kỳ 1: dời đô và đắp đê file”, nhà vua đã cho xây đắp bảy đoạn đê mới...

12
Kỳ tích đê sông Hồng Viết bởi Tuổi Trẻ Chủ nhật, 03 Tháng 10 2010 00:14 - Lần cập nhật cuối Chủ nhật, 03 Tháng 10 2010 00:55 Công trình kỳ vĩ nhất, tồn tại lâu bền nhất của Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội chính là hệ thống đê viền quanh sông Cái - dòng sông đã kiến tạo nên nền văn minh lúa nước rực rỡ của người Việt cổ. Những bí ẩn nào liên quan đến đê sông Hồng chưa được kể ra? Kỳ 1: Dời đô và đắp đê Ngay từ thời vua Lý Công Uẩn dời đô về Thăng Long, nhà Lý (và cả các triều đại sau này) đều cho ban hành nhiều sắc lệnh, chủ trương trị thủy sông Hồng, thôi thúc việc đắp đê bảo vệ nội thành Hà Nội. Đắp đê trị thủy  Lịch sử hình thành đê bao quanh Hà Nội và cả hệ thống đê điều đồng bằng Bắc bộ chỉ bắt đầu khi vua Lý Công Uẩn dời đô về Thăng Long. Nhà Lý coi trọng nông nghiệp, nên ngay sau khi đóng đô đã ban hành nhiều sắc lệnh khuyến nông, cấm giết trâu bò, trị tội trộm trâu bò rất nặng, giữ lệ cày ruộng tịch điền có từ thời vua Lê Đại Hành... Vì vậy, việc trị thủy sông Hồng và các hệ thống sông nhánh được coi là căn cốt để duy trì nền kinh tế nông nghiệp. - Ảnh bên : Đê Yên Phụ những năm 1971 (Ảnh: TTXVN) 1 / 12

Upload: others

Post on 26-Oct-2019

13 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: Kỳ 1: Dời đô và đắp đê file”, nhà vua đã cho xây đắp bảy đoạn đê mới ở Bắc bộ, chi tiêu hết 80.400 quan tiền. Năm ấy nhà vua còn hạ

Kỳ tích đê sông Hồng

Viết bởi Tuổi TrẻChủ nhật, 03 Tháng 10 2010 00:14 - Lần cập nhật cuối Chủ nhật, 03 Tháng 10 2010 00:55

Công trình kỳ vĩ nhất, tồn tại lâu bền nhất của Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội chính là hệthống đê viền quanh sông Cái - dòng sông đã kiến tạo nên nền văn minh lúa nước rực rỡ củangười Việt cổ. Những bí ẩn nào liên quan đến đê sông Hồng chưa được kể ra?

Kỳ 1: Dời  đô và đắp đê

Ngay từ thời vua Lý Công Uẩn dời đô về Thăng Long, nhà Lý (và cả các triều đại sau này) đềucho ban hành nhiều sắc lệnh, chủ trương trị thủy sông Hồng, thôi thúc việc đắp đê bảo vệ nộithành Hà Nội.

Đắp đê trị thủy 

Lịch sử hình thành đê bao quanh Hà Nội và cả hệ thống đê điều đồng bằng Bắc bộ chỉ bắtđầu khi vua Lý Công Uẩn dời đô về Thăng Long. Nhà Lý coi trọng nông nghiệp, nên ngay saukhi đóng đô đã ban hành nhiều sắc lệnh khuyến nông, cấm giết trâu bò, trị tội trộm trâu bò rấtnặng, giữ lệ cày ruộng tịch điền có từ thời vua Lê Đại Hành... Vì vậy, việc trị thủy sông Hồngvà các hệ thống sông nhánh được coi là căn cốt để duy trì nền kinh tế nông nghiệp.

- Ảnh bên : Đê Yên Phụ những năm 1971 (Ảnh: TTXVN)

1 / 12

Page 2: Kỳ 1: Dời đô và đắp đê file”, nhà vua đã cho xây đắp bảy đoạn đê mới ở Bắc bộ, chi tiêu hết 80.400 quan tiền. Năm ấy nhà vua còn hạ

Kỳ tích đê sông Hồng

Viết bởi Tuổi TrẻChủ nhật, 03 Tháng 10 2010 00:14 - Lần cập nhật cuối Chủ nhật, 03 Tháng 10 2010 00:55

Ông Nguyễn Gia Quang, nguyên phó cục trưởng Cục Đê điều, cho biết khởi thủy đê chỉ lànhững dải đất do phù sa lắng đọng và tôn cao sau các trận lụt được nối lại với nhau để ngănnước lũ. Ban đầu chỉ là những dải đê quai không liền mạch, mang tính làng xã, địa phương.Nhưng với sự phát triển của một nhà nước phong kiến tập quyền trung ương mạnh, bắt đầu từnhà Lý đắp đê phòng lụt đã vươn ra ngoài khuôn khổ nhằm bảo vệ quyền lợi cục bộ cho làng xãhọ hàng. Dù dời đô về Thăng Long từ năm 1010, do còn bận bịu với quá nhiều công việc về ổnđịnh chính trị và quốc phòng nên mãi đến năm 1077, triều đình mới đứng ra chủ trương đắpnhững con đê quy mô to lớn. 

Theo Việt sử lược: năm 1077, nhà Lý cho đắp đê sông Như Nguyệt - sông Cầu dài 67.380 bộ(khoảng 30km). Năm Quý Mùi (1103), triều Lý Nhân Tông năm thứ 32, mùa xuân tháng giêng,vua xuống chiếu cho trong và ngoài kinh thành đều phải đắp đê ngăn nước lụt.

Tháng 3 năm Mậu Tý (1108), con đê đầu tiên của sông Hồng được đắp ở phường Cơ Xá cónhiệm vụ bảo vệ kinh thành Thăng Long.

Dưới đời nhà Trần, những con đê được đắp chỉ cốt giữ nước không tràn vào đồng ruộng để kịplàm vụ chiêm. Dưới triều Lê sơ, những con đê lớn hơn được đắp mới và tôn tạo trên hai bờ sôngNhị Hà được xem là sự can thiệp vào tự nhiên quá giới hạn cho phép, kết quả là sông Hồng trởnên hung dữ, đã bùng vỡ và gây ngập lụt triền miên.

Yên dân để giữ nước

Các chuyên gia thủy lợi, đê điều giải thích đê có từ thời vua Hùng, xuất hiện ở Phong Châu (Phú Thọ). Khi đó lũ lên ngập đồng ruộng thì người dân đã đổ đất, tôn ruộng lên cao, cứ mỗi năm tôn thêm một chút. Đó gọi là “thổ nhô”. Truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh cũng từ đó mà ra. 

Nhà Nguyễn hiểu rằng muốn tranh thủ lòng dân không có gì khác hơn là tạo an cư lạc nghiệp.Năm Quý Hợi (1803) vừa mới lên ngôi vua Gia Long đã hỏi han về lụt lội. Sau khi nghe quan lạiBắc thành tâu: “Thế nước sông Nhị Hà lên tất mạnh. Đê tả hữu thuộc Tây Sơn, Kinh Bắc, SơnNam thượng, hạ nhiều chỗ vỡ lở. Xin cho dân đắp ngay để chống lụt mùa thu. Thủy đạo cáctrấn nhiều nơi úng tắc, xin hạ lệnh cho trấn thần (quan các trấn) tùy thế khơi vét”, nhà vua đã cho xây đắp bảy đoạn đê mới ở Bắc bộ, chi tiêu hết 80.400 quan tiền.

Năm ấy nhà vua còn hạ lệnh cho quan lại sĩ thứ Bắc thành điều trần lợi hại: “Làm lợi, bỏ hại làviệc trước tiên của chính trị. Những huyện ở ven sông trong địa phương các người từ trước đãđắp đê phòng lụt. Song nhân tuần đã lâu, hễ đến mùa lụt thì đê vỡ lở, lúa ruộng bị ngập, ngườivà vật đều bị hại. Bọn người, kẻ thì sinh ở đó, người thì làm ăn ở đó. Thế đất tình người đã từngam thuộc. Vậy đắp đê hay bỏ đê, cách nào hại, cho được bày tỏ. Lời bàn mà có thể thực hànhsẽ được nêu thưởng”.

Suốt thời gian trị vì, vua Gia Long vẫn kiên trì cho đắp đê. Năm Giáp Tý (1804), vua sai quanlại Bắc thành lấy dân đi sửa - đắp đê, sau lại sai quan trong triều là Võ Trinh đi trông coi. Vua dụrằng: “Việc phòng luật rất quan hệ, lợi hại đến đời sống của dân, trẫm rất chú ý, người (tức VõTrinh) phải cẩn thận ”.

2 / 12

Page 3: Kỳ 1: Dời đô và đắp đê file”, nhà vua đã cho xây đắp bảy đoạn đê mới ở Bắc bộ, chi tiêu hết 80.400 quan tiền. Năm ấy nhà vua còn hạ

Kỳ tích đê sông Hồng

Viết bởi Tuổi TrẻChủ nhật, 03 Tháng 10 2010 00:14 - Lần cập nhật cuối Chủ nhật, 03 Tháng 10 2010 00:55

Năm Bính Dần (1806), nhà nước bỏ ra 95.200 quan tiền để đắp 12 đoạn đê mới ở Bắc bộ. NămMậu Thìn (1808), vua Gia Long cho đắp thêm 10 đoạn đê mới tại các nơi như Sơn Nam thượngtại các huyện Thanh Trì, Gia Lâm, Văn Giang, tổng cộng 1.500 trượng (1 trượng bằng 0,4m dài).

Năm 1809, theo lời tấu của đô chính Bắc thành, vua cho đắp thêm hai đoạn đê mới và tôn caohai đoạn đê cũ, chi phí hết 87.000 quan tiền.

Cũng năm này nhà vua đặt chức quan đê chính Bắc thành (coi về đê điều Bắc bộ), cử binh bộthượng thư Đặng Trần Thường làm tổng lý và quan tham chính bộ Công Nguyễn Khắc Thiệulàm tham lý và dụ rằng: “Sông có đê, đời sống của dân quan hệ ở đó. Bọn người đi phải nênkính cẩn ”.

Bắt đầu từ năm 1809, triều Nguyễn quy định cứ tháng 10 âm lịch hằng năm các quan phủ,huyện, trấn phải lần lượt đến khám, quan đê chính khám lại. Đê nào nên sửa đắp thì xét địnhcông trình lớn hay nhỏ. Nếu là công trình lớn thì sai người hợp cùng trấn (thuở ấy toàn Bắc bộgọi là Bắc thành gồm có bốn thị trấn là tỉnh) thuê dân làm. Đều khởi công vào tháng giênghoặc tháng 2, đến tháng 4 phải xong. Tháng 9 cùng năm ban hành điều lệ về đê điều ở Bắc bộ,trong đó quy định chi tiết về quy mô, nguồn nhân lực từng loại đê và chi tiết đến cả giá thànhtừng trượng, thước đất đắp đê.

Vua Minh Mạng cực kỳ nghiêm khắc, chẳng những duy trì luật lệ thưởng phạt về đê điều từ triềuGia Long để lại mà còn bổ sung chặt chẽ và thực hiện gắt gao hơn. Năm 1827, vua cách chứchiệp trấn Sơn Nam của Ngô Huy Viện. Nguyên trước đó trấn thủ cũ là Lê Công Lý và tham hiệptrấn Vũ Tiến Huân thuê dân đắp đê ở huyện Duy Tiên đã dời đống nọ, đổi đoạn kia không đúngthức. Ngô Huy Viện bị cách chức, Vũ Tiến Huân bị đánh 100 trượng và phát đi làm lính cơ. LêCông Lý tuy đã chết vẫn bị thu lại bằng sắc.

Vua cho rằng: “Việc đê quan hệ tới việc làm ruộng không nhỏ. Công việc sửa đắp, triều đìnhvốn không tiếc phí, làm không đúng cách thức là lỗi Hữu Ty ”. Vua Minh Mạngcòn dụ thêm rằng: “Đắp đê là chống nước lụt cho dân yên ở, quan hệ lợi hại không nhỏ”.

Dưới triều Minh Mạng từ năm 1820-1840, hầu như năm nào cũng có các công cuộc trị thủy ởBắc kỳ. Có những công trình đại quy mô huy động đến hàng vạn người, cả dân phu và binh lính.

30 năm đầu triều Nguyễn đã đắp 580km đê mới.

Kỳ 2: Những trận vỡ đê lịch sử

3 / 12

Page 4: Kỳ 1: Dời đô và đắp đê file”, nhà vua đã cho xây đắp bảy đoạn đê mới ở Bắc bộ, chi tiêu hết 80.400 quan tiền. Năm ấy nhà vua còn hạ

Kỳ tích đê sông Hồng

Viết bởi Tuổi TrẻChủ nhật, 03 Tháng 10 2010 00:14 - Lần cập nhật cuối Chủ nhật, 03 Tháng 10 2010 00:55

Từ cuối thế kỷ 10 đến cuối thế kỷ 19, thống kê chưa đầy đủ cũng đã có 188 năm chính sử chépcó thủy tai, kèm theo thảm họa lớn: vỡ đê. Đến thời Nguyễn, Đại Nam thực lục chính biên ghinhận 82 năm đầu của triều Nguyễn đã có 52 năm lụt lội, vỡ đê.

Trong trận lũ năm 1971, ngành giao thông đã điều hẳn một đoàn tàu chở đầy đá hộc để ém trêncầu Long Biên vì sợ trôi cầu - Ảnh tư liệu TTXVN

Vỡ đê trong sử sách

Theo các chuyên gia về đê điều thì sử sách đã ghi lại hàng trăm vụ vỡ đê lớn nhỏ. Bắt đầu từtriều Lý (trở đi), quốc sử mới có những ghi chép liên tục về chuyện vỡ đê, nhưng cũng chỉ ghi lạinhững năm lụt lớn.

Đầu tiên, triều Lý Nhân Tông năm thứ 7, Mậu Ngọ, 1078, nước lụt tràn ngập trong thành. Cũngtriều Lý Nhân Tông năm thứ 50, Tân Sửu 1121, mùa hạ tháng 5, nước to tràn vào đến ngoài cửaĐại Hưng. Hẳn đã vỡ thì nước mới tràn như vậy, dù đê Cơ Xá được đắp để bảo vệ kinh thành từnăm 1108.

Triều Trần, lụt lội hoành hành không kém. Năm Bính Thân 1236, triều Trần Thái Tông năm thứ12, tháng 6, vỡ đê, nước ngập cung Lệ Thiên. Hai năm sau, năm Mậu Tuất 1238, mùa thu tháng7, nước to, đê vỡ, ngập cung Thưởng Xuân. Đến năm Quý Mão 1243, nước lụt còn phá vỡ cảthành Đại La.

Năm 1945, khi Cách mạng Tháng Tám đang diễn ra thì lũ trên các sông thuộc hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình lên rất cao. Khi lũ sông Hồng chưa lên đến đỉnh, chính quyền cách mạng đã cho mở đập Đáy (Đan Phượng-Hà Tây, nay là Hà Nội) để tiêu bớt lũ cho sông Hồng.

Bảy cửa đập Đáy (mở) được hạ thấp từ từ trong bảy giờ liền, đỉnh cửa đã từ 12,5m xuống 11,5m.

4 / 12

Page 5: Kỳ 1: Dời đô và đắp đê file”, nhà vua đã cho xây đắp bảy đoạn đê mới ở Bắc bộ, chi tiêu hết 80.400 quan tiền. Năm ấy nhà vua còn hạ

Kỳ tích đê sông Hồng

Viết bởi Tuổi TrẻChủ nhật, 03 Tháng 10 2010 00:14 - Lần cập nhật cuối Chủ nhật, 03 Tháng 10 2010 00:55

Dự định mở hết cỡ đưa mặt cửa đập nằm ngang ở 7m như thiết kế. Nhưng hạ xuống đến 10,5m thì tất cả các cửa không xuống được nữa mà có biểu hiện dập dềnh như đã gặp trong lần mở năm 1940.

Sáng 19-8 cửa số 1 phía Sơn Tây thình lình sập hẳn mặc dù đã dùng mọi biện pháp ép khí vào, cửa cũng không lên được tạo thành một thác nước khủng khiếp xoáy vào khoang số 1. Kết quả là khoang số 1 bị phá hủy hoàn toàn, phải lấp bỏ vĩnh viễn.

Đập Đáy vỡ, kéo theo 52 đoạn đê thuộc sông Hồng, sông Thái Bình và các con sông khác (trừ đoạn thuộc Hà Nội) bị vỡ. Tổng diện tích bị ngập lụt lên tới 321ha.

Cách mạng Tháng Tám diễn ra đúng vào những ngày lũ lịch sử và việc hàn đê chống lụt trở thành công việc đầu tiên của nhà nước cách mạng. Tấm bằng khen đầu tiên được trao cho việc này.

Bác Hồ khi đó đi xuống tận Hưng Yên, Thái Bình để đôn đốc. Chính Hồ Chủ tịch là người ủng hộ sáng kiến đổi mới cho việc hộ đê bằng việc kêu gọi tư nhân “đầu tư” và chấp nhận “đấu thầu” trong các công trình củng cố đê điều... 

Năm Canh Ngọ 1270, triều Trần Thánh Tông, mùa thu tháng 7 nước lũ to. Các đường phố vàkinh thành đều phải đi lại bằng thuyền. Như vậy cũng có nghĩa là đê sông Hồng và hệ thống đêquanh kinh thành đã bị vỡ nhiều nơi. 

Đến triều Lê, mặc dù đê điều đã được củng cố và có tổ chức hộ đê hẳn hoi, nhưng lụt lội vẫn lànỗi kinh hoàng. Năm 1445, triều Lê Nhân Tông, nước sông lên to, ngập vào trong thành sâuđến 3 thước, lúa mạ tổn hại đến 1/3 cả nước. Năm Đinh Hợi 1467, Lê Thánh Tông năm thứ 7,nước biển dâng cao, gió bão rất lớn, đê điều bị vỡ, thóc lúa bị ngập, nhiều người chết đói. NămTân Hợi 1491, tháng 8 mùa thu mưa rất to suốt ngày đêm không ngớt. Nước lũ lên dữ dội. ĐiệnKính Thiên nước ngập sâu 2 thước 2 tấc. 

Năm Canh Ngọ 1630, triều Lê Thần Tông, mùa thu tháng 8 nước sông Nhị tràn vào, nước chảytrên đường phố Cửa Nam như thác, phố phường nhiều người chết đuối. Liên tiếp các năm TânMùi 1521, Nhâm Thân 1632, cung điện nhà vua đều bị ngập lụt. 

Đến thời Gia Long, năm 1802, Bắc thành nước lớn, đê vỡ. Năm 1809, Bắc thành bão lụt trànngập. Năm Giáp Thìn 1844, nước sông Nhị lên đến hơn 10 thước, đồng ruộng Hưng Yên, HàNội, Nam Định, Quảng Yên đều bị ngập. 

Trong các triều vua Nguyễn thì triều Tự Đức có nhiều lũ lụt nhất, đồng bằng Bắc bộ vỡ đê liênmiên vì đê điều ít được tu sửa. Đê Văn Giang (Hưng Yên giáp Hà Nội) vỡ 18 năm liền, từ1863-1886 dân cư phiêu bạt, xóm làng trở thành đầm lầy.

Thời Pháp, cứ ba năm thì có một năm đê vỡ. Các trận lụt năm 1893, năm 1915 làm bốn tỉnhhữu ngạn sông Hồng ngập chìm trên ba tháng trời, tác động mạnh đến dư luận nước Pháp,buộc thực dân Pháp phải thực hiện một số kế hoạch củng cố đê điều. 

Gần nữa, trận lũ năm 1969 và 1971 được các chuyên gia ghi vào “lịch sử” bởi vỡ đê hàng loạt,gần 100.000 dân đồng bằng sông Hồng đã chết vì trận lũ này... 

Vỡ đê trong trận lũ lịch sử 1971 

Cuốn sổ tay khá dày, cũ kỹ, sờn hết gáy của kỹ sư Nguyễn Gia Quang, nguyên cục phó Cục Đêđiều (Bộ Thủy lợi), ghi lại chính xác đến từng giờ, từng phút về cơn lũ kinh hoàng và thảm họa

5 / 12

Page 6: Kỳ 1: Dời đô và đắp đê file”, nhà vua đã cho xây đắp bảy đoạn đê mới ở Bắc bộ, chi tiêu hết 80.400 quan tiền. Năm ấy nhà vua còn hạ

Kỳ tích đê sông Hồng

Viết bởi Tuổi TrẻChủ nhật, 03 Tháng 10 2010 00:14 - Lần cập nhật cuối Chủ nhật, 03 Tháng 10 2010 00:55

vỡ đê năm 1971. 

Vừa lật giở những trang giấy cũ nát tìm số liệu, ông Quang vừa kể: năm đó, từ nửa cuối tháng 8mưa to, đều trên diện rộng khiến lũ sông Đà, sông  Thao, sông Lô (ba nhánh chính của sôngHồng) đều lên. Gần chục ngày trời ngày nào cũng mưa, mưa lúc mau lúc thưa không ngớt, mâyđen phủ kín cả bầu trời. 

Dòng sông Hồng đoạn chảy qua Hà Nội nước chảy cuồn cuộn, những xoáy nước to bằng cáinong quay tít, xoáy hun hút xuống tận đáy, không một bóng con tàu, chiếc thuyền nào dám laivãng. Vùng ngoài đê chìm trong biển nước, nhà cửa ở chỗ cao chỉ nhú lên cái nóc, các lùm câythoi thóp trong nước lũ... 

2 giờ đêm 21/8, lưu lượng nước sông Đà tại Hòa Bình đạt 16.100m3/giây, tại sông Thao (ở YênBái) là 10.500m3/giây, sông Lô (tại Phù Ninh, Phú Thọ) là 13.900m3/ giây. Sau khi hợp lưu, lưulượng sông Hồng tại Sơn Tây là 34.250m3/giây làm cho nước các triền sông lên cao.

Ông Quang kể tiếp, Hà Nội lúc đó nước lên xấp xỉ mặt cầu Long Biên và ngành giao thông đãphải điều cả một đoàn tàu chở đá lên nằm yên trấn giữ mặt cầu, với hi vọng giảm thiểu tác độngcủa nước xiết có thể cuốn phăng cả cây cầu huyết mạch này. 

Sau khi lũ làm ngập vỡ hết các đê bối (đê nằm ngoài đê), lần lượt vỡ đê Lâm Thao, đê Lai Vu(Hải Dương), đê Nhất Trai (Thái Bình), đê Khê Thượng (Ba Vì-Hà Tây cũ). Riêng đê Cống Thônthuộc Hà Nội vỡ lúc 20g30 tối 22/8. Đê phao Tấn Tả (Thái Bình) được phá để phân lũ lúc 9 giờsáng 23/8. 11 giờ cùng ngày thì đê Thượng Vũ sông Kim Môn vỡ, đến 27/8 vỡ cả cống Chuốcdo nước Khê Thượng dồn về... 

“Mặc dù dùng cả xe tăng chặn lũ ở cống Khê Thượng nhưng lũ cuốn phăng cả xe tăng xuốngphía hạ lưu hàng trăm mét ” - ông Quang nhớ lại. 

Theo ông Quang, mực nước đo được tại Hà Nội sau khi đã vỡ đê là 14,13m - theo nhiều chuyêngia là tương đương với mặt đồng hồ ở ga Hàng Cỏ. 

Việc hàn khẩu các chỗ vỡ được thực hiện ngay nhưng do mưa to tiếp tục kéo dài, lũ lớn nêncông việc kéo dài, chỉ kết thúc sau khi lũ rút, mặc dù đã sử dụng đến 10.000m3 đá hộc, 1,4triệu bao tải đay, 34.000 rọ thép và đặc biệt đã phải đánh đắm 19 sà lan (riêng cho đê NhấtTrai). 

Ky 3: Vụ án đê Yên Phụ

Đê càng vững thì dân dồn về đê càng nhiều, vi phạm hành lang đê càng tăng. Đê không vỡ, lũkhông tràn nhưng đã có những lãnh đạo “trôi mất ghế”, tiêu biểu là “vụ án đê Yên Phụ” năm

6 / 12

Page 7: Kỳ 1: Dời đô và đắp đê file”, nhà vua đã cho xây đắp bảy đoạn đê mới ở Bắc bộ, chi tiêu hết 80.400 quan tiền. Năm ấy nhà vua còn hạ

Kỳ tích đê sông Hồng

Viết bởi Tuổi TrẻChủ nhật, 03 Tháng 10 2010 00:14 - Lần cập nhật cuối Chủ nhật, 03 Tháng 10 2010 00:55

1995.

Thách thức ngoài đê

Đê Yên Phụ là đoạn đê sông Hồng chạy từ chân cầu Thăng Long đến Nhà máy nước Yên Phụ,ngang qua một vùng “bờ xôi ruộng mật” của Hà Nội - Nghi Tàm - Quảng Bá - Hồ Tây.

Đê Yên Phụ trong trận lũ lịch sử năm 1971 - Ảnh: TTXVN

7 / 12

Page 8: Kỳ 1: Dời đô và đắp đê file”, nhà vua đã cho xây đắp bảy đoạn đê mới ở Bắc bộ, chi tiêu hết 80.400 quan tiền. Năm ấy nhà vua còn hạ

Kỳ tích đê sông Hồng

Viết bởi Tuổi TrẻChủ nhật, 03 Tháng 10 2010 00:14 - Lần cập nhật cuối Chủ nhật, 03 Tháng 10 2010 00:55

Và đê Yên Phụ ngày nay - Ảnh. V.Dũng  Người dân thủ đô cũng như cán bộ, chuyên gia làm công tác đê điều, thủy lợi khi nói về các vụvi phạm đê điều không ai không nhắc đến “vụ án đê Yên Phụ” năm 1995. Khi đó Thủ tướng VõVăn Kiệt đã chỉ đạo quyết liệt phá bỏ hơn 200 ngôi nhà xây dựng trái phép trên đê Yên Phụ, TứLiên. Vụ án này còn khiến ông thứ trưởng thường trực Bộ Thủy lợi bị kỷ luật, không được cấtnhắc, cán bộ dưới quyền là cục trưởng đê điều và ông giám đốc Sở Thủy lợi Hà Nội đều mấtchức và bị bắt giam hơn 70 ngày... 15 năm không phải là dài, nhiều người liên quan và nhiều cán bộ, kỹ sư cùng thời đến giờ nhiềungười còn nhớ vụ bê bối ầm ĩ này. Ngồi bán nước ngay đầu ngõ nhà mình (nhà 13, ngách 17, ngõ 292 Nghi Tàm), ông Đỗ NhưLuân, tổ trưởng tổ dân phố 29, cụm 5A, phường Yên Phụ từ năm 1994 đến nay, kể: “Hồi đó,những năm đầu 1990, cả một đoạn đê dài chỉ khoảng hơn kilômet qua địa phận phường YênPhụ hai bên thân đê người ta đua nhau làm nhà, xây bậc lên xuống, lối ngõ vào nhà ngay lênthân đê. Thời đó cũng chủ yếu những nhà có tiền, có lực mới đủ sức xây nhà kiên cố, bấu bám vào đê.Thậm chí họ còn thuê xe chạy ngày đêm đổ đất cạp đê để xây dựng nhà cửa, hàng quán.Những gia đình không có điều kiện cũng chớp cơ hội bạt mái đê cuốc, xới trồng rau. Chỉ mộtthời gian ngắn trên đoạn đê này đã có cả vài trăm nhà lấn đê, vi phạm hành lang đê”. Chẳng cần nói xa xôi, thời đấy ngay bản thân ông tổ trưởng Luân cũng leo lên mặt đê dựng lềubán quán nước. Đến em trai ông là đảng viên nhưng cũng xây nhà ngay sát chân đê... ÔngLuân lý giải: “Khi đó đã có mốc giới gì đâu, đã được tuyên truyền thế nào là hành lang bảo vệ đêđâu, cứ thấy người khác xây được, ở được thì mình cũng bon chen! ”. Ngày 13/7/1994, Thủ tướng Võ Văn Kiệt chỉ đạo UBND TP Hà Nội kiểm tra tại chỗ và xử lý kịpthời các đối tượng vi phạm hành lang bảo vệ đê từ Yên Phụ đến Nhật Tân. Ngày 29/3/1995,đích thân Thủ tướng Võ Văn Kiệt làm việc với Bộ Thủy lợi và Hà Nội về việc di chuyển các hộdân, các công trình trong phạm vi cần giải tỏa. Suốt ba tháng, sau những giằng co, 202 nhà nằm trong chỉ giới đã tự nguyện tháo dỡ hoàntoàn hoặc một phần. Thành phố lúc ấy tạm ứng 6,5 tỉ đồng cho UBND quận Ba Đình và 6,5 tỉđồng cho UBND huyện Từ Liêm để chi cho việc hỗ trợ dân di dời... “Gia cố kỷ cương”Ông Luân bảo nhiều lúc các đoàn trung ương đi kiểm tra là dân lại xúm đông xúm đỏ để bày tỏbức xúc, thắc mắc này nọ, kỳ kèo mức hỗ trợ, đền bù. “Tôi nhớ những lần ông Phan Văn Khảikhi đó là phó thủ tướng xuống kiểm tra là dân xúm vào, rất nhiều người cố chen vào để đưa đơnthư kiện cáo ”. Thậm chí nhiều nhà chẳng biết quen biết cỡ nào, nhưng mỗi khi ông Luân đến vận động thì họ“cười khẩy như thách đố”, đến khi cưỡng chế thì năm lần bảy lượt cứ động vào lại phải dừng màchẳng biết lý do. Theo ông Luân, sau khi dẹp loạn đê xong, Nhà nước cắm mốc, vạch rõ các chỉ giới, làm đườngrộng 5m lưu thông ngay sát chân đê thì chẳng còn mấy ai vi phạm cái mốc đó nữa. Những nhàxây sau chỉ giới 5m tính từ chân đê đến 25m thì được giữ nguyên hiện trạng, nhưng bị phạt rấtnặng. Với sự kiên quyết của Chính phủ khi đó, sau mấy tháng “vụ án” cũng khép lại, toàn bộnhà cửa lấn chiếm đã bị dỡ bỏ... Chứng kiến vụ “dẹp loạn” đê Yên Phụ, một nhà báo lão thành từng 40 năm theo dõi ngành nôngnghiệp quả quyết: Thủ tướng Võ Văn Kiệt khi đó làm mạnh tay không chỉ để giải phóng thânđê, gia cố lại đê cho vững chắc mà sâu xa hơn, Thủ tướng muốn “gia cố lại kỷ cương phépnước”. Nhiều người dân Yên Phụ còn nhớ thời đó, mỗi lần cưỡng chế là trên lại huy động biết bao côngan, bộ đội, dân phòng rồi các loại xe máy xúc, máy ủi rầm rầm tiến lên đê Yên Phụ, đường NghiTàm. Lúc đầu thì chặn đường, tìm những hố xủi, tổ mối đào bới lên, cho quay phim, chụp ảnhđể tuyên truyền cho dân biết sự nguy hại của làm nhà lấn đê. Các vết nứt, tổ mối, mạch xủi đónếu gặp lũ thì nguy cơ vỡ đê là rất lớn. Nguy hại trước hết là chính người dân sống gần đê, trong đó có bản thân những người lấn đê.Tuyên truyền là thế, thậm chí cán bộ phường, tổ dân phố thay nhau đi vận động, nhưng nhiềunhà cũng chống đối, dây dưa. “Nếu là dân thường, tuyên truyền vận động rồi đền bù hỗ trợ thỏa đáng là dân nghe ngay. Tuynhiên hồi đó không hiểu sao nhiều nhà thuộc diện “con cháu” vẫn ngang bướng, chống đối,chây ì khiến công tác giải tỏa dây dưa. Rồi dân thường cũng nhìn vào đó mà so bì” - ông Luânnhớ lại cái thuở đi vận động giải tỏa năm 1994 đầu 1995. May thay, cuối cùng ý chí lập lại kỷcương đã chiến thắng! Kỳ 4:  Những tranh luận trên đê sông Hồng

Học giả Pháp Pierre Gourou vào đầu thế kỷ 20 từng viết: “Châu thổ sông Hồng đã bị chết trongtuổi vị thành niên của nó ”. Có thể nóitừ thời Lê, đồng bằng châu thổ sông Hồng đã chấm dứt giai đoạn phát triển tự nhiên của mình.

Những cuộc tranh luận trong lịch sử

Nó gần như bị cắt đứt liên hệ với chính con sông từng tạo ra và nuôi dưỡng. Dòng nước chứanhiều phù sa của sông Hồng không còn tràn vào đồng bằng mà bị nhốt giữa hai thân đê.

Do vậy đáy sông không ngừng bị nâng cao, nhiều doi cát giữa dòng và bãi bồi được hình thành,đặc biệt đoạn từ Sơn Tây đến Nam Định. Đó là nguyên nhân khiến từ đời này qua đời khác cáccon đê cứ phải được tôn tạo, đắp cao lên mãi.

Tiến sĩ địa chất thủy văn Tạ Hòa Phương là người từ lâu quan tâm đến việc nghiên cứu địahình của đới đứt gãy sông Hồng, cũng như tình trạng đê sông Hồng và những tác động của nóđến thủy văn của đồng bằng Bắc bộ và vùng châu thổ sông Hồng tại Hà Nội nói riêng. Từ cáchđây hơn 10 năm, ông đã có ý kiến về việc nên bỏ bớt một số đoạn đê sông Hồng.

Ông cho rằng: “Việc đắp đê sông Hồng là quyết định đúng đắn thời kỳ đầu. Năm 1108, vào thờiLý, con đê đầu tiên được đắp ở phường Cơ Xá chỉ có nhiệm vụ bảo vệ kinh thành Thăng Long.Những con đê thấp được đắp vào đời Trần (1225-1400) chỉ cốt giữ cho nước không tràn vàođồng ruộng để kịp làm vụ chiêm, sau khi mùa màng thu hoạch xong thì nước được tự do trànvào đồng ruộng - một giải pháp có thể chấp nhận được.

8 / 12

Page 9: Kỳ 1: Dời đô và đắp đê file”, nhà vua đã cho xây đắp bảy đoạn đê mới ở Bắc bộ, chi tiêu hết 80.400 quan tiền. Năm ấy nhà vua còn hạ

Kỳ tích đê sông Hồng

Viết bởi Tuổi TrẻChủ nhật, 03 Tháng 10 2010 00:14 - Lần cập nhật cuối Chủ nhật, 03 Tháng 10 2010 00:55

Nhưng những con đê bề thế được đắp mới và tôn tạo trên hai bờ Nhị Hà (sông Hồng) vào triềuLê Sơ (1428-1527) đã là sự can thiệp vào tự nhiên quá giới hạn cho phép.

Bị kềm kẹp giữa hai thân đê, sông Hồng càng trở nên hung dữ, đã “giãy giụa”, bứt phá, gâyngập lụt triền miên vào thời Nguyễn. Cũng chính trong thời Nguyễn đã có nhiều ý kiến đề nghịxem xét vấn đề bỏ hay giữ đê. Ví dụ vào thời Minh Mạng, năm 1833 Đoàn Văn Trường, ĐặngVăn Thiêm, Trịnh Quang Khanh đã dâng sớ xin khai sông thay vì đắp đê, tạm bỏ đê ở HưngYên, Hải Dương, Nam Định.

Vốn có tư chất thông minh, năng động và quyết đoán, sau 10 năm tăng cường tôn tạo và đắpđê, vua Minh Mạng đã cho áp dụng biện pháp thử bỏ đê và tiến hành đào sông Cửu An để tiêulũ.

Phải thừa nhận đó là một quyết định mang tính cách mạng, tuy việc thực hiện chưa thành côngdo nhiều khó khăn khách quan. Tiếc rằng không phải ai cũng hiểu như vậy, có người còn đánhgiá việc làm kể trên biểu hiện thái độ ươn hèn của triều đình Minh Mạng”.

Vào cuối thời Thiệu Trị, năm 1847, quyền tổng đốc Hà Ninh Nguyễn Đăng Giai đã dâng sớ nêu12 điều hại của đê và xin bỏ đê.

Nguyễn Đăng Giai khẩn khoản: “Nước với đất là vật nương tựa nhau. Đắp đê phòng lụt, nướckhông vào ruộng được, ruộng ngày càng khô ráo. Tuy có cấy lúa cũng không lên được... Mỗinăm đến tiết hạ - thu, nước sông trướng rật lên là phải đi hộ đông vệ tây, trống thúc huyên thiên,đồng ruộng lại khô hạn. Nhưng trong đồng thì mong nước như khát, mà bên ngoài sông thì coinước như thù. Muốn đào ra lấy nước thì sợ vỡ đê. Muốn hộ đê cho vững thì ruộng lúa bị bỏ...Đường đê đã nhiều, hao phí tài lực càng lắm. Làm chỗ này hỏng chỗ kia. Kè bên đông thời bỏbên tây. Đem cái công làm ruộng hữu hạn mà đắp đê bối vô hạn, tài lực của dân làm sao chịunổi... ”.

Tổng đốc kiến nghị khai đào một số con sông (ví dụ các sông Nguyệt Đức, Thiên Đức, NghĩaTrụ) để phân lưu cho sông Hồng, đổ về phía đông, giảm bớt lượng nước tràn vào đồng ruộng: “Chỗ bồi lấp đào khơi ra. Sao cho dòng nước đều lưu thông. Các cửa sông có đê đắp ngang, xinkhai đôi cửa sông lên phía trên để thu hút nước thượng lưu, bất tất phải nắn thẳng đem chỗ xara chỗ gần mà phí công tổn hại ruộng đất, chỗ ở, phần mộ của dân thành ra bất tiện... Nhất thiếtđem cái công bồi đắp đê điều làm vào việc khai đào sông cũ, không nên làm gì khác để phícủa. Khai đào được bao nhiêu đất bùn, đem ra xa hai bên bờ độ mấy chục trượng, tích lại đểbảo vệ bờ nông”.

9 / 12

Page 10: Kỳ 1: Dời đô và đắp đê file”, nhà vua đã cho xây đắp bảy đoạn đê mới ở Bắc bộ, chi tiêu hết 80.400 quan tiền. Năm ấy nhà vua còn hạ

Kỳ tích đê sông Hồng

Viết bởi Tuổi TrẻChủ nhật, 03 Tháng 10 2010 00:14 - Lần cập nhật cuối Chủ nhật, 03 Tháng 10 2010 00:55

Vào thời Tự Đức, Nguyễn Đăng Khải đề xuất (năm 1857) xin giữ lại đê bên tả ngạn sông Hồng,phá bỏ đê bên hữu ngạn để nước lũ có thể tràn vào đồng ruộng; Vũ Văn Bình (năm 1861) đềnghị bỏ tất cả đê ở các tỉnh Sơn Tây, Bắc Ninh, Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định; Trần Bình vàHoàng Tá Viêm cũng cho rằng bỏ đê thì lợi hơn đắp đê. Năm 1915, Kinh lược xứ Hoàng Cao Khải đề nghị bỏ đê ở những vùng đất cao, giữ đê ở nhữngvùng đất thấp, tìm cách nâng cao những vùng đất thấp để dần dần phá bỏ đê hoàn toàn. Mởrộng dòng chảy để thoát lũ cũng là vấn đề ông quan tâm. - Ảnh bên : Giữa những tranh cãi dữ dội của lịch sử và những đe dọa của thiên nhiên, đêsông Hồng vẫn vượt qua biến cố và tồn tại tới hôm nay (Ảnh: TTXVN) Khai dòng, thoát lũ, bỏ đê từng đoạnTS Tạ Hòa Phương là người cổ vũ ý tưởng nắn chính dòng thoát lũ và bỏ từng đoạn đê để đưanước phù sa vào đồng ruộng. Ông cho biết: “Từ trước năm 1837 Nguyễn Công Trứ đề xuất giải pháp nắn chỉnh, khai đàođoạn khởi đầu sông Thiên Đức (sông Đuống), chuyển cửa nhận nước từ sông Hồng dịch vềphía thượng nguồn giúp việc phân lũ được thuận lợi. Đó là một đề xuất rất khoa học, nhưngcũng không thể thực hiện vào thời Minh Mạng vì công trình quá lớn. Sang thời Tự Đức, ý tưởngđó mới được thực hiện một phần và được hoàn chỉnh thêm trong thời Pháp thuộc. Nhìn trên tấmbản đồ Hà Nội hôm nay chúng ta có thể thấy đoạn đầu sông Đuống đã được nắn chỉnh để cóvị thế thích hợp như thế nào, khiến nó trở thành đường thoát lũ quan trọng nhất của sông Hồng”. Mặt khác, TS Phương cũng nhấn mạnh: Hà Nội nằm bên sông Hồng, con sông chảy theo mộtđới đứt gãy địa chất lớn - đứt gãy sâu sông Hồng, gần như chia miền Bắc thành hai nửa. Mà đứtgãy sâu thường là nơi bất ổn của vỏ Trái đất, nơi chịu các lực nén ép khổng lồ, tiềm ẩn khảnăng động đất và chuyển động chờm, trượt... Nếu nhìn từ Lào Cai về phía đông nam ta sẽ thấy dòng sông khá thẳng, đấy là đoạn sông cònchảy theo đứt gãy, chưa tiến vào đồng bằng châu thổ của nó. Cự ly dịch chuyển hai cánh đứtgãy sông Hồng hiện nay khoảng 300km (cánh tả ngạn bị trượt một cách tương đối về phía tâybắc). Một điều đáng lưu tâm hiện nay là đới đứt gãy sông Hồng vẫn chưa ngừng hoạt động. Bởi vậy,vấn đề bỏ hay giữ đê đến nay cũng còn nguyên tính thời sự, nhất là khi chúng ta đã có hồ thủyđiện Hòa Bình (trong tương lai gần còn có thêm hồ thủy điện Tạ Bú ở Sơn La) giúp điều tiết hiệuquả lưu lượng nước của hệ thống sông Hồng phía hạ lưu. Vì thế đã đến lúc cần xem xét lại phương án bỏ đê từng bộ phận, đưa nước vào đồng bằng mộtcách có điều tiết, có thể kiểm soát mực nước dâng. Làm được điều đó châu thổ sông Hồng sẽđược hồi sinh. Những ô trũng trên đồng bằng sẽ được lấp đầy dần. Nhưng dù phương án này được thực hiện thì những con đê bảo vệ Hà Nội vẫn cần được gia cốtốt hơn, để đảm bảo an toàn những giá trị ngàn năm của thủ đô văn hiến. Kỳ cuối: Hành trình của con đê lịch sử

Nỗi ác mộng của các cán bộ bảo vệ đê điều và người dân sống hai bên bờ đê chính là những ổmối âm thầm khoét sâu vào thân đê. Trăm phương ngàn kế đã được áp dụng để diệt mối tậngốc nhưng vẫn chỉ là đánh rắn đằng đuôi, diệt mối khi tổ nó đã ăn ruỗng thân đê.

Khúc đê nào phát hiện có vài con mối là chỉ vài ngày sau đã có hàng chục tổ mối, mối đào đấtlàm tổ, thân đê cứ ruỗng từ bên trong, mưa xuống nước lên, kiểu gì cũng sụp.

Con mối và cuộc “đổi đời” của đê

Ngành thủy lợi đã tổ chức rất nhiều đợt phát huy sáng kiến diệt mối, từ tìm bắt thủ công đến đổhóa chất bảo vệ hàng ngàn kilômet đê Bắc bộ. Có những cá nhân đã được tuyên dương chiến sĩthi đua toàn quốc vì thành tích diệt mối như ông Nguyễn Văn Chấp ở xã Gia Lương, ThuậnThành (Bắc Ninh)... Nhưng mối vẫn hoành hành, có những ổ mối to như ổ voi, sụp xuống nuốtgọn cả một chiếc xe commăngca.

Ông Nguyễn Gia Quang, nguyên phó cục trưởng Cục đê điều, kể lại: “Có lần chúng tôi đi kiểmtra đê phải dừng vì xe hỏng, cậu lái xe cuống quít: “Mau lên anh ơi, xe dừng lâu là mối ra nhiềulắm”. Quả nhiên, một lúc sau mối bay ra từng đàn. Tôi mới để ý quan sát khắp các tuyến đêmiền Bắc: ở đâu có xe cộ chạy nhiều thì ở đó không có mối. Chưa có nghiên cứu khoa học nàochính xác, nhưng theo ghi nhận trực quan hàng chục năm của tôi, rõ ràng mối không chịu đượctần số rung do ôtô đi trên đê gây ra.

10 / 12

Page 11: Kỳ 1: Dời đô và đắp đê file”, nhà vua đã cho xây đắp bảy đoạn đê mới ở Bắc bộ, chi tiêu hết 80.400 quan tiền. Năm ấy nhà vua còn hạ

Kỳ tích đê sông Hồng

Viết bởi Tuổi TrẻChủ nhật, 03 Tháng 10 2010 00:14 - Lần cập nhật cuối Chủ nhật, 03 Tháng 10 2010 00:55

Trong khi đó, suốt hàng chục năm chúng ta vẫn nghiêm cấm các phương tiện cơ giới đi lại trênmặt đê vì sợ ảnh hưởng đến hành lang bảo vệ đê. Chính vì vậy, tôi đã kiên trì đề nghị Bộ Thủylợi và Bộ GTVT cho phép ôtô đi trên đê để đuổi mối, nhưng với điều kiện phải cứng hóa mặt đê,tức phải trải bêtông hay đổ nhựa”.

Mới thập niên 1990, khi phong trào lô đề ở Hà Nội bùng phát lan rộng, nhiều gia đình khuynhgia bại sản vì có người thân ham hố món cờ bạc này thì lúc đó câu cửa miệng để người ta răndạy nhau: “Đánh đề ra đê mà ở”.

Ông Đặng Quang Tính, nguyên cục trưởng Cục Đê điều, kể rằng thời đó và xa hơn nữa, hệthống đê điều Hà Nội vẫn toàn bộ là đê đất, nhiều đoạn chỉ thấp ngang ngực người đi đường,cỏ mọc lúp xúp, hoang vắng. Phía ngoài đê chỉ là các bãi sậy, dân cư thưa thớt mà chủ yếu làdân ngoại tỉnh buôn bán dọc sông cắm lều ở tạm. Thậm chí những đối tượng trốn lính, trộmcắp... không chốn dung thân mới tìm đến vệ đê dựng lều tá túc. Vì thế đê là nơi mà chẳng đặngđừng người ta mới tìm đến.

Việc cứng hóa thân đê theo các chuyên gia Cục Đê điều là quy luật tất yếu, chứ chẳng phải lýdo nào. Không phải đắp đê cao hơn, cứng hơn để mời gọi người ta đến lập làng, lập xóm, mà lýdo chính là để bảo vệ Hà Nội, bảo vệ người dân nội thành sống trong đê.

Theo ông Nguyễn Ty Niên, nguyên vụ trưởng Vụ Kế hoạch - Bộ Thủy lợi những năm 1985-1990,kế hoạch cứng hóa đê Hà Nội có từ năm 1985. Nhưng khi đó để gia cố đê cho chắc, biến đêmềm (đất) thành đê cứng thì cần rất nhiều tiền để triển khai nhiều hạng mục. Đất nước khi đókhó khăn, Bộ Thủy lợi lúc đó chủ trương vay tiền từ Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), nhưngkhổ nỗi lúc đó VN vẫn bị cấm vận nên việc vay tiền quốc tế là không thể.

Vậy nên muốn lũ không phá đê, tràn đê thì VN cần phá vỡ “đê cấm vận”- là cách duy nhất khiđó. Đích thân ông Niên phải xây dựng kế hoạch, tham gia đàm phán, thuyết phục ADB suốtnăm năm trời, với lý do vay tiền để ổn định thân đê, và cuối cùng đến năm 1990 ADB đồng ýcho vay hơn 11 triệu USD để chủ yếu xây dựng hệ thống kè dọc đê sông Hồng từ Hà Tây về HàNội, xử lý các đùn, xủi thân đê và xây tường bêtông trên mặt đê (thay thế các con trạch xấu xímà mỗi khi lũ lên người dân hay đắp trên mặt đê để chống sóng và ngăn lũ tràn).

Có tiền nhưng phải đến năm 1993 các dự án này mới được triển khai xây dựng. Phải mất nămnăm, đến 1998 các hạng mục dự án cơ bản hoàn thành. Câu chuyện về các tổ mối trên thân đêđã hầu như lùi vào dĩ vãng. Bây giờ các tuyến đê xung yếu hầu như cũng đồng thời trở thànhnhững con đường huyết mạch, phục vụ dân sinh.

Đi vào... gốm sứ 

“Nhớ những con đê thành lối xe, bước chân năm tháng đi về...” là lời bài hát quá đỗi thân quencủa nhạc sĩ Hoàng Hiệp Nhớ về Hà Nội mà người Hà Nội và bất kỳ ai chỉ một lần qua thànhphố này cũng thuộc nằm lòng. Nhưng những con đê thành lối xe ấy cũng vẫn chỉ là những conđường bêtông xám xịt, cỏ may leo kín triền đê. Thành phố vốn đã quay lưng ra sông, bờ đê lạixấu và bẩn, sông Hồng vì thế càng xa.

11 / 12

Page 12: Kỳ 1: Dời đô và đắp đê file”, nhà vua đã cho xây đắp bảy đoạn đê mới ở Bắc bộ, chi tiêu hết 80.400 quan tiền. Năm ấy nhà vua còn hạ

Kỳ tích đê sông Hồng

Viết bởi Tuổi TrẻChủ nhật, 03 Tháng 10 2010 00:14 - Lần cập nhật cuối Chủ nhật, 03 Tháng 10 2010 00:55

Một góc của “con đường gốm sứ” - đê sông Hồng ngày nay - Ảnh: V. Dũng Trong rất nhiều dự án chào mừng đại lễ 1.000 năm Thăng Long, một dự án đầu tiên rất đơn lẻ,khởi phát từ một nữ họa sĩ trẻ nhằm làm đẹp những bức tường trên đê Yên Phụ, Trần QuangKhải đã được đông đảo các giới, các thế hệ người Hà Nội cả trong và ngoài nước hưởng ứng vìtính thiết thực và khả thi của nó. Ý tưởng của Nguyễn Thu Thủy, họa sĩ trình bày báo Hà Nội Mới, là “Toàn bộ bức tường ngănsóng trên mặt đê được trang trí bằng những bức tranh gốm tái hiện lịch sử văn hóa dân tộc từĐông Sơn đến Đinh, Lê, Lý, Trần... Nguyễn. Chất liệu là gốm sứ Bát Tràng của làng gốm nổitiếng ngay bên kia bờ sông Hồng”. 21 trường đoạn kéo dài từ cửa khẩu An Dương đến cửa khẩu Vạn Kiếp, chạy suốt từ dải bờsông phía nội thành Hà Nội quả thật đã mang lại một bộ mặt mới trẻ trung, rực rỡ và quan trọngnhất là rất sáng sủa, sạch sẽ cho thành phố.Trong quá trình thi công, bắt đầu từ tháng 2-2007, con đường gốm sứ đã gặp phải rất nhiều ýkiến phản biện, thậm chí chống đối quyết liệt. Nhiều họa sĩ coi đó là một thứ “rác văn hóa”,tương đương với thứ nghệ thuật “vẽ bậy, bôi bẩn” kiểu phương Tây. Ở một cực khác, những nhàsử học như giáo sư Lê Văn Lan, họa sĩ như chủ tịch Hội Mỹ thuật VN Trần Khánh Chương lạirất nhiệt tình ủng hộ. Quan trọng hơn nữa là sự đóng góp tự nguyện của các bạn sinh viên mỹthuật trẻ, của các doanh nghiệp... Giữa tháng 9/2010, con đường gốm sứ chào mừng 1.000 năm Thăng Long được xây dựng chủyếu bằng tiền xã hội hóa đã chính thức hoàn thành với 3.950m chiều dài và diện tích 7.000m2tranh gốm, lập kỷ lục Guinness cho bức tranh gốm dài nhất thế giới. Cái mới không phải lúc nào cũng được chấp nhận ngay và văn hóa thì phải được gìn giữ hằngngày, vì con đường gốm sứ hoàn thành ngày 15/9, đến 18/9 đã phát hiện một vài vết nứt trênmặt các tranh gốm đã làm xong 1-2 năm trước đó. Công cuộc giữ đê đã trải qua ngàn năm, từ nay thêm một phần việc quan trọng: giữ gìn “conđường gốm sứ”.  THU HÀ - ĐỨC BÌNH >> Thành phố, con đê và dòng sông

12 / 12