hoÀn cẢnh lỊch sỬ dẪn ĐẾn tranh chẤp chỦ quyỀn cỦa …

27
1 VNH.TB1.235 HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA: NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP TS. Nguyễn Nhã Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam 1. Hoàn cảnh lịch sử dẫn đến việc chính quyền tỉnh Quảng Đông (Trung Hoa) khảo sát trái phép quần đảo Hoàng Sa vào năm 1909 và tiếp tục lún sâu vào việc xâm phạm chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa cho đến năm 1930 khi chính quyền thực dân Pháp thay đổi quan điểm Việt Nam bị Pháp xâm lược năm 1858, mất hết chủ quyền tự chủ ngoại giao theo Hiệp ước cuối cu ̀ ng ky ́ ́ i Pha ́ p năm 1884, không bảo vệ được chủ quyền của mi ̀ nh tại Hoàng Sa khi bị các nước khác xâm phạm. Chính trong thời Pháp thuộc đã xảy ra sự kiện chính quyền Quảng Đông (Trung Hoa) do Tổng đốc Trương Nhân Tuấn đứng đầu vào tháng 6 năm 1909 như báo chí Quảng Châu hồi bấy giờ đưa tin, lần đầu tiên đã cử một hạm đội nhỏ của Nhà Thanh đã đi khảo sát trái phép quần đảo Paracels, vốn của Việt Nam từ lâu, tên chữ là Hoàng Sa hay tên nôm gọi là Cát Vàng hay Cồn Vàng. Tên Tây Sa mà chính quyền Quảng Đông mới đặt ra sau sự kiện tháng 10 năm 1907 , chính quyền nhà Thanh đuổi được nhóm thương gia người Nhật Nishizawa Yoshiksugu chiếm giữ đảo Pratas trong 3 tháng (từ 2 tháng 7 năm 1907). Cũng bắt đầu từ khi này, chính quyền Quảng Đông đã đặt tên Pratas là Đông Sa vốn là tên một đảo ở ngoài khơi tỉnh Quảng Đông, đã được ghi rất ro ̃ trên bản đồ Duyên hải toàn đồ trong sách Hải quốc văn kiến lục của Trần Luân Quy ́ nh (1730). Không phải chính quyền thực dân Pháp không biết sự kiện khảo sát trái phép này. Chính bức thư của lãnh sự Pháp Beauvais ở Quảng Châu gửi Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Pháp ngày 4 tháng 5-1909 đã nêu ý đồ của Trung Quốc xâm phạm chủ quyền Hoàng Sa của Việt Nam khi viết: "Như tôi đã trình bày với ông khi kết thúc bản báo cáo gần đây của tôi (số 86 ngày 1 tháng 5 năm 1909) về vấn đề các đảo Đông Sa (Pratas), vấn đề này khiến chính phủ Trung Hoa chú ý đến các nhóm đảo khác nằm dọc bờ biển của Thiên Triều và tới một mức độ nhất định có thể được coi như một bộ phận của Thiên triều, trong đó có quần đảo Paracels". [Monique, Chemillier-Gendreau, La souveraineté sur les archipels Paracels et Spratleys, Paris, L’Harmattan, 1996, p.206]. Cũng cần lưu y ́ bức thư trên đã viết khi chính quyền Quảng Châu

Upload: others

Post on 08-May-2022

8 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA …

1

VNH.TB1.235

HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN

CỦA VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA:

NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP

TS. Nguyễn Nhã

Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam

1. Hoàn cảnh lịch sử dẫn đến việc chính quyền tỉnh Quảng Đông (Trung Hoa)

khảo sát trái phép quần đảo Hoàng Sa vào năm 1909 và tiếp tục lún sâu vào việc xâm

phạm chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa cho đến năm 1930 khi chính quyền thực

dân Pháp thay đổi quan điểm

Việt Nam bị Pháp xâm lươc năm 1858, mất hêt chủ quyền tự chủ ngoại giao theo

Hiệp ước cuôi cung ky vơi Phap năm 1884, không bảo vệ được chủ quyền của minh tại

Hoàng Sa khi bị các nước khác xâm phạm.

Chính trong thời Pháp thuộc đã xảy ra sự kiện chính quyền Quảng Đông (Trung Hoa)

do Tổng đốc Trương Nhân Tuấn đứng đầu vào tháng 6 năm 1909 như báo chí Quảng Châu

hồi bấy giờ đưa tin, lần đầu tiên đã cử một hạm đội nhỏ của Nhà Thanh đã đi khảo sát trái

phép quần đảo Paracels, vốn của Việt Nam từ lâu, tên chữ là Hoàng Sa hay tên nôm gọi là

Cát Vàng hay Cồn Vàng.

Tên Tây Sa mà chính quyền Quảng Đông mới đặt ra sau sự kiện tháng 10 năm 1907,

chính quyền nhà Thanh đuổi được nhóm thương gia người Nhật Nishizawa Yoshiksugu

chiếm giữ đảo Pratas trong 3 tháng (từ 2 tháng 7 năm 1907). Cũng bắt đầu từ khi này, chính

quyền Quảng Đông đã đặt tên Pratas là Đông Sa vốn là tên một đảo ở ngoài khơi tỉnh

Quảng Đông, đã được ghi rất ro trên bản đồ Duyên hải toàn đồ trong sách Hải quốc văn

kiến lục của Trần Luân Quynh (1730).

Không phải chính quyền thực dân Pháp không biết sự kiện khảo sát trái phép này.

Chính bức thư của lãnh sự Pháp Beauvais ở Quảng Châu gửi Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Pháp

ngày 4 tháng 5-1909 đã nêu ý đồ của Trung Quốc xâm phạm chủ quyền Hoàng Sa của Việt

Nam khi viết: "Như tôi đã trình bày với ông khi kết thúc bản báo cáo gần đây của tôi (số 86

ngày 1 tháng 5 năm 1909) về vấn đề các đảo Đông Sa (Pratas), vấn đề này khiến chính phủ

Trung Hoa chú ý đến các nhóm đảo khác nằm dọc bờ biển của Thiên Triều và tới một mức độ

nhất định có thể được coi như một bộ phận của Thiên triều, trong đó có quần đảo Paracels".

[Monique, Chemillier-Gendreau, La souveraineté sur les archipels Paracels et Spratleys, Paris,

L’Harmattan, 1996, p.206]. Cũng cần lưu y bức thư trên đã viết khi chính quyền Quảng Châu

Page 2: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA …

2

con đang chuẩn bị thực hiện chuyến khảo sát. Cuộc khảo sát diễn ra sau đó, có mặt cả người

Đức, đã rời Hồng Kông vào ngày 21-5-1909 và về Quảng Châu vào ngày 9-6-1909.

Cũng trong thư trên đề ngày 4 tháng 5 năm 1909, lãnh sự Pháp ở Quảng Châu gửi

cho Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Pháp có một số nội dung đáng lưu ý sau đây:

Do ảnh hưởng của việc Nhật chiếm Pratas (Đông Sa), Trung Quốc muốn chiếm luôn

quần đảo Paracels gần Hải Nam.

Cuộc khảo sát trái phép đầu tiên là của Đoàn Ngô Kính Vinh đã cho thấy ở mỗi đảo

Hoàng Sa đều có một ngôi miếu nhỏ xây kiêu nhà đá (tất cả tường mái là đá san hô và vỏ

so). [Monique, Chemillier-Gendreau, sđd, Paris, L’Harmattan, 1996, p.207]

- Các ngư dân Việt Nam mang cả vợ con đến sống ở Hoàng Sa, bị đối xử tàn tệ, vợ con

bị bắt đến Hải Nam. [Monique, Chemillier-Gendreau, sđd, Paris, L’Harmattan, 1996, p. 210]

Như thế chính phủ Pháp ngay tại chính quốc đã ro ý đồ của chính quyền Trung Hoa

dù chỉ là chính quyền địa phương xâm phạm chủ quyền của Việt Nam tại Paracels hay

Hoàng Sa của Việt Nam. Sở dĩ Chính quyền Pháp không ngăn chặn hành động khảo sát trên

vì nhiều lý do:

+ Một là khi ấy, Pháp chưa quan tâm đến vấn đề bảo vệ sở hữu quần đảo của nước

“An Nam” mà Pháp bảo hộ theo Hiệp ước Patenôtre 1884. Vấn đề ngăn chặn y đồ của

Trung Hoa ngay từ năm 1909 mà Lãnh sự Pháp ở Quảng Châu là Beauvais đã báo cáo, bị

chính quyền Pháp ở mẫu quốc bỏ qua.

Điều này cũng dễ hiểu, nếu như các đảo ấy vốn thuộc sở hữu của nước Pháp hoặc

thuộc đất Nam Kỳ, nhượng địa hay thuộc địa chứ không phải đất bảo hộ, thì chắc chắn

chính phủ Pháp sẽ có hành động ngăn chặn ngay và sẽ không thể xảy ra tranh chấp lâu dài

về sau. Nếu không chính phủ Pháp sẽ bị kết tội hay se bi lên án do chính người Pháp hoặc

giới chính trị hoặc những công dân yêu nước của Pháp.

+ Hai là chính quyền thực dân Pháp ngại sự ngăn chặn có thể làm phát sinh trong long

dân chúng Trung Hoa một phong trào “sô vanh” có hại cho quyền lợi Pháp ở Trung Quốc.

Điều này cũng đã đươc Ông Beauvais nêu ra trong chính văn thư báo cáo ngày 4-5-

1909 gửi Ông Bộ trưởng Ngoại Giao Pháp và đã được chính phủ Pháp cân nhắc làm theo:

“Như vậy, thưa Ông Bộ trưởng, nếu ta con lợi ích trong việc ngăn không cho Chính

phủ Trung Hoa nắm lấy nhóm các đá ngầm này, có lẽ chúng ta sẽ dễ dàng nghiên cứu, tìm

ra các lập luận chứng minh ro ràng quyền củ a chúng ta và những bằng chứng không thể bác

bỏ về quyền đó. Nhưng nếu việc đó không đáng làm, sau khi đã suy nghĩ chín chắn, có lẽ

nên nhắm mắt làm ngơ. Một cuộc can thiệp của chúng ta sẽ có khả năng làm xuất hiện một

phong trào sô vanh mới làm cho chúng ta bị thiệt hại nhiều hơn lợi ích mà việc sở hữu được

thừa nhận đối với quần đảo Hoàng Sa đem lại (Cf. Monique Chemillier-Gendreau, La

Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys”, L’Harmattan, 1996, p.211-212).

Page 3: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA …

3

Trong văn thư đề ngày 14 Janvier 1921 của Ông Chủ Tịch Hội Đồng Cố Vấn của Bộ

Ngoại giao Pháp (Le Président du Conseil, Ministre des Affaires Etrangères) gửi Bộ Trưởng

Bộ Hải Quân Pháp cũng đã khẳng định Bộ ngoại Giao Pháp đã nghe theo y kiến của

Beauvais (Cf. Monique Chemillier-Gendreau, sđd, tr. 205).

+ Ba là các quan chức thực dân Pháp từ Phủ Toàn quyền đến Bộ Thuộc Địa hay Bộ

Ngoại giao Pháp không biết ro hoặc rất mơ hồ về sở hữu từ lâu thuộc về Việt Nam.

Có rất nhiều bằng chứng như chính Ông Beauvais trong bản báo cáo trên cũng không

chắc chắn mà chỉ nói: “có lẽ sẽ dễ dàng nghiên cứu…”.

Cho đến ngày 6 tháng 5 năm 1921, có nghĩa sau hơn 1 tháng ngày 30-3-1921, lệnh

mang số 831 của Ban Đốc chính chính quyền quân sự miền Nam Trung Hoa sau phiên họp

ngày 11-3-1921 đã quyết định sáp nhập về mặt hành chính các đảo Hoàng Sa vào huyện Yai

Hien (Châu Nhai, đảo Hải Nam), Vụ Các vấn đề chính trị và Bản xứ thuộc phủ Toàn quyền

Đông Dương đã có văn bản ghi chú (Note) ghi rất nhiều điều liên quan đến quần đảo Hoàng

Sa lấy từ Hồ sơ hiện có ở Phủ Toàn quyền Đông Dương, cho biết đã tìm trong kho tư liệu

của hải quân Sài Gon, lưu trữ của Thống đốc Nam Kỳ, của phủ Toàn quyền không thấy có

tư liệu nào có tính chất làm ro quốc tịch của các đảo Hoàng Sa. Chính lúc Toàn quyền Đông

Dương ra chỉ thị điều tra về vấn đề quốc tịch của Hoàng Sa cũng là lúc nhận được bức thư

của Tổng lãnh sự Beauvais ở Quảng Châu báo tin có sự kiện chính quyền quân sự Nam

Trung Hoa quyết định sáp nhập Hoàng Sa vào tỉnh Quảng Đông.

Ro ràng sự kiện chính quyền quân sự miền Nam Trung Hoa ra tuyên bố sáp nhập Tây

Sa tức Hoàng Sa của Việt Nam vào huyện Châu Nhai, đảo Hải Nam thuộc tỉnh Quảng Đông

ngày 30 tháng 1 năm 1921 cũng đã xảy ra vào thời Pháp thuộc, khi Việt Nam đã hoàn toàn

mất chủ quyền.

Khi con mơ hồ về chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoang Sa , trong khi ấy thực

chất quyền lực nhà nước là do chính quyền thực dân Pháp nắm, nên chính quyền thực dân

Pháp không tích cực ngăn chặn sự vi phạm chủ quyền của chính quyền Quảng Đông tại

quần đảo Hoàng Sa là chuyện đương nhiên. Chắc chắn khi Việt Nam có con chủ quyền ,

được độc lập tự chủ hay Hoàng Sa vốn thuộc chủ quyền của Pháp thi chính quyền nào cũng

phải lấy nhiệm vụ tối thượng là bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của nước minh . Vì thế chung

qui không có sự ngăn chặn kịp thời sự xâm phạm chủ quyền của chính quyền quân sự Miền

Nam Trung Hoa vào năm 1921 cũng như của chính quyền Quảng Đông năm 1909 chính là

do Việt Nam bị Pháp đô hộ, không con chủ quyền để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của minh.

Vậy về phía Việt Nam nguyên nhân sâu xa hay khách quan dẫn đến sự tranh chấp

không đáng có chính là Việt Nam bị Pháp đô hộ, mất hết chủ quyền để có thể bảo vệ lănh

thổ của minh khi bị xâm phạm.

Về phía Trung Hoa, nguyên nhân khách quan là do ảnh hưởng của việc Nhật chiếm

Pratas (Đông Sa), Trung Quốc muốn chiếm luôn quần đảo Paracels gần Hải Nam để tránh

Page 4: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA …

4

xảy ra sự kiện bất cứ nước nào nhất là các cường quốc hồi bấy giờ phong tay trên , chiếm cứ

những đảo ở Nam Hải mà Trung Hoa coi là vô chủ.

Về phía chính quyền thực dân Pháp, nguyên nhân chủ quan chính là do quyền lợi

riêng của Chính quyền thực dân Pháp đã khiến Pháp không phản ứng kịp thời để Trung Hoa

cho là đất vô chủ và đi sâu vào hành động xâm phạm chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa.

Song sau đó chính quyền thực dân Phap lại bắt đầu quan tâm đến hành động trái phép

của chính quyền Quảng Đông với quần đảo Hoàng Sa. Vậy thi nguyên nhân nào khiến chính

quyền thực dân Pháp bắt đầu quan tâm đến việc bảo vệ chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng

Sa trong thời gian từ năm 1921 đến 1930, Pháp bắt đầu thay đổi quan điểm. Đó chính là tầm

quan trọng của vị trí chiến lược của quần đảo Hoàng Sa đối với an toàn quyền lực của Chính

quyền thực dân Pháp.

Trước hết chính vi vị trí chiến lược quan trọng của quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa

cũng như Biển Đông đối với lãnh thổ Pháp đang cai trị, nên thực dân Pháp ở Đông Dương

phải cân nhắc lợi hại, đã quyết định đối mặt với những y đồ tranh chấp chủ quyền của các

nước khác trong đó có Trung Quốc.

Lúc ban đầu, trong bản báo cáo ngày 04 tháng 5 năm 1909, của Tổng lănh sự Pháp

Beauvais ở Quảng Châu đã đề cập tới tầm quan trọng vị trí của quần đảo Hoàng Sa, song lại

chưa sát sườn với lợi ích của chính quyền thực dân, dù có hệ trong đến hàng hải hay sự đe

dọa đối với ngư dân Việt Nam như sau:

“Về vấn đề này, nhân viên của chúng tôi nhận xét rằng các đảo Hoàng Sa đối với

chúng ta có một tầm quan trọng nhất định : vì nằm giữa tuyến đường đi từ Sàigon đến Hồng

Kông, các đảo đó là một mối nguy hiểm lớn đối với hàng hải và việc chiếu sáng ở đó có thể

là cần thiết. Ngoài ra, các đảo đó thường có ngư dân An Nam và Trung Quốc qua lại: họ đến

đó trong quá trinh đánh cá đê sơ chế sản phẩm . đã xảy ra những cuộc đổ máu giữa ngư dân

hai nước trong dịp đó (Cf. Monique Chemillier-Gendreau, La Souveraineté sur les Archipels

Paracels et Spratleys”, L’Harmattan, 1996, p.197).

Trong văn thư của Khâm sứ Trung Kỳ Le Fol gửi Toàn quyền Đông Dương vào ngày

22 tháng 1 năm 1929 đã nhấn mạnh về vị trí chiến lược của quần đảo Hoàng Sa:

“Trong tinh hinh hiện nay, không ai có quyền phủ nhận tầm quan trọng chiến lược rất

lớn của các đảo Hoàng Sa. Trong trường hợp có xung đột, việc nước ngoài chiếm đóng

chúng sẽ là một trong những mối đe dọa nghiêm trọng nhất có thể có đối với việc phong thủ

và sự toàn vẹn lănh thổ của Liên bang [ Đông Dương].

“Thực vậy, các đảo nói trên là sự kéo dài tự nhiên của Hải Nam. Một đối phương có

thể thấy ở đó một căn cứ hải quân hùng mạnh nhờ những vụng và nhiều nơi tầu đậu tuyệt

vời, và do tính chất của chúng thực tế là không thể đánh bật. Một đội tầu ngầm dựa vào căn

cứ đó sẽ có thể, không những phong tỏa cảng Đà Nẵng là cảng quan trọng nhất của Trung

Kỳ, mà con cô lập Bắc Kỳ bằng cách ngăn cản việc đi đến Bắc Kỳ bằng đường biển . Lúc đó

Page 5: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA …

5

để liên lạc giữa giữa Nam Kỳ với Bắc Kỳ ta phải dùng đường sắt hiện có, một con đường rất

dễ bị đánh v chạy dọc theo bờ biển , pháo hải quân đặt trên các chiến hạm có thể mặc sức

phá hủy”.

“Đồng thời, mọi con đường thông thương giữ Đông Dương - Viễn Đông - Thái Binh

Dương sẽ bị cắt đứt: hải lộ Sàigon-Hồng Kông đi gần quần đảo Paracels, do đó nằm dưới sự

kiểm soát trực tiếp của căn cứu trên các đảo”. (Cf. Monique Chemillier-Gendreau, La

Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys”, L’Harmattan, 1996, p.174).

Mặc dù có những báo cáo rất ro về tầm quan trọng của Hoàng Sa đối vớ i việc bảo vệ

lănh thổ thuộc địa Đông Dương của Pháp, song phải có sức ép của dư luận báo của người

Pháp ở Đông Dương mới làm cho chính quyền thực dân Pháp có những hành động cụ thể để

bảo vệ chủ quyền tại Hoàng Sa của nước được Pháp bảo hộ.

Đầu tiên với loạt bài trong các số 606, 622, 623, 627 (tháng 1, 5, 6 năm 1929), nhà

báo Henri Cucherousset đã lược qua về chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa với

những dẫn chứng hết sức cụ thể như: 1/Jean Baptiste Chaigneau viết năm 1820 dưới nhan

đề: Notice sur la Cochinchine cho biết Năm 1816 vua Gia Long thực sự chiếm đảo Hoàng

Sa.2/ Giám mục Jean Louis Taberd viết trong Journal of the Asiatic Society of Bengal,

tậpVI, măm 1837, tr.737 và những trang kế tiếp, tập VII, năm 1838, tr.317 và những trang

kế tiếp đề cập đến quần đảo Hoàng Sa trong mục Géographie de la Cochinchine. 3/ Dubois

de Jaucigny viết trong L’Univers - Histoire et Description de tous les peuples de leurs

religions. Moeurs, coutumes; Japon, Indochine, Ceylan xuất bản năm 1850 tại Paris, F.

Didot xuất bản, có đoạn viết: “ …từ 34 năm về trước quần đao Hoàng Sa (mà người Annam

gọi là Cát Vàng đã được chiếm cứ bởi các người xứ Nam Kỳ” . Cucherousset con viết những

chi tiết về quần đảo Hoàng Sa trong Nam Việt địa dư [Hoàng Việt địa dư?], Minh Mạng

năm thứ 14; Đại Nam nhất thống chí, in thời Duy Tân, tập 6, tờ 18b, 19a cùng việc tàu De

Lanessan thám sát Hoàng Sa năm 1925.”

Theo tác giả, quần đảo Hoàng Sa quan trọng do 5 đặc tính sau đây:1/ Trạm cho thủy

phi cơ Sàigon - Hồng Kông; Tourane - Philippines. 2/ Điểm tựa chiến lược cho tầu ngầm

khi có chiến trảnh. 3/ Trạm thông báo khí tượng. 4/ Nơi tránh gió bão cho tàu đánh cá. 5/

Giàu phốt phát . Lý do tác giả viết loạt bài vì nhân một đại úy người Anh muốn nhân danh

Anh Hoàng đặt chủ quyền Anh lên đảo Sein đồng thời tác giả cực lực phản đối việc hải

quân trung tá Rémy ở Sàigon trả lời cho 1 công ty hàng hải Nhật rằng không biết quần đảo

Hoàng Sa thuộc chủ quyền của ai và việc ông Monguillot đã viết cho ông Gravereaud nói

rằng quần đảo Hoàng Sa thuộc Trung Hoa.

Theo tác giả, chánh quyền bảo hộ Pháp phải chấp hữu chủ quyền trên quần đảo

Hoàng Sa bằng các hành động : 1/Vẽ bản đồ tổng quát Hoàng Sa tỉ lệ 1/200.000, vẽ bản đồ

chi tiết 1/25.000, vẽ bản đố hải quân và bản đồ đia chất . 2/ Đặt đài hải đăng. 3/ Đạt trạm

quan sát và thông báo khí tượng. 4/ Lập đội trú phong trú đóng tại Hoàng Sa.

Page 6: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA …

6

Tác giả con luôn luôn trách cứ chánh quyền Pháp đã quá lơ là trong việc xác nhận và

bảo vệ chủ quyền tại Hoàng Sa.

Sau đó chính bức thư của Toàn quyền Pasquier gửi cho Bộ trưởng Bộ Thuộc Địa

ngày 18-10-1930 đã chấm dứt thái độ do dự của chính quyền Pháp đối với hành động xâm

phạm trái phép của chính quyền Trung Hoa đối với chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa.

Trong bức thư trên, Toàn quyền Pasquier đã gửi tập tư liệu về quần đảo Hoàng Sa

bao gồm:

Một đoạn trích bằng chữ Hán với bản dịch bằng tiếng Pháp của Đại Nam Nhất Thống

Chí, quyển 6 hay biên niên sử của chính phủ An Nam.

Một đoạn trích bằng chữ Hán với bản dịch bằng tiếng Pháp của Nam Việt địa dư, tập

2 hay Địa dư thời Minh Mạng1.

Một đoạn trích bằng chữ Hán với bản dịch bằng tiếng Pháp của Đại Nam nhất thống

chí hay địa dư thời Duy Tân.

Cùng kèm theo bốn thư phụ lục và bốn bản đồ, Toàn quyền Pasquier viết: “Chắc hẳn

Ngài cũng đánh giá như tôi rằng chúng ta đã đủ để xác định không thể tranh căi rằng An

Nam đã thực sự nắm sở hữu quần đảo và làm như vậy trước năm 1909 nhiều.” (Cf. Monique

Chemillier-Gendreau, La Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys”,

L’Harmattan, 1996, p.233).

2. Hoàn cảnh lịch sử dẫn đến việc Trung Hoa và Pháp tranh chấp chủ quyền

của Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945, thời gian Pháp

còn đô hộ Việt Nam

Từ 1931 đến 1933, Cucherousset lại tiếp tục viết 7 bài viết cũng trên báo L’Éveil

Économique de L’Indochine trong các số 685 (10-5-1931), 688 (31-5-1931), 743(26-6-

1932), 744(03-7-1932), 746(17-7-1932), 777 (26-02-1933) 790 (28-5-1933). Trong loạt bài

báo kể trên, không thấy nhắc đến lịch sử xác lập chủ quyền của Việt Nam nữa mà chỉ tập

trung vào thái độ của Toàn quyền Pasquier về việc xử ly việc bảo vệ chủ quyền ấy . Tác giả

chỉ trích một lá thư của Toàn quyền Pasquier khi Ông này viết: “Chủ quyền của xứ Annam

trên quần đảo Hoàng Sa là điều không thể chối cãi được nhưng lúc này chưa phải cơ hội để

xác nhận chủ quyền ấy”. Tác giả gay gắt chất vấn Toàn quyền: “Tại sao nay không phải là

cơ hội? Trở lực nào đã ngăn cản xứ “Annam” nhin nhận chủ quyền trên đảo Hoàng Sa mà

họ đã chấp hữu từ trăm năm trước? Có phải chăng đợi đến lúc người Nhật khai thác đến tấn

phốt phát cuối cùng? Có phải người Nhật đã trả thù lao một phần cho ai chăng?”

Vì những bài báo lập luận vững chắc và chỉ chích nặng lời toàn quyền Pasquier , Toa

soạn báo E.E.I bị ông Dự thẩm Bartet ra lệnh khám xét ban đêm buộc nhà báo phải nộp hồ

1 Chú thêm của tác giả: tức Hoàng Việt địa dư chí

Page 7: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA …

7

sơ liên quan đến vụ Hoàng Sa. Trong số báo 743, Cucherousset cực lực phản đối và nhất

quyết không giao nộp, nếu muốn nghiên cứu thi chỉ cho đọc tại chỗ .Trong số báo 746,

Cucherousset viết nếu không có loạt bài của E .E.I thi có lẽ chính quyền Pháp làm ngơ vụ

Trung Hoa chiếm hữu Hoàng Sa.

Trong số báo 777, Cucherousset đã trình bày tại sao ông phản đối Toàn quyền

Pasquier nhún nhường trước hành động của Tổng Đốc Quảng Đông: 1. Chính quyền tỉnh

Quảng Đông không hề bao giờ được nước Pháp thừa nhận là một chính quyền tự trị. 2.

Chính phủ Trung Hoa ở Bắc Kinh lúc trước, ở Nam Kinh bây giờ, không hề bao giờ lên

tiếng tranh giành quần đảo này. 3. Ngược lại từ hơn 100 năm nay rồi, nước Nam đã chấp

hữu chủ quyền trên Hoàng Sa và sự việc này có ghi ro trong văn khố của tri ều đinh Huế .

Hơn nữa chính quyền Quảng Châu không thể dựa vào ly do ngư phủ Trung Hoa thường

xuyên ghé đảo để bắt rùa, phơi lưới để bảo Hoàng Sa thuộc Trung Hoa bởi ngư phủ Pháp

cũng thường làm như vậy tại bờ biển Terre Neuve nhưng Terre Neuve vẫn thuộc nước Anh.

Trong khi ấy trong 1 phiên họp của Hội đồng tư vấn Đông Dương, để trả lời vị đại diện của

xứ Annnam là ông Piguax, Toàn quyền Pasquier cho biết vụ Hoàng Sa đã có tiếng vang tại

Pháp và vị Tông trưởng Bộ Thuộc Địa đã quyết định đưa nội vụ ra Toa án quốc tế La Haye.

Ngoài tờ báo Eveil Economique, con nhiều báo của người Pháp ở Đông Dương và cả

ở Pháp cũng đăng những bài về chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa như Revue

Indochinoise Illustrée, số 38, 1929 (Sàigon), tr.605-616, P.A. La Picque đã dẫn nhiều tài liệu

về chủ quyền của Viêt Nam; việc chính quyền Quảng Đông trả lời không chịu trách nhiệm về

việc dân Hải Nam cướp trên các tầu bị đắm Le Bellona năm 1895 và Imezi Maru 1896 vì

Hoàng Sa không thuộc chủ quyền Trung Quốc; dịch lại bài báo đăng trên Quảng Châu Báo

ngày 10-7-1909 kể chuyện chuyến đi khảo sát Hoàng Sa của hải quân tỉnh Quảng Đông.

Mémoire No 3 du Service Océanographique de L’Indochine (Saigon), 1930, 24 tr. do J. de

Lacour và Jabouillé kể chuyến đi khảo sát Hoàng Sa 21-7-1926 theo lời mời của

M.A.Krempf. Avenir du Tonkin, số 10495(17-04-1931), tr2 khẳng định năm 1816, vua Gia

Long long trọng cho dựng cờ trên đảo vi thế cho nên dù năm 1909, Trung Hoa có muốn dành

chủ quyền, chánh phủ Pháp phải lên tiếng xác nhận quyền bảo vệ các đảo ấy. Trong hoàn

cảnh hiện nay, không ai có thể phủ nhận sự quan trọng có tính cách chiến lược của Hoàng Sa.

Nature (Paris), số 2916, 01-11-1933, tr.385-387 do Sauvaire-Jourdan viết trên tờ

Công báo ngày 19-7-1933 đăng một thông tư về việc hải quân Pháp chiếm cứ một vài đảo ở

phía nam Biển Đông, điểm qua lịch sử chiếm hữu, vua Gia Long cho hải đội đổ bộ và dựng

cờ trên đảo năm 1816 rồi đến sự kiện năm 1909 được bài báo ở Quảng Châu ngày 20-6-

1909 mà tác giả cho là khôi hài cùng những đề nghị không nên bỏ rơi quyền sở hữu các đảo

ấy. La Géographie, bộ LX (tháng 11-12-1933), tr.232-243, A. Olivier Saix đưa ra những

luận cứ theo đó chánh quyền bảo hộ của Pháp tại Việt Nam phải bảo vệ và duy trì chủ

quyền cho Việt Nam vi : 1/ Hoàng Sa có vị trí rất cần thiết lập hải đăng.2/ Là vị trí thiết lập

đài quan sát khí ượg và trạm vô tuyến kịp thời bào thời tiết bão cho tàu bè.3/ Hoàng Sa

nhiều nguồn lợi kinh tế: phốt phát, cá, rùa. 4. Lợi ích quân sự từ Hoàng Sa phong tỏa vịnh

Bắc Việt, cảng Đà Nẵng, hải lộ quốc tế 5. Lịch sử xác lập chủ quyền: vua Gia Long đã cho

Page 8: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA …

8

hải đội Hoàng Sa đổ bộ lên đảo dựng cờ, lập cứ điểm, Thượng thư Bộ Binh Thân Trọng

Huề ngày 3-3-1925 nói rằng: “Các đảo đó bao giờ cũng là sở hữu của nước Annam, không

có gi tranh cãi trong vấn đề này”.

Ro ràng với sức ép dư luận trên, chính quyền thực dân Pháp đã phải hành động, trước

hết khoảng 1930 đến 1933, Pháp đã thiết lập chủ quyền tượng trưng tại Trường Sa cũng như

Hoàng Sa.

Với Hoàng Sa thuộc về Trung Kỳ, đất bảo hộ của Pháp, nên không cần phải hành

động xác lập chủ quyền mà chỉ cần những hành động thực thi chủ quyền, tiếp theo những

hành động khảo sát Hoàng Sa đầu tiên năm 1925 của Viện Hải dương học Nha Trang là

những hoạt động thể theo đề nghị của dư luận báo chí thời ấy. Ngày 15-6-1932, chính quyền

Pháp ra nghị định số156-SC ấn định việc thiết lập một đơn vị hành chánh gọi là quận Hoàng

Sa tại quần đảo Hoàng Sa.

Năm 1937, kỹ sư trưởng công chánh Gauthier nghiên cứu khả năng xây dựng một hải

đăng trên đảo Pattle (Hoàng Sa); năm 1938 Pháp bắt đầu phái các đơn vị bảo an tới các đảo và

xây dựng một hải đăng, một trạm khí tượng (OMM đăng ký số 48860) đặt ở đảo Pattle

(Hoàng Sa) và số 48859 ở đảo Phú Lâm (Ile Boisée), một trạm vô tuyến TSF trên đảo Pattle.

Tháng 3-1938, Hoàng đế Bảo Đại ky Dụ số 10 sáp nhập Hoàng Sa vào tỉnh Thừa Thiên thay

vì Nam Ngăi như các triều trước . Tháng 6 năm 1938, một đơn vị bảo an lính Việt Nam tới

trấn đóng Hoàng Sa. Một bia chủ quyền được dựng trên đảo Pattle với dong chữ: “République

Francaise- Royaume d’Annam- Archipels des Paracels 1816-Ile de Pattle 1938”.

Con với quần đảo Trường Sa phía Nam thuộc địa giới Nam Kỳ lại là đất thuộc địa

của Pháp, nên Pháp có hành động xác lập chủ quyền cho nước Pháp. Song để ngăn chặn

nước thứ ba cũng như đối phó với pháp ly quốc tế, Cố vấn pháp luật Bộ Ngoại Giao Pháp đã

viết trong Bản Ghi Chú cho Vụ Châu Á Đại dương ngạy-5-1950 rằng “Việc chiếm hữu quần

đảo Spratleys do Pháp tiến hành năm 1931-1932 là nhân danh Hoàng đế “Annam”. Ngày 13

tháng 4 năm 1933, một hạm đội nhỏ do trung tá hải quân De Lattre chỉ huy từ Sài Gon đến

đảo Trường Sa (Spratley) gồm thông báo hạm La Malicieuse, pháo thuyên Alerte , các tàu

thủy văn Astrobale và De Lanessan. Sư chiếm hữu tiến hành theo nghi thức cổ truyền của

phương Tây. Một văn bản được thảo ra và các thuyền trưởng ky thành 11 bản. Mỗi đảo

nhận 1 bản, được đóng kín trong 1 cái chai rồi được gắn trong 1 trụ xi măng xây trên mỗi

đảo tại một địa điểm ấn định và cố định trên mặt đất. Người ta kéo cờ tam tài và thổi kèn

trên từng hon đảo…

Ngày 26 tháng 7 năm 1933, Bộ Ngoại giao Pháp đã có một thông tin đăng trên Công

báo Pháp, ghi ro 6 nhóm hải đảo và tiểu đảo từ nay đã thuộc chủ quyền Pháp quốc, trong đó

gồm nhóm Spratley (8039’B-111

055Đ) và các tiêu đảo nhỏ xung quanh được chiếm hữu

sớm nhất từ ngày 13-4-1930 và đảo Thị Tứ được chiếm cuối cùng vào ngày 12-4-1933.

Ngày 21-12-1933, thống đốc Nam Kỳ M .J. Krautheimer ky nghị định số 4762 sáp nhập các

nhóm hải đảo thuộc quần đảo Pratleys (Trường Sa) vào tỉnh Bà Rịa.

Page 9: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA …

9

Năm 1938 Pháp cũng thiết lập một bia chủ quyền, một hải đăng, một trạm khí tượng

và một trạm vô tuyến tại đảo Itu - Aba (Ba Binh)..

Tất cả những hành động thực thi chủ quyền của Pháp nhân danh “Annam” trên quần

đảo Hoàng Sa và Trường Sa diễn ra một cách suông sẻ, dù muộn màn , không gặp bất cứ

ngăn cản nào, bởi chỉ duy có chính quyền địa phương tỉnh Quảng Đông có y đồ , có dự án

khai thác Tây Sa tức Hoàng Sa của Việt Nam, và muốn chiếm hữu Hoàng Sa khi cho là đất

vô chủ, song các dự án của chính quyền địa phương mới chỉ trên giấy tờ, chính quyền trung

ương Trung Quốc chưa mặn mà. Tuy vậy Nhật Bản lại dấu mặt về y đồ chiếm giữ Hoàng Sa

và Trường Sa, đã lên tiếng phản đối sự chiếm giữ của Pháp trong thông báo cho chính phủ

Pháp vào ngày 24-7-1933. Ngày 31 tháng 3 năm 1939, Bộ Ngoại giao Nhật Bản ra tuyên bố

gửi tới Đại sứ Pháp ở Nhật Bản khẳng định Nhật Bản là người đầu khám phá Trường Sa vào

năm 1917 và tuyên bố Nhật kiểm soát Trường Sa. Nhât đã nhanh chóng chiếm đảo Phú Lâm

(Ile Boisée) của Hoàng Sa và đảo Itu-Aba (Ba Binh) của Trường Sa vào năm 1938, song

măi đến ngày 9-3-1945, Nhật mới bắt làm tù binh những lính Pháp đóng ở các đảo Hoàng

Sa cũng như đất liên của Việt Nam..

Việc Pháp nhân danh “Annam” cũng như Nhật cho rằng người khám phá đầu tiên

Trường Sa cũng chỉ là cái cớ để chiếm đóng Hoàng Sa và Trường Sa vì mục tiêu chiến lược

hoặc bảo vệ quyền lực hoặc thực hiện y đồ bành trướng quyền lực của nước đó . Khi không

cần thiết cho chiến lược của minh như hiện nay thi không cần thiết chiếm giữ Hoàng Sa và

Trường Sa nữa!

Nhật bản đã bại trận và đầu hàng vô điều kiện Đồng Minh 16 tháng 8 năm 1945 và

đã rút khỏi Hoàng Sa và Trường Sa .

3. Hoàn cảnh lịch sử dẫn đến việc Trung Hoa, Pháp tranh chấp chủ uyền của

Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa từ tháng Tám năm 1945 đến tháng 4 năm 1956,

khi Pháp xâm chiếm trở lại

Ngày 19 tháng 8 năm 1945 Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 2 tháng 9 năm

1945 nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc

lập ở quảng trường Ba Đinh, chấm dứt chế độ đô hộ của Pháp.

Sau khi Nhật bại trận, Pháp trở lại đô hộ Việt Nam, quân Tưởng Giới Thạch tiếp

quản nơi quân đội Nhật chiếm đóng từ phía Bắc vĩ tuyến 16, cả hai nước Pháp và Trung

Hoa đều tiếp tục tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, vẫn tiếp tục coi trọng vị

trí chiến lược Hoàng Sa và Trường Sa.

Việt Nam bận lo kháng chiến chống Pháp trong khi quân Pháp làm chủ Biển Đông.

Quân Nhật đã rút khỏi quần đảo Hoàng Sa cũng như Trường Sa vào năm 1946, Pháp

trở lai Việt Nam la m chủ Biển Đông, lập tức cử một phân đội bộ binh Pháp đổ bộ từ tàu

Savorgnan de Brazza đến thay thế quân đội Nhật từ tháng 5 năm 1946, nhưng đơn vị này

chỉ ở đó trong vài tháng. Trong thời gian từ 20 đến 27 tháng 5 năm 1946, đô đốc

Page 10: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA …

10

D’Argenlieu, cao ủy Đông Dương cũng đã phái tốc hạm L’Escarmouche ra nắm tình hình

đảo Hoàng Sa (Pattle) thuộc quần đảo Hoàng Sa.

Vào lúc quân đội viễn chinh Pháp và Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà do

Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đang bận đối phó với cuộc chiến tranh toàn diện sắp xảy ra,

thì ngày 26 tháng 10 năm 1946, lợi dụng thời cơ, hạm đội đặc biệt của Trung Hoa Dân Quốc

gồm 4 chiến hạm, mỗi chiếc chở một số đại diện của các cơ quan và 59 binh sĩ thuộc trung

đội độc lập về cảnh vệ của hải quân (tiền thân của quân thủy đánh bộ) xuất phát từ cảng

Ngô Tùng ngày 9 tháng 10. Ngày 29 tháng 11 năm 1946, các tàu Vĩnh Hưng và Trung Kiên

tới đảo Hoàng Sa và đổ bộ lên đây. Tàu Thái Bình và Trung Nghiệp đến Trường Sa (mà lúc

này Trung Quốc con gọi là Đoàn Sa chưa phải mang tên Nam Sa (tác giả nhấn mạnh)

Trong phiên họp ngày 11 tháng 10 năm 1946, Ủy Ban Liên Bộ về Đông Dương

thuộc Chính phủ lâm thời Pháp quyết định cần khẳng định quyền của Pháp đối với quần đảo

Hoàng Sa và thể hiện việc tái chiếm bằng việc xây dựng một đài khí tượng. Theo ý kiến của

đại tướng Juin cho rằng “lợi ích cao nhất” của nước Pháp là phong ngừa mọi ý đồ của một

cường quốc nào muốn chiếm lại các đảo đó là những đảo kiểm soát việc ra vào căn cứ

tương lai Cam Ranh, con đường hàng hải Cam Ranh - Quảng Châu - Thượng Hải (Thư số

199/DN/S. col ngày 7 tháng 10 năm 1946 của Đại tướng Juin, Tổng Tham mưu trưởng quân

đội Pháp tại Paris).

Chính phủ Pháp chính thức phản đối sự chiếm đóng bất hợp pháp trên của Trung Hoa

Dân Quốc và ngày 17 tháng 10 năm 1947 thông báo hạm Tonkinois của Pháp được phái đến

Hoàng Sa để yêu cầu quân Tưởng Giới Thạch rút khỏi Phú Lâm nhưng họ không rút. Pháp

gửi một phân đội lính trong đó có cả quân lính "Quốc gia Việt Nam" đến đóng một đồn ở

đảo Pattle (Hoàng Sa). Chính phủ Trung Hoa Dân Quôc phản kháng và các cuộc thương

lượng được tiến hành từ ngày 25 tháng 2 đến ngày 4 tháng 7 năm 1947 tại Paris. Tại đây,

chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đã từ chối không chấp nhận việc nhờ trọng tài quốc tế giải

quyết do Pháp đề xuất. Ngày 1 tháng 12 năm 1947, Bộ Nội Vụ chính quyền Tưởng Giới

Thạch công bố tên Trung Hoa cho hai quần đảo và đặt chúng thuộc lãnh thổ Trung Hoa . Dĩ

nhiên Pháp không đủ tư cách kế thừa sở hữu của Việt Nam tại Hoàng Sa để phản đối Trung

Quốc, cũng là người đi xâm chiếm, nên càng làm tăng lên sự tranh chấp.

Trong hoàn cảnh lịch sử cuối năm 1946 đầu năm 1947, Việt Nam đã giành được độc

lập từ năm 1945, không con ràng buộc vào hiệp định Patenôtre (1884) với Pháp song Pháp

vẫn cho rằng theo hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà

con nằm trong khối Liên Hiệp Pháp, về ngoại giao vẫn thuộc về Pháp, nên Pháp vẫn thực thi

quyền đại diện Việt Nam trong vấn đề chống lại xâm phạm chủ quyền Việt Nam tại quần

đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Khi xay ra cuộc kháng chiến toàn quốc thì Pháp không con có

thể viện lẽ danh nghĩa gì để thực thi chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa. Sau đó Pháp tìm

cách lập chính phủ bù nhìn thân Pháp, chỉ lợi dụng danh nghĩa chứ không có thực và như

thế không đủ thuyết phục về sự kế thừa sở hữu của Việt Nam ở Hoàng Sa cũng như Trường

Sa, khiến sự tranh chấp chủ quyền không thể chấm dứt.

Page 11: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA …

11

Do chinh phủ Việt Nam Dân chủ cộng hoà kháng chiến chống Pháp và hải quân Pháp

làm chủ Biển Đông, nên với hiệp định ngày 8 tháng 3 năm 1949, Pháp gây dựng được chính

quyền thân Pháp con gọi là quốc gia Việt Nam do cựu hoàng Bảo Đại đứng đầu, đối đầu với

chính quyền cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, để củng cố cơ sở hình thức

pháp lý nào đó dù không có thực chất đại diện thực sự cho Việt Nam, nhất là trên thực tế

trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, quân Pháp đang làm chủ Biển Đông trong đó có

quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Tháng 4 năm 1949, Đổng lý văn phong của Quốc trưởng Bảo Đại là hoàng thân Bửu

Lộc, trong một cuộc họp báo tại Sài Gon đã công khai khẳng định lại chủ quyền của Việt

Nam đã từ lâu đời trên quần đảo Hoàng Sa.

Vào ngày 1 tháng 10 năm 1949, Cộng hoa nhân dân Trung Hoa được thành lập ở lục

địa Trung Quốc, Trung Hoa Dân quốc do Tưởng Giới Thạch cầm đầu đã rút lui ra Đài Loan.

Tháng 4 năm 1950, đồn lính Trung Hoa dân quốc chiếm đóng bất hợp pháp ở đảo Phú Lâm

(Ile Boisée) thuộc quần đảo Hoàng Sa đã rút lui. Con đồn lính của Pháp đóng ở đảo Hoàng

Sa (Pattle) vẫn con duy trì . Cách mạng Trung Quốc trở thành lực lượng đồng minh cho

Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hoa, vì thế mọi hành động chống Pháp kể cả việc chiếm

đóng các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa ở Biển Đông, đương niên sẽ được chính phủ Việt

Nam Dân chủ cộng hoa ủng hộ trong liên minh chống kẻ thù chung Pháp xâm lược.

Ngày 14 tháng 10 năm 1950, chính phủ Pháp chính thức chuyển giao cho chính phủ

Bảo Đại quyền quản lý các quần đảo Hoàng Sa. Thủ hiến Trung Phần là Phan Văn Giáo đã

chủ tọa việc chuyển giao quyền hành ở quần đảo Hoàng Sa. Điều này cũng chỉ là động tác

giả để việc chiếm đóng Hoàng Sa có cơ sở pháp lý, song vẫn không đủ sức thuyết phục, vì

quân Pháp vẫn đang xâm lược Việt Nam.

Hội nghị San Francisco có 51 quốc gia tham dự từ ngày 5 tháng 9 đến ngày 8 tháng 9

năm 1951, ký kết hoà ước với Nhật. Ngày 5 tháng 9 năm 1951, họp khoáng đại, ngoại

trưởng Gromyko đề nghị 13 khoản tu chính. Khoản tu chính liên quan đến việc Nhật nhìn

nhận chủ quyền của Cộng hoa nhân dân Trung Hoa đối với đảo Hoàng Sa và những đảo xa

hơn nữa dưới phía Nam. Khoản tu chính này đã bị Hội nghị bác bỏ với 48 phiếu chống và 3

phiếu thuận.

Ngày 7 tháng 9 năm 1951, Thủ tướng kiêm ngoại trưởng Trần Văn Hữu của chính

phủ Bảo Đại long trọng tuyên bố rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của

Việt Nam: "Et comme il faut franchement profiter de toutes occasions pour étouffer les

germes de discorde, nous affirmons nos droits sur les îles Spratley et Paracels qui de tout

temps ont fait partie du Viet Nam".

Không một đại biểu nào trong hội nghị bình luận gì về lời tuyên bố này.

Kết thúc hội nghị là ký kết hoà ước với Nhật ngày 8 tháng 9 năm 1951. Trong hoà

ước này có điều 2, đoạn 7 ghi ro:

Page 12: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA …

12

Nguyên văn là "Nhật Bản từ bỏ mọi quyền, danh nghĩa và tham vọng đối với các

quần đảo Paracels và Spratly". Song đên đây, tình hình chính trị thế giới đã bắt đầu biến

chuyển, chiến tranh lạnh giữa hai khối Tư bản chủ nghĩa do Mỹ cầm đầu và khối Xă hội chủ

nghĩa do Liên Xô đứng đầu đã bắt đầu tác động đến Việt Nam trong đó có chủ quyền của

Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa lại tăng lên sự tranh chấp, càng ngày càng phức tạp

khiến sự bảo vệ chủ quyền trở nên hết sức khó khăn với nhiều danh nghĩa khác nhau với

nhiều thế lực quốc tế can thiệp.

Ngày 24 tháng 8 năm 1951, lần đầu tiên Tân Hoa xã lên tiếng tranh cãi về quyền của

Pháp và những tham vọng của Philippines, thân My và kiên quyết khẳng định quyền của

Trung Quốc.

Khi ra thông báo về bản dự thảo Hiệp ước với Nhật ở San Francisco, ngày 15 tháng 8

năm 1951, Bộ trưởng bộ Ngoại giao nước Cộng hoa nhân dân Trung Hoa Chu An Lai ra bản

tuyên bố công khai khẳng định cái gọi là "tính lâu đời" của các quyền của Trung Quốc đối

với quần đảo, trong khi Cộng hoa nhân dân Trung Hoa và Trung Hoa dân quốc không tham

dự hội nghị này.

Như thế, lợi dụng tình hình rối ren Nhật đầu hàng đồng minh, quân Tưởng Giới

Thạch được giao phó giải giáp quân Nhật từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc theo Hiệp định Postdam,

đã lại chiếm giữ đảo Phú Lâm (Ile Boisée) cuối năm 1946 thuộc quần đảo Hoàng Sa và đảo

Ba Bình (Itu Aba) thuộc quần đảo Trường Sa, vào đầu năm 1947. Đến năm 1950, khi quân

Trung Hoa dân quốc đã rút ra khỏi Hoàng Sa và Trường Sa và hoà ước San Francisco đã

buộc Nhật từ bỏ sự chiếm đóng hai quần đảo này, thì Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Trần

Văn Hữu của chính phủ Bảo Đại đã long trọng tuyên bố rằng hai quần đảo Hoàng Sa và

Trường Sa là lãnh thổ Việt Nam. Không một đại biểu nào trong hội nghị bình luận gì về lời

tuyên bố này.

Cũng lợi dụng cục diện chiến tranh lạnh đang xảy ra, sự giành giật thế lực ở một nơi

trong đó có Biển Đông, phái đoàn Liên Xô đề xuất giao cho Cộng hoa nhân dân Trung Hoa

quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đã không được Hội Nghị chuẩn nhận, song

cũng là cái cớ để Cộng hoa nhân dân Trung Hoa lên tiếng. Dù sau năm 1950, hai quần đảo

Hoàng Sa và Trường Sa không con quân nước ngoài chiếm đóng ngoài lực lượng trú phong

Việt Nam của chính quyền Bảo Đại.

Hiệp định Genève ký kết ngày 20 tháng 7 năm 1954 chấm dứt chiến tranh ở Đông

Dương, công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất của nước Việt Nam.

Điều 1 qui định đường ranh tạm thời về quân sự được ấn định bởi sông Bến Hải (ở vĩ tuyến

17). Đường ranh tạm thời này cũng được kéo dài ra trong hai phần bằng một đường thẳng từ

bờ biển ra ngoài khơi theo điều 4 của Hiệp định. Cũng theo điều 14 của bản Hiệp định,

trong khi chờ đợi cuộc tổng tuyển cử đưa lại sự thống nhất cho Việt Nam, bên đương sự và

quân đội do thoả hiệp tập kết ở khu nào sẽ đảm nhiệm việc hành chánh trong khu tập kết đó.

Page 13: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA …

13

Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở Biển Đông ở dưới vĩ tuyến 17 sẽ đặt dưới sự quản lý

hành chánh của phía chính quyền quản lý miền Nam vĩ tuyến 17.

Như thế, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được đặt dưới sự quản lý hành chánh của

chính quyền Việt Nam Cộng Hoà, lúc ấy hai quần đảo này chưa có sự chiếm đóng của bất

cứ quân đội nước nào ngoài quân đội Pháp. Chính quyền ở Phía Nam vĩ tuyến 17 phải chịu

trách nhiệm quản lý hai quần đảo trên ở ngoài khơi bờ biển Việt Nam dưới vĩ tuyến 17.

Tháng 4 năm 1956, khi quân viễn chinh Pháp rút khỏi Miền Nam Việt Nam,

Philippines nêu vấn đề chủ quyền.

4. Hoàn cảnh lịch sử dẫn đến việc Trung Quốc, Pháp, Việt Nam Cộng hòa và các

nước khác trong khu vực tranh chấp chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường

Sa từ năm 1956 đến 1975

Việc Pháp thua trận ở Điện Biên Phủ và ký hiệp định Genève 20 tháng 7 năm 1954,

khiến tháng 4- 1956 quân Pháp phải rút lui khỏi Việt Nam và để khoảng trống bố phong ở

Biển Đông khiến các nước trong khu vực trong đó có Cộng hoa nhân dân Trung Hoa, Trung

Hoa Dân quốc (Đài Loan) và Philippines cho là cơ hội tốt chiếm đóng trái phép Hoàng Sa

cũng như Trường Sa của Việt Nam.

Khi ây, quân đội quốc gia Việt Nam sau gọi là Việt Nam Cộng hoà đã chiếm đóng

các đảo phía tây của quần đảo Hoàng Sa bao gồm đảo Hoàng Sa (Pattle). Ngày 1 tháng 6

năm 1956, Ngoại trưởng chính quyền Việt Nam Cộng hoà Vũ Văn Mẫu ra tuyên bố tái

khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vài

ngày hôm sau, Pháp cũng nhắc lại cho Philippines biết những quyền hạn mà Pháp đã có đối

với hai quần đảo trên từ năm 1933.

Ngày 22 tháng 8 năm 1956, lục hải quân Việt Nam Cộng hoà đổ bộ lên các đảo chính

của quần đảo Trường Sa và dựng bia, kéo cờ. Sau khi trấn giữ ở các đảo phía tây quần đảo

Hoàng Sa, ngày 22 tháng 8 năm 1956, lực lượng hải quân của chính phủ Việt Nam Cộng hoà

đã đổ bộ lên các hon đảo chính của nhóm Trường Sa, dựng một cột đá và trương quốc kỳ.

Tháng 10 năm 1956, hải quân Đài Loan đến chiếm đảo Ba Bình (Itu Aba). Ngày 22

tháng 10 năm 1956, sắc lệnh số 143 - NV của Tổng thống Việt Nam Cộng hoà thay đổi địa

giới các tỉnh và tỉnh lỵ tại "Nam Việt" (Nam Bộ). Trong danh sách các đơn vị hành chánh

"Nam Việt" (Nam Bộ) đính kèm theo sắc lệnh có những thay đổi tên mới, trong đó có tỉnh

Bà Rịa - Vũng Tàu nay được gọi là tỉnh Phước Tuy và đảo Spratly thuộc tỉnh Phước Tuy

được gọi là Hoàng Sa cùng tên với quần đảo phía Bắc là Paracels.

Trong khi ấy, Cộng hoa nhân dân Trung Hoa cũng đã nhanh chóng chiếm giữ đảo

Phú Lâm (Ile Boisée), đảo lớn nhất của quần đảo Hoàng Sa, song hành với việc Đài Loan

chiếm giữ đảo lớn nhất của quần đảo Trường Sa. Một tinh hinh hết sức phức tạp, đen tối cho

chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa, bởi hai chính quyền Việt Nam Dân chủ

cộng hoa và Việt Nam Cộng hoa nếu không ra mặt ủng hộ thì cũng lơ đi sự chiếm đóng trái

Page 14: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA …

14

phép của Cộng hoa nhân dân Trung Hoa và của Đài Loan đối với Hoàng Sa và Trường Sa

của Việt Nam. Song từ sau Hiệp định Genève mà Trung Quốc đã ký, chính quyền phía Nam

mới có trách nhiệm quản ly cũng như từ bỏ chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa vi hai quần

đảo này nằm phía dưới vĩ tuyến 17. Vụ việc công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm

1958 chỉ ủng hộ Tuyên bố 12 hải ly về lănh hải của Trung Quốc cũng như những biểu hiện

khác thuộc chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hoà cũng không có giá trị pháp lý quốc tế về

sự từ bỏ chủ quyền mà chính quyền Trung Quốc tố cáo là lật lọc là không đúng sự thực và

thực chất về chủ quyền ở Hoàng Sa. Trong bối cảnh chiến tranh lạnh, đối đầu của hai khối

chính trị mà Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đang là đồng minh chí cốt của Việt Nam Dân

chủ cộng hoà và cùng thù địch với Mỹ lại là đồng minh của Đài Loan và Việt Nam Cộng

hoa, nên tất cả những hành động đối đầu cũng chỉ là đối sách chính trị thù địch nhất thời.

Ngày 13 tháng 7 năm 1961, sắc lệnh số 174 - NV của Tổng thống Việt Nam Cộng

Hoà đặt quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam và thành lập tại quần đảo này một xã lấy

tên là xã Định Hải trực thuộc quận Hoà Vang.

Trong sắc lệnh trên, ghi rằng: "Quần đảo Hoàng Sa trước kia thuộc tỉnh Thừa Thiên,

nay đặt thuộc tỉnh Quảng Nam (điều 1). Đặt đơn vị hành chính xã bao gồm trọn quần đảo

này được thành lập và lấy danh hiệu là xã Định Hải, trực thuộc quận Hoà Vang. Xã Định

Hải dưới quyền một phái viên hành chính (điều 2). Tháng 2 năm 1959, nhiều dân chài

Trung Quốc định đến đóng trên phần phía tây quần đảo Hoàng Sa, nhưng không thành công,

bị hải quân Việt Nam Cộng hoà bắt và hoàn trả lại Trung Quốc.

Ngày 13 tháng 7 năm 1971, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Cộng hoà, ông Trần

Văn Lắm có mặt ở Manila đã lên tiếng nhắc lời yêu sách của Việt Nam và các danh nghĩa

làm cơ sở cho những yêu sách đó trên quần đảo Trường Sa.

Ngày 6 tháng 9 năm 1973, Bộ trưởng Bộ Nội vụ của chính quyền Việt Nam Cộng

hoà đã sửa đổi việc quản lý hành chính của Trường Sa vào xã Phước Hải, quận Đất Đỏ, tỉnh

Phước Tuy mà trước đây vào năm 1956, thời chính quyền Ngô Đình Diệm đã có sắc lệnh

gọi quần đảo Spratly là quần đảo Hoàng Sa

Trong bối cảnh sau Thông cáo chung Thượng Hải năm 1972 giữa Mỹ và Trung

Quốc, tạo sự nứt rạn không thể hàn gắn giữa Liên Xô và Cộng hoa nhân dân Trung Hoa,

trong khi chiến tranh Việt Nam đang ở giai đoạn gần kết thúc, cuộc diện chính trị thế giới

biến đổi đã ảnh hưởng đến Việt Nam kể cả về sự bảo vệ chú quyền của Việt Nam ở Hoàng

Sa và Trường Sa. Ngày 11 tháng 1 năm 1974, Cộng hoa nhân dân Trung Hoa tuyên bố việc

sáp nhập các đảo của quần đảo Trường Sa vào tỉnh Phước Tuy của Việt Nam Cộng hoà là

sự lấn chiếm lãnh thổ Trung Quốc và khẳng định lại các yêu sách của Trung Quốc đối với

hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Ngày 12 tháng 1 năm 1974, chính phủ Việt Nam Cộng hoà tuyên bố bác bỏ yêu sách

của Trung Quốc. Ngày 15 tháng 1 năm 1974, Cộng hoa nhân dân Trung Hoa bắt đầu triển

khai một lực lượng hải quân mạnh mẽ trong đó có nhiều tàu được ngụy trang thành tàu đánh

Page 15: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA …

15

cá và có phi cơ yểm trợ. Mặt khác, Bộ Tư lệnh hải quân Việt Nam Cộng hoà đã điều động

tuần dương hạm Lý Thường Kiệt đến Hoàng Sa để tuần phong và canh chừng.

Sau khi phát hiện sự có mặt của quân đội Cộng hoa nhân dân Trung Hoa tại vùng

Hoàng Sa với cờ dựng trên các đảo Quang Anh (Money), Hữu Nhật (Robert), lực lượng

quân đội Việt Nam Cộng hoà được tăng cường với khu trục hạm Trần Khánh Dư, tuần

dương hạm Trần Bình Trọng, hộ tống hạm Nhật Tảo. Lực lượng tăng cường của Việt Nam

Cộng hoà có các toán biệt hải được lệnh đổ bộ đến các đảo hạ cờ của quân đội Cộng hoa

nhân dân Trung Hoa. Vài vụ xô xát đã xảy ra, súng đã nổ trên đảo Quang Hoà (Duncan) và

một đảo khác.

Tiếp ngày 16 tháng 1 năm 1974, chính phủ Việt Nam Cộng hoà đã ra tuyên cáo bác

bỏ luận cứ của Cộng hoa nhân dân Trung Hoa và đưa ra những bằng chứng ro ràng về pháp

lý, địa lý, lịch sử để xác nhận chủ quyền của Việt Nam Cộng hoà trên hai quần đảo này. Hai

bên bắt đầu phối trí toàn bộ lực lượng, các chiến hạm hai bên cách nhau chừng 200m. Sau

đó hai bên bỗng tách rời nhau để chuẩn bị, cuộc hải chiến bắt đầu diễn ra vào lúc 10 giờ 25

phút ngày 19 tháng 1 năm 1974. Một chiến hạm Cộng hoa nhân dân Trung Hoa bị bốc cháy.

Các chiến hạm Cộng hoa nhân dân Trung Hoa mang số 281, 182 dồn sức đánh trả khiến

chiến hạm Nhật Tảo bị trúng đạn trên đài chỉ huy và hầm máy chính, hạm trưởng Nguyễn

Văn Thà hy sinh. Sau hơn 1 giờ giao tranh, 2 chiến hạm Cộng hoa nhân dân Trung Hoa

chìm, 2 chiếc khác bị bắn cháy. Bên lực lượng Việt Nam Cộng Hoà ngoài hộ tống hạm Nhật

Tảo bị chìm, con có một số chiến hạm bị thương tổn, trong đó có một số binh sĩ bị bắt và

mất tích. Một người Mỹ tên Gerald Kosh, một nhân viên dân sự thuộc văn phong tùy viên

quốc phong toà đại sứ Mỹ ở Sài Gon, được biệt phái làm liên lạc viên cạnh bộ chỉ huy hải

quân Quân Khu I Việt Nam Cộng hoà cũng bị bắt (theo Nhật báo Chính Luận, số 2982,

ngày 31 tháng 1 năm 1974). Kosh được trao trả lúc 12 giờ trưa ngày 31 tháng 1 năm 1974.

Ngày 17 tháng 2 năm 1974, chính quyền Bắc Kinh trả tự do cho 43 quân nhân và nhân viên

của Việt Nam Cộng hoà tại Tân Giới (Hồng Kông).

Lầu Năm Góc được chính quyền Sài Gon yêu cầu can thiệp, quyết định đứng ngoài

cuộc xung đột. Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ, Arthur Hummel cho chính quyền Sài Gon

biết Mỹ không quan tâm đến vấn đề Hoàng Sa.

Qua thông điệp ngoại giao được gửi đến tất cả các nước ký Hiệp định Paris (1973),

chính quyền Việt Nam Cộng hoà nhắc lại sự đảm bảo toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, yêu

cầu Hội đồng bảo an họp một phiên họp đặc biệt.

Ngày 1 tháng 2 năm 1974, chính quyền Sài Gon quyết định tăng cường phong thủ

các đảo ở quần đảo Trường Sa, đưa lực lượng ra đóng ở 5 đảo thuộc Trường Sa. Qua đại sứ

ở Manila, chính quyền Sài Gon khẳng định chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo Trường

Sa và Hoàng Sa.

Ngày 1 tháng 2 năm 1974, đoàn đại biểu của Việt Nam Cộng hoà ra tuyên bố tại hội

nghị của Liên Hợp Quốc về luật Biển Caracas khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam trên

Page 16: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA …

16

các quần đảo, tố cáo Bắc Kinh đánh chiếm Hoàng Sa. Ngày 30 tháng 3 năm1974, đại biểu

chính quyền Việt Nam Cộng hoà khẳng định chủ quyền Việt Nam đối với hai quần đảo

Hoàng Sa và Trường Sa tại Hội đồng kinh tài Viễn Đông họp tại Colombia. Ngày 14 tháng

2 năm 1975, Bộ Ngoại giao chính quyền Việt Nam Cộng hoà công bố Sách trắng về Hoàng

Sa và Trường Sa.

Tóm lại , Pháp xâm chiếm trở lại Việt Nam, dẫn đến cuộc kháng chiến chống Pháp

(1945-1954), Pháp vẫn làm chủ Biển Đông và thực thi chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng

Sa và Trường Sa. Hiệp định Genève năm 1954 qui định từ vĩ tuyến 17 trở xuống thuộc

chính quyền phía Nam quản lý, Khi Pháp rút quân tháng 4/1956 bỏ trống bố phong Hoàng

Sa và Trường Sa. Trong khi ấy xẩy ra chiến tranh lạnh giữa Liên Xô đứng đấu phe Xã hội

chủ nghĩa và Mỹ đứng đầu phe Tư bản chủ nghĩa, Việt Nam bị chia cắt khiến hai chính

quyền bị cuốn hút vào sự đối đầu, không bảo vệ được chủ quyền để cho Trung Quốc chiếm

từng phần rồi toàn thể Hoàng Sa và Việt Nam Cộng Hoà chỉ trấn giữ quần đảo Trường Sa

song lại để cho Đài Loan chiếm đảo Ba Binh , lớn nhất của quần đảo Trường Sa cùng

Philippines chiếm một số đảo, đá trong đó có Song Tử Đông ở Trường Sa.

Chính vi vậy, chúng ta có thể nói rằng nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các nước trong

khu vực tranh chấp chủ quyền của Việt Nam cũng như Trung Quốc chiếm giữ trái phép

hoàn toàn Hoàng Sa và Trường Sa trong thời kỳ này chính là những biến động chính trị ở

Việt Nam cũng như trên thế giới, Mỹ rút quân khỏi Việt Nam, không con bảo vệ đồng minh

Việt Nam Cộng hoà, để cho Trung Quốc chiếm Hoàng Sa bằng vũ lực.

5. Hoàn cảnh lịch sử dẫn đến việc Trung Quốc, Việt Nam thống nhất cùng các

nước trong khu vực tranh chấp chủ quyền của Việt Nam tại Trường Sa từ năm 1975

đến nay

+ Tư 1975 đến 1990, Viêt Nam hơp tac toan diên với Liên Xô, Trung Quôc đa ky vơi

Mỹ Thông cáo chung ở Thượng Hải năm 1972, mâu thuân giưa Trung Quôc và Liên Xô

không giảm; Viêt Nam va Trung Quôc xay ra chiên tranh năm 1979 khiên tranh châp giư

Viêt Nam va Trung Quôc tai Hoàng Sa va Trương Sa trơ nên gay găt.

Chính quyền Việt Nam thống nhất tiếp tục khẳng định chủ quyền Việt Nam trên quần

đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vẫn chịu những dư âm tác động đối đầu của các thế lực quốc tế

trước đây chưa chấm dứt được sự tranh chấp chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa .

Sau chiến thắng Buôn Mê Thuột, thời cơ chiến lược giải phóng Miền Nam đã đến.

Bộ chính trị quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam ngay trong mùa khô 1975 bao gồm

các đảo và các quần đảo Trường Sa, Côn Lôn, Phú Quốc…

Ngày 5 tháng 4 năm 1975, Bộ Tư lệnh Hải quân chủ trương chuẩn bị chiến đấu giải

phóng quần đảo Trường Sa. Lực lượng tham gia giải phóng gồm có các tàu của đoàn vận tải

quân sự 125, đoàn 126 đặc công, tiểu đoàn 471, đặc công quân khu 5 và tiểu đoàn 407 cùng

lực lượng đặc công tỉnh Khánh Hoà. Bộ Tư lệnh Hải quân chủ trương nhanh chóng đánh

Page 17: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA …

17

đảo Song Tử Tây trước để làm bàn đạp và rút kinh nghiệm đánh tiếp các đảo Nam Yết, Sơn

Ca, Sinh Tồn, An Bang, Trường Sa và các đảo con lại của quần đảo.

Ngày 9 tháng 9 năm 1975, đại biểu chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt

Nam tại hội nghị khí tượng thế giới tiếp tục đăng ký đài khí tượng Việt Nam tại quần đảo

Hoàng Sa.

Ngày 10 tháng 9 năm 1975, Bắc Kinh gửi công hàm cho Việt Nam Dân Chủ Cộng

Hoà khẳng định chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (mà

Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa).

Ngày 24 tháng 9 năm 1975, trong cuộc gặp đoàn đại biểu Đảng và chính phủ Việt

Nam Dân Chủ Cộng Hoà do Tổng bí thư Lê Duẩn dẫn đầu, nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng

Tiểu Bình tuyên bố sau này hai bên sẽ bàn bạc về vấn đề Tây Sa và Nam Sa.

Ngày 12 tháng 5 năm 1977, chính phủ Việt Nam tuyên bố về các vùng biển và thềm

lục địa Việt Nam.

Tháng 9 năm 1977, khi thăm Philippines và tháng 10 năm 1977 khi đi thăm Malaysia,

thủ tướng Phạm Văn Đồng đồng ý với tổng thống Ferdinand Marcos và thủ tướng Hussein On

rằng hai bên sẽ giải quyết mọi tranh chấp và bất đồng bằng thương lượng hoà bình.

Tháng 3 năm 1978, Hội nghị hành chính thế giới về thông tin vô tuyến điện thông

qua một nghị quyết cho phép Trung Quốc sử dụng một số tần số trên vùng trời Hoàng Sa.

Ngày 30 tháng 12 năm 1978, người phát ngôn Bộ Ngoại giao nước Cộng hoà xã hội

chủ nghĩa Việt Nam ra tuyên bố bác bỏ luận điệu nêu trong tuyên bố ngày 29 tháng 2 năm

1978 của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc về vấn đề quần đảo Trường Sa,

khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nhắc lại

lập trường của Việt Nam chủ trương giải quyết mọi tranh chấp hoặc bất bình bằng thương

lượng hoà bình.

Ngày 30 tháng 7 năm 1979, Trung Quốc đã công bố tại Bắc Kinh tài liệu để chứng

minh rằng Việt Nam đã “thừa nhận” chủ quyền Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và

Trường Sa.

Ngày 7 tháng 8 năm 1979, Bộ Ngoại giao nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

ra tuyên bố về quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, bác bỏ sự xuyên tạc của Trung

Quốc trong việc công bố một số tài liệu của Việt Nam liên quan đến các quần đảo Hoàng Sa

và Trường Sa, khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo này, nhắc lại lập

trường của Việt Nam về việc giải quyết sự tranh chấp về 2 quần đảo giữa hai nước bằng

thương lượng hoà bình.

Ngày 28 tháng 9 năm 1979, Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố một số tài liệu về chủ

quyền Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa.

Page 18: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA …

18

Ngày 28 tháng 9 năm 1979, Bộ Ngoại giao Việt Nam bác bỏ việc Philippines tuyên

bố sát nhập hầu hết lãnh thổ Trường Sa vào lãnh thổ Philippines.

Ngày 30 tháng 1 năm 1980, Bộ Ngoại giao Trung Quốc công bố văn kiện về Tây Sa

và Nam Sa. Ngày 5 tháng 2 năm 1980, Bộ Ngoại giao Việt Nam ra tuyên bố vạch trần thủ

đoạn xuyên tạc của Trung Quốc trong văn kiện ngày 30 tháng 1 năm 1980.

Ngày 29 tháng 4 năm 1980, Bộ Ngoại giao Việt Nam gửi công hàm cho Malaysia

phản đối việc Malaysia công bố bản đồ Malaysia lấn vào vùng biển và thềm lục địa Việt

Nam tại vùng Trường Sa.

Ngày 8 tháng 5 năm 1980, nhân chuyến viếng thăm và hội đàm với Malaysia, Ngoại

trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã khẳng định đảo An Bang là của Việt Nam.

Tháng 6 năm 1980, tại Hội nghị khí tượng khu vực châu Á II họp tại Genève, đại

biểu Việt Nam tuyên bố trạm khí tượng của Trung Quốc tại Sanhudao (đảo Hoàng Sa của

Việt Nam) là bất hợp pháp. Kết quả là trạm Hoàng Sa của Việt Nam được giữ nguyên trạng

trong danh sách các trạm như cũ.

Ngày 13 tháng 6 năm 1980, Việt Nam yêu cầu OMM đăng ký trạm khí tượng Trường

Sa vào mạng lưới OMM.

Tháng 12 năm 1981, Tổng cục Bưu điện Việt Nam điện cho Chủ tịch ủy ban đăng ký

tần số tại Genève phản đối việc Trung Quốc được phát một số tần số trên vùng trời Hoàng

Sa và Trường Sa của Việt Nam.

Tháng 12 năm 1981, Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố sách trắng: “Quần đảo Hoàng

Sa và quần đảo Trường Sa, lãnh thổ Việt Nam”.

Tháng 6 năm 1982, Tân Hoa xã loan tin là một hải cảng lớn được xây dựng tại

Hoàng Sa.

Tháng 10, tại Hội nghị toàn quyền của UIT, đại biểu Việt Nam tuyên bố không chấp

nhận việc thay đổi phát sóng đã được phân chia năm 1978 tại Genève.

Ngày 12 tháng 11 năm 1982, chính phủ Việt Nam công bố đường cơ sở dùng để tính

chiều rộng lãnh hải .

Ngày 4 tháng 2 năm 1982, chính phủ Việt Nam thành lập huyện Hoàng Sa thuộc tỉnh

Quảng Nam - Đà Nẵng.

Ngày 9 tháng 12 năm 1982, chính phủ Việt Nam lập huyện Trường Sa. Đến ngày 28

tháng 12 năm 1982, chính phủ Việt Nam quyết định huyện Trường Sa được nhập vào tỉnh

Phú Khánh.

Page 19: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA …

19

Tháng 1 năm 1983, Hội nghị hành chính thế giới về thông tin vô tuyến đồng ý sẽ

xem xét đề nghị của Việt Nam về việc phát sóng trên vùng trời Hoàng Sa và Trường Sa tại

hội nghị sắp tới.

Cũng tháng 01 năm 1983, Hội nghị hàng không khu vực châu Á Thái Bình Dương

họp ở Singapore. Trung Quốc muốn mở rộng FIR Quảng Châu lấn vào FIR Hà Nộivà FIR

TP Hồ Chí Minh, nhưng Hội nghị quyết định duy trì nguyên trạng.

Từ ngày 4 đến 16 tháng 4 năm 1984, đoàn đại biểu Quốc hội nước Cộng hoà xã hội

chủ nghĩa Việt Nam và đoàn đại biểu tỉnh Phú Khánh thăm huyện Trường Sa. Thứ trưởng

Bộ Thủy sản Việt Nam Vũ Văn Trác đi khảo sát nghề cá tại huyện Trường Sa.

Ngày 25 tháng 4 năm 1984, Ủy ban địa danh Trung Quốc công bố tên mới cho các

đảo, bãi, đá trong Biển Đông trong đó có đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của

Việt Nam.

Ngày 6 tháng 5 năm 1984, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam phản đối việc

đặt tên của Trung Quốc.

Tại Hội nghị tổ chức thông tin vũ trụ quốc tế (INTU SAT) lần thứ 13 họp tại

Bangkok, đại biểu Việt Nam đã phản đối việc Trung Quốc sử dụng những bản đồ ghi Hoàng

Sa, Trường Sa (mà Trung Quốc gọi là Tây Sa, Nam Sa) là của Trung Quốc.

Bộ Ngoại giao Việt Nam phản đối Malaysia chiếm đóng đảo Hoa Lau trong quần đảo

Trường Sa. Việt Nam phản đối việc ngày 1 tháng 6 năm 1984 Quốc hội Trung Quốc tuyên

bố việc thiết lập khu hành chính Hải Nam bao gồm cả hai quần đảo Tây Sa, Nam Sa.

Vào đầu năm 1985, Đại tướng Văn Tiến Dũng, Bộ trưởng Bộ Quốc phong Việt Nam

ra thăm quần đảo Trường Sa.

Sang năm 1986, ông Hồ Diệu Bang, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc cùng

Lưu Hoa Thanh, Trương Trọng Tiến đi thị sát Hoàng Sa.

Tháng 5 năm 1987, đô đốc Giáp Văn Cường, Tư lệnh hải quân Việt Nam ra thăm

quần đảo Trường Sa.

Từ 16 tháng 5 đến 6 tháng 6 năm 1987, hải quân Trung Quốc tập trận tại vùng biển

Trường Sa.

Tháng 10 năm 1987, hải quân Trung Quốc diễn tập quân sự tại tây Thái Bình Dương

và nam Biển Đông.

Ngày 10 tháng 11 năm 1987, hải quân Trung Quốc đổ bộ lên đảo Louisa (1130 - 6

08)

Tháng 1 năm 1988, một lực lượng lớn tàu chiến, có nhiều tàu khu trục và tàu tên lửa,

đi từ đảo Hải Nam xuống phía Nam, trong đó có bốn chiếc được phái đến khu vực quần đảo

Trường Sa, khiêu khích và cản trở hoạt động của hai tàu vận tải Việt Nam trong khu vực bãi

Page 20: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA …

20

đá Chữ Thập và bãi đá Châu Viên là hai bãi san hô con đang lập lờ mặt nước. Quân lính

Trung Quốc cắm cờ trên hai bãi đá trên, đồng thời cho tàu chiến thường xuyên ngăn cản,

khiêu khích các tàu vận tải của Việt Nam đang tiến hành những hoạt động tiếp tế bình

thường giữa các đảo do quân đội Việt Nam bảo vệ. Trong đợt hoạt động trên, Trung Quốc

đã thành lập một bộ tư lệnh đặc biệt, sử dụng lực lượng của hạm đội Nam Hải, được tăng

cường một bộ phận của hạm đội Đông Hải và họ thường xuyên dùng trên 20 tàu các loại ở

khu vực quần đảo Trường Sa.

Về sự kiện xảy ra ngày 14 tháng 3 năm 1988, Trung Quốc nói rằng: “Trung Quốc

buộc phải phản kích để tự vệ”. Theo cách nói đó, có nghĩa là hải quân Việt Nam là kẻ tấn

công (bằng hai tàu vận tải!), con hải quân Trung Quốc là kẻ phong thủ tự vệ. Trung Quốc sử

dụng một biên đội tàu chiến đấu gồm sáu chiếc, trong đó có ba tàu hộ vệ số 502, 509 và 531

trang bị tên lửa và pháo cỡ 100mm, vô cớ tiến công bắn chìm ba tàu vận tải Việt Nam đang

làm nhiệm vụ tiếp tế ở các bãi đá Lan Đao, Cô Lin, Gac Ma thuộc cụm đảo Sinh Tồn của

Việt Nam.

Ngày 14 tháng 3 năm 1988, giữa Trung Quốc và Việt Nam đã nổ ra cuộc chiến đấu

trên biển Nam Trung Quốc. Cuộc chiến đấu này mặc dù chỉ diễn ra trong thời gian 28 phút

nhưng nó đã làm cả thế giới quan tâm theo doi. Tàu vận tải số 64 của hải quân Việt Nam chở

đầy binh lính bị bắn chìm tại chỗ, tàu đổ bộ số 505 và một tàu vận tải khác số 605 bị bắn

trọng thương, kéo theo đám cháy và cột khói đen ngom. Tàu đổ bộ số 505 bị chìm trên đường

về, con tàu đổ bộ số 605 thì bị mắc cạn. Cuộc chiến đấu không cân sức trên giữa các tầu vận

tải của Việt Nam vời các tầu chiến của Trung Quốc, vẻn vẹn chỉ diễn ra có 28 phút đã kết

thúc với kết quả phía Việt Nam có một tàu bị chìm tại chỗ, hai tàu bị thương, chết và bị

thương 20 người, mất tích 74 người. Con phía Trung Quốc chỉ có một số nhân viên khảo sát

và nhân viên khác trên đảo bị thương, ngoài ra không bị tổn thất gì, đây là một trận chiến đấu

trên biển mà phía Trung Quốc cho là «đánh gọn và đẹp mắt» (sic!). Sau các va chạm trên, hải

quân Trung Quốc tiếp tục ngăn cản các hoạt động tiếp tế do tàu Việt Nam thực hiện.

Tính đến ngày 6 tháng 4 năm 1988, Trung Quốc đã chiếm đóng: Đá Chữ Thập, Đá

Châu Viên, Đá Ga Ven, Đá Tư Nghĩa, Đá Gạc Ma, Đá Subi.

Ngày 3 tháng 1 năm 1989, Trung Quốc đặt bia chủ quyền trên các bãi họ chiếm được

trong năm 1988: Đá Chữ Thập, Đá Châu Viên, Đá Ga Ven, Đá Tư Nghĩa, Đá Gạc Ma, Đá Subi.

Năm 1988, Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông báo cho Liên

Hợp Quốc, gửi nhiều công hàm phản đối đến Bắc Kinh và đặc biệt là các công hàm ngày

16, 17, 23 tháng 3 năm 1988 đề nghị hai bên thương lượng giải quyết vấn đề tranh chấp.

Trung Quốc tiếp tục chiếm giữ các bãi đá đã chiếm được và khước từ thương lượng. Ngày

14 tháng 4 năm 1988, Bộ ngoại giao Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam phản đối việc

Quốc hội Trung Quốc sáp nhập hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào tỉnh Hải Nam

(nghị quyết ngày 13 tháng 4 năm 1988 thành lập tỉnh Hải Nam).

Page 21: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA …

21

Tháng 4 năm 1988, Bộ Ngoại giao Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công bố

sách trắng "Các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và luật pháp quốc tế".

Ngày 14 tháng 8 năm 1989, chính phủ Việt Nam quyết định thành lập Cụm kinh tế

khoa học dịch vụ trên vùng bãi ngầm Tứ Chính, Huyền Trân, Quế Đường, Phúc Tần, Phúc

Nguyên thuộc thềm lục địa Việt Nam có toạ độ 7 - 803B, 109 - 112

020 Đ.

Ngày 2 tháng 10 năm 1989, người phát ngôn Ngoại giao Việt Nam tuyên bố bác bỏ

luận điệu trong bản tuyên bố của Trung Quốc ngày 28 tháng 4 năm 1989. Người phát ngôn

Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã lên án Việt Nam xâm phạm trái phép một số đảo và cù lao tại

bãi Vạn An và Bãi Vạn Nhã thuộc “quần đảo Nam Sa”.

Tháng 5 năm 1989, Trung Quốc xâm chiếm thêm một số đảo nhỏ. Ngày 9 tháng 3

năm 1990, Trung Quốc kết thúc đợt khảo sát khoa học ở quần đảo Trường Sa bắt đầu từ ba

năm trước.

Ngày 18 tháng 3 năm 1990, nhiều tàu đánh cá từ Quảng Châu đến đánh cá ở Trường

Sa. Ngày 16 tháng 4 năm 1990, Bộ Ngoại giao Việt Nam gửi bản ghi nhớ cho Đại sứ quán

Trung Quốc tại Hà Nội, phản đối việc Trung Quốc cho nhiều tàu quân sự, tàu khảo sát, tàu

đánh cá đến hoạt động trong vùng biển Việt Nam tại quần đảo Trường Sa.

Ngày 28 tháng 4 năm 1990, Bộ Ngoại Giao Việt Nam gửi công hàm cho đại sứ quán

Trung Quốc tại Hà Nội, phản đối việc Trung Quốc đã cho quân lính xâm chiếm bãi Én Đất

trên quần đảo Trường Sa.

+ Tư năm 1990 đến nay, khôi Liên Xô và Đông Âu sup đô , Viêt Nam đôi mơi, làm

bạn với tất cả các nước kể cả Trung Quốc và Mỹ , sư tranh châp Hoang Sa va Trương Sa

giưa Trung Quôc va Viêt Nam không con gay găt như trươc , song sô dư trư dâu lưa lơn ơ

Biên Đông khiên Trung Quôc vân chưa chi u tra Hoang Sa cho Viêt Nam va cac nươc khu

vưc và Trung Quốc vân tiêp tuc tranh châp vơi Viêt Nam ơ Trương Sa.

Tháng 8 năm 1990, Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng đề nghị tiến hành khai thác

chung khu vực quần đảo Trường Sa.

Ngày 1 tháng 12 năm 1990 trong cuộc đi thăm Philippines, Thủ tướng Lý Bằng nói:

“Chúng ta có thể tìm ra một giải pháp thích hợp đối với vấn đề Trường Sa với các bên hữu

quan vào lúc thích hợp, nếu không phải là vào lúc này, tôi nghĩ chúng ta có thể gác lại vấn

đề này và không để nó gây trở ngại trong quan hệ giữa Trung Quốc với các nước láng giềng

hữu quan”.

Ngày 1 tháng 2 năm 1991, Trung Quốc xây dựng nhiều hải đăng trên các bãi đá

ngầm mới chiếm được trong quần đảo Trường Sa.

Ngày 25 tháng 5 năm 1991, Trung Quốc công bố kết quả 8 năm khảo sát khoa học ở

Trường Sa kể từ năm 1984.

Page 22: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA …

22

Ngày 4 tháng 7 năm 1991 tại KuaLa Lumpur tổ chức một hội thảo không chính thức

về giải quyết các tranh chấp trên vùng Biển Đông, Trung Quốc có cử đoàn cán bộ tham gia,

người phát ngôn Bắc Kinh tuyên bố việc tham gia như thế không phải là Trung Quốc đã

thay đổi lập trường và nói: “Trung Quốc chủ trương giải quyết tranh chấp bằng phương

pháp hoà bình, Trung Quốc sẵn sàng cùng các nước liên quan thảo luận con đường và

phương pháp cùng khai thác”.

Từ ngày 15 đến 18 tháng 7 năm 1991, do sáng kiến của Indonésia, một hội nghị quốc

tế đã được tổ chức tại Bombay giữa các quốc gia trong khu vực về vấn đề quần đảo Trường

Sa. Bản thông cáo cuối cùng khuyến khích đối thoại và đàm phán.

Ngày 10 tháng 11 năm 1991, các nhà lãnh đạo Việt Nam và Trung Quốc ký tại Bắc

Kinh thông báo chung về bình thường hoá quan hệ giữa hai nước.

Ngày 25 tháng 2 năm 1992, Quốc hội Trung Quốc công bố luật lãnh hải và vùng tiếp

giáp Trung Quốc, quy định lãnh hải rộng 12 hải lý và lãnh thổ Trung Quốc giữa bốn quần

đảo Đông, Tây, Nam, Trung Sa và đảo Điếu Ngư. Năm 1994, Việt Nam phản đối Trung

Quốc đã xâm phạm thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam khi Trung Quốc ký

với công ty Crestones (Mỹ) cho phép thăm do khai thác dầu mà Trung Quốc gọi là hợp

đồng Vạn An Bắc 21. Ngày 18 tháng 4 năm 1994, ông R.C. Thompson, chủ tịch công ty

Năng Lượng Crestones (Mỹ) ra thông báo với báo chí, nói rằng họ đang tiến hành khảo sát

địa chấn và chuẩn bị thăm đảo để đánh giá tiềm năng dầu khí của khu vực, gọi là hợp đồng

"Vạn An Bắc 21". Thông báo nói rằng: "Việc nghiên cứu khoa học và kế hoạch khai thác

thương mại trong tương lai là những bước phát triển mới nhất của lịch sử nghiên cứu khoa

học và thăm do ở Biển Nam Trung Hoa và khu vực vạn An Bắc của Trung Quốc, bắt đầu từ

những báo cáo năm 200 TCN vào thời Hán Vũ Đế”!

Trước năm 1957, đã có nhiều công ty nước ngoài khảo sát địa vật lý và khoan thăm

do ở thềm lục địa Nam Việt Nam, trong đó có hai giếng đã phát hiện dầu thương mại. Vào

cuối những năm 1970, có nhiều công ty như AGIP (Ý), DIMINEX (CHLB Đức), BOW

VALLEY (Canada) đã thăm do 5 lô dầu ở thềm lục địa miền Nam Việt Nam. Sau đó đến

1979, các công ty trên chấm dứt hoạt động. Tháng 9/1975, Tổng cục Dầu khí Việt Nam

được thành lập nhằm thúc đẩy hoạt động tìm kiếm thăm do dầu khí. Thềm lục địa Việt Nam

rộng chừng 1, 3 triệu km2, được chia thành 171 lô với diện tích trung bình mỗi lô khoảng

8000 km2. Trong đó có 31 lô có độ sâu mực nước biển dưới 50m, 35 lô từ 50 -100m, 10 lô

từ 100 - 250m, 38 lô từ 200 - 2000m và 57 lô là có mực nước sâu trên 2000m. Trong phạm

vi thềm lục địa Việt Nam có nhiều bồn trầm tích đệ tam có triền vọng chứa dầu khí. Cho

đến cuối những năm 80, trên toàn thềm lục địa Việt Nam, chủ yếu ở phía Nam, đã khảo sát

trên 100.000 km tuyến địa vật lý, khoan hàng chục giếng tìm kiếm thăm do và đã phát hiện

được ba mỏ dầu khí (Bach Hổ, Rồng và Đại Hùng). Từ năm 1986, mỏ Bạch Hổ bắt đầu

được khai thác. Sản lượng năm 1986: 0,04 triệu tấn, 1988: 0,68 triệu tấn, 1989: 1,5 triệu tấn,

1990: 2,7 triệu tấn, 1991: 3,96 triệu tấn… (PTS Nguyễn Hiệp, Phó tổng Giám đốc Công ty

Page 23: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA …

23

dầu khí Việt Nam, "Thăm do và khai thác dầu khí ở Việt Nam", Khoa học và Tổ Quốc, (số

93), 1992, tr5).

Việc thăm do và khai thác dầu khí ở thềm lục địa Việt Nam trên khiến người ta thấy

tiềm năng vùng Biển Đông có nhiều triển vọng về dầu khí . Các tài liệu của Cộng Hoa Nhân

Dân Trung Hoa cho con số trữ lượng từ 23 đến 30 tỷ tấn dầu tại vùng Nam Biển

Đông.Chính số lượng dự trữ dầu lớn như vậy đã khiến cho sự tranh chấp chủ quyên cua Viêt

Nam tai Hoang Sa va Trương Sa chưa dê gi châm dưt , măc du thơi ky Viêt Nam mât chu

quyên đa qua đi.

6. Sự thực về chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa, Trường Sa và giải pháp

bền vững cho Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông

Như trên đa trinh bay , Trung Hoa khi bắt đầu khảo sát Tây Sa vào năm 1909 cho

rằng Tây Sa là vô chủ. Hồi năm 1898, Chính quyền Quảng Châu, Trung Hoa đã trả lời các

khiếu nại của công sứ Anh ở Bắc Kinh về công ty Bảo hiểm người Anh bảo hiểm các tàu

Bellona của Đức (bị đắm năm 1895) và tàu Humeji-Maru của Nhật (bị đắm năm 1896) đã bị

những người Trung Hoa ở Hải Nam cướp phá rằng: “quần đảo Tây Sa là những hon đảo bị

bỏ rơi, chúng không phải sở hữu của cả Trung Hoa lẫn An Nam, cũng không sáp nhập về

hành chánh vào bất kỳ quận nào của Hải Nam và không có nhà chức trách nào chịu trách

nhiệm về cảnh sát của chúng”(Monique Chemillier-Gendreau, sđd, p.158).

Đến khi Pháp bắt đầu đưa ra những bằng chứng lịch sử sự chiếm hữu của Việt Nam,

Trung Hoa hôi đo va T rung Quôc bây giơ lai luôn luôn nói rằng Tây Sa (tức Hoàng Sa) và

Nam Sa (tức Trường Sa) đã thuộc về Trung Quốc từ lâu, bất khả tranh nghị, khi thi noi tư

đơi Minh, khi thi noi tư đơi Tông. Sự thực thế nào?

Sư thưc la quân đao Hoang Sa kh ông hê la vô chu như luân điêm cua chinh quyên

Trung Hoa hôi năm 1909: các tư liệu chứng minh chủ quyền của Việt Nam đa xuất hiện liên

tục qua cac đời : từ đầu thời Chúa Nguyễn (tức đầu thế kỷ XVII), sang thời Tây Sơn rồi tới

triều Nguyễn (từ vua Gia Long), Việt Nam có khoảng gần 30 tư liệu các loại, không con ít

ỏi như thư của Toàn quyền Pasquier gửi cho Bộ trưởng Bộ Thuộc địa ngày 18-10-1930, mà

đa khẳng định chủ quyền của Việt Nam hết sức ro rang.

Thời kỳ Đại Việt, từ thời kỳ Nam Bắc phân tranh và thời Tây Sơn, nguồn tư liệu về

Hoàng Sa hầu như chỉ con lại tư liệu của chính quyền họ Trịnh ở Bắc Hà , chủ yếu là Thiên

Nam tứ chí lộ đồ thư, năm 1686, trong Hồng Đức bản đồ hay Toản tập An Nam lộ trong

sách Thiên hạ bản đồ và Phủ biên tạp lục, năm 1776 của Lê Quý Đôn.

Trong Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư hay Toản tập An Nam lộ, năm 1686 có bản đồ là

tài liệu xưa nhất, ghi ro hang năm họ Nguyễn đưa 18 chiến thuyền đến khai thác ở Bai Cat

Vàng. Con tư liệu trong Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn, năm 1776 là tài liệu cổ, mô tả kỹ

càng nhất về Hoàng Sa, quyển 2 có hai đoạn văn đề cập đến việc Chúa Nguyễn xác lập chủ

quyền của Đại Việt tại Hoàng Sa bằng hoạt động của đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải.

Page 24: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA …

24

Sang thời kỳ triều Nguyễn từ năm 1802 đến năm 1909, có rất nhiều tài liệu chính sử

minh chứng chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa:

- Dư địa chí trong bộ Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (1821) và

sách Hoàng Việt địa dư chí (1833). Nội dung về Hoàng Sa của hai cuốn sách trên có nhiều

điểm tương tự như trong Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn cuối thế kỷ XVIII.

- Đại Nam thực lục phần tiền biên, quyển 10 (soạn năm 1821, khắc in năm 1844) tiếp

tục khẳng định việc xác lập chủ quyền của Đại Việt cũng bằng hoạt động của đội Hoàng Sa

và đội Bắc Hải.

- Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ (khắc in năm 1848); đệ nhị kỷ (khắc in

xong năm 1864); đệ tam kỷ (khắc in xong năm 1879) có cả thảy 11 đoạn viết về quần đảo

Hoàng Sa và Trường Sa với nhiều nội dung mới, phong phú, rất cụ thể về sự tiếp tục xác lập

chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

- Tài liệu rất quí gía, châu bản triều Nguyễn (thế kỷ XIX), hiện đang được lưu trữ tại

kho lưu trữ trung ương 1 ở Hà Nội. Ở đó người ta tìm thấy những bản tấu, phúc tấu của cac

đình thần cac bộ như Bộ Công , và các cơ quan khác hay những dụ của các nhà vua về việc

xác lập chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa dưới triều Nguyễn như việc vang

thám, đo đạc, vẽ họa đồ Hoàng Sa, cắm cột mốc... Năm Thiệu Trị thứ 5 (1845) có chỉ đình

hoãn kỳ vang tham, sau đó lại tiếp tục.

- Trong bộ sach Đại Nam nhất thống chí (1882 soạn xong, 1910 soạn lại lần hai và

khắc in) xác định Hoàng Sa thuộc về tỉnh Quảng Ngai va tiếp tục khẳng định hoạt động đội

Hoàng Sa và đội Bắc Hải do đội Hoàng Sa kiêm quản...

Ngoài ra các bản đồ cổ của Việt Nam từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX đều vẽ Bai Cat

Vàng hay Hoang Sa và Vạn Lý Trường Sa trong cương vực của Việt Nam.

Đặc biệt nhất sự kiện năm 1836 Vua Minh Mang sai suât đôi thuy b inh Pham Hưu

Nhât, ngươi gôc đao Ly Sơn chi huy thuy quân đi căm côt môc , dưng bia chu quyên tai

Hoàng Sa và Trường Sa , sau đo thanh lê hang năm. Đai Nam thưc lục chính biên đê nhi ky,

quyên 165 cũng đã chép rất ro từ n ăm Minh Mang thư 17 (1836), Bô Công tâu vua hàng

năm cư ngươi ra Hoang Sa ngoai viêc đo đac thủy trình , vẽ bản đồ và con cắm cột mốc ,

dưng bia. Châu ban, Tâp tâu cua Bô Công ngày 12 tháng 2 năm Minh Mang 17 (1836) vơi

lơi châu phê cua vua Minh Mang cung đa nêu rât ro: “Môi thuyên vang tham Hoang Sa phai

đem theo 10 tâm bai gô (côt môc) dài 4,5 thươc, rông 5 tâc". Đai Nam thưc lục chính biên,

đệ nhị kỷ, quyên 6 con ghi ro: “Vua Minh Mang đa y theo lơi tâu cua Bô Công sai suât đôi

thủy quân Phạm Hữu Nhật đưa binh thuyền đi , đem theo 10 cái bài gỗ dựng làm dấu mốc .

Môi bai gô dai 5 thươc rông 6 tâc va dày 1 tâc, môt bai khăc nhưng chư:

“Minh Mang thâp thât niên Bính Thân, thủy quân Chánh đội trưởng Suât đôi Pham

Hưu Nhât phung mênh vang Hoàng Sa tương đô chi thư hưu chi đẳng tư, (tôø 25b)”.

Page 25: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA …

25

(Năm Minh Mang thư 17, năm Bính Thân, thủy quân Chánh đội trưởng Suât đôi

Phạm Hữu Nhật, vâng mênh ra Hoàng Sa xem xet đo đac, đến đây lưu dấu để ghi nhớ).

Vì sư kiên trên đa thanh lê hang năm, nên Khâm định Đại Nam hội điên sự lệ (1851),

quyên 207, tơ 25b-26a va quyên 221 đa chep lai viêc dưng miêu , dưng bia đa, căm côt môc

năm 1836 và lệ hàng năm phái biền binh thủy quân đi vãng thám, vẽ bản đồ…

Về những tư liệu của Trung Quốc minh chứng chủ quyền Việt Nam tại quần

đảo Hoàng Sa và Trường Sa, người ta thấy:

- Hải Ngoại kỷ sự của Thích Đại Sán (người Trung Quốc) năm 1696. Trong

quyển 3 của Hải Ngoại kỷ sự đa noi đến Vạn Lý Trường Sa , khẳng định Chúa Nguyễn

đa sai thuyền ra khai thac cac sản vật từ cac tau đắm trên quần đảo Vạn Lý Trường Sa.

- Các bản đồ cổ Trung Quốc do chính người Trung Quốc vẽ từ năm 1909 trở về

trước đều minh chứng Tây Sa va Nam Sa không thuộc về Trung Quốc.

Khảo sát tất cả bản đồ cổ của Trung Quốc từ năm 1909 trở về trước, người ta

thấy tất cả bản đồ cổ nước Trung Quốc do người Trung Quốc vẽ không có bản đồ nào

có ghi các quần đảo Tây Sa, Nam Sa. Tất cả bản đồ cổ ấy đều xác định đảo Hải Nam là

cực nam của biên giới phía nam của Trung Quốc.

Sau khi Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đóng Hoàng Sa tháng 1-1974, nhiều đoàn

khảo cổ Trung Quốc đến các đảo thuộc quần đảo này và gọi là “phát hiện” nhiều cổ vật

như tiền cổ, đồ sứ, đồ đá chạm trổ trên cac hon đảo này , song đều không có giá trị gì để

minh xác chủ quyền Trung Quốc, trái lại họ lại phát hiện ở mặt bắc ngôi miếu “Hoàng

Sa Tự” ở đảo Vĩnh Hưng, tức đảo Phú Lâm (Ile Boisée), lại là bằng chứng hiển nhiên

vết tích của việc xác lập chủ quyền của Việt Nam.

Về những tư liêu Phương Tây cũng xac nhân chủ quyền của Việt Nam tại quần

đao Hoang Sa va Trương Sa

Nhât ký trên tàu Amphitrite (năm 1701) xác nhận Paracels là một quầ n đao thuôc vê

nươc An Nam.

“Le Memoire sur la Cochinchine” cua Jean Baptiste Chaigneau (1769 - 1825) viêt

vào những năm cuối đời Gia Long (hoàn tất năm 1820) đa khăng đinh năm 1816 vua Gia

Long đa xac lâp chu quyên Viêt Nam trên quần đảo Paracels.

Page 26: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA …

26

“Univers, histoire et description de tous les peuples, de leurs religions, moeurs et

coutumes” cua giam muc Taberd xuât ban năm 1833 cho răng hoang đê Gia Long chính

thưc khăng đinh chu quyên trên quân đao Hoang Sa năm 1816.

An Nam đai quôc hoa đ ồ của giám mục Taberd xuất bản năm 1838, phụ bản của

cuôn tư điên La tinh - Annam, ghi ro « Paracels seu Cat Vang » vơi toa đô ro rang như hiên

nay chư không phai như Trung Quôc cho la ven bơ biên . (« Seu » tiêng la tinh co nghia

« hay la », Cát Vàng: chư nôm, Hoàng Sa: chư Han)..

The Journal of the Asiatic Society of Bengal, Vol VI đa đăng bai cua giam muc

Taberd xac nhân vua Gia Long chính thưc giư chu quyên quân đao Paracels) .

The Journal of the Geographycal Society of London (năm 1849) GutzLaff ghi nhân

chính quyên An Nam lâp ra nhưng trưng thuyên va môt trai quân nho đê thu thuê ơ

Paracels...

….

Vê sau Trung Hoa đưa ra nhưng băng chưng nguy tao noi ngư ợc lại luận điệu ban

đâu, tưng cho la đât vô chu hôi 1909, cho răng Tây Sa đa thuôc Trung Quôc tư lâu . Ngay

tên Tây Sa va Nam Sa cung mơi đăt tư sau năm 1907 và Nam Sa lại bất nhất khi chỉ Trung

Sa, khi chi Nam Sa ơ vi tri hiê n nay (Spratleys). Có chăng thời Minh hay thời Hán thì cả

nươc Nam đa bi Trung Hoa đô hô , thơi Tông Đai Viêt cung bi xâm lươc , song đa gianh

đươc đôc lâp rôi!

Sự thực chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa đã ro ràng như trên . Vậy mà chỉ vi

Việt Nam bị Pháp đô hộ, mất hết chủ quyền, khi bị Trung Hoa xâm phạm, chính quyền thực

dân Pháp không bảo vệ kịp thời. Đến khi Chính quyền thực dân Pháp thay đổi quan điểm,

bảo vệ chủ quyền cho Việt Nam tại Hoàng Sa thi đã quá trễ và không thuyết phục vi thật ra

Pháp chỉ là nước đi xâm lược.

Sư thưc la bât cư chinh quyên nao kê ca chinh quyên thuôc đia chiu trach nhiêm vê

quản lý Hoàng Sa và Trường Sa , chưa bao giơ tư bo chu quyên cua Viêt Nam tai Hoang Sa

và Trường Sa.

Và nguyên nhân chủ yếu khiến cho Trung Quốc tranh chấp chủ quyền của Việt Nam

tại Hoàng Sa và Trường Sa chính là Việt Nam đã bị Pháp đô hộ và chịu ảnh hưởng những

biến động chính trị quốc tế cũng như quốc nội, nhât la tư thơi chiên tranh lanh và sau này.

Sư thưc lich sư vê chu quyên va nhưng hoan canh lich sư dân đên sư tranh châp

cùng nguyên nhân xâm phạm chủ quyền của Việt Nam đã quá ro ràng như thế thì khi Việt

Nam không con bi Phap đô hô va tinh hinh thê giơi va Viêt Nam đa biên chuyên, khác trước

thì giải pháp phải là “cái gì của César phải trả lại cho César”.

Không một chính quyền nào cũng như bất cứ người Việt Nam nào dù khác chính

kiến đều coi trọng việc lây lại Hoàng Sa về với Việt Nam và bảo toàn toàn vẹn Trường Sa.

Page 27: HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA …

27

Lịch sử cho biết dù có hàng ngàn năm bị lệ thuộc rồi cũng có ngày với sự kiên cường, bất

khuất, khi có thời cơ, sẽ đấu tranh thành công. Đối với các nước Asian trên cơ sở Công ước

quôc tê về luật biển năm 1982, sẽ tương nhượng trong tinh thần hợp tác giữa các thành viên

trong khối càng ngày càng chặt chẽ, đôi bên đều có lợi.

Việt Nam và Trung Quốc núi liền núi, sông liền sông, đã có những bài học lịch sử

quí giá. Việt Nam với truyền thống hàng ngàn năm luôn kiên quyết bảo vệ quyền độc lập tự

chủ của minh , song luôn luôn tôn trọng nước đàn anh Trung Quốc, luôn theo truyền thống

làm “phên dậu của Trung Quốc”, không bao giờ làm hại đến quyền lợi Trung Quốc.

Bất cứ giải pháp nào dựa vào sức mạnh như người Nhật đánh chiếm bằng vũ lực

Hoàng Sa, Trường Sa năm 1938, 1939 hoặc thực dân Pháp suốt thập niên 20 đến thập niên

50 thế kỷ XX dựa vào ưu thế quân sự của minh cũng như Trung Quốc dùng vo lực năm

1974 chỉ mang tính nhất thời. Có đế quốc nào mạnh như đế quốc La Mã thời cổ đại hay đế

quốc Mông Cổ thời trung đại hay đế quốc Anh, Pháp thời cận đại, rồi có ngày cũng suy yếu,

phải bỏ những lănh thổ chiếm giữ bằng vo lực.

Bất cứ giải pháp nào muốn vững bền phải dựa trên sự thực lịch sử nhà nước Việt

Nam đã chiếm hữu thật sự trước tiên tai Hoàng Sa va Trương Sa , chưa có ai tranh chấp và

phải dựa vào trật tự thế giới hiện hành khi có Hiến chương Liên Hiệp Quốc năm 1945 và

những Nghị quyết của Liên Hiệp Quốc sau đó và Công ước quốc tế về luật biển năm 1982.

Mọi người kể cả người Trung Quốc phải thấy ro sự thật lịch sử trên!

Viêt Nam phai luôn luôn nhăc đi nhăc lai cho ca thê giơi đươc biêt răng vu Trung

Quôc dung vo lưc chiêm đong Hoang Sa năm 1974 là trái phép hoàn toàn , trái với Hiến

Chương va các nghị quyết của Liên Hiêp Quôc. Không thê đê cho Trung Quôc coi vu chiêm

đong Hoang Sa như đa xong . Khi nội lực Việt Nam chưa đủ mạnh thi dứt khoát không ky

kết bất cứ một hiệp định nào gây sự thiệt hai cho Việt Nam.

Việc cần làm ngay là làm ro , quảng bá lịch sử nhà nước Việt Nam đã từ lâu chiếm

hữu thật sự Hoàng Sa và Trưởng Sa và xây dựng nội lực Việt Nam vững mạnh, đoàn kết

hùng cường.

Sư đâu tranh đoi lai Hoang Sa cho Viêt Nam cung như sư bao toan quân đao Trương

Sa la cuôc đâu tranh lâu dai, gian khô, nhất đinh se thanh công cung như Viêt Nam đa tưng

bị phong kiên phương Băc đô hô hơn môt ngan năm , khi co thơi cơ , sẽ giành đươc đôc lâp

tư chu.