nếu như muốn tìm một sự tiêu biểu cho tất cả cuộc đời của Chủ tịch Hồ

Chí Minh thì đó là đức tính vô cùng giản dị và sự khiêm tốn phi thường”.

Trên cơ sở những bài báo từ các hội thảo khoa học, Bảo tàng Hồ Chí Minh

Thừa Thiên Huế đã tập hợp và xuất bản sách Âm vang thời Bác Hồ ở Huế [22],

gồm 14 bài viết của các nhà khoa học nghiên cứu về “Những năm tháng Bác Hồ

và gia đình Người ở Huế”. Một số bài viết bước đầu luận giải về sự ảnh hưởng

của đời sống chính trị - xã hội Huế đối với Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất

Thành. Tác giả Nguyễn Sĩ Đạm bước đầu chỉ rõ những tác động thúc đẩy sự phát

triển nhân cách và tư tưởng yêu nước của Nguyễn Tất Thành ở Huế. Năm 2008,

Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế xuất bản ấn phẩm “Nghiên cứu, xác minh

tư liệu và di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh thời kì 1890 - 1911” [20]. Các tác giả đã

khẳng định chính sự tham gia phong trào chống thuế cùng với nhân dân Thừa

Thiên Huế đã mở ra thời kì “dấn thân” hoạt động cách mạng và tìm đường cứu

nước của Nguyễn Tất Thành. Tác giả Cao Huy Hùng khẳng định rằng chính

những hoạt động thực tiễn sôi động trong phong trào cách mạng của nhân dân

Thừa Thiên Huế giai đoạn 1906 - 1909, đặc biệt là phong trào chống thuế 1908

đánh dấu bước chuyển từ nhận thức yêu nước đến hành động yêu nước và quyết

tâm ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành.

Page 24: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

20

Năm 2010 và 2011, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức hai Hội

thảo về Di sản Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay [62] và Kỷ niệm 100 năm ngày

Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước [63]. Hội thảo đã tập hợp nhiều báo cáo của các

nhà khoa học trong cả nước luận giải về giá trị, ý nghĩa của di sản Hồ Chí Minh và

sự kiện Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước. Các tác giả như Lê Văn Tích, Lê Văn

Yên, Đinh Xuân Lý đã làm rõ bối cảnh về lịch sử trong nước và thế giới những năm

đầu thế kỉ XX và quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành. Bên

cạnh đó, các tác giả như Phan Công Tuyên, Nguyễn Quốc Bảo, Nguyễn Văn

Quang, Lê Thị Hằng đã bước đầu làm rõ một số ảnh hưởng của văn hóa Huế đến sự

hình thành tư tưởng yêu nước, chí hướng cách mạng và nhân cách Hồ Chí Minh.

Tác giả Đức Vượng trong Quá trình hình thành tư tưởng yêu nước của Hồ Chí

Minh [177] đã chỉ ra những luồng tư tưởng có ảnh hưởng đến Hồ Chí Minh trước sự

lựa chọn con đường cứu nước và những nhân tố thúc đẩy Hồ Chí Minh sớm suy

nghĩ về con đường cứu nước, tư tưởng yêu nước của Hồ Chí Minh.

Ngoài ra, nghiên cứu về đặc trưng, nội dung và giá trị của nhân cách Hồ Chí

Minh nói chung còn có một số bài báo của các tác giả như: Nhân cách Hồ Chí Minh -

Những giá trị thiết yếu trong hệ giá trị Việt Nam [59], Nhân cách Hồ Chí Minh

[137]... đã bước đầu làm rõ những đặc trưng, giá trị và sức lan tỏa và một phần nhân

cách Hồ Chí Minh.

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về nhân cách Hồ Chí Minh rất hạn chế.

Một số công trình mới chỉ đề cập đến những khía cạnh về phẩm chất hoặc năng lực

đặc biệt của Hồ Chí Minh.

1.1.3. Nhóm công trình nghiên cứu những ảnh hưởng của không gian văn

hóa Huế đến nhân cách Hồ Chí Minh

1.1.3.1. Công trình nghiên cứu nước ngoài

Các công trình của các tác giả nước ngoài nghiên cứu về những ảnh hưởng của

không gian văn hóa Huế đến nhân cách Hồ Chí Minh thật sự không nhiều, bởi lẽ đây

là một chủ đề khá hẹp. Hầu hết các nhà nhiên cứu nước ngoài chỉ điểm qua và nhận

định sơ lược về ảnh hưởng của các không gian văn hóa đến Hồ Chí Minh gắn với quá

trình hoạt động cách mạng của Người.

Page 25: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

21

Trong các công trình của các tác giả nước ngoài nghiên cứu chủ đề ảnh hưởng

của không gian văn hóa Huế đến nhân cách Hồ Chí Minh, phải kể đến bộ công trình

Đồng chí Hồ Chí Minh [30] của E. Cô-bê-lép. Công trình này được nghiên cứu công

phu, cung cấp nhiều hiểu biết chính xác về cuộc đời, sự nghiệp cách mạng của Hồ

Chí Minh, gắn với thời kì lịch sử huy hoàng của dân tộc và những biến cố lớn lao của

thời đại, đồng thời giúp cho người đọc hiểu biết về tư tưởng, đạo đức, phong cách và

nhân cách của một lãnh tụ thiên tài, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Đặc

biệt, trong công trình này, E. Cô-bê-lép luận giải sự chuyển biến về nhận thức và

hành động của Nguyễn Tất Thành trong quá trình dịch chuyển giữa hai vùng văn hóa:

xứ Nghệ và xứ Huế. Ông lý giải thời kì ở Huế, “những biến cố phi thường làm tâm trí

Thành sôi nổi hẳn lên. Mùa xuân năm 1908 là mùa xuân Thành học được những bài

học thực tiễn về đấu tranh chính trị, không khí sôi động của những cuộc nổi dậy của

quần chúng đã tác động mạnh mẽ đến tâm hồn Thành. Đối với Thành, những ngày ấy

bằng cả mấy năm sống cổ lỗ đều đều ở làng Sen. Cuộc sống thực tế ở Huế cứ mỗi

ngày lại dạy thêm cho anh những bài học khắc nghiệt và bổ ích”.

Jean Lacouture, trong công trình Ho Chi Minh (Hồ Chí Minh) [191], nhận định

rằng Hồ Chí Minh lớn lên trong cái nôi của phong trào yêu nước, cuộc đời hoạt động

cách mạng của anh “bắt đầu trong không khí bất công, oán hận và phẫn nộ, căm thù

chống lại nước Pháp”. Học giả David Helberstam cũng khẳng định: “Tư tưởng yêu

nước của Hồ được tăng cường ở Huế”, khi đang học ở Huế “Hồ tiếp tục các công

việc yêu nước một cách tích cực và cuối cùng ông đã rời bỏ trường này trước khi có

một mảnh bằng […] Ông là một con người muốn học thêm nữa bằng cách chu du ra

nước ngoài hơn là học trong trường khắt khe do Pháp đỡ đầu”.

1.1.3.2. Công trình nghiên cứu trong nước

Khảo cứu các công trình nghiên cứu về những ảnh hưởng của không gian văn

hóa Việt Nam nói chung, văn hóa Huế nói riêng đến sự hình thành và phát triển

nhân cách Hồ Chí Minh, chúng tôi nhận thấy chưa có một công trình nghiên cứu

tổng thể, toàn diện và sâu sắc.

Liên quan đến nhóm công trình này, Đi tìm dấu tích thời niên thiếu của Bác Hồ

ở Huế [184] của Nguyễn Đắc Xuân là công trình nghiên cứu về thời niên thiếu của

Page 26: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

22

Hồ Chí Minh từ thuở mới theo gia đình đặt chân lên đất Huế (1895) cho đến lúc

Người từ giã Huế để vào các tỉnh phía Nam bắt đầu hành trình đi tìm đường cứu nước

(1909). Công trình này gồm 13 chương, 311 trang, được biên soạn bằng những cứ

liệu lịch sử có giá trị khoa học trên cơ sở tư liệu được khảo sát điền dã, phỏng vấn các

nhân chứng lịch sử, những người bạn học, những người học cùng trường và những

người thân quen với gia đình của Hồ Chí Minh. Về tài liệu tham khảo, tác giả đã sử

dụng tư liệu phong phú, ngoài tài liệu của triều Nguyễn, còn có Bộ hồ sơ mật của mật

thám Pháp gồm 21 tài liệu được lưu trữ tại Bảo tàng Hồ Chí Minh trong thời gian từ

năm 1911 đến năm 1928. Điều đáng lưu ý nhất là tác giả đã chỉ ra thời gian sinh sống

và học tập tại Huế, Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành đã chứng kiến sự bất lực

của các vua quan triều Nguyễn, thấy được tội ác của thực dân Pháp, tiếp xúc với văn

hóa phương Tây và hòa mình vào phong trào đấu tranh yêu nước… Tất cả những gì

Hồ Chí Minh tiếp nhận ở Huế cùng với truyền thống yêu nước của quê hương xứ

Nghệ đã hình thành tư tưởng yêu nước và nhân cách Hồ Chí Minh. Mặc dù đã cố

gắng làm rõ ảnh hưởng của đời sống vật chất, tinh thần, của điều kiện kinh tế, chính

trị - xã hội đến tuổi trẻ của Hồ Chí Minh, nhưng tác giả chưa thể khẳng định ảnh

hưởng của văn hóa Huế đến sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh.

Bộ công trình Hồ Chí Minh tiểu sử [65] của Học viện Chính trị - Hành chính

Quốc gia Hồ Chí Minh do Song Thành chủ biên đã luận giải tương đối đầy đủ về

cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh. Chương I của công trình này tác giả đề cập

đến “Thời niên thiếu và những hoạt động yêu nước đầu tiên” (5/1890 - 6/1911).

Trong đó, các tác giả dành 12 trang để trình bày tóm tắt về những hoạt động của Hồ

Chí Minh và gia đình ở Huế (1895 - 1901 và 1906 - 1909). Tuy nhiên, công trình

này chưa có điều kiện luận giải sự ảnh hưởng, tác động của không gian văn hóa Huế

đối với sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh.

Nhà nghiên cứu Trần Văn Giàu với hai công trình tiêu biểu: Giá trị tinh thần

truyền thống của dân tộc Việt Nam [49] và Sự hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí

Minh [51], đã làm rõ mối quan hệ giữa các giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc

Việt Nam với sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Ông khẳng định những giá trị tinh

thần tốt đẹp của dân tộc ta trong suốt mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước đã trang

Page 27: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

23

bị kiến thức và tư tưởng của Nguyễn Tất Thành, trong đó, gia đình đặt những nền

móng đầu tiên, truyền thống quê hương xây dựng nên tấm lòng yêu nước nồng nhiệt;

Quốc học Việt Nam trang bị cho Hồ Chí Minh một căn bản truyền thống yêu nước,

yêu dân, tự hào dân tộc… Qua công trình Sự hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí

Minh, Trần Văn Giàu đã làm rõ những đặc điểm cơ bản của tư tưởng yêu nước truyền

thống - hành trang tư tưởng chủ yếu của Hồ Chí Minh.

Bộ công trình 3 tập Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh [170], [171], [172] do

Viện Hồ Chí Minh xuất bản năm 1993. Trong tập 3, tác giả Trịnh Tùng và Đặng

Văn Hồ với tham luận “Từ tinh thần yêu nước đến tư tưởng cứu nước - bước

chuyển trong tư tưởng Hồ Chí Minh thời kì ở Thừa Thiên - Huế (1906-1909)” đã

phân tích những ảnh hưởng của điều kiện kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội Huế đến

sự hình thành tinh thần và tư tưởng yêu nước Hồ Chí Minh - biểu hiện đặc sắc nhất

của nhân cách Hồ Chí Minh. Từ kết quả nghiên cứu, các tác giả trên đã kết luận:

“Thừa Thiên - Huế là một trong những địa bàn quan trọng trong bước đầu xuất hiện

tư tưởng cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh”.

Tác giả Trần Minh Trưởng và cộng sự trong công trình Ảnh hưởng của các giá

trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc đến sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh

[157] đã chỉ rõ bản sắc văn hóa truyền thống Việt Nam là tài sản vô giá của dân tộc,

góp phần làm giàu tri thức văn hóa nhân loại. Đồng thời, công trình cũng chỉ ra văn

hóa truyền thống dân tộc, truyền thống yêu nước đã trở thành xuất phát điểm, động

lực thôi thúc Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước và là nhân tố quan trọng

hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh. Các tác giả chưa có điều kiện đi sâu nghiên

cứu những ảnh hưởng của các giá trị văn hóa Huế với tư cách là một trong ba vùng

văn hóa đặc trưng của Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Tuy nhiên, những

kiến giải về ảnh hưởng của các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc và phương

pháp nghiên cứu của công trình này có ý nghĩa phương pháp luận, định hướng cho

việc thực hiện luận án này.

Bên cạnh đó, Bác Hồ với miền núi Ngự sông Hương [174] của Phạm Hồng Việt

đã luận giải Huế với tình thương cùng nỗi gian truân của gia đình, với tình nghĩa

đồng bào, láng giềng hàng xóm, với những tác động ngược chiều khác nhau của xã

Page 28: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

24

hội và nhà trường đối với Hồ Chí Minh. Tác giả khẳng định từ Huế, Nguyễn Tất

Thành đã chín chắn và hình thành quyết định ra đi tìm đường cứu nước.

Ngoài các công trình nêu trên, liên quan đến đề tài còn có một số công trình

như: Chủ tịch Hồ Chí Minh - Tiểu sử và sự nghiệp [15], Phong trào kháng thuế của

nông dân miền Trung Việt Nam năm 1908 và sự tham gia đấu tranh của anh Nguyễn

Tất Thành (Chủ tịch Hồ Chí Minh) tại Thừa Thiên Huế [23], Tư tưởng Hồ Chí Minh

và con đường cách mạng Việt Nam [48], Vĩ đại một con người [52], Vàng trong lửa -

Chủ tịch Hồ Chí Minh với miền Nam Tổ quốc [53], Thời thanh niên của Bác Hồ [56],

Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, tập 1 (1890-1929) [64], Những mẩu chuyện về đời

hoạt động của Hồ Chủ tịch [147], v.v… Ngoài các công trình nêu trên, liên quan đến

sự hình thành và phát triển nhân cách Hồ Chí Minh thời trẻ còn có một số bài báo

như: Tân văn - Tân thư và ảnh hưởng của nó đến tư tưởng yêu nước ở Việt Nam nửa

đầu thế kỉ XX [24], Dưới mái trường Quốc Học [28], Dưới mái tranh trường Quốc

Học những năm 1906 - 1911 [29], Nơi đặt nền móng đầu tiên cho chặng đường cứu

nước của Hồ Chủ tịch [69], Về con đường cứu nước của Hồ Chí Minh [77], Hồ Chí

Minh và sự chủ động sáng tạo trong việc lựa chọn con đường cứu nước [107],v.v…

Các công trình nêu trên mặc dù không trực tiếp đi sâu nghiên cứu những ảnh

hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự hình thành và phát triển nhân cách Hồ Chí

Minh, những đã nêu rõ thời kì ở Huế, những ảnh hưởng của các điều kiện về kinh tế,

chính trị, văn hóa, xã hội của Huế đã góp phần đưa ra quyết định ra đi tìm đường cứu

nước của Hồ Chí Minh.

1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ KẾ THỪA VÀ ĐỊNH HƯỚNG TRIỂN KHAI CỦA ĐỀ TÀI

1.2.1. Những vấn đề luận án kế thừa

Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án ở trên cho thấy

việc nghiên cứu về văn hóa Huế và Hồ Chí Minh nói chung là hết sức phong phú,

nhiều góc độ, khía cạnh với nội dung sâu sắc. Tuy nhiên, nghiên cứu ảnh hưởng của

không gian văn hóa Huế đến sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh là một chủ đề

chưa có công trình độc lập, trình bày hệ thống, đặc biệt là từ góc độ chuyên ngành

Hồ Chí Minh học. Do đó, chúng tôi cố gắng vận dụng những nguồn tư liệu, đặc biệt

là khai thác các bài viết, bài phát biểu và các đoạn trích có tính chất hồi ức của Hồ

Page 29: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

25

Chí Minh được Người viết trong quá trình hoạt động cách mạng ở trong và ngoài

nước. Bên cạnh đó, để tìm những tư liệu khoa học cho đề tài này, luận án còn khai

thác những vấn đề liên quan đến văn hóa, văn hóa Huế, cũng như những tư liệu hồi

ký, tài liệu phỏng vấn những người sống cùng thời với Hồ Chí Minh thời kì ở Huế,

đã được một số nhà nghiên cứu tâm huyết sưu tầm và biên soạn.

Trên cơ sở khảo cứu các tài liệu, các công trình tiêu biểu nghiên cứu về văn

hóa Việt Nam, luận án kế thừa các quan điểm, cách tiếp cận khác nhau về văn hóa

nói chung và văn hóa Việt Nam nói riêng. Những đóng góp của các nhà nghiên

cứu trong việc luận giải các khái niệm, cấu trúc, các thiết chế và chức năng văn

hóa, diễn trình lịch sử của văn hóa, không gian văn hóa Việt Nam và những ảnh

hưởng của văn hóa tới nhân cách con người... là cơ sở để kiến giải khái niệm

“không gian văn hóa Huế”. Với nhóm công trình nghiên cứu về văn hóa Huế và

không gian văn hóa Huế, mặc dù chưa có công trình chuyên sâu, nhưng các cách

tiếp cận, nghiên cứu từng mặt, từng khía cạnh về văn hóa Huế của các tác giả là

những cứ liệu quan trọng, làm cơ sở khoa học để luận giải các khái niệm, cấu trúc

của “không gian văn hóa Huế”. Như vậy, các công trình nghiên cứu về văn hóa

Việt Nam nói chung và không gian văn hóa Huế nói riêng nêu trên đã cung cấp

những tri thức cần thiết để xây dựng hệ thống khái niệm, cấu trúc văn hóa Huế và

không gian văn hóa Huế.

Ngoài ra, luận án còn kế thừa kết quả của công trình nghiên cứu những ảnh

hưởng của không gian văn hóa Huế đến nhân cách Hồ Chí Minh. Các công trình

nêu trên đã luận giải những ảnh hưởng của các điều kiện về kinh tế, chính trị, văn

hóa, xã hội của Huế đến Hồ Chí Minh. Lập luận khoa học của các nhà nghiên cứu sẽ

là cơ sở vững chắc để có thể thực hiện đề tài này.

Nghiên cứu về nhân cách Hồ Chí Minh cho đến nay chưa có nhiều công

trình nghiên cứu chuyên sâu. Một số nhà khoa học trong các bài viết đã bước đầu

luận giải về sự hình thành một nhân cách; đặc trưng và sức lan tỏa của nhân cách

hồ Chí Minh… Luận án đã kế thừa phương pháp nghiên cứu, cách thức tiếp cận,

cũng như những quan điểm về sự hình thành, phát triển và đặc trưng nhân cách

Hồ Chí Minh.

Page 30: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

26

1.2.2. Những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu

Mặc dù các nhà khoa học, nhà nghiên cứu với sự nỗ lực của mình, thông qua

cái bài báo, đề tài khoa học đã cố gắng luận giải về các nội dung như: nhân cách Hồ

Chí Minh, những ảnh hưởng của các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của Việt

Nam, của vùng đất Nghệ - Tĩnh và Huế đến Hồ Chí Minh... Tuy nhiên, chưa có một

công trình nghiên cứu toàn diện và sâu sắc những ảnh hưởng của không gian văn

hóa Huế đến sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh. Từ thực trạng nghiên cứu trên,

nghiên cứu sinh nhận thấy cần nghiên cứu ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế

đến sự hình thành và phát triển nhân cách Hồ Chí Minh. Căn cứ vào mục đích và

nhiệm vụ nghiên cứu của luận án đề ra, từ góc độ chuyên ngành Hồ Chí Minh học,

luận án thấy cần phải tiếp tục nghiên cứu để làm rõ những vấn đề chủ yếu sau:

Thứ nhất, nghiên cứu làm rõ khái niệm, cấu trúc nhân cách, quy luật hình

thành nhân cách, trong đó tập trung làm rõ quan niệm chủ nghĩa Mác - Lênin về

nhân cách. Từ việc hệ thống hóa tri thức về nhân cách nói chung và nhân cách Hồ

Chí Minh, luận án làm rõ khái niệm nhân cách Hồ Chí Minh.

Thứ hai, trên cơ sở hệ thống hóa tri thức, luận án làm rõ những khái niệm, cấu

trúc và những nét đặc trưng của không gian văn hóa Huế, cũng như xác định và

phân tích các nhân tố chủ yếu của không gian văn hóa Huế ảnh hưởng đến sự hình

thành nhân cách Hồ Chí Minh.

Thứ ba, trên cơ sở hệ thống hóa tri thức về nhân cách Hồ Chí Minh, luận án phân

tích những biểu hiện của nhân cách Hồ Chí Minh từ sự ảnh hưởng của không gian văn

hóa Huế, trong những năm tháng Người sống và học tập ở Huế.

Thứ tư, nhận xét về những ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự hình

thành và phát triển nhân cách Hồ Chí Minh, đồng thời rút ra ý nghĩa của vấn đề

nghiên cứu để phát triển nhân cách Hồ Chí Minh hiện nay.

Page 31: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

27

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Nghiên cứu “Không gian văn hóa Huế với sự hình thành nhân cách Hồ Chí

Minh”, luận án đã tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài thông qua khảo

sát, phân tích, nhận định các công trình nghiên cứu theo 3 nhóm: (1) Các công trình

nghiên cứu không gian văn hóa Huế; (2) Các công trình nghiên cứu những ảnh hưởng

của không gian văn hóa Huế đến nhân cách Hồ Chí Minh; (3) Các công trình nghiên

cứu về nhân cách Hồ Chí Minh. Qua đó nhận thấy, Hồ Chí Minh là một nhân vật kiệt

xuất của Việt Nam và thế giới, do đó có nhiều công trình nghiên cứu về Người từ cuộc

đời, tiểu sử, sự nghiệp cách mạng, hệ thống quan điểm, tư tưởng, phương pháp và

phong cách. Tuy nhiên, chủ đề nhân cách Hồ Chí Minh chưa thật sự có nhiều công

trình nghiên cứu. Một số công trình nghiên cứu bước đầu làm rõ những đặc trưng về

nhân cách Hồ Chí Minh, tuy nhiên lại nhấn mạnh nhiều yếu tố đạo đức hơn là trí tuệ.

Về ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự hình thành nhân cách Hồ Chí

Minh, cho đến nay chưa có nhiều đề tài nghiên cứu chuyên sâu. Đa phần các công

trình, bài viết tập trung làm rõ những tác động riêng lẻ từ đời sống chính trị, những biến

động về chính trị đến sự hình thành tư tưởng yêu nước và nhân cách Hồ Chí Minh, một

số công trình làm rõ đặc trưng và giá trị của nhân cách Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, thật

thiếu sót khi chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc, có hệ

thống về sự ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự hình thành và phát triển

nhân cách Hồ Chí Minh.

Kết quả nghiên cứu của các công trình liên quan là nguồn tư liệu quý giá để thực

hiện các nhiệm vụ nghiên cứu của luận án. Tuy nhiên, từ tổng quan tình hình nghiên

cứu trên, đặt ra những vấn đề luận án tiếp tục làm rõ: quan niệm về nhân cách Hồ Chí

Minh và không gian văn hóa Huế; những yếu tố cấu thành không gian văn hóa Huế;

những ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự hình thành và phát triển nhân

cách Hồ Chí Minh; những biểu hiện của nhân cách Hồ Chí Minh từ ảnh hưởng của

không gian văn hóa Huế; ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài đối với việc giáo dục và

rèn luyện đạo đức, nhân cách cho thế hệ trẻ hiện nay. Những vấn đề này cũng là nhiệm

vụ nghiên cứu chính và được làm rõ trong các chương tiếp theo của luận án.

Page 32: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

28

Chương 2

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ

NHÂN CÁCH HỒ CHÍ MINH VÀ KHÔNG GIAN VĂN HÓA HUẾ

2.1. NHÂN CÁCH HỒ CHÍ MINH

2.1.1. Khái niệm, cấu trúc, quy luật nhân cách

2.1.1.1. Khái niệm nhân cách

Nhân cách là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau, như

triết học, xã hội học, chính trị học, luật học, tâm lí học, giáo dục học, xã hội học,

đạo đức học… Từ nhiều cách tiếp cận, các nhà nghiên cứu đã đưa ra những kiến

giải khác nhau về nhân cách. Trong đó, quan điểm triết học về nhân cách con người,

về cơ bản, có những khác biệt so với quan điểm của các khoa học cụ thể.

Theo quan điểm của các nhà tư tưởng triết học phương Đông, con người là

tiểu vũ trụ, mang những đặc tính của vũ trụ. Những đặc tính này chi phối sự phát

triển con người. Thực thể con người là sản phẩm của nguyên lý âm dương, vừa đối

lập vừa thống nhất, chứa đựng và chuyển hóa lẫn nhau, trời - đất - người hợp thành

một (thiên - địa - nhân hợp nhất). Mạnh Tử nhận xét rằng khi phát triển hết mình,

con người không chỉ có thể biết trời mà còn hợp nhất với trời làm một. Tính cách

của con người chịu ảnh hưởng của ngũ hành và chia ra loại người: Kim, Mộc, Thủy,

Hỏa, Thổ. Người phương Đông đánh giá con người qua chất là chủ yếu, lượng là

phụ; lấy “tâm thiện” là lí tưởng, đề cao tính thiện, tính nhân, thích sự im lặng, nhẹ

nhàng, đề cao sự cân bằng không thái quá, biết đủ là giàu, giản dị ở vật chất, giản dị

trong nội tâm, trong ngôn từ, trong quan hệ với mọi người.

Ở Việt Nam, thuật ngữ nhân cách được luận giải theo nhiều góc độ khác nhau:

(1) Nhân cách được hiểu là con người có đức và tài, hay là tính cách và năng lực,

hoặc là con người có các phẩm chất: Đức, Trí, Thể, Mĩ, Lao (lao động); (2) Nhân

cách được hiểu như các phẩm chất và năng lực của con người; (3) Nhân cách được

hiểu như phẩm chất của con người mới: làm chủ, yêu nước, nhân ái, tinh thần quốc

tế vô sản, tinh thần lao động; (4) Nhân cách được hiểu như mặt đạo đức, giá trị làm

người của con người… Trong Tâm lí học đại cương, Nguyễn Quang Uẩn xác định

Page 33: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

29

nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lí của cá nhân, biểu hiện

bản sắc và giá trị xã hội của con người. Từ điển Tiếng Việt ghi rõ nhân cách là “tư

cách và phẩm chất con người” [119, tr.710] và “phẩm chất” đó được Hồ Chí Minh

nêu khái quát thành các “tư cách” của người cách mạng với 23 điều ngắn gọn, thuộc

về ba cách ứng xử của người cách mạng với bản thân, người khác và công việc.

Nếu như Mạnh Tử coi nhân cách là tiên thiên, con người sinh ra vốn tính thiện

“nhân chi sơ, tính bản thiện” hay Tuân Tử thì ngược lại “nhân chi sơ, tính bản ác”,

thì Hồ Chí Minh lại có cách nhìn khoa học và toàn diện hơn. Theo quan điểm của

Người, con người từ khi sinh ra chỉ là một sinh vật, chưa có nhân cách, quá trình

đứa trẻ lớn lên và thông qua quá trình xã hội hóa thì nhân cách mới được hình thành

và phát triển. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Ngủ thì ai cũng lương thiện, tỉnh dậy sinh

ra kẻ dữ hiền”. Quan điểm của Người không thần thánh hóa theo kiểu duy tâm mà

coi nhân cách như là một yếu tố động, bởi từ lúc chào đời cho đến khi trưởng thành

thì cá nhân bao giờ cũng chịu sực tác động của môi trường xung quanh, đồng thời

con người cũng là chủ thể của các hoạt động và giao tiếp.

Nếu Khổng Tử xem nhân cách con người thể hiện ở Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín,

trong đó Nhân là gốc, thì Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến 5 “tính tốt”, đó là: Nhân,

Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm. Trong đó, Nhân là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ

đồng bào, đồng chí,... sẵn sàng hi sinh vì mọi người, khổ trước mọi người, vui sau

thiên hạ. Vì thế không ham giàu sang, không e cực khổ, không sợ uy quyền;

Nghĩa là ngay thẳng, không tư tâm, không làm việc bậy, không có việc gì phải giấu

đoàn thể. Ngoài lợi ích của đoàn thể, không có lợi ích riêng phải lo toan; Trí là đầu

óc trong sạch sáng suốt, không mù quáng, dễ hiểu lí, dễ tìm phương hướng, biết

xem người, biết xét việc. Vì vậy mà biết làm việc có lợi tránh việc có hại cho đoàn

thể; Dũng là dũng cảm, gan góc, gặp việc gì phải có gan làm, thấy khuyết điểm phải

có gan sửa chữa, cực khổ khó khăn có gan chịu đựng. Có gan chống lại những vinh

hoa, phú quý không chính đáng. Nếu cần thì có gan hi sinh cả tính mệnh cho đoàn

thể: cho Tổ quốc, không bao giờ rụt rè nhút nhát; Liêm là không tham địa vị, không

tham tiền tài, không tham sung sướng, không ham người tâng bốc mình. Vì vậy, mà

Page 34: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

30

quang minh chính đại, không bao giờ hủ hóa. Chỉ có một cái ham là ham học, ham

làm và ham tiến bộ [96, tr.291-292].

Ở phương Tây, khái niệm nhân cách được luận giải khá phong phú. Nhà triết

học Hy Lạp - Aristotle (384-322 TCN) cho rằng con người là một “động vật chính

trị”, xã hội và nền giáo dục tác động đến sự phát triển của con người, hình thành

nhân cách con người. Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, các nhà tâm lí học Đức là

Wilhelm Dilthey (1833-1911) và Eduard Spranger (1882-1963) lần đầu tiên đưa ra

khái niệm nhân cách là cái mặt nạ có tính chất xã hội của cái tôi bên trong, khi nào

cái mặt nạ đó trùng với cái tôi thì nhân cách phát triển chín muồi. Nhà tâm lí học Xô

Viết, X.L. Rubinstein cho rằng con người là nhân cách do nó xác định được quan hệ

của mình với những người xung quanh một cách có ý thức. Nhân cách được hình

thành và phát triển nhờ các mối quan hệ xã hội, trong quá trình thực hiện các mối

quan hệ xã hội đó cá nhân phát triển và bắt đầu quá trình hoạt động sống của mình.

Do vậy, có nhiều định nghĩa khác nhau về nhân cách, nhưng nhân cách thường

được xác định như là một hệ thống quan hệ của con người với thế giới xung quanh

và với chính bản thân mình. Trên quan điểm triết học duy vật biện chứng, một số

nhà tâm lí học Xô-viết có các cách tiếp cận khác nhau về nhân cách. A.N.

Leonchiep (1903-1979) coi nhân cách như một cấu tạo tâm lí mới, được hình thành

trong các quan hệ sống của cá nhân do kết quả hoạt động cải tạo của người đó.

Xem xét nhân cách dưới góc độ triết học, các nhà kinh điển Mác - Lênin cho

rằng nhân cách là những phẩm chất, những trạng thái, tính chất, xu hướng bên

trong của từng cá nhân. Đó là thế giới của cái “tôi” do tác động tổng hợp của các

yếu tố cơ thể và xã hội hết sức riêng biệt tạo nên để cá nhân đó có thể tồn tại và

hoàn thành trách nhiệm của mình đối với bản thân và xã hội [75]. Định nghĩa này

xác định bốn điểm cơ bản sau:

+ Thứ nhất, nhân cách luôn gắn với con người hiện thực, là sản phẩm của

những hoàn cảnh xã hội, lịch sử cụ thể. Con người là một chỉnh thể thống nhất,

trong đó cộng gộp các yếu tố tự nhiên và xã hội. Trong quá trình phát triển, cấu tạo

sinh vật di truyền và tâm sinh lí của cá nhân là cơ sở nền tảng để hình thành nên

những đặc điểm lịch sử - xã hội của con người.

Page 35: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

31

+ Thứ hai, con người hình thành nhân cách của mình là một quá trình kép, xã

hội hóa cá nhân và cá nhân hóa xã hội. Với những đặc điểm về di truyền, sinh lý,

gia đình và hoàn cảnh sống, mỗi cá nhân tiếp thu và chuyển hóa những giá trị văn

hóa của xã hội vào trong mình, thực hiện quá trình sàng lọc, tự giáo dục, tự tạo nên

thế giới riêng của mình. Từ đó, hình thành nên những dạng riêng biệt về động lực,

niềm tin, ý chí, định hướng giá trị… trong xúc cảm, nhận thức và hành động.

+ Thứ ba, con người vừa là chủ thể vừa là khách thể của sự phát triển. Con

người chỉ hình thành nhân cách trong những điều kiện xã hội nhất định. Trong quá

trình đó, mỗi cá nhân bằng sự hoạt động tích cực của mình, tiến hành các hoạt

động, tiếp nhận tri thức và kinh nghiệm xã hội, hình thành các phẩm chất xã hội

và tâm lí nhất định. Với nhân cách riêng, mỗi cá nhân có khả năng tự ý thức về

mình, làm chủ cuộc sống của mình, tự lựa chọn nhiệm vụ, trách nhiệm hoạt động

cụ thể trong xã hội. Một trong những yếu tố then chốt của nhân cách là sự thôi

thúc nội tâm, là ý chí cá nhân vươn đến những mục đích mà mình mong muốn.

+ Thứ tư, nhân cách là nói đến con người đã hình thành về mặt xã hội, là sự

biểu hiện chức năng xã hội của con người. Con người sinh ra không tự hình thành

nhân cách mà chỉ là một cá thể người. Cá thể này chỉ trở thành nhân cách khi nó

mang tính chất là một chủ thể của các quan hệ xã hội với những đặc điểm về thái

độ, tình cảm, bản lĩnh, hành vi phù hợp với các thang giá trị xã hội [13, tr.184-186].

Như vậy, nhân cách là hệ thống những phẩm giá của một người được đánh giá

từ mối quan hệ qua lại của người đó với những người khác, với tập thể, với xã hội

và với môi trường xung quanh từ quá khứ, hiện tại và tương lai. Nhân cách là giá trị

được xây dựng và hình thành trong toàn bộ thời gian con người tồn tại trong xã hội,

nó đặc trưng cho mỗi con người, thể hiện những phẩm chất bên trong con người

nhưng lại mang tính xã hội sâu sắc.

Từ các quan niệm trên, có đi đến khẳng định nhân cách là hệ thống những

phẩm giá và năng lực của một người được hình thành và phát triển trong tương tác

giữa con người với tự nhiên và xã hội, nó đặc trưng cho mỗi con người, thể hiện

những phẩm chất bên trong con người mang tính xã hội sâu sắc.

Page 36: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

32

2.1.1.2. Cấu trúc nhân cách

Bàn về cấu trúc của nhân cách có nhiều quan niệm khác nhau. Tùy theo quan

niệm về bản chất nhân cách, mỗi nhà nghiên cứu đưa ra một cấu trúc khác nhau về

nhân cách. J. Stefanovi đưa ra cấu trúc nhân cách bao gồm năm thành phần: đặc

điểm tích cực - động cơ của nhân cách như xu hướng, nguyện vọng, hứng thú, kế

hoạch sống; đặc điểm lập trường - quan hệ của nhân cách thể hiện mặt giá trị của

nhân cách bao gồm lập trường, lí tưởng và quan điểm sống; đặc điểm về mặt hành

động của nhân cách bao gồm tri thức, kĩ xảo và thói quen; đặc điểm tự điều chỉnh

của nhân cách bao gồm tự ý thức, tự đánh giá, tự phê bình của nhân cách; đặc điểm

về động thái của nhân cách thể hiện ở khí chất của nó.

K.K. Platonov lại cho rằng nhân cách gồm bốn tiểu cấu trúc sau: Tiểu cấu trúc

có nguồn gốc sinh học (gồm: khí chất, giới tính, lứa tuổi và cả những đặc điểm tâm

lí); tiểu cấu trúc các đặc điểm của các quá trình tâm lí (gồm: trí tuệ, trí nhớ, ý chí,

đặc điểm của cảm xúc…); tiểu cấu trúc về vốn kinh nghiệm (gồm: tri thức, kĩ năng,

kĩ xảo, thói quen…); tiểu cấu trúc xu hướng nhân cách (gồm: nhu cầu, hứng thú, lí

tưởng, thế giới quan, niềm tin…). Cũng có quan niệm coi nhân cách gồm 4 nhóm

thuộc tính tâm lí điển hình của cá nhân: xu hướng, tính cách, khí chất, năng lực.

Theo Phạm Minh Hạc, thì nhân cách con người bao gồm bốn bộ phận: xu hướng

của nhân cách; khả năng của nhân cách; phong cách, hành vi của nhân cách; hệ

thống điều khiển của nhân cách.

Ngoài các cách phân định trên, một số nhà nghiên cứu cho rằng cấu trúc nhân

cách gồm ba thành phần. Theo A.G. Covaliov, nhân cách được cấu thành từ các quá

trình tâm lí, các trạng thái tâm lí và các thuộc tính tâm lí cá nhân. Còn Sigmund

Freud cho rằng đó là cái nó, cái tôi và cái siêu tôi. Ngoài ra, cũng có quan điểm coi

nhân cách bao gồm ba lĩnh vực là: nhận thức (tri thức và năng lực trí tuệ), tình cảm

(rung cảm và thái độ) và ý chí (phẩm chất ý chí, kĩ năng, kĩ xảo, thói quen).

Bàn về cấu trúc nhân cách, Hồ Chí Minh nhấn mạnh hai yếu tố quan trọng là

đức và tài (hồng và chuyên). Trong đó, đức là gốc của con người, là nền tảng của

nhân cách con người; tài là các năng lực thích ứng với xã hội của con người, là hiệu

suất, hiệu quả trong một lĩnh vực hoạt động nào đó của họ. Người chỉ rõ: “Cũng

Page 37: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

33

như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc,

không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì

dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [96, tr.293-294]. Theo Hồ Chí

Minh, đạo đức cách mạng là quyết tâm suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho cách

mạng, đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích cá

nhân mình, hết lòng phục vụ nhân dân. Mặt khác, muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ

của người cán bộ cách mạng thì nhất thiết phải có tài, có năng lực công tác. Theo

Người: “Có tài mà không có đức chẳng những không làm được gì ích lợi cho xã

hội, mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có tài cũng không lợi gì

cho loài người” [102, tr.339]. Do đó, về năng lực cần có của người cách mạng,

trước hết phải quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm chỉnh quan điểm, đường lối,

chính sách của Đảng, có trình độ và năng lực cần thiết để đảm nhiệm trọng trách mà

Đảng và nhân dân giao phó.

Kế thừa quan điểm của Hồ Chí Minh, một số nhà khoa học cũng cho rằng cấu

trúc nhân cách gồm hai thành phần cơ bản là đức và tài hay còn gọi là phẩm chất và

năng lực (đạo đức và trí tuệ). Trong đó, mặt “Đức” được thể hiện qua những phẩm

chất chủ yếu sau: (1) Phẩm chất xã hội: thế giới quan, thái độ chính trị - xã hội, thái

độ lao động, lập trường cá nhân, trong đó thế giới quan là yếu tố quan trọng nhất.

Sự phát triển của những phẩm chất này góp phần quan trọng giúp cá nhân có những

nhận thức và hành động đúng đắn, hợp lý trong những hoàn cảnh, điều kiện thực

tiễn khác nhau. Chỉ khi xác lập được thế giới quan thì mỗi cá nhân mới khẳng định

nhân cách của mình trong cuộc sống; (2) Phẩm chất cá nhân: đạo đức, các đức tính,

thói và tật, trong đó đạo đức là yếu tố quan trọng nhất. Đó là đạo đức của từng cá

nhân riêng lẻ trong cộng động, phản ánh tồn tại xã hội của cá nhân ấy. Trong hoạt

động nhận thức và thực tiễn của mình, cá nhân thực hiện đạo đức xã hội như là hệ

thống kinh nghiệm xã hội, những lí tưởng, chuẩn mực, tư tưởng đánh giá đạo đức

được hình thành trong lịch sử cộng đồng, biến kinh nghiệm xã hội thành kinh

nghiệm của bản thân; (3) Phẩm chất ý chí, tính kỉ luật, phê phán, độc lập, tác

phong… Thông qua các hoạt động thực tiễn, gắn với các mối quan hệ xã hội, cá

nhân tự hình thành nhân cách thông qua ý thức kỉ luật, ý thức phê phán (tự phê bình

Page 38: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

34

và phê bình), tinh thần độc lập trong các hoạt động và thái độ và cách thức ứng xử

với các cá nhân và tập thể khác trong cộng đồng; (4) Cung cách ứng xử: tác phong,

tính khí, lễ tiết trong giao tiếp, ứng xử giữa các cá nhân với cộng đồng xã hội. Gắn

với các môi trường khác nhau, cung cách ứng xử được hình thành và tuân theo

những chuẩn mực nhất định [13, tr.188].

Về mặt “Tài” được thể hiện qua năng lực hoàn thành, chất lượng và hiệu quả

các nhiệm vụ và hoạt động được giao. Trong đó: (1) Năng lực xã hội hóa: khả năng

chiếm lĩnh tri thức và từ vốn kiến thức ban đầu đó làm cơ sở cho sự sáng tạo của

các chủ thể mang nhân cách trong hoạt động thực tiễn. Năng lực này còn được thể

hiện ở khả năng thích nghi, thích ứng, hòa nhập, linh hoạt trong môi trường xã hội;

(2) Năng lực chủ thể hóa: khả năng làm chủ, bản lĩnh, “cái tôi”, quan điểm, lập

trường, sự cuốn hút, lôi cuốn người khác và các dấu ấn riêng có của cá nhân trong

các mối quan hệ xã hội; (3) Năng lực hành động: khả năng hành động theo mục

đích, lí tưởng, có tinh thần chủ động, tích cực, sáng tạo với năng suất, chất lượng và

hiệu quả cao nhất, là thể hiện tính tích cực xã hội chủ thể mang nhân cách; (4) Năng

lực giao lưu, giao tiếp: khả năng cá nhân thiết lập và duy trì các mối quan hệ với

người khác và cộng đồng. Với đặc điểm, sở trường, phẩm chất cá nhân riêng mà sự

giao lưu, giao tiếp của mỗi cá nhân được mở rộng hay bó hẹp [13, tr.189].

2.1.1.3. Quy luật của sự hình thành và phát triển nhân cách

Nhân cách con người không tự nhiên mà có, không được sinh ra đồng thời với

sự hình thành bản thân con người. Sự hình thành và phát triển nhân cách là quá

trình lâu dài, đó là kết quả của quá trình tích lũy dần dần những kinh nghiệm sống,

những tri thức, tập nhiễm được trong quá trình sống và trưởng thành. Qua nghiên

cứu, sự hình thành và phát triển nhân cách được thể hiện như sau:

+ Thứ nhất, nhân cách được hình thành và phát triển gắn với quá trình giáo

dục, tự giáo dục và hoạt động thực tiễn của con người

Giáo dục xuất hiện cùng với loài người và tồn tại, phát triển cùng với loài

người. Con người lớn lên và trưởng thành qua quá trình tiếp nhận và thẩm thấu các

tri thức văn hóa, xây dựng kĩ năng, biến thành phẩm chất người của mình trước hết

Page 39: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

35

bằng con đường giáo dục và tự giáo dục. Giáo dục giữ vai trò chủ đạo trong quá

trình hình thành và phát triển nhân cách với tư cách là sự tác động khách quan của

chủ thể giáo dục đến đối tượng tiếp nhận giáo dục, được thể hiện qua nội dung và

hình thức giáo dục. Vai trò ấy thể hiện ở ba khía cạnh:

Một là, giáo dục tạo dựng những hình mẫu nhân cách phù hợp với các yêu cầu

của xã hội hiện tại thông qua nội dung giáo dục giá trị nhân cách, qua mục tiêu giáo

dục mẫu hình nhân cách của nhà trường và xã hội.

Hai là, giáo dục là sự truyền thụ các giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại,

để các thế hệ nối tiếp nhau kế thừa, bảo tồn và phát triển những giá trị văn hóa đó

đó trong tiến trình phát triển của dân tộc. Giá trị truyền thống được coi là cơ sở, nền

tảng để hình thành giá trị nhân cách của con người.

Ba là, giáo dục định hướng sự phát triển hoàn thiện, tốt đẹp cho con người.

Giáo dục có khả năng uốn nắn những hành vi lệch chuẩn trong sự phát triển nhân

cách, tạo dựng những mẫu hình nhân cách mới đáp ứng những đòi hỏi của xã hội.

Nói cách khác, nhân cách trong sự hình thành và phát triển, một mặt, chịu sự

tác động có chủ đích của quá trình giáo dục; mặt khác, nhân cách là kết quả của quá

trình tự giáo dục, tự hoàn thiện trong bản thân mỗi con người. Sự tự giáo dục biểu

hiện ở chỗ mỗi chủ thể tự giáo dục hướng toàn bộ năng lực, hành động của mình

vào sự hình thành thế giới nội tâm bắt đầu từ sự tự ý thức cho đến quá trình tham

gia tích cực và tự giác vào việc tạo ra cho mình những điều kiện, môi trường, hoàn

cảnh để trong đó họ tồn tại. Đồng thời, hoạt động thực tiễn cải tạo môi trường xã

hội của mỗi người cũng là nhân tố quan trọng dẫn đến sự phát triển nhân cách

của chính họ. Trong quá trình hoạt động thực tiễn, con người phải trao đổi với

nhau bằng ngôn ngữ, phải hợp tác với những người xung quanh, phải tồn tại và

phát triển trong các mối quan hệ xã hội. Trong quá trình ấy, mỗi cá nhân phản

ứng trước sự tác động của môi trường xã hội một cách khác nhau, thể hiện trong

bản thân mình những đặc điểm của môi trường xã hội tạo nên nhân cách con

người. Có thể nói, thông qua hoạt động thực tiễn, con người biểu hiện các năng

lực và phẩm chất nhân cách của mình.

Page 40: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

36

+ Thứ hai, nhân cách được hình thành từ quá trình thống nhất giữa cá nhân

và xã hội, giữa mặt sinh vật và mặt xã hội, giữa điều kiện khách quan và nhân tố

chủ quan.

Sự hình thành và phát triển nhân cách của con người không thể tách khỏi môi

trường và các hoạt động xã hội. K. Marx và F. Engels cho rằng nếu như con người

bẩm sinh đã là sinh vật có tính xã hội thì con người chỉ có thể phát triển bản tính

chân chính của mình trong xã hội và cần phải phán đoán lực lượng của bản tính của

anh ta, không phải căn cứ vào lực lượng của cá nhân riêng lẻ mà căn cứ vào lực

lượng của toàn xã hội. Nói cách khác, đây là quá trình xã hội hóa cá nhân và cá

nhân hóa xã hội, và xét đến cùng, xã hội hóa cá nhân là yếu tố quyết định đến sự

hình thành và phát triển nhân cách. Có thể khái quát một số yếu tố cơ bản tác động

đến sự hình thành và phát triển nhân cách như sau:

Một là, sự hình thành và phát triển nhân cách bị quy định bởi các điều kiện

kinh tế - xã hội. Trong hoạt động thực tiễn, sự hình thành nhân cách con người luôn

gắn với các mối quan hệ xã hội. K. Marx cho rằng lịch sử không phải là cái gì khác

hơn là hoạt động của con người theo đuổi những mục đích của mình. Những mục

đích của con người bao giờ cũng xuất phát và bị chế định bởi các điều kiện lịch sử -

xã hội, của các quan hệ kinh tế trong một thời đại nhất định.

Hai là, sự hình thành và phát triển nhân cách bị quy định bởi nhân tố văn hóa

- xã hội. Giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại có tác động mạnh mẽ đến sự hình

thành nhân cách con người qua các kiểu mẫu hành vi, đến sự đánh giá và những

tình cảm đạo đức trong sáng của nhân cách. Mỗi con người từ khi sinh ra đã được

sống, được tiếp nhận một hệ các giá trị, hệ các chuẩn mực của văn hóa xã hội.

Những giá trị, chuẩn mực này được phản ánh trong thế giới quan, hệ thống tri thức

xã hội, trong những chuẩn mực về pháp lí, đạo đức, thẩm mĩ, trong phong tục, tập

quán, truyền thống văn hóa, thẩm mĩ và thị hiếu... Nhân cách con người được hình

thành và phát triển trong môi trường văn hóa - xã hội một cách gián tiếp thông qua

quá trình giáo dục và tự giáo dục.

Trong những yếu tố cấu thành nên văn hóa tinh thần xã hội thì thế giới quan,

những chuẩn mực pháp lý, thẩm mĩ, đạo đức... có vị trí quan trọng trong việc hình

Page 41: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

37

thành và phát triển nhân cách. Một thế giới quan đúng đắn là cơ sở quan trọng nhất

để xây dựng nhân cách phát triển toàn diện, nó giữ vai trò định hướng chung cho

con người trong mọi hoạt động thực tiễn.

2.1.2. Nhân cách Hồ Chí Minh

2.1.2.1. Khái niệm nhân cách Hồ Chí Minh

Nhiều nhà khoa học cho rằng nhân cách Hồ Chí Minh là “những phẩm chất

và năng lực của một nhà hoạt động chính trị, một vị lãnh tụ của Đảng Cộng sản

Việt Nam và dân tộc Việt Nam, anh hùng dân tộc vĩ đại và nhà văn hóa kiệt xuất,

danh nhân văn hóa thế giới, tiêu biểu cho chủ nghĩa nhân văn thời đại ngày nay”

[137, tr.31].

Nhân cách Hồ Chí Minh là những giá trị văn hóa Hồ Chí Minh, được kết tinh

từ truyền thống văn hóa gia đình, quê hương, đất nước, từ thực tiễn chính trị - xã hội

của dân tộc và thời đại; từ ảnh hưởng các học thuyết, tư tưởng tiến bộ; từ gương

sáng của các nhà hoạt động chính trị tiến bộ, nhà văn hóa trên thế giới; từ giáo dục

và tự giáo dục; từ tư chất, năng lực của con người Hồ Chí Minh.

Nhân cách Hồ Chí Minh là sự tổng hòa các quan hệ xã hội văn hóa thông qua

phẩm chất cá nhân, là cái xã hội trong cái cá nhân, nhân cách văn hóa được hình

thành thông qua tu dưỡng và thực hành phẩm chất cá nhân trong thực tế. Nhân cách

Hồ Chí Minh được hình thành, bồi đắp, hoàn thiện trong cuộc đấu tranh kiên cường,

bền bỉ cho sự nghiệp giải phóng con người để cho con người vươn tới tự do, vươn

tới những giá trị đích thực của chân, thiện, mĩ.

Dưới góc độ tâm lí học, “nhân cách Hồ Chí Minh không tách rời quá trình tự ý

thức về sứ mệnh của chính mình mà nền giáo dục, trước hết là gia đình với người

cha giàu lòng yêu nước, điều kiện sống của môi trường và xã hội xung quanh,

không khí tư tưởng - chính trị đương thời ở một xứ sở bao giờ cũng sôi sục ý chí

kiên cường bất khuất” [85, tr.8]. Theo cách tiếp cận này, nhân cách Hồ Chí Minh có

thể hiểu là sự tự ý thức về bản thân mình đối với cuộc sống do những tác động đa

chiều của thực tiễn xã hội. Học giả Eduard Claudius (1911-1976) cho rằng nhân

cách Hồ Chí Minh là sự thống nhất giữa tư tưởng và hành động, giữa hoạt động và

nhân cách chính trị với thái độ rất giản dị, khiêm tốn, nhân hậu.

Page 42: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

38

Như vậy, có nhiều cách tiếp cận nhân cách Hồ Chí Minh, trong công trình này

chúng tôi tiếp cận nhân cách Hồ Chí Minh theo hướng là những phẩm chất, năng

lực đặc biệt, có sức hấp dẫn và lôi cuốn mạnh mẽ, được thể hiện qua phong cách,

lối sống của Người. Nhân cách Hồ Chí Minh là biểu trưng sáng ngời về phẩm chất

và năng lực con người Việt Nam.

2.1.2.2. Cấu trúc nhân cách Hồ Chí Minh

Nghiên cứu về cấu trúc nhân cách Hồ Chí Minh có nhiều cách tiếp cận và kiến

giải khác nhau. Từ tổng hợp một số công trình, bài viết tiêu biểu, chúng ta có thể

thấy, hầu hết các tác giả đều cho rằng nhân cách Hồ Chí Minh có cấu trúc gồm

phẩm chất và năng lực (hay Đức và Tài). Trong Tỏa sáng nhân cách Hồ Chí Minh,

tác giả Hoàng Anh cho rằng cấu trúc nhân cách Hồ Chí Minh gồm hai phần: (1)

Sáng ngời tấm gương đạo đức với bốn phẩm chất gồm: Lòng yêu nước, thương dân,

dân làm gốc, tìm đường đi đến độc lập, tự do cho dân tộc; Trung với nước, hiếu với

dân; Sáng ngời về đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, về tinh thần quốc tế

trong sáng; (2) Tỏa sáng nhân cách về trí tuệ với 03 phẩm chất gồm: Mẫn tiệp

chính trị, xác định đúng phương hướng và phương thức tìm đường cứu nước, kiên

trì, dũng cảm thực hiện lí tưởng cao đẹp: độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân

dân; Nhà văn hóa kiệt xuất với một tâm hồn lớn, tình yêu lớn, sáng tạo, có nghị lực

và niềm tin lớn vào chân lí cuộc đời; Nhà dự báo thiên tài với những định hướng,

chỉ đạo, những quyết sách cho sự phát triển cách mạng Việt Nam khoa học, hiệu

quả. Tác giả Mạch Quang Thắng, trong công trình Nhân cách Hồ Chí Minh cho

rằng nhân cách Hồ Chí Minh gồm hai nhóm cơ bản: (1) Những đặc trưng nhân cách

về đạo đức (lòng nhân ái cao cả, tâm trong sáng, trung với nước, hiếu với dân, vì nước,

vì dân, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư); (2) Những đặc trưng nhân cách về trí

tuệ (tìm đường, sớm cảnh báo những căn bệnh của Đảng cầm quyền).

Một cách tiếp cận khác về cấu trúc nhân cách Hồ Chí Minh là khai thác từng

đặc trưng cụ thể. Trần Văn Giàu lí giải nhân cách lớn của Hồ Chí Minh gồm bảy

yếu tố như: Ưu tiên đạo đức; Tận tụy quên mình; Kiên trì, bất khuất; Khiêm tốn,

giản dị; Hài hòa, kết hợp; Thương, quý người, nâng đỡ con người, thấu tình đạt lí;

Yêu thiên nhiên, hòa hợp với thiên nhiên. Theo nhà nghiên cứu Phạm Ngọc Anh,

Page 43: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

39

nhân cách Hồ Chí Minh cũng được biểu hiện qua chín khía cạnh sau: (1) Sự khâm

phục, đánh giá cao của xã hội, ở niềm tin và sức sống bất diệt bởi những giá trị làm

người, giá trị xã hội đã được thừa nhận; (2) Chí hướng, nhân sinh quan, thế giới quan

khoa học, lí tưởng sống, niềm tin sâu sắc vào sự nghiệp cứu dân, cứu nước, sự nghiệp

cách mạng của nhân dân Việt Nam và nhân dân lao động toàn thế giới; (3) Tình yêu

quê hương, đất nước, yêu nhân dân sâu sắc gắn liền với lí tưởng và tình cảm cách

mạng của Người; (4) Tầm vóc và hiểu biết cao về lí luận cách mạng; (5) Khả năng

vận dụng lí luận vào thực tiễn một cách sáng tạo là một phẩm chất cơ bản và cốt lõi;

(6) Sức mạnh và ý chí, nghị lực, khát vọng phi thường trong đấu tranh cách mạng; (7)

hòa quyện, sự kết đọng của sự thông tuệ dân gian; (8) Thông minh, tế nhị và mộc

mạc của tinh hoa văn hóa Việt Nam thể hiện trong ứng xử hàng ngày; (9) Đồng bộ,

hệ thống trong tư tưởng Hồ Chí Minh [10].

Trong công trình Giá trị của nhân cách Hồ Chí Minh đối với việc giáo dục

sinh viên Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế [125], nhóm tác giả đã luận giải

cấu trúc nhân cách Hồ Chí Minh gồm hai thành phần: Một là, đặc trưng nhân cách

Hồ Chí Minh về trí tuệ với bốn nội dung: (1) Trí tuệ mẫn tiệp, nhãn quan chính trị

thiên tài trong việc lựa chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc; (2) Nhạy cảm

với cái mới, linh hoạt trong việc thâu hóa các giá trị văn hóa; (3) Tư duy tổng hợp,

khả năng dự báo và nắm vững quy luật vận động của cách mạng Việt Nam; (4) Trí

tuệ uyên bác của một nhà văn hóa kiệt xuất với nhiều đóng góp về nhiều mặt trong

các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và nghệ thuật. Hai là, đặc trưng nhân cách Hồ Chí

Minh về đạo đức với bốn nội dung: (1) Tự ý thức về trách nhiệm của một người dân

mất nước, hình thành tinh thần tự tôn dân tộc và ý chí ra đi tìm đường cứu nước; (2)

Ý chí kiên cường, theo đuổi lí tưởng “giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải

phóng con người”, “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”; (3) Yêu nước,

thương dân, khát vọng giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân khỏi ách nô lệ của

đế quốc, thực dân; (4) Đạo đức trong sáng, gắn “trung với nước, hiếu với dân” với

“cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”.

Với các cách tiếp cận nêu trên, cấu trúc nhân cách Hồ Chí Minh được kiến giải

theo nhiều quan điểm khác nhau. Tuy nhiên, theo tác giả, cách tiếp cận cấu trúc nhân

Page 44: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

40

cách Hồ Chí Minh theo hướng phẩm chất và năng lực, đạo đức và trí tuệ - tức là loại

cấu trúc nhân cách ĐỨC - TÀI là ưu trội hơn cả. Do đó, với đề tài luận án này, tác giả

sẽ làm rõ những ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự hình thành những

phẩm chất và năng lực của Hồ Chí Minh trong khoảng thời gian Người ở Huế.

2.2. KHÔNG GIAN VĂN HÓA HUẾ

2.2.1. Khái niệm không gian văn hóa Huế

2.2.1.1. Văn hóa

Khái niệm văn hóa được hình thành và hoàn thiện gắn với tiến trình phát triển

lâu dài của lịch sử loài người, thuật ngữ này xuất hiện khá sớm trong ngôn ngữ và

thư tịch cổ của các dân tộc trên thế giới.

Ở phương Đông, trong thư tịch cổ Trung Quốc, văn có nghĩa là “vẻ đẹp”, hóa là

“biến đổi”, “hóa thành”. Văn hóa gộp lại theo nghĩa gốc là “làm cho đẹp, trở thành

đẹp đẽ”. Lưu Hướng (77-6 TCN) đời Tây Hán xem “văn hóa” như là một phương

thức giáo hóa con người. Sách Thuyết uyển từng ghi “bậc thánh nhân trị thiên hạ,

trước dùng văn đức rồi sau mới dùng vũ lực. Phàm dùng vũ lực để đối phó với kẻ bất

phục tùng; dùng văn hóa không thay đổi được thì mới chinh phạt” [18, tr.13].

Ở phương Tây, thuật ngữ văn hóa xuất hiện vào khoảng thế kỉ thứ III trước

công nguyên, trong tiếng Latinh bắt nguồn từ chữ “Cultus” có nghĩa gốc là trồng trọt,

vun trồng. Về sau, thuật ngữ này được mở rộng thành “Cultus animi”, đồng thời được

chuyển nghĩa, nói về sự vun trồng tinh thần, trí tuệ và tâm hồn con người như quan

điểm của nhà chính trị La Mã nổi tiếng Cicero Marcus Tullius (106-43 TCN):

“Filossofia cultura animi est”, tức “văn hóa là sự gieo trồng tinh thần” [145, tr.17].

Cùng với sự phát triển của lịch sử - xã hội loài người, khái niệm văn hóa không

ngừng được hoàn thiện về nội hàm. Francis Becon (1561-1626) cho rằng văn hóa là

sự gieo trồng tinh thần, là sự nảy nở tri thức, là sự tiến bộ. Thomas Hobbes (1588-

1679) thì xem văn hóa là sự giáo dục, bồi dưỡng tâm hồn và sự truyền đạt tri thức gắn

với sự sáng tạo các giá trị. Tuy nhiên, khái niệm văn hóa chỉ thực sự trở thành một

thuật ngữ khoa học vào thế kỉ XVIII, gắn với tên tuổi của nhà nghiên cứu luật học C.

Pufendorf (1632-1694) khi ông đưa ra quan niệm “văn hóa là toàn bộ những gì do

hoạt động xã hội của con người tạo ra, văn hóa khác với tự nhiên, khu biệt với tự

Page 45: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

41

nhiên” [58, tr.17]. Sang thế kỉ XIX, Edward Burnett Tylor (1832-1917) trong công

trình Văn hóa nguyên thủy lần đầu tiên đưa ra định nghĩa: “Văn hóa hiểu theo nghĩa

rộng nhất của nó, là toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo

đức, pháp luật, phong tục, cùng với những khả năng và tập quán khác mà con người

có được với tư cách là một thành viên của xã hội” [58, tr.18].

Từ giữa thế kỉ XX trở lại đây, các định nghĩa văn hóa không ngừng tăng lên về

số lượng. Năm 1994, Phan Ngọc trong công trình Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận

mới cho biết có hơn 400 định nghĩa khác nhau về văn hóa. Đến nay, các nhà nghiên

cứu ước tính có khoảng hơn 500 định nghĩa về văn hóa với nội hàm và ngoại diên

khác nhau. Định nghĩa tuy nhiều, nhưng trên đại thể có thể phân thành hai loại văn

hóa nghĩa rộng và văn hóa nghĩa hẹp. Trong công trình “Văn hóa nguyên thủy”,

Tylor xem văn hóa là “một chỉnh thể phức hợp bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ

thuật, đạo đức, pháp luật, tập tục và năng lực tập quán có được của bất cứ người nào

là thành viên của xã hội”, đây là lý thuyết kinh điển của văn hóa nghĩa hẹp.

Từ những năm 80 của thế kỉ XX, Federico Mayor Zaragoza - Tổng giám đốc

UNESCO, đã đưa ra quan niệm: “Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng

tạo trong quá khứ và hiện tại. Qua các thế kỉ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành

nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác định

đặc tính riêng của mỗi dân tộc” [58, tr.21]. Khái niệm này đã tiếp cận văn hóa dưới

góc độ hoạt động, xem văn hóa là hệ thống giá trị chuẩn mực, đồng thời nhấn mạnh

đặc tính dân tộc của văn hóa. Trong Tuyên bố Toàn cầu về Đa dạng văn hóa của

UNESCO năm 2001, văn hóa được định nghĩa là “tập hợp những đặc trưng về tinh

thần, vật chất, trí tuệ và xúc cảm của một xã hội hay của một nhóm người trong xã

hội. Văn hóa chứa đựng, bên cạnh nghệ thuật và văn chương, cả cách sống, phương

thức chung sống, các hệ thống giá trị, các tập tục và tín ngưỡng”.

Các nhà văn hóa mác-xít tiếp tục làm rõ khái niệm văn hóa với nghĩa rộng hẹp

khác nhau. Theo Từ điển Triết học do Nhà xuất bản Tiến bộ Mát-xcơ-va ấn hành

năm 1986 định nghĩa: “Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con

người tạo ra trong quá trình hoạt động thực tiễn xã hội - lịch sử và tiêu biểu cho

trình độ đạt được trong lịch sử phát triển xã hội” [159, tr.656]. Bách khoa toàn thư

Page 46: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

42

Liên Xô viết: “Văn hóa là trình độ phát triển lịch sử của xã hội và của con người,

biểu hiện trong các kiểu và các hình thức tổ chức đời sống và hành động của con

người, cũng như trong các giá trị vật chất và giá trị tinh thần do con người tạo ra”

[132, tr.25]. Từ điển Tiếng Việt nêu rõ: “Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị

vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử”, là “những

hoạt động của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu đời sống tinh thần” [119, tr.1100].

Ở Việt Nam, trước Cách mạng Tháng Tám 1945, Đảng Cộng sản Việt Nam và

các nhà nghiên cứu trong nước bước đầu xác lập những quan điểm về văn hóa,

trước hết, phải kể đến định nghĩa văn hóa của Hồ Chí Minh. Người đưa ra khái

niệm văn hóa như sau:

Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo

và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn

giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về

mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát

minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức

sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm

thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn [94, tr.458].

Qua khái niệm của Hồ Chí Minh, văn hóa được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm

toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra; văn hóa là động

lực giúp con người sinh tồn, là mục đích cuộc sống loài người; xây dựng văn hóa

dân tộc phải toàn diện trên tất cả các mặt, các lĩnh vực và phương thức sinh hoạt.

Kế thừa tư tưởng của Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng trong tác phẩm Văn hóa

và đổi mới cho rằng: “Văn hóa phải được xem xét như một tập hợp những nét khác

biệt về vật chất và tinh thần, về trí tuệ và cảm xúc, làm rõ nét một xã hội hay một

nhóm xã hội, ngoài nghệ thuật, văn thơ, văn hóa bao hàm phong cách sống, cách

chung sống, hệ thống các giá trị, truyền thống và tín ngưỡng” [45, tr.37]. Tiếp đó,

các nhà nghiên cứu văn hóa ở Việt Nam cũng đưa ra các quan điểm khác nhau về

văn hóa. Trong Cơ sở văn hóa Việt Nam và Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Trần

Ngọc Thêm kiến giải văn hóa theo ba hướng tiếp cận: (1) Văn hóa như là một hệ

giá trị. Theo cách tiếp cận này, tác giả cho rằng: “văn hóa là một hệ thống hữu cơ

Page 47: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

43

các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt

động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã

hội” [139, tr.27]; (2) Văn hóa như là một hệ biểu tượng. Theo đó, văn hóa được tác

giả khẳng định là một hệ thống biểu tượng do con người sáng tạo và tích luỹ qua

quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội

của mình; (3) Văn hóa trong một hệ tọa độ và như là một chùm đặc trưng. Theo

cách tiếp cận này, tác giả cho rằng văn hóa gồm một hệ toạ độ ba chiều mà trong đó

con người là chủ thể văn hoá, môi trường tự nhiên và xã hội là không gian văn hoá,

quá trình hoạt động là thời gian văn hoá. Đồng thời, bốn đặc trưng cho phép nhận

diện văn hóa: tính hệ thống, tính giá trị, tính nhân sinh và tính lịch sử.

Có thể nói, văn hóa là một khái niệm trừu tượng, nội hàm của nó không

xác định cụ thể, nên rất khó có một định nghĩa rõ ràng, đầy đủ và chính xác. Vì

vậy, tùy vào khoa học cụ thể và phương pháp tiếp cận mà xây dựng các khái

niệm văn hóa theo hướng khác nhau. Trên cơ sở luận dẫn, phân tích các quan

niệm, định nghĩa văn hóa và thống nhất các tiêu chí, tác giả xin được tổng hợp

và đi đến định nghĩa văn hóa như sau: Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật

chất và tinh thần, truyền thống và thị hiếu, do con người tạo ra trong quá trình

hoạt động thực tiễn lịch sử - xã hội, trong sự tương tác, thích ứng giữa con

người với môi trường, khẳng định bản sắc riêng của mỗi quốc gia, dân tộc,

vùng miền và con người.

2.2.1.2. Văn hóa Huế

Phác thảo về quá trình hình thành và phát triển của văn hóa Phú Xuân - Huế,

có thể chia làm ba thời kì, gắn với tiến trình lịch sử của vùng đất này: (1) Thời kì

thành Hóa Châu (từ đầu thế kỉ XIV đến giữa thế kỉ XVII) là thời kì tổng hợp giữa

văn hóa Việt và văn hóa Chăm-pa, hình thành văn hóa dân gian Phú Xuân; (2) Thời

kì Kim Long - Phú Xuân (từ năm 1636 đến năm 1802 gắn với thời các chúa Nguyễn

đến hết triều đại Tây Sơn) là thời kì nâng cao các thành quả văn hóa dân gian và

tiếp thu yếu tố văn hóa mới của các nước phương Tây; (3) Thời kì kinh đô Huế (văn

hóa Huế) (gắn với triều Nguyễn, kể từ triều Gia Long về sau) là thời kì tập thành

các nội dung thiết lập trung tâm văn hóa quốc gia.

Page 48: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

44

Với cách phân chia như trên, văn hóa Huế nằm trong giai đoạn trung - cận đại,

nối tiếp các giá trị của văn hóa Thuận Hóa - Phú Xuân, đồng thời tiếp nhận giá trị

của văn minh phương Tây để làm nên văn hóa Huế. Nó được đánh dấu bằng sự kiện

sau khi chiến thắng triều Tây Sơn, năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi, tạo lập vương

triều Nguyễn, mở đầu cho thời kì hình thành và phát triển của văn hóa Huế. Trong

quá trình đó, Thừa Thiên Huế đã hình thành nên một hệ giá trị gồm văn hóa vật

chất (văn hóa hữu thể) và những vốn quý văn hóa tinh thần (văn hóa vô thể) để hình

thành nên một nền văn hóa Huế đặc sắc của đất nước [134, tr.18].

Từ nhiều góc độ khác nhau, các nhà khoa học, nhà nghiên cứu Huế trong và

ngoài nước đã cắt nghĩa văn hóa Huế theo nội hàm và ý nghĩa riêng. Trong bộ công

trình Địa chí Thừa Thiên Huế, các nhà khoa học đã nêu một cách khái quát về ba

đặc điểm tiêu biểu của văn hóa Huế như sau:

Văn hóa Huế là một nền văn hóa của sự hài hòa và gắn bó giữa môi

trường sống và chủ nhân của nó.

Văn hóa Huế, một nền văn hóa được làm giàu bởi các dòng văn hóa đô

thị - văn hóa làng (chùa) và văn hóa cung đình (bác học) - văn hóa dân

gian không có sự đối lập, loại trừ.

Văn hóa Huế là một nền văn hóa của cái đẹp trong nghệ thuật kiến trúc

và phong cách sống [166].

Ba đặc điểm nêu trên được xem như là những lát cắt, tiểu định nghĩa về văn

hóa Huế. Song, không thể nêu một định nghĩa văn hóa Huế bằng việc liệt kê các

thành tố, đặc điểm của nó, bởi vì văn hóa Huế còn có rất nhiều đặc điểm khác.

Chẳng hạn, văn hóa Huế còn là sự dung hợp, tiếp biến các nền văn hóa và các giá

trị văn hóa khác nhau. Trải qua quá trình lịch sử hình thành và phát triển khoảng

gần 7 thế kỉ (tính từ năm 1306), Huế đã tiếp biến, tích hợp các giá trị vật chất và

tinh thần quý báu để tạo nên một truyền thống văn hóa mang phong cách riêng. Văn

hóa Huế có sự tác động của văn hóa Đông Sơn do các lớp cư dân từ phía Bắc mang

vào trước thế kỉ II và sau thế kỉ XIII, hỗn dung với văn hóa Sa Huỳnh tạo nên nền

văn hóa Việt - Chăm. Trong quá trình phát triển, văn hóa Huế chuyển biến, ảnh

hưởng từ các luồng văn hóa của các nước trong khu vực Đông Nam Á, Trung Quốc,

Page 49: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

45

Ấn Độ và văn hóa phương Tây. Theo cách luận giải đó, Nguyễn Xuân Hoa khẳng

định: “Văn hóa cố đô Huế bắt nguồn từ truyền thống văn hóa Việt Nam, tiếp nối

văn hóa cung đình Thăng Long - Đông Đô, vừa tích hợp với yếu tố văn hóa bản địa,

dung hợp với tinh hoa của những dòng văn hóa bên ngoài vào để hình thành những

đặc trưng của Huế” [61, tr.72]. Tác giả này tiếp cận văn hóa Huế dưới góc độ văn

hóa vùng với những sắc thái biểu trưng và hệ giá trị độc đáo.

Từ góc nhìn văn hóa học, Trần Quốc Vượng cho rằng Huế là một vùng văn hóa,

gồm nhiều hệ mang bản sắc độc đáo “có một không hai”, đó là: 1/ Hệ tiếng Huế đặc

thù, 2/ Hệ hò Huế trên sông Hương, 3/ Hệ ca nhạc Huế với điệu Nam điệu Bắc, nhạc

cung đình, 4/ Hệ Pháp lam Huế với những hình trang trí màu sắc tươi sáng và với các

đồ sứ kiểu men lam (Bleu de Hue) độc đáo, 5/ Hệ kinh thành Huế vẫn còn giữ được

vẻ hoàn chỉnh, 6/ Hệ Lăng Tẩm Huế như Lăng Gia Long, Minh Mạng, Tự đức, 7/

Văn hóa đô thị Huế, 8/ Hệ chùa đền như Tháp Thiên Mụ, Chùa Từ Đàm, các dinh thự

và các nhà rường [47, tr.982]. Từ đó, ông kết luận: “Văn hóa Huế là văn hóa đô thị, là

văn hóa bánh trái, là văn hóa thuyền ca nhạc trên dòng Hương Giang, là sự đan xen

và giao thoa, giao hòa văn hóa Việt - Chàm, Việt - Minh Hương...” [178, tr.70].

Khi xem xét văn hóa Huế dưới góc độ giá trị, nhiều nhà khoa học cho rằng:

“Văn hóa Huế bao gồm văn hóa vật thể và phi vật thể chứa đựng nhiều giá trị biểu

trưng cho trí tuệ và tâm hồn của dân tộc Việt Nam” [32]. Trong đó, nhà nghiên cứu

Trần Đại Vinh chỉ ra rằng xứ Huế là nơi giao lưu văn hóa Kinh và văn hóa Chăm, nơi

kết tinh văn hóa của cả nước trong thế kỉ XIX, để lại những thành tựu văn hóa tạo nên

giá trị của văn hóa Huế. Giá trị ấy biểu hiện từ nhà vườn đến kiến trúc thành quách,

cung điện, lăng tẩm, đình miếu, từ món ăn dân dã đến món ăn quý tộc, từ trang phục

bình dân đến phẩm phục vua quan, từ các điệu hò lao động đến ca lý và ca Huế

thính phòng, từ tuồng dân gian đến tuồng cung đình, từ văn chương bình dân đến

văn chương bác học, từ trang trí nề mộc dân gian đến trang trí, điêu khắc cung đình

và hội họa hiện đại, từ tín ngưỡng dân gian đến các tôn giáo Phật giáo, Thiên chúa

giáo. Tất cả góp phần tạo nên bản sắc của văn hóa Huế, hình thành phẩm chất của

con người Huế, kết tinh thành lối sống hài hòa của cư dân xứ Huế [176, tr.22].

Page 50: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

46

Từ việc luận dẫn và phân tích các quan niệm, khái niệm nêu trên, có thể hiểu

Văn hóa Huế là tổng hòa các giá trị vật chất và tinh thần, truyền thống, thị hiếu và

phong cách sống, được tạo nên từ quá trình hoạt động thực tiễn gắn với sự tương

tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội, để khẳng định bản sắc riêng

của vùng đất và con người Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế.

2.2.1.3. Không gian văn hóa Huế

Nghiên cứu văn hóa nói chung và không gian văn hóa Huế nói riêng có nhiều

cách tiếp cận, trong đó Nhân học văn hóa là một phương pháp tiếp cận giúp thấu

hiểu một cách tổng thể và sâu sắc nhất. Là một bộ môn khoa học mang tính liên

ngành, Nhân học văn hóa nghiên cứu về bản chất con người và xã hội con người

một cách tổng thể. Nó kết hợp kết quả của các ngành khoa học xã hội cũng nghiên

cứu về con người (xã hội học, ngôn ngữ học, chính trị học, kinh tế học, nghệ thuật,

sử học, văn học), bổ sung vào những dữ liệu thu thập của nghiên cứu thực địa để

phân tích, khám phá sự tương tác của các yếu tố xem chúng tạo dựng nên đời sống

của con người trong không gian văn hóa ra sao. Đi sâu vào nghiên cứu, chúng ta có

thể thấy được một số lí thuyết quan trọng trong nghiên cứu văn hóa như: Thuyết

duy vật (Materialism), Thuyết đặc thù văn hóa (Cultural Particularism), Thuyết

chức năng văn hóa (Functionalism), Thuyết cấu trúc văn hóa (Structuralism),

Thuyết tương đối văn hóa (Cultural relativism)… Trong đề tài này, tác giả không

chỉ sử dụng phương pháp luận nghiên cứu của Văn hóa học, Hồ Chí Minh học mà

còn sử dụng lý thuyết và phương pháp luận của Nhân học văn hóa để nghiên cứu

những ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự hình thành và phát triển nhân

cách Hồ Chí Minh.

Để hiểu rõ “Không gian văn hóa Huế” thì trước hết cần làm rõ các khái niệm

liên quan như “không gian văn hóa”, “vùng văn hóa”.

Không gian văn hóa là những vùng lãnh thổ được hình thành qua sự tích lũy

các giá trị văn hóa vật chất và tinh thần, từ sự tương tác giữa con người với tự nhiên

và xã hội. Không gian văn hóa là “một không gian địa lí xác định, mà ở đó một hiện

tượng hay một tổ hợp hiện tượng văn hóa nảy sinh, tồn tại, biến đổi và chúng liên

kết với nhau như một hệ thống” [140, tr.37].

Page 51: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

47

Văn hóa vùng thuộc dạng thức văn hóa lãnh thổ, là một thực thể văn hóa, hình

thành và tồn tại trong một không gian địa lí nhất định, thể hiện qua một tập hợp các

đặc trưng văn hóa về cách thức hoạt động sản xuất; về ăn, mặc, ở, đi lại, vận

chuyển; về cách thức tổ chức xã hội và giao tiếp cộng đồng; về tín ngưỡng, phong

tục tập quán và lễ hội; về cách thức sinh hoạt văn hóa văn nghệ, vui chơi giải trí; về

sắc thái tâm lí của dân cư; về các truyền thống, thị hiếu thẩm mĩ… Những đặc trưng

của văn hóa vùng được hình thành qua trình lịch sử lâu dài, do sự tương tác giữa cư

dân các dân tộc trong vùng với điều kiện tự nhiên - xã hội, cũng như sự giao lưu

văn hóa giữa các tộc người. Vùng văn hóa là kết quả của quá trình lịch sử lâu dài,

do đó những đặc trưng của nó trở thành truyền thống khá ổn định, giữ vai trò nền

tảng cho sự phát triển của vùng qua tiến trình lịch sử. Khái niệm vùng văn hóa được

hình thành để chỉ sự phân bố của không gian địa lí, giúp hình dung được toàn cảnh

bức tranh văn hóa với những sắc thái vùng miền. Một vùng văn hóa được xác định

bởi 04 thành phần: (1) Môi trường tự nhiên: mỗi vùng có những đặc điểm tự nhiên

khác nhau, do đó, trong quá trình tương tác với điều kiện tự nhiên làm sản sinh

những giá trị văn hóa đặc trưng riêng có của từng vùng; (2) Nguồn gốc lịch sử của

các cư dân cư trú: những dân tộc, vùng miền, địa phương có những điểm tương

đồng về điều kiện tự nhiên, có chung quá trình hình thành và phát triển thì có những

điểm tương đồng về văn hóa; (3) Đặc trưng sáng tạo văn hóa: sự sáng tạo của con

người trong ứng phó với môi trường tự nhiên và xã hội sẽ tạo nên nhưng đặc trưng

riêng về văn hóa của từng vùng. Ví dụ như: văn hóa nhà rường, nhà vườn trong văn

hóa Huế là sự sáng tạo rất đặc trưng của người Huế trong ứng phó với môi trường

tự nhiên và xã hội; (4) Sự giao lưu văn hóa giữa các tộc người, các vùng văn hóa:

một vùng văn hóa không có nghĩa là sự khép kín, mà luôn có sự lan tỏa, tiếp biến từ

vùng này sang vùng khác, từ dân tộc này đến dân tộc kia và ngược lại.

Từ cách hiểu trên, có thể đi đến thống nhất “không gian văn hóa Huế” là loại

hình văn hóa khu vực, có không gian văn hóa rộng lớn, không chỉ giới hạn trong

phạm vi hành chính thành phố Huế, mà còn là địa bàn từ châu Ô, châu Lý cổ đến

phía Nam Quảng Trị và Bắc Quảng Nam, trong đó thành phố Huế đóng vai trò là

trung tâm, biểu hiện sự đầy đủ, phong phú và đặc trưng nhất của vùng văn hóa này.

Page 52: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

48

Từ những kết quả nghiên cứu của mình, Trần Quốc Vượng cho rằng không gian văn

hóa Huế bao gồm những thực thể cả về tự nhiên, văn hóa, lịch sử, chính trị, kinh tế,

xã hội và con người tồn tại trong chiều dài phát triển của lịch sử dân tộc. Từ thế kỉ

thứ X, Huế thuộc văn hóa - văn minh Chăm-pa ở miền Trung - một trong ba nền

văn hóa - văn minh lúc đó (Đại Việt ở miền Bắc và Thủy Chân Lạp ở miền Nam).

Từ thế kỉ XVI đến XVIII, Huế là một trong hai trung tâm văn hóa - văn minh (Đàng

Trong, Thăng Long là trung tâm của Đàng Ngoài). Từ thế kỉ XIX đến giữa thế kỉ

XX, Huế là trung tâm của Trung kỳ (thời Pháp thuộc), Trung bộ (thời Việt Nam

Dân chủ Cộng hòa). Xét về lịch sử hình thành, xứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai

ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay

gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân

Công chúa sang xứ Chàm làm sính lễ; thuở đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này,

người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo

vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã. Họ

đem cái “bản sắc dân tộc”, cõng theo cuốc cày, hạt giống, cả cách chăn nuôi trồng

trọt, gánh luôn y thuật, lễ hội và cả mang cả “tên đất tên làng trong mỗi chuyến đi

xa” để vượt qua lam sơn chướng khí, đến vùng đất ác địa “con chim kêu cũng sợ,

con cá quẫy cũng kinh” - Thuận Hóa mà sinh tồn, mà phát triển [142].

Về đặc trưng của không gian văn hóa Huế, tiến trình lịch sử đã tạo ra cho Huế

những giá trị văn hóa đặc trưng: Huế vừa cổ kính rêu phong vừa sáng rạng hiện đại,

vừa mang tư tưởng phương Đông vừa chuyển tải triết lí phương Tây. Nửa thành phố

phía nam sông Hương là thành phố trẻ, thời Pháp chiếm gọi là khu phố mới, hay

khu phố Tây. Phía bắc sông Hương là thành phố cổ, với thành quách, đền đài, cung

điện, đình đàn, Quốc Tử Giám, Quốc Sử Quán, Cơ Mật viện, Bảo tàng Cổ vật, Lầu

Tàng Thư, Hồ Tịnh Tâm của kinh đô xưa. Khu vực Đại nội - Tử Cấm thành là nơi ở

của nhà vua. Vùng phụ cận, nhà vườn san sát, cây trái sum suê. Huế là thành phố có

nhiều sông ngòi, chùa chiền, am điện, với nhiều loại hình lễ hội dân gian. Huế có

cảng cổ Thanh Hà, phố cổ Bao Vinh thời các chúa, lại có khu phố cổ Gia Hội, Chi

Lăng thời các vua. Là thành phố nhưng bản chất Huế gần thôn quê, có nhiều phủ đệ,

nhà thờ xen giữa những ngôi làng. Huế chất chứa trong mình sức sống mãnh liệt từ

Page 53: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

49

cội nguồn của nhiều thành tố văn hóa, để làm nên một diện mạo đặc sắc của một

tiểu vùng được gọi bằng cái tên: Văn hóa Huế [142].

Với cách hiểu trên, không gian văn hóa Huế là vùng văn hóa rộng lớn, với

những đặc trưng về giá trị văn hóa vật chất và tinh thần, được hình thành trong quá

trình tương tác giữa con người với tự nhiên và xã hội, từ châu Ô, châu Lý cổ đến

phía nam Quảng Trị và bắc Quảng Nam, trong đó Huế đóng vai trò là trung tâm.

2.2.2. Cấu trúc không gian văn hóa Huế

Một không gian văn hóa được hình thành bao giờ cũng trên những cơ sở nhất

định. Không gian văn hóa Huế cũng vậy, các yếu tố tự nhiên, văn hóa, xã hội và các

hoạt động thực tiễn lịch sử - xã hội của con người đã làm nên giá trị bản sắc của văn

hóa Huế. Và chính trên không gian địa lí Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế, từ xứ Đàng

Trong cho đến Trung bộ, từ thế kỉ XVI cho đến nay, gắn với hệ sinh thái núi đồi,

cồn bãi, đầm phá, được xuyên kết bởi dòng sông Hương đã làm các giá trị văn hóa

nảy sinh, tồn tại, biến đổi và liên kết với nhau tạo nên một không gian văn hóa

mang nhiều nét đặc sắc - Không gian văn hóa Huế. Chính từ các yêu tố này, trải qua

nhiều sự thay đổi của tự nhiên và sự cải biến không ngừng nghỉ của con người xứ

Huế đã tạo nên những nét đặc trưng văn hóa riêng có của vùng đất này. Từ đây,

nhiều nhà khoa học khi nghiên cứu Huế đã chia không gian văn hóa Huế thành: văn

hóa địa - sinh thái Huế, văn hóa chính trị xứ Huế, văn nghệ thuật xứ Huế, văn hóa

giáo dục xứ Huế, văn hóa tâm linh xứ Huế, văn hóa ứng xử xứ Huế…

2.2.2.1. Văn hóa địa - sinh thái Huế

- Vị trí địa lí

Xét về mặt lịch sử - địa lí, không gian văn hóa Huế khá rộng lớn. Từ năm

1306, vua Trần Anh Tông gả Huyền Trân Công chúa cho vua Chiêm là Jaya

Simhavarman III (Chế Mân) để đổi lấy châu Ô và châu Lý. Năm 1307, vua Trần đổi

thành hai châu Ô, Lý thành châu Thuận và châu Hóa. Sau hơn hai thế kỉ mở mang

khai khẩn, đến giữa thế kỉ thứ XVI, lộ Thuận Hóa đã thành nơi đô hội lớn. Năm

1636, chúa Nguyễn Phúc Lan dời phủ đến Kim Long, khởi đầu cho quá trình đô thị

hóa trong lịch sử hình thành và phát triển của thành phố Huế sau này. Đến năm

1687, chúa Nguyễn Phúc Thái lại dời phủ chính đến làng Thụy Lôi, đổi thành Phú

Page 54: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

50

Xuân, ở vị trí tây nam trong kinh thành Huế hiện nay, tiếp tục xây dựng và phát

triển Phú Xuân thành trung tâm đô thị phát đạt của xứ Đàng Trong. Tiếp đó, Phú

Xuân là kinh đô của nước Đại Việt thống nhất dưới triều Tây Sơn và là kinh đô của

nước Việt Nam gần 150 năm dưới triều đại phong kiến nhà Nguyễn.

Đến năm 1822, vua Minh Mạng đổi thành phủ Thừa Thiên, chỉ phần đất bao

bọc Kinh thành Huế, gồm Hương Trà, Quảng Điền và Phú Vang. Năm 1835, trích

lấy một phần đất của Hương Trà, Phú Vang đặt thành huyện Hương Thủy, Phú Lộc,

và phần đất khác của huyện Hương Trà và huyện Quảng Điền đặt thành huyện

Phong Điền. Từ đó, phủ Thừa Thiên nằm ngoài kinh sư gồm có 6 huyện: Quảng

Điền, Phong Điền, Hương Trà, Hương Thủy, Phú Vang và Phú Lộc.

Năm 1898, Vua Thành Thái ra chỉ dụ lập thị xã Huế và Toàn quyền Đông

Dương ra Nghị định chuẩn y. Đến năm 1929, thị xã Huế được nâng thành thành phố

Huế (địa giới hành chính gồm 9 phường nằm ngoài Kinh thành, từ phường đệ nhất

đến phường đệ cửu, đến năm 1935 được sắp xếp thành 11 phường). Sau Cách mạng

Tháng Tám, thị xã Huế bao gồm cả khu vực nội ngoại thành, là tỉnh lị của Thừa

Thiên. Năm 1956, Ngô Đình Diệm ban hành dụ 37A cải tổ hành chính, Huế là thành

phố (về sau là thị xã) ngang cấp với tỉnh Thừa Thiên nhưng tỉnh lị Thừa Thiên vẫn

đặt tại Huế. Sau năm 1975, Huế là tỉnh lị của tỉnh Bình Trị Thiên (cũ) gồm 18

phường, 22 xã. Năm 1989, Thừa Thiên tách khỏi tỉnh Bình Trị Thiên, Huế là thành

phố tỉnh lị của Thừa Thiên Huế gồm 18 phường, 5 xã và hiện nay là 27 phường.

Với cách tiếp cận trên, ta thấy rằng Huế chỉ là một địa hạt nhỏ trong một vùng

văn hóa lớn. Và trong vùng văn hóa rộng lớn đó, Huế với tư cách là thủ phủ - đô

thành - kinh đô - thị xã hay thành phố luôn luôn là một trung tâm quan trọng về

nhiều mặt.

Ngày nay, xét về địa phận hành chính, Huế là thành phố trực thuộc của tỉnh

Thừa Thiên Huế. Thành phố Huế là trung tâm về nhiều mặt của miền Trung như:

văn hóa, chính trị, y tế, giáo dục, du lịch, khoa học... Về địa giới hành chính, thành

phố Huế nằm ở tọa độ địa lí 16-16,80 vĩ Bắc và 107,8-108,20 kinh Đông, phía Nam

giáp thị xã Hương Thủy, phía Đông giáp thị xã Hương Thủy và huyện Phú Vang.

Huế tọa lạc hai bên bờ sông Hương, phía Bắc của đèo Hải Vân. Huế tựa lưng vào

Page 55: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

51

dãy núi Trường Sơn, khu vực thành phố Huế là đồng bằng thuộc vùng hạ lưu sông

Hương và sông Bồ. Khu vực đồng bằng này tương đối bằng phẳng, mặc dù địa hình

xen kẽ đồi, núi thấp như núi Ngự Bình, Vọng Cảnh.

Việc xác định vị trí địa lí của Huế như trên cho chúng ta hiểu rõ hơn không

gian văn hóa Huế về mặt địa lí. Tuy nhiên, văn hóa Huế luôn có sự lan tỏa, tiếp

biến. Không gian văn hóa Huế không chỉ đơn thuần là những giá trị văn hóa được

sản sinh trên địa phận Huế, mà nó còn chịu ảnh hưởng bởi văn hóa ngoại vi. Do đó,

để hiểu rõ không gian văn hóa Huế phải làm rõ vị trí địa lí của cả Thừa Thiên Huế.

- Điều kiện tự nhiên

Về địa hình, Thừa Thiên Huế được chia thành bốn vùng sinh thái: vùng núi,

vùng gò đồi, vùng đồng bằng, vùng đầm phá và cồn cát ven biển. Chính vị trí đặc

biệt cùng với sự đa dạng của địa hình đã làm cho Thừa Thiên Huế có nhiều điểm

nổi bật về tự nhiên. Dãy Trường Sơn đâm ngang ra tận biển, trở thành ranh giới tự

nhiên của hai miền khí hậu khiến Thừa Thiên Huế có chế độ khí hậu nhiệt đới gió

mùa nóng ẩm và chế độ mưa đặc trưng tạo nên sự khác biệt giữa vùng đất này với

bất kỳ nơi nào trên lãnh thổ Việt Nam. Chính sự giao thoa khí hậu với kiểu khí hậu

đặc trưng quy định nét văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên rất đặc trưng. Đó là

lối kiến trúc nhà vườn, nhà rường xứ Huế. Nếu cư dân vùng đồng bằng châu thổ

sông Hồng, cư trú trong môi trường châu thổ, đất chật người đông, nên khu vườn,

nếu có tồn tại trong ý nghĩ của họ, phải là những khu vườn có thể sinh lợi và đảm

bảo cho nhu cầu tự cấp, tự túc của gia đình. Trong khi đó, cư dân Nam bộ lại cái

văn hóa miệt vườn, vì họ được sống trong những cánh đồng phì nhiêu cò bay thẳng

cánh, nên trong tâm thức của họ không có hình ảnh lũy tre hay hàng chè tàu để

khuôn ranh giới. Với người Nam bộ, chỉ có miệt vườn mênh mông cây trái, không

phải là thứ vườn có che chắn. Riêng đối với người Huế, thiên nhiên gồm đủ cả núi

đồi, sông suối, đầm phá, biển cả, đất đai không màu mỡ, thời tiết ở Huế “khi nắng

thì bùn hóa đá, khi mưa thì đá hóa bùn”, nên mùa màng không thể “phong đăng

hòa cốc”, không thỏa mãn đời sống con người. Sống trong khung cảnh thiên nhiên

và khí hậu như thế nên người Huế không hề có ý định lập vườn để sinh lợi, mà nhà

vườn của cư dân Huế mang nhiệm vụ phòng vệ, tạo ra không gian an toàn tối thiểu

Page 56: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

52

cho chủ nhân của nó trước sự đe dọa của thiên nhiên. Và trong cái văn hóa nhà

vườn đó, nổi lên một kiểu kiến trúc độc đáo thể hiện sự tinh tế của người Huế trong

ứng phó với tự nhiên, đó là nhà rường. Để tránh ảnh hưởng của mưa bão, nắng gió,

nhà rường không vượt quá chiều cao của cung điện theo quy định vua ban, mái nhà

có độ dốc lớn để thoát nước mưa. Đặc biệt, sự độc đáo và tinh túy nhất của những

ngôi nhà rường Huế chính là những nét chạm trổ công phu, cầu kỳ. Những ngôi nhà

rường nằm yên lặng, cổ kính và thanh tao như điểm nhấn nổi bật giữa nhà vườn xứ

Huế. Do đó, nhà vườn, nhà rường Huế là nơi chứa đựng những điều thiêng liêng,

mang nét đặc trưng của không gian văn hóa Huế.

Về địa chất, Thừa Thiên Huế có cấu trúc địa chất rất đa dạng, bao gồm 16

phân vị địa tầng và 7 phức hệ mắc-ma xâm nhập [166]. Sự đa dạng và phong phú về

chủng loại đó được xếp dàn trải trên một địa hình phức tạp, có độ dốc lớn và bị chia

cắt mạnh. Hệ thống thủy văn ở Thừa Thiên Huế hết sức phức tạp và độc đáo. Tính

phức tạp thể hiện ở chỗ hầu hết các con sông đan nối vào nhau thành một mạng lưới

chằng chịt: sông Ô Lâu, phá Tam Giang, sông Hương, sông Lợi Nông, sông Đại

Giang, sông Hà Tạ, sông Cống Quan, sông Truồi, sông Nong, đầm Cầu Hai. Tính

độc đáo của hệ thống thủy văn được thể hiện ở chỗ Huế là nơi hội tụ của các con

sông trước khi ra biển là một vực nước lớn, kéo dài gần 70 km dọc bờ biển, có diện

tích lớn nhất Đông Nam Á. Và cũng chính từ những con sông lớn đó gây ra không ít

khó khăn cho cư dân vùng này với những trận đại hồng thủy đi vào lịch sử.

Chính địa hình, khí hậu phức tạp và đa dạng sinh học là nguồn gốc của vẻ đẹp

và sự phong phú cảnh quan thiên nhiên. Và cũng chính điều kiện tự nhiên đó đã ảnh

hưởng đến tâm tính và cảm quan của người Huế mà hình thành nên những nếp nhà

vườn ở xứ thần kinh, quy định tính cách, phong cách sống và lối ứng xử của người

Huế, cũng như góp phần hình thành một vùng văn hóa - không gian văn hóa độc

đáo và đậm bản sắc.

2.2.2.2. Văn hóa chính trị xứ Huế

- Thừa Thiên Huế - trung tâm của công cuộc xây dựng và bảo vệ kinh đô Việt Nam

Năm 1306, hai châu Ô - Lý được sáp nhập vào lãnh thổ nước ta, trải qua nhiều

triều đại, Thừa Thiên Huế là phên dậu, vùng biên viễn xung yếu của Tổ quốc. Từ

Page 57: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

53

năm 1307, công cuộc di dân của người Việt từ đồng bằng Thanh - Nghệ vào vùng

đất mới đã khởi đầu. Tại đây việc di dân của người Việt diễn ra rải rác trong thế kỉ

XIV, đến cuối thế kỉ XIV nhà Trần đã lập tại vùng đất Hóa Châu thêm 7 huyện mới

là Trà Kệ, Lợi Bồng, Sạ Lệnh, Tư Dung, Bồ Đài, Bồ Lãng và Thế Vinh, với khoảng

trên 40 làng, ấp, thôn, trại, sách.

Sau khi Jaya Simhavarman III (Chế Mân) chết, công chúa Huyên Trân trở về

Đại Việt, lấy cớ này các vua kế vị Chế Mân đem quân đánh châu Thuận và châu

Hóa, các vua Trần nhiều lần cử quân đánh dẹp và đề ra nhiều đối sách trấn giữ châu

Hóa. Năm 1372, vua Trần Nghệ Tông đã cất nhắc Hồ Long làm Đại tri châu Hóa

nhưng miền biên viễn này vẫn không yên ổn. Năm 1377, với sự kiện vua Trần Duệ

Tông tử trận vì mắc mưu trá hàng của vua Chiêm Thành Chế Bồng Nga, quân

Chiêm Thành đã chiếm châu Thuận, châu Hóa, châu Tân Bình và Nghệ An trong

suốt 12 năm, cho đến khi Chế Bông Nga bị quân Đại Việt bắn chết, quân Chiêm

Thành tan vỡ, rút quân khỏi vùng đất này. Năm 1391, vua Trần Thuận Tông cử Lê

Quý Ly đi tuần châu Hóa, xét định quân ngũ, sửa chữa thành trì, châu Hóa mới ổn

định. Tình hình biến động trên vùng đất Thừa Thiên Huế rải rác suốt thế kỉ XIV, đã

làm nhịp độ di dân vào đây chững lại. Chiến tranh cũng đã làm cho những làng mạc

mới thành lập xơ xác, những thế hệ đầu tiên khai canh lập ấp phần lớn bị phiêu tán

và ruộng đồng hầu hết hoang hóa, phải đến thế kỉ sau mới phục hồi.

Sự ra đời của thành Hóa Châu (khoảng cuối thế kỉ XV, đầu thế kỉ XVI) tồn tại

trong một thời gian ngắn với tư cách là tòa thành phòng thủ chứ chưa phải là nơi

sinh hoạt đô thị của xứ Thuận Hóa thời ấy. Trung tâm của Hóa Châu là phủ Triệu

Phong với lỵ sở là thành Hóa Châu, nơi đặt nha môn của Tam ty, với phủ thự,

trường học, binh xá khiến vùng làng mạc xung quanh trở nên sầm uất, phồn thịnh.

Cư dân sinh sống chủ yếu bằng nghề nông, vừa làm ruộng, vừa đánh cá, làm muối,

đóng thuyền, ngoài ra còn phát triển các nghề thủ công: rèn, làm giấy, gốm, đan lát,

dệt vải, làm bột, làm bún.... Về thương nghiệp, bên cạnh những chợ làng, chợ nhỏ

phục vụ quá trình tự cung tự cấp của nông dân đã hình thành một số chợ lớn buôn

bán tấp nập như: Thế Lại, Lại Thị, Địa Linh, Tây Thành, Đan Lương, Phò Trạch,

Lại Ân... Con người Hóa Châu lúc bình thường thì sống cần cù, chất phác, thuận

Page 58: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

54

hòa, vui với cuộc sống nông nghiệp bình dị, nhưng lúc có biến cố thì anh dũng, kiên

cường, không sợ hãi uy vũ, quyết hi sinh vì nghĩa lớn. Đất Hóa Châu có nhiều nho

sĩ được bổ làm quan ở các phủ, huyện trong cả nước. Đó là những nhân tố vô cùng

thuận lợi để Nguyễn Hoàng khi trấn thủ xứ Thuận Hóa phát triển dân sinh, củng cố

thế lực của mình và đưa vùng đất này phát triển sang một giai đoạn mới.

Đến năm 1626, chúa Nguyễn Phúc Nguyên chọn Thuận Hóa để thiên dinh từ

Đông Ái Tử (Quảng Trị) về làng Phước Yên (Quảng Điền, Thừa Thiên Huế ngày

nay) để gây dựng cơ đồ lâu dài cho vua chúa nhà Nguyễn. Sau ba thế kỉ từ khi trở

về với Đại Việt, Thuận Hóa là vùng chiến tuyến tranh giành quyền lực giữa Đàng

Trong và Đàng ngoài, ít có thời gian hòa bình nên chưa có điều kiện hình thành

những trung tâm dân cư sầm uất theo kiểu đô thị. Sau nhiều lần thiên dinh, năm

1738 chúa Nguyễn Phúc Khoát tiến hành bố trí, sắp xếp, phác họa vóc dáng thủ phủ

Phú Xuân. Việc chọn Phú Xuân làm thủ phủ càng tạo điều kiện thuận lợi cho Huế

phát triển thành trung tâm chính trị - quân sự - kinh tế của Đàng Trong. Đến năm

1786, Phú Xuân được vua Quang Trung chọn làm kinh đô của vương triều Tây Sơn,

về sau vua Gia Long và các vua Nguyễn chọn làm kinh đô lâu dài và không ngừng

đầu tư mở rộng, xây dựng Kinh thành nguy nga, đồ sộ.

Dưới triều đại Tây Sơn, Phú Xuân là nơi xuất phát những ý tưởng, chủ trương,

chính sách hướng tới xây dựng một đất nước thống nhất, tiến hành cải tổ trên các

mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục tiến bộ, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc

và kế thừa tinh hoa của cha ông xưa. Về hành chính, vua Quang Trung đã xây dựng

một hệ thống hành chính và quan chế mới. Về kinh tế, chính sách của nhà Tây Sơn

vẫn xây dựng trên căn bản “trọng nông”, khuyến khích phát triển nông nghiệp. Với

những biện pháp tích cực đó, vua Quang Trung đã cố gắng xây dựng lại đất nước

sau một thời gian dài sa sút nghiêm trọng. Nhờ công cuộc chiêu tập dân lưu tán, đẩy

mạnh việc khai hoang phục hóa mà xã hội dần dần ổn định, đời sống nhân dần dần

được cải thiện. Nhân dân nơi đây tích cực tham gia xây dựng quê hương, cần cù lao

động, mở mang ruộng vườn. Sau mấy năm, tình hình đời sống xã hội đã có dấu hiệu

tiến bộ, đời sống ngày một khá hơn.

Page 59: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

55

Như vậy, từ khi châu Ô và châu Lý được sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt, bên

cạnh những cuộc chiến tranh giữa hai nước cũng diễn sự giao lưu, ảnh hưởng văn

hóa Việt - Chăm. Chính nhờ sự giao lưu văn hóa đã góp phần đặc sắc cho văn hóa

Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế. Không những thế, sự cố gắng của các chúa Nguyễn

cùng với những cải tổ trên các mặt dưới triều Tây Sơn đã xây dựng Thuận Hóa -

Phú Xuân trở thành trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục của đất nước,

vùng xung yếu bảo vệ kinh đô Việt Nam.

Sau khi Quang Trung mất, đời sống của nhân dân cả nước nói chung, nhân

dân Thuận Hóa - Phú Xuân nói riêng lại rơi vào khó khăn. Sau khi đánh bại triều

Tây Sơn, năm 1802, Nguyễn Ánh chọn Phú Xuân làm kinh đô. Gia Long lên ngôi,

mở ra triều đại nhà Nguyễn, Huế trở thành trung tâm chính trị của một đất nước có

lãnh thổ thống nhất và rộng lớn chưa từng có trong lịch sử. Dưới triều Nguyễn, bộ

máy nhà nước được tổ chức chặt chẽ, quy củ, đủ sức quản lí cả một đất nước rộng

lớn từ Lạng Sơn đến tận mũi Cà Mau. Về quan chế, dưới nhà vua, mọi việc đều do

lục Bộ đảm nhiệm (gồm: Bộ Lại, Bộ Hộ, Bộ Hình, Bộ Lễ, Bộ Công, Bộ Binh).

Ngoài Lục Bộ còn có Đô Sát viện và Cơ Mật viện để bàn việc quân quốc cơ yếu.

Vào thế kỉ XIX, Thừa Thiên Huế bao gồm cả kinh đô nên thường được triều

đình Huế quan tâm phát triển nhiều mặt để tạo chỗ đứng vững chắc cho chính quyền

phong kiến. Về kinh tế, nhà Nguyễn có những chính sách phát triển nông nghiệp ở

Thừa Thiên như: cấm mua bán ruộng đất công, giảm miễn thuế mỗi khi mất mùa,

xây dựng các công trình thủy lợi, đắp đập ngăn mặn, đào kênh, khơi vét sông ngòi...

Thủ công nghiệp cũng có bước phát triển đáng kể, nhiều làng nghề thủ công nổi

tiếng: làng gốm Phước Tích (Phong Điền), làng nón Triều Sơn (Hương Trà), Sư Lỗ

Đông (Phú Lộc), Phú Cam (Huế), làng nghề rèn, luyện sắt ở Phù Bài (Hương

Thủy), Hiền Lương (Phong Điền) đúc đồng ở Dương Xuân, nghề thêu ở Huế, mộc,

chạm điêu khắc Mỹ Xuyên... Các nghề thủ công đã góp phần làm nên diện mạo văn

hóa Huế, in đậm trên các công trình kiến trúc vật thể và trong đời sống tâm linh của

con người. Sự phát triển của nghề thủ công nghiệp không chỉ góp phần đáp ứng nhu

cầu đời sống cung đình và công việc kiến thiết đế đô, mà còn tạo ra nguồn hàng

thúc đẩy thương nghiệp phát triển...

Page 60: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

56

- Thừa Thiên Huế - trung tâm của các hoạt động chính trị - xã hội và đấu

tranh chống thực dân Pháp, bảo vệ nền độc lập dân tộc

Ngày 01/9/1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha nổ súng tấn công Đà Nẵng,

mở đầu cuộc xâm lược Việt Nam của thực dân phương Tây. Triều Nguyễn tích cực

tiến hành các hoạt động chống đỡ, phòng thủ các vị trí xung yếu, đồng thời ban lệnh

quan phủ Thừa Thiên chiêu mộ binh lính lập quân Chiến tâm (sau đổi thành vệ

Nghĩa dũng) để tăng cường vào Quảng Nam đánh Pháp. Tuy nhiên, trước sức mạnh

của kẻ thù, triều đình Huế phải ký hiệp ước Nhâm Tuất (1862). Sự kiện đó đã gây ra

sự căm phẫn của nhân dân cả nước.

Mặc dù liên tục bị đe dọa bởi các thế lực ngoại bang, song trải qua hơn một

thế kỉ xây dựng và phát triển, đến những năm giữa cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX,

Huế trở thành kinh đô của triều đình phong kiến, trung tâm chính trị của Việt Nam.

Nơi đây tập trung cao nhất các diễn biến chính trị và mâu thuẫn xã hội, đặc biệt là

khi thực dân Pháp đặt ách áp bức bóc lột lên toàn cõi Việt Nam. Khi Huế trở thành

kinh đô của cả nước, Huế mặc nhiên trở thành trung tâm của các trào lưu canh tân

đất nước - nơi các nhà cải cách tập trung để bàn luận, trao đổi tân thư, soạn thảo và

dâng các bản kiến nghị cách tân lên triều đình Huế. Các bản kiến nghị đề cập canh

tân đến nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính trị, quân sự, quốc phòng, pháp luật, văn hóa

giáo dục... Thành phần đề xướng trào lưu cải cách khá đa dạng từ người Thiên chúa

giáo, người có học bình thường, nho sĩ, người đỗ đạt, quan lại bị cách chức... Ở

Thừa Thiên Huế nổi bật có Đặng Huy Trứ và Nguyễn Lộ Trạch.

Về đời sống chính trị, kể từ khi nhà Nguyễn ký hòa ước Harmand (1883) và

hiệp ước Patenotre (1884) chịu sự bảo hộ của Pháp, đời sống chính trị ở Huế có

nhiều biến đổi sâu sắc, nội bộ triều đình phong kiến nhà Nguyễn phân hóa, hình

thành phe chủ chiến và chủ hòa. Phe chủ hòa ký hàng ước với thực dân Pháp, thừa

nhận sự hiện diện và chịu sự quản thúc của thực dân Pháp. Phe chủ chiến, đứng đầu

là Tôn Thất Thuyết, đã lãnh đạo cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp ngay tại kinh

thành Huế nhưng thất bại, kinh đô thất thủ, vua Hàm Nghi xuất bôn kêu gọi Cần

Vương làm dấy lên phong trào chống thực dân Pháp rộng khắp.

Page 61: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

57

Ngày 17/10/1897, Tổng thống Pháp quyết định thành lập Liên bang Đông

Dương gồm Nam Kỳ, Bắc Kỳ, Trung Kỳ của Việt Nam và Cao Miên (năm 1899,

Liên bang này có thêm Lào), dưới quyền một Toàn quyền thuộc Bộ Hải quân và

Thuộc địa, thay mặt cho chính phủ Pháp điều khiển bộ máy chính quyền. Thực dân

Pháp ra thông cáo về một chính quyền duy nhất trên vương quốc An Nam chứ

không còn tồn tại hai chính quyền như trước đây. Tính “bảo hộ” của xứ Trung Kỳ

thể hiện ở việc Khâm sứ không chỉ chi phối phủ Tôn nhân, viện Đô sát mà còn nắm

toàn bộ tài chính, trả lương cho vua quan Nam triều, chi phối cả Lục bộ.

Xã hội Thừa Thiên Huế trong những năm Hồ Chí Minh sinh sống và học tập

có nhiều biến đổi quan trọng, những động thái kháng Pháp được nhen nhóm. Đầu

thế kỉ XX, ở Việt Nam nói chung và đất Thừa Thiên nói riêng xuất hiện nhiều trào

lưu cứu nước mới, phong trào Đông Du, Duy Tân nổ ra, đời sống chính trị ở Việt

Nam sôi động trước những luồng tư tưởng tiến bộ. Đất Thừa Thiên dấy lên phong

trào đòi cải cách thông qua nhiều hình thức vận động, trong đó có cuộc vận động

“cắt tóc ngắn”. Năm 1908, miền Trung nổ ra phong trào chống thuế, bắt đầu từ các

tỉnh Nam Trung Bộ, đến Thừa Thiên và các tỉnh Bắc Trung Bộ.

Sự biến động về tình hình chính trị đã kéo theo những biến đổi về kinh tế, văn

hóa, giáo dục ở Thừa Thiên Huế vào những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Về

đời sống kinh tế - xã hội, nửa đầu thế kỉ XIX, Thừa Thiên Huế không được ưu đãi

so với các địa hạt khác trong cả nước mặc dù là kinh đô. Đời sống của nhân dân vẫn

cơ cực, thuế khóa nặng nề, sự phân hóa xã hội ngày càng sâu sắc, xã hội hình thành

tầng lớp quý tộc và tầng lớp bình dân. Hơn ở đâu hết, trên đất Thừa Thiên Huế,

nhân dân cảm nhận rõ rệt sự đè nén của tôn ti trật tự, đẳng cấp phong kiến. Dưới

công cuộc khai hóa của thực dân Pháp, đời sống nhân dân ngày càng lam lũ, cùng

cực, đói khổ, mâu thuẫn giữa nhân dân với triều đình phong kiến, giữa dân tộc Việt

Nam với thực dân Pháp ngày càng lên cao. Đó chính là những nhân tố, động lực

khơi ngọn lửa đấu tranh của nhân dân Thừa Thiên Huế.

Thừa Thiên Huế vào buổi xế chiều của chế độ phong kiến, buổi sớm của chế

độ thực dân, không thể tránh khỏi sự bùng phát của các trào lưu cứu nước mới. Các

phong trào yêu nước, phong trào Duy Tân, kháng thuế của nhân dân Trung Kỳ, đã

Page 62: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

58

mở ra thời kì đấu tranh sôi nổi, quyết liệt khắp Bắc - Trung - Nam. Sự ngột ngạt của

đời sống chính trị, sự áp bức bóc lột của chính quyền thực dân và sự cùng khổ của

đồng bào là những nguyên nhân của các cuộc nổi dậy. Lòng yêu nước, tự tôn dân

tộc của lớp lớp người Huế, từ bậc vua quan đến nhân dân lao động là một trong

những nhân tố quan trọng cấu thành bản sắc văn hóa chính trị xứ Huế.

Mặc dù dưới sự khai hóa của chính quyền thực dân, sự kiểm soát về mọi mặt

của Khâm sứ Trung Kỳ nhưng Huế vẫn giữ được những bản sắc văn hóa của vùng

đất văn hiến. Văn hóa Huế với những đặc trưng vốn có như: nét độc đáo, tài hoa của

mĩ thuật, của kiến trúc cung điện, đền đài; của lễ hội, thơ ca, nhã nhạc; hay ở cách

ăn mặc, cư xử nhẹ nhàng, kín đáo; hay ở tinh thần yêu nước, tính quyết liệt, quật

khởi, kiên cường trong đấu tranh, đoàn kết trong cuộc sống hằng ngày;… Tất cả vẫn

được lưu giữ như những tài sản quý giá nhất. Những đặc trưng văn hóa đó có ảnh

hưởng rất lớn đến cốt cách, tư tưởng và hành động của con người, đặc biệt là những

con người mẫn cảm và trí tuệ như Hồ Chí Minh thời kì ở Huế.

Như vậy, văn hóa Huế là sản phẩm được sáng tạo và tích lũy bởi cộng đồng

người qua quá trình hoạt động thực tiễn lịch sử - xã hội, trong sự tương tác giữa con

người với môi trường tự nhiên, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội Thừa Thiên Huế

từ khi lập ấp (năm 1306) đến đầu thế kỉ XX (từ Thuận Hóa đến Phú Xuân - Huế).

2.2.2.3. Văn hóa nghệ thuật xứ Huế

Với bề dày lịch sử và truyền thống văn hóa, Thừa Thiên Huế là vùng đất di

sản văn hóa nghệ thuật độc đáo của Việt Nam với một hệ thống quần thể kiến trúc,

âm nhạc, ẩm thực, lễ hội độc đáo.

- Hệ thống kiến trúc hài hòa giữa cung đình và dân gian, nhà vườn và phủ đệ

Nói đến văn hóa nghệ thuật xứ Huế, trước hết phải kể đến sự phong phú, đa

dạng trong nghệ thuật kiến trúc. Kinh đô Huế được xem như một công trình nghệ

thuật đặc biệt, hài hòa với thiên nhiên. Trong kiến trúc Kinh đô Huế gồm có kiến

trúc cung đình và kiến trúc dân gian, kiến trúc tôn giáo và kiến trúc đền miếu, kiến

trúc truyền thống và kiến trúc hiện đại, kiến trúc đô thị và kiến trúc truyền thống,

kiến trúc nhà vườn, phủ đệ và kiến trúc đình làng... Mỗi công trình kiến trúc là một

tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh, độc đáo, thể hiện một phần những yếu tố triết lý,

Page 63: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

59

tâm linh và giá trị thẩm mĩ riêng biệt, trong đó công trình kiến trúc công phu, đồ sộ

nhất chính là quần thể kiến trúc dưới triều các vua Nguyễn.

Về kiến trúc cung đình, Huế còn lưu giữ những công trình kiến trúc mĩ thuật

kì vĩ nhất đất nước, nét đặc trưng của các công trình kiến trúc cung đình được xây

dựng trong không gian hài hòa với thiên nhiên. Như Điện Thái Hòa là trung tâm của

Kinh thành, xung quanh là Thanh Long (Ðông), Bạch Hổ (Tây), Chu Tước (Nam),

Huyền Vũ (Bắc). Ngay cả hướng của Kinh thành Huế phải quay mặt về phía Nam

vì theo Kinh dịch “Thánh nhân nam diện nhi thính thiên hạ” nghĩa là bậc đế vương

xoay mặt về hướng Nam để nghe (cai trị) thiên hạ. Kiến trúc cung đình Huế có sự

tiếp thu và kế thừa kiến trúc truyền thống Lý, Trần, Lê nhằm chống sự đồng hoá và

tiếp thu tinh hoa của mĩ thuật Trung Hoa nhưng đã được Việt Nam hóa một cách có

ý thức dân tộc, đồng thời tiếp thu có chọn lọc và hiện đại hóa kỹ thuật của những

công trình sư người Pháp phục vụ dưới thời Gia Long theo phương châm thích nghi

với tâm hồn, cốt cách và văn hóa người Việt.

Bên cạnh kiến trúc cung đình, kiến trúc nhà vườn và phủ đệ ở Huế cũng là nét

đặc trưng tạo nên không gian văn hóa Huế. Nhà vườn Huế không chỉ là một tổ chức

không gian thuần túy giữa cảnh quan và kiến trúc, mà với những nét đặc thù về giá

trị văn hóa - lịch sử đã trở thành một di sản quan trọng của Huế. Về kết cấu cảnh

quan, nhà vườn Huế gồm có công viên, vườn cung đình (vườn ngự), vườn lăng,

vườn phủ đệ, vườn chùa, vườn quý tộc thượng lưu, dân dã... Những khu vườn nổi

tiếng ở trung tâm và vùng ven Huế (như vườn An Hiên, Lạc Tịnh, Phủ Tuy Lý)

được xây dựng dọc hai bờ sông Hương, ở Long Hồ, Ngọc Hồ, Nguyệt Biều, Lương

Quán, Kim Long, Dương Xuân, Vĩ Dạ... của tầng lớp quý tộc thượng lưu bao gồm

các phủ đệ, ngự viên. Nét đặc trưng của nhà vườn Huế là sự phối hợp giữa kiến trúc

chính, vườn cây, hoa, trái, đá, nước, cỏ rêu, hoa leo, và giàn tạo bóng với những

kiến trúc phụ như nhà ngang, cổng ngõ, hành lang, bể cạn, bình phong... Sự phối

hợp của không gian nội thất kiến trúc, không gian vườn cảnh, vườn cây ăn trái và

thiên nhiên luôn luôn có sự hài hòa, trong cái khung thiên nhiên đó con người có thể

hòa vào cái tự nhiên của đất trời.

Page 64: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

60

Nhắc đến văn hóa kiến trúc Huế, không thể không nhắc đến kiến trúc dân

gian, đặc biệt là kiến trúc đình làng Huế. Về cơ bản, đình làng ở Huế thống nhất với

đình làng Việt Nam về công năng sử dụng, đó là ngôi nhà công cộng thờ thành

hoàng và diễn ra các sinh hoạt văn hóa công cộng của làng xã. Là bộ mặt của làng

xã, đình làng xây dựng ngay đầu làng, nhìn ra sông nước và ruộng đồng. So với

đình làng ở phía Bắc, đình ở Huế đơn giản hơn, thường chỉ có một toà đại đình,

thành hoàng thờ ngay cạnh nơi sinh hoạt của dân làng nên ít bị cách bức. Nghệ

thuật kiến trúc của đình làng được thể hiện ở mái đình lợp ngói âm dương, trên các

bờ nóc và bờ giải có đắp tứ. Bên trong ngôi đình, bộ khung gỗ kết cấu theo kiểu nhà

rường, mặt gỗ được chạm trang trí với rồng, mây, hoa cúc, vân xoắn, bát bửu. Đình

làng ở Huế, cửa đình luôn có bức bình phong xây làm án và cũng là diện phẳng

rộng để nghệ thuật gắn kính, sứ thu hút sự chú ý của mọi người vào đình.

- Hội tụ nhiều dòng nhạc cung đình bác học, dân gian, tín ngưỡng tôn giáo

Thừa Thiên Huế là nơi hội tụ nhiều dòng nhạc mang đậm bản sắc Huế như:

nhạc cung đình bác học, nhạc dân gian, nhạc tín ngưỡng tôn giáo, cùng với nền tảng

thơ văn, mĩ thuật, lễ hội dân gian đã định hình những đặc trưng của không gian văn

hóa Huế. Tuy nhiên, âm nhạc Huế mang sắc thái địa phương rõ rệt. Xuất phát từ

hoàn cảnh địa lí, với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt hơn là thuận lợi, với sông

Hương núi Ngự dễ khiến con người tức cảnh sinh tình, hay trong cuộc sống lao

động và sự sinh tồn, để giảm bớt những khó khăn vất vả, những điệu hò câu ví và

các loại hình nghệ thuật dân gian cũng được hình thành và ngày càng phong phú.

Do những dấu giọng đặc thù trong tiếng nói, sự tiếp xúc với nền văn hóa nghệ thuật

Chăm đã hình thành những âm điệu, giọng điệu, những thể loại mới mẻ so với âm

nhạc chung của dân tộc làm nên phong cách “Huế”, hay nói gọn là “âm nhạc Huế”.

Âm nhạc Huế gồm ba thành phần chính yếu: nhạc Lễ (bao gồm cả nhạc Cung

đình và nhạc Rõi bóng), dân ca (bao gồm các điệu hò, lý, kể vè...) và ca Huế.

Nhạc Lễ là nhạc sử dụng trong các nghi lễ đời sống thường nhật của chính

quyền phong kiến. Dàn nhạc cung đình được kết cấu thành hai dàn: Đại nhạc gồm

trống (trống đại cổ, trống tiểu cổ, cặp trống vỗ), kèn (kèn đại, kèn trung, kèn tiểu),

và bộ gõ (mõ, phách, chuông to, chuông nhỏ, đại la, tiểu loa, chập choã); Tiểu nhạc

Page 65: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

61

gồm những nhạc khí dùng dây tơ, sáo trúc. Trong nhã nhạc cung đình còn có nhã

nhạc, giao nhạc, miếu nhạc, ngũ tự nhạc, đại triều nhạc... Nhạc Rõi bóng là loại

nhạc được diễn xướng trong nghi lễ của tôn giáo dân gian, thường là để làm nền cho

các vũ điệu chầu hầu Thánh mẫu và các vị thần tháp tùng Thánh mẫu. Tại Huế, tín

ngưỡng dân gian thờ Mẫu khá phổ biến, đền thờ lớn nhất và cổ nhất thờ Thiên Y A

Na là đền Ngọc Trản, còn gọi là điện Hòn Chén. Điện thờ Thiên Y A Na thần nữ

(được vua Đồng Khánh phong là Thiên Y A Na Diễn Ngọc Phi Thượng Đẳng

Thần), bà chúa Thuỷ (còn gọi là Mẫu Thoải, được phong là thuỷ Long Thánh Phi

Trung Đẳng Thần), và bà chúa Thượng Ngàn (được phong Sơn Trung Thiên Đẳng

Thần). Ngoài ra, còn có bài vị của bà Của Thiên Huyền Nữ (một thần nữ Trung Hoa

được Việt Hoá) và Vân Hương Thánh Mẫu tức là Liễu Hạnh Công chúa thường

được cúng thờ ở miền Bắc…

Bên cạnh đó, dân ca xứ Huế cũng mang nhiều nét văn hóa đặc trưng. Dân ca

trước hết bao gồm những điệu hay là những giọng hò. Có những điệu hò lao động

như “Hò khoan”, “Hò mái sắp” (hay còn gọi là “hò giã gạo”) có tiết tấu nhịp nhàng

và linh hoạt. Có những điệu hò trữ tình nổi tiếng như hò “Mái nhì”, “Mái đẩy” với

âm điệu vấn vương quấn quýt, phóng khoáng như nói lên tâm tình của con người

sống giữa thiên nhiên hiền hoà, thơ mộng. Ngoài ra, âm nhạc dân gian Huế còn tồn

tại những điệu lý rất gần với nội dung các câu ca dao tình tứ, đậm đà, duyên dáng

như: Lý Tình Tang, Lý Hoài Xuân, Lý Tử Vi, Lý Năm Canh... Các điệu lý ở Huế

rất phong phú, mỗi điệu một sắc thái khác nhau. Lý tử vi biểu hiện tình yêu đằm

thắm. Lý mười thương mộc mạc mà duyên dáng, ngọt ngào. Lý tình tang vui tươi,

nhí nhảnh. Lý ngựa ô sôi nổi, nồng nàn. Lý hoài nam bâng khuâng, xao xuyến...

Bên cạnh sự phát triển của làng nghề truyền thống và những phong tục tập quán in

dấu nhân sinh, cùng với dung hợp giữa văn minh Mường, Chàm và văn minh của

dân tộc Việt, đã trở thành một kho tàng văn nghệ dân gian, với những chuyện kể,

câu đố, tuồng kịch... đặc biệt là sự nở rộ của các loại hình dân ca và kèm theo nó là

những lời thơ dân gian: ca dao xứ Huế.

Ngoài các điệu lý kể trên, trong âm nhạc xứ Huế còn có ca Huế. Ca Huế là

một thể loại âm nhạc cổ truyền của xứ Huế, bao gồm ca và đàn, ở nhiều phương

Page 66: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

62

diện khá gần gũi với hát ả đào, làm từ dòng nhạc dân gian bình dị và cung đình nhã

nhạc, thanh cao. Một số điệu ca Huế như “Phẩm tuyết”, “Long ngâm”, “Ngũ đối”...

thực chất đó là những tiết mục nhạc lễ được đặt lời ca, mang âm hưởng điệu thức

Bắc rõ rệt. Một số điệu như “Nam bình”, “Nam ai”, “Tứ đại cảnh” thì lại gần với

một số câu hò, lý về âm điệu và điệu thức, có dấu vết ảnh hưởng của âm nhạc

Chăm. Về mặt trình diễn, ca Huế luôn luôn đòi hỏi phần phụ họa của nhạc khí, chủ

yếu là các đàn nguyệt, tỳ bà, tam, tranh, nhị và phách…

Và một loại hình nghệ thuật đặc sắc của văn hóa nghệ thuật xứ Huế là Tuồng.

Nghệ thuật Tuồng Huế đã trải qua ba thế kỉ phát triển trong dòng truyền thống văn

hóa Phú Xuân và phát triển rực rỡ dưới triều đại các vua nhà Nguyễn. Dưới thời vua

Tự Đức, hàng trăm vở tuồng đã được sáng tác, hàng trăm đào kép giỏi quy tụ về

kinh đô. Từ sau thời Tự Đức, Tuồng Huế dần vượt ra khỏi cung đình và trở thành

sân khấu của quần chúng bình dân. Nghệ thuật Tuồng từ đó sống và phát triển được

nhờ công chúng. Tại kinh đô Huế, các rạp hát bắt đầu mọc lên khắp nơi, sân khấu

Tuồng từ trước vốn có chỉ phục vụ vua quan triều đình, dần dần lan ra chiếm lĩnh ở

những nơi công cộng. Những rạp hát nổi tiếng ở Huế trước năm 1945: Bắc Hòa,

Nam Hòa, Đồng Xuân Lâu, Kim Long, An Cựu, Vĩ Dạ, Bao Vinh...

Như vậy, có thể nói, chính sự kết hợp của các loại hình âm nhạc, gồm nhạc

Lễ, ca Huế, cùng với các điệu lý, hò và nghệ thuật Tuồng, đã tạo nên những nét văn

hóa rất riêng của xứ Huế.

2.2.2.4. Văn hóa giáo dục xứ Huế

- Thừa Thiên Huế - vùng đất hiếu học, đề cao đạo lí gia phong

Thừa Thiên Huế là một vùng đất văn hóa điển hình của Việt Nam vẫn còn lưu

những giá trị chuẩn mực như truyền thống hiếu học, đề cao văn hóa, lễ giáo, giữ gìn

tôn ti trật tự trong gia đình và xã hội.

Lịch sử đã ghi nhận Thừa Thiên Huế là “vùng đất học” bởi không chỉ nơi đây

từng trung tâm văn hóa lớn của cả nước - nơi hội tụ của các bậc chí nhân, hào kiệt;

nơi của những trường học và nền giáo dục mới (Quốc Sử Quán, Quốc Tử Giám,

trường Quốc Học, Đồng Khánh…), mà còn là kết quả của truyền thống trọng văn

hóa, hiếu học, tôn sư trọng đạo trong mỗi gia đình, con người của vùng đất này.

Page 67: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

63

Sách Đại Nam nhất thống chí viết Huế là vùng đất học, có truyền thống “dân thứ

siêng cấy”, “sĩ phu chăm học hành” [126, tr.136]. Sách Ô châu cận lục đánh giá về

vùng đất này: “Nhân tài do địa khí đúc nên, địa khí nhờ nhân tài mà lộ rõ”, “đây

thực sự là nơi trọng yếu của đất trời. Phải chăng không có được linh khí ấy thì làm

sao sản sinh ra được bậc tuấn kiệt anh tài, phát tiết thành việc học thuật thênh thang

thông đạt, sao cho xứng đáng với khí thiêng của đất ấy” [3, tr.142-143]. Điều này

hoàn toàn đúng, bởi qua khảo sát điền dã cho thấy nhiều làng xã ở Thừa Thiên Huế

đã ghi vào hương ước các điều khoản ưu đãi đối với những người học giỏi, chăm

chỉ học hành, đỗ đạt được miễn phu phen tạp dịch; hoặc quy định rõ việc trích

ruộng công để làm “học điền”. Do đó, từ rất sớm, đất Hóa Châu đã xuất hiện tầng

lớp Nho sĩ, nhiều Nho sĩ đỗ đạt được bổ làm quan ở các phủ, huyện trong cả nước

tiêu biểu như Nguyễn Hữu Nhuế (làng Dương Nỗ) đỗ Giải nguyên khoa Tân Tỵ,

làm Tri phủ Thuận Thành; Cao Bách Tuế (làng Đông Dã), Tri phủ Hà Nam;

Nguyễn Đức Huệ (làng Hoài Tài), Tri phủ Thăng Hoa... [166].

Sang thời kì nhà Tây Sơn, một số cải cách về giáo dục được triển khai, Chiếu

khuyến học được ban bố, trường học được tổ chức đến tận cấp xã, chữ Nôm được

sử dụng trong công văn và khoa cử, Văn Miếu được tu sửa và mở khoa thi để chọn

kẻ sĩ (mở một khoa năm 1789). Dưới triều Nguyễn, hệ thống giáo dục và trường

học được mở quy củ đến tận các huyện, Quốc Tử Giám được mở để đào tạo nhân

tài phục vụ cho đất nước, Tứ Dịch Quán được thành lập để đào tạo người giỏi ngoại

ngữ phục vụ cho việc bang giao với các nước, Quốc Sử Quán triều Nguyễn được

thành lập để sưu tầm tập hợp và biên soạn hàng ngàn pho sách như: Khâm định Việt

sử thông giám cương mục, Đại Nam nhất thống chí, Đại Nam thực lục, Đại Nam

liệt truyện,... Thời Thành Thái, triều đình chủ trương mở một trường học Quốc gia

tại Huế để người Việt Nam được học văn hóa phương Tây lấy tên là Pháp Tự Quốc

Học trường, thường gọi là trường Quốc Học. Cùng với hệ thống trường học, việc thi

cử cũng được định lệ, kì thi Hương được tổ chức từ năm thứ sáu đời Gia Long

(1807) và kỳ thi Hội có từ năm Minh Mạng thứ ba (1822). Cứ ba năm một lần tổ

chức thi Hương, năm sau tổ chức thi Hội. Trường thi Thừa Thiên được xây dựng

năm 1825 và liên tục là địa điểm tổ chức các khoa thi dưới triều Nguyễn. Có thể

Page 68: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

64

thấy trong suốt chiều dài lịch sử từ thế kỉ XIV đến thế kỉ XIX thời nhà Nguyễn,

Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế chính là một trong những nguồn cung cấp nguyên khí

của quốc gia.

Lễ giáo trong đời sống của nhân dân Thừa Thiên Huế luôn luôn được tôn cao

và mang đậm chất Nho giáo, thể hiện rõ trong những dịp lễ tết, học hành, khoa cử.

Nguyên nhân được xác định là do đạo đức, lễ nghĩa chốn kinh đô đã lan tỏa khắp

các vùng quê ở Thừa Thiên Huế, nhắc nhở mọi người không ngừng hoàn thiện nhân

cách. Gia phong và lễ giáo ở vùng đất này đã hình thành trong mỗi gia đình nếp

nhà, gia quy, gia pháp, gia phong, gia đạo. Nếp sống đạo đức chuẩn mực trong gia

đình xứ Huế quy định cho con trai con gái phải rèn luyện, hoàn thiện nhân cách.

Con trai thì học hành mong đỗ đạt làm quan. Con gái thì phải thấm nhuần tam tòng

tứ đức, thiếu nữ phải tập tành công dung ngôn hạnh, tuân phục lễ nghĩa.

Trong học hành và khoa cử, lễ giáo luôn được chú trọng, người thầy giữ vị trí

độc tôn đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh. Vì vậy, truyền

thống tôn sư trọng đạo trở thành giá trị văn hóa tinh thần mang sắc thái đặc biệt của

con người xứ Huế. Huế trở thành đất học với nhiều vĩ nhân tài năng của dân tộc

Việt Nam. Cũng chính trong khoảng thời gian học tập ở Huế, những thầy giáo có

lòng yêu nước, tự tôn dân tộc đã ảnh hưởng rất lớn đến Hồ Chí Minh. Trong cộng

đồng dân cư, việc tang lễ đều có hội có phường hội, xóm giềng giúp đỡ theo một

tinh thần “nghĩa tử là nghĩa tận”. Trong cuộc sống thường nhật, tình cảm xóm làng,

lối sống gần gũi, tương trợ lẫn nhau luôn được chú trọng. Gia đình cụ Nguyễn Sinh

Sắc những năm tháng ở Huế cũng phải tuân thủ nghiêm ngặt nền nếp, gia phong của

văn hóa gia đình xứ Huế và khi thân mẫu của Hồ Chí Minh qua đời, gia đình cụ Sắc

càng thấm đượm tình làng nghĩa xóm của văn hóa và con người xứ Huế.

Lối sống trọng tình, trọng nghĩa, đề cao lễ giáo là bản tính tốt đẹp của con

người Việt Nam nói chung và người Huế nói riêng. Chính lối sống đó cùng với

nhân cách cao đẹp của các chí nhân hào kiệt xứ Huế đã khắc sâu vào tâm khảm của

biết bao thế hệ, hình thành những con người với nhân cách cao đẹp đã làm rạng

danh dân tộc, mà điển hình nhất là Hồ Chí Minh.

Page 69: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

65

Có thể nói, Thừa Thiên Huế trong tiến trình lịch sử là nơi hội tụ hiền tài của

nước, trong đó phần lớn là người Việt từ vùng Bắc Trung Bộ. Chính sự di dân từ

phía Bắc vào Huế đã cung ứng cho vùng đất này nhiều nhân tài trong quá trình mở

cõi và bảo vệ đất nước.

- Thừa Thiên Huế - vùng đất hội tụ và giao thoa các luồng văn hóa, tư tưởng

Trong tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam, Thừa Thiên Huế có một vị trí rất

đặc biệt đối với sự nghiệp tạo dựng cơ đồ của các chúa Nguyễn. Vào cuối thế kỉ

XIX, khi các sử quan ở Quốc Sử Quán triều Nguyễn viết địa chí về đất “Thần kinh”,

hộ đã đúc kết bằng một đoạn văn rất ngắn gọn về vị trí đắc địa của vùng đất này:

Kinh sư là nơi miền núi, miền biển đều họp về, đứng giữa miền Nam,

miền Bắc, đất đai cao ráo, non sông phẳng lặng. Đường thủy thì có cửa

Thuận An, cửa Tư Hiền sâu hiểm; đường bộ thì có Hoành Sơn, ải Hải Vân

chặn ngăn; sông lớn giăng phía trước, núi cao giữ phía sau, rồng cuốn hổ

ngồi, hình thế vững chãi... thật là thượng đô của nhà vua [126, tr.15].

Trên thực tế, Thừa Thiên Huế từ vùng đất biên viễn đã trở thành trung tâm

trong quá trình Nam tiến và chuyển tải văn hóa Việt về phương Nam, rồi trở thành

kinh đô của nước Việt Nam thống nhất. Trong quá trình hình thành và phát triển của

Đàng Trong, Huế càng có ý nghĩa quan trọng hơn khi nơi đây giữ vai trò đầu não về

chính trị, quân sự, trung tâm kinh tế, văn hóa của toàn xứ sở. Thừa Thiên Huế còn

là trung tâm trong việc kế thừa, chuyển tải và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc

trên vùng đất mới, đồng thời lại tiếp thu các yếu tố mới của văn hóa bên ngoài để

hình thành sắc thái văn hóa Đàng Trong phong phú, sinh động và hết sức đa dạng.

Văn hóa Huế, văn hóa Việt Nam thực sự đã được phát triển và được làm giàu thêm

chính qua quá trình hội tụ và giao thoa này.

Khi còn giữ địa vị trung tâm văn hóa - chính trị của Đàng Trong, rồi của cả

quốc gia thống nhất trong thế kỉ XIX, Thừa Thiên Huế là trung tâm văn hóa, giáo

dục lớn và là nơi hội tụ trí tuệ của cả nước. Giáo sư Trần Quốc Vượng rất đúng khi

khẳng định: “200 năm đủ cho Huế là nơi kết tinh và hội tụ nhân tài vào văn hóa

miền Trung - Nam để tạo nên một vùng văn hóa và một sắc thái mới của văn hóa

Việt Nam: Vùng văn hóa Huế, sắc thái Phú Xuân của văn hóa Việt Nam cận hiện

Page 70: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

66

đại” [179, tr.69]. Thừa Thiên Huế từ thời Tây Sơn đến thời Nguyễn là “miền đất

hứa” của nhiều bậc hiền tài, những tác giả ưu tú với những trước thuật quan trọng

về dịch học, văn học, sử học, thiên văn học và địa lí học. Đó là Ngô Thời Nhậm,

Phan Huy Ích, Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu, Thiệu Trị, Tự Đức, Tùng Thiện

Vương, Tuy Lý Vương,… Vì là một trung tâm văn hóa, chính trị lớn nên Huế là

vùng đất tụ hội nhân tài của cả nước như: Huỳnh Thúc Kháng, Tôn Quang Phiệt,

Đào Duy Anh, Tạ Quang Bửu, Nguyễn Đỗ Cung, Hoài Thanh,v.v… Thừa Thiên

Huế cũng là quê hương, lò đào tạo của nhiều nhà lãnh đạo của Đảng và Nhà nước

như: Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Tố Hữu…; những nhà thơ

lớn như Xuân Diệu, Huy Cận, Tế Hanh, Chế Lan Viên…; những nhà văn hóa lớn,

anh hùng lao động như Tôn Thất Tùng, Nguyễn Khánh Toàn,…

Trong gần ba thế kỉ (từ thế kỉ XVI đến đến XVIII), Thừa Thiên Huế là tâm

điểm của các vấn đề chính trị, quân sự, xã hội, tôn giáo của Đàng Trong. Đặc biệt,

trong những năm cuối thế kỉ XIX đến nửa đầu thế kỉ XX, cùng với Hà Nội và Sài

Gòn, Huế thực sự được hấp thụ những giá trị văn hóa từ Trung Quốc, Nhật Bản

cũng như những giá trị của văn minh phương Tây chuyển vào mặc cho chính quyền

sở tại hết sức ngăn cấm. Huế giai đoạn này trở thành một trong ba trung tâm văn

hóa, chính trị xã hội lớn của cả nước.

Trước sự giao thoa của nhiều nền văn hóa, người Huế trong quá trình tiếp

nhận đã không ngừng sáng tạo, biến hóa cách ăn, mặc, ở, đi lại... Đó là sự cải biến

ngôi nhà truyền thống đồng bằng Bắc bộ thành ngôi nhà vườn đặc trưng; biến hóa

các món ăn gốc Việt, Mường, Chăm-pa để mang đậm sắc thái Huế… Sự giao

thương không ngừng được mở rộng với các quốc gia có nền thương mại biển phát

triển như Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Ấn Độ, Nhật Bản. Bên cạnh

đó, kiến trúc, âm nhạc, lễ hội, nghề thủ công… được phát triển đến tầm nghệ thuật,

đã thể hiện sức lao động bền bỉ, sáng tạo của người Huế qua nhiều thế kỉ.

Quá trình di dân và tụ cư trên đất Huế, cư dân Thuận Hóa với gốc văn hóa

Chăm-pa đã không ngừng củng cố và phát triển văn hóa Thăng Long - Đông Đô. Tư

tưởng Nho - Phật - Lão của người Việt với lớp cư dân bản địa Chăm-pa kết hợp với

nền văn hóa - tư tưởng Ấn Độ đã dần dung hợp và hình thành nên vùng văn hóa

Page 71: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

67

Huế. Đến thế kỉ XX, sự giao thoa văn hóa Đông - Tây diễn ra mạnh mẽ, đã định

hình cho Huế mang dấu ấn của những tinh hoa phương Tây. Tuy vậy, Huế vẫn lưu

giữ những giá trị có tính chuẩn mực như truyền thống hiếu học, đề cao lễ giáo, giữ

gìn tôn ti trật tự trong gia đình và xã hội…

Đầu thế kỉ XX, ở Việt Nam nói chung và Thừa Thiên Huế nói riêng bị thực

dân Pháp “ém chặt” bởi sắc lệnh năm 1898 của thực dân Pháp, nhằm “hạn chế” tối

đa việc lưu hành sách báo, tài liệu có tính chất duy tân, dân chủ. Thực dân Pháp

cấm “lưu hành báo chí bất cứ bằng thứ tiếng gì”, “báo tiếng Việt không được xuất

bản, nếu không được phép của quan toàn quyền” [93, tr.106]. Thế nhưng, sự bưng

bít thông tin của thực dân Pháp càng chặt bao nhiêu, thì nhu cầu nhận thức và khát

vọng đấu tranh thoát khỏi ngu dốt và ách thống trị thực dân, phong kiến càng lớn

bấy nhiêu. Vì lẽ đó, ở kinh đô Huế, các trí thức, nhân sĩ tiến bộ đã năng động tiếp

cận với Tân văn, Tân thư Trung Quốc và Nhật Bản qua nhiều con đường, chủ yếu là

lưu truyền bí mật, do đó đời sống văn hóa, chính trị - xã hội Thừa Thiên Huế có

nhiều chuyển biến quan trọng từ tư tưởng đến động thái yêu nước.

Thông qua các tác phẩm Tân văn, Tân thư truyền bá vào Việt Nam, các trí

thức, nhân sĩ Việt Nam yêu nước đã rất phấn khích bàn luận về lịch sử duy tân nước

Nhật, cách mạng Pháp, triết học thế kỉ XVII của Pháp, các sự kiện thế kỉ ánh sáng ở

Châu Âu, những thách thức của Trung Quốc thời nhà Thanh trước sự văn minh vượt

trội, hùng mạnh của phương Tây,v.v... Các tác phẩm nổi tiếng của Montesquieu,

trước tác của Russeau, Voltaire, sách của hai nhà cách mạng Trung Hoa Lương

Khải Siêu, Khang Hữu Vi, đã giúp các nhà Nho nhìn nhận lại đạo lý Khổng Mạnh,

thấy được phần lạc hậu, trì trệ của các học thuyết cũ kĩ, lôi cuốn họ say sưa nhìn lại

thế giới, xem lại mình với cái nhìn rộng hơn, khách quan hơn, có nhiều đối sánh để

phân tích và rút ra các bài học kinh nghiệm cho sự phát triển của đất nước.

Sau khi Tân văn chuyển vào Việt Nam, có những gia đình trí thức quan lại đầu

óc tiến bộ ở Kinh đô như Thân Trọng Huề, Nguyễn Lộ Trạch và các gia đình nho sĩ,

trí thức ở các thành phố là trung tâm văn hóa lớn đã thu thập lưu trữ và quảng bá.

Trường hợp chí sĩ Phan Châu Trinh đọc Tân thư từ kho sách nhà Thân Trọng Huề,

Đào Nguyên Phổ ở Huế khoảng năm 1903 mới rút ra được tư tưởng “tôn dân bài

Page 72: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

68

quân”. Trong nhà trường, những thầy giáo có tư tưởng tiến bộ như thầy Lê Văn

Miến và thầy Hoàng Thông đã gián tiếp truyền bá tư tưởng mới của Tân thư, Tân

văn cho lớp học sinh người Việt đang theo học tại các trường Pháp - Việt ở Huế.

Ảnh hưởng của Tân thư đối với trí thức yêu nước ở Thừa Thiên Huế đầu thế kỉ

XX là rất lớn. Qua Tân văn, trí thức Việt Nam hiểu được rằng muốn chấn hưng đất

nước, chống lại phương Tây thì cần phải cải cách. Tân thư góp phần giúp cho trí

thức Việt Nam thời đó học được phương pháp mà sau này người ta thường gọi là

“tự thức tỉnh, tự phê phán” để nhìn nhận các ưu khuyết, nhất là các nhược điểm

trầm trọng của chính tầng lớp mình, của nhân dân mình, dân tộc mình đặng sửa

chữa, khắc phục. Có thể nói Tân thư, Tân văn và các tư tưởng tiến bộ khi thâm nhập

vào Việt Nam nói chung và Huế nói riêng, tựa như luồng gió mới. Trong cuốn Phan

Tây Hồ tiên sinh lịch sử, chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng hồ hởi viết:

Sách mới, báo mới xuất hiện đã tràn qua nước ta, mà ảnh hưởng nhất là

sách của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, vì sách ấy nói tới dân quyền tự

do, phát minh được cái đặc sắc - chân tướng của văn minh Âu Châu rất

nhiều, tiên sinh Phan Châu Trinh thường qua lại với ông Thân Trọng Huề,

Đào Nguyên Phổ mượn những sách nói trên trong lòng ham thích quên ngủ,

quên ăn, từ đó trong tư tưởng đổi hẳn ra một cách mới mẻ [24].

Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân trong công trình Đi tìm dấu tích thời niên

thiếu của Bác Hồ ở Huế viết:

Huế lúc bấy giờ là Đế đô, giữ vài trò chỉ huy văn hóa nên có nhiều bậc anh

tài, học giả quy về. Huế là nơi có nhiều sách vở. Chính nhờ những sách vở

lạ đó mà Nguyễn Lộ Trạch đã có thể tự học và trở thành thầy của phong

trào Duy Tân. Huế lúc ấy có nhiều du học sinh tốt nghiệp ở châu Âu về

như các ông Lê Văn Miến, Thân Trọng Huề. Những vị này mang về Huế

nhiều sách vở, tư tưởng mới của Tây phương. Huế cũng là nơi đón tiếp

những danh sĩ miền Bắc vào như các vị Nguyễn Thượng Hiền, Đào

Nguyên Phổ. Các cụ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Thượng

Hiền, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế và cả ông Nguyễn Sinh Sắc cũng

được khai nhãn bằng những Tân thư, Tân văn này [184, tr.167-168].

Page 73: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

69

Trong những sách mới được dịch phải kể đến Dân Ước của Lư Thoa (Jean J.

Rousseau), Tiến Hóa Luận của Tư Tân Tắc (Spencer), Dân Quyền Thiên của Mạnh

Tư Cưu (Montesquieu), Ẩm băng thất của Lương Khải Siêu, Tự do thư, Trung Quốc

hồn… Những Tân thư, Tân văn do chính người Huế viết như Thiên Hạ Đại Thế

Luận, Thời Vụ Sách Thượng, Thời Vụ Sách Hạ của Nguyễn Lộ Trạch, Tự Trị

Thượng Sách của Hoàng Thông. Nhờ đọc Tân thư, Tân văn mà các nhà Nho yêu

nước có những tư tưởng mới, đặt cuộc vận động cứu nước của Việt Nam vào khung

cảnh thế giới chứ không còn bó hẹp trong hoàn cảnh cục bộ Việt Nam như các nhà

Văn thân Cần Vương trước đó đã làm. Theo đó, cụ Nguyễn Lộ Trạch đi tiên phong

trong phong trào Duy Tân, Phan Bội Châu vào Huế viết Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư

cổ vũ long yêu nước của nhân dân, Phan Châu Trinh bỏ chức Thừa biện bộ Lễ để

vận động dân quyền, khai dân trí, chấn dân khí sôi nổi Bắc Trung Nam. Cuộc vận

động Duy Tân khởi đầu từ cuối thế kỉ XIX đà dần dần phát triển và đạt đỉnh cao là

cuộc chống thuế diễn ra vào mùa Hè năm 1908.

Bên cạnh sự du nhập của Tân văn, Tân thư và các trào lưu tư tưởng mới,

Thừa Thiên Huế những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX còn chịu ảnh hưởng

rất lớn của văn hóa phương Tây, gắn với công cuộc khai hóa của thực dân Pháp.

Các trường chuyên nghiệp và trường Pháp - Việt được mở rộng ở Huế và các

tỉnh lị khác trong cả nước, kèm theo đó là những giá trị mới, điển hình nhất là tư

tưởng “Tự do, Bình đẳng, Bác ái” (Liberté, Égalité, Fraternité) của đại cách

mạng Pháp.

Mặc dù còn rất hạn chế nhưng văn hóa phương Tây và các luồng tư tưởng mới

là chất xúc tác quan trọng để các phong trào yêu nước phát triển. Phong trào Đông

Du, Duy Tân từ đó phát triển rộng khắp, sách báo Tây phương, Tân thư, Tân văn và

các tác phẩm mang tư tưởng cải cách của các sĩ phu được chuyển bí mật vào Việt

Nam, làm thay đổi suy nghĩ, tư tưởng và hình thức đấu tranh, “những cuộc Âu hóa

đã thay đổi tập quán sinh hoạt hàng ngày, thay đổi cách ta vận động tư tưởng”, tức

là văn minh phương Tây đã làm thay đổi cách thức vận động tư tưởng và hình thức

đấu tranh của nhân dân ta vào những năm đầu thế kỉ XX.

Page 74: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

70

2.2.2.5. Văn hóa tâm linh xứ Huế

Văn hóa tâm linh xứ Huế là một loại hình văn hóa tinh thần đặc thù của vùng

đất này. Với người Huế, văn hóa tâm linh thể hiện tình cảm linh thiêng, niềm tin và

sự tri ân của con người đối với những người thân đã mất, niềm tin của cả cộng đồng

đối với những vị anh hùng, các bậc tiền bối đã có công lao xây dựng, bảo vệ đất

nước được tôn làm Thần - Thánh, Thành hoàng, thể hiện sự kính trọng và cầu mong

sự che chở của các vị thiên thần…

Thừa Thiên Huế được biết đến là vùng đất của nhiều di sản văn hóa tâm linh

độc đáo và đa dạng, đồng thời là nơi còn lưu giữ những thánh tích của tín ngưỡng

thờ Mẫu, cũng như những công trình kiến trúc tôn giáo. Ở Huế, văn hóa tâm linh

được thể hiện qua các lễ hội truyền thống được tổ chức quanh năm. Hình thức lễ hội

rất trang trọng với nghi lễ tôn nghiêm như lễ tế Nam Giao (lễ tế Trời), lễ tế Xã Tắc

(lễ tế thần Đất và thần Lúa), lễ hội Tịch Điền, lễ hội giỗ Tổ Hùng Vương, lễ cầu

ngư… Các lễ hội đều có những mục đích cao cả là cầu cho quốc thái dân an, mùa

màng tươi tốt, bội thu, con cháu no đủ, hạnh phúc…

Những nghiên cứu về văn hóa tâm linh xứ Huế đã chỉ ra ở vùng đất này tín

ngưỡng dân gian là một nét đặc trưng mang sắc thái của sự giao thoa văn hóa Việt -

Chăm. Người Huế thừa hưởng việc tôn thời bà mẹ Po Yang Inư Nagar của dân tộc

Chăm, chuyển dịch thành thánh mẫu Thiên Y A Na Ngọc Diễn Phi hay bà chúa

Ngọc, bà Dàng, bà Bô Bô chúa động. Các thần đất gốc gác Chăm được tôn xưng là

Ba Ông Cả thổ quan chi thần, hay Ông Cả, Bà Dàng tôn thần. Miếu Bà Dàng ở

Trạch Phổ, ở Hải Cát được trùng tu tôn tạo để phụng thờ. Các tượng thần Siva,

Brahma được tô đắp thêm thành hình tượng Phật để thờ cúng ở chùa Kim Thành

(làng Thành Trung), Ưu Điềm, Mỹ Xuyên…

Nghiên cứu văn hóa tâm linh xứ Huế không thể không nhắc đến sự hình hành

và phát triển của tôn giáo gắn với tiến trình phát triển của vùng đất Thuận Hóa - Phú

Xuân - Huế, cũng như những chính sách tôn giáo của các triều đại phong kiến. Từ

thời Tây Sơn (1786-1802), bên cạnh Nho giáo, vua Quang Trung chấp nhận Phật

giáo và Thiên Chúa giáo. Tuy nhiên, nhà Tây Sơn chủ trương chế tài đối với Phật

giáo nhằm hạn chế số chùa chiền và sư sãi. Đến triều Nguyễn, nhận thức được vai

Page 75: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

71

trò quan trọng của Nho giáo trong việc củng cố chế độ phong kiến tập quyền nên

nhà Nguyễn rất coi trọng Nho giáo. Đối với Phật giáo, mặc dù có những quy định

chặt chẽ, sách Đại Nam thực lục viết: “chùa quán có đổ nát mới được tu bổ, làm

chùa mới và tô tượng đúc chuông, đàn chay hội chùa, hết thảy đều cấm” [127,

tr.586], nhưng trong thực tế nhiều vua triều Nguyễn tổ chức tu sửa chùa chiền, xây

dựng nhiều chùa công như Thiên Mụ, Giác Hoàng, Diệu Đế, Thánh Duyên... Nhìn

chung, các vua nhà Nguyễn không hoàn toàn bài bác Phật giáo mà có thái độ dung

hòa Nho - Phật. Đối với Thiên Chúa giáo, nhà Nguyễn thi hành chính sách hạn chế.

Về Phật giáo, Huế được xem như là kinh đô của Phật giáo, chùa Huế là một

loại hình di sản khó nơi nào ở Việt Nam sánh bằng. Qua khảo sát thực tế cho thấy, ở

Huế hiện còn lưu giữ, bảo tồn trên 100 ngôi chùa cổ, trong đó có hàng chục tổ đình,

các nghi lễ Phật giáo và hoạt động Phật sự tôn nghiêm. Trong sự phát triển của Huế,

Phật giáo Huế đã khẳng định những bước tiến vững chắc và xác lập vị thế quan

trọng. Hệ thống chùa tháp, pháp khí, tượng, ván khắc đồ sộ; tính đa dạng trong hệ

cảnh quan, kiến trúc, trang trí, nội thất của những ngôi chùa Huế, những giá trị

trong nghệ thuật tạo hình và nghệ thuật diễn xướng mang hơi thở của Phật giáo xứ

Đàng Trong nói chung và Phật giáo xứ Huế nói riêng, sự đa diện trong sinh hoạt

văn hóa thông qua các lễ hội, sinh hoạt của tăng chúng - phật tử, văn hóa ẩm thực

chay đặc sắc và độc đáo... phản ánh những ảnh hưởng của giáo lí nhà Phật, được

luân chuyển trong đời sống thường nhật, trong mạch nguồn văn hóa Huế.

Là một tôn giáo có số giáo dân đông vào hàng thứ hai (sau Phật giáo) ở Thừa

Thiên Huế, Thiên Chúa giáo du nhập và phát triển ở Ðàng Trong khá sớm. Hiện

nay, ở Thừa Thiên Huế có 45 giáo xứ với hơn 90 nhà thờ lớn, nhỏ khác nhau. Gần

trung tâm thành phố Huế có 2 ngôi giáo đường lớn được xây dựng vào những năm

đầu thập niên 60 là nhà thờ Phủ Cam và nhà thờ Ðức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Ðó là 2

giáo đường tiêu biểu cho lối kiến trúc Roman - Gothique (Roman - Gô-tích) mang

giá trị văn hóa tâm linh của tôn giáo Thiên Chúa giáo tại Huế.

Bên cạnh đó, nhiều công trình kiến trúc phục vụ cho loại hình du lịch tôn giáo,

tín ngưỡng đã được trùng tu, xây mới rất quy mô và hoành tráng như: Khu văn hóa

đền Huyền Trân, Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã, Thiền viện Hương Vân, Huyền

Page 76: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

72

Không Sơn Thượng, Tượng đài Quang Trung - Nguyễn Huệ, Trung tâm Văn hóa

Phật giáo Liễu Quán, Khu văn hóa du lịch tâm linh Quán Thế Âm, chùa Linh Mụ,

Hà Trung, Thánh Duyên, Tổ đình Từ Đàm, Thiền Tôn… Thừa Thiên Huế cũng tiến

hành đầu tư, phục dựng những công trình thuộc quần thể di tích lịch sử mà hoạt

động của nó gắn liền với đời sống tâm linh của đa số quần chúng Nhân dân như:

đàn Nam Giao, Xã Tắc, phục dựng các lễ tế Trời, Đất...

2.2.2.6. Văn hóa ứng xử xứ Huế

- Ứng xử hài hòa giữa con người với môi trường tự nhiên, giữa con người với

con người trong xã hội

Vùng đất kinh đô Huế đã tạo cho người dân nơi đây những nét văn hóa Huế

rất riêng biệt. Đó là một phong thái thanh cao, tao nhã nhưng lại vô cùng đằm thắm

và dịu dàng. Điều này không chỉ biểu hiện ở những tầng lớp vương tôn quý tử,

những phi tần mĩ nữ mà còn lan tỏa ở mọi tầng lớp nhân dân. Cái phong thái ấy

biểu hiện trong lối sống hàng ngày, từ tiếng nói, điệu cười cho đến cái dáng đi nhẹ

nhàng uyển chuyển trong tà áo dài tím thướt tha. Tất cả tạo nên một nét Huế đẹp

mộng mơ như một viên ngọc tím huyền ảo, đẹp dịu dàng.

Trong lịch sử hình thành và phát triển, Thừa Thiên Huế đã từng mang danh là

vùng đất “Ô Châu ác địa” - nơi mặc dù được ví là “non xanh nước biếc như tranh

họa đồ” nhưng ẩn họa với “truông nhà Hồ, phá Tam Giang” và vô vàn điều kiện

khắc nghiệt của tự nhiên, do đó con người sống ở vùng đất này từ sớm phải có tính

cách mạnh mẽ để chống chọi với thiên tai, địch họa, hòa hợp với môi trường tự

nhiên. Trước những khó khăn và thử thách, người Huế với bản tính cần cù, chịu khó

đã không ngừng khai phá, cải tạo nhiều vùng đất mới để định đô từ thủ phủ Phước

Yên, Bác Vọng, Kim Long, Phú Xuân, Huế [33, tr.12]. Trong nhiều thế kỉ, khi chế

độ quân chủ nâng cao vị thế và vai trò của Phật giáo trong điều hành đất nước, giáo

lý Phật giáo ảnh hưởng sâu đậm đến đời sống xã hội. Do đó, tính cách con người

Huế trở nên bao dung, thân thiện, hiền hòa thể hiện rõ qua cách ứng xử giữa con

người với môi trường tự nhiên, giữa con người với con người trong xã hội.

Thừa Thiên Huế là một vùng đất có truyền thống văn hóa, tuy không lâu đời

như Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội 1000 năm, nhưng cũng có bề dày lịch sử - văn

Page 77: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

73

hóa hơn 700 năm. Từ khi chúa Nguyễn đặt thủ phủ tại đây cho đến khi nhà Nguyễn

cáo chung, có thể nói Huế là nơi hội tụ các luồng tư tưởng đông tây kim cổ. Văn

hóa Huế có truyền thống từ Bắc tràn vào, theo những lưu dân lập nghiệp trên vùng

đất mới. Tại đây còn tồn tại dân tộc Chăm với nền văn hóa Ấn Độ, sau này văn hóa

phương Tây cũng có cơ hội thâm nhập vào từ thời các chúa Nguyễn. Giữa những

giá trị văn hóa, luồng tư tưởng mới, các lễ hội văn hóa truyền thống và phong cách

sống người Huế vẫn được bảo tồn, củng cố và phát triển.

Phong cách sống của người Huế được hình thành và bồi đắp từ cách sống,

cách ứng xử với đời sống tự nhiên và xã hội của nhiều thế hệ con người xứ Huế.

Không phải ngẫu nhiên mà người ta vẫn quen gọi thành những cụm từ mang sắc

thái biểu trưng cho Huế, như: người Huế, kiến trúc Huế, nhà vườn Huế, món ăn

Huế, màu tím Huế, nón lá Huế, giọng Huế - tiếng Huế, ca Huế... Tất nhiên không

phải cái gì thuộc về Huế đều là bậc nhất cả. Song trong phong cách sống vẫn là nét

trội, nét tiêu biểu. Phong cách sống được thể hiện khá rõ qua cách ăn, cách nói, ăn

mặc, ăn học và cả ăn chơi của người Huế. Điển hình trong ăn nói, người Huế luôn

tôn trọng thứ bậc thể hiện qua cách xưng hô không phân biệt tuổi tác, giàu sang,

nghèo hèn. Đối với xóm giềng, lạ cũng như quen đều căn cứ vào tuổi tác mà ăn nói.

Trên địa bàn Thừa Thiên Huế hiện nay đều có chung một thứ tiếng là tiếng Huế,

chung là thứ giọng là giọng Huế, không phân biệt dân làng hay thành phố.

Qua biết bao thăng trầm của lịch sử, con người xứ Huế vẫn còn bảo lưu được

nét mộc mạc, chân chất trong lối sống, sự tinh tế, lịch thiệp, hòa nhã trong giao tiếp,

ứng xử và sự mạnh mẽ, quyết liệt, kiên cường trong đấu tranh. Đó là vốn quý có cội

nguồn từ truyền thống văn hóa dân tộc, đã được tích tụ, bồi đắp và phát triển từ một

vùng đất vốn là kinh đô, có sự kết hợp hài hòa giữa cái chung của cả nước và cái

riêng của một vùng đất, giữa truyền thống và hiện đại. Trải qua thời gian và sự vận

động không ngừng của cuộc sống, các yếu tố ấy luôn luôn được chắt lọc, bổ sung và

lắng lại thành những tinh hoa làm nên bản sắc văn hóa Huế, đó là phần cốt lõi nhất

của truyền thống văn hóa Huế. Tổng kết về phong cách sống người Huế, nhà thơ

Phùng Quán đã viết: “Sóng dịu dàng như dáng một lưỡi gươm / Những người nhút

nhát tự thiêu khi nổi giận”. Khác với tính rắn rỏi của văn hóa xứ Nghệ, sự tinh tế

Page 78: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

74

của văn hóa Hà thành, con người xứ Huế từ tốn, hiền dịu, lịch thiệp nhưng bên

trong ẩn chứa sức phản ứng dữ dội. Khi đất nước bị xâm lăng, khi quyền tự do,

dân chủ bị đè nén thì tinh thần đấu tranh trỗi dậy quyết liệt. Lịch sử phong trào

kháng thuế của nhân dân Thừa Thiên Huế và công cuộc kháng chiến chống thực

dân Pháp, đế quốc Mĩ đã chứng minh điều đó. Hay chính hình ảnh của Hồ Chí

Minh sau này rất rắn rỏi nhưng cũng rất uyên thâm, tế nhị và lịch lãm. Văn hóa

Huế cùng với văn hóa xứ Nghệ thực sự thấm sâu vào vô thức, chi phối suy nghĩ và

hành động của Người.

Trong văn hóa Huế, lối sống cộng đồng, tương thân tương ái là giá trị văn hóa

quý báu thể hiện văn hóa ứng xử giữa con người với con người. Truyền thống đó

luôn được đề cao và trải qua những thăng trầm lịch sử giá trị văn hóa này đã trở

thành biểu trưng của văn hóa cố đô. Nguyên nhân của lối sống cộng đồng, đoàn kết

của nhân dân Thừa Thiên Huế là do điều kiện kinh tế nông nghiệp và ruộng đất

công làng xã chi phối. Bên cạnh đó, lối sống cố kết cộng đồng còn bắt nguồn từ sự

sinh tồn trong điều kiện sinh thái vô cùng khắc nghiệt của miền Trung “nắng gắt,

mưa nhiều”. Chính vì vậy, từ rất sớm, người Huế đã đoàn kết, gắn bó và thương yêu

nhau hơn trong đời sống, trong hoạt động sản xuất nông nghiệp, cũng như trong quá

trình xây dựng và phát triển vùng đất này.

- Yêu nước, tự hào tự tôn dân tộc, kiên cường đấu tranh vì độc lập tự do

Yêu nước và tự tôn dân tộc ở bất cứ vùng đất nào, con người nào cũng có.

Nhưng ở Huế, giá trị văn hóa ấy gắn với tiến trình xây dựng và phát triển của vùng

đất, thể hiện mối quan hệ giữa con người với quốc gia, dân tộc. Người Huế từ rất

sớm đã yêu nước và nhận thức rõ tầm quan trọng của độc tập, tự do. Trong hành

trình mở cõi, những âm mưu đồng hóa của các thế lực phương Bắc, ách áp bức bóc

lột của bè lũ thực dân, đã hun đúc cho lớp lớp người Huế tinh thần đấu tranh can

trường với ý chí tự cường, tự hào tự tôn dân tộc không khuất phục đã đứng lên

chống bè lũ xâm lăng. Tiêu biểu cho tinh thần đó, Đặng Dung, Đặng Tất trở thành

linh hồn của cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược tại vùng đất Hóa Châu.

Những năm đấu tranh chống lại âm mưu đồng hóa dân tộc của các thế lực

phương Bắc, chống ách áp bức bóc lột của thực dân Pháp và đế quốc Mĩ đã hun đúc

Page 79: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

75

tinh thần yêu nước, lòng tự hào tự tôn dân tộc cho lớp lớp người Huế từ bậc minh

quân, quan lại, sĩ phu yêu nước đến đông đảo quần chúng nhân dân. Chính tinh thần

yêu nước, lòng tự tôn dân tộc của họ đã góp phần làm nên giá trị đặc sắc của văn

hóa Huế và cũng giá trị quan trọng này đã góp phần hình thành tư tưởng yêu nước

và nhân cách Hồ Chí Minh trong những năm tháng Người ở Huế.

Những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, ngay khi liên quân Pháp - Tây Ban

Nha nổ súng tấn công cửa biển Đà Nẵng, uy hiếp cửa ngõ phía Nam của kinh đô

Huế, nhân dân Thừa Thiên Huế đã nêu cao tinh thần dân tộc, phát huy sức mạnh

của chủ nghĩa yêu nước, cùng hợp sức chống Pháp, bảo vệ độc lập dân tộc. Trước

sức ép của quân Pháp, triều đình Huế đồng ý kí hiệp ước Nhâm Tuất (1862), cắt ba

tỉnh miền Đông Nam kỳ (Gia Định, Biên Hòa, Định Tường) và quần đảo Côn Lôn

cho Pháp. Nhân dân Thừa Thiên Huế cũng như nhân dân cả nước phẫn nộ trước

hành động bạc nhược, nhượng đất của triều đình nhà Nguyễn. Từ ngày 18/8/1883

đến ngày 5/7/1885 nhân dân Thừa Thiên Huế và số ít vua quan, trung thần nghĩa

dũng của triều Nguyễn trực tiếp đối đầu với thực dân Pháp ngay trên Kinh đô Huế.

Tuy rất ngắn ngủi, song đây là giai đoạn kết thúc sự tồn vong của nền độc lập dân

tộc nói chung, của Thừa Thiên Huế nói riêng.

Tinh thần yêu nước và tự tôn dân tộc được tiếp nối và thể hiện rõ nét khi thực

dân Pháp xác lập ách cai trị và chính sách “khai hóa văn minh” trên lãnh thổ Việt

Nam. Bên cạnh những vua quan cam chịu làm tay sai vẫn còn có những bậc minh

quân, trung thần, đấng trượng phu có tinh thần dân tộc, đứng lên lãnh đạo các cuộc

đấu tranh. Tiêu biểu là vua Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân với các trung thần như

Nguyễn Tri Phương, Tôn Thất Thuyết, Thái Phiên, Trần Cao Vân cùng những

người Việt Nam có tri thức và tâm huyết muốn canh tân để tạo thực lực, đẩy mạnh

tự cường đưa đất nước thoát khỏi nạn ngoại xâm. Mặc dù không thể đối chọi với

sức mạnh của chủ nghĩa tư bản phương Tây, nhưng vua quan yêu nước triều

Nguyễn đã có những động thái phản kháng thực dân quyết liệt, khơi dậy phong trào

đấu tranh bảo vệ nền độc lập dân tộc khắp nơi.

Đến đầu thế kỉ XX, sự thất bại xu hướng cứu nước theo ý thức hệ phong kiến

đã mở đường cho những xu hướng cứu nước mới. Sự du nhập những tài liệu Tân

Page 80: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

76

văn, Tân thư, các ấn phẩm mang tư tưởng cải cách đã “lột xác” phong trào yêu

nước trong cả nước, đặc biệt là ở Kinh đô Huế. Đất Thừa Thiên Huế dấy lên

phong trào đòi cải cách thông qua nhiều hình thức vận động, diễn thuyết, cắt tóc

ngắn, mặc âu phục… Tham gia các phong trào này xuất hiện tầng lớp thanh niên,

học sinh, những nhà giáo, chí sĩ yêu nước. Sự giác ngộ và ý thức dân tộc của họ đã

được khơi dậy, làn sóng đấu tranh chống thực dân lan nhanh và ngày càng quyết

liệt hơn. Năm 1908, miền Trung nổ ra phong trào chống thuế, Thừa Thiên Huế trở

thành trung tâm của các cuộc kháng thuế khi nơi đây là sào huyệt của thực dân

Pháp và phong kiến tay sai, và cũng là nơi quần chúng nhân dân bị áp bức, bóc lột

nặng nề nhất.

Cảnh thực dân Pháp “giăng thép gai họa địa đồ nước Nam” đã khắc sâu trong

mỗi con người xứ Huế, nên từ vua quan yêu nước đến thứ dân đều căm phẫn, không

cam chịu làm nô lệ, không chịu mất nước và đã nêu cao tinh thần tự tôn dân tộc đấu

tranh ngoan cường chống ách xâm lược của thực dân Pháp. Đặc biệt, trong giai

đoạn này, Thừa Thiên Huế còn là nơi gắn với những hoạt động yêu nước đầu tiên

của Hồ Chí Minh thời niên thiếu.

Page 81: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

77

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Nghiên cứu ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự hình thành nhân

cách Hồ Chí Minh không thể không làm rõ lí luận về không gian văn hóa Huế và

nhân cách Hồ Chí Minh. Nhân cách Hồ Chí Minh là những phẩm chất, năng lực, lí

tưởng, ý chí kiên cường, trí tuệ sáng suốt và tầm nhìn xa của một nhà chính trị thiên

tài, có sức hấp dẫn, lôi cuốn mạnh mẽ đối với quần chúng, được thể hiện qua phong

cách, lối sống của Người. Nhân cách Hồ Chí Minh là biểu trưng sáng ngời về phẩm

chất và năng lực con người Việt Nam.

Từ kết quả phân tích, văn hóa Huế là tổng hòa các giá trị vật chất và tinh thần,

truyền thống, thị hiếu và phong cách sống, được tạo nên từ quá trình hoạt động thực

tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội, khẳng

định bản sắc riêng của vùng đất và con người Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế. Không

gian văn hóa Huế là vùng văn hóa rộng lớn, từ châu Ô, châu Lý cổ đến phía Nam

Quảng Trị và Bắc Quảng Nam, trong đó Huế đóng vai trò là trung tâm, với đặc

trưng về các giá trị văn hóa vật chất và tinh thần, truyền thống, thị hiếu và phong

cách sống, được tích lũy trong quá trình tương tác giữa con người với tự nhiên và xã

hội. Không gian văn hóa Huế được hình thành từ các yếu tố tự nhiên, văn hóa, xã

hội và các hoạt động thực tiễn lịch sử - xã hội của con người đã làm nên giá trị bản

sắc của văn hóa Huế. Chính trên không gian địa lí Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế, từ

xứ Đàng Trong cho đến Trung Bộ, từ thế kỉ XVI cho đến nay, văn hóa địa sinh thái

Huế, văn hóa chính trị xứ huế, văn hóa giáo dục xứ Huế, văn hóa nghệ thuật xứ

Huế, văn hóa tâm linh xứ Huế, văn hóa ứng xử xứ Huế… Tất cả đã làm nên một

vùng văn hóa đặc trưng của Việt Nam - không gian văn hóa Huế.

Page 82: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

78

Chương 3

ẢNH HƯỞNG CỦA KHÔNG GIAN VĂN HÓA HUẾ

ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH HỒ CHÍ MINH

Lí luận Mác - Lênin về chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ ra rằng con người là sản

phẩm của xã hội, chịu sự tác động của lịch sử xã hội; tư tưởng, ý thức cá nhân, nhân

cách con người cũng được hình thành và phát triển từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn

tại xã hội. Do đó, nhân cách Hồ Chí Minh cũng xuất phát và chịu sự ảnh hưởng từ

thực tiễn xã hội nhất định, là kết quả từ những tác động của điều kiện xã hội, trước

hết là điều kiện sống, giáo dục, học tập, không khí chính trị tư tưởng đương thời. Sự

phát triển nhân cách Hồ Chí Minh không chỉ là sản phẩm của trình độ phát triển xã

hội của quê hương, dân tộc, mà cả trình độ phát triển ở những nơi Người đã từng

sống, học tập và tranh đấu. Trong khoảng thời gian ở Huế, không gian văn hóa Huế

đã có những ảnh hưởng tích cực đến sự hình thành và phát triển nhân cách Hồ Chí

Minh, dẫn đến sự thay đổi về mặt nhận thức và hành động của Người trước những

yêu cầu đặt ra của thực tiễn xã hội.

3.1. MỘT SỐ YẾU TỐ CỦA KHÔNG GIAN VĂN HÓA HUẾ ẢNH HƯỚNG

ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH HỒ CHÍ MINH

3.1.1. Ảnh hưởng của văn hóa chính trị - xã hội

3.1.1.1. Ảnh hưởng của các biến động chính trị - xã hội

Những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, đời sống chính trị của Thừa Thiên

Huế vô cùng ngột ngạt, Huế là cao điểm của những diễn biến chính trị và mâu thuẫn

xã hội, “nơi thể hiện khá tập trung những mâu thuẫn gay gắt giữa nhân dân ta với

thực dân Pháp và phong kiến Nam triều. Trong triều vua quan chia rẽ, trung thần bị

hãm hại, gian thần lộng hành” [53, tr.43]. Lợi dụng tình hình rối ren, thực dân Pháp

cải tổ triều đình trở thành tổ chức bù nhìn làm tay sai cho chúng. Ngày 23/9/1897,

toàn quyền Đông Dương ra nghị định bỏ Hội đồng Phụ chính và Viện Cơ mật, lập

ra Hội đồng Thượng thư đặt dưới quyền điều khiển của Khâm sứ Trung Kỳ. Mọi

quyền hành trong nước đều do chính quyền “bảo hộ” nắm và khống chế. Ngay tại

kinh đô, triều đình phong kiến nhà Nguyễn vẫn tồn tại nhưng mất hết thực quyền.

Page 83: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

79

Cay đắng hơn, quyền cuối cùng của triều đình phong kiến nhà Nguyễn là quyền

quản trị tài sản và thu thuế cũng bị tước bỏ. Thực dân Pháp sử dụng triều đình Huế

như một công cụ, một chỗ dựa vững chắc cho những chính sách cai trị, bởi những

ông vua lí tưởng cho chế độ bảo hộ là những người làm trung gian tốt nhất cho việc

thi hành chính sách thuộc địa. Đối với Chính phủ Pháp, vua quan triều Nguyễn

chẳng khác nào là người công chức ăn lương, có nhiệm vụ truyền đạt lại tất cả mệnh

lệnh của chính phủ bảo hộ, chịu sự chi phối, trở thành bù nhìn hoặc làm tay sai cho

thực dân Pháp, có chăng cũng chỉ là sự phản kháng yếu ớt, đấu tranh bất thành của

một số vua quan yêu nước. Đánh giá về thái độ bạc nhược của triều đình phong

kiến, Hồ Chí Minh sau này viết:

Cuối thế kỉ XIX chủ nghĩa đế quốc Pháp xâm lược Việt Nam. Bọn vua

quan và phong kiến hèn nhát đầu hàng và cấu kết với bọn đế quốc tiếp

tục nô dịch nhân dân Việt Nam nhiều hơn, khiến nhân dân Việt Nam khổ

cực rên xiết. Nhưng đại bác của bọn đế quốc không thể át được tiếng nói

yêu nước của nhân dân ta… phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở

Việt Nam không ngừng phát triển, kẻ trước ngã xuống, người sau đứng

dậy. Nhưng tất cả những cuộc khởi nghĩa ấy đã bị dìm trong máu. Những

đám mây đen lại bao phủ đất nước Việt Nam [103, tr.29-30].

Tháng 12 năm 1919, khi nói chuyện với Ê-đua, Hồ Chí Minh khẳng định

những gì anh thấy lúc còn là cậu học sinh ở Huế “những người dân Trung Kỳ chỉ

đến Tòa Khâm với tay không để phản đối sưu thuế quá nặng, thế mà người ta đã nổ

súng để giải tán họ”. Hành động đó là sự “tàn bạo và vô nhân đạo” mà nguyên nhân

chính từ sự bạc nhược của các quan lại An Nam [64, tr.83].

Trong những ảnh hưởng của thực tiễn đời sống chính trị - xã hội Thừa Thiên

Huế những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX đến nhận thức yêu nước của Hồ Chí

Minh, không thể không kể đến sự biến Thất thủ Kinh đô. Năm 1897, toàn quyền Paul

Dourmer (1897-1902) bãi bỏ “chế độ bảo hộ” và thay bằng “chế độ trực trị”, thực dân

Pháp tổ chức lại bộ máy nhà nước, đo đạc đất đai để khai thác sức người sức của xứ

An Nam. Ngay trong kinh thành Huế, ven các con đường, hàng trăm nấm mồ tập thể

chôn cất những người bị thực dân Pháp giết hại trong biến cố 23 tháng 5 bị quật lên,

Page 84: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

80

lấy đất sửa sang hoặc làm đường sá. Xương trắng, sọ người chất cao thành đống

quanh khu vực nội thành, đặc biệt là Miếu Âm Hồn cạnh nhà ông Sắc trên đường

Đông Ba (112 Mai Thúc Loan, nay là 158). Sống trong kinh thành, thảm cảnh đó

khắc sâu vào tâm trí và đặt ra những câu hỏi lớn cho Hồ Chí Minh, nhưng thấm sâu

trong tâm thức của Người vẫn là âm hưởng bi thương của các bài văn tế. Trước nỗi

đau thương, mất mát của bao người con dân Việt yêu nước, Phan Bội Châu đã viết

bài Văn tế cô hồn ngày 23/5 với những câu như sau:

Lô nhô trẻ dìu già, ông nách cháu, chân còn đi, đầu chốc lìa vai!

Lao nhao con khóc mẹ, vợ kêu chồng, tiếng chưa ngớt, xương đà chất đống!

Oan uổng quá mấy ông trên võng, thình lình sét đánh, sống chẳng trọn đời.

Tội tình thay lũ bé trong nôi, cắc cớ sao sa, chết đà trắng bụng [12].

Mặc dù sự biến “Thất thủ Kinh đô” xảy ra chỉ trước 5 năm khi Hồ Chí Minh ra

đời, và 10 năm khi Người đặt chân đến Huế, nhưng những biến động lịch sử của đất

nước từ có chủ quyền trở thành thuộc địa, nỗi nhục mất nước, mất mát, tang thương

cùng với âm hưởng thống thiết của các bài văn tế đã để lại những dấu ấn khó phai

trong người thiếu niên mẫn cảm ấy. Sống trong khung cảnh tráng lệ, uy nghiêm của

chốn kinh kì, nhưng bao trùm lên tất cả là bầu không khí uất hận len lỏi trong cuộc

sống sinh hoạt hàng ngày của đồng bào xứ Huế. Hồ Chí Minh sớm cảm nhận được

tình cảm của đồng bào, xót thương cho những người bị nạn, căm giận cái ác của

bọn thực dân cướp nước và nuôi hận căm thù, khát vọng giải phóng dân tộc, giải

phóng đồng bào khỏi gông cùm nô lệ.

Bên cạnh đó, sau khi đặt ách đô hộ lên nước ta, thực dân Pháp ngang nhiên

thực hiện mưu đồ thống trị, thao túng quyền lực, biến cung vàng điện ngọc thành

chốn hỗn mang, xúc phạm lòng tự tôn dân tộc. Thực tiễn đen tối của triều đình Huế

dưới ách cai trị của thực dân Pháp đã được ghi lại:

Vào Thành ra cửa Đông: Xe ngựa chạy tứ tung.

Vào Thành ra cửa Tây: Sa gấm rực như mây.

Vào Thành ra cửa Nam: Áo mũ đỏ pha chàm.

Vào Thành ra cửa Bắc: Mưa gió đen hơn mực.

Dạo khắp trong với ngoài: Đàn địch vang tai trời.

Đau lòng có một người! Hỏi ai? Ai biết ai? [184, tr.50].

Page 85: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

81

Có thể nói, tất cả những gì diễn ra ở Huế từ sau ngày Kinh đô thất thủ in đậm

sâu trong tâm thức của Hồ Chí Minh. Sau này, khi trở thành nhà hoạt động cách

mạng, những dấu ấn tuổi thơ trên đất Huế, những khung hình biếm họa có giá trị

nhằm tố cáo tội ác dã man của thực dân Pháp đã được Người phản ánh qua các

trang viết, các tác phẩm, Người đã viết: “những người Pháp thực dân rất hung ác và

vô nhân đạo… Đối với bọn thực dân, tính mạng của người thuộc địa, da vàng hay

da đen cũng không đáng một xu” [147, tr.23].

Đối với Hồ Chí Minh, những ngày theo cha sống trong chốn quan trường triều

Nguyễn đã giúp Người hiểu hơn thực trạng xã hội Huế, thấy được sự bạc nhược của

triều đình phong kiến, sự thất bại của ý thức hệ phong kiến, cũng như bản chất và dã

tâm của thực dân Pháp - kẻ luôn rêu rao tư tưởng Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Cũng từ

thực tiễn đó đã nhen nhóm, nhân lên lòng căm thù thực dân, phong kiến trong tư

tưởng và nhận thức của Hồ Chí Minh; là động lực quan trọng vào việc dấn thân

tham gia phong trào chống thuế năm 1908 và quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước.

Sự dấn thân một cách táo bạo, không hề có tính chất phiêu lưu, mà hoàn toàn tự

giác, độc đáo và đầy sáng tạo. Sự tham gia của Hồ Chí Minh và nhóm học sinh là

một đòn đau, đánh trực tiếp vào chế độ thuộc địa của thực dân Pháp, những sản

phẩm do nền giáo dục Tây học đào tạo lại trực tiếp đứng về phía đồng bào chống lại

chúng, dùng vốn liếng Tiếng Pháp và kiến thức đã học được từ trường học để ủng

hộ những lời lẽ công kích chế độ thực dân, cũng như làm rõ những từ ngữ “mị dân”

của chính quyền thực dân.

3.1.1.2. Ảnh hưởng của truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái

Một trong giá trị văn hóa quý báu của Huế luôn được đề cao là truyền thống

đoàn kết, cộng đồng, tương thân tương ái của người Huế. Trải qua những thăng

trầm lịch sử, giá trị văn hóa này đã trở thành biểu trưng của văn hóa Huế.

Huế là vùng đất Kinh kì, chốn phồn hoa đô hội, nhưng không vì thế mà đời

sống nhân dân sung túc, an nhàn, trái lại là sự khó khăn về nhiều mặt, từ sự khắc

nghiệt của thiên nhiên cho đến chính sách cướp đoạt, thuế khóa của chính quyền

thực dân, phong kiến. Có lẽ trên đất nước Việt Nam, chưa có vùng đất Kinh kỳ nào

mà đời sống nhân dân cùng cực như Thừa Thiên, và cũng hiếm nơi nào mà tình

Page 86: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

82

đoàn kết, tương thân tương ái, trọng nghĩa trọng tình được thắt chặt như vùng đất

được mệnh danh là “hiếu khách” này.

Trong gần 10 năm gắn bó với mảnh đất Thừa Thiên (từ 1895 đến 1901 và từ

1906 đến 1909), cuộc đời tuổi trẻ của Hồ Chí Minh và gia đình của Người trải qua

nhiều lận đận, lắm nỗi truân chuyên từ việc học hành thi cử của cha, sự đau buồn

khi mẹ và em trai qua đời vì bệnh tật. Năm 1898, sau khi ông Nguyễn Sinh Sắc

hỏng khoa thi hội, điều kiện sống gia đình vô cùng khó khăn, khoản phụ cấp ít ỏi bị

cắt vì ông không còn là nho sinh của trường Quốc Tử Giám. Nhờ sự giúp đỡ của

một người bạn, ông Sắc xuống dạy học ở làng Dương Nỗ, huyện Phú Vang. Tại

đây, ông đồ Nghệ “văn hay chữ tốt” được bà con lối xóm gửi con đến học, cha con

ông cử Sắc được gia đình ông Nguyễn Sĩ Độ cùng bà con chăm sóc tận tình, chu

đáo. Trong những năm theo cha sống ở làng Dương Nỗ, tuổi ấu thơ của Hồ Chí

Minh đã cảm nhận được lối sống nghĩa tình, tương thân tương ái, đầy tình làng

nghĩa xóm, sự cưu mang giúp đỡ của đồng bào xứ Huế.

Cuối năm 1900, khi ông Sắc được cử đi làm giám thị kì thi Hương tại Thanh

Hóa, bà Loan lưu lại Huế và sinh hạ người con thứ tư (có tài liệu ghi là Nguyễn

Sinh Xin), lâm bệnh nặng và qua đời. Động lòng thương xót gia cảnh côi cút, nhiều

người đã hết lòng giúp đỡ mẹ con bà Loan, kể cả những thầy thuốc giỏi nhất trong

vùng. Nhưng thật chẳng lành, bà Loan lâm bệnh nặng đã qua đời vào trưa ngày 22

tháng Chạp năm Canh Tý (10/2/1901). Bà con lối xóm và những người bạn đồng

môn của ông Sắc đã hết lòng giúp đỡ, lo toan đám tang chu đáo, chôn cất thi hài của

bà Loan ở núi Ba Tầng. Sau khi bà Loan mất, Cung và em Xin được bà con lao

động nghèo cưu mang, đùm bọc, em Xin được đưa sang nhà Viên Điểu làm thợ thêu

bú nhờ. Nhưng vì bé Xin quá yếu, đã mất trong thời gian rất ngắn [181, tr.89]. Đó là

những trang sử rất bi thương của Hồ Chí Minh thời niên thiếu, nhưng nó thấm

đượm tình người của những cảnh đời cùng khổ.

Thời gian sống ở Huế, tiếp nối văn hóa xứ Nghệ, văn hóa Huế đã thấm sâu

đến nhận thức và hành động, hình thành tư tưởng yêu nước, góp phần quan trọng

định hình nhân cách của người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành. Cố Thủ

Page 87: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

83

tướng Phạm Văn Đồng viết: “Thời gian ở Huế là thời gian Nguyễn Tất Thành lớn

lên và bắt đầu đi học. Những năm tháng đó là thời gian cực kỳ quan trọng đối với sự

hình thành con người Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, thời gian hình thành một con

người lạ lùng” [172, tr.6]. Đúng vậy, thực tiễn 10 năm sống ở Huế, Nguyễn Tất

Thành được đùm bọc và cưu mang trong tình thương của bà con làng xóm, đặc biệt

từ khi gia đình của Người trải qua nhiều nỗi truân chuyên, khi việc học hành thi cử

của ông Nguyễn Sinh Sắc lận đận, bà Hoàng Thị Loan và em trai qua đời. Bên cạnh

một nếp nhà gia giáo, lối sống trọng nghĩa trọng tình, đoàn kết yêu thương, tương

thân tương ái của con người xứ Huế, đã hun đúc và hình thành nên nhân cách của

một con người mà tương lai làm rạng danh cả một dân tộc.

Nghĩa tình sâu nặng đó chính là chân giá trị thực để hình thành nên nhân cách,

đạo đức cao đẹp của Hồ Chí Minh sau này, đó là lòng nhân ái cao cả, bênh vực

những cảnh đời, con người cùng khổ và khát vọng đấu tranh giải phóng đồng bào.

Và cũng chính từ sự đùm bọc, thương yêu, giúp đỡ, chia sẻ của bà con làng xóm

trong những ngày tháng khó khăn, Thành đã đứng về phía “đồng bào” để bênh vực

họ, đấu tranh cùng với họ khi phong trào kháng thuế lên cao. Sau này, vào năm

1920, tại Đại hội Tours của Đảng Xã hội Pháp, khi trả lời câu hỏi của nữ đồng chí

Rô-dơ, Người nói: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả

những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”.

3.1.2. Ảnh hưởng của văn hóa giáo dục

Văn hóa và giáo dục là hai yếu tố rất quan trọng đối với sự hình thành và phát

triển nhân cách của con người. Nếu văn hóa với những giá trị, truyền thống là môi

trường góp phần định hình nhân cách con người, thì giáo dục lại giữ vai trò chủ đạo

cho sự phát triển nhân cách. Giáo dục bao gồm giáo dục xã hội, giáo dục nhà trường

và giáo dục gia đình, trong đó giáo dục nhà trường là quá trình tác động chuyên biệt

thông qua hoạt động dạy và học không chỉ hình thành cho những tri thức khoa học

căn bản, mà còn hình thành cho con người những phẩm chất, năng lực và trí tuệ.

Giáo dục xã hội thông qua sách báo, tài liệu, ấn phẩm, các hoạt động giao tiếp xã

hội là những tác động tích cực hỗ trợ giáo dục nhà trường trong sự hình thành và

phát triển nhân cách. Giáo dục gia đình tuy không được tổ chức có hệ thống như

Page 88: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

84

giáo dục nhà trường, nhưng tổ chức gia đình nền nếp, trật tự, gia phong, các mối

quan hệ tốt đẹp giữa các thành viên trong gia đình… là những tác động góp phần

tạo nên nền tảng ban đầu cho sự hình thành và phát triển nhân cách.

Với cách hiểu trên, trong không gian văn hóa Huế, văn hóa và giáo dục của

vùng đất Thừa Thiên Huế đã tác động rất lớn đến sự hình thành và phát triển nhân

cách Hồ Chí Minh. Chúng ta có thể thấy rằng trong thời kì ở Huế, Hồ Chí Minh

được thụ hưởng những giá trị tiêu biểu của nền giáo dục truyền thống, giáo dục Tây

học, giáo dục nhà trường và giáo dục gia đình, cũng như tiếp nhận những tư tưởng

cách mạng từ nhân cách cao đẹp của những trí thức Tây học yêu nước, đặc biệt là tư

tưởng và nhân cách của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc.

3.1.2.1. Ảnh hưởng của truyền thống giáo dục gia đình, đặc biệt là nhân

cách, phương pháp giáo dục của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc

Nhân cách Hồ Chí Minh được hình thành và phát triển với những ảnh hưởng

của yếu tố gia đình, của những bước thăng trầm, trôi nổi, của những sự kiện đánh

dấu những khúc quanh trong gia đình Người. Không có môi trường giáo dục gia

đình, mà trước hết của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, không có tinh thần yêu nước

được bồi dưỡng một cách nhất quán và đầy ý thức trách nhiệm để hình thành một ý

chí lớn thì Nguyễn Tất Thành không thể trở thành Hồ Chí Minh [84, tr.16].

Sống ở Huế trong một thời gian khá dài, gia đình cụ phó bảng Nguyễn Sinh

Sắc cũng hòa vào nếp sống, truyền thống văn hóa của con người xứ Huế. Không

những vậy, ông Sắc luôn ý thức giáo dục con cái từ nền tảng Nho giáo “tu thân, tề

gia, trị quốc, bình thiên hạ”, do đó văn hóa gia đình và nền tảng giáo dục gia đình

của xứ Huế không khác lạ với cụ Phó bảng. Những năm tháng ở Huế, cụ Phó bảng

rất quan tâm đến việc hình thành cho con một tư tưởng, nhận thức thật đúng đắn và

sâu sắc về thời cuộc. Ông còn răn dạy các con “Vật dĩ quan gia vi ngô phong dạng”

(nghĩa là đừng lấy phong cách nhà quan làm phong cách nhà mình) [64, tr.29-30].

Khi nhậm chức ở Huế, Nguyễn Sinh Sắc đã hiện thực hóa điều ông và biết bao sĩ

phu yêu nước đương thời hằng nung nấu, đó là quyết định cho các con theo học

trường Pháp - Việt tỉnh Thừa Thiên với mục đích “muốn đánh Pháp thì phải hiểu

Pháp, muốn biết Pháp thì phải học chữ Pháp”, và muốn con mình có thể đi tìm câu

Page 89: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

85

trả lời cho những từ mà cậu đã hỏi “Tự do, Bình đẳng, Bác ái”. Để hiểu những từ

đó, cũng như hiểu được cách đánh đuổi giặc Pháp chỉ có cách là phải hiểu văn hóa

Pháp. Đây là một diễn biến quan trọng trong quá trình định hình tư tưởng và con

đường cứu nước của Hồ Chí Minh.

Năm 1906, sau khi để tang mẹ vợ, Nguyễn Sinh Sắc vào Huế nhậm chức Thừa

biện Bộ lễ và ông có điều kiện va chạm trực tiếp với quan trường thực dân... Lúc

này, ông mới thực sự hiểu nhân tình thế thái, hiểu sự thối nát của quan trường, hiểu

cả những khó khăn, phức tạp và sự bế tắc của sự nghiệp cứu nước. Ít nhiều ông đã

bộc lộ tâm trạng bi quan, tiêu cực, thất vọng, chán chường... Quan điểm “quan

trường thị nô lệ trung chi nô lệ hựu nô lệ” (quan trường là nô lệ trong đám nô lệ

càng nô lệ hơn) và tư tưởng làm quan cốt sao giữ được cái tiết sạch giá trong, cái gì

có thể giúp đỡ được dân chúng thì làm, chớ không phải làm quan để vơ vét của dân

làm giàu cho bản thân, đã khắc sâu trong tâm khảm Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó,

“thái độ bất hợp tác, ngầm chống đối thực dân, yêu nước của thân phụ có ảnh hưởng

tốt đến nhân cách của anh” [63, tr.30]. Sức ảnh hưởng của Nguyễn Sinh Sắc đến sự

hình thành nhân cách và chí hướng cách mạng của Hồ Chí Minh còn xuất phát từ

luận thuyết “Ái dân” có nguồn gốc từ học thuyết chính trị Khổng Mạnh, mà ông

hằng bao tâm huyết. Tháng 4/1946, cuốn tiểu sử Thân thế sự nghiệp của nhà cách

mệnh Nguyễn Ái Quốc của tác giả có bút danh Việt Nam viết:

Ông cụ thân sinh ra ông (tức Nguyễn Ái Quốc) là một nhà nho đã đỗ Phó

bảng và làm tri huyện. Nhưng chẳng phải là một nhà nho hủ lậu, cố chấp.

Mà là một nhà nho có tư tưởng, có tâm huyết, đã vì cái tư cách tự lập, tự

cường, và vì đã ngấm ngầm tham dự vào cuộc khởi nghĩa Cần Vương

của đảng Văn Thân mà bị cách chức. Nhà nho ấy đã căn cứ vào tình

trạng thực tế trong nước mà tự làm nên một cách mệnh trong làng nho.

Thấy vua Hàm Nghi bị bắt, thấy triều đình và triều thần chỉ còn là tôi tớ

của giặc thực dân, Cụ Bảng nhà ta liền phủ nhận cái thuyết trung quân

của nhà nho và cho trung quân không phải là ái quốc. Ái quốc là yêu

nước. Mà nước là gì? Nước là dân. Vậy ái quốc phải có nghĩa là ái dân.

Từ đây, cụ thường đem cái thuyết đó mà giác ngộ các bạn bè và các

Page 90: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

86

thanh niên đến thụ nghiệp. Cụ hô hào cải cách và duy tân, làm một đồng

chí với cụ Phan Châu Trinh ở Quảng Nam chủ trương lấy dân làm hậu

thuẫn cho tất cả các phong trào cải cách chính trị xã hội.

Nền giáo dục ấy đã gây nên một xu hướng, một quan niệm chính trị rõ

rệt và nhắc nhủ cho ông Nguyễn Ái Quốc ngay từ khi còn thơ và ngay từ

ngày còn học chữ Hán… Đến khi được ra trường học, làm quen với các

tri thức mới của phương Tây, ông (Nguyễn) Ái Quốc càng thấy cái

thuyết của cha mình có giá trị, càng thấy cái quan niệm chính trị của

mình là hợp với trào lưu. [22, tr.131-132].

Nét nổi bật trong tư tưởng Nguyễn Sinh Sắc thời kì này là tư tưởng thân dân -

nội dung cơ bản tiến bộ của tư tưởng yêu nước, nhưng ở ông, tư tưởng thân dân

được bộc lộ ở những khía cạnh cụ thể, gần gũi như: đồng cảm với nỗi khổ của dân,

cưu mang giúp đỡ dân nghèo... Lòng thương đó có gốc rễ sâu xa từ trong cuộc đời

của ông: từ nghèo khổ mà đi lên, chịu ơn sâu nghĩa nặng của dân... (sự nuôi dưỡng

của cụ Đường, sự đùm bọc của bà con lao động ở Huế...) vì vậy khi đỗ đạt, ông từ

chối lễ vinh quy, không khao mừng đậu Phó bảng mà chỉ mời trầu nước, số tiền

xã cắt cho làm cỗ khao ông đem chia cho người nghèo làm vốn sinh nhai. Khi vào

Huế nhậm chức, ông chỉ giữ lại một ít ruộng cho con gái, số còn lại ông đem bán

lấy tiền giúp các gia đình có người đi phu Cửa Rào.

Lòng thương yêu nhân dân, sự tỉnh táo trong cách nhìn thời cuộc của ông Phó

bảng Nguyễn Sinh Sắc đã có ảnh hưởng sâu sắc đến Hồ Chí Minh trong thời kì này.

Như tác giả Việt Nam về sau đã viết, cái thuyết “Nước là dân, yêu nước là yêu

dân... chủ trương lấy dân làm hậu thuẫn cho tất cả các phong trào cải cách chính trị

hay xã hội” của cụ Bảng Sắc đã thấm vào Hồ Chí Minh từ lúc còn thơ, và khi đã

“làm quen với các tri thức mới của phương Tây thì Nguyễn Ái Quốc càng thấy cái

thuyết của cha mình có giá trị, càng thấy cái quan niệm chính trị của mình là hợp

với trào lưu” tức là hợp với lí luận Mác - Lênin về vai trò quyết định của quần

chúng nhân dân trong lịch sử [22, tr.136].

Mặc dù ra đời từ học thuyết chính trị Khổng Mạnh, nhưng có thể khẳng định

rằng thuyết “Ái dân” được Nguyễn Sinh Sắc phát triển là một bước sự tiến bộ lúc

Page 91: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

87

bấy giờ. Theo nhận định của Louis Arnoux, thì Nguyễn Sinh Sắc “là một nhà cách

mạng theo kiểu riêng, chống Pháp không công khai mà lặng lẽ...” [189]. Ông Sắc

đã làm một cuộc cách mạng “đảo lộn” trật tự của mối quan hệ thứ nhất trong

“Tam cương” của Nho giáo. Ông đưa ra một giá trị mới “ái quốc, ái dân”. Cụ

Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc là một nhân cách lớn, từ nhân cách đó đã tỏa ra những

luồng ảnh hưởng và tác động đến Hồ Chí Minh vì theo K.D. Usinsky chỉ có nhân

cách mới có thể tác động đến sự phát triển và quy định của nhân cách, chỉ có tính

cách mới có thể làm ra tính cách mà thôi. Do đó, trả lời câu hỏi “Hồ Chí Minh có

thể và đã tiếp nhận được những gì từ tấm gương của người cha kính yêu để hình

thành nên nhân cách và chí hướng cách mạng của mình?”, chúng ta có thể kết luận

rằng: Trước hết, đó là tấm gương ý chí kiên cường, quyết tâm vượt qua mọi gian

khổ, khó khăn để đạt cho được mục tiêu của cụ Phó bảng. Nguyễn Sinh Sắc là một

điển hình của ý chí vượt khó, tấm gương hiếu học, khổ học. Ý chí vươn lên đỉnh

cao của kiến thức, nghị lực phi thường, quyết tâm sắt đá của ông để đạt được mục

tiêu đã trở thành tấm gương sáng cho con cái noi theo. Sau này ý chí cứu dân, cứu

nước sôi sục, thường trực, thiết tha, không nhụt chí, không nản lòng của Nguyễn

Ái Quốc chính là sự kế tục ý chí của thân phụ mình, có điều ở cường độ mãnh liệt

hơn, với mục tiêu cao cả hơn.

Tấm gương ý chí gắn liền với tấm gương lao động, Nguyễn Sinh Sắc từ thuở

nhỏ đã phải cần cù lao động. Lúc về làm rể cụ Hoàng Xuân Đường không phải ngồi

không mà học, mà vừa làm vừa học. Đỗ Phó Bảng rồi ông vẫn cuốc đất làm vườn

cùng với con cái. Đó là điểm khác biệt giữa Nguyễn Sinh Sắc với số lớn nhà nho

đương thời. Nếu không có tấm gương và sự giáo dục đó của thân phụ mình, Hồ Chí

Minh không thể khẳng khái, giơ hai bàn tay ra nói với bạn: “Chúng ta sẽ làm bất cứ

việc gì để sống và để đi” [22, tr.140-141].

Trong mạch nguồn hợp thành động lực tác động đến Hồ Chí Minh, nhân cách

và tư tưởng yêu nước thương dân của Nguyễn Sinh Sắc cùng với nền giáo dục gia

đình, đã định hình cho Hồ Chí Minh cách sống, cách suy nghĩ và hành động; tác

động rất lớn đến sự hình thành, phát triển tư tưởng yêu nước và con đường cứu

nước của Người sau này.

Page 92: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

88

3.1.2.2. Ảnh hưởng của giáo dục truyền thống và giáo dục Tây học

- Ảnh hưởng của giáo dục truyền thống

Trong số các nhân tố góp phần hình thành nhân cách và đạo đức cao đẹp của

Hồ Chí Minh, phải kể đến sức ảnh hưởng của giáo dục truyền thống Việt Nam. Nếu

ở quê hương Nghệ Tĩnh vun đắp cho Hồ Chí Minh lòng yêu nước nồng nhiệt, thì ở

Huế, Người tiếp tục thu vào mình những tinh hoa, những ưu tư dạt dào, những mơ

ước khát khao, những căm uất giận hờn, những quyết tâm sắt đá của bao kiếp sống,

bao nỗi niềm đã được thể hiện trong giáo dục truyền thống Việt Nam.

Trong giáo dục truyền thống Việt Nam, văn học giữ vị trí và vai trò rất quan

trọng. Hồ Chí Minh là một người rất am hiểu và thấu tường văn học, bởi đất Lam

Hồng, xứ Huế đều là những cái nôi của văn học, mà dòng chủ lưu lớn nhất là văn

học yêu nước. Cố giáo sư Trần Văn Giàu cho rằng: “chủ nghĩa yêu nước trong văn

chương Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, đạt đến mức hùng biện, cảm động

nhất, dạt dào nhất với cuộc kháng chiến Cần Vương, với cuộc vận động Duy Tân,

Quang Phục” [54, tr.121]. Những chí sĩ, trí thức yêu nước lúc này cho rằng chính

việc học quốc văn và quốc sử là cách hay nhất để vun trồng chủ nghĩa yêu nước, tự

hào dân tộc. Và cũng nhờ thấu hiểu quốc văn, quốc sử, Hồ Chí Minh ngày càng

thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Tác giả Hoàng Chương trong Bác Hồ

với nghệ thuật sân khấu tại Hội thảo quốc gia UNESCO về Hồ Chí Minh đã viết:

“Thời thơ ấu, Bác đã từng tắm mình trong cái biển dân ca Nghệ Tĩnh, trong cái nôi

ca nhạc tài tử ở Huế, Trị Thiên. Đặc biệt, Bác không chỉ làm quen, tiếp cận với

người nghệ sĩ tuồng lỗi lạc - quan thượng thư Đào Tấn - ở Vinh, ở Huế mà còn đến

tận quê hương của Đào Tấn để xem và góp ý” [54, tr.120].

Đối với lịch sử, gần 10 năm ở Huế, Hồ Chí Minh đã thông thạo chữ Hán, chữ

Nôm, nghe, đọc và biết pho sử hào hùng của dân tộc. Ngoài giờ học ở trường,

Người còn mượn sách ở Lầu tàng thư (nơi lưu trữ sách và các loại văn thư của triều

Nguyễn) về đọc. Trong các thư viên của các cụ túc Nho và trong các thư viện của

Huế lúc bấy giờ, Người có điều kiện tiếp xúc với quốc sử như: Đại Nam quốc sử

diễn ca, Cương mục, Thực lục, Liệt truyện, Vân đài loại ngữ, Địa dư chí, Nghệ An

chí, Gia Định chí, Đồ Bàn thành ký, Hưng Hóa thập lục châu ký, Phủ biên tạp lục,

Page 93: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

89

Hoàng Lê nhất thống chí… [54, tr.119]. Chính nhờ tiếp xúc trực tiếp, đọc và suy

ngẫm quốc sử, Hồ Chí Minh hiểu hơn về truyền thống yêu nước, truyền thống đấu

tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam suốt mấy nghìn năm.

Ngoài ra, trong giáo dục truyền thống Việt Nam còn tồn tại một nhân tố quan

trọng là triết học, nó bao gồm: tư tưởng, tín ngưỡng và thuần phong mĩ tục... Dẫu

triết học Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX không thể hiện rõ nét, nhưng tư

tưởng yêu nước vẫn là dòng chủ lưu chính trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Ở Huế,

chính văn hóa tâm linh, đặc biệt là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thờ cúng những

người có công với nước là một thế giới quan đặc trưng, là một yếu tố tinh thần ảnh

hưởng lớn đến tâm tưởng Hồ Chí Minh, góp phần quan trọng cho sự hình thành và

phát triển nhân cách và tư tưởng yêu nước Hồ Chí Minh.

- Ảnh hưởng của giáo dục Tây học

Để thực thi sứ mệnh của mình, thực dân Pháp thi hành chính sách giáo dục

cực kỳ phản động, một nền giáo dục ngu dân được lập nên. Trường học được mở

hạn chế, chủ yếu là trường Pháp Việt dạy cả chữ Hán, chữ Quốc ngữ và chữ Pháp.

Mặc dù mang danh “giáo dục cải cách” để “khai hóa văn minh” cho người An Nam,

nhưng kì thực thực dân Pháp phong tỏa, không cho nhân dân Việt Nam tiếp xúc với

thế giới bên ngoài, kể cả việc xem sách báo, “không phải chỉ sách của những nhà

văn mới, mà cả Russeau và Montesquieu cũng bị cấm” [92, tr.461], “thực dân Pháp

lại cố tâm hủy bỏ Hán học mà chúng thấy là nguy hiểm cho sự thống trị của chúng,

vì chúng biết rằng Hán học có thể đưa vào An Nam những tư tưởng tiến bộ phương

Tây thông qua Trung Quốc và Nhật Bản” [92, tr.423]. Thâm độc hơn, để ngăn cho

việc mở rộng vốn hiểu biết của nhân dân An Nam, “chính phủ đóng cửa các trường

làng, biến trường học thành chuồng ngựa cho các quan nhà binh, đuổi học trò và bỏ

tù thầy giáo” [92, tr.121]. Để hạn chế ảnh hưởng mới từ Trung Quốc và Nhật Bản

vào đầu thế kỉ XX, thực dân Pháp thực hiện cuộc cải cách học chế ở Trung kỳ và

Bắc kỳ nhằm dụ dỗ tầng lớp thanh niên cầu tiến bộ.

Về nội dung giáo dục, thực dân Pháp nhồi nhét cho lớp lớp học sinh người

Việt những “giá trị ảo”, những “lí lẽ ngọt ngào” của nền “văn minh khai hóa”, hoặc

là những nội dung xuyên tạc lịch sử, truyền thống dân tộc Việt Nam. Điều này được

thể hiện ở bản Quy chế chung về ngành giáo dục ở Đông Dương, cụ thể như:

Page 94: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

90

Học sinh 9 tuổi phải học: “Công cuộc đóng chiếm xứ An Nam của người

Pháp; người Pháp đã đóng chiếm xứ An Nam từ bao giờ và đã đóng

chiếm như thế nào…”.

Học sinh 10 tuổi phải học: “Triều Nguyễn; Trịnh - Nguyễn phân tranh;

Cuộc khởi loạn của Tây Sơn; Cuộc chiếm đóng xứ Nam Kỳ của người

Pháp; nền bảo hộ của người Pháp ở Trung Kỳ và ở Bắc Kỳ…”.

Học sinh 11 tuổi phải học: “Lịch sử nước Pháp; Sự nghiệp của nền Đệ

Tam Cộng hòa Pháp; Lòng trung thành của nhân dân bản xứ các thuộc

địa của Pháp, đặc biệt là của Đông Dương; Bổn phận với nước Pháp

(phải biết yêu kính nước Pháp; phải biết ơn nước Pháp; phải cúc cung tận

tụy với nước Pháp; phải trung thành với nước Pháp)…”.

Học sinh trường Trung học (hệ 4 năm) phải học: “Sự nghiệp của nước

Pháp ở Đông Dương; Tổ chức bộ máy cai trị của người Pháp ở Việt

Nam…” [128, tr.261-262].

Những bài học trong chương trình giáo dục của chính quyền thực dân thật sự

không có giá trị khai hóa văn minh, thay vào đó là giáo dục cho học sinh người Việt

“lòng biết ơn”, “lòng trung thành”, “yêu kính”, “tận tụy” với nước Pháp. Đó là một

âm mưu lớn, rất nguy hiểm và cực kì phản động, khác hẳn với bản chất tốt đẹp mà

chúng rêu rao là “Tự do, Bình đẳng, Bác ái”. Trường học lập ra không phải để giáo

dục cho thanh niên Việt Nam một nền học vấn tốt đẹp và chân thực, mở mang trí

tuệ và phát triển tư tưởng, mà trái lại càng làm cho họ bị đầu độc thêm. Trường học

được lập nên chỉ để “đào tạo tùy phái, thông ngôn và viên chức nhỏ đủ số cần thiết

phục vụ cho bọn xâm lược - người ta đã gieo rắc một nền giáo dục đồi bại xảo trá và

nguy hiểm hơn sự dốt nát nữa” [92, tr.424]. Phê phán tính chất hạn chế của nền giáo

dục thực dân được thực thi ở Thừa Thiên Huế, chí sĩ Phan Bội Châu viết:

Trường Quốc Học đặt tên Pháp - Việt

Dạy người Nam biết nói tiếng Tây

Còn như trăm thứ nghề hay

Binh cơ, điện hóa không thầy dạy không [20, tr.113].

Page 95: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

91

Trong thời kì thứ hai đến Huế (1906-1909), Hồ Chí Minh được cha cho theo

học trường Quốc Học Huế, được học tập và gặp gỡ với nhiều trí thức, giáo viên có

tinh thần yêu nước như thầy Hoàng Thông, thầy Lê Văn Miến. Bên cạnh những thầy

giáo có tinh thần dân tộc, Nguyễn Tất Thành còn tiếp xúc với những thầy giáo mang

tâm địa thực dân, những bài giảng nhồi sọ có tính chất phản động. Chúng lăng mạ,

gán ép những từ thô tục như “cochon” (đồ con lợn), “sale race” (giống bẩn thỉu) cho

học sinh người Việt, chà đạp lên phẩm giá con người, sỉ nhục dân tộc và giống nòi

Việt Nam. Chính hành động “phi văn hóa” của nền giáo dục thực dân, của nền “văn

minh thượng đẳng” đã ảnh hưởng rất lớn đến lớp học sinh người Việt, khơi dậy

trong họ tinh thần dân tộc, không cam chịu “nhận người Gaulois làm tổ tiên”.

“Nguyễn Tất Thành không muốn bản thân mình và dân tộc mình cứ bị đánh lừa mãi

bởi những từ trống rỗng, bởi những dối trá về văn hóa, văn minh” [63, tr.115].

Hành động của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc khi cho con vào học trường

Pháp - Việt Đông Ba và Quốc Học Huế là điều kiện tốt để Hồ Chí Minh, một mặt

chứng kiến thực trạng xã hội ở kinh đô, mặt khác tiếp xúc với nền giáo dục mới,

văn minh mới. Điều quan trọng là ở Huế, Nguyễn Tất Thành thấy được kẻ miệng

nói “Tự do, Bình đẳng, Bác ái” lại chính là kẻ đê hèn, bóc lột, ức hiếp dân ta đủ

điều [25, tr.31]. Do vậy, khi các trào lưu yêu nước ở Huế dâng cao, tinh thần dân

tộc và lòng yêu nước thiết tha của Hồ Chí Minh có dịp bùng phát mạnh mẽ.

3.1.2.3. Ảnh hưởng của văn minh phương Tây và các trào lưu tư tưởng mới

- Ảnh hưởng của văn minh phương Tây

Xem xét ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đối với sự hình thành nhân

cách Hồ Chí Minh không thể bỏ qua những ảnh hưởng của các luồng tư tưởng dân

chủ, tiến bộ của văn minh phương Tây, đặc biệt là văn hóa Pháp và các luồng tư

tưởng khai sáng khi chúng được các thế hệ trí thức yêu nước tiếp nhận. Thừa Thiên

Huế những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX là trung tâm văn hóa - chính trị của

cả nước, là trung điểm của nhiều trí thức mang trong mình tư tưởng dân chủ, cải

cách; là trung tâm du nhập văn minh phương Tây và các luồng tư tưởng mới.

Các nhà nghiên cứu khi xem xét ảnh hưởng văn minh phương Tây đến lớp trí

thức Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, cụ thể là nền giáo dục và văn hóa

Page 96: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

92

Pháp, đều cho rằng bên cạnh mục tiêu thực dân, là cả một nền văn minh. Chính nền

văn minh ấy kích thích tinh thần dân tộc của biết bao trí thức tiến bộ, thanh niên yêu

nước vì họ nhận ra chân giá trị của nền văn hóa Pháp lại phục vụ cho chính sự

nghiệp giải phóng dân tộc. Chính thực dân Pháp cũng nói con đường đi sang nước

Pháp là con đường chống lại nước Pháp. Vì thế, bản chất nền văn minh lại trái

ngược với mục tiêu thực dân. Hai tố chất ấy lại được tồn tại trong một môi trường

hun đúc tinh thần yêu nước, tinh thần giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh.

Tiêu biểu nhất trong nền văn minh phương Tây lúc bấy giờ là tư tưởng “Tự

do, Bình đẳng, Bác ái” (Liberté, Égalité, Fraternité) của cách mạng Pháp. Tư tưởng

đó thu hút sự chú ý của Hồ Chí Minh ngay khi Người được vào học tại trường Pháp

- Việt Vinh. Đối với Anh, đó là những điều hoàn toàn mới mẻ, khác lạ với những

điều Anh đã học trong sách thánh hiền, vì vậy, anh nảy ra ý muốn “tìm xem những

gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy” [64, tr.41]. Tuy nhiên, chưa hết năm học, Hồ Chí

Minh phải vào kinh đô Huế nhân dịp cha nhậm chức. Đến thời kì ở Huế, Hồ Chí

Minh mới có đủ điều kiện hiểu được ý nghĩa của nó khi đối chiếu tư tưởng đó với

hành động của thực dân Pháp đối với nhân dân Thừa Thiên. Tại Huế, trong mỗi lớp

học, trên những bức tường chính của mỗi lớp đều có dòng chữ ra đời từ cách mạng

Pháp, đó là: “La Republique Francaise” (Nước Cộng hòa Pháp), “Une âme saine

dans un corps sain” (Một tâm hồn trong sáng trong một cơ thể tráng kiện),

“Liberté, Egalité, Fraternité” (Tự do, Bình đẳng, Bác ái). Chính từ ý nghĩa tốt đẹp

của các từ ấy, đã thực sự cuốn hút Hồ Chí Minh về ý tưởng tốt đẹp của nền văn

minh Pháp mà hằng ngày được nghe qua các bài giảng, nhưng đồng thời cũng kích

thích sự suy nghĩ, tìm tòi về mặt trái của nó đã và đang diễn ra ngoài xã hội. Và

cũng chính từ những dòng chữ này đã tác động vào tâm thức mẫn cảm của Hồ Chí

Minh. Do đó, Người sớm nảy sinh những phản ứng tâm lí, những biểu cảm hoài

nghi để thôi thúc, nuôi ý chí về một cuộc hành trình khảo nghiệm chân giá trị “Tự

do, Bình đẳng, Bác ái”.

Có thể khẳng định rằng, sự tiếp cận nêu trên đã dựa trên những chất liệu đầy

đủ, sự chín muồi trong nhận thức, là yếu tố quyết định đến sự hình thành hoài bão

cho cuộc hành trình sang phương Tây. Sau này, Người kể lại:

Page 97: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

93

Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do,

Bình đẳng, Bác ái… Và từ thủa ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn

minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy.

Nhưng trong những trường học cho người bản xứ, bọn Pháp dạy người

như con vẹt. Chúng giấu không cho người nước tôi xem sách báo. Không

phải chỉ sách của các nhà văn mới, mà cả Rút-xô và cả Mông-te-xki-ơ

cũng bị cấm. Vậy thì phải làm thế nào bây giờ? Tôi quyết định tìm cách

đi ra nước ngoài [92, tr.461].

- Ảnh hưởng của các trào lưu tư tưởng mới qua Tân văn, Tân thư

Với chính sách hạn chế tối đa việc lưu hành báo chí nước ngoài và xuất bản

báo trong nước, thực dân Pháp ban hành sắc lệnh năm 1898. Tuy nhiên, các tài liệu

Tân văn, Tân thư của Trung Quốc và Nhật Bản bằng nhiều con đường, hình thức

(chủ yếu là bí mật) xâm nhập vào Việt Nam và cả đất Thừa Thiên Huế. Những ấn

phẩm có tính dân chủ, chứa đựng những tư tưởng dân chủ, tiến bộ của Montesquieu

(Tinh thần pháp luật), Russeau (Khế ước xã hội), Lương Khải Siêu, Khang Hữu

Vi… đã vạch ra định hướng xây dựng xã hội công dân và nhà nước pháp quyền. Do

đó, những tác phẩm này cuốn hút tầng lớp trí thức Việt Nam yêu nước, làm thay đổi

suy nghĩ và hành động những con người có tinh thần duy tân, đổi mới.

Cho đến nay, chưa có tài liệu nào chứng minh Hồ Chí Minh đã đọc các

nguyên tác của Montesquieu, Russeau thời kì ở Huế. Tuy nhiên, không một ai phủ

nhận Nguyễn Tất Thành là người ham học hỏi, thích tìm tòi, khám phá. Khi được

học lớp dự bị (cours préparatoire) tại Trường tiểu học Pháp - Việt tỉnh Thừa Thiên,

Hồ Chí Minh đã tích cực mượn sách ở Lầu tàng thư về đọc. Và cũng chính vì say

mê những giá trị mới, Hồ Chí Minh tích cực tìm kiếm, tiếp xúc với tư tưởng dân

chủ tư sản bằng nhiều con đường khác nhau như: tiếp cận với những thầy giáo

người Pháp tiến bộ ở Trường tiểu học Pháp - Việt tỉnh Thừa Thiên và Trường Quốc

Học Huế; những người thầy giáo người Việt có tinh thần yêu nước như thầy Hoàng

Thông, trí thức Tây học như thầy Lê Văn Miến. Chính nhờ ảnh hưởng của những

thầy giáo tân học và sự tiếp xúc báo chí tiến bộ mà “ý muốn đi sang phương Tây để

tìm hiểu tình hình các nước và học hỏi thành tựu văn minh nhân loại đã từng bước

Page 98: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

94

lớn dần lên trong tâm trí của Nguyễn Tất Thành” [65, tr.46]. Sự tiếp xúc của Thành

còn qua phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, các sách báo Tân văn, Tân thư từ

Trung Quốc và Nhật Bản; hoặc qua những người lính lê dương làm việc cho Pháp,

đúng như lời Người khẳng định với phóng viên Gi-rô-van-ni Giéc-ma-nét-tô (báo

L’Unità của Đảng Cộng sản Italia):

Trước đây tôi có đọc một số tờ báo phát hành sang nước tôi, một vài tờ

có tính chống đối ở An Nam, có những người lính lê dương do

Poăngcarê (Poincaré) gửi sang để cải huấn. Những người lính lê dương

này đọc đủ thứ, họ là những kẻ chống đối về bản chất. Họ cho tôi đọc các

báo Pháp. Vì thế tôi nảy sinh ra ý muốn sang xem “mẫu quốc” ra sao và

tôi đã tới Pari [92, tr.465].

Từ sự phân tích trên, có thể thấy rằng văn hóa Pháp và các trào lưu tư tưởng

mới ảnh hưởng rất lớn đến Hồ Chí Minh, góp phần làm chuyển biến về mặt tư

tưởng và nhận thức của người thanh niên giàu nhiệt huyết, có tinh thần yêu nước.

Nhờ vốn văn hóa Pháp và tri thức duy tân từ Tân thư, Tân văn, Hồ Chí Minh nhận

rõ hơn bản chất, dã tâm của kẻ thù xâm lược, biết được bài học về sức mạnh đoàn

kết trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do.

3.1.3. Ảnh hưởng của các phong trào đấu tranh của vua quan, trí thức

yêu nước, các nhà hoạt động cách mạng và phong trào chống thuế

Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã hình

thành nên một bảng giá trị tinh thần truyền thống quý báu, trong đó chủ nghĩa yêu

nước là dòng chủ lưu xuyên suốt lịch sử dân tộc. Trong lịch sử dựng nước và giữ

nước, dân tộc Việt Nam phải đương đầu với sự nghiệt ngã của thiên nhiên, gồng

mình trước những thế lực ngoại xâm hùng mạnh để giành và giữ nền độc lập.

Những thử thách khắc nghiệt đó đã “sản sinh ra một dân tộc có ý thức sâu sắc về

bản sắc dân tộc mình và sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc, chống ngoại xâm” [195, tr.11].

Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, lịch sử của cá nhân hoàn toàn không thể tách rời,

mà luôn bị quy định bởi lịch sử của các tiền bối hoặc cùng thời với họ. Do đó, khi

tìm hiểu những nhân vật, phong trào cách mạng có ảnh hưởng đến sự hình thành

nhân cách Hồ Chí Minh, chúng ta không thể không nhắc đến tinh thần đấu tranh của

Page 99: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

95

các vị vua quan, sĩ phu yêu nước, các nhà hoạt động cách mạng nhiệt thành. Thừa

Thiên Huế những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX cũng mạnh mẽ bởi các phong

trào đấu tranh của những vua quan, chí sĩ cách mạng có tinh thần yêu nước. Do đó,

những phong trào yêu nước của vùng đất này ảnh hưởng rất lớn đến những thanh

niên giàu lòng yêu nước, trong đó có Hồ Chí Minh.

3.1.3.1. Ảnh hưởng của tinh thần dân tộc của vua, quan yêu nước

Nhân cách cao đẹp và chí hướng cứu nước của Hồ Chí Minh là sản phẩm được

hun đúc từ những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, của quê hương xứ

Nghệ và con người xứ Huế; được tôi luyện qua thực tiễn học tập, rèn luyện và đấu

tranh không ngừng nghỉ của Người. Ở Huế gần 10 năm, lớp lớp tấm gương trung

liệt và chí hướng cách mạng của những con người có tinh thần dân tộc như vua

Thành Thái và Duy Tân đã góp phần định hình nhân cách cách mạng và ý chí cứu

nước của Hồ Chí Minh.

Tấm gương về tinh thần dân tộc của vua Thành Thái và Duy Tân thực sự giúp

Hồ Chí Minh kiên định lí tưởng, giữ vững nhân cách con người Việt Nam trước

mưu đồ và dã tâm xâm lược của thực dân Pháp. Năm 1888, vua Hàm Nghi bị bắt và

đày sang Algeria, cũng là lúc vua Thành Thái lên ngôi. Vua Thành Thái vốn sẵn

thông minh và nhờ sống chung với nhân dân lao động, chia sẻ gian khổ với những

người nghèo khổ trong cảnh nước mất nhà tan. Cho nên khi làm vua, ông sớm có

những mối ưu tư về quốc sự và rất ham đọc sách Tân thư. Nhờ vậy, vua Thành Thái

có nhiều dự kiến cải cách đưa nước nhà đến giàu mạnh, nhân dân đến ấm no, tuy

nhiên hành động của vị vua trẻ này đều bị thực dân Pháp hết sức ngăn cấm.

Vua Thành Thái (1879-1954) là người rất ghét bọn quan lại xu nịnh. Đối với

Pháp, nhà vua có tư tưởng chống Pháp quyết liệt. Có tài liệu cho rằng nhà vua đã

toan bí mật sang Trung Quốc nhưng mới đi đến Thanh Hóa đã bị thực dân Pháp

ngăn lại. Lại có ý kiến cho rằng ông đã đồng tình giúp đỡ tạo điều kiện cho Cường

Để xuất dương theo Phan Bội Châu sang Nhật. Cũng có ý kiến cho rằng vua Thành

Thái còn để ý đến cả các loại vũ khí, đã giao cho họa sĩ Lê Văn Miến vẽ các kiểu

súng bộ binh để trang bị cho các đội nữ binh,... Những thông tin ấy cần phải được

xác minh, nhưng đó là một cơ sở để người ta tin vào tinh thần chống Pháp của nhà

Page 100: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

96

vua. Khi thực dân Pháp biết vua Thành Thái bất cộng tác, có ý đồ chờ cơ hội để

giành độc lập, chúng tìm mọi cách phế truất ông. Chúng phao tin nhà vua bị điên,

ép ông phải thoái vị nhường ngôi. Còn nếu muốn làm vua thì phải ký vào tờ tuyên

cáo, tuyên bố trước muôn dân xin lỗi chính phủ bảo hộ vì có âm mưu chống lại

Pháp. Tờ tuyên cáo được viên khâm sứ Pháp Levecque viết sẵn, nhưng trước mặt

tên Khâm sứ cũng như trước sự có mặt của một số cận thần, vua Thành Thái đã ném

tờ dự thảo tuyên cáo mà nói với các quan lại cận thần rằng:

Muôn dân nô lệ từng đàn

Vui chi bệ ngọc, ngai vàng riêng ta

Hỡi ơi mất nước tan nhà

Cứu thù quốc sĩ ấy là nợ chung.

Ngày 12/9/1907 vua Thành Thái bị thực dân Pháp bắt đi đày. Hình ảnh vị vua

trẻ tuổi chí lớn, yêu nước thương dân bị thực dân Pháp đày biệt xứ tác động rất lớn

đến ý chí đấu tranh của Hồ Chí Minh. Đó là tấm gương sáng ngời về tinh thần dân

tộc mãi soi sáng cho Nguyễn Tất Thành những năm tháng về sau.

Tiếp sau vua Thành Thái, vua Duy Tân (1900-1945) là người đã có những

ngôn từ, cử chỉ làm cho bao người phải khâm phục về lòng yêu nước, thương dân

và lòng tự tôn dân tộc. Ngày 05/9/1907, Vĩnh San lên ngôi lấy niên hiệu là Duy

Tân, và chỉ một ngày sau lê đăng cơ, Duy Tân đã đổi khác, ông dần khẳng định thái

độ bất hợp tác với Pháp. Mặc dù chỉ mới lên bảy nhưng Duy Tân đã để lại dấu ấn

rất đặc biệt trong nhận thức Hồ Chí Minh. Những năm phong trào chống thuế của

nhân dân Thừa Thiên sôi sục, thực dân Pháp đưa vua ra để hiểu dụ dân giải tán,

“vua mới nhìn thấy dân đã buồn bã quay trở về và hôm sau yêu cầu đem ba phần

năm số lương tháng của mình để giúp dân nghèo khổ” [53, tr.46]. Duy Tân luôn băn

khoăn với câu hỏi lớn: “Khi tay bẩn thì lấy nước mà rửa, khi nước bẩn thì lấy chi

mà rửa?”. Chí lớn của vị vua trẻ được thể hiện rất rõ khi luận giải rằng “nước bẩn

thì phải tìm cách trừ khử những chất ngoại lai lẫn lộn vào trong đó”. “Nước bẩn”

tức “Tổ quốc đang bị thực dân Pháp xâm lược, giày xéo, bóc lột”, “ta phải tìm cách

trừ khử chúng đi thì dân mới có thể tiến lên ấm no giàu mạnh được”.

Page 101: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

97

Mặc dù trong cảnh “cá chậu chim lồng” nhưng những hành động yêu nước

thương dân, tinh thần dân tộc và chí lớn của vua Thành Thái và Duy Tân đã tác

động rất lớn đến Hồ Chí Minh. Sự tác động đó đến từ nhiều con đường, từ những

bài giảng của các thầy giáo yêu nước, từ sự giảng giải của cha, đặc biệt là những

cuộc luận bàn chính sự của ông cử Sắc với những sĩ phu yêu nước. Những vị vua

trẻ tuổi, Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân, thực sự là những tấm gương sống về

tinh thần dân tộc, soi sáng chí lớn của Nguyễn Tất Thành. Sau này, Hồ Chí Minh

khẳng định “chúng ta tiếp tục sự nghiệp bỏ dở của các vị tiền bối Hàm Nghi,

Thành Thái, Duy Tân, là để đánh đuổi thực dân Pháp để giành độc lập cho dân

tộc, cho Tổ quốc” [135, tr.239].

3.1.3.2. Ảnh hưởng từ tinh thần đấu tranh của trí thức yêu nước

Tiếp nối thời kì ở quê hương Nghệ - Tĩnh, những năm tháng ở Huế, Hồ Chí

Minh không chỉ tiếp nhận tư tưởng yêu nước thương dân của cụ thân sinh mình, mà

Người còn tiếp nhận tinh thần yêu nước, nhân cách cao đẹp của những người thầy

giáo - trí thức yêu nước chân chính khi được cha cho vào học các Trường tiểu học

Pháp - Việt tỉnh Thừa Thiên và Trường Quốc Học Huế, đó là thầy Hoàng Thông và

thầy Lê Văn Miến.

Trong thời gian học ở trường Pháp Việt - Đông Ba, Hồ Chí Minh không chỉ

được học Hán văn với thầy Hoàng Thông, mà còn được thầy chỉ dạy những bài học

về cách cư xử, lối sống, nhân phẩm và danh dự của một người Việt Nam mất nước.

Thầy Hoàng Thông đã soạn cuốn sách “Tự trị thượng sách” để giáo dục thanh niên

học sinh, vin vào những câu thể hiện tinh thần cách mạng trong cuốn này, chính

quyền thực dân tống giam thầy ở Lao Thừa Phủ. Chính thầy là người đã giới thiệu

Hồ Chí Minh tham gia làm liên lạc cho phong trào Đông Du của cụ Phan Bội Châu

(1908). Thầy còn dạy cho Thành bài học về lòng thương yêu con người, yêu dân tộc

mình và “hãy để những giọt nước mắt ấy khóc cho dân, cho nước” [148, tr.137].

Lời dạy của thầy giữa muôn vàn nguy khó của thời cuộc như ngọn đèn khai tâm Hồ

Chí Minh. Đó là bài học củng cố thêm ý chí đấu tranh cho đồng bào, quê hương, đất

nước; là động lực để Thành thực hiện chuyến hành trình tìm đường cứu nước.

Page 102: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

98

Tháng 9 năm 1908, Hồ Chí Minh vào lớp Trung đẳng trường Quốc Học Huế

và được học với thầy Lê Văn Miến (1873-1943). Thầy là một tấm gương yêu nước

chân chính của một trí thức Tây học, với tài năng sư phạm và nhân cách cao đẹp,

thầy đã góp phần đào tạo rất nhiều thế hệ học sinh “vừa hồng vừa chuyên” cho đất

nước. Một trong những người học sinh đó, có lẽ chính thầy Miến cũng không hề

đoán định được, sau này trở thành người thầy và lãnh tụ của cách mạng Việt Nam -

Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thầy Lê Văn Miến là một người tinh thông Hán học, thấm

nhuần những giá trị văn hóa Pháp đã để lại nhiều dấu ấn đặc biệt đối với Hồ Chí

Minh. Mỗi lần dạy thầy thường dành lại mười phút để kể chuyện văn minh Pháp

cho học sinh nghe. Thầy kể rằng:

Ở bên Pháp cũng có người nghèo, đêm đêm các cô gái Pháp nghèo phải

ra vườn Luých-xăm-bua làm tiền để kiếm sống, ông già bà lão không nơi

nương tựa chống gậy đi dọc theo các lề đường phố sục sạo các thùng rác

tìm kiếm thứ gì còn ăn được thì ăn… Trong các thư viện, các bảo tàng

của Pháp có nhiều sách vở quý. Đặc biệt là người đọc có thể đến thư viện

mượn đọc những cuốn sách nói về Cách mạng Pháp và Cách mạng thế

giới. Người Pháp ở Pháp khác người Pháp ở Việt Nam. Người Pháp ở

Pháp từ ông Viện hàn lâm xuống cho đến người dân lao động đều rất quý

trọng người Việt Nam miễn là người Việt Nam có tư cách, biết tự trọng,

làm việc giỏi, học hành chăm chỉ… [53, tr.53], [184, tr.153-154].

Những chuyện thầy Lê Văn Miến kể cho học sinh nghe đã ảnh hưởng rất lớn

đến Hồ Chí Minh. Đặc biệt, chính thầy Miến đã khai mở cho Người “bài học yêu

nước”: “Không phải bất cứ ai học chữ Tây rồi cũng ra làm tay sai cho Pháp” [120,

tr.87], “nước mất mà không biết là bất trí, biết mà không chiến đấu cứu nước là bất

trung, chiến đấu mà không quên mình vì nước là bất dũng” [148, tr.134]. Lời răn

dạy của thầy đã giúp Hồ Chí Minh nhận ra những hạn chế về con đường cứu nước

và phương pháp cách mạng của các bậc cha chú, để Anh lựa chọn con đường đi của

riêng mình - sang phương Tây tìm hiểu rồi trở về giúp đồng bào mình.

Tấm gương sáng về nhân cách và tinh thần dân tộc của thầy Hoàng Thông và

thầy Lê Văn Miến thực sự đã khai mở cho Hồ Chí Minh những bài học quý báu về

Page 103: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

99

phẩm giá và nhân cách của con người Việt Nam trước nạn ngoại xâm, phải luôn

quên mình vì độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho đồng bào và phải luôn chiến đấu

cho quê hương, đất nước.

3.1.3.3. Ảnh hưởng của tinh thần dân tộc và phong trào yêu nước của các

nhà hoạt động cách mạng

Xã hội Thừa Thiên Huế những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX dưới ách

cai trị của thực dân Pháp tồn tại quá nhiều áp bức bất công. Những mâu thuẫn xã

hội tích tụ đã có dịp bùng phát trong thời gian Hồ Chí Minh đang theo học ở Huế,

và người thanh niên giàu nghĩa khí ấy đã thụ cảm truyền thống yêu nước, tự tôn dân

tộc của nhân dân Thừa Thiên Huế, mà biểu hiện rõ nhất là phong trào Cần Vương,

phong trào Đông Du, phong trào Duy Tân, đặc biệt là phong trào kháng thuế năm

1908. Nhờ sống trong hiện thực xã hội ấy, Hồ Chí Minh đã có chuyển biến đáng kể

từ “nhận thức yêu nước” đến “hành động yêu nước”.

Trước hết, chuỗi hành động yêu nước của phong trào Cần Vương đã ảnh

hưởng sâu sắc đến Hồ Chí Minh. Phong trào Cần Vương là phong trào cách mạng

thu hút các quan lại trong triều đình, văn thân và đông đảo sĩ phu yêu nước lúc bấy

giờ, thực chất đã trở thành một hệ thống các cuộc khởi nghĩa vũ trang trên khắp cả

nước hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, kéo dài từ năm 1885 cho

đến năm 1895. Phong trào Cần Vương là bước ngoặt có ý nghĩa to lớn trong công

cuộc kháng Pháp. Mặc dù thất bại bi tráng, song phong trào này lại mở ra một thời

kì đánh Pháp của các nhà yêu nước tiêu biểu như Phan Đình Phùng, Lê Trung Định,

Đinh Công Tráng, Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa Thám… Nó tác động mạnh mẽ

đến lòng yêu nước của nhân dân ta từ nhà vua (Thành Thái, Duy Tân) đến sĩ phu

(Thái Phiên, Trần Cao Vân, Phan Bội Châu…) và nêu gương cho nhiều thế hệ yêu

nước sau này như Nguyễn Thái Học, Phạm Hồng Thái, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc

Kháng, Phan Chu Trinh cùng bao chiến sĩ cách mạng khác mà lí tưởng của họ đã

thăng hoa từ vì vua sang vì đất nước, đồng bào. Mặc dù lúc này Hồ Chí Minh là

một cậu bé 5 tuổi, nhưng dư âm của phong trào Cần Vương và tấm gương trung liệt

của các chí sĩ yêu nước đã ảnh hưởng đến tâm hồn và khối óc Người. Sự thất bại

của phong trào về sau đã giúp Anh nhận thấy các phong trào yêu nước theo ý thức

Page 104: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

100

hệ phong kiến “không có khả năng vạch ra giải pháp đấu tranh phù hợp với hoàn

cảnh lịch sử và xu thế phát triển của thời đại” [64, tr.27].

Bên cạnh đó, tinh thần yêu nước và xu hướng cứu nước của Phan Bội Châu và

Phan Châu Trinh cũng là những nhân tố quan trọng giúp Hồ Chí Minh đánh giá và

lựa chọn đúng con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Năm 1906, Hồ Chí Minh

theo cha vào Huế lần thứ hai. Lúc này, ở Thừa Thiên Huế xảy ra nhiều biến động

chính trị lớn, các phong trào yêu nước lên cao như: Phan Bội Châu với Duy Tân hội

và phong trào Đông Du do ông khởi xướng lan rộng trong giới sĩ phu và tầng lớp

thanh niên; phong trào Duy Tân, chống thuế bùng phát mạnh mẽ ở Trung Kỳ;

trường Đông Kinh nghĩa thục mở cửa tại Hà Nội truyền bá nhiều tư tưởng mới, cổ

động cho phong trào cải cách, dân chủ, duy tân đất nước… Những biến động đó đã

tác động không nhỏ đến không khí chính trị ở Huế, trong đó, phong trào Đông Du

của Phan Bội Châu cuốn hút biết bao trái tim yêu nước từ Bắc chí Nam. Thơ văn

yêu nước của ông được hàng triệu người truyền miệng nhau, cổ vũ mạnh mẽ tinh

thần đoàn kết, quyết tâm cứu nước cứu nhà:

Nghìn, muôn, ức, triệu người chung góp

Xây dựng nên cơ nghiệp nước nhà

Người dân ta, của dân ta

Dân là dân nước, nước là nước dân [109, tr.188].

Ông kêu gọi mọi người trong nước đứng dậy đấu tranh:

Hòn máu uất chất quanh đầy ruột

Anh em ơi xin tuốt gươm ra

Có trời, có đất, có ta

Đồng tâm như thế mới là đồng tâm [109, tr.199].

Phan Bội Châu tiêu biểu cho xu hướng bạo động, muốn dựa vào sự giúp đỡ

của nước ngoài (Nhật Bản) để đánh đuổi thực dân Pháp. Chủ trương đó được hiện

thực hóa bằng phong trào Đông Du, gây ảnh hưởng sâu rộng trong cả nước, đặc biệt

là ở Trung Kỳ. Tuy nhiên, đến tháng 12 năm 1909, theo yêu cầu của chính quyền

thực dân Pháp ở Đông Dương, chính phủ Nhật ra lệnh trục xuất Phan Bội Châu,

Page 105: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

101

Cường Để và tất cả học sinh Việt Nam ra khỏi nước Nhật. Phong trào Đông Du tan

rã [63, tr.144].

Cũng trong khoảng thời gian này, ở Huế còn có một xu hướng cứu nước mới

được hình thành, đó là xu hướng cải cách ôn hòa, đứng đầu là Phan Châu Trinh.

Ông dựa vào Pháp thực hiện cải lương, phát động phong trào cải cách, duy tân rộng

lớn ở Trung Kỳ trên nhiều mặt về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Thế nhưng, sau

vụ đầu độc lính Pháp ở Hà Nội (27/6/1908), cụ Phan Châu Trinh bị kết án tử hình

(sau được giảm án và được đưa sang cư trú ở Pháp năm 1911), Trần Quý Cáp,

Nguyễn Hằng Chi bị xử chém, hàng ngàn chí sĩ bị cầm tù và bị đày biệt xứ. Bên

cạnh đó, trường Đông Kinh nghĩa thục cũng sớm bị đóng cửa. Phan Châu Trinh và

xu hướng cầu Pháp để duy tân đất nước nhanh chóng bị dập tắt. Gắn với những hoạt

động yêu nước của cụ Phan Châu Trinh, phong trào Duy Tân với khẩu hiệu là

“Chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh” đã cuốn hút bao trái tim yêu nước đầy

nhiệt huyết. Khẩu hiệu lí tưởng của phong trào đã hấp dẫn rất nhiều học sinh, thanh

niên, chí sĩ yêu nước và tiến bộ ở Kinh thành Huế tham gia, trong đó có Hồ Chí

Minh. Họ muốn đứng lên xóa bỏ tất cả những gì mà họ cho là lạc hậu, cũ kỹ để theo

kịp văn minh các nước Châu Âu, bởi theo họ “yêu nước phải duy tân, đổi mới”. Vì

thế, họ đổ ra đường, ra chợ vận động đàn ông cắt tóc ngắn, cạo răng đen, mặc áo

ngắn theo kiểu người phương Tây. Ngay cả vua Thành Thái cũng cởi hoàng bào

mặc bành tô, đội mũ phớt, cầm gậy hèo đi trên đường như những người Âu.

Mặc dù thất bại, nhưng cuộc vận động Duy Tân ở Trung Kỳ đã khẳng định

sức thu hút mạnh mẽ của tư tưởng duy tân, có ảnh hưởng lớn đến sự giác ngộ và

tinh thần đấu tranh của nhân dân đòi cải cách đời sống về mọi mặt. Bên cạnh đó,

phong trào cho thấy vai trò lãnh đạo của những sĩ phu tiến bộ. Làn sóng đấu tranh

theo phong trào Duy Tân thực sự đã tác động rất lớn đến Hồ Chí Minh. Người tham

gia phong trào với tất cả nhiệt huyết yêu nước đã nung nấu bấy lâu nay, Người hô

hào “hợp quần”, “ái quốc”, cùng với thanh niên học sinh Huế vừa đi vừa phổ biến

bài thơ “Húi hề, húi hề”, vừa cầm kéo ra những chỗ đông người cắt tóc ngắn, cổ

động xây dựng nếp sống mới cho nhân dân.

Page 106: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

102

Có thể khẳng định rằng, nếu hai xu hướng cách mạng của Phan Bội Châu và

Phan Châu Trinh ảnh hưởng đến nhận thức Hồ Chí Minh về con đường cứu nước,

thì phong trào Duy Tân lại ảnh hưởng đến Người bằng cả nhận thức và hành động

cứu nước. Sự tham gia trực tiếp vào phong trào Duy Tân là bước ngoặt quan trọng,

đánh dấu sự chuyển biến tư tưởng, chín muồi trong nhận thức, bộc phát qua hành

động của Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, sự thất bại của phong trào này cũng cho Thành

thấy rõ “đối với cuộc vận động duy tân, không thể thực hiện được, một khi chưa

đánh đuổi thực dân Pháp” [53, tr.60]. Nhận thức này của Hồ Chí Minh có bước đột

phá, khác hẳn, thậm chí là vượt qua những hạn chế của xu hướng cứu nước của

Phan Chu Trinh lúc bấy giờ.

3.1.3.4. Ảnh hưởng của phong trào chống thuế ở Thừa Thiên Huế

Đầu thế kỉ XX, phong trào Duy Tân được khởi xướng và bùng phát mạnh mẽ

mà đỉnh cao là cuộc nổi dậy của nhân dân kháng sưu thuế năm Mậu Thân (1908) ở

Trung kỳ. Đồng bào Thừa Thiên Huế với khẩu hiệu “Nếu cứ ngồi mà đợi chết. Chi

bằng vùng dậy mà tìm lối sống!” đã đứng lên đấu tranh mạnh mẽ trước chính sách

cai trị hà khắc của thực dân Pháp. Trong khoảng thời gian này, Hồ Chí Minh dù mới

chỉ là một cậu học sinh vừa tốt nghiệp tiểu học nhưng Anh đã “dấn thân” vào cuộc

đấu tranh cùng với đồng bào, tham gia vào phong trào một cách tích cực trong cả

thái độ lẫn hành động chống Pháp. Trước đó, Thành và anh trai cũng có “thái độ

công khai đối nghịch (với thực dân Pháp) làm cho Hiệu trưởng của trường nhiều lần

phải cảnh cáo nghiêm khắc” [184, tr.250-251]. Anh còn làm công tác bí mật, làm

nhiệm vụ liên lạc với các sĩ phu yêu nước. Sau này, tác giả Trần Dân Tiên nhắc lại:

“Người thiếu niên ấy đã sớm hiểu biết và rất đau xót trước cảnh thống khổ của đồng

bào. Lúc bấy giờ, anh đã có chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào. Anh đã

tham gia công tác bí mật, nhận công tác liên lạc” [147 tr.12].

Sự kiện Hồ Chí Minh tham gia phong trào chống thuế cùng với đồng bào

Thừa Thiên năm 1908 có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong những năm tháng Người

ở Huế. Đó là những hành động cụ thể, sinh động, biểu hiện sự chuyển biến mạnh

mẽ từ tinh thần, tình cảm yêu nước lên đến hành động yêu nước. Sự gan dạ, kiên

trung, tự tin của Hồ Chí Minh được bộc lộ và thể hiện rõ trong hành động Người “tổ

Page 107: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

103

chức”, “cầm đầu” một nhóm học sinh trường Quốc Học hòa vào dòng người biểu

tình kháng thuế để động viên và thực hiện sứ mệnh “thông ngôn” cho đoàn biểu

tình. Qua việc tham gia tích cực phong trào đấu tranh chống thuế của nhân dân

Thừa Thiên, Hồ Chí Minh đã thực hiện được chuỗi hành động cách mạng cụ thể và

tích lũy thêm cho mình những kinh nghiệm, hình thành rõ nét hơn sự cứng rắn, kiên

cường, đầu óc tổ chức.

Phong trào chống thuế năm 1908 bị đàn áp đẫm máu, một mặt giúp Hồ Chí

Minh nhìn rõ hơn bản chất của thực dân Pháp và sức quật khởi của nhân dân, mặt

khác cũng bộc lộ sự bế tắc trong giải pháp cách mạng ở nước ta lúc bấy giờ. Chính

ở cao điểm này khiến Hồ Chí Minh dứt khoát rời Huế, thực hiện một quyết định đã

sớm được hình thành - sang phương Tây để tìm đường cứu nước. Như vậy, việc ra

nước ngoài, đến nước Pháp của Hồ Chí Minh xét về độ tuổi, trình độ hiểu biết, về

tính hợp lí của thời gian phải được hình thành rõ rệt tại Kinh đô Huế. Hay nói đúng

hơn, Huế là điểm khởi đầu cho hành trình tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh.

Chỉ có ở Kinh đô Huế, nơi hội tụ những trí thức Tây học, những bậc thầy có tinh

thần dân tộc nhiệt huyết, nơi gặp gỡ nền giáo dục tân học Pháp - Việt đã đào tạo ra

một thế hệ học sinh yêu nước, khát khao độc lập dân tộc, dân chủ, tự do mà sự xuất

hiện của Hồ Chí Minh trong sự kiện chống thuế của nhân dân Thừa Thiên Huế năm

1908 là một hiện tượng tiêu biểu, là hệ quả trực tiếp của nền giáo dục đương thời.

Sự thất bại của các phong trào yêu nước ở Thừa Thiên Huế vào những năm

cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX đã giúp Hồ Chí Minh thấy rõ hạn chế về lí luận dẫn

đường của các cuộc đấu tranh theo tư tưởng yêu nước truyền thống. Phong trào Cần

Vương do các sĩ phu phong kiến lãnh đạo vẫn còn gắn chủ nghĩa yêu nước với

quyền lợi của “một dòng họ”, “một triều đại phong kiến”; những phong trào do các

sĩ phu yêu nước lãnh đạo như Duy Tân, Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục và các

phong trào do các trí thức tiểu tư sản yêu nước lãnh đạo đều chưa vượt khỏi giới

hạn của tư tưởng dân chủ tư sản kiểu cũ, chưa bắt kịp yêu cầu của thời đại mới. Tựu

trung lại, nguyên nhân thất bại chính yếu của các phong trào này là chưa vươn đến

được tính chất hiện đại của lí luận yêu nước, chưa tập hợp quần chúng nhân dân vào

những tổ chức cách mạng, chưa có đường lối ngang tầm thời đại, phù hợp với thực

Page 108: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

104

tiễn cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ. Sự thất bại đó đòi hỏi cần phải thay đổi tư

duy yêu nước, nghĩa là cần phải tìm tòi, hình thành lí luận mới về con đường,

phương pháp cứu dân cứu nước phù hợp với điều kiện lịch sử mới. Bài học thất bại

đó đã tạo điều kiện thúc đẩy sự hình thành tư duy yêu nước mới, cho sự biến

chuyển về chất từ tư duy yêu nước truyền thống sang tư duy yêu nước hiện đại, mà

Hồ Chí Minh như là dấu gạch nối quan trọng.

Tóm lại, tư tưởng tiến bộ và nhân cách cao đẹp của Nguyễn Sinh Sắc, cùng

với những biến đổi của xã hội Thừa Thiên Huế những năm đầu thế kỉ XX, những

giá trị của nền giáo dục Quốc học và Tây học và đặc biệt là dấu ấn của các phong

trào cách mạng của những nhân sĩ, trí thức yêu nước đã làm cho tư tưởng yêu nước,

lòng căm thù giặc và nhân cách Hồ Chí Minh phát triển đến mức phải đi đến hành

động cách mạng cụ thể.

3.2. BIỂU HIỆN CỦA NHÂN CÁCH HỒ CHÍ MINH TỪ ẢNH HƯỞNG CỦA

KHÔNG GIAN VĂN HÓA HUẾ

Một số nhà khoa học, nhà nghiên cứu cho rằng trong khoảng thời gian từ năm

1901 đến 1906, nhân cách của Hồ Chí Minh được hình thành từ ảnh hưởng của các

bậc cha chú thông qua mối quan hệ giữa cha với các sĩ phu trong vùng. Trong Làng

sen năm ấy, học giả Nguyễn Yên Thy quả quyết rằng:

Khoảng thời gian quan trọng nhất để hình thành nhân cách Hồ Chí Minh

là khoảng từ năm 1901 đến 1906. Thời điểm đó Bác ở độ tuổi thiếu niên,

nhạy cảm, theo cha từ kinh thành Huế về quê. Tuổi thơ được sống trong

khung cảnh ấm áp tình người như vậy chắc chắn sẽ có những tác động

lớn. Những người có ảnh hưởng quan trọng trong thời kì này phải kể đến

thầy dạy học của Bác thuở nhỏ là cử nhân Vương Thúc Quý, một người

nổi tiếng văn hay chữ đẹp và hoạt động yêu nước ở Nghệ An. Thứ hai là

ông Giải San (Phan Bội Châu), một người bạn thân mà Phó bảng Nguyễn

Sinh Sắc rất tâm đắc về tấm lòng yêu nước thương dân [146].

Liệu rằng nhận định trên của Nguyễn Yên Thy có xác đáng? Chúng tôi nghĩ

rằng sự quả quyết “chắc chắn” về “khoảng thời gian quan trọng nhất” nêu trên rất

Page 109: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

105

cảm tính, thiếu cơ sở khoa học, bởi lẽ khi nghiên cứu tiểu sử Hồ Chí Minh, chúng ta

thấy rằng Người sống ở quê hương trong 2 thời kì, từ năm 1890 đến năm 1895 và từ

năm 1901 đến năm 1905. Trong hai thời kì này, Nguyễn Sinh Cung sinh ra và lớn

lên trong sự yêu thương, chăm sóc của ông bà, cha mẹ và anh chị, trong truyền

thống tốt đẹp của quê hương Nghệ - Tĩnh. Nguyễn Sinh Cung được học chữ Hán

với thầy Hoàng Phan Quỳnh ở làng Hữu Biệt, thầy Vương Thúc Quý ở làng Kim

Liên, thầy Trần Thân ở làng Ngọc Đình. Khảo cứu Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử

và Hồ Chí Minh tiểu sử, chúng ta chưa thấy được những hoạt động thực tiễn cách

mạng có chủ đích thể hiện sự chín chắn trong suy nghĩ và nhận thức của Nguyễn

Sinh Cung. Có chăng là sự kiện vào tháng 9 năm 1905, Nguyễn Tất Thành được cha

xin cho theo học lớp dự bị (préparatoire) Trường tiểu học Pháp - bản xứ ở thành phố

Vinh. Chính tại trường tiểu học này, Nguyễn Tất Thành lần đầu tiên nghe khẩu hiệu

TỰ DO - BÌNH ĐẲNG - BÁC ÁI [64, tr.22].

Ngược lại, cho đến ngày ra đi tìm đường cứu nước, Huế là nơi Hồ Chí Minh

sống lâu nhất (1895-1901 và 1906-1909). Những năm trưởng thành của Người là

những năm phong trào yêu nước Việt Nam diễn ra nhiều sự kiện trọng đại. Là một

thanh niên ham hiểu biết, thích suy nghĩ, tìm tòi, những sự kiện đó không thể không

tác động đến tầm nhìn, suy nghĩ và tư tưởng của Người.

Trong hai thời kì ở Huế, đặc biệt là thời kì thứ hai, nhân cách, tư tưởng yêu

nước và chí hướng cách mạng của Hồ Chí Minh thực sự được hình thành và phát

triển rõ nét. Người “đã biết phân biệt những giá trị và xu hướng trong đời sống

xã hội, đã bắt đầu tự định được điều ham muốn của mình trước khi vào đời” [53,

tr.34]. Trong thời kì ở Huế, Hồ Chí Minh hội tụ đủ các điều kiện về tuổi tác, chín

muồi trong nhận thức, tiếp thu tri thức của nền giáo dục truyền thống và giáo dục

Tây học, hòa mình vào các phong trào đấu tranh, dấn thân vào con đường hoạt

động cách mạng bằng hành động “tham gia vào phong trào cắt tóc ngắn” [65,

tr.45], “tham gia cuộc biểu tình chống thuế của nông dân Thừa Thiên” [64,

tr.28]. Đây cũng là thời kì Hồ Chí Minh “được nghe kể về những hành động của

những ông vua yêu nước như Thành Thái, Duy Tân và những bàn luận về con

đường cứu nước trong các sĩ phu yêu nước” [64, tr.30]; là thời kì Người được

Page 110: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

106

học với những người thầy, những trí thức Tây học, có tư tưởng tiến bộ, yêu nước

như Hoàng Thông, Lê Văn Miến [65, tr.45]; và cũng là thời kì chứng kiến rõ

nhất, sống động nhất “phần đông người lao động chịu chung số phận đau khổ và

tủi nhục”. Do đó, cái ý chí “đuổi thực dân Pháp để giải phóng đồng bào” càng

được nung nấu.

Những luận cứ khoa học trên giúp chúng ta nhận thấy rằng, nhân cách, lí

tưởng cách mạng và tư tưởng yêu nước Hồ Chí Minh thực sự được hình thành và

phát triển trong giai đoạn Người sinh sống ở Huế. Vì thực tiễn gần mười năm sống

ở Huế, đặc biệt là thời kì thứ 2 (1906 - 1909), không gian văn hóa Huế đã ảnh

hưởng mạnh mẽ đến nhận thức và hun đúc hoài bão cứu nước cho Hồ Chí Minh.

Đúng như lời của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết: “Huế, Kinh đô triều

Nguyễn lúc bấy giờ, cũng là một môi trường đã có những ảnh hưởng tốt đẹp đối với

tuổi niên thiếu của Nguyễn Tất Thành” [46, tr.11]. Những năm tháng ở Huế, Hồ Chí

Minh đã “tận mắt nhìn thấy tội ác của bọn thực dân và thái độ ươn hèn, bạc nhược

của bọn quan lại Nam triều. Tất cả đã thôi thúc Anh phải đi tìm một con đường mới

để cứu dân, cứu nước” [67, tr.25]. Học giả David Helberstam hoàn toàn có lí khi cho

rằng: “Tư tưởng yêu nước của Hồ được tăng cường ở Huế” [189, tr.1], bởi ở Huế,

“Hồ Chí Minh khi bắt đầu lớn lên ở cái nôi của phong trào yêu nước… bằng sự học

tập của bản thân, sự gần gũi của quần chúng lao động và nhờ sự tác động của phong

trào chống Pháp năm 1908, bắt đầu hoạt động cách mạng” [20, tr.213].

Mười năm ở Huế, (1895-1901 và 1906-1909), không gian văn hóa Huế đã góp

phần quan trọng định hình những giá trị, tâm hồn cao đẹp, ngấm ngầm một cách vô

thức hình thành nên nhân cách, chí lớn của Hồ Chí Minh. Theo đó, thực tiễn xã hội,

đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, cùng với những mâu thuẫn của xã hội

đương thời; truyền thống yêu nước, tự tôn dân tộc; các phong trào yêu nước và các

giá trị của văn hóa phương Tây; truyền thống văn hóa, giáo dục gia đình, đặc biệt là

nhân cách cao đẹp của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc… là các nhân tố ảnh hưởng

trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách Hồ Chí Minh.

Với đề tài nghiên cứu ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự hình

thành nhân cách Hồ Chí Minh, chúng tôi chỉ làm rõ những nét đặc trưng nhân cách

Page 111: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

107

Hồ Chí Minh về đạo đức và trí tuệ với tư cách là sản phẩm được định hình qua sự

tác động, ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến Hồ Chí Minh. Do đó, từ cách

tiếp cận phạm trù nhân cách theo hướng cấu trúc phẩm chất - năng lực và khái niệm

nhân cách Hồ Chí Minh như trên, cũng như trên cơ sở khảo sát, đánh giá về ưu

nhược điểm của các nhà khoa học trong luận giải về nhân cách cách Hồ Chí Minh,

chúng tôi rút ra những nét đặc trưng nhân cách Hồ Chí Minh như sau:

3.2.1. Biểu hiện của nhân cách Hồ Chí Minh về đạo đức

3.2.1.1. Tự ý thức về trách nhiệm của bản thân trước thực cảnh đất nước

mất độc lập, nhân dân mất tự do

Nếu xác định nhân cách Hồ Chí Minh dưới góc độ phẩm chất, bao gồm thế

giới quan, thái độ chính trị - xã hội, lập trường cá nhân, khả năng tự ý thức về vị trí,

vai trò và trách nhiệm của mình trước những thay đổi của lịch sử - xã hội, thì những

năm tháng ở Huế, Hồ Chí Minh đã sớm tự ý thức về bản thân mình trước những yêu

cầu của thực tiễn mà nền giáo dục, điều kiện sống của môi trường và xã hội, không

khí chính trị Huế đã và đang có nhiều thay đổi. Trong thư của Phạm Văn Đồng gửi

Hiệu trưởng Trường Quốc Học Huế (ngày 04/01/1990) nhân dịp trường ra ấn phẩm

Trường Quốc Học Huế - Học sinh với Bác Hồ, kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Hồ

Chí Minh, đã nhấn mạnh: “Tấm gương của Bác Hồ trước hết là tấm gương sớm xác

định và kiên trì phấn đấu suốt đời cho lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,

vì hạnh phúc của nhân dân” [156, tr.3].

Tự ý thức về bản thân mình là một quá trình tâm lí mà ở mỗi giai đoạn phát

triển có những đặc điểm riêng. Thời kì trước khi Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu

nước, theo chúng tôi, nếu xét sự hình thành nhân cách dưới góc độ là sự phát triển

tự ý thức có thể phân thành hai giai đoạn: giai đoạn thứ nhất trước năm 1905 và giai

đoạn thứ hai từ năm 1906 đến 1911.

Trong giai đoạn thứ nhất, có thể thấy rằng tự ý thức của Hồ Chí Minh về bản

thân mình như một người công dân có trách nhiệm với vận mệnh của dân tộc chưa

thật sự định hình, phát triển rõ nét, mà ở đây mới chỉ hình thành ý thức về mình như

một người yêu nước [84, tr.35]. Sự chuyển biến trong sự phát triển tự ý thức của Hồ

Page 112: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

108

Chí Minh diễn ra trong giai đoạn 1906-1911, đặc biệt khi Anh theo cha vào Huế lần

thứ hai [84, tr.39].

Trở về với lịch sử, năm 1894, ông Nguyễn Sinh Sắc thi đỗ cử nhân ở trường

thi Hương Nghệ An. Đến năm 1895 vào Huế thi Hội nhưng không đỗ. Để chuẩn bị

cho kỳ thi tiếp theo, ông xin vào học trường Quốc Tử Giám - Huế. Tuy nhiên, học

bổng của trường rất ít, không đủ để ông trang trải tại đất kinh đô, vì vậy, ông đã đưa

vợ con cùng vào Huế để gia đình có điều kiện giúp đỡ ông học hành, đồng thời ông

có thêm thời gian chăm sóc, nuôi dạy các con. Đến Huế, nhờ người quen giới thiệu,

ông đã thuê được một gian nhà nhỏ ở đường Đông Ba (112 nay là 158 Mai Thúc

Loan). Ngôi nhà đã lưu giữ nhiều kỉ niệm thuở thiếu thời của Hồ Chí Minh, chứng

kiến những năm tháng miệt mài đèn sách, khổ công học hành của ông Nguyễn Sinh

Sắc, sự trung hậu, đảm đang của bà Hoàng Thị Loan, chứng khiến sự lớn lên và

trưởng thành của Hồ Chí Minh.

Tại Kinh đô, đời sống chính trị - xã hội Huế những năm cuối thế kỉ XIX đầu

thế kỉ XX có ảnh hưởng rất lớn đến nhận thức yêu nước và sự hình thành nhân cách

của Hồ Chí Minh, đặc biệt là dư âm của sự biến Thất thủ Kinh đô. Hằng năm, cứ

đến ngày 23 tháng 5, nhân dân Thừa Thiên, đặc biệt là nhân dân phường Phú Nhuận

tổ chức lễ tế âm hồn, tưởng niệm những người đã bị thực dân Pháp giết hại. Trong

những ngày đó, đồng bào yêu nước, những nhà yêu nước mượn lời văn tế âm hồn

để lên án thực dân Pháp, kêu gọi đồng bào chống Pháp. Đồng bào nghe vè xót

thương cho những người đã chết, trách móc các bậc vua quan hèn nhát đầu hàng

giặc và căm phẫn bọn Pháp cướp nước. Hồ Chí Minh lúc nhỏ khi nghe người ta hô

câu vè “Nay mà mắc phải lâm nguy/ Sự tình nông nỗi cũng vì giặc Tây đã sớm

“thương nước, trằn trọc không ngủ được” [184, tr.62].

Nếu thời kì đầu tiên ở Huế (1895-1901), Hồ Chí Minh mở mang vốn hiểu biết

của mình bằng cách quan sát sự thay đổi của vùng văn hóa dân gian Nghệ - Tĩnh

sang vùng văn hóa hội đủ dân gian - bác học - Kinh đô Huế, thì trong thời kì thứ hai

(1906-1909), Hồ Chí Minh trưởng thành hơn nhiều mặt. Đây là thời kì Người đi học

và chứng kiến chính sách cai trị hà khắc, đàn áp dã man của thực dân Pháp. Chính

sách đàn áp, khủng bố những người yêu nước của bè lũ thực dân không chỉ hình

Page 113: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

109

thành ở Hồ Chí Minh lòng căm thù thực dân Pháp và phong kiến tay sai, mà còn là

động lực thôi thúc Người tham gia các phong trào yêu nước như tham gia phong

trào Duy Tân, phong trào chống thuế, Người viết:

Tống Duy Tân sau mười năm chiến đấu tuyệt vọng cũng bị bắt và bị

chém. Thi thể của ông bị đem bêu ở phố. Phan Đình Phùng, một vị quan

to và là một nhà văn thân danh tiếng, chống Pháp mười năm trời rồi chết

trong rừng sâu. Ông chết rồi nhưng bọn Pháp vẫn chưa tha: người ta quật

mộ ông lên, đốt xác và đem tro vứt đi. Người ta báo thù cả người đã nằm

yên dưới mộ. Bất lực không đánh nổi ông Đề Thám, không sao giết được

ông bằng thuốc độc cũng không trừ được ông bằng cốt mìn, người ta bèn

đào mả cha mẹ ông, đem hài cốt vứt xuống sông [92, tr.377].

Năm 1908, một cuộc bãi công của nông dân nổ ra trong toàn quốc,

những người bãi công tỏ ra ôn hoà và họ không có vũ khí. Để biểu thị sự

đoàn kết, mọi người bãi công đều cắt tóc ngắn và gọi nhau là anh em.

Bọn Pháp gọi cuộc bãi công đó là “cuộc bạo động của những anh em tóc

ngắn”. Sau đó là giai đoạn khủng bố trắng. Tất cả những người cắt tóc

ngắn đều bị bắt. Tất cả những người trí thức nào có đôi chút tiếng tăm

đều bị đưa đi đày. Tất cả các trường tư thục đều bị đóng cửa và tất cả các

sách báo nước ngoài đều bị cấm. Tất cả những người lãnh đạo hoặc bị

coi là người lãnh đạo - khoảng 200 - đều bị chặt đầu [94, tr.38]…

Trong khoảng thời gian ở Huế, mặc dù thực dân Pháp tăng cường đàn áp các

phong trào cách mạng, tuy nhiên các phong trào yêu nước như Duy Tân, Đông Du,

gắn với các hoạt động diễn thuyết về dân quyền, duy tân, cắt tóc ngắn, mặc Âu

phục, gọi nhau là “đồng bào” của chí sĩ Phan Châu Trinh, Lê Đình Mộng, Trần

Trinh Linh... phát triển mạnh mẽ, hấp dẫn học sinh và thực sự cuốn hút Hồ Chí

Minh. “Hành động yêu nước mạnh mẽ đầu tiên của Nguyễn Tất Thành vào thời

niên thiếu là tham gia cuộc biểu tình chống thuế của nông dân Thừa Thiên vào

tháng 5-1908” [81, tr.54]. Người tham gia phong trào với tất cả nhiệt huyết yêu

nước, tích cực vận động “hợp quần”, “ái quốc”, cùng với học sinh Huế ra sức cổ

động xây dựng nếp sống mới cho nhân dân. Người nhận thức được rằng: “mình là

Page 114: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

110

học sinh biết tiếng Tây nên đi thông ngôn giúp đồng bào”, “len vào trước để gặp

bọn Pháp đưa nguyện vọng giảm sưu thuế cho dân” [184, tr.179-180]. Cuộc đấu

tranh cùng với nhân dân Thừa Thiên đã khắc sâu trong kí ức Hồ Chí Minh sau này.

Có lần, Người đã kể lại với đồng chí Vũ Kỳ:

Mình tham gia với tư cách là một người thông ngôn. Khi đồng bào nói

chưa đúng thì mình thêm vào cho đúng rồi nói chọi với Pháp. Khi bọn

Pháp nói những gì làm cho uy thế của đồng bào kém đi thì mình thông

ngôn lại để dấy lên tinh thần đấu tranh của đồng bào. Cứ thế đồng bào ùa

lên làm cho bọn Pháp không thể nào ngăn chặn được! [184, tr.180].

Có thể khẳng định rằng, trong chuỗi hành động của hành trình “dấn thân” tìm

đường cứu nước, việc tham gia trực tiếp vào phong trào kháng thuế của nhân dân

Thừa Thiên là bước ngoặt quan trọng, đánh dấu sự chuyển biến tư tưởng và nhận

thức, thể hiện sự tự ý thức và trách nhiệm của Hồ Chí Minh trước thực tiễn đấu

tranh của đồng bào. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng hoàn toàn có lí khi khẳng định

rằng thời kì ở Huế, Hồ Chí Minh “bắt đầu hoạt động cách mạng” [20, tr.213], bởi

Người lớn lên trong cái nôi của phong trào yêu nước, sự gần gũi với đồng bào.

Trong tác phẩm Những mẩu chuyện về đời hoạt động cách mạng của Hồ Chủ tịch,

Trần Dân Tiên viết: “Người thiếu niên ấy đã sớm hiểu biết và rất đau xót trước cảnh

thống khổ của đồng bào. Lúc bấy giờ, anh đã có chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng

đồng bào. Anh tham gia công tác bí mật, nhận công việc liên lạc” [147, tr.12].

Tháng 9 năm 1908, Hồ Chí Minh vào lớp Trung đẳng trường Quốc Học Huế

và được học với thầy Lê Văn Miến, nhờ những bài học “đặc biệt”, sự khai mở của

Thầy về văn minh Pháp đã giúp Thành suy nghĩ rõ ràng hơn về việc “sang phương

Tây” chứ không sang phương Đông để tìm đường cứu nước, tìm “tự do cho đồng

bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi”. Người ý thức muốn xem nước Pháp và các nước

khác, rồi trở về giúp đồng bào mình. Đó là một quyết định đúng đắn, có tính cách

mạng, thể hiện nhãn quan chính trị của một con người giàu lòng nhiệt huyết.

Như vậy, thực tiễn đời sống sôi động cùng với những bất công trong xã hội

Thừa Thiên Huế mà Nguyễn Tất Thành tận mắt nhìn thấy đã tác động mạnh mẽ

đến nhận thức của Anh về dân tộc, về nỗi thống khổ của những người dân mất

Page 115: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

111

nước, làm xuất hiện trọng Anh ý thức cứu dân tộc khỏi cách nô dịch của bè lũ

thực dân.

3.2.1.2. Trăn trở, cảm thông với sự cùng khổ của đồng bào, hình thành tư

tưởng đấu tranh cho hạnh phúc của đồng bào

Hồ Chí Minh theo cha vào Huế từ cuối năm 1895, khi Huế vẫn còn lưu giữ

những “chứng cứ” của một triều đại suy vong. Sống trong Kinh thành, biến động

lịch sử của đất nước từ có chủ quyền trở thành thuộc địa, nỗi nhục mất nước, tang

thương để lại dấu ấn khó phai trong người thiếu niên giàu mẫn cảm ấy. Sau này,

chính ông cả Nguyễn Sinh Khiêm khi đến thăm cụ Phan Bội Châu bị quản thúc ở

dốc Bến Ngự đã thuật lại về sự trăn trở của cậu bé Cung:

Không phải đến tuổi trưởng thành ra ngoại quốc em tôi mới ái quốc, mà

từ khi đầu còn để trái đào đi chơi nghe người ta hô câu vè: “Nay mà mắc

phải lâm nguy, Sự tình nông nổi cũng vì giặc Tây”, về nhà nó thương

nước, trằn trọc không ngủ được. Sáng dậy, em bắt mẹ tôi kể chuyện giặc

Tây dương và ngày Kinh thành thất thủ,…, em tôi ngồi tai nghe, chau

mày nghĩ ngợi [184, tr.62].

Hệ quả từ những chính sách cai trị hà khắc mà thực dân Pháp gây ra là cuộc

sống lầm than cơ cực của nhân dân Thừa Thiên Huế, đặc biệt là chế độ thuế

khóa, phu phen tạp dịch nặng nề. Thực dân Pháp “cướp hết những ruộng đất màu

mỡ, đánh vào những ruộng đất cằn cỗi những thứ thuế vô lý gấp trăm lần thuế

đất thời phong kiến” [92, tr.75]. Trăm thứ thuế, thuế gì cũng ngặt, thuế điền mỗi

mẫu từ 1 đồng tăng dần lên 1,5 đồng, thuế đinh tăng gấp 12 lần từ 0,2 đồng lên

2,5 đồng mỗi người... Không những vậy, nhân dân Thừa Thiên Huế còn phải nai

lưng làm phu đài tạp dịch như đào sông, đắp đường, phá rừng hoặc làm công sở

cho thực dân Pháp. “Cái tệ sưu dịch không thể nói hết được, mỗi dân đinh một

năm đóng thuế thân rồi phải mất 4 ngày công ích, 10 ngày công sưu,… người nọ

đi, người kia về, nối gót nhau trên đường không ngày nào yên cả” [23, tr.20]. Sự

cùng khổ của nhân dân Thừa Thiên sau này cũng được Hồ Chí Minh đồng cảm

thuật lại:

Page 116: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

112

Ở Huế, người ta có đắp một đại lộ rộng 20 mét - thật ra là vô ích - chạy

thẳng từ thành đến đàn Nam giao. Con đường ấy mở qua hai làng và một

nghĩa trang, khi làm phải phá hay di chuyển mất sáu ngàn ngôi mộ.

Người ta chẳng chịu bồi thường hay giúp đỡ gì cho các gia đình có nhà

phải phá, có cây phải chặt, có mồ mả phải khai quật lên [92, tr.418].

Mùa hè năm 19... trong lúc nạn đói đang làm cho miền Trung Kỳ phải

tiêu điều khổ sở, thì một vạn người An Nam bị lý trưởng làng họ bắt đi

tập trung vét một cái lạch. Số dân đông đảo ấy, người ta không dùng hết

mà vẫn cứ phải lìa xa đồng ruộng của mình hàng tháng giữa lúc hết sức

cần thiết họ phải có mặt ở nhà [92, tr.421].

Nhiều phụ nữ bản xứ thống khổ, phải mang nặng gông xiềng đi quét

đường chỉ vì một tội là không nộp nổi thuế [93, tr.120];

Tất cả những điều mà người ta đã có thể nói ra vẫn còn ở dưới mức sự

thật. Chưa có bao giờ, ở một nước nào mà người ta lại vi phạm mọi quyền

làm người một cách dã man, độc ác trắng trợn đến thế. [93, tr.121].

Chứng kiến đời sống cùng cực của nhân dân Thừa Thiên Huế, Hồ Chí Minh

nhận thức nguyên nhân khiến đồng bào thống khổ không chỉ do vua quan bù nhìn,

mà còn do thực dân cai trị hà khắc. Người cảm thông sâu sắc với cảnh sống bần

cùng nhân dân và ý thức rằng phải đấu tranh để đồng bào mình bớt khổ, đấu tranh

để nhân dân có quyền tự do, dân chủ; phải giành lấy cơm no, áo ấm, được học hành

cho nhân dân. Chính vì vậy, trong khoảng thời kì thứ hai ở Huế, Hồ Chí Minh đã

chủ động tham gia phong trào chống Pháp. Người đã dùng vốn hiểu biết của mình

từ những giá trị của văn minh Pháp đã được học để chống lại thực tiễn xảo trá, mị

dân, đàn áp dã man của thực dân Pháp. Thật không thể tin được rằng, sản phẩm của

một nền giáo dục Pháp lại đứng lên để chống lại nước Pháp. Nguyên nhân rất đơn

giản, vì người thiếu niên ấy đã sớm giác ngộ và rất đau xót trước cảnh thống khổ

của quần chúng nhân dân, anh đã có chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào.

Do đó, Người đã “tham gia công tác bí mật, nhận công tác liên lạc” và “muốn đi ra

ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ

trở về giúp đồng bào chúng ta” [147, tr.12].

Page 117: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

113

3.2.1.3. Hình thành tinh thần tự tôn dân tộc, hoài bão cách mạng và chí

hướng cứu nước

Nhân cách Hồ Chí Minh là kết quả của sự hun đúc từ những giá trị văn hóa

truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, trong đó có văn hóa Huế, gắn với quá

trình tôi luyện gần mười năm học tập, rèn luyện và đấu tranh không ngừng nghỉ.

Nếu yếu tố niềm tin, lập trường, hoài bão và chí hướng cách mạng là những biểu

hiện cơ bản của nhân cách con người, thì những năm tháng ở Huế, Hồ Chí Minh đã

sớm hình thành tinh thần tự tôn dân tộc trước ách áp bức, nô dịch, đồng hóa của bè

lũ thực dân; hình thành lí tưởng độc lập tự do, hoài bão và chí hướng cứu nước, cứu

dân một cách rõ ràng và cụ thể.

Sau khi thiết lập ách cai trị, thực dân Pháp ngang nhiên thực hiện mưu đồ

thống trị, thao túng quyền lực, biến cung vàng điện ngọc thành chốn hỗn mang.

Quân Pháp ngang nhiên ra vào cung đình, bắt nạt vua quan, trung thần, giẫm đạp

lên mọi giá trị thiêng liêng của dân tộc, thậm chí viên Khâm sứ Trung Kỳ Levécque

ngạo mạn đi ngựa vào chính cửa Ngọ Môn. Thế nhưng, cái lạ nhất đối với Hồ Chí

Minh lúc bấy giờ vẫn là hình ảnh “những ông Tây cao lớn và các bà đầm môi đỏ

chót đi lại nghênh ngang trên đường phố. Họ làm gì mà hễ ai gặp cũng phải chắp

tay cúi chào?” [149, tr.13]. Phải chăng điều đó thể hiện sự bạc nhược, ươn hèn của

vương triều trước ách cai trị thực dân.

Trong thời kì thứ hai đến Huế (1906-1909), Hồ Chí Minh được cha cho theo

học trường Pháp - Việt tỉnh Thừa Thiên và trường Quốc Học Huế. Tại các trường

học này, Người hiểu rõ “tâm địa thực dân” qua những bài giảng “nhồi sọ”. Tại

Thiên đường Quốc học, Người thấy rõ thực dân Pháp (kể cả những người thầy

Pháp) lăng mạ, khinh miệt, gán ép cho học sinh người Việt những từ thô tục như

“đồ con lợn”, “giống bẩn thỉu”, chà đạp lên phẩm giá con người, sỉ nhục dân tộc và

giống nòi Việt Nam. Hồ Chí Minh lúc ấy đã kêu gọi đám học sinh: “Chúng ta phải

hợp quần lại, cố kết với nhau đòi cho được hai điều: một là phải có nội dung giảng

dạy hợp lí, hai là phải bình đẳng trong đối xử” [71, tr.119].

Nền giáo dục ngu dân, xảo trá được thực dân Pháp xây dựng đã nhồi sọ lớp

lớp học sinh người Việt những “giá trị ảo”, những “lí lẽ ngọt ngào” của nền “văn

Page 118: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

114

minh khai hóa”, giáo dục cho học sinh người Việt “lòng biết ơn”, “lòng trung

thành”, “tận tụy” với nước Pháp, xuyên tạc lịch sử, truyền thống dân tộc Việt

Nam… Trường học lập ra không phải để giáo dục cho thanh niên Việt Nam một nền

học vấn tốt đẹp và chân thực, mở mang trí tuệ và phát triển tư tưởng, mà trái lại

càng làm cho họ bị đầu độc thêm. Trường học được lập nên chỉ để “đào tạo tùy

phái, thông ngôn và viên chức nhỏ đủ số cần thiết phục vụ cho bọn xâm lược -

người ta đã gieo rắc một nền giáo dục đồi bại xảo trá và nguy hiểm hơn sự dốt nát”

[92, tr.424]. Tư tưởng vĩ đại và đầy tính nhân văn của đại cách mạng Pháp - “Tự do,

Bình đẳng, Bác ái”, đã được Hồ Chí Minh hiểu sâu sắc hơn nhưng nó hoàn toàn

không được thực thi tại Huế nói riêng và cả Việt Nam nói chung. Chính sự đối lập

giữa lí luận được thực dân Pháp tô hồng bằng khẩu hiệu “Tự do, Bình đẳng, Bác ái”

với thực tiễn “cướp bóc”, “giết hại”, “tù đày”, “chà đạp” lên phẩm giá con người và

dân tộc Việt Nam đã khơi dậy trong lớp học sinh người Việt tinh thần dân tộc, ý

thức tự tôn, không cam chịu “nhận người Gaulois làm tổ tiên”. “Sự đối xử không

bình đẳng đối với học sinh người bản xứ và thói hống hách khinh người Nam của

một số giáo viên thực dân đã khiến Nguyễn Sinh Cung không thể chấp nhận mà

không phản ứng” [25, tr.32]. Hồ Chí Minh đã công khai chống lại những thầy giáo

người Pháp phản động. Khi các trào lưu yêu nước ở Thừa Thiên Huế dâng cao, tinh

thần dân tộc và lòng yêu nước thiết tha của Người có dịp bùng phát, điển hình là sự

kiện Người tổ chức nhóm học sinh làm “thông ngôn” giúp đồng bào trong phong

trào chống sưu thuế vào tháng 4 năm 1908.

Hồ Chí Minh là một người thông minh, được dân tộc, quê hương, gia đình

trang bị cho một vốn học vấn chắc chắn, một trí tuệ sắc sảo, từ đó có thể phân tích

nguyên nhân thất bại của các phong trào cứu nước. Những cuộc trao đổi bàn luận

của ông cha về con đường cứu nước cùng với tinh thần đấu tranh kiên cường của

những vị vua trẻ và các nhân sĩ, trí thức yêu nước đã thôi thúc mạnh mẽ ý chí đánh

đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào của Người. Tư tưởng yêu nước thương

dân và hoài bão cứu nước cứu dân bắt đầu xuất hiện ở Hồ Chí Minh lúc trạc 13 tuổi

khi lần đầu tiên được nghe những từ Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Trong khoảng thời

gian ở Huế, Người hội tụ được nhiều điều kiện và tố chất cần thiết để mưu nghiệp

Page 119: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

115

lớn. “Anh thấy rõ con đường của các bậc cha anh không đem lại kết quả. Anh phải

đi tìm một con đường cứu nước mới” [67, tr.27].

Thời kì ở Huế, Hồ Chí Minh tiếp tục vào học trường Pháp - Việt tỉnh Thừa

Thiên và Trường Quốc Học Huế. Tại hai ngôi trường này, Thành được khai mở “bài

học yêu nước” và những bài học về “văn minh Pháp” từ thầy Hoàng Thông và Lê

Văn Miến. Thời gian này, không phải chỉ một mình Hồ Chí Minh vào học trường

Pháp - Việt hay Quốc Học, nhưng Người là một trong số rất ít xác định rõ ràng mục

đích học chữ Pháp là để hiểu văn hóa Pháp, “làm quen với nền văn minh Pháp, tìm

xem những gì ẩn giấu đằng sau những chữ Pháp Tự do, Bình đẳng, Bác ái”, nắm lấy

vũ khí đó để giúp đỡ đồng bào mình. Xác định rõ mục đích giải phóng đồng bào,

Hồ Chí Minh học không phải để biết chữ Pháp, để trở thành thông ngôn, tùy phán,

kí lục; ra nước ngoài không phải mang tư tưởng “cầu viện” hay tiếp tục học để lấy

bằng cử nhân mà là thực học, thực nghiệp. Học chữ Pháp với mục đích là trang bị

một công cụ quan trọng để khám phá, khai thác, nắm lấy cả một nền văn hóa, văn

minh nhân loại, từ đó trở về phụng sự Tổ quốc, phục vụ đồng bào. Học giả David

Helberstam hoàn toàn có lý khi cho rằng thời kì ở Huế “Hồ tiếp tục các công việc

yêu nước một cách tích cực và cuối cùng ông đã rời bỏ trường này trước khi có một

mảnh bằng. Ông là một con người muốn học thêm nữa bằng cách chu du ra nước

ngoài hơn là học trong trường khắt khe do Pháp đỡ đầu” [189, tr.1].

Trước khi đi ra nước ngoài, Hồ Chí Minh đã được trang bị một vốn học vấn

chắc chắn, một năng lực trí tuệ sắc sảo, một tâm lí của người đi tìm hiểu, khám phá

nền văn minh Pháp và phương Tây. Tác giả Trần Dân Tiên kể lại rằng khi Hồ Chí

Minh còn là người thiếu niên mười lăm tuổi, tuy rất khâm phục các cụ Phan Đình

Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu, nhưng không hoàn

toàn tán thành cách làm của một người nào. Anh đã phân tích cách nghĩ và cách làm

của các bậc cha chú dẫn tới thất bại, và lúc đó Anh đã từ chối lời mời Đông Du của

Phan Bội Châu để quyết định con đường riêng của mình. Nguyễn Tất Thành ra đi

không phải bác bỏ một nền văn minh, không phải để chống nước Pháp, mà ngược

lại, Anh nghiên cứu văn minh Pháp, làm quen và tiếp thu nhiều trường phái tư

tưởng, nhiều học thuyết, nhiều chủ nghĩa và con đường khác nhau, xem rõ các nước

họ làm ăn ra sao, rồi trở về giúp đồng bào.

Page 120: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

116

Như vậy, qua sự phân tích trên, chúng ta có thể thấy rằng, thời kì trưởng thành

ở Huế, đặc biệt là giai đoạn thứ hai, Nguyễn Tất Thành đã ý thức được trách nhiệm

của một người mất độc lập, tự do và Anh đã “bắt đầu hoạt động cách mạng”, tư

tưởng yêu nước, hoài bão cứu nước, cứu dân tiếp tục nung nấu và phát triển trong

giai đoạn này.

3.2.1.4. Hình thành phong cách sống, thế giới quan, nhân sinh quan cách mạng

Thời kì ở Huế, Hồ Chí Minh luôn được giáo dục với phong cách và nhân cách

đặc biệt của Nguyễn Sinh Sắc, thầy Hoàng Thông, thầy Lê Văn Miến... Trong đó,

cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc rất quan tâm tới việc giáo dục con đạo làm người có

ích cho nước cho dân đến những đứa con của mình. Ông quyết tâm vượt mọi khó

khăn để học và thi đỗ cử nhân, Phó bảng nhưng không phải để ra làm quan như suy

nghĩ phổ biến lúc bấy giờ, mà để khẳng định một tư chất, một bổn phận. Khi buộc

phải vào Huế nhậm chức thì không phải để vinh thân, mà để che thân. Bằng cuộc

sống thực tế trong chốn quan trường và với những gì bản thân phải chịu đựng, ông

rút ra kết luận: “Quan trường thị nô lệ, trung chi nô lệ, hựu nô lệ” và ông khuyên

dạy con cái đừng lấy phong cách nhà quan làm phong cách nhà mình.

Với nền tảng giáo dục gia đình, đặc biệt là nhân cách cao đẹp của người cha,

sự giáo dục của những người thầy có tin thần dân tộc, nên vào những năm cuối thế

kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, khi thực dân Pháp thực thi chính sách giáo dục hạn chế, đào

tạo tùy phán và thông ngôn phục vụ chính sách cai trị của chính quyền thực dân, Hồ

Chí Minh trở thành một “hiện tượng” - hình mẫu tiêu biểu của lớp học sinh có tinh

thần dân tộc và giàu lòng yêu nước, lấy văn hóa Pháp để chống lại nước Pháp. Anh

đã hiểu rằng giá trị sống của một công dân mất nước không phải làm công ăn lương,

làm thông ngôn, tùy phán. Anh không muốn bản thân mình và dân tộc mình cứ bị

đánh lừa mãi bởi những từ trống rỗng, bởi những dối trá về văn hóa, văn minh.

“Anh sớm phân biệt được phải trái, thiện ác” nhờ có óc quan sát, để từ đó Anh lựa

chọn đứng về phía đồng bào mình chống lại thực dân Pháp.

Thời kì ở Huế, tấm gương yêu nước của các bậc vua quan, tinh thần dân tộc

của các chí sĩ cách mạng đã giúp Hồ Chí Minh hiểu sâu sắc phương châm sống,

phong cách sống là đấu tranh vì nước, vì dân, bởi lẻ “nước dù bất hạnh mà mất,

Page 121: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

117

không phải mất nước của một họ riêng mà thôi; cùng với nước mất dân tộc bị diệt

chủng” [53, tr.52], hay “nước mất mà không biết là bất trí, biết mà không chiến đấu

cứu nước là bất trung, chiến đấu mà không quên mình vì nước là bất dũng” [148,

tr.134]… Người đã chứng kiến sự bất lực của chính quyền phong kiến; nhìn nhận

và đánh giá sự thành công, thất bại của các phong trào cách mạng, của các xu hướng

cứu nước và tìm hướng đi riêng của bản thân mình. Người quyết định sang Pháp và

chính thực dân Pháp phải thừa nhận “con đường đi sang nước Pháp là con đường

chống lại nước Pháp”, bởi vì triết lí sống của Hồ Chí Minh lúc này “đồng bào tôi

được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập”. Sau này, Nguyễn Thế Truyền nhận định Hồ

Chí Minh là con người đầy tham vọng, nhưng tham vọng giải phóng anh em bị

thoát khỏi vòng nô lệ, giải phóng nhân dân thoát cảnh bóc lột dã man của bọn thực

dân. Có tham vọng nào cao quý hơn thế không?... Ngực anh không có huân chương.

Túi anh không có ngân phiếu của chính phủ. Nhưng anh mang nguyện vọng của

nhân dân và niềm hi vọng của một dân tộc bị áp bức.

Thời kì ở Huế, trước những biến cố của lịch sử dân tộc và đời sống chính trị xã

hội, cùng với sự mở rộng vốn hiểu biết, óc quan sát, tư duy phê phán, Hồ Chí Minh

nhìn nhận, đánh giá thực tiễn xã hội, vận mệnh của đất nước và cuộc sống của đồng

bào. Anh thấy được bức màn dối trá bao trùm cảnh đế đô và toàn bộ đất nước. Thảm

họa diệt vong của dân tộc đặt ra cho Người những suy nghĩ tích cực về con đường

cứu nước, cứu dân cùng lòng căm thù quân cướp nước và bọn tay sai bán nước. Hồi

ức của những người sống cùng thời cho phép khẳng định sự định hình một phong

cách sống, thế giới quan và nhân sinh quan cách mạng tích cực của Nguyễn Tất

Thành. Cụ Phạm Gia Cần, con trai cụ Phạm Khắc Doãn làm biên tu ở Quốc Sử Quán

Huế, học cùng lớp với Bác Hồ ở trường Pháp - Việt Đông Ba kể rằng:

Có dịp được theo chân anh lên vùng lăng tẩm của các bậc đế vương, tôi

bỗng lạ lùng trước sự hiểu biết của anh. Anh kể về Tự Đức và chuyện

xây Vạn Niên Cơ của ông ta. Anh bùi ngùi: “Máu xương dân lính phải

đổ ra vì lăng tẩm nhà vua khi đời sống dân mình đã xác xơ mà giặc ngoài

thì giương sẵn nanh vuốt”. Nhìn những lớp người vãn cảnh, đi lại, anh

Côn nói với tôi: “Người ta đến không phải để xem các vua có được mồ

Page 122: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

118

yên mả đẹp hay không mà cốt để thưởng ngoạn cảnh có núi, có sông,

thưởng ngoạn vẻ đẹp của thiên nhiên có sự góp sức của con người”. Như

để kết thúc buổi đi chơi, anh Côn nói: “Anh biết không, người ta nói Huế

là nơi “Tang tóc mỉm cười, vui tươi thổn thức”. Lời mỉa mai dí dỏm này

tưởng cũng không quá đáng khi Huế còn là nơi ngự trị của bọn đế vương,

quý tộc cả người Pháp và người Việt” [71, tr.109].

Cụ Lê Thước, người cùng quê, học trên Nguyễn Tất Thành một lớp, kể rằng:

Đường từ nhà anh Côn sang trường phải qua cửa dinh Khâm sứ. Đó là con

đường chúng tôi thường đi. Người ta đã cố tránh, nhưng hằng ngày, những

cảnh tượng về lối sống lố lăng, phè phỡn của bọn Tây đầm thực dân diễn

ra trước cổng tòa biệt thự ấy vẫn lộ liễu làm chướng tai, gai mắt. Có bạn

lắc đầu: “Sao mà khó chịu làm vậy!”. Một bạn khác phàn nàn: “Chúng

chẳng coi thuần phong mỹ tục của mình ra cái gì!”. Anh Côn thong thả.

Giọng anh có phần đanh lại: “Ta phải tìm xem cái gì đẻ ra lối sống ấy. Có

phải cái đó cũng là căn do làm cho dân ta khổ” [71, tr.118-119].

Sự chia sẻ của cụ Phạm Gia Cần và cụ Lê Thiện cho thấy, ngay từ những ngày

ở Huế, Hồ Chí Minh đã có bao nhiêu suy nghĩ, bao nhiêu trăn trở trước thực tiễn xã

hội. Đối với Anh, kẻ thù của dân tộc Việt Nam không chỉ là thực dân Pháp mà cả

bọn phong kiến tay sai.

Thời kì ở Huế, chính phong cách sống, lối sống đoàn kết cộng đồng của người

Huế, cùng với đời sống văn hóa vật chất và tinh thần của văn hóa Huế, tiếp tục hun

đúc ở Hồ Chí Minh những phẩm chất đạo đức, chuẩn mực cần thiết, để hình thành

một phong cách sống gần dân, yêu thương và đoàn kết nhân dân; lối sống giản dị,

thanh cao vì dân vì nước... Các đặc trưng đó sau này trở thành nền tảng của một

nhân cách lớn - danh nhân văn hóa lớn của dân tộc.

3.2.2. Biểu hiện của nhân cách Hồ Chí Minh về trí tuệ

3.2.2.1. Trí tuệ mẫn tiệp, thông minh, cần cù, ham học hỏi

Trí tuệ của Hồ Chí Minh không chỉ được hình thành bởi các phẩm chất cá

nhân của Người, mà còn là kết quả từ sự ảnh hưởng của môi trường văn hóa - giáo

dục tại những nơi Người đã sống và học tập.

Page 123: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

119

Từ khi vào học trường Pháp - Việt Đông Ba, Hồ Chí Minh sớm bộc lộ tư chất

thông minh, ham học hỏi của mình. Người “có óc quan sát, không nhìn lẻ loi một

việc gì mà thường đặt sự việc ấy trong hoàn cảnh của nó” [184, tr.57]. Cụ Lê Thiện -

người bạn học cùng lớp cours supérieur (tức lớp cao đẳng, lớp nhất) thuật lại: “Học

trong lớp, nghe thầy giảng Pháp văn trò Côn hay ghi chú bằng chữ hán. Côn học giỏi

những không học gạo. Học môn gì anh cũng cặn kẽ. Nếu thầy trả lời chưa thỏa mãn,

anh hỏi cho đến lúc ngã ngũ mới thôi. Hán văn anh giỏi nhất lớp, môn Pháp văn

không có anh học trò Nghệ nào bằng anh” [184, tr.139-140]. Đến cuối năm 1907, Hồ

Chí Minh là một trong bảy học sinh được chọn nộp đơn thi và đã đỗ primaire (Tiểu

học) để vào Nhất niên trường Quốc Học, trong đó có Lê Thiện, Nguyễn Đình Cảnh,

Nguyễn Viết Nhuận, Nguyễn Xuân Yến, Phan Văn Quế, Trần Kinh.

Khi sang học trường Quốc Học, để trau dồi vốn Tiếng Pháp, Hồ Chí Minh

“hay đi chơi với những người giỏi Pháp văn, những người nói tiếng Pháp hay để

anh nói cho đúng”, “sức học của anh Côn ở Quốc Học xuất sắc hơn trước. Trí nhớ

của anh phát triển một cách lạ thường” [184, tr.141-142], “về Hán học thì học trò

Nghệ (anh em Nguyễn Tất Đạt và Nguyễn Tất Thành) khi nào cũng trội hơn” [22,

tr.155]. Thầy Queignec trong một lần trả luận đã cầm bài của Côn giới thiệu với học

sinh cả lớp rằng: “Côn a traité le sujet de rédaction en vers. C’est un élève

intelligent et vraiement distingué” [183, tr.142] (tạm dịch: Trò Côn đã làm cái đề

luận này bằng thơ, đây là một học sinh thông minh và xuất chúng).

Hồ Chí Minh là người có chí lớn, có hoài bão cứu nước theo hướng khác

với những con đường thất bại cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Người đã sớm có ý

định sang Pháp và các nước Phương Tây để tìm hiểu tình hình, đặng tìm lấy một

phương sách nào đó để cứu nước. Và trong tác phẩm Những mẩu chuyện về đời

hoạt động của Hồ Chủ tịch, tác giả Trần Dân Tiên đã đưa ra những thông tin về

việc Hồ Chí Minh phê phán các con đường cứu nước đầu thế kỉ XX của Việt

Nam. Sự “phê phán” đó thể hiện tư duy độc lập, tự chủ và trí tuệ mẫn tiệp của

người thanh niên trẻ tuổi. Tuy nhiên, để có sự phân định sáng suốt đó, Hồ Chí

Minh phải hội đủ tư chất thông minh, sáng dạ với khả năng tư duy độc lập, tự

chủ, trí tuệ mẫn tiệp của mình.

Page 124: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

120

3.2.2.2. Nhạy cảm với cái mới, khát khao tìm hiểu và linh hoạt trong việc

thâu hóa các giá trị văn hóa

Bên cạnh tư chất thông minh, Hồ Chí Minh là một người giàu ý chí học tập,

khát khao học tập, rất nhạy cảm với cái mới… Chính bản tính đó đã giúp Người đến

và tiếp thu những giá trị văn hóa tiến bộ. Anh ham đọc sách nhiều đến độ theo đến

nơi làm việc của cụ Phạm Khắc Doãn ở Quốc Sử Quán [71, tr.105]. Hồ Chí Minh

rất sáng dạ và nhanh trí, anh chăm chỉ học cả chữ Quốc ngữ và chữ Pháp vì đó là

cách duy nhất để giải quyết vấn đề quan trọng nhất của dân tộc Việt Nam lúc bấy

giờ - Muốn đánh Pháp thì phải hiểu Pháp, muốn biết Pháp thì phải học chữ Pháp.

Hồ Chí Minh là người nhạy cảm với cái mới, luôn luôn có tư tưởng đổi mới,

hướng tới cái mới. Điểm này thể hiện tư chất thông minh và đồng thời cũng là sự

nổi trội của những người tự học thành tài. Học tập là một quá trình luôn luôn được

nạp thêm, cập nhật thêm những tri thức mới nhằm phát huy năng lực của mỗi con

người khi ứng xử với mọi điều trong cuộc sống. Theo lời kể của cụ Hồ Đắc Định

(em trai của cụ Hồ Đắc Quỳnh, người giỏi Hán văn và Pháp văn):

Lúc mới vào học trường Pháp Việt Đông Ba trình độ Pháp văn của anh

Côn còn kém lắm. Từ điển rất hiếm và học sinh chưa có thói quen tra từ

điển. Gặp chữ gì khó hiểu anh Côn cũng hỏi thầy. Một hôm mới vào lớp

anh Côn thấy dòng chữ kẻ phía trên tấm bảng đen trước mặt, anh đứng

dậy hỏi thầy: “République Francaise, Liberté - Égalité - Fraternité” nghĩa

là gì, thưa thầy?...

Cuối cùng anh tôi giở từ điển ra xem và đọc nguyên văn bằng tiếng Pháp

cho anh Côn và cả lớp đều nghe. Nghe xong anh Côn vẫn chưa thỏa mãn.

Hết giờ anh Côn và một số học sinh đi theo yêu cầu thầy giáo giải nghĩa

thêm bằng tiếng Việt nữa. Khi anh hiểu mấy chữ ấy rồi thì anh rất thích

thú. Anh nói với bạn bè anh sẽ học tiếng Pháp cho thật giỏi để hiểu được

văn minh, lịch sử nước Pháp. Ngoài giờ học ở trường, anh còn xin đi học

cours du soir (lớp chiều) với thầy Ưng Dự… [184, tr.148-149].

Khi vào trường Quốc Học Huế, Hồ Chí Minh được học với thầy Lê Văn

Miến. Thầy là người có ảnh hưởng rất lớn đối với Nguyễn Tất Thành. Mỗi lần dạy

Page 125: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

121

Thầy thường dành lại mười phút để kể chuyện văn minh cho học sinh nghe. “Trò

Côn nghe thầy Miến kể những chuyện ấy rất thích thú, trò thích hơn cả việc học

vẽ. Có lần trò hỏi thầy giáo: Làm sao có thể qua Pháp để xem người Pháp họ sống

ra sao?” [184, tr.154]. Nhiều bạn học cùng với Hồ Chí Minh lúc còn niên thiếu đã

nhận định: “Việc dạy dỗ của thầy là một yếu tố quan trọng trong việc hình thành

tư tưởng sang phương Tây chứ không sang phương Đông của Chủ tịch Hồ Chí

Minh thời trẻ” [53, tr.54]. Việc không đi theo tiếng gọi của Phong trào Đông Du,

nghĩa là không sang Nhật Bản học tập mặc dù được cụ Phan Bội Châu tích cực

vận động; không xuất dương sang Trung Quốc, Thái Lan… mà lại sang Pháp và

các nước Phương Tây thì chứng tỏ Hồ Chí Minh là người có đầu óc phân tích, phê

phán rất nhạy bén. Mẫn cảm với thời cuộc, nhạy với cái mới, kiên định về nguyên

tắc nhưng nhất quyết không cứng nhắc, Hồ Chí Minh rất uyển chuyển, mềm dẻo,

ứng xử đúng đắn, phù hợp khi tình hình biến chuyển, hoặc khi tình hình đã có

nhiều điểm mới.

Sự nhanh nhạy của Hồ Chí Minh đối với cái mới không có nghĩa là Người

thay đổi liên tục các quan điểm của mình. Thay đổi theo cái mới của Hồ Chí Minh

lại luôn luôn được Người đặt trên cái nền vững chắc của những vấn đề cơ bản có

tính nguyên tắc. Cái gì thấy đúng, trước sau vẫn đúng, thì Người vẫn luôn kiên trì

giữ vững, trước sao thì sau vẫn vậy, không hề nao núng. Đó là biện chứng tư duy và

hành động Hồ Chí Minh. Cái nhanh nhạy, cái kiên trì, hay nói cách khác là cứng rắn

về nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược, luôn luôn sáng tạo… đó là những phẩm chất

cực kỳ quan trọng, cần thiết đối với nhà hoạt động chính trị chuyên nghiệp đồng

thời là nhà văn hóa như Hồ Chí Minh. Đó là nhân cách nổi trội của lãnh tụ Hồ Chí

Minh, của một con người luôn luôn ham học hỏi và đặc trưng nhân cách đó sớm

được hình thành khi người sống trong khoảng thời gian ở Kinh đô Huế.

Một trong những nhân tố làm nên nhân cách Hồ Chí Minh là sự nhạy cảm với

cái mới, đầu óc phê phán tinh tường, linh hoạt trong việc tiếp biến các giá trị văn

hóa. Chính nhờ các nhân tố chủ quan này, Hồ Chí Minh đã hóa thân vào dân tộc và

nhân loại, làm thăng hoa chính dân tộc và thời đại mình, để lại dấu ấn không phai

mờ trong lịch sử phát triển của nhân loại.

Page 126: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

122

Trước khi ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh được trang bị nền tri thức

văn hóa Quốc học, Hán học và sớm tiếp thu những tri thức Tây học. Theo sách

Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Hồ Chí Minh tự học bằng

việc mượn những cuốn sách nhỏ từ những người bạn làm việc trên tàu, học tiếng

Pháp khi làm vườn cho ông chủ tàu ở Saint Adresse, vào ngày nghỉ anh học tiếng

Anh với một giáo sư người Ý. Hồ Chí Minh đã tranh thủ thời gian và học với bất kỳ

người nào, ngoài những cuộc đi xem để học, anh không thích chơi bời gì khác.

Trước đó, khi còn học ở Huế, anh tự học bằng những giờ học thêm với những thầy

giáo như Ưng Dự, Lê Văn Miến, Hoàng Thông.

Hồ Chí Minh là người rất chịu khó học hỏi, tiếp thu những giá trị văn hóa tinh

tuý nhất của dân tộc Việt Nam, từ đó làm nền tảng tiếp thu tinh hoa văn hóa thế

giới. Sức học của Anh rất phi thường bởi chịu sự chi phối của ý chí muốn hiểu thế

giới từ những giá trị. Ngay cả cụ Phan Châu Trinh - một người rất kiệm lời khen,

trong thư viết cho Hồ Chí Minh, thừa nhận: “Thực tình, từ trước tới nay, tôi không

khinh thị anh mà ngược lại, tôi còn cảm phục anh nữa là đằng khác”, Anh là “cây

đương lộc, nghị lực có thừa, dày công học hỏi, lý thuyết tinh thông”. Đó là những

lời đánh giá của cụ Phan Châu Trinh dành cho Hồ Chí Minh - những lời đánh giá

đồng thời là những lời khen không dễ gì mà có được ở Phan Châu Trinh.

Ngoài ra, khi nghiên cứu Hồ Chí Minh chúng ta có thể nhận thấy Người có

khả năng biến những giá trị văn hóa tiếp thu được, đúc kết nó thành những vấn đề

có hệ thống như là một học thuyết rồi tổ chức hoạt động thực tiễn biến chúng thành

hiện thực. Hồ Chí Minh không làm con số cộng các luồng tư tưởng, các học thuyết,

các lí luận, các tinh hoa văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa thế giới, mà là chung

đúc chúng lại làm thành cái riêng ở Hồ Chí Minh. Do đó, ở Hồ Chí Minh, chúng ta

không thấy sự kinh viện trong các bài nói, bài viết, trong lối tư duy của Người, trái

lại là một sự thông tuệ đặc biệt.

3.2.2.3. Tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, nhãn quan chính trị đúng đắn

trong việc đánh giá và lựa chọn con đường cứu nước

Hồ Chí Minh còn có nhãn quan chính trị thiên tài trong việc lựa chọn con

đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX,

Page 127: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

123

Việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược. Từ đó, các cuộc chống thực dân Pháp ở Việt

Nam liên tiếp nổ ra. Nhãn quan chính trị của Nguyễn Tất Thành nằm ở chỗ đánh giá

đúng ưu nhược điểm của các phong trào yêu nước, bản chất của bè lũ thực dân và

vương triều phong kiến, cũng như sức mạnh của nhân dân.

Đầu tiên và tiêu biểu nhất là phong trào Cần Vương nằm trong hệ tư tưởng

phong kiến. Phong trào này chỉ tồn tại trong vòng khoảng mười năm thì kết thúc

trước đàn áp của thực dân Pháp. Đến đầu thế kỉ XX, các phong trào yêu nước mới

xuất hiện, mới cả lãnh đạo lãnh đạo, tính chất, hệ tư tưởng và mới cả về cách thức

tổ chức lực lượng. Mục tiêu của các cuộc đấu tranh cơ bản giống nhau, đó là chống

thực dân Pháp để giành lấy độc lập, tự do cho Tổ quốc, để cởi bỏ ách áp bức ngoại

bang. Tuy nhiên, khuynh hướng phát triển đất nước sau khi hoàn thành những cuộc

cách mạng của các cuộc đấu tranh hoàn toàn khác nhau. Chống Pháp rồi để thiết lập

một chế độ chính trị gì, xây dựng nhà nước Việt Nam như thế nào, tập hợp lực

lượng nào, theo sự chỉ dẫn của hệ tư tưởng nào thì hoàn toàn khác nhau.

Phong trào Cần Vương mượn danh nghĩa nhà vua để lật nhào sự thống trị của

thực dân Pháp rồi lại trở lại củng cố chế độ phong kiến đã hết thời thì là không hợp

xu thế. Thay thế phong trào Cần Vương là những phong trào theo hệ tư tưởng tư

sản, do các nhân sĩ, trí thức yêu nước đứng ra khởi xướng và lãnh đạo. Dù thực dân

Pháp và phong kiến Việt Nam cố tình bưng bít, nhưng tư tưởng dân chủ tư sản vẫn

tuồng vào Việt Nam, thổi bùng ngọn lửa đấu tranh theo các hình thức, nội dung

mới. Ảnh hưởng của tư tưởng tư sản qua các phong trào yêu nước của các sĩ phu

phong kiến chuyển làn sang tư tưởng tư sản ở Việt Nam đầu thế kỉ XX khá rõ nét.

Tiêu biểu nhất là ảnh hưởng từ Nhật Bản rồi sinh ra phong trào Đông Du gắn liền

với tên tuổi Phan Bội Châu. Ông lập ra Duy Tân Hội (1904), mong muốn dựa vào

một nước Nhật Bản đồng chủng, đồng văn để chấn hưng dân tộc. Cụ Phan Bội Châu

muốn có một nền dân chủ cộng hòa, muốn bạo động đánh đổ chế độ phong kiến.

Đối với Phan Châu Trinh, ông muốn lập ra một chế độ đại nghị tư sản, nhưng

phương pháp khác hẳn cụ Phan Bội Châu, đó là “bất bạo động, bạo động tắc tử”

(Không bạo động, vì bạo động là chết). Cụ và các cộng sự của mình hoạt động không

mệt mỏi để hiện thực hóa mục tiêu “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” (Khai

Page 128: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

124

dân trí: bỏ lối học tầm chương trích cú, mở trường dạy học chữ Quốc ngữ, kiến thức

khoa học thực dụng, bài trừ hủ tục xa hoa. Chấn dân khí: thức tỉnh tinh thần tự lực tự

cường, mọi người giác ngộ được quyền lợi của mình, giải thoát được nọc độc chuyên

chế. Hậu dân sinh: phát triển kinh tế, cho dân khai hoang làm vườn, lập hội buôn, sản

xuất hàng nội hóa…). Các phong trào yêu nước theo mục tiêu đó như: Duy Tân

(1906-1908), Đông Kinh Nghĩa Thục (1907) phát triển mạnh mẽ…

Có thể nói rằng, các phong trào yêu nước mới do ảnh hưởng của các luồng tư

tưởng mới là những khai sáng, đổi mới có hiệu quả đối với xã hội Việt Nam phong

kiến tăm tối lúc bấy giờ. Tuy nhiên, cả phong trào bạo động vũ trang của cụ Phan

Bội Châu, cho đến phong trào có tính chất ôn hòa, bất bạo động của cụ Phan Châu

Trinh đều bị thực dân Pháp đàn áp dã man.

Tư duy phê phán của Hồ Chí Minh qua nhận xét các phong trào yêu nước cho

chúng ta thấy rằng, Người đã có nhãn quan chính trị tinh tường về thời cuộc. Với

khả năng tư duy độc lập, linh hoạt, sáng tạo và tầm nhìn xa, Hồ Chí Minh đã vượt

qua “sự hạn chế” về tầm nhìn và phương pháp đấu tranh của các chí sĩ tiền bối trong

việc tìm kiếm con đường cứu nước và giải phóng dân tộc. Hồ Chí Minh đã xác định

đúng phương hướng và phương thức cứu nước, kiên trì và dũng cảm thực hiện lí

tưởng cao đẹp giành độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.

Năm 1908, Hồ Chí Minh thấy rõ sự hạn chế “chưa biết tổ chức và chưa có tổ

chức” từ sự thất bại của phong trào kháng thuế của nhân dân Trung kỳ. Thất bại của

các cuộc kháng Pháp do các sĩ phu yêu nước khởi xướng, đến xu hướng cứu nước

mới của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh… đã giúp Người thấy con đường cách

mạng, phương pháp đấu tranh của các bậc tiền bối không phù hợp với thực tiễn cách

mạng Việt Nam, ý thức hệ phong kiến và tư sản “không có khả năng vạch ra giải

pháp đấu tranh phù hợp với hoàn cảnh lịch sử và xu thế phát triển của thời đại”.

Người rất khâm phục họ nhưng không tán thành con đường cứu nước nào, cũng như

từ chối con đường Đông Du theo lời mời gọi của cụ Phan Bội Châu vào năm 1905,

vì theo Hồ Chí Minh con đường cứu nước của Hoàng Hoa Thám còn nặng cốt cách

phong kiến đã không thể dẫn tới thắng lợi, con đường cầu viện Nhật Bản của Phan

Bội Châu chẳng khác gì “đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”, còn con đường cải

Page 129: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

125

lương của Phan Châu Trinh chẳng khác gì “xin giặc rủ lòng thương”. Đúng như

Trần Văn Giàu nhận định: “Nguyễn Tất Thành không đi Phồn Xương, tuy đó là con

đường ngắn nhất. Không đi Nhật, tuy có các bậc chú bác khuyến khích. Không đi

Hoa Nam, tuy ở đó có cách mạng Tân Hợi đang bước vào giai đoạn “cử đồ đại sự”.

Trong ba đường ấy, Nguyễn Tất Thành không chịu một con đường nào” [53, tr.81].

Từ sự phân tích trên ta có thể thấy, Hồ Chí Minh có một “cái nhìn khác”, một

nhãn quan đầy sức phê phán trong nhận thức về kẻ thù và con đường cứu nước.

Người đã mạnh dạn “khước từ” cái sai để đi tìm cái đúng, từ chối, từ bỏ cái lạc hậu,

lỗi thời để đi tìm cái tiên tiến, phù hợp với thời đại. Đó là sự vượt qua những lối

mòn cũ kĩ để đi tìm cho được con đường mà dân tộc cần đi; là sự khẳng định một

bản lĩnh, một khả năng suy nghĩ độc lập và sáng tạo mà lịch sử đang đòi hỏi và là

bước ngoặt quan trọng khi Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước.

Cũng từ những năm tháng trên quê hương và sự ảnh hưởng của các giá trị văn

hóa dân chủ, tiến bộ phương Tây, đặc biệt là tư tưởng “Tự do, Bình đẳng, Bác ái”

của cách mạng Pháp, cho nên và hẳn nhiên nước Pháp đã trở thành tâm điểm cuốn

hút Hồ Chí Minh trong hành trình tìm đường cứu nước. Hồ Chí Minh muốn tìm

hiểu sự thật về nước Pháp, về chủ nghĩa thực dân Pháp đang trực tiếp thống trị Việt

Nam và “khi tôi độ 13 tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp Tự do, Bình

đẳng, Bác ái... Tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những

gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy” [92, tr.461]. Đây là một sự lựa chọn đúng đắn cả

về hướng đi và cách đi so với những nhà cách mạng tiền bối, thể hiện sự nhạy cảm

và sáng tạo độc đáo trong suy nghĩ và hành động của Hồ Chí Minh.

Page 130: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

126

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

Không gian văn hóa Huế với những đặc trưng và giá trị vốn có của nó đã ảnh

hưởng mạnh mẽ đến sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh thời trẻ. Đó là sự tác

động đa chiều của nhiều yếu tố, từ những biến động lịch sử của vương triều phong

kiến, đến những thay đổi của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội của đất

Thừa Thiên Huế.

Trước những tác động mạnh mẽ của không gian văn hóa Huế, nhân cách Hồ

Chí Minh được định hình khá rõ nét. Đầu tiên là những phát triển nhân cách về đạo

đức, được thể hiện qua sự tự ý thức về trách nhiệm của Nguyễn Tất Thành trước

thực cảnh đất nước mất độc lập, nhân dân mất tự do; hình thành tinh thần tự tôn dân

tộc, hoài bão cách mạng và chí hướng cứu nước; trăn trở, cảm thông trước sự cùng

khổ của đồng bào, từ đó hình thành tư tưởng đấu tranh cho hạnh phúc của đồng bào;

hình thành phong cách sống và nhân sinh quan cách mạng, nhìn nhận và đánh giá

đúng bản chất của chủ nghĩa thực dân và phong kiến tay sai, tinh thần dân tộc của

các vị vua trẻ tuổi và các trung thần yêu nước, các phong trào yêu nước và sức

mạnh của quần chúng nhân dân.

Bên cạnh đó, không gian văn hóa Huế còn góp phần bồi dưỡng nhân cách Hồ

Chí Minh về trí tuệ, giúp Người có bước phát triển mạnh mẽ về trí tuệ và nhãn quan

chính trị, đặc biệt trong vấn đề đánh giá và lựa chọn con đường cứu nước. Người là

học trò xuất sắc, có tư duy độc lập, khả năng phân tích đặc biệt nên đã vượt qua “sự

hạn chế” về tầm nhìn và phương pháp đấu tranh của các chí sĩ tiền bối trong việc

tìm kiếm con đường cứu nước và giải phóng dân tộc. Người mạnh dạn “khước từ”

cái sai để đi tìm cái đúng, từ chối cái lạc hậu, lỗi thời để đi tìm cái tiên tiến, phù hợp

với thời đại. Người giàu ý chí học tập, khát khao học tập, rất nhạy cảm với cái mới.

Vì vậy, Người đến với giá trị tiêu biểu nhất văn minh phương Tây, văn hóa Pháp -

“Tự do, Bình đẳng, Bác ái” đầy tự nhiên.

Page 131: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

127

Chương 4

Ý NGHĨA CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN

NHÂN CÁCH HỒ CHÍ MINH CHO CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY

4.1. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA KHÔNG GIAN VĂN HÓA

HUẾ ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH HỒ CHÍ MINH

Từ sự phân tích những vấn đề liên quan đến nhân cách Hồ Chí Minh và không

gian văn hóa Huế ở chương 2; những ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự

hình thành nhân cách Hồ Chí Minh và biểu hiện của nhân cách Hồ Chí Minh từ sự tác

động của không gian văn hóa Huế trong chương 3, luận án có thể rút ra một số nhận

xét về ảnh hưởng của không văn hóa Huế đến sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh

như sau:

4.1.1. Không gian văn hóa Huế góp phần hình thành tình cảm, tư tưởng

và hành động yêu nước, vun đắp tinh thần dân tộc và lí tưởng cứu nước, cứu

dân của Hồ Chí Minh

Bản chất con người được hình thành và phát triển trong những hoàn cảnh cụ

thể, trong môi trường xã hội và những giai đoạn lịch sử nhất định mà con người

tham gia hoạt động thực tiễn. Bản chất con người không phải là cái khép kín mà vận

động, biến đổi theo sự biến đổi, tác động của hoàn cảnh, môi trường sống, thông

qua sự tiếp nhận và chuyển hóa của mỗi cá nhân.

Thực tiễn mười năm sống ở Huế, không gian văn hóa Huế với đặc trưng vốn

có đã vun đắp những giá trị sống, hình thành nhân cách Hồ Chí Minh, góp phần

quan trọng làm chuyển biến nhận thức, tư tưởng, hành động của Người. Tình cảm

yêu nước, thương dân được hun đúc, lí tưởng cứu nước cứu dân được hình thành,

cùng với thực tiễn hòa mình vào cuộc sống, thực tiễn đấu tranh và sự giúp đỡ, cưu

mang, đùm bọc của bà con xóm giềng, Người đã đứng về phía đồng bào, bênh vực

và đấu tranh cùng với họ, biểu hiện rõ nhất là Người đã tham gia phong trào chống

thuế ở Trung Kỳ (4/1908).

Trong sự tác động đa chiều của không gian văn hóa Huế, đặc biệt là sự lĩnh hội

giá trị văn hóa dân tộc, truyền thống đấu tranh bất khuất kiên cường, tinh thần đoàn

Page 132: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

128

kết và những tư tưởng tiến bộ của văn hóa Pháp qua Tân thư, Tân văn, Hồ Chí Minh

đã chống Pháp một cách trực tiếp, tham gia vào phong trào cắt tóc ngắn, phong trào

Duy Tân, cổ xúy cho việc xây dựng đời sống mới, tham gia phong trào chống sưu

thuế, chống đi phu để ủng hộ đồng bào. Hồ Chí Minh đã có sự chuyển biến quan

trọng từ nhận thức và tình cảm yêu nước đến hành động yêu nước. Chính những hoạt

động cách mạng đầu tiên đó đã nung nấu ý chí tìm ra con đường cứu nước trong Hồ

Chí Minh, mở ra thời kì “dấn thân” cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc.

Mười năm ở Huế, kế tục truyền thống văn hóa xứ Nghệ, những giá trị của

không gian văn hóa Huế và thực tiễn đời sống xã hội Huế những năm cuối thế kỉ

XIX đầu thế kỉ XX đã tạo dựng cơ sở cần thiết cho sự hình thành và phát triển nhân

cách Hồ Chí Minh theo đúng tinh thần “xã hội sản sinh con người” của Karl Max.

Theo đó, nhân cách Hồ Chí Minh chính là sự ý thức về độc lập dân tộc, yêu nước

gắn với thương dân, đấu tranh để giải phóng đồng bào, đấu tranh để nhân dân có

cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.

4.1.2. Không gian văn hóa Huế góp phần hình thành cho Hồ Chí Minh thế

giới quan, lập trường vững vàng trong việc xác định con đường cứu nước

Để hình thành một thế giới quan, nhân sinh quan cách mạng, cũng như xác lập

lập trường tư tưởng đòi hỏi phải có sự kết hợp giữa các nhân tố tác động từ bên

ngoài với những phẩm chất cá nhân đặc biệt bên trong mỗi con người, trước hết là

một tư chất thông minh, khả năng tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo.

Thực tiễn sống gần mười năm ở Huế, những điều kiện về văn hóa giáo dục, sự

ảnh hưởng của các bậc nhân sĩ, trí thức yêu nước và thực tiễn đầy biến động, đã

giúp Hồ Chí Minh hình thành quan điểm, lập trường, dấu ấn riêng có của cá nhân

trong các mối quan hệ xã hội, trong nhận thức về con đường cứu nước.

Trong khoảng thời gian ở Huế, nhờ có nhãn quan chính trị tinh tường nên Hồ

Chí Minh thấy rõ sự bạc nhược của quan lại trước âm mưu của thực dân Pháp dẫn

đến mất nước, nhân dân mất tự do. Bên cạnh sự bạc nhược đó, Người cũng đã

chứng kiến những làn sóng đấu tranh mạnh mẽ của nhiều tầng lớp yêu nước, từ bậc

vua quan trung thần, chí sĩ cách mạng cho đến quần chúng nhân dân đang bị đọa

đày đau khổ. Đó là những tấm gương sáng về tinh thần ái quốc, tự tôn dân tộc, tuy

Page 133: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

129

nhiên sự thất bại của các phong trào yêu nước chứng minh cho Hồ Chí Minh thấy

chí hướng và con đường cách mạng của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh không

phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Người rất khâm phục họ nhưng không

tán thành con đường cứu nước nào. Do đó, Hồ Chí Minh không đi Phồn Xương, tuy

đó là con đường ngắn nhất, không đi Nhật, tuy có các bậc chú bác khuyến khích,

không đi Hoa Nam, tuy ở đó có cách mạng Tân Hợi đang bước vào giai đoạn “cử

đồ đại sự”. Cả ba đường ấy, Nguyễn Tất Thành không theo một con đường nào.

Bên cạnh đó, trong những yếu tố cấu thành văn hóa Huế, những người thầy có

tinh thần dân tộc, yêu nước như Hoàng Thông, trí thức Tây học Lê Văn Miến cùng

với giá trị của văn hóa Pháp, điển hình là tư tưởng “Tự do, Bình đẳng, Bác ái” đã

ảnh hưởng đến việc hình thành chí hướng cách mạng và lựa chọn con đường cứu

nước của Hồ Chí Minh. Việc dạy dỗ của những người thầy yêu nước ấy là một

trong những nhân tố quan trọng đối với việc hình thành tinh thần tự tôn dân tộc, đấu

tranh vì độc lập tự do cho dân tộc và đồng bào.

Lập trường cá nhân và óc phê phán của Hồ Chí Minh còn được thể hiện ở

chỗ Người muốn ra nước ngoài, nhưng không phải sang phương Đông, mà sang

phương Tây, xem nước Pháp và các nước khác, rồi trở về giúp đồng bào mình. Đó

là một quyết định đúng đắn, có tính cách mạng, quyết liệt, thể hiện nhãn quan

chính trị, tư duy độc lập của một người thanh niên giàu lòng nhiệt huyết và yêu

nước chân chính.

4.1.3. Không gian văn hóa Huế góp phần hình thành ở Hồ Chí Minh năng

lực hành động cách mạng, đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho

đồng bào

Nước mất, nhà tan, dân nô lệ là bối cảnh đất nước khi Nguyễn Tất Thành sinh

ra và lớn lên. Từ quê hương Nam Đàn - Nghệ An cho đến kinh đô Huế đâu đâu

cũng diễn ra cảnh thực dân Pháp và bè lũ tay sai áp bức, bóc lột nhân dân ta. Ở đâu

có áp bức thì ở đó có đấu tranh, Trung Kỳ những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ

XX diễn ra hàng trăm cuộc đấu tranh lớn nhỏ. Thực tiễn đó từng ngày tác động đến

nhận thức và làm chuyển hóa hành động yêu nước của Hồ Chí Minh. Người khi bắt

đầu lớn lên ở cái nôi của phong trào yêu nước, bằng sự học tập của bản thân, sự gần

Page 134: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

130

gũi của quần chúng lao động và nhờ sự tác động của phong trào chống Pháp năm

1908, bắt đầu hoạt động cách mạng. Louis Arnoux - trùm mật thám Pháp xác nhận:

“Cuộc đời này (Hồ Chí Minh) như vậy là bắt đầu trong không khí bất công, oán hận

và phẫn nộ căm thù chống lại nước Pháp” [172, tr.34].

Hơn thế nữa, lối sống cố kết cộng đồng trước những khó khăn của đời sống

vật chất và những biến cố lịch sử, đặc biệt là sự sẻ chia, đùm bọc của nhân dân

Thừa Thiên Huế đối với gia đình Nguyễn Sinh Sắc trong những năm tháng khó

khăn, đã giúp Hồ Chí Minh không chỉ thấy được bản chất tốt đẹp của con người xứ

Huế, để từ đó đứng về phía đồng bào, đấu tranh bênh vực và giải phóng đồng bào,

mà còn định hình trong Người chuẩn mực đạo đức cách mạng - nền tảng của phong

cách và nhân cách Hồ Chí Minh.

Những năm tháng ở Huế, không gian văn hóa Huế đã định hình ở Hồ Chí

Minh ý thức độc lập dân tộc năng lực nhận thức và hành động, từ việc “sớm hiểu

biết và rất đau xót trước cảnh thống khổ của đồng bào” đến dấn thân, hòa mình

cùng đấu tranh với đồng bào. Chính từ cuộc sống được đùm bọc, yêu thương của

đồng bào, đến việc chứng kiến sự cùng khổ của nhân dân đã nung nấy trong Người

ý chí đấu tranh đuổi thực dân Pháp, giải phóng nhân dân, giành cuộc sống ấm no, tự

do, hạnh phúc cho đồng bào đang bị đọa đày đau khổ.

4.1.4. Không gian văn hóa Huế giúp Hồ Chí Minh đánh giá đúng sự vận

động và phát triển của dân tộc và thời đại, nhận thức được bản chất của chủ

nghĩa thực dân, phong kiến, vai trò của các phong trào yêu nước và sức mạnh

của quần chúng nhân dân

Ngay tại Kinh đô Huế, Hồ Chí Minh với lòng yêu nước thương dân và một

nhãn quan chính trị sắc sảo đã nhận thấy dã tâm xâm lược, âm mưu chia rẽ, đồng

hóa dân tộc của thực dân Pháp. Chứng kiến cảnh thực dân Pháp mượn danh “khai

hóa văn minh” để “giăng thép gai họa đồ nước Nam” đã giúp Người nhận thức rõ

hơn, sâu sắc hơn bản chất của chủ nghĩa thực dân, đó chỉ là “trò bịp lớn”, là “bọn cá

mập”, là “con đĩa hai vòi” như sau này Người kết luận. Hồ Chí Minh cũng hiểu rõ

hơn sự bạc nhược của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn, mặc dù vẫn còn một số

Page 135: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

131

vua quan, trung thần yêu nước nhưng không thể cứu nước và giải phóng dân tộc

theo cách cũ.

Với việc tham gia tích cực vào phong trào đấu tranh của nhân dân Thừa Thiên

Huế, Hồ Chí Minh thấy rõ tinh thần đoàn kết của nhân dân là sức mạnh quật khởi

lật nhào mọi thế lực đi ngược lại quyền lợi của đồng bào, dân tộc. Từ thực tiễn sinh

động ở Thừa Thiên Huế nói riêng và thực tiễn cách mạng Việt Nam nói chung, Hồ

Chí Minh đã rút ra kết luận:

Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, ở một nước thuộc địa nhỏ, với sự lãnh

đạo của giai cấp vô sản và đảng của nó, dựa vào quần chúng nhân dân

rộng rãi trước hết là nông dân và đoàn kết được mọi tầng lớp nhân dân

yêu nước trong mặt trận thống nhất,[…], nhân dân nước đó nhất định

thắng lợi [103, tr.31-32].

Với kết luận này, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ hai vấn đề: Một là, cách mạng giải

phóng dân tộc khỏi ách áp bức của đế quốc, thực dân phải có sự lãnh đạo của giai

cấp vô sản và đảng của nó chứ không phải là những phong trào tự phát của quần

chúng nhân dân, cũng không phải là xu hướng bạo động hay cải cách hòa bình như

Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh từng khởi xướng; Hai là, cách mạng là sự

nghiệp của quần chúng, vì vậy phải dựa vào nhân dân, phải đoàn kết mọi giai tầng

yêu nước vào tổ chức (Mặt trận). Theo đó, quần chúng nhân dân phải được tổ chức,

phải có tổ chức, phải có “điểm tựa” để mưu những cuộc cách mạng lớn.

4.1.5. Không gian văn hóa Huế góp phần giúp Hồ Chí Minh hình thành

năng lực xã hội hóa, thể hiện ở sự chiếm lĩnh tri thức và các luồng tư tưởng

mới trong đấu tranh chống kẻ thù xâm lược

Từ vốn kiến thức ban đầu làm cơ sở cho những hoạt động thực tiễn yêu nước

đầu tiên, Hồ Chí Minh đã sớm thích nghi, thích ứng, hòa nhập, linh hoạt trong môi

trường xã hội Huế những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX nhiều biến động.

Những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, Thừa Thiên Huế là trung tâm

chính trị, văn hóa, xã hội của Việt Nam nên các giá trị văn hóa phương Đông và

phương Tây (đặc biệt là văn hóa Pháp) và các luồng tư tưởng mới thông qua Tân

thư, Tân văn du nhập vào nước ta, thổi bùng ngọn lửa đấu tranh giành độc lập dân

Page 136: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

132

tộc của nhân dân ta. Lúc này, Hồ Chí Minh với sự mẫn cảm chính trị đặc biệt, tầm

nhìn và nhận thức của một thanh niên yêu nước, đã tiếp xúc các giá trị của văn hóa

Quốc học, Hán học và Tây học. Từ sự ảnh hưởng của các giá trị văn hóa, đặc biệt là

văn hóa Pháp, Hồ Chí Minh đã quyết định sang phương Tây theo tinh thần “muốn

đánh Pháp thì phải hiểu Pháp, muốn hiểu Pháp thì phải học chữ Pháp”. Đó là một

quyết định đúng đắn từ việc chọn hướng đi, cách đi và con đường đi, một quyết

định mà chính nước Pháp phải công nhận rằng: “sang nước Pháp, học văn hóa Pháp

chính là con đường chống lại nước Pháp”.

4.2. Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA KHÔNG GIAN

VĂN HÓA HUẾ ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI

SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH HỒ CHÍ MINH CHO CON NGƯỜI VIỆT NAM

HIỆN NAY

Triết học mácxít cho rằng, sự hình thành và phát triển nhân cách là do hai

nhân tố quyết định: nhân tố bên ngoài - những yếu tố xã hội, tính quyết định xã hội

và nhân tố bên trong - tính tích cực của chính cá nhân. Trong quá trình đó, các yếu

tố bên trong và yếu tố bên ngoài thường xuyên tác động lẫn nhau và vai trò của mỗi

yếu tố đó thay đổi trong từng giai đoạn phát triển của mỗi người. Do đó, nghiên cứu

đề tài ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự hình thành nhân cách Hồ Chí

Minh có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc chứng minh tính đúng đắn của lí

luận Mác - Lênin về nhân cách con người được hình thành và phát triển từ tồn tại xã

hội và phản ánh tồn tại xã hội.

Từ kết quả phân tích ở chương 3, chúng ta có thể thấy rằng, trong quá trình

sống gần mười năm, trước những ảnh hưởng, tác động của không gian văn hóa Huế,

Hồ Chí Minh tích lũy được những kinh nghiệm sống, niềm tin, thói quen… dựa trên

các chuẩn mực xã hội để điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp thực tiễn xã hội.

Không chỉ thế, Hồ Chí Minh còn dựa vào những cái phẩm chất cá nhân đặc biệt,

những kinh nghiệm của mình để đánh giá, tiếp nhận hay gạt bỏ cái bên ngoài tác

động vào, đặc biệt là những tư tưởng tiến bộ của văn minh phương Tây và các con

đường, xu hướng cứu nước của các bậc tiền bội. Như thế, quá trình này luôn gắn

Page 137: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

133

với năng lực tự đánh giá, tự ý thức của Hồ Chí Minh và do vậy, gắn với quá trình tự

giáo dục, quá trình thường xuyên tự hoàn thiện mình của Hồ Chí Minh.

Từ sự chỉ dẫn trên, để phát triển nhân cách Hồ Chí Minh trong đời sống hiện

nay cần phải làm rõ những giá trị của nhân cách Hồ Chí Minh, để từ đó vạch ra

những yêu cầu, nhiệm vụ và giải pháp phát huy giá trị, phát triển và lan tỏa nhân

cách Hồ Chí Minh.

4.2.1. Giá trị của nhân cách Hồ Chí Minh trong bối cảnh hiện nay

4.2.1.1. Giá trị lí luận

Đánh giá công lao to lớn của Hồ Chí Minh, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

IV của Đảng (12-1976) đã ghi nhận: “Thắng lợi to lớn của sự nghiệp chống Mĩ, cứu

nước cũng như những trang sử chói lọi của cách mạng Việt Nam ngót nửa thế kỉ

nay mãi mãi gắn liền với tên tuổi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập và rèn

luyện Đảng ta, người khai sinh nền cộng hòa dân chủ Việt Nam, người vun trồng

khối đại đoàn kết dân tộc và xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, vị lãnh tụ

thiên tài của giai cấp công nhân và nhân dân ta, người anh hùng dân tộc vĩ đại,

người chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế”. Đại hội khẳng định: “Người

đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng nhân dân, thống nhất Tổ quốc,

cho sự nghiệp của Đảng và của dân tộc, làm rạng rỡ non sông đất nước ta, để lại cho

chúng ta và các thế hệ mai sau di sản bất diệt” [36, tr.10]. Từ khi Đảng ta khẳng

định ở Đại hội VII (6-1991), “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí

Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”, Đảng cũng đã nhấn

mạnh: “Trong thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý

báu của Đảng và của cả dân tộc” [37, tr.127]. Tuy nhiên, chỉ đến Đại hội IX (4-

2001), bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lí luận của Đảng mới

được phản ánh một cách rõ nét và sáng tỏ hơn khi Đảng ta khẳng định: “Tư tưởng

Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài

sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta” [39, tr.84].

Như vậy, từ những đánh giá của Đảng ta gắn với việc nghiên cứu Hồ Chí

Minh chúng ta có thể khẳng định được rằng thắng lợi của cách mạng Việt Nam gắn

liền với sự nghiệp cách mạng, phương pháp và nhân cách cao đẹp của Hồ Chí Minh.

Page 138: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

134

Chính nhân cách và bản lĩnh Hồ Chí Minh đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến cách mạng

và dân tộc Việt Nam, thổi bùng ngọn lửa cách mạng, nhân lên nguồn sức mạnh phi

thường của dân tộc Việt Nam. Nhân cách trong di sản Hồ Chí Minh không chỉ có ý

nghĩa lịch sử mà còn mang giá trị tỏa sáng. Nhân loại đã viết về Người:

Ở con người Hồ Chí Minh, mỗi người đều thấy biểu hiện của nhân vật

cao quý nhất, bình dị nhất và được kính yêu nhất trong gia đình mình...

Nếu so sánh với vũ khí thì điều đó quan trọng không kém tất cả vũ khí

của Hạm đội 7... Hình ảnh của Hồ Chí Minh đã hoàn chỉnh với sự kết

hợp đức khôn ngoan của Phật, lòng bác ái của Chúa, triết học Mác, thiên

tài trong một dáng dấp rất tự nhiên [163, tr.109].

Nhân cách Hồ Chí Minh là sự kết tinh hài hòa những giá trị văn hóa truyền

thống của dân tộc và thời đại, của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó những nguyên

tắc, quan điểm về đạo đức, phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, vừa thể hiện

những phẩm chất, năng lực, vừa thể hiện bản lĩnh trí tuệ trong tư tưởng cách mạng

của Người. Người là hiện thân của sự thống nhất giữa động cơ chính trị cao cả với

phương pháp khoa học sáng suốt và đạo đức cách mạng trong sáng để toàn tâm toàn

ý phục vụ Tổ quốc, dân tộc, nhân dân và nhân loại. Ở con người Hồ Chí Minh toát

lên một nhân cách cao đẹp với “bản ngã mạnh mẽ, mãnh liệt, phi thường để rồi vô

ngã. Không một chút vị kỉ để vị tha. Cần kiệm liêm chính đầy đủ, vẹn toàn để chí

công vô tư đến suốt đời” [130, tr.375].

Nhân cách Hồ Chí Minh là hệ thống các chuẩn mực đạo đức, giá trị làm người

được Hồ Chí Minh tôi luyện, định hình và hoàn thiện trong thực tiễn đấu tranh cách

mạng, là “mẫu số chung của toàn dân tộc thay vì khoét sâu sự cách biệt, đặt tiến

trình xoáy trôn ốc đi lên của lịch sử trên căn bản quy tụ thay vì loại trừ” [171, tr.59].

Chính vì vậy, nhân cách Hồ Chí Minh là tài sản vô cùng quan trọng, là nền tảng tư

tưởng, lí luận cho công tác tư tưởng, tuyên truyền, giáo dục và xây dựng con người

Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.

Nhân cách Hồ Chí Minh để lại dấu ấn trong mỗi con tim, khối óc của con

người Việt Nam và nhân dân yêu chuộng hòa bình trong suốt tiến trình lịch sử phát

triển của nhân loại. Những kết tinh đó được biểu hiện qua những chuẩn mực về đạo

Page 139: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

135

đức, những nét đặc trưng về trí tuệ, phương pháp cách mạng và phong cách sống,

làm việc có giá trị to lớn góp phần xây dựng hệ chuẩn mực của con người Việt Nam

trong thời đại mới.

4.2.1.2. Giá trị thực tiễn

Nhân cách Hồ Chí Minh là các phẩm chất, năng lực, lí tưởng, ý chí kiên

cường, trí tuệ sáng suốt và tầm nhìn xa của một nhà tư tưởng, nhà hoạt động cách

mạng, nhà chính trị thiên tài, gắn với phương pháp và phong cách đặc biệt, có sức

hấp dẫn, lôi cuốn mạnh mẽ đối với quần chúng, được thể hiện qua phong cách, lối

sống của Người… Dưới sự dẫn dắt của tư tưởng, trí tuệ của Hồ Chí Minh, cách

mạng Việt Nam đã đạt được những kết quả vô cùng quan trọng trong công cuộc

thực hiện nhiệm vụ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn cách mạng Việt

Nam và thế giới đã chỉ ra rằng, nhân cách Hồ Chí Minh có ý nghĩa lịch sử và ý

nghĩa thời đại sâu sắc, không chỉ phản ánh thời đại, mà còn góp phần giải quyết

những vấn đề của thời đại, của thực tiễn đời sống đã và đang đặt ra.

Thắng lợi của cách mạng Việt Nam gắn liền với trí tuệ, phương pháp cách

mạng và nhân cách Hồ Chí Minh. Chính nhân cách, đạo đức, trí tuệ Hồ Chí Minh

đã có ảnh hưởng lớn đến cách mạng Việt Nam, đến dân tộc và nhân dân Việt

Nam, đem lại cho cách mạng, nhân dân Việt Nam sức mạnh phi thường, đưa cách

mạng Việt Nam vượt qua các cuộc kháng chiến trường chinh chống Pháp và

chống Mĩ cứu nước. Do đó, nhân cách Hồ Chí Minh không chỉ mang ý nghĩa lịch

sử mà còn mang giá trị tỏa sáng. Hồ Chí Minh với tư tưởng, phương pháp cách

mạng, cùng với nhân cách cao đẹp đã soi đường cho Đảng và nhân dân ta vững

bước trên con đường thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,

công bằng, văn minh”.

Trong bối cảnh thế giới ngày nay, nhân cách Hồ Chí Minh giúp chúng ta nhận

thức đúng đắn những vấn đề lớn liên quan đến việc xây dựng và phát triển con

người - cơ sở vững chắc để thực hiện mục tiêu “độc lập dân tộc gắn liền với chủ

nghĩa xã hội”. Người đã xây dựng lí tưởng cách mạng cho những thanh niên Việt

Nam yêu nước với 23 tư cách (thực ra là 23 chuẩn mực nhân cách) của người cách

mạng, các chuẩn mực đạo đức cách mạng để xây dựng con người Việt Nam mới,

Page 140: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

136

làm cơ sở để gây dựng phong trào cách mạng, tổ chức đấu tranh cho sự nghiệp giải

phóng dân tộc. Nhân cách, trí tuệ, phương pháp và phong cách của Người đã góp

phần quan trọng xây dựng được một Đảng cách mạng, chân chính, đoàn kết và

thống nhất. Do đó, Hồ Chí Minh mãi mãi sống với dân tộc, tư tưởng và nhân cách

cao đẹp của Người thấm sâu vào quần chúng nhân dân, chỉ đạo thực hiện có hiệu

quả những nhiệm vụ đối với thời đại.

4.2.1.3. Giá trị giáo dục, định hướng

Nhân cách Hồ Chí Minh với bản chất là hệ thống các phẩm chất, năng lực,

chuẩn mực đạo đức có vai trò giáo dục to lớn đối với cán bộ, đảng viên, học sinh,

sinh viên, nhân dân lao động. Trong lòng nhân dân Việt Nam và nhân loại tiến bộ,

Hồ Chí Minh là tấm gương của lòng nhân ái, tính giản dị và đức khiêm tốn phi

thường. Đồng thời, Người còn là tấm gương của tính quyết đoán, táo bạo… Người

là nguồn cổ vũ đối với nhân dân ngay từ hồi còn trẻ. Tấm gương của Hồ Chí Minh

là nguồn cảm hứng để cho con người không yếu đuối trong đấu tranh giành lấy

tương lai, để không dừng lại ở điều đạt được mà luôn luôn tiến lên phía trước.

Người là một con người kì diệu cho tất cả mọi thời đại, mọi người học tập, noi theo.

Nhân cách Hồ Chí Minh là tấm gương sáng ngời về ý chí cách mạng kiên

cường, tinh thần độc lập tự chủ, lòng yêu nước, thương dân tha thiết, đức cần, kiệm,

liêm, chính, chí công vô tư, tinh thần trách nhiệm, phương pháp cách mạng, tác

phong khiêm tốn, giản dị… Những phẩm chất đó vô cùng cao đẹp, cao thượng, có

giá trị giáo dục, cảm hóa, có sức lan tỏa, góp phần đào luyện đội ngũ cán bộ, đảng

viên, thanh niên, sinh viên trong chiến đấu, học tập và lao động sản xuất.

Nhân cách Hồ Chí Minh là tấm gương sáng để giáo dục, rèn luyện; là mẫu

mực, tiêu chuẩn cho sự xác định đúng sai, tốt xấu, phải trái. Suốt cuộc đời hoạt

động cách mạng, Người phấn đấu không ngừng nghỉ cho Đảng, cho cách mạng, hết

lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Người có ảnh hưởng lan tỏa sâu

rộng trong toàn Đảng và toàn dân. Từ tấm gương nhân cách Hồ Chí Minh, toàn

Đảng, toàn quân, toàn dân ta, đặc biệt là những cán bộ, đảng viên, học sinh sinh

viên ra sức tự tu dưỡng, tự rèn luyện, tự học tập để phấn đấu trở thành động lực

Page 141: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

137

quan trọng trong xây dựng và phát triển đất nước, đồng thời thực hành nhân cách

Hồ Chí Minh trong các mối quan hệ sau:

+ Đối với Tổ quốc, phải tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng, suốt

đời phấn đấu, hi sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa

cộng sản. Người cách mạng, đặc biệt là cán bộ đảng viên “không một phút nào được

quên lí tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập cho chủ

nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và trên toàn thế giới”.

+ Đối với nhân dân, phải liên hệ mật thiết với quần chúng nhân dân, phát huy

quyền làm chủ tập thể và sức mạnh sáng tạo to lớn của quần chúng. Đảng có sức

mạnh, dân tộc có trường tồn, đất nước có phồn vinh hay không đều phụ thuộc vào

việc có giữ vững được mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng, phát huy vài trò của

nhân dân hay không. Muốn liên hệ gắn bó mật thiết với quần chúng và làm cho

quần chúng tin tưởng, phải nâng cao tinh thần phụ trách trước quần chúng, hết lòng

hết sức phục vụ nhân dân. Phải yêu kính nhân dân, tôn trọng quyền làm chủ, thành

tâm học hỏi nhân dân. Phải khiêm tốn, thật thà, gần gũi quần chúng, không được

kiêu ngạo... Phải luôn chăm lo đến đời sống của quần chúng, “chí công, vô tư” và

có tinh thần “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ.

+ Đối với Đảng, phải có ý thức tổ chức và kỉ luật, phục tùng nghiêm chỉnh kỉ

luật của Đảng, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Người đòi hỏi mỗi đảng

viên cần phải làm kiểu mẫu về phục tùng kỉ luật”. Người đã chỉ rõ bài học lịch sử

“nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục

vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và

lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”.

Do đó, tất cả cán bộ, đảng viên, dù ở cương vị khác nhau, làm công tác khác nhau,

cũng đều phải đoàn kết nhất trí để làm tròn nhiệm vụ, “giữ gìn sự đoàn kết nhất trí

của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.

+ Đối với công việc, phải có năng lực để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Năng lực ở đây là sự thành thạo và hiểu biết về chính trị, giỏi về chuyên môn. Muốn

vậy, phải ra sức “học tập chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối, chính sách của Đảng,

học tập văn hóa, kỹ thuật và nghiệp vụ; không ngừng nâng cao trình độ chính trị, tư

Page 142: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

138

tưởng và năng lực công tác của mình”. Vì chỉ có học tập lí luận Mác - Lênin mới

giữ vững lập trường, củng cố niềm tin, nâng cao hiểu biết và trình độ chính trị, từ đó

mới hoàn thành tốt nhiệm vụ và đạt được các mục đích của Đảng đề ra.

Nhân cách Hồ Chí Minh là những phẩm chất và năng lực có thực, gắn với

cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, được hình thành trên cơ sơ khoa học từ

giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại, từ các nhân tố khách quan và chủ quan

cộng gộp lại… Do đó, nhân cách Hồ Chí Minh giúp cho chúng ta có cơ sở khoa học

để sống, phấn đấu và hiện thực hóa giấc mơ của mình. Đối với học sinh sinh viên,

nhân cách Hồ Chí Minh là định hướng căn bản để hoàn thiện bản thân. Người là

tấm gương sáng ngời về tinh thần tự học, tự rèn luyện và trưởng thành qua thực tiễn

cuộc sống. Do đó, học sinh sinh viên học tập và làm theo nhân cách của Người, phải

“lấy tự học làm cốt”, “không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi”, phải

coi trọng trách nhiệm tự học của mỗi người, tự học thêm để làm chủ được tri thức.

Đất nước ta đang bước vào thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá

trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới đang diễn ra

mạnh mẽ, kinh tế tri thức ngày càng có vai trò nổi bật trong quá trình phát triển

lượng sản xuất. Điều này, đòi hỏi sinh viên phải tích cực, chủ động, tự học, học

thường xuyên, học suốt đời để chiếm lĩnh được hệ thống tri thức, kĩ năng nghề

nghiệp. Tinh thần tự học, học suốt đời và nhân cách Hồ Chí Minh về trí tuệ mãi mãi

là tấm gương sáng ngời soi rọi cho mỗi chúng ta phấn đấu, rèn luyện vươn lên góp

phần xây dựng nước ta trở thành một nước giàu mạnh.

4.2.2. Một số giải pháp phát triển nhân cách Hồ Chí Minh cho con người

Việt Nam hiện nay

Phát triển nhân cách Hồ Chí Minh trong bối cảnh hiện nay là vấn đề cấp bách,

có ý nghĩa quan trọng hàng đầu, tuy nhiên nó đã và đang đối mặt với nhiều vấn đề

khi đất nước hội nhập vào thế giới có nhiều biến động. Xu thế toàn cầu hóa, hòa

bình, hợp tác phát triển được mở rộng, kinh tế tri thức, con người ngày càng được

xem trọng. Tuy nhiên, nhân loại phải đối mặt với những thử thách lớn như chiến

tranh, mâu thuẫn sắc tộc và tôn giáo, xung đột vũ trang và khủng bố... Sự bất ổn về

Page 143: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

139

kinh tế, chính trị, xã hội đã ảnh hưởng trực tiếp đến yếu tố con người và chiến lược

phát triển con người của các quốc gia dân tộc.

Ở Việt Nam, những thành tựu về kinh tế, chính trị giúp đất nước khẳng định vị

thế trên trường quốc tế, tạo các nguồn lực để hiện thực hóa mục tiêu độc lập dân tộc

và chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, thực tiễn vẫn còn tồn tại những vấn đề bức xúc

trong nhân dân. Hội nghị lần thứ chín của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X

chỉ rõ tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ

phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa được khắc phục, đạo đức xã

hội bị suy giảm, sự buông lỏng, yếu kém trong quản lí của nhiều cấp, nhiều ngành,

trên nhiều lĩnh vực... làm tăng thêm bức xúc trong nhân dân, làm giảm lòng tin của

nhân dân đối với Đảng và Nhà nước [41, tr.63-64]. Do đó, đến Đại hội XII, Đảng ta

xác định nhiệm vụ trọng tâm, có tính chiến lược là: “Phát huy nhân tố con người

trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức,

nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hóa lành

mạnh”. Trong đó, phải xây dựng mô hình nhân cách cho con người Việt Nam nói

chung, cho cán bộ, đảng viên, học sinh, sinh viên, thanh thiếu niên trong tình hiện

nay là vấn đề cấp bách, lâu dài. Tuy nhiên, mỗi thời kì cách mạng lại đòi những

phẩm chất và năng lực khác nhau. Có những phẩm chất của giai đoạn trước không

còn không còn phù hợp với giai đoạn hiện nay, có những năng lực hôm nay tốt hơn

nhưng lại chưa định hình rõ nét. Vì thế, việc xây dựng một hình mẫu nhân cách

chuẩn mực cho mọi con người Việt Nam trong tình hình mới vô cùng khó khăn.

Mặc dù khó, nhưng không có nghĩa là không làm được, từ kết quả nghiên cứu về

nhân cách Hồ Chí Minh và kết quả nghiên cứu của đề tài này, chúng ta có thể xây

dựng nhân cách Hồ Chí Minh trở thành hình mẫu nhân cách lí tưởng, với những

phẩm chất và năng lực rõ ràng, cụ thể, làm nền tảng cho công tác giáo dục, đào tạo

và bồi dưỡng con người Việt Nam trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước hiện nay. Đó là con người yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết,

cần cù, sáng tạo.

Chúng ta đều biết rằng, sự hình thành và phát triển nhân cách luôn bị quy định

bởi điều kiện kinh tế - xã hội. Sự phát triển của nhân cách với tư cách là sự phát

Page 144: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

140

triển các phẩm chất xã hội của mỗi cá nhân cũng không nằm ngoài những quy định

khách quan của điều kiện kinh tế - xã hội hiện thời mà mỗi cá nhân đó là thành viên.

Bên cạnh đó, sự hình thành và phát triển nhân cách bị quy định bởi yếu tố văn hóa

của xã hội. Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc, quê hương, gia đình có tác

động mạnh mẽ đến sự hình thành những kiểu mẫu hành vi, đến sự đánh giá và

những tình cảm đạo đức trong sáng của nhân cách. Hiệu quả của giáo dục, với tính

cách là một nhân tố phát triển nhân cách phụ thuộc rất nhiều vào kĩ năng vận dụng

những giá trị truyền thống vào hoàn cảnh xã hội mới để phục vụ xã hội và bản thân

mỗi cá nhân. Nếu mỗi cá nhân khi sinh ra và lớn lên được sống, được tiếp nhận hệ

các giá trị, hệ các chuẩn mực trong văn hóa xã hội của dân tộc, mà các giá trị, chuẩn

mực này được phản ánh trong thế giới quan, trong hệ thống tri thức xã hội, trong

những chuẩn mực về pháp lý, đạo đức, thẩm mĩ... thì nhân cách của con người được

hình thành và phát triển một cách gián tiếp thông qua quá trình giáo dục và tự giáo

dục. Do đó, để hiểu rõ nhân cách Hồ Chí Minh, chúng ta không chỉ dừng lại nghiên

cứu không gian văn hóa Huế với cấu trúc và hệ giá trị của nó, mà cần tiếp tục

nghiên cứu các không gian văn hóa khác ở trong và ngoài nước, gắn với cuộc đời

hoạt động của Hồ Chí Minh. Đồng thời, để phát triển nhân cách Hồ Chí Minh,

chúng ta không chỉ quan tâm xây dựng các không gian văn hóa, với các thiết chế

nhân văn, tiến bộ, mà còn hoàn thiện hệ thống lí luận và giá trị của nhân cách Hồ

Chí Minh.

Từ kết quả nghiên cứu của luận án này, chúng tôi đưa ra một số khuyến nghị

nhằm phát huy các giá trị của không gian văn hóa Huế và phát triển nhân cách Hồ

Chí Minh trong cộng đồng xã hội nói chung và trong giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng

nhân cách học sinh, sinh viên nói riêng hiện nay như sau:

- Trước hết, xây dựng các môi trường, không gian văn hóa, phát huy giá trị

của các không gian văn hóa gắn với quá trình hình thành, phát triển nhân cách và

hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra rằng “xã hội sản sinh con người”, hay “bản

chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”, do đó, có thể hiểu các yếu tố cấu

thành một không gian văn hóa, các mối quan hệ xã hội, đặc biệt là các giá trị và

Page 145: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

141

truyền thống văn hóa trong của các quốc gia, dân tộc, vùng miền góp phần quan

trọng hình thành nhân cách con người. Con người là chủ thể sáng tạo mọi giá trị văn

hóa, vật chất và tinh thần, vì vậy, muốn hình thành được nhân cách, con người phải

có một quá trình học hỏi, tự hoàn thiện lâu dài, thông qua giáo dục đào tạo và hoạt

động thực tiễn. Tuy nhiên, con người vừa là sản phẩm của hoàn cảnh, vừa là sản

phẩm của đời sống văn hóa xã hội, do đó cần phải xây dựng môi trường văn hóa với

những quan hệ xã hội và những giá trị văn hóa tốt đẹp, để nuôi dưỡng, bồi dưỡng và

phát triển nhân cách con người sinh trưởng trong xã hội đó. Từ sự chỉ dẫn trên, để

giáo dục bồi dưỡng nhân cách Hồ Chí Minh cho thế hệ trẻ, học sinh sinh viên, cần

phải bảo tồn, xây dựng và phát huy các giá trị của các không gian văn hóa nói

chung và không gian văn hóa Huế nói riêng.

Muốn thực hiện tốt việc phát triển nhân cách Hồ Chí Minh cho con người

Việt Nam hiện nay, một trong những yêu cầu cấp bách là phải tạo điều kiện cho

con người Việt Nam được sống và học tập trong những môi trường văn hóa,

không gian văn hóa lành mạnh. Khi môi trường sống, học tập và làm việc có văn

hóa thì nhân cách của con người có nhiều cơ hội thuận lợi để hoàn thiện, từ đó

công tác giáo dục lí tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống cho con người sẽ thuận

lợi và ngày càng đạt những kết quả tốt hơn. Nhận thức được tầm quan trọng đó,

trong Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương lần thứ chín, khóa XI, Đảng ta xác

định “xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia

đình, cộng đồng”, “mỗi địa phương, cộng đồng, cơ quan, đơn vị, tổ chức phải là

một môi trường văn hóa lành mạnh, góp phần giáo dục, rèn luyện con người về

nhân cách, lối sống”. Đến Đại hội XII, Đảng ta chủ trương: “xây dựng môi

trường văn hóa, đời sống văn hóa lành mạnh trong hệ thống chính trị, trong mỗi

địa phương, từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp,

khu công nghiệp và mỗi gia đình, góp phần giáo dục, rèn luyện con người về

nhân cách, đạo đức, lối sống”.

Trong quá trình xây dựng môi trường và không gian văn hóa phải phát huy

các giá trị nhân văn, dân chủ, tạo mọi điều kiện cho con người sống, học tập

trong bầu không khí lành mạnh, được hòa mình trong tập thể, có tình đồng chí,

Page 146: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

142

bè bạn và tôn trọng lẫn nhau. Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động, giáo dục, nâng

cao nhận thức cho con người, đặc biệt là thế hệ trẻ về công tác xây dựng, quản lí

môi trường văn hóa; về vị thế của môi trường sư phạm, sức mạnh của văn hóa

môi trường đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Trong giáo dục, cần giáo dục thế

hệ trẻ nắm vững kiến thức và thực hành pháp luật, tôn trọng pháp luật, kỉ cương

xã hội theo tinh thần “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”. Xây dựng

môi trường mà trong đó tất cả mọi người cương quyết phê phán, tích cực đấu

tranh với những biểu hiện tiêu cực, tệ nạn xã hội… Giáo dục, vận động hình

thành các phong trào văn hóa mới, phong trào từ thiện xã hội, chung sức vì cộng

đồng, phong trào xây dựng đời sống văn hóa. Tổ chức và thu hút sinh viên vào

các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao. Giáo dục cho con người Việt

Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ biết gìn giữ, bảo tồn và phát huy truyền thống, bản

sắc văn hóa quý báu của dân tộc; ý thức ngăn chặn, bài trừ sự xâm nhập của các

văn hóa phẩm đồi trụy… Tạo cơ hội cho thế hệ trẻ có những không gian vui

chơi, giải trí lành mạnh, bổ ích.

- Thứ hai, xây dựng hệ thống tư liệu về nhân cách Hồ Chí Minh để phổ biến,

giáo dục nhân cách Hồ Chí Minh trong đời sống xã hội, làm cơ sở cho việc xây

dựng chuẩn mực giá trị con người Việt Nam thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa

và hội nhập quốc tế.

Để phát triển nhân cách Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay, bên cạnh việc

xây dựng các môi trường văn hóa, không gian văn hóa, thì cần phải hệ thống hóa tri

thức về nhân cách Hồ Chí Minh, đặc biệt là phải xây dựng môn học “Nhân cách Hồ

Chí Minh” với các chuyên đề cụ thể, thiết thực, phù hợp với từng đối tượng người

học và triển khai trong toàn hệ thống giáo dục Việt Nam. Và để nhân cách Hồ Chí

Minh lan tỏa trong xã hội, cần phải chọn lọc những nội dung nhân cách Hồ Chí

Minh để xây dựng tài liệu học tập, bồi dưỡng phù hợp với từng đối tượng, thành

phần xã hội. Bên cạnh đó, cần xây dựng hệ thống thông tin tư liệu, hình ảnh, phim

truyện về chủ đề nhân cách Hồ Chí Minh để thực hiện công tác tuyên truyền, giáo

dục trong mọi thành phần dân cư, đặc biệt là đội ngũ cán bộ đảng viên, các lớp bồi

dưỡng nhận thức, cảm tình Đảng.

Page 147: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

143

Về nội dung giáo dục nhân cách Hồ Chí Minh, cần cụ thể hóa, thiết thực, hữu

ích, gắn với thực tiễn cuộc sống và các hoạt động giáo dục đạo đức, lối sống của các

tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội. Đổi mới chương trình học tập, bồi dưỡng, rèn

luyện theo hướng phù hợp với tình hình mới, chú trọng kết hợp giáo dục tri thức

gắn với rèn luyện bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống văn hóa, kĩ năng xã hội. Nhà

trường và các tổ chức đoàn thể cần thường xuyên nghiên cứu nắm bắt tình hình tư

tưởng, dư luận xã hội của học sinh sinh viên, những xu hướng, trào lưu mới trong

thể hệ trẻ để có những nội dung định hướng, giáo dục kịp thời và phù hợp, tránh

môi trường hình thành những biểu hiện xấu, tiêu cực trong nhân cách, đạo đức và

lối sống của sinh viên.

Từ việc nghiên cứu hệ thống tri thức về nhân cách Hồ Chí Minh, xây dựng

chuẩn mực giá trị con người Việt Nam thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội

nhập quốc tế là nhiệm vụ cấp bách, hàng đầu, xuyên suốt của thời kì đổi mới. Do

đó, từ Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII đến Văn kiện Đại hội XII của Đảng, mô

hình con người Việt Nam được định hình rõ nét. Theo đó, con người Việt Nam

trong giai đoạn mới gồm năm đức tính chủ yếu là: (1) Có tinh thần yêu nước, tự

cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên

đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự

nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; (2) Có ý

thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung; (3) Có lối sống lành mạnh, nếp

sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỉ cương phép nước,

quy ước của cộng đồng, có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái; (4) Lao

động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kĩ thuật, sáng tạo, năng suất cao vì lợi

ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội; (5) Thường xuyên học tập, nâng cao

hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mĩ và thể lực. Chuẩn mực giá trị con

người Việt Nam trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế là:

“phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách

nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật… hiểu biết sâu sắc, tự

hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc.., tôn vinh cái đúng, cái đẹp, cao thượng, nhân

rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn”.

Page 148: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

144

- Thứ ba, tổ chức học tập, đa dạng hóa các mô hình giáo dục, tuyên truyền,

phổ biến và lan tỏa các giá trị nhân cách Hồ Chí Minh trong toàn xã hội.

Phát triển nhân cách Hồ Chí Minh cho con người Việt Nam hiện nay, sau khi

đã xây dựng hệ thống tài liệu về Nhân cách Hồ Chí Minh, thì phải tổ chức học tập,

nghiên cứu trong toàn xã hội. Việc học tập nhân cách Hồ Chí Minh phải giúp mỗi

cán bộ, đảng viên và mọi người dân nhận thức đúng đắn về yêu cầu phải giữ gìn,

không ngừng tu dưỡng, rèn luyện nhân cách, đề cao tinh thần đoàn kết, tương thân,

tương ái, tính kỉ luật, dân chủ trong tập thể; luôn có ý thức trau dồi phẩm chất chính

trị, tư tưởng, phải thật sự là công bộc của dân, có quan hệ mật thiết với quần chúng

nhân dân. Trong công việc, người cán bộ phải nêu gương, thể hiện rõ thái độ dám

nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước tập thể, cấp dưới và nhân dân, biết tự

chỉ trích, tự phê bình để tiến bộ. Việc học tập nhân cách Hồ Chí Minh để nâng cao

nhận thức, vị trí, vai trò cho cán bộ, đảng viên phải được tiến hành thường xuyên, là

trách nhiệm của mọi tổ chức đảng và đưa vào nội dung sinh hoạt thường kì của mỗi

tổ chức đảng, đoàn thể và cơ quan, đơn vị.

Bên cạnh việc tổ chức học tập, phát triển nhân cách Hồ Chí Minh cho con

người Việt Nam trong thời kì mới cần phải đa dạng hóa các hình thức, trong đó giáo

dục và truyền truyền là giải pháp quan trọng hàng đầu, gắn với các sinh hoạt chuyên

đề, kể chuyện về tấm gương đạo đức, nhân cách Hồ Chí Minh, hội thi tìm hiểu và

sáng tác các ấn phẩm văn hóa nghệ thuật về nhân cách Hồ Chí Minh và phẩm giá

của con người Việt Nam trong thời đại mới...

Trong công tác giáo dục, tuyên truyền, phải đổi mới mạnh mẽ phương pháp,

khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo và thực

hành của người học. Thường xuyên tổ chức học tập tư tưởng và làm theo tấm gương

đạo đức, phương pháp, phong cách và nhân cách Hồ Chí Minh phù hợp với từng đối

tượng thanh niên và điều kiện hoạt động của từng địa phương, đơn vị và nhu cầu,

mong muốn của người học. Giáo dục cần kết hợp nhiều hình thức như: giới thiệu

chuyên đề, xem phim tư liệu, giao lưu với các nhân chứng lịch sử, đẩy mạnh các

hoạt động về nguồn…

Page 149: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

145

Triển khai sâu rộng các nội dung lí tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống, nhân

cách gắn với phong trào hoạt động của các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội. Tiếp

tục thực hiện tốt và đẩy mạnh hơn nữa các cuộc vận động “Học tập và làm theo tư

tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo

lời Bác”. Tăng cường giáo dục cuộc đời, tiểu sử, sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch

Hồ Chí Minh thông qua tổ chức các hoạt động nhân ngày lễ lớn, các sự kiện lớn liên

quan đến Người với các hình thức như: mít tinh, kỉ niệm, truyền thông nhóm, xem

phim tài liệu, thăm các địa chỉ đỏ, giao lưu với nhân vật lịch sử và các chuyên gia

nghiên cứu.

Phát huy, khai thác và sử dụng hiệu quả hệ thống báo chí, xuất bản, các công

cụ báo chí điện tử, trang thông tin điện tử của các tổ chức chính trị - xã hội của

Đảng, Nhà nước, các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội, tận dụng ưu thế tích cực

của các mạng xã hội trong việc tiếp cận và truyền đạt nội dung tuyên truyền định

hướng giáo dục nhân cách cho con người Việt Nam.

Trong giáo dục và tuyên truyền, phải chú trọng giải pháp nêu gương, phát huy

những hình tượng mẫu mực trong học tập, nghiên cứu và thực hành nhân cách Hồ

Chí Minh. Đây là phương pháp hiệu quả để giáo dục nhân cách cho con người Việt

Nam. Đảng, Nhà nước, nhà trường và các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội có thể

tổ chức giáo dục nhân cách học sinh sinh viên thông qua nêu gương người tốt, việc

tốt chính từ các phong trào thanh niên, trường học; nêu gương người tốt, việc tốt

trong xã hội, đặc biệt là sự gương mẫu của cha mẹ, thầy cô, của các cán bộ đoàn

thể; các hình tượng mẫu mực trong xã hội như: những lãnh tụ hết lòng vì nước vì

dân tài đức vẹn toàn, các nhà khoa học lỗi lạc, các nhà giáo tiêu biểu, nhà văn tên

tuổi, anh hùng lao động, chiến sĩ thi đua, người tốt việc tốt, những thủ lĩnh sinh

viên, sinh viên 5 tốt… Đẩy mạnh các hoạt động tôn vinh những sinh viên 5 tốt,

những sinh viên có lối sống đẹp, những sinh viên ưu tú; tham gia các hoạt động

nhân đạo từ thiện; hoạt động xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, giữ gìn an ninh

trật tự. Bên cạnh việc giáo dục nêu gương, còn nên kết hợp với việc chỉ ra và phê

phán những gương xấu để mọi người biết và tránh. Đặc biệt là cần giáo dục con

Page 150: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

146

người Việt Nam thái độ phê phán với những hành vi, lối sống và suy nghĩ tiêu cực

trong xã hội.

- Thứ tư, phát huy vai trò, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, chủ động phối

hợp các tổ chức chính trị - xã hội để xây dựng các chương trình hành động, giáo

dục, tuyên truyền nhân cách Hồ Chí Minh cho con người Việt Nam.

Từ bài học về con đường hình thành nhân cách Hồ Chí Minh bằng quá trình tự

rèn luyện cho thấy người cán bộ, đảng viên phải phát huy tinh thần tự học, sự tự tin,

bình tĩnh, quyết đoán hướng tới mục tiêu không thay đổi thông qua những con

đường khác nhau, biết giành thắng lợi từng bước, đi tới đích cuối cùng. Trước yêu

cầu của thực tiễn cách mạng, phát triển nhân cách Hồ Chí Minh phải giữ vững bản

lĩnh chính trị, triệt để chống bệnh cơ hội dưới mọi hình thức, quyết tâm, suốt đời

phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân.

Rèn luyện nhân cách theo tấm gương nhân cách Hồ Chí Minh trong sự nghiệp

đổi mới hôm nay, đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đảng viên phải gắn bó mật thiết với dân;

nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm; phải biết chăm lo dân quyền, dân sinh, dân trí

và phát huy dân chủ. Đó là những người phải biết gần dân, học dân, hiểu dân; đặt

lợi ích của nhân dân lên trên hết; việc gì cũng bàn bạc và giải thích cho nhân dân

hiểu rõ; có khuyết điểm thì thật thà tự phê bình trước nhân dân và hoan nghênh

nhân dân phê bình mình; tự mình làm gương mẫu cần kiệm liêm chính, chí công vô

tư để nhân dân noi theo. Hơn bao giờ hết, noi theo tấm gương nhân cách Hồ Chí

Minh hiện nay, cán bộ phải dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, có

gan phụ trách, có gan làm việc. Điều chủ chốt nhất của phẩm chất đạo đức đối với

mỗi cán bộ, đảng viên là quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng,

hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, “việc gì lợi cho dân thì dù nhỏ mấy cũng phải

hết sức làm, việc gì hại cho dân thì dù nhỏ mấy cũng phải hết sức tránh”. Đó là

những cán bộ yêu dân, kính dân, trọng dân, thương dân, hiểu dân như là một đòi hỏi

khách quan trong quá trình cách mạng.

Một trong những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng là phải tạo ra các

phong trào quần chúng rộng rãi. Đối với việc giáo dục nhân cách Hồ Chí Minh

trong đời sống xã hội cũng không nằm ngoài quy luật ấy, nghĩa là phải tạo thành các

Page 151: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

147

phong trào học tập, các chương trình tuyên truyền, giáo dục nhân cách Hồ Chí Minh

cho con người Việt Nam trong toàn xã hội thường xuyên, liên tục. Đó là cuộc thi

tìm hiểu, hùng biện, triển lãm các chuyên đề về tư tưởng, tấm gương đạo đức, nhân

cách Hồ Chí Minh. Đồng thời, phối hợp với nhà trường, gia đình và xã hội tăng

cường công tác giáo dục nhân cách sinh viên từ tấm gương nhân cách Hồ Chí Minh.

Bên cạnh đó, cần phát huy tính tích cực xã hội của mỗi cá nhân góp phần xây

dựng nhân cách cho con người Việt Nam. Khi bàn đến việc phát huy tính tích cực

xã hội của từng cá nhân phải tính đến việc giáo dục nhu cầu, giáo dục mục đích,

động cơ học tập, tu dưỡng, rèn luyện cho từng cá nhân. Theo đó, con người Việt

Nam muốn có một nhân cách trong sáng, trước hết mọi động cơ học tập và rèn

luyện của họ phải được xác định đúng đắn. Ngoài ra, cần chú trọng đến giáo dục

chủ nghĩa yêu nước, khơi dậy lòng tự tôn dân tộc, tinh thần cách mạng xã hội chủ

nghĩa, không những làm cho con người Việt Nam biết tự hào về truyền thống cha

ông, mà còn phải biết tự nỗ lực quyết tâm chấn hưng đất nước.

Như chúng ta đã biết, nhân cách chỉ được hình thành và phát triển thông qua

hoạt động của con người. Bởi bản chất con người, trong tính hiện thực của nó là

tổng hòa các mối quan hệ xã hội, mà những quan hệ xã hội lại chỉ có thể được bộc

lộ thông qua hoạt động của con người. Vì vậy, giáo dục để phát huy tính tích cực xã

hội của con người nói chung, thế hệ trẻ nói riêng góp phần quyết định đến quá trình

hình thành và phát triển nhân cách. Để giáo dục nhân cách cho con người Việt Nam,

các tổ chức đoàn thể cần chủ động phối kết hợp chặt chẽ với gia đình và xã hội để

phát huy vai trò của mình.

Page 152: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

148

TIỂU KẾT CHƯƠNG 4

Từ kết quả nghiên cứu ở chương 3, có thể rút ra những nhận xét về ảnh hưởng

không gian văn hóa Huế đến sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh và những biểu

hiện của nhân cách Hồ Chí Minh như là một sản phẩm từ sự tác động của tồn tại xã

hội Huế như sau: Thứ nhất, không gian văn hóa Huế góp phần hình thành tình cảm,

tư tưởng và hành động yêu nước, vun đắp tinh thần dân tộc và lí tưởng cứu nước,

cứu dân của Hồ Chí Minh; Thứ hai, hình thành cho Hồ Chí Minh năng lực chủ thể

hóa, thế giới quan, thái độ chính trị - xã hội đúng đắn, lập trường vững vàng trong

việc xác định con đường cứu nước; Thứ ba, định hình ở Hồ Chí Minh năng lực hành

động, đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho đồng bào; Thứ tư, hình thành

năng lực xã hội hóa, thể hiện ở sự chiếm lĩnh tri thức mới; Thứ năm, giúp Hồ Chí

Minh đánh giá đúng sự vận động và phát triển của dân tộc và thời đại, nhận thức

được bản chất của chủ nghĩa thực dân, phong kiến, vai trò của các phong trào yêu

nước và sức mạnh của quần chúng nhân dân... Với những kết luận đó, luận án đã

góp phần làm rõ quan điểm cho rằng nhân cách con người được hình thành và phát

triển từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội.

Nhân cách Hồ Chí Minh là hệ thống các chuẩn mực đạo đức, giá trị làm người

được hình thành qua thực tiễn rèn luyện và đấu tranh không ngừng nghỉ của Người.

Chính vì vậy, nhân cách Hồ Chí Minh là tài sản vô cùng quan trọng, là nền tảng tư

tưởng, lí luận cho công tác tư tưởng, giáo dục và xây dựng con người Việt Nam

trong thời đại mới. Do đó, để phát triển nhân cách Hồ Chí Minh, cần phải xây dựng

và phát huy giá trị của các không gian văn hóa gắn với quá trình hình thành hoạt

động cách mạng của Hồ Chí Minh; xây dựng và phổ biến hệ thống tài liệu về nhân

cách Hồ Chí Minh trong đời sống xã hội; đa dạng hóa các mô hình tuyên truyền,

giáo dục nhân cách Hồ Chí Minh, chủ động tìm kiếm, lựa chọn, xây dựng các mô

hình tuyên truyền, giáo dục phù hợp với từng ngành nghề, từng đối tượng, từng cấp

học, bậc học trong hệ thống giáo dục Việt Nam để phổ biến, lan tỏa các giá trị nhân

cách Hồ Chí Minh cho toàn xã hội nói chung và thế hệ trẻ nói riêng; đồng thời, tích

cực phối hợp với các tổ chức chính trị xã hội, các đoàn thể để xây dựng chương

trình hành động, tuyên truyền, giáo dục nhân cách Hồ Chí Minh.

Page 153: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

149

KẾT LUẬN

1. Sự hình thành và phát triển nhân cách Hồ Chí Minh là một quá trình lâu dài

và phức tạp. Trong quá trình đó, giữa các yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài, giữa

cái sinh học và cái xã hội thường xuyên tác động qua lại lẫn nhau. Trong quá trình

sống, Người tích lũy được kinh nghiệm sống, niềm tin, thói quen... và ngược lại, khi

tiếp nhận bất cứ việc gì, Người cũng dựa trên chuẩn mực xã hội để điều chỉnh hành

vi của mình cho phù hợp. Quá trình này luôn gắn với năng lực tự đánh giá, tự ý

thức, gắn với quá trình tự giáo dục, quá trình thường xuyên tự hoàn thiện mình của

Hồ Chí Minh.

2. Trong quá trình vận động và phát triển, Thừa Thiên Huế đã tự làm giàu bản

sắc văn hóa của mình bằng sự sáng tạo, giao thoa, tiếp biến các giá trị văn hóa để

hình thành một vùng văn hóa đặc trưng của Việt Nam - không gian văn hóa Huế.

Hồ Chí Minh thời niên thiếu với gần mười năm gắn bó, học tập, trải nghiệm và thực

sự trưởng thành trong mỗi bước suy nghĩ và hành động. Thực tiễn gần mười năm

sống và học tập ở Huế, không gian văn hóa Huế đã thẩm thấu và ảnh hưởng sâu sắc

đến nhận thức, hành động, đưa đến những quyết định “lạ lùng”, cũng như định hình

nhân cách người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành.

3. Những năm tháng ở Huế, Hồ Chí Minh đã chứng kiến cảnh nước mất, nhà

tan, đời sống nhân dân lầm than, tủi nhục dưới sự thống trị hà khắc của thực dân

Pháp. Anh cũng thấy rõ sự thất bại của những phong trào yêu nước của các tầng

lớp nhân dân, từ vua quan đến nhân sĩ, trí thức. Nhờ sự hòa mình trong cái nôi của

phong trào yêu nước, trưởng thành từ nền tảng giáo dục gia đình và sự miệt mài

học tập của bản thân, sự mẫn cảm đặc biệt, sự gần gũi với quần chúng lao động,

Nguyễn Tất Thành “bắt đầu hoạt động cách mạng”. Anh đã tự ý thức về trách

nhiệm của mình trước sự tồn vong của dân tộc; trăn trở, cảm thông với sự cùng

khổ của đồng bào, gắn bó với đời sống nhân dân. Đó chính là cơ sở để hình thành

hoài bão cách mạng và chí hướng cứu nước, tư tưởng đấu tranh cho hạnh phúc của

đồng bào, cũng như hình thành nhân cách của một con người mà sau này đã làm

rạng danh cả dân tộc.

Page 154: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

150

Thời kì ở Huế, trước sự tác động của văn hóa Huế, đặc biệt là sự ảnh hưởng

của thực tiễn chính trị - xã hội và các giá trị văn hóa, từ tinh thần yêu nước thương

dân, tự tôn dân tộc của vua quan, nhân sĩ yêu nước, của những thầy giáo chân chính

đến quan điểm giáo dục của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc đã góp phần định hình

phong cách sống, triết lí sống và nhân sinh quan cách mạng cho người thanh niên

Nguyễn Tất Thành. Nhân cách Hồ Chí Minh thực sự được hình thành và phát triển

từ Huế, từ sự tác động đa chiều của văn hóa Huế. Như vậy, có thể kết luận rằng

nhân cách Hồ Chí Minh là tổng hòa các quan hệ xã hội văn hóa thông qua phẩm

chất cá nhân, là kết quả từ sự tác động đa chiều của lịch sử, xã hội, văn hóa và con

người của dân tộc và thời đại, biểu hiện qua cử chỉ, hành động, phong cách của Hồ

Chí Minh. Nhân cách của người thanh niên ưu tú Nguyễn Tất Thành không tách rời

quá trình tự ý thức và ý thức về sứ mệnh của chính mình mà nền giáo dục, điều kiện

sống của môi trường và xã hội xung quanh tác động đến.

4. Với kết quả nghiên cứu của luận án, chúng ta có thể thấy môi trường và

không gian văn hóa có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành và phát triển

nhân cách con người. Sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh từ những ảnh hưởng

của không gian văn hóa Huế rất rõ nét, được thể hiện qua những đặc trưng về đạo

đức và trí tuệ, về phẩm chất và năng lực của Hồ Chí Minh là minh chứng sống động

và cụ thể. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu của luận án này, chúng tôi mong muốn

tiếp tục phát huy và lan tỏa giá trị nhân cách Hồ Chí Minh trong đời sống văn hóa

xã hội, góp phần thực hiện tốt công tác giáo dục tư tưởng, tấm gương đạo đức và

nhân cách Hồ Chí Minh trong tình hình Đảng và Nhà nước ta đã và đang đẩy mạnh

cuộc vận động học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức, phương pháp và

phong cách của Hồ Chí Minh hiện nay.

Page 155: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

151

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Nguyễn Văn Quang (2015), “Nét đặc sắc về trí tuệ trong nhân cách Hồ Chí

Minh”, Tạp chí Khoa học và Giáo dục Trường Đại học Sư phạm, Số 02

(34), tr.105-113.

2. Nguyễn Văn Quang (2015), “Đặc trưng nhân cách Hồ Chí Minh về trí tuệ”, Tạp

chí Khoa học Đại học Đồng Tháp, (14), tr.52-58.

3. Nguyễn Văn Quang (2016), “Đặc trưng nhân cách Hồ Chí Minh”, Kỷ yếu Hội

thảo khoa học Sinh viên và Cán bộ trẻ các trường Đại học Sư phạm toàn

quốc năm 2016, Nxb Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Phần II,

tr.1452-1460.

4. Nguyễn Văn Quang (2016), “Ảnh hưởng của các giá trị văn hóa Huế đến sự hình

thành tư tưởng yêu nước Hồ Chí Minh”, Tạp chí Khoa học Đại học Huế,

T.125, S.11, tr.173-181.

5. Nguyễn Văn Quang (2017), “Nhân cách Hồ Chí Minh và ý nghĩa đối với việc

giáo dục và rèn luyện cán bộ, đảng viên hiện nay”, Tạp chí Giáo dục lý

luận, (255), tr.17-21.

6. Nguyễn Văn Quang (2017), “Ảnh hưởng của văn hóa Huế đến sự hình thành nhân

cách Hồ Chí Minh”, Tạp chí Khoa học Đại học Huế, T.126, S.6, tr.95-102.

Page 156: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

152

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT

1. Ahn Kyong Hwan (2010), Chủ tịch Hồ Chí Minh qua cảm nghĩ của một người

Hàn Quốc, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế kỷ niệm 120năm ngày sinh

Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

2. A. Pát-ti (1995), Why Vietnam? (Tại sao Việt Nam?), Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.

3. Dương Văn An (2009), Ô châu cận lục, (Văn Thanh, Phan Đăng dịch), Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

4. Phan Thuận An (2005), Quần thể di tích Huế, Nxb Trẻ, Hồ Chí Minh.

5. Hoàng Anh (2014), Tỏa sáng nhân cách Hồ Chí Minh, tại trang

http://www.nxbctqg.org.vn/index.php?option=com_content&view=articl

e&id=4959:ta-sang-nhan-cach-h-chi-minh&catid=120:hc-tp-va-lam-

theo-tm-gng-o-c-h-chi-minh&Itemid=545, [truy cập ngày 17/12/2015].

6. Hoàng Anh (2014), Xây dựng con người Việt Nam theo Di chúc của Chủ tịch

Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

7. Hoàng Anh (2016), “Lý thuyết nhân cách trong triết học Mác”, Tạp chí Lý

luận chính trị và truyền thông, (6), tr.32-37.

8. Nguyễn Thế Anh (2008), Việt Nam thời Pháp đô hộ, Nxb Văn học, Hồ Chí Minh.

9. Nguyễn Thế Anh (2008), Phong trào kháng thuế ở miền Trung qua các châu

bản triều Duy Tân, Nxb Văn học, Thành phố Hồ Chí Minh.

10. Phạm Ngọc Anh (2011), “Hồ Chí Minh với hành trang và việc lựa chọn hướng

tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc”, Hội thảo khoa học Kỷ niệm

100 năm ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

11. Phạm Ngọc Anh (2014), Đặc trưng nhân cách Hồ Chí Minh - Giá trị và sức lan

tỏa, Tạp chí Tổ chức nhà nước - Bộ Nội vụ, tại trang http://tcnn.vn/

Plus.aspx/vi/News/125/0/1010087/0/8000/Dac_trung_nhan_cach_Ho_C

hi_Minh_gia_tri_va_suc_lan_toa, [truy cập ngày 27/10/2015].

Page 157: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

153

12. Nguyễn Phúc Vĩnh Ba (2008), Lễ tế âm hồn thất thủ Kinh đô 23.5 (Ất Dậu) -

Một nét văn hóa độc đáo của xứ Huế, tại trang http://www.vanhoahoc.vn/

nghien-cuu/van-hoa-viet-nam/van-hoa-to-chuc-doi-song-ca-nhan/633-

nguyen-phuc-vinh-ba-le-te-am-hon-that-thu-kinh-do.html, [truy cập ngày

21/12/2015].

13. Lương Gia Ban, Hoàng Trang (2014), Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh với

việc xây dựng nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

14. Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng

Lao động Việt Nam (1970), Chủ tịch Hồ Chí Minh (Tóm tắt tiểu sử và sự

nghiệp), Nxb Sự thật, Hà Nội.

15. Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương (2002), Chủ tịch Hồ Chí Minh -

Tiểu sử và sự nghiệp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

16. Đỗ Bang (2014), “Thừa Thiên Huế - Đất học và tài năng”, Tạp chí Huế Xưa &

Nay, (126), tr.73-82.

17. Đỗ Bang (2014), “Văn hóa Huế - Đặc điểm lịch sử và vấn đề bảo tồn, phát

triển”, Tạp chí Huế Xưa & Nay, (127), tr.51-58.

18. Huỳnh Công Bá (2008), Lịch sử Văn hóa Việt Nam, Nxb Thuận Hóa, Huế.

19. Bảo tàng Hồ Chí Minh (2008), Hồ Chí Minh Tiểu sử, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

20. Bảo tàng Hồ Chí Minh, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Thừa Thiên Huế, Bảo

tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế (2008), Kỷ yếu Hội thảo khoa học

“Nghiên cứu, xác minh tư liệu và di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh thời kì

1890 - 1911”, Nxb Thuận Hóa, Huế.

21. Bảo tàng Hồ Chí Minh, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Thừa Thiên Huế, Bảo

tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế (2013), Kỷ yếu Hội thảo khoa học

“Xác minh khoa học thông tin về những người thân của Chủ tịch Hồ Chí

Minh sống học tập, lao động và tham gia các hoạt động yêu nước ở

Huế”, Nxb Thuận Hóa, Huế.

Page 158: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

154

22. Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế (2003), Âm vang thời Bác Hồ ở Huế,

Nxb Thuận Hóa, Huế.

23. Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế (2008), Phong trào kháng thuế của

nông dân miền Trung Việt Nam năm 1908 và sự tham gia đấu tranh của

anh Nguyễn Tất Thành (Chủ tịch Hồ Chí Minh) tại Thừa Thiên Huế, Nxb

Thuận Hóa, Huế.

24. Lê Thanh Bình (2008), “Tân văn - Tân thư và ảnh hưởng của nó đến tư tưởng

yêu nước ở Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX”, Hội thảo khoa học Tư tưởng

triết học Việt Nam trong bối cảnh du nhập, Nxb Đại học quốc gia Hà

Nội, Hà Nội, tr.157-170.

25. Trần Thái Bình (2009), Hồ Chí Minh sự hình thành một nhân cách lớn, Nxb

Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

26. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2015), Quyết định số 410/QĐ-BGDĐT về việc Ban

hành Kế hoạch triển khai Quyết định số 1501/QĐ-TTg ngày

28/8/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Tăng cường giáo

dục lí tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống cho thanh niên, thiếu niên và

nhi đồng giai đoạn 2015 - 2020” của ngành Giáo dục.

27. C.P. Ra-giô (1970), Hồ Chí Minh, Nxb Đại học, Paris.

28. Lê Thanh Cảnh (1970), “Dưới mái trường Quốc Học”, Hoài niệm Quốc học,

tập II, Huế.

29. Lê Thanh Cảnh (2008), “Dưới mái tranh trường Quốc học những năm 1906-

1911”, Nghiên cứu Huế, Trung tâm nghiên cứu Huế, (6), tr.288-301.

30. Cô-bê-lép Ép-ghê-nhi Va-xi-lê-vích (2010), Đồng chí Hồ Chí Minh, Nxb

Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

31. Phạm Thị Dung (2009), Huế Qua miền di sản, Nxb Thuận Hóa, Huế.

32. Phạm Đức Thành Dũng (2014), Giới thiệu di sản văn hóa Huế, tại trang

http://www.hueworldheritage.org.vn/TTBTDTCDH.aspx?TieuDeID=35

&TinTucID=8&l=vn, [truy cập ngày 27/6/2015].

33. Phan Tiến Dũng (2015), “Văn hóa Huế trong dòng chảy văn hóa Việt”, Tạp

chí Văn hóa Huế, (30), tr.10-13.

Page 159: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

155

34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Chỉ thị số 42-CT/TW của Ban Bí thư

về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lí

tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ giai đoạn

2015 - 2030”, Hà Nội.

35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp

hành Trung ương khóa X về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với

công tác thanh niên thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”,

Hà Nội.

36. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội.

37. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.

38. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp

hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

39. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

40. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

41. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Văn kiện Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành

Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

42. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

43. Nguyễn Văn Đăng (2016), “Một số dòng họ khoa bảng, làm quan tiêu biểu ở

Thừa Thiên Huế”, Tạp chí Huế Xưa & Nay, (133), tr.13-21.

44. Trần Kiêm Đoàn (2004), Vài nét về bản sắc văn hóa Huế, tại trang

http://trankiemdoan.net/butluan/vanhoc-nghethuat/vanhoahue.html, [truy

cập ngày 27/6/2015].

45. Phạm Văn Đồng (1994), Văn hóa và đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

46. Phạm Văn Đồng (1998), Những nhận thức cơ bản về Tư tưởng Hồ Chí Minh,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Page 160: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

156

47. Bùi Minh Đức (2004), Từ điển tiếng Huế (tiếng Huế - người Huế - văn hóa Huế),

Nxb Văn học - Trung tâm nghiên cứu Quốc học, Thành phố Hồ Chí Minh.

48. Võ Nguyên Giáp (chủ biên) (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách

mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

49. Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam,

Nxb Khoa học xã hội, Thành phố Hồ Chí Minh.

50. Trần Văn Giàu (1993), Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỉ XIX đến

Cách mạng Tháng Tám, tập III - Thành công của chủ nghĩa Mác -

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố

Hồ Chí Minh.

51. Trần Văn Giàu (1997), Sự hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

52. Trần Văn Giàu (2009), Vĩ đại một con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

53. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng (chủ biên) (2009), Vàng trong lửa - Chủ tịch

Hồ Chí Minh với miền Nam Tổ quốc, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí

Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

54. Trần Văn Giàu (2010), Hồ Chí Minh - Chân dung một tâm hồn và trí tuệ vĩ

đại, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

55. Bùi Thị Thu Hà (2009), Kể chuyện về cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, Nxb Từ

điển Bách khoa, Hà Nội.

56. Hồng Hà (2007), Thời thanh niên của Bác Hồ, Nxb Thông tấn, Hà Nội.

57. Phan Thanh Hải (2010), “Huế trong nghìn năm Thăng Long - Hà Nội”, Tạp

chí Huế xưa và nay, (101), tr.11-19.

58. Đỗ Đình Hãng (2007), Lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

59. Phạm Minh Hạc (2008), Nhân cách Hồ Chí Minh - Những giá trị thiết yếu trong

hệ giá trị Việt Nam, tại trang http://ihs.vass.gov.vn/noidung/tapchi/Lists/

CacNCTruoc2011/View_Detail.aspx?ItemID=99, [truy cập ngày 20/10/2016].

60. Nguyễn Hồng Hạnh (2011), “Chủ tịch Hồ Chí Minh và người Huế”, Tạp chí Văn

hóa Huế, (14), tr.6-8.

Page 161: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

157

61. Nguyễn Xuân Hoa (2001), “Di sản văn hóa cố đô Huế”, Nghiên cứu Huế, Trung

tâm nghiên cứu Huế, (2), tr.72-78.

62. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2010), Di sản Hồ Chí Minh trong thời

đại ngày nay, Hội thảo quốc tế kỷ niệm 120 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí

Minh (19-5-1890 - 19-5-2010), Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

63. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2011), Hội thảo khoa học Kỷ niệm

100 năm ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước, Nxb Chính trị - Hành

chính, Hà Nội.

64. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh

- Biên niên tiểu sử, tập 1 (1890-1929) (2006), Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

65. Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Song Thành (chủ

biên) (2010), Hồ Chí Minh tiểu sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

66. Phạm Khắc Hòe (2010), Kể chuyện vua quan nhà Nguyễn, Nxb Thuận Hóa, Huế.

67. Hội đồng lý luận trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn

khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình tư

tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội.

68. Hội Khoa học Lịch sử Tỉnh Thừa Thiên Huế (2010), Thuận Hóa - Phú Xuân -

Thừa Thiên Huế - 700 năm hình thành và phát triển, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

69. Thanh Huế (2011), “Nơi đặt nền móng đầu tiên cho chặng đường cứu nước của

Hồ Chủ tịch”, Báo Giáo dục và Thời đại, tr.6.

70. Chu Trọng Huyến (2007), Kể chuyện về gia thế chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb

Thuận Hóa, Huế.

71. Chu Trọng Huyến (2008), Chuyện kể từ Làng Sen, Nxb Văn học, Hà Nội.

72. Nguyễn Đắc Hưng (2009), Việt Nam văn hóa và con người, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

73. I-gơ-na-xi-ô Gôn-xa-lết Han-xen (2010), “Tinh thần Hồ Chí Minh ở Mỹ

Latinh”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế kỷ niệm 120 năm ngày sinh

Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

Page 162: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

158

74. Đinh Gia Khánh (1995), Các vùng văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.

75. Nguyễn Thế Kiệt (2014), Triết học thẩm mĩ về nhân cách, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

76. Lady Borton (2003), Hồ Chí Minh - Một chân dung (bản dịch của Tạ Đức),

Nxb Thanh niên, Hà Nội.

77. Đinh Xuân Lâm (2001), “Về con đường cứu nước của Hồ Chí Minh”, Tạp chí

Lịch sử Đảng, (128), tr.10-13.

78. Đinh Xuân Lâm (chủ biên), Nguyễn Văn Khánh và Nguyễn Đình Lễ (2006),

Đại cương cương lịch sử Việt Nam, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

79. Leonchiev A.N. (2003), Hoạt động - Ý thức - Nhân cách, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

80. Phan Huy Lê (2008), Báo cáo đề dẫn tại Hội thảo khoa học Chúa Nguyễn và

vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XIX,

Nxb Thế giới, Hà Nội.

81. Phan Ngọc Liên (2014), Hồ Chí Minh từ nhận thức lịch sử đến hành động

cách mạng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

82. Lê Đình Liễn (1978), Tìm hiểu về quãng đời niên thiếu của Bác Hồ, Thông tin

khoa học, Đại học Tổng hợp Huế, Huế.

83. Lê Đình Liễn (1983), Vài nhận xét về phong trào kháng thuế của nhân dân

Thừa Thiên Huế năm 1908, Thông tin khoa học, (05), Đại học Tổng hợp

Huế, Huế.

84. Đỗ Long (chủ biên) (1995), Hồ Chí Minh - Những vấn đề tâm lí học, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

85. Đỗ Long (1998), Hồ Chí Minh - Những vấn đề tâm lí học, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

86. Thi Long (2010), Nhà Nguyễn chín chúa mười ba vua, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.

87. Lê Nguyễn Lưu (2006), Văn hóa Huế xưa - Đời sống văn hóa gia tộc, Nxb

Thuận Hóa, Huế.

88. Lê Nguyễn Lưu (2006), Văn hóa Huế xưa - Đời sống văn hóa làng xã, Nxb

Thuận Hóa, Huế.

89. Lê Nguyễn Lưu (2006), Văn hóa Huế xưa - Đời sống văn hóa cung đình, Nxb

Thuận Hóa, Huế.

Page 163: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

159

90. Lê Nguyễn Lưu (2015), “Tinh thần hiếu học của cư dân Huế”, Tạp chí Huế

Xưa & Nay, (131), tr.55-58.

91. Mật thám Trung kỳ, Bộ hồ sơ Mật thám Pháp có liên quan đến gia đình và

thời niên thiếu của Nguyễn Ái Quốc (gồm 21 tài liệu, lưu tại Bảo tàng Hồ

Chí Minh Tỉnh Thừa Thiên Huế).

92. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

93. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

94. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

95. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

96. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

97. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

98. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

99. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

100. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

101. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

102. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

103. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

104. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

105. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 14, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

106. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

107. Trình Mưu (1994), “Hồ Chí Minh và sự chủ động sáng tạo trong việc lựa chọn

con đường cứu nước”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (57), tr.26-28.

108. N. Khơ-rút-sốp (1971), Hồi ký, Nxb Robert Lafont, Pari.

109. Bá Ngọc (2002), 79 mùa xuân Hồ Chí Minh, Nxb Nghệ An, Nghệ An.

110. Nguyễn Quang Ngọc (chủ biên) (2009), Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

111. Phan Ngọc (1998), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

112. Phan Ngọc (2006), Sự tiếp xúc văn hóa Việt Nam với Pháp, Nxb Văn hóa

thông tin, Hà Nội.

113. Nguyễn Tri Nguyên (2006), Văn hóa tiếp cận lý luận và thực tiễn, Nxb Văn

hóa thông tin, Hà Nội.

Page 164: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

160

114. Thái Công Nguyên (chủ biên) (1999), Huế - Di sản văn hóa thế giới, Trung

tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, Huế.

115. Trần Nhâm (2011), Hồ Chí Minh - Nhà tư tưởng thiên tài, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

116. Nguyễn Khắc Nho (2009), Hồ Chí Minh - Đỉnh cao truyền thống Nhân - Trí -

Dũng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

117. Không rõ tên (1982), Ông già Bến Ngự, Nxb Thuận Hóa, Huế.

118. Không rõ tên (2003), Những người bạn cố đô Huế, tập XVIII, năm 1931, Nxb

Thuận Hóa, Huế.

119. Hoàng Phê (chủ biên) (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.

120. Nguyễn Khắc Phê (1995), Lê Văn Miến người họa sĩ đầu tiên, người thầy đầu

tiên, Nxb Thuận Hóa, Huế.

121. Bùi Đình Phong (2008), Hồ Chí Minh học và minh triết Hồ Chí Minh, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

122. Bùi Đình Phong (2015), Hồ Chí Minh học - Văn hóa soi đường cho quốc dân

đi, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

123. Đinh Phong (chủ biên) (1999), Huế đẹp - Huế thơ (Nhớ Huế - tập 4), Nxb Trẻ,

Thành phố Hồ Chí Minh.

124. Trần Nguyễn Khánh Phong (2016), “Truyền thống khuyến học nét đặc trưng

của văn hóa Huế”, Tạp chí Huế xưa và nay, (137), tr.19-30.

125. Nguyễn Văn Quang (2014), Giá trị của nhân cách Hồ Chí Minh đối với việc

giáo dục sinh viên Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế, Đề tài khoa

học công nghệ độc lập cấp trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế, Huế.

126. Quốc Sử Quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam nhất thống chí, tập 1 (bản dịch

của Viện sử học), Nxb Thuận Hóa, Huế.

127. Quốc Sử Quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập 1, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

128. Dương Kinh Quốc, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Sử học (2005),

Chính quyền thuộc địa ở Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám 1945

(Góp phần tìm hiểu cơ sở lịch sử - xã hội Việt Nam thời kì thực dân Pháp

thống trị), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

Page 165: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

161

129. Quyết định số 143/2007/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt Đề án

xây dựng thành phố Huế thành phố Festival, Hà Nội, ngày 30/8/2007.

130. Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo (Đồng chủ biên) (2017), Nghiên cứu chủ thuyết

phát triển của Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc

gia Sự thật, Hà Nội.

131. Shiraishi Masaya (2000), Phong trào dân tộc Việt Nam và quan hệ của nó với

Nhật Bản và châu Á: Tư tưởng của Phan Bội Châu về cách mạng và thế

giới, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

132. Đặng Đức Siêu (2002), Hành trình văn hóa Việt Nam (giản yếu), Nxb Lao

động, Hà Nội.

133. Lê Quang Sơn (2010), “Những vấn đề của Tâm lí học nhân cách”, Tạp chí

Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng, (39), tr.83-92.

134. Trần Đức Anh Sơn (2008), Huế - Triều Nguyễn. Một cái nhìn, Nxb Văn hóa

thông tin, Hà Nội.

135. Thành uỷ Huế (2010), Bác Hồ trong lòng dân Huế, Nxb Thuận Hóa, Huế.

136. Mạch Quang Thắng (chủ biên) (2010), Nhân cách Hồ Chí Minh, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

137. Mạch Quang Thắng (2013), “Nhân cách Hồ Chí Minh”, Tạp chí Lịch sử Đảng,

(6), tr.31-36.

138. Trần Ngọc Thêm (1996), Tìm hiểu bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Thành phố

Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

139. Trần Ngọc Thêm (2000), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

140. Ngô Đức Thịnh (2006), Văn hóa, văn hóa tộc người và văn hóa Việt Nam, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

141. Ngô Đức Thịnh (2009), Bản sắc văn hóa vùng ở Việt Nam, Nxb Giáo dục Việt

Nam, Hà Nội.

142. Dương Phước Thu (2005), “Không gian văn hóa Huế”, Tạp chí Sông Hương,

(196), tại trang http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c144/n1528/Khong-

gian-van-hoa-Hue.html, [truy cập ngày 20/8/2015].

143. Nguyễn Khắc Thuần (2012), Đại cương lịch sử văn hóa Việt Nam (Tập 5 - Văn

hóa Việt Nam thế kỉ XIX), Nxb Thời đại, Hồ Chí Minh.

Page 166: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

162

144. Trịnh Trí Thức, Đỗ Thị Hòa Hới (2007), Sự chuyển biến của tư tưởng yêu nước

Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại nửa đầu thế kỉ XX, tại trang

http://philosophy.vass.gov.vn/nghien-cuu-theo-chuyen-de/Triet-hoc-Viet-

Nam/Su-chuyen-bien-cua-tu-tuong-yeu-nuoc-Viet-Nam-tu-truyen-thong-

den-hien-dai-nua-dau-the-ky-XX-377.html, [truy cập ngày 17/6/2015].

145. Nguyễn Thị Thường (2008), Giáo trình Văn hóa học, Nxb Đại học Sư phạm,

Hà Nội.

146. Nguyễn Yên Thy (2013), Làng Sen năm ấy, tại trang http://nld.com.vn/van-hoa-

van-nghe/lang-sen-thang-nam-55767.htm, [truy cập ngày 22/12/2015].

147. Trần Dân Tiên (1975), Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch,

Nxb Thanh niên, Hà Nội.

148. Trần Nam Tiến (chủ biên) (2008), 79 Câu hỏi đáp về thời niên thiếu của Bác

Hồ, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

149. Tiểu ban nghiên cứu Lịch sử Đảng tỉnh ủy Nghệ An (2002), Hồ Chí Minh thời

niên thiếu, Nxb Nghệ An, Nghệ An.

150. Trương Minh Trai (2010), Giáo trình Tổng quan Văn hóa Huế, Nxb Đại học

Huế, Huế.

151. Nguyễn Đài Trang (2010), Hồ Chí Minh - Tâm và tài của một người yêu nước,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

152. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia - Ủy ban quốc gia

UNESCO của Việt Nam (1995), Hội thảo quốc tế Chủ tịch Hồ Chí minh

- Anh hùng giải phong dân tộc, nhà văn hóa lớn, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

153. Trung tâm Nghiên cứu Quốc học (2005), Tiếng Huế - Người Huế & Văn Hóa

Huế, Nxb Văn học, Hà Nội.

154. Đặng Xuân Trừng (1996), “100 năm Trường Quốc học Huế”, Tạp chí Sông

Hương, (9), tr.2-4.

155. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội

(1997), Tân thư và xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Page 167: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

163

156. Trường Quốc học - Sở Văn hóa Thông tin Thừa Thiên Huế (1990), Trường

Quốc học - Học sinh Huế với Bác Hồ (Đặc san Kỷ niệm 100 năm ngày

sinh Bác Hồ, Huế.

157. Trần Minh Trưởng (2009), Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu Đề tài cấp cơ

sở năm 2009, Ảnh hưởng của các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp

của dân tộc đến sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, Hà Nội.

158. Đào Thế Tuấn (2002), “Một vài ý nghĩa về bản chất văn hóa Huế”, Nghiên cứu

Huế, Trung tâm nghiên cứu Huế, (3), tr.39-43.

159. Từ điển triết học (1986), Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

160. Hoàng Phủ Ngọc Tường (1988), “Phác thảo về quá trình phát triển của văn hóa

Phú Xuân - Thời kì thành Hóa Châu”, Tạp chí Sông Hương, (30), tr.75-76.

161. Nguyễn Mạnh Tường (2001), Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

162. Vladimir N. Kolotov (2015), “Hệ tư tưởng Hồ Chí Minh - Hợp phần then chốt

của thắng lợi và cải cách thành công của Việt Nam”, Đặc san Hồ Chí

Minh học, (2).

163. Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam (1990), Kỷ yếu Hội thảo Hồ Chí Minh -

Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

164. Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học Sài Gòn (2011),

Kỷ yếu Hội thảo khoa học toàn quốc “Một thế kỉ Bác Hồ ra đi tìm đường

cứu nước” (5/6/1911 - 5/6/2011), Thành phố Hồ Chí Minh.

165. Ủy ban nhân dân thành phố Huế (1999), Huế, văn hóa làng - văn hóa đô thị, Huế.

166. Ủy ban nhân dân Tỉnh Thừa Thiên Huế, Địa chí Thừa Thiên Huế, tại trang

http://www.thuathienhue.gov.vn/vi-vn/Dư-địa-chí, [truy cập ngày

25/10/2015].

167. Ủy ban nhân dân Tỉnh Thừa Thiên Huế (2005), Địa chí Thừa Thiên Huế, Phần

Tự nhiên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

168. Ủy ban nhân dân Tỉnh Thừa Thiên Huế (2005), Địa chí Thừa Thiên Huế, Phần

Lịch sử, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

Page 168: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

164

169. Ủy ban nhân dân Tỉnh Thừa Thiên Huế (2010), Hội thảo khoa học lịch sử

Tỉnh Thừa Thiên Huế, Hà Nội - Huế - Sài Gòn, là cây một cội, là con

một nhà, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

170. Viện Hồ Chí Minh (1993), Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, tập 1, Hà Nội.

171. Viện Hồ Chí Minh (1993), Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, tập 2, Hà Nội.

172. Viện Hồ Chí Minh (1993), Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, tập 3, Hà Nội.

173. Viện Văn hóa thông tin, Phân viện nghiên cứu văn hóa thông tin tại Huế

(2004), Tiếp cận văn hóa nghệ thuật miền Trung, Huế.

174. Phạm Hồng Việt (1995), Bác Hồ với miền núi Ngự sông Hương, Nxb Thuận

Hóa, Huế.

175. Trần Anh Vinh (2010), “Chủ tịch Hồ Chí Minh qua những mối quan hệ và gặp

gỡ với Phan Bội Châu”, Tạp chí Sông Hương, (259), tr.3-8.

176. Trần Đại Vinh (2014), “Đôi nét khái quát về văn hóa Thừa Thiên Huế”, Tạp chí

Nghiên cứu và phát triển, (116-117), tr.17-28.

177. Đức Vượng (1993), Quá trình hình thành tư tưởng yêu nước của Hồ Chí

Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

178. Trần Quốc Vượng (1994), “Bản sắc văn hóa dân tộc qua sắc thái Huế”, Tạp chí

Sông Hương, (5), tr.69-70.

179. Trần Quốc Vượng (1997), Cơ sở Văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

180. Nguyễn Đắc Xuân (sưu tầm và biên soạn) (1986), Hương Giang cố sự, Tủ

sách Sông Hương, Huế.

181. Nguyễn Đắc Xuân (1997), Văn hóa cố đô, Nxb Thuận Hóa, Huế.

182. Nguyễn Đắc Xuân (2006), Kiến thức về Triều Nguyễn và Huế xưa, Nxb Thuận

Hóa, Huế.

183. Nguyễn Đắc Xuân (2007), Bác Hồ thời niên thiếu ở Huế, Nxb Trẻ, Hồ Chí Minh.

184. Nguyễn Đắc Xuân, Trung tâm Nghiên cứu Quốc Học (2008), Đi tìm dấu tích

thời niên thiếu của Bác Hồ ở Huế, Nxb Văn học, Thành phố Hồ Chí Minh.

185. Nguyễn Đắc Xuân (2009), 700 năm Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế, Nxb Trẻ,

Thành phố Hồ Chí Minh.

186. Nguyễn Văn Xuân (1995), Phong trào Duy Tân, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.

Page 169: HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH … _ Nguyen Van Quang _nop QD_.pdfNGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG 2 ... là công trình

165

B. TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG NƯỚC NGOÀI

187. Bernard (1967), Ho Chi Minh on Revolution, Frederick A. Praeger.

188. Charles Fourniau (1970), Ho Chi Minh notre camarade, Sociales, Paris.

189. David Halbertam (1971), Ho, Vintage book, New York.

190. Daniel Hémery (1975), Du patriotisme au Mexisme, P.Les éd, uovriercs.

191. Jean Lacouture (1970), Ho Chi Minh, Seuil, Paris.

192. Jean Lacouture (1968), Ho Chi Minh, A Political Biography, Random

House, New York.

193. Jean Sainteny (1970), Face à Ho Chi Minh, Seghers, Paris.

194. Paul Mus (1971), Ho Chi Minh, Le Vietnam, L'Asie, Seuil, Paris.

195. William J. Duiker (2000), Ho Chi Minh a life, Hyperion, New York.