khoá luận phượng2

69
MỞ ĐẦU I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Bò sát là động vật có nhiều đặc điểm sống khá phong phú và hấp dẫn đồng thời có nhiều lợi ích. Từ nhiều thế kỷ trước, khoa học đã dành khá nhiều thời gian và công sức để tìm hiểu về nhóm động vật có số lượng không nhiều này, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu tìm hiểu của con người. Ở Việt Nam, các loài bò sát đã được chú ý dùng làm thuốc chữa bệnh từ thế kỉ XIV, nhưng mãi đến thời kỳ thực dân Pháp xâm lược nước ta mới có những công trình nghiên cứu thực sự về Bò sát của các tác giả người nước ngoài, đặc biệt là R.Bourret và cộng sự trong thời gian từ năm 1924 – 1944. Tuy nhiên từ sau năm 1945 đến nay các công trình nghiên cứu về Bò sát đã được đẩy mạnh nhiều hơn. Trong số loài thằn lằn được biết ở Việt Nam, Leiolepis belliana (Gray, 1827) là một loài thuộc họ Nhông (Agamidae). Tên phổ thông ở Việt Nam là nhông cát. Nhông cát thường gặp ở các dãi cát ven biển Việt Nam. Từ rất lâu nhân dân ta đã biết sử dụng nhông cát để chữa các bệnh như hen suyễn, ghẻ lở, còi xương ở 1

Upload: cao-thi-minh-tam

Post on 06-Jun-2015

963 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: khoá luận phượng2

MỞ ĐẦU

I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Bò sát là động vật có nhiều đặc điểm sống khá phong phú và hấp dẫn

đồng thời có nhiều lợi ích. Từ nhiều thế kỷ trước, khoa học đã dành khá nhiều

thời gian và công sức để tìm hiểu về nhóm động vật có số lượng không nhiều

này, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu tìm hiểu của con người.

Ở Việt Nam, các loài bò sát đã được chú ý dùng làm thuốc chữa bệnh

từ thế kỉ XIV, nhưng mãi đến thời kỳ thực dân Pháp xâm lược nước ta mới có

những công trình nghiên cứu thực sự về Bò sát của các tác giả người nước

ngoài, đặc biệt là R.Bourret và cộng sự trong thời gian từ năm 1924 – 1944.

Tuy nhiên từ sau năm 1945 đến nay các công trình nghiên cứu về Bò sát đã

được đẩy mạnh nhiều hơn.

Trong số loài thằn lằn được biết ở Việt Nam, Leiolepis belliana (Gray,

1827) là một loài thuộc họ Nhông (Agamidae). Tên phổ thông ở Việt Nam là

nhông cát. Nhông cát thường gặp ở các dãi cát ven biển Việt Nam.

Từ rất lâu nhân dân ta đã biết sử dụng nhông cát để chữa các bệnh như

hen suyễn, ghẻ lở, còi xương ở trẻ con... Ngoài ra nhông cát còn được sử dụng

để ngâm rượu làm thuốc bổ như tắc kè và rắn. Do thịt nhông thơm và ngon

nên được sử dụng để làm thực phẩm. Mặt khác khi phân tích thành phần thức

ăn tự nhiên của chúng thấy có nhiều loài động vật và thực vật khác nhau,

trong đó có nhiều loài côn trùng có hại như cào cào, châu chấu, bọ xít, bướm,

ruồi. Do đó có thể nói nhông cát được xem là loài động vật phổ biến ở các

vùng cát ven biển miền Trung Việt Nam đã cùng với các loài động vật khác

trong hệ sinh thái giữ vai trò nhất định, không những đảm bảo nâng dần năng

suất sinh học trong thiên nhiên mà còn có vai trò ổn định thế cân bằng trong

các hệ sinh thái.

1

Page 2: khoá luận phượng2

Như vậy, nhông cát là một trong những nguồn tài nguyên thiên nhiên

có giá trị. Nghiên cứu khai thác, sử dụng và bảo vệ nguồn tài nguyên động vật

và thực vật trong đó có nhông cát là rất cần thiết để góp phần vào sự nghiệp

phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học và đời sống.

Trên thế giới và Việt Nam, việc nghiên cứu về nhông cát vẫn chưa

nhiều, phần lớn các công trình chỉ tập trung vào các vấn đề đặc điểm sinh học,

sinh thái học, phân bố, phân loại dựa vào các đặc điểm về hình thái cấu tạo và

các đặc điểm sinh học. Năm 1991, tác giả Ngô Đắc Chứng trong luận án phó

tiến sĩ của mình đã mô tả kĩ về đặc điểm hình thái và sinh thái ở hai phân loài

của loài Leiolepis belliana là Leiolepis belliana belliana và Leiolepis belliana

guttata Cuvier. Luận án đã bổ sung một số hiểu biết về nhông cát mà các tài

liệu có được cho đến nay chưa đề cập hoặc đề cập còn ít, cung cấp một số cơ

sở khoa học cho việc khai thác, sử dụng chăn nuôi và bảo vệ nguồn lợi này ở

nước ta. Tuy nhiên, do yêu cầu, mục đích của luận án và do số liệu chưa đầy

đủ nên chưa chứng minh Leiolepis belliana belliana và Leiolepis belliana

guttata Cuvier là hai phân loài, loài hay dạng sinh thái mà tác giả chỉ tạm

công nhận đó là hai phân loài.

Theo xu hướng hiện nay, việc ứng dụng các kĩ thuật sinh học phân tử

vào nghiên cứu phân loại động, thực vật và vi sinh vật rất phổ biến trên thế

giới. Như đã nói ở trên, hai loài nhông cát ở Thừa Thiên Huế đã được nghiên

cứu về hình thái học, tuy nhiên vẫn chưa được nghiên cứu ở mức độ phân tử.

Chính vì những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài “Góp phần nghiên cứu

tính đa hình của nhông cát Leiolepis belliana guttata Cuvier ở Thừa Thiên

Huế”.

2

Page 3: khoá luận phượng2

II. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

1. Mục tiêu

- Mô tả một số đặc điểm hình thái của nhông sọc Leiolepis belliana

guttata Cuvier.

- Phân tích ADN của nhông sọc về mặt định tính và định lượng.

2. Nhiệm vụ

- Thu mẫu nhông cát Leiolepis belliana guttata Cuvier ở Thủy Phù –

Hương Thủy - Thừa Thiên Huế.

- Mô tả đặc điểm hình thái về trọng lượng thân, chiều dài cơ thể, vẩy

môi trên, vẩy môi dưới, lỗ đùi, một số tính trạng kích thước so với chiều dài

thân và chiều dài đầu.

- Tách chiết và tinh sạch ADN, sau đó xác định nồng độ và chất lượng

ADN của nhông cát Leiolepis belliana guttata Cuvier

3

Page 4: khoá luận phượng2

Phần 1

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

I. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU NHÔNG CÁT

1. Trên thế giới

Theo E.H. Taylor thì Leiolepis belliana (Gray) được Gray xác định và

mô tả lần đầu vào năm 1827 dưới tên là Uromastyx belliana Gray dựa trên

hình vẽ của Hardwicke từ mẫu thu ở Penang (Malaysia). Năm 1864, trong

“Reptiles of British India”, Gunther gọi là Leiolepis guttata. Tên Leiolepis

belliana lại được Gray đặt vào năm1845 trong “Catalogue of the Lizards in

the British Museum”. Về sau, nhiều tác giả khác cũng đã sử dụng tên này như:

Ridley (1869), Boulenger (1890), Annandale (1900), Laidlaw (1901), Schmidt

(1927), Smith (1935), Taylor và Elbel (1950), Nertens (1961),...Tên loài này

cũng được một công trình khác của C.H. Pope nhắc đến. Gần đây, trong công

trình nghiên cứu về nhiễm sắc thể, A. KynpurHoBa cũng gọi là L.belliana.

Đặc biệt trong cuốn “Từ điển tên gọi các loài động vật năm thứ tiếng” (Tiếng

Nga) xuất bản năm 1989 đã nêu tên 5 loài thằn lằn thuộc giống Leiolepis

trong đó có loài Leiolepis belliana (Gray).

Cho đến nay, việc nghiên cứu các mặt của các phân loài và loài

trong giống Leiolepis trên thế giới tương đối còn ít. Trong số đó, đáng chú ý

là các công trình sau:

M. Smith (1935) đã mô tả loài Leiolepis belliana ở Ấn Độ, Miến

Điện và Srilanca. Cũng vào năm 1935, trong công trình nghiên cứu Bò sát ở

trung Quốc, C.H. Pope trình bày khoá để xác định các giống trong họ

Agamidae ở Trung Quốc và các loài trong giống Leiolepis. Theo C.H. Pope

thì ở Trung Quốc họ Agamidae có các giống sau: Draco, Phoxophrys,

Japalura, Genocephalus, Phisignathus và Leiolepis. Riêng Leiolepis có một

loài là Leiolepis belliana (Gray). Loài này phân bố từ nam Miến Điện đến các

4

Page 5: khoá luận phượng2

quần đảo Đông Nam Á và đảo Sumatra thuộc Indonesia, còn ở Trung Quốc đã

tìm gặp ở Quảng Châu, Quảng Đông và đảo Hải Nam.

Căn cứ vào mẫu vật thu được ở một số vùng thuộc các tỉnh Loei,

Kanchanaburi, Rat Buri và Sisaket (Thái Lan), E.H. Taylor và R. Elbel đã giới

thiệu một số dẫn liệu hình thái của L. belliana belliana trong một công trình

về Ếch nhái – Bò sát ở Thái Lan.

Sau đó, trong bài “Các loài thằn lằn của Thái Lan” đăng trên tạp chí

“The University of Kansas Science Bulletin”, E.H. Taylor đã mô tả đặc trưng

của loài này như sau: “Thân dẹp theo hướng lưng bụng; không có mào lưng;

vẩy bình thường, nhỏ, xếp sát nhau, hình nón hay hình tháp, ít nhiều hóa sừng;

túi họng không thấy rõ, nhưng có một hoặc hai nếp hầu nằm ngang; cả cá thể

đực và cái đều có lỗ đùi; đuôi dài, đôi khi dày lên ở gốc, vảy gần như đồng

hình; vảy bụng xếp đè lên nhau, tạo thành những vảy gần như ô vuông”. Theo

E.H. Taylor thì có hai phân loài được ghi nhận ở Thái Lan là L. belliana

belliana (Gray) và L .belliana rubritaeniata Mertens thuộc các vùng phía Tây

và Trung Bắc; còn L.belliana guttata Cuvier có thể gặp ở các vùng xa về phía

Đông Thái Lan.

Năm 1976, trong luận án của mình, D.C. Leroy có nói đến

L.belliana. Theo ông, đặc trưng của chúng là không có mào lưng và sống ở

dưới đất. Người ta thường gặp loài này ở vùng Nam Á và Indonesia.

Nhìn chung các công trình nói trên chỉ tập trung mô tả các đặc điểm

hình thái dùng trong phân loại và sự phân bố địa lí của Leiolepis belliana ở

các vùng nghiên cứu và trên thế giới. Ngoài ra có các cồng trình nghiên cứu

đối tượng này trên các lĩnh vặc khác như:

Về tập tính hoạt động và nơi ở của nhông cát có các dẫn liệu của

C.H.Pope và D.C.Leroy. Theo các tác giả trên khi nghiên cứu ở Tây Pakistan

và Bắc Ấn Độ thì nhông cát ở trong các hang tự đào vùng đất cát dài từ 2,44 –

2,74 m (8 – 9 feet) và sâu 1,22 – 1,52 m (4 – 5 feet). Những lúc trời rét và ban

đêm chúng chui vào hang và lấp kín cửa hang.

5

Page 6: khoá luận phượng2

Đặc điểm cấu tạo giải phẩu đã được A.G.Edmund, R.Hoffstetter và

J.P.Gase trình bày trong “Biology of the Reptilia”. Khi nghiên cứu về răng

của các loài trong họ Agamidae, A.G.Edmund cho rằng L. belliana có 3 – 4

răng trước hàm, 12 răng hàm và 12 răng ở phần trước xương răng. Các răng ở

phần trước xương răng thường lớn và theo kiểu răng nanh. Đặc điểm của cột

sống và xương sườn của Leiolepis cũng giống như các loài trong họ Teiidae

và Agamidae nhưng có phần thân đốt và phần gian thân đốt không phân biệt

rõ.

Đặc điểm của các loài trong họ Agamidae cũng như Iguanidae có cấu

tạo giống Sphenodon. Còn cấu tạo của xương khẩu cái, xương hàm, xương lá

mía và ống đổ của cơ quan Jacobson theo kiểu “lỗ khoan cổ” như nhiều loài

thằn lằn khác.

Về cấu trúc nhân có công trình nghiên cứu của A.KynpurHoBa, khi

nghiên cứu kiểu nhân của ba loài thằn lằn họ Agamidae là Stellio chernovi,

Stellio himalayanus và Leiolepis belliana belliana. Kết quả nghiên cứu này

cho thấy các loài trên có bộ nhiễm sắc thể 2n = 36.

Về số lượng loài của giống Leiolepis Cuvier, theo công trình của nhiều

tác giả mà B.E.CokovoB làm chủ biên cho thấy có năm loài là L.belliana

(Gray), L. guttata Cuvier, L. peugensis Peters, L.reevessi (Gray) và L.triploida

Peters, tất cả đều sống ở châu Á.

Năm 1993, Darevsky và Kupriyanova đã nghiên cứu phát hiện và mô tả

loài nhông Leiolepis guentherpetersi (Theo Cuvier, 1829) là Leiolepis

belliana guttata Cuvier). Các phân tích về hình thái, kiểu nhân và địa lý sinh

vật học cho thấy rằng đây là loài tam bội có nguồn gốc từ sự lai tạo tự nhiên.

Tuy nhiên chưa có nghiên cứu đánh giá ở mức phân tử đối với loài này [4].

2. Ở Việt Nam

Tài liệu đầu tiên nói đến nhông cát L.belliana (Gray) của R. Bourret.

Trong đó tác giả mô tả đặc điểm của loài và hai phân loài của L.belliana là

L.belliana belliana và L.belliana guttata khác nhau về số lượng lỗ đùi ở mỗi

6

Page 7: khoá luận phượng2

bên, Theo tác giả thì L.belliana phân bố ở Nam Miến Điện, Thái Lan, Đông

Dương, đảo Hải Nam, Nam Trung Quốc, Malaysia và Sumatra. Ở Việt Nam

đã gặp ở Cù Lao Chàm, Nha Trang và Quảng Trị.

Căn cứ vào các mẫu vật đã thu được và các công trình đã công bố,

Đào Văn Tiến đã công bố danh sách 77 loài thằn lằn hiện có ở Việt Nam cùng

với đặc điểm hình thái dùng trong phân loại cũng như khoá định loại các loài

thằn lằn đó. Trong số 17 loài thằn lằn thuộc họ Agamidae của danh sách này

có hai phân loài của L.belliana là nhông thường L.belliana belliana và nhông

gutta L.bellana guttata Cuvier.

Năm 1981, trong “Kết quả điều tra cơ bản động vật miền Bắc Việt

Nam” của Uỷ ban Khoa học và kĩ thuật Nhà nước do tác giả Trần Kiên,

Nguyễn Văn Sáng và Hồ Thu Cúc thực hiện đã thu mẫu và xác định

L.belliana phân bố ở Hà Tĩnh và Vĩnh Linh (Quảng Trị).

Gần đây, theo kết quả điều tra về khi hệ động vật các đảo có nguồn gốc

lục địa của Viện Địa lý (Viện HLKH Viễn Đông – Liên Xô) cho thấy có

L.belliana ở Cù Lao Chàm trong số các đảo đã khảo sát từ vịnh Bắc Bộ đến

vịnh Thái Lan [4].

Năm 1991, Trong luận án phó tiến sĩ của mình, Ngô Đắc Chứng đã

nghiên cứu về các đặc điểm về hình thái và sinh thái của hai phân loài

L.belliana belliana và L.belliana guttata Cuvier ở Thừa Thiên Huế. Về đặc

điểm hình thái của phân loài L.belliana belliana, tác giả đã mô tả như sau:

“Thân dẹp theo hướng lưng bụng, không có mào lưng, không có gai trên đầu.

Vảy nhỏ, phần lớn hoá sừng. Có một hoặc hai nếp họng nhỏ nằm ngang. Lỗ

đùi làm thành hai dãy ở vùng mu hai bên lỗ huyệt. Đuôi dày lên ở gốc. Mỗi

bàn chân có 5 ngón, các ngón chân dài và có móng nhọn. Bề rộng và bề dài

của mõm gần bằng nhau. Bờ mõm được giới hạn bởi hai vảy môi và sáu tấm

vảy sau mõm. Lỗ mũi mở trực tiếp ra ngoài, trán và vùng gian ổ mắt đôi khi

to; các vảy trên ổ mắt là các vảy chấm rất nhỏ. Màng nhĩ rộng và nông, đường

kính của nó gần bằng chiều dài lỗ mắt. Hai bên cổ có những nếp da nằm

ngang kéo ngang qua phần gáy.

7

Page 8: khoá luận phượng2

Vẩy lưng nhỏ, hoá sừng; vẩy mặt bụng lớn hơn ở mặt lưng”.

Đặc điểm hình thái của con cái tương tự như con đực, chỉ khác ở một

số điểm sau: Con cái da ở hai bên sườn không thể bạnh ra khi ở tư thế dọa nạt;

ở con đực mặt lưng từ đầu đến đuôi màu phân ngựa với những vùng sẫm ở hai

bên, riêng mặt lưng phần thân có những chấm màu vàng viền đen hình mạng

lưới, mặt bụng từ đầu đến đuôi màu trắng đục, đặc biệt hai bên thân có hai dải

chấm màu da cam thể hiện khá rõ khi nhông bạnh nếp da hai bên sườn, còn

con cái các chấm vàng viền đen ở mặt lưng sắp thành bốn dãy dài chạy dọc

lưng từ sau gáy tới gốc đuôi, ngoài ra ở hai bên sườn không có các dãy chấm

màu da cam.

Về tính trạng khối lượng cơ thể, chiều dài thân thì cá thể đực thường

lớn hơn cá thể cái (cá thể đực có khối lượng trung bình là 41,17 g và chiều dài

thân trung bình là 114,0 mm; trong khi con cái là 30,52 g và 107,4 mm). Số

lượng lỗ đùi trung bình của cá thể đực ít hơn cá thể cái (con đực là 17 và con

cái là 18).

Đặc điểm hình thái của phân loài L.belliana guttata Cuvier cũng tương

tự như ở phân loài L.belliana belliana, chỉ khác ở một số tính trạng sau: Mặt

lưng của L.belliana guttata Cuvier không có các chấm vàng viền đen mà có

các chấm màu phân ngựa hình lục giác, có bốn sọc dài màu vàng nhạt rộng

trung bình 3 mm: hai sọc chạy từ sau tai đến gốc đuôi, hai sọc chạy từ gốc

chân trước đến gốc chân sau. Mặt bụng màu trắng đục, không có các chấm

màu da cam hai bên thân và không có khả năng bạnh da hai bên sườn.

L.belliana guttata Cuvier có khối lượng cơ thể trung bình là 56,0g và

chiều dài thân trung bình là 120,83 mm. Số lượng lỗ đùi là 20 – 23

Ở Thừa Thiên Huế, nhông cát sinh sống ở hai vùng sinh cảnh khác

nhau là vùng cát ven biển và vùng nương rẫy ở đồng bằng các xã Thuỷ Phù,

Thuận An và Lộc Hải.

Quan sát và theo dõi hoạt động của nhông cát ngoài tự nhiên, tác giả

thấy rằng nhông hoa hoạt động ban ngày những hôm trời nắng với nhiệt độ

8

Page 9: khoá luận phượng2

không khí từ 30 – 38oC, nhiệt độ mặt đất từ 33 – 40oC và độ ẩm từ 30 – 78 %.

Nhông sọc hoạt động ở nhiệt độ không khí từ 27 – 38oC, nhiệt độ mặt đất từ

27 – 59oC và độ ẩm 30 – 64 %. Chúng hoàn toàn không hoạt động vào những

ngày mưa, trời âm u hoặc trước lúc bắt đầu mưa và về mùa đông (từ tháng XI

– tháng III) khi nhiệt độ không khí nhỏ hơn 25oC và độ ẩm trên 90 %. Vào

những ngày nắng nóng (nhiệt độ tren 38oC) chúng vẫn hoạt động với điều kiện

là độ ẩm thấp.

Ngoài ra vào những ngày nắng nóng nhiệt độ mặt đất tăng lên quá cao

có thể trên 50oC, nhông cát vẫn hoạt động. Lúc đó chúng kiếm ăn trong các

bóng râm hoặc chạy rất nhanh trên cát hoặc các cây cỏ khác.

Từ tháng XI đến tháng III nhông cát trú đông trong hang. Vào thời kì

này nhiệt độ trung bình trong hang xuống thấp từ 18,5 – 24,4oC, độ ẩm trung

bình từ 83 – 92oC

Về vấn đề sinh sản của nhông cát, tác giả lưu ý một số vấn đề sau: “Đối

với loài nhông hoa, kích thước và khối lượng của tinh hoàn và của buồng

trứng vào các tháng IV và VI lớn hơn các tháng còn lại. Trong khi đó khối

lượng thể mỡ lại bé vào các tháng IV, V và VI và lớn hơn vào các tháng khác.

Đối với nhông sọc, khối lượng của buồng trứng vào các tháng IV, VI

và VII, trong khi khối lượng thể mỡ lại bé vào các tháng này và lớn hơn vào

các tháng khác.

Trứng có kích thước lớn hơn 4 mm chỉ thấy xuất hiện vào tháng IV và

VI ở phân loài nhông hoa và vào tháng IV, VI và VII ở phân loài nhông sọc.

Như vậy mùa sinh sản của nhông hoa là từ tháng IV đến tháng VI, của

nhông sọc là từ tháng IV đến tháng VII hàng năm. Đặc biệt, trong tất cả

những mẫu vật thu được ở Thuỷ Phù và Lộc Hải không có cá thể nào là đực

nên đưa đến khả năng nhông sọc là loài thằn lằn trinh sinh, tức là trứng phát

triển không có sự thụ tinh [4]. Tuy nhiên, tác giả cũng nhấn mạnh đây có phải

là loài trinh sinh hay không vẫn còn là vấn đề nghi vấn và cần tiếp tục theo

dõi.

9

Page 10: khoá luận phượng2

II. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở MỨC ĐỘ PHÂN TỬ

1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước.

Trong những thập kỷ qua, nhờ sự phát triển của các kỹ thuật phân tử,

phân loại học phân tử đã có những bước tiến bộ đáng kể. Đã có nhiều công

trình nghiên cứu về lĩnh vực này trên các đối tượng động vật, thực vật và vi

sinh vật. Những thành tựu này đặc biệt có ý nghĩa đối với những loài mới

được phát hiện hay với những loài đã bị tuyệt chủng ngoài tự nhiên.

Việc nghiên cứu tính đa hình các cá thể trong một quần đàn, các quần

đàn trong một giống, các giống với nhau, các họ với nhau hoặc các bộ với

nhau nhằm mục đích cải biến di truyền, chọn giống, hoàn thiện cây tiến hóa,

tìm hiểu lịch sử di cư liên quan tới địa lý, nghiên cứu sự liên quan giữa tính đa

hình và khả năng chống chịu bệnh tật hoặc dễ nhiễm bệnh và pháp y hình sự.

Để nghiên cứu tính đa hình và phân loài người ta thường sử dụng các

phương pháp sinh hóa cổ điển như isoenzyme đa hình, hay các phương pháp

chỉ thị phân tử hiện đại như ADN đa hình khuếch đại ngẫu nhiên (RADP),

ADN đa hình chiều dài các phân đoạn được cắt giới hạn (RELP), ADN đa

hình độ dài các phân đoạn được khuếch đại (AFLP), vi vệ tinh, đa hình

nucleotide đơn (SNP) hay đọc trình tự rồi trực tiếp so sánh các trình tự ADN

với nhau. Mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và nhược điểm nhất định,

không giống nhau nhưng có thể bổ sung cho nhau đêr hoàn thiện kết quả

nghiên cứu. Đặc biệt khi các phương pháp phân loại hình thái đã bão hòa

không thể đi sâu được nữa, thì các phương pháp sinh học phân tử sẽ trợ giúp

một cách có hiệu quả.

Năm 1993, Darevsky và Kupriyanova đã nghiên cứu phát hiện và mô tả

một loài nhông mới thuộc giống Leiolepis CUVIER, 1829 có nguồn gốc từ

Việt Nam là Leiolepis guentherpetersi. Đây là một trong hai loài nhông có

mặt ở Thừa Thiên Huế. Các phân tích về hình thái, kiểu nhân và địa lý sinh

vật học cho thấy rằng đây là loài tam bội có nguồn gốc từ sự lai tạo tự nhiên.

Tuy nhiên chưa có nghiên cứu đánh giá ở mức độ phân tử đối với loài này.

10

Page 11: khoá luận phượng2

Turbeville et a. (1991) dựa trên sự phân tích 18S rRNA để nghiên cứu

sự phát sinh chủng loại của chân khớp. Cũng bằng phương pháp này, Passhley

et al. (1993) đã phân loại Bộ côn trùng biến thái hoàn toàn.

Miya và Nishida (1998) đã nghiên cứu sự phát sinh chủng loại và tiến

hóa ở mức độ phân tử của các loài cá sống ở vùng biển sâu thuộc giống

Sternoptyx dựa trên phân tích gen mã hóa 12S – rRNA và 16S – rRNA ở ty

thể.

Boyce et al. (1999) nghiên cứu cấp phân loại phụ của quần thể cừu

sừng lớn (Ovis canadensis) dựa trên phân tích 515 bp đầu tiên của vùng khởi

động ADN ty thể.

Nhiều nghiên cứu theo hướng đa dạng di truyền và nhận dạng các loài

ở mức phân tử cũng đã được tiến hành (Carvalho et al. 2001; Garrjardo et al.

2002)

2.Tình hình nghiên cứu trong nước

Ở Việt Nam, cũng đã có một số công trình nghiên cứu về hai loài

nhông cát ở Thừa Thiên Huế. Tuy nhiên các công trình này chỉ nghiên cứu về

hình thái, đặc điểm sinh học, đặc điểm quần thể, sinh thái học cũng như hoạt

động ngày đêm của chúng (Ngô Đắc Chứng 1986, 1992, 1993, 1994). Ở Việt

Nam nói chúng phân loại phân tử vẫn còn là một lĩnh vực mới mẻ. Gần đây

một số công trình nghiên cứu theo hướng sử dụng các phương pháp sinh học

phân tử để phân tích đa hình di truyền, xác định quan hệ họ hàng của một số

loài đã được công bố.

Quyền Đình Thi và cộng sự (2003) đã sử dụng các kỹ thuật

microsatellite, mtRFLP, RAPD để phân tích đa hình của các quần thể đàn tôm

sú, cá tra nuôi ở Việt Nam. Nhóm nghiên cứu đã tìm được nhiều chỉ thị phân

tử đặc trưng như RAPD để phân biệt các quần đàn cá tra nuôi trong các trại cá

khác nhau. Những chỉ thị này có thể được nghiên cứu tiếp phục vụ công tác

chọn giống [13].

11

Page 12: khoá luận phượng2

Nguyễn Thị Thanh Bình và cộng sự (2005) đã nghiên cứu đa dạng

phân tử của các giống tằm sử dụng trong sản xuất bằng PCR – RAPD. Cũng

bằng kĩ thuật này, Đinh Thị Phương Anh (2005) đã nghiên cứu tính đa dạng

của thạch sùng vùng núi Bà Nà, Đà Nẵng [1,3].

III. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU TÍNH ĐA HÌNH

Có nhiều phương pháp để nghiên cứu tính đa hình, mỗi phương pháp

đều có những ưu điểm và nhược điểm nhất định, không giống nhau nhưng có

thể bổ sung cho nhau để hoàn thiện kết quả nghiên cứu.

1. Phương pháp isoenzyme cổ điển

Enzyme là những protein có khả năng xúc tác đặc biệt phản ứng hóa

học và là chất xúc tác sinh học. Isoenzym là những dạng khác nhau của một

enzyme có cùng hoạt tính cơ chất đặc hiệu nhưng lại khác nhau về phương

diện di truyền tức là khác nhau về cấu trúc bậc một và do các locus gene khác

nhau xác định. Còn allozyme lại là các dạng khác nhau của một isoenzym do

chỉ một locus gene xác định (Prakash, 1969) [7,10].

Hiện tượng các phân tử enzym có nhiều biến dạng tồn tại trong quần

đàn tự nhiên là kết quả của các đột biến gây ra sự thay thế các acid amin trong

cấu trúc bậc một của chuỗi polypeptid. Chính vì vậy khi điện di trên gel

agarose, tinh bột thuỷ phân, polyacrylamide cùng với việc phối hợp nhuộm tế

bào cho phép ta phát hiện các biến dạng khác nhau của phân tử enzyme, phát

hiện các isoenzyme và các allozyme.

Các hệ thống isozyne đa hình là các mô hình rất thuận lợi cho việc

nghiên cứu, do bản chất di truyền tương đối đơn giản và hầu hết được biểu

hiện di truyền đồng trội. Do đó khi sử dụng các dữ kiện về đa hình isozyme

không những biết kiểu gen của cá thể mà còn biết mức độ dị hợp của quần

đàn. Mặt khác, mỗi biến dạng phân tử enzyme là một “chỉ thị” của gene,

12

Page 13: khoá luận phượng2

nghiên cứu quan hệ họ hàng, nguồn gốc của vật nuôi, gia súc. Dựa trên tần số

allele, người ta xác định được khoảng cách di truyền giữa các quần đàn.

Nhiều nghiên cứu trên động vật, côn trùng, sử dụng các phương pháp

đánh giá trên cho thấy số đo khoảng cách di truyền có tương quan rõ rệt với

các thứ hạng phân loại của nhóm sinh vật nghiên cứu (Manwell và Barker,

1970; Namikawa, 1972) [7,10].

Những chỉ thị isozyme chỉ thể hiện ở những giai đoạn khác nhau trong

quá trình phát triển cá thể tuỳ thuộc vào cơ chế phức tạp của sự đóng mở

gene. Mặt khác do có số lượng không nhiều mà sự biểu hiện lại phụ thuộc vào

giai đoạn phát triển cá thể, không phản ánh chính xác bản chất di truyền của

một tính trạng nên chỉ thị isozyme được sử dụng tương đối hạn chế.

2. Các phương pháp sử dụng chỉ thị phân tử ADN

Chỉ thị ADN là những chỉ thị dựa trên bản chất đa hình của ADN. Nó

có thể là những dòng gene có sẵn hay dưới dạng những thông tin di truyền

được lưu giữ và chuyển tải trong các file dữ liệu máy tính (ví dụ như trình tự

các mồi SSR, RAPD, AFLP). Người ta chia chỉ thị ADN thành 3 loại chính:

- Chỉ thị dựa trên các trình tự nhận biết enzyme hạn chế (RFLP và

AFLP).

- Chỉ thị dựa trên các trình tự nucleotide ngẫu nhiên (RAPD).

- Chỉ thị dựa trên các trình tự ngắn lặp lại nhiều lần (tiểu vệ tinh)

2.1. Phương pháp RAPD

RAPD (Ramdon Amplified Polymorphism DNA) là các phân đoạn

DNA đa hình được khuếch đại ngẫu nhiên. Phương pháp này do William

(1990). Welsh và cộng sự (1991) phát triển từ phương pháp PCR chuẩn nhưng

với một mồi duy nhất có kích trước từ 5 đến 12 nucleotide. Do kích thước bộ

gen của một cá thể là rất lớn từ vài trăm triệu với vài tỉ base, là những chuỗi

13

Page 14: khoá luận phượng2

được hình thành từ bốn base duy nhất là adenine, guanine, cytosine, và

thymine cho nên sẽ tồn tại nhiều trình tự 5 đến 12 base bắt cặp với trình tự

mồi ngẫu nhiên. Sản phẩm PCR với một mồi có trình tự ngẫu nhiên như vậy,

ở những điều kiện PCR nhất định sẽ cho một (hoặc vài) phân đoạn DNA

(khác nhau) trên điện di đồ.

Các cá thể sinh vật cùng loài, giống, họ có bộ gene giống nhau hoàn

toàn giống nhau. Kết quả điện di trên điện di đồ sẽ gồm những band vạch

DNA có kích thước như nhau. Khi bộ gen của chúng có nhiều trình tự khác

nhau, với một mồi ngẫu nhiên nào đó, các sản phẩm PCR của chúng sẽ cho

một số band vạch DNA có kích thước khác nhau trên điện di đồ.

Phương pháp RAPD cho phép phát hiện tính đa hình giữa các cá thể

trong một quần đàn, giữa các quần đàn trong cùng một loài hoặc giữa các loài

trong một giống, mà không cần biết trình tự sắp xếp các nucleotide ra sao.

Mặt khác mồi RAPD sẽ chỉ ra một đa hình thường xuất hiện nhất [12].

Mồi ngẫu nhiên được thiết kế là những oligonucleotide có kích thước

từ 5 đến 12 nucleotide, và được tổng hợp hóa học. Tuỳ theo hãng sản xuất,

các mồi có kí hiệu, tên gọi cũng như trình tự rất khác nhau. Yêu cầu cơ bản là

mồi phải bắt cặp và bám vào hai đầu của đoạn khuôn, để phân đoạn DNA nằm

giữa có kích thước khoảng 50 đến 5000 nucleotide được nhân lên. Mồi càng

ngắn thì khả năng bắt cặp càng cao, và do đó số sản phẩm PCR càng nhiều.

Ngược lại mồi càng dài thì thì độ bắt cặp chính xác càng lớn, số phân đoạn

PCR càng ít đi.

Ưu điểm của phương pháp RAPD là thời gian thực hiện nhanh, dễ làm

và ít tốn kém, giúp cho xác định tính đa dạng sinh học, nguồn gốc các giống

động vật, thực vật và vi sinh vật, còn gọi là phân loại phân tử [12].

2.2. Phương pháp RFLP

RFLP (Restrition Fragment Length Polymorphism DNA) là DNA đa

hình chiều dài các phân đoạn DNA được cắt giới hạn. Chỉ thị này lần đầu tiên

14

Page 15: khoá luận phượng2

được biết đến khi Botstein sử dụng nó để lập bản đồ các gen có liên quan đến

bệnh ở người. Các RFLD được sinh ra bởi những điểm cắt enzyme giới hạn

trong DNA hệ gen. Nó biểu thị sự khác nhau giữa các loại DNA, do những

đột biến tự nhiên gây ra như đột biến gene tạo ra đặc điểm riêng biệt ở mọi

giống, loài thậm chí mỗi cá thể. Bởi vậy khi sử dụng các enzyme hạn chế để

cắt các phân đoạn DNA có kích thước gần như nhau không thể phân biệt được

trên điện di đồ, thành các phân đoạn có nhỏ hơn có kích thước khác nhau thì

có thể phân biệt được trên điện di đồ.

Nếu hai trình tự phân đoạn DNA gần giống nhau hoàn toàn, tức là có

một vài nucleotide khác nhau trong trình tự, thì thực sự rất khó phát hiện ra sự

khác nhau giữa chúng trên điện di đồ nhưng chúng lại không đồng nhất với

nhau khi so sánh sơ đồ cắt enzyme hạn chế. Khi người ta xử lý các mẫu DNA

với cùng một enzyme giới hạn nào đó sẽ tạo ra các phân đoạn cắt có kích

thước khác nhau. Các phân đoạn cắt này được coi là các “điểm chỉ” đặc trưng

cho từng loại DNA.

Ví dụ: Nếu chúng ta có hai phân tử DNA gần giống nhau về trình tự

base, dài 1000 bp, ngoại trừ sự đa hình sau: DNA1 có trình tự GGATCC tại vị

trí bắt đầu với base 324, trong khi DNA2 có trình tự GGTTCC đã bị thay thế

bởi GGTTCC cùng vị trí. Khi xử lý mỗi DNA đó với cùng một enzyme giới

hạn BamHI thì điều gì sẽ xảy ra với GGATCC? Kết quả điện di đoạn DNA

chỉ ra một sự khác nhau: với DNA1 cho hai band vạch DNA, trong khi đó

DNA2 chỉ cho một band vạch, BamHI không cắt DNA2 do trình tự GGATCC

đã bị thay thế bởi GGTTCC. Vì vậy band chính khác từ một sự đa hình di

truyền rất nhỏ. Đó gọi là sự đa hình RFLP.

Khác với phương pháp RAPD, phương pháp RFLP phải dùng hai mồi

có những trìn tự nhất định để khuếch đại một phân đoạn DNA nào đó.

15

Page 16: khoá luận phượng2

2.3. Phương pháp AFLP

AFLP là DNA đa hình phân đoạn được khuếch đại do Vos và cộng sự

tìm ra vào năm 1993. Là một kỹ thuật khuếch đại ngẫu nhiên mà thực hiện

trong điều kiện phản ứng PCR nghiêm ngặt. Các mồi thường dài khoảng 17 –

21 nucleotide và có đầu mút giống nhau hoàn toàn. AFLP không bị ảnh hưởng

bởi các thông số khuếch đại (chu kỳ, nhiệt độ, nồng độ khuôn, chu kỳ PCR)

[12].

2.4. Microsatellite

Microsatellite hoặc SSR (Simple Sequênc Repeats) là những trình tự

nucleotide đặc biệt được tạo thành lặp lại nhiều lần từ một phân đoạn

oligonucleotide ngắn, đơn giản, còn gọi là vi vệ tinh hay tiểu vệ tinh. Phương

pháp truy tìm các phân đoạn ADN đơn giản lặp đi lặp lại được gọi là phương

pháp vi vệ tinh.

Bộ gene sinh vật nhân thực có nhiều đoạn ADN lặp lại, các đoạn dài

ngắn khác nhau tuỳ theo từng loài [12]. Các chuỗi lặp lại này thường từ 1- 6

nucleotide. SSR được phát hiện và sử dụng đầu tiên ở người, hiện nay được sử

dụng để lập bản đồ phân tử người, động vật và một số thực vật. SSR cũng

được sử dụng để nghiên cứu đa dạng di truyền ở động vật và thực vật.

Bản chất đa hình của SSR là ở chỗ nó có thể được sinh ra đa hình từ rất

nhiều vùng tương ứng, bao phủ khắp hệ gene và có bản chất đồng trội, dễ

dàng phát hiện bằng PCR.

2.5. Đọc trình tự ADN

Có lẽ kỹ thuật quan trọng nhất có thể có được cho các nhà Sinh học

phân tử là đọc trình tự ADN, mà trong đó các vị trí nucleotide của phân đoạn

ADN được xác định một cách chính xác. Các phương pháp xác định tình tự

16

Page 17: khoá luận phượng2

trở thành nhanh chóng và có hiệu quả từ cuối thập kỷ 70 của thế kỷ trước.

Phân tử ADN đầu tiên được xác định trình tự là hệ gene của bacteriophage

oX174 (5386 bp) được hoàn thành vào năm 1975. Tiếp theo là các đoạn trình

tự của virus SV40 (5243 bp) vào năm 1977 và pBR322 (4363 bp) vào năm

1978. Dần dần đọc trình tự được áp dụng cho các trình tự dài hơn.

Có hai kỹ thuật khác nhau được phát triển đồng thời, phương pháp xác

định trình tự của F. Sanger và A. R. Coulson (Anh) và phương pháp phân huỷ

hóa học của A. Maxam và W. Gilbert (Mỹ). Cả hai phương pháp đều cho

phép đọc trình tự với chiều dài hàng vài kb trong thời gian ngắn nhất.

Trong phân tích đa hình, tiến hóa, người ta thường đọc trình tự những

gene cấu trúc rồi đem so sánh với nhau tìm ra phần trăm đồng dạng và khác

biệt. Phương pháp này có ưu điểm chính xác, nhưng không thực hiện được với

số lượng mẫu lớn trong thời gian ngắn

2.6. Phân tích ADN ty thể

Ty thể là bào quan có kích thước hiển vi phổ biến ở mọi sinh vật, cả vi

sinh vật hiếu khí. Chức năng chủ yếu của ty thể là trung tâm giải phóng năng

lượng của tế bào. Ty thể có đầy đủ các thành phần quan trọng như: ADN,

ARN, ATP và các hệ enzyme, do đó chúng có khả năng tự tổng hợp protein

đặc thù, cùng với lục lạp góp phần qui định tính di truyền của tế bào chất [11].

mtDNA ở dạng chuỗi kép, trần, mạch vòng, kích thước khoảng 15-20

kb, trong đó bao gồm 13 gene mã hóa protein, 22 gene tRNA, 2 gen rRNA và

vùng không mã hóa dài khoảng 1000bp gọi là vùng điều khiển (vùng giàu A-

T ở động vật không xương sống và vùng D-loop ở động vật có xương sống, là

vùng không mã hóa duy nhất với các promoter để tái bản và phiên mã

mtDNA. mtDNA là vật chất di truyền nằm ngoài nhân, di truyền theo dòng

mẹ. Sự đa dạng mtDNA có thể sử dụng rộng rãi trong phân loại phân tử bởi

các đặc tính sau: (1) mtDNA có mặt ở hầu hết trong hệ gene động vật, (2) Tỷ

lệ tiến hoá của chúng nhanh hơn 5-10 lần so với bất kì một gene nhân nào;

17

Page 18: khoá luận phượng2

hơn nữa vùng điều khiển tiến hóa nhanh hơn 5-10 lần so với các vùng khác

của mtDNA. Vì vậy trình tự nucleotide của vùng điều khiển mtDNA là một

công cụ rất hữu hiệu để nghiên cứu mối quan hệ trong và giữa các quần đàn

cùng loài.

18

Page 19: khoá luận phượng2

Phần 2.

NGUYÊN LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

I. NGUYÊN LIỆU

1. Nguyên liệu

Nhông cát : Leiolepis belliana guttata Cuvier

Loài Nhông cát : Leiolepis belliana

Giống : Leiolepis Cuvier

Họ : Agamidae

Phân bộ Thằn lằn : Sauria

Bộ có vảy : Squamata

Lớp Bò sát : Reptilia

- Nhông cát được thu ở Thủy Phù (Hương Thuỷ) và Lộc Hải (Phú Lộc)

- Thừa Thiên Huế.

- Enzym proteinase K (Hãng Sigma, Mỹ)

- ADN chuẩn (Hãng Pharmacia, Thụy Ðiển).

2. Dụng cụ

Để tiến hành xác định các đặc điểm hình thái, tách chiết, điện di và

đánh giá độ tinh sạch của ADN nhông cát L.b.guttata Cuvier, chúng tôi đã sử

dụng các trang thiết bị thể hiện ở bảng 1:

19

Page 20: khoá luận phượng2

Trang thiết bị Công ty sản xuất

Bể ổn nhiệt

Cân phân tích

Hệ thống chớp ảnh gel tự động

Máy đo quang phổ tự động Diode array

spectrophotometer 8452A

Máy li tâm lạnh 5415C

Máy điện di Power Pac 300

Máy soi ADN Mini – Transilluminator

Tủ lạnh sâu - 200C

Tủ lạnh sâu - 700C

Cân

Thước đo mm

Kính lúp, compa

OSI, Đức

Mettler Toledo 10-4g, Thụy

Điển

Pharmacia Biotech, Thụy Điển

Hewlett Packard, Mỹ

Eppendorf, Đức

Bio Rad, Mỹ

Bio Rad, Mỹ

Sanyo, Nhật Bản

Sanyo, Nhật Bản

Bảng 1. Trang thiết bị sử dụng trong nghiên cứu

3. Hóa chất

- Agarose

- Ethanol, phenol, cloroform, isoamyl.

Các hoá chất trên được mua tại các hãng Sigma (Mỹ), Serva (Đức),

Pharmacia (Thụy Điển).

4. Dung dịch và đệm

- Đệm TE, pH 8.0

+ 10 mM Tris – Cl, pH 8.0

20

Page 21: khoá luận phượng2

+ 1 mM EDTA, pH 8.0

- Đệm TAE

+ 40 mM Tris – Cl

+ 2 mM EDTA, pH 8.3

H2O đến 1 lít

- Đệm cắt (Digestion buffer)

+ 100 mM NaCl

+ 10 mM Tris – Cl, pH 8.0

+ 25 mM EDTA, pH 8.0

0,5 % (w/v) SDS

0,1 mg/ml proteinase K

- Đệm tra mẫu (Loading buffer)

0,1 ml bromophenol blue 10%

0,3 ml glycerin 100%

H2O đến 1ml

II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

1. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết

Thu thập và xử lý các tài liệu liên quan đến đề tài.

2. Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm

2.1. Phương pháp thu mẫu

Có nhiều cách để thu mẫu như: bắt bằng bẫy ống, bắt bằng thòng lọng,

bắt bằng lưỡi câu, bắt bằng cách đào hang [4]. Ở đây chúng tôi tiến hành thu

mẫu theo 2 cách chủ yếu:

2.1.1. Bắt bằng cách đào hang

Khi quan sát thấy nhông chui vào hang hoặc quan sát miệng hang đúng

là hang nhông, dùng que tre hoặc cành cây thọc vào hang để khỏi hất dấu

hang rồi dùng cuốc hoặc xẻng để đào.

21

Page 22: khoá luận phượng2

Nhông thường có hang phụ nên trước khi đào phải bít miệng hang này

lại đồng thời thường xuyên theo dõi vì nhông có thể theo vết đào chạy ngược

ra để tẩu thoát.

2.1.2. Bắt bằng cách giăng lưới

Khi quan sát miệng hang đúng là hang nhông thì dùng một miếng lưới

rộng hơn miệng hang để bịt lại và dùng các que cây giữ lưới. Khi đó, nếu

nhông chui ra khỏi hang hoặc chui vào hang đều bị mắc lại ở lưới. Cách này

đơn giản hơn nhưng phải đợi tương đối lâu để bắt nhông.

Mẫu sau khi bắt phải còn sống và được nhốt trong lồng để cân trọng

lượng, đo các tính trạng kích thước của cơ thể và dùng trong thí nghiệm phân

tích DNA . Một điểm thuận lợi là nhông cát có thể không ăn trong nhiều ngày

mà vẫn sống, chỉ cần thỉnh thoảng vẩy nước cho chúng.

2.2. Phương pháp phân tích đặc điểm hình thái

- Dùng cân để cân trọng lượng của mẫu vật.

- Dùng thước và compa để đo các tính trạng: chiều dài thân, chiều dài

đầu, khoảng cách từ mũi đến mõm, từ mắt đến mõm, khoảng cách giữa hai

mắt, giữa hai mũi, khoảng cách từ tai đến mõm, từ mép miệng đến mõm,

chiều dài mắt, chiều rộng đầu, chiều dài đùi, chiều dài ống chân.

- Dùng kính lúp để đếm chính xác số vẩy môi trên, vẩy môi dưới và lỗ

đùi.

- Xử lý các số liệu thu được theo phương pháp thống kê sinh học.

2.3. Phương pháp định lượng ADN bằng quang phổ kế.

* Nguyên tắc:

Dựa vào sự hấp thu mạnh ánh sáng tử ngoại ở bước sóng 260 nm của

các base purine và pyrimidine, người ta sẽ đo được giá trị mật độ quang ở

bước sóng260 nm (OD260nm – Optical Density 260nm) của các mẫu, và cho phép

xác định nồng độ ADN trong mẫu dựa vào tương quan sau: một đơn vị OD-

22

Page 23: khoá luận phượng2

260nm tương ứng với một nồng độ là: 50(g/ml) cho một dung dịch ADN sợi

đôi. Do đó nồng độ ADN trong mẫu được tính theo công thức sau:

CADN (g/ml) = OD260 nm x 50 x Độ pha loãng

Để kiểm tra độ sạch của dung dịch, người ta đo thêm giá trị OD ở 280

nm (OD 280). 280 nm là bước sóng ở đó các protein có mức hấp thụ cao nhất,

nhưng các protein cũng hấp thụ ánh sáng ở bước sóng 260 nm như các nucleic

acid và do đó làm sai lệch giá trị thật của nồng độ nucleic acid. Một dung dịch

nucleic acid được xem là sạch (không tạp nhiễm protein) khi tỉ số OD 260

nm/OD 280 nm nằm trong khoảng 1,8 – 2,0

* Các bước tiến hành:

- Lấy 1 ml dung môi hòa tan ADN (TE pH 8.0 hoặc nước khử ion vô

trùng) cho vào cuvette đo làm đối chứng.

- Cho 5 m1 dung dịch ADN cần định lượng vào 995 m1 dung môi hòa

tan ADN (pha loãng 200 lần). Sau đó cho vào cuvette và đo OD ở bước sóng

260 nm và 280 nm.

- Từ kết quả thu được ta tính nồng độ ADN và độ tinh sạch của ADN

theo công thức trên.

2.4. Phương pháp điện di trên gel agarose

ADN được tách chiết sau phản ứng PCR, sau khi xử lý enzym giới

hạn... đều được phân tích định tính nhờ phương pháp điện di trên gel agarose.

Agarose là một loại polymer tách từ rong biển, được cấu tạo bởi 2 monomer là

D-galactose và 3,6 - anhydro L–galactose. Gel agarose là loại gel thông dụng

nhất do thao tác đơn giản.

* Nguyên tắc:

Nguyên tắc của phương pháp điện di là dựa vào đặc tính cấu trúc của các

ADN. Ðó là các đại phân tử tích điện âm đồng đều trên khắp bề mặt nên khi

chịu tác động của một điện trường có hiệu điện thế và cường độ thích hợp,

chúng sẽ di chuyển về cực dương của điện trường. Các đoạn ADN sẽ di

23

Page 24: khoá luận phượng2

chuyển trong điện trường trên bản gel, với tốc độ tương quan nghịch với kích

thước của chúng. Trong cùng một thời gian nhất định (tùy thí nghiệm) các

đoạn bé sẽ di chuyển xa hơn các đoạn lớn, từ đó mà ADN được tách thành các

vạch trên bản gel.

Việc chọn nồng độ gel tùy thuộc vào kích thước trung bình của các đoạn

ADN cần phân tách. Ðoạn ADN có kích thước càng nhỏ đòi hỏi hàm lượng

agarose trong gel càng lớn và ngược lại. Bảng 2 cho thấy mối tương quan giữa

nồng độ agarose cần sử dụng để phân tách các trình tự ADN có kích thước xác

định.

Hàm lượng agarose trong gel(%w/v)

Kích thước các đoạn ADNcần phân tách (kb)

0,3 5 – 60

0,6 1 -20

0,7 0,8 – 10

0,9 0,5 – 7

1,2 0,4 – 6

1,5 0,2 – 3

2,0 0,1 – 2

Bảng 2. Tương quan giữa nồng độ gel agarose và kích thước đoạn ADN

cần phân tách (Nguồn: Sambrook J. và cộng sự, 1989)

Trong điện di trên gel agarose, các đoạn ADN được hiện hình dưới tia

tử ngoại (UV) nhờ ethimidium bromide (EtBr) có khả năng gắn xen giữa các

base của ADN phát huỳnh quang dưới tác dụng của UV. Sau điện di, gel được

chiếu sáng bằng UV, các đoạn ADN hiện thành vạch đỏ da cam. Để ước

lượng kích thước các trình tự ADN trong gel agarose, người ta dùng “yếu tố

24

Page 25: khoá luận phượng2

đánh dấu trọng lượng phân tử” (molecular weight marker – MWM). Đó là một

tập hợp nhiều trình tự ADN có kích thước đã biết (thang ADN).

* Các bước tiến hành:

- Chuẩn bị gel agarose 0,8 %:

Cho 0,8g agarose vào 100 ml đệm TAE 1X, đem đun trên bếp cách

thuỷ hoặc lò vi sóng cho đến khi agarose tan hoàn toàn. Hạn chế bay hơi nước

khi đun để tránh tăng nồng độ agarose. Nếu quá trình đun mất nước quá nhiều

thì phải thêm nước cho đủ 100ml. Để nguội đến khoảng 60oC thì đổ dung dịch

agarose vào khuôn gel điện di đã cài lược sẵn. Chiều dày gel khoảng 5 mm là

thích hợp. Sau 30 – 40 phút khi gel đã đông cứng thì cho vào máy điện di, đổ

đệm TAE vào ngập khuôn cách mặt gel từ 1 – 2 mm, rồi gỡ lược ra.

- Tra mẫu ADN vào giếng điện di:

+ Mẫu ADN được trộn với đệm tra mẫu (với tỉ lệ 1/10 đệm tra mẫu),

sau đó tra vào giếng nhỏ trên gel.

+ Chạy điện di cùng với ADN chuẩn (Marker) để xác định kích thước

phân tử của ADN.

- Chạy điện di: Cho chạy máy điện di với chương trình: U = 30 – 40V,

I = 60 – 80 mA. Phân tử ADN sẽ di chuyển từ cực âm đến cực dương. Quan

sát sự di chuyển bằng màu bromophenol để biết lúc nào cần ngừng điện di.

- Nhuộm ADN bằng ethimidium bromide (EtBr): Sau khi kết thúc điện

di, bản gel được lấy ra nhẹ nhàng khỏi khuôn và ngâm vào dung dịch EtBr có

nồng độ 0,5 g/ml khoảng 10 – 15 phút trên máy lắc nhẹ. Sau đó lấy bản gel ra

và rửa bằng cách ngâm trong nước sạch 2 lần, mỗi lần 5 – 10 phút.

- Quan sát và chụp ảnh: Bản gel được quan sát dưới ánh sáng tử ngoại

254 nm trên máy soi ADN, sau đó chụp ảnh bằng hệ thống chụp ảnh gel tự

động (Pharmacia Biotech, Thụy Điển).

2.5. Phương pháp tách chiết ADN từ mô động vật

25

Page 26: khoá luận phượng2

Mọi nghiên cứu và ứng dụng sinh học phân tử đều bắt đầu bằng việc

thu nhận một lượng ADN đủ lớn và đủ tinh sạch để tiến hành các thí nghiệm

kế tiếp. Đã có rất nhiều phương pháp được áp dụng để tách chiết ADN từ

nhiều đối tượng khác nhau, mỗi phương pháp đều có những ưu điểm phù hợp

cho từng đối tượng. Vì vậy việc lựa chọn một phương pháp tách chiết ADN

thích hợp nhất cho từng đối tượng và đạt hiệu suất, độ tinh sạch cao nhất để

phục vụ cho những thí nghiệm sau là rất quan trọng.

* Nguyên tắc:

Màng tế bào và màng nhân phải được phá vỡ bằng các biện pháp cơ

học (nghiền, lắc mạnh) và các chất tẩy mạnh (SDS...), ADN genom giải phóng

ra được tách sạch protein nhờ proteinase K và hỗn hợp phenol, chloroform,

izoamyl alcohol. Sau đó ADN genome được tủa bằng ethanol 100% ở 40oC và

thu lại bằng li tâm.

* Các bước tiến hành:

Phương pháp tách chiết ADN từ mô động vật được tiến hành theo

Gross – Bellard và cộng sự, 1972.

- Nghiền 200 mg – 1g mô bằng cồi chày sứ (cối chày sứ phải để lạnh

trước trong tủ lạnh sâu -70oC) cho đến khi thành dạng bột mịn ở điều kiện 4oC

- Hoà tan mẫu trong đệm cắt với tỉ lệ 1,2ml đệm cắt / 100mg mô

- Ủ mẫu, lắc nhẹ trong bể ổn nhiệt ở 50oC từ 12 đến 18 tiếng.

- Sau đó ủ mẫu được tách chiết với dung dịch phenol / chloroform /

izoamyl alcohol theo tỉ lệ 1:1 về thể tích. Lắc mạnh, li tâm 14000 vòng/phút,

10 phút ở 4oC. Hút dịch phía trên chuyển sang Eppendorf mới. Nếu các pha

không phân tách tốt thì ta thêm một thể tích đệm cắt không cần proteinase K

và li tâm lại. Sau đó chiết pha ở trên có chứa ADN sang một Eppendorf mới.

- Thêm vào ½ thể tích muối amonium acetat 7,5 M và 2 thể tích ethanol

100 %. Li tâm 14000 vòng/phút, 2 phút, 4oC để tủa ADN.

- Rửa cặn tủa ADN trong ethanol 70 % để loại bỏ các muối còn dính lại

trên mẫu, hong khô ở nhiệt độ phòng. Sau đó hòa tan lại trong đệm TE hoặc

nước khử ion vô trùng với nồng độ 1mg/ml.

26

Page 27: khoá luận phượng2

2.6. Phương pháp xử lý số liệu

Các kết quả được xử lí theo phương pháp thống kê Sinh học

1. Trung bình cộng mẫu.

=

: Trung bình cộng của mẫu

Xi : Giá trị từng lần nhắc lại

N : Số lần lặp lại

2. Độ lệch chuẩn.

=

3. Hệ số biến động.

Cv% =

4. Sai số thực nghiệm.

m =

5. Độ chính xác của thí nghiệm.

m% =

27

Page 28: khoá luận phượng2

Phần 3

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

I. ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI

1. Đặc điểm hình thái chung

Nhông cát có thân dẹp theo hướng lưng bụng, không có mào lưng,

không có gai trên đầu. Vảy nhỏ, phần lớn hoá sừng. Có một hoặc hai nếp họng

nhỏ nằm ngang. Lỗ đùi làm thành hai dãy ở vùng mu hai bên lỗ huyệt. Đuôi

dày lên ở gốc. Mỗi bàn chân có 5 ngón, các ngón chân dài và có móng nhọn.

Bề rộng và bề dài của mõm gần bằng nhau. Bờ mõm được giới hạn bởi hai

vảy môi và sáu tấm vảy sau mõm. Lỗ mũi mở trực tiếp ra ngoài, trán và vùng

gian ổ mắt đôi khi to; các vảy trên ổ mắt là các vảy chấm rất nhỏ. Màng nhĩ

rộng và nông, đường kính của nó gần bằng chiều dài lỗ mắt. Hai bên cổ có

những nếp da nằm ngang kéo ngang qua phần gáy. Vẩy lưng nhỏ, hoá sừng;

vẩy mặt bụng lớn hơn ở mặt lưng. Mặt lưng của L.belliana guttata Cuvier có

các chấm màu phân ngựa hình lục giác, có bốn sọc dài màu vàng nhạt rộng

trung bình 3 mm: hai sọc chạy từ sau tai đến gốc đuôi, hai sọc chạy từ gốc

chân trước đến gốc chân sau. Mặt bụng màu trắng đục, không có các chấm

màu da cam hai bên thân và không có khả năng bạnh da hai bên sườn.

2. Một số đặc điểm hình thái của nhông cát Leiolepis belliana guttata

Cuvier

Sau khi phân tích các mẫu vật thu ở Thuỷ Phù – Hương Thủy - Thừa

Thiên Huế, chúng tôi đã thu được kết quả thể hiện ở bảng 3:

28

Page 29: khoá luận phượng2

STT Tính trạng

S ố

lượng

mẫu (n)Cv% m m%

1Khối lượng

cơ thể (g)30 38.94 2.13 5.43 0.43 1.1

2Chiều dài

thân (mm)30 79.76 2.02 2.53 0.41 0.52

3Chiều dài

đầu (mm)30 25.24 0.67 2.64 0.14 0.54

4Vẩy môi

trên30 9.4 (8 – 11) 0.173 1.84 0.03 0.37

5Vẩy môi

dưới30 9.68 (8 – 12) 0.19 1.95 0.04 0.39

6 Lỗ đùi 30 19.44 (15-23) 0.41 2.11 0.08 0.43

Bảng 3: Giá trị trung bình của chiều dài thân, chiều dài đầu, khối lượng

cơ thể, số lượng vảy và lỗ đùi của L.b.guttata Cuvier

Qua bảng 3 cho thấy khối lượng cơ thể trung bình là 38.94g (mẫu nhỏ

nhất là 16,10g và lớn nhất là 50g), chiều dài thân trung bình là 79,76 mm (nhỏ

nhất là 58 mm và lớn nhất là 95 mm). Như vậy khối lợng cơ thể trung bình và

chiều dài thân trung bình của các mẫu vật chúng tôi phân tích nhỏ hơn kết quả

nghiên cứu trước đây [4]: khối lượng cơ thể trung bình là 56,0g, chiều dài

thân trung bình là 120,83 mm. Sai khác này có thể là do chúng tôi thu mẫu

vào giai đoạn sớm hơn trong quá trình sinh trưởng của nhông cát, vì vậy mà

cơ thể của chúng chưa đạt kích thước tối đa.

Số lượng vảy môi trên, vảy môi dưới và lỗ đùi của các mẫu đem phân

tích là: vảy môi trên trung bình là 9,40 (8 – 11), vảy môi dưới trung bình là

9,68 (8 – 12), lỗ đùi là 19,44 (15 – 23). Như vậy, kết quả nghiên cứu này phù

29

Page 30: khoá luận phượng2

hợp với kết quả nghiên cứu của tác giả Ngô Đắc Chứng (1991) [4]: vảy môi

trên trung bình 9,33 (9 – 10), số vảy môi dưới trung bình là 10,00 (10 – 12), lỗ

đùi trung bình 21,60 (20 – 23).

Tần số gặp lỗ đùi, vảy môi trên và vảy môi dưới của các mẫu vật được

trình bày thông qua bảng 4:

Lỗ đùi

Số lượng 15 16 17 18 19 20 21 22 23 Tổng

Tần số 1 2 2 5 3 6 7 3 1 30

Tần suất(%)

3,33 6,67 6,67 16,67 10 20 23,33 10 3,33 100

Vảy môi trên

Số lượng 8 9 10 11

Tần số 5 8 14 3 30

Tần suất(%)

16,67 26,67 46,66 10 100

Vảy môi dưới

Số lượng 8 9 10 11 12

Tần số 3 10 10 5 2 30

Tần suất(%)

10 33,33 33,33 16,67 6,67 100

Bảng 4: Tần số gặp lỗ đùi, vảy môi trên, vảy môi dưới của nhông cát

L.b.guttata Cuvier

30

Page 31: khoá luận phượng2

Qua bảng 4 ta thấy số lỗ đùi dao động từ 15 – 23, trong đó tần số gặp

cao nhất là 21 lỗ. Như vậy kết quả của chúng tôi có khác so với kết quả

nghiên cứu trước đây [4]: số lỗ đùi dao động từ 20 – 23 lỗ. Sự khác nhau về số

lượng lỗ đùi giữa các cá thể là tương đối lớn, cho ta thấy tính đa hình của loài

nhông cát này.

Số vảy môi trên dao động từ 8 – 11, trong đó tần số bắt gặp cao nhất

là 10 lỗ; Số vảy môi dưới dao động từ 8 – 12, trong đó tần số bắt gặp cao nhất

là 10 lỗ. Như vậy ta thấy số lượng vảy của nhông cát L.b.guttata Cuvier cũng

biến thiên tương đối đa dạng.

3. Tính trạng kích thước khác

Các tính trạng kích thước cơ thể của nhông cát được đem tính % so với

chiều dài thân và chiều dài đầu. Kết quả được trình bày ở bảng 5:

31

Page 32: khoá luận phượng2

STT Tính trạng

Số

lượng

mẫu

Cv% m m%

1 Mũi – mõm / dài đầu 30 18.86 1.98 10.50 0.40 2.12

2 Mắt – mõm / dài đầu 30 69.92 5.47 7.82 1.12 1.60

3 Mắt / dài đầu 30 24.61 3.07 1.56 0.63 2.56

4 Rộng đầu / dài đầu 30 77.52 5.29 6.82 1.80 1.39

5 Mắt – mắt / dài đầu 30 55.43 3.13 5.65 0.64 1.15

6 Mũi – mũi / dài đầu 30 21.74 2.59 11.91 0.54 2.48

7 Tai – mõm / dài đầu 30 91.02 4.58 5.03 0.93 1.02

8 Mép miệng – mõm / dài đầu 30 67.28 6.73 10.00 1.37 2.04

9 Dài đầu / dài thân 30 31.40 2.29 7.29 0.47 1.50

10 Dài đùi / dài thân 30 23.88 2.62 10.97 0.53 2.22

11 Dài ống / dài thân 30 26.44 3.24 12.25 0.66 2.50

Bảng 5: Tỉ lệ % giữa các tính trạng kích thước so với chiều dài đầu và

chiều dài thân của L.b.guttata Cuvier

Qua bảng trên cho thấy tỷ lệ % kích thước so với chiều dài đầu và

chiều dài thân giữa các cá thể khác nhau không chênh lệch nhiều, chỉ có tỷ lệ

% của khoảng cách mắt – mõm / dài đầu, rộng đầu / dài đầu, tai – mõm /dài

đầu, mép miệng – mõm / dài đầu là có sự chênh lệch lớn.

32

Page 33: khoá luận phượng2

II. PHÂN TÍCH ĐỊNH TÍNH VÀ ĐỊNH LƯỢNG ADN MÔ NHÔNG CÁT1. Tách chiết ADN

ADN mô nhông cát được tách chiết theo phương pháp của Gross-

Bellard và cộng sự như đã mô tả ở phần phương pháp. Nguyên liệu sử dụng

để tách là các mẫu đuôi, gan, và cơ của nhông cát.

Quá trình tách chiết ADN cơ bản gồm 3 bước:

- Bước 1: Phá màng tế bào và màng nhân.

- Bước 2: Loại bỏ các thành phần không mong muốn trong mẫu, chủ yếu

là các protein.

- Bước 3: Kết tủa ADN và thu nhận sản phẩm .

Mối quan tâm hàng đầu của các kỹ thuật tách chiết ADN là thu nhận các

phân tử này ở trạng thái nguyên vẹn tối đa không bị phân hủy bởi các tác nhân

cơ học (phân tử bị gẫy do nghiền, lắc mạnh) hay hóa học (phân tử bị cắt bởi

enzym nội bào giải phóng ra môi trường khi tế bào bị phá vỡ). Các ADN cần

được tách chiết trong điều kiện nhiệt độ thấp để ức chế hoạt động của các

enzym nội bào (deoxyribonuclease, ribonuclease). Ðể đảm bảo điều kiện này,

trước khi nghiền mẫu phải để lạnh cối, chày sứ trong tủ lạnh - 70oC. Sau khi

nghiền mẫu, tế bào được hòa trong dung dịch đệm có chứa chất tẩy SDS và

proteinase K. Hỗn hợp dung dịch đệm này sẽ phá hủy các protein liên kết với

ADN. Ðể loại bỏ protein trong mẫu chúng tôi sử dụng phenol / chloroform/

isoamyl alcohol.

Cuối cùng ADN được thu nhận bằng cách tủa trong ethanol 100% (2,5

thể tích ethanol/ 1 thể tích mẫu), để ở -20ºC. Với nồng độ ethanol cao và nhiệt

độ thấp hầu như toàn bộ ADN đều tủa.

2. Điện di ADN

Sau khi tách được ADN, chúng tôi tiến hành điện di kiểm tra trên gel

agarose 0,8%.

33

Page 34: khoá luận phượng2

Sau khi nhuộm bằng EtBr, các vạch trong gel agarose phát quang dưới

tia tử ngoại (UV). Kết quả điện di được thể hiện trên hình 1

bp

1221681447126

M 1 2 3 4 5 6

Hình 1: Ðiện di đồ chế phẩm ADN tách chiết được từ đuôi, cơ và gan

nhông cát L.b. guttata Cuvier

M (Marker): Thang ADN chuẩn1;4: ADN đuôi2;5: ADN gan3;6: ADN cơ

Kết quả cho thấy các phân tử ADN mô nhông cát (đuôi, cơ, gan) có phân

tử lượng lớn, tập trung thành một băng chính.Và ta thấy các phân tử ADN

tách chiết từ các loại mô của nhông cát L.b.guttata Cuvier đều có kích thước

lớn hơn 12216 bp.

3. Đánh giá độ tinh sạch và hàm lượng của chế phẩm ADN

Sau khi điện di kiểm tra trên gel agarose, chúng tôi tiến hành đánh giá độ

tinh sạch và hàm lượng của chế phẩm ADN bằng máy đo quang phổ 8425A

(Hewlet Packard, Mỹ): Các chế phẩm ADN được kiểm tra ở các bước sóng

260nm và 280nm. Kết quả được thể hiện ở hình 2, bảng 6 và bảng 7

34

Page 35: khoá luận phượng2

Hình 2: Phổ hấp thụ tử ngoại của chế phẩm ADN tách chiết từ đuôi, cơ

và gan nhông cát L.b.guttata Cuvier

1. ADN đuôi2. ADN gan3. ADN cơ

* Các kết quả bước sóng: thể hiện ở bảng 6:

260 nm 280 nm

1. ADN đuôi 0,04121 0,02209

2.ADN gan 0,08969 0,04961

3. ADN cơ 0,07610 0,04187

Bảng 6: Phổ hấp thụ tử ngoại của ADN tách chiết từ đuôi, cơ, gan của

nhông cát L. b.guttata Cuvier ở các bước sóng 260 nm và 280 nm.

35

Bước sóngMẫu

0

1

0,2

0,3

0,5

0,4

0,6

200 300 400 500 600

Độ dài bước sóng (nm)

Độ hấp thụ AU

23

0,1

Page 36: khoá luận phượng2

Qua hình và bảng cho thấy phổ hấp thụ tử ngoại của các chế phẩm

ADN đều có đỉnh cực đại ở bước sóng 260nm.

Kết quả định lượng ADN bằng phương pháp đo quang phổ được trình

bày ở bảng 7:

Mẫu

Số mẫu tách ADN

Nồng độ

ADN (g/ml)

Tỉ số

OD260nm/OD280nm

Hàm lượng ADN

(μg/mg mô)

Ðuôi

Gan

15

15

15

412,1

896,9

761,0

1,865

1,807

1,817

0,50

0,91

0,76

Bảng 7: Kết quả định lượng ADN trong mẫu tách chiết được từ đuôi, cơ

và gan nhông cát L.b.guttata Cuvier bằng phương pháp đo

quang phổ

Qua kết quả trên ta thấy ADN tách chiết được từ gan có nồng độ và

hàm lượng cao nhất (896,9 và 0,91 (g/ml)) đồng thời độ tinh sạch cũng cao

nhất (tỉ số OD260nm/OD280nm là 1,807); Tiếp theo là ADN tách chiết từ cơ: nồng

độ ADN là 761, 00 (g/ml), hàm lượng ADN là 0,76 (g/ml), tỉ số

OD260nm/OD280nm là 1,817; Cuối cùng là ADN tách chiết từ đuôi: nồng độ ADN

là 412,1 (g/ml), hàm lượng ADN là 0,50 (g/ml), tỉ số OD260nm/OD280nm là

1,865. Như vậy, ADN tách chiết được từ gan có chất lượng tốt nhất. Tuy

nhiên, chế phẩm ADN tách chiết được từ ba loại mô của nhông cát

L.b.guttata Cuvier đều có chất lượng tốt (Tỉ số OD260nm/OD280nm nằm trong

khoảng 1,8 – 2,0) [6] đảm bảo cho những nghiên cứu tiếp theo.

36

Page 37: khoá luận phượng2

Phần 4

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

I. KẾT LUẬN

Qua nghiên cứu đề tài “Góp phần nghiên cứu tính đa hình của nhông

cát Leiolepis belliana guttata Cuvier”, chúng tôi rút ra một số kết luận sau:

- Nhông cát L.b.guttata Cuvier có khối lượng cơ thể trung bình là 38,94

g, chiều dài thân trung bình là 79,76 mm

- Số lượng lỗ đùi là 15 - 23, vảy môi trên là 8 - 11, vảy môi dưới là 8 -

12.

- Tỷ lệ % kích thước so với chiều dài đầu và chiều dài thân giữa các cá

thể khác nhau không chênh lệch nhiều, tỷ lệ % của khoảng cách mắt – mõm /

dài đầu, rộng đầu / dài đầu, tai – mõm /dài đầu, mép miệng – mõm / dài đầu là

có sự chênh lệch lớn.

- Sai khác về số lượng lỗ đùi, vảy môi trên, vảy môi dưới giữa các cá

thể khác nhau trong một quần đàn cho thấy nhông cát L.b.guttata Cuvier có

tính đa hình cao.

- Đã tách chiết và tinh sạch ADN tổng số của nhông cát L.b.guttata

Cuvier.

- Chế phẩm ADN tách chiết được từ các mô của nhông cát (đuôi, cơ,

gan) theo phương pháp của Gross – Bellard và cộng sự đều có chất lượng tốt

đảm bảo cho những nghiên cứu tiếp theo.

II. ĐỀ NGHỊ

Trong phạm vi của một đề tài khóa luận tốt nghiệp, chúng tôi không có

đủ điều kiện sử dụng các chỉ thị phân tử ADN như RAPD, RFLP, AFLP để

37

Page 38: khoá luận phượng2

phân tích tính đa hình của nhông cát Leiolep is belliana guttata Cuvier. Vì vậy

tôi xin đề nghị:

- Kéo dài thời gian nghiên cứu đặc điểm hình thái để thu được mẫu vào

những thời điểm khác nhau trong năm.

- Nghiên cứu thêm một số tính trạng khác để thấy rõ tính đa hình.

- Tiếp tục nghiên cứu ở mức độ phân tử, phân tích ADN để thấy tính đa

hình của loài.

- Phân tích ADN của cả hai loài nhông hiện có ở Thừa Thiên Huế để

củng cố giả thuyết chúng thuộc hai loài hay một loài.

38

Page 39: khoá luận phượng2

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đinh Thị Phương Anh, 2005. Bước đầu nghiên cứu tính đa dạng di truyền

thạch sùng vùng núi Bà Nà bằng kỹ thuật PCR – RAPD. Báo cáo khoa học,

Hội nghị Khoa học toàn quốc, công nghệ sinh học trong nghiên cơ bản, Hà

Nội: 72 – 75.

2. Nguyễn Thị Bảy, 2004. Sử dụng các chỉ thị phân tử để phân tích tính đa

hình của các quần đần cá Tra nuôi (Pangasius Hypophthalmus) ở Việt Nam.

Luận văn thạc sĩ khoa học Sinh học, Hà Nội.

3. Nguyễn Thị Thanh Bình, et al. 2005. Nghiên cứu đa dạng phân tử của các

giống tằm sử dụng trong sản xuất bằng kỹ thuật PCR – RAPD. Báo cáo Khoa

học, Hội nghị Khoa học toàn quốc, Công nghệ sinh học trong nghiên cứu cơ

bản, Hà Nội: 76 – 79.

4. Ngô Đắc Chứng, 1991. Nghiên cứu đực điểm hình thái và sinh thái của

nhông cát Leiolepis belliana ở Thừa Thiên Huế. Luận án phó tiến sĩ khoa học

Sinh học.

5. Trần Quốc Dung, 2001. Nghiên cứu chuyển gen hormone sinh trưởng

người vào cá chạch Misgurnus anguillicaudatus bằng vi tiêm. Luận án Tiến

sĩ Sinh học, Hà nội.

6. Hồ Huỳnh Thuỳ Dương, 1997. Sinh học phân tử. Nxb Giáo dục: 122 – 134.

7. Trịnh Đình Đạt, 1994. Cơ sở di truyền chọn giống động vật. Giáo trình cao

học, Nxb Nông nghiệp: 145 – 149.

8. Phạm Thành Hổ, 2004. Di truyền học. Nxb Giáo dục: 405 – 408.

39

Page 40: khoá luận phượng2

9. Trần Thị Mai Hường, 2006. Nghiên cứu đặc điểm sinh học, sinh thái và

nuôi thử nghiệm Rồng đất (Physignathus cocincinus Cuvier, 1829) ở Nam

Đông - Thừa Thiên Huế. Luận văn thạc sĩ Sinh học, Huế.

10. Phan Cự Nhân, 2001. Di truyền học động vật, Nxb Khoa học Kỹ thuật:

128 – 132; 148 – 151.

11. Phan Cự Nhân, Trần Bá Hoành, Lê Quang Long, Phạm Đình Thái, Hoàng

Thị Sản, Mai Đình Yên, 1997. Sinh học đại cương, tập 1. Nxb Đại học Quốc

gia Hà Nội: 330 – 336.

12. Khuất Hữu Thanh, 2002. Một số phương pháp ứng dụng PCR trong phân

loại phân tử xác định tính đa dạng di truyền của sinh vật. Tập bài giảng trường

ĐHBK Hà Nội. Lưu hành nội bộ.

13. Quyền Đình Thi, et al. 2003. Sử dụng microsarosatell, mtRFLP và RAPD

để phân tích đa hình tôm sú (Panaeus monodon). Tạp chí Công nghệ sinh học

1930: 287 – 298.

14. Quyền Đình Thi, et al. 2004. Sử dụng các chỉ thị phân tử RAPD và

mtDNA – RFLP để phân tích đa hình các quần đàn cá tra (Pangasius

hypophthalmus) nuôi ở Việt Nam. Tuyển tập hội thảo toàn quốc về nghiên

cứu và ứng dụng khoa học công nghệ trong nuôi trồng thủy sản, Vũng Tàu:

919 – 941.

40

Page 41: khoá luận phượng2

PHỤ LỤC

I. NHÔNG CÁT Leiolepis belliana guttata Cuvier

41

Page 42: khoá luận phượng2

II. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI CỦA NHÔNG CÁT

Mẫu

Khối

lượng (g)

Dài

thân

(mm)

Dài

đầu

(mm)

Rộng

đầu

(mm)

Dài

mắt

(mm)

Vảy

môi

trên

Vảy

môi

dưới

Lỗ

đùi

1 47 90 27 20 9,00 10 11 21

2 46 94 26 21 6,50 10 10 19

3 47,50 95 26 21,5 7,00 8 8 16

4 27,05 73 22 18 6,00 10 11 17

5 16,10 68 20 15 5,00 9 10 15

6 46,60 93 28 20 6,0 10 10 21

7 16,80 65 20 17 6,00 10 10 18

8 43,90 79 25 2 7,00 11 9 23

9 45,50 84 28 20 6,00 10 8 20

10 43 82 27 19 6,00 1 8 21

11 19 58 22 15 5,00 10 9 19

12 24,40 80 26 19 6,00 9 10 18

13 50 90 28 20 7,00 8 9 22

14 47,60 85 27 22 6,50 10 10 22

15 49,10 86 27 22 6,00 10 9 16

16 33,10 70 23 18 6,00 9 9 21

17 42,80 82 28 21 6,00 9 10 21

18 46 89 26 20 6,00 9 10 20

19 47 90 26 21 7,00 9 12 20

20 26 70 21 17 5,00 8 10 18

21 35,50 72 23 19 6,00 10 10 20

22 40 75 24 18 5,00 10 11 21

23 30,50 68 22 18 5,00 8 9 18

24 45 83 28 20 6,00 10 11 20

42

Page 43: khoá luận phượng2

25 37 73 23 20 6,00 8 9 19

26 38,50 75 24 20 6,00 9 9 20

27 42 80 25 21 6,50 10 9 21

28 35 70 21 18 5,00 10 10 18

29 39,30 75 25 19 5,50 11 9 20

30 43,20 80 27 21 6,00 9 12 22

Mẫu

Mũi –

mõm

(mm)

Mắt –

mõm

(mm)

Mắt -

mắt

(mm)

Mũi –

mũi

(mm)

Tai –

mõm

(mm)

Mép miệng

- mõm

(mm)

Dài

đùi

(mm)

Dài

ống

(mm)

1 6,00 19 15 7,00 25 19 17 18

2 5,00 17 15 6,00 24 18 16 17

3 5,50 18,50 15 6,00 25 17,50 21 22

4 4,00 15 12 4,00 20 14 18 20

5 3,50 14 12 3,00 18,50 14 15 18

6 6,00 17 14,50 6,00 23 19 22 22

7 3,00 14 11 4,00 19 13 16 18

8 5,00 18 15 6,00 21 17 20 21

9 5,00 18 15 6,00 24 18 20 25

10 5,00 18 15 5,00 24 18 18 21

11 4,00 15 10 5,00 19 14 13 18

12 5,00 18 15 5,50 25 17 22 22

13 5,00 19 14 6,00 25 16 19 22

14 5,00 18 15 6,00 24 15 21 23

15 4,00 19 15 6,00 24 17 20 22

16 4,00 17 12 5,00 21 18 18 20

17 6,00 17 14 6,00 24 17 20 22

18 5,00 19 14 7,00 25 18 21 21

19 6,00 19 15 7,00 25 19 21 22

43

Page 44: khoá luận phượng2

20 4,00 14 12 4,00 20 14 18 19

21 4,00 18 13 5,00 22 18 20 21

22 4,50 18 14 5,50 23 18 18 23

23 4,00 15 12 4,50 20 16 19 22

24 5,00 18 14 6,00 24 18 20 23

25 4,50 19 14 5,00 22 18 21 22

26 4,50 17 13 5,00 23 17 18 19

27 5,50 19 15 6,00 24 18 20 22

28 4,50 17 13 5,00 21 18 19 20

29 5,00 18 14 5,50 22 19 18 21

30 6,00 19 15 6,00 23 17 20 21

44

Page 45: khoá luận phượng2

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU......................................................................................................1

I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI...............................................................................1

II. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU.........................................3

1. Mục tiêu.....................................................................................................3

2. Nhiệm vụ...................................................................................................3

Phần 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.....................................4

I. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU NHÔNG CÁT.................................................4

1. Trên thế giới..............................................................................................4

2. Ở Việt Nam...............................................................................................6

II. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở MỨC ĐỘ PHÂN TỬ..........................10

1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước...........................................................10

2. Tình hình nghiên cứu trong nước ...........................................................11

III. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU TÍNH ĐA HÌNH...................12

1. Phương pháp isoenzyme cổ điển............................................................ 12

2. Các phương pháp sử dụng chỉ thị phân tử AND.....................................13

2.1. Phương pháp RAPD.............................................................................13

2.2. Phương pháp RFLP..............................................................................14

2.3. Phương pháp AFLP..............................................................................16

2.4. Microsatellite.......................................................................................16

2.5. Đọc trình tự AND.................................................................................16

2.6. Phân tích ADN ty thể............................................................................17

Phần 2: NGUYÊN LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU..........19

I. NGUYÊN LIỆU.......................................................................................19

1. Nguyên liệu ............................................................................................19

2. Dụng cụ...................................................................................................19

3. Hóa chất...................................................................................................20

45

Page 46: khoá luận phượng2

4. Dung dịch và đệm...................................................................................20

II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU..........................................................21

1. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết..........................................................21

2. Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm....................................................21

2.1. Phương pháp thu mẫu..........................................................................21

2.2. Phương pháp phân tích đặc điểm hình thái.........................................22

2.3. Phương pháp định lượng ADN bằng quang phổ kế............................22

2.4. Phương pháp điện di trên gel agarose.................................................23

2.5. Phương pháp tách chiết ADN từ mô động vật..........................................25

2.6. Phương pháp xử lý số liệu........................................................................27

Phần 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU............................................................28

I. ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI........................................................................28

1. Đặc điểm hình thái chung........................................................................28

2. Một số đặc điểm hình thái của nhông cát Leiolepis belliana guttata

Cuvier..........................................................................................................28

3. Tính trạng kích thước khác.....................................................................31

II. PHÂN TÍCH ĐỊNH TÍNH VÀ ĐỊNH LƯỢNG ADN MÔ NHÔNG

CÁT.............................................................................................................33

1. Tách chiết AND......................................................................................33

2. Điện di AND...........................................................................................33

3. Đánh giá độ tinh sạch và hàm lượng của chế phẩm ADN ....................34

Phần 4: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ............................................................37

I. KẾT LUẬN..............................................................................................37

II. ĐỀ NGHỊ................................................................................................38

TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................39

PHỤ LỤC....................................................................................................41

46