hỌc viỆn chÍnh trỊ quỐc gia hỒ chÍ minh … _ nguyen van quang _nop qd_.pdfngƯỜi...
TRANSCRIPT
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN VĂN QUANG
KHÔNG GIAN VĂN HÓA HUẾ
VỚI SỰ HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH HỒ CHÍ MINH
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC
HÀ NỘI - 2017
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN VĂN QUANG
KHÔNG GIAN VĂN HÓA HUẾ
VỚI SỰ HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH HỒ CHÍ MINH
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC
Mã số: 62 31 02 04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG
2. TS. LÝ VIỆT QUANG
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa
học của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong
luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn
đầy đủ theo quy định.
Tác giả
Nguyễn Văn Quang
MỤC LỤC
Trang MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI LUẬN ÁN 7
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 7
1.2. Những vấn đề kế thừa và định hướng triển khai của đề tài 24
Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ NHÂN CÁCH HỒ CHÍ
MINH VÀ KHÔNG GIAN VĂN HÓA HUẾ 28
2.1. Nhân cách Hồ Chí Minh 28
2.2. Không gian văn hóa Huế 40
Chương 3: ẢNH HƯỞNG CỦA KHÔNG GIAN VĂN HÓA HUẾ ĐẾN
SỰ HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH HỒ CHÍ MINH 78
3.1. Một số yếu tố của không gian văn hóa Huế ảnh hướng đến sự hình
thành nhân cách Hồ Chí Minh 78
3.2. Biểu hiện của nhân cách Hồ Chí Minh từ ảnh hưởng của không gian văn
hóa Huế 104
Chương 4: Ý NGHĨA CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ĐỐI VỚI SỰ
PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH HỒ CHÍ MINH CHO CON NGƯỜI
VIỆT NAM HIỆN NAY 127
4.1. Một số nhận xét về ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự hình
thành nhân cách Hồ Chí Minh 127
4.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế
đến sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh đối với sự phát triển nhân
cách Hồ Chí Minh cho con người Việt Nam hiện nay 132
KẾT LUẬN 149
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa kiệt
xuất của Việt Nam. Người tượng trưng cho tinh hoa của dân tộc, cho ý chí kiên
cường, bất khuất của con người Việt Nam trong công cuộc dựng xây đất nước. Với
nhân cách cao đẹp, Hồ Chí Minh đã để lại những dấu ấn sâu đậm trong dòng chảy
lịch sử nhân loại, góp phần làm phong phú và phát triển những giá trị chung của loài
người. Vì vậy, nghiên cứu nhân cách Hồ Chí Minh sẽ góp phần làm sáng tỏ những
giá trị đặc sắc của Hồ Chí Minh.
Nhân cách Hồ Chí Minh được hình thành và phát triển từ sự tác động - ảnh
hưởng đa chiều của các điều kiện kinh tế, lịch sử, môi trường văn hóa, xã hội và con
người của những nơi Người từng sống, học tập, làm việc, được biểu hiện qua tư
tưởng và hành động. Trong các không gian văn hóa ảnh hưởng đến sự hình thành và
phát triển nhân cách Hồ Chí Minh, Huế có vị trí đặc biệt quan trọng. Nơi đây hội tụ
tinh hoa văn hóa dân tộc, đồng thời cũng là vùng văn hóa mang sắc thái và dấu ấn
đặc trưng của văn hóa cung đình quyện hòa với văn hóa dân gian, Người cùng gia
đình sinh sống trong một khoảng thời gian khá dài, thời gian bắt đầu hình thành nhân
cách trước khi ra đi tìm đường cứu nước.
Tại kinh đô Huế, sự biến động về kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội đã tác
động mạnh mẽ đến Hồ Chí Minh. Bằng sự mẫn cảm của người học trò thông minh,
sự khát khao tìm tòi học hỏi, chiếm lĩnh tri thức mới, Người sớm thâu nhận những
giá trị của văn hóa Huế, tinh hoa văn hóa của dân tộc và nhân loại. Đó là truyền
thống yêu nước, thương dân, khát vọng độc lập, tự do; lối sống đoàn kết, thương
yêu, đùm bọc trong khó khăn hoạn nạn; lòng tự hào, tự tôn dân tộc của những vị vua
yêu nước, của những thầy dạy học và những nhà cách mạng tiền bối; tư tưởng “Tự
do, Bình đẳng, Bác ái” của văn hóa Pháp; tư tưởng dân tộc, dân chủ của Tân văn,
Tân thư... Để từ đó, Hồ Chí Minh có bước trưởng thành hơn trong suy nghĩ và hành
động, trực tiếp tham gia phong trào Duy Tân, đấu tranh chống thuế cùng nhân dân
Thừa Thiên. Những nhân tố quan trọng đó đã tác động mạnh mẽ đến sự hình thành
và phát triển nhân cách Hồ Chí Minh.
2
Thời kì Hồ Chí Minh ở Huế cũng là khoảng thời gian không chỉ để lại những
kỉ niệm đẹp về tuổi thơ hồn nhiên, về cuộc sống đầm ấm bên sự giáo dưỡng của
cha, sự yêu thương, đùm bọc của mẹ và làng xóm láng giềng… mà còn là nơi ghi
dấu những kỉ niệm đau buồn, mất mát về sự ra đi của người mẹ kính yêu, tiếng khóc
của em thơ khát sữa. Trên hết, chính nhờ sự giáo dục và nền nếp của một gia đình
nhà Nho yêu nước cùng với tinh thần yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, lối sống trọng
nghĩa trọng tình, đoàn kết, tương ái của văn hóa và con người xứ Huế, đã hun đúc
và hình thành nên nhân cách của một con người mà tương lai làm rạng danh cả một
dân tộc.
Thời gian sống ở Huế, tiếp nối văn hóa xứ Nghệ, văn hóa Huế đã thẩm thấu và
ảnh hưởng sâu sắc đến nhận thức, hành động, góp phần quan trọng định hình nhân
cách của người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành. Đúng như lời khẳng định
của Phạm Văn Đồng: “Thời gian ở Huế là thời gian Nguyễn Tất Thành lớn lên và
bắt đầu đi học. Những năm tháng đó là thời gian cực kỳ quan trọng đối với sự hình
thành con người Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, thời gian hình thành một con
người lạ lùng, với những ý tưởng lạ lùng, đưa đến những thành tựu lạ lùng” [172,
tr.6]. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có nhiều công trình nghiên cứu, luận giải về
sự ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự hình thành và phát triển nhân cách
Hồ Chí Minh.
Trong giai đoạn hiện nay, ý thức được tầm quan trọng của nguồn lực con người
trong phát triển đất nước, Đảng, Nhà nước ta những năm qua đã ban hành nhiều văn
bản quan trọng (Chỉ thị 06-CT/TW, ngày 07/11/2006 về “Tổ chức cuộc vận động
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; Chỉ thị số 05-CT/TW,
ngày 15/5/2016 “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh”) nhằm làm cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhận thức ngày càng
sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh; làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người thật sự trở
thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội, là cơ sở khoa học để xây
dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
3
Tuy nhiên, vấn đề nhân cách Hồ Chí Minh và phát huy giá trị nhân cách Hồ Chí
Minh lại chưa được chú trọng nghiên cứu và triển khai; chưa có các chuyên đề học
tập và sinh hoạt trong các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh thiếu niên, học sinh
sinh viên, cán bộ đảng viên, trong khi yêu cầu cấp bách hiện nay là xây dựng con
người Việt Nam phát triển toàn diện, không chỉ về thể lực, trí lực, khả năng lao động
mà cần có đạo đức và trí tuệ, đúng như Hồ Chí Minh nhấn mạnh phải xây dựng
những con người “vừa có đức vừa có tài”, “vừa hồng vừa chuyên”.
Từ ý nghĩa đó, nghiên cứu đề tài Không gian văn hóa Huế với sự hình thành
nhân cách Hồ Chí Minh để thấy được không gian văn hóa Huế ảnh hưởng rất lớn đến
sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh. Đồng thời, góp phần làm sáng rõ hơn về cuộc
đời, tiểu sử, sự nghiệp cách mạng và tư tưởng một con người vĩ đại, một nhân cách vĩ
đại - Hồ Chí Minh.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án nghiên cứu và làm rõ những ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế
đến sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh; trên cơ sở đó, phân tích những biểu hiện
của nhân cách Hồ Chí Minh từ sự ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế, từ đó rút
ra ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu đối với việc phát triển nhân cách Hồ Chí Minh
cho con người Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận án thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ khái niệm và cấu trúc nhân cách và nhân cách Hồ Chí Minh.
- Làm rõ những khái niệm, cấu trúc của không gian văn hóa Huế.
- Phân tích và luận giải các nhân tố của không gian văn hóa Huế ảnh hưởng
đến sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh.
- Phân tích những biểu hiện của nhân cách Hồ Chí Minh từ sự ảnh hưởng của
không gian văn hóa Huế.
- Rút ra một số nhận xét về sự ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự
hình thành nhân cách Hồ Chí Minh và ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu đối với sự
phát triển nhân cách Hồ Chí Minh cho con người Việt Nam hiện nay.
4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Những ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự hình thành nhân cách
Hồ Chí Minh và những biểu hiện của nhân cách Hồ Chí Minh từ ảnh hưởng của
không gian văn hóa Huế.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu sự ảnh hưởng không gian văn hóa
Huế đến sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh và những biểu hiện của nhân cách
Hồ Chí Minh từ sự ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế.
Tuy nhiên, trong luận án, nghiên cứu sinh chỉ đề cập đến những khía cạnh sau
đây: Thứ nhất, làm rõ các yếu tố cơ bản của không gian văn hóa Huế có ảnh hưởng
đến sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh; Thứ hai, làm rõ những biểu hiện của
nhân cách Hồ Chí Minh trong khoảng thời gian sống ở Huế, dưới sự tác động của
không gian văn hóa Huế.
- Về không gian: Thừa Thiên Huế những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.
- Về thời gian: Luận án nghiên cứu không gian văn hóa Huế trong khoảng cuối
thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, gắn với thời gian Hồ Chí Minh sống, học tập và hoạt
động ở Huế đến trước khi ra đi tìm đường cứu nước.
4. Cơ sở lí luận, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu cụ thể
4.1. Cơ sở lí luận
Cơ sở lí luận của luận án là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh; quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong nghiên cứu về cuộc
đời, tiểu sử Hồ Chí Minh và văn hóa.
4.2. Phương pháp luận
Chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là phương pháp luận của việc
nghiên cứu, thực hiện đề tài luận án.
4.3. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
- Nghiên cứu ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự hình thành nhân
cách Hồ Chí Minh được thực hiện trên cơ sở tiếp cận của các khoa học tổng hợp
liên ngành; trên nền tảng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
5
- Tiếp cận liên ngành lấy lịch sử, khoa học lịch sử làm nền, sử dụng Hồ Chí
Minh học làm trục chính, văn hóa học, nhân học làm chất liệu nghiên cứu, phân tích
và luận chứng, làm rõ những vấn đề liên quan đến văn hóa, giá trị, nhân cách con
người. Các khoa học tâm lí học, giáo dục học, xã hội học, nghiên cứu con người
làm rõ các vấn đề liên quan đến nhân cách con người, sự ảnh hưởng của đời sống
đến sự hình thành và phát triển nhân cách con người.
- Ngoài cơ sở lí luận và phương pháp luận nêu trên, tác giả còn sử dụng các
phương pháp như: phân tích, tổng hợp, lịch sử, logic, thống kê, so sánh, điền dã,
văn bản học, trao đổi với chuyên gia… nhằm tìm kiếm, phân tích các kết quả nghiên
cứu có sẵn để miêu tả, khái quát hoá toàn cảnh về chủ đề nghiên cứu từ các góc độ
khác nhau.
5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài
- Làm rõ những ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự hình thành
nhân cách Hồ Chí Minh.
- Trên cơ sở nghiên cứu sự ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự
hình thành nhân cách Hồ Chí Minh, luận án góp phần làm rõ những biểu hiện của
nhân cách Hồ Chí Minh từ sự tác động của các yếu tố trong không gian văn hóa
Huế, gắn với quá trình Người sống và học tập tại Huế.
- Rút ra ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu đối với việc phát triển nhân cách Hồ
Chí Minh cho con người Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lí luận
- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm sáng tỏ thêm về cuộc đời, tiểu
sử, nguồn gốc hình thành tư tưởng và nhân cách Hồ Chí Minh; hệ thống hoá các cứ
liệu lịch sử về những sinh hoạt, hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh thời kì ở
Huế (1895-1901 và 1906-1909).
- Luận án hệ thống hóa và làm rõ ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến
sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh, luận giải về những biểu hiện của nhân cách
Hồ Chí Minh.
6
- Luận án rút ra một số nhận xét về những tác động của không gian văn hóa
Huế đến sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh và rút ra ý nghĩa của vấn đề nghiên
cứu đối với việc phát triển nhân cách Hồ Chí Minh cho con người Việt Nam
hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, tuyên truyền, học tập,
nghiên cứu, giảng dạy tư tưởng, tiểu sử, sự nghiệp, nhân cách của Hồ Chí Minh tại
địa phương.
- Luận án có thể sử dụng làm cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu nhân cách
Hồ Chí Minh; nghiên cứu những ảnh hưởng của các không gian văn hóa đến Hồ
Chí Minh, cũng như là nguồn tư liệu để giáo dục nhân cách cho học sinh sinh viên.
- Luận án có thể xây dựng thành tài liệu giáo dục lịch sử địa phương, định
hướng để giáo dục và rèn luyện nhân cách cho sinh viên trong các trường cao đẳng,
đại học, giáo dục lối sống trong gia đình, nhà trường và xã hội hiện nay.
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục công trình của tác giả đã công bố
liên quan đến đề tài luận án và Danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4
chương, 8 tiết.
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI LUẬN ÁN
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu không gian văn hóa Huế
1.1.1.1. Các công trình nghiên cứu nước ngoài
Huế là một trong những trung tâm văn hóa của Việt Nam, luôn thu hút nhiều
nhà nghiên cứu nước ngoài. Tuy nhiên, hiện nay chưa có nhiều công trình nghiên
cứu Huế chuyên sâu, hệ thống và hoàn chỉnh. Khảo sát thực tế cho thấy, các học giả
nước ngoài nghiên cứu Huế trên các lát cắt văn hóa hoặc gắn với các lĩnh vực cụ thể
nhất định. Trong đó, Hội Những người bạn Cố đô Huế (Association des Amis du
Vieux Hué - B.A.V.H) [118] có hẳn chuyên mục là “sưu tầm, bảo tồn và truyền đạt
những dấu tích xưa về chính trị tôn giáo, nghệ thuật và văn học liên quan đến Huế
và phụ cận”. Từ ý nghĩa đó, Tập san B.A.V.H (Bulletin des Amis du Vieux Hué) vốn
là nội san của Hội Những người bạn của Huế xưa (ra đời từ năm 1914 và hoạt động
đến giữa năm 1944 thì bị đình bản vì những biến cố lịch sử) chuyên viết về các vấn
đề văn hóa, lịch sử, địa lí, nghệ thuật, tôn giáo, phong tục, mĩ thuật, ngôn ngữ, dân
tộc học… Nguồn tư liệu viết được đề cập trong B.A.V.H rất phong phú, bao gồm:
tư liệu về Kinh thành Huế và phụ cận, kiến trúc vùng Huế, các vấn đề về tôn giáo,
tín ngưỡng, dân gian, câu hò, câu hát, ca dao hay cuộc sống trong cung đình hoặc
các chủ đề cụ thể như: đền, chùa, am, miếu, lễ nghi cung đình được đề cập sâu sắc.
Ngoài ra, tập san còn có những bài viết chuyên sâu vào các chủ đề như: kiến
trúc cung đình, tín ngưỡng và tôn giáo như đền, chùa, am, miếu như chùa Thiên
Mụ, Quốc Ân, Bảo Quốc, Diệu Đế, Từ Hiếu, Túy Vân, đền Voi Ré, Chiêu Ứng,
điện Huệ Nam.... Tác giả Đào Thái Hanh có nhiều bài nghiên cứu về các vị nữ thần
làm tăng thêm nét cổ kính của Cố đô Huế với một màu sắc huyền hoặc biểu thị lòng
tin vào thần linh của người dân vùng Huế xưa: Histoire de la déesse Thiên Y A
Na (Lịch sử nữ thần Thiên Y A Na), La déesse Liễu Hạnh (Nữ thần Liễu Hạnh),
Histoire de la déesse Thái Dương Phu Nhơn (Chuyện Thánh mẫu Thái Dương phu
8
nhân), Histoire de la déesse Kỳ Thạch Phù Nhơn (Sự tích của nữ thần Kỳ Thạch
phu nhơn)... Bên cạnh các lễ nghi cung đình, mảng tư liệu về tôn giáo, tín ngưỡng
của người An Nam cũng được đề cập trong B.A.V.H, nổi bật là các công trình có
giá trị của linh mục L.Cadière như: “L'Annam” (An Nam), “Introduction à l'étude
l'Annam et du Champa” (Hướng dẫn nghiên cứu về An Nam và Champa) và “La
Famille et la religion en pays Annamites” (Gia đình và tôn giáo ở các xứ An Nam).
Tác giả Nguyễn Đình Hòe đã có nhiều chuyên đề nghiên cứu về văn hóa lịch sử
Huế có giá trị như: Note sur les pins du Nam Giao (Esplanade des sacrifices) (Ghi
chú về những cây thông ở Nam Giao), La pagode de l’éléphant qui barrit (Miếu
Voi Ré), Note sur les cendres des Tây Sơn dans la prison du Khám Đường (Ghi
chú về các tro di cốt Tây Sơn trong Khám Đường), Histoire de I’Ecole des Hâu Bô
de Hué (Lịch sử trường Hậu Bổ ở Huế), Les Barques royales et mandarinales dans
le vieux Hue (Thuyền ngự và thuyền quan thời Huế xưa), La pagode de Diệu
Đế (Chùa Diệu Đế), Quelques coins de la Citadelle de Hué (Một vài nơi ở Kinh
thành Huế). Các công trình nghiên cứu này được giới nghiên cứu đánh giá cao về sự
tâm huyết trong sưu tầm, công phu về biên soạn.
Đặc biệt, tập san đã dành nhiều trang nghiên cứu về lịch sử Huế và những vấn
đề liên quan từ khi Pháp chiếm Việt Nam, như: Quá trình can thiệp của Pháp vào
Việt Nam, Các cuộc phế lập ở Huế, Cuộc bôn ba của vua Hàm Nghi và căn cứ Tân
Sở, Những lễ nghi của Nam triều... Lịch sử Huế thời cận đại nằm trong khuôn khổ
của lịch sử Việt Nam (An Nam) nửa đầu thế kỉ XX, bao gồm các nguồn lịch sử triều
Nguyễn: từ Gia Long đến Bảo Đại; cuộc xâm lược An Nam của Pháp; công cuộc
bảo hộ của Pháp… Ngày nay, tập san B.A.V.H đã trở thành một nguồn tư liệu rất
phong phú, quý hiếm và có giá trị cho những ai muốn nghiên cứu về Huế.
Các công trình nghiên cứu trong Tập san B.A.V.H rất phong phú, mặc dù
không đi trực tiếp nghiên cứu “không gian văn hóa Huế”, nhưng lại tập trung
nghiên cứu các vấn đề nhỏ hơn của văn hóa Huế.
1.1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước
Thừa Thiên Huế với tư cách là một vùng văn hóa đặc trưng của Việt Nam đã
được nhiều nhà khoa học dày công nghiên cứu. Tuy nhiên, khảo sát các tài liệu
9
nghiên cứu về Huế, phần nhiều các học giả tập trung vào cấu trúc văn hóa (gồm văn
hóa vật chất và văn hóa tinh thần, hay văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể). Trong
số các công trình nghiên cứu về văn hóa tinh thần, chưa có công trình nghiên cứu
chuyên sâu về các giá trị văn hóa truyền thống của Huế và không gian văn hóa Huế,
cũng như những ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự hình thành nhân
cách Hồ Chí Minh trong những năm Người sống ở Huế. Liên quan đến nhóm công
trình này có thể điểm qua một số tài liệu sau:
Địa chí Thừa Thiên Huế là công trình của nhiều nhà khoa học cung cấp nguồn
tư liệu phong phú, xác thực về đặc điểm của vùng đất và con người Thừa Thiên
Huế. Công trình được xuất bản dưới dang sách và trang tin điện tử. Trang điện tử
Địa chí Thừa Thiên Huế [166] được biên soạn dưới hình thức địa chí tổng hợp gồm:
tự nhiên, lịch sử, dân cư và hành chính, kinh tế, văn hóa. Sau đó, Địa chí Thừa Thiên
Huế - Phần Tự nhiên [167], Phần Lịch sử [168] và Phần Dân cư và hành chính được
xuất bản. Về “Phần Văn hóa”, cho đến nay vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu, bổ
sung và hoàn thiện. Trong khoa học nghiên cứu về Huế, Địa chí Thừa Thiên Huế là
bộ công trình hữu ích, cung cấp hệ thống thông tin cần thiết trên nhiều phương diện
về vùng đất này. Tuy nhiên, bộ công trình này chưa thống nhất trong việc phân tích
lĩnh vực “Văn hóa” - một yếu tố quan trọng làm nên không gian văn hóa Huế.
Bên cạnh đó, hai công trình Văn hóa cố đô [181] và 700 năm Thuận Hóa -
Phú Xuân - Huế [185] do Nguyễn Đắc Xuân biên soạn đã giới thiệu tổng hợp về
triều Nguyễn và Huế xưa. Các công trình cung cấp bức tranh tổng quan về Huế với
địa lí - địa danh, lịch sử - sự kiện, văn hóa - giáo dục, văn hóa nghệ thuật, danh
nhân. Bên cạnh đó, ấn phẩm Thuận Hóa - Phú Xuân - Thừa Thiên Huế - 700 năm
hình thành và phát triển [68] đã đề cập tương đối đầy đủ và toàn diện về quá trình
hình thành và phát triển của vùng đất Thuận Hóa - Phú Xuân - Thừa Thiên Huế
trong hơn 700 năm, trên các lĩnh vực: lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…
Đặc biệt, trong công trình này, nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Tuyết Nga bước đầu
khẳng định Huế là vùng đất đánh dấu sự mở đầu của quá trình nhận thức, tư duy
yêu nước và cách mạng, góp phần quan trọng hình thành nên nhân cách của Nguyễn
Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Chính những cứ liệu quan trọng nêu
trên, cung cấp thông tin cần thiết cho việc nghiên cứu không gian văn hóa Huế.
10
Nghiên cứu tổng thể văn hóa Huế không thể không kể đến Giáo trình Tổng
quan văn hóa Huế [150] của Trương Minh Trai. Đây là công trình nghiên cứu tổng
quan về văn hóa Huế, hình thành trên cơ sở kế thừa và tiếp thu những thành tự
nghiên cứu về văn hóa Huế của các nhà khoa học và nhà nghiên cứu Huế, cung cấp
hệ thống tri thức về di tích, danh lam, thắng cảnh, các thiết chế văn hóa xưa nay, các
giá trị văn hóa tinh thần được bảo tồn khá nguyên vẹn và hiện hữu qua cuộc sống
thường ngày của người dân xứ Huế. Công trình này còn cung cấp một cách tiếp cận
văn hóa Huế trên ba phương diện gồm văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần, cảnh
quan và con người xứ Huế, đồng thời cung cấp một số khái niệm cần thiết về văn
hóa Huế. Mặc dù khá đầy đủ, tuy nhiên công trình này chưa làm rõ về không gian
văn hóa Huế, những đặc trưng và các giá trị văn hóa truyền thống của vùng đất này.
Tiếng Huế - Người Huế & Văn Hóa Huế [153] của Trung tâm nghiên cứu
Quốc học. Công trình này tổng hợp những bài phát biểu, bài nghiên cứu về Huế,
khám phá Huế ở những giá trị nhân văn về con người Huế - Văn hóa Huế. Đặc biệt,
Lê Nguyễn Lưu với bộ sách Văn Hóa Huế Xưa được biên soạn nhân kỷ niệm 700
năm lịch sử vùng đất Thuận Hóa - Phú Xuân - Thừa Thiên Huế (1306 - 2006). Bộ
sách gồm 3 tập: Đời sống văn hóa gia tộc [87], Đời sống văn hóa làng xã [88] và
Đời sống văn hóa cung đình [89]. Tác giả đã phân tích khá sâu sắc về văn hóa Huế
xưa từ đời sống văn hóa gia tộc (cội nguồn, các thiết chế, đời sống văn hóa vật thể
và phi vật thể), đến đời sống văn hóa làng xã (quá trình hình thành, cơ cấu tổ chức
và các văn hóa vật thể, phi vật thể trong làng xã) và đời sống văn hóa cung đình
(gắn với công cuộc xây dựng Phú Xuân - Huế, văn hóa vật thể và phi vật thể cung
đình Huế). Kết quả nghiên cứu của các công trình trên cung cấp những thông tin
cần thiết cho việc nghiên cứu không gian văn hóa Huế.
Tiếp cận văn hóa Huế từ nhiều khía cạnh và góc độ khác nhau, Trần Đức
Anh Sơn trong công trình Huế - Triều Nguyễn. Một cái nhìn [134] đã giới thiệu
văn hóa Huế dưới “cái nhìn” về sự tinh tế trong văn hóa vật chất đến văn hóa tinh
thần xứ Huế. Với một cách tiếp cận khác, Phan Thuận An qua công trình Quần thể
di tích Huế [4] nhấn mạnh đến “diện mạo” và “giá trị” của giá trị văn hóa vật chất.
Nhà nghiên cứu Phạm Thị Dung qua công trình Huế - Qua miền di sản [31], cung
11
cấp cái nhìn toàn cảnh về Huế theo tám chủ đề cụ thể: Di tích - Danh thắng xưa và
nay, Địa danh văn hóa, Làng quê nổi tiếng, Kiến trúc tôn giáo, Một phần di sản,
Kinh thành cổ kính, Lăng tẩm các triều vua, Nét riêng xứ Huế. Với các cách tiếp
cận nêu trên của các nhà nghiên cứu, chúng ta vẫn chưa thấy được những giá trị
văn hóa tinh thần của văn hóa Huế. Phải chăng đây là sự thiếu sót của các nhà
nghiên cứu này.
Trong bài viết “Cảm nhận về văn hóa xứ Huế” in trong công trình Văn hóa,
văn hóa tộc người và văn hóa Việt Nam [140] của Ngô Đức Thịnh và “Tiểu vùng
văn hóa xứ Huế” của Trần Quốc Vượng trong Cơ sở văn hóa Việt Nam [179] đã
chỉ ra những nét tiểu biểu của văn hóa Huế với tư cách là một vùng văn hóa,
không gian văn hóa mang tính địa phương, nối tiếp văn hóa Thăng Long - Hà Nội,
là bộ mặt của văn hóa Đại Việt thế kỉ XVIII-XIX. Mặc dù là hai công trình tiêu
biểu về văn hóa nói chung và văn hóa Việt Nam nói riêng, tuy nhiên các tác giả
chưa đi sâu lý giải một thành tố quan trọng cấu thành văn hóa đó là hệ thống các
giá trị văn hóa truyền thống (hiểu theo nghĩa hẹp của định nghĩa văn hóa là các
giá trị văn hóa tinh thần).
Ngoài các công trình nêu trên, liên quan đến luận án còn có một số tài liệu
như: Văn hóa Huế trong dòng chảy văn hóa Việt [33], Di sản văn hóa cố đô Huế
[61], Một vài ý nghĩa về bản chất văn hóa Huế [158], Phác thảo về quá trình phát
triển của văn hóa Phú Xuân - Thời kì thành Hóa Châu [160], Bản sắc văn hóa dân
tộc qua sắc thái Huế” [178]…
Các công trình nêu trên mặc dù đã tiếp cận văn hóa Huế và không gian văn
hóa Huế theo các khía cạnh khác nhau, tuy nhiên hạn chế của các công trình này
chưa có sự thống nhất khi phân tích cấu trúc “không gian văn hóa Huế”, cũng như
hệ thống các giá trị văn hóa truyền thống đặc trưng của vùng đất này.
1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu nhân cách Hồ Chí Minh
1.1.2.1. Công trình nghiên cứu nước ngoài
Các công trình nghiên cứu về nhân cách Hồ Chí Minh ở nước ngoài không
nhiều nên các nghiên cứu chuyên biệt về nhân cách Hồ Chí Minh gần như chưa
được thống kê cụ thể. Khảo sát các công trình, bài viết của các tác giả nước ngoài,
12
chưa thấy có công trình nào nghiên cứu trực diện và hệ thống về nhân cách Hồ Chí
Minh, đôi khi xuất hiện một số quan điểm, nhân định về các đặc điểm của nhân
cách Hồ Chí Minh gắn với quá trình hoạt động cách mạng của Người.
Đánh giá về Hồ Chí Minh, Hans D’Orville - Phó Tổng giám đốc UNESCO
nhận định: “Các chuyến bôn ba nước ngoài mà Người đã trải qua, những trào lưu tư
tưởng mà ông đã tiếp nhận và đặc biệt là khả năng giao hòa những sự đa dạng mà
Người đã tiếp thu đã khiến Hồ Chí Minh trở thành một người thầy về cuộc sống
trong một thế giới có xu hướng toàn cầu hóa hiện nay” [122, tr.207]. Dấu ấn về
nhân cách Hồ Chí Minh tiếp tục được Charles Fenn viết trong lời tựa của cuốn sách
Hồ Chí Minh - Một chân dung: “Nếu chúng ta so sánh Hồ Chí Minh với các lãnh tụ
nổi tiếng khác của thế kỉ XX, chúng ta không thể không có ấn tượng khi biết rằng
trong một thời gian, Hồ Chí Minh đã đi đến nhiều nơi trên thế giới và đã bắt đầu in
dấu ấn của mình lên các biến cố quốc tế trước cả Mao Trạch Đông, Găng-đi, Nê-ru,
Ru-dơ-ven, Sơc-sin hay Đơ-Gôn được biết đến trên thế giới”.
Lady Borton và C. David Thomas trong công trình Hồ Chí Minh - Một chân
dung (HO CHI MINH - A Portrait) [76] đã tập hợp, nghiên cứu về cuộc đời và sự
nghiệp của Hồ Chí Minh. Tư liệu được tập hợp trong cuốn sách không có gì mới
nhưng lại được trình bày sáng tạo, cung cấp hệ thống tri thức về cuộc đời hoạt
động cách mạng của Người. Các tác giả này đánh giá cao tư tưởng, phẩm chất đạo
đức trong sáng, cao đẹp của một vị lãnh tụ cách mạng vĩ đại, nhưng cũng là một
con người vô cùng giản dị, khiêm tốn, gần gũi thân thiết với tất cả mọi người. Dẫn
lời giới thiệu của Charles Fenn, công trình khẳng định: “Cuộc sống cá nhân mẫu
mực, tính kiên định vì nền độc lập và tự do của Việt Nam, những thành quả phi
thường của Người bất chấp những khó khăn chồng chất, đã có thể đưa Hồ Chí
Minh trong sự phán xét cuối cùng của nhân loại lên hàng đầu danh sách những
lãnh tụ của thế kỉ 20”. Hồ Chí Minh với những cống hiến của mình đã góp phần
tạo nên một khuôn mặt mới của thế giới, đối thoại hòa bình thay cho chiến tranh,
phản ánh khát vọng của các dân tộc trong đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội.
13
William J. Duiker với công trình Hồ Chí Minh cuộc đời (Ho Chi Minh a life)
[195] xuất bản lần đầu tiên vào năm 2000, được đánh giá là cuốn tiểu sử về Hồ Chí
Minh đầy đủ và có giá trị nhất Hoa Kỳ. Qua công trình này, tác giả nhận định Hồ Chí
Minh là “một trong những nhân vật chính trị có ảnh hưởng nhất trong thế kỉ 20” - một
con người có “một tính cách lãnh đạo riêng bằng thuyết phục và đồng tâm hơn là áp
đặt ý chí quyền lực của mình cho người khác”; là biểu tượng có sức cổ vũ nhất của
đất nước ông, là nhà tổ chức tài ba, nhà chiến lược sắc sảo và nhà lãnh đạo có sức
thuyết phục. Con người Hồ Chí Minh một nửa là Lênin, một nửa là Gandhi; người
kết hợp được trong cá nhân mình hai sức mạnh trung tâm của lịch sử Việt Nam hiện
đại: khát vọng độc lập dân tộc và đòi hỏi công bằng xã hội và kinh tế. “Ông đã có
một vị trí trong ngôi đền các danh nhân cách mạng, những người đấu tranh kiên
cường để đưa lại cho những người cùng khổ trên toàn thế giới tiếng nói trung thực
của họ”.
Bên cạnh đó, Jean Lacouture, là tác giả công trình Ho Chi Minh, A Political
Biography (Hồ Chí Minh: Tiểu sử Chính trị”) in lần đầu năm 1967 [192]. Công trình
gồm 15 chương, mô tả một cách sinh động toàn bộ cuộc đời hoạt động của Hồ Chí
Minh. Lồng ghép trong những trình bày về quá trình hoạt động của Hồ Chí Minh,
Jean Lacouture nêu bật những phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh - cơ sở cho
những thắng lợi mang tính tất yếu của cách mạng Việt Nam. Tác giả cho rằng Hồ Chí
Minh “là kiểu mẫu cao nhất và hầu như độc đáo, một người gắn bó mật thiết với quần
chúng”, là “người có óc xét đoán vượt trội với những năng khiếu đột hứng và trí
thông minh kỳ diệu”.
Đánh giá về những phẩm chất đặc biệt của Hồ Chí Minh, trong cuốn Why
Vietnam? (Tại sao Việt Nam?) [2] A. Pát-ti nhìn nhận ở Người có những phẩm chất
đặc biệt: “Ông Hồ không hiện lên đối với tôi như một nhà cách mạng không thực tế
hay một người cấp tiến cuồng nhiệt, theo đuổi những lời nói rập khuôn, hét to
đường lối của Đảng, hay thiên về phá hoại mà không có những kế hoạch xây dựng
lại. Đây là một con người thông minh, thấu hiểu những vấn đề của đất nước mình,
một con người biết điều và tinh tế” [2, tr.92]. Tầm vóc của Hồ Chí Minh được tác
giả nhận định: “...Hơn một phần tư thế kỉ nay, chỉ có Hồ Chí Minh mới giữ được
14
cho ngọn đuốc độc lập bập bùng cháy trong trái tim, khối óc của những người Việt
Nam cộng sản cũng như không cộng sản, và duy nhất chỉ có ông đã trở thành hiện
thân của chủ nghĩa quốc gia Việt Nam, một Gioóc-giơ Oa-sinh-tơn của Việt Nam...
Từ lâu ông đã trở thành Bác Hồ của người nghèo và tầm thường với một ánh hào
quang trên đầu mà tất cả các chế độ bù nhìn liên tiếp đã không bao giờ có khả năng
đánh đổ được”.
Nguyên Bí thư thứ nhất ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô -
N. Khơ-rút-sốp đã dành hẳn một chương trong cuốn Hồi ký của mình để viết về Hồ
Chí Minh: “Trong cuộc đời hoạt động chính trị của mình, tôi đã biết rất nhiều người
nhưng không có người nào gây được cho tôi ấn tượng đặc biệt như Hồ Chí Minh.
Người có đầu óc tín ngưỡng thường hay nói đến các vị thánh. Đúng vậy, với cách
sống và uy tín của ông đối với đồng bào trong nước, Hồ Chí Minh đúng là có thể so
sánh với “các vị thánh đỏ, một vị thánh cách mạng”... Mỗi lời nói của ông hình như
dựa vào niềm tin là về nguyên tắc tất cả mọi người cộng sản đều là anh em cùng
giai cấp, học chỉ có thể tỏ ra trung thực và chân thành với nhau mà thôi. Hồ Chí
Minh quả thật là một trong “các vị Thánh” của chủ nghĩa cộng sản” [108, tr.52-54].
Cũng với góc nhìn phẩm chất của Hồ Chí Minh, Stanley Karnow trên tờ Time (Mỹ)
có bài viết nhận định: Một thân hình gầy gò, chòm râu dài, chiếc áo khoác cũ và đôi
dép cao su đã mòn, Hồ Chí Minh đã tạo ra một hình ảnh Bác Hồ hiền lành giản dị.
Nhưng Người là nhà cách mạng dày dạn kinh nghiệm và một nhà dân tộc chủ nghĩa
nồng nhiệt, suốt đời đấu tranh cho một mục đích duy nhất: mang lại độc lập tự do cho
dân tộc mình. Không có sự dao động trong niềm tin của Hồ Chí Minh, không thể lay
chuyển ý chí của Người, ngay cả khi cuộc chiến tranh của Mỹ leo thang, tàn phá đất
nước, Người vẫn giữ niềm tin đối với nền độc lập của Việt Nam. Dưới con mắt
phương Tây, điều dường như không thể tưởng tượng được là Hồ Chí Minh có thể
cống hiến sự hi sinh to lớn như ông đã làm. Cũng với cách nhìn nhận ấy, trong bài
báo “Thăm một chiến sĩ cộng sản Nguyễn Ái Quốc” đăng trên tờ Ogoniok (Ngọn
lửa nhỏ) số 39, ngày 23/12/1923, nhà báo Liên Xô Ô-xíp Man-đen-sơ-tam viết: “Từ
Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa châu Âu, mà có lẽ
là một nền văn hóa tương lai” [92, tr.462]. Ông còn nhận xét: “Qua phong thái
15
thanh cao, trong giọng nói trầm ấm của Nguyễn Ái Quốc, chúng ta như nghe thấy
ngày mai, như thấy sự yên tĩnh mênh mông của tình hữu ái thế giới” [92, tr.463].
Trong công trình “Ho” (Hồ) của David Halberstam, tác giả đánh giá Hồ Chí
Minh “là hiện thân của một cuộc cách mạng”, “là biểu tượng của cuộc sống, hy vọng,
đấu tranh, hi sinh và thắng lợi”. Tác giả đi tìm nguyên nhân từ những yếu tố thuộc
phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh, đặc biệt nhấn mạnh Người “không cố tìm kiếm
cho mình những cái trang sức quyền lực vì ông tự tin ở mình và ở mối quan hệ của
ông với nhân dân”. Hay trong công trình Chủ tịch Hồ Chí Minh qua cảm nghĩ của
một người Hàn Quốc [1] của Ahn Kyong Hwan, cho rằng tinh thần yêu nước thương
dân, yêu dân tộc của Hồ Chí Minh, một nhân vật vĩ đại nhất xứng đáng là tấm gương
cho tất cả các nhà lãnh đạo chính trị trên thế giới. Người đã không màng đến địa vị
của mình, được công nhận là một nhà lãnh đạo tầm cỡ thế giới, sống như cuộc sống
của người dân bình thường, chăm lo cải thiện cuộc sống của đồng bào Việt Nam.
Khẳng định giá trị và sức sống của phẩm chất nhân cách và giá trị tinh thần của
Hồ Chí Minh trong lòng nhân loại nói chung, đặc biệt là nhân dân các nước Mỹ
Latinh, nhà báo, nhà hoạt động chính trị I-gơ-na-xi-ô Gôn-xa-lết Han-xen trong
Tinh thần Hồ Chí Minh ở Mỹ Latinh [73] đã phân tích tầm nhìn xa và nhãn quan
chính trị thiên bẩm của Hồ Chí Minh. Theo tác giả, đối với những người cách mạng
và những nhà đấu tranh xã hội trên toàn thế giới, tấm gương đấu tranh của nhân dân
Việt Nam luôn gắn liền với tầm nhìn xa của Hồ Chí Minh - tầm nhìn mang tính giác
ngộ, đoàn kết và tập hợp lực lượng, với một niềm tin vào chủ nghĩa yêu nước lịch
sử của quần chúng. Tầm nhìn xa và thiên bẩm chính trị Hồ Chí Minh được nảy sinh
từ mối quan hệ gắn bó với người dân và nhận thức nhạy bén trước những nguyện
vọng của nhân dân.
Trong số học giả nước ngoài nghiên cứu về Hồ Chí Minh, có nhiều người vừa
là “người quen”, vừa là đối thủ của Người trong các cuộc chiến tranh trước đây như
Tổng đại diện của Chính phủ Pháp Jean Sainteny. Trong công trình Face à Ho Chi
Minh (Đối diện Hồ Chí Minh) [193] đã khẳng định: “Chắc chắn, ông Hồ Chí Minh
là con người rất mực tế nhị, đến mức không cảm thấy tính giản dị của mình, lòng
tha thiết với những phong tục, tập quán của địa phương đã làm ông trở nên rất quần
16
chúng. Ngay kẻ thù của ông cũng không bao giờ hồ nghi cái điều giản dị ấy”. Hay
trong tác phẩm “Một nền hòa bình bị bỏ lỡ”, Sainteny đã viết một cách khách quan:
“Sự hiểu biết văn hóa rộng lớn, trí thông minh, những hoạt động phi thường và lòng
vô tư tuyệt đối đã làm cho uy tín của Người và lòng tin của nhân dân đối với Người
không gì so sánh nổi. Những lời nói, những hành động, thái độ của Người, đều
thuyết phục là Người không muốn dùng giải pháp bạo lực” [152, tr.94].
Tóm lại, khi nghiên cứu nhân cách Hồ Chí Minh, những công trình nghiên cứu
của các học giả nước ngoài đã làm rõ một số nét đặc trưng về phẩm chất và năng lực
đặc biệt của Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, đến nay chưa thấy thống kê các công trình ở
nước ngoài nghiên cứu chuyên biệt về nhân cách Hồ Chí Minh. Mặc dù còn nhiều
vấn đề chưa có sự thống nhất về quan điểm, cách tiếp cận, thậm chí có những sai sót,
song tất cả đều phải thừa nhận rằng Hồ Chí Minh là một con người đặc biệt của dân
tộc và nhân loại, đã hi sinh đời mình cho Tổ quốc, cho phong trào giải phóng dân tộc
và phong trào hòa bình trên thế giới.
1.1.2.2. Các công trình nghiên cứu trong nước
Nhân cách Hồ Chí Minh là một chủ đề khá mới trong khoa học nghiên cứu về
Hồ Chí Minh, do đó chưa có nhiều công trình luận giải về chủ đề này. Liên quan đến
nhóm công trình này có thể kể đến một số công trình nghiên cứu như:
Trong công trình Nhân cách Hồ Chí Minh [136], tác giả Mạch Quang Thắng
luận giải khá sâu sắc về nhân cách Hồ Chí Minh. Tác giả đã luận giải từ “con đường
hình thành, phát triển, hoàn thiện nhân cách Hồ Chí Minh” đến quan niệm “nhân
cách Hồ Chí Minh”, các đặc trưng và giá trị của nhân cách Hồ Chí Minh. Trong
công trình này, tác giả chỉ đề cập đến “nhân tố gia đình, quê hương”, “truyền thống
văn hóa của dân tộc” nói chung, mà chưa đi sâu phân tích những ảnh hưởng của các
không gian văn hóa (trong đó có không gian văn hóa Huế) đến sự hình thành và
phát triển nhân cách Hồ Chí Minh.
Trần Thái Bình với công trình Hồ Chí Minh - Sự hình thành một nhân cách
lớn [25] đã dành hẳn Phần 1 với 2 chương để nói về “Môi trường: Thiên - Địa -
Nhân” đã có những ảnh hưởng nhất định đến Hồ Chí Minh thời trẻ. Tuy nhiên, tác
giả cũng chưa nêu lên được sự ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự hình
thành và phát triển nhân cách Hồ Chí Minh.
17
Trong công trình Làng Sen năm ấy [146], tác giả Nguyễn Yên Thy cho rằng
nhân cách Hồ Chí Minh được hình thành trong khoảng thời gian từ năm 1901 đến
1906. Tác giả khẳng định thời điểm đó, Hồ Chí Minh ở độ tuổi thiếu niên, nhạy
cảm, theo cha từ kinh thành Huế về quê. Tuổi thơ được sống trong khung cảnh ấm
áp tình người như vậy chắc chắn sẽ có những tác động lớn. Tuy nhiên, tác giả chưa
đưa ra những luận cứ, luận chứng thuyết phục để chứng minh không gian văn hóa
Nghệ - Tĩnh có ảnh hưởng quyết định sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh và
cũng chưa làm rõ được những biểu hiện của nhân cách Hồ Chí Minh. Đây chính là
sự gợi mở để tiếp tục nghiên cứu không gian văn hóa thứ hai có ảnh hưởng lớn đến
Hồ Chí Minh - không gian văn hóa Huế.
Một trong những công trình kiến giải về nhân cách Hồ Chí Minh khá sâu sắc
là Tỏa sáng nhân cách Hồ Chí Minh [5] được in trong Xây dựng con người Việt
Nam theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh [6]. Tác giả Hoàng Anh xác định
“nhân cách Hồ Chí Minh” là một địa hạt nghiên cứu khó, nhưng nó lại có giá
trị trong thực tiễn xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.
Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, tác giả chỉ rõ nhân
cách Hồ Chí Minh được cấu thành từ hai thành tố là phẩm chất đạo đức và phẩm
chất trí tuệ, hay theo như Hồ Chí Minh, nhân cách là sự thống nhất giữa Đức và
Tài. Mặc dù tác giả đã cố gắng luận giải nội hàm của nhân cách Hồ Chí Minh khá
rõ nét, tuy nhiên, tác giả chưa có điều kiện nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng, cơ
sở, nguồn gốc hình thành và phát triển nhân cách Hồ Chí Minh.
Bên cạnh đó, công trình Đặc trưng nhân cách Hồ Chí Minh - Giá trị và sức lan
tỏa [11] của Phạm Ngọc Anh đã chỉ ra tầm quan trọng của giá trị làm người, giá trị xã
hội to lớn của nhân cách Hồ Chí Minh đối với nhiều thế hệ người Việt Nam. Mặc dù
khẳng định việc nghiên cứu di sản Hồ Chí Minh nói chung và nhân cách văn hóa nói
riêng là một công việc hết sức cấp bách và quan trọng, và cho đến nay, những nghiên
cứu về chủ đề này vẫn chỉ là bước đầu, là địa hạt mà chưa có nhiều công trình đào sâu
nghiên cứu. Tác giả đã chỉ ra những đặc trưng của nhân cách Hồ Chí Minh như: (1)
Sự khâm phục, đánh giá cao của xã hội, ở niềm tin và sức sống bất diệt bởi những giá
trị làm người, giá trị xã hội mà nhân cách Hồ Chí Minh đã được các thế hệ người Việt
18
Nam và nhân loại trên hành tinh chúng ta thừa nhận; (2) Chí hướng, nhân sinh quan,
thế giới quan khoa học, lí tưởng sống, niềm tin sâu sắc vào sự nghiệp cứu dân, cứu
nước, sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam và nhân dân lao động toàn thế
giới; (3) Tình yêu quê hương, đất nước, yêu nhân dân sâu sắc gắn liền với lí tưởng và
tình cảm cách mạng của Người; (4) Tầm vóc và hiểu biết cao về lí luận cách mạng;
khả năng vận dụng lí luận vào thực tiễn một cách sáng tạo là một phẩm chất cơ bản
và cốt lõi; (5) Sức mạnh và ý chí, nghị lực, khát vọng phi thường trong đấu tranh cách
mạng; (6) Sự hòa quyện, sự kết đọng của sự thông tuệ dân gian; là sự thông minh, tế
nhị và mộc mạc của tinh hoa văn hóa Việt Nam thể hiện trong ứng xử hàng ngày; (7)
Tính đồng bộ, hệ thống trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nhà nghiên cứu Đỗ Long trong Hồ Chí Minh - Những vấn đề tâm lí học [84]
và Nguyễn Khắc Nho trong Hồ Chí Minh - Đỉnh cao truyền thống Nhân - Trí -
Dũng Việt Nam [116] tập trung luận giải hai nội dung quan trọng là “quá trình hình
thành tự ý thức” và “nhân cách Hồ Chí Minh”. Trong bài viết “Hồ Chí Minh: Một
nhân cách lớn” in trong ấn phẩm Hồ Chí Minh - Những vấn đề tâm lí học, nhà
nghiên cứu Đỗ Long đã làm rõ nhân cách Hồ Chí Minh nhất quán với năm đặc
trưng: nhất quán về tư tưởng, nhất quán về trí tuệ, nhất quán về tình cảm, nhất quán
về ý chí, nhất quán về đạo đức và nhất quán về nếp sống.
Trong Kỷ yếu hội thảo Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh
nhân văn hóa [163] nhà nghiên cứu Trần Văn Giàu với công trình “Nhân cách của
Chủ tịch Hồ Chí Minh” đã nêu lên bảy phẩm chất của nhân cách Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, một số tác giả như Nguyễn Thị Chuẩn, Trương Minh Dục, Đặng Thị
Nhiệt Thu, Lê Bá Vương trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học toàn quốc “Một thế kỉ
Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước” (5/6/1911 - 5/6/2011) [164] đã luận giải những
điều kiện khách quan và chủ quan, những yếu tố tác động đến Nguyễn Tất Thành
trước khi ra đi tìm đường cứu nước. Các tác giả Võ Văn Minh, Nguyễn Văn Quang
bước đầu lý giải sự chuyển biến từ tinh thần yêu nước đến hành động cứu nước, tư
tưởng và nhân cách Hồ Chí Minh thời trẻ.
Mặc dù không trực tiếp nghiên cứu về Nhân cách Hồ Chí Minh, nhưng trong
công trình Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam [48], Đại
19
tướng Võ Nguyên Giáp đã nêu rõ những phẩm chất của nhân cách văn hóa Hồ Chí
Minh, đó là: “sống có hoài bão, có lí tưởng yêu nước, thương dân sâu sắc, nhất là
đối với những người cùng khổ bị áp bức, bóc lột, có bản lãnh kiên định, có khí tiết
kiên cường trong đấu tranh thực hiện mục tiêu, lí tưởng đã lựa chọn; thông minh,
sắc sảo, nhạy bén với cái mới, ham học hỏi, có tư duy độc lập sáng tạo; có lòng tin
mãnh liệt ở nhân dân; có ý chí, nghị lực phi thường và đầu óc thực tế, nói đi đôi với
làm; mẫu mực về đạo đức cách mạng; tác phong bình dị, chân tình, khiêm tốn, có
sức cảm hóa lớn đối với mọi người; là bậc đại nhân, đại trí, đại dũng”… Đó là
những phẩm chất nổi bật trong nhân cách văn hóa Hồ Chí Minh, được hình thành từ
tinh hoa văn hóa Đông - Tây, trên nền truyền thống văn hóa Việt Nam; là tổng hợp
nhuần nhuyễn giữa cách thức tư duy, trí tuệ, tình cảm và hành động đến mức giản
dị, khiêm tốn phi thường. Đúng như Tổng thống Cộng hòa Chilê X. Agienđê đã
khái quát: “Nếu như muốn tìm một sự tiêu biểu cho tất cả cuộc đời của Chủ tịch Hồ
Chí Minh thì đó là đức tính vô cùng giản dị và sự khiêm tốn phi thường”.
Trên cơ sở những bài báo từ các hội thảo khoa học, Bảo tàng Hồ Chí Minh
Thừa Thiên Huế đã tập hợp và xuất bản sách Âm vang thời Bác Hồ ở Huế [22],
gồm 14 bài viết của các nhà khoa học nghiên cứu về “Những năm tháng Bác Hồ
và gia đình Người ở Huế”. Một số bài viết bước đầu luận giải về sự ảnh hưởng
của đời sống chính trị - xã hội Huế đối với Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất
Thành. Tác giả Nguyễn Sĩ Đạm bước đầu chỉ rõ những tác động thúc đẩy sự phát
triển nhân cách và tư tưởng yêu nước của Nguyễn Tất Thành ở Huế. Năm 2008,
Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế xuất bản ấn phẩm “Nghiên cứu, xác minh
tư liệu và di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh thời kì 1890 - 1911” [20]. Các tác giả đã
khẳng định chính sự tham gia phong trào chống thuế cùng với nhân dân Thừa
Thiên Huế đã mở ra thời kì “dấn thân” hoạt động cách mạng và tìm đường cứu
nước của Nguyễn Tất Thành. Tác giả Cao Huy Hùng khẳng định rằng chính
những hoạt động thực tiễn sôi động trong phong trào cách mạng của nhân dân
Thừa Thiên Huế giai đoạn 1906 - 1909, đặc biệt là phong trào chống thuế 1908
đánh dấu bước chuyển từ nhận thức yêu nước đến hành động yêu nước và quyết
tâm ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành.
20
Năm 2010 và 2011, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức hai Hội
thảo về Di sản Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay [62] và Kỷ niệm 100 năm ngày
Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước [63]. Hội thảo đã tập hợp nhiều báo cáo của các
nhà khoa học trong cả nước luận giải về giá trị, ý nghĩa của di sản Hồ Chí Minh và
sự kiện Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước. Các tác giả như Lê Văn Tích, Lê Văn
Yên, Đinh Xuân Lý đã làm rõ bối cảnh về lịch sử trong nước và thế giới những năm
đầu thế kỉ XX và quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành. Bên
cạnh đó, các tác giả như Phan Công Tuyên, Nguyễn Quốc Bảo, Nguyễn Văn
Quang, Lê Thị Hằng đã bước đầu làm rõ một số ảnh hưởng của văn hóa Huế đến sự
hình thành tư tưởng yêu nước, chí hướng cách mạng và nhân cách Hồ Chí Minh.
Tác giả Đức Vượng trong Quá trình hình thành tư tưởng yêu nước của Hồ Chí
Minh [177] đã chỉ ra những luồng tư tưởng có ảnh hưởng đến Hồ Chí Minh trước sự
lựa chọn con đường cứu nước và những nhân tố thúc đẩy Hồ Chí Minh sớm suy
nghĩ về con đường cứu nước, tư tưởng yêu nước của Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, nghiên cứu về đặc trưng, nội dung và giá trị của nhân cách Hồ Chí
Minh nói chung còn có một số bài báo của các tác giả như: Nhân cách Hồ Chí Minh -
Những giá trị thiết yếu trong hệ giá trị Việt Nam [59], Nhân cách Hồ Chí Minh
[137]... đã bước đầu làm rõ những đặc trưng, giá trị và sức lan tỏa và một phần nhân
cách Hồ Chí Minh.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về nhân cách Hồ Chí Minh rất hạn chế.
Một số công trình mới chỉ đề cập đến những khía cạnh về phẩm chất hoặc năng lực
đặc biệt của Hồ Chí Minh.
1.1.3. Nhóm công trình nghiên cứu những ảnh hưởng của không gian văn
hóa Huế đến nhân cách Hồ Chí Minh
1.1.3.1. Công trình nghiên cứu nước ngoài
Các công trình của các tác giả nước ngoài nghiên cứu về những ảnh hưởng của
không gian văn hóa Huế đến nhân cách Hồ Chí Minh thật sự không nhiều, bởi lẽ đây
là một chủ đề khá hẹp. Hầu hết các nhà nhiên cứu nước ngoài chỉ điểm qua và nhận
định sơ lược về ảnh hưởng của các không gian văn hóa đến Hồ Chí Minh gắn với quá
trình hoạt động cách mạng của Người.
21
Trong các công trình của các tác giả nước ngoài nghiên cứu chủ đề ảnh hưởng
của không gian văn hóa Huế đến nhân cách Hồ Chí Minh, phải kể đến bộ công trình
Đồng chí Hồ Chí Minh [30] của E. Cô-bê-lép. Công trình này được nghiên cứu công
phu, cung cấp nhiều hiểu biết chính xác về cuộc đời, sự nghiệp cách mạng của Hồ
Chí Minh, gắn với thời kì lịch sử huy hoàng của dân tộc và những biến cố lớn lao của
thời đại, đồng thời giúp cho người đọc hiểu biết về tư tưởng, đạo đức, phong cách và
nhân cách của một lãnh tụ thiên tài, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Đặc
biệt, trong công trình này, E. Cô-bê-lép luận giải sự chuyển biến về nhận thức và
hành động của Nguyễn Tất Thành trong quá trình dịch chuyển giữa hai vùng văn hóa:
xứ Nghệ và xứ Huế. Ông lý giải thời kì ở Huế, “những biến cố phi thường làm tâm trí
Thành sôi nổi hẳn lên. Mùa xuân năm 1908 là mùa xuân Thành học được những bài
học thực tiễn về đấu tranh chính trị, không khí sôi động của những cuộc nổi dậy của
quần chúng đã tác động mạnh mẽ đến tâm hồn Thành. Đối với Thành, những ngày ấy
bằng cả mấy năm sống cổ lỗ đều đều ở làng Sen. Cuộc sống thực tế ở Huế cứ mỗi
ngày lại dạy thêm cho anh những bài học khắc nghiệt và bổ ích”.
Jean Lacouture, trong công trình Ho Chi Minh (Hồ Chí Minh) [191], nhận định
rằng Hồ Chí Minh lớn lên trong cái nôi của phong trào yêu nước, cuộc đời hoạt động
cách mạng của anh “bắt đầu trong không khí bất công, oán hận và phẫn nộ, căm thù
chống lại nước Pháp”. Học giả David Helberstam cũng khẳng định: “Tư tưởng yêu
nước của Hồ được tăng cường ở Huế”, khi đang học ở Huế “Hồ tiếp tục các công
việc yêu nước một cách tích cực và cuối cùng ông đã rời bỏ trường này trước khi có
một mảnh bằng […] Ông là một con người muốn học thêm nữa bằng cách chu du ra
nước ngoài hơn là học trong trường khắt khe do Pháp đỡ đầu”.
1.1.3.2. Công trình nghiên cứu trong nước
Khảo cứu các công trình nghiên cứu về những ảnh hưởng của không gian văn
hóa Việt Nam nói chung, văn hóa Huế nói riêng đến sự hình thành và phát triển
nhân cách Hồ Chí Minh, chúng tôi nhận thấy chưa có một công trình nghiên cứu
tổng thể, toàn diện và sâu sắc.
Liên quan đến nhóm công trình này, Đi tìm dấu tích thời niên thiếu của Bác Hồ
ở Huế [184] của Nguyễn Đắc Xuân là công trình nghiên cứu về thời niên thiếu của
22
Hồ Chí Minh từ thuở mới theo gia đình đặt chân lên đất Huế (1895) cho đến lúc
Người từ giã Huế để vào các tỉnh phía Nam bắt đầu hành trình đi tìm đường cứu nước
(1909). Công trình này gồm 13 chương, 311 trang, được biên soạn bằng những cứ
liệu lịch sử có giá trị khoa học trên cơ sở tư liệu được khảo sát điền dã, phỏng vấn các
nhân chứng lịch sử, những người bạn học, những người học cùng trường và những
người thân quen với gia đình của Hồ Chí Minh. Về tài liệu tham khảo, tác giả đã sử
dụng tư liệu phong phú, ngoài tài liệu của triều Nguyễn, còn có Bộ hồ sơ mật của mật
thám Pháp gồm 21 tài liệu được lưu trữ tại Bảo tàng Hồ Chí Minh trong thời gian từ
năm 1911 đến năm 1928. Điều đáng lưu ý nhất là tác giả đã chỉ ra thời gian sinh sống
và học tập tại Huế, Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành đã chứng kiến sự bất lực
của các vua quan triều Nguyễn, thấy được tội ác của thực dân Pháp, tiếp xúc với văn
hóa phương Tây và hòa mình vào phong trào đấu tranh yêu nước… Tất cả những gì
Hồ Chí Minh tiếp nhận ở Huế cùng với truyền thống yêu nước của quê hương xứ
Nghệ đã hình thành tư tưởng yêu nước và nhân cách Hồ Chí Minh. Mặc dù đã cố
gắng làm rõ ảnh hưởng của đời sống vật chất, tinh thần, của điều kiện kinh tế, chính
trị - xã hội đến tuổi trẻ của Hồ Chí Minh, nhưng tác giả chưa thể khẳng định ảnh
hưởng của văn hóa Huế đến sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh.
Bộ công trình Hồ Chí Minh tiểu sử [65] của Học viện Chính trị - Hành chính
Quốc gia Hồ Chí Minh do Song Thành chủ biên đã luận giải tương đối đầy đủ về
cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh. Chương I của công trình này tác giả đề cập
đến “Thời niên thiếu và những hoạt động yêu nước đầu tiên” (5/1890 - 6/1911).
Trong đó, các tác giả dành 12 trang để trình bày tóm tắt về những hoạt động của Hồ
Chí Minh và gia đình ở Huế (1895 - 1901 và 1906 - 1909). Tuy nhiên, công trình
này chưa có điều kiện luận giải sự ảnh hưởng, tác động của không gian văn hóa Huế
đối với sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh.
Nhà nghiên cứu Trần Văn Giàu với hai công trình tiêu biểu: Giá trị tinh thần
truyền thống của dân tộc Việt Nam [49] và Sự hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí
Minh [51], đã làm rõ mối quan hệ giữa các giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc
Việt Nam với sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Ông khẳng định những giá trị tinh
thần tốt đẹp của dân tộc ta trong suốt mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước đã trang
23
bị kiến thức và tư tưởng của Nguyễn Tất Thành, trong đó, gia đình đặt những nền
móng đầu tiên, truyền thống quê hương xây dựng nên tấm lòng yêu nước nồng nhiệt;
Quốc học Việt Nam trang bị cho Hồ Chí Minh một căn bản truyền thống yêu nước,
yêu dân, tự hào dân tộc… Qua công trình Sự hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí
Minh, Trần Văn Giàu đã làm rõ những đặc điểm cơ bản của tư tưởng yêu nước truyền
thống - hành trang tư tưởng chủ yếu của Hồ Chí Minh.
Bộ công trình 3 tập Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh [170], [171], [172] do
Viện Hồ Chí Minh xuất bản năm 1993. Trong tập 3, tác giả Trịnh Tùng và Đặng
Văn Hồ với tham luận “Từ tinh thần yêu nước đến tư tưởng cứu nước - bước
chuyển trong tư tưởng Hồ Chí Minh thời kì ở Thừa Thiên - Huế (1906-1909)” đã
phân tích những ảnh hưởng của điều kiện kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội Huế đến
sự hình thành tinh thần và tư tưởng yêu nước Hồ Chí Minh - biểu hiện đặc sắc nhất
của nhân cách Hồ Chí Minh. Từ kết quả nghiên cứu, các tác giả trên đã kết luận:
“Thừa Thiên - Huế là một trong những địa bàn quan trọng trong bước đầu xuất hiện
tư tưởng cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh”.
Tác giả Trần Minh Trưởng và cộng sự trong công trình Ảnh hưởng của các giá
trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc đến sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
[157] đã chỉ rõ bản sắc văn hóa truyền thống Việt Nam là tài sản vô giá của dân tộc,
góp phần làm giàu tri thức văn hóa nhân loại. Đồng thời, công trình cũng chỉ ra văn
hóa truyền thống dân tộc, truyền thống yêu nước đã trở thành xuất phát điểm, động
lực thôi thúc Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước và là nhân tố quan trọng
hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh. Các tác giả chưa có điều kiện đi sâu nghiên
cứu những ảnh hưởng của các giá trị văn hóa Huế với tư cách là một trong ba vùng
văn hóa đặc trưng của Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Tuy nhiên, những
kiến giải về ảnh hưởng của các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc và phương
pháp nghiên cứu của công trình này có ý nghĩa phương pháp luận, định hướng cho
việc thực hiện luận án này.
Bên cạnh đó, Bác Hồ với miền núi Ngự sông Hương [174] của Phạm Hồng Việt
đã luận giải Huế với tình thương cùng nỗi gian truân của gia đình, với tình nghĩa
đồng bào, láng giềng hàng xóm, với những tác động ngược chiều khác nhau của xã
24
hội và nhà trường đối với Hồ Chí Minh. Tác giả khẳng định từ Huế, Nguyễn Tất
Thành đã chín chắn và hình thành quyết định ra đi tìm đường cứu nước.
Ngoài các công trình nêu trên, liên quan đến đề tài còn có một số công trình
như: Chủ tịch Hồ Chí Minh - Tiểu sử và sự nghiệp [15], Phong trào kháng thuế của
nông dân miền Trung Việt Nam năm 1908 và sự tham gia đấu tranh của anh Nguyễn
Tất Thành (Chủ tịch Hồ Chí Minh) tại Thừa Thiên Huế [23], Tư tưởng Hồ Chí Minh
và con đường cách mạng Việt Nam [48], Vĩ đại một con người [52], Vàng trong lửa -
Chủ tịch Hồ Chí Minh với miền Nam Tổ quốc [53], Thời thanh niên của Bác Hồ [56],
Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, tập 1 (1890-1929) [64], Những mẩu chuyện về đời
hoạt động của Hồ Chủ tịch [147], v.v… Ngoài các công trình nêu trên, liên quan đến
sự hình thành và phát triển nhân cách Hồ Chí Minh thời trẻ còn có một số bài báo
như: Tân văn - Tân thư và ảnh hưởng của nó đến tư tưởng yêu nước ở Việt Nam nửa
đầu thế kỉ XX [24], Dưới mái trường Quốc Học [28], Dưới mái tranh trường Quốc
Học những năm 1906 - 1911 [29], Nơi đặt nền móng đầu tiên cho chặng đường cứu
nước của Hồ Chủ tịch [69], Về con đường cứu nước của Hồ Chí Minh [77], Hồ Chí
Minh và sự chủ động sáng tạo trong việc lựa chọn con đường cứu nước [107],v.v…
Các công trình nêu trên mặc dù không trực tiếp đi sâu nghiên cứu những ảnh
hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự hình thành và phát triển nhân cách Hồ Chí
Minh, những đã nêu rõ thời kì ở Huế, những ảnh hưởng của các điều kiện về kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội của Huế đã góp phần đưa ra quyết định ra đi tìm đường cứu
nước của Hồ Chí Minh.
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ KẾ THỪA VÀ ĐỊNH HƯỚNG TRIỂN KHAI CỦA ĐỀ TÀI
1.2.1. Những vấn đề luận án kế thừa
Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án ở trên cho thấy
việc nghiên cứu về văn hóa Huế và Hồ Chí Minh nói chung là hết sức phong phú,
nhiều góc độ, khía cạnh với nội dung sâu sắc. Tuy nhiên, nghiên cứu ảnh hưởng của
không gian văn hóa Huế đến sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh là một chủ đề
chưa có công trình độc lập, trình bày hệ thống, đặc biệt là từ góc độ chuyên ngành
Hồ Chí Minh học. Do đó, chúng tôi cố gắng vận dụng những nguồn tư liệu, đặc biệt
là khai thác các bài viết, bài phát biểu và các đoạn trích có tính chất hồi ức của Hồ
25
Chí Minh được Người viết trong quá trình hoạt động cách mạng ở trong và ngoài
nước. Bên cạnh đó, để tìm những tư liệu khoa học cho đề tài này, luận án còn khai
thác những vấn đề liên quan đến văn hóa, văn hóa Huế, cũng như những tư liệu hồi
ký, tài liệu phỏng vấn những người sống cùng thời với Hồ Chí Minh thời kì ở Huế,
đã được một số nhà nghiên cứu tâm huyết sưu tầm và biên soạn.
Trên cơ sở khảo cứu các tài liệu, các công trình tiêu biểu nghiên cứu về văn
hóa Việt Nam, luận án kế thừa các quan điểm, cách tiếp cận khác nhau về văn hóa
nói chung và văn hóa Việt Nam nói riêng. Những đóng góp của các nhà nghiên
cứu trong việc luận giải các khái niệm, cấu trúc, các thiết chế và chức năng văn
hóa, diễn trình lịch sử của văn hóa, không gian văn hóa Việt Nam và những ảnh
hưởng của văn hóa tới nhân cách con người... là cơ sở để kiến giải khái niệm
“không gian văn hóa Huế”. Với nhóm công trình nghiên cứu về văn hóa Huế và
không gian văn hóa Huế, mặc dù chưa có công trình chuyên sâu, nhưng các cách
tiếp cận, nghiên cứu từng mặt, từng khía cạnh về văn hóa Huế của các tác giả là
những cứ liệu quan trọng, làm cơ sở khoa học để luận giải các khái niệm, cấu trúc
của “không gian văn hóa Huế”. Như vậy, các công trình nghiên cứu về văn hóa
Việt Nam nói chung và không gian văn hóa Huế nói riêng nêu trên đã cung cấp
những tri thức cần thiết để xây dựng hệ thống khái niệm, cấu trúc văn hóa Huế và
không gian văn hóa Huế.
Ngoài ra, luận án còn kế thừa kết quả của công trình nghiên cứu những ảnh
hưởng của không gian văn hóa Huế đến nhân cách Hồ Chí Minh. Các công trình
nêu trên đã luận giải những ảnh hưởng của các điều kiện về kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội của Huế đến Hồ Chí Minh. Lập luận khoa học của các nhà nghiên cứu sẽ
là cơ sở vững chắc để có thể thực hiện đề tài này.
Nghiên cứu về nhân cách Hồ Chí Minh cho đến nay chưa có nhiều công
trình nghiên cứu chuyên sâu. Một số nhà khoa học trong các bài viết đã bước đầu
luận giải về sự hình thành một nhân cách; đặc trưng và sức lan tỏa của nhân cách
hồ Chí Minh… Luận án đã kế thừa phương pháp nghiên cứu, cách thức tiếp cận,
cũng như những quan điểm về sự hình thành, phát triển và đặc trưng nhân cách
Hồ Chí Minh.
26
1.2.2. Những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu
Mặc dù các nhà khoa học, nhà nghiên cứu với sự nỗ lực của mình, thông qua
cái bài báo, đề tài khoa học đã cố gắng luận giải về các nội dung như: nhân cách Hồ
Chí Minh, những ảnh hưởng của các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của Việt
Nam, của vùng đất Nghệ - Tĩnh và Huế đến Hồ Chí Minh... Tuy nhiên, chưa có một
công trình nghiên cứu toàn diện và sâu sắc những ảnh hưởng của không gian văn
hóa Huế đến sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh. Từ thực trạng nghiên cứu trên,
nghiên cứu sinh nhận thấy cần nghiên cứu ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế
đến sự hình thành và phát triển nhân cách Hồ Chí Minh. Căn cứ vào mục đích và
nhiệm vụ nghiên cứu của luận án đề ra, từ góc độ chuyên ngành Hồ Chí Minh học,
luận án thấy cần phải tiếp tục nghiên cứu để làm rõ những vấn đề chủ yếu sau:
Thứ nhất, nghiên cứu làm rõ khái niệm, cấu trúc nhân cách, quy luật hình
thành nhân cách, trong đó tập trung làm rõ quan niệm chủ nghĩa Mác - Lênin về
nhân cách. Từ việc hệ thống hóa tri thức về nhân cách nói chung và nhân cách Hồ
Chí Minh, luận án làm rõ khái niệm nhân cách Hồ Chí Minh.
Thứ hai, trên cơ sở hệ thống hóa tri thức, luận án làm rõ những khái niệm, cấu
trúc và những nét đặc trưng của không gian văn hóa Huế, cũng như xác định và
phân tích các nhân tố chủ yếu của không gian văn hóa Huế ảnh hưởng đến sự hình
thành nhân cách Hồ Chí Minh.
Thứ ba, trên cơ sở hệ thống hóa tri thức về nhân cách Hồ Chí Minh, luận án phân
tích những biểu hiện của nhân cách Hồ Chí Minh từ sự ảnh hưởng của không gian văn
hóa Huế, trong những năm tháng Người sống và học tập ở Huế.
Thứ tư, nhận xét về những ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự hình
thành và phát triển nhân cách Hồ Chí Minh, đồng thời rút ra ý nghĩa của vấn đề
nghiên cứu để phát triển nhân cách Hồ Chí Minh hiện nay.
27
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Nghiên cứu “Không gian văn hóa Huế với sự hình thành nhân cách Hồ Chí
Minh”, luận án đã tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài thông qua khảo
sát, phân tích, nhận định các công trình nghiên cứu theo 3 nhóm: (1) Các công trình
nghiên cứu không gian văn hóa Huế; (2) Các công trình nghiên cứu những ảnh hưởng
của không gian văn hóa Huế đến nhân cách Hồ Chí Minh; (3) Các công trình nghiên
cứu về nhân cách Hồ Chí Minh. Qua đó nhận thấy, Hồ Chí Minh là một nhân vật kiệt
xuất của Việt Nam và thế giới, do đó có nhiều công trình nghiên cứu về Người từ cuộc
đời, tiểu sử, sự nghiệp cách mạng, hệ thống quan điểm, tư tưởng, phương pháp và
phong cách. Tuy nhiên, chủ đề nhân cách Hồ Chí Minh chưa thật sự có nhiều công
trình nghiên cứu. Một số công trình nghiên cứu bước đầu làm rõ những đặc trưng về
nhân cách Hồ Chí Minh, tuy nhiên lại nhấn mạnh nhiều yếu tố đạo đức hơn là trí tuệ.
Về ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự hình thành nhân cách Hồ Chí
Minh, cho đến nay chưa có nhiều đề tài nghiên cứu chuyên sâu. Đa phần các công
trình, bài viết tập trung làm rõ những tác động riêng lẻ từ đời sống chính trị, những biến
động về chính trị đến sự hình thành tư tưởng yêu nước và nhân cách Hồ Chí Minh, một
số công trình làm rõ đặc trưng và giá trị của nhân cách Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, thật
thiếu sót khi chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc, có hệ
thống về sự ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự hình thành và phát triển
nhân cách Hồ Chí Minh.
Kết quả nghiên cứu của các công trình liên quan là nguồn tư liệu quý giá để thực
hiện các nhiệm vụ nghiên cứu của luận án. Tuy nhiên, từ tổng quan tình hình nghiên
cứu trên, đặt ra những vấn đề luận án tiếp tục làm rõ: quan niệm về nhân cách Hồ Chí
Minh và không gian văn hóa Huế; những yếu tố cấu thành không gian văn hóa Huế;
những ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự hình thành và phát triển nhân
cách Hồ Chí Minh; những biểu hiện của nhân cách Hồ Chí Minh từ ảnh hưởng của
không gian văn hóa Huế; ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài đối với việc giáo dục và
rèn luyện đạo đức, nhân cách cho thế hệ trẻ hiện nay. Những vấn đề này cũng là nhiệm
vụ nghiên cứu chính và được làm rõ trong các chương tiếp theo của luận án.
28
Chương 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ
NHÂN CÁCH HỒ CHÍ MINH VÀ KHÔNG GIAN VĂN HÓA HUẾ
2.1. NHÂN CÁCH HỒ CHÍ MINH
2.1.1. Khái niệm, cấu trúc, quy luật nhân cách
2.1.1.1. Khái niệm nhân cách
Nhân cách là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau, như
triết học, xã hội học, chính trị học, luật học, tâm lí học, giáo dục học, xã hội học,
đạo đức học… Từ nhiều cách tiếp cận, các nhà nghiên cứu đã đưa ra những kiến
giải khác nhau về nhân cách. Trong đó, quan điểm triết học về nhân cách con người,
về cơ bản, có những khác biệt so với quan điểm của các khoa học cụ thể.
Theo quan điểm của các nhà tư tưởng triết học phương Đông, con người là
tiểu vũ trụ, mang những đặc tính của vũ trụ. Những đặc tính này chi phối sự phát
triển con người. Thực thể con người là sản phẩm của nguyên lý âm dương, vừa đối
lập vừa thống nhất, chứa đựng và chuyển hóa lẫn nhau, trời - đất - người hợp thành
một (thiên - địa - nhân hợp nhất). Mạnh Tử nhận xét rằng khi phát triển hết mình,
con người không chỉ có thể biết trời mà còn hợp nhất với trời làm một. Tính cách
của con người chịu ảnh hưởng của ngũ hành và chia ra loại người: Kim, Mộc, Thủy,
Hỏa, Thổ. Người phương Đông đánh giá con người qua chất là chủ yếu, lượng là
phụ; lấy “tâm thiện” là lí tưởng, đề cao tính thiện, tính nhân, thích sự im lặng, nhẹ
nhàng, đề cao sự cân bằng không thái quá, biết đủ là giàu, giản dị ở vật chất, giản dị
trong nội tâm, trong ngôn từ, trong quan hệ với mọi người.
Ở Việt Nam, thuật ngữ nhân cách được luận giải theo nhiều góc độ khác nhau:
(1) Nhân cách được hiểu là con người có đức và tài, hay là tính cách và năng lực,
hoặc là con người có các phẩm chất: Đức, Trí, Thể, Mĩ, Lao (lao động); (2) Nhân
cách được hiểu như các phẩm chất và năng lực của con người; (3) Nhân cách được
hiểu như phẩm chất của con người mới: làm chủ, yêu nước, nhân ái, tinh thần quốc
tế vô sản, tinh thần lao động; (4) Nhân cách được hiểu như mặt đạo đức, giá trị làm
người của con người… Trong Tâm lí học đại cương, Nguyễn Quang Uẩn xác định
29
nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lí của cá nhân, biểu hiện
bản sắc và giá trị xã hội của con người. Từ điển Tiếng Việt ghi rõ nhân cách là “tư
cách và phẩm chất con người” [119, tr.710] và “phẩm chất” đó được Hồ Chí Minh
nêu khái quát thành các “tư cách” của người cách mạng với 23 điều ngắn gọn, thuộc
về ba cách ứng xử của người cách mạng với bản thân, người khác và công việc.
Nếu như Mạnh Tử coi nhân cách là tiên thiên, con người sinh ra vốn tính thiện
“nhân chi sơ, tính bản thiện” hay Tuân Tử thì ngược lại “nhân chi sơ, tính bản ác”,
thì Hồ Chí Minh lại có cách nhìn khoa học và toàn diện hơn. Theo quan điểm của
Người, con người từ khi sinh ra chỉ là một sinh vật, chưa có nhân cách, quá trình
đứa trẻ lớn lên và thông qua quá trình xã hội hóa thì nhân cách mới được hình thành
và phát triển. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Ngủ thì ai cũng lương thiện, tỉnh dậy sinh
ra kẻ dữ hiền”. Quan điểm của Người không thần thánh hóa theo kiểu duy tâm mà
coi nhân cách như là một yếu tố động, bởi từ lúc chào đời cho đến khi trưởng thành
thì cá nhân bao giờ cũng chịu sực tác động của môi trường xung quanh, đồng thời
con người cũng là chủ thể của các hoạt động và giao tiếp.
Nếu Khổng Tử xem nhân cách con người thể hiện ở Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín,
trong đó Nhân là gốc, thì Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến 5 “tính tốt”, đó là: Nhân,
Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm. Trong đó, Nhân là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ
đồng bào, đồng chí,... sẵn sàng hi sinh vì mọi người, khổ trước mọi người, vui sau
thiên hạ. Vì thế không ham giàu sang, không e cực khổ, không sợ uy quyền;
Nghĩa là ngay thẳng, không tư tâm, không làm việc bậy, không có việc gì phải giấu
đoàn thể. Ngoài lợi ích của đoàn thể, không có lợi ích riêng phải lo toan; Trí là đầu
óc trong sạch sáng suốt, không mù quáng, dễ hiểu lí, dễ tìm phương hướng, biết
xem người, biết xét việc. Vì vậy mà biết làm việc có lợi tránh việc có hại cho đoàn
thể; Dũng là dũng cảm, gan góc, gặp việc gì phải có gan làm, thấy khuyết điểm phải
có gan sửa chữa, cực khổ khó khăn có gan chịu đựng. Có gan chống lại những vinh
hoa, phú quý không chính đáng. Nếu cần thì có gan hi sinh cả tính mệnh cho đoàn
thể: cho Tổ quốc, không bao giờ rụt rè nhút nhát; Liêm là không tham địa vị, không
tham tiền tài, không tham sung sướng, không ham người tâng bốc mình. Vì vậy, mà
30
quang minh chính đại, không bao giờ hủ hóa. Chỉ có một cái ham là ham học, ham
làm và ham tiến bộ [96, tr.291-292].
Ở phương Tây, khái niệm nhân cách được luận giải khá phong phú. Nhà triết
học Hy Lạp - Aristotle (384-322 TCN) cho rằng con người là một “động vật chính
trị”, xã hội và nền giáo dục tác động đến sự phát triển của con người, hình thành
nhân cách con người. Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, các nhà tâm lí học Đức là
Wilhelm Dilthey (1833-1911) và Eduard Spranger (1882-1963) lần đầu tiên đưa ra
khái niệm nhân cách là cái mặt nạ có tính chất xã hội của cái tôi bên trong, khi nào
cái mặt nạ đó trùng với cái tôi thì nhân cách phát triển chín muồi. Nhà tâm lí học Xô
Viết, X.L. Rubinstein cho rằng con người là nhân cách do nó xác định được quan hệ
của mình với những người xung quanh một cách có ý thức. Nhân cách được hình
thành và phát triển nhờ các mối quan hệ xã hội, trong quá trình thực hiện các mối
quan hệ xã hội đó cá nhân phát triển và bắt đầu quá trình hoạt động sống của mình.
Do vậy, có nhiều định nghĩa khác nhau về nhân cách, nhưng nhân cách thường
được xác định như là một hệ thống quan hệ của con người với thế giới xung quanh
và với chính bản thân mình. Trên quan điểm triết học duy vật biện chứng, một số
nhà tâm lí học Xô-viết có các cách tiếp cận khác nhau về nhân cách. A.N.
Leonchiep (1903-1979) coi nhân cách như một cấu tạo tâm lí mới, được hình thành
trong các quan hệ sống của cá nhân do kết quả hoạt động cải tạo của người đó.
Xem xét nhân cách dưới góc độ triết học, các nhà kinh điển Mác - Lênin cho
rằng nhân cách là những phẩm chất, những trạng thái, tính chất, xu hướng bên
trong của từng cá nhân. Đó là thế giới của cái “tôi” do tác động tổng hợp của các
yếu tố cơ thể và xã hội hết sức riêng biệt tạo nên để cá nhân đó có thể tồn tại và
hoàn thành trách nhiệm của mình đối với bản thân và xã hội [75]. Định nghĩa này
xác định bốn điểm cơ bản sau:
+ Thứ nhất, nhân cách luôn gắn với con người hiện thực, là sản phẩm của
những hoàn cảnh xã hội, lịch sử cụ thể. Con người là một chỉnh thể thống nhất,
trong đó cộng gộp các yếu tố tự nhiên và xã hội. Trong quá trình phát triển, cấu tạo
sinh vật di truyền và tâm sinh lí của cá nhân là cơ sở nền tảng để hình thành nên
những đặc điểm lịch sử - xã hội của con người.
31
+ Thứ hai, con người hình thành nhân cách của mình là một quá trình kép, xã
hội hóa cá nhân và cá nhân hóa xã hội. Với những đặc điểm về di truyền, sinh lý,
gia đình và hoàn cảnh sống, mỗi cá nhân tiếp thu và chuyển hóa những giá trị văn
hóa của xã hội vào trong mình, thực hiện quá trình sàng lọc, tự giáo dục, tự tạo nên
thế giới riêng của mình. Từ đó, hình thành nên những dạng riêng biệt về động lực,
niềm tin, ý chí, định hướng giá trị… trong xúc cảm, nhận thức và hành động.
+ Thứ ba, con người vừa là chủ thể vừa là khách thể của sự phát triển. Con
người chỉ hình thành nhân cách trong những điều kiện xã hội nhất định. Trong quá
trình đó, mỗi cá nhân bằng sự hoạt động tích cực của mình, tiến hành các hoạt
động, tiếp nhận tri thức và kinh nghiệm xã hội, hình thành các phẩm chất xã hội
và tâm lí nhất định. Với nhân cách riêng, mỗi cá nhân có khả năng tự ý thức về
mình, làm chủ cuộc sống của mình, tự lựa chọn nhiệm vụ, trách nhiệm hoạt động
cụ thể trong xã hội. Một trong những yếu tố then chốt của nhân cách là sự thôi
thúc nội tâm, là ý chí cá nhân vươn đến những mục đích mà mình mong muốn.
+ Thứ tư, nhân cách là nói đến con người đã hình thành về mặt xã hội, là sự
biểu hiện chức năng xã hội của con người. Con người sinh ra không tự hình thành
nhân cách mà chỉ là một cá thể người. Cá thể này chỉ trở thành nhân cách khi nó
mang tính chất là một chủ thể của các quan hệ xã hội với những đặc điểm về thái
độ, tình cảm, bản lĩnh, hành vi phù hợp với các thang giá trị xã hội [13, tr.184-186].
Như vậy, nhân cách là hệ thống những phẩm giá của một người được đánh giá
từ mối quan hệ qua lại của người đó với những người khác, với tập thể, với xã hội
và với môi trường xung quanh từ quá khứ, hiện tại và tương lai. Nhân cách là giá trị
được xây dựng và hình thành trong toàn bộ thời gian con người tồn tại trong xã hội,
nó đặc trưng cho mỗi con người, thể hiện những phẩm chất bên trong con người
nhưng lại mang tính xã hội sâu sắc.
Từ các quan niệm trên, có đi đến khẳng định nhân cách là hệ thống những
phẩm giá và năng lực của một người được hình thành và phát triển trong tương tác
giữa con người với tự nhiên và xã hội, nó đặc trưng cho mỗi con người, thể hiện
những phẩm chất bên trong con người mang tính xã hội sâu sắc.
32
2.1.1.2. Cấu trúc nhân cách
Bàn về cấu trúc của nhân cách có nhiều quan niệm khác nhau. Tùy theo quan
niệm về bản chất nhân cách, mỗi nhà nghiên cứu đưa ra một cấu trúc khác nhau về
nhân cách. J. Stefanovi đưa ra cấu trúc nhân cách bao gồm năm thành phần: đặc
điểm tích cực - động cơ của nhân cách như xu hướng, nguyện vọng, hứng thú, kế
hoạch sống; đặc điểm lập trường - quan hệ của nhân cách thể hiện mặt giá trị của
nhân cách bao gồm lập trường, lí tưởng và quan điểm sống; đặc điểm về mặt hành
động của nhân cách bao gồm tri thức, kĩ xảo và thói quen; đặc điểm tự điều chỉnh
của nhân cách bao gồm tự ý thức, tự đánh giá, tự phê bình của nhân cách; đặc điểm
về động thái của nhân cách thể hiện ở khí chất của nó.
K.K. Platonov lại cho rằng nhân cách gồm bốn tiểu cấu trúc sau: Tiểu cấu trúc
có nguồn gốc sinh học (gồm: khí chất, giới tính, lứa tuổi và cả những đặc điểm tâm
lí); tiểu cấu trúc các đặc điểm của các quá trình tâm lí (gồm: trí tuệ, trí nhớ, ý chí,
đặc điểm của cảm xúc…); tiểu cấu trúc về vốn kinh nghiệm (gồm: tri thức, kĩ năng,
kĩ xảo, thói quen…); tiểu cấu trúc xu hướng nhân cách (gồm: nhu cầu, hứng thú, lí
tưởng, thế giới quan, niềm tin…). Cũng có quan niệm coi nhân cách gồm 4 nhóm
thuộc tính tâm lí điển hình của cá nhân: xu hướng, tính cách, khí chất, năng lực.
Theo Phạm Minh Hạc, thì nhân cách con người bao gồm bốn bộ phận: xu hướng
của nhân cách; khả năng của nhân cách; phong cách, hành vi của nhân cách; hệ
thống điều khiển của nhân cách.
Ngoài các cách phân định trên, một số nhà nghiên cứu cho rằng cấu trúc nhân
cách gồm ba thành phần. Theo A.G. Covaliov, nhân cách được cấu thành từ các quá
trình tâm lí, các trạng thái tâm lí và các thuộc tính tâm lí cá nhân. Còn Sigmund
Freud cho rằng đó là cái nó, cái tôi và cái siêu tôi. Ngoài ra, cũng có quan điểm coi
nhân cách bao gồm ba lĩnh vực là: nhận thức (tri thức và năng lực trí tuệ), tình cảm
(rung cảm và thái độ) và ý chí (phẩm chất ý chí, kĩ năng, kĩ xảo, thói quen).
Bàn về cấu trúc nhân cách, Hồ Chí Minh nhấn mạnh hai yếu tố quan trọng là
đức và tài (hồng và chuyên). Trong đó, đức là gốc của con người, là nền tảng của
nhân cách con người; tài là các năng lực thích ứng với xã hội của con người, là hiệu
suất, hiệu quả trong một lĩnh vực hoạt động nào đó của họ. Người chỉ rõ: “Cũng
33
như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc,
không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì
dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [96, tr.293-294]. Theo Hồ Chí
Minh, đạo đức cách mạng là quyết tâm suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho cách
mạng, đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích cá
nhân mình, hết lòng phục vụ nhân dân. Mặt khác, muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ
của người cán bộ cách mạng thì nhất thiết phải có tài, có năng lực công tác. Theo
Người: “Có tài mà không có đức chẳng những không làm được gì ích lợi cho xã
hội, mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có tài cũng không lợi gì
cho loài người” [102, tr.339]. Do đó, về năng lực cần có của người cách mạng,
trước hết phải quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm chỉnh quan điểm, đường lối,
chính sách của Đảng, có trình độ và năng lực cần thiết để đảm nhiệm trọng trách mà
Đảng và nhân dân giao phó.
Kế thừa quan điểm của Hồ Chí Minh, một số nhà khoa học cũng cho rằng cấu
trúc nhân cách gồm hai thành phần cơ bản là đức và tài hay còn gọi là phẩm chất và
năng lực (đạo đức và trí tuệ). Trong đó, mặt “Đức” được thể hiện qua những phẩm
chất chủ yếu sau: (1) Phẩm chất xã hội: thế giới quan, thái độ chính trị - xã hội, thái
độ lao động, lập trường cá nhân, trong đó thế giới quan là yếu tố quan trọng nhất.
Sự phát triển của những phẩm chất này góp phần quan trọng giúp cá nhân có những
nhận thức và hành động đúng đắn, hợp lý trong những hoàn cảnh, điều kiện thực
tiễn khác nhau. Chỉ khi xác lập được thế giới quan thì mỗi cá nhân mới khẳng định
nhân cách của mình trong cuộc sống; (2) Phẩm chất cá nhân: đạo đức, các đức tính,
thói và tật, trong đó đạo đức là yếu tố quan trọng nhất. Đó là đạo đức của từng cá
nhân riêng lẻ trong cộng động, phản ánh tồn tại xã hội của cá nhân ấy. Trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn của mình, cá nhân thực hiện đạo đức xã hội như là hệ
thống kinh nghiệm xã hội, những lí tưởng, chuẩn mực, tư tưởng đánh giá đạo đức
được hình thành trong lịch sử cộng đồng, biến kinh nghiệm xã hội thành kinh
nghiệm của bản thân; (3) Phẩm chất ý chí, tính kỉ luật, phê phán, độc lập, tác
phong… Thông qua các hoạt động thực tiễn, gắn với các mối quan hệ xã hội, cá
nhân tự hình thành nhân cách thông qua ý thức kỉ luật, ý thức phê phán (tự phê bình
34
và phê bình), tinh thần độc lập trong các hoạt động và thái độ và cách thức ứng xử
với các cá nhân và tập thể khác trong cộng đồng; (4) Cung cách ứng xử: tác phong,
tính khí, lễ tiết trong giao tiếp, ứng xử giữa các cá nhân với cộng đồng xã hội. Gắn
với các môi trường khác nhau, cung cách ứng xử được hình thành và tuân theo
những chuẩn mực nhất định [13, tr.188].
Về mặt “Tài” được thể hiện qua năng lực hoàn thành, chất lượng và hiệu quả
các nhiệm vụ và hoạt động được giao. Trong đó: (1) Năng lực xã hội hóa: khả năng
chiếm lĩnh tri thức và từ vốn kiến thức ban đầu đó làm cơ sở cho sự sáng tạo của
các chủ thể mang nhân cách trong hoạt động thực tiễn. Năng lực này còn được thể
hiện ở khả năng thích nghi, thích ứng, hòa nhập, linh hoạt trong môi trường xã hội;
(2) Năng lực chủ thể hóa: khả năng làm chủ, bản lĩnh, “cái tôi”, quan điểm, lập
trường, sự cuốn hút, lôi cuốn người khác và các dấu ấn riêng có của cá nhân trong
các mối quan hệ xã hội; (3) Năng lực hành động: khả năng hành động theo mục
đích, lí tưởng, có tinh thần chủ động, tích cực, sáng tạo với năng suất, chất lượng và
hiệu quả cao nhất, là thể hiện tính tích cực xã hội chủ thể mang nhân cách; (4) Năng
lực giao lưu, giao tiếp: khả năng cá nhân thiết lập và duy trì các mối quan hệ với
người khác và cộng đồng. Với đặc điểm, sở trường, phẩm chất cá nhân riêng mà sự
giao lưu, giao tiếp của mỗi cá nhân được mở rộng hay bó hẹp [13, tr.189].
2.1.1.3. Quy luật của sự hình thành và phát triển nhân cách
Nhân cách con người không tự nhiên mà có, không được sinh ra đồng thời với
sự hình thành bản thân con người. Sự hình thành và phát triển nhân cách là quá
trình lâu dài, đó là kết quả của quá trình tích lũy dần dần những kinh nghiệm sống,
những tri thức, tập nhiễm được trong quá trình sống và trưởng thành. Qua nghiên
cứu, sự hình thành và phát triển nhân cách được thể hiện như sau:
+ Thứ nhất, nhân cách được hình thành và phát triển gắn với quá trình giáo
dục, tự giáo dục và hoạt động thực tiễn của con người
Giáo dục xuất hiện cùng với loài người và tồn tại, phát triển cùng với loài
người. Con người lớn lên và trưởng thành qua quá trình tiếp nhận và thẩm thấu các
tri thức văn hóa, xây dựng kĩ năng, biến thành phẩm chất người của mình trước hết
35
bằng con đường giáo dục và tự giáo dục. Giáo dục giữ vai trò chủ đạo trong quá
trình hình thành và phát triển nhân cách với tư cách là sự tác động khách quan của
chủ thể giáo dục đến đối tượng tiếp nhận giáo dục, được thể hiện qua nội dung và
hình thức giáo dục. Vai trò ấy thể hiện ở ba khía cạnh:
Một là, giáo dục tạo dựng những hình mẫu nhân cách phù hợp với các yêu cầu
của xã hội hiện tại thông qua nội dung giáo dục giá trị nhân cách, qua mục tiêu giáo
dục mẫu hình nhân cách của nhà trường và xã hội.
Hai là, giáo dục là sự truyền thụ các giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại,
để các thế hệ nối tiếp nhau kế thừa, bảo tồn và phát triển những giá trị văn hóa đó
đó trong tiến trình phát triển của dân tộc. Giá trị truyền thống được coi là cơ sở, nền
tảng để hình thành giá trị nhân cách của con người.
Ba là, giáo dục định hướng sự phát triển hoàn thiện, tốt đẹp cho con người.
Giáo dục có khả năng uốn nắn những hành vi lệch chuẩn trong sự phát triển nhân
cách, tạo dựng những mẫu hình nhân cách mới đáp ứng những đòi hỏi của xã hội.
Nói cách khác, nhân cách trong sự hình thành và phát triển, một mặt, chịu sự
tác động có chủ đích của quá trình giáo dục; mặt khác, nhân cách là kết quả của quá
trình tự giáo dục, tự hoàn thiện trong bản thân mỗi con người. Sự tự giáo dục biểu
hiện ở chỗ mỗi chủ thể tự giáo dục hướng toàn bộ năng lực, hành động của mình
vào sự hình thành thế giới nội tâm bắt đầu từ sự tự ý thức cho đến quá trình tham
gia tích cực và tự giác vào việc tạo ra cho mình những điều kiện, môi trường, hoàn
cảnh để trong đó họ tồn tại. Đồng thời, hoạt động thực tiễn cải tạo môi trường xã
hội của mỗi người cũng là nhân tố quan trọng dẫn đến sự phát triển nhân cách
của chính họ. Trong quá trình hoạt động thực tiễn, con người phải trao đổi với
nhau bằng ngôn ngữ, phải hợp tác với những người xung quanh, phải tồn tại và
phát triển trong các mối quan hệ xã hội. Trong quá trình ấy, mỗi cá nhân phản
ứng trước sự tác động của môi trường xã hội một cách khác nhau, thể hiện trong
bản thân mình những đặc điểm của môi trường xã hội tạo nên nhân cách con
người. Có thể nói, thông qua hoạt động thực tiễn, con người biểu hiện các năng
lực và phẩm chất nhân cách của mình.
36
+ Thứ hai, nhân cách được hình thành từ quá trình thống nhất giữa cá nhân
và xã hội, giữa mặt sinh vật và mặt xã hội, giữa điều kiện khách quan và nhân tố
chủ quan.
Sự hình thành và phát triển nhân cách của con người không thể tách khỏi môi
trường và các hoạt động xã hội. K. Marx và F. Engels cho rằng nếu như con người
bẩm sinh đã là sinh vật có tính xã hội thì con người chỉ có thể phát triển bản tính
chân chính của mình trong xã hội và cần phải phán đoán lực lượng của bản tính của
anh ta, không phải căn cứ vào lực lượng của cá nhân riêng lẻ mà căn cứ vào lực
lượng của toàn xã hội. Nói cách khác, đây là quá trình xã hội hóa cá nhân và cá
nhân hóa xã hội, và xét đến cùng, xã hội hóa cá nhân là yếu tố quyết định đến sự
hình thành và phát triển nhân cách. Có thể khái quát một số yếu tố cơ bản tác động
đến sự hình thành và phát triển nhân cách như sau:
Một là, sự hình thành và phát triển nhân cách bị quy định bởi các điều kiện
kinh tế - xã hội. Trong hoạt động thực tiễn, sự hình thành nhân cách con người luôn
gắn với các mối quan hệ xã hội. K. Marx cho rằng lịch sử không phải là cái gì khác
hơn là hoạt động của con người theo đuổi những mục đích của mình. Những mục
đích của con người bao giờ cũng xuất phát và bị chế định bởi các điều kiện lịch sử -
xã hội, của các quan hệ kinh tế trong một thời đại nhất định.
Hai là, sự hình thành và phát triển nhân cách bị quy định bởi nhân tố văn hóa
- xã hội. Giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại có tác động mạnh mẽ đến sự hình
thành nhân cách con người qua các kiểu mẫu hành vi, đến sự đánh giá và những
tình cảm đạo đức trong sáng của nhân cách. Mỗi con người từ khi sinh ra đã được
sống, được tiếp nhận một hệ các giá trị, hệ các chuẩn mực của văn hóa xã hội.
Những giá trị, chuẩn mực này được phản ánh trong thế giới quan, hệ thống tri thức
xã hội, trong những chuẩn mực về pháp lí, đạo đức, thẩm mĩ, trong phong tục, tập
quán, truyền thống văn hóa, thẩm mĩ và thị hiếu... Nhân cách con người được hình
thành và phát triển trong môi trường văn hóa - xã hội một cách gián tiếp thông qua
quá trình giáo dục và tự giáo dục.
Trong những yếu tố cấu thành nên văn hóa tinh thần xã hội thì thế giới quan,
những chuẩn mực pháp lý, thẩm mĩ, đạo đức... có vị trí quan trọng trong việc hình
37
thành và phát triển nhân cách. Một thế giới quan đúng đắn là cơ sở quan trọng nhất
để xây dựng nhân cách phát triển toàn diện, nó giữ vai trò định hướng chung cho
con người trong mọi hoạt động thực tiễn.
2.1.2. Nhân cách Hồ Chí Minh
2.1.2.1. Khái niệm nhân cách Hồ Chí Minh
Nhiều nhà khoa học cho rằng nhân cách Hồ Chí Minh là “những phẩm chất
và năng lực của một nhà hoạt động chính trị, một vị lãnh tụ của Đảng Cộng sản
Việt Nam và dân tộc Việt Nam, anh hùng dân tộc vĩ đại và nhà văn hóa kiệt xuất,
danh nhân văn hóa thế giới, tiêu biểu cho chủ nghĩa nhân văn thời đại ngày nay”
[137, tr.31].
Nhân cách Hồ Chí Minh là những giá trị văn hóa Hồ Chí Minh, được kết tinh
từ truyền thống văn hóa gia đình, quê hương, đất nước, từ thực tiễn chính trị - xã hội
của dân tộc và thời đại; từ ảnh hưởng các học thuyết, tư tưởng tiến bộ; từ gương
sáng của các nhà hoạt động chính trị tiến bộ, nhà văn hóa trên thế giới; từ giáo dục
và tự giáo dục; từ tư chất, năng lực của con người Hồ Chí Minh.
Nhân cách Hồ Chí Minh là sự tổng hòa các quan hệ xã hội văn hóa thông qua
phẩm chất cá nhân, là cái xã hội trong cái cá nhân, nhân cách văn hóa được hình
thành thông qua tu dưỡng và thực hành phẩm chất cá nhân trong thực tế. Nhân cách
Hồ Chí Minh được hình thành, bồi đắp, hoàn thiện trong cuộc đấu tranh kiên cường,
bền bỉ cho sự nghiệp giải phóng con người để cho con người vươn tới tự do, vươn
tới những giá trị đích thực của chân, thiện, mĩ.
Dưới góc độ tâm lí học, “nhân cách Hồ Chí Minh không tách rời quá trình tự ý
thức về sứ mệnh của chính mình mà nền giáo dục, trước hết là gia đình với người
cha giàu lòng yêu nước, điều kiện sống của môi trường và xã hội xung quanh,
không khí tư tưởng - chính trị đương thời ở một xứ sở bao giờ cũng sôi sục ý chí
kiên cường bất khuất” [85, tr.8]. Theo cách tiếp cận này, nhân cách Hồ Chí Minh có
thể hiểu là sự tự ý thức về bản thân mình đối với cuộc sống do những tác động đa
chiều của thực tiễn xã hội. Học giả Eduard Claudius (1911-1976) cho rằng nhân
cách Hồ Chí Minh là sự thống nhất giữa tư tưởng và hành động, giữa hoạt động và
nhân cách chính trị với thái độ rất giản dị, khiêm tốn, nhân hậu.
38
Như vậy, có nhiều cách tiếp cận nhân cách Hồ Chí Minh, trong công trình này
chúng tôi tiếp cận nhân cách Hồ Chí Minh theo hướng là những phẩm chất, năng
lực đặc biệt, có sức hấp dẫn và lôi cuốn mạnh mẽ, được thể hiện qua phong cách,
lối sống của Người. Nhân cách Hồ Chí Minh là biểu trưng sáng ngời về phẩm chất
và năng lực con người Việt Nam.
2.1.2.2. Cấu trúc nhân cách Hồ Chí Minh
Nghiên cứu về cấu trúc nhân cách Hồ Chí Minh có nhiều cách tiếp cận và kiến
giải khác nhau. Từ tổng hợp một số công trình, bài viết tiêu biểu, chúng ta có thể
thấy, hầu hết các tác giả đều cho rằng nhân cách Hồ Chí Minh có cấu trúc gồm
phẩm chất và năng lực (hay Đức và Tài). Trong Tỏa sáng nhân cách Hồ Chí Minh,
tác giả Hoàng Anh cho rằng cấu trúc nhân cách Hồ Chí Minh gồm hai phần: (1)
Sáng ngời tấm gương đạo đức với bốn phẩm chất gồm: Lòng yêu nước, thương dân,
dân làm gốc, tìm đường đi đến độc lập, tự do cho dân tộc; Trung với nước, hiếu với
dân; Sáng ngời về đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, về tinh thần quốc tế
trong sáng; (2) Tỏa sáng nhân cách về trí tuệ với 03 phẩm chất gồm: Mẫn tiệp
chính trị, xác định đúng phương hướng và phương thức tìm đường cứu nước, kiên
trì, dũng cảm thực hiện lí tưởng cao đẹp: độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân
dân; Nhà văn hóa kiệt xuất với một tâm hồn lớn, tình yêu lớn, sáng tạo, có nghị lực
và niềm tin lớn vào chân lí cuộc đời; Nhà dự báo thiên tài với những định hướng,
chỉ đạo, những quyết sách cho sự phát triển cách mạng Việt Nam khoa học, hiệu
quả. Tác giả Mạch Quang Thắng, trong công trình Nhân cách Hồ Chí Minh cho
rằng nhân cách Hồ Chí Minh gồm hai nhóm cơ bản: (1) Những đặc trưng nhân cách
về đạo đức (lòng nhân ái cao cả, tâm trong sáng, trung với nước, hiếu với dân, vì nước,
vì dân, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư); (2) Những đặc trưng nhân cách về trí
tuệ (tìm đường, sớm cảnh báo những căn bệnh của Đảng cầm quyền).
Một cách tiếp cận khác về cấu trúc nhân cách Hồ Chí Minh là khai thác từng
đặc trưng cụ thể. Trần Văn Giàu lí giải nhân cách lớn của Hồ Chí Minh gồm bảy
yếu tố như: Ưu tiên đạo đức; Tận tụy quên mình; Kiên trì, bất khuất; Khiêm tốn,
giản dị; Hài hòa, kết hợp; Thương, quý người, nâng đỡ con người, thấu tình đạt lí;
Yêu thiên nhiên, hòa hợp với thiên nhiên. Theo nhà nghiên cứu Phạm Ngọc Anh,
39
nhân cách Hồ Chí Minh cũng được biểu hiện qua chín khía cạnh sau: (1) Sự khâm
phục, đánh giá cao của xã hội, ở niềm tin và sức sống bất diệt bởi những giá trị làm
người, giá trị xã hội đã được thừa nhận; (2) Chí hướng, nhân sinh quan, thế giới quan
khoa học, lí tưởng sống, niềm tin sâu sắc vào sự nghiệp cứu dân, cứu nước, sự nghiệp
cách mạng của nhân dân Việt Nam và nhân dân lao động toàn thế giới; (3) Tình yêu
quê hương, đất nước, yêu nhân dân sâu sắc gắn liền với lí tưởng và tình cảm cách
mạng của Người; (4) Tầm vóc và hiểu biết cao về lí luận cách mạng; (5) Khả năng
vận dụng lí luận vào thực tiễn một cách sáng tạo là một phẩm chất cơ bản và cốt lõi;
(6) Sức mạnh và ý chí, nghị lực, khát vọng phi thường trong đấu tranh cách mạng; (7)
hòa quyện, sự kết đọng của sự thông tuệ dân gian; (8) Thông minh, tế nhị và mộc
mạc của tinh hoa văn hóa Việt Nam thể hiện trong ứng xử hàng ngày; (9) Đồng bộ,
hệ thống trong tư tưởng Hồ Chí Minh [10].
Trong công trình Giá trị của nhân cách Hồ Chí Minh đối với việc giáo dục
sinh viên Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế [125], nhóm tác giả đã luận giải
cấu trúc nhân cách Hồ Chí Minh gồm hai thành phần: Một là, đặc trưng nhân cách
Hồ Chí Minh về trí tuệ với bốn nội dung: (1) Trí tuệ mẫn tiệp, nhãn quan chính trị
thiên tài trong việc lựa chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc; (2) Nhạy cảm
với cái mới, linh hoạt trong việc thâu hóa các giá trị văn hóa; (3) Tư duy tổng hợp,
khả năng dự báo và nắm vững quy luật vận động của cách mạng Việt Nam; (4) Trí
tuệ uyên bác của một nhà văn hóa kiệt xuất với nhiều đóng góp về nhiều mặt trong
các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và nghệ thuật. Hai là, đặc trưng nhân cách Hồ Chí
Minh về đạo đức với bốn nội dung: (1) Tự ý thức về trách nhiệm của một người dân
mất nước, hình thành tinh thần tự tôn dân tộc và ý chí ra đi tìm đường cứu nước; (2)
Ý chí kiên cường, theo đuổi lí tưởng “giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người”, “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”; (3) Yêu nước,
thương dân, khát vọng giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân khỏi ách nô lệ của
đế quốc, thực dân; (4) Đạo đức trong sáng, gắn “trung với nước, hiếu với dân” với
“cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”.
Với các cách tiếp cận nêu trên, cấu trúc nhân cách Hồ Chí Minh được kiến giải
theo nhiều quan điểm khác nhau. Tuy nhiên, theo tác giả, cách tiếp cận cấu trúc nhân
40
cách Hồ Chí Minh theo hướng phẩm chất và năng lực, đạo đức và trí tuệ - tức là loại
cấu trúc nhân cách ĐỨC - TÀI là ưu trội hơn cả. Do đó, với đề tài luận án này, tác giả
sẽ làm rõ những ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự hình thành những
phẩm chất và năng lực của Hồ Chí Minh trong khoảng thời gian Người ở Huế.
2.2. KHÔNG GIAN VĂN HÓA HUẾ
2.2.1. Khái niệm không gian văn hóa Huế
2.2.1.1. Văn hóa
Khái niệm văn hóa được hình thành và hoàn thiện gắn với tiến trình phát triển
lâu dài của lịch sử loài người, thuật ngữ này xuất hiện khá sớm trong ngôn ngữ và
thư tịch cổ của các dân tộc trên thế giới.
Ở phương Đông, trong thư tịch cổ Trung Quốc, văn có nghĩa là “vẻ đẹp”, hóa là
“biến đổi”, “hóa thành”. Văn hóa gộp lại theo nghĩa gốc là “làm cho đẹp, trở thành
đẹp đẽ”. Lưu Hướng (77-6 TCN) đời Tây Hán xem “văn hóa” như là một phương
thức giáo hóa con người. Sách Thuyết uyển từng ghi “bậc thánh nhân trị thiên hạ,
trước dùng văn đức rồi sau mới dùng vũ lực. Phàm dùng vũ lực để đối phó với kẻ bất
phục tùng; dùng văn hóa không thay đổi được thì mới chinh phạt” [18, tr.13].
Ở phương Tây, thuật ngữ văn hóa xuất hiện vào khoảng thế kỉ thứ III trước
công nguyên, trong tiếng Latinh bắt nguồn từ chữ “Cultus” có nghĩa gốc là trồng trọt,
vun trồng. Về sau, thuật ngữ này được mở rộng thành “Cultus animi”, đồng thời được
chuyển nghĩa, nói về sự vun trồng tinh thần, trí tuệ và tâm hồn con người như quan
điểm của nhà chính trị La Mã nổi tiếng Cicero Marcus Tullius (106-43 TCN):
“Filossofia cultura animi est”, tức “văn hóa là sự gieo trồng tinh thần” [145, tr.17].
Cùng với sự phát triển của lịch sử - xã hội loài người, khái niệm văn hóa không
ngừng được hoàn thiện về nội hàm. Francis Becon (1561-1626) cho rằng văn hóa là
sự gieo trồng tinh thần, là sự nảy nở tri thức, là sự tiến bộ. Thomas Hobbes (1588-
1679) thì xem văn hóa là sự giáo dục, bồi dưỡng tâm hồn và sự truyền đạt tri thức gắn
với sự sáng tạo các giá trị. Tuy nhiên, khái niệm văn hóa chỉ thực sự trở thành một
thuật ngữ khoa học vào thế kỉ XVIII, gắn với tên tuổi của nhà nghiên cứu luật học C.
Pufendorf (1632-1694) khi ông đưa ra quan niệm “văn hóa là toàn bộ những gì do
hoạt động xã hội của con người tạo ra, văn hóa khác với tự nhiên, khu biệt với tự
41
nhiên” [58, tr.17]. Sang thế kỉ XIX, Edward Burnett Tylor (1832-1917) trong công
trình Văn hóa nguyên thủy lần đầu tiên đưa ra định nghĩa: “Văn hóa hiểu theo nghĩa
rộng nhất của nó, là toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo
đức, pháp luật, phong tục, cùng với những khả năng và tập quán khác mà con người
có được với tư cách là một thành viên của xã hội” [58, tr.18].
Từ giữa thế kỉ XX trở lại đây, các định nghĩa văn hóa không ngừng tăng lên về
số lượng. Năm 1994, Phan Ngọc trong công trình Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận
mới cho biết có hơn 400 định nghĩa khác nhau về văn hóa. Đến nay, các nhà nghiên
cứu ước tính có khoảng hơn 500 định nghĩa về văn hóa với nội hàm và ngoại diên
khác nhau. Định nghĩa tuy nhiều, nhưng trên đại thể có thể phân thành hai loại văn
hóa nghĩa rộng và văn hóa nghĩa hẹp. Trong công trình “Văn hóa nguyên thủy”,
Tylor xem văn hóa là “một chỉnh thể phức hợp bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ
thuật, đạo đức, pháp luật, tập tục và năng lực tập quán có được của bất cứ người nào
là thành viên của xã hội”, đây là lý thuyết kinh điển của văn hóa nghĩa hẹp.
Từ những năm 80 của thế kỉ XX, Federico Mayor Zaragoza - Tổng giám đốc
UNESCO, đã đưa ra quan niệm: “Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng
tạo trong quá khứ và hiện tại. Qua các thế kỉ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành
nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác định
đặc tính riêng của mỗi dân tộc” [58, tr.21]. Khái niệm này đã tiếp cận văn hóa dưới
góc độ hoạt động, xem văn hóa là hệ thống giá trị chuẩn mực, đồng thời nhấn mạnh
đặc tính dân tộc của văn hóa. Trong Tuyên bố Toàn cầu về Đa dạng văn hóa của
UNESCO năm 2001, văn hóa được định nghĩa là “tập hợp những đặc trưng về tinh
thần, vật chất, trí tuệ và xúc cảm của một xã hội hay của một nhóm người trong xã
hội. Văn hóa chứa đựng, bên cạnh nghệ thuật và văn chương, cả cách sống, phương
thức chung sống, các hệ thống giá trị, các tập tục và tín ngưỡng”.
Các nhà văn hóa mác-xít tiếp tục làm rõ khái niệm văn hóa với nghĩa rộng hẹp
khác nhau. Theo Từ điển Triết học do Nhà xuất bản Tiến bộ Mát-xcơ-va ấn hành
năm 1986 định nghĩa: “Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con
người tạo ra trong quá trình hoạt động thực tiễn xã hội - lịch sử và tiêu biểu cho
trình độ đạt được trong lịch sử phát triển xã hội” [159, tr.656]. Bách khoa toàn thư
42
Liên Xô viết: “Văn hóa là trình độ phát triển lịch sử của xã hội và của con người,
biểu hiện trong các kiểu và các hình thức tổ chức đời sống và hành động của con
người, cũng như trong các giá trị vật chất và giá trị tinh thần do con người tạo ra”
[132, tr.25]. Từ điển Tiếng Việt nêu rõ: “Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị
vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử”, là “những
hoạt động của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu đời sống tinh thần” [119, tr.1100].
Ở Việt Nam, trước Cách mạng Tháng Tám 1945, Đảng Cộng sản Việt Nam và
các nhà nghiên cứu trong nước bước đầu xác lập những quan điểm về văn hóa,
trước hết, phải kể đến định nghĩa văn hóa của Hồ Chí Minh. Người đưa ra khái
niệm văn hóa như sau:
Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo
và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về
mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát
minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức
sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm
thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn [94, tr.458].
Qua khái niệm của Hồ Chí Minh, văn hóa được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm
toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra; văn hóa là động
lực giúp con người sinh tồn, là mục đích cuộc sống loài người; xây dựng văn hóa
dân tộc phải toàn diện trên tất cả các mặt, các lĩnh vực và phương thức sinh hoạt.
Kế thừa tư tưởng của Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng trong tác phẩm Văn hóa
và đổi mới cho rằng: “Văn hóa phải được xem xét như một tập hợp những nét khác
biệt về vật chất và tinh thần, về trí tuệ và cảm xúc, làm rõ nét một xã hội hay một
nhóm xã hội, ngoài nghệ thuật, văn thơ, văn hóa bao hàm phong cách sống, cách
chung sống, hệ thống các giá trị, truyền thống và tín ngưỡng” [45, tr.37]. Tiếp đó,
các nhà nghiên cứu văn hóa ở Việt Nam cũng đưa ra các quan điểm khác nhau về
văn hóa. Trong Cơ sở văn hóa Việt Nam và Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Trần
Ngọc Thêm kiến giải văn hóa theo ba hướng tiếp cận: (1) Văn hóa như là một hệ
giá trị. Theo cách tiếp cận này, tác giả cho rằng: “văn hóa là một hệ thống hữu cơ
43
các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt
động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã
hội” [139, tr.27]; (2) Văn hóa như là một hệ biểu tượng. Theo đó, văn hóa được tác
giả khẳng định là một hệ thống biểu tượng do con người sáng tạo và tích luỹ qua
quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội
của mình; (3) Văn hóa trong một hệ tọa độ và như là một chùm đặc trưng. Theo
cách tiếp cận này, tác giả cho rằng văn hóa gồm một hệ toạ độ ba chiều mà trong đó
con người là chủ thể văn hoá, môi trường tự nhiên và xã hội là không gian văn hoá,
quá trình hoạt động là thời gian văn hoá. Đồng thời, bốn đặc trưng cho phép nhận
diện văn hóa: tính hệ thống, tính giá trị, tính nhân sinh và tính lịch sử.
Có thể nói, văn hóa là một khái niệm trừu tượng, nội hàm của nó không
xác định cụ thể, nên rất khó có một định nghĩa rõ ràng, đầy đủ và chính xác. Vì
vậy, tùy vào khoa học cụ thể và phương pháp tiếp cận mà xây dựng các khái
niệm văn hóa theo hướng khác nhau. Trên cơ sở luận dẫn, phân tích các quan
niệm, định nghĩa văn hóa và thống nhất các tiêu chí, tác giả xin được tổng hợp
và đi đến định nghĩa văn hóa như sau: Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật
chất và tinh thần, truyền thống và thị hiếu, do con người tạo ra trong quá trình
hoạt động thực tiễn lịch sử - xã hội, trong sự tương tác, thích ứng giữa con
người với môi trường, khẳng định bản sắc riêng của mỗi quốc gia, dân tộc,
vùng miền và con người.
2.2.1.2. Văn hóa Huế
Phác thảo về quá trình hình thành và phát triển của văn hóa Phú Xuân - Huế,
có thể chia làm ba thời kì, gắn với tiến trình lịch sử của vùng đất này: (1) Thời kì
thành Hóa Châu (từ đầu thế kỉ XIV đến giữa thế kỉ XVII) là thời kì tổng hợp giữa
văn hóa Việt và văn hóa Chăm-pa, hình thành văn hóa dân gian Phú Xuân; (2) Thời
kì Kim Long - Phú Xuân (từ năm 1636 đến năm 1802 gắn với thời các chúa Nguyễn
đến hết triều đại Tây Sơn) là thời kì nâng cao các thành quả văn hóa dân gian và
tiếp thu yếu tố văn hóa mới của các nước phương Tây; (3) Thời kì kinh đô Huế (văn
hóa Huế) (gắn với triều Nguyễn, kể từ triều Gia Long về sau) là thời kì tập thành
các nội dung thiết lập trung tâm văn hóa quốc gia.
44
Với cách phân chia như trên, văn hóa Huế nằm trong giai đoạn trung - cận đại,
nối tiếp các giá trị của văn hóa Thuận Hóa - Phú Xuân, đồng thời tiếp nhận giá trị
của văn minh phương Tây để làm nên văn hóa Huế. Nó được đánh dấu bằng sự kiện
sau khi chiến thắng triều Tây Sơn, năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi, tạo lập vương
triều Nguyễn, mở đầu cho thời kì hình thành và phát triển của văn hóa Huế. Trong
quá trình đó, Thừa Thiên Huế đã hình thành nên một hệ giá trị gồm văn hóa vật
chất (văn hóa hữu thể) và những vốn quý văn hóa tinh thần (văn hóa vô thể) để hình
thành nên một nền văn hóa Huế đặc sắc của đất nước [134, tr.18].
Từ nhiều góc độ khác nhau, các nhà khoa học, nhà nghiên cứu Huế trong và
ngoài nước đã cắt nghĩa văn hóa Huế theo nội hàm và ý nghĩa riêng. Trong bộ công
trình Địa chí Thừa Thiên Huế, các nhà khoa học đã nêu một cách khái quát về ba
đặc điểm tiêu biểu của văn hóa Huế như sau:
Văn hóa Huế là một nền văn hóa của sự hài hòa và gắn bó giữa môi
trường sống và chủ nhân của nó.
Văn hóa Huế, một nền văn hóa được làm giàu bởi các dòng văn hóa đô
thị - văn hóa làng (chùa) và văn hóa cung đình (bác học) - văn hóa dân
gian không có sự đối lập, loại trừ.
Văn hóa Huế là một nền văn hóa của cái đẹp trong nghệ thuật kiến trúc
và phong cách sống [166].
Ba đặc điểm nêu trên được xem như là những lát cắt, tiểu định nghĩa về văn
hóa Huế. Song, không thể nêu một định nghĩa văn hóa Huế bằng việc liệt kê các
thành tố, đặc điểm của nó, bởi vì văn hóa Huế còn có rất nhiều đặc điểm khác.
Chẳng hạn, văn hóa Huế còn là sự dung hợp, tiếp biến các nền văn hóa và các giá
trị văn hóa khác nhau. Trải qua quá trình lịch sử hình thành và phát triển khoảng
gần 7 thế kỉ (tính từ năm 1306), Huế đã tiếp biến, tích hợp các giá trị vật chất và
tinh thần quý báu để tạo nên một truyền thống văn hóa mang phong cách riêng. Văn
hóa Huế có sự tác động của văn hóa Đông Sơn do các lớp cư dân từ phía Bắc mang
vào trước thế kỉ II và sau thế kỉ XIII, hỗn dung với văn hóa Sa Huỳnh tạo nên nền
văn hóa Việt - Chăm. Trong quá trình phát triển, văn hóa Huế chuyển biến, ảnh
hưởng từ các luồng văn hóa của các nước trong khu vực Đông Nam Á, Trung Quốc,
45
Ấn Độ và văn hóa phương Tây. Theo cách luận giải đó, Nguyễn Xuân Hoa khẳng
định: “Văn hóa cố đô Huế bắt nguồn từ truyền thống văn hóa Việt Nam, tiếp nối
văn hóa cung đình Thăng Long - Đông Đô, vừa tích hợp với yếu tố văn hóa bản địa,
dung hợp với tinh hoa của những dòng văn hóa bên ngoài vào để hình thành những
đặc trưng của Huế” [61, tr.72]. Tác giả này tiếp cận văn hóa Huế dưới góc độ văn
hóa vùng với những sắc thái biểu trưng và hệ giá trị độc đáo.
Từ góc nhìn văn hóa học, Trần Quốc Vượng cho rằng Huế là một vùng văn hóa,
gồm nhiều hệ mang bản sắc độc đáo “có một không hai”, đó là: 1/ Hệ tiếng Huế đặc
thù, 2/ Hệ hò Huế trên sông Hương, 3/ Hệ ca nhạc Huế với điệu Nam điệu Bắc, nhạc
cung đình, 4/ Hệ Pháp lam Huế với những hình trang trí màu sắc tươi sáng và với các
đồ sứ kiểu men lam (Bleu de Hue) độc đáo, 5/ Hệ kinh thành Huế vẫn còn giữ được
vẻ hoàn chỉnh, 6/ Hệ Lăng Tẩm Huế như Lăng Gia Long, Minh Mạng, Tự đức, 7/
Văn hóa đô thị Huế, 8/ Hệ chùa đền như Tháp Thiên Mụ, Chùa Từ Đàm, các dinh thự
và các nhà rường [47, tr.982]. Từ đó, ông kết luận: “Văn hóa Huế là văn hóa đô thị, là
văn hóa bánh trái, là văn hóa thuyền ca nhạc trên dòng Hương Giang, là sự đan xen
và giao thoa, giao hòa văn hóa Việt - Chàm, Việt - Minh Hương...” [178, tr.70].
Khi xem xét văn hóa Huế dưới góc độ giá trị, nhiều nhà khoa học cho rằng:
“Văn hóa Huế bao gồm văn hóa vật thể và phi vật thể chứa đựng nhiều giá trị biểu
trưng cho trí tuệ và tâm hồn của dân tộc Việt Nam” [32]. Trong đó, nhà nghiên cứu
Trần Đại Vinh chỉ ra rằng xứ Huế là nơi giao lưu văn hóa Kinh và văn hóa Chăm, nơi
kết tinh văn hóa của cả nước trong thế kỉ XIX, để lại những thành tựu văn hóa tạo nên
giá trị của văn hóa Huế. Giá trị ấy biểu hiện từ nhà vườn đến kiến trúc thành quách,
cung điện, lăng tẩm, đình miếu, từ món ăn dân dã đến món ăn quý tộc, từ trang phục
bình dân đến phẩm phục vua quan, từ các điệu hò lao động đến ca lý và ca Huế
thính phòng, từ tuồng dân gian đến tuồng cung đình, từ văn chương bình dân đến
văn chương bác học, từ trang trí nề mộc dân gian đến trang trí, điêu khắc cung đình
và hội họa hiện đại, từ tín ngưỡng dân gian đến các tôn giáo Phật giáo, Thiên chúa
giáo. Tất cả góp phần tạo nên bản sắc của văn hóa Huế, hình thành phẩm chất của
con người Huế, kết tinh thành lối sống hài hòa của cư dân xứ Huế [176, tr.22].
46
Từ việc luận dẫn và phân tích các quan niệm, khái niệm nêu trên, có thể hiểu
Văn hóa Huế là tổng hòa các giá trị vật chất và tinh thần, truyền thống, thị hiếu và
phong cách sống, được tạo nên từ quá trình hoạt động thực tiễn gắn với sự tương
tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội, để khẳng định bản sắc riêng
của vùng đất và con người Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế.
2.2.1.3. Không gian văn hóa Huế
Nghiên cứu văn hóa nói chung và không gian văn hóa Huế nói riêng có nhiều
cách tiếp cận, trong đó Nhân học văn hóa là một phương pháp tiếp cận giúp thấu
hiểu một cách tổng thể và sâu sắc nhất. Là một bộ môn khoa học mang tính liên
ngành, Nhân học văn hóa nghiên cứu về bản chất con người và xã hội con người
một cách tổng thể. Nó kết hợp kết quả của các ngành khoa học xã hội cũng nghiên
cứu về con người (xã hội học, ngôn ngữ học, chính trị học, kinh tế học, nghệ thuật,
sử học, văn học), bổ sung vào những dữ liệu thu thập của nghiên cứu thực địa để
phân tích, khám phá sự tương tác của các yếu tố xem chúng tạo dựng nên đời sống
của con người trong không gian văn hóa ra sao. Đi sâu vào nghiên cứu, chúng ta có
thể thấy được một số lí thuyết quan trọng trong nghiên cứu văn hóa như: Thuyết
duy vật (Materialism), Thuyết đặc thù văn hóa (Cultural Particularism), Thuyết
chức năng văn hóa (Functionalism), Thuyết cấu trúc văn hóa (Structuralism),
Thuyết tương đối văn hóa (Cultural relativism)… Trong đề tài này, tác giả không
chỉ sử dụng phương pháp luận nghiên cứu của Văn hóa học, Hồ Chí Minh học mà
còn sử dụng lý thuyết và phương pháp luận của Nhân học văn hóa để nghiên cứu
những ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự hình thành và phát triển nhân
cách Hồ Chí Minh.
Để hiểu rõ “Không gian văn hóa Huế” thì trước hết cần làm rõ các khái niệm
liên quan như “không gian văn hóa”, “vùng văn hóa”.
Không gian văn hóa là những vùng lãnh thổ được hình thành qua sự tích lũy
các giá trị văn hóa vật chất và tinh thần, từ sự tương tác giữa con người với tự nhiên
và xã hội. Không gian văn hóa là “một không gian địa lí xác định, mà ở đó một hiện
tượng hay một tổ hợp hiện tượng văn hóa nảy sinh, tồn tại, biến đổi và chúng liên
kết với nhau như một hệ thống” [140, tr.37].
47
Văn hóa vùng thuộc dạng thức văn hóa lãnh thổ, là một thực thể văn hóa, hình
thành và tồn tại trong một không gian địa lí nhất định, thể hiện qua một tập hợp các
đặc trưng văn hóa về cách thức hoạt động sản xuất; về ăn, mặc, ở, đi lại, vận
chuyển; về cách thức tổ chức xã hội và giao tiếp cộng đồng; về tín ngưỡng, phong
tục tập quán và lễ hội; về cách thức sinh hoạt văn hóa văn nghệ, vui chơi giải trí; về
sắc thái tâm lí của dân cư; về các truyền thống, thị hiếu thẩm mĩ… Những đặc trưng
của văn hóa vùng được hình thành qua trình lịch sử lâu dài, do sự tương tác giữa cư
dân các dân tộc trong vùng với điều kiện tự nhiên - xã hội, cũng như sự giao lưu
văn hóa giữa các tộc người. Vùng văn hóa là kết quả của quá trình lịch sử lâu dài,
do đó những đặc trưng của nó trở thành truyền thống khá ổn định, giữ vai trò nền
tảng cho sự phát triển của vùng qua tiến trình lịch sử. Khái niệm vùng văn hóa được
hình thành để chỉ sự phân bố của không gian địa lí, giúp hình dung được toàn cảnh
bức tranh văn hóa với những sắc thái vùng miền. Một vùng văn hóa được xác định
bởi 04 thành phần: (1) Môi trường tự nhiên: mỗi vùng có những đặc điểm tự nhiên
khác nhau, do đó, trong quá trình tương tác với điều kiện tự nhiên làm sản sinh
những giá trị văn hóa đặc trưng riêng có của từng vùng; (2) Nguồn gốc lịch sử của
các cư dân cư trú: những dân tộc, vùng miền, địa phương có những điểm tương
đồng về điều kiện tự nhiên, có chung quá trình hình thành và phát triển thì có những
điểm tương đồng về văn hóa; (3) Đặc trưng sáng tạo văn hóa: sự sáng tạo của con
người trong ứng phó với môi trường tự nhiên và xã hội sẽ tạo nên nhưng đặc trưng
riêng về văn hóa của từng vùng. Ví dụ như: văn hóa nhà rường, nhà vườn trong văn
hóa Huế là sự sáng tạo rất đặc trưng của người Huế trong ứng phó với môi trường
tự nhiên và xã hội; (4) Sự giao lưu văn hóa giữa các tộc người, các vùng văn hóa:
một vùng văn hóa không có nghĩa là sự khép kín, mà luôn có sự lan tỏa, tiếp biến từ
vùng này sang vùng khác, từ dân tộc này đến dân tộc kia và ngược lại.
Từ cách hiểu trên, có thể đi đến thống nhất “không gian văn hóa Huế” là loại
hình văn hóa khu vực, có không gian văn hóa rộng lớn, không chỉ giới hạn trong
phạm vi hành chính thành phố Huế, mà còn là địa bàn từ châu Ô, châu Lý cổ đến
phía Nam Quảng Trị và Bắc Quảng Nam, trong đó thành phố Huế đóng vai trò là
trung tâm, biểu hiện sự đầy đủ, phong phú và đặc trưng nhất của vùng văn hóa này.
48
Từ những kết quả nghiên cứu của mình, Trần Quốc Vượng cho rằng không gian văn
hóa Huế bao gồm những thực thể cả về tự nhiên, văn hóa, lịch sử, chính trị, kinh tế,
xã hội và con người tồn tại trong chiều dài phát triển của lịch sử dân tộc. Từ thế kỉ
thứ X, Huế thuộc văn hóa - văn minh Chăm-pa ở miền Trung - một trong ba nền
văn hóa - văn minh lúc đó (Đại Việt ở miền Bắc và Thủy Chân Lạp ở miền Nam).
Từ thế kỉ XVI đến XVIII, Huế là một trong hai trung tâm văn hóa - văn minh (Đàng
Trong, Thăng Long là trung tâm của Đàng Ngoài). Từ thế kỉ XIX đến giữa thế kỉ
XX, Huế là trung tâm của Trung kỳ (thời Pháp thuộc), Trung bộ (thời Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa). Xét về lịch sử hình thành, xứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai
ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay
gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân
Công chúa sang xứ Chàm làm sính lễ; thuở đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này,
người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo
vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã. Họ
đem cái “bản sắc dân tộc”, cõng theo cuốc cày, hạt giống, cả cách chăn nuôi trồng
trọt, gánh luôn y thuật, lễ hội và cả mang cả “tên đất tên làng trong mỗi chuyến đi
xa” để vượt qua lam sơn chướng khí, đến vùng đất ác địa “con chim kêu cũng sợ,
con cá quẫy cũng kinh” - Thuận Hóa mà sinh tồn, mà phát triển [142].
Về đặc trưng của không gian văn hóa Huế, tiến trình lịch sử đã tạo ra cho Huế
những giá trị văn hóa đặc trưng: Huế vừa cổ kính rêu phong vừa sáng rạng hiện đại,
vừa mang tư tưởng phương Đông vừa chuyển tải triết lí phương Tây. Nửa thành phố
phía nam sông Hương là thành phố trẻ, thời Pháp chiếm gọi là khu phố mới, hay
khu phố Tây. Phía bắc sông Hương là thành phố cổ, với thành quách, đền đài, cung
điện, đình đàn, Quốc Tử Giám, Quốc Sử Quán, Cơ Mật viện, Bảo tàng Cổ vật, Lầu
Tàng Thư, Hồ Tịnh Tâm của kinh đô xưa. Khu vực Đại nội - Tử Cấm thành là nơi ở
của nhà vua. Vùng phụ cận, nhà vườn san sát, cây trái sum suê. Huế là thành phố có
nhiều sông ngòi, chùa chiền, am điện, với nhiều loại hình lễ hội dân gian. Huế có
cảng cổ Thanh Hà, phố cổ Bao Vinh thời các chúa, lại có khu phố cổ Gia Hội, Chi
Lăng thời các vua. Là thành phố nhưng bản chất Huế gần thôn quê, có nhiều phủ đệ,
nhà thờ xen giữa những ngôi làng. Huế chất chứa trong mình sức sống mãnh liệt từ
49
cội nguồn của nhiều thành tố văn hóa, để làm nên một diện mạo đặc sắc của một
tiểu vùng được gọi bằng cái tên: Văn hóa Huế [142].
Với cách hiểu trên, không gian văn hóa Huế là vùng văn hóa rộng lớn, với
những đặc trưng về giá trị văn hóa vật chất và tinh thần, được hình thành trong quá
trình tương tác giữa con người với tự nhiên và xã hội, từ châu Ô, châu Lý cổ đến
phía nam Quảng Trị và bắc Quảng Nam, trong đó Huế đóng vai trò là trung tâm.
2.2.2. Cấu trúc không gian văn hóa Huế
Một không gian văn hóa được hình thành bao giờ cũng trên những cơ sở nhất
định. Không gian văn hóa Huế cũng vậy, các yếu tố tự nhiên, văn hóa, xã hội và các
hoạt động thực tiễn lịch sử - xã hội của con người đã làm nên giá trị bản sắc của văn
hóa Huế. Và chính trên không gian địa lí Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế, từ xứ Đàng
Trong cho đến Trung bộ, từ thế kỉ XVI cho đến nay, gắn với hệ sinh thái núi đồi,
cồn bãi, đầm phá, được xuyên kết bởi dòng sông Hương đã làm các giá trị văn hóa
nảy sinh, tồn tại, biến đổi và liên kết với nhau tạo nên một không gian văn hóa
mang nhiều nét đặc sắc - Không gian văn hóa Huế. Chính từ các yêu tố này, trải qua
nhiều sự thay đổi của tự nhiên và sự cải biến không ngừng nghỉ của con người xứ
Huế đã tạo nên những nét đặc trưng văn hóa riêng có của vùng đất này. Từ đây,
nhiều nhà khoa học khi nghiên cứu Huế đã chia không gian văn hóa Huế thành: văn
hóa địa - sinh thái Huế, văn hóa chính trị xứ Huế, văn nghệ thuật xứ Huế, văn hóa
giáo dục xứ Huế, văn hóa tâm linh xứ Huế, văn hóa ứng xử xứ Huế…
2.2.2.1. Văn hóa địa - sinh thái Huế
- Vị trí địa lí
Xét về mặt lịch sử - địa lí, không gian văn hóa Huế khá rộng lớn. Từ năm
1306, vua Trần Anh Tông gả Huyền Trân Công chúa cho vua Chiêm là Jaya
Simhavarman III (Chế Mân) để đổi lấy châu Ô và châu Lý. Năm 1307, vua Trần đổi
thành hai châu Ô, Lý thành châu Thuận và châu Hóa. Sau hơn hai thế kỉ mở mang
khai khẩn, đến giữa thế kỉ thứ XVI, lộ Thuận Hóa đã thành nơi đô hội lớn. Năm
1636, chúa Nguyễn Phúc Lan dời phủ đến Kim Long, khởi đầu cho quá trình đô thị
hóa trong lịch sử hình thành và phát triển của thành phố Huế sau này. Đến năm
1687, chúa Nguyễn Phúc Thái lại dời phủ chính đến làng Thụy Lôi, đổi thành Phú
50
Xuân, ở vị trí tây nam trong kinh thành Huế hiện nay, tiếp tục xây dựng và phát
triển Phú Xuân thành trung tâm đô thị phát đạt của xứ Đàng Trong. Tiếp đó, Phú
Xuân là kinh đô của nước Đại Việt thống nhất dưới triều Tây Sơn và là kinh đô của
nước Việt Nam gần 150 năm dưới triều đại phong kiến nhà Nguyễn.
Đến năm 1822, vua Minh Mạng đổi thành phủ Thừa Thiên, chỉ phần đất bao
bọc Kinh thành Huế, gồm Hương Trà, Quảng Điền và Phú Vang. Năm 1835, trích
lấy một phần đất của Hương Trà, Phú Vang đặt thành huyện Hương Thủy, Phú Lộc,
và phần đất khác của huyện Hương Trà và huyện Quảng Điền đặt thành huyện
Phong Điền. Từ đó, phủ Thừa Thiên nằm ngoài kinh sư gồm có 6 huyện: Quảng
Điền, Phong Điền, Hương Trà, Hương Thủy, Phú Vang và Phú Lộc.
Năm 1898, Vua Thành Thái ra chỉ dụ lập thị xã Huế và Toàn quyền Đông
Dương ra Nghị định chuẩn y. Đến năm 1929, thị xã Huế được nâng thành thành phố
Huế (địa giới hành chính gồm 9 phường nằm ngoài Kinh thành, từ phường đệ nhất
đến phường đệ cửu, đến năm 1935 được sắp xếp thành 11 phường). Sau Cách mạng
Tháng Tám, thị xã Huế bao gồm cả khu vực nội ngoại thành, là tỉnh lị của Thừa
Thiên. Năm 1956, Ngô Đình Diệm ban hành dụ 37A cải tổ hành chính, Huế là thành
phố (về sau là thị xã) ngang cấp với tỉnh Thừa Thiên nhưng tỉnh lị Thừa Thiên vẫn
đặt tại Huế. Sau năm 1975, Huế là tỉnh lị của tỉnh Bình Trị Thiên (cũ) gồm 18
phường, 22 xã. Năm 1989, Thừa Thiên tách khỏi tỉnh Bình Trị Thiên, Huế là thành
phố tỉnh lị của Thừa Thiên Huế gồm 18 phường, 5 xã và hiện nay là 27 phường.
Với cách tiếp cận trên, ta thấy rằng Huế chỉ là một địa hạt nhỏ trong một vùng
văn hóa lớn. Và trong vùng văn hóa rộng lớn đó, Huế với tư cách là thủ phủ - đô
thành - kinh đô - thị xã hay thành phố luôn luôn là một trung tâm quan trọng về
nhiều mặt.
Ngày nay, xét về địa phận hành chính, Huế là thành phố trực thuộc của tỉnh
Thừa Thiên Huế. Thành phố Huế là trung tâm về nhiều mặt của miền Trung như:
văn hóa, chính trị, y tế, giáo dục, du lịch, khoa học... Về địa giới hành chính, thành
phố Huế nằm ở tọa độ địa lí 16-16,80 vĩ Bắc và 107,8-108,20 kinh Đông, phía Nam
giáp thị xã Hương Thủy, phía Đông giáp thị xã Hương Thủy và huyện Phú Vang.
Huế tọa lạc hai bên bờ sông Hương, phía Bắc của đèo Hải Vân. Huế tựa lưng vào
51
dãy núi Trường Sơn, khu vực thành phố Huế là đồng bằng thuộc vùng hạ lưu sông
Hương và sông Bồ. Khu vực đồng bằng này tương đối bằng phẳng, mặc dù địa hình
xen kẽ đồi, núi thấp như núi Ngự Bình, Vọng Cảnh.
Việc xác định vị trí địa lí của Huế như trên cho chúng ta hiểu rõ hơn không
gian văn hóa Huế về mặt địa lí. Tuy nhiên, văn hóa Huế luôn có sự lan tỏa, tiếp
biến. Không gian văn hóa Huế không chỉ đơn thuần là những giá trị văn hóa được
sản sinh trên địa phận Huế, mà nó còn chịu ảnh hưởng bởi văn hóa ngoại vi. Do đó,
để hiểu rõ không gian văn hóa Huế phải làm rõ vị trí địa lí của cả Thừa Thiên Huế.
- Điều kiện tự nhiên
Về địa hình, Thừa Thiên Huế được chia thành bốn vùng sinh thái: vùng núi,
vùng gò đồi, vùng đồng bằng, vùng đầm phá và cồn cát ven biển. Chính vị trí đặc
biệt cùng với sự đa dạng của địa hình đã làm cho Thừa Thiên Huế có nhiều điểm
nổi bật về tự nhiên. Dãy Trường Sơn đâm ngang ra tận biển, trở thành ranh giới tự
nhiên của hai miền khí hậu khiến Thừa Thiên Huế có chế độ khí hậu nhiệt đới gió
mùa nóng ẩm và chế độ mưa đặc trưng tạo nên sự khác biệt giữa vùng đất này với
bất kỳ nơi nào trên lãnh thổ Việt Nam. Chính sự giao thoa khí hậu với kiểu khí hậu
đặc trưng quy định nét văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên rất đặc trưng. Đó là
lối kiến trúc nhà vườn, nhà rường xứ Huế. Nếu cư dân vùng đồng bằng châu thổ
sông Hồng, cư trú trong môi trường châu thổ, đất chật người đông, nên khu vườn,
nếu có tồn tại trong ý nghĩ của họ, phải là những khu vườn có thể sinh lợi và đảm
bảo cho nhu cầu tự cấp, tự túc của gia đình. Trong khi đó, cư dân Nam bộ lại cái
văn hóa miệt vườn, vì họ được sống trong những cánh đồng phì nhiêu cò bay thẳng
cánh, nên trong tâm thức của họ không có hình ảnh lũy tre hay hàng chè tàu để
khuôn ranh giới. Với người Nam bộ, chỉ có miệt vườn mênh mông cây trái, không
phải là thứ vườn có che chắn. Riêng đối với người Huế, thiên nhiên gồm đủ cả núi
đồi, sông suối, đầm phá, biển cả, đất đai không màu mỡ, thời tiết ở Huế “khi nắng
thì bùn hóa đá, khi mưa thì đá hóa bùn”, nên mùa màng không thể “phong đăng
hòa cốc”, không thỏa mãn đời sống con người. Sống trong khung cảnh thiên nhiên
và khí hậu như thế nên người Huế không hề có ý định lập vườn để sinh lợi, mà nhà
vườn của cư dân Huế mang nhiệm vụ phòng vệ, tạo ra không gian an toàn tối thiểu
52
cho chủ nhân của nó trước sự đe dọa của thiên nhiên. Và trong cái văn hóa nhà
vườn đó, nổi lên một kiểu kiến trúc độc đáo thể hiện sự tinh tế của người Huế trong
ứng phó với tự nhiên, đó là nhà rường. Để tránh ảnh hưởng của mưa bão, nắng gió,
nhà rường không vượt quá chiều cao của cung điện theo quy định vua ban, mái nhà
có độ dốc lớn để thoát nước mưa. Đặc biệt, sự độc đáo và tinh túy nhất của những
ngôi nhà rường Huế chính là những nét chạm trổ công phu, cầu kỳ. Những ngôi nhà
rường nằm yên lặng, cổ kính và thanh tao như điểm nhấn nổi bật giữa nhà vườn xứ
Huế. Do đó, nhà vườn, nhà rường Huế là nơi chứa đựng những điều thiêng liêng,
mang nét đặc trưng của không gian văn hóa Huế.
Về địa chất, Thừa Thiên Huế có cấu trúc địa chất rất đa dạng, bao gồm 16
phân vị địa tầng và 7 phức hệ mắc-ma xâm nhập [166]. Sự đa dạng và phong phú về
chủng loại đó được xếp dàn trải trên một địa hình phức tạp, có độ dốc lớn và bị chia
cắt mạnh. Hệ thống thủy văn ở Thừa Thiên Huế hết sức phức tạp và độc đáo. Tính
phức tạp thể hiện ở chỗ hầu hết các con sông đan nối vào nhau thành một mạng lưới
chằng chịt: sông Ô Lâu, phá Tam Giang, sông Hương, sông Lợi Nông, sông Đại
Giang, sông Hà Tạ, sông Cống Quan, sông Truồi, sông Nong, đầm Cầu Hai. Tính
độc đáo của hệ thống thủy văn được thể hiện ở chỗ Huế là nơi hội tụ của các con
sông trước khi ra biển là một vực nước lớn, kéo dài gần 70 km dọc bờ biển, có diện
tích lớn nhất Đông Nam Á. Và cũng chính từ những con sông lớn đó gây ra không ít
khó khăn cho cư dân vùng này với những trận đại hồng thủy đi vào lịch sử.
Chính địa hình, khí hậu phức tạp và đa dạng sinh học là nguồn gốc của vẻ đẹp
và sự phong phú cảnh quan thiên nhiên. Và cũng chính điều kiện tự nhiên đó đã ảnh
hưởng đến tâm tính và cảm quan của người Huế mà hình thành nên những nếp nhà
vườn ở xứ thần kinh, quy định tính cách, phong cách sống và lối ứng xử của người
Huế, cũng như góp phần hình thành một vùng văn hóa - không gian văn hóa độc
đáo và đậm bản sắc.
2.2.2.2. Văn hóa chính trị xứ Huế
- Thừa Thiên Huế - trung tâm của công cuộc xây dựng và bảo vệ kinh đô Việt Nam
Năm 1306, hai châu Ô - Lý được sáp nhập vào lãnh thổ nước ta, trải qua nhiều
triều đại, Thừa Thiên Huế là phên dậu, vùng biên viễn xung yếu của Tổ quốc. Từ
53
năm 1307, công cuộc di dân của người Việt từ đồng bằng Thanh - Nghệ vào vùng
đất mới đã khởi đầu. Tại đây việc di dân của người Việt diễn ra rải rác trong thế kỉ
XIV, đến cuối thế kỉ XIV nhà Trần đã lập tại vùng đất Hóa Châu thêm 7 huyện mới
là Trà Kệ, Lợi Bồng, Sạ Lệnh, Tư Dung, Bồ Đài, Bồ Lãng và Thế Vinh, với khoảng
trên 40 làng, ấp, thôn, trại, sách.
Sau khi Jaya Simhavarman III (Chế Mân) chết, công chúa Huyên Trân trở về
Đại Việt, lấy cớ này các vua kế vị Chế Mân đem quân đánh châu Thuận và châu
Hóa, các vua Trần nhiều lần cử quân đánh dẹp và đề ra nhiều đối sách trấn giữ châu
Hóa. Năm 1372, vua Trần Nghệ Tông đã cất nhắc Hồ Long làm Đại tri châu Hóa
nhưng miền biên viễn này vẫn không yên ổn. Năm 1377, với sự kiện vua Trần Duệ
Tông tử trận vì mắc mưu trá hàng của vua Chiêm Thành Chế Bồng Nga, quân
Chiêm Thành đã chiếm châu Thuận, châu Hóa, châu Tân Bình và Nghệ An trong
suốt 12 năm, cho đến khi Chế Bông Nga bị quân Đại Việt bắn chết, quân Chiêm
Thành tan vỡ, rút quân khỏi vùng đất này. Năm 1391, vua Trần Thuận Tông cử Lê
Quý Ly đi tuần châu Hóa, xét định quân ngũ, sửa chữa thành trì, châu Hóa mới ổn
định. Tình hình biến động trên vùng đất Thừa Thiên Huế rải rác suốt thế kỉ XIV, đã
làm nhịp độ di dân vào đây chững lại. Chiến tranh cũng đã làm cho những làng mạc
mới thành lập xơ xác, những thế hệ đầu tiên khai canh lập ấp phần lớn bị phiêu tán
và ruộng đồng hầu hết hoang hóa, phải đến thế kỉ sau mới phục hồi.
Sự ra đời của thành Hóa Châu (khoảng cuối thế kỉ XV, đầu thế kỉ XVI) tồn tại
trong một thời gian ngắn với tư cách là tòa thành phòng thủ chứ chưa phải là nơi
sinh hoạt đô thị của xứ Thuận Hóa thời ấy. Trung tâm của Hóa Châu là phủ Triệu
Phong với lỵ sở là thành Hóa Châu, nơi đặt nha môn của Tam ty, với phủ thự,
trường học, binh xá khiến vùng làng mạc xung quanh trở nên sầm uất, phồn thịnh.
Cư dân sinh sống chủ yếu bằng nghề nông, vừa làm ruộng, vừa đánh cá, làm muối,
đóng thuyền, ngoài ra còn phát triển các nghề thủ công: rèn, làm giấy, gốm, đan lát,
dệt vải, làm bột, làm bún.... Về thương nghiệp, bên cạnh những chợ làng, chợ nhỏ
phục vụ quá trình tự cung tự cấp của nông dân đã hình thành một số chợ lớn buôn
bán tấp nập như: Thế Lại, Lại Thị, Địa Linh, Tây Thành, Đan Lương, Phò Trạch,
Lại Ân... Con người Hóa Châu lúc bình thường thì sống cần cù, chất phác, thuận
54
hòa, vui với cuộc sống nông nghiệp bình dị, nhưng lúc có biến cố thì anh dũng, kiên
cường, không sợ hãi uy vũ, quyết hi sinh vì nghĩa lớn. Đất Hóa Châu có nhiều nho
sĩ được bổ làm quan ở các phủ, huyện trong cả nước. Đó là những nhân tố vô cùng
thuận lợi để Nguyễn Hoàng khi trấn thủ xứ Thuận Hóa phát triển dân sinh, củng cố
thế lực của mình và đưa vùng đất này phát triển sang một giai đoạn mới.
Đến năm 1626, chúa Nguyễn Phúc Nguyên chọn Thuận Hóa để thiên dinh từ
Đông Ái Tử (Quảng Trị) về làng Phước Yên (Quảng Điền, Thừa Thiên Huế ngày
nay) để gây dựng cơ đồ lâu dài cho vua chúa nhà Nguyễn. Sau ba thế kỉ từ khi trở
về với Đại Việt, Thuận Hóa là vùng chiến tuyến tranh giành quyền lực giữa Đàng
Trong và Đàng ngoài, ít có thời gian hòa bình nên chưa có điều kiện hình thành
những trung tâm dân cư sầm uất theo kiểu đô thị. Sau nhiều lần thiên dinh, năm
1738 chúa Nguyễn Phúc Khoát tiến hành bố trí, sắp xếp, phác họa vóc dáng thủ phủ
Phú Xuân. Việc chọn Phú Xuân làm thủ phủ càng tạo điều kiện thuận lợi cho Huế
phát triển thành trung tâm chính trị - quân sự - kinh tế của Đàng Trong. Đến năm
1786, Phú Xuân được vua Quang Trung chọn làm kinh đô của vương triều Tây Sơn,
về sau vua Gia Long và các vua Nguyễn chọn làm kinh đô lâu dài và không ngừng
đầu tư mở rộng, xây dựng Kinh thành nguy nga, đồ sộ.
Dưới triều đại Tây Sơn, Phú Xuân là nơi xuất phát những ý tưởng, chủ trương,
chính sách hướng tới xây dựng một đất nước thống nhất, tiến hành cải tổ trên các
mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục tiến bộ, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc
và kế thừa tinh hoa của cha ông xưa. Về hành chính, vua Quang Trung đã xây dựng
một hệ thống hành chính và quan chế mới. Về kinh tế, chính sách của nhà Tây Sơn
vẫn xây dựng trên căn bản “trọng nông”, khuyến khích phát triển nông nghiệp. Với
những biện pháp tích cực đó, vua Quang Trung đã cố gắng xây dựng lại đất nước
sau một thời gian dài sa sút nghiêm trọng. Nhờ công cuộc chiêu tập dân lưu tán, đẩy
mạnh việc khai hoang phục hóa mà xã hội dần dần ổn định, đời sống nhân dần dần
được cải thiện. Nhân dân nơi đây tích cực tham gia xây dựng quê hương, cần cù lao
động, mở mang ruộng vườn. Sau mấy năm, tình hình đời sống xã hội đã có dấu hiệu
tiến bộ, đời sống ngày một khá hơn.
55
Như vậy, từ khi châu Ô và châu Lý được sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt, bên
cạnh những cuộc chiến tranh giữa hai nước cũng diễn sự giao lưu, ảnh hưởng văn
hóa Việt - Chăm. Chính nhờ sự giao lưu văn hóa đã góp phần đặc sắc cho văn hóa
Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế. Không những thế, sự cố gắng của các chúa Nguyễn
cùng với những cải tổ trên các mặt dưới triều Tây Sơn đã xây dựng Thuận Hóa -
Phú Xuân trở thành trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục của đất nước,
vùng xung yếu bảo vệ kinh đô Việt Nam.
Sau khi Quang Trung mất, đời sống của nhân dân cả nước nói chung, nhân
dân Thuận Hóa - Phú Xuân nói riêng lại rơi vào khó khăn. Sau khi đánh bại triều
Tây Sơn, năm 1802, Nguyễn Ánh chọn Phú Xuân làm kinh đô. Gia Long lên ngôi,
mở ra triều đại nhà Nguyễn, Huế trở thành trung tâm chính trị của một đất nước có
lãnh thổ thống nhất và rộng lớn chưa từng có trong lịch sử. Dưới triều Nguyễn, bộ
máy nhà nước được tổ chức chặt chẽ, quy củ, đủ sức quản lí cả một đất nước rộng
lớn từ Lạng Sơn đến tận mũi Cà Mau. Về quan chế, dưới nhà vua, mọi việc đều do
lục Bộ đảm nhiệm (gồm: Bộ Lại, Bộ Hộ, Bộ Hình, Bộ Lễ, Bộ Công, Bộ Binh).
Ngoài Lục Bộ còn có Đô Sát viện và Cơ Mật viện để bàn việc quân quốc cơ yếu.
Vào thế kỉ XIX, Thừa Thiên Huế bao gồm cả kinh đô nên thường được triều
đình Huế quan tâm phát triển nhiều mặt để tạo chỗ đứng vững chắc cho chính quyền
phong kiến. Về kinh tế, nhà Nguyễn có những chính sách phát triển nông nghiệp ở
Thừa Thiên như: cấm mua bán ruộng đất công, giảm miễn thuế mỗi khi mất mùa,
xây dựng các công trình thủy lợi, đắp đập ngăn mặn, đào kênh, khơi vét sông ngòi...
Thủ công nghiệp cũng có bước phát triển đáng kể, nhiều làng nghề thủ công nổi
tiếng: làng gốm Phước Tích (Phong Điền), làng nón Triều Sơn (Hương Trà), Sư Lỗ
Đông (Phú Lộc), Phú Cam (Huế), làng nghề rèn, luyện sắt ở Phù Bài (Hương
Thủy), Hiền Lương (Phong Điền) đúc đồng ở Dương Xuân, nghề thêu ở Huế, mộc,
chạm điêu khắc Mỹ Xuyên... Các nghề thủ công đã góp phần làm nên diện mạo văn
hóa Huế, in đậm trên các công trình kiến trúc vật thể và trong đời sống tâm linh của
con người. Sự phát triển của nghề thủ công nghiệp không chỉ góp phần đáp ứng nhu
cầu đời sống cung đình và công việc kiến thiết đế đô, mà còn tạo ra nguồn hàng
thúc đẩy thương nghiệp phát triển...
56
- Thừa Thiên Huế - trung tâm của các hoạt động chính trị - xã hội và đấu
tranh chống thực dân Pháp, bảo vệ nền độc lập dân tộc
Ngày 01/9/1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha nổ súng tấn công Đà Nẵng,
mở đầu cuộc xâm lược Việt Nam của thực dân phương Tây. Triều Nguyễn tích cực
tiến hành các hoạt động chống đỡ, phòng thủ các vị trí xung yếu, đồng thời ban lệnh
quan phủ Thừa Thiên chiêu mộ binh lính lập quân Chiến tâm (sau đổi thành vệ
Nghĩa dũng) để tăng cường vào Quảng Nam đánh Pháp. Tuy nhiên, trước sức mạnh
của kẻ thù, triều đình Huế phải ký hiệp ước Nhâm Tuất (1862). Sự kiện đó đã gây ra
sự căm phẫn của nhân dân cả nước.
Mặc dù liên tục bị đe dọa bởi các thế lực ngoại bang, song trải qua hơn một
thế kỉ xây dựng và phát triển, đến những năm giữa cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX,
Huế trở thành kinh đô của triều đình phong kiến, trung tâm chính trị của Việt Nam.
Nơi đây tập trung cao nhất các diễn biến chính trị và mâu thuẫn xã hội, đặc biệt là
khi thực dân Pháp đặt ách áp bức bóc lột lên toàn cõi Việt Nam. Khi Huế trở thành
kinh đô của cả nước, Huế mặc nhiên trở thành trung tâm của các trào lưu canh tân
đất nước - nơi các nhà cải cách tập trung để bàn luận, trao đổi tân thư, soạn thảo và
dâng các bản kiến nghị cách tân lên triều đình Huế. Các bản kiến nghị đề cập canh
tân đến nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính trị, quân sự, quốc phòng, pháp luật, văn hóa
giáo dục... Thành phần đề xướng trào lưu cải cách khá đa dạng từ người Thiên chúa
giáo, người có học bình thường, nho sĩ, người đỗ đạt, quan lại bị cách chức... Ở
Thừa Thiên Huế nổi bật có Đặng Huy Trứ và Nguyễn Lộ Trạch.
Về đời sống chính trị, kể từ khi nhà Nguyễn ký hòa ước Harmand (1883) và
hiệp ước Patenotre (1884) chịu sự bảo hộ của Pháp, đời sống chính trị ở Huế có
nhiều biến đổi sâu sắc, nội bộ triều đình phong kiến nhà Nguyễn phân hóa, hình
thành phe chủ chiến và chủ hòa. Phe chủ hòa ký hàng ước với thực dân Pháp, thừa
nhận sự hiện diện và chịu sự quản thúc của thực dân Pháp. Phe chủ chiến, đứng đầu
là Tôn Thất Thuyết, đã lãnh đạo cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp ngay tại kinh
thành Huế nhưng thất bại, kinh đô thất thủ, vua Hàm Nghi xuất bôn kêu gọi Cần
Vương làm dấy lên phong trào chống thực dân Pháp rộng khắp.
57
Ngày 17/10/1897, Tổng thống Pháp quyết định thành lập Liên bang Đông
Dương gồm Nam Kỳ, Bắc Kỳ, Trung Kỳ của Việt Nam và Cao Miên (năm 1899,
Liên bang này có thêm Lào), dưới quyền một Toàn quyền thuộc Bộ Hải quân và
Thuộc địa, thay mặt cho chính phủ Pháp điều khiển bộ máy chính quyền. Thực dân
Pháp ra thông cáo về một chính quyền duy nhất trên vương quốc An Nam chứ
không còn tồn tại hai chính quyền như trước đây. Tính “bảo hộ” của xứ Trung Kỳ
thể hiện ở việc Khâm sứ không chỉ chi phối phủ Tôn nhân, viện Đô sát mà còn nắm
toàn bộ tài chính, trả lương cho vua quan Nam triều, chi phối cả Lục bộ.
Xã hội Thừa Thiên Huế trong những năm Hồ Chí Minh sinh sống và học tập
có nhiều biến đổi quan trọng, những động thái kháng Pháp được nhen nhóm. Đầu
thế kỉ XX, ở Việt Nam nói chung và đất Thừa Thiên nói riêng xuất hiện nhiều trào
lưu cứu nước mới, phong trào Đông Du, Duy Tân nổ ra, đời sống chính trị ở Việt
Nam sôi động trước những luồng tư tưởng tiến bộ. Đất Thừa Thiên dấy lên phong
trào đòi cải cách thông qua nhiều hình thức vận động, trong đó có cuộc vận động
“cắt tóc ngắn”. Năm 1908, miền Trung nổ ra phong trào chống thuế, bắt đầu từ các
tỉnh Nam Trung Bộ, đến Thừa Thiên và các tỉnh Bắc Trung Bộ.
Sự biến động về tình hình chính trị đã kéo theo những biến đổi về kinh tế, văn
hóa, giáo dục ở Thừa Thiên Huế vào những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Về
đời sống kinh tế - xã hội, nửa đầu thế kỉ XIX, Thừa Thiên Huế không được ưu đãi
so với các địa hạt khác trong cả nước mặc dù là kinh đô. Đời sống của nhân dân vẫn
cơ cực, thuế khóa nặng nề, sự phân hóa xã hội ngày càng sâu sắc, xã hội hình thành
tầng lớp quý tộc và tầng lớp bình dân. Hơn ở đâu hết, trên đất Thừa Thiên Huế,
nhân dân cảm nhận rõ rệt sự đè nén của tôn ti trật tự, đẳng cấp phong kiến. Dưới
công cuộc khai hóa của thực dân Pháp, đời sống nhân dân ngày càng lam lũ, cùng
cực, đói khổ, mâu thuẫn giữa nhân dân với triều đình phong kiến, giữa dân tộc Việt
Nam với thực dân Pháp ngày càng lên cao. Đó chính là những nhân tố, động lực
khơi ngọn lửa đấu tranh của nhân dân Thừa Thiên Huế.
Thừa Thiên Huế vào buổi xế chiều của chế độ phong kiến, buổi sớm của chế
độ thực dân, không thể tránh khỏi sự bùng phát của các trào lưu cứu nước mới. Các
phong trào yêu nước, phong trào Duy Tân, kháng thuế của nhân dân Trung Kỳ, đã
58
mở ra thời kì đấu tranh sôi nổi, quyết liệt khắp Bắc - Trung - Nam. Sự ngột ngạt của
đời sống chính trị, sự áp bức bóc lột của chính quyền thực dân và sự cùng khổ của
đồng bào là những nguyên nhân của các cuộc nổi dậy. Lòng yêu nước, tự tôn dân
tộc của lớp lớp người Huế, từ bậc vua quan đến nhân dân lao động là một trong
những nhân tố quan trọng cấu thành bản sắc văn hóa chính trị xứ Huế.
Mặc dù dưới sự khai hóa của chính quyền thực dân, sự kiểm soát về mọi mặt
của Khâm sứ Trung Kỳ nhưng Huế vẫn giữ được những bản sắc văn hóa của vùng
đất văn hiến. Văn hóa Huế với những đặc trưng vốn có như: nét độc đáo, tài hoa của
mĩ thuật, của kiến trúc cung điện, đền đài; của lễ hội, thơ ca, nhã nhạc; hay ở cách
ăn mặc, cư xử nhẹ nhàng, kín đáo; hay ở tinh thần yêu nước, tính quyết liệt, quật
khởi, kiên cường trong đấu tranh, đoàn kết trong cuộc sống hằng ngày;… Tất cả vẫn
được lưu giữ như những tài sản quý giá nhất. Những đặc trưng văn hóa đó có ảnh
hưởng rất lớn đến cốt cách, tư tưởng và hành động của con người, đặc biệt là những
con người mẫn cảm và trí tuệ như Hồ Chí Minh thời kì ở Huế.
Như vậy, văn hóa Huế là sản phẩm được sáng tạo và tích lũy bởi cộng đồng
người qua quá trình hoạt động thực tiễn lịch sử - xã hội, trong sự tương tác giữa con
người với môi trường tự nhiên, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội Thừa Thiên Huế
từ khi lập ấp (năm 1306) đến đầu thế kỉ XX (từ Thuận Hóa đến Phú Xuân - Huế).
2.2.2.3. Văn hóa nghệ thuật xứ Huế
Với bề dày lịch sử và truyền thống văn hóa, Thừa Thiên Huế là vùng đất di
sản văn hóa nghệ thuật độc đáo của Việt Nam với một hệ thống quần thể kiến trúc,
âm nhạc, ẩm thực, lễ hội độc đáo.
- Hệ thống kiến trúc hài hòa giữa cung đình và dân gian, nhà vườn và phủ đệ
Nói đến văn hóa nghệ thuật xứ Huế, trước hết phải kể đến sự phong phú, đa
dạng trong nghệ thuật kiến trúc. Kinh đô Huế được xem như một công trình nghệ
thuật đặc biệt, hài hòa với thiên nhiên. Trong kiến trúc Kinh đô Huế gồm có kiến
trúc cung đình và kiến trúc dân gian, kiến trúc tôn giáo và kiến trúc đền miếu, kiến
trúc truyền thống và kiến trúc hiện đại, kiến trúc đô thị và kiến trúc truyền thống,
kiến trúc nhà vườn, phủ đệ và kiến trúc đình làng... Mỗi công trình kiến trúc là một
tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh, độc đáo, thể hiện một phần những yếu tố triết lý,
59
tâm linh và giá trị thẩm mĩ riêng biệt, trong đó công trình kiến trúc công phu, đồ sộ
nhất chính là quần thể kiến trúc dưới triều các vua Nguyễn.
Về kiến trúc cung đình, Huế còn lưu giữ những công trình kiến trúc mĩ thuật
kì vĩ nhất đất nước, nét đặc trưng của các công trình kiến trúc cung đình được xây
dựng trong không gian hài hòa với thiên nhiên. Như Điện Thái Hòa là trung tâm của
Kinh thành, xung quanh là Thanh Long (Ðông), Bạch Hổ (Tây), Chu Tước (Nam),
Huyền Vũ (Bắc). Ngay cả hướng của Kinh thành Huế phải quay mặt về phía Nam
vì theo Kinh dịch “Thánh nhân nam diện nhi thính thiên hạ” nghĩa là bậc đế vương
xoay mặt về hướng Nam để nghe (cai trị) thiên hạ. Kiến trúc cung đình Huế có sự
tiếp thu và kế thừa kiến trúc truyền thống Lý, Trần, Lê nhằm chống sự đồng hoá và
tiếp thu tinh hoa của mĩ thuật Trung Hoa nhưng đã được Việt Nam hóa một cách có
ý thức dân tộc, đồng thời tiếp thu có chọn lọc và hiện đại hóa kỹ thuật của những
công trình sư người Pháp phục vụ dưới thời Gia Long theo phương châm thích nghi
với tâm hồn, cốt cách và văn hóa người Việt.
Bên cạnh kiến trúc cung đình, kiến trúc nhà vườn và phủ đệ ở Huế cũng là nét
đặc trưng tạo nên không gian văn hóa Huế. Nhà vườn Huế không chỉ là một tổ chức
không gian thuần túy giữa cảnh quan và kiến trúc, mà với những nét đặc thù về giá
trị văn hóa - lịch sử đã trở thành một di sản quan trọng của Huế. Về kết cấu cảnh
quan, nhà vườn Huế gồm có công viên, vườn cung đình (vườn ngự), vườn lăng,
vườn phủ đệ, vườn chùa, vườn quý tộc thượng lưu, dân dã... Những khu vườn nổi
tiếng ở trung tâm và vùng ven Huế (như vườn An Hiên, Lạc Tịnh, Phủ Tuy Lý)
được xây dựng dọc hai bờ sông Hương, ở Long Hồ, Ngọc Hồ, Nguyệt Biều, Lương
Quán, Kim Long, Dương Xuân, Vĩ Dạ... của tầng lớp quý tộc thượng lưu bao gồm
các phủ đệ, ngự viên. Nét đặc trưng của nhà vườn Huế là sự phối hợp giữa kiến trúc
chính, vườn cây, hoa, trái, đá, nước, cỏ rêu, hoa leo, và giàn tạo bóng với những
kiến trúc phụ như nhà ngang, cổng ngõ, hành lang, bể cạn, bình phong... Sự phối
hợp của không gian nội thất kiến trúc, không gian vườn cảnh, vườn cây ăn trái và
thiên nhiên luôn luôn có sự hài hòa, trong cái khung thiên nhiên đó con người có thể
hòa vào cái tự nhiên của đất trời.
60
Nhắc đến văn hóa kiến trúc Huế, không thể không nhắc đến kiến trúc dân
gian, đặc biệt là kiến trúc đình làng Huế. Về cơ bản, đình làng ở Huế thống nhất với
đình làng Việt Nam về công năng sử dụng, đó là ngôi nhà công cộng thờ thành
hoàng và diễn ra các sinh hoạt văn hóa công cộng của làng xã. Là bộ mặt của làng
xã, đình làng xây dựng ngay đầu làng, nhìn ra sông nước và ruộng đồng. So với
đình làng ở phía Bắc, đình ở Huế đơn giản hơn, thường chỉ có một toà đại đình,
thành hoàng thờ ngay cạnh nơi sinh hoạt của dân làng nên ít bị cách bức. Nghệ
thuật kiến trúc của đình làng được thể hiện ở mái đình lợp ngói âm dương, trên các
bờ nóc và bờ giải có đắp tứ. Bên trong ngôi đình, bộ khung gỗ kết cấu theo kiểu nhà
rường, mặt gỗ được chạm trang trí với rồng, mây, hoa cúc, vân xoắn, bát bửu. Đình
làng ở Huế, cửa đình luôn có bức bình phong xây làm án và cũng là diện phẳng
rộng để nghệ thuật gắn kính, sứ thu hút sự chú ý của mọi người vào đình.
- Hội tụ nhiều dòng nhạc cung đình bác học, dân gian, tín ngưỡng tôn giáo
Thừa Thiên Huế là nơi hội tụ nhiều dòng nhạc mang đậm bản sắc Huế như:
nhạc cung đình bác học, nhạc dân gian, nhạc tín ngưỡng tôn giáo, cùng với nền tảng
thơ văn, mĩ thuật, lễ hội dân gian đã định hình những đặc trưng của không gian văn
hóa Huế. Tuy nhiên, âm nhạc Huế mang sắc thái địa phương rõ rệt. Xuất phát từ
hoàn cảnh địa lí, với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt hơn là thuận lợi, với sông
Hương núi Ngự dễ khiến con người tức cảnh sinh tình, hay trong cuộc sống lao
động và sự sinh tồn, để giảm bớt những khó khăn vất vả, những điệu hò câu ví và
các loại hình nghệ thuật dân gian cũng được hình thành và ngày càng phong phú.
Do những dấu giọng đặc thù trong tiếng nói, sự tiếp xúc với nền văn hóa nghệ thuật
Chăm đã hình thành những âm điệu, giọng điệu, những thể loại mới mẻ so với âm
nhạc chung của dân tộc làm nên phong cách “Huế”, hay nói gọn là “âm nhạc Huế”.
Âm nhạc Huế gồm ba thành phần chính yếu: nhạc Lễ (bao gồm cả nhạc Cung
đình và nhạc Rõi bóng), dân ca (bao gồm các điệu hò, lý, kể vè...) và ca Huế.
Nhạc Lễ là nhạc sử dụng trong các nghi lễ đời sống thường nhật của chính
quyền phong kiến. Dàn nhạc cung đình được kết cấu thành hai dàn: Đại nhạc gồm
trống (trống đại cổ, trống tiểu cổ, cặp trống vỗ), kèn (kèn đại, kèn trung, kèn tiểu),
và bộ gõ (mõ, phách, chuông to, chuông nhỏ, đại la, tiểu loa, chập choã); Tiểu nhạc
61
gồm những nhạc khí dùng dây tơ, sáo trúc. Trong nhã nhạc cung đình còn có nhã
nhạc, giao nhạc, miếu nhạc, ngũ tự nhạc, đại triều nhạc... Nhạc Rõi bóng là loại
nhạc được diễn xướng trong nghi lễ của tôn giáo dân gian, thường là để làm nền cho
các vũ điệu chầu hầu Thánh mẫu và các vị thần tháp tùng Thánh mẫu. Tại Huế, tín
ngưỡng dân gian thờ Mẫu khá phổ biến, đền thờ lớn nhất và cổ nhất thờ Thiên Y A
Na là đền Ngọc Trản, còn gọi là điện Hòn Chén. Điện thờ Thiên Y A Na thần nữ
(được vua Đồng Khánh phong là Thiên Y A Na Diễn Ngọc Phi Thượng Đẳng
Thần), bà chúa Thuỷ (còn gọi là Mẫu Thoải, được phong là thuỷ Long Thánh Phi
Trung Đẳng Thần), và bà chúa Thượng Ngàn (được phong Sơn Trung Thiên Đẳng
Thần). Ngoài ra, còn có bài vị của bà Của Thiên Huyền Nữ (một thần nữ Trung Hoa
được Việt Hoá) và Vân Hương Thánh Mẫu tức là Liễu Hạnh Công chúa thường
được cúng thờ ở miền Bắc…
Bên cạnh đó, dân ca xứ Huế cũng mang nhiều nét văn hóa đặc trưng. Dân ca
trước hết bao gồm những điệu hay là những giọng hò. Có những điệu hò lao động
như “Hò khoan”, “Hò mái sắp” (hay còn gọi là “hò giã gạo”) có tiết tấu nhịp nhàng
và linh hoạt. Có những điệu hò trữ tình nổi tiếng như hò “Mái nhì”, “Mái đẩy” với
âm điệu vấn vương quấn quýt, phóng khoáng như nói lên tâm tình của con người
sống giữa thiên nhiên hiền hoà, thơ mộng. Ngoài ra, âm nhạc dân gian Huế còn tồn
tại những điệu lý rất gần với nội dung các câu ca dao tình tứ, đậm đà, duyên dáng
như: Lý Tình Tang, Lý Hoài Xuân, Lý Tử Vi, Lý Năm Canh... Các điệu lý ở Huế
rất phong phú, mỗi điệu một sắc thái khác nhau. Lý tử vi biểu hiện tình yêu đằm
thắm. Lý mười thương mộc mạc mà duyên dáng, ngọt ngào. Lý tình tang vui tươi,
nhí nhảnh. Lý ngựa ô sôi nổi, nồng nàn. Lý hoài nam bâng khuâng, xao xuyến...
Bên cạnh sự phát triển của làng nghề truyền thống và những phong tục tập quán in
dấu nhân sinh, cùng với dung hợp giữa văn minh Mường, Chàm và văn minh của
dân tộc Việt, đã trở thành một kho tàng văn nghệ dân gian, với những chuyện kể,
câu đố, tuồng kịch... đặc biệt là sự nở rộ của các loại hình dân ca và kèm theo nó là
những lời thơ dân gian: ca dao xứ Huế.
Ngoài các điệu lý kể trên, trong âm nhạc xứ Huế còn có ca Huế. Ca Huế là
một thể loại âm nhạc cổ truyền của xứ Huế, bao gồm ca và đàn, ở nhiều phương
62
diện khá gần gũi với hát ả đào, làm từ dòng nhạc dân gian bình dị và cung đình nhã
nhạc, thanh cao. Một số điệu ca Huế như “Phẩm tuyết”, “Long ngâm”, “Ngũ đối”...
thực chất đó là những tiết mục nhạc lễ được đặt lời ca, mang âm hưởng điệu thức
Bắc rõ rệt. Một số điệu như “Nam bình”, “Nam ai”, “Tứ đại cảnh” thì lại gần với
một số câu hò, lý về âm điệu và điệu thức, có dấu vết ảnh hưởng của âm nhạc
Chăm. Về mặt trình diễn, ca Huế luôn luôn đòi hỏi phần phụ họa của nhạc khí, chủ
yếu là các đàn nguyệt, tỳ bà, tam, tranh, nhị và phách…
Và một loại hình nghệ thuật đặc sắc của văn hóa nghệ thuật xứ Huế là Tuồng.
Nghệ thuật Tuồng Huế đã trải qua ba thế kỉ phát triển trong dòng truyền thống văn
hóa Phú Xuân và phát triển rực rỡ dưới triều đại các vua nhà Nguyễn. Dưới thời vua
Tự Đức, hàng trăm vở tuồng đã được sáng tác, hàng trăm đào kép giỏi quy tụ về
kinh đô. Từ sau thời Tự Đức, Tuồng Huế dần vượt ra khỏi cung đình và trở thành
sân khấu của quần chúng bình dân. Nghệ thuật Tuồng từ đó sống và phát triển được
nhờ công chúng. Tại kinh đô Huế, các rạp hát bắt đầu mọc lên khắp nơi, sân khấu
Tuồng từ trước vốn có chỉ phục vụ vua quan triều đình, dần dần lan ra chiếm lĩnh ở
những nơi công cộng. Những rạp hát nổi tiếng ở Huế trước năm 1945: Bắc Hòa,
Nam Hòa, Đồng Xuân Lâu, Kim Long, An Cựu, Vĩ Dạ, Bao Vinh...
Như vậy, có thể nói, chính sự kết hợp của các loại hình âm nhạc, gồm nhạc
Lễ, ca Huế, cùng với các điệu lý, hò và nghệ thuật Tuồng, đã tạo nên những nét văn
hóa rất riêng của xứ Huế.
2.2.2.4. Văn hóa giáo dục xứ Huế
- Thừa Thiên Huế - vùng đất hiếu học, đề cao đạo lí gia phong
Thừa Thiên Huế là một vùng đất văn hóa điển hình của Việt Nam vẫn còn lưu
những giá trị chuẩn mực như truyền thống hiếu học, đề cao văn hóa, lễ giáo, giữ gìn
tôn ti trật tự trong gia đình và xã hội.
Lịch sử đã ghi nhận Thừa Thiên Huế là “vùng đất học” bởi không chỉ nơi đây
từng trung tâm văn hóa lớn của cả nước - nơi hội tụ của các bậc chí nhân, hào kiệt;
nơi của những trường học và nền giáo dục mới (Quốc Sử Quán, Quốc Tử Giám,
trường Quốc Học, Đồng Khánh…), mà còn là kết quả của truyền thống trọng văn
hóa, hiếu học, tôn sư trọng đạo trong mỗi gia đình, con người của vùng đất này.
63
Sách Đại Nam nhất thống chí viết Huế là vùng đất học, có truyền thống “dân thứ
siêng cấy”, “sĩ phu chăm học hành” [126, tr.136]. Sách Ô châu cận lục đánh giá về
vùng đất này: “Nhân tài do địa khí đúc nên, địa khí nhờ nhân tài mà lộ rõ”, “đây
thực sự là nơi trọng yếu của đất trời. Phải chăng không có được linh khí ấy thì làm
sao sản sinh ra được bậc tuấn kiệt anh tài, phát tiết thành việc học thuật thênh thang
thông đạt, sao cho xứng đáng với khí thiêng của đất ấy” [3, tr.142-143]. Điều này
hoàn toàn đúng, bởi qua khảo sát điền dã cho thấy nhiều làng xã ở Thừa Thiên Huế
đã ghi vào hương ước các điều khoản ưu đãi đối với những người học giỏi, chăm
chỉ học hành, đỗ đạt được miễn phu phen tạp dịch; hoặc quy định rõ việc trích
ruộng công để làm “học điền”. Do đó, từ rất sớm, đất Hóa Châu đã xuất hiện tầng
lớp Nho sĩ, nhiều Nho sĩ đỗ đạt được bổ làm quan ở các phủ, huyện trong cả nước
tiêu biểu như Nguyễn Hữu Nhuế (làng Dương Nỗ) đỗ Giải nguyên khoa Tân Tỵ,
làm Tri phủ Thuận Thành; Cao Bách Tuế (làng Đông Dã), Tri phủ Hà Nam;
Nguyễn Đức Huệ (làng Hoài Tài), Tri phủ Thăng Hoa... [166].
Sang thời kì nhà Tây Sơn, một số cải cách về giáo dục được triển khai, Chiếu
khuyến học được ban bố, trường học được tổ chức đến tận cấp xã, chữ Nôm được
sử dụng trong công văn và khoa cử, Văn Miếu được tu sửa và mở khoa thi để chọn
kẻ sĩ (mở một khoa năm 1789). Dưới triều Nguyễn, hệ thống giáo dục và trường
học được mở quy củ đến tận các huyện, Quốc Tử Giám được mở để đào tạo nhân
tài phục vụ cho đất nước, Tứ Dịch Quán được thành lập để đào tạo người giỏi ngoại
ngữ phục vụ cho việc bang giao với các nước, Quốc Sử Quán triều Nguyễn được
thành lập để sưu tầm tập hợp và biên soạn hàng ngàn pho sách như: Khâm định Việt
sử thông giám cương mục, Đại Nam nhất thống chí, Đại Nam thực lục, Đại Nam
liệt truyện,... Thời Thành Thái, triều đình chủ trương mở một trường học Quốc gia
tại Huế để người Việt Nam được học văn hóa phương Tây lấy tên là Pháp Tự Quốc
Học trường, thường gọi là trường Quốc Học. Cùng với hệ thống trường học, việc thi
cử cũng được định lệ, kì thi Hương được tổ chức từ năm thứ sáu đời Gia Long
(1807) và kỳ thi Hội có từ năm Minh Mạng thứ ba (1822). Cứ ba năm một lần tổ
chức thi Hương, năm sau tổ chức thi Hội. Trường thi Thừa Thiên được xây dựng
năm 1825 và liên tục là địa điểm tổ chức các khoa thi dưới triều Nguyễn. Có thể
64
thấy trong suốt chiều dài lịch sử từ thế kỉ XIV đến thế kỉ XIX thời nhà Nguyễn,
Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế chính là một trong những nguồn cung cấp nguyên khí
của quốc gia.
Lễ giáo trong đời sống của nhân dân Thừa Thiên Huế luôn luôn được tôn cao
và mang đậm chất Nho giáo, thể hiện rõ trong những dịp lễ tết, học hành, khoa cử.
Nguyên nhân được xác định là do đạo đức, lễ nghĩa chốn kinh đô đã lan tỏa khắp
các vùng quê ở Thừa Thiên Huế, nhắc nhở mọi người không ngừng hoàn thiện nhân
cách. Gia phong và lễ giáo ở vùng đất này đã hình thành trong mỗi gia đình nếp
nhà, gia quy, gia pháp, gia phong, gia đạo. Nếp sống đạo đức chuẩn mực trong gia
đình xứ Huế quy định cho con trai con gái phải rèn luyện, hoàn thiện nhân cách.
Con trai thì học hành mong đỗ đạt làm quan. Con gái thì phải thấm nhuần tam tòng
tứ đức, thiếu nữ phải tập tành công dung ngôn hạnh, tuân phục lễ nghĩa.
Trong học hành và khoa cử, lễ giáo luôn được chú trọng, người thầy giữ vị trí
độc tôn đối với sự hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh. Vì vậy, truyền
thống tôn sư trọng đạo trở thành giá trị văn hóa tinh thần mang sắc thái đặc biệt của
con người xứ Huế. Huế trở thành đất học với nhiều vĩ nhân tài năng của dân tộc
Việt Nam. Cũng chính trong khoảng thời gian học tập ở Huế, những thầy giáo có
lòng yêu nước, tự tôn dân tộc đã ảnh hưởng rất lớn đến Hồ Chí Minh. Trong cộng
đồng dân cư, việc tang lễ đều có hội có phường hội, xóm giềng giúp đỡ theo một
tinh thần “nghĩa tử là nghĩa tận”. Trong cuộc sống thường nhật, tình cảm xóm làng,
lối sống gần gũi, tương trợ lẫn nhau luôn được chú trọng. Gia đình cụ Nguyễn Sinh
Sắc những năm tháng ở Huế cũng phải tuân thủ nghiêm ngặt nền nếp, gia phong của
văn hóa gia đình xứ Huế và khi thân mẫu của Hồ Chí Minh qua đời, gia đình cụ Sắc
càng thấm đượm tình làng nghĩa xóm của văn hóa và con người xứ Huế.
Lối sống trọng tình, trọng nghĩa, đề cao lễ giáo là bản tính tốt đẹp của con
người Việt Nam nói chung và người Huế nói riêng. Chính lối sống đó cùng với
nhân cách cao đẹp của các chí nhân hào kiệt xứ Huế đã khắc sâu vào tâm khảm của
biết bao thế hệ, hình thành những con người với nhân cách cao đẹp đã làm rạng
danh dân tộc, mà điển hình nhất là Hồ Chí Minh.
65
Có thể nói, Thừa Thiên Huế trong tiến trình lịch sử là nơi hội tụ hiền tài của
nước, trong đó phần lớn là người Việt từ vùng Bắc Trung Bộ. Chính sự di dân từ
phía Bắc vào Huế đã cung ứng cho vùng đất này nhiều nhân tài trong quá trình mở
cõi và bảo vệ đất nước.
- Thừa Thiên Huế - vùng đất hội tụ và giao thoa các luồng văn hóa, tư tưởng
Trong tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam, Thừa Thiên Huế có một vị trí rất
đặc biệt đối với sự nghiệp tạo dựng cơ đồ của các chúa Nguyễn. Vào cuối thế kỉ
XIX, khi các sử quan ở Quốc Sử Quán triều Nguyễn viết địa chí về đất “Thần kinh”,
hộ đã đúc kết bằng một đoạn văn rất ngắn gọn về vị trí đắc địa của vùng đất này:
Kinh sư là nơi miền núi, miền biển đều họp về, đứng giữa miền Nam,
miền Bắc, đất đai cao ráo, non sông phẳng lặng. Đường thủy thì có cửa
Thuận An, cửa Tư Hiền sâu hiểm; đường bộ thì có Hoành Sơn, ải Hải Vân
chặn ngăn; sông lớn giăng phía trước, núi cao giữ phía sau, rồng cuốn hổ
ngồi, hình thế vững chãi... thật là thượng đô của nhà vua [126, tr.15].
Trên thực tế, Thừa Thiên Huế từ vùng đất biên viễn đã trở thành trung tâm
trong quá trình Nam tiến và chuyển tải văn hóa Việt về phương Nam, rồi trở thành
kinh đô của nước Việt Nam thống nhất. Trong quá trình hình thành và phát triển của
Đàng Trong, Huế càng có ý nghĩa quan trọng hơn khi nơi đây giữ vai trò đầu não về
chính trị, quân sự, trung tâm kinh tế, văn hóa của toàn xứ sở. Thừa Thiên Huế còn
là trung tâm trong việc kế thừa, chuyển tải và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc
trên vùng đất mới, đồng thời lại tiếp thu các yếu tố mới của văn hóa bên ngoài để
hình thành sắc thái văn hóa Đàng Trong phong phú, sinh động và hết sức đa dạng.
Văn hóa Huế, văn hóa Việt Nam thực sự đã được phát triển và được làm giàu thêm
chính qua quá trình hội tụ và giao thoa này.
Khi còn giữ địa vị trung tâm văn hóa - chính trị của Đàng Trong, rồi của cả
quốc gia thống nhất trong thế kỉ XIX, Thừa Thiên Huế là trung tâm văn hóa, giáo
dục lớn và là nơi hội tụ trí tuệ của cả nước. Giáo sư Trần Quốc Vượng rất đúng khi
khẳng định: “200 năm đủ cho Huế là nơi kết tinh và hội tụ nhân tài vào văn hóa
miền Trung - Nam để tạo nên một vùng văn hóa và một sắc thái mới của văn hóa
Việt Nam: Vùng văn hóa Huế, sắc thái Phú Xuân của văn hóa Việt Nam cận hiện
66
đại” [179, tr.69]. Thừa Thiên Huế từ thời Tây Sơn đến thời Nguyễn là “miền đất
hứa” của nhiều bậc hiền tài, những tác giả ưu tú với những trước thuật quan trọng
về dịch học, văn học, sử học, thiên văn học và địa lí học. Đó là Ngô Thời Nhậm,
Phan Huy Ích, Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu, Thiệu Trị, Tự Đức, Tùng Thiện
Vương, Tuy Lý Vương,… Vì là một trung tâm văn hóa, chính trị lớn nên Huế là
vùng đất tụ hội nhân tài của cả nước như: Huỳnh Thúc Kháng, Tôn Quang Phiệt,
Đào Duy Anh, Tạ Quang Bửu, Nguyễn Đỗ Cung, Hoài Thanh,v.v… Thừa Thiên
Huế cũng là quê hương, lò đào tạo của nhiều nhà lãnh đạo của Đảng và Nhà nước
như: Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Tố Hữu…; những nhà thơ
lớn như Xuân Diệu, Huy Cận, Tế Hanh, Chế Lan Viên…; những nhà văn hóa lớn,
anh hùng lao động như Tôn Thất Tùng, Nguyễn Khánh Toàn,…
Trong gần ba thế kỉ (từ thế kỉ XVI đến đến XVIII), Thừa Thiên Huế là tâm
điểm của các vấn đề chính trị, quân sự, xã hội, tôn giáo của Đàng Trong. Đặc biệt,
trong những năm cuối thế kỉ XIX đến nửa đầu thế kỉ XX, cùng với Hà Nội và Sài
Gòn, Huế thực sự được hấp thụ những giá trị văn hóa từ Trung Quốc, Nhật Bản
cũng như những giá trị của văn minh phương Tây chuyển vào mặc cho chính quyền
sở tại hết sức ngăn cấm. Huế giai đoạn này trở thành một trong ba trung tâm văn
hóa, chính trị xã hội lớn của cả nước.
Trước sự giao thoa của nhiều nền văn hóa, người Huế trong quá trình tiếp
nhận đã không ngừng sáng tạo, biến hóa cách ăn, mặc, ở, đi lại... Đó là sự cải biến
ngôi nhà truyền thống đồng bằng Bắc bộ thành ngôi nhà vườn đặc trưng; biến hóa
các món ăn gốc Việt, Mường, Chăm-pa để mang đậm sắc thái Huế… Sự giao
thương không ngừng được mở rộng với các quốc gia có nền thương mại biển phát
triển như Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Ấn Độ, Nhật Bản. Bên cạnh
đó, kiến trúc, âm nhạc, lễ hội, nghề thủ công… được phát triển đến tầm nghệ thuật,
đã thể hiện sức lao động bền bỉ, sáng tạo của người Huế qua nhiều thế kỉ.
Quá trình di dân và tụ cư trên đất Huế, cư dân Thuận Hóa với gốc văn hóa
Chăm-pa đã không ngừng củng cố và phát triển văn hóa Thăng Long - Đông Đô. Tư
tưởng Nho - Phật - Lão của người Việt với lớp cư dân bản địa Chăm-pa kết hợp với
nền văn hóa - tư tưởng Ấn Độ đã dần dung hợp và hình thành nên vùng văn hóa
67
Huế. Đến thế kỉ XX, sự giao thoa văn hóa Đông - Tây diễn ra mạnh mẽ, đã định
hình cho Huế mang dấu ấn của những tinh hoa phương Tây. Tuy vậy, Huế vẫn lưu
giữ những giá trị có tính chuẩn mực như truyền thống hiếu học, đề cao lễ giáo, giữ
gìn tôn ti trật tự trong gia đình và xã hội…
Đầu thế kỉ XX, ở Việt Nam nói chung và Thừa Thiên Huế nói riêng bị thực
dân Pháp “ém chặt” bởi sắc lệnh năm 1898 của thực dân Pháp, nhằm “hạn chế” tối
đa việc lưu hành sách báo, tài liệu có tính chất duy tân, dân chủ. Thực dân Pháp
cấm “lưu hành báo chí bất cứ bằng thứ tiếng gì”, “báo tiếng Việt không được xuất
bản, nếu không được phép của quan toàn quyền” [93, tr.106]. Thế nhưng, sự bưng
bít thông tin của thực dân Pháp càng chặt bao nhiêu, thì nhu cầu nhận thức và khát
vọng đấu tranh thoát khỏi ngu dốt và ách thống trị thực dân, phong kiến càng lớn
bấy nhiêu. Vì lẽ đó, ở kinh đô Huế, các trí thức, nhân sĩ tiến bộ đã năng động tiếp
cận với Tân văn, Tân thư Trung Quốc và Nhật Bản qua nhiều con đường, chủ yếu là
lưu truyền bí mật, do đó đời sống văn hóa, chính trị - xã hội Thừa Thiên Huế có
nhiều chuyển biến quan trọng từ tư tưởng đến động thái yêu nước.
Thông qua các tác phẩm Tân văn, Tân thư truyền bá vào Việt Nam, các trí
thức, nhân sĩ Việt Nam yêu nước đã rất phấn khích bàn luận về lịch sử duy tân nước
Nhật, cách mạng Pháp, triết học thế kỉ XVII của Pháp, các sự kiện thế kỉ ánh sáng ở
Châu Âu, những thách thức của Trung Quốc thời nhà Thanh trước sự văn minh vượt
trội, hùng mạnh của phương Tây,v.v... Các tác phẩm nổi tiếng của Montesquieu,
trước tác của Russeau, Voltaire, sách của hai nhà cách mạng Trung Hoa Lương
Khải Siêu, Khang Hữu Vi, đã giúp các nhà Nho nhìn nhận lại đạo lý Khổng Mạnh,
thấy được phần lạc hậu, trì trệ của các học thuyết cũ kĩ, lôi cuốn họ say sưa nhìn lại
thế giới, xem lại mình với cái nhìn rộng hơn, khách quan hơn, có nhiều đối sánh để
phân tích và rút ra các bài học kinh nghiệm cho sự phát triển của đất nước.
Sau khi Tân văn chuyển vào Việt Nam, có những gia đình trí thức quan lại đầu
óc tiến bộ ở Kinh đô như Thân Trọng Huề, Nguyễn Lộ Trạch và các gia đình nho sĩ,
trí thức ở các thành phố là trung tâm văn hóa lớn đã thu thập lưu trữ và quảng bá.
Trường hợp chí sĩ Phan Châu Trinh đọc Tân thư từ kho sách nhà Thân Trọng Huề,
Đào Nguyên Phổ ở Huế khoảng năm 1903 mới rút ra được tư tưởng “tôn dân bài
68
quân”. Trong nhà trường, những thầy giáo có tư tưởng tiến bộ như thầy Lê Văn
Miến và thầy Hoàng Thông đã gián tiếp truyền bá tư tưởng mới của Tân thư, Tân
văn cho lớp học sinh người Việt đang theo học tại các trường Pháp - Việt ở Huế.
Ảnh hưởng của Tân thư đối với trí thức yêu nước ở Thừa Thiên Huế đầu thế kỉ
XX là rất lớn. Qua Tân văn, trí thức Việt Nam hiểu được rằng muốn chấn hưng đất
nước, chống lại phương Tây thì cần phải cải cách. Tân thư góp phần giúp cho trí
thức Việt Nam thời đó học được phương pháp mà sau này người ta thường gọi là
“tự thức tỉnh, tự phê phán” để nhìn nhận các ưu khuyết, nhất là các nhược điểm
trầm trọng của chính tầng lớp mình, của nhân dân mình, dân tộc mình đặng sửa
chữa, khắc phục. Có thể nói Tân thư, Tân văn và các tư tưởng tiến bộ khi thâm nhập
vào Việt Nam nói chung và Huế nói riêng, tựa như luồng gió mới. Trong cuốn Phan
Tây Hồ tiên sinh lịch sử, chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng hồ hởi viết:
Sách mới, báo mới xuất hiện đã tràn qua nước ta, mà ảnh hưởng nhất là
sách của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, vì sách ấy nói tới dân quyền tự
do, phát minh được cái đặc sắc - chân tướng của văn minh Âu Châu rất
nhiều, tiên sinh Phan Châu Trinh thường qua lại với ông Thân Trọng Huề,
Đào Nguyên Phổ mượn những sách nói trên trong lòng ham thích quên ngủ,
quên ăn, từ đó trong tư tưởng đổi hẳn ra một cách mới mẻ [24].
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân trong công trình Đi tìm dấu tích thời niên
thiếu của Bác Hồ ở Huế viết:
Huế lúc bấy giờ là Đế đô, giữ vài trò chỉ huy văn hóa nên có nhiều bậc anh
tài, học giả quy về. Huế là nơi có nhiều sách vở. Chính nhờ những sách vở
lạ đó mà Nguyễn Lộ Trạch đã có thể tự học và trở thành thầy của phong
trào Duy Tân. Huế lúc ấy có nhiều du học sinh tốt nghiệp ở châu Âu về
như các ông Lê Văn Miến, Thân Trọng Huề. Những vị này mang về Huế
nhiều sách vở, tư tưởng mới của Tây phương. Huế cũng là nơi đón tiếp
những danh sĩ miền Bắc vào như các vị Nguyễn Thượng Hiền, Đào
Nguyên Phổ. Các cụ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Thượng
Hiền, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế và cả ông Nguyễn Sinh Sắc cũng
được khai nhãn bằng những Tân thư, Tân văn này [184, tr.167-168].
69
Trong những sách mới được dịch phải kể đến Dân Ước của Lư Thoa (Jean J.
Rousseau), Tiến Hóa Luận của Tư Tân Tắc (Spencer), Dân Quyền Thiên của Mạnh
Tư Cưu (Montesquieu), Ẩm băng thất của Lương Khải Siêu, Tự do thư, Trung Quốc
hồn… Những Tân thư, Tân văn do chính người Huế viết như Thiên Hạ Đại Thế
Luận, Thời Vụ Sách Thượng, Thời Vụ Sách Hạ của Nguyễn Lộ Trạch, Tự Trị
Thượng Sách của Hoàng Thông. Nhờ đọc Tân thư, Tân văn mà các nhà Nho yêu
nước có những tư tưởng mới, đặt cuộc vận động cứu nước của Việt Nam vào khung
cảnh thế giới chứ không còn bó hẹp trong hoàn cảnh cục bộ Việt Nam như các nhà
Văn thân Cần Vương trước đó đã làm. Theo đó, cụ Nguyễn Lộ Trạch đi tiên phong
trong phong trào Duy Tân, Phan Bội Châu vào Huế viết Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư
cổ vũ long yêu nước của nhân dân, Phan Châu Trinh bỏ chức Thừa biện bộ Lễ để
vận động dân quyền, khai dân trí, chấn dân khí sôi nổi Bắc Trung Nam. Cuộc vận
động Duy Tân khởi đầu từ cuối thế kỉ XIX đà dần dần phát triển và đạt đỉnh cao là
cuộc chống thuế diễn ra vào mùa Hè năm 1908.
Bên cạnh sự du nhập của Tân văn, Tân thư và các trào lưu tư tưởng mới,
Thừa Thiên Huế những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX còn chịu ảnh hưởng
rất lớn của văn hóa phương Tây, gắn với công cuộc khai hóa của thực dân Pháp.
Các trường chuyên nghiệp và trường Pháp - Việt được mở rộng ở Huế và các
tỉnh lị khác trong cả nước, kèm theo đó là những giá trị mới, điển hình nhất là tư
tưởng “Tự do, Bình đẳng, Bác ái” (Liberté, Égalité, Fraternité) của đại cách
mạng Pháp.
Mặc dù còn rất hạn chế nhưng văn hóa phương Tây và các luồng tư tưởng mới
là chất xúc tác quan trọng để các phong trào yêu nước phát triển. Phong trào Đông
Du, Duy Tân từ đó phát triển rộng khắp, sách báo Tây phương, Tân thư, Tân văn và
các tác phẩm mang tư tưởng cải cách của các sĩ phu được chuyển bí mật vào Việt
Nam, làm thay đổi suy nghĩ, tư tưởng và hình thức đấu tranh, “những cuộc Âu hóa
đã thay đổi tập quán sinh hoạt hàng ngày, thay đổi cách ta vận động tư tưởng”, tức
là văn minh phương Tây đã làm thay đổi cách thức vận động tư tưởng và hình thức
đấu tranh của nhân dân ta vào những năm đầu thế kỉ XX.
70
2.2.2.5. Văn hóa tâm linh xứ Huế
Văn hóa tâm linh xứ Huế là một loại hình văn hóa tinh thần đặc thù của vùng
đất này. Với người Huế, văn hóa tâm linh thể hiện tình cảm linh thiêng, niềm tin và
sự tri ân của con người đối với những người thân đã mất, niềm tin của cả cộng đồng
đối với những vị anh hùng, các bậc tiền bối đã có công lao xây dựng, bảo vệ đất
nước được tôn làm Thần - Thánh, Thành hoàng, thể hiện sự kính trọng và cầu mong
sự che chở của các vị thiên thần…
Thừa Thiên Huế được biết đến là vùng đất của nhiều di sản văn hóa tâm linh
độc đáo và đa dạng, đồng thời là nơi còn lưu giữ những thánh tích của tín ngưỡng
thờ Mẫu, cũng như những công trình kiến trúc tôn giáo. Ở Huế, văn hóa tâm linh
được thể hiện qua các lễ hội truyền thống được tổ chức quanh năm. Hình thức lễ hội
rất trang trọng với nghi lễ tôn nghiêm như lễ tế Nam Giao (lễ tế Trời), lễ tế Xã Tắc
(lễ tế thần Đất và thần Lúa), lễ hội Tịch Điền, lễ hội giỗ Tổ Hùng Vương, lễ cầu
ngư… Các lễ hội đều có những mục đích cao cả là cầu cho quốc thái dân an, mùa
màng tươi tốt, bội thu, con cháu no đủ, hạnh phúc…
Những nghiên cứu về văn hóa tâm linh xứ Huế đã chỉ ra ở vùng đất này tín
ngưỡng dân gian là một nét đặc trưng mang sắc thái của sự giao thoa văn hóa Việt -
Chăm. Người Huế thừa hưởng việc tôn thời bà mẹ Po Yang Inư Nagar của dân tộc
Chăm, chuyển dịch thành thánh mẫu Thiên Y A Na Ngọc Diễn Phi hay bà chúa
Ngọc, bà Dàng, bà Bô Bô chúa động. Các thần đất gốc gác Chăm được tôn xưng là
Ba Ông Cả thổ quan chi thần, hay Ông Cả, Bà Dàng tôn thần. Miếu Bà Dàng ở
Trạch Phổ, ở Hải Cát được trùng tu tôn tạo để phụng thờ. Các tượng thần Siva,
Brahma được tô đắp thêm thành hình tượng Phật để thờ cúng ở chùa Kim Thành
(làng Thành Trung), Ưu Điềm, Mỹ Xuyên…
Nghiên cứu văn hóa tâm linh xứ Huế không thể không nhắc đến sự hình hành
và phát triển của tôn giáo gắn với tiến trình phát triển của vùng đất Thuận Hóa - Phú
Xuân - Huế, cũng như những chính sách tôn giáo của các triều đại phong kiến. Từ
thời Tây Sơn (1786-1802), bên cạnh Nho giáo, vua Quang Trung chấp nhận Phật
giáo và Thiên Chúa giáo. Tuy nhiên, nhà Tây Sơn chủ trương chế tài đối với Phật
giáo nhằm hạn chế số chùa chiền và sư sãi. Đến triều Nguyễn, nhận thức được vai
71
trò quan trọng của Nho giáo trong việc củng cố chế độ phong kiến tập quyền nên
nhà Nguyễn rất coi trọng Nho giáo. Đối với Phật giáo, mặc dù có những quy định
chặt chẽ, sách Đại Nam thực lục viết: “chùa quán có đổ nát mới được tu bổ, làm
chùa mới và tô tượng đúc chuông, đàn chay hội chùa, hết thảy đều cấm” [127,
tr.586], nhưng trong thực tế nhiều vua triều Nguyễn tổ chức tu sửa chùa chiền, xây
dựng nhiều chùa công như Thiên Mụ, Giác Hoàng, Diệu Đế, Thánh Duyên... Nhìn
chung, các vua nhà Nguyễn không hoàn toàn bài bác Phật giáo mà có thái độ dung
hòa Nho - Phật. Đối với Thiên Chúa giáo, nhà Nguyễn thi hành chính sách hạn chế.
Về Phật giáo, Huế được xem như là kinh đô của Phật giáo, chùa Huế là một
loại hình di sản khó nơi nào ở Việt Nam sánh bằng. Qua khảo sát thực tế cho thấy, ở
Huế hiện còn lưu giữ, bảo tồn trên 100 ngôi chùa cổ, trong đó có hàng chục tổ đình,
các nghi lễ Phật giáo và hoạt động Phật sự tôn nghiêm. Trong sự phát triển của Huế,
Phật giáo Huế đã khẳng định những bước tiến vững chắc và xác lập vị thế quan
trọng. Hệ thống chùa tháp, pháp khí, tượng, ván khắc đồ sộ; tính đa dạng trong hệ
cảnh quan, kiến trúc, trang trí, nội thất của những ngôi chùa Huế, những giá trị
trong nghệ thuật tạo hình và nghệ thuật diễn xướng mang hơi thở của Phật giáo xứ
Đàng Trong nói chung và Phật giáo xứ Huế nói riêng, sự đa diện trong sinh hoạt
văn hóa thông qua các lễ hội, sinh hoạt của tăng chúng - phật tử, văn hóa ẩm thực
chay đặc sắc và độc đáo... phản ánh những ảnh hưởng của giáo lí nhà Phật, được
luân chuyển trong đời sống thường nhật, trong mạch nguồn văn hóa Huế.
Là một tôn giáo có số giáo dân đông vào hàng thứ hai (sau Phật giáo) ở Thừa
Thiên Huế, Thiên Chúa giáo du nhập và phát triển ở Ðàng Trong khá sớm. Hiện
nay, ở Thừa Thiên Huế có 45 giáo xứ với hơn 90 nhà thờ lớn, nhỏ khác nhau. Gần
trung tâm thành phố Huế có 2 ngôi giáo đường lớn được xây dựng vào những năm
đầu thập niên 60 là nhà thờ Phủ Cam và nhà thờ Ðức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Ðó là 2
giáo đường tiêu biểu cho lối kiến trúc Roman - Gothique (Roman - Gô-tích) mang
giá trị văn hóa tâm linh của tôn giáo Thiên Chúa giáo tại Huế.
Bên cạnh đó, nhiều công trình kiến trúc phục vụ cho loại hình du lịch tôn giáo,
tín ngưỡng đã được trùng tu, xây mới rất quy mô và hoành tráng như: Khu văn hóa
đền Huyền Trân, Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã, Thiền viện Hương Vân, Huyền
72
Không Sơn Thượng, Tượng đài Quang Trung - Nguyễn Huệ, Trung tâm Văn hóa
Phật giáo Liễu Quán, Khu văn hóa du lịch tâm linh Quán Thế Âm, chùa Linh Mụ,
Hà Trung, Thánh Duyên, Tổ đình Từ Đàm, Thiền Tôn… Thừa Thiên Huế cũng tiến
hành đầu tư, phục dựng những công trình thuộc quần thể di tích lịch sử mà hoạt
động của nó gắn liền với đời sống tâm linh của đa số quần chúng Nhân dân như:
đàn Nam Giao, Xã Tắc, phục dựng các lễ tế Trời, Đất...
2.2.2.6. Văn hóa ứng xử xứ Huế
- Ứng xử hài hòa giữa con người với môi trường tự nhiên, giữa con người với
con người trong xã hội
Vùng đất kinh đô Huế đã tạo cho người dân nơi đây những nét văn hóa Huế
rất riêng biệt. Đó là một phong thái thanh cao, tao nhã nhưng lại vô cùng đằm thắm
và dịu dàng. Điều này không chỉ biểu hiện ở những tầng lớp vương tôn quý tử,
những phi tần mĩ nữ mà còn lan tỏa ở mọi tầng lớp nhân dân. Cái phong thái ấy
biểu hiện trong lối sống hàng ngày, từ tiếng nói, điệu cười cho đến cái dáng đi nhẹ
nhàng uyển chuyển trong tà áo dài tím thướt tha. Tất cả tạo nên một nét Huế đẹp
mộng mơ như một viên ngọc tím huyền ảo, đẹp dịu dàng.
Trong lịch sử hình thành và phát triển, Thừa Thiên Huế đã từng mang danh là
vùng đất “Ô Châu ác địa” - nơi mặc dù được ví là “non xanh nước biếc như tranh
họa đồ” nhưng ẩn họa với “truông nhà Hồ, phá Tam Giang” và vô vàn điều kiện
khắc nghiệt của tự nhiên, do đó con người sống ở vùng đất này từ sớm phải có tính
cách mạnh mẽ để chống chọi với thiên tai, địch họa, hòa hợp với môi trường tự
nhiên. Trước những khó khăn và thử thách, người Huế với bản tính cần cù, chịu khó
đã không ngừng khai phá, cải tạo nhiều vùng đất mới để định đô từ thủ phủ Phước
Yên, Bác Vọng, Kim Long, Phú Xuân, Huế [33, tr.12]. Trong nhiều thế kỉ, khi chế
độ quân chủ nâng cao vị thế và vai trò của Phật giáo trong điều hành đất nước, giáo
lý Phật giáo ảnh hưởng sâu đậm đến đời sống xã hội. Do đó, tính cách con người
Huế trở nên bao dung, thân thiện, hiền hòa thể hiện rõ qua cách ứng xử giữa con
người với môi trường tự nhiên, giữa con người với con người trong xã hội.
Thừa Thiên Huế là một vùng đất có truyền thống văn hóa, tuy không lâu đời
như Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội 1000 năm, nhưng cũng có bề dày lịch sử - văn
73
hóa hơn 700 năm. Từ khi chúa Nguyễn đặt thủ phủ tại đây cho đến khi nhà Nguyễn
cáo chung, có thể nói Huế là nơi hội tụ các luồng tư tưởng đông tây kim cổ. Văn
hóa Huế có truyền thống từ Bắc tràn vào, theo những lưu dân lập nghiệp trên vùng
đất mới. Tại đây còn tồn tại dân tộc Chăm với nền văn hóa Ấn Độ, sau này văn hóa
phương Tây cũng có cơ hội thâm nhập vào từ thời các chúa Nguyễn. Giữa những
giá trị văn hóa, luồng tư tưởng mới, các lễ hội văn hóa truyền thống và phong cách
sống người Huế vẫn được bảo tồn, củng cố và phát triển.
Phong cách sống của người Huế được hình thành và bồi đắp từ cách sống,
cách ứng xử với đời sống tự nhiên và xã hội của nhiều thế hệ con người xứ Huế.
Không phải ngẫu nhiên mà người ta vẫn quen gọi thành những cụm từ mang sắc
thái biểu trưng cho Huế, như: người Huế, kiến trúc Huế, nhà vườn Huế, món ăn
Huế, màu tím Huế, nón lá Huế, giọng Huế - tiếng Huế, ca Huế... Tất nhiên không
phải cái gì thuộc về Huế đều là bậc nhất cả. Song trong phong cách sống vẫn là nét
trội, nét tiêu biểu. Phong cách sống được thể hiện khá rõ qua cách ăn, cách nói, ăn
mặc, ăn học và cả ăn chơi của người Huế. Điển hình trong ăn nói, người Huế luôn
tôn trọng thứ bậc thể hiện qua cách xưng hô không phân biệt tuổi tác, giàu sang,
nghèo hèn. Đối với xóm giềng, lạ cũng như quen đều căn cứ vào tuổi tác mà ăn nói.
Trên địa bàn Thừa Thiên Huế hiện nay đều có chung một thứ tiếng là tiếng Huế,
chung là thứ giọng là giọng Huế, không phân biệt dân làng hay thành phố.
Qua biết bao thăng trầm của lịch sử, con người xứ Huế vẫn còn bảo lưu được
nét mộc mạc, chân chất trong lối sống, sự tinh tế, lịch thiệp, hòa nhã trong giao tiếp,
ứng xử và sự mạnh mẽ, quyết liệt, kiên cường trong đấu tranh. Đó là vốn quý có cội
nguồn từ truyền thống văn hóa dân tộc, đã được tích tụ, bồi đắp và phát triển từ một
vùng đất vốn là kinh đô, có sự kết hợp hài hòa giữa cái chung của cả nước và cái
riêng của một vùng đất, giữa truyền thống và hiện đại. Trải qua thời gian và sự vận
động không ngừng của cuộc sống, các yếu tố ấy luôn luôn được chắt lọc, bổ sung và
lắng lại thành những tinh hoa làm nên bản sắc văn hóa Huế, đó là phần cốt lõi nhất
của truyền thống văn hóa Huế. Tổng kết về phong cách sống người Huế, nhà thơ
Phùng Quán đã viết: “Sóng dịu dàng như dáng một lưỡi gươm / Những người nhút
nhát tự thiêu khi nổi giận”. Khác với tính rắn rỏi của văn hóa xứ Nghệ, sự tinh tế
74
của văn hóa Hà thành, con người xứ Huế từ tốn, hiền dịu, lịch thiệp nhưng bên
trong ẩn chứa sức phản ứng dữ dội. Khi đất nước bị xâm lăng, khi quyền tự do,
dân chủ bị đè nén thì tinh thần đấu tranh trỗi dậy quyết liệt. Lịch sử phong trào
kháng thuế của nhân dân Thừa Thiên Huế và công cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp, đế quốc Mĩ đã chứng minh điều đó. Hay chính hình ảnh của Hồ Chí
Minh sau này rất rắn rỏi nhưng cũng rất uyên thâm, tế nhị và lịch lãm. Văn hóa
Huế cùng với văn hóa xứ Nghệ thực sự thấm sâu vào vô thức, chi phối suy nghĩ và
hành động của Người.
Trong văn hóa Huế, lối sống cộng đồng, tương thân tương ái là giá trị văn hóa
quý báu thể hiện văn hóa ứng xử giữa con người với con người. Truyền thống đó
luôn được đề cao và trải qua những thăng trầm lịch sử giá trị văn hóa này đã trở
thành biểu trưng của văn hóa cố đô. Nguyên nhân của lối sống cộng đồng, đoàn kết
của nhân dân Thừa Thiên Huế là do điều kiện kinh tế nông nghiệp và ruộng đất
công làng xã chi phối. Bên cạnh đó, lối sống cố kết cộng đồng còn bắt nguồn từ sự
sinh tồn trong điều kiện sinh thái vô cùng khắc nghiệt của miền Trung “nắng gắt,
mưa nhiều”. Chính vì vậy, từ rất sớm, người Huế đã đoàn kết, gắn bó và thương yêu
nhau hơn trong đời sống, trong hoạt động sản xuất nông nghiệp, cũng như trong quá
trình xây dựng và phát triển vùng đất này.
- Yêu nước, tự hào tự tôn dân tộc, kiên cường đấu tranh vì độc lập tự do
Yêu nước và tự tôn dân tộc ở bất cứ vùng đất nào, con người nào cũng có.
Nhưng ở Huế, giá trị văn hóa ấy gắn với tiến trình xây dựng và phát triển của vùng
đất, thể hiện mối quan hệ giữa con người với quốc gia, dân tộc. Người Huế từ rất
sớm đã yêu nước và nhận thức rõ tầm quan trọng của độc tập, tự do. Trong hành
trình mở cõi, những âm mưu đồng hóa của các thế lực phương Bắc, ách áp bức bóc
lột của bè lũ thực dân, đã hun đúc cho lớp lớp người Huế tinh thần đấu tranh can
trường với ý chí tự cường, tự hào tự tôn dân tộc không khuất phục đã đứng lên
chống bè lũ xâm lăng. Tiêu biểu cho tinh thần đó, Đặng Dung, Đặng Tất trở thành
linh hồn của cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược tại vùng đất Hóa Châu.
Những năm đấu tranh chống lại âm mưu đồng hóa dân tộc của các thế lực
phương Bắc, chống ách áp bức bóc lột của thực dân Pháp và đế quốc Mĩ đã hun đúc
75
tinh thần yêu nước, lòng tự hào tự tôn dân tộc cho lớp lớp người Huế từ bậc minh
quân, quan lại, sĩ phu yêu nước đến đông đảo quần chúng nhân dân. Chính tinh thần
yêu nước, lòng tự tôn dân tộc của họ đã góp phần làm nên giá trị đặc sắc của văn
hóa Huế và cũng giá trị quan trọng này đã góp phần hình thành tư tưởng yêu nước
và nhân cách Hồ Chí Minh trong những năm tháng Người ở Huế.
Những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, ngay khi liên quân Pháp - Tây Ban
Nha nổ súng tấn công cửa biển Đà Nẵng, uy hiếp cửa ngõ phía Nam của kinh đô
Huế, nhân dân Thừa Thiên Huế đã nêu cao tinh thần dân tộc, phát huy sức mạnh
của chủ nghĩa yêu nước, cùng hợp sức chống Pháp, bảo vệ độc lập dân tộc. Trước
sức ép của quân Pháp, triều đình Huế đồng ý kí hiệp ước Nhâm Tuất (1862), cắt ba
tỉnh miền Đông Nam kỳ (Gia Định, Biên Hòa, Định Tường) và quần đảo Côn Lôn
cho Pháp. Nhân dân Thừa Thiên Huế cũng như nhân dân cả nước phẫn nộ trước
hành động bạc nhược, nhượng đất của triều đình nhà Nguyễn. Từ ngày 18/8/1883
đến ngày 5/7/1885 nhân dân Thừa Thiên Huế và số ít vua quan, trung thần nghĩa
dũng của triều Nguyễn trực tiếp đối đầu với thực dân Pháp ngay trên Kinh đô Huế.
Tuy rất ngắn ngủi, song đây là giai đoạn kết thúc sự tồn vong của nền độc lập dân
tộc nói chung, của Thừa Thiên Huế nói riêng.
Tinh thần yêu nước và tự tôn dân tộc được tiếp nối và thể hiện rõ nét khi thực
dân Pháp xác lập ách cai trị và chính sách “khai hóa văn minh” trên lãnh thổ Việt
Nam. Bên cạnh những vua quan cam chịu làm tay sai vẫn còn có những bậc minh
quân, trung thần, đấng trượng phu có tinh thần dân tộc, đứng lên lãnh đạo các cuộc
đấu tranh. Tiêu biểu là vua Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân với các trung thần như
Nguyễn Tri Phương, Tôn Thất Thuyết, Thái Phiên, Trần Cao Vân cùng những
người Việt Nam có tri thức và tâm huyết muốn canh tân để tạo thực lực, đẩy mạnh
tự cường đưa đất nước thoát khỏi nạn ngoại xâm. Mặc dù không thể đối chọi với
sức mạnh của chủ nghĩa tư bản phương Tây, nhưng vua quan yêu nước triều
Nguyễn đã có những động thái phản kháng thực dân quyết liệt, khơi dậy phong trào
đấu tranh bảo vệ nền độc lập dân tộc khắp nơi.
Đến đầu thế kỉ XX, sự thất bại xu hướng cứu nước theo ý thức hệ phong kiến
đã mở đường cho những xu hướng cứu nước mới. Sự du nhập những tài liệu Tân
76
văn, Tân thư, các ấn phẩm mang tư tưởng cải cách đã “lột xác” phong trào yêu
nước trong cả nước, đặc biệt là ở Kinh đô Huế. Đất Thừa Thiên Huế dấy lên
phong trào đòi cải cách thông qua nhiều hình thức vận động, diễn thuyết, cắt tóc
ngắn, mặc âu phục… Tham gia các phong trào này xuất hiện tầng lớp thanh niên,
học sinh, những nhà giáo, chí sĩ yêu nước. Sự giác ngộ và ý thức dân tộc của họ đã
được khơi dậy, làn sóng đấu tranh chống thực dân lan nhanh và ngày càng quyết
liệt hơn. Năm 1908, miền Trung nổ ra phong trào chống thuế, Thừa Thiên Huế trở
thành trung tâm của các cuộc kháng thuế khi nơi đây là sào huyệt của thực dân
Pháp và phong kiến tay sai, và cũng là nơi quần chúng nhân dân bị áp bức, bóc lột
nặng nề nhất.
Cảnh thực dân Pháp “giăng thép gai họa địa đồ nước Nam” đã khắc sâu trong
mỗi con người xứ Huế, nên từ vua quan yêu nước đến thứ dân đều căm phẫn, không
cam chịu làm nô lệ, không chịu mất nước và đã nêu cao tinh thần tự tôn dân tộc đấu
tranh ngoan cường chống ách xâm lược của thực dân Pháp. Đặc biệt, trong giai
đoạn này, Thừa Thiên Huế còn là nơi gắn với những hoạt động yêu nước đầu tiên
của Hồ Chí Minh thời niên thiếu.
77
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Nghiên cứu ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự hình thành nhân
cách Hồ Chí Minh không thể không làm rõ lí luận về không gian văn hóa Huế và
nhân cách Hồ Chí Minh. Nhân cách Hồ Chí Minh là những phẩm chất, năng lực, lí
tưởng, ý chí kiên cường, trí tuệ sáng suốt và tầm nhìn xa của một nhà chính trị thiên
tài, có sức hấp dẫn, lôi cuốn mạnh mẽ đối với quần chúng, được thể hiện qua phong
cách, lối sống của Người. Nhân cách Hồ Chí Minh là biểu trưng sáng ngời về phẩm
chất và năng lực con người Việt Nam.
Từ kết quả phân tích, văn hóa Huế là tổng hòa các giá trị vật chất và tinh thần,
truyền thống, thị hiếu và phong cách sống, được tạo nên từ quá trình hoạt động thực
tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội, khẳng
định bản sắc riêng của vùng đất và con người Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế. Không
gian văn hóa Huế là vùng văn hóa rộng lớn, từ châu Ô, châu Lý cổ đến phía Nam
Quảng Trị và Bắc Quảng Nam, trong đó Huế đóng vai trò là trung tâm, với đặc
trưng về các giá trị văn hóa vật chất và tinh thần, truyền thống, thị hiếu và phong
cách sống, được tích lũy trong quá trình tương tác giữa con người với tự nhiên và xã
hội. Không gian văn hóa Huế được hình thành từ các yếu tố tự nhiên, văn hóa, xã
hội và các hoạt động thực tiễn lịch sử - xã hội của con người đã làm nên giá trị bản
sắc của văn hóa Huế. Chính trên không gian địa lí Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế, từ
xứ Đàng Trong cho đến Trung Bộ, từ thế kỉ XVI cho đến nay, văn hóa địa sinh thái
Huế, văn hóa chính trị xứ huế, văn hóa giáo dục xứ Huế, văn hóa nghệ thuật xứ
Huế, văn hóa tâm linh xứ Huế, văn hóa ứng xử xứ Huế… Tất cả đã làm nên một
vùng văn hóa đặc trưng của Việt Nam - không gian văn hóa Huế.
78
Chương 3
ẢNH HƯỞNG CỦA KHÔNG GIAN VĂN HÓA HUẾ
ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH HỒ CHÍ MINH
Lí luận Mác - Lênin về chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ ra rằng con người là sản
phẩm của xã hội, chịu sự tác động của lịch sử xã hội; tư tưởng, ý thức cá nhân, nhân
cách con người cũng được hình thành và phát triển từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn
tại xã hội. Do đó, nhân cách Hồ Chí Minh cũng xuất phát và chịu sự ảnh hưởng từ
thực tiễn xã hội nhất định, là kết quả từ những tác động của điều kiện xã hội, trước
hết là điều kiện sống, giáo dục, học tập, không khí chính trị tư tưởng đương thời. Sự
phát triển nhân cách Hồ Chí Minh không chỉ là sản phẩm của trình độ phát triển xã
hội của quê hương, dân tộc, mà cả trình độ phát triển ở những nơi Người đã từng
sống, học tập và tranh đấu. Trong khoảng thời gian ở Huế, không gian văn hóa Huế
đã có những ảnh hưởng tích cực đến sự hình thành và phát triển nhân cách Hồ Chí
Minh, dẫn đến sự thay đổi về mặt nhận thức và hành động của Người trước những
yêu cầu đặt ra của thực tiễn xã hội.
3.1. MỘT SỐ YẾU TỐ CỦA KHÔNG GIAN VĂN HÓA HUẾ ẢNH HƯỚNG
ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH HỒ CHÍ MINH
3.1.1. Ảnh hưởng của văn hóa chính trị - xã hội
3.1.1.1. Ảnh hưởng của các biến động chính trị - xã hội
Những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, đời sống chính trị của Thừa Thiên
Huế vô cùng ngột ngạt, Huế là cao điểm của những diễn biến chính trị và mâu thuẫn
xã hội, “nơi thể hiện khá tập trung những mâu thuẫn gay gắt giữa nhân dân ta với
thực dân Pháp và phong kiến Nam triều. Trong triều vua quan chia rẽ, trung thần bị
hãm hại, gian thần lộng hành” [53, tr.43]. Lợi dụng tình hình rối ren, thực dân Pháp
cải tổ triều đình trở thành tổ chức bù nhìn làm tay sai cho chúng. Ngày 23/9/1897,
toàn quyền Đông Dương ra nghị định bỏ Hội đồng Phụ chính và Viện Cơ mật, lập
ra Hội đồng Thượng thư đặt dưới quyền điều khiển của Khâm sứ Trung Kỳ. Mọi
quyền hành trong nước đều do chính quyền “bảo hộ” nắm và khống chế. Ngay tại
kinh đô, triều đình phong kiến nhà Nguyễn vẫn tồn tại nhưng mất hết thực quyền.
79
Cay đắng hơn, quyền cuối cùng của triều đình phong kiến nhà Nguyễn là quyền
quản trị tài sản và thu thuế cũng bị tước bỏ. Thực dân Pháp sử dụng triều đình Huế
như một công cụ, một chỗ dựa vững chắc cho những chính sách cai trị, bởi những
ông vua lí tưởng cho chế độ bảo hộ là những người làm trung gian tốt nhất cho việc
thi hành chính sách thuộc địa. Đối với Chính phủ Pháp, vua quan triều Nguyễn
chẳng khác nào là người công chức ăn lương, có nhiệm vụ truyền đạt lại tất cả mệnh
lệnh của chính phủ bảo hộ, chịu sự chi phối, trở thành bù nhìn hoặc làm tay sai cho
thực dân Pháp, có chăng cũng chỉ là sự phản kháng yếu ớt, đấu tranh bất thành của
một số vua quan yêu nước. Đánh giá về thái độ bạc nhược của triều đình phong
kiến, Hồ Chí Minh sau này viết:
Cuối thế kỉ XIX chủ nghĩa đế quốc Pháp xâm lược Việt Nam. Bọn vua
quan và phong kiến hèn nhát đầu hàng và cấu kết với bọn đế quốc tiếp
tục nô dịch nhân dân Việt Nam nhiều hơn, khiến nhân dân Việt Nam khổ
cực rên xiết. Nhưng đại bác của bọn đế quốc không thể át được tiếng nói
yêu nước của nhân dân ta… phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở
Việt Nam không ngừng phát triển, kẻ trước ngã xuống, người sau đứng
dậy. Nhưng tất cả những cuộc khởi nghĩa ấy đã bị dìm trong máu. Những
đám mây đen lại bao phủ đất nước Việt Nam [103, tr.29-30].
Tháng 12 năm 1919, khi nói chuyện với Ê-đua, Hồ Chí Minh khẳng định
những gì anh thấy lúc còn là cậu học sinh ở Huế “những người dân Trung Kỳ chỉ
đến Tòa Khâm với tay không để phản đối sưu thuế quá nặng, thế mà người ta đã nổ
súng để giải tán họ”. Hành động đó là sự “tàn bạo và vô nhân đạo” mà nguyên nhân
chính từ sự bạc nhược của các quan lại An Nam [64, tr.83].
Trong những ảnh hưởng của thực tiễn đời sống chính trị - xã hội Thừa Thiên
Huế những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX đến nhận thức yêu nước của Hồ Chí
Minh, không thể không kể đến sự biến Thất thủ Kinh đô. Năm 1897, toàn quyền Paul
Dourmer (1897-1902) bãi bỏ “chế độ bảo hộ” và thay bằng “chế độ trực trị”, thực dân
Pháp tổ chức lại bộ máy nhà nước, đo đạc đất đai để khai thác sức người sức của xứ
An Nam. Ngay trong kinh thành Huế, ven các con đường, hàng trăm nấm mồ tập thể
chôn cất những người bị thực dân Pháp giết hại trong biến cố 23 tháng 5 bị quật lên,
80
lấy đất sửa sang hoặc làm đường sá. Xương trắng, sọ người chất cao thành đống
quanh khu vực nội thành, đặc biệt là Miếu Âm Hồn cạnh nhà ông Sắc trên đường
Đông Ba (112 Mai Thúc Loan, nay là 158). Sống trong kinh thành, thảm cảnh đó
khắc sâu vào tâm trí và đặt ra những câu hỏi lớn cho Hồ Chí Minh, nhưng thấm sâu
trong tâm thức của Người vẫn là âm hưởng bi thương của các bài văn tế. Trước nỗi
đau thương, mất mát của bao người con dân Việt yêu nước, Phan Bội Châu đã viết
bài Văn tế cô hồn ngày 23/5 với những câu như sau:
Lô nhô trẻ dìu già, ông nách cháu, chân còn đi, đầu chốc lìa vai!
Lao nhao con khóc mẹ, vợ kêu chồng, tiếng chưa ngớt, xương đà chất đống!
Oan uổng quá mấy ông trên võng, thình lình sét đánh, sống chẳng trọn đời.
Tội tình thay lũ bé trong nôi, cắc cớ sao sa, chết đà trắng bụng [12].
Mặc dù sự biến “Thất thủ Kinh đô” xảy ra chỉ trước 5 năm khi Hồ Chí Minh ra
đời, và 10 năm khi Người đặt chân đến Huế, nhưng những biến động lịch sử của đất
nước từ có chủ quyền trở thành thuộc địa, nỗi nhục mất nước, mất mát, tang thương
cùng với âm hưởng thống thiết của các bài văn tế đã để lại những dấu ấn khó phai
trong người thiếu niên mẫn cảm ấy. Sống trong khung cảnh tráng lệ, uy nghiêm của
chốn kinh kì, nhưng bao trùm lên tất cả là bầu không khí uất hận len lỏi trong cuộc
sống sinh hoạt hàng ngày của đồng bào xứ Huế. Hồ Chí Minh sớm cảm nhận được
tình cảm của đồng bào, xót thương cho những người bị nạn, căm giận cái ác của
bọn thực dân cướp nước và nuôi hận căm thù, khát vọng giải phóng dân tộc, giải
phóng đồng bào khỏi gông cùm nô lệ.
Bên cạnh đó, sau khi đặt ách đô hộ lên nước ta, thực dân Pháp ngang nhiên
thực hiện mưu đồ thống trị, thao túng quyền lực, biến cung vàng điện ngọc thành
chốn hỗn mang, xúc phạm lòng tự tôn dân tộc. Thực tiễn đen tối của triều đình Huế
dưới ách cai trị của thực dân Pháp đã được ghi lại:
Vào Thành ra cửa Đông: Xe ngựa chạy tứ tung.
Vào Thành ra cửa Tây: Sa gấm rực như mây.
Vào Thành ra cửa Nam: Áo mũ đỏ pha chàm.
Vào Thành ra cửa Bắc: Mưa gió đen hơn mực.
Dạo khắp trong với ngoài: Đàn địch vang tai trời.
Đau lòng có một người! Hỏi ai? Ai biết ai? [184, tr.50].
81
Có thể nói, tất cả những gì diễn ra ở Huế từ sau ngày Kinh đô thất thủ in đậm
sâu trong tâm thức của Hồ Chí Minh. Sau này, khi trở thành nhà hoạt động cách
mạng, những dấu ấn tuổi thơ trên đất Huế, những khung hình biếm họa có giá trị
nhằm tố cáo tội ác dã man của thực dân Pháp đã được Người phản ánh qua các
trang viết, các tác phẩm, Người đã viết: “những người Pháp thực dân rất hung ác và
vô nhân đạo… Đối với bọn thực dân, tính mạng của người thuộc địa, da vàng hay
da đen cũng không đáng một xu” [147, tr.23].
Đối với Hồ Chí Minh, những ngày theo cha sống trong chốn quan trường triều
Nguyễn đã giúp Người hiểu hơn thực trạng xã hội Huế, thấy được sự bạc nhược của
triều đình phong kiến, sự thất bại của ý thức hệ phong kiến, cũng như bản chất và dã
tâm của thực dân Pháp - kẻ luôn rêu rao tư tưởng Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Cũng từ
thực tiễn đó đã nhen nhóm, nhân lên lòng căm thù thực dân, phong kiến trong tư
tưởng và nhận thức của Hồ Chí Minh; là động lực quan trọng vào việc dấn thân
tham gia phong trào chống thuế năm 1908 và quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước.
Sự dấn thân một cách táo bạo, không hề có tính chất phiêu lưu, mà hoàn toàn tự
giác, độc đáo và đầy sáng tạo. Sự tham gia của Hồ Chí Minh và nhóm học sinh là
một đòn đau, đánh trực tiếp vào chế độ thuộc địa của thực dân Pháp, những sản
phẩm do nền giáo dục Tây học đào tạo lại trực tiếp đứng về phía đồng bào chống lại
chúng, dùng vốn liếng Tiếng Pháp và kiến thức đã học được từ trường học để ủng
hộ những lời lẽ công kích chế độ thực dân, cũng như làm rõ những từ ngữ “mị dân”
của chính quyền thực dân.
3.1.1.2. Ảnh hưởng của truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái
Một trong giá trị văn hóa quý báu của Huế luôn được đề cao là truyền thống
đoàn kết, cộng đồng, tương thân tương ái của người Huế. Trải qua những thăng
trầm lịch sử, giá trị văn hóa này đã trở thành biểu trưng của văn hóa Huế.
Huế là vùng đất Kinh kì, chốn phồn hoa đô hội, nhưng không vì thế mà đời
sống nhân dân sung túc, an nhàn, trái lại là sự khó khăn về nhiều mặt, từ sự khắc
nghiệt của thiên nhiên cho đến chính sách cướp đoạt, thuế khóa của chính quyền
thực dân, phong kiến. Có lẽ trên đất nước Việt Nam, chưa có vùng đất Kinh kỳ nào
mà đời sống nhân dân cùng cực như Thừa Thiên, và cũng hiếm nơi nào mà tình
82
đoàn kết, tương thân tương ái, trọng nghĩa trọng tình được thắt chặt như vùng đất
được mệnh danh là “hiếu khách” này.
Trong gần 10 năm gắn bó với mảnh đất Thừa Thiên (từ 1895 đến 1901 và từ
1906 đến 1909), cuộc đời tuổi trẻ của Hồ Chí Minh và gia đình của Người trải qua
nhiều lận đận, lắm nỗi truân chuyên từ việc học hành thi cử của cha, sự đau buồn
khi mẹ và em trai qua đời vì bệnh tật. Năm 1898, sau khi ông Nguyễn Sinh Sắc
hỏng khoa thi hội, điều kiện sống gia đình vô cùng khó khăn, khoản phụ cấp ít ỏi bị
cắt vì ông không còn là nho sinh của trường Quốc Tử Giám. Nhờ sự giúp đỡ của
một người bạn, ông Sắc xuống dạy học ở làng Dương Nỗ, huyện Phú Vang. Tại
đây, ông đồ Nghệ “văn hay chữ tốt” được bà con lối xóm gửi con đến học, cha con
ông cử Sắc được gia đình ông Nguyễn Sĩ Độ cùng bà con chăm sóc tận tình, chu
đáo. Trong những năm theo cha sống ở làng Dương Nỗ, tuổi ấu thơ của Hồ Chí
Minh đã cảm nhận được lối sống nghĩa tình, tương thân tương ái, đầy tình làng
nghĩa xóm, sự cưu mang giúp đỡ của đồng bào xứ Huế.
Cuối năm 1900, khi ông Sắc được cử đi làm giám thị kì thi Hương tại Thanh
Hóa, bà Loan lưu lại Huế và sinh hạ người con thứ tư (có tài liệu ghi là Nguyễn
Sinh Xin), lâm bệnh nặng và qua đời. Động lòng thương xót gia cảnh côi cút, nhiều
người đã hết lòng giúp đỡ mẹ con bà Loan, kể cả những thầy thuốc giỏi nhất trong
vùng. Nhưng thật chẳng lành, bà Loan lâm bệnh nặng đã qua đời vào trưa ngày 22
tháng Chạp năm Canh Tý (10/2/1901). Bà con lối xóm và những người bạn đồng
môn của ông Sắc đã hết lòng giúp đỡ, lo toan đám tang chu đáo, chôn cất thi hài của
bà Loan ở núi Ba Tầng. Sau khi bà Loan mất, Cung và em Xin được bà con lao
động nghèo cưu mang, đùm bọc, em Xin được đưa sang nhà Viên Điểu làm thợ thêu
bú nhờ. Nhưng vì bé Xin quá yếu, đã mất trong thời gian rất ngắn [181, tr.89]. Đó là
những trang sử rất bi thương của Hồ Chí Minh thời niên thiếu, nhưng nó thấm
đượm tình người của những cảnh đời cùng khổ.
Thời gian sống ở Huế, tiếp nối văn hóa xứ Nghệ, văn hóa Huế đã thấm sâu
đến nhận thức và hành động, hình thành tư tưởng yêu nước, góp phần quan trọng
định hình nhân cách của người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành. Cố Thủ
83
tướng Phạm Văn Đồng viết: “Thời gian ở Huế là thời gian Nguyễn Tất Thành lớn
lên và bắt đầu đi học. Những năm tháng đó là thời gian cực kỳ quan trọng đối với sự
hình thành con người Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, thời gian hình thành một con
người lạ lùng” [172, tr.6]. Đúng vậy, thực tiễn 10 năm sống ở Huế, Nguyễn Tất
Thành được đùm bọc và cưu mang trong tình thương của bà con làng xóm, đặc biệt
từ khi gia đình của Người trải qua nhiều nỗi truân chuyên, khi việc học hành thi cử
của ông Nguyễn Sinh Sắc lận đận, bà Hoàng Thị Loan và em trai qua đời. Bên cạnh
một nếp nhà gia giáo, lối sống trọng nghĩa trọng tình, đoàn kết yêu thương, tương
thân tương ái của con người xứ Huế, đã hun đúc và hình thành nên nhân cách của
một con người mà tương lai làm rạng danh cả một dân tộc.
Nghĩa tình sâu nặng đó chính là chân giá trị thực để hình thành nên nhân cách,
đạo đức cao đẹp của Hồ Chí Minh sau này, đó là lòng nhân ái cao cả, bênh vực
những cảnh đời, con người cùng khổ và khát vọng đấu tranh giải phóng đồng bào.
Và cũng chính từ sự đùm bọc, thương yêu, giúp đỡ, chia sẻ của bà con làng xóm
trong những ngày tháng khó khăn, Thành đã đứng về phía “đồng bào” để bênh vực
họ, đấu tranh cùng với họ khi phong trào kháng thuế lên cao. Sau này, vào năm
1920, tại Đại hội Tours của Đảng Xã hội Pháp, khi trả lời câu hỏi của nữ đồng chí
Rô-dơ, Người nói: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả
những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”.
3.1.2. Ảnh hưởng của văn hóa giáo dục
Văn hóa và giáo dục là hai yếu tố rất quan trọng đối với sự hình thành và phát
triển nhân cách của con người. Nếu văn hóa với những giá trị, truyền thống là môi
trường góp phần định hình nhân cách con người, thì giáo dục lại giữ vai trò chủ đạo
cho sự phát triển nhân cách. Giáo dục bao gồm giáo dục xã hội, giáo dục nhà trường
và giáo dục gia đình, trong đó giáo dục nhà trường là quá trình tác động chuyên biệt
thông qua hoạt động dạy và học không chỉ hình thành cho những tri thức khoa học
căn bản, mà còn hình thành cho con người những phẩm chất, năng lực và trí tuệ.
Giáo dục xã hội thông qua sách báo, tài liệu, ấn phẩm, các hoạt động giao tiếp xã
hội là những tác động tích cực hỗ trợ giáo dục nhà trường trong sự hình thành và
phát triển nhân cách. Giáo dục gia đình tuy không được tổ chức có hệ thống như
84
giáo dục nhà trường, nhưng tổ chức gia đình nền nếp, trật tự, gia phong, các mối
quan hệ tốt đẹp giữa các thành viên trong gia đình… là những tác động góp phần
tạo nên nền tảng ban đầu cho sự hình thành và phát triển nhân cách.
Với cách hiểu trên, trong không gian văn hóa Huế, văn hóa và giáo dục của
vùng đất Thừa Thiên Huế đã tác động rất lớn đến sự hình thành và phát triển nhân
cách Hồ Chí Minh. Chúng ta có thể thấy rằng trong thời kì ở Huế, Hồ Chí Minh
được thụ hưởng những giá trị tiêu biểu của nền giáo dục truyền thống, giáo dục Tây
học, giáo dục nhà trường và giáo dục gia đình, cũng như tiếp nhận những tư tưởng
cách mạng từ nhân cách cao đẹp của những trí thức Tây học yêu nước, đặc biệt là tư
tưởng và nhân cách của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc.
3.1.2.1. Ảnh hưởng của truyền thống giáo dục gia đình, đặc biệt là nhân
cách, phương pháp giáo dục của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc
Nhân cách Hồ Chí Minh được hình thành và phát triển với những ảnh hưởng
của yếu tố gia đình, của những bước thăng trầm, trôi nổi, của những sự kiện đánh
dấu những khúc quanh trong gia đình Người. Không có môi trường giáo dục gia
đình, mà trước hết của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, không có tinh thần yêu nước
được bồi dưỡng một cách nhất quán và đầy ý thức trách nhiệm để hình thành một ý
chí lớn thì Nguyễn Tất Thành không thể trở thành Hồ Chí Minh [84, tr.16].
Sống ở Huế trong một thời gian khá dài, gia đình cụ phó bảng Nguyễn Sinh
Sắc cũng hòa vào nếp sống, truyền thống văn hóa của con người xứ Huế. Không
những vậy, ông Sắc luôn ý thức giáo dục con cái từ nền tảng Nho giáo “tu thân, tề
gia, trị quốc, bình thiên hạ”, do đó văn hóa gia đình và nền tảng giáo dục gia đình
của xứ Huế không khác lạ với cụ Phó bảng. Những năm tháng ở Huế, cụ Phó bảng
rất quan tâm đến việc hình thành cho con một tư tưởng, nhận thức thật đúng đắn và
sâu sắc về thời cuộc. Ông còn răn dạy các con “Vật dĩ quan gia vi ngô phong dạng”
(nghĩa là đừng lấy phong cách nhà quan làm phong cách nhà mình) [64, tr.29-30].
Khi nhậm chức ở Huế, Nguyễn Sinh Sắc đã hiện thực hóa điều ông và biết bao sĩ
phu yêu nước đương thời hằng nung nấu, đó là quyết định cho các con theo học
trường Pháp - Việt tỉnh Thừa Thiên với mục đích “muốn đánh Pháp thì phải hiểu
Pháp, muốn biết Pháp thì phải học chữ Pháp”, và muốn con mình có thể đi tìm câu
85
trả lời cho những từ mà cậu đã hỏi “Tự do, Bình đẳng, Bác ái”. Để hiểu những từ
đó, cũng như hiểu được cách đánh đuổi giặc Pháp chỉ có cách là phải hiểu văn hóa
Pháp. Đây là một diễn biến quan trọng trong quá trình định hình tư tưởng và con
đường cứu nước của Hồ Chí Minh.
Năm 1906, sau khi để tang mẹ vợ, Nguyễn Sinh Sắc vào Huế nhậm chức Thừa
biện Bộ lễ và ông có điều kiện va chạm trực tiếp với quan trường thực dân... Lúc
này, ông mới thực sự hiểu nhân tình thế thái, hiểu sự thối nát của quan trường, hiểu
cả những khó khăn, phức tạp và sự bế tắc của sự nghiệp cứu nước. Ít nhiều ông đã
bộc lộ tâm trạng bi quan, tiêu cực, thất vọng, chán chường... Quan điểm “quan
trường thị nô lệ trung chi nô lệ hựu nô lệ” (quan trường là nô lệ trong đám nô lệ
càng nô lệ hơn) và tư tưởng làm quan cốt sao giữ được cái tiết sạch giá trong, cái gì
có thể giúp đỡ được dân chúng thì làm, chớ không phải làm quan để vơ vét của dân
làm giàu cho bản thân, đã khắc sâu trong tâm khảm Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó,
“thái độ bất hợp tác, ngầm chống đối thực dân, yêu nước của thân phụ có ảnh hưởng
tốt đến nhân cách của anh” [63, tr.30]. Sức ảnh hưởng của Nguyễn Sinh Sắc đến sự
hình thành nhân cách và chí hướng cách mạng của Hồ Chí Minh còn xuất phát từ
luận thuyết “Ái dân” có nguồn gốc từ học thuyết chính trị Khổng Mạnh, mà ông
hằng bao tâm huyết. Tháng 4/1946, cuốn tiểu sử Thân thế sự nghiệp của nhà cách
mệnh Nguyễn Ái Quốc của tác giả có bút danh Việt Nam viết:
Ông cụ thân sinh ra ông (tức Nguyễn Ái Quốc) là một nhà nho đã đỗ Phó
bảng và làm tri huyện. Nhưng chẳng phải là một nhà nho hủ lậu, cố chấp.
Mà là một nhà nho có tư tưởng, có tâm huyết, đã vì cái tư cách tự lập, tự
cường, và vì đã ngấm ngầm tham dự vào cuộc khởi nghĩa Cần Vương
của đảng Văn Thân mà bị cách chức. Nhà nho ấy đã căn cứ vào tình
trạng thực tế trong nước mà tự làm nên một cách mệnh trong làng nho.
Thấy vua Hàm Nghi bị bắt, thấy triều đình và triều thần chỉ còn là tôi tớ
của giặc thực dân, Cụ Bảng nhà ta liền phủ nhận cái thuyết trung quân
của nhà nho và cho trung quân không phải là ái quốc. Ái quốc là yêu
nước. Mà nước là gì? Nước là dân. Vậy ái quốc phải có nghĩa là ái dân.
Từ đây, cụ thường đem cái thuyết đó mà giác ngộ các bạn bè và các
86
thanh niên đến thụ nghiệp. Cụ hô hào cải cách và duy tân, làm một đồng
chí với cụ Phan Châu Trinh ở Quảng Nam chủ trương lấy dân làm hậu
thuẫn cho tất cả các phong trào cải cách chính trị xã hội.
Nền giáo dục ấy đã gây nên một xu hướng, một quan niệm chính trị rõ
rệt và nhắc nhủ cho ông Nguyễn Ái Quốc ngay từ khi còn thơ và ngay từ
ngày còn học chữ Hán… Đến khi được ra trường học, làm quen với các
tri thức mới của phương Tây, ông (Nguyễn) Ái Quốc càng thấy cái
thuyết của cha mình có giá trị, càng thấy cái quan niệm chính trị của
mình là hợp với trào lưu. [22, tr.131-132].
Nét nổi bật trong tư tưởng Nguyễn Sinh Sắc thời kì này là tư tưởng thân dân -
nội dung cơ bản tiến bộ của tư tưởng yêu nước, nhưng ở ông, tư tưởng thân dân
được bộc lộ ở những khía cạnh cụ thể, gần gũi như: đồng cảm với nỗi khổ của dân,
cưu mang giúp đỡ dân nghèo... Lòng thương đó có gốc rễ sâu xa từ trong cuộc đời
của ông: từ nghèo khổ mà đi lên, chịu ơn sâu nghĩa nặng của dân... (sự nuôi dưỡng
của cụ Đường, sự đùm bọc của bà con lao động ở Huế...) vì vậy khi đỗ đạt, ông từ
chối lễ vinh quy, không khao mừng đậu Phó bảng mà chỉ mời trầu nước, số tiền
xã cắt cho làm cỗ khao ông đem chia cho người nghèo làm vốn sinh nhai. Khi vào
Huế nhậm chức, ông chỉ giữ lại một ít ruộng cho con gái, số còn lại ông đem bán
lấy tiền giúp các gia đình có người đi phu Cửa Rào.
Lòng thương yêu nhân dân, sự tỉnh táo trong cách nhìn thời cuộc của ông Phó
bảng Nguyễn Sinh Sắc đã có ảnh hưởng sâu sắc đến Hồ Chí Minh trong thời kì này.
Như tác giả Việt Nam về sau đã viết, cái thuyết “Nước là dân, yêu nước là yêu
dân... chủ trương lấy dân làm hậu thuẫn cho tất cả các phong trào cải cách chính trị
hay xã hội” của cụ Bảng Sắc đã thấm vào Hồ Chí Minh từ lúc còn thơ, và khi đã
“làm quen với các tri thức mới của phương Tây thì Nguyễn Ái Quốc càng thấy cái
thuyết của cha mình có giá trị, càng thấy cái quan niệm chính trị của mình là hợp
với trào lưu” tức là hợp với lí luận Mác - Lênin về vai trò quyết định của quần
chúng nhân dân trong lịch sử [22, tr.136].
Mặc dù ra đời từ học thuyết chính trị Khổng Mạnh, nhưng có thể khẳng định
rằng thuyết “Ái dân” được Nguyễn Sinh Sắc phát triển là một bước sự tiến bộ lúc
87
bấy giờ. Theo nhận định của Louis Arnoux, thì Nguyễn Sinh Sắc “là một nhà cách
mạng theo kiểu riêng, chống Pháp không công khai mà lặng lẽ...” [189]. Ông Sắc
đã làm một cuộc cách mạng “đảo lộn” trật tự của mối quan hệ thứ nhất trong
“Tam cương” của Nho giáo. Ông đưa ra một giá trị mới “ái quốc, ái dân”. Cụ
Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc là một nhân cách lớn, từ nhân cách đó đã tỏa ra những
luồng ảnh hưởng và tác động đến Hồ Chí Minh vì theo K.D. Usinsky chỉ có nhân
cách mới có thể tác động đến sự phát triển và quy định của nhân cách, chỉ có tính
cách mới có thể làm ra tính cách mà thôi. Do đó, trả lời câu hỏi “Hồ Chí Minh có
thể và đã tiếp nhận được những gì từ tấm gương của người cha kính yêu để hình
thành nên nhân cách và chí hướng cách mạng của mình?”, chúng ta có thể kết luận
rằng: Trước hết, đó là tấm gương ý chí kiên cường, quyết tâm vượt qua mọi gian
khổ, khó khăn để đạt cho được mục tiêu của cụ Phó bảng. Nguyễn Sinh Sắc là một
điển hình của ý chí vượt khó, tấm gương hiếu học, khổ học. Ý chí vươn lên đỉnh
cao của kiến thức, nghị lực phi thường, quyết tâm sắt đá của ông để đạt được mục
tiêu đã trở thành tấm gương sáng cho con cái noi theo. Sau này ý chí cứu dân, cứu
nước sôi sục, thường trực, thiết tha, không nhụt chí, không nản lòng của Nguyễn
Ái Quốc chính là sự kế tục ý chí của thân phụ mình, có điều ở cường độ mãnh liệt
hơn, với mục tiêu cao cả hơn.
Tấm gương ý chí gắn liền với tấm gương lao động, Nguyễn Sinh Sắc từ thuở
nhỏ đã phải cần cù lao động. Lúc về làm rể cụ Hoàng Xuân Đường không phải ngồi
không mà học, mà vừa làm vừa học. Đỗ Phó Bảng rồi ông vẫn cuốc đất làm vườn
cùng với con cái. Đó là điểm khác biệt giữa Nguyễn Sinh Sắc với số lớn nhà nho
đương thời. Nếu không có tấm gương và sự giáo dục đó của thân phụ mình, Hồ Chí
Minh không thể khẳng khái, giơ hai bàn tay ra nói với bạn: “Chúng ta sẽ làm bất cứ
việc gì để sống và để đi” [22, tr.140-141].
Trong mạch nguồn hợp thành động lực tác động đến Hồ Chí Minh, nhân cách
và tư tưởng yêu nước thương dân của Nguyễn Sinh Sắc cùng với nền giáo dục gia
đình, đã định hình cho Hồ Chí Minh cách sống, cách suy nghĩ và hành động; tác
động rất lớn đến sự hình thành, phát triển tư tưởng yêu nước và con đường cứu
nước của Người sau này.
88
3.1.2.2. Ảnh hưởng của giáo dục truyền thống và giáo dục Tây học
- Ảnh hưởng của giáo dục truyền thống
Trong số các nhân tố góp phần hình thành nhân cách và đạo đức cao đẹp của
Hồ Chí Minh, phải kể đến sức ảnh hưởng của giáo dục truyền thống Việt Nam. Nếu
ở quê hương Nghệ Tĩnh vun đắp cho Hồ Chí Minh lòng yêu nước nồng nhiệt, thì ở
Huế, Người tiếp tục thu vào mình những tinh hoa, những ưu tư dạt dào, những mơ
ước khát khao, những căm uất giận hờn, những quyết tâm sắt đá của bao kiếp sống,
bao nỗi niềm đã được thể hiện trong giáo dục truyền thống Việt Nam.
Trong giáo dục truyền thống Việt Nam, văn học giữ vị trí và vai trò rất quan
trọng. Hồ Chí Minh là một người rất am hiểu và thấu tường văn học, bởi đất Lam
Hồng, xứ Huế đều là những cái nôi của văn học, mà dòng chủ lưu lớn nhất là văn
học yêu nước. Cố giáo sư Trần Văn Giàu cho rằng: “chủ nghĩa yêu nước trong văn
chương Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, đạt đến mức hùng biện, cảm động
nhất, dạt dào nhất với cuộc kháng chiến Cần Vương, với cuộc vận động Duy Tân,
Quang Phục” [54, tr.121]. Những chí sĩ, trí thức yêu nước lúc này cho rằng chính
việc học quốc văn và quốc sử là cách hay nhất để vun trồng chủ nghĩa yêu nước, tự
hào dân tộc. Và cũng nhờ thấu hiểu quốc văn, quốc sử, Hồ Chí Minh ngày càng
thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Tác giả Hoàng Chương trong Bác Hồ
với nghệ thuật sân khấu tại Hội thảo quốc gia UNESCO về Hồ Chí Minh đã viết:
“Thời thơ ấu, Bác đã từng tắm mình trong cái biển dân ca Nghệ Tĩnh, trong cái nôi
ca nhạc tài tử ở Huế, Trị Thiên. Đặc biệt, Bác không chỉ làm quen, tiếp cận với
người nghệ sĩ tuồng lỗi lạc - quan thượng thư Đào Tấn - ở Vinh, ở Huế mà còn đến
tận quê hương của Đào Tấn để xem và góp ý” [54, tr.120].
Đối với lịch sử, gần 10 năm ở Huế, Hồ Chí Minh đã thông thạo chữ Hán, chữ
Nôm, nghe, đọc và biết pho sử hào hùng của dân tộc. Ngoài giờ học ở trường,
Người còn mượn sách ở Lầu tàng thư (nơi lưu trữ sách và các loại văn thư của triều
Nguyễn) về đọc. Trong các thư viên của các cụ túc Nho và trong các thư viện của
Huế lúc bấy giờ, Người có điều kiện tiếp xúc với quốc sử như: Đại Nam quốc sử
diễn ca, Cương mục, Thực lục, Liệt truyện, Vân đài loại ngữ, Địa dư chí, Nghệ An
chí, Gia Định chí, Đồ Bàn thành ký, Hưng Hóa thập lục châu ký, Phủ biên tạp lục,
89
Hoàng Lê nhất thống chí… [54, tr.119]. Chính nhờ tiếp xúc trực tiếp, đọc và suy
ngẫm quốc sử, Hồ Chí Minh hiểu hơn về truyền thống yêu nước, truyền thống đấu
tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam suốt mấy nghìn năm.
Ngoài ra, trong giáo dục truyền thống Việt Nam còn tồn tại một nhân tố quan
trọng là triết học, nó bao gồm: tư tưởng, tín ngưỡng và thuần phong mĩ tục... Dẫu
triết học Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX không thể hiện rõ nét, nhưng tư
tưởng yêu nước vẫn là dòng chủ lưu chính trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Ở Huế,
chính văn hóa tâm linh, đặc biệt là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thờ cúng những
người có công với nước là một thế giới quan đặc trưng, là một yếu tố tinh thần ảnh
hưởng lớn đến tâm tưởng Hồ Chí Minh, góp phần quan trọng cho sự hình thành và
phát triển nhân cách và tư tưởng yêu nước Hồ Chí Minh.
- Ảnh hưởng của giáo dục Tây học
Để thực thi sứ mệnh của mình, thực dân Pháp thi hành chính sách giáo dục
cực kỳ phản động, một nền giáo dục ngu dân được lập nên. Trường học được mở
hạn chế, chủ yếu là trường Pháp Việt dạy cả chữ Hán, chữ Quốc ngữ và chữ Pháp.
Mặc dù mang danh “giáo dục cải cách” để “khai hóa văn minh” cho người An Nam,
nhưng kì thực thực dân Pháp phong tỏa, không cho nhân dân Việt Nam tiếp xúc với
thế giới bên ngoài, kể cả việc xem sách báo, “không phải chỉ sách của những nhà
văn mới, mà cả Russeau và Montesquieu cũng bị cấm” [92, tr.461], “thực dân Pháp
lại cố tâm hủy bỏ Hán học mà chúng thấy là nguy hiểm cho sự thống trị của chúng,
vì chúng biết rằng Hán học có thể đưa vào An Nam những tư tưởng tiến bộ phương
Tây thông qua Trung Quốc và Nhật Bản” [92, tr.423]. Thâm độc hơn, để ngăn cho
việc mở rộng vốn hiểu biết của nhân dân An Nam, “chính phủ đóng cửa các trường
làng, biến trường học thành chuồng ngựa cho các quan nhà binh, đuổi học trò và bỏ
tù thầy giáo” [92, tr.121]. Để hạn chế ảnh hưởng mới từ Trung Quốc và Nhật Bản
vào đầu thế kỉ XX, thực dân Pháp thực hiện cuộc cải cách học chế ở Trung kỳ và
Bắc kỳ nhằm dụ dỗ tầng lớp thanh niên cầu tiến bộ.
Về nội dung giáo dục, thực dân Pháp nhồi nhét cho lớp lớp học sinh người
Việt những “giá trị ảo”, những “lí lẽ ngọt ngào” của nền “văn minh khai hóa”, hoặc
là những nội dung xuyên tạc lịch sử, truyền thống dân tộc Việt Nam. Điều này được
thể hiện ở bản Quy chế chung về ngành giáo dục ở Đông Dương, cụ thể như:
90
Học sinh 9 tuổi phải học: “Công cuộc đóng chiếm xứ An Nam của người
Pháp; người Pháp đã đóng chiếm xứ An Nam từ bao giờ và đã đóng
chiếm như thế nào…”.
Học sinh 10 tuổi phải học: “Triều Nguyễn; Trịnh - Nguyễn phân tranh;
Cuộc khởi loạn của Tây Sơn; Cuộc chiếm đóng xứ Nam Kỳ của người
Pháp; nền bảo hộ của người Pháp ở Trung Kỳ và ở Bắc Kỳ…”.
Học sinh 11 tuổi phải học: “Lịch sử nước Pháp; Sự nghiệp của nền Đệ
Tam Cộng hòa Pháp; Lòng trung thành của nhân dân bản xứ các thuộc
địa của Pháp, đặc biệt là của Đông Dương; Bổn phận với nước Pháp
(phải biết yêu kính nước Pháp; phải biết ơn nước Pháp; phải cúc cung tận
tụy với nước Pháp; phải trung thành với nước Pháp)…”.
Học sinh trường Trung học (hệ 4 năm) phải học: “Sự nghiệp của nước
Pháp ở Đông Dương; Tổ chức bộ máy cai trị của người Pháp ở Việt
Nam…” [128, tr.261-262].
Những bài học trong chương trình giáo dục của chính quyền thực dân thật sự
không có giá trị khai hóa văn minh, thay vào đó là giáo dục cho học sinh người Việt
“lòng biết ơn”, “lòng trung thành”, “yêu kính”, “tận tụy” với nước Pháp. Đó là một
âm mưu lớn, rất nguy hiểm và cực kì phản động, khác hẳn với bản chất tốt đẹp mà
chúng rêu rao là “Tự do, Bình đẳng, Bác ái”. Trường học lập ra không phải để giáo
dục cho thanh niên Việt Nam một nền học vấn tốt đẹp và chân thực, mở mang trí
tuệ và phát triển tư tưởng, mà trái lại càng làm cho họ bị đầu độc thêm. Trường học
được lập nên chỉ để “đào tạo tùy phái, thông ngôn và viên chức nhỏ đủ số cần thiết
phục vụ cho bọn xâm lược - người ta đã gieo rắc một nền giáo dục đồi bại xảo trá và
nguy hiểm hơn sự dốt nát nữa” [92, tr.424]. Phê phán tính chất hạn chế của nền giáo
dục thực dân được thực thi ở Thừa Thiên Huế, chí sĩ Phan Bội Châu viết:
Trường Quốc Học đặt tên Pháp - Việt
Dạy người Nam biết nói tiếng Tây
Còn như trăm thứ nghề hay
Binh cơ, điện hóa không thầy dạy không [20, tr.113].
91
Trong thời kì thứ hai đến Huế (1906-1909), Hồ Chí Minh được cha cho theo
học trường Quốc Học Huế, được học tập và gặp gỡ với nhiều trí thức, giáo viên có
tinh thần yêu nước như thầy Hoàng Thông, thầy Lê Văn Miến. Bên cạnh những thầy
giáo có tinh thần dân tộc, Nguyễn Tất Thành còn tiếp xúc với những thầy giáo mang
tâm địa thực dân, những bài giảng nhồi sọ có tính chất phản động. Chúng lăng mạ,
gán ép những từ thô tục như “cochon” (đồ con lợn), “sale race” (giống bẩn thỉu) cho
học sinh người Việt, chà đạp lên phẩm giá con người, sỉ nhục dân tộc và giống nòi
Việt Nam. Chính hành động “phi văn hóa” của nền giáo dục thực dân, của nền “văn
minh thượng đẳng” đã ảnh hưởng rất lớn đến lớp học sinh người Việt, khơi dậy
trong họ tinh thần dân tộc, không cam chịu “nhận người Gaulois làm tổ tiên”.
“Nguyễn Tất Thành không muốn bản thân mình và dân tộc mình cứ bị đánh lừa mãi
bởi những từ trống rỗng, bởi những dối trá về văn hóa, văn minh” [63, tr.115].
Hành động của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc khi cho con vào học trường
Pháp - Việt Đông Ba và Quốc Học Huế là điều kiện tốt để Hồ Chí Minh, một mặt
chứng kiến thực trạng xã hội ở kinh đô, mặt khác tiếp xúc với nền giáo dục mới,
văn minh mới. Điều quan trọng là ở Huế, Nguyễn Tất Thành thấy được kẻ miệng
nói “Tự do, Bình đẳng, Bác ái” lại chính là kẻ đê hèn, bóc lột, ức hiếp dân ta đủ
điều [25, tr.31]. Do vậy, khi các trào lưu yêu nước ở Huế dâng cao, tinh thần dân
tộc và lòng yêu nước thiết tha của Hồ Chí Minh có dịp bùng phát mạnh mẽ.
3.1.2.3. Ảnh hưởng của văn minh phương Tây và các trào lưu tư tưởng mới
- Ảnh hưởng của văn minh phương Tây
Xem xét ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đối với sự hình thành nhân
cách Hồ Chí Minh không thể bỏ qua những ảnh hưởng của các luồng tư tưởng dân
chủ, tiến bộ của văn minh phương Tây, đặc biệt là văn hóa Pháp và các luồng tư
tưởng khai sáng khi chúng được các thế hệ trí thức yêu nước tiếp nhận. Thừa Thiên
Huế những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX là trung tâm văn hóa - chính trị của
cả nước, là trung điểm của nhiều trí thức mang trong mình tư tưởng dân chủ, cải
cách; là trung tâm du nhập văn minh phương Tây và các luồng tư tưởng mới.
Các nhà nghiên cứu khi xem xét ảnh hưởng văn minh phương Tây đến lớp trí
thức Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, cụ thể là nền giáo dục và văn hóa
92
Pháp, đều cho rằng bên cạnh mục tiêu thực dân, là cả một nền văn minh. Chính nền
văn minh ấy kích thích tinh thần dân tộc của biết bao trí thức tiến bộ, thanh niên yêu
nước vì họ nhận ra chân giá trị của nền văn hóa Pháp lại phục vụ cho chính sự
nghiệp giải phóng dân tộc. Chính thực dân Pháp cũng nói con đường đi sang nước
Pháp là con đường chống lại nước Pháp. Vì thế, bản chất nền văn minh lại trái
ngược với mục tiêu thực dân. Hai tố chất ấy lại được tồn tại trong một môi trường
hun đúc tinh thần yêu nước, tinh thần giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh.
Tiêu biểu nhất trong nền văn minh phương Tây lúc bấy giờ là tư tưởng “Tự
do, Bình đẳng, Bác ái” (Liberté, Égalité, Fraternité) của cách mạng Pháp. Tư tưởng
đó thu hút sự chú ý của Hồ Chí Minh ngay khi Người được vào học tại trường Pháp
- Việt Vinh. Đối với Anh, đó là những điều hoàn toàn mới mẻ, khác lạ với những
điều Anh đã học trong sách thánh hiền, vì vậy, anh nảy ra ý muốn “tìm xem những
gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy” [64, tr.41]. Tuy nhiên, chưa hết năm học, Hồ Chí
Minh phải vào kinh đô Huế nhân dịp cha nhậm chức. Đến thời kì ở Huế, Hồ Chí
Minh mới có đủ điều kiện hiểu được ý nghĩa của nó khi đối chiếu tư tưởng đó với
hành động của thực dân Pháp đối với nhân dân Thừa Thiên. Tại Huế, trong mỗi lớp
học, trên những bức tường chính của mỗi lớp đều có dòng chữ ra đời từ cách mạng
Pháp, đó là: “La Republique Francaise” (Nước Cộng hòa Pháp), “Une âme saine
dans un corps sain” (Một tâm hồn trong sáng trong một cơ thể tráng kiện),
“Liberté, Egalité, Fraternité” (Tự do, Bình đẳng, Bác ái). Chính từ ý nghĩa tốt đẹp
của các từ ấy, đã thực sự cuốn hút Hồ Chí Minh về ý tưởng tốt đẹp của nền văn
minh Pháp mà hằng ngày được nghe qua các bài giảng, nhưng đồng thời cũng kích
thích sự suy nghĩ, tìm tòi về mặt trái của nó đã và đang diễn ra ngoài xã hội. Và
cũng chính từ những dòng chữ này đã tác động vào tâm thức mẫn cảm của Hồ Chí
Minh. Do đó, Người sớm nảy sinh những phản ứng tâm lí, những biểu cảm hoài
nghi để thôi thúc, nuôi ý chí về một cuộc hành trình khảo nghiệm chân giá trị “Tự
do, Bình đẳng, Bác ái”.
Có thể khẳng định rằng, sự tiếp cận nêu trên đã dựa trên những chất liệu đầy
đủ, sự chín muồi trong nhận thức, là yếu tố quyết định đến sự hình thành hoài bão
cho cuộc hành trình sang phương Tây. Sau này, Người kể lại:
93
Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do,
Bình đẳng, Bác ái… Và từ thủa ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn
minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy.
Nhưng trong những trường học cho người bản xứ, bọn Pháp dạy người
như con vẹt. Chúng giấu không cho người nước tôi xem sách báo. Không
phải chỉ sách của các nhà văn mới, mà cả Rút-xô và cả Mông-te-xki-ơ
cũng bị cấm. Vậy thì phải làm thế nào bây giờ? Tôi quyết định tìm cách
đi ra nước ngoài [92, tr.461].
- Ảnh hưởng của các trào lưu tư tưởng mới qua Tân văn, Tân thư
Với chính sách hạn chế tối đa việc lưu hành báo chí nước ngoài và xuất bản
báo trong nước, thực dân Pháp ban hành sắc lệnh năm 1898. Tuy nhiên, các tài liệu
Tân văn, Tân thư của Trung Quốc và Nhật Bản bằng nhiều con đường, hình thức
(chủ yếu là bí mật) xâm nhập vào Việt Nam và cả đất Thừa Thiên Huế. Những ấn
phẩm có tính dân chủ, chứa đựng những tư tưởng dân chủ, tiến bộ của Montesquieu
(Tinh thần pháp luật), Russeau (Khế ước xã hội), Lương Khải Siêu, Khang Hữu
Vi… đã vạch ra định hướng xây dựng xã hội công dân và nhà nước pháp quyền. Do
đó, những tác phẩm này cuốn hút tầng lớp trí thức Việt Nam yêu nước, làm thay đổi
suy nghĩ và hành động những con người có tinh thần duy tân, đổi mới.
Cho đến nay, chưa có tài liệu nào chứng minh Hồ Chí Minh đã đọc các
nguyên tác của Montesquieu, Russeau thời kì ở Huế. Tuy nhiên, không một ai phủ
nhận Nguyễn Tất Thành là người ham học hỏi, thích tìm tòi, khám phá. Khi được
học lớp dự bị (cours préparatoire) tại Trường tiểu học Pháp - Việt tỉnh Thừa Thiên,
Hồ Chí Minh đã tích cực mượn sách ở Lầu tàng thư về đọc. Và cũng chính vì say
mê những giá trị mới, Hồ Chí Minh tích cực tìm kiếm, tiếp xúc với tư tưởng dân
chủ tư sản bằng nhiều con đường khác nhau như: tiếp cận với những thầy giáo
người Pháp tiến bộ ở Trường tiểu học Pháp - Việt tỉnh Thừa Thiên và Trường Quốc
Học Huế; những người thầy giáo người Việt có tinh thần yêu nước như thầy Hoàng
Thông, trí thức Tây học như thầy Lê Văn Miến. Chính nhờ ảnh hưởng của những
thầy giáo tân học và sự tiếp xúc báo chí tiến bộ mà “ý muốn đi sang phương Tây để
tìm hiểu tình hình các nước và học hỏi thành tựu văn minh nhân loại đã từng bước
94
lớn dần lên trong tâm trí của Nguyễn Tất Thành” [65, tr.46]. Sự tiếp xúc của Thành
còn qua phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, các sách báo Tân văn, Tân thư từ
Trung Quốc và Nhật Bản; hoặc qua những người lính lê dương làm việc cho Pháp,
đúng như lời Người khẳng định với phóng viên Gi-rô-van-ni Giéc-ma-nét-tô (báo
L’Unità của Đảng Cộng sản Italia):
Trước đây tôi có đọc một số tờ báo phát hành sang nước tôi, một vài tờ
có tính chống đối ở An Nam, có những người lính lê dương do
Poăngcarê (Poincaré) gửi sang để cải huấn. Những người lính lê dương
này đọc đủ thứ, họ là những kẻ chống đối về bản chất. Họ cho tôi đọc các
báo Pháp. Vì thế tôi nảy sinh ra ý muốn sang xem “mẫu quốc” ra sao và
tôi đã tới Pari [92, tr.465].
Từ sự phân tích trên, có thể thấy rằng văn hóa Pháp và các trào lưu tư tưởng
mới ảnh hưởng rất lớn đến Hồ Chí Minh, góp phần làm chuyển biến về mặt tư
tưởng và nhận thức của người thanh niên giàu nhiệt huyết, có tinh thần yêu nước.
Nhờ vốn văn hóa Pháp và tri thức duy tân từ Tân thư, Tân văn, Hồ Chí Minh nhận
rõ hơn bản chất, dã tâm của kẻ thù xâm lược, biết được bài học về sức mạnh đoàn
kết trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do.
3.1.3. Ảnh hưởng của các phong trào đấu tranh của vua quan, trí thức
yêu nước, các nhà hoạt động cách mạng và phong trào chống thuế
Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã hình
thành nên một bảng giá trị tinh thần truyền thống quý báu, trong đó chủ nghĩa yêu
nước là dòng chủ lưu xuyên suốt lịch sử dân tộc. Trong lịch sử dựng nước và giữ
nước, dân tộc Việt Nam phải đương đầu với sự nghiệt ngã của thiên nhiên, gồng
mình trước những thế lực ngoại xâm hùng mạnh để giành và giữ nền độc lập.
Những thử thách khắc nghiệt đó đã “sản sinh ra một dân tộc có ý thức sâu sắc về
bản sắc dân tộc mình và sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc, chống ngoại xâm” [195, tr.11].
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, lịch sử của cá nhân hoàn toàn không thể tách rời,
mà luôn bị quy định bởi lịch sử của các tiền bối hoặc cùng thời với họ. Do đó, khi
tìm hiểu những nhân vật, phong trào cách mạng có ảnh hưởng đến sự hình thành
nhân cách Hồ Chí Minh, chúng ta không thể không nhắc đến tinh thần đấu tranh của
95
các vị vua quan, sĩ phu yêu nước, các nhà hoạt động cách mạng nhiệt thành. Thừa
Thiên Huế những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX cũng mạnh mẽ bởi các phong
trào đấu tranh của những vua quan, chí sĩ cách mạng có tinh thần yêu nước. Do đó,
những phong trào yêu nước của vùng đất này ảnh hưởng rất lớn đến những thanh
niên giàu lòng yêu nước, trong đó có Hồ Chí Minh.
3.1.3.1. Ảnh hưởng của tinh thần dân tộc của vua, quan yêu nước
Nhân cách cao đẹp và chí hướng cứu nước của Hồ Chí Minh là sản phẩm được
hun đúc từ những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, của quê hương xứ
Nghệ và con người xứ Huế; được tôi luyện qua thực tiễn học tập, rèn luyện và đấu
tranh không ngừng nghỉ của Người. Ở Huế gần 10 năm, lớp lớp tấm gương trung
liệt và chí hướng cách mạng của những con người có tinh thần dân tộc như vua
Thành Thái và Duy Tân đã góp phần định hình nhân cách cách mạng và ý chí cứu
nước của Hồ Chí Minh.
Tấm gương về tinh thần dân tộc của vua Thành Thái và Duy Tân thực sự giúp
Hồ Chí Minh kiên định lí tưởng, giữ vững nhân cách con người Việt Nam trước
mưu đồ và dã tâm xâm lược của thực dân Pháp. Năm 1888, vua Hàm Nghi bị bắt và
đày sang Algeria, cũng là lúc vua Thành Thái lên ngôi. Vua Thành Thái vốn sẵn
thông minh và nhờ sống chung với nhân dân lao động, chia sẻ gian khổ với những
người nghèo khổ trong cảnh nước mất nhà tan. Cho nên khi làm vua, ông sớm có
những mối ưu tư về quốc sự và rất ham đọc sách Tân thư. Nhờ vậy, vua Thành Thái
có nhiều dự kiến cải cách đưa nước nhà đến giàu mạnh, nhân dân đến ấm no, tuy
nhiên hành động của vị vua trẻ này đều bị thực dân Pháp hết sức ngăn cấm.
Vua Thành Thái (1879-1954) là người rất ghét bọn quan lại xu nịnh. Đối với
Pháp, nhà vua có tư tưởng chống Pháp quyết liệt. Có tài liệu cho rằng nhà vua đã
toan bí mật sang Trung Quốc nhưng mới đi đến Thanh Hóa đã bị thực dân Pháp
ngăn lại. Lại có ý kiến cho rằng ông đã đồng tình giúp đỡ tạo điều kiện cho Cường
Để xuất dương theo Phan Bội Châu sang Nhật. Cũng có ý kiến cho rằng vua Thành
Thái còn để ý đến cả các loại vũ khí, đã giao cho họa sĩ Lê Văn Miến vẽ các kiểu
súng bộ binh để trang bị cho các đội nữ binh,... Những thông tin ấy cần phải được
xác minh, nhưng đó là một cơ sở để người ta tin vào tinh thần chống Pháp của nhà
96
vua. Khi thực dân Pháp biết vua Thành Thái bất cộng tác, có ý đồ chờ cơ hội để
giành độc lập, chúng tìm mọi cách phế truất ông. Chúng phao tin nhà vua bị điên,
ép ông phải thoái vị nhường ngôi. Còn nếu muốn làm vua thì phải ký vào tờ tuyên
cáo, tuyên bố trước muôn dân xin lỗi chính phủ bảo hộ vì có âm mưu chống lại
Pháp. Tờ tuyên cáo được viên khâm sứ Pháp Levecque viết sẵn, nhưng trước mặt
tên Khâm sứ cũng như trước sự có mặt của một số cận thần, vua Thành Thái đã ném
tờ dự thảo tuyên cáo mà nói với các quan lại cận thần rằng:
Muôn dân nô lệ từng đàn
Vui chi bệ ngọc, ngai vàng riêng ta
Hỡi ơi mất nước tan nhà
Cứu thù quốc sĩ ấy là nợ chung.
Ngày 12/9/1907 vua Thành Thái bị thực dân Pháp bắt đi đày. Hình ảnh vị vua
trẻ tuổi chí lớn, yêu nước thương dân bị thực dân Pháp đày biệt xứ tác động rất lớn
đến ý chí đấu tranh của Hồ Chí Minh. Đó là tấm gương sáng ngời về tinh thần dân
tộc mãi soi sáng cho Nguyễn Tất Thành những năm tháng về sau.
Tiếp sau vua Thành Thái, vua Duy Tân (1900-1945) là người đã có những
ngôn từ, cử chỉ làm cho bao người phải khâm phục về lòng yêu nước, thương dân
và lòng tự tôn dân tộc. Ngày 05/9/1907, Vĩnh San lên ngôi lấy niên hiệu là Duy
Tân, và chỉ một ngày sau lê đăng cơ, Duy Tân đã đổi khác, ông dần khẳng định thái
độ bất hợp tác với Pháp. Mặc dù chỉ mới lên bảy nhưng Duy Tân đã để lại dấu ấn
rất đặc biệt trong nhận thức Hồ Chí Minh. Những năm phong trào chống thuế của
nhân dân Thừa Thiên sôi sục, thực dân Pháp đưa vua ra để hiểu dụ dân giải tán,
“vua mới nhìn thấy dân đã buồn bã quay trở về và hôm sau yêu cầu đem ba phần
năm số lương tháng của mình để giúp dân nghèo khổ” [53, tr.46]. Duy Tân luôn băn
khoăn với câu hỏi lớn: “Khi tay bẩn thì lấy nước mà rửa, khi nước bẩn thì lấy chi
mà rửa?”. Chí lớn của vị vua trẻ được thể hiện rất rõ khi luận giải rằng “nước bẩn
thì phải tìm cách trừ khử những chất ngoại lai lẫn lộn vào trong đó”. “Nước bẩn”
tức “Tổ quốc đang bị thực dân Pháp xâm lược, giày xéo, bóc lột”, “ta phải tìm cách
trừ khử chúng đi thì dân mới có thể tiến lên ấm no giàu mạnh được”.
97
Mặc dù trong cảnh “cá chậu chim lồng” nhưng những hành động yêu nước
thương dân, tinh thần dân tộc và chí lớn của vua Thành Thái và Duy Tân đã tác
động rất lớn đến Hồ Chí Minh. Sự tác động đó đến từ nhiều con đường, từ những
bài giảng của các thầy giáo yêu nước, từ sự giảng giải của cha, đặc biệt là những
cuộc luận bàn chính sự của ông cử Sắc với những sĩ phu yêu nước. Những vị vua
trẻ tuổi, Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân, thực sự là những tấm gương sống về
tinh thần dân tộc, soi sáng chí lớn của Nguyễn Tất Thành. Sau này, Hồ Chí Minh
khẳng định “chúng ta tiếp tục sự nghiệp bỏ dở của các vị tiền bối Hàm Nghi,
Thành Thái, Duy Tân, là để đánh đuổi thực dân Pháp để giành độc lập cho dân
tộc, cho Tổ quốc” [135, tr.239].
3.1.3.2. Ảnh hưởng từ tinh thần đấu tranh của trí thức yêu nước
Tiếp nối thời kì ở quê hương Nghệ - Tĩnh, những năm tháng ở Huế, Hồ Chí
Minh không chỉ tiếp nhận tư tưởng yêu nước thương dân của cụ thân sinh mình, mà
Người còn tiếp nhận tinh thần yêu nước, nhân cách cao đẹp của những người thầy
giáo - trí thức yêu nước chân chính khi được cha cho vào học các Trường tiểu học
Pháp - Việt tỉnh Thừa Thiên và Trường Quốc Học Huế, đó là thầy Hoàng Thông và
thầy Lê Văn Miến.
Trong thời gian học ở trường Pháp Việt - Đông Ba, Hồ Chí Minh không chỉ
được học Hán văn với thầy Hoàng Thông, mà còn được thầy chỉ dạy những bài học
về cách cư xử, lối sống, nhân phẩm và danh dự của một người Việt Nam mất nước.
Thầy Hoàng Thông đã soạn cuốn sách “Tự trị thượng sách” để giáo dục thanh niên
học sinh, vin vào những câu thể hiện tinh thần cách mạng trong cuốn này, chính
quyền thực dân tống giam thầy ở Lao Thừa Phủ. Chính thầy là người đã giới thiệu
Hồ Chí Minh tham gia làm liên lạc cho phong trào Đông Du của cụ Phan Bội Châu
(1908). Thầy còn dạy cho Thành bài học về lòng thương yêu con người, yêu dân tộc
mình và “hãy để những giọt nước mắt ấy khóc cho dân, cho nước” [148, tr.137].
Lời dạy của thầy giữa muôn vàn nguy khó của thời cuộc như ngọn đèn khai tâm Hồ
Chí Minh. Đó là bài học củng cố thêm ý chí đấu tranh cho đồng bào, quê hương, đất
nước; là động lực để Thành thực hiện chuyến hành trình tìm đường cứu nước.
98
Tháng 9 năm 1908, Hồ Chí Minh vào lớp Trung đẳng trường Quốc Học Huế
và được học với thầy Lê Văn Miến (1873-1943). Thầy là một tấm gương yêu nước
chân chính của một trí thức Tây học, với tài năng sư phạm và nhân cách cao đẹp,
thầy đã góp phần đào tạo rất nhiều thế hệ học sinh “vừa hồng vừa chuyên” cho đất
nước. Một trong những người học sinh đó, có lẽ chính thầy Miến cũng không hề
đoán định được, sau này trở thành người thầy và lãnh tụ của cách mạng Việt Nam -
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thầy Lê Văn Miến là một người tinh thông Hán học, thấm
nhuần những giá trị văn hóa Pháp đã để lại nhiều dấu ấn đặc biệt đối với Hồ Chí
Minh. Mỗi lần dạy thầy thường dành lại mười phút để kể chuyện văn minh Pháp
cho học sinh nghe. Thầy kể rằng:
Ở bên Pháp cũng có người nghèo, đêm đêm các cô gái Pháp nghèo phải
ra vườn Luých-xăm-bua làm tiền để kiếm sống, ông già bà lão không nơi
nương tựa chống gậy đi dọc theo các lề đường phố sục sạo các thùng rác
tìm kiếm thứ gì còn ăn được thì ăn… Trong các thư viện, các bảo tàng
của Pháp có nhiều sách vở quý. Đặc biệt là người đọc có thể đến thư viện
mượn đọc những cuốn sách nói về Cách mạng Pháp và Cách mạng thế
giới. Người Pháp ở Pháp khác người Pháp ở Việt Nam. Người Pháp ở
Pháp từ ông Viện hàn lâm xuống cho đến người dân lao động đều rất quý
trọng người Việt Nam miễn là người Việt Nam có tư cách, biết tự trọng,
làm việc giỏi, học hành chăm chỉ… [53, tr.53], [184, tr.153-154].
Những chuyện thầy Lê Văn Miến kể cho học sinh nghe đã ảnh hưởng rất lớn
đến Hồ Chí Minh. Đặc biệt, chính thầy Miến đã khai mở cho Người “bài học yêu
nước”: “Không phải bất cứ ai học chữ Tây rồi cũng ra làm tay sai cho Pháp” [120,
tr.87], “nước mất mà không biết là bất trí, biết mà không chiến đấu cứu nước là bất
trung, chiến đấu mà không quên mình vì nước là bất dũng” [148, tr.134]. Lời răn
dạy của thầy đã giúp Hồ Chí Minh nhận ra những hạn chế về con đường cứu nước
và phương pháp cách mạng của các bậc cha chú, để Anh lựa chọn con đường đi của
riêng mình - sang phương Tây tìm hiểu rồi trở về giúp đồng bào mình.
Tấm gương sáng về nhân cách và tinh thần dân tộc của thầy Hoàng Thông và
thầy Lê Văn Miến thực sự đã khai mở cho Hồ Chí Minh những bài học quý báu về
99
phẩm giá và nhân cách của con người Việt Nam trước nạn ngoại xâm, phải luôn
quên mình vì độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho đồng bào và phải luôn chiến đấu
cho quê hương, đất nước.
3.1.3.3. Ảnh hưởng của tinh thần dân tộc và phong trào yêu nước của các
nhà hoạt động cách mạng
Xã hội Thừa Thiên Huế những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX dưới ách
cai trị của thực dân Pháp tồn tại quá nhiều áp bức bất công. Những mâu thuẫn xã
hội tích tụ đã có dịp bùng phát trong thời gian Hồ Chí Minh đang theo học ở Huế,
và người thanh niên giàu nghĩa khí ấy đã thụ cảm truyền thống yêu nước, tự tôn dân
tộc của nhân dân Thừa Thiên Huế, mà biểu hiện rõ nhất là phong trào Cần Vương,
phong trào Đông Du, phong trào Duy Tân, đặc biệt là phong trào kháng thuế năm
1908. Nhờ sống trong hiện thực xã hội ấy, Hồ Chí Minh đã có chuyển biến đáng kể
từ “nhận thức yêu nước” đến “hành động yêu nước”.
Trước hết, chuỗi hành động yêu nước của phong trào Cần Vương đã ảnh
hưởng sâu sắc đến Hồ Chí Minh. Phong trào Cần Vương là phong trào cách mạng
thu hút các quan lại trong triều đình, văn thân và đông đảo sĩ phu yêu nước lúc bấy
giờ, thực chất đã trở thành một hệ thống các cuộc khởi nghĩa vũ trang trên khắp cả
nước hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, kéo dài từ năm 1885 cho
đến năm 1895. Phong trào Cần Vương là bước ngoặt có ý nghĩa to lớn trong công
cuộc kháng Pháp. Mặc dù thất bại bi tráng, song phong trào này lại mở ra một thời
kì đánh Pháp của các nhà yêu nước tiêu biểu như Phan Đình Phùng, Lê Trung Định,
Đinh Công Tráng, Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa Thám… Nó tác động mạnh mẽ
đến lòng yêu nước của nhân dân ta từ nhà vua (Thành Thái, Duy Tân) đến sĩ phu
(Thái Phiên, Trần Cao Vân, Phan Bội Châu…) và nêu gương cho nhiều thế hệ yêu
nước sau này như Nguyễn Thái Học, Phạm Hồng Thái, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc
Kháng, Phan Chu Trinh cùng bao chiến sĩ cách mạng khác mà lí tưởng của họ đã
thăng hoa từ vì vua sang vì đất nước, đồng bào. Mặc dù lúc này Hồ Chí Minh là
một cậu bé 5 tuổi, nhưng dư âm của phong trào Cần Vương và tấm gương trung liệt
của các chí sĩ yêu nước đã ảnh hưởng đến tâm hồn và khối óc Người. Sự thất bại
của phong trào về sau đã giúp Anh nhận thấy các phong trào yêu nước theo ý thức
100
hệ phong kiến “không có khả năng vạch ra giải pháp đấu tranh phù hợp với hoàn
cảnh lịch sử và xu thế phát triển của thời đại” [64, tr.27].
Bên cạnh đó, tinh thần yêu nước và xu hướng cứu nước của Phan Bội Châu và
Phan Châu Trinh cũng là những nhân tố quan trọng giúp Hồ Chí Minh đánh giá và
lựa chọn đúng con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Năm 1906, Hồ Chí Minh
theo cha vào Huế lần thứ hai. Lúc này, ở Thừa Thiên Huế xảy ra nhiều biến động
chính trị lớn, các phong trào yêu nước lên cao như: Phan Bội Châu với Duy Tân hội
và phong trào Đông Du do ông khởi xướng lan rộng trong giới sĩ phu và tầng lớp
thanh niên; phong trào Duy Tân, chống thuế bùng phát mạnh mẽ ở Trung Kỳ;
trường Đông Kinh nghĩa thục mở cửa tại Hà Nội truyền bá nhiều tư tưởng mới, cổ
động cho phong trào cải cách, dân chủ, duy tân đất nước… Những biến động đó đã
tác động không nhỏ đến không khí chính trị ở Huế, trong đó, phong trào Đông Du
của Phan Bội Châu cuốn hút biết bao trái tim yêu nước từ Bắc chí Nam. Thơ văn
yêu nước của ông được hàng triệu người truyền miệng nhau, cổ vũ mạnh mẽ tinh
thần đoàn kết, quyết tâm cứu nước cứu nhà:
Nghìn, muôn, ức, triệu người chung góp
Xây dựng nên cơ nghiệp nước nhà
Người dân ta, của dân ta
Dân là dân nước, nước là nước dân [109, tr.188].
Ông kêu gọi mọi người trong nước đứng dậy đấu tranh:
Hòn máu uất chất quanh đầy ruột
Anh em ơi xin tuốt gươm ra
Có trời, có đất, có ta
Đồng tâm như thế mới là đồng tâm [109, tr.199].
Phan Bội Châu tiêu biểu cho xu hướng bạo động, muốn dựa vào sự giúp đỡ
của nước ngoài (Nhật Bản) để đánh đuổi thực dân Pháp. Chủ trương đó được hiện
thực hóa bằng phong trào Đông Du, gây ảnh hưởng sâu rộng trong cả nước, đặc biệt
là ở Trung Kỳ. Tuy nhiên, đến tháng 12 năm 1909, theo yêu cầu của chính quyền
thực dân Pháp ở Đông Dương, chính phủ Nhật ra lệnh trục xuất Phan Bội Châu,
101
Cường Để và tất cả học sinh Việt Nam ra khỏi nước Nhật. Phong trào Đông Du tan
rã [63, tr.144].
Cũng trong khoảng thời gian này, ở Huế còn có một xu hướng cứu nước mới
được hình thành, đó là xu hướng cải cách ôn hòa, đứng đầu là Phan Châu Trinh.
Ông dựa vào Pháp thực hiện cải lương, phát động phong trào cải cách, duy tân rộng
lớn ở Trung Kỳ trên nhiều mặt về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Thế nhưng, sau
vụ đầu độc lính Pháp ở Hà Nội (27/6/1908), cụ Phan Châu Trinh bị kết án tử hình
(sau được giảm án và được đưa sang cư trú ở Pháp năm 1911), Trần Quý Cáp,
Nguyễn Hằng Chi bị xử chém, hàng ngàn chí sĩ bị cầm tù và bị đày biệt xứ. Bên
cạnh đó, trường Đông Kinh nghĩa thục cũng sớm bị đóng cửa. Phan Châu Trinh và
xu hướng cầu Pháp để duy tân đất nước nhanh chóng bị dập tắt. Gắn với những hoạt
động yêu nước của cụ Phan Châu Trinh, phong trào Duy Tân với khẩu hiệu là
“Chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh” đã cuốn hút bao trái tim yêu nước đầy
nhiệt huyết. Khẩu hiệu lí tưởng của phong trào đã hấp dẫn rất nhiều học sinh, thanh
niên, chí sĩ yêu nước và tiến bộ ở Kinh thành Huế tham gia, trong đó có Hồ Chí
Minh. Họ muốn đứng lên xóa bỏ tất cả những gì mà họ cho là lạc hậu, cũ kỹ để theo
kịp văn minh các nước Châu Âu, bởi theo họ “yêu nước phải duy tân, đổi mới”. Vì
thế, họ đổ ra đường, ra chợ vận động đàn ông cắt tóc ngắn, cạo răng đen, mặc áo
ngắn theo kiểu người phương Tây. Ngay cả vua Thành Thái cũng cởi hoàng bào
mặc bành tô, đội mũ phớt, cầm gậy hèo đi trên đường như những người Âu.
Mặc dù thất bại, nhưng cuộc vận động Duy Tân ở Trung Kỳ đã khẳng định
sức thu hút mạnh mẽ của tư tưởng duy tân, có ảnh hưởng lớn đến sự giác ngộ và
tinh thần đấu tranh của nhân dân đòi cải cách đời sống về mọi mặt. Bên cạnh đó,
phong trào cho thấy vai trò lãnh đạo của những sĩ phu tiến bộ. Làn sóng đấu tranh
theo phong trào Duy Tân thực sự đã tác động rất lớn đến Hồ Chí Minh. Người tham
gia phong trào với tất cả nhiệt huyết yêu nước đã nung nấu bấy lâu nay, Người hô
hào “hợp quần”, “ái quốc”, cùng với thanh niên học sinh Huế vừa đi vừa phổ biến
bài thơ “Húi hề, húi hề”, vừa cầm kéo ra những chỗ đông người cắt tóc ngắn, cổ
động xây dựng nếp sống mới cho nhân dân.
102
Có thể khẳng định rằng, nếu hai xu hướng cách mạng của Phan Bội Châu và
Phan Châu Trinh ảnh hưởng đến nhận thức Hồ Chí Minh về con đường cứu nước,
thì phong trào Duy Tân lại ảnh hưởng đến Người bằng cả nhận thức và hành động
cứu nước. Sự tham gia trực tiếp vào phong trào Duy Tân là bước ngoặt quan trọng,
đánh dấu sự chuyển biến tư tưởng, chín muồi trong nhận thức, bộc phát qua hành
động của Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, sự thất bại của phong trào này cũng cho Thành
thấy rõ “đối với cuộc vận động duy tân, không thể thực hiện được, một khi chưa
đánh đuổi thực dân Pháp” [53, tr.60]. Nhận thức này của Hồ Chí Minh có bước đột
phá, khác hẳn, thậm chí là vượt qua những hạn chế của xu hướng cứu nước của
Phan Chu Trinh lúc bấy giờ.
3.1.3.4. Ảnh hưởng của phong trào chống thuế ở Thừa Thiên Huế
Đầu thế kỉ XX, phong trào Duy Tân được khởi xướng và bùng phát mạnh mẽ
mà đỉnh cao là cuộc nổi dậy của nhân dân kháng sưu thuế năm Mậu Thân (1908) ở
Trung kỳ. Đồng bào Thừa Thiên Huế với khẩu hiệu “Nếu cứ ngồi mà đợi chết. Chi
bằng vùng dậy mà tìm lối sống!” đã đứng lên đấu tranh mạnh mẽ trước chính sách
cai trị hà khắc của thực dân Pháp. Trong khoảng thời gian này, Hồ Chí Minh dù mới
chỉ là một cậu học sinh vừa tốt nghiệp tiểu học nhưng Anh đã “dấn thân” vào cuộc
đấu tranh cùng với đồng bào, tham gia vào phong trào một cách tích cực trong cả
thái độ lẫn hành động chống Pháp. Trước đó, Thành và anh trai cũng có “thái độ
công khai đối nghịch (với thực dân Pháp) làm cho Hiệu trưởng của trường nhiều lần
phải cảnh cáo nghiêm khắc” [184, tr.250-251]. Anh còn làm công tác bí mật, làm
nhiệm vụ liên lạc với các sĩ phu yêu nước. Sau này, tác giả Trần Dân Tiên nhắc lại:
“Người thiếu niên ấy đã sớm hiểu biết và rất đau xót trước cảnh thống khổ của đồng
bào. Lúc bấy giờ, anh đã có chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào. Anh đã
tham gia công tác bí mật, nhận công tác liên lạc” [147 tr.12].
Sự kiện Hồ Chí Minh tham gia phong trào chống thuế cùng với đồng bào
Thừa Thiên năm 1908 có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong những năm tháng Người
ở Huế. Đó là những hành động cụ thể, sinh động, biểu hiện sự chuyển biến mạnh
mẽ từ tinh thần, tình cảm yêu nước lên đến hành động yêu nước. Sự gan dạ, kiên
trung, tự tin của Hồ Chí Minh được bộc lộ và thể hiện rõ trong hành động Người “tổ
103
chức”, “cầm đầu” một nhóm học sinh trường Quốc Học hòa vào dòng người biểu
tình kháng thuế để động viên và thực hiện sứ mệnh “thông ngôn” cho đoàn biểu
tình. Qua việc tham gia tích cực phong trào đấu tranh chống thuế của nhân dân
Thừa Thiên, Hồ Chí Minh đã thực hiện được chuỗi hành động cách mạng cụ thể và
tích lũy thêm cho mình những kinh nghiệm, hình thành rõ nét hơn sự cứng rắn, kiên
cường, đầu óc tổ chức.
Phong trào chống thuế năm 1908 bị đàn áp đẫm máu, một mặt giúp Hồ Chí
Minh nhìn rõ hơn bản chất của thực dân Pháp và sức quật khởi của nhân dân, mặt
khác cũng bộc lộ sự bế tắc trong giải pháp cách mạng ở nước ta lúc bấy giờ. Chính
ở cao điểm này khiến Hồ Chí Minh dứt khoát rời Huế, thực hiện một quyết định đã
sớm được hình thành - sang phương Tây để tìm đường cứu nước. Như vậy, việc ra
nước ngoài, đến nước Pháp của Hồ Chí Minh xét về độ tuổi, trình độ hiểu biết, về
tính hợp lí của thời gian phải được hình thành rõ rệt tại Kinh đô Huế. Hay nói đúng
hơn, Huế là điểm khởi đầu cho hành trình tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh.
Chỉ có ở Kinh đô Huế, nơi hội tụ những trí thức Tây học, những bậc thầy có tinh
thần dân tộc nhiệt huyết, nơi gặp gỡ nền giáo dục tân học Pháp - Việt đã đào tạo ra
một thế hệ học sinh yêu nước, khát khao độc lập dân tộc, dân chủ, tự do mà sự xuất
hiện của Hồ Chí Minh trong sự kiện chống thuế của nhân dân Thừa Thiên Huế năm
1908 là một hiện tượng tiêu biểu, là hệ quả trực tiếp của nền giáo dục đương thời.
Sự thất bại của các phong trào yêu nước ở Thừa Thiên Huế vào những năm
cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX đã giúp Hồ Chí Minh thấy rõ hạn chế về lí luận dẫn
đường của các cuộc đấu tranh theo tư tưởng yêu nước truyền thống. Phong trào Cần
Vương do các sĩ phu phong kiến lãnh đạo vẫn còn gắn chủ nghĩa yêu nước với
quyền lợi của “một dòng họ”, “một triều đại phong kiến”; những phong trào do các
sĩ phu yêu nước lãnh đạo như Duy Tân, Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục và các
phong trào do các trí thức tiểu tư sản yêu nước lãnh đạo đều chưa vượt khỏi giới
hạn của tư tưởng dân chủ tư sản kiểu cũ, chưa bắt kịp yêu cầu của thời đại mới. Tựu
trung lại, nguyên nhân thất bại chính yếu của các phong trào này là chưa vươn đến
được tính chất hiện đại của lí luận yêu nước, chưa tập hợp quần chúng nhân dân vào
những tổ chức cách mạng, chưa có đường lối ngang tầm thời đại, phù hợp với thực
104
tiễn cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ. Sự thất bại đó đòi hỏi cần phải thay đổi tư
duy yêu nước, nghĩa là cần phải tìm tòi, hình thành lí luận mới về con đường,
phương pháp cứu dân cứu nước phù hợp với điều kiện lịch sử mới. Bài học thất bại
đó đã tạo điều kiện thúc đẩy sự hình thành tư duy yêu nước mới, cho sự biến
chuyển về chất từ tư duy yêu nước truyền thống sang tư duy yêu nước hiện đại, mà
Hồ Chí Minh như là dấu gạch nối quan trọng.
Tóm lại, tư tưởng tiến bộ và nhân cách cao đẹp của Nguyễn Sinh Sắc, cùng
với những biến đổi của xã hội Thừa Thiên Huế những năm đầu thế kỉ XX, những
giá trị của nền giáo dục Quốc học và Tây học và đặc biệt là dấu ấn của các phong
trào cách mạng của những nhân sĩ, trí thức yêu nước đã làm cho tư tưởng yêu nước,
lòng căm thù giặc và nhân cách Hồ Chí Minh phát triển đến mức phải đi đến hành
động cách mạng cụ thể.
3.2. BIỂU HIỆN CỦA NHÂN CÁCH HỒ CHÍ MINH TỪ ẢNH HƯỞNG CỦA
KHÔNG GIAN VĂN HÓA HUẾ
Một số nhà khoa học, nhà nghiên cứu cho rằng trong khoảng thời gian từ năm
1901 đến 1906, nhân cách của Hồ Chí Minh được hình thành từ ảnh hưởng của các
bậc cha chú thông qua mối quan hệ giữa cha với các sĩ phu trong vùng. Trong Làng
sen năm ấy, học giả Nguyễn Yên Thy quả quyết rằng:
Khoảng thời gian quan trọng nhất để hình thành nhân cách Hồ Chí Minh
là khoảng từ năm 1901 đến 1906. Thời điểm đó Bác ở độ tuổi thiếu niên,
nhạy cảm, theo cha từ kinh thành Huế về quê. Tuổi thơ được sống trong
khung cảnh ấm áp tình người như vậy chắc chắn sẽ có những tác động
lớn. Những người có ảnh hưởng quan trọng trong thời kì này phải kể đến
thầy dạy học của Bác thuở nhỏ là cử nhân Vương Thúc Quý, một người
nổi tiếng văn hay chữ đẹp và hoạt động yêu nước ở Nghệ An. Thứ hai là
ông Giải San (Phan Bội Châu), một người bạn thân mà Phó bảng Nguyễn
Sinh Sắc rất tâm đắc về tấm lòng yêu nước thương dân [146].
Liệu rằng nhận định trên của Nguyễn Yên Thy có xác đáng? Chúng tôi nghĩ
rằng sự quả quyết “chắc chắn” về “khoảng thời gian quan trọng nhất” nêu trên rất
105
cảm tính, thiếu cơ sở khoa học, bởi lẽ khi nghiên cứu tiểu sử Hồ Chí Minh, chúng ta
thấy rằng Người sống ở quê hương trong 2 thời kì, từ năm 1890 đến năm 1895 và từ
năm 1901 đến năm 1905. Trong hai thời kì này, Nguyễn Sinh Cung sinh ra và lớn
lên trong sự yêu thương, chăm sóc của ông bà, cha mẹ và anh chị, trong truyền
thống tốt đẹp của quê hương Nghệ - Tĩnh. Nguyễn Sinh Cung được học chữ Hán
với thầy Hoàng Phan Quỳnh ở làng Hữu Biệt, thầy Vương Thúc Quý ở làng Kim
Liên, thầy Trần Thân ở làng Ngọc Đình. Khảo cứu Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử
và Hồ Chí Minh tiểu sử, chúng ta chưa thấy được những hoạt động thực tiễn cách
mạng có chủ đích thể hiện sự chín chắn trong suy nghĩ và nhận thức của Nguyễn
Sinh Cung. Có chăng là sự kiện vào tháng 9 năm 1905, Nguyễn Tất Thành được cha
xin cho theo học lớp dự bị (préparatoire) Trường tiểu học Pháp - bản xứ ở thành phố
Vinh. Chính tại trường tiểu học này, Nguyễn Tất Thành lần đầu tiên nghe khẩu hiệu
TỰ DO - BÌNH ĐẲNG - BÁC ÁI [64, tr.22].
Ngược lại, cho đến ngày ra đi tìm đường cứu nước, Huế là nơi Hồ Chí Minh
sống lâu nhất (1895-1901 và 1906-1909). Những năm trưởng thành của Người là
những năm phong trào yêu nước Việt Nam diễn ra nhiều sự kiện trọng đại. Là một
thanh niên ham hiểu biết, thích suy nghĩ, tìm tòi, những sự kiện đó không thể không
tác động đến tầm nhìn, suy nghĩ và tư tưởng của Người.
Trong hai thời kì ở Huế, đặc biệt là thời kì thứ hai, nhân cách, tư tưởng yêu
nước và chí hướng cách mạng của Hồ Chí Minh thực sự được hình thành và phát
triển rõ nét. Người “đã biết phân biệt những giá trị và xu hướng trong đời sống
xã hội, đã bắt đầu tự định được điều ham muốn của mình trước khi vào đời” [53,
tr.34]. Trong thời kì ở Huế, Hồ Chí Minh hội tụ đủ các điều kiện về tuổi tác, chín
muồi trong nhận thức, tiếp thu tri thức của nền giáo dục truyền thống và giáo dục
Tây học, hòa mình vào các phong trào đấu tranh, dấn thân vào con đường hoạt
động cách mạng bằng hành động “tham gia vào phong trào cắt tóc ngắn” [65,
tr.45], “tham gia cuộc biểu tình chống thuế của nông dân Thừa Thiên” [64,
tr.28]. Đây cũng là thời kì Hồ Chí Minh “được nghe kể về những hành động của
những ông vua yêu nước như Thành Thái, Duy Tân và những bàn luận về con
đường cứu nước trong các sĩ phu yêu nước” [64, tr.30]; là thời kì Người được
106
học với những người thầy, những trí thức Tây học, có tư tưởng tiến bộ, yêu nước
như Hoàng Thông, Lê Văn Miến [65, tr.45]; và cũng là thời kì chứng kiến rõ
nhất, sống động nhất “phần đông người lao động chịu chung số phận đau khổ và
tủi nhục”. Do đó, cái ý chí “đuổi thực dân Pháp để giải phóng đồng bào” càng
được nung nấu.
Những luận cứ khoa học trên giúp chúng ta nhận thấy rằng, nhân cách, lí
tưởng cách mạng và tư tưởng yêu nước Hồ Chí Minh thực sự được hình thành và
phát triển trong giai đoạn Người sinh sống ở Huế. Vì thực tiễn gần mười năm sống
ở Huế, đặc biệt là thời kì thứ 2 (1906 - 1909), không gian văn hóa Huế đã ảnh
hưởng mạnh mẽ đến nhận thức và hun đúc hoài bão cứu nước cho Hồ Chí Minh.
Đúng như lời của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết: “Huế, Kinh đô triều
Nguyễn lúc bấy giờ, cũng là một môi trường đã có những ảnh hưởng tốt đẹp đối với
tuổi niên thiếu của Nguyễn Tất Thành” [46, tr.11]. Những năm tháng ở Huế, Hồ Chí
Minh đã “tận mắt nhìn thấy tội ác của bọn thực dân và thái độ ươn hèn, bạc nhược
của bọn quan lại Nam triều. Tất cả đã thôi thúc Anh phải đi tìm một con đường mới
để cứu dân, cứu nước” [67, tr.25]. Học giả David Helberstam hoàn toàn có lí khi cho
rằng: “Tư tưởng yêu nước của Hồ được tăng cường ở Huế” [189, tr.1], bởi ở Huế,
“Hồ Chí Minh khi bắt đầu lớn lên ở cái nôi của phong trào yêu nước… bằng sự học
tập của bản thân, sự gần gũi của quần chúng lao động và nhờ sự tác động của phong
trào chống Pháp năm 1908, bắt đầu hoạt động cách mạng” [20, tr.213].
Mười năm ở Huế, (1895-1901 và 1906-1909), không gian văn hóa Huế đã góp
phần quan trọng định hình những giá trị, tâm hồn cao đẹp, ngấm ngầm một cách vô
thức hình thành nên nhân cách, chí lớn của Hồ Chí Minh. Theo đó, thực tiễn xã hội,
đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, cùng với những mâu thuẫn của xã hội
đương thời; truyền thống yêu nước, tự tôn dân tộc; các phong trào yêu nước và các
giá trị của văn hóa phương Tây; truyền thống văn hóa, giáo dục gia đình, đặc biệt là
nhân cách cao đẹp của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc… là các nhân tố ảnh hưởng
trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách Hồ Chí Minh.
Với đề tài nghiên cứu ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự hình
thành nhân cách Hồ Chí Minh, chúng tôi chỉ làm rõ những nét đặc trưng nhân cách
107
Hồ Chí Minh về đạo đức và trí tuệ với tư cách là sản phẩm được định hình qua sự
tác động, ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến Hồ Chí Minh. Do đó, từ cách
tiếp cận phạm trù nhân cách theo hướng cấu trúc phẩm chất - năng lực và khái niệm
nhân cách Hồ Chí Minh như trên, cũng như trên cơ sở khảo sát, đánh giá về ưu
nhược điểm của các nhà khoa học trong luận giải về nhân cách cách Hồ Chí Minh,
chúng tôi rút ra những nét đặc trưng nhân cách Hồ Chí Minh như sau:
3.2.1. Biểu hiện của nhân cách Hồ Chí Minh về đạo đức
3.2.1.1. Tự ý thức về trách nhiệm của bản thân trước thực cảnh đất nước
mất độc lập, nhân dân mất tự do
Nếu xác định nhân cách Hồ Chí Minh dưới góc độ phẩm chất, bao gồm thế
giới quan, thái độ chính trị - xã hội, lập trường cá nhân, khả năng tự ý thức về vị trí,
vai trò và trách nhiệm của mình trước những thay đổi của lịch sử - xã hội, thì những
năm tháng ở Huế, Hồ Chí Minh đã sớm tự ý thức về bản thân mình trước những yêu
cầu của thực tiễn mà nền giáo dục, điều kiện sống của môi trường và xã hội, không
khí chính trị Huế đã và đang có nhiều thay đổi. Trong thư của Phạm Văn Đồng gửi
Hiệu trưởng Trường Quốc Học Huế (ngày 04/01/1990) nhân dịp trường ra ấn phẩm
Trường Quốc Học Huế - Học sinh với Bác Hồ, kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Hồ
Chí Minh, đã nhấn mạnh: “Tấm gương của Bác Hồ trước hết là tấm gương sớm xác
định và kiên trì phấn đấu suốt đời cho lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
vì hạnh phúc của nhân dân” [156, tr.3].
Tự ý thức về bản thân mình là một quá trình tâm lí mà ở mỗi giai đoạn phát
triển có những đặc điểm riêng. Thời kì trước khi Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu
nước, theo chúng tôi, nếu xét sự hình thành nhân cách dưới góc độ là sự phát triển
tự ý thức có thể phân thành hai giai đoạn: giai đoạn thứ nhất trước năm 1905 và giai
đoạn thứ hai từ năm 1906 đến 1911.
Trong giai đoạn thứ nhất, có thể thấy rằng tự ý thức của Hồ Chí Minh về bản
thân mình như một người công dân có trách nhiệm với vận mệnh của dân tộc chưa
thật sự định hình, phát triển rõ nét, mà ở đây mới chỉ hình thành ý thức về mình như
một người yêu nước [84, tr.35]. Sự chuyển biến trong sự phát triển tự ý thức của Hồ
108
Chí Minh diễn ra trong giai đoạn 1906-1911, đặc biệt khi Anh theo cha vào Huế lần
thứ hai [84, tr.39].
Trở về với lịch sử, năm 1894, ông Nguyễn Sinh Sắc thi đỗ cử nhân ở trường
thi Hương Nghệ An. Đến năm 1895 vào Huế thi Hội nhưng không đỗ. Để chuẩn bị
cho kỳ thi tiếp theo, ông xin vào học trường Quốc Tử Giám - Huế. Tuy nhiên, học
bổng của trường rất ít, không đủ để ông trang trải tại đất kinh đô, vì vậy, ông đã đưa
vợ con cùng vào Huế để gia đình có điều kiện giúp đỡ ông học hành, đồng thời ông
có thêm thời gian chăm sóc, nuôi dạy các con. Đến Huế, nhờ người quen giới thiệu,
ông đã thuê được một gian nhà nhỏ ở đường Đông Ba (112 nay là 158 Mai Thúc
Loan). Ngôi nhà đã lưu giữ nhiều kỉ niệm thuở thiếu thời của Hồ Chí Minh, chứng
kiến những năm tháng miệt mài đèn sách, khổ công học hành của ông Nguyễn Sinh
Sắc, sự trung hậu, đảm đang của bà Hoàng Thị Loan, chứng khiến sự lớn lên và
trưởng thành của Hồ Chí Minh.
Tại Kinh đô, đời sống chính trị - xã hội Huế những năm cuối thế kỉ XIX đầu
thế kỉ XX có ảnh hưởng rất lớn đến nhận thức yêu nước và sự hình thành nhân cách
của Hồ Chí Minh, đặc biệt là dư âm của sự biến Thất thủ Kinh đô. Hằng năm, cứ
đến ngày 23 tháng 5, nhân dân Thừa Thiên, đặc biệt là nhân dân phường Phú Nhuận
tổ chức lễ tế âm hồn, tưởng niệm những người đã bị thực dân Pháp giết hại. Trong
những ngày đó, đồng bào yêu nước, những nhà yêu nước mượn lời văn tế âm hồn
để lên án thực dân Pháp, kêu gọi đồng bào chống Pháp. Đồng bào nghe vè xót
thương cho những người đã chết, trách móc các bậc vua quan hèn nhát đầu hàng
giặc và căm phẫn bọn Pháp cướp nước. Hồ Chí Minh lúc nhỏ khi nghe người ta hô
câu vè “Nay mà mắc phải lâm nguy/ Sự tình nông nỗi cũng vì giặc Tây đã sớm
“thương nước, trằn trọc không ngủ được” [184, tr.62].
Nếu thời kì đầu tiên ở Huế (1895-1901), Hồ Chí Minh mở mang vốn hiểu biết
của mình bằng cách quan sát sự thay đổi của vùng văn hóa dân gian Nghệ - Tĩnh
sang vùng văn hóa hội đủ dân gian - bác học - Kinh đô Huế, thì trong thời kì thứ hai
(1906-1909), Hồ Chí Minh trưởng thành hơn nhiều mặt. Đây là thời kì Người đi học
và chứng kiến chính sách cai trị hà khắc, đàn áp dã man của thực dân Pháp. Chính
sách đàn áp, khủng bố những người yêu nước của bè lũ thực dân không chỉ hình
109
thành ở Hồ Chí Minh lòng căm thù thực dân Pháp và phong kiến tay sai, mà còn là
động lực thôi thúc Người tham gia các phong trào yêu nước như tham gia phong
trào Duy Tân, phong trào chống thuế, Người viết:
Tống Duy Tân sau mười năm chiến đấu tuyệt vọng cũng bị bắt và bị
chém. Thi thể của ông bị đem bêu ở phố. Phan Đình Phùng, một vị quan
to và là một nhà văn thân danh tiếng, chống Pháp mười năm trời rồi chết
trong rừng sâu. Ông chết rồi nhưng bọn Pháp vẫn chưa tha: người ta quật
mộ ông lên, đốt xác và đem tro vứt đi. Người ta báo thù cả người đã nằm
yên dưới mộ. Bất lực không đánh nổi ông Đề Thám, không sao giết được
ông bằng thuốc độc cũng không trừ được ông bằng cốt mìn, người ta bèn
đào mả cha mẹ ông, đem hài cốt vứt xuống sông [92, tr.377].
Năm 1908, một cuộc bãi công của nông dân nổ ra trong toàn quốc,
những người bãi công tỏ ra ôn hoà và họ không có vũ khí. Để biểu thị sự
đoàn kết, mọi người bãi công đều cắt tóc ngắn và gọi nhau là anh em.
Bọn Pháp gọi cuộc bãi công đó là “cuộc bạo động của những anh em tóc
ngắn”. Sau đó là giai đoạn khủng bố trắng. Tất cả những người cắt tóc
ngắn đều bị bắt. Tất cả những người trí thức nào có đôi chút tiếng tăm
đều bị đưa đi đày. Tất cả các trường tư thục đều bị đóng cửa và tất cả các
sách báo nước ngoài đều bị cấm. Tất cả những người lãnh đạo hoặc bị
coi là người lãnh đạo - khoảng 200 - đều bị chặt đầu [94, tr.38]…
Trong khoảng thời gian ở Huế, mặc dù thực dân Pháp tăng cường đàn áp các
phong trào cách mạng, tuy nhiên các phong trào yêu nước như Duy Tân, Đông Du,
gắn với các hoạt động diễn thuyết về dân quyền, duy tân, cắt tóc ngắn, mặc Âu
phục, gọi nhau là “đồng bào” của chí sĩ Phan Châu Trinh, Lê Đình Mộng, Trần
Trinh Linh... phát triển mạnh mẽ, hấp dẫn học sinh và thực sự cuốn hút Hồ Chí
Minh. “Hành động yêu nước mạnh mẽ đầu tiên của Nguyễn Tất Thành vào thời
niên thiếu là tham gia cuộc biểu tình chống thuế của nông dân Thừa Thiên vào
tháng 5-1908” [81, tr.54]. Người tham gia phong trào với tất cả nhiệt huyết yêu
nước, tích cực vận động “hợp quần”, “ái quốc”, cùng với học sinh Huế ra sức cổ
động xây dựng nếp sống mới cho nhân dân. Người nhận thức được rằng: “mình là
110
học sinh biết tiếng Tây nên đi thông ngôn giúp đồng bào”, “len vào trước để gặp
bọn Pháp đưa nguyện vọng giảm sưu thuế cho dân” [184, tr.179-180]. Cuộc đấu
tranh cùng với nhân dân Thừa Thiên đã khắc sâu trong kí ức Hồ Chí Minh sau này.
Có lần, Người đã kể lại với đồng chí Vũ Kỳ:
Mình tham gia với tư cách là một người thông ngôn. Khi đồng bào nói
chưa đúng thì mình thêm vào cho đúng rồi nói chọi với Pháp. Khi bọn
Pháp nói những gì làm cho uy thế của đồng bào kém đi thì mình thông
ngôn lại để dấy lên tinh thần đấu tranh của đồng bào. Cứ thế đồng bào ùa
lên làm cho bọn Pháp không thể nào ngăn chặn được! [184, tr.180].
Có thể khẳng định rằng, trong chuỗi hành động của hành trình “dấn thân” tìm
đường cứu nước, việc tham gia trực tiếp vào phong trào kháng thuế của nhân dân
Thừa Thiên là bước ngoặt quan trọng, đánh dấu sự chuyển biến tư tưởng và nhận
thức, thể hiện sự tự ý thức và trách nhiệm của Hồ Chí Minh trước thực tiễn đấu
tranh của đồng bào. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng hoàn toàn có lí khi khẳng định
rằng thời kì ở Huế, Hồ Chí Minh “bắt đầu hoạt động cách mạng” [20, tr.213], bởi
Người lớn lên trong cái nôi của phong trào yêu nước, sự gần gũi với đồng bào.
Trong tác phẩm Những mẩu chuyện về đời hoạt động cách mạng của Hồ Chủ tịch,
Trần Dân Tiên viết: “Người thiếu niên ấy đã sớm hiểu biết và rất đau xót trước cảnh
thống khổ của đồng bào. Lúc bấy giờ, anh đã có chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng
đồng bào. Anh tham gia công tác bí mật, nhận công việc liên lạc” [147, tr.12].
Tháng 9 năm 1908, Hồ Chí Minh vào lớp Trung đẳng trường Quốc Học Huế
và được học với thầy Lê Văn Miến, nhờ những bài học “đặc biệt”, sự khai mở của
Thầy về văn minh Pháp đã giúp Thành suy nghĩ rõ ràng hơn về việc “sang phương
Tây” chứ không sang phương Đông để tìm đường cứu nước, tìm “tự do cho đồng
bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi”. Người ý thức muốn xem nước Pháp và các nước
khác, rồi trở về giúp đồng bào mình. Đó là một quyết định đúng đắn, có tính cách
mạng, thể hiện nhãn quan chính trị của một con người giàu lòng nhiệt huyết.
Như vậy, thực tiễn đời sống sôi động cùng với những bất công trong xã hội
Thừa Thiên Huế mà Nguyễn Tất Thành tận mắt nhìn thấy đã tác động mạnh mẽ
đến nhận thức của Anh về dân tộc, về nỗi thống khổ của những người dân mất
111
nước, làm xuất hiện trọng Anh ý thức cứu dân tộc khỏi cách nô dịch của bè lũ
thực dân.
3.2.1.2. Trăn trở, cảm thông với sự cùng khổ của đồng bào, hình thành tư
tưởng đấu tranh cho hạnh phúc của đồng bào
Hồ Chí Minh theo cha vào Huế từ cuối năm 1895, khi Huế vẫn còn lưu giữ
những “chứng cứ” của một triều đại suy vong. Sống trong Kinh thành, biến động
lịch sử của đất nước từ có chủ quyền trở thành thuộc địa, nỗi nhục mất nước, tang
thương để lại dấu ấn khó phai trong người thiếu niên giàu mẫn cảm ấy. Sau này,
chính ông cả Nguyễn Sinh Khiêm khi đến thăm cụ Phan Bội Châu bị quản thúc ở
dốc Bến Ngự đã thuật lại về sự trăn trở của cậu bé Cung:
Không phải đến tuổi trưởng thành ra ngoại quốc em tôi mới ái quốc, mà
từ khi đầu còn để trái đào đi chơi nghe người ta hô câu vè: “Nay mà mắc
phải lâm nguy, Sự tình nông nổi cũng vì giặc Tây”, về nhà nó thương
nước, trằn trọc không ngủ được. Sáng dậy, em bắt mẹ tôi kể chuyện giặc
Tây dương và ngày Kinh thành thất thủ,…, em tôi ngồi tai nghe, chau
mày nghĩ ngợi [184, tr.62].
Hệ quả từ những chính sách cai trị hà khắc mà thực dân Pháp gây ra là cuộc
sống lầm than cơ cực của nhân dân Thừa Thiên Huế, đặc biệt là chế độ thuế
khóa, phu phen tạp dịch nặng nề. Thực dân Pháp “cướp hết những ruộng đất màu
mỡ, đánh vào những ruộng đất cằn cỗi những thứ thuế vô lý gấp trăm lần thuế
đất thời phong kiến” [92, tr.75]. Trăm thứ thuế, thuế gì cũng ngặt, thuế điền mỗi
mẫu từ 1 đồng tăng dần lên 1,5 đồng, thuế đinh tăng gấp 12 lần từ 0,2 đồng lên
2,5 đồng mỗi người... Không những vậy, nhân dân Thừa Thiên Huế còn phải nai
lưng làm phu đài tạp dịch như đào sông, đắp đường, phá rừng hoặc làm công sở
cho thực dân Pháp. “Cái tệ sưu dịch không thể nói hết được, mỗi dân đinh một
năm đóng thuế thân rồi phải mất 4 ngày công ích, 10 ngày công sưu,… người nọ
đi, người kia về, nối gót nhau trên đường không ngày nào yên cả” [23, tr.20]. Sự
cùng khổ của nhân dân Thừa Thiên sau này cũng được Hồ Chí Minh đồng cảm
thuật lại:
112
Ở Huế, người ta có đắp một đại lộ rộng 20 mét - thật ra là vô ích - chạy
thẳng từ thành đến đàn Nam giao. Con đường ấy mở qua hai làng và một
nghĩa trang, khi làm phải phá hay di chuyển mất sáu ngàn ngôi mộ.
Người ta chẳng chịu bồi thường hay giúp đỡ gì cho các gia đình có nhà
phải phá, có cây phải chặt, có mồ mả phải khai quật lên [92, tr.418].
Mùa hè năm 19... trong lúc nạn đói đang làm cho miền Trung Kỳ phải
tiêu điều khổ sở, thì một vạn người An Nam bị lý trưởng làng họ bắt đi
tập trung vét một cái lạch. Số dân đông đảo ấy, người ta không dùng hết
mà vẫn cứ phải lìa xa đồng ruộng của mình hàng tháng giữa lúc hết sức
cần thiết họ phải có mặt ở nhà [92, tr.421].
Nhiều phụ nữ bản xứ thống khổ, phải mang nặng gông xiềng đi quét
đường chỉ vì một tội là không nộp nổi thuế [93, tr.120];
Tất cả những điều mà người ta đã có thể nói ra vẫn còn ở dưới mức sự
thật. Chưa có bao giờ, ở một nước nào mà người ta lại vi phạm mọi quyền
làm người một cách dã man, độc ác trắng trợn đến thế. [93, tr.121].
Chứng kiến đời sống cùng cực của nhân dân Thừa Thiên Huế, Hồ Chí Minh
nhận thức nguyên nhân khiến đồng bào thống khổ không chỉ do vua quan bù nhìn,
mà còn do thực dân cai trị hà khắc. Người cảm thông sâu sắc với cảnh sống bần
cùng nhân dân và ý thức rằng phải đấu tranh để đồng bào mình bớt khổ, đấu tranh
để nhân dân có quyền tự do, dân chủ; phải giành lấy cơm no, áo ấm, được học hành
cho nhân dân. Chính vì vậy, trong khoảng thời kì thứ hai ở Huế, Hồ Chí Minh đã
chủ động tham gia phong trào chống Pháp. Người đã dùng vốn hiểu biết của mình
từ những giá trị của văn minh Pháp đã được học để chống lại thực tiễn xảo trá, mị
dân, đàn áp dã man của thực dân Pháp. Thật không thể tin được rằng, sản phẩm của
một nền giáo dục Pháp lại đứng lên để chống lại nước Pháp. Nguyên nhân rất đơn
giản, vì người thiếu niên ấy đã sớm giác ngộ và rất đau xót trước cảnh thống khổ
của quần chúng nhân dân, anh đã có chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào.
Do đó, Người đã “tham gia công tác bí mật, nhận công tác liên lạc” và “muốn đi ra
ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ
trở về giúp đồng bào chúng ta” [147, tr.12].
113
3.2.1.3. Hình thành tinh thần tự tôn dân tộc, hoài bão cách mạng và chí
hướng cứu nước
Nhân cách Hồ Chí Minh là kết quả của sự hun đúc từ những giá trị văn hóa
truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, trong đó có văn hóa Huế, gắn với quá
trình tôi luyện gần mười năm học tập, rèn luyện và đấu tranh không ngừng nghỉ.
Nếu yếu tố niềm tin, lập trường, hoài bão và chí hướng cách mạng là những biểu
hiện cơ bản của nhân cách con người, thì những năm tháng ở Huế, Hồ Chí Minh đã
sớm hình thành tinh thần tự tôn dân tộc trước ách áp bức, nô dịch, đồng hóa của bè
lũ thực dân; hình thành lí tưởng độc lập tự do, hoài bão và chí hướng cứu nước, cứu
dân một cách rõ ràng và cụ thể.
Sau khi thiết lập ách cai trị, thực dân Pháp ngang nhiên thực hiện mưu đồ
thống trị, thao túng quyền lực, biến cung vàng điện ngọc thành chốn hỗn mang.
Quân Pháp ngang nhiên ra vào cung đình, bắt nạt vua quan, trung thần, giẫm đạp
lên mọi giá trị thiêng liêng của dân tộc, thậm chí viên Khâm sứ Trung Kỳ Levécque
ngạo mạn đi ngựa vào chính cửa Ngọ Môn. Thế nhưng, cái lạ nhất đối với Hồ Chí
Minh lúc bấy giờ vẫn là hình ảnh “những ông Tây cao lớn và các bà đầm môi đỏ
chót đi lại nghênh ngang trên đường phố. Họ làm gì mà hễ ai gặp cũng phải chắp
tay cúi chào?” [149, tr.13]. Phải chăng điều đó thể hiện sự bạc nhược, ươn hèn của
vương triều trước ách cai trị thực dân.
Trong thời kì thứ hai đến Huế (1906-1909), Hồ Chí Minh được cha cho theo
học trường Pháp - Việt tỉnh Thừa Thiên và trường Quốc Học Huế. Tại các trường
học này, Người hiểu rõ “tâm địa thực dân” qua những bài giảng “nhồi sọ”. Tại
Thiên đường Quốc học, Người thấy rõ thực dân Pháp (kể cả những người thầy
Pháp) lăng mạ, khinh miệt, gán ép cho học sinh người Việt những từ thô tục như
“đồ con lợn”, “giống bẩn thỉu”, chà đạp lên phẩm giá con người, sỉ nhục dân tộc và
giống nòi Việt Nam. Hồ Chí Minh lúc ấy đã kêu gọi đám học sinh: “Chúng ta phải
hợp quần lại, cố kết với nhau đòi cho được hai điều: một là phải có nội dung giảng
dạy hợp lí, hai là phải bình đẳng trong đối xử” [71, tr.119].
Nền giáo dục ngu dân, xảo trá được thực dân Pháp xây dựng đã nhồi sọ lớp
lớp học sinh người Việt những “giá trị ảo”, những “lí lẽ ngọt ngào” của nền “văn
114
minh khai hóa”, giáo dục cho học sinh người Việt “lòng biết ơn”, “lòng trung
thành”, “tận tụy” với nước Pháp, xuyên tạc lịch sử, truyền thống dân tộc Việt
Nam… Trường học lập ra không phải để giáo dục cho thanh niên Việt Nam một nền
học vấn tốt đẹp và chân thực, mở mang trí tuệ và phát triển tư tưởng, mà trái lại
càng làm cho họ bị đầu độc thêm. Trường học được lập nên chỉ để “đào tạo tùy
phái, thông ngôn và viên chức nhỏ đủ số cần thiết phục vụ cho bọn xâm lược -
người ta đã gieo rắc một nền giáo dục đồi bại xảo trá và nguy hiểm hơn sự dốt nát”
[92, tr.424]. Tư tưởng vĩ đại và đầy tính nhân văn của đại cách mạng Pháp - “Tự do,
Bình đẳng, Bác ái”, đã được Hồ Chí Minh hiểu sâu sắc hơn nhưng nó hoàn toàn
không được thực thi tại Huế nói riêng và cả Việt Nam nói chung. Chính sự đối lập
giữa lí luận được thực dân Pháp tô hồng bằng khẩu hiệu “Tự do, Bình đẳng, Bác ái”
với thực tiễn “cướp bóc”, “giết hại”, “tù đày”, “chà đạp” lên phẩm giá con người và
dân tộc Việt Nam đã khơi dậy trong lớp học sinh người Việt tinh thần dân tộc, ý
thức tự tôn, không cam chịu “nhận người Gaulois làm tổ tiên”. “Sự đối xử không
bình đẳng đối với học sinh người bản xứ và thói hống hách khinh người Nam của
một số giáo viên thực dân đã khiến Nguyễn Sinh Cung không thể chấp nhận mà
không phản ứng” [25, tr.32]. Hồ Chí Minh đã công khai chống lại những thầy giáo
người Pháp phản động. Khi các trào lưu yêu nước ở Thừa Thiên Huế dâng cao, tinh
thần dân tộc và lòng yêu nước thiết tha của Người có dịp bùng phát, điển hình là sự
kiện Người tổ chức nhóm học sinh làm “thông ngôn” giúp đồng bào trong phong
trào chống sưu thuế vào tháng 4 năm 1908.
Hồ Chí Minh là một người thông minh, được dân tộc, quê hương, gia đình
trang bị cho một vốn học vấn chắc chắn, một trí tuệ sắc sảo, từ đó có thể phân tích
nguyên nhân thất bại của các phong trào cứu nước. Những cuộc trao đổi bàn luận
của ông cha về con đường cứu nước cùng với tinh thần đấu tranh kiên cường của
những vị vua trẻ và các nhân sĩ, trí thức yêu nước đã thôi thúc mạnh mẽ ý chí đánh
đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào của Người. Tư tưởng yêu nước thương
dân và hoài bão cứu nước cứu dân bắt đầu xuất hiện ở Hồ Chí Minh lúc trạc 13 tuổi
khi lần đầu tiên được nghe những từ Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Trong khoảng thời
gian ở Huế, Người hội tụ được nhiều điều kiện và tố chất cần thiết để mưu nghiệp
115
lớn. “Anh thấy rõ con đường của các bậc cha anh không đem lại kết quả. Anh phải
đi tìm một con đường cứu nước mới” [67, tr.27].
Thời kì ở Huế, Hồ Chí Minh tiếp tục vào học trường Pháp - Việt tỉnh Thừa
Thiên và Trường Quốc Học Huế. Tại hai ngôi trường này, Thành được khai mở “bài
học yêu nước” và những bài học về “văn minh Pháp” từ thầy Hoàng Thông và Lê
Văn Miến. Thời gian này, không phải chỉ một mình Hồ Chí Minh vào học trường
Pháp - Việt hay Quốc Học, nhưng Người là một trong số rất ít xác định rõ ràng mục
đích học chữ Pháp là để hiểu văn hóa Pháp, “làm quen với nền văn minh Pháp, tìm
xem những gì ẩn giấu đằng sau những chữ Pháp Tự do, Bình đẳng, Bác ái”, nắm lấy
vũ khí đó để giúp đỡ đồng bào mình. Xác định rõ mục đích giải phóng đồng bào,
Hồ Chí Minh học không phải để biết chữ Pháp, để trở thành thông ngôn, tùy phán,
kí lục; ra nước ngoài không phải mang tư tưởng “cầu viện” hay tiếp tục học để lấy
bằng cử nhân mà là thực học, thực nghiệp. Học chữ Pháp với mục đích là trang bị
một công cụ quan trọng để khám phá, khai thác, nắm lấy cả một nền văn hóa, văn
minh nhân loại, từ đó trở về phụng sự Tổ quốc, phục vụ đồng bào. Học giả David
Helberstam hoàn toàn có lý khi cho rằng thời kì ở Huế “Hồ tiếp tục các công việc
yêu nước một cách tích cực và cuối cùng ông đã rời bỏ trường này trước khi có một
mảnh bằng. Ông là một con người muốn học thêm nữa bằng cách chu du ra nước
ngoài hơn là học trong trường khắt khe do Pháp đỡ đầu” [189, tr.1].
Trước khi đi ra nước ngoài, Hồ Chí Minh đã được trang bị một vốn học vấn
chắc chắn, một năng lực trí tuệ sắc sảo, một tâm lí của người đi tìm hiểu, khám phá
nền văn minh Pháp và phương Tây. Tác giả Trần Dân Tiên kể lại rằng khi Hồ Chí
Minh còn là người thiếu niên mười lăm tuổi, tuy rất khâm phục các cụ Phan Đình
Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu, nhưng không hoàn
toàn tán thành cách làm của một người nào. Anh đã phân tích cách nghĩ và cách làm
của các bậc cha chú dẫn tới thất bại, và lúc đó Anh đã từ chối lời mời Đông Du của
Phan Bội Châu để quyết định con đường riêng của mình. Nguyễn Tất Thành ra đi
không phải bác bỏ một nền văn minh, không phải để chống nước Pháp, mà ngược
lại, Anh nghiên cứu văn minh Pháp, làm quen và tiếp thu nhiều trường phái tư
tưởng, nhiều học thuyết, nhiều chủ nghĩa và con đường khác nhau, xem rõ các nước
họ làm ăn ra sao, rồi trở về giúp đồng bào.
116
Như vậy, qua sự phân tích trên, chúng ta có thể thấy rằng, thời kì trưởng thành
ở Huế, đặc biệt là giai đoạn thứ hai, Nguyễn Tất Thành đã ý thức được trách nhiệm
của một người mất độc lập, tự do và Anh đã “bắt đầu hoạt động cách mạng”, tư
tưởng yêu nước, hoài bão cứu nước, cứu dân tiếp tục nung nấu và phát triển trong
giai đoạn này.
3.2.1.4. Hình thành phong cách sống, thế giới quan, nhân sinh quan cách mạng
Thời kì ở Huế, Hồ Chí Minh luôn được giáo dục với phong cách và nhân cách
đặc biệt của Nguyễn Sinh Sắc, thầy Hoàng Thông, thầy Lê Văn Miến... Trong đó,
cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc rất quan tâm tới việc giáo dục con đạo làm người có
ích cho nước cho dân đến những đứa con của mình. Ông quyết tâm vượt mọi khó
khăn để học và thi đỗ cử nhân, Phó bảng nhưng không phải để ra làm quan như suy
nghĩ phổ biến lúc bấy giờ, mà để khẳng định một tư chất, một bổn phận. Khi buộc
phải vào Huế nhậm chức thì không phải để vinh thân, mà để che thân. Bằng cuộc
sống thực tế trong chốn quan trường và với những gì bản thân phải chịu đựng, ông
rút ra kết luận: “Quan trường thị nô lệ, trung chi nô lệ, hựu nô lệ” và ông khuyên
dạy con cái đừng lấy phong cách nhà quan làm phong cách nhà mình.
Với nền tảng giáo dục gia đình, đặc biệt là nhân cách cao đẹp của người cha,
sự giáo dục của những người thầy có tin thần dân tộc, nên vào những năm cuối thế
kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, khi thực dân Pháp thực thi chính sách giáo dục hạn chế, đào
tạo tùy phán và thông ngôn phục vụ chính sách cai trị của chính quyền thực dân, Hồ
Chí Minh trở thành một “hiện tượng” - hình mẫu tiêu biểu của lớp học sinh có tinh
thần dân tộc và giàu lòng yêu nước, lấy văn hóa Pháp để chống lại nước Pháp. Anh
đã hiểu rằng giá trị sống của một công dân mất nước không phải làm công ăn lương,
làm thông ngôn, tùy phán. Anh không muốn bản thân mình và dân tộc mình cứ bị
đánh lừa mãi bởi những từ trống rỗng, bởi những dối trá về văn hóa, văn minh.
“Anh sớm phân biệt được phải trái, thiện ác” nhờ có óc quan sát, để từ đó Anh lựa
chọn đứng về phía đồng bào mình chống lại thực dân Pháp.
Thời kì ở Huế, tấm gương yêu nước của các bậc vua quan, tinh thần dân tộc
của các chí sĩ cách mạng đã giúp Hồ Chí Minh hiểu sâu sắc phương châm sống,
phong cách sống là đấu tranh vì nước, vì dân, bởi lẻ “nước dù bất hạnh mà mất,
117
không phải mất nước của một họ riêng mà thôi; cùng với nước mất dân tộc bị diệt
chủng” [53, tr.52], hay “nước mất mà không biết là bất trí, biết mà không chiến đấu
cứu nước là bất trung, chiến đấu mà không quên mình vì nước là bất dũng” [148,
tr.134]… Người đã chứng kiến sự bất lực của chính quyền phong kiến; nhìn nhận
và đánh giá sự thành công, thất bại của các phong trào cách mạng, của các xu hướng
cứu nước và tìm hướng đi riêng của bản thân mình. Người quyết định sang Pháp và
chính thực dân Pháp phải thừa nhận “con đường đi sang nước Pháp là con đường
chống lại nước Pháp”, bởi vì triết lí sống của Hồ Chí Minh lúc này “đồng bào tôi
được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập”. Sau này, Nguyễn Thế Truyền nhận định Hồ
Chí Minh là con người đầy tham vọng, nhưng tham vọng giải phóng anh em bị
thoát khỏi vòng nô lệ, giải phóng nhân dân thoát cảnh bóc lột dã man của bọn thực
dân. Có tham vọng nào cao quý hơn thế không?... Ngực anh không có huân chương.
Túi anh không có ngân phiếu của chính phủ. Nhưng anh mang nguyện vọng của
nhân dân và niềm hi vọng của một dân tộc bị áp bức.
Thời kì ở Huế, trước những biến cố của lịch sử dân tộc và đời sống chính trị xã
hội, cùng với sự mở rộng vốn hiểu biết, óc quan sát, tư duy phê phán, Hồ Chí Minh
nhìn nhận, đánh giá thực tiễn xã hội, vận mệnh của đất nước và cuộc sống của đồng
bào. Anh thấy được bức màn dối trá bao trùm cảnh đế đô và toàn bộ đất nước. Thảm
họa diệt vong của dân tộc đặt ra cho Người những suy nghĩ tích cực về con đường
cứu nước, cứu dân cùng lòng căm thù quân cướp nước và bọn tay sai bán nước. Hồi
ức của những người sống cùng thời cho phép khẳng định sự định hình một phong
cách sống, thế giới quan và nhân sinh quan cách mạng tích cực của Nguyễn Tất
Thành. Cụ Phạm Gia Cần, con trai cụ Phạm Khắc Doãn làm biên tu ở Quốc Sử Quán
Huế, học cùng lớp với Bác Hồ ở trường Pháp - Việt Đông Ba kể rằng:
Có dịp được theo chân anh lên vùng lăng tẩm của các bậc đế vương, tôi
bỗng lạ lùng trước sự hiểu biết của anh. Anh kể về Tự Đức và chuyện
xây Vạn Niên Cơ của ông ta. Anh bùi ngùi: “Máu xương dân lính phải
đổ ra vì lăng tẩm nhà vua khi đời sống dân mình đã xác xơ mà giặc ngoài
thì giương sẵn nanh vuốt”. Nhìn những lớp người vãn cảnh, đi lại, anh
Côn nói với tôi: “Người ta đến không phải để xem các vua có được mồ
118
yên mả đẹp hay không mà cốt để thưởng ngoạn cảnh có núi, có sông,
thưởng ngoạn vẻ đẹp của thiên nhiên có sự góp sức của con người”. Như
để kết thúc buổi đi chơi, anh Côn nói: “Anh biết không, người ta nói Huế
là nơi “Tang tóc mỉm cười, vui tươi thổn thức”. Lời mỉa mai dí dỏm này
tưởng cũng không quá đáng khi Huế còn là nơi ngự trị của bọn đế vương,
quý tộc cả người Pháp và người Việt” [71, tr.109].
Cụ Lê Thước, người cùng quê, học trên Nguyễn Tất Thành một lớp, kể rằng:
Đường từ nhà anh Côn sang trường phải qua cửa dinh Khâm sứ. Đó là con
đường chúng tôi thường đi. Người ta đã cố tránh, nhưng hằng ngày, những
cảnh tượng về lối sống lố lăng, phè phỡn của bọn Tây đầm thực dân diễn
ra trước cổng tòa biệt thự ấy vẫn lộ liễu làm chướng tai, gai mắt. Có bạn
lắc đầu: “Sao mà khó chịu làm vậy!”. Một bạn khác phàn nàn: “Chúng
chẳng coi thuần phong mỹ tục của mình ra cái gì!”. Anh Côn thong thả.
Giọng anh có phần đanh lại: “Ta phải tìm xem cái gì đẻ ra lối sống ấy. Có
phải cái đó cũng là căn do làm cho dân ta khổ” [71, tr.118-119].
Sự chia sẻ của cụ Phạm Gia Cần và cụ Lê Thiện cho thấy, ngay từ những ngày
ở Huế, Hồ Chí Minh đã có bao nhiêu suy nghĩ, bao nhiêu trăn trở trước thực tiễn xã
hội. Đối với Anh, kẻ thù của dân tộc Việt Nam không chỉ là thực dân Pháp mà cả
bọn phong kiến tay sai.
Thời kì ở Huế, chính phong cách sống, lối sống đoàn kết cộng đồng của người
Huế, cùng với đời sống văn hóa vật chất và tinh thần của văn hóa Huế, tiếp tục hun
đúc ở Hồ Chí Minh những phẩm chất đạo đức, chuẩn mực cần thiết, để hình thành
một phong cách sống gần dân, yêu thương và đoàn kết nhân dân; lối sống giản dị,
thanh cao vì dân vì nước... Các đặc trưng đó sau này trở thành nền tảng của một
nhân cách lớn - danh nhân văn hóa lớn của dân tộc.
3.2.2. Biểu hiện của nhân cách Hồ Chí Minh về trí tuệ
3.2.2.1. Trí tuệ mẫn tiệp, thông minh, cần cù, ham học hỏi
Trí tuệ của Hồ Chí Minh không chỉ được hình thành bởi các phẩm chất cá
nhân của Người, mà còn là kết quả từ sự ảnh hưởng của môi trường văn hóa - giáo
dục tại những nơi Người đã sống và học tập.
119
Từ khi vào học trường Pháp - Việt Đông Ba, Hồ Chí Minh sớm bộc lộ tư chất
thông minh, ham học hỏi của mình. Người “có óc quan sát, không nhìn lẻ loi một
việc gì mà thường đặt sự việc ấy trong hoàn cảnh của nó” [184, tr.57]. Cụ Lê Thiện -
người bạn học cùng lớp cours supérieur (tức lớp cao đẳng, lớp nhất) thuật lại: “Học
trong lớp, nghe thầy giảng Pháp văn trò Côn hay ghi chú bằng chữ hán. Côn học giỏi
những không học gạo. Học môn gì anh cũng cặn kẽ. Nếu thầy trả lời chưa thỏa mãn,
anh hỏi cho đến lúc ngã ngũ mới thôi. Hán văn anh giỏi nhất lớp, môn Pháp văn
không có anh học trò Nghệ nào bằng anh” [184, tr.139-140]. Đến cuối năm 1907, Hồ
Chí Minh là một trong bảy học sinh được chọn nộp đơn thi và đã đỗ primaire (Tiểu
học) để vào Nhất niên trường Quốc Học, trong đó có Lê Thiện, Nguyễn Đình Cảnh,
Nguyễn Viết Nhuận, Nguyễn Xuân Yến, Phan Văn Quế, Trần Kinh.
Khi sang học trường Quốc Học, để trau dồi vốn Tiếng Pháp, Hồ Chí Minh
“hay đi chơi với những người giỏi Pháp văn, những người nói tiếng Pháp hay để
anh nói cho đúng”, “sức học của anh Côn ở Quốc Học xuất sắc hơn trước. Trí nhớ
của anh phát triển một cách lạ thường” [184, tr.141-142], “về Hán học thì học trò
Nghệ (anh em Nguyễn Tất Đạt và Nguyễn Tất Thành) khi nào cũng trội hơn” [22,
tr.155]. Thầy Queignec trong một lần trả luận đã cầm bài của Côn giới thiệu với học
sinh cả lớp rằng: “Côn a traité le sujet de rédaction en vers. C’est un élève
intelligent et vraiement distingué” [183, tr.142] (tạm dịch: Trò Côn đã làm cái đề
luận này bằng thơ, đây là một học sinh thông minh và xuất chúng).
Hồ Chí Minh là người có chí lớn, có hoài bão cứu nước theo hướng khác
với những con đường thất bại cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Người đã sớm có ý
định sang Pháp và các nước Phương Tây để tìm hiểu tình hình, đặng tìm lấy một
phương sách nào đó để cứu nước. Và trong tác phẩm Những mẩu chuyện về đời
hoạt động của Hồ Chủ tịch, tác giả Trần Dân Tiên đã đưa ra những thông tin về
việc Hồ Chí Minh phê phán các con đường cứu nước đầu thế kỉ XX của Việt
Nam. Sự “phê phán” đó thể hiện tư duy độc lập, tự chủ và trí tuệ mẫn tiệp của
người thanh niên trẻ tuổi. Tuy nhiên, để có sự phân định sáng suốt đó, Hồ Chí
Minh phải hội đủ tư chất thông minh, sáng dạ với khả năng tư duy độc lập, tự
chủ, trí tuệ mẫn tiệp của mình.
120
3.2.2.2. Nhạy cảm với cái mới, khát khao tìm hiểu và linh hoạt trong việc
thâu hóa các giá trị văn hóa
Bên cạnh tư chất thông minh, Hồ Chí Minh là một người giàu ý chí học tập,
khát khao học tập, rất nhạy cảm với cái mới… Chính bản tính đó đã giúp Người đến
và tiếp thu những giá trị văn hóa tiến bộ. Anh ham đọc sách nhiều đến độ theo đến
nơi làm việc của cụ Phạm Khắc Doãn ở Quốc Sử Quán [71, tr.105]. Hồ Chí Minh
rất sáng dạ và nhanh trí, anh chăm chỉ học cả chữ Quốc ngữ và chữ Pháp vì đó là
cách duy nhất để giải quyết vấn đề quan trọng nhất của dân tộc Việt Nam lúc bấy
giờ - Muốn đánh Pháp thì phải hiểu Pháp, muốn biết Pháp thì phải học chữ Pháp.
Hồ Chí Minh là người nhạy cảm với cái mới, luôn luôn có tư tưởng đổi mới,
hướng tới cái mới. Điểm này thể hiện tư chất thông minh và đồng thời cũng là sự
nổi trội của những người tự học thành tài. Học tập là một quá trình luôn luôn được
nạp thêm, cập nhật thêm những tri thức mới nhằm phát huy năng lực của mỗi con
người khi ứng xử với mọi điều trong cuộc sống. Theo lời kể của cụ Hồ Đắc Định
(em trai của cụ Hồ Đắc Quỳnh, người giỏi Hán văn và Pháp văn):
Lúc mới vào học trường Pháp Việt Đông Ba trình độ Pháp văn của anh
Côn còn kém lắm. Từ điển rất hiếm và học sinh chưa có thói quen tra từ
điển. Gặp chữ gì khó hiểu anh Côn cũng hỏi thầy. Một hôm mới vào lớp
anh Côn thấy dòng chữ kẻ phía trên tấm bảng đen trước mặt, anh đứng
dậy hỏi thầy: “République Francaise, Liberté - Égalité - Fraternité” nghĩa
là gì, thưa thầy?...
Cuối cùng anh tôi giở từ điển ra xem và đọc nguyên văn bằng tiếng Pháp
cho anh Côn và cả lớp đều nghe. Nghe xong anh Côn vẫn chưa thỏa mãn.
Hết giờ anh Côn và một số học sinh đi theo yêu cầu thầy giáo giải nghĩa
thêm bằng tiếng Việt nữa. Khi anh hiểu mấy chữ ấy rồi thì anh rất thích
thú. Anh nói với bạn bè anh sẽ học tiếng Pháp cho thật giỏi để hiểu được
văn minh, lịch sử nước Pháp. Ngoài giờ học ở trường, anh còn xin đi học
cours du soir (lớp chiều) với thầy Ưng Dự… [184, tr.148-149].
Khi vào trường Quốc Học Huế, Hồ Chí Minh được học với thầy Lê Văn
Miến. Thầy là người có ảnh hưởng rất lớn đối với Nguyễn Tất Thành. Mỗi lần dạy
121
Thầy thường dành lại mười phút để kể chuyện văn minh cho học sinh nghe. “Trò
Côn nghe thầy Miến kể những chuyện ấy rất thích thú, trò thích hơn cả việc học
vẽ. Có lần trò hỏi thầy giáo: Làm sao có thể qua Pháp để xem người Pháp họ sống
ra sao?” [184, tr.154]. Nhiều bạn học cùng với Hồ Chí Minh lúc còn niên thiếu đã
nhận định: “Việc dạy dỗ của thầy là một yếu tố quan trọng trong việc hình thành
tư tưởng sang phương Tây chứ không sang phương Đông của Chủ tịch Hồ Chí
Minh thời trẻ” [53, tr.54]. Việc không đi theo tiếng gọi của Phong trào Đông Du,
nghĩa là không sang Nhật Bản học tập mặc dù được cụ Phan Bội Châu tích cực
vận động; không xuất dương sang Trung Quốc, Thái Lan… mà lại sang Pháp và
các nước Phương Tây thì chứng tỏ Hồ Chí Minh là người có đầu óc phân tích, phê
phán rất nhạy bén. Mẫn cảm với thời cuộc, nhạy với cái mới, kiên định về nguyên
tắc nhưng nhất quyết không cứng nhắc, Hồ Chí Minh rất uyển chuyển, mềm dẻo,
ứng xử đúng đắn, phù hợp khi tình hình biến chuyển, hoặc khi tình hình đã có
nhiều điểm mới.
Sự nhanh nhạy của Hồ Chí Minh đối với cái mới không có nghĩa là Người
thay đổi liên tục các quan điểm của mình. Thay đổi theo cái mới của Hồ Chí Minh
lại luôn luôn được Người đặt trên cái nền vững chắc của những vấn đề cơ bản có
tính nguyên tắc. Cái gì thấy đúng, trước sau vẫn đúng, thì Người vẫn luôn kiên trì
giữ vững, trước sao thì sau vẫn vậy, không hề nao núng. Đó là biện chứng tư duy và
hành động Hồ Chí Minh. Cái nhanh nhạy, cái kiên trì, hay nói cách khác là cứng rắn
về nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược, luôn luôn sáng tạo… đó là những phẩm chất
cực kỳ quan trọng, cần thiết đối với nhà hoạt động chính trị chuyên nghiệp đồng
thời là nhà văn hóa như Hồ Chí Minh. Đó là nhân cách nổi trội của lãnh tụ Hồ Chí
Minh, của một con người luôn luôn ham học hỏi và đặc trưng nhân cách đó sớm
được hình thành khi người sống trong khoảng thời gian ở Kinh đô Huế.
Một trong những nhân tố làm nên nhân cách Hồ Chí Minh là sự nhạy cảm với
cái mới, đầu óc phê phán tinh tường, linh hoạt trong việc tiếp biến các giá trị văn
hóa. Chính nhờ các nhân tố chủ quan này, Hồ Chí Minh đã hóa thân vào dân tộc và
nhân loại, làm thăng hoa chính dân tộc và thời đại mình, để lại dấu ấn không phai
mờ trong lịch sử phát triển của nhân loại.
122
Trước khi ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh được trang bị nền tri thức
văn hóa Quốc học, Hán học và sớm tiếp thu những tri thức Tây học. Theo sách
Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Hồ Chí Minh tự học bằng
việc mượn những cuốn sách nhỏ từ những người bạn làm việc trên tàu, học tiếng
Pháp khi làm vườn cho ông chủ tàu ở Saint Adresse, vào ngày nghỉ anh học tiếng
Anh với một giáo sư người Ý. Hồ Chí Minh đã tranh thủ thời gian và học với bất kỳ
người nào, ngoài những cuộc đi xem để học, anh không thích chơi bời gì khác.
Trước đó, khi còn học ở Huế, anh tự học bằng những giờ học thêm với những thầy
giáo như Ưng Dự, Lê Văn Miến, Hoàng Thông.
Hồ Chí Minh là người rất chịu khó học hỏi, tiếp thu những giá trị văn hóa tinh
tuý nhất của dân tộc Việt Nam, từ đó làm nền tảng tiếp thu tinh hoa văn hóa thế
giới. Sức học của Anh rất phi thường bởi chịu sự chi phối của ý chí muốn hiểu thế
giới từ những giá trị. Ngay cả cụ Phan Châu Trinh - một người rất kiệm lời khen,
trong thư viết cho Hồ Chí Minh, thừa nhận: “Thực tình, từ trước tới nay, tôi không
khinh thị anh mà ngược lại, tôi còn cảm phục anh nữa là đằng khác”, Anh là “cây
đương lộc, nghị lực có thừa, dày công học hỏi, lý thuyết tinh thông”. Đó là những
lời đánh giá của cụ Phan Châu Trinh dành cho Hồ Chí Minh - những lời đánh giá
đồng thời là những lời khen không dễ gì mà có được ở Phan Châu Trinh.
Ngoài ra, khi nghiên cứu Hồ Chí Minh chúng ta có thể nhận thấy Người có
khả năng biến những giá trị văn hóa tiếp thu được, đúc kết nó thành những vấn đề
có hệ thống như là một học thuyết rồi tổ chức hoạt động thực tiễn biến chúng thành
hiện thực. Hồ Chí Minh không làm con số cộng các luồng tư tưởng, các học thuyết,
các lí luận, các tinh hoa văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa thế giới, mà là chung
đúc chúng lại làm thành cái riêng ở Hồ Chí Minh. Do đó, ở Hồ Chí Minh, chúng ta
không thấy sự kinh viện trong các bài nói, bài viết, trong lối tư duy của Người, trái
lại là một sự thông tuệ đặc biệt.
3.2.2.3. Tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, nhãn quan chính trị đúng đắn
trong việc đánh giá và lựa chọn con đường cứu nước
Hồ Chí Minh còn có nhãn quan chính trị thiên tài trong việc lựa chọn con
đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX,
123
Việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược. Từ đó, các cuộc chống thực dân Pháp ở Việt
Nam liên tiếp nổ ra. Nhãn quan chính trị của Nguyễn Tất Thành nằm ở chỗ đánh giá
đúng ưu nhược điểm của các phong trào yêu nước, bản chất của bè lũ thực dân và
vương triều phong kiến, cũng như sức mạnh của nhân dân.
Đầu tiên và tiêu biểu nhất là phong trào Cần Vương nằm trong hệ tư tưởng
phong kiến. Phong trào này chỉ tồn tại trong vòng khoảng mười năm thì kết thúc
trước đàn áp của thực dân Pháp. Đến đầu thế kỉ XX, các phong trào yêu nước mới
xuất hiện, mới cả lãnh đạo lãnh đạo, tính chất, hệ tư tưởng và mới cả về cách thức
tổ chức lực lượng. Mục tiêu của các cuộc đấu tranh cơ bản giống nhau, đó là chống
thực dân Pháp để giành lấy độc lập, tự do cho Tổ quốc, để cởi bỏ ách áp bức ngoại
bang. Tuy nhiên, khuynh hướng phát triển đất nước sau khi hoàn thành những cuộc
cách mạng của các cuộc đấu tranh hoàn toàn khác nhau. Chống Pháp rồi để thiết lập
một chế độ chính trị gì, xây dựng nhà nước Việt Nam như thế nào, tập hợp lực
lượng nào, theo sự chỉ dẫn của hệ tư tưởng nào thì hoàn toàn khác nhau.
Phong trào Cần Vương mượn danh nghĩa nhà vua để lật nhào sự thống trị của
thực dân Pháp rồi lại trở lại củng cố chế độ phong kiến đã hết thời thì là không hợp
xu thế. Thay thế phong trào Cần Vương là những phong trào theo hệ tư tưởng tư
sản, do các nhân sĩ, trí thức yêu nước đứng ra khởi xướng và lãnh đạo. Dù thực dân
Pháp và phong kiến Việt Nam cố tình bưng bít, nhưng tư tưởng dân chủ tư sản vẫn
tuồng vào Việt Nam, thổi bùng ngọn lửa đấu tranh theo các hình thức, nội dung
mới. Ảnh hưởng của tư tưởng tư sản qua các phong trào yêu nước của các sĩ phu
phong kiến chuyển làn sang tư tưởng tư sản ở Việt Nam đầu thế kỉ XX khá rõ nét.
Tiêu biểu nhất là ảnh hưởng từ Nhật Bản rồi sinh ra phong trào Đông Du gắn liền
với tên tuổi Phan Bội Châu. Ông lập ra Duy Tân Hội (1904), mong muốn dựa vào
một nước Nhật Bản đồng chủng, đồng văn để chấn hưng dân tộc. Cụ Phan Bội Châu
muốn có một nền dân chủ cộng hòa, muốn bạo động đánh đổ chế độ phong kiến.
Đối với Phan Châu Trinh, ông muốn lập ra một chế độ đại nghị tư sản, nhưng
phương pháp khác hẳn cụ Phan Bội Châu, đó là “bất bạo động, bạo động tắc tử”
(Không bạo động, vì bạo động là chết). Cụ và các cộng sự của mình hoạt động không
mệt mỏi để hiện thực hóa mục tiêu “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” (Khai
124
dân trí: bỏ lối học tầm chương trích cú, mở trường dạy học chữ Quốc ngữ, kiến thức
khoa học thực dụng, bài trừ hủ tục xa hoa. Chấn dân khí: thức tỉnh tinh thần tự lực tự
cường, mọi người giác ngộ được quyền lợi của mình, giải thoát được nọc độc chuyên
chế. Hậu dân sinh: phát triển kinh tế, cho dân khai hoang làm vườn, lập hội buôn, sản
xuất hàng nội hóa…). Các phong trào yêu nước theo mục tiêu đó như: Duy Tân
(1906-1908), Đông Kinh Nghĩa Thục (1907) phát triển mạnh mẽ…
Có thể nói rằng, các phong trào yêu nước mới do ảnh hưởng của các luồng tư
tưởng mới là những khai sáng, đổi mới có hiệu quả đối với xã hội Việt Nam phong
kiến tăm tối lúc bấy giờ. Tuy nhiên, cả phong trào bạo động vũ trang của cụ Phan
Bội Châu, cho đến phong trào có tính chất ôn hòa, bất bạo động của cụ Phan Châu
Trinh đều bị thực dân Pháp đàn áp dã man.
Tư duy phê phán của Hồ Chí Minh qua nhận xét các phong trào yêu nước cho
chúng ta thấy rằng, Người đã có nhãn quan chính trị tinh tường về thời cuộc. Với
khả năng tư duy độc lập, linh hoạt, sáng tạo và tầm nhìn xa, Hồ Chí Minh đã vượt
qua “sự hạn chế” về tầm nhìn và phương pháp đấu tranh của các chí sĩ tiền bối trong
việc tìm kiếm con đường cứu nước và giải phóng dân tộc. Hồ Chí Minh đã xác định
đúng phương hướng và phương thức cứu nước, kiên trì và dũng cảm thực hiện lí
tưởng cao đẹp giành độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Năm 1908, Hồ Chí Minh thấy rõ sự hạn chế “chưa biết tổ chức và chưa có tổ
chức” từ sự thất bại của phong trào kháng thuế của nhân dân Trung kỳ. Thất bại của
các cuộc kháng Pháp do các sĩ phu yêu nước khởi xướng, đến xu hướng cứu nước
mới của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh… đã giúp Người thấy con đường cách
mạng, phương pháp đấu tranh của các bậc tiền bối không phù hợp với thực tiễn cách
mạng Việt Nam, ý thức hệ phong kiến và tư sản “không có khả năng vạch ra giải
pháp đấu tranh phù hợp với hoàn cảnh lịch sử và xu thế phát triển của thời đại”.
Người rất khâm phục họ nhưng không tán thành con đường cứu nước nào, cũng như
từ chối con đường Đông Du theo lời mời gọi của cụ Phan Bội Châu vào năm 1905,
vì theo Hồ Chí Minh con đường cứu nước của Hoàng Hoa Thám còn nặng cốt cách
phong kiến đã không thể dẫn tới thắng lợi, con đường cầu viện Nhật Bản của Phan
Bội Châu chẳng khác gì “đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”, còn con đường cải
125
lương của Phan Châu Trinh chẳng khác gì “xin giặc rủ lòng thương”. Đúng như
Trần Văn Giàu nhận định: “Nguyễn Tất Thành không đi Phồn Xương, tuy đó là con
đường ngắn nhất. Không đi Nhật, tuy có các bậc chú bác khuyến khích. Không đi
Hoa Nam, tuy ở đó có cách mạng Tân Hợi đang bước vào giai đoạn “cử đồ đại sự”.
Trong ba đường ấy, Nguyễn Tất Thành không chịu một con đường nào” [53, tr.81].
Từ sự phân tích trên ta có thể thấy, Hồ Chí Minh có một “cái nhìn khác”, một
nhãn quan đầy sức phê phán trong nhận thức về kẻ thù và con đường cứu nước.
Người đã mạnh dạn “khước từ” cái sai để đi tìm cái đúng, từ chối, từ bỏ cái lạc hậu,
lỗi thời để đi tìm cái tiên tiến, phù hợp với thời đại. Đó là sự vượt qua những lối
mòn cũ kĩ để đi tìm cho được con đường mà dân tộc cần đi; là sự khẳng định một
bản lĩnh, một khả năng suy nghĩ độc lập và sáng tạo mà lịch sử đang đòi hỏi và là
bước ngoặt quan trọng khi Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước.
Cũng từ những năm tháng trên quê hương và sự ảnh hưởng của các giá trị văn
hóa dân chủ, tiến bộ phương Tây, đặc biệt là tư tưởng “Tự do, Bình đẳng, Bác ái”
của cách mạng Pháp, cho nên và hẳn nhiên nước Pháp đã trở thành tâm điểm cuốn
hút Hồ Chí Minh trong hành trình tìm đường cứu nước. Hồ Chí Minh muốn tìm
hiểu sự thật về nước Pháp, về chủ nghĩa thực dân Pháp đang trực tiếp thống trị Việt
Nam và “khi tôi độ 13 tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp Tự do, Bình
đẳng, Bác ái... Tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những
gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy” [92, tr.461]. Đây là một sự lựa chọn đúng đắn cả
về hướng đi và cách đi so với những nhà cách mạng tiền bối, thể hiện sự nhạy cảm
và sáng tạo độc đáo trong suy nghĩ và hành động của Hồ Chí Minh.
126
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Không gian văn hóa Huế với những đặc trưng và giá trị vốn có của nó đã ảnh
hưởng mạnh mẽ đến sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh thời trẻ. Đó là sự tác
động đa chiều của nhiều yếu tố, từ những biến động lịch sử của vương triều phong
kiến, đến những thay đổi của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội của đất
Thừa Thiên Huế.
Trước những tác động mạnh mẽ của không gian văn hóa Huế, nhân cách Hồ
Chí Minh được định hình khá rõ nét. Đầu tiên là những phát triển nhân cách về đạo
đức, được thể hiện qua sự tự ý thức về trách nhiệm của Nguyễn Tất Thành trước
thực cảnh đất nước mất độc lập, nhân dân mất tự do; hình thành tinh thần tự tôn dân
tộc, hoài bão cách mạng và chí hướng cứu nước; trăn trở, cảm thông trước sự cùng
khổ của đồng bào, từ đó hình thành tư tưởng đấu tranh cho hạnh phúc của đồng bào;
hình thành phong cách sống và nhân sinh quan cách mạng, nhìn nhận và đánh giá
đúng bản chất của chủ nghĩa thực dân và phong kiến tay sai, tinh thần dân tộc của
các vị vua trẻ tuổi và các trung thần yêu nước, các phong trào yêu nước và sức
mạnh của quần chúng nhân dân.
Bên cạnh đó, không gian văn hóa Huế còn góp phần bồi dưỡng nhân cách Hồ
Chí Minh về trí tuệ, giúp Người có bước phát triển mạnh mẽ về trí tuệ và nhãn quan
chính trị, đặc biệt trong vấn đề đánh giá và lựa chọn con đường cứu nước. Người là
học trò xuất sắc, có tư duy độc lập, khả năng phân tích đặc biệt nên đã vượt qua “sự
hạn chế” về tầm nhìn và phương pháp đấu tranh của các chí sĩ tiền bối trong việc
tìm kiếm con đường cứu nước và giải phóng dân tộc. Người mạnh dạn “khước từ”
cái sai để đi tìm cái đúng, từ chối cái lạc hậu, lỗi thời để đi tìm cái tiên tiến, phù hợp
với thời đại. Người giàu ý chí học tập, khát khao học tập, rất nhạy cảm với cái mới.
Vì vậy, Người đến với giá trị tiêu biểu nhất văn minh phương Tây, văn hóa Pháp -
“Tự do, Bình đẳng, Bác ái” đầy tự nhiên.
127
Chương 4
Ý NGHĨA CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN
NHÂN CÁCH HỒ CHÍ MINH CHO CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA KHÔNG GIAN VĂN HÓA
HUẾ ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH HỒ CHÍ MINH
Từ sự phân tích những vấn đề liên quan đến nhân cách Hồ Chí Minh và không
gian văn hóa Huế ở chương 2; những ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự
hình thành nhân cách Hồ Chí Minh và biểu hiện của nhân cách Hồ Chí Minh từ sự tác
động của không gian văn hóa Huế trong chương 3, luận án có thể rút ra một số nhận
xét về ảnh hưởng của không văn hóa Huế đến sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh
như sau:
4.1.1. Không gian văn hóa Huế góp phần hình thành tình cảm, tư tưởng
và hành động yêu nước, vun đắp tinh thần dân tộc và lí tưởng cứu nước, cứu
dân của Hồ Chí Minh
Bản chất con người được hình thành và phát triển trong những hoàn cảnh cụ
thể, trong môi trường xã hội và những giai đoạn lịch sử nhất định mà con người
tham gia hoạt động thực tiễn. Bản chất con người không phải là cái khép kín mà vận
động, biến đổi theo sự biến đổi, tác động của hoàn cảnh, môi trường sống, thông
qua sự tiếp nhận và chuyển hóa của mỗi cá nhân.
Thực tiễn mười năm sống ở Huế, không gian văn hóa Huế với đặc trưng vốn
có đã vun đắp những giá trị sống, hình thành nhân cách Hồ Chí Minh, góp phần
quan trọng làm chuyển biến nhận thức, tư tưởng, hành động của Người. Tình cảm
yêu nước, thương dân được hun đúc, lí tưởng cứu nước cứu dân được hình thành,
cùng với thực tiễn hòa mình vào cuộc sống, thực tiễn đấu tranh và sự giúp đỡ, cưu
mang, đùm bọc của bà con xóm giềng, Người đã đứng về phía đồng bào, bênh vực
và đấu tranh cùng với họ, biểu hiện rõ nhất là Người đã tham gia phong trào chống
thuế ở Trung Kỳ (4/1908).
Trong sự tác động đa chiều của không gian văn hóa Huế, đặc biệt là sự lĩnh hội
giá trị văn hóa dân tộc, truyền thống đấu tranh bất khuất kiên cường, tinh thần đoàn
128
kết và những tư tưởng tiến bộ của văn hóa Pháp qua Tân thư, Tân văn, Hồ Chí Minh
đã chống Pháp một cách trực tiếp, tham gia vào phong trào cắt tóc ngắn, phong trào
Duy Tân, cổ xúy cho việc xây dựng đời sống mới, tham gia phong trào chống sưu
thuế, chống đi phu để ủng hộ đồng bào. Hồ Chí Minh đã có sự chuyển biến quan
trọng từ nhận thức và tình cảm yêu nước đến hành động yêu nước. Chính những hoạt
động cách mạng đầu tiên đó đã nung nấu ý chí tìm ra con đường cứu nước trong Hồ
Chí Minh, mở ra thời kì “dấn thân” cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc.
Mười năm ở Huế, kế tục truyền thống văn hóa xứ Nghệ, những giá trị của
không gian văn hóa Huế và thực tiễn đời sống xã hội Huế những năm cuối thế kỉ
XIX đầu thế kỉ XX đã tạo dựng cơ sở cần thiết cho sự hình thành và phát triển nhân
cách Hồ Chí Minh theo đúng tinh thần “xã hội sản sinh con người” của Karl Max.
Theo đó, nhân cách Hồ Chí Minh chính là sự ý thức về độc lập dân tộc, yêu nước
gắn với thương dân, đấu tranh để giải phóng đồng bào, đấu tranh để nhân dân có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
4.1.2. Không gian văn hóa Huế góp phần hình thành cho Hồ Chí Minh thế
giới quan, lập trường vững vàng trong việc xác định con đường cứu nước
Để hình thành một thế giới quan, nhân sinh quan cách mạng, cũng như xác lập
lập trường tư tưởng đòi hỏi phải có sự kết hợp giữa các nhân tố tác động từ bên
ngoài với những phẩm chất cá nhân đặc biệt bên trong mỗi con người, trước hết là
một tư chất thông minh, khả năng tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo.
Thực tiễn sống gần mười năm ở Huế, những điều kiện về văn hóa giáo dục, sự
ảnh hưởng của các bậc nhân sĩ, trí thức yêu nước và thực tiễn đầy biến động, đã
giúp Hồ Chí Minh hình thành quan điểm, lập trường, dấu ấn riêng có của cá nhân
trong các mối quan hệ xã hội, trong nhận thức về con đường cứu nước.
Trong khoảng thời gian ở Huế, nhờ có nhãn quan chính trị tinh tường nên Hồ
Chí Minh thấy rõ sự bạc nhược của quan lại trước âm mưu của thực dân Pháp dẫn
đến mất nước, nhân dân mất tự do. Bên cạnh sự bạc nhược đó, Người cũng đã
chứng kiến những làn sóng đấu tranh mạnh mẽ của nhiều tầng lớp yêu nước, từ bậc
vua quan trung thần, chí sĩ cách mạng cho đến quần chúng nhân dân đang bị đọa
đày đau khổ. Đó là những tấm gương sáng về tinh thần ái quốc, tự tôn dân tộc, tuy
129
nhiên sự thất bại của các phong trào yêu nước chứng minh cho Hồ Chí Minh thấy
chí hướng và con đường cách mạng của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh không
phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Người rất khâm phục họ nhưng không
tán thành con đường cứu nước nào. Do đó, Hồ Chí Minh không đi Phồn Xương, tuy
đó là con đường ngắn nhất, không đi Nhật, tuy có các bậc chú bác khuyến khích,
không đi Hoa Nam, tuy ở đó có cách mạng Tân Hợi đang bước vào giai đoạn “cử
đồ đại sự”. Cả ba đường ấy, Nguyễn Tất Thành không theo một con đường nào.
Bên cạnh đó, trong những yếu tố cấu thành văn hóa Huế, những người thầy có
tinh thần dân tộc, yêu nước như Hoàng Thông, trí thức Tây học Lê Văn Miến cùng
với giá trị của văn hóa Pháp, điển hình là tư tưởng “Tự do, Bình đẳng, Bác ái” đã
ảnh hưởng đến việc hình thành chí hướng cách mạng và lựa chọn con đường cứu
nước của Hồ Chí Minh. Việc dạy dỗ của những người thầy yêu nước ấy là một
trong những nhân tố quan trọng đối với việc hình thành tinh thần tự tôn dân tộc, đấu
tranh vì độc lập tự do cho dân tộc và đồng bào.
Lập trường cá nhân và óc phê phán của Hồ Chí Minh còn được thể hiện ở
chỗ Người muốn ra nước ngoài, nhưng không phải sang phương Đông, mà sang
phương Tây, xem nước Pháp và các nước khác, rồi trở về giúp đồng bào mình. Đó
là một quyết định đúng đắn, có tính cách mạng, quyết liệt, thể hiện nhãn quan
chính trị, tư duy độc lập của một người thanh niên giàu lòng nhiệt huyết và yêu
nước chân chính.
4.1.3. Không gian văn hóa Huế góp phần hình thành ở Hồ Chí Minh năng
lực hành động cách mạng, đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho
đồng bào
Nước mất, nhà tan, dân nô lệ là bối cảnh đất nước khi Nguyễn Tất Thành sinh
ra và lớn lên. Từ quê hương Nam Đàn - Nghệ An cho đến kinh đô Huế đâu đâu
cũng diễn ra cảnh thực dân Pháp và bè lũ tay sai áp bức, bóc lột nhân dân ta. Ở đâu
có áp bức thì ở đó có đấu tranh, Trung Kỳ những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ
XX diễn ra hàng trăm cuộc đấu tranh lớn nhỏ. Thực tiễn đó từng ngày tác động đến
nhận thức và làm chuyển hóa hành động yêu nước của Hồ Chí Minh. Người khi bắt
đầu lớn lên ở cái nôi của phong trào yêu nước, bằng sự học tập của bản thân, sự gần
130
gũi của quần chúng lao động và nhờ sự tác động của phong trào chống Pháp năm
1908, bắt đầu hoạt động cách mạng. Louis Arnoux - trùm mật thám Pháp xác nhận:
“Cuộc đời này (Hồ Chí Minh) như vậy là bắt đầu trong không khí bất công, oán hận
và phẫn nộ căm thù chống lại nước Pháp” [172, tr.34].
Hơn thế nữa, lối sống cố kết cộng đồng trước những khó khăn của đời sống
vật chất và những biến cố lịch sử, đặc biệt là sự sẻ chia, đùm bọc của nhân dân
Thừa Thiên Huế đối với gia đình Nguyễn Sinh Sắc trong những năm tháng khó
khăn, đã giúp Hồ Chí Minh không chỉ thấy được bản chất tốt đẹp của con người xứ
Huế, để từ đó đứng về phía đồng bào, đấu tranh bênh vực và giải phóng đồng bào,
mà còn định hình trong Người chuẩn mực đạo đức cách mạng - nền tảng của phong
cách và nhân cách Hồ Chí Minh.
Những năm tháng ở Huế, không gian văn hóa Huế đã định hình ở Hồ Chí
Minh ý thức độc lập dân tộc năng lực nhận thức và hành động, từ việc “sớm hiểu
biết và rất đau xót trước cảnh thống khổ của đồng bào” đến dấn thân, hòa mình
cùng đấu tranh với đồng bào. Chính từ cuộc sống được đùm bọc, yêu thương của
đồng bào, đến việc chứng kiến sự cùng khổ của nhân dân đã nung nấy trong Người
ý chí đấu tranh đuổi thực dân Pháp, giải phóng nhân dân, giành cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc cho đồng bào đang bị đọa đày đau khổ.
4.1.4. Không gian văn hóa Huế giúp Hồ Chí Minh đánh giá đúng sự vận
động và phát triển của dân tộc và thời đại, nhận thức được bản chất của chủ
nghĩa thực dân, phong kiến, vai trò của các phong trào yêu nước và sức mạnh
của quần chúng nhân dân
Ngay tại Kinh đô Huế, Hồ Chí Minh với lòng yêu nước thương dân và một
nhãn quan chính trị sắc sảo đã nhận thấy dã tâm xâm lược, âm mưu chia rẽ, đồng
hóa dân tộc của thực dân Pháp. Chứng kiến cảnh thực dân Pháp mượn danh “khai
hóa văn minh” để “giăng thép gai họa đồ nước Nam” đã giúp Người nhận thức rõ
hơn, sâu sắc hơn bản chất của chủ nghĩa thực dân, đó chỉ là “trò bịp lớn”, là “bọn cá
mập”, là “con đĩa hai vòi” như sau này Người kết luận. Hồ Chí Minh cũng hiểu rõ
hơn sự bạc nhược của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn, mặc dù vẫn còn một số
131
vua quan, trung thần yêu nước nhưng không thể cứu nước và giải phóng dân tộc
theo cách cũ.
Với việc tham gia tích cực vào phong trào đấu tranh của nhân dân Thừa Thiên
Huế, Hồ Chí Minh thấy rõ tinh thần đoàn kết của nhân dân là sức mạnh quật khởi
lật nhào mọi thế lực đi ngược lại quyền lợi của đồng bào, dân tộc. Từ thực tiễn sinh
động ở Thừa Thiên Huế nói riêng và thực tiễn cách mạng Việt Nam nói chung, Hồ
Chí Minh đã rút ra kết luận:
Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, ở một nước thuộc địa nhỏ, với sự lãnh
đạo của giai cấp vô sản và đảng của nó, dựa vào quần chúng nhân dân
rộng rãi trước hết là nông dân và đoàn kết được mọi tầng lớp nhân dân
yêu nước trong mặt trận thống nhất,[…], nhân dân nước đó nhất định
thắng lợi [103, tr.31-32].
Với kết luận này, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ hai vấn đề: Một là, cách mạng giải
phóng dân tộc khỏi ách áp bức của đế quốc, thực dân phải có sự lãnh đạo của giai
cấp vô sản và đảng của nó chứ không phải là những phong trào tự phát của quần
chúng nhân dân, cũng không phải là xu hướng bạo động hay cải cách hòa bình như
Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh từng khởi xướng; Hai là, cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng, vì vậy phải dựa vào nhân dân, phải đoàn kết mọi giai tầng
yêu nước vào tổ chức (Mặt trận). Theo đó, quần chúng nhân dân phải được tổ chức,
phải có tổ chức, phải có “điểm tựa” để mưu những cuộc cách mạng lớn.
4.1.5. Không gian văn hóa Huế góp phần giúp Hồ Chí Minh hình thành
năng lực xã hội hóa, thể hiện ở sự chiếm lĩnh tri thức và các luồng tư tưởng
mới trong đấu tranh chống kẻ thù xâm lược
Từ vốn kiến thức ban đầu làm cơ sở cho những hoạt động thực tiễn yêu nước
đầu tiên, Hồ Chí Minh đã sớm thích nghi, thích ứng, hòa nhập, linh hoạt trong môi
trường xã hội Huế những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX nhiều biến động.
Những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, Thừa Thiên Huế là trung tâm
chính trị, văn hóa, xã hội của Việt Nam nên các giá trị văn hóa phương Đông và
phương Tây (đặc biệt là văn hóa Pháp) và các luồng tư tưởng mới thông qua Tân
thư, Tân văn du nhập vào nước ta, thổi bùng ngọn lửa đấu tranh giành độc lập dân
132
tộc của nhân dân ta. Lúc này, Hồ Chí Minh với sự mẫn cảm chính trị đặc biệt, tầm
nhìn và nhận thức của một thanh niên yêu nước, đã tiếp xúc các giá trị của văn hóa
Quốc học, Hán học và Tây học. Từ sự ảnh hưởng của các giá trị văn hóa, đặc biệt là
văn hóa Pháp, Hồ Chí Minh đã quyết định sang phương Tây theo tinh thần “muốn
đánh Pháp thì phải hiểu Pháp, muốn hiểu Pháp thì phải học chữ Pháp”. Đó là một
quyết định đúng đắn từ việc chọn hướng đi, cách đi và con đường đi, một quyết
định mà chính nước Pháp phải công nhận rằng: “sang nước Pháp, học văn hóa Pháp
chính là con đường chống lại nước Pháp”.
4.2. Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA KHÔNG GIAN
VĂN HÓA HUẾ ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI
SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH HỒ CHÍ MINH CHO CON NGƯỜI VIỆT NAM
HIỆN NAY
Triết học mácxít cho rằng, sự hình thành và phát triển nhân cách là do hai
nhân tố quyết định: nhân tố bên ngoài - những yếu tố xã hội, tính quyết định xã hội
và nhân tố bên trong - tính tích cực của chính cá nhân. Trong quá trình đó, các yếu
tố bên trong và yếu tố bên ngoài thường xuyên tác động lẫn nhau và vai trò của mỗi
yếu tố đó thay đổi trong từng giai đoạn phát triển của mỗi người. Do đó, nghiên cứu
đề tài ảnh hưởng của không gian văn hóa Huế đến sự hình thành nhân cách Hồ Chí
Minh có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc chứng minh tính đúng đắn của lí
luận Mác - Lênin về nhân cách con người được hình thành và phát triển từ tồn tại xã
hội và phản ánh tồn tại xã hội.
Từ kết quả phân tích ở chương 3, chúng ta có thể thấy rằng, trong quá trình
sống gần mười năm, trước những ảnh hưởng, tác động của không gian văn hóa Huế,
Hồ Chí Minh tích lũy được những kinh nghiệm sống, niềm tin, thói quen… dựa trên
các chuẩn mực xã hội để điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp thực tiễn xã hội.
Không chỉ thế, Hồ Chí Minh còn dựa vào những cái phẩm chất cá nhân đặc biệt,
những kinh nghiệm của mình để đánh giá, tiếp nhận hay gạt bỏ cái bên ngoài tác
động vào, đặc biệt là những tư tưởng tiến bộ của văn minh phương Tây và các con
đường, xu hướng cứu nước của các bậc tiền bội. Như thế, quá trình này luôn gắn
133
với năng lực tự đánh giá, tự ý thức của Hồ Chí Minh và do vậy, gắn với quá trình tự
giáo dục, quá trình thường xuyên tự hoàn thiện mình của Hồ Chí Minh.
Từ sự chỉ dẫn trên, để phát triển nhân cách Hồ Chí Minh trong đời sống hiện
nay cần phải làm rõ những giá trị của nhân cách Hồ Chí Minh, để từ đó vạch ra
những yêu cầu, nhiệm vụ và giải pháp phát huy giá trị, phát triển và lan tỏa nhân
cách Hồ Chí Minh.
4.2.1. Giá trị của nhân cách Hồ Chí Minh trong bối cảnh hiện nay
4.2.1.1. Giá trị lí luận
Đánh giá công lao to lớn của Hồ Chí Minh, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IV của Đảng (12-1976) đã ghi nhận: “Thắng lợi to lớn của sự nghiệp chống Mĩ, cứu
nước cũng như những trang sử chói lọi của cách mạng Việt Nam ngót nửa thế kỉ
nay mãi mãi gắn liền với tên tuổi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập và rèn
luyện Đảng ta, người khai sinh nền cộng hòa dân chủ Việt Nam, người vun trồng
khối đại đoàn kết dân tộc và xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, vị lãnh tụ
thiên tài của giai cấp công nhân và nhân dân ta, người anh hùng dân tộc vĩ đại,
người chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế”. Đại hội khẳng định: “Người
đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng nhân dân, thống nhất Tổ quốc,
cho sự nghiệp của Đảng và của dân tộc, làm rạng rỡ non sông đất nước ta, để lại cho
chúng ta và các thế hệ mai sau di sản bất diệt” [36, tr.10]. Từ khi Đảng ta khẳng
định ở Đại hội VII (6-1991), “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”, Đảng cũng đã nhấn
mạnh: “Trong thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý
báu của Đảng và của cả dân tộc” [37, tr.127]. Tuy nhiên, chỉ đến Đại hội IX (4-
2001), bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lí luận của Đảng mới
được phản ánh một cách rõ nét và sáng tỏ hơn khi Đảng ta khẳng định: “Tư tưởng
Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài
sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta” [39, tr.84].
Như vậy, từ những đánh giá của Đảng ta gắn với việc nghiên cứu Hồ Chí
Minh chúng ta có thể khẳng định được rằng thắng lợi của cách mạng Việt Nam gắn
liền với sự nghiệp cách mạng, phương pháp và nhân cách cao đẹp của Hồ Chí Minh.
134
Chính nhân cách và bản lĩnh Hồ Chí Minh đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến cách mạng
và dân tộc Việt Nam, thổi bùng ngọn lửa cách mạng, nhân lên nguồn sức mạnh phi
thường của dân tộc Việt Nam. Nhân cách trong di sản Hồ Chí Minh không chỉ có ý
nghĩa lịch sử mà còn mang giá trị tỏa sáng. Nhân loại đã viết về Người:
Ở con người Hồ Chí Minh, mỗi người đều thấy biểu hiện của nhân vật
cao quý nhất, bình dị nhất và được kính yêu nhất trong gia đình mình...
Nếu so sánh với vũ khí thì điều đó quan trọng không kém tất cả vũ khí
của Hạm đội 7... Hình ảnh của Hồ Chí Minh đã hoàn chỉnh với sự kết
hợp đức khôn ngoan của Phật, lòng bác ái của Chúa, triết học Mác, thiên
tài trong một dáng dấp rất tự nhiên [163, tr.109].
Nhân cách Hồ Chí Minh là sự kết tinh hài hòa những giá trị văn hóa truyền
thống của dân tộc và thời đại, của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó những nguyên
tắc, quan điểm về đạo đức, phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, vừa thể hiện
những phẩm chất, năng lực, vừa thể hiện bản lĩnh trí tuệ trong tư tưởng cách mạng
của Người. Người là hiện thân của sự thống nhất giữa động cơ chính trị cao cả với
phương pháp khoa học sáng suốt và đạo đức cách mạng trong sáng để toàn tâm toàn
ý phục vụ Tổ quốc, dân tộc, nhân dân và nhân loại. Ở con người Hồ Chí Minh toát
lên một nhân cách cao đẹp với “bản ngã mạnh mẽ, mãnh liệt, phi thường để rồi vô
ngã. Không một chút vị kỉ để vị tha. Cần kiệm liêm chính đầy đủ, vẹn toàn để chí
công vô tư đến suốt đời” [130, tr.375].
Nhân cách Hồ Chí Minh là hệ thống các chuẩn mực đạo đức, giá trị làm người
được Hồ Chí Minh tôi luyện, định hình và hoàn thiện trong thực tiễn đấu tranh cách
mạng, là “mẫu số chung của toàn dân tộc thay vì khoét sâu sự cách biệt, đặt tiến
trình xoáy trôn ốc đi lên của lịch sử trên căn bản quy tụ thay vì loại trừ” [171, tr.59].
Chính vì vậy, nhân cách Hồ Chí Minh là tài sản vô cùng quan trọng, là nền tảng tư
tưởng, lí luận cho công tác tư tưởng, tuyên truyền, giáo dục và xây dựng con người
Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
Nhân cách Hồ Chí Minh để lại dấu ấn trong mỗi con tim, khối óc của con
người Việt Nam và nhân dân yêu chuộng hòa bình trong suốt tiến trình lịch sử phát
triển của nhân loại. Những kết tinh đó được biểu hiện qua những chuẩn mực về đạo
135
đức, những nét đặc trưng về trí tuệ, phương pháp cách mạng và phong cách sống,
làm việc có giá trị to lớn góp phần xây dựng hệ chuẩn mực của con người Việt Nam
trong thời đại mới.
4.2.1.2. Giá trị thực tiễn
Nhân cách Hồ Chí Minh là các phẩm chất, năng lực, lí tưởng, ý chí kiên
cường, trí tuệ sáng suốt và tầm nhìn xa của một nhà tư tưởng, nhà hoạt động cách
mạng, nhà chính trị thiên tài, gắn với phương pháp và phong cách đặc biệt, có sức
hấp dẫn, lôi cuốn mạnh mẽ đối với quần chúng, được thể hiện qua phong cách, lối
sống của Người… Dưới sự dẫn dắt của tư tưởng, trí tuệ của Hồ Chí Minh, cách
mạng Việt Nam đã đạt được những kết quả vô cùng quan trọng trong công cuộc
thực hiện nhiệm vụ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn cách mạng Việt
Nam và thế giới đã chỉ ra rằng, nhân cách Hồ Chí Minh có ý nghĩa lịch sử và ý
nghĩa thời đại sâu sắc, không chỉ phản ánh thời đại, mà còn góp phần giải quyết
những vấn đề của thời đại, của thực tiễn đời sống đã và đang đặt ra.
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam gắn liền với trí tuệ, phương pháp cách
mạng và nhân cách Hồ Chí Minh. Chính nhân cách, đạo đức, trí tuệ Hồ Chí Minh
đã có ảnh hưởng lớn đến cách mạng Việt Nam, đến dân tộc và nhân dân Việt
Nam, đem lại cho cách mạng, nhân dân Việt Nam sức mạnh phi thường, đưa cách
mạng Việt Nam vượt qua các cuộc kháng chiến trường chinh chống Pháp và
chống Mĩ cứu nước. Do đó, nhân cách Hồ Chí Minh không chỉ mang ý nghĩa lịch
sử mà còn mang giá trị tỏa sáng. Hồ Chí Minh với tư tưởng, phương pháp cách
mạng, cùng với nhân cách cao đẹp đã soi đường cho Đảng và nhân dân ta vững
bước trên con đường thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh”.
Trong bối cảnh thế giới ngày nay, nhân cách Hồ Chí Minh giúp chúng ta nhận
thức đúng đắn những vấn đề lớn liên quan đến việc xây dựng và phát triển con
người - cơ sở vững chắc để thực hiện mục tiêu “độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội”. Người đã xây dựng lí tưởng cách mạng cho những thanh niên Việt
Nam yêu nước với 23 tư cách (thực ra là 23 chuẩn mực nhân cách) của người cách
mạng, các chuẩn mực đạo đức cách mạng để xây dựng con người Việt Nam mới,
136
làm cơ sở để gây dựng phong trào cách mạng, tổ chức đấu tranh cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc. Nhân cách, trí tuệ, phương pháp và phong cách của Người đã góp
phần quan trọng xây dựng được một Đảng cách mạng, chân chính, đoàn kết và
thống nhất. Do đó, Hồ Chí Minh mãi mãi sống với dân tộc, tư tưởng và nhân cách
cao đẹp của Người thấm sâu vào quần chúng nhân dân, chỉ đạo thực hiện có hiệu
quả những nhiệm vụ đối với thời đại.
4.2.1.3. Giá trị giáo dục, định hướng
Nhân cách Hồ Chí Minh với bản chất là hệ thống các phẩm chất, năng lực,
chuẩn mực đạo đức có vai trò giáo dục to lớn đối với cán bộ, đảng viên, học sinh,
sinh viên, nhân dân lao động. Trong lòng nhân dân Việt Nam và nhân loại tiến bộ,
Hồ Chí Minh là tấm gương của lòng nhân ái, tính giản dị và đức khiêm tốn phi
thường. Đồng thời, Người còn là tấm gương của tính quyết đoán, táo bạo… Người
là nguồn cổ vũ đối với nhân dân ngay từ hồi còn trẻ. Tấm gương của Hồ Chí Minh
là nguồn cảm hứng để cho con người không yếu đuối trong đấu tranh giành lấy
tương lai, để không dừng lại ở điều đạt được mà luôn luôn tiến lên phía trước.
Người là một con người kì diệu cho tất cả mọi thời đại, mọi người học tập, noi theo.
Nhân cách Hồ Chí Minh là tấm gương sáng ngời về ý chí cách mạng kiên
cường, tinh thần độc lập tự chủ, lòng yêu nước, thương dân tha thiết, đức cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư, tinh thần trách nhiệm, phương pháp cách mạng, tác
phong khiêm tốn, giản dị… Những phẩm chất đó vô cùng cao đẹp, cao thượng, có
giá trị giáo dục, cảm hóa, có sức lan tỏa, góp phần đào luyện đội ngũ cán bộ, đảng
viên, thanh niên, sinh viên trong chiến đấu, học tập và lao động sản xuất.
Nhân cách Hồ Chí Minh là tấm gương sáng để giáo dục, rèn luyện; là mẫu
mực, tiêu chuẩn cho sự xác định đúng sai, tốt xấu, phải trái. Suốt cuộc đời hoạt
động cách mạng, Người phấn đấu không ngừng nghỉ cho Đảng, cho cách mạng, hết
lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Người có ảnh hưởng lan tỏa sâu
rộng trong toàn Đảng và toàn dân. Từ tấm gương nhân cách Hồ Chí Minh, toàn
Đảng, toàn quân, toàn dân ta, đặc biệt là những cán bộ, đảng viên, học sinh sinh
viên ra sức tự tu dưỡng, tự rèn luyện, tự học tập để phấn đấu trở thành động lực
137
quan trọng trong xây dựng và phát triển đất nước, đồng thời thực hành nhân cách
Hồ Chí Minh trong các mối quan hệ sau:
+ Đối với Tổ quốc, phải tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng, suốt
đời phấn đấu, hi sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản. Người cách mạng, đặc biệt là cán bộ đảng viên “không một phút nào được
quên lí tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập cho chủ
nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và trên toàn thế giới”.
+ Đối với nhân dân, phải liên hệ mật thiết với quần chúng nhân dân, phát huy
quyền làm chủ tập thể và sức mạnh sáng tạo to lớn của quần chúng. Đảng có sức
mạnh, dân tộc có trường tồn, đất nước có phồn vinh hay không đều phụ thuộc vào
việc có giữ vững được mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng, phát huy vài trò của
nhân dân hay không. Muốn liên hệ gắn bó mật thiết với quần chúng và làm cho
quần chúng tin tưởng, phải nâng cao tinh thần phụ trách trước quần chúng, hết lòng
hết sức phục vụ nhân dân. Phải yêu kính nhân dân, tôn trọng quyền làm chủ, thành
tâm học hỏi nhân dân. Phải khiêm tốn, thật thà, gần gũi quần chúng, không được
kiêu ngạo... Phải luôn chăm lo đến đời sống của quần chúng, “chí công, vô tư” và
có tinh thần “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ.
+ Đối với Đảng, phải có ý thức tổ chức và kỉ luật, phục tùng nghiêm chỉnh kỉ
luật của Đảng, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Người đòi hỏi mỗi đảng
viên cần phải làm kiểu mẫu về phục tùng kỉ luật”. Người đã chỉ rõ bài học lịch sử
“nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục
vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và
lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”.
Do đó, tất cả cán bộ, đảng viên, dù ở cương vị khác nhau, làm công tác khác nhau,
cũng đều phải đoàn kết nhất trí để làm tròn nhiệm vụ, “giữ gìn sự đoàn kết nhất trí
của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
+ Đối với công việc, phải có năng lực để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Năng lực ở đây là sự thành thạo và hiểu biết về chính trị, giỏi về chuyên môn. Muốn
vậy, phải ra sức “học tập chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối, chính sách của Đảng,
học tập văn hóa, kỹ thuật và nghiệp vụ; không ngừng nâng cao trình độ chính trị, tư
138
tưởng và năng lực công tác của mình”. Vì chỉ có học tập lí luận Mác - Lênin mới
giữ vững lập trường, củng cố niềm tin, nâng cao hiểu biết và trình độ chính trị, từ đó
mới hoàn thành tốt nhiệm vụ và đạt được các mục đích của Đảng đề ra.
Nhân cách Hồ Chí Minh là những phẩm chất và năng lực có thực, gắn với
cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, được hình thành trên cơ sơ khoa học từ
giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại, từ các nhân tố khách quan và chủ quan
cộng gộp lại… Do đó, nhân cách Hồ Chí Minh giúp cho chúng ta có cơ sở khoa học
để sống, phấn đấu và hiện thực hóa giấc mơ của mình. Đối với học sinh sinh viên,
nhân cách Hồ Chí Minh là định hướng căn bản để hoàn thiện bản thân. Người là
tấm gương sáng ngời về tinh thần tự học, tự rèn luyện và trưởng thành qua thực tiễn
cuộc sống. Do đó, học sinh sinh viên học tập và làm theo nhân cách của Người, phải
“lấy tự học làm cốt”, “không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi”, phải
coi trọng trách nhiệm tự học của mỗi người, tự học thêm để làm chủ được tri thức.
Đất nước ta đang bước vào thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá
trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới đang diễn ra
mạnh mẽ, kinh tế tri thức ngày càng có vai trò nổi bật trong quá trình phát triển
lượng sản xuất. Điều này, đòi hỏi sinh viên phải tích cực, chủ động, tự học, học
thường xuyên, học suốt đời để chiếm lĩnh được hệ thống tri thức, kĩ năng nghề
nghiệp. Tinh thần tự học, học suốt đời và nhân cách Hồ Chí Minh về trí tuệ mãi mãi
là tấm gương sáng ngời soi rọi cho mỗi chúng ta phấn đấu, rèn luyện vươn lên góp
phần xây dựng nước ta trở thành một nước giàu mạnh.
4.2.2. Một số giải pháp phát triển nhân cách Hồ Chí Minh cho con người
Việt Nam hiện nay
Phát triển nhân cách Hồ Chí Minh trong bối cảnh hiện nay là vấn đề cấp bách,
có ý nghĩa quan trọng hàng đầu, tuy nhiên nó đã và đang đối mặt với nhiều vấn đề
khi đất nước hội nhập vào thế giới có nhiều biến động. Xu thế toàn cầu hóa, hòa
bình, hợp tác phát triển được mở rộng, kinh tế tri thức, con người ngày càng được
xem trọng. Tuy nhiên, nhân loại phải đối mặt với những thử thách lớn như chiến
tranh, mâu thuẫn sắc tộc và tôn giáo, xung đột vũ trang và khủng bố... Sự bất ổn về
139
kinh tế, chính trị, xã hội đã ảnh hưởng trực tiếp đến yếu tố con người và chiến lược
phát triển con người của các quốc gia dân tộc.
Ở Việt Nam, những thành tựu về kinh tế, chính trị giúp đất nước khẳng định vị
thế trên trường quốc tế, tạo các nguồn lực để hiện thực hóa mục tiêu độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, thực tiễn vẫn còn tồn tại những vấn đề bức xúc
trong nhân dân. Hội nghị lần thứ chín của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X
chỉ rõ tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa được khắc phục, đạo đức xã
hội bị suy giảm, sự buông lỏng, yếu kém trong quản lí của nhiều cấp, nhiều ngành,
trên nhiều lĩnh vực... làm tăng thêm bức xúc trong nhân dân, làm giảm lòng tin của
nhân dân đối với Đảng và Nhà nước [41, tr.63-64]. Do đó, đến Đại hội XII, Đảng ta
xác định nhiệm vụ trọng tâm, có tính chiến lược là: “Phát huy nhân tố con người
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức,
nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hóa lành
mạnh”. Trong đó, phải xây dựng mô hình nhân cách cho con người Việt Nam nói
chung, cho cán bộ, đảng viên, học sinh, sinh viên, thanh thiếu niên trong tình hiện
nay là vấn đề cấp bách, lâu dài. Tuy nhiên, mỗi thời kì cách mạng lại đòi những
phẩm chất và năng lực khác nhau. Có những phẩm chất của giai đoạn trước không
còn không còn phù hợp với giai đoạn hiện nay, có những năng lực hôm nay tốt hơn
nhưng lại chưa định hình rõ nét. Vì thế, việc xây dựng một hình mẫu nhân cách
chuẩn mực cho mọi con người Việt Nam trong tình hình mới vô cùng khó khăn.
Mặc dù khó, nhưng không có nghĩa là không làm được, từ kết quả nghiên cứu về
nhân cách Hồ Chí Minh và kết quả nghiên cứu của đề tài này, chúng ta có thể xây
dựng nhân cách Hồ Chí Minh trở thành hình mẫu nhân cách lí tưởng, với những
phẩm chất và năng lực rõ ràng, cụ thể, làm nền tảng cho công tác giáo dục, đào tạo
và bồi dưỡng con người Việt Nam trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước hiện nay. Đó là con người yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết,
cần cù, sáng tạo.
Chúng ta đều biết rằng, sự hình thành và phát triển nhân cách luôn bị quy định
bởi điều kiện kinh tế - xã hội. Sự phát triển của nhân cách với tư cách là sự phát
140
triển các phẩm chất xã hội của mỗi cá nhân cũng không nằm ngoài những quy định
khách quan của điều kiện kinh tế - xã hội hiện thời mà mỗi cá nhân đó là thành viên.
Bên cạnh đó, sự hình thành và phát triển nhân cách bị quy định bởi yếu tố văn hóa
của xã hội. Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc, quê hương, gia đình có tác
động mạnh mẽ đến sự hình thành những kiểu mẫu hành vi, đến sự đánh giá và
những tình cảm đạo đức trong sáng của nhân cách. Hiệu quả của giáo dục, với tính
cách là một nhân tố phát triển nhân cách phụ thuộc rất nhiều vào kĩ năng vận dụng
những giá trị truyền thống vào hoàn cảnh xã hội mới để phục vụ xã hội và bản thân
mỗi cá nhân. Nếu mỗi cá nhân khi sinh ra và lớn lên được sống, được tiếp nhận hệ
các giá trị, hệ các chuẩn mực trong văn hóa xã hội của dân tộc, mà các giá trị, chuẩn
mực này được phản ánh trong thế giới quan, trong hệ thống tri thức xã hội, trong
những chuẩn mực về pháp lý, đạo đức, thẩm mĩ... thì nhân cách của con người được
hình thành và phát triển một cách gián tiếp thông qua quá trình giáo dục và tự giáo
dục. Do đó, để hiểu rõ nhân cách Hồ Chí Minh, chúng ta không chỉ dừng lại nghiên
cứu không gian văn hóa Huế với cấu trúc và hệ giá trị của nó, mà cần tiếp tục
nghiên cứu các không gian văn hóa khác ở trong và ngoài nước, gắn với cuộc đời
hoạt động của Hồ Chí Minh. Đồng thời, để phát triển nhân cách Hồ Chí Minh,
chúng ta không chỉ quan tâm xây dựng các không gian văn hóa, với các thiết chế
nhân văn, tiến bộ, mà còn hoàn thiện hệ thống lí luận và giá trị của nhân cách Hồ
Chí Minh.
Từ kết quả nghiên cứu của luận án này, chúng tôi đưa ra một số khuyến nghị
nhằm phát huy các giá trị của không gian văn hóa Huế và phát triển nhân cách Hồ
Chí Minh trong cộng đồng xã hội nói chung và trong giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng
nhân cách học sinh, sinh viên nói riêng hiện nay như sau:
- Trước hết, xây dựng các môi trường, không gian văn hóa, phát huy giá trị
của các không gian văn hóa gắn với quá trình hình thành, phát triển nhân cách và
hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra rằng “xã hội sản sinh con người”, hay “bản
chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”, do đó, có thể hiểu các yếu tố cấu
thành một không gian văn hóa, các mối quan hệ xã hội, đặc biệt là các giá trị và
141
truyền thống văn hóa trong của các quốc gia, dân tộc, vùng miền góp phần quan
trọng hình thành nhân cách con người. Con người là chủ thể sáng tạo mọi giá trị văn
hóa, vật chất và tinh thần, vì vậy, muốn hình thành được nhân cách, con người phải
có một quá trình học hỏi, tự hoàn thiện lâu dài, thông qua giáo dục đào tạo và hoạt
động thực tiễn. Tuy nhiên, con người vừa là sản phẩm của hoàn cảnh, vừa là sản
phẩm của đời sống văn hóa xã hội, do đó cần phải xây dựng môi trường văn hóa với
những quan hệ xã hội và những giá trị văn hóa tốt đẹp, để nuôi dưỡng, bồi dưỡng và
phát triển nhân cách con người sinh trưởng trong xã hội đó. Từ sự chỉ dẫn trên, để
giáo dục bồi dưỡng nhân cách Hồ Chí Minh cho thế hệ trẻ, học sinh sinh viên, cần
phải bảo tồn, xây dựng và phát huy các giá trị của các không gian văn hóa nói
chung và không gian văn hóa Huế nói riêng.
Muốn thực hiện tốt việc phát triển nhân cách Hồ Chí Minh cho con người
Việt Nam hiện nay, một trong những yêu cầu cấp bách là phải tạo điều kiện cho
con người Việt Nam được sống và học tập trong những môi trường văn hóa,
không gian văn hóa lành mạnh. Khi môi trường sống, học tập và làm việc có văn
hóa thì nhân cách của con người có nhiều cơ hội thuận lợi để hoàn thiện, từ đó
công tác giáo dục lí tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống cho con người sẽ thuận
lợi và ngày càng đạt những kết quả tốt hơn. Nhận thức được tầm quan trọng đó,
trong Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương lần thứ chín, khóa XI, Đảng ta xác
định “xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia
đình, cộng đồng”, “mỗi địa phương, cộng đồng, cơ quan, đơn vị, tổ chức phải là
một môi trường văn hóa lành mạnh, góp phần giáo dục, rèn luyện con người về
nhân cách, lối sống”. Đến Đại hội XII, Đảng ta chủ trương: “xây dựng môi
trường văn hóa, đời sống văn hóa lành mạnh trong hệ thống chính trị, trong mỗi
địa phương, từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp,
khu công nghiệp và mỗi gia đình, góp phần giáo dục, rèn luyện con người về
nhân cách, đạo đức, lối sống”.
Trong quá trình xây dựng môi trường và không gian văn hóa phải phát huy
các giá trị nhân văn, dân chủ, tạo mọi điều kiện cho con người sống, học tập
trong bầu không khí lành mạnh, được hòa mình trong tập thể, có tình đồng chí,
142
bè bạn và tôn trọng lẫn nhau. Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động, giáo dục, nâng
cao nhận thức cho con người, đặc biệt là thế hệ trẻ về công tác xây dựng, quản lí
môi trường văn hóa; về vị thế của môi trường sư phạm, sức mạnh của văn hóa
môi trường đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Trong giáo dục, cần giáo dục thế
hệ trẻ nắm vững kiến thức và thực hành pháp luật, tôn trọng pháp luật, kỉ cương
xã hội theo tinh thần “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”. Xây dựng
môi trường mà trong đó tất cả mọi người cương quyết phê phán, tích cực đấu
tranh với những biểu hiện tiêu cực, tệ nạn xã hội… Giáo dục, vận động hình
thành các phong trào văn hóa mới, phong trào từ thiện xã hội, chung sức vì cộng
đồng, phong trào xây dựng đời sống văn hóa. Tổ chức và thu hút sinh viên vào
các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao. Giáo dục cho con người Việt
Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ biết gìn giữ, bảo tồn và phát huy truyền thống, bản
sắc văn hóa quý báu của dân tộc; ý thức ngăn chặn, bài trừ sự xâm nhập của các
văn hóa phẩm đồi trụy… Tạo cơ hội cho thế hệ trẻ có những không gian vui
chơi, giải trí lành mạnh, bổ ích.
- Thứ hai, xây dựng hệ thống tư liệu về nhân cách Hồ Chí Minh để phổ biến,
giáo dục nhân cách Hồ Chí Minh trong đời sống xã hội, làm cơ sở cho việc xây
dựng chuẩn mực giá trị con người Việt Nam thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế.
Để phát triển nhân cách Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay, bên cạnh việc
xây dựng các môi trường văn hóa, không gian văn hóa, thì cần phải hệ thống hóa tri
thức về nhân cách Hồ Chí Minh, đặc biệt là phải xây dựng môn học “Nhân cách Hồ
Chí Minh” với các chuyên đề cụ thể, thiết thực, phù hợp với từng đối tượng người
học và triển khai trong toàn hệ thống giáo dục Việt Nam. Và để nhân cách Hồ Chí
Minh lan tỏa trong xã hội, cần phải chọn lọc những nội dung nhân cách Hồ Chí
Minh để xây dựng tài liệu học tập, bồi dưỡng phù hợp với từng đối tượng, thành
phần xã hội. Bên cạnh đó, cần xây dựng hệ thống thông tin tư liệu, hình ảnh, phim
truyện về chủ đề nhân cách Hồ Chí Minh để thực hiện công tác tuyên truyền, giáo
dục trong mọi thành phần dân cư, đặc biệt là đội ngũ cán bộ đảng viên, các lớp bồi
dưỡng nhận thức, cảm tình Đảng.
143
Về nội dung giáo dục nhân cách Hồ Chí Minh, cần cụ thể hóa, thiết thực, hữu
ích, gắn với thực tiễn cuộc sống và các hoạt động giáo dục đạo đức, lối sống của các
tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội. Đổi mới chương trình học tập, bồi dưỡng, rèn
luyện theo hướng phù hợp với tình hình mới, chú trọng kết hợp giáo dục tri thức
gắn với rèn luyện bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống văn hóa, kĩ năng xã hội. Nhà
trường và các tổ chức đoàn thể cần thường xuyên nghiên cứu nắm bắt tình hình tư
tưởng, dư luận xã hội của học sinh sinh viên, những xu hướng, trào lưu mới trong
thể hệ trẻ để có những nội dung định hướng, giáo dục kịp thời và phù hợp, tránh
môi trường hình thành những biểu hiện xấu, tiêu cực trong nhân cách, đạo đức và
lối sống của sinh viên.
Từ việc nghiên cứu hệ thống tri thức về nhân cách Hồ Chí Minh, xây dựng
chuẩn mực giá trị con người Việt Nam thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế là nhiệm vụ cấp bách, hàng đầu, xuyên suốt của thời kì đổi mới. Do
đó, từ Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII đến Văn kiện Đại hội XII của Đảng, mô
hình con người Việt Nam được định hình rõ nét. Theo đó, con người Việt Nam
trong giai đoạn mới gồm năm đức tính chủ yếu là: (1) Có tinh thần yêu nước, tự
cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên
đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự
nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; (2) Có ý
thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung; (3) Có lối sống lành mạnh, nếp
sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỉ cương phép nước,
quy ước của cộng đồng, có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái; (4) Lao
động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kĩ thuật, sáng tạo, năng suất cao vì lợi
ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội; (5) Thường xuyên học tập, nâng cao
hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mĩ và thể lực. Chuẩn mực giá trị con
người Việt Nam trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế là:
“phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách
nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật… hiểu biết sâu sắc, tự
hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc.., tôn vinh cái đúng, cái đẹp, cao thượng, nhân
rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn”.
144
- Thứ ba, tổ chức học tập, đa dạng hóa các mô hình giáo dục, tuyên truyền,
phổ biến và lan tỏa các giá trị nhân cách Hồ Chí Minh trong toàn xã hội.
Phát triển nhân cách Hồ Chí Minh cho con người Việt Nam hiện nay, sau khi
đã xây dựng hệ thống tài liệu về Nhân cách Hồ Chí Minh, thì phải tổ chức học tập,
nghiên cứu trong toàn xã hội. Việc học tập nhân cách Hồ Chí Minh phải giúp mỗi
cán bộ, đảng viên và mọi người dân nhận thức đúng đắn về yêu cầu phải giữ gìn,
không ngừng tu dưỡng, rèn luyện nhân cách, đề cao tinh thần đoàn kết, tương thân,
tương ái, tính kỉ luật, dân chủ trong tập thể; luôn có ý thức trau dồi phẩm chất chính
trị, tư tưởng, phải thật sự là công bộc của dân, có quan hệ mật thiết với quần chúng
nhân dân. Trong công việc, người cán bộ phải nêu gương, thể hiện rõ thái độ dám
nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước tập thể, cấp dưới và nhân dân, biết tự
chỉ trích, tự phê bình để tiến bộ. Việc học tập nhân cách Hồ Chí Minh để nâng cao
nhận thức, vị trí, vai trò cho cán bộ, đảng viên phải được tiến hành thường xuyên, là
trách nhiệm của mọi tổ chức đảng và đưa vào nội dung sinh hoạt thường kì của mỗi
tổ chức đảng, đoàn thể và cơ quan, đơn vị.
Bên cạnh việc tổ chức học tập, phát triển nhân cách Hồ Chí Minh cho con
người Việt Nam trong thời kì mới cần phải đa dạng hóa các hình thức, trong đó giáo
dục và truyền truyền là giải pháp quan trọng hàng đầu, gắn với các sinh hoạt chuyên
đề, kể chuyện về tấm gương đạo đức, nhân cách Hồ Chí Minh, hội thi tìm hiểu và
sáng tác các ấn phẩm văn hóa nghệ thuật về nhân cách Hồ Chí Minh và phẩm giá
của con người Việt Nam trong thời đại mới...
Trong công tác giáo dục, tuyên truyền, phải đổi mới mạnh mẽ phương pháp,
khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo và thực
hành của người học. Thường xuyên tổ chức học tập tư tưởng và làm theo tấm gương
đạo đức, phương pháp, phong cách và nhân cách Hồ Chí Minh phù hợp với từng đối
tượng thanh niên và điều kiện hoạt động của từng địa phương, đơn vị và nhu cầu,
mong muốn của người học. Giáo dục cần kết hợp nhiều hình thức như: giới thiệu
chuyên đề, xem phim tư liệu, giao lưu với các nhân chứng lịch sử, đẩy mạnh các
hoạt động về nguồn…
145
Triển khai sâu rộng các nội dung lí tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống, nhân
cách gắn với phong trào hoạt động của các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội. Tiếp
tục thực hiện tốt và đẩy mạnh hơn nữa các cuộc vận động “Học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo
lời Bác”. Tăng cường giáo dục cuộc đời, tiểu sử, sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch
Hồ Chí Minh thông qua tổ chức các hoạt động nhân ngày lễ lớn, các sự kiện lớn liên
quan đến Người với các hình thức như: mít tinh, kỉ niệm, truyền thông nhóm, xem
phim tài liệu, thăm các địa chỉ đỏ, giao lưu với nhân vật lịch sử và các chuyên gia
nghiên cứu.
Phát huy, khai thác và sử dụng hiệu quả hệ thống báo chí, xuất bản, các công
cụ báo chí điện tử, trang thông tin điện tử của các tổ chức chính trị - xã hội của
Đảng, Nhà nước, các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội, tận dụng ưu thế tích cực
của các mạng xã hội trong việc tiếp cận và truyền đạt nội dung tuyên truyền định
hướng giáo dục nhân cách cho con người Việt Nam.
Trong giáo dục và tuyên truyền, phải chú trọng giải pháp nêu gương, phát huy
những hình tượng mẫu mực trong học tập, nghiên cứu và thực hành nhân cách Hồ
Chí Minh. Đây là phương pháp hiệu quả để giáo dục nhân cách cho con người Việt
Nam. Đảng, Nhà nước, nhà trường và các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội có thể
tổ chức giáo dục nhân cách học sinh sinh viên thông qua nêu gương người tốt, việc
tốt chính từ các phong trào thanh niên, trường học; nêu gương người tốt, việc tốt
trong xã hội, đặc biệt là sự gương mẫu của cha mẹ, thầy cô, của các cán bộ đoàn
thể; các hình tượng mẫu mực trong xã hội như: những lãnh tụ hết lòng vì nước vì
dân tài đức vẹn toàn, các nhà khoa học lỗi lạc, các nhà giáo tiêu biểu, nhà văn tên
tuổi, anh hùng lao động, chiến sĩ thi đua, người tốt việc tốt, những thủ lĩnh sinh
viên, sinh viên 5 tốt… Đẩy mạnh các hoạt động tôn vinh những sinh viên 5 tốt,
những sinh viên có lối sống đẹp, những sinh viên ưu tú; tham gia các hoạt động
nhân đạo từ thiện; hoạt động xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, giữ gìn an ninh
trật tự. Bên cạnh việc giáo dục nêu gương, còn nên kết hợp với việc chỉ ra và phê
phán những gương xấu để mọi người biết và tránh. Đặc biệt là cần giáo dục con
146
người Việt Nam thái độ phê phán với những hành vi, lối sống và suy nghĩ tiêu cực
trong xã hội.
- Thứ tư, phát huy vai trò, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, chủ động phối
hợp các tổ chức chính trị - xã hội để xây dựng các chương trình hành động, giáo
dục, tuyên truyền nhân cách Hồ Chí Minh cho con người Việt Nam.
Từ bài học về con đường hình thành nhân cách Hồ Chí Minh bằng quá trình tự
rèn luyện cho thấy người cán bộ, đảng viên phải phát huy tinh thần tự học, sự tự tin,
bình tĩnh, quyết đoán hướng tới mục tiêu không thay đổi thông qua những con
đường khác nhau, biết giành thắng lợi từng bước, đi tới đích cuối cùng. Trước yêu
cầu của thực tiễn cách mạng, phát triển nhân cách Hồ Chí Minh phải giữ vững bản
lĩnh chính trị, triệt để chống bệnh cơ hội dưới mọi hình thức, quyết tâm, suốt đời
phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân.
Rèn luyện nhân cách theo tấm gương nhân cách Hồ Chí Minh trong sự nghiệp
đổi mới hôm nay, đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đảng viên phải gắn bó mật thiết với dân;
nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm; phải biết chăm lo dân quyền, dân sinh, dân trí
và phát huy dân chủ. Đó là những người phải biết gần dân, học dân, hiểu dân; đặt
lợi ích của nhân dân lên trên hết; việc gì cũng bàn bạc và giải thích cho nhân dân
hiểu rõ; có khuyết điểm thì thật thà tự phê bình trước nhân dân và hoan nghênh
nhân dân phê bình mình; tự mình làm gương mẫu cần kiệm liêm chính, chí công vô
tư để nhân dân noi theo. Hơn bao giờ hết, noi theo tấm gương nhân cách Hồ Chí
Minh hiện nay, cán bộ phải dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, có
gan phụ trách, có gan làm việc. Điều chủ chốt nhất của phẩm chất đạo đức đối với
mỗi cán bộ, đảng viên là quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng,
hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, “việc gì lợi cho dân thì dù nhỏ mấy cũng phải
hết sức làm, việc gì hại cho dân thì dù nhỏ mấy cũng phải hết sức tránh”. Đó là
những cán bộ yêu dân, kính dân, trọng dân, thương dân, hiểu dân như là một đòi hỏi
khách quan trong quá trình cách mạng.
Một trong những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng là phải tạo ra các
phong trào quần chúng rộng rãi. Đối với việc giáo dục nhân cách Hồ Chí Minh
trong đời sống xã hội cũng không nằm ngoài quy luật ấy, nghĩa là phải tạo thành các
147
phong trào học tập, các chương trình tuyên truyền, giáo dục nhân cách Hồ Chí Minh
cho con người Việt Nam trong toàn xã hội thường xuyên, liên tục. Đó là cuộc thi
tìm hiểu, hùng biện, triển lãm các chuyên đề về tư tưởng, tấm gương đạo đức, nhân
cách Hồ Chí Minh. Đồng thời, phối hợp với nhà trường, gia đình và xã hội tăng
cường công tác giáo dục nhân cách sinh viên từ tấm gương nhân cách Hồ Chí Minh.
Bên cạnh đó, cần phát huy tính tích cực xã hội của mỗi cá nhân góp phần xây
dựng nhân cách cho con người Việt Nam. Khi bàn đến việc phát huy tính tích cực
xã hội của từng cá nhân phải tính đến việc giáo dục nhu cầu, giáo dục mục đích,
động cơ học tập, tu dưỡng, rèn luyện cho từng cá nhân. Theo đó, con người Việt
Nam muốn có một nhân cách trong sáng, trước hết mọi động cơ học tập và rèn
luyện của họ phải được xác định đúng đắn. Ngoài ra, cần chú trọng đến giáo dục
chủ nghĩa yêu nước, khơi dậy lòng tự tôn dân tộc, tinh thần cách mạng xã hội chủ
nghĩa, không những làm cho con người Việt Nam biết tự hào về truyền thống cha
ông, mà còn phải biết tự nỗ lực quyết tâm chấn hưng đất nước.
Như chúng ta đã biết, nhân cách chỉ được hình thành và phát triển thông qua
hoạt động của con người. Bởi bản chất con người, trong tính hiện thực của nó là
tổng hòa các mối quan hệ xã hội, mà những quan hệ xã hội lại chỉ có thể được bộc
lộ thông qua hoạt động của con người. Vì vậy, giáo dục để phát huy tính tích cực xã
hội của con người nói chung, thế hệ trẻ nói riêng góp phần quyết định đến quá trình
hình thành và phát triển nhân cách. Để giáo dục nhân cách cho con người Việt Nam,
các tổ chức đoàn thể cần chủ động phối kết hợp chặt chẽ với gia đình và xã hội để
phát huy vai trò của mình.
148
TIỂU KẾT CHƯƠNG 4
Từ kết quả nghiên cứu ở chương 3, có thể rút ra những nhận xét về ảnh hưởng
không gian văn hóa Huế đến sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh và những biểu
hiện của nhân cách Hồ Chí Minh như là một sản phẩm từ sự tác động của tồn tại xã
hội Huế như sau: Thứ nhất, không gian văn hóa Huế góp phần hình thành tình cảm,
tư tưởng và hành động yêu nước, vun đắp tinh thần dân tộc và lí tưởng cứu nước,
cứu dân của Hồ Chí Minh; Thứ hai, hình thành cho Hồ Chí Minh năng lực chủ thể
hóa, thế giới quan, thái độ chính trị - xã hội đúng đắn, lập trường vững vàng trong
việc xác định con đường cứu nước; Thứ ba, định hình ở Hồ Chí Minh năng lực hành
động, đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho đồng bào; Thứ tư, hình thành
năng lực xã hội hóa, thể hiện ở sự chiếm lĩnh tri thức mới; Thứ năm, giúp Hồ Chí
Minh đánh giá đúng sự vận động và phát triển của dân tộc và thời đại, nhận thức
được bản chất của chủ nghĩa thực dân, phong kiến, vai trò của các phong trào yêu
nước và sức mạnh của quần chúng nhân dân... Với những kết luận đó, luận án đã
góp phần làm rõ quan điểm cho rằng nhân cách con người được hình thành và phát
triển từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội.
Nhân cách Hồ Chí Minh là hệ thống các chuẩn mực đạo đức, giá trị làm người
được hình thành qua thực tiễn rèn luyện và đấu tranh không ngừng nghỉ của Người.
Chính vì vậy, nhân cách Hồ Chí Minh là tài sản vô cùng quan trọng, là nền tảng tư
tưởng, lí luận cho công tác tư tưởng, giáo dục và xây dựng con người Việt Nam
trong thời đại mới. Do đó, để phát triển nhân cách Hồ Chí Minh, cần phải xây dựng
và phát huy giá trị của các không gian văn hóa gắn với quá trình hình thành hoạt
động cách mạng của Hồ Chí Minh; xây dựng và phổ biến hệ thống tài liệu về nhân
cách Hồ Chí Minh trong đời sống xã hội; đa dạng hóa các mô hình tuyên truyền,
giáo dục nhân cách Hồ Chí Minh, chủ động tìm kiếm, lựa chọn, xây dựng các mô
hình tuyên truyền, giáo dục phù hợp với từng ngành nghề, từng đối tượng, từng cấp
học, bậc học trong hệ thống giáo dục Việt Nam để phổ biến, lan tỏa các giá trị nhân
cách Hồ Chí Minh cho toàn xã hội nói chung và thế hệ trẻ nói riêng; đồng thời, tích
cực phối hợp với các tổ chức chính trị xã hội, các đoàn thể để xây dựng chương
trình hành động, tuyên truyền, giáo dục nhân cách Hồ Chí Minh.
149
KẾT LUẬN
1. Sự hình thành và phát triển nhân cách Hồ Chí Minh là một quá trình lâu dài
và phức tạp. Trong quá trình đó, giữa các yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài, giữa
cái sinh học và cái xã hội thường xuyên tác động qua lại lẫn nhau. Trong quá trình
sống, Người tích lũy được kinh nghiệm sống, niềm tin, thói quen... và ngược lại, khi
tiếp nhận bất cứ việc gì, Người cũng dựa trên chuẩn mực xã hội để điều chỉnh hành
vi của mình cho phù hợp. Quá trình này luôn gắn với năng lực tự đánh giá, tự ý
thức, gắn với quá trình tự giáo dục, quá trình thường xuyên tự hoàn thiện mình của
Hồ Chí Minh.
2. Trong quá trình vận động và phát triển, Thừa Thiên Huế đã tự làm giàu bản
sắc văn hóa của mình bằng sự sáng tạo, giao thoa, tiếp biến các giá trị văn hóa để
hình thành một vùng văn hóa đặc trưng của Việt Nam - không gian văn hóa Huế.
Hồ Chí Minh thời niên thiếu với gần mười năm gắn bó, học tập, trải nghiệm và thực
sự trưởng thành trong mỗi bước suy nghĩ và hành động. Thực tiễn gần mười năm
sống và học tập ở Huế, không gian văn hóa Huế đã thẩm thấu và ảnh hưởng sâu sắc
đến nhận thức, hành động, đưa đến những quyết định “lạ lùng”, cũng như định hình
nhân cách người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành.
3. Những năm tháng ở Huế, Hồ Chí Minh đã chứng kiến cảnh nước mất, nhà
tan, đời sống nhân dân lầm than, tủi nhục dưới sự thống trị hà khắc của thực dân
Pháp. Anh cũng thấy rõ sự thất bại của những phong trào yêu nước của các tầng
lớp nhân dân, từ vua quan đến nhân sĩ, trí thức. Nhờ sự hòa mình trong cái nôi của
phong trào yêu nước, trưởng thành từ nền tảng giáo dục gia đình và sự miệt mài
học tập của bản thân, sự mẫn cảm đặc biệt, sự gần gũi với quần chúng lao động,
Nguyễn Tất Thành “bắt đầu hoạt động cách mạng”. Anh đã tự ý thức về trách
nhiệm của mình trước sự tồn vong của dân tộc; trăn trở, cảm thông với sự cùng
khổ của đồng bào, gắn bó với đời sống nhân dân. Đó chính là cơ sở để hình thành
hoài bão cách mạng và chí hướng cứu nước, tư tưởng đấu tranh cho hạnh phúc của
đồng bào, cũng như hình thành nhân cách của một con người mà sau này đã làm
rạng danh cả dân tộc.
150
Thời kì ở Huế, trước sự tác động của văn hóa Huế, đặc biệt là sự ảnh hưởng
của thực tiễn chính trị - xã hội và các giá trị văn hóa, từ tinh thần yêu nước thương
dân, tự tôn dân tộc của vua quan, nhân sĩ yêu nước, của những thầy giáo chân chính
đến quan điểm giáo dục của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc đã góp phần định hình
phong cách sống, triết lí sống và nhân sinh quan cách mạng cho người thanh niên
Nguyễn Tất Thành. Nhân cách Hồ Chí Minh thực sự được hình thành và phát triển
từ Huế, từ sự tác động đa chiều của văn hóa Huế. Như vậy, có thể kết luận rằng
nhân cách Hồ Chí Minh là tổng hòa các quan hệ xã hội văn hóa thông qua phẩm
chất cá nhân, là kết quả từ sự tác động đa chiều của lịch sử, xã hội, văn hóa và con
người của dân tộc và thời đại, biểu hiện qua cử chỉ, hành động, phong cách của Hồ
Chí Minh. Nhân cách của người thanh niên ưu tú Nguyễn Tất Thành không tách rời
quá trình tự ý thức và ý thức về sứ mệnh của chính mình mà nền giáo dục, điều kiện
sống của môi trường và xã hội xung quanh tác động đến.
4. Với kết quả nghiên cứu của luận án, chúng ta có thể thấy môi trường và
không gian văn hóa có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành và phát triển
nhân cách con người. Sự hình thành nhân cách Hồ Chí Minh từ những ảnh hưởng
của không gian văn hóa Huế rất rõ nét, được thể hiện qua những đặc trưng về đạo
đức và trí tuệ, về phẩm chất và năng lực của Hồ Chí Minh là minh chứng sống động
và cụ thể. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu của luận án này, chúng tôi mong muốn
tiếp tục phát huy và lan tỏa giá trị nhân cách Hồ Chí Minh trong đời sống văn hóa
xã hội, góp phần thực hiện tốt công tác giáo dục tư tưởng, tấm gương đạo đức và
nhân cách Hồ Chí Minh trong tình hình Đảng và Nhà nước ta đã và đang đẩy mạnh
cuộc vận động học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức, phương pháp và
phong cách của Hồ Chí Minh hiện nay.
151
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Văn Quang (2015), “Nét đặc sắc về trí tuệ trong nhân cách Hồ Chí
Minh”, Tạp chí Khoa học và Giáo dục Trường Đại học Sư phạm, Số 02
(34), tr.105-113.
2. Nguyễn Văn Quang (2015), “Đặc trưng nhân cách Hồ Chí Minh về trí tuệ”, Tạp
chí Khoa học Đại học Đồng Tháp, (14), tr.52-58.
3. Nguyễn Văn Quang (2016), “Đặc trưng nhân cách Hồ Chí Minh”, Kỷ yếu Hội
thảo khoa học Sinh viên và Cán bộ trẻ các trường Đại học Sư phạm toàn
quốc năm 2016, Nxb Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Phần II,
tr.1452-1460.
4. Nguyễn Văn Quang (2016), “Ảnh hưởng của các giá trị văn hóa Huế đến sự hình
thành tư tưởng yêu nước Hồ Chí Minh”, Tạp chí Khoa học Đại học Huế,
T.125, S.11, tr.173-181.
5. Nguyễn Văn Quang (2017), “Nhân cách Hồ Chí Minh và ý nghĩa đối với việc
giáo dục và rèn luyện cán bộ, đảng viên hiện nay”, Tạp chí Giáo dục lý
luận, (255), tr.17-21.
6. Nguyễn Văn Quang (2017), “Ảnh hưởng của văn hóa Huế đến sự hình thành nhân
cách Hồ Chí Minh”, Tạp chí Khoa học Đại học Huế, T.126, S.6, tr.95-102.
152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT
1. Ahn Kyong Hwan (2010), Chủ tịch Hồ Chí Minh qua cảm nghĩ của một người
Hàn Quốc, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế kỷ niệm 120năm ngày sinh
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
2. A. Pát-ti (1995), Why Vietnam? (Tại sao Việt Nam?), Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
3. Dương Văn An (2009), Ô châu cận lục, (Văn Thanh, Phan Đăng dịch), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Phan Thuận An (2005), Quần thể di tích Huế, Nxb Trẻ, Hồ Chí Minh.
5. Hoàng Anh (2014), Tỏa sáng nhân cách Hồ Chí Minh, tại trang
http://www.nxbctqg.org.vn/index.php?option=com_content&view=articl
e&id=4959:ta-sang-nhan-cach-h-chi-minh&catid=120:hc-tp-va-lam-
theo-tm-gng-o-c-h-chi-minh&Itemid=545, [truy cập ngày 17/12/2015].
6. Hoàng Anh (2014), Xây dựng con người Việt Nam theo Di chúc của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Hoàng Anh (2016), “Lý thuyết nhân cách trong triết học Mác”, Tạp chí Lý
luận chính trị và truyền thông, (6), tr.32-37.
8. Nguyễn Thế Anh (2008), Việt Nam thời Pháp đô hộ, Nxb Văn học, Hồ Chí Minh.
9. Nguyễn Thế Anh (2008), Phong trào kháng thuế ở miền Trung qua các châu
bản triều Duy Tân, Nxb Văn học, Thành phố Hồ Chí Minh.
10. Phạm Ngọc Anh (2011), “Hồ Chí Minh với hành trang và việc lựa chọn hướng
tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc”, Hội thảo khoa học Kỷ niệm
100 năm ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
11. Phạm Ngọc Anh (2014), Đặc trưng nhân cách Hồ Chí Minh - Giá trị và sức lan
tỏa, Tạp chí Tổ chức nhà nước - Bộ Nội vụ, tại trang http://tcnn.vn/
Plus.aspx/vi/News/125/0/1010087/0/8000/Dac_trung_nhan_cach_Ho_C
hi_Minh_gia_tri_va_suc_lan_toa, [truy cập ngày 27/10/2015].
153
12. Nguyễn Phúc Vĩnh Ba (2008), Lễ tế âm hồn thất thủ Kinh đô 23.5 (Ất Dậu) -
Một nét văn hóa độc đáo của xứ Huế, tại trang http://www.vanhoahoc.vn/
nghien-cuu/van-hoa-viet-nam/van-hoa-to-chuc-doi-song-ca-nhan/633-
nguyen-phuc-vinh-ba-le-te-am-hon-that-thu-kinh-do.html, [truy cập ngày
21/12/2015].
13. Lương Gia Ban, Hoàng Trang (2014), Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh với
việc xây dựng nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
14. Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Lao động Việt Nam (1970), Chủ tịch Hồ Chí Minh (Tóm tắt tiểu sử và sự
nghiệp), Nxb Sự thật, Hà Nội.
15. Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương (2002), Chủ tịch Hồ Chí Minh -
Tiểu sử và sự nghiệp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Đỗ Bang (2014), “Thừa Thiên Huế - Đất học và tài năng”, Tạp chí Huế Xưa &
Nay, (126), tr.73-82.
17. Đỗ Bang (2014), “Văn hóa Huế - Đặc điểm lịch sử và vấn đề bảo tồn, phát
triển”, Tạp chí Huế Xưa & Nay, (127), tr.51-58.
18. Huỳnh Công Bá (2008), Lịch sử Văn hóa Việt Nam, Nxb Thuận Hóa, Huế.
19. Bảo tàng Hồ Chí Minh (2008), Hồ Chí Minh Tiểu sử, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
20. Bảo tàng Hồ Chí Minh, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Thừa Thiên Huế, Bảo
tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế (2008), Kỷ yếu Hội thảo khoa học
“Nghiên cứu, xác minh tư liệu và di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh thời kì
1890 - 1911”, Nxb Thuận Hóa, Huế.
21. Bảo tàng Hồ Chí Minh, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Thừa Thiên Huế, Bảo
tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế (2013), Kỷ yếu Hội thảo khoa học
“Xác minh khoa học thông tin về những người thân của Chủ tịch Hồ Chí
Minh sống học tập, lao động và tham gia các hoạt động yêu nước ở
Huế”, Nxb Thuận Hóa, Huế.
154
22. Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế (2003), Âm vang thời Bác Hồ ở Huế,
Nxb Thuận Hóa, Huế.
23. Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế (2008), Phong trào kháng thuế của
nông dân miền Trung Việt Nam năm 1908 và sự tham gia đấu tranh của
anh Nguyễn Tất Thành (Chủ tịch Hồ Chí Minh) tại Thừa Thiên Huế, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
24. Lê Thanh Bình (2008), “Tân văn - Tân thư và ảnh hưởng của nó đến tư tưởng
yêu nước ở Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX”, Hội thảo khoa học Tư tưởng
triết học Việt Nam trong bối cảnh du nhập, Nxb Đại học quốc gia Hà
Nội, Hà Nội, tr.157-170.
25. Trần Thái Bình (2009), Hồ Chí Minh sự hình thành một nhân cách lớn, Nxb
Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
26. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2015), Quyết định số 410/QĐ-BGDĐT về việc Ban
hành Kế hoạch triển khai Quyết định số 1501/QĐ-TTg ngày
28/8/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Tăng cường giáo
dục lí tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống cho thanh niên, thiếu niên và
nhi đồng giai đoạn 2015 - 2020” của ngành Giáo dục.
27. C.P. Ra-giô (1970), Hồ Chí Minh, Nxb Đại học, Paris.
28. Lê Thanh Cảnh (1970), “Dưới mái trường Quốc Học”, Hoài niệm Quốc học,
tập II, Huế.
29. Lê Thanh Cảnh (2008), “Dưới mái tranh trường Quốc học những năm 1906-
1911”, Nghiên cứu Huế, Trung tâm nghiên cứu Huế, (6), tr.288-301.
30. Cô-bê-lép Ép-ghê-nhi Va-xi-lê-vích (2010), Đồng chí Hồ Chí Minh, Nxb
Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
31. Phạm Thị Dung (2009), Huế Qua miền di sản, Nxb Thuận Hóa, Huế.
32. Phạm Đức Thành Dũng (2014), Giới thiệu di sản văn hóa Huế, tại trang
http://www.hueworldheritage.org.vn/TTBTDTCDH.aspx?TieuDeID=35
&TinTucID=8&l=vn, [truy cập ngày 27/6/2015].
33. Phan Tiến Dũng (2015), “Văn hóa Huế trong dòng chảy văn hóa Việt”, Tạp
chí Văn hóa Huế, (30), tr.10-13.
155
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Chỉ thị số 42-CT/TW của Ban Bí thư
về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lí
tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ giai đoạn
2015 - 2030”, Hà Nội.
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp
hành Trung ương khóa X về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác thanh niên thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”,
Hà Nội.
36. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
37. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
38. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Văn kiện Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành
Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Nguyễn Văn Đăng (2016), “Một số dòng họ khoa bảng, làm quan tiêu biểu ở
Thừa Thiên Huế”, Tạp chí Huế Xưa & Nay, (133), tr.13-21.
44. Trần Kiêm Đoàn (2004), Vài nét về bản sắc văn hóa Huế, tại trang
http://trankiemdoan.net/butluan/vanhoc-nghethuat/vanhoahue.html, [truy
cập ngày 27/6/2015].
45. Phạm Văn Đồng (1994), Văn hóa và đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Phạm Văn Đồng (1998), Những nhận thức cơ bản về Tư tưởng Hồ Chí Minh,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
156
47. Bùi Minh Đức (2004), Từ điển tiếng Huế (tiếng Huế - người Huế - văn hóa Huế),
Nxb Văn học - Trung tâm nghiên cứu Quốc học, Thành phố Hồ Chí Minh.
48. Võ Nguyên Giáp (chủ biên) (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách
mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
49. Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam,
Nxb Khoa học xã hội, Thành phố Hồ Chí Minh.
50. Trần Văn Giàu (1993), Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỉ XIX đến
Cách mạng Tháng Tám, tập III - Thành công của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố
Hồ Chí Minh.
51. Trần Văn Giàu (1997), Sự hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
52. Trần Văn Giàu (2009), Vĩ đại một con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
53. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng (chủ biên) (2009), Vàng trong lửa - Chủ tịch
Hồ Chí Minh với miền Nam Tổ quốc, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí
Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
54. Trần Văn Giàu (2010), Hồ Chí Minh - Chân dung một tâm hồn và trí tuệ vĩ
đại, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
55. Bùi Thị Thu Hà (2009), Kể chuyện về cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, Nxb Từ
điển Bách khoa, Hà Nội.
56. Hồng Hà (2007), Thời thanh niên của Bác Hồ, Nxb Thông tấn, Hà Nội.
57. Phan Thanh Hải (2010), “Huế trong nghìn năm Thăng Long - Hà Nội”, Tạp
chí Huế xưa và nay, (101), tr.11-19.
58. Đỗ Đình Hãng (2007), Lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
59. Phạm Minh Hạc (2008), Nhân cách Hồ Chí Minh - Những giá trị thiết yếu trong
hệ giá trị Việt Nam, tại trang http://ihs.vass.gov.vn/noidung/tapchi/Lists/
CacNCTruoc2011/View_Detail.aspx?ItemID=99, [truy cập ngày 20/10/2016].
60. Nguyễn Hồng Hạnh (2011), “Chủ tịch Hồ Chí Minh và người Huế”, Tạp chí Văn
hóa Huế, (14), tr.6-8.
157
61. Nguyễn Xuân Hoa (2001), “Di sản văn hóa cố đô Huế”, Nghiên cứu Huế, Trung
tâm nghiên cứu Huế, (2), tr.72-78.
62. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2010), Di sản Hồ Chí Minh trong thời
đại ngày nay, Hội thảo quốc tế kỷ niệm 120 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí
Minh (19-5-1890 - 19-5-2010), Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
63. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2011), Hội thảo khoa học Kỷ niệm
100 năm ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước, Nxb Chính trị - Hành
chính, Hà Nội.
64. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh
- Biên niên tiểu sử, tập 1 (1890-1929) (2006), Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
65. Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Song Thành (chủ
biên) (2010), Hồ Chí Minh tiểu sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
66. Phạm Khắc Hòe (2010), Kể chuyện vua quan nhà Nguyễn, Nxb Thuận Hóa, Huế.
67. Hội đồng lý luận trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn
khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình tư
tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội.
68. Hội Khoa học Lịch sử Tỉnh Thừa Thiên Huế (2010), Thuận Hóa - Phú Xuân -
Thừa Thiên Huế - 700 năm hình thành và phát triển, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
69. Thanh Huế (2011), “Nơi đặt nền móng đầu tiên cho chặng đường cứu nước của
Hồ Chủ tịch”, Báo Giáo dục và Thời đại, tr.6.
70. Chu Trọng Huyến (2007), Kể chuyện về gia thế chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
71. Chu Trọng Huyến (2008), Chuyện kể từ Làng Sen, Nxb Văn học, Hà Nội.
72. Nguyễn Đắc Hưng (2009), Việt Nam văn hóa và con người, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
73. I-gơ-na-xi-ô Gôn-xa-lết Han-xen (2010), “Tinh thần Hồ Chí Minh ở Mỹ
Latinh”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế kỷ niệm 120 năm ngày sinh
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
158
74. Đinh Gia Khánh (1995), Các vùng văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
75. Nguyễn Thế Kiệt (2014), Triết học thẩm mĩ về nhân cách, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
76. Lady Borton (2003), Hồ Chí Minh - Một chân dung (bản dịch của Tạ Đức),
Nxb Thanh niên, Hà Nội.
77. Đinh Xuân Lâm (2001), “Về con đường cứu nước của Hồ Chí Minh”, Tạp chí
Lịch sử Đảng, (128), tr.10-13.
78. Đinh Xuân Lâm (chủ biên), Nguyễn Văn Khánh và Nguyễn Đình Lễ (2006),
Đại cương cương lịch sử Việt Nam, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
79. Leonchiev A.N. (2003), Hoạt động - Ý thức - Nhân cách, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
80. Phan Huy Lê (2008), Báo cáo đề dẫn tại Hội thảo khoa học Chúa Nguyễn và
vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XIX,
Nxb Thế giới, Hà Nội.
81. Phan Ngọc Liên (2014), Hồ Chí Minh từ nhận thức lịch sử đến hành động
cách mạng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
82. Lê Đình Liễn (1978), Tìm hiểu về quãng đời niên thiếu của Bác Hồ, Thông tin
khoa học, Đại học Tổng hợp Huế, Huế.
83. Lê Đình Liễn (1983), Vài nhận xét về phong trào kháng thuế của nhân dân
Thừa Thiên Huế năm 1908, Thông tin khoa học, (05), Đại học Tổng hợp
Huế, Huế.
84. Đỗ Long (chủ biên) (1995), Hồ Chí Minh - Những vấn đề tâm lí học, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
85. Đỗ Long (1998), Hồ Chí Minh - Những vấn đề tâm lí học, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
86. Thi Long (2010), Nhà Nguyễn chín chúa mười ba vua, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
87. Lê Nguyễn Lưu (2006), Văn hóa Huế xưa - Đời sống văn hóa gia tộc, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
88. Lê Nguyễn Lưu (2006), Văn hóa Huế xưa - Đời sống văn hóa làng xã, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
89. Lê Nguyễn Lưu (2006), Văn hóa Huế xưa - Đời sống văn hóa cung đình, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
159
90. Lê Nguyễn Lưu (2015), “Tinh thần hiếu học của cư dân Huế”, Tạp chí Huế
Xưa & Nay, (131), tr.55-58.
91. Mật thám Trung kỳ, Bộ hồ sơ Mật thám Pháp có liên quan đến gia đình và
thời niên thiếu của Nguyễn Ái Quốc (gồm 21 tài liệu, lưu tại Bảo tàng Hồ
Chí Minh Tỉnh Thừa Thiên Huế).
92. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
93. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
94. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
95. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
96. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
97. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
98. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
99. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
100. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
101. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
102. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
103. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
104. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
105. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 14, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
106. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
107. Trình Mưu (1994), “Hồ Chí Minh và sự chủ động sáng tạo trong việc lựa chọn
con đường cứu nước”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (57), tr.26-28.
108. N. Khơ-rút-sốp (1971), Hồi ký, Nxb Robert Lafont, Pari.
109. Bá Ngọc (2002), 79 mùa xuân Hồ Chí Minh, Nxb Nghệ An, Nghệ An.
110. Nguyễn Quang Ngọc (chủ biên) (2009), Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
111. Phan Ngọc (1998), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
112. Phan Ngọc (2006), Sự tiếp xúc văn hóa Việt Nam với Pháp, Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
113. Nguyễn Tri Nguyên (2006), Văn hóa tiếp cận lý luận và thực tiễn, Nxb Văn
hóa thông tin, Hà Nội.
160
114. Thái Công Nguyên (chủ biên) (1999), Huế - Di sản văn hóa thế giới, Trung
tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, Huế.
115. Trần Nhâm (2011), Hồ Chí Minh - Nhà tư tưởng thiên tài, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
116. Nguyễn Khắc Nho (2009), Hồ Chí Minh - Đỉnh cao truyền thống Nhân - Trí -
Dũng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
117. Không rõ tên (1982), Ông già Bến Ngự, Nxb Thuận Hóa, Huế.
118. Không rõ tên (2003), Những người bạn cố đô Huế, tập XVIII, năm 1931, Nxb
Thuận Hóa, Huế.
119. Hoàng Phê (chủ biên) (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
120. Nguyễn Khắc Phê (1995), Lê Văn Miến người họa sĩ đầu tiên, người thầy đầu
tiên, Nxb Thuận Hóa, Huế.
121. Bùi Đình Phong (2008), Hồ Chí Minh học và minh triết Hồ Chí Minh, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
122. Bùi Đình Phong (2015), Hồ Chí Minh học - Văn hóa soi đường cho quốc dân
đi, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
123. Đinh Phong (chủ biên) (1999), Huế đẹp - Huế thơ (Nhớ Huế - tập 4), Nxb Trẻ,
Thành phố Hồ Chí Minh.
124. Trần Nguyễn Khánh Phong (2016), “Truyền thống khuyến học nét đặc trưng
của văn hóa Huế”, Tạp chí Huế xưa và nay, (137), tr.19-30.
125. Nguyễn Văn Quang (2014), Giá trị của nhân cách Hồ Chí Minh đối với việc
giáo dục sinh viên Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế, Đề tài khoa
học công nghệ độc lập cấp trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế, Huế.
126. Quốc Sử Quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam nhất thống chí, tập 1 (bản dịch
của Viện sử học), Nxb Thuận Hóa, Huế.
127. Quốc Sử Quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập 1, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
128. Dương Kinh Quốc, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Sử học (2005),
Chính quyền thuộc địa ở Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám 1945
(Góp phần tìm hiểu cơ sở lịch sử - xã hội Việt Nam thời kì thực dân Pháp
thống trị), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
161
129. Quyết định số 143/2007/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt Đề án
xây dựng thành phố Huế thành phố Festival, Hà Nội, ngày 30/8/2007.
130. Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo (Đồng chủ biên) (2017), Nghiên cứu chủ thuyết
phát triển của Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc
gia Sự thật, Hà Nội.
131. Shiraishi Masaya (2000), Phong trào dân tộc Việt Nam và quan hệ của nó với
Nhật Bản và châu Á: Tư tưởng của Phan Bội Châu về cách mạng và thế
giới, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
132. Đặng Đức Siêu (2002), Hành trình văn hóa Việt Nam (giản yếu), Nxb Lao
động, Hà Nội.
133. Lê Quang Sơn (2010), “Những vấn đề của Tâm lí học nhân cách”, Tạp chí
Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng, (39), tr.83-92.
134. Trần Đức Anh Sơn (2008), Huế - Triều Nguyễn. Một cái nhìn, Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
135. Thành uỷ Huế (2010), Bác Hồ trong lòng dân Huế, Nxb Thuận Hóa, Huế.
136. Mạch Quang Thắng (chủ biên) (2010), Nhân cách Hồ Chí Minh, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
137. Mạch Quang Thắng (2013), “Nhân cách Hồ Chí Minh”, Tạp chí Lịch sử Đảng,
(6), tr.31-36.
138. Trần Ngọc Thêm (1996), Tìm hiểu bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Thành phố
Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
139. Trần Ngọc Thêm (2000), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
140. Ngô Đức Thịnh (2006), Văn hóa, văn hóa tộc người và văn hóa Việt Nam, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
141. Ngô Đức Thịnh (2009), Bản sắc văn hóa vùng ở Việt Nam, Nxb Giáo dục Việt
Nam, Hà Nội.
142. Dương Phước Thu (2005), “Không gian văn hóa Huế”, Tạp chí Sông Hương,
(196), tại trang http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c144/n1528/Khong-
gian-van-hoa-Hue.html, [truy cập ngày 20/8/2015].
143. Nguyễn Khắc Thuần (2012), Đại cương lịch sử văn hóa Việt Nam (Tập 5 - Văn
hóa Việt Nam thế kỉ XIX), Nxb Thời đại, Hồ Chí Minh.
162
144. Trịnh Trí Thức, Đỗ Thị Hòa Hới (2007), Sự chuyển biến của tư tưởng yêu nước
Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại nửa đầu thế kỉ XX, tại trang
http://philosophy.vass.gov.vn/nghien-cuu-theo-chuyen-de/Triet-hoc-Viet-
Nam/Su-chuyen-bien-cua-tu-tuong-yeu-nuoc-Viet-Nam-tu-truyen-thong-
den-hien-dai-nua-dau-the-ky-XX-377.html, [truy cập ngày 17/6/2015].
145. Nguyễn Thị Thường (2008), Giáo trình Văn hóa học, Nxb Đại học Sư phạm,
Hà Nội.
146. Nguyễn Yên Thy (2013), Làng Sen năm ấy, tại trang http://nld.com.vn/van-hoa-
van-nghe/lang-sen-thang-nam-55767.htm, [truy cập ngày 22/12/2015].
147. Trần Dân Tiên (1975), Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch,
Nxb Thanh niên, Hà Nội.
148. Trần Nam Tiến (chủ biên) (2008), 79 Câu hỏi đáp về thời niên thiếu của Bác
Hồ, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
149. Tiểu ban nghiên cứu Lịch sử Đảng tỉnh ủy Nghệ An (2002), Hồ Chí Minh thời
niên thiếu, Nxb Nghệ An, Nghệ An.
150. Trương Minh Trai (2010), Giáo trình Tổng quan Văn hóa Huế, Nxb Đại học
Huế, Huế.
151. Nguyễn Đài Trang (2010), Hồ Chí Minh - Tâm và tài của một người yêu nước,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
152. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia - Ủy ban quốc gia
UNESCO của Việt Nam (1995), Hội thảo quốc tế Chủ tịch Hồ Chí minh
- Anh hùng giải phong dân tộc, nhà văn hóa lớn, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
153. Trung tâm Nghiên cứu Quốc học (2005), Tiếng Huế - Người Huế & Văn Hóa
Huế, Nxb Văn học, Hà Nội.
154. Đặng Xuân Trừng (1996), “100 năm Trường Quốc học Huế”, Tạp chí Sông
Hương, (9), tr.2-4.
155. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
(1997), Tân thư và xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
163
156. Trường Quốc học - Sở Văn hóa Thông tin Thừa Thiên Huế (1990), Trường
Quốc học - Học sinh Huế với Bác Hồ (Đặc san Kỷ niệm 100 năm ngày
sinh Bác Hồ, Huế.
157. Trần Minh Trưởng (2009), Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu Đề tài cấp cơ
sở năm 2009, Ảnh hưởng của các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp
của dân tộc đến sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, Hà Nội.
158. Đào Thế Tuấn (2002), “Một vài ý nghĩa về bản chất văn hóa Huế”, Nghiên cứu
Huế, Trung tâm nghiên cứu Huế, (3), tr.39-43.
159. Từ điển triết học (1986), Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
160. Hoàng Phủ Ngọc Tường (1988), “Phác thảo về quá trình phát triển của văn hóa
Phú Xuân - Thời kì thành Hóa Châu”, Tạp chí Sông Hương, (30), tr.75-76.
161. Nguyễn Mạnh Tường (2001), Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
162. Vladimir N. Kolotov (2015), “Hệ tư tưởng Hồ Chí Minh - Hợp phần then chốt
của thắng lợi và cải cách thành công của Việt Nam”, Đặc san Hồ Chí
Minh học, (2).
163. Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam (1990), Kỷ yếu Hội thảo Hồ Chí Minh -
Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
164. Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học Sài Gòn (2011),
Kỷ yếu Hội thảo khoa học toàn quốc “Một thế kỉ Bác Hồ ra đi tìm đường
cứu nước” (5/6/1911 - 5/6/2011), Thành phố Hồ Chí Minh.
165. Ủy ban nhân dân thành phố Huế (1999), Huế, văn hóa làng - văn hóa đô thị, Huế.
166. Ủy ban nhân dân Tỉnh Thừa Thiên Huế, Địa chí Thừa Thiên Huế, tại trang
http://www.thuathienhue.gov.vn/vi-vn/Dư-địa-chí, [truy cập ngày
25/10/2015].
167. Ủy ban nhân dân Tỉnh Thừa Thiên Huế (2005), Địa chí Thừa Thiên Huế, Phần
Tự nhiên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
168. Ủy ban nhân dân Tỉnh Thừa Thiên Huế (2005), Địa chí Thừa Thiên Huế, Phần
Lịch sử, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
164
169. Ủy ban nhân dân Tỉnh Thừa Thiên Huế (2010), Hội thảo khoa học lịch sử
Tỉnh Thừa Thiên Huế, Hà Nội - Huế - Sài Gòn, là cây một cội, là con
một nhà, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
170. Viện Hồ Chí Minh (1993), Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, tập 1, Hà Nội.
171. Viện Hồ Chí Minh (1993), Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, tập 2, Hà Nội.
172. Viện Hồ Chí Minh (1993), Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, tập 3, Hà Nội.
173. Viện Văn hóa thông tin, Phân viện nghiên cứu văn hóa thông tin tại Huế
(2004), Tiếp cận văn hóa nghệ thuật miền Trung, Huế.
174. Phạm Hồng Việt (1995), Bác Hồ với miền núi Ngự sông Hương, Nxb Thuận
Hóa, Huế.
175. Trần Anh Vinh (2010), “Chủ tịch Hồ Chí Minh qua những mối quan hệ và gặp
gỡ với Phan Bội Châu”, Tạp chí Sông Hương, (259), tr.3-8.
176. Trần Đại Vinh (2014), “Đôi nét khái quát về văn hóa Thừa Thiên Huế”, Tạp chí
Nghiên cứu và phát triển, (116-117), tr.17-28.
177. Đức Vượng (1993), Quá trình hình thành tư tưởng yêu nước của Hồ Chí
Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
178. Trần Quốc Vượng (1994), “Bản sắc văn hóa dân tộc qua sắc thái Huế”, Tạp chí
Sông Hương, (5), tr.69-70.
179. Trần Quốc Vượng (1997), Cơ sở Văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
180. Nguyễn Đắc Xuân (sưu tầm và biên soạn) (1986), Hương Giang cố sự, Tủ
sách Sông Hương, Huế.
181. Nguyễn Đắc Xuân (1997), Văn hóa cố đô, Nxb Thuận Hóa, Huế.
182. Nguyễn Đắc Xuân (2006), Kiến thức về Triều Nguyễn và Huế xưa, Nxb Thuận
Hóa, Huế.
183. Nguyễn Đắc Xuân (2007), Bác Hồ thời niên thiếu ở Huế, Nxb Trẻ, Hồ Chí Minh.
184. Nguyễn Đắc Xuân, Trung tâm Nghiên cứu Quốc Học (2008), Đi tìm dấu tích
thời niên thiếu của Bác Hồ ở Huế, Nxb Văn học, Thành phố Hồ Chí Minh.
185. Nguyễn Đắc Xuân (2009), 700 năm Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế, Nxb Trẻ,
Thành phố Hồ Chí Minh.
186. Nguyễn Văn Xuân (1995), Phong trào Duy Tân, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
165
B. TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG NƯỚC NGOÀI
187. Bernard (1967), Ho Chi Minh on Revolution, Frederick A. Praeger.
188. Charles Fourniau (1970), Ho Chi Minh notre camarade, Sociales, Paris.
189. David Halbertam (1971), Ho, Vintage book, New York.
190. Daniel Hémery (1975), Du patriotisme au Mexisme, P.Les éd, uovriercs.
191. Jean Lacouture (1970), Ho Chi Minh, Seuil, Paris.
192. Jean Lacouture (1968), Ho Chi Minh, A Political Biography, Random
House, New York.
193. Jean Sainteny (1970), Face à Ho Chi Minh, Seghers, Paris.
194. Paul Mus (1971), Ho Chi Minh, Le Vietnam, L'Asie, Seuil, Paris.
195. William J. Duiker (2000), Ho Chi Minh a life, Hyperion, New York.