i b - sacombank.com.vn tin kinh te... · tiền tệ của nhnn, tiến tới việc tổ chức...
TRANSCRIPT
1
hoav
BẢNG CHỈ SỐ
Chứng khoán (ngày 08/10)
VN - Index 996,12 1,22%
HNX - Index 114,38 0,25%
D.JONES CK Mỹ 26.486,78 0,15%
STOXX CK C.Âu 3.309,72 1,07%
CSI 300 CK TQ 3.290,90 4,30%
Vàng (SJC cập nhật 08h30 ngày 09/10)
SJC Ng.đ/L 36.520 - 0,00%
Quốc tế USD/Oz 1184.40 1,40%
Tỷ giá
USD/VND BQ LNH 22.723 0,01%
EUR/USD 1,1490 0,23%
Dầu
WTI USD/th 74,21 0,42%
6
Quyết định 986 về Chiến lược phát triển
ngành ngân hàng đến năm 2025, định hướng
đến năm 2030 vẫn đặt nhiệm vụ xây dựng cơ
chế phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của NHNN với vai trò là cơ quan quản lý
nhà nước trong lĩnh vực NH, vai trò đại diện
chủ sở hữu vốn nhà nước tại các TCTD và DN
có vốn nhà nước do NHNN làm đại diện chủ sở
hữu... Điều này chứng tỏ NHNN vẫn tiếp tục
duy trì vị trí được nhiều chuyên gia gọi nôm na
là “siêu NHTM”. Nếu vậy, việc tách bạch vai
trò ổn định chính sách tài khóa và điều hành
tiền tệ của NHNN, tiến tới việc tổ chức giữ vai
trò như một NHTW thực thụ không dễ đạt được
một cách triệt để. Mục tiêu sau năm 2020, thị
trường NH cơ bản hoạt động theo nguyên tắc
thị trường chỉ có thể được coi là vừa sức.
Tin nổi bật
Tái cấu trúc NH: Tiền phải sinh ra tiền
Bài toán tăng vốn cho VAMC
Lợi nhuận hệ thống NH được kỳ vọng tăng
trưởng 18,63% trong năm 2018
Lạc quan tăng trưởng GDP: Đạt được, thậm
chí vượt mục tiêu tăng trưởng, lên đến 7%
Tăng trưởng tốt, dấu ấn doanh nghiệp Việt
đang dần rõ nét hơn
Trung Quốc đứng thứ hai thế giới về đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài
Thứ Ba, ngày 09/10/2018
BP.NGHIÊN CỨU & PHÁT TRIỂN – PHÒNG KẾ HOẠCH
[a] 266-268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, TP.HCM
[t] (028) 38 469 516 (1813/1819) – [e] [email protected]
2
Tái cấu trúc ngân hàng: Tiền
phải sinh ra tiền
Dù thừa nhận thành tích giảm nợ xấu từ mức 17,2% năm 2012 còn
6,7% vào cuối tháng 6/2018, theo BIDV, vẫn còn đó lời than phiền về
việc DNNVV khó tiếp cận vốn. Con số này thêm phần suy nghĩ bởi thực
trạng DN tạm ngừng hoạt động có thời hạn hoặc chờ giải thể tháng sau
tăng hơn tháng trước, đạt 73.103 DN trong 9th/2018, 48,1% so với
cùng kỳ 2017. Trong bối cảnh này, có lẽ, cần xem xét việc tái cơ cấu hệ
thống NH bằng những đánh giá thực tế và khắt khe hơn. PGS - TS Ngô
Hướng, nguyên Hiệu trưởng Đại học NH TP.HCM, đưa ra từ khóa “thị
trường”. Hoạt động cho vay của hệ thống NHTM phải tuân thủ đúng quy
luật của nền KT thị trường “tiền sinh ra tiền”. Muốn vậy, tín dụng phải
được luân chuyển nhịp nhàng, không thừa, không thiếu. Đối với nền KT
hiện tại, nhiệm vụ này chưa sớm khả thi. Mới đây nhất, UB Quản lý vốn
nhà nước tại DN (Siêu Ủy ban) ra đời nhằm quản lý gần 1 triệu tỷ đồng
vốn nhà nước tại DN có thể nhận được nhiều tiếng vỗ tay. Thế nhưng,
như chính Thủ tướng lưu ý “chúng ta phải lựa chọn, xây dựng UB trở
thành một cơ quan chuyên nghiệp, hiện đại hoặc con đường thứ 2 là
một cơ quan quan liêu, kiểu cũ tạo ra gánh nặng cho đất nước”. Nếu
không hoạt động hiệu quả, đây chỉ là cách “cơ cấu vốn, cơ cấu nợ” chứ
không phải là cách thay đổi cấu trúc tín dụng nhằm phục vụ nền kinh tế
hiệu quả. Trong khi những ràng buộc, níu kéo DN ở lại với Nhà nước
hoặc duy trì cách thức quản lý kiểu Nhà nước chưa được tháo gỡ, chưa
thể hy vọng có một nền kinh tế thị trường vận hành hiệu quả. Hệ lụy
không thể tránh khỏi là rất khó vận hành một hệ thống tín dụng theo
nguyên tắc KT thị trường trong môi trường kinh doanh vắng bóng những
yếu tố lành mạnh này. Tất nhiên, không thể không nhắc đến vướng mắc
đang án ngữ trong cấu trúc nội tại của hệ thống tín dụng VN. Quyết
định 986 về Chiến lược phát triển ngành NH VN đến năm 2025, định
hướng đến năm 2030 vẫn đặt nhiệm vụ xây dựng cơ chế phân định rõ
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của NHNN với vai trò là cơ quan quản
lý nhà nước trong lĩnh vực NH, vai trò đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước
tại các TCTD và DN có vốn nhà nước do NHNN làm đại diện chủ sở
hữu...Điều này chứng tỏ NHNN vẫn tiếp tục duy trì vị trí được nhiều
Tài chính – Ngân hàng
3
chuyên gia gọi nôm na là “siêu NH thương mại”. Nếu vậy, việc tách
bạch vai trò ổn định chính sách tài khóa và điều hành tiền tệ của
NHNN, tiến tới việc tổ chức giữ vai trò như một NHTW thực thụ không
dễ đạt được một cách triệt để. Mục tiêu sau năm 2020, thị trường NH cơ
bản hoạt động theo nguyên tắc thị trường chỉ có thể được coi là vừa
sức. Chỉ khi nội lực nền KT vững vàng, việc mở cánh cửa thị trường tài
chính nội địa mới không đi kèm cùng mối lo các nhà tài phiệt nước
ngoài mau chóng chiếm ưu thế.
Bộ Tài chính được giao làm đầu
mối đẩy nhanh tái cơ cấu DNNN
Chính phủ vừa giao Bộ Tài chính làm đầu mối đẩy nhanh quá trình tái
cơ cấu DNNN. Cùng với đó, sau khi UB Quản lý vốn nhà nước tại DN
vừa đi vào hoạt động, Chính phủ y/c các bộ, ngành chủ động phối hợp
với cơ quan này trong việc chuyển giao quản lý các tập đoàn, tổng công
ty, bảo đảm hoạt động bình thường, chống thất thoát, lãng phí. Ủy ban
được giao quản lý vốn tại 19 tập đoàn, tổng công ty lớn, với tổng số vốn
1 triệu tỷ đồng, tài sản trị giá 2,3 triệu tỷ đồng. Để đánh giá sâu hiện
trạng tái cơ cấu, cổ phần hóa DNNN, trên cơ sở đó kiến nghị giải pháp
mới, hội nghị toàn quốc về đổi mới DNNN sẽ được tổ chức trong tháng
10 này (kế hoạch trước đó là tổ chức trong tháng 9).
Bài toán tăng vốn cho VAMC
Dù cho hoạt động xử lý nợ xấu thời gian qua được đánh giá khá tốt với
vai trò của VAMC, và trong thời gian tới được kỳ vọng sẽ đẩy mạnh hơn
nếu Bộ Tài chính thông qua các quy định liên quan đến việc mua bán
nợ của DATC và Công ty xử lý nợ của các NHTM (AMC), sẽ hỗ trợ rất
nhiều cho VAMC. Theo nhiệm vụ được giao, đến hết năm 2020 VAMC
phải mua tối thiểu 330.000 tỷ đồng nợ xấu, trong đó mua nợ xấu theo
giá trị thị trường đạt tối thiểu 20.000 tỷ đồng. Chính vì vậy theo kế
hoạch mà VAMC công bố thì trong năm 2018, VAMC phát hành trái
phiếu đặc biệt với tổng giá trị tối đa là 32.000 tỷ đồng; tổng số tiền mua
nợ xấu theo giá trị thị trường năm 2018 là 3.500 tỷ đồng. Đối với xử lý
nợ, đến năm 2022 xử lý tối thiểu được 140.000 tỷ đồng số nợ xấu đã
mua, trong đó, riêng năm 2018 xử lý 34.504 tỷ đồng. Thời gian qua
công tác mua nợ xấu của VAMC được đánh giá chuyển biến tốt nhưng
theo các chuyên gia KT, thực tế việc xử lý nợ xấu của VAMC vẫn khá
chậm. Con số báo cáo trong 6th/2018, hệ thống TCTD xử lý nợ xấu ước
đạt 58.800 tỷ đồng, tuy nhiên trong con số này thì khối nợ xấu mà các
TCTD tự xử lý đã chiếm đến 56.740 tỷ đồng.
4
TS. Trương Huy Mai, chuyên gia KT RMIT nhận định kết quả xử lý nợ
xấu của VAMC chưa như mong đợi, vì còn gặp nhiều vướng mắc do cơ
quan quản lý chậm ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Nghị quyết
42; khâu định giá ban đầu chưa sát với thị trường, dẫn đến nhiều khoản
phải bán đi bán lại; thiếu nguồn nhân lực chuyên môn, hạ tầng công
nghệ thông tin còn thô sơ, nên việc hỗ trợ lưu trữ hồ sơ, báo cáo thống
kê tốn nhiều thời gian… Trên hết, cản trở lớn nhất cho VAMC trong thực
hiện trọng trách của mình là thiếu vốn. Từ cuối năm 2015, VAMC được
tăng vốn điều lệ lên 2.000 tỷ đồng nhưng vẫn quá nhỏ so với quy mô nợ
xấu cần xử lý. Thực tế việc tăng vốn để VAMC hoàn thành vai trò cũng
đã được cơ quan quản lý tính đến. Theo lộ trình, giai đoạn 2017-2018,
NHNN trình Thủ tướng cấp bổ sung vốn điều lệ cho VAMC để đạt mức
5.000 tỷ đồng và đạt mức mức 10.000 tỷ đồng trong giai đoạn 2019-
2020. Tuy nhiên cho đến nay, chỉ còn 3 tháng nữa sẽ kết thúc năm
2018, nhưng VAMC vẫn chưa được cấp vốn như lộ trình đề ra. Mới đây,
VAMC đã đề xuất NHNN trình Thủ tướng được cấp đủ 5.000 tỷ đồng
vốn điều lệ như lộ trình đề ra. Các chuyên gia KT cho rằng muốn xử lý
dứt điểm nợ xấu, bên cạnh việc banh hành các quy định tháo gỡ các
rào cản trong việc bán tài sản thế chấp thì điều quan trọng đó là VAMC
phải có tiền tươi thóc thật để mua nợ. Bởi vì nếu VAMC mua nợ bằng
trái phiếu đặc biệt sẽ tạo ra mối quan hệ “tay 3” giữa con nợ, NH và
VAMC. Bởi về nguyên tắc NH bán nợ là chuyển nợ sang VAMC, nhưng
NH vẫn có trách nhiệm giữ tài sản và VAMC chỉ ghi giấy thay vì đưa
tiền cho NH. TS. Trương Huy Mai cho rằng, việc cấp thêm vốn cho
VAMC là điều cần thiết, không chỉ tăng lên 5.000 tỷ đồng, 10.000 tỷ
đồng, thậm chí phải tăng lên mức 20.000 tỷ đồng để giải quyết nợ xấu,
giúp VAMC hút thêm vốn xử lý nợ xấu. Bởi lẽ, VAMC được xác định là
trung tâm thúc đẩy thị trường mua bán nợ, do đó cần tăng cường sức
khỏe để VAMC gánh trọng trách này.
Lợi nhuận hệ thống NH được kỳ
vọng tăng trưởng 18,63% trong
năm 2018
Theo kết quả cuộc điều tra xu hướng KD mới nhất vào tháng 9/2018,
88,3% TCTD kỳ vọng lợi nhuận trước thuế của đơn vị tăng trưởng
dương so với năm 2017; 5,3% TCTD kỳ vọng lợi nhuận “không đổi” và
6,4% TCTD lo ngại lợi nhuận “suy giảm”. Lợi nhuận toàn hệ thống được
kỳ vọng BQ 18,63% trong 2018, thấp hơn so với mức kỳ vọng 19,05%
ghi nhận tại cuộc điều tra tháng 6/2018 nhưng cao hơn nhiều so với
mức kỳ vọng 13,63% của các TCTD tại cuộc điều tra cùng kỳ.
5
Kết quả điều tra cho thấy, tình hình KD Q.III/2018 có cải thiện hơn so
với Q.II/2018 với 72,6% TCTD nhận định tình hình KD cải thiện tốt hơn,
trong đó 15,8% là nhận định là “cải thiện nhiều”. Dự kiến trong thời gian
tới, 80% TCTD kỳ vọng tình hình KD sẽ “cải thiện” trong Q.IV/2018 và
84,2% TCTD kỳ vọng tình hình KD tổng thể trong 2018 “cải thiện” hơn
so với 2017. Trong đó 23 - 30,5% TCTD kỳ vọng “cải thiện nhiều”. Về
huy động vốn, các TCTD kỳ vọng huy động vốn toàn hệ thống BQ
5,83% trong Q.IV/2018 (cao hơn so với mức tăng thực tế và mức kỳ vọng
của cùng kỳ năm 2017) và 15,34% trong cả năm 2018 (cao hơn mức tăng
thực tế 14,98% nhưng thấp hơn mức kỳ vọng 16% của năm 2017). Về hoạt
động tín dụng, dư nợ tín dụng của hệ thống NH được kỳ vọng 4,52%
trong Q.IV/2018 và 15,22% trong 2018 trong bối cảnh mặt bằng LS
huy động vốn và cho vay được các TCTD kỳ vọng tiếp tục duy trì ổn
định trong Q.IV/2018 và cả năm 2018. Cùng với đó, khảo sát cũng cho
thấy nhu cầu của khách hàng đối với sản phẩm dịch vụ TC-NH tiếp tục
được các TCTD nhận định tích cực trong Q.III/2018 với nhu cầu vay vốn
được 49,5% TCTD lựa chọn mức “cao”. Tiếp đến là nhu cầu thanh toán
và thẻ (38,1% TCTD lựa chọn mức “cao”) và nhu cầu gửi tiền (33% TCTD
lựa chọn mức “cao”). Dự kiến tổng thể năm 2018 so với năm 2017, kết
quả điều tra kỳ này cho thấy các TCTD kỳ vọng sản phẩm thu hút được
nhiều khách hàng nhất là vay vốn, tiếp đến là nhu cầu sử dụng dịch vụ
thanh toán và thẻ, sau đó là nhu cầu gửi tiền. Các tỷ lệ TCTD dự kiến
tương ứng 69,2% 57,5% 57%. Thanh khoản của hệ thống NH tại
thời điểm cuối Q.III/2018 tiếp tục ở trạng thái “tốt” đối với cả VND và
ngoại tệ. Dự báo trong quý tới và cả năm 2018, đa số các TCTD kỳ
vọng tình hình thanh khoản của hệ thống NH tiếp tục diễn biến khả
quan đối với cả tiền đồng và ngoại tệ. Đánh giá về tình hình lao động và
việc làm trong ngành NH, các TCTD nhận định tiếp tục chuyển biến tích
cực với 56,84% TCTD cho biết đã tuyển thêm lao động trong Q.III/2018
(cao hơn tỷ lệ 46% ghi nhận tại kỳ trước); 26,6% TCTD nhận định đang
thiếu lao động cần thiết cho nhu cầu công việc hiện tại; và 61,46%
TCTD dự kiến tiếp tục tuyển thêm lao động trong Q.IV/2018.
Thanh khoản dồi dào trở lại
nhưng tỷ giá có xu hướng tăng
Theo SSI Retail Research, thị trường tiền tệ thế giới tháng 9 khá ổn
định. Chỉ số USD Index sau khi chạm đỉnh 96,7 điểm trong tháng 8 đã
giảm trở lại và dao động quanh vùng 94 – 95 điểm trong tháng 9 và chỉ
bật lên cao hơn một chút vào cuối tháng sau cuộc họp của Fed quyết
6
định tăng LS lần thứ 3 trong năm. Nhờ sự ổn định trên thị trường thế
giới, tỷ giá USD/VND trong nước dao động quanh ngưỡng 23.260 -
23.340 (mua - bán) trong gần hết tháng 9. Tỷ giá bắt đầu tăng vào cuối
tháng cùng những tín hiệu tăng của đồng USD và lợi suất trái phiếu kho
bạc Mỹ. Tỷ giá USD/VND kết thúc tháng 9 ở mức kỷ lục mới 23.310 -
23.390, 50 đồng so với tháng 8. Trong khi đó, tỷ giá tự do giảm khá
mạnh về 23.400 sau đó lại tăng trở lại ngang mức cuối tháng 8 là
23.470 - 23.500. Các chuyên gia cũng cho biết, biến động LS trên thị
trường LNH cũng khá nhạy với tỷ giá. Chênh lệch LS VND-USD được
kéo giãn đã giúp tỷ giá hạ nhiệt từ giữa tháng 7. Trong thời gian này,
NHNN đã điều hành thị trường tiền tệ để duy trì LS VND qua đêm ở
mức 4%, trong khi LS LNH USD vẫn khá ổn định ở mức 2%. Chênh
lệch 2% là mức khá an toàn để không gây áp lực lên tỷ giá. Tuy nhiên,
khi LS VND giảm trở lại về sát 2% vào nửa cuối tháng 9, khiến chênh
lệch LS được thu hẹp, tỷ giá cũng có xu hướng tăng trở lại trong thời
gian này. Giao dịch thị trường mở tháng 9 khá ổn định và nhịp nhàng
thể hiện quan điểm rất thận trọng của NHNN. Tổng khối lượng tín phiếu
mà NHNN phát hành đạt 52.950 tỷ đồng, chủ yếu để bù lại khối lượng
đáo hạn là 50.000 tỷ đồng, trong đó có một phần là lượng tín phiếu kỳ
hạn 91 ngày phát hành trong tháng 6. Tổng khối lượng OMO cho vay ra
là 8.155 tỷ đồng, trong khi có 15.401 tỷ OMO đáo hạn. Như vậy NHNN
đã hút ròng 10.196 tỷ đồng trong tháng 9. Thanh khoản dồi dào đã đưa
LS VND LNH về khoảng 2,6%, cao hơn khoảng 60 điểm cơ bản (bps) so
với LS USD. Nhìn chung, diễn biến tỷ giá tháng 9 chịu tác động chủ yếu
từ các yếu tố thị trường trong khi các cân đối vĩ mô vẫn cho những tín
hiệu tích cực. Về hoạt động XNK, xuất siêu bất ngờ tăng mạnh trong
tháng 8 với giá trị 2,2 tỷ USD, ước tính tiếp tục duy trì ở mức 0,7 tỷ USD
trong tháng 9, nâng thặng dư thương mại từ đầu năm lên 6 tỷ USD so
với mức 324 triệu USD cùng kỳ năm 2017.
7
“Dồn nén lạm phát năm 2018 sẽ
tạo áp lực lớn cho năm sau“
Theo ông Ngô Trí Long, Nguyên Viện trưởng Viện Quản lý giá, Bộ Tài
chính cho biết, kiểm soát lạm phát những năm gần đây, đặc biệt từ năm
2016-2017 luôn đạt mục tiêu Quốc hội đề ra. Thời gian qua lạm phát là
một trong chỉ tiêu ổn định KTVM, bên cạnh kiểm soát lạm phát là
CSTT, tỷ giá ổn định và công ăn việc làm cho người lao động. Lạm phát
trong tầm kiểm soát đồng thời đảm bảo mục tiêu tăng trưởng GDP như
vậy cũng là thành công kép. Những năm qua, kiểm soát lạm phát đạt
được mục tiêu Quốc hội giao nhưng tăng trưởng mặt chất lượng chưa
cải thiện nhiều, chủ yếu do CSTT và nguyên nhân khách quan do giá
TG đặc biệt giá mặt hàng dầu giảm mạnh. Năm 2018, kiểm soát lạm
phát nhưng lại bằng cách kiểm soát các nhân tố, không cho tăng giá
điện, hạn chế tăng giá xăng dầu cho thấy, việc kiểm soát chưa thật bền
vững. Do đó, khả năng kiểm soát được lạm phát trong 2018 nhưng
bằng cách dồn nén như vậy ảnh hưởng đến chỉ số này trong 2019…
Lạc quan tăng trưởng GDP: Đạt
được, thậm chí vượt mục tiêu
tăng trưởng, lên đến 7%
Tính chung 9th/2018, GDP ước tính 6,98% so với cùng kỳ 2017, là
mức tăng cao nhất của 9th kể từ năm 2011 trở về đây. Nhiều dự báo
cho rằng VN có thể đạt mức tăng trưởng GDP lên đến 7% năm 2018,
mức tăng trưởng cao thứ 2 châu Á chỉ sau Ấn Độ. (i) Theo ông Dương
Mạnh Hùng, Vụ trưởng Vụ Hệ thống Tài khoản quốc gia (Tổng cục Thống
kê): Tăng trưởng GDP Q.IV chỉ cần đạt 6,11% do đó khả năng tăng
trưởng cả năm sẽ đạt mục tiêu 6,7% là khả thi. Thông thường Q.IV là
quý có GDP tăng trưởng cao nhất. 3 năm gần đây, mức tăng trưởng
quý này đều >6,11%. (ii) Theo ông Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài
chính: Dự báo của tôi có lẽ hơi bảo thủ một chút, khả năng tăng trưởng
GDP đạt được ít nhất 6,7%, khả năng đạt được 7% là có tuy nhiên vấn
đề luôn luôn đặt ra là tăng trưởng nhanh như thế chưa chắc tốt. Vấn đề
cần đặt ra là chất lượng tăng trưởng ngay cả khi đạt được mức tăng
trưởng 6,7% con số không quan trọng bằng chất lượng tăng trưởng
được định nghĩa theo nghĩa giá trị hàng hoá, DV… (iii) Ông Ngô Trí
Long, nguyên Viện trưởng Viện Quản lý giá, (Bộ Tài chính) cho rằng:
GDP riêng trong Q.III 6,88% so với cùng kỳ 2017. Mức này tuy thấp
Kinh tế Việt Nam
8
hơn mức 7,45% của Q.I nhưng cao hơn mức 6,73% của Q.II, cho thấy
nền KT vẫn giữ được đà tăng trưởng và xóa đi lo ngại về xu hướng GDP
quý sau tăng thấp hơn so với quý trước và tốc độ tăng trưởng có thể
chậm lại theo các quý. Do đó, tôi cho rằng việc thực hiện được mục tiêu
GDP 6,7% mà Quốc hội đã giao hoàn toàn đạt được, thậm chí cao
hơn. (iv) Đối với ông Lưu Bích Hồ, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược
phát triển (Bộ KHĐT): Tính chung tăng trưởng GDP 9th/2018 đạt 6,98%,
là mức tăng trưởng cao nhất kể từ năm 2011. Theo đó, để đạt được
mục tiêu tăng trưởng chính thức cả năm là 6,7%, GDP Q.IV/2018 chỉ
cần 6,1% so với cùng kỳ do đó, đạt và vượt 6,7% là chắc chắn, trừ
đột biến. Còn mức nào không quan trọng, vì không thể vượt quá nhiều.
Tăng trưởng tốt, dấu ấn doanh
nghiệp Việt đang dần rõ nét hơn
Trong Công nghiệp và Xây dựng, đáng chú ý nhất là sự cải thiện của
ngành Xây dựng với mức tăng trưởng cao nhất kể từ đầu năm là
9,2%. Trong khi đó Công nghiệp Chế biến chế tạo - ngành có tỷ trọng
giá trị lớn nhất trong GDP - đi ngang với tăng trưởng 12,1% còn Khai
khoáng 3,3% (Q.II 3,1%). Theo báo cáo cập nhật KT VN tháng 10
của Công ty cổ phần CK Sài Gòn (SSI), sự cải thiện của ngành Xây
dựng có thể xuất phát từ sự cải thiện trong giải ngân vốn đầu tư toàn
XH, đặc biệt là giải ngân đầu tư công. Q.III/2018, tổng vốn đầu tư toàn
XH đạt 507.000 tỷ đồng, 12,5% so với cùng kỳ và đạt mức cao nhất 4
quý vừa qua. Trong đó, vốn NSNN đạt mức tăng ấn tượng 14,9%,
tăng gấp đôi tốc độ tăng trưởng của 2 quý trước đó. Nguồn vốn đầu tư
tư nhân (chiếm tỷ trọng lớn nhất) cũng cải thiện nhẹ và vươn lên mức cao
nhất nhiều năm, khi 18,8%. “Sự bù đắp của 2 nguồn vốn này cho FDI
là minh chứng cho sự dịch chuyển cơ cấu KT theo hướng tập trung hơn
vào nội lực. Tăng tốc giải ngân vốn ngân sách cũng là một dấu hiệu tích
cực bởi nguồn lực tài khóa đang đóng vai trò quan trọng trong thúc đẩy
tăng trưởng khi dư địa tiền tệ hẹp lại. Mặt khác, điều này cho thấy việc
tháo gỡ các nút thắt trong giải ngân đầu tư công đang có tiến triển tốt”.
Mặc dù đóng góp của ngành Xây dựng là đáng ghi nhận, nhưng ngành
Công nghiệp chế biến chế tạo - có tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu GDP -
mới thực sự là bệ đỡ để có được sự cải thiện trong Q.III… SSI khuyến
nghị, cùng với sự hồi phục của đầu tư công, việc thúc đẩy tăng trưởng
duy trì ở mức cao của đầu tư tư nhân có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Đó là cơ sở cho sự dịch chuyển cơ cấu KT theo hướng giảm dần sự phụ
thuộc vào FDI và tăng dần tỷ trọng của khối tư nhân trong nước.
9
Làm thế nào để kinh tế tư nhân
lớn mạnh?
Tại Hội thảo "Phát triển Kinh tế tư nhân (KTTN): rào cản và giải pháp",
Gs. Nguyễn Mại, Chủ tịch Hiệp hội DN đầu tư nước ngoài, cho hay
8th/2018, cả nước có 87.448 DN được thành lập với tổng số vốn đăng ký
mới và tăng thêm 2,56 triệu tỷ đồng, 32,5% so với cùng kỳ 2017. Điều
này cho thấy, KTTN với số lượng ngày càng nhiều, quy mô ngày càng
lớn, đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với tốc độ tăng trưởng theo
hướng bền vững. Theo Tổng cục Thống kê, KV DNTN VN đã không thể
lớn nổi so với chính mình, mới chỉ đóng góp khoảng 9% vào GDP/năm
trong suốt hàng chục năm qua. Tuy nhiên, TS. Nguyễn Đình Cung,
Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý KTTW, cho rằng phải đánh giá lại
vai trò của KTTN và bày tỏ sự nghi ngờ về con số đóng góp vào GDP
của KV này. Theo ông Cung, phải đánh giá lại để thay đổi những nhận
định chính trị, vì những nhận định đó chính là các rào cản căn bản đối
với phát triển đất nước nói chung và KV KTTN nói riêng. Các con số
doanh thu, lợi nhuận đều cao, nhưng đóng góp GDP lại thấp. KV KTTN
đối mặt với nhiều rủi ro, bên cạnh các rủi ro thông thường, phải đối mặt
rủi ro pháp lý. Điều này đến từ hệ thống pháp luật không cụ thể, không
minh bạch, không hiệu lực, không hiệu quả. Mặt khác, với những DN
muốn lớn lại không lớn được. Một DN có ý tưởng KD tốt, cần nguồn lực
để phát triển, nhưng nguồn lực đó không thể đến từ vốn gia đình, bạn
bè của mình. Trong khi đó, còn tình trạng phân bố nguồn lực theo xin –
cho, thay vì dựa trên tiêu chí chất lượng. Một vấn đề đặt ra là vẫn còn
sự phân biệt trong nhận thức dẫn tới sự phân biệt trong đối xử giữa KV
KTTN và các thành phần KT khác. Bên cạnh đó, ông Kiên cũng chỉ ra
một rào cản ngay ở chính các DNTN khiến KV KT này chưa lớn được,
đó là bản thân nhiều DNTN chưa đáp ứng được 5 yếu tố quyết định,
bao gồm: chiến lược KD, quản trị DN, ứng dụng khoa học công nghệ,
quản lý lao động và đào tạo nguồn nhân lực. Phân tích ở cả hai mặt
cho thấy việc làm thế nào để KV KTTN lớn được cần sự vào cuộc của
cả hệ thống chính trị, cũng như sự nỗ lực của chính DNTN…
Hà Nội: Tăng trưởng kinh tế
7,17% trong 9 tháng
UBND TP. Hà Nội vừa ban hành Thông báo Hội nghị giao ban Q.III và
9th/2018. Đáng chú ý, GRDP của thành phố 9th/2018 ước đạt 7,17% ,
cao hơn so với mức 6,87% của cùng kỳ 2017. tổng thu NSNN ước
9th/2018 ước đạt 166.200 tỷ đồng, #69,7% dự toán và 13,7% so với
cùng kỳ; thu hút đầu tư nước ngoài ước đạt 6,265 tỷ USD, gấp 5,4 lần
so cùng kỳ, đứng đầu cả nước. Bên cạnh đó, du thị trường thế giới tiềm
10
ẩn nhiều rủi ro với chiến tranh thương mại leo thang, kim ngạch XK của
thành phố trong 3 quý qua vẫn đạt 10,51 tỷ USD, 21,6% so với cùng
kỳ (cùng kỳ 8,7%). Khách quốc tế có lưu trú tại thành phố đạt 3,1 triệu
lượt, 21%, chiếm 37,2% thị phần cả nước. Tổng thu từ khách du lịch
ước đạt 57.300 tỷ đồng, 7,3%...
11
Kinh tế Mỹ không đủ sáng sủa
để bù đắp cho sự tăng trưởng
chậm lại trên toàn cầu?
Tuần tới, các bộ trưởng tài chính/giới lãnh đạo NHTW sẽ tham dự cuộc
họp thường niên của IMF, sau khi IMF báo hiệu sẽ cắt giảm dự báo
tăng trưởng toàn cầu lần đầu tiên sau 2 năm sau đợt tăng tốt nhất kể từ
2011… SX toàn cầu đang tăng trưởng ở tốc độ thấp nhất trong gần 2
năm và tháng 9, XK đã giảm lần đầu tiên kể từ 2016… Chiến thương
mại đang mang đến sự cảnh báo lớn nhất. Căng thẳng trên thị trường
mới nổi, sự bất ổn chính trị và giá dầu tăng là những mối đe dọa khác.
Dù không có chuyện tăng trưởng sẽ dừng lại nhưng sự kết hợp của các
rủi ro cũng đồng nghĩa với việc sự tăng trưởng đồng bộ của 2017 là kỷ
niệm đang phai mờ. TGĐ IMF phát biểu: "6th trước, tôi có đề cập tới
những nguy cơ sắp xảy ra. Hôm nay, một vài trong số đó đã bắt đầu
thành hiện thực". Tuần này, HSBC đã cắt giảm dự báo tăng trưởng thế
giới trong 2019, chủ yếu là do các quốc gia mới nổi bị hạ bậc vì phải
"vật lộn" với USD đang tăng giá; nâng dự báo tăng trưởng Mỹ trong
2018 lên 3% và 2019 là 2,5% sau những đợt cắt giảm thuế. Trong khi
đó, Bank of America Corp. cảnh báo rằng sự tăng trưởng chậm chạp
của TQ sẽ "lây" sang phần còn lại của châu Á vào 2019 và kéo tỷ lệ
tăng trưởng của KV xuống. "Khoảng 50% GTGT trong XK của TQ sang
Mỹ hiện đến từ phần còn lại của châu Á. Rõ ràng là các nước khác
cũng sẽ bị ảnh hưởng nếu chiến tranh thương mại tiếp tục leo thang".
Sự kết hợp của các yếu tố có thể đủ để IMF cắt giảm những dự báo mà
họ duy trì đến thời điểm này dành cho nền KT thế giới. IMF sẽ cập nhật
"Triển vọng KT thế giới" vào ngày 9/10. Kể từ tháng 10/2016 đến nay,
họ chưa bao giờ sửa đổi những dự báo đưa ra dành cho 1 năm tới.
Trung Quốc đứng thứ hai thế giới
về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Tính đến cuối năm 2017, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài (ODI) của TQ
vượt 1.800 tỷ USD, xếp thứ 2 trên thế giới. TQ đã đầu tư vào 189 quốc
gia và KV trên toàn cầu, chiếm 5,9% tổng ODI toàn thế giới. Chỉ riêng
2017, ODI của TQ đạt 158,29 tỷ USD nhưng vẫn 19,3% sv 2016, ghi
nhận mức giảm đầu tiên kể 2003. DN TQ sẽ tiếp tục đầu tư ra nước
ngoài, với kỳ vọng nền KT nước này sẽ góp phần vào sự phát triển
chung với các quốc gia khác, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng KT toàn
Kinh tế Quốc tế
12
cầu. Các khoản đầu tư của TQ vào châu Âu và châu Phi 70% trong
2017, trong khi đầu tư vào các nước dọc Vành đai và Con đường chiếm
12% tổng ODI của TQ, tăng 31,5% sv 2016. Sáu lĩnh vực đầu tư chiếm
83,6% ODI của TQ gồm DV DN và cho thuê, bán lẻ và bán buôn, DV
CNTT và phần mềm, tài chính, khai mỏ, chế tạo.
Nhà đầu tư nước ngoài đổ xô
tháo chạy khỏi thị trường chứng
khoán Trung Quốc
Vừa hoạt động trở lại sau Tuần lễ Vàng, TTCK TQ đã lao dốc mạnh, ghi
nhận khởi đầu tháng 10 tồi tệ nhất trong 1 thập kỷ. Trước tình cảnh đó,
những NĐT giá lên (bull) còn lại cũng tỏ ra hoảng sợ và rút vốn ra khỏi
thị trường. Cụ thể, ngày 08/10, NĐTNN đã bán ròng 9,7 tỷ CNY (#1,4 tỷ
USD) cổ phiếu TQ loại A, gần đạt mức kỷ lục vừa xác lập từ 8 tháng
trước. Shanghai Composite 104,84 điểm (#3,72%) xuống 2.716,51
điểm. FTSE China A50 Index #5% trong đợt bán tháo dữ dội nhất kể
từ tháng 01/2016. Bên cạnh đó, CNY có lúc 0,5%. Một số chuyên
viên giao dịch cho biết, việc thiếu vắng sự can thiệp của nhóm National
Team - các quỹ có sự hậu thuẫn của Chính phủ TQ - đã làm đà giảm
trở nên trầm trọng hơn trong phiên chiều. Các biện pháp hỗ trợ từ
NHTW TQ cũng không thể “chữa lành” nỗi đau, sau quá nhiều thông tin
tiêu cực, bao gồm số liệu SX công nghiệp yếu và những lời cáo buộc
can thiệp vào cuộc bầu cử Mỹ. Theo CEO Uob Kay Hian (Hong Kong)
Ltd. “NĐTNN bỗng trở nên bi quan, không còn lạc quan khi mua cổ
phiếu TQ loại A trước đó. Đà bán tháo mạnh ở TQ là dấu hiệu cho thấy
NĐT ngày càng quan ngại về mối quan hệ giữa Mỹ và TQ”. Chiến lược
gia của Central China Securities Thượng Hải cho rằng: “Quyết định cắt
giảm tỷ lệ RRR đã nằm trong suy tính của thị trường và chưa đủ để
chống lại các yếu tố tiêu cực về tất cả khía cạnh trong suốt dịp Tuần lễ
Vàng. Ngay cả các quỹ quốc gia TQ cũng không có khả năng vực dậy
thị trường cho đến khi các rủi ro lan truyền đã được phản ánh vào giá”…
ASEAN giữa làn sóng thanh toán
di động
ASEAN đang nổi lên như một KV công nghệ thanh toán điện tử, gồm cả
những ví điện tử phát hành từ hệ thống NH và những ứng dụng thanh
toán di động từ các công ty công nghệ. Chỉ trong thời gian ngắn, thị
trường ASEAN xuất hiện một “rừng” những công cụ thanh toán sử dụng
ĐTDĐ khác nhau, tạo thành cuộc đua chiếm lĩnh thị trường tài chính
không tiền mặt và thậm chí tạo nên bối rối cho người sử dụng. Thị
trường thanh toán điện tử và đặc biệt thanh toán di động rất sôi nổi
trong mấy năm gần đây do các công ty công nghệ trong vùng đang
13
chuyển từ KD ứng dụng đơn độc sang KD hệ sinh thái, điển hình như
Go-Jek với Go Pay hay Grab với Grab Pay. Quan trọng nhất là chiến
lược bành trướng xuyên biên giới của các ứng dụng thanh toán TQ như
AliPay và WeChat Pay nhằm chiếm lĩnh thị trường tài chính non trẻ này.
Allied Market Research cho biết, thị trường thanh toán di động có thể
đạt đến 3.388 tỷ USD vào 2022, trong đó KV châu Á - Thái Bình Dương
tăng trưởng nhanh nhất. EWallet/Ví điện tử nằm trong ĐTDĐ đã trở
thành mặt trận tiên phong vì quen thuộc như ví tiền truyền thống.
Không chỉ NH phát hành mà cả các công ty công nghệ tức những ông
chủ của các ứng dụng thanh toán trực tuyến (ePay) cũng cung cấp cho
khách hàng những ví điện tử… Xuất phát từ mã vạch (Bar Code), mã QR
ngày nay đã vượt ra khỏi vai trò xác định nhãn mác và phương tiện thu
ngân tại quầy để trở thành một phương tiện thanh toán phổ thông khi
kết hợp với một ứng dụng thanh toán di động nào đó. Indonesia và Việt
Nam đang đi đầu trong việc áp dụng mã thanh toán QR trong khi
Singapore và Thái Lan nhắm đến thiết lập mã QR quốc gia.
14
Tài liệu tham khảo:
Bảng chỉ số https://www.hsx.vn/Modules/Cms/Web/ViewArticle/b6d10da6-7c26-40d8-b720-20e298a4ed06
https://hnx.vn/
https://www.bloomberg.com/markets/stocks
http://www.sjc.com.vn/
https://goldprice.org/vi/index.html
https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/rm/tg?_afrLoop=515501331129000
Tin Tài chính - NH https://tinnhanhchungkhoan.vn/dau-tu/bo-tai-chinh-duoc-giao-lam-dau-moi-day-nhanh-tai-co-cau-
doanh-nghiep-nha-nuoc-244782.html
https://bizlive.vn/tai-chinh/tai-cau-truc-ngan-hang-tien-phai-sinh-ra-tien-3474108.html
http://cafef.vn/bai-toan-tang-von-cho-vamc-2018100717531632.chn
https://vietnambiz.vn/loi-nhuan-he-thong-ngan-hang-duoc-ky-vong-tang-truong-1863-trong-nam-
2018-95588.html
http://cafef.vn/thanh-khoan-doi-dao-tro-lai-nhung-ty-gia-co-xu-huong-tang-
20181009074347312.chn
Tin KT vĩ mô http://cafef.vn/don-nen-lam-phat-nam-2018-se-tao-ap-luc-lon-cho-nam-sau-
20181008172219187.chn
http://cafef.vn/lac-quan-tang-truong-gdp-dat-duoc-tham-chi-vuot-muc-tieu-tang-truong-len-den-7-
20181008105351882.chn
http://thoibaonganhang.vn/tang-truong-tot-dau-an-doanh-nghiep-viet-dang-dan-ro-net-hon-
80739.html
https://www.stockbiz.vn/News/2018/10/8/847918/lam-the-nao-de-kinh-te-tu-nhan-lon-manh.aspx
http://thoibaonganhang.vn/ha-noi-tang-truong-kinh-te-717-trong-9-thang-80748.html
Tin KT Quốc tế http://cafef.vn/kinh-te-my-khong-du-sang-sua-de-bu-dap-cho-su-tang-truong-cham-lai-tren-toan-
cau-20181008102122445.chn
https://vietnambiz.vn/trung-quoc-dung-thu-hai-the-gioi-ve-dau-tu-truc-tiep-ra-nuoc-ngoai-
95916.html
https://vietstock.vn/2018/10/nha-dau-tu-nuoc-ngoai-do-xo-thao-chay-khoi-thi-truong-chung-khoan-
trung-quoc-773-632202.htm
https://vietnambiz.vn/dong-nam-a-giua-lan-song-thanh-toan-di-dong-95968.html
15
Danh mục viết tắt
Bảo hiểm tiền gửi BHTG Lãi suất LS
Bảo hiểm y tế BHYT Liên ngân hàng LNH
Bảo hiểm thất nghiệp BHTN Lợi nhuận trước thuế LNTT
Bảo hiểm xã hội BHXH Lợi nhuận sau thuế LNST
Bảo hiểm nhân thọ BHNT Mua bán, sáp nhập M&A
Bất động sản BĐS Ngân hàng NH
Chi nhánh/phòng giao dịch CN/PGD Ngân hàng trung ương NHTW
Chỉ số giá tiêu dùng CPI Ngân hàng Nhà nước NHNN
Chính sách tiền tệ CSTT Ngân hàng thương mại cổ phần NHTM CP
Cơ sở hạ tầng CSHT Ngân hàng thương mại Nhà nước NHTM NN
Doanh nghiệp nhà nước DNNN Ngân hàng nước ngoài NHNNg
Doanh nghiệp tư nhân DNTN NSNN NSNN
Doanh nghiệp vừa và nhỏ DNVVN Ngân sách trung ương NSTW
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài DN FDI Tài chính - ngân hàng TC-NH
Khách hàng doanh nghiệp KHDN Tài sản bảo đảm/ Tài sản đảm bảo TSBĐ/ TSĐB
Khách hàng cá nhân KHCN Tăng trưởng tín dụng TTTD
Dự trữ bắt buộc DTBB Tổ chức tín dụng TCTD
Nhà đầu tư nước ngoài/ Nhà đầu tư NĐTNN/ NĐT Tổng tài sản TTS
Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI Tổng sản phẩm quốc nội GDP
Giấy chứng nhận GCN Việt Nam VN
Giá trị gia tăng GTGT Trung Quốc TQ
Thu nhập cá nhân/ Thu nhập doanh nghiệp TNCN/ TNDN TPCP TPCP
KT vĩ mô KTVM Trái phiếu doanh nghiệp TPDN
KT KT Thị trường chứng khoán/ Chứng khoán TTCK/ CK
Xã hội XH Vốn điều lệ VĐL
Khu vực KV Vốn tự có VTC
Thế giới TG Xuất nhập khẩu/ Xuất khẩu/ Nhập khẩu XNK/ XK/ NK
Kho bạc Nhà nước KBNN Sản xuất kinh doanh SXKD
Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia UBGSTCQT Dịch vụ DV
Cục dự trữ liên bang Mỹ FED Hiệp hội Chế biến và XK thuỷ sản VN VASEP
Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF Hiệp hội Lương thực VN VFA
Ngân hàng Thế giới World Bank Hiệp hội Cà phê - Ca cao VN VICOFA
Ngân hàng Phát triển châu Á ADB Hiệp hội Thép VN VSA
Ngân hàng trung ương châu Âu ECB Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội HNX
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM HOSE
Khu vực sử dụng đồng Euro EUROZONE Tổ chức Nông Lương Liên Hợp Quốc FAO
Liên minh châu Âu EU Tổng cục thống kê GSO