i b - sacombank...11 sẽ tác động tới hướng đi của tỷ giá trong thời gian tới....
TRANSCRIPT
1
hoav
BẢNG CHỈ SỐ
Chứng khoán (ngày 16/11)
VN - Index 898,19 0,12%
HNX - Index 103,01 1,98%
D.JONES CK Mỹ 25.413,22 0,49%
STOXX CK C.Âu 3.180,74 0,30%
CSI 300 CK TQ 3.257,67 0,47%
Vàng (SJC cập nhật 08h30 ngày 19/11)
SJC Ng.đ/L 36.680 0,22%
Quốc tế USD/Oz 1220.80 0,66%
Tỷ giá
USD/VND BQ LNH 22.721 - 0,00%
EUR/USD 1,1410 0,71%
Dầu
WTI USD/th 57,30 1,42%
6
Thời gian gần đây, lãi suất huy động của
một số ngân hàng tiếp tục tăng lên 0,1 -
0,2% tùy kỳ hạn. Lãnh đạo các ngân hàng
cho biết, thông thường nhu cầu vay vốn
vào cuối năm của doanh nghiệp rất lớn.
Bên cạnh đó, một số ngân hàng phải đẩy
huy động vốn, trong đó có vốn dài hạn lên
cao vì tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và
dài hạn sẽ giảm xuống 40% từ đầu năm
2019. Để đáp ứng yêu cầu này, các ngân
hàng phải có bước chuẩn bị vốn để cho
vay trung dài hạn nhiều hơn từ năm tới.
Tổng hơp 2 yếu tố trên, lãi suất khó giảm
thêm trong thời điểm cuối năm.
Tin nổi bật
Thứ trưởng Huỳnh Quang Hải: Đủ công cụ
xử lý nơ xấu
Lãi suất tiền gửi tiếp tục tăng
Tỷ giá tháng cuối năm: Thận trọng trước
những ẩn số
Chuyên gia VinaCapital: “Áp lực lạm phát
với Việt Nam đến từ bong bóng tài sản do
đầu cơ”
Mỹ có thể sẽ không áp thêm thuế nhập
khẩu với hàng hóa Trung Quốc
Thứ Hai, ngày 19/11/2018
BP.NGHIÊN CỨU & PHÁT TRIỂN – PHÒNG KẾ HOẠCH
[a] 266-268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, TP.HCM
[t] (028) 38 469 516 (1813/1819) – [e] [email protected]
2
Thứ trưởng Huỳnh Quang Hải:
Đủ công cụ xử lý nơ xấu
Mới đây, diễn đàn các Công ty quản lý tài sản công quốc tế (IPAF) lần
thứ 4 về “Củng cố an ninh tài chính châu Á và giải pháp thực hiện” đươc
DATC phối hơp với ADB tổ chức. Thứ trưởng Bộ Tài chính Huỳnh
Quang Hải cho biết, để đảm bảo sự phát triển an toàn cho hệ thống TC-
NH, nền tài chính quốc gia, Chính phủ VN đã dành nhiều quan tâm cho
việc xử lý nơ, tái cơ cấu hệ thống NH, giữ vững sự ổn định của hệ thống
tài chính. Thời gian qua, DATC và VAMC đã cùng nhau tạo thành hệ
công cụ xử lý nơ quan trọng, hiệu quả của Chính phủ để tăng cường xử
lý nơ xấu của nền KT. Trong đó, Nghị định 69 ban hành năm 2016 đã
tạo nền tảng pháp lý cho hơn 30 tổ chức xử lý nơ tư nhân ra đời, góp
phần tạo cơ sở vững chắc cho việc hình thành thị trường mua bán nơ ở
VN. Theo Thứ trưởng, KT toàn cầu tới đây tiếp tục đối mặt với nhiều rủi
ro, thách thức, tác động lớn đến sự ổn định của thị trường tài chính các
nền KT TG, trong đó có châu Á. “Việc thành lập IPAF để thúc đẩy xử lý
nơ xấu, qua đó tạo sự ổn định, bền vững cho nền KT thể hiện sự quyết
tâm của VN và các thành viên trong việc ứng phó với những biến động
của TG”. Ông Eric Sidgwick, GĐ ADB VN, cho biết Fed tăng LS, căng
thẳng thương mại Mỹ-Trung, kết hơp với các điều kiện khó khăn ở châu
Á đòi hỏi phải củng cố an ninh tài chính ở các thị trường châu Á. “Bài
học từ cuộc khủng hoảng tài chính trước đây đã chứng minh tầm quan
trọng của việc thúc đẩy mạnh mẽ các yếu tố vĩ mô nền tảng như quản lý
ngân sách quốc gia, điều hành tỷ giá, dự trữ ngoại hối, phát triển thị
trường vốn trong nước… để ứng phó với những rủi ro tài chính và cú
sốc bên ngoài”. Về kinh nghiệm xử lý khủng hoảng tài chính ở VN, ông
Phan Đức Hiếu, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý KT Trung
ương, cho rằng “phòng bệnh hơn chữa bệnh” là một trong những bài
học cần thiết. Theo ông Đậu Anh Tuấn (Trưởng ban Pháp chế, VCCI):
Trước xu hướng bất ổn, khó lường trên TG ngày càng gia tăng, nên nền
KT VN càng dễ bị tổn thương do phụ thuộc vào XK lớn và độ mở ngày
càng cao. Tuy vậy, với những nỗ lực cải thiện môi trường KD, hoàn
thiện thể chế, tích cực hội nhập, ông Đậu Anh Tuấn cho rằng: “VN có
cơ sở vĩ mô tốt để trụ vững trong bối cảnh TG nhiều bất ổn”.
Tài chính – Ngân hàng
3
Lãi suất tiền gửi tiếp tục tăng
Thời gian gần đây, LS huy động của một số NH tiếp tục tăng lên 0,1 -
0,2% tùy kỳ hạn. Không chỉ LS huy động từ dân cư tăng, trên thị trường
LNH, LS cũng tiếp tục có xu hướng tăng. Cụ thể, LS trung bình các loại
kỳ hạn tăng với biên độ 0,126% - 0,24%. Trong đó, LS trung bình kỳ
hạn qua đêm 0,24% đạt mức 4,796%/năm. LS trung bình kỳ hạn một
tuần 0,21%, lên mức 4,816%/năm. LS trung bình kỳ hạn 2 tuần
0,126%, đạt mức 4,836%/năm. Công ty CK Bảo Việt - BVSC cũng có
báo cáo cho biết, tuần 5 - 11/11, NHNN đã bơm ròng >20.600 tỷ đồng
vào thị trường. Cụ thể, cơ quan này bơm mới 52.658 tỷ đồng qua kênh
OMO, trong khi đó lương vốn đáo hạn đạt 34.000 tỷ đồng. Bên cạnh đó,
qua kênh tín phiếu, NHNN không có hoạt động phát hành tín phiếu mới
trong khi lương vốn đáo hạn đạt 2.000 tỷ đồng. Tổng hơp hai kênh OMO
và tín phiếu, nhà quản lý đã bơm ròng 20.659 tỷ đồng vào thị trường.
Lãnh đạo các NH cho biết, thông thường nhu cầu vay vốn vào cuối năm
của DN rất lớn. Do đó, đây là dịp để các NH tăng LS tiền gửi, thu hút
thêm vốn từ thị trường dân cư để phục vụ nhu cầu vay. Bên cạnh đó,
một số NH phải đẩy huy động vốn, trong đó có vốn dài hạn lên cao vì tỷ
lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn sẽ giảm xuống 40% từ đầu
2019. Để đáp ứng y/c này, các NH phải có bước chuẩn bị vốn để cho
vay trung dài hạn nhiều hơn từ năm tới. Do đó, LS cũng khó giảm thêm.
Tỷ giá tháng cuối năm: Thận
trọng trước những ẩn số
Khảo sát của Đầu tư CK cho thấy, tỷ giá VND/USD giao dịch trung bình
tại các NHTM có xu hướng giảm mạnh gần đây. Một lãnh đạo cao cấp
BIDV cho biết: “Dự báo thị trường ngoại hối trong tháng 11 sẽ vẫn nằm
trong tầm kiểm soát của NHNN, tỷ giá VND/USD dao động trong biên
độ 23.300 - 23.350 đồng/USD, với hai yếu tố hỗ trơ đến từ chính sách
điều hành của NHNN và cung - cầu ngoại tệ cơ bản của nền KT. Tuy
nhiên, không loại trừ khả năng tỷ giá có thể biến động mạnh hơn nếu
chiến tranh thương mại Mỹ - Trung có diễn biến xấu hơn”. Mặc dù tỷ giá
VND/USD vẫn duy trì sự ổn định, nhưng nghiên cứu của các chuyên gia
thuộc Công ty CK Rồng Việt (VDSC) cho rằng, nhiều sự kiện trong tháng
11 sẽ tác động tới hướng đi của tỷ giá trong thời gian tới. Theo báo cáo
của Thủ tướng tại kỳ họp Quốc hội đang diễn ra, dự trữ ngoại hối của
Việt Nam hiện đang ở #60 tỷ USD (#13 tuần NK), đã thấp hơn đáng kể
so với mức đỉnh 65 tỷ USD trước đó. Bên cạnh đó, theo nghiên cứu của
Ban KD vốn và tiền tệ BIDV, huy động vốn ngoại tệ tiếp tục tăng trưởng
mạnh với mức #4,7% trong tháng 10/2018, trong khi tín dụng USD lại
4
có xu hướng >4,6% cho thấy tâm lý găm giữ ngoại tệ đang có xu
hướng gia tăng trong bối cảnh tỷ giá USD/VND biến động phức tạp và
NHNN tiếp tục phải bán can thiệp gần 2 tỷ USD trong tháng 10. Theo
đó, chênh lệch huy động vốn - tín dụng ngoại tệ đã mở rộng #2,0 - 2,5
tỷ USD trong tháng 10/2018. Tâm điểm của thị trường trong tháng 11 sẽ
xoay quanh các sự kiện: Cuộc gặp cấp cao của Tổng thống Mỹ và Chủ
tịch TQ bên lề Hội nghị thương đỉnh G20 vào cuối tháng 11; EU đươc kỳ
vọng sẽ giải quyết đươc mâu thuẫn với Anh liên quan đến vấn đề Brexit,
trong khi tiếp tục đàm phán với Italy về thỏa thuận ngân sách. Do vậy,
thị trường ngoại hối quốc tế dự báo chưa có dịch chuyển mạnh trong
tháng 11 này với xu hướng đi ngang của DXY và tỷ giá USD/CNY chưa
vươt ngưỡng 7,0. “Tâm lý thị trường tiếp tục thận trọng trong bối cảnh
diễn biến khó lường của thị trường quốc tế. Ngoài ra, xu hướng găm giữ
ngoại tệ vẫn chưa có dấu hiệu giảm bớt, trong bối cảnh tín dụng ngoại
tệ tăng trưởng âm cũng là yếu tố gây áp lực cho tỷ giá. Như vậy, về cơ
bản, yếu tố rủi ro nhất vẫn là việc diễn biến trên thị trường quốc tế khó
lường, khó dự báo trong bối cảnh các yếu tố tác động khác hình thành
tương đối rõ nét”, GĐ khối nguồn vốn một NHTM CP nhận định.
TP HCM dự kiến phát hành 800
tỷ đồng trái phiếu
UBND TP.HCM vừa kiến nghị Bộ Tài chính chấp thuận Đề án phát
hành trái phiếu chính quyền địa phương năm 2018 nhằm huy động
nguồn vốn ngoài XH, bổ sung vốn đầu tư cho các dự án, công trình
trọng điểm, cấp bách trong năm nay. Theo đó, khối lương phát hành dự
kiến là 800 tỷ đồng với mệnh giá 100.000 đồng. Trái phiếu chính quyền
địa phương có các kỳ hạn 10 năm, 15 năm, 20 năm và 30 năm. Thời
gian phát hành dự kiến 1 đơt vào đầu tháng 12. Công ty Đầu tư Tài
chính nhà nước TP.HCM (HFIC) đươc ủy quyền thực hiện toàn bộ
nghiệp vụ tổ chức phát hành trái phiếu này. Năm 2017, TP.HCM phát
hành 2.000 tỷ đồng trái phiếu cho các các kỳ hạn 10 năm, 15 năm, 20
năm và 30 năm. Trái phiếu có kỳ hạn 20 năm là 1.250 tỷ đồng (LS
6,5%/năm), trái phiếu có kỳ hạn 15 năm là 750 tỷ đồng (LS 6,35%/năm).
Năm 2016, TP.HCM phát hành thành công toàn bộ 3.000 tỷ đồng trái
phiếu kỳ hạn 15 năm với LS 7,55%/năm.
5
Lạm phát “khoảng 4%”: Cẩn
trọng chứ không phải bước lùi
Nhìn tổng thể bức tranh KT 2018, có thể thấy niềm tin và những động
lực mới của cải cách đang đươc khơi dậy. KTVM ổn định, an sinh XH
đươc bảo đảm, DN thành lập mới tăng nhanh, đầu tư trong và ngoài
nước đươc mở rộng, tăng trưởng KT đạt mức cao nhất trong gần một
thập kỷ qua trong bối cảnh KT thế giới có nhiều diễn biến phức tạp. Đó
thực sự là những thành quả ấn tương. Một điểm đáng chú ý là tăng
trưởng theo hướng giảm dần phụ thuộc vào nguồn vốn vay và các
nguồn khai thác dầu, khoáng sản... trong khi các nguồn lực trong nước
dần dần đươc phát huy. Cùng với sự hồi phục của đầu tư công, tăng
trưởng duy trì ở mức cao của đầu tư tư nhân có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng, đó là cơ sở cho sự dịch chuyển cơ cấu KT theo hướng giảm dần
phụ thuộc vào FDI và tăng dần tỷ trọng của khối tư nhân trong nước.
Tuy nhiên ở các chỉ tiêu chủ yếu cụ thể của năm 2019, đặc biệt về tăng
trưởng và lạm phát, sẽ cần rất nhiều nỗ lực mới có thể đạt đươc trong
bối cảnh hiện nay. Để đạt đươc mục tiêu tốc độ tăng trưởng trung bình
6,5% - 7%/năm cho giai đoạn 2016 – 2020 (với tốc độ tăng trưởng trung
bình ước tính đạt #6,57%/năm giai đoạn 2016-2018) thì mục tiêu 6,6%-
6,8% cho 2019 đươc nhìn nhận là hơp lý. Nhưng là nền KT có độ mở
cao, rất nhạy cảm đối với các tác động từ bên ngoài – trong khi biến
động bên ngoài đang khó lường hơn, với dự báo tăng trưởng của nhiều
nền KT lớn (TQ, Mỹ…) có thể chậm lại trong năm tới, CTTM Mỹ - Trung
nhiều khả năng còn căng thẳng, Fed tiếp tục xu hướng tăng LS, đồng
CNY vẫn trong xu hướng giảm giá… thì thách thức phía trước để đạt
đươc mục tiêu đề ra là không nhỏ. Việc quyết mục tiêu lạm phát 2019
“khoảng 4%” đươc đánh giá là hơp lý. Việc chuyển mục tiêu giữ lạm
phát <4% của 2018 sang mục tiêu mới này là một bước lùi khi chuyển
từ mục tiêu cứng (<4%), sang mục tiêu “mơ hồ” hơn “khoảng 4%”. Tuy
nhiên, với những biến động khó lường xuất hiện trong năm nay và dự
báo sẽ tiếp diễn trong năm tới, đặc biệt từ thị trường toàn cầu thì việc
điều chỉnh ngôn từ đối với mục tiêu kiểm soát không phải tín hiệu của
sự thiếu quyết liệt mà thể hiện sự cẩn trọng và linh hoạt cần thiết trước
những biến số mà chúng ta chưa thể lường đươc hết.
Kinh tế Việt Nam
6
Chuyên gia VinaCapital: “Áp lực
lạm phát với Việt Nam đến từ
bong bóng tài sản do đầu cơ”
Theo GS. Ian Alexander Eddie, VinaCapital, trình bày tại tham luận
“Triển vọng KT VN và KV Châu Á” tại Hội nghị CFO thế giới lần thứ 48,
dự báo năm 2018 tăng trưởng GDP của VN đạt mức 6,8%, lạm phát
gần 4%, VND 3% so với USD. So với các đồng tiền khác trong KV
VND khá ổn định, đồng Rupee của Ấn Độ 16% và đồng Rupiah của
Indonesia 12%, đồng Peso của Philippines 9%... Nền KT VN sẽ
không bị ảnh hưởng nhiều từ cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung và
đươc lơi khi nền KT TQ tăng trưởng chậm lại từ cuộc chiến này. Do đó,
trong nhóm các quốc gia mới nổi, dòng vốn ngoại vẫn chảy vào VN
#13% GDP sẽ giúp VN có thặng dư lớn cho phát triển KT. Trong khi
Thái Lan dòng vốn vào chỉ ở mức 8%, Malaysia là 5%, còn các quốc
gia khác dòng vốn lại chảy ra như: Indonesia âm 1,5%, Thổ Nhĩ Kỳ âm
6,5%... VN cũng hấp dẫn các NĐTNN vì Chính phủ chọn phát triển ổn
định hơn là tăng trưởng nhanh. So với tốc độ tăng trưởng GDP của TQ,
quốc gia này đã có những thời kỳ tăng trưởng mạnh mẽ trên 2 con số,
VN tăng trưởng GDP ở mức cao chỉ là 7-8%. VN cũng đang lo lắng lạm
phát tăng cao trở lại. Áp lực lạm phát ở đây đến từ bong bóng tài sản do
đầu cơ. NHNN cần có chính sách quản lý chặt chẽ và thận trọng để
giảm thiểu bong bóng tài sản. Trong thời gian tới, có 4 yếu tố thúc đẩy
tăng trưởng GDP cho VN. (i) Hiện chỉ có 65% đóng góp vào GDP đến
từ tiêu dùng, sự gia tăng tiêu dùng sẽ còn 8,8%/năm khi tầng lớp
trung lưu đang tăng lên. (ii) Tốc độ đô thị hoá đang diễn ra với
3%/năm và sẽ tăng nhanh khi hiện nay chỉ có 33% số dân Việt đang
sống ở đô thị, so với tỷ lệ 50% dân số toàn cầu đang sống trong các
thành phố lớn. Thu nhập của người dân đô thị đang cao hơn 40% so với
thu nhập tại nông thôn. VN mới ở giai đoạn đô thị hoá sơ khai nên rất
nhiều tiềm năng để phát triển. Hiện VN có 75% dân số lao động trong
nông nghiệp, giá trị SX thấp. Nhân viên trong KV FDI có năng suất gấp
10 lần KV nông thôn, thu nhập và tiêu dùng ngày càng tăng cao khi
nông dân di chuyển đến thành phố lớn. (iii) XK của VN đã đạt bằng quy
mô GDP vào năm 2016 và còn tăng trưởng mạnh nữa khi 17%/năm,
trong đó, >35% đóng góp từ lĩnh vực công nghệ cao. (iv) SX sẽ phát
triển mạnh khi đang đóng góp vào GDP 16% và sẽ tăng lên 30% khi
12,7%/năm. Một trong những động lực thúc đẩy tăng trưởng GDP là
giới trung lưu ngày càng tăng. VN là quốc gia xếp thứ 10 trên toàn TG
về tốc độ tạo ra cá nhân có siêu thu nhập (giá trị tài sản ròng siêu cao).
7
Một "chiến địa" mới giá trị hơn
12.000 tỷ USD, Việt Nam sẽ
tham gia như thế nào?
5G đươc xem là công nghệ vô cùng quan trọng, đươc so sánh ngang
với việc phát minh ra điện hay ô tô, theo bà Julie Welch, Phó Chủ tịch
Phụ trách quan hệ Chính phủ của Qualcomm KV Đông Nam Á, Đài
Loan, TBD. Bởi chỉ có công nghệ 5G với có thể đáp ứng đươc việc kết
nối vạn vật – là nền tảng cho công nghiệp 4.0 và những công nghệ
trong tương lai. Theo ông Jim Cathey, một lãnh đạo cũng đến từ
Qualcomm, "5G chính là điều kiện thiết yếu của nền KT 4.0". Dự báo
IHS Markit cho thấy, công nghệ 5G sẽ tạo ra #12.300 tỷ USD cho nền
KT toàn cầu vào năm 2035. Con số này gần bằng với tổng giá trị chi
tiêu của Mỹ hiện tại và lớn hơn tổng giá trị chi tiêu cộng lại của TQ,
Nhật, Đức, Anh và Pháp. Một nghiên cứu khác do Qualcomm tài trơ lại
cho thấy công nghệ này sẽ mang lại 22 triệu việc làm mới – là điều có ý
nghĩa KT, XH rất lớn. Nhiều phân tích cũng chỉ ra rằng các quốc gia
nhỏ và đang phát triển sẽ đươc hưởng lơi rất lớn từ công nghệ 5G này,
VN cũng không ngoại lệ. Một số chính sách đã đươc đề ra nhằm hỗ trơ
triển khai công nghệ 5G tại VN, theo ông Lê Văn Tuấn, quyền Cục
trưởng Cục Vô tuyến điện. Băng tần là vấn đề đầu tiên cần xem xét khi
là một điểm nghẽn hớn. Tuy nhiên, ông Tuấn cho biết 5G, các cơ quan
chức năng đã có chính sách cho DN đươc tiến hành sử dụng ngay các
băng tầng hiện tại (2G, 3G, 4G) để triển khai. Bên cạnh đó, các đơn vị
cũng đang tính toán đến việc bổ sung thêm băng tầng cho công nghệ
5G. Về hạ tầng, công nghệ mới cần các mạng cáp quang để kết nối, do
vậy, nhiệm vụ là phải phát triển rộng khắp hệ thống cáp quang. Mặt
khác, ông Tuấn đề cập đến câu chuyện chia sẻ cơ sở hạ tầng giữa các
ngành, các DN với nhau. Điểm quan trọng nữa, là phải xây dựng đươc
hệ sinh thái, bao gồm ngành SX công nghệ, thiết bị, ngành phát triển
ứng dụng, ngành công nghiệp an ninh mạng... Dù vậy, tương tự bất cứ
lĩnh vực nào, cửa luôn hẹp ở thời điểm bắt đầu. Bước đầu, để khai
thông dòng chảy, cần có bàn tay của Nhà nước. "Ở đây có vể là vai trò
là những khách hàng đầu tiên", theo ông Tuấn.
Chi phí logistics Việt Nam tương
đương 16 - 17% GDP
Ông Nguyễn Tương, cố vấn cao cấp của VLA cho biết, chi phí logistics
là một trong những nội dung quan trọng đươc đề cập trong Sách trắng
VLA 2018, ấn phẩm mà VLA ra mắt cùng ngày như một tiếng nói chính
thức về các thông tin liên quan đến ngành. Theo ông Tương, lâu nay,
nhiều cơ quan, tổ chức dẫn thông tin rằng chi phí logistics của VN
#20,9% GDP (theo báo cáo cuối kỳ 2014 “Dịch vụ tư vấn: Hỗ trơ Bộ GTVT về
8
phát triển vận tải đa phương thức” do Công ty Tư vấn ALG của WB thực hiện).
Tuy nhiên, theo kết quả tháng 8/2018 của VLA/VLI, các ngành SX các
mặt hàng có giá trị cao như ô tô, linh kiện điện tử, sắt thép có chi phi
logistics trong tổng giá thành sản phẩm tương đối nhỏ, <5%. Trong khi
đó, ở ngành hàng tiêu dùng, thương mại điện tử, siêu thị, may mặc
hoặc nông sản, tỷ lệ này là từ 10-20%. Và trong chi phí logistics thì DN
cho biết chi phí vận tải chiếm tỷ lệ cao nhất với 60-80%, kế đến là xếp
dỡ và thủ tục thông quan. Do vậy, theo cách tính của VLA, cũng dựa
trên cách tính của Công ty tư vấn ALG thì chi phí logistics VN 2017 ở
mức 14,5-19,2% GDP. Và con số trung bình hiện nay #16-17%...
9
Mỹ có thể sẽ không áp thêm thuế
nhập khẩu với hàng hóa Trung
Quốc
Tổng thống Donald Trump ngày 16/11 cho biết, TQ đã gửi cho Mỹ một
danh sách các hoạt động nước này sẵn sàng thực hiện để giải quyết
căng thẳng thương mại với Mỹ. Ông Trump nhấn mạnh Mỹ có thể sẽ
không áp đặt thêm thuế NK đối với hàng hóa TQ. Mặc dù tuyên bố Mỹ
có thể sẽ không áp đặt thêm thuế NK đối với hàng hóa TQ, Tổng thống
Donald Trump cho biết tình hình hiện nay là chưa thể chấp nhận đươc
đối với ông. Theo ông Trump, TQ là nước muốn có thỏa thuận với Mỹ,
tuy nhiên danh sách mà TQ gửi cho Mỹ vẫn cần phải bổ sung thêm một
số mục lớn khác. Tổng thống Trump đã áp đặt thuế NK đối với 250 tỷ
USD hàng hóa TQ nhằm gây sức ép buộc nước này thực hiện các thay
đổi trong thương mại với Mỹ. Tổng thống Trump đã dọa sẽ đánh thuế
đối với toàn bộ hàng hóa TQ nếu nước này không đáp ứng đươc các y/c
của Mỹ. TQ cũng đã trả đũa với việc áp thuế đối với hàng hóa của Mỹ.
Tổng thống Donald Trump và Chủ tịch TQ Tập Cận Bình dự kiến sẽ
gặp nhau tại hội nghị thương đỉnh G20 vào cuối tháng này ở Argentina.
Trung Quốc bán ròng trái phiếu
Chính phủ Mỹ trong 4 tháng liền
Ngày 16/11, Bộ Tài chính Mỹ cho biết, lương trái phiếu Mỹ đang nắm
giữ của TQ giảm liền 4 tháng liên tiếp xuống 1.150 tỷ USD trong tháng
9/2018, từ mức 1.170 tỷ USD hồi tháng 8/2018. Dù vậy, TQ vẫn còn là
chủ nơ nước ngoài lớn nhất của Mỹ, kế đó là Nhật Bản. Lương trái phiếu
Mỹ đang nắm giữ của Nhật Bản gần như không đổi ở mức 1.030 tỷ
USD. Dữ liệu trên đươc đưa ra khi Mỹ và TQ nối lại đàm phán thương
mại, trong đó Tổng thống Mỹ Donald Trump và Chủ tịch nước TQ, Tập
Cận Bình, dự kiến gặp gỡ trực tiếp tại hội nghị thương đỉnh G20 ở
Argentina – dự kiến bắt đầu từ ngày 30/11. Để chuẩn bị cho một thỏa
thuận tiềm năng từ các cuộc trao đổi đó, TQ đã gửi văn bản trả lời các
y/c của Mỹ. Tuy nhiên, ngày 16/11, ông Trump cho biết, văn bản trả lời
của TQ là khá hoàn chỉnh nhưng vẫn còn thiếu 4 hoặc 5 vấn đề lớn.
NĐT đang tìm các đầu mối cho thấy TQ có thể giảm bớt lương trái
phiếu Mỹ đang nắm giữ để đáp trả lại các hàng rào thuế quan của Mỹ,
mặc dù Bắc Kinh không hề thể hiện ý định đó. Cho tới nay, chính quyền
Mỹ đã áp thêm thuế lên 250 tỷ USD hàng hóa TQ xuất sang Mỹ để
Kinh tế Quốc tế
10
buộc Bắc Kinh phải nhương bộ một loạt các y/c của Mỹ liên quan tới
hoạt động giao thương hai bên. Đáp lại, TQ đánh thuế lên hàng hóa Mỹ.
Mức thuế 10% của hàng rào thuế quan 200 tỷ USD hàng TQ sẽ tăng
lên 25% từ 01/01/2019. Ông Trump cũng đã đe dọa sẽ áp đặt thuế NK
lên tất cả hàng hóa còn lại NK từ TQ, trị giá #267 tỷ USD nếu Bắc Kinh
không giải quyết các đòi hỏi của Mỹ về thương mại. TQ cũng đang sử
dụng dự trữ ngoại hối như là một phần của chính sách ổn định đồng
CNY và ngăn đồng tiền này giảm thêm. Đồng CNY đã >4% so với
đồng USD trong năm qua, giữa lúc xuất hiện dấu hiệu về đà giảm tốc
KT và tình trạng thoái vốn. Dự trữ ngoại hối của TQ 22 tỷ USD trong
tháng 9/2018 xuống mức thấp nhất kể từ tháng 7/2017, cho thấy NHTW
TQ (PBoC) có lẽ buộc phải can thiệp để ổn định đồng CNY.
Gánh nơ 3.000 tỷ USD đe dọa
kinh tế Trung Quốc
Theo South China Morning Post, các công ty phát triển BĐS và các
NĐT ở TQ đã vay nơ bằng đồng USD ước tính #3.000 tỷ USD ở mức LS
thấp nhưng giờ đây, họ đang chật vật trả nơ do Cục Dự trữ liên bang Mỹ
(Fed) nâng LS và đồng USD ngày càng tăng giá mạnh so với đồng
CNY. Gánh nơ khổng lồ trong nước từ lâu đã là vấn đề đau đầu đối với
Bắc Kinh nhưng đòn bẩy tài chính dựa vào khoản vay tính bằng đồng
USD của các công ty TQ, vốn đang bị đánh giá thấp, có thể châm ngòi
cho một cuộc khủng hoảng tài chính ở nước này, theo nhận định của
Kevin Lai, nhà KT trưởng nghiên cứu thị trường châu Á tại Công ty DV
tài chính và CK Daiwa Capital Markets (Nhật Bản). Kevin Lai cho rằng
khoản nơ 3.000 tỷ USD của các công ty TQ đặc biệt dễ bị tổn thương
giữa lúc tính thanh khoản của đồng USD bị siết chặt, đồng CNY suy
yếu và cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung đang tiếp diễn. Theo
Kevin Lai, tổng nơ USD toàn cầu bên ngoài nước Mỹ hiện nay đã tăng
lên 12.000 tỷ USD so với con số 9.000 tỷ USD vào năm 2013. 25% của
con số này, #3.000 tỷ USD đươc vay mươn bởi các công ty ở TQ đại lục
và các công ty con của họ ở Hồng Kông, Singapore và các nước thuộc
vùng Caribê. Các khoản nơ xuyên biên giới bằng đồng USD của TQ
tăng nhanh hơn so với bất kỳ nền KT mới nổi nào khác…
11
Tài liệu tham khảo:
Bảng chỉ số https://www.hsx.vn/Modules/Cms/Web/ViewArticle/b6d10da6-7c26-40d8-b720-20e298a4ed06
https://hnx.vn/
https://www.bloomberg.com/markets/stocks
http://www.sjc.com.vn/
https://goldprice.org/vi/index.html
https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/rm/tg?_afrLoop=515501331129000
Tin Tài chính - NH https://tinnhanhchungkhoan.vn/tien-te/ty-gia-thang-cuoi-nam-than-trong-truoc-nhung-an-so-
249156.html
https://vietstock.vn/2018/11/lai-suat-tien-gui-tiep-tuc-tang-757-639738.htm
https://vietstock.vn/2018/11/thu-truong-huynh-quang-hai-du-cong-cu-xu-ly-no-xau-757-639730.htm
http://ndh.vn/tp-hcm-du-kien-phat-hanh-800-ty-dong-trai-phieu-20181118024011150p4c145.news
Tin KT vĩ mô http://thoibaonganhang.vn/lam-phat-khoang-4-can-trong-chu-khong-phai-buoc-lui-82140.html
http://cafef.vn/chuyen-gia-vinacapital-ap-luc-lam-phat-voi-viet-nam-den-tu-bong-bong-tai-san-do-
dau-co-20181118075330126.chn
http://ndh.vn/chi-phi-logistics-viet-nam-tuong-duong-16-17-gdp-
20181118030949988p145c151.news
http://cafef.vn/mot-chien-dia-moi-gia-tri-hon-12000-ty-usd-viet-nam-se-tham-gia-nhu-the-nao-
20181117110115345.chn
Tin KT Quốc tế https://vietnambiz.vn/my-co-the-se-khong-ap-them-thue-nhap-khau-voi-hang-hoa-trung-quoc-
110590.html
https://vietstock.vn/2018/11/trung-quoc-ban-rong-trai-phieu-chinh-phu-my-trong-4-thang-lien-773-
639716.htm
https://vietnambiz.vn/ganh-no-3000-ti-do-la-de-doa-kinh-te-trung-quoc-110706.html
12
Danh mục viết tắt
Bảo hiểm tiền gửi BHTG Lãi suất LS
Bảo hiểm y tế BHYT Liên ngân hàng LNH
Bảo hiểm thất nghiệp BHTN Lơi nhuận trước thuế LNTT
Bảo hiểm xã hội BHXH Lơi nhuận sau thuế LNST
Bảo hiểm nhân thọ BHNT Mua bán, sáp nhập M&A
Bất động sản BĐS Ngân hàng NH
Chi nhánh/phòng giao dịch CN/PGD Ngân hàng trung ương NHTW
Chỉ số giá tiêu dùng CPI Ngân hàng Nhà nước NHNN
Chính sách tiền tệ CSTT Ngân hàng thương mại cổ phần NHTM CP
Cơ sở hạ tầng CSHT Ngân hàng thương mại Nhà nước NHTM NN
Doanh nghiệp nhà nước DNNN Ngân hàng nước ngoài NHNNg
Doanh nghiệp tư nhân DNTN Ngân sách nhà nước NSNN
Doanh nghiệp vừa và nhỏ DNVVN Ngân sách trung ương NSTW
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài DN FDI Tài chính - ngân hàng TC-NH
Khách hàng doanh nghiệp KHDN Tài sản bảo đảm/ Tài sản đảm bảo TSBĐ/ TSĐB
Khách hàng cá nhân KHCN Tăng trưởng tín dụng TTTD
Dự trữ bắt buộc DTBB Tổ chức tín dụng TCTD
Nhà đầu tư nước ngoài/ Nhà đầu tư NĐTNN/ NĐT Tổng tài sản TTS
Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI Tổng sản phẩm quốc nội GDP
Giấy chứng nhận GCN Việt Nam VN
Giá trị gia tăng GTGT Trung Quốc TQ
Thu nhập cá nhân/ Thu nhập doanh nghiệp TNCN/ TNDN Trái phiếu Chính phủ TPCP
Kinh tế vĩ mô KTVM Trái phiếu doanh nghiệp TPDN
Kinh tế KT Thị trường chứng khoán/ Chứng khoán TTCK/ CK
Xã hội XH Vốn điều lệ VĐL
Khu vực KV Vốn tự có VTC
Thế giới TG Xuất nhập khẩu/ Xuất khẩu/ Nhập khẩu XNK/ XK/ NK
Kho bạc Nhà nước KBNN Sản xuất kinh doanh SXKD
Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia UBGSTCQT Dịch vụ DV
Cục dự trữ liên bang Mỹ FED Hiệp hội Chế biến và XK thuỷ sản VN VASEP
Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF Hiệp hội Lương thực VN VFA
Ngân hàng Thế giới (World Bank) WB Hiệp hội Cà phê - Ca cao VN VICOFA
Ngân hàng Phát triển châu Á ADB Hiệp hội Thép VN VSA
Ngân hàng trung ương châu Âu ECB Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội HNX
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM HOSE
Khu vực sử dụng đồng Euro EUROZONE Tổ chức Nông Lương Liên Hơp Quốc FAO
Liên minh châu Âu EU Tổng cục thống kê GSO (TCTK)