kn tẬp ĐỌc lớp 2
TRANSCRIPT
Một số kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 2A1 Trường Tiểu học Thúy Lĩnh GV: Trần Bích Thảo
MỤC LỤCNội dung Trang
A. PHẦN MỞ ĐẦU 2
I. LY DO CHON ĐÊ TAI: 2
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: 4
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: 4
IV. ĐỐI TƯỢNG KHẢO SÁT, THỰC NGHIỆM: 4
V. PHẠM VI VA KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU: 4
VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 4
B. NỘI DUNG 5
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐÊ VÊ CƠ SỞ LY LUẬN, CƠ SỞ THỰC TIỄN: 5
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN: 5
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN: 11
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VẤN ĐÊ NGHIÊN CỨU 16
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CỤ THỂ 18
Biện pháp thứ nhất: Khảo sát phân loại học sinh qua từng giai đoạn: 18
Biện pháp thứ hai: Chuẩn bị chu đáo cho giờ học 19
Biện pháp thứ ba: Giáo viên cân đọc mâu diễn cảm: 20
Biện pháp thứ tư: Cách hương dân học sinh tim hiêu nghia cua từ, ngư: 23
Biện pháp thứ năm: Ren ky năng đọc ngăt, nghỉ giọng đúng chỗ cho học sinh: 25
Biện pháp thứ sáu: Sư dung linh hoạt tro chơi học tâp: 27
CHƯƠNG IV: KẾT QUẢ 30
C. KẾT LUẬN 31
I. BAI HOC KINH NGHIỆM: 32
II. ĐÊ XUẤT – KHUYẾN NGHỊ: 33
PHỤ LỤC: MỘT SỐ GIÁO ÁN MINH HOA 35
TAI LIỆU THAM KHẢO 41
1
Một số kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 2A1 Trường Tiểu học Thúy Lĩnh GV: Trần Bích Thảo
A. PHẦN MỞ ĐẦUI. LY DO CHON ĐÊ TAI:
1. Cơ sơ ky luân
Giáo dục Tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát
triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, góp
phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bước đầu xây dựng tư
cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học Trung học cơ sở.
Trong chương trình tiểu học môn Tiếng Việt giữ một vị trí đăc biệt quan trọng. Đó là
môn học có chức năng “kep” (vưa là môn công cụ, vưa là môn khoa học). Mục tiêu của
môn Tiếng Việt ở trường tiểu học nhằm: Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử
dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt
động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy và học Tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác
của tư duy. Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và những hiểu
biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hóa, văn học của Việt Nam và nước
ngoài. Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu
đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.”
Tập đọc là một phân môn có vị trí hết sức quan trọng trong môn tiếng Việt nhất là
trong giai đoạn bùng nổ thông tin hiện nay. Đọc thông viết thạo là một yêu cầu đăt ra với
bất cứ học sinh tiểu học nào, ngay tư những ngày đầu tiên đến trường các em đã phải học
đọc măc dù ở giai đoạn này việc đọc của các em mới chỉ dưng lại ở mức độ nhận diện kí
hiệu chữ viết và giải mã bằng âm thanh song đây là một giai đoạn rất quan trọng bởi đó là
giai đoạn học sinh phải học để đọc và làm nền tảng cho những giai đoạn tiếp theo, giai
đoạn đọc để học. Càng về sau yêu cầu đăt ra trong việc đọc càng được nâng cao, tư việc
đọc để hiểu được nội dung văn bản đến việc phát triển kĩ năng đọc diễn cảm. Dạy học tập
đọc ở Tiểu học là một việc làm hết sức có ý nghĩa trong việc hình thành và phát triển kĩ
năng đọc cho học sinh, nó khẳng định sự cần thiết cho việc hình thành và phát triển một
cách có hệ thống và có kế hoạch năng lực đọc cho học sinh.Thông qua phân môn Tập đọc 2
Một số kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 2A1 Trường Tiểu học Thúy Lĩnh GV: Trần Bích Thảo
mà trau dồi vốn Tiếng Việt, vốn học văn và phát triển tư duy, mở rộng vốn hiểu biết của
học sinh về cuộc sống. Bồi dưỡng tư tưởng tình cảm trong sáng, yêu cái đẹp, cái thiện, có
thái độ ứng xử tốt trong cuộc sống, yêu tiếng Việt. Bên cạnh đó theo quan điểm tích hợp
các bài tập đọc con có nhiệm vụ cung cấp ngữ liệu để hình thành và phát triển các ky năng
khác được quy định trong chương trình. Các bài tập đọc đã trở thành nguyên liệu để các
phân môn khác như: Tập làm văn – Kể chuyện – Luyện tư và câu khai thác. Chính vì vậy
việc dạy phân môn Tập đọc chiếm một vị trí hết sức quan trọng. Nó làm nong cốt xuyên
suốt toàn bộ chương trình Tiểu học nói chung và môn Tiếng Việt nói riêng.
2. Cơ cơ thưc tiễn:
Tư nhiều năm nay Bộ giáo dục và đào tạo đã liên tục chỉ đạo đổi mới phương pháp song
sự chuyển biến trong phương pháp dạy học của giáo viên đang con chậm. Kiểu dạy học
thuyết giảng đã trở thành nếp nghĩ, nếp làm của nhiều giáo viên trong nhà trường. Thực
hiện dạy Tập đọc theo phương pháp mới đoi hoi giáo viên phải tư bo một số thói quen
không thích hợp như: Tham giảng bài, nói dài dong. Ngại sử dụng phương tiện dạy học,
bệnh nói nhiều, dàn trải. Trong thực tế giảng dạy việc tổ chức cho học sinh đọc tư, đọc câu,
đọc đoạn là rất phù hợp với lớp 2, 3. Tuy nhiên do giáo viên thiếu linh hoạt trong quá trình
giảng dạy, ky năng đọc của học sinh con chậm. Việc luyện đọc tư khó – giảng tư của giáo
viên con nhiều bất cập, nên giờ học đã kết thúc mà có khi học sinh chưa được tìm hiểu cái
hay, cái đẹp, cái dí dom trong nội dung bài tập đọc hoăc giáo viên tham nói, tham giảng tư
dài dong mà học sinh không được luyện đọc bài. Được trực tiếp giảng dạy và qua dự giờ
đồng nghiệp tôi nhận thấy tình trạng này diễn ra không phải là ít. Người giáo viên cần làm
gì? Làm như thế nào? để tiết học nhẹ nhàng, đem lại hiệu quả cao trong giảng dạy Tập đọc
là điều tôi con băn khoăn, trăn trở. Thông qua giảng dạy tôi đã tìm toi, học hoi kinh nghiệm
đồng nghiệp và một phần những việc làm mà bản thân đã khám phá ra trong giảng dạy với
một mong muốn tìm ra các biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 2 để nâng cao hiệu quả giờ
tập đọc. Đây chính là lí do khiến tôi chọn đề tài “Một số kinh nghiệm trong việc ren đọc
cho học sinh lơp 2” để nghiên cứu trong năm học này.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: 3
Một số kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 2A1 Trường Tiểu học Thúy Lĩnh GV: Trần Bích Thảo
- Qua đề tài này, tôi muốn góp phần nho vào việc nâng cao chất lượng dạy học môn Tập
đọc, để tìm ra phương pháp giúp giáo viên rèn luyện cho học sinh lớp 2 đọc tốt hơn,
qua đó tưng bước nâng cao năng lực đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm của mỗi học sinh.
- Tìm hiểu yêu cầu nhiệm vụ và thực trạng dạy học của phân môn Tập đọc ở lớp 2.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
- Chương trình môn Tập đọc lớp 2.
- Phương pháp dạy Tập đọc lớp 2.
IV. ĐỐI TƯỢNG KHẢO SÁT, THỰC NGHIỆM:
- Học sinh lớp 2A1 và học sinh khối 2 – Trường Tiểu học Thúy Lĩnh, Quận Hoàng
Mai, Hà Nội.
V. PHẠM VI VA KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU:
- Tôi nghiên cứu đề tài này tư tháng 9/2013 đến tháng 5 năm 2014 tại Trường Tiểu học
Thúy Lĩnh
VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
1. Nghiên cứu tài liệu: Đọc tài liệu và sách tham khảo.
2. Khảo sát thực tế: - Dự giờ thăm lớp.
- Khảo sát tình hình thực tế.
3. So sánh đối chiếu.
4. Phương pháp thực hành.
B. NỘI DUNG CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐÊ VÊ CƠ SỞ LY LUẬN, CƠ SỞ THỰC TIỄN:
4
Một số kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 2A1 Trường Tiểu học Thúy Lĩnh GV: Trần Bích Thảo
I. CƠ SỞ LY LUẬN:
1. Môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học
Tiếng Việt ở Tiểu học là một môn học độc lập. Nhiệm vụ chủ yếu của bộ môn Tiếng
Việt ở Tiểu học là cung cấp cho học sinh những hiểu biết sơ giản về Tiếng Việt để trên cơ
sở đó, các em có khả năng sử dụng một cách hiệu quả Tiếng Việt trong hoạt động học tập
và sinh hoạt, đồng thời giúp các em rèn luyện và phát triển tư duy. Hay nói cách khác, qua
việc học Tiếng Việt, các em học sinh Tiểu học một măt vưa lĩnh hội được kiến thức về
ngôn ngữ ở mức độ sơ giản, hình thành được năng lực và biết cách tổ chức giao tiếp bằng
Tiếng Việt, măt khác giúp các em hình thành được năng lực tư duy, hình thành được nhân
cách của mình. Các em biết tiếp nhận lời người khác, biết tạo ra lời nói riêng của mình vưa
đúng với quy tắc ngôn ngữ, phù hợp với quy luật của tư duy, vưa phù hợp với hoàn cảnh,
đáp ứng được nhu cầu giao tiếp. Đó là cơ sở để các em không chỉ học tốt môn Tiếng Việt
mà con học tốt tất cả các môn học khác trong nhà trường. Nhờ học Tiếng Việt mà tư duy
của các em phát triển, các em sẽ có được những nhận thức tư đơn giản đến phức tạp, tư
hình thức sang bản chất… và tư đó, những vấn đề về thế giới quan, nhân sinh quan của các
em cũng dần dần được hình thành.
Hiện nay, một trong những quan điểm mới của việc biên soạn chương trình và Sách
giáo khoa Tiếng Việt là quan điểm tích hợp. Vì vậy, bên cạnh những nhiệm vụ chính nêu
trên, môn Tiếng Việt con giúp các em hiểu được đời sống xã hội, hiểu được phong tục tập
quán cũng như lối sống của người Việt Nam, hiểu được truyền thống của cha ông, biết tôn
sư trọng đạo, biết bảo vệ môi trường sống… qua những bài tập đọc, qua những bài làm văn
hoăc qua những câu chữ dẫn ra như một ngữ liệu trong những bài tìm hiểu về Tiếng Việt.
Tuy không phải là nhiệm vụ chính, nhưng theo tinh thần tích hợp thì điều này là không thể
không chú ý cả trong biên soạn chương trình, Sách giáo khoa lẫn trong việc lựa chọn nội dung
dạy học trên lớp.
2. Vị trí, tính chất, nhiệm vụ của phân môn Tập đọc
2.1. Vị trí của phân môn Tập đọc
5
Một số kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 2A1 Trường Tiểu học Thúy Lĩnh GV: Trần Bích Thảo
Tập đọc là môn học có vị trí quan trọng ở Tiểu học. Tập đọc là môn học khởi đầu
(được học sớm nhất ở Tiểu học, nối tiếp với học âm, vần). Tập đọc giúp học sinh có một
công cụ, một phương tiện quan trọng để học tốt các môn học khác, để chiếm lĩnh kho tàng
tri thức văn hoá của nhân loại được tàng trữ trong sách vở.
2.2. Tính chất của môn Tập đọc
Tập đọc có tính chất thực hành. Khi dạy Tập đọc, giáo viên phải coi trọng việc luyện
đọc cho học sinh bằng nhiều hình thức khác nhau, thời gian giảng bài của giáo viên chỉ
chiếm một tỉ lệ nho trong tiết học.
2.3. Nhiệm vụ của phân môn Tập đọc
* Rèn kĩ năng đọc và rèn trí nhớ cho học sinh
- Thông qua hai hình thức: đọc thành tiếng và đọc thầm.
- Rèn đọc thành tiếng theo các mức độ tư thấp đến cao: đọc đúng; đọc rõ ràng, rành
mạch; đọc lưu loát, trôi chảy; đọc diễn cảm. Đọc diễn cảm là sự tổng hợp của tất cả các
mức độ đọc làm nổi bật ý nghĩa, tình cảm mà tác giả gửi gắm trong bài.
- Rèn đọc thầm cũng cần được chú ý bởi đọc thầm ít mệt, có thể đọc nhanh, mau hiểu
nội dung đọc. Rèn đọc thầm phải gắn với một yêu cầu nhất định để buộc học sinh phải tập
trung đọc.
- Nhiệm vụ rèn trí nhớ được thực hiện thông qua việc dạy học sinh đọc thuộc long các
văn bản thơ và một số văn bản văn xuôi.
* Trau dồi kiến thức văn học, kiến thức ngôn ngữ và kiến thức đời sống
- Dạy Tập đọc phải thông qua nhiều loại văn bản khác nhau. Các văn bản Tập đọc
chứa đựng nhiều măt kiến thức văn hoá của nhân loại và dân tộc. Do vậy thông qua Tập
đọc có thể trau dồi kiến thức nhiều măt cho học sinh như kiến thức văn học, kiến thức ngôn
ngữ và kiến thức về đời sống.
* Giáo dục thẩm mĩ, tình cảm tư tưởng và phát triển tư duy
- Học Tập đọc, học sinh được tiếp xúc với vẻ đẹp của văn chương thông qua các văn
bản nghệ thuật. Đó là cơ hội để học sinh được giáo dục về tình cảm thẩm mĩ, tư tưởng và
phát triển tư duy trưu tượng. Khi học các văn bản nghệ thuật, cần làm cho học sinh xúc
6
Một số kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 2A1 Trường Tiểu học Thúy Lĩnh GV: Trần Bích Thảo
động với vẻ đẹp của văn chương, nhận thức được tình cảm yêu thương con người và cuộc
sống mà tác giả gửi gắm trong bài đọc…
3. Các cở sở của việc dạy Tập đọc
3.1. Cơ sở tâm lí, sinh lí của việc dạy đọc
Để tổ chức dạy đọc cho học sinh, chúng ta cần hiểu rõ về quá trình dạy đọc, nắm bản
chất của kĩ năng đọc, đăc điểm tâm sinh lí của học sinh khi đọc hay cơ chế của đọc là cơ sở
của việc dạy đọc.
Đọc thuộc lĩnh vực hoạt động trí tuệ phức tạp, mà cơ sở là việc tiếp nhận thông tin
bằng chữ viết dựa vào hoạt động của cơ quan thị giác. Quá trình này bao gồm những đăc
điểm sau:
Đọc được xem là một hoạt động có hai măt quan hệ mật thiết với nhau, là việc xác
định bộ mã gồm hai phương tiện. Thứ nhất, đó là quá trình vận động của mắt, sử dụng bộ
mã chữ âm để phát ra một cách trung thành những dong văn tự ghi lại lời nói âm thanh.
Thứ hai, đó là sự vận động của tư tưởng, tình cảm sử dụng bộ mã chữ - nghĩa, tức là mối
liên hệ giữa các con chữ và ý tưởng, các khái niệm chứa đựng bên trong để nhớ và hiểu
cho được nội dung những gì được đọc.
Như vậy đọc được xem là một hoạt động lời nói trong đó có:
Tiếp nhận dạng thức chữ viết của tư.
Chuyển dạng thức chữ viết thành âm thanh.
Thông hiểu những gì được đọc (tư, cụm tư, bài).
Kĩ năng đọc là một kĩ năng phức tạp, đoi hoi một quá trình luyện tập lâu dài.
T.G.Egônôp chia việc hình thành kĩ năng đọc làm ba giai đoạn: Phân tích, tổng hợp (con
gọi là giai đoạn phát sinh, hình thành một cấu trúc chưa chỉnh thể về hành động) và giai
đoạn tự động hóa.
Giai đoạn dạy Học vần là sự phân tích chữ cái và đọc tưng tiếng theo các âm. Giai
đoạn tổng hợp là giai đoạn đọc thành cả tư trọn vẹn, trong đó sự tiếp nhận “tư” bằng thị
giác và phát âm hầu như trùng với nhận thức ý nghĩa. Tiếp nhận sự thông hiểu của “tư”
trong cụm tư hoăc câu đi trước sự phát âm. Điều này có nghĩa là đọc được thực hiện trong
7
Một số kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 2A1 Trường Tiểu học Thúy Lĩnh GV: Trần Bích Thảo
sự đoán nghĩa. Bước sang lớp 2, 3 học sinh bắt đầu đọc tổng hợp, dần đến cuối cấp thì việc
đọc ngày càng được tự động hóa. Cụ thể hơn, người đọc ngày càng ít quan tâm đến chính
quá trình mà chú ý nhiều đến việc chiếm lĩnh văn bản như: Nội dung các sự kiện, cấu trúc,
chủ đề, các phương tiện biểu đạt của nó. Thời gian gần đây, người ta đã chú trọng hơn đến
những mối quan hệ quy định lẫn nhau của việc hình thành kĩ năng làm việc với văn bản.
Nghĩa là đoi hoi tổ chức giờ Tập đọc sao cho việc phân tích nội dung của bài đọc đồng
thời hướng đến việc hoàn thiện kĩ năng đọc, hướng đến đọc có ý thức bài đọc. Như vậy
việc đọc như thế nhằm vào nhận thức, chỉ có thể xem một đứa trẻ biết đọc khi nó đọc mà
hiểu được điều đang đọc. Đọc là hiểu nghĩa của chữ viết, nếu trẻ không hiểu những tư mà
ta đưa cho chúng đọc, chúng sẽ không có hứng thú học tập và không có khả năng thành
công. Do đó hiểu những gì được đọc sẽ tạo ra động cơ, hứng thú cho việc đọc.
Quá trình hiểu được văn bản gồm các bước sau:
- Hiểu nghĩa các tư, các ngữ.
- Hiểu các câu.
- Hiểu các đoạn.
- Hiểu được cả bài.
Học sinh Tiểu học không phải lúc nào cũng có thể dễ dàng hiểu được những điều mình
đọc. Hầu như toàn bộ sức chú ý đều dồn vào việc nhận ra măt chữ, đánh vần để phát ra
thành âm, nghĩa của vấn đề đọc thì học sinh chưa đủ thời giờ và sức lực để nhận biết. Măt
khác, do vốn tư con ít, năng lực liên kết thành câu, thành ý con hạn chế nên việc hiểu và
nhớ nội dung con khó khăn. Điều này chính là cơ sở để đề xuất các biện pháp hình thành
năng lực đọc hiểu cho học sinh Tiểu học.
3.2. Cơ sở ngôn ngữ và văn học
Phương pháp dạy Tập đọc phải dựa trên cơ sở của ngôn ngữ học. Nó liên quan mật
thiết với một số vấn đề của chính âm, chính tả, chữ viết, ngữ điệu (thuộc ngữ âm học).
Phương pháp dạy Tập đọc sẽ dựa trên những kết quả nghiên cứu của ngôn ngữ học, Việt
ngữ học về những vấn đề nói trên để xây dựng, xác lập nội dung và phương pháp học. Bốn
8
Một số kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 2A1 Trường Tiểu học Thúy Lĩnh GV: Trần Bích Thảo
phẩm chất của đọc không thể tách rời ngôn ngữ học. Không coi trọng đúng mức cơ sở này,
việc dạy học sẽ mang tính tùy tiện và không đảm bảo hiệu quả dạy học.
Cũng cần phải thấy rằng hiện nay kết quả của Việt ngữ học con hạn chế, chưa đáp
ứng được những yêu cầu đoi hoi của phương pháp. Chẳng hạn như việc chưa thống nhất
được một chuẩn chính âm, những nghiên cứu ít oi về ngữ điệu tiếng Việt… làm cho
phương pháp dạy Tập đọc không tránh khoi lúng túng khi giải quyết vấn đề về đọc đúng,
đọc diễn cảm. Và khi không giải quyết được vấn đề về phát âm địa phương một cách có
tính nguyên tắc, không có được những chỉ dẫn cụ thể cho đọc diễn cảm có khi lại đành
long với những cách đọc chung chung, hời hợt. Ví dụ những quy tắc ít oi của ngữ pháp:
Đọc kết thúc câu kể phải xuống giọng, hết câu hoi phải lên giọng chỉ đưa lại những chỉ dẫn
chung chung về giọng đọc như “Bài thơ được đọc với giọng tha thiết sôi nổi…” con những
chỉ dẫn có tính định hướng về mối tương quan giữa cao độ, cường độ, ngắt nhịp… của
đoạn, bài chưa được xác định. Chính điều này làm việc dạy đọc diễn cảm con mang tính
chủ quan cảm tính. Đây sẽ là một khó khăn không nho trong việc xác lập nội dung của
phương pháp dạy đọc.
4. Mục đích tác dụng của việc rèn kĩ năng đọc trong giờ dạy Tập đọc
Đọc là một dạng hoạt động ngôn ngữ, là quá trình chuyển dạng thức chữ viết sang
lời nói có âm thanh và thông hiểu nó (ứng với hình thức đọc thành tiếng), là quá trình
chuyển trực tiếp tư hình thức chữ viết thành các đơn vị nghĩa không có âm thanh (ứng với
hình thức đọc thầm). Đọc cũng không chỉ là công việc giải một bộ mã gồm hai phần chữ
viết và phát âm, nghĩa là nó không phải chỉ là sự đánh vần lên thành tiếng theo đúng các kí
hiệu chữ viết mà con là một quá trình nhận thức để có khả năng thông hiểu những gì được
đọc. Trên thực tế, nhiều khi người ta đã không hiểu khái niệm đọc một cách đầy đủ. Nhiều
chỗ người ta chỉ nói đến đọc như nói đến việc sử dụng bộ mã chữ - âm, con việc chuyển tư
âm sang nghĩa đã không được chú ý đúng mức. Có thể khái quát yêu cầu của việc đọc như
sau:
Năng lực đọc được cụ thể hóa thành hai hình thức là đọc thành tiếng và đọc thầm.
Chất lượng của hình thức đọc thành tiếng bao gồm đọc đúng, đọc nhanh, đọc hiểu và đọc
9
Một số kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 2A1 Trường Tiểu học Thúy Lĩnh GV: Trần Bích Thảo
diễn cảm. Chất lượng của hình thức đọc thầm bao gồm đọc đúng, đọc nhanh, đọc hiểu,
(đọc diễn cảm không được bàn đến khi đọc thầm).
Đọc đúng: Đọc đúng là cách phát âm thể hiện đúng hệ thống ngữ âm chuẩn. Nói
cách khác là phải đọc đúng chính âm, không đọc theo cách phát âm địa phương vì phát âm
địa phương sẽ có chỗ sai với âm chuẩn.
Đọc đúng đoi hoi thể hiện chính xác các âm vị của âm tiết: âm đầu, âm đệm, âm
chính, âm cuối, thanh điệu.
Ngoài ra đọc đúng con có nghĩa là đúng ngữ điệu, bao gồm lên giọng, xuống giọng,
nhấn giọng, chuyển giọng, ngắt hơi, cường độ giọng… Đọc đúng quan trọng nữa là phải
đúng nội dung của tư, của câu, đúng phong cách chức năng vủa văn bản.
Đọc nhanh: Đọc nhanh (con gọi là đọc lưu loát, trôi chảy) là nói đến phẩm chất đọc
về măt tốc độ, là việc đọc không ê a, ngắc ngứ. Vấn đề tốc độ đọc chỉ đăt ra sau khi đã đọc
đúng.
Mức độ thấp nhất của đọc nhanh là đọc trơn: đọc không ê a, ngắc ngứ, không vưa
đọc vưa đáng vần. Về sau tốc độ đọc phải song song với việc tiếp nhận có ý thức bài đọc.
Đọc nhanh chỉ thực sự có ích khi nó không tách rời việc hiểu rõ điều được đọc. Khi đọc
cho người khác nghe thì người đọc phải xác định tốc độ nhanh nhưng để cho người nghe
hiểu kịp được. Vì vậy, đọc nhanh không phải là đọc liến thoắng. Tốc độ chấp nhận được
của đọc nhanh khi đọc thành tiếng trùng với tốc độ của lời nói. Khi đọc thầm thì tốc độ đọc
sẽ nhanh hơn nhiều.
Đọc hiểu: Hiệu quả của việc đọc (nhất là đối với hình thức đọc thầm) được đo bằng
khả năng thông hiểu nội dung văn bản đọc. Do đó, dạy đọc phải gắn với đọc có ý thức, đọc
hiểu: hiểu nghĩa của tư, cụm tư, câu, đoạn, bài, tức là toàn bộ những gì được đọc. Giáo
viên cần có biện pháp giúp học sinh hiểu bài đọc, bắt đầu tư việc hiểu nghĩa tư. Do vậy,
giáo viên phải có hiểu biết về tư địa phương cũng như có vốn tư của tiếng mẹ đẻ vùng dân
tộc mình dạy học để chọn tư giải thích cho thích hợp, đồng thời phải chuẩn bị để sẵn sàng
giải đáp cho học sinh về bất cứ tư nào trong bài mà các em yêu cầu.
10
Một số kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 2A1 Trường Tiểu học Thúy Lĩnh GV: Trần Bích Thảo
Đọc diễn cảm: Đọc diễn cảm là đọc có tác dụng diễn ý, diễn cảm. Đọc diễn ý làm rõ
nghĩa tư, câu, văn bản. Đọc diễn cảm làm rõ sắc thái biểu cảm của tư, câu, văn bản. Tùy
thuộc vào nội dung của văn bản mà người đọc sử dụng ngữ điệu phù hợp nhằm diễn tả
những điều tác giả muốn nói trong văn bản đọc. Đọc diễn cảm là một yêu cầu được đăt ra
khi đọc những văn bản văn chương hoăc có yếu tố của ngôn ngữ nghệ thuật và chỉ có thể
tiến hành khi đã hiểu thấu đáo bài đọc.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
1. Vài nét về Sách giáo khoa Tiếng Việt Tiểu học
* Chương trình Sách giáo khoa môn Tiếng Việt bậc Tiểu học được biên soạn dựa
trên các nguyên tắc sau:
- Dạy học Tiếng Việt thông qua hoạt động giao tiếp.
- Tận dụng những kinh nghiệm sử dụng Tiếng Việt của học sinh.
- Vận dụng quan điểm tích hợp trong việc dạy học.
* Các tiêu chuẩn của Sách giáo khoa Tiếng Việt Tiểu học:
- Trình bày các kiến thức lí thuyết cơ bản về Tiếng Việt, những quy tắc và các định
nghĩa đảm bảo tính khoa học, tính hệ thống, dễ hiểu đối với học sinh.
- Góp phần giáo dục tư tưởng, bồi dưỡng cho học sinh thế giới quan duy vật biện
chứng, phát triển ở các em tư duy logic và long yêu mến sự giàu đẹp của Tiếng Việt.
- Đưa vào số lượng vưa đủ bài tập sao cho chúng vưa phong phú, đa dạng, vưa có
hiệu quả thiết thực và sắp xếp một cách hợp lí.
- Sách hay về nội dung, hấp dẫn về hình thức, nhiều bài đọc mang tính truyện để
tăng tính hấp dẫn, làm cho học sinh ham học. Chú trọng vai tro của kênh hình (tranh ảnh,
màu sắc).
* Cấu trúc nội dung chương trình:
- Các bộ phận của chương trình:
Chương trình Tiếng Việt Tiểu học gồm những bộ phận sau:
+ Kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (đọc, viết, nghe, nói).
11
Một số kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 2A1 Trường Tiểu học Thúy Lĩnh GV: Trần Bích Thảo
+ Tri thức Tiếng Việt (một số hiểu biết cơ sở, tối thiểu về ngữ âm, chính tả, ngữ
nghĩa, ngữ pháp…).
+ Tri thức về văn học, về tự nhiên và xã hội (một số hiểu biết tối thiểu về văn học và
cách tiếp cận chúng; về con người; về đời sống tinh thần và vật chất; về đất nước và dân
tộc Việt Nam…).
- Cấu trúc hai giai đoạn của chương trình:
+ Giai đoạn 1 (các lớp 1, 2, 3):
Nội dung dạy học giai đoạn này có nhiệm vụ: Hình thành những cơ sở ban đầu cho
việc học đọc, học viết; định hướng cho việc học nghe, học nói trên cơ sở vốn Tiếng Việt
mà trẻ em đã có.
Yêu cầu cơ bản với học sinh ở giai đoạn này là: Đọc thông thạo và hiểu đúng một văn
bản ngắn; viết rõ ràng, đúng chính tả; nghe chủ động; nói chủ động, rành mạch.
Những bài học ở giai đoạn này chủ yếu là bài học thực hành đọc, viết, nghe, nói. Tri
thức Tiếng Việt không được dạy thành bài riêng mà được rút ra tư những bài thực hành,
được thấm vào học sinh một cách tự nhiên qua hoạt động thực hành. Ví dụ, học âm e, sau
đó viết con chữ e. Những tri thức về âm - chữ cái, về tiếng (âm tiết) - chữ, về thanh điệu -
dấu ghi thanh đều được học qua những bài dạy chữ. Những tri thức về câu trong hội thoại
(câu hoi, đáp và dấu câu) cũng không được dạy qua bài lí thuyết mà học sinh được hình
dung cụ thể trong một văn bản cụ thể. Trình độ nắm tri thức của học sinh ở giai đoạn này
cũng chỉ dưng ở mức: các em nhận diện được và sử dụng được các đơn vị của Tiếng Việt,
các quy tắc sử dụng Tiếng Việt trong lúc đọc, viết, nghe, nói. Phần tri thức có trong nội
dung chương trình của các lớp 1, 2, 3 chỉ có ý nghĩa xác định những tri thức học sinh cần
làm quen.
+ Giai đoạn 2 (các lớp 4, 5):
Nội dung chương trình giai đoạn này nhằm phát triển các kĩ năng đọc, viết, nghe, nói
lên một mức độ cao hơn, hoàn thiện hơn, trong đó yêu cầu viết hoàn chỉnh một số văn bản,
yêu cầu đọc - hiểu được đăc biệt coi trọng.
12
Một số kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 2A1 Trường Tiểu học Thúy Lĩnh GV: Trần Bích Thảo
Học sinh ở giai đoạn này đã được cung cấp những khái niệm cơ bản về một số đơn vị
ngôn ngữ và quy tắc sử dụng Tiếng Việt làm nền móng cho việc phát triển kĩ năng. Bên
cạnh những bài học thực hành (ở giai đoạn trước), các em được học các bài về tri thức
Tiếng Việt (tư vựng, ngữ pháp, văn bản, phong cách…). Những bài học này cũng không
phải là lí thuyết đơn thuần, được tiếp nhận hoàn toàn bằng con đường tư duy trưu tượng,
mà chủ yếu vẫn bằng con đường nhận diện, phát hiện trên những ngữ liệu đã đọc, viết,
nghe, nói; rồi sau đó mới khái quát thành những khái niệm.
2. Chương trình, Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 2 và phân môn Tập đọc
Chương trình Sách giáo khoa môn Tiếng Việt lớp 2 có hai tập, được học trong 35 tuần
với tổng số 315 tiết (9 tiết/tuần) và bao gồm 6 phân môn: Tập đọc, Chính tả, Tập viết,
Luyện tư và câu, Kể chuyện và Tập làm văn.
Sách giáo khoa Tiếng Việt 2 có 15 đơn vị học, mỗi đơn vị gắn vói một chủ điểm, học
trong 2 tuần (riêng chủ điểm Nhân dân học 3 tuần):
Tập một gồm 8 đơn vị học, với các chủ điểm sau:
+ Tuần 1, 2: Em là học sinh
+ Tuần 3, 4: Bạn bè
+ Tuần 5, 6: Trường học
+ Tuần 7, 8: Thầy cô
+ Tuần 9: Ôn tập giữa kì I
+ Tuần 10, 11: Ông bà
+ Tuần 12, 13: Cha mẹ
+ Tuần 14, 15: Anh em
+ Tuần 16, 17: Bạn trong nhà
+ Tuần 18: Ôn tập cuối kì I
Tập hai gồm 7 đơn vị học, với các chủ điểm sau:
+ Tuần 19, 20: Bốn mùa
+ Tuần 21, 22: chim chóc
+ Tuần 23, 24: Muông thú
13
Một số kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 2A1 Trường Tiểu học Thúy Lĩnh GV: Trần Bích Thảo
+ Tuần 25, 26: Sông biển
+ Tuần 27: Ôn tập giữa kì II
+ Tuần 28, 29: Cây cối
+ Tuần 30, 31: Bác Hồ
+ Tuần 33, 34: Nhân dân
+ Tuần 35: Ôn tập cuối kì II
Cấu trúc của một đơn vị học: Học trong 2 tuần, mỗi tuần học 9 tiết, gồm:
+ Tập đọc (2 tiết): một chuyện kể
+ Kể chuyện (1 tiết)
+ Chính tả (1 tiết)
+ Tập đọc (01 tiết): văn bản thông thường hoăc một văn bản thơ hay một văn bản
miêu tả
+ Luyện tư và câu (01 tiết)
+ Tập viết (01 tiết)
+ Chính tả (01 tiết)
+ Tập làm văn (01 tiết)
Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 2 trình bày mỗi tuần 3 bài Tập đọc. Tuy nhiên, theo
Hướng dẫn thực hiện chương trình các môn học lớp 1, 2, 3, 4, 5 của Bộ Giáo dục và Đào
tạo thì chỉ thực hiện dạy học 2 bài/tuần, các bài càn lại dùng làm bài đọc thêm ở các vùng
có điều kiện.
Chương trình Sách giáo khoa Tiếng Việt 2 chú trọng cả bốn kĩ năng nghe, nói, đọc,
viết.
Nhìn tư góc độ giao tiếp, có thể thấy các bài đọc trong Sách giáo khoa Tiếng Việt 2
đã được lựa chọn rất hay. Những chủ điểm đưa vào Sách giáo khoa không chỉ gần gũi với
sinh hoạt thường nhật của học sinh mà con thể hiện khá đậm net tính hướng dẫn giao tiếp.
Việc sắp xếp các chủ điểm cũng được sách hết sức chú ý để sao cho phù hợp với hoạt động
giao tiếp của lứa tuổi Tiểu học. Trong các chủ điểm đó, các bài đọc hướng dẫn học sinh
14
Một số kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 2A1 Trường Tiểu học Thúy Lĩnh GV: Trần Bích Thảo
hiểu sâu hơn về những sự vật, sự việc, con người gần gũi với cuộc sống hằng ngày của các
em hay chính những hoạt động các em đã tưng trực tiếp tham gia.
Có thể nói, các ngữ liệu dạy học Tập đọc ở lớp 2 đã tạo điều kiện vô cùng thuận lợi
cho việc dạy học của giáo viên. Và, nhiệm vụ chính của giáo viên là sử dụng những
phương pháp phù hợp để rèn luyện cho học sinh những kĩ năng ngôn ngữ cần thiết theo
định hướng đổi mới - định hướng giao tiếp.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VẤN ĐÊ NGHIÊN CỨU
15
Một số kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 2A1 Trường Tiểu học Thúy Lĩnh GV: Trần Bích Thảo
Thực trạng tình hình dạy học của giáo viên và việc học của học sinh qua điều tra cụ thể
là: Đầu năm học khi có ý định làm đề tài này tôi đã trao đổi với các đồng nghiệp trong
khối, xin thăm lớp dự giờ các tiết tập đọc ở khối. Qua dự giờ sau các tiết dạy tôi có nhận
xet sau:
1. Giáo viên:
- Giáo viên đã nghiên cứu phương pháp dạy tập đọc để dạy tốt song chưa đi sâu lựa chọn
phương pháp cho phù hợp để tiết dạy đạt kết quả cao nhất.
- Giáo viên chưa chú ý và coi trọng tính luyện tập, thực hành của học sinh.
2. Học sinh
2.1. Thuận lợi:
- Học sinh đúng độ tuổi, phụ huynh quan tâm đến việc học của con em mình như mua
đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập.
- Cơ sở vật chất ở lớp học đầy đủ, bàn ghế đẹp, kích thước phù hợp với học sinh lớp 2.
- Thực tế giảng dạy cho thấy rằng các năm học thực hiện đổi mới giáo dục trên toàn
quốc chất lượng học sinh có tiến bộ rõ rệt. Đăc biệt là các em mạnh dạn, tự tin trong giao
tiếp. Nhiều học sinh đọc rất hay măc dù yêu cầu đọc diễn cảm chưa đăt ra đối với học sinh
lớp2. Thông qua luyện đọc học sinh bước đầu đã hiểu nghĩa tư chìa khoá để hiểu nội dung
bài tập đọc, có khả năng nghe và nhận xet bạn đọc.
2.2. Khó khăn:
Tuy địa bàn trường tôi đã chuyển lên phường thuộc nội thành Hà Nội song thực tế vẫn
là khu vực con mang tính nông thôn, người dân sống chủ yếu bằng nghề làm ruộng, trình
độ dân trí chưa cao - đời sống nhân dân con thấp, các em rụt rè, con thẹn thùng khi ứng xử
các tình huống giao tiếp trong sách giáo khoa, đọc lí nhí khi được gọi. Số lượng học sinh
phát âm sai do nói “ngọng l/n ở địa phương” con nhiều.
- Cơ sở vật chất chưa đáp ứng yêu cầu, thiết bị dạy học phục vụ cho môn Tiếng Việt
lớp 2 con thiếu như: Tranh, các thiết bị sử dụng dạy học con thiếu. Bàn ghế khó cho giáo
viên trong khi dạy thay đổi hình thức tổ chức dạy học.
16
Một số kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 2A1 Trường Tiểu học Thúy Lĩnh GV: Trần Bích Thảo
- Một số ít phụ huynh con giao khoán việc học của con em mình cho cô giáo và nhà
trường.
- Khả năng tiếp thu môn học Tiếng Việt của các em cũng nhiều hạn chế so với các
môn Toán hay Tự nhiên xã hội, ở phân môn Tập đọc lớp 2 đa phần các em đó đọc được,
song một số em đọc cũng chưa được rõ ràng, chưa biết ngắt nghỉ đúng dấu chấm, dấu
phẩy, nhiều em phát âm chưa phân biệt rõ phụ âm đầu l/n; tr/ch; s/x. Đăc biệt học sinh
trường tôi đang công tác thì đa số các em đọc con ngọng phụ âm l/n, về kĩ thuật đọc chưa
thể hiện được tình cảm, nội dung mà văn bản đề cập tới. Ví dụ như các em chưa biết nhấn
giọng ở tư ngữ gợi tả, những tư ngữ trọng tâm, tư chìa khoá, trong những trường hợp sắm
vai hay đối thoại, các em cũng lúng túng, nhiều em cũng thiếu tự tin trong việc thể hiện
giọng đọc của mình. Đối với đối tượng học sinh trung bình và yếu các em chưa xác định
được đâu là giới hạn những câu đối thoại của mình. Với thực tế trên, tôi đi sâu vào nghiên
cứu vấn đề “ren ky năng đọc cho học sinh lơp 2” với mong muốn tích lũy thêm cho bản
thân những kiến thức và kinh nghiện chỉ đạo chuyên môn nhằm đạt hiệu quả cao trong việc
dạy học và chỉ đạo chuyên môn tổ khối và để nâng cao chất lượng đọc cho học sinh lớp 2.
17
Một số kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 2A1 Trường Tiểu học Thúy Lĩnh GV: Trần Bích Thảo
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CỤ THỂ
Trước tình hình thực tế dạy học của trường, là một tổ trưởng chuyên môn, tôi đã làm
tốt công tác tham mưu để nhà trường quyết định tổ chức chuyên đề Tập đọc lớp 2, 3 ngay
tư đầu năm học để rút kinh nghiệm. Qua thực tế giảng dạy và chỉ đạo công tác chuyên môn
tổ khối tôi đã rút ra một số biện pháp để nâng cao chất lượng đọc cho học sinh lớp 2 như
sau:
Biện pháp thứ nhất: Khảo sát phân loại học sinh qua từng giai đoạn:
Để nắm được khả năng đọc của học sinh, ngay tư đầu năm học tôi đã tiến hành tìm hiểu,
phân loại học sinh. Tôi tiến hành kiểm tra các em về đọc và kiến thức trong bài. Kết quả
điều tra ky năng đọc của học sinh lớp 2A1 do tôi phụ trách cũng như các lớp 2 trong toàn
trường trong đợt khảo sát chất lượng đầu năm như sau:
Lớp SL Đọc diễn cảm Đạt chuẩn Con chậmĐọc đánh
vần
2A1 38 1 30 7 0
2A2 39 0 26 8 5
2A3 37 0 25 7 5
Hiểu
nội
dung
Trả lời câu
hoi trọng
tâm bài
Trả lời
thành
câu
Biết nghe
và nhận xet
bạn đọc
Mạnh dạn xử lý tình
huống giao tiếp của
bài tập đọc.
học sinh hứng
thú, thích học
tập đọc
73% 53% 10% 42% 25% 76%
Bên cạnh đó tôi găp gỡ với giáo viên cũ để trao đổi, tư đó có thêm hiểu biết về khả
năng học phân môn tập đọc của các em.
Tư những hiểu biết trên, tôi lập thành các nhóm học tập. Mỗi nhóm có em khá và em
kem để các em giúp đỡ lẫn nhau trong việc học tập và cũng để dễ dáng kiểm tra, hướng
dẫn các em.
18
Một số kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 2A1 Trường Tiểu học Thúy Lĩnh GV: Trần Bích Thảo
Biện pháp thứ hai: Chuẩn bị chu đáo cho giờ học
1. Hướng dẫn học sinh chuẩn bị trước cho bài học:
Để giúp các em học tốt một bài tập đọc, tôi thường hướng dẫn các em chuẩn bị một cách
chu đáo, cụ thể như sau:
- Trước tiên các em cần đọc thành tiếng ít nhất 5 lần sau đó đọc thầm. Tìm xem bài tập
đọc có mấy đoạn, mấy câu (mấy khổ thơ).
- Đọc kĩ phần giải nghĩa các tư ngữ ở cuối bài.
- Tập trả lời miệng các câu hoi về tìm hiểu nội dung trong sách giáo khoa, tư đó các
em có thể nêu được nội dung bài tập đọc.
- Tìm hiểu bài tập đọc thuộc thể loại gì (thơ hay văn xuôi).
- Để giúp học sinh đọc tốt, ngay tư buổi họp phụ huynh đầu năm, tôi trao đổi với phụ
huynh, thống nhất phương pháp hướng dẫn học sinh học môn Tập đọc tại nhà. Tư đó
phụ huynh học sinh có thể giúp đỡ các em chuẩn bị tốt bài Tập đọc của giờ học sau.
- Chính vì có sự chuẩn bị chu đáo như vậy nên trong những giờ Tập đọc sẽ giúp các
em đọc lưu loát, biết cách ngắt nghỉ đúng ở các dấu câu, dấu phẩy trong câu văn.
Ví dụ: Khi dạy bài Ngôi trường mơi tôi đã hướng dẫn học sinh chuẩn bị như sau:
- Đọc thành tiếng 5 lần, dùng bút chì ghi số câu trong bài tập đọc.
- Đọc kĩ phần giải nghĩa các tư: - > điều này sẽ giúp các em hiểu rõ hơn nội dung bài
đọc.
- Học sinh tập trả lời miệng các câu hoi để tìm hiểu nội dung bài:
+ Tìm đoạn văn ứng với tưng nội dung sau:
a, Tả ngôi trường tư xa
b, Tả lớp học
c, Tả cảm xúc của học sinh dưới mái trường mới.
+ Tìm những tư ngữ tả vẻ đẹp của ngôi trường
+ Dưới mái trường mới, bạn học sinh cảm thấy có những gì mới?
Phần tìm hiểu này giúp học sinh nhớ được nội dung bài.
19
Một số kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 2A1 Trường Tiểu học Thúy Lĩnh GV: Trần Bích Thảo
Với sự chuẩn bị bài ky của học sinh như vậy nên ở trên lớp dưới sự dẫn dắt, hướng
dẫn của giáo viên, học sinh sẽ đọc lưu loát, tiến tới đọc hay, các em chủ động trong việc
nắm bắt nội dung bài đọc, phát huy được tính cực, chủ động của học sinh trong giờ học.
2. Chuẩn bị của giáo viên:
Qua thực tế giảng dạy, dưới sự chỉ đạo sát sao của Ban giám hiệu nhà trường, tôi nhận
thấy rằng để dạy thành công một tiết tập đọc, truyền thụ được kiến thức một cách khoa
học, sâu sắc giáo viên cần chuẩn bị ky những việc sau:
+ Soạn bài cụ thể, chi tiết thể hiện rõ hoạt động của thầy, của tro. Xây dựng được các
phương pháp dạy học truyền thống kết hợp với các phương pháp, phương tiện dạy học hiện
đại một cách linh hoạt để giờ dạy nhẹ nhàng, ddaqtj hiệu quả.
+ Nắm chắc yêu cầu rèn đọc ở tưng bài. Đọc kĩ bài tập đọc sắp dạy, trao đổi học tập
cách dạy của đồng nghiệp, dự kiến các tình huống học sinh sẽ mắc phải và cách sửa các
tình huống đó.
+ Tìm hiểu kĩ nội dung bài để hiểu được các biện pháp nghệ thuật tác giả đã dùng, tư
đó xác định cách đọc đối với tưng đoạn, tưng bài để thể hiện đúng tình cảm của tưng bài.
+ Nắm vững hệ thống câu hoi trong bài tập đọc, đưa ra thêm những câu hoi dẫn dắt để
giúp học sinh phân tích, khai thác nội dung.
Biện pháp thứ ba: Giáo viên cân đọc mâu diễn cảm:
Việc đọc mẫu của giáo viên là cần thiết vì muốn học sinh đọc đúng, đọc hay giáo
viên phải giới thiệu mẫu đúng. Lời đọc mẫu của giáo viên nhằm định hướng cho học sinh
đọc đồng thời giúp học sinh nhận thức đúng nội dung bài học. Nếu là văn bản nghệ thuật
con có tác dụng khơi gợi hứng thú và sự tưởng tượng của học sinh – giúp các em dễ đi vào
thế giới của tác giả, tác phẩm dưới một ánh sáng hấp dẫn hơn. Với văn bản nghệ thuật đọc
mẫu của giáo viên là đọc diễn cảm. Con văn bản thông thường đọc mẫu là đọc đúng. Yêu
cầu đọc diễn cảm chưa đăt ra với học sinh lớp 2, nhưng nếu giáo viên biết khích lệ, động
viên học sinh sẽ bắt chước thầy cô. Giáo viên đọc mẫu tốt, chuẩn mực thì không có gì đáng
ngại nếu như học sinh bắt chước thầy cô.
Đọc mẫu của GV bao gồm:20
Một số kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 2A1 Trường Tiểu học Thúy Lĩnh GV: Trần Bích Thảo
- Đọc toàn bài: thường nhằm giới thiệu, gây xúc cảm, tạo hứng thú và tâm thế học đọc
cho HS.
- Đọc câu, đoạn: Nhằm hướng dẫn, gợi ý hoăc “tạo tình huống” để học sinh nhận xet,
giải thích nội dung bài đọc.
- Đọc tư, cụm tư: nhằm sửa phát âm sai và rèn cách đọc đúng cho học sinh
Vấn đề đăt ra trước tiên, để đọc mẫu tốt, giáo viên cần tìm hiểu và cảm thụ bài văn, tìm
hiểu bối cảnh lịch sử, hoàn cảnh sáng tác, vị trí của tác phẩm, tác giả... tiếp đến là việc tìm
hiểu nội dung, hình thức bài đọc: thể loại, bố cục, kết cấu, nghệ thuật.
Hiểu được nội dung cảm thụ: cảm thụ sâu sắc, tính lôgic sẽ đọc diễn cảm tốt. Giọng đọc
hay sẽ bắt đầu với cảm xúc của long mình, người đọc phải nhập vai lúc đó khả năng truyền
cảm người nghe lớn hơn.
Ví dụ: * Bài “Ông Mạnh thắng Thần Gió”
- Đoạn 1: Giọng kể chậm rãi
- Đoạn 2: Nhịp nhàng hơn, nhấn giọng những tư ngữ tự sự, ngạo nghễ của Thần Gió, sự
tức giận của ông Mạnh – “Xô, ngã lăn quay, lồm cồm, quát, ngạo nghễ...”
- Đoạn 3, 4: Đọc nhấn giọng các tư ngữ thể hiện quyết tâm chiến thắng Thần Gió của
ông Mạnh; sự điềm tĩnh, kiên quyết của ông trước thái độ tức tối của Thần Gió, “quyết
chống trả, quật đổ, thật vững chãi, lớn nhất, thật to, thét, không, giận dữ, lồng lộn...”
- Đoạn 5: Kể về sự thoả thuận giữa ông Mạnh và Thần Gió – Đọc với giọng kể chậm
rãi, thanh bình.
Đọc thơ phải nắm vững đăc trưng của thơ. Đó là tiếng nói tình cảm mãnh liệt, là sản
phẩm của những rung động đột xuất, độc đáo, là kết tinh của trí tưởng tượng, phân tích.
Ngôn ngữ thơ giàu nhạc điệu, tính hàm xúc trong trong thơ. Vì vậy, khi đọc thơ cần thể
hiện được tình cảm tác giả gửi gắm trong tưng tư, tưng dong thơ, nhịp thơ, vần thơ để
truyền cảm xúc đến người nghe.
21
Một số kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 2A1 Trường Tiểu học Thúy Lĩnh GV: Trần Bích Thảo
Ví dụ: Nhịp điệu 2/2 trong đoạn thơ dưới đây sẽ góp phần tích cực thể hiện net vui tươi
hoạt bát của chú be liên lạc.
“Chú bé / loắt choắt
Cái xắc / xinh xinh
.....
Nhảy trên đường vàng.
(Tố Hữu - Lượm)
Ví dụ: Khi đọc bài “Cái trống trường em” (TV 2), giáo viên phải đọc những mẫu
sao cho thể hiện chờ đợi, mong moi khi đọc các dong thơ: “Suốt ba tháng liền” (keo dài
“Suốt”, đọc chậm “ba tháng”). Những câu sau tiếp đọc với giọng nhẹ nhàng tâm sự (khổ
3), giọng vui náo nức (khổ 4).
Khi đọc mẫu, giáo viên cần giữ được tính tự nhiên của giọng đọc, tránh lên bổng
xuống trầm một cách giả tạo, máy móc... Tuỳ đối tượng học sinh, giáo viên xác định các
lối phát âm mà HS dễ mắc phải để định ra các tiếng, tư, cụm tư, câu khó để luyện đọc
trước.
Nói tóm lại, việc giáo viên đọc mẫu là rất cần thiết vì muốn học sinh đọc đúng phải
giới thiệu cho các em mẫu đúng. Lời đọc mẫu đúng và hay của giáo viên có tác dụng định
hướng cách đọc cho học sinh, đồng thời giúp các em nhận thức đúng hơn nội dung bài đọc.
Nếu bài đọc là một văn bản nghệ thuật thì lời đọc của giáo viên con có ý nghĩa khơi gợi
hứng thú và tưởng tượng của học sinh, làm cho các em dễ đi vào thế giới của tác phẩm và
thấy tác phẩm dưới một ánh sáng hấp dẫn hơn. Giáo viên cần hướng dẫn để học sinh đọc
sao cho phù hợp với nội dung chính của bài văn, bài thơ. Ví dụ: biết nghỉ ngơi đúng sau
các dấu câu, giữa các cụm tư đầu hay giữa các mục, các phần trong bài đọc, không đọc với
nhịp nhanh, sôi nổi một bài cần đọc với giọng chậm rãi; không đọc với giọng vui vẻ một
bài cần đọc với giọng trầm, buồn...
22
Một số kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 2A1 Trường Tiểu học Thúy Lĩnh GV: Trần Bích Thảo
Bài đọc mẫu của giáo viên chính là cái đích, mẫu hình kĩ năng đọc mà học sinh cần đạt
được. Do đó yêu cầu đọc thành tiếng của giáo viên phải đảm bảo chất lượng đọc chuẩn:
đọc đúng, rõ ràng, trôi chảy, đọc đủ lớn, nhanh vưa phải và diễn cảm. Giáo viên phải ổn
định trật tự, tạo cho học sinh tâm thế ngồi đọc, hứng thú nghe đọc và yêu cầu học sinh đọc
thầm theo. Khi đọc, giáo viên đứng ở vị trí bao quát được cả lớp, không nên đi lại trong khi
đọc, cầm sách mở rộng, đọc đủ lớn để em học sinh xa nhất cũng nghe rõ và thỉnh thoảng
mắt phải rời sách nhìn lên học sinh nhưng không làm cho bài đọc bị gián đoạn.
Như vậy, người giáo viên khi đọc phải làm sao để “đánh thức những cảm xúc ngủ yên
trong chữ nghĩa, làm cho con cá biết bơi, con chim biết bay, con người biết đi, đứng, chạy
nhảy như cuộc sống ngoài đời, bởi dạy văn tức là dạy người”. Giáo viên phải làm sao để
học sinh thể hiện được cảm xúc chân thành khi nghe thầy đọc thơ:
“Thêm yêu tiếng hát nụ cười
Nghe thơ em thấy đất trời đẹp hơn
Biện pháp thứ tư: Cách hương dân học sinh tim hiêu nghia cua từ, ngư:
a) Cho học sinh đọc tư chú giải lúc nào cho hợp ly?
Nhiều ý kiến cho rằng, việc cho học sinh đọc tư chú giải trong sách giáo khoa là không
cần thiết. Giáo viên chỉ cần nêu câu hoi nếu học sinh giải thích được nghĩa của tư là xem
như học sinh đã được đọc phần chú giải? Vậy nếu như những bài tập đọc như: “Voi nhà”
Sách giáo khoa Tiếng Việt 2 có 6 tư chú giải mà giáo viên cứ đăt câu hoi lôi 6 tư ra để học
sinh trả lời thì thời gian đâu để tổ chức hoạt động khác? Tạp chí thế giới trong ta nêu quan
niệm: Chú giải là một bộ phận cần đọc. Đọc để ghi nhớ tư mới là tăng vốn tư cho học sinh.
Đọc để nắm được cách giải nghĩa tư khi cần. Song nên tổ chức cho học sinh đọc tư chú giải
lúc nào cho hợp lý? Theo tôi phần chú giải cần tổ chức cho học sinh đọc thầm, trong khi
học sinh đọc thầm nối tiếp nhau tưng đoạn trong nhóm là hợp lý nhất. Sau đó học sinh lại
đọc thành tiếng theo nhóm trước lớp. Có thể học sinh đọc chú giải mà vẫn chưa hiểu nghĩa
của tư giáo viên vận dụng cơ hội này để giảng tư, nhằm mở rộng vốn tư cho học sinh.
23
Một số kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 2A1 Trường Tiểu học Thúy Lĩnh GV: Trần Bích Thảo
Đến bước tìm hiểu bài giáo viên vẫn con thời cơ để kiểm tra, cũng cố nghĩa của tư
(nếu cần), bằng cách đăt câu hoi, tìm hiểu nội dung thông qua đó rút tư chìa khoá để giảng
cho học sinh. Cách kiểm tra có thể yêu cầu học sinh nhắc lại nghĩa của tư, tìm tư gần
nghĩa, cùng nghĩa, trái nghĩa hoăc đăt câu với tư cần giải nghĩa. Chính ở bước này, những
tư khó có thể ở địa phương các em chưa hiểu, hoăc tư chìa khoá giáo viên có thể kết hợp
giảng để học sinh hiểu nội dung.
b) Xác định tư ngữ cần giảng trong bài như thế nào cho hợp ly:
Đây là điều mà chúng tôi đưa ra bàn cãi rất nhiều. Nếu như giáo viên không biết xác
định tư ngữ cần giảng thì tiết học sẽ dàn trải, thiếu trọng tâm, chiếm nhiều thời gian mà
nhiệm vụ của tiết học vẫn không hoàn thành.
Theo tôi các tư ngữ cần giảng trong bài tập đọc là:
+ Tư ngữ được chú giải trong sách giáo khoa.
+ Tư ngữ phổ thông mà học sinh chưa quen.
+ Tư ngữ đóng vai tro quan trọng là “chìa khoá” để mở nội dung bài học.
Trong một bài tập đọc cần xác định tư cần giảng và cách xác định tư là điều mà
nhiều giáo viên con lúng túng. Giảng ít tư khi thấy con thiếu, giảng nhiều tư dẫn đến tham
nói mất thời gian. Việc rút tư để tìm hiểu nội dung bài tập đọc là việc khó nhất trong giờ
tập đọc. Theo tôi có 2 căn cứ giúp giáo viên rút tư chính xác, trọng tâm đó là:
- Căn cứ vào nội dung cần truyền thụ chính là mục tiêu bài dạy.
- Căn cứ tên bài (tiêu đề bài tập đọc). Giáo viên cần lưu ý việc giảng tư khó và rút tư
chìa khoá hoàn toàn khác nhau. Tư khó hiểu chỉ yêu cầu học sinh đọc chú giải để hiểu
nghĩa của tư. Con tư chìa khoá là tư yêu cầu học sinh hiểu để nắm nội dung bài. Khi tư khó
trùng với tư chìa khoá giáo viên ghi ở phần “tìm hiểu bài” (phần ghi bảng).
Có 6 cách giải nghĩa tư:
+ Đăt câu với tư cần giải nghĩa.
+ Tìm tư đồng nghĩa.
+ Tư trái nghĩa.
+ Miêu tả sự vật, đăc điểm được biểu thị ở tư cần giải nghĩa.
24
Một số kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 2A1 Trường Tiểu học Thúy Lĩnh GV: Trần Bích Thảo
+ Tách tư để miêu tả.
+ Sử dụng đồ dùng dạy hoc (vật thật, tranh ảnh)
Cách tìm hiểu tư chủ yếu là phải đăt trong ngữ cảnh. Cần giới hạn việc giải nghĩa tư
trong phạm vi nghĩa cụ thể bài đọc giải nghĩa, đơn giản với học sinh lớp 2 – tránh dài dong,
giải nghĩa cồng kềnh quá tải làm mất thời gian luyện đọc của học sinh.
Ví dụ: Bài tập đọc: “Sơn Tinh, Thuy Tinh”
Phần chú giải có 7 tư. Đó là: câu hôn, lễ vât, ván, nộp, nga, cưa, hông mao. Các tư
trên là tư khó hiểu nghĩa đối với các em song không phải là tư chìa khoá. Giáo viên cần căn
cứ vào nội dung. Câu chuyện nhằm giải thích nạn lũ lụt ở nước ta là do Thuy Tinh ghen
tức Sơn Tinh gây ra và nói lên tinh thần chống lũ của nhân dân nên tư chìa khoá ở đây là:
đung đung nôi giân, cuôn cuộn, đuối sức. Việc rút tư chìa khoá của giáo viên không yêu
cầu tư nào cũng phải giải nghĩa mà chủ yếu là để học sinh hiểu được nội dung bài tư đó
giúp các em đọc, viết đúng; đọc hay.
Biện pháp thứ năm: Ren ky năng đọc ngăt, nghỉ giọng đúng chỗ cho học sinh:
Có 2 kiểu ngắt giọng: Ngắt giọng logic và ngắt giọng biểu cảm.
Ngắt giọng logic là những chỗ dùng để tách nhóm trong câu. Ngắt giọng logic phụ
thuộc vào ý nghĩa và quan hệ giữa các tư trong câu.
Ngắt giọng biểu cảm đối lập với ngắt giọng logic đó là những chỗ nghỉ lâu hơn bình
thường hoăc chỗ nghỉ không do logic ngữ nghĩa mà do dụng ý của người đọc nhằm tạo ra
ấn tượng về cảm xúc.
a) Ky năng ngắt giọng logic:
Khi đọc một văn bản nếu găp dấu câu ta cần phải ngắt, nghỉ giáo viên cần hướng dẫn
học sinh sau dấu chấm, dấu hai chấm, chấm cảm ta cần phải nghỉ. Song sau dấu chấm
xuống dong cần nghỉ lâu hơn sau dấu chấm. Sau dấu phẩy ta phải ngắt giọng, sau dấu phẩy
có lúc cũng phải ngắt giọng khác nhau. Dấu phẩy ngăn cách giữa vế và câu ngắt lâu hơn,
dấu phẩy sau trạng ngữ. Khi đọc một số bài văn xuôi có những câu dài, cấu trúc ngữ pháp
phức tạp học sinh thường ngắt tuỳ tiện như sau:
Ví dụ 1: Trong bài: Sơn Tinh, Thủy Tinh (Sách Tiếng Việt 2)
25
Một số kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 2A1 Trường Tiểu học Thúy Lĩnh GV: Trần Bích Thảo
Học sinh đọc: Từ đo/ năm nao Thuy Tinh cung dâng nươc đánh/ Sơn Tinh gây lu lut
khăp nơi/ nhưng lân nao Thuy Tinh cung chịu thua.//
Học sinh đã đọc tách Sơn Tinh ra khoi động tư “đánh” làm người nghe hiểu sai ý nghĩa
của câu văn.
Giáo viên cần hướng dẫn học sinh ngắt như sau: Từ đo/ năm nao Thuy Tinh cung
dâng nươc đánh Sơn Tinh/ gây lu lut khăp nơi/ nhưng lân nao Thuy Tinh cung chịu
thua.//
Ví dụ 2: Khi đọc một số câu thơ do không chú ý đến quan hệ ngữ pháp mà chỉ chú ý
đến sự cân đối về âm thanh mà học sinh đã ngắt nhịp sai.
Anh Lừa / lo chuyện / gạo tiên.
Giấy tờ tho chạy/ giao liên tai tinh.
Nếu học sinh ngắt nhịp như trên đã tách cụm tư “tho chạy” ra khoi cụm “giao liên tai
tinh” làm người nghe tưởng như chú giao liên tài tình chứ không phải “tho chạy giao liên
tai tinh” để khắc phục tình trạng đó với lớp 2 thì việc luyện đọc, đọc mẫu của giáo viên là
cần thiết. Ngoài ra giáo viên cũng cần giảng để học sinh hiểu nội dung câu văn, câu thơ,
quan hệ ngữ pháp để học sinh điều chỉnh nếu như học sinh đọc sai.
b) Ngắt giọng biểu cảm:
Dạy cho học sinh biết cách ngắt giọng logic là yêu cầu quan trọng với học sinh lớp 2,
ngoài ra giáo viên có thể dạy cho học sinh ngắt giọng biểu cảm ở một số bài thơ đây là
phương tiện tác động người nghe. Ngắt giọng logic thiên về trí tuệ con ngắt giọng biểu cảm
thiên về cảm xúc.
Ví dụ: Khi đọc 2 câu thơ cuối của bài tập đọc “Thư trung thu” (sách Tiếng Việt 2
tập 2 trang 10). Giáo viên cần hướng dẫn học sinh đọc.
Các cháu/ hay xứng đáng
Cháu Bác Hô Chi Minh.
Ngắt nhịp như thế người nghe sẽ thấy được tình cảm yêu thương sâu sắc của Bác và đó
chính là lời động viên khuyến khích cũng là lời khuyên của Bác đối với thiếu nhi. Qua đó
để thấy được tình yêu bao la của Người đối với các em.
26
Một số kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 2A1 Trường Tiểu học Thúy Lĩnh GV: Trần Bích Thảo
Tóm lại: Đọc đúng chỗ ngắt giọng và ngắt giọng hay là yêu cầu, mục đích của việc dạy
tập đọc là phương tiện để phát triển ngôn ngữ cho học sinh.
Thực tế giáo viên chúng ta chưa am hiểu sâu sắc về lý luận văn học tuy nhiên nếu giáo
viên đầu tư, chuẩn bị bài ky lưỡng, đọc bài nhiều lần để tìm cách đọc đúng, chuẩn xác,
cách đọc hay nhất để có mẫu tốt cho học sinh học tập. Muốn vậy theo tôi giáo viên cần:
+ Nắm vững nội dung bài, tính cách nhân vật, giọng điệu của câu chuyên, bài tập đọc,
bài thơ.
+ Nắm được cốt truyện – nội dung các đoạn truyện.
+ Nắm thể loại thơ để chọn cách đọc, giọng điệu nhẹ nhàng sâu lắng, ngọt ngào hay
chua ngoa.
+ Nắm được cấu trúc ngữ pháp của câu thơ, câu văn.
Biện pháp thứ sáu: Sư dung linh hoạt tro chơi học tâp:
Đối với trẻ em tro chơi đóng vai tro quan trọng trong sinh hoạt, bước vào nhà trường,
trẻ em làm quen với hoạt động học tập với những yêu cầu cao hơn. Chúng ta – những nhà
sư phạm thấy rằng nếu biết sử dụng kết hợp hình thức tro chơi trong học tập sẽ đạt hiệu
quả cao. Chính vì vậy tro chơi được sử dụng trong các tiết dạy học có tác dụng tích cực
nhằm làm thay đổi hình thức học tập. Thông qua tro chơi không khí lớp học trở nên thoải
mái, dễ chịu .Việc tiếp thu kiến thức của học sinh trở nên tự nhiên, nhẹ nhàng và hiệu quả
hơn. Tuy nhiên giáo viên cũng cần biết tổ chức tro chơi như thế nào cho hợp lý, không nên
quá lạm dụng tro chơi, biến tiết học thành một hoạt động vui chơi vô bổ.
Tro chơi học tập cần có yêu cầu khác với tro chơi thông thường.
+ Chơi để đạt mục đích học tập nào? Ngoài giải trí con có mục đích cũng cố tri thức,
ky năng học tập.
+ Nội dung học tập phải gắn với các tri thức và ky năng của một nhóm học hoăc một
lĩnh vực tri thức, ky năng nào đó. Nói cách khác khi sáng tạo ra tro chơi thì người giáo viên
cần dựa vào các kiến thức và ky năng của môn học.
27
Một số kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 2A1 Trường Tiểu học Thúy Lĩnh GV: Trần Bích Thảo
+ Tro chơi học tập cần có luật chơi rõ ràng đơn giản, dễ nhớ, dễ thực hiện không đoi
hoi thời gian dài. Tro chơi học tập thường diễn ra thời gian ngắn, phù hợp với trình độ học
sinh.
Sau đây là một số tro chơi mà bản thân tôi thường sử dụng trong tiết dạy tập đọc:
Ví dụ: Khi dạy các bài tập đọc đầu tuần như bài: “Tôm Cang va Cá Con” Tôi tổ
chức cho học sinh tro chơi “Thi đọc truyện phân vai” học sinh được thảo luận theo nhóm
4 – mỗi nhóm cử 3 em, một em được chọn đọc lời người dẫn truyện, một em đọc lời Tôm
Càng, một em đọc lời của Cá Con. Sau khi học sinh đọc trong nhóm, giáo viên tổ chức cho
tưng nhóm tham gia thi đọc truyện phân vai. Giáo viên dành thời gian cho 2, 3 nhóm thi.
Giáo viên cùng ban khảo nhận xet đánh giá chung và chọn nhóm đọc tốt để biểu dương.
(Ban giám khảo do học sinh bầu ra)
Khi dạy bài thơ cuối giờ, tôi cho học sinh chơi tro chơi Thả thơ bằng cách:
- Giáo viên đưa ra luật chơi: +Học sinh đứng thành 2 đội, mỗi đội 3 học sinh
+ Một học sinh làm trọng tài
+ Thời gian chơi: 5 phút
- Cách chơi: Học sinh trong tưng đội chuẩn bị một mẩu giấy nho trong có ghi một câu thơ
hay một cụm tư có trong khổ thơ vưa học trong bài và trao mẩu giấy đó cho một người ở
đội bạn. Nếu bạn nhận được mẩu giấy đó đọc được đúng khổ thơ có câu (cụm tư) đã ghi
trong mảnh giấy thì đội bạn sẽ được ghi điểm. Tro chơi cứ lăp lại như vậy cho đến hết.
Đối với những tiết ôn tập ở tưng giai đoạn ôn giữa kỳ I, kỳ II, cuối kỳ I, kỳ II tôi thường
tổ chức tro chơi “nghe đọc đoạn, đoán tên bai”.
Cách chơi: Hai nhóm tham gia chơi ngồi đối diện nhau. Cử nhóm trưởng điều hành
hoạt động chung cả nhóm. Bắt thăm hoăc “oẳn tù tì” để chọn nhóm đọc trước. Nhóm đọc
trước (A) được mở sách giáo khoa để lựa chọn đoạn văn (trong số các câu chuyện kể do
giáo viên nêu ra, nhóm A cử người đọc đoạn cho nhóm B đoán tên chuyện, đoán tên bài
tập đọc sau đó nhóm B đọc nhóm A đoán tên câu chuyện).
Khi đoán tên bài tập đọc hoăc tên chuyện cả nhóm không được mở sách giáo khoa.
28
Một số kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 2A1 Trường Tiểu học Thúy Lĩnh GV: Trần Bích Thảo
Hai nhóm tham gia chơi đều được tính điểm so sánh – nếu tổ chức cho cả 4 nhóm cùng
chơi – khi kết thúc giáo viên chọn nhóm gioi nhất để khen ngợi. Nếu điểm bằng nhau,
nhóm nào đọc rõ ràng, rành mạch chính xác hơn là nhóm đó thắng cuộc.
Ngoài ra với cách tổ chức tro chơi ở tập đọc giáo viên có thể tổ chức một số tro chơi
như: Thi đọc đồng thanh; biết một câu, đọc cả đoạn; tìm nhanh - đọc đúng; nhớ nhanh, đọc
đúng; ghep các dong thơ thành bài; đọc thơ truyền điện,...
Qua thực tế giảng dạy việc tổ chức tro chơi học tập đã tạo hứng thú và thu hút nhiều
học sinh tham gia. Nếu biết sử dụng đúng lúc, đúng chỗ, các tro chơi học tập có tác dụng
tích cực tạo chất lượng cao cho bài học. Chúng ta cũng nên tránh tổ chức tro chơi lăp đi lăp
lại trong tiết học gây sự nhàm chán cho học sinh. Theo tôi với các tiết tập đọc chỉ nên sử
dụng tro chơi vào cuối tiết học, khi xuất hiện yêu cầu củng cố kiến thức, ky năng đã học.
Tuỳ theo tiết học giáo viên có thể vận dụng linh hoạt tổ chức tro chơi cho tưng phần bài
dạy của mình (nếu thấy cần thiết) thì hiệu quả giờ dạy đạt chất lượng cao.
CHƯƠNG IV: KẾT QUẢ
29
Một số kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 2A1 Trường Tiểu học Thúy Lĩnh GV: Trần Bích Thảo
Sau một thời gian trực tiếp giảng dạy, với tất cả sự tâm huyết của mình bản thân tôi
đã tìm toi, tự học, tự đúc rút kinh nghiệm dần dần khắc phục các tồn tại của bản thân nên
đã thu được một số kết quả như sau:
1- Về giáo viên: Tôi đã sử dụng thành thạo, linh hoạt quy trình lên lớp một tiết tập
đọc biết kết hợp nhuần nhuyễn việc đọc câu với luyện đọc tư khó, tiếng khó chữa lỗi cho
học sinh triệt để. Việc giải nghĩa tư khó và rút tư chìa khoá trong giảng dạy đã thành thạo,
biết kết hợp để ghi bảng cho hợp lý. Triệt để khai thác các câu hoi trong sách giáo khoa,
chỉ đăt câu hoi phụ khi cần thiết để dẫn dắt học sinh trả lời câu hoi chính. Lối tham giảng,
nói nhiều đã được gạt bo dần. Bản thân đã mạnh dạn đổi mới phương pháp dạy học, tổ
chức cho học sinh hoạt động nhóm, tro chơi học tập nhờ vậy mà tiết dạy ngày càng đạt
hiệu quả cao.
2- Về học sinh:
a) Ky năng đọc: Học sinh phát âm đúng không con em nào ngọng l/n, iết ngắt nghỉ
sau các dấu câu, giữa các cụm tư dài, giữa các mục, các phần trong bài học. 92,7% học
sinh đọc tốc độ 60tiếng/phút. Biết đọc thầm để hiểu nội dung và trả lời câu hoi do giáo viên
nêu ra. 30% học sinh biết rút ra nội dung sau mỗi bài tập đọc.
b) Ky năng nghe: Sau khi nghe giáo viên đọc mẫu học sinh bắt chước, có nhiều em
đọc giống giọng đọc của giáo viên. Thậm chí có 2 đến 3 học sinh con đọc hay hơn. Biết
nghe bạn đọc và nhận xet cách đọc của bạn. Không khí lớp học sôi nổi. Mỗi lần giáo viên
đăt câu hoi tìm hiểu bài thường có 60-70% số học sinh giơ tay phát biểu.
c) Ky năng nói: 70% học sinh nói dõng dạc, nói có đầu có cuối khi được giáo viên
hoi. Lời nhận xet rõ ràng, các em đã có thói quen một số thao tác cơ bản như: Phân tích,
phán đoán, so sánh, lựa chọn... Điều đáng nói ở đây là các em hứng thú học tập và tự giác
tham gia vào các hoạt động học tập.
Kêt quả khảo sát vao giưa học ky II cua lơp so với khối 2 như sau:30
Một số kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 2A1 Trường Tiểu học Thúy Lĩnh GV: Trần Bích Thảo
Lớp SL Đọc diễn cảm Đạt chuẩn Con chậm Đọc đánh vần
2A1 38 12 26 0 0
2A2 39 3 30 6 0
2A3 37 4 29 5 0
C. KẾT LUẬN
31
Một số kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 2A1 Trường Tiểu học Thúy Lĩnh GV: Trần Bích Thảo
Phân môn tập đọc chiếm vị trí hết sức quan trọng trong chương trình Tểu học. Đó là
phân môn nong cốt xuyên suốt toàn bộ chương trình nói chung và môn Tiếng việt nói
riêng. Thực tế cho thấy rằng nếu như học sinh đọc diễn cảm, hiểu nội dung bài tập đọc, các
em sẽ vận dụng và làm bài văn hay, diễn đạt gãy gọn khi nói, khi viết trong việc học các
môn khác của chương trình. Để dạy tốt phân môn Tập đọc trong quá trình giảng dạy, tôi đã
đúc rút được một số kinh nghiệm như sau:
I. BAI HOC KINH NGHIỆM:
1. Ngay tư đầu năm học giáo viên phải ổn định nề nếp, thói quen cầm sách – tập cho
học sinh cách trả lời câu hoi và điều tra, khảo sát chất lượng học tập của học sinh để có
hướng giảng dạy phù hợp với tưng đối tượng.
2. Giáo viên cần bám sát chương trình, sách giáo khoa, sách giáo viên, nhiệm vụ của
phân môn tập đọc đồng thời căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương, của lớp mình phụ
trách để chọn những hình thức tổ chức và phương pháp dạy học thích hợp.
3. Phải tự học, tự bồi dưỡng về lý luận văn học – Khi giáo viên có kiến thức về lí luận
văn học sẽ có năng lực cảm thụ bài văn, bài thơ nhờ đó giáo viên mới có giọng đọc mẫu
chuẩn xác.
4. Việc chuẩn bị bài của giáo viên chiếm vị trí quan trọng. Trong khi chuẩn bị bài giáo
viên mới xác định nội dung, mục tiêu cần truyền thụ, có khả năng lựa chọn tư khóa của bài
chính xác đồng thời nghiên cứu hệ thống câu hoi sách giáo khoa. Dựa vào trình độ của học
sinh lớp mình để chuẩn bị thêm các câu hoi gợi mở và dự kiến các tình huống xảy ra. Đăc
điểm là chuẩn bị bài giảng ngắn gọn, súc tích.
5. Mục tiêu chính của Tập đọc lớp 2 là rèn ky năng đọc. Giáo viên cố gắng tạo mọi điều
kiện để các em được đọc. Việc tìm hiểu nội dung bài chủ yếu là dựa vào hệ thống câu hoi ở
sách giáo khoa. Giải nghĩa tư phải đăt trong văn cảnh - giáo viên không nên tham lam, dài
dong, mất thời gian.
6. Chất lượng sinh hoạt chuyên môn của tổ tốt sẽ có tác động tích cực làm tiền đề quan
trọng để giúp giáo viên học hoi - đúc rút kinh nghiệm giảng dạy để chất lượng trên lớp
ngày càng tốt hơn.
32
Một số kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 2A1 Trường Tiểu học Thúy Lĩnh GV: Trần Bích Thảo
7. Trong tiết tập đọc giáo viên cần phân loại đối tượng – có yêu cầu riêng với tưng đối
tượng học sinh. Với những học sinh đọc chưa đạt chuẩn về tốc độ giáo viên cần ưu tiên để
các em được đọc nhiều. Giáo viên cần linh hoạt khi lên lớp. Lựa chọn thời điểm thích hợp
để tổ chức cho học sinh được “chơi mà học” nhằm kích thích, khơi gợi sự hứng thú của các
em.
II. ĐÊ XUẤT – KHUYẾN NGHỊ:
Việc dạy cho học sinh kĩ năng đọc tốt không phải là việc làm một sớm một chiều.
Song thông qua tất cả các môn học trong trường Tiểu học, giáo viên đều có thể rèn đọc cho
học sinh ở mọi lúc mọi nơi. Phân môn Tập đọc có tác dụng và vai tro quan trọng đối với
HS Tiểu học đăt nền móng để các em đi vào kho tang tri thức bằng ngôn ngữ của mình.
Qua việc nghiên cứu viết sáng kiến kinh nghiệm này, tôi mong muốn không chỉ riêng tôi
mà mọi giáo viên Tiểu học đều hiểu rõ vai tro và tầm quan trọng của phân môn Tập đọc
trong bộ môn Tiếng Việt để trong quá trình giảng dạy, rèn tốt cho học sinh kĩ năng đọc và
khả năng cảm thụ của học sinh. Tuy nhiên, với khả năng của bản thân con hạn chế, bài viết cũng chỉ đáp ứng được phần
nào của việc dạy Tập đọc mà thôi. Vì vậy tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của
các cấp lãnh đạo và các bạn đồng nghiệp giúp tôi đưa ra được những biện pháp rèn đọc cho
học sinh có hiệu quả hơn nữa. Tôi cũng mạnh dạn nêu một số kiến nghị sau để việc giảng
dạy phân môn Tập đọc đạt hiệu quả cao hơn như:
- C¸c cÊp l·nh ®¹o cÇn t¨ng cêng tæ chøc c¸c chuyªn ®Ò TËp ®äc, ®©y chÝnh lµ h×nh thøc häc tËp, båi dìng, trao ®æi kinh nghiÖm d¹y häc. T¹o ®iÒu kiÖn cho GV tõng bíc n©ng cao tr×nh ®é, n¨ng lùc chuyªn m«n nghiÖp vô vµ më réng tÇm hiÓu biÕt cña m×nh. - T¨ng cêng quan t©m viÖc cung cÊp thiÕt bÞ, ®å dïng d¹y häc nh tranh ¶nh, b¨ng ®Üa h×nh, ti vi, ®Çu ®Üa phôc vô bµi d¹y.- NÕu cã thÓ t×m nguån hç trî nµo ®ã ®Ó cung cÊp vµ t¹o ®iÒu kiÖn cho HS tiÕp xóc víi nh÷ng v¨n b¶n ®äc ngoµi ch¬ng tr×nh häc ®Ó c¸c
33
Một số kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 2A1 Trường Tiểu học Thúy Lĩnh GV: Trần Bích Thảo
em cã ®iÒu kiÖn tiÕp xóc víi nh÷ng v¨n b¶n l¹, bít ®i h¹n chÕ khi ®äc nh÷ng v¨n b¶n ®äc míi.
Trên đây là một số kinh nghiệm nho mà bản thân tôi đã đúc rút được. Rất mong
được cấp trên và bạn đọc góp ý kiến để bản thân tôi thực hiện có hiệu quả tốt hơn giờ Tập
đọc trên lớp.
Xác nhân cua thu trương đơn vị
……………………………………………
……………………………………………
……………………………………………
……………………………………………
……………………………………………
Ha Nội, ngay 20 tháng 4 năm 2014
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết không sao chep nội dung của
người khác.
Hiệu trưởng
Nguyễn Thị Kim Giang
Người viết
Trân Bich Thảo
34
Một số kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 2A1 Trường Tiểu học Thúy Lĩnh GV: Trần Bích Thảo
Phòng giáo dục quận Hoàng Mai
Trường Tiểu học Thúy Lĩnh KẾ HOẠCH GIẢNG DẠY--------***--------
Môn : Tập đọc Lớp: 2 A1
Tuần : 2 Thứ…..ngày….tháng…..năm 20
Làm việc thật là vuiI. Mục tiêu:1. Rèn kĩ năng đọc thành tiếng- Đọc trơn toàn bài, đọc đúng các tư khó: làm việc, quanh ta, sắc xuân, sắp sáng, lúc nào - Biết nghỉ hơi sau dấu chấm, dấu phẩy2. Rèn kĩ năng đọc hiểu- Nắm được nghĩa và biết đăt câu với tư mới: sắc xuân, rực rỡ, tưng bưng- Biết được ích lợi công việc của mỗi người, vật, con vật.- Nắm được ý của bài: mọi người, mọi vật đều làm việc, làm việc mang lại niềm vui 3. Rèn KNS: tự nhận thức về bản thân: ý thức đc mình đang làm gì và cần phải làm gì. 4. Các PP/ KTDHTC có thể sử dụng: thảo luận nhóm; trình bày ý kiến cá nhân; đăt câu hoi.II. Đồ dùng dạy học: - Máy chiếuIII. Hoạt động dạy học.TG Nội dung Hoạt động của giáo viên Hoạt động của học sinh3’ I. Kiểm tra bài cũ
- Đọc bài:Phân thương
- Gọi học sinh đọc 1 đoạn trong bài Phần thưởng mà em thích nhất.- Em học tập bạn Na đức tính gì?
- 2 học sinh đọc và trả lời
32’ II. Bài mới* Giơi thiệu bai - Học sinh lắng nghe1. Luyện đọc, kêt hợp giải nghia từ* Luyện đọc câu
- Giáo viên đọc mẫu toàn bài với giọng vui, hào hứng, nhịp hơi nhanh.- Yêu cầu học sinh đọc nối tiếp câu lần 1- Hướng dẫn đọc tư khó: quanh, quét, làm việc, sắp sáng, sắc xuân- Nhận xet yêu cầu đọc lần 2
- Học sinh theo dõi đọc thầm.
- Học sinh đọc nối tiếp câu lần 1- Đọc cá nhân, đồng thanh.- Học sinh đọc nối tiếp câu lần 2
* Luyện đọc đoạn - Giáo viên nêu bài chia làm 2 đoạn+ Đoạn 1: Tư đầu đến ngày xuân thêm tưng bưng.+ Đoạn 2: Con lại
- Đánh dấu đoạn
35
Một số kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 2A1 Trường Tiểu học Thúy Lĩnh GV: Trần Bích Thảo
* Đoạn 1: gọi 1 học sinh đọc + giảng tư chú giải- Hướng dẫn cách đọc 1 số câu:+ Quanh ta,/ mọi vật,/ mọi người/ đều làm việc.//+ Con tu hú kêu/ tu hú,/ tu hú.// Thế là sắp đến mùa vải chin.//+ Cành đào nở hoa/ cho sắc xuân thêm rực rỡ,/ ngày xuân thêm tưng bưng.//
* Đoạn 2:- Gọi học sinh đọc đoạn 2
- Yêu cầu HS đọc nối tiếp đoạn
- 1 học sinh đọc, lớp nghe nhận xet.- Học sinh luyện đọccâu
- 2,3 Học sinh luyện đọc đoạn 1, lớp nghe nhận xet.
- 2,3 học sinh đọc, lớp nghe nhận xet.- 2,3 em đọc
* Luyện đọc đoạn trong nhóm
- Yêu cầu học sinh đọc nhóm 2 - Đọc theo nhóm 2
* Thi đọc giữa các nhóm
- Gọi 2 nhóm thi đọc
- Nhận xet, tuyên dương
- 2 nhóm thi đọc trước lớp- Nhận xet, đánh giá
* Đọc đồng thanh cả bài
- Yêu cầu học sinh đọc đồng thanh cả bài.
- Lớp đọc đồng thanh
2. Hương dân tim hiêu bai- Câu 1, 3: Các vật và con vật xung quanh ta làm những việc gì?- Đặt câu với tư: rực rỡ, tưng bưng
- Gọi 1 học sinh đọc câu hoi 1
- Gọi học sinh trả lời.
- Yêu cầu đặt câu với tư: rực rỡ, tưng bưng – giáo viên sửa nếu sai- Kể thêm những con vật có ích mà em biết?
- 1 học sinh đọc câu hoi – đọc thầm đoạn 1 để trả lời lớp nhận xet, bổ sung- Học sinh nối tiếp nhau đăt câu, lớp nhận xet- 2,3 học sinh kể.
- Câu 2: Bé làm những việc gì?
- Em thấy cha mẹ và những người em biết làm những việc gì? - Gọi học sinh trả lời câu 2
- Hàng ngày em làm những việc gì? Em có đồng ý với Be là làm việc rất vui không ? Vì sao?
- 2,3 học sinh kể.
- Đọc thầm đoạn 2 và trả lời.- 2,3 học sinh trả lời- Học sinh trả lời trong nhóm 4 đại diện 1 em phát biểu Nhận xet, bổ
36
Một số kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 2A1 Trường Tiểu học Thúy Lĩnh GV: Trần Bích Thảo
sung3) Luyện đọc lại - Gọi học sinh đọc lại cả bài
- Giáo viên nhận xet chốt cách đọc hay: đọc giọng vui, hào hứng, nhịp hơi nhanh, nhấn giọng ở những tư gợi tả.- Gọi học sinh đọc
- Tổ chức thi đọc
- 1 học sinh đọc, lớp nhận xet nêu cách đọc.
- 2,3 em đọc – lớp nhận xet- Một số học sinh thi đọc, lớp bình chọn bạn đọc hay
2’ III. Củng cố, dặn dò
- Bài văn giúp em hiểu điều gì?- Nhận xet tiết học- Hướng dẫn chuẩn bị bài sau: Bạn của Nai Nho
- HS trả lời
Rút kinh nghiệm: ………………………………………………………………………..…………………….………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….…
37
Một số kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 2A1 Trường Tiểu học Thúy Lĩnh GV: Trần Bích Thảo
Phòng giáo dục quận Hoàng Mai
Trường Tiểu học Thúy Lĩnh KẾ HOẠCH GIẢNG DẠY--------***--------
Môn : Tập đọc Lớp: 2 A1
Tuần : 28 Thứ…..ngày….tháng…..năm 20
Cây dừaI. Mục tiêu:1. Rèn kĩ năng đọc thành tiếng- Đọc trơn toàn bài, đọc đúng các tư khó, dễ lẫn: nở, nước lành, rì rào, bao la…- Biết nghỉ hơi sau dấu chấm, dấu phẩy2. Rèn kĩ năng đọc hiểu- Nắm được nghĩa các tư mới: tỏa, bạc phếch, đủng đỉnh, canh,…- Hiểu nội dung bài thơ: Với cách nhìn của trẻ em, nhà thơ trẻ Trần Đăng Khoa đã miêu tảcây dưa giống như con người luôn gắn bó với đát trời và thiên nhiên.- Học thuộc long bài thơII. Đồ dùng dạy học: - Máy chiếuIII. Hoạt động dạy học.TG Nội dung Hoạt động của giáo viên Hoạt động của học sinh3’ I. Kiểm tra
bài cũ- Đọc bài:Kho báu
- Gọi học sinh đọc 1 đoạn trong bài Kho báu mà em thích nhất. - Vì sao em thích đoạn đó?
- 2 học sinh đọc và trả lời
32’ II. Bài mới* Giơi thiệu bai
Chiếu cây dưa. Giới thiệu Cây dưa là loài cây gắn bó mật thiết với đồng bào miền Nam nước ta. Bài Tập đọc hôm nay, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu bài thơ Cây dưa của nhà thơ thiếu nhi Trần Đăng Khoa
- Học sinh lắng nghe
1. Luyện đọc, kêt hợp giải nghia từ* Luyện đọc câu
- Giáo viên đọc mẫu toàn bài với giọng nhẹ nhàng. Nhấn giọng ở những tư gợi tả, gợi cảm- Yêu cầu học sinh đọc nối tiếp câu lần 1- Hướng dẫn đọc tư khó: nở, nước lành, rì rào, bao la…- Nhận xet yêu cầu đọc lần 2
- Học sinh theo dõi đọc thầm.
- Học sinh đọc nối tiếp câu lần 1(mỗi em đọc 2 dong thơ)- Đọc cá nhân, đồng thanh.- Học sinh đọc nối tiếp câu lần 2
* Luyện đọc - Giáo viên nêu bài chia làm 3 đoạn - Đánh dấu đoạn
38
Một số kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 2A1 Trường Tiểu học Thúy Lĩnh GV: Trần Bích Thảo
đoạn + Đoạn 1: 4 dong thơ đầu+ Đoạn 2: 4 dong thơ tiếp theo+ Đoạn 3: 6 dong thơ cuối* Đoạn 1: gọi 1 học sinh đọc + giảng tư chú giải và tư bạc phếch- Hướng dẫn ngắt giọng các câu thơ khó ngắt: Cây dưa xanh/ tỏa nhiều tàu,/Dang tay đón gió,/ gật đầu gọi trăng./ Thân dưa/ bạc phếch tháng năm./Quả dưa/ đàn lợn con/ nằm trên cao.//
* Đoạn 2:- Gọi học sinh đọc đoạn 2- Hướng dẫn ngắt giọng các câu thơ khó ngắt: Đêm hè / hoa nở cùng sao,/Tàu dưa-/chiếc lược/ chải vào mây xanh./ Ai mang nước ngọt, /nước lành,/Ai đeo/ bao hũ rượu/ quanh cổ dưa.//
* Đoạn 3:- Gọi học sinh đọc đoạn 2- Yêu cầu HS đọc nối tiếp đoạn
- 1 học sinh đọc, lớp nghe nhận xet.
- 2,3 Học sinh luyện đọc đoạn 1, lớp nghe nhận xet.
- 1 học sinh đọc, lớp nghe nhận xet.
- 2,3 Học sinh luyện đọc đoạn 2, lớp nghe nhận xet.
- 2, 3 Học sinh luyện đọc đoạn 2, lớp nghe nhận xet.- HS đọc nối tiếp đoạn
* Luyện đọc đoạn trong nhóm
- Yêu cầu học sinh đọc nhóm 3 - Đọc theo nhóm 3
* Thi đọc giữa các nhóm
- Gọi 2 nhóm thi đọc
- Nhận xet, tuyên dương
- 2 nhóm thi đọc trước lớp- Nhận xet, đánh giá
* Đọc đồng thanh cả bài
- Yêu cầu học sinh đọc đồng thanh cả bài.
- Lớp đọc đồng thanh
2. Hương dân tim hiêu bai- Câu 1: Các bộ phân của cây dưa được so sánh với những gì?
- Gọi 1 học đọc toàn bài
- Gọi 1 học sinh đọc câu hoi 1- Gọi học sinh trả lời.
- học đọc toàn bài
- 1 học sinh đọc câu hoi – đọc thầm cả bài để trả lời theo nhóm2 đại diện 1 em phát biểu Nhận xet, bổ sung
39
Một số kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 2A1 Trường Tiểu học Thúy Lĩnh GV: Trần Bích Thảo
- Câu 2: Tác giả đã dùng những hình ảnh của ai để tả cây dưa?
- Giáo viên nêu câu hoi- Gọi học sinh trả lời câu 2 - Học sinh trả lời Nhận
xet, bổ sung
Câu 3: cây dưa đã gắn bó với thiên nhiên như thế nào?
- Giáo viên nêu câu hoi- Gọi học sinh trả lời câu 3
- Con thích nhất câu thơ nào? Vì sao?
- Học sinh trả lời trong nhóm 4 đại diện 1 em phát biểu Nhận xet, bổ sung.- 5 em trả lời
3) Học thuộc long
- Gọi học sinh đọc lại cả bài
- Giáo viên nhận xet chốt cách đọc hay: đọc giọng nhẹ nhàng, nhấn giọng ở những tư gợi tả.- Hướng dẫn học sinh đọc thuộc long tưng đoạn, cả bài- Giáo viên xóa dần tưng dong, chỉ để lại chữ đầu dong
- Tổ chức thi đọc thuộc qua tro chơi: Thả thơ
- 1 học sinh đọc, lớp nhận xet nêu cách đọc.
- Mỗi đoạn, học sinh đọc cá nhân, lớp đọc đồng thanh, đọc thầm- Một số học sinh thi đọc, lớp bình chọn bạn đọc hay- 5,6 em đọc
2’ III. Củng cố, dặn dò
- Đọc bài thơ em có suy nghĩ gì về cây dưa?- Nhận xet tiết học- Hướng dẫn chuẩn bị bài sau: Bạn của Nai Nho
- HS trả lời
Rút kinh nghiệm: ………………………………………………………………………..…………………….………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….…
40
Một số kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 2A1 Trường Tiểu học Thúy Lĩnh GV: Trần Bích Thảo
TAI LIỆU THAM KHẢO1. Giải đáp 88 câu hoi về giảng dạy Tiếng Việt ở Tiểu học. (Lê Hữu Tỉnh –
Trần Mạnh Hưởng – NXB Giáo dục)
2. Hoi đáp vè dạy Tiếng Việt 2 (Nguyễn Minh Thuyết - NXB Giáo dục)
3. Phương pháp dạy các môn học lớp 2
(Bộ giáo dục và đào tạo - NXB Giáo dục )
4. Sách giáo viên Tiếng Việt lớp 2
5. Thiết kế bài giảng Tiếng Việt lớp 2.
6. Yêu cầu cơ bản về kiến thức và ky năng các lớp 1, 2, 3
(Bộ Giáo dục và Đào tạo)
7. Tro chơi Tiếng Việt
8. Tham khảo trên mạng Intenet
41
Một số kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 2A1 Trường Tiểu học Thúy Lĩnh GV: Trần Bích Thảo
PHÒNG GIÁO DỤC QUẬN HOÀNG MAI
TRƯỜNG TIỂU HOC THÚY LĨNH ------------***-----------
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆMMỘT SỐ KINH NGHIỆM TRONG VIỆC RÈN ĐOC
CHO HOC SINH LỚP 2A1 TRƯỜNG TIỂU HOC THÚY LĨNH
Người viết : Trần Bích ThảoGVCN: Lớp 2A1
42
Một số kinh nghiệm trong việc rèn đọc cho học sinh lớp 2A1 Trường Tiểu học Thúy Lĩnh GV: Trần Bích Thảo
HÀ NỘI: 2014
43