khoa giÁo dỤc thỂ chẤt Ố
TRANSCRIPT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT – AN NINH QUỐC PHÒNG
BÁO CÁO TỔNG THUẬT TÀI LIỆU
ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP TRƯỜNG
ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ HÀI LÒNG CỦA SINH VIÊN QUA
HỌC PHẦN GIÁO DỤC THỂ CHẤT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Mã số: ……………………
Chủ nhiệm đề tài: ThS. Lê Công Bằng
Bình Dương, tháng 12 năm 2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT – AN NINH QUỐC PHÒNG
BÁO CÁO TỔNG THUẬT TÀI LIỆU
ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP TRƯỜNG
ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ HÀI LÒNG CỦA SINH VIÊN QUA
HỌC PHẦN GIÁO DỤC THỂ CHẤT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Mã số: ……………………
Xác nhận của đơn vị chủ trì đề tài Chủ nhiệm đề tài
(chữ ký, họ và tên) (chữ ký, họ và tên)
ThS. Lê Công Bằng
Bình Dương, tháng 12 năm 2014
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo Oliver, sự hài lòng là phản ứng của người tiêu dùng đối với việc được đáp
ứng những mong muốn. Định nghĩa này hàm ý rằng sự thỏa mãn chính là sự hài lòng của
người tiêu dùng trong việc tiêu dùng sản phẩm hoặc dịch vụ đó đáp ứng những mong
muốn của họ.
Sự hài lòng của sinh viên (SV), Wong (2000) cho rằng sự hài lòng của một cá nhân
là một trạng thái cảm xúc. Mức độ hài lòng phụ thuộc vào mức độ trải nghiệm. Ping
(2000) cho rằng mức độ hài lòng của SV là một cảm xúc hay thái độ đối với việc học thể
thao. Cảm xúc về việc học khách quan, có nghĩa là SV sẵn sàng học và có thể thõa mãn
được những mong đợi qua việc học, mức độ hài lòng về việc học của SV sẽ tăng dần.
Do đó việc nghiên cứu sự hài lòng của SV về cơ sở vật chất, trang thiết bị, đội ngũ
giảng viên, chương trình dạy, phương pháp giảng dạy GDTC (GDTC) nhằm nâng cao
chất lượng đào tạo của Trường là điều quan trọng và cần thiết.
Mục đích của nghiên cứu:
Đánh giá hiện trạng về sự hài lòng của sinh viên trường đại học Thủ Dầu Một đối
với cơ sở vật chất, trang thiết bị tập luyện, chương tình giảng dạy, đội ngũ giáo viên và
phương pháp giảng dạy giáo dục thể chất, nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo
môn học của nhà trường.
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu sự khác biệt về nhân khẩu học trong
đánh giá thực trạng chất lượng; sự thoả mãn của sinh viên trong học tập giáo dục thể chất
tại Trường Đại học Thủ Dầu Một góp phần nâng cao chất lượng trong học tập giáo dục
thể chất của sinh viên Trường Đại học Thủ Dầu Một.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
1. Thực trạng hài lòng về cơ sở vật chất, chương trình học tập, giảng viên, và
phương pháp giảng dạy đối với việc học tập giáo dục thể chất tại Trường Đại học Thủ
Dầu Một.
2. Sự khác nhau về mức độ hài lòng giữa sinh viên nam và nữ đối với cơ sở vật chất,
chương trình học tập, đội ngũ giảng viên và phương pháp giảng dạy đối với việc học tập
giáo dục thể chất tại Trường Đại học Thủ Dầu Một.
Phương pháp nghiên cứu: đề tài sử dụng phương pháp tham khảo tài liệu, phương pháp
điều tra xã hội, và phương pháp toán thống kê.
II. BÁO CÁO TỔNG THUẬT TÀI LIỆU:
1. Bùi Thị Ngọc Anh, Đào Thị Hồng Vân (2013), Khảo sát sự hài lòng của sinh viên về
chất lượng đào tạo tại Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội, Đề tài
NCKH.
Mô hình chỉ số hài lòng của Mỹ
Mô hình chỉ số hài lòng khách hàng của Mỹ
(American customer satisfaction Index – ACSI)
Mô hình chỉ số hài lòng của Châu Âu
Mô hình chỉ số hài lòng khách hàng của Châu Âu
(European customer satisfaction Index – ECSI)
Mô hình nghiên cứu:
Yếu tố Tài liệu tham khảo
Nội dung bảng hỏi
Các mức độ trả lời câu hỏi:
1. Hoàn toàn không đồng ý
2. Không đồng ý
3. Không có ý kiến
4. Đồng ý
5. Hoàn toàn đồng ý
Nghiên cứu khảo sát sự hài lòng của sinh viên về chất lượng đào tạo tại Trường Đại
học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội đối với chương trình đào tạo, đội ngũ giảng
viên, cơ sở vật chất, khả năng phục vụ và hài lòng chung. Nghiên cứu trình bày khá
chi tiết, logic các vấn đề liên quan đến nội dung nghiên cứu. Tuy nhiên, nghiên cứu
chưa làm rõ khái niệm chất lượng đào tạo/giáo dục để làm sáng tỏ câu hỏi nghiên cứu
1.
2. Ngô Tuấn Anh (2012), Nghiên cứu sự hài lòng của sinh viên qua học tập môn giáo
dục thể chất ở trường Đại Học Khoa Học Tự Nhiên TP. Hồ Chí Minh, Luận văn thạc
sĩ.
Mục đích của nghiên cứu:
Nghiên cứu này nhằm đánh giá hiện trạng về sự hài lòng của sinh viên trường
Đại học Khoa học tự nhiên TP. Hồ Chí Minh. Với việc xem xét sự khác nhau về mức
độ hài lòng của sinh viên nam và sinh viên nữ. Cũng như sinh viên năm nhất với sinh
viên năm hai đối với cơ sở vật chất, trang thiết bị tập luyện, chương trình giảng dạy,
đội ngũ giảng viên và phương pháp giảng dạy giáo dục thể chất tại trường Đại học
Khoa học tự nhiên TP. Hồ Chí Minh.
Tổng quan vấn đề nghiên cứu:
Giáo dục thể chất là một trong mục tiêu giáo dục toàn diện của Đảng và Nhà nước
ta, và nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân. Giáo dục thể chất được hiểu là: “Quá trình
sư phạm nhằm giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ, hoàn thiện về thể chất và nhân cách, nâng
cao khả năng làm việc, và kéo dài tuổi thọ của con người”.
Giáo dục thể chất cũng như các loại hình giáo dục khác, là quá trình sư phạm với
đầy đủ đặc điểm của nó, có vai trò chủ đạo của nhà sư phạm, tổ chức hoạt động của nhà
sư phạm phù hợp với học sinh với nguyên tắc sư phạm. Giáo dục thể chất chia thành hai
mặt tương đối độc lập: Dạy học động tác (giáo dưỡng thể chất) và giáo dục tố chất thể
lực. Trong hệ thống giáo dục nội dung đặc trưng của giáo dục thể chất được gắn liền với
giáo dục, trí dục, đức dục, mỹ dục và giáo dục lao động.
Giáo dục thể chất là một lĩnh vực thể dục thể thao (TDTT) xã hội với nhiệm vụ là:
“Phát triển toàn diện các tố chất thể lực, và trên cơ sở đó phát triển các năng lực thể
chất, bảo đảm hoàn thiện thể hình, củng cố sức khoẻ, hình thành theo hệ thống và tiến
hành hoàn thiện đến mức cần thiết các kỹ năng và kỹ xảo quan trọng cho cuộc sống”.
Đồng thời chương trình giáo dục thể chất trong các trường Đại học, Cao đẳng và Trung
học chuyên nghiệp nhằm giải quyết các nhiệm vụ giáo dục đó là: “Trang bị kiến thức, kỹ
năng và rèn luyện thể lực cho học sinh sinh viên”.
Nội dung chương trình giáo dục thể chất trong các trường Đại học, Cao đẳng và
Trung học chuyên nghiệp được tiến hành trong cả quá trình học tập của sinh viên trong
nhà trường bằng các hình thức:
* Giờ học thể dục thể thao chính khoá:
Là hình thức cơ bản nhất của giáo dục thể chất được tiến hành trong kế hoạch học
tập của nhà trường. Vì việc đào tạo cơ bản về thể chất, thể thao cho học sinh sinh viên là
nhiệm vụ cần thiết, nên trước hết phải có nội dung thích hợp để phát triển các tố chất thể
lực và phối hợp vận động cho học sinh sinh viên. Đồng thời, giúp các em có trình độ nhất
định để tiếp thu được các kỹ thuật động tác TDTT.
Với mục tiêu chính của việc đào tạo cơ bản về thể chất và thể thao trong trường học
là: “Xúc tiến quá trình đào tạo năng lực đạt thành tích trong thể chất và thể thao của học
sinh sinh viên, phát triển các tố chất thể lực, phát triển năng lực tâm lý, tạo ý thức tập
luyện TDTT thường xuyên, giáo dục được đức tính cơ bản và lòng nhân đạo cho học
sinh”.
Bản thân giờ học TDTT có ý nghĩa quan trọng nhiều mặt đối với việc quản lý và
giáo dục con người trong xã hội. Việc học tập các bài tập thể dục, các kỹ thuật động tác là
điều kiện cần thiết để con người phát triển cơ thể một cách hài hoà, bảo vệ và củng cố sức
khoẻ, hình thành năng lực chung và chuyên môn.
* Giờ học ngoại khoá - tự tập:
Là nhu cầu và ham thích trong khi nhàn rỗi của một bộ phận học sinh sinh viên với
mục đích và nhiệm vụ là góp phần phát triển năng lực, thể chất một cách toàn diện, đồng
thời góp phần nâng cao thành tích thể thao của học sinh sinh viên.
Giờ học ngoại khoá nhằm củng cố và hoàn thiện các bài học chính khoá và được tiến
hành vào giờ tự học của học sinh sinh viên, hay dưới sự hướng dẫn của giáo viên TDTT,
hướng dẫn viên.
Ngoài ra còn các hoạt động thể thao quần chúng ngoài giờ học bao gồm: Luyện tập
trong các câu lạc bộ, các giải thi đấu trong và ngoài trường được tổ chức hàng năm, các
bài tập thể dục vệ sinh chống mệt mỏi hàng ngày, cũng như giờ tự luyện tập của học sinh
sinh viên, phong trào tự tập luyện rèn luyện thân thể. Hoạt động ngoại khoá với chức
năng là động viên lôi kéo nhiều người tham gia tập luyện các môn thể thao yêu thích, góp
phần nâng cao sức khoẻ phục vụ học tập và sinh hoạt.
Tác dụng của giáo dục thể chất và các hình thức sử dụng TDTT có chủ đích áp dụng
trong các trường học là toàn diện, là phương tiện để hợp lý hoá chế độ hoạt động, nghỉ
ngơi tích cực, giữ gìn và nâng cao năng lực hoạt động, học tập của học sinh sinh viên
trong suốt thời kỳ học tập trong nhà trường, cũng như đảm bảo chuẩn bị thể lực chung và
chuẩn bị thể lực chuyên môn phù hợp với những điều kiện của nghề nghiệp trong tương
lai.
Ngày nay việc giảng dạy sinh viên trong các trường cũng được hiểu như một hoạt
động nhằm phục vụ khác hành mà (khách hàng ở đây chính là sinh viên), vì vậy giáo dục
hiện nay cũng mang những yếu tố dịch vụ, những yêu cầu cần được thỏa mạn trong giáo
dục có thể vận dụng từ những yêu cầu của dịch vụ trong kinh doanh.
Dịch vụ và bản chất của dịch vụ:
Chúng ta đang sống trong một thế giới dịch vụ, do đó, dịch vụ là gì? bản chất của
dịch vụ? Theo Kang, (1997). Dịch vụ là bất kỳ hành động hoặc hoạt động mà một bên
cung cấp cho bên khác đó là bản chất vô hình.
Dịch vụ kinh doanh thành công đã được liên kết với khả năng cung cấp dịch vụ vượt
trội (Gale, 1990; Rudie & Wansley, 1984). Cung cấp dịch vụ vượt trội bằng cách duy trì
chất lượng cao là một điều kiện tiên quyết cho sự thành công (Parasuraman et al., 1988).
Tổ chức dịch vụ hàng đầu phấn đấu để duy trì một chất lượng vượt trội của dịch vụ trong
một nỗ lực để đạt được sự trung thành của khách hàng (Zeithaml & Bitner, 1996); do đó,
sự thành công lâu dài của một tổ chức dịch vụ trên thị trường là điều cần thiết xác định
bởi khả năng mở rộng và duy trì một lượng lớn và trung thành của khách hàng nền tảng.
Cung cấp một dịch vụ mà kết quả là làm hài lòng khách hàng nói chung sẽ nâng cao
lợi nhuận cho bất kỳ tổ chức nào hoạt động trong một thị trường tiêu dùng (Parasuraman,
Zeithaml, & Berry, 1988). Điều này được dựa trên tiền đề rằng khách hàng hài lòng sẽ có
nhiều khả năng tái sử dụng hoặc mua lại dịch vụ (Anderson & Sullivan, 1990; Bernhardt,
Donthu, & Kennett, 2000; Fornell & Wernerfelt, 1987; Gale, 1997; Howat, Murray , &
Crilley, 1999; Philip & Hazlett, 1997).
Các dịch vụ khác biệt với hàng hóa sản xuất không chỉ cách thức chúng được sản
xuất mà còn là cách thức chúng được tiêu thụ và đánh giá. Dịch vụ có bốn đặc điểm đặc
biệt mà làm cho chúng khác biệt với các sản phẩm và điều đó ảnh hưởng đến cách thức
chúng được thiết kế và bán. Dịch vụ là: vô hình, không đồng nhất, chúng được sản xuất
và tiêu thụ đồng thời và chúng không có chủ sở hữu (Chelladurai & Chang, 2000; Kotler,
1996, 1997). Dịch vụ vô hình bởi vì, không giống như hàng hoá - đó là các đối tượng với
chi tiết kỹ thuật sản xuất chính xác, có thể được tính, kiểm kê, đo lường, kiểm tra và xác
minh trước khi bán hàng để kiểm tra chất lượng đồng nhất - dịch vụ được biểu diễn cho
những chi tiết kỹ thuật có chất lượng đồng nhất hiếm khi có thể được thiết lập. Chúng
không đồng nhất bởi vì hiệu suất của chúng thường thay đổi giữa các nhà sản xuất khác
nhau, khách hàng và ngày, khiến cho khó khăn để đảm bảo.chất lượng được đồng nhất.
Trong giai đoạn sơ khai, nghiên cứu chất lượng dịch vụ dựa trên tầm nhìn xa của
hành vi tiêu dùng và mô hình xác nhận / không xác nhận (Gronroos 1992). Theo mô hình
này, khách hàng tiêu thụ sản phẩm, họ so sánh chất lượng họ đã có kinh nghiệm với kỳ
vọng trước kia (Swan và Comb, 1976), dẫn đến một phản ứng cảm xúc biểu hiện ở sự hài
lòng / không hài lòng với sản phẩm hoặc dịch vụ được mua (Woodruþ et al, 1983.).
Theo Gronroos (1984), nhận thức của khách hàng về quá trình dịch vụ được chia
thành hai yếu tố: 1) chất lượng kỹ thuật – yếu tố kết quả, hay những gì quá trình này dẫn
đến cho khách hàng như là kết quả của quá trình, 2) chất lượng chức năng – yếu tố quá
trình, hoặc các chức năng quy trình dịch vụ như thế nào.
Lehtinen & Lehtinen, (1991) đã đề xuất rằng chất lượng dịch vụ có thể được xem
như ba chiều: (1) chất lượng vật lý; (2) chất lượng tương tác; (3) chất lượng doanh
nghiệp. Chất lượng vật lý bao gồm môi trường thể chất và công cụ, chất lượng tương tác
chủ yếu xuất phát từ phong cách tương tác của các nhà cung cấp dịch vụ phù hợp với
phong cách trong sự tham gia của khách hàng. Chất lượng doanh nghiệp là chủ yếu là
đánh giá của các hình ảnh của doanh nghiệp (Suuroja, 2003).
Theo Zeithaml et al. (1990), sự khác biệt giữa những ham muốn, mong đợi của
khách hàng và nhận thức của họ về chất lượng dịch vụ được biết đến như là một kẻ hở
dịch vụ. Bốn kẽ hở chính trong chất lượng dịch vụ xác định bởi các nhà nghiên cứu là:
không biết những gì khách hàng đang mong đợi từ một dịch vụ; sử dụng các tiêu chuẩn
chất lượng dịch vụ không đúng; thực hiện dịch vụ (thiếu hụt); và hứa hẹn về các dịch vụ
đó không phù hợp giao hàng (E. Tsitskari, D. Tsiotras & G. Tsiotras et al.. 2006). Mở
rộng nghiên cứu về chất lượng dịch vụ thực hiện bởi các nhà nghiên cứu Parasuraman,
Berry và Zeithaml đã đề xuất ý niệm rằng chất lượng dịch vụ có thể được đo lường
(Parasuraman et al, 1988., 1991b, 1994) sử dụng các dụng cụ SERVQUAL và quản lý sử
dụng mong đợi của các mô hình khoảng cách hiệu suất (Zeithaml et al, 1988.; Zeithaml &
Bitner, 1996).
Nhận thấy chất lượng dịch vụ được định nghĩa trong mô hình như sự khác biệt giữa
kỳ vọng của người tiêu dùng và nhận thức (khoảng cách 5), mà trong tum phụ thuộc vào
kích thước và hướng của bốn khoảng cách liên kết với việc cung cấp các dịch vụ về mặt
chất lượng của nhà tiếp thị. Mô hình này dựa trên khái niệm sự hài lòng khách hàng về
dịch vụ như là một chức năng của năm khoảng trống giác quan giữa thiết kế dịch vụ và
giao hàng:
Khoảng cách 1(gap 1): Sự khác biệt giữa kỳ vọng của người tiêu dùng và nhận thức
quản lý của người tiêu dùng mong đợi.
Khoảng cách 2 (gap 2): Sự khác biệt giữa nhận thức quản lý của người tiêu dùng
mong đợi và thông số kỹ thuật có chất lượng dịch vụ.
CONSUMER
MARKETER
GAP 5
GAP 2
GAP 3
GAP 1
GAP 4
Word of Mouth
Communication
s
Personal need Past Experience
Expected Service
Perceived Service
Service Delivery
(Including pre-and
post-contracs)
Translation or
Perceptions into
Service Quality
Specifications
Management Perceptions
of Consumer Expectations
External
Communications
to Consumers
Figure 2.1 Gap Model of Service Quality
(Zeithaml, Berry, and Parasuraman, 1988)
Khoảng cách 3(gap 1)3: Sự khác biệt giữa các chi tiết kỹ thuật chất lượng dịch vụ và
dịch vụ thực sự giao.
Khoảng cách 4(gap 4): Sự khác biệt giữa giao nhận dịch vụ và những gì được truyền
về các dịch vụ cho người tiêu dùng.
Khoảng cách 5(gap 5): Sự khác biệt giữa kỳ vọng của người tiêu dùng và nhận thức.
Brady và Cronin (2001) đã xem là chất lượng dịch vụ bao gồm ba thành phần và
thêm một phần thứ ba - môi trường dịch vụ -để Gronroos 'hai chiều- chất lượng kỹ thuật
(dịch vụ kết quả) và chất lượng chức năng (tương tác khách hàng- nhân viên). Khách
hàng mẫu nhận thức chất lượng dịch vụ của họ trên cơ sở đánh giá về hiệu suất ở nhiều
cấp độ và cuối cùng kết hợp các đánh giá để đi đến một nhận thức tổng thể chất lượng
dịch vụ (Brandy, Cronin, 2001). Mô hình thứ bậc của họ được trình bày như sau:
Dabholkar et al. (2000) đã coi chất lượng dịch vụ như là một bộ yếu tố phụ trợ nhau
như độ tin cậy và đáp ứng được tạo thành điều ưu tiên đem đến sự hài lòng của khách
hàng. Xem hình 2.3.
The Hierarchical Model of Service Quality
(Brandy, Cronin, 2001)
The Multilevel Model of Retail Service Quality
(Dabholkarelal, 2000)
Parasuraman, Zeithaml, và Berry (1988, 1991; 1993) đã đề xuất một danh sách cụ
thể hơn về yếu tố chất lượng dịch vụ. Theo họ, việc đánh giá tổng thể về chất lượng dịch
vụ xuất phát từ những đánh giá thuộc năm yếu tố sau:
- Hữu hình: phương tiện vật lý, thiết bị, và hoạt động của nhân viên
- Tin cậy: khả năng thực hiện dịch vụ đã hứa đáng tin cậy và chính xác
- Phản hồi: Săn sàng giúp đỡ khách hàng và cung cấp dịch vụ nhanh chóng
- Đảm bảo: Kiến thức và lịch sự của nhân viên và khả năng để truyền cảm hứng
Cho sự tin tưởng và sự tự tin.
- Đồng cảm: Chăm sóc, sự quan tâm cá nhân của công ty cung cấp cho khách hàng.
Mô hình của Bitner sử dụng lý thuyết qui nạp để ghi thêm khám phá những động
thái của nhận thức và sự mong đợi. Cụ thể, kỳ vọng của mô hình không xác nhận nói lên
rằng việc không xác nhận kết quả trong khách hàng tiềm năng là nguyên nhân của thay
đổi trong chất lượng dịch vụ. Đánh giá của khách hàng sau đó ảnh hưởng sự hài lòng với
các dịch vụ gặp phải nhận thức được ảnh hưởng của chất lượng dịch vụ. (McDonald,
1996).
Do dịch vụ là kết quả tổng hợp của quá trình cung ứng dịch vụ và những yếu tố vật
chất kèm theo, nên chất lượng dịch vụ là sự phản ảnh hài hòa giữa chất lượng của các yếu
tố vật chất hữu hình và vô hình. Ta có thể đánh giá chất lượng dịch vụ dựa trên các tiêu
chí, theo (A. Parasuraman, Valarie A. Zeithaml và Leonard L. Berry, 1985) như sau:
1. Độ tin cậy: Sự nhất quán trong vận hành và đáng tin cậy; thực hiện đúng chức
năng ngay từ đầu; thực hiện đúng những lời hứa hẹn; chính xác.
Reliability
Personal Attention
Comfort
Features
Retail Service
Quality
2. Tinh thần trách nhiệm: Sự sốt sắng hoặc sẵng sàng cung cấp dịch vụ của nhân
viên; đúng lúc; kịp thời; không sơ suất; khi sai sót phải xử lý một cách chuyên nghiệp,
sáng tạo.
3. Năng lực: Có các kỹ năng và kiến thức cần thiết để thực hiện công việc dịch vụ.
4. Tiếp cận được: Có thể đến gần dễ dàng; thời gian chờ đợi; giờ mở cửa làm việc.
5. Tác phong: Sự lịch thiệp, tôn trọng, quan tâm và thân thiện của nhân viên phục vụ.
6. Giao tiếp: Thông tin với khách hàng bằng ngôn từ của họ; lắng nghe ý kiến khách
hàng; điều chỉnh cách giao tiếp đối với những nhóm khách hàng khác nhau và có nhu cầu
khác nhau; giải thích về bản thân quá trình dịch vụ.
7. Sự tín nhiệm: Trung thực, đáng tin cậy; uy tín của công ty; tư cách cá nhân của
người phục vụ.
8. Tính an toàn: Không có nguy hiểm, rủi ro hoặc ngờ vực; an toàn về vật chất; an
toàn về tài chính; giữ bí mật của khách hàng.
9. Thấu hiểu khách hàng: Nỗ lực tìm hiểu nhu cầu của khách; ghi nhớ những yêu cầu
cụ thể của từng người; tạo ra sự chú ý tới từng cá nhân; nhận biết các khách hàng thường
xuyên và trung thành của công ty.
10. Tính hữu hình: Chứng cứ vật chất của dịch vụ; các phương tiện, thiết bị phục vụ;
hình thức bên ngoài của nhân viên; dụng cụ tiến hành dịch vụ; biểu tượng vật chất của
dịch vụ.
Từ những ý kiến của các nhà nghiên cứu, chúng tôi thấy rằng có sự khác nhau giữa
các yếu tố trong cấu trúc của chất lượng dịch vụ. Trong nghiên cứu này chúng tôi chấp
nhận mô hình chất lượng dịch vụ có nguồn gốc từ năm yếu tố là Hữu hình, tin cậy, Phản
hồi, Đảm bảo, đồng cảm của Parasuraman, Zeithaml, và Berry.
Lovelock (1979) đã xác định năm loại lợi ích (tiện ích) tìm kiếm bằng dịch vụ khách
hàng, đó là,
1. Địa điểm: tiện lợi của vị trí cơ sở dịch vụ;
2. Tiền tệ: chi phí của dịch vụ;
3. Tinh thần: tâm lý lợi ích của dịch vụ;
4. Thời gian: kịp thời của dịch vụ;
5. Hình thức: cảm giác tác động của dịch vụ.
Cơ sở vật chất thể thao:
Ngày càng nhiều người ở Đài Loan nhận ra tầm quan trọng của thể thao. Mọi người
có thể học kĩ năng thể thao tại nhiều nơi khác nhau, đặc biệt tại trường. Bài tập thể thao
đóng vai trò quan trọng trong viêc tăng số lượng người tham gia. Thiếu cơ sở hạ tầng là
một yếu tố khiến sinh viên tập luyện thiếu hiệu quả. Do đó, thật cần thiết phải đáp ứng
nhu cầu của họ. Chương trình thể thao không thể tiến hành thành công nếu thiếu cơ sở hạ
tầng về cả số lượng và loại hình.
Những loại hình cơ sở hạ tầng thể thao nào cần được xây dựng và mua sắm, số lượng là
bao nhiêu nên được trang bị cho trường đại học? đánh giá nhu cầu của sinh viên cần quan
tâm đến những vấn đề này để đưa ra quyết định. Nếu hạ tầng thể thao được xây dựng cho
người sử dụng thì cần phải đáp ứng nhu cầu của họ. Vì hạ tầng thể thao được mua sắm
cho người sử dụng nên chúng ta cần phải xem xét kĩ lưỡng ý kiến của họ. Điều quan trọng
là hạ tầng thể thao được xây dựng hay mua sắm cho người sử dụng phải phù hợp với luật
pháp, điều lệ, và tiêu chuẩn hiện hành. Những vấn đề sau cần được xem xét khi nâng cấp
cơ sở hạ tấng: bề mặt, trang trí nội thất, điện năng, hình dáng, những khu vực có nhiệt độ
và độ ẩm cao, trang thiết bị, luân chuyển không khí, điện thoại và nguồn nước.
Để quản lí hạ tầng cơ sở tốt, chúng ta cần lên kế hoạch. Sau đây là những hướng
dẫn khi phát triển một kế hoạch quản lí 1 cơ sở hạ tầng
1. Cần nắm bắt luật pháp để đảm bảo rằng kế hoạch theo đúng ủy quyền, tiêu chuẩn
và những nguyên tắc liên quan.
2. Cần phát triển một hệ thống lưu trữ hồ sơ gồm số thống kê những người tham gia,
mức độ hài lòng, thông tin lo-gic học và dữ liệu tài chính.
3. Cần phải đảm bảo rằng nhân viên tập trung vào tiêu chuẩn chung theo đường lối
của tổ chức, cách quản lý, nhu cầu và sở thích của người tham gia.
4. Nhân viên và người sử dụng nên tham gia vào kế hoạch và cách hoạch định hạ
tầng cơ sở và trang thiết bị.
Lý thuyết về sự hài lòng của khách hàng.
Sự hài lòng của khách hàng đã được tập trung nghiên cứu tiếp thị đáng kể, lý thuyết và
thực hành trên nhiều ngành công nghiệp. Do vậy, không có thiếu sót của văn học dần đến
ý niệm của các khách hàng hài lòng (Vân, Linda, Nhanh, Shayne, Daniel, Kerry et al.,
2002.)
Nghiên cứu trong khu vực của sự hài lòng của khách hàng ban đầu tập trung vào
người tiêu dùng cuối. Do đó, nó thường được gọi là sự hài lòng của người tiêu dùng (ví
dụ, Anderson 1973). Các nhà nghiên cứu điều tra lý thuyết của các yếu tố quyết định sự
hài lòng, lien quan quan hệ của họ, và những tác động trực tiếp và gián tiếp của những
yếu tố quyết định. (Homburg, Christian, Krohmer, Harley, Canon, Joseph P., Kiedaisch,
Ingo et al., 2002.)
Sự hài lòng (hoặc không hài lòng) là kết quả của một quá trình so sánh giữa dự kiến
và hiệu năng nhận thức. Sự hài lòng là kết quả của các xác nhận hoặc không xác nhận tích
cực của sự mong đợi, có nghĩa là hiệu suất nhận thức được bằng hoặc tốt hơn so với kết
quả dự kiến (Churchill và Surprenant 1982; Olshavsky và Miller, 1972). Không hài lòng
là kết quả của không xác nhận tiêu cực của những kỳ vọng (ví dụ, Oliver 1980; Oliver và
Bearden 1985
Sự hài lòng của khách hàng đã được mô tả như là đăng một sự lựa chọn, nhận thức
bản án kết nối với một quyết định mua hàng cụ thể (Day, 1984). Nhận thức của khách
hàng về chất lượng các hoạt động dịch vụ, mức độ mà dịch vụ thực hiện vượt quá mong
đợi, hoặc kết hợp cả hai có thể ảnh hưởng đến sự hài lòng của một cá nhân với một dịch
vụ gặp phải. Các ảnh hưởng tương đối của những yếu tố quyết định khác nhau theo từng
cá nhân và tình hình (Oliver, 1993). Sự hài lòng của khách hàng đã được xác định là liên
kết giữa chất lượng và đánh giá mua (Churchill & Surprenant, 1982; Cronin & Taylor,
1992; Madrigal, 1995), và các công ty thường sử dụng sự hài lòng của khách hàng như là
một thước đo hiệu suất của sản phẩm hoặc dịch vụ (Anderson & Sullivan, 1993).
Có hai lý do quan trọng để sử dụng để đánh giá sự hài lòng của khách hàng
dịch vụ.
Thứ nhất, sự hài lòng của khách hàng là kinh nghiệm và duy nhất cho các khách
hàng (Oliver, 1993). Sự hài lòng của khách hàng phụ thuộc vào nhận thức chủ quan của
khách hàng và đánh giá hiệu suất dịch vụ hơn là tiêu chuẩn khách quan của tổ chức chất
lượng. Trong dịch vụ tiêu dùng như các khách hàng thể thao, nó được lập luận rằng khách
hàng là các thẩm phán tốt nhất của chất lượng dịch vụ, và rằng các tiêu chuẩn khác về
chất lượng có thể phi vật chất (Chelladurai & Chang, 2000; Zeithaml, Parasuraman, &
Berry, 1990) . Nói cách khác, một tập trung vào sự hài lòng của khách hàng chỉ ra tầm
quan trọng của sự hiểu biết của người tiêu dùng khi quyết định tiếp thị. Trong thực tế,
điều này tập trung vào các khách hàng đã dẫn đến một số tranh luận rằng sự hài lòng của
khách hàng là trung tâm của khái niệm tiếp thị (Patterson, Johnson, & Spreng, 1997).
Thứ hai, sự hài lòng của khách hàng đã được tìm thấy việc dàn xếp các mối quan hệ
giữa chất lượng dịch vụ và ý định hành vi (Anderson & Sullivan, 1993; Brady &
Robertson, 2000; Cronin, Brady, & Hult, 2000). Cụ thể, khách hàng thực hiện một đánh
giá chất lượng dịch vụ nhận thức dẫn đến việc đánh giá sự hài lòng về tình cảm.
Điều này đánh giá sự hài lòng về tình cảm dẫn đến ý định mua (Oliver, 1993). Về
hành vi cụ thể, sự hài lòng của khách hàng đã được tìm thấy để duy trì ảnh hưởng của
khách hàng (Tornow & Wiley, 1991), ý định mua (Anderson & Sullivan, 1993; Cronin &
Taylor, 1992; Innis & La Londe, 1994; Oliver, 1980), sẵn sàng để tham gia vào kinh
doanh lặp lại (Boulding, Kalra, Staelin, & Zeithaml, 1993), và sẵn sàng để tham khảo các
khách hàng khác (Rust, Zahorik, & Keiningham, 1995; Heskett, Sasser, & Schlesinger,
1997; Howat, Murray, & Crilley , 1999). khách hàng hài lòng có xu hướng trung thành
trong khi khách hàng không hài lòng có nhiều khả năng để thoát ra hơn khách hàng hài
long (Fornell, 1992; McDougal & Levesque, 2000) (Greenwell, Chrirtopher, Fink, Janet,
Pastore, Donna 2002).. Những kết quả đã được gắn liền với lợi nhuận kinh tế của các tổ
chức theo khả năng của họ để tăng doanh thu và giảm chi phí. Duy trì kết quả trong các
mối quan hệ liên tục với khách hàng, dòng doanh thu vượt ra ngoài giao dịch gốc
(Reichheld, 1994).
Tầm quan trọng của sự hài lòng với người sử dụng:
Kotler định nghĩa sự hài lòng là trạng thái của một người đã thõa mãn những
mong đợi của mình. Dorfman cho rằng hài lòng đạt cực điểm khi nguyện vọng cân bằng
với quan niệm, nhưng chỉ khi nguyện vọng thì cao so với điều kiện đó. Bradle cho rằng
sự hài lòng nói đến 1 vài loại lợi ích hay phần thưởng. Beard & Ragheb xem hài lòng là
cảm xúc tích cực xuất phát từ việc tham gia vào hoạt động thể thao. Họ đã cung cấp cho
chúng ta những cách định nghĩa bổ ích cho mục đích của bài nghiên cứu này.
Thuật ngữ “sự hài lòng của khách hàng” liên quan đến sự hài lòng của người tiêu
dùng. Aguilar and Petrakis cho rằng sự hài lòng nảy sinh khi một cá nhân tham gia vào
một hoạt động đáp ứng một hay nhiều nhu cầu.
Câu hỏi là điều gì xảy ra khi khi nhu cầu của khách hàng không được đáp ứng.
Biondo (1990) and Streff (1991) chỉ ra rằng những hành động của khách hàng không hài
lòng thường ảnh hưởng tiêu cực đến 1 doanh nghiệp theo những cách sau đây: khoảng
91% không trở lại công ty, 10% sẽ kể cho hơn 10 người nghe về sự bất mãn của họ.
khảng 75% khách hàng sẽ phàn nàn, trong khi 25% sẽ im lặng.
Biondo cho rằng thu hút 1 khách hàng mới tốn kém gấp 5 lần so với giữ 1 người
cũ. Theo những luận cứ ở trên, giữ lòng trung thành của khách hàng là một yếu tố thiết
yếu kiếm nhiều lợi nhuận nhất cho công ty.
Drogin chỉ ra rằng đã từ lâu sự hài lòng được xem là hiệu quả và thướt đo hàng
đầu cho sự thành công của thể thao. Ngoài ra Grove cũng kết luận sự hài lòng của khách
hàng là một yếu tố hàng dầu trong việc tạo ra lợi nhuận trong giải trí thương mại. Vì vậy,
sự hài lòng của khách hàng phải được xem như một khái niệm quan trọng trong các doanh
nghiệp thể thao.
Sự hài lòng của người sử dụng đã được xem xét kĩ lưỡng trong những năm gần đây
xét về khía cạnh quyết định giá trị và cách sử dụng tiềm năng của một hạ tầng thể thao.
Hầu hết các chuyên gia đều cho rằng bất chấp bối cảnh, người sử dụng là thành viên quan
trọng nhất. Không có người sử dụng, hạ tầng sẽ không tồn tại.
Để duy trì tỉ lệ người tham gia, một hạ tầng thể thao cần đáp ứng những mức độ
hài lòng khác nhau. Người sử dụng không thích hạ tầng cơ sở sẽ duy chuyển đến nơi khác
và sử dụng trang thiết bị khác. Vì thế, những nhà quản lí thể thao cần ý thức về tầm quan
trọng về mức độ hài lòng. Ý thức được điều này, họ sẽ cung cấp cho người sử dụng những
dịch vụ tốt hơn và làm cho họ cảm thấy hài lòng cũng như giữ được tính cạnh tranh.
Các loại hình kinh doanh thể thao dù là nhà nước hay tư nhân đều xem trọng việc
làm gia tăng sự hài lòng của người sử dụng. Các chương trình thể thao học đường xem
kinh doanh là giáo dục, nhưng sư cạnh tranh đó có thể trở thành kinh doanh giải trí.
Trường học và kinh doanh giải trí được xem là nhửng người cạnh tranh vì họ thường cạnh
tranh về thời gian và tiền bạc của người sử dụng. Vì thế, nâng cao sự hài lòng của người
sử dụng đối với cơ sở hạ tầng rõ ràng là một trong những sứ mệnh của những nhà quản lý
thể thao học đường.
Mức độ hài lòng của người sử dụng đối với cơ sở hạ tầng thể thao
Hartshorn cho rằng đa số các nhà quản lí trong công nghiệp giải trí nghĩ rằng quan
niệm của khách hàng về chất lượng dịch vụ là thước đo quan trọng nhất của chất lượng.
Wright cũng chỉ ra rằng chúng ta hầu như không thể biết những cải thiện nào là hiệu quả
mà không có sự phản hồi của người sử dụng về chất lượng của dịch vụ. Tuy nhiên,
Hartshorn cũng nhận thấy rằng chỉ xấp xỉ 50% thanh niên của Hiệp Hội Cơ Đốc giáo,
40% câu lạc bộ thể thao tư nhân và 35% công viên và những tổ chức thể thao có những
đánh giá về người sử dụng trong những năm qua. Kết quả là Hartshorn cho rằng cần tiến
hành nhiều đánh giá hơn về dịch vụ và sản phẩm.
Butcher (1982) nghiên cứu ý kiến của 661 nữ sinh từ lớp 6 đến lớp 10 để đo mức độ
hài lòng qua các khía cạnh đặc biệt về chương trình GDTC tại trường quận Catholic.
Trong số 19 câu hỏi có 2 câu có liên quan đến mức độ hài lòng của sinh viên về cơ sở vật
chất thể thao. Kết quả cho thấy phần lớn các nữ sinh đều thỏa mãn về cơ sở vật chất với
tổng số trung bình là 3.81 và 3.63 trên mức đo thang điểm 5.
Yang đã khảo sát 1001 sinh viên cao đẳng sư phạm Đài Bắc về sự hài lòng của họ
với chương trình GDTC của trường. Kết quả cho thấy khoảng 76% sinh viên ở mức độ
không thòa mãn. Tuy nhiên chỉ có một câu hỏi đề cập đến mức độ hài lòng về hạ tầng thể
thao. Hơn nữa cơ sở dữ liệu và câu hỏi nghiên cứu không đủ tổng quát để khai quát hóa
mức độ hài lòng của người dử dụng về hạ tầng thể thao ở Đài Loan.
Trong 1 cuộc nghiên cứu khác, Zhang and Zhung khảo sát mức độ hài lòng của
sinh viên đối với chương trình GDTC tại đại học thương mại quốc gia Tai-Zhong. Phát
hiện của họ cho thấy 75.19% sinh viên không hài lòng với mật độ đông đúc của khu vuc
tập luyện và 67.43% không hài lòng vì thiếu cơ sở hạ tầng.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của người sử dụng về cơ sở hạ tầng thể
thao
Để hiểu sâu sắc hơn về mối quan hệ giua mức độ hài long của người sử dụng đối với
cơ sở hạ tầng và những yếu tố ảnh hưởng lên nó, phần này trình bày những yếu tố liên
quan đến cơ sở hạ tầng thể thao:
Bucher đã phân phát bảng cau hỏi đến 661 nữ sinh từ lớp 6 đến lớp 10 tại 1 trường
Công Giáo ở 1 thành phố lớn ở Canada để xác định mức độ hài lòng của học sinh đối với
chuong trình GDTC. Theo kết quả, học sinh ở lớp nhỏ hài lòng với cơ sở vật chất nhiều
hơn những học sinh lớp lớn.
Yang hỏi 473 nam sinh và 664 nữ sinh tại đại học sư phạm Đài Bắc về mức độ hài
lòng đối với hạ tầng thể thao trường học, kết quả cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa giữa
nam sinh (35.47%) và nữ sinh (23.04%) trong số những người trả lời không hài lòng. Như
vậy kết quả tiết lộ rằng giới tính cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến mức độ hài lòng của
sinh viên đối với hạ tầng thể thao.
Trong những cuộc nghiên cứu trước đây, những yếu tố sau có ảnh hưởng đến mức
độ hài lòng đối với hạ tầng thể thao: đặc điểm dân số học (giới tính, tuổi, năm học…),
mẫu hình sử dụng, thu nhập, và mức độ phổ biến của cơ sở vật chất. Vì vậy cuộc khảo sát
này sẽ bao gồm những vấn đề này.
Căn cứ theo quyết định số 1236 của bộ Giáo Dục Sự khác nhau giới tính trong việc
tham gia vào thể thao giải trí
Đã có nhiều thay đổi về mặt xã hội ảnh hưởng đến quá trình tham gia thể thao ở nữ giới.
Trong quá khứ, phụ nữ không được khuyến khích tham gia thể thao. Nếu họ tham gia thể
thao, họ đã vi phạm những nguyên tắc về giới tính và nữ quyền và hơn nữa thanh danh
của họ có thể mất đi. Lịch sử xã hội học thể thao phản ánh quá trình thống trị lâu dài của
nam giới đối với những môn thể thao đương đại và về những tư tưởng khác biệt giới tính
(Hargreaves, 1994).
Mặc dù nhiều trẻ em và vị thành niên tham gia vào những môn thể thao khác nhau
nhưng họ không có dịp tranh tài vì những quyền lực xã hội khác nhau. Như Coakley đã
nói:”thái độ và sự luyện tập phân biệt giới tính đã quy định mẫu hình tham gia thể thao
của phụ nữ trong suốt chiều dài lịch sử phương Tây. Do những ảnh hưởng của Phương
Tây đã xâm nhập vào Đài Loan, ngày càng có nhiều phụ nữ tham gia thể thao.
Trong bài nghiên cứu về tình trạng xã hội hóa thể thao hiện tại, các tiến trình cho
thấy phụ nũ trở thành những người tham gia thể thao tích cực đã dần hé lộ. Sau đây là
những lý do giải thích về vấn đề này. Một trong những nguyên nhân chính là vì cơ hội
nhiều hơn cho họ. Áp lực từ chính quyền liên bang đã thật sự tạo ra nhiều cơ hội tham gia
thể thao ở Mỹ. Mục 9 trong bản sửa đổi về giáo dục cấm phân biệt giới tính trong chương
trình giáo dục. Bản sửa đổi đảm bảo bình đẳng giữa nam và nữ trong thể thao. Phong trào
nữ quyền làm tăng thêm ảnh hưởng của bản sửa đổi.
Nhờ vào phong trào nữ quyền, vai trò của phụ nữ trong hôn nhân gia đình đã được
nâng cao. Vì vậy phụ nữ có thể theo đuổi nhiều hoạt động thư giãn hơn ngoài cuộc sống
gia đình.
Phong trào thể thao bùng nổ cùng với phong trào nữ quyền vào những năm 70 đã
thúc đẩy việc tham gia thể thao. Năm 1980, nhiều phụ nữ tham gia thể thao vì ý thức đến
sức khỏe và thể chất của mình. Vai trò của các nữ vận động viên ngày càng nâng cao vì
có nhiều cơ hội mới, lợi nhuận từ việc phát triển thể thao chuyên nghiệp ở nữ giới và sự
nở rộ của phong trào tập luyện thể dục thể thao.
Những thông tin trên cho thấy những ảnh hưởng gia đình và khác biệt giới tính
trong việc xã hội hóa thể thao ở trẻ em. Rõ ràng có những khác biệt lớn ở những môn thể
thao dành cho bé trai và bé gái. Vì vậy, những môn thể thao cá nhân tham gia sau này ảnh
hưởng lớn bởi những môn họ tập luyện thời thơ ấu. Cha mẹ áp đặt những môn thể thao
mà con mình phải chơi trong thời thơ ấu sao cho phù hợp với giới tính vì họ là những
người đầu tiên chịu trách nhiệm về mặt xã hội hóa của con mình. Tuy nhiên bản chất của
những ảnh hưởng khác nhau, do đó quan niệm của những đứa trẻ cũng khác nhau.
Làm cách nào để bình đẳng cơ hội tham gia thể thao của cả nam và nữ. Đó không
phải là việc làm dễ. Sau đây là một vài cách thức:
1. Tất cả các đội tuyển trong bất kì chương trình huấn luyện nào đều phải mở ra cho
cả nam và nữ.
2. Nên có những đội thống nhất cả nam lẫn nữ và đảm bảo rằng một nửa thành viên là
nữ.
3. Nên có những đội nam nữ riêng biệt trong mỗi môn thể thao.
4. Nên có 2 đội nam nữ hợp nhất trong mỗi môn thể thao.
5. Trong mỗi chương trình huấn luyện nên có những đội dựa vào hệ thống phân chia
số lượng.
6. Nên có số lượng các đội nam nữ cân bằng phản ánh sự khác biệt lợi ích giữa nam
và nữ. Cơ hội tham gia chia đều cho nam và nữ, để đạt được điều này phải nghiên cứu
mẫu hình lợi ích địa phương và nhửng đặc điểm khác biệt của cá nhân trong trường hay
cộng đồng (Coakley, 1982).
Những thông tin trên cho thấy chỉ có vài cuộc nghiên cứu đánh giá mức độ hài lòng
của sinh viên đối với hạ tầng thể thao. Hầu hết đều được tiến hành trong những khu vực
giải trí như công viên, trung tâm thể dục thể thao tư nhân. Vì ngày càng có nhiều sinh
viên tham gia thể thao, nên nhu cầu và sự hài lòng của họ cần được nghiên cứu kĩ lưỡng.
Nghiên cứu trình bày sự hài lòng của sinh viên đối với cơ sở hạ tầng thể thao, giờ học
chính khóa và ngoại khóa, Lý thuyết về sự hài lòng của khách hàng. Tuy nhiên, nghiên
cứu chưa đưa các mô hình chất lượng cũng như khung nghiên cứu. Trong phân tích kết
quả khảo sát, nghiên cứu chưa phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của khách
hàng mà chỉ phân tích trên các mục hỏi. Nghiên cứu so sánh sự hài lòng giữa sinh viên
năm nhất và năm hai, giữa nam và nữ, chưa phân tích sự khác biệt giữa sinh viên các
khoa.
3. Đặng Mai Chi (2007), Sự hài lòng của sinh viên trường đại học công nghiệp với chất
lượng đào tạo, Tiểu luận.
4. Trần Xuân Kiên (2006), Đánh giá sự hài lòng của sinh viên về chất lượng đào tạo tại
trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh Thái Nguyên.
5. Ma Cẩm Tường Lam (2011), Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên đối
với cơ sở vật chất, trang thiết bị tại Trường Đại học Đà Lạt.
6. Nguyễn Duy Lâm (2013), Nghiên cứu thực trạng và đề xuất một số giải pháp
phát triển phong trào tập luyện thể dục, thể thao của sinh viên nội trú-đại học
quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn cử nhân 2013.
7. Maslow, (1943), nghiên cứu lý thuyết về tháp nhu cầu.
8. Nguyễn Thị Thắm (2010), Nghiên cứu sự hài lòng của sinh viên đối với hoạt động
đào tạo tại trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQG TP.HCM, Luận văn thạc sĩ.
Các nghiên cứu khảo sát sự hài lòng của sinh viên về chất lượng đào tạo tại một số
trường đối với chương trình đào tạo, đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất, khả năng phục vụ
và hài lòng chung đều trình bày khá chi tiết, logic các vấn đề liên quan đến nội dung
nghiên cứu. Song, các nghiên cứu này chưa gắn kết với môn học giáo dục thể chất trong
các trường.
Chất lượng dịch vụ và chất lượng giáo dục
Chất lượng dịch vụ và mô hình
Xuất phát từ những quan điểm chất lượng trong lĩnh vực sản xuất của những năm
1930, những năm gần đây chất lượng dịch vụ đã được xác định như một yếu tố cạnh tranh
có tính chiến lược. Chất lượng dịch vụ là một phàm trù rất rộng và phức tạp, phản ánh
tổng hợp các nội dung kinh tế, kỹ thuật và xã hội. Do tính phức tạp đó nên hiện nay có rất
nhiều khái niệm khác nhau về chất lượng, tùy theo hướng tiếp cận mà khái niệm chất
lượng được hiểu theo các cách khác nhau, mỗi cách hiểu đều có cơ sở khoa học nhằm gải
quyết mục tiêu, nhiệm vụ nhất định trong thực tế. Một số định nghĩa chất lượng dịch vụ
như sau:
- Chất lượng dịch vụ là mức độ mà một dịch vụ đáp ứng được nhu cầu và sự mong
đợi của khách hàng (Lewis & Mitchell, 1990, Asubonteng & ctg, 1996).
- Theo Parasuraman et al (dẫn theo Nguyễn Đình Thọ và cộng sự, 2003): chất
lượng dịch vụ là khoảng cách giữa sự mong đợi của khách hàng và nhận thức của họ khi
đã sử dụng qua dịch vụ. Ông được xem là người đầu tiên nghiên cứu chất lượng dịch vụ
một cách cụ thể và chi tiết trong tiếp thị với việc đưa ra mô hình 5 khoảng cách trong chất
lượng dịch vụ.
Mô hình chất lượng dịch vụ Parasuraman et al
- Khoảng cách (1) là sai biệt giữa kỳ vọng của khách hàng và cảm nhận của nhà
cung cấp dịch vụ về kỳ vọng đó. Sự diễn dịch kỳ vọng của khách hàng khi không hiểu
thấu đáo các đặc trưng chất lượng dịch vụ, đặc trưng khách hàng tạo ra sai biệt này.
- Khoảng cách (2) được tạo ra khi nhà cung cấp gặp các khó khăn, trở ngại khách
quan lẫn chủ quan khi chuyern các kỳ vọng được cảm nhận sang các tiêu chí chất lượng
cụ thể và chuyển giao chúng đúng như kỳ vọng. Các tiêu chí này trở thành các thông tin
tiếp thị đến khách hàng.
- Khoảng cách (3) hình thành khi nhân viên chuyển giao dịch vụ cho khách hàng
không đúng các tiêu chí đã định. Vai trò nhân viên giao dịch trực tiếp rất quan trọng trong
tạo ra chất lượng dịch vụ.
- Khoảng cách (4) là sai biệt giữa dịch vụ chuyển giao và thông tin mà khách hàng
nhận được. Thông tin này có thể làm tăng kỳ vọng nhưng có thể làm giảm chất lượng dịch
vụ cảm nhận khi khách hàng không nhận đúng những gì đã cam kết.
- Khoảng cách (5) hình thành từ sự khác biệt giữa chất lượng cảm nhận và chất
lượng kỳ vòn khi khách hàng tiêu thụ dịch vụ.
Thực chất việc đảm bảo và nâng cao chất lượng dịch vụ là giảm và xóa bỏ các
khoảng cách theo mô hình chất lượng dịch vụ (hình 1.2). Qua các định nghĩa nêu trên, có
thể nhận thấy khái niệm chất lượng dịch vụ là mức độ đáp ứng nhu cầu, sự mong muốn
của khách hàng là xu thế về chất lượng trong giai đoạn hiện nay và nó có những đặc điểm
sau:
+ Chất lượng là sự thỏa mãn nhu cầu của khách hàng, nếu một sản phẩm dịch vụ
nào đó không thể hiện được sự đáp ứng nhu cầu của khách hàng thì được xem là có chất
lượng kém.
+ Do chất lượng được đo bằng mức độ thỏa mãn nhu cầu, mà nhu cầu luôn biến
động nên chất lượng cũng luôn biến động theo thời gian, không gian và điều kiện sử
dụng.
+ Nhu cầu của khách hàng có thể được công bố rõ ràng dưới dạng các quy định,
tiêu chuẩn nhưng cũng có những nhu cầu mà khách hàng cảm nhận được trong và sau khi
kết thúc quá trình sử dụng.
Chất lượng giáo dục:
Chất lượng giáo dục đại học luôn luôn là mối quan tâm hàng đầu của nhiều đối
tượng dù có tham gia hoặc không tham gia vào quá trình giáo dục. Ngoài áp lực của việc
số lượng người học ngày càng tăng dẫn đến sụt giảm về chất lượng, áp lực của xã họi
đang biến đổi và quá trình cạnh tranh khiens cho những nhà tuyển dụng luôn đòi hỏi chất
lượng đầu ra của giáo dục cao để đền bù chi phí tiền lương. Chất lượng cũng luôn là một
vấn đề đối với chỉnh phủ và các cơ quan, nơi hoạch định các chính sách giáo dục và
nghiên cứu giáo dục. Vì nhiều lý do, chất lượng giáo dục luôn là là một mối quan tâm lớn.
Về bản chất, khái niệm chất lượng là một khái niệm mang tính tương đối. Với mỗi
người, quan niệm về chất lượng khác nhau. Trong thực tế có nhiều cách định nghĩa về
chất lượng nhưng có thể tập hợp thành năm nhóm: chất lượng là sự vượt trội, là sự hoàn
hỏa, là sự phù hợp với mục tiêu, là sự đáng giá về đồng tiền và là giá trị chuyển đổi.
Mô hình chất lượng dịch vụ SERVQUAL
Dựa vào mô hình chất lượng dịch vụ Parasuraman et al (1985) (dẫn theo Nguyễn
Đình Thọ và cộng sự, 2003), Parasuraman và cộng sự đã giới thiệu thang đo SERVQUAL
gồm 10 thành phần: (1) Phương tiện hữu hình; (2) Tin cậy; (3) Đáp ứng; (4) Năng lực
phục vụ; (5) Tiếp cận; (6) Ân cần; (7) Thông tin (8) Tín nhiệm; (9) An toàn; (10) Thấu
hiểu. Thang đo này bao quát mọi khía cạnh của dịch vụ, tuy nhiên thang đo cho thấy có sự
phức tạp trong đo lường, không đạt giá trị phân biệt trong một số trường hợp. Do đó, các
nhà nghiên cứu này đưa ra thang đo SERVQUAL gồm 5 thành phần với các biến quan sát
cụ thể như sau:
(1) Phương tiện hữu hình (Tangibles): thể hiện bên ngoài của cơ sở vật chất, thiết
bị, nhân viên và vật liệu, công cụ thông tin.
(2) Tin cậy (Reliability): thể hiện khả năng thực hiện dịch vụ phù hợp và chính xác
với những gì đã cam kết, hứa hẹn.
(3) Đáp ứng (Responsiveness): thể hiện cung cấp dịch vụ kịp thời và sẵn lòng giúp
đỡ khách hàng.
(4) Đảm bảo (Assurance): thể hiện kiến thức, chuyên môn và phong cách lịch lãm
của nhân viên phục vụ, khả năng làm cho khách hàng tin tưởng.
(5) Cảm thông (Emparthy): thể hiện sự ân cần, quan tâm đến từng cá nhân khách
hàng.
Sự hài lòng của khách hàng và mô hình
Theo Oliver, sự hài lòng là phản ứng của người tiêu dùng đối với việc được đáp
ứng những mong muốn. Định nghĩa này hàm ý rằng sự thỏa mãn chính là sự hài lòng của
người tiêu dùng trong việc tiêu dùng sản phẩm hoặc dịch vụ đó đáp ứng những mong
muốn của họ.
Theo Tse và Wilton, sự hài lòng là sự phản ứng của người tiêu dùng đối với việc
ước lượng sự khác nhau giữa mong muốn trước đó và sự thể hiện thực sự của sản phẩm
như là sự chấp nhận sau khi dùng nó.
Theo Kotler (2001) thì sự hài lòng là mức độ của trạng thái cảm giác của một
người bắt nguồn từ việc so sánh kết quả thu được từ sản phẩm/dịch vụ với những kỳ vọng
của người đó. Kỳ vọng được xem là ước mong hay mong đợi của cong người.
Quan hệ giữa chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng
Để đánh giá sự hài lòng của sinh viên trước tiên phải xác định được các yếu tố ảnh
hưởng đến sự hài lòng này. Theo G.V. Diamantis và V.K.Benos dẫn theo Siskos et al.
(2005) cho rằng sự hài lòng tổng thể của sinh viên bao gồm các tiêu chí sau:
Cấu trúc thứ bậc các tiêu chí sự hài lòng của sinh viên
- Đào tạo: liên quan đến yếu tố chất lượng, chương trình đào tạo và chất lượng đội
ngũ giảng viên bao gồm sự đa dạng của khóa học, giờ dạy, giáo trình, định hướng nghề
nghiệp, kiến thức của giảng viên, phương pháp giảng dạy, kỹ năng truyền đạt của giảng
viên, phương pháp đánh giá, ....
- Cơ sở hạ tầng – hữu hình liên quan đến tiện nghi và thiết bị kỹ thuật trường học,
thiết bị phòng thí nghiệm, giờ mở cửa phòng thí nghiệm, thư viện điện tử, không gian thư
viện, ....
- Hỗ trợ hành chính: bao gồm các yếu tố kiến thức nhân viên, độ tin cậy, tốc độ xử
lý và mức độ thân thiện của nhân viên phục vụ.
- Hình ảnh của khoa: liên quan đến uy tín, tin cậy và sự công nhận của trường đại
học bao gồm các yếu tố kỳ vọng, thị trường việc làm, hoạt động xúc tiến và mối liên hệ
với thị trường việc làm.
9. Nguyễn Thị Nhàn (2013), khó khăn của sinh viên ký túc xá Đại học Quốc Gia
Thành phố Hồ Chí Minh khi tham gia các hoạt động Thể Thao giải trí.
10. Phạm Thị Kim Ngọc (2014), Nghiên cứu đánh giá thực trạng và các giải pháp
phát triển Thể thao giải trí của công nhân công ty May Mặc E-WON Việt Nam
tại khu chế xuất ở thành phố Hồ Chí Minh, Khóa luận tốt nghiệp.
11. Bùi Trọng Toại (2011), Thực trạng và các giải pháp phát triển thể thao giải trí
ở thành phố Hồ Chí Minh, Sở khoa học và công nghệ thành phố Hồ Chí Minh,
Báo cáo nghiệm thu.
Ba nghiên cứu này trình bày về các vấn đề liên quan đến sức khỏe, trong đó có sức
khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần và sức khỏe xã hội.
Khái niệm chung về sức khỏe:
Chức năng sức khỏe: Thông thường, người có sức khỏe được quan niệm là người
khỏe mạnh không có bệnh tật. Sức khỏe còn được thể hiện dưới góc độ khác về khả năng
lao động, khả năng làm việc của con người bao gồm cả sức lực về cơ bắp và khả năng làm
việc bằng trí óc. Tuyên ngôn của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) 1982 tại Alma Ata đã đưa
ra khái niệm về sức khỏe: “Sức khỏe là một trạng thái hoàn toàn thoải mái về mặt thể
chất, tinh thần và xã hội, chứ không phải chỉ là không có bệnh hay thương tật”. Từ năm
1982 tới nay, các khái niệm về sức khỏe đã được bổ sung nhiều lần. Tuy nhiên, nhìn
chung các khái niệm sức khỏe mang một ý nghĩa khái quát hơn, phản ánh cả về thể chất
và về lượng, cả về sức lực cơ bắp lẫn hoạt động trí tuệ và còn cả về mối quan hệ với xã
hội.
Theo báo cáo của Ủy ban kinh tế vĩ mô và sức khỏe của WHO, sức khỏe (giống như
giáo dục) là một trong những tiềm năng cơ bản cho giá trị của cuộc sống con người. Theo
điều tra thiên niên kỷ, Liên hiệp quốc 2000, sức khỏe tốt luôn được coi là nguyện vọng
lớn nhất của tất cả mọi người. Sự đau khổ của bệnh tật và chết sớm làm cho việc kiềm chế
bệnh tật là mối quan tâm chủ đạo của mọi xã hội và khiến cho sức khỏe trở thành một
trong những quyền cơ bản của con người được bảo vệ bởi luật pháp quốc tế. Sự thông thái
của mỗi nền văn hóa cũn dạy rằng: “Sức khỏe là sự giàu có” cả với nghĩa đen. Đối với
mỗi người và gia đình, sức khỏe mang lại khả năng phát triển cá nhân và sự bảo đảm kinh
tế trong tương lai. Sức khỏe là cơ sở cho năng suất làm việc, khả năng học tập, khả năng
phát triển trí tuệ, thể lực và tinh thần. Sức khỏe và giáo dục là nguồn vốn nền tảng của
con người, mà những người đoạt giải Nobel Theodore Shutz và Gary Becker đã chứng tỏ
đó là cơ sở cho hiệu quả kinh tế của mỗi người. Sức khỏe nhân dân tốt là động lực quyết
định để giảm đói nghèo, tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế dài hạn trên quy mô toàn
xã hội. Chiến lược đầu tư vào sức khỏe vì phát triển kinh tế, đặc biệt tại các nước nghèo,
dựa trên sự hợp tác toàn cầu, đã và đang phát triển. Sức khỏe như một động lực của phát
triển kinh tế đã được Ủy ban kinh tế vĩ mô và sức khỏe của WHO minh họa trong sơ đồ
kèm theo dưới đây
Các vấn đề sức khỏe thường phụ thuộc vào những nguyên nhân chính sau đây:
Nguyên nhân do liên quan đến kinh tế - xã hội, chính trị - xã hội (chiến tranh, điều
khiển kinh tế và thu nhập, sự bất công, sự bóc lột và các stress xã hội...)
Nguyên nhân chính bản thân con người (di truyền, dinh dưỡng, giấc ngủ,vận động
hợp lý, sự giải trí và giải tỏa stress, sự điều độ, vệ sinh cá nhân...)
Nguyên nhân do môi trường (tiếng ồn, nước sạch, vệ sinh thực phẩm...)
Nguyên nhân liên quan tới sự hiểu biết (tri thức về dinh dưỡng và luyện tập TDTT, tri
thức giữ cân bằng tâm lý, tri thức về vệ sinh môi trường, tri thức về quan hệ gia đình,
đồng nghiệp, bằng hữu, tri thức phòng bệnh và chữa trị bệnh....
Sức khỏe như một động lực phát triển kinh tế
Như vậy, chúng ta có thể hiểu sức khỏe gồm 3 mặt: Sức khỏe thể chất, sức khỏe
tinh thần và sức khỏe xã hội. để lĩnh hội được các vấn đề cụ thể hơn, trước
hết chúng ta cần biết những khái niệm sức khỏe trên là gì.
Sức khỏe thể chất:
Sức khỏe thể chất được thể hiện một cách tổng quát sự sảng khoái và thoải mái về
thể chất.Càng sảng khoái, thoái mái, càng chứng tỏ bạn là người khỏe mạnh.
Cơ sở của sự sảng khoái, thoải mái về thể chất là:
Sức lực: khả năng hoạt động của cơ bắp, có sức đẩy, sức kéo, sức nâng cao...do đó
làm công việc chân tay một cách thoải mái như mang vác, điều khiển máy móc, sử dụng
công cụ.....
Sức nhanh nhẹn: khả năng phản ứng của chân tay nhanh nhạy, đi lại, chạy nhảy,
làm các thao tác kỹ thuật một cách nhẹ nhàng, thoải mái.
Các chính sách và thể chế kinh tế
Quản lý nhà nước
Cung ứng hàng hóa công cộng
Vốn con người, bao gồm:
+ Giáo dục, đào tạo tại chỗ
+ Phát triển thể chất và tinh thần
Công nghệ, bao gồm:
+ kiến thức khoa học tương ứng cho sản xuất
+ đổi mới kinh tế nội địa
+ Tiếp thu công nghệ mới từ nước ngoài
Vốn xí nghiệp, bao gồm:
+ Các đầu tư cố định vào nhà máy và thiết bị
+ Công việc tập thể và tổ chức lao động
+ Các cơ hội đầu tư
+ Khả năng thu hút lao động và vốn
Sức khỏe
Phát triển kinh tế:
+ GNP trên đầu người
cao
+ Tăng trưởng GNP đầu
người
+ Giảm đói nghèo
Sự dẻo dai: làm việc hoặc hoạt động chân tay tương đối lâu và liên tục mà không
cảm thấy mệt mỏi.
Khả năng chống đỡ được các yếu tố gây bệnh: ít ốm đau hoặc nếu có bệnh cũng
nhanh khỏi và chóng hồi phục.
Khả năng chịu đựng được những điều kiện khắc nghiệt của môi trường: chịu nóng
lạnh, hay sự thay đổi đột ngột của thời tiết.
Cơ sở của các điểm vừa nêu chính là trạng thái thăng bằng của mỗi hệ thống và sự
thăng bằng của 4 hệ thống: Tiếp xúc,vận động, nội tạng và điều khiển của cơ thể.
Sức khỏe tinh thần:
Sức khỏe tinh thần là hiện thân của sự thỏa mãn về mặt giao tiếp xã hội, tình cảm
và tinh thần. Nó được thể hiện ở sự sảng khoái, ở cảm giác dễ chịu, cảm xúc vui tươi,
thanh thản, ở những ý nghĩ lạc quan, yêu đời, ở những quan niệm sống tích cực, dũng
cảm, chủ động, ở khả năng chống lại những quan niệm bi quan và lối sống không lành
mạnh.
Có thể nói, sức khỏe tinh thần là nguồn lực để sống khỏe mạnh, là nền tảng cho
chất lượng cuộc sống, giúp cá nhân có thể ứng phó một cách tự tin và hiệu quả với mọi
thử thách, nguy cơ trong cuộc sống. Sức khỏe tinh thần cho ta khí thế để sống năng động,
để đạt được các mục tiêu đặt ra trong cuộc sống và tương tác với người khác với sự tôn
trọng và công bằng.
Sức khỏe tinh thần chính là sự biểu hiện nếp sống lành mạnh, văn minh và có đạo
đức. Cơ sở cùa sức khỏe tinh thần là sự thăng bằng và hài hòa trong hoạt động tinh thần
giữa lý trí và tình cảm.
Sức khỏe xã hội:
Sự hòa nhập của cá nhân với cộng đồng được gọi là sức khỏe xã hội như câu nói
của Mác: “Con người là sự tổng hòa của các mối quan hệ xã hội”. Sức khỏe xã hội thể
hiện ở sự thoải mái trong các mối quan hệ chằng chịt, phức tạp giữa thành viên, gia đình,
nhà trường, bạn bè, xóm làng, nơi công cộng, cơ quan. Nó thể hiện ờ sự được chấp nhận
và tán thành của xã hội. Càng hòa nhập với mọi người, được mọi người đồng cảm, yêu
mến càng có sức khỏe xã hội tốt và ngược lại.
Cơ sở của sức khỏe xã hội là sự thăng bằng giữa hoạt động và quyền lợi cá nhân
với hoạt động và quyền lợi của xã hội, của những người khác, là sự hòa nhập giữa cá
nhân, gia đình và xã hội.
Ba yếu tố sức khỏe liên quan chặt chẽ với nhau. Nó là sự thăng bằng, hài hòa của
tất cả những khà năng sinh học, tâm lý và xã hội của con người. Nó là cơ sở quan trọng
tạo nền tảng cho hạnh phúc con người.
12. Nguyễn Xuân Sinh (2011), Xây dựng chương trình huấn luyện kỹ năng hoạt động
nhóm thông qua các hoạt động thể chất cho học sinh phổ thông lứa tuổi 13-14 (nam,
nữ) tại thành phố Hồ Chí Minh.
Nghiên cứu này trình bày các vấn đề liên quan đến tầm quan trọng và các quan điểm
của Đảng và Nhà nước về công tác giáo dục thể chất trong trường học.
Vai trò và tầm quan trọng của công tác GDTC
Giáo dục thể chất là một mặt của giáo dục toàn diện trong trường phổ thông, trong
đó, Thể dục có vị trí quan trọng trong việc bảo vệ và nâng cao sức khỏe, thể lực của học
sinh, chuẩn bị cho người lao động tương lai, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Như vậy, Thể dục ở đây là vì con người, góp phần đào tạo thế
hệ trẻ trở thành những con người có ích cho xã hội, giúp học sinh giải tỏa những căng
thẳng do thiếu vận động tạo nên, đồng thời phục vụ cho quá trình tiếp thu kiến thức trong
học tập được tốt hơn.
GDTC có ý nghĩa rất quan trọng trong việc nâng cao sức khỏe, thể lực của học sinh.
Đó chính là mục tiêu quan trọng nhất và là kim chỉ nam xuyên suốt từ tiểu học đến trung
học phổ thông và cao đẳng – đại học. Vì vậy, việc xây dựng chương trình môn học GDTC
phải luôn có tính khả thi, luôn luôn phù hợp với chương trình khung của Bộ Giáo dục -
Đào tạo quy định, phù hợp với đặc điểm tâm lý, sinh lý lứa tuổi, giới tính, với sức khỏe và
thể lực của học sinh, đồng thời mở rộng quyền chủ động, sáng tạo, phù hợp với điều kiện
thực tiễn của địa phương trong quá trình thực hiện, là xu thế phát triển tất yếu của giáo
dục Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 21.
Nhiệm vụ của GDTC
Nhiệm vụ cơ bản quan trọng nhất của giáo dục thể chất trong trường học là giáo dục,
rèn luyện cho thế hệ học sinh có sức khỏe tốt, có lối sống lành mạnh, làm phát triển thêm
những kỹ năng vận động cơ bản, giúp cho học sinh học tập đạt hiệu quả cao và chuẩn bị
cho học sinh những kỹ năng sống, làm hành trang bước vào đời. Đồng thời, GDTC trong
nhà trường còn có nhiệm vụ là phát hiện và đào tạo những nhân tài thể dục thể thao cho
đất nước.
Thông qua giáo dục thể chất, bồi dưỡng cho học sinh những đức tính dũng cảm, kiên
cường, trung thực, thẳng thắn, ý thức tổ chức, kỹ luật, tinh thần đoàn kết, xây dựng thói
quen rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh và đồng thời làm cho không khí của trường, lớp
thêm vui tươi, lành mạnh.
Các quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác GDTC
Nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của vai trò sức khỏe con người đối với vận
mệnh đất nước, cũng như đối với sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng Tổ
quốc, Chủ Tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn chú trọng đến việc
tăng cường, mở rộng các hoạt động TDTT và đặc biệt là công tác GDTC cho thanh niên.
Trong lời kêu gọi toàn dân tập thể dục của Bác ngày 27 tháng 3 năm 1946, Bác đã
chỉ rõ “... Mỗi người dân khỏe mạnh tức là góp phần làm cho cả nước mạnh khỏe, mỗi
người dân yếu ớt tức là làm cho cả nước yếu ớt một phần, dân cường thì nước thịnh... Tự
tôi ngày nào cũng tập” .
Ngày 31/3/1960, Bác Hồ tự tay viết thư gửi Hội nghị cán bộ TDTT toàn miền Bắc.
Trong thư, người dạy: “Muốn lao động sản xuất tốt, công tác và học tập tốt thì cần có sức
khỏe. Muốn có sức khỏe, thì thường xuyên tập luyện thể dục thể thao. Vì vậy, chúng ta
nên phát triển phong trào thể dục thể thao cho rộng khắp”. Đồng thời, Bác cũng căn dặn:
“Cán bộ thể dục thể thao phải học tập chính trị, nghiên cứu nghiệp vụ và hăng hái công
tác” nhằm phục vụ sức khỏe cho nhân dân. Về vị trí TDTT trong xã hội, Bác Hồ khẳng
định “là một công tác trong những công tác cách mạng khác” . Vì vậy, việc chăm lo cho
công tác giáo dục thể chất trong trường học, là một việc làm có tầm quan trọng đặc biệt
trong sự nghiệp giáo dục đào tạo, nhằm chuẩn bị con người cho sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong chỉ thị của Ban bí thư Trung ương Đảng, số 169/CT.TW ngày 14/12/1969, ghi
rõ: “Trường phổ thông cần có các biện pháp tích cực để nâng cao chất lượng giáo dục
lên một bước, nhằm vào 3 mặt: tư tưởng đạo đức, kiến thức văn hóa và sức khỏe... tăng
cường rèn luyện thân thể và công tác vệ sinh phòng bệnh trong trường học, đảm bảo từng
bước giữ gìn và nâng cao sức khỏe học sinh” .
Hiến pháp Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam quy định tại điều 41 năm
1992 “Nhà nước và xã hội phát triển nền TDTT dân tộc, khoa học và nhân dân. Nhà nước
thống nhất quản lý sự nghiệp TDTT, quy định chế độ GDTC bắt buộc trong trường học,
khuyến khích và giúp đỡ phát triển các hình thức TDTT tự nguyện của nhân dân, tạo các
điều kiện cần thiết để không ngừng mở rộng các hoạt động TDTT quần chúng, chú trọng
hoạt động thể thao chuyên nghiệp, bồi dưỡng các tài năng thể thao”.
Trước tình hình mới, Đảng đã vạch ra định hướng cho sự nghiệp phát triển TDTT:
“Phát triển TDTT là một bộ phận quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế – xã hội
của Đảng và Nhà nước, nhằm bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người. Công tác TDTT
phải góp phần tích cực nâng cao sức khỏe, thể lực, giáo dục nhân cách đạo đức, lối sống
lành mạnh, phong phú đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân, nâng cao năng suất lao
động xã hội và sức chiến đấu của các lực lượng vũ trang”.
Ngày 24/3/1994, Ban bí thư Trung ương Đảng ra chỉ thị 36/CT-TW về công tác
TDTT trong giai đoạn mới, đã nêu rõ: “... Cải tiến chương trình giảng dạy, tiêu chuẩn rèn
luyện thân thể, đào tạo giáo viên TDTT cho từng trường học các cấp, tạo những điều kiện
cần thiết về cơ sở vật chất để thực hiện chế độ giáo dục thể chất bắt buộc ở tất cả các
trường học”.
Ngày 7/3/1995, Thủ tướng Chính Phủ ban hành Chỉ thị 133/TTG về việc xây dựng
và quy hoạch phát triển ngành TDTT và Giáo dục đào tạo. Về GDTC trong trường học,
Chỉ thị nêu rõ: “... Bộ Giáo dục và Đào tạo cần đặc biệt coi trọng việc GDTC trong nhà
trường, cải tiến nội dung giảng dạy TDTT nội khóa, ngoại khóa, quy đinh tiêu chuẩn rèn
luyện thân thể cho học sinh ở các cấp học, có quy chế bắt buộc đối với công tác GDTC
trong nhà trường”.
Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VIII năm 1996 đã khẳng định:
“... Giáo dục đào tạo cùng với khoa học và công nghệ phải thực sự trở thành quốc sách
hàng đầu... chuẩn bị tốt hành trang cho thế hệ trẻ bước vào thế kỷ 21...” Đồng thời, Đảng
cũng khẳng định: “Sự cường tráng về thể chất là nhu cầu của bản thân con người, đồng
thời là vốn quí để tạo ra tài sản trí tuệ và vật chất cho xã hội, chăm lo cho con người về
thể chất là trách nhiệm của toàn xã hội, của các cấp, các ngành các đoàn thể...”.
Để cụ thể hóa các văn bản pháp luật có tính định hướng và chỉ đạo nói trên, Bộ Giáo
dục và Đào tạo đã ban hành: “Quy chế giáo dục thể chất trong nhà trường thuộc hệ thống
giáo dục quốc dân” , trong đó chỉ rõ:
Giáo dục thể chất là nội dung bắt buộc đối với học sinh, sinh viên, được thực hiện
trong hệ thống giáo dục quốc dân, từ mầm non đến đại học. GDTC là một bộ phận quan
trọng để thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Nhiệm vụ của GDTC là hình thành ở thế hệ trẻ nếp sống lành mạnh, có tri thức, kỹ
năng và phương pháp giữ gìn sức khỏe, phát triển thể lực, góp phần thực hiện mục tiêu
giáo dục đào tạo.
Ngành giáo dục đào tạo phối hợp với ngành TDTT, y tế và các ngành có liên quan,
tạo điều kiện để tất cả các học sinh, sinh viên được học tập và tham gia các hoạt động
TDTT, tham gia các giải thi đấu thể thao.
Nội dung của hoạt động thể chất bao gồm: dạy và học môn thể dục nội khóa, hoạt
động TDTT trong và ngoài nhà trường, tổ chức các hoạt động ngoại khóa để bảo vệ và
tăng cường sức khỏe, vệ sinh cá nhân, môi trường và dinh dưỡng.
Dạy và học môn thể dục là hình thức GDTC cơ bản trong nhà trường, được tiến hành
chủ yếu bằng giờ học nội khóa. Nhà trường phải đảm bảo dạy đúng, đủ nội dung và thời
gian môn học theo quy định của Bộ. Nội dung chương trình GDTC nội khóa gồm phần
bắt buộc và phần tự chọn. Phần tự chọn bao gồm các môn thể thao phù hợp với điều kiện
từng trường.
Hoạt động ngoại khóa về TDTT bao gồm các hình thức: tự tập luyện, tập luyện có
hướng dẫn, tập luyện trong và ngoài nhà trường, trong các câu lạc bộ thể thao trường học.
Ngày 9/10/2000, Chủ tịch nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam công bố
lệnh về việc ban hành pháp lệnh TDTT , đã được Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa X
thông qua ngày 25/9/2000. Pháp lệnh có 9 chương, 59 điều. Trong đó, điều 14, 15 của
chương I quy định về TDTT trường học như sau:
Điều 14 của pháp lệnh: “TDTT trường học bao gồm GDTC và hoạt động TDTT
ngoại khóa cho người học. GDTC trong trường học là chế độ GDTC bắt buộc nhằm tăng
cường sức khỏe, phát triển thể chất, góp phần hình thành và bồi dưỡng nhân cách, đáp
ứng yêu cầu giáo dục toàn diện người học. Nhà nước khuyến khích hoạt động TDTT
ngoại khóa trong nhà trường”.
Điều 15 của pháp lệnh quy định: “Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Ủy ban
TDTT thực hiện các nhiệm vụ: xây dựng, chỉ đạo thực hiện chương trình GDTC. Quy
định tiêu chuẩn rèn luyện thân thể và đánh giá kết quả rèn luyện thân thể của người học.
Đào tạo, bồi dưỡng và đảm bảo đủ giáo viên, giảng viên TDTT. Quy định hệ thống thi
đấu TDTT trường học”.
Tóm lại, qua những Chỉ thị và Nghị quyết trên cho thấy: Đảng và Nhà nước rất coi
trọng việc tăng cường sức khỏe cho nhân dân, nhất là đối với tầng lớp học sinh, sinh viên.
Trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước của thời đại hiện nay, việc giáo dục và
phát triển thể chất là một trong những biện pháp tích cực nhất góp phần tăng cường và
bảo vệ sức khỏe, cải tạo nòi giống... Đó cũng là vấn đề cốt lõi mà Đảng và Nhà nước ta
quan tâm hàng đầu, để góp phần xây dựng một đất nước “dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng dân chủ văn minh” và phấn đấu đạt vị trí ngang tầm với các nước tiên tiến trên
thế giới trong tương lai.
Ngày nay, TDTT đang trở thành nhu cầu và thói quen rèn luyện thân thể để giữ gìn
và tăng cường sức khỏe của đông đảo nhân dân có cuộc sống khỏe mạnh hơn, đời sống
tinh thần phong phú hơn khi đời sống vật chất đã có nhiều cái thiện. Hiểu biết về sức khỏe
thời kỳ công nghiệp hóa không còn gới hạn ở chỗ không ốm đau, bệnh tật mà là cả một
trạng thái hài hòa giữa thể chất, tinh thần và ứng xử xã hội. Trong nền kinh tế công
nghiệp đã giảm nhiều về lao động cơ bắp, lao động điều khiển bằng bộ não gia tăng đã
gây những bất cập về sức khỏe, thể trạng con người thì trong thời đại kinh tế tri thức lao
động công nghiệp được tự động hóa rất cao dưới hình thức “lao động văn phòng” thì mối
nguy cơ giảm sút thể trạng là điều không thể tránh khỏi.
13. Dương Ngiệp Chí (2005), Đo lường thể thao, NXB TDTT, Hà Nội.
14. Chris Gratton, Ian Jones (2004), Research Methods for Sport Studies, Routledge.
15. Nguyễn Xuân Sinh (1999), Giáo trình phương pháp nghiên cứu khoa học thể dục thể
thao, NXB TDTT, Hà Nội.
16. Nguyễn Toán, Phạm Danh Tốn (2006), Lý luận và phương pháp TDTT, NXB
TDTT, Hà Nội.
17. Hoàng Trọng, Chu Nguyễn Mộng Ngọc, Phân tích dữ liệu nghiên cứu với
SPSS, NXB Thống kê, 2005.
18. Nguyễn Đức Văn (2000), Phương pháp toán thống kê, NXB TDTT.
Các tài liệu này hướng dẫn xây dựng đề cương nghiên cứu khoa học, các
phương pháp giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu, các công cụ phân tích và xử lý
kết quả điều tra.