hoÀn cẢnh lỊch sỬ dẪn ĐẾn tranh chẤp chỦ quyỀn cỦa …
TRANSCRIPT
1
VNH.TB1.235
HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN
CỦA VIỆT NAM TẠI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA:
NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP
TS. Nguyễn Nhã
Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam
1. Hoàn cảnh lịch sử dẫn đến việc chính quyền tỉnh Quảng Đông (Trung Hoa)
khảo sát trái phép quần đảo Hoàng Sa vào năm 1909 và tiếp tục lún sâu vào việc xâm
phạm chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa cho đến năm 1930 khi chính quyền thực
dân Pháp thay đổi quan điểm
Việt Nam bị Pháp xâm lươc năm 1858, mất hêt chủ quyền tự chủ ngoại giao theo
Hiệp ước cuôi cung ky vơi Phap năm 1884, không bảo vệ được chủ quyền của minh tại
Hoàng Sa khi bị các nước khác xâm phạm.
Chính trong thời Pháp thuộc đã xảy ra sự kiện chính quyền Quảng Đông (Trung Hoa)
do Tổng đốc Trương Nhân Tuấn đứng đầu vào tháng 6 năm 1909 như báo chí Quảng Châu
hồi bấy giờ đưa tin, lần đầu tiên đã cử một hạm đội nhỏ của Nhà Thanh đã đi khảo sát trái
phép quần đảo Paracels, vốn của Việt Nam từ lâu, tên chữ là Hoàng Sa hay tên nôm gọi là
Cát Vàng hay Cồn Vàng.
Tên Tây Sa mà chính quyền Quảng Đông mới đặt ra sau sự kiện tháng 10 năm 1907,
chính quyền nhà Thanh đuổi được nhóm thương gia người Nhật Nishizawa Yoshiksugu
chiếm giữ đảo Pratas trong 3 tháng (từ 2 tháng 7 năm 1907). Cũng bắt đầu từ khi này, chính
quyền Quảng Đông đã đặt tên Pratas là Đông Sa vốn là tên một đảo ở ngoài khơi tỉnh
Quảng Đông, đã được ghi rất ro trên bản đồ Duyên hải toàn đồ trong sách Hải quốc văn
kiến lục của Trần Luân Quynh (1730).
Không phải chính quyền thực dân Pháp không biết sự kiện khảo sát trái phép này.
Chính bức thư của lãnh sự Pháp Beauvais ở Quảng Châu gửi Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Pháp
ngày 4 tháng 5-1909 đã nêu ý đồ của Trung Quốc xâm phạm chủ quyền Hoàng Sa của Việt
Nam khi viết: "Như tôi đã trình bày với ông khi kết thúc bản báo cáo gần đây của tôi (số 86
ngày 1 tháng 5 năm 1909) về vấn đề các đảo Đông Sa (Pratas), vấn đề này khiến chính phủ
Trung Hoa chú ý đến các nhóm đảo khác nằm dọc bờ biển của Thiên Triều và tới một mức độ
nhất định có thể được coi như một bộ phận của Thiên triều, trong đó có quần đảo Paracels".
[Monique, Chemillier-Gendreau, La souveraineté sur les archipels Paracels et Spratleys, Paris,
L’Harmattan, 1996, p.206]. Cũng cần lưu y bức thư trên đã viết khi chính quyền Quảng Châu
2
con đang chuẩn bị thực hiện chuyến khảo sát. Cuộc khảo sát diễn ra sau đó, có mặt cả người
Đức, đã rời Hồng Kông vào ngày 21-5-1909 và về Quảng Châu vào ngày 9-6-1909.
Cũng trong thư trên đề ngày 4 tháng 5 năm 1909, lãnh sự Pháp ở Quảng Châu gửi
cho Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Pháp có một số nội dung đáng lưu ý sau đây:
Do ảnh hưởng của việc Nhật chiếm Pratas (Đông Sa), Trung Quốc muốn chiếm luôn
quần đảo Paracels gần Hải Nam.
Cuộc khảo sát trái phép đầu tiên là của Đoàn Ngô Kính Vinh đã cho thấy ở mỗi đảo
Hoàng Sa đều có một ngôi miếu nhỏ xây kiêu nhà đá (tất cả tường mái là đá san hô và vỏ
so). [Monique, Chemillier-Gendreau, sđd, Paris, L’Harmattan, 1996, p.207]
- Các ngư dân Việt Nam mang cả vợ con đến sống ở Hoàng Sa, bị đối xử tàn tệ, vợ con
bị bắt đến Hải Nam. [Monique, Chemillier-Gendreau, sđd, Paris, L’Harmattan, 1996, p. 210]
Như thế chính phủ Pháp ngay tại chính quốc đã ro ý đồ của chính quyền Trung Hoa
dù chỉ là chính quyền địa phương xâm phạm chủ quyền của Việt Nam tại Paracels hay
Hoàng Sa của Việt Nam. Sở dĩ Chính quyền Pháp không ngăn chặn hành động khảo sát trên
vì nhiều lý do:
+ Một là khi ấy, Pháp chưa quan tâm đến vấn đề bảo vệ sở hữu quần đảo của nước
“An Nam” mà Pháp bảo hộ theo Hiệp ước Patenôtre 1884. Vấn đề ngăn chặn y đồ của
Trung Hoa ngay từ năm 1909 mà Lãnh sự Pháp ở Quảng Châu là Beauvais đã báo cáo, bị
chính quyền Pháp ở mẫu quốc bỏ qua.
Điều này cũng dễ hiểu, nếu như các đảo ấy vốn thuộc sở hữu của nước Pháp hoặc
thuộc đất Nam Kỳ, nhượng địa hay thuộc địa chứ không phải đất bảo hộ, thì chắc chắn
chính phủ Pháp sẽ có hành động ngăn chặn ngay và sẽ không thể xảy ra tranh chấp lâu dài
về sau. Nếu không chính phủ Pháp sẽ bị kết tội hay se bi lên án do chính người Pháp hoặc
giới chính trị hoặc những công dân yêu nước của Pháp.
+ Hai là chính quyền thực dân Pháp ngại sự ngăn chặn có thể làm phát sinh trong long
dân chúng Trung Hoa một phong trào “sô vanh” có hại cho quyền lợi Pháp ở Trung Quốc.
Điều này cũng đã đươc Ông Beauvais nêu ra trong chính văn thư báo cáo ngày 4-5-
1909 gửi Ông Bộ trưởng Ngoại Giao Pháp và đã được chính phủ Pháp cân nhắc làm theo:
“Như vậy, thưa Ông Bộ trưởng, nếu ta con lợi ích trong việc ngăn không cho Chính
phủ Trung Hoa nắm lấy nhóm các đá ngầm này, có lẽ chúng ta sẽ dễ dàng nghiên cứu, tìm
ra các lập luận chứng minh ro ràng quyền củ a chúng ta và những bằng chứng không thể bác
bỏ về quyền đó. Nhưng nếu việc đó không đáng làm, sau khi đã suy nghĩ chín chắn, có lẽ
nên nhắm mắt làm ngơ. Một cuộc can thiệp của chúng ta sẽ có khả năng làm xuất hiện một
phong trào sô vanh mới làm cho chúng ta bị thiệt hại nhiều hơn lợi ích mà việc sở hữu được
thừa nhận đối với quần đảo Hoàng Sa đem lại (Cf. Monique Chemillier-Gendreau, La
Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys”, L’Harmattan, 1996, p.211-212).
3
Trong văn thư đề ngày 14 Janvier 1921 của Ông Chủ Tịch Hội Đồng Cố Vấn của Bộ
Ngoại giao Pháp (Le Président du Conseil, Ministre des Affaires Etrangères) gửi Bộ Trưởng
Bộ Hải Quân Pháp cũng đã khẳng định Bộ ngoại Giao Pháp đã nghe theo y kiến của
Beauvais (Cf. Monique Chemillier-Gendreau, sđd, tr. 205).
+ Ba là các quan chức thực dân Pháp từ Phủ Toàn quyền đến Bộ Thuộc Địa hay Bộ
Ngoại giao Pháp không biết ro hoặc rất mơ hồ về sở hữu từ lâu thuộc về Việt Nam.
Có rất nhiều bằng chứng như chính Ông Beauvais trong bản báo cáo trên cũng không
chắc chắn mà chỉ nói: “có lẽ sẽ dễ dàng nghiên cứu…”.
Cho đến ngày 6 tháng 5 năm 1921, có nghĩa sau hơn 1 tháng ngày 30-3-1921, lệnh
mang số 831 của Ban Đốc chính chính quyền quân sự miền Nam Trung Hoa sau phiên họp
ngày 11-3-1921 đã quyết định sáp nhập về mặt hành chính các đảo Hoàng Sa vào huyện Yai
Hien (Châu Nhai, đảo Hải Nam), Vụ Các vấn đề chính trị và Bản xứ thuộc phủ Toàn quyền
Đông Dương đã có văn bản ghi chú (Note) ghi rất nhiều điều liên quan đến quần đảo Hoàng
Sa lấy từ Hồ sơ hiện có ở Phủ Toàn quyền Đông Dương, cho biết đã tìm trong kho tư liệu
của hải quân Sài Gon, lưu trữ của Thống đốc Nam Kỳ, của phủ Toàn quyền không thấy có
tư liệu nào có tính chất làm ro quốc tịch của các đảo Hoàng Sa. Chính lúc Toàn quyền Đông
Dương ra chỉ thị điều tra về vấn đề quốc tịch của Hoàng Sa cũng là lúc nhận được bức thư
của Tổng lãnh sự Beauvais ở Quảng Châu báo tin có sự kiện chính quyền quân sự Nam
Trung Hoa quyết định sáp nhập Hoàng Sa vào tỉnh Quảng Đông.
Ro ràng sự kiện chính quyền quân sự miền Nam Trung Hoa ra tuyên bố sáp nhập Tây
Sa tức Hoàng Sa của Việt Nam vào huyện Châu Nhai, đảo Hải Nam thuộc tỉnh Quảng Đông
ngày 30 tháng 1 năm 1921 cũng đã xảy ra vào thời Pháp thuộc, khi Việt Nam đã hoàn toàn
mất chủ quyền.
Khi con mơ hồ về chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoang Sa , trong khi ấy thực
chất quyền lực nhà nước là do chính quyền thực dân Pháp nắm, nên chính quyền thực dân
Pháp không tích cực ngăn chặn sự vi phạm chủ quyền của chính quyền Quảng Đông tại
quần đảo Hoàng Sa là chuyện đương nhiên. Chắc chắn khi Việt Nam có con chủ quyền ,
được độc lập tự chủ hay Hoàng Sa vốn thuộc chủ quyền của Pháp thi chính quyền nào cũng
phải lấy nhiệm vụ tối thượng là bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của nước minh . Vì thế chung
qui không có sự ngăn chặn kịp thời sự xâm phạm chủ quyền của chính quyền quân sự Miền
Nam Trung Hoa vào năm 1921 cũng như của chính quyền Quảng Đông năm 1909 chính là
do Việt Nam bị Pháp đô hộ, không con chủ quyền để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của minh.
Vậy về phía Việt Nam nguyên nhân sâu xa hay khách quan dẫn đến sự tranh chấp
không đáng có chính là Việt Nam bị Pháp đô hộ, mất hết chủ quyền để có thể bảo vệ lănh
thổ của minh khi bị xâm phạm.
Về phía Trung Hoa, nguyên nhân khách quan là do ảnh hưởng của việc Nhật chiếm
Pratas (Đông Sa), Trung Quốc muốn chiếm luôn quần đảo Paracels gần Hải Nam để tránh
4
xảy ra sự kiện bất cứ nước nào nhất là các cường quốc hồi bấy giờ phong tay trên , chiếm cứ
những đảo ở Nam Hải mà Trung Hoa coi là vô chủ.
Về phía chính quyền thực dân Pháp, nguyên nhân chủ quan chính là do quyền lợi
riêng của Chính quyền thực dân Pháp đã khiến Pháp không phản ứng kịp thời để Trung Hoa
cho là đất vô chủ và đi sâu vào hành động xâm phạm chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa.
Song sau đó chính quyền thực dân Phap lại bắt đầu quan tâm đến hành động trái phép
của chính quyền Quảng Đông với quần đảo Hoàng Sa. Vậy thi nguyên nhân nào khiến chính
quyền thực dân Pháp bắt đầu quan tâm đến việc bảo vệ chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng
Sa trong thời gian từ năm 1921 đến 1930, Pháp bắt đầu thay đổi quan điểm. Đó chính là tầm
quan trọng của vị trí chiến lược của quần đảo Hoàng Sa đối với an toàn quyền lực của Chính
quyền thực dân Pháp.
Trước hết chính vi vị trí chiến lược quan trọng của quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
cũng như Biển Đông đối với lãnh thổ Pháp đang cai trị, nên thực dân Pháp ở Đông Dương
phải cân nhắc lợi hại, đã quyết định đối mặt với những y đồ tranh chấp chủ quyền của các
nước khác trong đó có Trung Quốc.
Lúc ban đầu, trong bản báo cáo ngày 04 tháng 5 năm 1909, của Tổng lănh sự Pháp
Beauvais ở Quảng Châu đã đề cập tới tầm quan trọng vị trí của quần đảo Hoàng Sa, song lại
chưa sát sườn với lợi ích của chính quyền thực dân, dù có hệ trong đến hàng hải hay sự đe
dọa đối với ngư dân Việt Nam như sau:
“Về vấn đề này, nhân viên của chúng tôi nhận xét rằng các đảo Hoàng Sa đối với
chúng ta có một tầm quan trọng nhất định : vì nằm giữa tuyến đường đi từ Sàigon đến Hồng
Kông, các đảo đó là một mối nguy hiểm lớn đối với hàng hải và việc chiếu sáng ở đó có thể
là cần thiết. Ngoài ra, các đảo đó thường có ngư dân An Nam và Trung Quốc qua lại: họ đến
đó trong quá trinh đánh cá đê sơ chế sản phẩm . đã xảy ra những cuộc đổ máu giữa ngư dân
hai nước trong dịp đó (Cf. Monique Chemillier-Gendreau, La Souveraineté sur les Archipels
Paracels et Spratleys”, L’Harmattan, 1996, p.197).
Trong văn thư của Khâm sứ Trung Kỳ Le Fol gửi Toàn quyền Đông Dương vào ngày
22 tháng 1 năm 1929 đã nhấn mạnh về vị trí chiến lược của quần đảo Hoàng Sa:
“Trong tinh hinh hiện nay, không ai có quyền phủ nhận tầm quan trọng chiến lược rất
lớn của các đảo Hoàng Sa. Trong trường hợp có xung đột, việc nước ngoài chiếm đóng
chúng sẽ là một trong những mối đe dọa nghiêm trọng nhất có thể có đối với việc phong thủ
và sự toàn vẹn lănh thổ của Liên bang [ Đông Dương].
“Thực vậy, các đảo nói trên là sự kéo dài tự nhiên của Hải Nam. Một đối phương có
thể thấy ở đó một căn cứ hải quân hùng mạnh nhờ những vụng và nhiều nơi tầu đậu tuyệt
vời, và do tính chất của chúng thực tế là không thể đánh bật. Một đội tầu ngầm dựa vào căn
cứ đó sẽ có thể, không những phong tỏa cảng Đà Nẵng là cảng quan trọng nhất của Trung
Kỳ, mà con cô lập Bắc Kỳ bằng cách ngăn cản việc đi đến Bắc Kỳ bằng đường biển . Lúc đó
5
để liên lạc giữa giữa Nam Kỳ với Bắc Kỳ ta phải dùng đường sắt hiện có, một con đường rất
dễ bị đánh v chạy dọc theo bờ biển , pháo hải quân đặt trên các chiến hạm có thể mặc sức
phá hủy”.
“Đồng thời, mọi con đường thông thương giữ Đông Dương - Viễn Đông - Thái Binh
Dương sẽ bị cắt đứt: hải lộ Sàigon-Hồng Kông đi gần quần đảo Paracels, do đó nằm dưới sự
kiểm soát trực tiếp của căn cứu trên các đảo”. (Cf. Monique Chemillier-Gendreau, La
Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys”, L’Harmattan, 1996, p.174).
Mặc dù có những báo cáo rất ro về tầm quan trọng của Hoàng Sa đối vớ i việc bảo vệ
lănh thổ thuộc địa Đông Dương của Pháp, song phải có sức ép của dư luận báo của người
Pháp ở Đông Dương mới làm cho chính quyền thực dân Pháp có những hành động cụ thể để
bảo vệ chủ quyền tại Hoàng Sa của nước được Pháp bảo hộ.
Đầu tiên với loạt bài trong các số 606, 622, 623, 627 (tháng 1, 5, 6 năm 1929), nhà
báo Henri Cucherousset đã lược qua về chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa với
những dẫn chứng hết sức cụ thể như: 1/Jean Baptiste Chaigneau viết năm 1820 dưới nhan
đề: Notice sur la Cochinchine cho biết Năm 1816 vua Gia Long thực sự chiếm đảo Hoàng
Sa.2/ Giám mục Jean Louis Taberd viết trong Journal of the Asiatic Society of Bengal,
tậpVI, măm 1837, tr.737 và những trang kế tiếp, tập VII, năm 1838, tr.317 và những trang
kế tiếp đề cập đến quần đảo Hoàng Sa trong mục Géographie de la Cochinchine. 3/ Dubois
de Jaucigny viết trong L’Univers - Histoire et Description de tous les peuples de leurs
religions. Moeurs, coutumes; Japon, Indochine, Ceylan xuất bản năm 1850 tại Paris, F.
Didot xuất bản, có đoạn viết: “ …từ 34 năm về trước quần đao Hoàng Sa (mà người Annam
gọi là Cát Vàng đã được chiếm cứ bởi các người xứ Nam Kỳ” . Cucherousset con viết những
chi tiết về quần đảo Hoàng Sa trong Nam Việt địa dư [Hoàng Việt địa dư?], Minh Mạng
năm thứ 14; Đại Nam nhất thống chí, in thời Duy Tân, tập 6, tờ 18b, 19a cùng việc tàu De
Lanessan thám sát Hoàng Sa năm 1925.”
Theo tác giả, quần đảo Hoàng Sa quan trọng do 5 đặc tính sau đây:1/ Trạm cho thủy
phi cơ Sàigon - Hồng Kông; Tourane - Philippines. 2/ Điểm tựa chiến lược cho tầu ngầm
khi có chiến trảnh. 3/ Trạm thông báo khí tượng. 4/ Nơi tránh gió bão cho tàu đánh cá. 5/
Giàu phốt phát . Lý do tác giả viết loạt bài vì nhân một đại úy người Anh muốn nhân danh
Anh Hoàng đặt chủ quyền Anh lên đảo Sein đồng thời tác giả cực lực phản đối việc hải
quân trung tá Rémy ở Sàigon trả lời cho 1 công ty hàng hải Nhật rằng không biết quần đảo
Hoàng Sa thuộc chủ quyền của ai và việc ông Monguillot đã viết cho ông Gravereaud nói
rằng quần đảo Hoàng Sa thuộc Trung Hoa.
Theo tác giả, chánh quyền bảo hộ Pháp phải chấp hữu chủ quyền trên quần đảo
Hoàng Sa bằng các hành động : 1/Vẽ bản đồ tổng quát Hoàng Sa tỉ lệ 1/200.000, vẽ bản đồ
chi tiết 1/25.000, vẽ bản đố hải quân và bản đồ đia chất . 2/ Đặt đài hải đăng. 3/ Đạt trạm
quan sát và thông báo khí tượng. 4/ Lập đội trú phong trú đóng tại Hoàng Sa.
6
Tác giả con luôn luôn trách cứ chánh quyền Pháp đã quá lơ là trong việc xác nhận và
bảo vệ chủ quyền tại Hoàng Sa.
Sau đó chính bức thư của Toàn quyền Pasquier gửi cho Bộ trưởng Bộ Thuộc Địa
ngày 18-10-1930 đã chấm dứt thái độ do dự của chính quyền Pháp đối với hành động xâm
phạm trái phép của chính quyền Trung Hoa đối với chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa.
Trong bức thư trên, Toàn quyền Pasquier đã gửi tập tư liệu về quần đảo Hoàng Sa
bao gồm:
Một đoạn trích bằng chữ Hán với bản dịch bằng tiếng Pháp của Đại Nam Nhất Thống
Chí, quyển 6 hay biên niên sử của chính phủ An Nam.
Một đoạn trích bằng chữ Hán với bản dịch bằng tiếng Pháp của Nam Việt địa dư, tập
2 hay Địa dư thời Minh Mạng1.
Một đoạn trích bằng chữ Hán với bản dịch bằng tiếng Pháp của Đại Nam nhất thống
chí hay địa dư thời Duy Tân.
Cùng kèm theo bốn thư phụ lục và bốn bản đồ, Toàn quyền Pasquier viết: “Chắc hẳn
Ngài cũng đánh giá như tôi rằng chúng ta đã đủ để xác định không thể tranh căi rằng An
Nam đã thực sự nắm sở hữu quần đảo và làm như vậy trước năm 1909 nhiều.” (Cf. Monique
Chemillier-Gendreau, La Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys”,
L’Harmattan, 1996, p.233).
2. Hoàn cảnh lịch sử dẫn đến việc Trung Hoa và Pháp tranh chấp chủ quyền
của Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945, thời gian Pháp
còn đô hộ Việt Nam
Từ 1931 đến 1933, Cucherousset lại tiếp tục viết 7 bài viết cũng trên báo L’Éveil
Économique de L’Indochine trong các số 685 (10-5-1931), 688 (31-5-1931), 743(26-6-
1932), 744(03-7-1932), 746(17-7-1932), 777 (26-02-1933) 790 (28-5-1933). Trong loạt bài
báo kể trên, không thấy nhắc đến lịch sử xác lập chủ quyền của Việt Nam nữa mà chỉ tập
trung vào thái độ của Toàn quyền Pasquier về việc xử ly việc bảo vệ chủ quyền ấy . Tác giả
chỉ trích một lá thư của Toàn quyền Pasquier khi Ông này viết: “Chủ quyền của xứ Annam
trên quần đảo Hoàng Sa là điều không thể chối cãi được nhưng lúc này chưa phải cơ hội để
xác nhận chủ quyền ấy”. Tác giả gay gắt chất vấn Toàn quyền: “Tại sao nay không phải là
cơ hội? Trở lực nào đã ngăn cản xứ “Annam” nhin nhận chủ quyền trên đảo Hoàng Sa mà
họ đã chấp hữu từ trăm năm trước? Có phải chăng đợi đến lúc người Nhật khai thác đến tấn
phốt phát cuối cùng? Có phải người Nhật đã trả thù lao một phần cho ai chăng?”
Vì những bài báo lập luận vững chắc và chỉ chích nặng lời toàn quyền Pasquier , Toa
soạn báo E.E.I bị ông Dự thẩm Bartet ra lệnh khám xét ban đêm buộc nhà báo phải nộp hồ
1 Chú thêm của tác giả: tức Hoàng Việt địa dư chí
7
sơ liên quan đến vụ Hoàng Sa. Trong số báo 743, Cucherousset cực lực phản đối và nhất
quyết không giao nộp, nếu muốn nghiên cứu thi chỉ cho đọc tại chỗ .Trong số báo 746,
Cucherousset viết nếu không có loạt bài của E .E.I thi có lẽ chính quyền Pháp làm ngơ vụ
Trung Hoa chiếm hữu Hoàng Sa.
Trong số báo 777, Cucherousset đã trình bày tại sao ông phản đối Toàn quyền
Pasquier nhún nhường trước hành động của Tổng Đốc Quảng Đông: 1. Chính quyền tỉnh
Quảng Đông không hề bao giờ được nước Pháp thừa nhận là một chính quyền tự trị. 2.
Chính phủ Trung Hoa ở Bắc Kinh lúc trước, ở Nam Kinh bây giờ, không hề bao giờ lên
tiếng tranh giành quần đảo này. 3. Ngược lại từ hơn 100 năm nay rồi, nước Nam đã chấp
hữu chủ quyền trên Hoàng Sa và sự việc này có ghi ro trong văn khố của tri ều đinh Huế .
Hơn nữa chính quyền Quảng Châu không thể dựa vào ly do ngư phủ Trung Hoa thường
xuyên ghé đảo để bắt rùa, phơi lưới để bảo Hoàng Sa thuộc Trung Hoa bởi ngư phủ Pháp
cũng thường làm như vậy tại bờ biển Terre Neuve nhưng Terre Neuve vẫn thuộc nước Anh.
Trong khi ấy trong 1 phiên họp của Hội đồng tư vấn Đông Dương, để trả lời vị đại diện của
xứ Annnam là ông Piguax, Toàn quyền Pasquier cho biết vụ Hoàng Sa đã có tiếng vang tại
Pháp và vị Tông trưởng Bộ Thuộc Địa đã quyết định đưa nội vụ ra Toa án quốc tế La Haye.
Ngoài tờ báo Eveil Economique, con nhiều báo của người Pháp ở Đông Dương và cả
ở Pháp cũng đăng những bài về chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa như Revue
Indochinoise Illustrée, số 38, 1929 (Sàigon), tr.605-616, P.A. La Picque đã dẫn nhiều tài liệu
về chủ quyền của Viêt Nam; việc chính quyền Quảng Đông trả lời không chịu trách nhiệm về
việc dân Hải Nam cướp trên các tầu bị đắm Le Bellona năm 1895 và Imezi Maru 1896 vì
Hoàng Sa không thuộc chủ quyền Trung Quốc; dịch lại bài báo đăng trên Quảng Châu Báo
ngày 10-7-1909 kể chuyện chuyến đi khảo sát Hoàng Sa của hải quân tỉnh Quảng Đông.
Mémoire No 3 du Service Océanographique de L’Indochine (Saigon), 1930, 24 tr. do J. de
Lacour và Jabouillé kể chuyến đi khảo sát Hoàng Sa 21-7-1926 theo lời mời của
M.A.Krempf. Avenir du Tonkin, số 10495(17-04-1931), tr2 khẳng định năm 1816, vua Gia
Long long trọng cho dựng cờ trên đảo vi thế cho nên dù năm 1909, Trung Hoa có muốn dành
chủ quyền, chánh phủ Pháp phải lên tiếng xác nhận quyền bảo vệ các đảo ấy. Trong hoàn
cảnh hiện nay, không ai có thể phủ nhận sự quan trọng có tính cách chiến lược của Hoàng Sa.
Nature (Paris), số 2916, 01-11-1933, tr.385-387 do Sauvaire-Jourdan viết trên tờ
Công báo ngày 19-7-1933 đăng một thông tư về việc hải quân Pháp chiếm cứ một vài đảo ở
phía nam Biển Đông, điểm qua lịch sử chiếm hữu, vua Gia Long cho hải đội đổ bộ và dựng
cờ trên đảo năm 1816 rồi đến sự kiện năm 1909 được bài báo ở Quảng Châu ngày 20-6-
1909 mà tác giả cho là khôi hài cùng những đề nghị không nên bỏ rơi quyền sở hữu các đảo
ấy. La Géographie, bộ LX (tháng 11-12-1933), tr.232-243, A. Olivier Saix đưa ra những
luận cứ theo đó chánh quyền bảo hộ của Pháp tại Việt Nam phải bảo vệ và duy trì chủ
quyền cho Việt Nam vi : 1/ Hoàng Sa có vị trí rất cần thiết lập hải đăng.2/ Là vị trí thiết lập
đài quan sát khí ượg và trạm vô tuyến kịp thời bào thời tiết bão cho tàu bè.3/ Hoàng Sa
nhiều nguồn lợi kinh tế: phốt phát, cá, rùa. 4. Lợi ích quân sự từ Hoàng Sa phong tỏa vịnh
Bắc Việt, cảng Đà Nẵng, hải lộ quốc tế 5. Lịch sử xác lập chủ quyền: vua Gia Long đã cho
8
hải đội Hoàng Sa đổ bộ lên đảo dựng cờ, lập cứ điểm, Thượng thư Bộ Binh Thân Trọng
Huề ngày 3-3-1925 nói rằng: “Các đảo đó bao giờ cũng là sở hữu của nước Annam, không
có gi tranh cãi trong vấn đề này”.
Ro ràng với sức ép dư luận trên, chính quyền thực dân Pháp đã phải hành động, trước
hết khoảng 1930 đến 1933, Pháp đã thiết lập chủ quyền tượng trưng tại Trường Sa cũng như
Hoàng Sa.
Với Hoàng Sa thuộc về Trung Kỳ, đất bảo hộ của Pháp, nên không cần phải hành
động xác lập chủ quyền mà chỉ cần những hành động thực thi chủ quyền, tiếp theo những
hành động khảo sát Hoàng Sa đầu tiên năm 1925 của Viện Hải dương học Nha Trang là
những hoạt động thể theo đề nghị của dư luận báo chí thời ấy. Ngày 15-6-1932, chính quyền
Pháp ra nghị định số156-SC ấn định việc thiết lập một đơn vị hành chánh gọi là quận Hoàng
Sa tại quần đảo Hoàng Sa.
Năm 1937, kỹ sư trưởng công chánh Gauthier nghiên cứu khả năng xây dựng một hải
đăng trên đảo Pattle (Hoàng Sa); năm 1938 Pháp bắt đầu phái các đơn vị bảo an tới các đảo và
xây dựng một hải đăng, một trạm khí tượng (OMM đăng ký số 48860) đặt ở đảo Pattle
(Hoàng Sa) và số 48859 ở đảo Phú Lâm (Ile Boisée), một trạm vô tuyến TSF trên đảo Pattle.
Tháng 3-1938, Hoàng đế Bảo Đại ky Dụ số 10 sáp nhập Hoàng Sa vào tỉnh Thừa Thiên thay
vì Nam Ngăi như các triều trước . Tháng 6 năm 1938, một đơn vị bảo an lính Việt Nam tới
trấn đóng Hoàng Sa. Một bia chủ quyền được dựng trên đảo Pattle với dong chữ: “République
Francaise- Royaume d’Annam- Archipels des Paracels 1816-Ile de Pattle 1938”.
Con với quần đảo Trường Sa phía Nam thuộc địa giới Nam Kỳ lại là đất thuộc địa
của Pháp, nên Pháp có hành động xác lập chủ quyền cho nước Pháp. Song để ngăn chặn
nước thứ ba cũng như đối phó với pháp ly quốc tế, Cố vấn pháp luật Bộ Ngoại Giao Pháp đã
viết trong Bản Ghi Chú cho Vụ Châu Á Đại dương ngạy-5-1950 rằng “Việc chiếm hữu quần
đảo Spratleys do Pháp tiến hành năm 1931-1932 là nhân danh Hoàng đế “Annam”. Ngày 13
tháng 4 năm 1933, một hạm đội nhỏ do trung tá hải quân De Lattre chỉ huy từ Sài Gon đến
đảo Trường Sa (Spratley) gồm thông báo hạm La Malicieuse, pháo thuyên Alerte , các tàu
thủy văn Astrobale và De Lanessan. Sư chiếm hữu tiến hành theo nghi thức cổ truyền của
phương Tây. Một văn bản được thảo ra và các thuyền trưởng ky thành 11 bản. Mỗi đảo
nhận 1 bản, được đóng kín trong 1 cái chai rồi được gắn trong 1 trụ xi măng xây trên mỗi
đảo tại một địa điểm ấn định và cố định trên mặt đất. Người ta kéo cờ tam tài và thổi kèn
trên từng hon đảo…
Ngày 26 tháng 7 năm 1933, Bộ Ngoại giao Pháp đã có một thông tin đăng trên Công
báo Pháp, ghi ro 6 nhóm hải đảo và tiểu đảo từ nay đã thuộc chủ quyền Pháp quốc, trong đó
gồm nhóm Spratley (8039’B-111
055Đ) và các tiêu đảo nhỏ xung quanh được chiếm hữu
sớm nhất từ ngày 13-4-1930 và đảo Thị Tứ được chiếm cuối cùng vào ngày 12-4-1933.
Ngày 21-12-1933, thống đốc Nam Kỳ M .J. Krautheimer ky nghị định số 4762 sáp nhập các
nhóm hải đảo thuộc quần đảo Pratleys (Trường Sa) vào tỉnh Bà Rịa.
9
Năm 1938 Pháp cũng thiết lập một bia chủ quyền, một hải đăng, một trạm khí tượng
và một trạm vô tuyến tại đảo Itu - Aba (Ba Binh)..
Tất cả những hành động thực thi chủ quyền của Pháp nhân danh “Annam” trên quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa diễn ra một cách suông sẻ, dù muộn màn , không gặp bất cứ
ngăn cản nào, bởi chỉ duy có chính quyền địa phương tỉnh Quảng Đông có y đồ , có dự án
khai thác Tây Sa tức Hoàng Sa của Việt Nam, và muốn chiếm hữu Hoàng Sa khi cho là đất
vô chủ, song các dự án của chính quyền địa phương mới chỉ trên giấy tờ, chính quyền trung
ương Trung Quốc chưa mặn mà. Tuy vậy Nhật Bản lại dấu mặt về y đồ chiếm giữ Hoàng Sa
và Trường Sa, đã lên tiếng phản đối sự chiếm giữ của Pháp trong thông báo cho chính phủ
Pháp vào ngày 24-7-1933. Ngày 31 tháng 3 năm 1939, Bộ Ngoại giao Nhật Bản ra tuyên bố
gửi tới Đại sứ Pháp ở Nhật Bản khẳng định Nhật Bản là người đầu khám phá Trường Sa vào
năm 1917 và tuyên bố Nhật kiểm soát Trường Sa. Nhât đã nhanh chóng chiếm đảo Phú Lâm
(Ile Boisée) của Hoàng Sa và đảo Itu-Aba (Ba Binh) của Trường Sa vào năm 1938, song
măi đến ngày 9-3-1945, Nhật mới bắt làm tù binh những lính Pháp đóng ở các đảo Hoàng
Sa cũng như đất liên của Việt Nam..
Việc Pháp nhân danh “Annam” cũng như Nhật cho rằng người khám phá đầu tiên
Trường Sa cũng chỉ là cái cớ để chiếm đóng Hoàng Sa và Trường Sa vì mục tiêu chiến lược
hoặc bảo vệ quyền lực hoặc thực hiện y đồ bành trướng quyền lực của nước đó . Khi không
cần thiết cho chiến lược của minh như hiện nay thi không cần thiết chiếm giữ Hoàng Sa và
Trường Sa nữa!
Nhật bản đã bại trận và đầu hàng vô điều kiện Đồng Minh 16 tháng 8 năm 1945 và
đã rút khỏi Hoàng Sa và Trường Sa .
3. Hoàn cảnh lịch sử dẫn đến việc Trung Hoa, Pháp tranh chấp chủ uyền của
Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa từ tháng Tám năm 1945 đến tháng 4 năm 1956,
khi Pháp xâm chiếm trở lại
Ngày 19 tháng 8 năm 1945 Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 2 tháng 9 năm
1945 nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc
lập ở quảng trường Ba Đinh, chấm dứt chế độ đô hộ của Pháp.
Sau khi Nhật bại trận, Pháp trở lại đô hộ Việt Nam, quân Tưởng Giới Thạch tiếp
quản nơi quân đội Nhật chiếm đóng từ phía Bắc vĩ tuyến 16, cả hai nước Pháp và Trung
Hoa đều tiếp tục tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, vẫn tiếp tục coi trọng vị
trí chiến lược Hoàng Sa và Trường Sa.
Việt Nam bận lo kháng chiến chống Pháp trong khi quân Pháp làm chủ Biển Đông.
Quân Nhật đã rút khỏi quần đảo Hoàng Sa cũng như Trường Sa vào năm 1946, Pháp
trở lai Việt Nam la m chủ Biển Đông, lập tức cử một phân đội bộ binh Pháp đổ bộ từ tàu
Savorgnan de Brazza đến thay thế quân đội Nhật từ tháng 5 năm 1946, nhưng đơn vị này
chỉ ở đó trong vài tháng. Trong thời gian từ 20 đến 27 tháng 5 năm 1946, đô đốc
10
D’Argenlieu, cao ủy Đông Dương cũng đã phái tốc hạm L’Escarmouche ra nắm tình hình
đảo Hoàng Sa (Pattle) thuộc quần đảo Hoàng Sa.
Vào lúc quân đội viễn chinh Pháp và Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà do
Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đang bận đối phó với cuộc chiến tranh toàn diện sắp xảy ra,
thì ngày 26 tháng 10 năm 1946, lợi dụng thời cơ, hạm đội đặc biệt của Trung Hoa Dân Quốc
gồm 4 chiến hạm, mỗi chiếc chở một số đại diện của các cơ quan và 59 binh sĩ thuộc trung
đội độc lập về cảnh vệ của hải quân (tiền thân của quân thủy đánh bộ) xuất phát từ cảng
Ngô Tùng ngày 9 tháng 10. Ngày 29 tháng 11 năm 1946, các tàu Vĩnh Hưng và Trung Kiên
tới đảo Hoàng Sa và đổ bộ lên đây. Tàu Thái Bình và Trung Nghiệp đến Trường Sa (mà lúc
này Trung Quốc con gọi là Đoàn Sa chưa phải mang tên Nam Sa (tác giả nhấn mạnh)
Trong phiên họp ngày 11 tháng 10 năm 1946, Ủy Ban Liên Bộ về Đông Dương
thuộc Chính phủ lâm thời Pháp quyết định cần khẳng định quyền của Pháp đối với quần đảo
Hoàng Sa và thể hiện việc tái chiếm bằng việc xây dựng một đài khí tượng. Theo ý kiến của
đại tướng Juin cho rằng “lợi ích cao nhất” của nước Pháp là phong ngừa mọi ý đồ của một
cường quốc nào muốn chiếm lại các đảo đó là những đảo kiểm soát việc ra vào căn cứ
tương lai Cam Ranh, con đường hàng hải Cam Ranh - Quảng Châu - Thượng Hải (Thư số
199/DN/S. col ngày 7 tháng 10 năm 1946 của Đại tướng Juin, Tổng Tham mưu trưởng quân
đội Pháp tại Paris).
Chính phủ Pháp chính thức phản đối sự chiếm đóng bất hợp pháp trên của Trung Hoa
Dân Quốc và ngày 17 tháng 10 năm 1947 thông báo hạm Tonkinois của Pháp được phái đến
Hoàng Sa để yêu cầu quân Tưởng Giới Thạch rút khỏi Phú Lâm nhưng họ không rút. Pháp
gửi một phân đội lính trong đó có cả quân lính "Quốc gia Việt Nam" đến đóng một đồn ở
đảo Pattle (Hoàng Sa). Chính phủ Trung Hoa Dân Quôc phản kháng và các cuộc thương
lượng được tiến hành từ ngày 25 tháng 2 đến ngày 4 tháng 7 năm 1947 tại Paris. Tại đây,
chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đã từ chối không chấp nhận việc nhờ trọng tài quốc tế giải
quyết do Pháp đề xuất. Ngày 1 tháng 12 năm 1947, Bộ Nội Vụ chính quyền Tưởng Giới
Thạch công bố tên Trung Hoa cho hai quần đảo và đặt chúng thuộc lãnh thổ Trung Hoa . Dĩ
nhiên Pháp không đủ tư cách kế thừa sở hữu của Việt Nam tại Hoàng Sa để phản đối Trung
Quốc, cũng là người đi xâm chiếm, nên càng làm tăng lên sự tranh chấp.
Trong hoàn cảnh lịch sử cuối năm 1946 đầu năm 1947, Việt Nam đã giành được độc
lập từ năm 1945, không con ràng buộc vào hiệp định Patenôtre (1884) với Pháp song Pháp
vẫn cho rằng theo hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà
con nằm trong khối Liên Hiệp Pháp, về ngoại giao vẫn thuộc về Pháp, nên Pháp vẫn thực thi
quyền đại diện Việt Nam trong vấn đề chống lại xâm phạm chủ quyền Việt Nam tại quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Khi xay ra cuộc kháng chiến toàn quốc thì Pháp không con có
thể viện lẽ danh nghĩa gì để thực thi chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa. Sau đó Pháp tìm
cách lập chính phủ bù nhìn thân Pháp, chỉ lợi dụng danh nghĩa chứ không có thực và như
thế không đủ thuyết phục về sự kế thừa sở hữu của Việt Nam ở Hoàng Sa cũng như Trường
Sa, khiến sự tranh chấp chủ quyền không thể chấm dứt.
11
Do chinh phủ Việt Nam Dân chủ cộng hoà kháng chiến chống Pháp và hải quân Pháp
làm chủ Biển Đông, nên với hiệp định ngày 8 tháng 3 năm 1949, Pháp gây dựng được chính
quyền thân Pháp con gọi là quốc gia Việt Nam do cựu hoàng Bảo Đại đứng đầu, đối đầu với
chính quyền cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, để củng cố cơ sở hình thức
pháp lý nào đó dù không có thực chất đại diện thực sự cho Việt Nam, nhất là trên thực tế
trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, quân Pháp đang làm chủ Biển Đông trong đó có
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Tháng 4 năm 1949, Đổng lý văn phong của Quốc trưởng Bảo Đại là hoàng thân Bửu
Lộc, trong một cuộc họp báo tại Sài Gon đã công khai khẳng định lại chủ quyền của Việt
Nam đã từ lâu đời trên quần đảo Hoàng Sa.
Vào ngày 1 tháng 10 năm 1949, Cộng hoa nhân dân Trung Hoa được thành lập ở lục
địa Trung Quốc, Trung Hoa Dân quốc do Tưởng Giới Thạch cầm đầu đã rút lui ra Đài Loan.
Tháng 4 năm 1950, đồn lính Trung Hoa dân quốc chiếm đóng bất hợp pháp ở đảo Phú Lâm
(Ile Boisée) thuộc quần đảo Hoàng Sa đã rút lui. Con đồn lính của Pháp đóng ở đảo Hoàng
Sa (Pattle) vẫn con duy trì . Cách mạng Trung Quốc trở thành lực lượng đồng minh cho
Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hoa, vì thế mọi hành động chống Pháp kể cả việc chiếm
đóng các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa ở Biển Đông, đương niên sẽ được chính phủ Việt
Nam Dân chủ cộng hoa ủng hộ trong liên minh chống kẻ thù chung Pháp xâm lược.
Ngày 14 tháng 10 năm 1950, chính phủ Pháp chính thức chuyển giao cho chính phủ
Bảo Đại quyền quản lý các quần đảo Hoàng Sa. Thủ hiến Trung Phần là Phan Văn Giáo đã
chủ tọa việc chuyển giao quyền hành ở quần đảo Hoàng Sa. Điều này cũng chỉ là động tác
giả để việc chiếm đóng Hoàng Sa có cơ sở pháp lý, song vẫn không đủ sức thuyết phục, vì
quân Pháp vẫn đang xâm lược Việt Nam.
Hội nghị San Francisco có 51 quốc gia tham dự từ ngày 5 tháng 9 đến ngày 8 tháng 9
năm 1951, ký kết hoà ước với Nhật. Ngày 5 tháng 9 năm 1951, họp khoáng đại, ngoại
trưởng Gromyko đề nghị 13 khoản tu chính. Khoản tu chính liên quan đến việc Nhật nhìn
nhận chủ quyền của Cộng hoa nhân dân Trung Hoa đối với đảo Hoàng Sa và những đảo xa
hơn nữa dưới phía Nam. Khoản tu chính này đã bị Hội nghị bác bỏ với 48 phiếu chống và 3
phiếu thuận.
Ngày 7 tháng 9 năm 1951, Thủ tướng kiêm ngoại trưởng Trần Văn Hữu của chính
phủ Bảo Đại long trọng tuyên bố rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của
Việt Nam: "Et comme il faut franchement profiter de toutes occasions pour étouffer les
germes de discorde, nous affirmons nos droits sur les îles Spratley et Paracels qui de tout
temps ont fait partie du Viet Nam".
Không một đại biểu nào trong hội nghị bình luận gì về lời tuyên bố này.
Kết thúc hội nghị là ký kết hoà ước với Nhật ngày 8 tháng 9 năm 1951. Trong hoà
ước này có điều 2, đoạn 7 ghi ro:
12
Nguyên văn là "Nhật Bản từ bỏ mọi quyền, danh nghĩa và tham vọng đối với các
quần đảo Paracels và Spratly". Song đên đây, tình hình chính trị thế giới đã bắt đầu biến
chuyển, chiến tranh lạnh giữa hai khối Tư bản chủ nghĩa do Mỹ cầm đầu và khối Xă hội chủ
nghĩa do Liên Xô đứng đầu đã bắt đầu tác động đến Việt Nam trong đó có chủ quyền của
Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa lại tăng lên sự tranh chấp, càng ngày càng phức tạp
khiến sự bảo vệ chủ quyền trở nên hết sức khó khăn với nhiều danh nghĩa khác nhau với
nhiều thế lực quốc tế can thiệp.
Ngày 24 tháng 8 năm 1951, lần đầu tiên Tân Hoa xã lên tiếng tranh cãi về quyền của
Pháp và những tham vọng của Philippines, thân My và kiên quyết khẳng định quyền của
Trung Quốc.
Khi ra thông báo về bản dự thảo Hiệp ước với Nhật ở San Francisco, ngày 15 tháng 8
năm 1951, Bộ trưởng bộ Ngoại giao nước Cộng hoa nhân dân Trung Hoa Chu An Lai ra bản
tuyên bố công khai khẳng định cái gọi là "tính lâu đời" của các quyền của Trung Quốc đối
với quần đảo, trong khi Cộng hoa nhân dân Trung Hoa và Trung Hoa dân quốc không tham
dự hội nghị này.
Như thế, lợi dụng tình hình rối ren Nhật đầu hàng đồng minh, quân Tưởng Giới
Thạch được giao phó giải giáp quân Nhật từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc theo Hiệp định Postdam,
đã lại chiếm giữ đảo Phú Lâm (Ile Boisée) cuối năm 1946 thuộc quần đảo Hoàng Sa và đảo
Ba Bình (Itu Aba) thuộc quần đảo Trường Sa, vào đầu năm 1947. Đến năm 1950, khi quân
Trung Hoa dân quốc đã rút ra khỏi Hoàng Sa và Trường Sa và hoà ước San Francisco đã
buộc Nhật từ bỏ sự chiếm đóng hai quần đảo này, thì Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Trần
Văn Hữu của chính phủ Bảo Đại đã long trọng tuyên bố rằng hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa là lãnh thổ Việt Nam. Không một đại biểu nào trong hội nghị bình luận gì về lời
tuyên bố này.
Cũng lợi dụng cục diện chiến tranh lạnh đang xảy ra, sự giành giật thế lực ở một nơi
trong đó có Biển Đông, phái đoàn Liên Xô đề xuất giao cho Cộng hoa nhân dân Trung Hoa
quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đã không được Hội Nghị chuẩn nhận, song
cũng là cái cớ để Cộng hoa nhân dân Trung Hoa lên tiếng. Dù sau năm 1950, hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa không con quân nước ngoài chiếm đóng ngoài lực lượng trú phong
Việt Nam của chính quyền Bảo Đại.
Hiệp định Genève ký kết ngày 20 tháng 7 năm 1954 chấm dứt chiến tranh ở Đông
Dương, công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất của nước Việt Nam.
Điều 1 qui định đường ranh tạm thời về quân sự được ấn định bởi sông Bến Hải (ở vĩ tuyến
17). Đường ranh tạm thời này cũng được kéo dài ra trong hai phần bằng một đường thẳng từ
bờ biển ra ngoài khơi theo điều 4 của Hiệp định. Cũng theo điều 14 của bản Hiệp định,
trong khi chờ đợi cuộc tổng tuyển cử đưa lại sự thống nhất cho Việt Nam, bên đương sự và
quân đội do thoả hiệp tập kết ở khu nào sẽ đảm nhiệm việc hành chánh trong khu tập kết đó.
13
Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở Biển Đông ở dưới vĩ tuyến 17 sẽ đặt dưới sự quản lý
hành chánh của phía chính quyền quản lý miền Nam vĩ tuyến 17.
Như thế, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được đặt dưới sự quản lý hành chánh của
chính quyền Việt Nam Cộng Hoà, lúc ấy hai quần đảo này chưa có sự chiếm đóng của bất
cứ quân đội nước nào ngoài quân đội Pháp. Chính quyền ở Phía Nam vĩ tuyến 17 phải chịu
trách nhiệm quản lý hai quần đảo trên ở ngoài khơi bờ biển Việt Nam dưới vĩ tuyến 17.
Tháng 4 năm 1956, khi quân viễn chinh Pháp rút khỏi Miền Nam Việt Nam,
Philippines nêu vấn đề chủ quyền.
4. Hoàn cảnh lịch sử dẫn đến việc Trung Quốc, Pháp, Việt Nam Cộng hòa và các
nước khác trong khu vực tranh chấp chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường
Sa từ năm 1956 đến 1975
Việc Pháp thua trận ở Điện Biên Phủ và ký hiệp định Genève 20 tháng 7 năm 1954,
khiến tháng 4- 1956 quân Pháp phải rút lui khỏi Việt Nam và để khoảng trống bố phong ở
Biển Đông khiến các nước trong khu vực trong đó có Cộng hoa nhân dân Trung Hoa, Trung
Hoa Dân quốc (Đài Loan) và Philippines cho là cơ hội tốt chiếm đóng trái phép Hoàng Sa
cũng như Trường Sa của Việt Nam.
Khi ây, quân đội quốc gia Việt Nam sau gọi là Việt Nam Cộng hoà đã chiếm đóng
các đảo phía tây của quần đảo Hoàng Sa bao gồm đảo Hoàng Sa (Pattle). Ngày 1 tháng 6
năm 1956, Ngoại trưởng chính quyền Việt Nam Cộng hoà Vũ Văn Mẫu ra tuyên bố tái
khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vài
ngày hôm sau, Pháp cũng nhắc lại cho Philippines biết những quyền hạn mà Pháp đã có đối
với hai quần đảo trên từ năm 1933.
Ngày 22 tháng 8 năm 1956, lục hải quân Việt Nam Cộng hoà đổ bộ lên các đảo chính
của quần đảo Trường Sa và dựng bia, kéo cờ. Sau khi trấn giữ ở các đảo phía tây quần đảo
Hoàng Sa, ngày 22 tháng 8 năm 1956, lực lượng hải quân của chính phủ Việt Nam Cộng hoà
đã đổ bộ lên các hon đảo chính của nhóm Trường Sa, dựng một cột đá và trương quốc kỳ.
Tháng 10 năm 1956, hải quân Đài Loan đến chiếm đảo Ba Bình (Itu Aba). Ngày 22
tháng 10 năm 1956, sắc lệnh số 143 - NV của Tổng thống Việt Nam Cộng hoà thay đổi địa
giới các tỉnh và tỉnh lỵ tại "Nam Việt" (Nam Bộ). Trong danh sách các đơn vị hành chánh
"Nam Việt" (Nam Bộ) đính kèm theo sắc lệnh có những thay đổi tên mới, trong đó có tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu nay được gọi là tỉnh Phước Tuy và đảo Spratly thuộc tỉnh Phước Tuy
được gọi là Hoàng Sa cùng tên với quần đảo phía Bắc là Paracels.
Trong khi ấy, Cộng hoa nhân dân Trung Hoa cũng đã nhanh chóng chiếm giữ đảo
Phú Lâm (Ile Boisée), đảo lớn nhất của quần đảo Hoàng Sa, song hành với việc Đài Loan
chiếm giữ đảo lớn nhất của quần đảo Trường Sa. Một tinh hinh hết sức phức tạp, đen tối cho
chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa, bởi hai chính quyền Việt Nam Dân chủ
cộng hoa và Việt Nam Cộng hoa nếu không ra mặt ủng hộ thì cũng lơ đi sự chiếm đóng trái
14
phép của Cộng hoa nhân dân Trung Hoa và của Đài Loan đối với Hoàng Sa và Trường Sa
của Việt Nam. Song từ sau Hiệp định Genève mà Trung Quốc đã ký, chính quyền phía Nam
mới có trách nhiệm quản ly cũng như từ bỏ chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa vi hai quần
đảo này nằm phía dưới vĩ tuyến 17. Vụ việc công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm
1958 chỉ ủng hộ Tuyên bố 12 hải ly về lănh hải của Trung Quốc cũng như những biểu hiện
khác thuộc chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hoà cũng không có giá trị pháp lý quốc tế về
sự từ bỏ chủ quyền mà chính quyền Trung Quốc tố cáo là lật lọc là không đúng sự thực và
thực chất về chủ quyền ở Hoàng Sa. Trong bối cảnh chiến tranh lạnh, đối đầu của hai khối
chính trị mà Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đang là đồng minh chí cốt của Việt Nam Dân
chủ cộng hoà và cùng thù địch với Mỹ lại là đồng minh của Đài Loan và Việt Nam Cộng
hoa, nên tất cả những hành động đối đầu cũng chỉ là đối sách chính trị thù địch nhất thời.
Ngày 13 tháng 7 năm 1961, sắc lệnh số 174 - NV của Tổng thống Việt Nam Cộng
Hoà đặt quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam và thành lập tại quần đảo này một xã lấy
tên là xã Định Hải trực thuộc quận Hoà Vang.
Trong sắc lệnh trên, ghi rằng: "Quần đảo Hoàng Sa trước kia thuộc tỉnh Thừa Thiên,
nay đặt thuộc tỉnh Quảng Nam (điều 1). Đặt đơn vị hành chính xã bao gồm trọn quần đảo
này được thành lập và lấy danh hiệu là xã Định Hải, trực thuộc quận Hoà Vang. Xã Định
Hải dưới quyền một phái viên hành chính (điều 2). Tháng 2 năm 1959, nhiều dân chài
Trung Quốc định đến đóng trên phần phía tây quần đảo Hoàng Sa, nhưng không thành công,
bị hải quân Việt Nam Cộng hoà bắt và hoàn trả lại Trung Quốc.
Ngày 13 tháng 7 năm 1971, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Cộng hoà, ông Trần
Văn Lắm có mặt ở Manila đã lên tiếng nhắc lời yêu sách của Việt Nam và các danh nghĩa
làm cơ sở cho những yêu sách đó trên quần đảo Trường Sa.
Ngày 6 tháng 9 năm 1973, Bộ trưởng Bộ Nội vụ của chính quyền Việt Nam Cộng
hoà đã sửa đổi việc quản lý hành chính của Trường Sa vào xã Phước Hải, quận Đất Đỏ, tỉnh
Phước Tuy mà trước đây vào năm 1956, thời chính quyền Ngô Đình Diệm đã có sắc lệnh
gọi quần đảo Spratly là quần đảo Hoàng Sa
Trong bối cảnh sau Thông cáo chung Thượng Hải năm 1972 giữa Mỹ và Trung
Quốc, tạo sự nứt rạn không thể hàn gắn giữa Liên Xô và Cộng hoa nhân dân Trung Hoa,
trong khi chiến tranh Việt Nam đang ở giai đoạn gần kết thúc, cuộc diện chính trị thế giới
biến đổi đã ảnh hưởng đến Việt Nam kể cả về sự bảo vệ chú quyền của Việt Nam ở Hoàng
Sa và Trường Sa. Ngày 11 tháng 1 năm 1974, Cộng hoa nhân dân Trung Hoa tuyên bố việc
sáp nhập các đảo của quần đảo Trường Sa vào tỉnh Phước Tuy của Việt Nam Cộng hoà là
sự lấn chiếm lãnh thổ Trung Quốc và khẳng định lại các yêu sách của Trung Quốc đối với
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngày 12 tháng 1 năm 1974, chính phủ Việt Nam Cộng hoà tuyên bố bác bỏ yêu sách
của Trung Quốc. Ngày 15 tháng 1 năm 1974, Cộng hoa nhân dân Trung Hoa bắt đầu triển
khai một lực lượng hải quân mạnh mẽ trong đó có nhiều tàu được ngụy trang thành tàu đánh
15
cá và có phi cơ yểm trợ. Mặt khác, Bộ Tư lệnh hải quân Việt Nam Cộng hoà đã điều động
tuần dương hạm Lý Thường Kiệt đến Hoàng Sa để tuần phong và canh chừng.
Sau khi phát hiện sự có mặt của quân đội Cộng hoa nhân dân Trung Hoa tại vùng
Hoàng Sa với cờ dựng trên các đảo Quang Anh (Money), Hữu Nhật (Robert), lực lượng
quân đội Việt Nam Cộng hoà được tăng cường với khu trục hạm Trần Khánh Dư, tuần
dương hạm Trần Bình Trọng, hộ tống hạm Nhật Tảo. Lực lượng tăng cường của Việt Nam
Cộng hoà có các toán biệt hải được lệnh đổ bộ đến các đảo hạ cờ của quân đội Cộng hoa
nhân dân Trung Hoa. Vài vụ xô xát đã xảy ra, súng đã nổ trên đảo Quang Hoà (Duncan) và
một đảo khác.
Tiếp ngày 16 tháng 1 năm 1974, chính phủ Việt Nam Cộng hoà đã ra tuyên cáo bác
bỏ luận cứ của Cộng hoa nhân dân Trung Hoa và đưa ra những bằng chứng ro ràng về pháp
lý, địa lý, lịch sử để xác nhận chủ quyền của Việt Nam Cộng hoà trên hai quần đảo này. Hai
bên bắt đầu phối trí toàn bộ lực lượng, các chiến hạm hai bên cách nhau chừng 200m. Sau
đó hai bên bỗng tách rời nhau để chuẩn bị, cuộc hải chiến bắt đầu diễn ra vào lúc 10 giờ 25
phút ngày 19 tháng 1 năm 1974. Một chiến hạm Cộng hoa nhân dân Trung Hoa bị bốc cháy.
Các chiến hạm Cộng hoa nhân dân Trung Hoa mang số 281, 182 dồn sức đánh trả khiến
chiến hạm Nhật Tảo bị trúng đạn trên đài chỉ huy và hầm máy chính, hạm trưởng Nguyễn
Văn Thà hy sinh. Sau hơn 1 giờ giao tranh, 2 chiến hạm Cộng hoa nhân dân Trung Hoa
chìm, 2 chiếc khác bị bắn cháy. Bên lực lượng Việt Nam Cộng Hoà ngoài hộ tống hạm Nhật
Tảo bị chìm, con có một số chiến hạm bị thương tổn, trong đó có một số binh sĩ bị bắt và
mất tích. Một người Mỹ tên Gerald Kosh, một nhân viên dân sự thuộc văn phong tùy viên
quốc phong toà đại sứ Mỹ ở Sài Gon, được biệt phái làm liên lạc viên cạnh bộ chỉ huy hải
quân Quân Khu I Việt Nam Cộng hoà cũng bị bắt (theo Nhật báo Chính Luận, số 2982,
ngày 31 tháng 1 năm 1974). Kosh được trao trả lúc 12 giờ trưa ngày 31 tháng 1 năm 1974.
Ngày 17 tháng 2 năm 1974, chính quyền Bắc Kinh trả tự do cho 43 quân nhân và nhân viên
của Việt Nam Cộng hoà tại Tân Giới (Hồng Kông).
Lầu Năm Góc được chính quyền Sài Gon yêu cầu can thiệp, quyết định đứng ngoài
cuộc xung đột. Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ, Arthur Hummel cho chính quyền Sài Gon
biết Mỹ không quan tâm đến vấn đề Hoàng Sa.
Qua thông điệp ngoại giao được gửi đến tất cả các nước ký Hiệp định Paris (1973),
chính quyền Việt Nam Cộng hoà nhắc lại sự đảm bảo toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, yêu
cầu Hội đồng bảo an họp một phiên họp đặc biệt.
Ngày 1 tháng 2 năm 1974, chính quyền Sài Gon quyết định tăng cường phong thủ
các đảo ở quần đảo Trường Sa, đưa lực lượng ra đóng ở 5 đảo thuộc Trường Sa. Qua đại sứ
ở Manila, chính quyền Sài Gon khẳng định chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo Trường
Sa và Hoàng Sa.
Ngày 1 tháng 2 năm 1974, đoàn đại biểu của Việt Nam Cộng hoà ra tuyên bố tại hội
nghị của Liên Hợp Quốc về luật Biển Caracas khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam trên
16
các quần đảo, tố cáo Bắc Kinh đánh chiếm Hoàng Sa. Ngày 30 tháng 3 năm1974, đại biểu
chính quyền Việt Nam Cộng hoà khẳng định chủ quyền Việt Nam đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa tại Hội đồng kinh tài Viễn Đông họp tại Colombia. Ngày 14 tháng
2 năm 1975, Bộ Ngoại giao chính quyền Việt Nam Cộng hoà công bố Sách trắng về Hoàng
Sa và Trường Sa.
Tóm lại , Pháp xâm chiếm trở lại Việt Nam, dẫn đến cuộc kháng chiến chống Pháp
(1945-1954), Pháp vẫn làm chủ Biển Đông và thực thi chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng
Sa và Trường Sa. Hiệp định Genève năm 1954 qui định từ vĩ tuyến 17 trở xuống thuộc
chính quyền phía Nam quản lý, Khi Pháp rút quân tháng 4/1956 bỏ trống bố phong Hoàng
Sa và Trường Sa. Trong khi ấy xẩy ra chiến tranh lạnh giữa Liên Xô đứng đấu phe Xã hội
chủ nghĩa và Mỹ đứng đầu phe Tư bản chủ nghĩa, Việt Nam bị chia cắt khiến hai chính
quyền bị cuốn hút vào sự đối đầu, không bảo vệ được chủ quyền để cho Trung Quốc chiếm
từng phần rồi toàn thể Hoàng Sa và Việt Nam Cộng Hoà chỉ trấn giữ quần đảo Trường Sa
song lại để cho Đài Loan chiếm đảo Ba Binh , lớn nhất của quần đảo Trường Sa cùng
Philippines chiếm một số đảo, đá trong đó có Song Tử Đông ở Trường Sa.
Chính vi vậy, chúng ta có thể nói rằng nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các nước trong
khu vực tranh chấp chủ quyền của Việt Nam cũng như Trung Quốc chiếm giữ trái phép
hoàn toàn Hoàng Sa và Trường Sa trong thời kỳ này chính là những biến động chính trị ở
Việt Nam cũng như trên thế giới, Mỹ rút quân khỏi Việt Nam, không con bảo vệ đồng minh
Việt Nam Cộng hoà, để cho Trung Quốc chiếm Hoàng Sa bằng vũ lực.
5. Hoàn cảnh lịch sử dẫn đến việc Trung Quốc, Việt Nam thống nhất cùng các
nước trong khu vực tranh chấp chủ quyền của Việt Nam tại Trường Sa từ năm 1975
đến nay
+ Tư 1975 đến 1990, Viêt Nam hơp tac toan diên với Liên Xô, Trung Quôc đa ky vơi
Mỹ Thông cáo chung ở Thượng Hải năm 1972, mâu thuân giưa Trung Quôc và Liên Xô
không giảm; Viêt Nam va Trung Quôc xay ra chiên tranh năm 1979 khiên tranh châp giư
Viêt Nam va Trung Quôc tai Hoàng Sa va Trương Sa trơ nên gay găt.
Chính quyền Việt Nam thống nhất tiếp tục khẳng định chủ quyền Việt Nam trên quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vẫn chịu những dư âm tác động đối đầu của các thế lực quốc tế
trước đây chưa chấm dứt được sự tranh chấp chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa .
Sau chiến thắng Buôn Mê Thuột, thời cơ chiến lược giải phóng Miền Nam đã đến.
Bộ chính trị quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam ngay trong mùa khô 1975 bao gồm
các đảo và các quần đảo Trường Sa, Côn Lôn, Phú Quốc…
Ngày 5 tháng 4 năm 1975, Bộ Tư lệnh Hải quân chủ trương chuẩn bị chiến đấu giải
phóng quần đảo Trường Sa. Lực lượng tham gia giải phóng gồm có các tàu của đoàn vận tải
quân sự 125, đoàn 126 đặc công, tiểu đoàn 471, đặc công quân khu 5 và tiểu đoàn 407 cùng
lực lượng đặc công tỉnh Khánh Hoà. Bộ Tư lệnh Hải quân chủ trương nhanh chóng đánh
17
đảo Song Tử Tây trước để làm bàn đạp và rút kinh nghiệm đánh tiếp các đảo Nam Yết, Sơn
Ca, Sinh Tồn, An Bang, Trường Sa và các đảo con lại của quần đảo.
Ngày 9 tháng 9 năm 1975, đại biểu chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt
Nam tại hội nghị khí tượng thế giới tiếp tục đăng ký đài khí tượng Việt Nam tại quần đảo
Hoàng Sa.
Ngày 10 tháng 9 năm 1975, Bắc Kinh gửi công hàm cho Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hoà khẳng định chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (mà
Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa).
Ngày 24 tháng 9 năm 1975, trong cuộc gặp đoàn đại biểu Đảng và chính phủ Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hoà do Tổng bí thư Lê Duẩn dẫn đầu, nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng
Tiểu Bình tuyên bố sau này hai bên sẽ bàn bạc về vấn đề Tây Sa và Nam Sa.
Ngày 12 tháng 5 năm 1977, chính phủ Việt Nam tuyên bố về các vùng biển và thềm
lục địa Việt Nam.
Tháng 9 năm 1977, khi thăm Philippines và tháng 10 năm 1977 khi đi thăm Malaysia,
thủ tướng Phạm Văn Đồng đồng ý với tổng thống Ferdinand Marcos và thủ tướng Hussein On
rằng hai bên sẽ giải quyết mọi tranh chấp và bất đồng bằng thương lượng hoà bình.
Tháng 3 năm 1978, Hội nghị hành chính thế giới về thông tin vô tuyến điện thông
qua một nghị quyết cho phép Trung Quốc sử dụng một số tần số trên vùng trời Hoàng Sa.
Ngày 30 tháng 12 năm 1978, người phát ngôn Bộ Ngoại giao nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam ra tuyên bố bác bỏ luận điệu nêu trong tuyên bố ngày 29 tháng 2 năm
1978 của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc về vấn đề quần đảo Trường Sa,
khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nhắc lại
lập trường của Việt Nam chủ trương giải quyết mọi tranh chấp hoặc bất bình bằng thương
lượng hoà bình.
Ngày 30 tháng 7 năm 1979, Trung Quốc đã công bố tại Bắc Kinh tài liệu để chứng
minh rằng Việt Nam đã “thừa nhận” chủ quyền Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa.
Ngày 7 tháng 8 năm 1979, Bộ Ngoại giao nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
ra tuyên bố về quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, bác bỏ sự xuyên tạc của Trung
Quốc trong việc công bố một số tài liệu của Việt Nam liên quan đến các quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa, khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo này, nhắc lại lập
trường của Việt Nam về việc giải quyết sự tranh chấp về 2 quần đảo giữa hai nước bằng
thương lượng hoà bình.
Ngày 28 tháng 9 năm 1979, Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố một số tài liệu về chủ
quyền Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa.
18
Ngày 28 tháng 9 năm 1979, Bộ Ngoại giao Việt Nam bác bỏ việc Philippines tuyên
bố sát nhập hầu hết lãnh thổ Trường Sa vào lãnh thổ Philippines.
Ngày 30 tháng 1 năm 1980, Bộ Ngoại giao Trung Quốc công bố văn kiện về Tây Sa
và Nam Sa. Ngày 5 tháng 2 năm 1980, Bộ Ngoại giao Việt Nam ra tuyên bố vạch trần thủ
đoạn xuyên tạc của Trung Quốc trong văn kiện ngày 30 tháng 1 năm 1980.
Ngày 29 tháng 4 năm 1980, Bộ Ngoại giao Việt Nam gửi công hàm cho Malaysia
phản đối việc Malaysia công bố bản đồ Malaysia lấn vào vùng biển và thềm lục địa Việt
Nam tại vùng Trường Sa.
Ngày 8 tháng 5 năm 1980, nhân chuyến viếng thăm và hội đàm với Malaysia, Ngoại
trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã khẳng định đảo An Bang là của Việt Nam.
Tháng 6 năm 1980, tại Hội nghị khí tượng khu vực châu Á II họp tại Genève, đại
biểu Việt Nam tuyên bố trạm khí tượng của Trung Quốc tại Sanhudao (đảo Hoàng Sa của
Việt Nam) là bất hợp pháp. Kết quả là trạm Hoàng Sa của Việt Nam được giữ nguyên trạng
trong danh sách các trạm như cũ.
Ngày 13 tháng 6 năm 1980, Việt Nam yêu cầu OMM đăng ký trạm khí tượng Trường
Sa vào mạng lưới OMM.
Tháng 12 năm 1981, Tổng cục Bưu điện Việt Nam điện cho Chủ tịch ủy ban đăng ký
tần số tại Genève phản đối việc Trung Quốc được phát một số tần số trên vùng trời Hoàng
Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Tháng 12 năm 1981, Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố sách trắng: “Quần đảo Hoàng
Sa và quần đảo Trường Sa, lãnh thổ Việt Nam”.
Tháng 6 năm 1982, Tân Hoa xã loan tin là một hải cảng lớn được xây dựng tại
Hoàng Sa.
Tháng 10, tại Hội nghị toàn quyền của UIT, đại biểu Việt Nam tuyên bố không chấp
nhận việc thay đổi phát sóng đã được phân chia năm 1978 tại Genève.
Ngày 12 tháng 11 năm 1982, chính phủ Việt Nam công bố đường cơ sở dùng để tính
chiều rộng lãnh hải .
Ngày 4 tháng 2 năm 1982, chính phủ Việt Nam thành lập huyện Hoàng Sa thuộc tỉnh
Quảng Nam - Đà Nẵng.
Ngày 9 tháng 12 năm 1982, chính phủ Việt Nam lập huyện Trường Sa. Đến ngày 28
tháng 12 năm 1982, chính phủ Việt Nam quyết định huyện Trường Sa được nhập vào tỉnh
Phú Khánh.
19
Tháng 1 năm 1983, Hội nghị hành chính thế giới về thông tin vô tuyến đồng ý sẽ
xem xét đề nghị của Việt Nam về việc phát sóng trên vùng trời Hoàng Sa và Trường Sa tại
hội nghị sắp tới.
Cũng tháng 01 năm 1983, Hội nghị hàng không khu vực châu Á Thái Bình Dương
họp ở Singapore. Trung Quốc muốn mở rộng FIR Quảng Châu lấn vào FIR Hà Nộivà FIR
TP Hồ Chí Minh, nhưng Hội nghị quyết định duy trì nguyên trạng.
Từ ngày 4 đến 16 tháng 4 năm 1984, đoàn đại biểu Quốc hội nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam và đoàn đại biểu tỉnh Phú Khánh thăm huyện Trường Sa. Thứ trưởng
Bộ Thủy sản Việt Nam Vũ Văn Trác đi khảo sát nghề cá tại huyện Trường Sa.
Ngày 25 tháng 4 năm 1984, Ủy ban địa danh Trung Quốc công bố tên mới cho các
đảo, bãi, đá trong Biển Đông trong đó có đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của
Việt Nam.
Ngày 6 tháng 5 năm 1984, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam phản đối việc
đặt tên của Trung Quốc.
Tại Hội nghị tổ chức thông tin vũ trụ quốc tế (INTU SAT) lần thứ 13 họp tại
Bangkok, đại biểu Việt Nam đã phản đối việc Trung Quốc sử dụng những bản đồ ghi Hoàng
Sa, Trường Sa (mà Trung Quốc gọi là Tây Sa, Nam Sa) là của Trung Quốc.
Bộ Ngoại giao Việt Nam phản đối Malaysia chiếm đóng đảo Hoa Lau trong quần đảo
Trường Sa. Việt Nam phản đối việc ngày 1 tháng 6 năm 1984 Quốc hội Trung Quốc tuyên
bố việc thiết lập khu hành chính Hải Nam bao gồm cả hai quần đảo Tây Sa, Nam Sa.
Vào đầu năm 1985, Đại tướng Văn Tiến Dũng, Bộ trưởng Bộ Quốc phong Việt Nam
ra thăm quần đảo Trường Sa.
Sang năm 1986, ông Hồ Diệu Bang, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc cùng
Lưu Hoa Thanh, Trương Trọng Tiến đi thị sát Hoàng Sa.
Tháng 5 năm 1987, đô đốc Giáp Văn Cường, Tư lệnh hải quân Việt Nam ra thăm
quần đảo Trường Sa.
Từ 16 tháng 5 đến 6 tháng 6 năm 1987, hải quân Trung Quốc tập trận tại vùng biển
Trường Sa.
Tháng 10 năm 1987, hải quân Trung Quốc diễn tập quân sự tại tây Thái Bình Dương
và nam Biển Đông.
Ngày 10 tháng 11 năm 1987, hải quân Trung Quốc đổ bộ lên đảo Louisa (1130 - 6
08)
Tháng 1 năm 1988, một lực lượng lớn tàu chiến, có nhiều tàu khu trục và tàu tên lửa,
đi từ đảo Hải Nam xuống phía Nam, trong đó có bốn chiếc được phái đến khu vực quần đảo
Trường Sa, khiêu khích và cản trở hoạt động của hai tàu vận tải Việt Nam trong khu vực bãi
20
đá Chữ Thập và bãi đá Châu Viên là hai bãi san hô con đang lập lờ mặt nước. Quân lính
Trung Quốc cắm cờ trên hai bãi đá trên, đồng thời cho tàu chiến thường xuyên ngăn cản,
khiêu khích các tàu vận tải của Việt Nam đang tiến hành những hoạt động tiếp tế bình
thường giữa các đảo do quân đội Việt Nam bảo vệ. Trong đợt hoạt động trên, Trung Quốc
đã thành lập một bộ tư lệnh đặc biệt, sử dụng lực lượng của hạm đội Nam Hải, được tăng
cường một bộ phận của hạm đội Đông Hải và họ thường xuyên dùng trên 20 tàu các loại ở
khu vực quần đảo Trường Sa.
Về sự kiện xảy ra ngày 14 tháng 3 năm 1988, Trung Quốc nói rằng: “Trung Quốc
buộc phải phản kích để tự vệ”. Theo cách nói đó, có nghĩa là hải quân Việt Nam là kẻ tấn
công (bằng hai tàu vận tải!), con hải quân Trung Quốc là kẻ phong thủ tự vệ. Trung Quốc sử
dụng một biên đội tàu chiến đấu gồm sáu chiếc, trong đó có ba tàu hộ vệ số 502, 509 và 531
trang bị tên lửa và pháo cỡ 100mm, vô cớ tiến công bắn chìm ba tàu vận tải Việt Nam đang
làm nhiệm vụ tiếp tế ở các bãi đá Lan Đao, Cô Lin, Gac Ma thuộc cụm đảo Sinh Tồn của
Việt Nam.
Ngày 14 tháng 3 năm 1988, giữa Trung Quốc và Việt Nam đã nổ ra cuộc chiến đấu
trên biển Nam Trung Quốc. Cuộc chiến đấu này mặc dù chỉ diễn ra trong thời gian 28 phút
nhưng nó đã làm cả thế giới quan tâm theo doi. Tàu vận tải số 64 của hải quân Việt Nam chở
đầy binh lính bị bắn chìm tại chỗ, tàu đổ bộ số 505 và một tàu vận tải khác số 605 bị bắn
trọng thương, kéo theo đám cháy và cột khói đen ngom. Tàu đổ bộ số 505 bị chìm trên đường
về, con tàu đổ bộ số 605 thì bị mắc cạn. Cuộc chiến đấu không cân sức trên giữa các tầu vận
tải của Việt Nam vời các tầu chiến của Trung Quốc, vẻn vẹn chỉ diễn ra có 28 phút đã kết
thúc với kết quả phía Việt Nam có một tàu bị chìm tại chỗ, hai tàu bị thương, chết và bị
thương 20 người, mất tích 74 người. Con phía Trung Quốc chỉ có một số nhân viên khảo sát
và nhân viên khác trên đảo bị thương, ngoài ra không bị tổn thất gì, đây là một trận chiến đấu
trên biển mà phía Trung Quốc cho là «đánh gọn và đẹp mắt» (sic!). Sau các va chạm trên, hải
quân Trung Quốc tiếp tục ngăn cản các hoạt động tiếp tế do tàu Việt Nam thực hiện.
Tính đến ngày 6 tháng 4 năm 1988, Trung Quốc đã chiếm đóng: Đá Chữ Thập, Đá
Châu Viên, Đá Ga Ven, Đá Tư Nghĩa, Đá Gạc Ma, Đá Subi.
Ngày 3 tháng 1 năm 1989, Trung Quốc đặt bia chủ quyền trên các bãi họ chiếm được
trong năm 1988: Đá Chữ Thập, Đá Châu Viên, Đá Ga Ven, Đá Tư Nghĩa, Đá Gạc Ma, Đá Subi.
Năm 1988, Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông báo cho Liên
Hợp Quốc, gửi nhiều công hàm phản đối đến Bắc Kinh và đặc biệt là các công hàm ngày
16, 17, 23 tháng 3 năm 1988 đề nghị hai bên thương lượng giải quyết vấn đề tranh chấp.
Trung Quốc tiếp tục chiếm giữ các bãi đá đã chiếm được và khước từ thương lượng. Ngày
14 tháng 4 năm 1988, Bộ ngoại giao Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam phản đối việc
Quốc hội Trung Quốc sáp nhập hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào tỉnh Hải Nam
(nghị quyết ngày 13 tháng 4 năm 1988 thành lập tỉnh Hải Nam).
21
Tháng 4 năm 1988, Bộ Ngoại giao Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công bố
sách trắng "Các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và luật pháp quốc tế".
Ngày 14 tháng 8 năm 1989, chính phủ Việt Nam quyết định thành lập Cụm kinh tế
khoa học dịch vụ trên vùng bãi ngầm Tứ Chính, Huyền Trân, Quế Đường, Phúc Tần, Phúc
Nguyên thuộc thềm lục địa Việt Nam có toạ độ 7 - 803B, 109 - 112
020 Đ.
Ngày 2 tháng 10 năm 1989, người phát ngôn Ngoại giao Việt Nam tuyên bố bác bỏ
luận điệu trong bản tuyên bố của Trung Quốc ngày 28 tháng 4 năm 1989. Người phát ngôn
Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã lên án Việt Nam xâm phạm trái phép một số đảo và cù lao tại
bãi Vạn An và Bãi Vạn Nhã thuộc “quần đảo Nam Sa”.
Tháng 5 năm 1989, Trung Quốc xâm chiếm thêm một số đảo nhỏ. Ngày 9 tháng 3
năm 1990, Trung Quốc kết thúc đợt khảo sát khoa học ở quần đảo Trường Sa bắt đầu từ ba
năm trước.
Ngày 18 tháng 3 năm 1990, nhiều tàu đánh cá từ Quảng Châu đến đánh cá ở Trường
Sa. Ngày 16 tháng 4 năm 1990, Bộ Ngoại giao Việt Nam gửi bản ghi nhớ cho Đại sứ quán
Trung Quốc tại Hà Nội, phản đối việc Trung Quốc cho nhiều tàu quân sự, tàu khảo sát, tàu
đánh cá đến hoạt động trong vùng biển Việt Nam tại quần đảo Trường Sa.
Ngày 28 tháng 4 năm 1990, Bộ Ngoại Giao Việt Nam gửi công hàm cho đại sứ quán
Trung Quốc tại Hà Nội, phản đối việc Trung Quốc đã cho quân lính xâm chiếm bãi Én Đất
trên quần đảo Trường Sa.
+ Tư năm 1990 đến nay, khôi Liên Xô và Đông Âu sup đô , Viêt Nam đôi mơi, làm
bạn với tất cả các nước kể cả Trung Quốc và Mỹ , sư tranh châp Hoang Sa va Trương Sa
giưa Trung Quôc va Viêt Nam không con gay găt như trươc , song sô dư trư dâu lưa lơn ơ
Biên Đông khiên Trung Quôc vân chưa chi u tra Hoang Sa cho Viêt Nam va cac nươc khu
vưc và Trung Quốc vân tiêp tuc tranh châp vơi Viêt Nam ơ Trương Sa.
Tháng 8 năm 1990, Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng đề nghị tiến hành khai thác
chung khu vực quần đảo Trường Sa.
Ngày 1 tháng 12 năm 1990 trong cuộc đi thăm Philippines, Thủ tướng Lý Bằng nói:
“Chúng ta có thể tìm ra một giải pháp thích hợp đối với vấn đề Trường Sa với các bên hữu
quan vào lúc thích hợp, nếu không phải là vào lúc này, tôi nghĩ chúng ta có thể gác lại vấn
đề này và không để nó gây trở ngại trong quan hệ giữa Trung Quốc với các nước láng giềng
hữu quan”.
Ngày 1 tháng 2 năm 1991, Trung Quốc xây dựng nhiều hải đăng trên các bãi đá
ngầm mới chiếm được trong quần đảo Trường Sa.
Ngày 25 tháng 5 năm 1991, Trung Quốc công bố kết quả 8 năm khảo sát khoa học ở
Trường Sa kể từ năm 1984.
22
Ngày 4 tháng 7 năm 1991 tại KuaLa Lumpur tổ chức một hội thảo không chính thức
về giải quyết các tranh chấp trên vùng Biển Đông, Trung Quốc có cử đoàn cán bộ tham gia,
người phát ngôn Bắc Kinh tuyên bố việc tham gia như thế không phải là Trung Quốc đã
thay đổi lập trường và nói: “Trung Quốc chủ trương giải quyết tranh chấp bằng phương
pháp hoà bình, Trung Quốc sẵn sàng cùng các nước liên quan thảo luận con đường và
phương pháp cùng khai thác”.
Từ ngày 15 đến 18 tháng 7 năm 1991, do sáng kiến của Indonésia, một hội nghị quốc
tế đã được tổ chức tại Bombay giữa các quốc gia trong khu vực về vấn đề quần đảo Trường
Sa. Bản thông cáo cuối cùng khuyến khích đối thoại và đàm phán.
Ngày 10 tháng 11 năm 1991, các nhà lãnh đạo Việt Nam và Trung Quốc ký tại Bắc
Kinh thông báo chung về bình thường hoá quan hệ giữa hai nước.
Ngày 25 tháng 2 năm 1992, Quốc hội Trung Quốc công bố luật lãnh hải và vùng tiếp
giáp Trung Quốc, quy định lãnh hải rộng 12 hải lý và lãnh thổ Trung Quốc giữa bốn quần
đảo Đông, Tây, Nam, Trung Sa và đảo Điếu Ngư. Năm 1994, Việt Nam phản đối Trung
Quốc đã xâm phạm thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam khi Trung Quốc ký
với công ty Crestones (Mỹ) cho phép thăm do khai thác dầu mà Trung Quốc gọi là hợp
đồng Vạn An Bắc 21. Ngày 18 tháng 4 năm 1994, ông R.C. Thompson, chủ tịch công ty
Năng Lượng Crestones (Mỹ) ra thông báo với báo chí, nói rằng họ đang tiến hành khảo sát
địa chấn và chuẩn bị thăm đảo để đánh giá tiềm năng dầu khí của khu vực, gọi là hợp đồng
"Vạn An Bắc 21". Thông báo nói rằng: "Việc nghiên cứu khoa học và kế hoạch khai thác
thương mại trong tương lai là những bước phát triển mới nhất của lịch sử nghiên cứu khoa
học và thăm do ở Biển Nam Trung Hoa và khu vực vạn An Bắc của Trung Quốc, bắt đầu từ
những báo cáo năm 200 TCN vào thời Hán Vũ Đế”!
Trước năm 1957, đã có nhiều công ty nước ngoài khảo sát địa vật lý và khoan thăm
do ở thềm lục địa Nam Việt Nam, trong đó có hai giếng đã phát hiện dầu thương mại. Vào
cuối những năm 1970, có nhiều công ty như AGIP (Ý), DIMINEX (CHLB Đức), BOW
VALLEY (Canada) đã thăm do 5 lô dầu ở thềm lục địa miền Nam Việt Nam. Sau đó đến
1979, các công ty trên chấm dứt hoạt động. Tháng 9/1975, Tổng cục Dầu khí Việt Nam
được thành lập nhằm thúc đẩy hoạt động tìm kiếm thăm do dầu khí. Thềm lục địa Việt Nam
rộng chừng 1, 3 triệu km2, được chia thành 171 lô với diện tích trung bình mỗi lô khoảng
8000 km2. Trong đó có 31 lô có độ sâu mực nước biển dưới 50m, 35 lô từ 50 -100m, 10 lô
từ 100 - 250m, 38 lô từ 200 - 2000m và 57 lô là có mực nước sâu trên 2000m. Trong phạm
vi thềm lục địa Việt Nam có nhiều bồn trầm tích đệ tam có triền vọng chứa dầu khí. Cho
đến cuối những năm 80, trên toàn thềm lục địa Việt Nam, chủ yếu ở phía Nam, đã khảo sát
trên 100.000 km tuyến địa vật lý, khoan hàng chục giếng tìm kiếm thăm do và đã phát hiện
được ba mỏ dầu khí (Bach Hổ, Rồng và Đại Hùng). Từ năm 1986, mỏ Bạch Hổ bắt đầu
được khai thác. Sản lượng năm 1986: 0,04 triệu tấn, 1988: 0,68 triệu tấn, 1989: 1,5 triệu tấn,
1990: 2,7 triệu tấn, 1991: 3,96 triệu tấn… (PTS Nguyễn Hiệp, Phó tổng Giám đốc Công ty
23
dầu khí Việt Nam, "Thăm do và khai thác dầu khí ở Việt Nam", Khoa học và Tổ Quốc, (số
93), 1992, tr5).
Việc thăm do và khai thác dầu khí ở thềm lục địa Việt Nam trên khiến người ta thấy
tiềm năng vùng Biển Đông có nhiều triển vọng về dầu khí . Các tài liệu của Cộng Hoa Nhân
Dân Trung Hoa cho con số trữ lượng từ 23 đến 30 tỷ tấn dầu tại vùng Nam Biển
Đông.Chính số lượng dự trữ dầu lớn như vậy đã khiến cho sự tranh chấp chủ quyên cua Viêt
Nam tai Hoang Sa va Trương Sa chưa dê gi châm dưt , măc du thơi ky Viêt Nam mât chu
quyên đa qua đi.
6. Sự thực về chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa, Trường Sa và giải pháp
bền vững cho Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông
Như trên đa trinh bay , Trung Hoa khi bắt đầu khảo sát Tây Sa vào năm 1909 cho
rằng Tây Sa là vô chủ. Hồi năm 1898, Chính quyền Quảng Châu, Trung Hoa đã trả lời các
khiếu nại của công sứ Anh ở Bắc Kinh về công ty Bảo hiểm người Anh bảo hiểm các tàu
Bellona của Đức (bị đắm năm 1895) và tàu Humeji-Maru của Nhật (bị đắm năm 1896) đã bị
những người Trung Hoa ở Hải Nam cướp phá rằng: “quần đảo Tây Sa là những hon đảo bị
bỏ rơi, chúng không phải sở hữu của cả Trung Hoa lẫn An Nam, cũng không sáp nhập về
hành chánh vào bất kỳ quận nào của Hải Nam và không có nhà chức trách nào chịu trách
nhiệm về cảnh sát của chúng”(Monique Chemillier-Gendreau, sđd, p.158).
Đến khi Pháp bắt đầu đưa ra những bằng chứng lịch sử sự chiếm hữu của Việt Nam,
Trung Hoa hôi đo va T rung Quôc bây giơ lai luôn luôn nói rằng Tây Sa (tức Hoàng Sa) và
Nam Sa (tức Trường Sa) đã thuộc về Trung Quốc từ lâu, bất khả tranh nghị, khi thi noi tư
đơi Minh, khi thi noi tư đơi Tông. Sự thực thế nào?
Sư thưc la quân đao Hoang Sa kh ông hê la vô chu như luân điêm cua chinh quyên
Trung Hoa hôi năm 1909: các tư liệu chứng minh chủ quyền của Việt Nam đa xuất hiện liên
tục qua cac đời : từ đầu thời Chúa Nguyễn (tức đầu thế kỷ XVII), sang thời Tây Sơn rồi tới
triều Nguyễn (từ vua Gia Long), Việt Nam có khoảng gần 30 tư liệu các loại, không con ít
ỏi như thư của Toàn quyền Pasquier gửi cho Bộ trưởng Bộ Thuộc địa ngày 18-10-1930, mà
đa khẳng định chủ quyền của Việt Nam hết sức ro rang.
Thời kỳ Đại Việt, từ thời kỳ Nam Bắc phân tranh và thời Tây Sơn, nguồn tư liệu về
Hoàng Sa hầu như chỉ con lại tư liệu của chính quyền họ Trịnh ở Bắc Hà , chủ yếu là Thiên
Nam tứ chí lộ đồ thư, năm 1686, trong Hồng Đức bản đồ hay Toản tập An Nam lộ trong
sách Thiên hạ bản đồ và Phủ biên tạp lục, năm 1776 của Lê Quý Đôn.
Trong Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư hay Toản tập An Nam lộ, năm 1686 có bản đồ là
tài liệu xưa nhất, ghi ro hang năm họ Nguyễn đưa 18 chiến thuyền đến khai thác ở Bai Cat
Vàng. Con tư liệu trong Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn, năm 1776 là tài liệu cổ, mô tả kỹ
càng nhất về Hoàng Sa, quyển 2 có hai đoạn văn đề cập đến việc Chúa Nguyễn xác lập chủ
quyền của Đại Việt tại Hoàng Sa bằng hoạt động của đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải.
24
Sang thời kỳ triều Nguyễn từ năm 1802 đến năm 1909, có rất nhiều tài liệu chính sử
minh chứng chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa:
- Dư địa chí trong bộ Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (1821) và
sách Hoàng Việt địa dư chí (1833). Nội dung về Hoàng Sa của hai cuốn sách trên có nhiều
điểm tương tự như trong Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn cuối thế kỷ XVIII.
- Đại Nam thực lục phần tiền biên, quyển 10 (soạn năm 1821, khắc in năm 1844) tiếp
tục khẳng định việc xác lập chủ quyền của Đại Việt cũng bằng hoạt động của đội Hoàng Sa
và đội Bắc Hải.
- Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ (khắc in năm 1848); đệ nhị kỷ (khắc in
xong năm 1864); đệ tam kỷ (khắc in xong năm 1879) có cả thảy 11 đoạn viết về quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa với nhiều nội dung mới, phong phú, rất cụ thể về sự tiếp tục xác lập
chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
- Tài liệu rất quí gía, châu bản triều Nguyễn (thế kỷ XIX), hiện đang được lưu trữ tại
kho lưu trữ trung ương 1 ở Hà Nội. Ở đó người ta tìm thấy những bản tấu, phúc tấu của cac
đình thần cac bộ như Bộ Công , và các cơ quan khác hay những dụ của các nhà vua về việc
xác lập chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa dưới triều Nguyễn như việc vang
thám, đo đạc, vẽ họa đồ Hoàng Sa, cắm cột mốc... Năm Thiệu Trị thứ 5 (1845) có chỉ đình
hoãn kỳ vang tham, sau đó lại tiếp tục.
- Trong bộ sach Đại Nam nhất thống chí (1882 soạn xong, 1910 soạn lại lần hai và
khắc in) xác định Hoàng Sa thuộc về tỉnh Quảng Ngai va tiếp tục khẳng định hoạt động đội
Hoàng Sa và đội Bắc Hải do đội Hoàng Sa kiêm quản...
Ngoài ra các bản đồ cổ của Việt Nam từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX đều vẽ Bai Cat
Vàng hay Hoang Sa và Vạn Lý Trường Sa trong cương vực của Việt Nam.
Đặc biệt nhất sự kiện năm 1836 Vua Minh Mang sai suât đôi thuy b inh Pham Hưu
Nhât, ngươi gôc đao Ly Sơn chi huy thuy quân đi căm côt môc , dưng bia chu quyên tai
Hoàng Sa và Trường Sa , sau đo thanh lê hang năm. Đai Nam thưc lục chính biên đê nhi ky,
quyên 165 cũng đã chép rất ro từ n ăm Minh Mang thư 17 (1836), Bô Công tâu vua hàng
năm cư ngươi ra Hoang Sa ngoai viêc đo đac thủy trình , vẽ bản đồ và con cắm cột mốc ,
dưng bia. Châu ban, Tâp tâu cua Bô Công ngày 12 tháng 2 năm Minh Mang 17 (1836) vơi
lơi châu phê cua vua Minh Mang cung đa nêu rât ro: “Môi thuyên vang tham Hoang Sa phai
đem theo 10 tâm bai gô (côt môc) dài 4,5 thươc, rông 5 tâc". Đai Nam thưc lục chính biên,
đệ nhị kỷ, quyên 6 con ghi ro: “Vua Minh Mang đa y theo lơi tâu cua Bô Công sai suât đôi
thủy quân Phạm Hữu Nhật đưa binh thuyền đi , đem theo 10 cái bài gỗ dựng làm dấu mốc .
Môi bai gô dai 5 thươc rông 6 tâc va dày 1 tâc, môt bai khăc nhưng chư:
“Minh Mang thâp thât niên Bính Thân, thủy quân Chánh đội trưởng Suât đôi Pham
Hưu Nhât phung mênh vang Hoàng Sa tương đô chi thư hưu chi đẳng tư, (tôø 25b)”.
25
(Năm Minh Mang thư 17, năm Bính Thân, thủy quân Chánh đội trưởng Suât đôi
Phạm Hữu Nhật, vâng mênh ra Hoàng Sa xem xet đo đac, đến đây lưu dấu để ghi nhớ).
Vì sư kiên trên đa thanh lê hang năm, nên Khâm định Đại Nam hội điên sự lệ (1851),
quyên 207, tơ 25b-26a va quyên 221 đa chep lai viêc dưng miêu , dưng bia đa, căm côt môc
năm 1836 và lệ hàng năm phái biền binh thủy quân đi vãng thám, vẽ bản đồ…
Về những tư liệu của Trung Quốc minh chứng chủ quyền Việt Nam tại quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa, người ta thấy:
- Hải Ngoại kỷ sự của Thích Đại Sán (người Trung Quốc) năm 1696. Trong
quyển 3 của Hải Ngoại kỷ sự đa noi đến Vạn Lý Trường Sa , khẳng định Chúa Nguyễn
đa sai thuyền ra khai thac cac sản vật từ cac tau đắm trên quần đảo Vạn Lý Trường Sa.
- Các bản đồ cổ Trung Quốc do chính người Trung Quốc vẽ từ năm 1909 trở về
trước đều minh chứng Tây Sa va Nam Sa không thuộc về Trung Quốc.
Khảo sát tất cả bản đồ cổ của Trung Quốc từ năm 1909 trở về trước, người ta
thấy tất cả bản đồ cổ nước Trung Quốc do người Trung Quốc vẽ không có bản đồ nào
có ghi các quần đảo Tây Sa, Nam Sa. Tất cả bản đồ cổ ấy đều xác định đảo Hải Nam là
cực nam của biên giới phía nam của Trung Quốc.
Sau khi Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đóng Hoàng Sa tháng 1-1974, nhiều đoàn
khảo cổ Trung Quốc đến các đảo thuộc quần đảo này và gọi là “phát hiện” nhiều cổ vật
như tiền cổ, đồ sứ, đồ đá chạm trổ trên cac hon đảo này , song đều không có giá trị gì để
minh xác chủ quyền Trung Quốc, trái lại họ lại phát hiện ở mặt bắc ngôi miếu “Hoàng
Sa Tự” ở đảo Vĩnh Hưng, tức đảo Phú Lâm (Ile Boisée), lại là bằng chứng hiển nhiên
vết tích của việc xác lập chủ quyền của Việt Nam.
Về những tư liêu Phương Tây cũng xac nhân chủ quyền của Việt Nam tại quần
đao Hoang Sa va Trương Sa
Nhât ký trên tàu Amphitrite (năm 1701) xác nhận Paracels là một quầ n đao thuôc vê
nươc An Nam.
“Le Memoire sur la Cochinchine” cua Jean Baptiste Chaigneau (1769 - 1825) viêt
vào những năm cuối đời Gia Long (hoàn tất năm 1820) đa khăng đinh năm 1816 vua Gia
Long đa xac lâp chu quyên Viêt Nam trên quần đảo Paracels.
26
“Univers, histoire et description de tous les peuples, de leurs religions, moeurs et
coutumes” cua giam muc Taberd xuât ban năm 1833 cho răng hoang đê Gia Long chính
thưc khăng đinh chu quyên trên quân đao Hoang Sa năm 1816.
An Nam đai quôc hoa đ ồ của giám mục Taberd xuất bản năm 1838, phụ bản của
cuôn tư điên La tinh - Annam, ghi ro « Paracels seu Cat Vang » vơi toa đô ro rang như hiên
nay chư không phai như Trung Quôc cho la ven bơ biên . (« Seu » tiêng la tinh co nghia
« hay la », Cát Vàng: chư nôm, Hoàng Sa: chư Han)..
The Journal of the Asiatic Society of Bengal, Vol VI đa đăng bai cua giam muc
Taberd xac nhân vua Gia Long chính thưc giư chu quyên quân đao Paracels) .
The Journal of the Geographycal Society of London (năm 1849) GutzLaff ghi nhân
chính quyên An Nam lâp ra nhưng trưng thuyên va môt trai quân nho đê thu thuê ơ
Paracels...
….
Vê sau Trung Hoa đưa ra nhưng băng chưng nguy tao noi ngư ợc lại luận điệu ban
đâu, tưng cho la đât vô chu hôi 1909, cho răng Tây Sa đa thuôc Trung Quôc tư lâu . Ngay
tên Tây Sa va Nam Sa cung mơi đăt tư sau năm 1907 và Nam Sa lại bất nhất khi chỉ Trung
Sa, khi chi Nam Sa ơ vi tri hiê n nay (Spratleys). Có chăng thời Minh hay thời Hán thì cả
nươc Nam đa bi Trung Hoa đô hô , thơi Tông Đai Viêt cung bi xâm lươc , song đa gianh
đươc đôc lâp rôi!
Sự thực chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa đã ro ràng như trên . Vậy mà chỉ vi
Việt Nam bị Pháp đô hộ, mất hết chủ quyền, khi bị Trung Hoa xâm phạm, chính quyền thực
dân Pháp không bảo vệ kịp thời. Đến khi Chính quyền thực dân Pháp thay đổi quan điểm,
bảo vệ chủ quyền cho Việt Nam tại Hoàng Sa thi đã quá trễ và không thuyết phục vi thật ra
Pháp chỉ là nước đi xâm lược.
Sư thưc la bât cư chinh quyên nao kê ca chinh quyên thuôc đia chiu trach nhiêm vê
quản lý Hoàng Sa và Trường Sa , chưa bao giơ tư bo chu quyên cua Viêt Nam tai Hoang Sa
và Trường Sa.
Và nguyên nhân chủ yếu khiến cho Trung Quốc tranh chấp chủ quyền của Việt Nam
tại Hoàng Sa và Trường Sa chính là Việt Nam đã bị Pháp đô hộ và chịu ảnh hưởng những
biến động chính trị quốc tế cũng như quốc nội, nhât la tư thơi chiên tranh lanh và sau này.
Sư thưc lich sư vê chu quyên va nhưng hoan canh lich sư dân đên sư tranh châp
cùng nguyên nhân xâm phạm chủ quyền của Việt Nam đã quá ro ràng như thế thì khi Việt
Nam không con bi Phap đô hô va tinh hinh thê giơi va Viêt Nam đa biên chuyên, khác trước
thì giải pháp phải là “cái gì của César phải trả lại cho César”.
Không một chính quyền nào cũng như bất cứ người Việt Nam nào dù khác chính
kiến đều coi trọng việc lây lại Hoàng Sa về với Việt Nam và bảo toàn toàn vẹn Trường Sa.
27
Lịch sử cho biết dù có hàng ngàn năm bị lệ thuộc rồi cũng có ngày với sự kiên cường, bất
khuất, khi có thời cơ, sẽ đấu tranh thành công. Đối với các nước Asian trên cơ sở Công ước
quôc tê về luật biển năm 1982, sẽ tương nhượng trong tinh thần hợp tác giữa các thành viên
trong khối càng ngày càng chặt chẽ, đôi bên đều có lợi.
Việt Nam và Trung Quốc núi liền núi, sông liền sông, đã có những bài học lịch sử
quí giá. Việt Nam với truyền thống hàng ngàn năm luôn kiên quyết bảo vệ quyền độc lập tự
chủ của minh , song luôn luôn tôn trọng nước đàn anh Trung Quốc, luôn theo truyền thống
làm “phên dậu của Trung Quốc”, không bao giờ làm hại đến quyền lợi Trung Quốc.
Bất cứ giải pháp nào dựa vào sức mạnh như người Nhật đánh chiếm bằng vũ lực
Hoàng Sa, Trường Sa năm 1938, 1939 hoặc thực dân Pháp suốt thập niên 20 đến thập niên
50 thế kỷ XX dựa vào ưu thế quân sự của minh cũng như Trung Quốc dùng vo lực năm
1974 chỉ mang tính nhất thời. Có đế quốc nào mạnh như đế quốc La Mã thời cổ đại hay đế
quốc Mông Cổ thời trung đại hay đế quốc Anh, Pháp thời cận đại, rồi có ngày cũng suy yếu,
phải bỏ những lănh thổ chiếm giữ bằng vo lực.
Bất cứ giải pháp nào muốn vững bền phải dựa trên sự thực lịch sử nhà nước Việt
Nam đã chiếm hữu thật sự trước tiên tai Hoàng Sa va Trương Sa , chưa có ai tranh chấp và
phải dựa vào trật tự thế giới hiện hành khi có Hiến chương Liên Hiệp Quốc năm 1945 và
những Nghị quyết của Liên Hiệp Quốc sau đó và Công ước quốc tế về luật biển năm 1982.
Mọi người kể cả người Trung Quốc phải thấy ro sự thật lịch sử trên!
Viêt Nam phai luôn luôn nhăc đi nhăc lai cho ca thê giơi đươc biêt răng vu Trung
Quôc dung vo lưc chiêm đong Hoang Sa năm 1974 là trái phép hoàn toàn , trái với Hiến
Chương va các nghị quyết của Liên Hiêp Quôc. Không thê đê cho Trung Quôc coi vu chiêm
đong Hoang Sa như đa xong . Khi nội lực Việt Nam chưa đủ mạnh thi dứt khoát không ky
kết bất cứ một hiệp định nào gây sự thiệt hai cho Việt Nam.
Việc cần làm ngay là làm ro , quảng bá lịch sử nhà nước Việt Nam đã từ lâu chiếm
hữu thật sự Hoàng Sa và Trưởng Sa và xây dựng nội lực Việt Nam vững mạnh, đoàn kết
hùng cường.
Sư đâu tranh đoi lai Hoang Sa cho Viêt Nam cung như sư bao toan quân đao Trương
Sa la cuôc đâu tranh lâu dai, gian khô, nhất đinh se thanh công cung như Viêt Nam đa tưng
bị phong kiên phương Băc đô hô hơn môt ngan năm , khi co thơi cơ , sẽ giành đươc đôc lâp
tư chu.