i. 1945 - 1954“m tẮt 70 nĂm.pdf · truyỀn thỐng 70 nĂm nÔng nghiỆp viỆt nam i....

116
TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành nông, lâm, ngư nghiệp thời kỳ 1945 - 1954 1) Thành lập Bộ Canh nông năm 1945 Việt Nam là một nước nông nghiệp, muốn giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông thôn cả về phương diện xã hội và phương diện chuyên môn cần phải có một cơ quan tối cao để điều hành, song trong cơ cấu Chính phủ lâm thời ngày 28 tháng 8 năm 1945 chưa có Bộ Canh nông. Vì vậy, sau hai tháng kể từ ngày Tuyên ngôn độc lập, trong phiên họp ngày 14 tháng 11 năm 1945, Hội đồng Chính phủ đã quyết nghị thành lập Bộ Canh nông theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh và cử ông Cù Huy Cận, Bộ trưởng không bộ trong Chính phủ lâm thời giữ chức Bộ trưởng Bộ Canh Nông. Bộ Canh nông có nhiệm vụ giải quyết nạn đói và soạn thảo một chương trình kiến thiết về kinh tế nông nghiệp và đặt những căn bản đầu tiên cho cuộc kiến thiết ấy (1) . Chỉ hai ngày sau khi có quyết nghị thành lập, ngày 16 tháng 11 năm 1945 Bộ trưởng Cù Huy Cận đã công bố thực hiện hai nhiệm vụ của Bộ: "Bộ Canh Nông vừa mới lập ra sẽ có hai nhiệm vụ hiện tại và tương lai: 1. Thực hiện chương trình tăng gia sản xuất cấp tốc ở Bắc bộ và miền Bắc Trung bộ để giải quyết một phần vào nạn đói đang đe dọa đồng bào. 2. Sửa soạn một nền tảng chấn hưng nông nghiệp để mở đường phát triển cho một nền kinh tế nông nghiệp quốc gia sau này” (2) . Để hình thành hệ thống bộ máy quản lý ngành canh nông, trong phiên họp ngày 20 tháng 11 năm 1945, Hội đồng Chính phủ đã quyết định thành lập Ủy ban Canh nông tại mỗi phủ, huyện, châu, xã; quy định nhiệm vụ, quyền lợi của điền chủ, tá điền và nhiệm vụ của Ủy ban nhân dân đối với điền chủ và tá điền (3) . Căn cứ sự chỉ đạo đó của Chính phủ, Bộ Canh nông đã kiện toàn bộ máy quản lý ngành, yêu cầu ở mỗi tỉnh, phủ, huyện, châu, xã phải thành lập tiểu ban canh nông, phụ trách thực hiện chỉ thị của Bộ trong tăng gia sản xuất cấp tốc. Để triển khai gấp nhiệm vụ cứu đói, ở cấp Trung ương Chính phủ đã lập Ủy ban tối cao tiếp tế và cứu tế theo Sắc lệnh số 67-SL ngày 28 tháng 11 năm 1945. Ủy ban gồm có Bộ trưởng Bộ Quốc dân Kinh tế, Bộ trưởng Bộ Cứu tế, Bộ trưởng Bộ Canh nông. Ủy ban có toàn quyền hành động để nghiên cứu và thi hành những phương pháp cần thiết về tăng gia sản xuất, tiếp tế, cứu tế nhân dân trong toàn cõi Việt Nam. (1) Ban Chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam, tập 1. 1945 - 1954. Sđd, tr. 101. (2) Ban Chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, tập 1, Sđd, tr. 79. (3) Ban Chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945 - 2005, tập 1 (1945 - 1954), Sđd, tr. 115.

Upload: others

Post on 24-Feb-2020

1 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành nông, lâm,

ngư nghiệp thời kỳ 1945 - 1954

1) Thành lập Bộ Canh nông năm 1945

Việt Nam là một nước nông nghiệp, muốn giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông thôn

cả về phương diện xã hội và phương diện chuyên môn cần phải có một cơ quan tối cao để

điều hành, song trong cơ cấu Chính phủ lâm thời ngày 28 tháng 8 năm 1945 chưa có Bộ

Canh nông. Vì vậy, sau hai tháng kể từ ngày Tuyên ngôn độc lập, trong phiên họp ngày 14

tháng 11 năm 1945, Hội đồng Chính phủ đã quyết nghị thành lập Bộ Canh nông theo đề

nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh và cử ông Cù Huy Cận, Bộ trưởng không bộ trong Chính

phủ lâm thời giữ chức Bộ trưởng Bộ Canh Nông. Bộ Canh nông có nhiệm vụ giải quyết

nạn đói và soạn thảo một chương trình kiến thiết về kinh tế nông nghiệp và đặt những căn

bản đầu tiên cho cuộc kiến thiết ấy(1)

.

Chỉ hai ngày sau khi có quyết nghị thành lập, ngày 16 tháng 11 năm 1945 Bộ trưởng

Cù Huy Cận đã công bố thực hiện hai nhiệm vụ của Bộ: "Bộ Canh Nông vừa mới lập ra sẽ

có hai nhiệm vụ hiện tại và tương lai:

1. Thực hiện chương trình tăng gia sản xuất cấp tốc ở Bắc bộ và miền Bắc Trung bộ

để giải quyết một phần vào nạn đói đang đe dọa đồng bào.

2. Sửa soạn một nền tảng chấn hưng nông nghiệp để mở đường phát triển cho một

nền kinh tế nông nghiệp quốc gia sau này”(2)

.

Để hình thành hệ thống bộ máy quản lý ngành canh nông, trong phiên họp ngày 20

tháng 11 năm 1945, Hội đồng Chính phủ đã quyết định thành lập Ủy ban Canh nông tại

mỗi phủ, huyện, châu, xã; quy định nhiệm vụ, quyền lợi của điền chủ, tá điền và nhiệm vụ

của Ủy ban nhân dân đối với điền chủ và tá điền(3)

. Căn cứ sự chỉ đạo đó của Chính phủ,

Bộ Canh nông đã kiện toàn bộ máy quản lý ngành, yêu cầu ở mỗi tỉnh, phủ, huyện, châu,

xã phải thành lập tiểu ban canh nông, phụ trách thực hiện chỉ thị của Bộ trong tăng gia sản

xuất cấp tốc.

Để triển khai gấp nhiệm vụ cứu đói, ở cấp Trung ương Chính phủ đã lập Ủy ban tối

cao tiếp tế và cứu tế theo Sắc lệnh số 67-SL ngày 28 tháng 11 năm 1945. Ủy ban gồm có

Bộ trưởng Bộ Quốc dân Kinh tế, Bộ trưởng Bộ Cứu tế, Bộ trưởng Bộ Canh nông. Ủy ban

có toàn quyền hành động để nghiên cứu và thi hành những phương pháp cần thiết về tăng

gia sản xuất, tiếp tế, cứu tế nhân dân trong toàn cõi Việt Nam.

(1)

Ban Chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam, tập 1. 1945 - 1954.

Sđd, tr. 101. (2)

Ban Chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, tập 1, Sđd, tr. 79. (3)

Ban Chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945 - 2005,

tập 1 (1945 - 1954), Sđd, tr. 115.

Page 2: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

2

Nhằm tiếp tục kiện toàn bộ máy quản lý phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao

cho Bộ Canh nông, ngày 1 tháng 12 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số

69/SL quy định: “Tất cả các cơ quan: Canh nông, Thú y, Mục súc, Ngư nghiệp, Lâm chính

và Nông nghiệp tín dụng (Hợp tác xã và Nông phố Ngân hàng) trong toàn cõi Việt Nam từ

nay thuộc Bộ Canh nông” và giao Bộ trưởng Bộ Canh nông ra nghị định về tổ chức của

Bộ(1)

. Ngay trong ngày hôm đó, trong khi chờ Chính phủ thông qua nghị định chính thức

về nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, Bộ trưởng Cù Huy Cận đã có Nghị định

số 1, tạm thời quy định tổ chức của Bộ Canh nông, sơ bộ phân công nhiệm vụ cho các cơ

quan chuyên trách các lĩnh vực thuộc Bộ.

Ngày 21 tháng 12 năm 1945, Hội đồng Chính phủ đã nghe Bộ trưởng Cù Huy Cận

trình dự thảo Nghị định về Bộ Canh nông, đồng thời quyết định để Bộ ra thông tư hướng

dẫn thực hiện trong hệ thống ngành dọc từ Trung ương đến các địa phương(2)

. Trong những

ngày cuối cùng của năm 1945, Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh gấp rút chuẩn bị cải

tổ Chính phủ cho phù hợp với diễn biến rất phức tạp của cách mạng nước ta.

2) Kiện toàn hệ thống tổ chức quản lý ngành canh nông giai đoạn 1946 - 1947

Ngày 1 tháng 1 năm 1946, Chính phủ lâm thời được cải tổ thành Chính phủ Liên hiệp

lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, đã làm lễ ra

mắt tại Nhà hát thành phố Hà Nội. Thành phần của Chính phủ Liên hiệp lâm thời có 15 bộ

trưởng của 14 bộ và một Bộ trưởng không bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh kiêm Bộ trưởng Bộ

Ngoại giao. Bộ Canh nông quản lý các ngành nông, lâm, ngư nghiệp, do ông Cù Huy Cận

tiếp tục làm Bộ trưởng(3)

.

Ngay sau khi Chính phủ Liên hiệp lâm thời ra mắt, Bộ Canh nông bắt tay củng cố và

kiện toàn các cơ quan của Bộ. Giúp Bộ quản lý lĩnh vực canh nông lúc này là Viện Canh

nông. Ngày 21 và 25 tháng 1 năm 1946, Bộ trưởng Cù Huy Cận đã trình Chính phủ Dự

thảo Sắc lệnh cải tổ Viện Canh nông. Hội đồng Chính phủ đã quyết định giao Bộ trưởng

Canh nông sửa lại Sắc lệnh, tổ chức Phòng Canh nông - một cơ quan non trẻ của Bộ,

nhưng đặt dưới quyền kiểm soát của Chính phủ và được Chính phủ giúp đỡ. Ngày 30 tháng 1

năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 16/SL thiết lập Phòng Canh nông Bắc Bộ

Việt Nam thay cho Phòng Canh nông Bắc kỳ(4)

, quy định Phòng Canh nông Bắc Bộ Việt

Nam được đặt dưới quyền kiểm soát trực tiếp của Bộ Canh nông, được Chính phủ bảo trợ

(1)

Trong khi đó, lĩnh vực thủy lợi được Chính phủ giao cho Bộ Giao thông Công chính, thành lập theo Tuyên

cáo ngày 28 tháng 8 năm 1945 của Chính phủ; lĩnh vực thu mua, cung cấp lương thực, thực phẩm thuộc Bộ

Kinh tế quốc dân quản lý. (2)

Ban Chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945 - 2005,

tập 1 (1945 - 1954), tr. 133. (3)

Ban Chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945 - 2005,

tập 1 (1945 - 1954), Sđd, tr. 133, 143 (4)

Ban Chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, tập I

(1945-1954), Sđd, tr. 144-145, 152, 154, 156, 169-172

Page 3: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

về tinh thần và chuyên môn; có nhiệm vụ:

“a) Kinh tế: đặt những đề nghị lên Bộ Canh nông để:

- Thực hiện chương trình tăng gia sản xuất,

- Tìm kế hoạch để tổ chức một nền kinh tế nông nghiệp quốc dân;

b) Chuyên môn: đặt lên Bộ Canh nông những ý kiến về việc cải cách nông nghiệp;

c) Xã hội: Thành lập những cơ quan tương trợ tư gia giữa nông gia để bảo đảm

quyền lợi của nông giới”(1)

.

Bên cạnh cơ quan quản lý về nông chính và lâm chính của Bộ, Chính phủ còn giao

Bộ quản lý tín dụng. Ngay trong Sắc lệnh số 69/SL ngày 1 tháng 12 năm 1945 của Chủ

tịch Hồ Chí Minh, trong Bộ Canh nông có Nha Nông nghiệp tín dụng. Tiếp đó, trong Sắc

lệnh số 79/SL ngày 31 tháng 12 năm 1945 và Sắc lệnh số 17/SL ngày 31 tháng 1 năm 1946

của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chính phủ bãi bỏ Bình dân ngân quỹ tổng cục; các cơ quan và

tài sản của quỹ được tách ra để sáp nhập vào Nha Nông nghiệp tín dụng (do Bộ Canh nông

quản lý) và Nha Kinh tế tín dụng (do Bộ Quốc dân Kinh tế quản lý). Theo đó, Nông nghiệp

tín dụng có 4 quỹ là: (1) Nông phố ngân quỹ; (2) Khai khẩn ngân quỹ; (3) Ngư nghiệp

ngân quỹ; và (4) Tiểu công nghệ nông nghiệp ngân quỹ. Nông nghiệp Tín dụng được tổ

chức theo Nghị định của Bộ Canh nông(2)

, đứng đầu là Thanh tra Nông nghiệp Tín dụng(3)

.

Sau đó, ngày 22 tháng 3 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 32/SL sửa đổi

Sắc lệnh số 17/SL ngày 31 tháng 1 năm 1946, giao Ngư nghiệp ngân quỹ cho Kinh tế tín

dụng, không để trong Nông nghiệp tín dụng nữa. Nha Nông nghiệp tín dụng hoạt động đến

năm 1947 thì sáp nhập vào trong Nha tín dụng sản xuất của Chính phủ.

Sau khi cải tổ, Chính phủ Liên hiệp lâm thời đã lãnh đạo cả nước tiến hành Tổng

tuyển cử để bầu Quốc hội lần đầu tiên trong lịch sử nước ta. Ngày 6 tháng 1 năm 1946,

cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội lập hiến đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

đã diễn ra thắng lợi trong toàn quốc, đánh dấu bước phát triển nhảy vọt về thể chế dân chủ

của nước Việt Nam mới. Hơn 90% tổng số cử tri đã đi bỏ phiếu; 333 đại biểu đã trúng cử.

Chủ tịch Hồ Chí Minh ứng cử tại Hà Nội và đã trúng với số phiếu cao nhất là 98,4%(4)

.

Ngay sau thắng lợi của Tổng tuyển cử, tình hình nước ta tiếp tục có diễn biến rất

phức tạp. Chiến tranh lan rộng ở Miền Nam, Tây Nguyên, Nam Trung Bộ. Quân Pháp bắt

đầu chiếm lại Lai Châu, Tuần Giáo, Điện Biên Phủ và một số nơi khác ở Miền Bắc. Các

thế lực phản động đòi giải tán Chính phủ Liên hiệp lâm thời mới được thành lập để thành

lập ngay Chính phủ liên hiệp quốc gia chính thức, không chờ cuộc họp Quốc hội, phủ nhận

(1)

Văn phòng Quốc hội. Cơ sở dữ liệu luật Việt Nam: Sắc lệnh số 16/SL ngày 30 tháng 1 năm 1946. (2)

Văn phòng Quốc hội. Cơ sở dữ liệu luật Việt Nam: Sắc lệnh số 79/SL ngày 31 tháng 12 năm 1945. (3)

Văn phòng Quốc hội. Cơ sở dữ liệu luật Việt Nam: Sắc lệnh số 17/SL ngày 31 tháng 1 năm 1946. (4)

TTXVN, Văn phòng Chính phủ: Chính phủ Việt Nam 1945 - 2000, Sđd, tr. 37.

Page 4: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

4

quyền của Quốc hội. Mặc dù vậy, Chính phủ, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiên

trì, khéo léo đấu tranh, tích cực chuẩn bị cho kỳ họp thứ nhất của Quốc hội.

Ngày 2 tháng 3 năm 1946, kỳ họp lần thứ I Quốc hội khóa I đã được tổ chức, Chính

phủ một lần nữa được cải tổ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời giao

lại quyền cho Quốc hội tổ chức một Chính phủ mới: Chính phủ kháng chiến và kiến quốc

với tên gọi Chính phủ Liên hiệp kháng chiến. Trong thành phần Chính phủ ra mắt Quốc

hội tại kỳ họp này có 15 thành viên, do Hồ Chí Minh là Chủ tịch. Trong đó có 10 Bộ

trưởng của 10 Bộ. Bộ trưởng mới của Bộ Canh nông là ông Bồ Xuân Luật. Tiếp sau đó,

Hội đồng Chính phủ Liên hiệp đã họp các phiên ngày 4 và ngày 8 tháng 3 năm 1946 để cử

Thứ trưởng của các Bộ. Ông Cù Huy Cận được cử giữ chức Thứ trưởng Bộ Canh nông(1)

.

Do yêu cầu của kháng chiến, các thành viên Chính phủ và cán bộ cao cấp của các Bộ

thường xuyên luân chuyển vị trí. Sau một tháng thành lập Chính phủ Liên hiệp kháng

chiến, đến tháng 4 năm 1946, ông Huỳnh Thiện Lộc được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Canh

nông, thay cho ông Bồ Xuân Luật nhận công tác khác.

Sau khi thành lập các cơ quan quản lý canh nông, Bộ Canh nông tiếp tục kiện toàn cơ

quan quản lý ngành lâm chính, đáp ứng nhu cầu cấp bách về quản lý và khai thác bảo vệ

rừng, nơi có các căn cứ địa cách mạng, chiến khu trong kháng chiến. Ngày 11 tháng 3 năm

1946, Bộ đã ban hành Nghị định số 81, quy định nhiệm vụ và tổ chức của Nha Lâm chính.

Theo đó, bãi bỏ Nha Thanh tra các Sở Thủy lâm địa phương, chuyển nhân viên, tài sản của

Nha này về Nha Lâm chính. Nhiệm vụ cơ bản của Nha Lâm chính bao gồm toàn bộ các

lĩnh vực quản lý, bảo vệ các lâm phận; hợp lý hóa cách khai thác rừng; thu công quỹ các

khoản tiền quản lý rừng; trồng cây gây rừng; trông coi việc săn bắn trong toàn quốc; khảo

cứu, thí nghiệm về lâm sản; quan hệ với các cơ quan, tổ chức nghiên cứu trong và ngoài

nước về lâm chính; tổ chức các cơ quan đào tạo nhân viên chuyên môn. Tổ chức của Nha

gồm ba Ban: Ban Hành chính, Ban Tài chính và Ban Chuyên môn. Đứng đầu Nha là Thanh

tra Lâm chính. Theo hệ thống dọc, cả nước chia thành nhiều Quận Lâm chính, do các quận

trưởng điều khiển, dưới quyền trực tiếp của Thanh tra Lâm chính. Mỗi quận chia thành

nhiều Hạt Lâm chính, do các hạt trưởng điều khiển, dưới quyền trực tiếp của quận trưởng.

Mỗi hạt chia làm nhiều Đồn Lâm chính, do đồn trưởng điều khiến dưới quyền trực tiếp của

hạt trưởng. Mỗi đồn lại chia thành nhiều Chi Lâm chính, do các chi trưởng điều khiển,

dưới quyền trực tiếp của đồn trưởng(1)

.

Đến ngày 3 tháng 5 năm 1946, để làm cơ sở kiện toàn bộ máy của các Bộ, Chủ tịch

Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 57/SL quy định tổ chức các Bộ. Mỗi Bộ có một Văn phòng,

các Nha và có thể có một cơ quan thanh tra và một Ban cố vấn. Đồng thời Sắc lệnh cũng

quy định về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan, cán bộ cao cấp và nhân viên

(1)

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Lâm nghiệp Việt Nam 1945 - 2000, Sđd, tr. 23 - 24.

Page 5: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

trong các Bộ.

Sau Sắc lệnh này, ngày 8 tháng 5 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc

lệnh số 62/SL về tổ chức của Bộ Canh nông (gồm các bộ phận chính là Văn phòng, Nha

Nông chính, Nha Lâm chính, Nha Mục súc, thú ý, ngư nghiệp và Phòng sự vụ), ấn định các

chức vụ trong Văn phòng, các phòng sự vụ và các Nha thuộc Bộ Canh nông. Văn phòng có

Đổng lý Văn phòng, Chánh Văn phòng, Phó Văn phòng, Bí thư, Tham chính văn phòng.

Các phòng sự vụ có Đổng lý sự vụ và Phó Đổng lý sự vụ. Các Nha có Giám đốc Nha Nông

chính, Giám đốc Nha Nông nghiệp tín dụng, Giám đốc Nha Lâm chính và Giám đốc Nha

Mục súc, thú y, ngư nghiệp(1)

.

Cũng trong ngày 8 tháng 5 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký tiếp Sắc lệnh số

63/SL về cử cán bộ cao cấp cho Bộ Canh nông. Đổng lý Văn phòng là ông Lê Xuân Hưu.

Chánh Văn phòng là ông Trương Văn Minh. Đổng lý sự vụ là ông Nguyễn An Triệu. Giám

đốc Nha Nông chính là ông Hoàng Văn Đức. Giám đốc Nha Lâm chính là ông Nguyễn

Năng Đắc. Giám đốc Nha Nông nghiệp tín dụng là ông Đào Thiện Thi. Giám đốc Nha Mục

súc, thú y, ngư nghiệp là ông Phạm Văn Huyên. Tuy nhiên, ngay trong tháng 5 năm 1946, một

số cương vị nói trên lại được thuyên chuyển. Tại phiên họp ngày 27 tháng 5 năm 1946, Hội

đồng Chính phủ đã xem xét cử ông Đào Thiện Thi giữ chức Tổng thanh tra Bộ Canh nông;

cử ông Lê Văn Nguôn làm Chánh Văn phòng Bộ thay ông Trương Văn Minh (từ chức)(2)

.

Ngoài những cơ quan thuộc Bộ nói trên, Bộ Canh nông trong kháng chiến đã bảo trợ

cho ra đời tờ báo Tấc đất, là cơ quan cổ động sản xuất, phát hành trong chiến dịch chống

nạn đói (1945 - 1946) và cổ động cho công tác tăng gia sản xuất.

Đối với ngành lâm nghiệp, theo đề nghị của Ủy ban nghiên cứu lâm chính (do Bộ

Canh nông thành lập), ngày 28 tháng 10 năm 1946 Bộ trưởng Bộ Canh nông Huỳnh

Thiện Lộc đã ban hành Nghị định số 508/BCN về tổ chức lại Nha Lâm chính, gồm 43

điều, bãi bỏ Nghị định số 81 ngày 11 tháng 3 năm 1946, quy định những vấn đề cơ bản

về nhiệm vụ, hệ thống tổ chức, hội đồng thường kỳ và phân chia các địa hạt lâm chính

trong toàn quốc. Nha Lâm chính có ba nhiệm vụ cơ bản: (i) Quản lý lâm phận; (ii) Thi

hành lâm pháp và (iii) Thi hành thể lệ về săn bắn. Hệ thống tổ chức ngành cũng được

thiết lập lại thành bốn cấp quản lý rừng do Bộ trực tiếp quản lý: Nha Tổng giám đốc,

Quận, Hạt, và Chi. Tại Nha Tổng giám đốc được tổ chức năm Ty chuyên môn, giống

như các phòng nghiệp vụ sau này, là Ty Hành chính; Ty Khai thác và thống kê; Ty

Công tác; Ty Pháp chế; Ty Tài chính.

Ngoài ra, Nghị định 508/BCN cũng quy định cụ thể nhiệm vụ của các cấp lâm chính

(1)

Hồ Chí Minh: Sắc lệnh số 62 ngày 8 tháng 5 năm 1946 quy định các chức vụ trong Văn phòng, các phòng

Sự - Vụ và các Nha thuộc Bộ Canh nông. Thuvienphapluat.vn (2)

Ban Chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, tập I

(1945-1954), Sđd, tr. 204, 213, 277.

Page 6: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

6

Quận, Hạt, Chi. Tuy nhiên, do lúc này chiến tranh đã nổ ra ở Nam Bộ, bắt đầu lan rộng,

dẫn đến toàn quốc kháng chiến, nên hệ thống quản lý lâm chính thống nhất như quy định

tại Nghị định này không được áp dụng trong toàn quốc. Hơn nữa, trong thời gian tiếp theo,

chủ trương của Chính phủ về quản lý các ngành theo hệ thống dọc phải gắn chặt chẽ với hệ

thống tổ chức chính quyền các cấp ở địa phương liên khu, tỉnh, huyện, xã. Vì thế, Bộ Canh

nông tiếp tục có những cải tổ, kiện toàn lại các cơ quan chuyên môn của mình(1)

.

Tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I (từ ngày 28 tháng 10 đến 9 tháng 11 năm 1946)

đã thảo luận và thông qua những chủ trương cấp bách để chuẩn bị kháng chiến; thông qua

Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (ngày 9 tháng 11 năm 1946 Chủ

tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh công bố bản Hiến pháp này); thông qua Chính phủ Mới

do Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập thay cho Chính phủ Liên hiệp kháng chiến. Ngày 3

tháng 11 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập Chính phủ Mới do Người làm Chủ

tịch kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Các đại biểu thuộc các tổ chức chính trị đi ngược lại

quyền lợi của dân tộc hoàn toàn bị gạt ra khỏi Chính phủ. Chính phủ Mới hoạt động trong

chín năm, từ ngày 3 tháng 11 năm 1946 đến đầu năm 1955. Trong thành phần Chính phủ

mới, Bộ trưởng Bộ Canh nông là ông Ngô Tấn Nhơn. Ông Ngô Tấn Nhơn lúc này được

Hội đồng Chính phủ cử giữ chức Bộ trưởng của hai Bộ: Bộ Kinh tế (từ ngày 3 tháng 11

năm 1946 đến năm 1947); Bộ Canh nông (từ ngày 3 tháng 11 năm 1946 đến tháng 3 năm 1954).

Từ tháng 3 năm 1954 cho đến hết nhiệm kỳ Chính phủ Mới, ông Nghiêm Xuân Yêm được

cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Canh nông thay cho ông Ngô Tấn Nhơn(2)

.

Như vậy, chỉ trong hơn một năm từ ngày 28 tháng 8 năm 1945 đến ngày 3 tháng 11

năm 1946, Chính phủ cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu phải trải qua bốn lần

cải tổ: từ Chính phủ lâm thời trong Tuyên cáo ngày 28 tháng 8 năm 1945 và ra mắt quốc

dân đồng bào ngày 2 tháng 9 năm 1945; đến Chính phủ Liên hiệp lâm thời thành lập ngày 1

tháng 1 năm 1946; rồi Chính phủ Liên hiệp kháng chiến ra mắt tại kỳ họp thứ I Quốc hội

khóa I ngày 2 tháng 3 năm 1946; đến Chính phủ Mới, ra mắt tại kỳ họp thứ II, Quốc hội

khóa I ngày 3 tháng 11 năm 1946. Chính phủ Mới lãnh đạo cuộc kháng chiến kiến quốc

cho đến tháng 9 năm 1955.

Trong thời gian đó, lãnh đạo Bộ Canh nông cũng có nhiều thay đổi. Bộ trưởng đầu

tiên trong Chính phủ lâm thời và Chính phủ Liên hiệp lâm thời là ông Cù Huy Cận (từ

ngày 14 tháng 11 năm 1945 đến ngày 2 tháng 3 năm 1946). Bộ trưởng Canh nông trong

Chính phủ Liên hiệp kháng chiến là ông Bồ Xuân Luật (từ tháng 3 đến tháng 4 năm 1946).

Thay ông Bồ Xuân Luật là ông Huỳnh Thiện Lộc (từ tháng 4 đến tháng 11 năm 1946). Bộ

(1)

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Lâm nghiệp Việt Nam 1945 - 2000, Sđd, tr. 24-26. (2)

Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Chính phủ qua các thời kỳ. Cổng thông tin điện tử.

Page 7: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

trưởng Bộ Canh nông trong Chính phủ Mới là ông Ngô Tấn Nhơn (từ tháng 11 năm 1946

đến tháng 3 năm 1954). Trong giai đoạn cuối của Chính phủ Mới, ngày 16 tháng 3 năm

1954, Hội đồng Chính phủ cử ông Nghiêm Xuân Yêm giữ chức Bộ trưởng Bộ Canh nông

thay ông Ngô Tấn Nhơn (cùng ngày ông Hồ Viết Thắng được cử giữ chức Thứ trưởng Bộ

Canh nông). Ông Nghiêm Xuân Yêm giữ chức Bộ trưởng Bộ Canh nông trong Chính phủ

mới đến tháng 9 năm 1955. Kể từ ngày 20 tháng 9 năm 1955, trong Chính phủ mở rộng

được kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa I thông qua, Bộ Canh nông đổi tên thành Bộ Nông lâm ,

ông Nghiêm Xuân Yêm tiếp tục được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Nông

3) Bộ Canh nông tại chiến khu Việt Bắc giai đoạn 1947 - 1954

Hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung

ương Đảng, Chính phủ cùng các cơ quan bộ ngành đã di chuyển lên chiến khu Việt Bắc.

Đầu năm 1947, Bộ Canh nông dời thủ đô Hà Nội, chuyển lên Bỉnh Di, Lập Thạch, Vĩnh

Phúc. Sau đó, Bộ chuyển lên ở và làm việc tại xã Nông Tiến, thị xã Tuyên Quang. Cuối

năm 1947, thực dân Pháp tấn công lên thị xã Tuyên Quang, Bộ Canh nông di chuyển lên

xã Yên Nguyên, huyện Chiêm Hóa. Năm 1948, Bộ Canh nông chuyển đến ở, làm việc tại

thôn Dõn, xã Minh Thanh, huyện Sơn Dương. Lúc đầu cơ quan ở nhờ nhà ông Hà Kim

Chung, sau đó làm nhà riêng để ở và làm việc. Tại địa điểm này hiện có bia đề “Di tích Bộ

Canh nông”(1)

. Năm 1949, Bộ Canh nông di chuyển lên xã Phúc Thịnh, huyện Chiêm Hóa.

Năm 1951, Bộ Canh nông chuyển về làm việc tại đồn điền Lê Thăng (nay là xã Hiệp Hòa,

huyện Sơn Dương). Sau đó Bộ chuyển về chợ Me, thị xã Vĩnh Yên, rồi về Tam Đa, huyện

Sơn Dương. Năm 1952, Bộ Canh nông chuyển về làm việc tại khu Đồng Tang, thôn Hoắc,

xã Thái Bình, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang. Đến năm 1954, Bộ Canh nông chuyền

về Hà Nội.

Khi sơ tán lên Việt Bắc, cơ quan Bộ có khoảng 40 người, Bộ trưởng là ông Ngô Tấn

Nhơn lúc này đang công tác tại Nam bộ. Thứ trưởng là ông Nghiêm Xuân Yêm.

Nha Nông chính trực thuộc Bộ Canh nông cũng di chuyển lên ở và làm việc tại chiến

khu Việt Bắc. Thời kỳ đầu, Nha Nông chính ở và làm việc tại tỉnh Phú Thọ. Năm 1948, để

thuận lợi cho việc hướng dẫn, chỉ đạo nhân dân tăng gia sản xuất ủng hộ kháng chiến, Nha

Nông chính đã chuyển lên đồn điền Lê Thăng, nay là thôn Thanh Bình, xã Hợp Hoà,

huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang(2)

. Xã Hợp Hoà nằm ở phía đông nam huyện Sơn

Dương, cách huyện lỵ 12 ki lô mét về phía Nam. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp,

xã Hợp Hoà đã vinh dự được đón một số cơ quan Trung ương về ở và làm việc, như: Bộ

Canh nông, Bộ Giao thông Công chính, Phòng Trung ương liên lạc miền Nam, Cục Tiếp tế

vận tải.

(1)

Theo tài liệu của Ban quản lý khu du lịch lịch sử, văn hoá và sinh thái Tân Trào - tỉnh Tuyên Quang. (2)

Theo tài liệu của Cổng Thông tin điện tử tỉnh Tuyên Quang..

Page 8: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

8

Hiện nay khu Di tích Nha Nông chính được phân bố trên quả đồi nhỏ. Phía trước di

tích vẫn còn dòng suối Đục chảy qua, rất thuận lợi cho việc sinh hoạt của cán bộ nhân viên

hồi kháng chiến. Toàn bộ hệ thống nhà ở và làm việc của cơ quan gồm có: Nhà ở và làm

việc của các đồng chí lãnh đạo, nhà ở, nhà làm việc của cán bộ nhân viên, nhà bếp đều làm

bằng tranh, tre, nứa, lá được khai thác tại địa phương. Trải qua thời gian 60 năm, đến nay

di tích Nha Nông chính, xã Hợp Hoà, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang chỉ còn lại dấu

tích. Tất cả các kiến trúc ngôi nhà, các lán, các hiện vật trong khu di tích đều bị phá huỷ và

mất hoàn toàn. Hiện nay, Bảo tàng Tuyên Quang đang lưu giữ tờ báo "Toàn dân canh tác"

số 4 ra ngày 31 tháng 11 năm 1950 do Nha Nông chính xuất bản.

Sau khi chuyển lên Việt Bắc, Bộ Canh nông đã khẩn trương triển khai thực hiện các

nhiệm vụ vừa kiện toàn hệ thống cơ quan quản lý ngành dọc từ Trung ương đến các liên

khu, tỉnh, huyện, xã, vừa chỉ đạo tăng gia sản xuất, phát triển nông, lâm, ngư nghiệp trong

giai đoạn từ năm 1948 đến năm 1954.

4. Những nét nổi bật trong phát triển nông nghiệp Việt Nam thời kỳ 1945 - 1954

Trong bối cảnh lịch sử cách mạng Việt Nam năm 1945, ngày 14 tháng 11 năm 1945

trở thành cột mốc truyền thống của ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nước ta,

đánh dấu sự ra đời của Bộ Canh nông. Bộ Canh nông cùng với Bộ Giao thông công chính

và Bộ Quốc dân kinh tế đã giúp Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quản lý, chỉ

đạo việc xây dựng và phát triển các ngành nông, lâm, ngư nghiệp, thủy lợi, lương thực,

thực phẩm - nền tảng quan trọng của kinh tế kháng chiến.

Thành tựu nổi bật đầu tiên của Chính phủ lâm thời là cứu đói trong năm (1945 - 1946).

Đó cũng là mở đầu truyền thống vẻ vang của nông dân và nông nghiệp Việt Nam dưới

chế độ mới. Theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và sự lãnh đạo của Đảng, nông

dân Việt Nam với truyền thống yêu nước thương nòi đã đoàn kết, đồng tâm hiệp lực,

nhường cơm, sẻ áo, vượt qua thiên tai lũ lụt, cấp tốc tăng gia sản xuất, đảm bảo đủ

lương thực, thực phẩm, chiến thắng giặc đói, làm nên kỳ tích lớn lao của Nhà nước

cách mạng.

Sau khi giải quyết được nạn đói, ngành nông nghiệp đã không ngừng vượt qua nhiều

khó khăn, thách thức, đóng góp to lớn cho cuộc kháng chiến kiến quốc. Quá trình hoạt

động, xây dựng và trưởng thành của Bộ Canh nông và các bộ ngành có liên quan trong

chín năm (1945 - 1954) gắn liền với những thành tựu đó. Truyền thống của Nông nghiệp

Việt Nam trong chín năm kháng chiến được xây đắp bằng những thành tựu nổi bật trong

từng ngành nông, lâm, ngư nghiệp và thủy lợi, mà người làm nên những kỳ công đó chính

là giai cấp nông dân.

Nông nghiệp trong kháng chiến là mặt trận kinh tế phải chịu những ảnh hưởng nhiều

nhất của thiên tai, địch họa. Nhưng, từ một nền kinh tế canh nông đã bị tê liệt trước năm

1945, nông nghiệp kháng chiến không những không bị suy thoái tiếp, mà đã được duy trì

Page 9: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

và phát triển, với sản lượng lương thực, thực phẩm và hàng hóa ngày càng dồi dào hơn,

đáp ứng kịp thời các nhu cầu của cuộc kháng chiến và đời sống nhân dân. Trong điều kiện

bị vây hãm, tiềm lực kinh tế, quân sự đều rất nhỏ bé, không thể dựa được vào ai để tiến

hành kháng chiến, chúng ta phải tiến hành vừa kháng chiến, vừa kiến quốc một cách

trường kỳ, toàn dân, toàn diện, tự lực cánh sinh. Phát triển nông nghiệp thực sự là nền tảng

của kinh tế kháng chiến. Nông dân Việt Nam đã phát huy truyền thống lao động cần cù,

sáng tạo, luôn tìm cách vượt qua mọi khó khăn. Được Đảng và Chính phủ quan tâm chăm

lo lợi ích, giải phóng sức lao động, nông dân Việt Nam đã thực sự trở thành nòng cốt của

lực lượng cách mạng. Họ là đội quân chủ lực của kinh tế kháng chiến, đóng góp sức người

sức của, là chỗ dựa của cuộc chiến tranh nhân dân.

Nông nghiệp, nông dân trở thành một trục chính của đại đoàn kết dân tộc và đại đoàn

kết dân tộc là động lực cho phát triển nông nghiệp. Chính trên mặt trận nông nghiệp, Lời

kêu gọi Thi đua ái quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1948 đã sớm trở thành phong trào

quần chúng rộng lớn của toàn thể già trẻ gái trai, “toàn dân canh tác, bốn mùa canh tác”,

tạo nên động lực to lớn, biến “ruộng rẫy là chiến trường, cuốc cày là vũ khí, nhà nông là

chiến sĩ, hậu phương thi đua với tiền phương”.

Sự phát triển của nông nghiệp kháng chiến còn được hậu thuẫn bởi những thành tựu

to lớn của ngành thủy lợi. Đương đầu với các cơn mưa lũ lịch sử, với chiến dịch đánh phá

ác liệt có hệ thống của quân giặc vào đê điều và các công trình thủy lợi, ngành thủy lợi đã

huy động được đông đảo sức dân, hàn gắn, gia cố vững chắc các tuyến đê, nhanh chóng

khắc phục những thiệt hại lũ lụt; chủ động, sáng tạo xây dựng các công trình thủy lợi, các

hệ thống nông giang vừa và nhỏ cùng nhiều giải pháp giữ nước, cấp nước chống hạn, khôi

phục có hiệu quả các công trình bị đánh phá, cố gắng duy trì và mở rộng diện tích canh tác

được tưới nước, tiêu úng phục vụ sản xuất nông nghiệp, bảo vệ đời sống của nhân dân

trong suốt chín năm kháng chiến.

Rừng, tài nguyên rừng và ngành lâm chính đã có những đóng góp to lớn cho kháng

chiến kiến quốc. Hệ thống chính sách và thể lệ lâm nghiệp mới bước đầu đã thúc đẩy phát

triển kinh tế lâm nghiệp phục vụ nhu cầu rất lớn và cấp bách của quốc phòng, quân giới,

các ngành giao thông, thông tin liên lạc, công nghiệp và thủ công nghiệp, cũng như nhu

cầu dân sinh, bổ sung thu nhập ngân sách của Chính phủ và các địa phương. Rừng vừa là

ngành kinh tế quan trọng, vừa trở thành thành lũy chiến khu, “rừng che bộ đội, rừng vây

quân thù”, đảm bảo thắng lợi cho các chiến dịch quân sự trong kháng chiến.

Trong bối cảnh thiếu thốn lương thực, thực phẩm, lại bị chia cắt giữa các vùng tự do

và vùng địch tạm chiếm, bị cô lập với nước ngoài, công tác đảm bảo lương thực, thực

phẩm cho kháng chiến, “nuôi quân đánh thắng” là nhiệm vụ vô cùng khó khăn. Với đường

lối kháng chiến toàn dân toàn diện, dựa vào dân, đoàn kết toàn dân, chúng ta không những

đã đảm bảo cơm ăn, áo mặc cho nhân dân, mà còn xây dựng được lực lượng quân đội, bộ

Page 10: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

10

máy chính quyền nhà nước ngày càng mạnh để tiến hành kháng chiến. Tham gia vào đội

quân vận chuyển, cung cấp lương thực, thực phẩm, vật tư, hàng hóa phục vụ cho kháng

chiến là hàng triệu dân công, đóng góp mồ hôi, xương máu cho mọi chiến thắng quân sự

của cuộc kháng chiến.

Cùng với những thành tựu to lớn về phát triển sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và

thủy lợi, công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật và đào tạo cán bộ, nhân viên, công nhân kỹ

thuật của ngành cũng đạt được những thành quả ban đầu. Đội ngũ cán bộ, công nhân viên

chức và các chính sách phát triển nông, lâm, ngư nghiệp mà chúng ta bước đầu xây dựng

đó đã đi vào đời sống, tạo lập được nền móng cho phát triển nông nghiệp ở các giai đoạn

tiếp sau.

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954 đã kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến

trường kỳ, toàn dân toàn diện, tự lực cánh sinh đầy gian khổ của nhân dân ta. Lịch sử đã

ghi nhận những thành tựu rất đáng tự hào về kinh tế nông nghiệp kháng chiến. Thành tựu

đó khẳng định những giá trị quý báu về tư tưởng và kinh nghiệm phát triển nông nghiệp,

ghi nhận sự tiến bộ bước đầu cả về lực lượng sản xuất, giải phóng và thiết lập quan hệ sản

xuất mới của nông dân.

Kháng chiến kiến quốc còn là trường học rèn luyện và phát triển mọi mặt cho Bộ

Canh nông về tổ chức, điều hành, quản lý phát triển kinh tế, thực thi chức năng, nhiệm vụ

của cơ quan hành chính nhà nước đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn, là môi trường

rèn luyện, trưởng thành của đội ngũ cán bộ, công nhân viên ngành nông, lâm, ngư nghiệp

và thủy lợi. Nét truyền thống đầu tiên của ngành trong công tác quản lý và chỉ đạo phát

triển kinh tế, mà sau này trở thành bài học thành công là luôn gắn thực tiễn, đúc kết từ thực

tiễn, sâu sát với nông dân, dựa vào nông dân, vì nông dân... Những giá trị đó tiếp tục được

kế thừa và phát triển trong các giai đoạn lịch sử sau này.

Page 11: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

11

II. Quá trình kiện toàn và phát triển cơ quan quản lý ngành nông, lâm, ngư

nghiệp thời kỳ 1955-1975

1. Thành lập Bộ Nông lâm

Để nhanh chóng khắc phục hậu quả chiến tranh, phát triển kinh tế, Chính phủ chủ

trương kiện toàn hệ thống tổ chức, thành lập một số cơ quan Trung ương cho phù hợp với

yêu cầu mới(1)

. Trong thành phần Chính phủ được kiện toàn năm 1952, Bộ Canh nông tiếp

tục được giao quản lý các lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp; Bộ Giao thông công chính quản

lý lĩnh vực thủy lợi; Bộ Công thương quản lý lương thực, thực phẩm. Cơ cấu tổ chức bộ

máy và nhiệm vụ quản lý các ngành của ba Bộ có nhiều thay đổi trong giai đoạn từ năm

1955 trở đi. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8, khóa II họp từ ngày 13 đến 20 tháng 8

năm 1955 đã đề ra phương hướng kiện toàn bộ máy Chính phủ, nêu rõ: “Trước mắt phải

kiện toàn Chính phủ, bổ sung cán bộ vào Chính phủ và phân công lại cho hợp lý hơn…

Một mặt chú ý làm cho công tác được tiến hành có kết quả tốt, đảm bảo sự lãnh đạo của

Trung ương theo nguyên tắc tập trung và thống nhất trên cơ sở tập thể và dân chủ, đồng

thời hấp thu một số nhân sĩ ngoài đảng vào Chính phủ để có lợi cho cuộc đấu tranh chính

trị hiện nay”(2)

.

Trong kỳ họp đầu tháng 2 năm 1955 dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hội

đồng Chính phủ ra nghị quyết đổi tên Bộ Canh nông thành Bộ Nông lâm và cử ông Nghiêm

Xuân Yêm giữ chức Bộ trưởng. Trước đó, từ tháng 3 năm 1954, ông Nghiêm Xuân Yêm đã

được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Canh nông.

Việc đổi tên Bộ Nông lâm cùng với kiện toàn bộ máy tổ chức của Bộ thời điểm này

là nhằm tăng cường năng lực cho Bộ để thực hiện đường lối của Đảng trong thời kỳ khôi

phục và phát triển kinh tế, trong đó nhiệm vụ cấp bách là phải sớm khôi phục nông nghiệp,

vai trò, trách nhiệm của Chính phủ và các bộ, ngành đối với đời sống của nhân dân được

nêu cao, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải

hết sức chăm nom đến đời sống nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu

dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi”(3)

.

Ngày 20 tháng 9 năm 1955, trong kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa I, theo đề nghị của

Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quốc hội đã thông qua quyết định kiện toàn Chính phủ. Chính phủ

được mở rộng và bổ sung(4)

, có 17 bộ và một Bộ trưởng Phủ Thủ tướng. Bộ Giao thông

công chính được tách thành hai Bộ là Bộ Giao thông và Bưu điện, Bộ Thủy lợi và Kiến

(1)

Trương Hữu Quỳnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Tập 1. Sđd, tr. 289, 290. (2)

Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, tập II

(1955-1976), Sđd, tr. 70-71. (3)

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, T7, tr. 572. (4)

Tại Kỳ họp này của Quốc hội, Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng được cử làm Thủ tướng Chính phủ; cử hai

phó Thủ tướng là Phan Kế Toại kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Võ Nguyên Giáp kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc

Phòng, Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam

Page 12: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

12

trúc. Bộ Công thương được tách ra thành Bộ Công nghiệp và Bộ Thương nghiệp. Theo đó,

nhiệm vụ quản lý nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp giao Bộ Nông lâm ; quản lý thủy

lợi giao Bộ Thủy lợi và Kiến trúc; quản lý lương thực giao Bộ Thương nghiệp, chế biến

thực phẩm giao Bộ Công nghiệp. Cũng trong ngày 20 tháng 9 năm 1955, Chính phủ có

quyết định tăng cường cho Bộ Nông lâm Thứ trưởng Lê Duy Trinh(1)

. Đội ngũ lãnh đạo

Bộ tiếp tục được tăng cường trong các năm tiếp theo. Ngày 21 tháng 5 năm 1958, Hội

đồng Chính phủ đã họp dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyết nghị bổ sung

thêm cho Bộ Nông lâm hai Thứ trưởng là các ông Trần Hữu Dực và Nguyễn Tạo. Đến

trung tuần tháng 5 năm 1959, sau kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa II, thành phần Chính phủ

được kiện toàn lại, trong đó có bốn Phó Thủ tướng, 14 Bộ trưởng. Ông Nghiêm Xuân Yêm

tiếp tục giữ chức Bộ trưởng Bộ Nông lâm (2)

.

Sau khi đổi tên, ngày 17 tháng 2 năm 1955 Bộ Nông lâm đã ra Nghị định số

02-NL/QT/NĐ về cơ cấu tổ chức thuộc Bộ, trong đó có: Văn phòng, Vụ Nông nghiệp,

Vụ Lâm nghiệp, Vụ Ngư nghiệp, Sở Quốc doanh Nông nghiệp, Phòng Tổ chức cán

bộ, Trường Trung cấp Nông lâm trung ương và các đơn vị sản xuất, thực nghiệm trực

thuộc khác…

Trong các năm tiếp theo, các đơn vị thuộc Bộ tiếp tục được kiện toàn, đáng lưu ý là

việc tách Vụ Nông nghiệp và thành lập Vụ Trồng trọt năm 1956(4)

, thành lập Cục Lâm

nghiệp trên cơ sở hợp nhất Sở Quốc doanh Lâm khẩn và Vụ Lâm nghiệp năm 1958(5)

.

Cùng với sự thay đổi của các cơ quan hành chính, quản lý ngành, các đơn vị sự

nghiệp khoa học và đào tạo của Bộ cũng từng bước được kiện toàn. Năm 1957, Chính phủ

tách Viện Khảo cứu nông lâm để thành lập hai Viện: Viện Khảo cứu trồng trọt và Viện

Khảo cứu chăn nuôi(7)

.

Năm 1958, Bộ thành lập Học viện Nông lâm thuộc Bộ trên cơ sở thống nhất các đơn

vị: Trường Đại học nông lâm; Viện khảo cứu trồng trọt; Viện khảo cứu chăn nuôi và hai

phòng nghiên cứu lâm sinh và sử dụng gỗ thuộc Vụ Lâm nghiệp(8)

.

Để thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền giáo dục, năm 1956 Bộ đã thành lập Nhà

(1)

Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, tập II

(1955-1976), Sđd, tr. 22, 77. (2)

Chủ tịch là Hồ Chí Minh; thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao là Pham Văn Đồng. Dẫn trong Biên

niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, tập II (1955-1976) Sđd, tr. 357-358. (4)

Theo Nghị định số 10-NL-NĐ ngày 25 tháng 4 năm 1956 của Bộ Nông Lâm. (5)

Theo Quyết định 535-QĐ, ngày 20 tháng 11 năm 1958 của Bộ Nông Lâm (7)

Thủ tướng Chính phủ: Nghị định số 446-TTg ngày 1 tháng 10 năm 1957về bãi bỏ Viện Khảo cứu Nông

lâm, thành lập Viện Khảo cứu Trồng trọt và Viện Khảo cứu Chăn nuôi thuộc Bộ Nông lâm.

Thuvienphapluat.vn (8)

Bộ Nông lâm: Quyết định số 488-NL/QĐ ngày 20 tháng 10 năm 1958 về thành lập Học viện Nông lâm

trực thuộc Bộ Nông lâm. Thuvienphapluat.vn

Page 13: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

13

xuất bản Nông thôn(1)

. Sau đó, Bộ thành lập Nhà xuất bản và tạp chí Nông lâm trên cơ

sở tách Nhà xuất bản Nông thôn và Tòa soạn tạp chí Nông lâm ra khỏi Phòng Tuyên

truyền giáo dục(2)

.

Cùng với kiện toàn các cơ quan thuộc Bộ Nông lâm , Chính phủ còn thành lập Cục

phát triển sản xuất nông nghiệp trực thuộc Văn phòng Nông lâm - Thủy lợi tại Thủ tướng

phủ, nhằm tăng cường công tác chỉ đạo của Chính phủ đối với mặt trận nông nghiệp và

thủy lợi. Nhiệm vụ của Cục là “Nghiên cứu, chỉ đạo công tác phát triển những cơ sở sản

xuất nông nghiệp mới trên những đất đai có thể khai khẩn do chính quyền địa phương.

Quản lý, theo dõi công việc tổ chức sản xuất, vốn sản xuất do Nhà nước cho vay hoặc trợ

cấp cho những người đi sản xuất”(3)

.

Ở các địa phương, hệ thống cơ quan quản lý ngành cũng từng bước được kiện toàn.

Sau khi đổi tên thành Bộ Nông lâm tháng 2 năm 1955, tại các liên khu thành lập Khu

Nông lâm (đứng đầu là Giám đốc khu), ở các tỉnh thành lập Ty Nông lâm (đứng đầu là

Trưởng ty). Sau đó, từ năm 1957 Khu Nông lâm của các liên khu và Ty Nông lâm của hai

thành phố là Hà Nội và Hải Phòng đổi thành Sở Nông lâm (đứng đầu là Giám đốc sở). Ở

các tỉnh vẫn giữ nguyên là Ty Nông lâm.

Trong thời kỳ này, chức năng, nhiệm vụ của Bộ Nông lâm được Chính phủ điều

chỉnh, nhằm đảm bảo sự thống nhất quản lý nhà nước của ngành. Ngày 9 tháng 7 năm 1959,

Thủ tướng Chính phủ có Nghị định số 262-TTg về việc bàn giao công tác kiểm dịch thực

vật, động vật và các sản phẩm động vật xuất nhập khẩu từ Bộ Ngoại thương (trước đó là

Bộ Thương nghiệp) sang Bộ Nông lâm (4)

.

Bên cạnh đó, Chính phủ cũng có nhiều văn bản quy định sự phối kết hợp giữa Bộ

Nông lâm với các Bộ, ngành liên quan. Theo đề nghị của Bộ Nông lâm , quyền hạn, trách

nhiệm và nội dung phối hợp giữa các Bộ, ngành được Thủ tướng Chính phủ quy định tại

Chỉ thị số 366-TTg ngày 16 tháng 8 năm 1957 về công tác củng cố nông trường quốc

doanh; Nghị định số 410-TTg ngày 6 tháng 9 năm 1957 về việc ban hành “Mười chính

sách khuyến khích sản xuất ở miền núi”; Nghị định số 517-TTg ngày 29 tháng 10 năm 1957

về việc ban hành “Mười chính sách khuyến khích nghề đánh cá và nuôi cá”; Nghị định số

167-TTg ngày 31 tháng 3 năm 1958 về việc ban hành chính sách khuyến khích chăn nuôi

gia súc; Chỉ thị số 335-TTg ngày 8 tháng 9 năm 1959 về công tác lâm nghiệp…

Việc chuyển Bộ Canh nông thành Bộ Nông lâm từ năm 1955 để tập trung chỉ đạo

sản xuất nông, lâm nghiệp đã góp phần nhanh chóng khôi phục nền kinh tế ở miền Bắc.

(1)

Tại Nghị định số 60/NL-NĐ ngày 8 tháng 12 năm 1956 của Bộ Nông Lâm. (2)

Bộ Nông lâm: Quyết định số 363-NL/QĐ ngày 22 tháng 9 năm 1959 về thành lập Nhà xuất bản và tạp chí

Nông lâm thuộc Bộ Nông lâm. Thuvienphapluat.vn (3)

Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, tập II

(1955-1976), Sđd, tr. 233 (4)

Thủ tướng Chính phủ: Nghị định số 262-TTg ngày 9 tháng 7 năm 1959. Thuvienphapluat.vn

Page 14: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

14

Tuy nhiên, thời kỳ hoạt động của Bộ Nông lâm chỉ kéo dài trong vòng 5 năm, từ năm 1955

đến 1960, khi Chính phủ quyết định tách Bộ thành bốn cơ quan mới.

2. Thành lập Bộ Nông nghiệp, Bộ Nông trường quốc doanh, Tổng cục Lâm

nghiệp và Tổng cục Thủy sản năm 1960

Bước vào năm 1960, Chính phủ kiện toàn lại tổ chức theo quy định của Hiến pháp

năm 1959. Lúc này, miền Bắc bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm hậu

phương cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam. Ngành nông nghiệp được coi là mặt trận

hàng đầu, tổ chức của ngành cần được tăng cường để phát triển mạnh theo chiều sâu tất cả

các lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp.

Chính vì thế, tại kỳ họp cuối tháng 4 năm 1960, Hội đồng Chính phủ có Quyết nghị

tách Bộ Nông lâm thành bốn tổ chức: (1) Bộ Nông nghiệp, Bộ trưởng là ông Nghiêm

Xuân Yêm. Thứ trưởng là các ông Trương Viết Hùng, Phan Văn Chiêu; (2) Bộ Nông

trường, Bộ trưởng là ông Trần Hữu Dực; Thứ trưởng là các ông Nguyễn Quang Xá,

Nguyễn Văn Trí; (3) Tổng cục Lâm nghiệp, Tổng cục trưởng là ông Nguyễn Tạo và (4)

Tổng cục Thủy sản, Tổng cục trưởng là ông Lê Duy Trinh(1)

.

Việc thành lập bốn cơ quan này chính thức được Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa II

thông qua ngày 28 tháng 4 năm 1960, Quốc hội khóa II phê chuẩn tại kỳ họp thứ nhất

ngày 14 tháng 7 năm 1960, nằm trong số 18 Bộ, năm Ủy ban và Ngân hàng Nhà nước của

Hội đồng Chính phủ(2)

.

Từ tháng 7 năm 1960 đến tháng 6 năm 1976, Chính phủ Việt Nam trải qua ba nhiệm

kỳ: (7/1960-7/1964); (7/1964-6/1971) và (6/1971-6/1976). Đây cũng là khoảng thời gian

có nhiều biến động về tổ chức của các cơ quan quản lý ngành nông, lâm nghiệp và thủy

sản. Trong thời gian này, Bộ Nông nghiệp và Bộ Nông trường hoạt động cho đến năm 1971,

trước khi hợp nhất để thành lập Ủy ban Nông nghiệp Trung ương; Tổng cục Lâm nghiệp

và Tổng cục Thủy sản tiếp tục hoạt động cho đến năm 1976, trước khi được nâng lên thành

các Bộ Lâm nghiệp và Bộ Hải sản. Riêng ngành cao su được thành lập sau ngày giải phóng

Miền Nam năm 1975, sau khi các đơn vị cao su ở miền Bắc được tách ra khỏi Ủy ban

Nông nghiệp Trung ương.

3. Bộ Nông nghiệp giai đoạn 1960-1971

Có thể coi Nghị quyết của Hội đồng Chính phủ tại kỳ họp cuối tháng 4 năm 1960,

quyết định cơ cấu lại Bộ Nông lâm thành bốn tổ chức, là cột mốc ra đời Bộ Nông nghiệp.

(1)

Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, tập II

(1955-1976), Sđd, tr. 428-429. (2)

Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, tập II

(1955-1976), Sđd, tr. 442.

Page 15: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

15

Trong giai đoạn 11 năm từ 1960 đến 1971, lãnh đạo Bộ có nhiều thay đổi(1)

. Ông

Nghiêm Xuân Yêm là Bộ trưởng đầu tiên của Bộ Nông nghiệp và giữ cương vị này từ tháng 4

năm 1960 đến tháng 1 năm 1963. Sau đó, ông Dương Quốc Chính (nguyên Bộ trưởng Bộ

Thủy lợi và Điện lực trong thời gian trước tháng 1 năm 1963) được cử làm Bộ trưởng Bộ

Nông nghiệp từ tháng 1 năm 1963 đến tháng 4 năm 1965 thay cho ông Nghiêm Xuân Yêm

được chuyển sang giữ chức Bộ trưởng Bộ Nông trường. Trong nhiệm kỳ Chính phủ

(1964-1971), cương vị lãnh đạo Bộ Nông nghiệp tiếp tục thay đổi. Tháng 4 năm 1965, trong

phiên họp bất thường, theo đề nghị của Hội đồng Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội

khóa III đã cử ông Hoàng Anh giữ chức Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp, kiêm Chủ nhiệm Văn

phòng Nông nghiệp Phủ Thủ tướng thay ông Trần Hữu Dực. Ông Hoàng Anh làm Bộ trưởng

Bộ Nông nghiệp từ tháng 4 năm 1965 đến tháng 11 năm 1967. Tháng 11 năm 1967, Ủy ban

Thường vụ Quốc hội khóa III quyết định ông Hoàng Anh thôi kiêm chức Bộ trưởng Bộ

Nông nghiệp và cử ông Nguyễn Văn Lộc, Thứ trưởng lên thay và ông giữ chức Bộ trưởng

cho đến tháng 4 năm 1971, trước khi thành lập Ủy ban nông nghiệp Trung ương(2)

.

Ngay sau khi được Quốc hội khóa II tại kỳ họp thứ nhất ngày 14 và 15 tháng 7 năm 1960

thông qua Luật Tổ chức Hội đồng Chính phủ và bầu các chức vụ lãnh đạo Nhà nước,

Chính phủ, Bộ Nông nghiệp đã bắt tay vào kiện toàn tổ chức bộ máy, triển khai các nhiệm

vụ được giao.

Một trong những lĩnh vực được Bộ quan tâm tăng cường đầu tiên là khoa học kỹ

thuật và đào tạo nguồn nhân lực cho ngành. Ngày 23 tháng 7 năm 1960, Bộ có Quyết định

số 03-NN/QĐ về việc chuyển Trường bổ túc Trung cấp nông lâm Nghệ An thành Trường

trung cấp nông lâm Nghệ An để “bổ túc cán bộ sơ cấp nông lâm thành cán bộ trung cấp về

trồng trọt, chăn nuôi, thú y, lâm nghiệp”(3)

.

Trong hai ngày 1 và 4 tháng 8 năm 1960, Bộ Nông nghiệp có Quyết định số 06/NN-QĐ

và Quyết định số 07-NN/QĐ thành lập Trường Công nhân cơ khí nông nghiệp và Trường

bổ túc nghiệp vụ và văn hóa. Tuy nhiên, chỉ sau 6 tháng, ngày 31 tháng 03 năm 1961 Bộ

lại có Quyết định số 13-NN/QĐ sáp nhập hai trường trên thành Trường cơ khí và nghiệp

vụ thuộc Bộ(4)

.

Về hoạt động khoa học kỹ thuật, ngày 22 tháng 2 năm 1961, bằng Quyết định số

05-NN/QĐ, Bộ Nông nghiệp đã thành lập và ban hành Điều lệ của Hội đồng Khoa học kỹ

thuật của Bộ, do Bộ trưởng là Chủ tịch Hội đồng. Các Phó chủ tịch là các Thứ trưởng; các

(1)

Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, tập II

(1955-1976), Sđd, tr. 852, 920-921. (2)

Cổng thông tin điện tử Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Chính phủ qua các thời kỳ. (3)

Bộ Nông nghiệp: Quyết định số 03-NN/QĐ ngày 23 tháng 7 năm 1960. Thuvienphapluat.vn (4)

Bộ Nông nghiệp: Quyết định số 13-NN/QĐ ngày 31 tháng 3 năm 1961. Thuvienphapluat.vn

Page 16: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

16

ủy viên là Vụ trưởng và Vụ phó các Vụ; Thư ký hội đồng là Vụ trưởng Vụ kỹ thuật(1)

.

Trong khi chờ Chính phủ ban hành Nghị định về nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ

máy, Bộ Nông nghiệp đã ra Quyết định số 22-NN/QĐ ngày 22 tháng 12 năm 1960 quy

định tạm thời tổ chức các cơ quan thuộc Bộ. Những năm tiếp theo, các cơ quan đơn vị của

Bộ tiếp tục được kiện toàn theo yêu cầu nhiệm vụ mới, nhất là trong lĩnh vực quản lý

ruộng đất và vật tư nông nghiệp, phát triển cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp.

Lĩnh vực quản lý ruộng đất có nhiều phức tạp, được chuyển từ “ngành Địa chính của

Bộ Tài chính sang Bộ Nông nghiệp phụ trách và đổi tên là ngành Quản lý ruộng đất” vào

năm 1960(2)

. Trên cơ sở Sở Địa chính chuyển từ Bộ Tài chính sang, Chính phủ đã thành

lập Vụ Quản lý ruộng đất trực thuộc Bộ Nông nghiệp. Ngày 11 tháng 3 năm 1961, Bộ

Nông nghiệp và Bộ Nội vụ đã ra Thông tư liên Bộ số 01-TT/LB quy định tạm thời tổ chức

quản lý ruộng đất ở địa phương. Theo đó, ở các tỉnh có Phòng quản lý ruộng đất thì đưa

vào Ty Nông nghiệp, lập thành Phòng Quản lý ruộng đất thuộc Ty Nông nghiệp; ở các

khu, thành, tỉnh chưa có tổ chức quản lý ruộng đất, thì Ủy ban hành chính căn cứ vào tình

hình thực tế của địa phương và khả năng cán bộ mà quyết định thành lập Phòng hoặc bộ

phận quản lý ruộng đất trong Khu, Sở, Ty Nông nghiệp. Ở các huyện công tác quản lý

ruộng đất giao cho Phòng Nông nghiệp huyện, ở những huyện chưa có bộ phận quản lý

ruộng đất thì phân công cán bộ phụ trách quản lý ruộng đất, đặt trong Phòng Nông nghiệp

huyện(3)

. Ngay sau đó, ngày 16 tháng 3 năm 1961 Bộ Nông nghiệp có Chỉ thị số 16-NN/CT

quy định về nhiệm vụ công tác quản lý ruộng đất ở địa phương, trong đó quy định rõ

nhiệm vụ của các cơ quan quản lý ruộng đất từ Trung ương đến các khu tự trị, thành phố,

châu, huyện và xã.

Để kiện toàn tổ chức, năm 1966 Vụ Quản lý ruộng đất được tách ra thành Cục Điều

tra, đo đạc bản đồ đất và Vụ Quản lý ruộng đất. Tuy nhiên, đến ngày 9 tháng 12 năm

1968, thực hiện Nghị định số 24/CP của Hội đồng Chính phủ quy định tổ chức bộ máy Bộ

Nông nghiệp, hai đơn vị nêu trên lại được sáp nhập thành Vụ Quản lý ruộng đất và quy

hoạch vùng sản xuất nông nghiệp. Nhiệm vụ quản lý ruộng đất do Bộ Nông nghiệp trực

tiếp thực hiện đến năm 1971. Từ năm 1971 đến năm 1976 hệ thống cơ quan quản lý ruộng

đất trực thuộc Ủy ban Nông nghiệp Trung ương.

Trong lĩnh vực quản lý phân bón, giống, vật tư nông nghiệp, ngày 26 tháng 9 năm 1961,

Bộ có Quyết định số 30-NN/QĐ về việc tách Vụ phân bón, giống, bảo vệ thực vật thành

hai Cục: Cục Bảo vệ và kiểm dịch thực vật và Cục giống và phân bón.

Để hỗ trợ nông dân tăng cường cơ giới hóa nông nghiệp, tháng 10 năm 1960, Bộ

Nông nghiệp quyết định thành lập 04 Đội máy nông nghiệp ở bốn tỉnh Hà Nam, Bắc Ninh,

(1)

Bộ Nông nghiệp: Quyết định số 05-NN/QĐ ngày 22 tháng 2 năm 1961. Thuvienphapluat.vn (2)

Theo Nghị định số 70/CP và 71/CP ngày 9 tháng 12 năm 1960 của Thủ tướng Chính phủ. (3)

Bộ Nông nghiệp, Bộ Nội vụ: Thông tư liên Bộ số 01-TT/LB ngày 11 tháng 3 năm 1961. Thuvienphapluat.vn

Page 17: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

17

Kiến An, Vĩnh Phúc. Sau này, khi các Đội máy nông nghiệp được thành lập ở hầu hết các

tỉnh, Thủ tướng Chính phủ ban hành quy định về tổ chức và quản lý các Đội máy nông

nghiệp (Quy chế ngày 5 tháng 12 năm 1961)(1)

.

Ngày 5 tháng 10 năm 1961, Hội đồng Chính phủ có Nghị định 152-CP quy định

nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Nông nghiệp. Theo đó, Bộ Nông nghiệp là

cơ quan của Hội đồng Chính phủ có trách nhiệm quản lý công tác nông nghiệp trong sản

xuất thuộc sở hữu tập thể của nông dân lao động theo đường lối chính sách của Đảng và

nhà nước, nhằm phát triển nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc để thoả mãn nhu

cầu về lương thực, thực phẩm cho nhân dân, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp và sản

xuất nông nghiệp cho xuất khẩu, tiến lên xây dựng một nền nông nghiệp hiện đại và một

nền khoa học kỹ thuật nông nghiệp tiên tiến.

Nhiệm vụ và quyền hạn chính của Bộ Nông nghiệp là: (1) Nghiên cứu, trình Hội

đồng Chính phủ ban hành chính sách, chiến lược, kế hoạch phát triển nông nghiệp và tổ

chức thực hiện sau khi được phê chuẩn; (2) Tổ chức và chỉ đạo sản xuất nông nghiệp; kỹ

thuật về trồng trọt, chăn nuôi, thú y; cơ giới hóa nông nghiệp và quản lý thống nhất công

tác sự nghiệp của ngành; (3) Tổ chức và chỉ đạo công tác nghiên cứu khoa học, kỹ thuật về

trồng trọt, chăn nuôi, cơ khí nông nghiệp; phối hợp với Tổng cục Lâm nghiệp, Tổng cục

Thủy sản tiến hành nghiên cứu khoa học, kỹ thuật về lâm nghiệp và thủy sản; (4) Xây dựng

cơ sở hạ tầng, tiềm lực cho một nền khoa học, kỹ thuật nông nghiệp tiên tiến; (5) Chỉ đạo

công tác nghiệp vụ về tổ chức quản lý hợp tác xã nông nghiệp; (6) Quản lý thống nhất việc

khai hoang, cải tạo đồng ruộng, đất nông nghiệp để sử dụng hợp lý tài nguyên phục vụ phát

triển sản xuất; (7) Đào tạo và chỉ đạo công tác đào tạo cán bộ khoa học, kỹ thuật, cán bộ

quản lý hợp tác xã nông nghiệp, thủy sản, lâm nghiệp…

Để thực hiện các nhiệm vụ trên, tổ chức bộ máy của Bộ Nông nghiệp gồm: Văn

phòng Bộ; 09 Vụ (Tổ chức cán bộ; Tuyên giáo; Kế hoạch; Tài vụ, kiến thiết, vật tư; Khoa

học kỹ thuật; Quản lý ruộng đất; Hợp tác xã nông nghiệp; Trồng trọt; Chăn nuôi); 03 Cục

(Bảo vệ và kiểm dịch thực vật; Cục giống và phân bón; Nông cụ và cơ khí nông nghiệp).

Ngoài ra còn có Ban Thanh tra, Học viện Nông lâm và các đơn vị sự nghiệp, xí nghiệp do

Bộ quản lý(2)

.

Để phát triển sản xuất, Bộ chủ trương sớm kiện toàn công tác kiểm dịch thực vật và

động vật và ban hành Quyết định số 39-NN/QĐ ngày 16 tháng 12 năm 1961 thành lập các

Phòng kiểm dịch thực vật và Quyết định số 22-NN/QĐ ngày 24 tháng 5 năm 1962 thành

lập các Trạm kiểm dịch động vật tại các tỉnh ở 7 trên toàn miền Bắc (Hà Nội; Hải Phòng;

(1)

Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, tập II

(1955-1976), Sđd, tr. 465, 582. (2)

Hội đồng Chính phủ: Nghị định số 152-CP ngày 5 tháng 10 năm 1961. Thuvienphapluat.vn

Page 18: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

18

Lạng Sơn; Lào Cai; Nghệ An; Khu Thái Mèo…)(1)

.

Để phát triển chăn nuôi, Bộ ra Chỉ thị số 20-NN-CT ngày 31 tháng 10 năm 1962 về

chấn chỉnh và xây dựng Trạm truyền giống gia súc bằng thụ tinh nhân tạo, để đến năm

1965 toàn miền Bắc có 32 trạm, 172 phân trạm và tổ chức màng lưới thụ tinh viên; mỗi

tỉnh Trung du và Đồng bằng có một trung tâm thụ tinh nhân tạo… Để phát triển ngành

nghề, Chính phủ còn cho thành lập Cục Dâu tằm, ra chỉ thị về nuôi ong mật…

Ngoài các nhiệm vụ của Bộ Nông nghiệp được quy định tại Nghị định 152-CP

năm 1961, ngày 8 tháng 9 năm 1962 Hội đồng Chính phủ ra Quyết định chuyển giao toàn

bộ hệ thống tổ chức kinh doanh tư liệu phục vụ nông nghiệp từ Trung ương đến địa

phương về trâu bò, phân bón từ ngành Nội thương sang ngành Nông nghiệp(2)

.

Kế thừa hệ thống cơ quan quản lý ngành ở địa phương, Bộ Nông nghiệp cùng Bộ Nội

vụ có Thông tư Liên Bộ số 01-TT/LB ngày 10 tháng 3 năm 1962 quy định nhiệm vụ,

quyền hạn và kiện toàn tổ chức bộ máy của các Ty Nông nghiệp một cách chặt chẽ hơn.

Ngoài các phòng chuyên môn, các Ty còn có các cơ sở sự nghiệp do Ty quản lý, như

Trường trung cấp nông nghiệp; Trường sơ cấp nông nghiệp; Trại thí nghiệm chuyên khoa;

Trạm truyền giống gia súc; Trạm dự tính, dự báo sâu bệnh; Trại tằm; Kho giống; Trạm kỹ

thuật; Đội máy nông nghiệp… Tổ chức nông nghiệp ở các Khu tự trị Thái - Mèo, Khu tự

trị Việt Bắc (trừ các tỉnh trong khu Việt Bắc), các thành phố Hà Nội, Hải Phòng và Vĩnh

Linh được quy định riêng.

Không lâu sau khi ban hành Thông tư này, Thủ tướng Chính phủ có Chỉ thị số 74-TTg

ngày 13 tháng 7 năm 1962 về cải tiến tổ chức, tinh giản bộ máy tại các Ty, Sở Nông

nghiệp, hướng tới bỏ cấp phòng trong các Sở, Ty; đồng thời sắp xếp lại tổ chức cấp huyện

cho gọn, phù hợp với yêu cầu chỉ đạo sản xuất nông nghiệp.

Lĩnh vực nghiên cứu khoa học và đào tạo của ngành cũng tiếp tục được tăng cường.

Ngày 9 tháng 10 năm 1961, Thủ tướng có Chỉ thị số 398/TTg về việc đẩy mạnh công tác

đào tạo cán bộ kỹ thuật của các ngành nông, lâm, thủy sản. Ngày 4 tháng 2 năm 1963, Bộ

Nông nghiệp có Quyết định số 01-NN-QĐ về việc tách Học viện Nông lâm thành hai đơn

vị thuộc Bộ là Trường Đại học Nông nghiệp và Viện Khoa học Nông nghiệp. Sau đó

bằng các quyết định riêng Bộ quy định nhiệm vụ quyền hạn và tổ chức bộ máy của hai

đơn vị này(3)

.

Theo đề nghị của Bộ Nông nghiệp, tại Quyết định số 124-CP ngày 14 tháng 8 năm 1967,

Chính phủ thành lập Trường Đại học Nông nghiệp II trên cơ sở nâng cấp Trường Trung

(1)

Bộ Nông nghiệp: Quyết định số 39-NN/QĐ ngày 16 tháng 12 năm 1961 và Quyết định số 22-NN/QĐ ngày 24

tháng 5 năm 1962. Thuvienphapluat.vn (2)

Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, tập II

(1955-1976), Sđd, tr. 661. (3)

Bộ Nông nghiệp: Quyết định số 01-NN-QĐ ngày 4 tháng 2 năm 1963. Thuvienphapluat.vn

Page 19: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

19

học kỹ thuật Nông nghiệp Trung ương, cùng với đó là đổi tên Trường Đại học Nông

nghiệp thành Trường Đại học Nông nghiệp I(1)

.

Để đáp ứng nhu cầu cán bộ người dân tộc có trình độ đại học phục vụ sự nghiệp xây

dựng và phát triển kinh tế, văn hóa ở miền núi, theo đề nghị của Bộ Đại học và Trung học

chuyên nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Ủy ban hành chính khu tự trị Việt-Bắc, Thủ tướng

Chính phủ đã cho thành lập Trường Đại học Kỹ thuật miền núi tại Quyết định số 98-TTg/VG

ngày 19 tháng 9 năm 1967. Sau này, đến tháng 2 năm 1971, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết

định số 56/TTg về việc thành lập Trường Đại học Nông lâm miền núi, đặt ở Khu tự trị Việt

Bắc, do Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp trực tiếp quản lý.

Cùng với việc thành lập các trường đại học và trung học, Chính phủ còn quan tâm

đến công tác dạy nghề, đào tạo công nhân kỹ thuật phục vụ ngành nông nghiệp. Ngày 10

tháng 3 năm 1970, Chính phủ ra Nghị quyết số 42-CP về tăng cường công tác đào tạo và

bồi dưỡng công nhân kỹ thuật, yêu cầu chú trọng đào tạo công nhân kỹ thuật cho các

ngành nông nghiệp, nghề cá, nghề rừng(2)

.

4. Bộ Nông trường giai đoạn 1960-1971

Cùng với sự ra đời của Bộ Nông nghiệp, Bộ Nông trường được thành lập từ tháng 4

năm 1960 theo Nghị quyết của Hội đồng Chính phủ và sự phê duyệt của Quốc hội khóa II,

kỳ họp thứ nhất trong các ngày 14 và 15 tháng 7 năm 1960. Đó là nhu cầu tất yếu tăng

cường công tác quản lý nhà nước đối với một loại hình tổ chức sản xuất nông nghiệp mới

của nước ta.

Sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc năm 1954, các nông trường quốc doanh có bước

phát triển mạnh mẽ, nhất là qua hai kế hoạch ba năm: ba năm khôi phục kinh tế (1955-1957)

và ba năm phát triển và cải tạo kinh tế (1958-1960). Ở giai đoạn khôi phục kinh tế, hàn gắn

vết thương chiến tranh, các doanh điền trong kháng chiến được tổ chức lại thành các nông

trường quốc doanh. Chính phủ cũng thành lập mới một số nông trường. Đến giữa năm 1957,

miền Bắc có 16 nông trường quốc doanh, quản lý 54.240 hécta, trong đó đất đã khai hoang

và trồng trọt 6.044 hécta với 8.523 công nhân, cán bộ và 371 máy móc các loại. Đây có thể

coi là cơ sở kinh doanh nông nghiệp đầu tiên của Nhà nước, đặt dưới sự quản lý trực tiếp

của Bộ Nông lâm và Sở Quốc Doanh nông nghiệp(3)

.

Từ năm 1958 đến 1960, cải tạo xã hội chủ nghĩa, xây dựng và củng cố quan hệ sản

xuất mới trong nông nghiệp là đường lối xuyên suốt của Đảng với nhiệm vụ quan trọng là

đẩy mạnh xây dựng các nông trường và đưa nông dân vào các hợp tác xã. Thực hiện đường

(1)

Hội đồng Chính phủ: Quyết định số 124-CP ngày 14 tháng 8 năm 1967. Thuvienphapluat.vn (2)

Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, tập II

(1955-1976), Sđd, tr. 993, 1031, 1096. (3)

Phủ Thủ tướng: Chỉ thị số 366-TTg ngày 16 tháng 8 năm 1957 về công tác củng cố nông trường quốc

doanh. Thuvienphapluat.vn

Page 20: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

20

lối đó, nhiều đơn vị quân đội chuyển ra sản xuất, thành lập các nông trường quân đội; hàng

vạn cán bộ, đồng bào miền Nam tập kết tự nguyện đi vùng kinh tế mới. Để tổ chức chỉ đạo

lực lượng nông trường của quân đội, Bộ Quốc phòng cho thành lập Cục Nông binh thuộc

Tổng cục Hậu cần. Với quyết tâm chính trị lớn, kết hợp với bản chất Anh bộ đội Cụ Hồ,

chỉ sau ba năm (1958-1960), các nông trường quân đội đã khai hoang đồi rừng, quai đê lấn

biển, có hàng vạn héc ta đất đai để sản xuất.

Cùng với lực lượng quân đội, quá trình khai hoang thành lập nông trường mới cũng

được đẩy nhanh. Trong các năm 1957-1960 ở miền Bắc đã thành lập được 36 nông trường

mới và chín liên đoàn sản xuất của cán bộ miền Nam tập kết dưới tên gọi là tập đoàn sản

xuất miền Nam.

Từ năm 1960 đến 1971, sự phát triển các nông trường quốc doanh được thống nhất

chỉ đạo của Bộ Nông trường. Đầu tháng 10 năm 1960, Chính phủ triệu tập Hội nghị

ngành nông trường lần thứ nhất, quyết định hợp nhất ba lực lượng: Nông trường quân

đội, Liên đoàn sản xuất miền Nam và các doanh điền thời kỳ kháng chiến chống Pháp,

giao Bộ Nông trường thống nhất quản lý. Lúc này, miền Bắc đã có hơn 60 nông trường

quốc doanh với 24.000 ha đất canh tác. Quy mô nông trường thời kỳ này phần lớn còn

nhỏ bé với bình quân khoảng 400 ha đất(1)

. Ngày 14 tháng 12 năm 1960, Thủ tướng ra

Chỉ thị số 316-TTg chuyển các tập đoàn sản xuất miền Nam thành xí nghiệp quốc doanh,

nông trường quốc doanh(2)

.

Sau khi thành lập Bộ Nông trường, các nông trường phân thành hai khối: Nông

trường trung ương do Bộ Nông trường trực tiếp chỉ đạo và các nông trường địa phương do

Ủy ban nhân dân các tỉnh quản lý. Hầu hết các tỉnh, thành phố ở miền Bắc đều có nông

trường địa phương.

Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, hầu hết các nông trường địa phương làm ăn đều

thua lỗ, do vậy Chính phủ quyết định dừng việc thành lập nông trường địa phương, để địa

phương tập trung lãnh đạo các hợp tác xã nông nghiệp. Một số nông trường địa phương

làm ăn có hiệu quả thì chuyển thành nông trường quốc doanh, giao Bộ Nông trường quản

lý. Đưa những nông trường nhỏ thành các hợp tác xã nông nghiệp cấp cao, hoặc sáp nhập

vào nông trường quốc doanh(3)

.

Hầu hết các nông trường đều nằm ở vùng trung du, miền núi và ven biển, trên các địa

bàn chiến lược trọng yếu về an ninh quốc phòng, gắn với các vùng kinh tế quan trọng. Các

nông trường quốc doanh thời kỳ này có vai trò quan trọng đối với kinh tế nông nghiệp nói

(1)

Công đoàn Nông trường quốc doanh Việt Nam: Báo cáo tổng kết tình hình phong trào công đoàn 1961 - 1965

tại Đại hội Công đoàn Nông trường Quốc doanh Việt Nam lần thứ I, từ 25-27/6/1964, tr. 1. Tài liệu lưu trữ

tại Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. (2)

Công báo số 54, 1960, tr. 821 - 822. (3)

Công báo số 21, 1962, tr. 329.

Page 21: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

21

riêng và kinh tế miền Bắc nói chung, có nhiệm vụ mở mang vùng kinh tế mới ở trung du

và miền núi, sản xuất theo quy mô hàng hóa lớn, cung cấp một số sản phẩm, đặc biệt là cây

công nghiệp nhiệt đới, cây ăn quả, cây công nghiệp ngắn ngày và cây lương thực để đảm

bảo yêu cầu trong nước và hợp tác quốc tế... Đồng thời các nông trường đẩy mạnh chăn

nuôi đại và tiểu gia súc với quy mô lớn, phát triển nhiều gia cầm và nuôi cá, đảm bảo cung

cấp một phần quan trọng yêu cầu trong nước và xuất khẩu về thịt, sữa, trứng... Bên cạnh

đó, các nông trường quốc doanh còn có nhiệm vụ giúp đỡ các hợp tác xã; đi đầu trong áp

dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến, cơ giới hóa, tổ chức sản xuất hợp lý(1)

.

Bộ Nông trường có trụ sở tại số 6 Nguyễn Công Trứ, Hà Nội. Trong 11 năm hoạt

động (từ tháng 4 năm 1960 đến tháng 4 năm 1971), nhân sự lãnh đạo Bộ Nông trường ít

thay đổi hơn so với Bộ Nông nghiệp. Bộ trưởng đầu tiên là ông Trần Hữu Dực (hai Thứ

trưởng là các ông Nguyễn Quang Xá, Nguyễn Văn Trí)(2)

. Đến tháng 1 năm 1963, ông

Nghiêm Xuân Yêm (nguyên là Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp) được cử làm Bộ trưởng Bộ

Nông trường và giữ cương vị này cho đến tháng 4 năm 1971, trước khi Bộ được hợp nhất

về tổ chức để thành lập Ủy ban Nông nghiệp Trung ương(3)

.

Ngày 29 tháng 9 năm 1961, Hội đồng Chính phủ có Nghị định số 134-CP quy định

nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Nông trường. Theo đó, Bộ Nông trường là

cơ quan của Hội đồng Chính phủ có trách nhiệm quản lý công tác nông trường quốc doanh

theo đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; xây dựng và phát triển nông trường

quốc doanh do Bộ quản lý; chỉ đạo việc xây dựng và phát triển nông trường quốc doanh do

địa phương quản lý, xây dựng kế hoạch khai hoang nhân dân và chỉ đạo các địa phương

thực hiện kế hoạch ấy. Các công tác trên nhằm: cung cấp nông sản và tích lũy vốn cho Nhà

nước, làm gương mẫu cho các hợp tác xã nông nghiệp, góp phần phát triển sản xuất nông

nghiệp và củng cố hậu phương.

Để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được giao, tổ chức của Bộ Nông trường có

Văn phòng, Ban Thanh tra, 03 Vụ (Vụ Tổ chức cán bộ; Vụ Kế hoạch tài vụ; Vụ Kiến thiết

cơ bản) và 07 Cục (Cục Kiến thiết cơ bản; Cục Cung tiêu; Cục Quy hoạch; Cục Khai

hoang nhân dân; Cục Sản xuất nông nghiệp; Cục Chăn nuôi; Cục Cơ khí). Ngoài ra còn có

các đơn vị sự nghiệp, xí nghiệp(4)

.

Ban đầu, nhiệm vụ khai hoang được giao cho Cục Khai hoang nhân dân thuộc Bộ

Nông trường. Do yêu cầu cần tăng cường chỉ đạo của Chính phủ đối với công tác này,

ngày 20 tháng 2 năm 1963 Hội đồng Chính phủ có Quyết định số 16-CP về việc tách Cục

(1)

Công đoàn Nông trường quốc doanh Việt Nam: Báo cáo tổng kết tình hình phong trào công đoàn 1961 - 1963

tại Đại hội Công đoàn Nông trường Quốc doanh Việt Nam lần thứ I, từ 25-27/6/1964. Tài liệu lưu trữ tại

Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. (2)

Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, tập II

(1955-1976), Sđd, tr. 428-429. (3)

Cổng thông tin điện tử Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Chính phủ qua các thời kỳ. (4)

Hội đồng Chính phủ: Nghị định số 134-CP ngày 29 tháng 9 năm 1961. Thuvienphapluat.vn

Page 22: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

22

Khai hoang nhân dân ra khỏi Bộ Nông trường và thành lập Tổng cục Khai hoang trực

thuộc Hội đồng Chính phủ(1)

. Ngày 21 tháng 2 năm 1963, Hội đồng Chính phủ có Nghị

định số 17-CP quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Khai hoang.

Ngay sau đó, ngày 7 tháng 3 năm 1963, Tổng cục Khai hoang cùng với Bộ Nội vụ có

Thông tư liên Bộ số 01-TT-LB quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy khai

hoang của địa phương. Theo đó, Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố thành lập Ty Khai

hoang hoặc Phòng Khai hoang trực thuộc Ủy ban hành chính. Công tác khai hoang ở cấp

huyện, cấp xã do Ủy ban hành chính huyện, xã chịu trách nhiệm(2)

. Tuy nhiên, Tổng cục

Khai hoang chỉ hoạt động trong vòng ba năm. Đến ngày 15 tháng 9 năm 1966, theo đề nghị

của Hội đồng Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa III đã ra Quyết định phê chuẩn

việc giải thể Tổng cục Khai hoang(3)

.

Nhìn lại quá trình hình thành và phát triển các nông trường ở Việt Nam thấy nổi rõ

một chặng đường rất đặc biệt hơn mười năm, từ 1960 đến 1971, các nông trường quốc

doanh được đặt vào vị trí trung tâm của đường lối cải tạo xã hội chủ nghĩa ngành nông

nghiệp theo hướng tiến lên công nghiệp hóa, được giao nhiệm vụ nòng cốt, tiến công trực

diện trên mặt trận cải tạo cách làm ăn vốn còn manh mún, thủ công và lạc hậu, năng suất

thấp của nông thôn Việt Nam.

5. Ủy ban Nông nghiệp Trung ương giai đoạn 1971-1976

Ngày 1 tháng 4 năm 1971, theo đề nghị của Hội đồng Chính phủ, Ủy ban Thường vụ

Quốc hội khóa III phê chuẩn việc thành lập Ủy ban Nông nghiệp Trung ương trên cơ sở

hợp nhất Bộ Nông nghiệp, Bộ Nông trường và Ban Quản lý hợp tác xã sản xuất nông

nghiệp(4)

. Đây là mô hình tổ chức quản lý ngành khá đặc biệt so với các thời kỳ trước. Việc

chuyển từ Bộ sang Ủy ban, hợp nhất nhiều Bộ, ngành vào một tổ chức được thực hiện theo

chủ trương tăng cường quản lý nhà nước đối với nông nghiệp rộng lớn. Cơ chế Ủy ban

cho phép đẩy mạnh sự phối kết hợp giữa các bộ ngành có liên quan đến nông nghiệp, nông

dân, nông thôn dưới sự chỉ đạo chủ động của Ủy ban, mà trong thành phần Ủy ban có đầy

đủ đại diện của các bộ ngành đó. Ủy ban Nông nghiệp Trung ương là cơ quan của Hội

đồng Chính phủ, chịu trách nhiệm về toàn bộ phong trào sản xuất nông nghiệp theo đúng

đường lối, chính sách và chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đưa nông nghiệp

phát triển theo hướng toàn diện thâm canh, chuyên canh, sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, tạo

nhiều nông sản hàng hóa để đảm bảo nhu cầu của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước và đời

sống nhân dân, nguyên liệu cho công nghiệp, nông sản để xuất khẩu. Để làm những việc

(1)

Hội đồng Chính phủ: Quyết định số 16-CP ngày 20 tháng 2 năm 1963. Thuvienphapluat.vn (2)

Bộ Nội vụ, Tổng cục Khai hoang: Thông tư số 01-TT-LB ngày 7 tháng 3 năm 1963. Thuvienphapluat.vn (3)

Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, tập II

(1955-1976), Sđd, tr. 895 (4)

Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, tập II

(1955-1976), Sđd, tr. 1101, 1115

Page 23: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

23

trên đây phải ra sức quản lý một cách có hiệu quả và tiết kiệm mọi năng lực sản xuất (đất

đai, nhân lực, vật tư…), phải ra sức cải tiến quản lý hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, đảm

bảo quyền làm chủ của xã viên tăng cường các cơ sở quốc doanh, đẩy mạnh việc xây dựng

cơ sở vật chất và kỹ thuật trong nông nghiệp(1)

.

Thành phần của Ủy ban Nông nghiệp Trung ương được Hội đồng Chính phủ quyết

định bao gồm Chủ nhiệm Ủy ban là Phó Thủ tướng Hoàng Anh kiêm chức; Các Phó Chủ

nhiệm thường trực là Bộ trưởng Nghiêm Xuân Yêm và Bộ trưởng Nguyễn Văn Lộc; Các

Phó Chủ nhiệm kiêm nhiệm là Bộ trưởng Bộ Thủy lợi Hà Kế Tấn, Chủ nhiệm Ủy ban Dân

tộc Trung ương Lê Quảng Ba, Bộ trưởng Bộ Lương thực và Thực phẩm Ngô Minh Loan,

Tổng cục Trưởng Tổng cục Lâm nghiệp Nguyễn Tạo. Các ủy viên Ủy ban gồm 11 người

đại diện cho nhiều Bộ, ngành là các ông: Nguyễn Chương, Hoàng Bá Sơn, Chu Văn Biên,

Lê Trung Đình, Nguyễn Xuân Tại, Lê Duy Trinh, Phan Văn Chiêu, Vũ Thơ, Trần Quốc

Mạnh, Ngô Duy Đông và Nguyễn Cao Đàm(2)

.

Đội ngũ lãnh đạo Ủy ban Nông nghiệp Trung ương trong thành phần Chính phủ

nhiệm kỳ (1971-1975) được Quốc hội khóa IV chuẩn y tại kỳ họp thứ nhất từ ngày 7 đến

ngày 10 tháng 6 năm 1971. Phó Thủ tướng Hoàng Anh chỉ kiêm chức Chủ nhiệm Ủy ban

đến tháng 4 năm 1974, sau đó chức vụ này được giao cho ông Võ Thúc Đồng đảm trách

Đến tháng 11 năm 1974, ông Võ Thúc Đồng chính thức được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm Ủy

ban Nông nghiệp Trung ương. Ông Nguyễn Văn Lộc giữ chức Bộ trưởng, Phó Chủ nhiệm

Ủy ban đến tháng 3 năm 1974, sau đó chỉ còn một Phó Chủ nhiệm thường trực là Bộ

trưởng Nghiêm Xuân Yêm.

Ngày 6 tháng 6 năm 1975, tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa V, Quốc hội đã bầu

Hội đồng Chính phủ nhiệm kỳ 1975 - 1976, theo đó ông Võ Thúc Đồng tiếp tục được cử

giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban Nông nghiệp Trung ương; các ông Nghiêm Xuân Yêm và Ngô

Minh Loan được cử giữ chức Bộ trưởng, Phó Chủ nhiệm Thường trực(3)

. Ủy ban Nông

nghiệp Trung ương tiếp tục tồn tại đến hết nhiệm kỳ V, khi Quốc hội cả nước khóa VI

thành lập Chính phủ mới vào tháng 7 năm 1976.

Theo Nghị định số 234-CP ngày 18 tháng 12 năm 1971 của Hội đồng Chính phủ, tổ

chức bộ máy của Ủy ban Nông nghiệp Trung ương gồm Văn phòng Ủy ban, 07 Vụ (Kinh

tế kế hoạch; Kế toán-tài vụ; Tổ chức cán bộ; Tuyên giáo; Quản lý ruộng đất; Lao động

nông nghiệp và lao động tiền lương; Khoa học kỹ thuật); 05 Ban (Thanh tra; Phân vùng và

quy hoạch nông nghiệp; Quản lý hợp tác xã sản xuất nông nghiệp; Quản lý nông trường

quốc doanh; Kinh tế nông nghiệp miền núi và vùng kinh tế mới); 10 Cục (Cây lương thực

(1)

Hội đồng Chính phủ: Nghị định số 234-CP ngày 18 tháng 12 năm 1971 quy định chức năng và tổ chức bộ

máy của Ủy ban Nông nghiệp Trung ương. Công báo số 12A-1971. (2)

Hội đồng Chính phủ: Quyết định số 67-CP ngày 23 tháng 4 năm 1971. Trung tâm Lưu trữ quốc gia III. (3)

Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, tập II (1955-1976), Sđd,

tr. 449.

Page 24: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

24

và thực phẩm; Cây công nghiệp, cây ăn quả và cây làm thuốc; Chăn nuôi gia súc lớn; Chăn

nuôi gia súc nhỏ; Nuôi cá nước ngọt; Dâu tằm; Chế biến nông sản; Thủy nông; Công cụ và

cơ giới nông nghiệp; xây dựng); 01 Tổng công ty (Vật tư nông nghiệp); 08 Viện (Khoa học

nông nghiệp; Cây lương thực và cây thực phẩm; Cây công nghiệp, cây ăn quả và cây làm

thuốc; Thổ nhưỡng, nông hóa; Chăn nuôi; Thú y; Bảo vệ thực vật; Công cụ và cơ giới hóa

nông nghiệp); Các Trường đại học Nông nghiệp I, II, III; Các trường nghiệp vụ, trung cấp

thực hành, đào tạo công nhân kỹ thuật; Học viện kinh tế nông nghiệp(1)

.

Bộ máy quản lý nông nghiệp ở địa phương cũng được kiện toàn theo mô hình tổ

chức thống nhất từ Ủy ban, các Sở, Ty Nông nghiệp được chuyển thành Ủy ban Nông

nghiệp tỉnh, thành phố. Ở cấp huyện, các Phòng Nông nghiệp chuyển thành Ủy ban Nông

nghiệp huyện. Tùy theo tình hình sản xuất nông, lâm nghiệp ở huyện, mà ở các tỉnh trung

du, miền núi thành lập Ủy ban Nông nghiệp, Lâm nghiệp huyện, gọi tắt là Ủy ban Nông,

lâm nghiệp huyện.

Về mô hình tổ chức, thực hiện nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành với quản lý

theo lãnh thổ trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, các Ủy ban Nông nghiệp địa

phương vừa thuộc Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp, vừa thuộc Ủy ban

Nông nghiệp Trung ương. Ủy ban Nông nghiệp Trung ương chỉ đạo, hướng dẫn, giúp đỡ

và có quyền ra chỉ thị cho Ủy ban Nông nghiệp cấp tỉnh thực hiện nhiệm vụ. Ủy ban Nông

nghiệp tỉnh được Ủy ban Hành chính tỉnh chỉ đạo toàn diện các hoạt động quản lý ngành

theo sự hướng dẫn, chỉ đạo của Ủy ban Nông nghiệp trung ương(2)

.

Đối với cấp huyện, Ủy ban nông, lâm nghiệp huyện chịu sự chỉ đạo của Ủy ban hành

chính huyện, Ủy ban Nông nghiệp tỉnh, Ty lâm nghiệp tỉnh. Bộ máy của Ủy ban nông, lâm

nghiệp huyện tổ chức gọn nhẹ(3)

.

Ủy ban Nông nghiệp Trung ương tiếp nhận nhiệm vụ và hệ thống tổ chức quản lý

ruộng đất từ Bộ Nông nghiệp cũ. Để tăng cường công tác quản lý ruộng đất, ngày 28 tháng

6 năm 1971 Hội đồng Chính phủ đã ra Nghị quyết số 125-CP, theo đó, năm 1972, Ủy ban

Nông nghiệp Trung ương đã tách Vụ Quản lý ruộng đất và quy hoạch vùng sản xuất nông

nghiệp thành ba cơ quan là Vụ Quản lý ruộng đất, Ban Phân vùng và quy hoạch nông

nghiệp và Viện Thổ nhưỡng nông hóa.

Tại kỳ họp đầu tiên của Quốc hội thống nhất (từ 24 tháng 6 đến 4 tháng 7 năm 1976),

Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhiệm kỳ 1976-1981 được bầu gồm

(1)

Hội đồng Chính phủ: Nghị định số 234-CP ngày 18 tháng 12 năm 1971 quy định chức năng và tổ chức bộ

máy của Ủy ban Nông nghiệp Trung ương. Công báo số 12A-1971 (2)

Hội đồng Chính phủ: Nghị định số 24-CP ngày 2 tháng 2 năm 1976 ban hành quy định về nhiệm vụ, quyền

hạn và trách nhiệm của chính quyền nhà nước cấp tỉnh trong lĩnh vực quản lý kinh tế. Thuvienphapluat.vn (3)

Hội đồng Chính phủ: Nghị quyết số 61-CP ngày 5 tháng 4 năm 1976 về tổ chức lại sản xuất, cải tiến một

bước quản lý nông nghiệp, lâm nghiệp từ cơ sở. Thuvienphapluat.vn

Page 25: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

25

39 thành viên, trong đó Ủy ban Nông nghiệp Trung ương được đổi thành Bộ Nông nghiệp

và thành lập các Bộ mới: Bộ Lâm nghiệp, Bộ Hải sản. Các Bộ cũ như Thủy lợi (thành lập

năm 1962), Lương thực và Thực phẩm (thành lập năm 1969) được giữ nguyên.

6. Tổng cục Lâm nghiệp giai đoạn 1960-1976

Tổng cục Lâm nghiệp là cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ, được thành lập trên

cơ sở Cục Lâm nghiệp tách ra từ Bộ Nông lâm theo Quyết nghị của Hội đồng Chính phủ

tháng 4 năm 1960, nhằm tăng cường công tác quản lý ngành lâm nghiệp, thực hiện các

nhiệm vụ phát triển lâm nghiệp trong bối cảnh xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

Ngày 28 tháng 4 năm 1960, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa II đã tán thành Nghị quyết

này của Hội đồng Chính phủ. Ông Nguyễn Tạo, nguyên Thứ trưởng Bộ Nông lâm được

cử giữ chức Tổng cục trưởng đầu tiên của Tổng cục Lâm nghiệp(1)

. Cơ quan của Tổng cục

Lâm nghiệp đặt trụ sở tại 123 phố Lò Đúc, Hà Nội. Tổng cục Lâm nghiệp hoạt động từ

tháng 4 năm 1960 đến tháng 7 năm 1976, khi Bộ Lâm nghiệp thành lập. Tổng cục lâm

nghiệp là cơ quan của Hội đồng Chính phủ có trách nhiệm quản lý công tác lâm nghiệp

theo đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ và kế

hoạch quản lý rừng và đất rừng, phát triển sản xuất lâm nghiệp, xây dựng khoa học kỹ

thuật lâm nghiệp, nhằm xây dựng kỹ thuật lâm nghiệp, nhằm xây dựng lâm nghiệp và xã

hội chủ nghĩa, phát huy mọi mặt lợi ích và tác dụng của rừng để phục vụ sản xuất, phục vụ

dân sinh, phục vụ quốc phòng(2)

.

Trong 16 năm hoạt động, lãnh đạo Tổng cục Lâm nghiệp có nhiều thay đổi. Trong

giai đoạn (1960 - 1971), ông Nguyễn Tạo đảm nhiệm chức vụ Tổng cục trưởng (còn gọi là

Chủ nhiệm Tổng cục); các ông Nguyễn Đình Ngữ, Nguyễn Mạnh Hồng và Nguyễn Văn

Phương là Phó Tổng cục trưởng (Phó Chủ nhiệm Tổng cục). Ngày 2 tháng 7 năm 1971,

Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 126b/CP bổ nhiệm ông Hoàng Bửu Đôn, nguyên

Phó Chủ nhiệm Văn phòng Phủ Thủ tướng, giữ chức Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm

nghiệp thay ông Nguyễn Tạo (được điều động giữ chức Phó Chủ nhiệm Ủy ban Nông

nghiệp Trung ương). Về các Phó Tổng cục trưởng, ông Nguyễn Văn Phương cũng được

chuyển sang Ủy ban Nông nghiệp Trung ương sau ông Nguyễn Tạo; các ông Chu Đỗ,

Nguyễn Tuân, Phạm Đình Sơn lần lượt được Chính phủ bổ nhiệm giữ chức Phó Tổng cục

trưởng trong các năm 1971 - 1973. Sau năm 1973, lãnh đạo Tổng cục gồm ông Hoàng Bửu

Đôn - Tổng cục trưởng, cùng với các Tổng cục phó là Nguyễn Mạnh Hồng, Nguyễn Đình

Ngữ, Phạm Đình Sơn. Các ông Nguyễn Tuân, Chu Đỗ được Chính phủ điều động sang

(1)

Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, tập II

(1955-1976), Sđd, tr. 428-429. (2)

Hội đồng Chính phủ: Nghị định số 140-CP quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục

Lâm nghiệp. Thuvienphapluat.vn

Page 26: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

26

công tác ở các ngành khác(1)

.

Theo Nghị định số 140-CP ngày 29 tháng 9 năm 1961 của Hội đồng Chính phủ, tổ

chức bộ máy của Tổng cục Lâm nghiệp gồm: Văn phòng; Ban Thanh tra và 03 Vụ (Tổ

chức cán bộ và lao động tiền lương; Kế hoạch; Tài vụ); 05 Cục (Trồng rừng; Điều tra quy

hoạch rừng; Khai thác lâm sản; Vận chuyển phân phối lâm sản; Chế biến lâm sản). Ngoài

ra còn có Viện Nghiên cứu lâm nghiệp và các đơn vị sự nghiệp, xí nghiệp do Tổng cục

quản lý(2)

. Các Cục, ngoài nhiệm vụ tham mưu cho Tổng cục trưởng về quản lý các chuyên

ngành, còn được giao quản lý một số đơn vị thuộc chuyên ngành sản xuất, như: Cục Trồng

rừng quản lý trực tiếp Đoàn thiết kế trồng rừng; Công ty giống cây rừng; Trạm thí nghiệm

cơ giới hóa trồng rừng; Cục Điều tra quy hoạch rừng quản lý trực tiếp các đoàn, đội điều

tra rừng trực thuộc đặt ở các vùng và chỉ đạo nhiệm vụ kỹ thuật điều tra rừng cho các đoàn

điều tra rừng trực thuộc Ty Lâm nghiệp các tỉnh; Cục Khai thác lâm sản theo dõi tổng hợp

về quản lý và hoạt động ở các lâm trường quốc doanh; Cục Vận chuyển phân phối lâm sản

quản lý các phân cục, tổng kho lâm sản, các công ty ô tô vận tải lâm sản, công ty vận

chuyển gỗ bằng đường thủy (Công ty Ca nô) thuộc Tổng cục; Cục Chế biến lâm sản quản

lý các xưởng, nhà máy chế biến gỗ.

Sau đó, do yêu cầu của phát triển thời kỳ 1963 - 1964, Chính phủ quyết định lập

thêm ba Cục quản lý chuyên ngành mới và một Viện trực thuộc Tổng cục là: Cục Cơ khí

vật tư; Cục Kiến thiết cơ bản; Cục Bảo vệ Lâm nghiệp và Viện Thiết kế công trình Lâm

nghiệp(3)

. Đến năm 1964, tổ chức bộ máy của Tổng cục Lâm nghiệp được điều chỉnh một

lần nữa tại Quyết định số 12-CP ngày 15 tháng 1 năm 1964 của Hội đồng Chính phủ. Theo

đó, Chính phủ sáp nhập các Cục Khai thác lâm sản và Vận chuyển, phân phối thành Cục

khai thác, vận chuyển và phân phối lâm sản; thành lập Vụ Lao động và tiền lương (tách ra

từ Vụ Tổ chức cán bộ và lao động tiền lương) và Vụ Khoa học kỹ thuật (4)

..

Căn cứ Pháp lệnh Bảo vệ rừng (do Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 6

tháng 9 năm 1972 và Lệnh số 147-LCT của Chủ tịch nước công bố ngày 11 tháng 9 năm 1972),

ngày 21 tháng 5 năm 1973, Hội đồng Chính phủ ra Nghị định số 101-CP quy định hệ thống

tổ chức và nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm lâm nhân dân với hệ thống từ Trung ương đến

cấp huyện, đặt dưới sự chỉ đạo thống nhất của Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp. Hệ

thống Kiểm lâm nhân dân có ba cấp: Cục Kiểm lâm nhân dân trực thuộc Tổng cục Lâm

nghiệp, ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có rừng có Chi cục Kiểm lâm

nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo của Ủy ban Hành chính tỉnh, thành phố. Tại cấp huyện, ở

những nơi có rừng có Hạt Kiểm lâm nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo của Ủy ban Hành chính

(1)

Bộ Nông nghiệp và PTNT: Lâm nghiệp Việt Nam 1945-2000. NXB Nông nghiệp, 2001, tr. 64, 67. (2)

Hội đồng Chính phủ: Nghị định số 140-CP ngày 29 tháng 9 năm 1961. Thuvienphapluat.vn (3)

Bộ Nông nghiệp và PTNT: Lâm nghiệp Việt Nam 1945 - 2000. NXB Nông nghiệp, 2001, tr. 64-65. (4)

Hội đồng Chính phủ: Quyết định số 12-CP ngày 15 tháng 1 năm 1964 sửa đổi bộ máy của Tổng cục Lâm

nghiệp. Thuvienphapluat.vn

Page 27: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

27

huyện. Ở những nơi tập trung đầu mối giao thông quan trọng (đường thủy, đường bộ,

đường sắt) thì có thể thành lập các Hạt kiểm lâm nhân dân để làm nhiệm vụ kiểm soát lâm

sản (gọi là Hạt Kiểm soát lâm sản). Tùy theo điều kiện cụ thể của từng nơi, Tổng cục Lâm

nghiệp quyết định đặt các Hạt này trực thuộc Cục Kiểm lâm nhân dân hoặc Chi Cục Kiểm

lâm nhân dân. Cán bộ, nhân viên kiểm lâm nhân dân được hưởng các chế độ giống như đối

với lực lượng Công an nhân dân vũ trang; được trang bị đồng phục và vũ khí.

Tổng cục Lâm nghiệp cũng tiếp nhận một số đơn vị sản xuất kinh doanh lâm nghiệp

do các cơ quan Trung ương khác quản lý, như các công trường khai thác của Tổng cục Hậu

cần để tổ chức thành bốn lâm trường quốc doanh trực thuộc Tổng cục(1)

. Ngoài ra Tổng

cục cũng tiếp nhận, sáp nhập một số đơn vị lâm nghiệp thuộc các Ty Lâm nghiệp để thành

lập các lâm trường hoặc xí nghiệp trực thuộc Tổng cục(2)

Để đẩy mạnh công tác trồng rừng, Tổng cục Lâm nghiệp cho thành lập các Trạm

cơ giới trồng rừng ở các trọng điểm. Tháng 3 năm 1961, Trạm cơ giới trồng rừng đầu

tiên ở miền Bắc được thành lập ở Khu Hồng Quảng. Đội quân chủ lực trồng cây gây

rừng trong những năm (1965 - 1971) là 109 lâm trường và trạm trồng cây gây rừng của

Nhà nước(3)

.

Trong giai đoạn 1971 - 1976 tổ chức của ngành lâm nghiệp nước ta có những thay

đổi, tập trung vào các hướng: chuyển tất cả các xí nghiệp, công ty đã thực hiện chế độ hạch

toán kinh tế độc lập đang trực thuộc các Cục của Tổng cục thành các đơn vị độc lập trực

thuộc Tổng cục; thành lập các tổng công ty chuyên ngành thay thế các Cục quản lý chuyên

ngành. Mỗi tổng công ty hoặc công ty được giao nhiệm vụ quản lý trực tiếp và toàn diện

các xí nghiệp cùng ngành sản xuất. Bên cạnh đó, Tổng cục thành lập Vụ sản xuất để giúp

Tổng cục trưởng chỉ đạo kỹ thuật các khâu sản xuất; chuyển Cục Bảo vệ lâm nghiệp thành

Cục Kiểm lâm nhân dân (theo Pháp lệnh Bảo vệ rừng năm 1972); chuyển Cục Điều tra quy

hoạch rừng thành Viện Điều tra quy hoạch rừng…(4)

Sau khi Tổng cục Lâm nghiệp ra đời, các cơ quan quản lý lâm nghiệp địa phương

cũng được kiện toàn. Từ chỗ có 19 Ty Lâm nghiệp ở 19 tỉnh và các phòng Lâm nghiệp

hoặc bộ phận lâm nghiệp trong 12 Ty Nông Lâm ở những tỉnh, thành phố có ít rừng thuộc

đồng bằng Bắc Bộ, đã thành lập thêm một số Ty Lâm nghiệp ở những tỉnh có rừng hoặc

công tác lâm nghiệp phát triển. Năm 1961 toàn miền Bắc có 23 Ty Lâm nghiệp(5)

và hầu

(1)

Tổng cục Lâm nghiệp: Quyết định số 224-LN/QĐ ngày 10 tháng 6 năm 1961 về tiếp nhận bốn lâm trường

quốc doanh trực thuộc Tổng cục Lâm nghiệp.Thuvienphapluat.vn (2)

Tổng cục Lâm nghiệp: Quyết định số 207-LN/QĐ ngày 10 tháng 5 năm 1961 về thành lập lâm trường Yên

Bình tỉnh Yên Bái trực thuộc Tổng cục Lâm nghiệp.Thuvienphapluat.vn (3)

Hội đồng Chính phủ: Nghị quyết số 183-CP ngày 25 tháng 9 năm 1966 về công tác trồng cây gây rừng.

Thuvienphapluat.vn (4)

Bộ Nông nghiệp và PTNT: Lâm nghiệp Việt Nam 1945 - 2000. NXB Nông nghiệp, 2001, tr. 68. (5)

Là các tỉnh Bắc Kạn, Bắc Giang, Cao Bằng, Hà Giang, Hòa Bình, Lai Châu, Lạng Sơn, Lào Cai, Hải Ninh,

Ninh Bình, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Khu Hồng Quảng, Sơn La, Sơn Tây, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái,

Page 28: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

28

hết các Ty Nông lâm ở vùng đồng bằng đều có phòng Lâm nghiệp. Các Ty Lâm nghiệp là

cơ quan nghiệp vụ cấp dưới của Tổng cục Lâm nghiệp, chịu sự chỉ đạo nghiệp vụ của Tổng

cục và là cơ quan giúp việc cho Ủy ban hành chính các tỉnh, thành phố về quản lý ngành

lâm nghiệp.

Trong những năm từ 1961 đến 1973, chức năng, nhiệm vụ của các Ty Lâm nghiệp có

thay đổi khi phân chia lại địa giới hành chính các tỉnh và thực hiện nội dung cải tiến quản

lý xí nghiệp của Chính phủ. Sau này, khi đã ban hành Pháp lệnh Bảo vệ rừng (năm 1972)

và Nghị định số 101/CP ngày 21 tháng 5 năm 1973 của Chính phủ về nhiệm vụ, tổ chức và

quyền hạn của lực lượng kiểm lâm nhân dân, thì tổ chức nhiệm vụ, quyền hạn của các Ty

Lâm nghiệp có sự thay đổi lớn: chuyển giao các nhiệm vụ và lực lượng bảo vệ rừng cho

Chi cục Kiểm lâm nhân dân quản lý; Ty Lâm nghiệp hoạt động gần như cơ quan quản lý

cấp trên của các đơn vị sản xuất kinh doanh lâm nghiệp, chứ không phải cơ quan quản lý

nhà nước về lâm nghiệp như trước. Lúc đó, ở tỉnh hình thành hai tổ chức quản lý lâm

nghiệp là: Chi cục Kiểm lâm nhân dân được tổ chức độc lập với các đơn vị sản xuất, do đó

cũng độc lập về tổ chức với Ty Lâm nghiệp, để tránh tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi

còi” trong quản lý và bảo vệ rừng. Tuy nhiên, việc phân giao này đã bộc lộ những bất cập,

chưa rõ ràng về vị trí pháp lý của các Ty, về cơ chế trách nhiệm của hai tổ chức, nhất là

trách nhiệm bảo vệ rừng của các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc Ty Lâm nghiệp bị

buông lỏng, do chưa được quy định rõ ràng, cụ thể về tổ chức, biên chế, kinh phí về bảo vệ

rừng… Vì vậy, trong Nghị định 24-CP ngày 2 tháng 2 năm 1976 về nhiệm vụ, quyền hạn

và trách nhiệm của chính quyền nhà nước cấp tỉnh trong lĩnh vực quản lý kinh tế, Hội đồng

Chính phủ đã quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Ủy ban hành chính tỉnh về

quản lý nông - lâm nghiệp thông qua cơ quan chuyên ngành của mình là các Ty và sự phối

hợp giữa Ủy ban hành chính tỉnh với Ủy ban Nông nghiệp Trung ương và Tổng cục Lâm

nghiệp. Riêng ngành khai thác, chế biến và phân phối gỗ thì Tổng cục Lâm nghiệp trực

tiếp quản lý, hoặc ủy quyền cho địa phương quản lý một phần.

Đến tháng 6 năm 1976, Quốc hội đã chính thức thành lập Bộ Lâm nghiệp thay cho

Tổng cục Lâm nghiệp. Ngành Lâm nghiệp bước sang giai đoạn phát triển mới, từ 1976 đến

1995, trước khi Bộ Lâm nghiệp được hợp nhất với các bộ khác để thành lập Bộ Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn.

7. Tổng cục Thủy sản giai đoạn 1960-1976

Tổng cục Thủy sản được thành lập trên cơ sở Vụ Ngư nghiệp tách ra từ Bộ Nông

lâm theo Quyết nghị của Hội đồng Chính phủ tháng 4 năm 1960, được Ủy ban Thường vụ

Quốc hội khóa II tán thành ngày 28 tháng 4 năm 1960. Việc thành lập Tổng cục Thủy sản

là nhằm tăng cường công tác quản lý ngành thủy sản, thực hiện các nhiệm vụ phát triển

Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Vĩnh Linh.

Page 29: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

29

thủy sản, phát huy tốt tiềm năng và vai trò của thủy sản đối với nền kinh tế đất nước trong

bối cảnh xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đảm bảo cung cấp nhiều thực phẩm cho

nhân dân và quốc phòng. Tổng cục Thủy sản hoạt động 16 năm, từ tháng 4 năm 1960 đến

tháng 7 năm 1976 khi Bộ Hải sản được thành lập. Ông Lê Duy Trinh, nguyên Thứ trưởng

Bộ Nông lâm (được bổ nhiệm ngày 20 tháng 9 năm 1955), được cử giữ chức Tổng cục

trưởng đầu tiên của Tổng cục(1)

.

Trong 16 năm hoạt động, lãnh đạo Tổng cục Thủy sản có nhiều thay đổi. Ông Lê

Duy Trinh, giữ chức Tổng cục trưởng từ tháng 4 năm 1960 đến năm 1961. Các Tổng cục

trưởng sau này có Nguyễn Trọng Tỉnh (1961-1974) và ông Hoàng Hữu Nhân (1974 đến 1976).

Các Phó Tổng cục trưởng là ông Nguyễn Cao Đàm (khoảng từ 1962 đến 1966(2)

); ông Vũ

Song (từ 1966 đến 1976); ông Nguyễn Hữu Ngân (từ 1970 đến 1974) và ông Đoàn Bá

Khánh (từ 1971 đến 1973)(3)

.

Tổng cục Thủy sản là cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ có trách nhiệm quản lý

công tác thủy sản và quản lý tốt các hợp tác xã nghề các theo đường lối, chính sách của

Đảng và Nhà nước; bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ và kế hoạch phát triển nuôi, bảo vệ,

khai thác, thu mua, chế biến thủy sản, cung cấp và cải tiến công cụ làm nghề cá, nhằm tiến

lên công nghiệp hóa nghề cá, tận dụng mọi khả năng nguồn lợi thủy sản, để thỏa mãn nhu

cầu thực phẩm cho nhân dân, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp và hàng hóa cho xuất

khẩu, và góp phần củng cố quốc phòng(4)

. Tổng cục Thủy sản có nhiệm vụ, quyền hạn

tương tự như một Bộ của Hội đồng Chính phủ quản lý thống nhất lĩnh vực nghề cá.

Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, tổ chức bộ máy của Tổng cục Thủy

sản được quy định tại Nghị định 156-CP ngày 5 tháng 10 năm 1961 gồm: Văn phòng; Ban

Thanh tra và 04 Vụ (Tổ chức cán bộ, Kế hoạch, Tài vụ, Nuôi thủy sản); 02 Cục (Khai thác

hải sản, Cung tiêu chế biến thủy sản) và các đơn vị sự nghiệp khác do Tổng cục quản lý.

Tại địa phương, thành lập các Ty ở các tỉnh miền biển và một số tỉnh, thành, khu:

Việt Bắc, Thái Mèo, Hà Nội, Hà Đông, Hà Nam, Hải Dương, Hưng Yên. Các tỉnh khác sẽ

thành lập phòng thủy sản trực thuộc Uỷ ban hành chính. Ở cấp huyện thành lập Phòng

Thủy sản trực thuộc Uỷ ban hành chính các huyện miền biển, còn các huyện khác sẽ có

một số cán bộ theo dõi(5)

.

(1)

Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005,

tập II (1955-1976), Sđd, tr. 428-429. (2)

Hiện chưa tìm được tư liệu chính xác về thời gian giữ chức Tổng cục phó của ông Nguyễn Cao Đàm. Tại

các quyết định của Tổng cục Thủy sản tra cứu được trên Thư Viện Pháp luật, thì ông Đàm đã ký với tư cách

Phó Tổng cục trưởng từ tháng 5 năm 1962 đến tháng 6 năm 1966. (3)

Bộ Thủy sản, Tạp chí Thủy sản: Thủy sản Việt Nam trên chặng đường đổi mới và hội nhập. NXB Lao

động, 2004, tr. 40-41. (4)

Theo quy định tại Nghị định số 156-CP ngày 5 tháng 10 năm 1961 của Hội đồng Chính phủ. (5)

Tổng cục Thủy sản: Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch năm 1960 và chủ trương biện pháp thực hiện kế

hoạch năm 1961. Tài liệu lưu tại Tổng cục Thủy sản, Bộ Nông nghiệp và PTNT.

Page 30: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

30

Trong các năm tiếp theo, tổ chức bộ máy của Tổng cục tiếp tục được tăng cường. Để

thực hiện chủ trương phát triển tàu thuyền vận tải và nghề cá(1)

, Hội đồng Chính phủ thành

lập Cục cơ khí và tàu, thuyền thuộc Tổng cục vào năm 1963(2)

. Tiếp đó, năm 1964, Hội

đồng Chính phủ thành lập Vụ Hợp tác xã nghề cá thuộc Tổng cục(3)

. Trong giai đoạn 1965 - 1976,

Tổng cục còn được thành lập thêm Vụ Nghiên cứu kỹ thuật và Cục Kiến thiết cơ bản.

Ngoài việc kiện toàn tổ chức quản lý, năm 1960, Tổng cục tiếp nhận ba xí nghiệp

quốc doanh đánh cá thuộc Vụ Ngư nghiệp, Bộ Nông lâm cũ(4)

và xí nghiệp quốc doanh

đánh cá Sông Gianh(5)

. Đến năm 1962, trong ngành thủy sản có ba loại xí nghiệp là: (i) sản

xuất và sửa chữa tư liệu sản xuất; (ii) khai thác và chế biến sản phẩm thủy sản và (iii) cung

cấp vật tư(6)

.

Các đơn vị sự nghiệp khoa học và đào tạo của Tổng cục cũng từng bước kiện toàn tổ

chức, tăng cường năng lực. Năm 1961 Tổng cục chuyển Trường sơ cấp hàng hải thuộc nhà

máy cá hộp Hạ Long thành trường sơ cấp hàng hải-thủy sản(7)

. Năm 1963, di chuyển

trường nghiệp vụ Gia Lâm về Thủy Nguyên, Hải Phòng. Năm 1964 Tổng cục hợp nhất

trường này với Trường Trung cấp Thủy sản Trung ương II(8)

. Năm 1966, Hội đồng Chính

phủ thành lập Trường Thủy sản trực thuộc Tổng cục Thủy sản trên cơ sở Khoa Thủy sản

thuộc Trường Đại học Nông nghiệp (thuộc Bộ Nông nghiệp) và Trường Kỹ thuật Hải sản

Hải Phòng(9)

. Cũng trong năm 1966, Tổng cục Thủy sản cùng với Bộ Giáo dục ra Thông tư

liên Bộ số 010-TT/LB ngày 9 tháng 6 năm 1966 về việc củng cố và phát triển các trường,

lớp bổ túc văn hóa và kỹ thuật ở miền biển.

Khi Ủy ban Nông nghiệp Trung ương được thành lập năm 1971, Hội đồng Chính phủ

đã giao ngành nuôi cá nước ngọt cho Ủy ban Nông nghiệp Trung ương quản lý, do vậy,

trong tổ chức bộ máy của Ủy ban có Cục nuôi cá nước ngọt (Nghị định số 234/CP ngày 18

(1)

Thủ tướng Chính phủ: Chỉ thị số 94-TTg ngày 24 tháng 9 năm 1962 về đẩy mạnh phát triển tàu thuyền vận

tải và nghề cá. Thuvienphapluat.vn (2)

Hội đồng Chính phủ: Quyết định số 61-CP ngày 6 tháng 5 năm 1963 về thành lập Cục Cơ khí và tàu

thuyền thuộc Tổng cục Thủy sản. Thuvienphapluat.vn (3)

Hội đồng Chính phủ: Quyết định số 26-CP ngày 1 tháng 2 năm 1964 về thành lập Vụ Hợp tác xã nghề cá

thuộc Tổng cục Thủy sản. Thuvienphapluat.vn (4)

Tổng cục Thủy sản: Quyết định số 267-TS/QĐ ngày 19 tháng 5 năm 1962 về việc chuyển xí nghiệp ngư cụ

Cửa Hội thành Xí nghiệp đóng ráp tàu thuyền Cửa Hội. Thuvienphapluat.vn (5)

Tổng cục Thủy sản: Quyết định số 304-TS/QĐ ngày 19 tháng 6 năm 1962 về việc chuyển xí nghiệp đánh

cá Nhật Lệ thành Xí nghiệp quốc doanh đánh cá Sông Gianh. Thuvienphapluat.vn (6)

Tổng cục Thủy sản: Chỉ thị số 26-TS/CT ngày 23 tháng 3 năm 1962 quy định nhiệm vụ, quyền hạn cơ cấu

tổ chức và lề lối làm việc của các xí nghiệp trực thuộc Tổng cục Thủy sản. Thuvienphapluat.vn (7)

Tổng cục Thủy sản: Quyết định số 93-TS/QĐ ngày 12 tháng 6 năm 1961. Thuvienphapluat.vn (8)

Tổng cục Thủy sản: Quyết định số 431-TS/QĐ ngày 21 tháng 9 năm 1964 về hợp nhất Trường nghiệp vụ

Gia Lâm vào Trường Trung cấp Thủy sản Trung ương II. Thuvienphapluat.vn (9)

Hội đồng Chính phủ: Quyết định số 155-CP ngày 16 tháng 8 năm 1966 về thành lập Trường Thủy sản

thuộc quyền quản lý của Tổng cục Thủy sản. Thuvienphapluat.vn

Page 31: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

31

tháng 12 năm 1971)1)

. Tuy nhiên, đến năm 1978 nhiệm vụ quản lý cá nước ngọt được

Chính phủ chuyển từ Bộ Nông nghiệp về Bộ Hải sản để hợp lý hóa quản lý ngành thủy sản

trong cả nước(2)

.

Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, trước yêu cầu phát triển mới

của ngành trên phạm vi toàn quốc, Chính phủ đã thành lập Bộ Hải sản từ tháng 7 năm 1976

trên cơ sở Tổng cục thủy sản

8. Những nét nổi bật trong phát triển nông nghiệp Việt Nam thời kỳ 1955-1975

Chặng đường 20 năm (1955-1975) là thời kỳ đặc biệt của quá trình xây dựng và phát

triển ngành Nông nghiệp nước ta, khi đất nước bị chia cắt làm hai miền, tiến hành hai

chiến lược cách mạng khác nhau, chịu nhiều thách thức to lớn trong và ngoài nước, dưới

chịu ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh. Nông nghiệp miền Bắc dưới sự lãnh đạo của

Đảng đã tiến hành cải tạo, đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa với chế độ sở hữu nhà nước

và tập thể. Nông nghiệp miền Nam bị chia thành hai vùng, vùng tự do dưới chính quyền

Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam do Đảng lãnh đạo và vùng tạm chiếm

của chính quyền Mỹ - ngụy Việt Nam Cộng hòa, dựa trên tư hữu về tư liệu sản xuất. Trong

khi nông nghiệp miền Nam phát triển không ổn định, không đáp ứng được đầy đủ nhu cầu

lương thực, thực phẩm của xã hội, thì nông nghiệp miền Bắc đã hoàn thành vai trò mặt trận

hàng đầu trong xây dựng hậu phương lớn, chi viện đắc lực cho cuộc đấu tranh giải phóng

miền Nam. Những thành tựu vượt khó, phát triển sản xuất, chi viện sức người, sức của cho

kháng chiến, góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh thống nhất đất nước của nông nghiệp

nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã tô thắm thêm truyền thống vẻ vang của Nông nghiệp

Việt Nam. Bên cạnh những hậu quả nặng nề do chiến tranh gây ra, những nhân tố tích cực

trong phát triển nông nghiệp ở miền Bắc, cũng như ở miền Nam cả trong vùng giải phóng

và vùng tạm chiếm thời kỳ 1955-1975 là những bài học thực tế có giá trị để chúng ta

nghiên cứu phục vụ cho phát triển nông nghiệp trong các thời kỳ tiếp sau.

Trải qua trải các giai đoạn khôi phục, phát triển và cải tạo kinh tế (1955-1960),

những năm thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1960-1965) và giai đoạn cả nước có

chiến tranh (1965-1975), nông nghiệp miền Bắc đã đạt được các thành tựu phát triển nhờ

các yếu tố tích cực, đúng đắn trong đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và sức

mạnh của quần chúng nhân dân, của tổ chức và đội ngũ cán bộ, công nhân viên chức lao

động ngành nông nghiệp.

Đường lối, chính sách nông nghiệp đó được đề ra phù hợp bối cảnh cách mạng nước

ta trong từng giai đoạn, được nhân dân ủng hộ thực hiện. Cải cách ruộng đất với khẩu hiệu

(1)

Hội Nghề cá Việt Nam: Bách khoa thủy sản. NXB Nông nghiệp, H. 2007, tr.515-517 (2)

Hội đồng Chính phủ: Quyết định số 66-CP ngày 28 tháng 3 năm 1978 về chuyển giao nhiệm vụ quản lý cá

nước ngọt từ Bộ Nông nghiệp sang Bộ Hải sản. Thuvienphapluat.vn

Page 32: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

32

“Người cày có ruộng”, phong trào hợp tác hóa tổ chức lại sản xuất của nông dân theo

phương thức tập thể đã giải phóng nông dân, đưa nông dân làm chủ đất nước. Nông dân,

nhất là bần, cố nông lần đầu tiên có đất - tư liệu sản xuất sản xuất, đặc biệt đã hăng hái huy

động mọi nguồn lực tham gia sản xuất. Nông nghiệp sau 9 năm kháng chiến đã được khôi

phục nhanh, đạt và vượt so với mức trước chiến tranh, nạn đói được đẩy lùi, phương thức

sản xuất lớn đi lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc, dân chủ, công

bằng là ước mong của toàn dân. Mặc dù có những hạn chế, nhưng phong trào hợp tác hóa

và phát triển các nông, lâm trường quốc doanh đã thành công ở giai đoạn đầu, phát huy tác

động tích cực trong thời chiến, là nền tảng không thể thiếu để tập hợp sức mạnh to lớn của

quần chúng, tạo điều kiện thuận lợi để chúng ta vừa phát triển kinh tế, vừa tập hợp được

nguồn nhân tài vật lực phục vụ công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Các

phong trào thi đua sản xuất và chiến đấu, tăng năng suất, tăng sản lượng nông nghiệp, gánh

vác nhiệm vụ thay cho người ra trận, phát huy cao độ truyền thống đoàn kết, yêu nước, liên

minh công nông và trí thức, thực hiện các hành động anh hùng cách mạng của nông dân,

công nhân viên chức lao động trong ngành những năm chiến tranh đã chứng minh cho

đường lối phát triển nông nghiệp đặc thù, đúng đắn đó. Các hợp tác xã là môi trường khơi

dậy được lòng yêu nước và tự hào dân tộc, kết hợp được lợi ích quốc gia với lợi ích gia

đình, cá nhân với tập thể trong điều kiện đất nước còn nghèo. Chúng ta đã thành công với

các phong trào “Cánh đồng 5 tấn thóc, 2 con lợn/ha”; “tay cày, tay súng”, “tay lưới, tay

súng”, “tay cuốc, tay súng”, “ba đảm đang”; “thóc không thiếu một cân, quân không

thiếu một người”; “tất cả vì tiền tuyến”, “hậu phương thi đua với tiền phương” v.v… Có

những phong trào mà ngày nay được tiếp thu, nhân rộng, từ “Cánh đồng 5 tấn thóc/ha”

thành “Cánh đồng 50 triệu đồng/ha” rồi “Cánh đồng lớn theo chuỗi giá trị”…

Phát huy và kế thừa truyền thống lao động cần cù, sáng tạo, vượt khó, ngành nông

nghiệp được sự hậu thuẫn to lớn của thủy lợi, cùng với lâm nghiệp, ngư nghiệp đã kiến tạo

nên nền Nông nghiệp chung làm nền tảng và trụ đỡ cho kinh tế đất nước. Nhờ thủy lợi

được đầu tư và phát triển có hệ thống với những công trình trọng điểm quy mô lớn và vừa

kết hợp với nhiều công trình nhỏ được xây dựng ở khắp các địa phương, vùng miền, nông

nghiệp đã có những bước phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu theo hướng thâm canh,

thủy lợi hóa, cơ giới hóa, hóa học hóa. Ngư nghiệp cũng đã phát triển trong tất cả các lĩnh

vực khai thác, nuôi trồng, chế biến thủy sản, tạo những cơ sở ban đầu để chúng ta quy

hoạch phát triển ngành thủy sản thành một ngành kinh tế quan trọng trong các giai đoạn

sau. Trong lâm nghiệp, bên cạnh nhiệm vụ khai thác, tổ chức sản xuất để đáp ứng nhu cầu

của các ngành kinh tế, quốc phòng và đời sống nhân dân trong chiến tranh về gỗ và lâm

sản, chúng ta đã chú trọng và vận động nhân dân trồng cây gây rừng, bảo vệ rừng. Phong

trào Tết trồng cây do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động đã trở thành nét văn hóa mới,

truyền thống mới tốt đẹp của nhân dân ta, góp phần thúc đẩy trồng rừng.

Page 33: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

33

Trong quá trình xây dựng và phát triển nền nông nghiệp nước ta, vai trò của khoa

học kỹ thuật thời kỳ này đã được phát huy. Nhờ đường lối đi lên sản xuất lớn xã hội chủ

nghĩa, công tác nghiên cứu khoa học công nghệ nông nghiệp nước ta được quan tâm đặc

biệt. Tuy bị hạn chế bởi chiến tranh, nhưng chúng ta đã xây dựng được những cơ sở quan

trọng của hệ thống khoa học công nghệ; tạo ra nhiều tiến bộ kỹ thuật có giá trị thực tiễn

cao về giống, phân bón, thiết bị máy cơ giới hóa ruộng nước, quy trình sản xuất thâm canh,

chuyển dịch cơ cấu mùa vụ, cơ cấu năng suất… Đội ngũ cán bộ khoa học đã sâu sát thực

tế, “ba cùng với hợp tác xã, với nông dân”. Các cơ sở đào tạo nhân lực kỹ thuật của ngành

cũng gắn kết chặt chẽ với đồng ruộng, cùng các nhà khoa học tổ chức các đoàn chỉ đạo

điểm, trực tiếp hướng dẫn, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho nông dân. Các thành tựu khoa

học kỹ thuật đã được nông dân tiếp nhận rộng rãi, thông qua lao động sáng tạo của nông

dân phát huy tác động kịp thời và to lớn.

Một yếu tố quan trọng làm nên thành công của Nông nghiệp Việt Nam những năm

kinh tế thời chiến là sự trưởng thành của tổ chức và đội ngũ cán bộ, công nhân viên chức

lao động của Ngành. Đây là thời kỳ ra đời của một loạt các cơ quan Trung ương quản lý

các ngành nông nghiệp, nông trường, lương thực, thực phẩm, lâm nghiệp, thủy sản và thủy

lợi. Hệ thống quản lý ngành dọc từ Trung ương đến địa phương cũng được hình thành và

từng bước kiện toàn, đảm bảo triển khai một cách thông suốt sự chỉ đạo thực hiện đường

lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Cán bộ lãnh

đạo cùng với toàn thể công nhân viên chức người lao động của Ngành đã thường xuyên

bám sát thực tiễn sản xuất, sát cánh với nông dân, nông thôn trong mọi hoạt động và phong

trào thi đua yêu nước, tạo nên sức mạnh của cả hệ thống chính trị. Đó cũng là nét đặc trưng

nổi bật của Ngành.

Nhờ tổng hòa những nguồn lực và yếu tố tích cực đó, đến năm 1975, khi cuộc chiến

tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước đi đến thắng lợi hoàn toàn, thì Nông

nghiệp nước ta cũng đạt được các thành tựu rất cơ bản trong tất cả các lĩnh vực sản xuất

nông, lâm, ngư nghiệp và thủy lợi, đóng góp xứng đáng vào truyền thống vẻ vang 70 năm

Nông nghiệp Việt Nam.

Page 34: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

34

III. Quá trình thành lập và kiện toàn các cơ quan quản lý ngành nông nghiệp

thời kỳ 1976-1986

Sau kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa VI tháng 7 năm 1976, Bộ Nông nghiệp được

thành lập thay thế cho Ủy ban Nông nghiệp Trung ương. Mặc dù thời gian này vẫn còn tồn

tại một số cơ quan của Chính phủ mang tên gọi ủy ban, như Ủy ban Kế hoạch Nhà nước,

Ủy ban Vật giá Nhà nước, Ủy ban Dân tộc…, nhưng việc chuyển đổi Ủy ban Nông nghiệp

Trung ương thành Bộ Nông nghiệp là bước chuyển về phương thức quản lý ngành nông

nghiệp, từ cơ chế lãnh đạo tập thể, quyết định theo đa số của Ủy ban sang chế độ thủ

trưởng của Bộ.

Theo sự phê chuẩn của Quốc hội và Lệnh Chủ tịch nước, trong nhiệm kỳ Chính phủ

(1976-1981), ông Võ Thúc Đồng được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp từ tháng 7

năm 1976. Sau đó một năm, đến tháng 7 năm 1977, ông Võ Thúc Đồng nhận nhiệm vụ

khác, Phó Thủ tướng Võ Chí Công (vừa thôi kiêm chức Bộ trưởng Bộ Hải sản) được cử

kiêm chức Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp. Đến tháng 2 năm 1979, ông Nguyễn Ngọc Trìu

được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp thay ông Võ Chí Công.

Trong nhiệm kỳ tiếp theo (1981-1987), Quốc hội khóa VII tại kỳ họp thứ nhất từ

ngày 24 tháng 6 đến ngày 4 tháng 7 năm 1981 đã thông qua bốn đạo luật, trong đó có Luật

Tổ chức Hội đồng Bộ trưởng(1)

; đồng thời cũng thông qua thành phần lãnh đạo và các các

thành viên của Hội đồng Bộ trưởng.

Cơ cấu Hội đồng Bộ trưởng trong nhiệm kỳ (1981-1987) có 26 Bộ và 6 cơ quan

ngang bộ, đứng đầu là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng. Cơ quan Thường

trực của Hội đồng Bộ trưởng là Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng gồm có Chủ tịch, các Phó

Chủ tịch (trong đó có một Phó Chủ tịch được phân công làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ

trưởng thường trực và một Bộ trưởng làm Tổng Thư ký Hội đồng Bộ trưởng)(2)

.

Để quản lý các ngành nông, lâm, ngư nghiệp, thủy lợi, lương thực và thực phẩm,

trong cơ cấu Hội đồng Bộ trưởng có sáu bộ là Bộ Nông nghiệp, Bộ Lâm nghiệp, Bộ Thủy

lợi, Bộ Thủy sản, Bộ Công nghiệp thực phẩm, Bộ Lương thực(3)

. Ông Nguyễn Ngọc Trìu

tiếp tục được cử làm Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp. Đến tháng 2 năm 1987, ông Nguyễn

(1)

Hội đồng Bộ trưởng nhiệm ký 1981 - 1987 được tổ chức trên cơ sở Hiến pháp 1980 và Luật tổ chức Hội

đồng Bộ trưởng được Quốc hội khóa VII thông qua tại kỳ họp thứ I. Chức năng chấp hành và chức năng

hành chính được thực hiện trong phạm vi nhân danh là cơ quan của Quốc hội. Tư cách của Hội đồng Bộ

trưởng là cơ quan hành chính cao nhất của Nhà nước (theo Hiến pháp 1959) đã được chuyển thành cơ quan

hành chính nhà nước cao nhất của Quốc hội. (2)

Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng nhiệm kỳ 1981 - 1987 gồm: Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Pham Văn

Đồng, các Phó Chủ tịch là Tố Hữu, Phạm Hùng, Võ Nguyên Giáp, Huỳnh Tấn Phát, Võ Chí Công, Đỗ Mười,

Nguyễn Lam, Trần Quỳnh, Bộ trưởng Tổng Thư ký là Đặng Thí. (3)

Ban Chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Sđd, tập 3, tr. 102 - 107.

Page 35: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

35

Ngọc Trìu được cử làm Phó Thủ tướng Chính phủ, kiêm chức Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp.

Sau khi thành lập Bộ Nông nghiệp, để đáp ứng yêu cầu quản lý ngành trong tình hình

mới, ngày 6 tháng 2 năm 1977, Hội đồng Chính phủ đã họp và có Nghị quyết về sửa đổi

một số tổ chức của Bộ Nông nghiệp. Trong tổ chức bộ máy của Ủy ban Nông nghiệp

Trung ương chuyển sang có một số tổng cục và cục, vụ được kiện toàn về tổ chức, như

Tổng cục Cây trồng, Tổng cục Chăn nuôi, Tổng cục Cao su, Cục Xây dựng, Cục Điều tra

khảo sát và quy hoạch nông nghiệp, Vụ Tổ chức cán bộ… Căn cứ nghị quyết này, ngày 11

tháng 3 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 52-CP sửa đổi một số tổ chức của

Bộ Nông nghiệp. Theo đó, Tổng cục Cao su được chuyển thành Tổng Công ty Cao su trực

thuộc Bộ Nông nghiệp(1)

.

Từ ngày 22 tháng 6 đến ngày 4 tháng 7 năm 1977, tại Hội nghị lần thứ hai khóa IV,

Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết về tập trung cao độ lực lượng cả nước

thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển nông nghiệp. Để cải tiến một bước tổ chức bộ máy

quản lý nông nghiệp theo tinh thần Nghị quyết này, ngày 8 tháng 10 năm 1977, Hội đồng

Chính phủ ban hành Nghị định 275-CP về tổ chức bộ máy quản lý nông nghiệp. Trong đó

quy định Bộ Nông nghiệp là cơ quan của Hội đồng Chính phủ, có trách nhiệm quản lý

ngành nông nghiệp trong phạm vi cả nước theo đường lối, chính sách của Đảng và Nhà

nước, nhằm phát triển nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc để thỏa mãn nhu cầu

về lương thực, thực phẩm cho nhân dân, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp và sản

phẩm cho xuất khẩu, xây dựng một nền nông nghiệp tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa

với một nền khoa học, kỹ thuật tiên tiến.

Để thực hiện các nhiệm vụ quyền hạn được giao, cơ cấu tổ chức bộ máy của Bộ

Nông nghiệp gồm ba khối (sắp xếp theo trình tự của Nghị quyết 275-CP):

1) Các tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh, gồm các Tổng Công ty, Công ty hoặc

Liên hiệp các xí nghiệp, xí nghiệp liên hợp đối với những cây, con đang phát triển, chuyên

môn hóa cao, sản xuất trên những địa bàn tập trung và có quy mô chế biến ngày càng lớn.

Trước mắt, tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh của Bộ gồm có: Tổng Công ty cao su;

Tổng công ty vật tư nông nghiệp; Công ty bông; Công ty cà phê, ca cao; Công ty mía,

đường; Công ty trâu, bò sữa và sữa; Công ty giống gà và gà công nghiệp; Các công ty giống

cây, giống con và công ty chuyên doanh các loại sản phẩm khác thuộc diện quản lý của Bộ;

Công ty thiết bị, phụ tùng cơ khí và các xí nghiệp sửa chữa cơ khí (đặt trong Tổng cục Trang

bị kỹ thuật); Công ty khai hoang cơ giới, các đội cơ giới (đặt trong Tổng cục Khai hoang và

vùng kinh tế mới); Công ty xây dựng nông nghiệp thuộc diện quản lý của Bộ.

2) Các tổ chức giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý hành chính - kinh tế,

gồm: Tổng cục Khai hoang và vùng kinh tế mới (trong Tổng cục có các Vụ trực thuộc là

(1)

Hội đồng Chính phủ: Quyết định số 52-CP ngày 11 tháng 3 năm 1977. Thuvienphapluat.vn

Page 36: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

36

Vụ Kế hoạch tài vụ, Vụ Khai hoang, Vụ Di dân); Tổng cục Trang bị kỹ thuật (trong Tổng

cục có các Vụ trực thuộc là Vụ Cơ điện, Vụ Sửa chữa cơ khí); Ban quản lý hợp tác xã

nông nghiệp và xí nghiệp nông nghiệp.

Khối các vụ, cục trực thuộc Bộ gồm: Văn phòng Bộ; Ban Thanh tra; 11 Vụ (Vụ Kế

hoạch, Vụ Trồng trọt, Vụ Chăn nuôi, Vụ Quản lý ruộng đất, Vụ Quản lý khoa học kỹ thuật,

Vụ Hợp tác quốc tế, Vụ Kế toán và tài vụ, Vụ Lao động và tiền lương, Vụ Tổ chức và cán

bộ, Vụ Quản lý xây dựng cơ bản, Vụ Đào tạo và bồi dưỡng cán bộ và công nhân kỹ thuật);

04 Cục (Cục Bảo vệ thực vật, Cục Thú y, Cục Dâu tằm, Cục Nuôi cá nước ngọt).

3) Các tổ chức về nghiên cứu khoa học kỹ thuật, về kinh tế và đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ, công nhân nông nghiệp, gồm: Viện khoa học kỹ thuật nông nghiệp Việt Nam (tổ chức

của Viện bao gồm các bộ môn nghiên cứu cơ bản; các viện chuyên đề, chuyên ngành là

Viện Nông hóa, thổ nhưỡng, Viện Cây lương thực và cây thực phẩm, Viện Cây công

nghiệp, cây ăn quả và cây làm thuốc, Viện Bảo vệ thực vật, Viện Chăn nuôi, Viện Thú y,

một số cơ sở nghiên cứu thực nghiệm khác thuộc diện quản lý của Bộ); Các cơ sở nghiên

cứu gắn liền với các tổ chức sản xuất, kinh tế chuyên ngành gồm: Viện Công cụ và cơ giới

hóa nông nghiệp (đặt trong Tổng cục trang bị kỹ thuật); Viện Cây cao su (đặt trong Tổng

công ty cao su); các tổ chức nghiên cứu về cây bông, cây cà phê, ca cao, v.v… (đặt trong

các tổ chức sản xuất kinh doanh tương ứng) do Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp xem xét và

quyết định thành lập; Học viện Kinh tế nông nghiệp; Viện Quy hoạch nông nghiệp; Viện

Thiết kế kiến trúc nông nghiệp; Các trường đại học nông nghiệp trực thuộc Bộ, gồm:

Trường Đại học Nông nghiệp I (Hà Nội), Trường Đại học Nông nghiệp II (Nghệ Tĩnh),

Trường Đại học Nông nghiệp III (Việt Bắc), Trường Đại học Nông nghiệp IV (thành phố

Hồ Chí Minh), Trường Đại học Nông nghiệp V (Cần Thơ); Một số trường trung học

chuyên nghiệp, trường nghiệp vụ và công nhân thuộc diện quản lý của Bộ(1)

.

Giai đoạn 1976-1981 là những năm đầu tiên nước ta chuyển từ thời chiến, đất nước

bị chia cắt sang thống nhất cả nước một chế độ chính trị và phát triển theo đường lối kinh

tế chung. Vì vậy, mô hình quản lý kinh tế ngành có nhiều thay đổi. Nhiều cơ quan thuộc

Bộ Nông nghiệp được kiện toàn, bổ sung chức năng, nhiệm vụ.

Ngày 18 tháng 7 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 207-CP chuyển

giao công tác vận động định canh, định cư từ Bộ Nông nghiệp sang Bộ Lâm nghiệp(2)

.

Ngày 28 tháng 3 năm 1978, Hội đồng Chính phủ có Quyết định số 66-CP chuyển

giao nhiệm vụ và toàn bộ tổ chức cán bộ quản lý cá nước ngọt từ Bộ Nông nghiệp sang

Bộ Hải sản(3)

. Theo đó, Cục Nuôi cá nước ngọt được chuyển từ Bộ Nông nghiệp về Bộ

(1)

Hội đồng Chính phủ: Nghị định số 275-CP ngày 8 tháng 10 năm 1977. Thuvienphapluat.vn (2)

Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, T3

(1976-1992), Sđd, tr. 90. (3)

Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, T3

Page 37: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

37

Hải sản.

Chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Tổng cục Khai hoang và vùng kinh tế

mới thuộc Bộ Nông nghiệp cũng được kiện toàn, bổ sung tại Quyết định số 59-CP ngày 14

tháng 3 năm 1978(1)

.

Đối với một số cây công nghiệp ngắn ngày, để thực hiện chủ trương tập trung thống

nhất tổ chức quản lý theo ngành trên phạm vi cả nước, nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng

cao cho xuất khẩu và nội tiêu, ngày 16 tháng 6 năm 1979, Hội đồng Chính phủ có Quyết

định số 224-CP yêu cầu Bộ Nông nghiệp chuyển giao cho Bộ Lương thực và Thực phẩm

toàn bộ nhiệm vụ tổ chức quản lý sản xuất từ khâu trồng trọt, chăm bón đến chế biến sản

phẩm hàng hóa các loại cây chè, mía, dứa, cùng với cơ sở vật chất kỹ thuật bao gồm cán

bộ, công nhân, viên chức, cán bộ khoa học kỹ thuật, các cơ sở nghiên cứu, các nông

trường, xí nghiệp, kho tàng kinh doanh các loại cây chè, mía, dứa(2)

.

Về quản lý các nông trường quốc doanh, ngày 5 tháng 4 năm 1978, Thủ tướng Chính

phủ có Quyết định cho phép Bộ Nông nghiệp chuyển giao một số nông trường quốc doanh

cho các tỉnh. Sau đó, năm 1985, Hội đồng Bộ trưởng có Nghị quyết số 51-HĐBT ngày 22

tháng 2 năm 1985 về cải tiến quản lý nông trường quốc doanh, yêu cầu sắp xếp và tổ chức

lại sản xuất nông trường quốc doanh do các Bộ Nông nghiệp, Bộ Công nghiệp thực phẩm,

Tổng cục Cao su trực tiếp quản lý. Theo đó, những nông trường tiếp tục do Trung ương

trực tiếp quản lý là các nông trường sản xuất giống cây trồng, giống gia súc nguyên chủng,

một phần giống cấp I; các nông trường sản xuất nông sản xuất khẩu hợp tác kinh tế với

nước ngoài. Còn những nông trường khác đều phân cấp cho tỉnh và từng bước phân cấp

cho huyện quản lý(3)

.

Công tác quản lý ruộng đất trước đây được giao cho Bộ Nông nghiệp qua các thời

kỳ, đến giai đoạn này được chuyển từ Bộ Nông nghiệp sang Tổng cục Quản lý ruộng đất

bắt đầu từ năm 1979. Trước đó, ngày 21 tháng 12 năm 1978, Hội đồng Chính phủ đã có

Nghị quyết hội nghị Thường vụ Hội đồng Chính phủ về việc thành lập Tổng cục quản lý

ruộng đất trực thuộc Hội đồng Chính phủ. Ngày 9 tháng 11 năm 1979, Hội đồng Chính

phủ có Nghị định số 404-CP quy định chức năng, nhiệm vụ và tổ chức của Tổng cục Quản

lý ruộng đất. Theo đó, tổ chức và biên chế của Tổng cục quản lý ruộng đất được sắp xết

trên cơ sở của Vụ Quản lý ruộng đất của Bộ Nông nghiệp và tổ chức quản lý ruộng đất ở

(1976-1992), Sđd, tr. 139. (1)

Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, T3

(1976-1992), Sđd, tr. 134. (2)

Ban Chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, tập 3

(1976 - 1992), Sđd, tr. 221-222. (3)

Hội đồng Bộ trưởng: Nghị quyết số 51-HĐBT ngày 22 tháng 2 năm 1985. Thuvienphapluat.vn

Page 38: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

38

các ngành có liên quan chuyển sang.

Ngày 24 tháng 3 năm 1980, Hội đồng Chính phủ có Quyết định số 93-CP về việc

thành lập lại Tổng cục Cao su trực thuộc Bộ Nông nghiệp, có nhiệm vụ giúp Bộ trưởng Bộ

Nông nghiệp quản lý ngành cao su trong phạm vi cả nước. Tuy nhiên, sau đó một năm,

trước yêu cầu tăng cường quản lý ngành cao đang có bước phát triển mạnh mẽ, tổ chức của

Tổng cục cao su một lần nữa thay đổi. Ngày 19 tháng 2 năm 1981, Ủy ban Thường vụ

Quốc hội phê chuẩn đề nghị của Hội đồng Chính phủ chuyển Tổng cục Cao su thuộc Bộ

Nông nghiệp thành Tổng cục Cao su trực thuộc Hội đồng Chính phủ(1)

.

Đối với hệ thống quản lý ngành ở địa phương, ngày 30 tháng 9 năm 1976, Hội đồng

Chính phủ đã ra Quyết định số 386-TTg đổi tên Ủy ban nông nghiệp tỉnh, thành phố thành

Ty, Sở nông nghiệp tỉnh, thành phố. Theo Nghị định số 275-CP ngày 8 tháng 10 năm 1977,

tổ chức quản lý nông nghiệp ở địa phương gồm có:

- Cấp tỉnh có Ty Nông nghiệp;

- Cấp thành phố trực thuộc Trung ương có Sở Nông nghiệp;

- Cấp huyện và đơn vị tương đương có Ban Nông nghiệp.

Ty hoặc Sở Nông nghiệp là cơ quan của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc

Trung ương phụ trách về sản xuất nông nghiệp trong tỉnh và thành phố, đồng thời là cơ

quan thuộc hệ thống ngành nông nghiệp trong phạm vi cả nước. Ty hoặc Sở chịu sự chỉ

đạo toàn diện của Ủy ban nhân dân cùng cấp, đồng thời chịu sự chỉ đạo về kinh tế, kỹ

thuật, nghiệp vụ của Bộ Nông nghiệp.

Ban Nông nghiệp huyện và đơn vị tương đương là cơ quan của Ủy ban nhân dân

huyện phụ trách về sản xuất nông nghiệp trong huyện, đồng thời là cơ quan thuộc hệ thống

ngành nông nghiệp trên phạm vi cả nước. Ban Nông nghiệp huyện chịu sự chỉ đạo toàn

diện của Ủy ban nhân dân cùng cấp, đồng thời chịu sự chỉ đạo về kinh tế, kỹ thuật và

nghiệp vụ của cơ quan quản lý nông nghiệp cấp trên(2)

.

Trong những năm (1981-1986), Nhà nước chủ trương đẩy mạnh xây dựng mô hình

kinh tế cấp huyện, trong đó nòng cốt là kinh tế nông - công nghiệp, xây dựng cơ cấu kinh

doanh nông - công nghiệp trên địa bàn huyện. Ngày 14 tháng 1 năm 1983, Đảng và Nhà

nước đã thành lập Ban Xây dựng huyện để chỉ đạo công tác này. Sau này, Ban Xây dựng

huyện được giải thể ngày 2 tháng 12 1986(3)

.

Để hỗ trợ các địa phương phía Nam, các bộ, ngành, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành

(1)

Ban Chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, tập 3, Sđd. tr. 44 - 50. (2)

Hội đồng Chính phủ: Nghị định số 275-CP ngày 8 tháng 10 năm 1977. Thuvienphapluat.vn. (3)

Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, T3

(1976 - 1992), Sđd, tr. 676.

Page 39: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

39

phố miền Bắc trong các năm từ 1975 đến 1977 đã cử hàng vạn cán bộ tăng cường cho

các tỉnh, thành phố, ty, sở phía Nam. Ngày 28 tháng 1 năm 1978, Hội đồng Chính phủ ra

Quyết định số 27-CP giao nhiệm vụ cho Bộ Nông nghiệp điều động khoảng bốn nghìn

cán bộ của các hợp tác xã nông nghiệp ở miền Bắc đi tham gia cải tạo nông nghiệp ở

miền Nam trong thời gian bốn năm. Bộ Nông nghiệp còn được Chính phủ giao thực hiện

công tác điều động lao động và dân cư trên địa bàn cả nước, là một công tác quan trọng

của nhiệm vụ khai hoang, xây dựng vùng kinh tế mới. Cơ quan đầu mối giúp Bộ Nông

nghiệp thực hiện công tác này là Tổng cục Khai hoang và vùng kinh tế mới (trong tổ chức

bộ máy của Tổng cục có Vụ Chuyển dân). Sau đó, đến ngày 29 tháng 5 năm 1981, Hội

đồng Chính phủ ra Quyết định số 217-CP giao Bộ Lao động nhiệm vụ tổ chức, điều động

lao động và dân cư giữa các vùng trong cả nước theo kế hoạch phân bố lao động và dân

cư hàng năm và 5 năm của Nhà nước. Bộ Nông nghiệp bàn giao cho Bộ Lao động nhiệm

vụ kế hoạch, kinh phí sự nghiệp và toàn bộ số cán bộ đang làm nhiệm vụ này. Tiếp đó,

ngày 1 tháng 6 năm 1981, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định thành lập Ban chỉ đạo phân

bố lao động và dân cư(1)

.

Bộ Nông nghiệp hoạt động với tổ chức bộ máy và chức năng nhiệm vụ được giao

như nói trên trong vòng 10 năm, từ năm 1976 đến hết năm 1986. Sau Đại hội Đảng toàn

quốc lần thứ VI (tháng 12 năm 1986), để thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội theo tinh

thần đổi mới toàn diện của Đảng, ngày 16 tháng 2 năm 1987, Hội đồng Nhà nước đã ra

Nghị quyết kiện toàn một bước các cơ quan và thành phần Hội đồng Bộ trưởng. Đó là thời

điểm thành lập Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm trên cơ sở hợp nhất ba bộ: Bộ

Nông nghiệp, Bộ Công nghiệp thực phẩm và Bộ Lương thực.

3. Quá trình thành lập và kiện toàn các cơ quan quản lý ngành lâm nghiệp thời

kỳ 1976-1986

Sau ngày giải phóng miền Nam năm 1975, để thực hiện đường lối phát triển kinh tế,

ngành lâm nghiệp phải triển khai rất nhiều công việc phức tạp cả về tổ chức và kinh tế kỹ

thuật với phạm vi hoạt động đã được mở rộng trên cả nước. Trong thời gian chưa thống

nhất về mặt Nhà nước giữa hai miền Nam Bắc, ngành lâm nghiệp nước ta lúc đó có ba cơ

quan quản lý trực thuộc khác nhau:

- Tổng cục Lâm nghiệp ở Hà Nội, là cơ quan trực thuộc Chính phủ Nước Việt Nam

Dân chủ cộng hòa;

- Ban Lâm nghiệp Trung Trung Bộ ở thành phố Đà Nẵng, trực thuộc Ủy ban Nhân

dân Cách mạng Trung Trung Bộ;

(1)

Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, T3

(1976 - 1992), Sđd, tr. 344, 347.

Page 40: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

40

- Tổng cục Lâm nghiệp miền Nam ở Sài Gòn, trực thuộc Chính phủ Cách mạng lâm

thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

Các cơ quan này đã có kế hoạch phối hợp về tổ chức, phương thức quản lý, điều phối

nguồn lực của mình để xây dựng hệ thống tổ chức lâm nghiệp ở từng vùng phù hợp với

yêu cầu của đất nước sau khi thống nhất. Cùng với việc thành lập Chính phủ thống nhất cả

nước năm 1976, nhu cầu hợp nhất các tổ chức quản lý lâm nghiệp để hình thành cơ quan

cấp Trung ương đủ mạnh trở nên cấp thiết.

Từ ngày 24 tháng 6 đến ngày 3 tháng 7 năm 1976, khi kỳ họp thứ nhất Quốc hội

nước Việt Nam thống nhất (khóa VI) đã phê duyệt thành phần của Hội đồng Chính phủ,

trong Hội đồng Chính phủ có Bộ Lâm nghiệp. Như vậy, bắt đầu từ tháng 7 năm 1976, Bộ

Lâm nghiệp được thành lập. Toàn bộ cơ cấu tổ chức của Tổng cục Lâm nghiệp ở miền

Bắc, Ban Lâm nghiệp Trung Trung Bộ và Tổng cục Lâm nghiệp miền Nam đều đặt dưới

sự quản lý thống nhất của Bộ Lâm nghiệp. Ông Hoàng Văn Kiểu được cử làm Bộ trưởng.

Trong nhiệm kỳ Hội đồng Chính phủ (1976-1981), ông Hoàng Văn Kiểu giữ chức

Bộ trưởng đến tháng 2 năm 1979. Tiếp theo ông Trần Kiên được bổ nhiệm làm Bộ trưởng

thay cho ông Hoàng Văn Kiểu. Tháng 1 năm 1981, ông Phan Xuân Đợt được bổ nhiệm

làm Bộ trưởng thay cho ông Trần Kiên.

Trong nhiệm kỳ (1981-1987), Hội đồng Chính phủ được kiện toàn, trở thành Hội

đồng Bộ trưởng. Ông Phan Xuân Đợt được kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa VII (từ ngày 25

tháng 6 đến 4 tháng 7 năm 1981) tiếp tục được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Lâm nghiệp

trong nhiệm kỳ Hội đồng Bộ trưởng (1981-1987) và nhiệm kỳ sau đó (1987-1992).

Trong 10 năm, từ 1976 đến 1986, Chính phủ đã bổ nhiệm 11 Thứ trưởng Bộ Lâm

nghiệp là các ông Nguyễn Đình Ngữ (1976-1978); Huỳnh Văn Nghệ (1976-1977); Phạm

Đình Sơn (1976-1983); Hoàng Bửu Đôn (1976-1979); Trần Văn Quế (1976-1985); Phan

Xuân Đợt (1978-1980); Trần Sơn Thủy (1978-1995); Nguyễn Hữu Quang (1978-1990); Tô

Văn Bình (1983-1991); Phan Thanh Xuân (1985-1992); Thân Trung Hiếu (1985-1990)(1)

.

Trong giai đoạn này, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của Bộ Lâm

nghiệp và hệ thống cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp trong ngành lâm nghiệp từ

Trung ương đến địa phương có nhiều thay đổi gắn với sự phát triển của ngành.

Thời điểm mới thành lập năm 1976, Bộ Lâm nghiệp được giao quản lý ngành lâm

nghiệp trên phạm vi cả nước theo các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn đã

được Chính phủ ban hành cho Tổng cục Lâm nghiệp từ năm 1961 đến năm 1976, như Nghị

định số 140-CP ngày 29 tháng 9 năm 1961 và các quy định sửa đổi, bổ sung về tổ chức bộ

(1)

Bộ Nông nghiệp và PTNT: Lâm nghiệp Việt Nam 1945 - 2000. NXB Nông nghiệp, H. 2001, tr. 167-168.

Page 41: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

41

máy của Tổng cục Lâm nghiệp trong các năm 1963-1964; Quyết định số 12-CP ngày 15

tháng 1 năm 1964; Nghị định số 101-CP ngày 21 tháng 5 năm 1973.

Với kết quả kiện toàn tổ chức bộ máy của Tổng cục Lâm nghiệp trước năm 1976, khi

thành lập Bộ Lâm nghiệp, tổ chức bộ máy ban đầu của Bộ gồm có: Văn phòng; Ban Thanh

tra; các Vụ (Vụ Tổ chức và quản lý kinh tế, Vụ Cán bộ và đào tạo, Vụ Lao động và tiền

lương, Vụ Kế hoạch, Vụ Tài vụ, Vụ Khoa học kỹ thuật, Vụ Sản xuất); các Cục (Cục Trồng

rừng; Cục khai thác, vận chuyển và phân phối lâm sản; Cục Chế biến lâm sản, Cục Cơ khí

vật tư, Cục Kiến thiết cơ bản, Cục Kiểm lâm nhân dân). Ngoài ra còn có Viện Nghiên cứu

lâm nghiệp, Viện Thiết kế công trình Lâm nghiệp, Viện Điều tra quy hoạch rừng; các đơn

vị sản xuất kinh doanh do Tổng cục quản lý, như các công ty, tổng công ty chuyên ngành

(Tổng công ty Phân phối lâm sản, Công ty Chế biến Gỗ đồng bằng, Công ty Giống và phục

vụ trồng rừng, Công ty Lâm đặc sản xuất khẩu…); các lâm trường quốc doanh trực thuộc

Tổng cục Lâm nghiệp...

Trong giai đoạn từ 1976 đến 1986 tổ chức bộ máy của Bộ Lâm nghiệp tiếp tục được

kiện toàn. Ngày 18 tháng 7 năm 1977, Hội đồng Chính phủ có Quyết định số 207-CP giao

cho Bộ Lâm nghiệp tiếp nhận công tác vận động định canh, định cư từ Bộ Nông nghiệp

chuyển sang cùng với đội ngũ cán bộ chuyên trách(1)

.

Ngày 8 tháng 10 năm 1979, Hội đồng Chính phủ có Nghị định số 368-CP sửa đổi, bổ

sung Nghị định số 101-CP ngày 21 tháng 5 năm 1973 về hệ thống tổ chức và nhiệm vụ,

quyền hạn và lực lượng kiểm lâm nhân dân. Từ kinh nghiệm qua thực tế sáu năm hoạt

động, tên gọi của Cục Kiểm lâm nhân dân vẫn giữ nguyên, nhưng chức năng, nhiệm vụ của

Cục và hệ thống tổ chức ngành kiểm lâm được thay đổi, tăng cường và quy tụ về đầu mối

quản lý chung của ngành lâm nghiệp. Bắt đầu từ thời điểm này, hệ thống tổ chức kiểm lâm

nhân dân gồm có:

- Ở Trung ương: Cục Kiểm lâm nhân dân trực thuộc Bộ Lâm nghiệp;

- Ở các tỉnh có rừng: Chi cục Kiểm lâm nhân dân trực thuộc Ty lâm nghiệp;

- Ở các huyện có rừng: Hạt Kiểm lâm nhân dân trực thuộc Ban Nông Lâm nghiệp.

- Ở những nơi tập trung đầu mối giao thông quan trọng, như đường thủy, đường sắt,

đường bộ thì có thể thành lập các Hạt Kiểm soát lâm sản trực thuộc Chi cục Kiểm lâm

nhân dân tỉnh(2)

.

Sau đó Bộ Lâm nghiệp có Thông tư số 32-TCCB ngày 9 tháng 9 năm 1982 hướng

dẫn xây dựng và kiện toàn các lực lượng quản lý, bảo vệ rừng. Ở những nơi chưa có Sở,

Ty Lâm nghiệp thì Chi cục Kiểm lâm nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo của Ủy ban nhân dân

tỉnh, thành phố. Hệ thống tổ chức cán bộ của các chi cục kiểm lâm, hạt kiểm lâm được quy

(1)

Hội đồng Chính phủ: Quyết định số 207-CP ngày 18 tháng 7 năm 1977. Thuvienphapluat.vn (2)

Hội đồng Chính phủ: Nghị định số 368-CP ngày 8 tháng 10 năm 1979. Thuvienphapluat.vn

Page 42: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

42

định gọn nhẹ, với chức năng, nhiệm vụ và cơ chế phối hợp quản lý, chỉ đạo giữa Trung

ương với chính quyền địa phương được làm rõ(1)

.

Đến năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng có Nghị định số 35-CP ngày 9 tháng 2 năm 1981

quy định nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Bộ trưởng và chức năng của Bộ trong một

số lĩnh vực quản lý nhà nước. Căn cứ Nghị định này, Hội đồng Bộ trưởng đã ra Quyết định

số 130-HĐBT ngày 9 tháng 11 năm 1981 về sửa đổi một số tổ chức thuộc Bộ Lâm nghiệp.

Tiếp đó, các đơn vị sự nghiệp khoa học và đào tạo, sản xuất kinh doanh của ngành lâm

nghiệp được kiện toàn, sắp xếp lại.

Ngay sau khi thành lập Bộ Lâm nghiệp, Hội đồng Chính phủ đã ra Quyết định số

193-CP ngày 9 tháng 10 năm 1976 về việc tổ chức lại hệ thống chế biến và cung ứng vật tư

lâm sản thuộc Bộ Lâm nghiệp. Theo đó Chính phủ cho hợp nhất Công ty Chế biến gỗ đồng

bằng và Công ty vật tư lâm sản thành Công ty Chế biến, cung ứng lâm sản I. Đồng thời

Chính phủ cho thành lập Công ty Chế biến, cung ứng lâm sản II hoạt động ở các tỉnh

Trung Trung Bộ cũ; thành lập Công ty Chế biến, cung ứng lâm sản III, hoạt động ở các

tỉnh Lâm Đồng, Thuận Hải trở vào. Cùng ngày, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 194-CP

về thành lập Công ty Giống và phục vụ trồng rừng thuộc Bộ Lâm nghiệp(2)

.

Bốn năm sau, các Công ty Chế biến, cung ứng lâm sản nói trên được hợp nhất về tổ

chức để thành lập Tổng công ty Chế biến và cung ứng lâm sản trực thuộc Bộ Lâm

nghiệp(3)

. Sau đó 2 năm, ngày 1 tháng 2 năm 1982, Hội đồng Bộ trưởng có Nghị định số

12-HĐBT cho giải thể Tổng công ty Chế biến và cung ứng lâm sản để thành lập các Liên

hiệp Chế biến và cung ứng lâm sản thuộc Bộ Lâm nghiệp, gồm Liên hiệp Chế biến và cung

ứng lâm sản I, hoạt động trong phạm vi từ Bình Trị Thiên đến hết các tỉnh phía Bắc; Liên

hiệp Chế biến và cung ứng lâm sản II, hoạt động trong phạm vi từ Quảng Nam - Đà Nẵng

đến Phú Khánh và các tỉnh Tây Nguyên; Liên hiệp Chế biến và cung ứng lâm sản III, hoạt

động trong phạm vi từ Thuận Hải, Lâm Đồng trở vào đến hết các tỉnh Nam Bộ(4)

.

Đến năm 1985, Hội đồng Bộ trưởng cho thành lập Tổng công ty Xuất nhập khẩu lâm

sản thuộc Bộ Lâm nghiệp. Trên cơ sở thành lập Tổng Công ty này, Bộ Lâm nghiệp tiếp

nhận nhiệm vụ kinh doanh xuất nhập khẩu lâm sản và tổ chức cán bộ, lao động, cơ sở vật

chất, vốn, tài sản có liên quan chuyển từ Bộ Ngoại thương sang(5)

.

Trực thuộc Bộ Lâm nghiệp thời kỳ này còn có các đơn vị sản xuất kinh doanh đặc

thù là các lâm trường và liên hiệp lâm - công nghiệp. Sau khi thống nhất đất nước, lực

(1)

Bộ Lâm nghiệp: Thông tư số 32-TCCB ngày 9 tháng 9 năm 1982. Thuvienphapluat.vn (2)

Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, T3

(1976 - 1992), Sđd, tr. 32. (3)

Hội đồng Chính phủ: Quyết định số 75-CP ngày 6 tháng 3 năm 1980. Thuvienphapluat.vn (4)

Hội đồng Bộ trưởng: Nghị định số 12-HĐBT ngày 1 tháng 2 năm 1982. Thuvienphapluat.vn (5)

Hội đồng Bộ trưởng: Nghị định số 09-HĐBT ngày 14 tháng 1 năm 1985. Thuvienphapluat.vn

Page 43: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

43

lượng các lâm trường quốc doanh có bước phát triển mới. Năm 1975, trên miền Bắc đã có

gần 200 lâm trường quốc doanh, làm nhiệm vụ sản xuất lâm sản và trồng rừng. Ngay sau

khi giải phóng miền Nam, Bộ Lâm nghiệp đã chú trọng giúp các địa phương phía Nam

thành lập các lâm trường quốc doanh, nhằm thực hiện nhiệm vụ khai thác rừng và trồng

cây gây rừng. Các lâm trường quốc doanh đầu tiên ở phía Nam được thành lập thuộc các

tỉnh Tây Nguyên, Quảng Nam - Đà Nẵng, Phú Khánh, Đồng Nai, Sông Bé. Đến đầu năm 1978,

ở miền Nam đã thành lập được 60 lâm trường quốc doanh trên địa bàn nhiều rừng hoặc

nhiều đất trống, đồi trọc, được tổ chức và hoạt động theo mô hình các lâm trường miền Bắc

trước giải phóng, với phần lớn cán bộ kỹ thuật và cán bộ quản lý chủ chốt được bổ sung từ

các lâm trường miền Bắc.

Trong giai đoạn 1975-1979, hệ thống lâm trường quốc doanh cả nước đã tiếp nhận

lực lượng quân đội tham gia xây dựng kinh tế lâm nghiệp. Hơn 40 nghìn thanh niên các

tỉnh Đồng bằng Bắc Bộ vào ngành lâm nghiệp để xây dựng ngay 41 lâm trường quốc

doanh ở các tỉnh biên giới phía Bắc, tạo nên lực lượng cán bộ, công nhân, viên chức, lao

động hùng hậu trong khối các lâm trường quốc doanh. Các lâm trường trực thuộc Bộ Lâm

nghiệp sau đó được đưa vào tổ chức của các Liên hiệp Lâm - Công nghiệp.

Trong năm 1979, Hội đồng Chính phủ có Quyết định số 439-CP ngày 12 tháng 12

năm 1979 về việc thành lập các Liên hiệp Lâm - Công nghiệp trực thuộc Bộ Lâm nghiệp.

Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (tháng 3 năm 1982), Đảng và Nhà nước

ta đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm cải tiến một bước trong quản lý kinh tế, tuy

vậy vẫn còn mang nặng cơ chế quản lý hành chính quan liêu, bao cấp; nhiều chính sách

chưa thật sự phù hợp, đã kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Vì vậy, Hội nghị

lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá V (họp ngày 3 tháng 7 năm 1984) đã bàn và

ra Nghị quyết về những nhiệm vụ cấp bách trong công tác cải tiến quản lý kinh tế. Có hai

nhiệm vụ quan trọng trong cải tiến quản lý kinh tế là sắp xếp và tổ chức lại sản xuất; và cải

tiến cơ chế quản lý các đơn vị cơ sở sản xuất.

Để thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa V, ngày 23 tháng 2 năm 1985,

Hội đồng Bộ trưởng có Nghị quyết số 52-HĐBT về cải tiến quản lý các lâm trường quốc

doanh. Chính phủ yêu cầu Bộ Lâm nghiệp chú trọng kiện toàn các liên hiệp lâm - nông -

công nghiệp hiện có; chuẩn bị đề án thành lập những liên hiệp nông - lâm - công nghiệp

mới ở một số vùng kinh tế lâm nghiệp lớn và xây dựng điều lệ tổ chức quản lý của liên

hiệp; thực hiện phân công, phân cấp quản lý lâm trường quốc doanh và liên hiệp lâm -

nông - công trường. Trung ương chỉ trực tiếp quản lý các lâm trường quốc doanh và liên

hiệp lâm - nông - công nghiệp ở những vùng rừng có tầm quan trọng lớn về cung cấp lâm

sản, sản phẩm sản xuất có nhiệm vụ cung ứng cho các vùng khác, cho các nhu cầu trọng

Page 44: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

44

điểm của cả nước, đòi hỏi vốn đầu tư lớn, trình độ kỹ thuật và yêu cầu quản lý phức tạp,

các cơ sở sản xuất giống quốc gia, các khu rừng có giá trị về nghiên cứu khoa học, bảo vệ

thiên nhiên.

Cùng với sắp xếp lại tổ chức, công tác quản lý nhà nước đối với các lâm trường quốc

doanh cũng được tăng cường, trên cơ sở thiết lập chặt chẽ quan hệ quản lý theo ngành và

theo lãnh thổ giữa Bộ Lâm nghiệp và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố(1)

.

Cùng với việc thành lập Bộ Lâm nghiệp, tổ chức quản lý ngành Lâm nghiệp ở các

địa phương trong thời kỳ từ 1976 đến 1986 cũng được kiện toàn. Đến năm 1980, cả

nước có 30 Ty Lâm nghiệp (sau này đổi thành Sở Lâm nghiệp) ở các tỉnh có nhiều rừng

trong tổng số 38 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương lúc đó. Đồng thời, cơ quan

quản lý lâm nghiệp ở cấp huyện và xã cũng được kiện toàn và thống nhất trong toàn

quốc. Sau khi Chính phủ có Quyết định số 152-CP ngày 9 tháng 4 năm 1981 về điều

chỉnh, sắp xếp lại các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân huyện, ở cấp huyện,

thay vì các Hạt Lâm nghiệp, Phòng Lâm nghiệp, Phòng Nông Lâm… trước đây, đã

thành lập Ban Nông nghiệp huyện, có nhiệm vụ giúp Ủy ban nhân dân huyện quản lý

nhà nước các ngành, các mặt công tác như: nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, kinh

tế mới, định canh định cư, quản lý ruộng đất… Ngoài ra, Ban Nông nghiệp huyện có

các hạt kiểm lâm trực thuộc Chi cục Kiểm lâm tỉnh, chịu sự lãnh đạo của Ủy ban Nhân

dân huyện thực hiện nhiệm vụ kiểm lâm trên địa bàn huyện. Chỉ có một số ít huyện tiếp

tục duy trì Phòng Lâm nghiệp huyện.

Ở cấp xã có ba mô hình: xã có Ban Lâm nghiệp xã; xã có cán bộ chuyên trách về

lâm nghiệp; xã không thành lập Ban Lâm nghiệp và cũng không có cán bộ chuyên trách

về lâm nghiệp.

4. Quá trình thành lập và kiện toàn các cơ quan quản lý ngành thủy sản thời kỳ

1976 - 1986

a) Thành lập Bộ Hải sản năm 1976

Sau khi thống nhất đất nước, phạm vi quản lý ngành của Tổng cục Thủy sản mở rộng

trên toàn quốc. Quy mô thay đổi và nhu cầu phát triển đồng bộ nhiều lĩnh vực mang tính

chất công nghiệp, nông nghiệp, thương mại và dịch vụ cấu thành trong một hệ thống thống

nhất của ngành thủy sản cũng tăng lên. Trong khi đó, Tổng cục Thủy sản tuy là một cơ

quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước, nhưng người

đứng đầu lại không phải là thành viên Chính phủ. Trước nhu cầu phát triển ngành thủy sản,

hệ thống tổ chức ngành thủy sản được tăng cường(2)

.

(1)

Hội đồng Bộ trưởng: Nghị quyết số 52-HĐBT ngày 23 tháng 2 năm 1985. Thuvienphapluat.vn (2)

Ban Chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, tập 3 (1976-2005), Sđd, tr. 20.

Page 45: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

45

Vì thế, mặc dù trong thành phần Chính phủ được kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa V

(khai mạc ngày 3 tháng 6 năm 1975) thông qua vẫn giữ nguyên tổ chức của Tổng cục Thủy

sản, nhưng sau đó một năm, đến kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa VI - Quốc hội chung của

cả nước, Bộ Hải sản đã được thành lập, thay thế cho Tổng cục Thủy sản, là một trong số

33 bộ và cơ quan ngang bộ thuộc Hội đồng Chính phủ được Quốc hội phê duyệt. Bộ Hải

sản hoạt động từ năm 1976 đến 1981. Từ 1981 trở đi đổi tên thành Bộ Thủy sản.

Bộ trưởng đầu tiên của Bộ Hải sản là ông Võ Chí Công, Phó Thủ tướng kiêm chức(1)

.

Sau này, đến ngày 18 tháng 2 năm 1977, theo đề nghị của Thủ tướng, Chủ tịch Ủy ban

Thường vụ Quốc hội Trường Chinh đã ký quyết định phân công lại và bổ nhiệm một số

thành viên của Hội đồng Chính phủ. Theo đó, ông Võ Chí Công thôi kiêm chức Bộ trưởng

Bộ Hải sản; ông Nguyễn Quang Lâm được bổ nhiệm làm Bộ trưởng. ông Nguyễn Quang

Lâm làm Bộ trưởng Bộ Hải sản trong 9 tháng. Đến ngày 17 tháng 11 năm 1977, Chủ tịch

nước Tôn Đức Thắng ký Lệnh số 79-LCT bổ nhiệm và miễn nhiệm một số thành viên của

Hội đồng Chính phủ. Ông Đỗ Chính, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng được

bổ nhiệm làm Bộ trưởng thay ông Nguyễn Quang Lâm nhận nhiệm vụ khác(1)

. Ông Đỗ

Chính làm Bộ trưởng Bộ Hải sản cho đến tháng 1 năm 1981. Sau đó, ông Nguyễn Tấn

Trịnh, Thứ trưởng Bộ Hải sản được bổ nhiệm làm Bộ trưởng thay cho ông Đỗ Chính.

Bước vào nhiệm kỳ Quốc hội khóa VII (1981-1987), Bộ Hải sản được đổi tên thành

Bộ Thủy sản. Ông Nguyễn Tấn Trịnh tiếp tục được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Thủy sản

cho đến năm 1996(2)

.

Cùng với việc thành lập Bộ Hải sản năm 1976, chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà

nước và tổ chức bộ máy của Bộ cùng hệ thống quản lý ngành dọc ở các địa phương hai

miền Nam Bắc cũng được thống nhất và tăng cường. Hiệu lực quản lý thống nhất ngành

trên phạm vi toàn quốc bước đầu được thiết lập và từng bước được củng cố.

Ngày 8 tháng 1 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 2-CP quy

định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Hải sản. Bộ Hải sản là cơ quan của

Hội đồng Chính phủ có trách nhiệm thống nhất quản lý nhà nước toàn ngành hải sản trong

phạm vi cả nước theo đường lối, chính sách của Đảng và quy hoạch, kế hoạch, pháp luật

của Nhà nước; quản lý và chỉ đạo công tác khai thác và bảo vệ, chế biến, nuôi trồng và

kinh doanh hải sản nước mặn, nước lợ trong nền kinh tế quốc dân.

Để thực hiện các nhiệm vụ được giao, tổ chức bộ máy của Bộ Hải sản gồm các khối

cơ quan đơn vị:

1) Các tổ chức sản xuất, kinh doanh trực thuộc Bộ gồm các đơn vị: Công ty Hải sản I

(1)

Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, T3

(1976-1992), Sđd, tr. 53, 105. (2)

Cổng thông tin điện tử Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Chính phủ nhiệm kỳ Quốc

hội khóa VI (1976-1981), khóa VII (1981-1987), khóa VIII (1987-1992), khóa IX (1992-1997).

Page 46: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

46

(hoạt động ở các tỉnh phía Bắc từ Nghệ Tĩnh trở ra); Công ty Hải sản II (hoạt động ở các

tỉnh từ Bình Trị Thiên đến Thuận Hải); Công ty Hải sản III (hoạt động ở các tỉnh phía Nam

từ Đồng Nai trở vào); Xí nghiệp liên hợp Hải sản Hải Phòng; và các công ty, xí nghiệp

khác thuộc diện quản lý của Bộ.

2) Các tổ chức sự nghiệp, nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

công nhân trực thuộc Bộ gồm có: Viện nghiên cứu Hải sản; Viện nghiên cứu Nuôi trồng

thủy sản; Trường Đại học Hải sản; và các trường trung học kỹ thuật, công nhân kỹ thuật,

bổ túc văn hoá và nghiệp vụ quản lý, các phân viện nghiên cứu hải sản, các tổ chức khảo

sát và thiết kế, các trạm điều dưỡng thuộc diện quản lý của Bộ.

3) Các cơ quan chức năng thuộc Bộ gồm: Văn phòng; Ban Thanh tra; 07 Vụ (Vụ Kế

toán, tài vụ, thống kê; Vụ Cải tiến quản lý và hợp tác hóa nghề cá; Vụ Quản lý kỹ thuật;

Vụ Vật tư và tiêu thụ; Vụ Kế hoạch; Vụ Tổ chức, cán bộ và đào tạo; Vụ Lao động tiền

lương); 03 Cục (Cục Chỉ đạo sản xuất và bảo vệ; Cục Cơ khí tàu, thuyền; Cục Xây dựng

cơ bản); và các đơn vị thuộc diện quản lý của Bộ như Hội đồng trọng tài kinh tế, Hội đồng

kinh tế kỹ thuật, v.v…

Ở địa phương thành lập các Ty, Sở Thủy sản ở những tỉnh và thành phố có biển trực

thuộc Trung ương. Ty, Sở Thủy sản là cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân tỉnh

thành phố, có trách nhiệm giúp Ủy ban thống nhất quản lý ngành thủy sản ở tỉnh và thành

phố, vừa chịu sự lãnh đạo của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố, vừa chịu sự lãnh đạo của

Bộ Hải sản theo nguyên tắc hai chiều lãnh đạo(1)

.

Trong quá trình hoạt động của Bộ Hải sản (1976-1981), chức năng, nhiệm vụ của Bộ

có những điều chỉnh, bổ sung sửa đổi và được kiện toàn về tổ chức bộ máy. Ngày 28 tháng 3

năm 1978, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 66-CP chuyển giao nhiệm vụ nuôi cá

nước ngọt và Cục Nuôi cá nước ngọt từ Bộ Nông nghiệp về Bộ Hải sản nhằm tăng cường

sự quản lý thống nhất nghề cá.

Để mở rộng các hoạt động sản xuất kinh doanh, xuất khẩu hải sản, việc thành lập

thêm các đơn vị sản xuất kinh doanh hải sản được Chính phủ quan tâm trong những năm

cuối thập niên 1970. Trong năm 1978, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 154-CP ngày 26

tháng 6 năm 1978 thành lập Tổng công ty Vật tư và thu mua hải sản (gọi tắt là Tổng công

ty Hải sản) trực thuộc Bộ Hải sản trên cơ sở ba Công ty hiện có là Công ty Hải sản 1, Công

ty Hải sản 2 và Công ty Hải sản 3(2)

.

Cùng ngày, Hội đồng Chính phủ còn ra Quyết định số 155-CP thành lập Công ty

Xuất khẩu hải sản trực thuộc Bộ Hải sản. Tổ chức của Công ty xuất khẩu hải sản gồm có

các đơn vị trực thuộc là các Xí nghiệp chế biến hải sản, Xí nghiệp vận tải, Xí nghiệp cơ

(1)

Hội đồng Chính phủ: Nghị định số 2-CP ngày 8 tháng 1 năm 1977. Thuvienphapluat.vn (2)

Hội đồng Chính phủ: Quyết định số 154-CP ngày 26 tháng 6 năm 1978. Thuvienphapluat.vn

Page 47: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

47

khí 3-2…(1)

Đến ngày 13 tháng 10 năm 1978, Hội đồng Chính phủ ra tiếp Quyết định số 257-CP

cho phép thành lập Công ty Vật tư và thu mua hải sản Trung ương (gọi tắt là Công ty Hải

sản Trung ương) trực thuộc Bộ Hải sản(2)

.

Việc thành lập Bộ Hải sản với chức năng, nhiệm vụ được tăng cường và hệ thống tổ

chức bộ máy được kiện toàn đã giúp cho Chính phủ thống nhất quản lý ngành thủy sản từ

Trung ương đến địa phương, trong tất cả các nhiệm vụ nuôi cá nước ngọt đến các khâu

đánh bắt, thu mua, chế biến hải sản. Bước sang thập kỷ 1980, nhu cầu về thủy hải sản ngày

càng lớn. Bộ Hải sản đã giúp Chính phủ xây dựng và ban hành các quyết định, chỉ thị phát

triển ngành thủy sản, như Chỉ thị số 291-TTg ngày 24 tháng 10 năm 1980 của về việc đẩy

mạnh đánh bắt, thu mua, chế biến và vận chuyển hải sản cung cấp cho cán bộ, công nhân,

viên chức; Chỉ thị số 330-TTg ngày 25 tháng 12 năm 1980 về công tác cải tạo và phát triển

nghề cá biển; Quyết định số 16-CP ngày 1 tháng 1 năm 1981 về việc trả lương khoán,

lương sản phẩm, tiền thưởng trong các đơn vị quốc doanh, tập thể khai thác và nuôi trồng

thủy sản…

Thực hiện Chỉ thị của Chính phủ, Bộ Hải sản tập trung củng cố các xí nghiệp quốc

doanh đánh cá, thực hiện tốt kế hoạch hợp tác đánh cá với Liên Xô và chỉ đạo chặt chẽ các

công ty hải sản các tỉnh trọng điểm tăng cường khai thác, thu mua hải sản tươi và chế biến

để đảm bảo cung cấp hải sản cho xuất khẩu, cho nhu cầu tiêu dùng của Hà Nội, thành phố

Hồ Chí Minh, một số khu công nghiệp lớn và quân đội. Để thực hiện các nhiệm vụ này, Bộ

Hải sản được Chính phủ giao tổ chức và quản lý toàn diện từ khâu đánh bắt đến thu mua,

chế biến và vận chuyển hải sản đến các nhà ga, bến cảng thuận tiện nhất để giao cho ngành

nội thương tổ chức phân phối, bán lẻ. Riêng đối với quân đội và Hà Nội, Bộ Hải sản căn cứ

vào kế hoạch phân phối hải sản của Nhà nước để ký hợp đồng giao, nhận trực tiếp, không

qua cấp I nội thương. Đối với những nơi sản xuất lẻ tẻ, ngành hải sản chưa vươn tới để thu

mua được hết sản phẩm, có thể uỷ thác cho cơ quan thương nghiệp địa phương thu mua,

chế biến phục vụ nhu cầu ở địa phương(3)

.

b) Thành lập Bộ Thủy sản năm 1981

Từ ngày 25 tháng 6 đến ngày 4 tháng 7 năm 1981, kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa

VII đã phê chuẩn Hội đồng Chính phủ đổi thành Hội đồng Bộ trưởng. Bộ Thủy sản được

thành lập thay thế cho Bộ Hải sản, kế thừa toàn bộ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ

cấu tổ chức của Bộ Hải sản. Ngay sau khi được thành lập năm 1981, Bộ Thủy sản đã bắt

tay vào triển khai thực hiện kế hoạch phát triển ngành thủy sản năm 1981, kiện toàn lại tổ

(1)

Hội đồng Chính phủ: Quyết định số 155-CP ngày 26 tháng 6 năm 1978. Thuvienphapluat.vn (2)

Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Biên niên lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, T3

(1976-1992), Sđd, tr. 139, 159, 180. (3)

Thủ tướng Chính phủ: Chỉ thị số 291-TTg ngày 24 tháng 10 năm 1980. Thuvienphapluat.vn

Page 48: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

48

chức bộ máy, đồng thời xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch 5 năm (1981-1985), định

hướng đến 1990 của ngành thủy sản. Giai đoạn 1981-1986 là 5 năm “tiền đổi mới”, mở

đầu cho thời kỳ phát triển mạnh mẽ của ngành thủy sản nhờ những cải tiến có tính đột phá

trong cơ chế quản lý của ngành. Hai năm đầu (1981-1982) của kế hoạch 5 năm ngành thủy

sản đã thực hiện vượt mức kế hoạch Nhà nước; trong đó, việc kinh doanh xuất nhập khẩu

đạt mức cao nhất so với trước đấy. Một số chính sách quản lý được đổi mới đã thúc đẩy

nghề cá phát triển, từng bước khắc phục có hiệu quả cơ chế quản lý hành chính bao cấp.

Bộ máy tổ chức của ngành được kiện toàn một bước, chỉ đạo sản xuất tốt hơn, việc ứng

dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất được chú ý.

Trong các năm từ 1981 đến 1986, tổ chức bộ máy của Bộ Thủy sản và các đơn vị

trực thuộc có một số thay đổi cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ mới của Bộ Thủy sản.

Ngày 2 tháng 6 năm 1983, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã có Quyết định số 150-CT về

sửa đổi tổ chức mạng lưới nghiên cứu nuôi trồng thủy sản thuộc Bộ Thủy sản.

Cũng trong năm 1983, Chính phủ cho chuyển Cục Cơ khí tàu thuyền thành Công ty

Cơ khí về tàu thuyền thuộc Bộ Thủy sản theo Nghị định số 38-HĐBT ngày 2 tháng 5 năm

1983. Trực thuộc công ty gồm các cơ sở sản xuất, kinh doanh, nghiên cứu và chi nhánh

đóng tại thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng và tỉnh Quảng Nam- Đà Nẵng(1)

.

Ngày 22 tháng 10 năm 1985, Hội đồng Bộ trưởng có Quyết định số 254-HĐBT

chuyển nhiệm vụ thu mua, chế biến và bán buôn hàng hải sản từ Bộ Nội thương sang Bộ

Thủy sản. Theo đó, các cán bộ, nhân viên, cơ sở vật chất kỹ thuật, phương tiện và vốn đang

sử dụng vào việc thực hiện nhiệm vụ đó được chuyển giao từ Bộ Nội thương cho Bộ Thủy

sản. Các công ty bán lẻ thuộc hệ thống nội thương tiếp tục làm nhiệm vụ bán lẻ các mặt

hàng hải sản do ngành thủy sản giao (bán buôn)(2)

.

Sau này, khi bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước từ năm 1986, chức năng,

nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Bộ Thủy sản tiếp tục có nhiều bước thay đổi, kiện toàn.

5. Quá trình thành lập và kiện toàn các cơ quan quản lý ngành lương thực và

công nghiệp thực phẩm thời kỳ 1976-1986

a) Giai đoạn Bộ Lương thực và Thực phẩm tiếp tục hoạt động (1976-1981)

Bước vào giai đoạn 1976-1986, Bộ Lương thực và Thực phẩm tiếp tục tiếp tục thực

hiện chức năng nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với ngành lương thực, công nghiệp thực

phẩm trong thời gian từ năm 1977 đến 1981. Trong thời gian đó, ông Ngô Minh Loan làm

Bộ trưởng Bộ Lương thực và Thực phẩm đến tháng 4 năm 1979. Ông Hồ Viết Thắng được

bổ nhiệm làm Bộ trưởng thay ông Ngô Minh Loan và giữ chức đến tháng 1 năm 1981, trước

(1)

Hội đồng Bộ trưởng: Nghị định số 38-HĐBT ngày 2 tháng 5 năm 1983. Thuvienphapluat.vn (2)

Hội đồng Bộ trưởng: Quyết định số 254-HĐBT ngày 22 tháng 10 năm 1985. Thuvienphapluat.vn

Page 49: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

49

khi chia tách Bộ(1)

. Cơ cấu tổ chức của Bộ được giữ ổn định như trong giai đoạn trước.

b) Tách Bộ Lương thực và Thực phẩm năm 1981

Năm 1981 là năm bắt đầu nhiệm kỳ mới của Chính phủ (1981-1987), với một số thay

đổi về cơ cấu tổ chức bộ máy trong Hội đồng Chính phủ. Ủy ban Thường vụ Quốc hội họp

ngày 22 tháng 1 năm 1981 đã có Nghị quyết số 1236-NQ/QHK6 về việc thành lập hai bộ:

Bộ Lương thực và Bộ Công nghiệp Thực phẩm(2)

. Từ ngày 25 tháng 6 đến ngày 4 tháng 7

năm 1981, Quốc hội khóa VII đã họp kỳ thứ nhất, thông qua nhiều đạo luật quan trọng và

bầu Chính phủ nhiệm kỳ mới. Hội đồng Chính phủ được đổi thành Hội đồng Bộ trưởng.

Việc tách Bộ Lương thực và Thực phẩm thành hai bộ là thực hiện chủ trương tăng

cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo điều hành từ Trung ương đến địa phương đối với lĩnh vực

đảm bảo lương thực và phát triển sản xuất hàng hóa tiêu dùng thiết yếu cho nhân dân,

trong đó có thực phẩm.

Ngay sau khi có Nghị quyết số 1236-NQ/QHK6 ngày 22 tháng 1 năm 1981 của Ủy

ban Thường vụ Quốc hội khóa VI, Chủ tịch nước có Lệnh số 19-LCT ngày 23 tháng 1 năm 1981

bổ nhiệm và miễn nhiệm một số thành viên của Hội đồng Chính phủ. Theo đó, ông Hồ Viết

Thắng được thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Lương thực và Thực phẩm; ông Vũ Tuân thôi giữ

chức Bộ trưởng Phủ Thủ tướng để giữ chức Bộ trưởng Bộ Công nghiệp thực phẩm; ông La

Lâm Gia giữ chức Bộ trưởng Bộ Lương thực.

Ngày 23 tháng 4 năm 1981 Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 167/CP

quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Công nghiệp Thực

phẩm; Nghị định số 168/CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy

của Bộ Lương thực.

c) Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Bộ Công nghiệp thực phẩm

Theo Nghị định số 167/CP ngày 23 tháng 4 năm 1981 của Chính phủ, Bộ Công

nghiệp thực phẩm là cơ quan của Hội đồng Chính phủ, có chức năng quản lý nhà nước

toàn ngành công nghiệp thực phẩm (bao gồm công nghiệp thực phẩm ở trung ương và địa

phương), bảo đảm việc phát triển sản xuất và chế biến thực phẩm theo đường lối phát triển

kinh tế của Đảng, theo chính sách và pháp luật của Nhà nước.

Để tổ chức thực hiện các nhiệm vụ được giao, cơ cấu tổ chức bộ máy của Bộ Công

nghiệp thực phẩm có các khối cơ quan đơn vị sau:

1) Khối các tổ chức sản xuất kinh doanh gồm có 12 đơn vị do Chính phủ ra quyết

(1)

Ban Chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Sđd, tập 3, tr. 15-16. (2)

Ngày 22 tháng 1 năm 1981 và Nghị quyết số 1236-NQ/QHK6 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại kỳ họp

đó được coi là cột mốc và căn cứ để Hội đồng Chính phủ ban hành các Nghị định về chức năng, nhiệm vụ và

tổ chức bộ máy của Bộ Lương thực và Bộ Công nghiệp thực phẩm. Theo Nghị quyết này, Bộ Điện và Than

cũng được tách ra thành Bộ Điện lực và Bộ Mỏ và Than.

Page 50: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

50

định thành lập là: Liên hiệp các xí nghiệp công - nông nghiệp chè Việt Nam (tại Hà Nội);

Liên hiệp các xí nghiệp công - nông nghiệp mía, đường Việt Nam (tại thành phố Hồ Chí

Minh); Liên hiệp các xí nghiệp đồ hộp I (tại Hà Nội); Liên hiệp các xí nghiệp đồ hộp II (tại

thành phố Hồ Chí Minh); Xí nghiệp liên hợp thuốc lá I (tại Hà Nội); Xí nghiệp liên hợp

thuốc lá II (tại thành phố Hồ Chí Minh); Xí nghiệp liên hợp rượu - bia - nước giải khát I

(tại Hà Nội); Xí nghiệp liên hợp rượu - bia - nước giải khát II (tại thành phố Hồ Chí Minh);

Xí nghiệp liên hợp sữa, cà phê, bánh kẹo I (tại thành phố Hồ Chí Minh); Xí nghiệp liên

hợp dầu thực vật (tại thành phố Hồ Chí Minh); Xí nghiệp liên hợp bột ngọt, mì ăn liền (tại

thành phố Hồ Chí Minh); Công ty vật tư và thiết bị chuyên dùng.

Ngoài ra còn có các công ty, xí nghiệp, nông trường... thuộc quyền Bộ trưởng ra

quyết định thành lập.

2) Khối các cơ quan sự nghiệp, nghiên cứu khoa học kỹ thuật, đào tạo bồi dưỡng cán

bộ có hai Viện: Viện Thiết kế và Viện Công nghiệp thực phẩm.

3) Khối các cơ quan chức năng tổng hợp, gồm Văn phòng Bộ; Ban Thanh tra; 09 Vụ

(Vụ Kế hoạch - Thống kê, Vụ Kế toán - Tài vụ, Vụ Lao động và Tiền lương, Vụ Kỹ thuật,

Vụ Cây công nghiệp, Vụ Công nghiệp địa phương, Vụ Cán bộ và đào tạo, Vụ Tổ chức và

quản lý, Vụ Kinh tế đối ngoại); 02 Cục (Cục Xây dựng cơ bản, Cục Công nghiệp muối).

Với việc ra đời Bộ Công nghiệp thực phẩm, Bộ Nông nghiệp có trách nhiệm chuyển

giao sang Bộ Công nghiệp thực phẩm trực tiếp quản lý các nông trường, trạm, trại về chè,

mía, thuốc lá, dừa cọ dầu, dứa, cây ăn quả... (bao gồm toàn bộ tài sản, kinh phí, tài liệu,

cán bộ, công nhân... thuộc các đơn vị đó)(1)

.

Ngay sau khi kiện toàn tổ chức bộ máy, Bộ Công nghiệp thực phẩm đã xây dựng

trình Hội đồng Bộ trưởng ra các văn bản chỉ đạo phát triển các ngành công nghiệp chế biến

thực phẩm, sắp xếp lại sản xuất, cải tạo và xây dựng một số ngành mía đường, dầu thực

vật, thuốc lá, chè và rau, quả hộp…

Để triển khai thực hiện đường lối phát triển ngành công nghiệp thực phẩm, các cơ

quan đơn vị trực thuộc Bộ Công nghiệp thực phẩm được sắp xếp lại. Trong khi các cơ quan

chức năng của Bộ tương đối ổn định, thì các đơn vị khối sản xuất kinh doanh có nhiều biến

động. Theo Quyết định số 51-HĐBT ngày 22 tháng 3 năm 1984 của Hội đồng Bộ trưởng

về sắp xếp lại sản xuất, cải tạo và xây dựng một số ngành công nghiệp thực phẩm, ngành

cần thành lập các Liên hiệp xí nghiệp công - nông nghiệp quản lý từ trồng trọt đến khâu

chế biến ra sản phẩm cuối cùng và giao nộp sản phẩm theo chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước.

Các liên hiệp xí nghiệp có khối lượng sản phẩm xuất khẩu lớn cần tổ chức các công ty xuất

nhập khẩu. Ở Bộ có Tổng Công ty xuất nhập khẩu bao gồm các thành viên là công ty xuất

nhập khẩu của các liên hiệp xí nghiệp. Ở các tỉnh có sản lượng lớn về các cây công nghiệp

(1)

Hội đồng Chính phủ: Nghị định số 167/CP ngày 23 tháng 4 năm 1981. Thuvienphapluat.vn.

Page 51: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

51

nói trên, có thể tổ chức hoặc liên hiệp xí nghiệp hoặc công ty chuyên doanh (mía, đường,

dầu thực vật, chè) trực thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh. Mỗi liên hiệp xí nghiệp lớn cần tổ chức

một số cơ sở nghiên cứu, thí nghiệm đi sâu vào khoa học - kỹ thuật chuyên ngành. Đồng

thời, cần sắp xếp lại một số cơ sở sản xuất từ sản phẩm nông nghiệp, cung cấp nguyên liệu

cho công nghiệp thực phẩm và kinh doanh của ngoại thương cho hợp lý theo nguyên tắc

quản lý chuyên ngành kinh tế kỹ thuật…(1)

Theo chủ trương trên, trong các năm (1985-1986) có nhiều đơn vị đã được sắp xếp

lại tổ chức. Ngày 5 tháng 4 năm 1985, Hội đồng Bộ trưởng có Nghị định số 108-HĐBT về

việc thành lập Liên hiệp các xí nghiệp thuốc lá Việt Nam(2)

. Ngày 22 tháng 3 năm 1986 Hội

đồng Bộ trưởng có Nghị định số 28-HĐBT sắp xếp lại ngành dầu thực vật; Liên hiệp các xí

nghiệp dầu thực vật phía Nam (thành lập theo Nghị định số 110-HĐBT ngày 29 tháng 9

năm 1983) được chuyển thành Liên hiệp các xí nghiệp dầu thực vật Việt Nam, đặt dưới sự

chỉ đạo trực tiếp của Bộ Công nghiệp thực phẩm(3)

.

Cũng trong năm 1986 ngành rau quả được sắp xếp lại theo Nghị định số 54-HĐBT

ngày 8 tháng 5 năm 1986 của Hội đồng Bộ trưởng về hợp nhất các cơ sở sản xuất đồ hộp,

đông lạnh và kinh doanh xuất nhập khẩu rau quả, thành lập Tổng Công ty xuất nhập khẩu

rau quả thuộc Bộ Công nghiệp thực phẩm(4)

.

Cùng với việc thành lập các đơn vị đầu mối để quản lý sản xuất kinh doanh theo từng

ngành, nhiều đơn vị thuộc Bộ được chuyển giao về địa phương, trong đó có các nông

trường quốc doanh, các xí nghiệp chế biến.

Đối với ngành muối, để hợp lý hoá tổ chức kinh doanh muối và cung ứng tư liệu sản

xuất cho nghề muối, Chính phủ quyết định chuyển giao một số nhiệm vụ quản lý ngành

muối từ Bộ Công nghiệp thực phẩm trở lại Bộ Nội thương. Ngày 15 tháng 10 năm 1985,

Hội đồng Bộ trưởng có Quyết định số 252-HĐBT giao nhiệm vụ cung ứng tư liệu sản xuất

cho nghề muối, thu mua và bán buôn muối từ Bộ Công nghiệp thực phẩm sang Bộ Nội

thương. Việc chỉ đạo sản xuất muối ở cơ sở do các Uỷ ban nhân dân địa phương (tỉnh,

huyện) phụ trách. Bộ Công nghiệp thực phẩm bàn giao nhiệm vụ, cán bộ, nhân viên, cơ sở

vật chất kỹ thuật, phương tiện, vốn đang sử dụng vào việc thực hiện nhiệm vụ nói trên cho

Bộ Nội thương(5)

d) Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Bộ lương thực

Đối với Bộ Lương thực, Nghị định số 168/CP ngày 23 tháng 1 năm 1981 của Hội

đồng Chính phủ quy định Bộ Lương thực là cơ quan của Hội đồng Chính phủ có chức năng

(1)

Hội đồng Bộ trưởng: Quyết định số 51-HĐBT ngày 22 tháng 3 năm 1984. Thuvienphapluat.vn (2)

Hội đồng Bộ trưởng: Nghị định số 108-HĐBT ngày 5 tháng 4 năm 1985. Thuvienphapluat.vn (3)

Hội đồng Bộ trưởng: Nghị định số 28-HĐBT ngày 22 tháng 3 năm 1986. Thuvienphapluat.vn (4)

Hội đồng Bộ trưởng: Nghị định số 54-HĐBT ngày 8 tháng 5 năm 1986. Thuvienphapluat.vn (5)

Hội đồng Bộ trưởng: Quyết định số 252-HĐBT ngày 15 tháng 10 năm 1985. Thuvienphapluat.vn

Page 52: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

52

quản lý nhà nước và quản lý kinh doanh lương thực trong cả nước, bảo đảm việc phân

phối, lưu thông lương thực trong toàn xã hội theo đường lối phát triển kinh tế của Đảng,

theo chính sách và pháp luật của Nhà nước. Cơ cấu tổ chức bộ máy của Bộ Lương thực

gồm các khối cơ quan đơn vị sau:

1) Khối các đơn vị sản xuất kinh doanh trực thuộc, gồm các doanh nghiệp do Chính

phủ quyết định thành lập là Tổng Công ty lương thực miền Nam; Liên hiệp các xí nghiệp

chế biến lương thực; Công ty thiết bị, vật tư chuyên dùng; Công ty kinh doanh màu; và các

xí nghiệp, công ty...thuộc quyền Bộ trưởng quyết định thành lập.

2) Khối đơn vị quản lý dự trữ lương thực Nhà nước thuộc Bộ là Cục Dự trữ lương

thực Nhà nước.

3) Khối các cơ quan nghiên cứu khoa học - kỹ thuật thuộc Bộ gồm hai Viện: Viện

Lương thực và Viện Thiết kế.

4) Khối các cơ quan chức năng thuộc Bộ gồm: Văn phòng Bộ; Ban Thanh tra; 10 Vụ

(Vụ kế hoạch - thống kê, Vụ kế toán- tài vụ, Vụ lao động và tiền lương, Vụ quản lý thu

mua, Vụ quản lý phân phối, Vụ bảo quản, vận tải, Vụ xây dựng cơ bản, Vụ kỹ thuật, Vụ tổ

chức, cán bộ và đào tạo, Vụ chính sách và pháp chế)(1)

.

So với Bộ Công nghiệp thực phẩm, các cơ quan đơn vị thuộc Bộ Lương thực ít biến

động hơn trong giai đoạn 1981-1986(2)

.

đ) Hệ thống cơ quan quản lý ngành lương thực, thực phẩm ở địa phương

Hệ thống các cơ quan quản lý ngành lương thực và công nghiệp thực phẩm ở địa

phương trong giai đoạn (1976-1986) chưa được thiết lập chặt chẽ. Do Bộ Lương thực và

Thực phẩm vừa được thành lập năm 1969, đến 1981 lại tách ra, nên cơ cấu tổ chức các cơ

quan chuyên ngành lương thực và thực phẩm ở tỉnh, thành phố chưa kịp hình thành đã phải

thay đổi. Trong các nghị định về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Bộ Lương thực

và Bộ Công nghiệp thực phẩm ban hành năm 1981, Chính phủ cũng chưa định hình rõ tên

gọi và hệ thống tổ chức của các ty, sở địa phương.

Đối với ngành lương thực, được xác định là tư liệu tiêu dùng thiết yếu số một của

toàn dân, là điều kiện quan trọng nhất để mở mang các ngành và các vùng kinh tế mới, đáp

ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa; việc bảo đảm có đủ lương

thực cung ứng kịp thời, ổn định cho các nhu cầu xã hội là nhiệm vụ có tầm quan trọng

hàng đầu về kinh tế và chính trị. Chính vì thế, tại Nghị định số 168-CP ngày 23 tháng 4

năm 1981 về nhiệm vụ quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Lương thực, Hội đồng Chính

(1)

Hội đồng Chính phủ: Nghị định số 168/CP ngày 23 tháng 4 năm 1981. Thuvienphapluat.vn. (2)

Ban biên soạn chưa tìm được tài liệu nào của Chính phủ và Bộ Lương thực từ các nguồn lưu trữ trên Công

báo, Thư viện pháp luật, Cơ sở luật của Quốc hội… nói về những thay đổi, kiện toàn của Bộ và các cơ quan

đơn vị thuộc Bộ Lương thực do Hội đồng Chính phủ quyết định trong giai đoạn 1981 - 1986.

Page 53: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

53

phủ giao Bộ trưởng Bộ Lương thực nghiên cứu trình Hội đồng Chính phủ quyết định về tổ

chức của các cơ quan lương thực ở địa phương. Đến năm 1984, trong Nghị quyết của Hội

đồng Bộ trưởng số 134-HĐBT (ban hành ngày 16 tháng 10 năm 1984) về phân cấp quản lý

lương thực, Chính phủ đã quy định rõ hệ thống các cơ quan quản lý lương thực ở địa

phương. Có thể coi Nghị quyết 134-HĐBT năm 1984 là cơ sở để thiết lập hệ thống quản lý

lương thực được phân cấp khá chặt chẽ ở nước ta trong các năm từ 1984 trở đi.

Thực hiện Nghị quyết 134, ở cấp Trung ương Bộ Lương thực là cơ quan của Hội

đồng Bộ trưởng có chức năng quản lý Nhà nước đối với mọi hoạt động lưu thông phân

phối lương thực. Bộ trực tiếp quản lý một số đơn vị kinh tế làm nhiệm vụ tiếp nhận, bảo

quản, xay xát, chế biến và phân phối (chủ yếu là bán buôn) số lương thực điều ra khỏi các

tỉnh, xuất nhập khẩu lương thực, sản xuất và cung ứng các loại vật tư, thiết bị chuyên dùng

cho ngành.

Ở cấp tỉnh, mỗi tỉnh có Sở Lương thực và một Công ty Lương thực trực thuộc Sở

làm cả nhiệm vụ cung cấp và nhiệm vụ kinh doanh. Sở Lương thực là cơ quan chuyên

môn của Uỷ ban nhân dân tỉnh, đồng thời là cơ quan quản lý ngành ở địa phương, chịu sự

chỉ đạo theo ngành của Bộ Lương thực, Sở thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối

với mọi hoạt động lưu thông phân phối lương thực, quản lý và cải tạo thị trường lương

thực trên địa bàn tỉnh. Sở được Uỷ ban nhân dân tỉnh uỷ nhiệm trực tiếp quản lý Công ty

Lương thực tỉnh.

Công ty Lương thực tỉnh làm nhiệm vụ tiếp nhận số lương thực điều ra khỏi các

huyện, bảo quản, xay xát, chế biến để cung ứng cho các thị xã và thành phố thuộc tỉnh (có

thể kiêm cả nhiệm vụ bán lẻ tại các nơi này), các huyện thiếu lương thực và các nhu cầu

khác của tỉnh; quản lý quỹ dự trữ lương thực của tỉnh; mua bán lương thực với các tỉnh bạn

theo kế hoạch được duyệt.

Ở cấp huyện, mỗi huyện có Phòng Lương thực huyện và một Công ty Lương thực

huyện. Phòng Lương thực huyện là cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân huyện, đồng

thời là cơ quan quản lý ngành ở địa phương, chịu sự chỉ đạo theo ngành của Sở Lương

thực. Phòng thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với mọi hoạt động lưu thông phân

phối lương thực, quản lý và cải tạo thị trường lương thực trên địa bàn huyện.

Công ty lương thực huyện có nhiệm vụ thu mua, huy động lương thực trên địa bàn

huyện, thực hiện chủ trương Nhà nước độc quyền kinh doanh lương thực; giao nộp cho

Trung ương, cho tỉnh theo kế hoạch tỉnh giao. ở những huyện thiếu lương thực thì tiếp

nhận số lương thực do tỉnh bổ sung; bảo quản, xay xát, chế biến số lương thực do huyện

quản lý; cung ứng, bán lẻ cho các nhu cầu trên địa bàn huyện bao gồm cả nhiệm vụ cung

cấp và nhiệm vụ kinh doanh; quản lý quỹ dự trữ lương thực của huyện; mua bán lương

thực với các địa phương bạn theo kế hoạch được duyệt; cùng với Phòng Lương thực huyện

Page 54: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

54

và các cơ quan khác có liên quan, thực hiện nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với

thương nhân buôn bán lương thực và các cơ sở xay xát chế biến lương thực quản lý thị

trường lương thực trong huyện.

Công ty lương thực huyện là tổ chức kinh tế của huyện, do Uỷ ban nhân dân huyện

trực tiếp quản lý về các mặt xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh doanh (bao gồm cả kế

hoạch huy động, thu mua và giao nộp cho Trung ương và cho tỉnh, cung ứng, bán lẻ theo

sự uỷ thác của Trung ương và của tỉnh), vốn cố định, vốn lưu động, tổ chức bộ máy quản

lý và mạng lưới kinh doanh, cán bộ, lao động, quỹ lương, chi phí lưu thông và lợi nhuận.

Mặt khác, với nhiệm vụ trực tiếp thu mua và bán lẻ trên địa bàn huyện, Công ty là đơn vị

cơ sở của hệ thống kinh doanh ngành lương thực, chịu sự chỉ đạo kiểm tra của Sở Lương

thực về các mặt thực hiện các chính sách, chế độ của Nhà nước về lưu thông phân phối

lương thực, các nghiệp vụ kỹ thuật - kinh doanh và các định mức kinh tế - kỹ thuật; thực

hiện chỉ tiêu kế hoạch hàng hoá điều đến cho huyện và điều đi cho Trung ương và cho tỉnh;

vốn, phí và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho việc thu mua, bảo quản hàng hoá cho

Trung ương và cho tỉnh(1)

.

Đối với ngành công nghiệp thực phẩm, do đặc thù sản xuất nguyên liệu thuộc phạm

vi chỉ đạo của Bộ Nông nghiệp và các Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố; các cơ sở chế biến

lớn thuộc Bộ Công nghiệp thực phẩm trực tiếp chỉ đạo, nên hệ thống cơ quan quản lý lĩnh

vực này ở địa phương chưa được thiết lập theo ngành dọc. Giúp Ủy ban nhân dân tỉnh,

thành phố về chuyên môn ngành công nghiệp thực phẩm là Sở Công nghiệp.

Để tăng cường công tác quản lý phát triển ngành công nghiệp thực phẩm, tại Chỉ thị

số 98-HĐBT ngày 30 tháng 5 năm 1982 về nhiệm vụ phát triển sản xuất công nghiệp thực

phẩm trong kế hoạch (1981-1985), Hội đồng Chính phủ đã giao Bộ Công nghiệp thực

phẩm cùng các Bộ, ngành và chính quyền địa phương phối hợp tổ chức quản lý sản xuất

công nghiệp thực phẩm. Theo đó, Bộ Công nghiệp thực phẩm tổ chức các đơn vị sản xuất

kinh doanh theo các hình thức liên hiệp sản xuất; áp dụng hình thức hợp tác, liên doanh,

phân công phối hợp các địa phương trên cả ba thành phần kinh tế (quốc doanh, tập thể và

cá thể) để phát triển nhanh cơ sở nguyên liệu của ngành công nghiệp thực phẩm, tạo ra

nhiều sản phẩm cho xuất khẩu và tiêu dùng trong nước.

Đối với những vùng tập trung chuyên canh cây công nghiệp mía, chè, thuốc lá, cây

ăn quả, cây có dầu, nhất thiết phải quản lý thống nhất tập trung nguồn nguyên liệu nông

sản để cung ứng cho các xí nghiệp lớn do trung ương quản lý, Bộ Công nghiệp thực phẩm

nghiên cứu trình Hội đồng Bộ trưởng ban hành các chính sách thoả đáng để khuyến khích

thực hiện việc quản lý tập chung thống nhất này; phối hợp với Bộ Nông nghiệp, Bộ Ngoại

thương, các ngành Trung ương và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố có liên quan để tổ

(1)

Hội đồng Bộ trưởng: Nghị quyết số 134-HĐBT ngày 16 tháng 10 năm 1984. Thuvienphapluat.vn

Page 55: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

55

chức quản lý sản xuất(1)

.

Đến năm 1984, tại Quyết định số 51-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (ban hành ngày 22

tháng 3 năm 1984) về sắp xếp lại sản xuất, cải tạo và xây dựng một số ngành công

nghiệp thực phẩm, Chính phủ giao Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố, đặc khu có trách

nhiệm chỉ đạo toàn diện công tác cải tạo và xây dựng các ngành công thương nghiệp gắn

với cải tạo và phát triển nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm ở địa phương. Giúp Ủy

ban nhân dân các tỉnh, thành phố về chuyên môn công nghiệp thực phẩm tiếp tục là các

Sở Công nghiệp(2)

.

Kết thúc nhiệm kỳ Quốc hội khóa VII (1981-1987) cũng là thời điểm kết thúc hoạt

động của hai Bộ: Bộ Lương thực và Bộ Công nghiệp thực phẩm. Trong giai đoạn tiếp theo

(từ 1987) bắt đầu quá trình hợp nhất ba bộ: Bộ Nông nghiệp, Bộ Lương thực và Bộ Công

nghiệp thực phẩm thành Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm.

6. Quá trình thành lập và kiện toàn các cơ quan quản lý ngành cao su thời kỳ

1976 - 1986

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, năm 1975 Ban Cao su Nam Bộ được

quyết định đổi thành Tổng cục Cao su. Thời kỳ này, cùng với tiếp quản các đồn điền và cơ

sở sản xuất cao su ở miền Nam, Chính phủ chỉ đạo thành lập ngay các đơn vị quốc doanh

cao su. Các đồn điền cũ được phục hồi và củng cố. Diện tích cao su được phát quang, phục

hóa và trồng mới. Đội ngũ công nhân ngày càng đông. Năm 1976, tổng số lao động của

ngành là 22.000 người(3)

.

Như đã nêu, ngày 11 tháng 3 năm 1977, Hội đồng Chính phủ có Quyết định số 52-CP

về việc sửa đổi một số tổ chức của Bộ Nông nghiệp. Trong đó quyết định chuyển Tổng cục

cao su thành Tổng Công ty Cao su trực thuộc Bộ Nông nghiệp(4)

. Trong giai đoạn 9 năm

(1977-1986), tổ chức của Tổng Công ty Cao su có nhiều thay đổi, kiện toàn lại.

Sau ba năm hoạt động, đến năm 1980, Tổng Công ty Cao su được Hội đồng Chính

phủ cho chuyển thành Tổng cục Cao su thuộc Bộ Nông nghiệp tại Quyết định số 93-CP

ngày 24 tháng 3 năm 1980, và được giao nhiệm vụ giúp Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp quản

lý ngành cao su trong phạm vi cả nước.

Trong giai đoạn 1981-1985, cùng với việc Bộ Nông nghiệp được quan tâm tăng

(1)

Hội đồng Bộ trưởng: Chỉ thị số 98-HĐBT ngày 30 tháng 5 năm 1982. Văn phòng Quốc hội. Cơ sở dữ liệu

luật Việt Nam. (2)

Hội đồng Bộ trưởng: Quyết quyết số 51-HĐBT ngày 22 tháng 3 năm 1984. Thuvienphapluat.vn (3)

Đến năm 1980, tổng số lao động của ngành cao su tăng lên trên 50 nghìn người. Đến năm 1982 có 82

nghìn lao động. Nguồn: Công đoàn Nông nghiệp và PTNT Việt Nam: Lịch sử phong trào CNVCLĐ và công

đoàn Nông nghiệp Việt Nam, NXB lao động, H 2014. (4)

Hội đồng Chính phủ: Quyết định số 52-CP ngày 11 tháng 3 năm 1977. Thuvienphapluat.vn

Page 56: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

56

cường chức năng, nhiệm vụ và bộ máy tổ chức, Hội đồng Chính phủ đã quyết định tách

ngành cao su ra khỏi hệ thống quản lý của Bộ Nông nghiệp, thành lập Tổng cục Cao su

trực thuộc Hội đồng Chính phủ. Ngày 19 tháng 2 năm 1981, Ủy ban Thường vụ Quốc hội

khóa VI có Nghị quyết số 1260-NQ/TVQHK6 phê chuẩn việc chuyển Tổng cục Cao su

thuộc Bộ Nông nghiệp thành Tổng cục Cao su trực thuộc Hội đồng Chính phủ(1)

.

Sau đó, ngày 14 tháng 4 năm 1981, Hội đồng Chính phủ đã ra Nghị định số 159-CP

quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Cao su. Tổng cục Cao su

là cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ, chịu trách nhiệm trước Hội đồng Chính phủ

quản lý Nhà nước đối với ngành cao su trong cả nước, xây dựng và phát triển sản xuất cao

su theo đúng chính sách, luật pháp của Nhà nước, bảo đảm hoàn thành tốt kế hoạch sản

xuất cao su phục vụ xuất khẩu và tiêu dùng trong nước.

Tổng cục Cao su quản lý theo hai cấp: Tổng cục; và Xí nghiệp liên hợp, xí nghiệp.

Cơ cấu tổ chức của Tổng cục Cao su gồm ba khối các cơ quan đơn vị sau:

1) Các cơ quan chức năng, gồm Văn phòng; Ban Thanh tra và bảy Vụ (Vụ Kinh tế Kế

hoạch, Vụ Kế toán và Tài vụ, Vụ Lao động và Tiền lương, Vụ Tổ chức cán bộ - Đào tạo, Vụ

Xây dựng cơ bản và Khai hoang, Vụ Cơ điện và Chế biến, Vụ Sản xuất nông nghiệp).

2) Các đơn vị sản xuất, kinh doanh, gồm các xí nghiệp liên hợp nông - công nghiệp

cao su; Công ty Vật tư và thiết bị; Công ty Xây dựng; và các công ty, xí nghiệp, nông

trường thuộc diện quản lý của Tổng cục (Công ty phục vụ đời sống, Xí nghiệp vận tải, Xí

nghiệp khảo sát và thiết kế, Xưởng cơ khí, Xưởng chế biến mủ cao su, v.v...).

3) Các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Tổng cục, gồm có Viện Kinh tế - Kỹ thuật cao su

và các đơn vị sự nghiệp khác thuộc diện quản lý của Tổng cục như các trường nghiệp vụ

quản lý, kỹ thuật; trường đào tạo công nhân kỹ thuật.v.v...(2)

Tổng cục Cao su là cơ quan ngang Bộ, vừa có chức năng quản lý kinh tế hành chính

của một bộ, vừa có chức năng sản xuất kinh doanh như một tổng công ty. Tổng cục Cao su

quản lý sản xuất kinh doanh trực tiếp theo hệ thống dọc từ cấp Tổng cục đến công ty, nông

trường, không có cấp địa phương (tỉnh, thành phố)(3)

. Lực lượng công nhân lao động chính

thức của Tổng cục lúc đó gồm 82 nghìn người(4)

.

Ngoài các đơn vị trực thuộc Tổng cục Cao su được quyết định trong Nghị định số 159-

CP nói trên, năm 1984, Hội đồng Bộ trưởng cho thành lập tiếp Công ty Xuất nhập khẩu thuộc

Tổng cục Cao su tại Nghị định số 120-HĐBT (ban hành ngày 13 tháng 9 năm 1984). Công ty

(1)

Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, tập 3 (1976 - 2005), Sđd,

tr. 44 - 50. (2)

Hội đồng Chính phủ: Nghị định 159-CP ngày 14 tháng 4 năm 1981. Thuvienphapluat.vn (3)

Hội đồng Chính phủ: Chỉ thị số 38/CT năm 1981. Thuvienphapluat.vn (4)

Công đoàn Cao su Việt Nam: Báo cáo tại cuộc họp với Ban Thư ký Tổng Công đoàn Việt Nam ngày

28/9/1982. Tài liệu lưu trữ tại Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam

Page 57: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

57

là một đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu hạch toán kinh tế độc lập; chịu sự quản lý và chỉ đạo

trực tiếp của Tổng cục Cao su, đồng thời chịu sự quản lý và chỉ đạo của Bộ Ngoại thương về

các chính sách, chế độ, thể lệ và nghiệp vụ ngoại thương(1)

.

Mặc dù là Tổng cục trực thuộc Chính phủ, nhưng công tác quản lý thống nhất toàn

ngành cao su gặp nhiều vướng mắc, do lĩnh vực trồng, sản xuất và tiêu thụ cao su được nhiều

địa phương, bộ ngành tham gia, nhất là việc thu mua nguyên liệu mủ cao su rất khó khăn.

Ngày 8 tháng 2 năm 1985, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười đã ra Quyết định số 59-CT

về việc giao cho Tổng cục Cao su nhiệm vụ cung ứng nguyên liệu cao su cho nền kinh tế quốc

dân theo chỉ tiêu kế hoạch của Nhà nước kể từ năm 1985. Các Bộ, các ngành, các địa phương,

tư nhân đang còn quản lý cây cao su và chế biến mủ cao su phải thực hiện nghiêm chỉnh việc

giao nộp và bán cho Tổng cục Cao su theo chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước để cung ứng cho nền

kinh tế quốc dân theo kế hoạch…(2)

Kể từ khi thành lập Tổng cục Cao su, trong 5 năm từ 1980 đến 1985, cây cao su nước

được phát triển khá mạnh mẽ. Năm 1985 đã có 150 nghìn hecta cao su. Trong đó 60 nghìn

hécta đang khai thác. Hàng năm sản xuất khoảng 50 nghìn tấn cao su để xuất khẩu và cung cấp

nguyên liệu cho công nghiệp, thủ công nghiệp trong nước. Đồng thời, đã xây dựng được một

số cơ sở vật chất kỹ thuật về vườn cây, chế biến, nghiên cứu khoa học kỹ thuật; có một đội ngũ

cán bộ, công nhân kỹ thuật tương đối đông đảo; lực lượng máy móc thiết bị, cơ sở hạ tầng

chuyên ngành khá lớn.

Để tiếp tục phát triển cao su với vị thế là vật tư chiến lược, cần phải được thống nhất

quản lý lĩnh vực này vào hệ thống kinh tế của Nhà nước. Trong phương hướng, nhiệm vụ phát

triển sản xuất cao su giai đoạn 1986-1990 và đến năm 2000 (ban hành tại Nghị quyết số 281-

HĐBT ngày 12 tháng 12 năm 1985), ngay từ năm 1985, Nhà nước đã chủ trương mở rộng quy

mô diện tích trồng mới trên 160 nghìn hécta, để cùng với diện tích đã có đạt sản lượng 500-600

nghìn tấn cao su vào năm 2000. Tổng cục Cao su được đặt vào trung tâm tổ chức thực hiện

đường lối này. Cùng với việc tăng cường, củng cố các công ty, xí nghiệp, nông trường, công

tác xây dựng đội ngũ cán bộ và công nhân giỏi được Chính phủ quan tâm quy hoạch và có kế

hoạch đào tạo, bồi dưỡng. Các trường đại học, cao đẳng nông nghiệp, kinh tế và kỹ thuật ở

phía Nam xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kinh tế, kỹ thuật cao su. Chính phủ

cho mở Khoa Cao su ở trường Đại học Nông nghiệp 4 và trường Đại học Tây Nguyên. Tổng

cục Cao su ngoài việc củng cố hai trường Trung học đã có đã thành lập thêm Trường trung học

Nghiệp vụ quản lý và các trường công nhân kỹ thuật của ngành…(3)

Tổng cục Cao su tiếp tục hoạt động là một cơ quan trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng trong

nhiệm kỳ Chính phủ tiếp theo, trước khi giải thể vào năm 1990.

(1)

Hội đồng Bộ trưởng: Nghị định số 120-HĐBT ngày 13 tháng 9 năm 1984. Thuvienphapluat.vn (2)

Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng: Quyết định số 59-CT ngày 8 tháng 2 năm 1985. Thuvienphapluat.vn (3)

Hội đồng Bộ trưởng: Nghị quyết số 281-HĐBT ngày 12 tháng 12 năm 1985. Thuvienphapluat.vn

Page 58: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

58

7. Quá trình thành lập và kiện toàn các cơ quan quản lý ngành thủy lợi thời kỳ

1976 - 1986

Kể từ khi được trở lại với tên gọi là Bộ Thủy lợi theo Quyết định số 216-CP ngày 28

tháng 12 năm 1962 của Hội đồng Chính phủ, chức năng nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Bộ

được điều chỉnh, kiện toàn nhiều lần trong những năm (1962-1975). Cho đến năm 1976 tổ

chức bộ máy của Bộ cơ bản đã được kiện toàn.

Ở thời kỳ tiếp theo (1976-1986), tên gọi và mô hình tổ chức của Bộ Thủy lợi tương

đối ổn định, tiếp tục được duy trì với lực lượng ngày một tăng cường để tập trung giải

quyết những vấn đề lớn của công tác thủy lợi trong tình hình mới - cả nước thống nhất và

thủy lợi được coi là biện pháp quan trọng hàng đầu trong đường lối phát triển và cải tạo xã

hội chủ nghĩa nền nông nghiệp nước ta. Bước vào thời kỳ này, nền nông nghiệp miền Nam

sau 30 năm chiến tranh tàn phá bị lệ thuộc nhiều vào thiên nhiên; nạn hạn, úng, lũ, lụt,

chua mặn xảy ra thường xuyên. Nhiều vùng rộng lớn hàng triệu hécta vẫn bị hoang hóa

như Đồng Tháp Mười, Tây bán đảo Cà Mau, Tứ giác Long Xuyên, Tây Nguyên. Cùng với

việc củng cố đê điều, tiếp tục phát triển các công trình thủy lợi và hệ thống thủy nông ở

miền Bắc sau chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, Nhà nước chủ trương tập trung mọi

khả năng, ưu tiên đẩy mạnh công tác thủy lợi phía Nam, khẩn trương giải quyết những nhu

cầu cấp bách cho từng vùng để phục vụ sản xuất, cải thiện điều kiện sinh hoạt, nâng cao

đời sống nhân dân, ổn định chính trị.

Lúc này, sau kỳ họp thứ nhất của Quốc hội thống nhất cả nước (khóa VI), Hội đồng

Chính phủ được kiện toàn. Ông Nguyễn Thanh Bình - Bộ trưởng Bộ Thủy lợi trong Hội

đồng Chính phủ khóa IV (từ tháng 6 năm 1973) và khóa V (1975-1976), nay tiếp tục được

cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Thủy lợi. Ông Nguyễn Thanh Bình làm Bộ trưởng đến cho đến

tháng 1 năm 1981, trước khi kết thúc nhiệm kỳ Quốc hội khóa VI (vào tháng 7 năm 1981).

Trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa VII (1981 - 1987), tại kỳ họp thứ nhất từ ngày 24

tháng 6 đến ngày 4 tháng 7 năm 1981 Quốc hội đã thông qua Luật Tổ chức Hội đồng Bộ

trưởng. Trong thành phần Hội đồng Bộ trưởng, ông Nguyễn Cảnh Dinh - trước đó đã được

cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Thủy lợi thay ông Nguyễn Thanh Bình từ tháng 1 năm 1981

(theo Lệnh số 19-LCT ngày 23 tháng 1 năm 1981 của Chủ tịch nước), tiếp tục được giữ

chức Bộ trưởng Bộ Thủy lợi. Ông Nguyễn Cảnh Dinh giữ chức Bộ trưởng Bộ Thủy lợi đến

năm 1995, khi Bộ được sáp nhập với các Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm, Bộ

Lâm nghiệp để thành lập Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn(1)

.

Trong thời kỳ này, các Thứ trưởng của Bộ Thủy lợi gồm các ông được bổ nhiệm

trong thời kỳ trước, tiếp tục công tác, như Lê Tính (đến 1986); Hoàn Tiến (đến 1981

(1)

Chính phủ nước XHCN Việt Nam: Cổng thông tin điện tử. Chính phủ Việt Nam qua các thời kỳ.

Page 59: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

59

chuyển sang Ban Chỉ đạo phân phối lao động và dân cư Trung ương); Đinh Gia Khánh

(đến 1990 nghỉ hưu); Vũ Khắc Mẫn (đến 1988 nghỉ hưu). Đồng thời còn có một số Thứ

trưởng được bổ nhiệm trong thời kỳ này là các ông: Nguyễn Văn Cung (từ 1978 đến 1982),

Nguyễn Văn Bắc (từ 1978 đến 1990 nghỉ hưu); Trần Nhơn (từ 11/1983 đến 1995 nghỉ

hưu); Nguyễn Giới (từ 1984 đến 1996 nghỉ hưu).

Trong 10 năm (1976-1986), ngành thủy lợi đã có những bước phát triển mới, cả

về quy mô, phạm vi và chiều sâu, từng bước giải quyết được những vấn đề lớn của thủy

lợi của cả hai miền. Các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ cũng trưởng thành cả về số lượng và

chất lượng.

Nhiệm vụ thủy văn quốc gia của Bộ Thủy lợi trong giai đoạn này được tách ra. Ngày 14

tháng 10 năm 1976, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa VI đã có Nghị quyết phê chuẩn đề

nghị của Hội đồng Chính phủ, cho phép tách Cục Thủy văn thuộc Bộ Thủy lợi để hợp nhất

với Nha Khí tượng - thủy văn thuộc Hội đồng Chính phủ, thành lập Tổng cục Khí tượng -

Thủy văn trực thuộc Hội đồng Chính phủ. Tuy vậy, công tác thủy văn chuyên dùng của Bộ

và các cơ sở vật chất kỹ thuật có liên quan tiếp tục được các đơn vị chuyên môn của Bộ

quản lý, phục vụ việc thực hiện các nhiệm vụ được giao.

Một trong những nhiệm vụ của ngành thủy lợi được Chính phủ giao bổ sung bắt đầu

từ giai đoạn này là tham gia Ủy ban lâm thời sông Mê Công để tăng cường sự hợp tác quốc

tế với các nước, nhằm mục đích sử dụng và khai thác hợp lý nguồn nước của sông Mê

Công. Thời kỳ đầu Ủy ban chỉ có ba nước Việt Nam, Lào và Thái Lan(1)

. Ngày 18 tháng 09

năm 1978, Hội đồng Chính phủ có Quyết định số 237-CP về việc thành lập Ủy ban Sông

Mê Công của Việt Nam để đảm nhiệm phần việc của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam trong tổ chức Ủy ban lâm thời sông Mê Công, do Bộ trưởng Bộ Thủy lợi trực tiếp chỉ

đạo, với thành phần gồm Chủ tịch là một Thứ trưởng Bộ Thủy Lợi; Phó Chủ tịch là một

đại diện của Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, một đại diện của Bộ Ngoại giao; các ủy viên gồm

có đại diện của Bộ Nông Nghiệp, Bộ Hải sản, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Điện và than,

Tổng cục Khí tượng thủy văn. Ngoài ra, Chủ tịch Ủy ban có thể mời đại diện của Bộ, các

ngành, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có liên quan tham gia các cuộc họp của

Ủy ban. Bộ phận thường trực của Ủy ban gồm có các đại diện của Bộ Thủy lợi, Ủy ban Kế

hoạch Nhà nước và Bộ Ngoại giao. Ủy ban không tổ chức bộ máy giúp việc riêng mà sử

dụng tổ chức, lực lượng quy hoạch hiện có của Bộ Thủy lợi làm Văn phòng thường trực để

tổng hợp và nghiên cứu, giúp việc Ủy ban(2)

.

(1)

Sau này, năm 1995 Ủy ban Sông Mê Công quốc tế được tái lập gồm đủ bốn nước hạ lưu vực: Việt Nam,

Lào, Campuchia và Thái Lan, đổi tên là Ủy hội Sông Mê Công. Bốn nước đã ký “Hiệp định về hợp tác phát

triển bền vững lưu vực sông mê Công” ngày 5 tháng 4 năm 1995 tại Chiềng Mai, Thái lan (Theo tài liệu của

nguyên Bộ trưởng Nguyễn Cảnh Dinh). (2)

Hội đồng Chính phủ: Quyết định số 237-CP ngày 18 tháng 9 năm 1978. Thuvienphapluat.vn

Page 60: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

60

Trong năm 1978, tại Quyết định số 133-CP ngày 7 tháng 6 năm 1978 Chính phủ kiện

toàn tiếp Ban Chỉ huy chống lụt, bão Trung ương (thành lập theo Nghị định số 759-TTg

ngày 2 tháng 5 năm 1956 của Thủ tướng), chỉ định các thành viên, trong đó: Trưởng ban là

ông Nguyễn Thanh Bình, Bộ trưởng Bộ Thủy lợi; các Phó ban là ông Nguyễn Hồng Kỳ,

Phó chủ nhiệm Văn phòng Phủ Thủ tướng, ông Đặng Kinh, Phó tổng tham mưu trưởng

Quân đội nhân dân Việt Nam, ông Đinh Gia Khánh, Thứ trưởng Bộ Thủy lợi(1)

.

Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, có tính cấp thiết của ngành thủy

lợi là quản lý khai thác, bảo vệ, sử dụng có hiệu quả cao hệ thống thủy nông, nhằm mục

đích giải quyết tốt yêu cầu nước của sản xuất nông nghiệp và các yêu cầu dùng nước

khác của đất nước. Hệ thống thủy nông là cơ sở vật chất kỹ thuật có giá trị kinh tế lớn, là

tập hợp các công trình rất đa dạng, lắp đặt nhiều máy móc thiết bị cơ điện, có kỹ thuật

phức tạp, hiện đại, có quan hệ hữu cơ chặt chẽ và ràng buộc lẫn nhau như là một tổng thể

hoàn chỉnh, không thể chia cắt, phân bố trên diện rộng của địa bàn sản xuất nông nghiệp

cả nước, cần phải quản lý thống nhất toàn bộ hệ thống theo đúng quy trình, quy phạm kỹ

thuật, đồng thời phải thích ứng với tình hình biến động của thiên nhiên, của sản xuất

nông nghiệp. Trước đây, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 49-TTg ngày 8 tháng 2

năm 1961 quy định tổ chức bộ máy quản lý các hệ thống nông giang. Sau đó, Hội đồng

Chính phủ có Nghị định số 141-CP ngày 26 tháng 9 năm 1963 ban hành Điều lệ quản lý

khai thác và bảo vệ các công trình thủy nông. Để kiện toàn hệ thống quản lý thủy nông,

Bộ Thủy lợi đã ra Thông tư số 21-TT/TC/TN ngày 26 tháng 11 năm 1977 về tổ chức

quản lý thủy nông. Dựa trên Thông tư này, công tác quản lý thủy nông được xác định với

ba nội dung cơ bản là quản lý công trình; quản lý nước và quản lý kinh doanh. Hệ thống

quản lý thủy nông bao gồm các công ty thủy nông, được tổ chức theo nguyên tắc: tổ chức

công ty thủy nông phải đảm bảo tính thống nhất của toàn bộ hệ thống thủy nông; lấy hệ

thống thủy nông làm cơ sở tổ chức công ty thủy nông; và công trình thủy nông là đơn vị

kinh tế cơ sở hạch toán độc lập.

Ngoài tổ chức chuyên trách quản lý hệ thống thủy nông, mỗi hệ thống thủy nông liên

tỉnh, liên huyện tổ chức một Hội đồng quản lý hệ thống thủy nông. Hội đồng quản lý hệ

thống thủy nông có nhiệm vụ và quyền hạn: Thông qua quy trình vận hành hệ thống thủy

nông, quy hoạch và kế hoạch sửa chữa, hoàn chỉnh, bổ sung, nâng cao hệ thống công trình

thủy nông, kế hoạch điều hòa phân phối nước… trước khi trình cấp có thẩm quyền phê

duyệt; Kịp thời giải quyết những mâu thuẫn trong quản lý khai thác, bảo vệ hệ thống, trong

kế hoạch điều hòa phân phối nước, sử dụng nước giữa các địa phương, giữa các ngành có

liên quan; Kịp thời giải quyết tốt nhiệm vụ quản lý khai thác và bảo vệ hệ thống thủy nông.

Thành viên của Hội đồng quản lý hệ thống thủy nông các cấp bao gồm:

- Đối với hệ thống thủy nông liên tỉnh, đại diện Bộ Thủy lợi làm chủ tịch hội đồng,

(1)

Hội đồng Chính phủ: Quyết định số 133-CP ngày 7 tháng 6 năm 1978. Thuvienphapluat.vn

Page 61: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

61

đại diện Ủy ban nhân dân và trưởng ty (sở) thủy lợi các tỉnh, thành, trong phạm vi hệ thống

thủy nông làm ủy viên, chủ nhiệm công ty thủy nông làm thư ký thường trực của hội đồng;

- Đối với hệ thống thủy nông liên huyện, đại diện Ủy ban nhân dân tỉnh, thành làm

chủ tịch Hội đồng, đại diện Ủy ban nhân các huyện trong phạm vi hệ thống thủy nông làm

ủy viên, chủ nhiệm công ty thủy nông làm thư ký thường trực của hội đồng;

- Đối với hệ thống thủy nông còn có khai thác tổng hợp lợi dụng lớn (như điện, thủy

sản…), thành phần hội đồng còn có thể có đại diện các cơ quan của các ngành đó.

Bộ trưởng Bộ Thủy lợi ra quyết định thành lập hội đồng quản lý hệ thống thủy nông

liên tỉnh. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành ra quyết định thành lập hội đồng quản lý hệ

thống thủy nông liên huyện của tỉnh(1)

.

Chủ trương thống nhất quản lý khai thác và sử dụng có hiệu quả các hệ thống thủy

nông còn được Chính phủ chỉ đạo thực hiện triệt để, bằng cách giao Bộ Thủy lợi chịu trách

nhiệm quản lý toàn bộ các máy bơm dầu phục vụ nông nghiệp, kể cả Nhà nước và tập thể.

Bộ Nông nghiệp có trách nhiệm trong 6 tháng đầu năm 1978 chuyển giao toàn bộ máy

bơm dầu, các tài liệu kỹ thuật có liên quan và cán bộ quản lý sang Bộ Thủy lợi. Ủy ban Kế

hoạch Nhà nước căn cứ kế hoạch của Bộ Thủy lợi cân đối khả năng sản xuất trong nước và

nhập khẩu máy bơm và phụ tùng thay thế. Bộ Cơ khí và Luyện kim chỉ đạo các xí nghiệp

cơ khí đẩy mạnh việc gia công, chế tạo và thực hiện đồng bộ đơn đặt hàng của Bộ Thủy

lợi. Tổng cục Hóa chất có nhiệm vụ sản xuất các mặt hàng hóa chất và cao su cần thiết đi

theo máy bơm. Bộ Vật tư bảo đảm cung ứng đầy đủ, kịp thời, thuận tiện, đồng bộ các loại

vật tư, thiết bị, phụ tùng thay thế, nhiên liệu, các loại dầu cho máy bơm theo kế hoạch của

Bộ Thủy lợi(2)

.

Sau một thời gian các công ty thủy nông được thành lập và đi vào hoạt động, trong

thực tế xuất hiện các xí nghiệp thủy nông - là các đơn vị cơ sở sản xuất và kinh doanh xã

hội chủ nghĩa chuyên quản lý vận hành, khai thác các hệ thống thủy nông phục vụ sản xuất

nông nghiệp. Các xí nghiệp thủy nông trực thuộc chính quyền địa phương quản lý với

nhiều hình thức tổ chức tuỳ theo tính chất hệ thống và mức độ phân cấp quản lý. Để tiếp

tục kiện toàn hệ thống quản lý thủy nông, Bộ Thủy lợi ra Thông tư số 24-TT/TN ngày 15

tháng 9 năm 1986 hướng dẫn phân hạng xí nghiệp thủy nông. Đối tượng xếp hạng xí

nghiệp thủy nông bao gồm các công ty quản lý thủy nông; các xí nghiệp quản lý thủy

nông; các trạm quản lý thủy nông độc lập trực thuộc Uỷ ban nhân dân huyện hoặc Sở thủy

lợi. Đối tượng chưa xếp hạng xí nghiệp thủy nông bao gồm Đội thủy nông huyện; Ban

chuẩn bị quản lý công trình thủy nông và Trạm quản lý thủy nông trực thuộc Công ty thủy

(1)

Bộ Thủy lợi: Thông tư số 21-TT/TC/TN ngày 26/11/1977 về tổ chức quản lý thủy nông. Thuvienphapluat.vn (2)

Thủ tướng Chính phủ: Chỉ thị số 87-TTg ngày 28 tháng 1 năm 1978 về việc tăng cường tổ chức quản lý và

sử dụng máy bơm dầu. Thuvienphapluat.vn

Page 62: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

62

nông liên huyện, liên tỉnh hoặc trực thuộc Phòng thủy lợi huyện(1)

.

Công tác xây dựng cơ bản là nhiệm vụ quan trọng, đặc trưng của ngành thủy lợi phục

vụ trực tiếp khối nông, lâm, ngư nghiệp. Trong thời kỳ này, theo cơ chế quản lý kinh tế tập

trung kế hoạch hóa, công tác xây dựng cơ bản của ngành được Bộ Thủy lợi tập trung quản

lý, chỉ đạo. Do đó, Bộ Thủy lợi một mặt đã chú trọng xây dựng và tăng cường các lực lượng

thiết kế, xây lắp, cũng như tổ chức quản lý xây dựng cơ bản trong bộ máy của Bộ. Mặt khác

đã tham gia, chủ trì xây dựng các thể lệ, cơ chế, chính sách về xây dựng cơ bản nói chung và

thủy lợi nói riêng. Nhu cầu ngày càng lớn của công tác xây dựng cơ bản đòi hỏi tổ chức bộ

máy của Bộ cũng như của khối các đơn vị xây dựng cơ bản phải được kiện toàn.

Đến năm 1979, để kiện toàn Bộ Thủy lợi theo yêu cầu nhiệm vụ mới, Hội đồng

Chính phủ có Nghị định số 88-CP ngày 6 tháng 3 năm 1979 quy định về tổ chức và hoạt

động của Bộ Thủy lợi. Theo đó, Bộ Thủy lợi là cơ quan của Hội đồng Chính phủ chịu trách

nhiệm thống nhất quản lý Nhà nước toàn ngành thủy lợi trong phạm vi cả nước về các mặt:

Quản lý tài nguyên nước, phân phối sử dụng và bảo vệ môi trường nước (bao gồm nước

trên mặt đất và nước ngầm); Xây dựng và quản lý xây dựng các công trình thủy lợi; Quản

lý khai thác các công trình thủy lợi; Quản lý công tác phòng chống lũ lụt, quản lý dòng

sông và công tác đê điều, nhằm phục vụ sự nghiệp phát triển nền kinh tế quốc dân và đời

sống nhân dân, trước hết là phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, Hội đồng

Chính phủ cũng quy định cụ thể phương thức tiến hành và trách nhiệm của Bộ Thủy lợi đối

với từng nhiệm vụ nói trên. Để thực hiện các nhiệm vụ được giao, cơ cấu tổ chức của Bộ

Thủy từ năm 1979 lợi gồm các khối cơ quan, đơn vị sau:

1) Các tổ chức sản xuất, kinh doanh trực thuộc Bộ, gồm liên hiệp các xí nghiệp, xí

nghiệp liên hợp xây dựng ở các và các xí nghiệp độc lập. Trước mắt các tổ chức sản xuất,

kinh doanh trực thuộc Bộ gồm có năm liên hiệp (Liên hiệp các xí nghiệp cơ khí điện thủy

lợi; Xí nghiệp liên hợp xây dựng thủy lợi I (Bắc Bộ); Xí nghiệp liên hợp xây dựng thủy lợi

II (Bắc Trung Bộ); Xí nghiệp liên hợp xây dựng thủy lợi III (Trung Trung Bộ và Tây

nguyên); Xí nghiệp liên hợp xây dựng thủy lợi IV (Nam Bộ) và các xí nghiệp độc lập do

Bộ quyết định.

Liên hiệp các xí nghiệp, các xí nghiệp liên hợp xây dựng thủy lợi ở các và các xí

nghiệp độc lập nói trên là những đơn vị kế hoạch tự chịu trách nhiệm về sản xuất, kinh

doanh theo chế độ hạch toán kinh tế, theo kế hoạch của Nhà nước và pháp chế xã hội chủ

nghĩa.

2) Các cơ quan sự nghiệp gồm có bốn Viện nghiên cứu (Viện nghiên cứu khoa học

thủy lợi; Viện kinh tế thủy lợi; Viện quy hoạch và quản lý Nhà nước; Viện khảo sát và

thiết kế thủy lợi); một trường đại học (Trường Đại học Thủy lợi); một trường cao đẳng

(1)

Bộ Thủy lợi: Thông tư số 24-TT/TN ngày 15 tháng 9 năm 1986. Thuvienphapluat.vn

Page 63: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

63

(Trường Cao đẳng Thủy lợi) và các trường trung học kỹ thuật, trung học nghiệp vụ và

trường công nhân kỹ thuật thuộc diện quản lý của Bộ.

3) Các cơ quan chức năng quản lý Nhà nước gồm có: Văn phòng Bộ; Ban Thanh tra;

chín Vụ (Vụ Kế hoạch và Thống kê, Vụ Quản lý Khoa học - Kỹ thuật, Vụ Cơ giới - Cơ

khí, Vụ Kế toán - Tài vụ, Vụ Lao động - Tiền lương, Vụ Tổ chức - Cán bộ, Vụ Quản lý

Xây dựng cơ bản, Vụ Quản lý và khai thác thủy nông, Vụ Phòng chống lũ lụt và quản lý đê

điều) và Hội đồng Trọng tài kinh tế(1)

.

Trong các năm sau đó, một số nhiệm vụ cụ thể của Bộ được điều chỉnh tiếp. Ngày 3

tháng 7 năm 1980, Hội đồng Chính phủ có Quyết định số 205-CP về phân công tổ chức dự

báo thủy văn phục vụ các công trình thủy điện.

Sau này, khi Hội đồng Chính phủ có Nghị định số 35-CP ngày 9 tháng 2 năm 1981

quy định nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Bộ trưởng và chức năng của Bộ trong một

số lĩnh vực quản lý nhà nước, Bộ Thủy lợi với tư cách là một bộ được phân công quản lý

lực lượng xây dựng chuyên ngành, có thêm nhiệm vụ và quyền hạn là:

- Trình Chính phủ quyết định, hoặc được Chính phủ uỷ quyền quyết định các chế độ,

thể lệ, tiêu chuẩn, quy trình, quy phạm, kỹ thuật, định mức, đơn giá, v.v... về xây dựng để

áp dụng trong ngành;

- Lập kế hoạch 5 năm, kế hoạch hàng năm về giao thầu và nhận thầu xây lắp và kế

hoạch đầu tư về xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của ngành trình Chính phủ phê chuẩn

và chỉ đạo thực hiện kế hoạch ấy(2)

.

Công tác đào tạo trên đại học của ngành Thủy lợi được Hội đồng Chính phủ chỉ định

cho hai cơ sở của Bộ Thủy lợi là Trường đại học thủy lợi và Viện nghiên cứu khoa học

thủy lợi từ năm 1979 tại Quyết định số 93-TTg ngày 20 tháng 3 năm 1979 của Thủ tướng

Chính phủ.

Hệ thống quản lý thủy lợi theo ngành dọc từ Trung ương (Bộ Thủy lợi) đến các địa

phương được hình thành và kiện toàn ở miền Bắc trong những năm chiến tranh đã được áp

dụng cho các tỉnh phía Nam sau ngày giải phóng, thống nhất đất nước. Năm 1979, hệ thống

này được tổ chức lại theo quy định của Nghị định số 88-CP ngày 6 tháng 3 năm 1979 của Hội

đồng Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Bộ Thủy lợi. Theo đó, hệ thống tổ chức thủy

lợi địa phương gồm có: Ty, Sở thủy lợi ở cấp tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương;

Ban thủy lợi ở cấp huyện, quận, thành phố trực thuộc tỉnh và thị xã; ở cấp xã do Ủy ban

nhân dân xã phụ trách.

Ty, Sở thủy lợi là cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực

(1)

Hội đồng Chính phủ: Nghị định số 88-CP ngày 6 tháng 3 năm 1979. Thuvienphapluat.vn (2)

Hội đồng Chính phủ: Nghị định số 35-CP ngày 9 tháng 2 năm 1981. Thuvienphapluat.vn

Page 64: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

64

thuộc Trung ương, chịu sự lãnh đạo toàn diện của Ủy ban nhân dân cùng cấp, chịu sự chỉ

đạo và quản lý thống nhất về chuyên môn, nghiệp vụ của Bộ Thủy lợi.

Ban thủy lợi huyện là cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân huyện, chịu sự lãnh

đạo trực tiếp của Ủy ban nhân dân huyện và sự chỉ đạo quản lý về chuyên môn, nghiệp vụ

của Sở, Ty thủy lợi; có trách nhiệm giúp Ủy ban nhân dân huyện thống nhất quản lý,

hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện toàn bộ công tác thủy lợi trên địa bàn huyện.

Ở những xã có nhu cầu về công tác thủy lợi, có một số ủy viên Ủy ban nhân dân xã

phụ trách công tác thủy lợi. Ủy viên này có nhiệm vụ giúp Ủy ban nhân dân xã quản lý và

các tổ chức chỉ đạo tốt công tác thủy lợi trong xã theo sự hướng dẫn về chuyên môn nghiệp

vụ của ban quản lý thủy lợi huyện(1)

.

Đến năm 1984, Bộ Thủy lợi ra tiếp Thông tư hướng dẫn nhiệm vụ, quyền hạn của

Phòng Thủy lợi huyện và các đơn vị sản xuất thuộc ngành thủy lợi huyện(2)

. Theo đó, các

huyện nói chung cần tổ chức Phòng thủy lợi trực thuộc Uỷ ban Nhân dân huyện. Các thị

xã, thành phố thuộc tỉnh, các quận vùng ven nội của thành phố trực thuộc trung ương và

một số huyện hải đảo, rẻo cao vùng biên giới tuỳ theo nhiệm vụ công tác thủy lợi mà có

thể thành lập Phòng thủy lợi huyện riêng, hoặc ghép thủy lợi với nông nghiệp, lâm nghiệp,

giao thông... thành Phòng Nông nghiệp - thủy lợi, hoặc Phòng Nông - lâm nghiệp - thủy

lợi, hoặc Phòng Giao thông - thủy lợi...

Tùy theo nhiệm vụ và khối lượng công việc cụ thể, các đơn vị sản xuất thủy lợi của

huyện có thể là: (1) Công trường thủy lợi huyện (Huyện có công trình đầu tư xây dựng mới

hoặc sửa chữa hệ thống thủy nông hàng năm liên tục); (2) Xí nghiệp xây dựng (để thi công

tất cả các công trình xây dựng cơ bản của huyện); (3) Xí nghiệp thủy nông huyện (để trực

tiếp quản lý các hệ thống thủy nông nằm gọn trong huyện hoặc chủ yếu phục vụ cho

huyện). Những công trình do Nhà nước đầu tư nằm gọn trong từng xã hoặc chủ yếu phục

vụ cho một xã, chưa có điều kiện giao cho xã, hợp tác xã quản lý thì trước mắt xí nghiệp

thủy nông trực tiếp quản lý, nhưng cần tạo điều kiện để giao cho xã, hợp tác xã quản lý.

Các huyện miền Nam, miền núi và một số huyện khác còn một số máy bơm hoạt động lưu

động, một số trạm bơm điện độc lập cũng giao cho xí nghiệp thủy nông huyện quản lý.

Ở xã tiếp tục kiện toàn tổ chức các Đội xây dựng thủy lợi trong các hợp tác xã nông

nghiệp, được thành lập và sau đó được tổ chức theo Quyết định số 202-CP ngày 31 tháng 10

năm 1970 của Hội đồng Chính phủ (Đội Thủy lợi 202). Nơi nào chưa có hợp tác xã nông

nghiệp thì tổ chức đội thủy lợi theo Thông tư số 5-TT/LB ngày 29 tháng 6 năm 1976 của

liên Bộ thủy lợi - Lao động. Các đội thủy nông được tổ chức theo Thông tư số 2305-TT/LB ngày

23/11/1983 của liên Bộ Nông nghiệp - thủy lợi.

(1)

Hội đồng Chính phủ: Nghị định số 88-CP ngày 6 tháng 3 năm 1979. Thuvienphapluat.vn (2)

Bộ Thủy lợi: Thông tư số 5-TT/TCCB ngày 29 tháng 11 năm 1984. Thuvienphapluat.vn

Page 65: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

65

Trước khi Đảng ta tổ chức Đại hội toàn quốc lần thứ VI vào tháng 12 năm 1986 và

đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, Bộ Thủy lợi về cơ bản đã được điều chỉnh, bổ

sung chức năng, nhiệm vụ và hệ thống các cơ quan quản lý ngành từ Trung ương đến các

địa phương đã được kiện toàn. Ngành thủy lợi đã thực hiện bước đầu thắng lợi đường lối

đổi mới nông nghiệp trong các năm (1981-1986), đặt tiền đề cho đổi mới mạnh mẽ hơn ở

giai đoạn tiếp theo.

III. NHỮNG NÉT NỔI BẬT TRONG PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP VIỆT

NAM THỜI KỲ 1976-1986

Thắng lợi của cuộc kháng chiến cống Mỹ cứu nước mùa Xuân năm 1975 mở ra thời

kỳ mới cho lịch sử Việt Nam: cả nước thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội. Việc thống

nhất về mặt Nhà nước đã tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần của nhân dân, phát

triển sự đoàn kết và thống nhất dân tộc lên một giai đoạn mới dưới ngọn cờ độc lập, tự do

và chủ nghĩa xã hội.

Trong thời kỳ 1976-1980, chúng ta đã hoàn thiện một bước cơ cấu và tổ chức bộ máy

hành chính từ Trung ương đến cơ sở; xây dựng Hiến pháp 1980 và hệ thống văn bản pháp

luật chung cả nước. Các lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, lương thực, thực phẩm, thủy

sản, thủy lợi được đặc biệt chú trọng, được xác định là mặt trận hàng đầu. Tuy nhiên, việc

phát triển các lĩnh vực này còn thiếu cơ sở khoa học, nên có tới 5-6 Bộ cùng chỉ đạo mà

vẫn thiếu đồng bộ, chỉ đáp ứng yêu cầu trước mắt mà không đảm bảo sự ổn định cho một

cơ cấu tổ chức lâu dài, làm cho các Bộ lúc tách lúc nhập, gây ra những xáo trộn không nhỏ

về cả vai trò và chức năng của các Bộ trong quản lý vĩ mô(1)

. Mặc dù vậy, sự hình thành hệ

thống bộ máy quản lý đó đã tạo điều kiện chuyên tâm chỉ đạo, góp phần thúc đẩy phát triển

từng lĩnh vực.

Đại hội lần thứ IV của Đảng đã hoạch định đường lối chung của cách mạng Việt

Nam trong thời kỳ mới và xác định nhiệm vụ trọng tâm giai đoạn 1976-1980 là cải tạo

công thương nghiệp tư bản tư doanh ở phía Nam và cải tạo xã hội chủ nghĩa, củng cố quan

hệ sản xuất, đẩy mạnh hợp tác hóa trong nông nghiệp. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhằm

phát triển sản xuất, nhưng giai đoạn này sản xuất nông nghiệp ở miền Bắc vẫn rất trì trệ;

việc phân phối mang nặng tính bình quân, bao cấp đã không có tác dụng kích thích sản

xuất. Ở miền Nam, phong trào hợp tác hóa phát triển nhanh nhưng không bền vững; những

tư duy giản đơn, nóng vội, chạy theo phong trào, cùng với cơ chế gò bó và vi phạm nguyên

tắc tự nguyện đã làm cho nhiều hợp tác xã, tập đoàn sản xuất vừa xây dựng xong đã tan vỡ.

Chủ trương tập thể hóa ruộng đất và các tư liệu sản xuất của nông dân đã kìm hãm động

lực phát triển. Công cuộc hợp tác hóa và cải tạo nông nghiệp đã không mang lại kết quả

như mong muốn. Cải tạo nông nghiệp chưa gắn với cải tạo công thương nghiệp ở thành thị,

hệ thống thương nghiệp nhà nước chưa gắn bó với nông thôn làm cho đời sống nông dân

thêm khó khăn. Chủ trương xây dựng và tăng cường cấp huyện thành các pháo đài chiến

(1)

Ban chỉ đạo biên soạn Lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, tập 3. Sđd, tr. 20.

Page 66: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

66

lược và các đơn vị kinh tế nông - công nghiệp là không thích hợp với điều kiện đất nước

còn nhiều khó khăn, cơ sở vật chất quá yếu kém. Đất nước mới chuyển từ chiến tranh sang

hòa bình với nhiều khó khăn chồng chất, quan hệ quốc tế phức tạp, bị bao vây cấm vận,

vừa tiến hành chiến tranh giữ nước vừa xây dựng Tổ quốc, nhiều chỉ tiêu kế hoạch không

triển khai thực hiện được. Chúng ta chưa thoát khỏi tư duy thời chiến, nhưng lại muốn tiến

nhanh lên nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Những sai lầm trong cải tạo công thương

nghiệp và nông nghiệp ở Miền nam, bế tắc của mô hình hợp tác xã ở miền Bắc cùng với

hậu quả của chiến tranh biên giới và rối ren trong phân phối lưu thông đã đẩy đất nước lâm

vào cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội nghiêm trọng.

Chính hoàn cảnh vô cùng khó khăn đó đã làm xuất hiện những điểm sáng điển hình

trong nông nghiệp. Tinh thần cần cù, chịu khó nhưng không cam chịu và tính sáng tạo

cùng truyền thống khắc phục khó khăn, vươn lên của người nông dân đã được bộc lộ và

phát huy. Những kinh nghiệm trong thực tiễn cuộc sống đã được Đảng và Nhà nước sớm

phát hiện và tổ chức triển khai thí điểm từng bước với quy mô thích hợp. Từ những thí

điểm hình thức khoán trong sản xuất nông nghiệp ở Vĩnh Phúc, Hải Phòng, Nghệ Tĩnh,

chủ trương mở rộng khoán theo Chỉ thị 100-CT/TW ngày 13 tháng 1 năm 1981 đã tạo đà

cho phát triển; cuối năm 1981 đầu 1982 “Khoán 100” được nhanh chóng áp dụng trong cả

nước đem lại hiệu quả to lớn.

Đại hội lần thứ V của Đảng đã xác định những nhiệm vụ chủ yếu cho kế hoạch 5

năm (1981-1985), khẳng định chủ trương đổi mới, nhất là về quản lý kinh tế với nhiều

chính sách mới. Thành tựu nổi bật giai đoạn này là thực hiện thí điểm thành công cơ chế

quản lý mới, chuyển từ cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế khoán theo Chỉ

thị 100 của Ban Bí thư trong Nông nghiệp và cơ chế sản xuất gắn với thị trường xuất khẩu

trong thủy sản. Từ đó đã khắc phục được một bước tình trạng trì trệ, giảm sút từ nhiều năm

trước và bảo đảm đời sống nhân dân. Chúng ta đã đi sâu vào thực tế, kiên trì các cách làm

mới, từng bước thay đổi cơ chế quản lý kinh tế, chuẩn bị những quyết sách quan trọng của

đường lối đổi mới toàn diện cho giai đoạn sau năm 1986. Nhờ đó sản xuất phát triển tương

đối khá trong điều kiện đất nước có nhiều khó khăn, quốc phòng an ninh được giữ vững;

mặt trận nông nghiệp chuyển sang cơ chế quản lý mới, tạo ra bước ngoặt về sản xuất nông

nghiệp, cải thiện đời sống nhân dân.

Đại hội lần thứ VI của Đảng (12/1986) là sự tiếp nối những bước đột phá trong đổi

mới tư duy, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của thời kỳ này. Đảng đã đề ra đường lối đổi

mới toàn diện về kinh tế, chính trị, xã hội, làm thay đổi cơ bản về nhận thức và hoạch định

con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Page 67: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

67

QUÁ TRÌNH KIỆN TOÀN TỔ CHỨC CÁC CƠ QUAN QUẢN LÝ NGÀNH

THỜI KỲ 1987-2015

Đến năm 1987, ngành nông, lâm, ngư nghiệp và thủy lợi đã trải qua 5 năm đổi mới

với Chỉ thị 100-CT/TW ngày 13 tháng 1 năm 1981 của Ban Bí thư về cải tiến công tác

khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã

nông nghiệp. Cùng với đó, các Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm, Bộ Lâm

nghiệp, Bộ Thủy lợi, Bộ Thủy sản, Tổng cục Cao su đã lần lượt được kiện toàn.

Thời kỳ 30 năm đổi mới toàn diện đất nước (1987 - 2015) là thời kỳ hội tụ dần các

bộ, ngành về mặt tổ chức sau thời gian dài các bộ được chia tách để quản lý chuyên sâu

từng lĩnh vực. Có thể chia thành các giai đoạn:

- Giai đoạn (1987-1995): các Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm, Bộ Lâm

nghiệp, Bộ Thủy lợi tiếp tục được củng cố về tổ chức;

- Giai đoạn (1995 - 2007): các Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm, Bộ Lâm

nghiệp, Bộ Thủy lợi được hợp nhất để trở thành Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

theo chủ trương thành lập các bộ kinh tế đa ngành, phát huy vai trò chủ động trong quản lý

nhà nước của các bộ, ngành;

- Giai đoạn (2007 - 2015): tiếp tục hợp nhất Bộ Thủy sản và Bộ Nông nghiệp và Phát

triển nông thôn để trở thành Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (mới), với mô hình

quản lý tổng hợp đa ngành nông - lâm - ngư nghiệp, diêm nghiệp, thủy lợi và phát triển

nông thôn.

1. Quá trình kiện toàn tổ chức Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm, Bộ

Lâm nghiệp, Bộ Thủy lợi giai đoạn 1987-1995

Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12 năm 1986), Hội đồng

Bộ trưởng đã triển khai thực hiện các chủ trương, quan điểm lớn của Đảng về đổi mới toàn

diện kinh tế - xã hội đất nước. Các chủ trương, quan điểm có tính đột phá đó đã định

hướng cơ bản cho sự đổi mới về tổ chức và hoạt động nhiều mặt của Hội đồng Bộ trưởng

ngay từ năm cuối nhiệm kỳ (1981-1987) và những năm tiếp theo.

Ngày 16 tháng 2 năm 1987, Hội đồng Nhà nước đã ra Nghị quyết số 782-

NQ/HĐNN7 kiện toàn một bước các cơ quan và thành phần của Hội đồng Bộ trưởng. Từ

ngày 17 đến ngày 22 tháng 6 năm 1987, Quốc hội khóa VIII đã họp kỳ thứ nhất của nhiệm

kỳ (1987-1992), bầu các vị lãnh đạo cao nhất của Nhà nước, phê chuẩn tổ chức bộ máy và

các thành viên Hội đồng Bộ trưởng.

Theo Nghị quyết 782-NQ/HĐNN7 của Hội đồng Nhà nước, trong Hội đồng Bộ

trưởng nhiệm kỳ này có một số bộ được sáp nhập; số thành viên của Chính phủ chỉ còn có 32

bộ trưởng, chủ nhiệm ủy ban nhà nước và thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Để đổi mới công

tác quản lý nhà nước đối với nông nghiệp, Chính phủ chủ trương gắn quản lý sản xuất

nông nghiệp với công tác lương thực và công nghiệp thực phẩm, nhằm tạo điều kiện cho

nông nghiệp phát triển theo chuỗi từ “đồng ruộng đến bàn ăn”, các lĩnh vực từ sản xuất

Page 68: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

68

đến chế biến, tiêu thụ gắn kết với nhau chặt chẽ hơn; đồng thời khắc phục tình trạng tồn tại

quá nhiều bộ, ngành kinh tế nông nghiệp. Theo chủ trương đó các Bộ Nông nghiệp, Bộ

Lương thực và Bộ Công nghiệp thực phẩm được hợp nhất lại và thành lập Bộ Nông nghiệp

và Công nghiệp thực phẩm. Các Bộ Lâm nghiệp, Bộ Thủy lợi, Bộ Thủy sản tiếp tục hoạt

động. Tổng cục Cao su tiếp tục tồn tại với tư cách là cơ quan trực thuộc Chính phủ cho đến

năm 1990 thì giải thể(1)

.

1.1. Kiện toàn tổ chức của Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm giai đoạn

1987 - 1995

Bước vào nhiệm kỳ Quốc hội khóa VIII (1987-1992), cùng với việc thành lập Bộ

Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm, ông Nguyễn Ngọc Trìu - nguyên Bộ trưởng Bộ

Nông nghiệp được cử giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Ông Nguyễn Công Tạn -

nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp kiêm Tổng cục trưởng Tổng cục Khai hoang và vùng

kinh tế mới (năm 1978), nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố, Phó Bí thư

Thành ủy Hà Nội (năm 1986), được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Công

nghiệp thực phẩm(2)

. Ông Nguyễn Công Tạn giữ chức Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Công

nghiệp thực phẩm đến năm 1995. Sau đó được cử làm Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát

triển nông thôn vào tháng 11 năm 1995 khi hợp nhất ba bộ: Bộ Nông nghiệp và Công

nghiệp thực phẩm, Bộ Lâm nghiệp, Bộ Thủy lợi.

Sau khi Hội đồng Nhà nước và Quốc hội phê chuẩn việc thành lập Bộ Nông nghiệp

và Công nghiệp thực phẩm, ngày 5 tháng 3 năm 1987 Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị

định số 46-HĐBT quy định chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Bộ Nông nghiệp

và Công nghiệp thực phẩm. Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm là cơ quan của

Hội đồng Bộ trưởng, có trách nhiệm thống nhất quản lý Nhà nước về nông nghiệp, lương

thực và công nghiệp thực phẩm trong phạm vi cả nước, theo đường lối, chính sách của

Đảng, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho nhân dân,

cho quốc phòng, nguyên liệu cho công nghiệp và nông sản xuất khẩu.

Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, tổ chức bộ máy giúp việc Bộ trưởng

gồm có: Văn phòng; 09 Vụ (Vụ Kế hoạch, Vụ Tài chính kế toán, Vụ Xây dựng cơ bản, Vụ

Tổ chức cán bộ, Vụ Lao động tiền lương, Vụ Sản xuất, Vụ Lương thực, Vụ Khoa học kỹ

thuật, Vụ Hợp tác quốc tế); Ban Quản lý và cải tạo nông nghiệp - công nghiệp thực phẩm

và Ban Thanh tra.

Đối với đơn vị trực thuộc Bộ, Hội đồng Chính phủ giao Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp

và Công nghiệp thực phẩm có trách nhiệm sắp xếp lại các đơn vị sản xuất kinh doanh, đơn

(1)

Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam 1945-2005, T3 (1976 - 2005).

Sđd, tr. 202-205. (2)

Hội đồng Nhà nước: Nghị quyết số 782-NQ/HĐNN7 ngày 16 tháng 2 năm 1987. Thuvienphapluat.vn

Page 69: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

69

vị sự nghiệp của các Bộ Nông nghiệp, Lương thực, Công nghiệp thực phẩm cũ, trình Hội

đồng Bộ trưởng xét và quyết định. Trước mắt, khi hợp nhất ba Bộ, các đơn vị hiện có được

tiếp tục hoạt động bình thường cho đến khi có quyết định mới(1)

.

Trong tám năm từ 1987 đến 1995, hoạt động của Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp

thực phẩm trải qua hai nhiệm kỳ Quốc hội: khóa VIII (1987-1992) và khóa IX (1992-1997).

Nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Bộ và các đơn vị trực thuộc Bộ thường xuyên được bổ

sung, kiện toàn theo yêu cầu đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp của Đảng và Nhà nước,

thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), thứ VII (1992),

nhất là trong Nghị quyết 10-NQ/TW ngày 5 tháng 4 năm 1988 của Bộ Chính trị và các văn

bản chỉ đạo của Hội đồng Bộ trưởng.

Đối với ngành lương thực, tình hình lúc này còn nhiều khó khăn, sản xuất lương

thực tăng chậm, thiếu vững chắc, việc quản lý, phân phối, lưu thông, tiêu dùng còn nhiều

khuyết điểm, chưa đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu của xã hội. Để thực hiện Nghị quyết Hội

nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 2 (khoá VI) và kết luận của Bộ Chính trị

ngày 24 tháng 6 năm 1987 về những nhiệm vụ cấp bách về sản xuất, phân phối, lưu thông

và tiêu dùng lương thực, Hội đồng Bộ trưởng đã ra Quyết định số 29A-HĐBT ngày 3

tháng 11 năm 1987, chuyển hoạt động của ngành lương thực sang hạch toán kinh doanh xã

hội chủ nghĩa.

Cùng với đổi mới chính sách và phương thức kinh doanh, bước chuyển đổi này yêu

cầu phải tổ chức lại cho hợp lý bộ máy kinh doanh lương thực, xoá bỏ trung gian, giảm phí

lưu thông, thực hiện kinh doanh tổng hợp (mua, bán, chế biến, xuất nhập khẩu gạo, màu,

và phụ phẩm v.v...). Theo đó, Hội đồng Bộ trưởng cho phép lập Tổng Công ty Lương thực

Trung ương trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm và các Công ty Lương

thực ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố để kinh doanh

lương thực và cung ứng lương thực cho các đối tượng Nhà nước quy định. Tổ chức các cửa

hàng, trạm hoặc đại lý trực thuộc Công ty tỉnh làm nhiệm vụ thu mua, bán lẻ lương thực ở

các huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.

Đồng thời Hội đồng Bộ trưởng giao cho Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm

rà soát và quy hoạch lại toàn bộ mạng lưới phục vụ kinh doanh lương thực từng vùng và

trong cả nước, nhằm tổ chức và quản lý hợp lý, đạt hiệu quả cao, thuận tiện cho việc mua

bán lương thực, định rõ phần nào do địa phương quản lý, phần nào chuyển giao lại cho

Tổng Công ty Lương thực Trung ương(2)

.

Ngay sau đó, ngày 7 tháng 11 năm 1987, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số

210-HĐBT về việc thành lập Tổng công ty Lương thực Trung ương (gọi tắt là Vinafood)

(1)

Hội đồng Bộ trưởng: Nghị định số 46-HĐBT ngày 5 tháng 3 năm 1987. Thuvienphapluat.vn (2)

Hội đồng Bộ trưởng: Quyết định số 29A-HĐBT ngày 3 tháng 11 năm 1987. Thuvienphapluat.vn

Page 70: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

70

trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm, trên cơ sở tổ chức lại các Tổng

Công ty Lương thực ở các . Một Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm

được cử phụ trách Tổng Giám đốc Tổng công ty.

Tuy nhiên, do tình hình kinh doanh lương thực ở các vùng miền có nhiều đặc thù,

cần được chỉ đạo, điều hành kịp thời và sâu sát hơn, nên ngày 2 tháng 1 năm 1990, Hội

đồng Bộ trưởng có Nghị định số 2-HĐBT về việc giải thể Tổng công ty Lương thực Trung

ương, giao Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm tổ chức lại thành các

Tổng công ty và Công ty kinh doanh lương thực ở ba (miền Bắc, miền Trung và Nam Bộ).

Sau 5 năm hoạt động, các Tổng công ty và công ty lương thực ở ba một lần nữa được kiện

toàn. Ngày 24 tháng 5 năm 1995, Thủ tướng Chính phủ có các Quyết định số 311-TTg và

312-TTg về việc thành lập Tổng công ty Lương thực miền Nam và Tổng công ty Lương

thực miền Bắc. Ngày 17 tháng 7 năm 1995, Chính phủ đã ra Nghị định số 46-CP và Nghị

định số 47-CP phê chuẩn Điều lệ tổ chức và hoạt động của hai Tổng công ty này(1)

.

Từ năm 1995 trở đi, cơ chế quản lý lương thực cũng như hệ thống kinh doanh lương

thực của nước ta về cơ bản được định hình và hoạt động khá ổn định.

Tổng cục Trang bị kỹ thuật của Bộ Nông nghiệp trước đây tiếp tục hoạt động trực

thuộc Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm đến tháng 4 năm 1989. Sau đó, thực

hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, Hội đồng Bộ

trưởng đã quyết định giải thể Tổng cục Trang bị kỹ thuật để thành lập Liên hiệp các xí

nghiệp cơ điện nông nghiệp thuộc Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm. Nhiệm vụ

của Liên hiệp là chế tạo, sửa chữa đại tu, hồi phục và cung ứng máy móc, thiết bị, phụ tùng

cơ điện nông nghiệp(2)

.

Ngành cao su trong những năm đầu thành lập Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực

phẩm tiếp tục thuộc quyền quản lý của Tổng cục Cao su - cơ quan trực thuộc Hội đồng Bộ

trưởng. Đến đầu năm 1989, theo đề nghị của Tổng cục Cao su, Hội đồng Bộ trưởng đã có

Nghị định số 32-HĐBT (ban hành ngày 27 tháng 3 năm 1989) về việc thành lập Tổng công

ty Cao su Việt Nam. Tổng giám đốc Tổng Công ty cao su Việt Nam do Chủ tịch Hội đồng

Bộ trưởng bổ nhiệm.(3)

Sau đó, Nhà nước có chủ trương kiện toàn, rút gọn các cơ quan đầu mối quản lý

ngành, nhất là các ngành thuộc lĩnh vực nông nghiệp. Ngày 20 tháng 2 năm 1990, Hội

đồng Nhà nước ra Nghị quyết số 242-NQ/HĐNN8 về cử và miễn nhiệm một số thành viên

(1)

Chính phủ: Nghị định số 46-CP ngày 17 tháng 7 năm 1995 phê chuẩn Điều lệ tổ chức và hoạt động của

Tổng công ty Lương thực miền Bắc; Nghị định số 47-CP ngày 17 tháng 7 năm 1995 phê chuẩn Điều lệ tổ

chức và hoạt động của Tổng công ty Lương thực miền Nam. Thuvienphapluat.vn (2)

Hội đồng Bộ trưởng: Nghị định số 35-HĐBT ngày 1 tháng 4 năm 1989 về việc thành lập Liên hiệp các xí

nghiệp cơ điện nông nghiệp thuộc Bộ nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm. Thuvienphapluat.vn (3)

Hội đồng Bộ trưởng: Nghị định số 32-HĐBT ngày 27 tháng 3 năm 1989 về việc thành lập Tổng công ty

Cao su Việt Nam. Thuvienphapluat.vn

Page 71: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

71

của Hội đồng bộ trưởng. Ngày 31 tháng 3 năm 1990, Hội đồng Nhà nước ra Nghị quyết số

244-NQ/HĐNN8 về thành lập, đổi tên một số Bộ, Ủy ban Nhà nước và phê chuẩn việc giải

thể một số Tổng cục. Ngày 30 tháng 6 năm 1990, Quốc hội khóa VIII ra Nghị quyết

(không số) phê chuẩn các Nghị quyết nói trên của Hội đồng Nhà nước. Trong đó, Quốc hội

đã phê chuẩn việc giải thể Tổng cục Cao su, giao chức năng quản lý Nhà nước đối với

ngành cao su cho Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm đảm nhiệm(1)

.

Đến năm 1995, thực hiện Quyết định số 91/TTg ngày 7 tháng 3 năm 1994 của Thủ

tướng Chính phủ về việc thí điểm thành lập tập đoàn kinh doanh, theo đề nghị của Bộ

trưởng Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định

số 252-TTg ngày 29 tháng 4 năm 1995 về việc thành lập Tổng công ty Cao su Việt Nam.

Tổng công ty cao su Việt Nam lần này được thành lập là một Tổng công ty Nhà nước, trên

cơ sở sắp xếp lại các đơn vị sản xuất, lưu thông, sự nghiệp về cao su thuộc Trung ương và

địa phương; hoạt động theo Điều lệ được Hội đồng Bộ trưởng phê chuẩn(2)

. Ngày 13 tháng

7 năm 1995, Chính phủ ra Nghị định số 43-CP phê chuẩn Điều lệ tổ chức và hoạt động của

Tổng công ty Cao su Việt Nam(3)

.

Ngành Cà phê cũng được Chính phủ cho thành lập Tổng công ty. Theo Quyết định

số 251-TTg ngày 29 tháng 4 năm 1995 của Thủ tướng Chính phủ, Tổng công ty Cà phê

Việt Nam (Vinacafe) được thành lập trên cơ sở sắp xếp lại các đơn vị sản xuất, lưu thông,

sự nghiệp về cà phê thuộc Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm và các đơn vị sản

xuất, lưu thông cà phê thuộc địa phương. Chính phủ giao Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và

Công nghiệp thực phẩm chịu trách nhiệm xây dựng phương án sắp xếp lại các đơn vị sản

xuất, lưu thông và sự nghiệp về cà phê thuộc Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm,

các đơn vị sản xuất lưu thông cà phê của các địa phương để lập danh sách các đơn vị thành

viên của Tổng công ty trình Thủ tướng Chính phủ quyết định(4)

. Ngày 15 tháng 7 năm 1995,

Chính phủ ban hành Nghị định số 44-CP phê chuẩn Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tổng

công ty Cà phê Việt Nam.(5)

Quá trình sắp xếp, thành lập các doanh nghiệp nhà nước trong ngành nông nghiệp

(1)

Quốc hội: Nghị quyết ngày 30 tháng 6 năm 1990 phê chuẩn các Nghị quyết của Hội đồng Nhà nước về tổ

chức và nhân sự của Hội đồng Bộ trưởng. Thuvienphapluat.vn (2)

Thủ tướng Chính phủ: Quyết định 252-TTg ngày 29 tháng 4 năm 11995 về việc thành lập Tổng công ty

Cao su Việt Nam. Thuvienphapluat.vn (3)

Chính phủ: Nghị định số 43-CP ngày 13 tháng 7 năm 1995 về việc phê chuẩn Điều lệ tổ chức và hoạt động

của Tổng công ty Cao su Việt Nam. Thuvienphapluat.vn (4)

Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 251-TTg ngày 29 tháng 4 năm 1995 về việc thành lập Tổng công ty

Cà phê Việt Nam. Thuvienphapluat.vn (5)

Chính phủ: Nghị định số 44-CP ngày 15 tháng 7 năm 1995 phê chuẩn Điều lệ tổ chức và hoạt động của

Tổng công ty Cà phê Việt Nam. Thuvienphapluat.vn

Page 72: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

72

trên đây được tiến hành trong bối cảnh thực hiện đường lối đổi mới quản lý kinh tế nông

nghiệp theo Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị năm 1988 và chủ trương sắp xếp lại tổ chức,

đổi mới cơ chế quản lý các doanh nghiệp nông nghiệp nhà nước(1)

. Theo đó, không chỉ các

Tổng công ty nói trên, mà các đơn vị quốc doanh sản xuất và dịch vụ nông nghiệp, lâm

nghiệp, nuôi trồng thủy sản, thủy lợi, các xí nghiệp, trạm trại, trung tâm sản xuất thực

nghiệm nông - lâm - ngư nghiệp do Nhà nước thành lập, cấp vốn và quản lý với tư cách là

chủ sở hữu đề được sắp xếp, tổ chức lại theo các hướng:

- Đăng ký lại theo Nghị định số 388-HĐBT và tiếp tục phát triển đối với các đơn vị

thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh quan trọng, làm ra sản phẩm xuất khẩu ở các

vùng tập trung chuyên canh, có gắn với chế biến, kinh doanh có hiệu quả kinh tế, có khả

năng tái đầu tư và phát triển tốt;

- Giải thể các doanh nghiệp yếu kém, làm ăn thua lỗ, không có khả năng đổi mới và

phát triển;

- Chuyển giao cho địa phương quản lý phần lớn doanh nghiệp nông nghiệp nhà nước

hiện do Trung ương quản lý; chỉ giữ lại một số doanh nghiệp quy mô lớn, gắn với chế biến,

xuất khẩu hoặc làm nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, làm giống gốc;

- Đăng ký hoạt động theo quy chế của các doanh nghiệp làm nhiệm vụ xây dựng cơ

sở hạ tầng cho sản xuất đối với những doanh nghiệp chủ yếu làm dịch vụ kỹ thuật như thủy

lợi, sản xuất giống cây, giống con...(2)

Thực hiện Nghị định 12-CP nói trên, ngày 27 tháng 5 năm 1995, Thủ tướng Chính

phủ có Quyết định số 329-TTg về việc chuyển giao các nông trường, lâm trường cho địa

phương quản lý. Theo đó, Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm, chỉ giữ lại một số

nông trường để phục vụ chế biến, xuất khẩu với quy mô lớn, phục vụ nghiên cứu khoa học

sản xuất và giữ giống gốc.

Nhiệm vụ di dân phát triển vùng kinh tế mới và chương trình nước sinh hoạt nông

thôn do UNICEF tài trợ được Chính phủ chuyển sang cho Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp

thực phẩm thực hiện theo Nghị định số 26-CP ngày 17 tháng 4 năm 1995.

Để thúc đẩy ứng dụng khoa học kỹ thuật, tăng cường công tác khuyến nông giúp hộ

nông dân mở rộng sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, phát triển kinh tế - xã

hội nông thôn, trong giai đoạn này Chính phủ đã có Nghị định số 13-CP ngày 2 tháng 3

năm 1993 ban hành bản quy định về công tác khuyến nông. Theo đó, Nhà nước tổ chức hệ

thống khuyến nông (bao gồm cả nông, lâm, ngư nghiệp) trên phạm vi toàn quốc, đồng thời

(1)

Theo Nghị định số 388-HĐBT ngày 20 tháng 11 năm 1991 của Hội đồng Bộ trưởng (Quy chế về thành lập

và giải thể doanh nghiệp Nhà nước); Nghị định số 12-CP ngày 2 tháng 3 năm 1993 của Chính phủ (Quy định

về sắp xếp lại tổ chức và đổi mới cơ chế quản lý các doanh nghiệp nông nghiệp Nhà nước) (2)

Chính phủ: Nghị định số 12-CP ngày 2 tháng 3 năm 1993 ban hành Quy định về sắp xếp lại tổ chức và đổi

mới cơ chế quản lý các doanh nghiệp nông nghiệp Nhà nước. Thuvienphapluat.vn

Page 73: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

73

khuyến khích phát triển các tổ chức khuyến nông tự nguyện của các tổ chức kinh tế - xã

hội và tư nhân trong và ngoài nước hoạt động theo luật pháp của Việt Nam.

Ở Trung ương, Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm là cơ quan thường trực

về công tác khuyến nông của Chính phủ. Chính phủ giao Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp

thực phẩm thành lập Cục Khuyến nông; ở các Bộ Lâm nghiệp, thủy sản, nhiệm vụ khuyến

lâm, khuyến ngư được giao cho Vụ, Cục thích hợp. Ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung

ương thành lập Trung tâm khuyến nông trực thuộc Sở nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản.

Trung tâm tổ chức các Trạm khuyến nông theo từng vùng hoặc theo cụm xã(1)

. Tuy nhiên,

đến khi thành lập, cơ quan khuyến nông của Bộ có tên là Cục Khuyến nông và Khuyến lâm

và được giao nhiệm vụ, quyền hạn theo Quyết định số 346/TTg ngày 28 tháng 5 năm 1996.

Ở thời điểm đó, Cục Khuyến nông và Khuyến lâm không chỉ là cơ quan thuộc Bộ về công

tác khuyến nông, mà là cơ quan giúp Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về trồng trọt (trừ trồng rừng), chăn nuôi và chủ

trương về công tác khuyến nông và khuyến lâm của Chính phủ(2)

.

Nhằm tăng cường công tác đào tạo cán bộ kỹ thuật có trình độ cao, một số đơn vị của

Bộ được cấp phép đào tạo trên đại học, như Viện Nghiên cứu Thú y(3)

, Viện Khoa học

Nông nghiệp miền Nam(4)

.

Trong giai đoạn (1987-1995), Chính phủ cũng cho thành lập nhiều Hội xã hội -nghề

nghiệp thuộc ngành nông nghiệp, như Hội Chăn nuôi Việt Nam(5)

, Hội Thú y Việt Nam(6)

,

Hội Khoa học Đất Việt Nam(7)

.

Đến ngày 21 tháng 10 năm 1995, khi thành lập Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông

thôn, Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm kết thúc thời kỳ 8 năm hoạt động từ

1987 đến 1995. Từ năm 1995 trở đi, sự phát triển của ngành nông nghiệp, công nghiệp

thực phẩm sẽ gắn liền với các hoạt động của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,

trong sự liên kết chặt chẽ với các ngành thủy lợi, lâm nghiệp và sau này là thủy sản.

1.2. Kiện toàn tổ chức của Bộ Lâm nghiệp giai đoạn 1987-1995

(1)

Chính phủ: Nghị định số 13-CP ngày 2 tháng 3 năm 1993 ban hành bản quy định về công tác khuyến

nông. Thuvienphapluat.vn (2)

Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 346/TTg ngày 28 tháng 5 năm 1996 về nhiệm vụ, quyền hạn Cục

Khuyến nông và Khuyến lâm trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Thuvienphapluat.vn (3)

Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng: Quyết định số 183-CT ngày 28 tháng 5 năm 1992 về việc giao nhiệm vụ đào

tạo trên đại học cho Viện Nghiên cứu Thú y Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm. Thuvienphapluat.vn (4)

Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 161-TTg ngày 12 tháng 12 năm 1992 về việc giao nhiệm vụ đào tạo

trên đại học cho Viện Khoa học Nông nghiệp miền Nam Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm.

Thuvienphapluat.vn (5)

Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng: Quyết định số 127-CT ngày 19 tháng 4 năm 1991 cho phép thành lập Hội

Chăn nuôi Việt Nam. Thuvienphapluat.vn (6)

Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng: Quyết định số 178-CT ngày 4 tháng 6 năm 1991 cho phép thành lập Hội

Thú y Việt Nam. Thuvienphapluat.vn (7)

Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng: Quyết định số 181-CT ngày 8 tháng 6 năm 1991 cho phép thành lập Hội

Khoa học Đất Việt Nam. Thuvienphapluat.vn

Page 74: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

74

Trong thời kỳ trước, Bộ Lâm nghiệp được thành lập trên cơ sở Tổng cục Lâm nghiệp

từ năm 1976 với hệ thống các cơ quan quản lý ngành từ Trung ương đến địa phương được

xây dựng từ thời kỳ Tổng cục Lâm nghiệp và bổ sung, kiện toàn trong 10 năm (1976-

1986). Bộ trưởng đầu tiên của Bộ Lâm nghiệp là ông Hoàng Văn Kiểu (từ tháng 7 năm

1976 đến tháng 2 năm 1977). Tiếp đó là ông Trần Kiên (từ tháng 2 năm 1977 đến tháng 1

năm 1981) và ông Phan Xuân Đợt (từ tháng 1 năm 1981 trở đi)(1)

.

Bước vào giai đoạn mới nhiệm kỳ Quốc hội khóa VIII (1987 - 1992), ông Phan Xuân

Đợt tiếp tục được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Lâm nghiệp cho đến hết nhiệm kỳ.

Ngày 30 tháng 9 năm 1992, kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa IX đã thông qua cơ cấu

của Chính phủ. Ngày 16 tháng 12 năm 1992, Quốc hội có Nghị quyết (không số), phê

chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm ông Nguyễn Quang Hà giữ chức

vụ Bộ trưởng Bộ Lâm nghiệp. Ông Nguyễn Quang Hà giữ cương vị Bộ trưởng Bộ Lâm

nghiệp cho đến năm 1995, khi Bộ Lâm nghiệp hợp nhất với các Bộ Nông nghiệp và Công

nghiệp thực phẩm, Bộ Thủy lợi để thành lập Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn(2)

.

Các Thứ trưởng của Bộ Lâm nghiệp được bổ nhiệm trong giai đoạn trước 1986

tiếp tục giữ cương vị thứ trưởng trong giai đoạn 1987 - 1995 là các ông Trần Sơn Thủy

(1978-1995); Nguyễn Hữu Quang (1978-1990); Tô Văn Bình (1983-1991); Phan Thanh

Xuân (1985-1992); Thân Trung Hiếu (1985-1990). Ngoài ra còn có ông Nguyễn Văn Đẳng

là Thứ trưởng được bổ nhiệm trong giai đoạn này (1994-1995) và tiếp tục giữ cương vị

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sau khi hợp nhất bộ năm 1995(3)

.

Về cơ bản, tổ chức bộ máy của Bộ Lâm nghiệp và hệ thống các cơ quan quản lý

ngành ở địa phương đã được củng cố, kiện toàn khá chặt chẽ. Vì thế trước năm 1994,

Chính phủ không có điều chỉnh lớn về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Bộ.

Căn cứ để Bộ Lâm nghiệp ra các quyết định trong những năm đó đều dựa trên Nghị định

số 35-CP của Hội đồng Chính phủ quy định nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Bộ

trưởng và chức năng của Bộ (cho các Bộ nói chung) trong lĩnh vực quản lý nhà nước và

Nghị định số 15-CP ngày 2 tháng 3 năm 1993 của Chính phủ quy định nhiệm vụ, quyền

hạn và trách nhiệm quản lý Nhà nước của Bộ, cơ quan ngang Bộ.

Đến ngày 1 tháng 2 năm 1994, Chính phủ ra Nghị định số 08-CP về nhiệm vụ, quyền

hạn và bộ máy của Bộ Lâm nghiệp. Theo đó, Bộ Lâm nghiệp là cơ quan của Chính phủ,

thực hiện chức năng quản lý nhà nước về quản lý, bảo vệ, xây dựng, phát triển rừng, sử

dụng rừng, có trách nhiệm tổ chức thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ và phát triển rừng

theo quy định tại Luật Bảo vệ và phát triển rừng.

Để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được giao, cơ cấu bộ máy của Bộ Lâm nghiệp

(1)

Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Chính phủ Việt Nam qua các thời kỳ. Cổng thông

tin điện tử. (2)

Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa IX: Nghị quyết ngày 16 tháng 12 năm 1992 phê

chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm Bộ trưởng Bộ lâm nghiệp. Thuvienphapluat.vn (3)

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Lâm nghiệp Việt Nam 1945 - 2000, Sđd, tr. 167-168.

Page 75: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

75

gồm các khối cơ quan, đơn vị sau:

1) Khối các tổ chức giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước có: Văn

phòng Bộ; Thanh tra Bộ; 07 Vụ (Vụ Lâm sinh, Vụ Công nghiệp rừng, Vụ Khoa học - công

nghệ, Vụ Hợp tác quốc tế, Vụ Kế hoạch - Thống kê, Vụ Tài chính - Kế toán, Vụ Tổ chức -

Lao động); và Cục Kiểm lâm.

2) Khối các tổ chức sự nghiệp có: Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, Viện Điều

tra quy hoạch rừng, các Vườn quốc gia, Trường đại học Lâm nghiệp, Trường Cán bộ quản

lý Lâm nghiệp, Tạp chí Lâm nghiệp. Ngoài ra còn có các trường Trung học, Công nhân kỹ

thuật... mà Bộ sẽ cùng ban Tổ chức Chính phủ và các bộ ngành có liên quan sắp xếp lại

trình Thủ tướng Chính phủ quyết định(1)

.

Đối với hệ thống các cơ quan quản lý ngành ở địa phương, đến những năm 1988 - 1989,

có 14 tỉnh mặc dù có nhiều rừng, nhưng đã hợp nhất Sở Lâm nghiệp với Sở Nông nghiệp,

thành Sở Nông Lâm(2)

. Ngược lại, ở một số tỉnh đồng bằng tuy không có rừng(3)

, nhưng

nhiệm vụ cung ứng lâm sản lớn, nên đã thành lập Sở Lâm nghiệp riêng để làm nhiệm vụ

chỉ đạo phong trào trồng cây nhân dân và tổ chức cung ứng lâm sản. Sau này, vào đầu

những năm 90, trong đợt sắp xếp lại các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương, các tỉnh,

thành phố này cũng đã hợp nhất Sở Lâm nghiệp vào Sở Nông nghiệp. Một số tỉnh khác vẫn

giữ nguyên tổ chức của Sở Lâm nghiệp cho đến năm 1995(4)

, khi thành lập Bộ Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn(5)

.

Sau khi ban hành Nghị định về Bộ Lâm nghiệp, Chính phủ đã ra Nghị định số 39-CP

ngày 18 tháng 5 năm 1994 về hệ thống tổ chức và nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm lâm. So

với hệ thống kiểm lâm giai đoạn trước năm 1986 (tổ chức theo Nghị định số 101-CP ngày

21 tháng 5 năm 1973 và Nghị định số 368-CP ngày 8 tháng 10 năm 1979 của Hội đồng

Chính phủ), hệ thống kiểm lâm thời kỳ này được tổ chức lại theo Luật Bảo vệ và phát triển

rừng ngày 12 tháng 8 năm 1991, phân rõ trách nhiệm, quyền hạn của Trung ương (Bộ Lâm

nghiệp) và địa phương (Ủy ban nhân dân tỉnh). Trong hệ thống tổ chức Kiểm lâm, ở Trung

ương tiếp tục là Cục Kiểm lâm trực thuộc Bộ Lâm nghiệp. Ở tỉnh nơi có rừng là Chi cục

Kiểm lâm trực thuộc Uỷ ban Nhân dân tỉnh (thay vì trực thuộc Ty Lâm nghiệp theo Nghị

định số 368-CP ngày 8 tháng 10 năm 1979). Ở huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh nơi

có rừng là Hạt Kiểm lâm trực thuộc Chi cục Kiểm lâm (thay vì trực thuộc Ban Nông

nghiệp huyện theo Nghị định số 368-CP ngày 8 tháng 10 năm 1979). Ở các đầu mối giao

lưu lâm sản quan trọng (đường bộ, đường thuỷ, đường sắt) và những trung tâm chế biến,

(1)

Chính phủ: Nghị định số 08-CP ngày 1 tháng 2 năm 1994 về nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của

Bộ Lâm nghiệp. Thuvienphapluat.vn (2)

Ví dụ các tỉnh Vĩnh Phú, Hoàng Liên Sơn, Gia Lai - Kon Tum, Lâm Đồng, Đắc Lắc, Cao Bằng… (3)

Như các tỉnh, thành phố Hà Nội, Thái Bình, Thành phố Hồ Chí Minh… (4)

Như các tỉnh ở Duyên hải Trung Bộ, miền núi phía Bắc là Bắc Thái, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh,

Quảng Bình, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam - Đà Nẵng… (5)

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Lâm nghiệp Việt Nam 1945 - 2000, Sđd, tr. 169-170

Page 76: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

76

tiêu thụ lâm sản, khi cần thiết được thành lập Hạt Phúc kiểm lâm sản trực thuộc Chi cục

Kiểm lâm (thay vì Hạt kiểm soát lâm sản). Việc thành lập, giải thể và quy định nhiệm vụ

của Hạt Phúc kiểm lâm sản do Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân tỉnh quyết định sau khi thoả

thuận với Bộ trưởng Bộ Lâm nghiệp.

Thi hành Nghị định số 39-CP ngày 18 tháng 5 năm 1994 của Chính phủ, Bộ Lâm

nghiệp đã ban hành Thông tư số 7/TCLĐ ngày 8 tháng 8 năm 1994 hướng dẫn về hệ thống

tổ chức, nhiệm vụ quyền hạn của kiểm lâm và Quyết định số 863/TCLĐ ngày 8 tháng 8

năm 1994 quy định nhiệm vụ cụ thể về quan hệ công tác giữa cơ quan quản lý nhà nước về

lâm nghiệp và cơ quan quản lý kiểm lâm ở địa phương.

Thời gian này, hệ thống các nông, lâm trường đang tiếp tục được sắp xếp, đổi mới tổ

chức quản lý. Thời kỳ đầu năm 1989, hệ thống lâm trường quốc doanh nước ta đã có 413

đơn vị, trong đó Trung ương quản lý 76 lâm trường (trong tám Liên hiệp sản xuất trực

thuộc Bộ Lâm nghiệp); Ủy ban nhân dân tỉnh quản lý 199 lâm trường (nhiều tỉnh đã thành

lập Liên hiệp sản xuất thuộc tỉnh để quản lý các lâm trường); cấp huyện quản lý 138 lâm

trường. Ở nhiều huyện, sau khi được giao quản lý đã đổi tên lâm trường quốc doanh thành

xí nghiệp lâm nghiệp, xí nghiệp lâm công nghiệp, xí nghiệp lâm nông công nghiệp hoặc

công ty lâm nghiệp huyện… để khai thác và kinh doanh lâm sản. Trên thực tế, hầu hết các

lâm trường này đều thiếu vốn, thiết bị và công nhân kỹ thuật, nên đã khoán chon tư nhân tổ

chức khai thác rừng do huyện quản lý và thu lại một số lượng lâm sản tùy theo hợp đồng

giữa hai bên. Do cơ sở vật chất kỹ thuật của các lâm trường và trình độ quản lý của cấp

huyện yếu kém, nên đã khiến tài nguyên rừng bị lạm dụng mạnh hơn.

Cùng với các lâm trường, các doanh nghiệp nhà nước trong ngành lâm nghiệp cũng

được đổi mới tổ chức và cơ chế quản lý theo chỉ đạo của Chính phủ(1)

. Cùng với đó Bộ

Lâm nghiệp đã quy hoạch, đăng ký lại và sắp xếp mạng lưới các doanh nghiệp chế biến gỗ,

lâm sản ngoài gỗ, liên hiệp xí nghiệp lâm nghiệp, lâm trường quốc doanh. Hội đồng Bộ

trưởng đã có Quyết định số 221-HĐBT ngày 3 tháng 12 năm 1987 về việc bổ sung chức

năng hoạt động của ngành kinh tế lâm nghiệp. Theo đó, chức năng khai thác gỗ và khai

thác lâm sản khác thuộc phân ngành công nghiệp khai thác, chế biến gỗ và lâm sản trong

ngành kinh tế công nghiệp được chuyển sang ngành kinh tế lâm nghiệp, do Bộ Lâm nghiệp

quản lý(2)

.

Trong năm 1995, Bộ Lâm nghiệp đã chuyển giao Liên hiệp xí nghiệp nguyên liệu

giấy cho Tổng công ty Giấy Việt Nam (trực thuộc Bộ Công nghiệp) theo Quyết định số

256-TTg ngày 29 tháng 4 năm 1995 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Tổng công

ty Giấy Việt Nam. Đồng thời, Bộ đề nghị Thủ tướng Chính phủ cho thành lập Tổng công

(1)

Tại các Nghị định số 388-HĐBT ngày 20 tháng 11 năm 1991; Nghị định số 12-CP ngày 2 tháng 3 năm

1993; Quyết định số 90-TTg ngày 7 tháng 3 năm 1994; Quyết định số 91-TTg ngày 7 tháng 3 năm 1994. (2)

Hội đồng Bộ trưởng: Quyết định số 221-HĐBT ngày 3 tháng 12 năm 1987 về việc bổ sung chức năng hoạt

động của ngành kinh tế lâm nghiệp. Thuvienphapluat.vn

Page 77: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

77

ty Lâm sản Việt Nam trên cơ sở hợp nhất các liên hiệp do Bộ quản lý. Ngày 4 tháng 10

năm 1995, Bộ Lâm nghiệp ra Quyết định số 667/TCLĐ thành lập Tổng công ty Lâm sản

Việt Nam, có tên giao dịch là Vinafor. Sau đó, ngày 25 tháng 10 năm 1995, Bộ Lâm nghiệp

ra Quyết định số 758-TCLĐ phê chuẩn và ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tổng

công ty Lâm sản Việt Nam. Sau này, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn sẽ tiếp tục

sắp xếp, đổi mới Tổng công ty Lâm sản Việt Nam và các doanh nghiệp ngành lâm nghiệp

trong giai đoạn sau 1995.

Trong giai đoạn này, các “Khu rừng cấm quốc gia” được đổi tên thành “Vườn quốc

gia”. Một số Vườn quốc gia được chuyển giao cho Bộ Lâm nghiệp, như Vườn Quốc Gia

Ba Vì(1)

.

Hệ thống các đơn vị sự nghiệp khoa học và đào tạo của ngành lâm nghiệp cũng được

sắp xếp, kiện toàn lại. Ngày 30 tháng 8 năm 1988, Hội đồng Bộ trưởng cho thành lập Viện

Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam trực thuộc Bộ Lâm nghiệp trên cơ sở sáp nhập các Viện

Lâm nghiệp, Viện Công nghiệp rừng và Viện Kinh tế lâm nghiệp do Bộ Lâm nghiệp đang

quản lý(2)

. Trung tâm giáo dục hướng nghiệp Lâm nghiệp Ba Vì thuộc Vườn quốc gia Ba

Vì được Chính phủ chuyển cho ngành Giáo dục và đào tạo quản lý(3)

.

Từ khi thành lập Tổng cục Lâm nghiệp cuối năm 1960 đến khi hợp nhất với các Bộ

để thành lập Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn năm 1995 là chặng đường gần 35

năm thành lập và phát triển của cơ quan quản lý ngành Lâm nghiệp. Quá trình củng cố,

kiện toàn tổ chức của Tổng cục Lâm nghiệp trước năm 1976, sau đó là Bộ Lâm nghiệp từ

1976 đến 1995 gắn chặt chẽ với những thành tựu phát triển lâm nghiệp, thực hiện thắng lợi

các nhiệm vụ cơ bản là khai thác, bảo vệ, trồng rừng, chế biến gỗ và lâm sản, phục vụ nhu

cầu của nền kinh tế quốc dân và xuất khẩu. Để động viên toàn dân, cán bộ, công nhân viên

và lao động lâm nghiệp; các cơ quan, trường học, lực lượng vũ trang... phát huy truyền

thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc, thực hiện tốt lời dạy thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí

Minh ngày 28 tháng 11 năm 1959 về "Tết trồng cây" và công tác lâm nghiệp, Thủ tướng

Chính phủ đã có Quyết định số 380-TTg ngày 28 tháng 6 năm 1995, cho phép hàng năm,

bắt đầu từ năm 1995, lấy ngày 28 tháng 11 hàng năm là "Ngày Lâm nghiệp Việt Nam".

1.3. Kiện toàn tổ chức của Bộ Thủy lợi giai đoạn 1987-1995

Bước vào nhiệm kỳ Quốc hội khóa VIII (1987 - 1992), cơ cấu tổ chức và hệ thống

các cơ quan quản lý ngành thủy lợi từ Trung ương đến địa phương về cơ bản không thay

đổi. Bộ Thủy lợi tiếp tục thực hiện các chức năng, nhiệm vụ với cơ cấu tổ chức bộ máy

(1)

Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng: Quyết định số 407-CT ngày 18 tháng 12 năm 1991 về việc chuyển giao và

đổi tên Rừng cấm quốc gia Ba Vì. Thuvienphapluat.vn (2)

Hội đồng Bộ trưởng: Quyết định số 137-HĐBT ngày 30 tháng 8 năm 1988 về việc thành lập Viện Khoa

học Lâm nghiệp Việt Nam trực thuộc Bộ Lâm nghiệp. Thuvienphapluat.vn (3)

Thủ tướng Chính phủ : Quyết định số 130-TTg ngày 4 tháng 12 năm 1992 về việc giao lại Trung tâm Giáo

dục hướng nghiệp Lâm nghiệp Ba Vì thuộc Vườn quốc gia Ba Vì, Bộ Lâm nghiệp cho ngành Giáo dục và đào

tạo. Thuvienphapluat.vn

Page 78: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

78

được Chính phủ giao tại Nghị định số 88-CP ngày 6 tháng 3 năm 1979 của Hội đồng

Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Bộ Thủy lợi và các nhiệm vụ khác được Hội đồng

Chính phủ yêu cầu trong những năm 1979 đến 1986. Đến năm 1994 Hội đồng Chính phủ

mới có Nghị định mới về nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Thủy lợi.

Ông Nguyễn Cảnh Dinh - Bộ trưởng Bộ Thủy lợi từ tháng 1 năm 1981 tiếp tục làm

Bộ trưởng Bộ Thủy lợi trong các nhiệm kỳ Quốc hội khóa VII (1981 - 1987), khóa VIII

(1987 - 1992) và khóa IX (1992 - 1997). Đến năm 1995, khi Bộ Thủy lợi được hợp nhất để

thành lập Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, ông Nguyễn Cảnh Dinh thôi giữ chức

Bộ trưởng Bộ Thủy lợi để giữ chức Bộ trưởng, Chủ tịch Uỷ ban sông Mê Công của Việt

Nam, kiêm Trưởng Ban chỉ đạo phòng, chống lụt bão Trung ương theo Nghị quyết (không

số) ngày 21 tháng 10 năm 1995 của Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 8.

Trong thời kỳ này, các Thứ trưởng Bộ Thủy lợi gồm các ông được bổ nhiệm ở thời

kỳ trước tiếp tục công tác là: Đinh Gia Khánh (đến 1990); Vũ Khắc Mẫn (đến 1988);

Nguyễn Văn Bắc (đến 1990); Trần Nhơn (đến 1995) Nguyễn Giới (đến 1996). Các Thứ

trưởng được bổ nhiệm trong thời kỳ này là các ông: Phan Sỹ Kỳ (từ 1989 đến 1997); Vũ

Trọng Hồng (từ 1989 đến 1997).

Ngày 11 tháng 7 năm 1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 63-CP về nhiệm vụ,

quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Thủy lợi. Theo Nghị định mới, Bộ thủy lợi là cơ quan

của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về tài nguyên nước (trừ nước

nguyên liệu khoáng và nước địa nhiệt); về quản lý khai thác công trình thủy lợi và công tác

phòng chống lụt bão, bảo vệ đê điều trong cả nước.

Để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được giao, tổ chức bộ máy của Bộ Thủy lợi

gồm các khối cơ quan, đơn vị sau:

1) Các tổ chức giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý Nhà nước gồm có 06 Vụ

(Vụ Kế hoạch, Vụ Khoa học - kỹ thuật, Vụ Tài chính - Kế toán và Thống kê, Vụ Tổ chức -

Cán bộ, Vụ Hợp tác Quốc tế, Vụ Quản lý xây dựng công trình thủy lợi); 02 Cục (Cục Quản

lý nước và khai thác công trình thủy lợi, Cục Phòng, chống lụt bão và quản lý đê điều);

Văn phòng Bộ và Thanh tra.

2) Các tổ chức sự nghiệp thuộc Bộ gồm có: Viện Quy hoạch thủy lợi, Viện Nghiên

cứu khoa học và kinh tế thủy lợi, Viện Nghiên cứu khoa học thủy lợi Nam Bộ, Trường Đại

học thủy lợi, Trường Bồi dưỡng cán bộ quản lý, Trung tâm Thông tin thủy lợi (kể cả tạp

chí thủy lợi).

Ngoài ra, Bộ còn có các đơn vị sự nghiệp khác do Bộ trưởng Bộ thủy lợi cùng Bộ

trưởng, Trưởng ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ và các Bộ có liên quan nghiên cứu, sắp

xếp và quyết định(1)

. Để đảm bảo quản lý chặt chẽ công tác xây dựng cơ bản các công trình

(1)

Chính phủ: Nghị định số 63-CP ngày 11 tháng 7 năm 1994 về nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của

Bộ Thủy lợi. Thuvienphapluat.vn

Page 79: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

79

thuộc vốn do Bộ quản lý, Bộ đã tổ chức các ban quản lý xây dựng cơ bản của từng công

trình. Về sau Bộ tổ chức lại thành các Ban quản lý Xây dựng Thủy lợi và thành lập Ban

Quản lý các dự án sử dụng vốn nước ngoài (CPO). Các tổ chức, đơn vị sự nghiệp này tiếp

tục được kiện toàn, sắp xếp lại trong các giai đoạn tiếp theo, khi Bộ Thủy lợi được hợp

nhất vào Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sau năm 1995.

Trong các năm 1987-1995, Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh về đê điều tại Lệnh của

Chủ tịch nước số 26-LCT/HĐNN8 ngày 9 tháng 11 năm 1989; Pháp lệnh về Phòng chống

lụt bão tại Lệnh của Chủ tịch nước số 9-L/CTN ngày 20 tháng 3 năm 1993; Pháp lệnh

Khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi tại Lệnh của Chủ tịch nước số 36-L/CTN ngày 31

tháng 8 năm 1994. Chính phủ cũng ban hành nhiều văn bản chỉ đạo tăng cường công tác

quản lý đê điều và công trình thủy lợi, như Chỉ thị số 14-CT ngày 14 tháng 1 năm 1991 về

đẩy mạnh công tác quản lý khai thác, bảo vệ các công trình thủy lợi bảo vệ sản xuất; Quyết

định số 398-HĐBT ngày 14 tháng 11 năm 1990 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn

Đội chuyên trách quản lý đê điều; Nghị định số 429-HĐBT ngày 15 tháng 12 năm 1990

quy định việc thi hành Pháp lệnh về đê điều…

Trên cơ sở đó, Bộ Thủy lợi đã cùng với các ngành có liên quan và Ủy ban nhân dân

các tỉnh sắp xếp lại các xí nghiệp thủy nông, củng cố tổ chức bộ máy quản lý quản lý gọn

nhẹ, có hiệu lực, thực hiện hạch toán kinh tế. Bộ cũng chuyển giao các Đội chuyên trách

quản lý đê hiện có cho Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trong năm 1990, đồng thời

chuyển giao toàn bộ các cơ sở vật chất mà các đội đã được trang bị.

Công tác phòng chống thiên tai được Chính phủ tiếp tục quan tâm kiện toàn.

Ngày 19 tháng 5 năm 1990 Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 168-HĐBT về

tổ chức, nhiệm vụ của Ban Chỉ đạo phòng, chống lụt, bão Trung ương và Ban Chỉ huy

phòng, chống lụt, bão các cấp và các ngành. Theo nghị định số 168-HĐBT, tổ chức của

Ban Chỉ đạo phòng, chống lụt, bão Trung ương gồm: Bộ trưởng Bộ thủy lợi làm

Trưởng ban; một Thứ trưởng Bộ thủy lợi làm Phó trưởng ban thường trực; các Phó

trưởng ban là một Phó chủ nhiệm Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng và một Phó tổng

tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Tham gia Ban Chỉ đạo còn có các đại

diện (cấp phó) của các Bộ: Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm, Lâm nghiệp, thủy

sản, Giao thông vận tải và Bưu điện, Năng lượng, Xây dựng, Thương nghiệp, Nội vụ, Y

tế, Tài chính, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, Uỷ ban Khoa học Nhà nước và Tổng cục

Khí tượng thủy văn làm Uỷ viên.

Ngày 10 tháng 6 năm 1995, Ban Chỉ đạo phòng, chống lụt, bão Trung ương được

thành lập theo Quyết định số 349-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Ông Nguyễn Cảnh Dinh,

Bộ trưởng Bộ thủy lợi là Trưởng ban(1)

.

Để động viên nhân dân, cán bộ và chiến sĩ cả nước nêu cao tinh thần trách nhiệm, nỗ

(1)

Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 349-TTg ngày 10 tháng 6 năm 1995 về việc thành lập Ban Chỉ đạo

phòng, chống lụt, bão Trung ương. Thuvienphapluat.vn

Page 80: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

80

lực phòng chống thiên tai và thể hiện tình cảm và lòng biết ơn sâu sắc đối với Hồ Chủ tịch

nhân dịp kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh của Người, theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ thủy

lợi, Trưởng ban Chỉ huy phòng chống lụt bão Trung ương, ngày 21 tháng 3 năm 1990, Hội

đồng Bộ trưởng đã quyết định lấy ngày 22 tháng 5 hàng năm làm Ngày truyền thống

Phòng chống thiên tai của Việt Nam(1)

.

Thực hiện Quyết định số 90-CP ngày 7 tháng 3 năm 1994 của Chính phủ về tiếp

tục sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp ngành thủy lợi cũng được sắp

xếp lại.

Từ khi thành lập Nha Thủy lợi thuộc Bộ Giao thông công chính tháng 4 năm 1955 và

sau đó là thành lập Bộ Thủy lợi và Kiến trúc tháng 9 năm 1955, đến năm 1995 là chặng

đường 50 năm phát triển ngành thủy lợi gắn với quá trình thành lập và phát triển của cơ

quan quản lý nhà nước về thủy lợi.

2. Thành lập và kiện toàn tổ chức Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn giai

đoạn 1995-2007

Việc thành lập Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn diễn ra giữa nhiệm kỳ Chính

phủ (1992-1997), nằm trong đợt điều chỉnh lớn về cơ cấu tổ chức, bộ máy và nhân sự của

Chính phủ theo hướng thu gọn đầu mối, tăng cường liên kết trong quản lý nhà nước đối với

các ngành kinh tế có liên quan mật thiết, để thành lập các Bộ kinh tế tổng hợp đa ngành, đa

lĩnh vực, đề cao vai trò quản lý nhà nước của các bộ, cơ quan ngang bộ. Trước đó, ngày 2

tháng 3 năm 1993, Chính phủ đã có Nghị định số 15-CP về nhiệm vụ, quyền hạn và trách

nhiệm quản lý nhà nước của bộ, cơ quan ngang bộ nhằm đẩy mạnh công tác xây dựng bộ

máy Chính phủ và tiếp tục phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan trực thuộc

Chính phủ. Đây chính là thời kỳ Chính phủ thành lập một số cơ quan ngang bộ có liên

quan đến ngành nông, lâm, ngư nghiệp và thủy lợi, như Tổng cục Địa chính, Tổng cục Khí

tượng thủy văn; chuyển nhiệm vụ di dân, phát triển vùng kinh tế mới và chương trình nước

sạch, môi trường nông thôn về Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm…

Ngày 21 tháng 10 năm 1995, tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa IX đã ra Nghị quyết về

việc điều chỉnh một số cơ quan của Chính phủ theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ,

trong đó quyết nghị thành lập Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trên cơ sở hợp nhất

ba bộ: Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm, Bộ Lâm nghiệp và Bộ thủy lợi(2)

.

Cùng ngày, Quốc hội khóa IX cũng ra Nghị quyết phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng

Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm một số thành viên của Chính phủ. Sau đó, Chủ

tịch nước đã có Quyết định số 494-QĐ/CTN ngày 1 tháng 11 năm 1995 về việc bổ nhiệm,

miễn nhiệm một số thành viên của Chính phủ. Theo đó, ông Nguyễn Công Tạn thôi giữ

(1)

Hội đồng Bộ trưởng: Quyết định số 89-HĐBT ngày 21 tháng 3 năm 1990 về ngày truyền thống Phòng,

chống thiên tai của Việt Nam. Thuvienphapluat.vn (2)

Quốc hội khóa IX: Nghị quyết ngày 21 tháng 10 năm 1995 về việc điều chỉnh tổ chức một số cơ quan của

Chính phủ. Thuvienphapluat.vn

Page 81: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

81

chức Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm để giữ chức Bộ trưởng Bộ

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; ông Nguyễn Cảnh Dinh thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ

thủy lợi để giữ chức Bộ trưởng, Chủ tịch Uỷ ban sông Mê Công của Việt nam, kiêm

Trưởng Ban chỉ đạo phòng, chống bão lụt TW; ông Nguyễn Quang Hà thôi giữ chức Bộ

trưởng Bộ Lâm Nghiệp(1)

.

Ông Nguyễn Công Tạn giữ chức Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

đến năm 1997. Bước vào nhiệm kỳ (1997 - 2002) của Chính phủ, ông Nguyễn Công Tạn

được cử giữ chức Phó Thủ tướng Chính phủ, ông Lê Huy Ngọ được cử giữ chức Bộ trưởng

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn theo sự phê chuẩn của Quốc hội khóa X tại kỳ

họp thứ nhất ngày 29 tháng 9 năm 1997.

Sang nhiệm kỳ Chính phủ (2002 - 2007) ông Lê Huy Ngọ giữ chức Bộ trưởng Bộ

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đến năm 2004. Theo Nghị quyết của Quốc hội khóa

XI tại kỳ họp thứ sáu, ông Lê Huy Ngọ được miễn nhiệm chức Bộ trưởng để nhận nhiệm

vụ khác; ông Cao Đức Phát được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển

nông thôn thay ông Lê Huy Ngọ. Đến nhiệm kỳ Chính phủ mới (2007-2012), khi diễn ra

hợp nhất Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và Bộ Thủy sản, ông Cao Đức Phát tiếp

tục được cử làm Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn mới.

Trên cơ sở Nghị quyết Quốc hội ngày 21 tháng 10 năm 1995, Chính phủ đã tiến hành

hợp nhất, sắp xếp, điều chuyển chức năng, nhiệm vụ và đội ngũ cán bộ các bộ. Ngày 1

tháng 11 năm 1995, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 73-CP về chức năng, nhiệm vụ

quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Bộ Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý Nhà

nước về nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy lợi và phát triển nông thôn.

Cơ cấu tổ chức của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn gồm có các khối cơ

quan, đơn vị sau:

1) Khối các cơ quan giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý Nhà nước có 07 Vụ

(Vụ Kế hoạch và quy hoạch, Vụ Đầu tư xây dựng cơ bản, Vụ Khoa học công nghệ và chất

lượng sản phẩm, Vụ Chính sách nông nghiệp và phát triển nông thôn, Vụ Hợp tác quốc tế,

Vụ Tài chính - Kế toán, Vụ Tổ chức - Cán bộ); 09 Cục quản lý chuyên ngành (Cục Phát

triển lâm nghiệp, Cục Kiểm lâm, Cục Bảo vệ thực vật, Cục Thú y, Cục Khuyến nông và

khuyến lâm, Cục Chế biến nông lâm sản và ngành nghề nông thôn, Cục Quản lý nước và

công trình thủy lợi, Cục phòng, chống lụt bão và quản lý đê điều (kiêm Văn phòng Ban chỉ

đạo chống bão lụt Trung ương), Cục Định canh, định cư và vùng kinh tế mới); Thanh tra

và Văn phòng Bộ.

(1)

Quốc hội khóa IX: Nghị quyết ngày 21 tháng 10 năm 1995 về việc bổ nhiệm và miễn nhiệm một số thành

viên của Chính phủ. Thuvienphapluat.vn

Page 82: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

82

2) Khối các tổ chức sự nghiệp trực thuộc Bộ gồm các đơn vị nghiên cứu khoa học,

các trường đào tạo, các cơ sở y tế… thuộc các Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm,

Bộ Lâm nghiệp, Bộ thủy lợi trước đây, do Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông

thôn phối hợp với Bộ trưởng, Trưởng ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ sắp xếp lại, trình

Thủ tướng Chính phủ có quyết định riêng(1)

.

Sau khi ban hành Nghị định 73-CP nói trên, Chính phủ có những điều chỉnh nhiệm

vụ của các Bộ. Ngày 15 tháng 12 năm 1995 Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 820-

TTg chuyển Cục Định canh định cư từ Uỷ Ban dân tộc và Miền núi sang Bộ Nông nghiệp

và Phát triển nông thôn và thành lập Cục Định canh định cư và vùng kinh tế mới trên cơ sở

hợp nhất Cục Di dân và phát triển vùng kinh tế mới và Cục Định canh định cư(2)

.

Ngày 25 tháng 12 năm 1997, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 1128/1997/QĐ-TTg

về việc chuyển giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về sản xuất kinh doanh muối cho Bộ Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn. Theo đó, Bộ Thương mại chuyển giao cho Bộ Nông nghiệp

và Phát triển nông thôn nhiệm vụ quản lý nhà nước về sản xuất, kinh doanh muối; bàn giao

Tổng công ty muối Việt Nam (bao gồm toàn bộ tài sản, cơ sở vật chất, lao động) cho Bộ

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trực tiếp quản lý(3)

.

Cùng với việc hợp nhất Bộ Thủy lợi vào Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,

Chính phủ đã thành lập lại Ủy ban Sông Mê Công Việt Nam, do cấp Bộ trưởng phụ trách,

giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, quản lý mọi hoạt động hợp tác với Uỷ hội Mê Công

quốc tế và trình Chính phủ các chủ trương về hợp tác Mê Công. Văn phòng của Ủy ban

trước đây đặt tại Bộ Thủy lợi nay được tách ra. Chủ tịch Ủy ban là Bộ trưởng phụ trách Uỷ

ban Sông Mê Công Việt Nam Nguyễn Cảnh Dinh. Một Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và

Phát triển nông thôn được cử làm Phó Chủ tịch kiêm nhiệm(4)

.

Sau này, ngày 24 tháng 11 năm 1997, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số

1000/1997/QĐ-TTG về việc đặt văn phòng Thường trực Ủy ban Sông Mê Công Việt Nam

tại Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

Đến năm 2010, nhiệm vụ tham gia thường trực Ủy ban sông Mê Công Việt Nam

được chuyển giao cho Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi

trường là Chủ tịch Ủy ban. Một Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn được

(1)

Chính phủ: Nghị định số 73-CP ngày 1 tháng 11 năm 1995 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức

bộ máy của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Thuvienphapluat.vn (2)

Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 820-TTg ngày 15 tháng 12 năm 1995 về việc chuyển Cục Định canh

định cư từ Ủy ban Dân tộc và Miền núi sang Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Thuvienphapluat.vn (3)

Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 1128/1997/QĐ-TTg ngày 25 tháng 12 năm 1997 về việc chuyển giao

nhiệm vụ quản lý nhà nước và sản xuất kinh doanh muối cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

Thuvienphapluat.vn (4)

Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 860-TTg ngày 30 tháng 12 năm 1995 về chức năng, nhiệm vụ, quyền

hạn và tổ chức bộ máy của Ủy ban Sông Mê Công Việt Nam. Thuvienphapluat.vn

Page 83: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

83

cử làm Phó Chủ tịch. Văn phòng Thường trực Ủy ban sông Mê Công Việt Nam đặt tại Bộ

Tài nguyên và Môi trường(1)

.

Để thiết lập hệ thống cơ quan quản lý ngành ở các địa phương tương ứng với tổ chức

của Bộ mới, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 852-TTg ngày 28 tháng 12 năm 1995

về việc thành lập một số tổ chức ở địa phương. Theo đó, ở cấp tỉnh Chính phủ cho thành

lập Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trên cơ sở sáp nhập và tổ chức lại các tổ chức

quản lý Nhà nước hiện có về nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy lợi để giúp Uỷ ban nhân dân

tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quản lý Nhà nước về Nông nghiệp, lâm nghiệp,

thủy lợi và phát triển nông thôn. Ở cấp huyện Chính phủ cho thành lập Phòng Nông nghiệp

và Phát triển nông thôn huyện trên cơ sở sáp nhập và tổ chức lại các tổ chức quản lý Nhà

nước hiện có về nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy lợi. Đồng thời giao cho Bộ trưởng,

Trưởng Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ phối hợp với Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát

triển nông thôn hướng dẫn cụ thể việc ra quyết định thành lập và quy định chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy và biên chế các tổ chức này(2)

.

Thực hiện Quyết định nói trên của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và

Phát triển nông thôn và Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ đã ban hành Thông tư liên Bộ

số 07LB/TT ngày 24 tháng 4 năm 1996 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức

bộ máy của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Phòng Nông nghiệp và Phát triển

nông thôn.

Sau khi Chính phủ điều chuyển một số nhiệm vụ giữa các Bộ, ngành, Bộ Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn cùng với Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ đã ra Thông tư

liên tịch số 03/1998 /TTLT-BNN-BTCCBCP ngày 27 tháng 4 năm 1998 hướng dẫn bổ

sung chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của các cơ quan quản lý ngành

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ở địa phương.

Theo đó, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn được bổ sung chức năng, nhiệm vụ

giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh quản lý Nhà nước về sản xuất, kinh doanh muối trên địa bàn

tỉnh; đồng thời chịu sự chỉ đạo, quản lý của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông

thôn về nghiệp vụ chuyên môn chuyên ngành sản xuất kinh doanh muối; Phòng Nông

nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện được bổ sung chức năng, nhiệm vụ giúp Uỷ ban

nhân dân huyện và tương đương thực hiện quản lý nhà nước về sản xuất, kinh doanh muối

trên địa bàn.

Đối với các xã có sản xuất, kinh doanh muối, nhiệm vụ của ủy viên Ủy ban nhân dân

xã theo dõi ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn được bổ sung thêm công việc theo

dõi kế hoạch sản xuất, kinh doanh muối; phối hợp với Trạm Khuyến nông thực hiện

khuyến diêm; tổng hợp báo cáo tình hình về sản xuất, kinh doanh muối.

Đối với các địa phương chức năng, nhiệm vụ quản lý Nhà nước về sản xuất, kinh

doanh muối đã giao cho Sở, Phòng khác quản lý thì Trưởng Ban Tổ chức chính quyền tỉnh

(1)

Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 114/QĐ-TTg ngày 15 tháng 1 năm 2010 quy định chức năng, nhiệm

vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ủy ban Sông Mê Công Việt Nam. Thuvienphapluat.vn (2)

Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 853-TTg ngày 28 tháng 12 năm 1995 về việc thành lập một số tổ

chức ở địa phương. Thuvienphapluat.vn

Page 84: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

84

phối hợp với Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trình Chủ tịch Uỷ ban

nhân dân tỉnh chuyển giao cho Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và Phòng Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn đảm nhiệm(1)

.

Tiếp theo Nghị định 73-CP ngày 1 tháng 11 năm 1995 về Bộ, Chính phủ đã ban hành

các quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của các Cục

có tên trong Nghị định. Trong thời gian tiếp theo, các cơ quan Vụ, Cục giúp việc của Bộ

trưởng tiếp tục được kiện toàn tùy theo việc điều chỉnh, bổ sung chức năng, nhiệm vụ của

Bộ và các đơn vị.

Để giúp Bộ tổ chức triển khai thực hiện các dự án đầu tư dùng vốn viện trợ nước

ngoài trong các lĩnh vực nông, lâm và thủy lợi, Bộ đã tổ chức lại các Ban quản lý các dự án

ngành thủy lợi, lâm nghiệp và nông nghiệp trực thuộc Bộ. Ngoài ra, Bộ còn kiện toàn, sau

đó tiến hành hợp nhất một số Ban Quản lý dự án thủy lợi ; kiện toàn lại Ban Chuẩn bị đầu

tư xây dựng các công trình thủy lợi. Bộ còn tiếp nhận sắp xếp, thành lập mới một số đơn vị

sự nghiệp kinh tế khác, trong đó có các Vườn quốc gia.

Đối với các đơn vị sự nghiệp khoa học và đào tạo thuộc Bộ, quá trình sắp xếp, kiện

toàn tổ chức kéo dài trong nhiều năm sau khi hợp nhất các Bộ từ 1995 đến khi Bộ Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn hợp nhất với Bộ Thủy sản năm 2007.

Đối với các đơn vị nghiên cứu khoa học, ngày 24 tháng 10 năm 1996, Thủ tướng

Chính phủ có Quyết định số 782-TTg về việc sắp xếp các cơ quan nghiên cứu - triển khai

khoa học và công nghệ của các bộ, ngành, trong đó có các các Viện, Trung tâm của Bộ

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn…

Trong thời gian trước khi Chính phủ ban hành Nghị định mới về Bộ Nông nghiệp

và Phát triển nông thôn năm 2003, nhiều doanh nghiệp trực thuộc Bộ cũng được sắp xếp

theo tinh thần Nghị định số 50/CP ngày 28 tháng 8 năm 1996 của Chính phủ về thành

lập, tổ chức lại, giải thể và phá sản doanh nghiệp Nhà nước. Đến năm 2003, theo Quyết

định số 65/2003/QĐ-TTg ngày 22 tháng 4 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt

Phương án tổng thể sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Bộ Nông nghiệp

và Phát triển nông thôn đến năm 2005, Bộ quyết định sáp nhập Tổng công ty Xuất nhập

khẩu nông sản và thực phẩm chế biến và Tổng công ty Rau quả Việt Nam để thành lập

Tổng Công ty Rau quả, nông sản(2)

; sáp nhập Tổng Công ty Xây dựng thủy lợi I và Tổng

Công ty Cơ điện nông nghiệp và thủy lợi để thành lập Tổng Công ty Cơ điện - Xây dựng

(1)

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ: Thông tư liên tịch số

03/1998/TTLT-BNN-BTCCBCP ngày 27 tháng 4 năm 1998 hướng dẫn bổ sung Thông tư liên Bộ số 07LB/TT

ngày 24/4/1996 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Sở Nông nghiệp và Phát triển

nông thôn, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Thuvienphapluat.vn (2)

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Quyết định số 66/2003/QĐ/BNN-TCCB ngày 11 tháng 6 năm 1003 về

việc sáp nhập Tổng Công ty Xuất nhập khẩu nông sản và thực phẩm chế biến và Tổng Công ty Rau quả Việt

Nam thành Tổng Công ty Rau quả, nông sản. Thuvienphapluat.vn

Page 85: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

85

nông nghiệp và thủy lợi(1)

.

Bước vào nhiệm kỳ Chính phủ mới (2002-2007), Chính phủ đã ban hành Nghị định

số 86/2002/NĐ-CP ngày 5 tháng 11 năm 2002 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn

và cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ. Căn cứ Nghị định này và trên cơ sở điều chỉnh

chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của các Bộ trong nửa cuối nhiệm kỳ (1997 - 2002)

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 86/2003/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2003 quy

định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nông nghiệp và Phát

triển nông thôn.

Nghị định mới quy định Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan của

Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về nông nghiệp, lâm nghiệp, diêm

nghiệp, thủy lợi và phát triển nông thôn trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch

vụ công và thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp có vốn

nhà nước thuộc phạm vi quản lý của Bộ theo quy định của pháp luật. So với Nghị định 73

năm 1995, nhiệm vụ của Bộ có những điều chỉnh mới với bổ sung các lĩnh vực thuộc

ngành nghề diêm nghiệp, về nước sạch và môi trường nông thôn; được làm rõ các mặt

công tác của quản lý nhà nước đa ngành; đồng thời cũng điều chỉnh nhiều nội dung được

quy định trước đây trong các văn bản của Chính phủ, liên quan đến công tác khuyến nông,

kiểm lâm… Cơ cấu tổ chức của Bộ theo Nghị định 86 gồm:

1) Khối các tổ chức giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước có: Văn

phòng; Thanh tra; sáu Vụ (Vụ Kế hoạch, Vụ Tài chính, Vụ Khoa học công nghệ, Vụ Hợp

tác quốc tế, Vụ Pháp chế, Vụ Tổ chức cán bộ); 10 Cục (Cục Nông nghiệp, Cục Bảo vệ

thực vật, Cục Thú y, Cục Chế biến nông lâm sản và nghề muối, Cục Lâm nghiệp, Cục

Kiểm lâm, Cục Thủy lợi, Cục Quản lý đê điều và phòng, chống lụt, bão, Cục Quản lý xây

dựng công trình, Cục Hợp tác xã và Phát triển nông thôn);

2) Khối các tổ chức sự nghiệp thuộc Bộ có: ba Trung tâm (Trung tâm Tin học; Trung

tâm Khuyến nông Quốc gia; Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn); Báo

Nông nghiệp Việt Nam; Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

Ngoài ra là khối các Viện, Trường và các đơn vị sự nghiệp khác thuộc Bộ, do Bộ

trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với Bộ trưởng Bộ Nội vụ

xây dựng đề án sắp xếp và cơ chế quản lý trình Thủ tướng Chính phủ quyết định(2)

.

Tại Nghị định 86/2003/NĐ-CP nhiều cơ quan, đơn vị thuộc Bộ được đổi tên và điều

chỉnh chức năng, nhiệm vụ. Sau khi Chính phủ ban hành Nghị định, theo phân cấp của Thủ

(1)

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Quyết định số 67/2003/QĐ/BNN-TCCB ngày 11 tháng 6 năm

1003 về việc sáp nhập Tổng Công ty Xây dựng thủy lợi I và Tổng công ty Cơ điện nông nghiệp và thủy lợi

thành Tổng Công ty Cơ điện - Xây dựng nông nghiệp và thủy lợi. Thuvienphapluat.vn (2)

Chính phủ: Nghị định số 86/2003/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2003 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền

hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Thuvienphapluat.vn

Page 86: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

86

tướng Chính phủ, ngay trong năm 2003 Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

Lê Huy Ngọ đã ban hành các quyết định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ

máy của 23 cơ quan đơn vị thuộc Bộ có tên trong Nghị định.

Trong các năm tiếp theo, căn cứ yêu cầu thực tế trong thực hiện nhiệm vụ, Bộ Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn đã cho điều chỉnh nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của một số

đơn vị. Trong năm 2005, theo đề nghị của Bộ, Thủ tướng Chính phủ đã điều chỉnh lại một

số tổ chức trực thuộc Bộ, trong đó đã thành lập Cục Trồng trọt và Cục Chăn nuôi trực

thuộc Bộ trên cơ sở tổ chức lại Cục Nông nghiệp(1)

.

Trong các năm 2004 - 2005, Chính phủ đã ban hành một số nghị định liên quan

đến lĩnh vực hoạt động của Bộ, như Nghị định số 163/2004/NĐ-CP ngày 7 tháng 9 năm 2004

của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh về An toàn vệ sinh thực

phẩm; Nghị định số 56/2005/NĐ-CP ngày 26 tháng 4 năm 2005 của Chính phủ về

khuyến nông, khuyến ngư. Vì thế, trong năm 2006 Bộ đã điều chỉnh, bổ sung chức

năng, nhiệm vụ của một số cơ quan, đơn vị thuộc Bộ tại Quyết định số 61/2006/QĐ-BNN

ngày 9 tháng 8 năm 2006.

Trong lĩnh vực thủy lợi, các đơn vị sự nghiệp kinh tế thuộc Bộ có nhiều thay đổi

về cơ cấu tổ chức. Đến năm 2006, trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

có 12 Ban Quản lý dự án thủy lợi với các tên gọi Ban 401, 402,… và 419. Từ tháng 12

năm 2006 đến tháng 5 năm 2007, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã sắp xếp

lại các Ban này thành 10 ban, với tên gọi là Ban quản lý Đầu tư và Xây dựng thủy lợi

có số thứ tự từ 1 đến 10.

Trong các năm sau khi Nghị định 86/2003/NĐ-CP về Bộ được ban hành, khối các

Viện nghiên cứu của Bộ tiếp tục được sắp xếp lại. Đợt điều chỉnh lớn của các đơn vị khối

viện trong Bộ diễn ra sau khi thành lập Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam. Ngày 9

tháng 9 năm 2005, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 220/2005/QĐ-TTg về việc

thành lập Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển

nông thôn, trên cơ sở sắp xếp các đơn vị nghiên cứu khoa học chuyên ngành và viện vùng.

Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Viện Khoa học Nông nghiệp Việt

Nam được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định tại Quyết định số

83/2005/QĐ-BNN ngày 22 tháng 12 năm 2005. Lực lượng các đơn vị nghiên cứu và cơ

cấu tổ chức của Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam tiếp tục được tăng cường và kiện

toàn trong giai đoạn tiếp theo sau năm 2007, cùng với việc sắp xếp lại các Viện thuộc

ngành Thủy lợi, Lâm nghiệp và Thủy sản.

Qua hai lần sắp xếp lại cơ cấu tổ chức và điều chỉnh, bổ sung chức năng, nhiệm vụ

của Bộ trong các năm 1995 và 2003, trong giai đoạn (1995-2007), Bộ Nông nghiệp và Phát

(1)

Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 254/2005/TTg ngày 13 tháng 10 năm 2005 điều chỉnh một số tổ chức

trực thuộc Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Thuvienphapluat.vn

Page 87: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

87

triển nông thôn tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ thường trực một số ban Trung ương, trong

đó có Ban Chỉ đạo phòng chống lụt bão Trung ương. Sau khi hợp nhất ba Bộ, Ban Chỉ đạo

phòng chống lụt bão Trung ương liên tiếp được kiện toàn qua các năm 1996 (ông Nguyễn

Cảnh Dinh - Bộ trưởng làm Trưởng Ban), năm 1998 và năm 1999 (ông Lê Huy Ngọ - Bộ

trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn làm Trưởng ban), năm 2007 (ông Lê Huy

Ngọ được nghỉ hưu, ông Cao Đức Phát - Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông

thôn làm Trưởng ban).

Sự hợp nhất ba bộ để thành lập bộ kinh tế đa ngành là Bộ Nông nghiệp và Phát triển

nông thôn đã tạo điều kiện tăng cường chỉ đạo, điều hành thống nhất các ngành nông, lâm

nghiệp và thủy lợi, góp phần thúc đẩy phát triển của nông nghiệp, nông dân, nông thôn,

mang lại những kết quả tốt trong 12 năm hợp nhất. Đến năm 2007, bắt đầu nhiệm kỳ

khóa XII, Chính phủ đã quyết định tiếp tục hợp nhất ngành thủy sản vào chung rộng lớn

của nông nghiệp, nông dân, nông thôn.

3. Quá trình kiện toàn tổ chức của Bộ Thủy sản giai đoạn 1987-2007

Trong thời kỳ trước, kể từ khi Bộ Hải sản được thành lập trên cơ sở Tổng cục Thủy

sản năm 1976, cho đến năm 1986 là chặng đường 10 năm ngành thủy sản có những bước

phát triển gắn với quá trình chuyển đổi và phát triển của cơ quan trung ương quản lý ngành

thủy sản, từ Tổng cục Thủy sản thành lập Bộ Hải sản năm 1976, rồi chuyển thành Bộ Thủy

sản năm 1981. Đặc biệt thời kỳ từ năm 1981 trở đi là chặng đường phát triển với những

thành tựu mang tính đột phá trong đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của ngành, mà tiêu biểu

là sự xuất hiện và phát triển của mô hình SEAPRODEX trong nửa đầu thập kỷ 1980.

Trong 20 năm tiếp theo, từ năm 1987 đến năm 2007, mặc dù ở các lĩnh vực nông, lâm

nghiệp và thủy lợi đã diễn ra sự sắp xếp, tổ chức lại các Bộ, thì tổ chức của Bộ Thủy sản

tương đối ổn định cho đến khi Bộ Thủy sản hợp nhất với Bộ Nông nghiệp và Phát triển

nông thôn năm 2007.

Trong nhiệm kỳ Chính phủ (1987-1992), ông Nguyễn Tấn Trịnh tiếp tục được cử giữ

chức Bộ trưởng Bộ Thủy sản. Trong nhiệm kỳ tiếp theo (1992-1997), ông Tạ Quang Ngọc

được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Thủy sản thay ông Nguyễn Tấn Trịnh vào tháng 11 năm 1996,

sau khi được Quốc hội khóa IX phê chuẩn tại kỳ họp thứ 10(1)

. Ông Tạ Quang Ngọc tiếp

tục đảm nhiệm chức vụ Bộ trưởng Bộ Thủy sản trong hai nhiệm kỳ sau đó của Chính phủ

(1997-2002) và (2002-2007), cho đến khi Bộ được hợp nhất với Bộ Nông nghiệp và Phát

triển nông thôn năm 2007.

Các Thứ trưởng của Bộ Thủy sản trong giai đoạn (1987-2007) là ông Nguyễn Hồng

(1)

Ban chỉ đạo biên soạn lịch sử Chính phủ Việt Nam: Lịch sử Chính phủ Việt Nam, T3. 1976 - 2005, Sđd, tr.

364 - 365.

Page 88: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

88

Cẩn (1978-1990); ông Võ Văn Trác (1978-1996), ông Huỳnh Công Hòa (1979-1996); ông

Nguyễn Ngọc Hồng (1997-2004); bà Nguyễn Hồng Minh (1994-2007); ông Nguyễn Việt

Thắng (1999-2007), ông Lương Lê Phương (2004-2007); ông Vũ Văn Tám (2006-2007).

Chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Bộ Thủy sản trong giai đoạn

(1987-2003) được điều chỉnh bằng Nghị định số 50/CP ngày 21 tháng 6 năm 1994 của

Chính phủ. Trước đó, ngày 25 tháng 4 năm 1989, Hội đồng Nhà nước đã ban hành Pháp

lệnh về bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản. Thực hiện Pháp lệnh, Chính phủ đã cho

thành lập Cục Bảo vệ nguồn lợi thủy sản trực thuộc Bộ Thủy sản theo Quyết định số 130-CT

ngày 20 tháng 4 năm 1991 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng(1)

.

Từ năm 1991 đến năm 1994, trước khi Chính phủ ra Nghị định số 50/CP, Bộ Thủy

sản đã ban hành nhiều quyết định, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ

chức của các Vụ, Thanh tra, Văn phòng Bộ. Về cơ bản, sau năm 1994, các quy định này

của Bộ Thủy sản vẫn tiếp tục có hiệu lực.

Sau khi Chính phủ ban hành Nghị định 50/CP năm 1994, Bộ trưởng Bộ Thủy sản đã

tiến hành điều chỉnh, chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của một số đơn vị thuộc khối

quản lý hành chính thuộc Bộ.

Đối với các doanh nghiệp nhà nước trực thuộc, trong những năm từ 1987 đến 2003,

trước khi Chính phủ ban hành nghị định mới về Bộ Thủy sản, Bộ Thủy sản đã sắp xếp lại.

Năm 1987, Công ty Khai thác dịch vụ hậu cần thủy sản vùng Biển Tây Nam - Nam Bộ trực

thuộc Bộ Thủy sản được thành lập theo Nghị định số 158-HĐBT ngày 29 tháng 10 năm 1987

của Hội đồng Bộ trưởng(2)

. Năm 1989, Công ty Xuất nhập khẩu Thủy sản -SEAPRODEX

(được thành lập từ năm 1978 theo Quyết định số 155-CP ngày 26 tháng 6 năm 1978 của

Chính phủ) đã được điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức theo hướng tập

trung vào các nhiệm vụ kinh doanh xuất nhập khẩu thủy hải sản và mở rộng các lĩnh

vực hoạt động(3)

. Đến năm 1996, theo phê chuẩn của Chính phủ, Bộ Thủy sản thành lập

Tổng công ty Hải sản Biển Đông tại Quyết định số 862-QĐ/TCCB-LĐ ngày 22 tháng 10

năm 1996.

Bước vào nhiệm kỳ Chính phủ (2002-2007), Chính phủ đã ban hành Nghị định số

43/2003/NĐ-CP ngày 2 tháng 5 năm 2003 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ

cấu tổ chức của Bộ Thủy sản. Theo Nghị định mới, Bộ Thủy sản là cơ quan của Chính phủ,

thực hiện chức năng quản lý nhà nước về thủy sản, bao gồm: nuôi trồng, khai thác, chế

biến, bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản trong nội địa và trên biển trong phạm vi cả

nước; quản lý nhà nước các dịch vụ công và thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn của

(1)

Hội đồng Bộ trưởng: Quyết định số 130-CT ngày 20 tháng 4 năm 1991 cho phép thành lập Cục Bảo vệ

nguồn lợi thủy sản. Thuvienphapluat.vn (2)

Hội đồng Bộ trưởng: Nghị định số số 158-HĐBT ngày 29 tháng 10 năm 1987 về việc thành lập Công ty

Khai thác dịch vụ hậu cần thủy sản vùng Biển Tây Nam - Nam Bộ. Thuvienphapluat.vn (3)

Hội đồng Bộ trưởng: Quyết định số 10-HĐBT ngày 30 tháng 1 năm 1989 về chức năng, nhiệm vụ, quyền

hạn và tổ chức của Công ty Xuất nhập khẩu Thủy sản (SEAPRODEX) trực thuộc Bộ Thủy sản.

Thuvienphapluat.vn

Page 89: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

89

Nhà nước tại doanh nghiệp có vốn nhà nước thuộc Bộ quản lý theo quy định của pháp luật.

So với thời điểm ban hành Nghị định 50/CP năm 1994, cơ cấu tổ chức của Bộ Thủy sản

năm 2003 đã được điều chỉnh, bao gồm

1) Các tổ chức giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước là: Văn phòng

Bộ; Thanh tra; 07 Vụ (Vụ Nuôi trồng Thủy sản; Vụ Kinh tế tập thể và Kinh tế tư nhân; Vụ

Kế hoạch - Tài chính; Vụ Khoa học, Công nghệ; Vụ Hợp tác quốc tế; Vụ Pháp chế; Vụ Tổ

chức cán bộ); 02 Cục (Cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản; Cục Quản lý chất

lượng, an toàn vệ sinh và thú y thủy sản).

2) Các tổ chức sự nghiệp thuộc Bộ có 04 Viện nghiên cứu (Viện Nghiên cứu Hải sản;

Viện Kinh tế và Quy hoạch thủy sản;Viện Nghiên cứu nuôi trồng Thủy sản I; Viện Nghiên

cứu nuôi trồng Thủy sản II); 03 Trung tâm (Trung tâm Nghiên cứu Thủy sản III; Trung

tâm Khuyến ngư Quốc gia; Trung tâm Tin học); Báo Thủy sản và Tạp chí Thủy sản. Ngoài

ra trực thuộc Bộ còn có các Trường, do Bộ trưởng Bộ Thủy sản chủ trì, phối hợp với Bộ

Nội vụ sắp xếp lại trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt(1)

.

Sau khi Nghị định 43/2003/NĐ-CP có hiệu lực, Bộ trưởng Bộ Thủy sản đã quy định

lại chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan tham mưu, giúp việc Bộ

trưởng tại Quyết định số 09/2003/QĐ-BTS ngày 5 tháng 8 năm 2003. Để quy định chức

năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của hai Cục trong Nghị định 43/2003/NĐ-CP (Cục Quản

lý Chất lượng, An toàn vệ sinh và Thú y thủy sản và Cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi

thủy sản), Bộ Thủy sản đã ban hành các Quyết định số 07 và số 08/2003/QĐ-BTS ngày 5

tháng 8 năm 2003. Đến năm 2004, Thủ tướng Chính phủ đã cho thành lập Chi cục Khai

thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản Vịnh Bắc Bộ trực thuộc Cục Khai thác và Bảo vệ nguồn

lợi thủy sản của Bộ thủy sản(2)

.

Năm 2005, Bộ Thủy sản đã thành lập Ban chỉ huy phòng, chống lụt bão và phối hợp

tìm kiếm cứu nạn của Bộ thủy sản(3)

. Năm 2006, Bộ Thủy sản thành lập tiếp Văn phòng

Chỉ huy phòng, chống lụt, bão và tìm kiếm cứu nạn của Bộ thủy sản trên cơ sở Bộ phận

Thường trực phòng chống lụt bão và tìm kiếm cứu nạn(4)

.

Đối với các cơ quan quản lý ngành ở địa phương, ở giai đoạn trước Bộ Thủy sản đã

có Thông tư số 04 TS/TT ngày 14 tháng 12 năm 1991 hướng dẫn tổ chức bộ máy quản lý

ngành thủy sản ở cấp tỉnh. Đến năm 2005, Bộ Thủy sản và Bộ Nội vụ đã ban hành Thông

tư liên tịch số 01/2005/TTLT-BTS-BNV ngày 3 tháng 2 năm 2005 hướng dẫn chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức cơ quan chuyên môn quản lý nhà nước về thủy sản ở địa

phương. Ở cấp tỉnh, Sở thủy sản là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành

(1)

Hội đồng Bộ trưởng: Nghị định số 43/2003/NĐ-CP ngày 2 tháng 5 năm 2003 quy định chức năng, nhiệm

vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Thủy sản. Thuvienphapluat.vn (2)

Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 844/QĐ-TTg ngày 5 tháng 8 năm 2004 thành lập Chi cục Khai thác

và bảo vệ nguồn lợi thủy sản Vịnh Bắc Bộ. Thuvienphapluat.vn (3)

Bộ Thủy sản: Quyết định 166/QĐ-BTS ngày 2 tháng 12 năm 2005. Thuvienphapluat.vn (4)

Bộ Thủy sản: Quyết định số 19/2006/QĐ-BTS ngày 1 tháng 12 năm 2006 thành lập Văn phòng chỉ huy

phòng, chống lụt bão và tìm kiếm cứu nạn của Bộ Thủy sản. Thuvienphapluat.vn

Page 90: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

90

phố trực thuộc Trung ương; tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh thực hiện chức năng

quản lý nhà nước về thủy sản ở địa phương bao gồm: nuôi trồng, khai thác, chế biến, bảo

vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản trong nội địa và trên biển; quản lý nhà nước các dịch vụ

công thuộc ngành thủy sản ở địa phương. Đối với những tỉnh, thành phố trực thuộc Trung

ương chưa đủ điều kiện thành lập Sở thủy sản theo quy định của Chính phủ thì chức năng

quản lý nhà nước về thủy sản do Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn giúp Uỷ ban

nhân dân tỉnh thực hiện. Chi cục thủy sản là cơ quan trực thuộc Sở Nông nghiệp và Phát

triển nông thôn, có chức năng tham mưu, giúp Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển

nông thôn tổ chức thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về thủy sản trên địa bàn tỉnh.

Ở cấp huyện, cơ quan chuyên môn giúp Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thành phố

thuộc tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về thủy sản, quản lý nhà nước các dịch vụ

công thuộc ngành thủy sản trên địa bàn huyện được tổ chức theo quy định tại Nghị định số

172/2004/NĐ-CP của Chính phủ. Cơ quan này chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên

chế và công tác của Uỷ ban nhân dân huyện, đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra về chuyên

môn nghiệp vụ của Sở thủy sản (hoặc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đối với

những tỉnh chưa đủ điều kiện thành lập Sở thủy sản riêng).

Ở cấp xã, nhiệm vụ quản lý nhà nước về thủy của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị

trấn do Uỷ ban nhân dân tỉnh quyết định theo đề nghị của Giám đốc Sở thủy sản (hoặc Sở

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đối với những tỉnh chưa đủ điều kiện thành lập Sở

thủy sản riêng) và Giám đốc Sở Nội vụ.

Để thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thủy sản, Bộ Thủy sản tiếp tục triển khai

các công việc của Hiệp định Hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ giữa Chính phủ nước Cộng hòa

xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.Hiệp định

được ký ngày 25 tháng 12 năm 2000, do Bộ trưởng Bộ Thủy sản Tạ Quang Ngọc - đại diện

Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cùng với Bộ trưởng Bộ Nông

nghiệp Hồ Diệu Bang - đại diện Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ký; có

hiệu lực từ 30 tháng 6 năm 2004.

Ngày 20 tháng 4 năm 2004, Bộ trưởng Bộ Thủy sản đã ban hành Quyết định số

407/QĐ-BTS về thành lập Ủy ban Liên hợp nghề cá Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam. Tiếp đó,

ngày 14 tháng 1 năm 2005, Bộ Thủy sản có Quyết định số 01/2005/QĐ-BTS ban hành quy

chế hoạt động của Ủy ban Liên hợp nghề cá Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam. Cục Khai thác và

bảo vệ nguồn lợi thủy sản thuộc Bộ Thủy sản là cơ quan tham mưu, giúp Bộ Thủy sản và

Chính phủ Việt Nam triển khai thực hiện Hiệp định này.

Tiếp nối quá trình sắp xếp, kiện toàn các đơn vị sự nghiệp khoa học, đào tạo và

doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Bộ Thủy sản trước năm 2003, trong những năm sau

2003, nhiều đơn vị thuộc khối này đã được điều chỉnh về nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức.

Từ khi Bộ được đổi tên thành Bộ Thủy sản năm 1981 đến năm 2007, với mũi nhọn

sản xuất và xuất khẩu thủy sản, ngành thủy sản đã dần khẳng định được vai trò của mình

trong cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế của đất nước có thế mạnh về biển, tạo được

Page 91: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

91

nền tảng khá vững chắc cho sự phát triển tiếp theo trong thời kỳ hợp nhất vào một Bộ kinh

tế tổng hợp đa ngành.

4. Hợp nhất Bộ Thủy sản và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn năm 2007.

Quá trình kiện toàn tổ chức Bộ giai đoạn 2007-2015

Để chuẩn bị bước vào nhiệm kỳ Chính phủ khóa XII, trên tinh thần quán triệt Nghị

quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4;

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa X, Chính phủ đã

tiến hành sắp xếp lại cơ cấu tổ chức của Chính phủ theo hướng rút gọn đầu mối, thành lập

các bộ kinh tế tổng hợp đa ngành, tăng cường hơn nữa vai trò chủ động của các bộ trong

chỉ đạo liên kết các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý.

Từ ngày 21 tháng 7 đến ngày 4 tháng 8 năm 2007, Quốc hội khóa XII đã tiến hành

kỳ họp lần thứ nhất. Ngày 31 tháng 7 năm 2007, căn cứ Tờ trình số 19/TTr-TTg ngày 26

tháng 7 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ đề nghị Quốc hội quyết định cơ cấu tổ chức

của Chính phủ, Quốc hội đã có Nghị quyết số 01/2007/QH12 về cơ cấu tổ chức của

Chính phủ nhiệm kỳ khóa XII. Theo đó, trong số 18 bộ, Bộ Thủy sản và Bộ Nông nghiệp

và Phát triển nông thôn đã được hợp nhất để trở thành Bộ nông nghiệp và Phát triển nông

thôn (mới).

Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ đã họp sáng ngày 5 tháng 8 năm 2007

và sau đó ra Nghị quyết số 45/2007/NQ-CP ngày 7 tháng 8 năm 2007, đề ra Kế hoạch triển

khai việc kiện toàn cơ cấu tổ chức của Chính phủ nhiệm kỳ khóa XII, trong đó có việc hợp

nhất Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Thủy sản(1)

.

Chính phủ đã bổ nhiệm đồng chí Cao Đức Phát, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương

Đảng, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI là

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong Chính phủ nhiệm kỳ XII. Theo

Kế hoạch của Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (mới) sẽ phối

hợp với Bộ trưởng Bộ Thủy sản để tiến hành bàn giao nguyên trạng tổ chức, biên chế, tài

chính và tài sản của các cơ quan đơn vị được chuyển giao vào Bộ; đồng thời chủ trì, phối

hợp với Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ xây dựng dự thảo Nghị định quy

định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ để trình Chính phủ.

Trong khi đó, Bộ Nội vụ trình Chính phủ Nghị định về tổ chức cơ quan chuyên môn

cấp tỉnh, cấp huyện để kiện toàn tổ chức các cơ quan chuyên môn ở địa phương, bảo đảm

đồng bộ theo cơ cấu của Chính phủ Khóa XII, trong tháng 10 năm 2007. Bộ Nông nghiệp

và Phát triển nông thôn có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ hướng dẫn về chức

năng, nhiệm vụ và tổ chức cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, huyện trong tháng 10 và tháng 11

(1)

Các bộ, ngành được cơ cấu trong đợt này còn có: Bộ Công nghiệp và Bộ Thương mại hợp nhất thành Bộ

Công thương; Bộ Văn hóa - Thông tin, Bộ Bưu chính - Viễn Thông, Ủy ban Thể dụng thể thao, Tổng cục Du

lịch được cơ cấu lại thành Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Thông tin và Truyền thông. Các Bộ Y tế, Bộ

Lao động, Thương binh và Xã hội tiếp nhận thêm nhiệm vụ và tổ chức của Ủy ban Gia đình và trẻ em…

Page 92: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

92

năm 2007(1)

.

Ngày 8 tháng 8 năm 2007, Chính phủ đã ra các quyết định bổ nhiệm các đồng chí

Thứ trưởng của Bộ Thủy sản (cũ) làm Thứ trưởng của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông

thôn (mới) là các Thứ trưởng Nguyễn Việt Thắng, Lương Lê Phương và Vũ Văn Tám.

Bộ máy lãnh đạo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sau khi hợp nhất

năm 2007 gồm: Bộ trưởng Cao Đức Phát và các Thứ trưởng Bùi Bá Bổng, Đào Xuân Học,

Hồ Xuân Hùng, Hứa Đức Nhị, Diệp Kỉnh Tần, Nguyễn Ngọc Thuật (sáu Thứ trưởng của

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũ), Nguyễn Việt Thắng, Lương Lê Phương, Vũ

Văn Tám (ba Thứ trưởng từ Bộ Thủy sản). Các đồng chí Tạ Quang Ngọc, Bộ trưởng Bộ

Thủy sản, Nguyễn Hồng Minh, Thứ trưởng Bộ Thủy sản đến tuổi được giải quyết nghỉ chế

độ, không tham gia ban lãnh đạo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

Trong giai đoạn từ 2010 đến 2015 đội ngũ lãnh đạo Bộ được Chính phủ bổ sung,

tăng cường. Sau khi hợp nhất hai Bộ năm 2007, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số

1307/QĐ-TTg ngày 28 tháng 9 năm 2007 về việc ông Lê Huy Ngọ, nguyên Bộ trưởng Bộ

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Trưởng ban Chỉ đạo phòng chống lụt bão Trung

ương được nghỉ hưu từ ngày 1 tháng 10 năm 2007. Ông Cao Đức Phát, Bộ trưởng Bộ

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn được cử kiêm chức Trưởng ban chỉ đạo phòng chống

lụt bão Trung ương thay ông Lê Huy Ngọ.

Năm 2010, ông Nguyễn Minh Quang, Bí thư Tỉnh ủy Lai Châu, được Chính phủ điều

động, bổ nhiệm giữ chức Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và được Bộ

trưởng phân công là Thứ trưởng Thường trực của Bộ. Đến tháng 12 năm 2014, ông

Nguyễn Minh Quang được Chính phủ cho thôi chức Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát

triển nông thôn để nhận nhiệm vụ khác do Bộ Chính trị phân công(2)

.

Từ năm 2010 đến 2013, Chính phủ bổ nhiệm thêm các Thứ trưởng cho Bộ Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn là ông Nguyễn Đăng Khoa, ông Hà Công Tuấn, bà Nguyễn

Thị Xuân Thu, ông Hoàng Văn Thắng, ông Lê Quốc Doanh. Đến năm 2013, Thứ trưởng

Nguyễn Thị Xuân Thu được Chính phủ điều động, thôi giữ chức Thứ trưởng Bộ Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn để luân chuyển công tác tại Tỉnh Thanh Hóa.

Trở lại thời điểm hợp nhất hai Bộ, để lãnh đạo quá trình hợp nhất hai bộ, Ban Bí thư

Trung ương Đảng đã có quyết định thành lập Ban Cán sự đảng của Bộ mới gồm các ủy

viên Ban Cán sự đảng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (cũ) và các đồng chí Thứ

trưởng Bộ Thủy sản chuyển sang.

(1)

Chính phủ: Nghị quyết số 45/2007/NQ-CP ngày 7 tháng 8 năm 2007 về Kế hoạch thực hiện Nghị quyết

của Quốc hội về cơ cấu tổ chức của Chính phủ nhiệm kỳ khóa XII. Thuvienphapluat.vn (2)

Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 331/QĐ-TTg ngày 8 tháng 3 năm 2010 về việc điều động, bổ nhiệm

ông Nguyễn Minh Quang giữ chức Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Quyết định số

2450/QĐ-TTg ngày 31 tháng 12 năm 2010 về việc ông Nguyễn Minh Quang thôi giữ chức Thứ trưởng Bộ

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để nhận nhiệm vụ khác. Thuvienphapluat.vn

Page 93: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

93

Ngày 16 tháng 8 năm 2007 đã diễn ra Lễ bàn giao giữa đồng chí Tạ Quang Ngọc, Bộ

trưởng Bộ Thủy sản trong Chính phủ nhiệm kỳ Quốc hội khoá XI và đồng chí Cao Đức

Phát, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (mới). Sau Lễ bàn giao, cơ cấu tổ

chức của Bộ mới được sắp xếp lại theo hướng phân rõ trách nhiệm, từng bước giải quyết

chồng chéo về chức năng nhiệm vụ giữa các đơn vị. Đồng thời tiếp tục chấn chỉnh, củng cố

hệ thống tổ chức Ngành từ Trung ương đến địa phương; thực hiện đúng các quy định về bổ

nhiệm, điều động, quy hoạch và các chính sách về cán bộ.

Trong sáu tháng cuối năm 2007, Bộ (mới) đã đi vào hoạt động bình thường và nề

nếp; chỉ đạo xử lý kịp thời các công việc cấp bách, như dịch bệnh trên gia súc, gia cầm,

thủy sản (tôm hùm,...); kêu gọi tàu thuyền về nơi trú ẩn an toàn trong các đợt bão; phối

hợp với các Bộ, ngành liên quan đưa ngư dân bị các nước bắt về nước. Việc xây dựng kế

hoạch năm 2008 được triển khai đúng tiến độ cùng với xây dựng và ban hành các Qui

chế làm việc của Bộ mới; xúc tiến xây dựng dự thảo Nghị quyết của Chính phủ về chức

năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Bộ mới; thực hiện tất cả công việc chỉ đạo, điều

hành và sớm tạo ra sự liên kết giữa các ngành để tạo động lực mới cho sự phát triển toàn

diện trên tất cả các lĩnh vực nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và thủy lợi. Những nỗ lực đó đã

giúp Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nhanh chóng hoàn thành việc tiếp quản

toàn bộ chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, cơ sở vật chất - kỹ thuật của Bộ Thủy sản,

đạt được những kết quả rất đáng khích lệ trong tất cả năm mặt công tác trọng điểm mà

Chính phủ đề ra.

Ngày 3 tháng 1 năm 2008, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 01/2008/NĐ-CP quy

định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nông nghiệp và Phát triển

nông thôn. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan của Chính phủ, thực hiện

chức năng quản lý nhà nước các ngành, lĩnh vực: nông nghiệp, lâm nghiệp, diêm nghiệp,

thủy sản, thủy lợi và phát triển nông thôn trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước các

dịch vụ công trong các ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ.

Theo Nghị định, cơ cấu tổ chức của Bộ gồm:

1) Các tổ chức giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý Nhà nước là: 06 vụ (Vụ

Kế hoạch; Vụ Tài chính, Vụ Khoa học, Công nghệ và Môi trường; Vụ Hợp tác quốc tế; Vụ

Pháp chế; Vụ Tổ chức, cán bộ); Thanh tra Bộ, Văn phòng Bộ và 14 cục (Cục Trồng trọt;

Cục Bảo vệ thực vật; Cục Chăn nuôi; Cục Thú y; Cục Chế biến, Thương mại nông lâm

thủy sản và nghề muối; Cục Lâm nghiệp; Cục Kiểm lâm; Cục Khai thác và Bảo vệ nguồn

lợi thủy sản; Cục Nuôi trồng thủy sản; Cục thủy lợi; Cục Quản lý đê điều và Phòng, chống

lụt, bão; Cục Quản lý xây dựng công trình; Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn;

Cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản).

2) Các tổ chức sự nghiệp thuộc Bộ gồm có: Trung tâm Tin học và Thống kê, Trung

tâm Quốc gia Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn, Trung tâm Khuyến nông -

Khuyến ngư Quốc gia, Báo Nông nghiệp Việt Nam, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển

Page 94: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

94

nông thôn.

Ngoài ra, trực thuộc Bộ còn có các ban do Bộ thành lập, các viện nghiên cứu khoa

học nông, lâm, ngư nghiệp và thủy lợi; các trường đại học, cao đẳng, trung học và dạy

nghề, cùng với các doanh nghiệp mà Bộ là đại diện chủ sở hữu vốn Nhà nước, thực hiện

chức năng quản lý ngành.

Thực hiện Nghị định 01/2008/NĐ-CP của Chính phủ, Bộ tiến hành rà soát và điều

chỉnh chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của các cơ quan, đơn vị trực thuộc. Ngày 28

tháng 1 năm 2008, Bộ ban hành 16 quyết định điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn

và cơ cấu tổ chức của Thanh tra, Văn phòng Bộ và toàn bộ 14 Cục(1)

.

Trong tháng 3 năm 2008, Bộ ban hành các quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ

và cơ cấu tổ chức của các Trung tâm, đơn vị sự nghiệp thuộc Bộ có tên trong Nghị định

01/2008/NĐ-CP(2)

.

Đến cuối năm 2009, trước yêu cầu tập trung và tăng cường hơn nữa công tác quản lý

phát triển các ngành lâm nghiệp, thủy sản, thủy lợi, Chính phủ có Nghị định số

75/2009/NĐ-CP ngày 10 tháng 9 năm 2009 sửa đổi Điều 3 của Nghị định 01/2008/NĐ-CP

nói trên, thành lập ba Tổng cục là Tổng cục Lâm nghiệp, Tổng cục Thủy sản và Tổng cục

Thủy lợi thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

Thực hiện Nghị định số 75/2009/NĐ-CP, ngày 25 tháng 1 năm 2010, Thủ tướng đã

có các Quyết định số 03/2010/QĐ-TTg; số 04/2010/QĐ-TTg; số 05/2010/QĐ-TTg, quy

định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của ba tổng cục, tương ứng là:

Tổng cục Thủy lợi, Tổng cục Lâm nghiệp và Tổng cục Thủy sản. Các Tổng cục là cơ quan

trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, thực hiện chức năng tham mưu, giúp

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý nhà nước và thực thi nhiệm vụ

quản lý nhà nước về thủy lợi, lâm nghiệp, thủy sản (tương ứng với ba Tổng cục) trong

phạm vi cả nước; quản lý, chỉ đạo các hoạt động dịch vụ công thuộc phạm vi quản lý của

Tổng cục.

(1)

16 quyết định của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ngày 28 tháng 1 năm 2008 quy định

chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của các đơn vị là: Thanh tra Bộ (Quyết định số 14/2008/QĐ-BNN); Cục

Trồng trọt (Quyết định số 16/2008/QĐ-BNN); Cục Bảo vệ thực vật (Quyết định số 17/2008/QĐ-BNN); Cục

Chăn nuôi (Quyết định số 18/2008/QĐ-BNN); Cục Thú y (Quyết định số 19/2008/QĐ-BNN); Cục Chế biến,

Thương mại nông lâm thuỷ sản và nghề muối (Quyết định số 20/2008/QĐ-BNN); Cục Lâm nghiệp (Quyết

định số 21/2008/QĐ-BNN); Cục Kiểm lâm (Quyết định số 22/2008/QĐ-BNN); Cục Khai thác và Bảo vệ

nguồn lợi thuỷ sản (Quyết định số 23/2008/QĐ-BNN); Cục Nuôi trồng thủy sản (Quyết định số 24/2008/QĐ-

BNN); Cục Thủy lợi (Quyết định số 25/2008/QĐ-BNN); Cục Quản lý đê điều và Phòng, chống lụt, bão

(Quyết định số 26/2008/QĐ-BNN); Cục Quản lý xây dựng công trình (Quyết định số 27/2008/QĐ-BNN);

Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Quyết định số 28/2008/QĐ-BNN); Cục Quản lý chất lượng

nông lâm sản và thuỷ sản (Quyết định số 29/2008/QĐ-BNN). Nguồn Thuvienphapluat.vn (2)

Các quyết định của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của

các đơn vị này là: Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư quốc gia (Quyết định số 43/2008/QĐ-BNN); Trung

tâm Quốc gia Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn (Quyết định số 45/2008/QĐ-BNN); Trung tâm

Tin học và Thống kê (Quyết định số 48/2008/QĐ-BNN); Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

(Quyết định số 44/2008/QĐ-BNN); Báo Nông nghiệp Việt Nam (Quyết định số 46/2008/QĐ-BNN). Nguồn

Thuvienphapluat.vn

Page 95: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

95

Cùng với việc thành lập ba Tổng cục, Chính phủ đã có quyết định cử các đồng chí

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn kiêm Tổng cục trưởng của ba Tổng

cục(1)

. Đồng thời Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng nghiên cứu để xuất với

Chính phủ kiện toàn lại hệ thống tổ chức các cơ quan quản lý ngành nông, lâm, ngư nghiệp

địa phương, theo hướng sáp nhập các Sở Thủy sản vào Sở Nông nghiệp và Phát triển nông

thôn, thành lập các Chi cục ngành Thủy sản, Thủy lợi, Lâm nghiệp tương ứng với các tổng

cục của Bộ.

Đối với các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

không nêu tên trong Nghị định số 01/2008/NĐ-CP và Nghị định số 75/2009/NĐ-CP, Thủ

tướng Chính phủ đã giao cho Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn rà soát

trình Thủ tướng ban hành danh sách. Ngày 15 tháng 2 năm 2011, Thủ tướng Chính phủ đã

ban hành danh sách các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông

thôn tại Quyết định số 214/QĐ-TTg. Tại thời điểm này, Bộ Nông nghiệp và Phát triển

nông thôn có 65 đơn vị sự nghiệp trực thuộc, gồm 36 trường, 12 viện nghiên cứu 13 ban

quản lý các dự án, hai đơn vị sự nghiệp y tế và các đơn vị khác.

Ngoài ra, theo thẩm quyền được Chính phủ giao, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông

thôn còn thành lập một số đơn vị trực thuộc để giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản

lý nhà nước, trong đó có Ban Đổi mới và Quản lý doanh nghiệp nông nghiệp thuộc Bộ

(thành lập năm 2008)(2)

.

Năm 2012, Chính phủ đã quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ

chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ trong nhiệm kỳ khóa XIII (2011-2016)(3)

. Trên cơ sở đó,

chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nông nghiệp và Phát triển

nông thôn cũng được điều chỉnh lại tại Nghị định số 199/2013/NĐ-CP ngày 26 tháng 11

năm 2013.

So với Nghị định số 01/2008/NĐ-CP ngày 3 tháng 1 năm 2008, chức năng của Bộ

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong Nghị định 199/2013/NĐ-CP không thay đổi.

Chức năng này được thể hiện trong 34 nhiệm vụ thay vì 30 ở Nghị định cũ, nhấn mạnh hơn

vai trò chủ động của Bộ với sự phân cấp mạnh hơn của Chính phủ cho các bộ, ngành.

Ngoài ra, Nghị định 199/2013/NĐ-CP còn tách riêng để quy định cụ thể nhiệm vụ của Bộ

về quản lý đầu tư, xây dựng; bổ sung các nhiệm vụ nhằm tăng cường công tác chỉ đạo của

Bộ về khoa học công nghệ, công nghệ thông tin phục vụ phát triển ngành, về các vấn đề

liên quan đến các lĩnh vực quản lý của Bộ có nhiều ngành, địa phương thực hiện...

Các nhiệm vụ quản lý các lĩnh vực được giao cho Bộ như nông nghiệp, lâm nghiệp,

diêm nghiệp, thủy sản, thủy lợi, phát triển nông thôn cũng được quy định một cách tổng

(1)

Thứ trưởng Hứa Đức Nhị kiêm Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp; Thứ trưởng Vũ Văn Tám kiêm

Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản, Thứ trưởng Đỗ Xuân Học kiêm Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy lợi. (2)

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Quyết định số 234/QĐ-BNN-TCCB ngày 28 tháng 1 năm 2008.

Thuvienphapluat.vn (3)

Chính phủ: Nghị định số 36/2012/NĐ-CP ngày 18 tháng 4 năm 2012 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền

hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ. Thuvienphapluat.vn

Page 96: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

96

thể, gọn hơn, giao quyền cho Bộ chủ động, không đi sâu vào chi tiết công việc nghiệp vụ

quản lý, đồng thời bổ sung, nhấn mạnh hơn công tác hướng dẫn, kiểm tra của Bộ đối với

từng lĩnh vực quản lý.

Cơ cấu tổ chức của Bộ về cơ bản được giữ ổn định như quy định tại Nghị định số

75/2009/NĐ-CP và thực trạng của Bộ năm 2012. Tuy nhiên, so với Nghị định số

01/2008/NĐ-CP thì có nhiều thay đổi. Đối với các đơn vị giúp Bộ trưởng thực hiện chức

năng quản lý nhà nước, ngoài Văn phòng Bộ, Thanh tra Bộ, sáu Vụ, tám Cục và ba Tổng

cục như có trong Nghị định 75/2009/NĐ-CP, nay bổ sung thêm Vụ Quản lý doanh nghiệp,

được thành lập từ Ban Đổi mới và Quản lý doanh nghiệp nông nghiệp. Ngoài ra, một số

Vụ được quy định có cấp phòng.

Các đơn vị sự nghiệp được nêu tên trực tiếp trong Nghị định 199/2013/NĐ-CP cũng

khác với các Nghị định trước. Trong số 05 đơn vị trước đây được nêu tên trong Nghị định

số 01/2008 và số 75/2009, nay chỉ còn lại ba đơn vị là Trung tâm Tin học và Thống kê;

Báo Nông nghiệp Việt Nam; Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; đồng thời bổ

sung thêm 03 đơn vị khác là Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông

thôn; Trường Cán bộ Quản lý Nông nghiệp và Phát triển nông thôn I và Trường Cán bộ

Quản lý Nông nghiệp và Phát triển nông thôn II. Đó là các tổ chức sự nghiệp công lập

phục vụ chức năng quản lý nhà nước của Bộ. Đối với các đơn vị sự nghiệp công lập khác

thuộc Bộ, Chính phủ sẽ ban hành danh sách cụ thể do Bộ trình.

Thực hiện Nghị định số 199/2013/NĐ-CP, Chính phủ đã ban hành các quyết định

quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các Tổng cục Lâm

nghiệp, Thủy sản và Thủy lợi vào tháng 10 năm 2014(1)

. Ngày 1 tháng 4 năm 2014, Bộ

trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành các quyết định quy định chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các Vụ. Riêng với Vụ Quản lý doanh

nghiệp, trước đó Bộ đã có Quyết định số 04/QĐ-BNN-TCCB ngày 2 tháng 1 năm 2014.

Tiếp đó, ngày 4 tháng 4 năm 2014 ban hành các quyết định đối với các Cục thuộc Bộ(2)

.

Các đơn vị sự nghiệp công lập của Bộ trong quãng thời gian này được sắp xếp lại

theo quy hoạch của Chính phủ về mạng lưới các đơn vị đào tạo, nêu tại các Quyết định số

37/2013/QĐ-TTg ngày 26 tháng 6 năm 2013 về việc điều chỉnh Quy hoạch mạng lưới

trường đại học, cao đẳng giai đoạn (2006-2020); Quyết định số 64/2013/QĐ-TTg ngày 11

(1)

Ngày 22 tháng 10 năm 2014 Chính phủ đã ban hành các Quyết định số 57/2014/QĐ-TTg quy định chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức đối với Tổng cục Thủy sản; Quyết định số 58/2014/QĐ-TTg

đối với Tổng cục Thủy lợi và Quyết định số 59/2014/QĐ-TTg đối với Tổng cục Lâm nghiệp. Nguồn

Thuvienphapluat.vn. (2)

Ngày 1 tháng 4 năm 2014, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành các Quyết định

số 621; 609; 623; 625; 620;619 cho 06 Vụ theo thứ tự của danh sách trong Nghị định 199 và các Quyết định

số 618; 626 cho Văn phòng và Thanh tra Bộ. Ngày 4 tháng 4 năm 2014 Bộ ban hành các Quyết định từ số

663 đến số 670 cho 08 Cục theo thứ tự trong Nghị định 199. Nguồn Thuvienphapluat.vn.

Page 97: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

97

tháng 11 năm 2013 quy định về điều kiện và thủ tục thành lập hoặc cho phép thành lập,

cho phép hoạt động đào tạo, đình chỉ hoạt động đào tạo, sáp nhập, chia, tách, giải thể

trường đại học, học viện. Theo đó các trường thuộc Bộ được phân thành các khối theo cấp

độ, hệ đào tạo.

Trong quy hoạch chung đó, Chính phủ đã cho phép Bộ Nông nghiệp và Phát triển

nông thôn tiếp nhận Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội để thành lập Học viện Nông

nghiệp Việt Nam. Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,

Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 441/QĐ-TTG ngày 28 tháng 3 năm 2014 thành

lập Học viện Nông nghiệp Việt Nam trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

trên cơ sở tổ chức lại Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội. Ngày 13 tháng 5 năm 2014,

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có Quyết định số 1026/QĐ-BNN-TCCB

quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Học viện Nông nghiệp

Việt Nam(1)

.

Thời điểm này một số Viện thuộc Bộ cũng được điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, cơ

cấu tổ chức(2)

. Đến giữa tháng 6 năm 2014, khi Chính phủ ban hành danh sách các đơn vị

sự nghiệp thuộc Bộ, thì về cơ bản đã sắp xếp xong các khối Viện, trường.

Trong các năm tiếp theo 2014-2015, một số đơn vị thuộc Bộ tiếp tục được bổ sung,

điều chỉnh nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức, nhất là đối với các đơn vị trực thuộc các Tổng cục

của Bộ, nhằm phục vụ đắc lực cho Đề án tái cơ cấu ngành và các lĩnh vực thuộc phạm vi

quản lý của Bộ, phục vụ xây dựng nông thôn mới.

* * *

Kể từ ngày thành lập Bộ Canh nông đến nay vừa tròn 70 năm hình thành và phát

triển của các cơ quan quản lý ngành nông nghiệp (bao gồm cả lương thực và công nghiệp

thực phẩm), lâm nghiệp, thủy sản, thủy lợi. Ngày 18 tháng 6 năm 2015, Thủ tướng Chính

phủ đã có Quyết định số 890/QĐ-TTg lấy ngày 14 tháng 11 hàng năm là “Ngày Truyền

thống ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam”. Đây là dấu mốc thời gian

có ý nghĩa quan trọng, khẳng định vai trò của nông nghiệp, nông dân, nông thôn đối với

(1)

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Quyết định số 1026/QĐ-BNN-TCCB ngày 13 tháng 5 năm 2014

quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Học viện Nông nghiệp Việt Nam.

Thuvienphapluat.vn (2)

Ngày 3 tháng 3 năm 2013, Bộ đã quyết định bổ sung cho Viện Chăn nuôi một số nhiệm vụ: Nghiên cứu

khoa học, chuyển giao công nghệ nuôi ong; hoàn thiện và phát triển công nghệ chuồng trại, thiết bị chăn

nuôi. Chuyển nhiệm vụ “nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ về cây thức ăn chăn nuôi” Viện Khoa

học Nông nghiệp Việt Nam. Thành lập Bộ môn Dinh dưỡng và Thức ăn chăn nuôi trên cơ sở sáp nhập Bộ

môn Đồng cỏ và Cây thức ăn chăn nuôi vào Bộ môn Dinh dưỡng và Thức ăn chăn nuôi. Thành lập mới Bộ

môn Nghiên cứu và Phát triển công nghệ chăn nuôi và Trung tâm Nghiên cứu Ong. Tương tự, một số Viện

cũng đã được điều chỉnh.

Page 98: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

98

quá trình xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước từ thời kháng chiến kiến quốc đến nay.

Cùng với các Ngày truyền thống của ngành Thủy sản (ngày 1 tháng 4 hàng năm, được

phê chuẩn tháng 3 năm 1995), ngành Lâm nghiệp (ngày 28 tháng 11 hàng năm, được phê

chuẩn tháng 6 năm 1995), của ngành Thủy lợi (ngày 28 tháng 8 hàng năm, được phê

chuẩn tháng 8 năm 2008), ngày 14 tháng 11 năm 1945 trở thành Ngày Truyền thống của

ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam.

THÀNH TỰU VÀ ĐÓNG GÓP CỦA NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM CHO ĐẤT

NƯỚC THỜI KỲ ĐỔI MỚI (1987-2015)

1. Nông nghiệp tăng trưởng nhanh, góp phần duy trì tăng trưởng ổn định của

đất nước

Kể từ khi đổi mới nền kinh tế (1986-2012), mặc dù chịu nhiều tác động bất lợi,

ngành nông lâm nghiệp và thủy sản vẫn đạt mức tăng trưởng GDP khá cao, bình quân đạt

3,68%/năm. Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản(1)

liên tục tăng với tốc độ bình

quân 5,5%/năm trong cùng giai đoạn. Trong đó, thủy sản tăng nhanh nhất với tốc độ

9,2%/năm, tiếp đó là nông nghiệp 5%/năm và lâm nghiệp 1,8%/năm(2)

. Nhờ tăng trưởng

nhanh, nông nghiệp cung ứng đủ lương thực, thực phẩm, giúp đảm bảo an ninh lương thực

và ổn định kinh tế - xã hội. Nếu như năm 1995, bình quân lương thực đầu người là

363,1kg/người, Việt Nam phải nhập khẩu hàng năm hàng triệu tấn lương thực thì đến năm

2012, bình quân lương thực đã lên đến 546kg/người (tăng 1,5 lần), Việt Nam trung bình

xuất khẩu từ 7 - 8 triệu tấn gạo hàng năm.

Đứng trước thực tế tốc độ tăng trưởng GDP ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản

trong thời gian gần đây giảm (từ 4,17% năm 2002 xuống còn 4,01% trong năm 2011;

2,67% năm 2013) và tăng trưởng của nông nghiệp chủ yếu theo chiều rộng, trong khi các

nguồn tài nguyên chính cho tăng trưởng như đất đai, nước, lao động cho nông nghiệp ngày

càng giảm sút, Ngành Nông nghiệp với Đề án tái cơ cấu theo hướng nâng cao giá trị gia

tăng và bền vững đã và đang khôi phục tốc độ tăng trưởng của ngành. Trong đó tập trung

huy động những nguồn lực mới như khoa học công nghệ, cải tiến quản lý, tổ chức lại sản

xuất của nông dân...

2. Cơ cấu sản xuất chuyển dịch theo hướng tích cực

Cùng với tăng trưởng nhanh, cơ cấu sản xuất nông, lâm, thủy sản chuyển dịch tích

cực theo hướng nâng cao năng suất, gắn với nhu cầu thị trường. Tỷ trọng nông, lâm nghiệp

và thủy sản tính theo giá hiện hành trong GDP cả nước giảm từ 38,06% năm 1986 xuống

(1)

Tính theo giá so sánh năm 1994 (2)

Tính toán dựa trên số liệu Niên giám thống kê, giai đoạn 2000-2011

Page 99: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

99

còn 20,08% năm 2011 và tiếp tục giảm xuống còn 19,67% năm 2012(1)

. Trong nội bộ

ngành cũng diễn ra xu hướng tăng nhanh tỷ trọng thủy sản, giảm tỷ trọng nông nghiệp. Tỷ

trọng thủy sản trong tổng giá trị sản xuất nông lâm thủy sản tăng dần từ 10,2% năm 1986

lên 15,6% năm 2000 và đạt 24,5% năm 2012. Trong khi đó, tỷ trọng nông nghiệp chỉ giảm

từ khoảng 82,3% năm 1986 xuống còn 80,2% năm 2000 và 72.3% năm 2012(2)

.

Trong trồng trọt, tỷ trọng diện tích cây hàng năm trong tổng diện tích đất sản xuất

nông nghiệp giảm từ 79% năm 1986 xuống còn 63% năm 2012, trong đó đất lúa giảm từ

61,2% năm 1986 xuống còn 46,7% năm 2001 và còn 40,3% năm 2012. Diện tích đất trồng

cây lâu năm tăng từ 14,9% năm 1986 lên 36,9% năm 2012(3)

.

Trong chăn nuôi, sản lượng của các sản phẩm có nhu cầu cao như gia cầm, thịt lợn,

thịt bò, sữa,... tăng nhanh. Trung bình tốc độ tăng trưởng đầu con gia cầm đạt 4,6%/năm

trong giai đoạn (1987-2012), của lợn đạt 3,2%/năm và của bò đạt 2,6%. Trong thủy sản,

hoạt động khai thác gần bờ giảm, chuyển dần sang đánh bắt xa bờ. Nuôi trồng thủy sản

phát triển tập trung vào các ngành hàng thế mạnh của Việt Nam là cá da trơn và tôm nước

mặn, lợ.

Trong thủy sản, từ năm 1995, các chính sách phát triển nghề cá xa bờ cũng tạo bước

thay đổi quan trọng hình thành nghề cá biển và năng lực đánh bắt xa bờ. Đến năm 2001, tỉ

trọng sản phẩm khai thác xa bờ đã chiếm 25% sản lượng khai thác. Trong năm năm (2001-

2005) đã diễn ra việc chuyển dịch một phần đất lúa hiệu quả thấp trong nuôi trồng thủy

sản, và dành một số mặt nước biển để nuôi trồng thủy sản. Chủ trương này góp phần quan

trọng tạo nên đột phá cho hai ngành hàng nuôi trồng thủy sản chủ lực của Việt Nam là tôm

và cá tra.

Trong lâm nghiệp, chính sách giao đất giao rừng, Chương trình 327, Dự án trồng mới

5 triệu hécta đã đẩy mạnh trồng rừng sản xuất. Nhờ vậy, tỷ lệ che phủ rừng tăng từ 28%

năm 1995 lên 39,9% năm 2012(4)

. Diện tích rừng phòng hộ và rừng đặc dụng được điều

chỉnh hẹp lại.

Để khắc phục tình trạng chuyển dịch cơ cấu sản xuất trong ngành nông nghiệp còn

chậm(5)

, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang chỉ đạo đẩy nhanh thực hiện tái cơ

cấu ngành, tập trung chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo hướng hiện

đại, công nghiệp hóa, sản xuất hàng hóa lớn, tập trung gắn với thị trường, thay tăng trưởng

theo số lượng bằng chất lượng và giá trị.

1Tổng cục Thống kê, 2013

(2) Bộ NN & PTNT

(3)Tính toán từ số liệu tổng hợp TCTK, 2000-2012

(4) Niên giám thống kê hàng năm và Báo cáo tổng kết thực hiện kế hoạch 2013 của Bộ Nông nghiệp và

PTNT. (5)

Tỷ trọng nông lâm nghiệp và thủy sản vẫn chiếm khoảng 20% GDP quốc gia, tỷ lệ này chững lại trong 7-8

năm gần đây, chỉ báo cho nguy cơ ”bẫy thu nhập trung bình”. Đất lúa vẫn chiếm hơn 60% diện tích gieo

trồng và là nguồn sống quan trọng của 80% hộ nông dân. Chăn nuôi chưa trở thành ngành chính. Ngành lâm

nghiệp tăng trưởng chậm, chỉ còn chiếm 5% GDP toàn ngành.

Page 100: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

100

3. Sản xuất hàng hóa xuất khẩu phát triển, góp phần cân bằng cán cân thương

mại cho đất nước

Trên phạm vi cả nước đã hình thành nhiều vùng hàng hóa tập trung phục vụ xuất

khẩu như vùng lúa ở -; vùng cà phê Tây Nguyên, Đông Nam bộ; vùng chè ở các tỉnh miền

núi và trung du phía Bắc; vùng cao su Đông Nam bộ; vùng cây ăn quả ở Đông Nam bộ, -,

một số tỉnh miền Bắc; vùng rau Lâm Đồng, thủy sản ở - và duyên hải Nam Trung Bộ, v.v...

Nhờ phát triển sản xuất và kinh doanh, nông nghiệp Việt Nam thực sự đã hướng về

xuất khẩu. Năm 1986, giá trị xuất khẩu nông lâm thủy sản mới chỉ đạt 486,2 triệu đô la Mỹ

thì đến năm 2000 đã lên tới 4,2 tỷ và đến 2013 đã lên tới 27 tỷ đô la Mỹ, gấp gần 60 lần so

với năm 1986. Tốc độ tăng trưởng giá trị kim ngạch xuất khẩu nông lâm sản đạt trung bình

17,31%/năm trong giai đoạn (1986-2012). Đến năm 2012, Việt Nam đứng thứ nhất về hồ

tiêu (chiếm 14,3 % thị phần thế giới), thứ nhất về cà phê vối (chiếm 40% thị phần cà phê

vối), thứ hai về lúa gạo (chiếm 12% thị phần), thứ hai về hạt điều (chiếm 9,5 % thị phần

thế giới)...

Xuất khẩu ròng của nông nghiệp đạt 10,6 tỷ USD trong năm 2012 và 8,6 tỷ USD

trong năm 2013. Mặc dù giá trị gia tăng của nông lâm thủy sản xuất khẩu Việt Nam còn

thấp, hoạt động kinh doanh chưa bền vững, nhưng nhờ những thành tích to lớn về xuất

khẩu, nông nghiệp là ngành duy nhất luôn luôn xuất siêu, trong khi thương mại Việt Nam

thường xuyên nhập siêu. Đây là đóng góp quan trọng của ngành nông nghiệp để cân bằng

cán cân thương mại.

4. Thủy lợi hóa được ưu tiên tập trung đầu tư phát huy rõ hiệu quả

Thủy lợi là ngành luôn được Đảng và Nhà nước đặc biệt ưu tiên. Ngân sách đầu tư

thủy lợi giai đoạn 1991-1995 tăng 7,4 lần so với giai đoạn 1986-1990, giai đoạn 1996-2000

tăng gấp 3,4 lần giai đoạn 1991-1995. Giai đoạn 1996-2003 đầu tư cho thủy lợi chiếm 68%

tổng vốn đầu tư do Bộ quản lý(1)

. Giai đoạn 2006 - 2010 đầu tư cho thủy lợi chiếm 59%

tổng vốn đầu tư vào ngành nông, lâm, thủy sản.

Phát triển thủy lợi đã hình thành nền tảng phát triển nông nghiệp trong quá trình đổi

mới, đóng góp quan trọng vào kết quả đảm bảo an ninh lương thực, chuyển đổi cơ cấu sản

xuất, phòng chống thiên tai lũ lụt, bảo vệ an toàn cho sản xuất và đời sống cho toàn dân.

Theo Tổng điều tra nông nghiệp - nông thôn, tỷ lệ diện tích đất trồng lúa được tưới tiêu

chủ động tăng từ 63% năm 2001 lên 85,5% năm 2011. Tổng số ki lô mét kênh mương toàn

quốc tăng 30,6%; tỷ lệ ki lô mét kênh mương được kiên cố hóa tăng gấp đôi, từ 12,4% lên

21,5%. Đến năm 2011, cả nước có 254.180 ki lô mét kênh mương, chủ yếu tập trung tại hai

vùng đồng bằng lớn (chiếm 51% tổng chiều dài kênh mương cả nước). Đến hết năm 2013,

tổng năng lực tưới của hệ thống thủy lợi đạt 3,52 triệu hécta đất canh tác, đảm bảo tưới cho

7,26 triệu hécta trồng lúa, đáp ứng 94% diện tích gieo trồng lúa.

(1)

Báo cáo của Vụ Tài chính, Bộ Nông nghiệp &PTNT, 2004

Page 101: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

101

Trong 70 năm qua, Đảng, Nhà nước và nhân dân đã chăm lo đầu tư xây dựng nhiều

hệ thống công trình thủy lợi, hình thành cơ sở hạ tầng quan trọng, phục vụ đa mục tiêu cho

nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, điều tiết lũ, giao thông, phát điện, ngăn mặn, giữ ngọt,

du lịch, môi trường… bảo đảm cho sản xuất và đời sống dân sinh.

Đến nay (2015), sau 70 năm phát triển, tổng năng lực tưới hệ thống thủy lợi đạt

3,52 triệu hécta đất canh tác, đảm bảo tưới cho 7,26 triệu hécta (94%) diện tích gieo

trồng lúa; phục vụ tưới 1,5 triệu hécta rau màu và cây công nghiệp ngắn ngày, tiêu thoát

nước cho trên 1,75 triệu hécta đất nông nghiệp, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về cấp

thoát nước phục vụ công nghiệp và dân sinh. Trên phạm vi toàn quốc đã xây dựng được

904 hệ thống thủy lợi lớn và vừa có quy mô diện tích phục vụ từ 200 hécta trở lên, trong

đó có 110 hệ thống thủy lợi lớn có diện tích phục vụ lớn hơn 2.000 hecta. Hệ thống hồ

chứa nước có 6.831 hồ chứa các loại, với tổng dung tích trữ 50 tỷ mét khối, đã và đang

phục vụ cho phát điện, cấp nước sinh hoạt, cấp nước cho các ngành kinh tế, bảo đảm tưới

cho 800.000 hécta đất canh tác. Ngoài ra, còn có các công trình thủy lợi khác gồm:

10.076 đập dâng; 13.347 trạm bơm các loại với tổng công suất lắp máy phục vụ tưới là

250 MW, phục vụ tiêu là 300 MW; trên 5.500 cống tưới, tiêu lớn (trong đó có trên 4.000

cống dưới đê). Chúng ta đã kế thừa và phát huy cao độ truyền thống và thành quả của

hàng nghìn năm xây dựng và phát triển đê điều, kênh mương tưới tiêu của cha ông. Đến

nay đã có 6.151 ki lô mét đê sông, 2.488 ki lô mét đê biển, 25.869 ki lô mét bờ bao ngăn

lũ đầu vụ hè thu ở; 254.815 ki lô mét kênh mương các loại, trong đó đã kiên cố được

51.856 ki lô mét(1)

.

Mặc dù còn có những hạn chế, đầu tư cho thủy lợi chủ yếu tập trung vào xây dựng

các công trình mới, việc quản lý, tu bổ, duy trì các công trình thủy lợi chưa được quan tâm

đúng mức, nhiều công trình chưa khai thác hết công suất và nhanh xuống cấp, một số công

trình không đảm bảo an toàn; hệ thống tưới tiêu chủ yếu phục vụ cho cây lúa, thủy lợi đa

mục tiêu chưa được chú ý… nhưng thủy lợi đã và đang phát huy mạnh mẽ vai trò của

mình. Thủy lợi đã góp phần ổn định sản xuất, giữ vững và nâng cao năng suất, mở rộng

diện tích canh tác, tăng vụ sản xuất hàng năm, tăng sản lượng cây trồng, bảo đảm an ninh

lương thực, xoá đói giảm nghèo ở nông thôn, đưa nước ta từ một nước thiếu lương thực,

trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới.

5. Cơ khí hóa, điện khí hóa và sinh học hóa phát triển, từng bước thúc đẩy công

nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn

Các nội dung về cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa… được thực hiện xuyên suốt

trong quá trình 30 năm đổi mới. Nghị quyết số 15-NQ/TW về đẩy nhanh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn giai đoạn (2001-2010) đã nêu rõ một trong hai nội

dung tổng quát chính của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là: “Quá

trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn với công

(1)

Bộ Nông nghiệp và PTNT: Báo cáo Kế hoạch 5 năm (2016-2020) ngành Nông nghiệp và PTNT.

Page 102: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

102

nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, ứng dụng

các thành tựu khoa học công nghệ…”.

Về cơ khí hóa, từ giai đoạn đầu đổi mới, Báo cáo chính trị tại Đại hội VI (1986) đã

đưa ra chủ trương “thực hiện từng bước và có trọng điểm việc cơ giới hoá”. Năm 1995,

ngành nông nghiệp cả nước chỉ có tổng số 97.877 chiếc máy kéo, thì năm 2001 tăng lên

253.230 cái, đến năm 2011 lên 497.053 cái. Năm 1995 trung bình có 9 chiếc máy kéo/ngàn

hộ sản xuất nông, lâm, thủy sản thì đến năm 2001 tăng lên 19 và năm 2011 tăng lên 32. Số

lượng máy kéo cỡ trung và cỡ lớn (từ 12 mã lực trở lên) đã tăng hơn gấp đôi trong giai

đoạn 5 năm (2006-2011), chủ yếu tập trung tại Tây Nguyên, Đông Nam bộ và -, là những

vùng chuyên canh sản xuất hàng hóa lớn.

Mặc dù mức độ cơ giới hóa không đồng đều ở các khâu, lĩnh vưc, đặc biệt là tỷ lệ cơ

giới hóa sau thu hoạch thấp, những nhìn chung tỷ lệ cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp đã

tăng mạnh, nhiều khâu đã ở mức cao. Tỷ lệ cơ giới hóa ở khâu làm đất là 80% - 90%; tưới

nước 85%, tuốt lúa 84%, vận chuyển 66%, phơi sấy 38,7%, thu hoạch lúa 15%, xay xát

95%. Nhờ cơ khí hóa phát triển, tỷ lệ diện tích đất trồng lúa và đất trồng cây hàng năm

được làm đất bằng máy đã tăng từ 25% năm 1982 lên 86,9% năm 2011.

Trước những hạn chế trong cơ giới hóa sản xuất, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông

thôn cùng với các bộ, ngành liên quan đang tập trung phối hợp xây dựng hệ thống cơ chế,

chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ trong nước, hỗ trợ nông dân trang bị thiết bị máy

móc phục vụ sản xuất nông nghiệp trước, trong và sau thu hoạch; chỉ đạo phát triển mạnh

cơ giới hóa, hiện đại hóa các khâu sơ chế, chế biến nông, lâm, thủy sản…

Trong ngành lâm nghiệp, do đặc điểm đất lâm nghiệp có độ dốc lớn và sản xuất lâm

nghiệp thường tập trung ở vùng sâu, vùng xa nên khó khăn trong việc áp dụng cơ giới hóa

vào sản xuất. Năm 2011, có tới 70% khối lượng công việc được làm bằng thủ công chỉ có

30% khối lượng công việc là được cơ giới hóa. Việc áp dụng cơ giới hóa chỉ mới được

thực hiện hai khâu chặt hạ và vận chuyển, còn nhiều khâu sản xuất quan trọng, chiếm tỷ lệ

khối lượng công việc lớn và nặng nhọc như trồng, chăm sóc, chữa cháy, bốc xếp thì tỷ lệ

áp dụng cơ giới hóa thấp khoảng 2-5%. Đặc biệt, khâu phun thuốc trừ sâu hại bệnh lâm

nghiệp hầu như làm hoàn toàn thủ công.

Trong ngành khai thác thủy sản, số lượng tàu, thuyền có động cơ của gia đình giai

đoạn (2006-2011) tăng 25%, từ 99,4 nghìn chiếc lên 124,1 nghìn chiếc. Từ năm 1997, Thủ

tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 393/TTg về việc ban hành Quy chế quản lý và sử

dụng vốn tín dụng đầu tư theo kế hoạch Nhà nước cho các dự án đóng mới, cải hoán tàu

đánh bắt và tàu dịch vụ đánh bắt hải sản xa bờ. Những năm tiếp theo, Nhà nước còn có các

chính sách khuyến khích ngư dân khai thác xa bờ. Bên cạnh những thay đổi tích cực về cơ

cấu tầu thuyền, trang bị cơ giới hóa, hiện đại hóa tàu cá, còn có những hạn chế cần tiếp tục

được tháo gỡ. Tỷ lệ tàu thuyền công suất lớn chủ yếu do doanh nghiệp sở hữu chiếm phần

rất nhỏ trong tổng số lượng tàu thuyền cả nước. Vì vậy, nhìn chung trang bị của ngành khai

Page 103: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

103

thác thủy sản Việt Nam hiện nay chưa phù hợp với hoạt động đánh bắt xa bờ.

Về áp dụng công nghệ sinh học, trong thời gian qua, công tác nghiên cứu và ứng

dụng các giống vật nuôi và cây trồng mới đã đóng góp lớn cho sản xuất nông nghiệp. Tỷ lệ

diện tích gieo cấy bằng các giống lúa lai, lúa thuần năng suất cao tăng từ 50% thời kỳ

(1991-1995) lên 80% thời kỳ (1996-2000), là yếu tố cơ bản đưa năng suất lúa từ 34,3 tạ/ha

lên 40 tạ/ha. Trong giai đoạn (2007-2011), tỷ lệ giống lúa lai có chất lượng gạo khá tốt

tăng từ 23% lên 48%; tỷ lệ giống lúa thuần có chất lượng gạo khá tốt đạt tăng từ 34% lên

52%. Diện tích gieo trồng sử dụng giống lúa từ cấp xác nhận trở lên khoảng 7,9 triệu hecta,

chiếm khoảng 25%. Giống ngô mới chiếm 80% tổng diện tích ngô cả nước. Lợn giống nội

chiếm khoảng 65-70% tổng đàn ở thập kỷ 1990, được thay bằng các giống lợn lai, lợn

ngoại chiếm 70-80%.

Bên cạnh những tiến bộ rõ rệt về ứng dụng công nghệ sinh học, có nhiều cải thiện về

công tác nghiên cứu, ứng dụng giống, nhưng vẫn chưa đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao

của phát triển nông nghiệp theo chiều sâu. Hiện nay giống cây trồng, vật nuôi, cây lâm

nghiệp và giống thủy sản chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường cả về số lượng và chất

lượng. Hơn 30% số xã còn gặp khó khăn về thiếu giống mới/giống phù hợp(1)

. Trong quá

trình tái cơ cấu ngành, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã chỉ đạo mạnh mẽ công

tác giống, tập trung cải thiện cả ở khâu nghiên cứu lai tạo, nhập nội, lẫn khâu tổ chức sản

xuất, nhân giống kỹ thuật, để hình thành một thị trường đáng tin cậy.

Về điện khí hóa, trong giai đoạn (2001-2011), tỷ lệ hộ nông thôn có điện tăng từ 79%

lên 98%; tỷ lệ số xã có điện tăng từ 89,7% lên 99,81%. Đặc biệt tỷ lệ thôn có điện lưới

quốc gia năm 2011 là 93,4%, cao hơn nhiều so với năm 2006 (87,8%) và 2001 (70,7%),

góp phần tạo nên sự ổn định về nguồn điện cho nông thôn. Mặc dù là một trong những

điểm sáng nhất trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, nhưng điện

khí hóa vẫn còn một số hạn chế và thách thức.

Nhiều thôn, bản của các xã vùng cao, vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc ít người vẫn

chưa có điện, khó khăn cho phát triển sản xuất nông nghiệp và tạo chênh lệch về điều

kiện sống giữa dân tộc đa số và thiểu số, giữa các vùng nông thôn trên cả nước. Đặc biệt,

tại các sản xuất nông nghiệp quy mô hàng hóa lớn, như hai vùng đồng bằng, Đông Nam

bộ, Tây Nam bộ, nhu cầu điện cho sản xuất nông nghiệp nhất là điện phục vụ thủy lợi

chưa được đáp ứng. Chất lượng điện thấp, thời gian bị mất điện thường xuyên ở nông

thôn, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới các ngành công nghiệp nông thôn, ngành chăn

nuôi và thủy sản.

Về giao thông nông thôn, tỷ lệ xã có đường ô tô đến Ủy ban nhân dân xã tăng từ

94% năm 2001 lên 98,6% năm 2011. Nếu năm 2006 tỷ lệ xã có đường ô tô đến trụ sở Ủy

ban nhân dân xã là 93,6% thì đến năm 2011 đã tăng lên 97,2%. Số xã có đường ô tô đến

Ủy ban nhân dân xã được nhựa hoặc bê tông hoá cũng tăng từ 42,4% vào năm 2006 lên

87,4% vào năm 2011. Năm 2011, cả nước có 67,7% xã có đường trục thôn được nhựa, bê

(1)

Trần Công Thắng và cộng sự: Thực trạng áp dụng KHCN nhìn từ phía người nông dân. Báo cáo của Viện

Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn về kết quả điều tra tình hình áp dụng khoa học

công nghệ trong nông nghiệp năm 2013

Page 104: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

104

tông hóa.

Mặc dù giao thông nông thôn đã có nhiều cải thiện nhưng nhìn chung, cơ sở hạ tầng

ở cơ sở hiện chủ yếu đáp ứng nhu cầu dân sinh, chưa đáp ứng nhu cầu lưu thông hàng hóa,

nên chưa thực sự đóng vai trò tích cực trong thúc đẩy nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa

lớn. Quan trọng hơn, một số trục giao thông chiến lược liên vùng như hệ thống đường sắt,

đường cao tốc chưa hình thành để kết nối hai sản xuất hàng nông nghiệp quy mô hàng hóa

lớn (Tây Nguyên, Tây Nam bộ), những vùng kinh tế khó khăn như Tây Bắc với các thị

trường và bến cảng, cửa khẩu chính.

Phát triển hệ thống thông tin là một trong những nội dung được cải thiện nhanh nhất

trong thời gian qua, tạo nên cơ hội lớn trong chuyển giao thông tin khoa học-công nghệ và

thị trường tới cho nông dân. Tính đến năm 2011, có 81,4% số xã trên cả nước có hệ thống

loa truyền thanh đến thôn (ấp, bản), tăng từ mức 56,8% hồi năm 2001. Tỷ lệ hộ có máy

điện thoại tăng từ 21,2% năm 2001 lên 52,6% năm 2006 và 86,6% năm 2011. Chỉ trong

giai đoạn 5 năm 2006 - 2011, tỷ lệ trụ sở xã có kết nối internet đã tăng từ 5,4% lên 75,4%.

Mặc dù chất lượng phát triển thông tin nông thôn còn hạn chế, cải thiện phương tiện

thông tin chưa đi liền với khả năng và mức độ tiếp cận thông tin của người dân(1)

; nông

nghiệp, nông thôn có quá ít kênh phát thanh, truyền hình, kênh phát thanh, sách báo, hoặc

kênh thông tin khoa học công nghệ, nhưng nhìn chung, với những tiến bộ nhanh trong phổ

biến phương tiện thông tin, lĩnh vực thông tin hóa nông nghiệp, nông thôn, chúng ta còn

nhiều cơ hội trong tương lai để góp phần thúc đẩy tiếp thu và ứng dụng khoa học công

nghệ, thông tin thị trường, chính sách trong nông dân, nông thôn.

Phát triển công nghiệp hỗ trợ sản xuất nông nghiệp. Thời gian qua, nhiều ngành

công nghiệp hỗ trợ sản xuất nông nghiệp đã phát triển tốt. Với việc phát triển các nhà máy

phân bón lớn như Đạm Cà Mau, Đạm Phú Mỹ… tỷ lệ phân bón nhập khẩu giảm từ 70%

những năm đầu thập 90 xuống còn 30% trong những năm gần đây. Công nghiệp chế biến

thức ăn gia súc phát triển mạnh với sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài, góp phần

quan trọng phát triển ngành công nghiệp chăn nuôi. Với sự phát triển của các doanh nghiệp

tư nhân, công nghiệp chế biến đã phát triển mạnh trong ngành thủy sản, hạt điều, đồ

gỗ,…tạo điều kiện thúc đẩy xuất khẩu cho nông sản Việt Nam. Với ngành mía đường,

thuốc lá, sữa, rượu bia,… công nghiệp chế biến cũng tạo điều phục vụ tốt thị trường trong

nước và kết nối với sản xuất nông nghiệp.

Mặc dù công nghiệp hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp còn rất yếu kém, nhưng tiềm

năng to lớn của nông nghiệp Việt Nam sẽ là sức hút đầu tư, cùng với những cơ chế, chính

sách mới đã và đang được Nhà nước nghiên cứu ban hành sẽ tiếp tục thúc đẩy công nghiệp

hỗ trợ phát triển một cách hoàn chỉnh hơn, gắn với các vùng nguyên liệu, góp phần nâng

(1)

Theo Tổng điều tra nông nghiệp, nông thôn, năm 2002 có 40% xã khó khăn về thiếu kiến thức kỹ thuật,

công nghệ mới, tỷ lệ này giảm xuống còn 32% năm 2010.

Page 105: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

105

cao giá trị gia tăng, khả năng cạnh tranh của hàng hóa nông sản.

6. Cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển biến rõ nét, góp phần nâng cao đời sống của

nông dân

Song song với quá trình chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp, trong nông thôn cũng diễn

ra quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế mạnh mẽ theo hướng giảm bớt hoạt động sản xuất

nông nghiệp, tăng các hoạt động phi nông nghiệp. Ở nhiều địa phương, nhất là vùng đồng

bằng, tại địa bàn nông thôn đã hình thành các khu công nghiệp, khu đô thị, khu dịch vụ thu

hút nhiều lao động và tạo ra cơ cấu kinh tế mới cho địa bàn. Trong hầu hết các vùng nông

thôn, đã diễn ra quá trình chuyển dịch lao động, thu hút một số lượng lớn lao động từ nông

thôn, di chuyển đến các khu công nghiệp, đô thị, hoặc xuất khẩu lao động,…đóng góp cho

việc tích lũy vốn, tăng thu nhập, cải thiện điều kiện sinh hoạt của hộ nông dân. Với mức độ

khác nhau, các vùng nông thôn đang xuất hiện sự liên kết với kinh tế cả nước, bước đầu

tham gia vào quá trình hội nhập.

Một trong những thể hiện rõ nhất của chuyển dịch cơ cấu nông thôn là sự thay đổi

kết cấu kinh tế hộ. Trong nông thôn, tỷ lệ hộ nông, lâm, thủy sản giảm từ 80,93% năm

2001 xuống còn 71,1% năm 2006 xuống còn 62,1% năm 2011. Đóng góp của nông lâm

thủy sản trong tổng thu nhập bình quân đầu người của hộ gia đình nông thôn đã giảm từ

43,4% năm 2002 xuống còn 33,4% năm 2010. Thu nhập của nông dân đã được cải thiện

đáng kể. Thu nhập bình quân đầu người hộ nông thôn tăng từ 225 nghìn đồng/tháng (năm

1999) lên 275 nghìn đồng/người/tháng (năm 2002); khoảng 1,5 triệu đồng/người/tháng vào

năm 2010(1)

. Về cơ bản, Việt Nam đã xóa được đói. Công tác giảm nghèo được tập trung

đẩy mạnh, hướng vào các đối tượng khó khăn vùng sâu vùng xa, đồng bào dân tộc. Nhờ

đó, tỷ lệ hộ nghèo(2)

đã giảm tương đối từ 44,9% năm 1998 xuống 21,2% năm 2004 và chỉ

còn 11,1% năm 2012(3)

. Phong trào xây dựng nông thôn mới được phát động và lôi cuốn sự

tham gia chủ động và tích cực của nhân dân và các cấp các ngành ở nhiều địa phương.

Trước đổi mới, trong hệ thống kinh tế kế hoạch hóa tập trung, đô thị được ưu tiên cả

về xây dựng cơ sở hạ tầng và tiêu chuẩn, chế độ đãi ngộ. nông thôn chủ yếu phải tự túc

trong phục vụ sinh hoạt, có trách nhiệm đóng góp nông sản, nguyên liệu phục công nghiệp

và tiêu dùng của đô thị. Cho đến nay, trong khi cơ chế thị trường đã đảm bảo sự công bằng

của cả nông thôn và đô thị về nhu cầu sinh hoạt, sinh kế. Tuy vậy, chúng ta vẫn đang phải

đối đầu với những thách thức mới. Nhìn chung việc xây dựng quy hoạch phát triển chưa

tạo được quan hệ gắn bó giữa hai thành thị và nông thôn. Đô thị được giao nhiệm vụ quan

trọng là trung tâm của các hoạt động chính trị, xã hội, thương mại và cũng là trung tâm sản

xuất công nghiệp chính. Việc đầu tư cơ sở hạ tầng, xây dựng cơ bản, cung cấp dịch vụ vẫn

được tập trung vào các này đặc biệt là hai vùng trọng điểm phát triển kinh tế, tập trung vào

quanh Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.

(1)

Tổng cục Thống kê, Điều tra mức sống hộ gia đình, 2010. (2)

Theo chuẩn nghèo của Chính phủ ban hành cho giai đoạn 2011-2015 (3)

Tổng cục Thống kê

Page 106: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

106

Trong khi đó, chẳng những số lượng cơ sở hạ tầng đầu tư cho nông thôn còn ít mà

chất lượng của các dịch vụ kèm theo cũng rất khác biệt so với đô thị. Theo khảo sát của

Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam, có khoảng 21% doanh nghiệp nông thôn

cho biết chất lượng giao thông kém, tỷ lệ này với thành thị là 13%. Trên 30% đánh giá đào

tạo nghề cho lao động kém, trong khi ở thành thị là 15%. Sự chênh lệch tương tự có thể

thấy ở các lĩnh vực khác như cung cấp điện, nước, thông tin, khoa học công nghệ... Chính

vì thế, nông thôn chưa thu hút được đầu tư. Hiện nay số doanh nghiệp nông nghiệp chỉ

chiếm 1,13% tổng số doanh nghiệp trong cả nước, doanh nghiệp nông thôn chỉ bằng 1/3 số

doanh nghiệp ở thành thị.

Do kinh tế nông thôn không đa dạng, chủ yếu dựa vào nông nghiệp, nên thu nhập

trung bình của người dân nông thôn thấp. Điều tra mức sống dân cư gần đây nhất năm

2012 cho thấy thu nhập bình quân một nhân khẩu ở nông thôn là 1,541 triệu đồng/tháng,

trong khi đó ở thành thị là 3,071 triệu đồng/tháng, mức chênh lệch tăng gấp ba so với năm

2006. Xét về chất lượng cuộc sống và cơ hội phát triển, khoảng cách này còn lớn hơn.

Ngay trong nông thôn, khoảng cách giữa người giàu và nghèo tiếp tục doãng ra, năm 2002

là 6 lần, 2004 là 6,4 lần, và 2006 là 6,5 lần và đến năm 2010 lên tới gần 7,5 lần.

Mặt khác, sự chênh lệch về cơ hội và sinh kế giữa nông thôn và đô thị dẫn đến tình

trạng tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn vẫn còn khá cao mặc dù tỷ lệ hộ nghèo chung của cả nước

giảm đáng kể. Tỷ lệ hộ nghèo của nông thôn giảm từ 45% năm 1998 xuống còn 14,4%

năm 2012. Tỷ lệ hộ nghèo của thành thị cũng giảm xuống chỉ còn 3.9% năm 2012.

Nhìn chung, kết cấu nông thôn chậm chuyển đổi, trong đó nông nghiệp vẫn đóng

phần quan trọng, đặc biệt với vùng sâu vùng xa, vùng miền núi. Chính vì vậy, khả năng tạo

việc làm và thu nhập ổn định rất khó khăn. Mục tiêu đặt ra trong Nghị quyết 26-NQ/TW về

gắn bó giữa kinh tế xã hội giữa đô thị với nông thôn, giữa công nghiệp với nông nghiệp

vẫn chưa thực hiện được. Khoảng cách chênh lệch về cơ sở hạ tầng, dịch vụ, điều kiện

sống còn rất lớn.

Cùng với sự chuyển dịch về cơ cấu giữa các ngành trong nông thôn, nông nghiệp

trong gần 20 năm gần đây có xu hướng chuyển dịch mạnh về cơ cấu lao động. Năm 1995,

lao động nông lâm nghiệp và thủy sản chiếm hơn 71% tổng lao động cả nền kinh tế thì tỷ

lệ này giảm xuống chỉ còn 47,4% năm 2012. Năng suất lao động nông nghiệp của Việt

Nam tăng trưởng khá nhanh so với các nước trong . Chỉ tính trong vòng 15 năm (1996-

2012), năng suất lao động của Việt Nam tăng 4,6 lần, cao hơn nhiều so với Thái Lan (3

lần), Malaysia (3,5 lần) và Phillipin (1,9 lần).

Mặc dù vậy, năng suất lao động trong nông nghiệp của Việt Nam vẫn thấp hơn so

với mặt bằng các nước trong . Năm 2012, năng suất lao động nông nghiệp của Việt Nam

chỉ đạt 1.223 USD/lao động, trong khi các nước khác như Thái Lan, Malaysia, Phillipin,

Indonesia, Trung Quốc đều ở mức trên 2.000 USD/lao động.

Tỷ trọng nông nghiệp vẫn còn cao, thu nhập của người dân nông thôn còn thấp. Tốc

độ giảm nghèo có xu hướng chậm lại. Bên cạnh đó, tỷ lệ lao động nông lâm thủy sản của

Việt Nam vẫn còn cao so với một số nước trong như Thái Lan (40%), Trung Quốc

Page 107: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

107

(34,4%), Indonesia và Philippines (32%).

Sự chênh lệch về thu nhập và điều kiện sống đã tạo ra dòng di chuyển nguồn lực từ

nông thôn ra thành thị làm nông thôn càng bị tách rời và tụt lại so với sự phát triển chung

của nền kinh tế. Theo số liệu Tổng điều tra dân số(1)

, năm 1999 có khoảng 855.943 người

di cư từ nông thôn ra thành thị, thì đến năm 2009 con số này đã tăng lên trên hai triệu

người(2)

. Lao động từ nông thôn đa số tham gia lĩnh vực “không chính thức” (như khuân

vác, khai thác khoáng sản, thợ xây dựng, vận chuyển bằng xe máy, xe thô sơ, giúp việc

nhà, bán hàng), không được bảo vệ bởi hệ thống phúc lợi và phải tự đương đầu với rủi ro.

* *

Tóm lại, 30 năm đổi mới vừa qua đã đánh dấu bước phát triển thần kỳ của nông

nghiệp Việt Nam. Thành công trong lĩnh vực nông nghiệp là một trong những thành tựu rõ

rệt nhất của quá trình đổi mới kinh tế xã hội Việt Nam thời gian qua. Nhờ có một giai đoạn

tăng trưởng tương đối dài ở mức 3-4% năm, ngành nông nghiệp đã chuyển mình căn bản,

từ một nền sản xuất tự cung, tự cấp liên tục thiếu đói sang nền kinh tế hàng hóa hội nhập

toàn cầu. Nhờ vậy, an ninh lương thực của đất nước được đảm bảo, Việt Nam thành nước

xuất khẩu nhiều nông sản có ảnh hưởng tới thị trường thế giới.

Thành tựu của sản xuất nông nghiệp góp phần quan trọng cho quá trình xóa đói giảm

nghèo, ổn định chính trị xã hội của đất nước. Nhờ đó môi trường sinh thái được cải thiện

và an ninh quốc phòng được củng cố.

Điều đáng chú ý là những thành tựu trên đạt được trong một môi trường không có

nhiều thuận lợi. Việt Nam bắt đầu đổi mới mạnh trong lĩnh vực nông nghiệp khi phe xã hội

chủ nghĩa sụp đổ, sản xuất trong nước không còn nguồn viện trợ về vốn, khoa học công

nghệ, vât tư và thiết bị, lại mất đi thị trường xuất khẩu chính. Quá trình mở cửa cùng với

việc nới lỏng cấm vận và bình thường hóa ngoại giao với các nước trên thế giới diễn ra

không dễ dàng. Cân đối chính sách vĩ mô phải lựa chọn giữa nhiều ưu tiên, như bảo vệ Tổ

quốc và phát triển công nghiệp, vì vậy đầu tư cho nông nghiệp ít được chú trọng.

Nguyên nhân của những thành tựu to lớn này xuất phát trước nhất là đổi mới tư duy

từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường; từ tổ chức sản xuất kinh doanh

tập trung sang trao quyền cho các thành phần kinh tế; từ đóng cửu khép kín và dựa vào một

số đồng minh sang mở cửa hội nhập và buôn bán với toàn thế giới.

Những thay đổi tư duy hợp quy luật trên đã dẫn đến những chính sách hợp lý như

chuyển giao đất cho nông dân, xóa bỏ ngăn sông cấm chợ, tự do hóa thương mại, mở cửa

giao thương với toàn thế giới, tạo điều kiện cho cơ chế thị trường hình thành cả đối với thị

trường hàng hóa, tiền tệ và các thị trường tài nguyên khác. Thêm vào đó, một số chính sách

hỗ trợ đúng hướng cũng được áp dụng như xây dựng cơ sở hạ tầng (thủy lợi, giao thông,

điện, đường…), đầu tư nghiên cứu khuyến nông, phát triển dịch vụ bảo vệ sản xuất, cung

cấp tín dụng cho nông dân… Chính sách đúng đắn đã tạo động lực cho mọi thành phần

(1)

Năm 1999 và năm 2009. (2)

TCTK (2010), Di cư và đô thị hóa ở Việt Nam: Thực trạng, xu hướng và những khác biệt, NXB Thống kê, Hà Nội.

Page 108: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

108

kinh tế, đặc biệt là người nông dân sản xuất nhỏ và doanh nghiệp vừa và nhỏ, hăng hái sản

xuất kinh doanh. Nội lực dù còn ít ỏi của người dân đã được huy động và từng bước được

xây dựng mạnh lên trong quá trình phát triển.

Bước vào giai đoạn phát triển mới, nhiều thách thức và cơ hội đang mở ra, đòi hỏi

phải có bước phát triển hoàn toàn mới trong tư duy phát triển và chiến lược chính sách.

Toàn bộ nền kinh tế đã chuyển vào giai đoạn đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa, tài nguyên đang

rút ra mạnh khỏi nông nghiệp, nông thôn; quá trình biến đổi khí hậu diễn ra ngày càng

phức tạp; hội nhập kinh tế đi vào giai đoạn sâu rộng triệt để cùng nhiều thách thức và cơ

hội mới, cạnh tranh thị trường trở nên quyết liệt; khoa học công nghệ phát triển mạnh, các

biến động chính trị kinh tế trên thế giới trở nên khó lường. Do quá trình tái cơ cấu diễn ra

chậm, sản xuất nông nghiệp đã xuất hiện những dấu hiệu yếu kém. Tăng trưởng 5 năm vừa

qua chậm lại, sức cạnh tranh của nông sản yếu kém cả trên thị trường quốc tế và trong thị

trường nội địa, thu nhập của người dân tăng chậm lại, khoảng cách về cơ hội và điều kiện

sống giữa cư dân nông thôn và đô thị đang dãn ra. Tình trạng này xảy ra trước hết do chậm

chuyển biến trong tư duy đổi mới. Trong khi phần lớn kinh tế hợp tác xã đã chuyển thành

kinh tế hộ và phát triển sinh động, thì các nông, lâm trường quốc doanh và nhiều doanh

nghiệp nhà nước chậm chuyển đổi đã đi đến thua lỗ và phá sản. Đất đai chậm được tập

trung vào tay người sản xuất có hiệu quả, gây ra cản trở cho việc áp dụng khoa học công

nghệ và cơ giới hóa. Các quy định về quản lý tài chính chậm được đổi mới làm cản trở việc

phát triển thị trường khoa học công nghệ và huy động sức dân để phát triển cơ sở hạ tầng,

phát triển dịch vụ. Vì vậy, kinh tế trang trại chậm được hình thành, hợp tác xã kiểu mới

phát triển kém, ít doanh nghiệp đầu tư về nông thôn.

Đã đến lúc, mô hình tăng trưởng theo chiều rộng dựa vào khai thác tài nguyên và

hướng vào thị trường dễ tính giá rẻ đã không còn phù hợp. Toàn nền kinh tế và lĩnh vực

nông nghiệp chỉ có thể tiếp tục tăng trưởng ổn định nếu chuyển nhanh sang định hướng

phát triển theo chiều sâu, tập trung vào hiệu quả, chất lượng, giá trị và vững bền. Đây

chính là lúc tập trung thực hiện chương trình tái cơ cấu nông nghiệp với các nội dung chính

về phát triển khoa học công nghệ, đổi mới thể chế, phát triển thị trường. Để làm tốt được

việc này cần có sự tham gia của mọi ngành, mọi cấp và toàn xã hội vào chương trình tái cơ

cấu nông nghiệp. Trước hết, cần có sự thay đổi tư duy để hình thành quyết tâm chính trị

của các cấp lãnh đạo và toàn dân.

Page 109: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

TRUYỀN THÔNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM 109

TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

Từ khi Bộ Canh nông được thành lập ngày 14 tháng 11 năm 1945 đến nay vừa tròn

70 năm. Đó là chặng đường phát triển mới của Nông nghiệp Việt Nam dưới sự lãnh đạo

của Đảng và Nhà nước do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, đã giành được những thành tựu

to lớn qua các cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc đến công cuộc đổi mới ngày nay.

Ngày 14 tháng 11 năm 1945 đã trở thành Ngày Truyền thống của ngành Nông nghiệp và

Phát triển nông thôn nước ta.

Truyền thống Nông nghiệp Việt Nam là sự kế thừa và phát huy các giá trị truyền

thống quý báu của nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta. Nông nghiệp là ngành kinh

tế ra đời sớm nhất, cơ bản nhất của dân tộc. Trải qua các thời kỳ lịch sử, nông nghiệp luôn

giữ vai trò nền tảng, trụ cột của đất nước. 70 năm phấn đấu dưới sự lãnh đạo của Đảng,

nông dân và các thế hệ người lao động nông nghiệp với bản chất đoàn kết, yêu nước,

thương người, thật thà, chất phác, lao động cần cù, chịu khó và sáng tạo, đã có mặt trên

mọi trận tuyến cách mạng, dày công vun đắp truyền thống của ngành thành di sản quý báu,

phục vụ đắc lực cho xây dựng và phát triển đất nước.

Truyền thống Nông nghiệp Việt Nam trước hết là truyền thống yêu nước, đoàn kết,

tương thân tương ái. Nông dân là những người trực tiếp lao động nông nghiệp, lâm

nghiệp, ngư nghiệp và thủy lợi, gắn bó mật thiết với quê hương, làng xóm, với đất và nước.

Khi có chiến tranh, lòng yêu nước đã thôi thúc nông dân đứng lên anh dũng chiến đấu bảo

vệ Tổ quốc. Trong sản xuất, lòng yêu nước được thể hiện ở tình yêu nghề, gắn bó với nghề

cho dù có nhiều vất vả. Cũng như nông dân, đội ngũ cán bộ, công nhân viên chức, lao động

trong Ngành là những người đa số xuất thân từ nông dân, công việc gắn liền với đồng

ruộng, núi rừng, biển đảo. Tình yêu quê hương, đất nước, yêu nghề đã giúp họ vượt qua

được những khó khăn gian khổ, bám đất, bám làng, bám rừng, bám biển. Trong quá trình

thay đổi về tổ chức, dù tách ra hay nhập vào, làm ở đâu, cương vị nào, họ đều phát huy tinh

thần đoàn kết, yêu nghề, yêu công việc, phục vụ nông nghiệp, nông dân, nông thôn.

Ngườilàm nông nghiệp có mặt trên mọi miền đất nước, vùng sâu, vùng xa, rừng núi, biển

đảo, là tầng lớp có nhiều khó khăn nhất trong xã hội. Vì thế truyền thống đoàn kết, tình

làng nghĩa xóm, tối lửa tắt đèn có nhau, đồng cam cộng khổ, lá lành đùm lá rách luôn được

phát huy cao độ, trở thành đặc trưng và là nguồn sức mạnh để đất nước vượt qua mọi khó

khăn thử thách.

Trong kháng chiến, bằng tình đoàn kết, yêu nước thương người, nhường cơm sẻ áo,

chúng ta đã chiến thắng giặc đói, giặc lụt năm 1945-1946 khi chính quyền cách mạng còn

rất non trẻ. Nông dân vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, đóng góp không tiếc sức người sức

Page 110: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

110

của, tham gia các chiến dịch quân sự, vận lương tải đạn, góp phần làm nên thắng lợi của

cuộc kháng chiến, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.

Những năm kháng chiến chống Mỹ, trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt nông dân đã

biết vượt qua chính mình, biết hy sinh quyền lợi cá nhân, “hạt gạo cắn đôi”, “tất cả vì miền

Nam ruột thịt”. Người dân hậu phương miền Bắc ở lại quê hương chia sẻ mọi khó khăn

thiếu thốn, đùm bọc lẫn nhau, làm yên lòng những người ra trận, động viên chiến sĩ hăng

hái chiến đấu. Ngư dân miền biển đã liên kết với nhau để bám biển, vươn khơi. Những

người “thợ rừng” dựa vào nhau chiến thắng bệnh tật, lũ lụt, chiến đấu với hỏa hoạn, bám

rừng, trồng rừng, bảo vệ rừng, khai thác và cung cấp lâm sản cho đất nước. Làng xóm cố

kết với nhau trong trị thủy, đắp đê, hộ đê, chống lại thiên tai bão lụt, xây dựng các công

trình thủy lợi đem lại no ấm cho quê hương làng xóm.

Nhờ truyền thống tình làng nghĩa xóm, giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất, phong

trào hợp tác hóa nông nghiệp đã phát triển nhanh chóng từ các tổ đổi công đến các hợp

tác xã, với hầu hết nông dân đều tham gia. Hợp tác xã nông nghiệp không chỉ là một tổ

chức sản xuất, mà còn là nơi quy tụ mang tính cộng đồng xã hội cao để chúng ta phát

huy cao độ truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái của nông dân, làm chỗ dựa để

xây dựng hậu phương, chi viện cho tiền tuyến trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Nông dân miền Nam là đội quân cách mạng chủ lực, theo Đảng tiến hành chiến tranh

nhân dân, vừa sản xuất vừa chiến đấu, bảo vệ và xây dựng các chiến khu, che giấu cán

bộ, nuôi quân đánh giặc.

Truyền thống Nông nghiệp Việt Nam là lao động cần cù, sáng tạo, vượt khó. Người

lao động nông nghiệp ở bất cứ ngành nghề nào, vùng miền nào cũng luôn cần cù, chịu khó,

một nắng hai sương, không quản nắng mưa. Họ luôn khát khao sáng tạo, ham học hỏi, nắm

bắt và vận dụng quy luật tự nhiên để phục vụ sản xuất, luôn tìm tòi, phát kiến để hạn chế

tác hại của thiên nhiên bất thuận, của thiên tai hạn hán, mưa bão, lũ lụt, biết luân canh gối

vụ, cải tiến công cụ, tranh thủ bám ruộng đồng, bảo đảm thời vụ. Trong kháng chiến kiến

quốc, khi đất nước hoàn toàn bị cô lập, không biết dựa vào ai, người nông dân bằng lao

động của mình đã giúp đất nước vượt qua những khó khăn thách thức, đẩy mạnh tăng gia

sản xuất, thực hiện đường lối kháng chiến trường kỳ, toàn dân, toàn diện.

Trong chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, nông dân, công nhân nông nghiệp làm việc

dưới bom đạn của địch, “tay liềm, tay súng”, “tay cuốc tay súng”, “tay búa, tay súng”,

“ngày làm không đủ, tranh thủ làm đêm”. Ngư dân bám biển, vươn khơi, “tay lưới, tay

súng” khai thác hải sản và cung cấp nguồn thực phẩm cho đất nước, bảo vệ an ninh miền

biển. Ngành Thủy lợi vừa xây dựng, vừa chiến đấu bảo vệ các công trình đầu mối, “định

phá ta xây”, quyết không để đồng khô chờ nước, không để đê vỡ, kiên cường trước địch

Page 111: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

TRUYỀN THÔNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM 111

họa và thiên tai. Người lao động nông nghiệp dù trong thời bình hay thời chiến luôn cần cù

chịu khó, biết cách vượt qua mọi gian nan thử thách, ngày càng tăng thêm tính chủ động,

hiệu quả của sản xuất nông nghiệp bằng tinh thần đoàn kết và lao động sáng tạo của mình.

Trong giai đoạn kinh tế khó khăn, khủng hoảng do rào cản của cơ chế quản lý kinh

tế không còn phù hợp ở thập kỷ 70, 80 thế kỷ trước, tinh thần vượt khó, sáng tạo, dũng

cảm không cam chịu của những người làm nông nghiệp lúc đó đã giúp nông nghiệp trở

thành lĩnh vực tìm được những giải pháp đột phá để thoát ra, “tự cởi trói cho mình”.

Phương thức khoán hộ trong nông nghiệp là tiền đề để Đảng ta thay đổi tư duy, đúc kết

thành đường lối đổi mới kinh tế, tiến tới đổi mới toàn diện đất nước trong 30 năm qua.

Ngày nay, trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, với truyền thống vượt

khó, khát khao đổi mới, nông nghiệp, nông dân, nông thôn một lần nữa được trao “nhiệm

vụ hàng đầu”, đứng trên “mặt trận hàng đầu”, “tiên phong trong đổi mới”, thực hiện công

nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, cùng cả nước bước vào

thời kỳ mở rộng hội nhập quốc tế.

Trong mỗi thời kỳ xuất hiện ngày càng nhiều những tấm gương nông dân, lao động

nông nghiệp tiêu biểu, vượt khó, làm ăn giỏi, từ anh hùng lao động đầu tiên của ngành năm

1952 là bác Hoàng Hanh, cho đến hàng trăm tập thể và cá nhân anh hùng lao động thời kỳ

đổi mới ngày nay. Nông dân ngày càng có điều kiện học tập, tiếp cận với những tiến bộ kỹ

thuật, trình độ sản xuất được nâng cao, làm chủ những công cụ sản xuất mới và những vật

tư kỹ thuật cần thiết để chủ động hơn trong sản xuất. Nhiều thành tựu nổi bật, các phong

trào rộng lớn tiêu biểu của nông nghiệp qua các thời kỳ, như phong trào “Năm tấn thóc một

hecta” thời chiến, đến “50 triệu đồng một hecta” thời đổi mới đều do Ngành Nông nghiệp

khởi xướng, được nông dân thực hiện trên những cánh đồng, tạo ra những dấu ấn tiêu biểu

của sản xuất nông nghiệp. Nông dân ngày nay biết dựa vào khoa học công nghệ, liên kết

với doanh nghiệp, hợp tác với nhau mở rộng quy mô sản xuất, hình thành những cánh đồng

lớn theo chuỗi giá trị từ sản xuất đến thị trường. Nhờ sự tiến bộ về mọi mặt của nông dân,

nông nghiệp từ chỗ lệ thuộc nhiều vào điều kiện thiên nhiên trở thành ngành kinh tế chủ

động hơn, hiệu quả hơn và hội nhập ngày càng bền vững.

Nông nghiệp Việt Nam có truyền thống liên minh công - nông và trí thức. Là đội

ngũ lao động đông đảo nhất trong xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nông dân là lực

lượng thực hiện liên minh công - nông và trí thức trong mọi lĩnh vực. Họ luôn trung thành

với Đảng, liên kết với giai cấp công nhân trong các phong trào đấu tranh cách mạng giải

phóng dân tộc, chống thực dân phong kiến. Sau khi giành được chính quyền về tay nhân

dân, thân phận cũ thời phong kiến thực dân của nông dân từng bước được giải phóng, quan

hệ sản xuất đã được đổi mới, họ trở thành chủ nhân, “người cày có ruộng”, ý thức giác ngộ

được nâng lên, liên minh công - nông và trí thức trở thành nền tảng để xây dựng và bảo vệ

đất nước.

Page 112: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

112

Cán bộ, công nhân viên chức, người lao động và đội ngũ trí thức của ngành cũng như

đa số công nhân nước ta nói chung, đều xuất thân từ nông dân, trực tiếp phục vụ nông dân,

nông nghiệp, nông thôn, có tình cảm sâu nặng nhất và liên minh chặt chẽ nhất với nông

dân. Họ gắn bó với nông dân, vì nông dân chịu đựng gian khổ, sát cánh với nông dân trong

mọi hoạt động, mọi phong trào thi đua. Đó là đặc trưng rất rõ nét của ngành Nông nghiệp.

Ngay từ khi Bộ Canh nông mới được thành lập, sự lãnh đạo, chỉ đạo phát triển ngành

đã luôn gắn với thực tiễn, đúc kết từ thực tiễn, sâu sát với nông dân, vì nông dân. Từ đó trở

đi, cách nghĩ, cách làm đó ngày càng sâu sắc và toàn diện, trở thành truyền thống gắn bó

với dân của Ngành Nông nghiệp. Nhờ sâu sát với thực tiễn mà sau này chúng ta đã tìm ra

giải pháp đột phá thoát khỏi cơ chế quản lý kinh tế cũ, đúc kết nhiều kinh nghiệm, mô hình

làm ăn giỏi, tổ chức hệ thống khuyến nông đến cơ sở, đưa nhanh khoa học công nghệ vào

sản xuất.

Trong những năm đầu mới giành được chính quyền, các kỹ sư, nhà khoa học nông

nghiệp có uy tín, được đào tạo từ thời Pháp thuộc , đã sớm đi theo Đảng, phục vụ nhân

dân, đóng góp cho nông nghiệp kháng chiến, là những tấm gương tiêu biểu của trí thức yêu

nước, gắn bó với nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam. Sự hỗ trợ trực tiếp của đội

ngũ công nhân nông nghiệp trong các nông, lâm trường, xí nghiệp, của đội ngũ trí thức

khoa học nông nghiệp, của các doanh nhân đối với nông dân là rất to lớn và hiệu quả. Họ

cung cấp công cụ, vật tư cho sản xuất nông nghiệp, phổ biến kiến thức, kinh nghiệm, giúp

nông dân tổ chức sản xuất theo hướng thâm canh, thực hiện sinh học hóa, cơ giới hóa, hóa

học hóa, thủy lợi hóa, tổ chức tiêu thụ sản phẩm. Nhờ những tiến bộ về giống, phân bón,

quy trình thâm canh tăng năng suất, thiết bị máy canh tác, công nghệ sau thu hoạch của lực

lượng nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ, liên kết tiêu thụ đầu ra cho nông

sản của các doanh nghiệp, nông dân sản xuất ngày càng hiệu quả hơn, quy mô sản xuất

ngày càng mở rộng hơn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với thị trường.

Bằng việc làm thực tế, chúng ta đã phát huy được sức mạnh liên minh công - nông và trí

thức trong các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước, làm nền tảng cho những bước

ngoặt phát triển của ngành qua các thời kỳ, xây dựng được hệ thống quản lý ngành ngày

càng hiệu quả.

Kinh tế càng phát triển, liên minh công - nông và trí thức càng trở nên quan trọng,

được triển khai rộng thành “liên kết nhiều nhà” và trở thành truyền thống ngày càng được

phát huy đậm nét của Nông nghiệp nước ta.

Truyền thống Nông nghiệp Việt Nam là sự kế thừa và phát huy vai trò nền tảng, trụ

đỡ trong xây dựng và phát triển đất nước. Nông nghiệp hiện đại ngày nay trải qua các

thời kỳ phát triển đã tiếp thu, vận dụng những kinh nghiệm, bài học quý của lịch sử. Nhờ

sự lãnh đạo, quan tâm sâu sát của Đảng và Nhà nước, ngành nông nghiệp được tiếp thêm

các nguồn lực phát triển mới. Vai trò quan trọng của ngành đối với đất nước ngày càng rõ

Page 113: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

TRUYỀN THÔNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM 113

nét. Truyền thống đó được vun đắp bằng các thành tựu to lớn và cơ bản của các lĩnh vực

nông nghiệp, lâm nghiệp, diêm nghiệp, ngư nghiệp và thủy lợi, trong mối tổng hòa kết hợp

chặt chẽ, hỗ trợ đắc lực cho nhau trong suốt 70 năm qua.

Trong kháng chiến (1945-1954), nông nghiệp là chỗ dựa căn bản nhất để chiến thắng

giặc đói, nông dân là nguồn lực căn bản nhất để chiến thắng giặc lụt. Sau khi giải quyết

được nạn đói, nông nghiệp tiếp tục phải đối mặt với những khó khăn, thách thức, là mặt

trận kinh tế không những phải chịu ảnh hưởng nhiều nhất của thiên tai, mà còn bị địch phá

hoại ác liệt các kết cấu hạ tầng, gây ra khó khăn, càn quét cướp phá lương thực, thực phẩm,

bao vây, cấm vận. Trong điều kiện bị vây hãm, tiềm lực kinh tế, quân sự đều rất nhỏ bé,

không thể dựa được vào ai, chúng ta phải tiến hành vừa kháng chiến, vừa kiến quốc trường

kỳ, toàn dân, toàn diện, tự lực cánh sinh. Nông nghiệp được giao trọng trách là nền tảng

của kinh tế kháng chiến, “vừa lo tăng gia, vừa ra sức đánh giặc giữ làng” và chúng ta đã

hoàn thành sứ mệnh đó. Từ một nền kinh tế canh nông bị coi là tê liệt trước năm 1945,

nông nghiệp kháng chiến không những không bị suy thoái thêm bởi chiến tranh, mà đã

được duy trì và phát triển. Hệ thống đê điều, công trình thủy lợi bị đánh phá được khôi

phục để kịp thời phục vụ nông nghiệp. Rừng được khai thác và bảo vệ, thực hiện đồng thời

các nhiệm vụ kinh tế và quốc phòng, “rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”. Sản lượng

lương thực, thực phẩm, hàng hóa ngày càng dồi dào hơn, đáp ứng kịp thời các nhu cầu của

cuộc kháng chiến và đời sống nhân dân.

Hòa bình lập lại ở miền Bắc, nông nghiệp là mặt trận hàng đầu trong khôi phục,

phát triển và cải tạo kinh tế những năm (1955-1960). Mặc dù tình hình kinh tế miền Bắc

vô cùng khó khăn do chiến tranh để lại, cải cách ruộng đất đã mắc phải những sai lầm,

nhưng cùng với việc Đảng ta kiên quyết sửa sai, nông nghiệp đã nhanh chóng được khôi

phục và phát triển. Công tác trị thủy và thủy lợi được quy hoạch, có bước phát triển đột

phá. Lâm nghiệp đảm trách vai trò cung cấp gỗ và lâm sản cho các ngành kinh tế, nhu cầu

xây dựng và đời sống nhân dân. Từ nghề cá nhỏ lẻ của ngư dân, ngành Thủy sản bắt đầu

được xây dựng và có bước phát triển mới, khá toàn diện. Diện tích và sản lượng lương

thực, thực phẩm tăng lên, khắc phục được đói kém, tạo điều kiện cho các ngành kinh tế

khác được khôi phục. Nông nghiệp từng bước phát triển theo đường lối đi lên sản xuất lớn

xã hội chủ nghĩa.

Khi chiến tranh lan ra miền Bắc, cả nước có chiến tranh, nông nghiệp tiếp tục là mặt

trận hàng đầu trong phát triển kinh tế, xây dựng hậu phương miền Bắc vững mạnh cả về

kinh tế, chính trị, quốc phòng và an sinh xã hội, chi viện sức người sức của cho cuộc đấu

tranh thống nhất đất nước. Các lĩnh vực sản xuất của nông nghiệp đã phát huy tối đa động

lực của thi đua yêu nước, hoàn thành trọng trách nền tảng của mình trong chiến tranh.

Sau khi đất nước thống nhất, chúng ta phải trải qua các giai đoạn vô cùng khó khăn

trong những năm thập kỷ 80 của thế kỷ trước và cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới gần đây,

Page 114: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

114

nông nghiệp tiếp tục là trụ đỡ, nền tảng đảm bảo sự ổn định và bền vững cho phát triển kinh

tế - xã hội của đất nước. Nông nghiệp duy trì được sự phát triển ổn định trong nhiều năm

qua. Các chỉ tiêu kế hoạch và chỉ tiêu các Đại hội Đảng về nông, lâm, ngư nghiệp và thủy lợi

luôn hoàn thành và hoàn thành vượt mức. Xuất khẩu nông, lâm thủy sản tăng hàng năm. Thu

nhập của nông dân ngày một cao, đời sống và diện mạo nông thôn ngày một cải thiện. Rừng

được tu bổ, bảo vệ tốt hơn. Ngành Lâm nghiệp đã hoàn thành chương trình trồng mới năm

triệu hécta rừng, tỷ lệ che phủ của rừng tăng lên. Phát triển thủy lợi đạt đến cấp độ mới cao

và toàn diện hơn, ngày càng nâng cao vai trò không chỉ phục vụ sản xuất hàng hóa nông,

lâm, thủy sản, mà còn đảm bảo hạ tầng thiết yếu cho cả nông thôn và thành thị. Thành tựu

nông nghiệp trong đổi mới đã giúp nước ta thực hiện thành công xóa đói giảm nghèo, đảm

bảo an sinh xã hội, góp phần quan trọng vào tăng trưởng chung của nền kinh tế đất nước, là

nền tảng cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Truyền thống nông nghiệp Việt Nam còn là truyền thống bảo tồn và phát triển giá trị

văn hóa dân tộc. Nông nghiệp là nền tảng, trụ đỡ cho đất nước không chỉ bằng những thành

tựu phát triển kinh tế, mà bằng cả những nỗ lực gìn giữ và phát triển các giá trị văn hóa

truyền thống. Văn hóa là nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan

trọng, là động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội, bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước.

Trong khi văn hóa luôn là một dòng chảy liên tục từ quá khứ, hiện tại đến tương lai, thì sự

thống nhất giữa làm chủ văn hóa quá khứ với sáng tạo những giá trị văn hóa mới là một

phương diện cực kỳ quan trọng đối với sự tồn vong của mỗi quốc gia dân tộc.

Nước ta có nền văn hóa gốc nông nghiệp lúa nước. Nông thôn Việt Nam là rộng lớn

và đông dân nhất, đa dạng về thành phần tộc người, về văn hóa. Nông nghiệp, nông dân,

nông thôn là một thể thống nhất, khởi nguồn cho sự hình thành, phát triển dân tộc và các

giá trị văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc của người Việt. Các giá trị văn hóa truyền thống cơ

bản của dân tộc ta bao gồm chủ nghĩa yêu nước, lòng thương yêu, quý trọng con người,

tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng, lòng dũng cảm, bất khuất, đức tính cần, kiệm, khiêm

tốn, giản dị, trung thực, thủy chung, lạc quan, hiếu học… Các giá trị đó cũng chính là

truyền thống lâu đời đậm nét của nông nghiệp, nông dân và nông thôn nước ta. Là nơi sinh

ra văn hóa truyền thống của dân tộc, nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vai trò to lớn

trong phát triển văn hóa nước ta. Họ là lực lượng đông đảo nhất, trực tiếp thực hiện nhiệm

vụ quan trọng là xây dựng và phát huy một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc

nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội và con người trong điều kiện đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.

Trong cuộc vận động chống giặc dốt thời kỳ kháng chiến kiến quốc, với truyền thống

ham học, nông dân là những người tích cực nhất tham gia các lớp bình dân học vụ. Từ khi

hòa bình lập lại ở miền Bắc, phong trào xóa nạn mù chữ, phổ cập giáo dục ở nông thôn

càng được đẩy mạnh. Trong thời kỳ đổi mới, được Đảng và Nhà nước quan tâm, nông dân

Page 115: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

TRUYỀN THÔNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM 115

ngày càng tích cực tham gia quá trình đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt, được

tiếp cận với nhiều thông tin, tri thức mới của trong nước và quốc tế. Với ý thức mới đó,

nông dân đã nâng cao nhận thức, bài trừ nhiều tập quán cũ, các hủ tục lạc hậu, mê tín dị

đoan, tệ nạn xã hội ở nông thôn.

Truyền thống văn hóa dân gian ở nông thôn đã được ngành Nông nghiệp kế thừa và

phát huy tác dụng trong công tác tuyên truyền, vận động nông dân tham gia các phong trào

quần chúng, giác ngộ cách mạng cho nông dân, hướng dẫn nông dân cách làm ăn, cách vận

dụng quy luật thiên nhiên trong sản xuất. Từ trước đến nay, hầu hết các phong trào thi đua,

các cuộc vận động nông dân đều thắng lợi là nhờ dựa trên các giá trị văn hóa truyền thống

của nông dân, nông thôn, mà Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ thiên tài của cách mạng Việt

Nam, nhà văn hóa lớn của dân tộc và thế giới, đã đi đầu trong việc kế thừa và xây dựng

nên phong cách văn hóa quần chúng đó. Lời kêu gọi kháng chiến kiến quốc đối với nông

dân thật dễ hiểu và đi vào lòng người: “Ruộng rẫy là chiến trường/Cuốc cày là vũ khí/Nhà

nông là chiến sĩ/Hậu hương thi đua với tiền phương”… Các thế hệ cán bộ lãnh đạo và

người làm nông nghiệp đã không ngừng học tập, làm theo phong cách đó.

Truyền thống bảo tồn và phát triển giá trị văn hóa dân tộc được nhấn mạnh và phát

huy vai trò trong quá trình phát triển nông thôn ở các thời kỳ, nhất là trong xây dựng nông

thôn mới ngày nay. Trong phong trào xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, nông dân tham

gia phát triển văn hóa từ gốc, tạo ra những giá trị mới của nông thôn. Họ là những người kế

thừa và phát huy truyền thống tôn sư trọng đạo, gia đình hiếu học, gia đình nhiều thế hệ

chung sống mẫu mực, chăm sóc người cao tuổi, chăm sóc giáo dục trẻ em, chăm lo tình

làng nghĩa xóm, kịp thời hòa giải những bất hòa, mâu thuẫn trong cộng đồng, vận động

cùng nhau duy trì và phát triển các hoạt động văn hóa dân gian, kiến tạo diện mạo mới cho

nông thôn trong cố gắng giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa quê hương.

Truyền thống văn hóa ở nông thôn là nguồn động lực to lớn, khơi dậy niềm tự hào

bản địa, giúp các làng nghề truyền thống nước ta vượt qua những khó khăn, thách thức mai

một để giữ nghề, truyền nghề, phát triển nghề, đóng góp vào phát triển kinh tế nông thôn,

tạo việc làm, nâng cao thu nhập, đồng thời giữ gìn thuần phong mỹ tục, văn hóa dân gian,

văn hóa cộng đồng, chống lại những tệ nạn xã hội ở nông thôn.

Mặc dù còn nhiều vấn đề và hạn chế cần giải quyết, nhưng tiến trình xây dựng nông

thôn mới ngày nay vẫn đang được ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn kiên định

mục tiêu xây dựng một nông thôn mới hiện đại mà vẫn giữ được bản sắc dân tộc.

***

Nông nghiệp Việt Nam qua 70 năm xây dựng và phát triển đã làm tròn vai trò của

mình đối với đất nước, là nền tảng trong quá trình phát triển, trụ đỡ trong các giai đoạn khó

khăn, khủng hoảng, tiên phong trong quá trình đổi mới. Truyền thống đó được nông dân và

Page 116: I. 1945 - 1954“M TẮT 70 NĂM.pdf · TRUYỀN THỐNG 70 NĂM NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thành lập Bộ Canh nông và quá trình kiện toàn cơ quan quản lý ngành

116

những người làm nông nghiệp nước ta kế thừa, vun đắp dưới sự lãnh đạo của Đảng. Họ là

những người yêu nước, đoàn kết, tương thân tương ái, lao động cần cù, sáng tạo, vượt khó,

liên kết chặt chẽ với công nhân, trí thức, đội ngũ doanh nhân và các tầng lớp khác trong xã

hội, biết giữ gìn và phát triển các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc để xây dựng nền

Nông nghiệp Việt Nam đi lên hiện đại, bền vững.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Nông dân ta giàu thì nước ta giàu, nông nghiệp ta

thịnh thì nước ta thịnh”. 70 năm qua, Nông nghiệp Việt Nam đã không ngừng phấn đấu

để hoàn thành sứ mệnh đó. Ngày nay, chúng ta cần tiếp tục phấn đấu, kế thừa và phát huy

các truyền thống quý báu của ngành, của dân tộc, không ngừng thực hiện lời dạy của Chủ

tịch Hồ Chí Minh, góp phần xứng đáng vào công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất

nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.