i b - sacombank tin kinh te... · nhóm nghiên cứu kt vĩ mô của vepr cho rằng nhiều...
TRANSCRIPT
1
hoav
BẢNG CHỈ SỐ
Chứng khoán (ngày 10/10)
VN - Index 993,96 0,22%
HNX - Index 113,76 0,47%
D.JONES CK Mỹ 25.598,74 3,15%
STOXX CK C.Âu 3.266,90 1,65%
CSI 300 CK TQ 3.281,60 0,22%
Vàng (SJC cập nhật 08h30 ngày 11/10)
SJC Ng.đ/L 36.510 0,05%
Quốc tế USD/Oz 1189.30 0,18%
Tỷ giá
USD/VND BQ LNH 22.719 0,01%
EUR/USD 1,1535 0,21%
Dầu
WTI USD/th 72,64 2,91%
6
Lạm phát có xu hướng tăng mạnh trong khi
nhịp tăng trưởng kinh tế vẫn cần được duy trì,
điều này đặt tỷ giá USD/VND vào thế giằng co.
Tuy nhiên, VND được dự báo sẽ chỉ giảm giá
khoảng 3% so với USD. NHNN phải chấp nhận
lựa chọn một trong hai lời giải cho bài toán tỷ
giá, hoặc giữ giá đồng tiền để kiềm chế lạm
phát, hoặc giảm giá VND để hỗ trợ xuất khẩu
và thúc đẩy tăng trưởng nhưng chấp nhận lạm
phát cao hơn mục tiêu. Lựa chọn giải pháp nào
tùy thuộc vào quan điểm về điều hành kinh tế
của Chính phủ”, ông Minh bình luận.
Tin nổi bật
Tín dụng tăng thấp nhưng hiệu quả cao
Tăng trưởng GDP khả năng vượt xa chỉ tiêu,
các ngân hàng không còn chịu áp lực bơm
tiền để kích thích nền kinh tế
SSI Research: Thách thức mục tiêu lạm
phát 4%, ẩn số là giá dầu trong Q.IV
Xuất siêu lập kỷ lục mới, vượt 6 tỷ USD
Ngân hàng ở châu Á chuyển mình đáng
kinh ngạc, trụ sở truyền thống có thể sắp
biến mất
Thứ Năm, ngày 11/10/2018
BP.NGHIÊN CỨU & PHÁT TRIỂN – PHÒNG KẾ HOẠCH
[a] 266-268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, TP.HCM
[t] (028) 38 469 516 (1813/1819) – [e] [email protected]
2
Tín dụng tăng thấp nhưng hiệu
quả cao
Theo Tổng cục Thống kê, đến 20/09/2018, TTTD của nền KT đạt
9,52%, thấp hơn nhiều so với mức 11,02% của cùng kỳ 2017 và cũng
thấp hơn mức 10,46% của cùng kỳ 2016. Mặc dù tín dụng tăng thấp,
song tăng trưởng GDP 9th/2018 vẫn đạt tới 6,98% và là mức tăng trưởng
9th cao nhất kể từ năm 2011. Điều đó cho thấy hiệu quả tín dụng đã
được cải thiện hơn những năm trước rất nhiều. Con số TTTD sẽ tùy vào
thực tế của nền KT. Những năm gần đây, NHNN liên tục chỉ đạo, đôn
đốc các TCTD tập trung vốn vào SXKD, đặc biệt là các lĩnh vực ưu tiên
của Chính phủ; đồng thời kiểm soát chặt chẽ tín dụng chảy vào các lĩnh
vực rủi ro như BĐS, CK, các dự án BT, BOT giao thông… Vì thế, tuy
TTTD có chậm lại đôi chút, song dòng vốn được hướng mạnh vào nền
KT thực nên vẫn đủ sức để hỗ trợ nền KT đạt tốc độ tăng trưởng cao.
Việc kiểm soát chặt tín dụng chảy vào các lĩnh vực rủi ro cũng khiến
chất lượng tín dụng được cải thiện tích cực, qua đó khiến TTTD dù thấp
nhưng thực chất hơn khi mà lượng tín dụng “chết” trong các khoản nợ
xấu giảm mạnh. Hiện toàn hệ thống cũng đang quyết liệt xử lý nợ xấu
theo Nghị quyết 42 của Quốc hội, đưa tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống
giảm về chỉ còn 2,09% tại thời điểm cuối tháng 6/2018 từ mức 2,46%
thời điểm cuối 2016. Nợ xấu giảm mạnh cũng có nghĩa một lượng vốn
không nhỏ đã được giải phóng, chảy vào hỗ trợ tăng trưởng KT năm
nay thay vì nằm chết một chỗ dù vẫn được thống kê vào dư nợ tín dụng.
Rõ ràng, việc hệ thống NH - huyết mạch của nền KT - hoạt động an
toàn hiệu quả sẽ là điểm tựa vững chắc để nền KT tăng trưởng nhanh
và ổn định trong thời gian tới. Chưa hết, cuộc chiến thương mại Mỹ -
Trung leo thang càng khiến cho diễn biến giá cả hàng hóa toàn cầu,
kéo theo đó là lạm phát thêm khó lường. Trong khi trong nước việc giá
xăng tăng nhanh theo đà tăng của giá xăng dầu TG, cộng thêm việc
điều chỉnh giá các hàng hóa, dịch vụ do nhà nước quản lý theo lộ trình
cũng tạo sức ép lớn đến lạm phát. Rõ ràng, trong bối cảnh đó, CSTT
không thể nghiêng về xu hướng nới lỏng để thúc đẩy tăng trưởng như
những năm trước được mà NHNN đã linh hoạt chuyển hướng sang
CSTT thận trọng. Theo đó, TTTD được siết chặt hơn một chút, song vẫn
Tài chính – Ngân hàng
3
đảm bảo đủ nguồn vốn cho nền KT thực để hỗ trợ đà tăng trưởng.
Trong một báo cáo được công bố mới đây, Viện Nghiên cứu quản lý
KTTW (CIEM) cũng đánh giá cao điều hành CSTT của NHNN. Đáng chú
ý theo cơ quan này, NHNN đã và đang điều hành tín dụng thận trọng
nhằm hạn chế áp lực lạm phát và tạo dư địa ứng phó trước rủi ro suy
giảm KT trong các quý cuối năm.
Tăng trưởng GDP khả năng vượt
xa chỉ tiêu, các ngân hàng không
còn chịu áp lực bơm tiền để kích
thích nền kinh tế
Trong Q.III, Thống đốc NHNN đã ra Chỉ thị 04 với định hướng kiểm soát
chặt tín dụng trong các lĩnh vực rủi ro như BĐS hay BOT, và tập trung
vào lĩnh vực SX. VEPR cho rằng, động thái siết tín dụng này khiến cho
mục tiêu TTTD 17% của năm 2018 là khó khả thi khi 9th mới chỉ
9,52%. Tuy nhiên, đây có thể là việc làm cần thiết để kìm hãm sự
tăng trưởng quá nóng trong lĩnh vực như BĐS cũng như kiểm soát lạm
phát. Đồng thời, do tăng trưởng KT nhiều khả năng vượt xa chỉ tiêu 6,5-
6,7% Quốc hội đặt ra, các NHTM không còn chịu áp lực phải bơm tiền
ra để kích thích nền KT. Với mức tăng trưởng tích cực 6,88% của Q.III,
nhóm nghiên cứu KT vĩ mô của VEPR cho rằng nhiều khả năng KT VN
sẽ tăng trưởng hơn 6,8% trong năm nay. Tuy nhiên, trong bối cảnh
chiến tranh thương mại và chủ nghĩa bảo hộ đang diễn ra, tương lai của
nền KT VN còn rất bất định trước các cú sốc từ thị trường TG. VEPR
cũng cho rằng, NHNN cần thận trọng hơn với việc điều tiết cung tiền và
tín dụng trong thời gian tới để kiểm soát lạm phát. Bởi mặc dù lạm phát
trong năm nay được đánh giá là vẫn nằm trong tầm kiểm soát nhưng
vẫn còn lo ngại về lạm phát trong năm 2019 nếu như giá nhiên liệu TG
tiếp tục ở mức cao đồng thời VN áp kịch trần thuế môi trường đối với
xăng dầu (từ 3000 lên 4000 đồng/lít) kể từ 01/01/2019.
NHNN ban hành Bộ tiêu chuẩn
cơ sở đầu tiên về thẻ chip nội địa
NHNN ngày 05/10 đã ban hành Quyết định số 1927/QĐ-NHNN công bố
Bộ Tiêu chuẩn cơ sở về thẻ chip nội địa, bao gồm: 05 Tiêu chuẩn cơ sở
quy định Các y/c kỹ thuật thẻ thanh toán nội địa công nghệ chip tiếp xúc
tại VN (TCCS 01-1:2018/NHNNVN đến TCCS 01-5:2018/NHNNVN) và 05
Tiêu chuẩn cơ sở quy định Các y/c kỹ thuật thẻ thanh toán nội địa công
nghệ chip không tiếp xúc tại VN (TCCS 02-1:2018/NHNNVN đến TCCS 02-
5:2018/NHNNVN). NHNN cho biết, đây là Bộ Tiêu chuẩn cơ sở đầu tiên
quy định chi tiết và đầy đủ các y/c kỹ thuật thẻ thanh toán nội địa tại VN
theo công nghệ chip tiếp xúc và không tiếp xúc, được NHNN xây dựng
theo hướng tương thích với chuẩn EMV. Việc ban hành Bộ Tiêu chuẩn
4
cơ sở về thẻ chip nội địa nhằm đảm bảo an ninh, an toàn, bảo mật trong
hoạt động thẻ NH, tạo thuận lợi cho việc gia tăng các tính năng, tiện ích
cho chủ thẻ. Hiện hầu như toàn bộ khoảng 77 triệu thẻ các loại hiện nay
tại VN (trong đó khoảng 90% là thẻ ATM) đang sử dụng công nghệ từ, một
công nghệ có tính an toàn không cao, dễ dàng bị sao chép, đánh cắp
dữ liệu làm thẻ giả. Trong khi đó, trên TG đã thực hiện chuyển đổi sang
thẻ chip từ lâu với độ bảo mật, an toàn cao hơn nhiều so với thẻ từ. Dù
NHNN đã đặt ra lộ trình cụ thể về chuyển thẻ ATM sang thẻ chip, tuy
nhiên, đến nay, mới chỉ có duy nhất NH TPBank phát hành thẻ chip
Napas bởi trên thực tế, việc chuyển đổi thẻ ATM sang thẻ chip không
hề dễ dàng nhất là khi chưa có bộ chuẩn thẻ chip nội địa. Như vậy, với
việc chính thức hoàn thiện Bộ Tiêu chuẩn cơ sở cho thẻ chip nội địa, lộ
trình chuyển từ thẻ từ sang thẻ chip ở các NH khác được kỳ vọng sẽ
diễn ra nhanh hơn trong thời gian tới, sớm đạt mục tiêu đến năm 2020
toàn bộ thẻ NH trên cả nước sẽ được chuyển đổi sang thẻ chip.
Thế khó của tỷ giá USD/VND
Lạm phát có xu hướng tăng mạnh trong khi nhịp tăng trưởng KT vẫn
cần được duy trì, điều này đặt tỷ giá USD/VND vào thế giằng co. Tuy
nhiên, VND được dự báo sẽ chỉ 3% so với USD. TS.Cấn Văn Lực,
Chuyên gia KT trưởng BIDV cho rằng, VND vẫn có mức biến động vừa
phải so với USD do chủ trương điều hành CSTT nhất quán của NHNN.
Tuy nhiên, áp lực điều hành tỷ giá trong năm nay khá lớn. Quan sát thị
trường từ góc độ khác, ông Đinh Tuấn Minh, GĐ nghiên cứu Công ty
Nghiên cứu thị trường VietAnalytics cho rằng, việc điều hành tỷ giá hiện
nay thật sự là bài toán không dễ dàng khi phải giằng co giữa việc kiềm
giữ lạm phát và duy trì đà tăng trưởng khá cao. Do đó, rất có thể NHNN
phải chấp nhận lựa chọn một trong hai lời giải cho bài toán tỷ giá, hoặc
giữ giá đồng tiền để kiềm chế lạm phát, hoặc giảm giá VND để hỗ trợ
xuất khẩu và thúc đẩy tăng trưởng nhưng chấp nhận lạm phát cao hơn
mục tiêu. Lựa chọn giải pháp nào tùy thuộc vào quan điểm về điều
hành KT của Chính phủ. Dự báo về xu hướng tỷ giá từ nay đến cuối
năm, theo ông Cấn Văn Lực, về cơ bản, quan hệ cung - cầu ngoại tệ
vẫn ở mức tương đối tốt dù áp lực tỷ giá vẫn đáng kể. Nhận xét về công
tác điều hành CSTT, ông Lực cho rằng, NHNN vẫn kiên định chính
sách kiểm soát tỷ giá và đặc biệt, tiếp tục dùng nhiều công cụ để điều
hành thị trường ngoại tệ và tỷ giá. Nhờ đó, quan hệ cung - cầu ngoại tệ
vẫn ở mức tương đối tốt, kể cả cuối năm có yếu tố thời vụ, nhưng về cơ
5
bản vẫn ổn định. NHNN đang quyết tâm cùng các bộ, ngành kiểm soát
lạm phát và giảm áp lực lên tỷ giá. Theo ông, “Từ nay đến cuối năm, tỷ
giá USD/VND vẫn có những biến động nhất định nhưng mức độ giảm
giá của VND so với USD trong năm nay chỉ khoảng 3%. Đây là mức có
thể chấp nhận được trong bối cảnh nhiều đồng tiền khác trong KV đang
mất giá mạnh, kể cả nhân dân tệ, trước áp lực tăng giá USD”.
Lợi suất trái phiếu khó giảm dù
KBNN giảm cung
HSC nhận định việc KBNN hạ kế hoạch phát hành có thể giảm áp lực
cho Bộ Tài chính, nhưng sẽ không có nhiều ảnh hưởng đến lợi suất trái
phiếu. Từ đầu năm, tổng cộng 77.800 tỷ đồng trúng thầu trong tổng số
121.600 tỷ đồng TPCP đã phát hành có LS trúng thấu thấp hơn ít nhất
0,25% so với LS thị trường. Tổng khối lượng TPCP (gồm trái phiếu KBNN,
trái phiếu VDB và trái phiếu VSPB) đang lưu hành hiện gần 1,07 triệu tỷ
đồng, 88.100 tỷ đồng, #9% so với đầu năm. Theo báo cáo vĩ mô
của CTCP Chứng khoán TP.HCM (HSC), mức tăng này tương đương
với TTTD từ đầu năm, cho thấy sự cân bằng của cung cầu thị trường.
Một thay đổi đáng chú ý trong thị trường trái phiếu sơ cấp là việc KBNN
mới đây thay đổi kế hoạch phát hành. Giá trị trái phiếu Chính phủ năm
2018 kế hoạch giảm 25.000 tỷ đồng, tỷ lệ #12,5%, xuống 175.000 tỷ
đồng (đã phát hành 121.000 tỷ đồng từ đầu năm đến nay). "Điều này có thể
giảm áp lực phát hành cho Bộ Tài chính, nhưng sẽ không có nhiều ảnh
hưởng đến lợi suất trái phiếu", HSC nhận định. Theo HSC, hiện không
có lý do mang tính căn bản để kỳ vọng lợi suất trái phiếu giảm tiếp và
thực tế lợi suất đã tăng trở lại. Một số chỉ báo cho thấy xu hướng ngược
lại bao gồm khả năng Fed sẽ nâng LS thêm một đợt nữa trong năm nay
và sự thu hẹp thanh khoản tiền đồng có tính mùa vụ. Xu hướng tăng LS
của Fed dự kiến sẽ còn tiếp tục lên mức mục tiêu 3%, từ mức 2,25%
hiện tại. Các đợt nâng LS của Fed sẽ khiến lợi suất TPCP Mỹ tăng (với
lợi suất chuẩn 10 năm đã đạt 3,2% - mức cao nhất kể từ tháng 6/2010), đồng
USD mạnh lên và mặt bằng LS thế giới tăng. Đồng thời, từ tháng 11 đến
Tết nguyên đán, thanh khoản tiền đồng nhiều khả năng sẽ thu hẹp.
Theo HSC, lợi suất trái phiếu sẽ không tăng ngay lập tức mà sẽ tăng từ
từ với tốc độ tăng giữa các kỳ hạn là không đồng đều. HSC dự báo đến
cuối năm lợi suất trái phiếu sẽ tăng mạnh ở nhóm kỳ hạn 5 năm
(0,88%) lên 5,24%/năm. Lợi suất trái phiếu kỳ hạn 2 năm khoảng
4,85% (0,77%) và 10 năm ở mức 5,83%/năm (0,86%).
6
SSI Research: Thách thức mục
tiêu lạm phát 4%, ẩn số là giá
dầu trong Q.IV
Theo báo cáo của CTCP CK Sài Gòn (SSI), thách thức trong việc kiềm
chế lạm phát trong 2018 của VN đang lớn hơn hẳn các năm trước. Tuy
vậy, nếu thành công thì việc kiểm soát lạm phát cho năm tiếp theo sẽ
trở nên thuận lợi. Nguyên nhân là do mặt bằng giá hàng hóa đã ở mức
cao và quan trọng hơn là những bài học thực tế trong 2018 sẽ rất hữu
ích để việc điều hành chính sách trong tương lai được tự tin và nhất
quán. Tính chung 9 tháng, CPI đã 3,2% so với cuối 2017, mức cao
nhất 5 năm trở lại đây và trung bình 3,57% so với cùng kỳ. Theo SSI
Research, CPI tăng cao là do ảnh hưởng bởi giá lương thực, thực phẩm
và giá dầu và sâu xa hơn, đó là những mất cân bằng trong cung cầu
ngắn hạn. Trong các tác nhân có thể làm lạm phát tăng cao trong Q.IV,
lương thực và năng lượng (xăng, dầu, gas) là 2 nhóm mặt hàng cần phải
quan tâm nhiều nhất. Việc quản lý giá gạo có phần đơn giản hơn do có
thể chủ động tích trữ và kiểm soát cung cầu. Với giá xăng dầu, do phụ
thuộc vào yếu tố bên ngoài khó kiểm soát, chúng ta cần phải sử dụng
quỹ bình ổn kết hợp với tính toán thời điểm tăng giá để tránh gây áp lực
dồn dập cho mùa cao điểm cuối năm. SSI Research cho rằng nhiều
khả năng giá gạo sẽ tăng trong Q.IV bởi nhu cầu đối với gạo XK vẫn lớn
trong khi giá thịt lợn sẽ sớm bình ổn. Tuy nhiên, ẩn số khó đoán nhất
với lạm phát là giá dầu. Việc dự đoán giá dầu trong những tháng cuối
năm không dễ bởi các nước SX dầu mỏ lớn không đưa ra các con số
đáng tin cậy về sản lượng dầu mỏ. Điểm tích cực trong ổn định lạm
phát trong năm 2018 là CSTT đang được thực thi tương đối hiệu quả.
Áp lực tỷ giá trong năm 2018 là khá lớn và nếu như không có các biện
pháp kiểm soát tốt, đà giảm giá của VND trong 9th/2018 có thể chưa
dừng lại ở 2,8%. Với tín dụng, khả năng cao là TTTD trong 2018 sẽ
thấp hơn so với mục tiêu 17%, giúp giảm bớt áp lực lạm phát cầu kéo.
VEPR: Giá xăng tăng, nguy cơ
lạm phát 2019 vượt 4%
Viện Nghiên cứu KT và Chính sách (VEPR) đưa ra cảnh báo lạm phát
năm 2018 khó đạt mục tiêu 4% và lo ngại về lạm phát năm 2019 vượt
xa mức 4%. Phân tích về mặt hàng xăng dầu - một vấn đề về lạm phát
được người dân quan tâm nhất, VEPR cho biết, giá xăng dầu được điều
Kinh tế Việt Nam
7
chỉnh liên tục kéo theo nhiều loại hàng hóa khác tăng theo do tăng chi
phí vận chuyển. Cùng với đó, trong bối cảnh giá năng lượng thế giới liên
tục hồi phục thời gian qua, VEPR cho rằng việc áp kịch trần thuế bảo vệ
môi trường (từ 3.000 lên 4.000 đồng/lít) kể từ 01/01/2019 sẽ tạo áp lực lớn
lên lạm phát thời gian tới. "Chúng tôi cho rằng lạm phát năm 2019 sẽ
vượt xa mức mục tiêu 4% mà Chính phủ và Quốc hội đặt ra cho những
năm gần đây", TS.Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng VEPR, cho biết.
Mục tiêu lạm phát 4% năm 2018 khó có thể đạt được…
VEPR: Tăng trưởng kinh tế Việt
Nam còn phụ thuộc quá nhiều
vào FDI
Trái với nhiều dự báo trước đó, GDP Q.III/2018 của VN tăng trưởng tích
cực 6,88%, cao hơn mức tăng của Q.II/2018. Chỉ số sản xuất công
nghiệp 9th 10,6% so với cùng kỳ 2017. Trong đó, ngành được coi là
động lực chính của tăng trưởng - công nghiệp chế biến, chế tạo - tiếp
tục tăng trưởng cao 12,9%. Với mức tăng trưởng tích cực 6,88%
của Q.III, nhóm nghiên cứu KTVM của VEPR cho rằng mục tiêu 6,5 -
6,7% của năm 2018 do Quốc hội đề ra hầu như chắc chắn sẽ thực hiện
được. Cùng với đó, VEPR dự báo mức tăng trưởng năm nay của VN sẽ
vào khoảng 6,84%. Tuy nhiên, VEPR cũng cho rằng giá trị gia tăng tạo
ra trong ngành này chủ yếu tới từ KV FDI. Điều này cho thấy sự phụ
thuộc ngày càng nhiều của tăng trưởng KT Việt Nam vào khu vực vốn
đầu tư nước ngoài…
Tăng trưởng kinh tế đang dịch
chuyển sang chiều sâu
Trong Báo cáo Đánh giá giữa kỳ thực hiện kế hoạch phát triển KT - XH
5 năm 2016 – 2020 của Bộ KHĐT công bố mới đây, Bộ này đưa ra
đánh giá tăng trưởng KT của VN đang dịch chuyển sang chiều sâu, thể
hiện ở mức đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) trong
tăng trưởng của nền KT ngày một lớn. Trong 3 năm đầu giai đoạn 2016
– 2020, đóng góp của TFP vào tăng trưởng KT tăng lên đáng kể, đạt
42,18%. Năng suất lao động có sự cải thiện đáng kể theo hướng tăng
đều qua các năm. BQ 3 năm 2016 – 2018 năng suất lao động 5,62%,
cao hơn so với mức BQ 4,3%/năm của giai đoạn 2011 – 2015 và vượt
mục tiêu BQ 5%/năm trong 5 năm 2016 – 2020. Cơ cấu KT tiếp tục
chuyển dịch theo xu hướng giảm tỷ trọng ngành nông, lâm nghiệp và
thủy sản; tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, xây dựng và ngành DV. Các
ngành công nghiệp, xây dựng và DV tăng từ 82,6% năm 2015 lên
84,3% năm 2018, tiến sát mục tiêu đến năm 2020 tỷ trọng công nghiệp,
xây dựng và DV chiếm khoảng 85% GDP.
8
Chuyển đổi cơ cấu KT không chỉ diễn ra ở các ngành KT mà xu hướng
chuyển đổi trong nội bộ ngành cũng diễn ra tích cực. Về lĩnh vực công
nghiệp thì chuyển dịch theo hướng phát triển các ngành công nghiệp có
giá trị gia tăng cao và giá trị XK lớn, tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế
tạo tăng dần qua các năm. Công nghiệp hỗ trợ có bước phát triển quan
trọng. Báo cáo cũng cho biết, lạm phát được kiểm soát thành công nhờ
sự chỉ đạo quyết liệt, kịp thời của Chính phủ, Thủ tướng, sự phối hợp
chặt chẽ giữa các bộ, ngành trong việc xây dựng và đề xuất các kịch
bản điều hành giá những mặt hàng quan trọng, thiết yếu như DV y tế,
xăng dầu, điện… phù hơp trong từng giai đoạn. Mặt bằng giá hàng hóa
tương đối ổn định, chỉ số giá tiêu dùng 3 năm đều đạt mục tiêu Quốc
hội đề ra… Bộ KH-ĐT cũng đưa ra dự kiến các chỉ tiêu chủ yếu của
năm 2019. Theo đó, năm 2019 đặt mục tiêu GDP 6,6 – 6,8% so với
năm 2018. Tổng kim ngạch XK tăng khoảng 7-8%. Tỷ lệ nhập siêu so
với tổng kim ngạch XK <3%. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn XH chiếm
khoảng 33 – 34% GDP. CPI BQ khoảng 4-5%.
Xuất siêu lập kỷ lục mới, vượt 6
tỷ USD
Theo Tổng cục Hải quan, tháng 9, tổng kim ngạch XK cả nước đạt
21,125 tỷ USD qua đó nâng tổng kim ngạch XK hết tháng 9 lên 179,467
tỷ USD, 15,8% so với cùng kỳ 2017. Trong khi đó, tổng kim ngạch NK
tháng 9 đạt 19,513 tỷ USD, nâng tổng kim ngạch NK hết tháng 9 lên
173,143 tỷ USD, 11,6% so với cùng kỳ 2017. Trong tháng 9, thặng dư
thương mại của nước ta lên đến 1,982 tỷ USD, cao hơn gần 1,3 tỷ USD
so với ước tính trước đó của các nhà chuyên môn (ước tính 700 triệu
USD), qua đó giúp nước ta xuất siêu lên đến 6,324 tỷ USD tính hết
tháng 9. Theo quan sát, đây là mức thặng dư cao kỷ lục trong nhiều
năm gần đây. Trong vòng 5 năm qua (2014-2018), có 3 năm tính đến
tháng 9 Việt Nam xuất siêu, 2 năm còn lại là năm 2016 xuất siêu 3,029
tỷ USD, năm 2014 xuất siêu 2,628 tỷ USD. Trong khi đó, cùng kỳ năm
2015 nhập siêu tới 3,639 tỷ USD và năm 2017 vừa qua nhập siêu gần
120 triệu USD. Nhìn vào kết quả này có thể thấy, kim ngạch xuất siêu
đạt được 9th/2018 là con số vượt trội so với các năm còn lại. Hết tháng
9, có 5 nhóm hàng XK đạt kim ngạch từ 10 tỷ USD trở lên. Trước đó, cả
năm 2017, cán cân thương mại hàng hóa của VN xuất siêu 2,7 tỷ USD,
trong đó KV KT trong nước nhập siêu 26,1 tỷ USD; KV FDI xuất siêu
28,8 tỷ USD, theo Tổng cục Thống kê.
9
Vị đắng của chiến tranh thương
mại Mỹ - Trung sẽ lộ rõ vào 2019
Ngày 09/10, IMF đã cắt giảm dự báo tăng trưởng 0,2 điểm % với nền
KT Mỹ và TQ do cuộc chiến thương mại giữa 2 nền KT hàng đầu thế
giới, vốn đang khiến nhiều người lo ngại. "Khi 2 nền KT lớn nhất thế giới
đối đầu lẫn nhau, mọi bên đều sẽ gánh chịu những tổn hại". KT Mỹ, dù
đang trong đà tăng trưởng, cũng sẽ phải chịu những tác động của cuộc
chiến thương mại với TQ. Kỳ vọng tăng trưởng của Mỹ chậm lại ở mức
2,5% sv 2,9 (hiện tại) và tăng trưởng của TQ giảm xuống còn 6,2% trong
2019 sv mức 6,6% như hiện nay. "Căng thẳng thương mại leo thang
cùng sự bất ổn của các chính sách có liên quan sẽ làm ảnh hưởng tới
tâm lý KD và thị trường tài chính, gây ra những biến động tài chính, kéo
theo sự tăng trưởng chậm của đầu tư và thương mại".
"Bốc hơi" hơn 800 điểm, Dow
Jones chứng kiến phiên giảm
mạnh nhất kể từ tháng 02/2018
CK Mỹ giảm mạnh vào ngày 10/10, trong đó Dow Jones, S&P 500 ghi
nhận sụt giảm mạnh nhất kể từ 08/02/2018 và nhóm cổ phiếu công
nghệ là trung tâm của sắc đỏ khi đà tăng của lợi suất TPCP Mỹ đã
khiến NĐT tháo chạy khỏi các tài sản có rủi ro. Lợi suất TPCP Mỹ dài
hạn lại tăng, nới rộng xu hướng leo cao trong vài tuần qua nhờ dữ liệu
KT Mỹ mạnh mẽ đã củng cố kỳ vọng nâng LS nhiều lần trong 12th sắp
tới. NĐT cũng lo ngại về ảnh hưởng của căng thẳng thương mại đối với
LN DN cùng với sự đổ bộ của cơn bão Michael càng làm tăng sự không
chắc chắn. Nasdaq Composite cũng ghi nhận phiên giảm mạnh nhất kể
từ 24/06/2016, chịu sức ép từ nhóm cổ phiếu công nghệ, vốn cũng
chứng kiến phiên tồi tệ nhất kể từ tháng 8/2011. S&P 500 khép phiên
3,3%, 4,95% sv mức đóng cửa cao kỷ lục đã xác lập vào
20/09/2018. Cả 3 chỉ số chính đều lập kỷ lục mới trong 30/08-
03/10/2018. Chỉ số vốn hóa nhỏ Russell 2000 2,9%. Một chiến lược
gia đầu tư cho biết thị trường có thể lao dốc đến 10% từ các mức kỷ lục
trước khi tăng trở lại. Trong ngày 10/10, lĩnh vực công nghệ thuộc S&P
500 4,8%, lĩnh vực DV truyền thông, hàng tiêu dùng không thiết yếu,
năng lượng và công nghiệp đều >3%. Chỉ số đo lường trạng thái biến
động CBOE (VIX), thước đo tốt nhất về mức độ sợ hãi trên Phố Wall,
vọt 7 điểm (#44%) lên 22,96, vượt mốc 20 lần đầu tiên kể từ 11/04/2018
Kinh tế Quốc tế
10
và ghi nhận mức đóng cửa cao nhất kể từ 02/04/2018… Kết thúc phiên
giao dịch ngày 10/10, Dow Jones 831,83 điểm (#3,15%) xuống
25,598.74 điểm, S&P 500 94,66 điểm (#3.29%) còn 2.785,68 điểm,
Nasdaq Composite 315,97 điểm (#4,08%) xuống 7.422,05 điểm. Số cổ
phiếu giảm vượt số cổ phiếu tăng trên sàn New York theo tỷ lệ 7.27:1.
Ngân hàng ở châu Á chuyển
mình đáng kinh ngạc, trụ sở
truyền thống có thể sắp biến mất
Công nghệ số đang làm thay đổi đáng kể bộ mặt của NH ở châu Á.
DBS (Singapore) đang nỗ lực mở rộng KD bằng cách sử dụng nền tảng
giao dịch NH trên smartphone. DBS đã triển khai digibank (NH số) tại
Indonesia vào tháng 8/2017. Mặc dù các NH khác cung cấp DV kỹ
thuật số nhưng hầu hết lại y/c khách hàng đến chi nhánh thực để mở tài
khoản thì các "cây" digibank của DBS có thể tìm thấy tại các quán cafe
và trung tâm thương mại tại các thành phố lớn của Indonesia. Việc đăng
ký chỉ mất #15-30 phút. Các tài khoản này được kiểm tra vân tay qua e-
KTP, thẻ nhận dạng điện tử. Những khách hàng mới có thể xác minh
danh tính sinh trắc học ngay tại điểm digibank ở quán cafe hoặc đại lý
của digibank sẽ đến tận nhà để thực hiện… Sau khi DBS triển khai
digibank ở Ấn Độ vào 2016, đã có hơn 2 triệu khách hàng sử dụng
nhưng chỉ có 60-70 người quản lý. DBS dự kiến sẽ cập nhật thêm các
chức năng cho vay cho digibank vào cuối năm nay. Tại Indonesia,
người dùng digibank đã đạt mức 600.000 trong 2017. BTPN (PT Bank -
Indonesia) cũng đang cố gắng loại bỏ hoàn toàn các bước xác minh trực
tiếp và đang trong quá trình chờ chính phủ phê duyệt. Họ sẽ triển khai
Janius - nền tảng DV tài chính trên smartphone, có thể xác minh tài
khoản mới qua các cuộc gọi video… DV NH kỹ thuật số có khả năng sẽ
nở rộ tại những nơi như Philippines và Việt Nam. DV tài chính sáng tạo
mở ra một cánh cửa mới cho những NH nhỏ cho đến NH tầm trung,
cũng như NĐTNN để mở rộng thị phần...
11
Tài liệu tham khảo:
Bảng chỉ số https://www.hsx.vn/Modules/Cms/Web/ViewArticle/b6d10da6-7c26-40d8-b720-20e298a4ed06
https://hnx.vn/
https://www.bloomberg.com/markets/stocks
http://www.sjc.com.vn/
https://goldprice.org/vi/index.html
https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/rm/tg?_afrLoop=515501331129000
Tin Tài chính - NH http://cafef.vn/the-kho-cua-ty-gia-usd-vnd-20181010101350743.chn
http://ndh.vn/loi-suat-trai-phieu-kho-giam-du-kbnn-giam-cung-
20181009023530677p149c166.news
https://vietnambiz.vn/tin-dung-tang-thap-nhung-hieu-qua-cao-96532.html
http://cafef.vn/tang-truong-gdp-kha-nang-vuot-xa-chi-tieu-cac-ngan-hang-khong-con-chiu-ap-luc-
bom-tien-de-kich-thich-nen-kinh-te-20181010150552752.chn
http://ndh.vn/nhnn-ban-hanh-bo-tieu-chuan-co-so-dau-tien-ve-the-chip-noi-dia-
2018101008042775p4c149.news
Tin KT vĩ mô https://vietnambiz.vn/ssi-research-thach-thuc-muc-tieu-lam-phat-4-an-so-la-gia-dau-trong-quy-iv-
96960.html
https://www.stockbiz.vn/News/2018/10/10/848522/vepr-gia-xang-tang-nguy-co-lam-phat-2019-
vuot-4.aspx
https://vietnambiz.vn/vepr-tang-truong-kinh-te-viet-nam-con-phu-thuoc-qua-nhieu-vao-fdi-
96572.html
https://vietnambiz.vn/tang-truong-kinh-te-dang-dich-chuyen-sang-chieu-sau-96300.html
http://cafef.vn/xuat-sieu-lap-ky-luc-moi-vuot-6-ty-usd-20181010165158065.chn
Tin KT Quốc tế https://vietstock.vn/2018/10/boc-hoi-hon-800-diem-dow-jones-chung-kien-phien-giam-manh-nhat-
ke-tu-thang-22018-773-632620.htm
http://cafef.vn/vi-dang-cua-chien-tranh-thuong-mai-my-trung-se-lo-ro-vao-nam-2019-
20181010135554018.chn
http://cafef.vn/ngan-hang-o-chau-a-dang-co-nhung-buoc-chuyen-minh-dang-kinh-ngac-tru-so-
truyen-thong-co-the-sap-bien-mat-20181010141701377.chn
12
Danh mục viết tắt
Bảo hiểm tiền gửi BHTG Lãi suất LS
Bảo hiểm y tế BHYT Liên ngân hàng LNH
Bảo hiểm thất nghiệp BHTN Lợi nhuận trước thuế LNTT
Bảo hiểm xã hội BHXH Lợi nhuận sau thuế LNST
Bảo hiểm nhân thọ BHNT Mua bán, sáp nhập M&A
Bất động sản BĐS Ngân hàng NH
Chi nhánh/phòng giao dịch CN/PGD Ngân hàng trung ương NHTW
Chỉ số giá tiêu dùng CPI Ngân hàng Nhà nước NHNN
Chính sách tiền tệ CSTT Ngân hàng thương mại cổ phần NHTM CP
Cơ sở hạ tầng CSHT Ngân hàng thương mại Nhà nước NHTM NN
Doanh nghiệp nhà nước DNNN Ngân hàng nước ngoài NHNNg
Doanh nghiệp tư nhân DNTN NSNN NSNN
Doanh nghiệp vừa và nhỏ DNVVN Ngân sách trung ương NSTW
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài DN FDI Tài chính - ngân hàng TC-NH
Khách hàng doanh nghiệp KHDN Tài sản bảo đảm/ Tài sản đảm bảo TSBĐ/ TSĐB
Khách hàng cá nhân KHCN Tăng trưởng tín dụng TTTD
Dự trữ bắt buộc DTBB Tổ chức tín dụng TCTD
Nhà đầu tư nước ngoài/ Nhà đầu tư NĐTNN/ NĐT Tổng tài sản TTS
Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI Tổng sản phẩm quốc nội GDP
Giấy chứng nhận GCN Việt Nam VN
Giá trị gia tăng GTGT Trung Quốc TQ
Thu nhập cá nhân/ Thu nhập doanh nghiệp TNCN/ TNDN TPCP TPCP
KT vĩ mô KTVM Trái phiếu doanh nghiệp TPDN
KT KT Thị trường chứng khoán/ Chứng khoán TTCK/ CK
Xã hội XH Vốn điều lệ VĐL
Khu vực KV Vốn tự có VTC
Thế giới TG Xuất nhập khẩu/ Xuất khẩu/ Nhập khẩu XNK/ XK/ NK
Kho bạc Nhà nước KBNN Sản xuất kinh doanh SXKD
Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia UBGSTCQT Dịch vụ DV
Cục dự trữ liên bang Mỹ FED Hiệp hội Chế biến và XK thuỷ sản VN VASEP
Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF Hiệp hội Lương thực VN VFA
Ngân hàng Thế giới World Bank Hiệp hội Cà phê - Ca cao VN VICOFA
Ngân hàng Phát triển châu Á ADB Hiệp hội Thép VN VSA
Ngân hàng trung ương châu Âu ECB Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội HNX
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM HOSE
Khu vực sử dụng đồng Euro EUROZONE Tổ chức Nông Lương Liên Hợp Quốc FAO
Liên minh châu Âu EU Tổng cục thống kê GSO