i h c hu i h c khoa h c - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng...

201
ĐẠI HC HUTRƯỜNG ĐẠI HC KHOA HC ------ NGUYN TUẤN BÌNH QUAN HẤN ĐỘ - MYANMAR (1962 - 2011) LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SHU- NĂM 2017

Upload: others

Post on 22-Aug-2020

0 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

ĐẠI HỌC HUẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

------

NGUYỄN TUẤN BÌNH

QUAN HỆ ẤN ĐỘ - MYANMAR

(1962 - 2011)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

HUẾ - NĂM 2017

Page 2: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

ĐẠI HỌC HUẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

------

NGUYỄN TUẤN BÌNH

QUAN HỆ ẤN ĐỘ - MYANMAR

(1962 - 2011)

Chuyên ngành: Lịch sử thế giới

Mã số: 62 22 03 11

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học:

PGS.TS. HOÀNG THỊ MINH HOA

PGS.TS. ĐẶNG VĂN CHƯƠNG

HUẾ - NĂM 2017

Page 3: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới

sự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu

trong luận án hoàn toàn trung thực, khách quan và chưa từng được công

bố trong bất kỳ một công trình nào khác.

Nghiên cứu sinh

Nguyễn Tuấn Bình

Page 4: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

Lời cảm ơn

Trong quá trình thực hiện luận án tiến sĩ, tôi đã nhận được sự hỗ trợ quý

báu và hiệu quả từ nhiều cá nhân, cơ quan và đơn vị.

Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Hoàng Thị Minh

Hoa và PGS.TS. Đặng Văn Chương - hai thầy cô hướng dẫn khoa học đã luôn

đồng hành, ủng hộ, tận tâm giúp đỡ tôi suốt thời gian học tập và thực hiện đề tài.

Tôi chân thành cảm ơn Ban Giám đốc, Ban Đào tạo Đại học Huế, Ban Giám hiệu,

Phòng Đào tạo Sau đại học và Ban Chủ nhiệm Khoa Lịch sử của Trường Đại học

Khoa học - Đại học Huế đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành luận án.

Tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến quý thầy cô thuộc Khoa Lịch sử, Bộ môn

Lịch sử thế giới của trường Đại học Khoa học và Trường Đại học Sư phạm - Đại

học Huế đã luôn quan tâm, động viên, giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu và

thực hiện đề tài.

Tôi cũng trân trọng cảm ơn Ban lãnh đạo và cán bộ Viện Nghiên cứu Đông

Nam Á, Viện Nghiên cứu Ấn Độ và Tây Nam Á, Thông tấn xã Việt Nam, Thư viện

Quốc gia Việt Nam đã hỗ trợ tôi trong quá trình tìm kiếm và sưu tầm tư liệu liên

quan luận án.

Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lời cảm ơn đến bạn bè, đồng nghiệp, đặc biệt là

lòng biết ơn sâu sắc đến gia đình thân yêu đã luôn quan tâm, động viên và đồng

hành bên tôi trong quá trình thực hiện đề tài luận án. Đây chính là nguồn động lực

to lớn giúp tôi vượt qua mọi trở ngại để nỗ lực phấn đấu đạt những kết quả nhất

định trong học tập, công tác và cuộc sống.

Huế, tháng 04 năm 2017

Tác giả

Nguyễn Tuấn Bình

Page 5: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

MỤC LỤC

Trang

TRANG PHỤ BÌA

LỜI CAM ĐOAN

LỜI CẢM ƠN

MỤC LỤC

DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 1

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................... 3

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 3

4. Các nguồn tài liệu .............................................................................................. 5

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ................................................ 5

6. Đóng góp của luận án ........................................................................................ 6

7. Bố cục luận án .................................................................................................... 7

NỘI DUNG ............................................................................................................... 8

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU .................................. 8

1.1. Tình hình nghiên cứu vấn đề khoa học ở trong nước ..................................... 8

1.2. Tình hình nghiên cứu vấn đề khoa học ở nước ngoài ................................... 11

1.3. Một số nhận xét và vấn đề đặt ra cho luận án .............................................. 16

CHƯƠNG 2. CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ ẤN ĐỘ - MYANMAR (1962 -

2011) ......................................................................................................................... 18

2.1. Cơ sở địa - chính trị ...................................................................................... 18

2.2. Cơ sở văn hoá và lịch sử ............................................................................... 20

2.3. Khái quát quan hệ Ấn Độ - Myanmar trước năm 1962 ................................ 21

2.4. Vị trí của Ấn Độ và Myanmar trong chính sách đối ngoại của mỗi nước .... 26

Page 6: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

CHƯƠNG 3. QUAN HỆ ẤN ĐỘ - MYANMAR TỪ NĂM 1962 ĐẾN NĂM

1991 .......................................................................................................................... 42

3.1. Các nhân tố tác động đến quan hệ Ấn Độ - Myanmar (1962 - 1991) .......... 42

3.2. Quan hệ Ấn Độ - Myanmar (1962 - 1991) trên một số lĩnh vực chủ yếu .... 50

3.2.1. Trên lĩnh vực chính trị - ngoại giao ....................................................... 50

3.2.2. Trên lĩnh vực kinh tế ............................................................................. 59

3.2.3. Trên lĩnh vực an ninh - quốc phòng ...................................................... 62

CHƯƠNG 4. QUAN HỆ ẤN ĐỘ - MYANMAR TỪ NĂM 1992 ĐẾN NĂM

2011 .......................................................................................................................... 67

4.1. Các nhân tố tác động đến quan hệ Ấn Độ - Myanmar (1992 - 2011) .......... 67

4.2. Quan hệ Ấn Độ - Myanmar (1992 - 2011) trên một số lĩnh vực chủ yếu ..... 73

4.2.1. Trên lĩnh vực chính trị - ngoại giao ....................................................... 74

4.2.2. Trên lĩnh vực kinh tế ............................................................................. 81

4.2.3. Trên lĩnh vực an ninh - quốc phòng ...................................................... 96

4.2.4. Trên lĩnh vực hợp tác đa phương ........................................................ 102

CHƯƠNG 5. THÀNH TỰU, ĐẶC ĐIỂM VÀ TÁC ĐỘNG CỦA QUAN HỆ

ẤN ĐỘ - MYANMAR (1962 - 2011) ................................................................... 107

5.1. Thành tựu và hạn chế trong quan hệ Ấn Độ - Myanmar (1962 - 2011) ..... 107

5.2. Đặc điểm của quan hệ Ấn Độ - Myanmar (1962 - 2011) ........................... 112

5.3. Tác động của quan hệ Ấn Độ - Myanmar (1962 - 2011) đối với hai nước và

khu vực ............................................................................................................... 122

5.3.1. Đối với Ấn Độ ..................................................................................... 122

5.3.2. Đối với Myanmar ................................................................................ 126

5.3.3. Đối với khu vực ................................................................................... 129

KẾT LUẬN ........................................................................................................... 132

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN

QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ....................................................................................... 135

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 137

PHỤ LỤC

Page 7: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

DANH MỤC BẢNG

Trang

Bảng 3.1. Danh mục các mặt hàng xuất khẩu từ Ấn Độ vào Miến Điện và ngược lại

theo Hiệp định thúc đẩy thương mại năm 1962 ....................................................... 59

Bảng 3.2. Kim ngạch thương mại song phương Ấn Độ - Myanmar

(1991 - 2011) ............................................................................................................ 82

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Trang

Biểu đồ 3.1. Cán cân thương mại song phương Ấn Độ - Myanmar

(2000 - 2011) ............................................................................................................ 84

Biểu đồ 3.2. Kim ngạch thương mại biên giới Ấn Độ - Myanmar (1997 - 2011) ... 86

Page 8: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Từ viết tắt Nghĩa tiếng Anh Nghĩa tiếng Việt

ABFSU All Burma Federation of

Student Unions

Hội Liên hiệp sinh viên toàn

Miến Điện

ADB Asian Development Bank Ngân hàng Phát triển Châu Á

AEC Asian Economic Community Cộng đồng Kinh tế châu Á

AFTA ASEAN Free Trade Area Khu vực Thương mại Tự do

ASEAN

APEC Asia - Pacific Economic

Cooperation

Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu

Á - Thái Bình Dương

ARF ASEAN Regional Forum Diễn đàn Khu vực ASEAN

ASEAN Association of Southeast Asian

Nations

Hiệp hội Các quốc gia Đông

Nam Á

ASEAN + 1 ASEAN Plus One Cơ chế hợp tác giữa ASEAN với

từng nước đối thoại đầy đủ

ASEAN + 3 ASEAN Plus Three

Cơ chế hợp tác giữa ASEAN và

ba nước Đông Bắc Á gồm Nhật

Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc.

ASEM The Asia - Europe Meeting Diễn đàn Hợp tác Á - Âu

BIMSTEC

Bay of Bengal Initiative for

Multi Sectoral Technical and

Economic Cooperation

Sáng kiến Vùng Vịnh Bengal về

Hợp tác Kinh tế và Kỹ thuật đa

khu vực

BIPA Bilateral Investment Promotion

Agreement

Hiệp định xúc tiến đầu tư song

phương

BJP Bharatiya Janata Party Đảng Nhân dân Ấn Độ

CNF The Chin National Front Mặt trận Dân tộc Chin

DTAA Double Taxation Avoidance Hiệp định tránh đánh thuế hai

Page 9: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

Agreement lần

EU European Union Liên minh Châu Âu

GAIL Gas Authority of India Limited Công ty trách nhiệm hữu hạn

khí đốt Ấn Độ

GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm Quốc nội

IEB India’s EXIM Bank Ngân hàng xuất nhập khẩu Ấn Độ

IMF International Monetary Fund Quỹ tiền tệ quốc tế

IS Islamic State Nhà nước Hồi giáo tự xưng

ITEC Indian Technical and

Economic Cooperation

Hợp tác Kỹ thuật và Kinh tế của

Ấn Độ

JTC Joint Trade Committee Uỷ ban Thương mại hỗn hợp

KIA Kachin Independence Army Quân đội độc lập Kachin

MFTB Myanmar Foreign Trade Bank Ngân hàng Ngoại thương

Myanmar

MoU Memorandum of

Understanding Bản ghi nhớ

MGC Mekong - Ganga Cooperation Tổ chức Hợp tác Mekong -

Sông Hằng

NAM Non-Aligned Movement Phong trào Không liên kết

NATO North Atlantic Treaty

Organization Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương

NCGUB

National Coalition

Government of the Union of

Burma

Liên minh Chính phủ Quốc gia

Liên bang Miến Điện

NICs Newly Industrialized Countries Các nước công nghiệp mới

NLD National League for

Democracy

Liên minh quốc gia vì nền dân

chủ

Page 10: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

NSCN National Socialist Council of

Nagaland

Hội đồng quốc gia xã hội chủ

nghĩa Nagaland

OEF Oil Essar Firm Công ty trách nhiệm dầu khí

Essar

ONGC Oil and Natural Gas

Corporation

Tập đoàn Dầu mỏ và Khí đốt

quốc gia Ấn Độ

OPEC Organization of Petroleum

Exporting Countries

Tổ chức Các nước xuất khẩu

dầu lửa

PLA People’s Liberation Army Quân đội giải phóng nhân dân

PREPAK People’s Revolutionary Party

of Kangleipak

Đảng Nhân dân cách mạng

Kangleipak

Rs Rupee Đơn vị tiền tệ của Ấn Độ

SAARC South Asian Association for

Regional Cooperation Hiệp hội Hợp tác khu vực Nam Á

SLORC The State Law and Order

Restoration Council

Hội đồng Khôi phục Trật tự và

Luật pháp Quốc gia

SPDC The State Peace and

Development Council

Hội đồng Hòa bình và Phát

triển quốc gia

TAC Treaty of Amity and

Cooperation Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác

ULFA United Liberation Front of Asom Mặt trận thống nhất giải phóng Asom

UNLF United National Liberation Front Mặt trận thống nhất giải phóng Dân tộc

USD United States dollar Đồng dollar Mỹ

USDP The Union Solidarity and

Development Party

Đảng Liên minh Đoàn kết và

Phát triển

WB World Bank Ngân hàng thế giới

WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại Thế giới

Page 11: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945) đến đầu thập niên thứ hai

của thế kỷ XXI, lịch sử nhân loại đã trải qua nhiều biến động to lớn, phức tạp và

khó lường. Trật tự thế giới lưỡng cực được thiết lập sau năm 1945 tồn tại hơn 40

năm đã sụp đổ vào năm 1991 khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước

Đông Âu sụp đổ. Chiến tranh lạnh kết thúc, một trật tự thế giới mới được hình

thành. Trong tiến trình lịch sử đó, mỗi quốc gia đều chịu ảnh hưởng từ những biến

động trên. Mối quan hệ giữa Ấn Độ và Myanmar từ sau khi hai nước giành độc lập

đến thập niên đầu thế kỷ XXI cũng không nằm ngoài xu thế đó.

Ấn Độ và Myanmar là hai nước láng giềng có mối quan hệ truyền thống gần

gũi và lâu đời. Cả hai đều đã từng là thuộc địa của người Anh và Myanmar cũng

từng bị sáp nhập, trở thành một phần lãnh thổ của Ấn Độ thuộc Anh trong những

năm 1886 - 1937. Trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm trong lịch sử, mối quan hệ

truyền thống trên các lĩnh vực chính trị, văn hóa - xã hội và kinh tế của Ấn Độ và

Myanmar luôn là “sợi chỉ” kết nối hai nước cả trong cuộc đấu tranh giành độc lập

đến công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của mỗi bên kéo dài cho đến tận ngày

nay. Trong những năm 1948 - 1962, quan hệ Ấn Độ - Myanmar nhìn chung diễn ra

hữu nghị và thân thiện. Tuy nhiên, cuộc đảo chính do Tướng Ne Win cầm đầu đã mở

ra thời kỳ quân đội lên nắm quyền ở Myanmar (tháng 3-1962) đã góp phần làm cho

mối quan hệ hai nước trở nên lạnh nhạt và căng thẳng trong nhiều thập kỷ sau đó. Từ

đầu những năm 90 của thế kỷ XX, sự kết thúc của Chiến tranh lạnh đã mở ra một

thời kỳ mới trong quan hệ quốc tế - thời kỳ hoà dịu, đối thoại và hợp tác trên quy mô

toàn cầu. Tình hình mới của thế giới và khu vực đã tác động đến sự điều chỉnh chính

sách ngoại giao của các quốc gia, tạo nên những chất xúc tác mới nối lại mối quan

hệ hợp tác hoà bình, cùng có lợi, trong đó có Ấn Độ và Myanmar. Bên cạnh đó,

những đổi thay ở Myanmar trong những năm đầu thế kỷ XXI cũng đã tạo ra những

cơ hội mới cho việc tăng cường quan hệ giữa nước này với Ấn Độ. Cùng với vị trí

chiến lược quan trọng, Myanmar là điểm kết nối ba thị trường lớn của châu Á

Page 12: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

2

(ASEAN, Trung Quốc và Ấn Độ), là “cây cầu” nối liền Nam Á với Đông Nam Á và

được các cường quốc xem đây là “ngã tư của châu Á”. Quan hệ Ấn Độ - Myanmar

được xem như là một trong những động lực phát triển của khu vực. Sự gia tăng quan

hệ hợp tác giữa hai nước láng giềng Ấn Độ với Myanmar không chỉ nâng cao vị thế

của mỗi nước, mà còn góp phần quan trọng vào công cuộc duy trì hoà bình, thúc đẩy

hợp tác cùng phát triển ở Nam Á, Đông Nam Á và châu Á - Thái Bình Dương.

Vậy, cơ sở địa - chính trị, văn hoá, lịch sử của quan hệ Ấn Độ - Myanmar là

gì? Tình hình quốc tế và khu vực Nam Á, châu Á - Thái Bình Dương và nhân tố

Trung Quốc có tác động như thế nào đến tiến trình quan hệ hai nước? Mối quan hệ

song phương này đã diễn tiến ra sao trong những năm 1962 - 2011? Những nội

dung hợp tác chủ yếu giữa hai nước trong giai đoạn 1962 - 2011 là gì? Mối quan hệ

này đã có tác động như thế nào đến chiến lược và chính sách phát triển của mỗi

nước cũng như tình hình khu vực? Vị thế, đặc điểm của quan hệ Ấn Độ - Myanmar

ở khu vực trong sự đối sánh với quan hệ Trung Quốc - Myanmar?... Với những vấn

đề nêu trên, mối quan hệ giữa hai nước láng giềng Ấn Độ và Myanmar (1962 -

2011) đã trở thành đề tài thu hút sự quan tâm của nhiều học giả trong giới nghiên

cứu lịch sử nói chung và lịch sử quan hệ quốc tế nói riêng. Điều này thực sự ý nghĩa

nếu có được một công trình nghiên cứu cơ bản, có hệ thống về quan hệ Ấn Độ -

Myanmar trong giai đoạn được đề cập.

Với mục đích góp phần nhìn nhận, lý giải các vấn đề nêu trên, chúng tôi chọn

vấn đề “Quan hệ Ấn Độ - Myanmar (1962 - 2011)” làm luận án tiến sĩ, chuyên

ngành Lịch sử thế giới. Việc nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa khoa học và thực tiễn.

Về góc độ khoa học, thông qua việc tái hiện một cách tương đối toàn diện và

có hệ thống quan hệ Ấn Độ - Myanmar trong giai đoạn 1962 - 2011, luận án sẽ chỉ

ra những nhân tố tác động, các thành tựu chủ yếu của mối quan hệ hai nước trong

giai đoạn nghiên cứu. Trong tiến trình phát triển, mối quan hệ này luôn chịu sự tác

động của nhân tố nước lớn, đặc biệt là Trung Quốc, quốc gia đang cạnh tranh ảnh

hưởng và quyền lợi với Ấn Độ tại Myanmar nói riêng và ở châu Á nói chung. Đồng

thời, từ việc tìm hiểu những bước thăng trầm trong quan hệ Ấn Độ - Myanmar

(1962 - 2011), đề tài cố gắng làm rõ những thành tựu và hạn chế, đặc điểm cũng

như tác động của mối quan hệ này đối với hai nước và khu vực.

Page 13: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

3

Về góc độ thực tiễn, trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam đang thực hiện chính

sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa các mối quan hệ quốc tế nhằm

đưa đất nước ngày càng phát triển ổn định, hòa bình. Nghiên cứu quan hệ Ấn Độ -

Myanmar là một cách giúp chúng ta học hỏi kinh nghiệm ngoại giao từ hai nước,

tìm ra một đối trọng có thể cân bằng ảnh hưởng và vị thế với Trung Quốc ở khu

vực. Trong quan hệ với các nước láng giềng, nhất là với Trung Quốc, chúng ta cần

phải có chính sách đối ngoại phù hợp nhằm duy trì mối quan hệ hữu nghị, nâng cao

vị thế trên trường quốc tế, đem lại lợi ích cao nhất cho đất nước.

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục tiêu nghiên cứu

Trên cơ sở tái hiện lại quan hệ Ấn Độ - Myanmar (1962 - 2011) theo thời

gian, đề tài phân tích và làm rõ những bước phát triển của mối quan hệ trong bối

cảnh quốc tế, khu vực và nội tình mỗi nước, từ đó rút ra một số nhận xét về quan hệ

Ấn Độ - Myanmar đối với sự phát triển của hai nước, vị thế, tác động của mối quan

hệ này đối với mỗi nước và khu vực.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận án “Quan hệ Ấn Độ - Myanmar (1962 - 2011)” thực hiện các nhiệm vụ sau:

- Thứ nhất, phân tích cơ sở địa - chính trị, văn hoá, lịch sử, những nhân tố tác

động đến quan hệ Ấn Độ - Myanmar, bao gồm: Bối cảnh quốc tế, khu vực, vị trí của

Ấn Độ và Myanmar trong chính sách đối ngoại của mỗi nước, nhân tố Trung Quốc.

- Thứ hai, trình bày tiến trình quan hệ giữa Ấn Độ với Myanmar trong những

năm 1962 - 2011 trên các lĩnh vực: Chính trị - ngoại giao, kinh tế, an ninh - quốc

phòng và hợp tác đa phương.

- Thứ ba, đưa ra một số nhận xét về thành tựu, đặc điểm của quan hệ Ấn Độ -

Myanmar (1962 - 2011) và phân tích tác động của mối quan hệ này đối với mỗi

nước và khu vực.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án là mối quan hệ Ấn Độ - Myanmar từ

năm 1962 đến năm 2011 trên các lĩnh vực: Chính trị - ngoại giao, kinh tế, an ninh -

quốc phòng cả ở cấp độ song phương và hợp tác đa phương.

Page 14: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

4

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Về mặt không gian, luận án tập trung nghiên cứu quan hệ song phương giữa

hai nước Ấn Độ và Myanmar, đồng thời có mở rộng ra một số quốc gia và tổ chức

có liên quan trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đặc biệt nhân tố Trung Quốc

trong quan hệ Ấn Độ - Myanmar.

Về mặt thời gian, phạm vi nghiên cứu của luận án là thời kỳ 1962 - 2011.

Mốc mở đầu của đề tài là năm 1962, sự kiện đảo chính của quân đội do Tướng Ne

Win đứng đầu, chế độ quân sự Myanmar được thành lập. Đây là thời điểm đánh dấu

mối quan hệ của Myanmar với Ấn Độ đi từ hoà bình, hữu nghị sang căng thẳng và

thiếu thân thiện trong nhiều năm sau. Những hành động đàn áp dân chủ của chính

quyền quân sự Myanmar trong những năm 1962 - 1991 càng làm gia tăng sự căng

thẳng trong mối quan hệ hai nước và sự cô lập của thế giới đối với Myanmar (ngoại

trừ Trung Quốc vẫn tiếp tục duy trì quan hệ chặt chẽ với nước láng giềng này).

Năm 2011, Quốc hội Myanmar bỏ phiếu bầu ông Thein Sein làm Tổng thống

Myanmar, đánh dấu bước chuyển từ chính thể nhà nước quân sự sang nhà nước dân

sự. Ấn Độ là một trong những quốc gia lên tiếng bày tỏ sự ủng hộ đối với tiến trình

cải cách dân chủ ở Myanmar. Sau sự kiện trên, mối quan hệ giữa Ấn Độ và

Myanmar đã bước sang một thời kỳ mới đầy triển vọng. Cũng trong năm này, Tổng

thống Myanmar Thein Sein đi thăm Ấn Độ - chuyến công du nước ngoài đầu tiên

sau khi nhậm chức - nhằm thúc đẩy quan hệ hợp tác song phương. Năm 2012, Thủ

tướng Ấn Độ Manmohan Singh đã có chuyến thăm Myanmar kể từ sau chuyến

thăm của Thủ tướng Rajiv Gandhi (tháng 12-1987). Chuyến thăm Ấn Độ của Tổng

thống Thein Sein và chuyến thăm Myanmar của Thủ tướng M. Singh góp phần mở

ra một giai đoạn phát triển mới trong quan hệ hai nước, là các sự kiện quan trọng

đưa Myanmar hội nhập, phát triển trong khu vực và thế giới. Vì những lý do trên,

chúng tôi giới hạn mốc kết thúc của luận án là năm 2011. Ngoài ra, ở một mức độ

nhất định, đề tài cũng đề cập đến một số vấn đề, sự kiện lịch sử xảy ra ngoài phạm

vi khung thời gian nói trên nhằm làm sáng tỏ một số vấn đề liên quan đến luận án.

Về nội dung, đề tài luận án tập trung nghiên cứu cơ sở và những nhân tố tác

động đến quan hệ giữa Ấn Độ và Myanmar, tiến trình quan hệ hai nước từ năm

1962 đến năm 2011 trên các lĩnh vực chủ yếu: Chính trị - ngoại giao, kinh tế, an

Page 15: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

5

ninh - quốc phòng và trên lĩnh vực hợp tác đa phương (từ năm 1992). Trong khuôn

khổ luận án và sự giới hạn về điều kiện, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu quan hệ

Ấn Độ - Myanmar (1962 - 2011) trên các lĩnh vực tiêu biểu như trên.

Về tên gọi, tên đề tài là “Quan hệ Ấn Độ - Myanmar (1962 - 2011)”, tuy

nhiên trong luận án có thể sử dụng các tên gọi chính thức của hai nước là Cộng hòa

Ấn Độ và Cộng hòa Liên bang Myanmar (từ năm 2010 đến nay - 2017), hoặc Liên

bang Miến Điện (1948 - 1974), Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Liên bang Miến Điện

(1974 - 1988), Liên bang Miến Điện (1988 - 1989), Liên bang Myanmar (1989 -

2010) tuỳ theo từng giai đoạn lịch sử và các tên gọi này đều có giá trị như nhau.

4. Các nguồn tài liệu

Để thực hiện đề tài luận án, chúng tôi sử dụng các nguồn tài liệu tham khảo sau:

- Nguồn tư liệu gốc cung cấp những kiến thức lịch sử có độ tin cậy cao nhất

như các văn kiện của chính phủ Ấn Độ và chính phủ Myanmar; các Báo cáo thường

niên của Bộ Ngoại giao Ấn Độ; các bài phát biểu của các nhà lãnh đạo cấp cao hai

nước; các Tuyên bố chung, hiệp ước, hiệp định về chính trị - ngoại giao, thương mại,

an ninh biên giới...; các số liệu thống kê của Bộ Công thương Ấn Độ, Bộ Thương

mại Myanmar, Bộ Tài chính Myanmar. Nguồn tư liệu này bao gồm các tập tư liệu

gốc được công bố trên trang web chính thức của Bộ Ngoại giao Ấn Độ và Bộ Công

thương Ấn Độ, trong những công trình tập hợp các văn bản chính sách đối ngoại của

Ấn Độ, trên website của Viện Thông tin pháp luật của Khối Thịnh vượng chung...

- Các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo, sách tham khảo, bài viết

đăng trên các tạp chí chuyên ngành, báo cáo tham luận tại các cuộc hội thảo khoa

học liên quan đến đề tài luận án của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước (chủ

yếu bằng tiếng Anh) đã được công bố trong những năm gần đây.

- Một số luận án tiến sĩ, tài liệu tham khảo của Thông tấn xã Việt Nam và tài

liệu website trên mạng Internet có liên quan đến vấn đề nghiên cứu của luận án.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Luận án được thực hiện trên cơ sở quán triệt sâu sắc chủ nghĩa duy vật biện

chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Marx - Lenin. Đây là nền tảng để

chúng tôi xử lý các nguồn tư liệu nhằm phân tích, đánh giá các sự kiện, các vấn đề

Page 16: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

6

chủ yếu trong quan hệ giữa Ấn Độ với Myanmar trong giai đoạn nghiên cứu của

luận án. Theo đó, phương pháp luận này được chúng tôi vận dụng để xem xét, nhìn

nhận sự vận động và tiến trình phát triển quan hệ Ấn Độ - Myanmar trong gần nửa

thế kỷ kể từ sau khi giành độc lập.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận án “Quan hệ Ấn Độ - Myanmar (1962 - 2011)” là một đề tài nghiên cứu

lịch sử, do vậy các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành như phương pháp lịch sử,

phương pháp logic được xem là những phương pháp cơ bản khi thực hiện đề tài. Với

việc sử dụng phương pháp lịch sử, luận án sẽ khôi phục lại tiến trình quan hệ Ấn Độ

- Myanmar (1962 - 2011) theo trình tự thời gian với những nội hàm cụ thể của nó.

Bằng phương pháp logic, trên cơ sở các nguồn tư liệu có được, luận án sẽ nghiên

cứu, phân tích tiến trình quan hệ Ấn Độ - Myanmar (1962 - 2011) trong sự vận động

và phát triển của các sự kiện, các nhân tố tác động đến quan hệ hai nước.

Bên cạnh đó, luận án còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác như:

phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, thống kê, phân kỳ lịch sử... khi nghiên cứu

nhằm nhìn nhận và đánh giá vấn đề một cách xác thực. Trên cơ sở trình bày nội

dung tiến trình quan hệ Ấn Độ - Myanmar, luận án sẽ phân tích, tổng hợp nhằm hệ

thống hoá vấn đề nghiên cứu. Trong quá trình xử lý tư liệu, chúng tôi có sự đối

chiếu giữa các nguồn tài liệu, số liệu của các học giả nhằm xác định tư liệu phù hợp

nhất phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài. Bên cạnh đó, luận án sử dụng phương pháp

so sánh, thống kê bảng biểu, niên biểu, biểu đồ... khi nghiên cứu từng nội dung cụ

thể của đề tài. Luận án sử dụng phương pháp phân kỳ lịch sử nhằm phân chia mốc

thời gian nghiên cứu, các giai đoạn lịch sử phù hợp khi thực hiện đề tài.

6. Đóng góp của luận án

Đề tài luận án “Quan hệ Ấn Độ - Myanmar (1962 - 2011)” sẽ có những đóng

góp cụ thể sau:

6.1. Về mặt khoa học

- Thứ nhất, luận án là công trình khoa học lịch sử nghiên cứu một cách tương

đối có hệ thống và khá toàn diện về quan hệ Ấn Độ - Myanmar (1962 - 2011).

- Thứ hai, luận án làm rõ quá trình phát triển và thực trạng quan hệ giữa Ấn

Độ và Myanmar trên các lĩnh vực: Chính trị - ngoại giao, kinh tế, an ninh - quốc

Page 17: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

7

phòng trong giai đoạn nghiên cứu nói trên, từ đó rút ra một số nhận xét và đánh giá

tác động của mối quan hệ này đối với mỗi nước và khu vực.

6.2. Về mặt thực tiễn

- Thứ nhất, luận án là tài liệu tham khảo cần thiết cho giảng viên, cán bộ

nghiên cứu, học viên, sinh viên ngành lịch sử, ngành quan hệ quốc tế và cho những

ai quan tâm tìm hiểu, nghiên cứu quan hệ Ấn Độ - Myanmar, đóng góp vào việc

nghiên cứu quan hệ Ấn Độ với các nước Đông Nam Á (trong đó có Việt Nam).

- Thứ hai, kết quả nghiên cứu của luận án (ở một mức độ nhất định) có thể

cung cấp thêm những thông tin hữu ích cho các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định

chính sách của Việt Nam, nhất là trong quan hệ ứng xử với Ấn Độ và Myanmar.

7. Bố cục luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung chính

của luận án được chia làm năm chương:

Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu

Chương 2. Cơ sở hình thành quan hệ Ấn Độ - Myanmar (1962 - 2011)

Chương 3. Quan hệ Ấn Độ - Myanmar từ năm 1962 đến năm 1991

Chương 4. Quan hệ Ấn Độ - Myanmar từ năm 1992 đến năm 2011

Chương 5. Thành tựu, đặc điểm và tác động của quan hệ Ấn Độ - Myanmar

(1962 - 2011)

Page 18: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

8

NỘI DUNG

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

Quan hệ Ấn Độ - Myanmar là đối tượng thu hút sự quan tâm nghiên cứu của

nhiều học giả Việt Nam và nước ngoài. Nhìn chung, có nhiều công trình khoa học

nghiên cứu về các khía cạnh của quan hệ hai nước. Trong phạm vi những công trình

và tài liệu có thể tiếp cận được, chúng tôi trình bày một số nét chính về vấn đề

nghiên cứu theo hai hướng như sau:

1.1. Tình hình nghiên cứu vấn đề khoa học ở trong nước

Ơ trong nước, việc nghiên cứu quan hệ Ấn Độ - Myanmar được nhiều học giả

quan tâm. Trên cơ sở nguồn tài liệu về quan hệ hai nước và các vấn đề liên quan,

chúng tôi chia thành hai nhóm nội dung lớn:

Nhóm thứ nhất: Nghiên cứu chính sách đối ngoại của Ấn Độ đối với Myanmar

và ASEAN, chính sách đối ngoại của Myanmar đối với Ấn Độ và các nước Nam Á

Chính sách đối ngoại của Ấn Độ đã được nhiều học giả quan tâm nghiên cứu

và công bố trên nhiều ấn phẩm như sách, tạp chí... Tác giả Trần Thị Lý với công trình

sách Sự điều chỉnh chính sách của Cộng hòa Ấn Độ từ 1991 đến 2000 (Nxb. Khoa

học Xã hội, 2002) đề cập sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Ấn Độ vào những

năm 90 của thế kỷ XX. Trong tác phẩm Chiến lược đối ngoại của các nước lớn và

quan hệ với Việt Nam trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI (Nxb. Chính trị Quốc gia,

2006), các tác giả tập trung nghiên cứu chiến lược đối ngoại của Mỹ, Trung Quốc,

Nga, Nhật Bản, Ấn Độ và Liên minh châu Âu (EU) trong hai thập niên đầu thế kỷ

XXI. Có thể nói, các công trình trên đã trình bày chính sách đối ngoại của Ấn Độ từ

sau Chiến tranh lạnh trở đi, nhất là chính sách “hướng Đông”.

Bên cạnh đó, nhiều ấn phẩm của các tạp chí chuyên ngành trong nước cũng đã

trình bày một số vấn đề trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ thời kỳ Chiến tranh

lạnh, như: “Tìm hiểu tư tưởng hoà bình trong chính sách đối ngoại của nước Cộng

hoà Ấn Độ”, (Nghiên cứu Lịch sử, số 3, 1998) của Nguyễn Cảnh Huệ, “Vài suy nghĩ

Page 19: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

9

về tư duy đối ngoại của Ấn Độ” (Nghiên cứu Đông Nam Á, số 6, 2001) của Tôn Sinh

Thành; “Tư tưởng không liên kết ở Ấn Độ từ Jawaharlal Nehru đến Indira Gandhi”,

(Nghiên cứu Lịch sử, số 2, 2005) của Ngô Minh Oanh... Các bài viết trên giúp chúng

tôi có cái nhìn cụ thể hơn về tư tưởng hoà bình, dân chủ, không liên kết trong chính

sách đối ngoại của Ấn Độ từ sau khi giành độc lập đến cuối thế kỷ XX.

Chính sách “hướng Đông” là một vấn đề thu hút sự quan tâm nghiên cứu của

nhiều học giả trong nước. Trong Luận án Tiến sĩ Lịch sử với tiêu đề ASEAN trong

chính sách hướng Đông của Ấn Độ (Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, 2011), tác

giả Võ Xuân Vinh trình bày các vấn đề liên quan đến nội dung của chính sách

“hướng Đông”, bao gồm các mục tiêu chủ yếu của chính sách, phạm vi và các giai

đoạn phát triển của chính sách, các lĩnh vực triển khai của chính sách, vị trí của

chính sách “hướng Đông” trong chiến lược đối ngoại của Ấn Độ. Một ấn phẩm

không thể không nhắc đến khi nghiên cứu về chính sách “hướng Đông” và quan hệ

Ấn Độ - Đông Á là cuốn sách Hướng về phía Đông - Một chiến lược lớn của Ấn Độ

(Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, 2015) của Nguyễn Trường Sơn. Nội dung công

trình tập trung trình bày khái quát về chính sách “hướng Đông” của Ấn Độ, mối

quan hệ truyền thống giữa Ấn Độ và Đông Á. Các công trình nêu trên là những tài

liệu tham khảo cần thiết cho chúng tôi khi nghiên cứu chính sách “hướng Đông” từ

sau Chiến tranh lạnh, vị thế của khu vực Đông Nam Á trong chiến lược đối ngoại

của Ấn Độ và quan hệ Ấn Độ - ASEAN, trong đó có Myanmar.

Chính sách đối ngoại “hướng Đông” còn được nghiên cứu trên các bài viết

của các tạp chí chuyên ngành có uy tín, có thể kể đến như: Võ Xuân Vinh với bài

viết “Chính sách “hướng Đông” của Ấn Độ: các nguyên nhân hình thành” (Nghiên

cứu Đông Nam Á, số 3, 2005) và “Một số nội dung cơ bản trong chính sách hướng

Đông của Ấn Độ” (Nghiên cứu Đông Nam Á, số 10, 2009); Hoàng Thị Minh Hoa

với “Chính sách hướng Đông của Ấn Độ và tác động của nó tới quan hệ Ấn Độ -

Trung Quốc” (Những vấn đề Kinh tế và Chính trị thế giới, số 9, 2009) và “Chính

sách đối ngoại của Ấn Độ với Đông Nam Á giai đoạn 1991 - 2010 và tác động của

nó” (Những vấn đề Kinh tế và Chính trị thế giới, số 1, 2012)... Các bài viết trên tập

trung đề cập các nguyên nhân ra đời, nội dung cơ bản của chính sách “hướng

Đông”, nhân tố Trung Quốc trong chính sách này. Nội dung của các công trình này

Page 20: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

10

tập trung phân tích sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Ấn Độ dưới tác động của

bối cảnh trong nước và quốc tế, chủ yếu trình bày chính sách “hướng Đông”. Ơ

phạm vi nhất định, các công trình cũng phân tích quá trình triển khai chính sách đối

ngoại của Ấn Độ đối với các nước Đông Nam Á, trong đó có Myanmar được cụ thể

hóa trên một số lĩnh vực chủ yếu: Chính trị - ngoại giao, kinh tế, an ninh - quốc

phòng. Đây là những cơ sở để tác giả tiếp tục nghiên cứu chính sách đối ngoại của

Ấn Độ với Myanmar và quan hệ Ấn Độ - Myanmar giai đoạn 1962 - 2011.

So với các công trình nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Ấn Độ, công

trình nghiên cứu chính sách đối ngoại của Myanmar ở trong nước vẫn còn khá hạn

chế và chưa có sách chuyên khảo về vấn đề này. Trong bài viết “Chính sách đối

ngoại trung lập của Miến Điện giai đoạn 1962 - 1988” (Tạp chí Nghiên cứu Đông

Nam Á, số 5, 2015), tác giả Đàm Thị Đào tập trung trình bày nguyên nhân, mục tiêu

và quá trình triển khai chính sách đối ngoại trung lập của Myanmar từ năm 1962

đến năm 1988. Bài viết này là một tài liệu tham khảo giúp chúng tôi tìm hiểu chính

sách đối ngoại của Myanmar và quan hệ đối ngoại giữa Myanmar với các nước lớn

trên thế giới, trong đó có Ấn Độ, trong quá trình thực hiện luận án.

Nhóm thứ hai: Nghiên cứu về quan hệ Ấn Độ - Myanmar và các mối quan

hệ giữa Ấn Độ, Myanmar với một số nước, tổ chức trong khu vực

Đây là nhóm nội dung có liên quan trực tiếp đến đề tài luận án. Quan hệ hai

nước Ấn Độ và Myanmar là một vấn đề nghiên cứu còn khá mới ở Việt Nam và hầu

như mới chỉ được đề cập một cách khái quát trong các tài liệu viết về mối quan hệ

giữa Ấn Độ và các nước Đông Nam Á, tổ chức ASEAN hoặc trong các công trình

viết riêng về lịch sử Ấn Độ, lịch sử Myanmar, cụ thể như: ấn phẩm sách Ấn Độ với

Đông Nam Á trong bối cảnh quốc tế mới (Nxb. Văn hóa - Văn nghệ, 2016) do Trần

Nam Tiến chủ biên; “Quan hệ Ấn Độ - Myanmar giai đoạn 1947 - 1962” (Nghiên

cứu Ấn Độ và châu Á, số 7, 2014) của Lê Thị Quí Đức; Lê Thế Cường và Phan Thị

Châu trong bài viết “Quan hệ thương mại và đầu tư giữa Ấn Độ và Myanmar từ năm

2010 đến 2015”, (Nghiên cứu Đông Nam Á, số 7, 2016)... Các công trình nêu trên

nghiên cứu quan hệ Ấn Độ - Myanmar trên nhiều lĩnh vực khác nhau và ở nhiều giai

đoạn cụ thể, giúp tác giả luận án có thêm tư liệu phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài

luận án từ năm 1962 đến năm 2011 một cách chi tiết hơn.

Page 21: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

11

Vấn đề quan hệ Ấn Độ - Myanmar ít nhiều còn được đề cập trong các công

trình nghiên cứu về quan hệ giữa Ấn Độ với các nước ASEAN, giữa Ấn Độ với

Trung Quốc, giữa Trung Quốc với Myanmar, cụ thể như: bài viết “Quan hệ đối ngoại

của Myanmar với Trung Quốc giai đoạn 1988 - 2003” (Nghiên cứu Đông Nam Á, số

11, 2015) của tác giả Đàm Thị Đào, đề cập mối quan hệ Myanmar - Trung Quốc từ

năm 1988 đến năm 2003 qua hai giai đoạn: 1988 - 1997 và 1997 - 2003. Trong bài

viết này, tác giả cho rằng, Trung Quốc là nước in dấu ấn đậm nhất trong toàn bộ hoạt

động đối ngoại của Myanmar trong những năm 1988 - 2003 [6, tr. 20].

Như vậy, có thể thấy rằng, trong những năm gần đây đã có một số công trình

nghiên cứu trong nước mang tính khái quát về quan hệ Ấn Độ - Myanmar trong một

số giai đoạn cụ thể hoặc quan hệ hai nước trên một số lĩnh vực riêng lẻ. Tuy nhiên,

hầu như chưa có công trình nào đề cập một cách toàn diện về mối quan hệ song

phương này từ năm 1962 đến năm 2011.

1.2. Tình hình nghiên cứu vấn đề khoa học ở nước ngoài

Nếu như tình hình nghiên cứu quan hệ Ấn Độ - Myanmar ở Việt Nam đang

còn khá hạn chế thì ở nước ngoài, đây là một đề tài được nhiều nhà khoa học quan

tâm nghiên cứu. Trong phạm vi những tài liệu có thể tiếp cận được, chúng tôi chia

các công trình khoa học thành hai nhóm nội dung:

Nhóm thứ nhất: Nghiên cứu chính sách đối ngoại của Ấn Độ và Myanmar

Chính sách đối ngoại của Ấn Độ, nhất là chính sách “hướng Đông” từ đầu

những năm 90 của thế kỷ XX là vấn đề thu hút nhiều học giả nước ngoài quan tâm

nghiên cứu. Nhiều công trình, bài viết trên các tạp chí nghiên cứu về chính sách

“hướng Đông” của Ấn Độ, cụ thể như: “Some New Thoughts on India’s Look East

Policy” (IPCS Issue Brief, No. 54, Institute of Peace and Conflict Studies, New

Delhi, India, 2007) của Baladas Ghoshal; “India’s “Look East” Policy - The

Emerging Discourse” (FPRC Journal, No. 8, Foreign Policy Research Centre, New

Delhi, India, 2011) của Khriezo Yhome; “India's Look East Policy: Its Evolution

and Approach” (South Asian Survey, 18 (2), 2011) của Thongkholal Haokip... Các

công trình nêu trên đều nghiên cứu về giai đoạn Ấn Độ thực thi chính sách đối

ngoại “hướng Đông” và rút ra một số nhận xét, đánh giá về chính sách này. S.D.

Muni trong bài viết “India’s “Look East” Policy: The Strategic Dimension” (ISAS

Page 22: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

12

Working Paper, No. 121, Institute of South Asian Studies, Singapore, 2011) đã

cung cấp một cách nhìn toàn diện về chính sách “hướng Đông” của Ấn Độ. Có thể

nói, các công trình nêu trên là nguồn tài liệu giúp chúng tôi nghiên cứu chính sách

đối ngoại của Ấn Độ, nhất là từ sau năm 1992 đến năm 2011.

Chính sách đối ngoại của Ấn Độ đối với Myanmar đã được đề cập trong một

số công trình, bài viết như: “India’s Myanmar Policy: A Dilemma between Realism

and Idealism” (IPCS Special Report No. 37, Institute of Peace and Conflict Studies,

New Delhi, 2007) của Yogendra Singh; “India’s Policy towards Burma” (Asia ASP

2013/02, Chatham House, London, 2013) của Gareth Price; “Principles, Pragmatism,

and Pipelines: The Evolution of India’s Myanmar Policy” (FPRC Journal 2013, No.

3, Foreign Policy Research Centre, New Delhi, India, 2013) của Lindsay Hughes...

Hầu hết các bài viết này đều tập trung phân tích vai trò, vị trí của Myanmar trong

chính sách đối ngoại của Ấn Độ từ sau Chiến tranh lạnh đến nay cũng như những

nhân tố tác động đến chính sách đối ngoại của quốc gia Nam Á này. Đây được xem là

những tài liệu quan trọng giúp chúng tôi tìm hiểu chính sách của Ấn Độ đối với

Myanmar và quan hệ Ấn Độ - Myanmar trong giai đoạn nghiên cứu của luận án.

Bên cạnh chính sách đối ngoại của Ấn Độ, chính sách đối ngoại của

Myanmar cũng được một số học giả nghiên cứu, cụ thể như bài viết “Myanmar’s

Policy toward the Rising China since 1989” (RCAPS Working Paper Series

“Dojo”, Ritsumeikan Asia Pacific University, Japan, 2013) của Hnin Yi. Bài viết

xem xét những cơ hội và thách thức trong chính sách của Myanmar đối với Trung

Quốc kể từ năm 1989 và những tác động của cải cách chính trị ở Myanmar đối với

quan hệ Myanmar - Trung Quốc. Theo tác giả, trong giai đoạn 1988 - 2003, chính

phủ quân sự Myanmar đã cố gắng tranh thủ sự ủng hộ của Trung Quốc để duy trì sự

tồn tại của chế độ. Tuy nhiên, vì luôn ý thức Trung Quốc là một mối đe doạ tiềm

tàng nên Myanmar đã đa dạng hoá mối quan hệ với các nước khác như Ấn Độ, Nga

và các nước ASEAN để giảm bớt sự phụ thuộc vào nước láng giềng khổng lồ này.

Được xuất bản vào năm 2006, cuốn sách Myanmar’s Foreign Policy:

Domestic Influences and International Implications (The International Institute for

Strategic Studies, London) của Jurgen Haacke nghiên cứu mục tiêu, biện pháp, tính

hiệu quả trong chính sách đối ngoại của Myanmar từ sau năm 1988 đến năm 2005.

Page 23: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

13

Cũng trong năm 2006, bài viết với tiêu đề “Regionalism in Myanmar’s Foreign

Policy: Past, Present, and Future” (ARI Working Paper, No. 73, Asia Research

Institute, Singapore) của Maung Aung Myoe đã đề cập chủ nghĩa khu vực trong

chính sách đối ngoại của Myanmar từ khi giành được độc lập (năm 1948) đến năm

2006, chủ yếu trong bối cảnh quan hệ Myanmar - ASEAN. Ngoài ra, tác giả M.A.

Myoe còn công bố bài viết “Myanmar’s Foreign Policy under the USDP

Government: Continuities and Changes” (Journal of Current Southeast Asian

Affairs, Volume 35, No. 1, GIGA German Institute of Global and Area Studies,

Germany, 2016). Từ những công trình, bài viết trên có thể thấy, chính sách đối

ngoại của Myanmar, quan hệ Myanmar - Ấn Độ đã được nghiên cứu trên nhiều khía

cạnh khác nhau, giúp chúng tôi có cái nhìn đa chiều trong việc nghiên cứu luận án.

Nhóm thứ hai: Nghiên cứu quan hệ Ấn Độ - Myanmar trên các lĩnh vực chủ yếu

Nếu như ở Việt Nam, quan hệ Ấn Độ - Myanmar vẫn đang còn khá mới mẻ

thì ở nước ngoài, vấn đề này lại thu hút sự quan tâm của đông đảo nhà khoa học của

nhiều nước. Trong đó phải kể đến tác phẩm Indo - Burmese Relations, 1948 - 1962

(Jawaharlal Nehru University, New Delhi, India, 1981) của Swatanter Kumari

Pradhan. Đây là công trình nghiên cứu về quan hệ Ấn Độ - Myanmar từ sau khi hai

nước chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao (năm 1948) đến thời điểm lực lượng

quân sự lên nắm chính quyền ở Myanmar (năm 1962). Theo tác giả S.K. Pradhan,

quan hệ Ấn Độ - Myanmar trong những năm 1948 - 1962 “đánh dấu một thời kỳ

quan trọng trong quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa hai nước” [113, tr. 248].

Công trình tiếp theo nghiên cứu về quan hệ Ấn Độ - Myanmar là India -

Myanmar Relations (1998 - 2008): A Decade of Redefining Bilateral Ties (ORF

Occasional Paper #10, Observer Research Foundation, 2009) của Khriezo Yhome.

Công trình đã trình bày quan hệ Ấn Độ - Myanmar trong 10 năm (1998 - 2008).

Khriezo Yhome cho rằng Ấn Độ và Myanmar bắt đầu tái lập quan hệ vào năm 1991

và phát triển mạnh mẽ từ cuối những năm 90 của thế kỷ XX, thông qua hợp tác

chính trị, kinh tế và quân sự. Đây là một tài liệu tham khảo chủ yếu để nghiên cứu

quan hệ Ấn Độ - Myanmar trên một số lĩnh vực kinh tế, chính trị, an ninh quốc

phòng thời kỳ sau Chiến tranh lạnh, cụ thể là từ năm 1998 đến năm 2008.

Page 24: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

14

Trong cuốn sách India - Myanmar Relations: Changing Contours (Routledge

Taylor & Francis Group, India, 2016), tác giả R. Bhatia nghiên cứu quan hệ giữa

Ấn Độ với Myanmar từ những năm 90 của thế kỷ XX đến thập niên đầu thế kỷ XXI

và nhấn mạnh tầm quan trọng của mối quan hệ này như là một trong những động

lực phát triển của khu vực. Liên quan đến quan hệ Ấn Độ - Myanmar còn có công

trình sách India - Myanmar Connectivity: Current Status and Future Prospects

(KW Publishers Pvt Ltd, New Delhi, India, 2013) của P. De và J.K. Ray. Đây là

những công trình tham khảo giúp chúng tôi có thêm tư liệu về quan hệ hai nước Ấn

Độ - Myanmar giai đoạn từ thập niên cuối thế kỷ XX đến thập niên đầu thế kỷ XXI.

Trong cuốn sách Challenges to Democratization in Burma: Perspectives on

Multilateral and Bilateral Responses (International Institute for Democracy and

Electoral Assistance, Sweden, 2001), các tác giả đã nghiên cứu mối quan hệ giữa

Myanmar với các nước láng giềng (Bangladesh, Trung Quốc, Thái Lan), với các

nước ASEAN và chính sách của Mỹ, Nhật Bản, Liên minh châu Âu (EU) đối với

quốc gia Đông Nam Á này. Các tác giả cũng đã dành khoảng 30 trang để đề cập khái

quát lịch sử quan hệ Myanmar - Ấn Độ, chính sách của Ấn Độ đối với Myanmar và

quan hệ hai nước trên các lĩnh vực chủ yếu: Chính trị, kinh tế, an ninh quốc phòng

trong 10 năm sau Chiến tranh lạnh. Các công trình nói trên chủ yếu chỉ nghiên cứu

chính sách đối ngoại của Ấn Độ, Myanmar và quan hệ hai nước giai đoạn trước năm

1962 và từ sau năm 1991, giai đoạn 1962 - 1991 chỉ được đề cập một cách khái quát.

Mặc dù vậy, chúng tôi xem đây là những tài liệu tham khảo chủ yếu của luận án.

Ngoài ra, quan hệ Ấn Độ - Myanmar còn được đề cập trên một số bài báo tạp

chí có uy tín, như: “India - Myanmar Relations: Triumph of Pragmatism” (Jindal

Journal of International Affairs, Volume 1, Issue 1, 2011) của B.P. Routray; “India

and Burma: Exploring New Vista of Relationship” (Working Paper No. 126, 2012)

của K.C. Ratha và S.K. Mahapatra; bài viết “India and Myanmar: Choices for

Military Cooperation” (ICWA Issue Brief, Indian Council of World Affairs, India,

2012) của V. Sakhuja; bài viết “India’s Security Cooperation with Myanmar:

Prospect and Retrospect” (ISAS Working Paper, No. 166, Institute of South Asian

Studies, Singapore, 2013) của C. Raja Mohan; bài viết “India - Myanmar Economic

Relations” (FPRC Journal 2013, No. 3, Foreign Policy Research Centre, India,

Page 25: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

15

2013) của C.S. Kuppuswamy... Hầu hết các công trình đều tập trung phân tích vị trí

của Myanmar trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ sau Chiến tranh lạnh, mối quan

hệ hai nước trên một số lĩnh vực: Kinh tế, quân sự, an ninh quốc phòng... Tuy vậy,

nhìn chung các tác giả chủ yếu tập trung nghiên cứu thời kỳ từ sau Chiến tranh lạnh

đến những năm đầu thế kỷ XXI, còn giai đoạn từ năm 1962 đến trước khi kết thúc

Chiến tranh lạnh thì những bài viết vẫn dừng lại ở mức độ khái quát quan hệ hai

nước. Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của

vấn đề, cung cấp các tư liệu về chính sách của Ấn Độ đối với Myanmar và quan hệ

hai nước trên các lĩnh vực chủ yếu, giúp chúng tôi có thể chọn lựa, phân tích để góp

phần làm phong phú thêm các nội dung, nhận định của luận án.

Quan hệ Ấn Độ - Myanmar còn được đề cập trong các mối quan hệ giữa Ấn

Độ với ASEAN, như: “India - ASEAN Relations: Analysing Regional Implications”

(IPCS Special Report, No. 72, Institute of Peace and Conflict Studies, India, 2009) của

M. Anand; “India’s Engagement with ASEAN: Beyond Trade in Goods” (ISAS

Working Paper, No. 129, Institute of South Asian Studies, Singapore, 2011) của S.

Nambiar; ASEAN - India Connectivity: The Comprehensive Asia Development Plan,

Phase II (ERIA Research Project Report 2010, No. 7, Economic Research Institute for

ASEAN and East Asia, Indonesia, 2011) của F. Kimura và S. Umezaki... Các công

trình trên đã trình bày quan hệ Ấn Độ - ASEAN, tác động của mối quan hệ này đối với

Đông Nam Á dưới tác động của sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Ấn Độ.

Trong tiến trình quan hệ Ấn Độ - Myanmar (1962 - 2011), Trung Quốc là

một trong những nhân tố quan trọng và có tác động thường xuyên. Sự cạnh tranh

giữa Ấn Độ và Trung Quốc trong quan hệ với Myanmar, quan hệ Trung Quốc -

Myanmar, quan hệ Ấn Độ - Trung Quốc - Myanmar đã thu hút nhiều học giả nước

ngoài quan tâm nghiên cứu. Trong bài viết “China and India’s Competitive

Relations with Myanmar” (ICS Working Paper No. 2008-7, Institute of China

Studies, Malaysia, 2008), tác giả Zhao Hong đã đề cập đến sự cạnh tranh giữa

Trung Quốc và Ấn Độ trong việc thiết lập quan hệ với Myanmar từ cuối những năm

80 của thế kỷ XX. Được đăng trên tạp chí Journal of Strategic Studies (Volume 19,

No. 2, London, 1996), bài viết “Burma and the Strategic Competition between

Page 26: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

16

China and India” của Andrew Selth đã đề cập tầm quan trọng của Myanmar và sự

cạnh tranh chiến lược giữa Trung Quốc và Ấn Độ trong quan hệ với nước này.

Ngoài ra, mối quan hệ giữa Trung Quốc, Ấn Độ với Myanmar còn được đề

cập trong một số công trình khác như: “China, Myanmar and India: A Strategic

Perspective” (Indian Foreign Affairs Journal, Volume 8, No. 1, India, 2013) của R.

Gupta; “China - Myanmar Energy Engagements: Challenges and Opportunities for

India” (IPCS Issue Brief, No. 134, Institute of Peace and Conflict Studies, India,

2009) của T. Sinha; B. Lintner với bài viết “Burma and Its Neighbours”; Thant

Myint-U với cuốn sách Where China Meets India: Burma and the New Crossroads

of Asia (Farrar, Straus and Giroux, New York, 2011)... Có thể nói, đây là những tài

liệu tham khảo cần thiết khi nghiên cứu nhân tố Trung Quốc đối với quan hệ Ấn Độ

- Myanmar và “tam giác” quan hệ Trung Quốc - Ấn Độ - Myanmar trong luận án.

Bên cạnh đó, N. Panwar trong bài viết “India and China Competing over

Myanmar Energy Resources” (Working draft for BISA Conference 2009, University

of Leicester, 2009) đã đề cập vấn đề an ninh năng lượng và sự cạnh tranh Ấn Độ -

Trung Quốc trong hợp tác với Myanmar những năm đầu thế kỷ XXI. Bài viết “Sino

- Myanmar Military Cooperation and Its Implications for India” (Journal of Defence

Studies, Volume 5, No. 3, India, 2011) của H. Shivananda tập trung phân tích hợp

tác quân sự Trung Quốc - Myanmar và tác động của mối quan hệ này đối với Ấn Độ

từ hai thập niên cuối thế kỷ XX đến những năm đầu thế kỷ XXI. Đây là những tài

liệu quý giá giúp chúng tôi trong quá trình nghiên cứu quan hệ giữa Myanmar với

các nước nói chung và với Trung Quốc nói riêng, giúp cho việc nghiên cứu quan hệ

Ấn Độ - Myanmar (1962 - 2011) có cái nhìn đa chiều và toàn diện hơn.

1.3. Một số nhận xét và vấn đề đặt ra cho luận án

Qua việc trình bày tình hình nghiên cứu nói trên, có thể nhận thấy những tồn

tại và vấn đề đặt ra cần phải tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, cụ thể như sau:

Thứ nhất, mối quan hệ Ấn Độ - Myanmar nói chung và quan hệ hai nước trong

giai đoạn 1962 - 2011 nói riêng đã được rất nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam và nước

ngoài quan tâm và đạt được những kết quả đáng kể, thể hiện sự phong phú về mặt nội

dung và sự đa dạng về phong cách trình bày. Tuy nhiên có khá nhiều công trình tập

trung nghiên cứu quan hệ Ấn Độ - Myanmar một cách khái quát, tổng thể hoặc về lĩnh

Page 27: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

17

vực hợp tác nhất định và trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Hầu như chưa có một

công trình chuyên khảo nào nghiên cứu hệ thống và toàn diện về quan hệ Ấn Độ -

Myanmar từ năm 1962 đến năm 2011 với tư cách là một đối tượng riêng biệt.

Thứ hai, một số công trình đã bước đầu nghiên cứu về quan hệ Ấn Độ -

Myanmar nhưng chủ yếu dừng lại ở thời kỳ 1948 - 1962 và từ sau Chiến tranh lạnh

đến những năm đầu thế kỷ XXI. Các công trình, bài viết nghiên cứu về quan hệ hai

nước trong thời kỳ Chiến tranh lạnh vẫn đang còn khá khiêm tốn về số lượng. Mối

quan hệ Ấn Độ - Myanmar từ năm 1962 đến năm 1991 cũng đã được một số học giả

nghiên cứu nhưng chưa có hệ thống và mới chỉ đề cập khá hạn chế trong một số công

trình, bài viết ở trong và ngoài nước. Hầu như chưa có công trình khoa học nào

nghiên cứu về đề tài này xuyên suốt từ năm 1962 đến hết thập niên đầu thế kỷ XXI.

Thứ ba, ngoài một số công trình khoa học trong nước, các sách báo, bài viết

của các nhà nghiên cứu nước ngoài được tác giả luận án xem là nguồn tài liệu chủ

yếu trong quá trình tham khảo. Những công trình nghiên cứu này dù rất phong phú,

đa dạng, song lại là ấn phẩm của các học giả đến từ nhiều nước cho nên cũng phản

ánh quan điểm và cách nhìn nhận, đánh giá của giới nghiên cứu ở nước đó. Vì vậy,

việc kế thừa đòi hỏi phải có sự phê phán và chọn lọc trong tiếp cận tư liệu nhằm

đảm bảo độ tin cậy và khách quan trong nhìn nhận, đánh giá vấn đề nghiên cứu.

Thứ tư, trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu đề tài, chúng tôi nhận thấy còn

khá nhiều nội dung liên quan đến luận án vẫn chưa được nghiên cứu một cách thấu

đáo, cần tiếp tục tìm hiểu, trao đổi như: Cơ sở của mối quan hệ Ấn Độ - Myanmar?

Mối quan hệ song phương này đã diễn tiến như thế nào trong những năm 1962 -

2011? Những nhân tố tác động nào chi phối trực tiếp hoặc gián tiếp đến quan hệ hai

nước? Những lĩnh vực hợp tác nào là chủ yếu? Tác động của mối quan hệ này đối

với chiến lược và chính sách phát triển của hai nước? Những thành tựu và hạn chế,

những vấn đề đặt ra của mối quan hệ song phương này trong giai đoạn hiện nay?...

Do vậy, việc kế thừa có chọn lọc các công trình nghiên cứu của các học giả

đi trước là điều hết sức quan trọng, giúp chúng tôi có cơ sở để giải quyết các nội

dung nêu trên dựa trên các nguồn tài liệu tham khảo quý giá đã được tập hợp, từ đó

hoàn thành đề tài luận án “Quan hệ Ấn Độ - Myanmar (1962 - 2011)”.

Page 28: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

18

CHƯƠNG 2

CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN HỆ ẤN ĐỘ - MYANMAR (1962 - 2011)

Quan hệ ngoại giao giữa hai nước láng giềng Ấn Độ và Myanmar chính thức

được thiết lập từ năm 1948 (ngay sau thời điểm Myanmar giành độc lập) và được

hình thành dựa trên cơ sở địa - chính trị, văn hoá, lịch sử và những mối liên hệ

truyền thống gần gũi, lâu đời cũng như xuất phát từ vị trí của Ấn Độ và Myanmar

trong chính sách đối ngoại của mỗi nước.

2.1. Cơ sở địa - chính trị

Quan hệ Ấn Độ - Myanmar chịu tác động từ những nhân tố địa - chính trị

của hai nước. Về phía Ấn Độ, đây là một quốc gia có vị trí địa lý rất đặc biệt, một

“tiểu lục địa” ở khu vực Nam Á bị ngăn cách với thế giới bên ngoài bởi Ấn Độ

Dương và dãy núi Himalaya hùng vĩ. Ấn Độ nằm trên con đường trung chuyển nối

liền hai châu lục (Âu - Á) nói riêng và giữa phương Đông và phương Tây nói

chung. Phần mũi đất cực Nam “chìa ra Ấn Độ Dương” giống như một bệ phóng

hướng ra đại dương và hai hướng Đông - Tây, nhưng đồng thời cũng là tấm lá chắn

cho cả khu vực Nam và Trung Á khi cần thiết. Vì thế trong lịch sử, Ấn Độ đã trở

thành mục tiêu của nhiều đế quốc: Macedonia của Alexander Đại đế (thế kỷ VI

trước Công nguyên), Đế quốc Hồi giáo Mogul (thống trị Ấn Độ từ thế kỷ XI đến thế

kỷ XVIII) và Đế quốc Anh (thế kỷ XIX - XX). Đất nước “tiểu lục địa” này là một

trong những cái nôi của văn minh nhân loại, một quốc gia đa dạng về sắc tộc, chủng

tộc, tôn giáo và có lịch sử hơn 5.000 năm. Sau khi trở thành một quốc gia độc lập

vào năm 1947, Ấn Độ dần dần có vị thế và tiếng nói quan trọng trên trường quốc tế

và khu vực Nam Á. Từ chỗ là nước đưa ra “năm nguyên tắc chung sống hoà bình”

(cùng với Trung Quốc) và đồng sáng lập Phong trào Không liên kết (NAM), Ấn Độ

ngày càng đóng góp to lớn vào nền hoà bình, ổn định và phát triển của thế giới.

Bước sang thế kỷ XXI, với vị thế chính trị quan trọng cùng với sự trỗi dậy kinh tế

mạnh mẽ, Ấn Độ cùng với Trung Quốc được ví như hai cánh nhằm đưa “con chim

châu Á” bay cao hơn nữa vươn tới sự phát triển phồn vinh [42, tr. 30]. Trong số các

nước láng giềng của Ấn Độ, Myanmar có một vị trí địa - chính trị quan trọng.

Page 29: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

19

Myanmar nằm giữa ngã ba Đông Bắc Á, Đông Nam Á và Nam Á, là nước

láng giềng lớn thứ hai và là nước lớn nhất bên sườn phía Đông của Ấn Độ. Ấn Độ

có đường biên giới trên đất liền (khoảng 1.643 km) và cả đường biên giới trên biển

tại vịnh Bengal với Myanmar. Bốn trong sáu bang của khu vực Đông Bắc Ấn Độ là

Arunachal Pradesh, Nagaland, Manipur và Mizoram có chung biên giới với các

bang phía Tây của Myanmar. Đông Bắc Ấn Độ là vùng viễn Đông của Ấn Độ, là

nơi thường xuyên xảy ra tranh chấp lãnh thổ và xung đột biên giới giữa nước này

với Trung Quốc. Trong đó, bang Arunachal Pradesh (có đường biên giới giáp với

Trung Quốc khoảng 1.125 km) là vùng đất mà Bắc Kinh luôn khẳng định chủ quyền

tại đây [68, tr. 81]. Do vậy, duy trì quan hệ tốt đẹp với nước láng giềng Myanmar

còn góp phần giúp chính quyền Ấn Độ bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của mình ở vùng

Đông Bắc xa xôi. Ngoài ra, hai nước láng giềng này còn có chung vùng biển ở vịnh

Bengal, bao gồm khu vực xung quanh hai quần đảo có vị trí chiến lược quan trọng

của Ấn Độ là Andaman1 và Nicobar. Với đường bờ biển dài 1.930 km dọc theo vịnh

Bengal và chỉ cách quần đảo Andaman của Ấn Độ khoảng 30 km, Myanmar ngày

càng đóng vai trò quan trọng trong chiến lược an ninh biển của Ấn Độ.

Tầm quan trọng của Myanmar đối với Ấn Độ còn thể hiện ở việc nước này

nằm trên tuyến giao thông thương mại đường biển của Ấn Độ Dương và có đường

biên giới dài 2.185 km với Trung Quốc ở phía Bắc. Cả Ấn Độ và Myanmar đều là

“hàng xóm” với Trung Quốc, trong đó, Myanmar nằm giữa hai nước này. Với vị trí

địa lý của mình, Myanmar trở thành một điểm đến của nhiều cường quốc trên thế

giới, trong đó có Ấn Độ và Trung Quốc. Myanmar nắm giữ vị trí quan trọng chiến

lược ở châu Á, không một quốc gia châu Á nào ngoài Myanmar có đủ lợi thế về địa

lý để kết nối giữa Trung Quốc và Ấn Độ, vì thế hầu hết các nước lớn đều mong

muốn có vị thế chủ yếu ở nơi được coi là “ngã tư của châu Á”. Trong bối cảnh

xung đột biên giới Ấn - Trung vẫn đang diễn tiến phức tạp, Trung Quốc có thể thâm

nhập vào Ấn Độ Dương thông qua Myanmar và trở thành mối đe doạ đối với an

ninh trên biển Andaman và vịnh Bengal. Ấn Độ hoàn toàn nhận thức được tầm quan

1 Quần đảo Andaman là một quần đảo ở vịnh Bengal nằm giữa Ấn Độ (về phía tây) và Myanmar (về phía

đông và phía bắc). Đa phần quần đảo này thuộc Ấn Độ, trong khi một số đảo nhỏ ở phía bắc, gồm có hòn đảo

Coco, thuộc về Myanmar.

Page 30: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

20

trọng chiến lược của quốc gia Đông Nam Á này. Có thể nói, với vị trí trọng yếu của

Myanmar, Ấn Độ không thể không quan tâm đến nước láng giềng này trong việc

hoạch định chính sách đối ngoại. Ngược lại, tăng cường quan hệ với Ấn Độ có thể

giúp Myanmar từng bước cải thiện hình ảnh đất nước trên trường quốc tế, nâng cao

vị thế và đa dạng hoá chính sách đối ngoại, tránh việc quá lệ thuộc vào Trung Quốc.

2.2. Cơ sở văn hoá và lịch sử

Ấn Độ và Miến Điện2 là hai nước láng giềng gần gũi có mối quan hệ lâu đời.

Ngay từ thời cổ đại, ảnh hưởng của Ấn Độ ở Miến Điện đã được thể hiện trên nhiều

lĩnh vực từ thương mại, triết học, chính trị đến tôn giáo, văn hoá. Hindu giáo và đạo

Phật từ Ấn Độ du nhập đến nước này vào khoảng thế kỷ III trước Công nguyên.

Năm 1044, sau khi thống nhất đất nước và sáng lập triều đại Pagan, vua Anawrahta

đã đưa Phật giáo trở thành quốc giáo của Miến Điện. Cùng với Phật giáo Tiểu thừa,

chữ Sanskrit và Pali xuất phát từ Ấn Độ là nguồn gốc của nhiều từ trong ngôn ngữ

của người Miến, trong đó chữ Sanskrit dùng để nói về thế quyền, về vua, còn chữ

Pali dùng để chép kinh Phật. Bên cạnh đó, Miến Điện cũng đã kế thừa hệ thống quy

phạm pháp luật của Ấn Độ: Các cuốn sách pháp luật đầu tiên mà người Miến gọi là

“Manusara Shwemin” chính là bộ “Wagaru Dhammathat” của Ấn Độ [131, tr. 88].

Quan hệ thương mại giữa hai nước cũng được thiết lập từ rất sớm với việc thành lập

nhiều khu định cư dọc theo bờ biển Miến Điện của các thương nhân Ấn Độ.

Sau quá trình xâm lược của người Anh, Miến Điện và Ấn Độ đều trở thành

một phần thuộc Đế chế Anh. Năm 1886, Anh sáp nhập Miến Điện vào lãnh thổ Ấn

Độ thuộc Anh và đặt Miến Điện dưới sự quản lý của chính phủ Ấn Độ [75, tr. 251].

Trong những năm 1886 - 1937, giai đoạn mà Miến Điện trở thành một tỉnh của Ấn

Độ thuộc Anh, một làn sóng người Ấn đã di cư đến nơi này. Theo W.S. Desai, 10

năm sau khi Anh tuyên bố sáp nhập Miến Điện vào Ấn Độ, có khoảng 18.000 binh

sĩ Ấn Độ đóng quân ở “tỉnh Miến Điện”. Năm 1861, cảnh sát ở Rangoon hoàn toàn

là người Ấn. Năm 1931, số người gốc Ấn Độ ước tính hơn một triệu trong tổng số

14 triệu dân Miến Điện, trong đó chiếm một nửa dân số ở Rangoon [61, tr. 938].

Vào thời điểm giành được độc lập (ngày 4-01-1948), có khoảng 300.000 - 400.000

2 Trước năm 1989, Myanmar được gọi là Miến Điện (Burma)

Page 31: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

21

người Ấn Độ sinh sống ở Miến Điện [72, tr. 3], [131, tr. 88]. Sự hiện diện đông đảo

của cộng đồng người Ấn trên đất nước này sau năm 1948 đã tạo nên những mối

giao lưu về kinh tế, văn hoá, tôn giáo trong quan hệ hai nước.

Bên cạnh đó, sự hợp tác giữa nhân dân Ấn Độ và Miến Điện trong cuộc đấu

tranh chống lại sự cai trị của người Anh giành độc lập dân tộc đã góp phần tạo nên

sự hiểu biết chung giữa hai nước. Ngày 27 và 28-3-1931, quốc hội Ấn Độ đã thông

qua một nghị quyết thể hiện sự ủng hộ và tình cảm đối với nhân dân Miến Điện.

Bản nghị quyết nêu rõ: “Quốc hội Ấn Độ công nhận quyền của người dân Miến

Điện trong việc yêu cầu tách ra khỏi Ấn Độ và thiết lập một nhà nước Miến Điện

độc lập hoặc vẫn là một quốc gia tự trị trong một Ấn Độ tự do với quyền tách ra

khỏi Ấn Độ bất cứ khi nào họ muốn” [9, tr. 41].

Sau khi Miến Điện tách ra khỏi Ấn Độ (năm 1937), các nhà lãnh đạo phong

trào giải phóng dân tộc ở hai nước đã ủng hộ phong trào đấu tranh của nhau để

chống lại đế quốc Anh. Các nhà lãnh đạo Miến Điện theo dõi phong trào đấu tranh

giải phóng dân tộc của Ấn Độ, đặc biệt là trong những năm tháng cuối cùng trước

khi giành độc lập. Trong khi Aung San được bổ nhiệm làm Phó Chủ tịch Hội đồng

điều hành ở Miến Điện, Jawaharlal Nehru cũng giữ vị trí tương tự ở Ấn Độ. Khi

Aung San và 6 đồng sự trong Hội đồng điều hành bị ám sát vào ngày 19-7-1947 tại

Miến Điện, Jawaharlal Nehru đã bày tỏ sự thương tiếc đối với Aung San và các

đồng chí của ông: “Miến Điện và châu Á đã mất đi một trong những người con can

đảm và có tầm nhìn xa trông rộng” và ông khẳng định với người dân Miến Điện

rằng, Ấn Độ sẽ “đứng về phía họ trong những ngày khó khăn phía trước” [131, tr.

88]. Có thể nói, những nhân tố về vị trí địa lý, văn hoá, tôn giáo, chữ viết, lịch sử...

đã làm cơ sở cho mối quan hệ giữa Ấn Độ với Myanmar thời hiện đại.

2.3. Khái quát quan hệ Ấn Độ - Myanmar trước năm 1962

Ngày 04-01-1948, Ấn Độ và Miến Điện chính thức thiết lập quan hệ ngoại

giao, mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử quan hệ hai nước [113, tr. 77]. Trong

ngày độc lập của nước láng giềng Miến Điện, Ấn Độ đã chúc mừng, chia sẻ và thể

hiện tình láng giềng gắn bó giữa hai nước qua lời Thủ tướng Ấn Độ Jawaharlal

Nehru: “Trong quá khứ cũng như trong tương lai, người dân Ấn Độ sẽ kề vai sát

cánh với nhân dân Miến Điện và cho dù là may mắn hay bất hạnh, chúng ta sẽ luôn

Page 32: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

22

cùng chia sẻ với nhau. Đây là một ngày tuyệt vời và long trọng không chỉ đối với

Miến Điện mà còn đối với Ấn Độ và toàn bộ châu Á” [131, tr. 89]. Mối quan hệ

giữa Ấn Độ với Miến Điện càng được thắt chặt hơn trong việc soạn thảo các văn

kiện quan trọng, đặc biệt là Hiến pháp, cho chính quyền non trẻ U Nu. Cũng trong

năm 1948, theo lời mời của Thủ tướng Miến Điện U Nu, B.N. Rau, một trong

những chuyên gia xuất sắc của Ấn Độ về các vấn đề hiến pháp, đã đến thăm và giúp

đỡ chính phủ nước này soạn thảo Hiến pháp [67, tr. 15].

Từ năm 1948, chính phủ Miến Điện đã thực hiện một số biện pháp nhằm

tăng cường lợi ích kinh tế cho người dân và hạn chế quyền lợi của người nước

ngoài. Những biện pháp này thường nhằm vào người Ấn Độ, vì đây là bộ phận

chiếm đa số trong kiều dân ở Miến Điện sau khi nước này giành độc lập. Một trong

những biện pháp cụ thể được chính phủ Miến Điện thông qua là Đạo luật về chuyển

nhượng đất đai (Land Alienation Act). Theo nội dung của đạo luật, những cư dân

không phải là người Miến Điện sẽ không có quyền được mua đất ở nước này. Ngoài

ra, Dự luật Quốc hữu hoá đất đai (Land Nationalization Bill) của chính quyền Miến

Điện được thông qua ngày 11-10-1949 đã làm dấy lên sự phản ứng mạnh mẽ của

người Ấn Độ ở cả hai nước. Dự luật này cấm người dân (trừ những người làm nghề

nông) không được sở hữu nhiều hơn 50 mẫu đất (khoảng 20 ha), đã gây nên sự phản

đối của giới cho vay nặng lãi người Ấn (Chettiyar) vốn đang nắm giữ nhiều đất đai

ở Miến Điện [75, tr. 251]. Vì lợi ích hai nước, Thủ tướng J. Nehru đã tuyên bố

không ủng hộ cuộc đấu tranh của giới Chettiyar. Theo ông, mặc dù Dự luật Quốc

hữu hoá đất đai ảnh hưởng rất lớn đến người Ấn Độ ở Miến Điện nhưng nó không

mang tính phân biệt đối xử. Có thể nói, tình bạn thân thiết giữa hai nhà lãnh đạo J.

Nehru và U Nu đã ngăn chặn các cuộc đối đầu có nguy cơ xảy ra giữa hai nước.

Sau ngày độc lập, Miến Điện phải đối mặt với nhiều khó khăn, nổi bật nhất là

vấn đề mâu thuẫn dân tộc sâu sắc. Đó là sự nổi dậy của người Karen3 và các lực

lượng phiến quân khác. Tân Thủ tướng U Nu (1948 - 1962) rất cần đến sự viện trợ

của Ấn Độ, các quốc gia thuộc Khối Thịnh vượng chung và cả Mỹ. Trong Hội nghị

3 Người Karen (còn gọi là Kayin) là dân tộc đông dân thứ ba, chiếm khoảng 8% dân số Myanmar. Người

Sgaw và Pwo là hai nhóm chính của dân tộc Karen, sống chủ yếu ở vùng cao nguyên Shan, bang Karen và

vùng đồng bằng sông Irrawaddy.

Page 33: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

23

Thủ tướng chính phủ các nước Khối Thịnh vượng chung tổ chức tại Sri Lanka (tháng

01-1950), Ấn Độ cùng các thành viên thuộc khối này đã nhất trí cho Miến Điện vay

6 triệu bảng Anh, trong đó Ấn Độ đóng góp 1 triệu bảng [85, tr. 4]. Bên cạnh đó,

chính phủ Ấn Độ còn thông qua một khoản vay 46 triệu USD cho chính phủ U Nu

vào năm 1958 [66, tr. 142]. Những hành động này thể hiện quan điểm đối ngoại hoà

bình, thân thiện và giúp đỡ lẫn nhau giữa Ấn Độ với Miến Điện mà không kèm theo

bất cứ điều kiện nào. Trong bài diễn văn phát biểu tại quốc hội vào ngày 17-3-1950,

Thủ tướng Ấn Độ J. Nehru tuyên bố sự ủng hộ của Ấn Độ đối với Miến Điện không

phải là sự can thiệp vào công việc nội bộ của nước láng giềng và rằng “đó không

phải là mục đích của chúng tôi và chúng tôi không dùng mọi biện pháp nào để can

thiệp vào các nước khác, nhưng bất cứ khi nào có thể, chúng tôi đều sẽ sẵn sàng

giúp đỡ họ mà không kèm theo bất kỳ điều kiện can thiệp nào” [111, tr. 292-293].

Ấn Độ không chỉ tham gia giải quyết cuộc khủng hoảng về an ninh và tài

chính trước mắt ở Miến Điện, mà còn hướng đến việc xây dựng cơ sở vững chắc

cho mối quan hệ lâu dài giữa hai nước. Hai bên thường xuyên tiến hành tham vấn

lẫn nhau và đề ra cách thức hợp tác cũng như chia sẻ những vấn đề liên quan đến

hòa bình thế giới và quan hệ quốc tế. Quan hệ nồng ấm giữa Ấn Độ và Miến Điện

đã góp phần làm cho Phong trào Không liên kết phát triển mạnh, đấu tranh vì hoà

bình, độc lập dân tộc, chống sự xâm lược và nô dịch của đế quốc, thực dân. Bản

thân hai nước đều là những thành viên tích cực trong Hội nghị Bandung năm 1955

và Phong trào Không liên kết.

Chỉ sau ba năm thiết lập quan hệ ngoại giao, đến ngày 7-7-1951, Bộ trưởng

Bộ Ngoại giao Miến Điện Sao Hkun Hkio và Đại sứ Ấn Độ tại Miến Điện M.A.

Rauf đã ký Hiệp ước hữu nghị tại Rangoon (Miến Điện) [113, tr. 81]. Nội dung Hiệp

ước tuyên bố: “Hòa bình và tình hữu nghị giữa hai nước sẽ vĩnh cửu, không bao giờ

thay đổi. Hai nước sẽ mãi mãi phấn đấu để tăng cường và phát triển hơn nữa mối

quan hệ chân thành hiện có giữa nhân dân hai nước” [145]. “Hai nước đồng ý rằng

các đại diện của họ phải gặp gỡ thường xuyên để trao đổi quan điểm về các vấn đề

cùng quan tâm và xem xét cách thức và phương tiện cho sự hợp tác lẫn nhau giữa

hai nước trong các vấn đề trên” [145]. Có thể nói, sự kiện này là một dấu mốc lịch

sử quan trọng của mối quan hệ thân thiện, gắn kết giữa Ấn Độ và Miến Điện.

Page 34: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

24

Sau khi Hiệp ước hữu nghị được ký kết, các phái đoàn ngoại giao của Ấn Độ

và Miến Điện thường xuyên thăm viếng lẫn nhau tạo ra sự gắn kết, gần gũi hơn

trong quan hệ song phương. Thủ tướng Jawaharlal Nehru rất coi trọng tình hữu nghị

hai nước. Đối với ông, Miến Điện là một nước láng giềng thân thiết, có mối quan hệ

gần gũi [48, tr. 49]. Jawaharlal Nehru đã từng nói: “Chúng tôi đang liên lạc thường

xuyên với chính phủ Miến Điện trên nhiều vấn đề. Chúng tôi không chỉ là bạn bè

theo nghĩa thông thường, mà tôi có thể nói rằng điều này còn hơn cả tình bạn”

[113, tr. 84]. Không những thế, Ấn Độ còn giúp đỡ Miến Điện về mặt quân sự khi

chính quyền nước này phải đối phó với các cuộc nổi dậy, đấu tranh ly khai về sắc

tộc và tôn giáo của nhiều tộc người (không phải là người Miến) ở khắp nơi trên lãnh

thổ Miến Điện. Trước tình hình đó, Ấn Độ đã đưa quân đội đến hỗ trợ chính quyền

Miến Điện trong các năm 1949, 1958 để chống lại lực lượng nổi dậy. Có thể nói, sự

giúp đỡ và ủng hộ của Ấn Độ về các mặt chính trị, kinh tế, quân sự đã góp phần

quan trọng cho nền hoà bình, ổn định chính trị - xã hội của Miến Điện sau khi giành

độc lập. Quan hệ chính trị - ngoại giao tốt đẹp giữa hai nước đã tạo điều kiện thuận

lợi cho cộng đồng người Ấn ở Miến Điện phát triển. Họ là những nhà kinh doanh,

nhà đầu tư trong nhiều ngành kinh tế khác nhau ở Miến Điện; bên cạnh đó cũng có

một lực lượng lao động người Ấn sinh sống và làm việc ở nước này. Những điều

nói trên mang một ý nghĩa hết sức quan trọng, góp phần thắt chặt hơn nữa mối quan

hệ hữu nghị giữa nhân dân hai nước.

Sau cuộc nội chiến ở Trung Quốc (1946 - 1949), một bộ phận Quốc dân đảng

đã chạy sang Miến Điện, kéo theo đó là sự truy kích của quân đội Trung Quốc.

Chính phủ Miến Điện rất lo ngại về sự hiện diện của quân đội Trung Quốc trên lãnh

thổ của mình. Sau khi không thuyết phục được Mỹ trong việc can thiệp với Trung

Quốc để rút quân ra khỏi vùng Đông Bắc Miến Điện, năm 1953, Miến Điện quyết

định đưa vấn đề này ra Liên Hợp Quốc. Chính phủ Ấn Độ đã đứng về phía Miến

Điện thông qua việc ủng hộ mạnh mẽ nghị quyết giải trừ quân bị và di tản quân đội

nước ngoài ra khỏi lãnh thổ nước này. Ngày 05-11-1953, trong một cuộc tranh luận

tại Liên Hợp Quốc về việc Miến Điện chống lại sự hiện diện của quân đội Trung

Quốc trên lãnh thổ Miến Điện, V.K. Krishna Menon, đại diện của Ấn Độ tại Liên

Hợp Quốc đã cảnh báo: “Những gì tổn hại đến Miến Điện cũng là làm tổn thương

Page 35: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

25

đến chúng tôi (Ấn Độ). Giữa chúng tôi không có liên minh quân sự nhưng Miến

Điện có liên quan chặt chẽ với chúng tôi và tất nhiên tình hình ở Miến Điện là mối

quan tâm lớn đối với chúng tôi” [131, tr. 90].

Năm 1956, khi quân đội Trung Quốc một lần nữa xâm nhập vào lãnh thổ

Miến Điện, Thủ tướng U Nu đã tìm đến sự hỗ trợ của Ấn Độ. Do đó, với vai trò

trung gian của J. Nehru, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đã có chuyến thăm đầu

tiên đến Miến Điện và đồng ý thảo luận về vấn đề trên biên giới với người đồng cấp

U Nu [103, tr. 6]. Ngoài ra, hai vị Thủ tướng U Nu và Nehru còn chia sẻ quan điểm

chung về các vấn đề thế giới. Cả hai ông đều là những người ủng hộ nhiệt tình cho

sự đoàn kết châu Á. Hơn nữa, cả Miến Điện và Ấn Độ đều theo đuổi quan điểm

“không liên kết” đối với các vấn đề quốc tế. Trong quan hệ quốc tế, hai nước

thường ủng hộ lẫn nhau ở diễn đàn Liên Hợp Quốc cũng như trong các hội nghị

quốc tế khác. Miến Điện đã đồng hành cùng Ấn Độ trong chính sách đối với Trung

Quốc. Tháng 9-1950, Miến Điện ủng hộ Ấn Độ về việc đề nghị kết nạp Trung Quốc

vào Liên Hợp Quốc; tham gia cùng với Ấn Độ bỏ phiếu chống nghị quyết của Mỹ

gán cho Trung Quốc là kẻ xâm lược ở bán đảo Triều Tiên vào tháng 01-1951 [68, tr.

85]. Ấn Độ và Miến Điện là hai quốc gia duy nhất ngoài khối xã hội chủ nghĩa làm

điều này. Đây là những biểu hiện sinh động cho mối quan hệ tốt đẹp giữa hai nước

trong những năm 50 của thế kỷ XX.

Bước sang những năm 60 của thế kỷ XX, trong khi sự căng thẳng ở khu vực

biên giới với Ấn Độ gia tăng, Trung Quốc đã ký một thỏa thuận cam kết không xâm

lược lẫn nhau với Miến Điện vào năm 1960, tạo ra những bất lợi lớn cho chính

quyền New Delhi. Sự trung lập của Miến Điện trong các vụ xung đột ở khu vực

biên giới Trung Quốc - Ấn Độ năm 1962 cũng góp phần làm cho quan hệ Ấn Độ -

Miến Điện không còn giữ được tình hữu nghị như trước. Trong thời gian này, Trung

Quốc cung cấp gói viện trợ đầu tiên và bắt đầu mua gạo của Miến Điện với giá cao

hơn giá thị trường. Miến Điện cũng thảo luận về khả năng tạo thuận lợi cho Trung

Quốc trong việc vận chuyển hàng hóa sản xuất ở Vân Nam. Khi Tướng Ne Win lên

nắm quyền ở Miến Điện bằng một cuộc đảo chính quân sự ngày 02-03-1962, mối

quan hệ Ấn Độ - Miến Điện đã rẽ sang một con đường khác.

Page 36: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

26

Có thể nói, quan hệ giữa Ấn Độ và Miến Điện giai đoạn 1948 - 1962 được

xây dựng trên nền tảng vững chắc: Từ những liên hệ mật thiết về địa lý, lịch sử, văn

hoá, tầm quan trọng của Miến Điện đối với sự phát triển của Ấn Độ cũng như tình

bạn gắn bó giữa nhà lãnh đạo Jawaharlal Nehru và U Nu trong giai đoạn này. Quan

hệ tốt đẹp giữa Nehru với U Nu cũng như vị trí chiến lược quan trọng của Miến

Điện đối với Ấn Độ đã tạo nên thái độ rất ôn hòa và độ lượng về các vấn đề liên

quan trực tiếp đến hai nước. Mặc dù sự xuất hiện của chủ nghĩa dân tộc ở Miến

Điện sau khi giành độc lập có thể làm suy giảm mối quan hệ tiềm năng giữa hai

nước; song những nguồn lực và vị trí chiến lược của Miến Điện vẫn có một chỗ

đứng quan trọng đối với các nhà hoạch định chính sách Ấn Độ. Từ tầm quan trọng

đó của Miến Điện, J. Nehru nhận thức được sự cần thiết phải kiên nhẫn và hiểu biết

trong việc xây dựng quan hệ đối tác lâu dài với quốc gia láng giềng phía Đông này.

Do vừa giành được độc lập nên quan hệ Ấn Độ - Miến Điện từ năm 1948 đến trước

năm 1962 được hình thành với những biểu hiện chủ yếu trên lĩnh vực an ninh -

chính trị, còn hợp tác trên lĩnh vực kinh tế vẫn còn rất hạn chế. Tuy vậy, mối quan

hệ này cũng tạo ra những điều kiện, tiền đề quan trọng cho sự hợp tác toàn diện

giữa Ấn Độ và Miến Điện trong những giai đoạn tiếp theo.

2.4. Vị trí của Ấn Độ và Myanmar trong chính sách đối ngoại của mỗi nước

2.4.1. Bối cảnh lịch sử Ấn Độ và vị trí của Myanmar trong chính sách đối ngoại

của Ấn Độ

2.4.1.1. Tình hình Ấn Độ từ nửa sau thế kỷ XX đến thập niên đầu thế kỷ XXI

Tháng 8-1947, Ấn Độ tuyên bố độc lập, mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử

phát triển quốc gia này. Nhằm mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước, chính phủ

Ấn Độ đã ban hành chính sách kinh tế nhằm xây dựng một “nền kinh tế hỗn hợp”.

Nhà nước nắm độc quyền một số ngành như sản xuất vũ khí, năng lượng nguyên tử

và đường sắt [22, tr. 138]. Trong những năm 1951 - 1965, chính phủ Ấn Độ đã thực

hiện lần lượt ba kế hoạch 5 năm với mục tiêu: Tăng trưởng kinh tế vững chắc; Hiện

đại hoá nền kinh tế; Tự lực cánh sinh; Công bằng xã hội; Xoá bỏ nạn nghèo khổ

[25, tr. 211]. Từ giữa những năm 60 của thế kỷ XX, Ấn Độ tiến hành “cách mạng

xanh”, áp dụng các thành tựu khoa học tiên tiến vào nông nghiệp, thực hiện “cách

mạng trắng” để giải quyết nhu cầu về sữa. Chính sách ưu tiên phát triển nông

Page 37: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

27

nghiệp không chỉ nhằm giải quyết vấn đề lương thực, tạo việc làm, cải thiện đời

sống cho 3/4 dân số sống nhờ vào nông nghiệp, mà còn tạo cơ sở vững chắc cho

công cuộc công nghiệp hoá của Ấn Độ.

Từ năm 1964, Ấn Độ lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội gay gắt. Nạn

thiếu lương thực trầm trọng và kéo dài, đời sống người dân ngày càng tồi tệ, mâu

thuẫn xã hội gay gắt làm giảm sút lòng tin vào chính phủ và Đảng Quốc đại. Ngày

19-01-1966, bà Indira Gandhi4 trở thành Thủ tướng thứ ba của Ấn Độ sau khi người

kế nhiệm J. Nehru là Thủ tướng Lal Bahadur Shastri qua đời. Chính phủ Gandhi đã

thực hiện các chính sách mới nhằm khôi phục và phát triển kinh tế. Nhờ vậy, Ấn Độ

đã đạt được những bước tiến mới về kinh tế, xã hội trong thời kỳ nắm quyền của Thủ

tướng I. Gandhi. Ngày 31-10-1984, Thủ tướng I. Gandhi bị ám sát bởi các thế lực

phản động và cánh hữu. Con trai của I. Gandhi là Rajiv Gandhi trở thành Thủ tướng

mới của Ấn Độ. Dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng R. Gandhi, nhân dân Ấn Độ phải

đương đầu với nhiều khó khăn về kinh tế, xã hội và thu được những thành quả đáng

kể, đưa đất nước phát triển. Tháng 5-1991, Thủ tướng R. Gandhi bị sát hại, chấm dứt

hơn nửa thế kỷ Đảng Quốc đại cầm quyền dưới sự lãnh đạo của gia đình Nehru.

Bước vào những năm 90 của thế kỷ XX, những biến động trên thế giới (sự

tan rã của Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô viết và sự sụp đổ chế độ xã hội

chủ nghĩa ở các nước Đông Âu, cuộc Chiến tranh vùng Vịnh...) cũng như những

khó khăn trong nước làm cho kinh tế Ấn Độ bị suy thoái nghiêm trọng, mức tăng

trưởng giảm sút. Trước tình hình đó, từ tháng 7-1991, Ấn Độ thực hiện cải cách

kinh tế theo cơ chế thị trường và tự do hoá, mở cửa, khuyến khích hợp tác đầu tư

nước ngoài, điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng đa dạng, tranh thủ vốn và

kỹ thuật nước ngoài. Trong những năm đầu thế kỷ XXI, Ấn Độ trở thành một trong

những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới. Tính đến năm

2000, nền kinh tế Ấn Độ đứng thứ năm thế giới sau Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc và

Đức. Mức thu nhập quốc dân bình quân đầu người của Ấn Độ từ 50 USD (năm

1950) tăng lên 460 USD (năm 2003) [27, tr. 679].

4 Bà là con gái của Thủ tướng Jawaharlal Nehru

Page 38: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

28

Về chính sách đối ngoại, từ sau khi giành độc lập, Ấn Độ thực hiện chính sách

đối ngoại hoà bình, độc lập, không liên kết bao gồm những điểm cơ bản sau: Bảo vệ

hoà bình, ủng hộ các nguyên tắc cùng tồn tại giữa các dân tộc, đấu tranh giải trừ quân

bị và cấm vũ khí hạt nhân, chống chủ nghĩa thực dân, giữ vững độc lập dân tộc, từ

chối không tham gia các khối và không cho phép đặt căn cứ quân sự nước ngoài trên

đất Ấn Độ [22, tr. 164]. Mục tiêu hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ là

phấn đấu cho hoà bình giữa các dân tộc. J. Nehru đã từng tuyên bố: “Hoà bình đối

với chúng tôi không chỉ là niềm hy vọng nhiệt thành mà còn là một nhu cầu khẩn

thiết” [25, tr. 294]. Sau Chiến tranh lạnh, để phục vụ công cuộc cải cách kinh tế trong

nước và thích ứng với tình hình quốc tế mới, Ấn Độ đã tiến hành điều chỉnh chính

sách đối ngoại của mình trên cơ sở thực hiện ngoại giao toàn diện “liên kết với

phương Tây và hướng về phương Đông”, coi trọng quan hệ với các nước phát triển,

các nước lớn, coi “ngoại giao kinh tế” là trọng tâm, lấy ngoại giao phục vụ phát triển

kinh tế, đảm bảo lợi ích dân tộc, lấy lại vị thế cường quốc trên thế giới. Mặc dù điều

chỉnh chính sách đối ngoại nhưng Ấn Độ không từ bỏ những nguyên tắc về hoà bình,

dân chủ, trung lập như lời phát biểu của Thủ tướng Ấn Độ Narasimha Rao: “Thế giới

đã thay đổi, các nước đều thay đổi và không có gì có thể biện minh nếu Ấn Độ không

thay đổi. Chúng ta phải điều chỉnh và có cách đề cập thực tế nhưng chúng ta không

bao giờ thay đổi nguyên tắc mục tiêu” [20, tr. 121]. Có thể nói, trong 70 năm kể từ

khi giành được độc lập, Ấn Độ đã kiên trì theo đuổi chính sách đối ngoại hoà bình,

độc lập và không liên kết do Thủ tướng J. Nehru khởi xướng. Chính đường lối đó đã

giúp Ấn Độ từ một nước thuộc địa, kinh tế kém phát triển trở thành một nước có nền

kinh tế phát triển và có uy tín ngày càng cao trên các diễn đàn quốc tế hiện nay.

2.4.1.2. Myanmar trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ

Trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ, Myanmar chiếm một vị trí quan

trọng, bao gồm những nhân tố sau:

Thứ nhất, với vị trí địa lý chiến lược trọng yếu, Myanmar đã trở thành một

“mắt xích” quan trọng trên con đường tiến vào Đông Nam Á của Ấn Độ

Đối với Ấn Độ, Myanmar có tầm quan trọng chiến lược đặc biệt bởi vị trí kết

nối các khu vực Đông Bắc Á, Đông Nam Á và Nam Á của quốc gia này. Sau khi

giành được độc lập vào năm 1947, Ấn Độ đã đề ra chính sách đối ngoại “chung sống

Page 39: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

29

hoà bình, tự lực tự cường và hợp tác, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau,

không liên kết, ủng hộ phi thực dân hoá, giải trừ vũ khí, xây dựng trật tự kinh tế quốc

tế công bằng và đấu tranh trên toàn cầu chống phân biệt chủng tộc” [29, tr. 143]. Từ

sau Chiến tranh lạnh, Myanmar ngày càng có tầm quan trọng hơn đối với Ấn Độ trên

con đường tiến về Đông Nam Á. Myanmar được xem là một “chiếc cầu trên bộ” nối

liền Myanmar và Đông Nam Á và là một mắt xích có tính chất sống còn trong chính

sách “hướng Đông”, tạo nên một tuyến đường thương mại quan trọng đối với Ấn Độ

[142]. Trong đó, khu vực Đông Bắc được các nhà hoạch định chính sách Ấn Độ coi

là điểm bắt đầu của “sợi dây” liên kết Ấn Độ với Đông Nam Á nhằm khôi phục mối

quan hệ lịch sử lâu đời giữa Ấn Độ với Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam

thông qua Myanmar để thúc đẩy thương mại. Chính điều này đã làm cho Myanmar

trở nên quan trọng trong chính sách “hướng Đông” của Ấn Độ, như lời phát biểu của

Thủ tướng Manmohan Singh: “Myanmar là một đối tác then chốt trong chính sách

hướng Đông của Ấn Độ và có vị trí hoàn hảo để đóng vai trò là cầu nối kinh tế giữa

Ấn Độ và Trung Quốc, giữa Nam Á và Đông Nam Á” [30, tr. 28].

Ngoài ra, Ấn Độ và Myanmar đều là thành viên của các tổ chức tiểu khu vực

như: Sáng kiến vùng Vịnh Bengal về hợp tác Kinh tế và Kỹ thuật đa khu vực

(BIMSTEC)5 và Tổ chức Hợp tác Mekong - Sông Hằng (MGC)6. Trên thực tế, khi

thiết lập quan hệ hợp tác giữa Ấn Độ với hai tổ chức BIMSTEC và MGC thì

Myanmar đã trở thành cầu nối quan trọng trong sự chuyển dịch về phía Đông của Ấn

Độ. Mặt khác, với việc là thành viên của BIMSTEC đã giúp Myanmar trở thành một

đối tác chủ chốt trong việc triển khai các dự án trong lĩnh vực năng lượng và du lịch.

Myanmar không chỉ là “cửa ngõ” để Ấn Độ tiến vào Đông Nam Á, mà còn giữ một

5 Sáng kiến vùng Vịnh Bengal về hợp tác Kinh tế và Kỹ thuật đa khu vực (BIMSTEC) được thành lập năm

1997, với 1,5 tỷ dân, tổng GDP của nhóm lên tới 2,5 nghìn tỷ USD và bao gồm một số nước Nam Á và Đông

Nam Á như: Bangladesh, Ấn Độ, Myanmar, Sri Lanka, Thái Lan, Bhutan và Nepal. Năm 2004, BIMSTEC

tiến hành hội nghị cấp cao đầu tiên tại thủ đô Bangkok của Thái Lan; Ấn Độ đăng cai tổ chức hội nghị cấp

cao lần thứ hai của BIMSTEC năm 2008 và là nước đi tiên phong trong một loạt sáng kiến trong nhiều lĩnh

vực, trong đó có lĩnh vực du lịch, giảm nhẹ thiên tai và tăng cường kết nối khu vực. 6 Hợp tác Mekong - Sông Hằng (MGC) được thành lập vào ngày 10-11-2000 ở Vientiane trong cuộc họp cấp

bộ trưởng lần thứ nhất của MGC. Tổ chức bao gồm 6 thành viên là Ấn Độ, Việt Nam, Lào, Campuchia,

Myanmar, Thái Lan. Tổ chức này tập trung vào bốn lĩnh vực hợp tác là du lịch, văn hóa, giáo dục và liên kết

giao thông vận tải để có nền tảng vững chắc cho thương mại trong tương lai và hợp tác đầu tư trong khu vực.

Page 40: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

30

vị trí quan trọng trong sự phát triển các mối quan hệ kinh tế, đặc biệt là hợp tác

thương mại giữa Đông Bắc Ấn Độ với tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) và ASEAN.

Thứ hai, sự tác động của nhân tố Trung Quốc trong chính sách đối ngoại

của Ấn Độ với Myanmar

Trong quá trình triển khai chính sách đối ngoại với Myanmar, Ấn Độ không thể

không tính đến sự tác động của nhân tố Trung Quốc. Nếu như quan hệ Ấn Độ -

Myanmar thăng trầm trong nhiều thập kỷ trở lại đây thì quan hệ Trung Quốc -

Myanmar lại là mối quan hệ thân thiết. Trong những năm 1988 - 1992, khi Ấn Độ còn

đang theo đuổi những nguyên tắc lý tưởng về hoà bình, dân chủ, ủng hộ phong trào đấu

tranh dân chủ ở Myanmar thì Trung Quốc đã thiết lập được một vị trí vững chắc tại

nước láng giềng này. Trong giai đoạn 1962 - 1991, mối quan hệ lạnh nhạt và “đóng

băng” giữa Ấn Độ với Myanmar đã tạo nên “khoảng trống” cho Trung Quốc có điều

kiện thâm nhập sâu hơn và tăng cường sự hiện diện, ảnh hưởng của họ ở Myanmar.

Qua đó, Trung Quốc đã thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ với chính quyền quân sự

Myanmar và khai thác nhiều tiềm năng, lợi thế từ quốc gia này. Quan hệ Trung Quốc -

Myanmar ngày càng tiến triển tốt đẹp bao nhiêu thì càng làm cho Ấn Độ lo ngại bấy

nhiêu vì nếu Trung Quốc thành công trong việc lôi kéo Myanmar, động thái này sẽ mở

đường cho Trung Quốc bao vây Ấn Độ thông qua ba chính quyền thân Trung Quốc là

Bangladesh, Pakistan và Myanmar, tạo nên sự bất ổn về an ninh đối với Ấn Độ.

Bên cạnh đó, sự can thiệp ngày càng sâu của Trung Quốc vào chính quyền

quân sự Myanmar cùng những cơ sở chiến lược mà Trung Quốc đang xây dựng tại

Myanmar càng làm cho Ấn Độ hết sức lo ngại. Ngoài việc trở thành đối tác cung

cấp vũ khí lớn nhất của Myanmar, Trung Quốc đã xây dựng hành lang từ Côn Minh

tới khu vực bờ biển phía Tây Myanmar, đối diện với vành đai Ấn Độ Dương. Ngoài

ra, Trung Quốc cũng đã hỗ trợ Myanmar trong việc phát triển các căn cứ hải quân

tại Sittwe, Hianggyi, Khaukphyu, Mergui và Zadetkyi Kyun bằng cách xây dựng

các cơ sở tiếp nhiên liệu và các trạm radar cho các tàu ngầm Trung Quốc hoạt động

trên vịnh Bengal [123, tr. 3]. Những động thái của Trung Quốc ở vùng vịnh Bengal

và biển Andaman là bước đi đầu tiên nhằm đảm bảo những lợi ích cao nhất cho

Trung Quốc trên biển Ấn Độ Dương. Các cơ sở này được sử dụng nhằm thu thập tin

tức tình báo về những hoạt động của hải quân Ấn Độ và là căn cứ tiền tiêu cho các

Page 41: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

31

hoạt động của hải quân Trung Quốc tại biển Ấn Độ Dương. Trong bối cảnh những

nỗ lực mở rộng lực lượng hải quân của Ấn Độ đang bị bế tắc, sự hiện diện ngày

càng tăng của hải quân Trung Quốc tại khu vực nói trên đã gây nên hậu quả to lớn

đối với Ấn Độ, vì những lợi thế về địa lí truyền thống của Ấn Độ ngày càng có

nguy cơ bị đe dọa trước khả năng xâm nhập ngày càng sâu vào Myanmar của Trung

Quốc. Kể từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX, Trung Quốc đã can dự một cách

mạnh mẽ vào Myanmar và ngấm ngầm làm giảm ảnh hưởng của Ấn Độ thông qua

việc thực thi chiến lược “chuỗi ngọc trai”7 nhằm thiết lập một loạt các cảng biển ở

các nước ven Ấn Độ Dương và Đông Nam Á. Để thực hiện chiến lược này, Trung

Quốc đã cải thiện quan hệ với hầu hết các nước láng giềng của Ấn Độ bao gồm

Pakistan, Nepal, Bangladesh và Sri Lanka. Trong bối cảnh đó, Myanmar là nơi mà

Trung Quốc có thể sử dụng làm bàn đạp cho tham vọng mở rộng phạm vi ảnh

hưởng của mình xuống khu vực Đông Nam Á và Nam Á [68, tr. 82]. Có thể nói,

Trung Quốc gia tăng ảnh hưởng ở Myanmar là “nhân tố chủ chốt” thúc đẩy Ấn Độ

phải nhanh chóng hợp tác với chính quyền quân sự Myanmar.

Thứ ba, vấn đề an ninh biên giới tại khu vực Đông Bắc Ấn Độ

Những vấn đề an ninh biên giới được chính phủ Ấn Độ coi là cơ sở hết sức

quan trọng trong hoạch định chính sách đối ngoại với Myanmar như: Làn sóng nổi

dậy tại các bang Đông Bắc của Ấn Độ (các nhóm nổi dậy thiết lập trại huấn luyện

trên lãnh thổ Myanmar); buôn bán vũ khí trên đất liền và trên biển; nạn buôn lậu ma

túy và khủng bố... Trong đó, mối quan tâm an ninh trực tiếp đối với Ấn Độ là phong

trào chống đối dai dẳng ở các bang vùng Đông Bắc Ấn Độ, địa bàn của hơn 40 triệu

dân có biên giới tiếp giáp với Myanmar. Các tổ chức nổi dậy có vũ trang như: Hội

đồng Quốc gia Xã hội chủ nghĩa Nagaland (NSCN), Mặt trận Thống nhất Giải

phóng Asom (ULFA), Đảng Nhân dân Cách mạng Kangleipak (PREPAK), Quân đội

Giải phóng Nhân dân (PLA), Mặt trận Thống nhất Giải phóng Dân tộc (UNLF)... đã

xây dựng các căn cứ tại các tỉnh Kachin và Sagaing (Myanmar) và sử dụng lãnh thổ

7 “Chuỗi ngọc trai” (String of Pearls) là một thuật ngữ được các nhà phân tích Mỹ dùng để mô tả các tuyến

giao thông hàng hải của Trung Quốc kéo dài đến Sudan, đi qua eo biển chiến lược Mandab, eo biển Malacca,

eo biển Hormuz và eo biển Lombok. Trung Quốc muốn đặt nhiều căn cứ quân sự, cụ thể là căn cứ hải quân,

tại nhiều nước khác nhau được xem là “Ngọc Trai” nằm trong “Chuỗi” trải dài từ phía nam Trung Quốc

sang Ấn Độ Dương.

Page 42: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

32

của nước này làm nơi ẩn náu an toàn [122, tr. 119-120]. Hoạt động chống phá của các

tổ chức này gia tăng mạnh mẽ với các vụ bạo loạn ngày càng leo thang ở khu vực

Đông Bắc kể từ sau khi Ấn Độ giành được độc lập đã làm cho khu vực này ngày càng

nghèo đi. Ấn Độ nhận thức rõ rằng, nếu không có sự giúp sức của chính quyền quân

sự Myanmar thì mọi nỗ lực của Ấn Độ nhằm triệt phá lực lượng nổi dậy tại khu vực

Đông Bắc sẽ không thể thành công. Do đó từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX, thay

vì theo đuổi những quan điểm lý tưởng về dân chủ, hoà bình, Ấn Độ đã thực hiện

chính sách ngoại giao mang tính thực tế hơn trong quan hệ với Myanmar.

Thứ tư, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và sở hữu trữ lượng dầu khí

khổng lồ của Myanmar

Myanmar có tiềm năng rất lớn về tài nguyên dầu khí, đá quý, rừng nguyên

sinh và thủy điện. Myanmar hiện là một trong những thị trường hiếm hoi còn lại hầu

như chưa được khai thác với nguồn tài nguyên được đánh giá có thể sánh ngang với

các quốc gia giàu tài nguyên của châu Á. Myanmar là quốc gia giàu có về dầu mỏ và

có trữ lượng khí đốt tự nhiên lớn nhất khu vực Đông Nam Á. Theo ước tính,

Myanmar có trữ lượng dầu mỏ “khoảng 600 triệu thùng và dự trữ khí đốt tổng cộng

là 88 nghìn tỷ feet khối (tcf8) - chỉ ít hơn so với Indonesia. Mới đây, Myanmar còn tìm

thấy trữ lượng ở ba khu vực ở vịnh Bengal - Mya, Shwe và Shwe Phyu (hay còn gọi là

dự án Shwe) với ước tính là 5,7-10 nghìn tỷ feet khối” [72, tr. 9], [124, tr. 2]. Theo

đánh giá của Liên Hợp Quốc, Myanmar đứng thứ 10 thế giới về trữ lượng dầu khí với

3,2 tỷ thùng dầu và 2.460 tỷ m3 khí tự nhiên. Riêng về xuất khẩu khí đốt (chủ yếu

sang Thái Lan và Trung Quốc), trong những năm đầu thế kỷ XXI, hàng năm mang về

hơn 3 tỷ USD cho Myanmar [19, tr. 132]. Với nguồn tài nguyên giàu có, Myanmar

trở thành “mảnh đất vàng” cho các cường quốc trên thế giới đẩy mạnh đầu tư, khai

thác năng lượng và Ấn Độ là một trong những đối tác có nhiều ưu thế thuận lợi nhất.

Trong mối quan hệ với Myanmar, nhất là từ sau Chiến tranh lạnh đến nay,

năng lượng được coi là nhân tố đảm bảo chiến lược tăng trưởng kinh tế của Ấn Độ.

Trong những năm gần đây, hai nền kinh tế lớn của châu Á là Ấn Độ, Trung Quốc đã

có sự trỗi dậy mạnh mẽ. Với việc Ấn Độ và Trung Quốc cùng có chung đường biên

8 tcf là đơn vị đo khí đốt, tính bằng 1 triệu triệu feet khối

Page 43: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

33

giới với quốc gia giàu tài nguyên như Myanmar, làm cho nước này trở thành nhân

tố chiến lược trong sự cạnh tranh năng lượng của hai cường quốc nói trên, đặc biệt

là đối với Ấn Độ khi nước này đang tiến hành cuộc cải cách toàn diện từ những năm

cuối thế kỷ XX và ngày càng tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ. Do đó, vấn đề an ninh

năng lượng đang trở thành ưu tiên chiến lược quốc gia và thường được đưa lên hàng

đầu trong các chương trình nghị sự của chính sách đối ngoại Ấn Độ.

Với bốn nhân tố chiến lược nêu trên, Ấn Độ muốn hợp tác chặt chẽ hơn nữa

với chính quyền quân sự Myanmar nhằm gỡ bỏ tâm lý thù địch trước đây (do trong

một thời gian dài Ấn Độ ủng hộ phe đối lập chống lại chính quyền quân sự), chống

lại những lợi thế chiến lược của Trung Quốc tại Myanmar; và nhu cầu cần thiết

trong việc giải quyết các mối đe dọa phi truyền thống đối với vấn đề an ninh khu

vực Đông Bắc cũng như mở rộng ảnh hưởng tại khu vực Đông Nam Á nói riêng và

châu Á - Thái Bình Dương nói chung.

Tóm lại, đối với Ấn Độ, Myanmar là nước láng giềng có tầm quan trọng

chiến lược, “là nhân tố sống còn đối với sự thành công của chính sách hướng Đông

của Ấn Độ” [37, tr. 7]. Sự chuyển hướng trong chính sách của Ấn Độ đối với

Myanmar tuy có hơi muộn nếu xét về mối quan hệ truyền thống, lịch sử và vị thế

trọng yếu của nước láng giềng này, nhưng đó vẫn là một chính sách đúng đắn. Sự

lựa chọn trong chính sách đối ngoại với Myanmar của Ấn Độ giai đoạn 1992 - 2011

vẫn kế thừa truyền thống dân chủ nhưng mang tính thực tế và linh hoạt hơn nhằm

đạt hiệu quả cao nhất, “trái tim người Ấn Độ vẫn nhớ tới bà Suu Kyi nhưng cái đầu

họ mách bảo rằng cần quan hệ với chính quyền quân sự Myanmar” [35, tr. 10].

2.4.2. Bối cảnh lịch sử Myanmar và vị trí của Ấn Độ trong chính sách đối ngoại

của Myanmar

2.4.2.1. Tình hình Myanmar từ nửa sau thế kỷ XX đến thập niên đầu thế kỷ XXI

Sau khi giành độc lập vào năm 1948, Miến Điện9 bước vào thời kỳ xây dựng

và phát triển đất nước. Năm 1952, Chính phủ U Nu thông qua kế hoạch phát triển

kinh tế - xã hội Pyidawtha10 (Pyidawtha theo tiếng Miến có nghĩa là thịnh vượng,

9 từ năm 1989 đổi tên thành Liên bang Myanmar 10 Đây là kế hoạch phát triển tổng thể với 195 mục tiêu nhằm xây dựng nền kinh tế mới, nền dân chủ mới, làm

thay đổi hoàn toàn bộ mặt đất nước. Kế hoạch Pyidawtha dự kiến thực hiện trong 8 năm, qua hai giai đoạn:

Page 44: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

34

hạnh phúc). Tuy nhiên, trên thực tế, những mục tiêu đề ra trong kế hoạch này đều

không được thực hiện thành công do không phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị

của Miến Điện trong bối cảnh lúc bấy giờ. Thất bại của chính sách phát triển kinh tế

- xã hội ở Miến Điện gắn liền với những bất ổn về chính trị, tình trạng chia rẽ trong

nội bộ giới lãnh đạo do bất đồng quan điểm về phát triển kinh tế và mâu thuẫn cá

nhân. Bên cạnh cuộc đấu tranh quyền lực giữa các phe phái chính trị là tình trạng

mâu thuẫn tôn giáo và sắc tộc.

Ngày 26-8-1961, quốc hội Miến Điện thông qua luật sửa đổi Hiến pháp, nâng

Phật giáo thành quốc giáo. Mục 1, điều 21 của Hiến pháp quy định: “Phật giáo là tôn

giáo của đại đa số công dân trong Liên bang, là tôn giáo quốc gia” [33, tr. 54]. Tuy

nhiên, điều đó đã làm cho các cộng đồng tôn giáo khác bất bình. Cùng với vấn đề tôn

giáo, vấn đề mâu thuẫn sắc tộc cũng ngày càng trầm trọng. Theo Hiến pháp Miến

Điện năm 1947, các tiểu quốc trong Nhà nước liên bang có quyền ly khai sau thời hạn

10 năm. Năm 1957, các đại diện dân tộc Shan đưa ra Nghị quyết đòi tách ra khỏi Liên

bang, mở đầu cho xu hướng ly khai của hàng loạt các dân tộc thiểu số khác. Những

bế tắc trong việc giải quyết các vấn đề chính trị, tôn giáo, sắc tộc cùng với những thất

bại trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội dẫn tới sự sụp đổ của Chính phủ U Nu.

Ngày 02-3-1962, dưới sự lãnh đạo của Tướng Ne Win, quân đội quốc gia

tiến hành đảo chính, lật đổ chính phủ U Nu, thiết lập một chính phủ quân sự và đưa

ra đường lối phát triển mới. Sau khi nắm quyền, Tướng Ne Win thành lập Hội đồng

cách mạng, bao gồm các tướng lĩnh trong quân đội để điều hành công việc quốc gia.

Tháng 4-1962, Hội đồng cách mạng đưa ra Cương lĩnh con đường đi lên chủ nghĩa

xã hội của Miến Điện, thể hiện quan điểm về xây dựng chủ nghĩa xã hội của các nhà

lãnh đạo Miến Điện trên cơ sở kết hợp giữa các lý thuyết về Phật giáo và tư tưởng

Marxist. Về đối ngoại, Chính phủ Ne Win tiếp tục thực hiện đường lối ngoại giao

trung lập, chủ trương quan hệ hữu nghị hoà bình với tất cả các nước, không tham

1952 - 1956 và 1956 - 1960, phấn đấu đến năm 1960 nâng tổng sản lượng nông nghiệp lên cao hơn 30% so với

trước chiến tranh, tức là hơn 70% so với đầu kế hoạch; GDP đạt 7 tỷ Kyat, vượt 60% so với 4,3 tỷ Kyat của

năm 1952 - 1953; GDP/đầu người cao hơn trước chiến tranh 40%. Trong lĩnh vực công nghiệp, chính phủ

Myanmar chủ trương xây dựng ba trung tâm công nghiệp liên hợp ở thủ đô Rangoon (trung tâm của miền

Nam), Madalay (trung tâm của miền Bắc) và Akyab (thuộc Arakan ở miền Tây Myanmar). Mỗi trung tâm sẽ là

một quần thể hoàn chỉnh các cơ sở luyện kim, hoá chất, cơ khí, xi măng, dược, dệt... [33, tr. 34].

Page 45: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

35

gia vào các khối liên minh quân sự. Trong hơn 10 năm đầu thực hiện Cương lĩnh

con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Miến Điện, nền kinh tế Miến Điện vẫn ở

trong tình trạng trì trệ, sản xuất không đảm bảo nhu cầu tiêu dùng trong nước, tỉ lệ

lạm phát tăng nhanh, từ 20% trong hai năm 1972 - 1973 tăng lên 35,5% vào năm

1975 - 1976 [23, tr. 466]. Ngày 01-01-1974, Chính phủ Ne Win công bố Hiến pháp

mới thay thế Hiến pháp năm 1947, đặt tên nước là “Liên bang Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Miến Điện”. Các nội dung dân chủ của Hiến pháp 1947 đều bị bãi bỏ.

Từ nửa sau những năm 80 của thế kỷ XX, sự phát triển không ổn định của nền

kinh tế, tình trạng trì trệ trong đời sống kinh tế - xã hội của Miến Điện đã dẫn tới làn

sóng đấu tranh phản đối của quần chúng nhân dân và trong nội bộ giới lãnh đạo. Ngày

8-8-1988, nhân dân thủ đô xuống đường biểu tình với quy mô lớn, các thành phố lớn

khác cũng hưởng ứng theo. Quân đội đã nổ súng vào đoàn biểu tình, máu đổ ở nhiều

nơi, hàng nghìn người chết, bị thương và bị bắt giam. Giữa lúc tình hình đang căng

thẳng, hỗn loạn và phức tạp, ngày 18-9-1988, Tướng Saw Maung cùng các tướng lĩnh

thân cận tiến hành cuộc đảo chính quân sự, thành lập Hội đồng Khôi phục Trật tự và

Luật pháp Quốc gia (SLORC) do Tướng Saw Maung làm chủ tịch [59, tr. 48]. Hội

đồng nhà nước và quốc hội cùng các hội đồng địa phương bị giải tán. Sự kiện này

đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội của Tướng Ne

Win, mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử Miến Điện - thời kỳ mở cửa và cải cách.

Từ năm 1992, Thống tướng Than Swe, người đứng đầu SLORC, từng bước

tăng cường các biện pháp nhằm cải thiện tình hình kinh tế - xã hội trong nước. Để ổn

định tình hình và giảm bớt sự chỉ trích từ bên ngoài về thể chế chính trị, tháng 11-

1997, chính phủ Myanmar tuyên bố đổi tên Hội đồng Khôi phục Trật tự và Luật

pháp Quốc gia (SLORC) thành Hội đồng Hòa bình và Phát triển quốc gia (SPDC).

Bên cạnh đó, Myanmar tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở với các

nước trên thế giới. Năm 1996, Myanmar tham gia Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF).

Tháng 8-1997, Myanmar chính thức trở thành một thành viên của tổ chức ASEAN

[23, tr. 553]. Đây được xem là một bước ngoặt quan trọng giúp Myanmar có điều

kiện thuận lợi hơn để tiến hành cải cách kinh tế - chính trị trong nước, thúc đẩy quá

trình hội nhập với khu vực và thế giới sau hơn nửa thế kỷ đóng cửa và bị cô lập.

Page 46: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

36

Bước sang thế kỷ XXI, chính phủ Myanmar tiếp tục thực hiện nhiều chính

sách cải cách nhằm cải thiện tình hình chính trị, kinh tế - xã hội trong nước. Ngày

13-11-2010, theo chiếu lệ của tòa án Miến Điện, bà Aung San Suu Kyi11 chính thức

được trả tự do sau 21 năm bị giam lỏng và bị quản thúc tại gia [149]. Đây được xem

là một bước đi tiến bộ nhằm giải quyết các bất đồng thông qua đàm phán và hòa

giải những mâu thuẫn chính trị. Bên cạnh đó, trong những năm đầu thế kỷ XXI,

chính phủ Myanmar tiếp tục đẩy mạnh quá trình cải cách và mở cửa nền kinh tế,

thúc đẩy quan hệ thương mại với các nước ASEAN, Trung Quốc và Ấn Độ. Điều

này thể hiện những nỗ lực của Myanmar trong việc tìm kiếm những mối quan hệ

thân thiết với các đối tác lớn nhằm giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực từ những đòn tấn

công về chính trị, trừng phạt về kinh tế của Mỹ và các nước phương Tây.

2.4.2.2. Ấn Độ trong chính sách đối ngoại của Myanmar

Từ sau năm 1962, mối quan hệ giữa Ấn Độ với Myanmar trở nên xấu đi do

sự kiện đảo chính quân đội của Tướng Ne Win. Những chính sách đối nội và đối

ngoại của chính quyền quân sự mới đã làm nhiều người Ấn bị tịch thu tài sản và

buộc phải rời khỏi Miến Điện. Với sự lạnh nhạt và căng thẳng trong quan hệ hai

nước, Chính phủ Ne Win đã hạ thấp mức độ quan hệ ngoại giao với Ấn Độ. Từ một

nước láng giềng trung lập và thân thiện, Ấn Độ hầu như không tồn tại trong chính

sách đối ngoại của Miến Điện [83, tr. 235]. Do đó, trong những năm 1962 - 1991,

Ấn Độ không phải là đối tượng chủ yếu trong chính sách ngoại giao mà chính

quyền quân sự Myanmar nhắm đến. Đây là giai đoạn mà Myanmar đang thực hiện

chính sách cân bằng quan hệ ngoại giao với ba nước lớn là Mỹ, Liên Xô và Trung

Quốc, cùng với đó là sự giảm sút trong quan hệ giữa nước này với Ấn Độ. Bước

sang đầu những năm 90 của thế kỷ XX, quan hệ Myanmar và Ấn Độ đã được điều

chỉnh, cải thiện và có bước phát triển hơn so với giai đoạn trước (1962 - 1991). Ấn

11 Aung San Suu Kyi sinh ngày 19-6-1945 tại Rangoon (nay là Yangon). Bà là con gái của anh hùng

Myanmar, tướng Aung San, người thành lập quân đội Myanmar hiện đại và đàm phán để Myanmar được độc

lập khỏi Anh năm 1947. Aung San Suu Kyi là một chính trị gia và là chủ tịch Đảng Liên minh Quốc gia vì

Dân chủ (NLD) của Myanmar. Năm 1991, bà vinh dự được nhận giải thưởng Nobel Hoà bình cho những

hoạt động dân chủ ở Myanmar. Cho tới năm 2014, bà xếp thứ 61 trong danh sách 100 người phụ nữ quyền

lực nhất theo Tạp chí Forbes.

Page 47: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

37

Độ ngày càng có một vị trí quan trọng nhất định trong chính sách đối ngoại đa

phương của Myanmar bởi những nhân tố sau:

Thứ nhất, với việc tăng cường quan hệ với Ấn Độ, Myanmar mong muốn đa

dạng hóa chính sách đối ngoại và tránh bị lệ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc.

Với mối quan hệ truyền thống, không thể phủ nhận sự thân thiết giữa Trung

Quốc và Myanmar, nhưng chính quyền quân sự Myanmar không muốn bị phụ thuộc

quá chặt chẽ vào Trung Quốc. Việc quay sang nối lại quan hệ với người láng giềng

ở phía Tây (Ấn Độ) là một hành động sáng suốt của giới cầm quyền Myanmar

nhằm trung lập hóa ảnh hưởng của Trung Quốc tại nước này. Trong nhiều thập kỷ

qua, với mối quan hệ “anh em” thân thiết, Myanmar bị lệ thuộc khá chặt chẽ vào

chính quyền Bắc Kinh. Từ năm 1988, khi Myanmar bị Mỹ và các nước phương Tây

cấm vận thì Trung Quốc đã mở rộng ảnh hưởng và lợi ích của mình ở nước láng

giềng Đông Nam Á này. Trung Quốc đã lợi dụng việc cộng đồng quốc tế cô lập

Myanmar sau những sự kiện chính phủ quân sự đàn áp những người dân chủ để

giành được những lợi ích chiến lược của họ, xây dựng các tuyến đường bộ, đường

sắt, cảng biển và đường ống dẫn dầu, nối miền Nam và miền Tây Trung Quốc với

Ấn Độ Dương qua Myanmar. Sự trợ giúp của Bắc Kinh đối với chính quyền quân

sự Myanmar cũng là nhân tố mang lại lợi ích cho Trung Quốc trong việc kiềm chế

các nhà nước tự trị người Karen và Shan, nhằm ngăn chặn những đội quân nổi dậy

ở Myanmar có thể lan sang tỉnh Vân Nam của Trung Quốc.

Trong một thời kỳ dài duy trì quan hệ với Trung Quốc, chính quyền quân sự

Myanmar không phải không nhận ra những toan tính về lợi ích và chiến lược của

Bắc Kinh. Tuy nhiên do bối cảnh quốc tế, tình hình khu vực Đông Nam Á và trong

nước lúc bấy giờ, họ vẫn phải tiếp tục duy trì quan hệ chặt chẽ với nước láng giềng

khổng lồ phía Bắc này. Nói cách khác, với Myanmar, mối quan hệ với Trung Quốc

trong nhiều năm qua đã đặt họ vào thế “tiến thoái lưỡng nan”: Myanmar phải vừa

giữ vững sự độc lập và chính sách trung lập, lại vừa phải duy trì một mối quan hệ

tốt đẹp với các nước láng giềng, đặc biệt là Trung Quốc [121, tr. 39].

Trong quan hệ với Trung Quốc, bên cạnh những lợi ích từ viện trợ kinh tế,

quân sự và sự ủng hộ về chính trị của Trung Quốc thì những nguy cơ từ một bộ

phận không nhỏ người Hoa ở Myanmar khiến cho giới cầm quyền và đại đa số

Page 48: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

38

người dân nước này lo ngại. Vị thế, ảnh hưởng của người Hoa ở Myanmar bắt đầu

được hình thành tính từ thời điểm năm 128712 [102, tr. 32]. Trải qua nhiều thế kỷ,

cộng đồng người Hoa được xác lập và trở thành một trong những dân tộc của

Myanmar. Tính đến năm 2016, người Hoa ở Myanmar có số dân là 1,7 triệu người

(chiếm 3% dân số Myanmar) [133]. Một bộ phận người Hoa nắm giữ nhiều vị trí

quan trọng trong lĩnh vực kinh doanh, sở hữu nhiều xí nghiệp ở các thành phố lớn

của Myanmar. Trong đó, Mandalay được ví như “một thành phố ảo của Trung

Quốc” [68, tr. 85]. Điều này đã buộc chính quyền quân sự Myanmar phải lựa chọn

thêm các mối quan hệ với các đối tác khác ở khu vực, trong đó đặc biệt là nước láng

giềng Ấn Độ. Có thể thấy, chính quyền Myanmar một mặt vẫn muốn dựa vào Bắc

Kinh, nhưng mặt khác lại muốn đa phương hóa quan hệ ngoại giao, tránh tình trạng

phụ thuộc quá sâu vào Trung Quốc và hạn chế lợi ích của Hoa kiều tại Myanmar.

Thứ hai, Ấn Độ cũng là nhân tố mà Myanmar thật sự cần thiết trong việc

hoạch định chính sách đối ngoại nhằm nâng cao vị thế của chính quyền quân sự

Từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX, chính quyền quân sự Myanmar đã điều

chỉnh chính sách ngoại giao với Ấn Độ. Hợp tác với Ấn Độ mang lại nhiều lợi ích

cho Myanmar. Đối với mối lo ngại về sự thừa nhận của quốc tế đối với chính quyền

quân sự Myanmar, quan hệ với Ấn Độ (một trong những quốc gia dân chủ) sẽ tạo

điều kiện thuận lợi cho tính hợp pháp của chính quyền nước này. Bên cạnh đó, tăng

cường quan hệ với Ấn Độ sẽ góp phần hạn chế và rút bỏ sự hậu thuẫn của Ấn Độ đối

với các nhóm ủng hộ dân chủ hoạt động ở Ấn Độ và các nơi khác - vốn có thể làm

dịu một cách đáng kể tình trạng bất ổn định ở Myanmar. Việc gia tăng quan hệ với

Ấn Độ sẽ hạn chế bớt sự lệ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc, tạo điều kiện cho

Myanmar thực thi chính sách đối ngoại đa dạng hoá, đa phương hoá. Myanmar cũng

đã nhận thức được họ như là “một chiếc bánh sandwich”, bị kẹp giữa hai “người

láng giềng” Trung Quốc và Ấn Độ, cũng là hai trong nhiều nước có tốc độ phát triển

kinh tế nhanh nhất trên thế giới hiện nay. Do vậy, quốc gia này tìm kiếm mối quan hệ

hợp tác với cả hai, muốn tận dụng vị trí chiến lược của mình để nhận được lợi ích tối

12 Năm 1287, vua Hốt Tất Liệt đã chỉ huy quân Nguyên Mông tiến hành cuộc xâm lược Miến Điện. Vương

quốc Pagan của người Miến tồn tại 250 năm (849 - 1287) đã bị sụp đổ. Sau khi triều đại Pagan diệt vong,

Miến Điện rơi vào tình trạng chia cắt và phân tranh cho đến tận giữa thế kỷ XVI.

Page 49: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

39

đa, trong khi vẫn giữ được sự độc lập tự chủ. Ngoài ra, quan hệ với Ấn Độ sẽ giúp

Myanmar ổn định khu vực biên giới Ấn Độ - Myanmar nhằm phát triển đất nước.

Hướng đến Ấn Độ, Myanmar còn mong muốn góp phần quan trọng trong

công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế trong nước. Mặc dù có mối quan hệ hữu

nghị trong những năm 50 của thế kỷ XX, nhưng từ sau cuộc đảo chính năm 1962,

quan hệ hai nước đi vào tình trạng căng thẳng, tác động không có lợi đến sự phát

triển kinh tế của hai nước. Từ năm 1992, mặc dù Myanmar bắt đầu có những cải

cách quan trọng trong lĩnh vực kinh tế, chính trị, song thực tế vẫn còn nhiều vấn đề

đặt ra cho đất nước này. Năm thập kỷ dưới chế độ độc tài đã biến một đất nước

phồn vinh thành một quốc gia bị cô lập và lạc hậu nhất khu vực. Nếu như vào năm

1962, GDP bình quân đầu người của Myanmar đạt 670 USD/năm, cao gấp đôi Thái

Lan và gấp ba Indonesia thì đến năm 2010, GDP của Myanmar còn thấp hơn cả Lào

và Campuchia trong cùng khối ASEAN theo Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) [136]. Cơ

sở hạ tầng lạc hậu, luật đầu tư yếu kém, hệ thống ngân hàng gần như tê liệt, vấn đề

quản lý nhà nước không hiệu quả, tình trạng thiếu việc làm, sự thiếu hụt của lao

động tay nghề cao... là những vấn đề nghiêm trọng cần được giải quyết.

Trước những khó khăn, thách thức đó, Myanmar không thể không tiến hành

cải cách, mở cửa và đẩy mạnh tìm kiếm nhiều hơn các đối tác khu vực, trong đó Ấn

Độ là một sự lựa chọn trước mắt cũng như lâu dài. Trong bối cảnh một nước

Myanmar đang còn kém phát triển, Ấn Độ sẽ mang lại nguồn viện trợ cần thiết cho

nhân dân nước này thông qua hợp tác thương mại và kinh tế. Đổi lại, những lợi ích

từ việc khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào của Myanmar cũng sẽ tạo

điều kiện góp phần đưa nền kinh tế Ấn Độ phát triển hơn. Tăng cường quan hệ với

Ấn Độ cũng sẽ tạo điều kiện cho Myanmar thâm nhập sâu hơn vào thị trường nước

này. Điều này sẽ giúp Myanmar xây dựng ngành công nghiệp phần mềm, tin học và

công nghiệp năng lượng dựa vào các nguồn tài nguyên để có thể tận dụng các lợi

thế so sánh. Ngoài ra, đây cũng là động lực thúc đẩy nguồn đầu tư vào các dự án

đường sắt và đường bộ của Ấn Độ, cùng với sự có mặt của các công ty của Trung

Quốc, Hàn Quốc... sẽ là xung lực làm tăng khả năng cạnh tranh tại Myanmar, góp

phần cải thiện triển vọng kinh tế của nước Đông Nam Á này.

Page 50: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

40

Thứ ba, nhân tố thúc đẩy Myanmar chú trọng quan hệ với Ấn Độ là do hai

nước là láng giềng liền kề nên việc ổn định biên giới sẽ là động lực phát triển kinh

tế và an ninh chính trị, xã hội cho Myanmar.

Hợp tác với Ấn Độ còn giúp Myanmar giữ vững an ninh khu vực biên giới,

góp phần đảm bảo an ninh chung của đất nước. An ninh biên giới là một trong

những vấn đề chủ yếu trong quan hệ hai nước. Tại khu vực phía Bắc kém phát triển,

Myanmar vấp phải những khó khăn trong nỗ lực đối phó với lực lượng Quân đội

độc lập Kachin (KIA) và Mặt trận giải phóng Chin (CNF). Cả hai nhóm này đang

tìm mọi cách đòi quyền tự trị giống như các nhóm nổi dậy hoạt động giáp biên giới

với vùng Đông Bắc Ấn Độ. Sự hợp tác giữa Ấn Độ và Myanmar sẽ giúp khống chế

các thành phần ly khai thông qua việc chia sẻ kinh nghiệm, tin tức, hợp đồng tác

chiến... Có thể nói, từ sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, Myanmar thực hiện đa

dạng hoá chính sách đối ngoại và cải thiện quan hệ với Ấn Độ. Nhu cầu đa dạng

hóa các mối quan hệ quốc tế của Myanmar càng được coi trọng sau khi nhận thức rõ

mức độ quá phụ thuộc vào Trung Quốc ngày càng gia tăng vào cuối những năm 90

của thế kỷ XX. Các nhà lãnh đạo Myanmar lúc bấy giờ đã hướng về Ấn Độ, xem

quốc gia này như là một đối trọng của Trung Quốc. Hơn thế nữa, chính quyền quân

sự Myanmar thông qua việc cải thiện quan hệ với Ấn Độ để nâng cao hơn nữa hình

ảnh và tính hợp pháp của họ trên trường quốc tế. Trong những nhân tố nói trên, điều

quan trọng nhất đối với Myanmar trong việc tìm kiếm quan hệ đối với Ấn Độ là

mối lo ngại về việc Trung Quốc đang lấn át lợi ích của nước này. Myanmar nhận

thức được các mối nguy hiểm tiềm tàng khi quá lệ thuộc vào Trung Quốc trong

nhiều năm qua. Ngoài ra, với chính sách tăng cường quan hệ với nước này để làm

đối trọng với nước kia, Myanmar sẽ có thể thu hút được lợi ích từ cả Trung Quốc và

Ấn Độ ở châu Á. Có thể nói, trong bối cảnh quốc tế và khu vực mới, cùng với nhu

cầu của mỗi nước đã tạo cơ hội cho Ấn Độ và Myanmar cải thiện và phát triển mối

quan hệ của mình. Hai nước đã khép lại những bất đồng trong quá khứ và sẵn sàng

cho những mối quan hệ hợp tác mới trên nhiều lĩnh vực trong hiện tại và tương lai.

Ấn Độ đã nâng tầm quan hệ với nước láng giềng Myanmar nhằm thúc đẩy chính

sách “hướng Đông” của mình. Ngược lại, những động thái của Myanmar cũng cho

thấy nước này đã quan tâm đặc biệt và đặt ưu tiên cao hơn cho quan hệ song

Page 51: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

41

phương với Ấn Độ. Có thể thấy, cả “Ấn Độ cũng cần Myanmar và Myanmar cũng

rất cần Ấn Độ, đó là nền tảng chung trong quan hệ giữa hai nước” [143].

Tiểu kết chương

Xuất phát từ những cơ sở về địa - chính trị, văn hoá, tôn giáo, lịch sử..., mối

quan hệ giữa Ấn Độ với Myanmar đã được hình thành và phát triển cho đến hiện

nay. Hai quốc gia láng giềng này có vị trí chiến lược quan trọng không chỉ ở khu

vực mà còn trên thế giới. Nếu như Ấn Độ là một điểm trung chuyển của con đường

giao thương từ châu Âu sang châu Á, là một trong những cái nôi của nền văn minh

loài người có lịch sử hàng nghìn năm, một “tiểu lục địa” ở Nam Á đang trỗi dậy

mạnh mẽ từ những năm cuối thế kỷ XX đến đầu thế kỷ XXI thì Myanmar đang

ngày càng cho thấy vị trí địa - chính trị mang tầm chiến lược quan trọng của mình ở

Đông Nam Á và thế giới. Myanmar đã trở thành “cầu nối” giữa Nam và Đông Nam

châu Á, nơi mà bất kỳ nước lớn nào, trong đó có Ấn Độ, muốn nâng cao vị thế ở

khu vực cũng phải tính đến nhân tố chiến lược Myanmar, đất nước được xem là

“ngã tư của châu Á” trong thế kỷ XXI.

Quan hệ hai nước bắt đầu hình thành từ rất sớm trên lĩnh vực thương mại,

dần dần phát triển dưới thời kỳ đô hộ của người Anh và nhất là từ sau khi hai nước

giành được độc lập. Trong những năm đầu sau khi chính thức thiết lập quan hệ

ngoại giao (1948 - 1962), quan hệ giữa Ấn Độ với nước láng giềng Myanmar diễn

ra tốt đẹp, gắn bó giống như tình bạn thân thiết giữa hai nhà lãnh đạo hai nước là

Jawaharlal Nehru và U Nu. Sự giúp đỡ về mặt kinh tế, an ninh quân sự của Ấn Độ

đối với Myanmar trong những năm sau ngày độc lập đã tạo nền tảng vững chắc cho

sự nồng ấm, hữu nghị của quan hệ hai nước trong giai đoạn này. Có thể nói, với

những mối liên hệ mật thiết về địa lý, văn hoá, tôn giáo, thương mại... từ những thời

kỳ đầu của lịch sử, với việc vị trí địa lý gần gũi (có chung đường biên giới trên đất

liền lẫn trên biển), cả Ấn Độ và Myanmar ngày càng có vị trí chiến lược quan trọng

về chính trị, kinh tế, an ninh - quốc phòng trong chính sách đối ngoại của nhau, nhất

là từ sau Chiến tranh lạnh đến thập niên đầu của thế kỷ XXI.

Page 52: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

42

CHƯƠNG 3

QUAN HỆ ẤN ĐỘ - MYANMAR TỪ NĂM 1962 ĐẾN NĂM 1991

Từ khi chính thức thiết lập mối quan hệ ngoại giao (năm 1948) đến đầu thập

niên thứ hai của thế kỷ XXI (năm 2011), quan hệ Ấn Độ - Myanmar diễn tiến phức tạp

và thăng trầm trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Từ năm 1962 đến năm 2011, quan hệ

hai nước trải qua hai giai đoạn chủ yếu: 1962 - 1991 và 1992 - 2011. Quan hệ giữa Ấn

Độ với Myanmar trong những năm 1962 - 1991 trở nên lạnh nhạt và có lúc gần như

“đóng băng” bởi những nhân tố quốc tế, khu vực trong thời kỳ Chiến tranh lạnh và tình

hình nội tại của hai nước, nhất là sự thay đổi thể chế chính trị ở Myanmar từ năm 1962.

3.1. Các nhân tố tác động đến quan hệ Ấn Độ - Myanmar (1962 - 1991)

3.1.1. Bối cảnh thế giới từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến kết thúc Chiến

tranh lạnh

Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc (năm 1945), một trật tự thế giới

mới được thiết lập với tên gọi là “Trật tự hai cực Yalta”. Trong suốt thời gian tồn

tại, trật tự hai cực Yalta dưới tác động của Chiến tranh lạnh đã phân chia thế giới

thành hai khối với hai hệ thống chính trị - xã hội khác biệt, đối lập nhau: Khối Xã

hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu và khối Tư bản chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của

Mỹ. Diễn biến tình hình thế giới trong thời kỳ Chiến tranh lạnh đã tác động mạnh

mẽ đến các mối quan hệ quốc tế, trong đó có quan hệ Ấn Độ - Myanmar.

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nhân loại lại đứng trước bờ vực của một

cuộc chiến mới. Tháng 3-1947, Tổng thống Mỹ Harry Truman chính thức phát động

Chiến tranh lạnh nhằm chống Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, đàn áp phong

trào cách mạng thế giới, khống chế các nước đồng minh phương Tây do Mỹ cầm

đầu, từng bước thực hiện tham vọng bá chủ thế giới của Mỹ. Mối quan hệ đồng

minh giữa Liên Xô với Mỹ và các nước phương Tây trong thời kỳ chiến tranh

chống phát xít chính thức tan vỡ, thay vào đó là cuộc “Chiến tranh lạnh”. Trước tình

hình đó, đáp trả lại những âm mưu, hành động thù địch của Mỹ và các nước đế

quốc, Liên Xô cũng ra sức tập hợp lực lượng, đẩy mạnh quan hệ hợp tác toàn diện

giữa các nước xã hội chủ nghĩa và giữa chủ nghĩa xã hội với các lực lượng cách

Page 53: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

43

mạng thế giới. Để làm đối trọng với tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương

(NATO), Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đã thành lập khối Hiệp ước

Warszawa. Sau khi thành lập, cả hai khối quân sự đều ra sức chạy đua vũ trang

nhằm gia tăng sức mạnh, đẩy thế giới trước nguy cơ một cuộc chiến tranh mới.

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, thắng lợi của Liên Xô và các lực lượng

Đồng minh trong cuộc chiến tranh chống phát xít đã tạo điều kiện thuận lợi cho

phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân các nước này bước vào một thời kỳ

phát triển mới. Tháng 4-1955, Hội nghị Bandung được triệu tập, đánh dấu sự kiện

nhân dân các nước Á, Phi bước đầu bước lên vũ đài quốc tế, tự quyết định lấy vận

mệnh của mình [125, tr. 277]. Lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân các nước châu

Á, châu Phi đoàn kết với nhau trong một mặt trận thống nhất của các dân tộc bị áp

bức chống chủ nghĩa đế quốc, thực dân. Với tư cách là một trong những nước sáng

lập Phong trào Không liên kết, Ấn Độ đã cùng với các nước thuộc Thế giới thứ ba

(trong đó có Myanmar) đoàn kết thành lập mặt trận thống nhất đấu tranh chống chủ

nghĩa đế quốc. Điều đó làm cho quan hệ giữa Ấn Độ và Myanmar có điều kiện phát

triển trong những năm đầu sau khi hai nước giành độc lập. Trong thập niên 60 và

những năm đầu thập niên 70 của thế kỷ XX, tình hình quan hệ quốc tế với cuộc

chạy đua vũ trang giữa hai khối vẫn tiếp diễn cùng với cuộc chiến tranh biên giới

Ấn Độ - Trung Quốc (năm 1962), chiến tranh Ấn Độ - Pakistan (1965, 1971) đã có

nhiều tác động sâu sắc đến tiến trình quan hệ Ấn Độ - Myanmar.

Bên cạnh đó, từ nửa đầu những năm 70 của thế kỷ XX, cuộc cách mạng khoa

học và công nghệ ngày càng phát triển mạnh mẽ đã thúc đẩy nền kinh tế thế giới có

những bước tăng trưởng mới, nguồn vốn cho vay của các tổ chức tài chính quốc tế

cũng như các nước Mỹ, Nhật Bản... đối với các quốc gia đang phát triển khá thuận

lợi. Về chính trị, thế giới vẫn ở trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, nhân loại đang

chứng kiến cuộc chạy đua vũ trang gay gắt giữa hai cực Liên Xô - Mỹ và hai khối

xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, cũng từ thập niên 70 của thế kỷ

XX, những xu hướng mới hoà dịu bắt đầu xuất hiện trong quan hệ quốc tế. Quan hệ

Mỹ - Trung Quốc đã được cải thiện và đánh dấu bằng sự kiện hai nước ký Thông

cáo chung Thượng Hải (năm 1972). Đến nửa cuối những năm 70 - đầu thập niên 90

của thế kỷ XX, toàn cầu hóa xuất hiện lôi kéo các nước trên thế giới vào xu thế hội

Page 54: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

44

nhập, nhất là về kinh tế. Điều đó đặt ra yêu cầu cho các quốc gia muốn lớn mạnh

phải hợp tác với nhau trong một môi trường hòa bình cùng phát triển. Trong xu

hướng chung đó, mặc dù quan hệ Ấn Độ - Myanmar giai đoạn 1962 - 1991 nhìn

chung diễn ra ở mức độ hạn chế nhưng mối quan hệ này chưa bao giờ bị đứt gãy

hoàn toàn. Trong bối cảnh Chiến tranh lạnh đang còn tiếp diễn, quan hệ Ấn Độ -

Myanmar lại chịu tác động từ chính sách đối ngoại của mỗi nước. Trong khi Ấn Độ

vẫn là nước có tiếng nói quan trọng trong Phong trào Không liên kết và duy trì quan

hệ thân thiết với Liên Xô, thì sau những biến động của nội tình Myanmar, mối quan

hệ giữa Myanmar với Trung Quốc ngày càng gắn bó chặt chẽ và ảnh hưởng không

có lợi đến quan hệ Myanmar - Ấn Độ.

Có thể nói, sự đối đầu, chạy đua vũ trang giữa Liên Xô và Mỹ cũng như hai

khối xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, sự ra đời và hoạt động của Phong trào

Không liên kết, quan hệ thân thiết giữa Ấn Độ với Liên Xô, giữa Myanmar và

Trung Quốc trong những năm Chiến tranh lạnh, chính sách đối ngoại trung lập của

Ấn Độ và Myanmar là những nhân tố tác động chủ yếu đến tiến trình quan hệ Ấn

Độ - Myanmar từ năm 1962 đến năm 1991. Cho nên, mặc dù mối quan hệ này diễn

ra thân thiện và hữu nghị trong giai đoạn trước (1948 - 1962) nhưng lại có những

chuyển biến phức tạp, khó lường trong giai đoạn 1962 - 1991.

3.1.2. Bối cảnh khu vực Nam Á và châu Á - Thái Bình Dương

Khu vực Nam Á

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, phong trào đấu tranh đòi độc lập dân tộc

trên thế giới và ở Nam Á lan rộng và phát triển mạnh mẽ. Anh buộc phải trao trả

độc lập cho Ấn Độ vào năm 1947. Thực hiện âm mưu chia để trị, thực dân Anh đã

lợi dụng mâu thuẫn tôn giáo (Hồi giáo và Ấn Độ giáo) và sử dụng Liên minh Hồi

giáo chia cắt tiểu lục địa thành hai quốc gia: Ấn Độ (chủ yếu theo Ấn Độ giáo) và

Pakistan (gồm những khu vực theo đạo Hồi ở hai phần Tây Pakistan và Đông

Pakistan). Phong trào đòi tự trị ở miền Đông Pakistan lên cao trong những năm 50 -

60 của thế kỷ XX và với sự giúp đỡ của Ấn Độ, nước Bangladesh được thành lập

vào năm 1971. Bên cạnh Ấn Độ và Pakistan, tính đến đầu những năm 70 của thế kỷ

XX, hầu hết các nước Nam Á khác đều đã giành được độc lập: Afghanistan (1919),

Bhutan và Nepal (1947), Sri Lanka (1948) và Maldives (1965)... Song song với

Page 55: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

45

cuộc đấu tranh giành độc lập, tình hình các nước Nam Á diễn ra khá phức tạp với

những cuộc xung đột liên tục, đặc biệt là giữa Ấn Độ với Pakistan. Nhiều vấn đề

tồn tại giữa hai nước vẫn chưa được giải quyết đó là vấn đề Kashmir, nguồn nước

lưu vực sông Ấn, yêu sách về tài chính, tranh chấp biên giới... Những bất đồng về

các vấn đề nói trên là nguyên nhân bùng nổ ba cuộc chiến tranh vào các năm 1947,

1965 và 1971 giữa Ấn Độ và Pakistan.

Tháng 12-1985, Ấn Độ cùng Bangladesh, Bhutan, Nepal, Maldives, Sri

Lanka thành lập Hiệp hội Hợp tác khu vực Nam Á (SAARC) nhằm tăng cường hợp

tác, giúp đỡ lẫn nhau khắc phục khó khăn, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài,

phối hợp hành động để nâng cao tiếng nói của khu vực trên diễn đàn quốc tế, phấn

đấu cho một trật tự thế giới mới công bằng và bình đẳng [25, tr. 300]. Đây là sự

kiện đánh dấu bước phát triển có tính bước ngoặt trong lịch sử quan hệ giữa các

nước ở khu vực Nam Á và mở ra thời kỳ hợp tác vì sự tiến bộ chung của mỗi nước,

hoà bình, hữu nghị ở Nam Á và châu Á. Tuy nhiên, cơ chế của tổ chức này sau khi

thành lập đã không đem lại hiệu quả, nội bộ các nước thành viên trong tổ chức thiếu

thống nhất, nghi ngờ, tranh chấp lẫn nhau. Thêm vào đó, những tranh chấp bất đồng

giữa Ấn Độ với một số nước khác như Pakistan về vấn đề Jammu và Kashmir, với

Bangladesh về vấn đề chia nguồn nước ở một số con sông cũng là trở ngại lớn với

sự hợp tác khu vực. Chính sự bất ổn về mặt chính trị và tranh chấp lãnh thổ... khiến

cho mối quan hệ giữa Ấn Độ với các nước Nam Á gặp trở ngại và vị thế của Ấn Độ

bị suy giảm nghiêm trọng. Do đó, Ấn Độ phải tìm cách cải thiện, gia tăng quan hệ

với các nước láng giềng của mình, nhất là Myanmar, nhằm tạo sự ổn định biên giới

và đặc biệt là kết nối với Đông Nam Á, nâng cao vị thế của Ấn Độ ở khu vực.

Khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Đông Nam Á

Xét trên góc độ địa - chính trị, địa - chiến lược và kinh tế, khu vực châu Á -

Thái Bình Dương có một vị trí đặc biệt quan trọng. Đây là nơi tập trung hầu hết các

nước lớn của thế giới với nhiều nền kinh tế quan trọng hàng đầu như Mỹ, Trung

Quốc, Nhật Bản, Nga, Ấn Độ, Hàn Quốc...; Là khu vực có trữ lượng dầu mỏ, khí

đốt rất lớn; Là nơi hội tụ hơn một nửa các nước thành viên của tổ chức G-2013.

13 G-20 là diễn đàn của 20 nền kinh tế lớn gồm 19 quốc gia có nền kinh tế lớn nhất (tính theo GDP (PPP)) và

Liên minh châu Âu (EU). Tổ chức G-20 được thành lập từ năm 1999 và hiện chiếm 85% nền kinh tế thế giới,

Page 56: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

46

Chính vì vậy, châu Á - Thái Bình Dương là nơi tập trung nhiều mâu thuẫn về lợi

ích, cạnh tranh khốc liệt về vai trò, ảnh hưởng của các cường quốc.

Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, sự đối đầu hai cực Liên Xô - Mỹ đã lôi kéo

hàng loạt quốc gia vào vòng xoáy của cuộc chiến quyết liệt và kéo dài qua nhiều

thập kỷ, khu vực châu Á - Thái Bình Dương cũng không nằm ngoài quy luật đó.

Đây là khu vực phản ánh trực tiếp sự đối đầu giữa hai cực Xô - Mỹ với nhiều cuộc

chiến tranh diễn ra như Chiến tranh Triều Tiên (1950 - 1953), Chiến tranh Việt

Nam (1954 - 1975)... Tuy nhiên, bên cạnh sự quyết liệt của các cuộc chiến tranh

khu vực, châu Á - Thái Bình Dương cũng chứng kiến sự vươn lên mạnh mẽ của các

nền kinh tế như Nhật Bản, các nước Công nghiệp mới (NICs)... tác động mạnh mẽ

đến sự phát triển kinh tế ở khu vực này.

Khu vực Đông Nam Á - một bộ phận không thể tách rời của châu Á - Thái

Bình Dương - là địa bàn chiến lược trọng yếu và là nơi tranh chấp giữa các nước

lớn trên thế giới. Đông Nam Á nằm ở khu vực thuận lợi về mặt thông thương và

phòng thủ quốc tế; nằm ở ngã ba châu Á, án ngữ con đường hàng hải thuận tiện

nhất từ Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương, giữa Đông Bắc Á và Nam Thái Bình

Dương [18, tr. 60]. Đông Nam Á từ lâu vẫn được coi là hành lang, là cầu nối hay

trạm trung chuyển giữa Ấn Độ, Tây Á và Địa Trung Hải với Trung Quốc, Nhật

Bản. Đây là khu vực có vị trí chiến lược hết sức trọng yếu, là điểm then chốt của

cầu nối giữa hai châu lục Á - Âu, giữa Tây Nam Á và Trung Cận Đông, Bắc Phi và

Đông Bắc Á, là nơi giao điểm của các trục đường hành lang giao thông vận chuyển

quân sự, hàng hóa, nguyên, nhiên liệu từ Đông sang Tây, từ phía bắc châu Á xuống

châu Đại Dương. Ngoài ra, khu vực này cũng tập trung nhiều tuyến đường biển

quan trọng, trong đó có eo biển Malacca (nằm giữa Malaysia và đảo Sumatra của

Indonesia) là một trong năm eo biển chiến lược lớn nhất thế giới. Hầu hết hàng hóa

của các nước Đông Nam Á và Đông Bắc Á đều phải đi qua eo biển Malacca. Hàng

năm có hơn 4 vạn tàu biển qua lại, hàng ngày có khoảng 7 triệu thùng dầu lửa được

vận chuyển qua eo biển này.

G20 bao gồm nhóm 7 nước công nghiệp phát triển (G7) là Mỹ, Đức, Nhật Bản, Pháp, Anh, Ý và Canada

cùng một số thành viên khác như Liên minh châu Âu (EU) và các nước Argentina, Australia, Brazil, Trung

Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Mexico, Nga, Ả Rập Saudi, Nam Phi, Hàn Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ.

Page 57: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

47

Nhìn từ góc độ lịch sử, văn hóa, tôn giáo và thương mại, Ấn Độ và Đông

Nam Á có mối liên hệ khá mật thiết. Những sự tiếp xúc đầu tiên giữa Ấn Độ và

Đông Nam Á có nguồn gốc từ thời tiền sử và tiếp tục cho đến thời kỳ cận đại. Cùng

với khu vực Tây Á và Trung Quốc, Đông Nam Á chính là điểm dừng chân của các

thương nhân và các nhà truyền giáo Ấn Độ. Ấn Độ giáo, Phật giáo được du nhập

vào Đông Nam Á và được thừa nhận về mặt văn hóa. Bên cạnh đó, con đường buôn

bán hương liệu từ Tây Á, vịnh Ba Tư tới Indonesia đã liên kết Ấn Độ và Đông Nam

Á lại với nhau. Với những ảnh hưởng của văn hoá, sự tiếp xúc và gia tăng quan hệ

kinh tế với Ấn Độ, nhiều vùng ở Đông Nam Á đã thành lập được nhà nước của

mình như nước Phù Nam trên đồng bằng châu thổ sông Cửu Long, nước Lâm Ấp

(sau là Champa) trên vùng ven biển miền Trung Việt Nam...

Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc đã tạo nên những biến chuyển căn bản ở

khu vực Đông Nam Á, mở ra cơ hội có một không hai để các dân tộc ở đây có thể

thay đổi vận mệnh của mình. Trải qua các giai đoạn đấu tranh gay go, quyết liệt từ

những cuộc chiến tranh đẫm máu đến những cuộc thương thuyết hòa bình kéo dài,

đến năm 1975, về cơ bản các nước Đông Nam Á đã lần lượt giành độc lập và bước

vào thời kỳ xây dựng và phát triển. Ngay sau năm 1947, Ấn Độ đã từng bước thiết

lập quan hệ với các nước trong khu vực Đông Nam Á với các thể chế chính trị - xã

hội khác nhau: Indonesia, Myanmar (trung lập), Malaysia (thuộc Khối Thịnh vượng

chung14), các nước Đông Dương (Việt Nam, Lào, Campuchia) và các nước thân

phương Tây (Thái Lan, Philippines)... Mối quan hệ giữa Ấn Độ với các nước Đông

Nam Á nói chung và với nước láng giềng Myanmar nói riêng trong những năm sau

khi độc lập diễn ra hoà bình và hữu nghị.

Trong bối cảnh xu hướng khu vực hóa bắt đầu xuất hiện và ngày càng phổ

biến từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, hàng loạt các tổ chức khu vực đã được thiết

lập trên thế giới. Trước tình hình các nước Đông Nam Á cũng có nhu cầu xích lại

gần nhau trong quá trình phát triển và hạn chế ảnh hưởng của các nước lớn đối với

14 Khối Thịnh vượng chung của các quốc gia (Commonwealth of Nations, thường gọi tắt là Thịnh vượng

chung), là một tổ chức liên chính phủ bao gồm 53 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trụ sở của Khối đóng tại Tòa

nhà Marlborough, Luân Đôn, Anh. Khối Thịnh vượng chung hoạt động theo sự nhất trí liên chính phủ của

các quốc gia thành viên được tổ chức thông qua Ban thư ký Thịnh vượng chung và các tổ chức phi chính phủ

được tổ chức thông qua Quỹ Thịnh vượng chung.

Page 58: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

48

khu vực này. Ngày 8-8-1967, Ngoại trưởng của năm nước (Indonesia, Malaysia,

Philippines, Thái Lan, Singapore) đã chính thức đưa ra Tuyên bố Bangkok về việc

thành lập Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Tổ chức này ra đời báo

hiệu một thời kỳ lịch sử mới, đánh dấu bước phát triển của các nước Đông Nam Á

trong việc xây dựng một tổ chức hợp tác khu vực.

Sự kết thúc chiến tranh ở Việt Nam (năm 1975) đã dẫn tới cục diện mới ở

Đông Nam Á. Tuy nhiên, lịch sử Đông Nam Á trong vòng 15 năm (1975 - 1990)

vẫn chứng kiến những diễn biến phức tạp, đầy kịch tính dưới tác động của những

nhân tố bên trong và bên ngoài khu vực, trong sự đan xen lợi ích khác nhau của các

cường quốc và ảnh hưởng của cuộc Chiến tranh lạnh đang tiếp diễn. Sau khi giải

quyết vấn đề Campuchia, Hiệp định hòa bình về Campuchia được ký kết vào tháng

10-1991 cùng với việc kết thúc Chiến tranh lạnh đã mở ra thời kỳ mới của sự hợp

tác và phát triển ở khu vực Đông Nam Á. Bước vào thập niên đầu thế kỷ XXI,

Đông Nam Á nói chung và ASEAN nói riêng đứng trước những cơ hội, thách thức

đan xen trên con đường khẳng định vị thế của mình. ASEAN ngày càng có tiếng nói

quan trọng hơn, đóng góp nhiều hơn trong việc thúc đẩy hợp tác kinh tế, gìn giữ hoà

bình, an ninh ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương và trên thế giới.

3.1.3. Nhân tố Trung Quốc trong quan hệ Ấn Độ - Myanmar (1962 - 1991)

Trung Quốc là nước lớn ở châu Á, có đường biên giới liền kề với cả Ấn Độ

và Myanmar. Với diện tích lớn thứ ba và dân số đứng đầu thế giới, Trung Quốc từ

lâu đóng vai trò quan trọng trong quan hệ ngoại giao với nhiều quốc gia và các khu

vực chủ yếu trên thế giới. Trong số năm nước có chung biên giới đất liền với

Myanmar, Trung Quốc có đường biên giới dài nhất (2.185 km). Hai nước đã duy trì

mối quan hệ truyền thống bền vững qua nhiều thế kỷ. Đây là mối quan hệ thu hút rất

nhiều sự quan tâm của châu Á cũng như thế giới. Chính quyền quân sự Myanmar

xem Trung Quốc là “Pauk-Phaw”15. Điều này phản ánh mối quan hệ gần gũi và thân

mật giữa hai nước, bởi vì từ “Pauk-Phaw” chưa bao giờ được Myanmar dùng để chỉ

mối quan hệ của mình với bất kỳ quốc gia nào khác [64, tr. 1], [79, tr. 87].

15 Theo tiếng Myanmar có nghĩa là anh chị em ruột hoặc người bạn thân thiết

Page 59: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

49

Myanmar có vị trí chiến lược quan trọng, nằm giữa hai nước lớn của châu Á

là Trung Quốc và Ấn Độ. Đây là vị trí nối liền vành đai chiến lược châu Á - Thái

Bình Dương với Ấn Độ Dương. Myanmar trở thành “cầu nối” quan trọng để hàng

hoá Trung Quốc đi vào khu vực Đông Nam Á và sang Ấn Độ. Bên cạnh đó,

Myanmar lại là một quốc gia ven biển Ấn Độ Dương, do vậy đối với các nhà hoạch

định chính sách Trung Quốc thì Myanmar ngày càng có giá trị chiến lược trọng yếu

hơn đối với nước này. Myanmar là nước láng giềng duy nhất có thể giúp Trung

Quốc tiếp cận với Ấn Độ Dương từ phía đông, cụ thể là vịnh Bengal và biển

Andaman [108, tr. 26-27]. Do đó, quốc gia Đông Nam Á này có ý nghĩa quan trọng

đối với chiến lược đầu tư, đối ngoại, an ninh dầu khí cũng như vấn đề an ninh biên

giới của Trung Quốc.

Mối quan hệ Trung Quốc - Myanmar được hình thành ngay từ sau khi Trung

Quốc mới giành được độc lập16. Tháng 12-1949, Myanmar là nước đầu tiên ngoài

các nước xã hội chủ nghĩa công nhận nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa [70, tr.

184]. Năm 1954, Trung Quốc và Myanmar đã ký kết hiệp định thương mại đầu tiên.

Ngày 28-01-1960, Myanmar và Trung Quốc đã ký kết Hiệp ước hữu nghị và không

xâm lược lẫn nhau [126, tr. 191]. Quan hệ Trung Quốc - Myanmar trải qua một thời

kỳ hữu nghị sau khi hai nước giành độc lập. Suốt một thời gian dài, Bắc Kinh luôn

nỗ lực để thiết lập mối quan hệ thương mại, quân sự và kinh tế chặt chẽ với

Yangon. Sau sự kiện Tướng Ne Win tiến hành đảo chính, thiết lập chính phủ quân

sự ở Myanmar (năm 1962) bị cộng đồng quốc tế lên án, Trung Quốc vẫn là nước

duy nhất vẫn duy trì quan hệ ngoại giao với nước láng giềng Myanmar.

Trong những năm 60 - 70 của thế kỷ XX, cuộc Cách mạng Văn hóa ở Trung

Quốc đã tác động mạnh mẽ đến Myanmar khiến cho mối quan hệ Trung Quốc -

Myanmar trở nên xấu đi. Năm 1967, Đại sứ quán Trung Quốc tại Myanmar khuyến

khích người Hoa đeo huy hiệu và tham gia các hoạt động của Cách mạng Văn hoá,

chẳng hạn như nghiên cứu tư tưởng Mao Trạch Đông. Nhưng Chính phủ Ne Win đã

ngăn cấm các hoạt động này, dẫn đến những cuộc xung đột giữa người dân

Myanmar và người Hoa kiều. Những người Myanmar ở Yangon đã tấn công những

16 Trung Quốc và Myanmar chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao vào ngày 08-06-1950

Page 60: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

50

người Trung Quốc và người Miến gốc Hoa. Hơn nữa, những động thái hỗ trợ Đảng

Cộng sản Miến Điện (BCP) của Trung Quốc càng làm cho quan hệ song phương

giữa hai nước trở nên lạnh nhạt và dẫn đến việc cả hai đều tuyên bố đình chỉ quan

hệ ngoại giao. Sự kiện này đã góp phần đẩy mối quan hệ Trung Quốc - Myanmar

xuống đến mức thấp nhất vào cuối năm 1967 [130, tr. 7]

Sau Cách mạng Văn hóa, Trung Quốc chủ động cải thiện quan hệ với

Myanmar thông qua các kênh ngoại giao nhà nước và ngoại giao nhân dân. Quan hệ

hai nước chính thức được bình thường hoá từ tháng 3-1971. Tháng 8-1971, Tướng

Ne Win trở thành vị nguyên thủ quốc gia đầu tiên đến thăm Trung Quốc kể từ sau

cuộc Cách mạng Văn hoá theo lời mời của Thủ tướng Chu Ân Lai [126, tr. 193].

Chuyến thăm này đã thắp lại tình hữu nghị “Pauk-Phaw” giữa Trung Quốc và

Myanmar. Mối quan hệ hai nước dần dần được cải thiện trở lại trong những năm

1971 - 1988. Kể từ năm 1988, Trung Quốc đã trở thành một đồng minh thân thiết và

là quốc gia có tiếng nói quan trọng đối với Hội đồng quân sự cầm quyền tại nước

láng giềng Myanmar. Chính quyền quân sự Myanmar coi sự hậu thuẫn có hiệu quả

về kinh tế, quân sự và chính trị của Trung Quốc có ý nghĩa sống còn trong một thế

giới mà họ có rất ít bạn bè hùng mạnh. Trải qua nhiều thăng trầm, Myanmar và

Trung Quốc đã không ngừng củng cố, thắt chặt và nâng cấp quan hệ hai nước lên

tầm quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện (tháng 5-2011) sau chuyến thăm

Trung Quốc của Tổng thống Thein Sein [55, tr. 58]. Vị trí địa - chiến lược của

Myanmar càng được nâng cao khi quốc gia này tiến hành cải cách chính trị và kinh

tế từ đầu thế kỷ XXI. Myanmar đã và đang trở thành địa bàn cạnh tranh ảnh hưởng

của các nước lớn, trong đó phải kể đến Trung Quốc, Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản...

3.2. Quan hệ Ấn Độ - Myanmar (1962 - 1991) trên một số lĩnh vực chủ yếu

3.2.1. Trên lĩnh vực chính trị - ngoại giao

Nếu như trong những năm 1948 - 1962 là giai đoạn ghi dấu tình láng giềng

hữu nghị, thân thiện giữa Ấn Độ và Miến Điện17, thì từ năm 1962 đến năm 1991 lại

là giai đoạn gần như giảm sút và “đóng băng” trong quan hệ hai nước. Sự kiện đánh

dấu mối quan hệ Ấn Độ - Miến Điện rẽ sang một hướng khác là cuộc đảo chính

17 Từ năm 1948 đến năm 1989, Myanmar có các tên gọi sau: Liên bang Miến Điện (1948 - 1974), Cộng hòa

Xã hội chủ nghĩa Liên bang Miến Điện (1974 - 1988), Liên bang Miến Điện (1988 - 1989)

Page 61: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

51

quân sự do Tướng Ne Win cầm đầu (tháng 3-1962), mở ra thời kỳ quân đội lên nắm

quyền lực ở Miến Điện. Nền dân chủ của Miến Điện chỉ kéo dài được 14 năm (1948

- 1962). Sau khi lên nắm chính quyền, Tướng Ne Win đã tập trung mọi quyền lực

vào tay mình và đặt đời sống chính trị - xã hội, kinh tế, văn hoá... của đất nước

Miến Điện dưới sự kiểm soát quân sự nghiêm ngặt [56, tr. 6]. Cuộc đảo chính quân

sự đã làm cho nhiều nhà lãnh đạo dân chủ trước đây của Miến Điện, trong đó có

cựu Thủ tướng U Nu phải sống lưu vong ở Ấn Độ. Thủ tướng Ấn Độ Jawaharlal

Nehru đã nồng nhiệt đón tiếp U Nu và cho phép gia đình ông cư trú tại Ấn Độ mà

không lo ngại bất cứ sự phản ứng nào từ phía Chính phủ Ne Win. Cùng với nhiều

quốc gia khác trên thế giới, Ấn Độ đã lên tiếng phản đối sự thành lập chính quyền

quân sự ở Miến Điện.

Sau khi nắm quyền lãnh đạo đất nước, Tướng Ne Win đã thi hành một số

chính sách không có lợi cho mối quan hệ Miến Điện - Ấn Độ. Ngày 30-4-1962, Hội

đồng cách mạng công bố Cương lĩnh con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Miến

Điện, nêu rõ những mục tiêu phát triển của chế độ mới, “không nhằm phục vụ lợi

ích của một nhóm, một tổ chức, một giai cấp hay một đảng phái nào, mà là một nền

kinh tế mang mục tiêu duy nhất nhằm thoả mãn cao nhất nhu cầu về vật chất, tinh

thần và văn hoá của toàn dân tộc” [34, tr. 462]. Về cơ cấu kinh tế, Miến Điện chấp

nhận nền kinh tế nhiều thành phần, gồm các khu vực: Nhà nước, tập thể, tư nhân;

đồng thời khẳng định khu vực nhà nước phải có vai trò nền tảng, khu vực hợp tác xã

cần được nâng đỡ còn kinh tế tư nhân chỉ được phép tồn tại trong khuôn khổ nhất

định. Nhằm thực hiện mục tiêu trên, Chính phủ Ne Win đã ra lệnh trục xuất cộng

đồng ngoại kiều (gồm người Ấn và người Hoa) ra khỏi Miến Điện nhằm nhanh

chóng xóa bỏ vai trò và vị thế của tầng lớp kinh doanh tư bản Ấn kiều và Hoa kiều

và coi chủ nghĩa xã hội nhà nước là con đường duy nhất để đem lại nền kinh tế độc

lập cho đất nước Miến Điện. Trong những năm 60 - 70 của thế kỷ XX, đã có hàng

trăm ngàn người Ấn Độ phải rời khỏi Miến Điện, trong đó năm 1964 có khoảng

100.000 người [117, tr. 301]. Điều này càng làm tăng thêm sự bất bình vốn có giữa

chính phủ dân sự/dân chủ Ấn Độ với chính phủ quân sự/độc tài Miến Điện.

Trong chính sách đối ngoại từ năm 1962 đến năm 1972, Chính phủ Ne Win

chỉ tìm kiếm sự cân bằng trong quan hệ quốc tế giữa Miến Điện với ba nước lớn

Page 62: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

52

Mỹ, Liên Xô và Trung Quốc mà hầu như không chú ý đến Ấn Độ. Mặc dù là một

nước láng giềng có vị thế trên trường quốc tế nhưng Ấn Độ không phải là nhân tố

quan trọng trong đường lối ngoại giao của Miến Điện. Bên cạnh đó, Miến Điện còn

thực hiện chính sách trung lập tiêu cực, có nghĩa là giảm thiểu tối đa mối quan hệ

của nước này với các quốc gia khác (ngoại trừ Trung Quốc), kể cả việc Miến Điện

tuyên bố rút khỏi Phong trào Không liên kết trong Hội nghị thượng đỉnh được tổ

chức ở Havana (Cuba) vào năm 197918. Về sự kiện này, Ấn Độ bày tỏ mối quan

ngại và mong muốn Miến Điện tái gia nhập Phong trào [93, tr. 8].

Là người theo chủ nghĩa dân tộc bài ngoại, kể từ khi lên nắm quyền, Tướng

Ne Win đã bắt đầu loại bỏ ảnh hưởng về kinh tế, chính trị và văn hoá của nước

ngoài ở Miến Điện và ủng hộ cho một hệ tư tưởng mới - Con đường Miến Điện đi

lên chủ nghĩa xã hội (Burmese way to Socialism). Tất cả các hoạt động và các

chương trình đang diễn ra của nước ngoài đều bị yêu cầu dừng lại19. Quyền sở hữu

tư nhân của nước ngoài trong các lĩnh vực ngân hàng, thương mại, công nghiệp

cũng bị chính phủ quân sự xoá bỏ. Nhấn mạnh sự tự lực cánh sinh và không sẵn

sàng đóng một vai trò tích cực trong các vấn đề quốc tế, thông qua chính sách trung

lập tiêu cực trong quan hệ ngoại giao, Chính phủ Ne Win đã làm suy giảm đến mức

tối thiểu mối quan hệ giữa Miến Điện với phần còn lại của thế giới trong suốt giai

đoạn này. Chính sách đối ngoại đó của Miến Điện đã tác động tiêu cực đến quan hệ

giữa nước này với Ấn Độ trong nhiều năm tiếp theo.

Tháng 10-1962, cuộc chiến tranh biên giới giữa Ấn Độ và Trung Quốc bùng

nổ20. Khi cuộc chiến tranh này nổ ra, Miến Điện đã thể hiện thái độ trung lập.

18 Miến Điện lo ngại nếu vẫn còn là một thành viên của Phong trào Không liên kết sẽ làm cho Trung Quốc

không vừa lòng. Cho nên, động thái này được xem như là cố gắng của chính phủ quân sự Myanmar nhằm

duy trì mối quan hệ tốt đẹp với Trung Quốc trong bối cảnh Phong trào Không liên kết ngày càng có mối liên

hệ chặt chẽ với Liên Xô và quan hệ Trung - Xô lại đang căng thẳng [119, tr. 221]. 19 Từ đầu tháng 4-1962, Hội đồng cách mạng ra lệnh đình chỉ hoạt động của các tổ chức tư nhân nước ngoài

như: Quỹ châu Á, Quỹ Ford, Dự án Bảo tàng Rockefeller. Thư viện Thông tin Mỹ, Hội đồng Anh và Lãnh sự

quán Mỹ ở Mandalay cũng bị yêu cầu đóng cửa. 20 Nguyên nhân chính của cuộc chiến tranh là việc tranh chấp khu vực biên giới Aksai Chin và bang

Arunachal Pradesh, mà Trung Quốc gọi là Nam Tây Tạng. Xung đột nổ ra vào ngày 20-10-1962 giữa Quân

Giải phóng Nhân dân Trung Quốc và Quân đội Ấn Độ. Quân đội Trung Quốc được chuẩn bị chu đáo nên khi

chiến sự nổ ra đã ồ ạt tiến quân và dễ dàng đánh bại quân đội biên phòng Ấn Độ kém tinh nhuệ và trang bị

lạc hậu hơn. Cuộc chiến tranh kết thúc khi Trung Quốc chủ động tuyên bố ngưng bắn vào ngày 20-11-1962,

trao trả tù binh và rút khỏi phần lớn các khu vực chiếm được. Sau cuộc chiến tranh biên giới, Ấn Độ coi

Page 63: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

53

Nhưng dưới góc nhìn của giới cầm quyền Ấn Độ thì điều đó có nghĩa là Miến Điện

có thái độ “thân Trung Quốc” (pro-Chinese) [123, tr. 1], [131, tr. 91]. Tất cả những

thực tế lịch sử đó đã làm cho chính quyền Ấn Độ phản đối, lên án chế độ quân sự

cầm quyền ở Miến Điện. Trong ba thế lực quốc tế (Mỹ, Liên Xô và Trung Quốc) thì

Miến Điện đã có mối quan hệ tốt nhất với Trung Quốc. Chính vì lẽ đó, chính quyền

quân sự Miến Điện ngày càng ảnh hưởng và có phần lệ thuộc nặng nề vào chính

sách đối ngoại thực dụng của Trung Quốc.

Năm 1964, chính quyền quân sự Miến Điện đã thực hiện Chương trình quốc

hữu hóa các xí nghiệp tư nhân. Hành động này tạo nên những ảnh hưởng nặng nề

đối với cuộc sống của giới kinh doanh Ấn Độ (kiểm soát đến 60% hoạt động thương

mại của Miến Điện lúc bấy giờ) ở Miến Điện [5, tr. 18]. Hậu quả là đa số người Ấn

Độ và Pakistan phải di cư khỏi đất nước này. Khi rời khỏi Miến Điện, những người

Ấn Độ không được phép mang theo bất cứ thứ gì. Những động thái trên của chính

phủ quân sự Miến Điện đã làm cho mối quan hệ giữa nước này với Ấn Độ ngày

càng xấu đi. Tuy nhiên, từ cuối năm 1964, quan hệ giữa hai nước bắt đầu có dấu

hiệu bình thường trở lại do chính phủ hai nước đã dàn xếp nhiều cuộc gặp gỡ sau đó

và thống nhất đi đến một giải pháp hoà bình.

Các quan chức cấp cao hai nước cũng đã có nhiều chuyến thăm lẫn nhau.

Theo lời mời của Tổng thống Ấn Độ, vào tháng 02-1965, Tướng Ne Win đã đi thăm

chính thức nước này. Trong các cuộc hội đàm, lãnh đạo hai nước đều bày tỏ quan

điểm thống nhất về việc theo đuổi chính sách đối ngoại không liên kết [88, tr. 1].

Tuyên bố chung hai nước khẳng định: “Một quan điểm chung về các vấn đề quốc tế

xuất phát từ việc theo đuổi chính sách không liên kết đã giúp cho việc phát triển mối

quan hệ láng giềng gần gũi và tốt đẹp giữa hai quốc gia” [131, tr. 92]. Chuyến thăm

Ấn Độ của Tướng Ne Win đã góp phần mở đường cho sự hiểu biết nhiều hơn về

những vấn đề đang gặp phải. Đây là kết quả của việc hai nước cùng theo đuổi chính

sách không liên kết, nhằm giúp cải thiện quan hệ hai nước vốn đang bị lạnh nhạt.

Trung Quốc là mối nguy cơ tiềm tàng ở phương Bắc. Nhằm đối phó lại nguy cơ đó, Ấn Độ tăng cường quan

hệ với Liên Xô và cải thiện quan hệ với Mỹ. Ngược lại, Pakistan trước đây quan hệ chặt chẽ với Mỹ thì nay

thúc đẩy quan hệ với Trung Quốc để tìm kiếm viện trợ quân sự và kinh tế từ nước này [7, tr. 258].

Page 64: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

54

Tháng 3-1969, Thủ tướng Ấn Độ Indira Gandhi sang thăm Miến Điện [90, tr.

22]. Chuyến thăm này giúp hai nước có cơ hội trao đổi, trình bày công khai các

quan điểm về các vấn đề quan hệ song phương và quốc tế. Có thể nói, chuyến thăm

Ấn Độ của Tướng Ne Win (năm 1965) và chuyến công du Miến Điện của Thủ

tướng I. Gandhi (năm 1969) đã góp phần bình thường hoá và duy trì quan hệ chính

trị - ngoại giao giữa hai nước trong những năm 70 của thế kỷ XX (vốn đã bị lạnh

nhạt và trì trệ từ đầu thập niên 60).

Trong suốt thời kỳ Ne Win cầm quyền (1962 - 1988), các cuộc trao đổi cấp

cao chính thức giữa Miến Điện với Ấn Độ vẫn tiếp tục được diễn ra nhưng chỉ

mang tính hình thức, ngoại giao bên ngoài. Ấn Độ luôn giữ quan hệ trung lập và ít

quan tâm tới nước láng giềng Myanmar. Lúc bấy giờ, các nhà lãnh đạo Ấn Độ cho

rằng ưu tiên hàng đầu là những cam kết về “giá trị dân chủ”, còn những “lo ngại

về an ninh” được cho là thứ yếu trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ đối với

Miến Điện [123, tr. 1].

Từ giữa những năm 80 của thế kỷ XX trở đi, hoà bình, đối thoại đã trở thành

một xu thế phổ biến trong quan hệ quốc tế cũng như ở châu Á và khu vực Đông

Nam Á. Năm 1987, Thủ tướng Ấn Độ Rajiv Gandhi sang thăm Miến Điện sau một

thời kỳ dài “đóng băng”. Trong các cuộc hội đàm, lãnh đạo hai nước tập trung vào

các cách thức và biện pháp củng cố, mở rộng hơn nữa mối quan hệ hữu nghị hiện

tại giữa các quốc gia trên tinh thần của sự thân thiện và cảm thông. Nhân chuyến

thăm này, Thủ tướng Rajiv Gandhi đã đến tham quan ngôi chùa Shwedagon21, công

trình Phật giáo linh thiêng nhất Miến Điện. Bên cạnh đó, Thủ tướng R. Gandhi cũng

đã trao lại cho nhân dân Miến Điện những bản viết tay bằng lá cọ của tướng Maha

Bandula trước đây bị người Anh tịch thu và lưu trữ ở Đài tưởng niệm Victoria,

Calcutta [98, tr. 5]. Đây là một bước đột phá trong tư duy đối ngoại nói chung của

Ấn Độ mà biểu hiện cụ thể là đối với Miến Điện.

Tuy nhiên, diễn biến lịch sử ở Miến Điện vào một năm sau đó buộc Ấn Độ

phải quay trở lại với những giá trị truyền thống về dân chủ của “chủ nghĩa lý

21 Chùa Shwedagon (còn gọi là Chùa Vàng) nằm trên đồi Singuttara, thuộc thành phố Yangon, cao 98 m,

được dát vàng và trang trí bằng kim cương, đá quý. Theo truyền thuyết, chùa Shwedagon có lịch sử 2.500

năm. Tuy nhiên, các nhà khảo cổ ước tính công trình bắt đầu được xây dựng từ thế kỷ VI.

Page 65: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

55

tưởng”22 (idealism). Cụ thể ngày 8-8-1988, hàng ngàn sinh viên và nhân dân ở thủ

đô Rangoon và các thành phố lớn đã xuống đường biểu tình phản đối chính phủ

tham nhũng, bóp nghẹt dân chủ, bất lực trong quản lý kinh tế và phát triển đất nước

(lịch sử Myanmar gọi là sự kiện “8888”). Tuy nhiên, cuộc biểu tình đã bị chính phủ

quân sự đàn áp đẫm máu. Điều này khiến cho hàng ngàn sinh viên và người dân vô

tội Miến Điện bị thiệt mạng. Sự kiện này cũng là “giọt nước tràn ly” dẫn đến sự ra

đời Liên minh quốc gia vì nền dân chủ (NLD) vào ngày 27-8-1988 do bà Aung San

Suu Kyi đứng đầu và cuộc đảo chính quân sự của Đại tướng Bộ trưởng Quốc phòng

Saw Maung lật đổ chính phủ của Thủ tướng Ne Win (ngày 18-9-1988). Sự kiện

“8888” đã tạo ra một làn sóng phản đối trên khắp thế giới và cũng là nguyên nhân

chủ yếu khiến Liên Hợp Quốc, Mỹ và các nước phương Tây thực hiện chính sách

bao vây cấm vận, trừng phạt kinh tế đối với Miến Điện. Chẳng hạn như: Mỹ ban

hành đạo luật cấm đầu tư vào Miến Điện và cấm nhập khẩu các mặt hàng của Miến

Điện vào Mỹ; Mỹ cấm Miến Điện sử dụng các dịch vụ tài chính của Mỹ, kể cả việc

giao dịch bằng đồng dollar; Các tướng lĩnh quân đội và quan chức chính phủ Miến

Điện cũng như các thành viên trong gia đình họ không được phép nhập cảnh vào

Mỹ và các nước EU. Ngoài ra, với vị trí lãnh đạo trong các tổ chức tài chính quốc

tế, Mỹ và phương Tây đã ngăn cấm Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế

(IMF), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) thực hiện các chương trình đầu tư phát

triển kinh tế ở Miến Điện [56, tr. 64]. Hệ quả của chính sách bao vây cấm vận này

làm cho Miến Điện một mặt bị các nhà tài trợ lớn cắt hoặc ngừng viện trợ, ngừng

các chương trình hỗ trợ phát triển đất nước; mặt khác do sự cô lập của Mỹ và

phương Tây nên Miến Điện không thể tiếp cận được các nguồn vốn quan trọng từ

Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển Châu Á

(ADB) và các tổ chức tài chính quốc tế khác.

22 “Chủ nghĩa lý tưởng” (idealism) trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ có nguồn gốc từ thời vua Ashoka

(273 - 236 TCN) của triều đại Maurya (322 - 185 TCN). Tư tưởng cơ bản của nó là duy trì hoà bình, “bất bạo

động” trong chính sách đối nội cũng như đối ngoại. Tư tưởng mang tính nhân văn sâu sắc này đã được

Mahatma Gandhi vận dụng thành công trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc Ấn Độ vào đầu thế kỷ

XX và được chính phủ Jawaharlal Nehru (1947 - 1964) kế thừa sau khi Ấn Độ giành được độc lập (1947).

Page 66: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

56

Trong bối cảnh đó, Trung Quốc không những không phản đối mà còn ủng hộ,

tài trợ cho chính quyền quân sự Miến Điện. Đổi lại, Miến Điện cho phép Trung

Quốc kinh doanh và hoạt động trên nhiều lĩnh vực kinh tế, tài chính, thương mại...

khác nhau. Mối liên kết giữa Bắc Kinh và Rangoon càng được thắt chặt. Năm 1988,

kim ngạch thương mại hai chiều Trung Quốc - Miến Điện đạt 1,5 tỷ USD [119, tr.

214]. Các doanh nghiệp Trung Quốc đã được Hội đồng Khôi phục Trật tự và Luật

pháp Quốc gia (SLORC) ưu tiên đầu tư vốn, thiết bị, sản xuất hàng hoá và cung cấp

các dịch vụ khác. Năm 1991, Miến Điện và Trung Quốc đã ký kết Hiệp định song

phương về hợp tác kinh tế và kỹ thuật, theo đó, Trung Quốc cung ứng một gói viện

trợ lớn, chủ yếu liên quan đến các dự án cơ sở hạ tầng dân dụng như cầu đường,

đường sắt và các hải cảng [119, tr. 214]. Từ năm 1988, Trung Quốc đã cung cấp cho

Miến Điện các khoản vay cũng như viện trợ, đồng thời xoá bỏ nhiều khoản nợ. Tính

đến năm 2005, Trung Quốc đã viện trợ cho nước này khoảng 100 triệu USD. Từ

năm 1991 đến năm 2005, Ngân hàng Trung Quốc và Ngân hàng Xuất nhập khẩu

Trung Quốc đã cung cấp cho Myanmar một gói tín dụng trị giá hơn 1 tỷ USD [72, tr.

5]. Nhờ vậy, chính quyền quân sự Myanmar đã đứng vững trước những chính sách

cấm vận, cô lập của Mỹ và các nước phương Tây. Mối quan hệ giữa Myanmar và

Trung Quốc tiếp tục được gia tăng và không có lợi cho quan hệ Myanmar - Ấn Độ.

Sau cuộc biểu tình năm 1988, Ấn Độ là một trong những nước chỉ trích

chính quyền quân sự Miến Điện mạnh mẽ nhất tại các diễn đàn hội nghị quốc tế

[119, tr. 217]. Bên cạnh đó, Ấn Độ tuyên bố ủng hộ phong trào dân chủ ở Miến

Điện và ca ngợi “ý chí ngoan cường của người dân Miến Điện trong cuộc đấu

tranh đòi nền dân chủ” [75, tr. 254]. Mối quan hệ Ấn Độ - Miến Điện trở nên lạnh

nhạt. Thái độ, quan điểm của chính phủ Ấn Độ đối với chính phủ Miến Điện về vấn

đề dân chủ đã làm cho quan hệ hai nước rơi xuống điểm thấp nhất (năm 1988) do

những phản ứng quyết liệt từ phía Ấn Độ trước hành động chính phủ nước này đàn

áp người biểu tình, trong đó có nhiều người gốc Ấn Độ [128, tr. 1]. Trong cuộc nổi

dậy của các lực lượng dân chủ ở Miến Điện năm 1988, Đại sứ quán Ấn Độ tại

Rangoon đã tích cực hỗ trợ cho các cá nhân, các tổ chức hoạt động dân chủ như bà

Aung San Suu Kyi, cựu Thủ tướng U Nu và Hội liên hiệp sinh viên toàn Miến Điện

(ABFSU)... Bên cạnh đó, sau này, Ấn Độ cũng cho phép Liên minh Chính phủ

Page 67: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

57

Quốc gia Liên bang Miến Điện (NCGUB)23 mở trụ sở tại New Delhi vào tháng 7-

1992 [69, tr. 34]. Cũng trong năm này, Ấn Độ đã cùng với Mỹ và các nước phương

Tây ủng hộ Liên Hợp Quốc thông qua nghị quyết lên án chính phủ quân sự

Myanmar về việc đối xử vô nhân đạo với các nhà hoạt động vì dân chủ và vấn đề vi

phạm nhân quyền tại nước này [117, tr. 303].

Bên cạnh đó, Ấn Độ là quốc gia duy nhất trong khu vực thực hiện chính sách

công khai ủng hộ các lực lượng dân chủ và người tị nạn chính trị của Miến Điện. Các

nhà hoạt động dân chủ, những người bất đồng chính kiến và những người tị nạn chính

trị từ Miến Điện đã được Ấn Độ cho phép cư trú tại nước này và được tự do ngôn

luận để chống lại chính quyền Saw Maung. Vào cuối năm 1988, chính phủ Ấn Độ đã

cho phép lập các trại tị nạn tại Mizoram, Manipur, Nagaland, Arunachal Pradesh,

Assam để giúp đỡ sinh viên và những người đấu tranh đòi dân chủ của Miến Điện

[48, tr. 50]. Chính quyền Rangoon xem những bước đi đó của Ấn Độ như là một sự

can thiệp công khai vào công việc nội bộ của Miến Điện nhưng chính phủ quân sự lại

không có lý do chính đáng để ép buộc New Delhi xem xét lại chính sách của họ.

Ngoài ra, trong những năm 1989 - 1990, Ấn Độ đã khởi xướng “chiến dịch

All India Radio” nhằm hỗ trợ lực lượng đấu tranh đòi dân chủ của Myanmar24. Tất

cả các đài phát thanh ở Ấn Độ đã được chính phủ này sử dụng để phát sóng nhiều

chương trình ủng hộ phong trào dân chủ ở Myanmar [60, tr. 3], [75, tr. 254]. Sự

việc này bị chính quyền quân sự Myanmar lên án kịch liệt và phản đối chính phủ

Ấn Độ can thiệp vào các vấn đề nội bộ của nước này. Phó Chủ tịch Hội đồng Khôi

phục Trật tự và Luật pháp Quốc gia (SLORC), Tướng Than Shwe cho rằng Ấn Độ

đã “khuyến khích và hỗ trợ các nhóm nổi dậy trong nước” và “can thiệp vào công

việc nội bộ của Miến Điện, những hành động không phù hợp với cách cư xử bình

thường của một nước láng giềng thân thiện” [75, tr. 254]. Ngược lại, các tướng lĩnh

quân đội Myanmar đã cáo buộc chính phủ Ấn Độ câu kết với những người hoạt

động dân chủ ở Yangon25 (thông qua Đại sứ quán Ấn Độ), cũng như hỗ trợ người

23 một chính phủ đối lập với chính phủ quân sự Myanmar, được thành lập vào tháng 12-1990 24 Từ năm 1988 đến năm 2010, quốc hiệu Myanmar là Liên bang Miến Điện. Năm 1989, chính quyền quân

sự đổi tên Miến Điện thành Myanmar, gọi là Liên bang Myanmar (1989 - 2010) và Cộng hòa Liên bang

Myanmar (từ năm 2010 đến nay - 2017) 25 Từ năm 1989, Rangoon chính thức được đổi tên thành Yangon

Page 68: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

58

Kachin, người Karen trong các cuộc xung đột sắc tộc trên khắp đất nước Myanmar,

đặc biệt dọc theo biên giới với Ấn Độ [60, tr. 3-4]. Những động thái trên của cả Ấn

Độ và Myanmar đã làm cho quan hệ hai nước ngày càng trở nên căng thẳng.

Sau sự kiện “8888”, nhằm mục tiêu đặt nghị viện dưới sự kiểm soát của quân

đội (giống như thời Ne Win trước đây), giới cầm quyền quân sự Myanmar đã tổ

chức cuộc bầu cử quốc hội vào năm 1990. Trong cuộc bầu cử này, Liên minh quốc

gia vì nền dân chủ (NLD) giành thắng lợi với 72,5% phiếu ủng hộ và 392 đại biểu

trúng cử trên tổng số 485 (chiếm gần 81%) ghế trong Hạ viện [107, tr. 13]. Tuy

nhiên, Hội đồng Khôi phục Trật tự và Luật pháp Quốc gia (SLORC) lại tuyên bố

không công nhận kết quả bầu cử và từ chối chuyển giao quyền lực cho cơ quan dân

cử mới bất chấp sự phản đối của các lực lượng dân chủ ở trong và ngoài nước. NLD

lên tiếng đòi chuyển giao quyền lực cho quốc hội theo quy định của Hiến pháp

1947. Đáp lại, SLORC cho rằng mục đích của cuộc bầu cử là để thành lập một quốc

hội lập hiến nhưng việc đó chưa thể đáp ứng được vì chưa có hiến pháp mới, Hiến

pháp 1947 đã lạc hậu và là di sản của thời kỳ thực dân, được soạn ra trước khi

Myanmar giành độc lập [34, tr. 541]. Chính những hành động đàn áp phong trào

dân chủ (năm 1988) và phủ nhận kết quả bầu cử quốc hội (năm 1990) của chính phủ

quân sự Myanmar đã khiến cho cộng đồng quốc tế càng lên án mạnh mẽ giới cầm

quyền nước này, trong đó có nước láng giềng Ấn Độ. Có thể nói, chính sách ủng hộ

phong trào dân chủ ở Myanmar của chính phủ Ấn Độ bắt nguồn từ những di sản

thừa hưởng từ Mahatma Gandhi và thể hiện đậm nét những nguyên tắc “lý tưởng”

về hoà bình, dân chủ dưới thời Jawaharlal Nehru cầm quyền (1947 - 1964).

Tuy nhiên, về mặt chiến lược, do kết hợp với sự cô lập của Mỹ và các nước

phương Tây đối với Myanmar nên chính sách của Ấn Độ giai đoạn 1988 - 1991 đã

góp phần đáng kể trong việc đẩy Myanmar lại gần Trung Quốc. Bắt đầu từ năm

1988, Trung Quốc trở thành quốc gia duy nhất có quan hệ mật thiết với chính quyền

quân sự Myanmar. Mối quan hệ ngày càng thắt chặt giữa Myanmar và Trung Quốc

là bài học đắt giá cho Ấn Độ về mặt chiến lược và lợi ích quốc gia. Chính điều này

đã buộc Ấn Độ phải tính toán lại chính sách đối ngoại của mình đối với nước láng

giềng Myanmar kể từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX.

Page 69: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

59

Tóm lại, với những thăng trầm kéo dài trong những năm 1962 - 1991, Ấn Độ

dường như đã để cho nước láng giềng Myanmar trượt ra khỏi tầm ảnh hưởng của

mình, nhất là trong lĩnh vực kinh tế và an ninh - quốc phòng. Đối với Myanmar, Ấn

Độ có lợi ích chiến lược và kinh tế hết sức quan trọng. Thời kỳ lạnh nhạt 30 năm

(1962 - 1991) đã làm cho cả Ấn Độ và Myanmar ngày càng xa nhau hơn trong quan

hệ đối ngoại. Thực tế này đã mang lại cho Trung Quốc - quốc gia láng giềng khác ở

phía Bắc Myanmar những mối lợi to lớn về chính trị, kinh tế và quân sự. Tất cả

những điều đó đã cho Ấn Độ một nhận thức sâu sắc rằng, việc Ấn Độ cố gắng cô

lập Myanmar từ năm 1988 đến năm 1991 đã phải nhận bài học đắt giá về những tổn

hại trên lĩnh vực an ninh khu vực Đông Bắc của quốc gia Nam Á này. Từ những bài

học trên cùng với những tác động của bối cảnh quốc tế, khu vực và nội tình hai

nước đã đặt ra vấn đề cấp thiết cho cả Ấn Độ và Myanmar là cần phải chú ý cải

thiện và gia tăng mối quan hệ hai nước vì lợi ích chiến lược.

3.2.2. Trên lĩnh vực kinh tế

Song song với sự suy giảm về quan hệ chính trị - đối ngoại, trên lĩnh vực

kinh tế, từ đầu những năm 60 của thế kỷ XX, Trung Quốc đã thay thế Ấn Độ trở

thành nước nhập khẩu gạo lớn nhất của Miến Điện. Điều này làm cho quan hệ hai

nước Miến Điện và Ấn Độ bắt đầu có sự sụt giảm. Tuy Ấn Độ không ủng hộ việc

thành lập chế độ quân sự sau sự kiện Tướng Ne Win đảo chính ở Miến Điện, nhưng

hợp tác kinh tế giữa hai nước vẫn tiếp tục được duy trì. Ngày 24-12-1962, Hiệp

định thúc đẩy thương mại giữa chính phủ Ấn Độ và chính phủ Miến Điện được ký

kết tại Rangoon [146]. Theo hiệp định này, hai nước quy định cụ thể các mặt hàng

nhập khẩu từ Ấn Độ vào Miến Điện và ngược lại (xem bảng 3.1) nhằm đa dạng hoá

và cân bằng trong quan hệ thương mại. Hiệp định này được xem là văn kiện đặt nền

tảng cho quan hệ thương mại hai nước.

Bảng 3.1. Danh mục các mặt hàng xuất khẩu từ Ấn Độ vào Miến Điện và

ngược lại theo Hiệp định thúc đẩy thương mại năm 1962

STT Các mặt hàng xuất khẩu từ Ấn Độ vào

Miến Điện

Các mặt hàng xuất khẩu

từ Miến Điện vào Ấn Độ

1. Sợi bông và chỉ khâu Gạo

2. Vải bông và hàng dệt len, sợi dệt tổng hợp, Gỗ teak

Page 70: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

60

hàng hoá sản xuất từ nguyên liệu trên

3. Cây đay các sản phẩm làm từ đay Các loại gỗ cứng

4. Sợi xơ dừa và các mặt hàng Các mặt hàng da

5. Tôm khô, cá và các chế phẩm Quặng chì và các loại

quặng khoáng khác

6. Các mặt hàng nông nghiệp và thực phẩm

như: Gia vị, cà phê, chè, dầu thực vật

hydro hoá, lá Biri, gỗ đàn hương

Khoai tây giống

7. Than đá

8. Hóa chất, dược phẩm và các sản phẩm liên

kết, bao gồm sơn, bột màu, dầu bóng, mực

và thuốc nhuộm

9. Hàng hoá kỹ thuật, kể cả hàng điện tử;

Máy móc thiết bị cho các nhà máy đay,

dệt, đường, dầu ăn, in ấn, giấy và xi măng;

Quạt, xe đạp, máy may và linh kiện, phụ

tùng; Máy bơm, động cơ diesel, dầu

expeller; Xe lăn đường sắt; Két sắt, hộp

điện thoại, thiết bị điện thoại, điện báo;

Dụng cụ và dụng cụ nông nghiệp; Linh

kiện máy móc, phụ tùng và phụ kiện

10. Các mặt hàng làm bằng kim loại và vật liệu

xây dựng

11. Các loại tạp hoá như đá nhân tạo, chất tạo

đặc và chất dẻo, cánh kiến đỏ và nhựa cây,

sách in, báo, tạp chí định kỳ, văn phòng

phẩm và đồ thể thao, cao su nhựa plastic

Nguồn: Ministry of External Affairs, Government of India, “Agreement between the

Government of India and the Government of Burma Concerning Trade and

Commerce” trên http://www.mea.gov.in/bilateral-

documents.htm?dtl/7235/Agreement_on_Trade_and_Commerce

Mặc dù Hiệp định thúc đẩy thương mại giữa Ấn Độ và Miến Điện đã được

ký kết nhưng cho đến hết những năm 60 của thế kỷ XX, quan hệ thương mại hai

nước vẫn không có sự tăng trưởng đáng kể. Nguyên nhân chủ yếu là do chính sách

kinh tế của Chính phủ quân sự Ne Win, đặc biệt là chính sách quốc hữu hóa các xí

Page 71: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

61

nghiệp tư nhân. Năm 1964, Chính phủ Ne Win tiến hành quốc hữu hoá các cơ sở

kinh doanh và cửa hàng tư nhân. Chính sách của chính quyền quân sự đã ảnh hưởng

mạnh mẽ đến các thương nhân người Ấn. Theo báo cáo của Hiệp hội Những người

bị trục xuất khỏi Miến Điện, chính sách quốc hữu hoá đã làm thiệt hại đến hơn

12.000 cổ phần của Ấn kiều với tổng giá trị khoảng 150 triệu Rs [131, tr. 91].

Từ đầu những năm 70 của thế kỷ XX, quan hệ kinh tế giữa Ấn Độ và Miến

Điện đã bắt đầu có sự phát triển trở lại, chủ yếu là trong lĩnh vực thương mại và một

số dự án đầu tư của hai nước. Ngày 17-8-1974, một hiệp định thương mại mới được

ký kết giữa Ấn Độ và Miến Điện, dự án này cho phép Miến Điện mua từ Ấn Độ hàng

dệt bông, dược phẩm, hàng điện tử và phần cứng trị giá 75 triệu Rs; Ấn Độ nhập khẩu

từ Miến Điện phân urê và quặng khoáng sản [131, tr. 92]. Bên cạnh đó, các sản phẩm

trao đổi giữa hai nước có sự đa dạng hơn so với thời gian trước. Các sản phẩm xuất

khẩu chính của Ấn Độ sang Miến Điện bao gồm hóa chất, mỹ phẩm, dược phẩm, các

sản phẩm công nghệ, sắt và thép cuộn, sắt và thép bán thành phẩm, kính, đồ thủy tinh,

đồ gốm, men sứ, sơn dầu, xi măng... Các sản phẩm nhập khẩu chính của Ấn Độ từ

Miến Điện gồm: đậu, gỗ và sản phẩm từ gỗ, đường, trái cây và hạt điều...

Tháng 6-1976, Ấn Độ và Miến Điện đã ký kết một bản ghi nhớ (MoU), theo

đó, Ấn Độ đồng ý thực hiện thí điểm 15 dự án theo Chương trình ITEC26 hỗ trợ cho

chính phủ Miến Điện [91, tr. 13]. Trong việc thực hiện Chương trình ITEC ở Miến

Điện, Ấn Độ tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng như đường sá, nhà cửa và bệnh viện

ngoài việc đào tạo nhân viên của mình. Trong số 21 dự án thí điểm mà Ấn Độ đã cam

kết thực hiện tại Miến Điện theo Chương trình ITEC, 15 dự án đã hoàn thành và 6 dự

án còn lại hoàn thành vào tháng 6-1981 [94, tr. 55]. Tháng 9-1978, Bộ trưởng Hợp

26 Hợp tác Kỹ thuật và Kinh tế của Ấn Độ (ITEC) là một chương trình hỗ trợ song phương do chính phủ Ấn

Độ thực hiện. Đây là một chương trình theo định hướng nhu cầu, phản hồi tập trung vào việc giải quyết nhu

cầu của các nước đang phát triển thông qua hợp tác công nghệ sáng tạo giữa Ấn Độ và quốc gia đối tác.

Chương trình Hợp tác Kỹ thuật và Kinh tế Ấn Độ (ITEC) được thành lập theo quyết định của Nội các Ấn Độ

vào ngày 15-9-1964. Thủ tướng Jawahar Nehru là kiến trúc sư chính của chương trình ITEC. Chương trình

ITEC bao gồm sáu lĩnh vực: Đào tạo nhân viên dân dụng và quốc phòng, các dự án và các hoạt động liên

quan đến dự án như dịch vụ tư vấn, tham quan nghiên cứu, tặng thiết bị, cử chuyên gia Ấn Độ đến các nước

đối tác và trợ giúp cứu trợ thiên tai. Đào tạo nhân viên theo ITEC bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau như

ngân hàng, CNTT và máy tính, quản lý nhân sự và các lĩnh vực hành chính và khoa học. ITEC được điều

hành bởi Bộ Ngoại giao của chính phủ Ấn Độ và tất cả các chi phí bao gồm tiền vé máy bay, nội trú, học phí

và tiền học phí của các nhân viên được chọn do chính quyền Ấn Độ chịu trách nhiệm.

Page 72: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

62

tác xã Miến Điện, Đại tá Sein Tun dẫn đầu một phái đoàn kinh tế đến thăm Ấn Độ.

Trong chuyến thăm này, Ấn Độ cam kết hỗ trợ Miến Điện phát triển kinh tế thông

qua việc chuyển giao công nghệ, kỹ thuật và thiết bị theo yêu cầu của chính phủ Miến

Điện [92, tr. 3]. Có thể nói, những dự án, chương trình hỗ trợ của chính phủ Ấn Độ

đã giúp ích rất nhiều cho quá trình xây dựng đất nước của Miến Điện, qua đó góp

phần duy trì quan hệ kinh tế nói riêng và quan hệ ngoại giao nói chung giữa hai nước.

Từ năm 1980 đến năm 1991, kim ngạch xuất khẩu của Miến Điện đối với Ấn

Độ có chiều hướng đi lên. Năm 1980, xuất khẩu của Miến Điện sang Ấn Độ đạt

5,71 triệu USD, năm 1985 là 10,03 triệu USD, đến năm 1991, tăng lên 47 triệu

USD [127, tr. 134], gấp hơn 8 lần so với năm 1980. Trong khi đó, kim ngạch nhập

khẩu của Miến Điện đối với Ấn Độ lại không có được sự tăng trưởng. Năm 1980,

nhập khẩu của Miến Điện từ Ấn Độ đạt 4,76 triệu USD, năm 1985 giảm xuống còn

3,86 triệu USD, đến năm 1991, tăng lên được 4 triệu USD, chưa bằng mức nhập

khẩu cách đây 10 năm [127, tr. 134]. Sở dĩ như vậy là do từ nửa sau những năm 80

của thế kỷ XX, Trung Quốc dần dần trở thành đối tác kinh tế lớn nhất của Miến

Điện. Theo báo cáo của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), năm 1990, Ấn Độ đứng thứ tư

trong danh sách các đối tác xuất khẩu của nước láng giềng này (chiếm 10,8% tổng

giá trị xuất khẩu), trong khi Trung Quốc đứng tiếp sau với 8,1%. Tuy nhiên, Trung

Quốc lại là đối tác nhập khẩu lớn nhất vào Miến Điện (chiếm 20,6% giá trị hàng

nhập khẩu của nước nay) từ năm 1990 [79, tr. 90].

Có thể nói, mặc dù đạt được một số thành tựu đáng kể nhưng quan hệ kinh tế

giữa Ấn Độ và Miến Điện từ năm 1962 đến năm 1991 nhìn chung vẫn còn mờ nhạt.

Hợp tác giữa hai nước diễn ra chủ yếu trên lĩnh vực thương mại. Trong quan hệ

kinh tế với Miến Điện, Ấn Độ luôn gặp phải sự cạnh tranh từ Trung Quốc. Tuy vậy,

những thành quả trong quan hệ kinh tế hai nước giai đoạn này cũng đã tạo nền tảng

cho sự phát triển toàn diện của quan hệ hai nước ở giai đoạn tiếp sau (1992 - 2011).

3.2.3. Trên lĩnh vực an ninh - quốc phòng

Trên lĩnh vực an ninh - quốc phòng, Ấn Độ và Miến Điện cũng đã bước đầu

đạt được một số thành quả nhất định trong lĩnh vực hợp tác hải quân, công tác phân

định cắm mốc biên giới trên đất liền và trên biển giữa hai nước.

Page 73: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

63

Vào ngày 23-01-1962, lần đầu tiên một phái đoàn gồm 17 thành viên của

quân chủng Hải quân và Không quân Miến Điện sang thăm Ấn Độ [86, tr. 20]. Sự

kiện này được ghi dấu như là một cột mốc quan trọng đặt nền tảng cho sự hợp tác

an ninh - quốc phòng giữa hai nước. Tiếp nối sự kiện trên, trong tháng 6-1962, hai

tàu khu trục của Hải quân Ấn Độ có tên là I.N.S. GODAVARI và I.N.S. KHUKRI

đến thăm thủ đô Rangoon (Miến Điện). Trong chuyến thăm này, Hải quân Miến

Điện đã cử 4 sĩ quan tham gia các cuộc tập trận của hai tàu Ấn Độ với tư cách là

quan sát viên [87, tr. 12]. Có thể nói, đây là lĩnh vực hợp tác an ninh - quốc phòng

sớm nhất trong quan hệ giữa Ấn Độ với Miến Điện.

Bên cạnh đó, việc phân định cắm mốc biên giới trên đất liền là một vấn đề

quan trọng được cả hai nước quan tâm. Vào ngày 10-3-1967, chính phủ Miến Điện

và chính phủ Ấn Độ đã ký kết Hiệp định Biên giới tại Rangoon nhằm “lập kế hoạch

và tiến hành phân giới đường biên giới giữa hai nước” [147]. Bản hiệp định này đặt

cơ sở cho việc hoạch định và phân chia ranh giới truyền thống giữa hai nước. Theo

nội dung Hiệp định, Ủy ban Biên giới chung Ấn Độ - Miến Điện được thành lập và

đã tổ chức phiên họp đầu tiên tại New Delhi và Dehradun (Ấn Độ) từ ngày 6 đến

ngày 10-4-1968 [89, tr. 1]. Từ năm 1968 đến năm 1991, dưới sự chỉ đạo của Uỷ ban

Biên giới chung Ấn Độ - Miến Điện, hai nước đã nhiều lần cử các đoàn công tác để

tiến hành đo đạc, phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền.

Ngoài việc cắm mốc phân giới trên đất liền, Ấn Độ và Miến Điện còn bước

đầu tiến hành phân định ranh giới trên mặt biển. Năm 1984, hai nước đã đạt được

thỏa thuận về việc phân định ranh giới biển giữa hai nước ở vùng biển Andaman,

đảo Coco và vịnh Bengal [95, tr. 7]. Ngày 23-12-1986, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao

Miến Điện U Ye Goung và người đồng cấp Ấn Độ Narayan Datt Tiwari đã ký Hiệp

định về việc phân định ranh giới hàng hải ở biển Andaman, hòn đảo Coco và vịnh

Bengal tại Rangoon [96, tr. 72]. Việc ký kết văn kiện này nhằm xác định đường

biên giới trên biển, phạm vi lãnh hải giữa Ấn Độ với Miến Điện ở vùng biển

Andaman, đảo Coco và vịnh Bengal. Theo nội dung hiệp định, “đường biên giới

trên biển giữa hai nước ở biển Andaman, đảo Coco và vịnh Bengal được phân chia

theo một đường thẳng liên tục nối từ điểm 1 (09°38'00" vĩ độ Bắc, 95°35'25" kinh

độ Đông) đến điểm 14 (14°00'59" vĩ độ Bắc, 92°50'02" kinh độ Đông)” [97, tr.

Page 74: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

64

1145]. Hiệp định công nhận chủ quyền của Ấn Độ và Miến Điện đối với các hòn

đảo hiện tại và bất kỳ hòn đảo nào có thể nổi lên nằm rải rác trên đường ranh giới

hàng hải. Hiệp định cũng thừa nhận mỗi bên đều có chủ quyền, quyền chủ quyền và

quyền tài phán tại các vùng biển của mình trong phạm vi lãnh hải, phù hợp với các

quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 [97, tr. 1146-1147].

Có thể nói, Hiệp định về việc phân định ranh giới hàng hải ở biển Andaman, hòn

đảo Coco và vịnh Bengal đã tạo ra cơ sở pháp lý cho Ấn Độ và Miến Điện trong

việc phân định ranh giới, xác lập chủ quyền và bảo vệ an ninh trên biển.

Bên cạnh công tác phân giới cắm mốc, vấn đề an ninh biên giới cũng được

chính phủ hai nước đề cập. Năm 1969, Thủ tướng Ấn Độ Indira Gandhi đi thăm

Miến Điện để bàn về mối quan hệ hai nước, chủ yếu là về các quan điểm hai nước

về vấn đề biên giới, hoạt động của các nhóm nổi dậy và vấn đề xuất nhập khẩu hai

bên. Trong chuyến thăm này, Tướng Ne Win cam kết Miến Điện sẽ không cho phép

bất kỳ nhà nước hoặc tổ chức nào có những hành động chống phá Ấn Độ diễn ra

trên lãnh thổ [117, tr. 302].

Trong khi quan hệ an ninh - quốc phòng giữa Ấn Độ và Miến Điện đang còn ở

dạng tiềm năng và chưa phát triển nhiều thì ngược lại, Trung Quốc đã có sự hợp tác

quân sự khá chặt chẽ với nước láng giềng này. Kể từ khi các lệnh trừng phạt quốc tế

được áp dụng đối với chính quyền quân sự vào năm 1988, Trung Quốc trở thành nhà

cung cấp vũ khí chủ yếu cho Miến Điện với giá trị vũ khí bán cho nước láng giềng

này gần 2,5 tỉ USD [68, tr. 85]. Số lượng vũ khí này bao gồm máy bay chiến đấu, tàu

tuần tra, xe tăng, tàu chở thiết bị bọc thép, máy phóng tên lửa, pháo binh, thiết bị

truyền thông, vũ khí nhỏ và đạn dược. Ngoài ra, chính phủ Miến Điện đã cho phép

cho các sĩ quan Trung Quốc sang Miến Điện để huấn luyện quân sự cho binh lính

nước này về cách trang bị vũ khí, hướng dẫn sử dụng các thiết bị vũ khí mới... Đồng

thời, Miến Điện cũng đã gửi các sĩ quan đi đào tạo ở Trung Quốc [119, tr. 215].

Như vậy, sự lạnh nhạt có lúc căng thẳng của mối quan hệ Ấn Độ - Myanmar

(1962 - 1991) đã tác động mạnh mẽ đến nhiều lĩnh vực hợp tác giữa hai nước, trong

đó có lĩnh vực kinh tế và an ninh - quốc phòng. Mặc dù cũng đạt được một số thành

quả nhất định, nhưng quan hệ Ấn Độ - Myanmar nói chung và hợp tác kinh tế, an

ninh - quốc phòng nói riêng nhìn chung còn hạn chế và ở dạng tiềm năng. Bên cạnh

Page 75: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

65

đó, sự hiện diện thường trực của nhân tố Trung Quốc trong hầu hết các lĩnh vực hợp

tác giữa Ấn Độ và Myanmar đã ảnh hưởng sâu sắc đến tiến trình quan hệ. Nhân tố

này hứa hẹn sẽ chi phối mạnh mẽ hơn nữa đến quan hệ hai nước trong những năm

tiếp theo.

Tiểu kết chương

Mối quan hệ Ấn Độ - Myanmar từ năm 1962 đến năm 1991 chịu tác động rõ

nét của tình hình quốc tế, khu vực và nhân tố Trung Quốc cùng những chuyển biến

khó đoán định trong nội tình của hai nước, nhất là từ phía Myanmar. Trong suốt gần

ba thập kỷ, nhất là từ đầu những năm 60 đến nửa đầu những năm 70 của thế kỷ XX,

cuộc Chiến tranh lạnh giữa hai cực Xô - Mỹ và hai khối xã hội chủ nghĩa và tư bản

chủ nghĩa diễn ra căng thẳng, quyết liệt. Dưới tác động của Chiến tranh lạnh, xu thế

khu vực hóa, chủ yếu là về mặt quân sự đã xuất hiện. Các cuộc xung đột, đảo chính,

chạy đua vũ trang... kéo theo việc thiết lập các chính phủ và các tổ chức quân sự ở

khu vực đã tác động đến chính quyền Myanmar. Các nhân tố đó là nền tảng quan

trọng và chi phối không nhỏ đến quan hệ giữa Ấn Độ (một nước lớn ở Nam Á có

nền dân chủ truyền thống, có vai trò tích cực trong phong trào giải phóng dân tộc và

Phong trào Không liên kết) với Myanmar (nước láng giềng liền kề của Ấn Độ vốn

có tư tưởng trung lập, không liên kết và có quan hệ lâu đời với Ấn Độ nhưng đã bị

lực lượng quân sự đảo chính và nắm chính quyền) trong những năm 1962 - 1991.

Mối quan hệ Ấn Độ - Myanmar (1962 - 1991) hầu như diễn tiến đối lập với

giai đoạn thân thiện và hữu nghị trước đó (1948 - 1962). Từ khi Tướng Ne Win lên

nắm quyền sau cuộc đảo chính quân sự (năm 1962), Myanmar chuyển từ thể chế

dân sự sang thể chế quân sự. Đây cũng là thời điểm ghi dấu mối quan hệ giữa

Myanmar với Ấn Độ bắt đầu giảm sút và trở nên lạnh nhạt, có lúc căng thẳng trong

những năm tiếp theo. Quan hệ hai nước từ năm 1962 đến năm 1991 chủ yếu diễn ra

trên lĩnh vực chính trị - ngoại giao, còn các lĩnh vực khác (kinh tế, an ninh - quốc

phòng...) hầu như mờ nhạt và hạn chế. Trong giai đoạn này, do đường lối đối nội và

đối ngoại của chính quyền quân sự Myanmar nên các hoạt động dân chủ ở nước này

bị hạn chế ở mức độ rất thấp. Kể từ năm 1988 trở đi, với những biến động mới tại

Myanmar (do chính quyền quân sự đàn áp những người biểu tình dân chủ sau sự

Page 76: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

66

kiện “8888” và sự phản đối nền độc tài quân sự Myanmar của Ấn Độ trên các diễn

đàn quốc tế), thêm vào đó là chính sách cô lập của Mỹ và các nước phương Tây đối

với Myanmar, quan hệ giữa Ấn Độ với nước láng giềng phía Đông này càng rơi

xuống mức thấp nhất trong những năm 1988 - 1991.

Chính trong thời điểm Ấn Độ “lạnh nhạt” với chính quyền quân sự Myanmar

thì cũng là lúc Ấn Độ đẩy Myamar xích lại gần hơn với Trung Quốc. Quan hệ

Trung Quốc - Myanmar đã phát triển tốt đẹp đến mức được ví là “mối quan hệ anh

em”. Có thể nói, quan hệ Ấn Độ - Myanmar chịu sự tác động rất rõ nét từ nhân tố

Trung Quốc. Chính thực tiễn quan hệ Trung Quốc - Myanmar và những biến

chuyển của tình hình quốc tế, khu vực sau Chiến tranh lạnh đã buộc Ấn Độ phải

điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng “hiện thực” hơn trong việc cải thiện,

duy trì và phát triển mối quan hệ với nước láng giềng Myanmar.

Page 77: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

67

CHƯƠNG 4

QUAN HỆ ẤN ĐỘ - MYANMAR TỪ NĂM 1992 ĐẾN NĂM 2011

Nếu như trong những năm 1962 - 1991, quan hệ Ấn Độ - Myanmar trở nên

lạnh nhạt và căng thẳng thì từ năm 1992 đến năm 2011, mối quan hệ giữa hai nước

dần dần được cải thiện dưới tác động của tình hình thế giới, khu vực và nội tình mỗi

nước sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc. Quan hệ Ấn Độ - Myanmar trong những

năm 1992 - 2011 đã bước đầu phát triển mạnh trên một số lĩnh vực chủ yếu: Chính

trị - ngoại giao, kinh tế, an ninh - quốc phòng và hợp tác đa phương...

4.1. Các nhân tố tác động đến quan hệ Ấn Độ - Myanmar (1992 - 2011)

4.1.1. Bối cảnh thế giới từ sau Chiến tranh lạnh đến đầu thế kỷ XXI

Từ cuối những năm 80 đến đầu những năm 90 của thế kỷ XX, nhân loại đã

chứng kiến hàng loạt những biến động sâu sắc. Mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực

ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, Chiến tranh lạnh kết thúc mở ra một thời

kỳ đối thoại, hợp tác trên quy mô toàn cầu trong quan hệ quốc tế thay thế cho sự đối

đầu, căng thẳng trong thời kỳ Chiến tranh lạnh. Xu thế hoà bình, hợp tác và phát

triển trở thành xu thế chủ đạo chi phối các mối quan hệ quốc tế. Sự phụ thuộc lẫn

nhau trong kỷ nguyên toàn cầu hoá đã buộc các quốc gia trên thế giới tăng cường

quan hệ hợp tác, đối thoại, hạn chế đối đầu, xung đột. Bên cạnh đó, những xung đột

khu vực, tôn giáo, sắc tộc, khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, chạy đua sản xuất vũ

khí hạt nhân, vấn đề ô nhiễm môi trường... vẫn còn hiện hữu và là những thách thức

không nhỏ đối với các nước trên thế giới. Bối cảnh quốc tế mới buộc các quốc gia,

phải điều chỉnh chính sách đối ngoại để thích ứng và lấy lợi ích quốc gia dân tộc

làm nhân tố cơ bản chi phối những hoạt động chính trị, kinh tế của mỗi nước.

Cùng với sự kết thúc Chiến tranh lạnh, sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách

mạng khoa học và công nghệ từ những năm 90 của thế kỷ XX đã tác động đến mọi

mặt của đời sống quốc tế, tạo nên sự cạnh tranh quyết liệt giữa các quốc gia. Cuộc

cách mạng còn đẩy tới sự quốc tế hoá sâu sắc quá trình sản xuất và phân phối, dẫn

tới sự hình thành và mở rộng hệ thống sản xuất, phân phối toàn cầu và sự lệ thuộc

lẫn nhau ngày càng lớn giữa các nước trên thế giới. Đây còn là động lực chính thúc

Page 78: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

68

đẩy nhanh sự thay đổi tư duy của các nước về thế giới quan và chiến lược đối ngoại,

phương thức quan hệ và tương quan lực lượng giữa các nước, đặc biệt là giữa các

nước lớn, các trung tâm quyền lực [21, tr. 12]. Nhận thức được tầm quan trọng của

tình hình mới, hầu hết các nước, trong đó Ấn Độ và Myanmar phải điều chỉnh chính

sách đối ngoại nói chung và quan hệ song phương với nhau nói riêng.

Bước sang thế kỷ XXI, nhân loại tiếp tục chứng kiến những chuyển biến

mạnh mẽ, sâu sắc của tình hình thế giới. Ngày 11-9-2001, vụ tấn công khủng bố

nước Mỹ xảy ra, để lại những hậu quả to lớn đối với nước Mỹ và toàn thế giới. Sau

sự kiện ngày 11-9, những mâu thuẫn cơ bản trên thế giới được sắp xếp lại, mâu

thuẫn giữa khủng bố và chống khủng bố ngày càng sâu sắc và trở thành tiêu điểm

chi phối quan hệ quốc tế suốt những năm sau đó [1, tr. 282]. Bên cạnh sự trỗi dậy

của các tổ chức khủng bố, các vấn đề an ninh phi truyền thống tiếp tục tác động

mạnh đến tình hình thế giới, thúc đẩy xu thế hợp tác, liên kết toàn cầu vì an ninh

quốc gia và phát triển kinh tế. Cùng với quá trình trên, sự trỗi dậy của Trung Quốc,

sự phục hồi từng bước của Nga, sự suy giảm tương đối của Mỹ, Nhật Bản và Tây

Âu cũng như sự nổi lên của Nhà nước Hồi giáo tự xưng (IS) và các vấn đề an ninh

phi truyền thống... buộc các quốc gia, trong đó có Ấn Độ và Myanmar, phải thay

đổi nhận thức về tư duy đối ngoại để thích ứng với điều kiện mới. Điều này được

thể hiện từ năm 2011, trong khi Ấn Độ đang tiếp tục triển khai giai đoạn thứ hai của

chính sách “hướng Đông” mở rộng phạm vi và lĩnh vực hợp tác từ Đông Nam Á

sang Đông Bắc Á, Australia, New Zealand ở Nam Thái Bình Dương, thì Myanmar

đẩy nhanh tiến trình dân chủ hoá, thực hiện chính sách đối ngoại đa phương. Để tạo

điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao vị thế đất nước, Ấn Độ và Myanmar

đều nỗ lực thúc đẩy mối quan hệ song phương phát triển hơn nữa trong bối cảnh

mới của tình hình quốc tế có nhiều biến động vào những năm đầu thế kỷ XXI.

4.1.2. Bối cảnh khu vực Nam Á và châu Á - Thái Bình Dương

Khu vực Nam Á

Sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, tình hình khu vực Nam Á vẫn chưa có dấu

hiệu ổn định do những tranh chấp về biên giới lãnh thổ từ nguồn gốc lịch sử hoặc

do những mâu thuẫn về dân tộc, tôn giáo. Quan hệ giữa Ấn Độ và Pakistan, hai

quốc gia lớn nhất khu vực Nam Á, vẫn luôn là nhân tố quan trọng hàng đầu chi phối

Page 79: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

69

mối quan hệ và sự hợp tác giữa các nước trong khu vực với nhau. Mặc dù cả Ấn Độ

và Pakistan đều mong muốn xây dựng mối quan hệ láng giềng hoà bình, ổn định để

phát triển, nhưng do sự tồn tại của vấn đề tranh chấp vùng Kashmir27 và chủ nghĩa

khủng bố nên quan hệ Ấn Độ - Pakistan vẫn tiếp tục căng thẳng trong hai thập niên

sau Chiến tranh lạnh. Trong bối cảnh đó, Ấn Độ đã tìm kiếm mối quan hệ hữu nghị

với các nước láng giềng khác, trong đó có Myanmar.

Có thể nói, Chiến tranh lạnh kết thúc đưa đến sự ra đời xu thế đối thoại, hoà

bình và hợp tác, lấy kinh tế làm trọng điểm vì lợi ích quốc gia - dân tộc đã tác động

mạnh đến quan hệ Ấn Độ và Myanmar. Do vậy, mặc dù vào năm đầu thập niên 90

của thế kỷ XX, quan hệ hai nước vẫn còn căng thẳng nhưng các nhà lãnh đạo Ấn

Độ đã có những tính toán thực tế hơn. Ấn Độ bắt đầu thực thi chính sách đối ngoại

“hướng Đông”, trong đó Myanmar là một địa bàn chiến lược trọng yếu để nước này

vươn ra châu Á - Thái Bình Dương. Đối với nước láng giềng Myanmar, tuy chế độ

quân sự vẫn còn nắm quyền lực nhưng Myanmar cũng đã có những xu hướng cải

cách, nới rộng dân chủ, đa dạng hoá hơn trong chính sách đối ngoại. Bên cạnh đó,

hai nước cũng tính đến lợi ích vị trí địa lý liền kề của nhau. Myanmar cần Ấn Độ để

giảm bớt sự quá lệ thuộc vào Trung Quốc, còn Ấn Độ cần một Myanmar hoà dịu

nhằm cạnh tranh lợi ích với Trung Quốc và ổn định các vấn đề an ninh biên giới.

Do vậy, dựa trên cơ sở quan hệ tốt đẹp giữa hai nước trước đây, Ấn Độ đã cải thiện

và gia tăng quan hệ với nước láng giềng Myanmar, góp phần tạo sự ổn định biên

giới, hợp tác cùng phát triển trong những năm 1992 - 2011. Ấn Độ tranh thủ sự ủng

hộ của Myanmar để tăng cường vị thế của mình trên trường quốc tế. Và Myanmar

cũng tận dụng sự ủng hộ của Ấn Độ - một quốc gia có tiếng nói quan trọng trong

Phong trào Không liên kết - để xây dựng và phát triển đất nước.

Khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Đông Nam Á

Vào cuối những năm 80 - đầu những năm 90 của thế kỷ XX, cùng với những

biến động của tình hình thế giới, khu vực châu Á - Thái Bình Dương cũng có nhiều

thay đổi. Sự sụp đổ của trật tự hai cực Yalta, Chiến tranh lạnh kết thúc đã tạo điều

kiện cho khu vực này phát triển năng động và đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Với

27 Kashmir là một vùng đất tiếp giáp với Ấn Độ, Pakistan, Afghanistan, Tajikistan và Trung Quốc. Kashmir

có vị trí chiến lược quan trọng, là cửa ngõ đi sang Tây Á, Trung Đông và các nước xung quanh.

Page 80: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

70

nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào, đặc biệt là trữ lượng dầu mỏ và nguồn nhân lực

được đào tạo một cách cơ bản, địa vị kinh tế của châu Á - Thái Bình Dương trong nền

kinh tế thế giới ngày càng được nâng cao, hợp tác khu vực ngày càng đi vào chiều

sâu và trở thành “điểm sáng” trong bức tranh kinh tế toàn cầu. Cùng với đó, châu Á -

Thái Bình Dương còn có vị thế chính trị quan trọng, là nơi tập hợp các nước lớn (Mỹ,

Nga, Trung Quốc...) có địa vị chính trị chủ yếu trên trường quốc tế. Chính những điều

kiện thuận lợi đó mà các nước như Mỹ, Nga, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ... đều

phải có sự điều chỉnh chiến lược đối ngoại hướng về châu Á - Thái Bình Dương.

Châu Á - Thái Bình Dương đang trở thành trung tâm của quyền lực toàn cầu

trong thế kỷ XXI, là nơi tập trung những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới.

Ấn Độ không phải là một quốc gia châu Á - Thái Bình Dương, nhưng với vị trí địa lý

cận kề, quy mô dân số, diện tích, tầm ảnh hưởng văn hóa - ngoại giao cũng như tiềm

lực chính trị - quân sự của mình, Ấn Độ hoàn toàn có đủ sự quan tâm và lợi ích để

tham gia trọn vẹn vào tiến trình phát triển của khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Thủ tướng Ấn Độ J. Nehru đã từng phát biểu: “Thái Bình Dương có khả năng sẽ thay

thế Đại Tây Dương với tư cách là một trung tâm đầu não của thế giới trong tương

lai. Tuy không phải là một quốc gia trực tiếp ở Thái Bình Dương nhưng Ấn Độ sẽ

phải có được ảnh hưởng quan trọng ở đó” [20, tr. 232]. Bởi vậy, một châu Á - Thái

Bình Dương hòa bình và thịnh vượng chắc chắn không thể thiếu vai trò, đóng góp to

lớn của Ấn Độ với tư cách là một cường quốc khu vực đang ngày càng lớn mạnh và

xứng đáng có một vị thế tương xứng. Sau khi trật tự hai cực Yalta sụp đổ, Ấn Độ đã

thực hiện chính sách “hướng Đông” nhằm nâng cao vị thế và vai trò của mình ở châu

Á - Thái Bình Dương. Ấn Độ đã tạo dựng được mối quan hệ gần gũi với Mỹ, nỗ lực

tiến tới bình thường hóa quan hệ với Pakistan, quan hệ thân thiện với Trung Quốc,

đối thoại quan hệ với Nga, mở rộng ảnh hưởng tại Ấn Độ Dương và gia tăng hợp tác

với các nước Đông Nam Á - cửa ngõ để Ấn Độ tiến vào Thái Bình Dương.

Như vậy, từ sau Chiến tranh lạnh đến thập niên đầu thế kỷ XXI, trải qua

nhiều biến động lịch sử trong quan hệ quốc tế, châu Á - Thái Bình Dương bước vào

một thời kỳ lịch sử mới với xu thế đối thoại, hòa bình, hợp tác. Sự phát triển nhanh

chóng, năng động của châu Á - Thái Bình Dương nói chung và Đông Nam Á nói

riêng là nhân tố khách quan thuận lợi đối với chính sách đối ngoại của Ấn Độ và

Page 81: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

71

Myanmar. Tình hình hoà bình, ổn định ở châu Á - Thái Bình Dương và Đông Nam

Á là điều kiện thuận lợi, nhân tố tác động quan trọng để Ấn Độ thiết lập và gia tăng

quan hệ với các quốc gia trong khu vực, trước hết là với nước láng giềng Myanmar.

Nhờ vậy, quan hệ Ấn Độ - Myanmar có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển.

4.1.3. Nhân tố Trung Quốc trong quan hệ Ấn Độ - Myanmar (1992 - 2011)

Từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX, nhân tố Trung Quốc tiếp tục tác động

mạnh mẽ và rõ nét đến quan hệ hai nước Ấn Độ - Myanmar. Trong khi Ấn Độ, Mỹ

và các nước phương Tây lên tiếng phản đối chính phủ quân sự Myanmar vì những vụ

đàn áp dân chủ, vi phạm nhân quyền thì Trung Quốc lại trở thành nước duy nhất hầu

như có mối liên hệ chặt chẽ và hậu thuẫn cho chính quyền nước này. Sự nồng ấm

trong quan hệ Trung Quốc - Myanmar đã trở thành mối lo ngại nhất của Ấn Độ, cũng

như khiến cho mối đe dọa của Trung Quốc đối với các bang ở Đông Bắc Ấn Độ trở

nên hiện hữu28. Trung Quốc cũng ra sức triển khai và thúc đẩy việc xây dựng tuyến

hành lang vận tải Trung Quốc - Myanmar dựa trên những cơ sở lợi ích chiến lược và

kinh tế, tạo đà cho nước này thực hiện chiến lược “hai đại dương” [62, tr. 45].

Đầu thế kỷ XXI, Trung Quốc càng gia tăng ảnh hưởng mạnh mẽ đối với các

khu vực trọng yếu của nước láng giềng Myanmar. Năm 2003, Trung Quốc hỗ trợ

Myanmar xây dựng một bến tàu dài 85 m đối với các cơ sở hải quân trên quần đảo

Coco, nằm cách đảo Nicobar (Ấn Độ) 18 km và thiết lập hệ thống trinh sát, thông

tin điện tử hiện đại trên đảo. Ngoài ra, Trung Quốc còn xây dựng một cảng nước

sâu ở Kyaukpyu thuộc bang Rakhine, Myanmar. Kyaukpyu có một vị trí chiến lược

nằm trên tuyến đường kết nối thành phố Côn Minh (thủ phủ tỉnh Vân Nam, Trung

Quốc) với Sittwe của Myanmar. Trung Quốc cũng đã thành lập các trạm quan sát

tình hình tại Sittwe và đảo Zadetkyi Kyun (nằm ngoài khơi mũi cực nam của

Myanmar), cho phép nước này giám sát việc lưu thông tại eo biển Malacca [72, tr.

6]. Thực tế đó cùng nhiều nhân tố khác đã làm cho giới cầm quyền Ấn Độ phải thay

đổi tư duy trong chính sách đối ngoại với nước láng giềng Myanmar. Thay vì kiên

quyết giữ vững những quan điểm truyền thống về dân chủ, hoà bình thì chính sách

của Ấn Độ trở nên thực tế hơn trong quan hệ với Myanmar kể từ năm 1992. Do vậy,

28 Khu vực Đông Bắc Ấn Độ nằm kẹp giữa các nước Bangladesh, Bhutan, Khu tự trị Tây Tạng của Trung

Quốc và Myanmar

Page 82: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

72

Ấn Độ đã nỗ lực cải thiện và xây dựng mối quan hệ với Myanmar trên các lĩnh vực

chủ yếu và trước hết xây dựng lòng tin ở cấp cao nhất của hai nước.

Trong khi đó, việc duy trì mối quan hệ với Trung Quốc trong nhiều thập kỷ

qua đã làm cho chính quyền quân sự Myanmar không phải không nhận ra những hệ

luỵ từ việc quá lệ thuộc vào nước láng giềng khổng lồ này. Với mối quan hệ khá mật

thiết kéo dài qua nhiều thập kỷ, Myanmar đã được các nhà phân tích quốc tế xem là

“một vệ tinh ảo của Trung Quốc”. Tuy nhiên, chính quyền quân sự nước này lại phủ

nhận bất kỳ sự hiện diện nào của Trung Quốc ở Myanmar cũng như việc thiết lập một

liên minh chiến lược với Trung Quốc. “Một chủ nghĩa dân tộc truyền thống, sự tự lực

cánh sinh và thậm chí cả thái độ bài ngoại đã cho thấy rằng Myanmar không có ý

định trở thành con tốt của Trung Quốc và ngay khi có điều kiện, nước này sẽ giảm

bớt sự lệ thuộc vào Bắc Kinh” [72, tr. 12]. Trên thực tế, các nhà lãnh đạo quân sự

Myanmar dường như hoàn toàn nhận thức được những nguy hiểm tiềm ẩn khi đang ở

gần Trung Quốc. Do vậy, đây cũng là nhân tố khiến giới cầm quyền Myanmar thực

hiện chiến lược đa dạng hóa chính sách ngoại giao từ đầu những năm 90 của thế kỷ

XX nhằm giảm sự phụ thuộc vào Trung Quốc, cho phép chính phủ Ấn Độ và các

cường quốc khác có cơ hội cải thiện và tăng cường quan hệ với nước này.

Mặc dù vậy, nếu xét về mức độ quan hệ Trung Quốc - Myanmar thì Ấn Độ

vẫn chưa thể tách Myanmar khỏi “vòng tay” của Trung Quốc. Trung Quốc hiện nay

có sức mạnh kinh tế và chính trị lớn hơn so với Ấn Độ. Myanmar không chỉ quan

trọng về tầm chiến lược đối với Ấn Độ mà cũng là nhân tố sống còn đối với tham

vọng vươn ra Ấn Độ Dương của Trung Quốc. Cho nên, cùng với những hoạt động

đầu tư, khai thác tài nguyên năng lượng của Ấn Độ, Trung Quốc cũng thực thi

những biện pháp nhằm giữ vững quyền lợi và lợi ích chiến lược của họ ở Myanmar.

Do vậy, New Delhi chưa thể đạt được thế cân bằng với chính quyền Bắc Kinh trong

cuộc cạnh tranh tại quốc gia láng giềng Myanmar. Những phân tích trên đây cho

thấy Ấn Độ sẽ phải tiếp tục tìm mọi cách để kiềm chế ảnh hưởng đang ngày càng

tăng của Trung Quốc. Vậy nên, trong các lĩnh vực hợp tác với Myanmar, Ấn Độ

phải có chính sách đối ngoại khôn khéo với nước láng giềng này cũng như với Trung

Quốc để gạt bỏ những yếu tố bất lợi và nhân lên những yếu tố thành công nhằm đạt

được những lợi ích cao nhất cho Ấn Độ trong xu thế vừa hợp tác vừa cạnh tranh.

Page 83: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

73

Như vậy, có thể thấy trong mối quan hệ Ấn Độ - Myanmar từ năm 1992 đến

năm 2011 cũng như trong giai đoạn trước đó (1962 - 1991), nhân tố Trung Quốc đã

tác động to lớn đến hai chủ thể Ấn Độ và Myanmar cũng như đối với sự tiến triển

của quan hệ hai nước trên nhiều lĩnh vực mà trọng tâm là chính trị - ngoại giao, an

ninh chiến lược và kinh tế. Trung Quốc được xem là đối thủ chính của Ấn Độ trong

khu vực và là thách thức đối với Ấn Độ trong việc cải thiện và phát triển quan hệ

ngoại giao với các quốc gia láng giềng, trong đó có Myanmar.

4.2. Quan hệ Ấn Độ - Myanmar (1992 - 2011) trên một số lĩnh vực chủ yếu

Từ thập niên cuối của thế kỷ XX trở đi, Ấn Độ và Myanmar đã có những nỗ

lực làm ấm dần mối quan hệ song phương sau một thời kỳ dài lạnh nhạt. Có nhiều lý

do để giải thích về “sự trở lại” của mối quan hệ Ấn Độ - Myanmar. Về phía

Myanmar, trước đây do chính sách tự cô lập của chính quyền quân sự nước này, do

vậy dưới nhiều tác động mới của bối cảnh quốc tế sau Chiến tranh lạnh, tình hình khu

vực châu Á, xu thế hoà bình, hoà giải ở Đông Nam Á, sự nhận thức của chính phủ

Myanmar nên từ năm 1992 (thời điểm Tướng Than Shwe lên nắm quyền lãnh đạo),

chính phủ Myanmar đã đưa ra những điều chỉnh trong chính sách đối ngoại của mình.

Về phía Ấn Độ, sau năm 1991, Ấn Độ đã điều chỉnh chiến lược đối ngoại dần dần

theo “chủ nghĩa hiện thực”29 (realism), lấy lợi ích quốc gia làm cơ sở phát triển quan

hệ với các nước trên thế giới. Sự chuyển động trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ

đối với Myanmar đã bắt đầu từ những năm 1987, 1988, nhưng đến năm 1992, sự điều

chỉnh này mới mang tính chất bước ngoặt. Đó là thời điểm Ấn Độ triển khai chính

sách “hướng Đông”30. Từ chỗ lên tiếng phản đối mạnh mẽ chính sách đàn áp dân chủ

29 “Chủ nghĩa hiện thực” có nguồn gốc từ hệ tư tưởng hiện thực hay thực chứng (positivistic) của Chanakya

Kautilya. Ông giữ chức tể tướng dưới triều đại Maurya vào thế kỷ IV trước Công nguyên, là tác giả của cuốn

“Khoa học của chiến thắng”. Trong tác phẩm này, Chanakya Kautilya cho rằng “cách duy nhất để một vị vua

tồn tại được trong thế giới là luật matsya nyaya (cá lớn nuốt cá bé) là phải trở thành một vijigisu (quốc gia

luôn có khao khát đi chinh phục)” [32, tr. 46]. 30 Chính sách “hướng Đông” (Look East Policy) chính thức được ra đời vào năm 1992 và được thực thi từ

thời của Thủ tướng P.V. Narasimha Rao (1991 - 1996). Sự ra đời chính sách “hướng Đông” nằm trong tính

toán chiến lược lâu dài của Ấn Độ là vươn ra khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Thông qua chính sách

“hướng Đông”, Ấn Độ xem khu vực Đông Á là mối quan tâm hàng đầu trong chính sách đối ngoại của mình.

Chính sách “hướng Đông” được Ấn Độ triển khai toàn diện trên các lĩnh vực chính trị - ngoại giao, an ninh -

quân sự, kinh tế, văn hoá và hợp tác tiểu khu vực. Thông qua việc phát triển quan hệ thương mại với các

quốc gia ở Đông Á, Ấn Độ hướng đến việc hội nhập kinh tế với khu vực châu Á – Thái Bình Dương, trong

đó Ấn Độ hướng tới mục tiêu xây dựng Cộng đồng kinh tế châu Á (AEC) [104, tr. 17]. Tính đến thời điểm

năm 2011, chính sách “hướng Đông” của Ấn Độ đã trải qua giai đoạn thứ hai (từ năm 2002).

Page 84: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

74

và bắt giữ bà Aung San Suu Kyi của chính quyền quân sự Myanmar, Ấn Độ đã thực

hiện chính sách thực tế, không can thiệp đối với nước láng giềng này [72, tr. 7].

Sự thay đổi trong chính sách của Ấn Độ đối với Myanmar được thúc đẩy bởi

ba nhân tố chủ yếu. Thứ nhất, Ấn Độ lo ngại không chỉ về ảnh hưởng và quyền lực

của Trung Quốc tăng lên ở Myanmar mà nó còn có thể tạo ra một “liên minh thân

Trung Quốc” trong khu vực bao gồm các nước: Pakistan, Bangladesh, Myanmar.

Thứ hai, Ấn Độ cần cải thiện quan hệ với Myanmar để đối phó với các mối đe dọa

an ninh phi truyền thống đang nổi lên ở khu vực Đông Bắc Ấn Độ. Thứ ba, ASEAN

và khu vực Đông Nam Á được Ấn Độ xem là trọng tâm trong chính sách đối ngoại

“hướng Đông”. Myanmar lại là thành viên duy nhất của ASEAN có chung đường

biên giới với Ấn Độ. Do đó, dưới góc nhìn của các nhà hoạch định chính sách Ấn

Độ, Myanmar được xem như là một “cửa ngõ” để Ấn Độ tiến vào thị trường

ASEAN. Từ sau năm 1992, quan hệ giữa Ấn Độ với Myanmar dần dần được cải

thiện và đạt được nhiều thành tựu bước đầu trên các lĩnh vực chủ yếu: Chính trị -

ngoại giao, kinh tế, an ninh - quốc phòng và trên lĩnh vực hợp tác đa phương.

4.2.1. Trên lĩnh vực chính trị - ngoại giao

Từ năm 1992 đến năm 2011, cùng với sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của

Ấn Độ và Myanmar, quan hệ chính trị - ngoại giao giữa hai nước đã được nối lại và

từng bước phát triển dưới nhiều hình thức phong phú, đa dạng. Các cuộc gặp gỡ, thăm

viếng song phương, đa phương, các cuộc hội đàm trao đổi của các đoàn ngoại giao cấp

cao... của Ấn Độ và Myanmar đã mang tính hiệu quả hơn, tạo điều kiện cho việc ký

kết nhiều văn kiện quan trọng trong các lĩnh vực hợp tác khác nhau giữa hai nước.

Tháng 3-1993, Ngoại trưởng Ấn Độ Jyotindra Nath Dixit đi thăm Myanmar

nhằm cải thiện quan hệ hai nước. Trong chuyến thăm này, một thỏa thuận song

phương về việc kiểm soát buôn bán ma túy và thương mại biên giới giữa hai bên đã

được ký kết [123, tr. 1]. Bước sang năm 1994, Ấn Độ và Myanmar đã tổ chức cuộc

hội đàm tại Myanmar. Tại cuộc hội đàm này, Ấn Độ đưa ra cam kết về việc không

can thiệp vào công việc nội bộ của Myanmar, đáp lại, phía Myanmar cũng bày tỏ sự

khẳng định với Ấn Độ về mối quan hệ giữa Myanmar với Trung Quốc sẽ không

nhằm vào việc chống lại Ấn Độ.

Page 85: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

75

Mặc dù quan hệ Ấn Độ - Myanmar đã được cải thiện nhưng trong năm 1995,

tình hình lại trở nên xấu đi khi Ấn Độ trao tặng giải thưởng “Jawaharlal Nehru31”

cho bà Aung San Suu Kyi để ghi nhận “cuộc đấu tranh dũng cảm, bất bạo lực và

kiên quyết” của bà cho sự tự do, nền dân chủ và giá trị nhân phẩm [99, tr. 4]. Chính

quyền quân sự Miến Điện đã phản đối việc Ấn Độ trao giải thưởng trên và có những

hành động đơn phương rút khỏi sự hợp tác trong một số lĩnh vực mà hai nước đang

phối hợp. Mặc dù Ấn Độ đã thực thi chính sách “can dự có tính xây dựng” trong

việc cải thiện quan hệ với Miến Điện, nhưng việc trao giải thưởng “Jawaharlal

Nehru” cho bà Aung San Suu Kyi cho thấy rằng “chủ nghĩa lý tưởng” vẫn đang còn

tồn tại ít nhiều trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ với nước láng giềng này.

Mối quan hệ giữa Ấn Độ với Myanmar phát triển sang một bước mới từ sau

năm 1997, thời điểm Myanmar trở thành một thành viên của ASEAN. Điều này phù

hợp với tình hình của Ấn Độ năm 1998, khi Đảng Nhân dân Ấn Độ (BJP) thắng cử

và lãnh đạo của Đảng là ông A.B. Vajpayee lên nắm quyền. Với thế hệ những nhà

lãnh đạo mang tư duy mới và năng động, kể từ đây đã xuất hiện động lực mới trong

mối quan hệ Ấn Độ - Myanmar nhằm đạt những mục tiêu mà Ấn Độ đã hoạch định

dưới thời Thủ tướng Narasimha Rao. Tháng 02-1998, nhằm tái khởi động quan hệ

hai nước vốn được nối lại từ đầu những năm 90, Ấn Độ đã cử Thứ trưởng ngoại giao

K. Ragunath sang thăm Myanmar. Về phía Myanmar, từ cuối những năm 90 của thế

kỷ XX, Myanmar đã từng bước hội nhập khu vực nhằm đa dạng hóa chính sách đối

ngoại của mình và thoát khỏi tình trạng bị cô lập, cụ thể như: Myanmar đã tham gia

vào tổ chức ASEAN (năm 1997) và sau đó là các tổ chức tiểu khu vực như Sáng kiến

vùng Vịnh Bengal về hợp tác Kinh tế và Kỹ thuật đa khu vực (BIMSTEC) (tháng 12-

1997); Tổ chức Hợp tác Mekong - Sông Hằng (MGC) (năm 2000)...

Từ đầu thế kỷ XXI, Myanmar trở thành một điểm đến quan trọng đối với các

nhà hoạch định chính sách Ấn Độ. Để đạt được mục tiêu của mình, Ấn Độ đã tập

trung phát triển hơn nữa mối quan hệ hai nước, trước hết là trong lĩnh vực chính trị -

ngoại giao. Sự kiện quan trọng đầu tiên đánh dấu mối quan hệ hai nước phát triển

31 Giải thưởng Jawaharlal Nehru có tên đầy đủ là Giải thưởng Jawaharlal Nehru cho sự Thông cảm quốc tế,

là một giải thưởng quốc tế của chính phủ Ấn Độ để vinh danh Jawaharlal Nehru, vị thủ tướng đầu tiên của

Ấn Độ. Giải thưởng này ra đời vào năm 1965, do Hội đồng Quan hệ văn hóa Ấn Độ quản lý, dành cho những

người “có đóng góp xuất sắc vào việc thúc đẩy sự thông cảm quốc tế, thiện chí và tình hữu nghị giữa các dân

tộc trên thế giới”.

Page 86: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

76

lên một bước mới là Tướng Maung Aye - Phó Chủ tịch Hội đồng Hòa bình và Phát

triển quốc gia (SPDC) - đã đến thăm Ấn Độ vào ngày 14-11-2000 [115, tr. 11].

Chính phủ Ấn Độ đón tiếp Tướng Maung Aye với nghi lễ trang trọng như là đón

một vị nguyên thủ quốc gia. Điều này cho thấy Ấn Độ đang mở ra một giai đoạn

mới trong mối quan hệ với Myanmar và khẳng định sẵn sàng theo đuổi quyền lợi

của mình ở châu Á. Chuyến thăm của Tướng Maung Aye là chuyến thăm cấp cao

đầu tiên giữa Ấn Độ và Myanmar kể từ khi cố Thủ tướng Rajiv Gandhi thăm

Myanmar vào năm 1987. Chuyến công du này đánh dấu sự thắng lợi của quá trình

hợp tác rất có hiệu quả giữa hai nước từ giữa những năm 90 của thế kỷ XX trở lại

đây. Sự kiện này còn thể hiện quan điểm và sự cam kết mới mang tính chiến lược

của Ấn Độ đối với Myanmar. Một điểm đáng chú ý là trước phần các nghi lễ chính

thức trong hoạt động ngoại giao tại Ấn Độ, các nhà lãnh đạo của đoàn đại biểu

Myanmar do Tướng Maung Aye dẫn đầu đã tới thăm đền Mahabodhi ở Bodh Gaya

(nơi Phật đắc đạo) của Ấn Độ. Đây là một sự kiện ý nghĩa bởi đạo Phật là sự kết nối

chung được truyền bá từ Ấn Độ đến Myanmar, Thái Lan, Việt Nam và nhiều nước

Đông Nam Á khác. Có thể thấy Ấn Độ và Myanmar đã sẵn sàng gạt bỏ những bất

đồng trong quá khứ, đặt nền móng cho một mối quan hệ song phương có hiệu quả.

Vào tháng 01-2002, Ấn Độ và Myanmar ký Hiệp định tái thiết lập Tổng lãnh

sự quán ở mỗi nước. Theo đó, Myanmar sẽ lập văn phòng đại diện ngoại giao tại

Kolkata32. Trong khi đó, Ấn Độ sẽ thiết lập văn phòng tại thành phố Mandalay

(Myanmar) [148]. Điều này đã góp phần phục hồi mối quan hệ một cách chính thức

có tính pháp lý và toàn diện, tạo điều kiện thuận lợi cho các cuộc đàm phán thường

xuyên giữa hai nước. Để giữ hòa khí với Myanmar, phản ứng của Bộ Ngoại giao Ấn

Độ trước việc trả tự do cho bà Suu Kyi vào ngày 6-5-2002 cũng khá thận trọng,

thay vào đó là việc nhấn mạnh tới nhu cầu về “hòa bình lâu dài” và “tái hòa giải”

trong khi vẫn ủng hộ những bước đi hướng tới phục hồi nền dân chủ ở Myanmar.

Tháng 11-2003, Phó Tổng thống Ấn Độ Bhairon Singh Shekhawat đi thăm

Myanmar. Trong chuyến thăm này, Ấn Độ và Myanmar đã ký ba hiệp định song

phương về tăng cường hợp tác trên các lĩnh vực giáo dục, văn hóa và miễn thị thực

cho người mang hộ chiếu ngoại giao và công vụ [128, tr. 23-24]. Ngoài ra, ngài B.S.

32 Còn có tên gọi khác là Calcutta

Page 87: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

77

Shekhawat cũng đã có cuộc gặp với quan chức các ngành công nghiệp Myanmar tại

Yangon và về việc hợp tác hai nước trong một số ngành như: Công nghệ thông tin,

thông tin liên lạc, dược phẩm, chế biến thực phẩm, đào tạo. Đây là những lĩnh vực

hợp tác đầy tiềm năng giữa Ấn Độ và Myanmar. Có thể thấy, hai nước đang tích

cực thúc đẩy quan hệ song phương phát triển một cách toàn diện.

Cuối tháng 10-2004, Thống tướng Than Shwe tiến hành chuyến thăm cấp

nhà nước đầu tiên đến Ấn Độ trong vòng 1/4 thế kỷ trở lại đây. Trong các cuộc hội

đàm với Tổng thống Abdul Kalam và Thủ tướng Manmohan Singh, Tướng Than

Shwe đã khẳng định rằng Myanmar sẽ không cho phép các nhóm nổi dậy sử dụng

lãnh thổ Myanmar để chống lại Ấn Độ, đồng thời cam kết khôi phục nền dân chủ ở

Myanmar và mong muốn Ấn Độ ủng hộ tiến trình này. Về phía Ấn Độ, Thủ tướng

M. Singh và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Jaswant Singh cam kết sẽ ủng hộ mạnh mẽ

những nỗ lực của Thống tướng Than Shwe nhằm thiết lập một chính phủ dân chủ

tại Myanmar. Đề cập đến tiến trình dân chủ ở Myanmar, Thủ tướng M. Singh nhấn

mạnh: “giai đoạn chuyển tiếp tới một nền dân chủ là quá trình phức tạp nhưng nó

sẽ tạo ra những khả năng tốt nhất để đề cập đến những vấn đề về cả ổn định chính

trị lẫn phát triển kinh tế” [36, tr. 15]. Cùng ngày, hai bên đã ký ba văn kiện, trong

đó có Nghị định thư về tăng cường hợp tác chống khủng bố, buôn lậu ma túy, vũ

khí, rửa tiền và tội phạm có tổ chức, tội phạm kinh tế quốc tế; hiệp định trao đổi văn

hóa đến năm 2006 và hợp tác trong một dự án thủy điện của Myanmar. Kết thúc

chuyến thăm, ngoài những tuyên bố được đưa ra, hai nước đã ký một bản ghi nhớ

về hợp tác an ninh phi truyền thống và tiếp ngay sau đó là chiến dịch phối hợp quân

sự chung của hai nước nhằm chống lại các nhóm phiến quân Manipur và Naga đang

hoạt động ở khu vực biên giới của Ấn Độ và Myanmar. Sự kiện Tướng Than Shwe

cùng đoàn quan chức cấp cao thực hiện chuyến thăm lịch sử đến Ấn Độ là động lực

thúc đẩy quan hệ Myanmar - Ấn Độ tiến thêm một bước dài. Qua chuyến thăm này,

Ấn Độ cũng không hề giấu giếm ý định lôi kéo Myanmar về phía mình nhằm khẳng

định Ấn Độ như là một trung tâm của khu vực Nam Á.

Trong bối cảnh quan hệ hai nước diễn ra tốt đẹp, Tổng thống Ấn Độ Abdul

Kalam đã có chuyến thăm tới Myanmar vào tháng 3-2006. Đây là chuyến công du

chính thức đầu tiên của một vị nguyên thủ quốc gia Ấn Độ đến Myanmar trong vòng

24 năm qua. Trong khuôn khổ của chuyến viếng thăm, ngày 9-3-2006, hai nước đã

Page 88: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

78

ký kết một hiệp định về hợp tác trong lĩnh vực công nghệ cảm biến từ xa và hai bản

ghi nhớ hợp tác trong lĩnh vực dầu mỏ và nghiên cứu Phật giáo [117, tr. 306]. Cũng

trong chuyến thăm nói trên, Tổng thống A. Kalam đề nghị giúp đỡ xây dựng các thể

chế và khôi phục lại hệ thống dân chủ ở Myanmar. Điều này cho thấy, những nỗ lực

của Ấn Độ đối với việc tiến hành cải cách dân chủ tại Myanmar đã góp phần quan

trọng trong việc thúc đẩy dân chủ thông qua các kênh chính thức, ngoại giao và

trong các cuộc thảo luận giữa ban lãnh đạo hai nước. Ấn Độ khẳng định không từ bỏ

những cam kết khôi phục nền dân chủ tại Myanmar trong khi hợp tác với chính

quyền quân sự nước này. Thực tế, Ấn Độ vẫn duy trì lập trường của mình, song quan

điểm, cách nhìn nhận đã thay đổi hơn so với một thập kỷ trước đó. Chuyến công du

của ông A. Kalam được coi là sự kiện chính trị quan trọng của Ấn Độ nhằm đáp lại

chuyến thăm Ấn Độ của Tướng Than Shwe vào tháng 10-2004 với mục tiêu kết nối

và tăng cường hơn nữa quan hệ hai nước.

Một sự kiện quan trọng được xem như là một phép thử và có tác động mạnh

mẽ đến quan hệ toàn diện của Ấn Độ và Myanmar là cuộc “Cách mạng màu nghệ

tây” (Saffron Revolution) diễn ra ở Myanmar vào năm 2007.

Ngày 9-9-2007, Liên minh Các nhà sư toàn Miến Điện đã đưa ra một bản

tuyên bố yêu cầu chính quyền giảm giá cả hàng hoá và giá nguyên liệu, phóng thích

tất cả tù nhân chính trị, bao gồm cả bà Aung San Suu Kyi và đối thoại với các lực

lượng dân chủ nhằm hòa giải dân tộc và hoá giải những đau khổ của nhân dân. Bản

tuyên bố cũng đưa ra thời hạn đến ngày 17-9 để chính quyền Myanmar thực hiện

những yêu cầu nêu trên nếu không muốn đối mặt với một cuộc tẩy chay tôn giáo.

Sau thời hạn trên, từ ngày 18-9 đến ngày 24-9-2007, nhiều cuộc biểu tình đã nổ ra

rầm rộ ở Yangon với sự tham gia của khoảng 100.000 người dưới sự dẫn đầu của

hàng nghìn nhà sư [74, tr. 18-19]. Chính quyền Naypyidaw33 đã đàn áp đẫm máu các

cuộc biểu tình, bắt bớ và giam cầm hàng nghìn người, trong đó có nhiều nhà sư, gây

nên cuộc khủng hoảng chính trị nghiêm trọng ở Myanmar. Những diễn biến nêu trên

còn được giới truyền thông gọi là cuộc “Cách mạng nâu” hay “Cách mạng cà sa”.

Sự kiện “Cách mạng màu nghệ tây” năm 2007 đã làm dấy lên làn sóng phản

đối trên thế giới, trước hết là từ các nước phương Tây và đặt ra một thách thức mới

33 tên thủ đô mới của Myanmar từ năm 2006

Page 89: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

79

đối với nước láng giềng dân chủ Ấn Độ trong quan hệ ngoại giao với Myanmar. Ấn

Độ buộc phải có những biện pháp và bước đi thận trọng, để vừa không làm mất đi

hình ảnh truyền thống về nền dân chủ và vị thế của mình, đồng thời vẫn giữ được mối

quan hệ và những lợi ích chiến lược tại nước này. Sự kiện tháng 8-2007 ở Myanmar

đã được đưa ra thảo luận hai lần tại Liên Hợp Quốc. Thế giới kêu gọi và mong muốn

những quốc gia láng giềng của Myanmar, chủ yếu là các nước ASEAN, Trung Quốc

và Ấn Độ... cần thể hiện vai trò trong việc lên án chính quyền quân sự và ủng hộ cuộc

đấu tranh dân chủ ở Myanmar. Trong khi Mỹ và các nước phương Tây đang ra sức

phản đối chính quyền Myanmar thì New Delhi chỉ tuyên bố đây là “vấn đề dân chủ

và nhân quyền trong nội bộ Myanmar” [72, tr. 1]. Ấn Độ thể hiện thái độ như trên

trước các cuộc biểu tình tại Myanmar vì cho rằng nguyên tắc trong chính sách đối

ngoại của Ấn Độ là không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác. Mặt

khác, là một quốc gia có truyền thống dân chủ, Ấn Độ vẫn có tiếng nói về cuộc đấu

tranh dân chủ ở Myanmar. Đó là sự can dự mang tính xây dựng và chính sách đối

ngoại thực tế của Ấn Độ trong quan hệ với nước láng giềng Đông Nam Á này. Có thể

nói, chính sách can dự có tính thực tế của Ấn Độ với Myanmar như là “chính sách

hai đường song song” kết hợp giữa “sự ủng hộ về mặt chính trị và tinh thần của Ấn

Độ đối với các lực lượng dân chủ” và đồng thời “cam kết với chính quyền quân sự

Myanmar nhằm cải thiện và nâng cao mối quan hệ giữa hai chính phủ” [52, tr. 101-

102]. Sự linh hoạt này đã cho phép Ấn Độ “ủng hộ, khuyến khích và giữ liên lạc với

phong trào đấu tranh đòi dân chủ, trong khi vẫn tiếp tục tăng cường quan hệ với

chính phủ quân sự Myanmar” [52, tr. 200].

Để thúc đẩy hơn nữa mối quan hệ láng giềng với Myanmar, năm 2009, Phó

Tổng thống Ấn Độ M. Hamid Ansari đã có chuyến thăm tới nước này và có cuộc

hội đàm với Thống tướng Than Shwe. Hai nhà lãnh đạo đã thảo luận về các vấn đề

trong mối quan hệ song phương, bao gồm những nội dung của thương mại, hợp tác

kinh tế, năng lượng và an ninh. Ba bản ghi nhớ quan trọng về việc thành lập một

trung tâm đào tạo công nghệ, một trung tâm ngôn ngữ tiếng Anh và một trung tâm

đào tạo doanh nghiệp đã được ký kết trong chuyến thăm này. Đồng thời hai bên

cũng đã ký kết một bản thỏa thuận về xúc tiến đầu tư. Trong bài phát biểu của mình,

Phó Tổng thống M. Hamid Ansari đã khẳng định “việc ký kết các hiệp định là một

biểu tượng của tiềm năng to lớn trong sự hợp tác song phương của chúng ta” [49,

Page 90: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

80

tr. 1716]. Có thể nói, trọng tâm của chuyến công du sang Myanmar của Phó tổng

thống Ấn Độ là các vấn đề hợp tác kinh tế và an ninh giữa hai nước.

Trước khi cuộc tổng tuyển cử diễn ra (theo “Lộ trình dân chủ bảy bước”34),

vào ngày 25-7-2010, người đứng đầu chính quyền quân sự Myanmar, Thống tướng

Than Shwe đã có chuyến thăm chính thức tới Ấn Độ nhằm tranh thủ sự ủng hộ quốc

tế đối với nỗ lực xây dựng “nền dân chủ có kế hoạch” ở Myanmar. Tướng Than

Shwe và Thủ tướng Manmohan Singh đã ra Tuyên bố chung và ký kết một số thỏa

thuận, bao gồm năm hiệp ước về hợp tác chống khủng bố và các khoản vay ưu đãi

của Ấn Độ dành cho Myanmar, trong đó có khoản vay hơn 60 triệu USD để đầu tư

vào dự án xây dựng tuyến đường Rhi-Tiddim và 10 triệu USD để mua các thiết bị

và máy móc nông nghiệp từ Ấn Độ. Trong cuộc hội đàm, Ấn Độ hứa sẽ giúp

Myanmar xây dựng thể chế dân chủ đặc biệt là đưa ra các chương trình đào tạo

quan chức cho Myanmar [50, tr. 1300-1308]. Trong bối cảnh Myanmar đang chịu

sức ép từ cộng đồng quốc tế, chuyến thăm Ấn Độ của ông Than Shwe (trước khi tới

thăm Trung Quốc) được xem là một động thái quan trọng để cải thiện hình ảnh

Myanmar trong con mắt quốc tế. Chuyến thăm của ông Than Shwe nhằm mục đích

hợp pháp hoá ở mức độ nhất định đối với kế hoạch dân chủ hóa mà Myanmar đang

thực hiện. Sự hợp tác Ấn Độ - Myanmar nói chung và quan hệ chính trị - ngoại giao

giữa hai nước nói riêng đã có những cơ sở phát triển mới như lời phát biểu của

Tổng thống Ấn Độ Pratibha Devisingh Patil “tôi tin tưởng rằng, chuyến thăm này35

sẽ chứng minh đây là một dấu mốc quan trọng trong việc mở rộng quan hệ song

phương và mang hai nước chúng ta lại gần nhau hơn nữa” [50, tr. 1310].

Ngày 12-10-2011, Tổng thống Myanmar Thein Sein đã đi thăm Ấn Độ nhằm

thúc đẩy quan hệ hợp tác song phương với nước láng giềng phía Tây này. Đây là

chuyến công du đầu tiên của ông Thein Sein sau khi nhậm chức vào ngày 30-3-

34 Ngày 30-8-2003, chính phủ quân sự Myanmar do Thống tướng Than Shwe đứng đầu đã công bố “Lộ trình

dân chủ bảy bước” nhằm hiện thực hoá sự hoà giải dân tộc, xây dựng một nhà nước Myanmar mới dân chủ,

có kỷ cương, giải quyết từng bước các vấn đề nội bộ của đất nước. “Lộ trình dân chủ bảy bước” gồm: Bước

1, phục hồi triệu tập Quốc dân Đại hội; Bước 2, từng bước tiến hành những bước đi cần thiết cho việc xây

dựng một nhà nước dân chủ và kỷ cương; Bước 3, soạn thảo một hiến pháp mới dựa trên những nguyên tắc

căn bản và chi tiết mà Quốc dân Đại hội thông qua; Bước 4, tổ chức cuộc trưng cầu dân ý để thông qua hiến

pháp mới; Bước 5, tổ chức cuộc tổng tuyển cử tự do, dân chủ, công bằng để bầu ra quốc hội theo quy định

của hiến pháp mới; Bước 6, triệu tập quốc hội theo quy định của hiến pháp mới; Bước 7, xây dựng đất nước

hiện đại, phát triển và dân chủ [31, tr. 6]. 35 Chuyến thăm của Thống tướng Than Shwe ngày 25-7-2010

Page 91: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

81

2011. Trong thời gian ở Ấn Độ, ông Thein Sein đã có cuộc hội đàm riêng với Tổng

thống P.D. Patil và Thủ tướng Manmohan Singh. Trong các cuộc gặp gỡ, Ấn Độ

chúc mừng việc chuyển đổi sang chính phủ dân sự và đề nghị hỗ trợ Myanmar

nhằm thúc đẩy quá trình dân chủ hoá diễn ra toàn diện và sâu rộng hơn nữa. Ấn Độ

cũng hoan nghênh những nỗ lực cải cách chính trị, kinh tế và xã hội ở Myanmar

trong thời gian qua. Thủ tướng Ấn Độ M. Singh và Tổng thống Myanmar Thein

Sein cam kết tăng cường và mở rộng mối quan hệ hai nước trên nhiều lĩnh vực và

phát triển lên cấp độ mới. Hai ông khẳng định Ấn Độ và Myanmar có trách nhiệm

thúc đẩy hòa bình, an ninh và ổn định khu vực, chống chủ nghĩa khủng bố, củng cố

cơ chế chia sẻ thông tin tình báo, tăng cường hợp tác có hiệu quả và phối hợp giữa

các lực lượng an ninh của hai nước để chống lại các mối đe dọa của lực lượng nổi

dậy, buôn lậu vũ khí, buôn bán ma túy và khủng bố [51, tr. 1138]. Chuyến thăm của

Tổng thống Myanmar Thein Sein cũng là cơ hội để Ấn Độ gia tăng hơn nữa mối

quan hệ với nước láng giềng vốn còn chịu ảnh hưởng Trung Quốc, đối thủ chính

của Ấn Độ trong khu vực. Trong bối cảnh mới của thế kỷ XXI, chuyến thăm của

Tổng thống Thein Sein tới Ấn Độ phần nào chứng tỏ thiện chí của Myanmar trong

việc nâng cao mối quan hệ song phương giữa hai nước và cũng được xem là một sự

kiện mang tính bước ngoặt để thúc đẩy mối quan hệ Ấn Độ - Myanmar bước sang

một thời kỳ hợp tác toàn diện và sâu rộng trên nhiều lĩnh vực hơn so với trước.

Như vậy, quan hệ Ấn Độ - Myanmar từ năm 1992 đến năm 2011 trên lĩnh

vực chính trị - ngoại giao đã có những biến chuyển quan trọng từ cải thiện, củng cố

đến tăng cường và ngày càng được thắt chặt hơn. Đó cũng là bước đi phù hợp với

tình hình, mục tiêu của Ấn Độ và Myanmar. Các cuộc trao đổi, viếng thăm cấp cao

thường xuyên được diễn ra trong những năm 1992 - 2011 là dấu hiệu rõ ràng nhất

của việc tăng cường một cách mạnh mẽ về quan hệ chính trị Ấn Độ - Myanmar, góp

phần thúc đẩy hơn nữa mối quan hệ hữu nghị nói chung giữa hai nước.

4.2.2. Trên lĩnh vực kinh tế

Từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX trở đi, song song với những bước tiến

về chính trị - ngoại giao giữa Ấn Độ và Myanmar, quan hệ kinh tế hai nước cũng

bước đầu đạt được một số thành quả tích cực. Hợp tác kinh tế Ấn Độ - Myanmar

được thể hiện chủ yếu trên các lĩnh vực: Thương mại, thương mại biên giới, đầu tư,

năng lượng, cơ sở hạ tầng và các dự án chung khác...

Page 92: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

82

4.2.2.1. Về thương mại

Myanmar được coi là “đầu cầu” thương mại quan trọng khi Ấn Độ thực hiện

chính sách “hướng Đông” nhằm thâm nhập vào thị trường ASEAN. Trong suốt

những năm 90 của thế kỷ XX, kể từ khi Ấn Độ và Myanmar cải thiện quan hệ, kim

ngạch thương mại song phương hầu như có sự tăng trưởng qua từng năm (xem bảng

3.2) nhưng cũng mới chỉ dừng lại ở mức độ khá khiêm tốn. Tuy nhiên, đây vẫn là

những con số cao hơn so với kim ngạch thương mại song phương thời kỳ trước đó

(năm 1980 - 1981, giá trị thương mại hai nước đạt 12,4 triệu USD, còn năm 1990 -

1991 là 87,4 triệu USD). Trong quá trình hợp tác, Ấn Độ và Myanmar đã có nhiều

biện pháp xúc tiến thương mại song phương. Năm 1999, hai nước đã nhất trí thành

lập một Ủy ban hợp tác về thương mại nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại, nhất là

chú trọng các hoạt động buôn bán dọc biên giới. Ấn Độ và Myanmar đã xác định lại

những mặt hàng xuất khẩu và nhập khẩu để phát huy tối đa tiềm năng và lợi thế so

sánh trong quan hệ hai nước. Hai bên còn nhất trí thảo luận các vấn đề liên quan

đến thương mại tại các cuộc gặp cấp Thứ trưởng của hai nước diễn ra hàng năm.

Bảng 3.2. Kim ngạch thương mại song phương Ấn Độ - Myanmar (1991 - 2011)

(đơn vị: triệu USD)

Năm Xuất khẩu của

Ấn Độ vào Myanmar

Nhập khẩu của Ấn

Độ từ Myanmar

Tổng giá trị

thương mại

1991 - 1992 5 95 100

1992 - 1993 16 106 122

1993 - 1994 26 109 135

1994 - 1995 50 146 196

1995 - 1996 50 135 185

1996 - 1997 50 168 218

1997 - 1998 49,31 224,01 273,32

1998 - 1999 30,12 173,76 203,88

1999 - 2000 34,1 171,59 205,88

Page 93: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

83

2000 - 2001 52,71 181,69 234,4

2001 - 2002 60,89 374,43 435,32

2002 - 2003 75,07 336,04 411,11

2003 - 2004 89,64 409,01 498,65

2004 - 2005 113,19 405,91 519,11

2005 - 2006 110,7 525,96 626,66

2006 ‐ 2007 140,4 782,7 923,1

2007 ‐ 2008 185,8 808,6 994,5

2008 ‐ 2009 221,6 929 1.150,6

2009 ‐ 2010 208 1.289,8 1.497,8

2010 ‐ 2011 334,4 1.017,7 1.352,1

Nguồn: Các số liệu được tổng hợp từ Niên giám thống kê thương mại, IMF và Văn

phòng Thương mại, Bộ Công thương Ấn Độ

Từ năm 2000, trao đổi thương mại giữa hai nước đã có bước phát triển mới,

một số sản phẩm của Ấn Độ, đặc biệt là dược phẩm chiếm ưu thế ở thị trường

Myanmar. Cũng từ thời điểm này, thương mại Ấn Độ - Myanmar tăng nhanh. Với

dân số đông (1,33 tỷ người tính đến năm 2016) và nhu cầu nguyên liệu cho nền kinh

tế đang lên, Ấn Độ trở thành thị trường nhập khẩu rộng lớn từ các sản phẩm của

Myanmar. Năm 2000, tổng giá trị hàng hóa của Myanmar xuất khẩu sang Ấn Độ đạt

162,88 triệu USD, trong khi đó xuất khẩu của Ấn Độ sang Myanmar cùng kỳ chỉ

mới dừng lại ở 52,85 triệu USD [63, tr. 6]. Trong năm tài khóa 2004 - 2005, kim

ngạch thương mại song phương của hai nước đạt 519,11 triệu USD sau đó tăng lên

626,66 triệu USD trong năm tài khóa 2005 - 2006 (xem bảng 3.2). So với năm tài

khoá 1997 - 1998 (273,32 tỷ USD) thì thương mại Ấn Độ - Myanmar trong những

năm 2005 - 2006 đã tăng gần 3 lần.

Từ năm 2005, thương mại giữa hai nước đã mở rộng và gia tăng trên nhiều

lĩnh vực. Nhu cầu về khí đốt của Ấn Độ là một trong những nhân tố tác động thúc

đẩy sự phát triển hợp tác kinh tế giữa hai nước. Sự có mặt của các loại hàng hóa Ấn

Độ tại Myanmar đã tăng lên đáng kể. Ấn Độ tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng, hệ

thống đường và viễn thông cho Myanmar nhằm tạo điều kiện thuận lợi gia tăng

thương mại giữa Ấn Độ và Myanmar. Do vậy, trong năm tài khóa 2006 - 2007, kim

Page 94: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

84

ngạch thương mại giữa hai nước đã đạt 923,1 triệu USD và tăng lên 994,5 USD

trong năm 2007 - 2008. Đặc biệt, lần đầu tiên, kim ngạch thương mại song phương

Ấn Độ - Myanmar đã vượt qua con số 1 tỷ, đạt 1,15 tỷ USD trong năm tài khoá

2008 - 2009. Trong năm tài chính 2010 - 2011, thương mại song phương Ấn Độ -

Myanmar tiếp tục duy trì với mức 1,35 tỷ USD, trong đó xuất khẩu của Ấn Độ sang

Myanmar đạt 334,4 triệu USD còn giá trị nhập khẩu từ Myanmar vào Ấn Độ đạt

1,017 triệu USD (xem bảng 3.2).

Trong thập niên đầu thế kỷ XXI, cán cân thương mại song phương Ấn Độ -

Myanmar hầu như có sự tăng trưởng qua từng năm (xem biểu đồ 3.1). Hiện nay, Ấn

Độ là đối tác thương mại lớn thứ tư của Myanmar (sau Thái Lan, Trung Quốc,

Singapore) và là thị trường nhập khẩu lớn thứ ba của Myanmar (sau Trung Quốc,

Thái Lan), đạt 25% tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu của nước này. Bên cạnh đó, Ấn

Độ cũng đứng thứ bảy trong danh sách các đối tác xuất khẩu hàng hoá vào

Myanmar [141].

Biểu đồ 3.1. Cán cân thương mại song phương Ấn Độ - Myanmar (2000 - 2011)

(đơn vị: triệu USD)

Nguồn: Các số liệu được tổng hợp từ Hướng dẫn thống kê thương mại, IMF trên

http://elibrary-data.imf.org/DataExplorer.aspx

Page 95: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

85

Về cơ cấu sản phẩm: Ấn Độ chủ yếu nhập nguyên liệu thô từ Myanmar bao

gồm hàng nông sản và lâm sản như: gỗ tếch, gỗ dân dụng, đậu, than, gừng, nghệ

tươi... và cả đá quý. Các sản phẩm nông nghiệp và lâm nghiệp của Myanmar luôn

dẫn đầu trong danh sách các mặt hàng xuất khẩu đến Ấn Độ bởi vì đáp ứng được

yêu cầu của ngành công nghiệp Ấn Độ. Ấn Độ đang đẩy mạnh xây dựng các ngành

công nghiệp tại khu vực Đông Bắc để tận dụng nguồn nguyên liệu thô của

Myanmar. Trong khi đó, xuất khẩu của Ấn Độ sang Myanmar chủ yếu là thuốc tây

và các sản phẩm dược. Đây là những sản phẩm hàng đầu trong các mặt hàng mà

Myanmar tiếp nhận từ Ấn Độ. So với nhập khẩu thì hàng hóa xuất khẩu của Ấn Độ

sang Myanmar đa dạng hơn, phần lớn là sắt thép, dược phẩm, thiết bị và máy móc

cơ khí... Điều này cũng do đặc thù của nền kinh tế mỗi nước. Thông qua các số liệu

về thương mại hai nước qua các năm như đã trình bày ở trên cho thấy, kim ngạch

nhập khẩu hàng hóa của Myanmar từ Ấn Độ luôn cao gấp 4,5 lần so với kim ngạch

xuất khẩu sang Ấn Độ của Myanmar. Do vậy hai nước cần cải thiện cán cân xuất

nhập khẩu để nâng cao hiệu quả hợp tác trong quan hệ thương mại hai nước.

Nhằm thúc đẩy hơn nữa hợp tác kinh tế và thương mại song phương, Uỷ ban

thương mại hỗn hợp (JTC) Ấn Độ - Myanmar đã được thành lập (năm 2003), cho tới

năm 2011, JTC đã tổ chức 4 kỳ họp chung [114, tr. 3]. Cuộc họp đầu tiên của JTC

được tiến hành tại Yangon (Myanmar) vào năm 2003 dưới sự chủ trì của các Bộ

trưởng Bộ Thương mại hai nước. Nội dung các cuộc họp của JTC chủ yếu tập trung

xem xét, đánh giá và quyết định các mục tiêu của thương mại song phương giữa hai

nước. Cuộc họp thứ hai của JTC được tổ chức tại Ấn Độ năm 2006, do Bộ trưởng

thương mại và công nghiệp hai nước chủ trì với tư cách là đồng chủ tịch. Hai vị Bộ

trưởng đã nhấn mạnh tới những nguồn lực tự nhiên của hai nền kinh tế theo đó đưa

ra triển vọng cho việc hợp tác trong các lĩnh vực khác nhau như công nghệ thông tin,

du lịch, chế biến thực phẩm, dược phẩm... Có thể nói, mặc dù chưa đầy 10 năm (từ

năm 2003) nhưng các cuộc gặp giữa hai bên qua các kỳ họp, nhất là kỳ họp thứ tư

diễn ra gần đây nhất (tháng 9-2011), JTC đã thành công trong việc định hướng cho

sự phát triển trong mối quan hệ thương mại giữa Ấn Độ và Myanmar.

Một điểm nổi bật trong quan hệ thương mại Ấn Độ - Myanmar là hoạt động

thương mại ở khu vực biên giới. Hoạt động này trở thành một nội dung quan trọng

trong hợp tác kinh tế Ấn Độ - Myanmar từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX. Sự

Page 96: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

86

kiện đầu tiên đánh dấu thương mại giữa hai nước được chính thức nối lại là Hiệp

định thương mại biên giới Ấn Độ - Myanmar ký kết tại Ấn Độ vào ngày 21-01-1994

(có hiệu lực từ tháng 4-1995) nhằm hợp pháp hóa hoạt động thương mại diễn ra

trong nhiều thế kỷ trước đó dọc theo khu vực biên giới hai nước, đồng thời thiết lập

hai trung tâm thương mại ở khu vực biên giới là Moreh - Tamu và Zowkhatar - Rhi.

Theo hiệp định này, hai nước sẽ mở một cửa khẩu biên giới cho hoạt động thương

mại giữa Moreh (Đông Bắc Ấn Độ) và Tamu (Myanmar) [152].

Từ khi Hiệp định thương mại biên giới được ký kết, việc buôn bán qua biên

giới Ấn Độ - Myanmar ngày càng mở rộng và đạt được một số kết quả bước đầu.

Các mặt hàng chủ yếu Ấn Độ bán cho thương nhân Myanmar thông qua kênh

thương mại biên giới, chủ yếu bao gồm sợi bông, phụ tùng xe ô tô, đậu nành, dược

phẩm, gừng sấy khô, đậu xanh, nghệ tươi, nhựa thông và các loại thảo mộc để bào

chế thuốc là những mặt hàng được bán từ phía Myanmar cho Ấn Độ [148]. Trong

những năm 1997 - 2011, tốc độ tăng trưởng hàng năm của thương mại biên giới hai

nước có sự dao động mạnh mẽ (xem biểu đồ 3.2). Sở dĩ kim ngạch thương mại biên

giới Ấn Độ - Myanmar có sự biến động như vậy là do Ấn Độ phải cạnh tranh gay

gắt với các nước láng giềng khác của Myanmar, nhất là Trung Quốc trong những

năm nói trên (xem Phụ lục 5).

Biểu đồ 3.2. Kim ngạch thương mại biên giới Ấn Độ - Myanmar (1997 - 2011)

(đơn vị: triệu USD)

Nguồn: Các số liệu được tổng hợp từ Selected Monthly Economic Indicators,

Central Statistical Organization và Bộ Thương mại Myanmar

Page 97: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

87

Để thúc đẩy thương mại biên giới phát triển, Ấn Độ đã trang bị thêm các

phương tiện thông tin liên lạc ở Moreh và hỗ trợ các khoản tài chính cần thiết cho

chính quyền bang Manipur để tổ chức các chương trình, hội thảo về thương mại

biên giới. Từ tháng 10-2008, Ấn Độ và Myanmar đã đồng ý mở rộng danh sách các

mặt hàng buôn bán qua biên giới từ 22 lên 40 mặt hàng. Tiếp đó, để tạo điều kiện

cho các hoạt động mậu biên, hai nước cũng đã nhất trí mở thêm 4 cửa khẩu

Pangsau, Paletwa, Lungwa-Yanyong và Pagnsha-Pagnyo. Những động thái này góp

phần tăng cường mậu dịch biên giới giữa hai nước, ngăn chặn hoạt động buôn bán

bất hợp pháp và theo dõi các hoạt động của các nhóm nổi dậy tại biên giới. Trong

hai năm 2010 - 2011, thương mại biên giới giữa hai nước đạt 12,8 triệu USD36.

Mặc dù hợp tác kinh tế Ấn Độ - Myanmar giai đoạn 1992 - 2011 bước đầu đạt

được nhiều thành tựu đáng kể nhưng kim ngạch thương mại hai nước vẫn chưa thể

vượt qua kim ngạch thương mại Trung Quốc - Myanmar. Trong năm 2010 - 2011,

tổng kim ngạch thương mại của Trung Quốc với Myanmar đạt 5,3 tỷ USD và Trung

Quốc đã trở thành đối tác thương mại lớn nhất của nước này [82, tr. 179]. Tờ báo

New York Daily News ra ngày 02-7-2012 đã đăng tải lời phát biểu của Jia Xiudong

thuộc Viện Nghiên cứu Quốc tế Trung Quốc: “Vị thế của Trung Quốc rất vững chắc

trong lĩnh vực kinh tế thương mại ở Myanmar và Nam Á. Trung Quốc luôn đón nhận

sự cạnh tranh từ Ấn Độ” [80, tr. 188]. Đây được xem là một trong những thách thức

đối với thương mại Ấn Độ - Myanmar trong thập niên thứ hai của thế kỷ XXI.

Tóm lại, kể từ khi Ấn Độ và Myanmar ký Hiệp ước thương mại, quan hệ

thương mại nói chung và hoạt động mậu dịch biên giới giữa hai nước nói riêng nhìn

chung đã có sự tăng trưởng qua từng năm, mặc dù không đồng đều. Tuy vậy, nếu so

sánh kim ngạch thương mại với các nước khác thì đây là một lĩnh vực mà Ấn Độ và

Myanmar còn hạn chế, hai bên chưa khai thác hết tiềm năng của nhau. Kim ngạch

thương mại song phương Myanmar - Ấn Độ vẫn còn ở mức khiêm tốn so với

thương mại giữa Myanmar với Trung Quốc.

4.2.2.2. Về đầu tư

Những dự án đầu tư đầu tiên và chủ yếu của Ấn Độ vào Myanmar được thực

hiện trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng. Sở dĩ như vậy vì nếu Ấn Độ muốn đạt

36 Số liệu từ Bộ Thương mại Myanmar

Page 98: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

88

được mục tiêu chiến lược trong quan hệ với Myanmar thì phải xây dựng và phát triển

những công trình hạ tầng cơ bản nhằm kết nối hai nước, tạo nên các khu vực rộng lớn

hơn. Đầu tư vào các công trình cơ bản, hạ tầng góp phần mở rộng các vùng công

nghiệp, giao thông hai nước, tăng cường sự hiện diện của Ấn Độ ở Myanmar, thúc

đẩy mạnh mẽ sự phát triển thương mại, qua đó giúp Ấn Độ đạt được những mục tiêu

về an ninh, năng lượng, là cơ hội để Ấn Độ vươn sang Trung Quốc, Thái Lan và khu

vực Đông Nam Á. Mở rộng và đẩy mạnh đầu tư cơ sở hạ tầng hiện đại tại Myanmar

là bước đi quan trọng của Ấn Độ nhằm hội nhập kinh tế khu vực, thế giới và là một

bộ phận không thể thiếu trong xu hướng phát triển kinh tế toàn cầu của Ấn Độ.

Đối với Myanmar, vốn là một quốc gia có trình độ phát triển kinh tế thấp, là

nước nghèo của khu vực, lại trải qua thời kỳ dài đất nước bị lâm vào các cuộc xung

đột sắc tộc và tôn giáo, đời sống nhân dân khó khăn... Vì vậy, muốn phát triển các

mối quan hệ về kinh tế với các quốc gia, thực hiện hiện đại hoá và đa dạng hóa nền

kinh tế thì yêu cầu cơ bản đầu tiên là phải phát triển cơ sở hạ tầng. Trong bối cảnh

ngân sách quốc gia còn hạn hẹp, nền kinh tế còn nhiều khó khăn thì hợp tác với Ấn

Độ trong lĩnh vực này sẽ mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho Myanmar. Sau nhiều

năm nối lại quan hệ, Ấn Độ đã giúp Myanmar xây dựng cơ sở hạ tầng với các dự án

đường thuỷ, đường sắt và đường bộ để cải thiện hệ thống giao thông. Trọng tâm của

các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng chủ yếu là các khu vực biên giới, nơi mà

cơ sở hạ tầng vẫn còn yếu kém, chưa đủ sức thông thương giữa hai nước.

Sau khi ký Hiệp định thương mại biên giới (năm 1994) và mở cửa khẩu

Moreh, để thúc đẩy sự trao đổi thương mại, hai nước đã khởi công xây dựng tuyến

đường biên giới Moreh - Kalewa tới bang Chin ở phía Tây biên giới Myanmar dự

kiến hoàn thành vào năm 2001. Hoàn thành dự án trên, tuyến đường này thực sự hữu

ích cho các hoạt động ở biên giới của hai nước. Từ đầu thế kỷ XXI, Ấn Độ đã xúc

tiến một loạt dự án xây dựng đường sá và hải cảng ở Myanmar, nhằm cải thiện sự

liên kết với một số nước của ASEAN. Dự án trọng điểm đầu tiên mở đầu cho quá

trình đẩy mạnh đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng của Ấn Độ ở Myanmar là công

trình tuyến đường quốc lộ Tamu - Kalewa - Kalemyo (có tên gọi là Con đường hữu

nghị Ấn Độ - Myanmar) dài 160 km nối Moreh, một thị trấn biên giới thuộc bang

Manipur (Đông Bắc Ấn Độ) sang tới Mandalay với chi phí khoảng 27,28 triệu USD,

được tài trợ hoàn toàn bởi chính phủ Ấn Độ [78, tr. 139]. Dự án này được hoàn thành

Page 99: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

89

và bàn giao vào năm 2001, được coi là sáng kiến của Ấn Độ không chỉ góp phần thúc

đẩy thương mại mà còn thắt chặt hơn nữa tình hữu nghị của nhân dân hai nước.

Ngày 27-7-2004, nhân chuyến thăm Ấn Độ của Thiếu tướng Aung Min, Bộ

trưởng giao thông Myanmar, hai bên đã ký một bản ghi nhớ về việc Ấn Độ giúp

Myanmar cải tạo và nâng cấp tuyến đường sắt quốc gia Myanmar. Theo đó, Ấn Độ

sẽ cho Myanmar vay 56,38 triệu USD để cải tạo, nâng cấp tuyến đường sắt Yangon

- Mandalay và nối tuyến đường này với các tuyến đường sắt của Ấn Độ. Đồng thời

Công ty trách nhiệm hữu hạn dịch vụ và kĩ thuật đường sắt của Ấn Độ sẽ cung cấp

cho Myanmar các đầu máy xe lửa, thiết bị máy móc và phụ tùng thay thế, hệ thống

đèn hiệu và thông tin trên các tuyến đường sắt. Ngoài ra, Ấn Độ đã gia hạn các

khoản tín dụng cho việc hiện đại hóa mạng lưới đường sắt của Myanmar và cung

cấp đường ray, đầu máy xe lửa cho nước này.

Từ năm 2003, Ấn Độ đã đề xuất với chính phủ Myanmar về Dự án vận tải

quá cảnh đa phương Kaladan. Dự án này đã được hai bên nhất trí về mặt nguyên

tắc vào tháng 11-2007. Điều đáng chú ý là dự án này được nhất trí vào thời điểm

chính quyền quân sự Myanmar đang bị cộng đồng quốc tế chỉ trích sau sự kiện

“Cách mạng cà sa” (tháng 8-2007). Năm 2008, Dự án vận tải quá cảnh đa phương

Kaladan đã được tái khởi động. Dự án sẽ kết nối các cảng biển phía Đông Ấn Độ

với cảng biển Sittwe, thuộc bang Rakhine ở phía Tây Myanmar với chiều dài tổng

cộng khoảng 593 km. Dự án này được tiến hành qua ba giai đoạn bao gồm việc mở

rộng cảng Sittwe, nạo vét sông Kaladan ở bang Chin và xây dựng đường cao tốc dài

62 km đến khu vực biên giới Ấn Độ - Myanmar. Chính phủ Ấn Độ chịu chi phí đầu

tư toàn bộ dự án với số tiền 134 triệu USD [80, tr. 183].

Dự án vận tải quá cảnh đa phương Kaladan là kết quả của những nỗ lực kéo

dài một thập kỷ của Ấn Độ nhằm thúc đẩy mối quan hệ giữa hai nước. Dự án này sẽ

nối liền khu vực Đông Bắc Ấn Độ với vịnh Bengal, bao gồm cả việc xây dựng các

tuyến đường nối bang Mizoram (Ấn Độ) với Kaletwa (Myanmar), sử dụng sông

Kaladan như là một tuyến vận tải đường thủy và cải thiện cơ sở hạ tầng ở cảng

Sittwe, thuộc bờ biển Arakan của Myanmar. Dự án sẽ hình thành một tuyến đường

trực tiếp từ cảng Sittwe của Myanmar vòng qua Bangladesh, tới Mizoram và các

bang Đông Bắc của Ấn Độ. Con đường trọng điểm này góp phần giảm áp lực cho

Page 100: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

90

Hành lang Siliguri37. Thông qua tuyến vận tải Kaladan, hàng hóa Ấn Độ có thể

được vận chuyển bằng đường biển và đường sông từ các bang vùng Đông Bắc tới

cảng Sittwe và từ đó đến thị trường các nước Đông Nam Á như Thái Lan, Malaysia,

Singapore... Chính vì vậy, tuyến giao thông đa phương này được xem là ưu tiên

hàng đầu trong số các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng của Ấn Độ tại Myanmar.

Dự án vận tải Kaladan đã đạt được nhiều kết quả, khi hoàn thành sẽ mang lại lợi ích

to lớn cho cả hai nước, nó giúp Ấn Độ có một điểm dừng chân quan trọng và

Myanmar cũng có thể thâm nhập vào Ấn Độ qua tuyến đường biển từ cảng Sittwe

dễ dàng. Vào tháng 12-2016, dự án này chính thức đưa vào hoạt động [137].

Ngoài các dự án xây dựng hạ tầng nói trên, với ưu thế và sức mạnh nổi bật

của mình, Ấn Độ đã giúp Myanmar hiện đại hóa các trung tâm liên lạc bằng vệ tinh

và thực thi các dự án công nghệ thông tin cho Myanmar. Với những cơ sở công

nghệ thông tin còn chưa phát triển, Myanmar luôn mong muốn nhận được sự giúp

đỡ của Ấn Độ trong việc hiện đại hoá lĩnh vực này. Năm 2005, chính phủ Ấn Độ đã

cung cấp một số gói tín dụng cho các dự án viễn thông và công nghệ thông tin ở

Myanmar. Đồng thời, Ấn Độ cũng đã gia hạn các khoản tín dụng cấp cho các dự án

đặc biệt khác như nâng cấp đường dây điện thoại nối Yangon với Mandalay; mở

500 km đường dây cáp quang nối Moreh (bang Manipur) với Mandalay, tạo điều

kiện cho sự liên lạc và kết nối thông qua băng tần rộng giữa các địa phương; hệ

thống công nghệ cung cấp kết nối Internet băng thông rộng tại Yangon và

Mandalay. Sau chuyến thăm của Tổng thống Thein Sein (tháng 10-2011) tới Ấn Độ,

trong số gói tín dụng trị giá 500 triệu USD dành cho Myanmar, New Delhi đầu tư

gần 300 triệu USD cho việc phát triển các tuyến đường sắt, sân bay, giao thông,

đường dây tải điện và nhà máy lọc dầu [138].

Các dự án mở rộng đường sá đã góp phần tăng cường quan hệ buôn bán giữa

Ấn Độ và Myanmar cũng như phục vụ lợi ích an ninh của Ấn Độ. Những mối liên kết

với Myanmar là rất quan trọng đối với Ấn Độ, vì Myanmar chính là “cây cầu trên

đất liền” nối khu vực Đông Bắc Ấn Độ với Đông Nam Á. Việc đầu tư xây dựng các

dự án hạ tầng nói trên cùng với việc thành lập nhóm Sáng kiến vùng Vịnh Bengal về

hợp tác Kinh tế và Kỹ thuật đa khu vực (BIMSTEC) là những cố gắng của Ấn Độ

37 Hành lang Siliguri rộng khoảng 20 km tiếp giáp với Bangladesh và Nepal, kết nối vùng Đông Bắc xa xôi

với phần còn lại của đất nước. Đây được xem là khu vực “cổ gà” có tầm quan trọng chiến lược với Ấn Độ.

Page 101: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

91

không chỉ thúc đẩy sự hợp tác thương mại, giao thông vận tải, thông tin, năng lượng

và chống khủng bố giữa các nước thuộc vịnh Bengal với nhau, mà còn nhằm tăng

cường quan hệ với nước láng giềng Myanmar. Vì vậy, đầu tư xây dựng và phát triển

cơ sở hạ tầng là một yêu cầu của Ấn Độ và mang lại lợi ích lâu dài cho cả hai nước.

Ngoài lĩnh vực cơ sở hạ tầng, thông tin viễn thông, các công ty và chính phủ

Ấn Độ còn tham gia đầu tư xây dựng một số dự án khác ở Myanmar. Năm 2008

được xem là thời điểm mở rộng đầu tư của Ấn Độ tại nước này. Từ ngày 23 đến

ngày 26-6-2008, Ấn Độ và Myanmar đã ký 4 hiệp định hợp tác kinh tế thể hiện sự

mở rộng quan hệ đối tác giữa hai nước. Hiệp định đầu tiên được ký kết là Hiệp định

xúc tiến đầu tư song phương (BIPA) giữa chính phủ hai nước nhằm tạo điều kiện

thuận lợi cho đầu tư của Ấn Độ ở Myanmar và ngược lại [114, tr. 3]. Theo hiệp

định này, 71 loại hình danh mục đầu tư mà Ấn Độ đã bắt đầu tiến hành sẽ cung cấp

một khuôn khổ cho việc giải quyết tranh chấp để thúc đẩy và bảo hộ sự đầu tư; mở

rộng quyền đối xử quốc gia và quyền đối xử tối huệ quốc; sự quay vòng của các

nguồn vốn đầu tư và sự quay trở lại cũng như nhập cảnh cư trú của các nhân viên kĩ

thuật và quản lí. Hiệp định thứ hai được ký kết giữa Ngân hàng Xuất nhập khẩu Ấn

Độ (IEB) và Ngân hàng Ngoại thương Myanmar (MFTB) về một dòng vốn tín dụng

trị giá 64 triệu USD để tài trợ cho 3 đường dây truyền tải 230 KV ở Myanmar, được

thực hiện bởi Tổng công ty điện lưới quốc gia Ấn Độ. Hiệp định thứ ba cũng là hiệp

định về một dòng vốn tín dụng giữa Ngân hàng IEB và Ngân hàng MFTB về việc

phía Ấn Độ sẽ tài trợ 20 triệu USD cho việc thiết lập một cơ sở sản xuất đường dây

dẫn nhôm thép tăng cường, mở rộng mạng lưới phân phối điện ở Myanmar. Hiệp

định thứ tư được ký kết giữa Ngân hàng quốc gia Ấn Độ và Ngân hàng kinh tế

Myanmar về sự cung cấp các thỏa thuận giữa các ngân hàng cho việc thi hành Hiệp

định thương mại giữa hai chính phủ diễn ra tại địa điểm Moreh (Manipur) [76, tr.

9]. Cũng trong năm 2008, hai nước đã ký kết Hiệp định tránh đánh thuế hai lần

(DTAA) (có hiệu lực từ năm 2010). Hiệp định này nhằm khuyến khích việc đầu tư,

sự giúp đỡ cũng như hợp tác về kĩ thuật giữa hai nước.

Trong 6 tháng đầu năm 2008, Ấn Độ đã đầu tư trên 200 triệu USD tại

Myanmar và là một trong những nước có nguồn đầu tư lớn nhất ở Myanmar. Tuy

nhiên, các công ty Ấn Độ, đặc biệt là tư nhân đã bị tụt lại phía sau so với nhiều quốc

gia khác trong lĩnh vực đầu tư vào Myanmar. Ngày 31-12-2010, nhà máy lắp ráp xe

Page 102: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

92

tải hạng nặng đã được khánh thành tại Myanmar thông qua sự tài trợ, giúp đỡ của

Công ty TATA Motors của Ấn Độ với dòng vốn tín dụng đầu tư là 20 triệu USD.

Đây được xem là một khởi đầu quan trọng cho đầu tư của các công ty và tập đoàn

tư nhân Ấn Độ vào Myanmar.

Sau khi chính phủ mới được thiết lập ở Myanmar (tháng 3-2011), Bộ trưởng

Bộ Ngoại giao Ấn Độ S.M. Krishna đã có chuyến đi thăm nước này từ ngày 20 đến

ngày 22-6-2011. Trong chuyến thăm, Bản ghi nhớ về việc thiết lập Trung tâm đào

tạo công nghiệp Ấn Độ - Myanmar tại Myingyan của Myanmar đã được ký kết giữa

Bộ trưởng Bộ Công thương Myanmar Soe Thant với Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Ấn

Độ. Bản ghi nhớ cũng đã đề cập đến sự giúp đỡ của Ấn Độ với số tiền 2 triệu USD

cho việc xây dựng một khu hầm dự trữ 500 tấn gạo ở Yangon. Cùng với sự kiện

Tổng thống Myanmar Thein Sein đi thăm Ấn Độ (năm 2011), quan hệ thương mại

và đầu tư Ấn Độ - Myanmar có điều kiện phát triển hơn trong những năm tiếp theo.

Tóm lại, những hoạt động đầu tư của Ấn Độ vào Myanmar trên các lĩnh vực

cơ sở hạ tầng giao thông, công nghệ thông tin, viễn thông... trong hai thập niên sau

Chiến tranh lạnh đã mang lại nhiều thành tựu cho cả hai nước. Tuy nhiên, đầu tư

của Ấn Độ vào Myanmar đang phải cạnh tranh quyết liệt với Trung Quốc. Bước

sang tháng 3-2011, Trung Quốc trở thành đối tác thương mại lớn thứ hai và là nhà

đầu tư lớn nhất của Myanmar (cộng thêm Hồng Kông) với số vốn đầu tư khoảng

15,9 tỷ USD [73, tr. 101]. Bên cạnh đó, hợp tác đầu tư giữa Ấn Độ với Myanmar

mới chỉ diễn ra một chiều, do nền kinh tế Myanmar cần có thời gian và điều kiện

phát triển sau nhiều năm “đóng cửa”. Quan hệ giữa Ấn Độ và Myanmar trên lĩnh

vực đầu tư hứa hẹn sẽ được đẩy mạnh hơn nữa từ thập niên thứ hai của thế kỷ XXI

trong bối cảnh quan hệ hai nước đang phát triển mạnh mẽ.

4.2.2.3. Về hợp tác năng lượng

Để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, Ấn Độ phải nhập thêm các nguồn dầu

khí từ bên ngoài. Do vậy, nước này phụ thuộc nhiều vào nguồn dầu lửa và khí đốt

từ các quốc gia khác. Trong khi đó, Myanmar lại được xếp vào danh sách những

quốc gia giàu có trên thế giới về dầu mỏ, khoáng sản, tài nguyên rừng và nguồn

thuỷ điện. Theo các chuyên gia, với 3 mỏ dầu và khí đốt ngoài khơi và 19 mỏ trên

đất liền vào loại lớn nhất, Myanmar có trữ lượng khí đốt đã qua kiểm chứng lên tới

510 tỷ m3 trong tổng trữ lượng khí đốt ngoài khơi và trên bờ. Nhờ tiềm năng to lớn

Page 103: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

93

này, Myanmar đang thu hút một lượng lớn nguồn vốn đầu tư nước ngoài từ 21 công

ty của 13 quốc gia khác nhau tham gia thăm dò và khai thác. Trong hai năm 2005 -

2006, tổng số vốn đầu tư vào dầu mỏ và khí đốt của Myanmar chiếm 34% tổng số

vốn đầu tư của nước ngoài tại nước này (14.4 tỉ USD) [128, tr. 8]. Chỉ tính riêng

trong năm 2007, Myanmar chiếm vị trí hàng đầu trong thị trường thương mại thế

giới với 9,89 tỉ m3 khí đốt được bán ra nước ngoài [112, tr. 10]. Đối với Myanmar,

hợp tác năng lượng với các quốc gia khác nói chung và Ấn Độ nói riêng thực sự

mang lại ý nghĩa thiết thực cả về chính trị và kinh tế.

Mặc dù quan hệ Ấn Độ - Myanmar có từ lâu trong lịch sử và Myanmar là

nước có nguồn năng lượng dầu khí rất dồi dào, tuy nhiên, mãi đến đầu thế kỷ XXI,

khi nền kinh tế Ấn Độ trỗi dậy mạnh mẽ và nguồn năng lượng thế giới thực sự khan

hiếm thì Ấn Độ mới thực sự có chiến lược cạnh tranh năng lượng với các nước lớn

khác. Yêu cầu cấp bách đối với nguồn dầu khí khiến cho Ấn Độ bắt đầu tìm kiếm

các nguồn cung mới. Trong chuyến thăm Myanmar của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao

Ấn Độ Jaswant Singh vào năm 2001, hai nước đã thảo luận về việc thăm dò dầu

khí, vật tư và quyết định thiết lập quan hệ hợp tác trong các lĩnh vực dầu khí và

năng lượng cũng như thực hiện các dự án cơ sở hạ tầng cùng có lợi khác.

Trong những năm tiếp theo, nhiều chuyến thăm lẫn nhau của các nhà lãnh

đạo cấp cao Ấn Độ và Myanmar đã mang lại kết quả to lớn trong việc cụ thể hoá

chính sách đối ngoại của hai nước. Trong đó, chuyến thăm Ấn Độ của Bộ trưởng

Ngoại giao Myanmar U Win Aung vào tháng 01-2003 đã tăng cường hơn nữa quan

hệ hợp tác hai nước trong lĩnh vực năng lượng dầu khí [81, tr. 20]. Trong hai năm

2005 - 2006, Ấn Độ đã đầu tư 30,575 triệu USD vào lĩnh vực dầu mỏ và khí đốt của

Myanmar. Công ty trách nhiệm dầu khí Essar (OEF) là công ty tư nhân đầu tiên của

Ấn Độ ký kết hai hợp đồng phối hợp với Myanmar để thăm dò và khai thác 1 lô ở

ngoài khơi (A-2) và 1 lô khác trên đất liền (L) (vào tháng 5-2005), đồng thời sẽ

khoan thăm dò khí đốt tự nhiên tại bờ biển phía Đông thuộc bang Rakhine của

Myanmar (vào cuối năm 2006) [128, tr. 8-9].

Ngoài ra, ngày 27-9-2006, Công ty dầu khí quốc gia Myanmar đã ký với đại

diện của Công ty dầu khí Sun Group Ấn Độ một hợp đồng cùng khảo sát, khoan

thăm dò và khai thác dầu khí tại khu mỏ M8 nằm trong vịnh Martaban, miền Nam

Myanmar. Vào tháng 12-2006, Tập đoàn GAIL đã giành được cổ phần trong việc

Page 104: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

94

khai thác lô A-7 ở khu vực ngoài khơi Myanmar như một sự liên hiệp đối tác cùng

với công ty Silver Wave Energy. Tuy nhiên, đến tháng 7-2007, GAIL đã quyết định

rút lui và không tham gia vào các lô A-1 và A-3 ở ngoài khơi Rakhine do thái độ khó

khăn của chính quyền Myanmar đối với những nỗ lực của Ấn Độ nhằm đảm bảo an

ninh cho nguồn khí đốt và vì cho rằng lô A-7 không nằm trong danh mục đầu tư khai

thác và sản xuất của công ty này nữa. Trên thực tế, việc rút lui của GAIL (năm 2007)

là do chính phủ Myanmar quyết định bán khí đốt ở ngoài khơi Shwe cho Trung

Quốc mặc dù hai công ty ONGC và GAIL của Ấn Độ đã có 30% cổ phần trong dự

án thăm dò và khai thác khí đốt tại mỏ ở ngoài khơi Shwe [128, tr. 9].

Vào năm 2007, trong bối cảnh Myanmar đang diễn ra cuộc khủng hoảng

chính trị, Ấn Độ, Trung Quốc đã hậu thuẫn về kinh tế và chính trị cho chính quyền

quân sự Myanmar. Bộ trưởng Dầu mỏ Ấn Độ M. Deora đã đến Yangon và cam kết

đầu tư 150 triệu USD vào việc thăm dò khí đốt tại Myanmar. Trong chuyến công du

của Bộ trưởng M. Deora, 3 hiệp định đã được ký kết giữa Công ty dầu mỏ, khí đốt

Ấn Độ với Công ty dầu mỏ, khí đốt Myanmar nhằm thăm dò khí đốt tại 3 lô khí đốt

ngoài khơi Arakan. Có thể thấy, tính đến năm 2007, Ấn Độ đã có mặt ở nhiều khu

vực khai thác dầu mỏ và khí đốt ở ngoài khơi Myanmar (bao gồm các lô A-1, A-3,

AD-2, AD-3, AD-9...), trong đó đầu tư của ONGC và GAIL của Ấn Độ chiếm tới

17% và 8,5% trong dự án khí đốt Shwe nằm trên vịnh Bengal [150]. Ngoài ra còn

có một công ty tư nhân khác của Ấn Độ là Adani Energy cũng đã đàm phán với

chính phủ Myanmar để đảm nhận việc phân phối khí đốt ở Yangon và Naypyidaw.

Trong chuyến thăm Ấn Độ của Tổng thống Thein Sein (tháng 10-2011), hai

nước đã nhất trí về việc tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực dầu mỏ và khí đốt tự

nhiên. Myanmar hoan nghênh các khoản đầu tư đáng kể của các công ty dầu mỏ và

khí đốt Ấn Độ như GAIL, ESSAR, ONGC ở các lô ngoài khơi và trong đất liền ở

Myanmar và khuyến khích hơn nữa sự đầu tư của các công ty Ấn Độ (cả nhà nước

và tư nhân) trong các lĩnh vực dầu mỏ và khí đốt tự nhiên. Mặc dù còn tồn tại một

số hạn chế, song quan hệ hợp tác trong lĩnh vực dầu khí giữa Ấn Độ và Myanmar

vẫn có những tiềm năng to lớn trong tương lai.

Ngoài lĩnh vực dầu khí, để duy trì tỉ lệ tăng trưởng kinh tế, Ấn Độ buộc phải

đảm bảo cung cấp đủ nguồn năng lượng dưới nhiều hình thức như điện và nhiên

liệu. Tuy nhiên, nguồn cung cấp điện của Ấn Độ không đáp ứng đủ nhu cầu ngày

Page 105: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

95

càng cao của người dân. Để bù vào số năng lượng bị thiếu hụt, chính phủ Ấn Độ

đang thực hiện chính sách nhập khẩu năng lượng nhằm thúc đẩy sự phát triển thủy

điện ở Myanmar. Nhu cầu ngày càng cao của Ấn Độ đối với các dự án thủy điện

cũng như những lợi ích to lớn từ thu hút đầu tư nước ngoài của Myanmar trong lĩnh

vực này càng cho thấy thủy điện là lĩnh vực hợp tác tiềm tàng giữa hai nước.

Năm 2004, Ấn Độ và Myanmar ký kết thỏa thuận xây dựng dự án thủy điện

Tamanthi (1.200 MW) trên sông Chindwin nhưng sau đó dự án này lại bị ngưng trệ

do sự chậm trễ từ phía Ấn Độ. Ngày 29-10-2007, Ngân hàng IEB và Ngân hàng

MFTB đã ký gói thầu dự án xây dựng nhà máy thủy điện Thathay Chaung ở bang

Rakhine (Myanmar) trị giá 60 triệu USD [100, tr. 11]. Sau những thiệt hại do cơn

bão Nargis gây ra cho Myanmar (tháng 6-2008), Quốc vụ khanh phụ trách về

thương mại và điện lực của Ấn Độ J. Ramesh đã đi thăm Myanmar và ký với Bộ

trưởng Bộ Kế hoạch và Phát triển quốc gia Myanmar - ông U Soe Tha - một số thỏa

thuận mới, trong đó có Hiệp định tín dụng nhằm gia hạn khoản tài chính 64 tỷ USD

đầu tư cho ba đường dây vận tải điện 230 KV. Ngoài ra, hai nước còn ký một hiệp

định khác trị giá 20 triệu USD để xây dựng một nhà máy thủy điện [41, tr. 2-3].

Trong chuyến thăm nói trên, ông Ramesh cũng bày tỏ sự quan tâm của Ấn Độ trong

việc tham gia phát triển tiềm năng thủy điện trên sông Chindwin, đồng thời

Myanmar cũng đã đồng ý nối lại dự án thủy điện Tamanthi.

Vào ngày 16-9-2008, Ngân hàng IEB đã ký với Ngân hàng MFTB một bản

ghi nhớ, theo đó hai bên cùng tham gia đầu tư vào lưu vực sông Chindwin với hai

dự án: Một dự án xây dựng đập thủy điện có công suất 1200 MW tại Tamanthi và

một đập khác với công suất 600 MW tại Shwezaye [54, tr. 245]. Ấn Độ sẽ cung cấp

tài chính cho cả hai dự án này. Một đường dẫn cũng sẽ được thiết lập để truyền điện

từ hai trạm phát điện nói trên đến bang Manipur của Ấn Độ. Năm 2011, hai bên

cũng đã nhấn mạnh lại những cam kết hợp tác trong việc thực hiện các dự án

Tamanthi và Shwezaye trên lưu vực sông Chindwin nhưng phải chú ý đến các yếu

tố tác động đến người dân và môi trường tự nhiên của địa phương. Sự đầu tư của

Ấn Độ cho các dự án thủy điện ở Myanmar sẽ mang lại những lợi ích đáng kể cho

cả hai nước. Myanmar cũng gia tăng mạnh mẽ số lượng các dự án đầu tư nước

ngoài trong lĩnh vực này, nhất là với Ấn Độ. Với tiềm năng to lớn cùng với nhu cầu

về vốn, khoa học - kỹ thuật cho cuộc cải cách đang diễn ra mạnh mẽ tại Myanmar

Page 106: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

96

thì sự hợp tác của hai nước Ấn Độ và Myanmar trong lĩnh vực năng lượng có điều

kiện phát triển hơn nữa trong những năm gần đây.

Tóm lại, quan hệ Ấn Độ - Myanmar giai đoạn 1992 - 2011 trên lĩnh vực kinh

tế đã đạt được nhiều thành tựu và ngày càng đi vào chiều sâu hơn so với giai đoạn

trước (1962 - 1991). Với mục tiêu đảm bảo an ninh năng lượng phục vụ cho nhu cầu

của nền kinh tế, Ấn Độ đã thu được những kết quả quan trọng trong việc khai thác

nguồn tài nguyên dầu khí và thuỷ điện của Myanmar. Sự hợp tác giữa hai nước trên

lĩnh vực thương mại, đầu tư và năng lượng không ngừng củng cố quan hệ kinh tế Ấn

Độ - Myanmar nói riêng và quan hệ hai nước nói chung trong những năm tiếp theo.

4.2.3. Trên lĩnh vực an ninh - quốc phòng

Hợp tác an ninh - quốc phòng giữa Ấn Độ với Myanmar là một trong những

khía cạnh quan trọng của quan hệ song phương. Từ năm 1992 đến năm 2011, quan

hệ an ninh - quốc phòng giữa Ấn Độ với Myanmar qua diễn ra trên nhiều phương

diện như các chuyến thăm cấp cao lẫn nhau của giới lãnh đạo quân sự hai nước, các

vấn đề giúp đỡ huấn luyện và đào tạo binh sĩ, chuyển giao vũ khí, tập trận chung...

Quan hệ quốc phòng giữa Ấn Độ và Myanmar chính thức được nối lại từ năm 1995,

vào thời điểm mà Tướng Bipin Joshi là Tư lệnh Lục quân đầu tiên của Ấn Độ đến

thăm Myanmar. Sau sự kiện quan trọng đó, các hoạt động ngoại giao quân sự cấp

cao và các chuyến thăm giữa hai nước vốn đã có nền tảng trong thời kỳ 1962 - 1991

tiếp tục được diễn ra. Tuy nhiên, trong những năm 1992 - 1999, hợp tác an ninh -

quốc phòng giữa hai nước còn khá hạn chế do Ấn Độ vẫn có những quan ngại về

vấn đề dân chủ ở Myanmar. Mặc dù vậy, trong khuôn khổ của hợp tác, nhiều hợp

đồng chuyển giao vũ khí của Ấn Độ cho Myanmar vẫn được thực hiện. Cùng với

Trung Quốc, Nga, Ukraine, Ấn Độ dần trở thành nhà cung cấp vũ khí thường xuyên

cho nước láng giềng này [135]. Từ sau năm 1992, Ấn Độ cung cấp vũ khí, đạn

dược, trong đó có súng 105 mm, xe tăng T-55, máy bay lên thẳng loại nhẹ, máy bay

vận tải, đạn pháo, súng cối và một số tàu hải quân cho Myanmar [153].

Bước sang đầu thế kỷ XXI, hợp tác quốc phòng giữa hai nước mới được tăng

cường. Tháng 01-2000, Tư lệnh Lục quân Ấn Độ P. Malik đã có cuộc hội đàm với

Tướng Maung Aye tại Yangon và Shillong [60, tr. 6]. Sau đó, Ấn Độ và Myanmar

đã tổ chức những chuyến thăm thường xuyên giữa các quan chức cao cấp thuộc ba

binh chủng (hải quân, lục quân, không quân) trong quân đội hai nước.

Page 107: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

97

Năm 2003, Tư lệnh Hải quân Ấn Độ, Đô đốc Madhvendra Singh đã có

chuyến thăm Myanmar nhằm thảo luận những biện pháp tăng cường hợp tác giữa

hải quân hai nước. Đô đốc Singh là vị tư lệnh hải quân đầu tiên của Ấn Độ tới thăm

Myanmar sau gần ba thập kỷ. Một trong những mục tiêu chủ yếu của chuyến thăm

là đề nghị Myanmar cho phép các tàu chiến của Ấn Độ cập cảng nước này, tạo điều

kiện cho hải quân Ấn Độ không bị lệ thuộc vào các tàu tiếp nhiên liệu trong khi

tuần tiễu từ Ấn Độ Dương qua eo biển Malacca. Cũng trong năm này, Tư lệnh

Không quân Myanmar, Tướng Myat đã đến thăm Ấn Độ nhằm trao đổi các vấn đề

hợp tác và huấn luyện sĩ quan... Đây được xem là những chuyến thăm có ý nghĩa

quan trọng trong lĩnh vực hợp tác quốc phòng giữa hai nước bởi lẽ đây là một phần

trong chính sách “hướng Đông” của Ấn Độ và cũng là lần đầu tiên hai bên tiến hành

đối thoại về hợp tác quốc phòng có liên quan đến không quân và hải quân.

Tháng 01-2006, Đô đốc Arun Pradesh, Tư lệnh Hải quân Ấn Độ, hội đàm

với Tướng Than Shwe về việc Ấn Độ hỗ trợ kĩ thuật cho kế hoạch hiện đại hóa hải

quân Myanmar. Ấn Độ đã bàn giao hai máy bay giám sát hàng hải BN-2 và súng

phòng không lắp trên boong tàu cho hải quân nước này. Hai nước cũng đã thảo luận

kế hoạch Ấn Độ giúp Myanmar thành lập một trung tâm đào tạo hàng không hải

quân ở Myanmar [118, tr. 3]. Nhân dịp này, chính quyền quân sự Myanmar đề nghị

thành lập các căn cứ tại Myanmar để tạo thuận lợi cho hải quân Ấn Độ tiến hành

huấn luyện cho binh sĩ nước này. Ấn Độ cũng đã đề nghị tiến hành tuần tiễu chung

giữa 7 nước thành viên Milan và đã được phía Myanmar chấp nhận. Cũng trong

năm 2006, Myanmar lần đầu tiên tham gia vào cuộc tập trận Milan38. Trong cuộc

tập trận này, tàu chiến UMA Anawratha của Myanmar đã cập cảng Blair thuộc quần

đảo Andaman (Ấn Độ). Đây là lần đầu tiên trong vòng 40 năm qua, tàu chiến

Myanmar được đưa ra bên ngoài. Từ đó, cứ hai năm một lần, hải quân Myanmar

thường xuyên tham gia vào cuộc tập trận Milan cùng với Ấn Độ và các nước khác.

38 Cuộc tập trận có tên Milan được Ấn Độ đứng ra tổ chức từ năm 1995, 2 năm/lần bao gồm sự tham dự của

nhiều quốc gia đối tác tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương như Australia, New Zealand, Campuchia,

Indonesia, Malaysia, Myanmar, Singapore, Philippines, Thái Lan. Ngoài ra, còn có cả các quốc gia như

Maldives, Mauritius, Kenya, Bangladesh, Sri Lanka, Tanzania. Mục tiêu của cuộc tập trận là nhằm thắt chặt

hơn nữa sự hợp tác về hải quân giữa Ấn Độ với các nước. Đồng thời đây cũng được xem là cơ chế để các

nước chia sẻ quan điểm trong các vấn đề hàng hải đang tồn tại trong khu vực.

Page 108: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

98

Tháng 10-2006, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Ấn Độ Shekhar Dutt đã đi thăm

Myanmar. Trong chuyến đi này, ông đã đàm phán với Tướng Maung Aye và các sĩ

quan cao cấp khác của Myanmar về việc Ấn Độ sẽ cung cấp xe tăng chiến trường

T-55, pháo 105 li, các loại xe vận tải chuyển quân, súng cối và máy bay trực thăng

hạng nhẹ tiên tiến sản xuất tại Ấn Độ [120, tr. 138]. Tiếp nối chuyến đi của Bộ

trưởng Shekhar Dutt, ngày 22-11-2006, Tư lệnh Không quân Ấn Độ, Nguyên soái

S.P. Tyagi cũng đã có chuyến thăm tới Myanmar để thảo luận về việc mua bán vũ

khí mà hai nước đã dự kiến từ trước. Những bản hợp đồng lần này bao gồm một

chương trình nâng cấp toàn diện máy bay chiến đấu và bán những máy bay trực

thăng hạng nhẹ tiên tiến do tập đoàn Hindustan Aeronautics Limited chế tạo, các

loại radar, các thiết bị vô tuyến và thiết bị điện tử giám sát không lưu [120, tr. 138].

Từ năm 2007, Ấn Độ (cùng với Trung Quốc) là một trong hai nguồn cung cấp vũ

khí lớn nhất cho Myanmar. Mặc dù việc bán vũ khí của Ấn Độ sang Myanmar gặp

phải nhiều chỉ trích từ phương Tây nhưng không vì thế mà việc bán vũ khí của Ấn

Độ cho Myanmar ngừng lại. Tháng 7-2007, chính phủ Ấn Độ đã bán máy bay lên

thẳng loại nhẹ hiện đại cho Myanmar - loại máy bay do công ty Hindustan

Aeronautics Limited của Ấn Độ chế tạo, có trang bị rocket và súng máy.

Bên cạnh đó, Ấn Độ còn trợ giúp huấn luyện sĩ quan cho quân đội Myanmar.

Năm 2010, một phái đoàn quân sự Ấn Độ do Tướng G.S. Malhi dẫn đầu đã đi thăm

Myanmar. Cũng trong chuyến đi, tại Học viện quốc phòng quốc gia Myanmar ở thủ

đô Naypyidaw, phái đoàn Ấn Độ đã giúp đỡ và đào tạo sĩ quan cho nước láng giềng

này. Từ lâu, Ấn Độ là một trong số ít các nước cùng với Trung Quốc, Nga, Pakistan,

Malaysia, Singapore là những nước mà chính quyền quân sự Myanmar có thể gửi

các quan chức quân sự đến nghiên cứu và đào tạo. Phía Myanmar cũng mong muốn

quân đội của họ sẽ được huấn luyện trong các chương trình chống quân nổi dậy tại

Trường huấn luyện Jungle Wafare ở Mizoram. Bước sang năm 2011, với chuyến

thăm Ấn Độ của Tổng thống Thein Sein sau khi nhậm chức, quan hệ hai nước nói

chung và hợp tác an ninh - quốc phòng nói riêng càng có điều kiện phát triển.

Bên cạnh lĩnh vực an ninh truyền thống, Ấn Độ và Myanmar còn tăng cường

phối hợp lẫn nhau trong một số vấn đề an ninh phi truyền thống như: hoạt động của

các nhóm nổi dậy, chủ nghĩa khủng bố, buôn lậu vũ khí và ma tuý... ở biên giới hai

nước. Từ năm 1993, để đối phó lại những vấn đề tiêu cực nói trên, chính phủ hai

Page 109: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

99

nước đã thiết lập cơ chế đối thoại, ký kết các văn kiện và thỏa thuận mang tính pháp

lý. Cũng từ năm 1993, Ấn Độ và Myanmar đã đạt được nhận thức chung trong vấn

đề tấn công lực lượng chống chính phủ và bọn buôn lậu ma túy qua biên giới hai

nước. Phía Myanmar cũng bày tỏ mong muốn hợp tác chặt chẽ với Ấn Độ để tiêu

diệt lực lượng nổi dậy ở biên giới Đông Bắc Ấn Độ. Hai bên đồng ý triển khai tuần

tra chung biên giới, trao đổi và chia sẻ tin tức tình báo, hợp tác an ninh. Hợp tác

giữa lực lượng an ninh Ấn Độ với lực lượng an ninh Myanmar nhằm kiểm soát tình

hình phía Đông Bắc thực tế rất có hiệu quả. Khi nạn khủng bố trở thành trọng tâm

của vấn đề an ninh thì sự hợp tác này có ý nghĩa thiết thực đối với New Delhi.

Năm 1994, Ấn Độ và Myanmar đã ký Bản ghi nhớ về việc duy trì hòa bình

và ổn định ở khu vực biên giới [118, tr. 2]. Theo nội dung bản ghi nhớ, hai bên cam

kết tiến hành các cuộc hội đàm cấp Bộ trưởng và Bộ trưởng Bộ Nội vụ giữa hai

nước về việc ngăn chặn các nhóm nổi dậy và nạn buôn lậu ở khu vực biên giới Ấn

Độ - Myanmar. Các cuộc hội đàm này được tổ chức hàng năm và luân phiên tại mỗi

nước [116, tr. 136]. Đây là một văn kiện hữu ích làm cơ sở để hai nước có thể phối

hợp thường xuyên trong việc chống lại các nhóm nổi dậy. Năm 1995, quân đội

Myanmar đã thực hiện các hoạt động quân sự với quân đội Ấn Độ để chống lại các

lực lượng nổi dậy dọc khu vực biên giới hai nước. Ngay trong năm này, quân đội

hai nước đã tiến hành các cuộc tập trận chung nhằm truy quét một số nhóm nổi dậy

tại khu vực Đông Bắc Ấn Độ (như nhóm ULFA, NSCN, PLA).

Ngoài ra, hai nước cũng đã tiến hành các hoạt động phối hợp triệt phá các

trại huấn luyện của lực lượng nổi dậy. Khi Ấn Độ xúc tiến các hoạt động chống lại

quân nổi dậy ở khu vực Đông Bắc, Myanmar đã thắt chặt an ninh tại biên giới nước

này và bắt giữ các tay súng chạy sang Yangon. Việc luyện tập và phối hợp quân đội

chung giữa hai nước nhằm chống lại các nhóm nổi dậy ở Đông Bắc Ấn Độ đã làm

tăng thêm sức mạnh cho quan hệ song phương và thúc đẩy mối quan hệ này phát

triển. Tuy nhiên, cũng trong năm 1995, khi Ấn Độ trao giải thưởng Jawaharlal

Nehru cho bà Aung San Suu Kyi thì Myanmar đã hết sức bất bình và ngay lập tức

rút khỏi các hoạt động quân sự đang phối hợp với Ấn Độ [103, tr. 7]. Do vậy hợp

tác an ninh - quốc phòng giữa hai nước đã bị ngừng trệ trong một thời gian sau đó.

Từ sau năm 1998, cùng với những đổi thay trong nội tình của hai nước, quan

hệ an ninh - quốc phòng Ấn Độ - Myanmar cũng được củng cố và phát triển trở lại.

Page 110: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

100

Cùng với việc tăng cường mối quan hệ an ninh - quốc phòng trong các lĩnh vực

khác nhau, hoạt động phối hợp chống quân nổi dậy ở biên giới hai nước lại tiếp tục

được thúc đẩy mạnh mẽ. Vào tháng 11-2006, trong cuộc hội đàm giữa Bộ trưởng

Quốc phòng Ấn Độ và Tướng Maung Aye, Ấn Độ đề nghị giúp Myanmar trong

việc huấn luyện binh sĩ nhằm chống lại các phiến quân nổi dậy. Tiếp đó, tại cuộc

gặp diễn ra bên lề của Hội nghị cấp cao ASEAN ở Cebu, Philippines (2007), Thủ

tướng Myanmar Soe Win cùng đảm bảo với Thủ tướng Ấn Độ rằng Myanmar sẽ

tiến hành các biện pháp cần thiết để tiêu diệt các nhóm nổi dậy nếu phía Ấn Độ

cung cấp các thông tin chính xác [39, tr. 11]. Từ đầu năm 2007, quan hệ quân sự Ấn

Độ - Myanmar được mở rộng hơn, các lực lượng quân đội của Ấn Độ và Myanmar

đã nhất trí tăng cường cơ chế trao đổi thông tin tình báo dọc biên giới quốc tế để

kiểm soát tội phạm biên giới cũng như các lực lượng nổi dậy. Các quan chức của

Ấn Độ cho biết sẽ cung cấp các thiết bị quân sự theo yêu cầu của Myanmar nhằm

phục vụ và nâng cao hiệu quả trong nỗ lực phối hợp chung chống quân nổi dậy.

Theo đó, chính phủ Myanmar đã quyết định cấm những nhóm nổi dậy người Ấn Độ

xây dựng căn cứ cũng như hoạt động trên lãnh thổ Myanmar [140].

Trong chuyến thăm Ấn Độ của Tổng thống Thein Sein (tháng 10-2011), các

vấn đề liên quan đến khủng bố và quân nổi dậy hoạt động qua biên giới vẫn tiếp tục

được thảo luận với các nhà chức trách Ấn Độ. Cả hai nước cam kết cương quyết

chống khủng bố để đảm bảo hòa bình và ổn định trong khu vực. Quân đội Ấn Độ

thực hiện các biện pháp nghiêm ngặt để kiểm soát biên giới Manipur - Myanmar. Đây

là một bước đi đúng hướng nhằm ngăn chặn quân nổi dậy vượt biên giới vào Ấn Độ

cùng với vũ khí, vật liệu nổ hoặc thoát qua khỏi biên giới khi bị dồn vào đường cùng.

Ngoài việc phối hợp chống lại các nhóm nổi dậy, Ấn Độ và Myanmar còn

cùng nỗ lực trong các hoạt động chống buôn lậu ma túy, vũ khí, rửa tiền ở vùng

biên giới... “Lưỡi liềm Vàng”39 và “Tam giác Vàng”40 (Myanmar, Lào, Thái Lan)

là những khu vực sản xuất và buôn lậu ma túy khét tiếng của thế giới. Đây là những

mối lo ngại của Ấn Độ vì các hoạt động buôn lậu ma túy đều bắt nguồn từ

39 Lưỡi liềm Vàng (The Golden Crescent) là tên được đặt cho một trong hai khu vực sản xuất thuốc phiện trái

phép lớn nhất châu Á, nằm ở giữa Trung Á, Nam Á và Tây Á. Khu vực này bao trùm lên phạm vi ba quốc

gia (Afghanistan, Iran và Pakistan), nơi có vùng núi bao quanh tạo thành hình lưỡi liềm. 40 Tam giác Vàng (The Golden Triangle) là khu vực rừng núi hiểm trở nằm giữa biên giới ba nước Lào, Thái

Lan, Myanmar, nổi tiếng là một trong những nơi sản xuất thuốc phiện lớn nhất thế giới.

Page 111: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

101

Myanmar sang các bang Đông Bắc Ấn Độ. Không chỉ có nạn buôn bán ma túy, khu

vực biên giới giữa Ấn Độ và Myanmar còn là điểm nóng của chủ nghĩa khủng bố,

buôn lậu vũ khí, rửa tiền... Nếu không có những hoạt động quân sự phối hợp giữa

hai nước thì sẽ không có khả năng để giải quyết tận gốc các vấn đề nói trên.

Ấn Độ luôn được xem là một điển hình về đấu tranh chống ma túy. Là một

quốc gia láng giềng với Ấn Độ và cũng là một trong những nơi sản xuất ma túy lớn

nhất thế giới, Myanmar có nhiều cơ hội để hợp tác và chia sẻ với Ấn Độ trong lĩnh

vực này. Một số thỏa thuận đã được ký kết giữa Ấn Độ và Myanmar kể từ năm

1993 để hợp tác chống lại mối đe dọa của nạn buôn bán và sử dụng ma túy dọc biên

giới hai nước. Để kiểm soát chặt chẽ an ninh nói chung và nạn buôn bán ma túy nói

riêng, hai nước đã nhất trí lập thêm bốn điểm kiểm soát (Lungwa, Bihang, Sapi và

Zokawathar) ở khu vực biên giới Ấn Độ - Myanmar. Hai nước đã dựng rào ngăn

cách các đường biên để dễ kiểm soát trên một đoạn biên giới dọc bang Mizoram có

chiều dài 404 km. Việc rào dựng khu vực biên giới có tầm quan trọng to lớn trong

bối cảnh đang diễn ra các hoạt động buôn bán ma túy dọc biên giới hai nước. Vào

năm 2010, một vấn đề lớn khác cũng đã được đưa ra thảo luận là việc vận chuyển

trái phép chất ma túy và vũ khí qua biên giới. Mặc dù cả Ấn Độ và Myanmar đã

thực hiện kiểm tra sự di chuyển tiền bạc và vũ khí qua biên giới cho quân nổi dậy

của Ấn Độ nhưng vấn đề này vẫn chưa được giải quyết và hai bên đều nhất trí là

cần phải nỗ lực tập trung nhiều hơn nữa nhằm hạn chế tối đa các hoạt động này.

Năm 2011, chính phủ hai nước đã thỏa thuận “tăng cường tính hiệu quả

trong hợp tác và phối hợp” giữa các lực lượng an ninh trong việc giải quyết các mối

đe dọa nghiêm trọng của các nhóm nổi dậy và khủng bố. Nhận thức được tầm quan

trọng của vấn đề này, Ấn Độ và Myanmar đã tăng cường quyết tâm chống lại chủ

nghĩa khủng bố và nổi dậy dưới mọi hình thức. Tuy nhiên, việc quản lý an ninh biên

giới vẫn còn là một thách thức chủ yếu trong tương lai đối với hai nước.

Bên cạnh vấn đề an ninh biên giới, Ấn Độ và Myanmar còn đang phải đối mặt

với một số thách thức an ninh hàng hải ở vịnh Bengal như: chống buôn bán người,

buôn bán vũ khí, cướp biển, chống khủng bố, đánh bắt cá trái phép... Hai nước nhất

trí cần “mở rộng hợp tác an ninh không chỉ nhằm duy trì hòa bình dọc biên giới trên

đất liền mà còn bảo vệ thương mại hàng hải mà hai bên hy vọng sẽ mở ra một tuyến

đường biển giữa Kolkata và Sittwe” [118, tr. 4]. Ơ một khía cạnh khác, những thách

Page 112: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

102

thức an ninh phi truyền thống cũng bao gồm các vấn đề liên quan đến biến đổi khí

hậu, môi trường biển và lực lượng hải quân cần phải đi đầu trong việc ứng phó với

thiên tai liên quan đến biến đổi khí hậu, tiến hành các hoạt động cứu hộ và cứu trợ.

Vịnh Bengal là vùng biển chứa đựng nhiều bất ổn thời tiết và luôn bị ảnh

hưởng bởi lốc xoáy và sóng thần. Trận sóng thần ở Ấn Độ Dương năm 2004 và cơn

bão Nargis năm 2008 đã gây cho Myanmar nhiều thiệt hại, ảnh hưởng tới 2,4 triệu

người, trong đó có 78.000 người chết hoặc mất tích. Ấn Độ luôn là nước đầu tiên

thực hiện các hoạt động nhân đạo cứu trợ cho người dân Myanmar nhằm khắc phục

hậu quả thiên tai. Ngay sau khi cơn bão Nargis đi qua, chính phủ Ấn Độ đã điều hai

tàu hải quân chở hơn 100 tấn nguyên vật liệu và hai máy bay vận chuyển 4 tấn hàng

cứu trợ cho Myanmar. Đồng thời, Ấn Độ cũng cử một nhóm nhân viên y tế sang

Myanmar để tiến hành các hoạt động cứu trợ nhân đạo [128, tr. 18].

Như vậy, từ sau năm 1992 đến năm 2011, quan hệ hợp tác an ninh - quốc

phòng giữa Ấn Độ và Myanmar ngày càng được tăng cường với việc mở rộng phạm

vi và lĩnh vực hợp tác cũng như chất lượng của các hoạt động phối hợp giữa hai

nước, thể hiện sự nỗ lực, thiện chí và nhu cầu hợp tác của cả hai phía. Quan hệ Ấn

Độ - Myanmar trên lĩnh vực an ninh - quốc phòng ngày càng được đa dạng hóa và

đẩy mạnh nhanh chóng mang lại lợi ích thiết thực và lâu dài cho cả hai nước, góp

phần củng cố mối quan hệ song phương nói chung.

4.2.4. Trên lĩnh vực hợp tác đa phương

Ngoài các lĩnh vực hợp tác song phương, Ấn Độ và Myanmar tích cực hợp

tác với nhau trong các cơ chế đa phương khác, chẳng hạn qua hai tổ chức tiểu khu

vực là BIMSTEC và MGC mà cả hai quốc gia đều là thành viên, hoặc thông qua tổ

chức ASEAN, Diễn đàn ARF và quan hệ với các nước khác.

Năm 1997, các quốc gia duyên hải vùng vịnh Bengal (Bangladesh, Ấn Độ,

Myanmar, Sri Lanka và Thái Lan) đã cùng nhau thành lập Sáng kiến vùng Vịnh

Bengal về hợp tác Kinh tế và Kỹ thuật đa khu vực (BIMSTEC). Mục tiêu của tổ

chức này là tạo sự liên kết giữa Ấn Độ với các nước phía Đông, xây dựng cơ sở hạ

tầng, chẳng hạn như tuyến đường cao tốc xuyên Á đi từ Đông Bắc Ấn Độ đến

Bangkok (Thái Lan) và qua Mandalay (Myanmar) [60, tr. 9]. BIMSTEC đã xác

định 6 lĩnh vực hợp tác cho từng nước, trong đó với Myanmar là năng lượng và Ấn

Độ là giao thông vận tải, thông tin liên lạc và du lịch. Từ khi gia nhập BIMSTEC,

Page 113: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

103

Myanmar đã tích cực tham gia vào các chương trình hợp tác và đóng vai trò dẫn đầu

trong lĩnh vực năng lượng [106, tr. 15]. Trong khuôn khổ BIMSTEC, hoạt động

thương mại của Myanmar chủ yếu diễn ra với Thái Lan và Ấn Độ. Các mặt hàng

xuất khẩu chủ yếu của Myanmar đến Ấn Độ bao gồm các sản phẩm nông nghiệp

như đậu, ngô... và các sản phẩm từ rừng như gỗ tếch. Myanmar nhập khẩu từ Ấn Độ

các sản phẩm như các sản phẩm hóa chất, dược, thiết bị điện và phương tiện vận tải.

Ngoài hợp tác trong khuôn khổ tổ chức BIMSTEC, Ấn Độ và Myanmar còn

gia tăng sự hợp tác trong khuôn khổ Tổ chức Hợp tác Mekong - Sông Hằng (MGC).

Tổ chức này được thành lập vào năm 2000 bởi Bộ trưởng Bộ Ngoại giao của năm

nước thuộc tiểu vùng sông Mekong (Việt Nam, Lào, Campuchia, Myanmar, Thái

Lan) và Ấn Độ (sông Hằng) [60, tr. 9]. Đây cũng là một bước tiến trong việc cải

thiện mối liên kết du lịch, giáo dục và giao thông vận tải, do đó mà nó cải thiện

được thương mại và đầu tư giữa các nước trong khu vực. Trong khuôn khổ của hai

tổ chức trên, Ấn Độ và Myanmar đã xây dựng quan hệ đối tác lành mạnh thông qua

sự kết hợp với nhau về thương mại và công nghiệp. Sự tham gia của Ấn Độ đối với

Myanmar trở nên cởi mở và rộng rãi hơn với nhiều thỏa thuận song phương trong

khuôn khổ của các chương trình hợp tác tiểu khu vực. Nhiều văn bản, thỏa thuận đã

được ký kết giữa hai nước trong thời gian qua. Ấn Độ luôn ở trong một tư thế tốt để

hỗ trợ các nỗ lực đa phương trong việc phục hồi lại nền dân chủ và xây dựng các tổ

chức đoàn thể ở Myanmar. Ấn Độ đang tích cực kết hợp với Myanmar và hướng về

phía Đông để tìm kiếm đối tác với Lào, Thái Lan và Việt Nam.

Năm 2007, một dự án xây dựng đường cao tốc Ấn Độ - Myanmar - Thái Lan

trong khuôn khổ chương trình hợp tác MGC được thực hiện có chiều dài 1.360 km

[63, tr. 10-11]. Với chi phí ước tính khoảng 700 triệu USD, Dự án này sẽ kết nối

Moreh (thuộc bang Manipur của Ấn Độ) với thị trấn Mae Sot của Thái Lan, đi qua

Bagan ở miền trung Myanmar, cho phép vận chuyển hàng hóa và xe tải container đi

xuyên biên giới từ Ấn Độ đến Myanmar và Thái Lan theo đường Chiang Rai và các

thị trấn biên giới. Có thể nói, Dự án đường cao tốc Ấn Độ - Myanmar - Thái Lan đã

tạo ra một động lực mới trong quan hệ giữa Ấn Độ với các nước trong khu vực

Đông Nam Á nói chung và với Myanmar nói riêng.

Ngoài hai tổ chức tiểu khu vực nói trên, kể từ năm 1992, Ấn Độ tích cực duy

trì mối quan hệ thương mại và chiến lược với Myanmar và các nước Đông Nam Á

Page 114: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

104

khác và xem như là một phần trong chính sách “hướng Đông” của mình. Ấn Độ trở

thành đối tác đối thoại khu vực của ASEAN (năm 1992), là đối tác đối thoại đầy đủ

(tháng 12-1995) và là thành viên của Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) vào năm

1996 [110, tr. 2]. Quan hệ đối tác chính thức này giúp Ấn Độ có cơ sở chính trị để

đẩy mạnh quan hệ với các nước ASEAN. Với sự tăng trưởng kinh tế ngày càng cao

và với tư cách là một nước lớn có ảnh hưởng trong khu vực, Ấn Độ cũng đã tăng

cường hội nhập và thiết lập các mối quan hệ kinh tế, chính trị - ngoại giao với

ASEAN. Tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN - Ấn Độ lần thứ hai tổ chức tại Bali

(Indonesia) vào tháng 10-2003, Ấn Độ và ASEAN đã ký một thỏa thuận thành lập

khu vực mậu dịch tự do [47, tr. 1]. Cũng trong năm 2003, Ấn Độ ký Hiệp ước Thân

thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (TAC) với ASEAN [42, tr. 180]. Tháng 11-2004,

ASEAN và Ấn Độ thông qua Tuyên bố “Đối tác vì hòa bình, tiến bộ và thịnh vượng

chung” cùng với kế hoạch hành động nhằm hiện thực hoá các nội dung trong Tuyên

bố chung. Khi thúc đẩy quan hệ với ASEAN, mục tiêu của Ấn Độ là nhằm xây

dựng mối quan hệ lịch sử, văn hóa và kinh tế với tổ chức này, đồng thời nâng cao vị

thế của Ấn Độ như là một cường quốc khu vực [132].

Ngoài ra, từ tháng 8-2008, Myanmar tham gia Hiệp hội Hợp tác khu vực

Nam Á (SAARC) với tư cách là quan sát viên. Ấn Độ đã có các bước vận động để

Myanmar trở thành thành viên thường trực của tổ chức này, giúp mở rộng tầm nhìn,

tính minh bạch và tạo điều kiện thuận lợi cho việc quảng bá hình ảnh tiến tình dân

chủ hoá của Myanmar đối với thế giới bên ngoài. Với quy chế là quan sát viên của

SAARC, Myanmar là cầu nối giữa ASEAN với SAARC cũng như giữa Ấn Độ với

ASEAN. Trong khi đó, Ấn Độ cũng đã tham gia Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF)

và là một trong 10 nước đối tác đối thoại của ASEAN41 nhằm nhằm thúc đẩy cơ chế

đối thoại và tham vấn về các vấn đề an ninh chính trị trong khu vực, xây dựng lòng

tin và phát triển ngoại giao phòng ngừa. Không chỉ có các cuộc tiếp xúc, trao đổi

song phương, chính phủ Ấn Độ và Myanmar còn thống nhất với nhau trong việc

quan tâm đến sự phát triển hợp tác khu vực và tiểu khu vực. Trong những vấn đề

chủ yếu, hai nước cũng đã có cùng quan điểm chung đối với nhiều vấn đề đa

phương. Hai nước cùng ủng hộ một Liên Hợp Quốc vững mạnh như là nhân tố quan

41 Australia, Canada, Trung Quốc, EU, Ấn Độ, Nhật Bản, New Zealand, Hàn Quốc, Nga và Mỹ

Page 115: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

105

trọng trong việc giải quyết các thách thức toàn cầu và ủng hộ sự cải cách Liên Hợp

Quốc, bao gồm việc mở rộng thành viên Hội đồng Bảo an nhằm đảm bảo cho tổ

chức này có tính đại diện hơn, tin cậy hơn và hiệu quả hơn. Ấn Độ đã rất cảm kích

trước sự ủng hộ của Myanmar cho nỗ lực trước đây của họ trong việc trở thành

thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, cũng như chính sách

thân thiện nói chung của Myanmar với Ấn Độ trong bối cảnh hợp tác tiểu khu vực

Nam Á. Myanmar cũng thống nhất đánh giá cao quan hệ của Ấn Độ với ASEAN,

đặc biệt là sự hỗ trợ đối với các quốc gia tiểu vùng Mekong (Campuchia, Lào, Việt

Nam). Hơn nữa, nhằm thúc đẩy các lĩnh vực phát triển, hai nước đã gia tăng hợp tác

tiểu khu vực thông qua các tổ chức BIMSTEC và MGC. Việc Myanmar tham gia

vào SAARC với tư cách là quan sát viên cũng là một bước đi hợp lí.

Bên cạnh đó, Ấn Độ và Myanmar còn tiến hành hợp tác đa phương trong lĩnh

vực năng lượng. Từ năm 1997, Công ty Mohona Holdings Limited của Bangladesh

nêu ra ý tưởng về dự án xây dựng đường ống dẫn khí đốt từ Myanmar qua

Bangladesh đến Ấn Độ [53, tr. 4]. Theo đề xuất này, một đường ống dẫn dầu dài

290 km sẽ chạy từ bang Arakan (Myanmar), qua các bang Mizoram và Tripura (Ấn

Độ), vượt qua Bangladesh, trước khi nhập trở lại vào bang Tây Bengal (Ấn Độ).

Trong những năm 2004 - 2005, Myanmar đã đồng ý cho Ấn Độ lắp đặt một đường

ống dẫn dầu khí từ lô A-1 ở mỏ khí đốt Shwe, qua Bangladesh đến các bang Đông

Bắc Ấn Độ. Tháng 02-2005, tại Ấn Độ, cả ba nước đã ký một thỏa thuận cho dự án

xây dựng đường ống dẫn khí đốt từ Myanmar qua Bangladesh đến Ấn Độ với số

tiền đầu tư khoảng 1 tỷ USD [54, tr. 243].

Có thể nói, lĩnh vực hợp tác đa phương giữa Ấn Độ và Myanmar mặc dù ra

đời muộn hơn so với các lĩnh vực hợp tác khác giữa hai nước (từ giữa những năm

90 của thế kỷ XX), nhưng cũng đã góp phần đưa quan hệ Ấn Độ - Myanmar phát

triển toàn diện và sâu rộng hơn. Quan hệ hợp tác đa phương giữa hai nước diễn ra

ngày càng mạnh mẽ trong bối cảnh toàn cầu hoá và khu vực hoá hiện nay, mang lại

nhiều lợi ích chính trị, an ninh, kinh tế cho cả Ấn Độ và Myanmar.

Tiểu kết chương

Quan hệ Ấn Độ - Myanmar giai đoạn 1992 - 2011 chịu tác động rõ nét của

tình hình thế giới, khu vực và nhân tố Trung Quốc cùng những chuyển biến phức

Page 116: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

106

tạp của nội tình hai nước, sự điều chỉnh chính sách đối ngoại và sự đổi thay về vị

thế chiến lược của Ấn Độ và Myanmar. Vào thời điểm Chiến tranh lạnh kết thúc,

Ấn Độ lâm vào cuộc khủng hoảng toàn diện và trầm trọng. Để giải quyết khủng

hoảng, Ấn Độ đã tiến hành cải cách toàn diện, chủ yếu là cải cách kinh tế, ngân

hàng và đặc biệt điều chỉnh chính sách đối ngoại hướng về Đông Nam Á - chính

sách đối ngoại “hướng Đông”. Với chính sách này, Ấn Độ coi Myanmar như “tấm

ván trượt” để Ấn Độ thoát khỏi những khó khăn ở Nam Á vươn ra khu vực châu Á

- Thái Bình Dương, nâng cao lợi ích kinh tế và vị thế của mình ở khu vực và trên

thế giới. Trong thời điểm trên, chính sách đối ngoại của Myanmar cũng có nhiều đổi

thay theo xu thế đa dạng hoá, đa phương hoá nhằm tránh sự lệ thuộc quá nhiều vào

Trung Quốc. Vị thế của Ấn Độ và Myanmar ngày càng tăng trên trường quốc tế,

trong khi Ấn Độ được xem là một trong những quốc gia “mới trỗi dậy” thì

Myanmar lại được xem là “ngã tư của châu Á”. Mối quan hệ Ấn Độ - Myanmar

trong những năm 1992 - 2011 nhờ đó có thêm những nhân tố thuận lợi để cải thiện

và phát triển hơn trong những năm nói trên.

Quan hệ Ấn Độ - Myanmar trong những năm 1992 - 2011 bước đầu đạt được

những thành tựu lớn trên hầu khắp các lĩnh vực: Chính trị - ngoại giao, thương mại,

đầu tư, năng lượng, an ninh - quốc phòng. Với sự nỗ lực của chính phủ hai nước,

những biện pháp khôn khéo, linh hoạt và thực tế của Ấn Độ cũng như những thay

đổi trong tư duy đối ngoại của Myanmar nhằm tránh quá lệ thuộc vào Trung Quốc,

mối quan hệ hai nước Ấn Độ và Myanmar trong giai đoạn này đã thu được những

thành quả to lớn và tương đối toàn diện, đi vào chiều sâu và thực chất hơn so với

những năm 1962 - 1991, đáp ứng lợi ích của cả hai nước.

Trong mối quan hệ Ấn Độ - Myanmar (1992 - 2011), Trung Quốc luôn là

nhân tố quan trọng và thường trực có tác động to lớn đến tiến trình quan hệ này.

Mặc dù quan hệ Ấn Độ - Myanmar có nhiều khởi sắc (đặc biệt trong lĩnh vực

thương mại, đầu tư, năng lượng dầu khí) và phát triển tương đối toàn diện, nhưng so

với Trung Quốc thì vẫn chưa thể sánh được. Điều đó vừa là thách thức vừa là nhân

tố thúc đẩy sự gắn kết và phát triển toàn diện hơn của mối quan hệ giữa Ấn Độ với

nước láng giềng Myanmar trong thập niên thứ hai của thế kỷ XXI.

Page 117: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

107

CHƯƠNG 5

THÀNH TỰU, ĐẶC ĐIỂM VÀ TÁC ĐỘNG CỦA QUAN HỆ ẤN ĐỘ -

MYANMAR (1962 - 2011)

Quan hệ Ấn Độ - Myanmar (1962 - 2011) nằm trong bối cảnh chung của các

mối quan hệ quốc tế chằng chéo, lệ thuộc lẫn nhau giữa các nước trong khu vực nói

riêng và thế giới nói chung. Trải qua gần nửa thế kỷ (1962 - 2011), cả Ấn Độ và

Myanmar đã cố gắng mở rộng hợp tác, xây dựng quan hệ cùng phát triển và coi đó

là một trong những nhân tố quan trọng góp phần vào hoà bình và ổn định không chỉ

đối với hai nước mà còn với khu vực. Nghiên cứu thực trạng quan hệ Ấn Độ -

Myanmar (1962 - 2011), chúng ta có thể rút ra một số nhận xét về thành tựu, hạn

chế, đặc điểm và tác động của mối quan hệ này đối với mỗi nước và khu vực.

5.1. Thành tựu và hạn chế trong quan hệ Ấn Độ - Myanmar (1962 - 2011)

Quan hệ Ấn Độ - Myanmar từ năm 1962 đến năm 2011 diễn biến phức tạp,

thăng trầm qua hai giai đoạn: 1962 - 1991 và 1992 - 2011.

Mối quan hệ hai nước giai đoạn này mở đầu bằng sự kiện chế độ quân sự được

thiết lập ở Myanmar sau cuộc đảo chính quân sự của Tướng Ne Win (năm 1962).

Giai đoạn 1962 - 1991 là khoảng thời gian khó khăn của quan hệ giữa Ấn Độ với

Myanmar trong thời kỳ Chiến tranh lạnh. Quan hệ hai nước trong giai đoạn này chủ

yếu diễn ra trên lĩnh vực chính trị - ngoại giao, còn lĩnh vực kinh tế và an ninh - quốc

phòng hầu như mờ nhạt và hạn chế. Mặc dù bị giảm sút trong hầu hết các lĩnh vực,

nhất là về kinh tế và an ninh - quốc phòng, nhưng quan hệ Ấn Độ - Myanmar trong

những năm 1962 - 1991 cũng đã đạt được một số thành tựu đáng ghi nhận trên các

lĩnh vực hợp tác chủ yếu. Về chính trị - ngoại giao, những cuộc gặp gỡ cấp cao, các

chuyến viếng thăm lẫn nhau của lãnh đạo hai nước vẫn được diễn ra, cụ thể như:

chuyến thăm Ấn Độ của Tướng Ne Win vào năm 1965, chuyến thăm Myanmar của

Thủ tướng I. Gandhi (năm 1969), của Thủ tướng R. Gandhi (năm 1987)... Về kinh tế,

hai nước đã bước đầu ký kết một số hiệp định thương mại, làm tiền đề cho hợp tác

giữa hai nước, chẳng hạn như Hiệp định thúc đẩy thương mại giữa chính phủ Ấn Độ

Page 118: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

108

và chính phủ Miến Điện (năm 1962)... Ấn Độ cũng đã hỗ trợ chính phủ Myanmar

trong quá trình xây dựng đất nước và phát triển kinh tế thông qua việc cam kết thực

hiện các dự án thí điểm theo Chương trình ITEC... Về an ninh - quốc phòng, Ấn Độ

và Myanmar đã bước đầu đạt được một số thành tựu nhất định trong lĩnh vực hợp tác

hải quân, việc phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền và trên biển giữa hai nước.

Từ năm 1988 đến năm 1991, quan hệ Ấn Độ - Myanmar xuống đến mức thấp

nhất và trở nên “đóng băng”. Nguyên nhân chủ yếu là do Ấn Độ phản ứng kịch liệt

trước hành động đàn áp những người biểu tình đòi dân chủ (trong đó có nhiều người

gốc Ấn) của chính phủ Myanmar và công khai ủng hộ lực lượng dân chủ Myanmar

sau sự kiện “8888” (năm 1988). Về mặt chiến lược, động thái trên của Ấn Độ kết

hợp với hành động cô lập Myanmar của Mỹ và phương Tây đã góp phần đáng kể

trong việc đẩy Myanmar gần hơn với Trung Quốc. Trung Quốc đã có những thuận

lợi to lớn về chính trị, kinh tế và quân sự trong quan hệ với nước láng giềng

Myanmar giai đoạn 1962 - 1991. Trong thời gian Ấn Độ “lạnh nhạt” với Myanmar,

nước này đã có Trung Quốc làm hậu thuẫn. Do đó, có thể nói, nhân tố Trung Quốc

luôn hiện hữu và cạnh tranh, là một trong những tác nhân quan trọng làm hạn chế

những thành tựu của quan hệ Ấn Độ - Myanmar trong những năm 1962 - 1991.

Mặc dù vậy, vốn là hai nước láng giềng liền kề, có truyền thống quan hệ lâu

đời và tốt đẹp, có lợi ích không thể tách rời và lại có vị trí địa chiến lược trọng yếu

trong chính sách đối ngoại của nhau, nên dù có lúc quan hệ Ấn Độ - Myanmar đứng

trước thời điểm thấp nhất (năm 1988) nhưng cũng chỉ dừng lại ở mức hạn chế

ngoại giao chứ không bị đứt gãy hoàn toàn. Có thể nói, quan hệ Ấn Độ - Myanmar

(1962 - 1991) đã đặt nền tảng để xây dựng quan hệ hai nước trong giai đoạn sau.

Giai đoạn 1992 - 2011 đánh dấu bước chuyển biến mới (mặc dù cũng có

những nốt trầm) và phát triển mạnh mẽ trong quan hệ Ấn Độ - Myanmar trên hầu

khắp các lĩnh vực: Chính trị - ngoại giao, thương mại, đầu tư, an ninh - quốc phòng

dưới những định hướng chính sách đối ngoại mới của hai nước cùng những ảnh

hưởng của các nhân tố quốc tế, khu vực và xu thế phát triển kinh tế, hòa bình sau

Chiến tranh lạnh. Chính sách đối ngoại của Ấn Độ với Myanmar có những điều

chỉnh căn bản từ năm 1992, thời điểm Ấn Độ thực thi chính sách “hướng Đông” với

Page 119: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

109

những biện pháp khôn khéo, mềm dẻo và thực tế hơn. Đây là một trong những cơ sở

chủ yếu nhất làm cho quan hệ hai nước gia tăng và phát triển ngày càng toàn diện.

Về chính trị - ngoại giao, đây là giai đoạn khởi sắc trong quan hệ giữa Ấn

Độ với Myanmar. Mối quan hệ này được thể hiện dưới nhiều loại hình, nhiều cấp

độ, đa dạng, phong phú, nhiều sắc màu: Các cuộc hội đàm của lãnh đạo cấp cao hai

nước; các cuộc gặp gỡ cấp cao chuyên ngành, cấp lãnh đạo địa phương cùng với các

cơ chế hợp tác song phương, đa phương... Các hiệp định, hiệp ước, các tuyên bố,

thông cáo và các loại văn bản khác đã được ký kết từ hai phía đã tạo nền tảng pháp

lý và là cơ sở định hướng cho những hoạt động trên các lĩnh vực: Thương mại, đầu

tư, an ninh - quốc phòng... Quan hệ chính trị - ngoại giao giữa Ấn Độ và Myanmar

không tách rời với những đổi thay, biến động chính trị của hai nước cũng như

những mối quan tâm đến các tổ chức, các cơ chế đa phương ở khu vực. Chẳng hạn,

Hiệp hội Hợp tác khu vực Nam Á (SAARC) và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

(ASEAN) mà Ấn Độ, Myanmar là thành viên hoặc các tổ chức, cơ chế mà hai nước

có mối quan hệ đặc biệt (BIMSTEC, MGC, ASEAN + 3, ARF) hoặc mối quan hệ

với các nước láng giềng liền kề (Trung Quốc, Thái Lan, Bangladesh, Pakistan...).

Về lĩnh vực kinh tế, quan hệ Ấn Độ - Myanmar trên lĩnh vực thương mại, đầu

tư (1992 - 2011) ngày càng đi vào chiều sâu và thực chất hơn, đạt được nhiều thành

tựu đáng kể, đáp ứng lợi ích của cả hai nước. Để khắc phục khủng hoảng về kinh tế

sau Chiến tranh lạnh, Ấn Độ rất cần nguồn tài nguyên thiên nhiên của Myanmar. Do

vị trí địa lý chiến lược hết sức trọng yếu của Myanmar đối với Ấn Độ nên Ấn Độ

đặc biệt quan tâm đến chiến lược hợp tác kinh tế với quốc gia Đông Nam Á này

nhằm khôi phục đất nước, chuẩn bị tài lực, vật lực cho công cuộc cải cách sâu rộng,

hiện đại hóa đất nước, nâng cao địa vị Ấn Độ ở khu vực và quốc tế. Bên cạnh đó,

Myanmar cũng muốn cải thiện và gia tăng hơn nữa quan hệ với Ấn Độ nhằm thu

hút vốn, khoa học kỹ thuật và đầu tư của Ấn Độ để cân bằng hai nước láng giềng

khổng lồ. Mặt khác, gia tăng quan hệ với Ấn Độ cũng là nhân tố không thể thiếu để

Myanmar đa dạng hóa đường lối đối ngoại, mở rộng hợp tác đầu tư trong cơ chế

song phương và đa phương, nâng cao tiềm lực kinh tế và địa vị của Myanmar trong

ASEAN và khu vực. Dù lĩnh vực đầu tư diễn ra có phần muộn hơn so với lĩnh vực

thương mại, nhưng quan hệ đầu tư Ấn Độ - Myanmar vẫn đạt được thành công lớn

Page 120: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

110

với hàng loạt các dự án chủ yếu là về cơ sở hạ tầng, năng lượng, giao thông vận tải,

thông tin liên lạc, công nghệ thông tin..., hoặc các dự án trọng điểm có sự kết nối

với các dự án khác nhằm mang lại lợi ích không chỉ cho hai nước mà cho cả khu

vực, cụ thể như: Công trình tuyến đường quốc lộ Tamu - Kalewa - Kalemyo (năm

2001), Dự án vận tải quá cảnh đa phương Kaladan (năm 2008), dự án nâng cấp

đường dây điện thoại Yangon - Mandalay, dự án mở 500 km đường dây cáp quang

Moreh - Mandalay... Trong giai đoạn 1992 - 2011, quan hệ Ấn Độ - Myanmar đã có

những điều chỉnh mới nhằm vươn tới đối tác chiến lược toàn diện và mở rộng hơn

trong các cơ chế đa phương. Mối quan hệ hai nước càng có điều kiện để phát triển

nhằm khai thác có hiệu quả những lợi thế so sánh của nhau.

Lĩnh vực an ninh - quốc phòng giai đoạn 1992 - 2011 cũng được coi là một

trong những lĩnh vực chủ yếu của quan hệ Ấn Độ - Myanmar. Là hai quốc gia liền

kề có vị trí địa chiến lược trọng yếu với nhau, quan hệ an ninh - quốc phòng giữa

hai nước Ấn Độ và Myanmar được xem là một lĩnh vực hợp tác tất yếu. Mối quan

hệ này diễn ra với sự hợp lực, hỗ trợ của Ấn Độ và Myanmar trên nhiều phương

diện: Các cuộc gặp gỡ cấp cao giữa hai nước về quân sự, an ninh biên giới, chống

buôn lậu, chuyển giao vũ khí cũng như hỗ trợ đào tạo quân đội hoặc tập trận

chung... Nhìn chung, nếu như trong giai đoạn 1962 - 1991, lĩnh vực hợp tác an ninh

- quốc phòng còn mờ nhạt và hạn chế thì quan hệ Ấn Độ - Myanmar (1992 - 2011)

trên lĩnh vực này là rất tốt đẹp, ngày càng được mở rộng và tương đối toàn diện.

Mối quan hệ này thể hiện rõ những thiện chí và nỗ lực của cả hai phía. Tuy vẫn còn

một số khó khăn và thách thức: An ninh biên giới, an ninh hàng hải, buôn lậu, buôn

bán vũ khí, chống khủng bố, cướp biển... nhưng hợp tác Ấn Độ - Myanmar lĩnh vực

nói trên ngày càng phát triển toàn diện, đóng góp quan trọng cho lợi ích an ninh

hai nước, cho sự ổn định, hòa bình của khu vực và được coi là động lực thúc đẩy

các mối quan hệ trên các lĩnh vực khác phát triển.

Nhìn ở khía cạnh ngược lại, bên cạnh những thành tựu tốt đẹp trên các lĩnh

vực hợp tác chủ yếu, quan hệ Ấn Độ - Myanmar từ năm 1962 đến năm 2011 còn tồn

tại một số hạn chế và khó khăn nhất định:

Về chính trị - ngoại giao, quan hệ Ấn Độ - Myanmar (1962 - 2011) mặc dù

phát triển đi lên, mở rộng và toàn diện theo chiều hướng khá tốt đẹp, tuy nhiên vẫn

Page 121: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

111

còn thiếu tính nhất quán và thiếu ổn định, nhất là trong những năm 1962 - 1991. Sau

khi lực lượng quân sự lên nắm quyền lực ở Myanmar (1962), Tướng Ne Win đã

thực hiện chính sách đối ngoại không mấy thân thiện với Ấn Độ. Cũng những tác

động của các yếu tố quốc tế (Mỹ, các nước phương Tây và Trung Quốc), quan hệ

hai nước giai đoạn này hết sức khó khăn, không những chỉ giới hạn chủ yếu trên

lĩnh vực chính trị - ngoại giao mà ngay trong lĩnh vực này cũng mang tính mờ nhạt

và thiếu ổn định. Quan hệ Ấn Độ - Myanmar đã có giai đoạn ở mức thấp nhất (1988

- 1991) khi mà Myanmar thực hiện đàn áp dân chủ, một chính sách đi ngược lại với

chính sách mà Ấn Độ đang theo đuổi. Trong những năm 1992 - 2011, mặc dù quan

hệ chính trị - ngoại giao giữa Ấn Độ với Myanmar đã được cải thiện và phát triển

hơn so với giai đoạn trước đó (1962 - 1991) nhưng hai nước vẫn còn tồn tại một số

hạn chế nhất định, chẳng hạn như việc chính phủ quân sự Myanmar phản đối giải

thưởng Jawaharlal Nehru của bà Aung San Suu Kyi (năm 1995), sự kiện “Cách

mạng màu nghệ tây” năm 2007...

Về kinh tế, xuyên suốt giai đoạn 1962 - 2011, nhìn chung quan hệ hai nước

đã phát triển theo xu hướng đi lên và mở rộng ra nhiều lĩnh vực, nhất là thương mại,

đầu tư song phương, đa phương, thương mại biên giới, năng lượng... và đạt được

nhiều thành tựu lớn. Tuy nhiên trong 30 năm đầu (1962 - 1991), quan hệ kinh tế hai

nước diễn ra hết sức hạn chế, nếu không nói là quá mờ nhạt. Ấn Độ và Myanmar

hầu như đã bỏ quên nhau trong chiến lược phát triển kinh tế. Chính điều này đã tạo

cơ hội cho Trung Quốc - nước láng giềng phía bắc Myanmar - hưởng lợi lớn không

chỉ về chính trị, an ninh quân sự mà nhất là trên lĩnh vực kinh tế.

Trong giai đoạn 1992 - 2011, quan hệ kinh tế Ấn Độ - Myanmar đã khởi sắc

đóng góp đáng kể cho lợi ích hai nước, song quan hệ thương mại vẫn còn ở mức

khiêm tốn so với thương mại giữa Ấn Độ với các nước Đông Nam Á khác. Hoạt

động đầu tư đã mở rộng ra nhiều lĩnh vực cơ sở hạ tầng, giao thông, công nghệ viễn

thông, tuy nhiên quan hệ này vẫn diễn ra chủ yếu mang tính một chiều về phía Ấn

Độ do nền kinh tế Myanmar đã bị “đóng cửa” trong nhiều năm.

Về an ninh - quốc phòng, nhìn chung quan hệ Ấn Độ - Myanmar ngày càng

theo hướng đa dạng hoá, mở rộng nhanh chóng trên các phạm vi cũng như các lĩnh

vực hợp tác. Mặc dù vậy, trong quan hệ hai nước giai đoạn 1962 - 1991, lĩnh vực an

Page 122: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

112

ninh - quốc phòng hầu như vắng bóng và vẫn chưa thể so sánh được với quan hệ

giữa Trung Quốc với Myanmar. Ngoài ra, hợp tác an ninh - quốc phòng giữa Ấn Độ

với Myanmar (1962 - 2011) vẫn còn nhiều thách thức khó giải quyết do vấn đề an

ninh biên giới và những biến động của thế giới cũng như nội tình hai nước.

Một thách thức nữa mà quan hệ Ấn Độ - Myanmar luôn phải đối mặt đó là

sự trỗi dậy mạnh mẽ của nhân tố Trung Quốc ở khu vực và thế giới. Có đường biên

giới liền kề với hai nước lớn đang trỗi dậy (Trung Quốc, Ấn Độ), mọi động thái của

Myanmar đều ảnh hưởng đến cả hai nước. Hơn nữa quốc gia này còn được xem như

là “người anh em” của Trung Quốc, mối quan hệ Trung Quốc - Myanmar thực sự

khăng khít trong một thời gian dài trên tất cả các lĩnh vực khác nhau. Do vậy, tuy

Ấn Độ đã tìm mọi nỗ lực để gia tăng quan hệ với Myanmar nhưng nhân tố Trung

Quốc vẫn luôn hiện hữu và là đối thủ “nặng ký” trong bất cứ tình huống nào.

5.2. Đặc điểm của quan hệ Ấn Độ - Myanmar (1962 - 2011)

Thứ nhất, tiến trình quan hệ Ấn Độ - Myanmar (1962 - 2011) diễn ra phức

tạp, có thăng trầm nhưng chưa bao giờ bị đứt đoạn

Xét một cách tổng thể, nếu tính cả giai đoạn 1948 - 1962 thì mối quan hệ

giữa Ấn Độ và Myanmar (1948 - 2011) diễn ra lúc thăng lúc trầm và diễn tiến theo

sơ đồ hình sin không cân xứng do tác động của bối cảnh quốc tế, tình hình khu vực

và nội tình mỗi nước. Từ sau khi hai nước giành độc lập đến đầu năm 1962, quan hệ

Ấn Độ - Myanmar diễn ra hữu nghị và thân thiện. Tuy nhiên trong những năm 1962

- 1991, quan hệ Ấn Độ - Myanmar mang tính chưa ổn định, trì trệ và gần như là

“đóng băng”. Từ năm 1992 đến năm 2011, quan hệ hai nước mới được cải thiện và

ngày càng phát triển theo hướng toàn diện và sâu rộng.

Năm 1948, Ấn Độ và Myanmar chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với

nhau. Ngày 7-7-1951, Hiệp ước hữu nghị Ấn Độ - Myanmar được ký kết đã đưa

mối quan hệ hai nước phát triển lên một bước cao hơn. Từ năm 1948 đến năm 1962

được coi là giai đoạn “hữu nghị và thân ái” trong quan hệ giữa Ấn Độ và

Myanmar. Ấn Độ giúp Myanmar vượt qua những khó khăn trong thời gian đầu sau

khi giành độc lập bằng những viện trợ về kinh tế và quân sự, ủng hộ những chính

sách đối nội của chính phủ Thủ tướng U Nu, bao gồm cả những nỗ lực cải cách kinh

tế - xã hội trong nước. Trong thời gian cầm quyền của Thủ tướng U Nu, chính

Page 123: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

113

quyền Myanmar phải đối phó với nhiều cuộc nổi dậy và đấu tranh ly khai về sắc tộc

và tôn giáo của nhiều tộc người không phải người Miến. Trước tình hình đó, Ấn Độ

đã đưa quân đội đến hỗ trợ Myanmar trong các năm 1949, 1958 để chống lại lực

lượng nổi dậy. Có thể nói, sự giúp đỡ và ủng hộ của Ấn Độ về các mặt chính trị,

kinh tế, quân sự đã giúp chính phủ U Nu đứng vững trong một thời gian dài sau khi

giành độc lập. Những điều đó đã làm cho mối quan hệ giữa Ấn Độ và Myanmar trải

qua một giai đoạn tốt đẹp kể từ sau khi Myanmar giành được độc lập.

Bước sang những năm 60 của thế kỷ XX, quan hệ Ấn Độ - Myanmar diễn

biến theo chiều hướng ngày càng xấu đi. Tháng 3-1962, Tướng Ne Win cầm đầu

cuộc đảo chính lật đổ chính phủ U Nu, mở ra một thời kỳ quân đội lên nắm quyền

lực ở Myanmar. Cùng với nhiều nước trên thế giới, Ấn Độ lên án sự đàn áp dân chủ

của chính phủ quân sự Myanmar. Quan hệ Ấn Độ - Myanmar dần dần đi vào trạng

thái lạnh nhạt và gần như là “đóng băng”. Mặc dù hai nước vẫn duy trì mối quan hệ

ngoại giao nhưng Ấn Độ luôn lên án sự độc tài của chế độ quân sự ở Myanmar. Đáp

lại những động thái của Ấn Độ, chính quyền Myanmar đã có những hành động đào

sâu thêm sự căng thẳng trong quan hệ hai nước. Mối quan hệ lạnh nhạt giữa Ấn Độ

và Myanmar kéo dài đến cuối những năm 80 của thế kỷ XX mới có dấu hiệu ấm lại

với chuyến thăm Myanmar của Thủ tướng Ấn Độ R. Gandhi (năm 1987).

Từ sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, cùng với xu thế mới của tình hình quốc

tế, Ấn Độ và Myanmar đã khép lại những sự kiện bất đồng trong quá khứ và sẵn

sàng cho một giai đoạn quan hệ mới. Ấn Độ và Myanmar bắt đầu tăng cường các

cuộc tiếp xúc, trao đổi và hợp tác cấp nhà nước, báo hiệu một triển vọng tốt đẹp cho

mối quan hệ giữa hai nước. Tuy nhiên sau đó không lâu, năm 1995, Ấn Độ đã trao

giải thưởng Jawaharlal Nehru cho bà Aung San Suu Kyi. Sự kiện này đã ảnh hưởng

không nhỏ đến mối quan hệ hai nước. Chính quyền Myanmar đã phản đối kịch liệt

hành động trên của Ấn Độ và ngay lập tức rút khỏi các hoạt động đang hợp tác và

phối hợp với Ấn Độ. Sau sự kiện nói trên, chính phủ Ấn Độ (thời Thủ tướng Gujral)

công khai ủng hộ lực lượng dân chủ tại Myanmar và coi khôi phục lại dân chủ

Myanmar là điều kiện để phát triển quan hệ với Myanmar. Nhưng Myanmar vẫn

kiên quyết từ chối. Thêm vào đó, trong những năm 1996 - 1998, do sự khủng hoảng

của tình hình chính trị trong nước với sự thay đổi của các chính phủ cầm quyền

Page 124: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

114

khác nhau, Ấn Độ hầu như không có một động thái nào để thiết lập mối quan hệ gần

gũi hơn với Myanmar và ngược lại. Quan hệ hai nước trong những năm này có phần

mờ nhạt, chỉ giữ ở mức liên lạc về chính trị - ngoại giao. Tuy nhiên, từ sau khi

Myanmar gia nhập ASEAN (năm 1997) và đặc biệt là chính phủ mới Atal Bihari

Vajpayee lên cầm quyền ở Ấn Độ đã thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển trở lại.

Bước sang đầu thế kỷ XXI, quan hệ hai nước phát triển theo chiều hướng tốt

đẹp. Mặc dù vậy, vẫn còn một số lĩnh vực hợp tác của hai nước còn rất hạn chế do

tác động của một số sự kiện và sức ép quốc tế. Chẳng hạn điển hình là sự kiện tháng

8-2007 ở Myanmar cũng như những dư luận quốc tế xung quanh vấn đề này. Với

việc đàn áp thô bạo những người biểu tình trong nước ngày 19-8-2007, chính quyền

quân sự Myanmar đã vi phạm dân chủ, nhân quyền nghiêm trọng và bị lên án mạnh

mẽ trên các diễn đàn quốc tế. Dưới sức ép của Mỹ và phương Tây, Ấn Độ đã không

gia tăng cũng như có nhiều quan ngại trong quan hệ với chính quyền quân sự

Myanmar, đồng thời phải hủy bỏ một số hợp đồng, thỏa thuận về quân sự giữa hai

nước. Trước làn sóng chỉ trích việc Ấn Độ hợp tác quá chặt chẽ với chính quyền

quân sự Myanmar đã buộc Ấn Độ phải có những bước đi thận trọng và dè dặt trong

quan hệ, hợp tác với Myanmar, đặc biệt ở một số thời điểm nhạy cảm.

Quan hệ Ấn Độ - Myanmar trong những năm 1992 - 2011 cũng có những lúc

khúc mắc, trở ngại (như sự kiện giải thưởng Jawaharlal Nehru của bà Aung San Suu

Kyi năm 1995 hay “Cách mạng cà sa” năm 2007), không chỉ phát triển theo một

hướng đi lên và không chỉ hoàn toàn thuận lợi. Tuy nhiên, cũng không có các vấn

đề hay sự kiện nào gây nên sự bất đồng quá lớn hay tác động quá xấu đến mối quan

hệ hai nước. Cả hai nước đều nhận thức và có những điều chỉnh cần thiết để thúc

đẩy quan hệ tiếp tục phát triển liên tục trong thập niên thứ hai của thế kỷ XXI.

Thứ hai, quan hệ Ấn Độ - Myanmar là mối quan hệ giữa hai quốc gia đang

phát triển cùng theo đuổi chính sách trung lập và không liên kết

Ngay khi Ấn Độ mới giành được độc lập (năm 1947) và bắt đầu bước vào kỉ

nguyên mới, kỷ nguyên xây dựng và phát triển đất nước. Dưới sự lãnh đạo của J.

Nehru, L. Sastri, I. Gandhi, R. Gandhi, N. Rao..., Ấn Độ giải quyết một cách có

hiệu quả thông qua những chính sách đúng đắn, phù hợp và linh hoạt trong đối nội

và đối ngoại. Đặc biệt việc đề ra và thực hiện chính sách đối ngoại của Ấn Độ luôn

Page 125: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

115

gắn liền với vai trò của J. Nehru thông qua đường lối “không liên kết”. Đặc trưng

của chính sách không liên kết của Ấn Độ là: Chống Chiến tranh lạnh, bảo đảm rời

xa các khối quyền lực chống đối nhau, chống lại liên minh quân sự trong bối cảnh

xung đột giữa các nước lớn; không phải là một chính sách ngoại giao trung lập thụ

động hoặc địa vị trung lập, trung lập tích cực; mà là một chính sách hành động thực

tế, ủng hộ đường lối đối ngoại độc lập, chung sống hòa bình và không can thiệp.

Chính sách không liên kết của Ấn Độ ra đời trên cơ sở sự hiện hữu của trật

tự hai cực Yalta và Chiến tranh lạnh; trên cơ sở hình thành các liên minh quân sự

song phương và đa phương thúc đẩy nguy cơ chiến tranh thế giới mới; trên cơ sở

mâu thuẫn sâu sắc giữa chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân và Ấn Độ lại

không muốn đi theo con đường chủ nghĩa cộng sản. Thực chất tư tưởng không liên

kết là con đẻ của Chiến tranh lạnh với nội hàm căn bản nhất là không liên minh

quân sự song phương hoặc đa phương. Chính sách không liên kết được J. Nehru

khẳng định: “Không gia nhập liên minh quân sự với khối này để chống lại khối kia,

có thể gây nên chiến tranh thế giới thứ ba, Ấn Độ cố gắng thiết lập quan hệ hữu

nghị với tất cả các nước, đặc biệt là các nước châu Á. Một nước Ấn Độ độc lập sẽ

xây dựng quan hệ hữu nghị với Anh cũng như với Mỹ, Liên Xô” [2, tr. 44].

Với vị thế nước lớn và những đặc trưng về lịch sử, văn hóa cho phép Ấn Độ

thực hiện chính sách không liên kết một cách tích cực. Trong những năm 1947 -

1949, theo sáng kiến của J. Nehru, tại New Delhi đã diễn ra Hội nghị Liên Á lần thứ

nhất và lần thứ hai. Tại các Hội nghị này, J. Nehru nghiêm khắc lên án việc liên

minh phương Tây ủng hộ Hà Lan xâm lược Indonesia. Với uy tín quốc tế được nâng

cao, đến đầu năm 1950 đã có 39 nước thiết lập quan hệ ngoại giao với Ấn Độ.

Ngoài việc thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô và các nước Xã hội chủ nghĩa

khác, Ấn Độ là nước đầu tiên công nhận nền độc lập của Cộng hòa Nhân dân Trung

Hoa. Ấn Độ còn đóng vai trò nòng cốt trong việc thành lập Mặt trận các nước châu

Á chống chủ nghĩa đế quốc, thực dân, tạo thành lực lượng mới trỗi dậy tại diễn đàn

Liên Hợp Quốc. Tháng 4-1954, Thủ tướng Ấn Độ Jawaharlal Nehru đã cùng Thủ

tướng Trung Quốc Chu Ân Lai đề ra “năm nguyên tắc chung sống hoà bình”

(Panch Sheel): (1) Tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của nhau; (2) Không

tấn công nhau; (3) Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; (4) Bình đẳng

Page 126: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

116

và cùng có lợi; (5) Cùng tồn tại hòa bình [17, tr. 27]. Năm nguyên tắc này đã trở

thành nền tảng của chính sách đối ngoại Ấn Độ và trên cơ sở đó đã phát triển thành

“Mười nguyên tắc Bandung” tại Hội nghị Á - Phi diễn ra ở Indonesia (tháng 4-

1955). Sau khi J. Nehru qua đời, các nhà lãnh đạo Ấn Độ vẫn tiếp tục thực hiện

đường lối không liên kết và Ấn Độ luôn đóng vai trò quan trọng trong phong trào

này. Có thể nói trong hơn 30 năm tồn tại của Phong trào không liên kết, Ấn Độ đã

có những hoạt động không mệt mỏi vào sự phát triển mạnh mẽ của phong trào, biểu

hiện rõ nhất điều đó là thời kỳ Ấn Độ làm chủ tịch phong trào (1983 - 1986).

Đối với Myanmar, hơn nửa thế kỷ kể từ khi được Anh trao trả độc lập, các

chính quyền của Myanmar dù dân sự hay quân sự đều luôn chủ trương nêu cao năm

nguyên tắc chung sống hòa bình, theo đuổi chính sách đối ngoại độc lập, không liên

kết, quan hệ hữu nghị với tất cả các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, đặc biệt là

các nước láng giềng trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ

của nhau, không xâm lược lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của

nhau, bình đẳng cùng có lợi; ủng hộ quyền tự quyết của các dân tộc, không biến

nước mình thành căn cứ quân sự của nước khác, tích cực tham gia các diễn đàn

quốc tế và khu vực. Tư tưởng xuyên suốt này đã được thể hiện trong Hiến pháp

Miến Điện năm 1947 và 1974. Điều 41 và điều 42 trong Hiến pháp Myanmar năm

2008 cũng đã ghi rõ: “Liên bang Myanmar thực hiện chính sách đối ngoại độc lập,

tích cực và không liên kết vì hòa bình thế giới, quan hệ tốt với tất cả các nước trên

nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình giữa các quốc gia” (Điều 41); “Liên bang

Myanmar sẽ không tiến hành gây hấn bất cứ quốc gia nào và cũng không cho phép

quân đội nước ngoài đóng quân trên lãnh thổ Myanmar” (Điều 42) [101, tr. 11].

Ngày 15-11-1997, ngay sau khi lên nắm quyền, Hội đồng Hòa bình và Phát

triển quốc gia (SPDC) đã tuyên bố Myanmar tiếp tục theo đuổi “chính sách đối ngoại

độc lập và tích cực” [106, tr. 9]. Các nguyên tắc cơ bản của chính sách đối ngoại này

đều nhấn mạnh vào sự hợp tác với bên ngoài, bao gồm: - Ủng hộ năm nguyên tắc cùng

chung sống hòa bình; - Duy trì quan hệ hữu nghị với tất cả các nước, đặc biệt là quan

hệ thân thiện với các nước láng giềng; - Ủng hộ tích cực Liên Hợp Quốc, các tổ chức

của Liên Hợp Quốc và tham gia tích cực vào các hoạt động của các tổ chức này; -

Tiến hành hợp tác song phương và đa phương trên cơ sở cùng có lợi trong khuôn khổ

Page 127: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

117

chính sách đối ngoại độc lập; - Phối hợp và hợp tác với các nước khu vực trong các

vấn đề kinh tế và xã hội tại khu vực; - Phấn đấu cho một thế giới hòa bình, an ninh,

chống chủ nghĩa đế quốc, thực dân kiểu cũ và mới, không can thiệp hay áp đặt sự

thống trị của nước này lên một nước khác; - Chấp thuận các viện trợ quốc tế có lợi cho

sự phát triển đất nước mà không có điều kiện ràng buộc kèm theo [77, tr. 11].

Trải qua một thời gian dài bị bao vây và cấm vận, trong những năm đầu thế kỷ

XXI, những nỗ lực thay đổi của chính quyền Myanmar đã làm cho các nước có cách

nhìn tích cực hơn đối với quốc gia này. Tổng thống Myanmar Thein Sein đã nêu rõ ba

nguyên tắc cơ bản của chính sách đối ngoại nước này từ đầu thế kỷ XXI: độc lập, chủ

nghĩa tích cực và không liên kết [109, tr. 128]. Myanmar đang cố gắng xây dựng hình

ảnh tốt đẹp hơn và nâng cao vị thế của mình trong mắt bạn bè quốc tế, cải thiện các

mối quan hệ quốc tế, trong đó có Ấn Độ. Có thể nói, xuất phát từ chính sách trung lập,

không liên kết đã làm cho quan hệ Ấn Độ - Myanmar thường xuyên được duy trì và

không bị đứt đoạn trong suốt thời kỳ dài kể từ sau khi giành độc lập đến thập niên đầu

thế kỷ XXI dù cho đã từng có thời điểm xuống mức thấp nhất (năm 1988).

Thứ ba, quan hệ Ấn Độ - Myanmar diễn tiến theo hướng điều chỉnh, vượt

qua khác biệt, mở rộng phạm vi hợp tác, phát triển gắn liền với xu thế hội nhập khu

vực, hoà bình, phát triển của thế giới sau Chiến tranh lạnh

Từ lĩnh vực chính trị - ngoại giao là chủ yếu trong những năm 1962 - 1991,

theo tiến trình thời gian, quan hệ Ấn Độ - Myanmar giai đoạn sau (1992 - 2011) đã

mở rộng trên nhiều lĩnh vực và phát triển toàn diện trong giai đoạn từ sau Chiến tranh

lạnh. Giai đoạn 1962 - 1991 đánh dấu một khoảng thời gian chìm lắng trong quan hệ

Ấn Độ - Myanmar. Hai nước duy trì mối quan hệ chủ yếu trong lĩnh vực chính trị -

ngoại giao, các lĩnh vực khác nhìn chung rất mờ nhạt. Tuy nhiên, từ sau khi kết thúc

Chiến tranh lạnh, sự tác động của bối cảnh quốc tế, cả Ấn Độ và Myanmar đều điều

chỉnh chính sách đối nội và đối ngoại nhằm đáp ứng lợi ích quốc gia, nâng cao vị thế

ở khu vực và thế giới, quan hệ giữa Ấn Độ và Myanmar khởi sắc và ngày càng phát

triển. Mối quan hệ hai nước diễn ra toàn diện trên nhiều lĩnh vực: Chính trị - ngoại

giao, kinh tế, an ninh - quốc phòng... Ngoài ra, nếu trong giai đoạn 1962 - 1991, quan

hệ Ấn Độ - Myanmar chủ yếu mang tính chất song phương giữa hai nước; thì trong

giai đoạn 1992 - 2011, quan hệ hai nước còn diễn ra trong cơ chế hợp tác đa phương.

Page 128: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

118

Hai nước đã cùng tham gia và có tiếng nói trong các tổ chức, diễn đàn khu vực

(BIMSTEC, MGC, ARF...) Như vậy, có thể thấy quan hệ Ấn Độ - Myanmar thời kỳ

sau Chiến tranh lạnh đã trở nên đầy đủ, toàn diện hơn, đem lại hiệu quả lớn hơn. Tuy

nhiên cũng cần phải nhận thấy rằng, hai nước hiện vẫn chưa khai thác hết tiềm năng

vốn có, chưa đáp ứng được nhu cầu hợp tác cũng như lợi ích của hai bên.

Tiến trình phát triển quan hệ Ấn Độ - Myanmar từ năm 1962 đến năm 2011

còn chịu tác động to lớn của bối cảnh quốc tế, khu vực và nội tình hai nước. Từ sau

khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc cho đến đầu những năm 60 của thế kỷ

XX, dưới tác động của Chiến tranh lạnh, của phong trào đấu tranh giải phóng dân

tộc ở các nước châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh, Ấn Độ và Myanmar đều

thực thi chính sách đối ngoại trung lập, không liên kết. Cả hai nước đều là những

thành viên sáng lập Phong trào Không liên kết nhằm thành lập mặt trận thống nhất

đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc. Trong bối cảnh quốc tế và khu vực đó, quan hệ

Ấn Độ - Myanmar có điều kiện phát triển trên lĩnh vực chủ yếu là chính trị - ngoại

giao. Tuy nhiên, từ đầu những năm 60 của thế kỷ XX, do tình hình chính trị của

Myanmar có nhiều biến động (giới lãnh đạo quân sự lên nắm quyền) nên quan hệ

giữa quốc gia Đông Nam Á này với Ấn Độ đi xuống và rơi vào tình trạng gần như

là “đóng băng”. Sự lạnh nhạt của quan hệ hai nước kéo dài qua nhiều thập kỷ, có

thời điểm trở nên căng thẳng và xuống mức thấp nhất (năm 1988). Trong những

năm 1962 - 1991, sự chi phối của “chủ nghĩa lý tưởng” trong chính sách đối ngoại

của Ấn Độ cũng như những chính sách đối nội, đối ngoại của chính sách quân sự

Myanmar đã tác động rõ nét đến sự thăng trầm của quan hệ hai nước.

Từ cuối những năm 80 đến đầu những năm 90 của thế kỷ XX, Chiến tranh

lạnh kết thúc mở ra một thời kỳ mới trong quan hệ quốc tế. Xu thế hoà bình, hợp tác

và phát triển kinh tế trở thành xu thế chủ đạo trong các mối quan hệ quốc tế. Xu

hướng quốc tế hóa, toàn cầu hóa và khu vực hóa hiện nay đã tạo điều kiện thúc đẩy

quan hệ hợp tác giữa các quốc gia, các khu vực một cách rộng rãi hơn. Hiện tại, ở

khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Nam Á và Đông Nam Á đã và đang diễn ra sự

liên kết mạnh mẽ với các hoạt động của nhiều tổ chức như: APEC, ASEM,

SAARC, ASEAN + 3, ARF, BIMSTEC, MGC... Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc

cách mạng khoa học và công nghệ, xu thế toàn cầu hoá đã tạo điều kiện thuận lợi

Page 129: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

119

cho quan hệ hai nước Ấn Độ - Myanmar phát triển. Vì thế, với những thành tựu đã

đạt được trong thời gian qua, thông qua cơ chế hợp tác song phương và đa phương

giữa Ấn Độ và Myanmar sẽ tăng cường hơn nữa vai trò hợp tác và liên kết giữa hai

nước nhằm khai thác và phát huy lợi thế hai bên.

Thứ tư, quan hệ Ấn Độ - Myanmar (1962 - 2011) chịu sự tác động thường

xuyên và mạnh mẽ bởi nhân tố Trung Quốc. Đây là nhân tố vừa cản trở lại vừa thúc

đẩy quan hệ giữa Ấn Độ và Myanmar phát triển

Trên thực tế, nếu xét toàn bộ tiến trình của quan hệ Ấn Độ - Myanmar từ đầu

những năm 60 của thế kỷ XX trở lại đây, chúng ta luôn thấy có sự hiện hữu và tác

động của nhân tố Trung Quốc. Điều này bắt nguồn từ vị trí địa - chiến lược của

Myanmar trong chiến lược của Trung Quốc và sự cạnh tranh giữa Trung Quốc với

Ấn Độ trên con đường khẳng định vị thế, sức mạnh của mình ở khu vực và thế giới.

Trước hết, Trung Quốc đóng vai trò là “nhân tố chủ chốt” thúc đẩy Ấn Độ

gác lại truyền thống dân chủ để xích lại gần Myanmar. Trung Quốc cũng là nhân tố

khiến giới lãnh đạo quân sự Myanmar tiến hành đa phương hóa quan hệ ngoại giao

nói chung và thiết lập mối quan hệ gần gũi với Ấn Độ giai đoạn đầu những năm 90

của thế kỷ XX nói riêng. Sự thân thiết của mối quan hệ Trung Quốc - Myanmar từ

cuối những năm 80 của thế kỷ XX đã trở thành mối lo ngại nghiêm trọng đối với

Ấn Độ bởi vì nó đã khiến cho mối đe dọa từ Trung Quốc tiến dần tới các bang Đông

Bắc Ấn Độ. Do vậy, các chính phủ thay nhau cầm quyền tại Ấn Độ đã nỗ lực xây

dựng mối quan hệ toàn diện với Myanmar từ lĩnh vực quốc phòng, thương mại,

năng lượng, đến viện trợ phát triển...

Trong trục tam giác Ấn Độ - Myanmar - Trung Quốc, sự cạnh tranh quyết

liệt giữa Ấn Độ và Trung Quốc đã diễn ra trên nhiều lĩnh vực. Không ít lần giới cầm

quyền Myanmar phải đứng trước sự chi phối quyền lợi và rơi vào tình thế khó xử

trong quan hệ giữa Ấn Độ và Trung Quốc. Có lúc Myanmar phải hi sinh quyền lợi

với đối tác này để đổi lấy những lợi ích từ đối tác khác, nhưng đồng thời Myanmar

cũng đã khai thác được những lợi ích to lớn từ sự cạnh tranh Trung - Ấn. Chính

quyền Myanmar thường lâm vào tình thế chênh vênh giữa lợi ích của Trung Quốc

hoặc của Ấn Độ. Trong trường hợp nếu không có sự xung đột giữa Ấn Độ và Trung

Quốc thì Myanmar luôn ủng hộ Ấn Độ và nhất là rất quan tâm giải quyết các vấn đề

Page 130: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

120

khúc mắc của quốc gia Nam Á này. Nhưng khi có xung đột trong quan hệ Ấn Độ -

Trung Quốc hoặc vì lợi ích của mình thì Myanmar thường chú trọng hơn đến lợi ích

của Trung Quốc. Giới lãnh đạo Myanmar hầu như không lo sợ Ấn Độ không hài

lòng, họ chỉ sợ Trung Quốc không đồng ý.

Trường hợp Myanmar ưu ái cho Trung Quốc khai thác năng lượng năm 2007

là một ví dụ điển hình cho thấy chính sách của Myanmar trong quan hệ với “hai

người láng giềng khổng lồ”. Từ thập niên cuối thế kỷ XX, chính quyền Myanmar

ủng hộ Ấn Độ trở thành nước có vai trò lớn hơn trong khu vực nên đã dành cho

nước này vị trí ưu tiên trong các thỏa thuận với Ấn Độ, chẳng hạn như tư cách pháp

lý “khách hàng ưu đãi” trong việc khai thác năng lượng ở Myanmar được chính

phủ quân sự trao cho Công ty GAIL. Tuy nhiên, sau khi xảy ra sự kiện “Cách mạng

cà sa” (năm 2007), Myanmar đã huỷ bỏ tư cách pháp lý này của Công ty GAIL tại

các lô A-1 và A-3 thuộc mỏ khí đốt tự nhiên ngoài khơi biển Andaman và bán lại

cho tập đoàn PetroChina (Trung Quốc). Quyết định này của Myanmar còn bắt

nguồn từ việc Trung Quốc lên tiếng bảo vệ chính quyền quân sự nước này tại diễn

đàn Liên Hợp Quốc vào đầu năm 2007. Ngày 12-01-2007, hai nước Mỹ và Anh đã

đệ trình một dự thảo nghị quyết về những vấn đề nội bộ của Myanmar lên Hội đồng

Bảo an Liên Hợp Quốc. Nội dung bản dự thảo lên án những vi phạm nhân quyền

của chính phủ quân sự Myanmar, kêu gọi chính nước này trả tự do cho tất cả các tù

nhân chính trị, bao gồm nhà lãnh đạo dân chủ Aung San Suu Kyi và tham gia cuộc

đối thoại chính trị nhằm thúc đẩy quá trình dân chủ hoá. Để ủng hộ chính phủ

Myanmar, Trung Quốc đã sử dụng quyền phủ quyết của mình về dự thảo nghị quyết

này [72, tr. 1]. Và sau sự kiện “Cách mạng cà sa”, Trung Quốc đã không lên án

chính quyền nước cũng như từ chối hợp tác với cộng đồng quốc tế nhằm áp đặt lệnh

cấm vận mới đối với Myanmar. Quyết định dành cho tập đoàn PetroChina Trung

Quốc xây dựng tuyến đường ống dẫn dầu chạy qua lãnh thổ của Myanmar đã phản

ánh vị thế nổi trội của Trung Quốc đối với Myanmar. Như nhà nghiên cứu

Lundholm đã khẳng định: “Mối quan hệ này (Trung Quốc - Myanmar) sẽ khiến cho

Ấn Độ khó có thể cạnh tranh trong thời gian dài hạn” [40, tr. 8].

Myanmar không chỉ quan trọng về tầm chiến lược đối với Ấn Độ mà còn là

nhân tố chủ chốt đối với tham vọng vươn ra Ấn Độ Dương của Trung Quốc. Các

Page 131: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

121

quan chức quốc phòng Ấn Độ cho rằng, sự phát triển các cơ sở chiến lược của

Trung Quốc trên vịnh Bengal ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh lâu dài của Ấn

Độ, bởi vì sẽ giúp Trung Quốc có thể mở rộng phạm vi ảnh hưởng xuống Ấn Độ

Dương, nơi mà từ lâu được Ấn Độ coi là “vùng biển chiến lược” của mình, là một

nhân tố an ninh hàng hải trong cuộc cạnh tranh chiến lược giữa hai cường quốc

trong khu vực [119, tr. 218]. Vì vậy, song song với những nỗ lực của Ấn Độ ở

Myanmar thì Trung Quốc cũng đã thực thi những biện pháp để giữ vững những

quyền lợi và lợi ích chiến lược của mình ở Myanmar. Do vậy, trong cuộc cạnh tranh

với Trung Quốc ở Myanmar, Ấn Độ cần phải nỗ lực hơn nữa và có những chính

sách ngoại giao phù hợp để có thể đạt được thế cân bằng với Trung Quốc.

Thứ năm, quan hệ Ấn Độ - Myanmar trong những năm 1962 - 2011 luôn bị

chi phối bởi vấn đề dân chủ ở Myanmar

Quan hệ Ấn Độ - Myanmar không chỉ bị tác động bởi các nhân tố quốc tế,

khu vực, nhân tố Trung Quốc mà còn bị chi phối bởi vấn đề dân chủ ở Myanmar.

Từ năm 1962 đến năm 2011, đây là vấn đề thường trực và tác động đến sự thăng

trầm trong quan hệ giữa một bên là một quốc gia dân chủ (Ấn Độ) với một bên theo

chế độ chính trị bị lên án là độc tài trong một thời gian dài với sự cai trị hà khắc,

mất dân chủ và vi phạm nhân quyền (Myanmar).

Kể từ sau khi giành độc lập, Ấn Độ luôn duy trì hình ảnh của một quốc gia

dân chủ. Trong phần mở đầu của Hiến pháp năm 1949 đã xác định Ấn Độ là một

quốc gia có chủ quyền, cộng hòa và dân chủ [57, tr. 2347]. Trong hơn 60 năm qua,

mặc dù vũ đài chính trị của Ấn Độ thay đổi liên tục, Ấn Độ vẫn duy trì một chế độ

dân chủ với các quyền tự do dân sự, một Tòa án tối cao hoạt động tích cực và một

nền báo chí độc lập ở mức độ cao [84, tr. 265-266]. Chính vì vậy, trong việc hoạch

định chiến lược và thực thi mối quan hệ giữa hai nước trên thực tế, Ấn Độ có lúc

vấp phải sự mâu thuẫn do tình hình nội bộ Myanmar đem lại.

Ơ một trạng thái đối lập với Ấn Độ, Myanmar lại là quốc gia bất ổn nhất

trong tổ chức ASEAN vì vấn đề nhân quyền và dân chủ. Vấn đề dân chủ ở

Myanmar bắt nguồn từ sau sự kiện đảo chính thành lập chính phủ quân sự của

Tướng Ne Win (năm 1962). Điều này không được chính phủ Ấn Độ chấp nhận vì

những quan điểm về dân chủ, nhân văn của thời đại không được chính phủ quân sự

Page 132: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

122

Myanmar thực hiện. Kể từ thời điểm đó đến thập niên đầu thế kỷ XXI, quan hệ giữa

Ấn Độ và Myanmar luôn bị ảnh hưởng bởi chính sách độc tài, mất dân chủ và vi

phạm nhân quyền của chính quyền quân sự Myanmar. Từ sau cuộc đảo chính quân

sự và đàn áp dân chủ năm 1988, Myanmar được thế giới biết đến như một đất nước

tự cô lập được “tô điểm” bằng sự đàn áp chính trị và chủ nghĩa phân biệt sắc tộc cố

hữu. Vụ đàn áp những người dân chủ vào năm 1988, cuộc bầu cử quốc hội năm

1990 hay cuộc “Cách mạng màu nghệ tây” năm 2007... diễn ra ở Myanmar là ba

trong nhiều sự kiện tiêu biểu liên quan đến vấn đề dân chủ của nước này. Trong

diễn biến các sự kiện trên, Ấn Độ luôn thể hiện lập trường dân chủ, lên tiếng phản

đối những hành động của chính phủ quân sự nước láng giềng. Có lúc, vấn đề dân

chủ đã làm cho quan hệ hai nước xuống mức thấp nhất (năm 1988) và hai nước đã

không tìm được tiếng nói chung trên diễn đàn quốc tế cũng như khu vực.

Vấn đề dân chủ đã làm cho quan hệ Ấn Độ - Myanmar trở nên lạnh nhạt và

căng thẳng trong những năm 1962 - 1991 bao nhiêu thì lại làm cho “sợi dây” liên hệ

giữa chính quyền quân sự Myanmar với Trung Quốc bền chặt bấy nhiêu. Do đó, từ

năm 1992, Ấn Độ đã có nhiều sự điều chỉnh quan trọng trong chiến lược đối ngoại

(tiêu biểu là chính sách “hướng Đông”) nhằm vừa cải thiện quan hệ với Myanmar,

vừa có thể ủng hộ tiến trình dân chủ hoá ở nước này và ngăn cản sự mở rộng phạm

vi ảnh hưởng của Trung Quốc không chỉ ở Myanmar mà còn ở khu vực Nam Á và

Ấn Độ Dương. Ấn Độ đã phải thể hiện lập trường hai mặt và lâm vào thế nước đôi

khi phải xử lý để vừa không làm mất lòng chính quyền quân sự lại vừa không bị lên

án, chỉ trích của các tổ chức nhân quyền, lực lượng dân chủ trong nước và thế giới.

Nhờ đó, quan hệ Ấn Độ - Myanmar từ sau năm 1992 ngày càng được cải thiện và

phát triển. Điều này phản ánh sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Ấn Độ theo

hướng thực tế, có lợi cho cả hai nước và nỗ lực thực hiện “Lộ trình dân chủ bảy

bước” của chính phủ quân sự Myanmar.

5.3. Tác động của quan hệ Ấn Độ - Myanmar (1962 - 2011) đối với hai nước và

khu vực

5.3.1. Đối với Ấn Độ

Về chính trị - ngoại giao, quan hệ Ấn Độ - Myanmar từ năm 1962 đến năm

2011 có thể chia làm hai giai đoạn lớn: 1962 - 1991 và 1992 - 2011. Do vậy, tác

Page 133: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

123

động của mối quan hệ này đối với Ấn Độ cũng trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm

khác nhau (trong mỗi giai đoạn cũng có những thời điểm khúc mắc và khó khăn).

Trong những năm 1962 - 1991, mối quan hệ hai nước Ấn Độ - Myanmar chịu tác

động của Chiến tranh lạnh và việc lên nắm quyền của lực lượng quân sự ở

Myanmar. Nếu như thời kỳ trước (1948 - 1962), quan hệ hai nước diễn ra tốt đẹp,

góp phần nâng cao vị thế Ấn Độ trong phong trào giải phóng dân tộc và đặc biệt là

Phong trào Không liên kết; thì trong giai đoạn 1962 - 1991, dù Ấn Độ và Myanmar

vẫn tuyên bố đi theo tư tưởng không liên kết, ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc,

nhưng do tác động chủ yếu của sự biến đổi trong nội tình Myanmar nên chính sách

đối ngoại của Ấn Độ với Myanmar thời kỳ này không được chú trọng như giai đoạn

sau Chiến tranh lạnh. Việc không phát triển được mối quan hệ thân thiện với chính

phủ quân sự Myanmar trong những năm 1962 - 1991 cũng góp phần làm cho tiếng

nói của Ấn Độ ở khu vực và quốc tế giảm đi, tiêu biểu như việc Ấn Độ không thể

thuyết phục được Myanmar tái gia nhập Phong trào Không liên kết sau khi nước

này rút khỏi Phong trào vào năm 1979.

Từ cuối những năm 80 đến đầu những năm 90 của thế kỷ XX, quan hệ Ấn

Độ - Myanmar đã có những dấu hiệu cải thiện và khởi sắc. Quan hệ chính trị - ngoại

giao giữa hai nước càng có điều kiện phát triển. Điều này tác động mạnh mẽ đến

chính sách đối ngoại và vị thế của Ấn Độ, góp phần ổn định an ninh biên giới và

phát triển hoà bình giữa hai nước. Từ sau Chiến tranh lạnh trở đi, trong khi duy trì

quan hệ với chính quyền quân sự Myanmar, Ấn Độ đã cam kết không từ bỏ vấn đề

dân chủ và luôn đề cập đến việc giúp đỡ nước láng giềng xây dựng thể chế dân chủ.

Có thể nói, New Delhi đã kết hợp thành công giữa “những nỗ lực nhằm ủng hộ tiến

trình dân chủ hóa ở Myanmar với chủ nghĩa hiện thực về các vấn đề lợi ích quốc

gia” [128, tr. 19]. Với tiến trình dân chủ mà Myanmar đạt được như hiện nay đã thể

hiện được vai trò, cố gắng của Ấn Độ thông qua việc phối hợp với các nước trong

khu vực và quốc tế để giải quyết vấn đề Myanmar. Phát triển mối quan hệ chính trị

ngoại giao với Myanmar một cách tốt đẹp, tham gia giải quyết vấn đề Myanmar,

đặc biệt là những vấn đề về dân chủ đã giúp Ấn Độ nâng cao vai trò, uy tín của

mình ở khu vực và quốc tế. Mặc dù còn có những quan ngại song việc Ấn Độ định

Page 134: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

124

hướng đến Myanmar bằng chính sách can dự mang tính xây dựng cho thấy bước đột

phá trong chính sách đối ngoại của nước này.

Hiện nay Ấn Độ tiếp tục mở rộng các mối quan hệ quốc tế cũng như phạm vi

chiến lược. Không ít chính khách quan trọng của các nước khác công khai bày tỏ sự

ủng hộ Ấn Độ trong việc trở thành nước thường trực mới của Hội đồng Bảo an Liên

Hợp Quốc. Điều đó cho thấy uy tín và vai trò của Ấn Độ được nâng cao trong cộng

đồng quốc tế. Ấn Độ đang gia tăng và thúc đẩy quan hệ với Myanmar vì họ hiểu

rằng sẽ không thể định hình được cán cân quyền lực trong tương lai ở châu Á nếu

không tỏ rõ quyết tâm về chính trị trong khi đưa ra những quyết định khó khăn và

khả năng theo đuổi quyền lợi của mình. Phát triển mối quan hệ chính trị ngoại giao

tốt đẹp với Myanmar còn giúp Ấn Độ kiềm chế ý đồ của Trung Quốc trong việc lôi

kéo Myanmar vào nhóm các nước láng giềng “bán bất ổn” của Ấn Độ để bao vây và

cô lập quốc gia Nam Á này. Trên cơ sở quan hệ với Myanmar, Ấn Độ có thể rút ra

nhiều bài học để giải quyết mối quan hệ, hợp tác với các quốc gia láng giềng khác

(trên nhiều khía cạnh phù hợp), mang lại lợi ích chính trị thiết thực cho Ấn Độ.

Về kinh tế, giai đoạn 1962 - 1991 là khoảng thời gian khó khăn, đầy thử

thách trong quan hệ hai nước Ấn Độ và Myanmar. Trong giai đoạn này, hai nước

chỉ duy trì quan hệ ngoại giao ở mức độ rất hạn chế và chủ yếu trên lĩnh vực chính

trị - ngoại giao. Mặc dù cả Ấn Độ và Myanmar đều thấy được tầm quan trọng chiến

lược về kinh tế do có vị trí liền kề khi gia tăng quan hệ với nhau. Nhưng do những

nhân tố bất ổn về lịch sử, tác động của Chiến tranh lạnh nên trong giai đoạn 1962 -

1991, quan hệ hai nước trên lĩnh vực kinh tế hầu như rất mờ nhạt. Quan hệ song

phương trì trệ, lạnh nhạt đã làm cho Ấn Độ mất đi một đối tác láng giềng đầy tiềm

năng về xuất khẩu lúa gạo42 và Ấn Độ đã từng bước bị Trung Quốc vượt qua trong

quan hệ kinh tế với Myanmar trong giai đoạn nói trên.

Sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, Ấn Độ thực thi chính sách đối ngoại

“hướng Đông” thì những lợi thế về vị trí chiến lược và những tiềm năng phát triển

quan hệ kinh tế của Myanmar với Ấn Độ lại được khơi dậy mạnh mẽ. Trên thực tế,

Myanmar được coi là “cây cầu trên đất liền” nối Ấn Độ với các quốc gia có nền

42 Myanmar từng được mệnh danh là “bát gạo của châu Á”

Page 135: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

125

kinh tế năng động trong tổ chức ASEAN và Trung Quốc. Một nước Myanmar hòa

bình, ổn định sẽ hỗ trợ mạnh mẽ trong quan hệ thương mại giữa Ấn Độ với Trung

Quốc, Thái Lan, Singapore, Việt Nam và các quốc gia Đông Nam Á khác. Điều này

nhằm đảm bảo sự lưu thông trong hoạt động giao thông vận tải, tạo điều kiện cho

luồng hàng hóa chuyển từ Ấn Độ sang Trung Quốc và từ Ấn Độ sang Thái Lan diễn

ra thuận lợi. Đặc biệt, nguồn khí đốt tự nhiên dồi dào của Myanmar nếu được khai

thác sẽ đáp ứng nhu cầu năng lượng của Ấn Độ ngày càng gia tăng. Đây là một điều

cực kỳ quan trọng đối với an ninh năng lượng của Ấn Độ. Trong bối cảnh Myanmar

đang tiến hành cải cách dân chủ và mở cửa, các công ty Ấn Độ sẽ có thể đầu tư trực

tiếp vào Myanmar nhiều hơn. Cơ hội cho các công ty liên doanh tư nhân giữa Ấn

Độ và Myanmar ngày càng gia tăng và Myanmar sẽ trở thành một thị trường quan

trọng cho hàng hóa của Ấn Độ. Thêm vào đó, xuất khẩu của Ấn Độ theo đường bộ

sang các nước Đông Nam Á và tỉnh Vân Nam của Trung Quốc cũng được tăng lên

nếu Myanmar tạo ra mối liên hệ trên đất liền với khu vực Đông Bắc của Ấn Độ.

Về an ninh - quốc phòng, sự lạnh nhạt, căng thẳng trong quan hệ Ấn Độ -

Myanmar (1962 - 1991) cũng đã góp phần làm suy giảm hoạt động chống các lực

lượng nổi dậy ở biên giới hai nước, nhất là khu vực Đông Bắc Ấn Độ và Tây Bắc

Myanmar. Chính phủ Ne Win đã không có hành động đáng kể nào để kiểm soát những

lực lượng nổi dậy chống chính phủ Ấn Độ đang hoạt động trên lãnh thổ của Miến Điện

và thể hiện sự trung lập của mình trong bối cảnh Trung Quốc và Ấn Độ xảy ra xung

đột biên giới vào năm 1962. Chính điều này góp phần làm cho tình hình an ninh biên

giới của Ấn Độ bị ảnh hưởng nghiêm trọng trong gần ba thập kỷ (1962 - 1991).

Từ sau khi Ấn Độ và Myanmar cải thiện mối quan hệ (1992 - 2011), hợp tác

an ninh - quốc phòng giữa hai nước cũng được thúc đẩy và phát triển. Những thành

công trong hợp tác với Myanmar trên lĩnh vực an ninh - quốc phòng mang lại hiệu

quả và có tác động tích cực đối với an ninh quốc phòng của Ấn Độ, đặc biệt là an

ninh khu vực Đông Bắc, nơi được xem là khu vực bất ổn nhất trong an ninh nội bộ

của Ấn Độ. Hợp tác an ninh - quốc phòng Ấn Độ - Myanmar thuận lợi sẽ làm dịu

bớt mối đe dọa an ninh và sẽ giảm khoản chi tiêu cho an ninh trong nước cũng như

kiểm soát được các hoạt động buôn lậu ma túy, vũ khí ở khu vực biên giới. Qua đó,

chính phủ Ấn Độ có điều kiện tập trung sức mạnh vào việc giải quyết các vấn đề an

Page 136: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

126

ninh nội bộ khác, đặc biệt tập trung tiềm lực cho phát triển kinh tế. Tình trạng nổi

dậy tại khu vực Đông Bắc Ấn Độ được giải quyết có sự giúp đỡ của Myanmar.

Quan hệ an ninh - quốc phòng với Myanmar tiến triển tốt đẹp còn có tác động

to lớn đến chiến lược an ninh của Ấn Độ nhằm tăng cường phạm vi ảnh hưởng của

nước này và ngăn cản sự hiện diện của Trung Quốc ở Ấn Độ Dương, loại bỏ nguy cơ

tiềm ẩn khi Trung Quốc muốn sử dụng Myanmar như là một trong những căn cứ để

bao vây Ấn Độ. Trong những năm đầu thế kỷ XXI, Trung Quốc đã xây dựng một

cảng hải quân tại bờ biển Ả Rập thuộc Gwadar, Pakistan. Điều này không chỉ biến

Gwadar thành một điểm trung chuyển cho việc nhập khẩu dầu thô mà còn là một cái

cớ cho sự hiện diện hải quân của Trung Quốc ở Ấn Độ Dương, cho phép Trung

Quốc “giám sát hoạt động của Hải quân Mỹ tại vịnh Ba Tư, hoạt động của Ấn Độ ở

biển Ả rập và viễn cảnh hợp tác hàng hải giữa Mỹ và Ấn Độ ở Ấn Độ Dương” [72,

tr. 6]. Bên cạnh đó, Bangladesh đã cho phép Hải quân Trung Quốc được quyền khai

thác cảng Chittagong, nơi mà từ lâu Ấn Độ đã nhắm đến để sử dụng làm nơi trung

chuyển dầu khí tự nhiên từ Myanmar lên vùng Đông Bắc Ấn Độ. Vào tháng 4-2005,

Trung Quốc và Sri Lanka đã ký kết một thoả thuận tổng thể cho phép Trung Quốc

được quyền sử dụng các bến cảng ở Colombo, qua đó vào Ấn Độ Dương. Do đó,

New Delhi tin rằng “sự can dự của Trung Quốc ở Myanmar đồng nghĩa với việc Ấn

Độ bị Bắc Kinh bao vây từ ba phía và phạm vi ảnh hưởng của Ấn Độ bị bỏ ngỏ

không có một “nước đệm”43 nào” [72, tr. 7]. Do vậy, Ấn Độ cần phải nỗ lực cải

thiện và tăng cường quan hệ với Myanmar để phá vỡ thế chiến lược bao vây của

Trung Quốc cũng như trung lập hóa ảnh hưởng của nước này ở Myanmar.

5.3.2. Đối với Myanmar

Về chính trị - ngoại giao, giai đoạn 1962 - 1991 là khoảng thời gian có nhiều

biến đổi to lớn đối với tình hình chính trị của Myanmar. Với việc giới lãnh đạo quân

sự lên nắm quyền, sự cấm vận của Mỹ và các nước phương Tây, sự tác động của

Chiến tranh lạnh, quan hệ Myanmar - Ấn Độ bước vào những năm tháng đầy trở

ngại. Điều đó đã tác động rất lớn đến chính trị của Myanmar và quan hệ giữa Ấn Độ

và Myanmar trên lĩnh vực chính trị - ngoại giao. Việc hạn chế ngoại giao với Ấn Độ

43 nước trung lập nhỏ giữa hai nước lớn (Myanmar - tác giả chú)

Page 137: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

127

trong những năm 1962 - 1991 đã góp phần khiến Myanmar dần mất đi một “người

láng giềng thân thiết”, một quốc gia dân chủ luôn ủng hộ nhân dân nước này trong

những năm tháng đấu tranh giải phóng dân tộc và sau khi giành độc lập. Thêm vào

đó, với chính sách đối ngoại trung lập “không bạn, không thù”, vị thế của Myanmar

ở khu vực và trên thế giới ngày càng suy giảm và lệ thuộc chặt chẽ vào Trung Quốc.

Sau khi Tướng Ne Win lên nắm quyền (năm 1962) và nhất là từ sau năm 1988, cộng

đồng quốc tế biết đến Myanmar chỉ là một nước bị cô lập và bị cấm vận. Điều này

đã hoàn toàn không có lợi cho Myanmar trên con đường hội nhập quốc tế.

Sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, quan hệ giữa Myanmar với Ấn Độ dần

dần được cải thiện. Sự hợp tác ngày càng đa dạng và chặt chẽ với Ấn Độ trong suốt

gần hai thập kỷ qua kể từ sau năm 1991 đã góp phần cải thiện, nâng cao hình ảnh

của Myanmar trên trường quốc tế, đặc biệt là hình ảnh về một quốc gia đã đạt được

những kết quả bước đầu về lộ trình dân chủ. Từ đầu thế kỷ XXI, Myanmar đã thực

hiện đa dạng hóa chính sách đối ngoại và quan tâm phát triển mối quan hệ với Ấn

Độ. Điều này có thể nhìn nhận như là một sự tìm kiếm của Myanmar trong đóng

góp của Ấn Độ cho phát triển kinh tế, an ninh và đặc biệt là sự ủng hộ về mặt chính

trị và vị thế quốc tế cho Myanmar. Gia tăng quan hệ với nước có nền dân chủ truyền

thống như Ấn Độ sẽ tạo điều kiện đảm bảo cho chính quyền quân sự Myanmar về

triển vọng của một nền dân chủ, mặt khác, có thể cân bằng quan hệ với hai nước

láng giềng lớn (Ấn Độ, Trung Quốc). Động thái này đã phản ánh nỗ lực của

Myanmar trong việc tìm kiếm quan hệ với các đối tác lớn nhằm giảm thiểu những

ảnh hưởng tiêu cực từ sự cô lập về chính trị mà Mỹ và phương Tây áp đặt với quốc

gia này. Chính mối quan hệ nước đôi với Trung Quốc và Ấn Độ - hai nước có vai

trò, uy thế chính trị to lớn trên trường quốc tế - đã giúp chính quyền quân sự

Myanmar đứng vững trước đòn trừng phạt của phương Tây, làm giảm áp lực quốc

tế đối với các vấn đề dân chủ, nhân quyền trong nước. Bên cạnh đó, mối quan hệ

với Ấn Độ còn giúp Myanmar giảm bớt áp lực và sự phụ thuộc vào Trung Quốc,

đẩy nhanh tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế của đất nước này.

Về mặt kinh tế, sau khi hai nước Ấn Độ và Myanmar chính thức thiết lập

quan hệ ngoại giao (năm 1948), Ấn Độ là nước có nhiều đóng góp trong việc xây

dựng và phát triển kinh tế của Myanmar. Tuy nhiên từ sau năm 1962, mối quan hệ

Page 138: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

128

hai nước đã chuyển sang giai đoạn trì trệ, kém phát triển, tác động đến tình hình

kinh tế Myanmar. Mối quan hệ Ấn Độ - Myanmar trên lĩnh vực kinh tế giai đoạn từ

đầu những năm 60 đến cuối những năm 80 của thế kỷ XX diễn ra hết sức mờ nhạt.

Trong suốt gần ba thập kỷ (1962 - 1991), nền kinh tế Myanmar thiếu đi một đối tác

thương mại lớn của khu vực là Ấn Độ và ngày càng bị lệ thuộc vào Trung Quốc.

Từ những năm 90 của thế kỷ XX, với chính sách mở cửa hội nhập của chính

quyền quân sự Myanmar và sự cải thiện quan hệ Myanmar - Ấn Độ, nền kinh tế

Myanmar mới được đa dạng hoá. Nhờ đó, quan hệ kinh tế Ấn Độ - Myanmar có điều

kiện phát triển, mang lại lợi ích cho cả hai nước. Phát triển mối quan hệ nói chung và

hợp tác kinh tế nói riêng với Ấn Độ mang lại nhiều lợi ích và có tác động to lớn tới

kinh tế Myanmar. Đối với Myanmar, cả Ấn Độ và Trung Quốc (được xem là đối thủ

của nhau) đều tỏ ra rất hào phóng trong việc trợ giúp cho Myanmar phát triển kinh

tế. Chính quyền Myanmar trong một thời kỳ dài cũng đã khai thác tâm lý lo ngại lẫn

nhau của cả Trung Quốc và Ấn Độ để mặc cả những đòi hỏi và nhượng bộ, qua đó

đẩy Ấn Độ và Trung Quốc vào tình thế cạnh tranh nhau và Myanmar nghiễm nhiên

được lợi. Do đó, mặc dù bị lệnh cấm vận kinh tế của Mỹ và các nước phương Tây và

bị liệt vào một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới nhưng chính quyền

Myanmar vẫn đứng vững là nhờ vào quan hệ với Trung Quốc và Ấn Độ và một số

nước khác trong khu vực. Ấn Độ hiện đang là một đối tác kinh tế quan trọng của

Myanmar, đặc biệt về thương mại. Đáng kể nhất là việc Ấn Độ luôn cấp các khoản

vốn ưu đãi hay dưới dạng tài trợ để đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng cho

Myanmar, giúp nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng vốn rất lạc hậu của nước này. Nhìn

chung, hợp tác với Ấn Độ trong các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng và điều chỉnh dần

nền kinh tế sẽ giúp chính quyền Myanmar ổn định tình hình, nâng cao đời sống của

nhân dân. Việc Ấn Độ tham gia vào các ngành kinh tế của Myanmar, đặc biệt là

trong lĩnh vực khai thác dầu mỏ và khí đốt, tạo ra một cuộc cạnh tranh giữa các nước

và mang lại một nguồn lợi ích to lớn cho Myanmar. Qua đó còn nâng cao vai trò của

nước này trong khu vực cũng như trên thế giới, nhất là trong giai đoạn hiện nay.

Về an ninh - quốc phòng, hợp tác với Ấn Độ, một quốc gia có tiềm năng

quân sự mạnh trong khu vực và trên thế giới sẽ giúp Myanmar có điều kiện và kinh

nghiệm để nâng cao khả năng tác chiến cho quân đội thông qua các cuộc tập trận

Page 139: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

129

chung, phối hợp tác chiến giữa quân đội hai nước ở khu vực biên giới... Ngoài ra,

hàng năm Ấn Độ còn mở các khoá đào tạo sĩ quan quân đội cho Myanmar tại các

học viện quân sự của nước này, góp phần to lớn trong việc cải thiện nền an ninh -

quốc phòng Myanmar. Từ năm 1997, EU và Mỹ đã ban hành lệnh cấm vận vũ khí

đối với Myanmar, trong khi Myanmar đang chống lại sự nổi dậy của các nhóm sắc

tộc trong nước. Trong bối cảnh đó, Ấn Độ trở thành một trong hai nước chủ chốt

cung cấp vũ khí cho Myanmar từ khi hai nước chính thức nối lại quan hệ đã làm

giảm sức ép quốc tế cũng như tác dụng việc cấm vận vũ khí của Mỹ và EU đối với

Myanmar. Chính quyền quân sự Myanmar đã tận dụng nguồn vũ khí của Ấn Độ

cung cấp để tiêu diệt các lực lượng chống đối trong nước, giải quyết phần nào việc

buôn bán ma túy - vấn nạn quốc gia qua khu vực biên giới hai nước.

5.3.3. Đối với khu vực

Có thể nói cho đến thời điểm nghiên cứu, quan hệ Ấn Độ - Myanmar (1962 -

2011) đã đạt được những lợi ích đáng kể đối với khu vực. Việc tăng cường các cơ

chế đối thoại song phương giữa Ấn Độ và Myanmar trong hơn một thập kỷ qua đã

mở ra khả năng xây dựng một liên minh chiến lược mạnh mẽ ở phía Đông. Cả

Myanmar và Ấn Độ đều chia sẻ mối quan tâm đến an ninh chung dọc biên giới hai

nước. Vì vậy, một sự gia tăng phụ thuộc về kinh tế và an ninh giữa hai nước có thể

mở ra một môi trường an toàn và thân thiện trong khu vực. Đặc biệt, hợp tác quốc

phòng an ninh Ấn Độ - Myanmar có tác động rất lớn đến an ninh, hòa bình, thịnh

vượng của khu vực và thế giới (nạn buôn bán ma túy, vũ khí, khủng bố, buôn lậu...

sẽ bị hạn chế và được kiểm soát có hiệu quả hơn). Nhưng mặt khác, những biện

pháp chiến lược của Ấn Độ và Trung Quốc tại Myanmar sẽ trở thành điểm nóng

đầy tiềm ẩn giữa Ấn Độ và Trung Quốc vì hai nước đều là các cường quốc hạt

nhân. Một nước Myanmar hòa bình và ổn định trong xu thế hiện nay sẽ có thể đảo

ngược thế đối đầu giữa Ấn Độ và Trung Quốc trong nhiều vấn đề chiến lược. Ấn

Độ sẽ hài lòng khi Trung Quốc rút dần sự trợ giúp quân sự cho Myanmar. Tuy

nhiên, hiện vẫn còn nhiều thách thức hơn nữa giữa Ấn Độ và Trung Quốc chẳng

hạn như những mối đe dọa an ninh phi truyền thống và sự nổi dậy của các lực lượng

biên giới hai nước... Từ khi Myanmar trở thành thành viên của ASEAN, những lo

ngại của Ấn Độ trong việc nước này trở thành vệ tinh của Trung Quốc đã giảm dần.

Page 140: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

130

Phát triển mối quan hệ Ấn Độ - Myanmar sẽ góp phần to lớn trong việc thúc

đẩy sự ổn định khu vực, thúc đẩy và nâng cao vai trò của tổ chức ASEAN. Các

nước ASEAN luôn kỳ vọng vào chính sách can dự của Ấn Độ đối với các vấn đề

của Myanmar và đã nhiều lần vận động Ấn Độ đưa ra lập trường chung, gây sức ép

với chính quyền quân sự Myanmar về các vấn đề dân chủ và nhân quyền. Trong

một thời gian dài, Myanmar đã làm giảm lòng tin của các nước ASEAN, khiến cho

mối quan hệ giữa Myanmar và ASEAN có dấu hiệu rạn nứt. Myanmar cũng nhiều

lần bất mãn với các lời chỉ trích của ASEAN về tình hình nhân quyền và một số vấn

đề nội bộ khác. ASEAN bị cộng đồng quốc tế, nhất là các tổ chức nhân quyền nhiều

lần gây sức ép về tình trạng nhân quyền và mất dân chủ ở Myanmar. Việc một quốc

gia có nền dân chủ truyền thống như Ấn Độ thực hiện chính sách “can dự mang

tính xây dựng” hay “can dự tích cực” đối với Myanmar từ đầu những năm 90 của

thế kỷ XX đã góp phần to lớn trong việc hỗ trợ ASEAN giải quyết các vấn đề của

Myanmar, điều này được thể hiện rất rõ qua phát biểu của Ngoại trưởng Indonesia

H. Wirayuda: “Vấn đề Myanmar là một vấn đề phức tạp đối với ASEAN, chúng tôi

phải thừa nhận điều đó nhưng chúng ta không nên coi đó chỉ là gánh nặng đối với

khu vực ASEAN. Vẫn còn những nước lớn khác có ảnh hưởng đáng kể đó là Trung

Quốc và Ấn Độ. Hai nước này có thể thúc đẩy dân chủ ở Myanmar” [38, tr. 5].

Tiểu kết chương

Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng, tiến trình của mối quan hệ Ấn Độ -

Myanmar giai đoạn 1962 - 2011, chương này tập trung trình bày, luận giải những

thành tựu, hạn chế trong quan hệ hai nước, đồng thời rút ra một số nhận xét về đặc

điểm đánh giá tác động của mối quan hệ này. Có thể khẳng định, quan hệ Ấn Độ -

Myanmar từ năm 1962 đến năm 2011 diễn biến phức tạp, thăng trầm nhưng đã đạt

được nhiều thành tựu khả quan trên các lĩnh vực chủ yếu: Chính trị - ngoại giao,

kinh tế, an ninh - quốc phòng và hợp tác đa phương (nhất là trong giai đoạn 1992 -

2011). Tuy nhiên, mối quan hệ này vẫn còn tồn tại một số hạn chế và khó khăn nhất

định. Về chính trị - ngoại giao, quan hệ Ấn Độ - Myanmar giai đoạn 1962 - 2011

vẫn còn thiếu tính nhất quán và ổn định, nhất là trong những năm 1962 - 1991. Về

kinh tế, quan hệ hai nước từ năm 1962 đến năm 1991 diễn ra hết sức hạn chế. Trong

Page 141: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

131

giai đoạn 1992 - 2011, quan hệ thương mại giữa Myanmar với Ấn Độ vẫn còn ở

mức khiêm tốn so với thương mại giữa Myanmar với Trung Quốc và một số nước

Đông Nam Á khác, cụ thể là nước láng giềng Thái Lan. Hoạt động đầu tư chủ yếu

mang tính một chiều về phía Ấn Độ. Quan hệ Ấn Độ - Myanmar giai đoạn 1962 -

1991 trên lĩnh vực an ninh - quốc phòng hầu như vắng bóng cho đến thập niên đầu

thế kỷ XXI và vẫn chưa thể so sánh được với hợp tác an ninh - quốc phòng Trung

Quốc - Myanmar. Quan hệ an ninh - quốc phòng giữa Ấn Độ và Myanmar vẫn còn

nhiều thách thức khó đoán định do những biến động của nhân tố quốc tế và trong

nước, đặc biệt nhất là vấn đề an ninh biên giới. Ngoài ra, nhân tố Trung Quốc cũng

là một thách thức nữa mà quan hệ Ấn Độ - Myanmar luôn phải đối mặt. Đây là

nhân tố vừa cản trở lại vừa thúc đẩy mối quan hệ phát triển.

Từ việc nghiên cứu quan hệ Ấn Độ - Myanmar (1962 - 2011), nội dung

chương này đã đưa ra một số đặc điểm chủ yếu của mối quan hệ này. Thứ nhất,

quan hệ Ấn Độ - Myanmar (1962 - 2011) diễn ra phức tạp, có thăng trầm nhưng

chưa bao giờ bị đứt đoạn. Thứ hai, quan hệ Ấn Độ - Myanmar là mối quan hệ giữa

hai quốc gia đang phát triển cùng theo đuổi chính sách trung lập và không liên kết.

Thứ ba, quan hệ Ấn Độ - Myanmar diễn tiến theo hướng điều chỉnh, mở rộng phạm

vi hợp tác, phát triển gắn liền với xu thế hội nhập khu vực, hoà bình, phát triển của

thế giới sau Chiến tranh lạnh. Thứ tư, quan hệ Ấn Độ - Myanmar (1962 - 2011)

chịu sự tác động thường xuyên và mạnh mẽ bởi nhân tố Trung Quốc. Đây là nhân tố

vừa cản trở lại vừa thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển. Thứ năm, quan hệ Ấn Độ -

Myanmar (1962 - 2011) luôn bị chi phối bởi vấn đề dân chủ ở Myanmar

Bên cạnh đó, nội dung chương này cũng phân tích những tác động của quan

hệ Ấn Độ - Myanmar (1962 - 2011) đối với hai nước và khu vực trên các lĩnh vực

chủ yếu: Chính trị - ngoại giao, kinh tế và an ninh - quốc phòng. Ngoài ra, những

thành tựu khá toàn diện của quan hệ Ấn Độ - Myanmar trong giai đoạn nói trên cũng

tác động có lợi đến các nước ở khu vực Nam Á và Đông Nam Á, góp phần tạo một

môi trường hoà bình, an ninh trong khu vực. Mặc dù vẫn còn những khó khăn và hạn

chế, nhưng quan hệ hai nước đầu thế kỷ XXI vẫn diễn tiến theo xu hướng thuận lợi,

toàn diện hơn, góp phần đáng kể cho sự phát triển của mỗi nước và khu vực.

Page 142: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

132

KẾT LUẬN

Từ cơ sở địa - chính trị, lịch sử, văn hóa, tôn giáo... và tác động của những

nhân tố quốc tế, khu vực cũng như những chuyển biến nội tình hai nước, quan hệ

Ấn Độ - Myanmar đã được hình thành và phát triển. Trong những năm 1886 - 1937,

Myanmar đã từng là một phần lãnh thổ của Ấn Độ thuộc Anh. Phong trào đấu tranh

giải phóng dân tộc, đòi tự do dân chủ ở Ấn Độ đã lan rộng sang nước láng giềng

Myanmar. Có thể nói, những mối liên hệ về chính trị, văn hóa, tôn giáo, xã hội của

Ấn Độ và Myanmar trong quá khứ đã đặt cơ sở cho quan hệ hai nước trong hiện tại.

1. Quan hệ giữa Ấn Độ và Myanmar từ năm 1962 đến năm 2011 trải qua hai

giai đoạn thăng trầm khác nhau và mang những nét riêng biệt: 1962 - 1991 và 1992

- 2011. Trước đó, quan hệ hai nước từ sau khi giành độc lập (năm 1948) đến trước

năm 1962 nhìn chung là hữu nghị và thân thiện. Năm 1962, chế độ quân sự được

thiết lập ở Myanmar đã tác động xấu đến sự tiến triển quan hệ song phương của hai

nước. Ấn Độ và Myanmar trải qua thời kỳ “băng giá” kéo dài do những bất đồng

trong đối ngoại. Mối quan hệ này từ năm 1962 đến năm 1991 diễn ra chủ yếu trên

lĩnh vực chính trị - ngoại giao, các lĩnh vực khác hạn chế và mờ nhạt. Cho đến trước

năm 1988, Ấn Độ vẫn duy trì chính sách hợp tác, giúp đỡ Myanmar ở nhiều cấp độ

khác nhau. Tuy nhiên từ sau sự kiện “8888”, mối quan hệ hai nước bị rơi xuống

điểm thấp nhất. Ấn Độ đã thay đổi chính sách đối với Myanmar, từ thái độ hợp tác

chuyển sang lên án mạnh mẽ những hành động vi phạm nhân quyền của chính phủ

quân sự đối với những người đấu tranh cho nền dân chủ của Myanmar. Đến đầu

những năm 90 của thế kỷ XX, quan hệ hai nước bắt đầu được cải thiện. Mặc dù lực

lượng quân sự vẫn nắm quyền ở Myanmar nhưng tư tưởng lúc bấy giờ đã cởi mở

hơn, dân chủ hơn và có xu hướng mở rộng đối thoại với các nước, trong đó có Ấn

Độ. Sự xích lại gần nhau giữa Ấn Độ và Myanmar trong những năm 80 - 90 của thế

kỷ XX đã đặt nền tảng cho sự phát triển quan hệ hai nước giai đoạn tiếp sau.

2. Trong giai đoạn sau Chiến tranh lạnh (1992 - 2011), quan hệ Ấn Độ -

Myanmar phát triển mạnh dưới những tác động của sự điều chỉnh chính sách đối

ngoại hai nước và sự cộng hưởng của bối cảnh quốc tế, khu vực mới. Mối quan hệ

Page 143: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

133

này được phát triển trên cơ sở kế thừa những thành tựu của giai đoạn trước nhưng

thay vì trước đây chủ yếu hợp tác trên lĩnh vực chính trị, thì từ những năm 1992 -

2011 đã phát triển toàn diện, khởi sắc và tốt đẹp trên nhiều mặt cả về bề rộng lẫn

chiều sâu. Quan hệ chính trị - ngoại giao giữa Ấn Độ và Myanmar được thể hiện đa

dạng, phong phú thông qua các cuộc hội đàm của lãnh đạo hai nước; các cuộc gặp

gỡ cấp cao, cấp lãnh đạo địa phương cùng các hình thức ngoại giao khác như ngoại

giao nhân dân... với các cơ chế song phương, đa phương... Các hiệp định, hiệp ước,

các tuyên bố, thông cáo và các loại văn bản khác đã được ký kết từ hai phía đã tạo

nền tảng pháp lý và là cơ sở định hướng cho những hoạt động trên các lĩnh vực

khác: Thương mại, đầu tư, năng lượng, an ninh - quốc phòng... Nếu quan hệ Ấn Độ

- Myanmar về chính trị - ngoại giao được tiếp nối giai đoạn trước thì quan hệ kinh

tế đặc biệt khởi sắc từ sau năm 1992, bước đầu đạt được những thành tựu đáng kể

cho sự phát triển của hai nước. Trong giai đoạn 1992 - 2011, quan hệ Ấn Độ -

Myanmar đã có những điều chỉnh mới nhằm vươn tới đối tác hợp tác chiến lược

toàn diện và mở rộng hơn trong các cơ chế đa phương. Mối quan hệ giữa hai nước

càng có điều kiện phát triển nhằm khai thác có hiệu quả những lợi thế so sánh của

nhau. Về an ninh - quốc phòng, quan hệ Ấn Độ - Myanmar diễn ra tốt đẹp, ngày

càng được mở rộng về nhiều phương diện: Các cuộc gặp gỡ cấp cao giữa hai nước

về quân sự, an ninh biên giới, chống buôn lậu, chuyển giao vũ khí cũng như hỗ trợ

đào tạo quân đội hoặc tập trận chung... Ngoài ra, từ sau năm 1992, quan hệ Ấn Độ -

Myanmar còn chịu tác động của chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá, nhiều tầng

nấc của các tổ chức quốc tế, khu vực. Do vậy, quan hệ hai nước không chỉ diễn ra

song phương mà còn phát triển trong cơ chế hợp tác đa phương (BIMSTEC, MGC,

ARF, SAARC...). Trong những năm 1992 - 2011, quan hệ Ấn Độ - Myanmar đã đạt

được nhiều thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực, mang lại lợi ích không chỉ cho hai

nước mà còn đóng góp tích cực cho hoà bình, ổn định và phát triển của khu vực.

3. Bên cạnh đó, trong quan hệ Ấn Độ - Myanmar (1962 - 2011), nhân tố

Trung Quốc luôn tác động thường xuyên và liên tục. Trung Quốc là một nước lớn ở

châu lục có biên giới liền kề với cả hai nước Ấn Độ và Myanmar. Trung Quốc có

mối quan hệ mật thiết với Myanmar từ trong những năm Chiến tranh lạnh, là một

đối tác thương mại lớn nhất và là nơi hậu thuẫn vững chắc giúp chế độ quân sự

Page 144: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

134

Myanmar đứng vững trước các lệnh cấm vận của Mỹ và các nước phương Tây, lệnh

trừng phạt của Liên Hợp Quốc về các vụ đàn áp dân chủ và vi phạm nhân quyền

trong nước. Sự suy giảm trong quan hệ giữa Ấn Độ với Myanmar (nhất là từ năm

1962 trở đi) đã góp phần đẩy Myanmar lại gần hơn với Trung Quốc, đến mức gần

như là quan hệ anh em. Những phân tích trên cho thấy Ấn Độ sẽ phải tiếp tục tìm

mọi cách để hạn chế ảnh hưởng của Trung Quốc, xác lập vị thế của Ấn Độ ở

Myanmar nói riêng và khu vực nói chung. Về phía Myanmar, giới cầm quyền cũng

đã sớm nhận thấy họ cần Ấn Độ để giảm bớt sự quá lệ thuộc vào Trung Quốc và mở

rộng chính sách đối ngoại đa phương nhằm mang lại lợi ích cao nhất cho đất nước.

4. Trong gần nửa thế kỷ của mối quan hệ Ấn Độ - Myanmar (1962 - 2011),

mặc dù vẫn còn tồn tại một số hạn chế, khó khăn nhất định nhưng hai nước đã đạt

được nhiều thành quả đáng ghi nhận trong các lĩnh vực hợp tác cụ thể: Chính trị -

ngoại giao, kinh tế và an ninh quốc phòng theo cơ chế song phương và cả đa

phương. Quan hệ giữa Ấn Độ với Myanmar (1962 - 2011) mang nhiều đặc điểm

riêng biệt gắn liền với sự thăng trầm trong tiến trình hợp tác giữa hai nước. Mối

quan hệ này cũng đã có tác động to lớn đến Ấn Độ và Myanmar cũng như tình hình

an ninh khu vực Nam Á, châu Á - Thái Bình Dương và Đông Nam Á.

5. Dựa trên việc phân tích quan hệ hai nước trong những năm gần đây, dưới

tác động của xu thế hội nhập trong quan hệ quốc tế, chính sách đối ngoại đa dạng

hoá, đa phương hoá của Ấn Độ và Myanmar, có thể thấy mối quan hệ hai nước vào

thập niên thứ hai của thế kỷ XXI đang diễn tiến theo chiều hướng tốt đẹp. Mặc dù

còn tồn tại không ít khó khăn, trở ngại (vấn đề an ninh khu vực biên giới, tội phạm

ma tuý, sự lôi kéo của Trung Quốc...), quan hệ Ấn Độ - Myanmar vẫn phát triển

trên cơ sở nền tảng vững chắc, ngày càng đóng góp cho lợi ích và nâng cao vị thế

của hai nước ở khu vực và quốc tế, thúc đẩy quan hệ song phương bước sang một

thời kỳ tốt đẹp hơn trong những năm tiếp theo.

Page 145: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

135

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ

CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Nguyễn Tuấn Bình (2013), “Hợp tác năng lượng giữa Ấn Độ và Trung Quốc

(2001 - 2010) - Thành tựu và những vấn đề đặt ra”, Tạp chí Nghiên cứu Ấn Độ

và Châu Á, số 05 (06), ISSN 0866-7314, tr. 30-42.

2. Hoàng Thị Minh Hoa, Nguyễn Tuấn Bình (2014), “Chính sách của Ấn Độ đối

với Đông Bắc Á đầu thế kỷ XXI - Những thành tựu và một số vấn đề gay cấn”,

Tạp chí Nghiên cứu Ấn Độ và Châu Á, số 01 (14), ISSN 0866-7314, tr. 27-42.

3. Hoàng Thị Minh Hoa, Nguyễn Tuấn Bình (2014), “Myanmar trong chính sách

tái cân bằng của Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương”, Tạp chí Nghiên cứu Đông

Nam Á, số 02 (167), ISSN 0868-2739, tr. 35-41.

4. Nguyễn Tuấn Bình, Đoàn Thị Hương Thảo (2014), “Kinh tế Miến Điện thời kỳ

thuộc Anh (1886 - 1948)”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Cán bộ trẻ các trường Đại

học Sư phạm toàn quốc lần thứ IV, Nxb. Đại học Sư phạm Hà Nội, tr. 57-66.

5. Hoang Thi Minh Hoa, Nguyen Tuan Binh (2014), “Myanmar in India’s Look

East Policy”, Proceedings of the 3rd International Conference on Language,

Society, and Culture in Asian Contexts (LSCAC 2014) on “Asian Dynamics:

Prospects and Challenges”, Mahasarakham University, Thailand, p. 561-568.

6. Nguyễn Tuấn Bình (2015), “Đông Bắc Á trong chính sách “hướng Đông” của

Ấn Độ những năm đầu thế kỷ XXI: Một số vấn đề đặt ra”, Kỷ yếu Hội thảo

khoa học quốc tế “Điều chỉnh chính sách “hướng Đông” của Ấn Độ trong bối

cảnh mới”, Viện Nghiên cứu Ấn Độ và Tây Nam Á, Hà Nội, tr. 184-201.

7. Nguyễn Tuấn Bình (2015), “Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Ấn Độ đối

với Trung Quốc trong hai thập niên sau Chiến tranh lạnh (1991 - 2011)”, Kỷ yếu

Hội thảo khoa học Cán bộ trẻ các trường Đại học Sư phạm toàn quốc lần thứ

V, Nxb. Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, tr. 267-275.

8. Nguyễn Tuấn Bình (2015), “Quan hệ Ấn Độ - ASEAN trong hai thập niên sau

Chiến tranh lạnh: Thành tựu và tác động”, Tạp chí Nghiên cứu Ấn Độ và Châu

Á, số 6 (31), ISSN 0866-7314, tr. 01-12.

Page 146: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

136

9. Nguyễn Tuấn Bình (2016), “Quan hệ Ấn Độ - Myanmar trong lĩnh vực dầu khí

những năm đầu thế kỷ XXI”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 03 (192),

ISSN 0868-2739, tr. 10-16.

10. Lê Văn Anh, Hoàng Thị Minh Hoa (đồng chủ biên), Bùi Thị Thảo, Nguyễn

Tuấn Bình (2016), Quan hệ quốc tế thời hiện đại, Nxb. Đại học Huế, Huế.

11. Nguyễn Tuấn Bình (2016), “Chính sách “hướng Đông” của Ấn Độ và tác động

của nó đến quan hệ Ấn Độ - Myanmar những năm đầu thế kỷ XXI”, Tạp chí

Khoa học Đại học Huế, tập 125, số 11, ISSN 1859-1388, tr. 5-16.

12. Nguyễn Tuấn Bình (2017), “Quan hệ an ninh - chính trị giữa Ấn Độ và

Myanmar (1948 - 1991)”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Trường Đại học

Khoa học - Đại học Huế, tập 9, số 2, ISSN 2354-0850, tr. 85-97.

13. Nguyễn Tuấn Bình (2017), “Hợp tác thương mại và đầu tư giữa Ấn Độ với

Myanmar trong thập niên đầu thế kỷ XXI”, Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Trẻ

2017, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế, Nxb. Thông tin và Truyền

thông, Chi nhánh thành phố Đà Nẵng, tr. 146-154.

14. Đặng Văn Chương, Nguyễn Tuấn Bình (2017), “Chính sách đối ngoại của Ấn

Độ đối với Myanmar giai đoạn 1962 - 1992: Từ Chủ nghĩa lý tưởng đến Chủ

nghĩa hiện thực”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 11 (212), ISSN 0868-

2739, tr. 3-10.

Page 147: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

137

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT

1. Lê Văn Anh, Hoàng Thị Minh Hoa (đồng chủ biên), Bùi Thị Thảo, Nguyễn

Tuấn Bình (2016), Quan hệ quốc tế thời hiện đại, Nxb. Đại học Huế, Huế.

2. Lê Thế Cường (2011), “Đường lối không liên kết của Ấn Độ: nhận thức từ

hiệp ước hòa bình, hữu nghị và hợp tác Ấn Độ - Liên Xô năm 1971”, Tạp chí

Nghiên cứu Lịch sử, số 1, tr. 43-48.

3. Lê Thế Cường, Phan Thị Châu (2016) “Quan hệ thương mại và đầu tư giữa

Ấn Độ và Myanmar từ năm 2010 đến 2015”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam

Á, số 7, tr. 53-58.

4. Nguyễn Duy Dũng (chủ biên, 2013), Myanmar: Cuộc cải cách vẫn đang tiếp

diễn, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

5. Đàm Thị Đào (2015), “Chính sách đối ngoại trung lập của Miến Điện giai

đoạn 1962 - 1988”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 5, tr. 14-22.

6. Đàm Thị Đào (2015), “Quan hệ đối ngoại của Myanmar với Trung Quốc giai

đoạn 1988 - 2003”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 11, tr. 15-21.

7. Trần Văn Đào, Phan Doãn Nam (2001), Lịch sử quan hệ quốc tế (1945 -

1990), Học viện Quan hệ quốc tế, Hà Nội.

8. Đỗ Đức Định (1999), 50 năm kinh tế Ấn Độ, Nxb. Thế giới, Hà Nội.

9. Lê Thị Quí Đức (2014), “Quan hệ Ấn Độ - Myanmar giai đoạn 1947 - 1962”,

Tạp chí Nghiên cứu Ấn Độ và châu Á, số 7, tr. 40-49.

10. Daniel George Edward Hall (1997), Lịch sử Đông Nam Á, (bản dịch của Bùi

Thanh Sơn, Nguyễn Thái Yên Hương, Hoàng Anh Tuấn, Nguyễn Vũ Tùng,

Đoàn Thắng), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

11. Văn Trung Hiếu (2013), “Cải cách và mở cửa ở Myanmar”, Tạp chí Nghiên

cứu Đông Nam Á, số 5, tr. 24-31.

12. Hoàng Thị Minh Hoa (2009), “Chính sách hướng Đông của Ấn Độ và tác

động của nó tới quan hệ Ấn Độ - Trung Quốc”, Tạp chí Những vấn đề kinh tế

và chính trị thế giới, số 9, tr. 3-9.

Page 148: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

138

13. Hoàng Thị Minh Hoa (2012), “Chính sách đối ngoại của Ấn Độ với Đông

Nam Á giai đoạn 1991 - 2010 và tác động của nó”, Tạp chí Những vấn đề

kinh tế và chính trị thế giới, số 1, tr. 49-59.

14. Hoàng Thị Minh Hoa, Lê Thị Quí Đức (2013), “Quan hệ Ấn Độ - Myanmar

giai đoạn 1962 - 2000”, Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư

phạm - Đại học Huế, số 1 (25), tr. 47-55.

15. Hoàng Thị Minh Hoa, Phạm Văn Mười (2012), “Myanmar trong chính sách

của Trung Quốc thập niên cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI”, Tạp chí

Nghiên cứu Ấn Độ và châu Á, số 2, tr. 66-76.

16. Nguyễn Cảnh Huệ (1998), “Tìm hiểu tư tưởng hoà bình trong chính sách đối

ngoại của nước Cộng hoà Ấn Độ”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 3, tr. 59-65.

17. Nguyễn Quốc Hùng (2011), “Ấn Độ với Phong trào Không liên kết”, Tạp chí

Nghiên cứu Đông Nam Á, số 11, tr. 24-30.

18. Trần Khánh (2002), “Vị thế địa - chính trị Đông Nam Á thập niên đầu thế kỷ

XXI”, Tạp chí Cộng sản, số 21, tr. 60-64.

19. Trần Khánh (2012), “Cạnh tranh chiến lược của Trung Quốc, Mỹ và Ấn Độ

ở Myanmar: Thực trạng và triển vọng”, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, số 4, tr.

131-154.

20. Trần Thị Lý (chủ biên, 2002), Sự điều chỉnh chính sách của Cộng hòa Ấn Độ

từ 1991 đến 2000, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

21. Phạm Bình Minh (chủ biên, 2012), Cục diện thế giới đến 2020, Nxb. Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

22. Vũ Dương Ninh (chủ biên, 1995), Lịch sử Ấn Độ, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

23. Lương Ninh (chủ biên), Đỗ Thanh Bình, Trần Thị Vinh (2005), Lịch sử

Đông Nam Á, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

24. Ngô Minh Oanh (2005), “Tư tưởng không liên kết ở Ấn Độ từ Jawaharlal

Nehru đến Indira Gandhi”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 2, tr. 52-59.

25. Cao Xuân Phổ, Trần Thị Lý (đồng chủ biên, 1997), Ấn Độ xưa và nay, Nxb.

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

26. Chu Công Phùng (chủ biên, 2011), Myanmar - Lịch sử và hiện tại, Nxb.

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

Page 149: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

139

27. Lê Văn Sang (chủ biên, 2005), Cục diện kinh tế thế giới hai thập niên đầu

thế kỷ XXI, Nxb. Thế giới, Hà Nội.

28. Mẫn Huyền Sâm (2013), “Cải cách dân chủ ở Myanmar: Nguyên nhân và tác

động”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 1, tr. 72-77.

29. Nguyễn Xuân Sơn, Nguyễn Văn Du (2006), Chiến lược đối ngoại của các

nước lớn và quan hệ với Việt Nam trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI, Nxb.

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

30. Nguyễn Trường Sơn (2015), Hướng về phía Đông - Một chiến lược lớn của

Ấn Độ, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

31. Đào Tuấn Thành (2013), ““Lộ trình dân chủ bảy bước” và quá trình dân chủ

hoá ở Myanmar”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 11, tr. 3-16.

32. Tôn Sinh Thành (2001), “Vài suy nghĩ về tư duy đối ngoại của Ấn Độ”, Tạp

chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 6, tr. 46-49.

33. Vũ Quang Thiện (1997), Quá trình phát triển của Myanmar, Nxb. Khoa học

Xã hội, Hà Nội.

34. Vũ Quang Thiện (2005), Lịch sử Myanmar, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

35. Thông tấn xã Việt Nam (2004), “New Delhi xích lại gần chính quyền quân

sự Myanmar”, Tài liệu tham khảo đặc biệt, ngày 25/4/2004.

36. Thông tấn xã Việt Nam (2006), “Ấn Độ nối nhịp cầu với Myanmar”, Tài liệu

tham khảo đặc biệt, (98).

37. Thông tấn xã Việt Nam (2006), “Ấn Độ gia tăng sức ép với Myanmar”, Tài

liệu tham khảo đặc biệt, (155).

38. Thông tấn xã Việt Nam (2006), “ASEAN: Trung Quốc, Ấn Độ cần sử dụng

đòn bẩy kinh tế đối với Myanmar”, Tin tham khảo thế giới, ngày 21/4/2006.

39. Thông tấn xã Việt Nam (2007), “Myanmar trong chính sách đối ngoại của

Ấn Độ”, Tài liệu tham khảo đặc biệt, 24/1/2007.

40. Thông tấn xã Việt Nam (2008), “Chính sách của Ấn Độ đối với Mianma”,

Tài liệu tham khảo đặc biệt, ngày 21/6/2008.

41. Thông tấn xã Việt Nam (2008), “Myanmar tăng cường hợp tác khai thác dầu

mỏ với nước ngoài”, Tài liệu tham khảo đặc biệt, ngày 16/7/2008.

Page 150: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

140

42. Trần Nam Tiến (chủ biên, 2016), Ấn Độ với Đông Nam Á trong bối cảnh

quốc tế mới, Nxb. Văn hóa - Văn nghệ, thành phố Hồ Chí Minh.

43. Lê Nguyễn Hương Trinh (2005), Chính sách ngoại thương Ấn Độ thời kỳ cải

cách, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

44. Võ Xuân Vinh (2009), “Một số nội dung cơ bản trong chính sách hướng

Đông của Ấn Độ”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 10, tr. 55-61.

45. Võ Xuân Vinh (2011), ASEAN trong chính sách hướng Đông của Ấn Độ,

Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội.

46. Võ Xuân Vinh (chủ biên, 2015), Biến đổi chính trị, kinh tế ở Myanmar từ 2011

đến nay: Bối cảnh, nội dung và tác động, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

TÀI LIỆU TIẾNG ANH

47. Mohit Anand (2009), “India - ASEAN Relations: Analysing Regional

Implications”, IPCS Special Report, No. 72, Institute of Peace and Conflict

Studies, New Delhi, India, p. 1-12.

48. Azman Ayob (2015), “Myanmar in India’s Intertwined Idealism - Realism

Foreign Policy: A “Modified Structuralism” Perspective”, Journal of

Management Research, Volume 7, No. 2, Macrothink Institute, United

States, p. 46-54.

49. Avtar Singh Bhasin (2010), India’s Foreign Relations - 2009 Documents,

Geetika Publishers, New Delhi, India.

50. Avtar Singh Bhasin (2011), India’s Foreign Relations - 2010 Documents,

Geetika Publishers, New Delhi, India.

51. Avtar Singh Bhasin (2012), India’s Foreign Relations - 2011 Documents,

Geetika Publishers, New Delhi, India.

52. Rajiv Bhatia (2016), India - Myanmar Relations: Changing Contours,

Routledge Taylor & Francis Group, New Delhi, India.

53. Srinjoy Bose (2007), “Energy Politics: India - Bangladesh - Myanmar

Relations”, IPCS Special Report, No. 45, Institute of Peace and Conflict

Studies, New Delhi, India, p. 1-5.

Page 151: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

141

54. Varigonda Kesava Chandra (2013), “India’s Struggle for Myanmar’s

Energy”, FPRC Journal 2013, No. 3, Foreign Policy Research Centre, New

Delhi, India, p. 240-248.

55. Li Chenyang (2012), “China - Myanmar Comprehensive Strategic

Cooperative Partnership: A Regional Threat?”, Journal of Current Southeast

Asian Affairs, Volume 31, No. 1, GIGA German Institute of Global and Area

Studies, Institute of Asian Studies and Hamburg University Press, Germany,

p. 53-72.

56. Priscilla Clapp (2007), Building Democracy in Burma, The United States

Institute of Peace, Washington, DC.

57. Constituent Assembly of India, Government of India (1949), The

Constitution of India 1949, The Gazette of India Extraordinary, November

26th, India.

58. Prabir De, Jayanta Kumar Ray (2013), India - Myanmar Connectivity: Current

Status and Future Prospects, KW Publishers Pvt Ltd, New Delhi, India.

59. Konsam Shakila Devi (2014), “Myanmar under the Military Rule 1962 -

1988”, International Research Journal of Social Sciences, Volume 3, India,

p. 46-50.

60. Renaud Egreteau (2003), “India and Burma/Myanmar Relations: From

Idealism to Realism”, Conference Room I, India International Center, New

Delhi, India, p. 1-15.

61. Renaud Egreteau (2008), “India’s Ambitions in Burma: More Frustration

than Success?”, Asian Survey, Volume XLVIII, No. 6, University of

California Press, p. 936-957.

62. Hongwei Fan (2011), “China’s “Look South”: China - Myanmar Transport

Corridor”, Ritsumeikan International Affairs, Volume 10, Kyoto, Japan, p. 43-65.

63. Hector Florento, Maria Isabela Corpuz (2014), “Myanmar: The Key Link

between South Asia and Southeast Asia”, ADBI Working Paper, No. 506,

Asian Development Bank Institute, Japan, p. 3-29.

Page 152: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

142

64. Lixin Geng (2007), “Sino - Myanmar Relations: Analysis and Prospects”,

Culture Mandala: The Bulletin of the Centre for East-West Cultural and

Economic Studies, Volume 7, Issue 2, Article 1, p. 1-15.

65. Baladas Ghoshal (2007), “Some New Thoughts on India’s Look East

Policy”, IPCS Issue Brief, No. 54, Institute of Peace and Conflict Studies,

New Delhi, India, p. 1-4.

66. Pierre Gottschlich (2015), “New Developments in India - Myanmar Bilateral

Relations?”, Journal of Current Southeast Asian Affairs, Volume 34, No. 2,

GIGA German Institute of Global and Area Studies, Institute of Asian

Studies and Hamburg University Press, Germany, p. 139-163.

67. Y.D. Gundevia (1984), Outside the Archives, Sangam Books Pvt.Ltd,

Hyderabad, India.

68. Ranjit Gupta (2013), “China, Myanmar and India: A Strategic Perspective”,

Indian Foreign Affairs Journal, Volume 8, No. 1, New Delhi, India, p. 80-92.

69. Jurgen Haacke (2006), Myanmar’s Foreign Policy: Domestic Influences and

International Implications, Adelphi Paper 381, The International Institute for

Strategic Studies, London, England.

70. Daniel George Edward Hall (1950), Burma, Hutchinson University Library,

London, England.

71. Thongkholal Haokip (2011), “India's Look East Policy: Its Evolution and

Approach”, South Asian Survey, 18 (2), p. 239-257.

72. Zhao Hong (2008), “China and India’s Competitive Relations with

Myanmar”, ICS Working Paper No. 2008-7, Institute of China Studies,

University of Malaya, Kuala Lumpur, Malaysia, p. 1-15.

73. Zhao Hong (2011), “China - Myanmar Energy Cooperation and Its Regional

Implications”, Journal of Current Southeast Asian Affairs, Volume 30, No.

4, GIGA German Institute of Global and Area Studies, Institute of Asian

Studies and Hamburg University Press, Germany, p. 89-109.

74. Richard Horsey (2008), “The Dramatic Events of 2007 in Myanmar:

Domestic and International Implications”, in Dictatorship, Disorder and

Page 153: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

143

Decline in Myanmar, edited by Monique Skidmore, Trevor Wilson, ANU E

Press, The Australian National University, Australia, p. 13-28.

75. Lindsay Hughes (2013), “Principles, Pragmatism, and Pipelines: The

Evolution of India’s Myanmar Policy”, FPRC Journal 2013, No. 3, Foreign

Policy Research Centre, New Delhi, India, p. 249-259.

76. “India, Myanmar Sign Four Economic Cooperation Agreements”, Bridges

Weekly Trade News Digest, Volume 12, No. 24, International Centre for

Trade and Sustainable Development, 2 July 2008.

77. International Crisis Group (2001), Myanmar: The Military Regime’s View of

the World, ICG Asia Report No. 28, Bangkok/Brussels.

78. Fukunari Kimura, So Umezaki (2011), ASEAN - India Connectivity: The

Comprehensive Asia Development Plan, Phase II, ERIA Research Project

Report 2010, No. 7, Economic Research Institute for ASEAN and East Asia,

Jakarta, Indonesia.

79. Toshihiro Kudo (2008), “Myanmar’s Economic Relations with China: Who

Benefits and Who Pays?”, in Dictatorship, Disorder and Decline in

Myanmar, edited by Monique Skidmore, Trevor Wilson, ANU E Press, The

Australian National University, Australia, p. 87-109.

80. C.S. Kuppuswamy (2013), “India - Myanmar Economic Relations”, FPRC

Journal 2013, No. 3, Foreign Policy Research Centre, New Delhi, India, p.

183-189.

81. Marie Lall (2008), “India - Myanmar Relations - Geopolitics and Energy in

Light of the New Balance of Power in Asia”, ISAS Working Paper, No. 29,

Institute of South Asian Studies, National University of Singapore, p. 1-35.

82. Hank Lim, Yasuhiro Yamada (2014), Myanmar’s Integration with Global

Economy: Outlook and Opportunities, BRC Research Report No. 13,

Bangkok Research Center, IDE-JETRO, Bangkok, Thailand.

83. Bertil Lintner (1998), “Burma and Its Neighbours”, in Indian and Chinese

Foreign Policies in Comparative Perspective, edited by Surjit Mansingh,

Radiant Publishers, New Delhi, India, p. 225-259.

Page 154: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

144

84. Barbara D. Metcalf, Thomas R. Metcalf (2006), A Concise History of

Modern India (2nd edition), Cambridge University Press, England.

85. Ministry of External Affairs, Government of India (1951), Annual Report

1950 - 1951, Policy Planning and Research Division, Ministry of External

Affairs, New Delhi, India.

86. Ministry of External Affairs, Government of India (1962), Annual Report

1961 - 1962, Policy Planning and Research Division, Ministry of External

Affairs, New Delhi, India.

87. Ministry of External Affairs, Government of India (1963), Annual Report

1962 - 1963, Policy Planning and Research Division, Ministry of External

Affairs, New Delhi, India.

88. Ministry of External Affairs, Government of India (1966), Annual Report

1965 - 1966, Policy Planning and Research Division, Ministry of External

Affairs, New Delhi, India.

89. Ministry of External Affairs, Government of India (1969), Annual Report

1968 - 1969, Policy Planning and Research Division, Ministry of External

Affairs, New Delhi, India.

90. Ministry of External Affairs, Government of India (1970), Annual Report

1969 - 1970, Policy Planning and Research Division, Ministry of External

Affairs, New Delhi, India.

91. Ministry of External Affairs, Government of India (1977), Annual Report

1976 - 1977, Policy Planning and Research Division, Ministry of External

Affairs, New Delhi, India.

92. Ministry of External Affairs, Government of India (1979), Annual Report

1978 - 1979, Policy Planning and Research Division, Ministry of External

Affairs, New Delhi, India.

93. Ministry of External Affairs, Government of India (1980), Annual Report

1979 - 1980, Policy Planning and Research Division, Ministry of External

Affairs, New Delhi, India.

Page 155: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

145

94. Ministry of External Affairs, Government of India (1981), Annual Report

1980 - 1981, Policy Planning and Research Division, Ministry of External

Affairs, New Delhi, India.

95. Ministry of External Affairs, Government of India (1985), Annual Report

1984 - 1985, Policy Planning and Research Division, Ministry of External

Affairs, New Delhi, India.

96. Ministry of External Affairs, Government of India (1987), Annual Report

1986 - 1987, Policy Planning and Research Division, Ministry of External

Affairs, New Delhi, India.

97. Ministry of External Affairs, Government of India (1988), “Agreement

between the Republic of India and the Socialist Republic of the Union of

Burma on the Delimitation of the Maritime Boundary in the Andaman Sea,

in the Coco Channel and in the Bay of Bengal”, The Gazette of India

Extraordinary, Part II, Section 3, No. 223, April 26, p. 1145-1151.

98. Ministry of External Affairs, Government of India (1988), Annual Report

1987 - 1988, Policy Planning and Research Division, Ministry of External

Affairs, New Delhi, India.

99. Ministry of External Affairs, Government of India (1996), Annual Report

1995 - 1996, Policy Planning and Research Division, Ministry of External

Affairs, New Delhi, India.

100. Ministry of External Affairs, Government of India (2008), Annual

Report 2007 - 2008, Policy Planning and Research Division, Ministry of

External Affairs, New Delhi, India.

101. Ministry of Information, Government of Myanmar (2008),

Constitution of the Republic of the Union of Myanmar (2008), Printing &

Publishing Enterprise, Myanmar.

102. Minority Rights Group (1992), The Chinese of South-East Asia,

Manchester Free Press, England.

103. C. Raja Mohan (2013), “India’s Security Cooperation with Myanmar:

Prospect and Retrospect”, ISAS Working Paper, No. 166, Institute of South

Asian Studies, National University of Singapore, p. 1-12.

Page 156: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

146

104. S.D. Muni (2011), “India’s “Look East” Policy: The Strategic

Dimension”, ISAS Working Paper, No. 121, Institute of South Asian Studies,

National University of Singapore, p. 1-25.

105. Thant Myint-U (2011), Where China Meets India: Burma and the

New Crossroads of Asia, Farrar, Straus and Giroux, New York.

106. Maung Aung Myoe (2006), “Regionalism in Myanmar’s Foreign

Policy: Past, Present, and Future”, ARI Working Paper, No. 73, Asia

Research Institute, National University of Singapore, p. 1-30.

107. Maung Aung Myoe (2007), “A Historical Overview of Political

Transition in Myanmar Since 1988”, Working Paper Series, No. 95, Asia

Research Institute, National University of Singapore, p. 1-30.

108. Maung Aung Myoe (2015), “Myanmar’s China Policy since 2011:

Determinants and Directions”, Journal of Current Southeast Asian Affairs,

Volume 34, No. 2, GIGA German Institute of Global and Area Studies,

Institute of Asian Studies and Hamburg University Press, Germany, p. 21-54.

109. Maung Aung Myoe (2016), “Myanmar’s Foreign Policy under the

USDP Government: Continuities and Changes”, Journal of Current

Southeast Asian Affairs, Volume 35, No. 1, GIGA German Institute of

Global and Area Studies, Institute of Asian Studies and Hamburg University

Press, Germany, p. 123-150.

110. Shankaran Nambiar (2011), “India’s Engagement with ASEAN:

Beyond Trade in Goods”, ISAS Working Paper, No. 129, Institute of South

Asian Studies, National University of Singapore, p. 1-22.

111. Jawaharlal Nehru (1961), India’s Foreign Policy: Selected Speeches,

September 1946 - April 1961, The Publications Division, Ministry of

Information and Broadcasting, Government of India, New Delhi.

112. Namrata Panwar (2009), “India and China Competing over Myanmar

Energy Resources”, Working draft for BISA Conference 2009, University of

Leicester, England, p. 1-19.

113. Swatanter Kumari Pradhan (1981), Indo - Burmese Relations, 1948 -

1962, Jawaharlal Nehru University, New Delhi, India.

Page 157: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

147

114. Gareth Price (2013), “India’s Policy towards Burma”, Asia ASP

2013/02, Chatham House, London, p. 1-12.

115. Keshab Chandra Ratha, Sushanta Kumar Mahapatra (2012), “India

and Burma: Exploring New Vista of Relationship”, Working Paper, Amrita

School of Business, No. 126, India, p. 5-21.

116. Lex Rieffel (ed, 2010), Myanmar/Burma: Inside Challenges, Outside

Interests, Brookings Institution Press, Washington, D.C.

117. B.P. Routray (2011), “India - Myanmar Relations: Triumph of

Pragmatism”, Jindal Journal of International Affairs, Volume 1, Issue 1,

India, p. 299-321.

118. V. Sakhuja (2012), “India and Myanmar: Choices for Military

Cooperation”, ICWA Issue Brief, Indian Council of World Affairs, New

Delhi, India, p. 1-9.

119. A. Selth (1996), “Burma and the Strategic Competition between

China and India”, The Journal of Strategic Studies, Volume 19, No. 2, Frank

Cass, London, p. 213-230.

120. Mukul Sharma (2010), Human Rights in a Globalised World: An

Indian Diary, SAGE Publications Pvt. Ltd, India.

121. Poon Kim Shee (2002), “The Political Economy of China - Myanmar

Relations: Strategic and Economic Dimensions”, Ritsumeikan Annual

Review of International Studies, Volume 1, Japan, p. 33-53.

122. H. Shivananda (2011), “Sino - Myanmar Military Cooperation and Its

Implications for India”, Journal of Defence Studies, Volume 5, No. 3, New

Delhi, India, p. 117-127.

123. Yogendra Singh (2007), “India’s Myanmar Policy: A Dilemma

Between Realism and Idealism”, IPCS Special Report, No. 37, Institute of

Peace and Conflict Studies, New Delhi, India, p. 1-5.

124. Tuli Sinha (2009), “China - Myanmar Energy Engagements:

Challenges and Opportunities for India”, IPCS Issue Brief, No. 134, Institute

of Peace and Conflict Studies, New Delhi, India, p. 1-4.

Page 158: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

148

125. Nicholas Tarling (1999), History of Southeast Asia, Volume 4 (From

World War II to the present), Cambridge University Press, England.

126. Tin Maung Maung Than (2003), “Myanmar and China: A Special

Relationship?”, in Southeast Asian Affairs 2003, edited by Daljit Singh and

Chin Kin Wah, Institute of Southeast Asian Studies, Singapore, p. 189-211.

127. Rahul Tripathi (2010), Monetary and Payments Cooperation in South

Asia, Concept Publishing Company PVT.LTD., New Delhi, India.

128. Khriezo Yhome (2009), India - Myanmar Relations (1998 - 2008): A

Decade of Redefining Bilateral Ties, ORF Occasional Paper #10, Observer

Research Foundation, New Delhi, India.

129. Khriezo Yhome (2011), “India’s “Look East” Policy - The Emerging

Discourse”, FPRC Journal, No. 8, Foreign Policy Research Centre, New

Delhi, India, p. 208-214.

130. Hnin Yi (2013), “Myanmar’s Policy toward the Rising China since

1989”, RCAPS Working Paper Series “Dojo”, Ritsumeikan Asia Pacific

University, Japan, p. 1-25.

131. A. Zaw, D. Arnott, K. Chongkittavorn, Z. Liddell, K. Morshed, S.

Myint, T.T. Aung (2001), Challenges to Democratization in Burma:

Perspectives on Multilateral and Bilateral Responses, International Institute

for Democracy and Electoral Assistance, Stockholm, Sweden.

TÀI LIỆU INTERNET

132. “ASEAN trong “Hành động hướng Đông” của Ấn Độ” trên

http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Binh-luan/2016/38143/ASEAN-

trong-Hanh-dong-huong-Dong-cua-An-Do.aspx, 30/3/2016

133. Central Intelligence Agency, The World Factbook (2017), “Burma” trên

https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/geos/bm.html

134. Varigonda Kesava Chandra (2012), “India’s Myanmar Fascination”,

Journal of Energy Security, trên

http://www.ensec.org/index.php?option=com_content&view=article&id=38

1:india-myanmar-fascination&catid=128:issue-content&Itemid=402

Page 159: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

149

135. Col R. Hariharan (2007), “India - China - Myanmar Relations”, Asian

Tribune trên http://www.asiantribune.com/index.php?q=node/6641

136. Huỳnh Hoa (2015), “Myanmar: từ độc tài đến dân chủ” trên

www.thesaigontimes.vn/138324/Myanmar-tu-doc-tai-den-dan-chu.html

137. Wasbir Hussain (2016), “In Myanmar, a New Balancing Act” trên

www.asianage.com/columnists/myanmar-new-balancing-act-336

138. “India Announces 500 Million Dollar Credit for Myanmar” trên

http://www.deccanherald.com/content/197863/content/213841/F, 14/10/2011

139. Happymon Jacob (2003), “India - Myanmar Energy Cooperation”,

trên http://www.orfonline.org/research/india-myanmar-energy-cooperation/

140. Bharat Defence Kavach (2012), “India - Myanmar Cooperation in

Combating Terrorism”, trên

http://www.bharatdefencekavach.com/news/beyond-headlines/india-

myanmar-cooperation-in-combating-terrorism/12653.html

141. Harshit Ladva (2014), “Why is Myanmar Important for India?” trên

https://www.quora.com/Why-is-Myanmar-important-for-India

142. Bertil Lintner (2007), “India Stands by Myanmar Status Quo”, Asia

Times online, trên http://www.atimes.com/atimes/South_Asia/IK14Df02.html

143. Debidatta Aurobinda Mahapatra (2012), “India needs Myanmar and

Myanmar also needs India”, trên

https://www.rbth.com/articles/2012/06/01/india_needs_myanmar_and_myan

mar_also_needs_india_15894

144. T.S. Maini (2014), “India’s ‘Look East’ Policy Begins with Myanmar”,

http://thediplomat.com/2014/11/indias-look-east-policy-begins-with-myanmar/

145. Ministry of External Affairs, Government of India (1951), “Treaty of

Friendship Between India and the Union of Burma 1951” trên

http://www.commonlii.org/in/other/treaties/INTSer/1951/12.html

146. Ministry of External Affairs, Government of India (1962), “Agreement

Between the Government of India and the Government of Burma Concerning

Trade and Commerce” trên http://www.mea.gov.in/bilateral-

documents.htm?dtl/7235/Agreement_on_Trade_and_Commerce

Page 160: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

150

147. Ministry of External Affairs, Government of India (1967), “Boundary

Agreement between the Government of India and the Government of the Union

of Burma”, trên http://mea.gov.in/bilateral-

documents.htm?dtl/5886/Agreement+on+International+Boundary+with+India

148. Ministry of External Affairs, Government of India (2012), “India -

Myanmar Relations” trên

https://www.mea.gov.in/Portal/ForeignRelation/myanmar-july-2012.pdf

149. “Myanmar’s Aung San Suu Kyi released” trên

www.aljazeera.com/news/asia-pacific/2010/11/20101113105340355661.html,

14/11/2010

150. Nina Rach (2013), “Pipelines off Myanmar Carry Shwe Gas,

Imported Oil” trên http://www.oedigital.com/component/k2/item/3896-

pipelines-off-myanmar-carry-shwe-gas-imported-oil

151. Sridhar Ramaswamy, Tridivesh Singh Maini (2014), “The Strategic

Importance of Myanmar for India”, http://thediplomat.com/2014/08/the-

strategic-importance-of-myanmar-for-india/

152. Saurabh (2010), “Dynamics of Indo - Myanmar Economic Ties” trên

http://www.idsa.in/idsacomments/DynamicsofIndo-

MyanmarEconomicTies_saurabh_060110

153. Gautam Sen (2013), “Cooperation Between Indian and Myanmar

Armed Forces: Need to Move away from a Weapons and Equipment Supply-

Based Relationship”, trên

http://www.idsa.in/idsacomments/CooperationBetweenIndianandMyanmarA

rmedForces_gsen_150113

154. Khriezo Yhome (2012), “Myanmar and India - a Bridge, and a

Gateway to the East”, http://www.business-standard.com/article/opinion/k-

yhome-myanmar-and-india-a-bridge-and-a-gateway-to-the-east-

112052700026_1.html

Page 161: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

PHỤ LỤC

Page 162: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

P1

PHỤ LỤC 1

BẢN ĐỒ ẤN ĐỘ VÀ MYANMAR

Nguồn: Rajiv Bhatia (2015), India - Myanmar Relations: Changing Contours,

Routledge, New Delhi, India.

Page 163: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

P2

PHỤ LỤC 2

NIÊN BIỂU CÁC SỰ KIỆN QUAN TRỌNG TRONG QUAN HỆ

ẤN ĐỘ - MYANMAR (1962 - 2011)

Sự kiện Nội dung sự kiện

Tháng 3-1962

Cuộc đảo chính lật đổ Chính phủ dân sự U Nu do Tướng Ne

Win cầm đầu đã thành lập chế độ quân sự ở Miến Điện. Sự

kiện này cũng đánh dấu mối quan hệ Ấn Độ - Miến Điện từ

hữu nghị trở nên căng thẳng.

Ngày 24-12-1962 Hiệp định thúc đẩy thương mại giữa Ấn Độ và Miến Điện

được ký kết tại Rangoon.

Tháng 2-1965 Chủ tịch Hội đồng cách mạng Miến Điện, Tướng Ne Win đi

thăm chính thức Ấn Độ.

Ngày 10-3-1967 Chính phủ Miến Điện và Chính phủ Ấn Độ đã ký kết Hiệp

định Biên giới tại Rangoon.

Tháng 3-1969 Thủ tướng Ấn Độ Indira Gandhi đi thăm Miến Điện.

Ngày 17-8-1974 Ấn Độ và Miến Điện ký kết Hiệp định thương mại.

Tháng 6-1976

Ấn Độ và Miến Điện đã ký kết một Bản ghi nhớ, theo đó, Ấn

Độ đồng ý thực hiện thí điểm 15 dự án hỗ trợ theo Chương

trình ITEC cho Chính phủ Miến Điện

Năm 1980 Tướng Ne Win có chuyến đi thăm chính thức Ấn Độ lần hai.

Ngày 23-12-1986

Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Miến Điện U Ye Goung và người

đồng cấp Ấn Độ Narayan Datt Tiwari đã ký Hiệp định về

việc phân định ranh giới hàng hải ở biển Andaman, hòn đảo

Coco và vịnh Bengal tại Rangoon

Năm 1987 Thủ tướng Ấn Độ Rajiv Gandhi sang thăm Miến Điện

Năm 1992

Ấn Độ bắt đầu thực thi chính sách đối ngoại “hướng Đông”,

trong đó khu vực Đông Nam Á nói chung và Myanmar nói

riêng được Ấn Độ xem là trọng tâm trong chính sách đối

ngoại mới này. Dưới góc nhìn của các nhà hoạch định chính

sách Ấn Độ, Myanmar được xem như là một “cửa ngõ” để

Page 164: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

P3

Ấn Độ tiến vào thị trường ASEAN. Từ sau năm 1992, quan

hệ giữa Ấn Độ với Myanmar dần dần được cải thiện và đạt

được nhiều thành tựu bước đầu trên các lĩnh vực chủ yếu:

Chính trị - ngoại giao, kinh tế, an ninh - quốc phòng và trên

lĩnh vực hợp tác đa phương.

Tháng 3-1993 Ngoại trưởng Ấn Độ J.N. Dixit có chuyến đi thăm Myanmar

Tháng 01-1994 Hiệp định thương mại biên giới Ấn Độ - Myanmar được ký

kết tại Ấn Độ

Tháng 2-1998 Thứ trưởng ngoại giao Ấn Độ K. Ragunath sang thăm

Myanmar

Ngày 14-11-2000 Tướng Maung Aye - Phó chủ tịch Hội đồng hòa bình và

phát triển quốc gia (SPDC) Myanmar đi thăm Ấn Độ

Tháng 01-2002 Ấn Độ và Myanmar ký Hiệp định tái thiết lập Tổng lãnh sự

quán ở mỗi nước

Tháng 01-2003 Ngoại trưởng Myanmar U Win Aung có chuyến thăm hữu

nghị tới Ấn Độ

Tháng 10-2004 Thống tướng Than Shwe (Chủ tịch SPDC) tiến hành chuyến

thăm Ấn Độ cấp nhà nước đầu tiên

Từ ngày 8 đến

ngày 10-3-2006

Tổng thống Ấn Độ A.P.J. Abdul Kalam đã có chuyến đi

thăm tới Myanmar

Ngày 25-7-2010 Thống tướng Than Shwe đã có chuyến thăm chính thức năm

ngày tới Ấn Độ

Ngày 12-10-2011

Tổng thống Myanmar Thein Sein cùng với 13 Bộ trưởng

trong chính phủ đã đi thăm Ấn Độ. Đây là chuyến công du

đầu tiên của ông Thein Sein sau khi nhậm chức vào ngày

30-3-2011. Chuyến thăm Ấn Độ của Tổng thống Thein Sein

và chuyến thăm Myanmar của Thủ tướng Manmohan Singh

(năm 2012) góp phần mở ra một giai đoạn phát triển mới

trong quan hệ hai nước.

(Tác giả tổng hợp)

Page 165: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

P4

PHỤ LỤC 3

TREATY OF FRIENDSHIP BETWEEN INDIA AND THE UNION OF BURMA

Rangoon, 7 July 1951

The President of India and the President of the Union of Burma being desirous of

strengthening and developing the many ties that have bound the two countries for

centuries and being urged by mutual recognition of the need for maintaining the

peace and friendship that have always existed between the two States, have resolved

to conclude this Treaty for the common benefit of their peoples and in furtherance

of the objectives of their respective countries, and have, to this end, appointed as

their Plenipotentiaries the following persons, namely,

The President of India:

His Excellency Dr. M.A. RAUF,

Ambassador Extraordinary and Plenipotentiary.

The President of the Union of Burma:

The Hon’ble SAO HKUN HKIO, K.S.M.,

Minister for Foreign Affairs.

Who, having examined each other’s credentials and found them good and in due

form, have agreed to and signed the following Articles:

Article I

The two States recognize and respect the independence and rights of each other.

Article II

There shall be everlasting peace and unalterable friendship between the two States

who shall ever strive to strengthen and develop further the cordial relations existing

between the peoples of the two countries.

Article III

The two States agree to continue diplomatic and consular relations with each other

by means of representatives of either party in the territory of the other and agree that

such representatives and their agreed staff shall have, on a reciprocal basis, such

Page 166: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

P5

privileges and immunities as are customarily granted by recognized international

principles.

Article IV

The two States agree that their representatives shall meet from time to time and as

often as occasion requires to exchange views on matters of common interest and to

consider ways and means for mutual co-operation in such matters.

Article V

The two States agree to start negotiations for the conclusion of agreements, on a

reciprocal basis, relating to trade, customs, cultural relations, communications,

extradition of criminals, immigration or repatriation of nationals of each country

resident in the other, or of dual nationals of the two countries, and all other matters

of common interest to the two countries.

Article VI

Any difference or dispute arising out of the interpretation or application of this

Treaty or one or more of its Articles shall be settled by negotiations through the

ordinary diplomatic channels and if no settlement is reached by that method within

a reasonable time, the matter shall be referred to arbitration in such manner as may

be mutually determined by a general or special arrangement between the two

parties.

Article VII

The treaty shall be subject to ratification and shall come into force from the date of

exchange of the instruments of ratification, which shall take place as soon as

possible at Rangoon.

Article VIII

This Treaty shall continue in force for five years from the date of its coming into

force and shall thereafter remain in force: Provided that after the termination of the

said period of five years either party may give to the other party a notice of not less

than six months intimating its intention to terminate the Treaty and on the expiry of

the period of such notice the Treaty shall cease to be in force.

Page 167: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

P6

IN FATTH WHEREOF, the said Plenipotentiaries have signed the present Treaty in

the Hindi, Burmese and English languages (the English text shall prevail in case of

conflict between the three texts) and have affixed hereto their seals.

DONE in duplicate in Rangoon on the seventh day of July 1951.

For the President of the Union of Burma:

(Sd.) S.H. HKIO. In the presence of - (Sd.) TUN SHETN.

For the President of India:

(Sd.) M.A. RAUF. In the presence of - (Sd.) K.M. KANNAMPTLTY.

Nguồn: Ministry of External Affairs, Government of India, “Treaty of Friendship

between India and the Union of Burma 1951” trên

http://www.commonlii.org/in/other/treaties/INTSer/1951/12.html.

Page 168: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

P7

PHỤ LỤC 4

AGREEMENT BETWEEN THE GOVERNMENT OF INDIA AND THE

GOVERNMENT OF BURMA CONCERNING TRADE AND COMMERCE

Rangoon, 24 December 1962

The Revolutionary Government of the Union of Burma and the Government of the

Republic of India,

BEING desirous of strengthening the friendship traditionally existing between them

and of promoting closer economic and commercial relations between their countries,

HAVE agreed as follows:

Article I

The two Governments, shall, within the framework of their laws and regulations in

force from time to time, afford necessary facilities for the import/export of

commodities mentioned in the attached Schedules ‘A’ and ‘B’.

Article II

The two Governments shall provide reasonable facilities for import into and export

from either country of commodities not specifically mentioned in the attached

Schedules ‘A’ and ‘B’.

Article III

Each Government shall give full consideration to suggestions that may be made

from time to time by the other Government for facilitating the import into one

country of commodities which are available for export from the other.

Article IV

Each Government shall, subject to prices and quality being satisfactory, give full

consideration to suggestions that may be made from time to time by the other

Government for the development and expansion of commerce and the

diversification and balancing of trade between the two countries.

Page 169: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

P8

Article V

The two Governments recognize the needs and requirements of each other for foreign

exchange in the context of their developing economies and agree to take such steps as

may be necessary to achieve as near a balance in their trade as may be practicable.

Article VI

Each Government shall accord to the commerce of the other country treatment no

less favourable than that accorded to the commerce of any third country.

Article VII

The two Governments agree to explore ways and means and to take necessary step's for the

most convenient and economical transportation of commodities between the two countries.

Article VIII

The two Governments will use their best endeavours to promote the development

and interest of shipping of both countries, and, in particular, shall accord to the

ships sailing under the flag of the other country, while entering, staying in or

leaving the ports of the other country, all facilities consistent with their respective

laws, rules and regulations.

Article IX

This Agreement takes effect from the date on which it is signed and will remain in

force for a period of three (3) years, subject to such modifications as may be agreed

upon between the two Governments at the beginning of each calendar year.

DONE at Rangoon, on the Twenty fourth day of December, 1962, in two original

copies in the English language, both of which are authentic.

Sdl-V. SHANKAR

For the Government of the Republic of India.

Sdl-SEIN KYI

For the Revolutionary Government of the Union of Burma.

SCHEDULE A: COMMODITIES FOR EXPORT FROM BURMA TO INDIA

1. Rice

2. Teak

3. Hardwoods

Page 170: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

P9

4. Hides and skins

5. Pig lead and other mineral ores

6. Seed potatoes

SCHEDULE B: COMMODITIES AVAILABLE FOR EXPORT FROM INDIA TO

BURMA

1. Cotton yarn and sewing thread.

2. Cotton and woollen piece goods; synthetic fibre textiles; their manufactures and

made up goods.

3. Jute and jute products.

4. Coir yarn and manufactures.

5. Dried prawns, fish and preparations.

6. Agricultural and food items like spices, coffee, tea, vegetable and hydrogenated

oils, Biri leaves, sandalwood.

7. Coal.

8. Chemical, Pharmaceutical and allied products, including paints, pigments,

varnishes, inks and dyestuffs.

9. Engineering goods, including electrical goods; machinery for jute, textile, sugar,

oil, printing, paper and cement mills; fans, bicycles, sewing machines and their

components and spare parts; pumps, diesel engines, oil expellers; railway rolling

stock; safes and strong boxes, telephone and telegraph equipment; agricultural tools

and implements; machinery components, parts and accessories.

10. Hardware and constructional material, including household and building material.

11. Miscellaneous goods like synthetic stones, gums and resins, lac and shellac, printed

books, newspapers, periodicals, stationery and sports goods, rubber and plastic goods.

Nguồn: Ministry of External Affairs, Government of India, “Agreement between

the Government of India and the Government of Burma Concerning Trade and

Commerce” trên http://www.mea.gov.in/bilateral-

documents.htm?dtl/7235/Agreement_on_Trade_and_Commerce

Page 171: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

P10

PHỤ LỤC 5

BẢNG SO SÁNH KIM NGẠCH THƯƠNG MẠI BIÊN GIỚI GIỮA

MYANMAR VỚI TRUNG QUỐC VÀ VỚI ẤN ĐỘ (1997 - 2011)

Đơn vị: triệu USD

Năm Myanmar - Trung Quốc Myanmar - Ấn Độ

1997 - 1998 145,81 22,25

1998 - 1999 194,29 3,61

1999 - 2000 96,39 8,55

2000 - 2001 267,628 16,004

2001 - 2002 276,35 19,37

2002 - 2003 331,797 11,798

2003 - 2004 387,116 10,279

2004 - 2005 496,711 15,195

2005 - 2006 481,36 15,41

2006 - 2007 749,76 15,77

2007 - 2008 977,429 14,83

2008 - 2009 986,598 9,88

2009 - 2010 1.076,811 13,74

2010 - 2011 1.800,282 12,8

Nguồn: Các số liệu được tổng hợp từ Tổ chức Thống kê Trung ương và Bộ Thương

mại Myanmar

Page 172: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

P11

PHỤ LỤC 6

JOINT STATEMENT DURING THE VISIT OF CHAIRMAN, STATE

PEACE AND DEVELOPMENT COUNCIL OF MYANMAR

New Delhi, July 27, 2010

1. At the invitation of the President of India, Smt. Pratibha Devisingh Patil, the Head

of State of the Union of Myanmar, Senior General Than Shwe, Chairman of the State

Peace and Development Council of the Union of Myanmar, is paying a State Visit to

India from July 25 - 29, 2010. The Chairman is accompanied by his wife Daw

Kyaing Kyaing. Apart from his official engagements in New Delhi, Senior General

Than Shwe will also visit places of economic, historical and religious interest.

2. This visit is a part of a series of high-level contacts that India and Myanmar have had

over the past few years. These include visits by Vice Senior General Maung Aye, Vice-

Chairman of the State Peace and Development Council of the Union of Myanmar, in

April 2008 and Shri M. Hamid Ansari, Vice President of India, in February 2009.

3. In New Delhi, Senior General Than Shwe was accorded a ceremonial reception at

Rashtrapati Bhavan on 27 July 2010. He was received by the President of India,

who hosted a banquet in his honour.

4. Shri M. Hamid Ansari, Vice President of India, Shri S. M. Krishna, External

Affairs Minister and Smt. Sushma Swaraj, Leader of Opposition called on Senior

General Than Shwe.

5. Senior General Than Shwe had a meeting with the Prime Minister of India, Dr.

Manmohan Singh, which was followed by delegation level talks. The meetings and

exchanges were positive and marked by cordiality on both sides.

6. India and Myanmar are close and friendly neighbours linked, inter alia, by

civilizational bonds, geographical proximity, culture, history and religion. Apart

from a boundary that stretches over more than 1640 kilometers and borders four

North-Eastern states of India, there is a large population of persons of Indian origin

in Myanmar. Bilateral relations are reflective of these multifarious and traditional

Page 173: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

P12

linkages and the two countries live side by side as close neighbors based on the Five

Principles of Peaceful Coexistence.

7. Recalling these shared bonds of civilization, the Head of State of Myanmar and the

Prime Minister of India expressed their commitment to further strengthen and

broaden the multi-dimensional relationship which now encompasses a range of areas

of cooperation. Enhancing economic, social and developmental engagement will help

harness the considerable potential in India-Myanmar bilateral relations, which would,

in turn, contribute to the socio-economic betterment of their respective peoples.

8. Recognizing that peace and stability in the region is essential for development

and for the well-being of the people of their respective countries, the two leaders

agreed on close cooperation between the security forces of the two countries in

tackling the pernicious problem of terrorism. They agreed that security cooperation

should be given immediate attention since terrorists, insurgents and criminals

respect no boundaries and undermine the social and political fabric of a nation. Both

leaders reiterated the assurance that the territory of either would not be allowed for

activities inimical to the other and resolved not to allow their respective territory to

be used for training, sanctuary and other operations by terrorist and insurgent

organizations and their operatives.

9. Understanding that continued cooperation will lead to success in fighting the

insurgency issue, the two leaders agreed to strengthen cooperation and collective

efforts of the two countries along the border. In this context, the two leaders

welcomed the Home Secretary level talks held in Nay Pyi Taw in January 2010 and

the important decisions taken in that meeting.

10. Both leaders expressed their desire for greater economic engagement. In this

context, the Prime Minister of India conveyed India's commitment to continue with

developmental assistance to Myanmar. The Myanmar side expressed deep

appreciation for the generous and concessionary credit facilities given by India to

finance significant infrastructure and other projects. Projects that are currently

underway under such aid assistance include railways, road and waterway

development, power and industrial training centres, tele-communication, etc. The

Page 174: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

P13

Indian side agreed to consider Myanmar's request for assistance in the three areas

namely: IT development, Industrial development and Infrastructure development in

Myanmar which will lead to upliftment of the bilateral cooperation to a higher level.

11. Senior General Than Shwe and Prime Minister Dr. Manmohan Singh welcomed

the considerable enhancement of the connectivity between the two countries. In this

context, they welcomed the progress made by M/s Inland Waterways Authority of

India towards implementation of the Kaladan Multi-modal Transit Transport Project

and reiterated their respective Governments' commitment to this project. In

particular, they welcomed the finalization of the contract for port development and

Inland waterway with M/s ESSAR. It was also agreed that the scope of the project

with respect to the road component would be revised. The road component

between Paletwa and Myeikwa on the India border would be executed by the

Myanmar Ministry of Construction with M/s IRCON.

12. The two leaders expressed satisfaction at the construction, maintenance and

repair work by Indian Border Roads Organization of the Tamu-Kalaywa-Kalemyo

Road connecting Moreh in Manipur to Myanmar and the handing over of most of

the segments of the TKK Road to the Government of Myanmar.

13. To enhance road connectivity, especially through the State of Mizoram, both

leaders announced the construction and revamping of the Rhi-Tiddim road at a cost

of more than US$ 60 million to be financed through grant assistance from India.

The Myanmar side expressed its appreciation for this gesture.

14. Both leaders emphasized the need to enhance cooperation in the area of

agriculture. The Indian side announced a grant of US$ 10 million for procurement

of agricultural machinery from India. The leaders expressed the hope that this

machinery will help enhance productivity in Myanmar's agricultural sector, which is

the mainstay of its economy. The Myanmar side also requested for technical

assistance in manufacturing of agricultural machinery.

15. The Indian side also announced a project to set up rice silos to facilitate disaster relief

operations particularly in the cyclone prone delta areas, with grant in aid from India.

Page 175: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

P14

16. The Myanmar side expressed appreciation for India's generous assistance in the

relief and rehabilitation efforts that followed the devastating Cyclone Nargis which

hit Myanmar in May 2008. He noted that the assistance from India, which included

dispatch of a large medical contingent to work in cyclone affected areas as well as

providing immediate medical and food supplies, supply of GI sheets, 16 electricity

transformers, 20 biomass gasifiers and funds for restoration work on the holy

Shwedagon pagoda, was timely and catered to Myanmar's urgent requirements.

17. Both leaders identified the power sector as an area of growing cooperation. In

this context, the two leaders agreed to cooperate in the implementation of the

Tamanthi and Shwezaye projects on the Chindwin River Basin in Myanmar. They

welcomed the involvement of M/s NHPC in carrying out the much required

additional investigations after the signing of the MoU on Cooperation in Hydro-

power Development projects in the Chindwin River Basin in September 2008.

Subject to the findings of these additional investigations, the two leaders will

endeavour to conclude the Memorandum of Agreement within a year.

18. The Myanmar side conveyed their gratitude for India's line of credit of US$ 64

million in the transmission lines sector to be executed through M/s. PGCIL. Both

leaders also noted the need to provide for inter-grid connectivity between the two

countries. They agreed that the two countries shall cooperate in this area, including

generation of electricity from renewable sources, and, where necessary, set up joint

projects or corporate entities for that purpose.

19. The Myanmar side welcomed the interest of Indian companies in the mining

sector. They promised all necessary assistance to enable these companies to explore

such opportunities.

20. The Indian side agreed to explore possibilities for cooperation in the field of

solar energy and wind energy in Myanmar. They also agreed to offer Myanmar,

training in related fields.

21. Cooperation in the energy sector is poised for greater growth, especially in the

area of oil and natural gas. Both leaders emphasized the importance they attach to

energy security which has a direct bearing on the welfare of the peoples of the two

Page 176: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

P15

countries. They expressed satisfaction at the ongoing bilateral collaboration in

exploration and production in Myanmar's petroleum sector and agreed to encourage

further investment by Indian companies both public and private, in this sector.

22. The Myanmar side welcomed the substantial additional investment by ONGC

and GAIL for the development in the upstream and downstream projects of

Myanmar offshore blocks A-1 and A-3 including the natural gas pipeline under

construction at Ramree in Myanmar.

23. In the field of telecom, following the successful functioning of the official Fibre

link between India and Myanmar via Moreh, the two leaders agreed to upgrade the

microwave link between Moreh to Mandalay under a line of credit of US$ 6 million

from India. Further, a new Optical Fibre Link between Monywa to Rhi-Zawkhathar

will also be undertaken with Indian assistance.

24. The Myanmar side thanked India for its continued assistance through renewal of

the agreement to provide IRS-P5 and Cartosat Data through Antrix.

25. The two leaders agreed to encourage collaboration between Myanmar and India

in the area of Information and Communication Technology.

26. Recalling India's earlier assistance in supplying railway rolling stock,

machineries and equipments to Myanmar, both leaders agreed to further cooperation

in the railway sector. The Indian side extended a line of credit of US$ 60 million to

procure railway equipment.

27. The two leaders noted with satisfaction that the project being undertaken by

TATA Motors to set up a heavy turbo truck plant at Magway is proceeding well and

encouraged other Indian companies to enter into the industrial sectors in Myanmar.

The Myanmar side assured that current investment proposals by private Indian

companies in Myanmar would be actively facilitated.

28. The two leaders welcomed the expansion of trade and commerce between the

two countries manifest in the increase in the volume of trade to more than US$ 1

billion per annum. They agreed that trade at border trade points should be further

enhanced to boost the immense potential that exists in bilateral trade. This would

also directly benefit the North-East States of India.

Page 177: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

P16

29. Referring to the existing border trading points at Moreh-Tamu (Manipur) and

Zawkhathar-Rhi (Mizoram) as well as the additional point agreed to be

operationalised at Avankhug-Somra (Nagaland), the two sides agreed to put in place

the necessary infrastructure to make these points viable and business friendly.

30. The two leaders welcomed the establishment of direct banking links between

India and Myanmar following the signature of the correspondent banking

relationship agreement between United Bank of India and Myanma Foreign Trade

Bank, Myanma Economic Bank and Myanma Investment and Commercial Bank for

providing banking arrangements relating to upgrading of border trade to normal

trade. They encouraged the business community to make optimal use of this

arrangement and thus enhance direct trade transactions.

31. The two leaders encouraged to conduct business meetings to be held alternately

in both countries for trade promotion. They noted that such measures can help build

bridges at the business level and promote business and commercial opportunities.

32. In recognition of the close and friendly tourism cooperation between India and

Myanmar and cooperation under the frameworks of ASEAN+India and BIMSTEC, the

two sides agreed to further promote tourist contacts. The Myanmar side thanked India

for the facilities and courtesies being extended to Myanmar pilgrims visiting India.

33. Both leaders welcomed the proposal for the restoration of the historic Ananda

temple in Bagan to be undertaken with the assistance of the Archaeological Survey

of India, with the involvement of the Ministry of Culture of Myanmar.

34. Both leaders expressed satisfaction at the ongoing implementation of the MoU

for cooperation in Buddhist studies and the related work plan agreed to between the

Ministry of Religious Affairs of Myanmar and the Nava Nalanda Mahavihara

University. Several hundred Myanmar Buddhist scholars and monks are currently

studying in this university in various disciplines.

35. The Myanmar side expressed gratitude to India for its numerous HRD initiatives

in Myanmar which included setting up of the following:

• the Myanmar - India Centre for English language Training;

• the Myanmar - India Entrepreneurship Development Centre;

Page 178: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

P17

• the India - Myanmar Centre for Enhancement of IT Skills; and

• the Industrial Training Centre in Pakokku.

36. The Myanmar side also indicated that the training offered by India under the

ITEC and TCS schemes have been valuable for scholars and Government officials in

Myanmar. The Indian side agreed to offer more opportunities for higher studies and

training in Universities and training institutions in India to scholars from Myanmar.

37. The Myanmar side informed the Indian side about developments in Myanmar

including the groundwork for elections scheduled towards the end of the year. The

Indian side thanked the Myanmar side for the detailed briefing and emphasized the

importance of comprehensively broad-basing the national reconciliation process and

democratic changes being introduced in Myanmar.

38. While discussing international developments, the two sides emphasized the

importance of an effective multilateral system, centred on a strong United Nations,

as a key factor in tackling global challenges. In this context, they stressed the urgent

need to pursue the reform of the United Nations including the Security Council, to

make it more representative, credible and effective.

39. The leader of Myanmar reiterated Myanmar's support for India's bid for the

permanent membership of the United Nations Security Council. He also conveyed

its support to India's candidature for a nonpermanent seat in the UNSC for the term

2011-2012.

40. The two leaders also emphasized the importance of India and Myanmar to work

together in the cause of regional cooperation. The Indian leadership offered its good

wishes to Myanmar for a successful term as BIMSTEC Chair, a responsibility that it

assumed in 2009. The Indian side welcomed participation of Myanmar at the 16th

SAARC Summit as an Observer for the first time.

41. The two sides expressed satisfaction at the ongoing cooperation between India

and Myanmar under the ASEAN-India Summit Relations and welcomed the

implementation of the ASEAN-India FTA. The Myanmar side appreciated India's

support for building an ASEAN Community in 2015, and to the Vientiane Action

Programme including the Initiative for ASEAN Integration and other sub-regional

Page 179: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

P18

growth initiatives such as Mekong-Ganga Cooperation Initiative and EAS

cooperation. Myanmar side recognized that ASEAN-India Framework Agreement

on Comprehensive Economic Cooperation which was signed in 2003 has played a

significant role in strengthening the Dialogue Partnership. Myanmar being a natural

bridge between ASEAN and India, the Indian side reiterated its intention of building

upon the commonalities and synergies between the two countries to advance its

Look East Policy.

42. In the above context, both leaders reiterated their commitment to undertake the

tri-lateral connectivity from Moreh in India to Moe Sot in Thailand via Myanmar.

The Indian side agreed to take up the preparation of DPRs for roads and causeways

in Myanmar to realize this project.

43. During the visit, the following documents were signed;

a. Treaty on Mutual Assistance in Criminal Matters

b. MOU regarding Indian Grant Assistance for Implementation of Small

Developmental projects.

c. MoU on Information Cooperation

d. Agreement on Cooperation in the fields of Science & Technology

e. MoU on Conservation and Restoration of Ananda Temple in Bagan, Myanmar

44. Senior General Than Shwe thanked the President of India and the Indian

Government and people for the warm and gracious hospitality extended to him and

the members of his delegation during their stay in India.

45. Senior General Than Shwe also extended a warm invitation to the President and

Prime Minister of India to visit Myanmar at a mutually convenient time. The

President and Prime Minister of India thanked him and accepted the invitation with

great pleasure. The dates for the visit would be decided by mutual consultations

through diplomatic channels.

Nguồn: Avtar Singh Bhasin (2011), India’s Foreign Relations - 2010 Documents,

Geetika Publishers, New Delhi, India, p. 1300-1308.

Page 180: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

P19

PHỤ LỤC 7

JOINT STATEMENT ON THE OCCASION OF THE STATE VISIT OF THE

PRESIDENT OF THE REPUBLIC OF THE UNION OF MYANMAR TO INDIA

NAY PYI TAW, 15 Oct - President of the Republic of the Union of Myanmar U

Thein Sein held talks with Indian Prime Minister Dr Manmohan Singh on matters

of mutual interest between the two countries, at the Conference Room of Hyderabad

House in New Delhi yesterday noon.

After the meeting, the joint statement was released as follows:

1. At the invitation of the President of India Smt. Pratibha Devisingh Patil,

President of the Republic of the Union of Myanmar U Thein Sein is paying a State

visit to India from 12-15 October, 2011. He was accompanied by his wife Daw

Khin Khin Win. Apart from his official engagements in New Delhi, President U

Thein Sein visited places of economic, historical and religious interest, including

Bodh Gaya, Kushinagar and Varanasi.

2. In New Delhi, President U Thein Sein was accorded a ceremonial reception at

Rashtrapati Bhavan on 14 October, 2011. The President of Myanmar will meet with

the President of India who will host a banquet in his honour.

3. The President of Myanmar paid tribute and respect to the memory of Mahatma

Gandhi at Rajghat.

4. External Affairs Minister Shri S. M. Krishna called on President U Thein Sein.

5. President U Thein Sein had a meeting with the Prime Minister of India Dr.

Manmohan Singh, which was followed by delegation level talks.

The meetings and exchanges were held in a warm, cordial and constructive

atmosphere, reflecting the close and friendly relations between the two

neighbouring countries and peoples.

6. During the official talks, the Prime Minister of India was assisted by Home

Minister Shri P. Chidambaram, External Affairs Minister Shri S.M Krishna,

Minister of Petroleum and Natural Gas Shri Jaipal Reddy, Minister of Power Shri

Sushil Kumar Shinde, Minister of Commerce and Industry Shri Anand Sharma,

Page 181: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

P20

Minister for Science and Technology Shri Vilasrao Deshmukh, Minister of State for

Defence Shri M. M. Pallam Raju, National Security Adviser Shri Pulok Chatterji,

Foreign Secretary Shri Ranjan Mathai, Secretary to the Ministry of Development of

North Eastern Region Ms Jayati Chandra and other senior officials.

7. The President of Myanmar was assisted by Chief of General Staff Lt-Gen Hla

Htay Win, Union Minister for Border Affairs and for Myanma Industrial

Development Lt-Gen Thein Htay, Union Minister for Foreign Affairs U Wunna

Maung Lwin, Union Minister for Agriculture and Irrigation U Myint Hlaing, Union

Minister for Religious Affairs Thura U Myint Maung, Union Minister for Industry-

1 and for Industry-2 U Soe Thein, Union Minister for Electric Power No. 1 U Zaw

Min, Union Minister for National Planning and Economic Development and for

Livestock and Fisheries U Tin Naing Thein, Union Minister for Transport U Nyan

Tun Aung, Union Minister for Energy U Than Htay, Union Minister for Science

and Technology U Aye Myint, Union Minister for Commerce U Win Myint,

Deputy Minister for Health Dr Win Myint, and other senior officials.

8. The visit represented the first State visit to India following the swearing in of a

new Government in Myanmar in March 2011 that marks welcome progress in

moving towards an open and democratic framework.

9. The Prime Minister of India congratulated the President of Myanmar on the

transition towards democratic Government and offered all necessary assistance in

further strengthening this democratic transition in an inclusive and broad based

manner. He welcomed the ongoing efforts at political, economic and social reforms in

Myanmar. He also welcomed the convening of the Pyidaungsu Hluttaw, Pyithu

Hluttaw and Amyotha Hluttaw (National Parliament of Myanmar) and the elected

assemblies in all the States and Regions in Myanmar and expressed readiness to share

India’s own experiences in evolving parliamentary rules, procedures and practices.

In this context, it was noted that the Speaker of the Pyithu Hluttaw (Lower house of

Myanmar’s Parliament) has been invited to lead a delegation to India in December 2011.

10. The Prime Minister of India and the President of Myanmar reiterated their

shared commitment to strengthening and broadening the multifaceted relationship

Page 182: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

P21

based on shared history, civilizational ties and close religious, linguistic and cultural

affinities and to take it to a new level. While acknowledging the fact that both sides

have a responsibility to promote peace, security and stability in the region, they

emphasized the need to intensify economic, social and developmental engagement

in order to bring about overall socio-economic betterment and inclusive growth.

11. With a view to carrying forward the momentum of bilateral exchanges, it was

agreed that a meeting of the External Affairs/Foreign Minister of the two countries

would be held in New Delhi in early 2012 and the next round of Foreign Office

Consultations would be held in India at mutually convenient dates in 2012.

12. Both sides reaffirmed their unequivocal and uncompromising position against

terrorism in all its forms and manifestations. They agreed on enhancing effective

cooperation and coordination between the security forces of the two countries in

tackling the deadly menace of insurgency and terrorism, which has caused countless

loss of innocent lives. Both sides also underscored the need to strengthen

institutional mechanisms for sharing of intelligence to combat the menace of

insurgency, arms smuggling and drug trafficking. In this context, they discussed

matters relating to further strengthening of border management mechanisms. The

two leaders reiterated the assurance that the territory of either would not be allowed

for activities inimical to the other and resolved not to allow their respective territory

to be used for training, sanctuary and other operations by terrorist and insurgent

organizations and their operatives.

13. They welcomed the scheduling of meeting of the Heads of Survey Department

of India and Myanmar in November 2011, directed the Heads to jointly work out

and implement a schedule for inspection and maintenance of boundary pillars in the

open season in 2011-2012 in a time bound manner.

14. Both sides reiterated their common desire to complete the repatriation process of

Myanmar fishermen who drifted into Indian maritime territory and who are being

looked after by Indian authorities in Port Blair, Andaman and Nicobar.

15. The two sides reviewed the infrastructure development and cooperation projects

that are being undertaken in Myanmar with technical and financial assistance from

Page 183: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

P22

Government of India, including in the field of roads, waterways, power, health,

education and industrial training, telecommunications, and others.

16. During the visit, the following documents were signed:

(i) Memorandum of Understanding for the upgradation of the Yangon Children's

Hospital and Sittway General Hospital; and

(ii) Programme of Cooperation in Science & Technology for the period of 2012 -

2015.

17. The Myanmar side conveyed its gratitude for Lines of Credit amounting to

nearly US$ 300 million that have been extended by India, including for the

development of railways, transport, power transmission lines, oil refinery, OFC

link, etc. The President of Myanmar welcomed the interest of Indian companies to

invest in Myanmar.

18. The Prime Minister of India announced the extension of a new concessional

facility of US$ 500 million line of credit to Myanmar for specific projects including

irrigation projects, each of which will be duly processed and approved in

accordance with the modalities applicable for least developed countries for such

lines of credit.

The President of Myanmar thanked the Prime Minister of India for extending this

new credit facility.

19. The two leaders welcomed the progress made towards enhancing connectively

between the two countries to mutual benefit of the peoples of the two countries.

They expressed satisfaction at the implementation of the Kaladan Multi-modal

Transit Transport Project, especially the port development and Inland waterways. It

was decided that the road component of the project be started at the earliest, a study

be undertaken on the commercial usages of the Kaladan project and necessary

agreements to operationalize the route finalized. It was also decided to open an

additional Land Customs Station/border trade point on the India-Myanmar border to

allow for the smooth flow of goods generated by the Kaladan Project.

20. Both sides reiterated their commitment for an early implementation of the Reed-

Tiddim Road Development Project with grant assistance from India.

Page 184: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

P23

21. Reviewing the progress in establishing tri-lateral connectivity from Moreh in

India to Mae Sot in Thailand via Myanmar, it was noted that substantial progress

had been achieved in preparation of a DPR for roads and causeways in Myanmar.

Both sides reiterated the commitment to realize this project.

22. The two leaders also expressed their commitment to enhance cooperation in the

area of Science & Technology. They noted that following the renewal of Science &

Technology Agreement in 2010, the programme of Cooperation in Science &

Technology for the period of 2012 - 2015 was signed during the current visit. The

Prime Minister of India announced India's support for training of Myanmar

researchers in the areas of mutual interest and twinning of Indian and Myanmar

institutions under India - Myanmar Programme of Cooperation in Science &

Technology.

23. The two sides also expressed their commitment to enhance cooperation in the

area of agriculture. They noted that the contract for the supply of Agricultural

machinery under the US$ 10 million grant assistance from India had been awarded.

The Prime Minister of India announced that India would extend technical and

financial support for following new projects:

(i) Setting up an Advanced Centre for Agricultural Research and Education

(ACARE) in Yezin; and

(ii) Setting up a Rice Bio Park demonstrating the various techniques in rice biomass

utilization in the integrated Demonstration Farm at Nay Pyi Taw.

The President of Myanmar expressed gratitude for the assistance being extended by

the Government of India and emphasized that these institutions could play a vital

role in reviving the country’s agricultural sector, on which over 70% of the

population is dependent.

24. Recognizing the fundamental place of education and human resource

development in bringing about overall economic development, and the importance

of IT in today’s global scenario, the Prime Minister of India announced India's

support for setting up an Information Technology Institute in Mandalay in

cooperation with the Government of the Republic of the Union of Myanmar.

Page 185: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

P24

25. Welcoming the successful completion of the Industrial Training Centre in

Pakokku, with India's assistance, the two sides expressed satisfaction at the progress

on the setting up of another Industrial Training Centre at Myingyan with technical

support from MS/ HMTI.

26. The Myanmar side expressed appreciation for India's assistance in the relief and

rehabilitation efforts that followed the severe earthquake that struck North-Eastern

Shan State in March 2011. It was noted that the assistance of over US$ 1 million

from India, which included assistance in the reconstruction of a high school and 6

primary schools in the affected area, was timely and catered to urgent requirements

of the people of the area.

27. The two sides agreed to promote trade, investment and economic cooperation in

a sustainable manner. In this context, the two leaders endorsed the understandings

arrived at the 4th meeting of the bilateral Joint Trade Committee that was held in

New Delhi recently, and called for the expeditious implementation of decision

taken, including the proposal to establish a Trade and Investment Forum at the

business level, expand the basket of goods under border trade, visit of an Indian

banking delegation to Myanmar to facilitate better trade and payment arrangements,

etc. The two sides also welcomed the decision to hold the “Enterprise India” Show

in Yangon on 10-14 November, 2011 and urged companies on both sides to look

seriously at opportunities in the other. The two sides encouraged business

associations in their respective countries to enter into closer ties with their

counterparts and also participate in each other's trade fairs.

28. With a view to promoting border trade, the two sides agreed that meetings

between Indian and Myanmar customs, immigration, border chambers of

commerce, officials of bank branches at the border, border trade officials (Tamu

and Reed-OSS Team), and Government officials would take place at Tamu-Moreh

and Reed-Zowkhathar at regular interval. The business representatives of the

Manipur/Sagaing Region and of Mizoram/Chin State will also participate in these

meetings.

Page 186: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

P25

29. It was agreed to consider opening up new Border Trading Points along the

Border for the economic upliftment of the people of the area. It was also agreed to

consider better functioning of the existing points to facilitate movement of peoples

and goods between the two countries.

30. Recognizing the importance of the power sector as a major area of cooperation,

the two sides reiterated their commitment to cooperate in the implementation of the

Tamanthi and Shwezaye projects on the Chindwin River Basin in Myanmar. They

welcomed the successful completion of the task of updating the DPR on the

Tamanthi project by NHPC on the basis of essential additional investigations. They

noted that the final updated DPR for Shwezaye would be available by March 2012.

They directed the concerned officials on both sides to finalize plans for

implementation of the project within six months.

31. Both leaders underscored the need for energy security and expressed satisfaction

at ongoing bilateral cooperation in the area. They agreed to enhance cooperation in

the area of oil and natural gas. In this context, the Myanmar side welcomed the

substantial investments made by Indian companies like GAIL, ESSAR, ONGC and

others in off-shore and on-shore blocks, and construction of natural gas pipelines.

Myanmar agreed to encourage further investments by Indian companies, both in

public and private sector, in the oil and natural gas sectors.

32. It was also agreed to extend bilateral cooperation to generation of electricity

from renewable energy sources, including solar and wind. In this regard, companies,

both in public and private sectors, in India and Myanmar would be encouraged to

set up joint projects.

33. Appreciating the importance of people-to-people contacts in forging even closer

ties, the two sides agreed to take steps to ease the movement of people between

India and Myanmar. The Myanmar side thanked India for the facilities and

courtesies being extended to Myanmar pilgrims visiting India.

34. The two sides agreed on the need for expansion of air connectivity between the

two countries, and directed the concerned officials to work towards enhancing air

Page 187: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

P26

services which could cover more carriers, flights and destinations. It was noted that

this would transform business and cultural ties between the two nations.

35. Both sides agreed to examine feasibility of establishing railways links, ferry and

bus services between the two countries. In this context, both sides agreed to

examine commencement of ferry services on the Kolkata-Yangon and Chennai-

Yangon routes.

36. The two leaders agreed for early upgradation of the microwave link between

Moreh and Mandalay or other necessary link under the Indian line of Credit, and

directed the concerned officials to work towards establishment of the new Optical

Fibre link between Monywa to Reed-Zowkhathar with Indian assistance.

37. The Myanmar side expressed gratitude for the training offered by India under

the ITEC and TCS schemes to Myanmar scholars and Government officials. The

Indian side agreed to Myanmar's request to increasing the number of training slots

offered annually to Myanmar nationals to 250 from 2012-2013.

38. Both sides agreed to support joint research projects and exchanges of a

historical, archaeological, cultural and educational nature. In this context, it was

agreed to enter into a comprehensive Cultural Exchange Programme to promote

bilateral exchanges with special emphasis on the four Indian States of Arunachal

Pradesh, Nagaland, Manipur and Mizoram and cooperation in the fields of art,

archaeology, museology, sports, media, etc. Both sides agreed to view the

Statement of the Memorandum of Understanding between the Ministry of Religious

Affairs, the Republic of the Union of Myanmar, and the Indian Council for Cultural

Relations, the Republic of Indian on 9 March 2006 in Myanmar, for expeditious

implementation. It was also agreed that both sides would jointly organize a high

level international conference on Buddhist Philosophy in Myanmar in 2012.

39. It was noted with satisfaction that two teams of professionals from the

Archeological Survery of India (ASI) visited Myanmar and carried out detailed

studies on the conservation and restoration of the Ananda Temple in Bagan,

Myanmar. It was agreed that restoration work on the site would start at the earliest

based on the report by ASI.

Page 188: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

P27

40. With a view to strengthening diplomatic and consular presence in each other's

countries, it was noted with appreciation that Myanmar side has agreed that it shall

make available the identified plots of land in Nay Pyi Taw, its capital city, on a

lease in perpetuity and shall transfer the ownership of the LIC properties in Yangon

in the name of the Government of India lease for 60 years which is extendable

further by a block period of 30 years each time, on the same term, as long as India

maintains its Diplomatic/Consular Mission in Myanmar. With regard to transfer the

ownership of the LIC properties in Yangon, it was agreed in principle that

Government of Myanmar, in exercise of the power vested in it under the Article 14

of the Transfer of Immovable Property Restriction Law 1987, authorizes the Life

Insurance Corporation of India to handover the land and building thereon at 545-

547, Merchant Street and 654-666 Merchant Street, Yangon. The Government of

India agreed to the request of the Government of Myanmar to facilitate allocation of

land in Bodh Gaya for setting up a Buddhist monastery for use of pilgrims and

monks from Myanmar.

41. While discussing international developments, the two sides emphasized the

importance of an effective multilateral system, centred on a strong United Nations,

as a key factor in tackling global challenges. In this context, they stressed the urgent

need to pursue the reform of the United Nations including the Security Council, to

make it more representative, credible and effective. The President of Myanmar

reiterated his country’s support for India's candidature for the permanent

membership of the United Nations Security Council.

42. The two sides emphasized the importance of close coordination towards the

cause of regional cooperation. The Indian leadership offered its good wishes to

Myanmar for a successful term as BIMSTEC Chair, including its proposal to host

the next BIMSTEC Summit meeting. The Indian side also offered to deepen its

engagement with Myanmar under its “Initiative for ASEAN Integration (IAI)

programme”. Myanmar being a natural bridge between the ASEAN and India, the

Indian side reiterated its intention of building upon the commonalities and synergies

between the two countries to advance its “Look East” Policy.

Page 189: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

P28

43. The President of Myanmar thanked the President of India for the warm and

gracious hospitality extended to him and the members of his delegation during their

stay in India.

44. President U Thein Sein extended invitations to the President and Prime Minister

of India to visit Myanmar at a mutually convenient time. The invitations were

accepted and it was agreed that the dates of the visits would be decided by mutual

consultations through diplomatic channels.

New Delhi,

October 14, 2011

Nguồn: Avtar Singh Bhasin (2012), India’s Foreign Relations - 2011 Documents,

Geetika Publishers, New Delhi, India, p. 1137-1144.

Page 190: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

P29

PHỤ LỤC 8

CHÂN DUNG CÁC TỔNG THỐNG ẤN ĐỘ TỪ NĂM 1962 ĐẾN NAY (2017)

STT Chân dung Họ tên Nhiệm kỳ

1

Sarvepalli

Radhakrishnan 13/5/1962 - 13/5/1967

2

Zakir Husain 13/5/1967 - 3/5/1969

3

Varahagiri

Venkata Giri 3/5/1969 - 20/7/1969

Page 191: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

P30

4

Mohammad

Hidayatullah 20/7/1969 - 24/8/1969

5

Varahagiri

Venkata Giri 24/8/1969 - 24/8/1974

6

Fakhruddin Ali

Ahmed 24/8/1974 - 11/2/1977

7

Basappa Danappa

Jatti 11/2/1977 - 25/7/1977

Page 192: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

P31

8

Neelam Sanjiva

Reddy 25/7/1977 - 25/7/1982

9

Giani Zail Singh 25/7/1982 - 25/7/1987

10

Ramaswamy

Venkataraman 25/7/1987 - 25/7/1992

11

Shankar Dayal

Sharma 25/7/1992 - 25/7/1997

Page 193: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

P32

12

Kocheril Raman

Narayanan 25/7/1997 - 25/7/2002

13

A. P. J. Abdul

Kalam 25/7/2002 - 25/7/2007

14

Pratibha Patil 25/7/2007 - 25/7/2012

15

Pranab

Mukherjee

25/7/2012 - nay

(2017)

Nguồn: https://en.wikipedia.org/wiki/List_of_Presidents_of_India

Page 194: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

P33

PHỤ LỤC 9

CHÂN DUNG CÁC THỦ TƯỚNG ẤN ĐỘ TỪ NĂM 1962 ĐẾN NAY (2017)

STT Chân dung Họ tên Nhiệm kỳ

1

Jawaharlal Nehru 15/8/1947 - 27/5/1964

2

Gulzarilal Nanda 27/5/1964 - 9/7/1964

3

Lal Bahadur

Shastri 9/7/1964 - 11/1/1966

Page 195: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

P34

4

Gulzarilal Nanda 11/1/1966 - 24/1/1966

5

Indira Gandhi 24/1/1966 - 24/3/1977

6

Morarji Desai 24/3/1977 - 28/7/1979

7

Charan Singh 28/7/1979 - 14/1/1980

Page 196: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

P35

8

Indira Gandhi 14/1/1980 -

31/10/1984

9

Rajiv Gandhi 31/10/1984 -

2/12/1989

10

Vishwanath

Pratap Singh

2/12/1989 -

10/11/1990

11

Chandra Shekhar 10/11/1990 -

21/7/1991

Page 197: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

P36

12

P. V. Narasimha

Rao 21/7/1991 - 16/5/1996

13

Atal Bihari

Vajpayee 16/5/1996 - 1/7/1996

14

H. D. Deve

Gowda 1/7/1996 - 21/4/1997

Page 198: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

P37

15

Inder Kumar

Gujral 21/4/1997 - 19/3/1998

16

Atal Bihari

Vajpayee 19/3/1998 - 22/5/2004

17

Manmohan Singh 22/5/2004 - 26/5/2014

18

Narendra Modi 26/5/2014 - nay

(2017)

Nguồn: https://en.wikipedia.org/wiki/List_of_Prime_Ministers_of_India

Page 199: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

P38

PHỤ LỤC 10

CHÂN DUNG CÁC TỔNG THỐNG MYANMAR TỪ NĂM 1962 ĐẾN NAY (2017)

STT Chân dung Họ tên Chức vụ Nhiệm kỳ

1

Ne Win

Chủ tịch Hội

đồng Cách

mạng

(1962-1974)

Tổng thống

(1974-1981)

02/3/1962 -

9/11/1981

2

San Yu Tổng thống 9/11/1981 -

25/7/1988

3

Sein Lwin Tổng thống 25/7/1988 -

12/8/1988

Page 200: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

P39

4

Aye Ko

Quyền Tổng

thống

12/8/1988 -

19/8/1988

5

Maung

Maung

Tổng thống 19/8/1988 -

18/9/1988

6

Saw

Maung

Chủ tịch Hội

đồng Khôi

phục Trật tự

và Luật pháp

Liên bang

18/9/1988 -

23/4/1992

7

Than

Shwe

Chủ tịch Hội

đồng Khôi

phục Trật tự

và Luật pháp

Liên bang

(1992-1997)

Chủ tịch Hội

đồng Hòa bình

và Phát triển

Liên bang

23/4/1992 -

4/02/2011

Page 201: I H C HU I H C KHOA H C - hueuni.edu.vnsự hướng dẫn khoa học của giảng viên hướng dẫn. Kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách

P40

(1997-2010)

8

Thein Sein Tổng thống 4/02/2011 -

30/3/2016

9

Htin Kyaw Tổng thống 30/3/2016 -

nay (2017)

Nguồn: https://en.wikipedia.org/wiki/List_of_Presidents_of_Myanmar