kỸ nĂng vĂn nghỊ lu n -...
TRANSCRIPT
1
NGUYỄN QUANG NINH
Khoa Ngữ Văn - ĐHSP Hà Nội
[LUYENTHIVIP.VN sưu tầm]
KỸ NĂNG VĂN NGHỊ LUẬN
Nghị luận về thơ ca lãng mạn cách mạng
Nghị luận về văn xuôi hiện thực cách mạng
Nghị luận xã hội
( Tập bài giảng chất lƣợng cao biên soạn theo phƣơng pháp "giải mã" ngân hàng
đề thi Tốt nghiệp THPT, tuyển sinh Đại học cao đẳng)
Hà Nội – 2012
2
NGUYỄN QUANG NINH
Khoa Ngữ Văn - ĐHSP Hà Nội
NGHỊ LUẬN
VỀ THƠ CA LÃNG MẠN CÁCH MẠNG
Phần 1
Hà Nội - 2012
3
MỤC LỤC
Phần 1: Nghị luận về thơ ca lãng mạn cách mạng
Khái quát về văn học Việt Nam ............................................................................. 5
HỒ CHÍ MINH ....................................................................................................... 10
Đề 1: Quan điểm sáng tác của HCM ........................................................................ 10
Đề 2: Sự nghiệp sáng tác văn học của HCM ............................................................ 10
Đề 3: Phong cách nghệ thuật HCM .......................................................................... 12
Đề 4: Hoàn cảnh sáng tác và nội dung "Nhật Ký Trong Tù" ................................... 12
Đề 5: Hoàn cảnh ra đời của "Tuyên ngôn độc lập" .................................................. 13
Đề 6: Phân tích "Tuyên ngôn độc lập" ..................................................................... 14
Đề 7: Hoàn cảnh sáng tác bài thơ "Chiều tối" .......................................................... 17
Đề 8: Phân tích bài thơ "Mộ - chiều tối" .................................................................. 22
Đề 9: Phân tích bài thơ "Lai tân" .............................................................................. 22
TỐ HỮU
Đề 1: Hãy nêu phong cách (nghệ thuật) thơ Tố Hữu ............................................... 25
Đề 2: Phân tích bài thơ "Từ ấy" ................................................................................ 27
Đề 3: Hoàn cảnh ra đời và đặc sắc nghệ thuật bài thơ "Việt Bắc" ........................... 30
Đề 4: Phân tích, cách dùng “mình” “ta” ................................................................... 30
Đề 5: Phân tích bài thơ "Việt Bắc" ........................................................................... 31
Đề 6: Thiên nhiên và con người Việt Bắc…………………………………………..35
Đề 7: Bức tranh cả nước ra trận đầy khí thế và những chiến công lừng
lẫy…………………………………………………………………………………..38
XUÂN DIỆU
Đề 1: Phân tích bài thơ "Vội vàng" .......................................................................... 40
Đề 2: Phân tích đoạn thơ "Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm... Hỡi xuân hồng ta
muốn cắn vào ngươi" ................................................................................................ 43
Đề 3: Những nét chính trong thơ Xuân Diệu ........................................................... 45
HUY CẬN
Đề bài: Phân tích bài thơ Tràng Giang của Huy Cận ............................................... 46
4
HÀN MẶC TỬ
Đề bài: Phân tích bài thơ "" của Hàn Mặc Tử .......................................................... 53
NGUYỄN BÍNH
Phân tích bài thơ "Tương tư" của Nguyễn Bính ....................................................... 59
NGUYỄN KHOA ĐIỀM
Đề 1: Phân tích đoạn: "Khi ta lớn......có từ ngày đó" .............................................. 61
Đề 2: Phân tích, bình giảng đoạn: "Những người vợ... hoá núi sông ta" ................. 63
Đề 3: Tư tưởng "Đất nƣớc của nhân dân" trong đoạn trích của Trường ca "Mặt đƣờng
khát vọng" ................................................................................................................. 66
Đề 4: Phân tích những đặc điểm giống nhau và khác nhau trong cảm hứng về quê
hương đất nước của văn học Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975 được thể hiện qua
hai bài thơ "Đất nước" (trong trường ca "Mặt đường khát vọng") của Nguyễn Khoa
Điềm và "Việt Bắc" của Tố Hữu. ............................................................................. 69
XUÂN QUỲNH
Đề 1: Phân tích bài thơ "Sóng" của Xuân Quỳnh ..................................................... 72
Đề 2: Phân tích bình giảng đoạn thơi “Con sóng dưới lòng sâu…Hướng về anh một
phương”…………………………………………………………………………….77
THANH THẢO
Đề: Phân tích bài thơ "Đàn ghi ta của Lorca" của Thanh Thảo ............................... 81
QUANG DŨNG
Đề 1: Tác giả, hoàn cảnh sáng tác và bút pháp bài thơ "Tây tiến" của Quang Dũng 85
Đề 2: Phân tích đoạn thơ trong "Tây tiến": Sông mã xa rồi...mùa em thơm nếp xôi....
.................................................................................................................................. 85
Đề 3: Phân tích và bình giảng (cảm nhận) đoạn II của bài Tây Tiến của Quang Dũng
"Doanh trại bừng lên..... xây hồn thơ"... .................................................................. 89
Đề 4: Phân tích đoạn thơ: "Tây tiến đoàn binh.. khúc độc hành" ............................ 92
Đề 5: Phân tích vẻ đẹp hình ảnh người lính trong "Tây tiến" .................................. 95
HOÀI THANH
Đề : Phân tích bài "Một thời đại trong thi ca" của Hoài Thanh……………………..99
5
KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM
TỪ CÁCH MẠNG THÁNG 8-1945 ĐẾN 1975
Vài nét về hoàn cảnh lịch sử, xã hội, văn hoá
- CMT8 thành công đã mở ra kỉ nguyên mới cho dân tộc, khai sinh một nền văn học mới
gắn liền với lí tưởng độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội.
- Đường lối lãnh đạo văn nghệ của Đảng là một trong những nhân tố quan trọng tạo nên
một nền văn học thống nhất.
- Cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc kéo dài suốt 30 năm, công cuộc xây dựng cuộc sống
mới ở miền Bắc,... đã tác động mạnh mẽ, sâu sắc tới văn học nghệ thuật.
- Nền kinh tế nghèo nàn, chậm phát triển.
- Giao lưu văn hoá hạn chế, chủ yếu tiếp xúc và chịu ảnh hưởng của văn hoá các nước
XHCN (Liên xô, Trung Quốc...)
Chặng
đường,
thành tựu
1945 - 1954 1955 – 1964 1965 - 1975
Chủ đề
chính
Niềm vui sướng,
hồ hởi đặc biệt khi
đất nước giành
được độc lập.
Phản ánh cuộc
kháng chiến chống
Pháp: khám phá
sức mạnh của quần
chúng nhân dân,
niềm tự hào, niềm
tin vào tương lai,
tất thắng của cuộc
kháng chiến.
Ngợi ca công cuộc đi
lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội của đất
nước.
Nỗi đau chia cắt và ý
chí thống nhất đất
nước.
Ngợi ca tinh thần yêu nước và
chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
Thơ
Cảnh khuya, Rằm
tháng giêng, Lên
núi(Hồ Chí Minh),
Bên kia sông
Đuống (Hoàng
Cầm), Tây
Tiến(Quang Dũng),
Nhớ (Hồng
Nguyên), Đất nƣớc
Các tập thơ: Gió
lộng (Tố Hữu), Ánh
sáng và phù sa (Chế
LanViên), Riêng
chung (Xuân Diệu),
Đất nở hoa, Bài thơ
cuộc đời (Huy Cận),
Gửi miền Bắc,Tiếng
sóng (Tế Hanh), Bài
Thể hiện khuynh hướng mở
rộng và đào sâu hiện thực, bổ
sung, tăng cường chất suy
tưởng chính luận. Các tập thơ
tiêu biểu: Ra trận, Máu và hoa
(Tố Hữu), Hoa ngày thƣờng -
Chim báo bão, Những bài thơ
đánh giặc (Chế Lan Viên), Hai
đợt sóng, Tôi giàu đôi mắt
6
(Nguyễn Đình
Thi), Đồng chí
(Chính Hữu), Tập
thơ Việt Bắc (Tố
Hữu)
thơ Hắc Hải (Nguyễn
Đình Thi), các bài thơ:
Mồ anh hoa nở (Thanh
Hải), Quê hƣơng
(Giang Nam),...
(Xuân Diệu), Dòng sông trong
xanh (Nguyễn Đình Thi), Đầu
súng trăng treo (Chính Hữu),
Vầng trăng quầng lửa (Phạm
Tiến Duật), Mặt đƣờng khát
vọng (Nguyễn Khoa Điềm),
Gió lào cát trắng (Xuân
Quỳnh), Hƣơng cây - Bếp lửa
(Lưu Quang Vũ - Bằng Việt),
Cát trắng (Nguyễn Duy), Góc
sân và khoảng trời (Trần Đăng
Khoa),...
Sự xuất hiện và đóng góp của
các nhà thơ trẻ thời kì chống
Mĩ: Phạm Tiến Duật, Nguyễn
Khoa Điềm, Lê Anh Xuân, Lưu
Quang vũ, Bằng Việt, Nguyễn
Mĩ, Xuân Quỳnh, Thanh Thảo,
Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu,
Nguyễn Duy, Hoàng Nhuận
Cầm, Trần Đăng Khoa,...
Văn xuôi
Truyện kí: Một
lần tới thủ đô, Trận
phố Ràng (Trần
Đăng), Đôi mắt
(truyện ngắn), Ở
rừng (nhật kí) -
Nam Cao; Làng -
Kim Lân; Vùng mỏ
(Võ Huy Tâm),
Xung kích (Nguyễn
Đình Thi), Đất
nƣớc đứng lên
(Nguyên Ngọc),
Truyện Tây Bắc
(Tô Hoài)...
Đề tài chống Pháp:
Sống mãi với thủ đô
(Nguyễn Huy Tưởng),
Cao điểm cuối cùng
(Hữu Mai), Trƣớc giờ
nổ súng (Lê Khâm).
Hiện thực đời sống
trước cách mạng: Vợ
nhặt (Kim Lân), Tranh
tối tranh sáng
(Nguyễn Công Hoan),
Mƣời năm (Tô Hoài),
Vỡ bờ (2 tập - Nguyễn
Đình Thi), Cửa biển (4
tập - Nguyên Hồng).
Công cuộc xây dựng
CNXH ở miền Bắc:
Sông Đà (Nguyễn
Ở miền Nam: Ngƣời mẹ cầm
súng (Nguyễn Thi), Rừng xà nu
(Nguyễn Trung Thành), Giấc
mơ ông lão vƣờn chim, Hòn đất
(Anh Đức), Chiếc lƣợc ngà
(Nguyễn Quang Sáng), Rừng U
Minh (Trần Hiếu Minh), Mẫn
và tôi (Phan Tứ),...
Ở miền Bắc: Kí chống Mĩ của
Nguyễn Tuân, truyện ngắn
Nguyễn Thành Long, Nguyễn
Kiên, Vũ Thị Thường, Đỗ Chu,
tiểu thuyết: Vùng trời (3 tập -
Hữu Mai), Cửa sông, Dấu chân
ngƣời lính (Nguyễn Minh
Châu), Chiến sĩ (Nguyễn Khải),
Bão biển (2 tập - Chu Văn),...
7
Tuân), Bốn năm sau
(Nguyễn Huy Tưởng),
Cái sân gạch (Đào
Vũ), Mùa lạc (Nguyễn
Khải),...
Kịch
Bắc sơn, Những
ngƣời ở lại
(Nguyễn Huy
Tưởng); Chị Hoà
(Học Phi)
Một đảng viên (Học
Phi), Ngọn lửa
(Nguyễn vũ), Quẫn
(Lộng Chương), Chị
Nhàn, Nổi gió (Đào
Hồng Cẩm)...
Quê hƣơng Việt Nam, Thời
tiết ngày mai (Xuân Trình), Đại
đội trƣởng của tôi (Đào Hồng
Cẩm), Đôi mắt (Vũ Dũng
Minh),...
Lí luận,
phê bình
Chủ nghĩa Mác
và vấn đề văn hoá
Việt Nam (Trường
chinh - 1948),
"Nhận đƣờng, Mấy
vấn đề nghệ thuật
(Nguyễn Đình
Thi), Nói chuyện
thơ kháng chiến,
Quyền sống con
ngƣời trong Truyện
Kiều (Hoài Thanh),
Giảng văn Chinh
phụ ngâm (Đặng
Thai Mai).
Các công trình của Đặng Thai
Mai, Hoài Thanh, Xuân Diệu,
Chế Lan Viên, Lê Đình Kỵ...
b. Những đặc điểm cơ bản của VHVN từ 1945 đến 1975
Những đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam từ 1945 - 1975
1. Nền văn học gắn bó sâu
sắc với vận mệnh chung của
đất nước, tập trung vào hai
đề tài chính: Tổ quốc và Chủ
nghĩa xã hội
- Biểu hiện:
Nền văn học được kiến tạo
theo mô hình "Văn hoá nghệ
thuật cũng là một mặt trận",
nhà văn là người chiến sĩ.
Đề tài Tổ quốc:
2. Nền văn học hướng về
đại chúng
- Biểu hiện:
Cái nhìn mới của người
sáng tác về nhân dân: Đất
nước là của nhân dân.
Đại chúng là đối tượng
hướng tới, cũng là nguồn
bổ sung lực lượng sáng
tác cho văn học.
Nội dung: quan tâm đến
3. Nền văn học chủ yếu mang
khuynh hướng sử thi và cảm
hứng lãng mạn
- Biểu hiện:
* Khuynh hướng sử thi:
Đề cập tới những vấn đề, sự
kiện có ý nghĩa lịch sử gắn với
số phận chung của toàn dân tộc:
Tổ quốc còn hay mất, độc lập
hay nô lệ.
Nhân vật: tiêu biểu cho lí
tưởng chung của dân tộc, kết
8
Thể hiện và giải quyết
mâu thuẩn xung đột ta ><
địch trên cơ sở đặt lợi ích
Tôt quốc, dân tộc lên hàng
đầu.
Nhân vật trung tâm:
Người chiến sĩ trên mặt trận
vũ trang, dân quân, du kích,
thanh niên xung phong,...
Đề tài Chủ nghĩa xã hội:
Hình ảnh những con
người mới, quan hệ mới giữa
những người lao động, sự
hoà hợp giữa cái riêng và cái
chung, cá nhân và tập thể
đời sống của nhân dân lao
động, những bất hạnh
trong cuộc đời cũ, niềm
vui sướng tự hào về cuộc
đời mới, khả năng cách
mạng và phẩm chất anh
hùng, xây dựng hình
tượng quần chúng cách
mạng.
Hình thức: ngắn gọn, dễ
hiểu, chủ đề rõ ràng, hình
thức nghệ thuật quen
thuộc, ngôn ngữ trong
sáng, bình dị.
tinh những phẩm chất cao đẹp
của cộng đồng (chị Út Tịch, chị
Trần Thị Lý, anh giải phóng
quân, bà mẹ đào hầm,...)
Nhà văn nhìn ngắm, miêu tả
cuộc đời bằng con mắt có tầm
bao quát lịch sử, dân tộc, thời
đại. Con người được khám phá
chủ yếu ở khía cạnh bổn phận,
trách nhiệm, nghĩa vụ công dân,
ý thức chính trị.
Lời văn mang giọng điệu ngợi
ca, trang trọng, đẹp, tráng lệ,
hào hùng.
* Cảm hứng lãng mạn:
Khẳng định phương diện lí
tưởng của cuộc sống mới, vẻ
đẹp của con người mới.
Ca ngợi chủ nghĩa anh hùng
cách mạng và tin tưởng vào
tương lai tươi sáng của đất
nước.
VÀI NÉT KHÁI QUÁT VĂN HỌC VIỆT NAM
TỪ NĂM 1975 ĐẾN HẾT THẾ KỶ XX
Hoàn cảnh lịch sử, xã hội, văn hoá
- Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước thắng lợi (1975), thời kì độc lập, tự do,
thống nhất đất nước được mở ra.
- Đất nước phải đối mặt với vô vàn khó khăn thử thách, đặc biệt về lĩnh vực kinh tế
do hậu quả nặng nề của chiến tranh tàn khốc kéo dài suốt 30 năm.
- Từ năm 1986, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cả nước bước vào công cuộc đổi mới,
từng bước chuyển sang kinh tế thị trường, điều kiện giao lưu văn hoá rộng mở, văn
học dịch, báo chí và các phương tiện truyền thông phát triển mạnh mẽ thúc đẩy
nền văn học phải đổi mới cho phù hợp với quy luật khách quan của nền văn học và
nguyện vọng của văn nghệ sĩ.
Những
chuyển biến
và thành
tựu bước
đầu
Thơ:
+ Tập Di cảo thơ (Chế Lan Viên)với những âm thầm đổi mới.
+ Hiện tượng nở rộ trường ca có xu hướng tổng kết, khái quát về
chiến tranh thông qua trải nghiệm riêng của mỗi tác giả: Những ngƣời
đi tới biển (Thanh thảo), Đƣờng đi tới thành phố (Hữu thỉnh), Trƣờng
ca sƣ đoàn (Nguyễn Đức Mậu),...
+ Các tập thơ đáng chú ý: Tự hát (Xuân Quỳnh), Ngƣời đàn bà ngồi
đan (Ý Nhi), Thƣ mùa đông (Hữu Thỉnh), Ánh trăng (Nguyễn Duy),
Xúc xắc mùa thu (Hoàng Nhuận Cầm), Nhà thơ và hoa cỏ (Trần
9
Nhuận Minh), Gọi nhau qua vách núi (Thi Hoàng), Tiếng hát tháng
giêng (Y Phương), Sự mất ngủ của lửa (Nguyễn Quang Thiều), Đổ
bóng xuống mặt trời (Trần Anh Thái),...
Văn xuôi:
+ Một số cây bút bộc lộ ý thức đổi mới cách viết về chiến tranh, cách
tiếp cận đời sống:
Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh), Hai ngƣời ở lại trung đoàn (Thái
Bá Lợi), Đứng trƣớc biển, Cù lao Tràm (Nguyễn Mạnh Tuấn),Cha và
con và..., Gặp gỡ cuối năm (Nguyễn Khải), Mùa lá rụng trong vƣờn
(Ma Văn Kháng), Thời xa vắng (Lê Lựu), tập truyện ngắn Ngƣời đàn
bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến quê (Nguyễn Minh Châu),...
+ Sau đại hội Đảng VI, văn xuôi thật sự khởi sắc với các thể loại:
phóng sự (của Phùng Gia Lộc, Trần Huy Quang, Hoàng Hữu Các,
Hoàng Minh Tường,...), truyện ngắn (Chiếc thuyền ngoài xa -
Nguyễn Minh Châu, Tƣớng về hƣu - Nguyễn Huy Thiệp,...), tiểu
thuyết (Mảnh đất lắm ngƣời nhiều ma - Nguyễn Khắc Trường; Bến
không chồng - Dương Hướng, Nỗi buồn chiến tranh - Bảo Ninh,...),
Kí (Ai đã đặt tên cho dòng sông? - Hoàng Phủ Ngọc Tường,...), hồi kí
(Cát bụi chân ai, Chiều chiều - Tô Hoài,...)...
Kịch: Phát triển mạnh mẽ, một số tác phẩm gây được tiếng vang:
Nhân danh công lí (Doãn Hoàng Giang), Hồn Trƣơng Ba, da hàng
thịt; Tôi và chúng ta (Lưu Quang Vũ), Mùa hè ở biển (Xuân Trình),...
Lí luận phê bình văn học: Có nhiều đổi mới, xuất hiện một số cây bút
trẻ có triển vọng, nhiều tiêu chí đánh giá văn học, hệ thống các khái
niệm đã được bổ sung, ý thức tự giác cao hơn trong tiếp cận đối
tượng ở các nhà phê bình, giá trị nhân văn, ý nghĩa nhân bản và chức
năng thẩm mĩ của văn học được đặc biệt chú ý.
10
HỒ CHÍ MINH (1890 – 1969)
I. Thân thế sự nghiệp.
II. Sự nghiệp thơ văn.
Đề 1: Quan điểm sáng tác.
Hồ Chí Minh đã sáng tác được nhiều tác phẩm văn học có giá trị thuộc nhiều
thể loại. Người am hiểu quy luật và đặc trưng của hoạt động văn chương. Điều đó
trước hết được thể hiện trực tiếp trong hệ thống quan điểm văn học nghệ thuật của
Người.
1. Hồ Chí Minh coi văn nghệ là vũ khí sắc bén phục vụ cho sự nghiệp Cách
mang. Nhà văn cũng phải có tinh thần xung phong như chiến sĩ trên mặt trận. Trong
bài “Cảm tƣởng thiên gia thi” - một bài thơ có tính chất tổng kết tập “Nhật kí trong tù”,
Bác đã khẳng định:
“Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong”
Chất “thép” ở đây chính là tính chiến đấu của thơ ca và văn học nghệ thuật. Sau
này, trong “Thƣ gửi các hoạ sĩ nhân dịp triển lãm hội hoạ năm 1951”, Người đã khẳng
định: “Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận
ấy”.
2. Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến đối tượng thưởng thức và tiếp nhận văn
chương. Văn chương trong thời đại Cách mạng phải coi quần chúng nhân dân là đối
tượng phục vụ. Đã có lần Bác phát biểu: “Quần chúng mong muốn những tác phẩm có
nội dung chân thực, phong phú, có hình thức trong sáng, vui tƣơi ; khi chƣa xem thì
muốn xem, xem rồi thì có bổ ích”.
3. Hồ Chí Minh luôn quý trọng tính chân thực và tính dân tộc trong văn học.
Người đã từng nhận xét một số tác phẩm hội hoạ “chất thơ mộng nhiều quá, mà cái
chất thật của sự sinh hoạt rất ít”. Người còn căn dặn nhà văn phải “miêu tả cho hay,
cho chân thật và hùng hồn” hiện thực phong phú của đời sống và phải giữ tình cảm
chân thật; “nên chú ý phát huy cốt cách dân tộc và phải có ý thức giữ gìn sự trong
sáng của tiếng Việt”. Người đề cao tính sáng tạo của người nghệ sĩ.
4. Người nêu kinh nghiệm cho các nhà báo, nhà văn: “Khi cầm bút bao giờ
cũng xuất phát từ mục đích, đối tƣợng tiếp nhận vể quyết định nội dung và hình thức
của tác phẩm”. Phải luôn luôn đặt câu hỏi: “viết cho ai?” (đối tượng), “viết để làm
gì?” (mục đích), sau đó mới quyết định “viết cái gì?” (nội dung) và “viết nhƣ thế
nào?” (hình thức). Như vậy, đối tượng và mục đích quy định nội dung và hình thức
của tác phẩm.
Kết luận: Vì thế, những tác phẩm của Hồ Chí Minh chẳng những có tư tưởng
sâu sắc, nội dung thiết thực mà còn có hình thức nghệ thuật sinh động, da dạng.
Đề 2: Trình bày tóm tắt sự nghiệp thơ văn của Hồ Chí Minh
.
11
Hồ Chí Minh - Nguyễn Ái Quốc đã có lần tâm sự “suốt đời tôi chỉ có một ham
muốn, ham muốn đến tột bậc, đó là Tổ quốc tôi đƣợc độc lập, nhân dân tôi đƣợc tự do,
đồng bào tôi ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng đƣợc học hành”. Vì sự nghiệp cứu
nước cứu dân, Người không xem văn chương là sự nghiệp chính mà là một vũ khí sắc
bén cho cuộc chiến đấu vì lý tưởng. Bởi vậy, Người đã để lại một di sản văn học lớn
về tâm vóc tư tưởng, phong phú về thể loại và đặc sắc về phong cách nghệ thuật.
1. Văn chính luận.
Từ những năm 20 của thế kỉ trước, các bài chính luận mang bút danh Nguyễn
Ái Quốc, viết bằng tiếng Pháp đăng trên các báo: “Ngƣời cùng khổ”, “Nhân đạo”,
“Đời sống thợ thuyền”… đã thể hiện tính chiến đấu hết sức mạnh mẽ. Các tác phẩm
này tập hợp trong tác phẩm gọi là “Bản án chế độ thực dân”. Nội dung: lên án chính
sách tàn bạo của chế độ thực dân Pháp đối với các nước thuộc địa và kêu gọi những
người nô lệ bị áp bức liên hiệp lại để đoàn kết đấu tranh (lê án tội ác thực dân ép buộc
hàng vạn người dân bản xứ đổ máu vì mẫu quốc trong đại chiến thế giới nhứ I; bóc lột
và đầu độc họ bằng những sưu thuế, rượu và thuốc phiện; tổ chức một bộ máy cai trị
bất chấp công lý và nhân quyền, đánh giết người vô tội. Tác phẩm được viết bằng
những cứ liệu phong phú, chân thực, chính xác và bằng một trái tim yêu nước, yêu dân
thiết tha, nồng nàn, bằng giọng văn châm biếm, đả kích sắc sảo, giàu chất trí tuệ).
Tác phẩm tiêu biểu nhất của Bác là “Tuyên ngôn độc lập”. Tác phẩm này không
chỉ mang ý nghĩa lịch sử mà còn mang ý nghĩa tư tưởng, pháp lý; ý nghĩa nhân văn sâu
sắc, có giá trị nghệ thuật độc đáo. Sau tuyên ngôn là lời kêu gọi “toàn quốc kháng
chiến” năm 1946, lời kêu gọi “chống Mỹ cứu nƣớc” năm 1966 được viết trong những
giờ phút thử thách đặc biệt của dân tộc. Những áng văn chính luận tiêu biểu của Hồ
Chí Minh không chỉ được viết bằng lý trí sáng suốt, trí tuệ sắc sảo mà bằng cả tấm
lòng yêu, ghét nồng nàn của một trái tim vĩ đại được diễn đạt bằng lời văn chặt chẽ,
xúc tích.
2. Truyện và kí.
Tiêu biểu là tập “truyện và kí” của Nguyễn Ái Quốc, hầu hết được viết bằng
tiếng Pháp vào những năm 20 của thế kỉ trước: “Vi hành”, “Lời than vãn của bà Trƣng
Trắc”, “Con rùa”, “Những trò lố hay là Varen và Phan Bội Châu”… Những truyện
này nhìn chung đều nhằm tố cáo tội ác dã man, bản chất tàn bạo, sảo trá của bọn thực
dân và phong kiến tay sai đối với nhân dân lao động các nước thuộc địa; đồng thời đề
cao những tấm gương yêu nước và Cách mạng. Bằng một bút pháp hiện đại và nghệ
thuật kể chuyện linh hoạt, Nguyễn Ái Quốc đã tạo nên được những tình huống truyện
độc đáo, hình tượng sinh động. Qua những thiên truyện này, người đọc có thể nhận ra
một tài năng với trí tưởng tượng phong phú, một vốn văn hhoá sâu rộng, một trí tuệ
sâu sắc và một trái tim tràn đầy tình yêu nước, Cách mạng. Sau này, Bác còn có tập
“Nhật kí chìm tàu”, “Vừa đi đƣờng vừa kể chuyện”, “Giấc ngủ mƣời năm” tràn đầy
cảm hứng lãng mạn.
3. Thơ ca.
- Đây là sự nghiệp nổi bật nhất của Hồ Chí Minh, tiêu biểu là tập “Nhật kí trong
tù” viết từ mùa thu năm 1942 đến mùa thu năm 1943 trong thời gian Người bị cầm tù
vô lý ở Quảng Tây – Trung Quốc.
+ Nội dung: Tái hiện một cách chân thật bộ mặt tàn bạo của chế độ nhà tù quốc
dân Đảng và một phần hình ảnh xã hội Trung Quốc thời ấy với ý nghĩa phê phán sâu
sắc.
12
- Nhật ký chủ yếu có tính hướng nội. Cho nên, tập thơ còn là bức chân dung
tinh thần tự hoạ, phản ánh tâm hồn và nhân cách cao đẹp của người chiến sĩ Cách
mạng vĩ đại trong hoàn cảnh thử thách nặng nề của chốn lao tù. Đó là con người có
nghị lực phi thường, tâm hồn luôn luôn khát khao tự do hướng về Tổ quốc.
- Rất nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên, nhạy cảm trước niềm vui, nỗi
buồn của con người; luôn luôn thể hiện phong thái ung dung tự tại, tràn đầy tinh thần
lạc quan.
Tập thơ sâu sắc về tư tưởng, độc đáo mà đa dạng về bút pháp, kết tinh giá trị tư
tưởng và nghệ thuật thơ ca Hồ Chí Minh. Ngoài “Nhật kí trong tù”, Người còn có
những bài thơ trữ tình viết từ năm 1941 đến thời kì chống Mỹ như “Bắc Pó hùng vĩ”,
“Nguyên tiêu”, “Cảnh khuya”… vừa cổ điển vừa hiện đại và nhân vật trữ tình là một
nhà ái quốc, một vị anh hùng dân tộc mang nặng nỗi nước nhà, tâm hồn tin tưởng ở
tương lai tất thắng của Cách mạng. Ngoài ra, Người còn có loại thơ vận động, tuyên
truyền Cách mạng giản dị như ca dao, hò, vè dễ thuộc… như “Bài ca sợi chỉ”, “Con
cáo với tổ ong”, “Ca dân cày”…
Kết luận: Bác đã để lại một sự nghiệp văn chương vô giá. Những tác phẩm ấy đã kết tinh sâu sắc
tư tưởng, tình cảm và tâm hồn cao đẹp của Người. Tìm hiểu thơ văn Hồ Chí Minh,
người đọc thuộc nhiều thế hệ sẽ tìm thấy trong đó những bài học vô giá.
Đề 3: Những nét chính về phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh.
I. Phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh rất độc đáo, đa dạng và rất thống
nhất.
II. Văn chính luận của Người thường ngắn gọn, xúc tích, lập luận chặt chẽ, lý lẽ
đanh thép, bằng chứng đầy sức thuyết phục, giàu tính chiến đấu, đa dạng về bút pháp.
Văn chính luận mà không khô khan, trái lại thấm đượm tình cảm, giàu hình ảnh
sinh động. Giọng văn luôn luôn biến đổi theo cảm xúc, theo đối tượng, khi thì ôn tồn,
tha thiết thấu lý đạt tình, khi đanh thép, mạnh mẽ, hùng hồn.
III. Về truyện ký: được viết theo bút pháp trí tuệ, hiện đại, sáng tạo. Đặc biệt có
giọng cười trào phúng nhẹ nhàng, hóm hỉnh nhưng thâm thuý, sâu cay.
IV. Thơ ca: thể hiện sâu sắc và tinh tế vẻ đẹp tâm hồn Hồ Chí Minh.
- Những bài thơ nhằm mục đích tuyên truyền được viết bằng hình thức bài ca,
lời lẽ giản dị, mộc mạc, dễ nhớ, mang màu sắc dân gian hiện đại.
- Những bài thơ nghệ thuật viết theo thẩm mĩ, trữ tình, hầu hết là thơ tứ tuyệt cổ
điển bằng tiếng Hán mang đặc điểm của thơ ca phương Đông với bút pháp vừa cổ điển
vừa hiện đại, vừa chứa chan chất tình vừa lấp lánh chất thép thể hiện một tư tưởng vô
cùng giản dị mà rất sâu sắc.
Đề 4: Hoàn cảnh ra đời và nội dung cơ bản của tập “Nhật kí trong tù”
A. Hoàn cảnh sáng tác.
Tháng tám năm 1942, với danh nghĩa là đại biểu Việt Nam độc lập đồng minh
và phân bộ quốc tế phản xâm lược của Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc lấy tên là Hồ Chí
13
Minh lên đường sang Trung Quốc để tranh thủ sự viện trợ của thế giới. Sau nửa tháng
đi bộ, đến thị trấn Túc Vinh - Quảng Tây, Nguyễn Ái Quốc bị chính quyền Tưởng
Giới Thạch bắt giam vô cớ trong suốt 13 – 14 tháng tù (từ đầu mùa thu năm 1942 đến
cuối mùa thu năm 1943). Tuy bị đày ải vô cùng cực khổ, Hồ Chí Minh vẫn làm thơ.
Người sáng tác 133 bài thơ bằng chữ Hán, ghi trong cuốn sổ tay mà Người đặt tên là
“Ngục trung nhật kí”. Như vậy, “Nhật kí trong tù” là tập nhật ký bằng thơ được viết ở
trong tù.
B. Nội dung:
1. Tập thơ phản ánh chân thực bộ mặt xấu xa đen tối của chế độ nhà tù, cũng
như xã hội Trung Quốc thời Tưởng Giới Thạch.
2. Tập thơ thể hiện tâm hồn cao đẹp của người tù vĩ đại.Về phương diện này có
thể xem “ Nhật Kí trong tù” như một bức chân dung tinh thần tự họa của Hồ Chí Minh.
a. Chân dung Bác trong tập thơ là hình ảnh nhà ái quốc vĩ đại, lúc nào cũng
nóng lòng, sốt ruột hướng về Tổ quốc, khao khát tự do, là chiến sĩ cộng sản kiên
cường, bất khuất. Bị đày đọa trong lao tù, Người vẫn ung dung tràn đầy tinh thần lạc
quan hướng về Tổ quốc.
b. Đó là hình ảnh một bậc đại nhân có tình yêu thương bao la, thấu hiểu cảnh
ngộ của mọi kiếp người, nhạy cảm với niềm vui, nỗi buồn của con người.
c. Tâm hồn nhạy cảm với mọi biến thái của thiên nhiên. Tập nhật ký bộc lộ cốt
cách của một thi nhân, một nghệ sỹ lớn.
Kết luận Tập thơ tuy được viết bằng chữ Hán, nhưng về mặt nội dung và cả về phong
cách rõ ràng là một tác phẩm văn học Việt Nam rất đậm đà tính chất dân tộc, một tác
phẩm văn học lớn có tác dụng giáo dục sâu sắc phẩm chất, đạo đức cách mạng cho tất
cả chúng ta ngày nay ( lời tựa lần xuất bản đàu tiên của Viện văn học).
TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
Đề 5: Trình bày hoàn cảnh ra đời, mục đích sáng tác. Nội dung chính
“ Bản Tuyên ngôn độc lập” của Chủ tịch Hồ Chí Minh
A.Hoàn cảnh sáng tác:
Ngày 19-8-1945, chính quyền ở Hà Nội về tay nhân dân. Ngày 26-8-1945 Chủ tịch Hồ
Chí Minh từ chiến khu Cách mạng Việt Bắc về tới Hà Nội. Người soạn thảo bản
Tuyên ngôn độc lập tại căn nhà 48 phố Hàng Ngang. Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường
Ba Đình Hà Nội, trước hàng chục vạn đồng bào, Người thay mặt chính phủ lâm thời
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc bản Tuyên ngôn độc lập. Lúc này cũng là thời
điểm bọn đế quốc thực dân nấp sau đồng minh vào tước khí giới quân đội Nhật đang
âm mưu chiếm lại nước ta. Thực dân Pháp tuyên bố: “ Đông Dƣơng là thuộc địa của
Pháp bị Nhật chiếm đóng, nay Nhật đầu hàng nên Đông Dƣơng phải thuộc quyền của
Pháp”.
B.Mục đích sáng tác:
1.Chính thức tuyên bố trước nhân dân, trước thế giới sự ra đời của nước Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa, khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam.
14
2. Tố cáo tội ác của thực dân Pháp đối với dân ta suốt 80 năm qua và tuyên bố
chấm dứt chế độ thực dân, xóa bỏ mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam.
3. Khẳng định ý chí của dân tộc Việt Nam kiên quyết bảo vệ nền độc lập, tự do
của Tổ quốc.
Đề 6: Phân tích bản “ Tuyên ngôn độc lập” ( Theo quan điểm: từ góc độ văn
chính luận)
Mở bài Do hoàn cảnh không gian địa lý đặc biệt: lưng tựa Trường sơn hùng vĩ, mặt
hướng ra Biển Đông bốn mùa sóng vỗ, trải qua mấy ngàn năm lịch sử, dân tộc ta đã
từng phải đương đầu với đủ loại ngoại xâm: từ Bắc xuống, từ Nam lên, từ Tây sang, từ
Đông vào.Vì vậy cùng với những chiến công hiển hách phá Tống, bình Nguyên, diệt
Minh, đuổi Thanh, nền văn học của chúng ta cũng đã có những áng văn kiệt tác
khẳng định đanh thép, hùng hồn chủ quyền độc lập dân tộc. Bên cạnh bài thơ “Thần”
của Lý Thường Kiệt sang sảng ngâm trên sông Như Nguyệt, “Bình Ngô đại cáo” một
thiên cổ hùng văn của Nguyễn Trãi, ngày nay chúng ta có “Bản Tuyên ngôn độc lập”
một áng văn chính luận mẫu mực của Chủ tịch Hồ Chí Minh- “Tinh hoa của dân tộc,
khí phách của non sông”- Phạm Văn Đồng.
Thân bài:
I.Vài nét về hoàn cảnh sáng tác.
II.Đối tƣợng và mục đích của Bản Tuyên ngôn “ Bản Tuyên ngôn độc lập” khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đọc
tại Quảng trường Ba Đình lịch sử được Bác viết ra cho đồng bào cả nước và nhân dân
thế giới: “Hỡi đồng bào cả nƣớc… chúng tôi trịnh trọng tuyên bố với thế giới”. Vì viết
cho đồng bào nên lời văn của Bản tuyên ngôn xiết bao xúc động vì đây là lời của
người cha, người mẹ nói với các con:
“ Ôi ngƣời cha đôi mắt mẹ hiền sao
Giọng của Ngƣời không phải sấm trên cao
Ấm từng tiếng thấm vào lòng mong ƣớc
Con nghe bác tƣởng nghe lời non nƣớc
Tiếng ngày xƣa và cả tiếng mai sau”
Vì tuyên bố với thế giới nên giọng văn của Bản tuyên ngôn sắc bén, lý lẽ đanh
thép. Để tái hiện lại giờ phút thiêng liêng khi Bác đọc Bản tuyên ngôn tại Quảng
trường Ba Đình lịch sử, trong bản trường ca “ Theo chân Bác”, Tố Hữu đã viết mấy
câu thơ thật chân thực và xúc động:
“ Ngƣời đọc tuyên ngôn…rồi chợt hỏi:
“ Đồng bào nghe tôi nói rõ không?”
Ôi câu hỏi hơn mọi lời kêu gọi
Rất đơn sơ mà ấm bao lòng
Cả muôn triệu một lời đáp: “ Có”
Nhƣ Trƣờng sơn say gió Biển Đông
Vâng Bác nói chúng con nghe rõ
Mỗi lời Ngƣời mang nặng núi sông”
15
Và Người viết nhằm mục đích tuyên bố quyền độc lập của dân tộc ta và ngăn
chặn âm mưu của Anh, Mỹ, đăc biệt là Pháp nhân danh bảo hộ, khai hóa, đồng minh,
hòng cướp lại nước ta một lần nữa.
III. Những lý lẽ có tính chất nguyên lý:
Trước hết để khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc ta là đúng nguyên lý,
phù hợp với công pháp quốc tế, Bác đã trích hai câu nói nổi tiếng trong bản Tuyên
ngôn độc lập của nước Mỹ 1776 và bản tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của
Pháp 1791: “ Tất cả mọi ngƣời sinh ra có quyền bình đẳng.Tạo hóa cho họ những
quyền không ai có thể xâm phạm đƣợc; trong những quyền ấy, có quyền đƣợc sống,
quyền tự do và mƣu cầu hạnh phúc… Ngƣời ta sinh ra tự do, bình đẳng về quyền lợi
và phải luôn luôn tự do và bình đẳng về quyền lợi. Suy rộng ra câu ấy có nghĩa là tất
cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống,
quyền sung sƣớng và quyền tự do”.
1/ Ý kiến suy rộng ra ấy là một đóng góp vô cùng quan trọng của Hồ Chí
Minh đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.
Một nhà văn hóa nổi tiếng của thế giới đã viết: “ Cống hiến nổi tiếng của Cụ
Hồ Chí Minh là ở chỗ Ngƣời đã phát triển quyền của con ngƣời thành quyền lợi của
dân tộc. Nhƣ vậy là tất cả mọi dân tộc đều có quyền tự quyết lấy vận mệnh của mình”.
Ý kiến suy rộng ra của Bác có thể được xem là tiếng chuông khởi đầu cho thời kỳ bão
táp cách mạng ở các nước thuộc địa sẽ làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân trên khắp thế
giới vào những năm 60-70 của thế kỷ 20.
=>Như thế là Bác đã dùng những lý lẽ của chính tổ tiên người Mỹ, người Pháp
đã ghi trong những bản tuyên ngôn được cả thế giới công nhận và từng làm vẻ vang
cho truyền thống, tư tưởng văn hóa của những dân tộc đó. Cách viết như thế là vừa
khéo léo, vừa kiên quyết.
2/ Khéo léo vì tỏ ra rất trân trọng những danh ngôn bất hủ của người Pháp,
người Mỹ.
3/ Kiên quyết vì như ngầm cảnh cáo “Nếu họ tiến quân xâm lƣợc Việt Nam, thì chính họ đã phản bội lại tổ tiên mình,
làm vấy bẩn lên lá cờ nhân đạo, thiêng liêng của những cuộc cách mạng vĩ đại của họ
mà đƣợc cả thế giới ngƣỡng vọng”. Ở đây Bác đã vận dụng thủ pháp nghệ thuật rất
hiệu quả trong việc đánh địch là dùng “gậy ông để đập lƣng ông”. Nhà thơ Chế Lan
Viên cho rằng: “ Những câu tuyên ngôn trích trên kia vừa là quả táo với chúng ta, vừa
là quả lựu đạn đối với kẻ thù: khạc chẳng ra, nuốt chẳng vào”
4/ Vả lại cách viết như vậy, phải chăng Bác đã đặt ba bản tuyên ngôn ngang
nhau, đặt ba cuộc cách mạng ngang nhau? Điều đó làm cho ta gợi lại niềm tự hào bài “ Đại Cáo bình ngô” nổi tiếng khi
mở đầu tác phẩm bằng hai vế cân xứng để đặt ngang hàng Triệu- Đinh- Lý- Trần của
Việt Nam với Hán- Đường- Tống- Nguyên. Bác Hồ đặt cân xứng bản tuyên ngôn của
ta với bản tuyên ngôn của Mỹ, Pháp.Cũng phải thôi, vì cuộc cách mạng tháng 8 năm
1945 hầu như đã giải quyết đúng nhiệm vụ hai cuộc cách mạng của Mỹ ( 1776) và của
Pháp ( 1789). Bản tuyên ngôn của Bác đã nêu rõ: “ Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích
thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nƣớc Việt Nam độc lập”. Đó cũng là yêu
cầu đặt ra cho cuộc cách mạng nước Mỹ, đấu tranh giải phóng dân tộc thuộc địa Bắc
Mỹ ra khỏi ách thực dân Anh. Bản tuyên ngôn của Pháp cũng viết: “ Dân ta lại đánh
16
đổ chế độ quân chủ mấy mƣơi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa”. Đây cũng
là tinh thần cơ bản của cuộc cách mạng dân quyền, nhân quyền của Pháp thế kỷ 18.
IV. Những lý lẽ nhằm bác bỏ luận điệu sảo trá của kẻ thù:
Tiếp đó là để tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân loại tiến bộ để đẩy lùi kẻ
thù trực tiếp và nguy hiểm nhất đe dọa nền độc lập dân tộc đó là thực dân xâm lược
Pháp, Bác đã nêu lên lý lẽ và lập luận hết sức thuyết phục về mặt pháp lý nhằm bác bỏ
luận điệu của bọn đế quốc thực dân.
1/ Để vạch trần luận điệu về công lao khai hóa của Pháp đối với Đông
Dương,Bác đã nêu rõ “ những hành động trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa” của
chúng trong 80 năm thống trị nước ta về hai phương diện: chính trị và kinh tế, thủ tiêu
mọi quyền tự do dân chủ, chia rẽ Tổ quốc ta thành ba kỳ:
“ Giặc cƣớp hết non cao biển rộng
Cƣớp cả tên nòi giống tổ tiên
Lƣỡi gƣơm cắt đất ngăn miền
Núi sông một khúc ruột liền chia ba”
“ Tắm các phong trào yêu nƣớc và cách mạng của ta trong những bể máu”
Thi hành chính sách ngu dân, đầu độc dân ta bằng thuốc phiện, rượu lậu, bóc lột
vơ vét đến tận xương tủy làm cho nước ta xơ xác, dân ta tiêu điều, cuối cùng chúng đã
gây ra nạn đói rùng rợn khủng khiếp khiến cho từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ hơn hai triệu
đồng bào ta chết đói. Như vậy là khai hóa đó sao? Sự thực là các ngài đã khai tử cả
dân tộc chúng tôi.
2/ Để phơi bày luận điệu xảo trá về “công lao bảo hộ Đông Dƣơng” của Pháp,
bản tuyên ngôn đã chỉ rõ đó không phải là công mà là tội. Vì chúng chẳng những
không bảo hộ mà trong năm năm chúng đã bán đứng nước ta hai lần cho Nhật.
3/ Và cuối cùng bác bỏ lời tuyên bố là: Đông Dương là thuộc địa của chúng với
tư cách là thành viên của đồng minh, bản tuyên ngôn chỉ rõ đó là tội: Pháp đã quỳ gối
đầu hàng Nhật, kẻ thù của đồng minh, dâng Đông Dương cho Nhật làm một căn cứ
đánh đồng minh. Pháp không còn tư cách gì là đồng minh để trở lại đây nữa. Và dân ta
đã giành độc lập từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp, giành bằng sự nổi dậy của
chính mình, giành khi đồng minh chưa bén mảng đến đây. Luận điểm này đứng về ý
nghĩa pháp lý là vô cùng quan trọng. Nó sẽ dẫn đến lời tuyên bố hùng hồn tiếp theo
của bản tuyên ngôn: “ Bởi thế, cho nên, chúng tôi, lâm thời chính phủ của nƣớc Việt
Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với
Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ƣớc mà Pháp đã ký về Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc
quyền của Pháp trên đất nƣớc Việt Nam”.
4/ Việt Nam đã độc lập đó là thực tế. Việt Nam phải được độc lập đó là theo các
nguyên tắc của Hội nghị Cựu Kim Sơn của các nước đồng minh “ Nƣớc Việt Nam có
quyền hƣởng tự do độc lập, và thực tế đã trở thành một nƣớc tự do, độc lập” chính là
nhấn mạnh lý và sự ấy, đồng minh khó bẻ một lý nào.
V. Những lý lẽ nhằm khẳng định dân tộc ta có đủ tƣ cách để hƣởng độc lập Còn dân tộc ta thì sao? Dân tộc ta có xứng đáng được hưởng độc lập tự do hay
không? Có đủ tư cách làm chủ đất nước mình hay không? Bản tuyên ngôn cũng đưa ra
những lý lẽ đầy tính chất khẳng định.
1/ Nếu thực dân Pháp có tội phản bội đồng minh- dâng Đông Dương cho Nhật
thì nhân dân ta đã anh dũng chống Nhật với tư cách là thành viên đồng minh.
17
2/ Nếu thực dân Pháp bộc lộ tính chất hèn nhát phản động phi nhân đạo ở hành
động thẳng tay khủng bố Việt Minh. Thậm chí đến khi thua chạy còn nhẫn tâm giết nốt
số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng thì nhân dân ta vẫn giữ một thái độ khoan
hồng và nhân đạo với kẻ thù khi chúng đã thất thế “ Sau cuộc biến động 9 - 3Việt
Minh đã giúp cho ngƣời Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều ngƣời Pháp ra
khỏi trại giam Nhật và bảo vệ tính mạng, tài sản của họ”
Một dân tộc đã chịu bao đau khổ dưới ách thực dân tàn bạo, đã anh dũng chiến
đấu cho độc lập, tự do; đã đứng hẳn về phe đồng minh chống phát xít; đã nêu cao tinh
thần nhân đạo bác ái , như thế “ Dân tộc đó phải đƣợc tự do,. Dân tộc đó phải đƣợc
độc lâp”
* Nghệ thuật: Bản tuyên ngôn độc lập của Bác không chỉ thuyết phục người đọc
bằng những lý lẽ chặt chẽ, mà còn lay động hàng triệu trái tim người đọc bởi lời văn
đầy cảm hứng yêu nước, nhân đạo: “ khi đanh thép hùng hồn, khi căm giận uất ức, khi
lâm li thắm thiết”. Vì là tuyên ngôn nên vừa khẳng định quyền của ta vừa vạch trần tội
ác của giặc. Trong một đoạn văn ngắn mà Bác láy lại 13 chữ “ quyền” và sau đó 14
câu, câu nào cũng có “ chúng” nặng như búa tạ. Và mỗi chữ “ chúng” ấy,mỗi tội ác
của “ chúng” ấy như trút xuống chữ “ ta” làm xúc động lòng người… “một dân tộc”
hai lần nhấn mạnh chữ “ gan góc”, bốn lần nhấn mạnh chữ “ dân tộc”, rồi hai câu điệp
lại như những nhát dao mỗi lúc chém xuống mạnh hơn “ dân tộc đó… dân tộc đó”
“ đọc lên sảng khoái biết chừng nào”- Chế Lan Viên.
Kết luận Tóm lại Bản Tuyên ngôn độc lập ngắn gọn của Bác đã trở thành một bài văn
chính luận mẫu mực nổi tiếng. Bởi bài văn đã xây dựng được một hệ thống lập luận
chặt chẽ, đưa ra được những bằng chứng hùng hồn, không ai có thể chối cãi được.
Đằng sau đó là một tầm tư tưởng văn hóa của Hồ Chí Minh, Người đã tổng kết được
một cách giản dị mà xúc tích những kinh nghiệm đấu tranh của nhiều thế kỷ giành độc
lập dân tộc, dân quyền, nhân quyền của dân tộc ta và nhân loại.
“ Trời bỗng xanh nắng chói lòa
Ta nhìn lên Bác, Bác nhìn ta
Bốn phƣơng chắc cũng nhìn ta đó
Nƣớc Việt nam dân chủ cộng hòa”
ĐỀ 7: CHIỀU TỐI (Hồ Chí Minh)
Mở bài:
Với bút pháp vừa cổ điển vừa hiện đại, bằng một vài nét chấm phá, Bác đã khắc
họa được một bức tranh trời chiều xinh xắn nơi núi rừng có ánh lửa hồng của lò than
nhà ai chiếu sáng hình ảnh cô gái lao động. Từ bức tranh thơ bừng sáng lên một tấm
lòng lạc quan, đôn hậu đối với con người và đặc biệt nhạy cảm trước vẻ đẹp thiên
nhiên của Bác. Đó chính là nét đặc sắc nhất của bài thơ “ Chiều tối”.
18
Thân bài:
I.Hoàn cảnh sáng tác:
Trong tác phẩm “ Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch” tác
giả Trần Dân Tiên có cho biết hoàn cảnh sáng tác của bài thơ như sau: “ Ngƣời ta giải
Cụ Hồ đi nhƣng không cho biết Cụ đi đâu.Tay bị trói giật cánh khuỷu, cổ mang xích,
có sáu ngƣời lính mang súng giải đi, đi mãi nhƣng vẫn không cho biết đi đâu. Dầm
mƣa, dãi nắng, trèo núi, qua truông. Mỗi buổi sáng gà gáy đầu, ngƣời ta đã giải Cụ
Hồ đi, mỗi buổi chiều, khi chim về tổ, ngƣời ta dừng lại ở một địa phƣơng nào đó
giam Cụ vào trong một xà lim, trên một đống ra bẩn, không cởi trói cho Cụ ngủ”.
II. Sự hài hòa giữ cảnh và tình: ( Biểu hiện tâm trạng trong cảnh vật)
Phải gắn bài thơ,với cảnh tù đày, chuyển lao đầy gian khổ của Bác như thế,
chúng ta mới thấy hết ý nghĩa sâu xa của bài thơ. Suốt ngày phải chuyển lao gian khổ,
gần về tối, người tù ngẩng đầu lên đỉnh trời rồi bất chợt nhận ra cánh chim bay về rừng
tìm chốn ngủ và làn mây lẻ loi lững lờ trôi. Dù lâm vào cảnh ngộ bị đọa đày, Hồ Chí
Minh vẫn thể hiện tình cảm yêu mến, thiết tha và thái độ đồng cảm, chia sẻ với tạo vật
thiên nhiên vùng sơn cước lúc chiều buông. Bởi: “ Bác yêu trăng nhƣ thể yêu ngƣời”.
Đối với Bác hoa với trăng là bạn.
Hình ảnh thơ của Bác xuất hiện thật tự nhiên. Tuy là hình ảnh thơ mang màu
sắc ước lệ của thơ cổ điển, nhưng vẫn phù hợp với cảnh thực, tâm trạng thực của nhà
thơ. Bởi cũng như tâm trạng con người đang mệt mỏi cô đơn, hình ảnh cánh chim xuất
hiện ở câu thơ đầu tiên gợi cho ta một cái gì đó mệt mỏi, chán chường
“ Quyên Điểu quy lâm tầm túc phụ”
Ở đây đã có sự hòa hợp cảm thông giữa con người và cảnh vật. Điều đó cũng
được thể hiện rõ hơn ở câu thơ thứ hai bởi từ “ Cô vân mạn mạn độ thiên không”. Bản
dịch chưa lột tả được hết ý, hết tình trong hình ảnh “ cô vân” và từ “ mạn mạn” trong
nguyên tác. Hình ảnh “ cô vân” nói lên làn mây lẻ loi cô đơn gợi nỗi buồn đơn côi của
cảnh chiều. Từ “mạn mạn” nghĩa là chậm chậm cũng gợi lên sự uể oải, lững lờ của
đám mây chiều. Điều đó làm cho làn mây cũng trở nên có tâm trạng hơn,dường như nó
cũng mang nỗi buồn như con người. Th¬ ca cæ ®iÓn xa nay hay sö dông thñ ph¸p lÊy kh«ng gian ®Ó miªu t¶ thêi
gian. Cho nªn trong c¶nh chiÒu muén thêng xuÊt hiÖn h×nh ¶nh c¸nh chim, lµn m©y:
Chim h«m thoi thãt vÒ rõng
(NguyÔn Du)
“Chóng ®iÓu cao phi tËn
C« v©n ®éc khø nhµn”
(Lý B¹ch)
Xu©n DiÖu dÞch:
“Chim rõng mét lo¹t cao bay
Trªn trêi l¬ löng ®¸m m©y mét m×nh”
Ở ®©y th¬ B¸c còng cã h×nh ¶nh chim bay mái nhng l¹i cã thªm h×nh ¶nh cá
v©n. Song kh«ng ph¶i lµ c« v©n ®éc khø nhµn, gîi sù nhµn nh·, c« ®éc, thanh cao,
phiªu diªu, tho¸t tôc mµ lµ “C« v©n m¹n m¹n ®é thiªn kh«ng” lµm cho khung c¶nh
buæi chiÒu thªm c« ®¬n, mÖt mái buån th¬ng h¬n. §óng lµ c©u th¬ cña một tï nh©n
19
vµo buæi chiÒu tµ n¬i xa xø. Bëi “Ngêi buån c¶nh cã vui ®©u bao giê”. Buån v× xa tæ
quèc quª h¬ng, b¹n bÌ ®ång chÝ, trong khi C¸ch m¹ng ®ang mong chê, buån v× bÞ mÊt
tù do kh«ng biÕt bao giê míi ®îc ra khái tï. Ngêi trong c¶nh Êy, c¶nh trong t×nh nµy
B¸c vui sao ®îc? Cha kÓ c¶nh ngé trong bµi th¬ chiÒu tèi cña B¸c cßn lµ ®iÓm tiÕp
nèi hai sù ®o¹ ®Çy cña ngêi tï. Sù ®o¹ ®Çy ban ngµy cha qua, sù ®o¹ ®Çy ban ®ªm
®ang chê ®îi phÝa tríc.
Hai c©u sau: ý th¬ cña B¸c rÊt hiÖn ®¹i lu«n lu«n híng vÒ sù sèng vµ ¸nh s¸ng.
Nhng nÕu bµi th¬ cña B¸c chØ dõng l¹i ë ®ã th× nhµ th¬ Hå ChÝ Minh cña chóng ta cã
h¬n g× c¸c nhµ th¬ cæ ®iÓn nh Bµ HuyÖn Thanh Quan, §ç Phñ, Lý B¹ch, ®Æc biÖt lµ
nhµ th¬ LiÔu Tèng Nguyªn víi bµi th¬ “Giang TuyÕt” hÕt søc tÜnh lÆng vµ l¹nh lÏo.
“Ngµn non bãng chim t¾t
Mu«n nÎo dÊu ngêi kh«ng
ThuyÒn ®¬n, «ng t¬i nãn
Mét m×nh c©u tuyÕt s«ng”
Song th¬ B¸c rÊt cæ ®iÓn mµ còng rÊt hiÖn ®¹i cho nªn ®Õn hai c©u sau B¸c viÕt:
“S¬n th«n thiÕu n÷ ma bao tóc
Bao tóc ma hoµn l« dÜ hang”
§Õn hai c©u th¬ nµy bøc tranh tr÷ t×nh vÒ c¶nh trêi m©y ®· nhêng chç cho bøc
tranh sinh ho¹t gÇn gòi Êm ¸p cña con ngêi. C©u th¬ chØ lµ mét lêi lÏ b×nh thêng.
Nhng ý th¬ th× sinh ®éng vµ ®Ñp ®Ï biÕt bao trong nguyªn v¨n “S¬n th«n thiÕu n÷”,
mµ dÞch thµnh “cã em xãm nói” th× lêi dÞch ®· lµm sai lÖch mÊt ý th¬ rÊt hay trong
nguyªn t¸c. Víi c©u th¬ Êy, b¸c ®· ®a h×nh ¶nh c« g¸i lao ®éng lªn vÞ trÝ trung t©m,
®Èy lïi vÒ phÝa sau nÒn trêi chiÒu víi c¸nh chim bay mái vµ lµn m©y tr«i nhÑ. Ta nªn
nhí r»ng trong th¬ xa, c¶nh thiªn nhiªn thêng v¾ng bãng con ngêi, vµ con ngêi bÞ
hoµ vµo thiªn nhiªn:
“Lom khom díi nói tiÒu vµi chó
L¸c ®¸c bªn s«ng chî mÊy nhµ”
Bµi th¬ “ChiÒu tèi” ®îc kÕt thóc b»ng mét h×nh ¶nh thËt tù nhiªn mµ bÊt ngê
thó vÞ “xay hÕt lß than ®· rùc hång”. Ngän löa hång Êm ¸p ®· bõng s¸ng.
1. Nh thÕ lµ bµi th¬ tø tuyÖt cña B¸c ®· diÔn t¶ ®îc sù vËn ®éng cña thêi gian
tõ chiÒu ®Õn tèi h¼n. T×m hiÓu trong c©u th¬ nguyªn t¸c cña B¸c, chóng ta thÊy c©u th¬
kh«ng cã ch÷ “tèi” mµ nãi ®îc c¸i tèi, bëi thêi gian cø tr«i dÇn theo c¸nh chim bay,
lµn m©y, cïng nhÞp vßng quay cèi xay ng«. §iÖp tõ “bao tóc” ®îc B¸c dïng theo trËt
tù ®¶o gîi ®îc sù ®Òu ®Òu cña vßng quay, cèi xay ng« cña sù tuÇn hoµn lu©n chuyÓn
cña thêi gian vµ cho ®Õn khi cèi xay dõng l¹i lß than ®· rùc hång, tøc lµ thêi gian ®· tèi
h¼n. Cã thÕ míi lµm næi râ ®îc c¸i rùc hång cña lß than vèn ®· hång tõ lóc nµo. Ở
®©y, tëng dïng c¸i s¸ng ®Ó nãi c¸i tèi. §ã lµ mét thñ ph¸p rÊt quen thuéc cña th¬ ca
cæ ®iÓn. ThÕ mµ b¶n dÞch ®· ®a thªm mét ch÷ tèi vµo lµm gi¶m tÝnh hµm xóc vµ mÊt
®i vÎ ®Ñp cæ ®iÓn tinh tÕ cã mµu s¾c rÊt §êng Tèng nµy cña h×nh ¶nh th¬ B¸c.
20
2. Cïng víi sù vËn ®éng cña thêi gian Êy lµ sù vËn ®éng cña c¶nh s¾c, t tëng
tÝnh chÊt cña t¸c gi¶. Sù vËn ®éng vµ chuyÓn biÕn thËt bÊt ngê khoÎ kho¾n. Tõ tèi ®Õn
s¸ng, tõ tµn lôi ®Õn sù sèng, tõ buån ®Õn vui, tõ l¹nh lÏo ®Õn c« ®¬n ®Õn Êm nång. Suèt
ngµy ph¶i chuyÓn lao gian khæ vît vói b¨ng rõng, léi suèi; cßn phÝa tríc biÕt ®©u
mét sè tèi nhµ ngôc l¹nh gi¸ ®Çy muçi rÖp, xÝch xiÒng ®ang chê ®îi. §· thÕ, c¶nh
chiÒu bu«ng n¬i miÒn s¬n cíc tØnh Qu¶ng T©y l¹i dÔ khªu gîi nçi sÇu tha h¬ng, vËy
ý th¬ cña B¸c ®i tõ bãng tèi ®Õn ¸nh s¸ng, tõ buån ®Õn vui, mét c¸i vui trµn ®Çy trong
cuéc sèng (Hoµi Thanh). §iÒu nµy ®îc thÓ hiÖn râ nhÊt ë ch÷ “hång” cuèi bµi th¬.
§©y chÝnh lµ chç ®Ñp nhÊt của bµi “ChiÒu tèi”.
“NguyÖt l¹c « ®Ò s¬ng m·n thiªn
Giang phong ng ho¶ ®èi sÇu miªn
C« T« thµnh ngo¹i Hµn S¬n tù
D¹ b¶n chung thµnh ®¸o kh¸ng huyÒn”.
Kh«ng ph¶i lµ h×nh ¶nh “Löa tr¹i c©y bÕn, sÇu v¬ng giÊc hå” trong th¬
“Tr¬ng kÓ” mµ lµ ¸nh löa hång ®Çm Êm reo vui h¹nh phóc, ¸nh löa hång cña sù sèng,
niÒm l¹c quan. Víi mét ch÷ “hång” B¸c ®· lµm s¸ng rùc lªn toµn bé bµi th¬ ®· lµm
mÊt ®i sù mÖt mái,uÓ o¶i, véi v·,nÆng nÒ ®· diÔn t¶ trong 3 c©u th¬ ®Çu, ®· lµm s¸ng
rùc lªn g¬ng mÆt c« g¸i sau khi xay xong ng« tèi. Ch÷ “hång” trong nghÖ thuËt ®êi
thêng, ngêi ta gäi lµ nh·n tù (ch÷ con m¾t). Mét m×nh ch÷ “hång” ®· lµm c©n b»ng
sinh khí cho c¶ bµi th¬, ®óng nh Hoµng Trung Th«ng ®· nhËn xÐt. Ch÷ “hång” ®ã cã
ai cßn c¶m gi¸c nÆng nÒ, mÖt mái nhäc nh»n n÷a ®©u mµ chØ thÊy mµ ®á ®· nhuèm lªn
c¶ bãng ®ªm, c¶ th©n h×nh, c¶ lao ®éng cña c« g¸i yªu kia. §ã lµ mµu ®á cña t×nh c¶m
nh©n ¸i, l¹ quan B¸c Hå. Ch÷ “hång” còng gãp phÇn t¹o nªn chÊt héi ho¹ cho bµi th¬,
kh¾c ho¹ ®îc mét bøc tranh cã c¶nh vËt cã con ngêi, cã gam mµu tèi s¸ng. Nh vËy
B¸c Hå ®· vît lªn trªn c¸i c¶nh ngé khæ ®au buån b· cña b¶n th©n ®Ó híng t©m hån
m×nh ®Õn quan t©m chia sÎ víi niÒm vui gi¶n dÞ cña c« g¸i lµ xay ng« n¬i xãm nói.
Míi biÕt mäi vui buån síng khæ cña chñ tÞch Hå ChÝ Minh nhiÒu khi kh«ng thÓ gi¶i
thÝch ®îc b»ng c¶nh ngé riªng cña Ngêi mµ ph¶i c¨n cø vµo c¶nh ngé cña ngêi
kh¸c; cña nh©n d©n, cña nh©n lo¹i. §©y lµ mét tÊm lßng nh©n ®¹o lín ®· ®¹t ®Õn møc
“n©ng niu tÊt c¶ chØ quªn m×nh”.
“¤i lßng B¸c vËy cø th¬ng ta
Th¬ng cuéc ®êi chung, th¬ng cá hoa
ChØ biÕt quªn m×nh cho hÕt th¶y
Nh dßng s«ng ch¶y nÆng phï sa”
Kết Luận:
“ChiÒu tèi” lµ mét bµi th¬ thÓ hiÖn mét phong c¸ch lín; phong c¸ch B¸c Hå
“Tinh hoa tr¸i ®Êt, chÊt kim c¬ng
21
Con ngêi ®Ñp nhÊt trong nh©n lo¹i
TrÝ tuÖ t×nh yªu cña bèn ph¬ng”
Bµi th¬ ®· to¶ s¸ng mét tÊm lßng nh©n ®¹o bao la. ChÝnh tÊm lßng Êy ®· lµm cho bµi
th¬ “ChiÒu tèi” kh«ng ph¶i lµ kÕt thóc b»ng h×nh ¶nh bãng ®ªm t¨m tèi mµ bõng s¸ng
mét ngän löa hång Êm ¸p.
Đề 8: Phân tích “Chiều tối” để làm nổi bật nét cổ điển, hiện đại.
I.Giới thiệu vài nét về bài thơ.
1.”Nhật ký trong tù” là tập thơ đặc sắc của HCM. Qua những bài thơ hay và tiêu
biểu của tập thơ, người đọc thấy màu sắc đậm đà của hồn thơ HCM là màu sắc cổ điển.
Đó là giàu tình cảm với thiên nhiên, hình tượng nhân vật trữ tình ung dung thư thái,
bút pháp chấm phá như muốn ghi ấy linh hồn của tạo vật.. nhưng cổ điển mà vẫn gắn
bó tinh thần của thời đại. Hình tượng thơ luôn luôn vận động hướng về sự sống, ánh
sáng, tương lai ; trong quan hệ với thiên nhiên, con người luôn giữ vai trò chủ thể..
Không phải là ẩn sĩ mà là chiến sĩ. Bài thơ “Chiều tối” thể hiện rõ sự kết hợp chất cổ
điển và chất hiện đại đó.
2.Vẻ đẹp cổ điển trong bài thơ “Chiều tối”
a. Trong bài thơ “ Chiều tối” HCM đã sử dụng hình ảnh cánh chim và chòm mây để
diễn tả không gian và thời gian buổi chiều. Đó là hình ảnh rất quen thuộc trong thơ ca
truyền thống.
b. Ở bài “Chiều tối”, chung ta bắt gặp một pháp nghệ thuật rất quen thuộc-đó là bút
pháp chấm phá, tả ít gợi nhiều. Đặc biệt tác giả dùng chữ “hồng” ở cuối bài thơ đẻ
miêu tả cái tối.
3.Vẻ đẹp hiện đại của bài thơ “Chiều tối”
a. Nếu như trong thơ xưa, con người thường trở nên nhỏ bé nhạt nhoà trước thiên
nhiên rộng lớn, thì ở bài tho “Chiều tối”, hình ảnh người lao động, “cô gái xay ngô”
nổi bật lên và là hình ảnh trung tâm của bức tranh thiên nhiên, là linh hồn, là ánh sáng
của bức tranh, chi phối toàn bộ khung cảnh nước non sơn thuỷ.
b. Trong bài thơ “Chiều tối”, chúng ta nhận thấy tư tưởng, hình tượng thơ luôn có sự
vận động khoẻ khoắn, đó là sự vận động từ bức tranh thiên nhiên chuyển sang bức
tranh đời sống, từ nỗi buồn đến niềm vui ấm áp từ tàn lụi đến sự sống.
Tóm lại bài thơ mang đạm tính chất cổ điển, hiện đại mang đậm phong cách Hồ Chí
Minh vì thế bài thơ viết về chiều tối mà không âm u mà bừng sang ở đoạn cuối.
ĐỀ 9: LAI TÂN
MỞ BÀI:
Phong cách nghệ thuật của thơ Hồ Chí Minh thật đa dạng, phong phú mà thống
nhất : Có thơ trữ tình, thơ tự sự, tự trào, có cả thơ châm biếm, đả kích. Nụ cười châm
biếm của Người thật nhẹ nhàng, giản dị, dí dỏm mà vô cùng thâm thuý sâu cay. Bài
“Lai Tân” là một trong những bài đặc sắc nhất cho nét phong cách của thơ Bác.
THÂN BÀI:
22
I.Giới thiệu vài nét về bài thơ.
1.Lai Tân là bài thơ được sáng tác trong khoảng thới gian bốn tháng đầu HCM
bị giam giữ tại các nhà tù quốc dân Đảng ở Quảng Tây – Trung Quốc.
2. “Lai Tân” rút ra từ tập “NKTT” của HCM. Bài thơ mang nội dung phê phán
chế độ nhà tù và xã hội TQ với nghệ thuật châm biếm sắc sảo.
II Phân tích
1 Ba câu đầu.
Đó là ba câu tự sự nói về hành vi thường thấy ở ba viên quan lại cai quản nhà
ngục Lai Tân.
a. Ở đây, dường như Bác không bình luận mà chỉ kể lại sự việc. Nhưng ngẫm
cho kĩ, chúng ta thấy ý nghĩa của lời thơ thật sâu xa. Ba đối tượng mà Bác tập trung
phê phán chủ yếu là ba đối tượng từ thấp đến cao, những kẻ cầm quyền và quản lý trực
tiếp trật tự an ninh địa phương. Đó là nhũng kẻ cầm cân nảy mực thực thi pháp luật,
những quan lại “gương mẫu” nhất trong việc vi phạm pháp luật.
b. Ban trưởng ngày ngày đánh bạc, cảnh trưởng ăn tiền hối lộ của phạm nhân
một cách trắng trợn ; huyện trưởng thì “chong đèn làm công việc” nhưng thực chất
“ngài đốt đèn để hút thuốc phiện đấy. Đó là một sự thật trong các huyện đƣờng Quảng
Tây dƣới thời Tƣởng”.
2 Câu cuối cùng
Một kết luận, một đánh giá về tình trạng của bộ máy cai trị nhà tù.
a. Người đọc chờ đợi một sự lên án quyết liệt hùng hồn. Nhưng Hồ Chí Minh
đã không làm như vậy, mà hạ một câu có vẻ dửng dưng, lạnh lùng : “Trời đất Lai Tân
vẫn thái bình”. Song đòn đả kích độc đáo bất ngờ ấy, thâm thuý sâu cay cũng lại
chính là ở chỗ đấy. Thì ra tình trạng thối nát vô trách nhiệm của bọn quan lại ở Lai
Tân là chuyện bình thường, trờ thành bản chất của bộ máy cai trị ở đây.
b. Câu kết, nhất là chữ “thái bình” như ẩn giấu “một tiếng cƣời khẩy” đầy mỉa
mai có ý nghĩa lật tẩy bản chất thối nát của cả bộ máy nhà nước ở Lai Tân. Nhà phê
bình Hoàng Trung Thông đã nhận xét “ở đâu đánh giặc thì cứ đánh, còn cái trời đất
Lai tân này thì vẫn thái bình nhƣ muôn thuở”.
KẾT BÀI:
Ở một chỗ khác, Hoàng Trung Thông còn viết tiếp : “một chữ “thái bình” mà
xâu táo lại… bao nhiêu việc làm trên vốn là muôn thuở của xã hội Trung Quốc, của
giai cấp bóc lột thống trị. Chỉ một chữ ấy mà xé toang tất cả sự thái bình dối trá,
nhƣng mà thật sự đại loạn là ở bên trong”. (Bác Hồ làm thơ và thơ của Bác)
23
24
TỐ HỮU (1920 – 2002)
I. Vài nét về tiểu sử:
- Tố Hữu tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành, sinh năm 1920 tại Quảng Điền -
Thừa Thiên Huế, mất năm 2002 tại Hà Nội. Ông thân sinh nhà thơ là một nhà nho
nghèo, rất yêu thơ ca, ham sưu tầm ca dạo, tục ngữ. Từ nhỏ, Tố Hữu được cha dạy làm
thơ theo lối cổ. Mẹ Tố Hữu là con một nhà nho rất yêu ca dao, dân ca xứ Huế và giàu
lòng thương con. Tố Hữu mồ côi mẹ từ năm 12 tuổi, một năm sau lại phải xa gia đình
vào học trường Quốc học Huế. Quê hương và gia đình đã ảnh hưởng rất lớn đến tâm
hồn thơ của Tố Hữu.
- Lớn lên trong cảnh nước mất, nhà tan, nhưng rất may Tố Hữu đã được Đảng
giác ngộ, dìu dắt. Năm 1938 ông được kết nạp Đảng. Ông đã từng bị thực dân Pháp
cầm tù qua các nhà lao Thừa Thiên – Tây Nguyên.
- Năm 1945, ông là chủ tịch uỷ ban khởi nghĩa Huế. Trong hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ cho đến năm 1946, Tố Hữu liên tục giữ những cương
vị trọng yếu trong bộ máy lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, từng là uỷ viên bộ chính trị,
phó chủ tịch hội đồng, bộ trưởng.
- Ở Tố Hữu, con người chính trị và con người nhà thơ thống nhất chặt chẽ. Sự
nghiệp thơ ca của ông gắn liền với sự nghiệp Cách mạng. Ông được tặng giải thưởng
Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (năm 1996).
II. Những chặng đƣờng thơ Tố Hữu.
- Thơ Tố Hữu gắn bó chặt chẽ với cuộc đấu tranh Cách mạng nên các chặng
đường thơ của ông song hành với các giai đoạn đấu tranh ấy, đồng thời thể hiện sự vận
động trong tư tưởng của nhà thơ.
1. Từ ấy (1937 – 1946) * Hoàn cảnh sáng tác.
a/ Phong trào mặt trận dân chủ và cuộc vận động tiến tới Cách mạng tháng tám
gồm nhiều bài chia làm ba phần: “Xiềng xích” – “Máu lửa” – “Giải phóng”.
b/ Nội dung:
- Đánh dấu bước trưởng thành của người thanh niên quyết tâm đi theo Đảng, chia sẻ,
đồng cảm với cuộc đời cơ cực của những con người nghèo khổ trong xã hội; khao khát
tự do, quyết tâm chiến đấu trong chốn lao tù; nồng nhiệt ngợi ca Cách mạng tháng tám.
- “Từ ấy” là tiếng reo vui của một tâm hồn thanh niên trẻ tuổi được giác ngộ lí
tưởng .
2. “Việt Bắc” (1947 – 1954)
- Quân thù trở lại, cả dân tộc bước vào cuộc kháng chiến anh dũng. Việt Bắc là
thủ đô kháng chiến “thủ đô gió ngàn”, nơi có Đảng, Bác Hồ lãnh đạo toàn dân đánh
giặc. “Việt Bắc” là bản anh hùng ca ca ngợi cuộc kháng chiến vĩ đại và những con
người bình dị mà anh hùnh của cuộc kháng chiến (như các em thiếu nhi: “Lƣợm”, các
anh bộ đội: “Lên Việt Bắc”, các chị phụ nữ: “Phá đƣờng”, các bà mẹ: “Bầm ơi”... và
trên tất cả hình ảnh kết tinh phẩm chất dân tộc là Bác Hồ: “Sáng tháng năm”).
- Tập thơ còn ca ngợi những tình cảm điển hình của con người kháng chiến như
tình yêu nước, tình đồng bào, tình quân dân, tình cảm miền ngược với miền xuôi, tình
25
yêu thiên nhiên, tình yêu Đảng, Bác Hồ… và niềm tin tưởng ở ngày mai tươi sáng –
“Việt Bắc”.
- Vào giai đoạn cuối với chiến công Điện Biên hoà bình lập lại, nửa nước được
giải phóng đã chắp cánh cho hồn thơ Tố Hữu bay bổng với cảm hứng sử thi mang hào
khí thời đại như: “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”, “Ta đi tới”. Tập thơ “Việt Bắc” là
thành tựu xuất sắc nhất của văn học kháng chiến chống Pháp.
3. “Gió lộng” (1955 – 1961)
- Bước vào giai đoạn này, Cách mạng Việt Nam có hai nhiệm vụ chiến lược:
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và giải phóng miền Nam tiến tới thống nhất
nước nhà.
- Thơ Tố Hữu bám sát nhiệm vụ chính trị đó. Tập “Gió lộng” vừa thể hiện niềm
vui, tự hào và tin tưởng ở công cuộc xây dựng cuộc sống mới ở miền Bắc, vừa bày tỏ
tình cảm thiết tha với miền Nam và ý chí thống nhất nước nhà, tình cảm quốc tế anh
em rộng lớn.
- Trong niềm vui với cuộc sống hiện tại, Tố Hữu không quên nghĩ về quá khứ
để bày tỏ biết ơn ông cha và những người đi trước mở đường, từ đó càng thấm thía ân
tình Cách mạng. Tập “Gió lộng” tiếp tục phát triển cảm hứng sử thi và khuynh hướng
khái quát với một cái tôi trữ tình da dạng hơn và một nghệ thuật biểu hiện già dặn,
nhuần nhị hơn.
4. “Ra trận” (1962 – 1971) và “Máu và hoa” (1972 – 1977).
- Là những chặng đường thơ Tố Hữu trong những năm chống Mỹ quyết liệt và
hào hùng của dân tộc cho đến ngày toàn thắng.
- Thơ Tố Hữu lúc này là khúc ca ra trận, là mệnh lệnh tiến công và lời kêu gọi
cổ vũ hào hùng cả dân tộc “khắp thành thị nông thôn” vùng lên quyết đập tan đầu Mỹ
- Nguỵ.
- “Ra trận” cũng dành hẳn trường ca “Theo chân Bác” để tái hiện hình ảnh Bác
trên những chặng đường lịch sử trong hơn nửa thế kỉ.
- “Máu và hoa” là những suy ngẫm của nhà thơ về những hy sinh to lớn của dân
tộc (máu) để tạo nên những chiến công chói lọi của lịch sử (hoa):
“Phải bao máu thấm trong lòng đất
Mới ánh hồng lên sắc tự hào”
Thơ Tố Hữu những năm chống Mỹ cứu nước mang đậm tính chính luận, chất
sử thi, nhiều chỗ vươn tới âm hưởng anh hùng ca.
5. Từ 1978 lại đây, thơ Tố Hữu được tập hợp trong hai tập “Một tiếng đờn”
(1998) và “Ta với ta” (1999). - Trải qua những thăng trầm, những trải nghiệm trước cuộc đời, nhà thơ muốn
bày tỏ những suy nghĩ về cuộc sống, về cuộc đời, hướng tới những quy luật phổ biến
và tìm kiếm những giá trị bền vững. Giọng thơ vì thế cũng sâu lắng, thấm đượm chất
suy tưởng.
Kết luận:
Thơ Tố Hữu là một bằng chứng sinh động cho sự kết hợp nhuần nhuyễn ciữa
chính trị và nghệ thuật. Con đường thơ của ông là con đường tìm tòi, kết hợp hài hoà
hai yếu tố, hai cội nguồn là dân tộc và Cách mạng trong hình thức đẹp đẽ của thơ ca.
Với ngôn ngữ, thể thơ giàu tính quần chúng dân tộc, thơ Tố Hữu đã truyền được cho
hàng triệu độc giả niềm say mê cho lý tưởng Cách mạng.
Đề 1: Hãy nêu phong cách (nghệ thuật) thơ Tố Hữu.
26
“Thơ Tố Hữu là thơ của một chiến sĩ Cách mạng, thơ của một nhà Cách mạng
làm thơ” (Xuân Diệu). Thơ của ông tiếp nối được truyền thống thơ ca đầu thế kỉ và
nâng cao thành dòng thơ trữ tình chính trị của thời đại mới. Do đó, thơ Tố Hữu có một
phong cách khá hấp dẫn.
1.Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị.
- Tố Hữu là nhà thơ đồng thời là một chiến sĩ Cách mạng. Vì vậy, đối với ông,
thơ trước hết phải là phương tiện đắc lực phục vụ cho sự nghiệp Cách mạng, cho
những nhiệm vụ chính trị được hình thành trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau. Với
Tố Hữu, thơ chính trị đã trở thành thơ trữ tình sâu sắc. Những vấn đề mà nhà thơ đề
cập đến chủ yếu trên phương diện chính trị. Ông ca ngợi lý tưởng, ca ngợi những con
người mang lý tưởng cộng sản, biểu dương những tình cảm Cách mạng, ca ngợi Cách
mạng, ca ngợi đất nước… Những vấn đề chính trị ấy trở thành nguồn cảm hứng,
nguồn cảm xúc chân thực, sâu xa và thành lẽ sống niềm tin và được diễn đạt bằng
ngôn ngữ tâm tình, ngôn ngữ của tình yêu, tình mẹ con, tình bạn một cách tự nhiên
không gượng gạo.
- Bao trùm lên thơ Tố Hữu là vấn đề lý tưởng, lẽ sống: lẽ sống Cách mạng, lẽ
sống cộng sản. Trước Cách mạng, nhà thơ khẳng định lẽ sống của con người là con
đường Cách mạng. Đó là con đường duy nhất để giải thoát mọi số phận cá nhân khỏi
áp bức đau khổ. Từ “Việt Bắc” trở đi, Tố Hữu chủ yếu đặt vấn đề lẽ sống của dân tộc.
Đi liền với lẽ sống là những tình cảm lớn, niềm vui lớn của con người Cách mạng như
niềm say mê lý tưởng, tình đồng chí, đồng bào, tình cảm với Đảng, với Bác Hồ.
2. Thơ Tố Hữu ở giai đoạn sau mang tính sử thi.
- Chủ yếu đề cập đến các vấn đề có ý nghĩa lịch sử và có tính chất toàn dân.
a/ Cái tôi trữ tình trong thơ Tố Hữu từ buổi đầu là cái tôi chiến sĩ rồi đến cái tôi
công dân, về sau là cái tôi nhân dân, dân tộc.
b/ Nhân vật trữ tình của Tố Hữu là những con người đại diện cho những phẩm
chất dân tộc, thậm chí mang tầm vóc lịch sử thời đại.
c/ Cảm hứng của Tố Hữu là cảm hứng lịch sử dân tộc chứ không phải cảm hứng
thế sự đời tư. Nổi bật lên trong thơ Tố Hữu là vấn đề vận mệnh dân tộc chứ không
phải số phận cá nhân.
3. Thơ Tố Hữu dạt dào cảm hứng lãng mạn.
Thể hiện cảm hứng hướng về lý tưởng cộng sản và tương lai xã hội chủ nghĩa
bằng cảm hứng lạc quan giàu tình cảm lãng mạn, thế giới hình tượng trong thơ Tố Hữu
là thế giới của cái cao cả, cái lý tưởng; của ánh sáng, gió lộng, niềm tin.
4. Thơ Tố Hữu có giọng điệu rất dễ nhận ra đó là giọng điệu tâm tình, là
tiếng nói của tình thương mến ngọt ngào.
“Thơ Tố Hữu là thơ Cách mạng chứ không phải thơ tình yêu… nhƣng thơ anh
là thơ của một tình nhân. Anh nói các vấn đề bằng trái tim của một ngƣời say đắm”
(Chế Lan Viên). Còn Hoài Thanh thì nhận xét nhiều câu thơ Tố Hữu chỉ cần thay đổi
vài từ là thành thơ tình yêu muôn đời, biểu hiện rõ nhất qua cách xưng hô, tâm sự với
đối tượng: “Anh em ơi!”, “Đồng bào ơi!”, “Tổ quốc ta ơi: Hƣơng Giang ơi!”… Lý do,
điều này có liên quan đến chất Huế của hồn thơ Tố Hữu, nhưng chủ yếu là do quan hệ
giữa nhà thơ và bạn đọc; do quan niệm của Tố Hữu về thơ “thơ là tiếng nói đồng ý,
đồng tình, đồng chí”.
5. Thơ Tố Hữu rất giàu tính dân tộc, cả nội dung và nghệ thuật.
a/ Về nội dung:
27
- Tính dân tộc thể hiện ở thế giới hình tượng, phong cảnh quê hương đất nước
thân thuộc, ở hình ảnh con người rất đỗi Việt Nam.
b/ Về nghệ thuật:
- Thể thơ: Tố Hữu sử dụng các thể thơ mang đậm tính truyền thống dân tộc như
lục bát: “Việt Bắc”, “Kính gửi cụ Nguyễn Du”.
- Kết hợp cả giọng cổ điển và dân gian để thể hiện nội dung, tình cảm Cách
mạng mang cội nguồn, truyền thống dân tộc; thể thơ bảy chữ trang trọng với màu sắc
cổ điển nhưng vẫn biến hoá linh hoạt diễn tả được nhiều trạng thái cảm xúc giàu tính
dân tộc: “Theo chân Bác”, “Bác ơi”, “Mẹ Tơm”, “Quê mẹ”…
c/ Về ngôn ngữ:
- Thơ Tố Hữu không mạnh ở việc sáng tạo từ ngữ mà thường sử dụng từ ngữ
nói rất quen thuộc của dân tộc, những so sánh ví von truyền thống, nhưng lại biểu hiện
được nội dung mới của thời đại Cách mạng.
d/ Nhạc điệu:
- Thơ Tố Hữu rất giàu nhạc điệu, một biểu hiện tính dân tộc của nghệ thuật ở bề
sâu.
- Tố Hữu có biệt tài trong việc sử dụng các từ láy, các vần và phối hợp các
thanh điệu… kết hợp với nhịp thơ như thác tạo thành một nhịp điệu phong phú cho các
câu thơ diễn tả được những trạng thái tâm tình mà chiều sâu của nó là điệu cảm xúc
của tâm hồn dân tộc.
Kết luận:
Với những nét phong cách vừa phong phú vừa đa dạng, vừa sâu sắc hấp dẫn nói
trên, Tố Hữu rất xứng đáng là lá cờ đầu của nền thơ ca Cách mạng Việt Nam.
ĐỀ 2: TỪ ẤY
I. MỞ BÀI:
Trong những năm đầu của thế kỉ XX, chàng thanh niên Tố Hữu “từ vô vọng
mênh mông đêm tối” bỗng nhiên được gặp lý tưởng Đảng. Lý tưởng ấy như mặt trời
rực rỡ đột ngột xuất hiện đã đến gieo vào tâm hồn nhà thơ biết bao khát vọng nồng nàn,
vui sướng vô biên và sức sống mãnh liệt. Để ghi lại giây phút giàu ý nghĩa ấy, Tố Hữu
đã viết nên một bài thơ rất chân thật và cảm động :“Từ ấy”.
II. THÂN BÀI:
1.Giới thiệu nhan đề bài thơ.
Vẻ đẹp của nhan đề bài thơ này có mối quan hệ với các khổ thơ , các
tác phẩm trong tập thơ cùng tên và con đường thơ ca của Tố Hữu. “Từ ấy”, bản thân
nhan đề đã gợi ra một thời điểm trong cuộc đời con người. Đối với Tố Hữu là năm
1938 – đây là thời điểm nhà thơ Tố Hữu vinh dự được đứng trong hàng ngũ của Đảng
Cộng Sản tranh đấu cho lý tưởng cách mạng. “Từ ấy” đo đó đã trở thành một dấu mốc
quan trọng trong con đường đời, đường thơ của thi sĩ. Nó gắn bó chặt chẽ và chi phối
mọi cảm xúc, tâm trạng, thái độ, tình cảm của cái tôi trữ tình trong bài thơ. Do đó, thật
dễ hiểu vì sao “Từ ấy” đã trở thành tứ của bài thơ tự nhiên và nhuần nhuyễn. Và đó
cũng là nhan đề Tố Hữu đặt cho tập thơ đầu tay. Tố Hữu đã có lần tâm sự: “nếu không
có “Từ ấy” thì không biết tôi đã trở thành thế nào, may mắn lắm thì là một ngƣời vô
tội”.
28
2. Niềm vui, niềm hạnh phúc tột đỉnh khi gặp lý tưởng cách mạng.
Mở đầu bài thơ, chàng thanh niên cộng sản Tố Hữu đã bày tỏ niềm vui sướng
vô hạn khi cảm thấy ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin soi rọi vào tâm hồn tươi trẻ
của mình. Nếu như “từ ấy trong tôi bừng nắng hạ” thì hẳn trước đó là một bầu không
khí ảm đạm, thê lương của mùa đông đè nặng lên tâm hồn thi sĩ. Được gặp lý tưởng
lúc ấy, nhà thơ cảm tưởng giống như một người đang lần mò trong bóng tối bỗng gặp
ánh sáng mặt trời:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vƣờn hoa lá
Rất đậm hƣơng và rộn tiếng chim”
Hình ảnh “bừng nắng hạ”, “mặt trời chân lý” là những hình ảnh rực rỡ, chói
chang của lý tưởng cách mạng vừa làm bừng tỉnh, vừa chiếu toả tâm hồn nhà thơ Tố
Hữu, xua tan và thiêu đốt mọi bóng tối của chủ nghĩa cá nhân trong tâm hồn thi sĩ và
đem lại biết bao sức sống diệu kì. Hình ảnh “mặt trời chân lý chói qua tim” là một
hình ảnh rất sáng tạo. “Mặt trời” gợi lên nguồn sáng duy nhất, rực rỡ, bất diệt đưa lại
sức sống cho muôn loài. Đối với Tố Hữu, “mặt trời” còn mang thêm ý nghĩa soi
đường, dẫn lối cho đời cách mạng, đời thơ của mình:
“Thuyền bơi có lái qua giông tố
Không lái thuyền trôi lạc bến bờ”
có biết bao nhiêu táo bạo, trẻ trung, sướng vui trong tâm hồn chói sáng ấy. Từ “chói”
vừa diễn tả được độ chói sáng , sức xuyên thấu kì diệu của ánh sáng lý tưởng Đảng,
vừa diễn tả được cảm xúc rất đỗi thiêng liêng có cái gì đó gần như là“choáng váng”
của nhà thơ khi bắt gặp lí tưởng Cách Mạng. Đúng như Chế Lan Viên đã viết:
“Nếp rêu con cũng chói loà ánh sáng
Khi mặt trời tƣ tƣởng rọi hang sâu”
Và trước đấy, ca dao cũng có câu rất hay diễn tả cảm xúc thiêng liêng,khi bắt
gặp mối tình đầu
“Thấy anh nhƣ thấy mặt trời
Chói chang khó ngó, trao lời khó trao”
Tâm hồn nhà thơ vừa thoát ra khỏi bầu trời u ám, giá lạnh bởi bóng đêm xã hội
cũ đè nặng lên, khi gặp lý tưởng bỗng nhiên đã trở thành một khu vườn mùa hạ tràn
đầy sức sống, chan hoà ánh sáng, đậm đà sắc hương và rộn rã tiếng chim ca:
“Hồn tôi là một vƣờn hoa lá
Rất đậm hƣơng và rộn tiếng chim”
Tâm hồn Tố Hữu được chính tác giả ví như một “vƣờn hoa lá” xanh tươi và
tràn ngập ánh nắng, màu sắc, rộn ràng âm thanh reo vui và ngạt ngào hương sắc. Đó là
một hình ảnh rất chính xác mà cũng rất độc đáo, bất ngờ, táo bạo và giàu ý nghĩa thẩm
mĩ. Bằng hình ảnh “vƣờn hoa lá” - đầy tính chất tượng trưng, đầy tính chất lãng mạn,
cùng với các từ “đậm”, “rộn”, tác giả đã diễn tả được sức sống mãnh liệt, độ lớn của
niềm vui và niềm hạnh phúc tột đỉnh của tâm hồn mình khi bắt gặp lý tưởng. Tâm hồn
ấy là tâm hồn thanh xuân vô cùng đẹp đẽ, tràn đầy nhựa sống, niềm vui. Tuổi trẻ đến
với lý tưởng bằng tất cả khát vọng, say mê là vậy đó. Xuân Diệu, một đại biểu xuất sắc
của thơ ca lãng mạn thời ấy cũng đã có một hình ảnh tương tự khi diễn tả tình cảm
trong trẻo, hồn nhiên, tươi vui của cặp tình nhân ở “cái thuở ban đầu lƣu luyến ấy”:
“Từ lúc yêu nhau hoa nở mãi
Trong vƣờn thơm ngát của hồn tôi”
29
Duyên nợ của nhà thơ và lý tưởng Đảng như duyên nợ của mối tình đầu có biết
bao nhiêu thiêng liêng, tha thiết, bền chặt. Nhưng ở đây, có cái gì đó còn lớn lao,
thiêng liêng hơn cả mối tình đầu, như là sự ơn nghĩa sinh thành. Bởi Đảng không chỉ
tái sinh cuộc đời tác giả, mà còn tạo ra cả hồn thơ, đời thơ cho ông. Điều này có thể cắt
nghĩa được vì sao sau này trong bài“Một nhành xuân” (1980), khi gợi lại cảm xúc lúc
bắt gặp lý tưởng, nhà thơ đã nói lên bằng niềm vui say sưa dường như còn nguyên vẹn
của thời “Từ ấy”:
“Từ vô vọng mênh mông đêm tối
Ngƣời đã đến chói chang nắng dội
Trong lòng tôi ôi Đảng thân yêu
Sống lại rồi! Hạnh phúc biết bao nhiêu”
3. Hai khổ thơ sau:
- Những chuyển biến nhận thức mới về lẽ sống, tình cảm trong cái tôi của Tố
Hữu.
Giác ngộ lý tưởng cộng sản là giác ngộ về nhận thức lẽ sống, tình cảm. Trước
hết là giác ngộ về chỗ đứng về phía “những tù nhân khốn nạn của bần cùng”. Cái tôi
phải hoà cùng cái ta rộng lớn với nhân dân. Hai khổ thơ vừa như lời tâm niệm của
người chiến sĩ trẻ vừa mới bước vào đời chiến đấu, vừa như thể hiện niềm vui của nhà
thơ tự nguyện, chủ động tìm đến đại gia đình mới của mình. Hàng loạt từ đồng nghĩa,
gần nghĩa, điệp ngữ về nghệ thuật được tác giả sử dụng với một mật độ lớn nhằm nhấn
mạnh, khẳng định. “Trang trải”, “gần gũi” nhấn mạnh sự gắn bó chia sẻ; “mọi ngƣời”,
“trăm nơi”, “bao hồn khổ”, “vạn nhà”, “vạn kiếp phôi pha”, “vạn đầu”… nhấn mạnh ý
rộng lớn bao la của nhân loại cần lao. Từ “là” lặp lại nhiều lần “là con”, “là em”, “là
anh” nhấn mạnh sự gắn bó máu thịt trong đại gia đình lớn lao là quần chúng bị áp bức
bóc lột. Từ đây, ngòi bút của chàng thi sĩ cộng sản Tố Hữu hướng đến bày tỏ cảm
thông “em bé mồ côi”, “em bé bán dạo”, “em bé đi ở”, “chị vú em”… Hai khổ thơ này
tuy có phần hơi sáo nhưng ý thơ mạnh, chân thành, thái độ quyết tâm vẫn liền mạch
với khổ thơ đầu nên vẫn có sức truyền cảm mạnh mẽ.
“Từ ấy” một lần nữa cho ta thấy rõ hơn “Tố Hữu nhà thi sĩ làm cách mạng và
nhà cách mạng làm thơ” (Xuân Diệu). Bài thơ đầu tay này cũng đã báo hiệu rất rõ
những nét đặc trưng trong bản chất phong cách hồn thơ Tố Hữu, nhà thơ của lẽ sống
lớn “viết cái gì cũng để nói cho đƣợc lý tƣởng cộng sản” (Chế Lan Viên). Và Tố Hữu
cũng là nhà thơ của tình thương mến “thơ Tố Hữu là thơ cách mạng chứ không phải
thơ tình yêu… nhƣng thơ anh là thơ của một tình nhân. Anh nói các vấn đề bằng trái
tim của ngƣời say đắm”, Nếp rêu con cũng chói loà ánh sáng/ khi mặt trời tƣ tƣởng rọi
hang sâu. (Chế Lan Viên).
III. KẾT LUẬN: “Từ ấy” không chỉ là bài thơ đặc sắc về nội dung mà còn rất độc đáo về nhệ
thuật. Với ngòi bút tinh tế, dùng hình tượng thơ táo bạo, chói sáng, gợi tả, giàu tính
lãng mạn, say người với khát vọng bay bổng, câu thơ mạnh, cảm xúc tràn đầy, giọng
thơ đằm thắm trẻ trung, nhạc điệu thơ hăm hở, dồn dập, say sưa lôi cuốn, Tố Hữu đã
để lại trong lòng người đọc những dư vị ngọt ngào, những ấn tượng khó quên về bài
thơ “Từ ấy”, tiếng hát lạc quan yêu đời, đắm say lý tưởng của người thanh niên cộng
sản. Tiếng hát ấy đến nay vẫn còn làm rung động hàng triệu trái tim thanh niên vì chất
men nồng lý tưởng của nó
30
ĐỀ 3 : VIỆT BẮC
(Tố Hữu)
* Về bài thơ “Việt Bắc”.
Đề1 (2 điểm): Hãy trình bày hoàn cảnh ra đời và những đặc sắc nghệ thuật
bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu.
1. Hoàn cảnh ra đời.
- “Việt Bắc” là tác phẩm xuất sắc nhất của Tố Hữu nói riêng và thơ ca Việt Nam
hiện đại nói chung. Bài thơ được sáng tác vào tháng 10 – 1954. Đây là thời điểm các
cơ quan trung ương của Đảng và Chính Phủ rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội, sau khi
cuộc kháng chiến chống Pháp đã kết thúc vẻ vang với chiến thắng Điện Biên Phủ và
hoà bình được lập lại ở miền Bắc.
- Nhân sự kiện có ý nghĩa lịch sử này, Tố Hữu viết bài thơ để ôn lại một thời
kháng chiến gian khổ mà hào hùng, thể hiện nghĩa tình sâu nặng của những người con
kháng chiến đối với nhân dân Việt Bắc, với quê hương Cách mạng.
2. Đặc sắc nghệ thuật của bài thơ.
- Bài thơ “Việt Bắc” (đoạn trích được học) có nghệ thuật đậm đà tính dân tộc:
+ Thể thơ lục bát là thể thơ quen thuộc của dân tộc, đã được sử dụng
thành công.
+ Kết cấu đối đáp thường được thấy trong ca dao, dân ca truyền thống,
được dùng một cách sáng tạo để diễn tả nội dung, tình cảm phong phú về quê hương,
con người, Tổ quốc và Cách mạng.
+ Cặp đại từ nhân xưng “mình – ta” với sự biến hoá linh hoạt và những
sắc thái ngữ nghĩa biểu cảm phong phú vốn có của nó được khai thác rất hiệu quả.
+ Những biện pháp tu từ: so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, tượng trưng… quen
thuộc của quần chúng được dùng nhuần nhuyễn.
Đề 4 (2 điểm): Phân tích cách dùng từ “mình – ta”.
a) Cả bài thơ dài 150 dòng gồm những câu lục bát ngọt ngào, đằm thắm như ca
dao, dân ca, phảng phất thơ Kiều giàu màu sắc cổ điển. Nó rất tiêu biểu cho hồn thơ,
phong cách thơ Tố Hữu.
b) Những lời thơ lục bát mang đậm màu sắc cổ điển ấy lại được cất lên qua lời
đối đáp của hai nhân vật trữ tình có tính chất tượng trưng: “mình – ta” đại diện cho
người cán bộ về xuôi và đồng bào miền ngược.
c) Theo nhà thơ Tố Hữu, “ “mình – ta” ở dây đều là chủ thể. Tức là “mình” ấy,
“ta” ấy là một phần của đời sống thi sĩ đã trải qua nhiều năm ở Việt Bắc. Cái phần đời
này trò chuyện quyến luyến với phần đời kia. Cho nên, cuộc chia tay không phải diễn
ra bình thường mà nó diễn ra trong máu thịt, trong tâm hồn nhà thơ. Sự chia ly của bản
thân “mình” là một sự chia ly khó khăn nhất, thiết tha nhất, đắm đuối nhất.” Nhờ cuộc
đối đáp độc đáo ấy mà bài thơ mang dáng dấp một khúc hát giao duyên giã bạn đầy
bâng khuâng, xao xuyến.
31
d) Đối đáp đã trở thành một thủ pháp để khơi gợi, bộc lộ tâm trạng của “ta” và
“mình” tạo ra một sự hô ứng đồng vọng của giai điệu tình cảm trong tình yêu nam nữ.
Hai đại từ “mình” và “ta” nói trên luôn luôn có sự đắp đổi, chuyển hoá cho nhau, quấn
quýt luyến láy trong từng câu, trong cả bài thơ tạo cho “Việt Bắc” một âm hưởng vừa
dịu dàng, êm ái, vừa gắn bó ngân vang. Vì vậy, “Việt Bắc” trở thành tiếng nói của tình
yêu nhưng là tình yêu đối với quê hương Cách mạng, kháng chiến và thiên nhiên đất
nước. Đó là nét độc đáo trong cấu tứ và âm điệu bài thơ.
Đề 5: Phân tích bài thơ “Việt Bắc”- Tố Hữu.
“Việt Bắc” ra đời năm 1954, sau chiến thắng điện Điên, khi trung ương Đảng,
Chính phủ, Bác Hồ đã rời “thủ đô gió ngàn” về với “thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình”.
Bài thơ vừa là tiếng hát ngọt ngào thấm đẫm chất trữ tình và tấm lòng ân nghĩa thuỷ
chung của miền ngược và miền xuôi, của tác giả, cán bộ kháng chiến đối với quê
hương Việt Bắc, vừa là bản anh hùng ca về thế ra trận đầy sức mạnh, chiến công của
cả một dân tộc quyết “chín năm làm một Điện Biên; nên vành hoa đỏ, nên thiên sử
vàng”. “Việt Bắc” xứng đáng là một trong những đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng và
của thơ Cách mạng nói chung.
I. Vài nét về cấu tứ của bài thơ. (ở trên)
II. Khung cảnh buổi chia ly.
1. Người ở lại lên tiếng trước: khúc dạo đầu.
Mở đầu bài thơ là một khung cảnh chia tay của hai người với tâm trạng bâng
khuâng, bồn chồn, xao xuyến, lưu luyến, vấn vương… khi hồi tưởng về những kỉ niệm
gắn bó bền lâu, sâu nặng. “Hình như quá nhạy cảm với sự đổi thay nên người ở lại đã
lên tiếng trước để gợi nhắc những kỉ niệm khó quên, những cội nguồn tình nghĩa”:
“Mình về mình có nhớ ta
Mƣời lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”
Nhưng bao trùm lên tậm trạng của kẻ ở, người đi là nỗi nhớ, nhớ cồn cào, da
diết. Nỗi nhớ ấy cứ thấm đượm tất cả, lan toả cả cỏ cây, mây núi. Chỉ riêng trong đoạn
thơ ta phân tích đã có đến 35 từ “nhớ”. Qua hoài niệm, qua lời hỏi của người ở lại, nỗi
nhớ tha thiết ấy đã làm sống dậy biết bao kỉ niệm sâu nặng nghĩa tình. Qua đó, bài thơ
tái hiện được một cách chân thật và sinh động mấy bức tranh hiện thực hoà nhập thống
nhất, khó có thể tách rời. Đó là thiên nhiên Việt Bắc hùng vĩ, thắm tươi đang cùng con
người đánh giặc; cuộc sống kháng chiến gian khổ vui tươi, thắm đượm nghĩa tình;
khung cảnh cả nước ra trận đầy hào khí với những chiến công dồn dập; hình ảnh chiến
khu kháng chiến, điểm tựa tinh thần của nhân dân cả nước. Ở đây, Tố Hữu đã mượn
người ở lại hỏi người ra đi như để nhắc nhở mọi người cũng là nhắc nhở chính mình,
hãy nhớ lấy đạo lý ân tình, chung thuỷ, “uống nƣớc nhớ nguồn” vốn là đạo lý tốt đẹp
nhất của con người Việt Nam. Đoạn mở đầu gồm bốn câu tạo thành hai cặp lục bát và
cũng là hai câu hát rất cân đối, hài hoà. Một câu hỏi hướng về thời gian:
“Mƣời lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”
của nghĩa tình Cách mạng kháng chiến; một câu hỏi hướng về không gian của một
vùng chiến khu thiêng liêng:
“Quê hƣơng Cách mạng dựng nên cộng hoà”
32
Hai cặp lục bát nói trên có sự láy lại “mình về” và điệp từ “nhớ” ngân lên như
một nỗi niềm lưu luyến đến day dứt khôn nguôi. Điều đó đã tạo được không khí cho
khúc dạo đầu của cuộc chia ly có một không hai này.
2. Cảnh tiễn đưa đầy lưu luyến của kẻ ở người đi.
Sau khúc dạo đầu là cảnh tiễn đưa bâng khuâng, tha thiết đến bồn chồn của
bước đi cả hai ngươi, như thể người yêu đưa tiễn người yêu đầy lưu luyến, vấn vương:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bƣớc đi”
Đại từ “ai”, một đại từ rất quen thuộc trong ca dao, dân ca; một đại từ vừa
phiếm chỉ, vừa cụ thể làm cho lời thơ trở nên trữ tình, tha thiết như khúc hát giao
duyên quan họ. Chỉ hai câu thơ lục bát đã diễn tả được ba trạng thái tình cảm sâu sắc
thường chỉ có trong trái tim của những cặp tình nhân say đắm. “Tha thiết” như tiếng
nói cất lên từ đáy lòng đầy yêu thương; “bâng khuâng” như một sự tiếc nuỗi, hụt hẫng;
rồi “bồn chồn” không yên như trạng thái nôn nao, phấp phỏng của tấc lòng. Những từ
láy và cũng là tính từ, cùng với phép đảo ngữ, cặp tiểu đối đã làm tăng lên biết bao nỗi
nhớ thương vấn vương lưu luyến. Nó không chỉ thấm sâu vào trong lòng mà còn hằn
lên từng bước đi:
“Áo chàm đƣa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay?”
Hình ảnh hoán dụ “áo chàm” trong câu thơ trên vừa gợi hình, vừa gợi cảm, vừa
cụ thể, vừa trượng trưng. Màu áo chàm của người Việt Bắc không phai, đậm đà như
tấm lòng thuỷ chung, sắt son của họ vậy. Trong tâm thức của người Việt Nam, màu áo
chàm còn tượng trưng cho sự giản dị, chân thành, đơn sơ “cầm tay nhau biết nói gì
hôm nay”.
Cái tình “tha thiết”, “bâng khuâng”, “bồn chồn” thì có lời nào tả cho hết được.
Tình cảm càng thắm đượm, nồng nàn thì ngôn từ càng bất lực. Cho nên, nói gì đó cho
đủ thoả khi trái tim đầy ắp cảm xúc khó nói nên lời chứ không phải là không biết nói
gì. Cái cử chỉ “cầm tay” cũng rất xúc động. Bàn tay ấm nóng trao cảm thương với trái
tim run rẩy vì xúc động đã nói được nhiều hơn mọi lời bằng âm thanh ríu rít. Nhịp thơ
3/3/3/3/2 diễn tả rất tài tình một cái gì đó như một thoáng ngập ngừng, bối rối trong
tâm trạng và cử chỉ.
Như thế, chỉ bằng mấy câu thơ giản dị, Tố Hữu đã dựng lên được cảnh chia tay
rất giàu màu sắc trữ tình, đầy đủ thời gian, không gian và của kẻ ở người đi.
III. Lời ngƣời ở lại:Những kỉ niệm kháng chiến gian khổ nhƣng sâu nặng
tình nghĩa
Sai khi dàn dựng xong khung cảnh chia tay, Tố Hữu đã để cho người ở lại lên
tiếng. Những cảm xúc về sự chia ly như một nỗi day dứt toát lên từ trái tim thành
những câu hỏi đầy băn khoăn:
“Mình đi có nhớ những ngày
Mƣa nguồn suối lũ, những mây cùng mùa
Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son
33
Mình về có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”
Chỉ mười hai câu thơ nhưng đều xoáy sâu vào kỉ niệm của những ngày Cách
mạng còn nòn yếu (còn trứng nước), tuy tươi vui, lạc quan nhưng cũng lắm gian nan,
cơ cực. Hỏi là “mình về có nhớ” nhưng thực ra đã biết rõ tâm trạng người ra đi cũng
trĩu nặng nỗi nhớ thương về những năm tháng không thể nào quên. Quên sao được
những chuỗi ngày khó khăn, gian khổ chồng chất ấy:
“Mƣa nguồn suối lũ, những mây cùng mù”
Những ngày “miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”, những ngày chia ngọt
sẻ bùi, đắng cay, gian khổ mà ấm áp tình người:
“Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”
Đoạn thơ gồm những câu hỏi liên tiếp cất lên từ trong lòng người đọc, gợi lên
sự khắc nghiệt của thiên nhiên Việt Bắc. Có những câu hỏi gợi về những sinh hoạt
gian khổ nhưng sâu nặng nghĩa tình “miếng cơm chấm muối”… “Miếng cơm chấm
muối” là hình ảnh chân thực được rút ra từ kháng chiến đầy gian nan. Hình ảnh “mối
thù nặng vai” đã cụ thể hoá, vật chất hoá mối thù của nhân dân ta với quân xâm lược.
Hai hình ảnh ấy đối xứng và kết lại với nhau tạo nên một ý nghĩa mới mẻ, sâu xa: mối
tình đoàn kết chiến đấu cùng chung gian khổ, cùng mang một mối thù thực dân là cội
nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng vang dội, chiến công chói lọi. Có câu hỏi lại gợi
về hình ảnh thiên nhiên gắn bó với đời sống sinh hoạt kháng chiến, giờ cách xa chúng
cũng như mang hồn người và trở nên ngẩn ngơ, buồn vắng:
“Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già”
Câu thơ “hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son” là câu thơ tuyệt hay. Cái hay trước
hết là sự chân thực, giản dị. Những mái nhà lợp bằng tranh, bằng lá cọ nghèo nàn,
những ngon lau xám hắt hiu trước gió, những bữa ăn chỉ toàn bằng sắn, khoai… nhưng
tấm lòng của người dân đối với Cách mạng, với kháng chiến thật “đậm đà lòng son”,
thuỷ chung ân nghĩa. “Hắt hiu lau xám” đối với “đậm đà lòng son” cùng với thủ pháp
đảo ngữ càng làm nổi rõ tấm lòng cao quý, đùm bọc, chở che của nhân dân với cán bộ.
Hoàn cảnh càng gian nan, thiếu thốn, lòng dân với Cách mạng, kháng chiến càng sắt
son, gắn bó. Thật cảm động biết bao:
“Mình về có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa”
Trong câu “mình đi mình có nhớ mình” xuất hiện ba lần, có tính đa nghĩa, thật
là đặc biệt. “Mình” vừa là người ra đi, vừa là phân thân chủ thể trữ tình. Các địa danh
Tân Trào, Hông Thái có giá trị lịch sử to lớn, chúng được đồng nghĩa với chính mình.
Cho nên, người cán bộ về xuôi chỉ xa cách về không gian địa lý nhưng không có sự xa
cách trong tâm hồn. Những “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa” từ nay đã trở
thành một phần máu thịt, trái tim tác giả.
Sáu cặp lục bát nói trên được tác giả sử dụng cách ngắt nhịp đều đặn, vận dụng
nghệ thuật tiểu đối tài tình làm cho đoạn thơ có nhạc tính réo rắt ngân vang, dễ thấm
vào tâm hồn người đọc. Lời thơ Tố Hữu vì thế vừa phảng phất màu sắc cổ điển như
34
những câu Kiều, vừa bình dị gần gũi thân quen như những câu ca dao, dân ca rất hấp
dẫn.
IV. Lời ngƣời về xuôi:nhớ về nhân dân Việt Bắc đã chia ngọt sẻ bùi,đùm
bọc trở che cho cách mạng,kháng chiến và cuộc kháng chiến tƣơi vui lạc quan.
Đoạn thơ dành cho người về xuôi gồm 22 câu:
“Ta với mình, mình với ta
… Chày đêm nện cối đều đều suối xa”
Tố Hữu đã để lại cho người về xuôi trả lời nhiều hơn. Vì suốt 15 năm thiết tha
mặn nồng ấy, trong trái tim của người sắp phải xa cách chất chứa biết bao nỗi nhớ về
những kỉ niệm kháng chiến, về “Quê hƣơng Cách mạng dựng nên cộng hoà”. Cho nên
“Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nƣớc nghĩa tình bấy nhiêu”
Trong tiềm thức của người dân Việt Nam, nước nguồn chảy ra được vì công lao,
tình nghĩa vô bờ bến của người mẹ tuôn chảy bất tận không bao giờ cạn. Bao nhiêu
nước thì bấy nhiêu nghĩa tình sâu nặng, như nghĩa mẹ tình cha. ““Bao nhiêu” được so
sánh với “bấy nhiêu”. Đó là cách so sánh giữa một sự vô tận với một sự vô tận.” Đọc
câu thơ, ta có cảm giác, dường như đó không còn là những dòng chữ im lặng, lạnh
lùng nữa mà là tiếng lòng thốt lên từ một trái tim tràn đầy xúc động của kẻ ở người về
trong phút giây li biệt. Qua đó, những tháng ngày gian khổ mà tươi vui cứ lần lượt
hiện lên theo nỗi nhớ da diết, cháy bỏng:
“Nhớ gì nhƣ nhớ ngƣời yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lƣng nƣơng”
Nỗi nhớ người yêu là nỗi nhớ nồng nàn, bồn chồn, khắc khoải nhất trong mỗi
con người. Nỗi nhớ ấy vừa được so sánh với “trăng lên đầu núi nắng chiều lƣng
nƣơng”, vừa gắn với không gian, thời gian đầy ắp kỉ niệm. Đúng là:
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn”
Đối với những mảnh đất giàu tình nghĩa khi ta đã sống ở đó rồi, lúc ra đi ta cảm
thấy trái tim cứ dào lên biết bao nỗi vấn vương, thương nhớ, nhớ cả những vật vô tri
tầm thường nhất mà vô tình bắt gặp:
“Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”
Chế Lan Viên đã có một nhận xét rất hay về các địa danh trong thơ Tố Hữu:
“Lòng yêu đắm say đất nƣớc, yêu nhƣ tát mãi không cạn, gọi mãi không cùng,yêu nhƣ
muốn nêu mãi tên lên mà gọi,chỉ một cái tên thôi cũng trấn động lên rồi!”(Thơ Tố
Hữu) càng nhớ cảnh,càng nhớ ngƣời vì trong cảnh lại nghĩ đến ngƣời”. Nhớ nhất là
nếp sống kháng chiến vô cùng gian khổ mà ấm tình, ấm nghĩa:
“Thƣơng nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ ngƣời mẹ nắng cháy lƣng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”
Hình ảnh thơ thật mộc mạc, chân thực mà giản dị như chính bản thân cuộc sống
vậy. Ở đây không phải sẻ chia những gì lớn lao như tính mệnh hay máu xương, mà sẻ
chia những sự vật bình thường nhỏ nhoi hàng ngày: “củ sắn lùi”, “bát cơm”, chiếc
chăn vỏ cây xù xì, thô nhám. Nhưng trong bối cảnh lúc bấy giờ, chúng là hiện thân của
sự sống, của tình nghĩa. Quả là của chẳng đáng bao nhiêu, nhưng tình thì rất nặng.
35
Hiểu như vậy, chúng ta càng thấm thía cái đẹp nhất của đời này là tình nghĩa của con
người, sự san sẻ cùng chung mọi gian khổ và niềm vui, cùng gánh vác nhiệm vụ; nghĩa
tình càng đẹp hơn trong cuộc sống gian nan, thiếu thốn, càng thấm thía trong khó khăn,
thử thách.
Từ những hình ảnh khắc hoạ chân thực cuốc sống đời thường nơi bản nhỏ,
mạch thơ chuyển sang mô tả cuộc sống kháng chiến và Cách mạng gian khổ mà vui
tươi, lạc quan:
“Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi rừng
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa”
Trong tiếng “ca vang núi rừng ấy”, có tiếng mõ trâu tìm về bản tận rừng sâu và
có cả tiếng “đều đều” của chày giã gạo từ cối xa vọng lại tạo thành một bản nhạc riêng
khó lẫn của núi rừng Việt Bắc. Tất cả làm nên một bài ca trong trẻo, tươi vui mà
không một cuộc sống gian nan khổ ải nào có thể dập tắt được.
Đề 5: Thiên nhiên Việt Bắc hùng vĩ, thắm tƣơi đã cùng con ngƣời đánh giặc và
ghi lại biết bao chiến công anh hùng.
A. 10 câu đầu:Bộ tranh tứ bình
Mỗi chúng ta ai chẳng có một miền đất, một vùng quê để thương để nhớ suốt cả
cuộc đời. Đó có thể là nơi “chôn rau cắt rốn” của ta, nơi những người thân ta đang
sống và cũng có thể là mảnh đất thấm đẫm những kỉ niệm trong đời. Với Tố Hữu thì
đấy là mảnh đất Việt Bắc chan chứa nghĩa tình, mảnh đất ghi dấu bao kỉ niệm về
những ngày đầm ấm, keo sơn giữa những con người nơi đây với những chiến sĩ Cách
mạng. “Việt Bắc” là niềm thương nỗi nhớ, là hoài niệm thường trực trong trái tim nhà
thơ. Bởi vậy mà khi xa rồi, âm vang về một miền quê đã vút lên thành những vần thơ
ngạt ngào, sâu lắng. Đoạn thơ trên tính từ bài thơ “Việt Bắc” một trong những đỉnh
cao của thơ Tố Hữu, sáng tác tháng 10 – 1945.Đoạn thơ nói về nỗi nhớ cảnh và người
Việt Bắc của người cán bộ về xuôi.
1) Hai câu đầu: Giới thiệu cảm xúc chung của đoạn thơ.
Mở đầu đoạn thơ là hai câu giới thiệu nội dung bao quát đoạn:
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng ngƣời”
Câu hỏi tu từ “mình có nhớ ta” vừa là lời đối thoại, vừa là cái cầu nối xuống
câu dưới và đấy cũng là cái cớ để bày tỏ tấm lòng, nỗi niềm của mình. Với Tố Hữu,
người cán bộ ra đi không chỉ nhớ đến những ngày tháng gian khổ “bát cơm sẻ nửa,
chăn sui đắp cùng” mà còn nhớ đến vẻ đẹp đáng yêu của “hoa cùng ngƣời”. Từ xưa
đến nay, trong văn chương nghệ thuật, hoa và trăng là biểu tượng của cái đẹp từ thiên
nhiên tạo vật. Ở đây, “hoa” tượng trưng cho cái đẹp thiên nhiên Việt Bắc. “Hoa” ở
bên “ngƣời” để “ngƣời” mang gương mặt sắc màu của “hoa”. “Ngƣời” ở bên “hoa” để
cho “hoa” mang hồn “ngƣời”. “Hoa” và “ngƣời” quấn quýt với nhau trong vẻ đẹp hai
hoà, đằm thắm để tạo nên nét riêng biệt, độc đáo của vùng đất này. Chính điều ấy đã
tạo nên cấu trúc đặc sắc của doạn thơ. Trong bốn cặp lục bát còn lại, câu 6 dành cho
nhớ “hoa”, nhớ cảnh; câu 8 dành cho nhớ “ngƣời”. Cảnh và người trong mỗi câu có
những sắc thái, đặc điểm riêng thật hấp dẫn.
36
Đọc những câu thơ trên, chúng ta có cảm giác tác giả viết không hề trau chuốt
mà cứ chảy từ tấm lòng nhớ thương da diết của người cán bộ miền xuôi. Qua đấy,
cảnh và người cùng những hoạt động của nó ở núi rừng chiến khu Việt Bắc cứ dần dần
hiện lên bốn mùa trong năm. Mỗi mùa có một màu sắc, âm thanh có đủ chủ đạo tạo
thành mộ bộ tứ bình đặc sắc: khi lắng dịu, khi rực rỡ chói chang, khi rộn ràng náo nức.
2) Bộ tranh tứ bình về cảnh và ngƣời Việt Bắc.
a) Đông về với màu xanh trầm mặc bát ngát, bao la của cánh rừng có điểm
những bông chuối đỏ tươi như những bó đuốc thắp sáng rực, tạo nên những bức tranh
với đường nét màu sắc vừa đối lập, vừa hài hoà, vừa cổ điển, vừa hiện đại. Cái màu đỏ
tươi của hoa chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng làm cho thiên nhiên
Việt Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống, xua đi cái hoang sơ,
lạnh giá, hiu hắt vốn có của núi rừng.
Cùng hiện lên với cái lung linh của hoa chuối ấy, là con người của vùng chiến
khu lên núi phát nương làm rẫy, sản xuất nhiều lúa khoai cung cấp cho kháng chiến…
Trước thiên nhiên bao la, con người càng trở nên kỳ vĩ, hùng tráng hơn. Ở đây, nhà thơ
không khắc hoạ gương mặt mà chớp lấy một nét thần tình rực sáng nhất. Đó là ánh mặt
trời chớp loé trên lưỡi dao rừng ở ngang lưng. Con người như một tụ điểm của ánh
sáng. Con người ấy cũng đã xuất hiện ở một vị trí, tư thế đẹp nhất. Đấy là cái tư thế
làm chủ đầy kiêu hãnh và vững chãi: giữa núi và nắng, giữa trời cao bao la với rừng
xanh mênh mang. Con người ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt
Bắc.
b) Đông qua mùa xuân lại về.
Mùa xuân về mang điều tốt lành cho con người, báo hiệu những niềm vui, sức
sống âm thầm đang trỗi dậy. Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng,
trong trẻo, tinh khiết hoa mơ nở trắng rừng. “Trắng rừng” được viết theo phép đảo ngữ.
Tính từ “trắng rừng” được dùng như động từ, có tác dụng nhấn mạnh vào màu sắc.
Màu trắng dường như lấn át tất cả với màu xanh của lá và làm bừng sáng cả khu rừng
bởi sắc trắng mơ màng, bâng khuâng, dịu mát hoa mơ. Điều đó chứng tỏ, đây là giờ
của hoa mơ nở rộ nhất và ẩn chứa đằng sau đó những niềm vui thiêng liêng. Đúng như
Tố Hữu đã viết về giây phút Bác Hồ đặt chân lên biến giới:
“Ôi! Sáng xuân nay xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về …Im lặng con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ”
Nổi bật trên nền của, hoa mơ nở trắng ấy, là hình ảnh con người với công việc
của mùa xuân: đan nên những chiếc nón tình nghĩa gửi tặng bộ đội dân công. Hình ảnh
thơ đã nói lên được bàn tay khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút và phẩm chất tần
tảo của con người Việt Bắc.
c) Mùa hè.
Bức tranh trong nỗi nhớ của Tố Hữu không chỉ có màu đỏ tươi của hoa chuối,
màu xanh ngắt của rừng, màu trắng muốt của hoa mơ, mà còn có cả màu vàng rực của
cây phách “ve kêu rừng phách đổ vàng”. “Đổ vàng” có nghĩa là chuyển sang màu vàng,
nhưng nhiều và đậm hơn, gợi cảm giác đột ngột. Màu của cây phách “đổ vàng” cả suối
ngàn, dường như làm cho ánh nắng của mùa hè và cả tiếng ve kêu râm ran kia nữa
cũng trở nên vàng óng thêm ra. Đây là một bức tranh sơn màu được vẽ lên bằng hoài
niệm nên lung linh ánh sáng, rực rỡ sắc màu và rộn rã âm thanh. Tố Hữu không chỉ có
biệt tài trong việc miêu tả vẻ đẹp riêng của từng mùa mà còn có tài năng trong việc
37
miêu tả sự vận động đổi thay của thời gian và cảnh vật. Chỉ trong một câu thơ trên mà
ta thấy cả thời gian luân chuyển sống động: tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến và cây
phách ngả sang màu vàng rực rỡ. Đây chính là biểu hiện đặc sắc của tính dân tộc.
Hiện lên trong cái thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy, là hình ảnh cô gái áo chàm
cần mẫn đi hái búp măng rừng, cung cấp cho bộ đội kháng chiến. “Hái măng một
mình” mà không gợi lên ấn tượng về sự cô đơn, hiu hắt, mà trái lại rất trữ tình, thơ
mộng, gần gũi, thân thương, tha thiết. Hình ảnh thơ cũng gợi lên được hình ảnh chịu
thương chịu khó của cô gái. Đằng sau đó, ẩn chứa biết bao niềm thân thương, trân
trọng, cảm phục của tác giả.
d) Mùa thu.
Thu sang, khung cảnh núi rừng chiến khu như được tắm trong ánh trăng xanh
huyền ảo, dịu mát (“Rừng thu…thuỷ chung”). “Trăng rọi hoà bình” là ánh trăng chiếu
sáng không khí thanh bình nơi chiến khu kháng chiến. Những ai đã từng trải qua
những tháng ngày mưa bom bão đạn, thì mới thấy sự xúc động của lòng người trong
những đêm trăng hoà bình đó. Vì vậy, tả cảnh trăng mà không cảm thấy vắng lặng,
lạnh lẽo; trái lại đã gợi lên không khí rạo rực, đắm say. Bởi giữa ánh trăng rừng ấy đã
vang lên tiếng hát mang đậm ân tình thuỷ chung của ai đó càng làm cho ánh trăng như
sáng hơn và cũng lung linh thắm đượm tình người Việt Bắc hơn.
(Tiểu kết đoạn: Tóm lại đây là đoạn thơ vừa sâu sắc về nội dung, vừa độc đáo
về nghệ thuật. Nó xứng đáng là đoạn thơ hay nhất trong “Việt Bắc”. Đoạn thơ cũng
cho ta thấy rõ phong cách thơ Tố Hữu: trữ tình, sâu lắng, tha thiết, ân tình mang đậm
tính dân tộc. Những câu thơ lục bát đậm đà âm hưởng ca dao nhịp nhàng, uyển chuyển
cứ tuôn trào và dạt dào cảm xúc qua cách xưng hô “mình” và “ta”, một cách xưng hô
truyền thống thắm thiết nghĩa tình. Nhạc điệu dịu dàng, trầm bổng khiến cho cả doạn
thơ mang âm hưởng bâng khuâng, êm ái như một khúc hát ru kỉ niệm. Đặc biệt từ
“nhớ” được láy lại nhiều lần, mỗi lần một khác và sắc độ tăng dần lên làm cụ thể hơn
tấm lòng của người ra đi đối với cảnh và người Việt Bắc).
c) Kết luận.
Nhìn chung, đây là bộ tranh tứ bình thật đẹp đẽ, nên thơ về cảnh và người Việt
Bắc, những con người bình dị mà bằng những công việc nhỏ bé của mình đã làm nên
cuộc kháng chiến vĩ đại. Bức tranh ấy đã in hình đường nét, màu sắc vào nỗi nhớ của
người ra đi. Mang nỗi nhớ này vào cuộc sống mời, dù là cuộc sống nơi phố phường
nhộn nhịp, đông vui vẫn không lấn át được những sắc màu riêng của một vùng kỉ niệm.
* *
*
B.Thiên nhiên Việt Bắc đã cùng con ngƣời đánh giặc
Thiên nhiên núi rừng Việt Bắc trong cuộc kháng chiến chống Pháp còn sát cánh
với con người tạo nên một trận địa rộng lớn bao vây quân thù. Việt Bắc ngày ấy, núi
rừng hiểm trở làm thành một căn cứ địa vững chắc che giấu cán bộ bộ đội, khiến cho
quân thù không phát hiện được; mặt khác, rừng cây, núi đá cũng đã “tạo thành một
thiên la địa võng mà hễ quân thù đặt chân vào là như lạc vào một trận đồ bát quái
không tìm được đường ra.” Quả đúng là “rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”. Hai
câu tiếp theo:
“Mênh mông bốn mặt sƣơng mù
Đất trời ta cả, chiến khu một lòng”
cũng nói lên sức mạnh rừng núi quê hương ta. Sự đối lập giữa “mênh mông bốn mặt”
với “một lòng” đã nhấn mạnh sự đồng lòng thống nhất ý chí trong kháng chiến. Vì thế,
38
“luỹ sắt dày” và “bốn mặt sƣơng mù” đã mang một ý tưởng mới. Chúng trở thành biểu
tượng của trận địa lòng dân, của đất trời, sông núi Việt Nam và là đất chết của kẻ thù.
Đúng như Nguyễn Đình Thi đã viết :
“Những làng xóm đã mọc lên luỹ thép
Những cánh đồng thành bể dầu sôi
Quân giặc kinh hoàng đi trên đất chết
Mỗi bƣớc đi lạnh toát mồ hôi”
Đề 6: Bức tranh cả nƣớc ra trận đầy khí thế, niềm vui và những chiến công
lừng lẫy.
Theo dòng cảm xúc hồi tưởng, bài thơ đã dẫn người đọc vào khung cảnh Việt
Bắc kháng chiến: những hoạt động tấp nập, sôi động của cuộc kháng chiến anh hùng
để chuẩn bị cho cuộc tổng phản công bằng một chiến“Điện Biên lừng lẫy địa cầu”:
“Ai về ai có nhớ không?”
Chỉ có một chữ “nhớ” trong lời hỏi của người ở lại mà khơi dậy cả một trời
thương nhớ bằng năm chữ “nhớ” trong câu trả lời của người ra đi. “Nhớ” là yêu, “nhớ”
là tự hào. Tự hào với những chiến công dồn dập gắn liền với từng ngọn núi, dòng sông
thật kiêu hãnh (sông Lô, Phố Ràng…) để từ đó cả nước bước vào một cuộc diễu binh
hùng vĩ. Đoạn thơ đã trở thành bản anh hùng ca về “mƣời lăm năm ấy thiết tha, mặn
nồng” của cuộc Cách mạng và chiến tranh ái quốc vĩ đại. Câu một và hai đã nêu lên
được cái nhìn khái quát chung. Cuộc kháng chiến của ta là cuộc chiến tranh giải phóng
dân tộc, một cuộc chiến tranh sáng ngời chính nghĩa “lấy chí nhân để thay cƣờng bạo”.
Vì vậy, ta càng đánh càng thắng, địch càng đánh càng thua. Từ một đội quân trên dưới
ba mươi chiến sĩ xuất thân nơi cây đa Tân Trào lịch sử, giờ đây ta đã có những binh
đoàn hùng mạnh, liên tiếp gặt hái được những chiến công chói lọi: Thu Đông, Sông Lô,
Biên Giới… Hôm nay, chúng ta đang chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công, chúng ta hoàn
toàn làm chủ chiến trường Việt Bắc cả về tinh thần và về lực lượng. Vì vậy, đoàn quân
ta đã xuất phát từ mọi ngả đường Việt Bắc, như những gọng kìm nhằm xiết chặt quân
thù đang co cụm ở cứ điểm cuối cùng “Những đƣờng Việt Bắc của ta”. Cảm hứng về
tư thế làm chủ và tư thế tấn công bao vây quân giặc được thể hiện qua cụm từ “những
đƣờng của ta”. Ngày kháng chiến chống Pháp, máy bay giặc chủ yêu hoạt động ban
ngày. Do đó ta phải hành quân đêm .Trên các nẻo đường Việt Bắc, đêm nối đêm, các
binh đoàn cứ nối nhau “rầm rập” tiến quân ra trận. Từ láy “rầm rập” là từ láy tượng
thanh rất gợi cảm. Nó diễn tả được bước chân đi đầy khí thế hăng say và sức mạnh áp
đảo của một tập thể người đông đúc có đội ngũ chỉnh tề. Với từ “rầm rập” đặc sắc ấy,
cuộc ra trận của quân dân ta bỗng trở thành cuộc diễu binh hùng vĩ. Vì thế mà bước
chân của đoàn quân ấy đêm đêm cứ “rầm rập” tiến bước làm rung chuyển cả mặt đất
“nhƣ là đất rung”.
Câu 3 + 4:
Từ cái nhìn khái quát chung ở câu một, câu hai, đến đây đã đi vào cái nhìn cụ
thể. Nếu câu trên, tác giả tả khí thế ra trận của quân ta qua ấn tượng thính giác, thì ở
câu sau, tác giả tả bằng thị giác…Từ láy bốn “điệp điệp, trùng trùng” thật giàu ý nghĩa
diễn tả. Nó gợi lên trong ta. Những đoàn quân ra trận nối dài vô tận và rất hùng vĩ như
những dãy núi kế tiếp nhau vậy. Ở đây, ta lại bắt gặp một hình ảnh thơ được viết với
bút pháp cường điệu, mang đậm màu sắc anh hùng ca. Vì vậy, sức mạnh, khí thế của
đoàn quân ra trận đã được nâng lên ngang tầm với sức mạnh của thiên nhiên sông núi:
39
“Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”
Câu thơ vừa có ý nghĩa tả thực, vừa có ý nghĩa khái quát trượng trưng sâu xa.
Nó diễn tả đoàn quân đi trong đêm, đầu súng lấp lánh ánh sao trời, nhưng đồng thời
lấp lánh ánh sao lý tưởng. Hình ảnh tươi sáng ấy kết hợp với hình ảnh chiếc mũ nan
giản dị, trang bị còn thiếu thốn của anh bộ đội tạo cho anh một vẻ đẹp bình dị mà cao
cả, bình thường mà vĩ đại. Như vậy, “Một đoạn thơ mà dùng hàng loạt điệp từ, từ láy
gợi lên những hình ảnh, âm thanh đầy ấn tƣợng khiến cho ngƣời đọc cảm thấy sự hối
hả, chuyển động không ngừng của những đoàn quân ra mặt trận. Nhịp điệu thơ 2/2/2:
“Những đƣờng/ Việt Bắc/ của ta”… nhƣ nhịp hành quân mạnh mẽ, oai hùng làm sao!
Trong toàn bộ đoạn thơ, mỗi câu, mỗi từ ngữ đều làm nổi bật tính chất anh hùng của
quân đội ta”(Lời tác giả).
Câu 5+6:
Cuộc chiến tranh của ta là cuộc chiến tranh nhân dân nên “Từ nơi em gửi tới
nơi anh. Những đoàn quân trùng trùng ra trận. Nhƣ tình yêu nối lời vô tận”. Tiếp
theo những binh đoàn bộ đội là dân công tiếp tế lương thực, đạn dược. Cũng như
những người chiến sĩ rầm rập lên đường, những nam nữ dân công cũng vào trận đầy
khí thế và sức mạnh anh hùng, kiêu hãnh, đạp bằng gian nguy để tiến lên phía trước.
“Cái khí phách ấy được dồn nén và bật ra trong một câu thơ tuyệt hay?:
“Bƣớc chân nát đá muôn tàn lửa bay”
(Tố Hữu)
Cái khí phách này chỉ tìm thấy trong các anh hùng thần thoại như Thánh Gióng,
Sơn Tinh - Thuỷ Tinh… Nhưng trong cuộc kháng chiến chống Pháp thần kì, những
anh hùng như thế đã trở thành phổ biến. Đúng là : “Một thời đại anh hùng đòi hỏi một
nền thơ ca anh hùng”. Câu thơ của Tố Hữu có từ “nát đá” được viết theo phép đảo
ngữ, dùng từ bạo, rất khoẻ, vừa gợi lên được những gánh hàng nặng, vừa nói lên được
bước chân đầy sức mạnh tiến công. Nhớ về ngày xưa, cha ông ta đã mơ ước đến cháy
bỏng:
“Trông trời, trông đất, trông mây
Trông mƣa, trông nắng, trông ngày, trông đêm
Trông cho chân cứng đã mềm”
Thì giờ đây, niềm mơ ước ấy đã trở thành hiện thực kì diệu ở chiến trường Điện
Biên. Hình ảnh thơ “đỏ đuốc từng đàn” và “muôn tàn lửa bay” là những hình ảnh thơ
rất đẹp. Đoàn dân công đi dưới ánh đuốc có “muôn tàn lửa bay”. Đó là lửa của bó
đuốc đang bay, hay có cả ánh lửa từ trái tim của anh chị dân công hoả tuyến, những
Đan Cô của thời đại kháng chiến? Ở hai câu thơ này, tác giả sử dụng nhiều hình ảnh
giàu màu sắc tạo hình, vừa chân thực vừa bay bổng. Đoàn dân công đi vào chiến dịch
mà như thể đi trong hội hoa đăng. Thật đẹp biết bao, mà cũng tự hào biết bao về khí
thế và niềm tin ra trận của quân dân ta. Đúng như Mác đã từng khẳng định: “Cách
mạng là ngày hội quần chúng”.
Câu 7+8:
Đoạn thơ trên được kết lại bằng hai câu tràn đầy cảm hứng tự hào, tin tưởng về
tương lai tươi sáng, về cuộc kháng chiến gian khổ.
Hai câu thơ mô tả đoàn xe chở đạn dược, vũ khí và cao xạ pháo ra chiến trường,
xe nối đuôi nhau, đèn pha bật sáng trưng như ánh sáng ban ngày. Chỉ bằng hình ảnh ấy,
Tố Hữu đã diễn tả đông đảo lực lượng cơ giới của quân dân ta. Nhưng quan trọng hơn,
với thủ pháp đối lập giữa “nghìn đêm thăm thẳm” và “đèn pha bật sáng”, câu thơ đã
40
nêu bật được sự trưởng thành vượt bậc của quân dân ta và niềm tin tất thắng của
những người ra trận hôm nay.
Kết luận:
“Việt Bắc” ở phần đầu giai điệu chủ yếu là trữ tình, mềm mại… Đến đoạn này,
bài thơ đã chuyển sang mạch cảm hứng mạnh mẽ, dứt khoát mang màu sắc anh hùng
ca, đã diễn tả rất thành công khí phách anh hùng và hào khí lẫm liệt của cả dân tộc ra
trận. Đoạn thơ xứng đáng là một bức tranh giàu chất thơ, giàu chất hoạ… về sức mạnh
vô song của cuộc chiến tranh nhân dân vĩ đại, tràn ngập chiến công.
VII. Khung cảnh làm việc của bộ chỉ huy Cách mạng và hình ảnh chiến khi
Việt Bắc.
Với khí thế ra trận hùng tráng như vậy thì chiến công nối tiếp chiến công là tất
yếu. Đoạn tiếp theo của bài thơ xứng đáng là một bài ca:
“Thắng trận tin vui khắp nƣớc nhà”
Người ta thường nói: “nỗi đau dễ đồng cảm, niềm vui thì dễ lây lan.” Một tin
chiến thắng trong thời khắc lịch sử đó đã hết sức vui. Tin vui chiến thắng trăm miền
dồn dập Việt Bắc thì niềm vui phải dâng trào lên tràn ngập. Đúng như Tố Hữu viết:
“Biển vui dâng sóng trắng đầu ghềnh”
Vì thế, từ “vui” xuất hiện trong tất cả các dòng thơ và gắn liền với các địa danh:
Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên, Đồng Tháp, An Khê, đèo De, núi Hồng… đã làm nức
lòng hàng triệu đồng bào Việt Nam hoà trong biển vui dào dạt lan xa. Lời thơ Tố Hữu
cất lên sang sảng tự hào như nói với ta những địa danh trên nối tiếp với Bạch Đằng,
Chi Lăng… đã làm nên những dòng tên bất diệt:
“Ôi Việt Nam! Xứ sở lạ lùng
… Mỗi ngọn núi dòng sông
Cũng hiển hách chiến công
Cũng lừng danh lịch sử”
Kết bài:
Tóm lại, bài thơ “Viẹt Bắc” nói chung và đoạn thơ ta phân tích nói riêng xứng
đáng là đỉnh cao của thơ Tố Hữu “tình thơ tha thiết, điệu thơ êm ái nhƣ nhịp ru là một
khúc trữ tình nồng nàn, sôi nổi bậc nhất trong thơ ca Cách mạng hiện đại” (Trần Đình
Sử). “Khúc trữ tình” ấy, đi thẳng vào trái tim hàng triệu độc giả còn bởi đạo lý Việt
Nam: đạo lý ân nghĩa thuỷ chung với Cách mang, kháng chiến.
XUÂN DIỆU
Đề 1 : Phân tích bài thơ “Vội vàng”
I. MỞ BÀI:
“Vội vàng” là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Xuân Diệu trước cách
mạng tháng tám. Tác phẩm được rút ra từ tập “Thơ thơ” (1938). Đây là tiếng nói của
một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Nhưng đằng sau những tình cảm ấy
có một quan niệm nhân sinh mới chưa từng thấy trong thơ ca truyền thống.
41
II. THÂN BÀI:
1. Thiên đƣờng ngay trên mặt đất.
Trong lời giới thiệu tập thơ đầu tay của Xuân Diệu, Thế Lữ đã khẳng định:
“Xuân Diệu là một ngƣời của đời, một ngƣời ở giữa loài ngƣời. Lầu thơ của ông xây
dựng trên đất của một tấm lòng trần gian, ông không trốn tránh mà lại còn quyến
luyến cõi đời và lời nguyện ƣớc của ông có bao nhiêu sức mạnh”:
“Ta ôm bó, cánh tay ta làm rắn
Làm dây da quấn quýt cả mình xuân
Không muốn đi, mãi mãi ở vƣờn trần
Chân hoá rễ để hút mùa dƣới đất”
(Thanh niên – Xuân Diệu)
Còn Hoài Thanh đã nhận xét: Thế Lữ xui mọi người lên tiên nhưng Xuân Diệu
lại đốt cảnh bồng lai xua mọi người về với hạ giới. Đối với Xuân Diệu, mặt đất này là
vườn trần tươi tốt, là một thiên đường trong tầm tay với người bình thường quanh
chúng ta. Này đây hoa thơm, trái ngọt của mùa xuân tươi thắm đang chào mời chúng
ta thật hấp dẫn:
“Của ong bƣớm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si”
Với tâm hồn khát sống, khát yêu, tận hiến, tận hưởng và khát khao giao cảm
mãnh liệt, Xuân Diệu đã khám phá ra vẻ xuân tươi phơi phới đầy tình tứ và ngon lành
ở những cảnh vật thiên nhiên quen thuộc quanh ta: cảnh ong đưa và bướm lượn dập
dìu bỗng chốc trở thành “tuần tháng mật” của tình vợ chồng. “Hoa của đồng nội”
cũng trở nên thắm sắc, ngát hương hơn. Cành cây bình thường cũng hoá thành “cành
tơ” căng tràn nhựa sống với những chiếc lá phơ phất bay đầy tình tứ. Và tiếng hót đắm
say của chim yến, chim oanh bỗng chốc cũng hoá thành điệu tình si mê đắm lòng
người. Thi sĩ như muốn nói với chúng ta: sao người ta cứ đi tìm Bồng lai Tiên cảnh,
cõi Niết bàn cực lạc ở mãi chốn mông lung hão huyền, viễn vông nào kia. Nó ở ngay
giữa cuộc sống quanh ta đây, ngay trong giây phút hiện tại đây. Nó là cái có thực, luôn
luôn diễn ra sinh động trước mắt ta. Hàng loạt từ “này đây” vừa như liệt kê những của
ngon vật lạ phong phú, đa dạng, muôn màu muôn vẻ của trần gian, vừa như mời mọc
thiết tha, vừa tạo cho đoạn thơ một nhịp điệu thúc giục hối hả. Vậy còn chờ gì nữa,
hãy yêu mến, hãy gắn bó và sống hết mình với cuộc sống thực tại đầy tươi vui này.
Thực ra, cái thế giới tươi đẹp đó, vườn xuân mơn mởn xanh tươi đó đâu phải
bây giờ mới có. Nhưng xưa nay, ta chưa có con mắt nhìn, chưa chịu nhìn nên không
thấy. Nhà thơ Xuân Diệu không tạo ra thế giới mới nhưng có con mắt nhìn mới. Thi sĩ
gọi đó là con mắt “xanh non”. Thoát hỏi hệ thống ước lệ có tính chất phi cá thể của
văn chương cổ điển, cặp mắt “xanh non” của thơ Mới tiêu biểu hơn hết là Xuân Diệu
ngơ ngác, vui sướng như lần đầu tiên trông thấy trời xanh hoá lá, cái gì cũng lạ, cũng
đẹp, cũng non tươi; cái gì cũng mê, cũng say.
2. Đẹp nhất là con ngƣời giữa tuổi trẻ và tình yêu.
Nhưng đối với Xuân Diệu, thế giới trần gian này đẹp nhất, hấp dẫn nhất vẫn là
vì có con người, đặc biệt là con người giữa tuổi trẻ và tình yêu. Thơ ca cổ điển thường
lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho cái đẹp của con người: “Khuôn trăng đầy đặn, nét
ngài nở nang”. Ở đây, Xuân Diệu đã đưa ra một tiêu chuẩn khác: con người hồng hào
mơn mởn xinh đẹp giữa tuổi yêu đương là đẹp nhất. Ấy mới là chuẩn mực của mọi vẻ
42
đẹp trên thế giới này. Con người là thước đo thẩm mỹ của vũ trụ. Vẻ đẹp của con
người trần thế là tác phẩm kỳ diệu nhất của tạo hoá. Đó là ý nghĩa nhân bản mỹ học
Xuân Diệu. Nó cũng đã tiếp nối được truyền thống nhân đạo của nhân dân ta khi cho
rằng “ngƣời ta là hoa đất”.
Tư tưởng thẩm mĩ ấy đã giúp Xuân Diệu sáng tạo nên được những hình ảnh
mới mẻ, đẹp đẽ gây cảm xúc đặc biệt cho người đọc. Chẳng bạn, hình ảnh “và này đây
ánh sáng chớp hàng mi”, ánh sáng buổi sớm mai như phát ra từ cặp mắt đẹp vô cùng
của nàng công chúa có tên là Bình Minh. Nàng vừa tỉnh giấc nồng suốt một đêm qua,
mắt chớp chớp hàng mi rồi bừng nở ra muôn vàn hào quang. Nhưng “Vội vàng” còn có
một hình ảnh rất độc đáo và táo bạo, rất trần gian nhưng cũng thật tuyệt mĩ, tuyệt vời,
chỉ có tạo hoá – bà mẹ toàn năng đầy phép lạ mới có thể sáng tác nên được. Đó là hình
ảnh “tháng giêng ngon nhƣ một cặp môi gần”. “Tháng giêng” thanh tân, diễm lệ, đầy
ánh sáng, màu sắc, âm thanh và hương thơm trở thành “cặp môi gần” rất “ngon”, ngọt
của người tình nhân. Thật là một hình ảnh rất gợi cảm, giàu hình tượng, rất thanh tao,
trong sáng không thoáng gợn một chút nhục cảm.
3. Hãy sống cao độ mỗi giây phút của tuổi thanh xuân.
Nhưng tạo hoá có sinh ra con người để mãi mãi hưởng lạc thú ở chốn địa đàng
trần gian này đâu! Đời người có hạn, tuổi xuân ngắn ngủi và thời gian trôi đi vĩnh viễn
không trở lại. Thực ra, từ ngàn đời nay, văn chương cũng đã từng than thở về sự ngắn
ngủi của kiếp người. Các thi sĩ xem “cuộc đời nhƣ ánh chớp có rồi không”. Một nhà
thơ đầy bản lĩnh như Nguyễn Công Trứ mà cũng phải thốt lên “ “Ôi! Nhân sinh là thế.
Nhƣ bóng đèn. Nhƣ mây nổi. Nhƣ gió thổi. Nhƣ chiêm bao!” Nhưng ngày xưa, các thi
nhân chưa tách khỏi cộng đồng, con người còn gắn làm một với vũ trụ cho nên chết
chưa hẳn đã là chết, là hư vô, vẫn có thể cùng cộng đồng , cùng trời đất mà tuần hoàn.
Song niềm tin ấy đâu còn nữa ở các nhà thơ Mới đã thức tỉnh được ý thức cá nhân. Vũ
trụ luôn luôn biến đồi, thời gian luôn luôn chảy trôi, có cái gì bền vững đâu, nhất là
ngày xuân, tuổi xuân:
“Xuân đƣơng tới nghĩa là xuân đƣơng qua
Xuân còn non nghĩa là tôi sẽ già
Mà xuân hết thì đời tôi cũng mất”
Cái nghịch lý éo le giữa quy luật nghiệt ngã của thời gian qua nhanh chóng
không gì có thể níu kéo được với khát vọng được tận hưởng cuộc sống hạnh phúc giữa
mùa xuân và tuổi trẻ được tô đậm bằng những cặp từ ngữ, hình ảnh tương phản:
“đƣơng tới” - “đƣơng qua”, “còn non”- “sẽ già”, “lòng tôi rộng” – “lƣợng trời cứ
chật”…và song hành “xuân hết” // “cũng mất”. Vũ trụ có thể vĩnh viễn, mùa xuân đất
trời có thể tuần hoàn, nhưng “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại; còn trời đất nhƣng
chẳng còn tôi mãi”. Ở đây, Xuân Diệu đã lấy cá nhân, đặc biệt là lấy “tuổi trẻ” -
khoảng thời gian ngắn ngủi nhất nhưng có ý nghĩa nhất của đời người làm thước đo
thời gian. Vậy thì làm thế nào bây giờ? Than khóc chăng? Không! Nhà thơ Xuân Diệu
đã có một ý muốn, một khát vọng thật táo bạo, một khát vọng rất thanh niên và cũng
rất Xuân Diệu:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hƣơng đừng bay đi”
Nhưng không thể được! Làm sao có thể cưỡng lại được quy luật sinh sôi vĩnh
hằng nghiệt ngã của vũ trụ? Vậy chỉ còn một cách thôi, hãy “mau lên” hãy “vội vàng
43
lên”, hãy chạy đua với thời gian và sống cao độ, hết mình cho từng giây, từng phút
tuổi trẻ của mình giữa mùa xuân cuộc đời và vũ trụ.
Đề 2 : Phân tích :
“Mau đi thôi! Mùa chƣa ngả chiều hôm
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đƣa và gió lƣợn
Ta muốn say cánh bƣớm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nƣớc, và cây, và cỏ rạng
Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tƣơi
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngƣơi!”
1. Mở bài:
Ngày Xuân Diệu mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, nhà phê bình Hoài
Thanh đã có một đánh giá rất xác đáng "Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh
trời sống vội vàng". Có lẽ cái nét đặc sắc ấy của hồn thơ Xuân Diệu được biểu hiện
đầy đủ nhất trong bài thơ "Vội vàng", mà đoạn bình giảng dưới đây là đoạn hay nhất
của bài thơ.
2. Thân bài:
Bài thơ "Vội vàng" nằm trong tập "Thơ thơ", xuất bản năm 1938, là bài thơ tiêu
hiểu của tập thơ nói riêng, của hồn thơ xuân Diệu nói chung. Cả bài thơ thể hiện một
nhân sinh quan mang ý nghĩa nhân bản sâu sắc. Thiên đường là ở ngay trên mặt đất
chúng ta với biết bao điều hấp dẫn và quyến rũ. Vì vậy, hãy yêu mến, hãy gắn bó và
sống hết mình với cuộc sống thực tại đầy tươi vui này. Nó bộc lộ niềm ham sống, khát
sống, tận hưởng đến vô biên và tuyệt đích của thi nhân. Nó làm ta nhớ tới câu thơ nổi
tiếng của Tago "Ta muốn uống cạn cái ly tràn đầy sự sống".
Ở phần trên của bài thơ, thi sĩ luận giải cho người đọc thấy được tạo hoá có sinh
ra con người để mãi mãi hưởng lạc thú ở chốn trần gian này đâu. Đời người ngắn ngủi,
tuổi xuân có hạn và thời gian trôi đi vĩnh viễn không trở lại "giục giã" chúng ta phải
"nhanh lên", "vội vàng lên" để tận hưởng bữa tiệc của trần gian khi mà "mùa chƣa ngả
chiều hôm", khi mà xuân đang non. xuân chưa già:
"Mau đi thôi mùa chƣa ngả chiều hôm
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn"
"Ở trên, tác giả xƣng "tôi" để đối thoại với đồng loại, ở dƣới lại xƣng "ta" để
đối diện với sự sống" (Chu Văn Sơn). Giữa những câu thơ dài, đột ngột xen vào một
câu thơ rất ngắn, chỉ có ba chữ "ta muốn ôm". Câu thơ như thắt ngang giữa bài làm ta
liên tưởng đến vòng tay đang ôm bó, níu giữ, quấn quýt "cả sự sống mới bắt đầu mơn
mởn", non tơ của nhà thơ. "Mơn mởn" là từ láy rất gợi cảm và giàu ý nghĩa diễn tả. Nó
gợi cảm giác sự vật, cây cối đang ở độ non mướt, tươi tốt đầy sức sống:
"Ta ôm bó cánh tay ta làm rắn
Làm dây da quấn quýt cả vƣờn xuân
Không muốn đi, mãi mãi ở vƣờn trần
Chân hoá rễ để hút mùa dƣới đất"
44
(Thanh niên)
Lần theo bước chân "vội vàng", cuống quýt và trái tim "say đắm", "nồng nàn",
"tha thiết" với sự sống của thi nhân, ta bước vào một thế giới đầy ắp những hình ảnh
sinh động, đẹp đẽ của mùa xuân và cuộc đời:
"Ta muốn riết mây đƣa và gió lƣợn
… cắn vào ngƣơi"
Một đoạn thơ ngắn mà có tới bốn, năm từ "ta muốn" được lặp đi lặp lại như
nhịp điệu hối hả, như hơi thở gấp gáp của thi nhân. Nó đã nói lên được cái ham muốn
khát thèm đến hăm hở, cuồng nhiệt của nhà thơ. Nhất là mỗi lần điệp, lại đi liền với
một động từ chỉ trạng thái yêu đương mỗi lúc một mạnh mẽ, nồng nàn hơn “ôm" -
"riết" - "say" - "thâu", để cuối cùng là một tiếng kêu của sự cuồng nhiệt, đắm say thể
hiện niềm yêu đời, khát sống chưa từng có trong thơ ca Việt Nam “Hỡi xuân hồng! Ta
muốn cắn vào ngƣơi".
Dưới ngòi bút của Xuân Diệu và trong ánh mắt "xanh non", "biếc rờn" của thi
sĩ, mùa xuân hiện lên rõ rệt và sống động như có hình có dáng, có hồn có sắc. Mùa
xuân như môi, như má của một người thiếu nữ trẻ trung, tràn trề nhựa sống và đẹp
xinh, trinh nguyên đang rạo rực yêu đương, hay như một quả chín ngọt thơm trong
vườn. Đứng trước cái hấp dẫn của mùa xuân, cuộc sống, thi sĩ hình như không nén nổi
lòng yêu đã đi đến một cử chỉ cũng thật đáng yêu:
"Ta muốn cắn vào ngƣơi"
Hay:
"Mặt trăng của mẹ
Mẹ nâng trên tay
Mặt trăng tƣơi thế?
Mẹ cắn vào đây"
(Hôn con - Anh Thơ).
Có lẽ trong các bài thơ của Xuân Diệu trước Cách mạng thì đây là những vần
thơ Xuân Diệu nhất. Vì mỗi câu, mỗi chữ đều mang hơi thở nồng nàn, đắm say, ham
sống của "một nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới". Mới từ điệu tâm hồn, cách
cảm, cách nghĩ đến cách đặt câu, dùng từ. Ngay cả liên từ "và" được dùng có vẻ thừa
thãi nhưng cũng đã thể hiện được một cách đậm nét cái "tôi" của Xuân Diệu. Nghĩa là
làm nổi rõ được cái cảm xúc tham lam, ham hố đang trào lên mãnh liệt trong trái tim
yêu đời của Xuân Diệu.
Câu thơ :
"Cho chuếnh choáng mùi thơm
… Cho non nê thanh sắc của thời tƣơi",
mới đọc qua tưởng như là một câu văn xuôi tầm thường, nhưng thực ra lại rất thơ.
Điệp từ "cho" với nhịp độ tăng tiến nhấn mạnh các cấp độ khát vọng hưởng thụ đạt
đến độ thoả thuê, sung mãn, trọn vẹn. Và với chữ "hồng" độc đáo rất gợi hình, gợi cảm,
với một loạt từ láy tính từ "chuếnh choáng", "đã đầy", "no nê", chỉ cảm giác về hưởng
thụ vật chất cụ thể trong nghệ thuật ẩm thực kèm theo trong câu thơ trên, nhà thơ
không chỉ đã diễn tả được ý thơ ấy (thoả thuê, sung mãn) mà còn gợi cho ta ý nghĩ: thế
giới này vừa hiện ra như một người tình hồng hào sức xuân mà thi sĩ là một tình nhân
đắm say, vừa được bày ra như một bữa tiệc lớn với những thực đơn đầy của ngon vật
lạ và thi nhân là một thực khách đang trong trạng thái khát thèm đến cháy lòng.
45
3. Kết bài: Xuân Diệu đã có lần viết: "Tôi gửi tâm hồn tôi cho những ngƣời trẻ
tuổi và nhất là trẻ long, những "Thơ thơ"' cũng là những cái bỏng lƣỡi hay những cơn
buốt môi, vì đã uống tham vào suối của mặt trời, đã ăn hàm hồ vào suối xuân... Và khi
ngƣời ta đã xua tan không còn khát them, là lúc ngƣời ta không còn vui sống nữa". Và
vì vui sống mà Xuân Diệu "say đắm với tình yêu và hăng say với mùa xuân, thả mình
bơi trong nắng, rung động với bƣớm chim, chất trong tim mấy trời thanh sắc" (Thế
Lữ).
ĐỀ 3: NHỮNG NÉT CHÍNH VỀ PHONG CÁCH THƠ XUÂN DIỆU
Xuân Diệu (1916-1985) là nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào thơ mới và là một
trong những cây bút lớn của nền văn học VN hiện đại. Thơ Xuân Diệu có phong cách
độc đáo và hấp dẫn. Dưới đây là những nét chủ yếu của phong cách thơ ông.
1.Có thể nói Xuân Diệu là một trái tim lớn,một nguồn tình cảm yêu đời, yêu cuộc sống
trần thế; một cách mãnh liệt đến say mê cuồng nhiệt ( trước khi mất, Xuân Diệu để lại
cho đời những vần thơ cảm động:
Hãy để cho tôi đƣợc giã từ
Vẫy chào cõi thực để vào hƣ
Trong hơi thở chót dâng trời đất
Cũng vẫn si tình đến ngất ngƣ.)
(Không đề )
Đây là một cá tính tự nhiên của Xuân Diệu.Nhưng cá tính cũng có liên quan đến
hoàn cảnh gia đình và môi trường thiên nhiên và xã hội, nơi ông sinh ra và lớn lên.
Xuân Diệu chịu ảnh hưởng rất nhiều của người bố. Đó là một ông đồ xứ Nghệ, cần cù
chịu khó, ham học. mẹ Xuân Diệu người Quy Nhơn, Xuân Diệu lớn lên ở đây, nơi có
“ gió nồm thổi lên tƣơi mát”. Sau này ra Hà Nội rồi vào Huế học. Cảnh lộng lẫy của
đất Thăng Long cùng với vẻ đẹp đầy mộng mơ của Huế, “ gió nồm Nam biển dạt dào
Quy Nhơn” đã khơi dậy ở tâm hồn Xuân Diệu một tình yêu đời say đắm.
2.Xuân Diệu là nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào thơ mới, nghĩa là có ý thức sâu
sắc, khẳng định cái tôi cá nhân của mình bằng nghệ thuật thơ ca. Nhưng khác với
nhiều nhà thơ cùng thời trong phong trào thơ mới, Xuân Diệu không đem cái tôi của
mình đối lập với đời và tìm cách thoát ly với cuộc sống này; trái lại, ông muốn khẳng
định nó trong quan hệ gắn bó với đời; “ đời” hiểu theo nghĩa hiện thực nhất. Đời: là
con người, là trời đất, hoa lá, cỏ cây ở quanh ta đây. Ông quan niệm được sống mãi
với đời là niềm hạnh phúc tuyệt vời nhất. Mà trên đời này có gì đáng yêu hơn làmùa
xuân tuổi trẻ và tình yêu. Đó là nguồn thơ phong phú của ông, là đề tài chủ yếu của
Xuân Diệu.
3.Với niềm khát khao giao cảm hết mình với cuộc đời trần thế này, 1 cách tự nhiên
Xuân Diệu là nhà thơ tình yêu. Vì tình yêu là niềm giao cảm mãnh liệt nhất và trần thế
nhất. Đây là loại tình cảm bao giờ cũng đòi hỏi cao độ… người ta đã tặng cho Xuân
Diệu danh hiệu “Nhà thơ tình số một”, là “ông Hoàng của thơ tình yêu”
46
4. Tha thíêt với mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu, Xuân Diệu đã đi đến một cách tân đáng
kể về thi pháp. Nếu thơ văn xưa , coi tự nhiên là chuẩn mực của cái đẹp thì giờ Xuân
Diệu đảo ngược lại : đối với ông, không gì hoàn mĩ bằng con người, nhất là phụ nữ
giữa tuổi xuân. Một quan điểm thẩm mĩ như vậy đã tạo nên trong thế giới nghệ thuật
của Xuân Diệu những hình tượng giàu sức sống và đầy “xuân tình xuân sắc”. Tuy
nhiên trong xã hội cũ, Xuân Diệu cảm thấy tình yêu say đắm, nồng nàn của mình
không được đáp lại xứng đáng, tựa như “nước đổ lá khoai”. Với Xuân Diệu , thơ mới
là đào sâu vào tâm hồn của cái tôi cá nhân, cá thể. Và càng đi sâu càng lạnh. Cho nên
con người yêu đời là vậy mà lắm lúc cảm thấy cô đơn, thậm chí muốn trốn đời và trốn
cả bản thân mình. Vì vậy trong thế giới nghệ thuật của Xuân Diệu mùa xuân và bình
minh đi liền với những chiều thu tàn và những đêm trăng lạnh.
5. Xuân Diệu chịu ảnh hưởng của nền văn chương Đông Tây, cổ điển vá hiện đại.
Xuân Diệu đặc biệt chịu ảnh hưởng của trường phái thơ tượng trưng của Pháp, như
Bôđơle Rimbo Veclen. Thơ tượng trưng hết sức đề cao quan hệ tương giao giữa các
giác quan cùng tính nhạc của thơ và mài sắc các giác quan để cảm nhận và diễn tả
được những biến thái tinh vi nhất của tạo vật và lòng người. 2 nguồn văn hoá Đông
Tây được kết tinh ở một tâm hồn nghệ sĩ đã giúp cho Xuân Diệu sáng tạo nên những
vần thơ súc tích như kết đọng biết bao tinh hoa.
Kết luận: là nhà thơ của niềm khát khao giao cảm với đời, Xuân Diệu đã dễ dàng gắn
bó với con người , với nhân dân. Từ một nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới
lãng mạn, Xuân Diệu đã trở thành nhà thơ lớn của văn học CM. Là một nghệ sĩ đa tài,
sau CM, Xuân Diệu càng phát huy năng khiếu của mình trên nhiều thể loại : bút ký,
tuỳ bút, dịch thuật, đặc biệt là nghiên cứu và phê bình văn học. Ở lĩnh vực nào, ông
cũng có những đóng góp rất có giá trị.
HUY CẬN
Đề ra: Phân tích bài thơ Tràng Giang của Huy Cận
Bài Làm
Trong dàn đồng ca đa điệu buồn của thơ ca lãng mạn trước Cách mạng thì Huy
Cận là hồn thơ buồn hơn cả:
“Chàng Huy Cận khi xƣa hay sầu lắm”
Trong tâm hồn ông luôn luôn chất chứa nỗi sầu buồn: buồn sông núi, sầu vũ trụ,
sầu nhân thế, sầu vạn kỉ… Tâm trạng ấy của Huy Cận được diễn tả khá thấm thía và
cảm động trong bài “Tràng giang” - một bài thơ đã đạt đến trình độ cổ điển của dòng
thơ Mới.
I. Hoàn cảnh sáng tác và cảm hứng chủ đạo.
1. “Tràng giang” là một bài thơ nổi tiếng của Huy Cận, sáng tác vào năm 1939,
đăng lần đầu tiên trên báo “Ngày nay”, sau đó in vào tập thơ “Lửa thiêng” (Lửa sáng
tạo). Bài thơ mang phong vị Đường thi khá rõ.
47
2. Đây là bài thơ được cảnh sông nước mênh mông của sông Hồng gợi tứ. Huy
Cận đã có lần tâm sự: “Tôi có thú vui thƣờng vào chiều chủ nhật hàng tuần đi lên vùng
Chèm để ngoạn cảnh sông Hồng và Hồ Tây. Phong cảnh sông nƣớc đẹp, gợi cho tôi
nhiều cảm xúc. Tuy nhiên bài thơ không chỉ do sông Hồng gợi cảm mà còn mang cảm
xúc chung về những dòng sông khác của quê hƣơng”. Vì vậy, phân tích bài thơ này là
phân tích một bức tranh thiên nhiên sông nước hầu như đã trở thành cổ điển mà linh
hồn của nó là một nỗi buồn đìu hiu, mênh mang, cô đơn. Qua mỗi khổ thơ, tác giả
điểm thêm một nét buồn nào đó. Tất cả những nét buồn ấy cứ trở đi trở lại, vẫn là bát
ngát mênh mang mà hoang vắng và có một cái gì đó tàn tạ, lụi tắt, cô đơn, bơ vơ, nổi
trôi, chia lìa, phiêu bạt. Đây là nỗi buồn cô đơn đến rợm ngợp của cái tôi cá nhân trước
không gian ba chiều bao la, luôn luôn có niềm khát khao hoà hợp, cảm thông giữa
người và người trong tình đất nước và tình nhân loại.
3. Nhan đề:
Theo Huy Cận, đây là một bài thơ “tình”, tình gặp cảnh tình sầu nên cảnh cũng
sầu. Nỗi sầu buồn mênh mang bao trùm cả không gian, thời gian thấm toả vào cả linh
hồn tạo vật. Vào những buổi chiều tà, trên những bãi sông, nhà thơ thường đứng trầm
tư để cho lòng mình “bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Ngay nhan đề của bài thơ
đã vẽ lên trước mắt ta một hình ảnh cổ kính, cổ điển. “Tràng giang”, hai âm Hán -
Việt và vần “ang” đi liền với nhau làm cho con sông trong thơ bỗng trở nên dài rộng
hơn, vĩnh hằng hơn trong tâm tưởng của người đọc. Đó là con sông tự một thuở xa xưa
nào đã từng chảy trên đất Việt qua nghìn năm lịch sử, nghìn năm văn hiến.
II. Phân tích
1. Khổ 1
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái, nƣớc song song”
Bài thơ được mở đầu bằng một hình ảnh sông nước mênh mông:
“Sóng gơn tràng giang buồn điệp điệp”
“Tràng giang” dài rộng đang trải ra từng đợt sóng “điệp điệp” không dứt. Với
tấm lòng sầu tư ngắm nhìn cảnh ấy, nhà thơ cảm thấy nỗi buồn của mình cũng đang
trải ra từng đợt “điệp điệp” như những lớp sóng cùng con thuyền quen thuộc thả mái
chèo “song song” xuôi dòng. Hai câu thơ của Huy Cận làm ta nhớ tới hai câu thơ trong
bài thơ nổi tiếng “Đăng cao” của Đỗ Phủ:
“Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ
Bất tận trƣờng giang cổn cổn lai”
(Mênh mông cậy rụng hiu hiu trái
Cuồn cuộn trường giang chảy chảy mau)
Điều khác biệt mà người đọc nhận ra trước tiên là hai từ láy trong câu thơ của
Huy Cận được tác giả đưa xuống cuối câu. Vì vậy, không gian trong “Tràng giang”
vừa mở ra chiều rộng, vừa vươn tới chiều dài:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”
Động từ “gợn” diễn tả làn sóng nhẹ nhàng có vẻ mong manh, mơ màng nhưng
lại lan mãi không thôi. Nó gợi được nỗi buồn da diết khôn tả của thi nhân. Để làm rõ
hơn cảm giác ấy, phần sau câu thơ tác giả viết “buồn điệp điệp”. “Điệp điệp” là một từ
láy thật gợi hình, gợi cảm, vừa là hình ảnh vừa là tâm tư. Nó vừa gợi từng đợt sóng
chồng chất, tầng tầng lớp lớp, vừa diễn tả “điệp điệp” nỗi sầu. Đúng là dòng nước đã
đồng nghĩa với dòng sầu:
48
“Sông bao nhiêu nƣớc dạ sầu bấy nhiêu”
“Con thuyền xuôi mái nƣớc song song”, “xuôi mái” là con thuyền nương theo
dòng nước mà đi, nhưng cũng có thể hiểu là con thuyền bất lực với cả mái trèo của
mình lênh đênh để dòng nước cuốn xuôi tận cuối chân trời mặc cho dòng đời xô đẩy,
phiêu bạt, buông xuôi không bến đậu.
“Thuyền về nƣớc lại sầu trăm ngả”
Hình ảnh sông nước mênh mang cùng con thuyền nhỏ nhoi giữa dòng tạo nên
sự đối lập gợi cho ta cảm giác cô đơn da diết. Từ xưa tới nay, thuyền và nước là hai
hình ảnh luôn luôn gần gũi, gắn bó. Vậy mà ở đây, con thuyền lênh đênh mà dòng
nước mênh mông như có một nỗi buồn chia li xa cách đương đón đợi:
“Thuyền về nƣớc lại sầu trăm ngả”
Những con thuyền đã về hết, chỉ còn dòng sông mênh mang sóng nước. Vì thế,
cảnh dễ gợi nỗi “sầu trăm ngả”. Suy ngẫm về ba câu thơ, ta thấy nỗi lòng tác giả đã có
sự nâng cấp từ “buồn điệp điệp” đến “sầu trăm ngả”. Nỗi buồn không chỉ có bề sâu
nữa mà còn được mở rộng ra “trăm ngả‟.
“Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Giữa con sông mênh mông mang nặng dòng nước sầu buồn chia li, “trăm
ngả”gợi lên sự chia lìa cách biệt ấy hiện lên một cành củi khô trôi dạt lạc lõng bơ vơ,
không biết rồi sẽ đi đâu về đâu trong dòng sông mông lung, vô định. Ba câu thơ trên
mang dáng dấp cổ điển thì đột nhiên câu cuối lại mang dáng dấp một câu thơ rất hiện
đại. Tác giả đã đưa vào thơ ca “những thi liệu sống của đời thƣờng” - chữ dùng –
Xuân Diệu. Hình ảnh “củi một cành khô lạc mấy dòng” là hình ảnh mới mẻ, gợi cảm,
có nhiều sức biểu hiện, Đây không phải là thân gỗ xuôi dòng mà là một cảnh củi khô
bập bềnh nổi trôi. Nó đã nói lên được cái trôi dạt, cô đơn, bơ vơ giữa mênh mông cuộc
đời sóng gió. Từ một cành cây tươi xanh trên núi rừng đầu nguồn đến một cành củi
khô dập dềnh nổi trôi, thân phận cỏ cây đã mấy lần tan thương khô héo, mấy lần trôi
dạt đổi thay. Đó là thân phận cỏ cây hay số kiếp con người trong cuộc đời cũ? Cái tôi
cô đơn, tội nghiệp của thơ ca lãng mạn đã tìm thấy sự tương đồng của nó trong cành
củi khô lạc loài của thơ Huy Cận. Đột nhiên, nhà phê bình Hoài Thanh viết: “Đời
chúng ta nằm trọn trong vòng một chữ tôi. Mất bề rộng, ta đi tìm bề sâu. Càng đi sâu
càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ. Ta phiêu du trong trƣờng tình cùng Lƣu
Trọng Lƣ. Ta đắm say cùng Xuân Diệu. Ta điên cuồng cùng Hàn Mặc Tử, Chế Lan
Viên. Nhƣng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng, lại tỉnh, say đắm vẫn
bơ vơ. Ta lại ngẩn ngơ buồn trở về cùng Huy Cận”.
(Về nghệ thuật: ở khổ này tác giả sử dụng điệp từ : một… và nghệ thuật đối rất
thành công. Điều đó cũng tô đậm thêm nỗi buồn bát ngát, dằng dặc và sự chia lìa, bơ
vơ).
2. Khổ 2
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng bến cô liêu”
Tiếp tục hoàn chỉnh bức tranh trời rộng sông dài với những chi tiết mới. Nó
được mở rộng thêm đất thêm người. Nhưng nỗi buồn thi nhân ở đây dường như càng
lan toả thấm sâu hơn trong từng cơn “gió đìu hiu” đưa lại những tiếng “chợ chiều” đã
vãn vẳng lên từ một làng xa xôi – nơi một “cồn nhỏ” heo hút nào đó. Câu thơ này theo
Xuân Diệu còn có thể hiểu ngay cả những âm thanh náo nức của cuộc sống dù chen
49
lấn, bươn trải, xô bồ, hỗn độn nhưng có sức lôi cuốn vỗ về lòng người “cũng có đâu,
đâu có”, nghĩa là tạo vật thống trị tuyệt đối. Bức tranh “Tràng giang” tuy có cồn đất,
có nắng, có bến, có làng, có chợ nghĩa là có hơi tiếng con người đấy nhưng vẫn không
át được cái cảm giác tàn tạ, hiu hắt, quạnh vắng, buồn bã mênh mang. Bởi không gì
buồn bằng cái chợ chiều tan tác. Bởi trên nền thiên nhiên bát ngát chỉ điểm “lơ thơ”
mấy “cồn” và thoáng chốc xao động lên một vài cơn gió buồn “đìu hiu”. Hai từ láy
đồng thời là tính từ“lơ thơ” và “đìu hiu” đặc biệt gợi cảm. Nó không chỉ gợi buồn mà
nó còn gợi cảm giác quá nhỏ nhoi, thưa thớt, quạnh quẽ, lạnh lẽo. “Lơ thơ” diễn tả
những dáng cây nhỏ nhoi, mỏng, thưa thớt trên cồn bãi, đồng thời gợi lên sự xuất hiện
đơn độc lẻ loi, đượm chút ngơ ngác của những bãi cồn giữa dòng “Tràng giang” bát
ngát. “Đìu hiu” nói về hơi gió nhẹ đưa nỗi buồn lan toả khắp đất trời. Huy Cận rất lấy
làm thích thú với những chữ này, cho rằng mình đã học được trong thơ nổi tiếng của
Đoàn Thị Điểm:
“Non kỳ quạnh quẽ trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò”
Hai câu thơ của Huy Cận mới đọc qua tưởng chúng không có quan hệ gì với
nhau bởi không gian địa lý và hình thức câu thơ. Nhưng thực ra chúng đều cộng hưởng
với nhau để làm nổi bật lên cái cô đơn, lạnh giá, lụi tàn của những kiếp người.
Câu 3+4:
Không gian trời rộng, sông dài được đột ngột đẩy cao và mở ra bốn phía đến vô
cùng làm cho cảnh bờ bãi của dòng sông vốn đã vắng vẻ lại càng trở nên “cô liêu” tĩnh
mịch:
“Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu”
Không gian ở đây được mở rộng ra nhiều chiều khó nắm bắt. “Nắng xuống, trời
lên”, “sông dài trời rộng” nhịp nhàng tạo nên một vũ điệu kì vĩ của vũ trụ. Tác giả
dùng từ “sâu chót vót” chứ không phải “cao chót vót”. Từ “cao” chỉ độ cao vật lý của
bầu trời, nó thuần tuý tả cảnh; còn từ “sâu” vừa tả cảnh vừa tả tình và hàm súc hơn.
Nó không chỉ gợi cho ta mối liên tưởng đó là vòm trời phản chiếu vào lòng sông tạo
nên một không gian hun hút, thăm thẳm đến chới với, rợm ngợp mà còn gợi lên nỗi
buồn cô đơn không đáy của hồn người trước cái vũ trụ vô cùng. Con người càng nhỏ
bé cô đơn, bơ vơ hơn giữa vũ trụ bao la. Từ khổ thơ này, các tính từ được tác giả sử
dụng như động từ (hay động từ hoá các tính từ) “dài”, “rộng”, “chót vót”… vẽ ra
những chuyển động ngược hướng làm cho “sông dài” như dài mãi, “trời rộng” như
rộng vô cùng và bến sông cũng tăng thêm phần “cô liêu”, tĩnh mịch như tiền sử (thuở
hồng hoang). Tác giả lại sử dụng nhiều tiểu đối… kèm theo các dấu phẩy ngắt câu thơ
ra thành các cụm từ biệt lập giúp cho người đọc hiểu sâu hơn về một thực tại thiếu
vắng những liên hệ, gợi cảm giác cô đơn da diết.
Như vậy, những cảm giác quạnh hiu, trống vắng đến đây đã được tác giả diễn tả
thấm thía.
Qua khổ thơ ta thấy, nỗi buồn của thi nhân dường như bao phủ tất cả cảnh vật,
vừa lan toả theo chiều rộng, vừa dâng đầy theo chiều cao của không gian. Đằng sau đó
là tấm lòng của thi nhân đối với cuộc đời, quê hương đất nước. Vì vậy, khổ thơ cũng
gợi được nhiều hình ảnh chân thực, bình dị, quen thuộc. Bởi thế, nó vẫn có thể khơi
dậy trong tầm hồn hàng triệu độc giả tình yêu nước Việt Nam muôn đời.
3. Khổ 3
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng”
50
Đến đây, bài thơ lại có thêm một hình ảnh gợi về sự tan tác chia lìa, nổi trôi
phiêu dạt, dập vùi:
“Phận bèo bao quản nƣớc xa
Lênh đênh đâu cũng nữa là lênh đênh”
Đúng là một hình ảnh thơ rất gần gũi, thân quen mà giàu sức gợi. “Bèo dạt về
đâu”, nhà thơ sống trong cảnh mất nước, nô lệ nên đã cảm nhận được cả thế hệ thanh
niên lúc đó cũng như mình đang vật vờ, lênh đênh trôi dạt, bị cuộc đời cuốn đi nhưng
không biết đi về đâu.
Cảnh mênh mông, buồn bã, trống vắng quạnh hiu của “Tràng giang” càng được
nhân lên bằng mấy lần phủ định:
“Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”
Chiếc cầu, con đò bắc nối đôi bờ là biểu hiện sự giao nối của con người với
cuộc sống, thường gợi về sự tấp nập gần gũi và gợi nhớ quê hương:
“Chiếc cầu đám cƣới đi qua”
(Nguyễn Cảnh Trà)
“Chiếc cầu là đêm trăng ta hò hẹn”; “Quê hƣơng là cầu tre nhỏ”; “Quê hƣơng
là con đồ nhỏ”… là sự sống. Nhưng ở đây “không một chuyến đò” lạc qua, không một
chiếc cầu bắc nối đôi bờ, nghĩa là tuyệt nhiên không một dấu vết của sự sống hay một
cái gì đó gợi về tình người, lòng nước muốn gặp gỡ lại qua đôi bờ hoang vắng. Hai bờ
sông cứ thế chảy dài về phía chân trời xa như hai thế giới cô đơn, xa lạ không bao giờ
gặp nhau, không chút niềm thân mật của những tâm hồn đồng điệu. Cảnh “Tràng
giang” chỉ còn “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Câu thơ vẽ lên được một bức tranh
thật đẹp nhưng tĩnh lặng, buồn đến nao lòng.
Bốn câu thơ, bốn hình ảnh, tất cả đều buồn. Mỗi hình ảnh mang một nỗi buồn
riêng. Chúng liên kết với nhau tạo thành một bức tranh gợi về số phận nổi trôi, bơ vơ,
bất hạnh, vô định của kiếp người trong xã hội cũ. Về nghệ thuật, ở khổ thơ này tác giả
sử dụng thủ pháp quen thuộc của nghệ thuật cổ điển: lấy không để nói có, nhắc nhiều
đến cái không, làm cho ta càng thiết tha khát khao cuộc sống ấm cúng đông vui của
con người.
4. Khổ 4
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc”
Huy Cận là một nhà thơ lãng mạn luôn luôn có nỗi lòng khắc khoải nhớ quê
hương và một cảm giác cô đơn khi một mình đứng trước cái vô cùng của vũ trụ. Nỗi
niềm ấy của “một linh hồn nhỏ, mang mang thiên cổ sầu” được diễn tả khá thấm thía
và cảm động trong khổ thơ cuối của bài “Tràng giang” - một bài thơ không chỉ nổi
tiếng của Huy Cận mà còn là cả phong trào thơ Mới, sáng tác năm 1939, in trong tập
“Lửa thiêng” – 1940:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”
Thiên nhiên, cảnh vật, tạo vật qua tâm hồn Huy Cận buồn nhưng cũng có khi
bộc lộ một vẻ đẹp kì vĩ, nên thơ. Mây trắng hết lớp này đến lớp khác như những búp
bông trắng khổng lồ cứ liên tiếp nở ra, ánh trời chiều chiếu vào trông như quả núi dát
51
bạc trong nền trời trong xanh khiến cho ánh chiều trước khi vụt tăt ánh lên vẻ đẹp. Câu
thơ dựng lên được một hình ảnh rất tạo hình như một bức tranh sơn mài. Đằng sau bức
tranh là nỗi lòng thi nhân. Từ “buồn điệp điệp”, “sầu trăm ngả” ở những khổ thơ trên,
đến đây nỗi sầu thi sĩ đã dâng lên trùng trùng, “lớp lớp” tràn ngập cả bầu trời. Từ “lớp
lớp” diễn tả nhiều lớp kế tiếp nhau, lớp nọ liền lớp kia đều đặn không dứt. “Đùn” diễn
tả những đám mây và cũng là nỗi sầu tự mở ra, liên tiếp như có một sức đẩy từ bên
trong. Đúng là : “Sầu đong càng lắc càng đầy”. Câu thơ Huy Cận làm ta liên tưởng
đến câu thơ dịch trong bai “Thu hứng” nổi tiếng của Đỗ Phủ:
“Mặt đất mây đùn cửa ải xa”
Trên cảnh mây trời, sông nước buồn vắng, bao la nhưng đẹp đẽ, hùng vĩ, nên
thơ ấy, đột nhiên xuất hiện con chim “nghiêng cánh” bay như hút lấy nắng hoàng hôn
cùng “bóng chiều sa” xuống nhanh quá, nắng quá làm lệch cả cánh chim lấp lánh phía
trời xa. Cánh chim nhỏ biểu hiện của sự sống, khát vọng, ước mơ bay liệng tuy có gợi
lên một chút ấm cúng cho cảnh vật nhưng vẫn không vơi được nỗi buồn của thi nhân.
Bởi cánh chim chiều trong thơ Huy Cận có nét đặc sắc riêng của nó. Thơ ca cổ xưa
nay khi miêu tả cảnh chiều tà thường vờn vẽ một vài hình ảnh cánh chim:
“Chim hôn thoi thóp về rừng”
(Nguyễn Du)
“Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi”
(Bà huyện Thanh Quan)
Cánh chim trong thơ Huy Cận xuất hiện giữa “lớp lớp mây cao đùn núi bạc”.
Đúng là cánh chim trong thơ Mới. Nó nhỏ nhoi, bé bỏng cô đơn, buồn thương, tội
nghịêp và mông lung hơn trước cảnh sông nước mây trời bao la.
Trong câu thơ trên, nghệ thuật đối lập giữa hình ảnh cánh chim nhỏ bé với vũ
trụ bao la làm cho không gian như bát ngát hơn và qua đó cũng xa vắng buồn bã hơn.
Đến đây, nỗi sầu dâng kín “Tràng giang” và từ trời cao đổ xuống cánh chim yếu ớt rồi
thấm sâu vào cõi lòng nhân thế:
“Lòng quê dợn dợn vời con nƣớc
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
Câu thơ có từ láy “dợn dợn” rất gợi cảm. Nó là một sáng tạo của nhà thơ. Từ ấy
đã diễn tả chuyển động uốn lên uốn xuống nhẹ nhàng không dứt của mặt nước khi bị
dao động,còn “vời” là xa, “con nƣớc” là nước thuỷ triều đương lên. “Dợn dợn vời con
nƣớc” vừa là hình ảnh vừa là tâm trạng. Nó vừa diễn tả sóng lan ra vừa gợi cảm giác
nỗi buồn lạnh lẽo u uẩn trải ra vời vợi không nơi bám víu. Sông vốn dài rộng càng
thêm rộng mênh mông lại gặp lúc hoàng hôn đang xuống gợi nỗi buồn cô đơn da diết.
Thì ra, nỗi buồn của nhà thơ trong chiều sâu thẳm của nó cũng có nguyên nhân rất cụ
thể. Đó là nỗi buồn của người xa quê chạnh lòng nhớ tới quê hương xứ sở. Câu thơ
cuối của khổ thơ càng khẳng định điều đó:
“Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
“Tràng giang” là một bài thơ mang đậm ý vị cổ điển. Cổ điển ở hình ảnh con
người một mình đứng trước không gian trời rộng sông dài; trước thời gian buổi chiều
tà lặng lẽ. Ý vị cổ điển càng được tô đậm thêm ở câu cuối này. Nó toát ra từ một ý thơ
Đường trong bài “Hoàng Hạc Lâu” của Thôi Hựu:
“Nhật mộ hƣơng quan hà xứ thị
Yên ba giang thuỷ sử nhân sầu”
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai)
52
Người xưa nhìn khói sóng mơ màng trên sông lúc chiều tà mà cảm thấy nhớ
nhà đã đành. Còn Huy Cận không cần “khói hoàng hôn” gợi về một bếp lửa có người
thân đang quây quần mà vẫn nhớ nhà tha thiết. Có nghĩa là, niềm thương nhớ quê
hương của Huy Cận còn mãnh liệt và sâu sắc, cao độ hơn thành một tình cảm thường
trực: sông càng vời rộng càng buồn nhớ quê hương da diết, cháy bỏng vì quê hương
không chỉ là một làng quê thân thương nào đó mà nó còn là bến đậu của tâm hồn, là
cội nguồn đời sống tinh thần, xây đắp trên nền tảng của một đời người. Cho nên, nỗi
nhớ khắc khoải quê hương có mặt khắp mọi nơi và tự nó tuôn trào ra từ trái tim thi sĩ.
Như vậy, hai câu kết này đã khép lại một bức tranh phong cảnh và mở ra một nỗi lòng.
Đó là nỗi sầu, niềm thương nhớ quê hương dâng trào man mác. Đây là tâm trạng rất
hiện thực và điển hình của người dân mất nước. Aragon (1942) đã viết : “ Sống trên
đất nƣớc mình mà nhƣ ngƣời khách lạ”. Còn Huy Cận thì luôn luôn cảm thấy một tâm
trạng tha hương, lưu lạc ngay trên Tổ quốc, ngay trên đất mẹ của mình. Đúng như câu
thơ của Tố Hữu: “Sống giữa quê hƣơng mà bơ vơ nhƣ kiếp đi đày”. Bài thơ của Huy
Cận mang vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại.
1. Đề tài cảm hứng:
- “Tràng giang” mang nỗi sầu từ vạn cổ của con người nhỏ bé hữu hạn trước
thời gian, không gian vô hạn của đất trời.
- “Tràng giang” đồng thời thể hiện nỗi buồn thế hệ của một cái tôi thơ Mới thời
mất nước chưa tìm thấy lối ra:
“ Bèo dạt về đâu hàng nối hàng”
2. Chất liệu thi ca:
- Ở “Tràng giang” ta bắt gặp hình ảnh quen thuộc trong thơ cổ( tràng giang, bờ
bãi đìu hiu, cánh chim trong bóng chiều, khói hoàng hôn…). Nhiều hình ảnh, tứ thơ
được gợi lên từ thơ cổ (lớp lớp mây cao…)
- Mặt khác, “Tràng giang” cũng không thiếu những hình ảnh, âm thanh chân
thực của đời thường, không ước lệ (củi khô, tiếng vãn chợ chiều…)
3. Thể loại và bút pháp
- “Tràng giang” mang đậm phong vị cổ điển qua việc vận dụng nhuần nhuyễn
thể thơ bảy chữ với cách ngắt nhịp, gieo vần, cấu trúc đăng đối, bút pháp tả cảnh ngụ
tình, gợi nhiều hơn tả, những từ Hán Việt cổ
- Song “Tràng giang” lại cũng rất mới qua xu hướng bày trực tiếp cái tôi trữ
tình (buồn điệp điệp, sầu trăm ngả, không khói hoàng hôn cũng nhớ nhá) qua những từ
ngữ sáng tạo mang dấu ấn cảm xúc cá nhân của tác giả (sâu chót vót, niềm thân mật,
dợn dợn).
Kết luận:
“Tràng giang” của Huy cận không chỉ là một bức tranh phong cảnh mà còn là
một bài thơ về tâm hồn. Bài thơ thể hiện nỗi buồn cô đơn trước vũ trụ, trước cuộc đời,
luôn luôn khao khát hoà hợp cảm thông trong tình đất nước, tình nhân loại.
Từ đề tài, cảm hứng, chất liệu đến giọng điệu, bút pháp, “Tràng giang” vừa
mang phong vị thi ca cổ điển, vừa mang chất liệu hiện đại của thơ. Vẻ đẹp ấy cũng là
nét đặc trưng của phong cách Huy Cận.
53
HÀN MẶC TỬ (1912 – 1940)
Hàn Mặc Tử về đời tư:
- Bị bệnh hiểm nghèo (phong - hủi)
- Đa tình: có nhiều mối tình
+ Hoàng Cúc
+ Mộng Cầm
+ Ngọc Sương
+ Thương Thương
“ Lạc đƣờng từ thuở còn thơ
Lạc em từ thuở liếc cô láng giềng”
“Tháng ngày qua chẳng gió chẳng thơ
… Chẳng lệ, chẳng yêu,…”
- Cơ chế tâm lý: quê người đẹp, niềm tự hào, tình yêu làm trái tim sống lại.
Đề ra: Phân tích bài thơ "" của Hàn Mặc Tử
Bài Làm
Hàn Mặc Tử (1912 – 1940) là một trong những hồn thơ phong phú và mãnh liệt
nhất của thơ ca lãng mạn. Thơ của ông có những vần đầy huyết lệ nhưng cũng có
những vần trong trẻo, tinh khiết như nước suối ban mai giữa rừng, nhất là những vần
thơ viết về thiên nhiên và tình yêu. Có một lần hai nguồn thi cảm ấy gặp nhau kết tinh
toả sáng thành những vần thơ tuyệt tác “Đây thông Vĩ Dạ”.
I. Hoàn cảnh sáng tác
1. “” được rút trong tập “Thơ điên” – 1939. Thi sỹ Hàn Mặc Tử đã viết bài thơ
này sau khi nhận được tấm bưu ảnh do Hoàng Cúc gửi từ Huế. Trong cuộc đời 28 năm
của thi nhân, Hoàng Cúc là mối tình đầu, là người yêu trong đơn phương, lặng thầm
của Hàn Mặc Tử. Khi còn làm việc ở sở Đạc Điền – Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử đã đem
lòng yêu thương Hoàng Cúc – con một viên chức cao cấp. Đấy là người thiếu nữ mang
vẻ đẹp dịu dàng, kín đáo còn giữ được nhiều nét chân quê. Thi nhân yêu nhưng chỉ
dám đứng từ xa để chiêm ngưỡng dung nhan Hoàng Cúc bởi tính quá rụt rè, bẽn lẽn.
Tất cả mối chân tình ấy, Hàn Mặc Tử gửi gắm vào tập “Gái quê”. Khi Hoàng cúc theo
cha về Vĩ Dạ - Huế, Hàn Mặc Tử tưởng như nàng đi lấy chồng:
“Ngày mai tôi bỏ làm thi sĩ
Em lấy chồng rồi hết ƣớc mơ
Tôi sẽ đi tìm mỏm đá trắng
Ngồi lên để thả cái hồn thơ”
Đến năm 1939, trong những ngày tháng vật lộn với cơn bệnh hiểm nghèo, Hàn
Mặc Tử nhận được tấm bưu ảnh về phong cảnh xứ Huế có sông nước, có thuyền, có
trăng, có mặt trời cùng những hàng cau kèm theo những dòng chữ hỏi thăm của Hoàng
Cúc. Xúc động, bồi hồi trước tấm lòng cố nhân, Hàn Mặc Tử đã sáng tác bài thơ này.
54
Phải chăng một tâm hồn được tinh yêu làm sống dậy và niềm tự hào về quê
hương người đẹp qua hồi tưởng đã giúp Hàn Mặc Tử sáng tác ra các câu thơ thánh
thiện đến thế?
Khi phân tích, chúng ta chú ý đến mối tình với người con gái Huế là nguồn cảm
hứng để Hàn Mặc Tử viết nên tác phẩm ấy mà tấm bưu ảnh là nguồn khơi cảm hứng.
Mối tình đơn phương, hư ảo ấy có lẽ chỉ đem đến cho cảnh sắc thiên nhiên Vĩ Dạ thêm
chút mộng mơ và thấm đượm nỗi buồn chia li man mác. Không nên đồng nhất mối
tình với tình cảm, bức tranh thơ.
2. Vĩ Dạ là một thôn nhỏ nằm bên bờ sông Hương - xứ Huế. Thôn ấy trước
Cách mạng là các vương hầu, hoàng tộc và các gia đình quý phái cư trú. Ở đó có khu
nhà vườn đẹp xinh như một bài thơ tứ tuyệt với cây cảnh, cây ăn quả rất nổi tiếng. Từ
xưa, nó đã đi vào thơ ca bởi vẻ đẹp thi vị, tiêu biểu cho cảnh sắc và phong vị của “Đây
xứ mơ màng, đây xứ thơ”:
“Du khách bảo đây vƣờn kín đáo
… Đây xứ mơ màng, đây xứ thơ
… Nghiêng nghiêng vành nón dáng chờ ai?”
Nhà thơ Bích Khê đã từng viết:
“Vĩ Dạ thôn! Vĩ Dạ thôn!
Biếc tre, cần trúc không buồn mà say”
II. Phân tích
1. Khổ 1:
“” trước chết là một bài thơ miêu tả cảnh đẹp xứ Huế nổi tiếng nhưng bài thơ
không bắt đầu bằng một câu thơ tả cảnh mà bắt đầu bằng câu hỏi:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”
Câu thơ thoáng như lời trách móc nhẹ nhàng pha chút hờn dỗi, tiếc nuối của ai
đó. Nhưng đằng sau đấy là một lời chào mời thiết tha, mong đợi khách đến thăm để
được thưởng thức một khung cảnh thiên nhiên đẹp đến dễ say lòng người. Đại từ
“anh” trong câu thơ đã gây nên nhiều cách hiểu khác nhau. Có người hiểu “anh” là sự
phân thân của nhân vật trữ tình – tác giả. Nhà thơ như tự vấn lòng mình sao lâu quá rồi,
anh chưa một lần về mảnh đất thôn Vĩ thân quen “Nơi có nửa quả tim mình; có ngƣời
yêu ở đó” (Viễn Phương) để ngắm nhìn khung cảnh làng quê đẹp đẽ nên thơ. Có cách
hiểu khác, người phát ngôn câu hỏi phải chăng là Hoàng Cúc dịu dàng kín đáo? Nếu
quả thực câu thơ là tiếng nói trách móc ý tứ thì giữa tác giả và thôn Vĩ sẽ bị ngăn bởi
không gian, thời gian và nhà thơ sẽ nhìn về thôn Vĩ trong tâm thế trông về, ngóng về.
Vậy mà lời thơ lại cho ta cảm giác dường như Hàn Mặc Tử đang nói về một thôn Vĩ
có thực, trực tiếp hiện lên qua tầm nhìn của mình. Ngay nhan đề bài thơ “”, từ “đây”
đã thể hiện cảm nhận ấy.
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”
Bắt đầu bằng câu hỏi nhưng câu hỏi đầy hình ý đã giúp nhà thơ mở ra, gợi về cả
một khung cảnh thiên nhiên thôn Vĩ sống động, tươi đẹp như bày ra trước mắt: “Nhìn
nắng hàng cau nắng mới lên”.
Nhắc đến Vĩ Dạ thôn, hình ảnh đầu thiên hiện lên trong tâm trí nhà thơ là những
“hàng cau” (cau là cảnh đẹp, cau là hồn Việt Nam). Bởi vì cau là loài cây thanh nhã,
xinh xắn với thân hình thẳng tắp, tán lá xanh tươi; cau còn là loại cây rất thân thuộc
với làng quê Việt Nam, nơi có phong tục ăn trầu từ ngàn đời nay. Nguyễn Bính - một
nhà thơ cảnh quê, hồn quê cũng đã đặt mối tình bình dị của đôi trai gái thôn quê trên
cái nền phong cảnh có hình ảnh thân cau quen thuộc ấy:
55
“Nhà anh có một hàng cau
Nhà em có một giàn trầu”
Trong bài thơ “Hoa Lƣ” nhà thơ Trần Đăng Khoa đã viết:
“Đƣờng cỏ lơ mơ nắng
Mái tranh chìm chơi vơi
Vài tán cau mộc mạc
Thả hồn quê lên trời”
Ở đây, hình ảnh “hàng cau” của Hàn Mặc Tử còn có chi tiết khó quên. Ấy là
“nắng hàng cau, nắng mới lên”. Điệp từ “nắng” gợi cho ta cảm giác ánh nắng mới lên
buổi sớm biẻu tượng cho sức sống, niềm vui như lan rộng tràn đầy đất trời, chiếu sáng
lấp lánh những “hàng cau” còn đẫm sương đêm. Trong ánh ban mai, sắc xanh của
những tàu cau như ngời lên bởi thứ ánh nắng tinh khôi, bừng sáng mà không chói
chang gay gắt. “Nắng mới lên” không chỉ gợi lên cảm giác trong trẻo mới mẻ, tươi tắn
mà còn mở ra một không gian, thời gian thôn Vĩ trong buổi sớm mai, trong sự bắt đầu.
Câu thơ của Hàn Mặc Tử gợi cho ta nhớ câu thơ vời vợi nắng xuân, nắng mới trong
thơ Tố Hữu:
“Nắng xuân tƣới trên thân dừa xanh dịu
Tàu cau non lấp loáng muôn gƣơm xanh
Ánh nhởn nhơ đùa quả non trắng phếu
Và chảy tan qua kẽ lá vƣờn chanh”
Đúng là cảnh trong thơ Hàn Mặc Tử hiện ra trong ánh sáng lung linh của hoài
niệm nên cũng lung linh ánh sáng, rực rỡ sắc màu và rất gợi cảm:
“Vƣờn ai mƣớt quá xanh nhƣ ngọc”
Thiên nhiên thôn Vĩ được thi sĩ ngắm nhìn từ xa đến gần, từ hoàn cảnh đến cụ
thể. Câu thứ ba cất lên như một tiếng reo đầy thích thú, biểu lộ sự ngạc nhiên đến ngỡ
ngàng, ngưỡng mộ trước vẻ đẹp bất ngờ của vườn cây Vĩ Dạ… “Vƣờn ai mƣớt quá
xanh nhƣ ngọc‟
Câu thơ đã diễn tả rất thành công những vườn cây tươi tốt, sum xuê của Vĩ Dạ.
Vườn của Vĩ Dạ với những cây cảnh, cây ăn quả được chăm sóc bởi bàn tay cần cù,
khéo léo lại được tắm nắng gội mưa thường xuyên nên bóng nhẵn, tươi tốt, ánh lên
như màu ngọc bíc, long lanh. Về nghệ thuật ở câu thơ này, tác giả dùng thán từ “quá”
và hình ảnh so sánh “xanh nhƣ ngọc’. Thi sĩ dùng tính từ “mƣớt” chứ không phải
“mƣợt”. Vì “mƣớt” ngoài ý nghĩa chỉ sự nhẵn bóng như mượt, còn có ý nghĩa tươi non,
gợi vẻ óng ả, mỡ màng, trong trẻo, ánh lên như láng nước, đã mô tả được thật tài tình
cảnh vật tốt tươi chứa chan sức sống. Còn ngọc là loại đá quý có sắc bóng xanh biếc
rất đẹp. Bằng lối so sánh độc đáo ấy, vườn thôn Vĩ hiện lên như một viên ngọc lớn
không chỉ óng ánh sắc xanh mà còn đang toả không gian một màu xanh long lanh ánh
sáng. Nhờ cái “nắng mới lên” ở câu trên rọi xuống màu xanh của vườn cây mới tạo ra
cảnh “mƣớt” và “xanh nhƣ ngọc”. Tả vườn ở câu thơ này, thi sĩ Hàn Mặc Tử đã đạt
đến độ tinh tế của một hoạ sĩ tài ba đúng như nhà phê bình Hoài Thanh đã nhận xét:
“Hàn Mặc Tử có những câu thơ đẹp một cách lạ lùng, đọc lên nhƣ rƣới vào hồn một
nguồn sáng láng”.
Ngắm nhìn bức tranh thiên nhiên Vĩ Dạ thơ mộng, thi sĩ liên tưởng đến một
hình ảnh thật bất ngờ thú vị: “Lá trúc chen ngang mặt chữ điền”. Hình ảnh con người
thấp thoáng ẩn hiện sau những cành lá trúc đã thổi vào khung cảnh tạo vật một sinh
khí mới. Bóng dáng con người xuất hiện làm cho cảnh Vĩ Dạ vốn đã đẹp lại còn đẹp
hơn nữa trong sự hài hoà giữa cảnh và người, giữa tĩnh và động. Câu thơ ngoài ý nghĩa
56
tả thực còn mang ý nghĩa tượng trưng cách điệu hoá. Cảnh và người tô điểm cho nhau.
Cảnh xinh xắn, thơ mộng; người dịu dàng phúc hậu. Tất cả tạo nên một vẻ đẹp hài hoà,
kín đáo nên thơ. Nhờ thế, câu thơ đã làm nổi bật cái linh hồn, phong cách vườn cây xứ
Huế.
Tóm lại, bằng những chi tiết quen thuộc bình dị mà không kém phần độc đáo
gợi cảm, Hàn Mặc Tử đã khắc hoạ một bức tranh quê Vĩ Dạ - Huế tràn đầy sức sống
với vẻ đẹp bất ngờ, có sự hài hoà giữa cảnh với người. Đoạn thơ cũng đã làm khơi dậy
trong tâm hồn người đọc biết bao nỗi niềm quê hương, làng mạc Việt Nam thân yêu
muôn đời.
2. Khổ 2.
Từ khổ thơ thứ nhất sang khổ thơ thứ hai, mạch thơ có sự chuyển đổi đột ngột,
mở ra một thế giới khác của Huế, khác hẳn với thế giới ban đầu. Một bên là tràn trề
ánh sáng, mướt xanh sự sống; một bên hiu hắt, u buồn, chia li, dẫu vẫn còn sự thơ
mộng, êm đềm:
“Gió theo lối gió mây đƣờng mầy
Dòng nƣớc buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Thấm đượm trong lời thơ là một cảm giác buồn vắng, sầu tủi, chia lìa, đọc lên
nghe chua xót ám ảnh như hai câu thơ của Thế Lữ:
“Anh đi đƣờng anh, tôi đƣờng tôi
Tình nghĩa đôi ta chỉ thế thôi”
Nhưng nếu như Thế Lữ nói bằng cách phát ngôn trực tiếp lời nhân vật trữ tình
thì ở đây Hàn Mặc Tử lại nói qua bức tranh phong cảnh, nói bằng hình ảnh. Mạch thơ
đã vận động đi từ ngoại cảnh vào tâm cảnh. Bức tranh sông nước, bờ bãi như trải dài
và thấm sâu một nỗi buồn li biệt. Phải chăng mang nặng mặc cảm của một người thiết
tha gắn bó với đời mà có nguy cơ phải chia lìa khỏi cõi đời và một mối tình đang ở
dạng đơn phương chưa có những phút giây gặp gỡ ngọt ngào đã sớm rơi vào cảnh ngộ
cay đắng, chia lìa? Cảnh như hoà vào lòng người mà sầu tủi chia li, phân li bởi đang
trong tâm trạng như vậy nên nhìn vào đâu cũng thấy cảnh vật như đang chia lìa, sầu tủi.
Gió thổi mây bay theo quy luật tự nhiên, thường là một chiều nhưng ở đây là đôi
đường đứt gãy. Gió đóng khung trong gió, mây cuộn trong mây. Điệp từ “gió” và điệp
từ “mây” đã tô đậm ý thơ ấy. Ngoài việc dùng điệp từ, câu thơ còn sử dụng phép đối
và lối ngắt câu giữa dòng để nhấn mạnh ý. Và ngay hình ảnh “dòng nƣớc buồn thiu”
lặng im trôi và “hoa bắp lay” cũng không còn là hình ảnh thực mà nó đã nhuốm màu
tâm trạng, mang hồn người. Cảnh có sự lay động nhưng là sự lay động khẽ khàng, vật
vờ, hiu hắt của hoa bắp chỉ làm tăng thêm sự tĩnh lặng, buồn vắng trong cảnh. Và đó
cũng là cảm giác cô đơn, vắng lặng, buồn hiu hắt trong lòng thi sĩ.
Hai câu thơ không chỉ nhằm tả cảnh, tả tình trong cảnh mà dường như còn
muốn tả cái nhịp điệu của cảnh. Đó là cái nhịp điệu êm ả, lững lờ, cái nét trầm tư
không nơi nào có được của Huế đẹp và thơ. Hai câu thơ này có nhịp điệu khoan thai,
chậm rãi cũng đã diễn tả thành công cảm xúc trên.
Hai câu sau:
“Thuyền ai đậu bến sông răng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
57
Mạch thơ đã chuyển hẳn một thế giới thôn Vĩ thực và tràn đầy ánh nắng sang
một thế giới mộng thấm đẫm ánh trăng ở khổ hai. Thơ Hàn Mặc Tử ngày là cõi nắng,
đêm là cõi trăng. Hàn mặc Tử rất mê trăng. Trăng đã đi vào thơ Tử như một nhân vật
huyền thoại, một nơi chốn để tâm hồn thi nhân được phiêu diêu, thoát tục. Không ai
viết nhiều và viết hay về trăng như Hàn Mặc Tử:
“Không gian đắm đuối toàn trăng cả
Anh cũng trăng mà em cũng trăng”
Hay:
“Gió lùa ánh sáng vào trong bãi
Trăng ngập dòng sông chảy lãng lai”
Vì thế, viết về xứ Huế mộng và mơ, Hàn Mặc Tử không thể không tả trăng.
Trăng dưới ngòi bút tài hoa của ông bỗng trở nên huyền ảo, tràn đầy vũ trụ, tạo nên
không khí nửa thực, nửa hư như trong cõi mộng:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Chỉ có trong mộng thì sông mới là “sông trăng” và “thuyền” mới chở đầy trăng.
Đúng như lời nhận xét của Bích Khê “Hàn Mặc Tử có con mắt rất mơ rất ảo. Nhìn vào
sự thực thì sự thực thành chiêm bao; nhìn vào chiêm bao lại biến thành huyền diệu.
Câu thơ của Tử thanh tao quá. Đọc lên nghe ngọt lịm cả ngƣời”. Câu thơ của Hàn
Mặc Tử làm cho ta nhớ tới câu thơ rất mực tao nhã và phong lưu của Nguyễn Công
Trứ:
“Gió trăng chứa một thuyền đầy
Của kho vô hạn biết ngày nào vơi”
Có khác chăng, ở đây thi sĩ Hàn Mặc Tử đã trăng hoá toàn bộ tạo vật, làm nên
một không gian tràn ngập ánh trăng trong tâm tưởng. Trăng là biểu tượng cho cái đẹp,
thiên nhiên, cuộc đời; cho sự thanh bình, hạnh phúc, niềm vui. Với Hàn Mặc Tử, trong
cảnh ngộ lúc đó, trăng có ý nghĩa như một bám víu duy nhất, như người bạn tri âm tri
kỷ giờ chỉ còn là nỗi ước ao, là sự khát khao gặp gỡ và nỗi niềm lo âu về sự muộn
màng, dang dở. Nó đã trở thành một nỗi ám ảnh da diết. Cho nên, lời thơ của Tử cất
lên như một câu hỏi đau đáu một nỗi niềm day dứt với một chữ “kịp” đầy phấp phỏng;
“Có chở trăng về kịp tối nay?”
3. Khổ 3
Từ thế giới c
ủa cõi mộng, sang khổ thơ thứ 3, thi nhân đưa ta tới thế giới cõi hư. Đó là thế giới
mang vẻ đẹp huyền ảo của xứ Huế và chất chứa tình đời, tình người thiết tha nhưng xa
xăm vô vọng của nhà thơ:
“Mơ khách đƣờng xa, khách đƣờng xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sƣơng khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
Xứ Huế buồn, lắm nắng nhiều mưa nên xứ Huế cũng lắm “sƣơng khói”:
“Ở đây sƣơng khói mờ nhân ảnh”
58
là thế. Nhớ về miền đất ấy, thi nhân nghĩ nhiều về con người, đặc biệt là bóng dáng
của người con gái như thực như mơ:
“Mơ khách đƣờng xa khách đƣờng xa”
Câu thơ có điệp từ “khách đƣờng xa” thể hiện tâm trạng khắc khoải nhớ mong
về khoảng cách xa vời của một mối tình đơn phương, vô vọng. Hình ảnh người con gái
xứ Huế xuất hiện trực diện bằng tiếng “em” rất mơ hồ - mơ hồ tới mức thấy áo nhưng
lại “nhìn không ra”. “Em” gần gũi đấy mà quá đỗi xa vời. Gần gũi vì đây là hình ảnh
hoài niệm thường trực trong cõi lòng thi nhân; xa vời vì giữa hai người là khoảng cách
thời gian và màn khói sương của một mối tình chưa có lời ước hẹn. Màu áo trắng là
màu áo dài nữ sinh Huế và cũng là màu gợi về sự tinh khiết sáng trong rất phù lợp với
hình ảnh cô gái trong mộng tưởng. Đúng như Huy Cận đã viết:
“Áo trắng đơn sơ mộng trắng trong
Hôm xƣa em đến mắt nhƣ lòng”
Trong câu thơ của Hàn Mặc Tử, màu áo trắng là màu vừa thực, vừa dễ gợi cảm
giác bâng khuâng, hư ảo. Cái màu áo trắng ấy gây ấn tượng rất mạnh. Nó choán cả
không gian, làm lập loà cả thị giác tới mức “nhìn không ra”. Ở đây, tất cả đều chìm
vào ảo ảnh, chỉ còn lại sự băn khoăn day dứt tâm hồn thi nhân với một câu hỏi buông
vào hư không:
“Ai biết tình ai có đậm đà?”
Đại từ “ai” vừa mang tính cụ thể, vừa phiếm chỉ: một lần nữa xuất hiện hai lần
ở câu thơ cuối như khoảng cách đầy thắc mắc, dằn vặt trong tâm hồn con người. Cô
gái Huế dịu dàng, kín đáo, e lệ, trong trắng quá như nàng tiên ở cõi bồng lai nào. Liệu
tình yêu của “em” có đậm đà, bền chặt chăng hay cũng bảng lảng như khói sương sông
Hương đất Huế? Đây là câu hỏi của trái tim và đó cũng là câu hỏi muôn thuở của tất cả
những người đang yêu càng thiết tha, càng day dứt, dằn vặt:
“Hoa ơi sao chẳng nói?
Anh ơi sao lặng thinh?
Đốt lòng em câu hỏi
Yêu em nhiều không anh?”
(Xuân Quỳnh – Mùa hoa rơi)
Như vậy, bài thơ về phong cảnh đã chuyển dần thành bài thơ tình yêu, tình
người, tình đời vừa thiết tha, xa xăm, vô vọng, vừa bâng khuâng, man mác.
Trong thế giới “Thơ điên” ma quái, kì dị với những cuộc vật lộn đau đớn, giằng
xé giữa linh hồn và thể xác của thi nhân, với sự đi về của hai hình tượng sống động là
hồn và trăng, “” là một nốt nhạc hồn nhiên, trong trẻo lạ thường. Đó là sự hồn nhiên
trong trẻo của cõi lòng Hàn Mặc Tử vẫn thiết tha gắn bó với đời. Bởi thế, trong tất cả
những gì còn lại mà Hàn Mặc tử giành cho đời, người đọc phải muôn nhớ và yêu bài
thơ “”.Như Chế Lan Viên đã nói “” như “một viên ngọc chói lọi nghìn năm”.
59
NGUYỄN BÍNH
Đề ra: Phân tích bài thơ "Tƣơng tƣ" của Nguyễn Bính
MỞ BÀI:
Trong bài tiểu luận “Một thời đại trong thi ca”, Hoài Thanh đã viết “chƣa bao
giờ ngƣời ta thấy xuất hiện cùng một lần một tâm hồn thơ rộng nhƣ Thế Lữ, mơ màng
nhƣ Lƣu Trong Lƣ, hùng Tráng nhƣ Huy Thông, trong sáng nhƣ Nguyễn Nhƣợc Phác,
ảo não nhƣ Huy Cận, quê mùa nhƣ Nguyễn Bính…”. Đúng, thơ Nguyễn Bính là lối thơ
đậm đà dân tộc với những điệu lục bát quen thuộc, những cách diễn đạt ý nhị, duyên
dáng, bình dị, những hình ảnh đầy thiên nhiên, Do đó, hầu hết thơ Nguyễn Bính là
những thôn ca với một thư tình quê, cảnh quê rất mộc mạc mà gợi cảm, Bài “Tƣơng
tƣ” là một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Nguyễn Bính.
THÂN BÀI:
I. Vài nét về tác giả và sự nghiệp thơ văn Nguyễn Bính
1.Nguyễn Bính (1918-1966)
Tên khai sinh là Nguyễn Trọng Bính, quê huyện Vụ Bản-Nam Định. Ông mồ
côi mẹ từ sớm. Sau này ông lưu lạc nhiều nơi, vừa dậy học vừa làm thơ. Từ CM tháng
8 đến kháng chiến chống Pháp, ông hoạt động ở Nam Bộ. Năm 1954, ông tập kết ra
Bắc, hoạt động văn nghệ và báo chí ở HN, Nam Định. Ông mất đột ngột vào ngày 30
Tết năm 1966. Ông được nhà nước tặng giả thưỏng HCM năm 2000.
2.Sự nghiệp văn thơ :
-Nguyễn Bính làm thơ từ lúc 13 tuổi. Ông đoạt giải thưởng của “Tự lực văn
đoàn” với tập thơ “Tâm hồn tôi”. Ông có các tập thơ tiêu biểu : “Lỡ bƣớc sang ngang”
(1940), “Mƣời hai bến nƣớc” (1942), “Gửi vợ miền Nam” (1955).
3.Là một nhà thơ mới nhưng Nguyễn Bính lại đào sâu truyền thống dân gian
nên đã đem đến cho thơ mình một vẻ đẹp “chân quê”.
-Cảnh sắc và bong dáng con người trong thơ Nguyễn Bính đều thấm đượm tình
quê, duyên quê, chân quê và phảng phất hồn xưa đât nước,… Nguyễn Bính có sở
trường nhất ở thể lục bát. Bài “Tƣơng tƣ” rút từ tập : “Lỡ bƣớc sang ngang” (1940)
II Phân tích
1.Bài thơ đã nói lên đƣợc quy luật tình yêu :
-Trai gái yêu nhau, nhớ nhau mà không được gặp nhau gọi là tương tư. Nhưng
thường thường là chỉ một người thương nhớ một người mà không được đáp lại, trường
hợp này văn chương mới gọi là tương tư.
- Ở đây Nguyễn Bính có cách tương tư, bộc lộ tình yêu rất riêng của ông.
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông..yêu nàng”
Nỗi tương tư ở dây tuy có vẻ còn mơ hồ, bâng quơ nhưng không kém phần tha
thiết. Cặp từ “chín nhớ, mƣời thƣơng” đã diễn tả điều đó.
- Với Nguyễn Bính, “Tƣơng tƣ” là một căn bệnh có sẵn của những chàng trai
mang giống “đa tình”, một căn bệnh tự nhiên như gió mưa của trời đất vậy, là một căn
bệnh rất dễ thương và đáng yêu.
“Gió mƣa là bệnh của giời
Tuơng tƣ là bênh của tôi yêu nàng”
60
- Bệnh tình xem ra chưa đến nỗi nặng lắm “tƣơng tƣ không ốm cũng sầu” mà
chỉ vừa đủ diễn tả thành những lời băn khoăn hờn dỗi, trách móc, rất dễ thương.
“Hai thôn…này”
Những lời trách móc có vẻ vô lý, nhưng lại rất có duyên, chỉ đủ làm vơi đi nỗi
nhớ mong tha thiết vô vọng mà thôi.
- Chàng trai hết trách rồi lại kể lể, lại than
“Tƣơng tƣ thức bốn đêm rồi…”
Thời gian chờ đợi cứ lạnh lùng trôi qua mà lòng chàng trai thì héo hon tàn uá.
“Ngày qua...lá vàng”
Chú ý phân tích nhịp 3/3. Câu 6 diễn tả thời gian trôi đi chậm rãi, nặng nề, chán
ngán vô vọng. Đặc biệt là từ “nhuộm” gợi thời gian chậm chạp và nỗi tương tư đó
nhuộm héo úa cả cỏ cây.
-Sau lời than, trái tim nhà thơ lại bừng lên hi vọng : nghĩ đến lễ nghi cưới xin,
cái đích của nỗi nhớ mong.
“..hàng cau …”
Thế nhưng “cau thôn Đoài lại nhớ trầu không thôn nào?” mất rồi! Chữ “thôn
nào” phải chăng đã đưa nỗi “tƣơng tƣ” này vào cõi thất vọng, bẽ bang? Qua bài thơ,
người đọc rất dễ dàng cảm thông với trái tim đang nồng nàn nỗi nhớ mong của chàng
trai đã đến tuổi khát khao yêu đương và giàu mơ mộng. Quan trọng hơn nữa ở đây ta
có thể nhận ra những trạng thái tự nhiên chân thực mà tinh tế phức tạp của trái tim, của
“cái tôi thơ mới”.
2.Bài thơ gợi lên hồn quê, tình quêm cảnh quê, hồn xƣa đất nƣớc.
a.Sử dụng thể thơ lục bát đậm đà màu sắc dân ca với lối dùng hình ảnh bình dị
đã đưa người đọc vào thế giới của làng quê Việt Nam cổ truyền.
b.Lối tư duy gắn chặt với thiên nhiên, tạo nên những cảnh thơ đầy thiên nhiên.
c.Nó còn thể hiện ở cách bày tỏ tình cảm kín đáo và tế nhị của chàng trai.
KẾT LUẬN:
- Thâu tóm lại giá trị chính của bài thơ
- Nói chuyện “Tƣơng tƣ” nhưng thực chất là nói khát vọng vươn lên tới hạnh
phúc trọn đời, một khát vọng rất giàu tính nhân đạo.
61
NGUYỄN KHOA ĐIỀM
Đề 1: Phân tích đoạn: “Khi ta lớn… có từ ngày đó”.
A. Mở Bài:
“Có mối tình nào cao hơn là Tổ quốc?” - Trần Mai Ninh. Bằng tình cảm yêu
thương sâu nặng ấy, các nhà thơ - chiến sĩ đã có biét bao bài thơ rất hay về Tổ quốc,
đất nước Việt Nam thương yêu. Nếu như các nhà thơ khác thường dùng những hình
ảnh kì vĩ, mĩ lệ mang tính biểu tượng, tạo ra một khoảng cách để cảm nhận, chiêm
ngưỡng về đất nước thì Nguyễn Khoa Điềm, trong phần đầu chương “Đất nƣớc” –
trích từ trường ca “Mặt đƣờng khát vọng”, lại cảm nhận về đất nước qua những gì hết
sức gần gũi, đơn sơ, bình dị.
B. Thân Bài:
1. Vài nét về tác giả, tác phẩm, đoạn trích.
Nguyễn Khoa điềm sinh năm 1943 tại thôn Ưu Điềm, xã Phong Hoà, huyện
Phong Điền tỉnh Thừa Thiên Huế, quê gốc ở thành phố Huế. Ông sinh trưởng trong
một gia đình trí thức Cách mạng, cha là Nguyễn Khoa Văn (tức Hải Triều) nhà lý luận
phê bình văn học theo quan điểm Mác xít trong giai đoạn 1930 – 1945. Sau khi tốt
nghiệp khoa văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, Nguyễn Khoa Điềm vào
miền Nam tham gia cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ. Ông là một trong những nhà
thơ tiêu biểu của thế hệ trẻ những năm kháng chiến chống Mỹ như Phạm Tiến Duật,
Lê Anh Xuân.
Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tư, xúc cảm lắng đọng, dồn nén thể hiện
tâm tư của người trí thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân.
Sau năm 1975, Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục hoạt động văn nghệ và công tác
chính trị ở thành phố Huế, rồi làm Tổng thư kí hội nhà văn Việt Nam (khóa V ), Bộ
trưởng Bộ văn hoá thông tin. Từ năm 2001 đến năm 2006, ông là Uỷ viên Bộ chính trị,
Bí thư trung ương Đảng, Trưởng ban tư tưởng văn hóa trung ương. Ông được tặng giải
thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2000.
Tác phẩm chính: “Đất ngoại ô” (tập thơ - 1972), “Mặt đƣờng khát vọng”
(trường ca – 1974), “Ngôi nhà có ngọn lửa ấm” (1986), “Cõi lặng” (2007).
Đoạn trích dưới đây thuộc phần đầu chương V, có tên “Đất nƣớc” của trường
ca “Mặt đƣờng khát vọng”. Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ các thành thị
vùng bị tạm chiếm ở miền Nam trước năm 1975. Nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế
quốc Mỹ, đứng về nhân dân, đất nước; ý thức được xứ mệnh của thế hệ mình, họ đứng
dậy xuống đường đấu tranh hoà nhập với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc.
Trường ca “Mặt đƣờng khát vọng” được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị -
Thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974.
2. Đất nước có từ đâu? Đất nước là gì?
“Đất nƣớc”, hai chữ thiêng liêng cao cả ấy chẳng phải ở đâu xa mà ở ngay
trong mỗi gia đình chúng ta: từ lời kể chuyện của mẹ, miếng trầu của bà, đến phong
62
tục tập quán quen thuộc, tình nghĩa thuỷ chung của cha mẹ, hạt gạo, hòn than, cái kèo,
cái cột trong nhà:
“Khi ta lớn lên đất nƣớc đã có rồi
Đất nƣớc có trong những cái ngày xửa ngày xƣa mẹ thƣờng hay kể”
Bằng giọng tâm tình, dịu ngọt như lời kể truyện cổ tích, Nguyễn Khoa Điềm đã
thể hiện những cảm nhận, suy tưởng của mình về cội nguồn đất nước. Lịch sử sâu
thẳm của đất nước ta được tác giả cắt nghĩa không phải bằng sự nối tiếp của các vương
triều hay các sự kiện lịch sử trọng đại như Nguyễn Trãi đã từng viết trong “Bình Ngô
Đại Cáo”:
“Nhƣ nƣớc Đại Việt ta từ thuở trƣớc
Vốn xƣng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc – Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần gây nền độc lập
Cùng Hán, Đƣờng, Tống, Nguyên hùng cứ một phƣơng”
mà bằng những hình ảnh gần gũi, thân quen, bằng những câu thơ gợi nhớ đến truyền
thuyết xa xưa, đến nền văn minh lúa nước sông Hồng, cùng những phong tục tập quán
độc đáo có từ lâu đời. Đó cũng chính là đất nước được cảm nhận trong chiều sâu tâm
hồn nhân dân, văn hoá và lịch sử:
“Đất nƣớc bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nƣớc lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Hình ảnh thơ phải chăng đã gợi cho ta về sự tích “Trầu cau” từ đời vua Hùng
dựng nước xa xưa, ngợi ca tình nghĩa vợ chồng, anh em đằm thắm, sắt son; về truyền
thuyết Thánh Gióng nhổ tre đánh đuổi giặc Ân, trở thành bài ca giữ nước hào hùng của
nhân dân đã trở thành lịch sử đất nước:
“Ta nhƣ thuở xƣa thần Phù Đổng
Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân
Sức nhân dân khoẻ nhƣ ngựa sắt
Chí căm thù ta rèn thép làm roi
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cƣớp nƣớc hại nòi”
(Tố Hữu)
Nghĩa là, lịch sử lâu đời của đất nước được kết tinh trong từng câu chuyện kể,
trong miếng trầu bà ăn thường ngày, trong “cây tre đánh giặc” thân quen quanh ta.
Đúng như Nguyễn Duy đã viết:
“Tre xanh, xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xƣa đã có bờ tre xanh”
Với cái nhìn độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm, đất nước đã nằm sâu trong tiềm
thức mỗi chúng ta, mỗi người dân; trong đời sống tâm hồn của nhân dân từ thế hệ này
qua thế hệ khác.
Đất nước còn là phong tục búi tóc thành cuộn sau gáy rất quen thuộc của người
phụ nữ Việt Nam từ bao đời nay:
“Tóc ngang lƣng vừa chừng em búi
Để chi dài bối rối lòng anh”
(ca dao cổ)
63
Đất nước Việt Nam mang vẻ đẹp tâm hồn con người Việt Nam: tình nghĩa đậm
đà, thuỷ chung son sắt của cha mẹ “cha mẹ thƣơng nhau bằng gừng cay muối mặn”. Ý
thơ được toát lên từ những câu ca dao đẹp:
“Tay bƣng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Hay:
“Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta tình nặng nghĩa đầy
Dù ba vạn sáu ngàn ngày cũng chẳng xa”
Với người Việt Nam vốn gắn bó lâu đời với nền văn minh lúa nước, hạt gạo trở
thành gia bảo vô cùng cần thiết cho cuộc sống. Cho nên ngay khi còn là đứa trẻ mới
lớn, cảm nhận về vật chất đầu tiên phải là hạt gạo trải qua một quá trình lam lũ, vất vả
kết tinh mồ hôi, nước mắt của người lao động một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng,
phải suốt ngày “bán mặt cho đất bán lƣng cho trời”, “dầm mƣa dãi nắng” nhân dân ta
mới làm ra được hạt ngọc quý giá ấy. Hình ảnh thơ của Nguyễn Khoa điềm làm ta gợi
nhớ tới câu ca dao mẹ ru thuở nào:
“Cày đồng đang buổi ban trƣa
Mồ hôi thánh thót nhƣ mƣa ruộng cày
Ai ơi bƣng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”
Cha ông ta xưa gắn liền với những miền quê thuần phác của nền nông nghiệp
thóc gạo với mái lá nhà tranh nên thường coi việc đặt tên cho con cũng chỉ bằng cái
tên nôm na, dân dã; có khi lấy từ tên những bộ phận của ngôi nhà tre gỗ của chính
mình đang ở “cái kèo, cái cột”… Cách cảm nhận cội nguồn đất nước của Nguyễn
Khoa Điềm thật gần gũi, thân quen mà cũng không kém phần thi vị, độc đáo, dễ làm
lay động trái tim hàng triệu độc giả.
Trong đoạn thơ trên, tác giả sử dụng khéo léo các kiểu cấu trúc thơ “Đất nƣớc
đã có”, “Đất nƣớc bắt đầu”, “Đất nƣớc lớn lên”, “Đất nƣớc có từ” đã giúp cho ta hình
dung được cả quá trình hình thành và phát triển của đất nước trong trường kì lịch sử
nằm sâu trong tâm thức của con người Việt Nam qua bao thế hệ.
Trường từ vựng: ông, bà, cha, me gợi về tình cảm gia đình ruột thịt thân thương.
Đó cũng là khởi nguồn cho đất nước. Bởi nói như chú Năm “con sông gia đình cũng
chảy về biển, mà biển thì rộng lắm, rộng bằng nƣớc ta” (Những đứa con trong gia
đình).
C. Kết luận:
Tóm lại, bằng những hình ảnh gần gũi, quen thuộc thường ngày, bằng chất liệu
văn hoá dân gian, truyền thuyết, cổ tích, chỉ qua một đoạn thơ ngắn, Nguyễn Khoa
điềm đã trình bày được một ý niệm về đất nước thật độc đáo, hấp dẫn; vừa thiêng liêng,
vừa hiện hữu rõ ràng, vừa có chiều sâu văn hoá lịch sử, vừa bình dị thân quen với cuộc
sống nhân dân hàng ngày. Đó là một đóng góp quan trọng của Nguyễn Khoa Điềm
làm sâu thêm ý niệm về đất nước của nhân dân cho thơ ca hiện đại.
Đề 2: Phân tích, bình giảng đoạn:
“Những ngƣời vợ…
…. hoá núi sông ta”
64
Bài Làm
A. Mở Bài:
Hình ảnh đất nước đã khơi nguồn cảm hứng vô tận cho biết bao thi sĩ Cách
mạng để sáng tạo nên những vần thơ đẹp tuyệt vời. Chế Lan Viên nhìn suốt chiều dài
lịch sử oanh liệt để khẳng định: “Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?”. Lê Anh Xuân
đã tạc vào thơ một dáng đứng Việt Nam với hình ảnh: “Tổ quốc bay lên bát ngát mùa
xuân”. Tố Hữu với hình ảnh đất nước sáng ngời: “Ôi! Việt Nam từ trong biển máu;
Ngƣời vƣơn lên nhƣ một thiên thần”. Với chương “Đất nƣớc” trong “Mặt đƣờng khát
vọng” (1974), Nguyễn Khoa điềm đã nói lên những cảm nhận sâu sắc về đất nước, về
nhân dân, về dân tộc và trách nhiệm lớn lao của tuổi trẻ Việt Nam trước non sông đất
nước.
B. Thân Bài:
1. Vài nét về tác giả và tác phẩm.
Nhà thơ Nguyễn Khoa điềm sinh năm 1943 ở Thừa Thiên Huế, là con nhà phê
bình văn học Hải Triều, một nhà phê bình xuất sắc đã từng chủ trì lý thuyết “nghệ
thuật vị nhân sinh” trong cuộc tranh luận với Hoài Thanh năm 1936 – 1969. “Đất
nƣớc” được trích trong trường ca “Mặt đƣờng khát vọng” (1974). Bản trường ca viết
về sự thức tỉnh của tuổi trẻ sinh viên các đô thị tạm chiếm ở miền Nam trước năm
1975 trước vận mệnh hiểm nghèo của đất nước.; kêu gọi họ hướng về nhân dân mà
xuống đường đấu tranh hoà nhập với cuộc kháng chiến của toàn dân tộc. Trong các
nhà thơ trẻ thời chống Mỹ, Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tưởng, xúc cảm dồn nén,
thể hiện một chiều sâu văn hoá, đặc trưng của thế hệ các nhà thơ thời kỳ chống Mỹ
cứu nước đã có một hành trang văn hóa chuẩn bị khá chu đáo trước khi bước vào chiến
trường.
Chương “Đất nƣớc” khai triển có vẻ phóng túng, tự do như một thứ tuỳ bút thơ,
nhưng thật ra tứ thơ vẫn tập trung thể hiện tư tưởng “đất nƣớc của nhân dân” qua các
bình diện chủ yếu sâu đây:
+ Đất nước trong chiều dài thời gian lịch sử
+ Đất nước trong chiều rộng không gian lãnh thổ địa lý
+ Đất nước trong bề sâu truyền thống văn hoá, phong tục, lối sống tâm
hồn, cốt cách dân tộc.
Tư tưởng “đất nƣớc của nhân dân” là một tư tưởng rất tiến bộ của thơ ca thời
đại Cách mạng. Đoạn trích bình giảng trên đây đã thể hiện một cách sâu sắc và cụ thể
sự “hoá thân” của nhân dân vào đất nước muôn đời.
2. Để nói lên công lao to lớn của nhân dân trong quá trình dựng nước và giữ
nước, nhà thơ đã nhắc đến những danh lam thắng cảnh, những tên đất, tên làng trên
mọi miền đất nước từ Nam chí Bắc. Nguyễn Khoa Điềm đã nhìn thấy hình sông, thế
núi là sự kết tinh đời sống tâm hồn của nhân dân. Xuất phát từ quan niệm của nhà Phật
(hóa thân), tác giả đã trình bày những cảm xúc, suy tưởng của mình: chính nhân dân
đã hoá thân thành đất nước “hóa thân cho dáng hình xứ sở” làm nên đất nước vĩnh
hằng. Những danh lam thắng cảnh không còn là những cảnh thú thiên nhiên thuần tuý
nữa mà đã được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được
nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân, sự hoá thân của những con người
không tên không tuổi.
3. Với nghệ thuật đặc sắc, từ ngữ giàu hình ảnh gợi cảm, tác giả viết lên những
hình tượng sinh động, giàu sức khái quát. Từ hình sông, thế núi, từ truyền thống tác
65
giả đã tạo nên những liên tưởng độc đáo, thú vị, giúp người đọc cảm nhận công lao to
lớn của nhân dân trong quá tình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
4. Tư tưởng đất nước của nhân dân khiến cho những địa danh ngàn đời của Tổ
quốc qua cái nhìn sắc sảo đầy khám phá của nhà thơ chính là sự hoá thân của những
con người bình dị, vô danh “những con ngƣời không ai nhớ mặt đặt tên” nhưng họ đã
làm ra đất nước:
“Những ngƣời vợ nhớ chồng còn góp cho Đất nƣớc những núi
Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái”
Những địa danh, những hình sông thế núi mang hình người, linh hồn dân tộc.
Chúng là sự tượng hình kết tinh đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân mang đậm
chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo Việt Nam. Núi Vọng Phu, hòn Trống Mái là kết tinh
tình yêu thuỷ chung của biết bao người vợ chờ chồng trong chiến tranh liên miên, của
sự gắn kết muôn đời, bất chấp mọi bão tố của thời gian:
“Không hoá thạch kẻ ra đi mà hóa thạch kẻ đợi chờ
Đợi một dáng hình trở lại giữa đơn cô”
5. Tác giả không chỉ chiêm ngưỡng những hình ảnh núi Bút, non Nghiên mà
còn nhìn ra trong đó phẩm chất, truyền thống hiếu học và khát vọng trí tuệ của dân tộc
ta từ bao đời nay. Những núi Bút, non Nghiên phô bày vẻ đẹp mỹ lệ giữa đất trời nước
Việt hay là hình tượng những người học trò nghèo đã gửi gắm quyết tâm, ước vọng
của mình vào đấy:
“Ngƣời học trò nghèo góp cho Đất nƣớc mình núi Bút non
Nghiên”
6. Nhà thơ đã tìm về cội nguồn để cảm nhận sâu sắc dáng hình đất nước. Những
hình ảnh thân quen của non sống đất nước gợi lên quá khứ hào hùng với truyền thống
đánh giặc ngoại xâm oanh liệt của nhân dân ta qua truyền thuyết Thánh Gióng nhổ tre
đánh đuổi giặc Ân:
“Ta nhƣ thuở xƣa thần Phù Đổng
Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân
Sức nhân dân khoẻ nhƣ ngựa sắt
Chí căm thù ta rèn thép thành roi
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cƣớp nƣớc hại nòi”
(Tố Hữu)
cùng với sự nghiệp dựng nước đầy gian lao của vua Hùng:
“Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mƣơi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vƣơng”
Cho đến “những con rồng nằm im” cũng góp phần làm nên “dòng sông xanh
thẳm”, “con cóc, con gà quê hƣơng cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh” và cả
những địa danh thật nôm na, bình dị “những ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm”.
Nguyễn Khoa Điềm đã đặt cái nhìn trân trọng của mình vào nhân dân không tên không
tuổi “những ngƣời dân nào” không ai biết cũng làm nên tên núi, tên sông và tất cả
những cái bình thường trong cuộc sống hàng ngày của nhân dân cũng hoá thân thành
dáng hình xứ sở.
7. Tính khái quát của hình tượng thơ cứ được nâng dần lên. Đó là một hình
dáng của tư thế truyền thống Việt Nam, truyền thống văn hiến của dân tộc có bốn
66
nghìn năm lịch sử. Và ở đâu trên khắp ruộng đồng, gò bãi, chẳng mang một dáng hình,
một ao ước, một lối sống ông cha.
Hình tượng thơ càng được nâng dần lên và chốt vào một câu đầy trí tuệ:
“Ôi! Đất nƣớc sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sống ta…”
C. Kết Bài:
Đoạn thơ có kết cấu chặt chẽ, tự nhiên và được viết theo thể tự do. Câu thơ mở
rộng kéo dài nhưng không nặng nề mà biến hoá linh hoạt làm cho đoạn thơ giàu sức
biểu hiện và sức khái quát cao. Đó là hình ảnh đất nước của nhân dân – nhân dân đã
hoá thành đất nước. Bởi trên khắp ruộng đồng gò bãi, núi sông đâu đâu cũng là hình
ảnh của văn hoá, của đời sống tâm hồn, cốt cách của Việt Nam.
Đề 3 ( 5 điểm): Tƣ tƣởng “ Đất nước của nhân dân” trong đoạn trích của Trƣờng
ca “ Mặt đường khát vọng”.
Mở bài 1: “ Đất nƣớc” là một đề tài cao đẹp nhất của văn học kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ. Với vốn hiểu biết sâu sắc về lịch sử và văn hóa dân tộc, Nguyễn
Khoa Điềm trong trường ca “ Mặt đƣờng khát vọng”- 1974- đã có một khám phá thật
mới mẻ và độc đáo về đất nước. Đó là đất nước của nhân dân, của ca dao thần thoại.
Mở bài 2: Trong bản hợp xướng của thơ ca chống Mỹ, nổi lên những âm vang trầm
hùng, sâu lắng thiết tha về đất nước. Đất nước hiện lên qua màu xanh “ Tre Việt Nam”
của Nguyễn Duy, trong dòng người cuồn cuộn trên “ Đƣờng tới thành phố” của Hữu
Thỉnh, “ Những ngƣời đi tới biển “ của Thanh Thảo. Đất nước đó cũng rung lên mạnh
mẽ khi “ Tuổi trẻ không yên”, những tà “áo trắng” đã “ xuống đƣờng” trong “ Mặt
đƣờng khát vọng” ( 1974) của Nguyễn Khoa Điềm. Trong bản Trường ca chín chương
sôi sục nhiệt huyết của tuổi trẻ trước vận mệnh của dân tộc, ông đã giành hẳn một
chương (V) để nói về đất nước:
“ Để đất nƣớc này là đất nƣớc nhân dân
Đất nƣớc của nhân dân, Đất nƣớc của ca dao thần thoại”
Thân bài:
1. Giới thiệu tác giả và tác phẩm.
2. Tƣ tƣởng Đất nƣớc của nhân dân đã xâu chuỗi mọi cảm xúc, chi tiết,
hình ảnh thơ)
Tư tưởng Đất nước của nhân dân đã thấm nhuần trong cả chương thơ về “Đất
nƣớc”.
Điều mà chúng ta dễ nhận ra trước tiên là tác giả đã sử dụng rộng rãi các chất liệu văn
hóa dân gian. Nghĩa là văn hóa của nhân dân từ ca dao tục ngữ đến truyền thuyết, cổ
tích, từ phong tục tập quán đến cuộc sống dân dã hàng ngày: miếng trầu, hạt gạo, hòn
than, cái kèo, cái cột. Các chất liệu ấy đã tạo ra được một thế giới nghệ thuật hết sức
quen thuộc gần gũi mà sâu xa, bay bổng của văn hóa dân gian Việt Nam bền vững và
độc đáo. Đây không chỉ là sự vận dụng sáng tạo truyền thống văn hóa dân gian, mà
chính là thấm nhuần quan niệm về đất nước của nhân dân, là sự thể hiện sâu sắc tư
tưởng cốt lõi ấy trong cảm hứng và sáng tạo hình ảnh thơ của tác giả.
67
“ Khi ta lớn lên Đất nƣớc đã có rồi
Đất nƣớc có trong những cái ngày xửa ngày xƣa mẹ thƣờng hay
kể”
Bằng giọng tâm tình như lời kể chuyện cổ tích, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện
những cảm xúc và suy tưởng của mình về đất nước. Cảm hứng có vẻ phóng túng, tự do
như một thứ tùy bút bằng thơ, nhưng thực ra nó vẫn có một hệ thống lập luận khá chặt
chẽ rõ ràng. Tác giả đã tập trung thể hiện đất nước trên các bình diện chủ yếu sau đây:
Trong chiều dài thời gian lịch sử ( quá khứ xa xưa cho đến hiện tại tương lai); trong
chiều rộng không gian lãnh thổ, địa lý. Và cuối cùng là trong bề dày văn hóa, tâm hồn
cốt cách. Ba phương diện ấy được thể hiện trong việc gắn bó thống nhất. Nhiều khi
một chi tiết đưa ra cùng nói về cả mấy phương diện ấy của đất nước. Nhưng ở bất cứ
phương diện nào, thì quan niệm “ Đất nƣớc của nhân dân” cũng là tư tưởng cốt lõi, là
sợi chỉ đỏ xâu chuỗi mọi cảm xúc và suy tưởng cụ thể. Chính nhờ đó mà tác giả đã có
những phát hiện mới mẻ, có chiều sâu nhiều khi ở chính những hình ảnh chất liệu quen
thuộc.
3. Đất nƣớc của nhân dân đƣợc thể hiện trong chiều dài thời gian lịch sử
Nói về lịch sử mấy ngàn năm của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm không dùng những
sử liệu như nhiều nhà thơ khác> Ông dùng lối kể đậm đà của dân gian:
“ Đất nƣớc bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nƣớc lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Hình ảnh thơ phải chăng đã gợi cho ta về sự tích trầu cau từ đời Hùng Vương dựng
nước xa xưa, về truyền thuyết Thánh Gióng nhổ tre đánh đuổi giặc Ân đã đi vào lịch
sử?. Nghĩa là lịch sử đất nước được đọng lại trong từng câu chuyện kể, hiện hình trong
“ miếng trầu bà ăn”, trong “ cây tre đánh giặc”. Hay nói cách khác, đất nước đã nằm
sâu trong tiềm thức mỗi người dân, trường tồn trong đời sống tâm hồn nhân dân qua
bao thế hệ. Đó cũng chính là “ Đất nƣớc của nhân dân”.
Vì vậy, khi nghĩ về mấy ngàn năm lịch sử của đất nước, tác giả không điểm lại các
triều đại “ từ Triệu, Đinh, Lý, Trần gây nền độc lập” ( Nguyễn Trãi);
“ Nƣớc Việt nghìn năm Đinh, Lý, Trần, Lê
Thành nƣớc Việt nhân dân trong mát suối”
Không nhắc lại tên tuổi những anh hùng lừng danh trong sử sách như Bà Trưng, bà
Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung:
“ Hỡi Sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm;
Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?
Chƣa đâu! Và ngay cả những ngày đẹp nhất
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều, đất nƣớc hóa thành văn
Khi Nguyễn Huệ cƣỡi voi vào cửa Bắc,
Hƣng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng”
mà Nguyễn Khoa Điềm đã nhấn mạnh đến muôn ngàn những con người bình dị vô
danh:
“ Có biết bao ngƣời con gái, con trai
68
Trong bốn nghìn lớp ngƣời giống ta lứa tuổi
Họ sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhƣng họ đã làm ra đất nƣớc”
Những con người vô danh ấy chính là nhân dân vô tận đã tạo dựng và gìn giữ đát
nước trải qua mọi thời đại. Họ không chỉ đánh giặc ngoại xâm, mà còn là người sáng
tạo và truyền lại mọi giá trị vật chất và tinh thần cho mọi thế hệ nối tiếp nhau:
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than qua con cái
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh tên làng tên xã trong mỗi chuyến di dân”
4. Đất nƣớc ấy còn có một không gian cụ thể, nơi sinh tồn của cộng đồng)
Cùng với “ thời gian đằng đẵng” là “ không gian mênh mông” được tạo lập từ thuở sơ
khai với truyền thuyết Lạc Long Quân- Âu Cơ “ Đất là nơi chim về. Nƣớc là nơi rồng
ở”- Một đất nước đẹp đẽ và thiêng liêng biết bao!
Nhưng đất nước cũng là cái không gian rất gần gũi với cuộc sống hàng ngày của
mỗi người dân “ Đất là nơi anh đến trƣờng. Nƣớc là nơi em tắm” và đất nước ấy đã
chứng kiến những mối tình đầu của biết bao lứa đôi:
Đất nƣớc là nơi ta hò hẹn
Đất nƣớc là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
Từ quan niệm “ Đất nƣớc của nhân dân”, tác giả đã có những phát hiện sâu sắc và
mới mẻ về vẻ đẹp thiên nhiên đất nước gắn liền với con người, mà trước hết là những
con người bình thường. Và chính những con người bình thường ấy đã làm nên vẻ đẹp
muôn đời của thiên nhiên đất nước, một vẻ đẹp không chỉ mang màu sắc gấm vóc của
non sông, mà còn là kết tinh vẻ đẹp tâm hồn, truyền thống dân tộc:
Những ngƣời vợ nhớ chồng còn góp cho đất nƣớc núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại”
rồi “ ngƣời học trò nghèo góp cho đất nƣớc mình núi Bút, non Nghiên”, cho đến những
địa danh thật nôm na bình dị. “ Những ngƣời dân nào đã góp tên ông Đốc, ông Trang,
bà Đen, bà Điềm”. Từ đó, tác giả đã đi tới một nhận thức khái quát sâu xa:
“ Ôi đất nƣớc sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”
5. Đất nƣớc trong bề dày văn hóa
Đất nước ấy còn có một bề dày văn hóa, tâm hồn cốt cách Việt nam. Cũng như hai
phương diện trên, bề dày văn hóa không được nói đến qua các danh nhân văn hóa như
Nguyễn trãi, Nguyễn Du, Hof Xuân Hương, Ngô Thì Nhậm… mà được thể hiện trong
nguồn mạch phong phú của văn hóa dân gian để nêu lên truyền thông tinh thần và vẻ
đẹp tâm hồn của nhân dân thấm nhuần sâu sắc tư tưởng “ Đất nƣớc của nhân dân của
69
ca dao thần thoại”. Trong các kho tàng văn hóa phong phú ấy, tác giả tìm thấy những
vẻ đẹp nổi bật của tâm hồn tính cách Việt Nam. Đó là thật say đắm và thủy chung
trong tình yêu: “ Yêu nhau từ thuở trong nôi”; “ Cha mẹ yêu nhau bằng gừng cay muối
mặn”; Biết quý trọng tình nghĩa: “ biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội”.
Nhưng cũng thật quyết liệt với kẻ thù: “ Biết trồng tre đợi ngày thành gậy. Đi trả thù
không sợ dài lâu”. Ba phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, dân tộc
đã được ông nói lên sâu sắc, thấm thía từ những câu ca dao đẹp- những tiếng lòng của
nhân dân trải qua từng thời kỳ lịch sử.
Kết luận: Tóm lại “ Đất nƣớc” của Nguyễn Khoa Điềm là Đất nước của nhân dân,
của ca dao thần thoại. Những thi liệu dân gian đậm đà chất thơ, được kết hợp với
những suy nghĩ giàu chất trí tuệ đã tạo nên nét đặc sắc cho bài thơ. Đó là một đóng
góp quan trọng của Nguyễn Khoa Điềm làm sâu thêm cho ý niệm về Đất nước của thơ
ca chống Mỹ.
“ Và cứ thế nhân dân thƣờng ít nói
Nhƣ mẹ tôi lặng lẽ suốt đời
Và cứ thế nhân dân cao vòi vọi
Hơn cả những ngôi sao cô độc giữa trời”
( Những người đi tới biển- Thanh Thảo)
Đề: Phân tích những đặc điểm giống nhau và khác nhau trong cảm hứng về quê
hƣơng đất nƣớc của văn học Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975 đƣợc thể hiện
qua hai bài thơ "Đất nƣớc" (trong trƣờng ca "Mặt đƣờng khát vọng") của
Nguyễn Khoa Điềm và "Việt Bắc" của Tố Hữu.
Mở bài:
"Việt Nam ơi! Ta mến yêu Ngƣời". Đó không chỉ là lời của một bài ca, mà
còn là tiếng hát của hàng triệu trái tim con người Việt Nam yêu nước. Với tình cảm
yêu nước thiết tha, thiêng liêng, sâu nặng ấy, bằng bút pháp, phong cách nghệ thuật
khác nhau, các thi sĩ - chiến sĩ đã tạo dựng lên được những nét chung và những sắc
màu khác nhau thật đa dạng và hấp dẫn về hình tượng Tổ Quốc. Qua bài thơ "Đất
nƣớc" (Một chương trong "Mặt đƣờng khát vọng" của Nguyễn Khoa Điềm) và "Việt
Bắc" của Tố Hữu, chúng ta cũng có thể thấy rõ điều đó.
Thân bài:
A. Những điểm giống nhau
1. Trước hết là cảm hứng về tƣ thế Độc lập - tự do của một nƣớc Việt Nam mới, tƣ thế
của ngƣời dân tự hào đƣợc làm chủ đất nƣớc mình.
- Ở giữa chiến khu kháng chiến, nhìn khí thế của cả dân tộc ra trận, giọng thơ
Tố Hữu cất lên đầy phấn chấn, tự hào:
" Những đƣờng Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập nhƣ là đất rung"
- Và giữa những ngày khí thể đánh Mỹ và thắng Mỹ hào hùng, Nguyễn Khoa
Điềm cũng đã tiếp tục khẳng định ý thơ đó bằng những cảm xúc phơi phới niềm tin:
"Đất nƣớc này là đất nƣớc nhân dân
Đất nƣớc của nhân dân, Đất nƣớc của ca dao thần thoại"
2. Cảm hứng về Đất nƣớc của nhân dân, nhân dân làm nên Đất nƣớc cũng là một cảm
hứng nổi bật được thể hiện ở hai bài thơ này nói riêng, của thơ ca hiện đại nói chung.
70
- Với Tố Hữu đó là những "Em gái hái măng" những " ngƣời đan nón chuốt
từng sợi giang...." là "những bà mẹ nắng cháy lƣng, địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô",
rộng hơn nữa là những "dân công đỏ đuốc từng đoàn", những binh đoàn bộ đội "Quân
đi điệp trùng trùng" tiếp bước ra trận để quyết làm nên " Một Điện Biên lừng lẫy địa
cầu"
- Với Nguyễn Khoa Điềm, đó là những con người bình dị vô danh "Có biết bao
ngƣời con gái, con trai; Trong bốn nghìn lớp ngƣời giống ta lứa tuổi; Họ sống và
chết; giản dị và bình tâm; Không ai nhớ mặt đặt tên..." .Chính những con người ấy là
nhân dân vô tận đã tạo dựng và gìn giữ đất nước trải qua mọi thời đại. Họ không chỉ
đánh giặc ngoại xâm, mà còn là người sáng tạo và truyền lại mọi giá trị vật chất và
tinh thần cho các thế hệ nối tiếp nhau:
" Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
...Họ gánh tên làng tên xã trong mỗi chuyến di dân"
2. Cuộc ra trận của cả dân tộc ta ngày nay đã huy động được triệt để sức mạnh của
quá khứ: "40 thế kỷ cũng ra trận". Cho nên khuyng hƣớng suy ngẫm về quá khứ, tự
hào và truyền thống bất khuất, anh hùng cũng là một cảm hứng được thể hiện khá đậm
nét ở hai bài thơ này.
- Trên đường "Ta đi tới" bước tiếp con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và thống
nhất nước nhà, Tố Hữu đã cùng đồng bào Việt Bắc nhắc nhở nhau bằng những lời tha
thiết"
"Mƣời lăm năm ấy ai quên
Quê hƣơng Cách mạng dựng nên Cộng hoà"
"...Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn"
Còn Nguyễn Khoa Điềm trong chương "Đất nƣớc" cũng đã viết:
"Hàng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ"
4. Thông qua trái tim nồng thắm yêu thương và chói đỏ tự hào của các nhà thơ cách
mạng, bức tranh đất nƣớc hiện ra trong nắng vàng tƣơi của lịch sử với vẻ đẹp vừa
hùng vĩ, khoáng đạt, vừa tráng lệ in đậm dấu ấn của một dân tộc từng có một nền văn
hiến 4.000 năm lịch sử.
Với Tố Hữu đó là: "Rừng xanh hoa chuối đỏ tƣơi" , "Ngày xuân mơ nở trắng
rừng", "Ve kêu rừng phách đổ vàng", "Rừng thu trăng rơi hoà bình"...còn trang thơ
Nguyễn Khoa Điềm, đó là "Núi Vọng Phu", "Hòn Trống Mái", "Núi bút Non Nghiêm"
là phong cảnh Hạ Long, Cửu Long, Đất Tổ Hùng Vương...
5. Cảm hứng lãng mạn, hƣớng tới chiến thắng và tƣơng lai tƣơi sáng cũng là một cảm
hứng nổi bật đƣợc thể hiện khá rõ nét ở cả hai bài thơ.
Trong giây phút chia tay "Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bƣớc đi", Tố Hữu
đã lắng nghe được những bước đi của Đất nước hướng về ngày mai tươi sáng với
không khí rộn rã...:
"- Nghìn đêm thăm thẳm sƣơng dày
Đèn pha bật sáng nhƣ ngày mai lên
- Ngày mai rộn rã sơn khê
Ngƣợc xuôi tàu chạy bốn bề lƣới giăng"
Còn Nguyễn Khoa Điềm trong chương "Đất nƣớc" cũng đã viết những vần thơ
đầy cảm hứng lãng mạn, bay bổng:
"Ngày mai con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất nƣớc đi xa
71
Đến những tháng ngày mơ mộng"
B. Những đặc điểm khác nhau mang dấu ấn riêng của mỗi thi sĩ
Do sự khác nhau về phong cách, cá tính sáng tạo, các nhà thơ đã có những tìm
tòi khám phá riêng của mình tạo nên những vẻ đẹp đa dạng cho đất nước thật là sinh
động và hấp dẫn.
1. "Việt Bắc" của Tố Hữu được hoàn thành vào tháng 10 - 1954, khi trung ương
Đảng và Chính phủ rời "Thủ đô gió ngàn" về với "Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình" .
Bài thơ đã trở thành một hoài niệm thiết tha về một thời cách mạng gian khổ mà rất
đỗi vui tƣơi hào hùng. Bằng những vần thơ lục bát ngọt ngào, thông qua cuộc đối đáp
có tính chất tưởng tượng giữa kẻ ở và người đi như thể người yêu đưa tiễn người yêu
đầy lưu luyến vấn vương, bằng lối xưng hô Mình - Ta mang đậm tính chất truyền
thống và đậm đà tình nghĩa, bài thơ "Việt Bắc" đã tái hiện được một cách chân thực
và sinh động hình ảnh Tổ quốc những ngày kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc với
những con ngƣời bình dị mà anh hùng cùng khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ thắm tƣơi
đã cùng con ngƣời viết nên bản giao hƣởng "Điện Biên lừng lẫy địa cầu". Giọng điệu
chính của bài thơ là giọng tâm tình thiết tha sâu lắng ngọt ngào đậm đà màu sắc dân
tộc và rất giàu tính nhạc. Thông qua đó mà cảnh và người kháng chiến hiện lên lấp
lánh sắc mầu và rất đổi thương yêu:
"Rừng xanh hoa chuối đỏ tƣơi
... Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung"
2. "Đất Nƣớc" của Nguyễn Khoa Điềm là một chương (chương V) trong bản
Trường ca "Mặt đƣờng khát vọng" (9 chương) sôi sục nhiệt huyết của tuổi trẻ, sinh
viên trước vận mệnh hiểm nghèo của Tổ quốc, ra đời vào năm 1971, in lần đầu tiên
năm 1974 là một trong những đoạn thơ hay về đề tài đất nước trong thơ ca Việt Nam
hiện đại. Bằng chất liệu văn hoá dân gian đậm đà chất thơ cùng với những hình ảnh
gần gũi thân thuộc hàng ngày nhƣ " miếng trầu", "hạt gạo", "hòn than", "cái kèo, cái
cột"..., kết hợp với lối tƣ duy bình luận hiện đại giàu chất trí tuệ, Nguyễn Khoa Điềm
đã làm nỗi bật một tƣ tƣởng mới mẻ: "Đất nƣớc của Nhân dân của ca dao thần thoại".
Bằng cái nhìn ấy, tác giả đã trình bày hình tượng Tổ quốc qua các phương diện không
gian địa lý, chiều dài lịch sử và tâm hồn cốt cách dân tộc. Vì thế Đất nước hiện lên
qua những cái thân thuộc bình dị, đơn sơ hàng ngày: "gừng cay muối mặn", "nơi em
tắm", "nơi ta hò hẹn", đến những cái kì vĩ vĩnh hằng: rừng biển mênh mông "Đất là
nơi Chim về", "Nƣớc là nơi Rồng ở". Để từ đó khám phá ra những ý tưởng độc đáo sâu
sắc:
"Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ƣớc, một lối sống ông cha..."
Và "Ôi Đất Nƣớc sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta..."
Kết luận: Những nét chung và riêng như ta đã phân tích ở trên làm cho Đất nước
trong thơ trở nên phong phú đa dạng lấp lánh sắc màu hơn. Và như thế là hai tác giả đã
góp hai bông hoa tươi thắm mãi trong vườn thơ dân tộc. Giờ đây được thưởng thức hai
bông hoa ấy, chúng ta không chỉ tự hào với quá khứ hào hùng của Đất nước, mà còn
thêm yêu mến Đất nước này để góp một chút công sức nhỏ bé của mình nhằm làm cho
Đất nước ta mãi mãi là: "Đất Nƣớc của Nhân dân của ca dao thần thoại".
72
XUÂN QUỲNH
Đề 1 : Phân tích bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh
A. Mở Bài:
Tình yêu là một tình cảm thiêng liêng cao cả và huyền diệu nhất của con người,
nhất là tình yêu ở trái tim người phụ nữ. Bằng hình tượng độc đáo, nhịp thơ, ngôn ngữ
thơ đặc sắc, nữ thi sĩ Xuân Quỳnh đã diễn tả được một cách tinh tế và duyên dáng tâm
hồn của người phụ nữ đang yêu qua bài thơ “Sóng”, một trong những đỉnh cao trong
sự ngiệp sáng tác của Xuân Quỳnh. Bài thơ ra đời năm 1967, in trong tập “Hoa dọc
chiến hào” (1968).
B. Thân Bài:
I. Vài nét về thi sĩ Xuân Quỳnh.
Xuân Quỳnh (1942 – 1988) - một trong những gương mặt tiêu biểu cho các nhà
thơ nữ thời chống Mĩ. Con đường thơ của chị gần một phần tư thế kỉ, khá phong phú
về số lượng và tươi rói chất hiện thực đời sống. Thơ chị thấm đượm tình người và thể
hiện một trái tim phụ nữ hồn hậu, chân thành nhiều lo âu và luôn da diết trong khát
vọng hạnh phúc đời thường.
II. “Sóng” để chỉ tình yêu trong thơ.
Xưa nay, để diễn tả tâm trạng, cảm xúc, tâm hồn đến độ mãnh liệt,từ thơ ca dân
gian đến thơ ca hiện đại, các thi sĩ đã có dùng hình tượng “sóng” để biểu tượng cho
tình yêu. Nữ thi sĩ Kim Chi trong bài “Anh và biển ” cũng đã viết:
“ Tình yêu là sóng biển sâu
Nghìn năm vỗ đến bạc đầu biển ơi!”
Còn Xuân Diệu cũng đã từng hóa thân mình làm “sóng” để bày tỏ khát vọng
tình yêu:
“Anh xin làm sóng biếc
Hôn mãi cát vàng em”
III. Hình tượng “sóng” trong bài thơ của Xuân Quỳnh.
Nhưng hình tượng “sóng” trong bài thơ Xuân Quỳnh có nét đặc sắc, mới mẻ
riêng. Đó là một sáng tạo độc đáo làm nổi rõ sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của người
phụ nữ Việt Nam trong tình yêu. “Sóng” là nhan đề của bài thơ và cũng là hình tượng
chủ đạo xuyên suốt cả bài. Đó là một hình tượng ẩn dụ mang tính chất biểu tượng,
biểu tượng cho trái tim người phụ nữ đang yêu. Gắn liền với hình tượng “sóng” là hình
tượng nhân vật trữ tình “em”. “Sóng” chính là sự hoá thân của “em”. “Sóng” và “em”
tuy hai mà một. Cho nên, nhờ hình tượng “sóng” này mà người phụ nữ trong bài thơ
có thể soi vào “sóng” để thấy rõ tâm hồn mình và nhờ “sóng” mà diễn tả những đợt
sóng lòng, những trạng thái phong phú, phức tạp của tình yêu. Hình tượng “sóng” ấy
còn được thể hiện bằng hàng loạt chi tiết cụ thể như bằng thể thơ, bằng nhịp điệu bài
thơ. Đó là một âm điệu nhịp nhàng, dào dạt như những đợt sóng gối lên nhau lúc dâng
trào sôi nổi, dữ dội, lúc lắng dịu thiết tha. Âm điệu ấy cũng chính là nhịp điệu bên
trong của tâm hồn nhân vật trữ tình - một tâm hồn của tình yêu muôn thuở có bao giờ
được yên. Như vậy, mượn hình tượng “sóng” ấy để bày tỏ tình yêu, Xuân Quỳnh đã có
một hình tượng thơ thật độc đáo, rất thích hợp và đẹp đẽ để nói một cách thật đầy đủ,
thấm thía những khát vọng thiết tha mà thầm kín của trái tim mình. Thế là sóng nước,
73
sóng biển đã biến thành sóng tình. Hai con sóng ấy hoà quyện vào nhau, soi tỏ và bổ
sung cho nhau. Những cung bậc phong phú, đa dạng của “sóng" cũng chính là những
phương diện tương ứng của tâm hồn nhân vật trữ tình “em”. Vì vậy, phân tích “sóng”
cũng chính là phân tích tâm hồn khát khao tình yêu, hạnh phúc đầy nữ tính đó.
IV. “Sóng” đã biểu hiện được các trạng thái đa dạng của tâm hồn người phụ
nữ đang yêu.
1. Mở đầu “sóng” tự bộc bạch những thuộc tính, phẩm chất, trạng thái thật
phong phú, đa dạng, phức tạp, khác thường của mình; thậm chí là trái ngược, đối lập
nhau. Đúng như thế, khi gió to bão lớn thì sóng có thể cồn lên ồn ào, dữ dội, có thể xô
lật thuyền. Nhưng khi trời yên gió lặng, thì biển sóng lại lặng lẽ, dịu êm. Đó cũng là
những trạng thái không bao giờ yên định của tâm hồn người phụ nữ đang yêu: dữ dội
đấy, rồi lại dịu êm đấy:
“Những đêm trăng hiền từ
Biển nhƣ cô gái nhỏ
Thầm thì gửi tâm tƣ
Quanh mạn thuyền sóng vỗ
Cũng có khi vô cớ
Biển ào ạt xô thuyền
Vì tình yêu muôn thuở
Có bao giờ đứng yên”
(Xuân Quỳnh)
Qủa là “sóng” rất lạ và bí ẩn nhưng bí ẩn và quan trọng hơn nữa là “sóng”
mang trong mình nó khát vọng và sự lớn lao nếu một khi “sông không hiểu nổi mình”,
thì “sóng” dứt khoát “tìm ra tận bể”, dứt khoát từ giã khuôn khổ chật hẹp để tìm đến
chân trời cao rộng của tâm hồn.
Ra tận nơi mênh mông, cao rộng trời nước bao la, nhiều sóng ngầm mà cũng
nhiều bão tố của đại dương, con sóng mới thực sự tìm thấy mình, nhận thức được sức
mạnh và mọi khát khao của nó. Nhiều khi không tìm được đường đi, “sóng” ngậm
ngùi, chua chát:
“Làm gì có biển mà đi
Sóng đành chua chát thầm thì cùng sông”
(Lâm Thị Mỹ Dạ)
2. “Sóng” là vĩnh hằng với thời gian. “Sóng” ngoài biển cả vỗ suốt ngày đêm
không ngừng không nghỉ. Từ những “con sóng ngày xƣa” đến những con “sóng” ngàn
năm sau cũng vậy, không bao giờ chịu đứng yên cũng như nỗi khát khao tình yêu ngàn
đời cùa nhân loại thật mãnh liệt không giới hạn, cứ xôn xao, rạo rực trong trái tim của
muôn đời tuổi trẻ:
“Ôi con sóng ngày xƣa
Và ngày sau cũng thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bôi hồi trong ngực trẻ”
Nhà thơ Xuân Diệu cũng đã khái quát cái quy luật ấy:
“Hãy để cho trẻ con nói cái ngon của kẹo
Hãy để tuổi trẻ nói hộ tình yêu”
3. Tình yêu đối với tuổi trẻ tự nhiên như hơi thở, khí trời. Nhưng đứng trước
một trái tim rạo rực, xốn xang vì đang yêu, người ta thường có nhu cầu “cắt nghĩa” cái
74
quy luật rất tự nhiên nhưng cũng đầy bí ẩn ấy. Nhưng làm sao có thể giải đáp được
một cách rõ ràng câu hỏi về một cái thời điểm bắt đầu của một tình yêu:
“Tình yêu đến tình yêu đi ai biết đƣợc”
Hay:
“Làm sao cắt nghĩa đƣợc tình yêu
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm lòng ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu”
(Xuân Diệu)
Trước đây, Xuân Diệu – ông hoàng của tình yêu, đã từng băn khoăn như vậy; còn giờ
đây, Xuân Quỳnh đã giải thích điều đó bằng trực cảm, bằng tất cả lòng mình như một
lời thú nhận thành thực, hồn nhiên, ý nhị mà sâu sắc: tình yêu như sóng biển, như gió
trời vậy thôi, làm sao hiểu hết được:
“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”
Thật là một cái lắc đầu rất thiếu nữ,mà cũng đáng yêu. Nhà thơ Nguyễn Đình
Thư, một thi sĩ của dòng thơ ca lãng mạn 30 – 45 cũng đã có ý thơ tương tự:
“Huống hồ yêu tự khi nào
Hôm qua lòng thấy ngọt ngào mới hay”
Và nữ thi sĩ Đoàn Lê cũng viết về ý thơ này:
“Tình yêu nhƣ hƣơng nhẹ
Đến lúc nào không hay
Hoa tình yêu chợt nở
Hƣơng tình yêu say say”
4. Tình yêu luôn đồng hành với nỗi nhớ. Càng yêu nồng nàn, đắm say, thì càng
nhớ da diết cháy bỏng. Đó là hai mặt của tình yêu. Vì thế, “tƣơng tƣ” là căn bệnh phổ
biến của tất cả những người đang yêu. Nguyễn Bính, một thi sĩ nổi tiếng đa tình cũng
đã từng viết:
“Nắng mƣa là bệnh của trời
Tƣơng tƣ là bệnh của tôi yêu nàng”
Và Xuân Diệu, “ngƣời uống ái tình dập cả môi”, cũng đã viết:
“Uống xong lại khát là tình
Gặp rồi lại nhớ là mình với ta”
Trong bài thơ này, nỗi nhớ niềm thương của người đang yêu được Xuân Quỳnh
diễn tả thật cảm động và đầy nghệ thuật. Nỗi nhớ như bao trùm cả không gian bao la.
Nó chiếm cả tầng sâu, bề mặt của tâm hồn. Và nó khắc khoải da diết trong mọi thời
gian:
“Con sóng dƣới lòng sâu
Con sóng trên mặt nƣớc
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ đƣợc
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
“Con sóng dƣới lòng sâu;con sóng trên mặt nƣớc” là những cung bậc, những biểu
hiện phong phú đa dạng nỗi nhớ của “em”. “Sóng trên mặt nƣớc” là biểu hiện nỗi nhớ
75
khi thương. Còn “sóng dƣới lòng sâu” là nỗi nhớ âm thầm lắng sâu trong cõi lòng và
“cả những lúc giận anh mà lòng em vẫn nhớ”. Nỗi nhớ ấy mới khắc khoải, bồn chồn,
thổn thức sâu thẳm biết nhường nào! Hai câu thơ “Lòng em nhớ đến anh; cả trong mơ
còn thức” đã diễn tả được một cách thật xúc động và chân thực cõi lòng của người phụ
nữ đang yêu bằng một tình yêu thật trong sáng và mãnh liệt. “Em” nhớ “anh” từ cõi
thực đến cõi mơ. Cái thức trong giấc mơ mới là tình cảm thật nhất, sâu sắc nhất của
cõi lòng. Bàn chân con người có thể “xuôi về phƣơng Bắc” hay “ngƣợc về phƣơng
Nam”, nhưng trái tim chỉ “hƣớng về anh một phƣơng” như hoa hướng dương hướng về
mặt trời vậy… Ở đây, một lần nữa, Xuân Quỳnh đã mượn kết cấu trùng điệp để tăng
tiến nỗi nhớ của lòng mình. Với người phụ nữ ấy, không phải phương Bắc hay phương
Nam mà chỉ là một phương duy nhất. Đó là phương của tâm trạng, của trái tim. Thành
thật và cháy bỏng đến nhường ấy, da diết đến nhường ấy! Dù hơi táo bạo, nhưng sự
đắm say của khát vọng tình yêu đã trở thành điểm tựa để thơ Xuân Quỳnh cất cánh.
Đoạn thơ trên của Xuân Quỳnh vừa là tiếng nói tha thiết cháy bỏng của trái tim người
phụ nữ trong nỗi nhớ, vừa được viết với thủ pháp nghệ thuật của bàn tay một thi sĩ tài
hoa. Nỗi nhớ được thể hiện hằng hình tượng gián tiếp chưa đủ, nó còn được biểu hiện
trực tiếp như trái tim không thể kìm nén nổi, tự thốt thành lời:
“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Để nhấn mạnh tính đa dạng, sâu đằm của nỗi nhớ, tác giả còn sử dụng thủ pháp
điệp “con sóng” (ba lần), nhân cách hoá “con sóng nhớ bờ”, biện pháp đối lập “dƣới
lòng sâu” – “trên mặt nƣớc”. Nỗi nhớ ở đây đã trở thành tình cảm thường trực trong
“trái tim bé nhỏ mà không bến bờ” của thi sĩ cứ trào dâng, cứ tầng tầng, lớp lớp tưởng
chừng như tới tột độ, cứ nối tiếp nhau hối thúc trào ứ trong tâm hồn. Đã có biết bao
câu ca dạo, biết bao bài thơ viết rất hay về nỗi nhớ của người phụ nữ trong tình yêu:
“Em nhớ anh không chỉ trong giấc ngủ
Em nhớ anh không chỉ lúc dạo chơi
Em nhớ anh không chỉ khi trăng tỏ
Em nhớ anh không chỉ lúc mƣa rơi
Ôi! Cái nhớ sao mà kì diệu
Ôi! Cái thƣơng sao khéo mặn mà
Có phải lúc xa nhau ta mới hiểu
Hết lòng ngƣời trong mỗi phút giây qua”
(Hoàng Thị Minh Khanh)
Ở trong bài thơ này, Xuân Quỳnh đã có thêm một tiếng nói mới mẻ về tình cảm
đó bằng những vần thơ giản dị mà sâu sắc và không kém phần độc đáo.
5. Tình yêu chân chính là như vậy: vừa sôi nổi thiết tha, mãnh liệt, vừa trong sáng,
thuỷ chung. Vì tình yêu mà thi sĩ suy tư ở đây không phải là một thứ tình cảm phiêu diêu,
huyền ảo nào mà là tình yêu trần thế gắn với đời thường. Mà đời thường không hoàn
toàn bình yên, phẳng lặng; trái lại, lắm khi gặp giông tố, bão bùng. Vì vậy, trong tình
yêu cần phẩm chất thuỷ chung, ý chí, nghị lực, sức mạnh của tình cảm để vượt qua mọi
không gian, thời gian, mọi trắc trở để tìm đến bến bờ của hạnh phúc lứa đôi:
“Ở ngoài kia đại dƣơng
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”
76
Hãy quan sát cái hiện tượng gần như trở thành quy luật có vẻ nghịch lý của đại
dương. Dù gió từ bờ thổi ra thì sóng ở ngoài xa vẫn hướng vào bờ. “Em” cũng thế, cho
dù gặp biết bao trở ngại, “em” cũng sẽ vượt qua hết để đến với “anh”, đến với một mái
ấm hạnh phúc gia đình… (như Chế Lan Viên đã viết:
“Cây nối đầu cây chạy đến em
Đếm cây hoài lại mọc cây thêm
Tình anh làm cái cây sau chót
Về tới quê em mọc tận thềm”
Khi đã yêu thực lòng thì dù muôn vời cách trở, chúng ta vẫn đến được với nhau. Ca
dao xưa đã từng viết:
“Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo
Ngũ lục sông cũng lội, thất bát đèo cũng qua”
Tình yêu là như vậy, luôn luôn gắn liền với lòng tin, tin ở cuộc đời, tin ở người
mình yêu, tin ở chính sức mạnh của tình yêu. Chả thế mà qua bấy nhiêu năm tháng
sống dưới cảnh đạn bom tàn phá những gì quý giá do chính bàn tay mình xây dựng
nên, vậy mà trong tâm hồn người con gái bé nhỏ “Nguyệt vẫn có tình yêu và niềm tin
mãnh liệt vào cuộc sống, cái sợi chỉ xanh óng ánh ấy dù cho bao nhiêu bom đạn dội
xuống cũng không thể đứt, không thể tàn phá nổi” (Mảnh trăng cuối rừng).
6. Bài thơ thoáng một chút khắc khoải, lo âu về sự chảy trôi của thời gian, cái
ngắn ngủi của cuộc đời mình và tình yêu cuả bản thân. Giữa lúc trái tim đang yêu nồng
nàn, yêu hết mình vẫn thấp thoáng một dự cảm day dứt rất chính đáng:
“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Nhƣ biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”
Biển dù rộng tới đâu rồi cũng có bờ, có giới hạn và những đám mây không thể
dừng lại mãi mãi trên biển, mà chúng tiếp tục cuộc hành trình trên bầu trời để đi đến
cõi vô tận xa xăm. Cũng thế, cuộc đời con người tuy dài nhưng không phải vĩnh hằng,
dù con người không mong đợi nhưng năm tháng vẫn bình thản trôi qua đời người theo
quy luật tất yếu khắc nghiệt của thời gian. Không gian và thời gian là vô hạn. Ở một
chỗ khác, Xuân Quỳnh cũng đã có một câu thơ tương tự “Thời gian nhƣ là gió; Mùa đi
theo tháng năm; Tuổi theo mùa đi mãi”.
Vì thế, đứng trước biển, con người càng có cảm giác về cái nhỏ nhoi, hữu hạn của
kiếp người trước cái vĩnh hằng của vũ trụ. Do đó, con người luôn luôn có khát vọng
được sống trọn vẹn trong tình yêu, khát khao được gắn bó mãi mãi với cuộc sống này,
hoà nhập với cuộc đời vĩnh hằng bằng tình yêu của mình. Niềm khát khao ấy, Xuân
Quỳnh lại gửi vào hình tượng “sóng”: Những con sóng tan ra không phải để biến mất
trên đại dương mà là để hóa thân, để tồn tại vĩnh viễn trong vô tận các con sóng khác.
Cũng thế, con người sẽ ra đi nhưng tình yêu thì ở lại, một tình yêu vô tận, vĩnh hằng
như sóng giữa biển khơi. Đây là một khát vọng rất con người:
“Làm sao đƣợc tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”
Tình yêu của bản thân thì hữu hạn với đời người. Muốn nó đi vào vĩnh hằng,
chỉ còn một cách là hoà tan tình yêu vào những con sóng tình yêu của biển đời để ngàn
vạn năm sau, con sóng đó “Vẫn hát mãi bên ghềnh; Một tình chung không hết” (Xuân
77
Diệu). Ở đây, tình yêu dường như đã lớn hơn cả bản thân, dài hơn cả cuộc dời. Trong
bài thơ “Tự hát”, nữ thi sĩ Xuân Quỳnh cũng đã khẳng định:
“Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt đời thƣờng ai chẳng có
Vẫn ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa
Nhƣng biết yêu anh cả khi chết đi rồi”
C. Kết Bài:
Như vậy, bằng trái tim phụ nữ đằm thắm, thiết tha, bằng bút pháp thơ giản dị
mà hàm súc, hồn nhiên mà đầy nghệ thuật, Xuân Quỳnh qua bài thơ “Sóng” đã làm nổi
bật được vẻ đẹp và sức sống của tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu - một tình yêu
giàu nữ tính, rất truyền thống mà cũng rất hiện đại.
Đề 2 : Phân tích, bình giảng đoạn thơ sau:
“ Con sóng dƣới lòng sâu
…………………………
Hƣớng về anh- một phƣơng”
Đề này cần các ý cơ bản:
1.Giới thiệu về tác giả, tác phẩm và vị trí đoạn trích
- Xuân Quỳnh ( 1942- 1988) là một trong những gương mặt nổi bật của thế hệ nhà
thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
- “ Sóng” là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Xuân Quỳnh: luôn luôn trăn trở khao
khát gắn bó với tình yêu, hạnh phúc đời thường. Bài thơ được in trong tập “ Hoa dọc
chiến hào” ( 1968).
- Đoạn trích nằm ở giữa bài thơ. Đây là đoạn tiêu biểu nhất cho tác phẩm. Giống
như toàn bài, ở đoạn thơ này, hai hình tượng “ sóng”, “ em” luôn luôn tồn tại, đan cài,
khắc hoạ rõ nét nỗi nhớ da diết, thường trực, cháy bỏng và sự thuỷ chung tha thiết của
nhà thơ. Mỗi trạng thái tâm hồn của người phụ nữ đều có thể tìm thấy sự tương đồng
với một đặc điểm nào đó của “ Sóng”.
2. Bình giảng 6 câu đầu: Nỗi nhớ thường trực da diết cháy bỏng.
- Nỗi nhớ bao trùm cả không gian, thời gian: lòng sâu, mặt nước, ngày- đêm.
- Nỗi nhớ thường trực, không chỉ khi thức mà cả khi ngủ, len lỏi cả vào trong giấc
mơ, trong tiềm thức ( cả trong mơ còn thức).
- Cách nói có cường điệu, nhưng đúng và chân thành biểu hiện nỗi nhớ của mình
một tình yêu mãnh liệt ( ngày đêm không ngủ đƣợc).
- Mượn hình tượng “ sóng” để nói nỗi nhớ vẫn chưa đủ, chưa thoả, nhà thơ trực tiếp
bộc lộ nỗi nhớ của mình ( lòng em nhớ đến anh).
3. Bình giảng 4 câu thơ tiếp theo: Khẳng định lòng thuỷ chung sâu sắc.
Dù ở phương nào, nơi nào cũng chỉ hướng về “ phƣơng anh”. Trong cái mênh
mông của đất trời có phương Bắc, phương Nam, trái tim em chỉ có một phương-
phương tâm trạng của người phụ nữ đang yêu say đắm, thiết tha.
4. Những nét đặc sắc nghệ thuật:
78
4.1- Thể thơ năm chữ đầy sáng tạo phù hợp với nhịp sóng, nhịp lòng thi sĩ.
4.2- Nỗi nhớ biểu hiện bằng hình tượng “ sóng”.
4.3- Nỗi nhớ được biểu hiện trực tiếp.
4.4- Thủ pháp “ đối lập”: dưới >< trên; lòng sâu>< mặt nước.
4.5- Dùng điệp từ “ con sóng” ba lần.
4.6- Nhân cách hoá: “ con sóng nhớ bờ”…
4.7- Nỗi nhớ thường trực.
4.8- Thuyền ( con trai)- Bến ( con gái)- “ sóng” chủ động tìm đến bờ-> tính hiện đại
trong thơ Xuân Quỳnh về tình yêu.
4.9- “ Sóng” đặt đôi sánh với “ em” làm cho “ em” mang thêm nhiều đặc tính của
“ sóng”, và ngược lại “ sóng” cũng sẽ mang them những trạng thái cảm xúc đầy nữ
tính của “ em” ồn ào, dữ dội -> lặng lẽ dịu êm, vỗ trên mặt nước, vỗ dưới lòng sâu.
5.0- Nhưng “ sóng” và “ em” cũng có sự khác nhau, “ sóng” nhớ bờ ngày đêm thao
thức không ngủ được nhưng đó là thời gian hiện thực. Còn “ em” nhớ “ anh” từ cõi
thực đến cõi mơ, nghĩa là “em” còn thao thức,khắc khoải, da diết hơn “lòng em nhớ
đến anh…cả trong mơ còn thức”.
5.Kết luận:chỉ trong một đoạn thơ ngắn, Xuân Quỳnh đã thể hiện rất gợi cảm, sinh
động những trạng thái cảm xúc, những khát khao mãnh liệt của một người phụ nữ
đang yêu.
-Đó cũng chính là tâm hồn người phụ nữ VN trong tình yêu táo bạo, chủ động,
mạnh mẽ nhưng vẫn giữ được nét đẹp truyền thống (thuỷ chung, gắn bó).
I.Mở bài:
Xuân Diệu-ông Hoàng của thơ tình VN- có lần đã thốt lên câu thơ đầy băn khoăn:
“làm sao cắt nghĩa đƣợc tình yêu”.Định nghĩa cắt nghĩa về tình yêu đó là dấu hỏi mà
nhân loại đặt ra nhưng không bao giờ có câu trả lời hoàn hảo. Duy chỉ có nhớ chưa hẳn
đã thành tình yêu, nhưng một khi đã yêu lại không thể không nhớ. Phải thế chăng mà
xưa nay trong văn học, thi ca, tình yêu và nỗi nhớ hầu như trở thành một nguồn cảm
xúc chủ đạo trong những tiếng nói tâm hồn thi sỹ bao thế hệ. Mặc dù vậy, ta vẫn thấy
ám ảnh, ấn tượng hơn hết những câu thơ diễn tả tinh tế, duyên dáng tâm trạng người
phụ nữ đang yêu trong bài thơ “Sóng” của nữ sỹ Xuân Quỳnh- Rút từ tập “Hoa dọc
chiến hào”- 1968.
“Con sóng dƣới lòng sâu
………………………….
Hƣớng về anh- một phƣơng”
II.Thân bài:
1.Giới thiệu về tác giả, bài thơ:
Là gương mặt nổi bật trong thế hệ những nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước, thơ Xuân Quỳnh thể hiện nỗi lòng, tiếng nói của một trái tim phụ
nữ đôn hậu, chân thành, nhiều lo âu và luôn khát vọng trong hạnh phúc đời thường.
Bài thơ “Sóng” đi sâu vào một khía cạnh của trái tim thi sỹ: niềm trăn trở, khát khao
được yêu thương, gắn bó. Xuyên suốt toàn bài thơ là hình tượng “Sóng”. Xuân Quỳnh
đã tìm thấy sự tương đồng giữa “Sóng” và tâm trạng người phụ nữ đang yêu.Đó là khát
vọng tình yêu dạt dào sôi nổi và da diết lắng sâu như những đợt sóng miên man không
dứt. Có lẽ khó có thể có một hình tượng nào trong tự nhiên lại biểu đạt đầy đủ những
79
cung bậc phong phú của tình yêu như hình tượng sóng: vừa kín đáo, nữ tính mà cũng
thật cháy bỏng, mãnh liệt. Đi liền với hình tượng “sóng” là hình tượng nhân vật trữ
tình “em”. “Sóng” và “em” tuy hai mà một. Vì “sóng” là hình ảnh ẩn dụ, là sự hoá
thân của “em”. Tâm hồn người phụ nữ đang yêu soi vào “sóng” để thấu rõ lòng mình,
qua “sóng” để biểu hiện những trạng thái của lòng mình.
Đọan thơ trích nằm ở phần giữa bài thơ “Sóng” có thể xem đây là đọan thơ tiêu
biểu nhất toàn bài. Bởi cũng như tác phẩm,ở đoạn này, hai hình tượng “sóng” và “em”
luôn tồn tại, đan cài vào nhau, khắc họa rõ nét nỗi nhớ, sự gắn bó thuỷ chung. Mỗi
trạng thái của “sóng” đều tìm thấy sự tương đồng với một trạng thái nào đó của tâm
hồn “em” đang cháy bỏng nỗi nhớ và khát khao chung thuỷ.
Ý 2: Sáu câu thơ đầu hé mở một nỗi nhớ với chiều sâu thăm thẳm, chiều dài dằng
dăc và chièu rộng mênh mông:
“Con sóng dƣới lòng sâu
………………………….
Cả trong mơ còn thức”
Từ “ con sóng” được láy lại ba lần liên tiếp trong ba câu thơ như để khắc họa sâu
hơn một nỗi nhớ nhung mãnh liệt, da diết- Một nỗi nhớ bao trùm cả không gian, thời
gian. Con sóng ở đáy đại dương hay con sóng ở trên mặt nước, con sóng vỗ bờ ban
ngày hay con sóng thao thức nhớ về đêm cũng vẫn chỉ là con sóng của tình yêu muôn
đòi, của nỗi nhung nhớ trong lòng “em”. Và nỗi nhớ của tình yêu cũng thật diệu kỳ, nó
dường như luôn luôn thường trực trong tâm trạng con người. Nó không chỉ tồn tại ở
nhận thức, mà còn hiện diện bên trong tiềm thức, len lỏi vào cả những giấc mơ. Do đó,
sự “tỉnh”, “thức” của người con gái đang yêu ở đây chỉ là những trạng thái sóng khác
nhau của nỗi nhớ cồn cào, cháy bỏng. Ta bắt gặp ngôn ngữ trong câu thơ có chút gì đó
cường điệu. Cường điệu nhưng lại hết sức chân thành và diễn tả đúng, tinh tế tâm
trạng con người.
“Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ đƣợc”.
Thiên nhiên muôn đời vẫn vậy. Con sóng ngàn xưa hay mai sau thì vẫn luôn vỗ vào
bờ, ngày cũng như đêm. Nhưng bằng con mắt quan sát tinh tường, Xuân Quỳnh đã
nhận ra sự đồng điệu giữa thiên nhiên và tâm hồn con người. Do đó, con “ sóng” vỗ
bờ theo quy luật tự nhiên đã trở thành biểu tượng cho nỗi nhớ da diết, cho nỗi niềm
băn khoăn, trăn trở trong tình yêu của người phụ nữ. Mượn con sóng êm dịu, mạnh mẽ
để nói lên nỗi nhớ nhung dường như vẫn chưa đủ, chưa thoả với một trái tim đa cảm,
nhiều khát khao hạnh phúc đời thường như Xuân Quỳnh, nữ sỹ còn trực tiếp bộc bạch
nỗi lòng mình:
“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”.
Từ con sóng nhớ bờ cho đến lòng em nhớ anh, là cả một sự vận động, một quá trình
đi từ nhận thức quy luật tự nhiên đến nhận thức chính bản thân mình. Sóng và em thực
sự đã hoà vào nhau, đã tìm được tiếng nói chung về một nỗi nhớ đằm sâu, tha thiết mà
cũng không kém phần mãnh liệt, đắm say. Nhưng “sóng” và “em” cũng có sự khác
nhau như “sóng” nhớ bờ thao thức cả ngày lẫn đêm, nhưng đó vẫn là nỗi nhớ trong
thời gian hiện thực. Còn “em” nhớ “anh” từ cõi “thực” đến cõi “mơ”. “Sóng” đã thao
thức thường xuyên và da diết “Ngày đêm không ngủ đƣợc”, nhưng “em” còn thao thức,
80
khắc khoải,da diết hơn: “Lòng em…trong mơ còn thức”.Bất cứ một người phụ nữ nào
đã, đang và sẽ yêu đều có thể tìm thấy trong những vần thơ của Xuân Quỳnh sự đồng
cảm, tri âm. Có cảm giác như nữ sỹ đang nói hộ, nói thay những gì chúng ta nhận thấy
nhưng không thể biểu lộ ra bằng lời. Xuân Quỳnh viết hay nhất và thật nhất trong
những vần thơ chị bộc bạch nỗi lòng mình. Không chỉ bộc bạch bằng con sóng dữ dội,
dịu êm mà còn bộc bạch bằng hình ảnh con tàu mải miết chạy trên đường ray cuộc
sống:
“Em khác chi con tàu
Nay đây rồi mai đó
Ngay cả lúc giận anh
Mà lòng em vẫn nhớ”
Nỗi nhớ trong tình yêu nó lạ lùng đến như vậy. Người ta chỉ có thể cảm nhận được
nó, nhưng lại không thể giải thích được và càng không thể xua tan nó ra khỏi tâm hồn
mình:
“Em chẳng thể nào quên đƣợc anh
Đã bao lần em nhắc mình nhƣ thế
Em gạt anh ra khỏi niềm trăn trở
Nỗi nhớ chẳng vâng lời,nỗi nhớ cứ tìm anh”.
Trớ trêu hơn, càng cố công vùi lấp, nỗi nhớ càng hiện lên rõ ràng, trĩu nặng:
“Đã bao lần em cố quên anh
Em vùi lấp bóng anh vào cát
Nhƣng em lại nhƣ con đà điểu giữa sa mạc
Vục đầu vào cát bỏng bóng hình anh”
Cho nên, càng hiểu về nỗi nhớ của con người đang yêu, ta lại càng thấy được rằng
trạng thái nhớ nhung đến “cả trong mơ còn thức” của nhân vật “em” trong bài thơ
“Sóng” hoàn toàn không phải là cách nói phi thực tế. Về nghệ thuật, ở khổ này, tác giả
đã sử dụng thủ pháp điệp (“Con sóng” được điệp ba lần), thủ pháp đối lập (dưới ><
trên, lòng sâu ><mặt nước) và biện pháp nhân cách hoá (“Con sóng nhớ bờ”) cũng đã
diễn tả rất thành công nỗi nhớ da diết khắc khoải, sâu sắc dồn lên tầng tầng lớp lớp
như từng đợt sóng mãnh liệt nối tiếp nhau trào dâng thôi thúc của cái “ tôi” trữ tình
“em”.
Ý3:Khẳng định một tình yêu sâu sắc bằng nỗi nhớ mãnh liệt chưa đủ,ở bốn câu thơ
sau,tác giả khẳng định lòng chung thuỷ luôn đi liền với tình yêu và nỗi nhớ:
“Dẫu xuôi về phƣơng Bắc
Dẫu ngƣợc về phƣơng Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hƣớng về anh-một phƣơng”
Lại một lần nữa, cách lặp điệp từ “dẫu” “về” hai lần liên tiếp trong hai câu thơ dầu
đã khẳng định một cách chắc chắn về tình yêu bền chặt, sắt son trong tâm hồn người
con gái. “Dẫu xuôi” , “Dẫu ngƣợc” , “phƣơng Nam” là khoảng cách địa lý, là sự xa
xôi ngăn trở những tấm lòng. Nhưng trong cái mênh mông của trời đất ấy, giữa những
phương Bắc, phương Nam vô định ấy, lòng em luôn luôn đã định sẵn cho mình một
hướng nhìn, nhìn về “phƣơng anh”. “Phƣơng anh” không còn đơn thuần là khoảng
không gian địa lý, mà đã trở thành phương của tâm lý, tâm trạng. Đó là nơi hướng về
của trái tim người phụ nữ đang yêu say đắm, thiết tha. Câu thơ gợi cho ta nhớ đến bài
81
thơ “Sợi nhớ, sợi thƣơng” của Thuý Bắc. Thuý Bắc cũng đã dùng “phƣơng anh” để
xác định phương hướng cho nỗi nhớ thương của mình:
“Rợp trời thƣơng
Màu xanh suốt
Em nghiêng hết
Về phƣơng anh”
Nếu như người con gái trong thơ Thuý bắc nghiêng hết bầu trời xanh thương nhớ
không phải về bên Đông, bên Tây mà về bên anh,thì nhân vật “ em” trong bài thơ
“ Sóng” của Xuân Quỳnh giữa những phương nam, phương bắc vẫn có sự định hướng
vững chắc:
“ Nơi nào em cũng nghĩ
Hƣớng về anh- một phƣơng”
Lời thơ ở đây mang lại cho ta cảm giác về một sự bền chặt, son sắt như là một lời
nguyện thề chung thuỷ trong tình yêu. Việc Xuân Quỳnh dùng “ sóng” trong trạng thái
động để gợi tả tình yêu của người phụ nữ là một sáng tạo bất ngờ. Vì thơ ca xưa nay
thường nhìn tình yêu của nữ giới ở trạng thái tĩnh, thụ động: “ Thuyền về…đợi thuyền”.
Còn ở đây “ sóng” cũng chính là “ em” đã chủ động tìm đến với bờ. Đó là biểu hiện
tính hiện đại của tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh. Với Xuân Quỳnh, trái tim của người
phụ nữ không bằng vàng, không phải là mặt trời, nó là trái tim máu thịt đời thường ai
cũng có. Nhưng nó luôn chất chứa một tình yêu thuy chung, gắn bó tới mức cái chết
cũng không thể chia cắt nổi:
“ Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt đời thƣờng ai chẳng có
Cũng ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa
Nhƣng biết yêu anh…cả khi chết đi rồi”.
( Tự hát).
Ở đoạn thơ trên, với thể thơ năm chữ nhịp nhàng như giai điệu sóng biển, như nhịp
lòng thi sĩ, với biện pháp điệp từ, điệp cú pháp đã tạo nên sức lôi cuốn lạ lùng của một
tiếng nói tình yêu nồng nàn, say đắm và tha thiết, thủy chung.
III. Kết luận:
Vũ Tú Nam từng nói:”Thơ Xuân Quỳnh trong sáng, cái trong sáng đƣợc chắt lọc
qua nhiều nỗi đau”. Phải chăng những lời thơ trong đoạn thơ của bài “ Sóng” trên đây
cũng là những ngôn ngữ được cất lên từ một tâm hồn người phụ nữ luôn băn khoăn,
trăn trở nỗi niềm khao khát hạnh phúc đời thường? Đời thơ Xuân Quỳnh tuy ngắn ngủi,
nhưng những con sóng lòng của thi sĩ chắc chắn sẽ luôn tìm được sự hoà điệu trong
tâm hồn người đọc cũng như con sóng vỗ bờ trong tự nhiên hôm nay và mai sau./.
THANH THẢO
Đề: Phân tích bài thơ "Đàn ghi ta của Lorca" của Thanh Thảo
A. Mở Bài:
82
Từ sau năm 1975, Thanh Thảo, một nhà thơ trẻ có nhiều nỗ lực trong việc cách
tân thơ một cách đầy tâm huyết và táo bạo; với một trái tim thiết tha với những những
tâm hồn phóng khoáng, yêu tự do, bất khuất, thanh cao, lại thích đổi mới về nghệ thuật,
Thanh thảo đã rất thành công với bài thơ “Đàn ghi ta của Lorca”, một khúc ca về
người nghệ sĩ thiên tài Tây Ban Nha, một chiến sĩ chiến đấu kiên cường không mệt
mỏi cho nền dân chủ và sự cách tân nghệ thuật.
B. Thân Bài:
I. Vì sao nguồn cảm hứng của tác giả là cây đàn ghi ta?
Nói đến đất nước và con người Tây Ban Nha là nói đến cây đàn ghi ta. Người
Tây Ban Nha hầu như được sinh ra cùng cây đàn ghi ta. Nó là bản sắc, là tâm hồn dân
tộc Tây Ban Nha. Vì thế, người ta thường gọi là ghi ta Tây Ban Nha hay là Tây Ban
Nha cầm. Còn Lorca là nhà thơ nổi tiếng của Tây Ban Nha, là người con anh hùng của
đất nước Tây Ban Nha, gắn liền với quê hương cây đàn ghi ta. Vì thế, những giai điệu
thánh thót của ghi ta (trong đêm thanh vắng) vọng lên trong không gian bao la đã khơi
nguồn cảm hứng mãnh liệt cho Thanh Thảo sáng tạo nên một bài thơ với những câu
thơ tự do rất giàu tính nhạc. Ngay câu đề từ của bài thơ – câu đề từ thường có ý nghĩa
đặc biệt đối với một tác phẩm văn học, nó nêu rõ ý đồ nghệ thuật và khơi nguồn cảm
hứng sáng tạo cho tác giả: “Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn”. Câu đề từ đã thể
hiện rõ tâm hồn và khát vọng của Lorca nếu có phải chết cũng được chết trong tiếng
đàn dân tộc, trong nỗi niềm dân tộc và trong niềm vui được làm người Tây Ban Nha,
được người đời tiếp tục cách tân nền nghệ thuật đất nước.
II. Đoạn một: hình ảnh Lorca, con người tự do, nghệ sĩ cách tân trong
khung cảnh chính trị và nghệ thuật của Tây Ban Nha.
Nhà thơ Thanh Thảo đã từng viết: “Lorca là nhà thơ của những giấc mơ, của
những linh cảm nhoi nhói; một nhà thơ có thể biến những giấc mơ thành nhịp điệu, có
thể biến những linh cảm thành ngôn từ. Lorca siêu thực một cách tự nhiên và hiện
thực một cách tự nhiên” (Lorca trong tôi). Vì thế, mở đầu bài thơ, Thanh Thảo đã viết:
“Những tiếng đàn bọt nƣớc
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
Li-la li-la li-la
đi lang thang về miền cô độc
với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn”
Nói đến đất nước Tây Ban Nha, ngoài hình ảnh cây đàn ghi ta, ta còn có một
hình ảnh nữa cũng rất đặc trưng cho dân tộc. Đó là hình ảnh những dũng sĩ đấu bò tót
với chiếc áo choàng đỏ rực rỡ, chói chang đến mức chói “gắt”. Vì vậy, chỉ bằng mấy
nét chấm phá, phần nào chịu ảnh hưởng của trường phái tượng trưng siêu thực: một
chiếc đàn ghi ta “li-la li-la li-la”, một chiếc áo choàng đỏ, trên yên ngựa… Thanh
Thảo đã làm sống dậy, hiện lên trước mắt người đọc hình ảnh chàng thi sĩ Lorca,
người chiến sĩ dũng cảm kiên cường chiến đấu cho tự do, cho khát vọng cách tân nghệ
thuật được đặt trên một nền khung cảnh mang đậm bản sắc văn hoá Tây Ban Nha.
Những hình ảnh tương phản vừa giúp cho ta hình dung về Lorca, vừa gợi ta liên tưởng
đến khung cảnh của đấu trường. Nhưng đây không phải là đấu trường về cuộc đấu
83
giữa một đấu sĩ tài hoa, tài ba, kiêu dũng với con bò tót hung dữ mà là một đấu trường
đặc biệt với cuộc đấu giữa khát vọng dân chủ của người nghệ sĩ – công dân yêu tự do
Lorca với nền chính trị phát xít độc tài Franco, của khát vọng cách tân nghệ thuật
trong chàng thi sĩ Lorca với nền nghệ thuật bảo thủ, già nua. Ở đó, con người yêu tự
do và nhà cách tân nghệ thuật Lorca sao mà mong manh và đơn độc đến thế! “Li-la li-
la li-la”, một câu thơ toàn là âm thanh của tiếng đàn ngân vang gợi cho ta hình ảnh
một dũng sĩ, một nghệ sĩ với tâm hồn và phong thái thật vô tư, phóng khoáng đang hát
ca đất trời. Tây Ban Nha tươi đẹp, bao la nhưng sao lại “những tiếng đàn bọt nƣớc”?
Phải chăng, nó nói lên tiếng đàn bé nhỏ, giản dị, mát lành mà cũng dễ vỡ tan như bọt
nước tròn, phập phồng lúc hiện lúc tan rồi lại tan đi? Hình ảnh ấy đối lập với hình ảnh
“áo choàng đỏ gắt” trượng trưng cho cái mạnh mẽ nhưng cũng rất hung dữ như tai hoạ
chết chóc. Trong tương quan đối lập ấy, số phận người nghệ sĩ thật mong manh, hư ảo.
Chàng đi lang thang giữa không gian đơn độc với “vầng trăng chếnh choáng; trên yên
ngựa mỏi mòn”. Phải chăng con đường về niềm đơn độc mà chàng đang đi là niềm lý
tưởng của cuộc đời, của nghệ thuật, của cái đẹp? Con đường ấy là con đường thăm
thẳm đầy chông gai và gian khổ; nhiều người dũng cảm, táo bạo dấn thân mà dễ mấy
ai tìm được những tâm hồn đồng điệu?
III. Đoạn hai: Lorca bị hạ sát và nỗi xót xa về sự dang dở của khát vọng cách
tân.
Cái chết đã đến bất ngờ với Lorca. Con người thanh cao, trong sáng rất yêu tự
do và cái đẹp mà vô tội ấy “đã luôn luôn bị ám ảnh về cái chết của mình, vẫn không
thể nghĩ nó lại đến một cách đột ngột, bất ngờ đến thế”. Giây phút bi thương và thảm
khốc nhất trong cuộc đời Lorca được diễn tả thật ngắn gọn và đầy ấn tương. Chàng
đang “hát nghêu ngao” một cách hồn nhiên và vô tư lự, ấy thế mà bỗng nhiên tai hoạ
ập đến một cách thật bi thảm “áo choàng bê bết đỏ”. Bắt đầu từ đây, bài thơ đi sâu vào
nói về cái chết bi thảm đầy oan khuất và tiếc thương ấy. Cảnh Lorca bị hành hình được
diễn tả bằng hình ảnh thực “áo choàng bê bết đỏ”. Sau đó, sự kiện đau lòng ấy tạo
thành cú “sốc” dây truyền được diễn tả theo lối tượng trưng, liên tục chuyển đổi cảm
giác qua hệ thống âm thanh vỡ òa thành màu sắc, hình khối, dòng máu chảy. “Tiếng
ghi ta nâu”, “tiếng ghi ta lá xanh biết mấy, tiếng ghi ta tròn bọt nƣớc vỡ tan”, “tiếng
ghi ta ròng ròng – máu chảy”. “Tiếng ghi ta nâu” phải chăng gợi màu của chiếc đàn
vẫn vang âm thanh ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên, của con người và của lòng thuỷ
chung? “Bầu trời cô gái ấy”, nó làm ta liên tưởng đến những câu thơ viết về bầu trời
tự do của Nguyễn Đình Thi:
“Trời xanh đây là của húng ta”
Và câu thơ bầu trời yêu thương của Thuý Bắc:
“Rợp trời thƣơng màu xanh suốt
Em nghiêng hết về phƣơng anh”
“Tiếng ghi ta lá xanh” của sự sống, của ước mơ của tình yêu bất diệt. “Tiếng
ghi ta tròn bọt nƣớc vỡ tan” là tiếng ghi ta đẹp nhưng yếu ớt, mong manh vỡ tan trong
cái đẹp “tiếng ghi ta ròng ròng/ máu chảy” như những dòng máu “ròng ròng” tuôn
chảy từ trái tim tử thương vì những viên đạn tàn bạo, bất nhân làm ta gợi nhớ tới tiếng
đàn vô cùng ai oán đau thương của nàng Kiều: “Bốn dây rỏ máu năm đầu ngón tay”.
Câu thơ của Thanh Thảo bẻ ra làm hai như tiếng đàn vỡ đôi, như cuộc sống bị lưỡi
gươm chặt đứt ngang lưng (thân mình) vậy.
IV. Đoạn ba: niềm xót thương Lorca và nỗi xót tiếc những cách tân nghệ
thuật của Lorca không ai tiếp tục.
84
“Không ai chôn cát tiếng đàn
Long lanh trong đáy giếng”
Di chúc của Lorca thể hiện một tình yêu đất nước, dân tộc và một khát vọng
cách tân (đổi mới) nền thơ ca Tây Ban Nha đến cháy bỏng. Nhưng vì quá ngưỡng mộ
Lorca, người ta không biết vượt qua Lorca, không ai dám chôn cất tiếng đàn của ông.
Tiếng đàn nghệ thuật của Lorca vẫn sinh sôi và bất diệt như “cỏ mọc hoang”, liên hệ
với câu thơ Trần Đăng Khoa:
“Tôi không dám ví cuộc đời với ngọn cỏ
Ngọn cỏ yếu mềm, ngọn cỏ nhỏ nhoi
Nhƣng khi ta đã nằm yên dƣới mộ
Cỏ vẫn xanh biêng biếc phía chân trời”.
Hình ảnh này vừa gợi cảm thương về cái chết bi thảm của nhà thơ - chiến sĩ
trong tay bọn phát xít dã man, khi đất nước còn chìm trong sự đau thương và hỗn loạn;
vừa gợi lên nỗi xót tiếc hành trình cách tân dang dở, về nền nghệ thuật vắng thiếu kẻ
dẫn đường. Hình ảnh “giọt nƣớc mắt vầng trăng; long lanh nơi đáy giếng” được viết
theo cấu trúc “gián đoạn” của nghệ thuật siêu thực tượng trưng là một hình ảnh tuyệt
đẹp. Hình ảnh ấy thật đa nghĩa, là nỗi đau thương và cái đẹp, là sự cao khiết và vĩnh
hằng. Ở đây, nước mắt như vầng trăng, nỗi buồn đau đã kết tinh toả sáng, hay nước
mắt là vầng trăng “nƣớc mắt anh hùng lau chẳng ráo” sáng và đẹp trở thành vầng
trăng vĩnh viễn ngời sáng lung linh trong lòng độc giả Tây Ban Nha và độc giả nhân
loại hằng yêu mến và tiếc thương nhân cách, tâm hồn trong sáng của vầng trăng thi ca
Lorca?
V. Đoạn bốn: suy tư về cuộc giải thoát và cách giã từ của Lorca.
Nhân danh lòng kính trọng Lorca, hãy để cho ông được một sự giải thoát thực
sự; thôi đành chấp nhận định mệnh phũ phàng. Đường chỉ tay thì bé nhỏ mong manh,
phận người thì ngắn ngủi mà dòng sông thì rộng mênh mông, thế giới rộng vô cùng.
Hãy để cho Lorca bơi qua dòng sông sinh tử bằng chiếc ghi ta như chiếc thuyền màu
bạc đi về thế giới hư vô, thế giới vĩnh hằng. Và Lorca đã tự giải thoát, tự lìa bỏ tất cả
mọi ràng buộc thế gian này bằng những hành động dứt khoát:
“Chàng ném lá bùa cô gái Di-gan
vào xoáy nƣớc
chàng ném trái tim mình
vào lặng yên bất chợt”
Kết thúc bài thơ lại vang lên âm thanh “li-la li-la li-la” của ghi ta như tiếng ca
về sự bất tử của thi ca Lorca, của tâm hồn thanh cao yêu tự do, yêu cái đẹp, yêu đất
nước Tây Ban Nha mà chàng nghệ sĩ Lorca cho đến khi bước đến bên họng súng kẻ
thù vẫn cất cao.
C. Kết Bài:
Những điều đã phân tích trên cho thấy bài thơ vừa sâu sắc về nội dung, vừa độc
đáo về nghệ thuật. Bài thơ có kết cấu như một bản đàn vừa phóng khoáng, giàu nhạc
tính, vừa thể hiện được đúng bản chất tâm hồn Lorca - một ca sĩ, một thi sĩ, một chiến
sĩ yêu tự do, giàu khát vọng và rất dũng cảm.
85
QUANG DŨNG
Đề 1:Hoàn cảnh sáng tác bài thơ”Tây Tiến” của Quang Dũng
- Quang Dũng (1921-1988), tên thật là Bùi Đình Diệm quê ở Phùng nay thuộc
Đan Phượng, Hà Nội.
+Ông là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh,… Là nhà thơ trưởng
thành từ cuộc kháng chiến chống Pháp, Quang Dũng mang một hồn thơ trung hậu yêu
thiết tha quê hương, đất nước mình. Trong thơ ông có hình ảnh cái tôi hào hoa, thanh
lịch, giàu chất lãng mạn, nhạy cảm với vẻ đẹp tinh tế của thiên nhiên, con người. Đặc
điểm phong cách này in dấu ấn khá đậm nét trong bài thơ Tây Tiến.
- Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập đầu năm 1947 có nhiệm vụ phối
hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt- Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội
Pháp ở Thượng Lào, cũng như ở biên giới Tây Bắc Việt Nam. Địa bàn đóng quân và
hoạt động của Tây Tiến khá rộng từ Châu Mai_Châu Mộc sang Sầm Nứa rồi vòng về
phía Tây Thanh Hóa. Ngày ấy nơi đây còn rất hoang vu và hiểm trở, núi cao, sông sâu,
rừng có nhiều thú dữ.
- Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội chiến đấu trong hoàn cảnh
gian khổ, vô cùng thiếu thốn. Chết vì sốt rét nhiều hơn là vì sung đạn. Tuy vậy, các
chiến sỹ Tây Tiến vẫn phơi phới tinh thần lạc quan hào hùng.
- Đoàn quân Tây Tiến sau một thời gian hoạt động ở Lào trở về Hòa Bình thành
lập Trung đoàn 52, Quang Dũng là Đại đội trưởng ở đó từ đầu năm 1947-1948 rồi
chuyển sang đơn vị khác. Nhà thơ nhờ đơn vị cũ mà viết bài thơ này.
- Bài thơ được viết bằng bút pháp lãng mạn. Bút pháp này có đặc điểm:
a) Thể hiện cái tôi trữ tình giàu cảm xúc, giàu trí tưởng tượng.
b) Nhạy cảm với cái phi thường, khác thường,lý tưởng. Cho nên, có viết về
những cái có thực thì cũng được lãng mạn hóa, độc đáo hóa.
c) Nhạy cảm với vẻ đẹp của cảnh và người mang màu sắc xứ lạ.
d) Hay viết về nỗi buồn, cái chết nhưng để tô đậm vẻ đẹp bi tráng.
e) Hay sử dụng thủ pháp đối lập.
Đề 2: Phân tích đoạn I bài thơ “Tây Tiến”
MỞ BÀI:
Cuối năm 1948 tại Phù Lưu Chanh, nhà thơ Quang Dũng đã viết bài thơ “Tây
Tiến”. Bài thơ ra đời khi những cảm xúc, kí ức của tác giả về những ngày chiến đấu ở
binh đoàn Tây Tiến còn chưa xa, còn nóng bỏng trong tâm trí nhà thơ. Ban đầu, nhà
thơ đặt tên là: “Nhớ Tây Tiến” lần sau in lại ông bỏ từ “nhớ” đi bởi từ “nhớ” ở đầu đề
bài thơ là thừa. Không cần dùng từ “nhớ” bởi Tây Tiến ngay từ những câu thơ đầu tiên
đã thấy hiển hiện một nỗi nhớ da diết khắc khoải như có hình có khối trong lòng người.
Tình cảm ấy đã trở thành điểm tựa tinh thần để ngòi bút Quang Dũng đi vào miêu tả,
tái hiện lại chặng đường hành quân gian khổ của người lính trong binh đoàn Tây Tiến:
“Sông mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sƣơng lấp đoàn quân mỏi”
86
THÂN BÀI:
I) Giới thiệu vài nét về đoạn thơ và bài thơ.
Bài thơ “Tây Tiến” có thể chia làm ba phần chính, tái hiện những mảng màu khác
nhau trong bức tranh về đời sống chiến đấu của người lính. Đoạn trích nói trên ở phần
đầu tác phẩm vẽ nên cảnh hiểm trở, hoang sơ mà hùng vĩ nên thơ của núi rừng Tây
Bắc và con đường hành quân đầy gian khổ của người lính.
II) Hai câu đầu:Trước hết nhà thơ gửi về “Tây Tiến” nỗi nhớ da diết,cháy
bỏng: - Mở đầu bài thơ “Tây Tiến” là một tiếng gọi thiết tha, cất lên từ miền xa thẳm
của nỗi nhớ trong kí ức, dòng chảy cảm xúc như được khơi mạnh bắt đầu từ tiếng gọi
ấy:
“Sông Mã xa rồi,Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.”
Lời thơ vang lên bằng âm điệu trìu mến, da diết cháy bỏng, tưởng không thể
kìm nén nổi như tiếng gọi đối với người tình nhân trong xa cách:
“Em buồn em nhớ chao em nhớ!
Em gọi thầm anh suốt cả ngày.”
(Xuân Diệu)
Kỉ niệm sống dậy, tràn ngập trong tâm hồn nhà thơ nỗi niềm bâng khuâng nhớ
tiếc; nhớ tiếc những tháng ngày hành quân cùng binh đoàn Tây Tiến giữa miền đất Tây
Bắc kì vĩ. Nhớ tiếc cái quá khứ chia xa nhưng giờ đây chỉ còn là hoài niệm. Câu thơ
thứ hai có điệp từ “nhớ” như để tô đậm, khắc sâu, gia tăng sắc thái, ý nghĩa cho nhau.
Từ “nhớ”thứ hai chỉ tình cảm nhớ của nỗi lòng. Trước Quang Dũng có nhiều người
viết hay, viết nhiều về nỗi nhớ như nhớ bồi hồi, bồn chồn nhớ đôi mắt, nhớ tiếng…
“Anh nhớ tiếng,anh nhớ hình,anh nhớ ảnh
Nhớ đôi môi đang cƣời ở phƣơng trời
Nhớ đôi mắt đang nhìn anh đăm đắm”
(Xuân Diệu)
Nhưng có lẽ trạng thái chơi vơi thì hình như là sáng tạo táo bạo, độc đáo ở
Quang Dũng. Với từ “chơi vơi”, một từ láy vừa gợi cảm, vừa gợi hình, nỗi nhớ như
bỗng có hình dáng chông chênh, bồng bềnh bồng bềnh trong không gian bao la, trong
thời gian xa thẳm, bâng khuâng, lửng lơ mà lưu luyến đầy ắp nhớ thương gợi cho
người đọc một ấn tượng rất thú vị. Hai câu thơ đầu được kết bằng âm “ơi”, là âm mở
khiến cho lời thơ như lan tỏa mênh mang như tiếng gọi thiết tha, như chiều sâu nỗi
nhớ da diết pha lẫn tiếc nuối.
III) Hình ảnh núi rừng trùng điệp hoang sơ mà đầy chất thơ và con đường
hành quân đầy gian khổ của người lính.
- Từ nỗi nhớ chơi vơi, mạch cảm xúc của bài thơ như tuôn chảy dưới ngòi bút
của Quang Dũng, tái hiện sinh động, khung cảnh núi rừng miền Tây hiểm trở, dữ dội
hoang sơ mà giàu chất thơ và con đường hành quân đầy gian khổ của người lính:
“ Sài Khao sƣơng lấp đoàn quân mỏi
Mƣờng Lát hoa về trong đêm hơi”
Những địa danh Sài Khao, Mường Lát…đi vào trong lời thơ gợi cái hoang vu
xứ lạ. Người lính Tây Tiến trong màn sương dữ dội, dày đặc. Sương như lấp cả Sài
Khao hay lấp đoàn quân mỏi đang đi. Câu thơ trên đọng lại ở chữ “mỏi” như hơi thở
nặng nhọc của con người, thì câu thơ dưới, cảm giác mệt mỏi được xóa đi bởi những
87
hình ảnh đẹp lung linh như trong cõi mộng: “Hoa về trong đêm hơi”. Đây là hình ảnh
đầy sáng tạo, một hình ảnh thơ mang đậm tâm hồn một thi nhân. Nó xuất phát từ hiện
thực cuộc sống là đoàn người đi phải đốt đuốc trong đêm Tây Bắc mịt mù sương núi.
Nhưng với con mắt lãng mạn tinh tế, bằng hàng loạt thanh bằng, Quang Dũng đã nâng
thực tế đó lên thành hình ảnh diễn tả trạng thái lâng lâng như sương, như hương, như
hoa như hồn người. Thật là một câu thơ rất tài hoa, lãng mạn.
Tiếp tục cảm hứng lãng mạn tài hoa ấy, khung cảnh núi rừng miền Tây với thác
lũ mưa nguồn cùng con đường hành quân cheo leo trên dốc núi, trong sương mờ, bên
vực thẳm cứ lần lượt hiện ra như một cuốn phim màu quay chậm, theo bước chân hành
quân của người lính:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thƣớc lên cao, ngàn thƣớc xuống
Nhà ai pha luông mƣa xa khơi.”
Miền Tây Tổ quốc xa xôi với đủ núi cao vực thẳm dường như sống dậy trước
mắt người đọc. Bốn câu thơ sử dụng nhiều tính từ là từ láy rất tạo hình: khúc khuỷu,
thăm thẳm, heo hút, cùng với các điệp từ, điệp ngữ, tiết tấu nhịp điệu âm thanh, tất cả
như để nhấn mạnh hơn sự hiểm trở, dữ dội, hoang vu, heo hút, điệp trùng và độ cao
ngất trời của núi rừng miền Tây Tổ quốc. Dường như dốc nọ nối tiếp dốc kia gập
ghềnh thăm thẳm để thử thách lòng nhẫn nại dũng cảm, can trường của người lính.
Câu thơ thứ ba ngắt nhịp ở giữa:
“Ngàn thƣớc lên cao/ngàn thƣớc xuống”
tạo nên ấn tượng gấp khúc. Câu thơ như bẻ đôi gây cảm giác hai sườn núi vút lên đổ
xuống gần như thẳng đứng. Thiên nhiên chênh vênh dựng đứng là lời thách thức bước
chân chinh phục của người lính Tây Tiến. Và trên nền khung cảnh thiên nhiên ấy, chi
tiết “súng ngửi trời” như đưa tư thế người lính vượt lên trên sự heo hút hiểm trở của
núi rừng. Hai chữ “ngửi trời” được dùng rất tự nhiên, độc đáo và cũng thật khỏe khoắn
tinh nghịch. Nhất là từ “ngửi” tạo được một hình ảnh nhân hóa. Mũi súng như đang
ngửi để thăm dò, nhận biết, thưởng thức cái hương vị của mây trời. Nhờ đó mà thiên
nhiên trở nên gần gũi với con người và người lính được nâng lên một tư thế rất đỗi tự
hào. Đó là tư thế chiến thắng của những con người tươi trẻ lạc quan yêu đời trước
thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, hoành tráng. Đúng như Tố Hữu đã viết:
“Mấy chàng lính trẻ măng tơ
Nghêu ngao gõ bát hát chờ cơm sôi”
Giọng thơ gân guốc hào hùng bởi rất nhiều thanh trắc bỗng dịu đi tha thiết bâng
khuâng bởi câu thơ kết toàn thanh bằng, “Nhà ai Pha Luông mƣa xa khơi”. Âm hưởng
nhịp nhàng, nhè nhẹ của những thanh bằng cộng với cách ngắt nhịp câu thơ 2-2-3 như
kéo dài âm điệu mượt mà trong lời thơ, vẽ ra một không gian mênh mang, bao lao, bát
ngát. Không gian ấy được thu vào tầm mắt người lính Tây Tiến từ một thế đứng rất
“lính”. Người lính đã nhìn lên, nhìn xuống đến đây như dừng chân bên dốc núi phóng
tầm mắt nhìn ngang ra xa để thấy nhà ai đó thấp thoáng, ẩn hiện sau một không gian
mịt mùng, sương rừng mưa núi. Hai câu thơ có sự phối hợp bằng trắc rất tài tình; làm
ta nhớ tới hai câu thơ nổi tiếng của Tản Đà:
“Tài cao phận thấp chí khí uất
Giang hồ mê chơi quên quê hƣơng”
88
Chỉ có điều Tản Đà dồn nén nhịp điệu, biến đổi âm thanh,lời thơ để bộc bạch
tâm trạng phẫn uất bất đắc chí của nhà Nho tài tử ngạo đời, thì Quang Dũng sử dụng
nghệ thuật đó để vẽ nên thiên nhiên Tây Bắc vừa hoành tráng dữ dội vừa uyển chuyển
mềm mại tinh tế.
- Hai câu thơ tiếp theo sau đó vừa tiếp nối mạch cảm xúc về thiên nhiên Tây
Bắc vừa làm nổi rõ hình ảnh người lính:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mƣờng Hịch cọp trêu ngƣời”
Tây Băc dữ dội hoang sơ không chỉ được mở ra theo chiều không gian, theo
những địa danh xứ lạ: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch…mà còn được
khám phá ở cả chiều dài thời gian. “Chiều chiều”, “đêm đêm” là những điệp từ nhấn
mạnh cái hoang vu, dữ dội và cái uy lực ghê rợn của thiên nhiên, dường như chỉ có
thác gầm và cọp hú ngự trị ngày đêm.
4)Hình ảnh người lính và kỉ niệm tình quân dân ấm áp
Trên nền thiên nhiên kì vĩ hoang dã, nỗi nhớ của nhà thơ với đồng đội của mình
trở nên day dứt, trầm lắng đi khi nghĩ đến những người bạn đã “bỏ quên đời” giữa
chặng đường hành quân gian khổ:
“Anh bạn giãi dầu không bƣớc nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Không nên hiểu câu thơ theo ý nghĩa người lính mệt mỏi gục lên súng mũ quên
hết thảy sự đời. Hiểu như thế e làm mất đi vẻ hào hùng, khí phách đẫm chất bi tráng
của người lính nổi bật trên nền núi rừng hiểm trở. Ở đây Quang Dũng miêu tả cái chết
của đồng đội như một sự xả thân cho lí tưởng. Người lính chết mà vẫn cầm chắc tay
súng, chết trong tư thế lên đường, tư thế hành quân. Đây là hình ảnh vừa bi vừa hùng
làm tỏa sáng vẻ đẹp lí tưởng của người lính. Khắc họa sự hi sinh của người chiến sĩ
trong tư thế chiến đấu là hình ảnh được nhiều nhà thơ xây dựng, ngợi ca. Đó là người
lính trong thơ Chính Hữu:
“Bạn ta đó chết trên dây thép ba tầng
Một bàn tay chƣa rời báng súng
Chân lƣng chừng nửa bƣớc xung phong”
Đó là hình ảnh giải phóng quân hiên ngang trong thơ Lê Anh Xuân:
“Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng
Bởi anh chết rồi nhƣng lòng dũng cảm
Vẫn đàng hoàng nổ súng tiến công”
Giữa những kỉ niệm đầy gian nan khổ ải, đoạn thơ Quang Dũng khép lại bằng
những kỉ niệm ấm áp, vút cao như một tiếng hát vui:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp sôi”.
Âm điệu đang căng thẳng bi thương, bỗng chuyển sang êm ả thanh bình. Nhớ
về Tây Tiến, nhà thơ không thể quên tình cảm quân dân trong những tháng ngày hành
quân dãi dầu gian khổ. Trên con đường gian lao, một hôm nào đó người lính đã dừng
chân ở một bản làng giữa rừng sâu. Nơi đây, các anh đã được đồng bào, đặc biệt là các
cô gái: Mèo, Mán, Mường… xinh đẹp như những bông hoa rừng đón tiếp niềm nở
bằng những bữa cơm nếp xôi mà khói hương từ đấy cứ thơm ngát mỗi bước quân hành.
Đúng như nhà thơ Quang Huy đã viết:
89
“Buổi anh đi em hơ tàu chuối ngự
Nắm xôi rền thơm mãi giữa hàng quân.”
Câu thơ của Quang Dũng có từ “ôi” để gợi lên nỗi nhớ, “nhớ ôi” như tiếng nói
hoài niệm, sao xuyến cháy bỏng trong trái tim nhà thơ. Bữa cơm đầu lên khói tỏa lan
mùi nếp xôi gợi nhớ tới không khí gia đình đầm ấm, xua tan đi cảm giác heo hút trống
vắng ở tâm hồn những người chiến sĩ còn rất trẻ. Cách nói của Quang Dũng trong câu
thơ rất lạ, không phải Mai Châu nhà em mà là “Mai Châu mùa em”. “Mùa” ở đây phải
chăng là mùa của nỗi nhớ về tấm lòng thơm thảo, của kỉ niệm một mốc thời gian đã trở
thành dấu ấn in sâu trong trái tim người chiến sĩ. Đúng như Chế Lan Viên đã viết:
“Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn toả nhớ mùi hƣơng”
Đề 3: Phân tích và bình giảng (cảm nhận) đoạn II của bài Tây Tiến của Quang
Dũng
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
MỞ BÀI:
Bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng sáng tác năm 1948 ở Phù Lưu Chanh.
Thông qua nỗi nhớ da diết chơi vơi, bài thơ tái hiện lại chặng đường hành quân đầy
gian khổ với những hi sinh oanh liệt của người lính. Với cảm hứng lãng mạn hướng về
cái cao cả, phi thường và nhạy cảm với những vẻ đẹp mang màu sắc xứ lạ phương xa,
Quang Dũng đã khắc họa được những bức tranh về cảnh sinh hoạt văn nghệ mang đậm
tình quân dân và cảnh sông nước mờ ảo hoang dại mà chứa chan thi vị.
THÂN BÀI:
I) Giới thiệu bài thơ và đoạn trích.
- Nếu như phần thứ nhất của bài thơ là bức tranh vừa dữ dội hoang sơ vừa hùng
vĩ nên thơ của núi rừng miền Tây và con đường hành quân đầy gian khổ được vẽ bằng
nét bút gân guốc khỏe khoắn, thì đến phần thứ hai này bài thơ “Tây Tiến” lại mở ra
một thế giới khác của Tây Bắc, một Tây Bắc mĩ lệ tài hoa, duyên dáng với những nét
vẽ tinh tế mềm mại.
II) Đoạn 1.
Hình ảnh “một đêm liên hoan văn nghệ” với đồng bào dân tộc để thắt chặt tình
quân dân được gợi lên với những chi tiết rất thực, rất mộng, rất ảo như thể khung cảnh
một ngày lễ cưới, một đêm hội hoa đăng, như trong huyền thoại cổ tích:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
…….
Nhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ”
Nhà đại văn hào nước Pháp-Huygo có nói: “Chữ nào đặt đúng chỗ là chữ đó
hay nhất”. Chúng ta thấy chữ “bừng” hiểu như vậy, chữ “bừng” là chữ rất hay, rất có
hồn. Nó vừa gợi hình, vừa gợi cảm, đặt giữa câu thơ âm hưởng mạnh mẽ, nó làm rực
sáng cả câu thơ, rực sáng cả tâm hồn người đọc. “Bừng” là bừng sáng lên bởi ánh lửa
từ ngọn đuốc trong đêm của bộ đội liên hoan văn nghệ cùng nhân dân; hay là tưng
bừng rộn rã của niềm vui, của tiếng khèn bản nhạc man điệu, cùng giọng hát vừa ngọt
ngào vừa mê say, tình tứ của các cô gái Mèo, Mường, Thái… “Đuốc hoa” là một từ cổ
90
để chỉ ngọn nến đốt lên trong phòng cưới đêm tân hôn. Hình ảnh này xuất hiện trong
đêm vui liên hoan của người lính đã tạo nên một màu sắc vừa cổ kính, vừa hiện đại,
vừa thiêng liêng, vừa ấm áp keo sơn tình quân dân gắn bó. Đoạn thơ này cũng đã bộc
lộ được nét tài hoa lãng mạn của ngòi bút Quang Dũng. Hồn thơ lãng mạn của ông bị
hấp dẫn trước vẻ đẹp mang màu sắc lãng mạn, bí ẩn của con người và cảnh vật nơi xứ
lạ. Vì thế cảnh là cảnh trong hoài niệm vậy mà trong lời thơ lại cho ta cảm giác cảnh
đang diễn ra ngay trước mắt. Và nhà thơ như đang nói với người vũ nữ “Kìa em xiêm
áo tự bao giờ”-một giọng thơ đầy trìu mến, vui thú vui sướng đến ngỡ ngàng trước vẻ
đẹp vừa e ấp, vừa tình tứ “nàng e ấp” với bộ xiêm y lộng lẫy đủ mọi sắc màu trong
một vũ điệu mang màu sắc xứ lạ (man điệu). Câu thơ “Nhạc về Viên Chăn xây hồn
thơ” có sáu thanh bằng gợi cảm giác lâng lâng chới với như có thể đưa tâm hồn người
lính phiêu diêu về chốn Viên Chăn, thủ đô nước bạn xa xôi để xây hồn thơ.
Như vậy chỉ bằng bốn câu thơ mà Quang Dũng đã khắc họa được một bức
tranh vừa phong phú về màu sắc, đường nét (ở chỗ “đuốc hoa xiêm áo”); vừa đa dạng
về âm thanh (Tiếng khèn man điệu). Với tâm hồn lãng mạn tài hoa, bằng cảm hứng
nhạy cảm với cái lạ thường, cái thi vị, tác giả không chỉ cho ta thấy được vẻ đẹp đầy
bản sắc văn hóa phong tục của đồng bào miền biên cương Tổ quốc, mà còn cho ta thấy
được tình quân dân đằm thắm keo sơn và tâm hồn lạc quan yêu đời, yêu cuộc sống
kháng chiến gian khổ mà vui tươi của người lính Tấy Tiến.
III) Đoạn 2.
1) Cảnh sông nƣớc Tây Bắc vừa thực vừa mộng: mênh mang hoang dại,
tĩnh lặng, mờ ảo và chứa chan thi vị.
Nếu khung cảnh một đêm liên hoan đem đến cho người đọc không khí mê say
ngây ngất thì cảnh sông nước Tây Bắc lại gợi lên được cảm giác mênh mang hoang dại
mờ ảo tĩnh lặng và chứa chan thi vị. Ở đây một lần nữa càng khẳng định rõ hơn nét tài
hoa lãng mạn giàu mộng ảo của người lính Tây Tiến. Thiên nhiên ở nơi chốn chỉ có
“bản sƣơng giăng, đèo mây phủ”, khi chiều về vốn mờ ảo lại càng mờ ảo hơn khi có
lớp sương mờ bảng lảng choáng lên như thực như mơ. Qua hoài niệm, khung cảnh Tây
Bắc như đang sống dậy trong kí ức của tác giả làm cho giọng thơ của ông cất lên như
tiếng thì thầm, như lời tự hỏi “có thấy- có nhớ”, day dứt càng gợi lên cảm giác bâng
khuâng xa vắng đầy lưu luyến. Con người có tâm hồn tài hoa và lãng mạn ấy thấy bạt
ngàn hồn lau trong gió trong cây như xôn xao một nỗi niềm.
“Ngƣời đi Châu Mộc chiều sƣơng ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ”
Từ “ngƣời” được tác giả sử dụng thật tài tình. Ở đây nó mang tính chất vừa cụ
thể, vừa phiếm chỉ, vừa là tác giả vừa là đồng đội, những người tri âm, tri kỷ đã từng
đồng cam cộng khổ sống chết có nhau. “Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh; Sốt run
ngƣời vầng trán ƣớt mồ hôi…thƣơng nhau tay nắm lấy bàn tay”. Khi viết câu này hẳn
tác giả lại nhớ đến lời ca quan họ: “Ngƣời ơi ngƣời ở đừng về”- một lời ca nặng tình,
nặng nghĩa nhờ có từ “ngƣời”- một đại từ thần diệu của Tiếng Việt. Từ “ấy” không xác
định được thời gian, nhưng lại gợi về thời khắc khó quên, một đi không trở lại, đã in
đậm trong trái tim, trong nỗi nhớ đầy vơi của Quang Dũng và những người lính Tây
Tiến. Chữ “ấy” đó lại bắt vần với chữ “thấy” ở câu dưới tạo nên một vần lưng đầy
quyến luyến, vấn vương.
Có lẽ, trong những hình ảnh làm cho người lính Tây Tiến “Nghìn năm chƣa dễ
mấy ai quên” ấy thì hình ảnh “hồn lau nẻo bến bờ” là hình ảnh gợi cảm nên thơ nhất.
Theo thi sĩ Chế Lan Viên thì “Lau”là biểu tượng cho mùa thu. Còn thi sĩ Hoàng Hữu
91
thì hồn lau trong gió qua hoài niệm lại gợi cảm giác buồn vắng, lặng tờ nhạt nhòa như
khói pha như thời tiền sử huyền thoại:
“Trƣờng vắng mƣa mờ buông dốc xa
Dây leo nửa mái,sắc rêu nhòa
Ngƣời xa phơ phất hồn lau gió
Thổi trắng chân đồi nhƣ khói pha”
(Hoa lau trường cũ)
Nhà văn Nguyễn Minh Châu trong truyện ngắn “Cỏ lau” lại có hình ảnh bông
lau; lơ thơ như thực, như mơ, ở miền rừng núi hoang vu được diễn tả bằng những áng
văn tuyệt hay “ở đây, bầu trời, mặt đất thanh vắng hoang dại, hoa lau phơ phất trên
nền xanh uyển chuyển của rừng lau. Những triền cỏ lau mới nhú mang một vẻ hiu hắt,
vài đọt hoa hiếm hoi, điểm xuyết giữa hoàng hôn vùng rừng một sắc tím bâng quơ”.
Những hồn lau như thế xuất hiện trong làn sương chiều mờ ảo nơi bến bờ sông suối
hoang sơ hẻo lánh của miền Châu Mộc, Châu Mai đã nói với ta rất nhiều về vẻ đẹp
tâm hồn của một thi sĩ tài hoa lãng mạn đã có cách nhìn, cách cảm thiên nhiên rất lạc
quan yêu đời và có phần mộng mơ.
2) Tâm hồn lãng mạn mộng mơ đó còn phát hiện ra trong cảnh sông nước chiều
sương mang đậm màu sắc cổ tích huyền thoại ấy, hình ảnh con thuyền độc mộc với
dáng mềm mại của cô gái và bông hoa trôi theo nước lũ:
“Có nhớ dáng ngƣời trên độc mộc
Trôi dòng nƣớc lũ hoa đong đƣa”
Đúng là thi chung hữu họa. Ngòi bút tinh tế của Quang Dũng chấm phá vài nét
không chỉ gợi được cái hồn của những bông lau mà còn cả cái dáng rất tạo hình của cô
gái lái đò người Mường,người Thái,…cái dáng ngả nghiêng rất tình tứ “đong đƣa”chứ
không phải “đung đƣa” của những bông hoa rừng như muốn “làm duyên bên dòng
nƣớc lũ”. “Đung đƣa” chỉ thuần túy tả chuyển động đưa đi đưa lại mang tính chất Vật
lý, còn đong đưa vừa tả chuyển động, tả cảnh vừa tả tình làm cho bông hoa trở thành
một sinh thể duyên dáng và rất đa tình. “Cặp môi hồng con mắt ƣớt đong đƣa” (Thị
Mầu-Anh Ngọc)
Với một chữ “trôi” mà tác giả dùng ở đây cũng rất tinh tế, gợi lên sự nhẹ nhàng
thanh thoát “Trôi dòng nƣớc lũ hoa đong đƣa”. Phải có “tay lái ra hoa” thì chiếc
thuyền độc mộc vượt qua suối lũ ghềnh thác mới êm nhẹ đến thế. Với một chữ “trôi”
tinh tế và một chữ “đong đƣa” hơi phong tình, dòng nước lũ dữ dằn bỗng trở thành
suối mơ êm đềm yên ả, để con thuyền lướt nhẹ êm trôi.
Tiểu kết:
Tìm hiểu kĩ đoạn thơ của Quang Dũng, chúng ta thấy hai từ “thấy” và “nhớ”
được tác giả dùng trong hai câu thơ giữa cũng thật tài tình. Dường như cái hồn thiêng
của bông hoa lau đã in hình rõ nét trong mắt tác giả, còn cái dáng mềm mại, thon thả
của cô gái lái đò đẹp như hoa cùng bông hoa rừng đong đưa trên dòng nước lũ lại khắc
sâu vào tâm trí nhà thơ vốn giàu tình yêu non sông đất nước, vẻ đẹp thiên nhiên miền
Tây này. Không có một tâm hồn nhạy cảm, tài hoa thì không thể nắm bắt được những
hình ảnh giàu hình sắc của hoa như thế. Đoạn thơ không chỉ được khắc, trạm hình sắc,
đường nét vào người và cảnh, mà còn được tác giả phổ vào câu thơ những nốt nhạc
tinh tế. (Nhạc điệu thể hiện ở vần chân: “Bờ-đƣa”,vần lưng: „ấy-thấy”;ở điệp âm,điệp
thanh: “Châu Mộc,độc,dòng,đong” ). Nhưng đây là nhạc điệu được cất lên từ một tâm
hồn say đắm với cảnh và người miền Tây Tổ quốc của người lính “Giữa chiến trƣờng
nhiều khi thay cho nhạc; là những tâm hồn có nhạc ở bên trong” (Phạm Tiến Duật).
92
Cho nên rất có lý khi Xuân Diệu nhận xét: Đọc bài thơ “Tây Tiến”, ta có cảm giác như
ngậm âm nhạc trong miệng.
KẾT LUẬN 1:
Như vậy hùng vĩ gắn với thơ mộng, những nét vẽ bạo khỏe, gân guốc; gắn với
nét vẽ uyển chuyển, tinh tế, mềm mại là cái nhìn riêng của tâm hồn lãng mạn và hào
hoa của Quang Dũng trước khung cảnh núi rừng Tây Bắc hoang sơ mà nên thơ đẹp đẽ.
Xuyên qua cảnh vật và con người là một niềm hoài niệm “chơi vơi” mà sâu nặng,
bâng khuâng da diết một tình yêu nói khôn cùng của tác giả với một miền thiên nhiên
Tổ Quốc đã gắn bó tha thiết với người lính về một thời oanh liệt:
“Ơi kháng chiến! Mƣời năm qua nhƣ ngọn lửa
Nghìn năm sau; còn đủ sức soi đƣờng”
(Chế Lan Viên)
KẾT LUẬN 2:
Bốn câu thơ như một bức tranh thủy mặc với những nét vẽ chấm phá tinh tế,
mềm mại, tài hoa đã truyền được cái hồn của cảnh vật Tây Bắc. Với bút pháp thiên về
cảnh vật và con người ấy của Quang Dũng, bức tranh của cảnh và nguời miền Tây Tổ
quốc hiện lên thật duyên dáng, thơ mộng dễ làm đắm say lòng người đọc. Đằng sau
bức tranh đó, ta thấy nổi rõ tâm hồn lạc quan, yêu đời, lãng mạn, giàu mộng mơ của
tác giả nói riêng và của người lính Tây Tiến nói chung trong “Những năm tháng không
thể nào quên” của cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ mà vô cùng oanh liệt.
Đề 4 :Phân tích,bình giảng cảm nhận đoạn thơ
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu áo giữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
…
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
MỞ BÀI:
“Tây Tiến” là bài thơ nổi tiếng của Quang Dũng nói riêng, của thơ ca chống
Pháp nói chung, được sáng tác năm 1948. Thông qua niềm thương, nỗi nhớ, cảm hứng
lãng mạn của tác giả, bức tranh miêu tả Tổ Quốc nổi lên thật đa dạng về đường nét,
phong phú về màu sắc, rất gợi cảm và gắn bó, gần gũi với cuộc sống người lính. Nổi
bật lên trên bức tranh núi Tây Bắc vừa hùng vĩ, dữ dội, vừa nên thơ, vẫn là hình ảnh
những người lính thật oai phong lẫm liệt thật sang trọng hào hoa.
THÂN BÀI:
1.Giới thiệu bài thơ và đoạn trích
Bài thơ “Tây Tiến” ra đời năm 1948 tại Phù Lưu Chanh, sau khi Quang Dũng rời xa
đơn vị ít lâu. Bởi thế, bài thơ là tiếng nói cảm xúc chân thành tha thiết của một người
lính nhớ về đồng đội, nhớ về những tháng ngày gian khổ hóa kỉ niệm, hóa kí ức. Bắt
nguồn từ nỗi nhớ sâu đậm, “Tây Tiến” như tái hiện trước mắt người đọc hình ảnh
người lính trong sinh hoạt văn hóa của đồng đội miền Tây và người lính nơi chiến địa
giữa hi sinh và thiếu thốn.
Đoạn thơ trên là đoạn thứ ba miêu tả người lính một cách trực tiếp nhất, ấn
tượng nhất.
2.Vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến
93
“Tây Tiến” là một bản anh hùng ca về người chiến sĩ, được cất lên từ một âm
của một nỗi nhớ cháy bỏng da diết. Theo mạch phát hiện của nỗi nhớ, hình ảnh người
lính Tây Tiến hiện lên trong vẻ đẹp lãng mạn hào hùng và kiêu dũng “Tây
Tiến…….oai hùm”. Đằng sau những hình ảnh thơ ngang tàn chất chứa những chi tiết
nghiệt ngã của hiện thực đời sống, người lính Tây Tiến thiếu thốn về vật chất, chịu sự
hành hạ của những cơn sốt rừng khiến cho tóc trên không mọc được và nước da thì
xanh xao, tiều tụy. Hình ảnh thơ gợi cho ta biết bao thương cảm, những gì mà Quang
Dũng miêu tả về cuộc sống gian khổ của người lính không mới. Rất nhiều nhà thơ
cùng thời với Quang Dũng đã ghi lại những chi tiết chân thực này. Trong bài “Đồng
chí” Chính Hữu đã từng viết:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh”
còn Quang Dũng đã nói điều đó bằng cảm hứng lãng mạn, bằng bút pháp lãng mạn. Vì
vậy hình ảnh người lính hiện lên dưới ngòi bút của ông có cái gì đó độc đáo kì lạ. Và
di chứng của những trận sốt rét rừng, dấu vết của những khó khăn gian khổ khốc liệt
cũng được nói bằng một giọng ngang tàn cứng cỏi. Nghe cứ như thể thái độ không cần,
không thèm mọc tóc ấy. Đó là thái độ của những con người khinh thường gian khổ,
hiểm nguy. Còn “quân xanh mà dữ oai hùm” lại nhấn mạnh sự tương phản giữa bề
ngoài xanh xao tiều tụy với bản tính kiên cường mãnh liệt bên trong. Biết bao khí
phách và oai phong, lẫm liệt của người lính Tây Tiến được thể hiện trong hình ảnh “dữ
oai hùm” ấy- oai hùm là oai hổ, chúa sơn lâm, biểu tượng cho sự oai phong dũng mãnh.
Trong bài “Bình ngô đại cáo” một thiên cổ hùng văn Nguyễn Trãi đã viết:
“Sĩ khí chọn tay tùy hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh”
Hình ảnh ấy vừa làm cho quân thù khiếp sợ, vừa có thể chế ngự được hoàn cảnh
khắc nghiệt, dữ dội của rừng thông:
“Trong hang tối mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi
Ta biết ta là chúa tể của muôn loài
Giữa chốn thảo hoa không tên tuổi”
(Thế Lữ)
Chỉ bằng hai hình ảnh thơ, Quang Dũng đã không chỉ nói được sâu sắc đầy đủ
cuộc sống chiến đấu gian khổ của người lính mà còn khắc họa được vẻ đẹp hào hùng,
cái khí phách mạnh mẽ của họ.
Người lính Tây Tiến hầu hết là những chàng trai Hà Thành thanh lịch lãng mạn,
mộng mơ. Vì vậy họ không chỉ mang phẩm chất hào hùng mà còn mang vẻ đẹp hào
hoa. Ban ngày họ phải hành quân gian khổ, thường xuyên phải tiếp xúc với thần chết,
mà đêm về họ đã mơ nhiều giấc mơ dịu êm như thế đó:
“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Cái bóng hình lung linh trong giấc mơ của họ là hình ảnh những dáng kiều
thơm Hà Thành quyến rũ. Đừng vội phê phán người lính Tây Tiến chưa rũ bỏ được
tính cách tiểu tư sản yêu đời và còn mộng mơ, mà phải hiểu đó là chất mộng mơ, chất
lãng mạn của người lính hào hoa. Chính giấc mơ lãng mạn với dáng kiều thơm thanh
thoát đã là đôi cánh nâng đỡ tinh thần người lính, vượt lên trên khó khăn thử thách
khốc liệt tưởng chừng như không thể vượt qua được. Nó đem lại cho người lính những
khoảng lặng trong đời sống nội tâm. Đôi mắt với cuộc sống chiến đấu hàng ngày đầy
gian khổ, hy sinh; họ ít khi có cơ hội đối diện với thế giới tinh thần của chính mình,
94
sống thật khát khao, ước mơ của bản thân. Chỉ trong giấc mơ hằng đêm họ mới sống
với những gì không có, chưa có trong đời thực:
“Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm
Nàng là hƣơng hay nhan sắc là hƣơng?”
Những người lính có đôi mắt chừng như lửa cháy hờn căm và phẫn nộ để thiêu
đốt kẻ thù, nhưng lại vừa biết mơ về những cô gái Hà Thành thanh lịch kiều diễm đã
nói với ta rất nhiều về vẻ đẹp anh bộ đội cụ Hồ có tầm hồn gần gũi, chân thực và rất
phong phú.
3.Vẻ đẹp bi tráng của hình tượng người lính
Viết về đời sống người lính Tây Tiến, Quang Dũng cũng không hề che dấu sự
hy sinh của họ. Chỉ có điều sự hi sinh lại được nói bằng cảm hứng lãng mạn mang màu
sắc bi tráng. Mỗi lần cảm xúc chìm vào đau thương lập tức nhà thơ lại nâng lên bằng
đôi cánh lãng mạn mang màu sắc tráng hùng, bởi vậy lời thơ viết về sự hi sinh mà
không hề có cảm giác bi lụy yếu đuối:
“Rải rác biên cương mỗn viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Hiện thực trực tiếp trong đời sống chiến đấu của người lính là những giây phút
đối mặt kẻ thù, là những đau thương mất mát. Người xưa đã từng nói:
“Xƣa nay những chốn chiến binh
Hỏi ai đem đƣợc thân mình về chƣa?
Sự sống hàng ngày của người lính được đánh dấu bằng những ranh giới mong
muốn giữa còn và mất, giữa sống và chết, rất nhiều đồng đội của Quang Dũng đã rơi
xuống trên mảnh đất miền Tây, gửi thân lại nơi nấm mồ viễn xứ. Một trong những
thiếu sót dễ nhận thấy của thơ ca Cách Mạng là tác giả viết về chiến thắng, nhưng lại
né tránh những hình ảnh chi tiết về sự mất mát, hi sinh. Quang Dũng không thế, ông
nhìn cuộc sống của người lính Tây Tiến theo đúng những gì ông nếm trải. Có khó
khăn gian khổ, có ước mơ, nỗi nhớ riêng tư có nhiều nấm mồ viễn xứ. Câu thơ buồn
đau nhưng không gây cảm giác quá bi thương. Những từ Hán Việt xuất hiện trong câu
thơ như làm dịu đi, vơi đi sự mất mát nặng nề bằng không khí trang trọng của nó. Mà
quan trọng hơn, sự hi sinh mất mát bị xóa nhòa bởi lí tưởng quên mình của người lính
Tây Tiến. “Chiến trƣờng đi chẳng tiếc đời xanh”. Câu thơ sau chìm xuống trầm lắng
đi. Trong âm điệu tiếc nhớ buồn thương, câu thơ sau vuợt lên, vút lên bằng âm điệu
dứt khoát, mạnh mẽ. Cảm xúc buồn thương ở câu thơ đầu được nâng đỡ lên thành bi
hùng, nhờ đôi cánh lí tưởng lãng mạn ở câu sau: Người lính Tây Tiến đối mặt với hy
sinh mất mát không phải bằng thái độ sợ hãi mà bằng tư thế sẵn sàng nhập cuộc, sẵn
sàng xả thân vì Tổ quốc. Tư thế hiên ngang ấy khiến cho họ nhìn cái chết với đôi mắt
thanh thản không hề nuối tiếc cuộc đời xanh non; “chiến trƣờng đi chẳng tiếc đời
xanh”. Câu nói chắc nịch như một lời tuyên thề. Hai chữ “chẳng tiếc” với âm cao của
thanh trắc mang sức nặng của lòng quyết tâm của lí tưởng quên mình. Đối với một con
người, khoảng thời gian đẹp nhất là những ngày tuổi trẻ, là những ngày tóc đang còn
xanh và sức sống đang căng. Nó là một đời xanh chẳng đi qua không bao giờ trở lại.
Vậy mà người lính Tây Tiến chẳng tiếc đời xanh, chẳng tiếc tương lai đầy hứa hẹn
phía trước. Vẫn biết trên chặng đường hành quân gian khổ, trong những tháng ngày
hành quân chiến đấu mà rất có thể gục lên sung mũ bỏ quên đời hay làm một nấm mồ
viễn xứ, nhưng với họ không có gì hạnh phúc hơn khi được chiến đấu cho lí tưởng,
được đổ máu mình cho cây Tổ quốc đơm hoa độc lập kết trái tự do. Hai câu thơ của
Quang Dũng tỏa sáng một triết lý, một lẽ sống tốt đẹp của tuổi trẻ thời ấy “Quyết tử
95
cho Tổ quốc quyết sinh” đó là triết lý của những con người luôn luôn vang lên trong
tim lời dạy triết lý của Bác.
Với triết lý, lẽ sống cao đẹp ấy, người lính Tây Tiến cho đến giây phút trở về
lòng đất mẹ vẫn sáng lên vẻ đẹp tâm hồn cao cả. Vẻ đẹp của sự hi sinh đến hai lần:
“áo bào, độc hành”. Quên mình vì Tổ quốc đó là lần hi sinh thứ nhất của người lính.
Trở về đất mẹ bằng tấm áo giản dị thường ngày, đó là lần hi sinh thứ hai. Câu thơ
mang ý nghĩa hiện thực sâu sắc “Tử sĩ nằm xuống không đủ manh chiếu để liệm”(Lời
Quang Dũng) “Họ đƣợc chôn cất trong chiếc áo của mình”. Cái hay của câu thơ là sự
thực bi thương của nhà thơ tái hiện bằng đôi mắt lãng mạn, vừa yêu thương, vừa chân
trọng thành kính. Nhà thơ phủ lên thi thể người đồng đội hình ảnh áo bào. Người đọc
cảm nhận trong người lính Tây Tiến phảng phất dáng nét tráng sĩ xưa với tư thế hiên
ngang lẫm liệt. Bởi thế phải giây phút đau đớn đưa tiễn người đồng đội về cõi bất tử
được thiêng liêng hóa, vĩnh viễn hóa bằng hình ảnh áo bào đầy sang trọng cổ kính.
Nhóm từ “anh về đất” vừa làm giảm nhẹ sự mất mát đau thương, vừa là sự ngợi ca
tinh thần hi sinh tự nguyện của người lính Tây Tiến. Với tấm bào ấy, người lính đã
thanh thản đi về trong lòng đất mẹ ấm áp vĩnh hằng như thể người nông dân thanh thản
phải vui vẻ trở về nhà sau một ngày đã hoàn thành công việc đồng áng vậy:
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Hình ảnh người lính ngã xuống không đơn độc bi thương mà họ được bao bọc
bởi nghĩa tình đồng đội.
Câu kết là tiếng kèn bi tráng, trầm hùng đưa tiễn người lính đi vào cõi bất tử với
biết bao niềm thương tiếc, giận dữ, ngậm ngùi thành hình.
KẾT LUẬN:
Dòng sông Mã, một chứng nhân gần gũi và thiêng liêng về cuộc đời bi tráng
“sống hi sinh chết cũng hi sinh, thật tột đỉnh quang vinh” của người lính Tây Tiến đã
thay mặt cho quê hương đất nước tấu lên khúc độc hành rung chuyển núi sông, cất lên
bài ca anh hùng vang vọng mãi vào cõi thiên thu.
Đề 5: Phân tích vẻ đẹp ngƣời lính trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng.
A. MỞ BÀI
Hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ là một trong những tượng đài đẹp nhất, đáng tự hào
nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Họ là những người sống có lý tưởng, sẵn
sàng lấy máu của mình để tô thắm cho lá cờ Tổ quốc; đồng thời đó là những con người
có tâm hồn lãng mạn, hào hoa. Qua việc tìm hiểu vẻ đẹp của anh bộ đội trong bài thơ
“Tây Tiến”, một bài thơ tiêu biểu nhất của Quang Dũng nói riêng và của thơ ca chống
Pháp nói chung, chúng ta cũng có thể thấy rõ điều đó.
B. THÂN BÀI
I. Ngƣời lính Tây Tiến đƣợc viết với bút pháp lãng mạn.
Bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng viết về những người lính chiến đấu nơi
biên cương miền tây Tổ quốc. Bài thơ được viết theo bút pháp lãng mạn. Bút pháp này
sử dụng rộng rãi thủ pháp đối lập và có khuynh hướng tô đậm những nét khác thường,
phi thường để tác động mạnh mẽ vào cảm xúc người đọc.
II.Ngƣời lính Tây Tiến là những ngƣời lính rất mực lãng mạn, hào hùng.
96
Bài thơ ra đời vào năm 1948, hơn một năm sau cuộc kháng chiến toàn quốc
bùng nổ. Cái hào khí của cả một dân tộc vừa giành được độc lập đã phải vùng lên cầm
gươm súng để bảo vệ nền độc lập tự do non trẻ thiêng liêng của mình đã truyền vào
người lính, tạo cho họ một vẻ đẹp lãng mạn, hào hùng. Chính tâm hồn lãng mạn ấy đã
dễ có cảm hứng về cái khác thường, cái phi thường.
1. Đời sống, môi trường chiến đấu của người lính là đời sống phi thường.
Người lính Tây Tiến qua cảm hứng lãng mạn của Quang Dũng được xuất hiện
trên bối cảnh thiên nhiên hoang sơ, kỳ vĩ, hiểm trở mà cũng rất khoẻ đẹp, đầy thi vị
với đủ núi cao, vực thẳm, dốc đứng, thác gầm…cùng với “cồn mấy heo hút”, “sƣơng
lấp”, “mƣa xa khơi”, “cọp trêu ngƣời”:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thƣớc lên cao, ngàn thƣớc xuống
Nhà ai Pha Luông mƣa xa khơi”
Những chi tiết, hình ảnh thơ của tác giả đầy ấn tượng. Sương dày phủ lấp cả
“đoàn quân mỏi” đang đi , mưa nhiều đến nỗi làm cho những ngôi nhà như đang trôi
bồng bềnh giữa biển khơi…Nhiều câu thơ sử dụng hàng loạt thanh trắc: “dốc”, “khúc
khuỷu”, “ thăm thẳm”…làm hiện lên được cái hiểm trở, gian nan của con đường hành
quân. Tiếp đó là những chữ dùng rất bạo, nhất là ba chữ “súng ngửi trời” gợi lên độ
cao chất ngất đến chóng mặt. Hai câu sau có sự phối thanh rất độc đáo. Câu trên nhiều
thanh trắc và dòng thơ như bẻ đôi để vẽ ra hai sườn núi vút lên, đổ xuống gần như
thẳng đứng “Ngàn thƣớc lên cao, ngàn thƣớc xuống”. Còn câu sau thì toàn thanh bằng
“Nhà ai Pha Luông mƣa xa khơi”, một dòng thơ mở ra một không gian bát ngát, câu
thơ như bay ngang trời. Ta như hình dung được người lính đang leo lên những cồn
mây, một hôm nào đó dừng chân bên dốc núi phóng tầm mắt nhìn ngang ra xa thấy ai
đó thấp thoáng ẩn hiện qua một không gian mịt mù sương rừng, mưa núi. Những địa
danh như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch…rất xa lạ làm tăng thêm cái
ấn tượng về sự hoang sơ, kỳ vĩ, bí mật của rừng thiêng. Chúng không chỉ cho ta biết
những miền đất người lính đã đi qua mà “khi vừa mới đọc lên thôi cũng thấy mòn chân
mỏi gối” ( Trần Lê Văn)
II. Trên cái nền thiên nhiên hiểm trở, hoang vu, hùng vĩ đó ngƣời lính Tây
Tiến xuất hiện cũng oai phong lẫm liệt, tràn đầy khí phách phi thƣờng.
1. Phi thường ở sự gian khổ cùng cực: ăn đói, mặc rách,bệnh tất, sốt rét đến
xanh da, trụi tóc
Thực ra, những gì mà Quang dũng tái hiện về cuộc sống gian khổ của người
lính không mới; rất nhiều nhà thơ cùng thời với Quang Dũng đã ghi lại những chi tiết
chân thực về căn bệnh thường xuyên hành hạ người lính nơi chốn rừng sâu nước độc
này.Trong bài thơ “Đồng Chí”, Chính Hữu đã viết:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run ngƣời vầng trán ƣớt mồ hôi”
Còn Quang Dũng nói điều đó bằng cảm hứng lãng mạn, bằng bút pháp lãng
mạn. Vì vậy, hình ảnh người lính hiện lên dưới ngòi bút của ông có cái gì đó vừa rất
độc đáo, kỳ lạ vừa ngang tàng kiêu dũng “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”. Cách
nói chủ động đã bộc lộ thái độ phớt đời, ngang tàng, cứng cỏi, khinh thường gian khó
hiểm nguy nhưng đằng sau đó chất chứa biết bao hiện thực nghiệt ngã của đời sống
chiến đấu mà người lính phải chịu đựng.
2. Hình ảnh người lính Tây Tiến là những con người phi thường.
97
Họ là những con người chẳng những dám đương đầu với mọi thử thách gian
truân: đói rét, bệnh tật, rừng thiêng, thú dữ, hành quân gian lao mà còn có thái độ, khí
phách thật hiên ngang trước cái chết. Trên con đường hành quân gian khổ với núi cao,
vực thẳm, sông sâu, nhiều đồng đội đã “không bƣớc nữa” và “bỏ quên đời” nơi miền
đất lạ. Nhưng điều đáng ngưỡng mộ là người lính đã đi vào cái chết rất thanh thản như
đi vào một giấc ngủ. Và quan trọng hơn là họ đã chết trong tư thế lên đường, giữa lúc
đang làm nhiệm vụ của một người chiến sĩ. Thật là một cái chết đầy chất bi thương.
Hay: “ Rải rác biên cƣơng mồ viễn xứ
Chiến trƣờng đi chẳng tiếc đời xanh”
Câu thơ “Rải rác biên cƣơng mồ viễn xứ” còn có cái gì đó hơi bi thảm. Nhưng câu sau
“Chiến trƣờng đi chẳng tiếc đời xanh” đã nâng ý thơ lên thành bi tráng bởi tư thế sẵn
sàng nhập cuộc, sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc. Câu thơ như một lời tâm niệm làm toả
sáng vẻ đẹp lý tưởng và triết lý sống cao cả của tuổi trẻ thời ấy. Người lính ở đây
phảng phất dáng vẻ của người anh hùng thời cổ: Kinh Kha sang Tần, người chinh phụ
trong “Chinh Phụ Ngâm” một đi không trở về, coi cái chết nhẹ như lông hồng:
“Gió hiu hiu hè, sông Dịch lạnh tê
Tráng sĩ một đi không trở về”
Chủ nghĩa lãng mạn cũng thường hay nói về nỗi buồn và cái chết với ý nghĩa
biểu hiện cái đẹp với chất bi hùng. Do phải chiến đấu trong hoàn cảnh vô cùng ác liệt,
cực khổ, các chiến sĩ chết vì sốt rét rừng nhiều hơn là vì chiến trận và khi chôn cất đến
ngay manh chiếu che thân cũng không có. Nhưng dù vậy, hình tượng người lính trong
thơ vẫn phải đẹp, phải sáng, phải hào hùng. Người lính dù ngã xuống cũng ngã xuống
trong tấm áo bào sang trọng và trong tiếng nhạc hùng tráng của núi sông:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Dòng sông Mã, một chứng nhân gần gũi mà thiêng liêng về cuộc đời bi tráng
“Sống hi sinh, chết cũng hi sinh. Thật tột đỉnh quang vinh” của người lính Tây Tiến đã
thay mặt cho quê hương đất nước tấu lên khúc độc hành dữ dội rung chuyển núi sông
như cất lên bài ca anh hùng vang vọng vào mãi cõi thiên thu.
III. Ngƣời lính Tây Tiến còn có một vẻ đẹp khác: chất lãng mạn , hào hoa.
Người lính Tây Tiến không chỉ có vẻ đẹp hào hùng mà còn có vẻ đẹp độc đáo,
hấp dẫn, đáng yêu khác. Đó là cái chất hào hoa thanh lịch, chất mơ mộng rất lãng mạn,
tràn đầy tinh thần lạc quan tươi trẻ. Đoàn quân Tây Tiến gồm hầu hết là những chàng
trai Hà thành tài hoa, trong đó tác giả Quang Dũng là một trong những con người tài
hoa nhất.
Chất tài hoa tươi trẻ ấy bắt rất nhạy với những hình ảnh đẹp đẽ, nên thơ, cái nét
tinh tế của cảnh và người. Đặc biệt là những cái đẹp mang màu sắc xứ lạ phương xa.
Từ một làn sương chiều mờ ảo đến một dáng hoa lau núi phất phơ, đơn sơ, gợi cảm; từ
một đêm hội đuốc hoa như trong truyện cổ tích đến những bông hoa “đong đƣa” rất
tình tứ trên dòng nước lũ, tất cả đều in rất đậm trong tâm hồn người lính để tạo nên
những bức tranh vừa thực vừa mộng:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa…
. . . Trôi dòng nƣớc lũ hoa đông đƣa . . .”
Những con người ấy sống vô cùng gian khổ nơi rừng núi, thường xuyên phải
tiếp xúc với thần chết nhưng đêm đêm hồn mộng của họ vẫn bay về với những cô gái
Hà Nội đẹp một cách thanh lịch, dịu dàng:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
98
Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm”
Nếu như người lính trong thơ Hồng Nguyên mang nỗi nhớ người thân, quê
hương chất chứa niềm yêu thương, cảm thông khi gắn họ với những công việc nặng
nhọc, vất vả:
“Ba năm rồi gửi lại quê hƣơng
Mái lều tranh
Tiếng mõ đêm trƣờng
Luống cày đất đỏ
Ít nhiều ngƣời vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya”
( Nhớ)
thì cái bóng lung linh trong giấc mơ của người lính Tây Tiến lại là hình ảnh của những
“dáng Kiều thơm” Hà Thành quyến rũ. Đừng vội phê phán người lính của Quang
Dũng chưa rũ bỏ đc tính chất tiểu tư sản yếu đuối và còn “mộng rớt mộng rơi” mà phải
hiểu đó là chất mộng mơ rất lãng mạn của người lính hào hoa. Chính giấc mơ lãng
mạn với “dáng Kiều thơm” thanh thoát đã trở thành đôi cánh nâng đỡ tinh thần người
lính bay qua những khó khăn, thử thách khốc liệt tưởng chừng như không thể vượt qua
được và làm cho tâm hồn anh bộ đội trở nên đẹp hơn, gần gũi, chân thật và phong phú
hơn.
C. KẾT BÀI
Những điều đã phân tích trên cho ta thấy Quang Dũng đã khắc hoạ được một
cách khá đầy đủ chân dung của người lính Tây Tiến từ diện mạo đến tâm hồn, khí
phách anh hùng, thái độ trước cái chết cũng như vẻ hào hoa rất Hà Nội của họ. Với
niềm yêu thương trân trọng, bằng nghệ thuật thơ tuyệt vời, Quang Dũng đã tạo dựng
được một trượng đài ngôn ngữ để bất tử hoá phẩm chất anh hùng, vẻ đẹp của anh bộ
đội cụ Hồ trong cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ mà rất đỗi vui tươi, hào hùng:
“Tây Tiến biên cƣơng mờ lửa khói
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và con ngƣời ấy, bài thơ ấy
Vẫn sống muôn đời cùng núi sông.”
( Giang Nam)
99
HOÀI THANH
Đề ra: Phân tích bài "Một thời đại trong thi ca" của Hoài Thanh
A. MỞ BÀI:
Hoài Thanh (1909 – 1982) là một nhà phê bình văn học nổi tiếng của văn học
Việt Nam thế kỷ XX. Văn phê bình của ông vừa lấp lánh trí tuệ, vừa dạt dào cảm xúc,
giàu tính thẩm mỹ và được diễn đạt bằng những lời văn rất mực tài hoa. Đoạn văn
dưới đây trích trong bài tiểu luận “Một thời đại trong thi ca” là một trong những dẫn
chứng tiêu biểu nhất cho phong cách phê bình nói trên của ông.
B. THÂN BÀI:
I. Vài nét về tác giả.
Hoài Thanh ( 1909 – 1982) xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo ở xã
Nghi Trung, Nghi Lộc, Nghệ An. Ông sớm tham gia phong trào yêu nước và viết văn
từ những năm mới ngoài hai mươi tuổi. Hoạt động chủ yếu của ông là trong ngành văn
hoá nghệ thuật. Ông được độc giả đánh giá là nhà phê bình xuất sắc nhất của văn học
Việt Nam hiện đại. Tác phẩm nổi tiếng nhất là “Thi nhân Việt Nam”. Ông được Nhà
nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2000.
II. Phân tích văn bản.
Hoài Thanh đã triển khai bài viết của mình như sau:
Bƣớc 1: Đầu tiên, tác giả nêu luận đề bao trùm của đoạn trích là “tinh thần thơ
Mới”. Nhưng cái khó là ranh giới giữa thơ cũ và thơ Mới không phải rạch ròi, dễ nhận
ra. Vậy làm thế nào để nhận diện? Tác giả đề nghị:
a/ Không thể căn cứ vào những bài thơ dở (vì cái dở không đại diện gì hết) mà
phải so sánh bài thơ hay với bài thơ hay.
b/ Vả lại cái mới và cái cũ vẫn tiếp nối qua lại. Cho nên, phải so sánh trên đại
thể, không căn cứ vào tiểu tiết. Tiêu chí nhận diện như vậy là rất đúng đắn, khoa học
và rất thuyết phúc.
Bƣớc 2: Vài định nghĩa thơ Mới bằng cách đối sánh:
a/ Tinh thần thơ cũ bao gồm trong chữ “ta”
b/ Tình thần thơ Mới bao gồm trong chữ “tôi”
( Tác giả có nói chỗ giống nhau nhưng hướng trọng tâm vào chỗ khác nhau của
hai chữ này).
Bƣớc 3: Luận giải về nội dụng và biểu hiện của hai chữ “ta” và “tôi”
a/ Nội dung chữ “ta” là phần ý thức cộng đồng, “đoàn thể” trong đời sống tinh
thần của con người, số phận và biểu hiện của nó trong thời đại thơ cũ trước kia.
b/ Nội dung chữ “tôi” là ý thức cá nhân trong đời sống tinh thần con người, biểu
hiện và số phận của nó trong thời đại thơ Mới.
c/ Hai ý thức này là hai tiếng nói tồn tại trong đời sống tinh thần của mỗi người.
Ở thời đại trước, cái “ta” lấn át hoàn toàn cái “tôi”, cái “tôi” không có cơ may nảy nở.
Còn thời đại ngày nay, cái “tôi” bừng tỉnh, trỗi dậy giành quyền sống. Phong trào thơ
Mới nảy sinh từ sự trỗi dậy của cái “tôi” đó. Theo tác giả, cái “tôi” trước đây nếu có
cũng phải ẩn mình sau cái “ta”. Còn chữ “tôi” là chữ “tôi” theo nghĩa tuyệt đối của nó.
Trong thời đại thơ Mới bây giờ, cái “tôi” mang số phận rất đáng thương và đầy
bi kịch. Nó không còn cái cốt cách hiên ngang ngày trước như cái khí phách ngang
100
tàng của Lý Bạch, cái ung dung, ngạo nghễ trước cơ hàn như Nguyễn Cong Trứ mà
rên rỉ, thảm hại, tội nghiệp trong thơ Xuân Diệu.
Như vậy, qua ba bước trên, người ta thấy Hoài Thanh đã tuân theo trật tự: từ xa
đến gần, từ ngoài vào trong, từ khái quát đến cụ thể, từ diện mạo (trong không gian)
đến diễn biến lịch sử (trong thời gian). Các bước với trật tự ấy rất đảm bảo tính logic
của tư duy. Vì vậy mà bài văn rất giàu sức thuyết phục. Đây là chỗ mạnh của bài văn
nghị luận.
III. Phân tích đoạn văn lý giải bi kịch của cái “tôi” và biểu hiện của nó từ “đời
chúng ta nằm trọn trong vòng chữ tôi”… đến “ buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”.
Đặc sắc của đoạn này là những khái quát rất chính xác, súc tích, lại được diễn tả bằng
những câu văn giàu hình ảnh, nhịp điệu. Điều đó khiến cho văn phê bình mà đậm chất
thơ. Chủ đề bao trùm là luận giải về nỗ lực tìm tòi và đào sâu mà cũng là trốn chạy vào
ý thức cá nhân của thơ Mới. Chủ đề được triển khai thành hai phần chính. Một là khái
quát về hướng tìm tòi và kết quả của chúng: “mất bề rộng, ta đi tìm bề sâu. Nhƣng
càng đi sâu càng thấy lạnh”. “Mất bề rộng” nghĩa là không tìm được tiếng nói chung,
niềm giao cảm với cuộc đời. Còn “đi tìm bề sâu”, đây chính là quay về “hƣớng nội”,
nỗ lực khám phá để đào sâu vào chính cái “tôi”. “Nhƣng càng đi sâu càng lạnh” nghĩa
là càng cô đơn, lạnh giá, bế tắc. Cho nên thơ Mới đã tìm các nẻo đường trốn chạy bằng
các thoát ly. Đây là phần thứ hai của đoạn văn: tác giả điểm qua những gương mặt
điển hình cùng những lãnh địa riêng tiêu biểu cho thơ Mới qua một số nhà thơ Mới để
thấy được sự phân hoá đa dạng cùng sự quẩn quanh bế tắc của ý thức cá nhân.
Đoạn văn trên được diễn đạt bằng một văn phong phê bình rất tài hoa. Tác giả
không dùng những khái niệm trừu tượng mà dùng những ngôn từ dung dị, dễ hiểu mà
vẫn súc tích, diễn tả được bản chất của đối tượng. Tác giả đã tạo ra được hình ảnh thật
độc đáo. Đó là hình ảnh độc giả cứ theo chân những nhà thơ tiêu biểu mà bước vào cõi
riêng của mối vị. Đặc biệt, Hoài Thanh đã sáng tạo được một đoạn văn có nhịp điệu
uyển chuyển, mềm mại và hết sức phong phú, linh hoạt.
Các nhà thơ Mới đã giải quyết bi kịch trên bằng cách gửi vào tiếng Việt và
“tiếng ta còn, nƣớc ta còn”. Vì thế họ phải “tìm về dĩ vãng để vin vào những gì bất diệt
đủ đảm bảo cho ngày mai”. Họ dồn tình yêu nước của mình vào tình yêu tiếng Việt và
nền thơ ca dân tộc. Họ muốn sáng tạo những giá trị văn hoá, trước hết là thơ ca để làm
sao cho tiếng nói của nòi giống giàu hơn, đẹp hơn, ngày càng trường tồn, bất diệt. Đó
là một biểu hiện của lòng yêu nước ở các nhà thơ Mới rất đáng ghi nhận và trân trọng,
nâng niu.
101
NGUYỄN QUANG NINH
Khoa Ngữ Văn - ĐHSP Hà Nội
NGHỊ LUẬN
VỀ VĂN XUÔI HIỆN THỰC CÁCH MẠNG
Phần 2
Hà Nội - 2010
102
MỤC LỤC
Phần II: NGHỊ LUẬN VỀ VĂN XUÔI HIỆN THỰC CÁCH MẠNG
NAM CAO
Đề 1: Tóm tắt sự nghiệp của Nam Cao ................................................................. 105
Đề 2: Phân tích nhân vật Chí Phèo ........................................................................ 106
Đề 3: Phân tích diễn biến tâm trạng Chí Phèo ...................................................... 109
Đề 4: Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm "Chí Phèo" ................................ 111
Đề 5: Phân tích nhân vật Bá Kiến ......................................................................... 112
Đề 6: Nghệ thuật đặc sắc trong Chí Phèo .............................................................. 114
Đề 7: Phân tích hai tấn bi kịch tinh thần của Hộ ................................................... 115
Đề 8: Những đặc sắc nghệ thuật của đời thừa ....................................................... 117
Đề 9: Phong cách nghệ thuật của Nam Cao .......................................................... 118
Đề 10: Truyện ngắn "Chí phèo" của Nam Cao và truyện ngắn "Vợ nhặt" của Kim Lân
đề viết về tình cảnh người nông dân trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ... 119
HOÀNG PHỦ NGỌC TƢỜNG
Đề: Phân tích bài "Ai đã đặt tên cho dòng sông" ................................................. 124
THẠCH LAM
Đề 1: Phân tích bài "Hai đứa trẻ" của Thạch Lam ............................................... 127
Đề 2: Vì sao chị em Liên đêm đêm cố thức để đợi chuyến tàu đêm vụt qua phố huyện?
Ý nghĩa ................................................................................................................. 128
Đề 3: Truyện ngắn "Hai đứa trẻ" là một tiêu biểu cho phong cách của Thạch Lam.
Anh/Chị hãy trình bày những nét đặc sắc trong nghệ thuật của tác phẩm trên .... 132
NGUYỄN MINH CHÂU
Đề bài: Phân tích tình huống của truyện "Chiếc thuyền ngoài xa" của
Nguyễn Minh Châu ............................................................................................... 133
NGUYỄN THI
Đề 1: Phân tích những điểm giống nhau và khác nhau của hai nhân vật Việt và Chiến
trong truyện ngắn "Những đứa con trong gia đình" ............................................. 136
Đề 2: Những đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm "Những đứa con trong gia đình của
Nguyễn Thi ............................................................................................................ 140
NGUYỄN TRUNG THÀNH
103
Đề 1: Tóm tắt tác phẩm "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành ........................ 140
Đề 2: Phân tích nhân vật Tnú - nhân vật tiêu biểu cho văn học, bút pháp sử thi .. 141
Đề 3: Phân tích hình tượng cây xà nu trong tác phẩm "Rừng xà nu". Vì sao tác giả
lại đặt cho thiên truyện của mình cái tên "Rừng xà nu"? ...................................... 144
Đề 4: Phân tích chất sử thi hùng tráng, trang nghiêm trong tác phẩm "Rừng xà nu" của
Nguyễn Trung Thành ............................................................................................ 147
Đề 5: So sánh sự giống nhau và khác nhau cơ bản của hai tác phẩm "Rừng xà nu"
của Nguyễn Trung Thành và "Những đứa con trong gia đình" của Nguyễn Thi . 150
LƢU QUANG VŨ
Đề: Phân tích vở kịch "Hồn Trƣơng Ba da hàng thịt" trong sách giáo khoa để làm
sáng tỏ triết lý sống "Không thể bên trong một đằng bên ngoài một nẻo đƣợc. Tôi
muốn đƣợc là tôi toàn vẹn" ................................................................................... 153
PHẠM VĂN ĐỒNG
Đề bài: Về bài Nguyễn Đình Chiểu của Phạm Văn Đồng .................................... 157
NGUYỄN HUY TƢỞNG
Đề 1: Phân tích hai mâu thuẫn cơ bản trong vở kịch "Vũ Như Tô" của Nguyễn Huy
Tưởng ................................................................................................................... 159
Đề 2: Trình bày cảm nghĩ về bi kịch của nhân vật Vũ Như Tô trong đoạn trích
"Vĩnh biệt cửu trùng đài" ...................................................................................... 161
TÔ HOÀI
Đề 1: Tóm tắt tác phẩm "Vợ chồng A phủ" của Tô Hoài ...................................... 163
Đề 2: Phân tích nhân vật Mị để làm nổi bật sức sống tiềm tàng của nhân vật ...... 163
Đề 3: Những giá trị lớn của "Vợ chồng A phủ" ..................................................... 168
Đề 4: Phân tích nhân vật A phủ ............................................................................. 174
KIM LÂN
Đề 1: Phân tích tình huống độc đáo của truyện ngắn "Vợ Nhặt" .......................... 176
Đề 2: Phân tích giá trị nhân đạo của tác phẩm "Vợ Nhặt" .................................... 176
Đề 3: Những nét đặc sắc của "Vợ Nhặt"................................................................ 180
Đề 4: Hai truyện ngắn "Vợ chồng A phủ" (Tô Hoài) và "Vợ Nhặt" (Kim Lân)
đều viết về số phận và vẻ đẹp của người phụ nữ... .............................................. 181
Đề 5: Truyện ngắn "Chí phèo" của Nam Cao và "Vợ nhặt" của Kim Lân đều viết
về tình cảnh người nông dân trước Cách mạng ..................................................... 184
104
NGUYỄN TUÂN
Đề 1: Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân ................................................................... 186
Đề 2: Những nét chính của phong cách nghệ thụât và sự biến chuyển phong cách
nghệ thụât của Nguyễn Tuân ................................................................................ 187
Đề 3: Những chuyển biến phong cách Nguyễn Tuân sau cách mạng ................... 188
Đề 4: Phân tích vẻ đẹp lãng mạn của hình tượng Huấn Cao ................................. 189
Đề 5: Phân tích, bình luận cảnh cho chữ để thấy rõ đây là "một cảnh tượng xưa nay
chưa từng có" ......................................................................................................... 192
Đề 6: Đặc sắc nghệ thuật "Chữ người tử tù" ......................................................... 194
Đề 7: Phân tích hình tượng thiên nhiên Sông Đà .................................................. 194
Đề 8: Phân tích hình tượng ông lái đò... ................................................................ 198
Đề 9: Sự giống nhau và khác nhau trong việc tiếp cận sông Đà của Nguyễn Tuân và
sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường ............................................................ 201
VŨ TRỌNG PHỤNG
Đề 1: Phân tích nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng được thể hiện trong trang
sách "Hạnh phúc của một tang gia". ..................................................................... 201
Đề 2: Cái chết của cụ Tô và đám tang được kể trong đoạn trích "Hạnh phúc của một
tang gia" đang khóc hay đang cười? ..................................................................... 204
105
NAM CAO (1917 – 1951)
Đề 1: Tóm tắt sự nghiệp của Nam Cao.
Bài Làm
Trên bầu trời dòng văn học hiện thực phê phán, vào giai đoạn cuối (1939 –
1945), Nam Cao (1917 – 1951), tên thật là Trần Hữu Tri ở làng Đại Hoàng, phủ Lý
Nhân, tỉnh Hà Nam đã nổi bật lên như một ngôi sao long lanh toả sáng.
Sự nghiệp văn học Nam Cao có thể chia làm hai giai đoạn:
A. Trƣớc Cách mạng:
1. Từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, Nam Cao đã mơ ước sáng tác. Những
tác phẩm của ông lúc này còn mang nặng khuynh hướng lãng mạn, thoát ly, thi vị hóa
hiện thực mà sau này ông đã tự phê phán cho đó là thứ văn chương như “ánh trăng
lừa dối”. Ông kí các bút danh: Thuý Rư, Xuân Du, Nhiêu Khê, Nguyệt… Chỉ mãi đến
năm 1941, khi kiệt tác “Chí Phèo” ra đời, Nam Cao mới chuyển hẳn sang trường phái
hiện thực theo con đường nghệ thuật “vị nhân sinh” để kế tục những tên tuổi lừng danh
như: Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng…
2. Những sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng tháng tám tập trung vào hai
đề tài chính:
- Cuộc sống của những người tiểu tư sản nghèo.
- Cuộc sống của những người nông dân cùng khổ.
Dù viết về đề tài nào thì điều mà Nam Cao quan tâm trước tiên và day dứt nhất
là tình trạng con người bị tha hoá và bị xói mòn về nhân phẩm, thậm chí bị huỷ hoại cả
nhân tính trong xã hội phi nhân đạo đương thời.
3. Về đề tài trí thức tiểu tư sản, đáng chú ý là các truyện ngắn: “Trăng sáng”,
“Đời thừa”, “Nƣớc mắt”, “Quên điều độ”, “Những chuyện không muốn viết”… và
tiểu thuyết “Sống mòn” (1944). Trong những tác phẩm này, Nam Cao đã miêu tả hết
sức chân thực và cảm động tình trạng nghèo khổ, sống dở chết dở của người trí thức
nghèo. Trong đó, tác giả đặc biệt đi sâu vào những tấn bi kịch tâm hồn họ. Đó là tấn bi
kịch dai dẳng, thầm lặng mà đau đớn của những con người có ý thức sâu sắc về giá trị
sự sống và nhân phẩm; có hoài bão lớn về một sự nghiệp tinh thần cao cả nhưng lại bị
gánh nặng cơm áo và cuộc sống tàn nhẫn đầy rẫy bất công đẩy vào cảnh “Đời thừa”.
Phê phán cái xã hội phi nhân đạo đã bóp nghẹt sự sống và tàn phá tâm hồn con
người, Nam Cao đồng thời cũng thể hiện niềm khao khát hướng tới cuộc sống đẹp đẽ
xứng đáng với con người.
4. Ở đề tài người nông dân: là nhà văn sinh ra và lớn lên nơi chốn bùn lầy, nước
đọng, Nam Cao hiểu biết khá sâu sắc về cuộc sống những con người thấp cổ bé họng
này. Ông đã để lại chừng 20 truyện ngắn có giá trị về đề tài này, đáng chú ý là : “Lão
Hạc”, “Chí Phèo”, “Nghèo”… “Trẻ con không đƣợc ăn thịt chó”,… “Dì Hảo”. Qua
những tác phẩm trên, Nam Cao vừa mô tả một cách thấm thía và cảm động những số
phận tăm tối hẩm hiu bị tha hoá, bị lăng nhục của người nông dân, vừa kết án sâu sắc
cái xã hội tàn bạo đã tàn phá cả thể xác lẫn linh hồn của họ, đồng thời phát hiện và
khẳng định: phẩm chất lương thiện đẹp đẽ của họ ẩn giấu đằng sau những tâm hồn
106
tưởng như tối tăm và cằn cỗi đó. Chiều sâu của ngòi bút hiện thực và nhân đạo của
Nam Cao chính là ở đấy.
5. Nam Cao đã không thấy được khả năng đổi đời của người nông dân và triển
vọng xã hội. Tuy vậy, trong truyện ngắn “Điếu văn” (1944), Nam Cao đã có lời chào
đón chân thành, tha thiết tia sáng bình minh đang bừng dậy ở chân trời “Cuộc đời
không thể cứ mù mịt mãi mãi thế này đâu… một rạng đông đã báo rồi!”.
B. Sau Cách mạng:
1. Nam Cao là một trong ít nhà văn đến với Cách mạng từ đầu. Năm 1948, ông
được kết nạp vào Đảng. Ông tham gia hội văn hoá cứu quốc, tích cực hoạt động Cách
mạng kháng chiến.
2. Nam Cao được xem là một trong những cây bút tiêu biểu nhất trong những
năm đầu của kháng chiến chống Pháp. Thời kì này ông viết được nhiều tác phẩm có
giá trị như nhật kí “Ở rừng” (1948), “Chuyện biên giới” – ký sự. Đặc biệt là truyện
ngắn “Đôi mắt”, xứng đáng là một tuyên ngôn nghệ thuật của tầng lớp văn nghệ sĩ,
tiểu tư sản theo kháng chiến.
3. (Phong cách) Nam Cao có biệt tài trong việc miêu tả, phân tích tâm lý con
người. Ngôn ngữ của Nam Cao sống động, uyển chuyển, tinh tế, rất gần với lời ăn
tiếng nói của quần chúng. Ông có ngòi bút vừa tỉnh táo, vừa sắc lạnh, vừa nặng trĩu
suy tư và đằm thắm yêu thương. Văn Nam Cao vừa hết sức chân thực, vừa thấm đượm
ý vị, triết lí, trữ tình.
Kết luận:
- Năm 1951 trên đường về quê công tác, ông bị kẻ thù phục kích giết chết giữa
khi tài năng đang độ nở rộ. Nam Cao ngã xuống trong tư thế người nghệ sĩ - chiến sĩ.
Ông hoạt động văn học chỉ trên dưới mười năm nhưng đã để lại một sự nghiệp văn học
lớn lao. Nam Cao được đánh giá là nhà văn đứng ở vị trí hàng đầu trong nền văn xuôi
Việt Nam thế kỉ XX và xứng đáng được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học
nghệ thuật - đợt I năm 1996.
- Cuộc đời lao động nghệ thuật vì lý tưởng nhân đạo, lý tưởng Cách mạng, và
sự hi sinh anh dũng của Nam Cao mãi mãi là một tấm gương cao đẹp của nhà văn -
chiến sĩ.
Đề 2: Phân tích nhân vật Chí Phèo để làm nổi bật bi kịch bị cự tuyệt quyền làm
ngƣời.
Bài Làm
Bình luận về nhân vật Chí Phèo một nhà phê bình văn học viết: “Khi chị Dậu,
anh Pha xuất hiện trên những trang sách của dòng văn học hiện thực phê phán, ngƣời
ta cứ nghĩ nỗi khổ của ngƣời nông dân ở một nƣớc thuộc địa nửa phong kiến đến nhƣ
thế là cùng. Nhƣng khi Chí Phèo khật khƣỡng bƣớc ra từ những trang sách của Nam
Cao, ngƣời ta liền mới nhận ra rằng đây là hiện thân của những gì khốn khổ, tủi nhục
nhất”. Chị Dậu phải bán chó, bán con, bán cả dòng sữa ngọt ngào của đời mình nhưng
dầu sao chị vẫn được gọi là người. Còn Chí Phèo phải bán cả diện mạo và linh hồn của
mình để trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Và khi ý thức nhân phẩm được trở về
thì lại bị xã hội lạnh lùng cự tuyệt để phải tìm đến cái chết thảm thương. Tấn bi kịch
thê thảm và độc đáo của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên được Nam Cao
diễn tả thấm thía và cảm động là ở chỗ đó.
107
I. Lai lịch = đoạn đời 1 - xuất thân của Chí Phèo là một người nông dân
lương thiện.
Lai lịch của Chí Phèo là một số không tròn trĩnh. Hắn là một thằng không cha,
không mẹ, không bà con thân thích, không một tấc đất cắm dùi. Ngay từ khi mới sinh
ra, hắn đã bị vứt bên cái lò gạch cũ bỏ không. Hắn được một người thả ống lươn mang
về nuôi, sau đó cho người đàn bà goá mù. Và người đàn bà goá mù bán cho bác Phó
Cối. Suốt quãng đời niên thiếu, Chí Phèo không có tuổi thơ. Hắn phải sống kiếp bơ vơ
đi ở cho hết nhà này sang nhà nọ. Đến tuổi trưởng thành, Chí Phèo làm anh canh điền
cho nhà Bá Kiến, một tên địa chủ kiêm cường hào khét tiếng độc ác, gian hùng. Tuy
phải làm thân trâu ngựa, bị áp bức bóc lột thậm tệ nhưng đã có một thời Chí Phèo là
người nông dân lương thiện, khoẻ mạnh về thể xác, lành mạnh về tâm hồn.
II. Bi kịch 1 = đoạn đời 2 – Chí Phèo đặt ra vấn đề xã hội: người nông dân bị
tha hoá, đầy đoạ, lăng nhục…
Nhưng quãng đời lương thiện của Chí Phèo đã bị chấm dứt nhanh chóng bởi
bàn tay độc ác của giai cấp thống trị. Chỉ vì một cớ ghen tuông vu vơ, Bá Kiến đã đẩy
Chí Phèo vào tù. Mỉa mai thay, nhà tù, cái công cụ cải tạo con người của chế độ thực
dân đã tiếp tay cho bọn cường hào phong kiến để giết chết phần người trong Chí Phèo.
Từ làng Vũ Đại vào tù, Chí Phèo là một con người; ở tù ra, về làng Vũ Đại, Chí Phèo
là một con quỷ. Sau bảy, tám năm biệt tích trở về, Chí Phèo xuất hiện trước mắt dân
làng với một bộ dạng rất kì quái: “cái đầu trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, hai con
mắt gƣờm gƣờm trông gớm chết. Nhìn mặt hắn ngƣời ta nghĩ là mặt của một con vật
lạ”.
Nam Cao vốn là một nhà văn chú trọng đi sâu vào đời sống nội tâm nhân vật
hơn là chú trọng vẻ bề ngoại, rất ít khi ông tả ngoại hình nhân vật kĩ lưỡng như tả Chí
Phèo lúc này. Bởi một khi đã trở thành quỷ dữ, Chí Phèo không thể mang khuôn mặt
khoẻ mạnh và lành như đất của anh Chí ngày nào. Quá trình tha hoá, lưu manh hoá của
hắn là quá trình diễn ra trên cả hai phương diện: ngoại hình và tính cách, nhân hình và
nhân tính. Trên đường đến nhà Bá Kiến, tay cầm cổ chai, Chí Phèo vừa đi vừa chửi
bới, nguyền rủa nhưng dường như đằng sau tiếng chửi lảm nhảm của Chí Phèo là ý
thức mơ hồ về bi kịch về cuộc đời mình, là nỗi căm phẫn vật vã, tuyệt vọng của một
con người thèm khát được giao tiếp với đồng loại. Mà tội nghiệp thay, khát khao được
giao tiếp của Chí đơn giản chỉ là có được một tiếng người chửi lại hắn. Làng Vũ Đại
để mặc hắn trong sự im lặng đáng sợ. Trong nỗi cô đơn, đáp lại hắn hoạ may chỉ có
mấy con chó. Thành ra Chí Phèo cũng chỉ là một con vật sống giữa sự lạnh nhạt của xã
hội loài người.
Giờ đây, để tồn tại với bọn cường hào (ăn thịt người không biết tanh), Chí Phèo
không thể hiền lành nhẫn nhục như trước nữa. Bởi càng hiền lành, nhẫn nhục thì càng
bị nhấn xuống bùn. Muốn sống phải gây gổ, cướp giật, ăn vạ, muốn thế phải liều lĩnh,
mạnh mẽ, những thứ ấy Chí Phèo tìm thấy ở rượu. Cho nên, cuộc đời Chí Phèo giờ
đây được tính bằng những cơn say, những tội ác. Đó là một cuộc đời sống vô thức,
một công cụ tội ác trong tay bọn thống trị… “Hắn say thì hắn làm bất cứ việc gì ngƣời
ta sai hắn làm… Hắn tác oai tác quái cho bao nhiêu dân lành, phá bỏ bao nhiêu cơ
nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu
và nƣớc mắt của bao nhiêu ngƣời dân lƣơng thiện”. Mọi hành động, tội ác của Chí
Phèo là sự phản ứng gay gắt, quyết liệt của người nông dân lương thiện bị dồn tới
bước đường cùng. Nhưng tính chất tha hoá, lưu manh của Chí Phèo đã làm cho những
phản ứng đó trở nên mất phương hướng, tiêu cực, rất nguy hiểm, dễ bị kẻ thù mua
108
chuộc, lợi dụng. Càng ngày, Chí Phèo càng rơi sâu vào vực thẳm của đau thương và
tội lỗi, trượt dài trên con đường tha hoá, lưu manh không lối thoát. Hắn lâm vào một
tấn bi kịch đầy nghịch lí: vừa là nạn nhân đau thương của giai cấp thống trị, vừa là con
quỷ dữ đối với dân làng Vũ Đại. Mọi người đều sợ và tránh mặt Chí Phèo mỗi lần hắn
đi qua.
Như vậy, đẻ ra người nông dân lương thiện là một bà mẹ hiền lành, tội nghiệp
nào đó lén lút vứt đứa con vào một cái lò gạch bỏ không. Nhưng đẻ ra một thằng Chí
Phèo lưu manh, tha hoá bị đầy đoạ, lăng nhục, bị cướp cả nhân tính và nhân hình, bị
đối xử như một con vật là toàn bộ xã hội thực dân phong kiến bất công, tàn bạo, vô
nhân đạo thời bấy giờ.
III. Bi kịch 2 = đoạn đời 3:
Nhưng bi kịch của Chí Phèo không chỉ dừng lại ở đó. Chí Phèo còn lâm vào
một tấn bi kịch đau đớn hơn: bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Giữa bóng tối mênh
mông của cuộc đời, vào một đêm trăng thơ mộng, Chí Phèo được gặp Thị Nở, một
người đàn bà xấu đến ma chê quỷ hờn. Được sự săn sóc giản dị bằng tình yêu thương
mộc mạc, chân thành không tính toán của người đàn bà khốn khổ là Thị Nở, bản chất
người nông dân lao động lương thiện trong Chí Phèo đã thức dậy. Nam Cao đã giành
cho Chí Phèo những trang văn xuôi cảm động đầy chất thơ để miêu tả tình yêu và qúa
trình thức tỉnh chất người trong hắn. Lần đầu tiên tỉnh dậy sau những cơn say vô tận,
Chí Phèo lắng nghe từng âm thanh náo nức của cuộc sống vang động vào tâm hồn
mình: những âm thanh quen thuộc như tiếng chim hót, tiếng gõ mái chèo anh thuyền
chài đuổi cá trên sông, tiếng chuyện trò của mấy người đàn bà đi chợ về… Đó là âm
thanh cuộc sống gia đình hạnh phúc ngày nào cũng diễn ra nhưng chỉ hôm nay Chí
Phèo mới nghe thấy. Bởi sau một thời gian dài, Chí Phèo bị xã hội thực dân phong
kiến với bọn cường hào độc ác, nhà tù tàn bạo làm cho mù điếc tâm hồn. Giờ đây tâm
hồn hắn đã được Thị Nở với bát cháo hành chứa đựng bên trong hương vị của tình yêu
chân thành và hạnh phúc giản dị thấm thía làm cho sáng tỏ. Lần đầu tiên hắn biết buồn
vì sự cô độc; cũng là lần đầu tiên hắn biết nhớ, biết hồi tưởng về quá khứ với ước mơ
một gia đình hạnh phúc, yên vui, bình dị. Cuộc gặp gỡ với Thị Nở có ý nghĩa như một
tia chớp loé lên trong cuộc đời tăm tối triền miên của Chí Phèo. Nó giúp Chí Phèo
nhận ra tình trạng bi đát và tuyệt vọng của số phận mình:
“Nhìn phía trƣớc ngƣời thân chẳng có
Ngó sau lƣng quá khứ rợn ghê ngƣời”
Tình yêu thương đã thức tỉnh con người, khơi dậy trong hắn nỗi khát khao
lương thiện. Chí Phèo rưng rưng cảm động. Chí Phèo muốn làm hoà với mọi người
biết bao, nghĩa là hắn vô cùng tha thiết muốn kết nạp trở lại cái xã hội bằng phẳng của
những con người lương thiện. Thị Nở là cái cầu đưa Chí Phèo trở về cuộc sống lương
thiện và câu trả lời của Thị Nở quyết định số phận của Chí: được kết nạp trở lại xã hội
loài người hay vĩnh viễn bị đầy đoạ trong kiếp sống thù hận. Chí Phèo hồi hộp hi vọng.
Nhưng cánh cửa hi vọng vừa hé mở thì lại bị đóng sầm ngay lại vì bà cô của Thị
không cho Thị đâm đầu đi lấy một thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ. Nhưng
trách gì bà cô – bà cô là hiện thân của thành kiến, định kiến bất công, vô nhân đạo của
làng Vũ Đại, của xã hội cũ. Lâu nay, mọi người trong làng quen coi hắn là quỷ dữ mất
rồi! Chí Phèo đã sống những giây phút hạnh phúc nhất của cuộc đời trong tình yêu, lại
rơi vào những giây phút đau đớn nhất của tấn bi kịch tinh thần. Rượu không thể làm
hắn say… “hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành” – cái hương vị của tình người,
tình thương yêu mà Chí không thể quên được dù chỉ nếm trải trong một lần ngắn ngủi;
109
hắn ôm mặt khóc rưng rức. Giọt nước mắt của Chí Phèo là sự thể hiện cao nhất đỉnh
điểm của nỗi đau đớn khi nhận ra mình đã bị cự tuyệt quyền làm người.
Chí Phèo lại uống rượu và xách dao ra đi. Nhưng hắn không rẽ vào nhà Thị Nở
như dự định ban đầu mà đến thẳng nhà Bá Kiến. Trong cơn đau khổ và tuyệt vọng, Chí
Phèo trở thành người nô lệ thức tỉnh, một đầu óc sáng suốt nhất làng Vũ Đại, hắn hiểu
ra, thấm thía tội ác của kẻ đã cướp cả hình người và hồn người của mình là Bá Kiến.
Chí Phèo lần này quyết đến để trả thù. Đứng trước Bá Kiến, Chí Phèo đã chỉ tay vào
mặt lão và dõng dạc đòi quyền làm người, đòi được làm lương thiện. Chí Phèo đã
vung dao lên giết chết Bá Kiến. Giết xong Bá Kiến, Chí Phèo quay lại tự giết mình.
Chí Phèo chết vì không tìm được lối thoát, vì xã hội không cho hắn sống. Ý thức nhân
phẩm đã trở về, Chí Phèo không bằng lòng kiếp sống thú vật nữa nên đã tìm đến cái
chết. Chí Phèo chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống và cái chết của Chí cũng là một
cái chết thê thảm của một con vật. Nó có ý nghĩa tố cáo xã hội một cách sâu sắc và
mãnh liệt.
Trước đây để bám lấy cuộc sống, Chí Phèo đã từ bỏ nhân phẩm. Giờ đây ý thức
nhân phẩm đã trở về thì Chí Phèo lại phải thù tiêu cuộc sống của mình. Gấp trang sách
lại ta còn nghe văng vẳng đâu đây câu hỏi của Chí Phèo: “Ai cho tao lƣơng thiện?”.
Đó là một câu hỏi chứa chất phẫn uất đau đớn làm day dứt hàng triệu trái tim người
đọc: làm thế nào để cho con người được sống cuộc sống con người trong cái xã hội tàn
bạo vùi dập nhân tính ấy? Câu hỏi của Chí Phèo là “Một câu hỏi lớn. Không lời đáp”
thật ai oán, tuyệt vọng! Đấy cũng chính là bi kịch lớn nhất ở nhân vật yêu quý này.
Từ số phận nhân vật Chí Phèo, Nam Cao muốn khái quát một hiện tượng phổ
biến ở nông thôn nước ta trước Cách mạng: một bộ phận nông dân lao động lương
thiện bị đẩy vào con đường tha hoá, lưu manh hoá.
Kết luận:
Sáng tạo ra nhân vật Chí phèo với gương mặt không tuổi, chằng chịt đầy vết sẹo
và với tâm hồn mang nỗi đau quằn quại của một con người bị cự tuyệt quyền làm
người,Nam Cao đã mang lại cho người đọc một cái nhìn hoàn toàn mới, ở một góc độ
mới về nông dân: cái nhìn vào cõi tinh thần, vào chiều sâu bi kịch. Viết những trang
văn đau đớn thấm đẫm nước mắt về bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí, Nam
Cao đã cắm cho mình một cái mốc vinh quang trên con đường trở thành nhà văn lớn
của văn học hiện thực và văn xuôi Việt Nam thế kỉ XX.
ĐỀ 3 : PHÂN TÍCH DIỄN BIẾN TÂM TRẠNG CHÍ PHÈO TỪ BUỐI SÁNG
SAU KHI GẶP THỊ NỞ ĐẾN KHI KẾT THÚC CUỘC ĐỜI ĐỂ LÀM NỔI RÕ
BI KỊCH CỦA NHÂN VẬT NÀY.
I.Khái quát về tác giả, tác phẩm và bi kịch của nhân vật
1.Nam Cao (1917-1951) là nhà văn hiện thực lớn có tư tưởng nhân đạo vừa sâu
sắc, vừa mới mẻ, vừa độc đáo. Sáng tác của ông trước Cách mạng xoay quanh hai đề
tài chính là trí thực tiểu tư sản và người nông dân cùng khổ. Điều làm ông day dứt đến
đau đớn là tình trạng, nhân cách con người bị huỷ hoại. Là nhà văn có biệt tài phân
tích tâm lý, Nam Cao đã khám phá ra những diễn biến nội tâm nhân vật vừa tất yếu,
vừa bất ngờ rất thú vị. Qua việc tìm hiểu diễn biến tâm trạng Chí Phèo từ buổi sáng
sau ghi gặp Thị Nở đến khi kết thúc cuộc đời, chúng ta cũng có thể thấy rõ điều đó.
2. “Chí Phèo” là một kiệt tác của Nam Cao về đề tài người nông dân và là kết
tinh khá đầy đủ cho tài năng nghệ thuật của ông. Tác phẩm đi sâu vào hai tấn bi kịch
110
nối tiếp nhau. Thứ nhất là bi kịch bị tha hoá đầy đoạ, lăng nhục. Từ một người dân
lương thiện bị xã hội biến thành kẻ bất lương, thậm chí thành con quỷ dữ. Bi kịch thứ
hai là bi kịch bị từ chối quyền làm người.
II.Phân tích diến biễn tâm trạng Chí Phèo
1.Trước hết là sự thức tỉnh. Bắt đầu là tỉnh rượu. Sau những “cơn say vô tận”,
“bây giờ thì hắn tỉnh”. Sau đêm gặp Thị Nở, Chí Phèo đã sống lại cảm xúc đầy nhân
tính. Hắn cảm nhận được không gian xung quanh với “cái lều ẩm thấp mới chỉ lờ mờ”.
Đặc biệt, hắn đã cảm nhận được những âm thanh quen thuộc của cuộc sống quanh
mình : tiếng nói cười của mấy người đi chợ, tiếng gõ mái chèo đuổi cá, tiếng chim hót
ngoài kia vui vẻ quá. Những âm thanh bình dị ấy ngày nào chẳng có, nhưng xưa nay,
vì say, vì hắn đã bị xã hội làm mù điếc cả tâm hồn, không nghe được. Giờ đây được
Thị Nở làm cho tâm hồn hắn sáng tỏ, thì những âm thanh ấy bỗng vang vọng sâu trong
tim hắn như tiếng gọi tha thiết của sự sống.
Cùng với sự cảm nhận được bức tranh cuộc sống xung quanh, Chí Phèo cũng đã
cảm nhận được một cách thấm thía về tình trạng thê thảm của bản thân mình già nua,
cô độc, trắng tay. Đoạn đối thoại của hai người đàn bà đã gợi nhắc cho hắn về một ước
mơ gia đình hạnh phúc, bình dị. Nhưng giờ đây “Chí Phèo chỉ thấy một thực tại buồn
bã, cô đơn. Chí Phèo hình nhƣ đã trông thấy trƣớc tuổi già của hắn, điều này còn
đáng sợ hơn đói rét, ốm đau”.
2.Sau khi tỉnh rượu, Chí Phèo đã tỉnh ngộ và hi vọng. Chí Phèo ăn bát cháo hành
được trao từ bàn tay ấm nóng tình thương của Thị Nở, hắn vô cùng cảm động và thực
sự phục sinh tâm hồn. Hắn rất ngạc nhiên, mắt hắn ươn ướt bởi vì “đây là lần thứ nhất
hắn đƣợc ngƣời ta cho…xƣa nay nào hắn có thấy ai tự nhiên cho cái gì”. Hắn nhận ra
“Trời ơi! Cháo mới thơm ngon làm sao! Hƣơng vị của cháo hành hay hƣơng vị của
tình yêu chân thành và cảm động, hạnh phúc giản dị và thấm thía lần đầu tiên Chí
Phèo đƣợc hƣởng đã thức dậy nhân tính bị vùi lấp bấy lâu? Trời ơi! Hắn thèm lƣơng
thiện! Hắn muốn làm hoà với mọi ngƣời biết bao! Thị Nở sẽ mở đƣờng cho hắn”. Mọi
người sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng của những con người lương thiện.
Chúng sẽ làm thành một cặp rất xứng đôi. Chúng nhất định sẽ lấy nhau. Câu trả lời của
Thị Nở lúc này sẽ quyết định số phận của Chí Phèo : được kết nạp trở lại xã hội loài
người hay vĩnh viễn bị đày đoạ trong kiếp sống thú vật!? Chí Phèo hồi hộp hi vọng.
Nhưng cánh cửa hi vọng vừa hé mở thì đã bị đóng sầm ngay lại. Vì bà cô Thị Nở
không cho Thị Nở “đâm đầu đi lấy một thằng chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ”. Chí
Phèo nghĩ ngợi một lát rồi bỗng nhiên ngẩn người ra. Hắn “sửng sốt”, hắn lôi rượu ra
uống. “Nhƣng càng uống hắn lại càng tỉnh ra.Chao ôi! Buồn..” Hắn cứ thoảng thấy
hơi cháo hành, hơi của tình yêu hạnh phúc đang sắp tuột khỏi bàn tay cố níu kéo của
Chí Phèo rồi “ôm mặt khóc rƣng rức”. Đây là đỉnh điểm của bi kịch tinh thần trong
Chí Phèo.
3. Quằn quại trong đau khổ và tuyệt vọng, Chí Phèo xách dao ra đi. Nhưng hắn
không rẽ vào nhà Thị Nở như dự định ban đầu ( đến đâm chết con đĩ Nở và con khọm
già kia ) mà đến thẳng nhà Bá Kiến. Trong cơn say, hắn càng thấm thía tội ác của kẻ
đã cướp thể xác, hồn người của hắn. Chí Phèo đã vung lưỡi dao căm thù lên chém chết
Bá Kiến và quay lại tự kết liễu cuộc đời mình. Chí Phèo chết vì không tìm được lối
thoát, vì xã hội không cho hắn sống. Gấp trang sách “Chí Phèo” lại, ta vẫn nghe văng
111
vẳng đâu đây câu hỏi gay gắt đến tuyệt vòng của Chí Phèo : “Ai cho tao lƣơng thiện?”.
Đó là “Một câu hỏi lớn. Không lời đáp”, còn làm day dứt hàng triệu trái tim người
đọc : “làm thế nào để đƣợc sống cuộc sống con ngƣời trong cái xã hội tàn bạo vùi dập
nhân tính ấy?” Đấy cũng chính là bi kịch lớn nhất ở nhân vật yêu quý này.
Tác phẩm kết thúc, Chí Phèo chết, nhưng hiện tượng Chí Phèo chưa chấm dứt.
Hiện tượng hàng vạn người nông dân lương thiện bị đẩy vào con đường tha hoá, lưu
manh hoá và khi ý thức nhân phẩm trở về thì bị xã hội lạnh lùng cự tuyệt vẫn chưa
chấm dứt - chi tiết cái lò gạch bỏ không, vắng người qua lại hiện ra cuối tác phẩm khi
Thị Nở nhìn xuống bụng, bỗng tưởng tuợng ra hình ảnh này đã nói với ta điều đó.
KÕt luËn
Quá trình diễn biến tâm trạng của Chí Phèo đã làm nổi rõ bi kịch: Sinh ra là
người mà không được làm người. Qua đó, Nam cao đã bày tỏ sự cảm thông sâu sắc với
khát vọng lương thiện trong con người và sự bế tắc của những khát vọng trong hiện
thực xã hội thời bấy giờ.
ĐỀ 4: PHÂN TÍCH GIÁ TRỊ NHÂN ĐẠO TRONG TÁC PHẨM “CHÍ PHÈO”
Mở bài
“Chí Phèo” trở thành kiệt tác trong nền văn xuôi Việt Nam thế kỉ XX, không chỉ là
ở giá trị hiện thực rộng lớn, có tầm khái quát cao, mà chính là ở giá trị nhân đạo vừa
sâu sắc, vừa độc đáo, mới mẻ của tác phẩm.
Thân bài
Giá trị nhân đạo được biểu hiện ở “Chí Phèo”
1.Tư tưởng nhân đạo của Nam Cao ở đây trước hết được biểu hiện ở chỗ đã
khám phá ra nỗi đau khổ bị đày đoạ, lăng nhục, bị cự tuyệt quyền làm người nông dân
lương thiện. Nam Cao bày tỏ cảm thông sâu sắc với nỗi khổ đó
2.Qua tấn bi kịch và số phận bi thảm của Chí Phèo, Nam Cao cất lên tiếng kêu
cứu khẩn thiết đầy phẫn uất cho người lao động lương thiện: làm thế nào con người
được sống cuộc sống xứng đáng với con người trong cái xã hội vùi dập nhân tính ấy?
3.Tư tưởng nhân đạo của Nam Cao ở đây còn được thể hiện ở thái độ lên án gay
gắt những thế lực tàn bạo đã gây nên những tấn bi kịch đau thương cho người lao
động: Bọn thống trị tàn ác, nhà tù thực dân, những thành kiến, định kiến vô nhân đạo.
4.Tư tưởng nhân đạo độc đáo, đặc sắc của Nam Cao ở đây còn được thể hiện ở
thái độ trân trọng nâng niu những nét đẹp của người nông dân. Cao hơn nữa, nhà văn
còn khám phả ra phẩm chất lương thiện của họ ẩn giấu đằng sau những tâm hồn tưởng
như u mê, cằn cỗi
a. Những vẻ đẹp của Chí Phèo
- Chí Phèo vốn là người nông dân lương thiện, khoẻ mạnh về thể xác, lành mạnh về
tâm hồn.
112
- Dù đã bị nhà tù và xã hội thực dân phong kiến biến Chí Phèo thành “con quỷ dữ
của làng Vũ Đại” nhưng dưới đáy sâu tâm hồn của hắn vẫn lấp lánh ánh sáng nhân
phẩm.
- Khát khao tình yêu hạnh phúc, biết yêu thương, biết say sưa, rưng rưng và bẽn lẽn
nhận ra hương vị cháo hành “Trời ơi mới thơm làm sao!”. Chí Phèo muốn được sống
với Thị Nở. Và kh bị cắt đứt mối tình, Chí Phèo biết tiếc, biết buồn, biết khóc và uất
ức giận dữ.
- Khát khao được làm người lương thiện.
- Có tinh thần phản kháng.
Dựng nên một hình tượng người nông dân bị tha hoá, một con quỷ dữ của làng Vũ
Đại, Nam Cao không hề có ý bôi nhọ người nông dân. Trái lại, đã dõng dạc khẳng
định nhân phẩm của họ, trong khi họ bị rạch nát cả hình hài lẫn tâm hồn. Điều đó
chứng tỏ con mắt của Nam Cao rất sâu sắc, mới mẻ, tinh đời.
b. Những vẻ đẹp của nhân vật Thị Nở.
“Ả ngớ ngẩn, gã khùng điên
Tình yêu đến bỗng nhiên thành ngƣời
Vƣờn xuân trăng nở nụ cƣời
Tình yêu tan chảy vàng mƣời trong nhau”
(Nguyễn Đình Cánh )
Tư tưởng nhân đạo độc đáo của Nam Cao trong tác phẩm “Chí Phèo” còn được
biểu hiện ở việc phát hiện ra vẻ đẹp của nhân vật Thị Nở :
-Dưới ngòi bút của Nam Cao, Thị Nở đã trở thành người phụ nữ rất nhiều tình
thương. Đằng sau cái bề ngoài xấu xí và tính khí “dở hơi”, còn ẩn chứa một trái tim
nhân hậu. Khi Chí Phèo bị ốm, Thị Nở đã chăm sóc tận tình. Với bàn tay dịu dàng, ấm
nóng tình thương của người phụ nữ, Thị đã mang đến cho Chí một bát cháo hành còn
bốc khói. Chính bát cháo ấm nóng tình người ấy đã đánh thức nhân tính. Cũng như
những người phụ nữ khác, Thị Nở rất khao khát tình yêu hạnh phúc. Cuộc gặp gỡ của
hai kẻ khốn khổ đã tạo nên sự đồng cảm và Thị Nở đã yêu Chí Phèo, ước ao được
chung sống với Chí Phèo. Tình yêu làm cho người đàn bà “xấu đến ma chê, quỷ hờn”
ấy biến đổi một cách thật kì diệu. “Trông Thị thế mà có duyên”. Tình yêu làm cho có
duyên. Phát hiện được điều đó, chứng tỏ cái nhìn nhân đạo của Nam Cao có chiều sâu
hiếm có.
KÕt luËn:
“Chí Phèo” là tác phẩm có tư tưởng nhân đạo vừa sâu sắc, vừa độc đáo, mới mẻ.
Giờ đây nền văn học Việt Nam bước sang thiên niên kỉ mới, nhìn lại chặng đuờng đã
qua, “Chí Phèo” của Nam Cao vẫn được xếp vào hàng những kiệt tác, trước hết là ở
giá trị nhân đạo sâu sắc, độc đáo đó.
Đề 5 : Phân tích nhân vật Bá Kiến
I.Vài nét về tác giả tác phẩm và giới thiệu nhân vật:
Nam Cao (1917-1951) là một nhà văn hiện thực có tư tưởng nhân đạo vừa sâu sắc
vừa mới mẻ. Ông am hiểu khá tường tận về cuộc sống của những người nông dân
113
nghèo sau luỹ tre làng. Vì vậy viết về tầng lớp này,ông đã viết được hàng loạt tác
phẩm rất có giá trị, tiêu biểu nhất trong số đó là “Chí Phèo” (1941) xứng đáng là một
kiệt tác của dòng văn học hiện thực phê phán.Với ngòi bút hiện thực sâu sắc của mình,
qua “Chí Phèo”, Nam Cao đã tập trung vạch trần được mối mâu thuẫn giai cấp đối
kháng ngàn đời chưa thể điều hoà. Đó là mâu thuẫn giữa người nông dân lao động
nghèo khổ bị áp bức với bọn cường hào thống trị.Điển hình cho thế lực cường hào
thống trị tàn bạo ấy là Bá Kiến, một điển hình sắc sảo của văn học Việt Nam.
II.Phân tích nhân vật:
1.Lai lịch:
Bá Kiến xuất thân trong một gia đình bốn đời làm lí trưởng.Bản thân ông ta làm
lí trưởng, rồi chánh tổng.Bằng mưu mô và thủ đoạn khôn khéo, hắn đã lần lượt leo lên
đỉnh cao của danh vọng : tiên chỉ làng Vũ Đại, Bá Hộ, Chánh hội đồng kỳ hào, huyện
hào, Bắc kỳ nhân dân đại biểu, “hắn khét tiếng đến cả trong hàng huyện”. Ở làng Vũ
Đại, nơi có cái thế đất “Quần ngƣ tranh thực”, nghĩa là cả bầy cá tranh mồi, Bá Kiến
trở thành con cá lớn.
2.Những nét tính cách của Bá Kiến:
Khác với Nghi Lai trong “Bƣớc đƣờng cùng” của Nguyễn Công Hoan, Nghị
Quế trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, những tên địa chủ trọc phú, hủ lậu, Bá Kiến là
loại cường hào, cáo già rất lọc lõi. Đây là một nhân vật mang rõ nét phong cách nghệ
thuật độc đáo đầy tài năng của Nam Cao. Bá Kiến là một tên thống trị lắm mưu nhiều
kế, đặc biệt là thâm độc và nham hiểm.Khắc hoạ nhân vật này, Nam Cao không nhấn
mạnh khía cạnh bóc lột người nông dân của Bá Kiến mà khắc sâu một nét bản chất đặc
biệt của lão,đấy là một tên cường hào có nghệ thuật thống trị,đàn áp người nông dân
rất thâm hiểm.Vì thế Bá Kiến có những nét tính cách tiêu biểu sau đây:
a. Bá Kiến là một tên cường hào ác bá, đặc biệt là gian hùng, nham hiểm
Đây là nét tính cách mang ý nghĩa bản chất nhất của Bá Kiến. Nam Cao đã mô
tả nét bản chất ấy qua những chi tiết hết sức sinh động. Đó là cái giọng quát rất sang,
“bao giờ cũng quát để thử dây thần kinh của ngƣời ta”. Bá Kiến có cái cười Tào Tháo
và “giọng nói ngọt nhạt mà thâm hiểm chết ngƣời”. Đặc biệt, Nam Cao đã để cho nhân
vật Bá Kiến độc thoại nội tâm, nhằm phơi bày những suy nghĩ tỉnh táo nham hiểm:
Rút ra được những phương châm,thủ đoạn thống trị người nông dân rất khôn ngoan và
hiệu quả mà Bá Kiến đã đúc rút từ bốn đời làm tổng lý, chẳng hạn “trị không đƣợc thì
cụ dùng”, “dùng những thằng đầu bò để trị những thằng đầu bò”, “mềm nắn rắn
buông”, “bám thằng có tóc chứ không ai bám kẻ trọc đầu”, với triết lý “thứ nhất sợ kẻ
anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân”,. Đúng như mọi người đã thừa nhận: Bá
Kiến là một tên cường hào “khôn róc đời”. Con người “thét ra lửa” ấy đã biết ngọt
ngào, dịu giọng, xử nhũn với những thằng cố cùng, liều thân như Chí Phèo để biến hắn
thành công cụ đắc lực trong bàn tay thống trị độc ác của lão. Nhờ biết mềm, biết cứng,
biết thu dụng những thằng bạt mạng, không sợ chết và không sợ bị tù,rất được việc
trong chuyện đến tác hại bất cứ anh nào không nghe mình, mà Bá Kiến đã tập hợp
được một phe cánh,bè đảng xung quanh lão đầy thế lực và sức mạnh lấn át tất cả làm
cho bọn cường hào đối địch trong làng phải nể sợ, kiêng dè.
114
b. Bá Kiến là một tên cường hào thống trị,lọc lừa, gian dối, nham hiểm, luôn
luôn biết ném đá giấu tay.
Đọc tác phẩm “Chí Phèo”,độc giả đã thấm thía với những suy nghĩ về mưu kế
ứng xử khôn khéo mà hiểm độc của lão: “hãy ngấm ngầm đẩy ngƣời ta xuống sông,
nhƣng rồi dắt nó lên để nó đền ơn. Hãy đập bàn đập ghế đòi cho đƣợc năm đồng,
nhƣng đƣợc rồi thì vứt trả năm hào vì thƣơng anh túng quá”.Vì thế mà nhận cho ra bộ
mặt thật của tên cáo già Bá Kiến không phải điều dễ dàng.
c.Về phương diện bóc lột người nông dân
Bá Kiến là kẻ già đời trong nghề đục khoét. Một mặt lão tìm cách bóp nặn đám
dân hiền lành và yên phận vào những vụ thuế,một mặt khác, lão thu dụng những thằng
“bạt mạng” sinh chuyện với những kẻ có máu mặt trong làng để mà ăn, mà kiếm chác.
d. Bá Kiến là tên cường hào có nhân cách xấu xa, dâm đãng, đồi bại.
Dù đã ngoài 60 tuổi, một lúc có đến 3,4 bà vợ, hay ghen bóng ghen gió với
những thằng trai trẻ và rất sợ vợ nhưng chính lão cáo già háo sắc và thích chơi “trống
bỏi” ấy lại bí mật đi lại với vợ Binh chức đã có bốn con, rồi còn lên tỉnh ngồi chung xe,
chơi bời trác táng.
e. Chính tên cáo già lọc lõi, gian hùng ấy đã đưa biết bao người dân lương thiện
như Binh chức, Năm thọ vào tù, vào con đường tha hoá, bị đày đoạ lăng nhục, và khi
cần thì sẵn sàng thí mạng những con người khốn khổ đó.Việc Bá Kiến xúi Chí Phèo đi
đòi tiền Đội Tảo chẳng khác nào cài sẵn một cái bẫy để mượn tay Đội Tảo giết chết
Chí Phèo.
KÕt luËn:
Bá Kiến là một tên cường hào điển hình sắc sảo,vừa có những nét cá tính sinh
động,vừa có những nét chung phổ biến, tiêu biểu cho bọn cường hào ,địa chủ gian ác.
Nhân vật Bá Kiến cũng là một hình tượng mang rõ nét tài năng của Nam Cao. Trong
dòng văn học hiện thực phê phán lúc bấy giờ, ít có ngòi bút nào khắc hoạ được một
hình tượng sinh động và có chiều sâu như thế.
Đề 6: Nghệ thuật đặc sắc trong “Chí Phèo”
“Chí Phèo” thật sự là một kiệt tác, thể hiện đầy đủ nhất tài năng nghệ thuật xuất sắc,
độc đáo của nhà văn Nam Cao.
1. Bút pháp điển hình hoá đạt tới trình độ bậc thầy trong xây dựng nhân vật. Nam
Cao có biệt tài trong việc miêu tả, phân tích tâm lý nhân vật. Tác giả có khả năng trong
việc miêu tả tâm lý phức tạp của nhân vật, làm cho nhân vật hiện lên trước mắt người
đọc rất sống động, có cá tính độc đáo. Chí Phèo, Bá Kiến là những điển hình nghệ
thuật bất hủ. Họ vừa tiêu biểu cho một loại người có bề dày xã hội, vừa là những con
người rất cụ thể, có sức sống nội tại mạnh mẽ.
a. Khác với những nhân vật của một số nhà văn đương thời có chức năng chủ yếu
là khái quát tính cách nhân vật. “Chí Phèo” của Nam Cao đã khái quát một hiện tượng
phổ biến đã trở thành quy luật trong xã hội lúc bấy giờ; hiện tượng những người nông
115
dân nghèo lương thiện do bị áp bức bóc lột đè nén nặng nề bị đẩy vào con đường tha
hoá lưu manh.
b. Tuy nhiên nhân vật của Nam Cao còn thể hiện như một nhân vật có cá tính hết
sức độc đáo, không lặp lại, vừa đa dạng vừa thống nhất. Chí Phèo vừa là kẻ bán rẻ cả
nhân tính, nhân hình để tồn tại, vừa là kẻ dám thủ tiêu sự sống của mình khi nhân
phẩm đã trở về. Chí Phèo vừa là con quỷ dữ của làng Vũ Đại, một thằng triền miên
chìm trong cơn say đến mất cả lý trí, vừa là kẻ khao khát lương thiện, muốn làm hoà
với mọi người, vừa là một kẻ nô lệ thức tỉnh, một đầu óc sáng suốt nhất, tỉnh táo nhất
của làng Vũ Đại khi đặt ra những câu hỏi có tầm khái quát sâu sắc về quyền được làm
người lương thiện đến mức Bá Kiến cũng phải ngạc nhiên, Chí Phèo vừa là kẻ cố cùng,
vừa là người tự xưng “anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta”
2. Nghệ thuật trần thuật kể truyện linh hoạt tự nhiên phóng túng mà vẫn nhất quán,
chặt chẽ, đảo lộn trình tự thời gian, mạch tự sự có những đoạn hồi tưởng, liên tưởng tạt
ngang, tưởng như lỏng lẻo mà thực sự rất tự nhiên, hợp lý, hấp dẫn.
3. Ngôn ngữ của Nam Cao cũng đặc biệt tự nhiên, sinh động, sử dụng khẩu ngữ
quần chúng một cách triệt để, mang hơi thở đời sống, giọng văn hoá đời sống. Ngôn
ngữ kể chuyện vừa là ngôn ngữ của tác giả, vừa là ngôn ngữ của nhân vật, nhiều giọng
điệu đan xen, tạo nên một thứ ngôn ngữ đa thanh đặc sắc.
“Chí Phèo” đánh dấu một trình độ phát triển mới của văn học và nghệ thuật viết
truyện ở nước ta.
Đời thừa
Đề tài về người trí thức tiểu tư sản nghèo.
*Kiến thức:
“Nỗi đời cơ cự đang giơ vuốt
Cơm áo không đùa với khách thơ”
(Xuân Diệu)
“Trời hỡi làm sao cho khỏi đói
Gió trăng có sẵn làm sao ăn?”
(Hàn Mặc Tử)
“Tôi tiếc thƣơng cho những chuyến tàu
Nghìn đời không đủ sức đi mau
Có chi vƣớng víu trong hơi máy
Chở những toa đầy nặng khổ đau”
(Tế Hanh)
Đề 7: Phân tích hai tấn bi kịch tinh thần của Hộ - ngƣời trí thức nghèo trong xã
hội cũ, từ đó chỉ ra tƣ tƣởng nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của Nam Cao.
116
Bài Làm
Giới thiệu khái quát về Nam Cao, truyện ngắn “Đời thừa” và bi kịch tinh
thần của Hộ.
Nam Cao (1917 – 1951) là một nhà văn hiện thực lớn có tư tưởng nhân đạo sâu
sắc, mới mẻ và phong phú.
Là một nhà văn kiêm giáo khổ trường tư, ông am hiểu khá tường tận cuộc sống
của tầng lớp trí thức tiểu tư sản nghèo. Vì vậy, viết về tầng lớp này, ông đã khám phá
ra nhiều tấn bi kịch tinh thần có tầm cỡ thời đại. Một trong những bi kịch đó là người
trí thức khao khát làm một sự nghiệp tinh thần cao cả để nâng cao ý nghĩa giá trị sự
sống của con người nhưng kết cục bị cuộc sống tàn nhẫn đẩy vào kiếp “Đời thừa” coi
trọng và muốn sống theo nguyên tắc tình thường, nhưng chính mình lại vi phạm lẽ
sống cao đẹp đó. Nhân vật Hộ trong tác phẩm “Đời thừa” (1943) được Nam Cao miêu
tả một cách chân thực, cảm động là hiện thân của hai tấn bi kịch nói trên.
*Phân tích những tấn bi kịch tinh thần của Hộ và cũng là của tầng lớp trí
thức nghèo trong xã hội cũ.
A. Giải thích khái niệm:
Bi kịch hiểu theo nghĩa thông thường là nỗi đau khổ triền miên về tinh thần
không có gì giải thoát được.Nhưng theo văn học, bi kịch chỉ xảy ra khi có sự xung đột
giữa khát vọng, hoài bão, lý tưởng chân chính với thực tại. Thực tại chưa đủ điều kiện
cho phép cá nhân thực hiện hoài bão, lý tưởng của mình nên rơi vào thất bại, sống
trong dằn vặt, đau đớn, thậm chí dẫn đến cái chết thảm thương.
B Bi kịch tinh thần của Hộ thể hiện ở các mặt sau:
1. Bi kịch trong sự nghiệp: vỡ mộng
Hộ là một nhà văn có tài năng, có khát vọng hoài bão lớn lao và lương tâm cao
cả. Anh muốn nâng cao giá trị đời sống của mình bằng sự sáng tạo nghệ thuật có ích
cho xã hội. Với Hộ, văn chương là trên hết “đói rét không có nghĩa lý gì đối với gã trẻ
tuổi say mê lý tƣởng… Hắn muốn vun xới tài năng cho ngày càng nảy nở”. Cả đời
mình, Hộ phấn đấu cho một sự nghiệp văn chương chân chính có ích cho mọi người
bởi những tác phẩm giàu tính sáng tạo “biết đào sâu, khám phá, khơi những nguồn
chƣa ai khơi”… và mang nội dung nhân đạo thấm thía “tình thƣơng, lòng bác ái, sự
công bằng. Nó làm cho ngƣời gần ngƣời hơn”. Không những thế, Hộ còn hy vọng tác
phẩm của mình sẽ đạt tới đỉnh cao vinh quang “ăn giải Nôben và dịch ra mọi thứ tiếng
trên toàn cầu”. Nhưng những ý nghĩ ấy không chứng tỏ Hộ là con người hám danh mà
chỉ chứng tỏ anh là nghệ sĩ có hoài bão lớn lao, có lý tưởng cao đẹp. Hộ muốn khẳng
định cá nhân mình trước cuộc đời, muốn cống hiến tài năng tận độ cho xã hội, không
bằng lòng với cuộc sống tầm thường vô danh, vô nghĩa.
Nhưng cuộc sống tàn nhẫn với những lo toan vặt vãnh hằng ngày:
“Nỗi đời cơ cực đang giơ vuốt
Cơm áo không đùa với khách thơ”
(Xuân Diệu)
đã phá vỡ giấc mộng đẹp của Hộ. Vì phải kiếm được nhiều tiền để nuôi sống gia đình,
thuốc thang cho vợ con, Hộ không được viết một cách thận trọng, yêu cầu nghiêm ngặt
của nghệ thuật chân chính mà phải viết một cách vội vàng, cẩu thả, phải chạy theo một
thứ văn chương tầm thường, vô vị, nhạt nhẽo. Là một nhà văn chân chính, giàu tài
năng, Hộ ý thức được điều đó. Anh tự thấy xấu hổ và “tự lên án mình nhƣ một thằng
117
khốn nạn… Hắn chính là một kẻ bất lƣơng… là đê tiện… là một kẻ vô ích, một ngƣời
thừa…” Nhưng vẫn không thể nào khác được… Hộ tự day dứt đau khổ mãi. (Hộ cảm
thấy mình phải sống cuộc “Đời thừa”).
2. Bi kịch trong gia đình: bi kịch tự mình chà đạp lên lẽ sống tình thương,
nhân cách làm người.
Hộ coi trọng và muốn sống theo nguyên tắc tình thương nhưng lại vi phạm lẽ
sống cao đẹp ấy, để rồi ăn năn, sám hối. Hộ cưu mang Từ “nhận Từ làm vợ, nuôi mẹ
già, con dại cho Từ, đứng ra làm ma cho mẹ Từ”. Hộ đã có những lúc nghĩ đến
chuyện gỡ bỏ những sợi dây ràng buộc tình thương để theo đuổi giấc mộng văn
chương. Trong cơn khủng khoảng, bế tắc muốn được giải thoát, Hộ đã nghĩ đến câu
nói của một nhà triết học sặc mùi phát xít: “Phải biết ác, biết tàn nhẫn để sống cho
mạnh mẽ” nhưng rồi Hộ đã phản đối lại triết lý, sức mạnh đó để đi theo triết lý sống
tình thương đầy nhân bản của mình: “Kẻ mạnh không phải là kẻ dẫm lên vai kẻ khác
để thoả mãn lòng ích kỉ. Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình”. Như
vậy đối với Hộ (cũng là với Nam Cao), tình thương yêu, lòng nhân ái là tiêu chuẩn cao
nhất quyết định tư cách làm người.
C. Tƣ tƣởng nhân đạo sâu sắc của Nam Cao.
a/ Phát hiện và phân tích sâu sắc tấn bi kịch tinh thần của Hộ, Nam Cao đã tố
cáo cái xã hội đầy đoạ con người trong sự nghèo đói, vùi dập những ước mơ làm chết
mòn đời sống tinh thần, lẽ sống, nhân cách cao đẹp của con người.
b/ Trong khi miêu tả con người bị đẩy vào tình trạng có những hành động tàn
nhẫn, nằm bên bờ vực của sự tha hoá, Nam Cao vẫn dứt khoát không chấp nhận cái ác,
vẫn kiên định giữ vững nguyên tắc tình thương của mình, quyết không bỏ lòng thương.
Những giọt nước mắt đầy xót thương chảy dài cuối tác phẩm đã cho ta thấy điều đó.
c/ Trước Cách mạng, Nam Cao thuộc thế hệ nhà văn lãng mạn, từ thế hệ 30 –
45 họ đã thức tỉnh sâu sắc ý thức cá nhân về sự tồn tại có ý nghĩa của mỗi cá nhân trên
đời. Với “Đời thừa”, Nam Cao đã đồng tình với khát vọng được cống hiến được sáng
tạo của người nghệ sĩ chân chính. Qua tấn bi kịch tinh thần của nhân vật Hộ, Nam Cao
thể hiện khát vọng của con người vươn tới một cuộc sống có ích, có ý nghĩa, được
phát huy cao độ khả năng tiềm tàng chứa đựng trong mỗi con người. Nam Cao bênh
vực con người, đặt niềm tin vào con người và lên án hoàn cảnh xã hội tàn nhẫn đã đẩy
con người vào những bi kịch vỡ mộng (“Đời thừa”, “Sống mòn”) hoặc vào những
trạng thái phi nhân tính (“Chí Phèo”), từ đó vút lên tiếng kêu khẩn thiết: “Hãy tiêu giệt
hoàn cảnh xã hội đen tối, bất công, phi nhân tính đƣơng thời” thì mới chấm dứt được
những bi kịch đau đớn nói trên.
Tóm lại, tư tưởng nhân đạo thấm đượm trong sáng tác của Nam Cao. Ở đây,
một mặt nhà văn kế thừa tư tưởng nhân đạo truyền thống, mặt khác lại có thêm những
nét sâu sắc, mới mẻ. Nam Cao xứng đáng là nhà văn hiện thực xuất sắc, nhà nhân đạo,
chủ nghĩa lớn.
Đề 8: Những đặc sắc nghệ thuật của “Đời thừa”
a/ Cách xây dựng truyện rất tự nhiên, dung dị nhưng vẫn gây được ấn tượng sâu
đậm và tạo được hiệu quả nghệ thuật cao. Cách dẫn chuyện linh hoạt, phóng túng mà
vẫn nhất quán chặt chẽ.
118
b/ Xây dựng thành công một nhân vật thuộc loại nhân vật tư tưởng (nhân vật
vấn đề - Hộ) nhưng vẫn có tính cách, cá tính và bản chất xã hội
c/ Nghệ thuật miêu tả, phân tích tâm lý đạt đến bậc thầy. Nam Cao đã phân tích
rất sâu sắc, tinh tế những giằng xé trong tâm sự nhân vật. Trước hết là những day dứt
của Hộ về nghề nghiệp… Sau nữa là những dằn vặt của Hộ về nhân cách. Hộ vốn là
người nhân hậu, vị tha, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không vứt bỏ tình thương làm
một kẻ tàn nhẫn. Nhưng khi rơi vào khủng hoảng quẫn bách, anh đã trút hết nỗi uất ức,
buồn bực lên đầu vợ con, gây đau khổ cho người mà mình hết lòng yêu thương rồi sau
đó tự dày vò, ân hận vì chính điều đó.
- Nam Cao đã khéo léo tạo tình huống đầy kịch tính để đẩy xung đột nội tâm
nhân vật đến đỉnh điểm. Hộ rời vào một mâu thuẫn không thể điều hoà giữa sống với
hoài bão nghệ thuật và sống theo nguyên tắc tình thương. Hộ luôn luôn rơi vào bế tắc.
Điều đó làm cho anh lâm vào cái vòng luẩn quẩn: khát vọng -> thất vọng -> nhẫn tâm
-> hối hận –> khát vọng -> thất vọng… (vòng luẩn quẩn).
d/ Ngôn ngữ và giọng văn rất đặc sắc.
Nam Cao rất linh hoạt trong việc sử dụng ngôn ngữ để miêu tả nội tâm nhân vật.
Có đoạn, nhà văn dùng lời kể chuyện để miêu tả nội tâm, có đoạn nhà văn dùng lời kể
để miêu tả tâm lý nhân vật “hắn băn khoăn nghĩ đến một tác phẩm sẽ làm mờ hết các
tác phẩm khác cùng thời”; có khi là lời nhân vật tự biểu hiện nội tâm mình “Ta đành
bỏ phí một vài năm để kiếm tiền”; có khi vừa là lời người kể, vừa là lời từ nội tâm
nhân vật “Khốn nan thay cho hắn. Chao ôi!”. Tất cả đã góp phần diễn tả sinh động tâm
lý nhân vật
ĐỀ 9: Phong cách nghệ thuật của Nam Cao
Mở bài
Nam Cao ( 1917-1951 ) là một nhà văn hiện thực lớn có tư tưởng nhân đạo sâu
sắc mới mẻ, có phong cách nghệ thuật độc đáo.
Thân bài
1.Nam Cao thường viết về những cái nhỏ nhặt, xoàng xĩnh trong cuộc sống hàng
ngày, từ đó, đặt ra vấn đề có ý nghĩa xã hội to lớn, những triết lý sâu sắc về con người,
cuộc sống và nghệ thuật. Truyện của Nam Cao tuy giàu triết lý, nhưng triết lý mà
không khô khan, vì nó xuất phát từ cuộc sống thực và từ tâm tư đau đớn, dằn vặt của
tác giả.
2.Nam Cao có tài đặc biệt trong việc phân tích và diễn tả tâm lí nhân vật. Ông có
hứng thú khám phá “con ngƣời trong con ngƣời”. Ngòi bút của ông có thể thâm nhập
vào những quá trình tâm lý phức tạp, những ngõ ngách sâu kín nhất của tâm hồn con
người; từ đó dựng lên được những nhân vật tư tưởng vừa có tầm khái quát lớn vừa có
cá tính độc đáo. Theo dòng cảm nghĩ của nhân vật, mạch tự sự của tác phẩm Nam Cao,
thường đảo lộn trật tự của thời gian, không gian tạo nên lối kết cấu vừa linh hoạt vừa
hết sức chặt chẽ.
3.Cũng vì am hiểu sâu sắc tâm lý nhân vật mà Nam Cao đã tạo được nhiều đoạn
đối thoại và độc thoại nội tâm rất chân thực, sinh động.
119
4.Truyện của Nam Cao luôn luôn thay đổi giọng điệu, có khi là giọng tỉnh táo và
sắc lạnh; có khi là giọng đằm thắm, trữ tình sôi nổi, nặng trĩu yêu thương. Hai giọng
văn đối lập nhau cứ chuyển hoá qua lại, tạo nên những trang viết thú vị, hấp dẫn.
Kết luận
Nam Cao cũng đã có những đóng góp rất lớn trong việc làm hiện đại hoá văn
xuôi Việt Nam với một ngôn ngữ phong phú, sinh động, uyển chuyển tinh tế rất gần
gũi với lời ăn tiếng nói của quần chúng. Ông xứng đáng là một trong những nhà văn
hiện thực lớn nhất của văn học Cách mạng thế kỷ XX.
Đ ề 10: Truyện ngắn "Chí Phèo" của Nam Cao và truyện ngắn "Vợ nhặt" của
Kim Lân đều viết về tình cảnh ngƣời nông dân trƣớc Cách mạng tháng Tám 1945.
a) Phân tích những khám phá riêng của mỗi tác giả về số phận và cảnh ngộ của người
nông dân trong mỗi tác phẩm.
b) Chỉ ra sự khác nhau trong cách kết thúc hai thiên truyện. Giải thích vì sao có sự
khác nhau ấy. Nêu ý nghĩa của mỗi cách kết thúc?
c) Phân tích nét đặc sắc trong tư tưởng nhân đạo của mỗi tác phẩm.
Đáp án:
Ý chính cần có:
1. Giới thiệu khái quát về Nam Cao và truyện ngắn "Chí Phèo", Kim Lân và truyện
ngắn: "Vợ nhặt".
2. Khám phá riêng của mỗi tác gia
a. Khám phá riêng của Nam Cao trong "Chí Phèo"
- Thân phận khốn khổ của người nông dân: Chí Phèo từ đứa trẻ bị bỏ rơi, bơ vơ, không
nhà cửa, không họ hàng thân thích đến khi làm canh điền cho nhà Bá Kiến rồi bị đẩy
vào tù.
- Bị đẩy vào con đường tha hoá, lưu manh hoá, bị huỷ hoại từ nhân tính đến nhân hình,
bị gạt bỏ ra ngoài xã hội loài người, trở thành "con quỷ dữ của làng Vũ Đại."
- Khi thức tỉnh nhân tính, Chí Phèo khao khát trở về cuộc sống lương thiện, nhưng bị
xã hội làng Vũ Đại lạnh lùng cự tuyệt. Chí phèo rơi vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm
người dẫn đến cái chết đầy bi phẫn.
- Qua "Chí Phèo", Nam Cao khái quát một hiện tượng xã hội phổ biến ở nông thôn
Việt Nam trước Cách mạng: một bộ phận người dân lao động lương thiện bị đẩy vào
con đường tha hoá, lưu manh hoá.
b. Khám phá riêng của Kim Lân trong "Vợ nhặt"
- Thân phận nghèo hèn của mẹ con Tràng (dân ngụ cư, nghèo túng không lấy nổi vợ).
- Tình cảnh thê thảm của người nông dân trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Cảnh
ngộ của người đàn bà vợ Tràng, câu chuyện nhặt được vợ của Tràng và cảnh rước
nàng dâu về nhà chồng đã phơi bày tất cả sự nghèo đói và tình trạng thê thảm của thân
phận con người.
120
3. Về kết thúc của hai thiên truyện
a. Sự khác nhau
Truyện "Chí Phèo" kết thúc bằng cách lặp lại hình ảnh cái lò gạch cũ đã xuất hiện ở
phần đầu tác phẩm. Khi nghe tin Chí Phèo chết, Thị Nở nhìn nhanh xuống bụng và
trong đầu thị thoáng hiện ra hình ảnh cái lò gạch cũ bỏ không và vắng người qua lại.
Còn truyện "Vợ nhặt" kết thúc bằng hình ảnh hiện lên trong đầu Tràng: đoàn người đi
phá kho thóc của Nhật cùng với lá cờ đỏ của Việt Minh bay phấp phới. Hình ảnh này
đối lập với hình ảnh về cuộc sống thê thảm của người nông dân được miêu tả ở những
phần trước của thiên truyện.
b. Giải thích vì sao có sự khác nhau
- Do hoàn cảnh sáng tác và hoàn cảnh lịch sử: "Chí Phèo" viết trước cách mạng (viết
năm 1940, in năm 1941) trong khi hoàn cảnh đen tối của xã hội Việt Nam đương thời.
Còn "Vợ nhặt" viết sau 1945 khi quần chúng đã được cách mạng giải phóng.
- "Chí Phèo" thuộc khuynh hướng văn học hiện thực phê phán, chưa nhìn thấy lối
thoát của người nông dân. . Còn "Vợ nhặt" là tác phẩm của nền văn học cách mạng từ
sau 1945 có khả năng và cần thiết phải chỉ ra chiều hướng phát triển tích cực của đời
sống xã hội.
c. Kết thúc của "Chí Phèo" đầy ám ảnh, góp phần tạo nên kết cấu theo kiểu
vòng tròn, thể hiện sự bế tắc của số phận người nông dân; đồng thời cho ta thấy "hiện
tƣợng Chí phèo" vẫn tiếp tục tồn tại trong xã hội cũ. Còn kết thúc của "Vợ nhặt" mở
ra một hướng giải thoát cho số phận các nhân vật, chỉ ra con đường sống của người
nông dân, và cho thấy khi bị đẩy vào tình trạng đói khát cùng đường thì những người
nông dân nghèo khổ sẽ hướng đến cách mạng.
4. Phân tích nét đặc sắc trong tƣ tƣởng nhân đạo của mỗi tác phẩm.
a. Của "Chí Phèo"
- Tố cáo tội ác của xã hội cũ đẩy người nông dân lương thiện vào tình trạng tha
hoá, lưu manh hoá, huỷ hoại cả nhân hình và nhân tính của con người.
- Tiếng kêu khẩn khiết đòi quyền sống, quyền làm người lương thiện cho những
người cùng khổ trong xã hội.
- Thể hiện niềm tin vào bản chất lương thiện của người lao động. Khẳng định
khát vọng lương thiện của người lao độngngay cả khi họ bị đẩy vào tình trạng lưu
manh hoá. Với "Chí Phèo", Nam Cao là nhà văn đồng tình với khát vọng lương thiện
của con người.
b. Của "Vợ nhặt"
- Sự cảm thông với tình trạng đói khổ cùng cực của người dân lao động.
- Khẳng định bản chất tốt đẹp của người nông dân lao động. Trong cảnh cùng
đường, đói khát, họ vẫn cưu mang, đùm bọc lẫn nhau.
- Thể hiện khát vọng đầy tính nhân bản của con người. Khi bị đẩy tới bước
đường cùng, người dân lao động vẫn không bao giờ mất hết niềm tin, vẫn khát khao có
một mái ấm gia đình, khao khát hạnh phúc.
BÀI LÀM
Mở bài
121
Đau đớn, quằn quại, Chí Phèo chết ngay trên ngưỡng cửa trở về với cuộc đời
lương thiện. Mòn mỏi, lay lắt, những kiếp người trong "Vợ nhặt" của Kim Lân sống
trong nghèo khổ, tủi nhục và âm thầm tiến đến bên bờ vực của cái chết, ngay khi đang
sống. Mỗi trang văn của Nam Cao và Kim Lân như thấm đẫm những day dứt, đau đớn
về số phận con người, đau đáu một khát khao cho hạnh phúc nhân thế và ngời sáng
một niềm tin bất diệt về con người. Dẫu hai tác phẩm đã có những hướng đi khác nhau,
một bên là sự trăn trở trước nỗi khổ của một số phận bị chà đạp, mất hết cả nhân hình
lẫn nhân tính, không được quyền làm người, một bên là nỗi đau đớn của những thân
phận bị rẻ rúng trong cái đói, nghèo, nhưng hai nhà văn đã gặp nhau ở nơi hội tụ của
mọi ánh sáng văn chương chân chính: ấy là cảm hứng nhân đạo thiết tha.
Thân bài
1. a. Nam Cao (1915-1951) là nhà văn hiện thực phê phán xuất sắc nhất của văn
học Việt Nam giai đoạn 1939-1945. Năm 1941, tác phẩm "Chí Phèo" ra đời đã gây
một tiếng vang lớn, đưa tên tuổi của Nam Cao lên đến đỉnh vinh quang của thành công
nghệ thuật về đề tài người nông dân. Trước đó, văn học Việt Nam cũng đã xây dựng
được những hình tượng người nông dân khá hấp dẫn trong xã hội cũ như chị Dâu trong
"Tắt đèn" của Ngô Tất Tố, anh Pha trong "Bƣớc đƣờng cùng" của Nguyễn Công
Hoan... nhưng phải đến khi Chí Phèo " ngật ngƣỡng" bước ra từ những trang sách của
Nam Cao, thì người ta mới thực sự thấy được hình tƣợng điển hình sắc sảo nhất cho
nỗi thống khổ của ngƣời nông dân trƣớc Cách mạng.
b. Cùng viết đề tài người nông dân trước 1945, trong nền văn học Cách mạng
(1945-1975), Kim Lân đã viết truyện ngắn "Vợ nhặt" dựa trên một chương truyện dài
"Xóm ngụ cƣ" cho ta thấy được tình cảnh khốn cùng của ngƣời nông dân trong nạn
đói 1945 khủng khiếp. Ý của truyện là " Trong sự túng đói quay quắt, trong bất cứ
hoàn cảnh nào, ngƣời nông dân ngụ cƣ vẫn khao khát vƣơn lên trên cái chết thảm đạm
để mà vui, mà hy vọng"
2. Từ đề tài chung đó, mỗi tác phẩm đã có những khám phá riêng về số phận và
cảnh ngộ của người nông dân trước Cách mạng tháng Tam - 1945
a. Khám phá mới mẻ của Nam Cao là khám phá về cuộc sống của người nông
dân trong tột cùng nỗi khổ, trong bi kịch bị tha hoá, bị đày đoạ lăng nhục, bị cự tuyệt
quyền làm ngƣời. Họ khao khát, ước mơ một cuộc sống lương thiện nhưng lại bị chà
đạp tàn bạo về nhân phẩm khiến không những không được làm người mà còn bị biến
thành quỷ dữ, bị xã hội xa lánh. Chí Phèo vốn có một thân phận khốn khổ từ khi sinh
ra: hắn là đứa trẻ bị bỏ rơi, không nhà cửa, không họ hàng thân thích. Tuy nhiên, đã có
một thời Chí cũng là một người nông dân lương thiện khoẻ mạnh về thể xác, lành
mạnh về tâm hồn. Cả đời hắn chỉ có một ước mơ bình dị: có một gia đình, chồng cày
thuê, cuốc mướn, vợ dệt vải. Nhưng rồi cái mơ ước bé nhỏ và chính đáng ấy cũng
không bao giờ thực hiện được. Bi kịch cuộc đời Chí bắt đầu từ khi hắn làm canh điền
cho nhà Bá Kiến, bị bắt đi ở tù mà không hiểu vì sao! Từ một thanh niên hiền lành,
nhà tù thực dân đã biến Chí thành một tên lƣu manh, mang diện mạo của một con quỷ
dữ, mất cả nhân tính lẫn nhân hình, khi trở về làng. Chính vì thế, Chí Phèo đã phải
chịu nỗi khổ đầu tiên là bị con người xa lánh, bị cả xã hội ruồng bỏ. Hình ảnh Chí
Phèo với "cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất câng
câng, hai mắt gờm gờm trông gớm chết" khật khưỡng vừa đi vừa chửi bới, nguyền rủa
lảm nhảm... mà không có một lời đáp lại là biểu tượng cho nỗi cô đơn tột đỉnh của Chí.
Niềm khát khao giao hoà với cuộc sống của Chí đã bị cái ngoảnh mặt lạnh lùng của xã
122
hội dập tắt. Người ta không thèm ném cho hắn dù chỉ là một tiếng chửi. Số phận của
người nông dân là thế, từ Năm Thọ, Binh Chức đến Chí Phèo, cuộc đời bị bọn thống
trị độc ác và nhà tù tàn bạo của chế độ thực dân làm cho tha hoá, và bị gạt bỏ ra ngoài
xã hội loài người.
- Đỉnh cao của những nỗi khổ trên là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm ngƣời. Giữa
bóng tối mênh mông của cuộc đời, vào một đêm trăng thơ mộng, Chí Phèo được gặp
Thị Nở. Được sự săn sóc giản dị với bát cháo hành hiện thân của nhân tình, ý thức
nhân tính trong con ngƣời Chí Phèo đã thức dậy. Chí Phèo khao khát trở về cuộc sống
bằng phẳng của những con người lương thiện "Trời ơi! Hắn thèm lƣơng thiện, hắn
muốn làm hoà với mọi ngƣời biết bao! Thị Nở sẽ mở đƣờng cho hắn". Chí Phèo hồi
hộp hi vọng. Nhưng cánh cửa hi vọng vừa hé mở thì đã bị đóng sầm ngay lại. Vì bà cô
Thị Nở hiện thân của những thành kiến, định kiến bất công, tồi tệ, vô nhân đạo của xã
hội cũ đã không cho Thị Nở "đâm đầu đi lấy một thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn
vạ". Thế là Chí Phèo thực sự lâm vào một tấn bi kịch tâm hồn đau đớn: bi kịch bị xã
hội dứt khoát cự tuyệt làm ngƣời. Kết cục Chí Phèo phải tìm đến một cái chết đầy bi
phẫn, thảm thương của một con vật.
- Qua "Chí Phèo", Nam Cao khái quát một hiện tượng xã hội phổ biến ở nông
thôn Việt Nam trước Cách mạng: một bộ phận ngƣời nông dân lao động lƣơng thiện bị
đẩy vào con đƣờng tha hoá, lƣu manh hoá.
b. Trong "Vợ nhặt" của Kim Lân, thân phận nghèo hèn của mẹ con Tràng, dân
ngụ cƣ thật tội nghiệp: nghèo tới mức một đời khao khát lấy được một người vợ để có
được một mái ấm gia đình mà cũng không được.
- Khi nạn đói khủng khiếp năm 1945 tràn đến, thân phận người nông dân hiện
ra mới thảm thƣơng làm sao! "Cái đói đã tràn đến xóm ngụ cƣ từ lúc nào. Những gia
đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lƣợt bồng bế, dắt díu nhau lên
xanh xám nhƣ những bóng ma, và nằm ngỗn ngang khắp lều chợ. Ngƣời chết nhƣ ngả
rạ. Không buổi sáng nào ngƣời trong làng đi chợ, đi làm đồng về không gặp ba bốn
cái thây nằm còng queo bên đƣờng. Không khí vẩn lên...mùi gây của xác ngƣời",
"Tiếng quạ... cứ gào lên từng hồi thê thiết...". Cái đói đã huỷ hoại cả hình thức lẫn tâm
hồn ngƣời vợ nhặt "Nom chị ta rách rƣới quá, áo quần tả tơi nhƣ tổ đỉa". Chị ta "gầy
xọp", "khuôn mặt lƣỡi cày xám xịt". Cái đói khiến thị phải gợi ý Tràng cho ăn và chị
cắm đầu một chặp bốn bát bánh đúc liền rồi "ton ton" chạy theo về làm "vợ nhặt"
người đàn ông xa lạ kia. Cái cảnh rƣớc dâu diễn ra thật thƣơng tâm: Thị cúi đầu lầm
lũi, thèn thẹn đi cách Tràng vài bước trong lời trêu chọc và ánh mắt của trẻ con và
người lớn xóm ngụ cư. Và bữa cỗ ngày cưới cũng thật tội nghiệp: "Giữa cái mẹt rách
có độc một lùm ra chuối thái rối, và một cái đĩa muối ăn với cháo". Cùng với một nồi
cháo cám "đắng chát và nghẹn bứ trong cổ"... Tất cả những điều ấy đã phơi bày đƣợc
sự nghèo đói và tình trạng thê thảm của con người trong bối cảnh lúc bấy giờ.
3. Sự kết thúc của hai thiên truyện
a. Sự khác nhau:
Truyện "Chí Phèo" kết thúc bằng cách lặp lại hình ảnh cái lò gạch cũ đã xuất
hiện ở phần đầu tác phẩm. Khi nghe tin Chí Phèo chết, Thị Nở nhìn nhanh xuống bụng
và trong óc thị thoáng hiện ra hình ảnh cái lò gạch cũ bỏ không và vắng bóng người
qua lại.
Còn truyện "Vợ nhặt" kết thúc bằng hình ảnh hiện lên trong óc Tràng: đoàn
người đi phá kho thóc của Nhật cùng với hình ảnh lá cờ đỏ của Việt Minh bay phấp
123
phới. Hình ảnh này đối lập với hình ảnh về cuộc sống thê thảm của người nông dân
được miêu tả trong những phần trước của thiên truyện.
b. Giải thích vì sao có sự khác nhau:
- Do hoàn cảnh sáng tác và hoàn cảnh lịch sử: "Chí Phèo" viết trước cách
mạng (viết năm 1940, in năm 1941) trong hoàn cảnh đen tối của xã hội Việt Nam
đương thời. Còn "Vợ nhặt" là tác phẩm của nền văn học cách mạng từ sau 1945 có khả
năng và cần thiết phải chỉ ra chiều hướng tích cực của đời sống xã hội.
c. Kết thúc "Chí Phèo" đầy ám ảnh, góp phần tạo nên kết cấu theo kiểu vòng tròn, thể
hiện sự luẩn quẩn bế tắc của số phận người nông dân; đồng thời cho ta thấy "hiện
tƣợng Chí Phèo" vẫn tiếp tục tồn tại trong xã hội cũ. Còn kết thúc "Vợ nhặt" mở ra
một hƣớng giải thoát cho số phận các nhân vật, chỉ ra con đường sống của người nông
dân, và cho thấy khi bị đẩy vào tình trạng đói khát cùng đường thì những người nông
dân nghèo khổ sẽ hướng tới Cách mạng.
4. Phân tích những nét đặc sắc trong tƣ tƣởng nhân đạo của mỗi tác phẩm
a) Nhà văn Sêkhốp đã từng nói: " Mỗi nhà văn chân chính phải là một nhà nhân đạo
từ trong cốt tuỷ". Điều này rất đúng với Nam Cao và Kim Lân. Trên mỗi trang sách
của hai nhà văn luôn luôn có một trái tim đập thổn thức vì nỗi đau của con người và
một tấm lòng trân trọng trước vẻ đẹp của họ. Tuy nhiên mỗi nhà văn đã có những cách
thể hiện, khám phá riêng rất đặc sắc để làm nên tính sinh động, đa dạng, hấp dẫn cho
từng tác phẩm.
b) Ở tác phẩm "Chí Phèo", điểm đặc sắc riêng của Nam Cao là đã lớn tiếng tố cáo tội
ác của xã hội thực dân phong kiến đã đấy người nông dân lương thiện vào tình trạng
tha hoá, lƣu manh hoá, huỷ hoại cả nhân tính và nhân hình của con ngƣời. Từ đó, tác
phẩm đã vút lên tiếng kêu khẩn thiết đòi quyền sống, quyền làm ngƣời lƣơng thiện cho
những con người cùng khổ trong xã hội cũ. Điều đặc biệt là Nam Cao vẫn có niềm tin
bất diệt vào bản chất lƣơng thiện của người lao động và khẳng định khát vọng lƣơng
thiện của họ ngay cả khi họ bị đẩy vào tình trạng lưu manh hoá. Với "Chí Phèo" , Nam
Cao là nhà văn đồng tình với khát vọng lƣơng thiện của con ngƣời.
c) Còn trong "Vợ nhặt", Kim Lân đã bày tỏ sự cảm thông sâu sắc đối với tình trạng
đói khổ cùng cực của ngƣời nông dân lao động. Nhà văn khẳng định bản chất tốt đẹp
của họ. Trong cảnh cùng đường đói khát, họ vẫn cưu mang đùm bọc lẫn nhau. Ánh
sáng của tình người là thứ ánh sáng đẹp nhất, rạng rỡ nhất trong những ánh sáng le lói
trong bầu không khí ảm đạm của tác phẩm. Kim Lân còn thể hiện một khát vọng nhân
bản của con người. Khi bị đẩy đến bước đường cùng, người lao động vẫn không bao
giờ mất hết niềm tin, họ vẫn khao khát hạn phúc, khao khát sống, bám lấy sự sống nhƣ
một quy luật sinh tồn tất yếu. Điều đặc biệt là "Vợ nhặt" còn mở ra một con đường giải
quyết cái đói nghèo, bế tắc, đó là cách mạng.
Kết luận:
Trải qua bao nhiêu năm, " Chí Phèo" và "Vợ nhặt" vẫn là những tác phẩm xuất
sắc về đề tài người nông dân trước năm 1945. Với một đề tài cũ, song hai tác phẩm đã
thể hiện sự phát hiện, khám phá mới mẻ về cảnh ngộ người nông dân và tư tưởng nhân
đạo sâu sắc. Đó là những tác phẩm sẽ "Vƣợt qua sự băng hoại của thời gian, chỉ mình
nó không thừa nhận cái chết". (Sêđrin)
124
HOÀNG PHỦ NGỌC TƢỜNG
Đề ra: Phân t ích bài "Ai đã đặt tên cho dòng sông" của Hoàng Phủ Ngọc T ƣờng
A. MỞ BÀI:
Bằng một trái tim nghệ sĩ đắm say, một vốn từ ngữ giàu có chính xác, gợi tả,
một kho tri thức phong phú và một tấm lòng ân tình với sông Hương xứ Huế, Hoàng
Phủ Ngọc Tường đã sáng tác nên một thiên tuỳ bút rất hấp dẫn: “Ai đã đặt tên cho
dòng sông” bằng những áng văn vừa đẹp đẽ sang trọng, vừa lấp lánh trí tuệ, vẫn mê
đắm tài hoa.
B. THÂN BÀI:
I. Giới thiệu chung.
“Ai đã đặt tên cho dòng sông” là một tuỳ bút đặc sắc, thể hiện phong cách tài
hoa, uyên bác, giàu chất thơ của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Bài kí đã ca ngợi dòng sông
Hương như một biểu tượng của Huế (đặc biệt là đoạn từ thượng nguồn đến thành phố
Huế).
II. Sông Hƣơng ở thƣợng nguồn.
1. Sông Hương – “bản trường ca của rừng già” và sông Hương – cô gái di
gan phóng khoáng, man dại.
Trong con mắt của Hoàng Phủ Ngọc Tường, dòng sông Hương hiện lên như
một cô gái đẹp, một vẻ đẹp rất Huế, rất độc đáo; vừa dịu dàng, vừa “phóng khoáng,
man dại”. Ngay từ ngọn nguồn của dòng chảy, gắn liền với đại ngàn Trường Sơn hùng
vĩ, sông Hương toát lên một vẻ đẹp tràn đầy sức sống, vừa hùng tráng, vừa trữ tình
như một bản “trƣờng ca của rừng già”, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua
những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào đáy vực bí ẩn. Cũng có lúc nó trở nên
dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên.
Bằng biện pháp nhân hoá đặc sắc, tác giả như đã hình tượng hoá con sông
Hương: “Giữa lòng Trƣờng Sơn, sông Hƣơng đã sống một nửa cuộc đời của mình
nhƣ một cô gái di gan phóng khoáng và man dại. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản
lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”.
2. Sông Hương – “người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở”.
Nhưng cũng chính rừng già nơi đây, với cấu trúc đặc biệt… đã chế ngự sức
mạnh bản năng ở người con gái của mình để khi ra khỏi rừng, sông Hương nhanh
chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành “ngƣời mẹ phù sa của một vùng
văn hoá xứ sở”. Tác giả cho rằng “ngƣời ta sẽ không hiểu đƣợc một cách đầy đủ bản
chất của sông Hƣơng với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vƣợt qua, không hiểu
thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà dòng sông hình nhƣ không muốn bộc lộ, đã
đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khoá trong những hang đá dƣới chân núi Kim
Phụng”. Cái điều mà sông Hương “không muốn bộc lộ đã đóng kín lại” đó, hình như
giờ đây bằng một cách kín đáo, tác giả đã hé mở cho độc giả thấy được: sông Hương
chính là người mẹ hiền hàng ngày, hàng giờ không ngừng duy trì “bồi đắp phù sa”
màu mỡ cho cả một vùng văn hoá lịch sử đã được hình thành nơi đôi bờ sông Hương -
xứ Huế.
III. Sông Hƣơng ở ngoại vi thành phố Huế (trong mối quan hệ với Kinh
thành Huế).
125
1. Trước khi trở thành người tình dịu dàng và chung thuỷ của Kinh thành Huế
có hàng trăm năm văn hiến, sông Hương đã trải qua một hành trình đầy gian truân và
những thử thách. Trong cái nhìn tinh tế, lãng mạn và rất phong tình của tác giả, toàn
bộ thuỷ trình của dòng sông Hương tựa như cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân
đích thực của người con gái trong một câu chuyện tình yêu nhuốm màu cổ tích.
2. Đoạn tả sông Hương chảy xuôi về đồng bằng và ngoại vi thành phố bộc lộ
một nét lịch lãm, tài hoa với những hình ảnh mỹ lệ, vốn ngôn ngữ giàu có, sự hiểu biết
phong phú của tác giả. Giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại, sông Hương là “cô gái
đẹp ngủ mơ màng”. Nhưng ngay khi ra khỏi vùng núi, sông Hương bỗng bừng lên sức
trẻ như “ngƣời đẹp bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài” với niềm khát khao của tuổi thanh
xuân trong sự “chuyển dòng liên tục”, rồi “vòng những khúc quanh đột ngột”, “vẽ một
hình cung thật tròn”, “ôm lấy chân đồi Thiên Mụ”, “vƣợt qua”, “đi giữa âm vang”,
“trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững nhƣ thành quách”.
Vừa mạnh mẽ, vừa tình tứ mà dịu dàng kín đáo, đó là cái nét phẩm chất đẹp đẽ
mang nét riêng của sông Hương – cô gái Huế được tác giả diễn tả bằng những nét vẽ,
những hình ảnh cũng thật tình tứ, dịu dàng. Khi qua Vọng Cảnh, Tam Thai, Lưu Bảo
“dòng sông mềm nhƣ tấm lụa”; khi qua “hai dãy đồi sừng sững nhƣ thành quách”,
dòng sông ánh lên vẻ đẹp biến ảo với những phản quang nhiều màu sắc “sớm xanh,
trƣa vàng, chiều tím”. Khi qua bao lăng tẩm, đền đài mang niềm kiêu hãnh âm u được
phong kín trong những rừng thông u tịch toả lan khắp cả một vùng thượng lưu “Bốn
bề núi phủ , mây phong; Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên”, dòng sông Hương,
mang vẻ đẹp “trầm mặc nhƣ triết lí, nhƣ cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nƣớc phẳng
lặng của nó bỗng sinh động bừng sáng lên khi gặp tiếng chuông Thiên Mụ ngân nga
tận bờ bên kia giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”.
Tóm lại, với những nét bút giàu màu sắc hội hoạ tinh tế, với cảm xúc say đắm,
ở đoạn này Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tạo dựng được một bức tranh sông Hương thật
đẹp bởi sự phối cảnh kì thú giữa nó với thiên nhiên xứ Huế đa dạng và rất hài hoà.
IV. Sông Hƣơng giữa lòng thành phố Huế.
Từ đây như đã tìm đúng đường về, gặp lại thành phố thân yêu của mình “sông
Hƣơng vui tƣơi hẳn lên giữa những biển bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long,
kéo một nét thẳng thực, yên tâm theo hƣớng Tây Nam – Đông Bắc. Phía đó, nơi cuối
đƣờng, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần lên nền trời, nhỏ nhắn
nhƣ những vành trăng non”. Đúng là một hình ảnh so sánh rất độc đáo và thi vị. Nó
không chỉ được vẽ bằng bàn tay hoạ sĩ tinh tế mà còn được vẽ bằng trái tim của một
thi sĩ tài hoa, đa tình. Cũng với bút pháp ấy, dòng sông “uốn một cánh cung rất nhẹ
sang Cồn Hến” khiến “dòng sông mềm hẳn đi nhƣ một tiếng vâng không nói ra của
tình yêu”. Đúng là dòng sông Hương dịu dàng và kín đáo như chính cô gái Huế vậy!
Nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình, sông Hương được ví như sông Xen
của Paris, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét, sông Nê-va của Pê-téc-bua. Nhưng Huế vẫn
giữ nguyên dáng một đô thị cổ trải dọc hai bờ sông với “cây đa, cây cừa cổ thụ toả
vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít, từ nơi ấy vẫn lập loè trong đêm
sƣơng những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn xƣa cũ mà không một thành phố
hiện đại nào còn nhìn thấy đƣợc”. Phải chăng đây là nét độc đáo nhất của Huế? Bởi
nó vẫn còn mang vẻ đẹp cổ kính nghìn xưa. Bằng cảm nhận âm nhạc, tác giả thấy con
sông Hương của mình ở đây “có điệu chảy lặng lờ, đó là điệu slow tình cảm dành
riêng cho Huế, có thể cảm nhận đƣợc bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng
bồng bềnh trong những đêm rằm tháng bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qua Huế bỗng
126
ngập ngừng nhƣ muốn đi muốn ở chao nhẹ trên mặt nƣớc nhƣ vấn vƣơng của một nỗi
lòng”. Quả là một hình ảnh rất trữ tình, lãng mạn. Đúng như một nhà thơ đã viết về
sông Hương - Huế:
“Con sông dùng dằng, con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”
Hình như trong khoảnh khắc chững lại của sông nước ấy, sông Hương đã trở
thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. Trong con mắt thi sĩ - nhạc sĩ của tác
giả Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương đã trở thành con sông của “thơ ca nhạc
hoạ”. Vì “toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã đƣợc sinh thành trên mặt nƣớc của
dòng sông này”. Từ đó, tác giả mường tượng thấy sau lớp sương khói của thời gian,
hình như “Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này, với một phiếm
trăng sầu” để viết nên những trang Kiều tuyệt bút, với “những bản đàn đã đi suốt đời
Kiều”. Trong đó, nổi bật nhất là bản “Tứ đại cảnh”, một bản nhạc cổ của Huế. Đây
quả là một cuộc gặp gỡ kì thú giữa những tâm hồn nghệ sĩ cổ kim trên dòng sông
Hương thơ mộng. Trong cái nhìn đắm say của trái tim đa tình Hoàng Phủ Ngọc Tường,
sông Hương khi chảy vào lòng thành phố Huế bỗng hiện lên như “ngƣời tình rất dịu
dàng và thuỷ chung”. Điều này được diễn tả trong một hình ảnh khá độc đáo, đầy phát
hiện “Rời khỏi Kinh thành, sông Hƣơng chếch về hƣớng Bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến
quanh năm mơ màng trong sƣơng khói, đang xa dần thành phố để lƣu luyến ra đi giữa
màu xanh biếc của tre, trúc và những vƣờn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. Và rồi nhƣ sực
nhớ lại một điều gì chƣa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng rẽ sang hƣớng Đông Bắc để
gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xƣa cổ”, “vốn đang chảy giữa
cánh đồng phù sa êm ái của nó, khúc quanh này thực bất ngờ biết bao. Có một cái gì
rất lạ với tự nhiên và rất giống với con ngƣời ở đây”. Tác giả gọi đấy là “nỗi vƣơng
vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Nhà văn hình dung sông Hương ở đây
giống như nàng Kiều đã “chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó, để nói một lời thề ƣớc
trƣớc khi về biển cả. Lời thề ấy vang vọng khắp lƣu vực sông Hƣơng thành giọng hò
dân gian; ấy là tấm lòng ngƣời dân nơi Châu Hoá xƣa mãi mãi chung tình với quê
hƣơng xứ sở”. Đây là một liên tưởng thật bất ngờ, thú vị, đậm màu sắc văn chương cổ
điển của tác giả về dòng sông yêu quý của mình. Dòng sông Hương trong sâu thẳm
của nó mang vẻ đẹp tâm hồn dân tộc. Bởi như Chế Lan Viên đã viết:
“Chạnh thƣơng cô Kiều nhƣ đời dân tộc
Sắc tài sao mà lại lắm truân chuyên”
Và nhà thơ Ngô Viết Dinh cũng viết:
“Nghìn năm gửi lại một chữ trinh
Tâm hồn dân tộc kết tinh tim Kiều”
V. Sông Hƣơng – thiên “sử thi viết giữa màu lá cỏ xanh biếc”
Gọi sông Hương là một áng văn trữ tình như một thiếu nữ dịu dàng, mơ mộng
và kín đáo thì ai nấy đã rõ nhưng gọi sông Hương là một “thiên sử thi”, “một bản anh
hùng ca” thì thật đáng ngạc nhiên. Đây là một phát hiện bất ngờ và thú vị nữa của
Hoàng Phủ Ngọc Tường. Qua “Dƣ địa chí” của Nguyễn Trãi và tài liệu khảo cổ học về
thành cổ Hoá Châu, tác giả khám phá ra rằng sông Hường vốn có tên là Linh Giang,
nghĩa là dòng sông thiêng đã đấu tranh oanh liệt để bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ
quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại như Bạch Đằng, Như Nguyệt “Tự cổ huyết
do hồng” ở phía Bắc. Thế kỉ XVIII, nó vẻ vang soi bóng Kinh thành Phú Xuân của anh
hùng Nguyễn Huệ, nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ XIX với máu của những
cuộc khởi nghĩa và từ đây sông Hương đi vào thời đại Cách mạng tháng tám, chiến
127
dịch Mậu Thận và cuộc tổng tiến công hoàn toàn giải phóng dân tộc mùa xuân năm
1975 bằng những chiến công rung chuyển.
Như vậy, sông Hương đâu chỉ có vẻ đẹp mềm mại, duyên dáng, đầy trữ tình mà
trong thời gian ngân vang của lịch sử, nó còn tiềm ẩn một sức mạnh quật cường, bất
khuất của dân tộc, của “sử thi viết giữa màu lá cỏ xanh biếc”. “Khi nghe lời gọi, nó
biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công để rồi nó trở về với cuộc sống hình
thƣờng, làm một ngƣời con gái dịu dàng của đất nƣớc”, của Huế thân yêu. Đúng là sử
thi mà vẫn rất đỗi trữ tình, thơ mộng. Và đột nhiên, tác giả liên tưởng đến màu áo tím
ẩn hiện thấp thoáng theo bóng cô dâu Huế “vẫn mặc sau tiết sƣơng giáng”. Đấy cũng
chính là màu của sương khói trên sông Hương, giống như tấm voan huyền ảo của tự
nhiên, sau đó ẩn giấu khuôn mặt thực của dòng sông Hương - cô gái Huế.
VI. Dòng sông Hƣơng – dòng sông khơi nguồn cho cả một dòng sông thi ca
phong phú.
Với tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường, vẻ đẹp của sông Hương không hề đơn
điệu mà biến hoá đa dạng. Vì vậy, mỗi phong cách thơ đều có thể khám phá được
những chất thơ khác nhau của nó. Từ xanh biếc thường ngày nó bỗng thay màu thực
bất ngờ “dòng sông trắng – lá cây xanh” trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà; từ tha
thướt mơ màng, nó chợt nhiên hùng tráng lên như “kiếm dựng trời xanh” trong khí
phách Cao Bá Quát; từ nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều bảng lảng trong hồn thơ
Bà Huyện Thanh Quan; nó đột khởi thành sức mạnh phục sinh của tâm hồn trong thơ
Tố Hữu.
C. KẾT BÀI
Bằng một tình cảm thiết tha với Huế, với một vốn văn hoá phong phú và một
kho từ ngữ giàu có đậm chất thơ, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khắc hoạ được một dòng
sông như một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hoá, một vẻ đẹp rất thơ, khơi
nguồn cho cảm hứng thi ca và gắn liền với nền âm nhạc cổ điển Huế, tạo nên bề dày
lịch sử văn hoá của cố đô. Nhờ đó, sông Hương đã trở thành dòng sông bất tử chảy
mãi trong trí nhớ và tình cảm của độc giả, bồi đắp phù sa màu mỡ làm xanh tươi thêm
tình yêu đối với quê hương đất nước.
THẠCH LAM
Đề ra: Phân tích bài "Hai Đứa Trẻ" của Thạch Lam
*Tiểu dẫn:
a/ Tác giả:(1910 – 1942)
- Tên khai sinh là Nguyễn Tường Vinh (sau đổi thành Nguyễn Tường Lân)
- Là em ruột của hai nhà văn lớn Nhất Linh – Hoàng Đạo và cả ba người đều là
thành viên, cây bút chủ chốt của “Tự lực văn đoàn”
- Thuở nhỏ sống ở quê ngoại - phố huyện Cẩm Giang - Hải Dương, một phố
huyện nghèo có một cái chợ, cái ga xép đêm đêm có một chuyến tàu chạy qua, sau này
trở thành không gian nghệ thuật cho nhiều sáng tác của nhà văn.
- Là người đôn hậu, điềm đạm và rất đỗi tinh tế.
128
- Có biệt tài về truyện ngắn - truyện không có chuyện, chủ yếu khai thác thế
giới nội tâm nhân vật. Mỗi truyện như một bài thơ trữ tình đượm buồn, giọng điệu
điềm đạm. Văn Thạch Lam trong sáng, giản dị mà thâm trầm sâu sắc.
b/ Tác phẩm:
- Truyện này rút từ tập truyện “Nắng trong vƣờn” – 1938, truyện rất tiêu biểu
cho phong cách truyện ngắn Thạch Lam.
Đề 1: Vì sao chị em Liên đêm đêm cố thức để đợi chuyến tàu đêm vụt qua phố
huyện?
Ý nghĩa?
Bài Làm
Thạch Lam (1910 – 1942) là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc nhất
của văn học Việt Nam của thế kỉ XX. Truyện của ông là những chuyện tâm tình. Đằng
sau những trang truyện đậm chất thơ, ta vẫn thấy thấp thoáng hình ảnh tác giả, đó là
một con người có tâm hồn đôn hậu, tinh tế, rất nhạy cảm đối với mọi biến thái tinh vi
của lòng người và tạo vật. Qua “…” chúng ta cũng có thể thấy rõ điều đó (“…” tuỳ
vào từng đề).
1. Một bức tranh quê đầy chất thơ.
“Hai đứa trẻ” là một truyện ngắn đơn giản hầu như không có chuyện. Truyện
chỉ kể lại hình ảnh hai đứa trẻ ngồi trên chiếc chõng nát ngắm nhìn phố xá chìm dần
vào đêm tối, tuy đã buồn ngủ díp mắt nhưng vẫn cố thức để đợi chuyến tàu đêm đấy
ánh sáng vụt qua rồi mới khép cửa hàng đi ngủ. Cậu chuyện đơn sơ như vậy sẽ làm
thất vọng những ai đi tìm cốt chuyện giàu kịch tính với những chi tiết li kì, lắt léo. Tuy
nhiên, dưới ngòi bút Thạch Lam, “Hai đứa trẻ” không hề nhạt nhẽo, trái lại rất ám ảnh,
thấm thía, đầy dư vị.
Tác phẩm mở đầu bằng một bức tranh chiều quê phố huyện sinh động như một
bài thơ về quê hương quen thuộc mà rất thi vị: “Chiều chiều rồi! Một chiều êm ả nhƣ
ru”. Lời văn rất nhẹ nhàng, nhịp văn êm ái đã đưa con người vào thế giới thanh bình
của cảnh vật. Ngòi bút tinh tế và tạo hình của Thạch Lam chỉ chấm phá vài nét mà đã
vẽ được một bức tranh rất sinh động với đủ đường nét, màu sắc, âm thanh, hương vị
“phƣơng Tây đỏ rực…và những đám mây ánh hồng nhƣ hòn than sắp tàn trong lò.
Dãy tre làng trƣớc mắt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”. Giữa những hình ảnh
sinh động của cảnh vật vang lên âm thanh “tiếng trống thu không” gọi buổi chiều xen
lẫn với tiếng “ếch nhái kêu ran ngoài đồng theo làn gió nhẹ đƣa vào”, “muỗi bắt đầu
vo ve”, “đom đóm bay nhấp nháy”, “hoa bàng rụng khẽ”… chỉ bằng mấy câu văn ngắn
gọn, Thạch Lam đã đưa độc giả trở về khung cảnh đầy linh hồn, thân thiết của quê
hương, làng mạc, của nông thôn Việt Nam muôn đời. Nó khơi gợi trong tâm hồn con
người một tình cảm gắn bó thiết tha với miền quê lam lũ. Nơi ấy không chỉ có những
cảnh sắc thanh bình, thơ mộng, êm đềm mà còn có cả những mảng đời lam lũ, tăm tối.
2. Tâm trạng của chị em Liên trước bức tranh chân thực về đời sống phố
huyện nghèo lúc chiều tối.
Vì thế “Hai đứa trẻ” ngoài mở ra bức tranh thiên nhiên còn đi sâu vào tái hiện
bức tranh chân thực về đời sống phố huyện nghèo và chỉ qua bức tranh đó, ngòi bút
nhân đạo, cái nhìn tinh tế, nhạy cảm của Thạch Lam mới có dịp phát huy đầy đủ nhất.
Cuộc sống con người phố huyện trong thế giới “chìm chìm, nhạt nhạt” và vắng
lặng của buổi chiều tối được dựng lên bằng những nét kí hoạ rất đỗi chân thực và được
129
nhà văn gửi gắm qua cái nhìn ngây thơ của chị em Liên. Trong con mắt của hai đứa trẻ,
từ cảnh vật cho đến cảnh sinh hoạt nơi phố huyện, đâu đâu cũng gợi lên sự tàn tạ, quẩn
quanh, bế tắc.
a/ Mở đầu là khung cảnh ngày tàn.
Sự tàn tạ được cảm nhận bắt đầu bằng một hình ảnh: một buổi chiều tà, khoảng
thời gian vốn dễ khơi dậy nhiều nỗi niềm trong tâm hồn con người. Buổi chiều quê
lặng lẽ khép lại bằng “tiếng trống thu không” báo hiệu ngày tàn. Những ánh sáng yếu
ớt của thiên nhiên rồi cũng tắt dần. Thời điểm hoàng hôn đã trở thành khoảng thời gian
đặc biệt gắn bó với văn chương. Khoảnh khắc giao thoa giữa ánh sáng và bóng tối,
giữa sự sống náo nhiệt và sự yên lặng lụi tàn luôn gây cho lòng người nỗi buồn thấm
thía. Xuân Diệu, thi sĩ của những vần thơ xôn xao, rạo rực xuân tình, đắm say cảnh sắc
cũng đã hơn một lần cảm thấy “không gì buồn bằng những buổi chiều; mà ánh sáng
hoà cùng bóng tối”… “không gian tƣởng sắp tàn thành lệ”.
b/ Cảnh chợ cũng tàn.
Cái buồn của hình ảnh chiều tàn ở đây dường như được cộng hưởng, được nhân
lên với hình ảnh của một buổi chợ tàn “chợ họp giữa phố huyện vắng từ lâu. Ngƣời về
hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn rác rƣởi: vỏ bƣởi, vỏ thị, lá nhãn, lá
mía…”. Không khí náo nhiệt, nhộn nhịp người mua kẻ bán đã lắng xuống, chỉ còn lại
sự trống vắng quạnh hiu. Có gì vui hơn là cảnh chợ đông, có gì buồn hơn là cảnh chợ
tàn?
Giữa khung cảnh chợ tàn ấy, tâm hồn nhạy cảm của Liên đã nhận ra thứ mùi vị
rất riêng của xứ sở “cái mùi cát bụi quen thuộc quá mà Liên tƣởng là mùi riêng của
đất, của quê hƣơng này”. Chính là mùi vị quen thuộc của nghèo khổ, lầm than, bế tắc.
Hiện thực cuộc sống trong tác phẩm của Thạch Lam không phải là sự cày xới ngổn
ngang những mảnh đời đau thương, bi đát, quằn quại như cuộc đời nhân vật của Nam
Cao, Ngô Tất Tố… Hiện thực trong tác phẩm của Thạch Lam được thể hiện qua
những chi tiết bình thường, giản dị như trên nhưng lại có sức ám ảnh đặc biệt cho tâm
hồn người đọc.
c/ Bức tranh về kiếp người tàn.
Đi liền với hình ảnh chiều tàn, chợ tàn là hình ảnh những kiếp người tàn như là
linh hồn, là đỉnh cao cảnh quan bức tranh chân thực về đời sống ở phố huyện nghèo.
Trong khung cảnh chiều tàn, phố huyện tiêu điều sau phiên chợ vãn người, cuộc sống
sinh hoạt vất vả, đơn điệu của những người dân nghèo khổ lam lũ hiện lên đáng
thương biết bao.
Đó là mấy đứa trẻ con nhà nghèo ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm
tòi “chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ thứ gì có thể dùng đƣợc của
ngƣời bán hàng để lại”. Hình ảnh những đứa trẻ con ngây thơ cúi đầu tìm kiếm những
vật dụng nhỏ nhoi vô nghĩa lý đem lại cho người đọc cảm nhận: dường như gánh nặng
cuộc đời cũng đang đè nặng lên đôi vai chúng. Cái vô tư, hồn nhiên, tinh nghịch vốn
có ở những đứa trẻ đã sớm mất đi bởi đời sống khốn khổ, tàn tạ nơi phố huyện.
Đó là chị Tý “đi mò cua bắt tép, tối đến chị mới dọn cái hàng nƣớc”. Cái cửa
hàng của chị cũng nghèo nàn như cuộc đời của chị. Nó chỉ là một cái chõng tre, một tí
đồ điếu đóm, tất thảy vừa một chuyến đầy xách tay của chị và thằng cu bé “chả kiếm
đƣợc bao nhiêu nhƣng chiều nào chị cũng dọn hàng từ chập tối cho đến đêm”.
Cùng với số phận của chị Tý là số phận của bác phở Siêu với gánh hàng phở leo
lét ánh lửa. Đó là thứ hàng dù ngon nhưng “là một thứ qùa xa xỉ” với người dân phố
huyện cho nên “bóng bác mênh mang ngả xuống đất, kéo dài đổ xuống đất”. Sự kéo
130
dài của cái bóng dường như cũng là sự kéo dài của nỗi buồn, sự bế tắc tàn tạ trong
cuộc đời bác.
+) Gia đình bác xẩm:
“Ngồi trên manh chiếu, cái thau sắt trắng để trƣớc mặt… thằng con bò ra đất,
nghịch nhặt những rác rƣởi vùi trong cát bên đƣờng”, thoang thoáng “mấy tiếng đàn
bầu bật trong yên lặng” càng gợi lên cảm giác đơn điệu hiu hắt.
+) Hai chị em Liên:
Với “cửa hàng tạp hoá nhỏ xíu mẹ dọn ngay từ khi cả nhà bỏ Hà Nội về quê ở
vì thầy Liên mất việc”, hôm nay là phiên chợ mà bán hàng cũng chẳng ăn thua gì, cô
trở thành người con gái đảm đang và dường như phải sớm lo toan, già đi trước tuổi.
Hình ảnh bà cụ Thi nghiện rượu, hơi điên với dáng đi lảo đảo lẫn vào bóng tối
và tiếng cười khanh khách. Đó có lẽ là tiếng cười duy nhất của các nhân vật trong
tuyện. Nhưng tiếng cười ấy không mang lại cho mọi người cảm giác vui lây. Trái lại,
nó gây cho Liên sự sợ hãi. Bởi trong tiếng cười ấy dồn nén, chất chứa bao nỗi đắng
cay, tủi nhục, bế tắc. Vì vậy, bà cụ Thi là hiện thân của kiếp người tàn.
Đi vào những số phận nhỏ bé, những cuộc đời thường của người dân trên phố
huyện, Thạch Lam đã nhóm lên ở đó chất thơ của đời thường, chất thơ của lòng trắc ẩn,
của sự đồng cảm, chia sẻ nhân đạo.
d/ Tâm trạng của chị em Liên trước bức tranh đêm tối mênh mông của đất trời
phố huyện.
+) Bóng tối làm chủ tất cả.
Khi ánh chiều đã tắt thì bóng tối ập xuống. Tâm trạng của chị em Liên lại xoay
quanh cái quầng sáng thu nhỏ xung quanh ngọn đèn con trên chõng hàng nước ế ẩm
của chị Tý.
Cả phố huyện giờ chỉ thu nhỏ vào cái ngọn đèn con leo lắt ấy, còn xung quanh,
bóng tối làm chủ tất cả “tối hết cả, con đƣờng thăm thẳm ra sông, con đƣờng qua chợ
về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”, bên cạnh có gánh phở bác Siêu,
ngọn đèn Hoa Kỳ vặn nhỏ của Liên… Tất cả mấy đốm sáng, hột sáng thưa thớt tù mù.
Những hột sáng nhỏ nhoi ấy chẳng thể khiến cho đêm tối thêm mịt mùng dày đặc.
Một nhịp sống quẩn quanh, đơn điệu, bế tắc trong bóng tối ấy là những cuộc
đời bóng tối quẩn quanh, bế tắc. Hình ảnh ngọn đèn con của chị Tý chỉ chiếu sáng một
vùng đất nhỏ được nhắc đi nhắc lại nhiều lần là một hình ảnh có sức gợi tả đặc biệt.
Hình ảnh ấy có ý nghĩa như một biểu tượng về kiếp người nhỏ bé, vô danh, vô nghĩa,
sống leo lắt trong đêm tối mênh mông của xã hội cũ không có hạnh phúc, không có
tương lai. Hình ảnh ấy cũng gợi về nhịp sống lặp đi lặp lại một cách uể oải, đơn điệu,
buồn chán, bế tắc ngày này sang ngày khác không có gì thay đổi. Đúng như Tố Hữu đã
viết:
“Giữa dòng ngày tháng âm u đó
Không đổi nhƣng mà trôi cứ trôi”
Những người dân nghèo khổ trong cảnh ấy vẫn mơ hồ bâng quơ “mong đợi cái
gì đó tƣơi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”. “Một cái gì đó” là cái gì
vậy? Rất mông lung, mơ hồ, điều đó càng nói lên tình cảnh tội nghiệp của những
người sống mà không biết cuộc sống của mình ra sao (Thạch Lam là một nhà văn lãng
mạn nhưng có nhiều trang rất hiện thực. Bức tranh đời sống nghèo nói trên là một
trong những trang tiêu biểu nhất. Nó đã nói lên được một cách thấm thía và ám ảnh
tình trạng cuộc sống âm u, mòn mỏi, bế tắc của người dân nghèo, đồng thời bày tỏ tấm
131
lòng xót thương bao la của tác giả đối với những kiếp người sống tù mù ấy. Đó là
nguyên nhân nảy sinh tâm trạng của Liên.
+) Chính số phận quẩn quanh, bế tắc của những kiếp người tàn, bức tranh của
ngày tàn đã như thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của Liên , gây cho Liên một nỗi buồn
man mác.
+) Liên hồi tưởng về kỉ niệm tuổi thơ tươi sáng trước đây ở Hà Nội . Liên và
An ngửi thấy mùi phở thơm và nhớ lại khi ở Hà Nội “chị đƣợc hƣởng những thứ quà
ngon lạ nhƣ thế… đƣợc đi chơi Bờ Hồ, uống những cốc nƣớc lạnh xanh đỏ”. Liên
bâng khuâng nhớ về “Hà Nội nhiều đèn quá, tạo nên một vùng sáng rực và lấp lánh”.
Nhưng giờ đây, ánh sáng ấy chỉ là bóng mờ kí ức trong đêm.
+) Và trong bóng bối cảnh của bức tranh phố huyện tối tăm, tù túng vốn là
người có trái tim rất nhạy cảm nên Liên đã để lại cho tâm hồn mình vượt ra khỏi hiện
thực ngột ngạt, vươn tới một giấc mơ, một khát vọng khác với cảnh sống nghèo nàn,
tăm tối, bế tắc hiện tại. Liên ngồi chờ đợi đoàn tàu, không phải để đi bán hàng, không
phải vì nhu cầu vật chất, không mong gì ai mua mà vì một lí do khác “muốn đƣợc nhìn
chuyến tàu, đó là hoạt động cuối cùng trong đêm”. Nghĩa là Liên khát khao một sự đổi
thay, khao khát một cái gì khác thường khuấy động cái không khí đơn điệu, buồn tẻ,
quẩn quanh, tù túng, lụi tắt dần trong đêm tối. Thực chất đó là nhu cầu khát vọng về
tinh thần, nhu cầu được sống dù trong khoảnh khắc cùng một thế giới “với tiếng còi rít
lên, tàu chạy rầm rộ với những toa tàu sang trọng đèn điện sáng trƣng. Trong đó có
những con ngƣời gợi về Hà Nội huyên náo và vui vẻ”. Con tàu như đem một chút thế
giới khác đi qua, một thế giới khác hẳn đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn
chị Tý và ánh lửa bác Siêu leo lắt giữa cái đêm tối mênh mông của đất trời phố huyện.
+) Niềm vui sướng duy nhất chờ đợi trong một ngày đã đi qua nhanh chóng,
phố huyện lại chìm đi trong đêm tối. Liên càng cảm thấy buồn hơn khi trở về với hiện
tại. Trong giấc mơ chập chờn, cô bé phố huyện như cảm thấy mình sống giữa bao
nhiêu sự xa xôi không biết, như chiếc đèn con của chị Tý chỉ chiếu sáng một vùng đất
nhỏ.
* Tác phẩm giàu tính nhân đạo.
+) Qua tâm trạng của chị em Liên, Thạch Lam muốn bộc lộ những ý nghĩ kín
đáo, nhẹ nhàng nhưng thấm thía biết bao cho tâm hồn người đọc. Đó là tác giả muốn
bày tỏ nỗi niềm xót thương đối với những kiếp người nhỏ bé vô danh, không bao giờ
biết đến ánh sáng hạnh phúc. Trong xã hội cũ, có biết bao con người như thế. Họ phải
sống cuộc đời tẻ nhạt vô nghĩa, đến trong mơ cũng không biết mơ gì hơn một chuyến
tàu đêm vụt qua phố huyện tiêu điều, lụi tắt của cuộc đời mình. Cuộc sống của họ cũng
sẽ “mốc lên, rỉ đi, mòn ra, mục rữa” trong tăm tối đói ngèo, buồn chán nơi phố huyện
và nơi đất nước lầm than nô lệ.
+) Qua đó Thạch Lam đồng thời cũng muốn đánh thức, lay tỉnh những tâm hồn
đang uể oải, lụi tàn ngọn lửa của lòng khát khao được sống một cuộc sống có ý nghĩa
hơn, khao khát được thoát ra khỏi cuộc sống tăm tối, tù đọng, mòn mỏi đang muốn
chôn vùi họ.
Kết bài:
Phải có sự thức tỉnh của cái “tôi” mới có được niềm thương và sự lay tỉnh đáng
quý ấy. Khép trang sách lại, ta cứ phảng phất nỗi buồn thương sầu nặng về thân phận
con người. Phải chăng điều đó đúng với chức năng văn chương, ánh lên vẻ đẹp về khát
vọng muôn thuở của con người, vẻ đẹp nhân văn.
132
Đề 2: Truyện ngắn “ Hai đứa trẻ ” là một tiêu biểu cho phong cách của Thạch
Lam. Anh/chị hãy trình bày những nét đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm trên.
1. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” in trong tập “Nắng trong vƣờn” (1938) là một trong
những truyện ngắn đặc sắc nhất của Thạch Lam. Tác phẩm vừa có giá trị hiện thực cao,
vừa thấm đượm một giá trị nhân đạo sâu sắc. Qua truyện ngắn này, Thạch Lam cũng
thể hiện một tài năng viết truyện bậc thầy.
2. Truyện ngắn của Thạch Lam thường không có cốt truyện, mỗi truyện như một
bài thơ. Thạch Lam có ba truyện viết về những kỉ niệm thời thơ ấu ( Hai đứa trẻ, Nhà
mẹ Lê, Gió lạnh đầu mùa ). Ở truyện ngắn “Hai đứa trẻ”, toàn bộ câu chuyện chỉ kể về
tâm trạng thao thức của hai đứa trẻ Liên và An, mong mỏi, chờ đợi một chuyến tàu
đêm đi qua phố huyện tiêu điều. Thế nhưng qua câu chuyện kể tưởng như nhỏ nhặt,
đơn giản ấy, Thạch Lam đã thể hiện khá chân thực khung cảnh nghèo nàn, đơn điệu
của phố huyện nhỏ, thân phân và những ước mơ, khát vọng của những con người nơi
đây.
3. Trong “Hai đứa trẻ”, Thạch Lam chú trọng đi sâu vào nội tâm nhân vật với
những cảm xúc, cảm giác mơ hồ mong manh. Những trang viết miêu tả tâm trạng của
nhân vật ( đặc biệt là nhân vật Liên ) rất sâu sắc và tinh tế.
4. Thạch Lam đã sử dụng thành công thủ pháp nghệ thuật đối lập, tương phản giữa
các vùng âm thanh và ánh sáng. Cả một phố huyện chìm sâu vào bóng tối, chỉ còn một
vài chấm sáng tù mù quen thuộc xung quanh ngọn đèn của chõng hàng nước, cái bếp
lửa của hàng phở khuya vắng khách và ngọn đèn vặn nhỏ thưa thớt từng hột sáng lọt
qua phên nứa của một hàng tạp hoá. Những ngọn đèn tù mù như ngái ngủ đó tượng
trưng cho cuộc sống tù đọng của những người dân quê nghèo khổ nơi phố huyện nhỏ
của một vùng nông thôn.
Trong cái cảnh chìm chìm nhạt nhạt và vắng lặng đó, đêm nào cũng có một đoàn
tàu đi qua mang theo những luồng ánh sáng mạnh quét vào hai bên và tiếng ồn ào làm
xao động cả một vùng quê yên tĩnh. Đoàn tàu như mang đến một thế giới giàu sang và
đầy ánh sáng, một thế giới lý tưởng và ước mơ, đối lập với cái hiện thực tĩnh lặng đầy
bóng tối nơi phố vắng một huyện nhỏ. Thủ pháp đối lập mà Thạch Lam dùng ở đây
cũng là thủ pháp nghệ thuật quen thuộc của các nhà văn lãng mạn chủ nghĩa.
5. Thạch Lam có một phong cách, một giọng điệu rất riêng. Đó là lối kể chuyện thủ
thỉ, tâm tình thấm đượm chất thơ. Người đọc thấy ẩn hiện, kín đáo, lặng lẽ sau những
hình ảnh, những dòng chữ, một tâm hồn Thạch Lam đôn hậu, tinh tế, hết sức nhạy cảm
với mọi biến thái của tạo vật và lòng người.
133
NGUYỄN MINH CHÂU
Đề bài: Phân tích tình huống của truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn
Minh Châu và ý nghĩa của nó.
Bài Làm
A. Mở Bài:
Từ đầu thập kỉ 80 đến khi mất, Nguyễn Minh Châu đã chuyển đổi phong cách
từ khuynh hướng sử thi sang cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và triết lí
nhân sinh. Tâm điểm khám phá của ông là con người trong cuộc mưu sinh, trong hành
trình nhọc nhằn tìm kiếm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách. Nhà văn Nguyên Ngọc
đánh giá “Nguyễn Minh Châu thuộc trong số những nhà văn mở đƣờng tinh anh và tài
năng nhất của văn học nƣớc ta hiện nay”. Tiêu biểu nhất cho sự khám phá mở đường
đó là truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” sáng tác năm 1983. Trong tác phẩm này,
ông đã xây dựng được một tình huống truyện mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về
đời sống.
B. Thân Bài:
I. Vài nét về tác giả.
Nguyễn Minh Châu quê ở huyện Quỳnh Lưu - Nghệ An. Năm 1950, ông học
trường Huỳnh Thúc Kháng, sau đó gia nhập quân đội. Ông là Đảng viên Đảng cộng
sản Việt Nam, hội viên hội nhà văn Việt Nam. Ông mất năm 1989 tại Hà Nội. Ông
được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2000.
Tác phẩm chính: “Cửa sông” (tiểu thuyết), “Những vùng trời khác nhau” (tập
truyện), “Dấu chân ngƣời lính” (tiểu thuyết), “Những ngƣời đi từ trong rừng ra” (tiểu
thuyết), “Ngƣời đàn bà trên chuyến tàu tốc hành” (tập truyện), “Chiếc thuyền ngoài
xa” (tập truyện).
Quá trình sáng tác của Nguyễn Minh Châu được chia làm hai giai đoạn rõ rệt.
Trước năm 80, ông là ngòi bút sử thi có khuynh hướng trữ tình lãng mạn. Sau năm 80
đến khi mất, ông chuyển sang cảm hứng thế sự.
II. Phân tích tình huống.
1. Tình huống là gì?
Trong nghệ thuật viết truyện ngắn, tìm ra được một tình huống truyện độc đáo
là cực kì quan trọng. Tình huống thế nào đó sẽ làm bật nổi tất cả: từ không khí truyện
đến số phận, tâm lí nhân vật, chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Vậy thế nào là tình huống
truyện? Theo Nguyễn Minh Châu: tình huống truyện như một khúc, một nhát cắt của
đời sống, một khoảnh khắc ngắn ngủi song lại giúp cho người đọc hình dung được
diện mạo toàn thể của đời sống. Với Nguyễn Minh Châu “đôi khi ngƣời ta nghĩ ra một
cái tình thế xảy ra câu chuyện thật hay, thế là coi nhƣ xong một nửa… Tình huống
chính là thứ nƣớc rửa ảnh làm nổi hình, nổi sắc nhân vật, làm nổi rõ tƣ tƣởng của nhà
văn”.
2. Tình huống truyện “Chiếc thuyền ngoài xa”.
Tình huống truyện ở đây là tình huống tự nhận thức. Đây là tình huống bao
trùm toàn bộ câu chuyện. Trước hết, nghệ sĩ Phùng, một nghệ sĩ nhiếp ảnh rất lãng
mạn và mộng mơ, nhạy cảm với cái đẹp, đã đến một bờ biển miền Trung để chụp một
tấm ảnh nghệ thuật về thuyền và biển cho cuốn lịch năm sau theo yêu cầu của trưởng
phòng “không có ngƣời, hoàn toàn thế giới tĩnh vật”. Phùng đã dự tính bố cục, đã
134
phục kích mỗi buổi sáng để “chộp” được cảnh thật ưng ý. Giờ phút ấy đã đến, đôi mắt
người nghệ sĩ vốn yêu cái đẹp thơ mộng đã phát hiện ra một vẻ đẹp mà cả đời bấm
máy có lẽ anh mới có diễm phúc thấy một lần “trƣớc mắt tôi là một bức tranh mực tàu
của một danh hoạ thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ, loè nhoè vào bầu trời sƣơng
mù màu trắng nhƣ sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài
bóng ngƣời lớn, trẻ con ngồi im phăng phắc nhƣ tƣợng trên chiếc mui khum khum
đang hƣớng mặt vào bờ… Toàn bộ khung cảnh từ đƣờng nét đến ánh sáng đều hài hoà
và đẹp… Tôi tƣởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám
phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Niềm hạnh phúc lớn lao của
người nghệ sĩ chính là sự khám phá và sáng tạo của sự cảm nhận cái đẹp tuyệt diệu.
Hình như anh đã phát hiện cái tần thiện, tần mĩ trong hình ảnh “Chiếc thuyền ngoài
xa” giữa biển trời mờ sương và anh thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên thật
trong trẻo, tinh khôi bởi cái đẹp hài hoà, lãng mạn, thi vị của cuộc đời. Điều đó làm
cho anh rất thích thú khi nghe ai đó “phát hiện ra bản thân cái đẹp chính là đạo đức”
và trong khoảnh khắc tâm hồn anh tràn ngập niềm hạnh phúc do cái đẹp tuyệt đỉnh của
ngoại cảnh mang lại.
Khi chiếc thuyền vào bờ, Phùng lại phát hiện ra một điều thật bất ngờ, bất ngờ
đến sửng sốt trước một sự thực trớ trêu, đầy nghích lý như là trò đùa quái ác của sự
sống. Đằng sau cái đẹp “toàn bích, toàn thiện” của chiếc thuyền đẹp như mơ ấy, đang
bước ra “một ngƣời đàn bà vùng biển trạc ngoài 40 cao lớn với những đƣờng nét thô
kệch… Mặt rỗ sau một đêm mệt mỏi thức trắng kéo lƣới, tái ngắt nhƣ đang buồn ngủ
với dáng vẻ rất cam chịu”. Đi sau người đàn bà là một người đàn ông “tấm lƣng rộng
và cong nhƣ lƣng một chiếc thuyền, mái tóc tổ quạ, chân chữ bát… Hàng lông mày rủ
xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ”. Hắn coi việc đánh vợ như một phương cách để giải
toả những uất ức, khổ đau, cùng quẫn do cuộc sống mưu sinh luôn luôn đói nghèo cơ
cực nơi vùng biển miền Trung mang đến. “Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt
đỏ gay, lão rút trong ngƣời ra một chiếc thắt lƣng của lính Nguỵ ngày xƣa… chẳng
nói chẳng rằng, lão trút cơn giận nhƣ lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lƣng quật
tới tấp vào lƣng ngƣời đàn bà. Lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến
ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn:
mày chết đi cho ông nhờ”. Vì thế người đàn bà ấy phải chịu đựng một sự thật phũ
phàng “ ba ngày bị một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng… Cả nƣớc không có một
ngƣời chồng nào vũ phu nhƣ hắn”. Trước cảnh lão đàn ông đánh vợ một cách vô lý và
thô bạo, không thể làm ngơ trước cái ác, Phùng đã thể hiện bản chất của người lính
yêu lẽ phải, bênh vực người yếu bằng cách xông ra bảo vệ người đàn bà. Nhưng anh
chưa kịp hành động thì thằng Phác, con trai lão đàn ông tàn ác ấy đã lao tới như một
viên đạn bay về tới đích với một sự giận dữ căng thẳng, nhảy xổ lên dùng khoá sắt
chiếc thắt lưng quật thẳng vào giữa ngực bố để che chở cho người mẹ đáng thương.
Người mẹ vì thương con mà nhẫn nhục chịu đựng sự ngược đãi dã man của người bố
và không biết mình đã làm tổn thương đến tâm hồn của đứa con. Cậu bé thương mẹ,
bênh vực mẹ thành ra căm ghét bố mình “ngƣời đàn bà dƣờng nhƣ lúc này mới cảm
thấy vừa đau đớn, vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã… Miệng mếu máo gọi, ôm chầm lấy
thằng bé rồi lại buông ra chắp tay vái lấy vái để… Thằng bé nhƣ một viên đạn bắn
vào ngƣời đàn ông và giờ đây đang xuyên qua tâm hồn ngƣời đàn bà, làm rỏ xuống
những giọt nƣớc mắt”. Chị sợ con mình phạm tội ác, trở thành kẻ vô đạo. Như vậy,
niềm tin trong trẻo, hồn nhiên, cái quyền vốn có của tuổi thơ ở cậu bé Phác dường như
đã bị tước mất.
135
Khi câu chuyện của người đàn bà hàng chài xảy ra ở toà án huyện, những người
như Phùng và Đẩu mới hiểu được nguyên nhân của những điều tưởng như vô lý của sự
thật cuộc đời.. Chánh án Đẩu tốt bụng nhưng lại có phần phi thực tế và hơi đơn giản
trong cách nghĩ. Đứng trên góc độ của một chánh án, nhân danh pháp luật, Đẩu
khuyên người đàn bà li dị chồng là xong, là giải thoát được cảnh đòn roi và thường
xuyên bị bạo hành. Đẩu không biết là bà cần một chỗ dựa cơ bản để kiếm sống đặng
nuôi con khôn lớn. Ta hãy lắng nghe lời cầu xin và trần tình, rụt rè, khiêm nhường mà
đầy tự tin, chủ động, quyết đoán của người mẹ ấy trước vị Bao Công phố huyện và
trước nghệ sĩ Phùng: “Chị chắp tay vái lia lịa: “Con lạy quý toà… quý toà bắt tội con
cũng đƣợc, phạt tù con cũng đƣợc đừng bắt con bỏ nó… Chị nói thành thực, chị cảm
ơn các chú. Lòng các chú tốt nhƣng các chú đâu phải ngƣời làm ăn… đâu có hiểu
đƣợc cái việc của ngƣời làm ăn lam lũ, khó nhọc… Đám đàn bà hàng chài ở thuyền
chúng tôi cần phải có ngƣời đàn ông để chèo chống khi phong ba để cùng làm ăn nuôi
nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dƣới chục đứa. Ông trời sinh ra ngƣời đàn
bà là để đẻ con rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn. Cho nên phải gánh lấy cái khổ…
Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con, chứ không thể sống cho mình nhƣ trên
đất đƣợc”. Như vậy hoá ra, nguồn gốc của mọi sự chịu đựng đến kì lạ gần như ngoài
sức tưởng tượng của người đàn bà có phần quê mùa ít học ấy chẳng phải là vì quá chai
đòn, chẳng phải vì tăm tối dốt nát đến mức mất hết ý thức về quyền sống của mình mà
chính là do đức hi sinh, là tình thương con vô bờ bến của người mẹ. Có hiểu được sự
thật ấy, chúng ta mới thấy sự suy nghĩ và xử sự của chị ta là không thể khác được và
thực sự hợp tình, hợp lý rất sâu sắc. Vả chẳng trong nỗi tủi cực triền miên, người đàn
bà ấy cũng đã vớt được một ít hạt ngọc châu từ dưới đáy biển khổ đau “trên chiếc
thuyền cũng có lúc, vợ chồng, con cái chúng tôi sống hoà thuận vui vẻ… Vui nhất là
lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó ăn no”. Thì ra với người đàn bà này, mọi niềm vui
nỗi buồn, mọi sự chịu đựng thầm lặng, những nỗi đau đớn, tất cả cũng là vì con vì
chồng. Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao người phụ nữ
Việt Nam nhân hậu, vị tha, chịu thương chịu khó và giàu đức hi sinh, thấm nhuần đạo
lý người vợ, người mẹ:
“Có con thì khổ vì con
Có chồng gánh vác giang sơn nhà chồng”
Vì con , mẹ phải chịu biết bao nỗi khổ để có những niềm vui trong ngần, những
nụ cười thanh thản. Người mẹ này xứng đáng là tượng đài thô giáp và cao vòi vọi. Đó
là hiện thân của cái đẹp cần được tôn vinh. Nhưng không phải là cái đẹp chói sáng hào
hùng mà là những hạt ngọc khuất lấp lẫn trong cái lấm láp, lam lũ của đời thường.
Từ câu chuyện này, Phùng hiểu rõ hơn cái có lý trong cái tưởng như nghịch lý ở
gia đình thuyền chài; hiểu thêm tính cách của Đẩu và hiểu thêm chính mình.
3. Ý nghĩa khám phá, phát hiện của tình huống.
Tóm lại, tình huống này được tạo nên bởi nghịch cảnh giữa vẻ đẹp của chiếc
thuyền ngoài xa với cái thật ở gần: sự ngang trái éo le trong gia đình thuyền chài.
Gánh nặng mưu sinh đè nặng trên cặp vai hai vợ chồng. Vì thế người chồng vốn hiền
lành, nay trở thành kẻ vũ phu. Anh thường xuyên trút những cơn giận như lửa cháy
vào người vợ. Vì anh tưởng vợ là nguyên nhân của tấn bi kịch đói nghèo, cơ cực, cùng
quẫn của đời mình. Vì đời chật chội nên anh điên khùng. Còn người vợ vì thương con
nên âm thầm chẫn nhục chịu đựng mọi sự bạo hành “khi bị chồng đánh, bà không hề
kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy trốn”. Qua tình huống này, cái
136
nhìn và cảm nhận của người nghệ sĩ Phùng, chánh án Đẩu là sự khám phá, phát hiện,
tự nhận thức sâu sắc về đời sống và con người.
Đẩu hiểu được nguyên do người đàn bà không thể bỏ chồng là vì những đứa
con. Anh vỡ lẽ ra nhiều điều trong cách nhìn nhận cuộc sống “một cái gì vừa mới vỡ
ra trong đầu vị Bao Công của cái thành phố vùng biển”.
Phùng như thấy chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, còn sự thật cuộc đời thì
ở gần. Và hiểu được đừng vì nghệ thuật mà quên cuộc đời. Bởi nghệ thuật chân chính
luôn luôn là cuộc đời và vì cuộc đời. Đúng như Tố Hữu đã khẳng định “văn chƣơng
không chỉ là văn chƣơng mà thực chất cuộc đời, cuộc đời là nơi xuất phát và nơi đi tới
của văn chƣơng”. Đó cũng là ý đồ nghệ thuật của tác giả Nguyễn Minh Châu “văn học
và cuộc sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tiêu điểm là con ngƣời”. Còn nhà văn chân
chính thì bao giờ cũng phải “mang nặng trong mình tình yêu cuộc sống, nhất là tình
yêu thƣơng con ngƣời”. Đấy chính là chủ nghĩa nhân đạo mới mẻ, sâu sắc của Nguyễn
Minh Châu. Hãy rút ngắn khoảng cách giữa nghệ thuật và cuộc đời; phải khám phá,
đào sâu vào bản chất cuộc sống và con người.
C. Kết Luận.
Tình huống truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” có ý nghĩa khám phá, phát hiện về
sự thật đời sống, một tình huống nhận thức.
Tình huống này đã nhấn mạnh thêm mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống.
Nó mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: cách
nhìn đa diện, đưa con người vào bối cảnh nhiều chiều, dân chủ hoá mối quan hệ giữa
nhà văn và độc giả, khơi gợi , nêu vấn đề cùng thảo luận, bàn bạc, chứ không ban phát
chân lý cho người đọc.
NGUYỄN THI
Đề 1 (5 điểm): Phân tích những điểm giống nhau và khác nhau của hai nhân vật
Việt và Chiến trong truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình" của Nguyễn Thi.
Mở Bài 1:
Là một nhà văn cầm súng đã ngã xuống giữa chiến trường như một chiến sĩ
thực sự, Nguyễn Thi đã để lại nhiều tác phẩm rất có giá trị, những tác phẩm mà mỗi
trang sách còn khét mùi đạn bom, cháy đỏ lửa căm thù quân xâm lược và xanh ngời
một niềm lạc quan chiến thắng. Tiêu biểu và xuất sắc nhất trong số đó là truyện ngắn
“Những đứa con trong gia đình”. Đây là một truyện ngắn có nghệ thuật kể chuyện độc
đáo, linh hoạt, hấp dẫn và một tài năng khắc họa tính cách nhân vật đặc sắc. Qua việc
phân tích những điểm giống nhau và khác nhau của hai nhân vật chính Việt và Chiến,
chúng ta có thể thấy rõ điều đó.
Mở Bài 2:
Nguyễn Thi là một trong những gương mặt tiêu biểu nhất của các nhà văn Nam
Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Ông đã hy sinh như một chiến sĩ cầm súng
trong cuộc tổng tiến công Mậu Thân (1968) và đã để lại nhiều tác phẩm rất có giá trị.
137
Nổi bật nhất trong số đó là truyện “Những đứa con trong gia đình”. Bằng nghệ thuật
kể chuyện độc đáo, linh hoạt, hấp dẫn và tài năng khắc họa nhân vật đặc sắc, Nguyễn
Thi đã tạc nên được bức chân dung lớn của người dân Nam Bộ trong cuộc kháng chiến
oanh liệt. Điển hình nhất trong số đó là Việt và Chiến, hai nhân vật rất chân thực, giàu
cá tính gây ấn tượng khó quên cho người đọc.
Mở Bài 3:
“Những đứa con trong gia đình” là một trong những thiên truyện ngắn xuất sắc
và tiêu biểu nhất của Nguyễn Thi, một nhà văn chiễn sĩ đã ngã xuống trong cuộc tổng
tiến công tết Mậu Thân (1968). Thành công độc đáo của truyện là ở nghệ thuật kể
chuyện biến hoá, linh hoạt; ở nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật hấp dẫn, đặc biệt
là tính cách người nông dân Nam Bộ. Điển hình nhất trong số đó là Việt và Chiến, hai
nhân vật rất chân thực, giàu cá tinh để lại những ấn tượng khó quên trong lòng người
đọc.
Mở Bài 4:
Hy sinh với tư cách là nhà văn chiến sĩ trong cuộc tổng tiến công Mậu Thân
(1968), Nguyễn Thi đã để lại nhiều tác phẩm có giá rị. Qua những tác phẩm này,
Nguyễn Thi đã dựng lên được gương mặt đẹp đẽ của những người dân Nam Bộ trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ - những con người gan góc, kiên cường dường như sinh
ra để cầm súng giết giặc. Trong những con người đó có gương mặt đáng yêu của lớp
thanh niên trẻ phơi phới lên đường đi đánh giặc như trẩy hội mùa xuân, mà Việt và
Chiến (Những đứa con trong gia đình) là hai hình ảnh tiêu biểu để lại trong lòng người
đọc những ấn tượng sâu đậm nhất.
A. GIỐNG NHAU:
Là hai chị em ruột cùng được nuôi dưỡng trong một gia đình cách mạng có
cuốn sổ truyền thống gia đình mà mỗi trang được ghi lại bằng máu và nước mắt, Việt
và Chiến cùng mang một mối thù không đội trời chung với giặc đã tàn sát cha mẹ, ông
bà mình một cách dã man. Hai chị em Việt và Chiến có nhiều nét giống nhau về bản
chất: giàu tình nghĩa yêu nước, căm thù giặc ngùn ngụt, kiên cường, gan góc, thuỷ
chung, say mê chiến đấu và tự hào về truyền thống cách mạng gia đình, nghĩa là họ
mang đậm cái “chất Út Tịch” trong tâm hồn.
1. Trước hết, Việt và Chiến rất thương cha, thương mẹ, căm thù giặc sâu sắc
và cùng có một ước nguyện là được cầm súng đánh giặc để trả thù cho ba má.
- Tình cảm này được thể hiện một cách sâu sắc và cảm động đến rơi nước mắt
qua chi tiết chị em giành nhau ghi tên tòng quân và nhất là chi tiết sáng hôm sau, trước
khi lên đường nhập ngũ, cùng khiêng bàn thờ má sang gửi bên nhà chú Năm “Nào,
đƣa má sang ở tạm bên nhà chú Năm, chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má đến
chừng nào nƣớc nhà đƣợc độc lập, con lại đƣa má về. Việt khiêng trƣớc. Chị Chiến
khiêng lịch bịch phía sau. Nghe thấy chân chị, Việt thấy thƣơng chị lạ. Lần đầu tiên
Việt mới thấy rõ lòng mình nhƣ thế. Còn mối thù thằng Mỹ thì có thể sờ thấy đƣợc, vì
nó đang đè nặng ở trên vai”. Đoạn văn thật đầy xúc động, khiến người đọc cảm thấy
rất rõ mối thù giặc, tình mẹ con đã trở thành một khối lượng vật chất cụ thể trên vai
hai chị em. Qua đây, nó làm nổi bật ý nghĩa thiêng liêng của cuộc kháng chiến chống
Mỹ. Đó là một cuộc kháng chiến “Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn”… Và lên đường
138
đánh Mỹ là lên đường vì đạo lý: trả thù nhà, đền nợ nước. Đúng như nhà thơ Tố Hữu
đã viết trong bài “Lá thƣ Bến Tre”:
“Ngƣời chết đi cùng ngƣời sống đây
Tử sinh một dạ, trả thù này
(Thơ Tố Hữu – Trang 349)
2. Chính điều ấy đã biến hai chị em thành những chiến sĩ dũng cảm gan góc
và họ đều đã từng lập được nhiều chiến công.
- Là tiểu đội trưởng của bộ đội nữ địa phương Bến Tre, Chiến đã bắn chìm tàu
chiến Mỹ trên sông Định Thuỷ, còn Việt thì đã phá được một xe tăng địch trong trận
đánh giáp lá cà.
- Cha mẹ là dũng sĩ nên họ sinh ra dường như là để cầm súng đánh giặc và họ
xứng đáng với truyền thống cách mạng vẻ vang của gia đình. Ngay việc hai chị em
tranh giành nhau ghi tên tòng quân và cuộc đối thoại của họ trong đêm trước lúc lên
đường cũng báo trước những chiến công đó:
- “Chú Năm nói mày với tao kỳ này là ra chân trời, mặt biển, xa nhà thì ráng
học chúng bọn, thù cha mẹ chƣa trả mà bỏ về là chú chặt đầu.
- Chị có bị chặt đầu thì chớ, chừng nào tôi mới bị.
- Tao đã thƣa với chú Năm rồi. Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một
câu: Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à!”.
Còn Việt sau này tuy bị thương nặng, hai mắt không nhìn thấy gì, “hai tay, vai,
đầu, chân đang đau điếng và rỏ máu”, người sắp lả đi vì đói khát, Việt vẫn trong tư
thế đường hoàng chững chạc của người chiến sĩ kiên cường, sẵn sàng tiêu diệt giặc:
“Tao sẽ chờ mày… Cả khu rừng này còn có mình tao. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn
đƣợc mày… Mày chỉ giỏi giết gia đình tao, còn đối với tao thì mày là thằng chạy”.
3. Tuy nhiên họ còn rất trẻ: Khi ghi tên tòng quân, chị mới 18, em mới 17. Vì
thế, cả hai vẫn còn tính ngây thơ trẻ con. Mặc dù rất thương yêu nhau nhưng hay giành
nhau: giành phần bắt ếch ít hay nhiều, giành nhau thành tích bắn tàu chiến Mỹ và
giành nhau cả khi ghi tên tòng quân.
Những nét chung trên đây khiến cho họ trở thành những con người rất tiêu biểu
cho thế hệ trẻ miền Nam trong những ngày kháng chiến chống Mỹ ác liệt, gian khổ mà
hào hùng; đồng thời cũng là những đứa con rất mực thuỷ chung với truyền thống cách
mạng của gia đình.
B. KHÁC NHAU:
- Tuy nhiên, chỗ đặc sắc và tài năng của Nguyễn Thi trong nghệ thuật khắc họa
hình tượng nhân vật là nhân vật của ông rất chân thực: mỗi người có một gương mặt
riêng, một cá tính khác nhau rất sinh động. Và sự khác nhau ấy, xét đến cùng là do một
người thì con gái, còn một người thì con trai; một người là chị, một người là em.
1. Là con gái nên Chiến có cái gan góc kiên nhẫn riêng của phụ nữ. Việt có
thể dũng cảm trong chiến đấu nhưng không thể có được cái gan kiên trì ngồi đánh vần
cuốn sổ gia đình của chú Năm như Chiến “có lúc Việt còn bỏ về nhà ăn cơm nhƣng chị
Chiến cứ ngồi một góc ván, lông mày cau lại, đánh vần hoài. Chị đọc tiếng đặng tiếng
mất chữ mẹ đẻ chữ con, từ trƣa tới chiều, bỏ ăn, quên cả trời chạng vạng”.
- Việt thì tỏ ra là một cậu con trai đồng quê, tính tình hiếu động suốt ngày lang
thang bắn chim, câu cá, bắt ếch, lúc nào cũng có cái ná thun dắt trong người, kể cả khi
đi bộ đội.
139
2. Là chị nên tuy chưa hết tính trẻ con, có lúc tranh hơn với em nhưng cuối
cùng Chiến cũng đã nhường em. Ở nhà, Chiến nhường Việt phần bắt ếch nhiều hơn,
sau này đi đánh giặc, vết đạn bắn thằng Mỹ trên sông Định Thuỷ chị cũng nhường cho
em, duy nhất có một lần Chiến không nhường. Đó là cái đêm ghi tên tòng quân.
-“ Đề nghị mấy anh xét cho. Nó là em tôi mà cái gì nó cũng giành…
- Đến Tết này nó mới đƣợc 18 anh ạ! Em nói để em đi trƣớc, nó ở nhà thủng
thẳng để chú Năm em thu xếp rồi hãy đi mà nó không chịu”.
Ở đây, lẫn với tính trẻ con và niếm khát khao say mê đánh giặc, có tấm lòng
thương em của người chị giàu lòng vị tha: chưa muốn em sớm phải chịu đựng cảnh
đạn bom nguy hiểm.
- Trong khi đó, Việt là cậu con trai mới lớn nên tính tình hiếu thắng, vả lại là
em thì cần gì phải nhường nhịn ai.
3. Chiến là một cô gái đảm đang tháo vát “sớm biết lo, biết nghĩ”, lại thêm
cha mẹ mất cả nên có tƣ thế chững chạc của một ngƣời chị lớn làm chủ gia đình và
có cái gì đó tỏ ra “khôn ngoan già dặn trước tuổi”. Không phải ngẫu nhiên mà trong
cái đêm trước khi lên đường nhập ngũ, Việt thấy chị nói năng rành rọt đâu ra đấy
giống y mẹ ngày xưa. Bởi vì đây là giờ phút Chiến phải đứng ra thu xếp việc nhà, việc
cửa chu đáo trước lúc cùng em ra trận đánh giặc. Thật xúc động và cảm phục biết bao
đối với người con gái quá trẻ ấy trong giây phút chuẩn bị nhập ngũ, vẫn bình tĩnh và
biết lo toan chu tất từ việc lớn đến việc nhỏ: từ việc giỗ má đến việc gửi bàn thờ.
Người đọc chúng ta ai cũng có tâm trạng như chú Năm lúc ấy và đã phải thốt lên
“Khôn! Việc nhà nó thu đƣợc gọn thì việc nƣớc nó mở đƣợc rộng. Gọn bề gia thất
đặng bề nƣớc non”. Trong đau thương gian khổ, con người ta đã lớn lên và đẹp như
vậy đấy!.
- Là con trai, lại là em quen được chiều chuộng nên mọi việc Việt đều “ỷ lại
cho chị”, phó mặc tất cả cho chị. Nghe chị bàn việc gia đình một cách trang nghiêm,
Việt vẫn vô tư “lăn kềnh ra ván cƣời khì khì” và cứ ầm ừ cho qua, vừa nghe vừa “chụp
một con đom đóm úp trong lòng bàn tay rồi ngủ quên lúc nào không biết”. Chỉ kém
chị một tuổi mà Việt “trẻ con hơn nhiều”. Đi bộ đội vẫn dắt theo cái ná thun trong
người. Yêu quý chị mà cứ cố giữ kín vì chỉ sợ mất chị, đánh giặc không sợ chết nhưng
lại sợ ma, khi gặp lại đồng đội thì vừa khóc lại vừa cười “giống hệt nhƣ thằng út ở nhà,
khóc đó rồi cƣời đó”. Cái chất trẻ thơ, trẻ con ấy khiến cho hình tượng Việt có nét
sống động riêng, khó lẫn, đem lại cho câu chuyện một niềm lạc quan, yêu đời trong
những ngày đánh giặc gian khổ và ác liệt.
Ngoài ra, ta thấy ở nhân vật Chiến còn có một cái gì đó rất khó diễn tả- nó là
cái chất trẻ trung và duyên dáng của một cô thiếu mữ mới lớn lên: bắt đầu thích soi
gương, đi đánh giặc vẫn có cái gương giấu trong túi. Chi tiết này được người em nhớ
lại khi bị thương giữa rừng. Chỉ một chi tiết nhỏ lướt qua vậy thôi mà Nguyễn đình
Thi đã góp phần hoàn chỉnh được chân dung nhân vật. Bút pháp xây dựng nhân vật
của tác giả quả thật rất tinh tế.
Kết Luận 1:
Tóm lại Việt và Chiến là hai chị em có những phẩm chất giống nhau nhưng
đồng thời lại là hai gương mặt, hai cá tính khác nhau, mỗi người một vẻ và tất cả đều
đáng yêu, đáng mến. Nguyễn Thi đã xây dựng hai nhân vật này thành những gương
mặt tiêu biểu cho “Những đứa con trong gia đình” và thế hệ trẻ miền Nam anh hùng
trong cuộng kháng chiến chống Mỹ gian khổ mà rất đỗi hào hùng.
140
Kết Luận 2:
Tóm lại, với Việt và Chiến, Nguyễn Thi đã xây dựng được hai nhân vật sống
động, đặc sắc, thú vị. Qua họ, tác giả đã phần nào phản ánh được cuộc chiến đấu anh
hùng của người dân miền Nam; đặc biệt là thế hệ trẻ, những con người đã biết cầm
súng đánh giặc như một mệnh lệnh của trái tim. Vì thế họ cũng đã lên đường ra trận
như đi trẩy hội mùa xuân.
Đề 2: Những đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm “Những đứa con trong gia đình”
cùa nhà văn Nguyễn Thi
1.Tác giả tạo một tình huống khá hấp dẫn. Đó là Việt, một cậu con trai mới lớn đi
chiến đấu bị thương nặng nằm giữa rừng khi tỉnh khi mê và hồi tưởng lại
2.Nhờ đó lời kể vừa là lời tác giả, vừa là lời của nhân vật, tạo nên một kiểu lời kể đặc
biệt : bán trực tiếp.
3.Truyện được thuật lại chủ yếu qua dòng hồi tưởng của nhân vật Việt. Dòng hồi ức
của Việt khi đứt, khi nối sau những lần ngất đi, tỉnh lại. Lối kết cấu dựa vào dòng hồi
tưởng như thế làm cho truyện giàu cảm xuc, diễn biến linh hoạt, khong tuân thủ theo
trật tự thời gian mà vẫn tự nhiên, hấp dẫn. Qua đó làm nổi bật những nhân vật đầy góc
cạnh.
4.Nguyễn Thi có biệt tài phân tích tâm lý và khả năng nhập sâu vào nội tâm nhân vật
và ông cũng có cách xây dựng nhân vật rất tinh tế
NGUYỄN TRUNG THÀNH
Đề 1: Tóm tắt tác phẩm "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành
Tác phẩm viết về làng Xô Man và núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ. Sau ba năm xa làng đi bộ đội giải phóng, Tnú trở về thăm quê,
làng Xô Man bất khuất kiên cường nằm giữa rừng xà nu bạt ngàn của Tây Nguyên.
Trong một buổi tối sum họp của làng, cụ Mết đã kể lại cho dân làng nghe về một trang
sử bi thương mà hùng tráng của làng nó gắn với cuộc đời Tnú. Làng Xô Man trong
những năm đen tối của Cỏch Mạng, là một căn cứ bí mật vững chắc nuối dấu cán bộ.
Lúc ấy, Tnú và Mai còn nhỏ nhưng đã góp phần tích cực vào việc chở che nuôi dấu
cán bộ. Lớn lên, hai người thành vợ chồng. Tnú trở thành người lãnh đạo dân làng
đánh giặc. Tin làng Xô Man “mài giáo mác chuẩn bị khởi nghĩa bay đến tai quân
141
giặc”, chúng cho quân đến vây quét. Cụ Mết và Tnú, cùng thanh niên rút ra ngoài rừng.
Giặc dùng mọi cách khủng bố uy hiếp tinh thần dân chúng. Để hòng dụ dỗ Tnú đầu
hàng, chúng bắt vợ và con anh hành hạ. Núp trong rừng, chứng kiến cảnh vợ con bị
đánh đập dã man, Tnú sôi sục căm thù đến mức không còn tỉnh táo được nữa, đã nhảy
xổ ra chém giết lũ giặc. Nhưng anh cũng không cứu được vợ con mình. Anh bị giặc
bắt trói, tẩm nhựa xà nu đốt cháy mười đầu ngón tay trước mắt dân làng, hòng uy hiếp
“ mộng cầm giáo mác” của họ. Tnú kiên cường, cắn răng chịu đựng không hề khuất
phục. Căm thù tột độ, cả khối người đã vùng lên đánh gục kẻ thù “Cả làng Xô Man ào
ào rung động và lửa cháy khắp rừng”. Câu chuyện khép lại bằng cảnh cụ Mết và Dít
tiễn đưa Tnú trở lại đơn vị ở nơi cửa rừng xà nu tràn trề sức sống vượt lên trên sự huỷ
diệt của bom đạn như làng Xô Man bất khuất kiên trung.
Đề 2: Phân tích nhân vật Tnú - nhân vật tiêu biểu cho văn học, bút pháp sử thi.
Mở bài:
Đọc truyện ngắn rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành sáng tác năm 1965 rút
từ tập “Trên quê hƣơng những anh hùng Điện Ngọc” điều để lại những ấn tượng khó
quên trong tâm hồn độc giả không chỉ là hình tượng cây xà nu giàu sức sống, ham ánh
sáng, thân cây thẳng tắp “vƣơn lên bầu trời đón lấy nắng vàng toả chất nhựa thơm mỡ
màng” mà còn là hình ảnh những con người Tây Nguyên bất khuất kiên trung, thuỷ
chung trong sáng, giàu tình nghĩa, trọn đời gắn bó với Cách Mạng và quyết không đội
trời chung với kẻ thù Mỹ - Nguỵ như cụ Mết, Tnú, Dít, anh Xút, bà Nhan, nổi bật nhất
trong đó là Tnú. Một hình tượng vừa kết tinh được phẩm chất cao đẹp của người Tây
Nguyên vừa được tác giả viết với bút pháp mang đậm màu sắc sử thi.
Thân bài:
A. Chặng đƣờng đời thứ nhất
I. Lai lịch của nhân vật Tnú
Vào một đêm ngoài rừng mưa rì rào như gió nhẹ, dưới ánh lửa xà nu bập bùng,
tất cả dân làng Xô Man, già trẻ gái trai đã nghe cụ Mết, một già làng có thân hình vạm
vỡ, quắc thước, mắt sáng xếch ngược, râu dài ngang ngực, giọng rền vang như cồng
chiêng kể về cuộc đời đầy bi hùng của Tnú.
II. Tnú có lòng yêu thƣơng nhân dân, trung thành với Cách Mạng, gan góc,
táo bạo.
Tnú là người con của dân làng Xô Man, cha mẹ mất sớm và được dân làng cưu
mang, nuôi dưỡng. Cũng như người dân làng “Có cái bụng thƣơng núi, thƣơng nƣớc”.
Tnú đã sớm có một lòng yêu thương nhân dân làng xóm, gắn bó mật thiết với từng
142
mảnh đất quê hương. Sau này trưởng thành, Tnú vẫn giữ nguyên vẹn tấm lòng ấy. Suốt
ba năm xa nhà đi chiến đấu, lòng Tnú luôn day dứt một nỗi nhớ về tiếng chày chuyên
cần rộn rã của người dân làng Xô Man mà âm thanh của nó đã thấm sâu vào máu thịt
tâm hồn anh từ thuở mới lọt lòng. Dù đã rửa ở suối rồi. Tnú vẫn xúc động để vòi nước
của làng mình dội lên khắp người những cảm giác mơn man mát lạnh. Từ tấm lòng
này, Tnú đã mở rộng thành tình yêu gắn bó, trung thành, thuỷ chung sâu nặng với
Cách Mạng, cán bộ của Cách Mạng. Bởi ngay từ khi là một cậu bé, Tnú được cụ Mết,
người giữ gìn và truyền ngọn lửa Cách Mạng từ thế hệ này sang thế hệ khác cho hay
“Cán bộ là Đảng. Đảng còn núi nƣớc này còn”. Vì vậy ngay từ chặng đầu của cuộc
đời, Tnú đã xuất hiện với tư cách người anh hùng Tây Nguyên thời chống Mĩ. Dù còn
nhỏ, Tnú đã sớm tỏ ra gan góc táo bạo đầy quả cảm gương mẫu đi đầu và luôn luôn
quyết tâm vượt qua mọi thử thách để hoàn thành nhiệm vụ như: Lê Văn Tám, Vừ A
Dính, Kim Đồng, Lượm, Luỹ. Bất chấp sự vây lùng khủng bố dã man của kẻ thù: chặt
đầu những người đi nuôi cán bộ - đầu anh Sút, bà Nhan đang bị chúng treo lủng lẳng
đầu xóm, Tnú cùng với Mai vẫn xung phong gương mẫu vào rừng bảo vệ nuôi dưỡng
anh Quyết, một cán bộ trung kiên của Đảng. Đây là một công việc vô cùng khó khăn
đầy hiểm nguy. Vốn là con người nhanh trí táo bạo thích mạo hiểm, luôn luôn chủ
động bình tĩnh sáng suốt xử lý trước những tình huống khẩn cấp hiểm nghèo, Tnú
không được qua những suối nước cạn dễ đi mà thường băng qua những con thác hiểm
“nhƣ một con cá Kình”. Có lần vừa vượt qua thác, chuẩn bị bước lên bờ thì hai họng
súng đen ngòm lạnh ngắt đã chĩa vào tai Tnú. Địch tra tấn hỏi Cộng sản ở đâu? Tnú đã
không ngần ngại đặt tay lên bụng “ở đây này”. Và lưng Tnú lại hằn lên những vết
chém ngang dọc của kẻ thù. Đúng Tnú là con người rất giàu phẩm chất thuỷ chung,
trung thành với Cách Mạng mà bất khuất hiên ngang trước kẻ thù. Chính nhờ những
người con như Tnú mà làng Xô Man có thể tự hào “năm năm chƣa hề có một cán bộ bị
giặc bắt hay giết trong rừng làng này”.
III. Tnú còn là con ngƣời chính trực, trong sáng, trung thực, thẳng thắn
nhƣ cây xà nu.
Tnú quyết tâm học cho được cái chữ để trở thành cán bộ giỏi thay anh Quyết
nếu không may anh Quyết bị hi sinh. Tnú có cái đầu sáng suốt lạ lùng trong việc tìm
đường rừng để đưa thư cho anh Quyết từ huyện về xã, đảm bảo an toàn, vượt qua tất
cả mọi vòng vây của giặc. Nhưng Tnú học chữ hay quên. Bởi vậy khi học chữ thua
Mai, Tnú đã tự trừng phạt cái tội hay quên của mình bằng cách cầm hòn đá tự đập vào
đầu mình máu chảy ròng ròng. Hành động này có cái gì đó hơi nóng nảy nhưng nó
biểu lộ ý chí quyết tâm sắt đá của người anh hùng mới “Trung với Đảng, hiếu với dân,
khó khăn nào cũng vƣợt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” - Lời dạy của Bác.
143
IV. Tnú có một tình yêu đẹp, trong sáng, thuỷ chung.
Với những phẩm chất đáng yêu nói trên, Tnú lớn lên đã trở thành một chàng
trai kết tinh được những phẩm chất cao đẹp của người dân Xô Man. Anh là thần tượng,
là niềm ngưỡng mộ của nhiều cô gái làng. Trong số đó có Mai, người bạn từ thuở thiếu
thời, một cô gái dịu dàng, xinh đẹp, có đôi mắt đen long lanh chất chứa biết bao tình
yêu thương mà đầy kiên nghị cứng rắn, mối tình của họ rất thơ mộng và trưởng thành
qua năm tháng đầy thử thách khốc liệt của chiến tranh rồi họ trở thành vợ chồng. Đứa
con trai kháu khỉnh vừa đầy tháng là hoa trái đầu mùa của mối tình thơ mộng trong
sáng, thuỷ chung ấy. Hạnh phúc gia đình lứa đôi của Tnú đang đẹp như trăng rằm,
lung linh toả sáng cả núi rừng Tây Nguyên.
V. Tnú có lòng căm thù giặc sâu sắc.
Song kẻ thù tàn bạo dã man đã đập vỡ tổ ấm hạnh phúc của Tnú một cách
không hề tiếc thương. Chúng đã giết vợ con anh bằng cây gậy sắt, hòng uy hiếp tinh
thần CM của Tnú., người cầm đầu, linh hồn của cuộc nổi dậy và nhân dân làng Xô
Man. Đoạn văn diễn tả sự bất lực của Tnú trước cái chết của vợ con thật bi thương tràn
đầy xúc cảm và ấn tượng. “Anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay. Anh chồm
dậy, bụng anh có lửa đốt. Chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”. Bọn giặc
đã bắt trói Tnú quấn giẻ lên mười đầu gón tay tẩm nhựa xà nu và đốt cháy thành mười
ngọn đuốc. Răng anh đã cắn nát môi anh rồi. Nhưng Tnú không thèm kêu van. Căm
thù đau nhói trong tim và bùng cháy trong hai con mắt, một chi tiết thật dữ dội, đã đột
nhiên biến thành tiếng thét của Tnú. Tiếng thét ấy trở thành ngòi nổ làm bùng cháy cả
khối thuốc nổ căm hờn của dân Xô Man. Trong phút chốc họ đã “Giết! Chém! Chém
hết!” Xác mười tên giặc nằm ngổn ngang quanh đống lửa. Tnú xứng đáng là người chỉ
huy đội du kích mưu trí dũng cảm của dân làng. Còn đối với kẻ thù, Tnú đã trở thành
“con cọp” nguy hiểm của núi rừng Tây Nguyên.
=> Cuộc đời bi tráng của Tnú đã làm sáng tỏ một chân lý giản dị, sâu xa của
cuộc sống được cụ Mết truyền dạy cho con cháu: “Tnú không cứu đƣợc vợ, đƣợc con
nhớ không? Tao cũng chỉ có hai bàn tay không… nhớ lấy, ghi lấy. Sau này, tao chết
rồi… chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Đó là chân lý của Cách Mạng
được nảy sinh từ mảnh đất Tây Nguyên thấm máu và nước mắt. Đó là một chân lý thật
nghiệt ngã nhưng tất yếu, phải dùng bạo lực Cách Mạng để chống lại bạo lực phản
Cách Mạng. Vũ trang chiến đấu là con đường tất yếu để tự giải phóng của nhân dân.
B. Chặng đƣờng thứ hai của Tnú: Cầm vũ khí tham gia giải phóng quân.
I. Vƣợt qua bi kịch cá nhân, trở thành ngƣời chiến sĩ, cán bộ có tinh thần
kỉ luật cao.
Từ đây cả dân làng Xô Man vùng dậy cầm lấy giáo mác làm vũ khí chống lại
súng đạn tối tân tàn bạo của Mĩ - Ngụy. Và chặng đường cầm vũ khí của Tnú được nối
tiếp bằng việc đi lực lượng. Tnú đã vượt qua mọi đau thương và bi kịch cá nhân, tham
144
gia lực lượng giải phóng quân để quét sạch tất cả những thằng Dục, kẻ thù không đội
trời chung của vợ con anh, của nhân dân Tây Nguyên, còn tồn tại trên đất nước Việt
Nam này. Khi đã trở thành giải phóng quân, Tnú là một cán bộ có tinh thần kỉ luật cao.
Tuy nhớ quê hương, gia đình, nhưng phải cấp trên cho phép mới về và cũng chỉ về
đúng một đêm như quy định trong giấy phép.
II. Nhân vật Tnú gắn liền với một hình tƣợng độc đáo, bàn tay
Nhân vật Tnú không chỉ hấp dẫn độc giả chúng ta bởi những phẩm chất, tính
cách anh hùng; bởi bút pháp mang đậm màu sắc sử thi, bi tráng và tính triết lý của nó,
mà còn hấp dẫn bởi tính hình tượng của tác phẩm. Một trong những hình tượng giàu
nghệ thuật, ý nghĩa thẩm mĩ và tạo nên một sức ám ảnh đặc biệt cho độc giả là hình
ảnh bàn tay của Tnú. Đây là một hình tượng như có một số phân riêng, gắn bó mật
thiết với cuộc đời Tnú, góp phần tô đậm thêm những nét phẩm chất, tính cách cao đẹp
của anh. Đó là bàn tay của sự trung thực, tình nghĩa, từng cầm phấn viết chữ anh
Quyết dạy cho, từng đặt lên bụng mình mà nói: “Cộng sản ở đây này”. Bàn tay ấy
cũng đã từng được Mai nắm chặt mà khóc bằng những giọt nước mắt nóng bỏng yêu
thương, đồng cảm, lúc Tnú vượt ngục trở về. Khi giặc đốt mười đầu ngón tay Tnú, bàn
tay trở thành chứng tích của tội ác và lòng hận thù mà Tnú mang theo suốt cả cuộc đời.
Lòng hận thù ấy đã biến bàn tay Tnú thành bàn tay qủa báo – mười ngọn đuốc từ ngón
tay Tnú đã châm bùng lên ngọn lửa nổi dậy của dân làng Xô Man. Bàn tay chỉ còn hai
đốt, mỗi ngón vẫn cầm giao, cầm súng để Tnú lên đường rửa hận. Và cuối cùng với
chính bàn tay ấy, Tnú đã xiết vào cổ họng tất cả những thằng Dục tàn ác hơn cả dã thú.
Kết Luận:
Như vậy câu chuyện bi tráng về cuộc đời Tnú vừa có ý nghĩa cụ thể, cá thể, vừa
có ý nghĩa điển hình tiêu biểu của người anh hùng đại diện cho số phận và con đường
đi của các dân tộc Tây Nguyên trong thời đại đấu tranh giải phóng. Nhân vật Tnú có
cái gì đó phảng phất như những anh hùng trong các trường ca Đam San, Xinh Nhã.
Đề 3: Phân tích hình tƣợng cây xà nu trong tác phẩm “Rừng xà nu”. Vì sao tác
giả lại đặt cho thiên truyện của mình cái tên “Rừng xà nu”?
Mở Bài:
Đọc “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành viết năm 1965 rút từ tập “Trên quê
hƣơng những anh hùng Điện Ngọc” điều để lại ấn tượng sâu đậm cho độc giả chúng ta
không chỉ là những nhân vật như cụ Mết, Tnú, Dít, Mai những con người Tây Nguyên
bất khuất kiên trung, thuỷ chung với Cách Mạng, mà còn là ở hình tượng cây xà nu,
145
một hình tượng độc đáo bao trùm toàn bộ tác phẩm. Chính hình tượng cây xà nu đã tạo
nên vẻ đẹp hùng tráng chất sử thi, lãng mạn cho câu chuyện về làng Xô Man bất khuất
kiên cường.
Thân Bài:
I. Đọc tác phẩm này, điều mà độc giả nhận ra trƣớc tiên là hình tƣợng cây
xà nu là một hình tƣợng chủ đạo xuyên suốt tác phẩm gắn bó với cuộc sống và
mọi sinh hoạt của ngƣời dân xô Man.
1. Trong bài “Viết về truyện ngắn rừng xà nu”, tác giả Nguyên Ngọc (bút danh
Nguyễn Trung Thành) đã tâm sự “Ngay từ năm 1962, trên đƣờng vào miền Nam công
tác, đến tỉnh Thừa Thiên, giáp Lào, tôi đƣợc chứng kiến những rừng xà nu bát ngát,
xanh tít tận chân trời. Đấy là những cây họ thông, hùng vĩ và cao thƣợng, man dại và
trong sạch. Mỗi cây cao vút vạm vỡ, nhựa ứa ra, tán lá vừa thanh nhã, vừa rắn rỏi”.
Những cây xà nu có phẩm chất đặc biệt ấy đã gây ấn tượng mạnh mẽ và khơi nguồn
cảm hứng cho tác giả ba năm sau (1965) tạo dựng nên hình tượng cây xà nu đặc sắc
này.
(Truyện viết khi đế quốc Mĩ ồ ạt đổ quân vào miền Nam nước ta. Truyện đăng lần
đầu tiên trên tạp chí “Văn nghệ quân giải phóng trung trung bộ-số 2/năm 1965” được đưa
vào tập “Trên quê hƣơng những anh hùng Điện Ngọc”).
2. Hình tượng cây xà nu được tác giả miêu tả từ nhiều góc độ và đưa lại hiệu
quả thẩm mĩ đặc biệt, trong truyện ngắn này,nhà văn không chỉ mở đầu và kết thúc
truyện bằng hình ảnh rừng xà nu bát ngát đến chân trời, mà đã gần hai mươi lần nói
đến rừng xà nu, cây xà nu, nhựa xà nu, khói, lửa xà nu. Chất sử thi của tác phẩm sẽ
không trở thành giọng điệu chính, nếu thiếu đi hình tượng cây xà nu được khai thác từ
nhiều góc độ, được lặp đi lặp lại nhiều lần đến như vậy, nhất là các “đồi xà nu” bốn
lần, “rừng xà nu” năm lần. Thủ pháp trùng điệp khi mô tả cây xà nu đó, vừa làm nền
cho toàn bộ diễn biến của câu chuyện, vừa gây ấn tượng sâu sắc cho người đọc.
3. Nhưng xà nu không chỉ có mặt trong đoạn mở đầu và đoạn kết, mà nó còn
hiện diện trong suốt câu chuyện về Tnú và làng Xô Man của anh. Xà nu gắn bó với
cuộc sống sinh hoạt hàng ngày như đã từ ngàn đời nay thân thuộc với dân làng: Ngọn
lửa xà nu nấu ăn trong mỗi bếp, đuốc xà nu soi sáng đường rừng đêm, lửa xà nu cháy
bập bùng trong nhà Rông tập hợp cả dân làng. Khói xà nu đen nhẻm thân hình lũ trẻ;
làm tấm bảng đen cho anh Quyết dạy Tnú và Mai học chữ cụ Hồ, xà nu còn tham dự
vào những sự kiện quan trọng của cuộc sống làng Xô Man; ngọn đuốc xà nu cháy sáng
trên tay cụ Mết và cả dân làng đi vào rừng sâu lấy giáo mác đã dấu kĩ về chuẩn bị cho
cuộc nổi dậy, đêm đêm cả dân làng thức mài vũ khí dưới ánh đuốc xà nu. Giặc đốt hai
bàn tay Tnú bằng giẻ tẩm nhựa xà nu. Rồi ngọn lửa các đuốc xà nu soi sáng rực cả
làng cái đêm khởi nghĩa; soi rõ xác mười tên lính nằm ngổn ngang quanh đống lửa.
146
II. Hình tƣợng cây xà nu qua ngòi bút của Nguyễn Trung Thành đã trở
thành một nhân chứng về tội ác của chiến tranh huỷ diệt; là ngƣời chứng kiến
cho sự giác ngộ, hi sinh thầm lặng và sự quật khởi của ngƣời dân Xô Man.
Mở đầu tác phẩm, tác giả đã vẽ ra trước mắt người đọc một bức tranh toàn cảnh
về nỗi đau thương do bom đạn giặc Mĩ gây ra: cây xà nu vừa là người chứng kiến sự
tàn khốc của chiến tranh, vừa là đối tượng huỷ diệt của bom đạn kẻ thù “Cả rừng xà
nu hàng vạn cây không cây nào không bị thƣơng. Có những cây bị chặt đứt ngang
thân mình, đổ ào nhƣ một cơn bão”.Ở một chỗ khác, tác giả tả kĩ hơn “nơi chỗ vết
thƣơng nhựa ứa ra tràn trề thơm ngào ngạt long lanh nắng hè gay gắt rồi dần dần
bầm lại, đen và đặc lại quện thành cục máu lớn”. Hình ảnh đó cũng gợi lên lòng căm
thù, kết tụ ý chí phản kháng. Hình ảnh cây xà nu còn là người chứng kiến sự quật khởi
của người dân Xô Man; Khi khí thế cách mạng ở dân làng dâng lên như thác lũ, thì cả
rừng xà nu ào ào chuyển động.
III. Hình tƣợng cây xà nu còn là hình ảnh tƣợng trƣng cho cuộc sống và
phẩm chất ngƣời dân Xô Man nói riêng, Tây Nguyên nói chung nhƣ: giàu khát
vọng tự do giải phóng, phẩm chất anh hùng, sức sống mãnh liệt của các thế hệ nối
tiếp nhau.
Chính vì hình ảnh cây xà nu mang ý nghĩa tượng trưng nên sự miêu tả loài cây
này, luôn luôn được tác giả đặt trong sự đối chiếu với con người gợi ra những liên
tưởng về đời sống, số phận cùng những phẩm chất của họ. Cây xà nu rất ham ánh sáng
và khí trời “nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng cũng như Tnú, người dân làng
Xô Man yêu tự do khát vọng ánh sáng bất chấp sự huỷ diệt tàn khốc của kẻ thù. Cây
xà nu vẫn vươn lên với một sức sống mãnh liệt không có gì có thể tiêu diệt tàn phá được.
Bên cạnh cây xà nu mới ngã gục đã có bốn, năm cây con xanh rờn, hình nhọn như tên lao
thẳng lên bầu trời cũng như “các thế hệ làng Xô Man lớp này đến lớp khác đứng lên tiếp
tục cuộc chiến đấu”
“Ta lại viết bai thơ trên báng súng
Con lớn lên viết tiếp theo cha
Ngƣời đứng dậy viết tiếp ngƣời ngã xuống
Ngƣời hôm nay viết tiếp ngƣời hôm qua”
(Hoàng Trung Thông)
Anh Quyết hi sinh thì có Tnú, Mai. Mai ngã xuống giữa tuổi thanh xuân tràn
đầy sức sống như cây xà nu bị chặt đứt ngay giữa thân mình thì Dít đã lớn lên và
nhanh đến không ngờ, trở thành bí thư chi bộ, chính trị viên xã đội, rồi những bé Heng,
thế hệ tiếp theo đang tiếp bước đàn anh.
147
- Nhưng trong rừng xà nu còn những cây khác vững chãi không chịu khuất
phục trước dông bão, đạn bom của kẻ thù “ƣỡn tấm ngực lớn của mình che chở cho
xóm làng”. Phải chăng đó là hình ảnh cụ Mết - hiện thân của tinh thần quật khởi, người
đã nuôi ngọn lửa, khát vọng tự do, gắn bó với Cách Mạng? “Có những cây xà nu cành
lá xum xuê nhƣ những con chim đã đủ lông mao, lông vũ, đạn đại bác không giết nổi
chúng. Những vết thƣơng của chúng chóng lành nhƣ trên một cơ thể cƣờng tráng”. Tất
cả nối tiếp nhau tạo thành một đội ngũ trùng trùng điệp điệp như rừng xà nu nối tiếp
chạy đến chân trời.
Kết Luận:
Tóm lại hình tượng cây xà nu là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nguyễn
Trung Thành. Nó được dùng như một ẩn dụ gợi cho người đọc nghĩ đến con người Tây
Nguyên yêu tự do, dồi dào sức sống, bất khuất kiên trung, thuỷ chung với Cách Mạng.
Như thế là hình tượng cây xà nu đã được tác giả đưa lại cho biết bao ý nghĩa mới mẻ
giàu tính chất thẩm mĩ, ý nghĩa nhân sinh. Vì vậy tác giả đã đặt cho truyện của mình
cái tên thật có ý nghĩa: “Rừng xà nu”.
Đề 4: Phân tích chất sử thi hùng tráng, trang nghiêm trong tác phẩm "Rừng xà
nu" của Nguyễn Trung Thành
MỞ BÀI:
“Rừng xà nu” là một tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Trung Thành nói riêng, văn
xuôi chống Mĩ nói chung. Tác phẩm hấp dẫn không chỉ đã khai thác được một đề tài
miền núi của Tây Nguyên hùng vĩ, mà còn ở chỗ, nó mang đậm tính chất sử thi hùng
tráng, trang nghiêm.
THÂN BÀI:
I. Giới thiệu tác giả, tác phẩm :
- Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, nếu như Tô Hoài là nhà văn có công
khai sơn, phá thạch đề tài miền núi thì Nguyên Ngọc sau này là Nguyễn Trung Thành
được xem là nhà văn đi tiên phong về đề tài Tây Nguyên.
- Từ những năm kháng chiến chống Pháp, Nguyên Ngọc đã có tác phẩm “Đất
nƣớc đứng lên” nổi tiếng với nhân vật anh hùng Núp làm say mê hàng triệu trái tim
độc giả. Vào cuộc kháng chiến chống Mĩ do gắn bó mật thiết với chiến trường Tây
Nguyên, gần gũi, hiểu biết sâu sắc cuộc sống và tinh thần bất khuất, yêu tự do, gắn bó
với Cách mạng của nhân dân các dân tộc thiểu số sống trên mảnh đất này, ông đã sáng
tác nên một thiên truyện nổi tiếng “Rừng xà nu”.
- Truyện viết vào mùa hè 1965, rút từ tập “Trên quê hƣơng những anh hùng
Điện Ngọc”. Truyện được giải thưởng văn nghệ Nguyễn Đình Chiểu 1965
II. Thế nào là tác phẩm sử thi và những biểu hiện của nó :
1.Thế nào là sử thi?
148
Thơ ca lấy lịch sử làm đề tài chép sự tích nhân vật và truyền thuyết lịch sử. Đây
là thể loại tự sự miêu tả các sự kiện quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với đời sống
tinh thần và vận mệnh của dân tộc. Nó chủ yếu biểu hiện ý thức cộng đồng của nhân
dân, dân tộc đối với quá khứ vẻ vang của chính mình. Với quan niệm ấy “Rừng xà nu”
không là tác phẩm sử thi mà là bản anh hùng ca mang đậm tính sử thi và cảm hứng
lãng mạn về cuộc chiến đấu của nhân dân Tây Nguyên.
2.Những biểu hiện tính sử thi trong “Rừng xà nu”
a. Về đề tài chủ đề :
- Tính sử thi trước hết được thể hiện bằng đề tài chủ đề. Truyện có đề tài về lịch
sử của làng Xôman và nói rộng ra là nhân dân Tây Nguyên trong cuộc đấu tranh chống
tên đế quốc hùng mạnh nhất để bảo vệ nền độc lập dân tộc. Đây là một sự kiện trọng
đại. Qua tác phẩm, tác giả muốn nêu bật lên sức mạnh quật khởi, tinh thần và ý chí
mãnh liệt không có gì có thể lay chuyển được của buôn làng, của một dân tộc quyết
lấy máu mình viết nên một chân lý mới : “chúng nó cầm súng, mình phải cầm giáo”.
Nghĩa là vũ trang chiến đấu là con đường tất yếu để giải phóng nhân dân
b. Nhân vật :
- Dân làng Xô Man trong “Rừng xà nu” là một tập thể mang những phẩm chất
tiêu biểu cho cộng đồng, sống chết vì buôn làng, vì dân tộc. Đó là một tập thể anh
hùng tiêu biểu cho tinh thần yêu nước, khát vọng tự do, tinh thần đoàn kết, bất khuất,
hiên ngang và sức sống mãnh liệt.
- Các nhân vật trong “Rừng Xà Nu” được cấu tạo theo nhiều lớp, nhiều thế hệ.
Các thế hệ này được hình tượng hoá bằng những thế hệ xà nu khác nhau trong Rừng
xà nu bạt ngàn tít tắp đến tận chân trời. Thế hệ già làng ( tiêu biểu là cụ Mết), thế hệ
thanh niên ( tiêu biểu là Tnú, Mai, Dít ). Truyện còn hé mở cho ta thấy thế hệ thứ ba,
thế hệ của những bé Heng, để hoàn thiện bức tranh về chiến tranh nhân dân “lớp cha
trƣớc, lớp con sau”, nối tiếp nhau tạo thành một sức mạnh vô địch.
Nét chung nhất của các nhân vật này là phẩm chất anh hùng, rất kì vĩ, mạnh mẽ.
Họ đều là những con người yêu buôn làng, yêu nước, yêu dân, bất khuất kiên trung,
thuỷ chung với cách mạng, giàu khát vọng tự do, giàu sức sống.
- Yêu buôn làng, yêu nước, yêu dân sâu nặng và lòng căm thù giặc sâu sắc cháy
bỏng.
- Quyết tâm đứng lên đánh giặc, bất chấp sự khủng bố dã man của kẻ thù.
- Kiên cường bất khuất, dũng cảm táo bạo, tạo nên khí thế đồng khởi chống Mĩ,
Điều đặc biệt là : tuy cùng mang phẩm chất anh hùng, nhưng mỗi người do tuổi
tác, giới tính, cương vị khác nhau mà có những cách biểu hiện khác nhau làm nên vẻ
đep, đặc điểm riêng rất đa dạng, sinh động và hấp dẫn.
Cụ Mết :s
Cụ đã từng tham gia kháng chiến chống Pháp. Theo tác giả, cụ cùng hoạt động
một thời với anh hùng Núp và cả hai rất nổi tiếng ở hai vùng khác nhau của Tây
Nguyên. Núp được phong tặng anh hùng. Cụ Mết, con người của hai thế hệ lại tiếp tục
hướng dẫn chỉ huy con cháu tham gia vào cuộc đấu tranh chống Mĩ-Diệm. Cụ là một
già làng sừng sững uy nghi như một cây đại thụ. Cụ luôn đứng đầu, có tác phong trang
trọng đàng hoàng, có phong thái đĩnh đạc và uy tín lớn trong làng. Cụ Mết trở thành
149
người cha tinh thần, người truyền ngọn lửa khát vọng tự do giải phóng và trở thành
linh hồn của phong trào đồng khởi người dân XôMan.
Cụ Mết xuất hiện muộn khiến cho Tnú nóng ruột chờ đợi. Con người này có
hình dáng bên ngoài rất đặc sắc. “Ông cụ vẫn quắc thƣớc nhƣ xƣa, râu bây giờ đã dài
tới ngực.. ông ở trần, ngực nhƣ một cây xà nu lớn. Tay rắn chắc nhƣ hai gọng kìm,
giọng nói trầm vang nhƣ cồng chiêng”, cách nói của cụ không bào giờ khen “tốt”.
Những khi vừa ý nhất, cụ chỉ nói “đƣợc”. Mệnh lệnh của cụ phát ra đơn giản chắc
nịch : “Thế là bắt đầu rồi! Đốt lửa lên”. Tấm lòng của cụ đối với Tnú, với dân làng và
đối với Cách mạng bao la như núi ngàn. Nghĩa tình của của cụ với nhân dân, đất nước
như nước nguồn Tây Nguyên không bao giờ vơi cạn. Cụ Mết đã chỉ huy dân làng xông
lên giết sạch bọn ác ôn trong nhà Rông, đốt lên ngọn lửa đồng khởi rực sáng với chân
lý thật giản dị mà sâu xa “chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”. Cụ Mết còn là
người của niềm tin, người tổ chức tập hợp đoàn kết dân làng đánh giặc.
Tóm lại cụ Mết là người tiêu biểu kết tinh tính cách quật cường, bất khuất của
các dân tộc Tây Nguyên nói riêng, dân tộc Việt Nam nói chung. “Yêu nƣớc thiết tha,
căm thù giặc cháy bỏng, kiên cƣờng thuỷ chung, son sắt, giàu sức sống. Ƣỡn tấm ngực
lớn của mình ra che chở cho xóm làng”.
Tiếp đến là thế hệ Tnú, Mai, Dít (Tnú quyết liệt, mạnh mẽ, trung thực, ngay
thẳng, căm thù như lửa cháy bốc ngùn ngụt, trả thù dứt khoát, giàu dũng khí, giàu sức
sống… Tnú trở thành niềm tự hào, kiêu hãnh của buôn làng và tập thể người dân
XôMan)
Dít là một cô gái trẻ giàu nghị lực, có bản lĩnh, trưởng thành trong đấu tranh gian khổ
và trở thành người lãnh đạo cao nhất của làng XôMan : bí thư chi bộ, chính trị viên xã
đội. Nét tính cách nổi bật của Dít : là một cô gái có đôi mắt mở to, trong suốt, tính tình
lặng lẽ kín đáo, nhưng rất gan dạ, giặc bắn để uy hiếp tinh thần, áo quần rách tơi tả
nhưng vẫn bình thản như không ; kiên quyết nguyên tắc (kiểm tra giấy của Tnú rất kĩ,
mặc dù có quan hệ thân tình). Song Dít là một cô gái rất giàu tình cảm (bùi ngùi, lưu
luyến khi Tnú phải đi ngay).
c. Bức tranh thiên nhiên được miêu tả thật hùng vĩ hoành tráng, giàu màu sắc
tạo hình như khắc như chạm, tạo thành hình, thành khối, có màu sắc, có mùi vị. Đặc
biệt là hình tượng cây xà nu mang đậm màu sắc sử thi. Nó được miêu tả từ nhiều góc
độ, được lặp đi lặp lại nhiều lần, mang ý nghĩa tượng trưng cho phẩm chất, vẻ đẹp của
con người Tây Nguyên. Những cảnh “suốt đêm nghe cả rừng XôMan ào ào rung động.
Lửa cháy khắp rừng” và đặc biệt những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời mở đầu và kết
thúc đã làm nền cho diễn biến câu chuyện bi hùng của Tnú và làng XôMan thật giàu ý
nghĩa thẩm mĩ, nghệ thuật.
d. Ngôn ngữ của thiên truyện “Rừng xà nu” đã được Nguyễn Trung Thành viết
với giọng say mê, trang trọng tạo nên chất thơ dạt dào, hùng tráng. Truyện được kể lại
bên bếp lửa, cách kể trang nghiêm, xúc động như muốn nhắc nhở con cháu nhớ kỹ
những trang sử đẫm máu và nước mắt của cả cộng đồng “ngƣời già chƣa quên, ngƣời
chết, quên hết rồi, thì để lại cái nhớ cho ngƣời sống..hãy lắng nghe mà nhớ…” Câu
chuyện của Tnú mà cụ Mết kể cho dân làng nghe xảy ra chưa lâu, nhưng vẫn được kể
như câu chuyện lịch sử với giọng điệu và ngôn ngữ trang trọng của sử thi
KẾT LUẬN:
150
Tóm lại “Rừng xà nu” là tác phẩm mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn
về cuộc chiến đấu của nhân dân Tây Nguyên. Lâu nay người đọc say mê tác phẩm
ngoài ý nghĩa một đề tài mới mẻ về miền núi, còn là ở chất sử thi bi tráng ấy.
Đề 5: So sánh sự giống nhau và khác nhau cơ bản của hai tác phẩm "Rừng xà nu"
của Nguyễn Trung Thành và "Những đứa con trong gia đình" của Nguyễn Thi.
Mở bài 1:
"Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành và "Những đứa con trong gia đình" của
Nguyễn Thi đều là hai tác phẩm xuất sắc viết về đề tài chiến tranh cách mạng ở miền
Nam vào những năm 60 thế kỷ trước. Cả hai tác phẩm đều xứng đáng là bản anh hùng
ca ca ngợi những con người miền Nam anh hùng, bất khuất, căm thù giặc cháy bỏng,
yêu quê hương đất nước thiết tha, thủy chung tình nghĩa sắt son với cách mạng, kháng
chiến. Tuy nhiên hai tác phẩm đã có những vẻ đẹp riêng mang đậm hương vị của mỗi
miền đất và mang dấu ấn tài năng của mỗi tác giả.
Mở bài 2:
"Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành và "Những đứa con trong gia đình" của
Nguyễn Thi xứng đáng được xem là hai bông hoa đẹp bừng nở trên mảnh đất miền
Nam cháy đỏ quân thù xâm lược và xanh ngời một niềm tin chiến thắng. Cùng viết về
đề tài chiến tranh cách mạng, ra đời vào những năm 60 của thế kỷ trước, một tác phẩm
là bông hoa rừng của Tây Nguyên hùng vĩ, một tác phẩm là bông hoa hồng của đồng
bằng Nam bộ cho đến nay vẫn toả ngát hương thơm trong tâm hồn hàng triệu độc giả
chúng ta.
Thân bài:
A. Những điểm giống nhau
1. Cả hai tác phẩm đều là những bản anh hùng ca hào hùng, ca ngợi chủ nghĩa anh
hùng của những con người miền Nam "Kiêu hãnh trên tuyến đầu chống Mỹ", miền
Nam "anh dũng tuyệt vời", miền Nam "Trong lửa đạn sáng ngời" (Tố Hữu). Đó là
những con người kiên cường, bất khuất, căm thù giặc ngùn ngụt và yêu quê hương tha
thiết, giàu tình nghĩa, thủy chung son sắt với gia đình, với cách mạng và nguyện sống
chết cho quê hương
2. Hai tác phẩm đều là truyện ngắn rất thành công của mỗi tác giả, được viết ra khi tài
năng của họ đã đạt đến độ chín muồi
3. Bằng tài năng nghệ thuật đặc sắc, bằng vốn hiểu biết sâu rộng và tinh tế về con
người Tây Nguyên, con người nam bộ kiên cường mà giàu tình nghĩa, Nguyễn Trung
Thành và Nguyễn Thi đã tạo dựng được những nhân vật điển hình, những anh hùng
tiêu biểu cho con người miền Nam nói riêng, con người Việt Nam nói chung trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ sôi nổi, quyết liệt, đầy gian khổ hy sinh mà rất đỗi vui
tươi hào hùng
B. Những điểm khác nhau cơ bản
Tuy nhiên do tài năng, cá tính, phong cách nghệ thuật khác nhau của mỗi tác
giả, mà mỗi tác phẩm đã có những nét khác nhau rất hấp dẫn.
1. "Rừng xà nu" giàu không khí Tây Nguyên và rất giàu chất sử thi hùng tráng, trang
nghiêm
Trong nền văn học cách mạng Việt Nam hiện đại, nếu như Tô Hoài có công
khai sơn phá thạch đề tài Tây Bắc, thì Nguyên Ngọc (Sau này bút danh là Nguyễn
Trung Thành) được xem là nhà văn đi tiên phong về đề tài Tây Nguyên. Đây là sở
151
trường, là niềm say mê của nhà văn và ông đã có những đóng góp tích cực cho văn học
Việt Nam về một đề tài hấp dẫn, có ý nghĩa xã hội học và thẩm mĩ sâu sắc. Từ những
năm kháng chiến chống Pháp, Nguyên Ngọc đã viết tác phẩm "Đất nƣớc đứng lên" với
nhân vật chính là anh hùng Núp làm say mê hàng triệu trái tim độc giả. Vào cuộc
kháng chiến chống Mỹ, do gắn bó mật thiết với chiến trường Tây Nguyên, gần gũi
hiểu biết sâu sắc cuộc sống và tinh thần bất khuất, yêu tự do, gắn bó với cách mạng
của nhân dân các dân tộc thiểu số trên mảnh đất này, ông đã sáng tác nên thiên truyện
nổi tiếng "Rừng xà nu".
Với hình tượng cây xà nu độc đáo được tạo dựng trong sự đối sánh với con
người, giữa cảnh huỷ diệt khủng khiếp của bom đạn kẻ thù, tác phẩm của Nguyễn
Trung Thành đã khắc hoạ được không khí Tây Nguyên, chất sử thi hùng tráng, trang
nghiêm từ những dòng đầu cho đến những trang cuối của tác phẩm.
2. Không khí sử thi ấy đã chi phối nhà văn trong việc xây dựng cốt truyện và
khắc hoạ tính cách, phẩm chất nhân vật phù hợp với chủ đề tƣ tƣởng của tác
phẩm. Các nhân vật trong "Rừng xà nu" đƣợc cấu tạo theo nhiều lớp, nhiều thế
hệ. Các thế hệ này được biểu hiện bằng những thế hệ xà nu khác nhau trong rừng xà
nu bạt ngàn tít tắp tận chân trời. Thế hệ già làng (tiêu biểu là cụ Bết), thế hệ thanh niên
tiêu biểu là Tnú, Mai, Dít. Truyện còn hé mở cho người đọc thấy thế hệ thứ ba, thế hệ
của những bé Heng để hoàn thành bức tranh nhân dân, già trẻ "lớp cha trƣớc, lớp con
sau" mang đậm chất sử thi.
3. Các nhân vật của "Rừng xà nu" đƣợc khắc hoạ không phải trên phƣơng diện
đời tƣ, mà chủ yếu trên phƣơng diện cộng đồng, dân tộc. "Mối quan hệ của họ cơ
bản được đặt trong quan hệ xã hội, dân làng, đất nước, với kẻ thù: nhiệm vụ chủ yếu
của họ chủ yếu là những trạng thái lịch sử giao phó". Tất cả cuộc đời và hành động của
họ nhằm viết lên một chân lý lớn của thời đại: "Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm
giáo". Nghĩa là vũ trang chiến đấu là con đường tất yếu để tự giải phóng của nhân dân.
Vì vậy, vẻ đẹp sử thi là vẻ đẹp nổi bật nhất. Nó được lan toả trong toàn bộ tác phẩm, in
đậm dấu ấn lên từng nhân vật. Từ chân dung, hành động đến lời nói của các nhân vật,
vừa mang tính chất cá thể độc đáo, vừa mang tính chất tiêu biểu cho tinh thần, phẩm
chất của con người Tây Nguyên trong thời đại chống Mỹ. Họ là một tập thể mang
những phẩm chất đại diện cho cộng đồng sống, chết vì buôn làng, vì dân tộc. Đó là
một tập thể anh hùng với tinh thần yêu nước sâu sắc, căm thù giặc cháy bỏng, giàu
khát vọng tự do, tinh thần đoàn kết, bất khuất hiên ngang, sức sống mãnh liệt. Số phận
của họ gắn liền với số phận người dân Xô man,của dân tộc Tây Nguyên nói riêng và
của đất nước Việt Nam nói chung trong cuộc kháng chiến chống Mỹ đầy đau thương
gian khổ hy sinh mà cũng rất đỗi vui tươi hào hùng. Họ là một tập thể mang những
phẩm chất tiêu biểu cho cộng đồng, sống chết vì buôn làng, vì dân tộc. Đó là một tập
thể anh hùng tiêu biểu cho tinh thần yêu nước sâu sắc, căm thù giặc cháy bỏng và khát
vọng tự do, tinh thần đoàn kết, bất khuất hiên ngang, sức sống mãnh liệt...
4. Giọng điệu tác phẩm cũng mang đậm chất sử thi hùng tráng. Sự kết hợp giữa
lời kể của nhân vật cụ Mết hài hoà với giọng điệu người kể chuyện, "Rừng xà nu"
mang âm hưởng sử thi. Đó là một giọng điệu say mê, trang trọng giàu chất thơ dạt dào,
hùng tráng. Câu chuyện của Tnú mà cụ Mết kể cho dân làng nghe là câu chuyện xảy ra
chưa lâu, nhưng vẫn được kể như câu chuyện lịch sử, với giọng điệu và ngôn ngữ
trang trọng của sử thi. (Đây là một thành công đặc sắc của Nguyễn Trung Thành ở
truyện ngắn nổi tiếng này)
B. Về tác phẩm "Những đứa con trong gia đình"
152
1. Nguyễn Thi tuy được sinh ra từ Nam Định, nhưng đã gắn bó sâu nặng với nhân dân
miền Nam và thực sự xứng đáng với danh hiệu Nhà văn của người nông dân Nam Bộ
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ông đã viết được nhiều tác phẩm rất có
giá trị như: "Ngƣời mẹ cầm súng", "Ở xã trung nghĩa", "Mẹ vắng nhà". Trong đó tiêu
biểu hơn cả vẫn là: "Những đứa con trong gia đình".
Những tác phẩm ấy Có một đặc điểm chung nổi bật là đã tạo đƣợc một không khí
rất Nam Bộ. Ở "Những đứa con trong gia đình", không khí ấy không chỉ được thể
hiện trong hiện thực cuộc sống đời thường nhà văn phản ánh, mà còn in đậm trong tính
cách, hành động, đời sống nội tâm và ngôn ngữ của nhân vật.
2. Qua hệ thống hình tượng nhân vật của tác phẩm, Nguyễn Thi muốn nhằm giải thích
về những phẩm chất anh hùng của những đứa con trong gia đình. Chính cội nguồn
truyền thống gia đình với cuốn sổ mà mỗi trang đều được viết bằng máu và nước mắt
đã hình thành nên tính cách và phẩm chất tuyệt vời cho những đứa con: vừa hồn nhiên,
bộc trực, trung hậu, vừa căm thù ngùn ngụt, gan góc, kiên cường, thuỷ chung, say mê
chiến đấu và tự hào về truyền thống cách mạng gia đình, quyết cầm súng tiêu diệt kẻ
thù trả nợ cho những thế hệ cha, ông đã ngã xuống trên mảnh đất này. Cha mẹ là dũng
sĩ nên họ sinh ra như là để cầm súng đánh giặc và họ đều đã lập được nhiều chiến
công xứng đáng với truyền thống cách mạng vẻ vang của gia đình. Đánh giặc đối với
họ đã trở thành mệnh lệnh của trái tim và họ đã lên đường ra trận như đi trẩy hội mùa
xuân. Nghĩa là họ "Mang đậm cái chất Út Tịch trong tâm hồn".
3. Các nhân vật trong "Những đứa con trong gia đình" được nhìn qua "Một điểm nhìn
trần thuật rất độc đáo". Đó là qua sự hồi tƣởng và nhớ lại khi đứt, khi nối của Việt -
một nhân vật chính của tác phẩm, khi bị thương nằm ngất đi giữa rừng. Khác với điểm
nhìn trong "Rừng xà nu" , qua lời kể của cụ Mết, một già làng, ngƣời của hai thế hệ,
trong "Những đứa con trong gia đình", lại qua điểm nhìn trần thuật của Việt, một
thành viên trong gia đình đã gợi nhắc được những kỷ niệm rất đỗi gần gũi thân quen
rất đời thƣờng. Từ chuyện bắt ếch đến chuyện chú Năm, chuyện ba má quen nhau, đến
việc giỗ má, khiêng bàn thờ, đến chuyện đồng đội của Việt...Tất cả đều hiện lên rất
sinh động, còn mang dấu vết tươi nguyên của mùi đất quê hương và có cả vị mồ hôi
của má Việt, giọng hò mà các nhân vật được hiện lên, điều đó đã tạo nên một không
khí gia đình với những mối quan hệ gia đình chằng chịt với rất nhiều chuyện "thoả
mãn" khác, nhưng rất thi vị mang ý nghĩa thẩm mĩ và nhân sinh sâu sắc.
4. Là nhà văn có biệt tài phân tích tâm lý, Nguyễn Thi quan tâm nhiều đến việc miêu
tả thế giới nội tâm của nhân vật với cái nhìn của cuộc sống đời thƣờng. Việt là một
cậu con trai đồng quê, mới lớn tính tình hiếu động và còn nhiều nét trẻ con: đánh giặc
không sợ chết, nhưng lại sợ ma, rất yêu quý chị, nhưng cứ giấu tiệt, vì chỉ sợ mất
chị...Còn chị Chiến là một thiếu nữ 18, đã tỏ ra già giặn, khôn trước tuổi: những suy tư
của chị trong đêm trước lúc lên đường từ việc không khiêng bàn thờ sang gửi nhà chú
Năm đến việc giỗ má... đã cho ta biết rõ điều đó. Tuy nhiên, là con gái, Chiến đã sớm
biết làm duyên một cách rất kín đáo và tế nhị. Chi tiết đi đánh trận, Chiến vẫn mang
theo chiếc kiếng (gương) để soi khi rảnh rỗi.
Đây cũng là điểm khác biệt trong phong cách bút pháp nghệ thuật của hai nhà
văn. Nguyễn Trung Thành tập trung nhiều hơn những hành động của nhân vật, những
bƣớc ngoặt trong số phận của nhân vật gắn liền với giờ phút "Đồng khởi". Còn
Nguyễn Thi nghiêng về những câu chuyện cụ thể trong gia đình, những tình tiết rất
đời thƣờng với những suy nghĩ nội tâm của nhân vật.
153
5. Câu chuyện của Nguyễn Thi không dừng lại ở câu chuyện của một gia đình. Câu
chuyện mà mỗi người sẽ viết một khúc đó, sẽ nối dài thành những dòng sông và trăm
sông sẽ đổ ra biển cả. Do đó, từ những nhân vật cụ thể trong tác phẩm Nguyễn Thi đã
khái quát đƣợc gƣơng mặt cả một thế hệ trẻ miền Nam trƣởng thành trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ đầy bản lĩnh, giàu khát vọng niềm tin chiến thắng bởi sức mạnh lòng
căm thù, tình yêu nước thiết tha và ý nghĩa thiêng liêng của cuộc kháng chiến thần
thánh.
Kết luận. Tóm lại "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành và "Những đứa con
trong gia đình" của Nguyễn Thi đều là tác phẩm xuất sắc của văn học chống Mỹ ở
miền Nam. Mỗi tác phẩm có vẻ đẹp riêng, không khí riêng, cách nhìn riêng về hiện
thực đấu tranh cách mạng và nghệ thuật xây dựng nhân vật. Sức mạnh chiến thắng
trong tác phẩm Nguyễn Trung Thành chủ yếu là sức mạnh đoàn kết của các thế hệ, của
quá khứ và hiện tại. Sức mạnh đã chiến thắng trong tác phẩm Nguyễn Thi là sức mạnh
từ cội nguồn truyền thống yêu nước cách mạng của gia đình và đó cũng là mảnh đất
màu mỡ làm nảy sinh những đứa con anh hùng, trung dũng của thế hệ trẻ trong những
ngày chống Mỹ và thắng Mỹ oanh liệt của dân tộc ta./.
LƢU QUANG VŨ
Đề: Phân tích vở kịch “Hồn Trương Ba da hàng thịt” trong sách giáo khoa để làm
sáng tỏ triết lí sống “không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi
muốn được là tôi toàn vẹn”.
A. MỞ BÀI:
“Đƣợc sống làm ngƣời là vô cùng quý giá. Nhƣng đƣợc sống là mình, sống trọn
vẹn những giá trị mình có, sống trong sự hài hoà tự nhiên còn quý giá hơn”. Bằng trái
tim nhạy cảm của một thi sĩ, bằng trí tuệ sắc sảo của một triết gia, Lưu Quang Vũ qua
đoạn trích vở kịch “Hồn Trƣơng Ba da hàng thịt” đã làm nổi bật được một triết lí nhân
sinh rất giàu ý nghĩa nhân bản “không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo
đƣợc. Tôi muốn đƣợc là tôi toàn vẹn”.
B. THÂN BÀI:
I. Gới thiệu vài nét về tác giả.
Lưu Quang Vũ (1948 – 1988) quê gốc ở Đà Nẵng, sinh tại Phú Thọ trong một
gia đình trí thức (bố là nhà viết kịch Lưu Quang Thuận) nên thiên hướng và năng
khiếu nghệ thuật của tác giả đã bộc lộ từ nhỏ. Ông đã từng phục vụ trong quân đội và
từng làm đủ mọi nghề để kiếm sống. Từ 1978 đến 1988, ông là biên tập viên cho tạp
chí “Sân Khấu” và bắt đầu sáng tác kịch nói - vở kịch đầu tay “Sống mãi tuổi 17”. Sau
đó, một nguồn lực sáng tạo đột khởi, mạnh mẽ, dồi dào đã bùng cháy dưới ngòi bút
của Lưu Quang Vũ. Với những vở kịch gây chấn động dư luận như “Lời nói dối cuối
cùng”, “Nàng Xi ta”, “Nếu anh không đốt lửa”, “Khoảnh khắc vô tận”… Lưu Quang
Vũ không chỉ trở thành một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch những năm 80 của
thế kỉ XX mà còn được coi là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền
văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại. Ông qua đời khi tài năng đang nở rộ (29/8/1988.
154
trong một tai nạn giao thông thảm khốc trên quốc lộ 5 đã cướp mất một tài năng kiệt
xuất cùng với người bạn đời là nữ thi sĩ tài danh Xuân Quỳnh).
Trước khi là một kịch gia nổi tiếng, ông cũng đã từng làm thơ, đã sáng tác một
số truyện ngắn có phong cách riêng. Năm 2000, ông được nhận giải thưởng Hồ Chí
Minh về văn học nghệ thuật.
“Hồn Trƣơng Ba da hàng thịt” (viết năm 1981 nhưng đến năm 1984 mới ra mắt
công chúng) là một trong những vở kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ, đã công diễn
nhiều lần trên sân khấu trong và ngoài nước. Từ một cốt truyện dân gian, Lưu Quang
Vũ đã xây dựng thành một vở kịch nói hiện đại, đặt ra những vấn đề mới mẻ, có ý
nghĩa tư tưởng triết lí và nhân văn sâu sắc.
II. Phân tích Tác Phẩm:
1. Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba với xác anh hàng thịt.
Vì sự vô tâm và tắc trách của Nam Tào mà Trương Ba đã chết một cách vô lý.
Nhưng nhằm trả lại công bằng cho Trương Ba, theo lời khuyên của Đế Thích, Nam
Tào và Bắc Đẩu đã cho Trương Ba sống lại bằng cách để hồn Trương Ba trú nhờ trong
thể xác của anh hàng thịt. Thế là Trương Ba bị đẩy vào một nghịch cảnh đầy éo le, trớ
trêu: linh hồn mình phải trú nhờ trong thể xác của kẻ khác. Do phải sống nhờ thể xác
anh hàng thịt “một thể xác kềnh càng, thô lỗ”, hồn Trương Ba đành phải chiều theo
một số nhu cầu “tự nhiên” của xác thịt. Linh hồn vốn nhân hậu, trong sạch, thanh cao,
thông minh, sắc sảo và bản tính ngay thẳng của Trương Ba xưa kia nay vì phải sống
mượn , gá lắp, tạm bợ và lệ thuộc nên chẳng những đã không sai khiến được xác thịt
thô phàm của anh hàng thịt mà trái lại còn bị cái xác thịt ấy điều khiển. Đáng sợ hơn,
linh hồn Trương Ba dần dần bị nhiễm độc, bị tha hoá bởi những cái tầm thường của
xác thịt anh đồ tể như “thèm ăn ngon, thèm rƣợu thịt, thèm cái món tiết canh, cổ hũ,
khấu đuôi”. Thậm chí, đã có lúc hồn Trương Ba sắp ngã vào tay chị vợ anh hàng thịt
“khi ông ở bên nhà tôi… khi ông đứng bên cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng
rực, cổ nghẹn lại…Đêm hôm đó suýt nữa thì… cơn giận của ông lại có thêm sức mạnh
của tôi nên đã làm cho ông tát thằng con ông toé máu mồm, máu mũi”. Ý thức được
điều đó, linh hồn Trương Ba dằn vặt đau khổ, quyết định chống lại bằng cách tách ra
khỏi xác anh hàng thịt để tồn tại độc lập, không lệ thuộc vào thể xác. Xác hàng thịt
biết rõ những cố gắng đó là vô ích nên đã cười nhạo báng hồn Trương Ba, tuyên bố về
sức mạnh âm u đui mù ghê gớm của mình và ranh mãnh dồn hồn Trương Ba vào thế
đuối lý; hơn nữa còn ve vãn hồn Trương Ba thoả hiệp, vì theo lý lẽ của xác thịt là
“chẳng còn cách nào khác đâu” vì “cả hai đã hoà vào nhau làm một rồi!”. Trước
những lý lẽ “ti tiện” không thể chấp nhận được của xác thịt, Trương Ba đã nổi giận, đã
khinh bỉ, đã mắng mỏ xác anh hàng thịt là hèn hạ, nhưng đồng thời cũng ngậm ngùi
thấm thía nghịch cảnh mà mình đã lâm vào, đành nhập trở lại vào xác hàng thịt trong
tuyệt vọng để từ đó đi đến giải pháp tồn tại “chung sống hoà bình” mang tên “hồn
Trƣơng Ba da hàng thịt” bằng “trò chơi tâm hồn”. Luật chơi là hồn cứ việc nghĩ mình
cao khiết, thánh thiện, thẳng thắn, làm điều gì xấu thì cứ việc đổ tội cho xác để được
thanh thản. Bù lại, hồn sẽ làm đủ mọi việc để thoả mãn những thèm khát tầm thường
của xác.
Màn đối thoại cho thấy:
+ Tuy Trương Ba được trả lại cuộc sống nhưng là cuộc sống đáng hổ thẹn vì
phải sống chung với sự dung tục và bị sự dung tục tầm thường đồng hoá.
155
+ Không chỉ dừng lại ở đó, tác giả còn cảnh báo: khi con người phải sống trong
dung tục thi tất yếu cái dung tục sẽ ngự trị, sẽ thắng thế, sẽ lấn át và dần dần sẽ tàn phá
những gì trong sạch, đẹp đẽ, cao quý trong con người.
+ Từ đấy dẫn đến một triết lí sâu xa mà Lưu Quang Vũ muốn nhắn gửi tới độc
giả: đã là con người thì phải có hai phương diện linh hồn và thể xác hài hoà thống nhất
với nhau. Có lẽ nào “tôi muốn đƣợc là tôi toàn vẹn” mà lại “bên trong một đằng, bên
ngoài một nẻo”. Vả lại, đời sống con người đâu chỉ gói gọn trong những nhu cầu bản
năng thuần tuý? Và cũng đừng bỏ bê thân xác “mãi khổ sở, nhếch nhác” để chỉ biết
đến một thứ linh hồn chung chung trừu tượng không thuộc về một ai cả trên cõi thế
gian này. Cuộc đấu tranh giữa linh hồn và xác thịt là cuộc đấu tranh giữa đạo đức và
tội lỗi, giữa khát vọng, hoài bão cao cả với dục vọng; ham muốn tầm thường giữa phần
“ngƣời” và phần “con” luôn luôn diễn ra hàng ngày, hàng giờ trong mỗi con người.
“Hai hình tƣợng hồn Trƣơng Ba và xác anh hàng thịt ở đây mang ý nghĩa ẩn dụ. Một
bên đại diện cho sự trong sạch, nhân hậu, thẳng thắn và khát vọng sống thanh cao
xứng đáng với danh nghĩa con ngƣời và một bên là sự tầm thƣờng, dung tục” (sách
giáo viên).
2. Màn đối thoại giữa Trương Ba và người thân.
Cuộc đối thoại giữa Trương Ba với những người thân (vợ, con dâu, cháu gái)
càng làm cho ông đau khổ hơn.
- Đây là câu trả lời đẫm nước mắt vì yêu thương, đau đớn, hờn dỗi và bế tắc của
người vợ: “tôi biết ông là ngƣời vốn hết lòng thƣơng yêu vợ con… chỉ tại bây giờ…
ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trƣơng Ba làm vƣờn ngày xƣa… ông bây giờ còn
biết đến ai nữa?”.
- Còn đây là đứa cháu gái vốn hồn nhiên, ngây thơ, trong trắng giờ đây rất bực
tức, giận dữ đã trả lời ông qua tiếng khóc nức nở: “Nếu ông nội tôi về đƣợc, hồn ông
nội tôi sẽ bóp cổ ông! Từ nay, ông không đƣợc động vào cây cối trong vƣờn tôi nữa!
Ông mà quý cây à?... bàn tay giết lợn của ông làm gãy tiệt chồi non, chân ông to bè bè
nhƣ cái xẻng, giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ƣơm! Ông nội đời nào thô lỗ, phũ
phàng nhƣ vậy… Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể cút đi!”.
- Cô con dâu Trương Ba vốn là người hiếu thảo thấu hiểu được hoàn cảnh trớ
trêu, éo le của bố chồng nhưng cũng chỉ biết thương cảm, xót thương mà thôi: “Thầy
bảo con: cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong nhƣng con sợ lắm, bởi
con đau đớn cảm thấy… mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần… đến nỗi có
lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa”.
Thế là trú ngụ trong thân thể anh hàng thịt, Trương Ba không còn là mình nữa,
không còn giữ được đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn, thanh cao…
Trương Ba đang bị cái thể xác ấy xâm chiếm, lấn lướt và làm tha hoá, tàn phá dần.
Biết mình như vậy trong mắt người thân, hồn Trương Ba vô cùng đau khổ. Tình huốn
kịch lúc đến đỉnh điểm thúc đẩy Trương Ba phải lựa chọn và đi đến một phản kháng
quyết liệt: “Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!”.
3. Màn đối thoại giữa Trương Ba và Đế Thích.
Gặp lại Đế Thích, Trương Ba thể hiện thái độ kiên quyết từ chối, không chấp
nhận cái cảnh trớ trêu đầy tính chất bi hài của mình “bên trong một đằng, bên ngoài
một nẻo” mà “tôi muốn là tôi toàn vẹn”. Trương Ba đã thẳng thắn chỉ ra sai lầm của
Đế Thích bằng những lời phê phán, trách cứ gay gắt “sống nhờ vào đồ đạc, của cải
ngƣời khác đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh
hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống nhƣng sống nhƣ thế nào thì ông
156
chẳng cần biết. Không thể sống với bất cứ giá nào đƣợc. Có những cái giá đắt quá,
không thể trả đƣợc”. Đây quả là một bước ngoặt, một sự “bừng ngộ”, một cuộc cách
mạng lớn lao trong nhận thức của hồn Trương Ba mà để đi được đến đó, Trương Ba đã
trải qua những thử thách, những trải nghiệm đầy cam go, đau đớn.
Đế Thích định tiếp tục việc “sửa sai” của mình và của Tây Vương Mẫu bằng
một giải pháp khác mang tính chất thoả hiệp là cho hồn Trương Ba nhập vào xác cu
Tỵ nhưng Trương Ba đã kiên quyết từ chối, không chấp nhận cái cảnh sống giả tạo,
chắp vá mà theo ông là “còn khổ hơn cái chết… Mình tôi sống giữa đám ngƣời hậu
sinh, những gì chúng thích thì tôi ghét, những gì tôi thích thì chúng chẳng ƣa. Tôi sẽ
nhƣ ông khách ngồi dai ở nhà ngƣời ta… Tôi sẽ bơ vơ, lạc lõng hoặc trở nên thảm hại,
đáng ghét nhƣ kẻ tham lam, một kẻ lí ra phải chết từ lâu rồi mà vẫn cứ sống, cứ ngang
nhiên hƣởng thụ mọi thứ lộc trời! Vô lý lắm! Không!”.
Cuối cùng Trương Ba kêu gọi Đế Thích hãy sửa sai bằng một việc làm đúng .
Đó là trả lại linh hồn cho cu Tỵ. Qua màn đối thoại, ta thấy dường như Lưu Quang Vũ
muốn gửi gắm nhiều thông điệp vừa trực tiếp vừa gián tiếp, vừa mạnh mẽ quyết liệt,
vừa kín đáo và sâu sắc về thời chúng ta đang sống. Đặc biệt, qua đó toát lên vẻ đẹp
tâm hồn của con người trong cuộc đấu tranh chống lại sự dung tục, giả tạo để bảo vệ
quyền được sống trọn vẹn hợp với lẽ tự nhiên cùng sự hoàn thiện nhân cách con người.
Ý nghĩa nhân bản, chất thơ của Lưu Quang Vũ cũng được bộc lộ ở đây.
4. Màn kết
Trương Ba trả lại xác cho anh hàng thịt, chấp nhận cái chết để linh hồn được
trong sạch. Là con người, Trương Ba vẫn “rất ham sống” nhưng kiên quyết không
nhập vào hình thù ai nữa: “Tôi đã chết rồi! Hãy để cho tôi chết hẳn!”. Hồn Trương Ba
hoá thân vào các sự vật thân thương, tồn tại vĩnh viễn bên cạnh những người thân yêu
của mình. “Tôi đây bà ạ!... Không phải mƣợn thân ai cả, tôi vẫn ở đây, trong vƣờn cây
nhà ta, trong những điều tốt lành của cuộc đời, trong mỗi trái cây cái Gái nâng niu”.
Rồi lại gieo hạt xuống “cho mọc thành cây, những cây sẽ nối nhau mà lớn khôn. Mãi
mãi... trong màu xanh bất tử, cuộc sống lại tiếp tục sinh sôi nảy nở theo quy luật tuần
hoàn vĩnh hằng của sự sống”. Màn kết với chất thơ sâu lắng đã đem lại âm hưởng
thanh thoát cho một bi kịch lạc quan, đồng thời vang lên bài ca về sự chiến thắng của
cái thiện, cái đẹp của sự sống đích thực.
III. KẾT LUẬN
Tóm lại, qua đoạn trích “Hồn Trƣơng Ba da hàng thịt”, Lưu Quang Vũ muốn
gửi tới người đọc thông điệp với ý nghĩa sâu xa, giàu tính chất nhân bản: “đƣợc sống
làm ngƣời quý giá thật nhƣng đƣợc sống đúng là mình, sống trọn vẹn những giá trị
mình vốn có và theo đuổi còn quý giá hơn. Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con
ngƣời đƣợc sống tự nhiên với sự hài hoà giữa thể xác và tâm hồn. Con ngƣời phải
luôn luôn biết đấu tranh với những nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung
tục để hoàn thiện nhân cách và vƣơn tới những giá trị tinh thần cao quý” (ghi nhớ của
sách giáo khoa)
157
PHẠM VĂN ĐỒNG
Đề: Về bài: "Nguyễn Đình Chiểu" của Phạm Văn Đồng
A. MỞ BÀI:
Phạm Văn Đồng (1906 – 2000) quê ở xã Đức Tân, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng
Ngãi, không chỉ là một nhà chính trị, nhà ngoại giao mà còn là một nhà văn hóa lớn.
Ông có nhiều công trình về văn nghệ nước nhà và đã viết nhiều bài nghị luận độc đáo,
đặc sắc về tiếng Việt, về Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu, Hồ Chí Minh… Bài
“Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc” là một trong số bài
nghị luận như thế.
B. THÂN BÀI
Đây là một bài văn nghị luận hoàn chỉnh và trọn vẹn. Vì vậy, bố cục của bài
văn được chia làm ba phần rõ rệt:
1. Mở bài:
Từ đầu đến “một trăm năm”: phải có cái nhìn mới mẻ sâu sắc, đúng mức về nhà
thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu và văn thơ của ông.
2. Thân bài:
Từ “Nguyễn Đình Chiểu” đến “Lục Vân Tiên”. Ở phần này, Phạm Văn Đồng
nêu ba luận điểm chính cần triển khai để làm sáng tỏ luận đề cơ bản: “ngôi sao
Nguyễn Đình Chiểu có ánh sáng khác thƣờng, càng nhìn càng thấy sáng” để làm sao
cho ngôi sao ấy “phải sáng tỏ hơn nữa trong bầu trời văn nghệ của dân tộc, nhất là
trong lúc này”. Ba luận điểm đó là : điểm đặc biệt của cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu;
cách đánh giá đúng đắn thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu (đặc biệt là bài
“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”); cuối cùng là sức hấp dẫn, sức sống của bản trường ca
“Lục Vân Tiên”.
3. Kết bài:
Khẳng định lại vị trí của Nguyễn Đình Chiểu trong nền văn học dân tộc:
“Nguyễn Đình Chiểu là một ngƣời chí sĩ yêu nƣớc, một nhà thơ lớn của nƣớc ta… Đời
sống và sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu là một tấm gƣơng sáng”.
PHÂN TÍCH CÁC LUẬN ĐIỂM
1. Cuộc đời và quan niệm sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu.
a/ Với Phạm Văn Đồng, Nguyễn Đình Chiểu là một tấm gương chói sáng về
tinh thần yêu nước (nồng nàn) và lòng căm thù giặc cháy bỏng: “cuộc đời và thơ văn
của Nguyễn Đình Chiểu là của một chiến sĩ hy sinh phấn đấu vì một nghĩa lớn.
b/ Với Nguyễn Đình Chiểu, cầm bút, viết văn là một thiên chức. Nguyễn Đình
Chiểu sử dụng văn thơ như một vũ khí sắc bén chống quân xâm lược, ca ngợi chính
nghĩa, ca ngợi anh hùng, những đạo đức cao quý ở đơf: “thơ văn Nguyễn Đình Chiểu
là thơ văn chiến đấu, đánh thẳng vào giặc ngoại xâm và tôi tớ của chúng”:
“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm.
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”.
158
“Bài phẩm của ông là những trang bất hủ ca ngợi cuộc chiến đấu oanh liệt của
nhân dân ta chống xâm lƣợc Pháp lúc chúng đến bờ cõi nƣớc ta cách đây một trăm
năm”.
c/ Nguyễn Đình Chiểu quan niệm làm người phải có khí tiết, tức là phải có tâm
hồn trong sáng, không vì danh lợi mà đánh mất mình, làm những điều bất nhân, bất
nghĩa. Làm người phải phấn đấu vì nghĩa lớn, vì dân, vì nước. Vì vậy “các tác phẩm
của Nguyễn Đình Chiểu, ngoài những giá trị nghệ thuật còn quý giá ở chỗ nó soi sáng
tâm hồn trong sáng và cao quý lạ thƣờng của tác giả và ghi lại lịch sử của một thời
khổ nhục nhƣng vĩ đại”. Tình cảnh đất nước, cảnh ngộ riêng càng long đong đen tối
thì khí tiết của người chiến sĩ yêu nước càng cao cả, rạng rỡ:
“Sự đời thà khuất đôi tròng thịt
Lòng đạo xin tròn một tấm gƣơng”
2. Thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu xứng đáng là “một vì sao có
ánh sáng khác thường”.
Phương pháp lập luận, phân tích của Phạm Văn Đống rất khoa học. Lênin từng
nói: “Trƣớc mắt ta thực sự là một nghệ sĩ vĩ đại thì tác phẩm của ông ta phải phản ánh
đƣợc vài ba mặt cơ bản của cách mạng, của hiện thực”. Ở đây, Phạm Văn Đồng đặt
thơ văn yêu nước chống Pháp của Nguyễn Đình Chiểu vào hoàn cảnh cụ thể của
phong trào chống Pháp “oanh liệt và bền bỉ” của nhân dân Nam Bộ thời bấy giờ “từ
1860 về sau, suốt 20 năm trời”. Trên cái nền lịch sử ấy, tác giả Phạm Văn Đồng đã
khẳng định giá trị lớn lao của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu là đã “làm sống lại trong
tâm trí chúng ta phong trào, khí phách oanh liệt và bền bỉ của nhân dân Nam Bộ từ
1860 trở về sau” và đã “ghi lại lịch sử của một thời khổ nhục nhƣng vĩ đại”. Vì thế thơ
văn Đồ Chiểu, đặc biệt là những bài văn tế tất yếu chiếm vị trí lá cờ đầu của thơ văn
yêu nước chống Pháp cuối thế kỉ XIX.
Từ đó, Phạm Văn Đồng đi sâu phân tích, chứng minh và ngợi ca bài “Văn tế
nghĩa sĩ Cần Giuộc”: “Chúng ta hãy đọc lại nhiều đoạn trong bài văn tế… Bài ca của
Nguyễn Đình Chiểu làm ta nhớ tới bài “Bình Ngô Đại Cáo” của Nguyễn Trãi. Hai bài
văn: hai cảnh ngộ, hai thời buổi nhƣng một dân tộc. Bài cáo của Nguyễn Trãi là khúc
ca khải hoàn ca ngợi những chiến công oanh liệt chƣa từng thấy, biểu dƣơng chiến
thắng làm rạng rỡ nƣớc nhà. Bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là khúc ca những
ngƣời anh hùng thất thế nhƣng vẫn hiên ngang… Nguyễn Đình Chiểu đã diễn tả thật
là sinh động và hào hùng cảm tình của dân tộc với ngƣời chiến sĩ của nghĩa quân, vốn
là ngƣời nông dân xƣa kia chỉ quen cày cuốc, bỗng chốc trở thành ngƣời anh hùng
cứu nƣớc”. Bằng trí tuệ sắc sảo, bằng một trái tim với niềm xúc động trào dâng, Phạm
Văn Đồng đã viết nên những câu văn sắc sảo nhất, hấp dẫn nhất làm lay động hàng
triệu trái tim người đọc. Có lẽ xưa nay, chưa ai đánh giá cao và đúng đắn về bài văn tế
như thế.
3. Sức hấp dẫn và sức sống của bản trường ca “Lục Vân Tiên”
Ở trường ca này, Phạm Văn Đồng cũng đã nhìn ra được “ánh sáng khác
thƣờng”. Tác giả lập luận theo lối đòn bẩy. Tác giả rất khoa học và trung thực khi
không phủ nhận những sự thực: “Những giá trị luân lý của Nguyễn Đình Chiểu đã có
phần lỗi thời… văn chƣơng Lục Vân Tiên” có những chỗ “lời văn không hay lắm”.
Đây là lúc tác giả “hạ xuống” nhưng liền sau đó là để “nâng lên” khẳng định: Lục Vân
Tiên có thể trở thành tác phẩm lớn nhất của Nguyễn Đình Chiểu và rất được phổ biến
trong dân gian. Bởi vì, trước hết Lục Vân Tiên là “một bản trƣờng ca ca ngợi chính
nghĩa, những đạo đức đáng quý trọng ở đời, ca ngợi những con ngƣời trung nghĩa”.
159
Đó là điều chúng ta cần “hiểu đúng” để có thể “thấy hết giá trị” của “tác phẩm lớn
nhất của Nguyễn Đình Chiểu” này. Sau nữa, “Lục Vân Tiên” mang những nội dung tư
tưởng, đạo đức gần với quần chúng nhân dân cả thời xưa lẫn thời nay, và do đó, được
họ “cảm xúc và thích thú”. Truyện lại có một lối kể chuyện, nói chuyện “nôm na, dễ
hiểu, dễ nhớ, có thể truyền bá trong dân gian”. Như vậy Phạm Văn Đồng đã đứng trên
lập trường nhân dân để có cách đánh giá khách quan, rất khoa học, rất sâu sắc về tác
phẩm văn học. đúng như trong một bài bàn về “cách viết”, Bác Hồ luôn căn dặn các
nghệ sĩ phải giải đáp được các câu hỏi sau đây khi cầm bút: “Viết cho ai?”, “Viết để
làm gì?”, Viết nhƣ thế nào?”…
C. KẾT LUẬN
Tóm lại, bài văn “Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân
tộc” là bài nghị luận văn chương xuất sắc. Bằng trí tuệ sắc sảo và trái tim nhạy cảm,
vốn hiểu biết văn học sâu rộng của một nhà văn hoá lớn, Phạm Văn Đồng đã có một
cách nhìn mới mẻ, đúng đắn, sâu sắc vừa thấu lý, vừa đạt tình về “vì sao văn học
Nguyễn đình Chiểu”. Bài văn không chỉ thức tỉnh lý trí mà còn lay động trái tim người
đọc. Bài viết ra đời trong không khí quê hương Bến Tre của Đồ Chiểu đồng khởi “cờ
phất bừng tƣơi đất Mỏ Cày” đã có sức cổ vũ lớn lao đối với khí thế chống Mỹ của
đồng bào miền Nam ruột thịt. Ngày ấy, bài văn là nén tâm hương đốt lên nhân ngày
sinh của Nguyễn Đình Chiểu, hẳn giờ đây, nén hương lòng ấy vẫn còn toả hương ngạt
ngào làm vui lòng “ngƣời con quang vinh của dân tộc” đang ngậm cười chín suối.
NGUYỄN HUY TƢỞNG
ĐỀ 1: Phân tích hai mâu thuẩn cơ bản trong vở kịch "Vũ Nhƣ Tô" của Nguyễn
Huy Tƣởng
“Vũ Nhƣ Tô” là vở kịch xuất sắc của Nguyễn Huy Tưởng (1912-1960) và của nền
kịch Việt Nam hiện đại. Tác phẩm được sáng tác năm 1941, dựa trên một sự kiện lịch
sử, xảy ra ở kinh thành Thăng Long vào thời hậu Lê. Trong đoạn trích được học, vở
kịch đã tạo dựng một cách khá ấn tượng về hai mối mâu thuẫn lớn : mâu thuẫn giữa
nhân dân lao động lầm than với hôn quân, bạo chúa, quan lại thống trị sống xa hoa,
truỵ lạc và mâu thuẫn giữa nghệ thuật cao siêu thuần tuý của muôn đời với lợi ích trực
tiếp, thiết thực của nhân dân mà nạn nhân mâu thuẫn đó là người nghệ sĩ thiên tài Vũ
Như Tô.
I.Vài nét về tác giả, tác phẩm:
II.Mâu thuẫn thứ nhất.
Đó là mâu thuẫn giữa nhân dân lao động khốn khổ, lầm than, cơ cực với bọn hôn
quân bạo chúa và phe cánh của chúng sống xa hoa truỵ lạc trên máu xương của nhân
dân.
160
Mâu thuẫn này vốn nảy sinh từ trước vì đây là mâu thuẫn cơ bản và muôn đời của
xã hội cũ. Nhưng đến khi Lê Tương Dực bắt Vũ Như Tô xây dựng Cửu Trùng Đài, thì
mâu thuẫn này càng trở nên gay gắt, quyết liệt, không thể điều hoà. Để xây dựng Cửu
Trùng Đài-một công trình kiến trúc nguy nga, tráng lệ, triều đình ra lệnh tăng thêm sưu
thuế, bắt thêm thợ giỏi, tróc nã, hành hạ những người chống đối. Thợ phải làm việc
kiệt sức mà vẫn đói khát vì bị ăn chặn. Dân căm giận vua chua đã đẩy họ đến chỗ xơ
xác làm cho đất nước tiêu điều. Thợ oán hận Vũ Như Tô vì nhiều người chết bởi tai
nan, vì ông đã cho chém những kẻ chạy trốn. Trước sự thật thảm khốc đó, Trịnh Duy
Sản đã can ngăn Lê Tương Dực và báo sẽ có loạn, đuổi bọn cung nữ, giết Vũ Như Tô.
Nhưng tên vua hôn quân ấy chẳng những không nghe còn đánh đòn Trịnh Duy Sản
một cách đau đớn và nhục nhã. ( Hồi 3 )
Tình hình lịch sử càng trở nên căng thẳng khi tin lụt lội, mất mùa, đặc biệt là tin
dữ dân gian đói nổi lên tứ tung truyền đến Thăng Long. Trong khi đó, Vũ Như Tô bị
đá đè, bị thương nặng vẫn đốc thúc xây dựng Cửu Trùng Đài. Thợ định nổi loạn. Lợi
dụng tình hình rối ren ấy, Duy Sản-kẻ cầm đầu phe đối nghịch trong triều đình đã dấy
binh nổi loạn, lôi kéo thợ thuyền làm phản giết Lê Tương Dực, Vũ Như Tô, Đan
Thiềm và đốt cháy Cửu Trùng Đài ( Hồi 4,5 ). Như vậy, mâu thuẫn này, đến hồi 5 đã
trở nên cao trào và đỉnh điểm ở hồi cuối cũng đã được giải quyết.
III. Mâu thuẫn thứ hai :
Mâu thuẫn giữa nghệ thuật cao siêu thuần tuý muôn đời với lợi ích sống còn của
nhân dân. Mâu thuẫn này có nguồn gốc từ nguyên nhân sâu xa. Người nghệ sĩ thiên tài
đầy hoài bão, tâm huyết, không thể thi thố tài năng của mình để đem lại cái đẹp cho
đời, niềm tự hào cho dân tộc trong một chế độ xã hội thối nát, trong một đất nước mà
nhân dân còn sẽ sống triền miên trong đau khổ, lầm than, cơ cực. Vũ Như Tô là một
kiến trúc sư thiên tài. Có khả năng “tranh tinh xảo với hoá công” để xây dựng cho đất
nước một toà lâu đài vĩ đại, nguy nga, tráng lệ, để dân ta “nghìn thu còn hãnh diện”.
Nhưng trong hoàn cảnh đât nước không tạo điều kiện cho Vũ Như Tô thực hiện khát
vọng sáng tạo vĩ đại chân chính đó, không còn cách lựa chọn nào khác, Vũ Như Tô đã
nghe theo lời Đan Thiềm đồng bệnh với ông , đành phải mượn tiền bạc, uy quyền của
Lê Tương Dực để thực hiện hoài bão lớn lao của mình nhằm xây dựng cho đất nước
một công trình hoành tráng. Nhưng trớ trêu thay, chính niềm khao khát được cống hiến,
được sáng tạo ấy đã đẩy Vũ Như Tô vào tình trạng đối nghịch với lợi ích thiết thực của
nhân dân. Mặc dù vốn yêu nhân dân, muốn cống hiến tài năng của mình, muốn đem lại
niềm tự hào cho đất nước, Vũ Như Tô lại bị nhân dân nhiều lúc có phần nông nổi, nhất
là nhiều người thợ coi ông như kẻ thù của họ. Ta hãy nghe lời của Ngô Hạnh : “xây
Cửu Trùng Đài để thâm hụt ngân khố, để dân ta lầm than”. Và đây là tiếng cười đầy
mỉa mai, oán hận của quân sĩ. “mày không biết mấy nghìn ngƣời chết vì Cửu Trùng
Đài, mẹ mất con, vợ mất chồng, vì mày đó ƣ? Ngƣời ta oán mày nhƣ oán quỷ”. Người
nghệ sĩ tài hoa ấy muốn thực hiện lý tưởng nghệ thuật thì lại rơi vào tình trạng đi
ngược lại quyền lợi trực tiếp của nhân dân ; nếu xuất phát từ lợi ích thiết thực của nhân
dân thì không thể thực hiện được ước mơ, nghệ thuật muôn đời của mình. Đó chính là
nguồn gốc sâu xa của tấn bi kịch không lối thoát của thiên tài Vũ Như Tô, và cũng là
bi kịch muôn thuở của thiên tài trong xã hội cũ.
161
Đề 2: Trình bày cảm nghĩ về bi kịch của nhân vật Vũ Nhƣ Tô trong "Vĩnh
biệt cửu trùng đài"
Mở bài:
Trong xã hội cũ, người bóc lột người, người nghệ sĩ thiên tài có lý tưởng cao đẹp
thường lâm vào cảnh ngộ không giải quyết được một cách đúng đắn vấn đề sáng tạo
nghệ thuật cho ai và để làm gì. Đó cũng chính là bi kịch của Vũ Như Tô trong vở kịch
cùng tên của Nguyễn Huy Tưởng.
Thân bài:
I.Giới thiệu vài nét về tác giả,tác phẩm:
1. Tác giả Nguyễn Huy Tưởng (sgk)
2. “Vũ Nhƣ Tô” là vở kịch lịch sử có qui mô hoành tráng xuất sắc của Nguyễn
Huy Tưởng và của nền kịch Việt Nam hiện đại.Tác phẩm được sáng tác vào năm 1941,
dựa trên một sự kiện lịch sử xảy ra ở kinh thành Thăng Long vào thời hậu Lê. Tác
phẩm gồm 5 hồi. Đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” là hồi 5, hồi cuối của vở kịch.
Trong đoạn trích được học gây ấn tượng sâu sắc nhất là nhân vật Vũ Như Tô.
II.Trình bày cảm nghĩ về bi kịch nhân vật Vũ Nhƣ Tô:
1. Định nghĩa bi kịch:
Hiểu theo nghĩa thông thường là nỗi đau khổ vò xé dai dẳng không có cách nào
giải thoát. Nhưng theo từ điển văn học, bi kịch chỉ xảy ra khi có mâu thuẫn giữa khát
vọng, hoài bão, lí tưởng của cá nhân với thực tại. Thực tại chưa đủ điều kiện cho cá
nhân thực hiện khát vọng, lý tưởng của mình nên rơi vào thất bại, thậm chí dẫn đến cái
chết thảm thương.
2.Những nét chính trong bi kịch Vũ Nhƣ Tô
a. Hiểu như định nghĩa nói trên, chúng ta thấy bi kịch của Vũ Như Tô là bi kịch
của người nghệ sĩ có tài và có hoài bão lớn, nhưng không giải quyết được mối quan hệ
phức tạp giữa nghệ thuật và đời sống, đặc biệt là không giải được một cách đúng đắn
vấn đề sáng tạo nghệ thuật cho ai và để làm gì.
b. Vũ Như Tô là một kiến trúc sư thiên tài, là hiện thân của niềm khao khát say
mê sáng tạo cái đẹp, “là người ngàn năm dễ có một....có thể sai khiến gạch đá như viên
tướng cầm quân, có thể xây lâu đài cao cả, nóc vờn mây mà không hề tính sai một viên
gạch nhỏ”
c. Vũ Như Tô là một nghệ sĩ lớn có nhân cách cao đẹp, có hoài bão lớn lao, có tư
tưởng, lý tưởng nghệ thuật cao cả, ông muốn xây dựng một toà lâu đài vĩ đại “bền nhƣ
trăng sao” để cho “dân ta nghìn thu còn hãnh diện” ; muốn xây dựng một công trình
kiến trúc vĩ đại, tuyệt mĩ, tô điểm cho non sông đất nước. Ông mong muốn cho người
đời biết những khát vọng cao đẹp của ông. Đó là ông chỉ có một hoài bão muốn tô
điểm cho đất nước, đem hết tài năng ra xây cho nòi giống một toà lâu đài hoa lệ,thách
cả những công trình trước sau, tranh tinh xảo với hoá công “để ta xây một Cửu Trùng
Đài, dựng một kì công muôn thuở, vài năm nữa Cửu Trùng Đài hoàn thành,cao cả huy
hoàng, giữa cõi trần lao lực có một cảnh Bồng Lai.... Đời ta không quý bằng Cửu
Trùng Đài”. Hồn ông để cả nơi đấy. Nhìn một cách đơn giản thì mục đích và nguyện
vọng của Vũ Như Tô là hết sức cao đẹp. Nó xuất phát từ thiên chức của người nghệ sĩ,
từ lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Vũ Như Tô vô cùng say mê với mơ ước của
mình.
162
d. Nhưng Vũ Như Tô nào có hiểu được sâu xa, trên thực tế, Cửu Trùng Đài đã
xây dựng bằng mồ hôi xương máu của nhân dân và nếu được hoàn thành thì nó cũng
chỉ là nơi ăn chơi xa xỉ, sa đoạ của vua chúa, giống như công trình kiến trúc “Vạn
Niên” của triều đình Nguyễn sau này : “Vạn niên là vạn niên nào? Thành xây xƣơng
lính, hào đào máu dân”. Như vậy, Vũ Như Tô đã sai lầm khi lợi dụng quyền lực của
bạo chúa để thực hiện khát vọng nghệ thuật của mình.Chỉ đứng trên lập trường nghệ sĩ
thuần tuý nên đã vô hình chung, trở thành kẻ đối nghịch với nhân dân, gây đau khổ
cho nhân dân.
e. Nhân dân căm giận bạo chúa, đồng thời cũng oán trách, nguyền rủa, thậm chí
là oán hận kiến trúc sư đầy tài năng Vũ Như Tô và cuối cùng đã giết chết cả tên hôn
quan bạo chúa Lê Tương Dực lẫn Vũ Như Tô, đốt cháy cả Cửu Trùng Đài.Vũ Như Tô
đúng là một nhân vật bi kịch. Ông không thể nào trả lời câu hỏi “xây dựng Cửu Trùng
Đài là đúng hay sai, là có công hay có tội? ”. Là một nghệ sĩ đầy tài năng và giàu sáng
tạo, Vũ Như Tô muốn khẳng định tài năng của mình, muốn tô điểm cho đất nước,
muốn làm đẹp cho đời, nhưng khát vọng nghệ thuật và đam mê sáng tạo của ông đã
đặt lầm nơi lạc chốn, lạc điệu với thời thế, xa rời thực tế, nên đã phải trả giá bằng
chính sinh mệnh của bản thân và của cả công trình thấm đẫm mồ hôi tâm não của
mình.Thật đau đớn thay, bi kịch thay cho đến khi cuộc nổi loạn nổ ra, Đan Thiềm mặt
cắt không còn hột máu, hốt hoảng đến báo cho Vũ Như Tô, nếu không chạy trốn thì
ông sẽ bị giết, nhưng Vũ Như Tô vẫn không chịu đi và vẫn day dứt một câu hỏi: “Tôi
có tội gì? Tôi làm gì nên tội? Làm gì phải trốn?”. Và vẫn hi vọng thuyết phục được
An Hoà Hầu, một kẻ cầm đầu một phe nổi loạn, song sự thực đã diễn ra một cách phũ
phàng tàn nhẫn, không như ảo tưởng của Vũ Như Tô. Khi tất cả chỉ là ảo vọng. Đan
Thiền và ông bị bắt, Cửu Trùng Đài bị thiêu huỷ thì ông mới bừng tỉnh, ngửa mặt lên
trời mà cất lên tiếng than ai oán tuỵệt vọng “Đốt thực rồi! Ôi Đảng ác! Trời ơi! Phú
cho ta cái tài để làm gì. Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng Đài! Thôi thế là
hết! Dẫn ta đến pháp trƣờng”. Trong tiếng kêu than ấy, tiếng “Đan Thiềm, mộng lớn
Cửu Trùng Đài” dồn dập vang lên hoà nhập vào nhau thành khúc ca bi tráng, ai oán,
đầy tiếc thương. Đó chính là âm hưởng chủ đạo của đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng
Đài”.
III . Phát biểu cảm nghĩ :
1. Thương người nghệ sĩ có tài có tâm, đam mê nghệ thuật, khao khát sáng tạo,
sẵn sàng hi sinh tất cả cho cái đẹp nhưng xa rời thực tế, mà phải trả giá đắt bằng cả
sinh mệnh và cả công trình nghệ thuật đầy tâm huyết sáng tạo cuả mình
2. Không có cái đẹp tách rời cái chân cái thiện. Tác phẩm nghệ thuật không thể
chỉ mang cái đẹp thuần tuý, nó phải có mục đích chân chính là phục vụ nhân dân, phục
vụ cuộc đời. “Văn chƣơng không chỉ là văn chƣơng mà thực chất là cuộc đời, cuộc đời
là nơi xuất phát và là nơi đi tới của văn chƣơng”. Người nghệ sĩ phải có hoài bão lớn,
có khát vọng sáng tạo những công trình vĩ đại cho muôn đời, nhưng cũng biết xử lý
đúng đắn mối quan hệ giữa khát vọng đó với điều kiện thực tế cuộc sống với đòi hỏi
của muôn dân.
3.Xã hội phải biết tạo điều kiện sáng tạo cho các tài năng, vun đắp tài năng, quý
trọng nâng niu những giá trị nghệ thuật đích thực.
Kết Luận :
163
Qua tấn bi kịch của người nghệ sĩ thiên tài Vũ Như Tô, Nguyễn Huy Tưởng gợi
những suy nghĩ sâu sắc về mối quan hệ giữa người nghệ sĩ với hoạt động sáng tạo
nghệ thuật và thực tế đời sống nhân dân. Vì vậy vấn đề tác giả đặt ra ngày ấy, giờ đây
bước sang thiên niên kỉ mới, nó vẫn còn nguyên giá trị.
TÔ HOÀI
Đề 1: Tóm tắt tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài
“Vợ chồng A Phủ” kể về hai thanh niên người dân tộc thiểu số (dân tộc Mèo);
Mị và A Phủ. Mị là một cô gái đẹp, hiếu thảo, đảm đang, giàu sức sống yêu đời và rất
mực tài hoa. Chỉ vì một món nợ từ hồi cha mẹ mới cưới nhau. Mị bị thống lý Pá Tra
bắt về làm dâu trừ nợ, thực chất đây là làm nô lệ không công cho nhà Thống Lý. Kể từ
khi bước chân về nhà Thống Lý, Mị phải sống những chuỗi ngày đau thương, tăm tối,
bị hành hạ về thể xác, bị dày đẹp về tinh thần. Mị phải lao động quần quật như con
trâu, con ngựa. Đã có lần Mị muốn chết, nhưng sợ liên lụy đến bố nên lại thôi, tiếp tục
trở về cuộc đời nô lệ. Cuộc sống đau khổ đã cướp mất tuổi xuân của Mị, làm cho cô
gần như tê liệt sức sống, cứ vật vờ âm thầm như chiếc bóng “lùi lũi nhƣ con rùa trong
xó cửa”. Cho đến một đêm mùa xuân náo nức, tiếng sáo gọi bạn tình bồi hồi tha thiết
vọng đến tai Mị đã đánh thức trong tâm hồn cô niềm khát khao hạnh phúc và tình yêu
mãnh liệt. Mị chuẩn bị áo, váy đi chơi ngày xuân. Nhưng rồi chồng Mị đã vùi dập phũ
phàng ngọn lửa ham sống vừa bừng lên đó. Hắn bước vào buồng thản nhiên chói đứng
Mị vào cột nhà. Cũng trong đêm ấy, hắn phá đám cuộc chơi của trai làng nên bị A Phủ
đánh trọng thương. Nhất vào thế quan, thống lý Pá Tra bắt A Phủ phải làm đứa ở, lao
động khổ sai để trả nợ. Một lần vì để hổ vồ mất con bò của nhà thống lý, A Phủ bị
đánh đập tàn nhẫn và bị trói đứng ở ngoài sân suốt mấy ngày. Cảm thông cho người
cùng cảnh ngộ, Mị đã cởi trói cho A Phủ cùng nhau chốn khỏi nhà ngục thống lí ở
Hồng ngài tìm đến Phiềng Sa. Họ nhận nhau là vợ chồng. Họ được cán bộ là A Châu
giác ngộ dìu dắt, cả hai lần lượt là du kích tham gia tích cực vào sự nghiệp đấu tranh
thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai để giải phóng mình, giải phóng quê hương
mình.
Đề 2: Phân tích nhân vật Mị để làm nổi bật sức sống tiềm tàng.
MỞ BÀI:
164
“Vợ chồng A Phủ” được rút từ tập “Truyện Tây Bắc” của Tô Hoài viết vào năm
1953 ngay sau chuyến thâm nhập thực tế tám tháng trời của tác giả. Truyện được tặng
giải nhất của hội văn nghệ Việt Nam 1954 - 1955. Đây là truyện ngắn đặc sắc nhất của
Tô Hoài nói riêng và của văn xuôi chống Pháp nói chung. Tác phẩm là một bức tranh
chân thực về cuộc sống và thân phận khổ đau của người dân nghèo miền núi dưới ách
áp bức, bóc lột của thế lực phong kiến thực dân; đồng thời là một bài ca về sức sống,
khát vọng tự do của người người miền núi; là hình ảnh con đường giải phóng và cuộc
đổi đời của họ. Tiêu biểu nhất cho những con người ấy là Mị, một nhân vật mang dấu
ấn tài năng phân tích tâm lý và tư tưởng nhân đạo vừa độc đáo vừa sâu sắc của Tô
Hoài.
THÂN BÀI:
I. Thế nào là sức sống tiềm tàng?
Sức sống tiềm tàng là sức sống mãnh liệt ẩn dấu sau cái bề ngoài tác giả như
nhẫn nhục, cam chịu nhưng khi bị vùi dập thì biết vươn lên trên hoàn cảnh để hướng
tới ánh sáng của khát vọng. Hiểu như vậy chúng ta thấy một Mị trong tác phẩm này rất
tiêu biểu cho sức sống ấy.
II. Cuộc đời Mị trước khi về làm dâu trừ nợ (gạt nợ).
Mở đầu tác phẩm, tác giả Tô Hoài giới thiệu Mị là một cô gái ngồi quay sợi bên
tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa “lúc nào cũng vậy dù thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi,
hay cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Đó là hình
tượng con người nô lệ bị trà đạp và tuyệt vọng. Nhưng Mị là ai? Con gái nhà Thống
Lý giàu có chăng? Hỏi ra mới biết Mị là con dâu nhà Thống Lý Pá Tra. Mị vốn là cô
gái Mèo con nhà nghèo nhưng mang đủ những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ
miền núi. Mị là một cô gái vừa đẹp người, vừa đẹp nét, cần cù, đảm đang, hiếu thảo, vị
tha, ham sống, giàu lòng yêu đời, rất mực tài hoa. Tiếng sáo của Mị đã có sức lôi cuốn,
hấp dẫn đặc biệt đối với biết bao chàng trai Mèo. Cuộc sống, tuổi thanh xuân, tương
lai của Mị hứa hẹn biết bao điều tốt lành tươi sáng. Và sự thực mùa xuân đến, Mị đã
sống những giây phút tươi đẹp của tuổi trăng rằm, dù trong cảnh nghèo khó.
III. Từ khi về làm con dâu gạt nợ thần quyền và cường quyền Mị gần như bị
tê liệt hết sức sống.
Nhưng tương lai tươi sáng và tuổi trẻ với hạnh phúc tình yêu đã không đến với
cô gái Mèo nghèo khổ đó. Chỉ vì một món nợ truyền kiếp, ngày trước bố mẹ Mị cưới
nhau phải vay nhà Thống Lý Pa Tra và cho đến lúc già, mẹ cô chết, vẫn chưa trả được
mà Mị phải đem thân làm con dâu trừ món nợ ấy cho nhà Thống Lý, một tên quan lại
kiêm địa chủ tham lam xảo quyệt và tàn nhẫn của vùng Hồng Ngài. Kể từ khi về làm
con dâu cho nhà Thống Lý, Mị phải sống những chuỗi ngày đau thương, tủi nhục, tăm
165
tối. Danh nghĩa là con dâu nhà quan nhưng thực chất Mị là một thứ nô lệ không công.
Mị không chỉ bị hành hạ về thể xác mà còn bjịđày đoạ về tinh thần. Đã mấy tháng trời
đêm nào Mịo cũng khóc. Cô gái tội nghiệp ấy đã có lúc định tìm đến cái chết bằng
nắm lá ngón. Nhưng có chết thì món nợ vẫn còn. Bố Mị còn khổ hơn bây giờ bao
nhiêu lần. Thế là vì thương bố Mị không thể chết, Mị liền ném nắm lá ngón như ném
cái khát vọng được giải thoát cho riêng mình và Mị đành trở về cuộc đời nô lệ để trả
nợ cho bố. Dưới mấy tầng áp bức của cường quyền, thân quyền và hủ tục phong kiến
miền núi, Mị phải sống kiếp sống như con vật, thậm chí không bằng con vật “Bây giờ
thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, tưởng mình là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở
các tàu ngựa nhà này đến tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà
thôi.Lúc nào Mị cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, nối tiếp nhau vẽ ra
trước mắt. Mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng làm đi làm lại: “Tết xong thì lên núi hái
thuốc phiện, giữa năm thì đi nƣơng bẻ bắp. Suốt năm suốt đời nhƣ thế. Con trấu con
ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn đƣợc đứng gãi chân nhai cỏ, đàm bà con gái nhà
máy thì vùi đầu vào việc làm cả ngày cả đêm”. Những ngày tết A Sử đi chơi, Mị còn bị
trói đứng trong buồng tối thế mà liền đấy, vừa mới được cởi trói, thì cô phải đi hái
thuốc lá về xoa bóp cho chồng. Nhỡ mệt thiếp đi, thì A Sử lấy chân đạp thẳng vào mặt
Mị. Thật không ở đâu mạng sống và nhân phẩm con người bị coi rẻ như vậy.
Bị giam hãm, đoạ đầy trong địa ngục khủng khiếp của nhà Thống Lý, Mị như
bông hoa rừng đang tàn phai theo năm tháng. Người con gái tài hoa trẻ đẹp, ham sống,
yêu đời thở nào giờ chỉ còn là người đàn bà thân xác héo khô, tâm hồn lạnh lẽo, trống
vắng. Con ngừoi ta thường tồn tại trong ba quan hệ thời gian, không gian và giao tiếp
ba quan hệ ấy dường như đã bị triệt tiêu. Mị mất hết ý thức về thời gian, sự chuyển
biến thời gian sớm hay tối đối với Mị chẳng có ý nghĩa gì nữa: không dĩ vãng, không
hiện tại, không cả tương lai. ở lâu trong cái khổ, Mị quen với cái khổ rồi. Mị ngày
càng không nói, lùi lũi như con mà trong xó cửa. Cuộc đời Mị chỉ còn thu nhỏ lại qua
cái ô cửa sổ bàn tay mờ mờ, trăng trắng không biết sương hay nắng. Nó cũng mờ đục
tăm tối như số phận tâm hồn Mị vậy Mị hầu như mắt hết cả ý thức về bản thân và
những mong muốn, đổi thay cho số phận mình. Thậm chí Mị cũng không có cả ý
nghĩa về cái chết nữa.
IV. Sự trỗi dậy mãnh liệt của lòng ham sống và khát vọng hạnh phúc tình
yêu tự do ở Mị.
Nhưng phải chăng tâm hồn cô gái Mèo trẻ đẹp tài hoa, yêu đời thuở nào giờ đây
đã hoàn toàn nguội lạnh, băng giá, cam chịu thân phận nô lệ và hoàn toàn tê liệt?
Không! Ngòi bút giàu chất thơ và tinh thần nhân đạo của Tô Hoài, do tiếp thu được tư
tưởng nhân đạo của các nhà văn lớp trước như Nguyên Hồng, Ngô Tất Tố, Nam Cao,
không chỉ mô tả được thấm thía cái mà tăm tối, ảm đạm, mà còn tha thiết hướng về
phía sự sống và ánh sáng để khơi gợi nó lên. Nhà văn đã nhìn thấy được dưới đáy tâm
166
hồn tưởng như tê liệt vì khổ đau của Mị vẫn còn le lói ánh sáng và hơi ấm của niềm
ham sống, khát khao hạnh phúc và tự do. Niềm ham sống ấy như ngọn lửa vẫn âm ỉ
cháy dưới lớp tro nguội, chỉ cần có một lần gió thổi tới là có thể cháy bùng lên.
Mùa xuân về trên vùng núi cao Tây Bắc có ý nghĩa như một hoàn cảnh điển
hình làm gợi dậy ở con người và thiên nhiên sức sống tiềm tàng. Sự sống, cảnh vật và
con người như được mùa xuân đánh thức cho bừng tỉnh. Mà thời điểm để ngọn lửa
ham sống trong lòng Mị bùng lên đã đến. Đấy là “một đêm tình mùa xuân”. Tiếng
khèn, tiếng sáo của trai làng gọi bạn tình cứ tha thiết bồi hồi. Tai Mị cứ văng vẳng
tiếng sáo. Với Mị, tiếng sáo là biểu tượng lôi cuốn nhất của khát vọng, tình yêu hạnh
phúc. “Ngày trƣớc Mị thổi sáo giỏi. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay nhƣ
thổi sáo. Có biết bao nhiều ngƣời mê”. Cái nồng nàn của đêm xuân lại được tăng lên
bởi bữa rượu ngày tết, trong tiếng chiêng đánh ầm ĩ và so sánh người lên đồng, người
hát, “Ngày tết, Mị uống rƣợu, Mị lấy hũ rƣợu cứ uống ừng ực từng bát rồi say”. Cách
uống rượu của Mị như báo hiệu một hành động nổi loạn của nhân vật. Và chính trong
trạng thái dễ bị kích thích bởi men rượu bởi những âm thanh náo động của bữa cơm
cúng ma trong nhà Thống Lý Pá Tra và tiếng gọi lôi cuốn của tiếng sáo gọi bạn tình,
Mị đã vượt ra khỏi con người thể xác, khỏi tâm trạng thờ ơ nguội lạnh bấy lâu nay của
lòng mình, để hướng tới khát vọng.
1. Tâm lý 1:
Dấu hiệu đầu tiên là Mị sống lại với những kỉ niệm êm đẹp ngày trước, những
ngày hạnh phúc, êm đềm vô tư của tuổi trẻ với những bữa rượu bên bếp lửa ấm cúng,
với những tiếng sáo dìu dặt của trai làng bao đêm theo Mị hết núi này đến núi khác.
2. Tâm lý 2:
Tiến thêm một bước nữa, Mị trở lại niềm vui sống trong chốc lát. ở đây dường
như Tô Hoài đã hoá thân vào nhân vật để trần thuật, suy nghĩ tạo nên thứ ngôn ngữ
nửa (bản) trực tiếp rất hấp dẫn “Mị thấy phơi phới trở lại.Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ,
Mị muốn đi chơi”.
3. Tâm lý 3:
Lòng ham sống của Mị trỗi dậy mãnh liệt không thể dập tắt được rồi! ý nghĩ
tiếp theo của Mị là “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay!”.
Phản ứng ấy chứng tỏ Mị đã ý thức được hoàn cảnh đau khổ tủi nhục triền miên của
đời Mị hiện tại. Dường như Mị không muốn chấp nhận cuộc sống lầm than tủi nhục,
vô nghĩa như kiếp sống của một con vật nữa. Trong khi đó, tiếng sáo gọi bạn tình, biểu
tượng của sự sống, hạnh phúc tình yêu tự do bấy lâu nay Mị dường như đã ngân lên
thôi thúc. Tiếng sáo đó cũng là hiện thân tâm hồn Mị cứ theo sát từng bước diễn biến
tâm trạng của cô. Nó chính là ngọn gió trực tiếp làm thổi bùng lên ngọn lửa ham sống
trong lòng Mị
167
Hành động: Sức sống trỗi dậy của tâm hồn Mị như những đợt sống ào ạt, đợt sau
mạnh mẽ hơn đợt trước. Từ những sục sôi trong tâm trí Mị đã đi đến hành động.
Hành động 1: “Mị đến góc nhà lấy ống mỡ sắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn
cho sáng”. Có thể xem đây là một hành động thức tỉnh. Phải chăng Mị đã thắp lại ngọn
lửa của lòng ham sống soi tỏ vào hiện tại để tìm một lối thoát cho tương lai?
Hành động 2: Và hành động này thúc đẩy hành động khác tiếp theo như một
phản ứng dây chuyền không thể nào ngắn lại được nữa. Hình như không đếm xỉa gì
đến những xiềng xích tàn bạo của nhà Thống Lý Pá Tra, Mị đã tự mình hành động như
một người tự do, đi theo tiếng gọi của lòng mình. “Mị quấn lại tóc với tay lấy cái váy
hoa sửa soạn đi chơi ngày tết”. Giữa lúc lòng ham sống trỗi dậy một cách mạnh liệt
nhất thì cũng là lúc Mị bị vùi dập một cách phũ phàng nhất. A Sử, chồng Mị bước vào
thản nhiên trói đứng Mị vào cột nhà. Suốt đêm bị trói ấy, Mị đã sống trong sự giằng xé
mạnh mẽ giữa niềm khát khao sống, khát khao hạnh phúc cháy bỏng và thực tại khắc
nghiệt lạnh lùng. “Nhƣ không biết mình đang bị trói, Mị vẫn thả hồn lâng lâng theo
tiếng tiếng sáo của tuổi trẻ và tình yêu”. Quên những đau đớn về thể xác, “Mị đã vùng
bƣớc đi”. Điều đó chứng tỏ sức sống tiềm tàng trong con người Mị dữ dội biết nhường
nào.
Hành động 3: Hành động cởi trói
Những phút trỗi dậy ấy có ý nghĩa thức tỉnh. Từ đây hình như Mị đã trở lại là
mình. Thời gian trôi đi, rồi một đêm kia Mị được chứng kiến cảnh A Phủ bị trói một
cách thảm khốc. Lúc đầu tâm hồn Mị như khép kín, không phản ứng gì. Nào phải đâu
Mị là con người nhẫn tâm? Chỉ vì những hành động tội ác trong nhà Pá Tra là chuyện
xảy ra hàngh ngày. Vả chăng, Mị cũng là một nạn nhân bất lực mà thôi.
- Nhưng đêm nay dưới ánh lửa bập bùng, “Một dòng nƣớc mắt lấp lánh bò
xuống 2 hõm má đã sậm đen lại” vì khổ đau và tuyệt vọng của A Phủ đã khơi dậy
trong tâm hồn Mị niềm cảm thông sâu sắc của những con người cùng cảnh ngộ. Càng
thương mình, càng thương người “chúng nó thật độc ác. Cơ chừng này thì chỉ đêm
mai là ngƣời kia chết, chết đau, chết rét, phải chết” và cũng như lần trước, mỗi khi sức
sống trỗi dậy, Mị lại nghĩ đến cái chết. Xong lần này là cái chết oan nghiệt vô lý của
người khác: A Phủ “Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình con ma nhà nó rồi thì chỉ
còn biết đợi ngày rũ xƣơng ở đây thôi, ngƣời kia việc gì phải chết thế. Mị không thể
dửng dƣng câm lặng đƣợc nữa. Tình thƣơng đã lấn át cả nỗi sợ và cao hơn cả cái chết,
sẵn sàng thế mạng cho A Phủ. Đó là giây phút tuyệt đẹp trong đời Mị. Cô đã trở thành
con ngƣời cao thƣợng có tấm lòng cao cả. Mị đã đi đến một hành động thật táo bạo:
cắt dây trói giải thoát cho A Phủ”. Hành động này tuy không đoán trước được, nhưng
hoàn toàn không ngẫu nhiên chút nào. Con người đa từng dám chết để giải thoát cho
mình, từng sẵn sàng cam chịu thân phận trâu ngựa để trừ nợ cho bố. Vì sao không dám
chết để cứu một người vô tội.
168
Khi thấy A Phủ chạy rồi, khát vọng tự do, lòng ham sống đã bừng tỉnh trang Mị.
Mị phải sống “A Phủ cho tôi đi! ở đây thì chết mất”. Thế là “Mị vụt chạy băng đi”.
Giải thoát cho A Phủ, Mị cũng tự giải thoát luôn cho chính mình, cắt đứt những sợi
dây vô hình đã cột chặt đời cô vào chuỗi ngày tủi nhục trong nhà ngục Thống Lý Pá
Tra. Đây là một hành động tự phát, nhưng nó là kết quả phát triển tất yếu của cả quá
trình sức sống tiềm tàng trỗi dậy không ngừng trong tâm hồn Mị. Từ trong cái địa
ngục giam cầm, đầy đoạ mình bao nhiêu năm trời, Mị đã vùng lên tìm lẽ sống, làm lại
cuộc đời. Nhà vô Tô Hoài đã mô tả quá trình diễn biến tâm lý và hành động của Mị rất tự
nhiên, sinh động, vừa bất ngờ, vừa tất yếu, phù hợp với quy luật cuộc sống. Vì vậy có thể
nói “Mị là nhân vật thành công bậc nhất trong văn xuôi Cỏch Mạng đương đại Việt Nam.
KẾT LUẬN:
Vẻ đẹp rực rỡ, sức thu hút mạnh mẽ của nhân vật Mị đối với người đọc xưa
nay chính là ở phẩm chất cao đẹp, đặc biệt là sức sống tiềm tàng ấy. Đọc “Vợ chồng A
Phủ”, mỗi độc giả chúng ta ai cũng nhớ cũng thương, cũng quý môt cô Mị trong đoạ đầy
như vậy mà vẫn luôn luôn khát khao vươn lên cuộc sống hạnh phúc tự do, để càng yêu
hơn một cô Mị du kích Phiềng Sa sau này.
(Những bàn chân từ than bùn, lầy bụi đã bước tới mặt trời Cỏch Mạng - Tố Hữu)
“Từ thung lũng đau thƣơng ra cánh đồng vui” (Chế Lan Viên) (Lấy dẫn chứng một chị
Dậu).
“Cả tác phẩm “Tắt đèn” là một đêm tối, có những lúc bóng tối ken dày đặc
quánh vón thành từng cục đểcho chị Dậu phải bơi trong bóng tôi và thì thào tiếng nói
bóng ma.Nhƣng chị Dậu không đầu hàng bóng tối. Nhiều lúc chị Dậu cứ lăn xử vào bóng
tối mà phá ra: Cây lúa thèm ánh sáng thế nào, thì chị Dậu cũng tuông ra khỏi bóng tối
mạnh nhƣ vậy. Trên cảnh tối giờ tối đất của đồng lúa ngày xƣa tôi thấy hiện lên sừng sững
một chân dung lạc quan của chị Dậu”.
Đề 3: Những giá trị lớn của “Vợ chồng A Phủ”
MỞ BÀI:
Bắt nguồn từ cuộc sống rộng lớn và phong phỳ, mỗi sáng tác văn học dù ít hay
nhiều, nhạt hay đậm, đều là sự phản ánh hiện thực xuất hiện. Nhưng cái quan trọng
hơn cả đối với một nhà văn không phải là anh sẽ viết cái gì, mà là việc anh viết như
thế nào, viết với thái độ ra sao? Bởi sức sống lâu bền của một tác phẩm văn chương,
ngoài giá trị hiện thực, còn được quyết định ở giá trị nhân đạo, tư tưởng của nó.
“Không có nghệ thuật nào cao hơn lòng yêu thƣơng con ngƣời” - hoạ sĩ thiên tài Van-
gốc là lời khẳng định cũng là cái đích hướng tới cho mọi nghệ sĩ khi cầm bút sáng tác:
“Đó là đƣa tác phẩm của mình đạt đến đỉnh cao của chủ nghĩa nhân đạo khiến cho
169
ngƣời ngƣời gắn bó, gần gũi với nhau hơn” - Nam Cao. Ta sẽ không thể giải thích
được tại sao truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài (Giải nhất hội văn nghệ Việt
Nam 1954-1955) được người đọc đóng nhận nhiệt tình, say mê đến thế. Nếu không
thấy được thành công ấy là nhờ cái nhìn hiện thực săc sảo và chủ nghĩa nhân đạo tích
cực, thấm thía của nhà văn thể hiện trên từng trang sách.
THÂN BÀI:
A. Giá trị hiện thực:
1. Tám tháng trời hành quân theo chân những binh đoàn bộ đội, thâm nhập thự
tế Tây Bắc, đã đem lại cho nhà văn Tô Hoài nhiều hiểu biết quý báu về cuộc sống của
nhân dân miền núi. Cuộc sống đau khổ khốn cùng của họ đã đi vào trong văn của ông.
Những trang văn của “Vợ chồng A Phủ” phản ánh một cách chân thực, sinh động bức
tranh xã hội dân tộc miền núi Tây Bắc trước ngày giải phóng Điện Biên. Đó là thành
công có ý nghĩa khai phá mở đường của nhà văn Tô Hoài về đề tài miền núi trước văn
học hiện đại.
2. Nếu như trước dây, đọc các tác phẩm cùng đề tài của Thế Lữ, Lam khai, tac
hỉ thấy những miền núi rừng âm u hùng vĩ chứa đựng bao sự li kì, huyền bí, bao sự
phiêu lưu mạo hiểm, thì bây giờ đọc “Vợ chồng A Phủ”, ta nhận ra các mảng tối của
cuộc sống đang đè nặng lên sống phận của người dân nơi đây. Đó là sự tồn tại của một
chế độ lang đạo thể ty, một kiểu phong kiến miền núi khắc nghiệt, tàn bạo hơn rất
nhiều so với chế độ phong kiến thực dân ở miền xuôi đã được miêu tả trong những
trang viết của Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng trước cách mạng.
Hiện thân cho chế độ lang đạo dã man ấy là cha con nhà Thống Lý Pá Tra. Bọn chúng
lợi dụng thần quyền dùng cường quyền cùng hủ tục phong kiến miền núi để biến
những người lao động thành nô lệ không công, thứ nô lệ lao động khổ sai như trâu
ngựa để làm giàu cho chúng. Mị, A Phủ là hai trong rất nhiều những nạn nhân của cha
con nhà Thống Lý. Chỉ vì món nợ từ ngày bố mẹ lấy nhau, Mị bị bắt về làm con dâu
gạt nợ. Những năm tháng khốn khó nhưng êm đẹp hạnh phúc của người con gái Mèo
xinh đẹp, tài hoa chấm dứt. Mị bước vào cuộc sống mới đầy đau thương tủi nhục, kiếp
sống khổ sai trong gia đình Thống Lý. Bao lần Mị định chốn về với bố, định ăn ngón
tự tử, nhưng vì đã bị trình con ma, bị con ma nhà nó nhận mặt nên đành cam chịu “chờ
ngày rũ xương ở đây thôi”. Còn A Phủ, người con trai Mèo khoẻ mạnh, hiền lành gan
dạ cũng buộc phải vay nợ nộp phạt và ở nợ đời đời, kiếp kiếp trong nhà Thống Lý.
Chắc gì món nợ 100 đồng bạc kia, A Phủ, thậm trí con cháu A Phủ đã trả được cho cha
con Pá Tra? Bọn thống trị dùng tư tưởng mê tín dị đoan tạo thành thế lực vô hình trói
buộc, hù doạ người lao động, khiến họ sợ hãi, cam chịu, sống trong vòng kìm kẹp.
Cướp vợ về trình ma đã đành, cho vay cũng trình ma. Cảnh Pá Tra đốt hương cúng vái
170
lầm rầm kêu con ma về nhận mặt người vay nợ tạo nên một cảnh tượng ma quí, hãi
hùng như địa ngục trần gian, nơi giam hãm những người lao động vô tội.
3. Gây ấn tượng hơn cả trên những trang viét dẫm chất hình thực của Tô Hoài là
những trang viết mô tả cảnh trói người, đánh người tàn nhẫn vượt xa thời trang cổ.
Dưới con mắt của A Sử - chồng Mị, Mị không được xem là con ngừơi với những yêu
cầu chính đáng tối thiểu. Mị chỉ là công cụ lao động, là người vợ - nô lệ của hắn.
Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi tết. Khi thấy Mị muốn đi chơi, muốn bứt phá
khỏi cuộc sống cầm tù, hắn liền trói Mị lại. Tô Hoài miêu tả cụ thể, tỉ mỉ từng chi tiết
trong hành động trói ngừơi thản nhiên đến dửng dưng, lạnh lùng của A Sử. Say này,
khi Mị xoa thuốc cho hắn, mệt quá thiếp đi, hắn không ngại ngần lấy chân đạp thẳng
vào mặt Mị. Không ở đâu nhân phẩm và con người lại bị dày đạp đến như thế không
riêng gì Mị bao người con dâu khác trong gia đình Thống Lý đều gánh chịu cảnh sống
bạo tàn, nhân tâm ấy. Pá Tra đã có lần đã trói đứng một cô con dâu cho đến chết. Ta tự
hỏi nếu như không có sự kiện A Sử bị đánh, nếu như người ta không cần đến Mị đi hái
lá thuốc cho chồng, liệu Mị có bị bỏ quên, bị trói đến chết như người con gái bất hạnh
kia không? Câu trả lời, đau đớn thay, phần nhiều lại nghiêng về phía khả năng có thể.
Đến lượt A Phủ chỉ vì dám đánh con quan Thống Lý mà anh đã phải hứng chịu những
trận mưa đòn dã man “A Phủ quỳ giữa nhà chịu đòn, im như cái tượng đá. Mặt A Phủ
sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, “càng lúc
càng tỉnh càng đánh”. Điệp từ “càng” nhấn đi nhấn lại trong câu văn ngắn như là sự tô
đậm hoàn cảnh tàn khốc của trận đòn. Có lẽ chưa ở nơi đâu, sự tàn bạo dã man của
bọn thống trị lại được mô tả chân thực và sinh động đến thế.
“Vợ chồng A Phủ” cũng tái hiện, tố cáo cách sử kiện vô lý quái gở của bọn
Thống Lý và hình thức bóc lột phổ biến của chúng là vay nặng lãi để cột chặt ngừơi
lao động vào số phận nô lệ, phụ thuộc vào bọn địa chủ. Trong phiên xử ấy, bị cáo
không được trình bày, thanh minh, quá trình xét xử diễn ra trong khói thuốc phiện,
giữa những trận mưa đòn cùng âm thanh thửa rửa. Còn người phát đơn kiện đồng thời
là quan toà. Phiên toà kết thúc, quan toà xì 100 đồng bạc hoa xoè tiền phí tổn trên mặt
chắp, bắt người thua kiện sờ tay trên đồng tiền nhận mặt thay cho chữ kí vào bản án
trung thân.
4. Trên cái nền đen tối của xã hội miền núi những năm tháng ấy ngòi bút của Tô
Hoài đã dựng lên chân dung chân thực tiêu biểu cho cuộc sống đau thương, bi thảm
của người dân lao động, đó là chân dung, số phận Mị và A Phủ.
5. Lê nin đã từng nói “Trƣớc mắt ta thực sự là một nghệ sĩ vĩ đại thì trong tác
phẩm của ông ta phải mô tả đƣợc một vài ba mặt cơ bản quan trọng của cuộc cách
mạng”. Mặt cơ bản quan trọng của cách mạng, hiện thực ở đây là con đường từ đấu
tranh tự phát đến đấu tranh tự giác của vợ chồng A Phủ nói riêng, của người dân miền
núi nói chung trong chiến tranh giải phóng, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng. Quá
171
trình biến chuyển của cô Mị, A Phủ nô lệ, đến cô Mị, A Phủ du kích Phiềng Sa thực sự
là một hành trình đi từ “thung lũng đau thƣơng ra cánh đồng vui” Đảng của họ cùng
nhân dân Tây Bắc.
B. Giá trị nhân đạo
1. Giá trị của chuyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” không chỉ nằm ở sự miêu tả cuộc
sống chân thật và sinh động. Giá trị chủ yếu là nên sức sống bền lâu của tác phẩm
chính là tinh thần nhân đạo sâu sắc thấm thía chứa đựng sâu mỗi trang viết giàu chất
hiện thực của Tô Hoài.
Định nghĩa: Giá trị nhân đạo là giá trị cơ bản của văn học chân chính. Nó được
tạo nên bởi nềim cảm thông chia sẻ đối với nỗi khổ đau của con người, sự nâng niu,
trân trọng những nét đẹp trong tâm hồn con người và lòng tin vào khái niệm vươn dậy
của họ. Chủ nghĩa nhân đạo mới không chỉ yêu thương đồng cảm với những nỗi khổ
của con người, mà còn hướng tới nhằm giải phóng cho con người khỏi mọi xiềng xích
áp bức, khổ đau và tạo điều kiện cho họ trở thành những con người tự do, con người
làm chủ, chiến đấu chống lại mọi thế lực bạo tàn để xây dựng cuộc sống hạnh phúc
của mình (“Đang cho ta trái tim giàu, thẳng lƣng mà bƣớc ngẩng đầu mà bay”.)
“Cám ơn Đảng Ngƣời làm ra ánh sáng
Ngƣời chƣa đƣa ta lên đƣợc sao kim
Nhƣng đã cho ta một linh hồn và một trái tim
Biết lẽ phải yêu thƣơng và căm giận
Biết đi tới và làm nên thắng trận”
(Tố Hữu)
2. Hiểu như vậy, chúng ta thấy tư tưởng nhân đạo của tác phẩm “Vợ chồng A
Phủ” được toát lên từ niềm cảm thông sâu sắc đối với sự phân bị mất quyền sống của
người miền núi mà tiêu biểu là Mị và A Phủ. Mị vốn là cô gái xinh đẹp mang trong
mình biết bao phẩm chất cao quý. Thế mà kể từ khi bước chân vào làm con dâu trừ nợ,
thực chất là nô lệ, công cho nhà Thống Lý. Dưới mấy tầng áp bức của cường quyền và
hủ tục phong kiến miền núi, Mị phải sống những chuỗi ngày đau thương tủi nhục tăm
tối. Mị không chỉ bị hành hạ về thể xác mà còn bị đầy đoạ về tinh thần. Mị bị đối xử
như con vật thậm trí còn không bằng con vật “Bây giờ thì Mị cũng tưởng mình là con
trâu, tưởng mình là con ngựa,ngựa chỉ biết ăn cỏ. Còn Mị cúi mặt không nghĩ ngợi gì
nữa, con trâu, con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn
bà con gái nhà này vùi đầu vào việc làm cả đêm, cả ngày”. Sự đau khổ, tủi nhục đã
cướp mất tuổi xuân của Mị biến cô thành một kẻ nhẫn nhục cam chịu. Cô gái Mèo
xinh đẹp, tài hoa, giàu lòng yêu đời nào giờ gần như đã chết, chỉ còn là người đàn bà
thân xác héo khô, tâm hồn lạnh lẽo. Mị ngày càng không nói, Mị mất hết cảm giác thời
gian: không dĩ vãng, không hiện tại, không tương lai. Cuộc đời Mị chỉ còn thu nhỏ lại
172
qua lỗ vuông của chiếc cửa sổ bằng bàn tay trăng trắng không biết sương hay là nắng.
Mị gần như tê liệt hết sức sống “lùi lũi nhƣ con rùa trong xó cửa”. Bằng những chi tiết
chân thực và gợi cảm như thế, Tô Hoài đã làm cho bức tranh hiện thực và giá trị nhân
đạo của tác phẩm càng thêm sinh động, vừa có chiều rộng, vừa có chiều sâu.
- Sự xuất hiện của nhân vật chính - A Phủ cũng bị bắt làm con ở trừ nợ đã làm
hoàn chỉnh thêm bức tranh hiện thực, giá trị tố cáo và nội dung nhân đạo của tác phẩm.
A Phủ là một chàng trai hiền lành, khoẻ mạnh, gan góc yêu chính nghĩa, vốn không nợ
nần gì nhà Thống Lý, Pá Tra, sống phóng khoáng tự do như chim trời giữa núi rừng
Tây Bắc, vậy mà cuối cùng cũng không thoát khỏi ách áp bức của bọn chứa đất phong
kiến phải rơi vào thân phận kẻ nô lệ suốt đời trong nhà Thống Lý chỉ vì dám đánh, lại
con quan là A Sử trong việc phá đám chơi ngày tết mà A Phủ bị bắt về làm đứa ở gạt
nợ, làm con trâu, con ngựa cho nhà Thống Lý cũng như Mị, những ngày sống ở nhà Pá
Tra, A Phủ phải chịu biết bao sự nhục hình, đoạ đầy cả thể xác lẫn tinh thần. A Phủ
gần tê liệt hết sức phản kháng. Anh đã từng phải ngồi im như tượng đá để chịu đòn và
phải bất lực để cho những dòng nước mắt chảy dài trong những đêm bị trói đứng trong
góc nhà. Thần chết như đã vẽ những nét đen ngòm trên hai hõm má xám đen lại” vì
tuyệt vọng và khổ đau của A Phủ. Nếu không có một sự đồng cảm lạ lùng giữa Tô
Hoài và cuộc đời của Mĩ ngụy, những A Phủ, những con người Tây Bắc yêu thương.
Nhà văn không thể nào xây dựng thành công số phận khổ đau của nhân vật đến như
vậy. Đọc những trang sách của Tô Hoài viết về số phận bi thương của Mị và A Phủ, ta
có cảm giác đó không còn là những dòng chữ lạnh lùng nữa, mà là những dòng nước
mắt nóng bỏng yêu thương chảy thẳng từ trái tim tràn đầy tinh thần nhân đạo của tác
giả khóc thương cho thân phận xấu số của nhân vật.
3. Giá trị nhân đạo thấm thía trong “Vợ chồng A Phủ” còn toát lên từ sự tố cáo
gay gắt, thế lực thực dân phong kiến. Đỉnh hình cho thế lực độc ác trà đạp lên cuộc
sống con người là cha con Thống Lý Pá Tra. Chúng đã lợi dụng sức mạnh cường
quyền, thần quyền, hủ tục để biến người lao động thành nô lệ không công và đối xử
với họ lạnh lùng bằng đối xử với con vật. Có biết bao nhiêu người đã bị trói đứng,
thậm trí trói cho đến chết ở nhà Pá Tra? Chúng ta không thể biết con số cụ thể, những
qua số phận Mị và A Phủ, người đọc vẫn cảm nhận, căm ghét sự bạo tàn, vô lương chi
của bọn cường hào miền núi.
4. Bên cạnh thái độ cảm thông chia sẻ và lên án tố cáo. “Vợ chồng A Phủ” còn
là một bài ca ca ngợi những nét phẩm chất tốt đẹp của người lao động, đặt niềm tin,
trân trọng sự nâng niu đối với khát vọng sống tốt đẹp của những con người bị đoạ đầy
đau khổ. Đó là sự kế tục chủ nghĩa nhân đạo truyền thống đồng thời phát triển lên một
mức cao hơn. Người đọc không chỉ thương một cô Mị khốn khó, bị đoạ đầy, mà còn
yêu một cô Mị tài hoa, ham sống giàu lòng hiếu thảo, đức hy sinh và tinh thần đấu
tranh để vượt lên hoàn cảnh. “Điều kì lạ là dẫu trong cũng cực đến thế mọi thế lực tội
173
ác cũng không thể giết được sức sống con người. Lay lắt đói khổ nhục nhã, Mị vẫn
sống âm thầm, tiềm tàng, mãnh liệt” (Tô Hoài). ách thống trị của cường quyền, thân
quyền, hủ tục đã không thể giết chết hẳn hình ảnh người con gái tài hoa yêu đời trong
Mị. Dưới đống tro tàn của hiện tại, mầm sống, niềm khát khao tự do, tình yêu hạnh
phúc vẫn âm ỉ cháy trong Mị, chỉ chờ một sự tác động ngoại cảnh để bùng lên cháy
sáng. Đêm tình mùa xuân và cảnh Mị cởi trói cho A Phủ là những trang văn hay nhất
cho tác phẩm, đánh dấu sự bừng tỉnh của con người đấu tranh trong Mị. Bên cạnh Mị,
hình ảnh A Phủ, chàng trai Mèo dũng cam gan góc, khoẻ mạnh, phóng khoáng của
thiên nhiên TB cũng là nhân vật để lại nhiều ấn tượng với người đọc. Mị và A Phủ tiêu
biểu cho tâm hồn, vẻ đẹp con người miền núi và thái độ trân trọng ngợi ca của tác giả.
5. Tư tưởng nhân đạo trong “Vợ chồng A Phủ” còn mang nét mới, tiến bộ hơn
tư tưởng nhân đạo truyền thống. Đó là nhà văn đã chỉ ra còn đường giải phóng thực sự
của người lao động, đó là đi từ tự phát đến tự giác. Từ tăm tối đau thương vươn lên
ánh sáng tự do và nhân phẩm nhờ sự dìu dắt của Đảng như một tất yếu lịch sử. Con
đường đó được nhà văn miêu tả cụ thể qua quá trình đấu tranh của Mị và A Phủ từ lúc
chốn khỏi Hồng Ngài đến lúc trở thành những chiến sĩ du kích Phiềnh Sa. Từ những
con người nô lệ u mê câm lạnh họ đã tự phá bỏ những sợi dây trói hữu hình thắt chặt
cuộc đời họ trong nhà ngục Thống Lý Pá Tra để đi theo tiếng gội tự do, để giác ngộ
chân lý: chỉ có cầm súng đánh Tây, đánh lại bọn thống trị, họ mới có được cuộc sống
bình yên hạnh phúc.
KẾT LUẬN:
Nhà văn Tô Hoài đã từng phát biểu: Văn học Việt Nam truyền thống cũng như hiện
đại, chủ nghĩa nhân đạo đã xuyên suốt trong từng tác phẩm. Không phải là một điều tô
vẽ tưởng tượng vô căn cứ, mà đấy là cuộc sống thực cố trong xã hội tạo nên tinh thần
các tác phẩm văn chương chân chính. Và hơn ai hét chuyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”
của ông là một tác phẩm xuất sắc đã kết tinh được tinh thần ấy, làm giàu có, phong
phú thêm nền văn học vốn giàu giá trị hiện thực và thấm nhuần tinh thần nhân đạo của
dân tộc Việt Nam.
C. Giá trị nghệ thuật
Bên cạnh giá trị hiện thực và nhân đạo, “Vợ chồng A Phủ” còn có những thành
công về phương diện nghệ thuật:
1. Trước hết là nghệ thuật mô tả tâm lý
Tô Hoài có một bút pháp mô tả tâm lý khá sắc sảo, tinh tế. Những đoạn miêu tả
diễn biến bên trong tâm hồn Mị, sự thức tỉnh lòng ham sống và khát vọng hạnh phúc,
tình yêu, là những trang viết đặc sắc, chứng tỏ sự “hoá thân” kì diệu của nhà văn vào
chiều sâu nội tâm nhân vật. Điều này càng có ý nghĩa khi đặt trong tình hình chung của
174
văn xuôi lúc bấy giờ, việc mô tả tâm lý nhân vật chưa được chú ý đúng mức, nhân vật có
đời sống bân trong đơn giản nông cạn.
2. Nghệ thuật miêu tả phong tục tập quán, những phong cảnh thiên nhiên.
Tô Hoài cũng đã thành công khi miêu tả phong phục tập quán Tây Bắc và bức
tranh phong cảnh thiên nhiên sinh động, giàu chất thơ như phong tục xử kiện,uống
máu ăn thề, ném dao, ném còn, phong tục cướp vợ.
3. Nghệ thuật kể chuyện tự nhiên, sinh động, hấp dẫn, các tình tiết dẵn dắt một
cách khéo léo, tự nhiên. Giọng trần thuật của tác giả hoà vào những độc thoại nội tâm.
4. Ngôn ngữ kể chuyện của tác giả mang đậm màu sắc miền núi.
Đề 4: Phân tích nhân vật A Phủ
MỞ BÀI:
“Vợ chồng A Phủ” là một trong ba truyện ngắn của tập “Truyện Tây Bắc” được
Tô Hoài sáng tác 1953. Truyện kể về hai chặng đường đời của Mị và A Phủ những
ngày ở Hồng Ngài trong nhà thống lý Pá Tra và sau khi sang Phiềng Sa nên vợ nên
chồng, gặp gỡ Cách Mạng và trở thành chiến sĩ du kích. Trong đó, A Phủ là một nhân
vật gây ấn tượng khá sâu sắc.
THÂN BÀI:
1. Lai Lịch
Tác giả cho A Phủ xuất hiện khá đột ngột trong một hoàn cảnh là cuộc đánh
nhau với A Sử, bị bắt bị đánh đập tàn nhẫn ở nhà thống lý Pá Tra rồi mới kể về lai lịch
của nhân vật. Đó là một người nghèo khổ đã mất hết cả cha mẹ và anh em trong một
trận dịch đậu mùa khủng khiếp đã phải sống kiếp bơ vơ khi còn rất nhỏ và “ngƣời làng
đói bụng đã bắt A Phủ đƣa xuống bán đổi lấy thóc của ngƣời Thái dƣới cánh đồng”
Không cam chịu cuộc sống khốn khổ, mới mười tuổi đầu, A Phủ đã tự khẳng định tính
cách gan góc: Một mình kiếm sống, học hỏi đủ thứ nghề “biết đúc lƣỡi cày, cày giỏi và
đi săn bò tót rất bạo”. Khi lớn lên, A Phủ chẳng những hiền lành, lao động giỏi mà
còn có sức khoẻ hơn người “Công việc làm, hay đi săn, cái gì cũng làm phăng phăng”.
“A Phủ chạy nhanh nhƣ ngựa”, vượt lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt, A Phủ vẫn
sống một đời sống tâm hồn phóng khoáng, hồn nhiên, yêu đời, yêu chính nghĩa, tự tin
của tuổi trẻ “đang tuổi chơi, trong ngày tết đến, dù chẳng có quần áo mới nhƣ trai
làng khác, A Phủ chỉ có độc một chiếc vòng trên cổ, A Phủ cũng cứ cùng trai làng đem
sáo, kèn, con quay và của Dao đi tìm ngƣời yêu ở các làng trong rừng “. Vì vậy A Phủ
đã trở thành niềm mơ ước của biết bao cô gái Mèo. Họ kháo với nhau “đứa nào đƣợc
A Phủ cũng bằng có đƣợc con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu”. Tuy vậy,
175
với tập tục khắc nghiệt của xã hội phong kiến miền núi đương thời, A Phủ chẳng
những bị khinh thường mà thực tế cũng chẳng bao giờ anh kiếm đủ tiền để làm nhà và
cưới vợ.
2. Đau khổ hơn A Phủ là đứa con của núi rừng tự do mà vẫn không sao thoát
khỏi kiếp sống nô lệ. Sự việc xảy ra vào đêm hội mùa xuân A Phủ dám đánh lại con
nhà quan phá đám chơi “chạy vụt ra vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử. Nó
vừa kịp bƣng tay lên, A Phủ đã xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo giật đầu xuống, xé vai áo,
đánh tới tấp”. Hành động dữ dội đó của A Phủ có nguyên cớ sâu xa là mối hận thù giai
cấp. Sau đó, bị tay chân nhà Pá Tra đánh đập rất dã ma, A Phủ đã chứng tỏ mình là
con ngừơi bất khuất, cứng rắn, gan dạ. A Phủ không hề khóc lóc van xin, trái lại “A
Phủ quỳ chịu đòn, chỉ im nhƣ tƣợng đá”. Cuối cùng trong cảnh xử kiện quái gở khi kẻ
phát đơn kiện cũng là người ngồi ghế quan toà, A Phủ đã bị Pá Tra buộc làm nô lệ
không công suốt đời để từ nợ. Đó là kiếp sống bị khinh rẻ, bị ngược đãi và những công
việc nặng nhọc nguy hiểm như cày ruộng, cuốc nương và săn bò tót, bẫy hổ, chăn
ngựa quanh năm một thân một mình rong ruổi ngoài gò bãi, nương rừng.
3. Tính mạng A Phủ sống hay chết cũng được quyết định bởi bàn tay tàn bạo
của thống lý Pá Tra.
Chỉ vì để hổ bắt mất bò. A Phủ đã bị đánh, bị trói vào cọc “bằng dây mây quần
từ chân lên vai”. Và nếu bọn A Sử không bắt được hổ về thì chắc chắn A Phủ sẽ phải
chết “chết đau, chết đói, chết rét” như Mị từng chứng kiến những cảnh tương tự.
=> Miêu tả cuộc sống khổ cực đau thương, tủi nhục của A Phủ, Tô Hoài một
mặt vừa bày tỏ niềm đồng cảm xót thương đối với thân phận khổ đau của người lao
động miền núi, một mặt khác vừa để vạch trần tội ác tàn bạo dã man của bọn chúa đất
đã vùi dập không tiếc thương sự sống của người lao động.
4. Tuy vậy với khát vọng sống mãnh liệt, bản chất gan góc, bất khuất sẵn có, A
Phủ không cam chịu chết mà tìm mọi cách tự giải thoát “Đêm đến, A Phủ cúi xuống
nhay đứt hai đầu dây, nhích dần dây trói một bên tay” và với sự trợ giúp của Mị, A
Phủ đã được tự do. Hai người chốn khổi Hồng Ngài, tới khu du kích Phiềng Sa, gặp
cán bộ A Châu. A Phủ và Mị lần lượt trở thành chiến sĩ du kích, tích cực tham gia vào
cuộc đấu tranh để giải phóng hoàn toàn cuộc đời mình, giải phóng bản làng, quê
hương, từ đấu tranh tự phát, A Phủ và Mị đã tiến dần đến cuộc đấu tranh tự giác. Và
cuộc đời A Phủ đi từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui.
Kết Luận:
Cùng với Mị, cuộc đời và tính cách của A Phủ có ý nghĩa tiêu biểu cho số phận và
phẩm chất người dân vùng cao Tây Bắc. Từ trong bóng tối của cuộc đời đầy đau khổ
tủi nhục, họ đã vươn tới ánh sáng rực rỡ của nhân phẩm tự do, ánh sáng của Cỏch
Mạng. Đây cũng chính là giá trị nhân đạo mới mẻ sâu sắc của tác phẩm giàu chất thơ
này.
176
KIM LÂN
Đề 1: Phân tích tình huống độc đáo của truyện “Vợ nhặt”
-Thế nào là tình huống của truyện?
Trong nghệ thuật viết truyện ngắn, tìm ra được một tình huống truyện độc đáo
là cực kì quan trọng, tình huống thế nào đó sẽ làm bật nổi tất cả từ không khí của
truyện, đến số phận tâm lý nhân vật, chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Vậy thế nào là tình
huống? Theo nhà văn Nguyễn Minh Châu, tình huống truyện như một khúc, một lát
cắt của đời sống, một khoảnh khắc ngắn ngủi xong lại giúp cho người đọc hình dung
được diện mạo toàn thể của đời sống. Ở truyện này cái khoảnh khắc vào truyện khá
độc đáo. Nó bắt đầu thời điểm cái đói tràn đến phản ánh nạn đói khủng khiếp năm
1945. Ở đó nổi lên hai hình ảnh: Con người năm đói và không gian năm đói. Con
người thì “hốc hác, u tối, xanh xám, dật dờ nhƣ những bóng ma, không gian thì ngổn
ngang xác chết, tiếng khóc, tiếng quạ kêu gào lên từng hồi thờ thiết, một bầu không
khí tang tóc the^ lƣơng bao trùm lên tất cả”. Trong bối cảnh như vậy, một người như
Tràng, một gã trai nghèo khổ, thô kệch, lại là dân ngụ cư, lâu nay ế vợ, ấy thế mà bỗng
nhiên nhặt được vợ chỉ nhờ có bốn bát bánh đúc như người ta nhặt cái rơm, cái rác bên
đường. Cô dâu quần áo tả tơi, cái nón cũ nát đang cúi đầu theo Tràng về làm dâu và
một đám cưới lạ lùng đầy xót thương đã diễn ra. Thật là một tình huống rất oái oăm,
éo le, rất nghịch cảnh mà có thật, không biết đáng mừng hay đáng lo, đáng vui hay
đáng buồn, đáng cười hay đáng khóc. Tình huống độc đáo của truyện đã làm nổi bật
tất cả: từ chu đờ tư tưởng,đờ n tõm ly ti nh ca ch, sụ phõ n nhõn võ t.
Đề 2: Phân tích giá trị nhân đạo của tác phẩm "Vợ nhặt"
Mở Bài:
“Vợ Nhặt” có giá trị hiện thực, đặc biệt là có giá trị nhân đạo sâu sắc. Thông
qua tình huống nhặt vợ ngồ ngộ mà đầy thương tâm, tác giả đã cho ta thấy được nhiều
điều về cuộc sống tối tăm của những người lao động trong nạn đói 45 khủng khiếp,
cũng như khát vọng sống mãnh liệt và ý thức về dân tộc rất cao đẹp.
Thõn Bài:
I. Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm
Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài sinh năm 1920 ở làng Cù Lưu - xã Tân
Hồng - Tiên Sơn - Bắc Ninh. Ông có sở trường về đề tài làng quê Việt Nam, về cuộc
ống và con người ở nông thôn bằng tình cảm tâm hồn của một con người vốn là con đẻ
của đồng ruộng. Nói như Nguyên Hồng: “Kim Lân là một nhà văn đi về với đất với
ngƣời, với những gì thuần hậu, nguyên thuỷ”.
177
“Vợ Nhặt” là truyện ngắn hay nhất của Kim Lân được đưa vào chương trình
văn học PTTH. Tác phẩm có tiền thân là “Xóm ngụ cƣ”. Truyện được viết ngay sau
Cách Mạng Tháng 8 thành công. Sau khi hoà bình lập lại (1954). Kim Lân dựa vào
một phần của chuyện cũ và viết thành truyện ngắn này được in trong tập “Con chó xấu
xí” - 1962 thông qua tình huống vợ nhặt độc đáo, truyện đã toả sáng tư tưởng nhân đạo
vừa mới mẻ, vừa sâu sắc.
II. Giải thích khái niệm
Giá trị nhân đạo là giá trị cơ bản của các tác phẩm văn học chân chính được tạo
nên bởi niềm cảm thông sâu sắc đối với nỗi khổ đau của con người; sự nâng niu, trân
trọng những nét đẹp trong tâm hồn con người và lòng tin vào khả năng vươn dậy của
họ, đồng thời lên án gay gắt những thế lực bạo tàn trà đạp lên quyền sống, hạnh phúc
của con người. Chủ nghĩa nhân đạo mới không chỉ yêu thương, đồng cảm với nỗi khổ
của con người, mà còn hướng tới nhằm giải phóng cho người người khỏi mội xiềng
xích, áp bức khổ đau và tạo điều kiện cho họ trở thành những con người tự do, con
người làm chủ chiến đấu chống lại mọi thế lực bạo tàn để xây dựng cuộc sống hạnh
phúc cho mình.
III. Phân tích giá trị nhân đạo, sâu sắc mới mẻ với các biểu hiện của nó
1. Tác phẩm “Vợ nhặt” bộc lộ niềm xót xa thông cảm sâu sắc đối với cuộc sống
bi thảm của người dân nghèo trong nạn đói, qua đó tố cáo tội ác tày trời của bọn phát
xít thực dân đối với nhân dân ta.
Thông qua một tình huống truyện độc đáo, qua tâm lý và số phận nhân vật,
truyện không cần đao to búa lớn mà vẫn lập được bản cáo trạng lên án đanh thép tội ác
đất không nung trời không tha của bọn xâm lược và tay sai của chúng đã gây nên nạn
đói thảm khốc khiến hai triệu người phải chết đói. Bóng đen của tử thần bao trùm lên
tất cả, đè nặng lên số phận của mỗi người dân và mọi xóm làng. Ngay từ những dòng
đầu của tác phẩm, ta đã bắt gặp một bức tranh thật ảm đạm tang thương nhuốm màu tử
khí. “Cái đói tràn đến xóm này tự lúc nào. Những gia đình từ vùng Nam Định, Thái
Bình, đội chiếu, lũ lƣợt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám nhƣ những bong ma và
nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Ngƣời chết nhƣ ngả rạ. Không buổi sáng nào ngƣời
trong làng đi chợ, đi làm đồng về không gặp ba,bốn cái thay nằm còng queo trên
đƣờng. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rƣởi và mùi gây của xác ngƣời, dƣới
những gốc đa, gốc gạo xù xì bóng những ngƣời đói dật dờ đi lại lặng lẽ nhƣ những
bóng ma. Tiếng quạ trên mấy cây gạo: “cứ gào lên từng hồi thê thiết”. Đó là khung
cảnh của cõi dương hay cõi âm? Trong bối cảnh bi thảm ấy, giá trị con người quá rẻ
mạt. Nếu như trong truyện thơ “Tiễn dặn ngƣời yêu”, cô gái Thái bị ép duyên đã đau
khổ thở than “Ngẫm thân em chỉ bằng thân con bọ ngựa”thì người đàn bà mà Tràng
178
nhặt được chỉ bằng mấy bánh đúc, một bữa no và hai hào dầu. Nạn đói đã đẩy lùi sĩ
diện và nhân cách, đẩy con người đến chỗ xem miếng ăn là tất cả. Ngay cả đến cái
chuyện tỏ tình, thường vẫn mang màu sắc tình tứ e lệ duyên dáng, thì giờ đây cũng chỉ
là câu chuyện lăn xả vào miếng ăn, vì đói khát cũng được mà không giữ được sự e lệ
thông thường của người phụ nữ Việt Nam. Chỉ mấy bát bánh đúc và mấy câu nói “tầm
phơ tầm phào” của gã đàn ông xa lạ mà người đàn bà kia đã toan toan chạy theo để trở
thành “ Vợ nhặt” của Tràng. Y nghĩa nhân đạo không chỉ được toát ra từ sự cảm thông
cho thân phận khổ đau của người dân đất Việt, mà còn được toát ra từ sự tố cáo ấy.
2. Tác phẩm đã đi sâu khám phá và nâng niu trân trọng khát vọng sống của con
người. Truyện đã cho ta thấy rằng, người dân lao động vốn có bản chất lành mạnh,
luôn luôn hướng về ánh sáng với một niềm tin bất diệt. Dù hoàn cảnh có hiểm nghèo
bi thảm đến đâu, dù có kề bên cái chết, họ vẫn khát khao hạnh phúc, tổ ấm gia đình,
vẫn hướng về sự sống và hy vọng ở tương lai tươi sáng. Vợ Tràng đã sẵn sàng bỏ qua
ý thức về danh dự để bám lấy cái sống và theo không Tràng về. Còn Tràng sau cái tặc
lưỡi có phần liều lĩnh là tự nguyện đến với Thị để nên vợ, nên chồng. Đúng như tác
giải đã có lần phát biểu: “Trong sự túng đói quau quắt, trong bất cứ hoàn cảnh khốn
khổ nào, ngƣời nông dân ngụ cƣ vẫn khao khát vƣơn lên trên cái chết, cái ảm đạm mà
vui mà hi vọng… những ngƣời đói họ không nghĩ đến cái chết mà nghĩ đến cái sống”.
Vợ chồng Tràng vẫn lấy nhau giữa cảnh ngổn ngang xác người chết đói là vì vậy, chút
hạnh phúc nhỏ nhoi mong manh của hai người, tuy bị bủa vây bởi cái đói, cái chết,
nhưng “sự sống chẳng bao giờ chán nản” - Gơm - đại thi hào Đức. Vẫn là bất diệt, vẫn
sinh sôi nảy nở từ bãi tha ma sặc mùi tử thi. Hạnh phúc tình yêu vẫn như làn gió xuân
thổi về làm xôn xao sự sống. Trong một lúc Tràng dường như quên hết những cảnh ê
trề, tăm tối trước mắt, những tháng ngày đe doạ phía trước. Lúc này trong lòng hắn chỉ
còn tình nghĩa với người đàn bà. Một cái gì mới mẻ lạ lẫm,chưa từng thấy ở người đàn
ông nghèo khổ ấy. Nó ôm áp mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt
nhẹ trên sống lưng. Sáng dậy, thấy nhà cửa đổi khác, hắn cảm thấy bâng khuâng như
đi trong giấc mơ đi ra và thấy từ đây phải có trách nhiệm với người thân, với chính
cuộc đời mình. Đúng là niềm vui về cuộc sống, hạnh phúc gia đình đã trở thành khát
vọng cháy bỏng của con người và có khái niệm nhân đạo hoá con người, làm biến đổi
gương mặt cuộc sống một cách thật kì diệu.
- Ở bà cụ Tứ càng có những biểu hiện cảm động hơn. Bà Cụ bàn về chuyện đan
phên ngăn phòng, về việc nuôi gà, bà cụ xăm xắn quét tước, dọn dẹp nhà cửa vườn
tược. Bà cụ nói toàn những truyện vui tươi, sáng của sau này. Niềm vui vì có con dâu,
vì hạnh phúc của con và niềm tin ở cuộc sống đã làm cho người mẹ nhanh nhảu hơn
“bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tƣơi tỉnh khác ngày thƣờng, cái khuôn mặt u ám, bủng
beo của bà bỗng rạng rỡ hẳn lên”.
179
- Còn người đà bàn “Vợ nhặt” khi tình yêu, hạnh phúc, gia đình đến, Thị đã có
sự biến đổi tâm lý, ti nh ca ch rất thú vị. Vẻ chao chát, chỏng lỏn ban đầu đã biến mất,
thay vào đó là sự hiền hậu đúng mực, sự may mắn, nhanh nhẹn trong việc làm, ý tứ
trong cách cư xử. Bàn về tác phẩm này, một nhà phê bình đã có nhận xét rất hay:
“Tình yêu đã biến đổi ba con ngƣời khốn khổ ấy. Trơ trọi trở thành đầm ấm, giá lạnh,
bơ vơ thành vui tƣơi, bóng tối âm u thành nắng sớm chan hoà”. Tình yêu là tất cả. Đó
là linh hồn của truyện ngắn này”. (Sức hấp dẫn của truyện ngắn “Vợ nhặt” - giáo sư
Đỗ Đức Hiểu). Ở đây không hề có bóng dáng của chủ nghĩa bi quan, mà vẫn ngời
sáng một niềm lạc quan. Họ vẫn hy vọng về một cuộc đổi đời của mình. Truyện đã
không khép lại ở vị đắng chát của nồi cháo cám, mà khép lại bằng hình ảnh Tràng ngồi
tư lự “trong có Tràng vẫn thấy đám ngƣời đói và lá cờ đỏ phấp phới bay”.
Đúng như Tố Hữu viết:
“Lần đêm bƣớc đến khi hửng sáng
Mặt trời kia cờ Đảng giƣơng cao”
Như vậy, truyện đã gieo vào tâm hồn độc giả một luồng ánh sáng về tương lai
nước nhà và những người dân hiện đang đứng trước ngưỡng cửa của thần chết.
3. Tác phẩm đã thể hiện một lòng tin sâu sắc vào phẩm giá vào lòng nhân hậu
của con người.
- Trong con mắt nhân ái của Kim Lân, đằng sau cái vẻ thô kệch và hơi vụng về
của anh cu Tràng, còn ẩn dấu biết bao vẻ đẹp tâm hồn cao quý của người nhân dân lao
động. Tràng là người giàu lòng cảm thông đối với những người đang nằm bên bờ vực
của cái chết. Anh đã rất hào phóng sẵn sàng chiêu đãi người đàn bà tội nghiệp kia một
bữa tiệc bốn bát bánh đúc liền. Anh còn tỏ ra rất chu đáo khi sắm cho chị ta một cái
thúng con. Khi dẫn người đàn bà xa lạ ấy về, Tràng đã đối xử với Thị bằng tấm lòng
đầy tình nghĩa và trách nhiệm của một người chồng rất chu đáo với vợ.
- Người vợ nhặt của Tràng tuy bị ca i đời đẩy lùi sĩ diện, làm cho chao đảo nhân
cách, nhưng sau một bữa ăn no, sau một đêm ngủ ấm, được gặp người chồng tốt, bà
mẹ chồng nhân hậu, Thị đã trở về đúng trọng tâm của mình: người vợ đảm, nàng dâu
hiền.
- Bà cụ Tứ trước cảnh con nhặt được vợ, lúc đầu cụ ngạc nhiên đến không hiểu
nổi. Sau đó Cụ hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự vừa ai oán, vừa sót thương cho số kiếp đứa
con bà: “Hơn lúc nào hết, lúc này tình thương con, nỗi day dứt chăn trở về bổn phận
làm mẹ dâng lên mãnh liệt trong lòng bà. Bà thương con mình đã đành, bà còn rất
thông cảm và thương người con dâu mới. Chính vì tình thương và lòng độ lượng, vị
tha ấy mà bà cụ Tứ đã nén nỗi lo, nỗi buồn để động viên an ủi con, cố tạo ra niềm vui
trong gia đình giữa cảnh sống tăm tối thê thảm. Bà đã nhìn cuộc sống bằng đôi mắt lạc
quan. Cuộc sống khắc nghiệt, đoạ đày con người, bắt họ phải sống cuộc sống của loài
vật, xong nó không thể dập tắt được phần người, rất người trong lòng bà mẹ khốn khổ
180
kia. Phần người ấy đã toả hơi ấm ra xung quanh, tạo nên một khung cảnh gia đình ấm
cúng, chan chứa tình thương “Chƣa bao giờ trong nhà này mẹ con lại đầm ấm hoà hợp
đến thế”. Tình mẹ con, vợ chồng ấm áp ấy sẽ là động lực giúp họ có thêm sức mạnh
vượt qua cơn hoạn nạn, khủng khiếp này.
Kết Luận:
Như vậy chọn tình huống vợ nhặt, Kim Lân không nhằm miêu tả sự mất giá tha
hoá con người, ngược lại đã khẳng định khát vọng sống và nhân phẩm của họ. Nhưng
con người đã vượt qua mặt cảm đói nghèo, tủi hờn để khẳng định sự sống, chắc chắn
sẽ đi theo tiếng gọi của Việt Minh để dành sự sống cho mình, cho Cách Mạng. Hình
ảnh đám người đói và lá cờ đỏ bay phất phới hiện ra trong tâm trí Tràng như tín hiệu
một sự đổi đời đã nói lên điều đó. Rõ ràng là tình cảm nhân đạo của vợ nhặt đã có
những nét mới so với tình cảm nhân đạo được thể hiện trong nhiều tác phẩm của văn
học hiện thực trước cách mạng.
Đề 3: Những nét đặc sắc về nghệ thuật “Vợ nhặt”
I. Tạo dựng đƣợc một tình huống độc đáo : vừa rất kỳ lạ vừa éo le
- Trong nghệ thuật viết truyện ngắn, tìm ra được một tình huống truyện độc đáo,
mới lạ là cực kì quan trọng. Nó có thể làm nổi bật tất cả từ tâm trạng nhân vật, tư
tưởng, tính cách của các nhân vật đến chủ đề của tác phẩm.
- Vậy thế nào là tình huống truyện? Thế nào là độc đáo?
Tình huống truyện là “một khúc, một lát cắt của đời sống, một khoảnh khắc ngắn
ngủi, song lại giúp cho ngƣời đọc hình dung đƣợc diện mạo toàn thể của đời sống”.
(Nguyễn Minh Châu)
- Ở “Vợ nhặt”, cái khoảnh khắc vào truyện khá độc đáo. Nó diễn ra giữa không
gian đói và con người đói… Trong bối cảnh như vậy, một người như Tràng, một gã
trai nghèo khổ, thô kệch lại là dân ngụ cư, lâu nay ế vợ, ấy thế mà bỗng nhiên “nhặt”
được vợ nhờ có bốn bát bánh đúc, như người ta nhặt cái rơm, cái rác bên đường. Cô
dâu quần áo tả tơi, cái nón cũ nát, đang cúi đầu theo Tràng về làm dâu và một đám
cưới lạ lùng, đầy xót thương đã diễn ra.
Thật là một tình huống lạ (làm cho mọi ngƣời ngạc nhiên), rất éo le và bi thảm, rất
nghịch cảnh mà có thật, không biết đáng mừng hay đáng lo, đáng vui hay đáng buồn,
đáng cười hay đáng khóc. Tình huống ấy cũng đã tạo nên diễn biến, vận động tâm lý
thật phức tạp, đa dạng và hấp dẫn: đi từ ngạc nhiên đến sự thật, từ xa lạ đến gần gũi, từ
lo sợ đến hoà hợp, từ buồn tủi đến tươi vui, từ bóng tối đến ánh sáng.
II. Vẽ ngƣời, diễn tả tâm lý nhân vật qua cử chỉ, ngôn ngữ.
III. Nghệ thuật trần thuật linh hoạt và sử dụng ngôn ngữ giàu tính tạo hình.
Ông sử dụng ngôn ngữ ngƣời nông dân rất thành thạo.
181
IV. Truyện có nhiều yếu tố đối lập : Hoàn cảnh u ám bên ngoài và những tâm
hồn đôn hậu của các nhân vật, giữa ngoại hình và nội tâm.
V. Truyện có kết cấu đặc sắc.
“Trong ý nghĩ của Tràng, vụt hiện ra những ngƣời nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi
trên đê Sộp. Đằng trƣớc có lá cờ đỏ to lắm…bay phấp phới”. Nếu thiếu chi tiết này,
truyện sẽ rơi vào lối kết cấu “khép”, “bƣớc đƣờng cùng” của hiện thực phê phán.
Chính chi tiết này đã tạo ra một kết cấu “mở”, khiến “Vợ nhặt” đã bước qua được
phạm trù văn học 1930-1945 để bước vào phạm trù nền văn học Cách Mạng. Hình ảnh
“lá cờ” như một tín hiệu của tương lai, báo hiệu một sự đổi đời của những kiếp người
như Tràng và biết bao “kiếp ngƣời cơm vãi cơm rơi” khác nữa..
“Đảng ta Mác-Lênin vĩ đại
Lại hồi sinh trả lại cho ta
Trời cao đất rộng bao la
Bát cơm tấm áo hƣơng hoa hồn ngƣời”
( Tố Hữu )
Đề 4: Hai truyện ngắn „Vợ chồng A Phủ” (Tô Hoài) và “Vợ nhặt” (Kim Lân).
Hãy phân tích các nhân vật phụ nữ trong tác phẩm ấy để làm nổi bật số phận và
vẻ đẹp tâm đặc biệt là sức sống của ngƣời phụ nữ Việt Nam.
Mở bài:
Trong nền văn học Việt Nam hiện đại 1945-1975,cùng với thơ, truyện ngắn là
một trong hai thể loại có thành tựu nổi bật.Bên cạnh những truyện ngắn có giá trị viết
về đề tài chiến đấu và chủ nghĩa anh hùng Cách mạng, còn có những truyện xuất sắc
viết về cuộc sống mới thường ngày, phản ánh số phận người lao động, đặc biệt là số
phận người phụ nữ, khám phá những khát vọng và vẻ đẹp tâm hồn họ. “Vợ chồng A
Phủ” (Tô Hoài) và “Vợ nhặt” (Kim Lân) là những tác phẩm tiêu biểu, bên cạnh những
nét chung, mỗi tác phẩm nói trên lại có nét đặc sắc riêng rất đáng trân trọng. Chính
điều này đã tạo nên giá trị riêng,sức sống lâu bền cho từng tác phẩm.
Thân bài:
I.Giới thiệu chung:
Con người là trung tâm của mọi tác phẩm văn học chân chính vì “văn học là
nhân học” (Gorki). Cho nên số phận con người,nhất là người phụ nữ đã trở thành
nguồn cảm hứng vô tận cho các nghệ sĩ lớn cổ kim đông tây xưa nay. Gorki đã có bốn
câu thơ tuyệt hay:
“Trời không ánh sáng hoa nào nở
Dạ vắng yêu thƣơng dạ những sầu
Đời không mẹ hiền,không phụ nữ
Anh hùng ,thi sĩ hỏi còn đâu”
Vấn đề số phận người phụ nữ cũng đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt văn học
Việt Nam. Đó là thân phận một nàng Kiều tài hoa và bạc mệnh ; một người chinh phụ
phải sống trong sầu tủi cô đơn ; một cung nữ sắc nước hương trời bị vua ghẻ lạnh phải
sống trong cảnh lạnh lùng ; một Hồ Xuân Hương thông minh sắc sảo, khát khao hạnh
182
phúc ngọt ngào mà đời gặp toàn cay đắng, hẩm hiu. Những số phận con người phụ nữ
trong văn học quá khứ là bất hạnh, khổ đau, bế tắc. Khép lại tấn bi kịch của người phụ
nữ ngày xưa là chị Dậu ; cả cuộc đời của chị là một đêm tối dày đặc và kết thúc tác
phẩm, chị lại phải chạy vào bóng tối không thấy lối thấy đường.
II.Các nhân vật phụ nữ trong hai tác phẩm
1.Những nhân vật phụ nữ trong hai câu chuyện nói trên là những con người lao
động có cuộc đời cực khổ bất hạnh. Nhưng do các tác giả đã có cái nhìn sự vật hiện
tượng do chiều hướng vận động đi lên nên đã có một cách đánh giá khác về số phận
con người. Số phận các nhân vật ở đây luôn luôn đi từ bóng tối đến ánh sáng, từ
“thung lũng đau thƣơng đến cánh đồng vui”.
2. Mị trong “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài sinh ra trong một gia đình nghèo
khổ, bị bọn thống trị, đại diện là thống lý Pá Tra áp bức đoạ đày. Mị tiêu biểu cho số
phận người phụ nữ Mèo ở vùng rừng núi Tây Bắc trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
Mị vốn là cô gái Mèo trẻ đẹp, đảm đang, hiếu thảo, giàu đức hi sinh vị tha, giàu
lòng ham sống, yêu đời và rất mực tài hoa. Mị có tài thổi sáo, tiếng sáo của Mị có sức
lôi cuốn đặc biệt làm cho biết bao chàng trai mê mẩn. Với những phẩm chất tốt đẹp ấy,
Mị rất xứng đáng được hưởng hạnh phúc. Và sự thực Mị đã sống những giây phút tươi
đẹp của tuổi trăng rằm dù trong hoàn cảnh nghèo khó. Song tương lai của tuổi trẻ với
hạnh phúc và tình yêu đã không đến được với cô gái Mèo nghèo khổ đó. Chỉ vì một
món nợ truyền kiếp của bố mẹ, Mị bị bắt đem về làm con dâu trừ nợ cho nhà thống lý
Pá Tra. Những ngày sống trong nhà ngục Thống lý, Mị phải chịu biết bao nỗi đau
thương, tủi nhục tăm tối. Mị không chỉ bị hành hạ về thể xác mà còn bị đày đoạ về tinh
thần. Như vậy cũng như bao người lao động khác vì đói nghèo, Mị đã trở thành nô lệ
cho bọn giàu có. Thời gian đầu làm con dâu gạt nợ, người phụ nữ này đã phản kháng
quyết liệt. Đã có lúc Mị muốn tự tử, nhưng vì thương bố, dù có chết thì món nợ vẫn
còn, bố còn khổ hơn cả bây giờ, Mị đành âm thầm chấp nhận cuộc đời trâu ngựa. Bấy
giờ Mị nghĩ rằng mình là con vật,thậm chí còn không bằng con trâu, con ngựa.
Bị đày đoạ khủng khiếp trong địa ngục nhà thống lý, Mị như bông hoa rừng
đang héo tàn theo năm tháng. Người con gái tài hoa, trẻ đẹp, ham sống, yêu đời thuở
nào giờ chỉ còn là người đàn bà thân xác héo khô, tâm hồn lạnh lẽo trống vắng.Từ đây,
ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Mị ngày càng ít nói, Mị gần như tê liệt hết sức
sống, mất hết cảm giác về thời gian, không gian, cuộc đời Mị chỉ còn thu nhỏ lại qua
lỗ vuông cửa sổ bằng bàn tay mờ mờ trắng trắng, không biết là sương hay là nắng, nó
cũng mờ đục tăm tối như số phận và tâm hồn Mị vậy, Mị cứ lùi lũi như con rùa nuôi
trong xó cửa. Ở đấy cuộc đời tăm tối, tủi nhục của Mị được Tô Hoài khắc hoạ một
cảnh chân thực, cảm động. Hơn nữa, nhà văn không chỉ dừng lại ở đó, mà còn phát
hiện niềm ham sống, khát khao hạnh phúc tình yêu, hạnh phúc tự do của người đà bà
tội nghiệp này bằng việc miêu tả sinh động sự hồi sinh trước hết là vì ý thức nhân vật,
không chỉ dạo dực đêm tình mùa xuân với những âm thanh náo nức, tiếng sáo, tiếng
khèn của trai làng đã làm sống dạy tình yêu cuộc đời trong tâm hồn Mị mà lâu nay bị
vùi dập bởi cuộc sống trâu ngựa khổ đau. Mị hồi tưởng lại quá khứ tươi đẹp và cảm
thấy tâm hồn mình như phơi phới trở lại. Rồi “Mị với tay lấy váy hoa, quấn lấy tóc sửa
soạn đi chơi ngày Tết” nhưng giữa lúc sức sống bừng lên một cách mãnh liệt thì cũng
là lúc Mị bị vùi dập một cách phũ phàng nhất. Mị bị A Sử thản nhiên trói đứng ở cột
183
nhà như trói một con vật. Như vậy, khát vọng sống của Mị đã bị vùi dập một cách hết
sức tàn nhẫn.
Rồi một đêm chứng kiến cảnh A Phủ bị đánh, bị trói một cách thảm khốc. Vì
niềm đồng cảm của những con người cùng cảnh ngộ, vì lòng thương người, Mị đã
vượt qua được nỗi sợ hãi khủng khiếp, dám nghĩ tới một hành động thật táo bạo : Cắt
dây trói giải cứu cho A Phủ rồi chạy theo A Phủ để thoát khỏi nhà ngục Thống Lý. Mị
đến Phiếng Sa gặp A Châu, một cán bộ trung kiên của đảng. Được A Châu giúp đỡ,
Mị tham gia du kích chiến đấu giải phóng mình và giải phóng quê hương như là một
tất yếu.
Như thế là viết về một số phận người phụ nữ ở đây, Tô Hoài đã đặt ra vấn đề
khát vọng tự do, hạnh phúc chân chính của người phụ nữ miền núi và con đường giải
phóng của họ. Với khát vọng cao đẹp và sức sống tiềm tàng mạnh mẽ, Mi đã đến với
cách mạng để trở thành con người làm chủ.
3.Ở tác phẩm “Vợ nhặt”, số phận con người chưa hoàn toàn sang trang mới,
nhưng ở đoạn kết của tác phẩm đã hé mở cho họ một tương lai tốt đẹp. Ngay nhan đề
“Vợ nhặt” cũng đã phần nào nói lên được hoàn cảnh khốc liệt của số phận con người
bị cái đói khủng khiếp, đe doạ cuớp đi sự sống.
Xưa nay, lấy vợ là phải cưới xin, nhưng đằng này lại nhặt được vợ như ngưới ta
nhặt được cái rơm, cái rác bên đường mà chỉ nhờ bốn bát bánh đúc. Đó là hậu quả của
nạn đói năm 1945 khủng khiếp. Cái nạn đói khiến cho bao người kinh hoàng, khiến
cho bao số phận của con người trở nên mong manh như chiếc lá vàng trước gió. Đó
cũng là bức tranh chân thực của xã hội Việt Nam năm 1945, đặt nhân vật vào tình
huống ấy, Kim Lân có điều kiện làm nổi rõ số phận và phẩm chất nhân vật.
a.Cái số phận đầu tiên là “Vợ nhặt” : ngay cái tên của chị cũng không có, cái
đói đã huỷ hoại đi cả hình thể lẫn tâm hồn của Thị: “nom chị ta rách rƣới quá”; “áo
quần tả tơi nhƣ tổ đỉa”, “chị ta gầy sọp, cái ngực lẹp kép, khuôn mặt lƣỡi cày xám xịt”.
Chị ngồi với mấy người bạn trước kho thóc trông thật thảm hại. Kim Lân không miêu
tả gia cảnh của người đàn bà này mà mở đầu cuộc đời chị là hai người quen nhau :
Một câu nói vu vơ trêu chọc của Tràng. Cái đói khiến Thị phải gợi ý Tràng cho ăn và
cắm đầu ăn một chạp bốn bát bánh đúc rồi lon ton chạy theo về làm vợ nhặt người đàn
ông xa lạ kia. Đời người con gái hạnh phúc nhất là khi rước dâu. Vậy mà Thị phải theo
không Tràng về. Cái dáng người lầm lũi, e thẹn đi cách Tràng vài bước trong lời trêu
chọc và ánh mắt của trẻ con, người lớn xóm ngụ cư khiến người đọc xót thương.
Thương nhất là cảnh chị ngồi méo giường, cái thúng ôm khư khư trước mặt. Thế ngồi
của Thị cũng chông chênh như cuộc đời, như lòng Thị, như tương lai của Thị. Nhưng
tình thương bao la của người mẹ chồng cùng tấm lòng chân thành của Tràng đã xua đi
nỗi e dè, tủi cực của thị. Sáng hôm sau Thị dạy sớm với cử chỉ dịu dàng, chăm chỉ.
Đến đây số phận của Thị đã khác. Từ một người bơ vơ đầu đường xó chợ, bị cái đói
rình rập làm cho Thị trở nên “cong cớn, liều lĩnh, chua chát, chỏng lỏn”, đã trở thành
một người phụ nữ hiền hậu, đúng mực. Thị đã có mái ấm gia đình thực sự với một
người chồng luôn luôn yêu thương Thị đặc biệt là người mẹ chồng đôn hậu.
b.Bà cụ Tứ, mẹ Tràng càng gây nhiều xót thương, thiện cảm cho người đọc, độc
giả có thể tìm thấy ở hình tượng nhân vật này bao bà mẹ VN nghèo khổ mà cần cù,
chịu thương, chịu khó, rất mực thương con và lúc nào cũng hướng về cái thiện, về
tương lai tươi sáng. Cái dáng người lọng không, cái thân hình còm cõi, cái gương mặt
184
u ám của bà như đã nói với ta tất cả số phân nghèo khổ dưới đáy của xã hội xóm ngụ
cư. Cho nên khi có người đàn bà xa lạ xuất hiện đầu giường của con mình, bà cụ ngạc
nhiên đến sững sờ, không hiểu nổi. Và khi hiểu ra đó là đứa con dâu mới của mình thì
cụ lại hiểu ra biết bao cơ sự vừa ai oán, vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình và
rồi “trong đôi mắt lèm nhèm của bà cụ rỉ xuống hai dòng nƣớc măt”. Đó là giọt nước
mắt của một người mẹ nghèo : “vừa mừng vui, vừa lo âu, xót thƣơng, vừa buồn tủi”.
Tủi vì làm mẹ mà không lo được cho con. Nay con có vợ rồi lại phải lấy vợ theo cách
ấy : không cưới treo hay bất cứ một nghi thức nào vẫn thường được tôn trọng ở nông
thôn ta ngày xưa. Nhưng dù niềm vui hay nỗi buồn, dù nỗi lo toan hay tủi phận thì
người mẹ Việt Nam ở bà cụ Tứ bẫn bừng sáng một tấm lòng yêu thương độ lượng.
Bữa cỗ cưới ngày đói thật thảm hại “giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái
rối vầ một đĩa muối ăn với cháo... Trong bữa ăn bà cụ Tứ toàn nói chuyện tốt đẹp mai
sau.. bà nhìn cuộc sống bằng đôi mắt lạc quan “không ai giàu ba họ, không ai khó ba
đời”. Cuộc sống khắc nghiệt đầy đạo con người, bắt họ phải sống cuộc sống loài vật.
Nhưng nó không thể dập tắt được phần người, rất người trong lòng bà mẹ khốn khổ
kia. Đó chính là nét đặc sắc của tư tưởng nhân đạo Kim Lân.
c.Viết về “Vợ nhặt”, Kim Lân không chỉ dừng lại ở phản ánh chân thực nạn đói
khủng khiếp năm 1945, mà tiến lên một bước nữa nhằm khắc hoạ nét đẹp, tâm hồn
người lao động, đặc biệt là người phụ nữ. Dù rơi vào hoàn cảnh khốn cùng, dù kề bên
cái chết, họ vẫn hướng về cuộc sống gia đình, hạnh phúc tình yêu với một niềm tin bất
diệt. Chọn tình huống “Vợ nhặt” do nạn đói rùng rợn gây nên, Kim Lân không nhằm
miêu tả sự sụt giá, tha hoá con người, trái lại khẳng định khát khao sống còn và phẩm
giá của họ. Tình yêu cuộc sống của những con người nằm bên bờ vực cái chết đã trở
thành nguồn sáng, nguồn ấm áp sưởi ấm lòng người, thôi thúc họ đi cứ lấy đời mình.
Và Cách mạng, Đảng đã dang đôi tay nhân hậu cứu vớt lấy đời họ thật đúng lúc. Đúng
như nhà thưo Tố Hữ đã viết.
“Từ vô vọng mênh mông đêm tối
Ngƣời đã đến chói chang nắng dội
Trong lòng tôi, ôi Đảng thân yêu
Sống lại rồi hạnh phúc biết bao nhiêu”
KL:
Qua việc miêu tả số phận khổ đau của các nhân vật phụ nữ và phát hiện ngợi ca
vẻ đẹp tâm hồn họ, các tác giả đã đề cập đến các vấn đề hết sức quan trọng và có ý
nghĩa muôn đời của văn học. Đó là vấn đề phấn đấu cho con người được sống trong tự
do, hạnh phúc, tình yêu, gia đình. Chính tài năng, phẩm chất, cá tính và tấm lòng chân
trọng tin yêu ở người phụ nữ đã giúp cho các tác giả có được các tác phẩm rất có giá
trị, xây dựng được các nhân vật vừa có nét chung, vừa có nét riêng rất hấp dẫn.
Đề 5 : Truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao và “Vợ nhặt” của Kim Lân đều
viết về tình cảnh ngƣời nông dân trƣớc Cách mạng
MB
Giới thiệu kết quả về Nam Cao và Chí Phèo, Kim Lân và truyện ngắn Vợ nhặt.
185
Khám phá riêng của mỗi tác giả.
1. Khám phá tiếng của Chí Phèo trong Nam Cao :
-Thân phận khốn khổ của người nông dân : Chí Phèo từ đứa trẻ bỏ rơi bơ vơ,
không nhà cửa, không họ hàng thân thích, làm anh canh điền cho nhà Bá Kiến rồi bị
đầy vào tù.
Bị đẩy vào con đường tha hoá, lưu manh, bị huỷ hoại nhân tính đến nhân hình,
bị gạt bỏ ra ngoài xã hội loài người, trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
Khi thức tỉnh nhân tính, Chí Phèo khao khát trở về cuộc sống lương thiện, nhưng bị xã
hội làng Vũ Đại lạnh lùng cự tuyệt. Chí Phèo rơi vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm
người dẫn đến cái chết đầy bi phẫn.
Qua Chí Phèo, Nam Cao xây dựng một hình tượng xã hội phổ biến ở nông thôn
Việt Nam trước Cách Mạng, một bộ phận người lao động lương thiện bị đẩy vào con
đường tha hoá, lưu manh hoá.
2. Khám phá riêng của Kim Lân trong Vợ nhăt
-Thân phận nghèo hèn của mẹ con Tràng ( dân ngụ cư, nghèo túng, không lấy
nổi vợ, dáng đi lòng khòng.. )
-Tình cảnh thê thảm của người nông dân trong nạn đói khủng khiếp năm 1945..
Cảnh ngộ và vợ Tràng ngồi vêu bên kho thóc , mặt lưỡi cày xám xịt.. câu chuyện nhặt
được vợ của Tràng và cảnh rước nàng dâu về nhà chồng đã phơi bày sự nghèo đói và
thê thảm.
3.Kết thúc của hai tác phẩm
a. Khác nhau
-Truyện “Chí Phèo” bằng cách lặp lại hình ảnh cái lò gạch cũ đã cuất hiện ở
phần đầu tác phẩm khi nghe tin Chí Phèo chết Thị Nở nhìn ngang xuống bụng và trong
đầu Thị thoáng hiện ra hình ảnh lò gạch bỏ không và vắng người qua lại.
-Còn truyện “Vợ nhặt” kết thúc bằng hình ảnh hiện lên trong đầu Tràng : đoàn
người đi phá kho thóc của Nhật cũng với lá cờ đỏ của Việt Minh bay phấp phới. Hình
ảnh này đối lập với hình ảnh về cuộc sống thê thảm của người nông dân được miêu tả
ở những phần trước của thiên truyện.
b. Giải thích vì sao có sự khác nhau.
Do hoàn cảnh sáng tác và hoàn cảnh lịch sử : “Chí Phèo” viết trước Cách Mạng
( viết năm 1940, in năm 1941 ) trong hoàn cảnh đêm tối của XH VN đương thời. Còn
“Vợ nhặt” viết sau năm 1945 khi quần chúng đã được CM giải phóng.
Chí Phèo thuộc khuynh hướng văn học CM từ sau năm 1945 có khả năng và cần thiết
phải chỉ ra chiều hướng phát triển tích cực của đời sống XH.
Kết thúc của Chí Phèo đầy ám ảnh góp phần tạo nên kết cấu theo kiểu vòng
tròn, thể hiện sự bế tắc của số phận người nông dân, đồng thời cho thấy hiện tượng Chí
Phèo vẫn tiếp tục tồn tại trong xã hội cũ. Còn kết thúc “Vợ nhặt” mở ra một hướng giải
thoát cho số phận các nhân vật, chỉ ra con đường sống của người nông dân và cho thấy
khi bị đẩy vào tình trạng đói khát đường cùng thì những người nông dân nghèo khổ sẽ
hướng đến cách mạng.
4.Phân tích đặc sắc, tƣ tƣởng nhân đạo của mỗi tác phẩm.
a. Của “Chí Phèo”
- Tố cáo tội ác của xã hội cũ đẩy người nông dân lương thiện vào tình trạng tha
hoá lưu manh hoá, huỷ hoại cả nhân tính lẫn nhân hình của con người và khi trở về với
cuộc sống lương thiện thì bị xã hội lạnh lùng cứ tuyệt.
186
- Từ đó cất lên tiếng kêu khẩn thiết đòi quyền sống, quyền làm người lương
thiện cho những người cùng khổ thuộc xã hội.
Thể hiện niềm tin và bản chất lương thiện của người lao động. Khẳng định khát
vọng lương thiện của họ ngay cả khi bị đẩy vào tình trạng lưu manh hoá. Với “Chí
Phèo”, Nam Cao là nhà văn đồng tình với khát vọng lương thiện của con người.
b. Của “Vợ nhặt”
- Sự cảm thông với tình trạng đói khổ cùng cực của người dân lao động như
năm bên bờ vực thẳm của cái chết.
- Khẳng định bản chất tốt đẹp của người lao động. Trong cảnh cùng đường đói
khát, họ vẫn cưu mang đùm bọc lẫn nhau.
- Thể hiện khát vọng đầy tính nhân bản của con người. Khi bị đẩy tới bước
đường cùng, người lao động vẫn không bao giờ mất hết niềm tin ; vẫn khao khát có
một mái ấm gia đình, khát khao về hạnh phúc, họ không nghĩ về cái chết mà chỉ nghĩ
về sự sống.
NGUYỄN TUÂN
Đề 1: Giới thiệu về tác giả Nguyễn Tuân Nêu những nét chính về sự nghiệp văn học của Nguyễn Tuân
Mở Bài:
Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn của văn học Việt Nam, ông sinh 1910 ở xã
Nhân Mục (Làng Mọc) - thôn Thượng Đình - Nhân Chính - Thanh Xuân - Hà Nội. Và
mất 1987 tại Hà Nội. Nguyễn Tuân viết cả truyện ngắn, truyện dài, bút kí, tuỳ bút, phê
bình văn học, nhưng thành công hơn cả vẫn là thẻ loại tuỳ bút ông được độc giả suy
tôn là ông vua tuỳ bút. Nguyễn Tuân hoạt động văn học hơn nửa thế kỉ và đã để lại
một sự nghiệp lớn. Sự nghiệp của ông trải ra trên 2 chặng đường, trước và sau năm
1945. Trước 1945 là nhà văn lãng mạn. Sau năm 1945 chuyển thành nhà văn Cỏch
Mạng.
Thõn Bài:
A. Trƣớc cách mạng Tháng 8
Các tác phẩm của Nguyễn Tuân thời kì này chủ yếu xoay quanh ba đề tài: “Chủ
nghĩa xê dịch”,vẻ đẹp “Vang bóng một thời”, “Đời sống trụy lạc”.
1. Chủ nghĩa xê dịch:
Nguyễn Tuân đa tìm đến lý thuyết này trong tâm trạng bất mãn và bất lực trước
thời cuộc. Ông viết về bước chân của cái tôi lãng tử qua những miền quê trong đó hiện
lên cảnh sắc và phong vị quê hương, cùng với tấm lòng yêu nước thiết tha bằng 1 ngòi
187
bút đầy trừu mến và tài hoa. Các tác phẩm chính, một chuyến đi, thiếu quê hương.
Nguyễn Tuân cho rằng đi là để thay đổi thực đơn cho giác quan.
2. Vang bóng một thời:
Chủ yếu viết về “một thời” vàng son lộng lẫy đã qua còn “vang bóng” đến bây
giờ. Các tác phẩm xoay quanh việc ca ngợi các con người thuộc tầng lớp nhà nho cuối
mùa tài hoa bất đắc trí, tuy đã thua cuộc nhưng không chịu làm lành với xã hội thực
dân” (trong số này cũng có người có khí phách ngang tàn như Huấn Cao trong “Chữ
ngƣời tử tù”). Họ không chịu cam tâm làm nô lệ, quay lưng lại với chế độ đương thời,
tìm về “Cái đạo sống của ngƣời tài tử”, tức là sống trong nhàn tảng với những thú
chơi thanh cao tao nhã như “đánh cờ”, “trồng hoa, uống trà, làm thơ, thơ thơ, làm đèn
kéo quân”.
3. Đời sống trụy lạc
Đời sống trụy lạc ghi lại quãng đời do hoang mang, cái tôi lãng tử đã trốn vào
thuốc phiện, rượu, hát cô đầu. Qua đó thấy hiện lên tâm trọng khủng hoảng của lớp
thanh niên đương thời “Chiếc lƣ đồng mắt cua”, “Ngọn đèn dầu lạc”.
B. Sau cách mạng tháng 8.
Lòng yêu nước và thái độ bất mãn với xã hội thực hiện đã được Nguyễn Tuân
đến với Cỏch Mạng và khỏng chiến. Ông chân thành đem ngòi bút của mình phục vụ
cuộc chiến đấu của dân tộc, theo sát từng nhiệm vụ chính trị của đất nước. Nguyễn
Tuân đã đóng góp cho nền văn hoá mới nhiều trang viết sắc sảo đầy nghệ thuật, ca
ngợi quê hương đất nước, ca ngợi nhân dân trong chiến đấu và sản xuất. Qua đó ông
đem đến cho người đọc niềm tự hào về nhân dân, dân tộc Việt Nam, một dân tộc
không chỉ có chính nghĩa và khí phách anh hùng, cần cù và sáng tạo, mà còn có tư thế
sang trọng và tài hoa của những con người sinh ra trên đất nước có hàng nghìn năm
văn hiến. Tác phẩm chính: Sông Đà, Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi, kí Nguyễn Tuân.
=> Kết Luận:
Nguyễn Tuân là một nhà văn suốt đời đi tìm kiếm và hoạt động những giá trị
nhân văn cao quý, bằng những trang viết tài hoa, uyên bác, vừa cổ kính, vừa hiện đại.
Ông có nhiều đóng góp cho sự phát triển của thể loại tuỳ bút và tiếng Việt. Nguyễn
Tuân xứng đáng là một nghệ sĩ lớn và được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I năm
1996.
Đề 2: Những nét chính về phong cách nghệ thuật và sự biến chuyển phong cách
nghệ thuật của Nguyễn Tuân
Mở Bài:
188
Nguyễn Tuân (1910 - 1987) là nhà văn nổi tiếng của nền văn học hiện thực hiện
đại, nhà văn có phong cách nghệ thuật độc đáo với những nét, những đặc điểm cơ bản
dưới đây.
Thõn Bài.
A. Trước CM Tháng 8
Nguyễn Tuân quan niệm đã là nhà văn thì phải thể hiện một phong cách độc
đáo không giống ai cho nên trước Cách Mạng, Nguyễn Tuân đã bộc lộ cái “Tôi” của
mình với lối chơi ngông bằng văn chương. Kẻ chơi ngông là muốn thể hiện cái tài cái
giỏi, cái lịch lãm hơn đời để đặt mình lên trên thiên hạ. Nguyễn Tuân viết văn là khoe
cái tài hoa, cái uyên bác và tỏ sự ngông ngao với đời. Tính chất tài hoa, uyên bác, lịch
lãm của Nguyễn Tuân được thể hiện ở những điểm sau đây:
1. Quan sát, khám phá và diễn tả thế giới nghiêng về phương diện văn hoá thẩm
mĩ, hai quan sát khám phá, diễn tả con người nghiêng về phương diện tài hoa nghệ sỹ.
(Khái niệm tài hoa nghệ sĩ ở Nguyễn Tuân vừa có nghĩa hẹp, vừa có nghĩa rộng.
Nghĩa hẹp là những người làm nghệ thuật và say mê nghệ thuật còn nghĩa rộng là dù
làm việc gì, nghề gì cũng đẩy lên đến mức xuất chúng siêu Việt trở thành một thứ
nghệ thuật như uống trà một cách tinh tế, chơi lan, chơi cúc một cách sành sỏi. Hay
đánh bạc bằng thơ đường, thơ Tống trong “Vang bóng một thời”, người lái đò trong
“Ngƣời lái đò trên sông Đà” cũng là một loại tài hoa nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt
thác sông Đà.
3. Quan niệm cái đẹp phải là hiện tượng đập mạnh vào giác quan nghệ sĩ (nhân
vật phải có cá tính khác thường; cảnh thiên nhiên thì hoặc đẹp tuyệt vời, hoặc gây ấn
tượng mãnh liệt, dữ dội như gió, bão, núi cao tản viên, rừng thiêng, thác ghềnh hiểm
trở sông Đà.
4. Sử dụng thể văn tuỳ bút hết sức phóng túng với nhân vật chính là ái tôi chủ
quan của tac giả (Nguyên Tuân gọi là “chơi lối độc tấu”) đó là một cái tôi rất mực tài
hoa uyên bác (Đây là nét bao trùm nhất trong phong cách Nguyễn Tuân. Tài hoa trong
việc dựng nước, dựng cảnh, trong những so sánh, liên tưởng táo bạo bất ngờ. Uyên bác
trong việc vận dụng sự hiểu biế nhiều ngành khác nhau để quan sát hiện thực, sáng tạo
hình tượng, mang đến cho người đọc khối lượng tri thức đa dạng, phong phú.
5. Văn Nguyễn Tuân vừa đĩnh đạc cổ kính, trẻ trung hiện đại, rất giàu hình ảnh
nhạc điệu, một kho từ vựng phong phú, chính xác, với nhiều tìm tòi sáng tạo mới lạ
độc đáo trong cách đặt câu dùng từ.
Đề 3: Những chuyển biến phong cách Nguyễn Tuân sau Cách Mạng.
Trên nền tảng thống nhất như ta đã trình bày, phong cách Nguyễn Tuân sau Cách
Mạng Tháng 8 có những chuyển biến sau:
189
A. Trước Cách Mạng:
1. Quan niệm cái đẹp chỉ có trong quá khứ gọi là “Vang bóng một thời” và tài
hoa nghệ sĩ chỉ có ở những con người xuất chúng như Huấn Cao, các ông cử, ông
đồ,thuộc thời trước còn vương sót lại
2. Tìm cảm giác mạnh ở qỳa khứ “Vang bóng một thời” ở “Chủ nghĩa xê dịch”,
ở “Đời sống trụy lạc” (rượu, thuốc phiện,..)
3. Sử dụng thể văn tuỳ bút, thiên về diễn tả nội tâm của cái tôi chủ quan.
B. Sau cách mạng.
1. Không đối lập quá khứ và hiện tại cái đẹp có cả ở quá khứ hiện tại và tương
lai; và tài hoa có thể có ở cả nhân dân đại chúng.
2. Tìm những hình tượng gây cảm giác mạnh ở những phong cách đẹp, hùng vĩ
của thiên nhiên, đất nước và ở những thành tích của nhân dân trong chiến đấu và xây
dựng.
3. Vẫn dùng thể văn tuỳ bút nhưng có chất phá ký với bút pháp hướng ngoại để
phản ánh hiện thực, ghi chép thành tích chiến đấu và xây dựng của nhân dân.
Đề 4 : Phân tích vẻ đẹp lãng mạn của hình tƣợng Huấn Cao.
Bài Làm
I. Mở Bài:
“Chữ ngƣời tử tù” được rút từ tập “Vang bóng một thời” – 1940, đã dựng được
một thế giới lầm lỗi, tù ngục, tăm tối. Trên nền tăm tối ấy, hiện lên ba đốm sáng cô
đơn, lẻ loi: Huấn Cao, viên quản ngục, thầy thơ lại. Nhưng nổi bật nhất trong số đó
vẫn là Huấn Cao, một hình tượng rất mực tài hoa, có thiện tâm và bất khuất hiên ngang
mang rõ dấu ấn, phong cách Nguyễn Tuân.
II. Thân Bài:
1. Thế nào là vẻ đẹp lãng mạn?
Đó là một vẻ đẹp đã được lý tưởng hoá, được biểu hiện một cách khác thường,
sáng chói trong hoàn cảnh tưởng như không thể xảy ra được. Vẻ đẹp ấy được tô đậm
bằng hàng loạt sự tương phản gay gắt. Hiểu như vậy chúng ta thấy Huấn Cao quả là
một hình tượng có những vẻ đẹp đặc sắc.
2. Vẻ đẹp tài hoa.
Cũng như hầu hết các nhân vật nho sĩ trong “Vang bóng một thời”, Huấn Cao là
con người có phẩm chất nghệ sĩ hết mực tài hoa, mà cái tài hoa, cái chất nghệ sĩ ấy của
Huấn Cao được kết tinh trong con chữ của ông. Cả một nền Hán học hơn ngàn năm đã
tạo ra thú chơi chữ, nghệ thuật thư pháp trong tầng lớp trí thức xưa. Thú chơi ấy dần
trở thành một nét đẹp sinh hoạt văn hóa tinh thần của cha ông. Theo quan niệm một
thời, chữ viết không chỉ là nơi con người bộc lộ sự tài hoa mà còn là nơi con người gửi
gắm tâm hồn, cá tính, khát vọng. Treo chữ, treo câu đối trong nhà vì thế là sở thích của
những người sống có văn hoá, có trình độ thẩm mĩ cao. Là một nhà thư pháp, tài viết
chữ của Huấn Cao đã trở nên huyền thoại, một tiếng vang lớn trong xã hội “Chữ ông
đẹp lắm, vuông lắm; đẹp đến mức trở thành niềm khao khát của cả những con ngƣời
theo đuổi sách vở thánh hiền mà có đƣợc chữ của ông treo trong nhà là có một vật
190
báu trên đời”. Ta hiểu vì sao viên quản ngục lại kiên trì đối xử “biệt nhỡn” với Huấn
Cao và liều mạng để xin chữ. Bởi việc này mà bị cáo giác thì quản ngục có thể phải
đổi giá bằng cả chính sinh mệnh của mình. Có thể nói, cho chữ với Huấn Cao là thổi
hồn, nhắn gửi tâm tư, là làm thơ, làm hoạ bằng nét bút dưới bàn tay điêu luyện của
mình. Những con chữ ấy là nơi hội tụ tất cả cái tài, cái tâm, cái khí phách của một bậc
anh hùng - nghệ sĩ. Với nhân vật Huấn Cao, con chữ là sự thể hiện phẩm chất nghệ sĩ
của ông, đồng thời cũng là sự kết tinh những giá trị văn hoá cổ truyền của dân tộc.
3. Huấn Cao còn là người có nhân cách trong sáng, biết quý hai chữ “thiên
lƣơng” giàu thiện tâm.
Bên cạnh con người nghệ sĩ tài hoa, Huấn Cao còn là con người có nhân cách
trong sáng, biết quý hai chữ “thiên lƣơng”. Đó chính là thiện tâm, là bản lĩnh của Huấn
Cao giữa cuộc đời xấu xa. Điều này được thể hiện rõ nhất trong thái độ của ông đối
với những người xin chữ “tính ông vốn khoảnh (rất khó tính, kỹ tính), trừ chỗ tri kỉ,
ông ít chịu cho chữ”. Ông nói : “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc, lụa là hay quyền thế
mà phải ép viết câu đối bao giờ. Đời ta cũng mới viết có hai bộ tứ bình và một bức
trung đƣờng cho ba ngƣời bạn thân ta thôi”. Nhân cách Huấn Cao xét cho cùng chính
là ở thái độ coi thường tiền bạc và quyền lực phi nghĩa, khinh bỉ cái xấu, cái ác trong
xã hội ông. Vậy mà ông lại vui lòng viết câu đối cho viên quản ngục, con người có vị
trí xã hội hoàn toàn đối lập với ông. Việc ấy của Huấn Cao không phải là hành động tự
nhiên, nó là kết quả của mối duyên kì ngộ xảy ra trong quá trình tìm kiếm những tâm
hồn đồng điệu, những nhân cách thanh cao. Ban đầu, nhận sự biệt đãi của viên quản
ngục, Huấn Cao hết sức thản nhiên, thờ ơ. Bởi ông nghĩ rằng con người này lại có một
âm mưu gì hèn hạ, đen tối đối với mình. Trong câu nói của ông với quản ngục buổi
ban đầu gặp mặt chất chứa một thái độ khinh bỉ không cần kìm nén “ta chỉ muốn có
một điều là nhà ngƣơi đừng đặt chân vào đây”. Nhưng khi hiểu được tâm sự kín đáo,
sở thích cao quý của viên quản ngục, Huấn Cao lại xúc động thốt lên những lời thân
tình: “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngƣời. Nào ta có biết đâu một
ngƣời nhƣ thầy Quản đây mà lại có những sở thích cao quý nhƣ vậy. Thiếu chút nữa,
ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. “Tấm lòng” ở đây là “tấm lòng” biết quý,
biết yêu, biết trân trọng cái tài, cái đẹp. Những tấm lòng trong sạch, có “thiên lƣơng”
như thế quả là khá hiếm hoi trong xã hội đương thời. Nhất là trong hoàn cảnh đề lao,
người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc; tính cách dịu dàng và biết giá người, biết
trọng người ngay của viên quản ngục là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa bản
đàn mà hết thảy nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ… Sự chơi khăm của ông trời là đem
đầy ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã. Nghĩa là quản ngục là một
người giàu “thiên lƣơng”, giàu thiện tâm. Và để đáp lại thiện tâm của viên quản ngục,
Huấn Cao đã dành đêm cuối cùng ở tỉnh Sơn trước khi bị giải về kinh chịu án tử hình,
viết những con chữ bằng tất cả sự tài hoa tặng lại cho quản ngục.
4. Huấn Cao còn đẹp hơn nữa ở phẩm chất bất khuất, hiên ngang.
Đẹp ở nhân cách thanh sạch, đẹp ở tâm hồn nghệ sĩ, hình tượng Huấn Cao còn
mang vẻ đẹp hiên ngang, bất khuất của một bậc anh hùng hào kiệt. Ở đây, ta đã bắt
gặp Huấn Cao có bóng dáng một đại nhân sĩ: Cao Bá Quát, con người cả cuộc đời chỉ
biết cúi đầu trước một nhành mai, con người dám chủ xướng cuộc khởi nghĩa nông
dân Mĩ Lương chống lại triều đình phong kiến. Dù rằng chí lớn không thành, bản thân
bị khép tội chu di tam tộc, Cao Bá Quát vẫn giữ một phong thái ung dung, bình thản
191
ngay cả khi bước vào đoạn đầu đài tư thế hiên ngang của ông vẫn được thể hiện trong
bài thơ tuyệt mệnh mà ông để lại cho đời;
“Thằng tớ hôm nay trả lại đầu
Trần gian ngoảnh lại nhắn đôi câu
Thằng nào chém tớ, chém cho đứt
Có lấy tiền công tớ trả sau”
Cũng như Cao Bá Quát, ở Huấn Cao khí phách hiên ngang là một khía cạnh nổi
bật nhất làm nên vẻ đẹp rực rỡ, tầm vóc lớn lao của hình tượng nhân vật Huấn Cao.
Hình ảnh ông Huấn Cao lạnh lùng đứng đầu chiếc gông dài 8 thước, nặng 7,8 tạ, dẫn
sáu đồng chí tù lừng lững, thản nhiên bước vào nhà giam giữa chốn lao tù đầy tử khí
vẫn ung dung nhắm rượu thịt do thơ lại mang tới “coi nhƣ đó là việc vẫn làm trong cái
hứng bình sinh lúc chƣa bị giam cầm”… đã gieo vào lòng người đọc biết bao niềm
cảm phục. Con người ấy còn cả gan trả lời viên quản ngục bằng những câu hết sức cao
ngạo, tỏ một thái độ khinh bạc ra mặt dù biết rất có thể phải chịu những trận báo thù
khủng khiếp… Bằng tất cả tình cảm ngưỡng mộ, Nguyễn Tuân đã dựng lên một bức
chân dung về người anh hùng khí phách Huấn Cao, con người chọc trời, quấy nước,
suốt đời chưa từng biết cúi đầu trước một uy lực nào. Trong bất cứ mọi hoàn cảnh, lúc
làm người tự do cũng như khi trở thành người tử tù, Huấn Cao đều sống rất đẹp, rất
hiên ngang. Hình ảnh ông Huấn Cao hiện lên trong tư thế ung dung, đĩnh đạc, đường
hoàng, ngang tàng, bất khuất vào những ngày cuối của cuộc đời, những ngày đối diện
với cái chết toát lên vẻ uy nghi rực rỡ của một bậc anh hùng hào kiệt.
Tất cả vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao được thể hiện tập trung ở cảnh cho chữ
tại nhà lao vào cái đêm hôm ấy. Tác giả gọi đây là “một cảnh tƣợng xƣa nay chƣa từng
có”. Điều kì lạ chưa từng có là việc viết chữ và tặng chữ vốn là một thú chơi tao nhã
có phần thanh cao của những bậc tài hoa nghệ sĩ, đáng lẽ diễn ra ở chốn thư phòng,
nhưng ở đây, lại diễn ra trong cảnh nhà lao tăm tối, bẩn thỉu.
Điều lạ chưa từng có là giữa chốn ngục tù tăm tối như thế, không phải là bọn lính tráng
cai ngục làm chủ mà người tù trở thành người làm chủ.
Đây là sự chiến thắng của ánh sáng trước bóng tối, của cái đẹp trước cái xấu xa
nhơ bẩn. Cảnh ấy tượng trưng cho cái đẹp, sự tài hoa đã đăng quang và khi ấy nó có
thể cứu vớt được con người.
Sau khi tên tử tù viết xong những dòng chữ, đã đĩnh đạc bảo viên quản ngục:
“Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức
lụa trắng với những nét chữ vuông vắn, tƣơi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung
hoành của một đời ngƣời... Thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã rồi hãy nghĩ đến
chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ thiên lƣơng cho lành vững và rồi cũng đến nhem
nhuốc mất cả đời lƣơng thiện đi”. “Ngục quản cảm động vái tên tử tù một vái, nói một
câu mà dòng nƣớc mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: kẻ mê muội này xin bái
lĩnh”. Huấn Cao không chấp nhận cái tài, cái đẹp chung sống với cái xấu xa. Con
người không thể vừa yêu cái đẹp lại vừa làm điều ác và muốn chăm lo cái đẹp thì
trước hết phải giữ cái thiện. Ý nghĩa triết lý sâu xa toát lên từ lời khuyên của Huấn
Cao là ở chỗ đó. Đoạn văn là một lời ca xúc động nhất đối với một nhân cách phi
thường. Màu trắng của vuông lụa, mùi thơm ngát của thoi mực cùng với ánh sáng đỏ
rực của bó đuốc dường như cùng hoà vào nhau để trở thành bất tử như cái bất tử của
hình tượng Huấn Cao.
III. Kết bài:
192
Với cảm hứng lãng mạn, bằng thủ pháp đối lập, qua “Chữ ngƣời tử tù”, Nguyễn
Tuân đã khắc họa được một hình tượng độc đáo: Huấn Cao. Hình tượng Huấn Cao
mang vẻ đẹp bi tráng đã được lý tưởng hoá. Tác giả gọi đó là “ngôi sao chính vị muốn
từ biệt vũ trụ”. Nhân vật thể hiện rõ tư tưởng thẩm mĩ của nhà văn. Đó là khát vọng
muốn vươn lên trên cái xấu xa hướng tới cái đẹp, cái thiện và đặt niềm tin bất diệt vào
những giá trị cao quý của con người như tài hoa, nhân cách, khí phách. Ca ngợi Huấn
Cao, Nguyễn Tuân muốn bày tỏ tấm lòng yêu nước thầm kín của mình: trân trọng,
cảm phục sâu xa đối với những bậc anh hùng đã xả thân vì nghĩa lớn.
Đề 5: Phân tích, bình luận cảnh cho chữ để thấy rõ đây là “một cảnh tƣợng xƣa
nay chƣa từng có” hay “vô tiền khoáng hậu”.
Bài Làm
Giá trị nổi bật của “Chữ ngƣời tử tù” rút ra từ tập “Vang bóng một thời” – 1940
là ở chỗ Nguyễn Tuân đã xây dựng được một hình tượng mang vẻ đẹp lãng mạn đặc
sắc: giàu nhân cách, có khí phách và rất mực tài hoa. Tất cả những vẻ đẹp ấy hầu như
được thể hiện tập trung ở cảnh Huấn Cao cho viên quản ngục chữ. Đây là “một cảnh
tƣợng xƣa nay chƣa từng có” đã kết tinh được tư tưởng chủ đề, giá trị nghệ thuật của
tác phẩm.
1. Tóm tắt cảnh cho chữ.
Trong buồng giam chật hẹp, bẩn thiu,ẩm ướt toàn phân chuột, phân gián, dưới
ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu “một ngƣời cổ đeo gông, chân vƣớng xiềng
đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh”. Hẳn đây là những dòng chữ cuối cùng
của đời ông. Còn bên cạnh, “viên quản ngục khúm núm” và thầy thơ lại “run run bƣng
chậu mực”. Không gian bên ngoài yên tĩnh, chỉ văng vẳng có tiếng mõ trên chòi canh.
Bằng một vài chi tiết hết sức sinh động, gợi cảm và rất tạo hình như thế, Nguyễn Tuân
đã khắc hoạ được một bức tranh thật xúc động, vừa trang trọng vừa thiêng liêng.
2. Vì sao có cảnh tượng độc đáo nói trên?
Truyện “Chữ ngƣời tử tù” chỉ có hai nhân vật chính, một tên phản nghịch nay
bị khép vào tội tử tù đang chờ ngày ra pháp trường nhưng rất có tài, đặc biệt là tài viết
chữ đẹp; còn người kia là một viên quản ngục mê chữ đẹp, kính phục tài năng của tên
tử tù và hằng khao khát có được chữ của tên tử tù kia. Trên bình diện quan hệ xã hội
thì họ là kẻ tử thù của nhau. Sự gặp gỡ của họ đã tạo nên một tình huống oái oăm đầy
kịch tính làm nổi bật tính cách của mỗi người. Là người giàu chữ tâm, có lòng tự
trọng , có khí phách, khinh thường hết thảy những kẻ cam tâm làm nô lệ và tiền bạc,
quyền lực phi nghĩa, lúc đầu Huấn Cao hết sức khinh bạc viên quản ngục. Nhưng khi
biết viên quản ngục có sở thích cao quý, yêu cái đẹp, Huấn Cao đã lập tức thay đổi thái
độ và đã tặng chữ cho viên quản ngục vào cái đêm hôm ấy để tỏ thái độ cảm kích, trân
trọng của người nghệ sĩ đối với người tri kỉ.
3. Đây là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có” hay “vô tiền khoáng hậu”.
193
a/ Đúng là “một cảnh tƣợng xƣa nay chƣa từng có”. Điều lạ lùng chưa từng có
ở đây là việc viết chữ và cho chữ vốn là một thú chơi tao nhã có phần thanh cao của
những bậc tài hoa nghệ sĩ, đáng lẽ phải diễn ra nơi lầu son gác tía, gió mát trăng thanh,
lộng ngát hương hoa nhưng ở đây lại diễn ra trong cảnh nhà lao tăm tối, ẩm ướt, bẩn
thỉu. Hơn thế, người nghệ sĩ viết chữ đẹp lại là tên tử tù đang bị gông, xiềng và chỉ
sáng hôm sau là giải về kinh chịu tội chặt đầu.
Điều lạ lùng chưa từng có là cảnh tù ngục tăm tối đó không phải là cái ác, cái
bạo tàn đang thống trị mà chính là cái đẹp, cái tài hoa đang đăng quang (lên ngôi).
Bằng thủ pháp đối lập đặc sắc, Nguyễn Tuân đã làm nổi rõ sự chiến thắng của ánh
sáng trước bóng tối; của cái thiện trước cái ác; của cái đẹp trước cái xấu xa, nhơ bẩn;
của cái cao cả trước cái thấp hèn; của tinh thần bất khuất, hiên ngang trước thái độ cam
chịu nô lệ. Đó cũng là sự chiến thắng của tính cách trước hoàn cảnh. Thật là lạ lùng,
không bình thường một chút nào!Vì tên tử tù nổi bật lên uy nghi cao lồng lộng, còn
viên quản ngục và thầy thơ lại - những kẻ đại diện cho xã hội đó thì “khúm núm”, “run
run” trước tên tử tù kia.
b/ Với cảnh cho chữ độc đáo này, có thể nói cái nhà tù tàn bạo đen tối kia đã
sụp đổ và cũng không còn kẻ tội phạm, tử tù; cũng không còn quản ngục và thơ lại.
Chỉ còn người nghệ sĩ đang sáng tạo cái đẹp trước những đôi mắt ngưỡng mộ và kính
phục của những kẻ liên tài. Tất cả những con người đó đều tắm đẫm trong ánh sáng đỏ
rực của bó đuốc “thiên lƣơng”, tài hoa, khí phách.
c/ Cũng với cảnh này, dù nay mai Huấn Cao đầu phải lìa khỏi cổ nhưng những
phẩm chất tài hoa, khí phách, nhân cách của ông sẽ đi vào cõi vĩnh hằng. Màu trắng
của vuông lụa cũng như những dòng chữ tươi tắn nói lên hoài bão tung hoành một đời
Huấn Cao; hương thơm ngát của thỏi mực, ánh sáng đỏ rực của bó đuốc cùng với
những lời khuyên của Huấn Cao được viên quản ngục gìn giữ, lắng nghe như lời di
huấn của đạo lý làm người…dường như cùng hoà vào nhau để trở thành bất tử như cái
bất tử của vẻ đẹp Huấn Cao. Có thể nói, ở cảnh cho chữ này, Nguyễn Tuân đã dựng
lên được một bức tượng đài trang nghiêm để bất tử hoá con người rất mực tài hoa và
tràn đầy khí phách anh hùng này.
d/ Không chỉ cho chữ, Huấn Cao còn khuyên bảo quản ngục: “Ở đây lẫn lộn.
Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức
lụa trắng với những nét chữ vuông tƣơi tắn, nó nói lên những cái hoài bão tung hoành
của một đời con ngƣời… Tôi bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở, thầy
hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ
thiên lƣơng cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lƣơng thiện đi”.
Như vậy, Huấn Cao không chấp nhận cái tài, cái đẹp lại có thể chung sống lẫn lộn với
cái ác, cái xấu. Ông cũng không chấp nhận một người vừa yêu cái đẹp lại vừa làm điều
ác và muốn chăm lo cho cái đẹp nảy nở phải trở về với cái thiện.
e/ Trước vẻ đẹp hào quang uy nghi lộng lẫy của Huấn Cao, viên quản ngục đã
biểu lộ một cử chỉ thật cảm động. Đó là sau khi lắng nghe lời khuyên của Huấn Cao,
viên quản ngục “vái ngƣời tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nƣớc mắt rỉ vào
kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.Có những cái cúi đầu làm
cho con người trở nên nhỏ nhen, hèn hạ. Nhưng cũng có những cái cúi đầu làm cho
con người cao cả, sang trọng hơn. Đó là một sự cúi đầu trước cái đẹp, cái khí phách
phi thường. Trước đây, Cao Bá Quát đã có một câu thơ rất hay:một đời ta chỉ biết cúi
đầu trước hoa mai biểu tượng của cái đẹp..
194
Kết luận:
Đây là “một cảnh tƣợng xƣa nay chƣa từng có”. Đoạn văn xứng đáng là một
bức hoạ phẩm được viết bằng bút pháp lãng mạn có ngôn ngữ giàu màu sắc tạo hình
với không khí trang nghiêm, có phần bi tráng, sử dụng thủ pháp tương phản đầy ấn
tượng. Nó đã biểu lộ được cái tài và cái tâm của một nhà văn lớn: Nguyễn Tuân.
Đề 6: Đặc sắc nghệ thuật “Chữ ngƣời tử tù”.
1. Bút pháp điêu luyện, sắc sảo, khi dựng người, dựng cảnh, những nét như khắc,
như chạm, giàu tính chất tạo hình. Nhân vật nào cũng rõ nét, cảnh nào cũng có thể
hình dung rõ một một. Chẳng hạn như cảnh sáu tù nhân mang chung một chiếc gông
dài tám thước bước tới cửa ngục với động tác dỗ gông đuổi rệp làm cho “một trận mƣa
rệp đã làm nền đá xanh nhạt lấm tấm những điểm nâu đen”, sau đó “sáu ngƣời né
tránh mình tiến vào nhƣ một bọn thợ nề, thận trọng khiêng cái thang gỗ đặt ngang
trên vai” và nhất là cảnh tượng Huấn Cao viết chữ trong phòng giam là những cảnh
được khắc hoạ hết sức sống động, đầy ấn tượng.
2. Ngôn ngữ nghệ thuật vừa giàu có, góc cạnh, đồng thời là thứ văn xuôi có nhịp
điệu riêng, giàu sức truyền cảm, nhiều câu văn hàm súc dư ba.
3. Một không khí cổ kính, trang nghiêm có phần bi tráng bao trùm cả thiên truyện.
Nguyễn Tuân chẳng những rất am hiểu và nặng lòng yêu dấu, quý trọng những điều
ông thuật tả mà còn có ngòi bút già dặn, tinh vi, đầy nghệ thuật để làm sống lại con
người và sinh hoạt thời xưa.
Đề 7: Phân tích hình tƣợng thiên nhiên sông Đà
Mở Bài:
Nguyễn Tuân (1910-1987) là một nhà văn có lòng yêu nước thiết tha,niềm say
mê vẻ đẹp thiên nhiên sông núi.Ông còn là nghệ sĩ tài hoa, lịch lãm, uyên bác, rất thích
mô tả những cái gì dữ dội, mãnh liệt hoặc đẹp một cách tuyệt vòi bằng những câu văn
vừa cổ kính vừa mới mẻ, giàu màu sắc tạo hình và nhìn sự vật theo quan điểm thẩm mĩ,
văn hoá. Nét phong cách nghệ thuật ấy của ông trong văn xuôi sau Cách Mạng có lẽ
được bộc lộ rõ nét, và hấp dẫn nhất qua bài tuỳ bút nổi tiếng “Ngƣời lái đò sông Đà”.
Qua con mắt nhìn của một nghệ sĩ tài hoa với những giác quan tinh tế, trong
cuộc vượt thác sông Đà này, Nguyễn Tuân đã làm hiện lên trước mắt người đọc hai
nhân vạt: sông Đà và người lái đò.
A. Nhân vật sông Đà:
Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, con sông Đà không phải là thiên nhiên vô tri
vô giác mà là một sinh thể sống động, một nhân vật đầy sức sống và có tính cách hẳn
195
hoi. Đó là hung bạo dữ dằn, trữ tình thơ mộng. Lúc hung bạo nó như kẻ thù số một của
con người, lúc trữ tình nó lại đầy chất thơ và thân thiết với con người như một cố nhân
xa cách thì nhớ nhung lưu luyến. Cho nên hai câu thơ đề từ có thể được xem là đã thâu
tóm được hình tượng sông Đà “đẹp vậy thay tiếng hát trên sông” và “Chúng thuỷ giai
đông tẩu”, “Đà giang Bắc lưu”.
I. Tính cách hung bạo - bạo chúa
Trước hết tác giả giới thiệu lai lịch của con sông Đà “Nó khai sinh ở huyện
Cảnh Đông - Vân Nam - Trung Quốc lấy tên là Ly Tiên, đi qua một vùng núi ác, rồi
đến nửa đường thì xâm nhập quốc tịch Việt Nam, trưởng thành mãi lên và đến ngã ba
Trung Hà thì chan hoà vào sông Hồng. Sau đó bằng những trang viết sinh động, bằng
câu văn độc đáo gợi cảm, Nguyễn Tuân đã khắc hoạ được hình ảnh con sông Đà mới
dữ dằn, hung bạo làm sao!
1. Hung bạo ở chỗ đôi bờ xích lại gần nhau làm cho lòng sông hẹp lại như cái
yết hầu thắt giữa hai vách đá dựng đứng hiểm trở. Ở đây “Con nai con hổ đã có lần vọt
từ bờ này sang bờ kia, ngồi trong khoang đò qua quãng sông ấy đang mùa hè mà cũng
thấy lạnh cảm thấy mình như đang đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một
khung cửa sổ nhà nào ở tầng mấy vừa tắt phụt ánh điện.
2. Hung bạo ở cái dữ dằn của gió. “Lại như quãng mặt ghềnh hát loóng dài
hàng cây số”gió phối hợp với nước với đá với sóng tạo nên những cơn xoáy thật kinh
hãi: “Nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn từng luồng gió gùn ghè suốt năm
lúc nào cũng đòi nợ xuýt (nợ không có cũng đòi) bất cứ người lái đò nào tóm được qua
đây.
3. Hung bạo hơn nữa là ở những cái hút nước giống như những cái giống bê
tông người ta thả xuống để chuẩn bị làm móng cầu: Trên những cái hút nước ấy cũng
đang quay lừ lừ những cánh quạt đàn” Nước ở đó “cứ ặc ặc lên nhƣ vừa rót dầu sôi
vào”. Con sông Đà không khác gì một loài hung thủ đi đến đâu là gieo rắc tử khí đến
đó. Cho nên không một chiếc thuyền nào dám men gần đến cái hút nước ấy. Bề gỡ
nghênh ngang qua đây như có vẻ thách thức kiêu ngạo, vô ý lại bị cái hút nước đó lôi
tuột xuống. Thuyền “Trồng ngay cây chuối ngược, rồi vụt biến đi bị dìm dưới lòng
sông đến mười phút sau, mới thấy tan xác ở khuỷu sông phía dưới”. Cách so sánh ví
von, mô tả của Nguyễn Tuân gây cảm giác rất mạnh làm cho người đọc như nghe thấy
nhìn thấy được tận mắt cái hung dữ của sông Đà mà thót tim lại.
4. Nhưng con sông Đà hung bạo nhất và ở mấy chục con thác đá tạo thành các
thạch thuỷ tr vô cùng hiểm trở với biết bao cửa tử. Con sông Đà đã trở thành một loài
thuỷ quái vừa hung ác vừa nham hiểm, khi còn ở xa đã lắng nghe được tiếng nước thác
khi cán trách, khi van xin, khi khiêu khích khi chế nhạo. Lúc tới gần “thì mặt sông
rung lên như tuốc bin thuỷ điện. Lòng sông thì trắng xoá làm bật nổi những tảng đá
dàn bầy thế trận, tảng nào hòn nào trông cũng ngỗ nghịch và như những vị tướng “Có
196
vị trông oai phong lẫm liệt; có vị nhƣ đang hất hàm bắt cái thuyền phải xƣng tên, xƣng
tuổi tuổi trƣớc khi giao chiến”. “Có vị lại lùi một chút và thách thức cái thuyền có giỏi
thì tiến gần vào.Những tri thức về quân sự, về võ thuật, thể dục, thể thao, điện ảnh của
tác giả được dịp ném ra để diễn tả sự độc ác, xảo quyệt hết sức nguy hiểm của con thác.
Khi thì nó mai phục để đột nhiên nhổm cả dậy vồ lấy con thuyền nơi khúc sông ngoặt;
khi thì nó lại tỏ ra sơ hở để dụ con thuyền vào rồi bất ngờ quay lại đánh quật vu hồi.
Khi đã giáp lá cà thì nó đâm thẳng vào hông ông lái đò, bẻ gãy cán chèo, rồi đá trái
thúc gối vào bụng, dở đủ đòn âm, đòn tỉa, rồi túm lấy thắt lưng đòi lật ngửa bụng ông
lái đò giữa sóng nước. Nó vừa đánh vừa reo hò la hét vang động cả 1 vùng sông nước
hoang vu “như tiếng ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ
lửa “Khi con thuyền du kích chọc thủng được tuyến 2, thì nhiệm vụ của các boang ke
chìm, pháo đài nổi ở tuyến 3 phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên. Cuối cùng
“Cái thằng tƣớng đá đứng chặn ở cửa ra vào đã tiu ngỉu cái mặt xanh lè thất vọng”.
II. Tính cách trữ tình - nữ hoàng
1. Qua cách mô tả đặc sắc của Nguyễn Tuân, con sông Đà có hai nét tính cách
dường như đối lập nhưng rất thống nhất: vừa hung bạo vừa trữ tình như thể là mĩ nhân
vậy. Nguyễn Tuân đã nhìn con sông Đà bằng con mắt thẩm mĩ văn hóa để phát hiện ra
những vẻ đẹp và sắc màu đa dạng của con sông Đà chảy dọc suốt miền Tây Bắc này. ở
những quãng yên tĩnh thì sông Đà quả thật rất thơ mộng “ Như một mĩ nhân kiều diễm
tuôn dài áng tóc trữ tình mà đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở
hoa ban hoa gạo”.
2. Nguyễn Tuân cũng đã nhận ra những sắc màu khác nhau của sông Đà theo
từng mùa mang vẻ đẹp riêng. Qua làn mây mùa xuân, sông Đà xanh màu ngọc bích.
Qua ánh nắng mùa thu sông Đà lừ lừ chín đỏ như mặt người bầm đi vì rượu bữa.
3. Nguyễn Tuân cũng đã dùng những hình ảnh dịu dàng, trong sáng nhất để tả
sông Đà nên ông đã khám phá ra những chất thơ phong phú, đa dạng của nó: Khi thì
nó hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích; khi thì nó mang chất thơ cổ điển Đường thi;
khi lại mang chất thơ tươi trẻ “Vui nhƣ nắng giòn tan sau kì mƣa dầm”. Có khi lại ẩn
chứa chất thơ tình tứ “Sông Đà bọt nƣớc lênh bênh, bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”
của Tản Đà - gửi người tình nhân chưa quen biết).
4. Dưới con mắt của tác giả “Vang bóng một thời”, cảnh ven sông Đà ở đây
lặng tờ cổ xưa như chảy từ đời Lý, đời Trần đến nay. Và giữa cái không khí phẳng
phất màu tiền sử ấy, “thỉnh thoảng có đàn cá dầm xanh, anh vũ quẫy vọt lên bụng
trắng nhƣ bạc rơi thoi”. Tiếng cá đập nước sông làm cho đàn hươu thơ ngộ ngẩng đầu
nhung khói áng cỏ và tai lắng nghe một tiếng còi sương, một âm thanh vẳng đưa trong
197
tưởng tượng, gợi lên một không khí thật tĩnh lặng hoang vắng nhưng chứa chan thi vị.
Đắm mình trong vẻ đẹp trữ tình trong vẻ đẹp của sông Đà, Nguyễn Tuân nhiều lúc
“muốn đề thơ lên sông nƣớc”.
Kết luận:1.Như vậy để làm nổi bật cái hung bạo, dữ gìn và vẻ hung bạo, thơ
mộng, trữ tình của sông Đà, Nguyễn Tuân đã có những sáng tạo nghệ thuật độc đáo như
từ ngữ giàu màu sắc tạo hình, sử dụng hình ảnh đặc sắc, khả năng so sánh, liên tưởng bất
ngờ, các biện pháp nhân hoá, ẩn dụ, năng lực quan sát tưởng tượng đặc biệt.
2.Sông Đà đã trở thành một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa, làm thoả
mãn nhu cầu thẩm mỹ và bồi đắp cho độc gỉa tình yêu,niềm tự hào về vẻ đẹp đa dngj của
thiên nhiên tổ quốc.
B. Nhân vật ông lái đò:
MB: Nguyễn Tuân (….. tiểu sử) không chỉ say xưa với những nét t/c của sông
Đà, mà ông còn hết lời gợi ca nhân vật người lái đò. Đấy cũng là một nhân vật rất hấp
dẫn. Là người nghệ sĩ tài hoa suốt đời đi tìm cái đẹp, nên dù chỉ miêu tả ông lái đò,
Nguyễn Tuân cũng đã khắc hoạ thành một con người lao động không những trí dũng
tuyệt vời, mà còn là một nghệ sĩ rất mực tài hoa trong công việc lao động sông nước,
trong nghệ thuật leo thác, vượt ghềnh của mình.
TB: 1. Trí dũng tuyệt vời
Nguyễn Tuân đã mô tả một cách hết sức sinh động, vừa trân trọng vừa yêu
thương cảm phục nhân vật ông lái đò rất hiên ngang trí dũng trong cuộc chiến đấu với
những con sông, con thác đầy hung dữ hiểm nguy. Cuộc vượt thác dưới ngòi bút của
Nguyễn Tuân diễn ra như một trận đánh dữ dội có nhiều hồi, nhiều đợt, mỗi đợt có
những thử thách ác liệt khác nhau, dòng sông bày ra những thạch tận hiểm hóc khác
nhau “Lúc này sông Đà reo lên nhƣ đun sôi 1000, muốn hất tung đi cái thuyền đóng
vai một nắp ấm khổng lồ, đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục trong lòng sông để vồ
lấy con thuyền,phối hợp với đá, nƣớc thác eo hò làm thành viên cho đá”. Nhưng ông
lái đò vẫn không hề nao núng, trái lại, vẫn bình tĩnh chủ động chiến đấu một cách dũng
cảm như một vị trí chỉ huy trí dũng tuyệt vòi, điều khiển con thuyền vượt qua các thác
ghềnh như “phá cái trận đồ bát quái của dòng sông hung bạo, dòng nƣớc hùm beo
luôn luôn tế mạnh trên sông Đà. Nhƣng ngƣời lái đò vẫn cƣỡi lên thác đế cùng nhƣ
cƣỡi hổ”.
2. Tài hoa tuyệt vời:
Người lái đò sông Đà còn là con người tài hoa tuyệt vời. Sóng, thác sông Đà rất
khắc nghiệt. Chỉ cần người lái đò một phút thiếu chính xác, một tích tắc thiếu bình tĩnh,
nhỡ tay, hoa mắt là có thể bị trả giá bằng cả sinh mệnh của mình. Nhưng sóng thác của
sông Đà có hung dữ đến đâu cũng bị khuất phục bởi người lái đò thời nay. Bởi người
lái đò là một nghệ sĩ có nghệ thuật trở đò rất là diệu tài hoa. Nghệ thuật ấy được biểu
198
hiện rõ nhất ở khả năng nắm chắc quy luật tất yếu của dòng sông Đà và nhờ thế mà
người lái đò đã trở thành người tự do, người chiến thắng. Người lái đò đã nắm chắc
được binh pháp của thần sông, thần đá, thuộc lòng các luồng sinh, luồng tử mà chủ
động trong mọi tình huống. Lúc thì cưỡi lên con thác nắm lấy bờm sóng mà phóng
nhanh qua cửa tử, lúc lại ghì cương đè sấn lên mà chặt đôi con thác”.
Ngày xưa Nguyễn Tuân bị xem là nhà văn có quan điểm duy mĩ. Ngày nay ông
đã hướng ngòi bút của mình đến những con người lao động để tìm ra vẻ đẹp tài hoa,
nghệ sĩ của họ trong công việc lao động đầy hiểm nguy nhưng cũng vô cùng cao cả.
“Trên vai người lái đò, có một khoanh bầm cứ nâu. Cái đồng tiền tụ máu ấy là cái hình
ảnh quý giá của một cái huân chương lao động siêu hạng tặng cho người lái đò sông
Đà” Cái vết bầm bỗng nhiên được nâng lên tầm anh hùng ca.
KL: Tóm lại người lái đò sông Đà đã kết tinh được những nét phong cách nghệ
thuật đặc sắc của Nguyễn Tuân. Đó là một nhà văn tài hoa, uyên bác, hiểu biết nhiều
lĩnh vực văn hoá, có ngôn ngữ, cách dùng hình ảnh độc đáo mới lạ, biến hoá gợi cảm,
giàu chất tạo hình. Bài kí làm cho ta yêu thêm vẻ giàu đẹp của thiên nhiên, đất nước và
càng yêu hơn nữa một nghệ sĩ tài năng - Nguyễn Tuân, người đã hiến cho vườn văn
học nước nhà những bông hoa tuỳ bút thật thắm sắc ngát hương.
ĐỀ 8: Phân tích hình tƣợng Ông lái đò, từ đó chỉ ra những nét đặc sắc trong
phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân trong việc miêu tả nhân vật
MB:
Nguyễn Tuân không chỉ say sưa vẻ đẹp “trữ tình thơ mộng, rất gợi cảm” của
con sông Đà, mà ông còn hết lời ca ngợi nhân vật người lái đò. Bằng ngôn ngữ giàu có,
tinh tế như khắc, như chạm, với lối cảm nghĩ độc đáo, thích nhìn sự vật và con người
trên quan điểm thẩm mĩ, văn hoá, với sự lịch lãm, vốn hiểu biết uyên bác về nhiểu lĩnh
vực khoa học, Nguyễn Tuân qua tuỳ bút đặc sắc “Người lái đò sông Đà” ( in trong tập
thơ sông Đà 1960 ) đã xây dưng được một hình tượng hấp dẫn mang đậm phong cách
Nguyễn Tuân. Đó là một người lái đò không chỉ trí dũng tuyệt vời, mà còn là một nghệ
sĩ rất mực tài hoa trong công việc lao động sông nước, trong nghệ thuật leo thác vượt
ghềnh của mình.
TB :
I. Lai lịch và chân dụng ngoại hình
Bằng hệ thống ngôn ngữ miêu tả đầy cá tính, giàu chất tạo hình, bằng lối so
sánh độc đáo gợi cảm, trước hết Nguyễn Tuân đã làm sống dậy trước mắt người đọc
hình ảnh một ông lái đò có ngoại hình đặc biệt ấn tượng. “Tay ông lêu nghêu như con
sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy một cuống lái tưởng
tượng. Giọng ông ào ào như tiếng mặt ghềnh sông. Nhãn giới vòi vọi như lúc nào cũng
mong một cái bến xa nào trong mù. Người ta nói rằng làm nghề lái đò trên sông hiểm
ác, lắm thác nhiều ghềnh này tổn thọ lắm. Nhưng ông lái đò của Nguyễn Tuân đã cải
chính một cách hùng hồn cái điều ấy bằng hình ảnh một con người đã gần bảy mươi
199
tuổi, cái đầu đã bạc nhưng còn “quắc thước” lắm đặt trên một thân hình, cao to, gọn
quánh như chất sừng, chất mun, ông giơ đôi tay “còn trẻ tráng quá!”, làm cho người ta
lầm tưởng là “mình đang đứng trước một chàng trai”.
Đặc điểm ngoại hình đặc sắc ấy tự nó đã nói lên một cách đầy đủ với độc giả,
con người này như được sinh ra từ sóng, thác hung dữ của sông Đà. Và là “một linh
hồn muôn thuở sông nước này”.. “ông làm nghề chở đò đã 15 năm liền, trên dòng sông
Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay ông đã giữ lái độ sáu chục
lần! Cảnh sông nước lên thác, xuống ghềnh nhiều hiểm nguy đã tôi luyện cho ông lái
đò những giác quan và phẩm chất đặc biệt. Ông trở thành con người lão luyện, từng
trải, hiểu biết, thành thạo cái nghề sông nước độc đáo của mình. “Trí nhớ ông đƣợc
rèn luyện cao độ, bằng cách lấy mắt mà đóng đinh vào lòng tất cả những luồng nƣớc
của các con thác hiểm trở”.
Nguyễn Tuân đã dành cho ông lái đò những câu văn, hình ảnh đầy thán phục;
“Sông đà đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc
đến cả những cái chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng”.
Thật là một cách so sánh giàu tính chất nghệ thuật rất mới lạ, hấp dẫn và rất
Nguyễn Tuân. Con người được Nguyễn Tuân giới thiệu như là một người được mọc
lên từ “con sông Đà hung dữ, độc ác, khét tiếng với “72 con thác hiểm nghèo” ấy đã
có khả năng kì diệu là chế ngự con sông hung dữ thành một môi trường sống thân
thuộc, êm dịu của mình. Ông lái đò tâm sự “chạy thuyền trên khúc sông không có thác
nó dễ dãi chân tay và buồn ngủ như người Mèo kêu mỏi chân khi dẫm lên đồng bằng
thiếu dốc, thiếu đèo”.
II.Ông lái đò rất mực tài trí, dũng cảm trong những chuyến vƣợt thác đầy
hiểm nguy.
Nhân vật lái đò với những đặc điểm ngoài hình và lai lịch có một không hai ấy,
nếu xuất hiện trên khung cảnh sông nước êm đềm, phẳm lặng trong cuộc mưu sinh thì
hẳn là không thể gây được ấn tượng gì sâu sắc cho người đọc. Ở đây, Nguyễn Tuân đã
có dụng ý nghệ thuật sâu xa để cho người lái đò xuất hiện trên hoàn cảnh đầy thử
thách khốc liệt nhằm bộc lộ những phẩm chất cao đẹp của nhân vật. Nguyễn Tuân
khẳng định, ông muốn ghi ở đoạn này những hình ảnh chiến đầu gian lao của người lái
đò trên chiến trường sông Đà. Trên một quãng thuỷ chiến của mặt trận sông Đà,
Nguyễn Tuân đã mô tả một cách chân thật, sinh động, vừa trang trọng, vừa yêu thương,
vừa cảm phục nhân vật ông lái đò rất hiên ngang, trí dũng trong cuộc chiến đấu với
những con sóng, con thác đầy hung dữ hiểm nguy. Cuộc vượt thác dưới ngòi bút của
Nguyễn Tuân diễn ra như một trận đánh dữ dội có nhiều hồi, nhiều đợt ; mỗi đợt lại có
những thử thách ác liệt khác nhau, dòng sông bày ra những thạch trận hiểm hóc khác
nhau “lúc này sông Đà reo lên nhƣ đun sôi một trăm độ, muốn hất tung đi cái thuyền
đóng vai một nắp ấm khổng lồ… đá ở đây nghìn năm vẫn mai phục trong lòng sông để
vồ lấy con thuyền. Đá bày ra thạch trận trên sông, với boongke chìm, pháo đài
nổi…Phối hợp với đá, nƣớc thác reo hò làm thanh viên cho đá phải tiêu diệt tất cả
thuyền trƣởng, thuỷ thủ ngay ở chân thác”. Kho từ vựng giàu có và vốn kiến thức khoa
học phong phú như quân sự, võ thuật, thể dục thể thao, điện ảnh.. của Nguyễn Tuân
được dịp huy động để miêu tả cuộc thuỷ chiến ác liệt giữ người lái đò và sóng thác
sông Đà “sóng nước thúc gối vào bụng và hông thuyền, có lúc chúng đội cà thuyền lên,
nước bám lấy thuyền như đô vật túm lấy thắt lưng ông lái đò đòi lật ngửa mình ra giữa
trận nước vang trời tha la, não bạt. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất..
200
Có lúc tưởng như ông lái đò sẽ bị con thuỷ quái sông Đà hung bạo muốt chửng. Nhưng
ông lái đò vẫn không hề nao núng, trái lại vẫn bình tĩnh chủ động chiến đấu một cách
dũng cảm đầy mưu trí như một vị chỉ huy tài trí tuyệt vời, điều khiển con thuyền lần
lượt vượt qua thác ghềnh như phá cái trận đồ bát của dòng sông hung bạo.. dòng nước
hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông Đà. Nhưng người lái đò vẫn cưỡi lên thác
đến cùng như cưỡi hổ”. Cả những lúc bị thương “mặt méo bệch đi” mặc cho luồng
sóng “đánh đòn âm, đòn tỉa vào chỗ hiểm, ông lái đò vẫn hai chân kẹp chặt cuống lái”
III.Ngƣời lái đò tài hoa tuyệt vời
Ông lái đò còn là người tài hoa, có phong thái ung dung pha chất nghệ sĩ. Sóng
thác sông đà rất khắc nghiệt hung dữ. Chỉ cần người lái đò một phút thiếu chính xác,
một tích tắc thiếu bình tĩnh, nhỡ tay, hoa mắt là có thể phải trả giá bằng chính cả sinh
mệnh của mình. Nhưng sóng thác sông Đà dù có hung dữ đến đâu, cũng bị khuất phục
trước người lái đò thời nay. Bởi người lái đò là một nghệ sĩ có nghệ thuật chở đò kì
diệu. Nghệ thuật ấy được biểu hiện rõ nhất ở khả năng nắm chắc quy luật tất yếu của
dòng sông Đà và nhờ thế người lái đò trở thành người tự do, người chiến thắng. Người
lái đò nắm chắc được binh pháp của thần sông, thần đá, thuộc lòng các luồng sinh,
luồng tử mà chủ động trong mọi tình huống. “Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ
đá nơi ải nƣớc hiểm trở này”. Lúc thì ông cuỡi lên con thác, nắm lấy bờm sóng mà
phóng nhanh qua cửa tử, lúc lại ghì cương đè sấn lên mà chắt đôi con thác”, xuống
thác người lái đò linh hoạt và luôn luôn cơ động mà phối hợp đôi mắt, đôi tay đôi chân
lái con thuyền ”, xuyên qua biết bao ghềnh thác hiểm nghèo của dòng sông hung bạo
này. Nguyễn Tuân gọi người lái đò có “tay lái ra hoa” là như vậy.
Thật đẹp biết bao hình ảnh người lái đò sau những phút giây chiến đấu sống còn với
sóng thác sông Đà đầy hung bạo, lại ung dung “ đốt lửa trong hang đá, nƣớng ống
cơm lam và toàn bàn về cá dầm xanh, anh vũ... Chẳng ai bàn tán thêm một lời nào về
cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải, trƣớc đủ tƣớng dữ, quân tợn vừa rồi”
IV.Đánh giá về bút pháp Nguyễn Tuân.
Trước kia Nguyễn Tuân bị xem là nhà văn có quan điểm duy mĩ. Ngày nay ông
đã hướng ngòi bút của mình đến những con người lao động bình thường. Ông phát
hiện ra nét tài hoa nghệ sĩ của những con người lao động không chỉ thể hiện trong hoạt
động sáng tạo nghệ thuật, mà còn cả trong những hoạt động khác. Nếu như công việc
của họ đạt tới trình độ điêu luyện, ví như người lái đò cũng trở thành người nghệ sĩ tài
hoa trong công việc lao động đầy hiểm nguy, nhưng cũng vô cùng cao cả của mình.
Nguyễn Tuân gọi đó là “cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí người Tây Bắc”.
Cũng như qua những hình tượng này, Nguyễn Tuân muốn phát biểu một quan niệm :
“Ngƣời anh hùng không chỉ trong chiến đấu, mà còn xuất hiện trong cả cuộc sống lao
động bình thƣờng”. “Trên bả vi ngƣời lái đò bầm lên một khoanh củ nâu. Cái đồng
tiền tụ máu ấy là cái hình ảnh quý giá của một thứ huân chƣơng lao động siêu hạng
tặng cho ngƣời lái đò sông Đà”. Chỉ một vết thương nghề nghiệp của đầu con sào gửi
lại đời đời của người lái đò mà Nguyễn Tuân đã nâng lên tầm vóc anh hùng ca. Thật là
một ý nghĩ độc đáo rất thú vị mà cũng vô cùng sâu sắc.
Kết Luận
Qua tuỳ bút “Ngƣời lái đò sông Đà”, độc giả chúng ta không chỉ được thưởng
thức một khung cảnh thiên nhiên Tây Bắc hung bạo dữ dằn nhưng trữ tình thơ mộng
mà con được chiêm ngưỡng hình tượng người lái đò có phong thái ung dung pha chút
201
nghệ sĩ, song lại rất mực mưu trí dũng cảm trong cuộc vượt thác đầy hiểm nguy. Qua
đó, chúng ta còn được thưởng thức một kho từ ngữ mới mẻ, giàu màu sắc tạo hình,
cùng với lối ví von so sánh mới lạ, tài hoa bất ngờ, độc đáo của một ông vua tuỳ bút -
Nguyễn Tuân.
Đề 9: Sự giống nhau và khác nhau trong việc tiếp cận sông Đà của Nguyễn Tuân
và sông Hƣơng của Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng.
*Giống nhau:
- Cả hai đều là nhà văn viết bút kí, tuỳ bút có tài. Cả hai đều say mê cái đẹp,
suốt đời đi tìm cái đẹp và diễn tả cái đẹp, nhất là cái đẹp ở thiên nhiên sông núi.
- Ở đây cùng viết tuỳ bút về một dòng sông.
- Cả hai đều đã huy động nhiều vốn kiến thức địa lí, lịch sử, văn hoá… giúp cho
người đọc nhận được một vốn tri thức phong phú, đa dạng về sông núi Niệt Nam.
- Cùng thể hiện rõ nét cái “tôi” tài hoa, độc đáo.
*Khác nhau:
- Nguyễn Tuân khai thác hai mặt hung bạo và trữ tình của dòng sông.
- Hoàng Phủ Ngọc Tường khai thác các vẻ đẹp khác nhau của sông Hương.
- Qua dòng sông Đà, Nguyễn Tuân ca ngợi con người lao động, “chất vàng mƣời” của
vùng Tây Bắc.
- Ca ngợi dòng sông, Hoàng Phủ Ngọc Tường ca ngợi quê hương đất nước.
- Nguyễn Tuân sử dụng các kiến thức của điện ảnh, hội hoạ, quân sự, văn hoá, thuỷ
điện, thể thao…
- Hoàng Phủ Ngọc Tường khai thác chiều sâu lịch sử và văn hoá.
- Cả hai cùng say mê cái đẹp, đi tìm cái đẹp nhưng với Nguyễn Tuân cái đẹp phải là
những hiện tượng đập mạnh vào giác quan nghệ sĩ, gây ấn tượng dữ dội, người đẹp
phải nghiêng nước nghiêng thành, thiên nhiên phải đèo cao, thác dữ, bão tố…
- Với Hoàng Phủ Ngọc Tường, cái đẹp phải thơ mộng, dịu dàng, là dòng sông Hương
trôi trong sương mờ huyền ảo, là cô gái Huế tình tứ mà kín đáo, e lệ và nếu là sử thi thì
là “sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”.
VŨ TRỌNG PHỤNG
Đề 1: Phân tích nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng đƣợc thể hện trong
trang sách “Hạnh phúc của một tang gia”.
Bài Làm
“Số đỏ” (1936) - một kiệt tác lừng danh của một nhà văn hiện thực trào phúng
kiệt xuất: Vũ Trọng Phụng, toàn bộ tác phẩm là một chuỗi cười trào phúng giòn giã,
sảng khoái nhưng cay đắng ném thẳng vào bộ mặt xã hội thượng lưu, trí thức đang
202
chạy theo mốt “văn minh”, “Âu hoá” hết sức nhố nhăng, đồi bại và bịp bợm đương
thời.Tất cả những tiếng cười đầy tài năng ấy dường như được kết tinh ở chương sách
“Hạnh phúc của một tang gia”, một chương sách có giá trị hiện thực vừa rộng lớn,
vừa sâu sắc.
I. Giải thích khái niệm.
- Để làm nổi bật tài năng của Vũ Trọng Phụng ở chương sách này, trước hết ta
tìm hiểu thế nào là nghệ thuật trào phúng? Nói đến nghệ thuật trào phúng là nói đến
nghệ thuật tạo ra tiếng cười có ý nghĩa phê phán, lên án, đả kích xã hội. Nhà văn trào
phúng tài năng là nhà văn giỏi phát hiện ra tình huống, chân dung, đặc biệt là mâu
thuẫn trào phúng rồi dùng thủ pháp cường điệu (phóng đại) để làm nổi bật mâu thuẫn
đó, khiến cho đối tượng đáng cười càng trở nên đáng cười.
II. Mâu thuẫn trào phúng biểu hiện rõ nhất ở nhan đề.
Hiểu như định nghĩa nói trên, mâu thuẫn trào phúng ở chương sách trước hết là
ở nhan đề hết sức giật gân, đầy tính chất mỉa mai, châm biếm: “Hạnh phúc của một
tang gia”.
“Tang gia” mà lại là “hạnh phúc” (!?).Điều mỉa mai đó ở đây lại là một sự thật.
Xưa nay, theo quy luật tình cảm và đạo lý thông thường thì không một người con,
người cháu nào là sung sướng khi người thân trong gia đình qua đời. Vậy mà ở đây, cụ
tổ - người giàu có nhất dòng họ, người đã từng là ông, cha chúng nó, chết một cách đột
ngột, lũ cháu con không người nào tỏ ra sầu não, thương tiếc; trái lại rất tưng bừng, vui
vẻ “đi đƣa giấy cáo phó, gọi phƣơng kèn, thuê xe đám ma”.
1. Như vậy, Vũ Trọng Phụng, ngay từ đầu đã ném vào mặt giới thượng lưu tư
sản đương thời một cái cười mỉa mai, cay độc, đả kích hẳn vào cái bản chất giả nhân,
giả nghĩa phi nhân tính của nó.
2. Và điều thú vị là mọi người nhờ cái chết của cụ tổ mà ai cũng được hưởng
hạnh phúc, song lý do và những biểu hiện của nó lại rất khác nhau, không ai giống ai.
Thật là sinh động, da dạng, hấp dẫn!
- Cụ cố Hồng: mới 40 tuổi, con cả cụ tổ thì “đã nhắm nghiền mắt lại để mơ màng đến
cái lúc cụ mặc áo xô gai lụ khụ chống gậy vừa ho khạc, vừa khóc mếu” để cho thiện hạ
phải trầm trồ chỉ chỏ “Ô kìa con giai nhớn của cụ tổ đã già đến thế kia kìa”. Đây đúng
là kiểu báo hiếu của một tên tư sản chọc phú, đồi bại, hư hỏng.
- Văn Minh chồng: đứa cháu đích tôn của cụ tổ với vẻ mặt đăm chiêu rất hợp
mốt với vẻ mặt của người có đám ma. Vì hắn đang mải suy nghĩ không biết nên bắt tội
hay thưởng công cho Xuân tóc đỏ. Còn bụng hắn thì khấp khởi mừng thầm: “Thế là từ
nay cái chúc thƣ không còn ở dạng lý thuyết viển vông nữa”.
- Còn ông Phán mọc sừng cũng rất đỗi sung sướng, hạnh phúc vì không ngờ đôi
sừng hươu trên đầu mình lại có giá trị to tác đến thế: “sắp đƣợc chia thêm một món
tiền là vài ngàn đồng nữa”.
- Cậu tú Tân (gọi là tú nhưng cậu chưa bao giờ đậu tú tài) thì “cứ điên ngƣời lên
vì cậu đã sẵn sàng mấy cái máy ảnh mà mãi không dùng đến nên cậu đã chỉ huy
những nhà tài tử chụp ảnh nhƣ ở hội chợ”.
- Cô Tuyết thì hạnh phúc vì được mặc bộ quần áo ngây thơ – cái áo dài voan
mỏng trông hở hang tất cả , viền đen và đội mũ mấn xinh để cho thiên hạ phải biết
rằng mình chưa đánh mất cả chữ trinh. Đồng thời Tuyết có vẻ mặt hơi đượm buồn lãng
mạn rất đúng mốt của một nhà có đám tang. Nhưng tuyết buồn đến mức muốn tự tử
203
được, buồn như kim châm vào lòng không phải vì thương tiếc ông nội vừa chết mà chỉ
vì không thấy “bạn giai” là Xuân tóc đỏ của cô đâu cả.
3. Điều thú vị và mỉa mai hơn nữa là “Hạnh phúc của một tang gia” này rất lớn,
lớn đến nỗi tràn ra đến cả những người ngoài gia đình cũng được hưởng.
- Xuân tóc đỏ thì tên tuổi càng lừng lẫy. Vì chính nhờ nó mới có đám tang vui
vẻ này.
- Ông chủ tiệm Âu hoá cũng rất vui mừng. Bởi đây là dịp may hiếm có để lăng
xê những mốt quần áo tang đặc sắc khiến cho “nhƣng ai có tang đau đớn vì cái chết
cũng đƣợc hƣởng chút hạnh phúc ở đời”.
- Sư Tăng Phú nghĩa là bất chấp thì sung sướng vênh váo tự đắc vì chuyến này
báo “Gõ Mõ” đắc thắng.
- Hai cảnh sát Minđơ và Mintoa đang thất nghiệp buồn như “nhà buôn sắp vỡ
nợ” bỗng được thuê giữ trật tự cho đám tang thì sung sướng đến cực điểm và đã trông
nom hết lòng.
- Đám trưởng giả, bạn thân của cụ cố thì “đám tang cũng là một dịp đƣợc trời
cho để phô trƣơng đủ thứ huân chƣơng đầy ngực; Bắc Đẩu bội tinh, Xiêm La bội tinh,
Long bội tinh, Cao Miên bội tinh… Trên cằm và mép đều trƣng diện đủ thứ râu ria
hoặc dài, hoặc ngắn, hoặc đen đen, hung hung, hoặc lún phún, râm râm, loăn quăn…
Nhiều ông tai to mặt lớn giả vờ đi sát linh cữu để tỏ lòng thƣơng thiếc ngƣời chết
nhƣng thực ra đến nhòm trộm làn da trắng nhƣ ngà nhƣ ngọc thập thò sau làn áo
voan mỏng trên cánh tay và ngực của cô Tuyết” làm trái tim các cụ rung động như khi
nghe tiếng kèn xuân nữ ai oán, não nùng.
Như thế là ở chương sách này Vũ Trọng Phụng đã lấy cái chết của cụ tổ để tạo
nên một tình huống trào phúng. Nó làm bộc lộ ra không biết bao nhiêu mâu thuẫn trào
phúng đủ loại; đồng thời tô đậm thêm hàng loạt chân dung trào phúng.
III. Tìm hiểu kĩ chương sách ta thấy mâu thuẫn xuyên suốt cảnh tượng đám
ma còn ở chỗ :
Đây là một đám ma rất to, rất đông được tiến hành trọng thể nhưng thực đó là
một đám rước, đám hội hóa trang rất linh đình, vui vẻ. Ở đây một lần nữa bộc lộ nghệ
thuật trào phúng bậc thầy của Vũ Trọng Phụng. Đúng là tang gia bối rối! Mọi người
trong gia đình bối rối để tổ chức một đám tang thật gương mẫu, có đủ mọi nghi thức
sang trọng đưa đến đâu làm huyên náo đến đấy… làm cho cả thành phố nhốn nháo lên
khen đám ma to. Đám ma được tổ chức theo lối Ta, lối Tàu, lối Tây có kiệu bát cống,
lợn quay, đi lọng, kèn đám ma rất rộn rã, có bu dích, lốc bốc xoảng. Đây là một đám
ma phơi bày tất cả các bản chất dởm hợm, vô văn hoá. Đám ma có đủ mọi thứ, có vẻ
rất gương mẫu ấy nhưng lại thiếu một thứ rất quan trọng để trở thành một đám ma
bình thường. Đó là lòng thương tiếc, nỗi đau buồn đối với người đã khuất. Tác giả viết
một cách mỉa mai chua chát, tuy giọng văn vẫn bình thản “đám cứ đi! Thật là một đám
ma to tát có thể làm cho ngƣời chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cƣời sung
sƣớng, nếu không thì cũng gật gù cái đầu”. Sự thật là, nếu biết được thực chất của đám
ma này thì hẳn là vô cùng đau khổ bởi những người đi đưa ma ai cũng làm ra bộ
nghiêm chỉnh nhưng chẳng ai nghĩ đến người chết, mà vẫn cứ thì thầm, chuyện trò về
những việc đâu đâu. Thậm chí bọn trai thanh gái lịch còn biến đám tang trở thành nơi
để chúng đú đởn, hẹn hò, cười tình với nhau và nói những lời hết sức nhảm nhí, bậy bạ.
Đó chỉ là những tiếng thì thào nhưng đã nói lên rất to cái đồi bại, vô liêm xỉ và hết sức
bịp bợm của những con người vẫn thường tự xưng là văn minh thượng lưu.
204
- Đoạn văn nói trên được kết thúc bằng một chi tiết có ý nghĩa đả kích thâm
thuý sâu cay. Bên cạnh ông bố vợ ho, khạc, khóc mếu đến ngất đi, ông Phán mọc sừng
cũng quặt người và khóc rống lên “Hứt! Hứt!.. rất cảm động ra dáng một cháu rể quý
hoá”, thì vừa lúc đó hắn cũng bí mật thanh toán nốt năm đồng tiền thuê Xuân tóc đỏ
giết cái người đang nằm trong quan tài kia. Giọt nước mắt ông Phán là 100% hoàn
toàn cá sấu. Ông Phán quả là một diễn viên kịch xuất sắc và cảnh nay là cảnh đỉnh cao
của sự trào phúng trong màn hài kịch đám ma gương mẫu.
IV. Nghệ thuật trào phúng còn được thể hiện trong việc tác giả sử dụng nhiều từ
ngữ, câu văn, hình ảnh… bất ngờ mang ý nghĩa châm biến, dùng nghệ thuật nói ngược
rất thâm thuý tạo nên những câu văn, giọng văn hài hước, dí dỏm đầy tính chất mỉa
mai. Chẳng hạn tác giả láy đi láy lại nhièu lần “đám cứ đi” hoặc “Thuốc đền bia công
hiệu đến nỗi làm cho họ mất mạng… Cái chết kia đã làm cho nhiều ngƣời sung sƣớng
lắm… tang gia ai cũng vui vẻ cả”.
- Cách ví von đầy tính hài hước: “buồn nhƣ nhà buôn sắp vỡ nợ”
- Dùng toàn những từ vui vẻ, hạnh phúc như “tấp nập”, “bầy con chí hiếu”,
“sung sƣớng”, “thoả thích”, “lãng mạn”.
Kết luận:
Tóm lại chương sách “Hạnh phúc của một tang gia” là một màn hài kịch được
tạo nên bởi một chuỗi cười trào phúng giòn giã. Thông qua tiếng cười ấy, bộ mặt thật
của bọn thượng lưu văn minh kì thực là hết sức thối nát, vô văn hoá, nhố nhăng, bịp
bợm, chỉ biết chạy theo tiền và cách ăn chơi đồi bại, không còn chút đạo lý tình nghĩa,
cứ bị phơi bày ra dưới lớp phấn son loè loẹt bề ngoài.
ĐỀ 2: Cái chết của cụ Tô và đám tang đƣợc kể trong đoạn trích "Hạnh phúc của
một tang gia" đang khóc hay đang cƣời?
I.Giới thiệu tác giả tác phẩm:
1. “Số đỏ”- là một trong những cuốn sách ghê gớm có thể làm vinh dự cho mọi
nền văn học.Tác phẩm là khối căm hờn được Vũ Trọng Phụng cho nổ ra thành một
trận cười vừa sảng khoái vừa có sức công phá mãnh mẽ tung vào giữa những cái nhố
nhăng, lố bịch của cái xã hội đương thời, cái xã hội mà chúng thường gọi là “văn minh
thƣợng lƣu”,nhưng thực chất là “lũ quái thai, xỏ xiên, bịp bợm, nhâng nháo, dâm
đãng”.
2.Toàn bộ tác phẩm có 20 chương,chương “Hạnh phúc của một tang gia” là
chương XV, nguyên văn của nó là “Hạnh phúc của một tang gia - Văn Minh nữa cũng
nói vào - Một đám ma gƣơng mẫu”. Người viết sgk đã cắt đi vế sau, chỉ còn lại một
nhóm từ tạo nhan đề rất giật gân và gây ấn tượng cho người đọc. 20 chương sách là 20
màn hài kịch với tiếng cười giòn giã, sảng khoái nhưng cay độc, ném thẳng vào bộ mặt
xã hội mà ông gọi là chó đểu và khốn nạn. Chương sách này đã kết tinh được những
tiếng cười trào phúng độc đáo đầy tài năng của Vũ Trọng Phụng và có giá trị hiện thực
rộng lớn.
II.Phân tích những sự kiện đƣợc kể tới trong đoạn trích để trả lời câu hỏi:
1.Đây là câu hỏi đối với thí sinh rất hóc búa….nếu không có sự suy nghĩ kĩ cười
và khóc trong văn học.
205
Từ chủ để chương sách toát lên một tiếng cười trào phúng rất đặc sắc và vô
cùng tài năng của Vũ Trọng Phụng và thể hiện nỗi căm hờn mãnh liệt của tác giả vì thế
ở đây chúng ta không nên đối lập một cách máy móc hai khái niệm đáng khóc hay
đáng cười. Bởi trường hợp cụ thể này, trong khóc có cười, trong cười có khóc. Đáng
khóc là đáng chê,đáng phê phán,đáng lên án.Còn đáng cười đây là tiếng cười khôi
hài,trào phúng cũng có ý nghĩa như thế.
2.Lý do đáng khóc:
Khóc ở đây không vì tính chất đau thương của đám tang mà còn vì sự suy đồi
xuống cấp, vì mất đi điều cao quý thiêng liêng của con người. Đó là luân lý, đạo đức,
là thái độ của con cháu đối với công cha, nghĩa mẹ. Vì người ta thường khóc khi bày
tỏ sự đau đớn cho những gì thiêng liêng quý giá đã mất. Ở chương sách này, Vũ Trọng
Phụng miêu tả cái chết của cụ tổ, người giàu có nổi tiếng của Hà thành, người đã từng
là cha, là ông của con cháu nhà này. Ấy thế mà chẳng làm cho ai thèm buồn đau
thương tiếc. Trái lại, tất cả lũ con cháu cho đến cả người thân của cụ đều nhất loạt
mừng vui vì được lợi được danh, được phô trương, khoe mẽ. Sự giả dối bịp bợm của
những kẻ không có đạo lý, tình người đã bao trùm lên mọi hành vi cử chỉ, ngôn ngữ
của các nhân vật tham gia đám tang hạnh phúc này khiến cho độc giả lắm lúc thấy
nghẹt thở.
3.Lý do đáng cƣời:
Người ta thường cười những điều xấu xa, trái tự nhiên, đạo lý, cười cái nhố
nhăng, bịp bợm, nhâng nháo, đạo đức giả. Vì thế toàn bộ những điều đáng khóc nói
trên lại rất đáng cười. Bởi chúng được miêu tả như một màn hài kịch độc đáo về cái
gọi là đám ma gương mẫu. Sự thật về bản chất của giới thượng lưu đã được phơi bày
qua hàng loạt mâu thuẫn gây cười. Mâu thuẫn trước hết được thể hiện ở nhan đề của
chương sách “Hạnh phúc của một tang gia”. Tang gia mà lại là hạnh phúc. Điều mỉa
mai đó ở đây lại là một sự thật. Cái chết của một “cụ già đáng chết” đã đem đến hạnh
phúc bất ngờ cho mọi người. Và mâu thuẫn trào phúng còn được thể hiện xuyên suốt
cảnh tượng đám tang, đó là dưới ngòi bút trào phúng bậc thầy của Vũ Trọng Phụng,
đám tang lập tức biến thành đám rước, đám hội hoá trang vô cùng vui vẻ. Sự thật đó
càng được phơi bày qua hàng loạt chân dung trào phúng (cụ Cố, Văn Minh chồng,
Phán mọc sừng, cô Tuyết ngây thơ, Xuân tóc đỏ, bạn của cụ Cố….). Và hệ thống hình
ảnh câu văn từ ngữ đầy tính chất mỉa mai, châm biếm.
Kết Luận:
Tóm lại tấn bi, hài kịch được ngòi bút VTP thể hiện một cách sinh động trong
chương sách “Hạnh phúc của một tang gia” cho thấy rõ ràng cảm hứng căm hờn tố
cáo mạnh mẽ bằng nghệ thuật trào phúng bậc thầy. Đó là nghệ thuật khai thác mâu
thuẫn trào phúng, tình huống và chân dung trào phúng, rồi dùng thủ pháp phóng
đại,làm tiếng cười độc giả vang lên sảng khoái khi khám phá ra những mâu thuẫn đó:
mâu thuẫn giữa hình thức và nội dung, giữa hiện tượng và bản
206
NGUYỄN QUANG NINH
Khoa Ngữ Văn - ĐHSP Hà Nội
NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
Phần 3
Hà Nội - 2010
207
MỤC LỤC
Phần III:NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
I. Thế nào là nghị luận xã hội ................................................................................ 209
II. Các loại văn nghị luận ....................................................................................... 209
A. Nghị luận về một tƣ tƣởng đạo lý ..................................................................... 209
Đề 1a: "Ôi sống đẹp là thế nào hỡi bạn" (Tố Hữu) .................................................. 211
Đề 2a: Lý tưởng là ngọn đèn chỉ đường... "Lép - Tônxtôi" ..................................... 215
Đề 3a: Suy nghĩ về công cha nghĩa mẹ và đền ơn đáp nghĩa... ................................ 217
Đề 4a: "Trong thế giới này chúng ta xót xa không chỉ vì lời nói và hành động của
những kẻ xấu mà còn cả vì sự im lặng đáng sợ của những người tốt" ..................... 222
Đề 5a: "Danh dự là viên ngọc vô giá..." ................................................................... 222
Đề 6a:"Nơi lạnh nhất không phải là bắc cực mà là..." ............................................. 224
Đề 7a: "Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình" (Tố Hữu) ........................................ 227
Đề 8a: "Một người đã đánh mất niềm tin của bản thân thì chắc chắn..." ................. 230
Đề 9a: "Tri thức là sức mạnh" .................................................................................. 232
Đề 10a: "Tác dụng của việc đọc sách" ..................................................................... 235
Đề 11a: "Tài sản lớn nhất của đời người chính là lòng khoan dung" ...................... 237
Đề 12a: Anh chị hãy giải thích và bình luận câu nói sau: "Trong con mắt người khác
bạn có thể thất bại vài ba lần, nhưng với bản thân, bạn không được phép trở nên mềm
yếu, vì đây là sự thất bại thảm hại nhất"................................................................... 239
Đề 13a: "Tiền có thể mua được tất cả trừ hạnh phúc".............................................. 242
Đề 14a: Hãy viết một đoạn văn ngắn (không quá 600 từ) trình bày suy nghĩ của anh/
chị về ý kiến sau: ...................................................................................................... 244
Đề 15a: Một bài học sâu sắc, ý nghĩa mà cuộc sống đã tặng cho em ..................... 246
Đề 16a: Truyền thống tôn sư trọng đạo... ................................................................. 249
Đề 17a: Công việc tránh cho ta ba cái hại lớn: buồn chán, hư đốn, túng thiếu ........
.................................................................................................................................. 251
Đề 18a: "Suy nghĩ về những tấm gương không đầu hàng số phận..." ...................... 254
Đề 19a: "Suy nghĩ về người mẹ và tình mẫu tử" ...................................................... 255
Đề 20a: "Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi..." ................................. 258
208
Đề 21a: "Xem Đề 16a" ............................................................................................ 261
Đề 22a: "Mọi phẩm chất của đức hạnh là ở trong hành động" ................................ 263
Đề 23a: "Học để biết, học để làm. Học để làm người" ............................................ 265
Đề 24a: "Thời gian, lời nói và cơ hội" ..................................................................... 267
Đề 25a: "Nghèo nàn về vật chất dễ chữa, nghèo nàn về tâm hồn rất khó chữa ....... 270
Đề 26a: "Học đi đôi với hành" ................................................................................. 272
Đề 27a: "Ý kiến về lợi ích của việc tự học" ............................................................. 274
Đề 28a: "Suy nghĩ về lòng dũng cảm" ..................................................................... 276
Đề 29a: "Học vấn có chùm rễ đắng cay nhưng...".................................................... 278
Đề 30a: "Những thói xấu ban đầu là người khách qua đường..." ............................. 280
Đề 31a: "Về lối sống giản dị" ................................................................................... 282
B. NGHỊ LUẬN VỀ MỘT HIỆN TƢỢNG ĐỜI SỐNG ..................................... 285
Đề 1b: " Vào đại học có phải là con đường tiến thân duy nhất..." ........................... 286
Đề 2b: "Luận về phòng chống AIDS" ...................................................................... 289
Đề 3b: "Vấn nạn giao thông" .................................................................................... 291
Đề 4b: "Suy nghĩ về những khu rừng đang ngày càng bị tàn phá" .......................... 293
Đề 5b: "Tiêu cực trong thi cử..." .............................................................................. 294
Đề 6b: "Thuốc lá đe doạ sức khoẻ và tính mạng loài người..." ................................ 298
Đề 7b: "Thư thầy Hiệu trưởng gửi Tổng thống Mỹ..." ............................................. 299
Đề 8b: "Nạn bạo hành trẻ em và phụ nữ" ................................................................. 301
Đề 9b: "Suy nghĩ về tình trạng nguồn nước sạch..." ................................................ 304
Đề 10b: "Làm gì để môi trường sống của chúng ta ngày càng xanh ....................... 306
Đề 11b: "Bàn về vai trò của cây..." .......................................................................... 309
Đề 12b: Suy nghĩ về ..."Quỹ vì người nghèo" .......................................................... 311
Đề 13b: "Bác Hồ khuyên thanh niên: Không có việc gì khó..." ............................... 313
Đề 14b: "Quan điểm của anh chị về vấn đề thời trang" ........................................... 317
Đề 15b: "Nếu không có người bạn tốt thì..." ............................................................ 321
Đề 16b: suy nghĩ về "Bệnh vô cảm trong xã hội ta hiện nay" ................................. 324
Đề 17b: "Trước cái đói nghèo và những cuộc đời bất hạnh..."............................... 328
209
Phần 3 . NGHỊ LUẬN XÃ HỘI
I. THẾ NÀO LÀ VĂN NGHỊ LUẬN?
Văn nghị luận là một loại văn, trong đó tác giả đứng trên một lập trường quan
điểm nào đó và dựa vào một sự hiểu biết nhất định của mình về xã hội, văn học, dùng
lý lẽ và dẫn chứng, dùng ngôn ngữ trực tiếp để trình bày, lập luận, phân tích, giảng
giải, phê phán nhằm giải quyết một vấn đề xã hội, đời sống, tư tưởng, văn học, làm
cho người đọc hiểu và tin vấn đề để có nhận thức đúng, hành động đúng.
II. CÁC LOẠI VĂN NGHỊ LUẬN
Văn nghị luận có thể chia làm hai loại chính. Nếu bàn về một vấn đề văn học
như lý luận văn học hay phân tích tác phẩm, một nhân vật văn học, một bài thơ, một
đoạn thơ… thì được xem là nghị luận văn học. Còn nếu bàn về một vấn đề xã hội,
chính trị, đời sống, tư tưởng, đạo lý… thì đó là nghị luận xã hội chính trị. Ở đây,
chúng ta chỉ bàn về hai dạng chính của nghị luận xã hội. Đó là “Nghị luận về một tƣ
tƣởng, đạo lý” và “Nghị luận về một hiện tƣợng đời sống”.
A. NGHỊ LUẬN VỀ MỘT TƢ TƢỞNG ĐẠO LÝ
1. Thế nào là nghị luận về một tƣ tƣởng, đạo lý?
Nghị luận về một tư tưởng đạo lý là bàn về một vấn đề thuộc lĩnh vực tư tưởng,
đạo đức, lối sống… của con người. Đây là kiểu bài chúng ta thường hay gặp trong đời
sống hàng ngày, trên báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng. Yêu cầu nội
dung của kiểu bài này là phải làm sáng tỏ các vấn đề tư tưởng, đạo lý bằng cách giải
thích, chứng minh, so sánh, đối chiếu, phân tích, bình luận… để chỉ ra chỗ đúng (hay
chỗ sai) của một tư tưởng nào đó, nhằm khẳng định tư tưởng của người viết. Về hình
thức, hai viết phải có bố cục ba phần; có luận điểm đúng đắn, sáng tỏ, lời văn chính
xác, sinh động.
2. Cách làm một bài văn thuộc kiểu bài này.
Quy trình làm một bài văn về tư tưởng, đạo lý thường trải qua mấy bước cơ bản sau
đây:
Bước 1: Tìm hiểu đề và tìm ý
Nội dung cơ bản của đề này là gì? Bài văn nghị luận về một tư tưởng, đạo lý
thường bàn về các vấn đề như: Quan niệm về cuộc sống, lý tưởng sống, thái độ sống,
những đức tính, phẩm chất… quan trọng, cơ bản của con người. Quan niệm về tốt -
xấu, thiện – ác, chính nghĩa – gian tà. Các quan hệ xã hội như tình cảm gia đình, tình
đồng loại, tình yêu… Các hành động hoặc các cách ứng xử như tích cực – tiêu cực, có
văn hóa – vô văn hóa.
Vậy thì ở đề bài cụ thể này, vấn đề cơ bản đặt ra là gì (xem những dàn ý, bài
làm cụ thể dưới đây).
- Tìm hiểu xem đề này có mấy ý? Muốn biết có mấy ý, mấy luận điểm cơ bản
cần giải quyết, chúng ta phải phân tích ngữ pháp câu nói, câu danh ngôn trong đề.
Thông thường một nhận định, một thông báo, một vị ngữ là một ý. Ví dụ câu nói của
Lép-Tôn-Xtôi “Lý tƣởng là ngọn đèn chỉ đƣờng. Không có lý tƣởng thì không có
phƣơng hƣớng kiên định, mà không có phƣơng hƣớng thì không có cuộc sống”. Về cơ
bản, câu nói này có hai ý chính:
1. Lý tưởng là ngọn đèn soi đường
2. Không có lý tường thì không có cuộc sống
210
Ở phần này, nhiều khi chúng ta phải giải thích nghĩa đen, nghĩa bóng của câu
nói (nhất là những đề có câu nói được dùng phép tu từ ẩn dụ, so sánh, hoán dụ). Ví dụ
anh chị hãy suy nghĩ về đạo lý “Uống nƣớc nhớ nguồn”. Trước hết chúng ta phải giải
thích qua, ngắn gọn nghĩa đen “nƣớc”: một loại vật thể lỏng rất cần thiết cho đời sống
sinh vật và con người: “lạy trời mƣa xuống, lấy nƣớc tôi uống” (ca dao); “Uống ngụm
nƣớc suối trong đỡ khát. Trông trời cao mà mát tâm can” (Thơ Tố Hữu); “nguồn” là
nơi bắt nguồn của mọi dòng chảy, của suối, của sông. Từ đó, ta suy ra nghĩa bóng của
câu tục ngữ này: Mỗi khi chúng ta uống nước nghĩa là được hưởng thành quả về vật
chất và tinh thần thì phải nhớ đến “nguồn” nhớ đến công ơn tổ tiên, cha mẹ, những
người đi trước đã có công sức tạo dựng cho mình.
- Xác định ý nào là trọng tâm và mối quan hệ giữa các ý như thế nào? Công việc này
sẽ giúp cho người làm bài xây dựng cho bài làm của mình một bố cục hợp lý: sắp xếp
ý nào trước, ý nào sau, ý nào là cơ bản, là trọng tâm sẽ dành cho nó một dung lượng
kiến thức, nội dung nhiều hơn, phong phú hơn.
Bước 2: Lập dàn ý
Dựa trên cơ sở tìm hiểu đề, tìm ý, xác định ý chính, ý phụ, ý trọng tâm, bây giờ
đến bước này, chúng ta nên lập một cái dàn ý (Có thể chỉ sơ lược) để có một cái sườn
chính của bài, sau đó tiến hành viết bài như người kỹ sư xây dựng, khi đã có một sơ đồ,
bản vẽ, thì sẽ bắt tay vào “thi công”, “xây dựng” công trình, ngôi nhà.
Bước 3: Viết bài
A. Mở bài: Phần mở bài, hay còn gọi là phần “đặt vấn đề”.
Phần này như tên gọi của nó: “Đặt vấn đề” đã gợi ra chức năng chính là phải
nêu cho được vấn đề, đặt cho được vấn đề mà người làm bài sẽ tiến hành giải quyết
trong một đề bài cụ thể. Phần này có một ý nghĩa rất quan trọng, vì nó sẽ gây ấn tượng
tốt hay xấu đầu tiên cho người chấm, người đọc. Tuy nhiên đây là một công việc khá
khó khăn. Nhìn chung, có hai cách mở bài cơ bản. Đó là cách mở bài trực tiếp và cách
mở bài gián tiếp. Mở bài trực tiếp là đi thẳng vào vấn đề mà ta cần bàn, còn mở bài
gián tiếp là xuất phát từ một câu thơ, câu văn, câu danh ngôn nào đó, hoặc đi từ thực tế
đời sống rồi dẫn đến vấn đề mà ta cần phải giải quyết trong bài làm. Mở bài trực tiếp
thì thường nhanh hơn, dễ làm hơn, nhưng mở bài gián tiếp thường hấp dẫn và hay hơn.
B. Thân bài: hay còn gọi là phần “Giải quyết vấn đề”
Ở phần này, trước hết chúng ta phải xác định phạm vi kiến thức, tư liệu cần sử
dụng: Đây là kiểu bài nghị luận xã hội, nên lý lẽ, dẫn chứng chủ yếu lấy từ vốn sống,
kiến thức đời sống thực tế của người viết. Nhưng để cho bài làm sinh động, tươi tắn
hơn có thể sử dụng kiến thức, dẫn chứng bằng thơ văn, nhưng rất hạn chế, bởi nếu quá
nhiều thì sẽ lạc sang kiểu bài nghị luận văn học. Vả chăng, có sử dụng kiến thức văn
thơ, thì cũng chỉ nhằm sáng tỏ một khía cạnh nào đó của tư tưởng, đạo lý.
- Tiếp theo chúng ta lần lượt giải quyết các vấn đề, các khía cạnh của đề bài, tức
là hình thành các luận điểm, luận cứ, luận chứng… và giải quyết dứt điểm từng luận
điểm, luận cứ đó bằng lý lẽ và dẫn chứng thực tế, bằng các thao tác lập luận, thao tác
nghị luận như phân tích, giải thích, bình luận, chứng minh. Nhìn chung một bài văn
nghị luận là một văn bản, chủ yếu vận dụng tư duy lôgíc nhằm giải quyết vấn đề một
cách thấu đáo, triệt để, toàn diện để nhằm thuyết phục lý trí người đọc, nên người viết
hay sử dụng tổng hợp các thao tác nghị luận: Phân tích, giải thích, bình luận, chứng
minh. Thao tác phân tích thì chia luận đề thành các luận điểm; chia luận điểm thành
các luận cứ… để lần lượt đi sâu giải quyết từng luận điểm, luận cứ đó. Còn đối với
thao tác giải thích, người viết thường phải đặt ra và trả lời các câu hỏi: “Thế nào”,
211
“ Tại sao”? Lý do của vấn đề là ở chỗ nào? “Kết quả sẽ ra sao”… Đối với thao tác
bình luận, chúng ta phải đặt ra và trả lời các câu hỏi: “Vấn đề đúng ở chỗ nào” “Sai ở
chỗ nào?” nghĩa là, chúng ta phải lật đi, lật lại vấn đề. Vấn đề chúng ta đang bàn có ý
nghĩa như thế nào, kết quả và hậu quả của nó ra sao, nghĩa là chúng ta phải mở rộng,
bàn sâu hơn vấn đề tư tưởng đạo lý… Đối với thao tác chứng minh, người viết phải đặt
ra và trả lời các câu hỏi “Ở đâu” “bao giờ” “ngƣời thật, việc thật nào?”
Cần chú ý chứng minh là dùng các dẫn chứng thực tế đời sống xã hội, lịch sử để
làm sáng tỏ vấn đề nhằm thuyết phục người đọc về tính đúng đắn, chân thực có tính
chất phổ biến của vấn đề, nên các dẫn chứng cần phải phong phú, đầy đủ, toàn diện,
tiêu biểu, cụ thể, chính xác… Và tất cả phải được trình bày theo một thứ tự hợp lý, hợp
lôgíc.
Kết luận: hay còn gọi là “kết bài”; “kết thúc vấn đề”.
Chức năng của phần này là “kết” và “luận”. Kết là thâu tóm lại vấn đề cơ bản mà
ta đã trình bày ở trên phần thân bài. Còn “luận” là nâng cao và mở rộng vấn đề thêm một
bậc nữa. Cũng có khi người viết nêu lên một cảm nghĩ, một liên hệ nào đó thật có ý nghĩa
đối với bản thân.
Bước 4: Kiểm tra và sửa chữa, hoàn thiện bài làm của mình.
Sau khi viết xong bài, để cho bài làm hoàn chỉnh, trọn vẹn hơn, người làm bài,
cần dành một ít thời gian mấy phút để đọc soát lại, sửa chữa những lỗi về liên kết, ngữ
pháp, câu, từ ngữ, chính tả.
3. Các đề bài, các bài làm, các tƣ liệu cụ thể để minh hoạ cho kiểu bài này.
Đề 1a: Anh /chị hãy trả lời câu hỏi sau của nhà thơ Tố Hữu
“Ôi! Sống đẹp là thế nào, hỡi bạn?” (Thơ Tố Hữu – trang 534)
Đáp án (Dàn ý) - Hƣớng dẫn làm bài
A. HƢỚNG DẪN LÀM BÀI
Yêu cầu của đề:
- Nội dung vấn đề cơ bản cần nghị luận là “Sống đẹp”
- Thao tác, phương pháp nghị luận, phương pháp lập luận cần vận dụng: giải thích,
bình luận, chứng minh, diễn dịch, quy nạp, đặt câu hỏi…
- Kiến thức: Lấy từ thực tế cuộc sống, trong cuộc cách mạng giành chính quyền, trong
cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và một ít thơ văn.
Mở bài: Có thể mở bài theo lối trực tiếp hoặc gián tiếp, tuỳ hoàn cảnh cụ thể. Bài viết
dưới đây dùng lối mở bài gián tiếp. Đó là xuất phát, dẫn dắt từ câu nói của Paven Coóc
– sa – ghin trong tác phẩm “Thép đã tôi thế đấy”
Thân bài:
1. Thế nào là sống đẹp và những biểu hiện của nó
a. Sống đẹp là sống có lý tƣởng cao đẹp phù hợp với thời đại và có hành động đẹp,
mỗi giây mỗi phút trong cuộc đời đều hƣớng về lý tƣởng cao quý.
b. Sống đẹp còn là sống có tình cảm trong sáng, lành mạnh, phong phú.
c. Sống đẹp là phải không ngừng học tập để có tri thức sâu rộng về khoa học, đời sống,
văn hoá.
d. Sống đẹp còn là phải luôn luôn biết hành động phù hợp với pháp luật, với đạo lý,
góp phần vào sự phát triển của xã hội và hoàn thiện nhân cách của bản thân.
e. Sống đẹp là sống có tâm hồn phong phú, giàu lòng nhân ái, vị tha
+ Những biểu hiện của sống đẹp
212
- Trong quan hệ gia đình, cộng đồng, xã hội, tổ quốc.
- Đối với bản thân: hành động đúng với lương tâm, có trách nhiệm cao trước xã hội
2. Bình luận: Ý nghĩa của việc sống đẹp
- Sống đẹp là thuộc tính, phẩm chất đặc thù của con người; người sống đẹp sẽ được
mọi người kính trọng, xã hội tôn vinh.
- Phê phán lối sống chưa đẹp, không đẹp như ích kỷ, vụ lợi, độc ác…
Kết luận: Thâu tóm lại vấn đề và nâng cao vấn đề một lần nữa.
213
B. BÀI LÀM THAM KHẢO
Hãy trả lời câu hỏi của nhà thơ Tố Hữu
“Ôi! Sống đẹp là thế nào hỡi bạn”
Mở bài:
Sau khi qua khỏi trận sốt rét thương hàn, Paven Coóc-Sa ghin, một người thanh
niên cộng sản Xô Viết, suốt đời chiến đấu không mệt mỏi cho một lý tưởng cao quý, đi
lững thững dưới hàng thông, nơi nhiều đồng chí của anh bị treo cổ, đã cháy lên một ý
nghĩ thật sâu sắc và cao đẹp: “Cái quý nhất của con ngƣời là đời sống. Đời ngƣời chỉ
sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa ân hận vì những năm tháng đã sống
hoài sống phí, cho khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng ti tiện và đớn hèn của mình và để khi nhắm
mắt xuôi tay, có thể nói rằng: Tất cả đời ta, tất cả sức ta, ta đã hiến dâng cho sự
nghiệp cao đẹp nhất trên đời: Sự nghiệp đấu tranh giải phóng loài ngƣời”. Ý nghĩ cao
đẹp này cũng đã giải đáp được điều cơ bản mà nhà thơ Tố Hữu từng băn khoan trăn
trở: “Ôi! Sống đẹp là thế nào hỡi bạn”.
Thân bài
1. Thế nào là sống đẹp và những biểu hiện của nó.
a. Sống đẹp là sống có lý tƣởng cao đẹp phù hợp với thời đại và có hành động
đẹp mỗi giây mỗi phút trong cuộc đời đều hƣớng vào cái lý tƣởng cao quý ấy.
Theo định nghĩa của từ điển tiếng Việt thì “Lý tƣởng là tƣ tƣởng và mục đích
đƣợc coi là cao nhất, tốt đẹp nhất cần đạt đến”. Trong khi đất nước còn có chiến tranh
giành độc lập, thì lý tưởng của tuổi trẻ là chiến đấu cho độc lập tự do, là quyết xả thân
cho Tổ quốc, luôn luôn vang trong tim lời dạy thiêng liêng của Bác “Chúng ta thà hy
sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nƣớc, không chịu làm nô lệ”. Thực tế cách
mạng nước ta trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đã có biết bao
người trở thành tấm gương sáng của cuộc sống đẹp, làm thành một bài ca “Bản anh
hùng không tắt”, mà lời ca sang sảng những tên người: Tô Vĩnh Diện lấy thân cứu
pháo “Bế Văn Đàn giữ mãi tuổi hai mƣơi”, “Lý Tự Trọng đầu không hề chịu cúi; sắp
ra pháp trƣờng còn đọc Nguyễn Du; “Chị Sáu ơi! Bông hoa chị cài đầu, còn thắm mãi
giữa nhà lao Côn Đảo”. Và đây là hình ảnh cô La Thị Tám, Võ Thị Tần, 10 cô gái Hà
Tĩnh đã từng lấy máu xương mình để xây nên cái Ngã Ba Đồng Lộc lịch sử. Đó là
hình ảnh những cô gái “đã chết rồi, mộ kề bên đƣờng đỏ” mà hình như “vẫn còn đứng
đó; chờ lấp hố bom, đƣờng thông xe mới chịu đi nằm” và sẵn sàng để lại tuổi thanh
xuân mười chín, hai mươi cho đất nước, quê hương, “Hồn trong nhƣ suối; Bình minh
đời sáng rực vầng dƣơng”. Và đây nữa là hình ảnh chàng trai Lê Mã Lương, người
con ưu tú của Đoàn đã sẵn sàng gác bỏ mọi quyền lợi cá nhân, tình nguyện đến những
nơi gian khổ nhất để nhận nhiệm vụ của một chiến sĩ. Và anh cũng đã thay mặt cho cả
một thế hệ thanh niên Cách mạng mới nói với nhân dân, Tổ quốc bằng những lời vô
cùng chí nghĩa, chí tình “Nƣớc còn giặc, còn đi đánh giặc; chiến trƣờng giục giã bƣớc
hành quân… Cuộc đời đẹp nhất là cuộc đời trên trận tuyến đánh quân thù”. Cũng từ
đây, cả thế hệ thanh niên Việt Nam lên đường chống Mỹ đã hát vang bài ca ra trận và
nguyện “Mỗi chàng trai là một Lê Mã Lƣơng”.
Mang trong mình lý tưởng cao đẹp, trong thời đại hòa bình, đất nước hát
bài ca xây dựng, thì mỗi chúng ta phải tâm niệm “Cuộc đời đẹp nhất là trên các
giảng đƣờng”, trên mặt trận sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, hàng ngày hàng
giờ, bằng mồ hôi của sức lực và tâm não sáng tạo ra thật nhiều của cải vật chất và
tinh thần để làm giàu cho dân, cho nước để làm sao “Nƣớc ta có thể sánh vai với
214
các cƣờng quốc năm châu”. Đó là những Nguyễn Tử Quảng dũng sĩ diệt vi rút
máy tính, những anh hùng thời đổi mới, những vận động viên thể thao giành huy
chương vàng, huy chương bạc để lá cờ đỏ sao vàng của Tổ quốc tung bay trên các
đấu trường châu lục.
b. Sống đẹp còn là sống có tình cảm trong sáng, lành mạnh, phong phú.
Con người sống đẹp phải là con người có đời sống tâm hồn phong phú, tình
cảm lành mạnh giàu yêu thương, nhân ái, vị tha. Đối với gia đình, phải là người con
hiếu thảo, người chồng, người vợ, người tình trong sáng, thủy chung. Đối với Tổ quốc,
đồng bào, phải là người công dân biết sống và chết cho quê hương, biết cảm thông,
chia sẻ, không bao giờ được phép quay lưng với nỗi đau của đồng loại. Là thanh niên,
tuổi trẻ, bạn đã tham gia hiến máu nhân đạo bao giờ chưa? Màu hồng những giọt máu
của bạn sẽ trở thành màu xanh sự sống cho bệnh nhân và một giọt máu của bạn cho đi
sẽ có một cuộc đời ở lại.
c. Sống đẹp là phải không ngừng học tập để có tri thức sâu rộng về khoa học và
đời sống
Đã sống thì phải luôn luôn sống cho mạnh mẽ. Muốn thế phải học tập. Vì “tri
thức là sức mạnh”. Nhà giáo dục học nổi tiếng của Liên Xô cũ đã có lời khuyên chí lý
với thanh niên, học sinh: “Phải học tập để hiểu biết sâu rộng vế khoa học, về đời sống,
để hiểu biết tình yêu, phải học tập cách sống hạnh phúc, nhƣ thế có nghĩa là học tập
để biết tự trọng, học tập để hiểu rõ: vinh hạnh đƣợc làm ngƣời”.
d. Sống đẹp còn là phải luôn luôn biết hành động phù hợp với pháp luật, với
đạo lý, góp phần vào sự phát triển của xã hội và hoàn thiện nhân cách của bản thân.
Người có cuộc sống đẹp luôn chấp hành nghiêm chỉnh luật pháp như luật giao
thông, không bao giờ đua xe. Vì đó là trò đánh đu với tử thần; không bao giờ tham gia
“đánh lô đề, lên đê mà ở”, hay “đánh bạc, bác thằng bần”…
2. Phê phán lối sống không đẹp
Trong khi giữa cuộc sống muôn màu muôn vẻ, có biết bao người đã sống một
đời sống rất đẹp, được mọi người kính trọng, khâm phục xem đó là những tấm gương
sẽ sáng mãi với thời gian, được lưu danh trong sử sách, thì cũng có không ít những
người có cuộc sống chưa lành mạnh, chưa đẹp, thậm chí là không đẹp. Đó là những
người có mục đích sống xấu xa, ích kỉ, vụ lợi, sẵn sàng nhúng tay vào tội ác như giết
người, tham nhũng, buôn ma túy, cái chết trắng, gieo tai họa cho bao số phận. Đó còn
là lối sống thờ ơ, vô cảm trước cộng đồng, lười học, lười tu dưỡng, thích hưởng thụ,
đua đòi, chạy theo tiếng gọi đồng tiền bất chính, coi nhẹ tình cảm, đạo đức nhân phẩm
và làm hủy hoại nhân cách con người.
Kết luận
Đến đây, chúng ta có thể khẳng định người sống đẹp là người có nhân cách cao
đẹp và thực sự có một đời sống hạnh phúc, tâm hồn thanh thản. Cuộc đời còn dài, tất
cả tương lai còn ở phía trước, chúng ta sẽ không ngừng phấn đấu để có một ngày mai
huy hoàng và sáng lạn, để cho đến giây phút “Vẫy chào cõi thực để vào hƣ; trong hơi
thở chót dâng trời đất” vẫn có thể tự hào mà nói rằng:
“Nhƣng tôi không tiếc không buồn
Những ngày xanh đẹp trong vƣờn ban mai
Vì tôi đã sống cho đời
Hơn là đã sống cho tôi rất nhiều
Tôi không buồn những buổi chiều
215
Vì tôi đã sống rất nhiều ban mai”
(Hoàng Thị Minh Khanh)
Đề 2a: Nhà văn Nga Lép – Tônxtôi nói: “Lý tưởng là ngọn đèn chỉ đường. Không
có lý tưởng thì không có phương hướng kiên định, mà không có phương hướng thì
không có cuộc sống”
Phát biểu suy nghĩ của anh/chị về ý kiến trên
A. HƢỚNG DẪN LÀM BÀI Xác định yêu cầu nội dung cơ bản của đề mà ta cần nghị luận:
- Ở đây, nhà văn Nga nhấn mạnh vai trò quyết định của lý tưởng đối với đời
sống con người. Lý tưởng sẽ định hướng, giúp cho con người ý chí nghị lực lớn lao để
đạt tới mục đích cao đẹp.
- Từ luận đề chung đó, dựa vào các thao tác nghị luận: phân tích, giải thích,
bình luận, chứng minh, chúng ta có thể khai triển thành các ý, các luận điểm: lý tưởng
là gì? Vì sao nói “Lý tƣởng là ngọn đèn chỉ đƣờng” trong đời sống con người? Vì sao
nói: “Không có lý tƣởng, thì không có phƣơng hƣớng kiên định, mà không có phƣơng
hƣớng kiên định thì không có cuộc sống”. Là một thanh niên của thời đại mới, anh chị
tự xác định cho mình lý tưởng gì và dự định sẽ làm gì để thực hiện lý tưởng ấy?
Mở bài: Có thể mở bài trực tiếp, có thể mở bài gián tiếp (Xem bài dưới đây)
Thân bài:
1. Thế nào là lý tƣởng. Vì sao lý tƣởng là ngọn đèn chỉ đƣờng? Những quan
niệm chƣa đúng về lý tƣởng.
- Theo định nghĩa của Từ điển Tiếng Việt “Lý tƣởng là tƣ tƣởng và mục đích
đƣợc coi là cao nhất, tốt đẹp nhất cần đạt đến”
- Lý tưởng là mục đích, ước mơ, nó có ý nghĩa định hướng cho cuộc sống con
người, giúp con người khát vọng lớn lao, nghị lực phi thường để vươn tới sự nghiệp
cao cả, có ích.
- Cần phân biệt lý tưởng với “tham vọng” “dục vọng”, “mƣu đồ”
- Chứng minh bằng thực tế lịch sử cuộc sống…
2. Vì sao cuộc sống thiếu lý tƣởng không phải là cuộc sống?
- Thiếu lý tưởng, con người sẽ không có ước mơ, không có khát vọng, không có
mục tiêu làm phương hướng dẫn đường, dẫn đến hậu quả con người sẽ kém dần nghị
lực, trở thành lười biếng, bất lực, hoài nghi, ích kỷ và đau khổ. Cuộc đời của họ sẽ trở
nên tẻ nhạt, lông bông, vô nghĩa lý.
3. Bàn luận, bình luận, mở rộng và liên hệ với bản thân.
- Cuộc sống có lý tưởng đẹp sẽ đưa cuộc đời ta tới tuổi thanh xuân huy hoàng,
tráng lệ. Ngược lại, cuộc sống không có lý tưởng sẽ dẫn đến một cuộc đời lặng lẽ, trôi
qua một cách bình thản, trôi qua một cách vô vị với những “dĩ vãng ti tiện và đớn
hèn”…
- Dự định, ấp ủ lý tưởng của bản thân.
Kết luận: Khẳng định thêm một lần nữa vai trò quyết định của lý tưởng trong cuộc
sống, đặc biệt là với lứa tuổi thanh niên, “mùa xuân của xã hội”
B. BÀI LÀM THAM KHẢO
216
Đề bài : Văn hào Nga Léptônxtôi nói “Lý tƣởng là ngọn đèn chỉ đƣờng. Không có
lý tƣởng thì không có phƣơng hƣớng kiên định, mà không có phƣơng hƣớng thì
không có cuộc sống”. Phát biểu suy nghĩ của anh, chị về vấn đề này.
Mở bài
Một chiếc thuyền sẽ trôi lay lắt trên dòng sông mù sương, chẳng bao giờ có thể
tìm được một bến đậu bình an, tươi sáng, nếu không có một bánh lái vững vàng, đúng
đắn. Cũng như vậy, một con người sẽ khó có được một cuộc sống có ý nghĩa, đáng tự
hào, nếu như thiếu một lý tưởng cao đẹp. Để khẳng định vai trò vô cùng to lớn có ý
nghĩa quyết định của lý tưởng đối với một cuộc đời, nhà văn Nga vĩ đại Lép-Tôn-xtôi
đã nói: “Lý tƣởng là ngọn đèn chỉ đƣờng. Không có lý tƣởng thì không có phƣơng
hƣớng kiên định, mà không có phƣơng hƣớng thì không có cuộc sống”.
Thân bài
1. Thế nào là lý tƣởng? Vì sao lý tƣởng là ngọn đèn? Những quan niệm
chƣa đúng về lý tƣởng.
- “Lý tƣởng là tƣ tƣởng và mục đích đƣợc coi là cao nhất, tốt đẹp nhất cần đạt
đến” (Từ điển tiếng Việt). Như vậy lý tưởng là mục đích, ước mơ, nó có ý nghĩa định
hướng cho cuộc sống con người, giúp con người có khát vọng lớn lao, nghị lực phi
thường để vượt qua mọi gian nan, khổ ải, mọi cám dỗ tầm thường để vươn tới những
sự nghiệp có ích, cao cả. Lý tưởng trở thành kim nam châm, ngọn Hải đăng hướng dẫn
con tàu cuộc đời chúng ta đi đúng hướng không bao giờ lạc đường giữa đại dương
mênh mông của cuộc sống không ít giông tố bão bùng. Ngọn Hải đăng ấy còn rọi
chiếu ánh sáng lên từng ý nghĩ, việc làm của mỗi bản thân chúng ta. Lý tưởng sẽ làm
cho cuộc sống của mỗi con người chúng ta thú vị, phong phú, sinh động, lấp lánh sắc
màu như cây cỏ xanh tươi được tắm nắng mặt trời. Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, vị
anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, ngay từ thuở thiếu thời đã có “một ham
muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nƣớc ta hoàn toàn độc lập, dân ta đƣợc hoàn
toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng đƣợc học hành” và sau này
Người cũng luôn luôn mang trong tim niềm khát khao cháy bỏng là tìm một “Hình”
mới của nước, một hình thái mới của chế độ nhằm đưa lại hạnh phúc cho toàn thể dân
tộc. Chính lý tưởng cao đẹp ấy, khát vọng cháy bỏng ấy, đã giúp Người đi khắp chân trời
Châu Mỹ, Châu Âu, không bao giờ lầm đường, lạc lối và cho Người một nghị lực phi
thường “Một viên gạch hồng chống lại cả mùa băng giá” của thành Ba Lê đầy gió tuyết.
Nhà thơ Tố Hữu “lá cờ đầu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam”, một vị lãnh tụ cao cấp
của Đảng đã có lần tâm sự: nếu không gặp được lý tưởng của Đảng thì may lắm ông cũng
chỉ là người vô tội và đời ông sẽ khô như “cây sậy bên đƣờng” “Đâu dám ƣớc làm hoa
thơm trái ngọt”; “sẽ chết lặng im nhƣ con chim không bao giờ đƣợc hót. Một tiếng ca
lảnh lót cho đời”. Lý tưởng cách mạng đã trở thành “ngọn đèn chỉ đƣờng”, chiếc bánh lái
giúp cho con thuyền thơ của ông đi đúng đường, đúng hướng: “Thuyền bơi có lái qua
giông tố; không lái thuyền trôi lạc bến bờ”.
Trong cuộc cách mạng giành chính quyền, trong cuộc kháng chiến chống Pháp,
chống Mĩ và ngay nay, trong sự nghiệp xây dựng đất nước giàu mạnh, có biết bao con
người nhờ mang trong mình một lý tưởng, ước mơ đúng đắn, cao cả mà họ đã làm cho tuổi
thanh niên của mình không phải bình thản trôi qua vô vị mà bước kế bước vững vàng tới
tuổi thanh xuân huy hoàng và tráng lệ. Đó là những Lý Tự Trọng, Võ Thị Sáu, Bế Văn Đàn,
Nguyễn Viết Xuân, Nguyễn Văn Trỗi, Vũ Thị Tỵ, Cù Thị Hậu, Đào Thị Hào, Nguyễn Tử
Quảng, Nguyễn Thanh Huyền, Hoàng Anh Tuấn …
217
Những điều đã trình bày trên đây cho thấy lý tưởng quả đúng là vô cùng quan
trọng, có ý nghĩa “nhƣ ngọn đèn chỉ đƣờng” cho mỗi cuộc đời. Một điều cần phải
khẳng định là lý tưởng sống của con người phải gắn chặt với xã hội, với lợi ích của
nhân dân, đất nước, thì lý tưởng đó mới cao cả, mới thiết thực và đúng đắn. Đừng
nhầm lý tưởng với tham vọng cá nhân tầm thường, những ham muốn độc ác, tội lỗi.
Chẳng hạn muốn mình nổi tiếng đã cố đạt được bằng mọi cách như các tên hôn quân, bạo
chúa trong lịch sử sẵn sàng chà đạp lên số phận mọi người để gặt hái “chiến công” cho
mình. Hay ngày nay có nhiều thanh niên khát khao làm giàu không chính đáng, thích
hưởng lạc nên đã lao vào những cuộc “đỏ đen” chơi đề, đánh bạc, trộm cắp, cướp giật,
miệt mài truy hoan thâu đêm suốt sáng trong các vũ trường, quán Karaoke…
2. Vì sao cuộc sống thiếu lý tƣởng không phải là cuộc sống?
Cuộc sống thiếu lý tưởng, hoặc lý tưởng viển vông, tách rời hiện thực, không
nhằm vào một cái gì có ý nghĩa cả, sẽ làm cho con người kém dần nghị lực, trở thành lười
biếng, bất lực, hoài nghi, ích kỷ và đau khổ. Cuộc đời của họ sẽ trở nên tẻ nhạt, chán ngắt,
héo hắt đến thảm hại và vô nghĩa lý biết chừng nào! Chẳng thế mà nhà tỷ phú Bin-ghết,
người được tuổi trẻ toàn nhân loại hết sức ngưỡng mộ vì ý chí tiến thủ, khát vọng làm
giàu chân chính, đã từng phát biểu: “Nếu cả đời chỉ cầu sự bình an, không bao giờ để bản
thân theo đuổi những mục tiêu cao hơn, không dám giang rộng cánh bay lên, nhƣ thế thì
cuộc đời chẳng còn ý nghĩa gì”.
3. Liên hệ bản thân
- Anh chị đã ấp ủ cho mình ước mơ, lý tưởng gì? Vì sao anh, chị lại xác định cho
mình lý tưởng đó? Anh, chị sẽ hành động như thế nào để biến ước mơ của mình trở thành
hiện thực?
Kết luận Văn hào nước Nga Xô Viết Mác-xim Gor-ki, khi nghĩ về con người đã không nén
nổi xúc động thốt lên “Con ngƣời! ôi hai tiếng ấy vang lên mới tự hào và kiêu hãnh làm
sao!”. Muốn cho con người mãi là bông hoa của Trái Đất, niềm tự hào của mỗi chúng ta,
hãy ấp ủ cho mình một lý tưởng cao quý và không ngừng chiến đấu cho lý tưởng đó, để
chúng ta được sống mãi trong lòng mọi người. Vì như văn hào Lỗ Tấn đã khẳng định:
“Ngƣời ta chỉ thực sự chết khi đã chết hẳn trong trái tim của ngƣời đời”.
Đề 3a: Suy nghĩ về công cha nghĩa mẹ và việc đền ơn đáp nghĩa các liệt sĩ
A. HƢỚNG DẪN LÀM BÀI
Đề này cần:
1. Ca ngợi công lao sinh thành và nuôi dƣỡng của ngƣời mẹ.
Mẹ mang nặng đẻ đau chín tháng mười ngày. "Nghĩa mẹ như nước trong nguồn
chảy ra". Mẹ theo ta suốt cả cuộc đời.
2. Ca ngợi tình mẫu tử
Tình mẫu tử là cao quý, thiêng liêng, đặc biệt và sâu sắc nhất trong các tình cảm
của con người.
Người mẹ hy sinh suốt đời để chăm sóc nuôi dưỡng con cả thể xác và tinh thần.
218
Mẹ là người thầy đầu tiên dìu dắt, dạy dỗ, là điểm tựa tinh thần vững chắc của đời con.
3. Phải sống hiếu thảo với mẹ.
Luôn biết ơn công lao sinh thành nuôi dưỡng của mẹ.
Sống có hoài bão, lý tưởng, chăm học, chăm làm, tu dưỡng làm người thành đạt,
người tót là thiết thực báo hiếu với cha mẹ.
Chăm sóc cha mẹ khi ốm đau, già yếu.
4. Phê phán những ngƣời con có hành động chƣa xứng đáng, chƣa hiếu
thảo với mẹ.
Phê phán những người con bất nhân, bất hiếu với mẹ. Những người có bệnh
lười học, sống hoang phí, nghiện hút, cờ bạc là chưa có hiếu với mẹ.
B. BÀI LÀM THAM KHẢO
Mở bài
Trong bài thơ “Việt Bắc”, Tố Hữu đã mượn lời người ở lại để nhắc nhở chính
mình và cũng là nhắc nhở mọi người hãy nhớ lấy đạo lý uống nước nhớ nguồn, ân tình
chung thủy vốn là đạo lý lớn nhất, đẹp nhất của dân tộc Việt Nam:
“Mình về, mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
Thân bài:
1.Công ơn đối với cha mẹ
Ca dao xưa đã dạy: “Một lòng thờ mẹ kính cha,cho tròn chữ hiếu mới là đạo
con”. Làm con phải có đạo hiếu. Đạo hiếu đó trước hết phải nghĩ đến công ơn của bố
mẹ; mà nói về công ơn của bố mẹ đối với mỗi chúng ta, thì không bút mực nào kể cho
xiết. Chả thế mà cha ông ta xưa đã ví “Công cha nhƣ núi Thái Sơn;Nghĩa mẹ nhƣ
nƣớc trong nguồn chảy ra”. Chỉ có núi Thái Sơn vĩnh hằng và kì vĩ mới có thể sánh
được với công cha; chỉ có nước trong nguồn chảy bất tận, không bao giờ khô cạn, mới
có thể sánh được với nghĩa mẹ không cùng. Bởi vì mẹ ta đã sinh ra ta, cho ta sự sống.
Cái công ấy, chỉ có Chúa mới sánh được. Mẹ đã mang nặng, đẻ đau để cho ta được cất
tiếng khóc chào đời, trở thành bông hoa của trái đất. Từ thuở ấu thơ, trong vành nôi, ta
đã được mẹ ấp iu, nâng giấc, cho ta những dòng sữa ngọt ngào cả thể chất lẫn tâm hồn:
“Mẹ ra cái lẽ ở đời
Sữa nuôi phần xác,hát nuôi phần hồn”
(Nguyễn Duy)
Mẹ ta chẳng quản một nắng hai sương, tần tảo như “Con cò lặn lội bờ sông”,
chịu bao gian nan vất vả chăm sóc ta khi trái gió trở trời và dành dụm chắt chiu nuôi ta
khôn lớn, cho ta ăn học nên người. Nghĩ về mẹ, lúc ở xa, Nguyễn Duy viết:
“Nhìn về quê mẹ xa xăm
Lòng ta vạt ƣớt mẹ nằm đêm mƣa”
Đọc những câu thơ như thế, tôi cứ thấy cay cay nơi sống mũi. Gia cảnh đói
nghèo, vách đất, tranh thưa, đêm mưa nhà dột, mẹ dành tất cả chỗ ướt cho mình và
dành chỗ khô cho con. Ôi! Thật cảm động đến rơi nước mắt.
Còn cha ta, cũng như mẹ, cho ta tình thương yêu và dạy ta điều hay, điều phải,
uốn nắn cho ta, khơi dậy trong ta những ước mơ, khát vọng cao đẹp để ta bước thẳng
219
hai chân kiêu hãnh làm người. Đúng là công ơn cha mẹ, tổ tiên bao la như núi rừng,
mênh mông như biển cả.
2.Công ơn của các bậc tiền bối, liệt sĩ
Còn công lao của các bậc tiền bối, liệt sĩ thì sao? Ở nước ta, con đường đến với
bến bờ độc lập, tự do của dân tộc không phải là con đường rợp bóng mát hạnh phúc và
niềm vui, mà là con đường đầy gian khổ hi sinh:
“Đâu phải đƣờng xanh, đƣờng qua máu chảy
Năm mƣơi năm, máu đỏ thành hoa
Cuộc sinh nở nào mà đau đớn vậy
Rất tự hào mà xót tận trong da”
(Tố Hữu)
Đúng là phải bao máu thấm trong lòng đất, mới “ánh hồng lên sắc tự hào”. Để
có được lá cờ đỏ sao vàng tuy bay suốt từ Bắc chí Nam trong ngày hội 19- 8- 1945; để
có được lá cờ đỏ chiến thắng kiêu hãnh bay trên nóc hầm Đờ Cát ở Điện Biên và để có
được ngày 30- 4 lịch sử, thành phố Hồ Chí Minh “ngập tràn nắng đẹp” và “lộng lẫy
cờ hoa”, đã có biết bao chiến sĩ cách mạng, chiến sĩ bộ đội, những người cộng sản đã
phải đổ máu, rơi đầu trong các nhà tù, trên các máy chém, ngoài bãi bắn, trên các trận
địa nóng bỏng đạn bom. Đúng là “Mỗi thây rơi là một nhịp cầu; cho ta bƣớc tới cõi
đời cao rộng”. Công ơn của tổ tiên, của các liệt sĩ thật là lớn lao, ân nghĩa của các bậc
tiền bối thật là vô hạn.
3.Chúng ta phải làm gì để đền đáp công ơn của bố mẹ, các liệt sĩ? Phải đền
ơn, đáp nghĩa nhƣ thế nào?
Nhà thơ Tố Hữu đã từng viết: “Đã là con chim thì con chim phải biết hót.Đã là
chiếc lá phải xanh;lẽ nào vay mà không có trả?” Được trưởng thành lớn khôn, ngày
ngày cắp sách đến trường, lên giảng đường như hôm nay, chúng ta đã “vay”, đã mắc
nợ quá nhiều: nợ cha mẹ, tổ tiên, các vong hồn liệt sĩ, nợ quê hương đất nước…Có lẽ
nào, chúng ta “có vay mà không có trả”, nhắm mắt ăn “quỵt” một cách đớn hèn và tủi
hổ ư? Chúng ta kiên quyết phải trả, trả bằng mọi cách, trả dưới mọi hình thức. Trước
hết, nỗ lực hết mình, ra sức học tập, tu dưỡng để trở thành trò ngoan, người con hiếu
thảo, người cán bộ, chiến sĩ có danh thơm đáng tự hào sau này. Bởi vì:
“Ai mà phụ nghĩa, quên công
Thì đeo trăm cánh hoa hồng,chẳng thơm”
(Ca dao)
Và chúng ta phải:
“Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”
(Ca dao)
Sau nữa, sẽ tích cực làm những việc nhỏ mà nghĩa lớn, trong khả năng của
mình như tiết kiệm tiền để giúp đỡ người nghèo, hiến máu nhân đạo, cứu người, tích
cực xây dựng quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”.
B. BÀI THAM KHẢO
TÁC DỤNG CỦA SÁCH
220
Sách là báu vật không thể thiếu đối với mỗi người. Phải biết chọn sách mà đọc
và trân trọng, nâng niu những cuốn sách quý về vũ trụ bao la, về những đất nước và
những dân tộc xa xôi. Những quyển sách khoa học có thể giúp người đọc khám phá ra
những vũ trụ vô tận với những quy luật của nó, hiểu được Trái Đất tròn mang trên
mình nó bao nhiều đất nước khác nhau. Những quyển sách xã hội học lại giúp ta hiểu
biết về đời sống con người trên các phần đất khác nhau đó với những đặc điểm về kinh
tế, lịch sử, văn hoá, những truyền thống, những khát vọng.
Sách, đặc biệt là những cuốn sách văn học, giúp ta hiểu biết về đời sống bên
trong của con người qua các thời kì khác nhau, ở các dân tộc khác nhau, những niềm
vui và nỗi buồn, hạnh phúc và đau khổ, những khát vọng và đấu tranh của họ.
Sách còn giúp người đọc phát hiện ra chính mình, hiểu rõ mình là ai giữa vũ
trụ bao la này, hiểu mỗi người có mối quan hệ như thế nào với người khác, với tất cả
mọi người trong cộng đồng dân tộc và cộng đồng nhân loại này. Sách giúp cho người
đọc hiếu được đâu là hạnh phúc, đâu là nỗi khổ của mỗi người và phải làm gì để sống
cho đúng. và để đi tới một cuộc đời thật sự. Sách mở rộng những chân trời ước mơ và
khát vọng.
(Theo Làm văn 10, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2000. Nhan đề do NBS đặt - dẫn
theo Nguyễn Xuân Lạc)
Hành trang vào thế kỉ mới của ngƣời Việt Nam
Tri thức là quan trong nhất
Tết năm nay là một sự chuyển tiếp giữa hai thế kỉ, và hơn thế nữa, là sự chuyển
tiếp giữa hai thiên niên kỉ. Trong thời khắc như vậy, ai ai cũng nói tới việc chuẩn bị
hành trang bước vào thế kỉ mới, thiên niên kỉ mới.
Trong những hành trang ấy, có lẽ sự chuẩn bị của bản thân con người !à quan
trọng nhất. Từ cổ chí kim bao giờ con người cũng là động lực phát triển của lịch sử.
Trong thế kỉ tới mà ai ai cũng thừa nhận rằng nền kinh tế tri thức sẽ phát triển mạnh
mẽ thì vai trò của con người ngày càng nổi trội.
Cần chuẩn bị những cái cần thiết trong hành trang vào thế kỉ mới trong khi
chúng ta đã chứng kiến sự phát triển như huyền thoại của khoa học và công nghệ, làm
cho tỉ trọng trí tuệ trong một sản phẩm ngày càng lớn. Chắc rằng chiều hướng này sẽ
ngày càng gia tăng. Hơn nữa với tác động của những tiến bộ về khoa học và công nghệ,
sự giao thoa, hội nhập giữa các nền kinh tế chắc chắn sẽ sâu rộng hơn nhiều.
Trong một thế giới như vậy, nước ta lại càng phải cùng một lúc giải quyết ba
nhiệm vụ: thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu của nền nông nghiệp, đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đồng thời phải tiếp cận ngay với nền kinh tế tri thức.
Làm nên sự nghiệp ấy đương nhiên là những con người Việt Nam với những điểm
mạnh và điểm yếu của nó.
Cái mạnh của người Việt Nam không chỉ chúng ta nhận biết mà cả thế giới đều
thừa nhận là sự thông minh, nhạy bén với cái mới. Bản chất trời phú ấy rất có ích
trong xã hội ngày mai mà sự sáng tạo là một yêu cầu hàng đầu. Nhưng bên cạnh cái
mạnh đó cũng tồn tại không ít cái yếu. Ấy là những lỗ hổng về kiến thức cơ bản do
thiên hướng chạy theo những môn học “thời thượng” nhất là khả năng thực hành và
sáng tạo bị hạn chế do lối học chay, học vẹt nặng nề. Không nhanh chóng lấp những lỗ
hổng này thì thật khó bề phát huy trí thông minh vốn có và không thể thích ứng với
nền kinh tế mới chứa đựng đầy những tri thức cơ bản và biển đổi không ngừng.
221
(Theo Vũ Khoan. Lược dịch từ Một góc nhìn của tri thức, tập 2, NXB Trẻ,
Thành phố Hồ Chí Minh, 2002)
222
ĐỀ THI THAM KHẢO
Đề thì thử Đại học lần thư 2-2009. Trường ĐHSP Hà Nội khối chuyên
Đề 4a: Anh/chị hãy viết một bài văn khoảng 600 tiếng trình bày suy nghĩ của mình
về ý kiến sau đây của M.L.King :
“Trong thế giới này, chúng ta xót xa không chỉ vì lời nói và hành dộng của
những kẻ xấu mà còn cả vì sự im lặng đáng sợ của những người tốt:
Hướng dẫn làm bài :
Ý chính Điểm
Giải thích ngắn gọn khái niệm và toàn bộ câu nói với hai vế
- Xót xa vì lời nói ( phát ngôn ) và hành động ( việc làm ) của kẻ xấu
( trái với đạo đức, pháp luật, tinh thần nhân văn )
- Xót xa vì sự im lặng ( lảng tránh, vô cảm..) đáng sợ của người tốt
0.75
Tại sao trước những hiện tượng ấy, ta lại phải “xót xa” như vậy?
- Lời nói và hành động kẻ xấu : tác động tiêu cực tới cả cá nhân, gia
đình, nhà trường và xã hội.
- Sự im lặng của người tốt ở một khía cạnh nào đấy là sự đồng lõa với
cái xấu, là ích kỷ, hèn nhát, làm mất niềm tin, mất phương hướng cho
người tích cực..
0.75
Phải làm gì để không có nỗi xót xa ấy :
- Có nhận thực đúng đắn để không trở thành kẻ xấu ( trong lời nói, hành
động..)
- Đấu tranh với đối tượng tiêu cực
- Tuyên truyền, thức tỉnh những người tốt lên tiếng chống lại kẻ xấu
0.75
Liên hệ thực tế với tuổi học sinh :
- Lời nói và hành vi không đẹp của học sinh ( nói bậy, luời biếng, a dua,
ích kỷ..)
- Sự im lặng của những hoc sinh ngoan trước hiện tượng gian lận trong
thi cử
0.75
Đề thì thử Đại học lần thư 3-2009. Trường ĐHSP Hà Nội khối chuyên
Đề bài 5a : “Danh dự là viên ngọc vô giá, đừng để ai chà đạp lên đó cả, dù
người đó có là ai, dù họ có quyền lực đến mức nào đi chăng nữa” ( Trích “Nhật ký
Đặng Thùy Trâm”)
Anh/ chị hãy viết một bài văn khoảng 600 tiếng ( âm tiết ) trình bày suy nghĩ
của mình về quan niệm trên đây
A. HƢỚNG DẪN LÀM BÀI
Hs phải bộc lộ được kỹ năng làm bài văn nghị luân xã hội ( khoảng 600 tiếng/ âm tiết ),
bộc lộ được quan niệm đúng đắn, những hiểu biết xã hội..
Ý chính Điểm
Giải thích ngắn gọn khái niệm và nội dung câu nói :
- Danh dự : là tiếng tăm tốt của một người ( định nghĩa của
từ điển ), là hình ảnh một người trong con mắt của những
người khác. Nói một cách chung nhất danh dự chính là sự
đánh giá nhân cách một con người.
- Viên ngọc quý : cách diễn đạt bằng hình ảnh thể hiện sự
quan trọng, quý giá của danh dự. Đó là cái vô hình mà
0.75
223
thiêng liêng không có gì sánh được “Danh dự quý hơn tính
mệnh”. Đó là cái quan trọng nhất làm nên ý nghĩa của một
con người.
- “Đừng để ai chà đạp…” vế hai là hệ quả của vế thứ nhất,
đó là lời khuyên, lời nhắc nhở : danh dự quý giá nên cần
phải giữ gìn, bảo vệ với thái độ kiên quyết
(nếu nói đƣợc thêm về “Nhật ký Đặng Thùy Trâm thì tốt )
Chứng minh, bình luận :
- Hai chữ “con người” bản thân nó không chỉ là danh từ mà
còn là danh hiệu. Cần có ý thức phấn đấu hoàn thiện, sống
xứng đáng với danh hiệu “CON NGƯỜI”
- Người Phương Đông nói chung, người Việt Nam nói riêng
có truyền thống coi trọng danh dự :
- Tác giả của những lời này, liệt sĩ – bác sĩ Đặng Thùy Trâm
chính là một tấm gương của sự coi trọng dnah dự ( danh dự
cá nhân, danh dự thế hệ, danh dự Tổ quốc )
( Hs lấy thêm dẫn chứng trong đời sống, văn học để chứng
minh )
1.0
Để bảo toàn danh dự, mỗi con người cần phải có ý thức sâu sắc về
việc giữ gìn bảo vệ, không để cho người khác xúc phạm. Song
cần phải thấy rằng danh dự của một con người chủ yếu là do
người đó tạo nên. Đó là kết quả của sự nỗ lực tao dựng cũng như
giữ gìn.
0.5
Liên hệ thực tế :
- Xã hội hiện đại, cuộc sống bề bộn, nhiều giá trị bị đảo lộn.
Quan niệm về danh dự có những thay đổi nhưng vẫn cần
phải xem đó là hằng số của giá trị con người.
- Bản thân người viết có suy nghĩ gì, có bài học nào về việc
tạo dựng và giữ gìn danh dự ( từ tư cách một học sinh )
0.75
224
Đề bài 6a: Một nhà văn Nga có nói: “Nơi lạnh nhất không phải là Bắc Cực mà là
nơi không có tình thương”. Anh/chị có suy nghĩ gì về câu nói trên?
A. HƢỚNG DẪN LÀM BÀI
Đề này cần:
1.Giải thích nội dung,ý nghĩa câu nói
-Về mặt khí tượng học thì Bắc cực là nơi lạnh nhất
-Tuy nhiên,xét về quan điểm nhân sinh,Bắc Cực vẫn chưa phải là nơi lạnh nhất.
-Vì,theo quan điểm nhân sinh,xét về phương diện trái tim,nơi lạnh nhất là nơi không
có tình thương. “Sợ nhất là tâm hồn tật nguyền,vô cảm”.
-Thế nào là tình thương và vai trò,ý nghĩa của nó đối với cuộc sống con người.
2.Chứng minh bằng thực tế và văn học
-Tình thương của các nhân vật nghèo khổ trong tác phẩm “Vợ nhặt”.
-Tấm lòng vị tha tràn đầy yêu thương của nhân vật Giăng-van-giăng trong tác phẩm
“Những người khốn khổ”
-Phong trào ủng hộ Quỹ vì người nghèo,Quỹ nạn nhân chất độc da cam,Quỹ cứu trợ
thiên tai ...v...v.. sôi nổi rộng rãi trong nhân dân ta nhiều năm qua chứng minh rằng
dân tộc ta đang nghèo nhưng có tấm lòng nhân văn cao cả “lá lành đùm lá rách”.
3.Liên hệ bản thân
4.Phƣơng pháp biện luận Giải thích,bình luận,chứng minh,mở rộng,liên hệ.
B. BÀI LÀM THAM KHẢO
I/ Mở bài
Nhiều lần xem ti-vi thấy quang cảnh Bắc Cực bốn mùa băng tuyết. Ở đó nhiệt
độ luôn luôn dưới không độ, không có cây cối, chỉ có những núi băng điệp điệp trùng
trùng lạnh giá, tôi cứ tưởng đó là nơi lạnh giá nhất của thế giới chúng ta. Nhưng giờ
đây, bước vào tuổi mười bay, đôi mươi, qua việc quan sát và suy ngẫm về cuộc sống
xung quanh ta và về thế giới loài người, tôi mới thấm thía một sự thực tưởng như
nghịch lí nhưng đúng là một quy luật của trái tim: “Nơi lạnh giá nhất không phải là
Bắc Cực mà là nơi không có tình thƣơng”.
II/ Thân bài
1)Theo quan điểm của khí tƣợng học thì Bắc Cực là nơi lạnh nhất của Địa
Cầu. Dưới cái nhìn của khí tượng học, thì Bắc Cực là nơi lạnh nhất. Vì Trái Đất của
chúng ta là một hành tinh được chiếu sáng và sưởi ấm bởi Mặt Trời. Nơi nào gần Mặt
Trời, được Mặt Trời chiếu rọi nhiều nhất thì nơi đó quanh năm ấm nóng. Đó là những
miền đất gần xích đạo. Còn những nơi xa Mặt Trời, được quả cầu lửa chiếu sáng ít thì
thiếu ánh sáng và rất lạnh giá. Tiêu biểu là vùng Bắc Cực. Đó là vùng đất bốn mùa
tuyết phù, vùng đất của giá băng. Quanh năm nhiệt độ dưới không độ, con người khó
225
mà sinh tồn và phát triển được ở nơi ấy. Quả đúng là xét về mặt khí hậu, thì Bắc Cực
là nơi lạnh lẽo nhất của Trái Đất mà loài người từng biết đến
2) Tuy nhiên xét về quan điểm nhân sinh, Bắc Cực vẫn còn chƣa phải là nơi
lạnh giá nhất
Tuy vậy, dù rằng trên Trái Đất này, Bắc Cực là nơi lạnh giá nhất, quanh năm chỉ có
tuyết và băng, chỉ có rất ít động vật có khả năng thích nghi đặc biệt với cái lạnh thì
mới có thể sinh tồn và phát triển được. Nhưng nơi ấy là cái lạnh được tạo nên bới
không gian, vị trí đại lý, điều kiện khí hậu của đất trời. Với bầu không khí lạnh giá ấy,
dù sao con người, nhất là con người của thời đại khoa học kĩ thuật công nghệ phát
triển như ngày nay vẫn có thể có nhiều phương thức khác nhau để chống chọi lại và
chế ngự được cái lạnh khủng khiếp ấy để sinh sống và thám hiểm nơi “miền đất chết”
đó như trang bị những dụng cụ, quần áo chống rét, đốt lửa sưởi. Hằng năm vẫn có
những nhà khoa học đã và đang sống và làm việc trên Bắc Cực để ghi lại những thước
phim sinh động về cuộc sống trên băng tuyết của những động vật xứ lạnh như hải cẩu,
chim cánh cụt… hoặc những bản tin thời tiết cập nhật hằng ngày gửi về trung tâm khí
tượng, giúp loài người thấy được những biến đổi khí hậu nơi đó đã ảnh hưởng đến bầu
khí quyên Trái Đất như thế nào. Vì thế, Bắc Cực tuy nhiệt độ thời tiết rất thấp, khí hậu
rất khắc nghiệt, nhưng con người với ý chí, nghị lực và khát vọng, niềm đam mê khám
phá, cùng các phương tiện khoa học hỗ trợ vẫn có thể sống và làm việc được ở nơi
lạnh giá khủng khiếp ấy. Như vậy Bắc Cực vẫn chưa phải là nơi lạnh giá nhất.
3) Xét về phƣơng diện trái tim, nơi lạnh giá nhất phải là nơi không có tình
thƣơng.
Mà nơi lạnh lẽo nhất trên thế gian này là nơi thiếu tình thương, thiếu không khí ấm
áp của tình người. Cái lạnh của Bắc Cực là cái lạnh được cảm nhận bằng cảm giác da
thịt. Cái lạnh ấy, loài người vẫn có cách khác phục, còn cái lạnh của lòng người, của
tình thương là cái lạnh của trái tim thì con người không sao khắc phục được và không
thể chịu đựng nổi. Nếu như cái lạnh từ da vào thịt, tuy ghê gớm, nhưng không đáng sợ
lắm, thì cái lạnh từ tim ra là cái lạnh khủng khiếp nhất, đáng sợ nhất, không một công
nghệ khoa học nào, dù siêu hiện đại cũng không thể khắc phục, chế ngự được. Nếu
không có tình thương thì dù đang sống giữa một miền đất chan hòa ánh sáng mùa xuân,
trăm hoa đua nở, khoe sắc thắm tươi, con người vẫn cảm thấy tất cả chỉ là hoang mạc
lạnh giá, không mảy may dấu hiệu của sự sống. Vậy thế nào là tình thương? Vì sao nó
có vai trò và sức mạnh kì diệu đối với con người hơn cả khí hậu, ánh nắng mặt trời?
4) Thế nào là tình thƣơng và vai trò, ý nghĩa của nó đối với cuộc sống con
ngƣời
Tình thương là tình cảm đẹp đẽ, tự nhiên giữa con người và con người, là tấm lòng
chân thật, cảm thông, thương yêu, hy sinh cho nhau, là khởi đầu của mọi tính cảm
rộng lớn và thiêng liêng cao cả nhất. Đó có thể là tình cảm cha mẹ, con cái trong gia
đình, xa rộng hơn nữa là tình yêu, tình bạn bè, hàng xóm, quê hương, đồng loại,…
Tình thương không chỉ được biểu hiện bằng cảm xúc, những rung động của trái tim,
mà quan trọng hơn còn được thể hiện bằng hành động như những lời hỏi thăm, động
viên, an ủi chia sẻ với những người khác khi người đó gặp điều bất hạnh, không may
mắn trong cuộc sống.
226
Tình thương có một vai trò và ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với cuộc sống con
người. Theo Nam Cao nó là tiêu chuẩn quan trọng nhất để xác nhận tư cách làm
người: “ Hắn ( chỉ Hộ, nhân vật chính trong tác phấm “Đời thừa” của Nam Cao) có thể
từ bỏ tình yêu,thứ tình yêu vị kỉ. Nhƣng hắn không thể bỏ tình lòng thƣơng. Hắn có thể
hèn nhát, nhƣng nhƣ thế hắn vẫn đƣợc gọi là ngƣời… Nếu không có tình thƣơng thì
con ngƣời chỉ là con vật bị sai khiến bởi lòng ích kỷ ”. Đối với con người chúng ta,
tình thương là sức mạnh, tình thương là hạnh phúc. Một lời nói dịu dàng, đầy tình thân
ái, một lời an ủi động viên, khích lệ, một hành động giúp đỡ cưu mang người khác
trong khó khăn hoạn nạn sẽ giúp cho người đó có thêm sức mạnh, ý chí nghị lực vượt
qua tất cả, để hướng về phía trước với nụ cười tươi vui, rạng rỡ. Người nào luôn luôn
dành cho người khác những tình cảm yêu thương, nhân ái, người đó không chỉ mang
lại niềm hạnh phúc cho họ, mà chính bản thân mình cũng được hưởng hạnh phúc,
được sống trong niềm vui thanh thản của trái tim. Nếu mọi người sống trong tình yêu
thương nhân ái, thì xã hội loài người luôn được sống trong bầu không khí ấm cúng
chan hòa, bất chấp khí hậu đất trời khắc nghiệt đầy lạnh giá. Đại văn hào nước Pháp
Huy-gô đã có một câu nói nổi tiếng: “Con ngƣời sống không có tình thƣơng cũng
giống nhƣ vƣờn hoa không có ánh Mặt Trời, không có gì đẹp đẽ và hữu ích có thể nảy
nở trong đó đƣợc”
5)Chứng minh bằng thực tế và văn học.
Đọc “Vợ nhặt”, mỗi chúng ta ai cũng thấm thía, cảm động trước tấm lòng nhân ái,
vị tha bao la của bà cụ Tứ. Giữa cơn đói năm Ất Dậu khủng khiếp, ngoài đường ngập
đầy tử khí, trong nhà phải ăn cháo cám. Nhưng những lời đông viên an ủi giàu lòng
yêu thương của bà cụ Tứ đối với con trai, con dâu đã làm với đi chất đắng chát của vị
cám nơi cổ họng để đem lại chất thơm, chất ngọt trong lòng mọi người. Tình thương
bao la ấm nóng của người mẹ đã làm cho không khí gia đình từ sự trơ trọi trở thành
đầm ấm, giá lạnh trở thành vui tươi, bóng tối âm u trở thành nắng sớm chan hòa. Tình
thương là tất cả. Đọc “Những ngƣời khốn khổ” của Huy-gô, chúng ta ai mà chẳng xúc
động trước tấm lòng tràn đầy yêu thương, vị tha của Giăng-van-giăng đối với người
phụ nữ khổ đau Phăng-tin trong giây phút hấp hối. Ông như người mẹ hiền chăm chút
cho đứa con yêu: ông nhẹ nhàng thắt lại dây rút cổ áo, vén gọn tóc vào trong chiếc mũ
vải, rồi ông vuốt mặt cho chị. Sau đó ông ghé miệng thì thầm vào tai chị. Thế là trên
đôi môi nhợt nhạt của Phăng-tin đã hiện lên một nụ cười không sao tả nổi. Con người
vô cùng đau khổ ấy, trước lúc giã từ cõi thế gian còn được Giăng-van-giăng ban cho
nụ hôn chân thành và thánh thiện. Nụ hôn ấy đã khiến cho linh hồn chị trở thành thiên
thần với đôi cánh kỳ diệu bay nhè nhẹ vào bầu trời trong sáng của cõi vĩnh hằng. Đúng
tình thương là nguồn ấm nóng như vầng dương và có một sức mạnh vô song và đầy
huyền bí.
Ta có thể tìm được rất nhiều dẫn chứng cảm động và đầy thuyết phục về vai trò và
ý nghĩa của tình yêu thương con người. Nếu con người sống không có tình thương
giữa người và người, mà chỉ sống trong sự ích kỷ, đố kị và bằng những con mắt vô
cảm, lạnh lùng với nhau thì con người luôn chịu cảnh: “Hiu hắt nhẽ bốn phƣơng trời
vò võ; Lạnh lùng chăng sầu một khối chon von; Cô đơn muôn lần, muôn thuở cô đơn”
( Xuân Diệu). Sống trong xã hội “Tiền trao cháo múc”, không tình nghĩa trước đây,
trái tim các thi sĩ lãng mạn đặc biệt là Xuân Diệu luôn run rẩy vì: “Em sợ lắm. Giá
băng tràn mọi nẻo; Trời đầy trăng, lạnh lẽo suốt xƣơng da”. Rõ ràng là thiếu tình
người, không có tình yêu thương, cuộc đời bỗng trở thành một sa mạc đìu hiu, lạnh giá,
227
cằm cỗi, không còn sự sống, niềm vui và hy vọng. Con người tồn tại ở nơi ấy chỉ là
những cái xác không hồn
III/ Kết luận
Hiểu như vậy, chúng ta mới thấm thía câu nói của nhà văn Nga giàu sức khái quát
và mang ý nghĩa nhân văn, nhân sinh sâu sắc: “Không nơi nào lạnh lẽo hơn nơi lạnh
giá của trái tim con ngƣời trên thế gian này”.
Đề bài 7a: Trong bài thơ “Một khúc ca xuân”, Tố Hữu có viết:
…“Nếu là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc là phải xanh
Lẽ nào vay mà không có trả
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình?”
( Thơ Tố Hữu _ trang 532)
A. HƢỚNG DẪN LÀM BÀI
-Đề này cần
1.Nội dung ý nghĩa về lẽ sống “vay trả,nhận-cho”,sống phải có ích.
Đã là chiếc lá thì phải làm xanh cho đời. Đã là con chim thì phải dâng cho đời
tiếng ca lảnh lót, “Tiếng chim hót trong bụi mận gai”.Đã là người thì phải có lẽ
sống.Lẽ sống của con người là phải sống có ích,sống có nhận,có cho,có vay,có trả.
2.Thế nào là lẽ sống đẹp “Có vay có trả,có ích cho đời”
Sống ở đời là đã ,mắc nợ.Cha mẹ cho ta cuộc đời,nhân dân đất nước cho ta cho
ta nơi ở thanhbình,cuộc sống bình an,để ta học hành,vui chơi,ăn mặc,chữa
bệnh ...v..v...Ta phải trả cho đời bằng cuộc sống có ích,cống hiến...
3.Chứng minh bằng thực tế và hình tượng văn học
Các anh hùng liệt sĩ Hoàng Văn Thụ,Võ Thị Sáu,Lý Tự Trọng,Nguyễn Văn
Trỗi,Đặng Thùy Trâm,Nguyễn Văn Thạc...v..v.. là những tấm gương có lẽ sống đẹp.
Hình tượng cô thanh niên xung phong trong thơ Phạm Tiến Duật, “Người mẹ
cầm sung”của Nguyễn Thi về hình tượng người mẹ,chị Sứ ...v...v...
4.Phê phán lối sống chưa đẹp của một số bộ phận thanh niên
Một bộ phận thanh niên ngày nay chưa có lẽ sống đẹp,dẫn tới lối sống chưa
đẹp.Họ đua đòi,ăn chơi,lười học,lười làm việc,xa hoa,lãng phí.Họ nhận nhiều hơn
cho,vay mà không trả.Nhiều khi họ trở thành người bất hiếu,vô ơn bạc nghĩa,huỷ hoại
cuộc đời họ và phá hoại xã hội
B. BÀI LÀM THAM KHẢO
I/ Mở bài
228
“Cái quý giá nhất của con ngƣời là đời sống. Vì đời ngƣời chỉ sống có một lần”.
Vậy phải sống sao cho “khỏi xót xa ân hận vì những năm tháng đã sống hoài sống phí,
cho khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng ti tiện và đớn hèn?”. Để trả lời với tất cả chúng ta câu hỏi
đó, trong bài “Một khúc ca xuân”, Tố Hữu đã tâm sự bằng những câu thơ giản dị mà
rất sâu sắc:
…“Nếu là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc là phải xanh
Lẽ nào vay mà không có trả
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình?”
II/ Thân bài
1)Sống phải có ích
Bằng hình ảnh “Nếu là con chim, chiếc lá; Thì con chim phải hót, chiếc là
phải xanh”, Tố Hữu muốn khẳng định trước hết sống phải có ích cho đời. Là con
chim không chỉ biết kêu mà cao hơn nữa phải biết cất tiếng hót ca lanh lảnh hót cho
đời, tạo nên những bản nhạc rộn rã tươi vui cho đất trời. Cũng như vậy, đã là chiếc
lá thì chiếc lá phải xanh tươi đưa lại sức sống cho cây cối, làm mát mắt cho đời và
hút nhiều thán khí, nhả ra nhiều ô-xy đem lại sự sống cho con người và muôn loài
vật trên trái đất này. Ngay cả những sinh vật hết sức nhỏ bé như thế, mà chúng còn
biết hiến dâng những gì tốt đẹp nhất, có ý nghĩa nhất giúp ích cho đời. Vậy, chúng
ta là những con người “Chúa tể của trần gian, kiểu mẫu của muôn loài” (Sêch-
xpia), là “Hoa của đất” (tục ngữ), là động vật duy nhất có trí tuệ và tâm hồn, chúng
ta phải làm gì và sống ra sao đây để cùng muôn loài tô điểm cho quê hương, đất
nước, cho “Trái đất này là ngôi nhà của chúng mình” ngày một tươi đẹp hơn”.
2)Con ngƣời chúng ta phải có lẽ sống đẹp. Mà sống đẹp là có “vay” có
“trả” và cao hơn nữa sống là cống hiến, hy sinh cho đời.
Muốn sống cho xứng đáng tên gọi thiêng liêng cao quý của mình “Con ngƣời! Ôi
hai tiếng ấy vang lên mới tự hào và kiêu hãnh làm sao!” (Gooc –ki), mỗi chúng ta
phải có lẽ sống đẹp. Nghĩa là phải biết ứng xử một cách đẹp đẽ giữa người với
người, giữa cá nhân với cộng đồng, với quê hương đất nước. Nói như Tố Hữu, lẽ
sống đẹp là lẽ sống có “vay” thì có “trả”, có “nhận”, thì phải có “cho”, phải cống
hiến hy sinh sức lực, tâm trí, thậm chí là cả sự sống của mình cho đời, để đời ngày
một “đàng hoàng”, “tƣơi đẹp hơn”.
Mỗi chúng ta giờ đây được sống trên đời, hít thở khí trời, đứng thẳng hai chân
kiêu hãnh làm người, chúng ta đã được nhận quá nhiều từ công sinh thành, nuôi
dưỡng của cha mẹ, ông bà tổ tiên, từ tình yêu thương đùm bọc của bà con, đồng
bào, từ sự hy sinh của biết bao anh hùng liệt sĩ đã đổ máu xương để xây dựng quê
hương và giữ gìn đất nước thanh bình tươi đẹp như hôm nay….. Điều đó cũng có
nghĩa là chúng ta đã được thừa hưởng biết bao thành quả của người đi trước để lại
và người khác đem cho. Như thế là chúng ta đã “vay”, đã “mắc nợ” người thân,
nhân dân, đất nước nhiều rồi! Là con người vốn giàu nhân cách và lòng tự trọng, lẽ
nào chúng ta nhắm mắt ắt quỵt được sao? Không! Chúng ta phải “trả”, hơn nữa
phải “cho” nhiều hơn những gì mà chúng ta đã “vay”, đã “nhận”. Đó là hành động
vừa đúng với nhân tâm, vừa hợp với Đạo lý “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “uống
nƣớc nhớ nguồn”. Cách đây hơn nửa thiên niên kỷ, thi hào dân tộc Nguyễn Trãi,
một người Việt Nam nhất trong những người Việt Nam nhất trong lịch sử quá khứ
cũng từng đã viết “Ăn lộc phải đền ơn kẻ cấy cày”, đó sao?.
229
3)Chứng minh bằng thực tế.
Trong sự nghiệp xây dựng chính quyền và bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc, ở
Việt Nam ta đã có biết bao con người sống rất đẹp cho đạo lý, lẽ sống “trả”, “vay”
đó, như Hoàng Văn Thụ, Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Thị Sáu, Nguyễn Viết Xuân,
Bế Văn Đàn, Phan Đình Giót, Nguyễn Văn Trỗi, Lý Tử Trọng, Đặng Thùy Trâm,
Nguyễn Văn Thạc,…Họ sẵn sàng “cho” cả cuộc đời, sẵn sàng đổ máu mình cho Tổ
quốc đơm hoa Độc lập, kết trái tự do. “Và em nữa. Lƣng đèo Mụ Gia, ai biết tên
em? Chỉ biết cô gái nhỏ anh hùng. Sống chết từng đêm; Mà lòng thanh thản lạ:
Đâu phải hy sinh, em vinh dự vô cùng”. (Tố Hữu – gửi TNXP).
Noi theo những tấm gương cao đẹp đó, giờ đây, những người đang sống lại tiếp
tục hy sinh, cống hiến tâm trí và sức lực của mình để làm giàu cho Tổ quốc:
“Ta lại hành quân nhƣ năm nào đánh Mĩ
Những sƣ đoàn không súng, lại xung phong
Ta lại thắng nhƣ những chàng dũng sĩ
Biến và hoang vu, thành cơm áo hoa hồng.”
(Tố Hữu).
Hàng ngày, hàng giờ trên đất nước ta có biết bao con người đã “cho” đi những
giọt mồ hôi thấm đẫm tâm não để “nhận” lại những công trình khoa học, những sản
phẩm lao động; hoặc “cho” đi những giọt máu đào nhân đạo để cho người bệnh có
nụ cười ngọt ngào, vì sự sống được hồi sinh; hoặc “cho” đi những đồng tiền mà
mình tiết kiệm được để cho những người nghèo, cơ nhỡ có những điều kiện vật
chất tối thiểu để hướng cuộc đời về phía tương lai.
4)Phê phán lối sống chƣa đẹp của một số bộ phận thanh niên. Bên cạnh biết bao con người ngày đêm miệt mài học tập, lao động, cống hiến
tài năng sức lực cho xã hội, đất nước, thì có một bộ phận không nhỏ của thanh niên
lại chỉ biết “vay” và “nhận”, thậm chí còn “nhận” quá nhiều mà không chịu “trả”.
Họ đua đòi theo con đường ăn chơi hưởng lạc: đến với vũ trường, tìm đến “nàng
tiên nâu”. “cái chết trắng”, để tiêu vèo hết cuộc đời trong chốc lát, vi những thú vui
vô nghĩa, mà không hề biết hổ thẹn. Những người có lối sống ích kỷ và bất nhân,
vô ơn bạc nghĩa ấy thật đáng phê phán, lên án, phỉ nhổ.
III/ Kết luận
Như vậy, mấy câu thơ giản dị của Tố Hữu đã thể hiện một lẽ sống biết “vay”-
“trả”; “cho”-“nhận” đúng lương tâm và đạo lí rất đẹp của người Việt Nam xưa nay.
Hiểu được lẽ sống đó, mỗi chúng ta, ở từng cương vị cuộc sống khác nhau, hãy cống
hiến hết sức mình, hãy “cho” thật nhiều và gắng làm “Một mùa xuân nho nhỏ, lặng lẽ
dâng cho đời” như nhà thơ Thanh Hải đã viết:
“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến”
230
Đề bài 8a: Hãy viết một bài văn ngắn (ko quá 600 từ) trình bày suy nghĩ của
anh/chị về ý kiến sau : “Một ngƣời đã đánh mất niềm tin vào bản thân thì chắc
chắn sẽ còn đánh mất nhiều thứ quý giá khác nữa” (Theo sách “Dám thành
công”-trang 90)
A.HƢỚNG DẪN LÀM BÀI – BÀI NÀY CẦN:
1. Giải thích ý kiến
- Lòng tự tin có vai trò quyết định trong sự thành công hay thất bại trong sự
nghiệp mỗi người.
- Không có lòng tự tin, “đánh mất niềm tin vào bản thân” sẽ là mất tất cả, “mất
nhiều thứ quý giá khác nữa”
- Đề cao lòng tự tin là thông điệp của ý kiến
2. Bình luận, mở rộng.
- Không có lòng tự tin, sẽ không “dám nói dám làm”, khó thành đạt hoặc không
thể thành đạt trong cuộc sống.
- Lòng tự tin giúp người ta có bản lĩnh, quyết tâm vươn lên khi gặp khó khăn,
thất bại, “thua keo này ta bày keo khác”
3. Chứng minh bằng thực tế và hình tƣợng văn học
4. Bài học nhận thức và hành động, liên hệ bản thân
B.BÀI LÀM THAM KHẢO
I/Mở bài
Xưa nay, chúng ta cứ tưởng tiền bạc, của cải là quý giá nhất. Thực chất, trong cuộc
sống con người còn có một thứ còn quý hơn cả tiền bạc. Đó là “niềm tin vào bản
thân”. Vì tiền bạc của cải mất đi, chúng ta còn có thể làm lại được. Còn đánh mất
niềm tin bản thân là đánh mất tất cả. Bởi thế, trong cuốn sách “Dám thành công”, đã
có người khẳng định “Một ngƣời đã đánh mất niềm tin vào bản thân thì chắc chắn sẽ
còn đánh mất nhiều thứ quý giá khác nữa”.
II/Thân bài
1/Giải thích ý kiến trên
“Niềm tin vào bản thân” hay là lòng tự tin có một vai trò rất quan trọng đối với
một con người trên đường đời và sự nghiệp của mình. Nó còn có vai trò quyết định
trong sự thành bại. Về vấn đề này, Bác Hồ, vị lãnh tụ vĩ đại, người cha muôn vàn kính
yêu của chúng ta, đã từng khuyên bảo thanh niên bằng lời quý hơn vàng ngọc:
“Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên”
2/Bàn luận về sự tự tin và đánh mất tự tin
Đúng như vậy, trên hành trình đến chân trời của tương lai và sự nghiệp, chúng
ta ai ai cũng gặp biết bao khó khăn trở ngại cả về khách quan và chủ quan. Trong
“Nhật kí trong tù” Bác đã viết rất hay về thực chất của con đường đi và con đường đời
“Đi đƣờng mới biết gian lao;Núi cao rồi lại núi cao trập trùng”.Chỉ những người có
lòng tự tin mới luôn luôn khẳng định được năng lực và phẩm chất của mình, coi đó là
231
nguồn sức mạnh chân chính, vô song, có thể giúp con người vững bước, lạc quan vươn
lên và thành công trong cuộc sống. Hay nói như Bác (trong Đi đƣờng) “Núi cao lên
đến tận cùng” để “Thu vào tầm mắt muôn trùng nƣớc non”, nghĩa là đạt tới đỉnh vinh
quang và thắng lợi. Hiểu như vậy, chúng ta thấy tự tin quả là một đức tính,phẩm chất
vô cùng quý báu.
Ngược lại , khi con người đã đánh mất lòng tự tin, nghĩa là không còn tin vào phẩm
chất và năng lực của bản thân thì cũng đánh mất luôn những điều kiện cơ bản và cần
thiết nhất để giúp con người đạt đến những giá trị quý báu: nghị lực và ý chí ,hi vọng
và lạc quan. Lúc đó, con người không còn khả năng đương đầu với những khó khăn,
thử thách tất yếu sẽ nảy sinh ra hàng ngày, hàng giờ, nên cũng sẽ dễ dàng buông xuôi,
bỏ mất những cơ hội trong cuộc sống của mình.
3/Bài học nhận thức và hành động
Vì vậy, trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống, đặc biệt là những khi gặp khó khăn,
thử thách, chúng ta cần nêu cao bản lĩnh, không được nản lòng, nản chí, đánh mất
niềm tin vào bản thân mới có thể “Bƣớc kế bƣớc vững vàng tới tƣơng lai huy hoàng và
tráng lệ” . Mọi người chúng ta đều biết một trong những phẩm chất đặc biệt cao đẹp ở
lãnh tụ thiên tài Hồ Chí Minh là lòng tự tin. Từ những năm đầu thế kỉ XX,chàng trai
Nguyễn Tất Thành rời bến Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước, trước khi lên tàu sang
châu Âu xa xôi, có người hỏi Nguyễn Tất Thành lấy tiền đâu mà đi xuất dương?
Không do dự, Người giơ hai bàn tay lên và nói : “Đây này!”. Chi tiết ấy đã chứng tỏ ở
Bác có một lòng tự tin vào bản thân thật mãnh liệt. Chính nhờ niềm tin vô hạn ấy mà
sau này Nguyễn Ái Quốc-HCM đã có thể một mình với viên gạch hồng chống lại cả
mùa đông thành London lạnh giá, cả thành Ba Lê tuyết phủ và đi khắp chân trời châu
Mĩ, châu Phi để tìm ra “Hình” cho nước và "Thế đi đứngcho toàn dân tộc Việt Nam”.
Noi theo tấm gương của Bác, đã có biết bao thanh niên Việt Nam quyết không
đánh mất niềm tin vào bản thân để làm nên những chiến công đặc biệt từ lĩnh vực đời
sống hàng ngày đến lĩnh vực học tập, khoa học công nghệ, thể dục thể thao.... Ta có
thể tìm được rất nhiều dẫn chứng đầy sức thuyết phục: nhờ tự tin mà Hoàng Anh Tuấn
đã vươn lên dành huy chương vàng châu Á môn cử tạ và sau đó là huy chương bạc
Olympic 2008 tại Bắc Kinh, nhờ tự tin mà Bùi Thị Nhung đoạt huy chương vàng môn
nhảy cao. Gần đây chương trình “Ngƣời đƣơng thời” có nêu gương anh Phan Chí
Dũng ở Nha Trang, từ một kĩ sư bình thường, nhờ lòng tự tin, tinh thần vượt khó, ham
học hỏi, anh đã có rất nhiều công trình khoa học công nghệ được xuất khẩu sang các
nước Trung Quốc, Anh, Pháp, Mĩ và các nước tiên tiến khác. Điển hình là công trình
“Nhà vệ sinh tàu hoả thông minh”. Thế là từ một sinh viên nghèo xác nghèo xơ, nay
tài sản của nhà khoa học trẻ Phan Chí Dũng đã lên tới 80 tỷ.Ta cũng có thể nói như
vậy về lòng tự tin của tỉ phú “Vua cà phê” Lê Nguyên Vũ.
Trên TV gần đây cũng có nhiều cuốn phim tài liệu về những tấm gương đầy
nghị lực , ý chí vượt khó, giàu niềm tự tin. Đó là những con người gặp hoàn cảnh
không may bị khiếm thị, bị cụt tay, cụt chân...nhưng nhờ niềm tin mãnh liệt vào bản
thân cùng với sự giúp đỡ của người thân, bạn bè mà vươn lên lập được những chiến
công mà thậm chí ngay cả đến những người bình thường cũng khó mà lập được.
Chẳng hạn như anh Bạch Đình Vinh, toàn thân bị bại liệt, nội tạng bị chấn thương
mạnh, khuôn mặt bị biến dạng và mất luôn cả tiếng nói, thế mà anh đã không cúi đầu
trước mọi bất hạnh, ngẩng đầu vươn lên với một nghị lực phi thường. Anh đã là sinh
viên của 3 trường đại học :Giao thông vận tải, Thương mại và Khoa Công nghệ thông
232
tin-ĐH Bách khoa Hà Nội. Và đây nữa là cô Nhữ Thị Khoa, cô gái khuyết tật cả đời
ngồi xe lăn thế mà có thể tự kiếm sống và hơn nữa còn dành huy chương vàng của
Đại hội thể thao người khuyết tật ĐNÁ.
III/Kết luận
Tóm lại “niềm tin vào bản thân” là một tài sản quý giá nhất của con người. Vì
vậy, dù ở đâu, dù hoàn cảnh nào, chúng ta cũng không thể đánh mất nó để có thể vững
bước đi lên về phía trước. Tuy nhiên phải cảnh giác với việc tự tin một cách mù quáng.
Phải tính táo để biết lắng nghe, học hỏi; phải biết tu dưỡng phẩm chất và trau dồi năng
lực bản thân. Có như thế, chúng ta mới có thể hoàn thiện phẩm chất làm người.
Đề 9a:Anh chị có suy nghĩ gì về câu nói của nhà khoa học ngƣời Anh Phơ-răng-
xít Bê-cơn (thế kỉ XVI-XVII) : “Tri thức là sức mạnh”
A. HƢỚNG DẪN LÀM BÀI
Đề này cần
I/Hiểu được nội dung cơ bản của câu nói của Bê-Cơn
Trên trái đất này,con người là động vật có sức mạnh siêu việt nhất.Vì con người
có trí tuệ.Và nhờ có trí tuệ mà con người chiến thắng được những kẻ thù thiên nhiên
và kẻ thù xã hội,để tồn tại và phát triển từng bước đi từ thời mông muội đến thời đại
văn minh như ngày nay tới nền khoa học công nghệ vi sinh,khoa học công nghệ thông
tin và đang chinh phục không gian vũ trụ,cùng nền sản xuất tiên tiến tạo ra của cải vật
chất và tinh thần ngày càng phong phú.
II/Đề này cần phải có các ý cơ bản sau:
1. Giải thích khái niệm : Thế nào là tri thức?
2. Vì sao “Tri thức là sức mạnh” ?
3. Chứng minh và bình luận sức mạnh tri thức qua các thời kì lịch sử.
4. Bình luận mở rộng
B.BÀI LÀM THAM KHẢO
I/Mở bài
Động vật mạnh mẽ nhờ có cơ bắp to khoẻ và móng vuốt sắc nhọn.Còn “con
ngƣời là một cây sậy biết nói” (Đề các),tuy yếu ớt về mặt thể chất,nhưng lại có một
sức mạnh vô địch về tinh thần,về trí tuệ,Nhớ có trí tuệ mà con người có hiểu biết,có tri
thức.Đó là một thứ vũ khí vô song giúp con người có một sức mạnh vĩ đại có thể
chiến thắng bất cứ kẻ thù nào.Vì thế ngay từ thế kỉ XVI-XVII,nhà khoa học Anh Phơ-
răng-xít Bê-Cơn đã khẳng định “Tri thức là sức mạnh”.
II/Thân bài
1)Giải thích thế nào là “Tri thức”
Theo từ điển tiếng Việt : “Tri thức là những hiểu biết có tính chất hệ thống về
sự vật nói chung”.Nhưng hiểu theo nghĩa rộng nhất,tri thức là những hiểu biết về thế
giới tự nhiên,xã hội và cả chính bản thân mình.
2)Vì sao “tri thức là sức mạnh”
Nhà quân sự vĩ đại nhất của lịch sử cổ đại Trung Quốc là Tôn Tử đã có một câu
nói rất nổi tiếng: “Biết địch biết ta,trăm trận đánh,trăm trận thắng”.Đúng như vậy,
233
những tri thức tích lũy,được qua hoạt động thực tiễn và lao động,chiến đấu đã giúp cho
con người hiểu biết được kẻ thù hai chân (là xã hội) và kẻ thù bốn chân (là tự nhiên)
(theo cách nói của M.Gooc-ki).Từ đó,họ có một sức mạnh lớn lao,lần lượt đánh bại hai
kẻ thù ấy,để làm chủ được cuộc sống làm chủ được chính mình và tiến dần từng bước
từ xã hội nguyên thủy mông muội đến thời đại văn minh như ngày nay với khoa học
chinh phục vũ trụ,khoa học công nghệ thông tin,khoa học công nghệ vi sinh cùng nền
sản xuất tiên tiến, từng ngày từng giờ sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần ngày
một dồi dào cho nhân loại.
3)Chứng minh và binh luận sức mạnh tri thức qua các thời kì lịch sử.
a.Lịch sử loài người hàng vạn năm nay đã đi qua biết bao “con đƣờng đau khổ”
và “con đƣờng đói khát”,nhưng họ đã lần lượt vượt qua và tiến lên phía trước là nhờ
sức mạnh của tri thức.Cuộc Đại chiến thế giới lần thứ hai,hơn 25 triệu người đã bị
nướng trong biển lửa và dìm trong bể máu bởi sự tàn bạo của phát xít Đức.Nhưng nhờ
sức mạnh của trí tuệ được kết tinh ở các kế hoạch phản gián,ở tên lửa Ca-chiu-sa,ở
bom nguyên tử...mà Đồng minh đã đánh bại Hitle để cứu loài người khỏi họa diệt
chủng.
b.Lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta đã viết nên những trang hiển
hách:phá Tống,bình Nguyên,diệt Minh,đuổi Thanh cũng chủ yếu là nhờ vào sức mạnh
của tri thức. “Giặc Nguyên-Mông ác liệt;Ngựa dẫm nát Á-Âu” .Thế mà “Ngang tàng
sang đất Việt”, “Ba lần vỡ tan đầu” (Thơ Tố Hữu) bởi sức mạnh trí tuệ Việt Nam
được mài sắc ở cọc nhọn Bạch Đằng.
c.Bước vào thời đại Hồ Chí Minh,trong một khoảng thời gian ngắn,chúng ta
phải đương đầu với mấy tên Đế quốc hùng mạnh nhất thế giới như
Pháp,Nhật,Mỹ.Những trí thức Việt Nam nổi tiếng như kĩ sư Trần Đại Nghĩa,nhà khoa
học Tạ Quang Bửu,giáo sư Tôn Thất Tùng,Đặng Văn Ngữ,Đàm Trung Đồn,Vũ Đình
Cự...đã đem tri thức xây dựng ngành khoa học,giáo dục,khoa học y tế,khoa học quân
sự...với những liều thuốc chống sốt rét đặc hiệu,với những vũ khí Ba-dô-ka,tàu phá
thủy lôi...đã góp phần vô cùng quan trọng làm nên chiến công “Điện Biên lừng lẫy địa
cầu” và ngày 30-4 “Toàn thắng về ta !” để có một Tổ quốc Việt Nam toàn vẹn “Từ
Trà Cổ rừng dƣơng đến Cà Mau rừng đƣớc .Đỏ bình minh mặt sáng khơi xa”.
d.Chuyển sang thời kì xây dựng đất nước,những nhà khoa học,những kĩ sư
trong các ngành kinh tế,bằng tri thức của mình đã “bắt núi phải cúi đầu,bắt sông
phải nhận tội” để làm nên “nhiều điện thép cho con ngƣời hạnh phúc hôm nay”.Từ
một nước thường xuyên thiếu đói vào dịp giáp hạt,mà nay chúng ta hàng năm đã xuất
khẩu trên 4 triệu tấn gạo đưa về cho đất nước hơn 2 tỉ Đô la.Đấy chẳng phải là nhờ tri
thức sâu rộng của các viện sĩ Lương Đình Của,Vũ Tuyên Hòang...lai tạo nhiều giống
lúa mới có năng suất,chất lượng gạo gấp nhiều lần so với ngày xưa đó sao?Cũng nhờ
có tri thức hiện đại mà chúng ta đã và đang ngăn chặn được những kẻ thù bệnh tật
khủng khiếp nhất của thời đại ngày nay như dịch SARS,H5N1,sốt rét...v.v..
4)Bình luận mở rộng
Rõ ràng là tri thức có một sức mạnh to lớn như vậy.Nó có thể giúp con người
đánh bại mọi kẻ thù,vượt qua mọi trở ngại.Tri thức là nguồn sức mạnh của một quốc
gia nói chung,của một con người trong đời sống thường ngày nói riêng.Ngược lại,ngu
dốt là yếu hèn,ngu dốt là một bi kịch.Nhưng đáng tiếc là trong xã hội chúng ta ,vẫn
còn những người chưa biết quý trọng tri thức.Họ chưa coi việc học nhằm mục đích là
có nhiều tri thức,nhiều hiểu biết để làm con người có đầy đủ sức mạnh để chiến thắng
234
bản thân và chiến thắng mọi kẻ thù hai chân và bốn chân,mà họ chỉ coi mục đích việc
học là cốt có tấm bằng để tìm kiếm công ăn việc làm hoặc để thăng quan tiến chức.
III/Kết luận
Nhận rõ sức mạnh lớn lao của tri thức,Lê-nin,vị lãnh tụ thiên tài của giai cấp Vô
sản đã khẳng định “Ai có tri thức thì ngƣời ấy có đƣợc sức mạnh!”.Mà muốn có tri
thức thì phải “Học!Học nữa!Học mãi!”.Có như thế,chúng ta mới có thể biến Việt
Nam thành một quốc gia giàu mạnh,công bằng,dân chủ và văn minh để “Sánh vai với
các cƣờng quốc năm châu” như Bác Hồ hằng mong mỏi.
235
Đề 10a: Anh chị hãy viết một bài văn ngắn(không quá 400 từ) phát biểu ý kiến về
tác dụng của việc đọc sách.
A. HƢỚNG DẪN LÀM BÀI
BÀI NÀY CẦN:
1. Vai trò và ý nghĩa của việc đọc sách
- Sách là nguồn kiến thức vô tận. Sách là phương tiện để tự học.
- Sách giúp cho việc luyện kỹ năng sống, không để xảy ra tình trạng “chết vì
thiếu hiểu biết”.
- Sách giúp nâng cao nghiệp vụ, tay nghề, nhờ đó tăng năng suất lao động, tăng
thu nhập.
- Sách giúp vui chơi, giải trí, thư giãn.
2. Bình luận mở rộng
- Nhiểu người thành đạt nhờ việc tự học bằng việc đọc sách
- Nguồn vui của nhiều người là đọc sách, “sách là bạn”.
- Sách là người thầy “chính xác và trung thực” nhất, vì kiến thức trong sách đã
qua sự kiểm định của nhiều người, của xã hội.
- Xã hội cần động viện, tuyên truyền, khuyến khích việc đọc sách
- Nhà nước, xã hội phải làm tốt công tác bảo vệ sở hữu trí tuệ để có các cuốn
sách hay. “Bản quyền sách” bị xâm phạm thì không ai còn muốn viết sách một
cách công phu, sáng tạo
3. Liên hệ
Mỗi người cần tạo thói quen đọc sách. Đọc sách ở mọi lúc mọi nơi có thể đọc.
B.BÀI VĂN THAM KHẢO
I/Mở bài
Vì sao, con người trở thành niềm tự hào và kiêu hãnh nhất của trái đất này? Là
bởi con người hơn tất cả mọi sinh vật khác là ở chỗ con người có trí tuệ và tình cảm.
Mà muốn làm giàu cho trí tuệ và tình cảm, làm tăng chất lượng cuộc sống cho mỗi
bản thân chúng ta, không gì hơn là đọc sách. Vì vậy là có thể khẳng định đối với thế
giới loài người, sách có một tác dụng vô cùng kì diệu.
II/Thân bài
1/Sách là nguồn kiến thức của nhân loại đƣợc tích luỹ từ xƣa tới nay
Ăng-ghen, vị lãnh tụ vĩ đại của giai cấp vô sản toàn thế giới đã khẳng định :
“Cùng với lao động ,là ngôn ngữ. Đó là hai động lực chính thúc đẩy xã hội loài ngƣời
phát triển”. Lao động làm nảy sinh ra kinh nghiệm, sáng chế, phát minh, nghĩa là sáng
tao ra của cải vật chất và tri thức. Tri thức đó được ghi lại bằng ngôn ngữ, lưu trữ
trong những cuốn sách. Vì vậy sách trở thành kho kiến thức của nhân loại được tích
luỹ qua hàng ngàn năm lịch sử. Sách đã trở thành cuốn bách khoa toàn thư về tự nhiên
và cuộc sống xã hội của con người. Chúng ta có thể tìm thấy trong sách kho kiến thức
về mọi lĩnh vực của đời sống: tự nhiên, xã hội, nghệ thuật, triết học, khoa học, kĩ
thuật.Vì vậy nên đọc sách sẽ giúp cho ta mở mang trí tuệ, những hiểu biết không cùng,
đưa ta vào những chỗ sâu xa, bí ẩn của thế giới xung quanh, từ những dòng sông
Trường Giang ở Trung Quốc,sông Vôn Ga bên nước Nga, sông Mitxipi tận nước
Mĩ....đến những cánh rừng và đồng cỏ bao la của châu Úc, cánh rừng già Amazon bát
ngát bên châu Mĩ, những vùng đất châu Phi giàu khoáng sản, quanh năm lấp lánh ánh
236
mắt trời. Sách giúp ta ngồi trước trang giấy mà như được sống với lịch sử xa xưa của
nhân loại qua những cuộc chiến tranh thảm khốc, “Những con đƣờng đau khổ”mà
nhân loại đã đi qua. Sách còn cho ta một biển kiến thức quý hơn vàng để ta có thêm
sức mạnh chiến thắng mọi thế lực tàn bạo của thiên nhiên và xã hội ,để ta tồn tại và
phát triển từ thế giới “Tiền sử” hỗn mang, mông muội sang thế giới văn minh và khoa
học công nghệ đầy sức mạnh, ngày ngày sáng tạo ra những giá trị mới về của cải vật
chật và tinh thần dồi dào như ngày nay.
2/Sách, đặc biệt là sách văn học, có tác dụng làm cho đời sống tình cảm
phong phú, sống nhân ái và hoàn thiện nhân cách.
Văn học là tiếng nói của tình cảm,là hình thức nhuần nhị và sắc bén của tư
tưởng. Vì vậy sách văn học đặc biệt hấp dẫn với mọi đối tượng độc giả. Nó có thể giúp
cho ta hiểu biết về đời sống tình cảm ,tâm tư, hoài bão, khát vọng và những niềm vui,
nỗi buồn, những hạng phúc và đau khổ của con người qua các thời kì lịch sử khác
nhau của các dân tộc trên trái đất này để từ đó, chúng ta sẽ cảm thông, chia sẻ với
những số phận, những cuộc đời, những ước mơ của nhân loại...
Đọc “Đôn-ki-ô-tê” , ta yêu quý vô cùng chàng kị sĩ xứ Manta giàu tinh thần nghĩa
hiệp “giữa đƣờng gặp chuyện bất bằng mà tha”, quyết chí phò nguy cứu nạn,trừng trị
kẻ ác, bênh vực người yếu hèn. Đọc “Không gia đình”, ta vừa cảm thương cho số phận
Rêmi không nơi nương tựa, vừa cảm phục cậu bé giàu lòng nhân ái, vị tha, giàu khát
khao hi vọng và dũng cảm vượt qua mọi thử thách để tiến về phía trước. Đọc “Lão
Hạc” của Nam Cao, ta vô cùng cảm phục tấm lòng cao cả, đức hi sinh lớn lao của lão.
Dưới vầng trán nhăn nheo vì tuổi tác và đói nghèo, là một đại đương bao la của một
tấm lòng nhân ái, vị tha suốt đời sống vì con. Đọc “Chiếc thuyền ngoài xa” (Nguyễn
Minh Châu), ta hiểu sâu thêm về số phận người dân làng chài, vì đông con, vì sự mưu
sinh bấp bênh trước sóng gió cuộc đời mà phải sống triền miên trong tăm tối và nạn
bạo hành gia đình. Và ta cũng cảm phục biết bao vẻ đẹp của một tâm hồn như viên
ngọc chói sáng khuất lấp sau cái vẻ bề ngoài xấu xí, thô kệch và lam lũ của chị hàng
chài. Chị xứng đáng là một tượng đài thô ráp mà cao vòi vọi. Chị là hiện thân cho tâm
hồn đẹp đẽ, đức hi sinh cao cả của biết bao người vợ, người mẹ thấm nhuần đạo lí
người phụ nữ Việt Nam :
“Vì con mẹ khổ vạn lần
Cũng nhờ con,mẹ hoá trong ngần niềm vui”
3/Sách còn là nguồn vui chơi giải trí và làm tăng chất lƣợng cuộc sống
Một vai trò không kém phần quan trọng của sách đó là việc đọc sách có thể
đem lại cho độc giả những phút giây giải trí, thư giãn tâm hồn trong cuộc sống lao
động sáng tạo đầy bận rộn, căng thẳng. Đi vào thế giới sách, thế giới của nghệ thuật
ngôn từ, hình ảnh thẩm mĩ, chúng ta được thưởng thức những vẻ đẹp của tự nhiên và
con người, vẻ đẹp và thú chơi ngôn ngữ...làm cho tâm hồn ta trở nên trong sáng, thánh
thiện và nhân ái hơn.
4/Bình luận tổng hợp
Đúng là sách vô cùng bổ ích, là người bạn thuỷ chung, là người thầy vĩ đại đối
với con người. Sách hoàn toàn có thể nâng cao chất lượng cuộc sống, hoàn thiện nhân
cách con người. Vì vậy sách đã trở thành báu vật, một món ăn tinh thần không thể
thiếu được đối với mỗi chúng ta như cơm ăn, nước uống , dưỡng khí Oxy vậy. Bởi thế
bạn đọc phải biết chọn sách mà đọc để khỏi bị nhiễm độc bởi những trang “sách đen”
237
và phải biết trân trọng, nâng niu những cuốn sách quý, chứa đựng nhiều nội dung thiết
thực và bổ ích.
III/Kết luận
Đến đây,ta có thể mượn câu nói của nhà văn nổi tiếng người Nga M.Gorki để
làm kết luận: “ Sách mở rộng trƣớc mắt tôi những chân trời mới...” . “Mỗi cuốn sách
đều là những bậc thang nhỏ mà khi tôi bƣơc lên thì tách khỏi con thú để lên tới gần
con ngƣời, tới gần quan niệm về cuộc sống tốt đẹp nhất về sự thèm khát cuộc sống
ấy.”
Đề bài 11a:Suy nghĩ của anh chị về lời dạy của Phật: “Tài sản lớn nhất của đời
ngƣời chính là lòng khoan dung”
A. HƢỚNG DẪN LÀM BÀI
này cần:
I/Nội dung cơ bản của câu nói:Đề cao đức tính khoan dung,xem đó là tài sản
lớn nhất hơn tất cả mọi thứ của cải vật chất,danh vọng...của một đời người.Vì lòng
khoan dung với mọi người không chỉ là một phẩm chất quan trọng của người lương
thiện và là một nét đẹp của tâm hồn có thể cảm hoá được người khác mà còn đưa lại
một điều vô cùng quý giá cho xã hội,gia đình và mỗi cá nhân.Đó là sự hoà thuận,bình
an,thân thiện,đầy tình yêu thương.
II/Bài làm cần phải đạt được những ý cơ bản sau:
1. Giải thích khái niệm lòng khoan dung và ý nghĩa của nó
2. Bình luật mở rộng về lòng khoan dung
3. Chứng minh bằng thực tế
4. Liên hệ bản thân
III/Phương pháp nghị luận:
Giải thích,bình luận,chứng minh
BÀI LÀM THAM KHẢO
I/Mở bài
Mở rộng lòng khoan dung,tha thứ độ lượng là một trong những đức tính,phẩm
chất vô cùng cao quý,tốt đẹp của con người.Vì vậy ,Phật,người được xem là hiện thân
của lòng bác ái đã xem đó là một thứ tài sản vô giá.Người đã dạy chúng sinh rằng:
“Tài sản lớn nhất của đời ngƣời chính là lòng khoan dung”.
II/Thân bài
1)Thế nào là lòng khoan dung và ý nghĩa của nó
Khoan dung là lòng rộng lượng,bao dung,thương yêu con người,sẵn sàng tha
thứ,không khắt khe,không trừng phạt,hoặc sẵn sàng xoá bỏ những lỗi làm mà người
khác (thường là người dưới) đã phạm phải.
Khoan dung vừa có lợi cho ta vừa có lợi cho người.Chẳng thế mà danh nhân Pierre
Benoit đã khẳng định “Khoan dung là đức tính đem lợi về cho cả ta lẫn ngƣời
khác”.Khi ta thể hiện lòng khoan dung với ai đó thì tâm hồn ta cảm thấy thanh
thản,nhẹ nhõm vì đã làm được một điều vừa có ý nghĩa của phẩm chất nhân ái,vì như
thế là không vị phạm vào sự nhỏ nhen,hẹp hòi,trái với phẩm chất quý giá của con
người.
238
Mặt khác,khoan dung,tha thứ lỗi lầm cho người khác thì có thể cảm hoá được
họ.Khi được nhận lòng khoan dung của ta ,thì bản thân người đó sẽ ăn năn hối lỗi,tự tu
chỉnh bản thân mình,sửa chữa lỗi lầm và có thể biết ơn ta nữa,để từ đó không tiếp tục
phạm lỗi mà họ đã từng mắc phải.
2)Bình luận mở rộng
Vì thế,lòng khoan dung,độ lượng,tha thứ đã được nhà Phật đánh giá rất cao,xem
đó là “Tài sản lớn nhất của đời ngƣời”.Bởi trong con người ta,có phần tốt và phần
xấu,phần thiện và phần ác,phần người và phần con.Chính lòng bao dung đã góp phần
tẩy rửa phần con,tô đậm thêm phần người,phẩm giá làm người.Nó làm cho tâm hồn ta
trở nên thánh thiện,cao thượng và giàu có hơn mà như chúng ta đã biết sự giàu có về
vật chất không thể nào sánh được với sự giàu có của tâm hồn.Đúng như một triết gia
nào đó đã nói:sự nghèo nàn về của cải vật chất không đánh sợ bằng sự nghèo nàn về
tâm hồn.
Mặt khác,lòng khoan dung sẽ là một yếu tố quan trọng đem lại sự bình yên,hoà
thuận,thân thiện cho xã hội và gia đình.Trong cuộc sống đa dạng thường ngày,tránh
sao khỏi sự va chạm trong lời nói ,việc làm có thể dẫn đến mâu thuẫn,xung đột.Trong
tình thế ấy,ta nên bình tĩnh suy nghĩ và sẵn sàng đối xử bằng sự nhường nhịn,lòng
khoan dung,thì mọi sự sẽ trở nên “hoà bình” và sự tốt đẹp của cuộc sống sẽ lại tiếp
diễn.Trong gia đình cũng vậy,tình nghĩa cha mẹ,vợ chồng con cái là thiêng liêng,bền
chặt nhưng tránh sao khỏi có những lúc xung khắc,bất hoà.Vì thế,ta phải lấy sự khoan
dung ,sự nhường nhịn làm phương châm xử thế “Một sự nhịn,chín sự lành” , “Chồng
giận thì vợ bớt lời;Cơm sôi nhỏ lửa một đời không khê”.Có thế thì gia đình mới luôn
luôn được sống trong sự bình an,mà sự bình an là niềm sung sướng lớn nhất của con
người.Vì như lời nhà đại thi hào nước Đức Gớt : “Dù là làm vua chúa hay là dân
cày,kể nào tìm thấy sự bùnh an trong gia đình,kể ấy là ngƣời sung sƣớng nhất”.
Mặt trái của lòng khoan dung là sự khắt khe,cố chấp và cao hơn nữa là sự mặc
cảm,thù dai.Mang trong mình lòng khoan dung thì không được cố chấp,thù dai.Nhà
Phật từng dạy : “Oán thù nên cởi chứ không nên buộc” , “Oan ức mà trả thù thì oán
đối kéo dài” (Lời tâm niệm thứ 10 của Phật).Còn cha ông ta ngày xưa từng khuyên
con cháu : “Đấng trƣợng phu không thù mới đáng.Ngƣời quân tử không oán mới
nên”.Người xưa gọi đó là “Trượng phu”, “quân tử”,nhưng ngày nay,ta gọi đấy là
những người có sự bao dung,rộng lượng,biết ứng xử có văn hoá. “Ngƣời yêu
ngƣời,sống để yêu nhau”.Được như thế thì “Có gì đẹp trên đời hơn thế”.Ta bao dung
người,yêu thương,độ lượng,tha thứ người thì một lúc nào đó sẽ được người hay người
khác tha thứ cho ta.Đúng như ca dao xưa từng nói: “Thƣơng ngƣời ngƣời lại thƣơng
ta;Ghét ngƣời,ngƣời lại hoá ra ghét mình”.
3)Chứng minh mở rộng bằng thực tế cuộc sống
Sự khoan dung,độ lượng “hoà hiếu thực lòng”, “lấy nhân nghĩa để thắng hung
tàn;lấy chí nhân để thay cƣờng bạo” đã trở thành phẩm chất truyền thống,tài sản quý
giá của dân tộc ta được biểu hiện qua các cuộc chống ngoại xâm.Ngày nay,phẩm
chất ,đức tính đó đã được kết tinh ở Hồ Chí Minh “Con ngƣời đẹp nhất của nhân
loại;Trí tuệ tình yêu của bốn phƣơng”...
4)Liên hệ với bản thân (thay cho kết luận)
III/Kết luận
Thấm thía lời dạy của Phật,bản thân mỗi chúng ta,phải không ngừng tự rèn
luyện,phấn đấu bồi đắp cho mình có lòng khoan dung rộng lớn.Lòng khoan dung là tài
239
sản vô giá của con người và cũng là phương châm đối nhân xử thế tốt nhất để nhằm
hoàn thiện nhân cách bản thân và đưa lại sự bình an cho cuộc sống.
Đề 12a:Anh chị hãy giải thích và bình luận câu nói sau: “Trong con mắt ngƣời
khác bạn có thể thất bại vài ba lần,nhƣng với bản thân,bạn không đƣợc phép trờ
nên mềm yếu,vì đây là sự thất bại thảm hại nhất‟‟
(Lời của cỏ cây-Marai Sador)
A. HƢỚNG DẪN LÀM BÀI
BÀI NÀY CẦN:
1. Giải thích câu nói.
Đề cao nghị lực, bản lĩnh, ý chí cá nhân là thông điệp của Marai Sador gửi tới chúng ta
qua câu nói này. Đồng thời câu nói cũng phê phán sự mềm yếu, mất tự tin ở bản thân
“Mất tiền bạc là không mất gì cả, mất lòng tin là mất tất cả”. Không vượt qua chính
mình là thất bại thảm hại nhất
2. Bình luận mở rộng
- Trong cuộc đời mỗi người, có lúc phải chấp nhận sự thất bại “Ai chiến thắng
mà không hề chiến bại?”
- “Một lần ngã là một lần biết dại”, “Ai nên khôn mà chẳng dại một đôi lần”. Con
người phải cứng rắn, vượt qua thất bại, đứng lên, quyết tâm đạt thắng lợi sau
này.
Nếu không vượt qua được chính mình , thất bại với chính bản thân mình là thất bại
thảm hại nhất. Nhụt chí, yếu mềm, không đứng dậy được là mất tất cả, là thất bại
thảm hại nhất
3. Chứng minh bằng thực tế và hình tượng văn học
4. Liên hệ bản thân, rút ra bài học
B. BÀI VĂN THAM KHẢO
I/Mở bài
Con đường đời cũng như con đường sự nghiệp là con đường thật “lắm bƣớc
gian truân‟’, vừa vượt qua khó khăn này thì lại xuất hiện khó khăn khác lớn hơn làm
cản trở bước đi. Vì thế bị thất bại là điều không thể tránh được. Nhưng cái bí quyết để
chúng ta vượt qua tất cả, để tiến về phía trước là không được đánh mất ý chí nghị lực
và niềm tin, nghĩa là không được mềm yếu vì sự mềm yếu, thiếu tự tin trước khó khăn
là sự thất bại đau đớn, thảm bại nhất. Để khẳng định chân lý đó, Marai Sađor đã nói
“Trong con mắt ngƣời khác bạn có thể thất bại vài ba lần,nhƣng với bản thân,bạn
không đƣợc phép trở nên mềm yếu,vì đây là sự thất bại thảm hại nhất.”(Trích Lời của
cỏ cây)
II/Thân bài
1/Giải thích ý kiến.
Thực chất câu nói này là đề cao ý chí, nghị lực và niềm tin của cá nhân, nghĩa là
bản lĩnh của con người trước các ngả đường đầy chông gai, cám dỗ của cuộc sống,
dám vững vàng bước đi tiến về phía ánh sáng, hay đầu hàng, buông xuôi, chạy theo
những ham muốn bản năng tầm thường để rồi kết cục chẳng làm được điều gì cả. Ý
240
nghĩa sâu xa của câu nói là ca ngợi sự chiến thắng của ý chí, nghị lực bản thân và phê
phán triệt để sự mềm yếu, sự thất bại với chính mình.
2/Phải chấp nhận sự thất bại.Vì sự thất bại là điều khó tránh khỏi.
a.Thế nào là thất bạị?
Theo từ điển, thất bại là thua đối phương trong một trận đánh hay trong một
cuộc thi thố. Rộng hơn , thất bại còn có nghĩa là không đạt kết quả, hỏng việc. Ngoài
ra, ta còn có thế hiểu theo nghĩa là con người không thế vươn tới một cái đích nào đó
mà bản thân đã hoạch định từ trước như tiền tài, danh vọng, quyền lực địa vị, các
thành tựu văn hoá,khoa học... Thất bại đối với từng người cụ thể, cũng khác nhau. Với
một học sinh,đó lại bài kiểm tra bị điểm kém hay không đạt được nguyện vọng trong
một kì thi. Với người hoạ sĩ, sẽ là thất bại, nếu bức tranh của mình không đạt được giá
trị thẩm mĩ mong muốn. Với người bác sĩ,sẽ là thất bại,nếu những phác đồ điều trị của
mình không hiệu quả , bệnh nhân không khỏi bệnh..v..v..
b.Sự thất bại là điểu khó tránh khỏi.
Hiểu như vậy, chúng ta thấy sự thất bại là điều khó tránh khỏi. Vì cuộc sống là luôn
luôn có những trở ngại cả về khách quan và chủ quan mà ta không thể lường trước hết
được.Vả lại chúng ta có phải là những vị thánh thần siêu nhân đâu mà chỉ gặt hái được
những chiến công huy hoàng. Nhà thơ Tố Hữu chẳng từng đã viết “Ai chiến thắng mà
không kể chiến bại-Ai nên khôn mà chẳng dại một đôi lần” đó sao? Ngay những bậc
danh nhân như nhà khoa học về vi trùng học Paster, nhà sáng chế động cơ Honda nổi
tiếng của Nhật Bản, ông vua phim hoạt hình Walt Disney...cũng đã từng nếm trải mùi
thất bại. Các bạn có biết trước khi gây dựng nên Disneyland, ông đã từng bị một toà
báo sa thải, vì thiếu ý tưởng và rơi vào cảnh ngộ bần cùng của một công tử xác không
một đồng xu dính túi không?
3/Điều quan trọng là phải biết chấp nhận,không gục ngã và phải vƣơn lên
bằng ý chí,niềm tin.
Như vậy, thất bại là điều khó tránh khỏi trong cuộc sống của mỗi con người
chúng ta. Điều quan trọng là biết “Rút kinh nghiệm ở bao lần thất bại; Một lần ngã là
một lần bớt dại; Để thêm khôn một chút nữa trong ngƣời”(Tố Hữu). Và cha ông ta
cũng đã từng nói “Thất bại là mẹ của thành công”, ”Có đứt tay mới hay thuốc”. Miễn
là chúng ta đừng vì thất bại mà ngã lòng, nản chí, mất niềm tin vào bản thân mình và
cuộc đời.
4/Vì sao sự thất bại với chính bản thân mình là thất bại thảm hại nhất
Nhận thức được bản chất của sự thất bại trong cuộc đời mỗi con người như thế,
chúng ta có thể bằng lòng chịu thất bại “vài ba lần” trong con mắt của người khác.
Nhưng chúng ta tuyệt nhiên không chấp nhận để cho mình trở nên “mềm yếu”. Vì đây
là sự thất bại đau đớn và thảm bại nhất. Tại sao vậy? Khi con người đã trở nên mềm
yếu, thiếu tự tin, thiếu cứng rắn, nghĩa là con người đã đánh mất một thứ của cải tinh
thần vô giá để làm mgười, để trở thành con người chân chính, con người thành
đạt .Đó là ý chí, nghị lực để vươn lên. Đánh mất sự cứng rắn, nghị lực vươn lên là
đánh mất tất cả. Và khi con người đã không còn ý chí để đứng dậy vươn lên và gục
ngã trước khó khăn, nghĩa là không chiến thắng được bản thân mình thì con người
cũng không thể thành công bất cứ việc gì .Ngược lại, con người còn có ý chí và nghị
lực, niềm tin thì còn thành công. Lúc đó, chúng ta mới có thể kiêu hãnh mà tự bảo
“Chí còn đây tức lực hãy còn đây!Chân có ngã đứng lên lại bƣớc :Thua keo này, ta
241
bày keo khác; Có can chi, miễn đƣợc cuộc sau cùng ;Dậy mà đi hi vọng sẽ thành
công” (Dậy mà đi!). Từ những năm 40 của thế kỉ trước, lúc mới 20 tuổi, mà người
thanh niên cộng sản Tố Hữu đã tâm sự với các bạn trẻ bằng những lời tâm huyết giàu ý
nghĩa nhân sinh và sâu sắc như vật đó! Cho nên một lần nữa ta có thể khẳng định sự
chiến thắng bản thân là một sự chiến thắng oanh liệt nhất và sự thất bại với chính bản
thân mình là một sự thất bại đau đớn nhất. Về vấn đề này, Lê-nin, vị lãnh tụ thiền tài
của giai cấp vô sản thế giới đã có một câu nói nổi tiếng : “ Tôi không sợ chết! Tôi
không sợ khổ. Tôi chỉ sợ không chiến thắng nổi bàn thân thôi. Đối với tôi, chiến thắng
bản thân là một chiến thắng vẻ vang nhất”. Đúng như vậy, con người khi đã mềm yếu,
đã thất bại,đã không chiến thắng nổi ban thân mình, thì con người cũng sẽ không còn
khả năng đương đầu với những khó khăn, thử thách, nên dễ dàng buông xuôi, chạy
theo những cám dỗ, ham muốn bản năng thấp hèn và sẽ bỏ mất những cơ hội để thành
công trong cuộc đời.
5/Chứng minh bằng thực tế
Thực tế cuộc sống đã có biết bao tấm gương về những con người biết chiến
thắng bản thân, không mềm yếu trước khó khăn, thử thách, mỗi lần thất bại, biết đứng
dậy, suy nghĩ, rút kinh nghiệm để đi tiếp, quyết tâm : “Không vấp hai lần trên một mô
đất” (Tục ngữ Nga) để làm nên những kì tích vang dội trong cuộc đời. Tổng thống
Lincol - một vĩ nhân của nhân loại đã từng tâm sự : “Hai chân tôi không thế bám trên
con đƣờg mòn trơn trƣợt, nên cũng có lúc tôi chao đảo trên cuộc đua của cuộc đời.
Nhƣng tôi gƣợng dậy và tự nhủ rằng đó chỉ là một cú trƣợt và nó không thể làm tôi
gục ngã”. Và đây là nhà sáng chế phát minh kĩ thuật vĩ đại Honda. Trên người ông
mang đầy những vết thương, hàng nghìn vết sẹo do nghề nghiệp để lại. Mỗi vết sẹo là
một bằng chứng của sự thất bại, nhưng đồng thời cũng là tấm huân chương siêu hạng
về lòng kiên trì, ý chí tự tin,không đầu hàng để vươn lên thương hiệu vàng ”Honda-
Made in Japan”. Đó còn là tấm gương người thương binh Nguyễn Xuân Năng với hai
cánh tay cụt tới khuỷ, chỉ còn 3cm, nhưng ông vẫn quyết noi theo lời dạy của Bác
“Thƣơng binh tàn mà không phế”, quyết không đầu hàng số phận. Ông đã quyết tâm
tập luyện đánh bóng bàn và đã chinh phục được những đỉnh Olympia về thể thao: 2
tấm huân chương vàng cá nhân trong kì thi người khuyết tật toàn quốc, huy chương
vàng đồng đội và huy chương bạc cá nhân trong đại hội Paragame 3 tổ chức ở Philipin.
Khi phóng viên phỏng vấn, ông đã tâm sự với thính giả “Tƣởng nhƣ mọi chuyện ấp ủ
từ bé tan thành mây khói. Nhƣng ngƣợc lại, sức mạnh tinh thần và ý chí giúp tôi vƣợt
qua tất cả”. Rồi ông kể tiếp :“Mỗi lần ham bóng,đập trƣợt là y nhƣ rằng tôi lao vập
xuống cạnh bàn, đau đớn lắm, không dập môi thì cũng xây xƣớc cả 2 cẳng tay. Nhƣng
lại tự nhủ, khi ở chiến trƣờng, vết thƣơng bị nhiễm trùng uốn ván cƣa đi cƣa lại ba lần
nhƣ xẻ gỗ, tƣởng vùi thây nơi biên thuỳ, thế mà còn vƣợt qua đƣợc. Không lẽ bây giờ
đầu hàng số phận?”.
6/Bài học rút ra (thay cho kết luận)
Những điều đã phân tích trên đây cho thấy câu nói của Sađor vô cùng sâu sắc
và thấm nhuần triết lí nhân sinh. Nó đúng với mọi lúc, mọi nơi và mọi thời đại. Vì thế
thầm nhuần ý nghĩa của câu nói đó, trong hoàn cảnh của cuộc sống, đặc biệt khi gặp
khó khăn, thử thách, chúng ta không được mềm yếu mà cần nêu cao bản lĩnh “thắng
không kiêu, bại không nản”, quyết chí vươn lên bằng một niềm tin mãnh liệt, thì chắc
chắn chúng ta sẽ gặt hái được nhiều chiến công trong cuộc đời.
242
Đề bài 13a: Anh/chị suy nghĩ gì về câu danh ngôn sau đây: “ Tiền có thể mua
được tất cả, trừ hạnh phúc”.
A. HƢỚNG DẪN LÀM BÀI
Đề này cần
1.Giải thích tại sao tiền bạc lại mua được tất cả
Đồng tiền là vật ngang giá chung,nhờ đồng tiền ta có thể mua được tất cả hàng
hoá và dịch vụ có bán trên thị trường.Vì vậy,đồng tiền đưa lại cho người ta ảo tưởng là
đồng tiền có thể mua được tất cả.
2.Tại sao đồng tiền không thể mua được hạnh phúc
-Hạnh phúc là gì?
-Người ta không mua được hạnh phúc vì nó không có bán trên thị trường
3.Bình luận mở rộng
-Đồng tiền là phát minh vĩ đại của nhân loại,đưa lại nhiều lợi ích cho con
người.Có đồng tiền mới có mua bán,trao đổi đưa lại nhiều thuận lợi cho sinh hoạt.Có
đồng tiền mới có thị trường cạnh tranh để đo lường giá trị,thúc đẩy tăng năng suất lao
động và hiệu quả sản xuất kinh doanh,làm cho xã hội phát triển.
-Tuy hiên,đồng tiền chỉ là công cụ,phương tiện hoạt động kinh tế và đời
sống.Chúng ta phải làm chủ đồng tiền,không để bị đồng tiền chi phối,ảnh hưởng tới
lương tâm,đạo đức và hạnh phúc của mình.
-Hạnh phúc là thứ quý giá nhất mà mọi người phải học tập,lao động và phấn
đấu mới có được.
4.Chứng minh bằng tư liệu thực tế và văn học
B. BÀI LÀM THAM KHẢO
I/ Mở bài
Trong cuộc sống hàng ngày, nhìn thấy sức mạnh vạn năng của đồng tiền, ai cũng
tưởng với sức mạnh siêu việt, đồng tiền có thể mua được mọi thứ trên thế gian này.
Nhưng hãy suy ngẫm cho kĩ, chúng ta thấy điều đó chưa hẳn đã đúng. Bởi danh ngôn
đã từng khẳng định: “ Tiền mua đƣợc tất cả, trừ hạnh phúc”
II/ Thân bài
1)Tại sao tiền bạc lại mua đƣợc tất cả?
Quá trình phát triển của xã hội loài người tiến dần từng giai đoạn: từ chỗ hái lượm
đến chỗ trao đổi bằng sản vật, hoa quả, gia súc và thời nay bước vào thời kì kinh tế
hàng hóa, giá trị được lưu hành qua trao đổi, lấy đồng tiền làm vật ngang giá. Lúc này,
đồng tiền trở thành địa vị chúa tể, có sức mạnh vạn năng. Vào những năm 30 của thế
kỉ trước, trong vở kịch “ Không một tiếng vang”, Vũ Trọng Phụng đã từng lên án cái
sức mạnh rùng rợn và thái quá của đồng tiền: “ Bây giờ ấy à? Chỉ có đồng tiền là Giời,
là Phật, chỉ có đồng tiền là đáng kính thờ vì nó sai khiến đƣợc mọi ngƣời, ai ai cũng
phải kính thờ nó mới sống đƣợc…”.
243
Vì tiền là thước đo mọi giá trị sản phẩm, là thành quả lao động của mỗi con người,
là hiện thân của sự sống, là “hồng cầu” của cá nhân và xã hội. Vì thế nó trở thành
phương tiện quan trọng nhất để có thể thỏa mãn cho mọi nhu cầu vật chất và tinh thần
của mỗi con người. Ca dao xưa đã từng viết: “Có tiền mua tiên cũng đƣợc. Không tiền
mua lƣợc cũng không”. Tiền cũng có thể tạo điều kiện cho mọi người được phát triển
nhiều mặt về thể lực, văn hóa trí tuệ, giao tiếp, thẩm mĩ. Tiền lưu thông trong xã hội,
để cho xã hội, đất nước vận động đi lên. Nhìn những thành phố nguy nha tráng lệ,
những khách sạn năm sao lung linh, những tòa cao ốc chọc trời, những con đường
ngang dọc rải nhựa bóng loáng, những chiếc cầu hiện đại bằng thép vươn qua sông
đầy kiêu hãnh,… chúng ta mới thấm thía: tiền cộng với sức lực, trí tuệ của con người
đã làm ra tất cả. Có tiền, ngồi ở Việt Nam, ta có thể mua được mọi thứ hàng hóa từ
bên châu Âu, châu Mĩ, châu Phi,…
Lợi dụng sức mạnh vạn năng ấy của đồng tiền, nhiều người đã biến nó thành
phương tiện khá hiệu lực để tạo ra những giá trị giả về nhân phẩm, về văn hóa và tình
cảm. Cha ông ta xưa đã từng nhận xé một cách hơi mỉa mai: “Đồng tiền không phấn
không hồ; Đồng tiền khéo điểm, khéo tô mặt ngƣời”, đó sao?
2)Song tiền không thể mua đƣợc hạnh phúc!
a.Thế nào là hạnh phúc?
Hạnh phúc hiểu theo nghĩa chân chính, lành mạnh, đích thực là những thứ do giá trị
nội tại của bản thân mỗi người tạo ra trong quá trình phấn đấu bằng sức lực và trí tuệ
như tình yêu, lòng nhân ái, nhân phẩm, lòng tự trọng, óc sáng tạo, sự thanh thản của
tâm hồn.
b.Vì sao tiền không mua được hạnh phúc?
Những thứ ấy là của thiêng. Mà nói như Tản Đà: “ Của thiêng ai bán mà mua; Ai
cho mà lấy, ai thừa mà xin”. Hay nói cách khác, những thứ đó, tiền, dù là tiền vàng
cũng không thể mua được. Nghĩa là hạnh phúc là cái nằm trong bản thân ta, do chính
ta tạo nên, không có hạnh phúc từ ngoài đưa đến cho ai cả. Cho nên, nó là một thứ siêu
hàng hóa, nằm ngoài vòng trao đổi, mua bán
3)Bình luận mở rộng
Ngày nay, trên đất nước ta, khi nền kinh tế thị trường đang phát triển mạnh mẽ với
tốc độ chóng mặt thì đồng tiền đang phát huy mạnh mẽ uy lực của nó cả về phía mặt
trái và mặt phải, mặt tích cực và mặt tiêu cực. Mặt tích cực là đồng tiền đang thúc đẩy
xã hội phát triển, kích thích nỗ lực lao động và sáng tạo của cá nhân trên mọi lĩnh vực
đời sống. Đồng tiền trở thành động mạch chủ của xã hội và mỗi con người. Tuy nhiên,
dù đồng tiền có sức mạnh kì diệu như vậy, chúng ta cũng chỉ nên coi đồng tiền là
phương tiện tối thượng của cuộc sống, trong một chừng mực nào đó, nó chỉ có ý nghĩa
“bôi trơn” cho cuộc sống, chứ không nên coi đồng tiền là trên hết, đồng tiền là mục
đích cao nhất, là tất cả. Bởi vì, nếu coi đồng tiền là trên hết là mục đích cao nhất, thì
con người sẽ rơi vào thảm kịch về văn hóa, đạo đức. Nói như Vũ Trọng Phụng: “vì
tiền mà bất chấp công lí, vì tiền mà táng tận lƣơng tâm”. Những hiện tượng rút ruột
công trình để dẫn đến hậu quả công trình nhanh chóng xuống cấp, xây trước, đổ sau…
chẳng phải vì chạy theo tiền mà bất chấp đạo lí và lương tri đó sao? Và hiện tượng
những cán bộ, giáo viên Hà Giang dùng tiền “mua trinh” của các em học sinh vị thành
niên, chẳng phải là những hiện tượng đồng tiền đã làm băng hoại đạo đức, đẩy con
người đến chỗ phi nhân tính đó sao?
244
Vả lại, cuộc sống hạnh phúc của con người tuy có phụ thuộc vào sự giàu nghèo,
nhưng tuyệt nhiên không phải cứ có nhiều tiền là có hạnh phúc. Những cảnh: “Râu
tôm nấu với ruột bầu; Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon” của những người nghèo
khổ mà được sống trong sự yêu thương, hòa thuận, yên ấm như thế, chẳng hạnh phúc
sao? Thực tế cuộc đời cho thấy cuộc sống hạnh phúc thật sự không phải là cuộc sống
chỉ có tiền, mà còn có đời sống tinh thần phong phú, có tình cảm nhân ái, có khát vọng
sáng tạo không ngừng và đem lại nhiều niềm vui cho người khác. Đúng như một nhà
triết học nào đó đã nói: “Ngƣời hạnh phúc nhất là ngƣời đƣa lại hạnh phúc cho nhiều
ngƣời nhất”. Và khi chết đi, trên nấm mồ của họ luôn luôn có những bông hoa tươi
của người đời mang đến để tưởng niệm và tỏ lòng biết ơn. Những thứ thiêng liêng vô
giá ấy thì tiền bạc nào có thể mua được?
III/ Kết luận
Tiền bạc là vô cùng quý giá,, tiền bạc có thể mua được tất cả. Nhưng cao hơn tiền
bạc, là hạnh phúc. Vì hạnh phúc là thứ không thể mua bán được. Vì thế, với tư cách là
con người, mỗi chúng ta hãy phấn đấu cho cuộc đời mình, tiền bạc thì vừa đủ, còn
hạnh phúc thì tràn đầy.
Đề bài 14a: Hãy viết một bài văn ngắn (Không quá 600 từ) trình bày suy nghĩ của
anh /chị về ý kiến sau:
“Một ngày so với một đời ngƣời là quá ngắn ngủi, nhƣng một đời ngƣời lại là
do mỗi ngày tạo nên”.
(Theo sách Nguyên lý của thành công, NXB Văn hoá thông tin, 2009 trang 91).
Đề thi tuyển sinh Cao đẳng năm 2009
Mở bài
Giờ đây chúng ta đã đứng thẳng hai chân kiêu hãnh làm người, mới thấm thía
một sự thật: Có một thứ của cải có thể vô hình và vô hạn, mà thật ra lại rất quý, hiếm.
Đó là thời gian. Nhiều thứ của quý mất đi, vẫn có thể mua lại được, nhưng thời gian
thì không thể. Vì thế có người đã khẳng định sự quý hiếm của thời gian được định giá
theo từng ngày một của đời người “Một ngày so với một đời ngƣời là quá ngắn, nhƣng
một đời ngƣời lại là do mỗi ngày tạo nên”.
Thân bài
1. Giải thích ý kiến
Câu nói so sánh sự đối lập giữa thời gian rất dài của đời người và thời gian rất
ngắn của một ngày để nhấn mạnh: Giá trị cuộc sống của mỗi ngày là cơ sở để tạo nên
chất lượng, ý nghĩa cuộc sống của một đời người. Thực chất, ý nghĩa của câu nói:
trong cuộc đời con người, mỗi ngày là rất quan trọng, quý giá, đừng để lãng phí thời
gian. Cha ông ta xưa chẳng từng để khuyên con cháu bằng một câu ca dao giản dị mà
vô cùng sâu sắc:
“Đời ngƣời đƣợc một gang tay
Ai hay ngủ ngày, còn lại nửa gang,” đó sao?
245
2. Suy nghĩ, bình luận, chứng minh mở rộng về câu nói bằng chứng minh
Đúng như vậy, cái quý nhất của con người là đời sống. Đời người chỉ sống có
một lần. Muốn cho cuộc đời tươi đẹp như hoa, và có một tương lai huy hoàng và tráng
lệ, chúng ta không được sống hoài sống phí. Đặc biệt là không được phí hoài thời gian,
vì thời gian là một điều kiện rất quan trọng để tạo nên cuộc sống của mỗi con người.
Vả lại đã là người ai cũng muốn được sống lâu với thời gian để làm việc, để cống hiến,
để tận hưởng niềm hạnh phúc của trần thế. Nhưng thời gian lại được đếm đo theo từng
đơn vị cụ thể đó là “một ngày” “mỗi ngày” . Ta có thể hình dung một cuốn sách được
hình thành từ những trang cụ thể, thì cuộc đời con người sẽ được làm nên, hoàn thiện
từ thời gian của từng ngày, của một ngày. Vì một ngày tuy rất ngắn ngủi, nhưng con
người có thể làm được nhiều việc có ích cho bản thân, cho xã hội: học tập, lao động
sáng tạo. Có những phát minh, công trình khoa học được gặt hái trên hành trình miệt
mài làm việc không ngừng, không nghỉ của từng giờ từng ngày, nhưng cũng có những
phát kiến thiên tài được lóe sáng, trong một khoảng khắc rất ngắn của thời gian.
Những nhà khoa học, những nghệ sĩ vĩ đại đều miệt mài làm việc từng phút, từng giờ,
từng ngày trên bàn viết, trong phòng thí nghiệm.
Đại văn hào thế giới Bandắc mỗi ngày chỉ ngủ có 4 tiếng đồng hồ. Vì thế tất cả
cuộc đời ngắn ngủi của ông đã sáng tạo nên bộ tiểu thuyết “Tấn trò đời” đồ sộ gồm
chín mươi bảy tập, một tài sản tinh thần vô giá của nhân loại sống mãi với thời gian.
Sinh thời, nhà thơ Xuân Diệu luôn “Vội vàng” vì sợ thời gian trôi, không đứng đợi:
“Vì tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại; còn trời đất, nhƣng chẳng còn tôi mãi; nên bâng
khuâng tôi tiếc đất trời”. Cũng có nghĩa là tôi tiếc từng ngày của cuộc đời. Nhà văn
hoá lớn, Phan Ngọc, một Người tự học mà biết rất nhiều ngoại ngữ, người đã sáng tạo
một số công trình văn hoá đặc sắc đã ngoài 80 tuổi mà đến bữa ăn, còn phải ăn vội, ăn
vàng, để chạy đua với thời gian, để tranh thủ từng giây từng phút một mà lao động,
sáng tạo
3. Bình luận, mở rộng
Sự so sánh đối lập giữa một ngày và một đời người còn thể hiện ý nghĩa sâu sắc
về mối quan hệ việc nhỏ và việc lớn, có nhiều việc nhỏ xem ra không đáng quan tâm,
nhưng là cơ sở để tạo thành những việc lớn.
Người xưa từng nói “góp gió thành bão”. Còn nhà văn thì nói “góp nhặt từng
chữ cuộc đời mà viết nên trang”. Đối với chúng ta thì sao? Trong khi có biết bao
người đang chạy đua với thời gian, luôn “giục giã” mình và giục giã người hãy mau
lên tranh thủ từng phút, từng giờ vì những thành quả lao động, vì những công trình
sáng tạo được khai sinh kịp thời, thì cũng có không ít người, thậm chí là những chàng
trai, cô gái mới tuổi đôi mươi, mà đã để cho cuộc đời bình thản trôi qua vô vị bằng
cách đốt cháy những năm tháng quý giá của đời mình vào những “cuộc truy hoan”
thâu đêm suốt sáng, hoặc khép kín phòng riêng miên man ngủ. Thật là “Nắng trôi đi
oan uổng biết bao ngày”.(Chế Lan Viên)
Kết luận
Hiểu được ý nghĩa của thời gian, giá trị của đời mình được làm từ giá trị của
mỗi ngày, mỗi chúng ta hãy biến mỗi ngày thành một viên ngọc toả sáng và cả cuộc
đời ta sẽ là chuỗi ngọc long lanh, lấp lánh dưới ánh sáng mặt trời.
246
BẢN CHẤT CỦA THÀNH CÔNG
Đề bài 15a:
Một bài học sâu sắc, ý nghĩa mà cuộc sống đã tặng cho em
B. BÀI LÀM THAM KHẢO
Mở bài:1. Địnnh nghĩa khái niệm thành công (thay cho mở bài)
Đã bao giờ bạn tự hỏi thành công là gì mà bao kẻ bỏ cả cuộc đời mình theo
đuổi? Phải chăng đó là kết quả hoàn hảo trong công việc, sự chính xác đến từng chi
tiết? Hay đó là cách nói khác của từ thành đạt, nghĩa là có được một cuộc sống giàu
sang, được mọi người nể phục? Vậy thì bạn hãy dành chút thời gian để lặng mình suy
ngẫm. Cuộc sống sẽ chỉ cho bạn có những người đạt được thành công theo một cách
giản dị đến bất ngờ.
2. Những biểu hiện đa dạng của thành công và ý nghĩa của nó
2-1 Thành công là khi bố và con trai có dũng khí bước vào bếp, nấu những món
ăn mẹ thích nhân ngày 8-3. Món canh có thể hơi mặn, món cá sốt đáng lẽ phải có màu
đỏ sậm thì lại ngả sang màu... đen cháy. Nhưng nhìn mâm cơm, mẹ vẫn cười. Bởi vì
hai bố con không thể thành công trên “chiến trường” bếp núc, nhưng lại thành công
khi tặng mẹ “đóa hồng” của tình yêu. Một món quà ý nghĩa hơn cả những món quà
quý giá, hạnh phúc ấy long lanh in trong mắt mẹ.
2-2 Thành công còn là hình ảnh một cậu bé bị dị tật ở chân, không bao giờ đi lại
bình thường được. Từ nhỏ cậu đã nuôi ước mơ trở thành cầu thủ bóng đá. Sau bao nỗ
lực khổ luyện, cậu bé trở thành cầu thủ dự bị trong một đội bóng nhỏ, và chưa bao giờ
được chính thức ra sân. Nhưng nó không phải là thất bại. Trái lại, thành công đã nở
hoa khi cậu bé năm xưa, với bao nghị lực và quyết tâm, đã chiến thắng hoàn cảnh để
theo đuổi ước mơ từ ngày thơ bé. Thành công ấy, liệu có mấy người đạt được?
2-3 Sau mỗi mùa thi đại học, có bao “sĩ tử” buồn rầu khi biết mình trở thành “tử
sĩ”. Hai bảy điểm, cao thật đấy. Nhưng cao mà làm gì khi NV 1 lấy tới hai bảy phẩy
năm? Đó thật ra không phải là thất bại, chỉ là khi thành công - bị - hoãn mà thôi. Cuộc
sống vẫn chào đón họ với NV 2, NV 3. Quan trọng là họ đã nỗ lực hết sức để khẳng
định mình. Đó là ý nghĩa vẹn nguyên của các kì thi và cũng là bản chất của thành công.
2-4 Ngày còn nhỏ, tôi đã được đọc một câu chuyện rất xúc động. Chuyện kể về
một cậu bé nghèo với bài văn tả lại mẹ - người phụ nữ đã che chở cuộc đời em. Cậu bé
viết về một người mẹ với mái tóc pha sương, với đôi bàn tay ram ráp nhăn nheo nhưng
dịu hiền và ấm áp. Cậu kết luận rằng: bà ngoại là người mẹ - người phụ nữ đã nâng đỡ
em trong suốt hành trình của cuộc đời. Bài văn lạc đề, phải về nhà viết lại. Nhưng đó
mới chính là một tác phẩm thành công, bởi ở đó chất chứa tình yêu thương của đứa
cháu mồ côi cho bà ngoại. Liệu có thành công nào, tình cảm nào thiêng liêng hơn thế?
2-5 Nhiều năm trước, báo chí từng vinh danh một cậu học trò nghèo thi đậu đại
học với vị trí thủ khoa. Đối với cậu, đó là một thành công lớn. Nhưng có một thành
công khác, lặng thầm mà lớn lao, đó là chiến thắng của một người cha gần 20 năm trời
đạp xích lô nuôi con ăn học. Bao niềm tin và hi vọng hiện lên trên gương mặt vốn đã
chịu nhiều khắc khổ. Và ngày con trai đại đại học cũng là ngày tốt nghiệp khoá - học -
của - một - người – cha.
247
2-6 Tôi biết có một nữ sinh tốt nghiệp đại học với tấm bằng loại ưu gần hai
mươi năm trước. Với tài năng của mình, cô có thể gặt hái thành công trên con đường
sự nghiệp và danh vọng. Nhưng cô sinh viên năm ấy đã chấp nhận hy sinh những cơ
hội của đời mình để trở thành một người vợ đảm đang, một người mẹ dịu hiền của hai
cô công chúa nhỏ. Cho tới bây giờ, khi đã là một phụ nữ trung niên, Người vẫn nói với
tôi rằng: “Chăm sóc bố và hai con chu đáo, đối với mẹ đã là một thành công lớn” . Mỗi
khi nghe câu nói ấy, tôi lại rơi nước mắt. Gia đình là hạnh phúc, là thành quả đẹp đẽ
của đời mẹ, và chúng tôi phải cảm ơn mẹ vì điều đó.
2-7 Con người luôn khát khao thành công, nhưng mù quáng theo đuổi thành
công thì thật là vô nghĩa. Bạn muốn mình giàu có, muốn trở thành tỉ phú như Bill
Gates? Vậy thì hãy gấp đồng tiền một cách cẩn thận rồi trao nó cho bà cụ ăn xin bên
đường. Với việc làm đẹp đẽ ấy, bạn sẽ cho mọi người hiểu được bạn không chỉ giàu có
về vật chất mà còn giàu có về tâm hồn. Khi đó, bạn đã thực sự thành công.
2- 8 Cũng có khi bạn ước mơ thành công sẽ đến với mình như đến với
Abramovich – ông chủ của đội bóng toàn những ngôi sao? Thành công chẳng ở đâu xa,
chỉ cần bạn dành thời gian chăm sóc cho “Đội bóng” của gia đình bạn. Ở đó, bạn nhận
được tình yêu thương vô bờ bến, thứ mà Abramovich không nhận được từ những cầu
thủ của ông ta. Thành công đến với mọi người một cách giản dị và ngọt ngào như thế!
Kết luận: 3. Vừa bình luôn mở rộng, vừa liên hệ bản thân (thay cho kết luận)
Bạn được sinh ra, đó là một thành công vĩ đại của cha và mẹ. Trách nhiệm của
bạn là phải gìn giữ cho vẻ đẹp hoàn thiện của thành công ấy. Đừng bao giờ ủ ê nghĩ
rằng cuộc sống là một chuỗi của thất bại, bởi như một giáo sư người Anh từng nói:
“Cuộc sống không có thất bại, có chăng là cách chúng ta nhìn nhận mọi việc mà thôi”.
Còn đối với tôi, thành công là khi ai đó đọc được bài viết nhỏ này. Có thể sẽ chẳng
được điểm cao, nhưng gửi gắm được những suy nghĩ của mình vào trang viết, với tôi,
đó là một thành công.
Hà Minh Ngọc
Lớp 10 Văn - Khối chuyên THPT ĐHSP Hà Nội
1 – Bài văn trên đây là bài làm của em Hà Minh Ngọc - Lớp Văn Khối chuyên
THPT Đại học Sư Phạm Hà Nội đăng trên báo “Tuổi trẻ” ngày 20 – 10 -2006. Bài văn
đã gây xôn xao dư luận. Bài văn với đề bài là: “Một bài học ý nghĩa, sâu sắc mà cuộc
sống tặng cho em”.
Đây là lời phê của cô giáo Nguyễn Bích Thảo:
“Cám ơn em đã tặng cô một bài học, một lời động viên vào lúc cô cần nó nhất.
Em đã thật sự thành công đấy! Mong em tiếp tục thành công
- Điểm số: 9 (Ghi chú thêm: 9+)
Cô giáo Nguyễn Bích Thảo, nguyên là cựu học sinh Chuyên văn của Thái Bình,
sau đó vào học khoa Văn ĐHSP Hà Nội, nay là giáo viên khối chuyên Văn của trường,
khi đọc bài văn đã giật mình vì lối hành văn mạch lạc, giật minh hơn bởi những suy
nghĩ sâu sắc về cuộc sống, về những thành công - thất bại và cô cũng rất bất ngờ, vì
sau khi đọc xong bài văn đặc biệt này, cô đã tìm được lời giải cho sự lựa chọn của
mình.
248
2. Để cho các em học sinh dễ hiểu và có thể rút ra bài học về cách làm một bài
văn nghị luận xã hội, sau khi đọc bài văn trên, chúng tôi đã thêm vào bài các đề mục
như “Mở bài” “Thân bài‟ “Kết luận” luận điểm 1, 2, 3...
3. Theo chúng tôi, đây là một bài văn nghị luận rất tốt. Bài có bố cục rõ ràng,
các ý trình bày rất mạch lạc, sáng sủa văn viết có hình ảnh. Phần mở bài em Ngọc đã
khéo léo dùng lối lập luận theo cách đặt câu hỏi để dắt dẫn người đọc vào vấn đề. Nhờ
thế, phần này đã thực hiện được một lúc hai chức năng: Vừa là phần mở bài, đặt vấn
đề cho bài làm, vừa giải thích được khái niệm “Thế nào là thành công”.
- Trong phần thân bài, hay còn gọi là phần giải quyết vấn đề, em Ngọc đã trình
bày các biểu hiện đa dạng của thành công và ý nghĩa của nó. Trình bày như vậy là
trình bày theo lối tư duy vừa bình luận, vừa giải thích, vừa chứng minh. Nhờ lối tư duy
ấy mà em Ngọc đã bàn luận được vấn đề một cách thấu lý, đạt tình, giàu sức thuyết
phục với những suy nghĩ, tìm tòi rất thông minh, tinh tế.
249
Đề 16a:
Truyền thống tôn sư trọng đạo của dân tộc Việt Nam (đề mở)
A. HƢỚNG DẪN LÀM BÀI
“Để bài đặt ra một luận đề vừa lí thú lại vừa thiết thực trong cuộc sống của dân
tộc ta cũng như của mỗi học sinh chúng ta. Đó là một đạo lí đã trở thành truyền thống
đẹp của dân tộc Việt Nam từ bao đời nay: tôn sư trọng đạo. Ai cũng cảm nhận được vẻ
đẹp của đạo lí này, nhưng hiểu cho hết ý nghĩa sâu xa của nó - cả ngày xưa và hôm
nay – thì không đơn giản chút nào. Người viết phải tự mình đặt ra những câu hỏi nhỏ
xung quanh truyền thống này để bàn luận, trả lời, giải đáp nhằm làm sáng tỏ vấn đề
một cách toàn diện, sâu sắc. Dĩ nhiên có thể bàn luận cả luận đề hoặc chỉ đi vào một
khía cạnh mà mình tâm đắc nhất, vì đây là đề mở. Đề bài không nêu thao tác lập luận
để người viết hoàn toàn có thể lựa chọn thao tác lập luận phù hợp với vấn đề bàn luận
của mình: phân tích, so sánh, bác bỏ, bình luận….” (Theo Nguyễn Xuân Lạc)
B. BÀI LÀM THAM KHẢO
Mở bài
Dân tộc ta có truyền thống tôn sư trọng đạo. Đó là một truyền thống tốt đẹp của
một dân tộc văn hiến và hiếu học. Từ xa xưa đã có câu ca:
Muốn sang thì bắc cầu kiều
Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy
Hoặc thâm thuý hơn, ông cha ta cũng từng nhắc con cháu: Nhất tự vi sƣ, bán tự
vi sƣ (Một chữ là thầy, nửa chữ cũng là thầy).
Thân bài
1. Thế naà là tôn sƣ? Vì sao phải tôn sƣ ?
Tôn sư là đề cao, tôn vinh, coi trọng người thầy. Vì sao vậy? Người thầy dạy
chữ, dạy kiến thức cho ta, đem đến cho ta những hiểu biết để ta sống tốt hơn, có ích
hơn. Người thầy lại dạy ta đạo lí, nhân cách để ta biết làm người trong xã hội. Vai trò
người thầy là hết sức quan trọng, không thể thiếu đối với bất kì một quốc gia dân tộc
nào. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Thế thì
sao lại không tôn vinh, đề cao người thầy? Đây là tôn vinh xuất phát từ chức năng cao
quý và trách nhiệm lớn lao của người thầy.
2. Thế nào là trọng đạo? Vì sao phải trọng đạo?
Trọng đạo là gì? Trong kết cấu hai vế cân đối tôn sư/ trọng đạo, nếu tôn sư là
tôn vinh người thầy thì trọng đạo là coi trọng nghề dạy học. Đạo ở đây là đạo làm thầy
(1), là nghề dạy học. Nghề dạy học là nghề đáng được coi trọng vì sản phẩm nó đào
tạo ra chính là con người, như ai đó đã nói : « Trong các nghề thì nghề dạy học là nghề
cao quý nhất ». Nhân dân ta « trọng đạo » chính là trọng cái nghề « trồng người » cao
quý ấy, cũng như họ đã tôn vinh người thầy là những « kĩ sư tâm hồn ».
3. Bình luận mở rộng : Ý nghĩa của Tôn sƣ trọng đạo
250
Tôn sư trọng đạo hàm chứa một ý nghĩa sâu sắc. Trước hết, đó là sự suy nghĩ,
nhìn nhận đúng đắn và tiến bộ của nhân dân ta về một nghề đáng được coi trọng và
một con người đáng được tôn vinh. Nó chứng tỏ dân tộc ta là một dân tộc văn hiến và
hiếu học, bởi coi trọng nghề dạy học là một biểu hiện sâu sắc của một dân tộc hiếu học.
Nhưng ý nghĩa sâu xa của tôn sư trọng đạo chính là nó gắn bó mật thiết với sự nghiệp
trồng người để nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài làm cho dân giàu
nước mạnh, xã hội phát triển tốt đẹp. Xưa, ông cha ta đã nói « hiền tài là nguyên khí
của quốc gia » ; nay, ta lại khẳng định « giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu » -
những điều đó không thể không liên quan đến truyền thống tôn sư trọng đạo của dân
tộc ta. Tôn sư trọng đạo đã trở thành một đạo lí, một truyền thống tốt đẹp của nhân dân
ta chính là như thế. Nó là sức mạnh tinh thần, tình cảm lớn lao và bền vững của dân
tộc để góp phần xây dựng nên một nước Việt nam văn hiến và giàu mạnh.
4. Truyền thống tôn sƣ trọng đạo đƣợc kế thừa và phát triển trong xã hội ta
hiện nay.
Truyền thống tốt đẹp đó đã được nhân dân ta kế thừa và phát huy trong cuộc
sống hiện nay. Trên khắp đất nước, ở đâu cũng vậy, từ thành thị đến nông thôn, miền
xuôi miền ngược, người dân Việt nam đều yêu quý, tôn trọng ông thầy, đều dành cho
thầy những tình cảm ưu ái nhất, đặc biệt là lòng biết ơn sâu sắc thầy đã dạy con cái họ
nên người. Trong hoàn cảnh nước nhà còn nghèo, đời sống thầy giáo còn nhiều khó
khăn, họ đã tận tình giúp đỡ thầy một cách chân thành và cảm động. Các dân tộc vùng
cao đã coi các thầy giáo, cô giáo miền xuôi lên dạy học như người con của quê hương
mình. Người thầy được tôn vinh thì nghề dạy học cũng được coi trọng. Không phải
ngẫu nhiên mà giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu và ngày 20 – 11 hàng năm đã
trở thành ngày hội lớn của toàn dân để tôn vinh người thầy và nghề dạy học cao quý.
Hình ảnh cha mẹ học sinh tặng hoa các thầy, cô giáo trong ngày 20 – 11 và cả những
cán bộ cấp cao của Đảng và Nhà nước đến thăm thầy giáo cũ đã nói lên sâu sắc truyền
thống và đạo lí cao đẹp. Từ một đạo lý truyền thống của dân tộc, tôn sư trọng đạo đã
mang một ý nghĩa cách mạng mới trong thời đại ngày nay gắn liền với tư tưởng
« trồng người » của chủ tịch Hồ Chí Minh. Nó không chỉ là đạo lí, tình cảm mà còn là
tinh thần, sức mạnh, hành động cách mạng để đưa đất nước đi lên ngày càng giàu
mạnh, văn minh. Đó là nét mới của truyền thống tôn sư trọng đạo trong cuộc sống hiện
nay của nhân dân ta.
Kết luận
Bước sang thế kỉ XXI, cuộc sống có nhiều đổi mới kéo theo sự đổi mới của
giáo dục, của vai trò người thầy và nghề dạy học. Trên cơ sở kế thừa, giữ gìn những
mặt tốt đẹp của truyền thống, chúng ta cần biết phát huy và vận dụng đạo lí tôn sư
trọng đạo một cách sáng tạo, phù hợp với thực tiễn cách mạng mới để đạt kết quả tốt
đẹp nhất.
(Bài làm của em Mai Thanh Thuỷ, học sinh
Trƣờng THPT Lam Sơn, Thành phố Thanh Hóa)
251
(Ghi chú : Bài văn trên đây là bài làm của em Mai Thanh Thuỷ, chúng tôi dẫn
theo tài liệu của Nguyễn Xuân Lạc, còn những đề mục của kết cấu bài thơ như : « Mở
bài », « Thân bài », « Kết luận‟ và các luận điểm 1, 2, 3, 4, do chúng tôi thêm vào)
Đề 17a: Voltaire, nhà văn, nhà thơ đồng thời là một triết gia nổi tiếng của
Pháp thế kỉ XVIII đã khẳng định (viết).
“Công việc tránh cho ta ba cái hại lớn: Buồn chán, hư đốn, túng thiếu”
Anh /chị có suy nghĩ gì về ý kiến trên.
A. HƢỚNG DẪN LÀM BÀI
Đề này cần:
1. Giải thích ý kiến.
- Công việc là gì?
- Ý nghĩa của công việc?
- Ví sao công việc làm cho ta tránh được buồn chán, hư đốn, túng thiếu?
2. Bài học.
- Yêu lao động, ham làm là đức tính tốt mà chúng ta phải rèn luyện.
- Công việc, làm việc có ý nghĩa lớn để phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng đất
nước và ý nghĩa quan trọng đối với bản thân mỗi người để khỏi buồn chán, có thu
nhập để khỏi túng thiếu và tránh được "nhàn cư vi bất thiện" sa ngã, hư hỏng, phạm tội.
- Muốn có công việc và công việc tốt, phải có học vấn và động cơ sống có lý
tưởng. Sống vì nhân dân, đất nước, sống vì gia đình và hạnh phúc bản thân mình.
B. BÀI LÀM THAM KHẢO.
Mở bài :
Được sinh ra và lớn lên đứng thẳng hai chân kiêu hãnh làm người là một niềm
hạnh phúc vô cùng lớn lao. Nhưng sẽ luôn luôn có niềm hạnh phúc trọn vẹn thì phải
được sống trong niềm vui, trong đủ đầy. Muốn thế, con người phải có công việc làm.
Vì nói như nhà triết học và đồng thời là nhà văn nổi tiếng của nước Pháp thế kỷ XVIII
Voltaire “Công việc tránh cho ta ba cái hại lớn: Buồn chán, hƣ đốn và túng thiếu”.
Câu nói của Vônltaire hoàn toàn đúng và có ý nghĩa đối với bất cứ ai, sống ở bất kì
thời đại nào, quốc gia nào trên thế giới này.
Thân bài
1. Công việc là gì? Và ý nghĩa của nó
Công việc là việc làm bằng chân tay, hay trí óc nhằm sáng tạo ra của cải vật
chất và tinh thần có ích cho cá nhân nuôi sống bản thân mình và làm giầu có cho xã
hội. Đó là quy luật tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Ngày nay, chúng ta được
chiêm ngưỡng những công trình vật chất và văn hoá như tháp Ang Co ở Cămpuchia,
Kim tự tháp của Ai Cập, Vạn lý Trường thành của Trung hoa, nhà hát Ô – Pê - Ra - ra
ở Úc, những con đê bao quanh sông Hồng, những cuốn sách trở thành lịch sử trí tuệ và
tâm hồn của cái dân tộc chất đầy trong thư viện của các quốc gia… Đó chẳng phải là
sản phẩm của mồ hôi tâm não và sức lực của hàng triệu con người kế tiếp nhau trong
lịch sử, đó sao?
252
2. Vì sao công việc lại giúp chúng tránh đƣợc ba cái hại lớn: Buòn chán, hƣ
đốn và túng thiếu”
Nhìn chung đối với xã hội, lịch sử, công việc lao động có một vai trò cực kỳ to
lớn như thế, nhưng đối với mỗi con người, công việc lại có một ý nghĩa quan trọng, rất
cụ thể và thiết thực. Đó là nó giúp cho chúng ta tránh được ba cái hại lớn: Buồn chán,
hư đốn, túng thiếu
2.1. Việc làm xua đuổi sự buồn chán
Lao động, việc làm là niềm vui, là hạnh phúc. Có công ăn việc làm, người ta
cảm thấy cuộc đời có ý nghĩa, mình không còn là “ngƣời thừa”, là người ăn bám. Vả
lại, việc làm tạo nên sự cân bằng cả thế chất, lẫn tâm hồn và con người luôn được cuốn
hút vào công việc với niềm đam mê riêng, không còn thời gian trống rỗng để bản thân
có thể đắm mình vào những suy tư miên man, buồn bã. Ngược lại, nếu lâm vào hoàn
cảnh thất nghiệp, không có công ăn việc làm, hoặc lười biếng, con người sẽ dễ rơi vào
trạng thái bi quan, buồn chán, thất vọng, vì thấy cuộc đời thật vô vị và nhạt nhẽo, suốt
ngày chỉ biết quanh ra quẩn vào nơi căn nhà quá quen thuộc của mình. Như vậy chỉ có
công việc mới có thể thủ tiêu sầu muộn, buồn chán và làm cho con người trở nên lạc
quan, yêu đời.
2.2. Việc làm xua đuổi các thói hư, tật xấu
Cha ông ta xưa đã từng tổng kết thực tế cuộc đời thành một chân lý thật giản dị
mà sâu xa. “Nhàn cƣ vi bất thiện” nghĩa là sống mà không có công ăn việc làm, nhàn
rỗi, vô công rồi nghề, thì dẫn người ta đến chỗ hư đốn, tìm đến những hành động , việc
làm không tốt như: cờ bạc, trộm cắp, hút xách, cướp giật… Thế là dần dần từng bước,
tương lai, cuộc đời sẽ là chiếc còng số 8, hay một nhà ngục tăm tối, đang chờ đợi. Vì
thế ngạn ngữ phương Tây đã có một câu rất hay “Ở không là mẹ của các tật xấu” .
Như thế, chỉ có công ăn việc làm và say mê với công việc của mình là phương thức cơ
bản nhất để con người có thể xua đuổi được cái thói tật xấu : Đã có biết bao bài phóng
sự, báo chí viết về hiện tượng học sinh, thanh thiếu niên, lười học, hoặc không chịu lao
động nên đã sa vào con đường “nghiện” Internet, « nghiện » hêrôin… “nghiện”
và”nghiện”, nghĩa là mang trên mình đầy những thói hư, tật xất như những con ma
bám riết lấy thể xác và linh hồn, không một thầy phù thuỷ cao tay nào có thể trừng trị
được. Giờ chỉ còn một “liều thuốc” hiệu nghiệm nhất là bắt tay vào việc lao động, làm
những việc có ích cho đời và cho bản thân. Lúc đó những niềm vui và công việc sẽ
thay thế cho những nỗi buồn chán và thói hư, tật xấu.
2.3. Việc làm sẽ xua đuổi sự túng thiếu
Nếu con người không có việc làm, lười lao động tất yếu sẽ không sáng tạo được
của cải vật chất và tinh thần cho mình, cho xã hội. Điều đó cũng sẽ dẫn đến hậu quả:
Túng thiếu và nghèo đói, vì sự giầu có, đầy đủ của một con người, trong một xã hội
bình thường, lành mạnh sẽ được đo đếm bằng công sức, mồ hôi, tài năng và những sản
phẩm mà cá nhân đó tạo ra. Tục ngữ cha ông xưa đã từng dạy con cháu những câu như
chân lý:
“Tay làm hàm nhai; tay quai miệng trễ » hay :
« Có làm thì mới có ăn
Không dƣng ai dễ đem phần đến cho”
253
Thực tế cuộc sống cho ta thấy từ các tỷ phú thế giới như BillGates, Yahoo, Rốc
cơ phel, đến những tỷ phú cà phê, tỷ phú nông dân - kỹ sư… Việt Nam đều là những
tấm gương lao động cần cù và sáng tạo. Những đồng tiền của họ kiếm được đều lấp
lánh mồ hôi sức lực và trí tuệ của bản thân. Họ không chỉ là người có công việc làm
chân chính, mà còn tạo công viêc cho hàng trăm, hàng nghìn người trên thế giới. Là
một con người, chúng ta phả thấm thía câu nói của nhà bác học thiên tài Pastur, một
tấm gương của lao động kiên trì và sáng tạo “Tôi thấy nhƣ phạm tội tộm cắp, nếu ngày
nào tôi ngừng làm việc”.
Kết luận: Ngày nay đất nước ta “đã hết kẻ sống lƣời ăn bám” chỉ còn lai
“ những ngƣời lao động quang vinh” đang “làm chủ đời mình”, vì thế, tất cả chúng ta ,
bằng cách này hay cách khác phải lao động, phải làm việc nhằm kết thành một bài ca
lao động, sáng tạo để làm giầu cho bản thân và làm giầu cho đất nước, như người thợ
mộc, người ngư dân nào đó trong thơ Huy Cận
“Ngƣời thợ mộc giữa mùa thu nắng đẹp
Lòng xanh trời hát bài hát dựng xây” và
Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng sao
Biển cho ta cá nhƣ lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự thuở nào”.
254
Đề 18a : Suy nghĩ về những tấm gương không đầu hàng số phận, vượt lên
trên hoàn cảnh
Mở bài
Nhà triết học vĩ đại người Pháp Đêcác định nghĩa “Con ngƣời là một cây sậy
biết nói”, nghĩa là con người tuy yếu ớt về thể chất hơn các sinh vật khác, nhưng ưu
việt hơn cả là con người có ngôn ngữ, có trí tuệ và tâm hồn. Nhờ có trí tuệ mà con
người có hoài bão, khát vọng và ý chí nghị lực, một phẩm chất vô cùng quan trọng
giúp con người, dù rơi vào hoàn cảnh đầy bão tố của cuộc sống, vẫn không bị quật ngã,
không đầu hàng hoàn cảnh, số phận để đứng thẳng hai chân kiêu hãnh làm người và
vững bước đi về phía ánh sáng của tương lai. Quanh cuộc sống ta đây có biết bao tấm
gương cao đẹp biết vượt lên số phận, để học tập sáng tạo và thành công trong cuộc
sống như vậy.
Thân bài
1. Nêu một số tấm gƣơng đầy ý chí nghị lực biết vƣợt lên số phận
Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta bắt gặp rất nhiều người rơi vào hoàn
cảnh vô cùng khó khăn, nhất là những người do hoàn cảnh bẩm sinh, hoặc do bệnh tật,
tai nạn rủi ro, họ sớm bị thiệt thòi khuyết tật về thân thể như cụt tay, cụt chân, khiếm
thị, khiếm thính, thậm chí là bại liệt không vận động đi lại được. Nhưng họ luôn luôn
biết tự khẳng định mình bằng ý chí và nghị lực phi thường, họ “biết sống cả những khi
cuộc đời tƣởng chừng nhƣ không thể chịu đựng đƣợc nữa” để trở thành người có ích,
lập được nhiều chiến công trong học tập và cuộc sống.
a. Chúng ta còn nhớ thầy Nguyễn Ngọc Ký từ thuở bé, thầy bị teo hai cánh tay,
sau một trận ốm nặng, được sự động viên của cô giáo, bạn bè, thầy Ký đã nhận ra cái
quan trọng nhất của con người là trí tuệ và tâm hồn, là học vấn. Từ đó với ý chí và
lòng kiên trì, sự quyết tâm phi thường, thầy đã vượt lên số phận tật nguyền, thầy đã tập
viết bằng chân sau một quá trình khổ luyện, thầy đã thành công, trở thành một học sinh
giỏi phổ thông, một sinh viên khoa văn Đại học tổng hợp và sau này ra đời thầy trở
thành một nhà giáo mẫu mực, một nhà văn có nhiều tác phẩm đặc sắc. Thầy Ký xứng
đáng là một tấm gương sáng cho biết bao thanh niên học tập về ý chí và nghị lực.
b. Chương trình người đƣơng thời cho khán giả chúng ta được biết một tấm
gương vô cùng đáng khâm phục : anh Bạch Đình Vinh. Một lần trên đường đi học về,
anh bị một chiếc xe máy đâm phải. Sau đó anh bị bại liệt toàn thân, bị chấn thương nội
tạng, khuôn mặt bị biến dạng và bất hạnh hơn, anh bị mất luôn tiếng nói. Cánh cửa
tương lai tưởng chừng như đã sập lại trước mắt người thanh niên gặp phải cảnh “hoạ
vô đơn chí” này. Thế mà với ý chí kiên cường, bản lĩnh phi thường của người không
chịu đầu hàng số phận, đầu hàng hoàn cảnh, cùng với sự giúp đỡ động viên của gia
đình, nhất là người bố, anh đã bước ra khỏi bóng tối, để trở về cuộc đời đầy áng sáng.
Ngồi trên xe lăn, tay khèo vào mà anh đã đi học trở lại và chinh phục được nhiều đỉnh
“Ôlimpia” của cuộc đời. Tấm bằng cử nhân Thương mại, kỹ sư Giao thông, kỹ sư
khoa Công nghệ thông tin - Đại học bách khoa Hà Nội. Thật là kỳ diệu, một câu
chuyện cổ tích giữa đời thường.
c. Và đây nữa là cô gái khuyết tât Nhữ Thị Khoa, ngồi xe lăn bán bánh mì ở
phố Lò Đúc Hà Nội. Trong cảnh ngộ tật nguyền như vậy, mà Khoa không chỉ tự xoay
xở nuôi sống được bản thân, hơn thế nữa, cô còn tham gia thể thao và thật kỳ diệu cô
255
và những người bạn của cô đã đưa về những tấm Huy chương vàng của Đại hội thể
thao người khuyết tật để cho lá cờ đỏ sao vàng của Tổ quốc kiêu hãnh tung bay trên
đấu trường Đông Nam Á. Tấm huy chương vàng ấy vừa là huy chương thể thao, vừa là
huy chương vàng cho những con người giầu ý chí nghị lực, không bao giờ đầu hàng số
phân.
d. Không đầu hàng số phận và hoàn cảnh, không chỉ có ở người khuyết tật, mà
còn có ở những con người bình thường, nhưng gặp hoàn cảnh vô cùng khó khăn,
tưởng như tuyệt vọng. Báo “thể thao văn hoá” gần đây ca ngợi tấm gương Lưu Xuân
Tình, người dân tộc Thái, học sinh lớp 9C trường THCS Yên Nhân, Thường Xuân,
Thanh Hoá, do bị rắn cắn, phải cắt bỏ chân trái, vậy mà, trong suốt 4 năm qua, dù mưa
phùn gió bấc giá rét, hay mùa hè nắng cháy, người ta vẫn thấy Lương Xuân Tình
“Vững vàng ba chân” vượt dốc bò lết đến 5 cây số đầy ổ voi, ở trâu, ổ bò để đến học
chữ cùng bạn. Nghị lực cùng quyết tâm vượt lên số phận của Tình làm cho biết bao
người phải khâm phục. Đó còn là gương em Trần Thị Thu Hà, mới 15 tuổi (người
Điện Bàn, Quảng Nam), mà đã một mình gieo cấy ba sào ruộng, nuôi đàn lợn nái,
chăm sóc bố ốm nằm liệt giường, chăm ông nội ngoài 90 tuổi để mẹ đi nuôi em bị
bệnh ung thư máu ở bệnh viện Huế. Nhưng tám năm liền em luôn luôn đạt danh hiệu
học sinh giỏi. Vừa rồi, em vinh dự được nhận danh hiệu “Học sinh có tinh thần vƣợt
khó” của Hội khuyến học.
2-Bình luận vì sao những con người ấy quyết không đầu hàng số phận?
Những tấm gương trên đây là những tấm gương rất đẹp về tinh thần biết vượt
khó, và không chịu đầu hàng hoàn cảnh, đầu hàng số phận của những con người giầu
bản lĩnh, giầu khát vọng sống và niềm tin. Những tấm gương ấy một mặt đã khơi dậy
trong tâm hồn ta niềm tin ở con người, ở đất nước, một mặt khác như là thông điệp
muốn nhắn gửi cho mỗi con người : cuộc sống quanh ta có nhiều mảnh đời bất hạnh
còn lớn hơn rất nhiều những khó khăn mà ta gặp phải. Nếu không may chúng ta phải
rơi vào một hoàn cảnh nào đó, chúng ta phải biết chấp nhận và quyết không cúi đầu,
tuyệt vọng trước những bất hạnh, những chông gai trong cuộc sống. Vì chính những
chông gai ấy là nơi thử thách, tôi luyện con người. Đúng như Bác Hồ đã viết “Gian
nan rèn luyện tinh thần thêm hăng ». Tương lai của mỗi chúng ta hoàn toàn phụ thuộc
vào ý chí, nghị lực và khát vọng sống của bản thân mình.
Càng tự hào về những tấm gương nói trên, chúng ta càng lấy làm xấu hổ khi
phải chứng kiến một thực tế đáng buồn là rất nhiều người có thừa sức lực, lại có điều
kiện hoàn cảnh cuộc sống rất thuận lợi, thế mà họ cứ bình thản sống một cuộc đời vô
vị, không ý chí, không hoài bão, không mục đích Họ sẵn sàng sống hoài, sống phí cả
những năm tháng tuổi trẻ đẹp nhất của đời mình.
Kết luận:
Suy nghĩ về những tấm gương vượt khó, không đầu hàng hoàn cảnh và số phận
nói trên, tuổi trẻ học đường chúng ta quyết tâm noi gương họ, quyết vượt mọi khó
khăn trở ngại trong cuộc đời, để bước kế trước vững vàng tới tuổi Thanh xuân huy
hoàng và tráng lệ.
Đề 19a: Anh/chị hãy trình bày những suy nghĩ của mình về người mẹ về tình
mẫu tử.
256
Mở bài:
Để ca ngợi công lao vĩ đại của người mẹ đối với nhân loại, M. Goóc – Ki đã
có mấy câu thơ nổi tiếng:
“Trời không ánh sáng hoa nào nở
Dạ vắng yêu đƣơng, dạ những sầu.
Đời không mẹ hiền, không phụ nữ.
Anh hùng, thi sĩ, hỏi còn đâu?”
Mấy câu thơ trên đã nói được một cách hàm súc tất cả về hình ảnh vĩ đại của
người mẹ và tấm lòng bao la, công lao trời biển của Mẹ đối với tất cả những người
con của biết bao thế hệ loài người trên hành tinh của chúng ta.
Thân bài:
1. Mẹ là đấng sinh thành ra ta. Công lao ấy chỉ có Chúa mới sánh đƣợc.
“Mẹ” Ôi tiếng gọi ngọt ngào, thân thương và vô cùng thiêng liêng ấy được cất
lên từ khi con mới bập bẹ tập nói và đã theo con suốt cả cuộc đời. Biết bao hạnh phúc,
sướng vui, xúc động trào dâng trong tim ta khi ta nghĩ về Mẹ. Vì mẹ ta đã mang nặng
đẻ đau chín tháng mười ngày, chịu biết bao sương gió, nhọc nhằn “Xé lòng cặt ruột”
để sinh ra ta, cho ta đứng thẳng hai chân kiêu hãnh làm người.
2. Mẹ không chỉ sinh ra ta, mà còn cho ta một tình cảm cao quý và thiêng liêng
vô cùng: tình mẫu tử.
Trong đời sống mỗi con người chúng ta, có rất nhiều tình cảm đẹp đẽ như tình
cảm với bà con, anh em, ông bà, tổ tiên, anh em, bầu bạn, quê hương, đất nước…
Nhưng tình cảm mẹ con, tình mẫu tử vẫn là thứ tình cảm đặc biệt nhất, sâu sắc, rộng
lớn và thiêng liêng nhất. Vì đó là tình cảm đầu tiên của mỗi con người khi sinh ra và sẽ
gắn bó suốt cả cuộc đời. Vì đó còn là tình cảm vừa có yếu tố máu thịt, vừa mang tinh
thần trách nhiệm lớn lao, cao cả.
3. Với tấm lòng yêu thƣơng vô hạn ấy, ngƣời mẹ đã hy sinh suốt đời vì con và
chăm sóc nuôi dƣỡng con cả thể xác lẫn tâm hồn
Bằng tấm lòng yêu thương bao lao và rất thiêng liêng ấy, người mẹ đã hy sinh
suốt đời để nuôi dưỡng, chở che cho ta lớn khôn cả thể xác lẫn tâm hồn. Mẹ đã chăm
sóc từng miếng cơm, manh áo, từng giấc ngủ, trăn trở lo toan cho con khi trái gió, trở
trời. Có biếtt bao câu ca dao, biết bao bài thơ, bản nhạc rất hay và rất xúc động về tấm
lòng bao lao như biển cả về đức hi sinh vô bờ bến của người mẹ cho những êưsa con.
Ca dao xưa đã viết.
“Chim trời ai dễ đếm lông"
"Nuôi con ai nỡ kể công tháng ngày” hay
“Cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng”
Và Nguyễn Duy, một thi sĩ của những tấm lòng thôn quê, của những tâm lòng
đối với người mẹ cũng đã có những câu thơ rất chân thực và xúc động về người mẹ,
về tình mẫu tử:
257
“Nhìn về quê mẹ xa xăm”
Lòng ta- chỗ ƣớt mẹ nằm đệm mƣa”
… Lƣng trần phơi nắng, phơii sƣơng
Có manh áo cộc cũng nhƣờng cho con.
… Mẹ ru cái lẽ ở đời
Sữa nuôi phần xác, hát nuôi phần hồn”.
Là người Việt Nam, mỗi người chúng ta ai mà có thể cầm được nước mắt, khi
nghe lời hát về “Huyền thoại ngƣời mẹ” dịu dàng êm ái như khúc hát ru kỷ niệm của
nhạc sĩ thiên tài Trịnh Công Sơn “Mẹ đứng dƣới cơn mƣa che cho đàn con của mẹ”.
Để ca ngợi tấm lòng yêu thương, bao dung, vị tha của người mẹ, Văn hào Ban dắc đã
tưởng tượng ra một cuộc đối thoại rất thú vị giữa con và mẹ. Có một lần người con hỏi
mẹ “Mẹ ơi! mẹ đau ở chỗ nào ạ?” Bà mẹ đã âu yếm trả lời con “Con ơi mẹ đau nơi
chính chỗ trái tim con đau!” Chao ôi! người mẹ là thế đó! Luôn luôn lấy niềm vui, nỗi
buồn của con làm niềm vui, nỗi buồn của mình. Mẹ là hiện thân của sự kiên trinh, đức
hy sinh và tấm lòng vị tha cao cả “Nâng niu tất cả chỉ quên mình” (Tố Hữu viết về
Bác). Vì con, mẹ chịu muôn vàn khổ sở và cũng nhờ con, mẹ được cứu rỗi linh hồn, để
có được niềm vui trong ngần và nụ cười thanh thản:
“ Vì con, mẹ khổ vạn lần
Cũng nhờ con, mẹ đƣợc trong ngần niềm vui”
(Phạm Thị Thanh Nhàn)
4. Ngƣời mẹ là ngƣời suốt đời dạy dỗ, dìu dắt con từng bƣớc, là điểm tựa tinh
thần vững chắc nhất của đời con.
Mẹ không chỉ hy sinh tất cả của cải vật chất và tinh thần cho con, mà mẹ còn là
người dạy dỗ, dìu dắt, nâng đỡ từng bước đi trên đường đời đầy gập ghềnh, bão tố,
chông gai của đời con để con vững bước đi về phía ánh sáng và tương lai. Mạnh Tử,
nhà tư tưởng vĩ đại của Trung Quốc cách đây hàng ngàn năm đã nói một câu rất chí lý:
“Tƣơng lai của con là công trình của mẹ”. Đúng, người mẹ luôn là chỗ dựa tinh thần
vững chắc nhất của người con trong suốt cả cuộc đời. Mẹ là nơi con chia sẻ niềm vui,
hạnh phúc tin cậy nhất khi gặt hái chiến công, khi thành đạt trong cuộc đời. Và mẹ
cũng là nơi con tìm về lấy lại niềm tin , ý chí, nghị lực khi thất bại trên đường đời. Mẹ
luôn luôn là người đồng minh tuyệt đối. Một lời động viên, an ủi của mẹ sẽ trở thành
ánh nắng chan hoà của mùa xuân sưởi ấm cuộc đời con, khi con gặp cảnh ngộ cô đơn,
lạnh lẽo và lời khích lệ, răn dạy của mẹ sẽ có ý nghĩa “Nhƣ ngọn lửa, trăm năm sau
còn đủ sức soi đƣờng” cho con. Đúng như thi sĩ Ê – xê – nhin đã viết:
“Chỉ mẹ là niềm vui, ánh sáng diệu kỳ.
Chỉ mình mẹ giúp đời con vững bƣớc”
Nhà thơ Tố Hữu đã nhìn thấy thấp thoáng đằng sau hình ảnh bao người mẹ Việt
Nam tảo tần, kiên trinh, giầu đức hy sinh là hình ảnh bà mẹ Tổ quốc Việt Nam thân
yêu:
“Việt Nam, Ôi tổ quốc thƣơng yêu!
Trong khổ đau, Ngƣời đẹp hơn nhiều.
258
Nhƣ bà mẹ sớm chiều gắnh nặng
Nhẫn nại nuôi con, suốt đời im lặng…
Biết hy sinh nên chẳng nhiều lời”
Thật hạnh phúc sung sướng biết bao được sống trong sự yêu thương, đùm bọc,
chở che, nâng niu của tình mẫu tử. Nhưng cũng bất hạnh thay cho những ai vì một lý
do chủ quan, hay khách quan nào đó mà phải xa rời vòng tay ấm áp của mẹ từ thuở ấu
thơ, để suốt đời phải khao khát đến cháy bỏng cả tim bởi tình cảm thiêng liêng cao quý
đó.
5. Phê phán những ngƣời con sống chƣa xứng đáng với vẻ đẹp của ngƣời mẹ và
tấm lòng mẹ
Để đáp lại công ơn sinh thành, nuôi dưỡng của người mẹ “Nhƣ biển hồ lai
láng”, đã có triệu triệu người con đang phấn đấu từng phút từng giờ để trở thành người
con ngoan, người trò giỏi, người công dân kiểu mẫu, người cán bộ tài năng… hầu
mong đem lại những nụ cười trong sáng, tươi vui nhằm đẩy lùi nỗi nhọc nhằn , sự già
nua vì tuổi tác đang đến với mẹ từng ngày. Trong khi đó lại xảy ra biết bao hiện tượng
làm nhức nhối trái tim mỗi chúng ta. Đó là hiện tượng những người con, thậm chí cả
những đứa con có học vấn cao cấp hẳn hoi mà lại có những lời nói, hành động bất
nhân, bất hiếu đối với mẹ: như chửi bới, đánh đập mẹ (gần đây các phương tiện thông
tin đại chúng có nêu lên các sự việc cụ thể, điển hình và bình luận, phê phán gay gắt
hiện tượng này).
Kết luận 1:
Nhà tư tưởng, nhà giáo dục nổi tiếng của Trung Hoa thời cổ là Khổng tử có nói
“Tội ác lớn nhất của con ngƣời là tội bất hiếu”. Nối theo lời của Khổng Tử, ta có thể
nhấn mạnh thêm Tội ác xứng đáng để muôn đời loài ngƣời nguyền rủa là tội bất nhân,
vô đạo đối với mẹ”.
Kết luận 2:
Nhà thơ Chế Lan Viên trong bài thơ “Con cò”, đã viết “Con dù lớn vẫn là con
của mẹ !Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con” Vì thế mỗi chúng ta ai cũng hẳn phải thảng
thốt giật mình khi nghĩ đến điều này: “Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên! Còn những bí và
bầu thì lớn xuống! Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi! Mình vẫn còn một thứ quả
xanh” (Mẹ và quả - Nguyễn Khoa Điềm). Và nếu mẹ phải ra đi thì thế gian này không
gì bù đắp nổi: “Thêm một ngƣời quả đất sẽ chật hơn. Nhƣng thiếu mẹ thì thế giới đầy
nƣớc mắt” (Thi Hoàng).
Đề20a: Anh (chị) hãy giải thích và bình luận câu nói của Nguyễn Bá Học
“ Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi, e
sông”.
A. HƢỚNG DẪN LÀM BÀI
ĐỀ NÀY CẦN:
1. Nội dung ý nghĩa cơ bản của câu nói
259
Bằng lối nói hình ảnh, bóng bẩy, Nguyễn Bá Học, qua câu văn của mình đã đặt
ra một vấn đề có ý nghĩa cốt lõi quan trọng nhất trên hành trình của cuộc đời: những
vật cản, khó khăn của con đường sự nghiệp và thái độ của con người trước khó khăn
đó. Chỉ những người có bản lĩnh, dám vượt qua mọi khó khăn trở ngại trên đường đời,
can đảm đi tiếp quyết không sờn lòng, nản chí, để cho gian khổ đẩy lùi, đè bẹp mình,
thì mới có thể đi tới đích và đạt được thành công. Câu nói của Nguyễn Bá Học nhằm
đề cao sức mạnh tinh thần ý chí nghị lực, sự vượt khó và phê phán sự mềm yếu, dễ e
ngại, sợ hãi trong lòng người trước khó khăn thử thách.
2. Bài phải giải quyết được bốn ý cơ bản
a. Con đường đi cũng như con đường đời, con đường sự nghiệp là một con
đường đầy chông gai, thử thách.
b. Đường đi, đường đời chông gai, thử thách cũng không đáng sợ. Mà cái đáng
sợ nhất là lòng người ngại khó, ngại khổ, dễ sờn lòng nản chí
c. Một khi con người đã có ý chí quyết tâm, tinh thần vượt khó, sẵn sàng dẹp bỏ
mọi nỗi sợ hãi trong lòng, thì dù đường đi khó đến mấy cũng có thể tới đích, sự nghiệp
có gian nan đến mấy cũng thành công
d. Bình luận chứng minh mở rộng
3. Sử dụng tổng hợp các thao tác lập luận: Giải thích, bình luận, chứng
minh
B. BÀI LÀM THAM KHẢO
Mở bài
Thực tế cuộc sống cho ta thấy rõ một điều hiển nhiên như chân lý. Đó là dù
hành trình cuộc đời luôn luôn gặp biết bao khó khăn, trở ngại, đầy thử thách, chông gai,
nhưng nếu có ý chí, nghị lực, không lùi bước, không sờn lòng nản chí, luôn luôn biết
vươn lên phía trước, thì chúng ta sẽ vượt qua và đi về tới đích. Đúng như Nguyễn Bá
Học đã từng nói “Đƣờng đi khó không phải vì ngăn sông, cách núi mà khó vì lòng
ngƣời ngại núi, e sông”.
Thân bài:
1. Con đường đi cũng như con đường đời là một con đường vô cùng gian
khổ, đầy những chông gai, trở ngại.
“Đƣờng đi khó không phải khó vì ngăn sông, cách núi” . Con “đƣờng đi” mà
Nguyễn Bá Học nói ở đây vừa có nghĩa đen, vừa có nghĩa bóng. Nghĩa đen là dùng để
chỉ con đường ta thường đi hàng ngày. Còn nghĩa bóng là muốn chỉ con đường đời. Ai
đã từng thường xuyên đi đường, nhất là đi xa sẽ thấy rõ rất ít con đường trên thế gian
này lại toàn bằng phẳng, êm dịu, mà trái lại thường đầy sông suối, núi non điệp trùng,
khúc khuỷu, gập ghềnh, quanh co làm cản trở bước chân con người. Và con đường đời,
hành trình về phía chân trời tương lai sự nghiệp của chúng ta cũng vậy: khó khăn
chồng chất khó khăn, luôn luôn bị “ngăn sông cách núi”:
"Hình khe, thế núi gần xa
260
Đứt thôi lại nối, thấp đà lại cao” (Chinh Phụ Ngâm)
Trong bài thơ “Đi Đƣờng”, Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ thiên tài của dân
tộc ta chẳng từng đã viết “Đi đƣờng mới biết gian lao; Núi cao rồi lại núi cao trập
trùng”, đó sao?
2. Cái khó của đƣờng đi nhƣ thế vẫn chƣa đáng sợ, cái đáng sợ nhất là lòng
ngƣời “Ngại núi, e sông”, nghĩa là lòng ngƣời sợ khó khăn gian khổ.
Nhưng cái khó khăn của đường đời như thế vẫn chưa đáng sợ, mà cái đáng sợ
nhất mà Nguyễn Bá Học nhấn mạnh ở đây là “lòng ngƣời ngại núi, e sông”. Nghĩa là
lòng người sợ khó khăn, gian khổ. Thực tế đã cho ta thấy rõ trên con đường đi tới mục
đích cuối cùng cao đẹp của cuộc đời, vì gặp quá nhiều chông gai, gian nan, trắc trở,
nên đã có biết bao người mềm lòng, nản chí, buông xuôi đầu hàng. Và kết cục họ
chẳng làm được việc gì có ý nghĩa cho đời, chẳng đạt được mục đích nào cao đẹp. Chả
thế mà Marai Sador đã từng khẳng định” Trong mắt ngƣời khác, bạn có thể thất bại
vài ba lần, nhƣng với bản thân bạn không đƣợc phép trở nên mềm yếu, vì đây là thất
bại thảm hại nhất”. Sự thất bại với chính bản thân mình, nghĩa là sự thất bại của sự
yếu mềm, của lòng “ngƣời ngại núi, e sông” là sự thất bại của mhững người thiếu ý
chí, không dám đương đầu với khó khăn thử thách. Những con người ấy chẳng thành
công trong bất cứ công việc gì. Họ không xứng đáng làm “Một hành nhân” trên con
đường đời đầy chông gai của cuộc sống.
3. Khi con ngƣời đã có quyết tâm, tinh thần vƣợt khó, ý chí vƣơn lên phía trƣớc,
thì dù khó khăn trở ngại đến mấy, cũng có thể đi tới đích, đạt đƣợc thắng lợi.
Ở câu nói trên, ông Nguyễn Bá Học đã sử dụng cặp từ “ không phải …mà”,
theo cách phủ định để khẳng định: điều quan trọng nhất là thái độ của con người trước
khó khăn, gian khổ, chấp nhận để khắc phục mà tiến lên, hay buông xuôi, đầu hàng?
Trước cuộc sống trăm màu, nghĩa vẻ, đường đời lại khúc khuỷnh gập ghềnh, cheo leo
họ, chỉ có những người không sợ mỏi gối, chồn chân, với bản lĩnh kiên cường và ý chí
nghị lực mạnh mẽ, sẵn sàng đạp bằng mọi gian khổ, quyết vươn lên phía trước, không
bao giờ lùi bước, không một chút mảy may “ngại núi e sông” và luôn luôn biết chiến
thắng bản thân mình… thì mới hoàn toàn đi tới đích cuối cùng và giành được thắng lợi
vẻ vang
4. Bình luận và chứng minh mở rộng
Tóm lại lời khuyên của Nguyễn Bá Học hoàn toàn đúng đắn và rất sâu sắc, có ý
nghĩa như một phương châm, triết lý hành động để phấn đấu cho sự nghiệp vinh quang
của tất cả chúng ta ngày nay.
Lịch sử dân tộc ta đã chỉ rõ những tâm gương cao đẹp gặt hái được nhiều chiến
công trên đường đời và làm “nên sự nghiệp lớn” đều là những con người ý thức được
một cách sâu sắc vai trò quan trọng của sức mạnh ý chí, bản lĩnh tinh thần thép, luôn
luôn biết chế ngự hoàn cảnh, không sợ khó, sợ khổ quyết không mềm yếu, đầu hàng
trước khó khăn trở ngại. Tấm gương vĩ đại nhất trong thời đại chúng ta đang sống là
tấm gương Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Với lý tưởng và ham muốn tột bậc “Tổ
quốc tôi đƣợc độc lập, nhân dân tôi đƣợc tự do, đồng bào tôi ai cũng có cơm ăn áo
mặc , ai cũng đƣợc học hành” (Lời Bác Hồ trả lời các nhà báo), chàng trai Nguyễn Tất
Thành đã xuất dương tìm đường cứu nước với hai bàn tay trắng. Bằng ý chí nghị lực,
tinh thần vượt khó phi thường và với khát vọng độc lập tự do cho Tổ quốc cháy bỏng,
261
Bác Hồ chỉ với một viên gạch hồng đã chống lại cả mùa đông băng giá của Châu Âu,
đã đi khắp chân trời châu Mỹ, châu Phi quyết tìm cho được “Chiếc cẩm nang thần
kỳ”- đó là chủ nghĩa Mác – Lênin. Khi trở về nước, với “Chiếc cẩm nang” thần diệu
ấy, Người đã chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua muôn ngàn ghềnh
thác và đi đến bến bờ thắng lợi để có ngày mồng 2 tháng 9 năm 1945 lịch sử: “Thủ đô
Hoa vàng nắng Ba Đình” và “Chín năm làm một Điện biên. Nên vành hoa đỏ, nên
thiên sử vàng”
Thấm nhuần lời khuyên của Bác “Không việc gì khó; chỉ sợ lòng không bền;
đào núi và lấp biển; quyết chí ắt làm nên”, lớp lớp cháu con đã lên đường vượt
Trường Sơn nhiều núi cao vực thẳm, sông sâu, quyết tâm chống Mỹ, giải phóng Miền
Nam để có ngày 30/4 “Tuyệt trần nắng đẹp ; Bác Hồ ơi! Toàn thắng về ta! Chúng con
đến xanh ngời ánh thép; Thành phố Ngƣời lộng lẫy cờ hoa” (có thể lấy thêm dẫn
chứng về những tấm gương khác trong các lĩnh vực thể thao, khoa học, văn hoá: Nhờ
có ý chí, nghị lưc, tinh thần vượt khó, không ngại núi, e sông không gục ngã trước số
phận éo le nên đã làm nên sự nghiệp lớn như Bạch Đình Vinh bị bại liệt, bị mất tiếng
nói… mà vẫn là sinh viên của ba trường Đại học: Giao thông vận tải, Thương mại và
Công nghệ thông tin của Bách khoa hay tấm gương người thương binh Nguyễn Xuân
Năng cụt cả hai cánh tay mà vẫn giành được huy chương bạc môn bóng bàn trong đại
hội Paragames được Thủ tướng Chính phủ tặng bằng khen…)
Kết luận:
Những điều đã phân tích trên cho ta thấy đường đời không chỉ toàn rợp bóng
mát dịu êm và hạnh phúc mà là đầy chông gai với muôn vàn thử thách. Đừng mềm
lòng, nản chí bạn nhé! Hãy coi những thử thách ấy là “Lửa thử vàng” làm cho sức lực
ý chí và bản lĩnh của ta vững vàng hơn, dễ đi đến thẳng lợi hơn. Đúng như lời Bác Hồ
đã từng dạy “Sống ở trên đời ngƣời đúng vậy; gian nan rèn luyện mới thành công”.
Đề 21a:
Truyền thống tôn sƣ trọng đạo của dân tộc Việt Nam (đề mở)
A.HƢỚNG DẪN LÀM BÀI
“Để bài đặt ra một luận đề vừa lí thú lại vừa thiết thực trong cuộc sống của dân
tộc ta cũng như của mỗi học sinh chúng ta. Đó là một đạo lí đã trở thành truyền thống
đẹp của dân tộc Việt Nam từ bao đời nay: tôn sư trọng đạo. Ai cũng cảm nhận được vẻ
đẹp của đạo lí này, nhưng hiểu cho hết ý nghĩa sâu xa của nó - cả ngày xưa và hôm
nay – thì không đơn giản chút nào. Người viết phải tự mình đặt ra những câu hỏi nhỏ
xung quanh truyền thống này để bàn luận, trả lời, giải đáp nhằm làm sáng tỏ vấn đề
một cách toàn diện, sâu sắc. Dĩ nhiên có thể bàn luận cả luận đề hoặc chỉ đi vào một
khía cạnh mà mình tâm đắc nhất, vì đây là đề mở. Đề bài không nêu thao tác lập luận
để người viết hoàn toàn có thể lựa chọn thao tác lập luận phù hợp với vấn đề bàn luận
của mình: phân tích, so sánh, bác bỏ, bình luận….” (Theo Nguyễn Xuân Lạc)
Mở bài
Dân tộc ta có truyền thống tôn sư trọng đạo. Đó là một truyền thống tốt đẹp của
một dân tộc văn hiến và hiếu học. Từ xa xưa đã có câu ca:
Muốn sang thì bắc cầu kiều
Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy
262
Hoặc thâm thuý hơn, ông cha ta cũng từng nhắc con cháu: Nhất tự vi sƣ, bán tự
vi sƣ (Một chữ là thầy, nửa chữ cũng là thầy).
Thân bài
1. Thế nào là tôn sƣ? Vì sao phải tôn sƣ ?
Tôn sư là đề cao, tôn vinh, coi trọng người thầy. Vì sao vậy? Người thầy dạy
chữ, dạy kiến thức cho ta, đem đến cho ta những hiểu biết để ta sống tốt hơn, có ích
hơn. Người thầy lại dạy ta đạo lí, nhân cách để ta biết làm người trong xã hội. Vai trò
người thầy là hết sức quan trọng, không thể thiếu đối với bất kì một quốc gia dân tộc
nào. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Thế thì
sao lại không tôn vinh, đề cao người thầy? Đây là tôn vinh xuất phát từ chức năng cao
quý và trách nhiệm lớn lao của người thầy.
2. Thế nào là trọng đạo? Vì sao phải trọng đạo?
Trọng đạo là gì? Trong kết cấu hai vế cân đối tôn sư/ trọng đạo, nếu tôn sư là
tôn vinh người thầy thì trọng đạo là coi trọng nghề dạy học. Đạo ở đây là đạo làm thầy
(1), là nghề dạy học. Nghề dạy học là nghề đáng được coi trọng vì sản phẩm nó đào
tạo ra chính là con người, như ai đó đã nói : « Trong các nghề thì nghề dạy học là nghề
cao quý nhất ». Nhân dân ta « trọng đạo » chính là trọng cái nghề « trồng ngƣời » cao
quý ấy, cũng nhƣ họ đã tôn vinh ngƣời thầy là những « kĩ sƣ tâm hồn ».
3. Bình luận mở rộng : Ý nghĩa của Tôn sƣ trọng đạo
Tôn sư trọng đạo hàm chứa một ý nghĩa sâu sắc. Trước hết, đó là sự suy nghĩ,
nhìn nhận đúng đắn và tiến bộ của nhân dân ta về một nghề đáng được coi trọng và
một con người đáng được tôn vinh. Nó chứng tỏ dân tộc ta là một dân tộc văn hiến và
hiếu học, bởi coi trọng nghề dạy học là một biểu hiện sâu sắc của một dân tộc hiếu học.
Nhưng ý nghĩa sâu xa của tôn sư trọng đạo chính là nó gắn bó mật thiết với sự nghiệp
trồng người để nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài làm cho dân giàu
nước mạnh, xã hội phát triển tốt đẹp. Xưa, ông cha ta đã nói « hiền tài là nguyên khí
của quốc gia » ; nay, ta lại khẳng định « giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu » -
những điều đó không thể không liên quan đến truyền thống tôn sư trọng đạo của dân
tộc ta. Tôn sư trọng đạo đã trở thành một đạo lí, một truyền thống tốt đẹp của nhân dân
ta chính là như thế. Nó là sức mạnh tinh thần, tình cảm lớn lao và bền vững của dân
tộc để góp phần xây dựng nên một nước Việt nam văn hiến và giàu mạnh.
4. Truyền thống tôn sƣ trọng đạo đƣợc kế thừa và phát triển trong xã hội ta
hiện nay.
Truyền thống tốt đẹp đó đã được nhân dân ta kế thừa và phát huy trong cuộc
sống hiện nay. Trên khắp đất nước, ở đâu cũng vậy, từ thành thị đến nông thôn, miền
xuôi miền ngược, người dân Việt nam đều yêu quý, tôn trọng ông thầy, đều dành cho
thầy những tình cảm ưu ái nhất, đặc biệt là lòng biết ơn sâu sắc thầy đã dạy con cái họ
nên người. Trong hoàn cảnh nước nhà còn nghèo, đời sống thầy giáo còn nhiều khó
khăn, họ đã tận tình giúp đỡ thầy một cách chân thành và cảm động. Các dân tộc vùng
cao đã coi các thầy giáo, cô giáo miền xuôi lên dạy học như người con của quê hương
mình. Người thầy được tôn vinh thì nghề dạy học cũng được coi trọng. Không phải
ngẫu nhiên mà giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu và ngày 20 – 11 hàng năm đã
trở thành ngày hội lớn của toàn dân để tôn vinh người thầy và nghề dạy học cao quý.
Hình ảnh cha mẹ học sinh tặng hoa các thầy, cô giáo trong ngày 20 – 11 và cả những
cán bộ cấp cao của Đảng và Nhà nước đến thăm thầy giáo cũ đã nói lên sâu sắc truyền
thống và đạo lí cao đẹp. Từ một đạo lý truyền thống của dân tộc, tôn sư trọng đạo đã
mang một ý nghĩa cách mạng mới trong thời đại ngày nay gắn liền với tư tưởng «
263
trồng người » của chủ tịch Hồ Chí Minh. Nó không chỉ là đạo lí, tình cảm mà còn là
tinh thần, sức mạnh, hành động cách mạng để đưa đất nước đi lên ngày càng giàu
mạnh, văn minh. Đó là nét mới của truyền thống tôn sư trọng đạo trong cuộc sống hiện
nay của nhân dân ta.
Kết luận
Bước sang thế kỉ XXI, cuộc sống có nhiều đổi mới kéo theo sự đổi mới của
giáo dục, của vai trò người thầy và nghề dạy học. Trên cơ sở kế thừa, giữ gìn những
mặt tốt đẹp của truyền thống, chúng ta cần biết phát huy và vận dụng đạo lí tôn sư
trọng đạo một cách sáng tạo, phù hợp với thực tiễn cách mạng mới để đạt kết quả tốt
đẹp nhất.
(Bài làm của em Mai Thanh Thuỷ, học sinh
Trƣờng THPT Lam Sơn, Thành phố Thanh Hóa)
(Ghi chú : Bài văn trên đây là bài làm của em Mai Thanh Thuỷ, chúng tôi dẫn
theo tài liệu của Nguyễn Xuân Lạc, còn những đề mục của kết cấu bài thơ như : « Mở
bài », « Thân bài », « Kết luận‟ và các luận điểm 1, 2, 3, 4, do chúng tôi thêm vào)
Đề số 22a : Suy nghĩ về ý kiến của nhà văn Pháp M.ixêrông “ Mọi phẩm
chất của đức hạnh là ở trong hành động “ . Liên hệ với việc học tập, tu dƣỡng của
bản thân.
A. HƢỚNG DẪN LÀM BÀI
Đề này cần :
1. Giải thích ý kiến. - Đức hạnh là phẩm chất đạo đức tốt đẹp ở con người.
- Đức hạnh phải được biểu hiện qua hành động, lối sống.
- Hành động thực tiễn là thước đo của đức hạnh
2. Mỗi học sinh phải luôn luôn gìn giữ và phát huy những phẩm chất tốt
đẹp của mình thông qua việc làm, lối sống, quan hệ xã hội.
- Lòng hiếu thảo đối với cha mẹ : là người con ngoan, chăm học, giúp cha mẹ
việc nhà, giản dị, tiết kiệm.
- Đối với thầy giáo và người cao tuổi : kính trọng và lễ phép.
- Đối với bạn bè : trung thực, chân thành, quan tâm, giúp đỡ khi cần.
- Đối với xã hội : thực hiện lối sống văn minh, giữ vệ sinh môi trường, ý thức
thực thi pháp luật như luật giao thông, phòng ngừa tệ nạn cờ bạc, ma túy….
- Thực hiện phương châm : lời nói đi đối với việc làm, không ba hoa, hứa hẹn
lung tung.
- Dũng cảm vạch trần các hành vi gian lận, tiêu cực trong học tập và thi cử.
3. Chứng minh, bình luận, mở rộng
- Hành động thiết thực là học, học nữa, học mãi, học tập suốt đời.
- Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Đánh giá con người không căn cứ vào lời
nói mà qua việc làm, hành động cụ thể của họ.
- Con người trưởng thành qua hành động thực tiễn, phải luôn luôn tham gia tích
cực các hoạt động xã hội như mùa hè xanh, thanh niên tình nguyện, hành trình xanh,
các hoạt động Đoàn, Đội ở trường và làng xóm, khu phố….
4. Sử dụng tổng hợp các thao tác lập luận : giải thích, bình luận, chứng minh.
264
B. BÀI LÀM THAM KHẢO :
Đề : Suy nghĩ về ý kiến của nhà văn Pháp M.ixêrông “ Mọi phẩm chất của
đức hạnh là ở trong hành động “ . Liên hệ với việc học tập, tu dƣỡng của bản
thân.
Mở bài :
Ý kiến của nhà văn Pháp M.ixêrông “ Mọi phẩm chất của đức hạnh là ở trong
hành động “ gợi em nhiều suy nghĩ về việc tu dưỡng và học tập của bản thân.
Thân bài:
1. Đức hạnh là phẩm chất đạo đức tốt đẹp của con ngƣời.
Đức hạnh đó là những phẩm chất đạo đức tốt đẹp của con người. Đó là : Lòng
yêu nước, yêu đồng bào, hiếu thảo với cha mẹ, kính yêu thầy cô giáo, các bậc lão
thành, yêu thương em nhỏ, chăm chỉ học tập, cần cù lao động…
2. Đức hạnh phải đƣợc biểu hiện qua hành động, lối sống.
Làm thế nào để xã hội và những người xung quanh biết chúng ta là người đức
hạnh? Ý kiến của nhà văn Pháp nêu trên đã trả lời cho câu hỏi đó. Hành động là biểu
hiện cụ thể, là thước đo của “Mọi phẩm chất của đức hạnh”. Hành động cụ thể của ta
báo cho mọi người biết ta có đức hạnh hay không và nếu có thì mức độ sâu rộng như
thế nào. Đức hạnh là cội rễ, hành động là hoa thơm quả ngọt dâng đời. Không có hành
động thì đức hạnh không để lại gì, không đóng góp gì cho người thân và xã hội. Đánh
giá đức hạnh con người nhất thiết phải thông qua hành động của người đó, không thể
chỉ dựa vào lời nói mà kết luận vội vàng.
Tình yêu thương đồng bào và lòng nhân văn cao cả phải thể hiện ở sự đóng góp
dù rất ít ỏi cho quỹ người nghèo, ủng hộ đồng bào bị thiên tai bão lụt, qua hành động
giúp cụ già, em bé đi qua đường. Gặp đám cháy chúng ta phải xông vào cứu chữa. Gặp
người bị tai nạn giao thông, như hai bạn ở Nghệ An trên đường đi thi tốt nghiệp phổ
thông, không ngần ngại đưa họ đi cấp cứu mặc dù việc đó có thể gây thiệt hại cho bản
thân.
Lòng hiếu thảo, yêu thương cha mẹ phải thể hiện ở hành động chăm học, sống
tiết kiệm, biết quý trọng đồng tiền cha mẹ vất vả kiếm được để nuôi mình ăn học. Khi
xa gia đình, ta phải thường xuyên viết thư, gọi điện thăm hỏi sức khỏe cha mẹ. Khi cha
mẹ ốm đau, ta phải hết lòng, hết sức quan tâm, chăm sóc, chạy chữa.
Lòng yêu thiên nhiên đất nước phải thể hiện ở hành động giữ gìn vệ sinh, tiết
kiệm điện nước, trồng cây để cho môi trường sống xung quanh ta ngày càng xanh,
sạch đẹp.
Lòng yêu lao động thể hiện ở hành động chăm làm, chăm học ( Học tập cũng là
một loại hình lao động ). Học tập suốt đời để sống tốt, lao động tốt, sức khỏe tốt, tu
dưỡng phẩm chất đức hạnh tốt. Đức hạnh bắt nguồn từ tri thức, nhận thức đúng đắn về
xã hội và tự nhiên, con người và cuộc sống. Học tập là cơ sở để ta có phẩm chất của
đức hạnh và hành động phù hợp với phẩm chất của đức hạnh.
3. Đức hạnh phải đƣợc tu dƣỡng rèn luyện thƣờng xuyên trong thực tiễn.
Phẩm chất của đức hạnh, chứa đựng trong nhận thức và biểu hiện ở hành động
không phải tự nhiên mà có. Chúng ta phải tu dưỡng và rèn luyện thường xuyên, đặc
biệt khi ta còn trẻ.
Hành động thể hiện phẩm chất của đức hạnh cũng không có một tiêu chuẩn
cứng nhắc, cố định. Trong chiến tranh giữ nước, hành động có thể là vứt bút nghiên
theo nghiệp binh đao, nhưng cũng có thể là lao động sản xuất tốt. Còn khi thời bình và
đang tuổi đi học, chúng ta học tập tốt, tu dưỡng tốt để trở thành người có ích cho xã
265
hội, có việc làm, hành động thể hiện các phẩm chất đức hạnh cao quý là người yêu
nước.
Học tập, tu dưỡng, rèn luyện để có đức hạnh, cả trong nhận thức và hành động,
là quá trình gian nan, vượt nhiều khó khăn thử thách. Hôm nay ta lười học thì ngày
mai ta sẽ lười lao động. Hôm nay ta ăn cắp 1 quả trứng thì ngày mai ta dễ ăn trộm con
bò. Cuộc vận động “ Nối không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong học
tập” cần được chúng ta hưởng ứng bằng hành động thiết thực, cụ thể.
Hành động của con người, nói rộng ra là thực tiễn, là “tiêu chuẩn của chân lý”,
là tiêu chuẩn, thước đo của phẩm chất “ đức hạnh”, bản chất ở bên trong của con người.
Khi con người biết nhìn nhận, đánh giá mình qua hành động cụ thể, việc làm hàng
ngày, qua lao động sản xuất và quan hệ ứng xử là con người “ có học” có hiểu biết và
là có “phẩm chất tốt” , “đức hạnh cao”, Một trí thức, một người có văn hóa, có giáo
dục không thể tự nói với người khác rằng họ có bằng cấp, có học vị, học hàm cao nên
“ phẩm chất đức hạnh tốt đẹp”. Họ phải thể hiện ở hiệu quả các công trình khoa học,
cái hay trong cuốn sách mà họ viết, số người bệnh mà họ cứu chữa được.
4. Con ngƣời phải tự nhận thức và đánh giá đức hạnh của mình.
Hành động là thể hiện, là kết tinh của đức hạnh. Con người phải luôn luôn tự
đánh giá, tự nhận thức bản thân mình qua việc làm, qua ứng xử cụ thể, qua hành động
chứ không phải qua lời nói của mình. Phầm chất đức hạnh con người được đo bằng kết
quả thực tế việc làm chứ không phải bằng những lời ba hoa, lý thuyết, hùng biện, mị
dân, tự đánh bóng mình. Con người phải luôn luôn hoàn thiện tư cách đạo đức phẩm
giá bằng những bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn.
5. Học tập đạo đức, tác phong của Bác Hồ.
Phẩm chất đạo đức cao cả của Bác Hồ luôn thể hiện ở hành động, việc làm.
Lòng yêu thương con người, yêu quê hương đất nước, lối sống giản dị, trong sáng của
Bác Hồ đã được thể hiện qua rất nhiều hành động, việc làm mà sách báo đã viết về Bác.
Kết luận :
Noi gương Bác, em nguyện lời nói đi đôi với việc làm, học đi đôi với hành,
rèn luyện tu dưỡng bản thân qua thực tiễn lao động, học tập và quan hệ xã hội để
không ngừng hoàn thiện phẩm chất đức hạnh.
Đề số 23 a: Ý kiến về mục đích học tập do UNESCO đề xứng “ Học để biết, học để làm, học
để chung sống, học tập để làm ngƣời “
A. HƢỚNG DẪN LÀM BÀI
Bài này cần :
1. Giải thích:
- Thế nào là “ Học để biết”
- Thế nào là “ Học để làm”
- Thế nào là “ Học để chung sống”
- “Học để làm người” là gì?
2. Bình luận, mở rộng
- Học là quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi người.
- Ai cũng phải học tốt để làm người phục vụ sự phát triển bản thân, gia đình và
xã hội.
266
- Học tập suốt đời, học mọi lúc, mọi nơi.
- Cần có phương pháp học tập thích hợp để có hiệu quả cao.
- Học đi đôi với hành.
3.Phê phán tính lƣời học, nản chí trong học tập của một bộ phận thanh
niên học sinh.
4. Liên hệ bản thân : tự giác chăm học, học đi đôi với hành.
5. Sử dụng tổng hợp các thao tác : giải thích, bình luận, chứng mình.
B. BÀI LÀM THAM KHẢO
Đề : Ý kiến về mục đích học tập do UNESCO đề xứng “ Học để biết, học để
làm, học để chung sống, học tập để làm ngƣời “
Mở bài :
Mục đích học tập đúng đắn sẽ làm cho người ta say mê học tập và học tập có
kết quả. Nhưng mục đích học tập thế nào là đúng? UNESCO đã giúp ta trả lời câu hỏi
đó : “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình”
Thân bài:
1. Học để có tri thức
“ Học để biết” tức là học để có tri thức. Tri thức về cuộc sống, về tự nhiên và
xã hội, về nghề nghiệp chuyên môn, không ai sinh ra đã có tri thức. Học tập là cách
duy nhất để có tri thức. Không học sẽ không bao giờ biết “Nhân bất học bất tri”. Trẻ
em như trang giấy trắng. Học tập tạo nên tri thức tích lũy của mỗi người.
2. Học để có nghề, có việc làm
“ Học để làm” : học để có nghề nghiệp, việc làm, để lao động nuôi sống mình
và góp phần phát triển xã hội, đất nước. “ Nhất nghệ tinh nhất thân vinh”. Học nghề
nghiệp tinh thông sẽ có năng suất lao động cao, giải quyết công việc dễ dàng, thuận lợi.
Do xác định rõ mục tiêu “Học để làm “ nên mọi người sẽ cố gắng “học đi đôi với
hành” . Học nghiêm túc, chu đáo, kỹ càng đề làm việc được tốt. Sinh viên Y khoa có
học giỏi thì khi trở thành bác sĩ mới có thể chữa bệnh, cứu người, học dốt có khi lại
làm hại người “ tiền mất tật mang”
3. Học để có kỹ năng sống, không để “chết vì dốt”
“Học để chung sống” là học để có kỹ năng sống, dễ dàng thích nghi với mọi
môi trường, hoàn cảnh sống, hòa thuận, hòa nhập với cộng đồng, với mọi người xung
quanh. Người có học , có hiểu biết thường sống có lý, có tình, tính cách, đức hạnh thu
phục lòng người, thường được mọi người yêu quý, kính trọng.
4. Học để có phẩm chất đạo đức con ngƣời.
“Học để làm ngƣời” là học để có phẩm chất đạo đức, có chuyên môn nghề
nghiệp cao, thành công trong cuộc sống, nhờ học vấn mà người ta sống tự tin, tự trọng,
hiểu đời, hiểu người, có nhân cách, có cá tính và thành đạt. Học để trưởng thành, và
được anh em, bè bạn, đồng nghiệp tôn trọng, chính là “học để làm người”
5. Học tập là quyền lợi, và nghĩa vụ của mỗi ngƣời.
Mục đích học tập mà UNESCO nêu trên cho chúng ta thông điệp rằng học tập
là quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi người. Ai cũng phải học, học cho tốt để làm người,
phục vụ cho bản thân và cho gia đình , xã hội.
Từ mục đích học tập như vậy mà UNESCO đưa ra phương châm “Học tập suốt
đời”. Để biết, để làm, để chung sống và để tự khẳng định mình, người ta phải học tập
267
suốt đời. Xã hội ngày nay đã phát triển đến mức có các phương tiện thích hợp để mọi
người học tập suốt đời.
Xác định mục đích học tập đúng đắn là điều rất quan trọng để chứng mình ta cố
gắng vượt mọi khó khăn, chăm học và học giỏi. Nhiều bạn trẻ chưa xác định được
động cơ học tập nên lười học, trốn học, quay cóp và thiếu trung thực trong học tập.
Học tập miễn cưỡng, “Đi học cho cha mẹ”. Học mà không có niềm vui thì làm sao mà
học tốt được.
6. Học đi đôi với hành
Phương pháp học tập tốt và phù hợp là rất quan trọng. “Học đi đôi với hành”,
tăng cường tự học để “ Học tập suốt đời”, học mọi lúc mọi nơi, chú ý quan sát thực tế
cuộc sống, liên hệ, suy nghĩ, sáng kiến, sáng tạo trong khi kết hợp học với hành để có
kết quả học tạp tốt và thành công trong cuộc sống.
Để đạt mục tiêu” Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để làm
ngƣời”, chúng ta phải học một cách sáng tạo. Học một cách thực chất và biết vận dụng
kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống. Học để có kỹ năng lao động cao, có kết quả
việc làm tốt. Kết quả học tập phải cao, được xã hội công nhận (đạt danh hiệu học sinh
giỏi, học sinh đậu thủ khoa trong các kỳ thi). Người đã đi làm thì nhờ học vấn cao mà
thể hiện được năng lực làm việc, được đồng nghiệp và cơ quan tín nhiệm, cân nhắc, đề
bạt, thành đạt trong sự nghiệp. “Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý”, là thước đo học vấn
của mỗi người chúng ta.
Người có học, người có tri thức thể hiện ở kỹ năng sống thành thục, ở quan hệ
xã hội tốt đẹp, nhờ không ngừng hoàn thiện bản thân mình. Nhờ có học mà chúng ta
“không chết vì dốt”, biết tự bảo vệ mình như biết cách phòng bệnh, không để nhiễm
phải HIV, AIDS, virust viêm gan B…. Lối sống giản dị, khoa học, văn mình là kết quả
của học vấn.
Mục đích học tập do UNESCO đề xướng không cho riêng học sinh, sinh viên,
mà cho con người nói chung. Múc đích học tập đúng đắn và có cơ sở khoa học cao,
tổng kết từ thực tiễn hàng nghìn năm đó của UNESCO luôn nhắc nhở mọi người hãy
luôn luôn học tập, suốt đời học tập.
Xã hội, nhà nước và nhân dân, các hội khuyến học phải tuyên truyền giáo dục,
nêu cao, biểu dương tinh thần ham học, hiếu học, làm cho xã hội ta trở thành “ xã hội
học tập”
Kết luận:
Lời đề xướng về mục đích học tập của UNESCO là ngọn đèn soi sáng cho mọi
người, đặc biệt là thế hệ trẻ trong học tập và làm việc. Em phấn đấu học thật tốt.
Đề số 24a: Phát biểu suy nghĩ về ý kiến: “ Có ba điều trong cuộc đời mỗi ngƣời
nếu đi qua sẽ không lấy lại đƣợc: thời gian, lời nói, và cơ hội”
A. HƢỚNG DẪN LÀM BÀI
Đề này cần : 1.Giải th ích ý kiến:
- Thời gian đối với đời người có hạn, vì vậy rất quý giá.
- Lời nói phản ánh tư tưởng, đạo đức, lối sống, quan điểm của con người. Vì
vậy, con người phải thận trọng “Uốn lƣỡi bảy lần trƣớc khi nói” . Lời nói đi đôi với
việc làm, có làm được thì hãy nói.
- Cơ hội đến với mỗi người là rất hiếm, phải tranh thủ tận dụng khi có cơ hội.
268
2. Bình luận mở rộng
- Mỗi người phải biết tận dụng, khai thác có hiệu quả quỹ thời gian, lời nói và
cơ hội để hoàn thiện bản thân, học tập và làm việc tốt, thành đạt trong cuộc sống,
- Để sử dụng có hiệu quả ba điều nói trên, con người cần có học vấn, tri thức,
sức khỏe.
- Sống có lý tưởng có mục đích cao đẹp mới giúp người ta quý trọng và sử dụng
hết tốt quỹ thời gian, lời nói và cơ hội.
- Phê phán những lời nói ba hoa, không biết quý trọng thời gian, lời nói và cơ
hội.
3. Chứng minh, liên hệ bằng thực tế và thơ văn
4. Sử dụng, tổng hợp các thao tác lập luận, giải thích, bình luận, chứng
minh.
B. BÀI LÀM THAM KHẢO
Đề : Phát biểu suy nghĩ về ý kiến: “ Có ba điều trong cuộc đời mỗi ngƣời nếu đi
qua sẽ không lấy lại đƣợc: thời gian, lời nói,
và cơ hội”
Mở bài :
Ý kiến “ Có ba điều trong cuộc đời mỗi ngƣời nếu đi qua sẽ không lấy lại
đƣợc: thời gian, lời nói, và cơ hội” gợi mở cho chúng ta nhiều suy nghĩ và hướng dẫn
cho ta phương châm sống ở đời.
Thân bài
Thời gian, lời nói và cơ hội là những thứ quý báu nhất cần được con người sử
dụng cân nhắc, thận trọng, hợp lý và hiệu quả trong cả cuộc đời.
1. Thời gian đối với đời ngƣời là có hạn.
Thời gian đối với vũ trụ là vô hạn nhưng đối với đời người là hữu hạn. Thời
gian trôi đi sẽ không bao giờ lấy lại được. Quỹ thời gian đời người có hạn và trôi
nhanh. “ Nhƣ bóng câu qua cửa sổ”. Chúng ta phải quý thời gian, tận dụng thời gian
để sống, để học tập và lao động .“ Việc hôm nay không để ngày mai” .
2. Uốn lƣỡi bảy lần trƣớc khi nói
Lời nói như “mũi tên bay, đã bắn ra khỏi cung thì không lấy lại đƣợc”, vì vậy,
chúng ta phải ”Uốn lƣỡi bảy lần trƣớc khi nói”. Vì sao? Vì lời nói phản ánh tư tưởng,
đạo đức tác phong của ta, không chỉ ảnh hưởng tới bản thân ta mà có khi còn ảnh
hưởng tới người khác. Lời nói là nói cho người khác nghe. Ý nghĩa và ấn tượng mà lời
nói ta gây cho người khác là không thể quên, nếu có sai sót thì rất khó đính chính, rất
khó sửa sai mặc dù chúng ta có thể “nói lại cho rõ”. Đặc biệt là khi ta nói về người thứ
ba, “nói sau lưng”, rất dễ gây hiểu lầm cho người khác, phải cẩn thận và suy nghĩ
trước khi nói. “ Lời nói là đọi (bát) máu” có khi gây cho người ta uất ức, đưa người ta
đến chỗ tự tử hoặc tù tội, ví dụ có một số sinh viên ở ký túc xá đã tự tử vì bị bạn cùng
phòng nghi ngờ khi bị mất tiền. Lời nói có sức mạnh và ta phải thận trọng khi nói.
3. Cơ hội là điều hiếm gặp trong đời ngƣời
Cơ hội là cơ may, may mắn, một điều kiện rất thuận lợi đến với ta trong cuộc
đời, nhờ nó ta có thể thay đổi cuộc đời, “ đổi đời” như một việc làm phù hợp có thu
nhập cao, một học bổng đi học nước ngoài, một bệnh nhân gặp được thầy thuốc giỏi
269
“ gặp thầy, gặp thuốc”.Cơ hội hiếm có trong đời, khi gặp cơ hội chúng ta phải nắm lấy
kịp thời, cơ hội qua đi chúng ta rất khó gặp lại.
4. Phải làm gì để tận dụng thời gian, lời nói và cơ hội.
“Thời gian, lời nói và cơ hội” có thể nói chúng lả ba điều quý giá nhất trong
cuộc sống. Mọi điều khác trong cuộc sống đều suy đến cùng chúng ta đều có thể có
được nếu chúng ta sử dụng có hiệu quả 3 điều nêu trên. Tiền bạc, của cải có thể có
được từ sử dụng tốt thời gian và cơ hội. Bạn bè có được từ ứng xử, từ “Lời nói” của ta.
Công danh sự nghiệp thành công khi “thời gian, lời nói và cơ hội” được chúng ta sử
dụng tốt nhất.
Chúng ta phải học tập, tu dưỡng, rèn luyện tốt mới có thể tận dụng cơ hội, sử
dụng hiệu quả thời gian và lời nói, ứng xử, chuẩn bị tốt hành trang vào đời, cả về sức
khỏe, kỹ năng sống, và chuyên môn, nghề nghiệp. Không chuẩn bị tốt thì khi có cơ hội
khó có thể nắm bắt được. Ví dụ, nhiều người có cơ hội đi làm hoặc tu nghiệp nước
ngoài nhưng ngoại ngữ hoặc sức khỏe kém, không nắm bắt được.
Bác Hồ là mẫu mực về quý trọng thời gian, lời nói và cơ hội. Nhận ra thời cơ
chín muồi năm 1945, Bác Hồ đã quyết tâm “Dù có đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng
phải dành cho được độc lập tự do”. Rất nhiều lời dạy của Bác Hồ đã trở thành “Lời
hay ý đẹp”, phương châm sống của thế hệ trẻ chúng ta.
Chúng ta cần phải phê phán lối sống hưởng thụ xa hoa, đua đòi, lười biếng
trong học tập và lao động, lối sống đó không biết trọng thời gian, lãng phí thời gian
của mình và của người thân ( tiền bạc của cha mẹ là do thời gian lao động tích lũy lại
của ông bà, cha mẹ) . Lười biếng sẽ làm cho người ta không tận dụng được khi gặp cơ
hội tốt và lời nói ứng xử sẽ không được người ta tôn trọng.
Chúng ta phải biết quý trọng thời gian, lời nói và cơ hội. Ý thức đầy đủ sâu sắc
giá trị quý báu của chúng sẽ là bó đuốc soi đường cho chúng ta sống, học tập và làm
việc.
Thời gian đối với một đời người là rất quý giá. Vì vậy, chúng ta phải sống sao
cho “ khỏi xót xa, ân hận vì những năm tháng đã sống hoài, sống phí, cho khỏi hổ thẹn
vì dĩ vãng ti tiện và đớn hèn” ( trích Thép đã tôi thế đấy). Quý trọng thời gian của đời
người, con người sống có lý tưởng, có mục đích sống là cống hiến, hy sinh cho đời.
“Không hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta mà chúng ta phải hỏi thanh niên đã làm gì cho
đất nước” . Con người có mục đích sống đúng đắn, sống có lý tưởng mới biết quý
trọng thời gian.
Quý trọng thời gian thể hiện trong học tập có kết quả cao, lao động có năng suất
cao, quý trọng của cải đồng tiền mà mình đang có.
Quý trọng lời nói, ông cha ta đã có nhiều câu, như “ lời nói là bạc, im lặng là
vàng”, “lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa long nhau”, “học ăn, học
nói, học gói, học mở”, “quân tử nhất ngôn”. Lời nói đã nói ra, dù tiếc nuối đến mấy
cũng không thể lấy lại được. “Nói một thƣớc không bằng làm một tấc”. Nói phải đi
đôi với làm
Cơ hội đến với một dân tộc, một đất nước hàng trăm năm, có khi hàng nghìn
năm mới có một lần. Cơ hội hiếm có như vậy, khi gặp cơ hội nếu không tranh thủ
được thì sẽ không bao giờ gặp lại. Cơ hội là sự hội tụ của nhiều điều kiện khách quan
và chủ quan nên rất quý giá.
Kết luận
Thời gian, lời nói và cơ hội là những thứ ta có và gặp trong đời, nhưng rất quý
giá. Ta phải sử dụng chúng một cách có lợi nhất, hiệu quả nhất.
270
Đề số 25a: Suy nghĩ về câu của nhà văn Pháp, Misen Êken Môngtenlơ : “Nghèo
nàn về vật chất dễ chữa, nghèo nàn về tâm hồn rất khó chữa”
A. HƢỚNG DẪN LÀM BÀI
Bài này cần:
1. Giải thích câu nói:
- Nghèo nàn về vật chất và nghèo nàn về tâm hồn đều khó chữa, nhưng nghèo
nàn về tâm hồn khó chữa hơn.
- Nghèo nàn về tâm hồn khó chữa hơn vì nó đòi hỏi sự phấn đấu, tu dưỡng tự
giác cao ở mỗi con người.
- Làm thế nào để chữa chứng bệnh “ nghèo về tâm hồn”
2. Bình luận, mở rộng.
- Học tập và lao động để có tri thức, có thu nhập là con đường cơ bản để giàu có
cả về vật chất và tâm hồn.
- Sống có lý tưởng, có mục đích cao đẹp cống hiến cho gia đình, cộng đồng, xã
hội và tổ quốc là động lực để con người giàu có về tâm hồn.
3. Chứng mình bằng tài liệu thực tế, và thơ văn.
Bác Hồ là tầm gương về sự giàu có tâm hồn.
Anh Nguyễn Văn Trỗi, chị Đặng Thùy Trâm, anh Nguyễn Bá Thạc…. cho
chúng ta những bài học sâu sắc về tâm hồn phong phú cao đẹp.
4.Sử dụng tổng hợp các thao tác lập luận: giải thích, bình luận, chứng
minh.
B. BÀI LÀM THAM KHẢO
Đề : Suy nghĩ về câu của nhà văn Pháp, Misen Êken Môngtenlơ : “Nghèo nàn về
vật chất dễ chữa, nghèo nàn về tâm hồn rất
khó chữa”
Mở bài :
Đời sống con người gồm có đời sống vật chất, và đời sống tinh thần. Theo nhà
văn Pháp Misen Êken Môngtenlơ :“Nghèo nàn về vật chất dễ chữa, nghèo nàn về tâm
hồn rất khó chữa”. Tại sao lại như vậy và chúng ta học được gì từ câu đó?
Thân bài
1. Thế nào là nghèo nàn về vật chất và tâm hồn.
Đời sống vật chất và đời sống tinh thần đều cao, phong phú là điều ai cũng
muốn có nhưng rất khó đạt được. Trong hai mặt đó của đời sống con người, hiểu câu
nói của nhà văn Pháp Misen Êken Môngtenlơ, đời sống tâm hồn khó xây dựng hơn,
khi nghèo nàn sẽ khó chữa hơn. Đời sống tâm hồn quan trọng hơn đời sống vật chất.
Nghèo nàn về vật chất là sự thiếu thốn về kinh tế, về thu nhập và của cải, tiền
bạc. Người nghèo theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc là người có thu nhập quân dưới
1 đô la Mỹ mỗi ngày ( ở thế kỷ 20) và nay, theo tiêu chuẩn mới, là dưới 2 đô la Mỹ
mỗi ngày. Cùng với công việc phát triển kinh tế, tỷ lệ người nghèo trên thế giới cũng
như ở nước ta đang giảm. Cách đây 30 năm, tỷ lệ người nghèo ở nước ta khoảng 60%,
nay chỉ còn khoảng 15%. Người nghèo nếu có quyết tâm và điều kiện, cùng với sự
giúp đỡ của cộng đồng và nhà nước, có thể thoát nghèo.
271
Nghèo nàn tâm hồn là sự đơn điệu, tẻ nhạt, khô cằn, vô cảm trong tình cảm và
cảm xúc, không nhận thấy vẻ đẹp của thiên nhiên, và cuộc sống, xã hội và tư duy.
Người nghèo tâm hồn thường có thái độ tiêu cực ( ích kỷ, đố kỵ, ghen ghét), thiếu tấm
lòng yêu thương và rộng mở, độ lượng và không có hứng thú trong lao động sáng tạo
cũng như biết cách chia sẻ, hòa nhập cộng động.
2. Nghèo nàn về tâm hồn rất khó chữa.
“ Nghèo nàn về tâm hồn rất khó chữa” vì nó xuất phát từ nhận thức và thái độ
đối với bản thân và cuộc sống, với cộng đồng và xã hội. “ Cha mẹ sinh con, trời sinh
tính”, tính nết, tình cảm, quan niệm sống được hình thành trong quá trình nhận thức,
giao tiếp với môi trường xung quanh. Con người đã trưởng thành rất khó thay đổi về tư
duy, tính cách, đạo đức và quan niệm sống. Sống lâu làm con người có thêm kinh
nghiệm chứ khó làm tâm hồn biến đổi được.
Tập thơ “ Nhật ký trong tù” của Bác Hồ cho ta thấy mặc dù phải ở cảnh tù tội,
gian khổ nhưng nhờ sự giàu có về tâm hồn mà Bác luôn luôn vui vẻ, lạc quan, yêu đời.
Thông điệp mà nhà văn Pháp Misen Êken Môngtenlơ gửi đến chúng ta là phải
luôn luôn nuôi dưỡng tâm hồn, làm cho đời sống tinh thần phong phú, giàu có , dù đời
sống vật chất khó khăn.
Đời sống tinh thần khi đã nghèo nàn thì rất khó chữa, khó nhưng phải phải là
không chữa được. Sống cới mở, chân thành, sống có lý tưởng, có mục đích đúng đắn
sẽ giúp chúng ta sống có tâm hồn, khắc phục sự nghèo nàn trong tâm hồn. “Mọi phẩm
chất của đức hạnh là ở trong hành động”. Hãy có việc làm thể hiện sự quan tâm chăm
sóc bản thân, gia đình và cộng đồng. Hãy mở lòng với bạn bè, đồng nghiệp. Hãy
thường xuyên gọi điện thoại cho cha mẹ, anh chị em, bạn bè. Hãy tham gia tích cực
các hoạt động cộng đồng như làm vệ sinh đường phố, ủng hộ quỹ vì người nghèo, vui
chơi trung thu với các em nhỏ, thăm hỏi người ốm…. ta sẽ thấy “ Cuộc đời vẫn đẹp
sao”, lạc quan yêu đời, tâm hồn ngày càng phong phú, giàu có.
3.Học tập và lao động sáng tạo là điều kiện để chữa bệnh tâm hồn.
Học tập để có tri thức, lao động sáng tạo để có thu nhập và thành công trong sự
nghiệp, tu dưỡng đạo đức tác phong để không ngừng hoàn thiện bản thân là con người
đã có đời sống giàu có, cả vật chất và tinh thần. Đặc biệt chúng ta phải nuôi dưỡng tâm
hồn. Tâm hồn giàu có là rất quan trọng và rất khó, khó khăn hơn làm giàu về đời sống
vật chất.
4. Sống có lý tƣởng, có mục đích cao đẹp để tâm hồn giàu có.
Sống có lý tưởng, có mục đích và phấn đấu không ngừng cho đất nước, dân tộc,
xây dựng cuộc sống văn mình, giàu có về vật chất và tâm hồn, là mục tiêu mà em cố
gắng đạt được trong đời.
Chúng ta phải thường xuyên bồi đắp cho tâm hồn ngày càng phong phú, cao
đẹp. Những câu chuyện cảm động xung quanh cuộc sống và những câu chuyện trong
các tác phẩm văn học giàu giá trị nhân văn sẽ nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta, cả những
cuốn sách dạy về nghệ thuật sống cũng rất quý giá, như Quà tặng cuộc sống, Đắc nhân
tâm. Vượt lên chính mình, Phút dành cho mẹ…. Các tấm gương như chị Đặng Thùy
Trâm, anh Nguyễn Văn Thạc, anh Nguyễn Văn Trỗi cho ta những bài học sâu sắc về
tâm hồn cao đẹp, phong phú trong những hoàn cảnh khó khăn rất ngặt nghèo của đời
sống. Lắng tâm hồn mình để suy ngẫm sâu sắc những tấm gương đó làm cho chúng ta
trưởng thành hơn trong ý thức, vững vàng trong bản lĩnh, hoàn thiện hơn trong nhân
cách và tâm hồn ta sẽ đầy ắp những giá trị nhân văn cao quý.
272
Kết luận
Đất nước ta đang phấn đấu theo mục tiêu : “Dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ văn mình”. Xã hội văn mình sẽ được xây dựng từ những con người văn
minh, có tâm hồn giàu có về nhân văn, tình người và lẽ sống cao cả. Mọi người phải
bồi đắp cho tâm hồn trong sáng, phong phú, cao đẹp cả trong ý thức và hành động thực
tiễn hàng ngày.
Đề số 26a: Ý kiến về phƣơng châm “ Học đi đôi với hành”
A. HƢỚNG DẪN LÀM BÀI
1. Giải thích
- Học là tiếp thu tri thức loài người tích lũy lại trong quá trình tìm hiểu, khám
phá và chinh phục tự nhiên xã hội và tư duy. Học thường hiểu là sự tiếp thu về phương
diện lý thuyết, lý luận.
- Hành là làm, làm việc, làm thực tế, thực hành ứng dụng kiến thức, lý thuyết
vào thực tiễn đời sống và lao động sản xuất.
- Học và hành có liên hệ mật thiết với nhau, là hai mặt của quá trình thống nhất,
hướng dẫn bổ sung cho nhau. Học “đi đôi” kết hợp với hành, làm cho nhận thức và
hành động của con người ngày càng thống nhất, hoàn thiện. Học mà không có hành sẽ
chỉ là lý thuyết suông, không thể nhận thức được sâu sắc và đầy đủ. Hành mà không có
học vấn soi đường thường không dẫn tới kết quả, hoặc kết quả không cao, hiệu quả
thấp , không như mong muốn, thường gặp khó khăn và có khi bị sai lầm.
2. Bàn luận
- ”Học đi đôi với hành” là một nguyên lý giáo dục quan trọng ở nước ta,
“hành” còn ít, học chay còn nhiều. Chúng ta cần phải tìm mọi cách khắc phục tình
trạng đó.
- Có nhiều biện pháp để thực hiện ”Học đi đôi với hành” . Mọi người phải cố
gắng thực hiện phương châm đó phù hợp với hoàn cảnh của mình. Áp dụng lý thuyết
vào thực tiễn, tìm tòi khám phá lý thuyết qua thực tiễn. “Thực tiễn là tiêu chuẩn của
chân lý”
3. Liên hệ
- Nhận thức đầy đủ hơn phương châm : ”Học đi đôi với hành”
- Trong học tập và làm việc, sinh hoạt cố gắng áp dụng các kiến thức đã học để
có kết quả tốt nhất.
B. BÀI LÀM THAM KHẢO
Đề : Ý kiến về phƣơng châm “ Học đi đôi với hành”
Mở bài
“ Học đi đôi với hành” là một nguyên lý giáo dục quan trọng. Tại sao và chúng
ta thực hiện nguyên lý này bằng cách nào?
Thân bài
273
1. Thế nào là học đi đôi với hành
Học tiếp thu tri thức về phương châm lý thuyết, lý luận. Hành là sự vận dụng
kiến thức học được vào thực tiễn đời sống và lao động sản xuất.
Học “đi đôi” kết hợp với hành cho nhận thức và hành động của con người có
tính thống nhất, bổ sung cho nhau, làm cho cái ta học được trở nên sâu sắc và vững
chắc, hành động của ta có cơ sở khoa học, sẽ trôi chảy, dễ dàng, có thể logic và sáng
tạo, để đạt tới kết quả cao. Có nhà khoa học đã viết : “Một con ngựa đi chậm nhƣng
lại đúng đƣờng thì sẽ tới đích, nếu con ngựa đi nhanh nhƣng sai đƣờng thì càng đi
càng xa đích” . Hành mà không đi đôi với học thường có kết quả thấp hoặc thất bại.
Học không hành thì chỉ nắm lý thuyết suông, không thể nắm bắt ý nghĩa sâu sắc của
nó với thực tiễn.
2. Lợi ích của việc “ Học đi đôi với hành”
Học đi đôi với hành là rất cần thiết và quan trọng với tất cả mọi người. Song,
thực tế nước ta, nguyên lý này đang bị coi nhẹ. Đó là một trong những nguyên nhân
làm cho chất lượng giáo dục, đào tạo ở nước ta chưa cao, chưa đạt tới sự kỳ vọng của
xã hội.
Nguyên nhân khách quan là nước ta còn nghèo, chưa mua sắm được nhiều dụng
cụ học tập và phòng thí nghiệm cho các môn học. Nguyên nhân chủ quan là chúng ta
chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa to lớn của nguyên lý học đi đôi với hành để có biện
pháp khắc phục.
3. Xác định mục đích học tập đúng đắn là điều kiện thực hiện học đi đôi
với hành.
Để thực hiện nguyên lý học đi đôi với hành, mỗi người phải xác định cho mình
mục đích học tập đúng đắn. UNESCO ( tổ chức văn hóa giáo dục thuộc Liên Hợp
Quốc) đã đề xướng “ Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng
định mình”.Học trở thành nhu cầu tự thân và chúng ta sẽ tìm mọi cách, mọi biện pháp,
mọi cơ hội để vận dụng vào cuộc sống.
Với động cơ, mục đích học tập đúng đắn, chúng ta mới có thể say mê học tập,
nghiêm túc, chăm chỉ để tiếp thu đầy đủ nội dung, làm bài tập để củng cố, mở rộng bài
học. Trên cơ sở nắm chắc bài học, chúng ta sẽ có điều kiện vận dụng vào thực tiễn.
Trồng một cây, chúng ta cũng phải biết cách đào hố nông sâu như thế nào, lấy loại đất
nào và phân bón gì cho vào hố, cho cây trồng vào hố và dặm đất thật chặt xung quanh
rễ cây ra sao, tưới nước nhiều ít sao cho phù hợp với từng loại cây. Học đi đôi với
hành sẽ soi sáng cho ta nhiều điều cụ thể và sinh động.
Học không chỉ ở trường lớp mà cả tự học, học bạn, học người thân, học đồng
môn, đồng nghiệp. Hành không chỉ ở trong phòng thí nghiệm mà phải vận dụng vào
cuộc sống hàng ngày, trong ăn ở, đi lại, giao tiếp và làm việc. Có nhiều cơ hội trong
cuộc sống mà ta có thể vận dụng , để hành, những điều học được.
4. Liên hệ bản thân
“ Học đi đôi với hành” vừa là nguyên lý giáo dục vừa là phương pháp học tập
hiệu quả. Bản thân em sẽ cố gắng vận dụng thường xuyên “ Học đi đôi với hành” ,
“ Học tập suốt đời” và suốt đời thực hiện “Học đi đôi với hành”
274
Bác Hồ kính yêu đã dạy “ Học với hành phải đi đôi. Học mà không hành thì vô
ích. Hành mà không học thì hành không trôi chảy.” Hành không chỉ là hành động cụ
thể mà là cả thực tiễn đời sống và lao động sản xuất. Trong lao động sản xuất, phải
luôn luôn nghĩ tới vận dụng nguyên lý nào, lý thuyết gì để giải quyết công việc, lao
động có năng suất cao. Từ sắp xếp đồ dùng, ghế ngồi cao thấp, đặt để nguyên vật liệu
ở đâu, ánh sáng mức độ thế nào,ta đều phải suy nghĩ vận dụng lý thuyết vào hoàn cảnh
thực tế cụ thể.
Kết luận:
Học và hành là hai khâu mà chúng ta phải làm tốt cả hai mới kết hợp chúng với
nhau được. Học giỏi nắm chắc kiến thức thì mới giúp ta hành tốt. Hành sẽ bổ sung,
hoàn thiện kiến thức mà ta học được. Mỗi học sinh chúng ta đều phải học tốt, hành tốt
và kết hợp “ Học đi đôi với hành”.
Đề số 27a: Ý kiến về lợi ích của việc tự học.
A. HƢỚNG DẪN LÀM BÀI
- Tự học là tự mình tìm hiểu, suy nghĩ để có kiến thức qua đọc sách báo, tài liệu,
nghe đài, xem truyền hình, quan sát thực tế, trao đổi với bạn bè, người thân, đồng
nghiệp….
- Ai cũng cần phải tự học vì kiến thức trong cuộc sống là mênh mông, vô cùng,
vô tận. Học ở trường chỉ cung cấp một phần, tuy rất cần thiết, cơ bản và quan trọng
nhưng không đủ. Phần lớn kiên thức là do ta tự hoc. Tự học làm phong phú kiến thức
và vốn sống, tạo cơ sở làm tăng kỹ năng sống và lao động. Nhờ đó con người tự hoàn
thiện mình, công tác cho kết quả tốt, thành đạt và thu nhập cao.
- Phương pháo tự học phù hợp là rất quan trọng đối với mỗi người. Ai cũng có
thể tranh thủ mọi lúc, mọi nơi để tự học. Theo hoàn cảnh của mỗi người, chúng ta có
thể sắp xếp thời gian, lên kế hoạch tự học. Tùy theo trình độ, khả năng và hứng thú mà
chúng ta lựa chọn tri thức và phương pháp tiếp nhận mà mình thấy tâm đắc, rèn luyện
khả năng phát hiện và tư duy sáng tạo. Nhờ đó, sự hứng thú và hấp dẫn của tự học tăng
lên và giúp ta vui thích và đam mê tự học.
- Tự học đưa lại nhiều lợi ích, như kỹ năng sống ngày càng hoàn thiện giúp con
người thích thú với mọi hoàn cảnh, điều kiện sống, chuyên môn nghiệp vụ được nâng
cao, tay nghề vững và ngày càng tinh thông giúp con người có năng suất lao động cao,
giải quyết công việc dễ dàng, trở thành người thành đạt, đời sống ngày càng cao.
- Tự học là cơ sở để xã hội phát triển, ngày nay UNESCO đưa ra phương châm
“ Học tập suốt đời”. Học tập suốt đời chủ yếu là tự học.
B. BÀI LÀM THAM KHẢO
Đề : Ý kiến về lợi ích của việc tự học.
Mở bài
Xã hội hiện đại nêu cao phương châm “ Học tập suốt đời”. Phương pháp tự
học là phương pháp học chủ yếu để thực hiện phương châm học tập suốt đời. Tại sao
tự học lại quan trọng như vậy? Tự học đưa lại cho chúng ta những lợi ích gì?
275
Thân bài
1. Thế nào là tự học ?
Tự học là học ở ngoài nhà trường, học thông qua sách báo, tài liệu, nghe đài
phát thanh, xem truyền hình, quan sát thực tiễn, trao đổi với bạn bè, người thân đồng
nghiệp…
Tự học là cần thiết cho mọi người vì kiến thức mà loài người tích lũy lại là rộng
lớn, mênh mông, vô tận. Học ở nhà chỉ cung cấp một phần, tuy rất cơ bản và quan
trọng nhưng không đủ. Thời gian học ở trường tuy khá dài nhưng có giới hạn. Thời
gian tự học là không có giới hạn, kéo dài trong suốt cả cuộc đời chúng ta. Tri thức mà
tự học đưa lại giúp chúng ta hoàn thiện kỹ năng sống và lao động sản xuất, nhờ đó,
cuộc sống của ta có nhiều thuận lợi, làm việc cho năng suất lao động cao, công tác tiến
tới, thành công trong sự nghiệp.
2. Lợi ích của việc tự học.
Tự học đưa lại lợi ích to lớn và thành công cho người ham học, ham tự học và
có phương pháp tự học phù hợp. Theo hoàn cảnh cụ thể, mỗi người có thể sắp xếp thời
gian, lên kế hoạch tự học. Có thể học ngoại ngữ trên truyền hình, học chuyên môn qua
mạng internet, đọc sách nâng cao, chuyên sâu. Nhiều bạn học sinh ở nông thông, vùng
sâu, vùng xa, nhờ có tự học ( Không có điều kiện tham gia luyện thị, ôn thi ở trường
lớp) mà thi tốt nghiệp phổ thông, thi vào đại học đạt điểm cao, nhiều bạn đạt thủ khoa.
Khi đi làm, chúng ta sẽ có rất ít thời gian và điều kiện để đi học tập trung theo trường
lớp mà chủ yếu là tự học. Ngày nay, một bác sĩ, kỹ sư, thầy gióa mà hàng ngày không
đọc được vài chục trang sách bao chuyên môn thì sẽ đối mặt với nguy cơ tụt hậu. Khi
đó, không chỉ cơ hội thăng tiến trong nghề nghiệp sẽ kém đi mà công việc sẽ lúng túng,
khó khăn, kết quả sẽ không cao.
Tự học có nhiều lợi ích như vậy, nên chúng ta phải luôn luôn có ý thức tự học.
Tùy theo hoàn cảnh, trình độ mà chúng ta lựa chọn tri thức và phương pháp tiếp nhận
phù hợp, tạo hứng thú trong học tập, rèn luyện khả năng khám phá và tư duy sáng tạo.
Nhờ thấy kết quả và lợi ích mà tự học mang lại, chúng ta sẽ thấy hứng thú và đam mê
tự học.
3.Tự học nhƣ thế nào cho tốt?
Xã hội càng phát triển, càng hiện đại thì công cụ, phương tiện cho tự học ngày
càng nhiều. Đặc biệt , điện thoại di động và mạng internet càng phổ biến thì chúng ta
có điều kiện để tự học và tiếp cận với trình độ chuyên môn, chuyên sâu của thế giới.
Tự học nhờ đó có thể đưa lại cho người học trình độ chuyên môn cao. Tự học nhờ có
nhiều công cụ hiện đại mà cho ta nhiều hứng thú, đam mê.
Con người trong xã hội hiện đại ngày nay là phải học tập suốt đời và suốt đời
phải tự học.
Ý thức được sự cần thiết và ích lợi của tự học, bản thân em sẽ luôn cố gắng để
tự học, khắc phục mọi hoàn cảnh dù khó khăn đến đâu cũng phải học và tự học.
4. Bác Hồ là tấm gƣơng sáng về tự học.
Do phải tìm đường cứu nước từ thời trẻ nên thời gian học ở trường của Bác
không được nhiều. Nhưng nhờ tự học, Bác uyên thâm chuyên sâu trên rất nhiều lĩnh
vực. Thời thanh niên, Bác đã là nhà báo, chủ bút một tờ báo bằng tiếng Pháp. Bác biết
rất nhiều ngoại ngữ, chủ yếu là tự học. Các lý luận về Cách mạng, con đường và
276
phương pháp đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, xây dựng đất nước do tự học, không
những được Bác nắm vững mà còn sáng tạo, phát triển, dẫn dắt nhân dân ta thực hiện
thành công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đầu tiên, nêu gương sáng cho toàn thế
giới.
Kết luận
Thời đại khoa học công nghệ ngày nay phát triển nhanh chóng đưa loài người
lên thời đại tri thức, thời đại hậu công nghiệp. Mỗi người hàng ngày phải tự học để lao
động sáng tạo và cống hiến cho hạnh phúc tương lai của đất nước, gia đình và bản thân.
Đề số 28a: Suy nghĩ về lòng dũng cảm.
A. HƢỚNG DẪN LÀM BÀI
1. Giải thích
Lòng dũng cảm là một phẩm chất cao quý trong nhân cách, đạo đức con người.
Lòng dũng cảm là sự quả cảm, kiên cường, ý chí nghị lực cao khi đương đầu với các
hoàn cảnh và tình huống không thuận lợi trong cuộc sống. Lòng dũng cảm cũng như
lòng yêu nước, thể hiện đặc biệt rõ ràng, nổi bật khi chiến đấu với kẻ thù của dân tộc,
trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho tổ quốc. Trong cuộc sống thường ngày, lòng
dũng cảm thể hiện qua hành động và ý chí, vượt qua tình huống khó khăn, hiểm nghèo.
Lòng dũng cảm cũng có thể là nghị lực cao vượt qua các cám dỗ, thói xấu gặp phải
trong đời sống thường nhật. Những hành động cụ thể, thiết thực hưởng ứng cuộc vận
động “ Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” là biểu
hiện của lòng dũng cảm.
2. Bàn luận về lòng dũng cảm.
Người có lòng dũng cảm luôn khẳng định năng lực và phẩm chất của mình, coi
đó là nguồn sức mạnh chân chính, có ý nghĩa quyết định giúp con người vững vàng,
lạc quan và thành công trong cuộc sống. Do đó lòng dũng cảm là đức tính quý báu.
Lòng dũng cảm là đức tính phải được nuôi dưỡng rèn luyện bằng ý chí, nghị lực
vượt qua các tình huống, hoàn cảnh khó khăn, bão táp gặp phải trong cuộc sống, học
tập và công tác.
Lòng dũng cảm bộc lộ khi đối diện với cái xấu, cái tiêu cực.
3. Bài học về nhận thức và hành động.
Lòng dũng cảm là đức tính tốt, quý báu, cần phải được rèn luyện nuôi dưỡng.
Khi gặp phải những khó khăn, thử thách trong học tập, công tác và đời sống con
người phải có ý chí cao để vượt lên, đạt kết quả và thành công.
Khi phải đối đầu với cái xấu, cái tiêu cực hoặc kẻ thù của dân tộc, phải nêu lên
lòng dũng cảm để đấu tranh giành thắng lợi.
B. BÀI LÀM THAM KHẢO
Đề : Suy nghĩ về long dũng cảm.
277
Mở bài:
Thế nào là lòng dũng cảm? Tại sao chúng ta cần có lòng dũng cảm và phải làm
gì để có lòng dũng cảm? Đó là những câu hỏi mà em muốn trả lời trong bài văn này.
Thân bài
1. Thế nào là ngƣời có lòng dũng cảm, ý nghĩa, vai trò của nó.
Người có lòng dũng cảm là người có nghị lực, có ý chí sắt đá. Lòng dũng cảm
thể hiện ở sự quả cảm, kiên cường, vượt qua những khó khăn đặc biệt, thể hiện phẩm
chất anh hung, phẩm chất vượt lên chính mình, chống lại sự cám dỗ của thói xấu, hành
động bảo vệ chân lý, lẽ phải, chống lại cái xấu, cái tiêu cực, có khi phải hy sinh quyền
lợi bản thân và cả bản thân mình cho cộng đồng, xã hội và Tổ quốc.
Chứng minh: lịch sử và thơ văn nước ta đã kể lại nhiều tấm gương về lòng dũng
cảm. Đó là anh hung trẻ tuổi Trần Quốc Toan bóp nát quả cam và anh dũng đứng lên
chống giặc Nguyên Mông tàn bạo, là Lê Lai liều mình cứu chúa. Đó còn là hình ảnh
chú bé liên lạc trong bài thơ “ Lƣợm” (Tố Hữu) , cô thanh niên xung phong ”Lấy thân
mình hứng lấy luồng bom” (Thơ Lâm Thị Mĩ Dạ), anh Nguyễn Văn Trỗi hiên ngang ra
pháp trường, chị Đặng Thùy Trâm, anh Nguyễn Văn Thạc dũng cảm lên chiến địa….
tất cả đều là những tâm gương sáng ngời của lòng dũng cảm.
2. Bình luận : bàn về lòng dũng cảm.
- Nguồn gốc và vai trò, ý nghĩa của nó.
Cuộc sống luôn luôn phức tạp. Mỗi người và đất nước luôn phải đối mặt với
những khó khăn, thách thức, nguy cơ hiểm nghèo, khủng hoảng kinh tế, thiên tai, địch
họa, rủi ro. Vì vậy ai cũng cần có lòng dũng cảm để vượt qua các tình huống đó, giúp
mình, giúp người khác, giúp cộng đồng và dân tộc, Tổ quốc.
Lòng dũng cảm không phải tự nhiên mà có. Mỗi người có nhận thực, hiểu biết
và rèn luyện không ngừng để có lòng dũng cảm.
Phải vượt lên chính mình “Chiến thắng vĩ đại nhất là chiến thắng chính bản
thân mình” . Khắc phục thói xấu, ích kỷ và cá thói xấu khác, sống có lý tưởng vì dân,
vì nước là những tiền đề mà mỗi người cần có để chứa chất lòng dũng cảm.
Lòng dũng cảm ấy là phẩm chất quan trọng nhất của những người hùng trong
cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Đúng như Tố Hữu đã viết : “Dân ta gan dạ
anh hung. Trẻ là đấu súng, già xông lửa đồn. Chân toạc máu, chân đau đuổi giặc. Tay
chém thù tay sắc nhƣ gƣơm”. Họ đã cùng toàn dân quyết tâm làm nên một chiến công
Điện Biên Phủ “9 năm làm một Điện Biên; nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng”
Những chiến sĩ Điện Biên là những con người mang trong mình chất thép của lòng
dũng cảm: “Chiến sĩ Điện Biện, chiến sĩ anh hung. Đầu nung lửa sắt, gan không núng,
chí không mòn…những đồng chí thân chôn làm giá súng; đầu bịt lỗ châu mai, băng
mình qua núi thép gai, ào ào nhƣ vũ bão, những đồng chí chèn lƣng cứu pháo, nát
thân, nhắm mắt còn ôm” Vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, lớp lớp thanh niên lại lên
đường, mang trong mình truyền thống Điện Biên, quyết xẻ dọc Trường Sơn đi cứu
nước, bất chấp bom đạn Hoa Kỳ tàn bạo, tiến thẳng vào Sài Gòn để có ngày 30/4 lịch
sử: “Ôi buổi trưa nay tuyệt trần nắng đẹp! Bác Hồ ơi! Toàn thắng về ta. Chúng con
đến xanh ngời ánh thép.Thành phố tên người lộng lẫy cờ hoa.” Cùng với lòng yêu
nước thiết tha, lòng dũng cảm của những người chiến sĩ ấy đã giúp họ có được lẽ sống
rất đẹp: sẵn sàng đổ máu mình cho cây Tổ Quốc đơm hoa Độc lập, kết trái tự do và
viết nên trang sử mới của thời đại Hồ Chí Minh đầy tự hào.
278
3. Bài học nhận thức hành động.
Lòng dũng cảm phải rèn luyện, thể hiện trong hành động, việc làm. Trong
những tình huống khó khăn, hiểm nghèo như gặp phải vụ hỏa hoạn, lũ quét, người bị
nạn trên đường, bản thân bị mất việc, bị bệnh ung thư không may nhiễm HIV, viêm
gan virust, người ta rất cần tới lòng dũng cảm và biểu hiện bằng bản lĩnh vững vàng,
vượt qua một cách sáng suốt, tỉnh táo. Khi đó, lòng dũng cảm là “Nhất biến ứng phó
với vạn biến”
Để khuyến khích mọi người tu dưỡng, rèn luyện lòng dũng cảm, nhà trường nhà
nước và xã hội phải thường xuyên biểu dương, ca ngợi, khen thưởng người có hành
động, việc làm dũng cảm.
Lòng dũng cảm phải dựa trên cơ sở khoa học, hiểu biết tri thức mới thể hiện có
hiệu quả, có ích nhiều cho bản thân và xã hội. Nhiệt tình cách mạng cộng cới sự dốt
nát sẽ trở thành kẻ phá hoại ( Lenin). Lòng dũng cảm mà không có tri thức sẽ phản tác
dụng. Không biết bơi mà nhảy xuống biển cứu người chết đuối không chỉ hại đến thân
mà còn gây khó khăn cho người khác trong việc cứu người.
Kết luận :
Lòng dũng cảm là đức tính tốt đẹp xã hội cần đề cao và mỗi người cần tu
dưỡng , rèn luyện để có được.
Bản thân em sẽ quyết tâm học tập, rèn luyện để có lòng dũng cảm và tìm các cơ
hội để thể hiện lòng dũng cảm.
Đề số 29a: Suy nghĩ về câu ngạn ngữ Hy Lạp “ Học vấn có chùm rễ đắng cay
nhưng hoa quả lại rất ngọt ngào”.
A. HƢỚNG DẪN LÀM BÀI
1. Giải thích
Con người muốn học vấn phải trải qua nhiều gian khổ, vất vả đắng cay trong
học tập và lao động.
Học vấn khi có được sẽ đưa lại cho con người nhiều cơ hội, lợi ích và thành
công.
2. Bình luận
Học vấn, tri thức có vai trò dẫn đường. Con người muốn thuận lợi và thành đạt
phải không ngừng học tập, trau dồi chuyên môn, nâng cao học vấn.
Để có học vấn, con người phải “ Học, học nữa, học mãi”, học tập suốt đời,
vƣợt qua hoàn cảnh khó khăn “ lao động khổ tử” để học.
Câu ngạn ngữ đề cao vai trò của học vấn và con đường để có học vấn là phải cố
gắng học tập.
3. Liên hệ
Con đường để tiến thân, thành công là phải có học vấn.
279
Muốn có học vấn phải khổ công học tập, “học tập suốt đời”, phải có ý chí vượt
qua nhiều khó khăn thử thách trong học tập.
Bản thân đang ở tuổi học sinh phải cố gắng học tốt, sau này đi làm phải học hỏi
( Học thầy, học bạn, học sách vở, học đồng nghiệp) để tinh thông nghề nghiệp.
Học tập kỹ năng sống, “Không để chết vì dốt”
B. BÀI LÀM THAM KHẢO
Đề : Suy nghĩ về câu ngạn ngữ Hy Lạp “ Học vấn có chùm rễ đắng cay nhưng hoa
quả lại rất ngọt ngào”.
Mở bài:
Ngạn ngữ Hy Lạp có câu : “ Học vấn có chùm rễ đắng cay nhƣng hoa quả lại
rất ngọt ngào”. Hiểu câu này như thế nào và thông điệp mà nó muốn gửi tới chúng ta
là gì?
Thân bài:
1. Giải thích câu ngạn ngữ.
Học vần là tri thức mà mỗi người có được trong quá trình sống, học tập và làm
việc. Sự tích lũy tri thức làm cho người ta ngày càng trưởng thành, hoàn thiện về kỹ
năng sống cũng như tinh thông chuyên môn, nghề nghiệp. Học vấn ngày càng cao làm
cho người sở hữu nó có nhiều cơ hội thăng tiến, thuận lợi trong cuộc sống và thành
công trong sự nghiệp, cuộc đời có nhiều “ Hoa thơm quả ngọt”.
Học vấn đưa lại cho con người nhiều lợi ích , “hoa quả ngọt”, nhưng để có nó
người ta phải cố gắng học tập, rèn luyện, vượt qua vất vả khó khăn, “đắng cay” mới có
được. Thiên tài do 99% khổ luyện, chỉ 10% là do năng khiếu trời cho”. Đằng sau các
giải thưởng Nobel là sự làm việc bền bỉ hàng chục năm trời tích lũy học vấn và lao
động sáng tạo của các nhà khoa học, nhà văn, nhà hoạt động xã hội.
“Chùm rễ đắng” là hình ảnh chỉ công lao học hành, “Quả ngọt ngào” là chỉ kết
quả học tập công việc. “Đắng cay” là vì quá trình học tập tốt, là một quá trình phải đổ
nhiều mô hôi sức lực và tâm não, và có học vấn thì con người sẽ thuận lợi và thành
công, thậm chí sung sướng, hạnh phúc, có khi bất ngờ, trong những hoàn cảnh mà
người ta không ngờ tới lại gặt hái được thành quả tốt đẹpm như Nuiton bị quả táo rơi
vào đầu, Acsimet ở trong bồn tắm mà khám phá ra các quy luật vĩ đại.
2. Lợi ích của việc học, nâng cao học vấn.
Tri thức của nhân loại tích lũy được là rộng lớn, mênh mông, vô tận. Một bác sĩ,
kỹ sư, thầy giáo mà hàng ngày không đọc được vài chục trang sách báo chuyên môn
thì sẽ đối mặt với nguy cơ tụt hậu. Muốn có học vấn không có con đường nào khác là
“ Học, học nữa, học mãi” Học tập suốt đời để để học tập, con người phải mất nhiều
thời gian, tiền bạc, hy sinh một số thú vui để tập trung tiếp thu, suy nghĩ, tìm hiểm làm
thí nghiệm, thực hành và sáng tạo. Học tập là trồng cây tri thức, cây học vấn. Cây này
lớn lên sẽ cho ta nhiều lợi ích. Lợi ích về kỹ năng sống, để không “ Chết vì dốt nát”.
Lợi ích về công việc thuận lợi, làm việc hiệu quả dẫn tới thành đạt trong sự nghiệp.
Học tập, khổ luyện thành tài. Người tài không chỉ giúp mình, giúp gia đình mà
còn là “ Nguyên khí quốc gia”, giúp dân giúp nước, làm cho “Dân giàu nƣớc mạnh”.
Chính vì thế mà Bác Hồ từ năm 1945 đã dạy, đại ý “ Non sông đất nƣớc Việt Nam có
280
trở nên vẻ vang, sánh vai với các cƣờng quốc năm châu hay không phần lớn là nhờ ở
công lao học tập của các cháu”.
3. Làm thế nào để có học vấn cao.
Học tập để có học vấn, không chỉ học ở trường, ở lớp, mà là tự học, học mọi lúc,
mọi nơi, mọi hoàn cảnh. Học ở bạn bè, người thân, đồng nghiệp, đồng môn. Học qua
sách, tài liệu, học qua đài phát thanh, truyền hình, học qua mạng internet.
Chúng ta cũng cần phê phán thói xấu, lười học của một số thanh niên, học sinh.
Thế kỷ 21 là thế kỷ tri thức, hội nhập toàn cầu. Phần lớn thanh niên Việt Nam đang ra
sức học tập để đáp ứng nhu cầu về kiến thức, để có điều kiện hội nhập và cống hiến tốt
thì các thanh niên đó lại sống buông thảm lười học nhằm thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ
cá nhân hoặc thiểu bản lĩnh vượt khó khăn, thiểu ý chí vươn lên.
4. Liên hệ bản thân
Bản thân đang ở độ tuổi học sinh phải cố gắng học tốt, học giỏi. Sau này, khi đi
làm, bản thân phải cố gắng học tập theo phương châm, “Học tập suốt đời”, chăm sóc
cho cây học vấn ngày càng tươi tốt, trường thành, ra nhiều hoa thơm quả ngọt, gặt hái
mùa màng bội thu, thành công trong cuộc sống, thành đạt trên đường đời.
Kết luận
Câu ngạn ngữ Hy Lạp đề cao vai trò của học vấn, tri thức và chỉ ra con đường
để có học vấn là phải cố gắng học tập.
Dù khó khăn, gian khổ, cay đắng đến đâu, cũng phải vượt qua để học, để có học
vấn. Đó là thông điệp mà câu ngạn ngữ Hy Lạp nói với chúng ta.
Đề số 30a : Hiểu thế nào về ý kiến cho rằng : “Những thói xấu ban đầu là người
khách qua đường, sau trở nên bạn thân ở chung nhà, và kết thúc là ông chủ khó
tính”
A. HƢỚNG DẪN LÀM BÀI
1. Giải thích và tìm ý
Về nội dung trực tiếp, ý kiến này nói về quá trình tiêm nhiễm thói xấu và hậu
quả không tốt của nó.
Về thực chất, ý kiến này khuyên con người phải luôn luôn đề phòng sự thâm
nhập thói xấu, phải có bản lĩnh để chống lại sự lây lan của thói xấu. Không dung túng
cho thói xấu và mắc phải thói xấu.
2. Bình luận về bản lĩnh tu dƣỡng đạo đức, phòng chống sự xâm nhập của
thói xấu.
Cuộc sống của ai cũng ở trong cái hoàn cảnh khác nhau, chứa đựng sự va đập
của xã hội và nhiều lúc ta có biểu hiện của thói xấu. “Nhân vô thập toàn”. Nhưng nếu
ta không có bản lĩnh tu dưỡng, sửa sai, rút kinh nghiệm thì thói xấu sẽ lặp đi lặp lại.
281
Thói xấu được dung túng trở thành bản tính và làm chủ hành vi và cuộc sống của ta.
Như vậy, thói xấu rất dễ thâm nhập vào tính cách, cuộc sống của con người. “Hôm nay
ăn trộm quả trứng gà thì ngày mai có thể ăn trộm con bò”.
Con người phải có bản lĩnh để luôn tu dưỡng đạo đức tác phong, không dung
túng cho thói xấu và luôn cảnh giác sự thâm nhập của thói xấu.
Khi có hành động không đúng, không phù hợp với lẽ phải, đạo đức và pháp luật
thì cần phải nghiêm khắc sửa chữa và quyết tâm không tái phạm.
3. Bài học về nhận thức và hành động.
Cuộc sống rất phức tạp, “Con ngƣời là tổng hòa các quan hệ xã hội” ( Các
Mác) và đôi khi con người bị vấp ngã, có hành vi tác phong của các thói xấu. Khi đó,
con người phải bình tĩnh, tự xem xét lại bản thân, nên quyết tâm sửa chữa, không để bị
tái phạm.
Nêu cao bản lĩnh, giữ vững bản thân trong sạch, quyết tâm không để bị thói xấu
khuất phục, không sống chung với thói xấu, không để bị thói xấu chi phối.
Học tập đạo đức tác phong của Bác Hồ, sống giản dị, khiêm tốn, hòa mình vào
tập thể , cộng đồng, tranh thủ sự giúp đỡ của ông bà, cha mẹ, anh chị em và bạn bè để
luôn luôn hoàn thiện nhân cách bản thân.
B. BÀI LÀM THAM KHẢO
Đề : Hiểu thế nào về ý kiến cho rằng : “Những thói xấu ban đầu là ngƣời khách
qua đƣờng, sau trở nên bạn thân ở chung nhà, và kết thúc là ông chủ khó tính”
Mở bài:
Mỗi con người đều có hoàn cảnh sống cụ thể riêng, có khi rất khó khăn. Trong
những hoàn cảnh nhất định, con người có thể phạm sai lầm, tạo nên thói xấu. Khi đó,
con người cần nhớ tới ý kiến : “ Những thói xấu ban đầu là ngƣời khách qua đƣờng,
sau trở nên bạn thân ở chung nhà, và kết thúc là ông chủ khó tính”, để có ứng xử phù
hợp, tỉnh táo, vượt lên bản thân mình.
Thân bài:
1. Thói xấu rất dễ thâm nhập vào chúng ta.
Thông điệp mà ý kiến này gửi tới chúng ta là con người phải luôn luôn đề
phòng sự thâm nhập thói xấu, không dung túng cho thói xấu. Phải có bản lĩnh, tỉnh táo
để chống lại sự lây lan của thói xấu. Không để thói xấu chế ngự mình.
“Nhân vô thập toàn”. Không ai có thể hoàn hảo, trong sạch ở mọi lúc, mọi nơi.
Khi va đập với cuộc sống phức tạp, nhiều cám dỗ con người có thể có hành vi không
đúng với pháp luật, với lẽ phải ở đời, là thói xấu. Nhưng hãy kiên quyết với hành vi,
thói xấu đó. Hãy để nó là “ là ngƣời khách qua đƣờng”, gặp một lần trong đời. Không
đẻ nó trở thành “ông chủ khó tính” chi phối cuộc đời ta.
2. Phải thƣờng xuyên cảnh giác, đề phòng sự xâm nhập của thói xấu.
Khi nhỏ, ta có thể gặp thói lười học, ích kỷ, tham lam, không nghe lời cha mẹ.
Lúc đói lòng, ta có thể ăn trộm quả trứng, củ khoai, trái cây của nhà hàng xóm. Ra
đường, ta có thể khạc nhổ, vứt rác lung tung. Ở trường ta có khi quay cóp, nói tục,
chửi thề. Lớn lên, đi làm, có lúc ta lười biếng, lãn công, nói dối, cuộc sống gặp khó
282
khăn, phức tạp, người ta thối chí, sinh ra uống rượu, hút thuốc, hút ma túy, trộm cắp,
lừa đảo…. Nếu chúng ta không có bản lĩnh, tỉnh táo để kiềm chế, kiểm soát bản thân,
sửa chữa sai lầm thì nhiều tai họa sẽ xảy ra. “Mua danh ba vạn, bán danh ba đồng”.
Nặng nề hơn, nhiều người phải đi tù vì tội giết người, cướp của, phản bội Tổ quốc.
Để có đủ bản lĩnh phòng chống sự cám dỗ, thâm nhập của thói xấu, chúng ta
phải không ngừng học tập và rèn luyện. Học tập để có hiểu biết, có tri thức, biết phân
biệt cái xấu, cái tốt. Rèn luyện, tu dưỡng đạo đức tác phong để có đức tính tốt, “Miễn
dịch “ với thói xấu. Học tập tốt để có công ăn việc làm tốt, đời sống cao và cống hiến
cho xã hội, cho đất nước là cách phòng chống thói xấu hiệu quả nhất.
3. Học tập tấm gƣơng Bác Hồ về tu dƣỡng bản thân.
Học tập tu dưỡng theo gương Bác Hồ vĩ đại : “Cần kiệm, liêm chính, chí công,
vô tƣ”, “Trong sạch, chất phác, hăng hái, tiết kiệm” là những phẩm chất chúng ta cần
rèn luyện để có thành công trong cuộc sống, tránh được sự thâm nhập của thói xấu.
Cuộc sống bao giờ cũng phức tạp, thói xấu luôn luôn rình rập để thâm nhập và
chế ngự ta. Chúng ta phải thường xuyên cảnh giác với thói xấu, không ngừng rèn
luyện để trưởng thành, trở thành người có phẩm chất đạo đức tốt.
4. Liên hệ bản thân : chăm học, chăm làm, tu dƣỡng đạo đức tốt.
Thế kỷ 21 là thế kỷ cách mạng khoa học công nghệ phát triển nhanh như vũ bão,
thế kỷ của thời đại tri thức, thế kỷ hội nhập toàn cầu. Trong khi phần lớn thanh niên
học sinh vượt qua mọi khó khăn để cố gắng học tập thì vẫn còn một bộ phận nhiễm
phải thói xấu lười học, ngại khó, ngại khổ, thiếu ý chí vươn lên trong học tập. Họ đã để
cho thói xấu trở thành “ ông chủ khó tính” chi phối họ. Chúng ta phải lên án thói xấu
lười biếng. Nhiều danh nhân đã có những câu viết phê phán thói lười biếng. “ Làm
biếng ăn ngồi lở núi lở non” ( Nguyễn Trãi). “ Sự buồn chán bƣớc vào thế giới qua
ngƣỡng cửa lƣời biếng” ( Là Bruye) “ Lƣời biếng làm mòn trí tuệ và thân thể”
( B.Phranklin) “ Lƣời biếng là mẹ đẻ của thói ăn cắp và sự đói rét” ( V.Huygo).
Kết luận
Phấn đấu trong học tập và công tác, cố gắng tự hoàn thiện nhân cách bản thân
mình, cảnh giác với thói xấu là ý nghĩa gửi tới chúng ta của câu nói “ Những thói xấu
ban đầu là người khách qua đường, sau trở nên bạn thân ở chung nhà, và kết thúc là
ông chủ khó tính”.
Đề số 31a : Quan niệm về lối sống giản dị
A. HƢỚNG DẪN LÀM BÀI
1. Giải thích
Giản dị là lối sống chân phương phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của bản thân,
gia đình và xã hội, không xa hoa, lãng phí, cầu kì trong ăn mặc, ở, đi lại và giao tiếp
hàng ngày. Lối sống giản dị làm cho con người dễ hòa nhập tập thể, cộng đồng, dễ
được mọi người gần gũi, quan tâm, giúp đỡ khi cần thiết.
Bác Hồ là tấm gương sáng về lối sống giản dị.
2. Bàn luận
283
Giản dị : là lối sống đẹp, vẻ đẹp không khoa trương nhưng thu hút lòng người.
Mọi người, nhất là lớp trẻ, cần phấn đấu tu dưỡng để có lối sống giản dị.
Giản dị không chỉ là lối sống, cách sống mà còn là một quan niệm sống. Giản dị
không chỉ biểu biện trong cuộc sống hàng ngày mà còn ở trong suy nghĩ, trong tiềm
thức, phong cách sống của mỗi con người.
Lối sống giản dị xuất phát từ quan niệm sống, chân thành, trung thực, không
gượng ép, giả dối, giả tạo.
Lối sống giản dị phản ánh một mặt trong đạo đức, tác phong, thực chất con
người nhưng không phải tự nhiêu mà có được. Để có lối sống giản dị, con người phải
rèn luyện trong ý thức và biểu hiện trong cuộc sống hàng ngày.
3. Liên hệ
Lối sống giản dị bắt đầu từ sự quý trọng những gì ta có trong tay, những giá trị
mà ông cha để lại, đồng tiền mà cha mẹ vất vả làm ra. Điều đó làm cho ta có ý thức
tiết kiệm và lối sống giản dị.
Tìm hiểu và học tập lối sống giản dị của Bác Hồ.
B. BÀI LÀM THAM KHẢO
Đề : Quan niệm về lối sống giản dị
Mở bài:
Hiện nay toàn Đảng, toàn dân ta đang có phong trào “ Học tập tấm gƣơng đạo
đức tác phong Bác Hồ”. Một phẩm chất nổi bật mà chúng ta học tập là lối sống giản dị.
Thân bài:
1. Thế nào là lối sống giản dị
Giản dị là lối sống chân phương, tiết kiệm, phù hợp với hoàn cảnh của bản thân,
gia đình và xã hội. Giản dị là biểu hiện của đạo đúc xã hội chủ nghĩa. Không xa hoa
đua đòi, lãng phí tiền của, thời giờ vào việc không cần thiết. Đó cũng là biểu hiện của
nếp sống khoa hoc, có văn hóa.
Giản dị là lối sống đẹp, góp phần xây dựng xã hội văn minh, hiện đại . Chúng ta
cần động viên, khuyến khích coi trọng, đề cao lối sống giản dị.
Lối sống giản dị xuất phát từ quan niệm sống văn minh, khoa học, thực chất,
chân thành. Giản dị trước khi biểu hiện thành phong cách sống, phải trở thành ý thức,
quan niệm sống của mỗi người. Có như vậy, giản dị được biểu hiện một cách chân
thành, trung thực, không gượng ép giả tạo
3. Làm thế nào để có lối sống giản dị ?
Lối sống giản dị là nét đẹp trong đạo đức, tác phong, thực chất con người
nhưng không phải tự nhiên mà có được. Con người phải thường trực ý thức và rèn
luyện, biểu hiện trong cuộc sống hàng ngày thì mới tạo lập được lối sống giản dị.
Xuất phát từ nhận thức biết quý trọng lao động, quý trọng những gì mà lao
động cần cù mà có được, lối sống giản dị có cơ sở hình thành trong phẩm chất mỗi
người.
Lối sống giản dị đòi hỏi phải biểu hiện một cách chân thành, tự nhiên trong
cách ăn, mặc , ở , đi lại và giao tiếp hằng ngày. Chúng ta phải có ý thức rèn luyện để
có lối sống tiết kiệm.
284
4. Học tập lối sống giản dị của Bác Hồ
Bác Hồ là tấm gương sáng về lối sống giản dị. Người dân Việt Nam không ai
quên được hình ảnh quen thuộc của Bác trong bộ quần áo bộ đội sờn màu, đôi dép cao
su đi nhiều đến mòn vẹt, ăn uống đơn gian “ Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng “.
Không chỉ ở chiến khu Việt Bắc, khi về thủ đô Hà Nội , Bác ở trong ngôi nhà sàn giản
đị với những bữa cơm thanh đạm, dép lốp, quạt lá cọ. Cả cuộc đời Bác Hồ là một bài
học lớn cho chúng ta về đức tính giản dị.
5. Liên hệ bản thân : rèn luyện để có lối sống giản dị
Lối sống giản dị đưa lại cho con người và xã hội nhiều lợi ích. Xã hội có cuộc
sống văn minh, ngày càng có điều kiện nân cao chất lượng sống của con người. Bản
thân có lối sống giản dị sẽ dễ hòa nhập cộng đồng bởi vẻ đẹp không khoa trương
nhưng thu hút lòng người trong phong cách sống.
Lối sông giản dị ngược lại với lối sống xa hoa, đua đòi , lãng phí. Nhiều bạn trẻ
được sinh ra trong gia đình giàu có, được gia đình nuông chiều mà quen với lối sống
đua đòi, lãng phí, ném tiền qua cửa sổ, lối sống ”Công tử Bạc liêu” sẽ không nhận
được sự coi trọng và giúp đỡ của mọi người, khó trở thành người thành đạt, có ích.
Lối sống giản dị có thể một phần tử bẩm sinh nhưng cơ bản là từ ý thức rèn
luyện trong cuộc sống mà có được. Biết quý trọng những gì mình đang có và biết cảm
thông chia sẻ với cuộc sống đang khó khăn của người khác, chúng ta sẽ rèn luyện cho
mình lối sống giản dị. Như vây, lối sống giản dị liên hệ chặt chẽ với ý thức tiết kiệm,
tinh thần trách nhiệm công dân và tấm lòng sẻ chia hòa đồng đối với xã hội.
Tiết kiệm thời gian, tiết kiệm của cải, tiền bạc là sự khởi nguồn của tích lũy vốn
đầu tư. Vốn đầu tư dùng để xây dựng nhà cửa, cầu đường, trường học, nhà máy là
phương tiện để tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội. Lối sống giản dị giúp con người
tiết kiệm, xã hội tiết kiệm để đầu tư cho tương lai. Đó là ý nghĩa kinh tế của lối sống
giản dị.
Lối sống giản dị biểu hiện tấm lòng thông cảm, sẻ chia với hàng triệu đồng bào,
bao gồm cả trẻ em và cụ già, đang sống trong tình cảnh khó khăn, nghèo đói, bệnh tật.
Người có tấm lòng tương thân, tương ái không thể sống xa hoa, lãng phí, vô cảm mà
phải có lối sống giản dị, tiết kiệm để có thể đóng góp giúp đỡ người khác.
Kết luận
Ý thức được sự cần thiết và lợi ích, vai trò của lối sống giản dị, bản thân em sẽ
luôn luôn rèn luyện cho mình lối sống giản dị một cách thực chất, chân thành.
285
B. NGHỊ LUẬN VỀ MỘT HIỆN TƢỢNG ĐỜI SỐNG
1. Thế nào là nghị luận về một hiện tƣợng đời sống?
- Nghị luận về một sự việc, một hiện tượng đời sống xã hội là bàn về một sự
việc, hiện tượng có ý nghĩa đối với xã hội, đáng khen, đáng chê, hay có vấn đề đáng
suy nghĩ. Đây là kiểu bài chúng ta thường gặp trong đời sống hàng ngày, trên báo chí
và các phương tiện truyền thông đại chúng khác.
- Yêu cầu về nội dung của bài nghị luận này là phải nêu rõ được sự việc, hiện
tượng có vấn đề, phân tích mặt sai, mặt đúng mặt đồng tình, mặt phản đối, mặt lợi, mặt
hại của nó;chỉ ra nguyên nhân và bày tỏ thái độ, ý kiến nhận định của người viết. Vì
thế để lập ý cho những vấn đề này, chúng ta có thể nêu lên các câu hỏi và lần lượt trả
lời các câu hỏi đó như sau: Hiện tượng sự việc được nêu ra trong đề bài, cần được hiểu
như thế nào? Vì sao có hiện tượng đó? Trên thực tế cuộc sống xã hội hiện tượng ấy đã
tác động đến xã hội ra sao? Bằng trải nghiệm của bản thân, em hãy đề xuất những giải
pháp trước mắt và lâu dài như thế nào? Tuy nhiên, cần căn cứ vào các từ ngữ cụ thể
của đề bài để có cách lập ý phù hợp, tránh máy móc, cứng nhắc.
- Nghị luận về các sự việc, hiện tượng tiêu cực đáng phê phán như hiện tượng
học giả học thật, ma tuý, thuốc lá, thiếu trung thực hay các hiện tượng tích cực đáng
biểu dương như những tấm gương không đầu hàng hoàn cảnh, số phận, những việc
làm từ thiện, nhân đạo, những phong trào đền ơn đáp nghĩa... với những đề thuộc dạng
này, sau khi trình bày về những hiện tượng, sự việc, cần chỉ ra mặt đáng phê phán, lên
án; hoặc biểu dương ngợi ca và lý giải vì sao? Cuối cùng đề xuất những giải pháp cụ
thể để hạn chế, khắc phục tác hại của hiện tượng tiêu cực, phát huy ảnh hưởng tốt đẹp
và nêu lên bài học bổ ích của hiện tượng tích cực trong cuộc sống, xã hội.
2. Cách làm một bài văn nghị luận thuộc kiểu bài này:
Cũng như bố cục bài văn nghị luận về một tư tưởng, đạo lý, bố cục bài văn nghị
luận về một hiện tượng đời sống gồm 3 phần.
Mở bài: Có thể mở bài theo lối gián tiếp hay trực tiếp. Nhưng nhìn chung phần
này phải giới thiệu được sự việc, hiện tượng; hoặc trích dẫn (nếu đề nêu nhận định hay
đoạn tin...)
Thân bài: - Lần lượt phân tích, giải thích, chứng minh các mặt của vấn đề, các biểu hiện,
nguyên nhân và hậu quả, hay kết quả... của sự việc, hiện tượng.
- Bình luận về hiện tượng: nhận xét, đánh giá, bày tỏ thái độ của bản thân mình
về hiện tượng đó. Đánh giá hiện tượng tốt, xấu, lợi, hại như thế nào? Phương hướng
hành động, khắc phục; có thể liên hệ với bản thân, với tuổi trẻ học đường.
Kết luận: Từ hiện tượng đời sống có thể rút ra bài học tư tưởng, nhân sinh hoặc
đề ra nhiệm vụ.
Lƣu ý:
- Văn nghị luận là phân tích giảng giải, chứng minh đánh giá các vấn đề, dựa
trên một lập trường nào đó. Ở đây, chúng ta phải dựa trên những tiêu chuẩn lập trường
là quan niệm đạo đức truyền thống của dân tộc, những lợi ích chung của xã hội, của
cộng đồng, của nhân dân để đề xuất và giải quyết.
286
- "Trong quá trình bàn bạc, cần so sánh, mở rộng vấn đề dựa trên mối quan hệ
tương đồng, tăng tiến hay đối lập. Khi đánh giá vấn đề cần chú ý tính trung thực, tính
thời đại và tính nhân văn.
- Cần kết hợp lí lẻ và dẫn chứng. Khi lấy dẫn chứng để chứng minh cần chú ý
chọn những dẫn chứng điển hình, tiêu biểu, toàn diện, có sức thuyết phục cao như: các
con số thống kê, các sự kiện lịch sử, những danh ngôn, những câu chuyện thời sự...
những dẫn chứng càng cụ thể, sinh động, càng có sức thuyết phục cao"
- Diễn đạt hành văn trong bài làm: Bên cạnh những kĩ năng chung cần đạt được
của một bài văn nghị luận như: yêu cầu của đề, tìm ý, lập dàn ý, cần đặc biệt chú ý đến
lời văn, kĩ năng diễn đạt. Lời văn phải trong sáng, mạch lạc, không sai ngữ pháp, chính
tả. Câu văn không chỉ đúng, chính xác, mà còn sinh động, giàu hình ảnh; có thể sử
dụng một số phép tu từ và yếu tố biểu cảm nhưng phải phù hợp và có chừng mực. Vì
vậy, chúng ta có thể vận dụng kiến thức, dẫn chứng trong văn học để góp phần tăng
tính cảm xúc thẩm mỹ, nghệ thuật, hấp dẫn cho bài viết. Tuy nhiên, văn học chỉ là
phương thức, chứ không phải là nội dung của bài văn nghị luận xã hội.
- Về hình thức, bài viết phải có bố cục mạch lạc; có luận điểm rõ ràng, luận cứ
xác thực, phép lập luận phù hợp; lời văn chính xác, sống động.
2. Cách làm một bài văn nghị luận thuộc kiểu bài này.
(Về cơ bản cũng giống như kiểu bài nghị luận về một tư tưởng, đạo lý – Xem mục A
trên kia)
3. Các đề bài, các bài làm, các tƣ liệu cụ thể để minh hoạ cho kiểu bài này.
Đề 1b: Vào đại học có phải là con đƣờng tiến thân duy nhất của thanh niên, học
sinh hiện nay không?
A. HƢỚNG DẪN LÀM BÀI
Đề này cần:
1. Ý kiến đồng tình. Vì sao?
- Vào đại học là con đường tiến thân quan trọng và hấp dẫn. Trong thời đại khoa học
công nghệ phát triển nhanh, nhân loại đang tiến vào nền kinh tế tri thức, vào đại học
được tiếp cận với cơ sở vật chất đào tạo tốt, thầy tốt tạo điều kiện học lên thạc sĩ, tiến
sĩ, và công việc làm tốt có triển vọng.
- Nhân dân ta có truyền thống hiếu học. Ai cũng muốn tạo mọi điều kiện cho con em
được học nhiều, học cao.
2. Ý kiến không đồng tình. Vì sao?
- Vào đại học không phải là con đường duy nhất và phù hợp với tất cả mọi người. Mỗi
người có đặc điểm riêng về thể chất, trí lực và năng khiếu. Xã hội đang ở trong giai
đoạn phát triển chưa đủ điều kiện để phổ cập đại học. Vì vậy, ai thấy chưa đủ điều kiện
và năng lực học tốt ở bậc đại học thì nên đi vào trường nghề và trung cấp chuyên
nghiệp.
- Thực tế cho thấy rất nhiều người chưa qua trường đại học mà vẫn thành công trong
sự nghiệp và đời sống.
3. Bài học
Mỗi người cần tự đánh giá năng lực bản thân và điều kiện kinh tế gia đình để chọn con
đường vào đại học hay không. Vào đại học không phải là con đường duy nhất. "Có khi
đi đường vòng mới là con đường ngắn nhất", giúp người ta thành đạt và hạnh phúc.
287
BÀI LÀM THAM KHẢO
Mở bài :
Ngày nay, mỗi năm cứ vào kỳ thi tuyển sinh Đại học (vào khoảng đầu tháng bảy ),
cả nước lại rộn ràng náo nức không khí thi cử, hàng triệu người đi thi, liên quan đến
hàng triệu gia đình.Cứ như thế vào Đại học, là con đường tiến thân duy nhất của thanh
niên ngày nay vậy? Điều ấy đúng chăng?
Thân bài :
1, Ý kiến đồng tình
a. Trước hết phải khẳng định vào Đại học là con đường tiến thân rất quan trọng
và đẹp đẽ, xứng đáng ước mơ không chỉ của tuổi trẻ nước ta, mà còn là của nhân loại.
Cứ xem những đoạn phim phóng sự về không khí học, thi cử của Hàn Quốc và Nhật
Bản cũng đủ hiểu được tầm quan trọng của việc lập nghiệp của tuổi trẻ qua con đường
Đại học.Vì đã qua rồi cái thời tuổi trẻ dần dần trở thành những con mọt sách thuần tuý.
b. Thời đại của chúng ta là thời đại của khoa học kĩ thuật, thời đại của công nghệ
thông tin, thời đại của con người chinh phục khoảng không vũ trụ. Nền kinh tế thế giới
cơ bản là nền kinh tế tri thức, phát triển từ nền tảng của tri thức hiện đại về mọi
phương diện. Những quốc gia có tổng thu nhập hàng năm lên đến hàng nghìn tỉ đô la,
GDP bình quân đầu người lên đến hàng chục nghìn đô la như Mỹ, Anh, Thuỵ Điển,
Đức... Chẳng phải chủ yếu nhờ vào sự đóng góp của tầng lớp thanh niên, nhất là thanh
niên trí thức có trình độ kĩ sư, thạc sĩ, tiến sĩ, những nhà chuyên gia kĩ thuật khoa
học,đó sao? Vì tri thức tạo ra những năng suất khổng lồ cho sản xuất. Tri thức tạo ra
những phương tiện phương thức quản lí mới đưa lại hiệu quả kinh tế tối ưu.Phải có tri
thức thì các chuyên ngành mới có thể tham gia vào hệ thống sản xuất và các dịch vụ xã
hội. Bác Hồ đã từng khẳng định: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ
tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội”. Tuổi trẻ là mùa xuân xã hội, để xây dựng
chủ nghĩa Cộng Sản, mùa xuân của nhân loại. Ở đó “của cải tuôn ra dồi dào nhƣ
nƣớc". Muốn thế thì tuổi trẻ phải biết “Học! Học nữa! Học mãi!” ( Lênin). Phải biết
học liên tục không ngừng.
c. Và sau khi tốt nghiệp xong bậc phổ thông, nếu được vào Đại học sẽ mở ra
cho chúng ta một chân trời bao la của sự học, học nữa, học mãi. Ở Đại học, nơi tập
trung những giảng viên, giáo sư giỏi, những nhân tài “nguyên khí của quốc gia”.
Những người thầy, những trí thức ưu việt đó sẽ là những người hướng đạo tốt nhất, có
ý nghĩa như những chiếc chìa khóa thần diệu giúp tuổi trẻ mở thẳng vào cánh cửa lâu
đài khoa học kĩ thuật và trí tụê. Vì không thầy đố mày làm nên.
d. Mặt khác, dân tộc ta là một dân tộc có truyền thống hiếu học, giàu khát vọng
trí tuệ. “Những ngƣời học trò nghèo đã đóng góp cho Đất nƣớc mình Núi Bút, Non
Nghiên”. Nguyễn Khoa Điềm đã chẳng từng viết như vậy, đó sao? Những địa phương
còn nghèo, nhưng con em nhân dân vẫn có rất nhiều người đậu Đại học. Họ đã nêu
một triết lý có ý nghĩa như đạo lý của dân tộc “không sợ nghèo tiền, bạc tài sản,chỉ sợ
nghèo chữ”. Họ luôn luôn tâm niệm một điều “để chữ lại cho con như để lại một tài
sản vô giá” ( dẫn chứng: Những gia đình nghèo, ăn cháo ăn rau vẫn quyết tâm cho con
học lên Đại học..)
Như vậy, rõ ràng cần phải coi việc vào Đại học là một con đuơng tiến thân đẹp
đẽ, sang trọng, xứng đáng là một giấc mơ tốt đẹp. Phải dồn mọi tâm huyết thời gian,
sức lực để có thể đạt kết quả tốt trong kì thi đại học này.
288
2, Ý kiến không đồng tình, ý kiến phản đối :
a. Tuy nhiên, vào Đại học hoàn toàn không phài là con đuơng duy nhất. Con
đường vào đời, vào chân trời hạnh phúc ngày nay của tuổi trẻ cũng đã mở ra rất nhiều
cánh cửa. “Có cửa sơn xanh,có cửa màu ghi nhạt”. Cha ông ta bảo “ Nhất nghệ tinh,
nhất thân vinh”. Làm công nhân, làm người thợ lành nghề, có thu nhập cao, đời sống
no đủ, gia đình yên ấm, vật chất dồi dào, tinh thần phong phú… Đấy chẳng phải là một
giấc mơ đẹp đó sao? Nhà nước ta cũng đã mở ra các trường dạy nghề, đào tạo công
nhân có kĩ thuật cao. Các trường ấy cũng mở rộng cửa để đón chào các bạn trẻ.
b. Nếu hoàn cảnh gia đình còn khó khăn, trình độ học lực hiện tại còn có hạn thì
hãy tạm gác giấc mơ xa vào Đại học, mà hãy thực hiện giấc mơ gần. Chọn ngay một
nghề chuyên môn, học tốt nghề ấy, để trở thành người thợ lành nghề, có bàn tay vàng
trong nghề nghiệp của mình. Đây là một con đường không kém triển vọng và đặc biệt
nó sẽ giải quyết được một nghịch lí đáng buồn ở nước ta hiện nay: “thầy nhiều thợ ít”,
số công nhân lành nghề, lực lượng trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất lại ít hơn số kĩ
sư, cử nhân tốt nghiệp từ các trường Đại học.
c. Các bạn hãy xem cuộc đời là một trường Đại học. Đại văn hào nước Nga
Goocki xem đó là “Trƣờng Đại học của tôi”. Dù tiến thân bằng con đường nào cũng
phải không ngừng học, học trong thực tế, học trong sách vở, bạn vẫn có thể leo lên
được đỉnh vinh quang ( dc nhà văn Nguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng chỉ học hết tiểu
học mà trở thành nhà văn nổi tiếng ; nhiều người dân trở thành nhà phát minh sáng chế
và được vinh danh là “giáo sư nông dân” ; Bin Ghết (Bill Gate) - Chủ tịch tập đoàn
Microsoft, chưa hề qua một trường Đại học chính quy nào, mà vẫn trở thành chuyên
gia máy tính và tỉ phú bậc nhất của nhân loại..)
Kết luận :
Đừng nên xem vào Đại học là con đường “chỉ có một và chỉ có một mà thôi’ để
phải đạt bằng mọi giá như quay cóp trong thi cử, chạy bằng, chạy điểm. Và khi không
được vào Đại học thì có những ý nghĩ tiêu cực. Vì nói như Xuân Diệu “Người ta khổ
vì cố chen chỗ chật”
289
Đề 2b : Trong thế giới khốc liệt của AIDS không có khái niệm “chúng ta và họ”,
“ thế giới đó”, im lặng đồng nghĩa với cái chết..Hãy sát cánh cùng tôi, bởi lẽ
cuộc chiên chống lại HIV/AIDS bắt đầu từ chính các bạn” ( Côphi Annan –
Thông điệp phòng chống AIDS 1-12-2003 )
Anh chị có thể làm gì để hƣởng ứng lời kêu gọi ấy?
A. HƢỚNG DẪN LÀM BÀI
Đề này cần:
1. Giải thích lời kêu gọi
- HIV/ AIDS là thảm họa của loài người.
- Mọi người phải chung sức phong chống HIV/ AIDS.
- Không được phân biệt đối xử với người nhiễm HIV/ AIDS.
2. Chúng ta phải làm gì để phòng chống HIV/ AIDS?
- Thương yêu giúp đỡ những người bị HIV, AIDS, không ghẻ lạnh, sợ hãi, phân biệt
đối xử với người bị nhiễm HIV, AIDS.
- Tuyên truyền , cổ động về bản chất căn bệnh HIV, AIDS và các biện pháp phòng
ngừa.
- Không bàng quan, im lặng mà phải lên tiếng, hành động, tham gia phòng chống HIV,
AIDS.
3. Liên hệ bản thân
- Tìm hiểu kỹ thực chất HIV, AIDS, cách lây truyền và phòng chống HIV, AIDS.
"Không để chết vì dốt".
- Tham gia các hoạt dộng phòng chống HIV, AIDS.
- Quan tâm giúp đỡ người bị nhiễm HIV, AIDS (nếu có)
BÀI LÀM THAM KHẢO
Mở bài :
Hiện nay, nhân loại hàng ngày hàng giờ đang phải đương đầu với nạn dịch tràn
qua mọi châu lục như một trận gió đen. Đó là nạn dịch HIV, bệnh dịch suy giảm miễn
dich, chưa có phương thuốc cứu chữa, HIV có thể quét sạch tất cả, không trừ một ai.
Thậm chí đó là những đứa trẻ, mầm non của tương lai, là những chàng thanh niên khoẻ
đẹp có thể biến thiên nhiên thành điện thép cho con người hạnh phúc mai sau. Vì vậy,
nhân ngày 1-12-2003, tổng thư kí Liên hợp quốc đã đưa thông điệp khẩn thiết phòng
chống AIDS : “Hãy sát cánh cùng tôi, bởi lẽ cuộc chiên chống lại HIV/AIDS bắt đầu
từ chính các bạn”
Thân bài :
1. HIV/AISD là một thế giới khốc liệt, là thảm họa của loài ngƣời
a. Gần hai thập kỉ cuối cùng của thế kỉ XX và nay đã bước sang thập niên của thế
kỉ XXI, mặc dù tất cả các nhà y học tài ba của thế giới đã vào cuộc để tìm ra một thứ
thuốc hữu hiệu để chữa căn bệnh đồng nghĩa với tử thần. Đó là căn bệnh có cái tên
gớm ghiếc HIV. Nhưng tất cả đang bó tay, chưa tìm được một thứ vacxin nào có thể
phòng ngừa và tiêu diệt được thứ virut khủng khiếp ấy. Những thứ thuốc tốt nhất hiện
có cũng chỉ có ý nghĩa giúp bệnh nhân có thể kéo dài sự sống và những biện pháp
phòng ngừa cũng chỉ nhằm giảm bớt sự lây lan căn bệnh quái ác ấy từ người này sang
người khác, không để nó trở thành đại dịch mang tính toàn cầu mà thôi.
b. HIV dù chưa là một đại dịch nhưng cho đến nay nó đã lấy đi hàng triệu sinh
mệnh. Nếu tính bình quân, chỉ tính đến năm 2007 thì cứ mỗi ngày trôi qua, thế giới có
thêm muời sáu triệu người nhiễm HIV, nghĩa là cứ mỗi giờ thì có bảy trăm năm mươi
290
người mắc vào thứ bệnh mà lưỡi hái tử thần đang kề tận cổ ấy. Tất nhiên cho đến giờ
phút này, con số thống kê đang tăng lên một cách đáng sợ.
c. Điều đáng buồn và đáng sợ hơn là hầu hết bệnh nhân đều là những người trẻ
tuổi, cái tuổi của tương lai, cái tuổi đang trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất và tinh
thần và là niềm hi vọng của mỗi gia đình. Giờ đây họ chẳng những không lao động
được mà còn phải tập trung vào chữa bệnh. Kèm theo đó là bao người thân phải tập
trung chăm lo cho những người bệnh ấy, chưa kể là bao nhiêu của cải phải lần lượt đội
nón ra đi vì căn bệnh hiểm nghèo ấy. Thế là hậu quả biết bao người vợ mất chồng,
người mẹ mất con. Có biết bao trại trẻ mồ côi làng SOS dành cho những đứa trẻ đã
mang virut HIV/AIDS mọc lên như nấm. Các bạn hãy tưởng tuợng, riêng khu vực
châu Phi cấn sa mạc Sahara với dân số một phần muời thế giới thì số người duơng tính
với HIV đã chiếm gần bảy tám phần trăm loài người. Còn ở nước ta, con số nhiễm
bệnh đã lên tới ba trăm nghìn người, số người đã chết lên tới con số hàng mấy chục
ngàn người. Theo công bố của Bộ Y tế, cứ mười phút trôi qua, thì có thêm một người
nhiễm phải căn bệnh hiểm nghèo đó.
2. Không có khái niệm “chúng ta” và “họ”
a. Không ai được phép coi đây là việc của người khác, chỉ liên quan đến “họ”, tức
là những người nhiễm HIV, hay đang bước sang thời kì AIDS. Trước hết, với đạo lí
làm người, không ai được quyền dửng dưng trước tai hoạ của nhân loại. Vì như Mác
đã nói : “đã là con ngƣời thì không ai đƣợc phép quay lƣng với nỗi đau khổ của đồng
loại”. HIV đang tác động xấu đối với đời sống của loài người. Mỗi năm thế giới
chúng ta phải bỏ ra hàng chục, thậm chí là hàng trăm tỉ đô la để chữa trị và ngăn ngừa
căn bệnh hiểm nghèo ấy. Số tiền đó đáng lẽ có thể dùng để sản xuất ra của cải, lương
thực, phòng ngừa thiên tai, xoá đói giảm nghèo cho những nước còn chậm phát triển.
b. Căn bênh quái ác nói trên có nhiều đuờng lây lan như truyền máu không an
toàn, lây từ mẹ sang con, đời sống tình dục không lành mạnh, thiếu ý thức. Nếu xem
căn bệnh này chỉ là của ai đó, không liên quan đến mình, không có những biện pháp
phòng ngừa triệt để thì thần chết vẫn có thể đến gõ cửa mỗi chúng ta và từng nhà.
3. Phải lên tiếng, phải hành động
a. Mỗi người phải làm gì? Trước hết phải lên tiếng: Phải cảnh báo với mọi người
về nguy cơ lây nhiễm căn bệnh quái ác này để mọi người tích cực phòng tránh. Phải
có cái nhìn đúng đắn và thái độ đối xử đúng với những người nhiễm HIV. Phải coi họ
như những người không may bị nhiễm căn bệnh mà đến nay y học đang bất lực.
b. Từ những con đường lây nhiễm được xác định, người ta có thể gần gũi, không
được coi họ như những người bỏ đi. Không được mặc cảm, định kiến, phải biết yêu
thương, giúp đỡ họ tạo dựng được niềm tin và nghị lực đế sống khoẻ, sống vui. Bởi
một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ. Bởi tình thương nói như Nam Cao là tiêu
chuẩn cao nhất để xác định tư cách làm người. Không có tình thương, con người chỉ là
một con vật bị sai khiến bởi lòng ích kỉ. Một lời động viên, an ủi đối với những người
nhiễm HIV sẽ tích thêm năng lượng để họ sống mạnh mẽ, lạc quan hơn.
Kết luận :
Không được tự chia ra hai thế giới “chúng ta và họ”. Trong thế giới đó, “im lặng
đồng nghĩa với cái chết”. Hãy sát cánh bên nhau, bàn tay ấm nóng tình thương, tay
trong tay, chúng ta hãy cùng nhau đẩy lùi và tiêu diệt căn bệnh quái ác, khủng khiếp
này để loài người không phải sống trong nước mắt mà trong nụ cười tươi vui thân
thiện và hạnh phúc.
291
(Hai đề 1 và 2 trên, khi biên soạn, chúng tôi có tham khảo tài liệu của Lƣơng
Dúy Cán).
Đề 3b: Vấn nạn giao thông
A. HƢỚNG DẪN LÀM BÀI
Đề này cần:
1. Giải thích vai trò của giao thông vận tải
Sinh hoạt của con ngườ và các hoạt động kinh tế xã hội ngày càng cần phải đi lại. Số
lượng phương tiện giao thông và hạ tầng cơ sở, đặc biệt là đường sá, quyết đinh tới sự
thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng đất nước.
2. Vấn nạn giao thông ngày càng nghiêm trọng, gây hậu quả lớn.
- Tai nạn giao thông ngày càng trầm trọng, mỗi năm có khoảng từ 12000 đến 14000
người chết và hàng vạn người bị thương vì tai nạn giao thông (bình quân mỗi ngày có
30 người chết).
- Nạn kẹt xe ở các thành phố xảy ra quanh năm, đặc biệt là ở các thành phố lớn, tổn hại
tới sức khỏe người dân và gây thiệt hại về kinh tế hàng nghìn tỉ đồng mỗi năm.
3. Nguyên nhân.
- Ý thức tuân thủ pháp luật về giao thông của một bộ phận dân cư chưa cao.
- Đường giao thông còn bất cập, không đáp ứng nhu cầu về số lượng và chất lượng, dễ
gây ách tắc và xảy ra tai nạn.
4. Phải hành động quyết liệt để giải quyết vấn nạn giao thông.
- Nhà nước và nhân dân cùng góp sức phát triển có cơ sở hạ tầng giao thông, làm
nhiều đường đi và đường đi tốt.
- Mọi người dân phải hiểu rõ và tuân thủ nghiêm ngặt pháp luật về giao thông. "An
toàn giao thông là không tai nạn".
BÀI LÀM THAM KHẢO
Mở bài:
“Nỗi đau này không riêng của ai, của chung đất nƣớc nỗi đau này”. Đó là nỗi
đau do tai nạn giao thông gây ra. Vậy nguyên nhân của tai nạn nhức nhối này là vì
đâu? Hậu quả của nó thế nào? Làm cách nào để ngăn chặn? Tuổi trẻ chúng ta phải làm
gì để góp phần giảm thiểu tai nạn đó?
Thân bài:
1.Vai trò của giao thông, vận tải
Giao thông vận tải có một vai trò vô cùng quan trọng đối với một con người nói
riêng, đối với một đất nước nói chung. Nó là nhu cầu đi lại giao lưu, làm việc,… rất
thiết yếu của con người từ xưa tới nay, như cơm ăn, nước uống vậy. Nhìn vào mạng
lưới giao thông, trình độ các phương tiện giao thông hiện đại có thể đánh giá nền văn
minh, tình hình kinh tế, chất lượng cuộc sống của người dân ở một nước. Chẳng hạn
các nước văn minh phương Tây như : Pháp, Đức, Mỹ…giao thông vô cùng phát triển.
Hiện nay giao thông ở nước ta đã và đang có sự phát triển, tiến bộ vượt bậc. Mạng lưới
giao thông đường bộ, đường thủy, đường sắt…đang mở ra chằng chịt như đường vẽ
trên bàn cờ- xe máy, ô tô, tàu hỏa, máy bay…đang thay dần cho đi bộ, xe đạp chậm
chạp làm lãng phí thời gian, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống.
292
2.Tình hình tai nạn giao thông
Cũng nhờ các phương tiện xe máy được lưu thông, hàng chục bến cảng của hàng
không, hàng trăm ga tàu, bến ô tô xuất hiện khắp mọi miền đất nước mà bạn có thể đến
địa điểm công tác, về địa chỉ trái tim chỉ trong một khoảng thời gian tối ưu như bạn
mong muốn. Nhưng cũng vì những phương tiện hiện đại có tốc độ như bay ấy mà bạn
không được trở thành cánh chim thanh thoát, trái lại lắm lúc có nguy cơ “gãy cánh
giữa đƣờng bay”. Bởi chính tai nạn giao thông đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ trên
đất nước ta với những con số làm nhức nhối trái tim hàng triệu người; cứ trung bình
mỗi ngày từ 30 đến 35 người bị tai nạn và chừng ấy người bị thương hoặc gãy tay, gãy
chân, bất hạnh hơn nữa là bị chấn thương sọ não.
3. Hậu quả
Như vậy tai nạn giao thông đã gây nên hậu quả khủng khiếp làm thiệt hại nặng
nề về người về của cho đất nước, xã hội. Biết bao kinh phí nhà nước phải bỏ ra để
khắc phục hậu quả. Hàng năm Chính phủ mất hàng ngàn tỉ cho công cuộc ngăn ngừa
tai nạn, cho việc chữa trị những người bị tai nạn giao thông. Có những người vì tai nạn
giao thông mà chịu thương tật vĩnh viễn, sống trong tình trạng “bán thân bất toại”,
gây đau khổ, thương tâm cho xã hội, cho người thân. Biết bao người vợ phải mất
chồng, người mẹ mất con, người anh mất em. "Tổn thất này thật lớn lao", đau thương
này không sao kể xiết. Bạn đã bao giờ đi dọc đường quốc lộ số 5, số 1, đường quốc lộ
số 6…chứng kiến bao cảnh tai nạn giao thông đau lòng chưa? Đúng là “những cảnh
ấy trên đƣờng về ta đã gặp; tháng ngày qua ám ảnh mãi không thôi, và từ đó lòng ta
luôn tràn ngập, nỗi buồn thƣơng cho biết bao ngƣời” vì quốc tai nạn giao thông này.
4.Nguyên nhân
Tai nạn giao thông gây nhức nhối cho toàn xã hội như đã trình bày ở trên,
nguyên nhân vì đâu?
-Về phương tiện: Phương tiện giao thông đã quá hạn sử dụng (nhất là ô tô, xe máy)
nhưng vẫn được lưu hành. Thật không an toàn chút nào. Chúng dễ dàng trở thành tử
thần cướp đi mạng sống con người chỉ trong tích tắc.
-Về cơ sở hạ tầng: chất lượng đường sá, cầu cống còn thấp, nhiều nơi lại còn bị đào
bới liên tục, xuất hiện nhiều ổ trâu, ổ voi tạo thành những cái bẫy chết người vô hình.
-Quan trọng hơn là nguyên nhân về phía con người, chủ thể tham gia giao thông: hoặc
là hạn chế hiểu biết, không nắm vững luật, hoặc là vì tham tiền, hám lợi mà phóng
nhanh, vượt ẩu. Chưa kể có người lái xe trong trạng thái say bia, say rượu. Thậm chí
còn có kẻ ngông cuồng tham gia vào trò đùa tử thần: đua xe, đánh võng, lạng lách. Đã
có biết bao tai nạn thương tâm gây ra cho người lái và người đi đường.
5.Tuổi trẻ học đƣờng phải làm gì để góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông
bi thƣơng này?
Là tuổi trẻ đang ngồi trên ghế nhà trường- mùa xuân tương lai của xã hội, chúng
ta phải có ý thức tham gia giao thông, có văn hóa giao thông. Trước hết nghiêm túc
học tập nắm vững luật giao thông. Phải chấp hành nghiêm chỉnh quy định an toàn giao
thông; đi đúng phần đường, không vượt đèn đỏ, không lạng lách, đánh võng, đua xe
293
trái phép; không đi xe khi chưa đến tuổi và không có bằng chính hiệu. Cùng với mọi
người tích cực tuyên truyền luật giao thông trong toàn xã hội.
Kết luận
Những điều đã trình bày trên cho thấy, ở nước ta, tai nạn giao thông đã trở thành
nỗi kinh hoàng chưa thể kiểm soát nổi như con ngựa bất kham đang lao về phía vực.
Nhưng ghìm cương ngựa bên bờ vực thẳm vẫn còn chưa muộn. Tuổi trẻ chúng ta là
tuổi “Đâu cần thanh niên có. Đâu khó có thanh niên”, hãy lên tiếng, hãy tích cực hành
động hơn nữa để góp phần giảm thiểu tai nạn này làm cho mọi người được sống trong
nụ cười và hạnh phúc.
Đề 4b:Anh chị nghĩ gì về những khu rừng đang ngày càng bị tàn phá?
Mở bài
Bác Hồ đã có lần nói đất nước ta là rừng vàng, biển bạc, đất phì nhiêu; ấy thế
mà ngày nay, rừng không còn là kho vàng nguyên vẹn nữa, mà đang bị vơi dần, cạn
kiệt dần, bởi bàn tay con người tàn phá. Quả là một sự thực rất đau lòng.
Thân bài
1.Vai trò của rừng, của cây xanh đối với con ngƣời
a. Ngay từ khi con người đang ở trong xã hội nguyên thủy, chủ yếu kiếm sống
bằng săn bắt hái lượm, thì rừng đã thành môi trường, ngôi nhà, nguồn sống của họ.
Rừng cung cấp cho họ thực phẩm hàng ngày. Rừng là nguồn cung cấp củ, quả để con
người tồn tại và phát triển, tiến hóa từ nguyên thủy đến văn minh.
b. Trong suốt trường kì lịch sử chống ngoại xâm, rừng ngoài việc cung cấp một
phần thực phẩm, lương thực, còn cùng con người tham gia đánh giặc. Đúng như Tố
Hữu đã viết
“Nhớ khi giặc đến giặc lung
Rừng cây núi đá, ta cùng đánh Tây.
Núi giăng thành lũy sắt dày,
Rừng che bộ đội,rừng vây quân thù.”
Rừng Tây Nguyên, Tây Bắc đã cùng con người đứng lên để viết nên những chiến
công sông Lô, Điện Biên, An Khê, Đồng Tháp oai hùng (oanh liệt).
c. Ngày nay, xã hội bước vào thời kỳ hiện đại hóa, chất thải công nghiệp đã làm
mất cân bằng sinh thái, gây nên hiệu ứng nhà kính, làm thủng tầng ô dôn đẩy con
người đến thảm họa diệt chủng. Trong bối cảnh đó, rừng đã trở thành vị cứu tinh của
con người. Với chức năng hấp thụ khí cacbonic và nhả dưỡng khí oxi, rừng đưa lại sự
sống cho con người, làm cân bằng sinh thái, biến trái đất thành ngôi nhà xanh- sạch-
đẹp cho con người.
Rừng cung cấp cho chúng ta biết bao loại gỗ quý như: đinh, lim, sến, táu và
nhiều dược liệu quan trọng để chữa bệnh, kéo dài tuổi thọ cho con người như: sâm,
quế, sa nhân, tam thất…
294
Rừng có tác dụng phủ xanh đồi trọc, chống xói mòn, làm cho khí hậu điều hòa, mưa
nắng phải thì, hạn chế thiên tai. Chưa kể rừng còn là nơi bảo tồn nguồn gen động vật,
thực vật quý hiếm như: tê giác, bò tót, voi, gấu, sao la, hổ,…
2.Tình trạng chặt phá rừng
Thế mà ngày nay, con người vì nông nổi, vì thiếu văn hóa, vì hám lợi mà đã
chặt phá rừng không thương tiếc để lấy gỗ bán, lấy đất làm hàng hóa, trồng ngô, trỉa
lúa, nuôi tôm…Những kẻ phá rừng ấy được nhân dân đặt cho cái tên: “lâm tặc”, nghĩa
là những tên giặc rừng. Vì bọn chúng mà hàng ngày, hàng giờ những cánh rừng Tánh
Linh đang hấp hối phải lên tiếng kêu cứu. Vì bọn chúng mà những khu rừng Lạng Sơn,
Quảng Nam, rừng quốc gia Cát Tiên đang bị triệt hại một cách dã man. Chúng phá
rừng đốt rừng là đốt lá phổi của chúng ta, là giết màu xanh, sự sống thiêng liêng của
nước ta.
3.+Hậu quả
Vì những cánh rừng đang bị thu hẹp lại bởi bàn tay của bọn “lâm tặc” bất nhân
mà dẫn đến hậu quả mất cân bằng sinh thái, thiên tai, lụt lội, hạn hán, bão tố xảy ra
liên miên và bất thường, trái đất không còn là ngôi nhà bình yên nữa. Hàng năm nhân
dân ta phải gánh chịu biết bao tổn thất. Chỉ riêng năm 2008, theo thống kê của Chính
phủ: nước ta đã mất hơn 1.300 tỷ đồng và trên bốn trăm (400) người bị chết do thiên
tai. Đúng là một con số biết nói làm nhức nhối triệu triệu trái tim của những người
lương thiện.
4.Trách nhiệm của tuổi trẻ chúng ta
Trước thực trạng ấy, chúng ta hãy cùng nhau ngăn chặn ngay bàn tay tàn bạo
của bọn lâm tặc. Phải tích cực tham gia trồng rừng, phủ xanh đồi trọc, cần tuyên
truyền cho mọi người, từ trẻ em đến người già hiểu rõ lợi ích của rừng và phá rừng là
một hành động tự sát.
Kết luận
Rừng là bài ca của sự sống “khi nghĩ về một đời ngƣời,tôi thƣờng nhớ về rừng
cây” (nhạc Trần Long Ẩn). Để bảo vệ đời người, hãy bảo vệ rừng, lá phổi xanh của
đất nước chúng ta.
Đề 5b: Tiêu cực trong thi cử- học giả, học thật
A. HƢỚNG DẪN LÀM BÀI
Đề này cần:
1. Giải thích tình trạng và nguyên nhân tiêu cực trong thi cử.
- Bênh chạy theo thành tích của các cơ sở giáo dục, thiếu nghiêm túc, công bằng trong
thi cử và đánh giá học sinh.
- Bệnh lười học nhưng muốn có điểm số cao, đậu đạt, dẫn đến tình trạng chạy thầy,
chạy điểm.
2. Hậu quả
295
- Đào tạo không đạt chuẩn, không thực hiện tốt mục tiêu giáo dục là "Học để biết, học
để làm, học để chung sống trong cộng đồng và học để làm người".
- Xã hội không thể tiến lên văn minh, kinh tế khó phát triển vì nguồn nhân lực thiếu
chất lượng.
- Uy tín của ngành giáo dục sẽ xuống thấp trong sự đánh giá của xã hội và bạn bè quốc
tế.
3. Thái độ và trách nhiệm của xã hội và của mỗi học sinh.
- Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Cả xã hội phải chăm lo cho nền giáo dục phát triển
lành mạnh, học thật, làm thật, trung thực trong thi cử.
- Mỗi học sinh cần phấn đấu tu dưỡng rèn luyện, không có tiêu cực trong học tập và thi
cử.
B. BÀI VĂN THAM KHẢO
Mở bài
Có một truyện được giải đặc biệt trong cuộc thi về truyện ngắn nhất mà hay nhất.
Truyện kể rằng một người muốn tự tử, nhưng không sao chết được, anh ta đã từng
uống độc dược, thuốc trừ sâu, thuốc chuột mà vẫn không chết. Cuối cùng anh ta đã tìm
được liều thuốc hữu hiệu nhất. Đó là ra ngoài thành phố mua mấy tờ báo lá cải của xã
hội tư sản về đọc. Vừa đọc được một vài tờ, anh ta đã lăn quay ra chết. Anh chết, vì bị
ngộ độc tinh thần. Bởi trong tờ báo kia toàn chứa những điều giả dối, độc hại.
Thân bài
1.Tình trạng và nguyên nhân
Câu chuyện nói trên có cường điệu quá chăng? Nhưng có điều chắc chắn rằng sự
giả dối, lừa mị cũng độc hại như độc dược vậy! Ngày nay, trong nhà trường chúng ta,
từ tiểu học cho đến đại học đã xảy ra biết bao chuyện thật đáng buồn làm nhức nhối
lương tri hàng triệu người. Đó là tình trạng vì chạy theo thành tích, theo bằng cấp, cốt
lấy số lượng mà không cần chất lượng, nên đã dẫn đến vấn nạn học giả bằng thật, thiếu
công bằng trong thi cử, học tủ, học lệch, học đối phó, quay cóp, ăn cắp bài của bạn, cốt
lấy điểm cao mà không đếm xỉa gì đến kiến thức thực tế, những hiểu biết, trình độ vốn
có của mình…Ở các trường đại học, nơi được xem là pháo đài khoa học, nơi đào tạo
những kỹ sư, cử nhân “hiền tài nguyên khí quốc gia”, ấy thế mà cũng xảy ra tình trạng
chạy điểm, nâng điểm, chấm bài tắc trách lấy lệ, thiếu nghiêm túc, thiếu tinh thần trách
nhiệm. Tình trạng ấy đã đẻ ra biết bao luận văn giả, luận án giả và đi kèm theo đó là
những cử nhân giấy, thạc sĩ giấy, tiến sĩ giấy cứ liên tục được cấp bằng để sau này,
nhiều người được đảm đương những cương vị quan trọng của xã hội, nhiều người trở
thành “thầy” trong các nhà máy xí nghiệp, công trường, thợ thủ công, các trường
học…Những con người đó nói như nhà thơ Nguyễn Khuyến
“Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ
Cái giá khoa danh,giá mới hời
Ghê chéo,long xanh ngồi bảnh chọe
Tƣởng rằng đồ thật,hóa đồ chơi”.
2.Hậu quả của tình trạng trên
296
Nhà trường từ xa xưa cho đến nay đều nhằm mục đích đào tạo những nhân tài,
những người có trình độ kiến thức, khoa học thực sự để xây dựng và kiến thiết đất
nước ngày càng văn minh giàu mạnh, của cải vật chất và tinh thần ngày càng được sản
suất ra dồi dào. Muốn làm được điều đó, nhà trường phải đào tạo những học sinh, thế
hệ trẻ mai sau thành những người có năng lực thực sự, có trình độ, tri thức sâu rộng,
vừa sâu, thành những chuyên gia giỏi trong các ngành công nghệ, khoa học. Nếu còn
tình trạng học giả, bằng thật và tiêu cực trong thi cử như đã từng diễn ra lâu nay trong
nhà trường thì làm sao chúng ta có thể đảm đương được sứ mệnh của nền kinh tế tri
thức nước nhà? Giờ đây, nước ta đã gia nhập WTO, nghĩa là chúng ta đã ra biển, ra
đấu trường quốc tế. Nếu như sản phẩm con người vẫn được sản xuất như những hàng
giả, thì hẳn họ sẽ trở thành những cầu thủ thua ngay trên sân nhà, những tay bơi lội
vừa xuống nước đã bị chìm, những võ sĩ sẽ bị nốc ao ngay, khi vừa bước lên võ đài.
Thật là một thảm cảnh vừa đau đớn, vừa tủi nhục.
3. Thái độ và trách nhiệm của chúng ta trƣớc thực trạng nói trên
Để ngăn chặn tình trạng đau lòng nói trên, Bộ Giáo dục đã ban hành một chủ trương
rất đúng đắn và kịp thời. Đó là “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích
trong giáo dục”. Chủ trương nhằm hướng tới hoạt động dạy và học của thầy giáo và
học sinh tất cả các cấp trong nhà trường. Đối với giáo viên, cuộc vận động này sẽ định
hướng, điều chỉnh tinh thần, mục đích giảng dạy: Dạy để học sinh có tri thức thực sự
và toàn diện, không chạy đua theo số lượng và thành tích không chính đáng; dạy đảm
bảo chất lượng, công bằng trong đánh giá, nghiêm túc trong chấm điểm, chọn đúng
học sinh có năng lực, có kiến thức, có tài, không được cho phép mình tặng điểm, nâng
điểm tùy tiện. Còn đối với học sinh, cuộc vận động này đã chấn chỉnh lại thái độ, mục
đích, tinh thần học tập. Không học tủ, học lệch, đối phó, chép bài của bạn khi kiểm tra,
thi cử, phải học toàn diện và học bằng chính sự nỗ lực của mồ hôi tâm não mình.
Kết luận
Chúng ta hãy cùng nhau tích cực tham gia cuộc vận động này, nhằm lập lại trật tự của
việc dạy và học, nâng cao chất lượng giáo dục, lành mạnh hóa nền giáo dục Việt Nam.
Bởi giáo dục là quốc sách, là chiến lược đào tạo con người, những kỹ sư tài năng trong
tương lai xây dựng Tổ Quốc ta “Đàng hoàng,tƣơi đẹp sáng trời Đông”, để có thể
“Sánh vai với các cƣờng quốc năm châu” như Bác Hồ hằng mong mỏi.
BÀI THAM KHẢO
- Đoạn 1 bàn về vấn đề “tài nguyên nước” (lập luận phân tích, bác bỏ). Nhìn vào
bản đồ thế giới, đâu đâu ta cùng thấy mênh mông là nước. Đại dương bao quanh lục
địa. Rồi mạng lưới sông ngòi chằng chịt. Lại có những hồ lớn nằm sâu trong đất liền,
lớn chẳng kém gì biển cả. Cảm giác đó khiến nhiều người trong chúng ta tin rằng thiếu
gì thì thiếu chứ con người và muôn loài trên quả đất không bao giờ thiếu nước. Xin
được nói ngay rằng nghĩ như vậy là nhầm to.
Đúng là bề mặt quả đất mênh mông là nước, nhưng đó là nước mặn chứ đâu
phải là nước ngọt, lại càng không phải là nước sạch mà con người và động vật, thực
vật quanh ta có thể dùng được. Hai phần ba nước trên hành tinh mà chúng ta đang
sống là nước mặn. Trong số nước ngọt còn lại thì hầu hết bị đóng băng ở Bắc Cực,
Nam Cực và trên dãy núi Hi-ma-lay-a. Vậy thì con người chỉ có thể khai thác nước
ngọt ở sông suối, đầm, ao, hồ và nguồn nước ngầm số nước ngọt như vậy không phải
là vô tận, cứ dùng hết lại có và đang ngày càng bị nhiễm bẩn bởi chính con người gây
297
ra. Đủ thứ rác thải, từ rác thải vô cơ, hữu cơ, những thứ rác thải có thế tiêu huỷ được,
tới cả những thứ hàng chục năm sau chưa chắc đã phân huỷ, cả những chất độc hại
được vô tư ngấm xuống đất, thải ra sông suối. Như vậy là nguồn nước sạch lại càng
khan hiếm hơn nữa. Chớ nghĩ rằng nơi nào không có sông suối chảy qua thì cứ khoan
sâu, khoan thật sâu xuống lòng đất là có thể lấy được nước. Do việc sử dụng bất hợp lí
và rất lãng phí, các nguồn nước ngầm cũng đang cạn kiệt dần. Ở khu vực Tây Nguyên,
mấy năm nay, vào mùa khô, bà con ta phải khoan thêm rất nhiều giếng mới có thể có
nước để dùng hằng ngày đấy thôi.[...]
Nước ngọt đang ngày càng khan hiếm và để có nước sạch, hợp vệ sinh là rất tốn
kém. Vì vậy, cùng với việc khai thác các nguồn nước ngọt, con người ngày càng phải
sử dụng một cách hợp lí, tiết kiệm tài nguyên nước.
(Theo Trịnh Văn, báo Nhân Dân, số ngày 15 - 6 – 2003 dẫn theo Nguyễn Xuân Lạc)
Đoạn 2 nói về “môi trường sống giữa thiên nhiên của người da đỏ” (lập luận so
sánh, phân tích).
BỨC THƢ CỦA THỦ LĨNH DA ĐỎ
(Trích)
Năm 1854, Tổng thống thứ 14 của nước Mĩ là Phreng - klin Pi - ơ - xơ tỏ ý
muốn mua đất của người da đỏ. Thủ lĩnh Xi - át - tơn đã gửi bức thư này trả lời. Đây là
một bức thư rất nổi tiếng, từng được nhiều người xem là một trong những văn bản hay
nhất về thiên nhiên và môi trường.
[…] Đối với đồng bào tôi, mỗi tấc đất là thiêng liêng, mỗi lá thông óng ánh,
mỗi bờ cát, mỗi hạt sương long lanh trong những cánh rừng rậm rạp, mỗi bãi đất
hoang và tiếng thì thầm của côn trùng là những điều thiêng liêng trong kí ức và kinh
nghiệm của đồng bào tôi. Những dòng nhựa chảy trong cây cối cũng mang trong đó kí
ức của người da đỏ.
Khi người da trắng chết đi, họ thường dạo chơi giữa các vì sao và quên đi đất
nước họ sinh ra. Còn chúng tôi, chúng tôi chẳng thể quên được mảnh đất tươi đẹp này.
Bởi lẽ mảnh đất này là bà mẹ của người da đỏ. Chúng tôi là một phần của mẹ và mẹ
cũng là một phần của chúng tôi. Những bông hoa ngát hương là người chị, người em
của chúng tôi. Những mỏm đá, những vũng nước trên đồng cỏ, hơi ấm của chú ngựa
con và của con người, tất cả đều cùng chung một gia đình.
[…] Dòng nước óng ánh, êm ả trôi dưới những dòng sông, con suối đâu chỉ là
những giọt nước, mà còn là máu của tổ tiên chúng tôi. Nếu chúng tôi bán mảnh đất này
cho Ngài, Ngài phải nhớ rằng, Ngài phải dạy bảo con cháu rằng, mảnh đất này là thiêng
liêng và những tia sáng chói chang phản chiếu từ mặt hồ trong vắt sẽ nói lên cái gì đó về
kí ức của người da đỏ. Tiếng thì thầm của dòng nước chính là tiếng nói của cha ông
chúng tôi.
[…] Tôi biết người da trắng không hiểu cách sống của chúng tôi. Đối với họ,
mảnh đất này cũng như mảnh đất khác, bởi lẽ họ là kẻ xa lạ, và trong đêm tối, họ lấy
đi từ lòng đất những gì họ cần. Mảnh đất này đâu phải là những người anh em của họ,
mảnh đất này là kẻ thù của họ và khi đã chinh phục được, thì họ sẽ lấn tới mồ mả tổ
tiên của họ, họ còn quên và họ cũng chẳng cần tới dòng tộc của họ. Họ cư xử với mẹ
đất và anh em bầu trời như những vật mua được, tước đoạt được, rồi bán đi như những
con cừu và những hạt kim cương sáng ngời. Lòng thèm khát của họ sẽ ngấu nghiến đất
đai, rồi để lại đằng sau những bãi hoang mạc.
(Theo Nguyễn Xuân Lạc)
298
Đề bài 6b:Thuốc lá đƣợc coi nhƣ một thứ ôn dịch : “Ôn dịch thuốc lá đe doạ sức
khoẻ và tính mạng loài ngƣời hơn cả AIDS”.(Nguyễn Khắc Viện)
Bằng hiểu biết của bản thân,anh/chị hãy trình bày suy nghĩ của mình về ôn
dịch thuốc lá.
Hƣớng dẫn làm bài-Đề này cần:
I/Hiểu đƣợc nội dung cơ bản của câu nói của Nguyễn Khắc Viện:
Hút thuốc lá rất có hại cho sức khoẻ.Vì trong thuốc lá có một số hoá chất gây
nghiện.Nhưng trong hỗn hợp của khí và bụi của khói thuốc cũng chứa rất nhiều loại
chất độc hại gây tổn thương khắp các phủ tạng mà nặng nhất là phổi làm cho nguy cơ
bị bệnh ung thư rất cao.Và điều đặc biệt nguy hại đó là khói thuốc không chỉ ảnh
hưởng trực tiếp đến người chủ động hút thuốc,mà còn tác động mạng lên những người
hít khói thụ động xung quanh.Vì thế theo thống kê của Bộ Y tế,hậu quả của tệ nạn hút
thuốc thật khủng khiếp:số người chết do hút thuốc và hít phải khói thuốc lá nhiều hơn
tai nạn giao thông và thiệt hại của nhà nước hàng năm lên đến trên một ngàn tỉ
đồng.Như vậy thuốc lá đã đe doạ sức khoẻ và tính mạng nhân dân nước ta và loài
người như một thứ ôn dịch,hơn cả HIV/AIDS
II/Bài làm phải có đƣợc các ý cơ bản sau
1. Vì sao nhiều người nghiện thuốc lá
2. Tác hại của thuốc lá và hậu quả của nó như một thứ ôn dịch,còn nguy
hiểm hơn cả AIDS
3. Giải pháp ngăn chặn và thái độc của chúng ta
III/Phƣơng pháp nghị luận
Sử dụng hỗn hợp các thao tác nghị luận:giải thích,chứng minh,bình luận
BÀI LÀM THAM KHẢO
I/Mở bài
Nhưng người nghiện thuốc lá, mỗi lần nhả làn khói trắng và mơ màng nhìn theo,
cảm thấy tâm hồn sảng khoải lâng lâng. Nhưng hỡi ôi! Nào có biết đâu những giây
phút lâng lâng ấy đang nâng dần nguy cơ bệnh tật,đe doạ tính mạng của mình lên một
mức cao hơn bởi hút thuốc lá “rất có hại cho sức khoẻ”.Bởi vậy các nhà y học đã
khẩn thiết lên tiếng báo động :“Ôn dịch thuốc lá đe doạ sức khoẻ và tính mạng loài
ngƣời hơn cả AIDS”(Nguyễn Khắc Viện)
II/Thân bài
1)Vì sao nhiều ngƣời nghiện thuốc lá?
Theo các nhà y học trong thuốc lá có một số chất gây nghiện ,nhất là chất
Nicôtin có thể gây nghiện ,nhiều hơn là Cafein hoặc Cocain làm người hút cảm thấy
hưng phấn. Vì thế điếu thuốc lá đã trở thành người bạn quan trọng của nhiều người,
đặc biệt là thanh niên. Hút thuốc khi suy nghĩ,hút thuốc khi tâm tư buồn phiền, thần
kinh căng thẳng hoặc là hút vì xã giao, hút để chứng tỏ sức mạnh nam giới và mình là
người “sành điệu”, hoặc hút theo thói quen... Thế là mưa dầm thấm lâu, dần dần hút
thuốc lá trở thành nghiện, bất chấp trong khói thuốc ấn chứa biết bao điều độc hại đối
với sức khoẻ con người.
299
2)Tác hại của thuốc lá và hậu quả của nó nhƣ một thứ ôn dịch còn nguy
hiểm hơn AIDS.
Theo tổ chức y tế thế giới WHO, hỗn hợp của khói và bụi của khói thuốc có
chứa đến 4.000 chất hoá học. Trong đó có đến 40 loại chất độc gây tổn thương khắp
các phủ tạng mà nặng nhất là phổi làm cho tăng nguy cơ bị ung thư, đồng nghĩa cái
chết thảm thương rất cao. Và điều đặc biệt nguy hại đó là khói thuốc không chỉ ảnh
hưởng trực tiếp đến người chủ động hút thuốc mà còn tác động mạnh lên những người
hút khói thụ động xung quanh. Nhiều thước phim phóng sự về cảnh những chàng
thanh niên vốn khoẻ mạnh mà chỉ vì nhiễm độc khói thuốc của những ông bố nghiện
thuốc lá, nay đang phải vật lộn với căn bệnh hiểm nghèo (ung thư), chỉ còn da bọc
xương, hấp hối thở, từng phút, từng giờ chờ thần chết dẫn về thế giới bên kia, thật
không ai cầm được nước mắt. Là người nghiện thuốc lá, đã bao giờ bạn lim dim mắt
ngắm nhìn những vòng khói trắng từ từ bay ra từ miệng bạn chưa? Những vòng khói
trắng ấy chẳng khác nào những vòng tang cuộc đời bạn và người thân của bạn một
ngày không xa nữa đấy, nếu bạn vẫn còn đang đắm mình vào những phút đê mê,mơ
màng như thế! Hút thuốc là độc hại,nguy hiểm vô cùng và để lại những hậu quả khôn
lường. Theo thống kê của Bộ Y tế, ở nước ta mỗi năm có hơn 10.000 người chết vì hút
thuốc lá và gần 400.000 bị chết vì vì hít phải khỏi thúôc lá. Như vậy là con số người
chết vì thuốc lá còn nhiều hơn chết vì tai nạn giao thông. Chưa kể nhà nước phải tiêu
tốn hơn 1000 tỉ đồng bằng 1% GDP quốc gia. Thật là một con số biết nói và rất đang
sợ phải không bạn? Quả đúng như bác sĩ, nhà văn hoá Nguyễn Khắc Viện đã khẳng
đinh : “Ôn dịch thuốc lá đe doạ sức khoẻ và tính mạng loài ngƣời hơn cả AIDS”.
3)Giải pháp ngăn chặn và thái độ của chúng ta.
Trước thảm hoạ thuốc lá như một thứ ôn dịch, chúng ta hãy cùng nhau chung
tay ngăn chặn nó lại. Trước hết chính quyền, Nhà nước phải có biện pháp mạnh tay
như phạt thật nặng những người hút thuốc nơi công sở, trường học, bệnh viện như các
nước văn minh đã làm; Hãy đánh thuế thuốc lá thật cao. Phát khẩu hiệu, tờ rơi, tư liệu
chống thuốc lá; sản xuất những loại kẹo hoặc thuốc lá giả giúp người nghiện thuốc cai
nghiện. Còn bản thân mỗi chúng ta, nhất là những thanh niên, tuổi trẻ học đường phải
kiên quyết nói không với thuốc lá để phấn đấu cho một xã hội không còn khói thuốc.
III/Kết luận
Nếu làm được như thế, hẳn con cháu chúng ta đã rất tự hào và sung sướng mà
nói rằng:“ Giờ đây tất cả đã là vui,tất cả đã không còn thuốc lá”.
Đề 7b: Trong thư gửi thầy hiệu trưởng của con mình, Tổng Thống Mĩ A.Lin – Cơn
(1809 – 1865) viết “Xin thầy hãy dạy cho cháu biết chấp nhận thi rớt còn vinh dự
hơn gian lận khi thi” (Theo Ngữ văn 10 - tập 2, trang 135)
Từ ý kiến trên, anh (chị) hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 600 từ) trình bày
suy nghĩ của mình về đức tính trung thực trong khi thi và trong cuộc sống.
Mở bài :
“ Yêu gì nhƣ thể yêu con” (ca dao) - Tình yêu con là một trong những tình cảm
cao quý thiêng liêng và tha thiết nhất của con người. Nhưng không vì quá yêu con mà
300
để cho con gian lận, thiếu trung thực trong thi cử. Vì cao hơn cả tình yêu con là đức
tính trung thực, một phẩm chất quan trong để xác định tư cách làm người. Đó là suy
nghĩ của những con người chân chính và cũng là suy nghĩ của Tổng thống A.Lin –
Côn (1809 – 1865), vị anh hùng của nước Mỹ, người khai sáng của nền minh Hoa Kỳ.
Trong bức thư gửi thầy Hiệu trưởng của con trai mình, ông đã viết “Xin thầy hãy dạy
cho cháu biết chấp nhận thi rớt còn vinh dự hơn gian lận khi thi? (Ngữ văn 10 - tập 2
– trang 135)
Y 1. Giải thích ý kiến của tổng thốngs Mĩ A – Lin – Côn
Nội dung trực tiếp của lời nói A . Lin – Côn là muốn khẳng định : Chấp nhận
thi rớt một cách trung thực còn vinh dự hơn là thi đỗ mà nhờ gian dối với những thủ
pháp ma mãnh. Thực chất của ý kiến này là đề cao tính trung thực của con người, một
phẩm chất, đức tính rất quan trọng để làm người.
Y2. Bàn luận về trung thực trong thi và trong cuộc sống
a-Trong khi thi: Tính trung thực của con người được biểu hiện mọi lúc, mọi nơi.
Nhất là trong thi cử, tính trung thực lại càng quan trọng, vì thi là cuộc chọn lựa một
cách công minh những người có năng lực, có trình độ, có tài năng và đó cũng là cuộc
thử thách đánh giá năng lực, trình độ học vấn, kiến thức của mỗi thí sinh, mỗi con
người. Và người trung thực trong thi cử là phải làm bài bằng thực lực và chấp hành
nghiêm chỉnh những quy chế của mỗi kỳ thi, theo đó, cũng chỉ chấp nhận đỗ đạt bằng
thực chất của mình theo những tiêu chí và quy định của kỳ thi ấy. Còn gian lận là làm
mọi cách, kể cả quay cóp, ăn cắp bài của bạn, ăn cắp tài liệu hay ăn cắp kết quả của
người khác, để nhằm đỗ bằng được, mà không cần đến thực chất, kiến thức, học vấn,
trình độ, năng lực của mình.
Người trung thực phải là người biết rõ : Trung thực trong khi thi, dù rớt, dù
trượt vẫn vinh dự hơn nhờ gian lận. Với tư cách của một thí sinh, trung thực trong khi
thi là điều quan trọng hơn cả. Trước vấn nạn “học giả bằng thật”, quay cóp, sao chép
hoặc thầy giáo làm bài hộ, để chạy theo thành tích giả tạo diễn ra khá phổ biến những
năm gần đây ở nước ta, Bộ giáo dục và Đào tạo đã ban hành một chủ trương vừa hợp
với đạo lý, vừa hợp với nhân tâm. Đó là “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh
thành tích trong giáo dục” Chính chủ trương sáng suốt đó đang từng bước ngăn chặn
được những hiện tượng làm nhức nhối lương tri những người chân chính. Đấy là hiện
tượng “Ngồi nhầm lớp”, Tiến sĩ giấy”, “Thạc sĩ giấy”... sẽ gây ra những hậu quả
khôn lường cho tương lai nền giáo dục và tương lai đất nước, đặc biệt là trong thời đại
hội nhập, nền kinh tế cơ bản là nền kinh tế tri thức, đòi hỏi người lao động phải có
trình độ hiểu biết vừa chuyên sâu, vừa hiện đại.
b. Trong cuộc sống.
Nếu như trong thi cử, với tư cách một thí sinh tính trung thực vốn đã quan trọng
thì trong cuộc sống hàng ngày, với tư cách một con người, giữa những quan hệ chằng
chịt, đa đạng và phức tạp giữa người với người, tính trung thực lại càng trở nên quan
trọng gấp bội. Trung thực trong cuộc sống là coi trọng thực chất, luôn thành thực với
mình, với người, không chấp nhận gian dối, bịp bợm trong bất kỳ mối quan hệ nào,
công việc nào. Trung thực trở thành một phẩm chất cao đẹp làm nên nhân cách con
ngƣời và là đức tính cần thiết cho cuộc sống, góp phần tích cực thúc đẩy tiến độ xã hội.
Sống trung thực là một niềm hạnh phúc cao quý, lương tâm luôn thanh thản, yên tĩnh
và luôn được mọi người tin yêu, quý trọng.
Ngược lại, thiếu trung thực là làm những điều gian dối, khuất tất, vì một động
cơ không mấy trong sáng và cao thượng. Thiếu trung thực không chỉ biến con người
301
thành đê tiện, « khốn nạn » mà còn khiến cho cuộc sống lâm vào tình trạng thực giả
bất phân, thiện ác, ngay gian lẫn lộn. Sống trung thực không phải lúc nào cũng dễ dàng,
nhưng không trung thực sẽ là một người thiếu nhân cách, thiếu lòng tự trọng .Nhưng
có một thực tế đáng buồn là những kẻ gian dối thiếu trung thực lại thường được nguỵ
trang bằng một gương mặt dễ coi, thậm chí là gây cho người ta cảm tưởng đó là con
người tử tế và trung hậu. Vì muốn lừa đời phải mang gương mặt của đời. Vũ Trọng
Phụng gọi sự dối trá bịp bợm của những kẻ “khẩu phật tâm xà” và “Tinh quái, thạo
đời” như thế là « chó đểu » và “khốn nạn”. Sự không trung thực ở những con người
thiếu trí tuệ mà thừa chất "tinh quái", vì hám danh hám lợi dễ trở thành kẻ lưu manh,
ranh ma, sẵn sàng chơi trò Mafia trong cuộc sống một cách liều lĩnh, trắng trợn và đểu
cáng. Sự không trung thực có thể gây ra nhiều nguy hại cho xã hội…Những công trình
kiến trúc độ sộ, những chiếc cầu, những con đường giao thông… mau chóng xuống
cấp, thậm chí xây trước đổ sau, chẳng phải là hậu quả của thói làm ăn giả dối, thiếu
trung thực đó sao?
Hẳn chúng ta ai cũng đã được đọc “Số đỏ”, một kiệt tác của Vũ Trọng Phụng.
Sở dĩ tác phẩm trở thành kiệt tác được độc giả Mỹ xếp vào loại 7 kiệt tác của nhân loại,
vì ngoài nghệ thuật trào phóng bậc thầy, Vũ Trọng Phụng đã vạch ra và lên án một nét
bản chất xấu xa, đê tiện nhất của con người. Đó là sự dối trá, bịp bợm và « tinh quái »
mà điển hình là Xuân Tóc Đỏ. Dưới ngòi bút thiên tài của họ Vũ, Xuân Tóc Đỏ hiện
lên như một thứ vi khuẩn - người. Nó nhập vào môi trường xã hội nào, thì xã hội đó
chẳng những không sai khiến, điều khiển được nó, mà ngược lại, còn bị nó đầu độc,
làm cho tha hoá, ô nhiễm dần.
3. Bài học nhận thức và hành động
Vì vậy bản thân mỗi chúng ta cần nhận thức sâu sắc trung thực là một giá trị
làm nên nhân cách. Ngay cả khi phải đối diện với thất bại, thua thiệt vẫn cần sống cho
trung thực.
Kết luận: Đồng thời chúng ta cũng không ngừng tu dưỡng để có được phẩm
chất trung thực, mà hành động cụ thể lúc này chính là trung thực trong khi thi, cần
khẳng định và bảo vệ sự trung thực, kiên quyết đấu tranh với mọi hiện tượng thiếu
trung thực đang tồn tại khá phổ biến trong xã hội.
Đề 8b: Nạn bạo hành trẻ em và phụ nữ
A. HƢỚNG DẪN LÀM BÀI
Đề này cần:
1. Giải thích thế nào là bạo hành. Bản chất của bạo hành phụ nữ và trẻ em.
2. Thực trạng bạo hành phụ nữ và trẻ em ở nước ta. Hậu quả của nó.
3. Thái độ và trách nhiệm của chúng ta trước tình trạng bạo hành phụ nữ và trẻ
em.
- Lên án mọi hành động bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em.
Trẻ em là tương lai của đất nước. "Tất cả những gì tốt đẹp nhất là phải giành
cho trẻ em". Dù bạo hành trong gia đình hay bạo hành ngoài xã hội, do nguyên nhân
khách quan hay chủ quan, đều không thể chấp nhận được.
Bạo hành với phụ nữ là xúc phạm, làm tổn thương đến tượng đài mà mọi người
đều biết ơn: Người mẹ.
302
- Bản thân mỗi người chúng ta phải tu dưỡng rèn luyện để trong bất kì hoàn
cảnh nào cũng không có hành vi bạo lực với phụ nữ và trẻ em.
- Sống có tình thương yêu với trẻ em và hiếu thảo với mẹ.
B. BÀI LÀM THAM KHẢO
Mở bài: Ngày nay, chúng ta đang bước vào kỷ nguyên phấn đấu cho một chế độ công
bằng và văn minh, dân chủ và giầu mạnh. Ấy thế mà trong xã hội vẫn tồn tại một hiện
tượng làm nhức nhối trái tim và lương tri của những người lương thiện. Đó là hiện
tượng bạo hành trẻ em và phụ nữ. Vậy thế nào là bạo hành, hậu quả của nó và thái độ,
trách nhiệm của chúng ta ra sao trước vấn nạn này?
Thân bài:
1. Thế nào là bạo hành? Đó là hành động và lời nói có tính chất vũ phu, bạo
ngược, thậm chí là độc ác như lăng mạ, đay nghiến, xỉ vả, xúc phạm, chà đạp, đánh
đập, tra tấn… bất chấp pháp luật, đạo lý, làm tổn thương thể xác và tinh thần của
người khác.
2.Thực trạng bạo hành trẻ em trong xã hội
Vừa qua, những phương tiện thông tin đại chúng đã gay gắt lên án những vụ
bạo hành trẻ em xảy ra ở các địa phương trong cả nước, ở các môi trường sống khác
nhau: Trong gia đình, trong các quán ăn và cả trong học đường. Chắc hẳn trong chúng
ta không ai không biết và chưa quên trường hợp thật đau lòng của cháu Đan Trân,
trường mầm non Thiên Thơ, bị cô bảo mẫu Lê Vi, vì muốn cháu ngừng khóc mà dán
băng keo vào miệng và dẫn đến cái chết bi thương. Và còn đây là một câu chuyện làm
bàng hoàng mọi người. Bé Hảo mới 4 tuổi đã bị ngay người mẹ “đứt ruột” đẻ ra mình
bạo hành. Thấy con nghịch tờ tiền, bà mẹ đã dùng kéo cắt ngón tay để “Cảnh cáo”,
một lần bé Hảo không may trèo cây bị ngã. Trước sự việc đó, bà mẹ chẳng những
không cứu con, mà thậm chí còn có một hành động tàn ác hơn cả dã thú. Dùng dao
phạt đứt gót chân con. Hậu quả là bé Hảo bị mất 41% sức khoẻ, trên mình đầy rẫy vết
thương và phải sống như một người tàn phế. Còn đây là cô bảo mẫu Quản Thị Kim
Hoa ở Biên Hoà, Đồng Nai đã dùng bạo lực đánh đập, tát, vả… những đứa trẻ còn rất
non yếu do bà ta trông giữ, đến độ bà phải lãnh án tù. Và ở trường nọ, có một thầy
giáo dạy ngoại ngữ thấy học sinh mình học quá kém, thầy không hề tìm hiểu hoàn
cảnh gia đình em vô cùng éo le, nhà nghèo, bố đạp xích lô, mẹ đi bán vé chui, một
mình em gánh trên vai việc chăm sóc ba em nhỏ, nên việc học tập đã bị sa sút, để mà
thông cảm và tìm cách giúp đỡ. Đằng này, thầy lại buông lời xỉ vả, xúc phạm: “Ba
mày ngu, mẹ mày ngu nên sinh ra mày ngu vậy đó”. Chưa hết, thầy còn lăng mạ, ấn
dùi đầu em học sinh ấy để cả lớp cười chê về “tấm gƣơng” “xấu” này. Hình thức bạo
hành trong nhà trường còn có nhiều biểu hiện, thiên hình vạn trạng như cô giáo bắt học
sinh liếm ghế, thầy giáo đẩy học sinh ngã bị chấn thương, cô giáo cho cả lớp tát học
sinh đến nỗi em bị thương nặng phải đi viện v.v. .. Ấy là những việc “nổi tiếng”, vì
hậu quả nghiêm trọng gây thương tích, chết người nên công luận lên tiếng và mọi
người mới biết. Còn những kiểu bạo hành âm thầm “hành” mà không “bạo” như
mắng nhiếc, doạ dẫm, “khủng bố” tinh thần và thể xác, không để lại dấu vết, không
nhìn thấy bằng mắt, sờ được bằng tay đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ trên đất nước
ta, thì ai mà thống kê hết được?
3. Thực trạng bạo hành phụ nữ trong xã hội
303
Cùng với việc bạo hành trẻ em, là bạo hành phụ nữ vẫn diễn ra trên khắp mọi
miền đất nước và ngày một gia tăng, khá nghiêm trọng. Đó là hiện tượng người vợ bị
chồng đánh đập, bị sỉ nhục, đe doạ, hoặc bị bỏ mặc không quan tâm, hoặc bị chồng
cấm đoán tham gia các hoạt động xã hội… hoặc bị chồng ép phải sinh con theo ý
muốn của mình v.v… Ta hãy nghe phóng viên Nguyễn Huy (báo Thể thao – văn hoá)
kể “Gần chục năm nay, căn nhà nhỏ phường Mân Thái (Đà Nẵng) của gia đình chị D
đã xảy ra những trận đánh đập, chửi rủa của chồng sau những cơn say… cứ rượu vào
là chẳng biết vợ con gì hết. Hết đánh vợ conthì lại rầm rầm chửi bới. Không chỉ nhà
chị chịu khổ, mà bà con lối xóm cũng khó chịu vì tình trạng mất trật tự”. Và đây là
những dòng nhật ký của một đứa con viết về tình trạng người bố vũ phu đánh đập,
hành hạ mẹ mình “Nhìn cái thân xác gầy còm, tàn tạ của mẹ mà tôi thấy đau lòng…
Đầu óc tôi luôn kinh hãi ám ảnh bởi cách hành hạ của bố. Không chỉ hành hạ mẹ bằng
kiểu “Thƣợng cẳng tay, hạ cẳng chân”, mà bố tôi còn bạo hành mẹ tôi cả tinh thần
bằng những lời nhục mạ, chửi rủa. Giờ trong đầu tôi vẫn còn nhớ như in bữa cơm hôm
trước..
-Rượu ông đâu?
-Bố à! Hôm nay mẹ không đi chợ, không có rượu đâu bố ạ!
Thế là một trận đòn bắt đầu, một cuộc chiến tranh mà ba mẹ con tôi trở thành
nạn nhân, trở thành đối thủ không cân sức.Bom đạn là những cái bát, cái xoong, cái
nồi tan tành ngoài sân. “Tên phát xít” phủ xuống đầu người đàn bà khốn khổ cả chửi,
cả đánh, cả đấm. Nhưng “Phát xít” chửi mà không biết tiếng bản địa còn đỡ đau.
Đằng này, bố tôi là “Tên phát xít” nói được cả tiếng bản địa, tiếng của con người để
lăng mạ, xỉ nhục mẹ tôi” (theo Nguyễn Thị Hoa lớp 12B1 - Quỳnh Lưu - Nghệ An):
Điều đáng buồn là nạn bạo hành phụ nữ cũng đã để lại những hậu quả khủng khiếp.
Người phụ nữ không chỉ bị sang chấn rất mạnh mẽ về tâm lý, mà còn bị đau đớn, tổn
thương về thể xác. Có nhiều người bị gẫy tay, gẫy chân, thâm tím mặt mày thân thể,
thậm chí bị thương tật suốt đời. Ấy thế mà theo thống kê của ông Nguyễn Bá Sơn,
Giám đốc Sở tư pháp Đã Nẵng, nạn bạo hành trên thành phố đang gia tăng, trung bình
mỗi năm có đến 600 vụ án liên quan đến bạo lực gia đình. Hầu hết nạn nhân (90%) là
phụ nữ: Thật là những con số biết nói.
4. Bình luận: Bản chất của nạn bạo hành trẻ em, phụ nữ, hậu quả của nó và
thái độ, trách nhiệm của mỗi chúng ta trƣớc vấn nạn này.
Bạo hành là một hành động xấu xa cần phải lên án.
a. Bác Hồ đã từng viết “Trẻ em … là bầy con cƣng”..”. Trẻ em nhƣ búp trên
cành, biết ăn ngủ. Biết học hành là ngoan” . Thế mà có những búp non không những
bị vùi dập một cách thô bạo, phũ phàng, mà còn bị rẻ rúng, khinh thường. Những
người bạo hành con cái, trẻ em là những người không yêu con, không yêu trẻ và có
cách giáo dục thiếu tình thương.“Phụ tử tình thâm” “Hổ báo cũng không ăn thịt
con” ; “Bầu ơi thƣơng lấy bì cùng…”, mà nỡ đối xử với con thơ, trẻ thơ như thế sao?
Những đứa trẻ thường xuyên bị bạo hành sẽ có các di chứng như nhiễu tâm lý, trầm
cảm, sợ hãi, mất ngủ, thiếu tự tin, thất vọng và hay gây hấn. Đặc biệt ở nhiều gia đình
thế hệ con, đã lặp lại hành vi bạo lực gia đình mà khi nhỏ nó được chứng kiến. Theo số
liệu điều tra của Uỷ ban dân số gia đình và trẻ em, có đến 80% em bỏ nhà hoặc phạm
pháp là do hậu quả của nạn bạo hành.
b. Nạn bạo hành đối với phụ nữ là những hành động cũng rất cần kịp thời được
lên án và loại trừ ra khỏi đời sống xã hội. Vì sự bạo hành phụ nữ là sự xúc phạm, làm
tổn thương nghiêm trọng đến một tượng đài mà mọi người trên thế gian này đều phải
304
biết ơn: Người Mẹ, người đã đưa lại cho ta tất cả sự sống, nuôi dạy ta lớn khôn, người
đã đươc Bác Hồ trân trọng tặng cho 8 chữ vàng “Anh hùng - Bất khuất – Trung hậu -
Đảm đang”
c. Bạo hành trong gia đình gây ra mối bất hoà và ảnh hưởng lớn tới sự bền vững
của gia đình và xã hội. Còn bạo hành ngoài xã hội thì ảnh hưởng tới tâm lý, nhận thức,
ứng xử của con người.
d. Dù bởi nguyên nhân khách quan hay chủ quan, do áp lực của cuộc sống, do
đói nghèo, do say rượu thiếu tỉnh táo… hay gì đi nữa, thì hành động bạo hành cũng là
hành động của những con người gần như mất hết lương tri, suy đồi về đạo đức, tha hoá
về nhân cách và đi ngược lại truyền thống đạo lý yêu thương nhân ái “Thƣơng ngƣời
nhƣ thể thƣơng thân” vốn rất đẹp và quý báu của dân tộc ta.
Kết luận: Việt Nam ta là nước đâu tiên ở Châu Á đã ký kết công ước về đảm bảo quyền
trẻ em. Chúng ta hãy nỗ lực thực hiện bằng được cam kết ấy. Và pháp luật, báo chí,
toàn xã hội phải góp sức, chung tay cùng lên án hành vi bạo hành trẻ em và phụ nữ để
có thể mang lại sự bình yên cho gia đình và xã hội, làm cho mọi người được sống
trong yêu thương đùm bọc lẫn nhau. Đúng như điều mà Tố Hữu đã từng mơ ước “Có
gì đẹp trên đời hơn thế! Ngƣời yêu ngƣời, sống để yêu nhau”; “Đảng cho ta trái tim
giàu”, Thẳng lƣng mà bƣớc, ngẩng đầu mà bay”.
Đề số 9b: Suy nghĩ về tình trạng nguồn nƣớc sạch ngày càng khan hiếm
A. HƢỚNG DẪN LÀM BÀI
1. Giải thích
- Nước sạch là một phần tất yếu của cuộc sống, là không thể thiếu được để nuôi
sống muôn loài và phát triển sản xuất. Nước sạch là nguồn tài nguyên quý hiếm.
- Nước sạch ngày càng khan hiếm do dân số tăng nhanh và kinh tế phát triển.
Nước sạch bị khai thác sử dụng quá mức nước tự phục hồi được và ô nhiễm môi
trường nước do rác thải từ sản xuất và sinh hoạt của dân cư.
- Nước sạch ngày càng khan hiếm đe dọa nghiêm trọng đời sống con người và
đang có những hậu quả nghiêm trọng. Theo tài liệu của Liên Hợp Quốc, hiện nay có
một phần sáu nhân lọa ( hơn 1,2 tỷ người) không được dùng nước sạch, hơn hai triệu
người ( phần lớn là trẻ em, phụ nữ ) chết hàng năm do các bệnh liên quan đến sự thiếu
hụt nguồn nước sạch.
- Xã hội ( Nhà nước và nhân dân, các doanh nghiệp và đoàn thể xã hội ) phải
tìm mọi biện pháp sử dụng tiết kiệm nước, bảo vệ nguồn nước khỏi bị ô nhiễm
2. Bàn luận
- Hiện nay, nhiều người vẫn cho rằng nguồn nước sạch là trời cho, là vô tận.
Nhận thức chưa đầy đủ vai trò của nguồn nước sạch và sự khan hiếm ngày càng tăng
của nước sạch làm cho nhiều người chưa có ý thức sử dụng nước sạch tiết kiệm và ý
thức bảo vệ nguồn nước sạch.
- Nguồn nước sạch ngày càng khan hiếm không chỉ gây ra bệnh tật của con
người mà còn hạn chế sự tăng trưởng kinh tế. Trong tương lai, loài người có thể đánh
305
nhau, gây ra chiến tranh do tranh chấp nguồn nước. Bảo vệ nguồn nước sạch, sáng tạo
các công nghệ máy móc tái tạo nguồn nước sạch là nhiệm vụ cấp bách của loài người.
- Nhà nước cần có kế hoạch và biện pháp quản lý sử dụng nguồn nước một cách
có hiệu quả, lâu dài. Kết hợp quy hoạch sử dụng nước với quy hoạch phát triển đô thị,
sản xuất phải trên cơ sở công nghệ cao và sạch, bảo vệ nguồn nước.
3 .Liên hệ
- Trong quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ ở nước ta,
mọi người phải có nhận thức đầy đủ về vai trò quyết định của nguồn nước sạch tới sự
tồn tại và phát triển của loài người.
- Từ nhận thức biến thành hành động, mọi người trong sinh hoạt và sản xuất
phải thiết thực có hành động tiết kiệm nước sạch và bảo vệ nguồn nước, chống lại
việc làm bẩn môi trường nước.
- Bản thân có ý thức và tuyên truyền người thân tiết kiệm nước, bảo vệ nguồn
nước sạch.
B. BÀI LÀM THAM KHẢO
Đề : Suy nghĩ về tình trạng nguồn nƣớc sạch ngày càng khan hiếm
Mở bài:
Thế giới đang báo động về nguồn nước sạch đang vơi cạn, “Loài người sẽ chiến
tranh về nước sạch”. Chúng ta suy nghĩ gì trước tình trạng đó?
Thân bài
1. Nguồn nƣớc sạch là tài nguyên quý hiếm
Có thể mọi động vật và thực vật có tỷ lệ lớn là nước. Không còn nước, Trái Đất
chỉ còn là sa mạc. Nước sạch có vai trò to lớn, không thể thiếu được đối với sự tồn tại
và phát triển loài người.
Nước sạch là tài nguyên quý hiếm. Nhưng tại sao nó lại đang vơi cạn?
Nước sạch tuần hoàn trong tự nhiên, bốc hơi, thành mây mù và mưa xuống. Thế
nhưng, lượng nước sạch mà con người sử dụng đã vượt quá mức tái tạo của tự nhiên.
Một bộ phận nguồn nước sạch ở sông hồ, và ngầm trong lòng đất bị con người gây ô
nhiễm, không còn là nước sạch và không sử dụng được cho cuộc sống loài người. Dân
số tăng nhanh, thành thị hóa công nghiệp hóa làm cho lượng nước được sử dụng quá
lớn. Chất thải công nghiệp và sinh hoạt chưa xử lý được hết tràn ngập mọi nơi và gây
ô nhiễm nước bề mặt Trái Đất, nước ngầm và cả hơi nước trong không khí. Tình trạng
mưa axit xảy ra ở nhiều nơi càng làm cho tình trạng ô nhiễm nguồn nước sạch ngày
càng trầm trọng
Chúng ta phải nhận thức đầy đủ vai trò của nguồn nước sạch, về tinh trạng ô
nhiễm nói chung và ô nhiễm nguồn nước sạch nói riêng. Tự nhận thức, chúng ta sẽ có
hành động phù hợp, càng ra sức bảo vệ nguồn nước sạch, sử dụng nước tiết kiệm và
phát triển nguồn nước sạch, đáp ứng đầy đủ nhu cầu ngày càng tăng của loài người,
không làm cạn kiệt nguồn nước sạch cho các thế hệ tương lai.
2. Phải hành động để bảo tồn nguồn nƣớc sạch cho nhân loại.
Liên Hợp Quốc và các tổ chức quốc tế phải có chương trình mục tiêu toàn cầu
giữ gìn nguồn nước của thế giới. Tăng cường hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường.
Nhà nước và cộng đồng dân cư, doanh nghiệp hợp lực tạo sức mạnh toàn xã hội
bảo vệ nguồn nước, dòng sông bằng nhiều biện pháp như xây dựng cải tạo xử lý nước
306
thải, sử dụng công nghệ cao, sạch, thân thiện môi trường trong sản xuất. Vừa kêu gọi
toàn dân nâng cao ý thức bảo vệ môi trường trong sản xuất. Vừa kêu gọi toàn dân nâng
cao ý thức bảo vệ môi trường, vừa có biện pháp quản lý chặt chẽ, thanh tra kiểm soát
việc xử lý chất thải, tổ chức tốt công tác thu gom xử lý chất thải, vệ sinh đường phố,
làng xóm “ Xanh, sạch, đẹp”. Không để tái diễn thảm cảnh công ty Vedan đầu độc
sông Thị Vải, gây thiệt hại cho nông dân nuôi cá hàng trăm tỷ đồng và nhiều thiệt hại
quanh thủ đô Hà Nội, hệ thống sông Cầu, sông Đáy, sông Nhuệ đang bị ô nhiễm nặng.
Liệu chúng ta có cứu vãn được các dòng sông khỏi chết ngạt ?
Mỗi người dân phải ý thức được vai trò vô cùng to lớn của nguồn nước sạch và
tình trạng ngày càng khan hiếm của nó. Chúng ta phải hành động ngay ngày hôm nay
để bảo vệ các dòng sông, cánh rừng, nguồn nước sạch cho nhân loại và các thế hệ con
cháu tương lại. Bản thân em sẽ sử dụng nước tiết kiệm và giữ gìn cho môi trường sống
xanh, sạch, đẹp, hành động thiết thực để giữ gìn nguồn nước sạch đang với cạn.
Trồng cây, gây rừng, bảo vệ các cánh rừng là một trong những biện pháp rất
quan trọng để nuôi dưỡng các dòng sông, bảo vệ nguồn nước sạch. Giữ gìn môi trường
sống xung quanh chúng ta “ Xanh, sạch, đẹp” cùng biện pháp thiết thực bảo vệ ao hồ,
sông, suối, kênh, rạch dồi dào lượng nước sạch, tránh cả làm vẩn đục bầu trời, tránh
tạo thành mưa axit từ trên trời rơi xuống. Chúng ta có thể tự làm chủ tương lai của loài
người bằng chung tay, chung sức, chung lòng bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn nước
sạch nuôi sống chúng ta. Mỗi người dân phải nêu cao ý thức trách nhiệm với cộng
đồng với xã hội bằng lối sống khoa học, văn mình, tiết kiệm nước và năng lượng, bảo
vệ nguồn nước sạch và bảo vệ môi trường.
3. Tuyên truyền giáo dục và lên án các hành động ô nhiễm môi trƣờng, phá
hoại nguồn nƣớc.
Xã hội phải tuyên truyền, giáo dục công dân, đặc biệt là thế hệ trẻ, có ý thức và
hành động bảo vệ nguồn nước sạch, bảo vệ môi trường.
Xã hội phải lên án bọn người phá hoại nguồn nước sạch như bọn “lâm tặc” phá
hoại không gian nuôi dưỡng nguồn nước sạch, bọn người vì lợi ích cá nhân mà đổ chất
thải độc hại ra các con sông. Nông dân cũng phải hạn chế sử dụng thuốc bảo vệ thực
vật, chất bảo quản nông sản để sản xuất nông nghiệp ít ảnh hướng tới các nguồn nước
sạch.
Kết luận
Mọi người hãy có ý thức và hành động thiết thực bảo vệ nguồn nước sạch đang
ngày càng vơi cạn.
Đề số 10b: Làm gì để môi trƣờng sống của chúng ta ngày càng xanh sạch đẹp.
A. HƢỚNG DẪN LÀM BÀI
Môi trường sống là các yếu tố vật chất trong không gian mà chúng ta sinh sống,
bao gồm đất đai, không khí, nước sạch, nhà cửa, đường phố, nhà máy…. ở xung quang.
Môi trường sống ngày nay đang bị ô nhiễm bởi dân số tăng nhanh và hoạt động
kinh tế làm tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức và rác thải ngày càng nhiều,
quá mức độ có thể tự đào thải và cân bằng của tự nhiên.
307
Bảo vệ môi trường sống , nói một cách hình ảnh là làm cho môi trường sống
của chúng ta ngày càng xanh, sạch, đẹp là nhiệm vụ cấp thiết hiện nay ở nước ta cũng
như ở mọi nơi trên thế giới.
Mỗi người phải nhận thức đầy đủ vai trò của bảo vệ môi trường sống và từ
nhận thức đó có hành động đúng đắn, phù hợp bảo vệ môi trường sống. Công tác giáo
dục tuyên truyền về bảo vệ môi trường sống ngày càng xanh, sạch, đẹp là rất quan
trọng.
Mỗi người và cả xã hội hàng năm tham gia tích cực phong trào trồng cây gây
rừng.
Sử dụng tiết kiệm nước sạch, và có ý thức bảo vệ nguồn nước.
Xây dựng nếp sống văn minh, sạch sẽ, không khạc nhổ, vứt rác bừa bãi ra
đường. Làm vệ sinh thường xuyên để bàn thân và nhà cửa, nơi ở được sạch sẽ thông
thoáng.
Nhà nước có quy hoạch đô thị, phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường
theo phương châm phát triển bền vững, sử dụng và khai thác hợp lý tài nguyên để tồn
tại lâu dài, môi trường sống càng càng xanh, sạch đẹp.
B. BÀI LÀM THAM KHẢO
Đề : Làm gì để môi trƣờng sống của chúng ta ngày càng xanh sạch đẹp.
Mở bài:
Làm cho môi trường sống của chúng ta ngày càng xanh, sạch, đẹp là nhiệm vụ
vừa cấp bách, vừa lâu dài, ở nước ta cũng như cả thế giới hiện nay.Tại sao lại như vậy
và chúng ta phải làm gì để cho môi trường sống của chúng ta ngày càng xanh, sạch,
đẹp.
Thân bài:
1. Môi trƣờng sống là gì?
Môi trường sống gồm đất đai, không khí, nước sạch, nhà , vườn, đường xá,
sông biển, ao hồ, nhà máy… ở xung quanh chúng ta.
Môi trường sống đang bị ô nhiễm nghiêm trọng bởi chất thải các loại do sinh
hoạt của dân cư và sản xuất công nghiệp, nông nghiệp. Tài nguyên khoáng sản, rừng
núi, nước ngầm, hải sản, sông ngòi bị khai thác quá mức tái tạo, rác thải ngày càng
nhiều, quá mức chịu đựng, quá mức độ có thể tự đào thải và cân bằng của tự nhiên.
2. Bảo vệ rừng, tham gia và xử lý rác thải.
Bảo vệ rừng, đặc biệt là các khu rừng nguyên sinh, rừng phòng hộ, rừng đầu
nguồn, phủ xanh đất trống đồi trọc, trồng thêm cây xanh ở thành thị sẽ làm cho môi
trường sống của chúng ta sẽ ngày cành xanh hơn.
Các thành thị làm tốt công tác thu gom rác thải và xử lý triệt để, khoa học, sản
xuất dựa trên công nghệ sạch, công nghệ cao thân thiện môi trường sẽ làm cho môi
trường sống của chúng ta ngày càng xanh, sạch, đẹp.
3. Bảo vệ các dòng sông.
Tài nguyên nước sạch đang khan hiếm do khai thác sử dụng quá nhiêu và các
dòng sông bị ô nhiễm bởi rác thải. Sông Thị Vải, sông Cầu. sông Đáy, sông Nhuệ,
308
sông Đồng Nai đang bị chết nghẹt do chất thải của các nhà máy như Vedan… nước
sạch khan hiếm thì môi trường sống không thể xanh, sách, đẹp.
4. Xây dựng nếp sống văn hóa văn minh.
Xây dựng nếp sống văn minh đô thị. Mọi người phải có ý thức giữ gìn vệ sinh,
không khạc nhổ bừa bãi, vứt rác thải ra đường. Chúng ta chủ động sử dụng đồ dùng
thân thiện môi trường như hạn chế sử dụng túi ni long ( Nhiều nước đã cấm sử dụng
túi ni long), sử dụng cửa nhôm, cửa kính thay cho cửa gỗ, trồng cây, hoa cảnh trên mái
nhà, tường bao.
5. Nhà nƣớc có thêm nhiều chƣơng trình mục tiêu nâng cao đời sống nhân
dân và bảo vệ môi trƣờng.
Nhà nước ta đã có nhiều chương trình mục tiêu nâng caao đời sống nhân dân và
bảo vệ tài nguyên môi trường như chương trình trồng 5 triệu ha rừng, chương trình
135, 134 xây dựng 5 công trình ở nông thôn ( điện, đường, trường , tram ( y tế) , chợ),
quy hoạch hàng trăm vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, công viên, rừng phòng
hộ, lập danh sách bảo vệ động vật quý hiếm…. nhiều tỉnh đã quy hoạch nhiều khu
nghĩa trang công viên xanh, sạch đẹp, hợp vệ sinh…
6. Nhân dân và doanh nghiệp có ý thức cao bảo vệ môi trƣờng xanh sạch đẹp.
Tuy nhiên chỉ dựa vào nguồn lực nhà nước thì không đủ. Nhân dân, cộng đồng
dân cư, doanh nghiệp, hộ gia đình phải có ý thức và hành động cụ thể để giữ cho môi
trường xanh, sạch, đẹp. Xử lý chất thải từ gốc, từ nguồn phát sinh như bệnh viện, nhà
máy, từng phương tiện vận tải như ô tô. Bảo vệ tài nguyên ( rừng, sông, biển, ao , hồ )
là hết sức quan trọng.
Mỗi người dân, mỗi đường phố, làng xóm, mỗi cơ quan, nhà máy, doanh
nghiệp có ý thức cao và quyết tâm giữ gìn môi trường sống tốt thì cả đất nước mới có
môi trường sống xanh, sạch, đẹp.
Xã hội, nhà nước và nhân dân phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục để
mọi người hiểu hết tầm quan trọng của việc làm cho môi trường xanh, sạch, đẹp, thấm
nhuần sự nguy hiểm của ô nhiễm môi trường. Ô nhiễm môi trường làm cho Trái Đất
nóng lên, nước biển dâng cao, đất bị ngập lụt. Ô nhiễm môi trường làm cho bệnh dịch
gia tăng, đất, không khi và nước bị bẩn đục, sự sống của muôn loài, kể cả loài người
đang bị đe dọa.
Ý thức bảo vệ môi trường nâng lên, con người sẽ có hành động đúng đắn, thiết
thực làm cho môi trường “xanh, sạch, đẹp”. Mỗi người dân phải làm cho không gian
xanh, sạch, đẹp ở chính nơi ở, trường lớp nơi mình học, cơ quan công sở nơi mình làm
việc. Hãy tích cực tham gia ngày thức 7, chủ nhật tổng vệ sinh đường phố, bản làng,
tham gia vào ngày “Môi trường thế giới”, “Giờ Trái Đất”, “Hành trình xanh”, vì môi
trường xanh sạch đẹp, vì sự tồn tại của Trái Đất và loài người, vì cuộc sống an lành,
hạnh phúc của chúng ta.
Kết luận
Bản thân em sẽ có ý thức và việc làm giữ cho môi trường sống xanh, sạch, đẹp,
góp phần công sức cùng xã hội không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống.
309
Đề số 11b: Bàn về vai trò của cây ( hoặc của rừng) các loại động vật hoang dã,
nƣớc sạch… trong đời sống.
A.HƢỚNG DẪN LÀM BÀI
Cây rừng, các loại động vật hoang dã, nước sạch…ngày càng có vai trò quan
trọng để giảm ô nhiễm môi trường, tạo lập môi trường sinh thái và phòng chống biến
đổi khí hậu, đảm bảo sự tồn tại và nâng cao chất lượng cuộc sống loài người.
Để có môi trường sống xanh sạch đẹp, chúng ta phải trồng cây, trồng rừng, bảo
vệ động vật hoang dã, nguồn nước sạch, công nghệ sạch thân thiện với môi trường
2. Bàn luận
Dân sô loài người tăng nhanh, nay đã hơn 7 tỷ người. Nước ta nay đã hơn 86
triệu dân số. Kinh tế ngày càng phát triển. Những điều đó làm ô nhiễm môi trường
trầm trọng. Lượng rác thải ngày càng tăng, không khí và nước bị nhiễm bẩn. Khí hậu
nóng dần lên và thiên tai lũ lụt, hạn hán, đất xói mòn, sa mạc hóa ngày càng nặng nề.
Vấn đề là phải nhận thực được tác hại của ô nhiễm môi trường, biến đổi khí
hậu đối với môi trường sống và biện pháp để khắc phục là phải bảo vệ rừng, trồng cây,
bảo vệ động vật hoang dã và nguồn nước sạch, áp dụng công nghệ sạch trong sản xuất
và đời sống.
3. Liên hệ
Tích cực hưởng ứng phong trào trồng cây gây rừng, bảo vệ động vật hoang dã,
không ăn thịt động vật hoang dã, bảo vệ nguồn nước sạch.
Ăn ở sạch sẽ, giữ vệ sinh cho môi trường xanh sạch đẹp.
B.BÀI LÀM THAM KHẢO
Đề : Bàn về vai trò của cây ( hoặc của rừng) các loại động vật hoang dã, nƣớc
sạch… trong đời sống.
Mở bài :
VÌ sao cây ( rừng) động vật hoang dã, nguồn nước sạch có ý nghĩa rất to lớn
trong đời sống loài người? Nhận thức điều đó, chúng ta phải làm gì?
Thân bài:
1.Cây rừng, động vật hoang dã, nguồn nƣớc sạch là thiết yếu đối với loài
ngƣời.
Nước ta cũng như toàn thế giới đang đối mặt với tình trạng ô nhiễm môi trường
ngày càng nặng nề. Trái Đất đang nóng dần lên, biến đối khí hậu sẽ dẫn tới những hậu
quả khôn lường, khí thải gây “hiệu ứng nhà kính” làm thủng tầng ozon che chở cho
Trái Đất, gây tăng ung thư da, và nhiễm bệnh tật khác. Thiên tai các loại ngày càng
nguy hại.
Để giảm dần tình trạng ô nhiễm môi trường, làm cho Trái Đất xanh sạch đẹp,
chúng ta phải thực hiện nhiều biện pháp, trong đó, biện pháp trồng cây, trông rừng,
bảo vệ các loại động vật hoang dã, nguồn nước sạch là hết sức quan trọng.
Ngay từ thời nguyên thủy, thời kỳ săn bắt hái lượm, rừng là nguồn sống gần
như duy nhất của loài người. Vỏ cây làm quần áo, quả và lá để ăn, săn thú ở trong rừng,
gỗ củi dùng để sưởi ấm, nấu nướng và làm nhà ở. Ngày nay, rừng, động vật hoang dã,
nguồn nước sạch làm cân bằng sinh thái. Rửng bảo tồn hệ gen động thực vật quý hiếm
310
phục vụ cho công nghệ sinh học và mai sau. Loài người không thể sống đơn độc trong
môi trường không còn động vật hoang dã.
2. Bảo vệ rừng, động vật hoang dã , nguồn nƣớc sạch là nhiệm vụ khẩn cấp
của nhân loại
Bảo vệ động vật hoang dã, bảo vệ cây, rừng, nguồn nước sạch phải trở thành
nhận thức và hành động của mọi người và toàn xã hội.
Chúng ta phải nhận thức đầy đủ về vai trò to lớn của rừng, động vật hoang dã,
nguồn nước sạch đối với đời sống con người. Bảo vệ, duy trì và mở rộng, phát triển
chúng vì sự tồn tại của loài người, là bảo vệ sự sống chính bản thân mình. Từ nhận
thức đó, chúng ta hãy tự giác và nhiệt tình tham gia phong trào trồng cây, phong trào
trồng rừng, bảo vệ các loài động vật hoang dã, bảo vệ nguồn nước sạch. Hãy làm cho
nơi ta ở, nơi ta sinh sống xanh sạch đẹp.
3. Nƣớc ta, nhân dân ta phải có ý thức và hành động bảo vệ và phát triển
rừng, động vật hoang dã, nguồn nƣớc sạch.
Nước ta ở vùng khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới, với 25 triệu ha đất đồi núi
nên có thể thực hiện khẩu hiệu phủ xanh đất trồng đồi trọc. Nhà nước đã quy hoạch
nhiều khu rừng đặc dụng, rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ và nhiều chương trình trồng
rừng. Hệ thống cơ quan kiểm lâm được nhà nước thành lập để quản lý, bảo vệ rừng.
Dân cư sống du canh, du cư, đốt rừng làm rẫy đã được định canh, định cư
nhưng có một bộ phận vẫn tiếp tục, một số di cư tự phát từ miền núi phía Bắc vào Tây
Nguyên đã ảnh hưởng đáng kể tới việc bảo vệ rừng.
Một số kẻ vì lợi ích trước mắt mà phá rừng khai thác gỗ trái phép, dân ta gọi là
lâm tặc.Nhà nước và dân ta phải có quyết tâm cao và có nhiều biện pháp chống lại bọn
lâm tặc.
Ngày nay, để phát triển kinh tế và đô thị, người ta phải lấy đất rừng để xây
dựng nhà xưởng, khu công nghiệp, khu đô thị. Không gian sống của động vật hoang dã
bị thu hẹp. Cây rừng bị chặt phá, nguồn nước sạch như sông ngòi, ao hồ, nước ngầm
đang vơi cạn, và bị làm vẩn đục, ô nhiễm. Điều đó gây ra hậu quả khôn lường. Loài
người không thể sống nổi, không thể tồn tại nếu chỉ đơn đọc trên Trái Đất, không có
động vật hoang dã, không có cây, rừng và nguồn nước sạch. Mọi người phải ý thức
đầy đủ vai trò không thể thiếu được của cây xanh, động vật hoang dã và nguồn nước
sạch.
Từ ý thức đúng đắn, đầy đủ về vai trò của cây xanh, động vật hoang dã và
nguồn nước sạch, mọi người phải có hành động thiết thực, cụ thể bảo vệ và phát triển
rừng, động vật hoang dã và nguồn nước sạch. Kinh tế phát triển trên cơ sở công nghệ
sạch và cao, đô thị phải xanh, sạch, đẹp, từng người phải có lối sống khoa học, văn
minh, thân thiện với môi trường.
Kết luận:
Tóm lại, cây , rừng, động vật hoang dã và nguồn nước sạch có vai trò rất quan
trọng đối với sự tồn vong và phát triển của loài người. Mọi người hãy tham gia tích
cực bảo vệ và phát triển chúng, làm cho môi trường sống ngày càng xanh sạch đẹp.
311
Đề số 12b: Suy nghĩ về phong trào ủng hộ “ Quỹ vì ngƣời nghèo”
A. HƢỚNG DẪN LÀM BÀI
1. Giải thích
Xóa đói giảm nghèo là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta: “ Xóa đói
giảm nghèo là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài, phải huy động nguồn lực của toàn
xã hội cùng nhà nước giải quyết, từng bước thanh toán đói nghèo, thu hẹp khoảng cách
về trình độ phát triển, mức sống giữa các vùng, tầng lớp dân cư”
Tham gia phong trào ủng hộ “ Quỹ vì người nghèo” thể hiện tấm lòng cao cả
nhân văn “Thương người như thể thương thân” , “là lành đùm lá rách”, “lá rách ít đùm
lá rách nhiều” . Mọi người đều nên có ý thức ủng hộ “ Quỹ vì người nghèo” .
Phong trào ủng hộ “ Quỹ vì người nghèo” thu được kết quả to lớn trong nhiều
năm qua, góp phần cùng nhà nước làm giảm số lượng và tỷ lệ người nghèo. Việt Nam
đã được Liên Hợp Quốc biểu dương và tặng giải thưởng vì đã thành công lớn trong
công cuộc xóa đói giảm nghèo.
2. Bàn luận
Xóa đói giảm nghèo chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta
Xóa đói giảm nghèo muốn thành công phải huy động nguồn lực của toàn xã hội.
Phong trào ủng hộ “ Quỹ vì người nghèo” là hoạt động thiết thực huy động
nguồn lực của toàn xã hội vào công việc xóa đói giảm nghèo.
Phong trào ủng hộ “ Quỹ vì người nghèo” là nét đẹp phát huy truyền thống
đoàn kết, nhân văn, quan tâm đến người nghèo của dân tộc ta. “Một miếng khi đói
bằng một gói khi no”
Mỗi người dân nên nhiệt tình tham gia phong trào ủng hộ “ Quỹ vì người
nghèo”
3. Liên hệ
- Bản thân em sẽ cố gắng trong từng việc có thể tham gia ủng hộ “ Quỹ vì
người nghèo”
Tuyên truyền vận động bạn bè và người thân tham gia phong trào.
B. BÀI LÀM THAM KHẢO
Đề : Suy nghĩ về phong trào ủng hộ “ Quỹ vì ngƣời nghèo”
Mở bài:
Nhiều năm nay, “ Quỹ vì người nghèo” do mặt trận Tổ quốc Việt Nam thiết lập
đã nhận được sự ủng hộ to lớn của nhân dân, từ cán bộ, công chức đến tầng lớp doanh
nhân. Vì sao phong trào ủng hộ “ Quỹ vì người nghèo” lan rộng và sôi nổi như vậy ?
Thân bài:
1.“ Quỹ vì ngƣời nghèo” góp phần vào công cuộc xóa đói giảm nghèo
Phong trào ủng hộ “ Quỹ vì người nghèo” chứng tỏ ý thức cộng đồng cao của
dân ta, góp sức cùng nhà nước thực hiện công cuộc xóa đói giảm nghèo. Tháng vì
người nghèo hàng năm thu được hàng nghìn tỷ đồng, liên tục trong hàng chục năm nay,
làm cho tỷ lệ người nghèo ở nước ta liên tục giảm xuống. Các nước bè bạn, cả thế giới
312
khâm phục thành công về xóa đói giảm nghèo của Việt Nam. Tổ chức Liên Hợp Quốc
biểu dương và tặng giải thưởng về xóa đói giảm nghèo.
2. Phong trào ủng hộ “ Quỹ vì ngƣời nghèo” thể hiện tinh thần đoàn kết,
nhân văn, của nhân dân ta.
Phong trào ủng hộ “ Quỹ vì người nghèo” thể hiện tinh thần đoàn kết, nhân văn
cao cả trong tâm hồn con người Việt Nam. Mọi người dân nước ta đều hiểu sâu sắc
“Một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Trải qua bao gian khổ, hy sinh trong các
cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm và thiên tai bão lụt, dân ta luôn có truyền
thống “Thương người như thể thương thân” , “là lành đùm lá rách”, “lá rách ít đùm lá
rách nhiều”. Hình ảnh cụ già bớt chút lương hưu, các em học sinh bớt tiền ăn sáng của
bố mẹ cho để san sẻ với bạn nhỏ bất hạnh hơn mình luôn làm cho mọi người xúc động
và thức tỉnh lương tâm trách nhiệm ủng hộ “ Quỹ vì người nghèo”.
Công cuộc xóa đói giảm nghèo còn phải tiếp tục lâu dài , là mục tiêu “Thiên
niên kỷ của Liên Hợp Quốc” cũng như của Nhà nước Việt Nam. Chúng ta hàng năm
phải có ý thức và hành động thiết thực cùng toàn dân, toàn hệ thống chính trị tham gia
công cuộc xóa đói, giảm nghèo, mà cụ thể nhất là ủng hộ “ Quỹ vì người nghèo”.
“Nhường cơm sẽ áo, chị ngã em nâng”
3. Mọi ngƣời nuôi dƣỡng ý thức và hành động thiết thực ủng hộ quỹ vì
ngƣời nghèo.
Nước ta đang là nước đang phát triển, thu nhập thấp, đại bộ phận dân cư sinh
sống, làm nghề nông, thiên tai, bão lụt, hạn hán, dịch bệnh ở người và gia súc, rủi ro
trong làm ăn, tai nạn trong sinh hoạt làm cho người ta nghèo đi. Số lượng người
nghèo của nước ta rất đông, từ tỷ lệ khoảng 60% cách đây 30 năm, nay vẫn còn
khoảng 15% tức là hơn 10 triệu dân trong diện người nghèo. Công cuộc xóa đói giảm
nghèo còn lâu dài và mỗi người chúng ta phải kiên trì hành động, luôn nuôi dưỡng tấm
lòng nhân văn cao cả, nghĩa hiệp để có việc làm, hành động đóng góp ủng hộ quỹ vì
người nghèo.
Ông cha chúng ta có khái niệm “ nợ đồng lần”. Người ta giúp mình việc gì đó
không phải để mong được mình trả ơn, mà mong mình sẽ lại đi giúp những người khác.
Như thế, những tấm lòng thơm thảo sẽ được nhân lên, những hoàn cảnh được chia sẻ
sẽ được tăng lên theo cấp số cộng, cấp số nhân. Nhờ đó, xã hội chúng ta sẽ đầy những
tấm lòng nhân ái, cuộc sống ấm áp ngày càng tươi đẹp, thanh bình, hạnh phúc. Giúp
đỡ người nghèo, ủng hộ quỹ vì người nghèo là một trong những cách thiết thực biểu
hiện sự quan tâm tới người khác, tới xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng , dân chủ văn mình”.
Kết luận
Một nhà văn Nga đã viết “ Nơi lạnh nhất không phải Bắc Cực mà là nơi không
có tình thƣơng” . Nhà văn Pháp Misen Êken Mongtenho cũng đã viết “ Nghèo nàn về
vật chất dễ chữa, nghèo nàn về tâm hồn rất khó chữa” .Một trong những việc nuôi
dưỡng tâm hồn mỗi người là hàng năm hãy có hành động thiết thực ủng hộ quỹ vì
người nghèo.
313
Đề 13b. Bác Hồ khuyên thanh niên:
"Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chi ắt làm nên"
Anh chị suy nghĩ gì về lời khuyên đó?
HƢỚNG DẪN LÀM BÀI
I. Hiểu đƣợc nội dung cơ bản lời khuyên của Bác.
Bằng hình ảnh tượng trưng, với lối nói cường điệu, qua 4 câu thơ trên, Bác Hồ
muốn khuyên thanh niên một bài học có ý nghĩa như là chân lý của cuộc sống, của sự
thành đạt trong sự nghiệp. Không có công việc nào là dễ dàng, mà bất cứ việc gì cũng
khó khăn gian khổ. Nhưng nếu chúng ta có sự "bền lòng" , kiên trì vượt khó, không
nản chí, sờn lòng, thì chẳng có "việc gì" là "khó" cả. Thậm chí, nếu ta có sự quyết chí
và một nghị lực mạnh mẽ vươn lên trên mọi khó khăn gian khổ, thì dù là công việc lớn
lao như "đào núi" và "lấp biển" , chúng ta cũng có thể chắc chắn "làm nên".
II. Đề này cần phải đạt đƣợc các ý cơ bản sau:
1. Cái khó khăn không phải là ở bản thân công việc mà chính là ở lòng người.
2. Khi đã "bền" lòng, "quyết chí", thì dù công việc khó đến mấy, cũng có thể
hoàn thành để làm nên "sự nghiệp lớn".
3. Chứng minh bằng dẫn chứng thực tế.
4. Bình luận mở rộng
III. Phƣơng pháp nghị luận
Vận dụng trường hợp các phương pháp nghị luận: giải thích, chứng minh, bình
luận.
314
BÀI LÀM THAM KHẢO
I. Mở bài:
Trên hành trình đến chân trời tương lai của sự nghiệp, con người phải đương
đầu với biết bao thử thách chông gai như cuộc đi đường thường ngày "Đi đƣờng mới
biết gian lao; Núi cao rồi lại núi cao trập trùng". Chúng ta muốn leo "lên đến tận
cùng" để thu vào "tầm mắt muôn trùng nƣớc non", nghĩa là muốn thu được thắng lợi
vẻ vang đòi hỏi con người phải bền gan, vững chí, phải có lòng quyết tâm, kiên trì,
tinh thần vượt khó. Nhằm giáo dục cho thế hệ trẻ về phẩm chất tinh thần đặc biệt ấy,
trong một lần nói chuyện với thanh niên, Bác Hồ đã ân cần khuyên bảo:
"Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chi ắt làm nên"
II. Thân bài.
1- Cái khó không phải là bản thân công việc, mà chính là ở lòng ngƣời.
Bằng kiểu câu khẳng định với hai vế điều kiện - kết quả, ngay ở hai câu thơ đầu,
Hồ Chí Minh, "tinh hoa của dân tộc, khí phách của non sông" , đã nêu bật một chân lý
hiển nhiên của thực tế cuộc đời. Trên thế gian này, "không có việc gì khó" - Việc khó
là việc khi làm đòi hỏi nhiều công sức, tâm trí và nghị lực mới làm được. Tuy nhiên sự
quyết định của thành bại không phải là ở bản thân công việc dễ hay "khó" , mà là ở
chính tinh thần con người. Việc gì cũng có thể làm được miễn là có sự kiên trì, ý chí
quyết tâm, nghĩa là "bền lòng" . Bền lòng ở đây là chỉ lòng kiên trì, không bao giờ nản
chí, đầu hàng, không thay đổi lập trường mà phải đem hết tâm sức "mài vào đá vào
sắt" "mài vào đêm vào ngày" , quyết tâm làm bằng được mới thôi, dù cho có gặp muôn
vàn khó khăn, thử thách. Ông Nguyễn Bá Học trước đây cũng đã khẳng định điều đó
bằng một câu nói rất chí lý: "Đƣờng đi khó không phải vì ngăn sông cách núi, mà khó
vì lòng ngƣời ngại núi e sông". Như vậy ở hai câu thơ đầu tiên, Bác Hồ đã đặc biệt đề
315
cao vai trò của tinh thần, ý chí, sự kiên trì, vượt khó của con người trong khi thực hiện
các công việc, đặc biệt là những công việc "khó".
2. Khi đã "bền lòng", "quyết chí" , thì dù công việc khó đến mấy cũng có thể
hoàn thành, để làm nên "sự nghiệp lớn".
Nếu khi con người đã có được một tinh thần kiên trì, một ý chí, quyết tâm vượt
khó thì dù công việc khó khăn, to lớn bằng trời, biển, chúng ta cũng có thể làm được
và hoàn thành một cách tốt đẹp:
"Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên"
Ở hai câu này, Bác đã dùng thủ pháp cường điệu và hình ảnh tượng trưng "đào
núi và lấp biển" để chỉ những công việc lớn lao dường như nằm ngoài sức lực và khả
năng của con người. Nhưng dù là công việc "đào núi" và "lấp biển" khó khăn lớn lao
đến đâu đi nữa, nếu con người "quyết chí" , bền bỉ dồn mọi sức lực, trí tuệ quyết làm
bằng được, bất chấp mọi khó khăn chủ quan và khách quan "thắng không kiêu, bại
không nản" thì cũng hoàn thành, cũng "ắt làm nên". Bác dùng chữ "ắt" càng tăng
thêm tính chất khẳng định. "Ắt" theo từ điển tiếng Việt nghĩa là "chắc chắn" "nhất
định sẽ" (Từ điển tiếng Việt trang 59)
3. Chứng minh bằng dẫn chứng thực tế
Lịch sử nhân loại và đất nước ta đã có biết bao câu chuyện, bao tấm gương nêu
cao sức mạnh phi thường của lòng kiên trì, nghị lực và lòng quyết tâm của con người
trong cuộc sống. Từ câu chuyện Ngu Công dời núi đến câu chuyện "Mài sắt nên kim" ;
từ tấm gương anh hùng Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, Trần Bình Trọng...đến Võ
Thị Sáu, Mạc Thị Bưởi, Lý Tự Trọng, Nguyễn Văn Trỗi....trong sự nghiệp cứu nước
vẻ vang, tất cả họ đều đã vượt qua biết bao khó khăn thử thách tưởng chừng khó có thể
vượt qua nổi bằng một sự "quyết chí" vượt bậc để hoàn thành nhiệm vụ, "làm nên"
những chiến công chói lọi. Bác Hồ không chỉ răn dạy thanh niên về sự bền lòng, vững
chí mà Người còn là một tấm gương sáng ngời về sự "kiên trì" "nhẫn nại" và "quyết
chí" . Vào lúc vận mệnh Tổ quốc như ngàn cân treo đầu sợi tóc, Người đã nói một câu
316
nói nổi tiếng như một lời hịch "Dù đốt cháy cả dãy Trƣờng Sơn cũng phải giành cho
đƣợc độc lập". Lời hịch ấy thổi hồn và truyền sức mạnh ý chí cho toàn dân tộc để lập
nên một "Điện Biên nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng". Vào cuộc kháng chiến chống
Mỹ, lớp lớp cháu con quyết chí mở đường Hồ Chí Minh huyền thoại trên rừng Trường
Sơn và trên biển Đông để "giành độc lập" , thống nhất Tổ Quốc. Và kết quả là ngày
30/04/1975 "Bác Hồ ơi! Toàn thắng đã về ta":
"Ôi, buổi trƣa nay, tuyệt trần nắng đẹp
Bác Hồ ơi! Toàn thắng về ta
Chúng con đến, xanh ngời ánh thép
Thành phố tên Ngƣời lộng lẫy cờ hoa"
(Tố Hữu)
Trong sự nghiệp xây dựng đất nƣớc, cuộc sống hoà bình hôm nay, noi theo tấm
gương Bác Hồ, nối tiếp các đàn anh lớp trước, hàng ngày hàng giờ, thế hệ mới của
chúng ta đã xuất hiện biết bao tấm gương đẹp về lòng kiên trì, chí lớn đã làm nên "sự
nghiệp lớn". Đó là bác sĩ Nguyễn Tài Thu, người đã đưa nền y học châm cứu Việt
Nam thành một thương hiệu nổi tiếng trên thế giới. Đó còn là vận động viên wushu
Thuý Hiền, vận động viên nhảy cao Bùi Thị Nhung, vận động viên cử tạ Hoàng Anh
Tuấn đã giành được Huy Chương Vàng thể thao Segame để cho lá cờ đỏ sao vàng của
Tổ quốc Việt Nam kiêu hãnh tung bay trên đấu trường Đông Nam Á. Và đây là tấm
gương "kiên trì", "quyết chí", "bền lòng" , vượt qua số phận hiểm nghèo của mình để
làm nên sự nghiệp phi thường như là "đào núi" và "lấp biển" vậy. Đấy là anh Bạch
Đình Vinh được chương trình ti vi "Ngƣời đƣơng thời" hết lời ca ngợi: vì một tai nạn
giao thông, anh Vinh bị bại liệt toàn thân, bị chấn thương nặng nội tạng, khuôn mặt bị
biến dạng và mất luôn cả tiếng nói. Thế nhưng với một ý chí, nghị lực phi thường, anh
đã không gục ngã, mà đứng lên viết tiếp trang cổ tích của cuộc đời mình: sinh viên ba
trường Đại học: Giao thông vận tải, Thương Mại, Khoa công nghệ thông tin - Đại học
Bách Khoa Hà Nội.
4. Bình luận mở rộng
317
Lời dạy của Bác là một bài học vô cùng quý giá cho mỗi chúng ta về phương
châm sống. Nó đã trở thành bí quyết quan trọng nhất giúp chúng ta thực hiện ước mơ
hoài bão của bản thân. Lời dạy đó còn giúp ta có ý chí nghị lực để vượt qua những khó
khăn lớn lao thường gặp, để quyết đạt cho được ước mơ của mình. Như thế cũng có
nghĩa là lời dạy của Người còn đem lại cho ta lòng tự tin. Khi có được lòng tự tin,
chúng ta sẽ có một sức mạnh tinh thần vô địch để làm nên tất cả.
Tuy nhiên, chúng ta nên phải hiểu lời khuyên của Bác một cách đúng đắn và
thiết thực. Quyết tâm, ý chí của ta phải đi đôi với hành động, chứ không được quyết
tâm suông mà có thể làm nên được sự nghiệp lớn. Và những ước mơ, khát vọng của ta
phải phù hợp với điều kiện thực tế, hoàn cảnh chủ quan, khách quan, những tiền đề vật
chất nhất định, nếu không chúng ta sẽ trở thành những người phiêu lưu mạo hiểm,
những kẻ mơ mộng hão huyền. Hiểu như vậy, chúng ta càng thấm thía lời dạy của Bác
Hồ vô cùng đúng đắn.
III. Kết luận
Tóm lại bốn câu thơ trên của Bác là một lời khuyên vô cùng quý báu. Bằng trí
tuệ sắc sảo, Bác đã vạch ra chân lý, bằng trái tim tràn đầy tình yêu thanh niên, Bác đã
ân cần khuyên nhủ, động viên mọi thế hệ hôm nay và mai sau có được phương pháp
hành động và suy nghĩ đúng đắn nhằm chiếm lĩnh được những "đỉnh Ôlimpia" của
cuộc đời và sự nghiệp.
Đề 14b. Quan điểm của anh (chị) về vấn đề thời trang.
HƢỚNG DẪN LÀM BÀI
1. Đề này thuộc loại đề mở, nghĩa là không chỉ rõ yêu cầu học sinh phải giải
thích, chứng minh hay bình luận. Tuy nhiên những đề bài kiểu suy nghĩ của anh chị,
quan điểm của anh chị...về một vấn đề nào đó, thường là kiểu bài thiên về bình luận,
giải thích.
2. Vì vậy, ở đây chúng ta có thể triển khai các ý như sau:
318
a. Vai trò của thời trang, của ăn mặc trang điểm: Thời trang có một vai trò rất
quan trọng trong việc thể hiện vẻ đẹp, nhân cách con người. Nó trở thành văn hoá ăn
mặc góp phần tô đậm vẻ đẹp cho mỗi người và lối sống của toàn xã hội.
b. Nhưng phải sử dụng thời trang như thế nào? Phải sử dụng thời trang cho hợp
lý, tự nhiên, tương xứng với tuổi tác, nghề nghiệp, hoàn cảnh giao tiếp, có sự kết hợp
hài hoà giữa vẻ đẹp truyền thống với vẻ đẹp hiện đại.
c. Bình luận.
Phê phán lối ăn mặc lập dị, chạy theo mốt giật gân, không thích hợp với quan
điểm thẩm mĩ - văn hoá của người Việt Nam hiện đại.
BÀI LÀM THAM KHẢO
I.Mở bài:
Nhà văn Gorki đã từng khẳng định "Bản chất mỗi ngƣời là một nghệ sĩ. Bằng
cách này, hay cách khác họ đều muốn đƣa cái đẹp vào cuộc sống". Và để cho cuộc
sống đẹp, người ta thường tìm đến thời trang. Vì vậy thời trang là một trong những
phương tiện rất hiệu quả để góp phần tôn thêm vẻ đẹp của con người.
II.Thân bài:
1. Vai trò của thời trang, ăn mặc, trang điểm.
"Thời trang" theo từ điển Tiếng Việt là cách ăn mặc được ưa chuộng phổ biến
trong từng thời kỳ (trang 1592). Thời trang có một vai trò, ý nghĩa đặc biệt với cuộc
sống con người. Cha ông ta xưa đã từng nói "Ngƣời đẹp vì lụa". Câu nói ấy đã khẳng
định thời trang là phương tiện, nhưng nó có một vai trò rất quan trọng trong việc thể
hiện vẻ đẹp, nhân cách con người. Ăn mặc đẹp, lịch sự là sự tôn trọng mình và tôn
trọng người khác. Người ta thường nói "ăn cho mình, mặc cho ngƣời". "Ăn cho mình"
là ăn để duy trì sự sống, sức khoẻ cho bản thân mình. Còn "mặc cho ngƣời" là những
trang phục trên người mình để cho kín đáo, bảo vệ thân thể, chống lạnh, chống nóng,
nhưng là để người khác ngắm nhìn. Và nếu ăn mặc đẹp, lịch sự thì có thể trở thành
khuôn mẫu cho những người xung quanh noi theo. Do đó mặc đẹp không chỉ làm đẹp
319
cho bản thân, mà còn tạo nên thiện cảm, sự trọng vọng của người khác. Vì vậy thời
trang là hình thức mà cũng chính là nội dung.
Mặc đẹp thể hiện cái "gu" thẩm mỹ, phong cách còn người và trình độ văn
minh, lịch sự, trình độ văn hoá của mỗi người. Nó đã trở thành văn hoá mặc, góp phần
tô đậm nhân cách, phẩm chất của mỗi người và lối sống của toàn xã hội.
2. Nhƣng phải sử dụng thời trang ăn mặc nhƣ thế nào?
Thời trang, quần áo làm đẹp cho con người nhưng xét cho cùng nó cũng chỉ là
phương tiện, thiên về vẻ bề ngoài, cái quyết định vẫn là con người sử dụng thời trang
đó như thế nào cho hợp lý, tự nhiên tương xứng với lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp,
phù hợp với từng mùa, từng hoàn cảnh giao tiếp và có sự hài hoà giữa vẻ đẹp truyền
thống và vẻ đẹp hiện đại. Còn gì đẹp hơn khi chúng ta được chiêm ngưỡng từng nhóm
nữ sinh với bộ trang phục áo dài mang "quốc hồn" phụ nữ Việt Nam: màu trắng, màu
hồng, màu tím, màu xanh.... thướt tha đổ về các trường trong những ngày lễ, hay sáng
thứ hai hàng tuần? Đúng như một nhà thơ đã ca ngợi vẻ đẹp áo dài của "Nữ sinh Đồng
Khánh ngày xƣa"
"Trống trƣờng Đồng Khánh vừa tan
Trên đƣờng phơi phới từng đàn bƣớm bay"
Chúng ta sẽ có cảm giác trọng thị mà ấm áp khi giữa ngày thu nắng đẹp, trời
hơi se se lạnh, khi được dự một đám cưới mà chú rể mặc bộ đồ com lê sang trọng hợp
màu, còn cô dâu mặc áo cưới hợp mốt đi chúc mừng quan khách. Đó là những người
đàn ông mặc com lê hợp tuổi, những người phụ nữ hoặc áo dài nền nã hay áo dài tím,
xanh, hồng vừa hài hoà với người, vừa tương xứng với tuổi tác.
3. Phê phán lối ăn mặc lập dị chạy theo mốt giật gân, không thích hợp với quan
điểm thẩm mỹ, văn hoá của ngƣời Việt Nam hiện đại.
Đó là phong cách ăn mặc thiếu văn hoá, không phù hợp thuần phong, mỹ tục,
gây phản cảm cho công chúng, xã hội như ăn mặc hở hang, màu sắc loè loẹt nơi đông
người, nơi công sở. Chúng ta sẽ cảm thấy rất khó chịu khi phải trông thấy cảnh những
đoàn viên thanh niên ở một vùng nông thôn xa xôi thuần phác mà con trai thì đi cày,
làm ruộng với mái tóc nhuộm xanh đỏ, quần áo sơ mi là thẳng tắp...còn con gái đi cấy,
320
đi gặt mà môi đánh son đỏ chót, váy xoè, váy ngắn, áo quá mỏng và cổ áo lại trễ
xuống quá rộng thử hỏi còn gì cái "duyên" thôn nữ?. Hay phải chứng kiến cảnh những
thầy giáo lên giảng đường giảng bài cho sinh viên, học sinh mà lại mặc áo phông
không cổ....
"Bình luận nâng cao"
Nói tóm lại trang phục góp phần quan trọng làm nên nhân cách, vẻ đẹp con
người. Nó là vấn đề văn hoá của con người. Cha ông ta từng khuyên bảo "cái răng, cái
tóc, một góc con ngƣời". Nhưng điều quan trọng là mặc thế nào cho đẹp, cho đúng đắn,
đúng lúc, đúng chỗ, phù hợp với lứa tuổi, nghề nghiệp, hoàn cảnh, môi trường để hoà
đồng vào lối sống của xã hội, làm đẹp cho dân tộc và phù hợp với thời đại mới: thời
đại hội nhập toàn cầu, thời đại của con người lao động sáng tạo với cuộc sống muôn
màu muôn vẻ. Và để phù hợp với cuộc sống hiện đại rất đa dạng đó, chúng ta đã có
nhiều kiểu trang phục khác nhau vừa đẹp đẽ, vừa giản di, vừa thiết thực, tiện ích, có sự
kết hợp hài hoà giữa truyền thống và hiện đại tạo nên vẻ đẹp của từng loại trang phục:
trang phục trong nhà trường, trong công sở, trong công việc; trang phục dạ hội, trang
phục tắm biển...Tất cả đều phải giản dị mà sang trọng, thanh cao, tất cả đều phải hài
hoà, cái đẹp chính là sự hài hoà, của thời trang, của văn hoá Fashion.
III. Kết luận:
Trước hiện tượng thời trang ngày nay các mốt xuất hiện như trăm hoa đua nở,
chúng ta phải làm chủ bản thân, không nên đua đòi nay mốt này, mai mốt khác để trở
thành nô lệ của thời trang. Chúng ta phải biết làm chủ trước thời trang. Đó là thể hiện
bản lĩnh và nhân cách. Đó còn là lòng tự trọng: trọng mình và trọng người. Phải luôn
tự nhủ: trang phục phải hợp văn hoá, hợp đạo đức, hoàn cảnh, môi trường cuộc sống
mới, là trang phục đẹp, để sao cho mỗi người "là một bông hoa đẹp và cả nƣớc là một
vƣờn hoa đẹp" muôn màu, muôn sắc khoe tươi./.
321
Đề 15b. Anh (chị) hãy viết một bài văn khoảng 600 từ trình bày suy nghĩ của
mình về ý kiến sau đây:
"Nếu không có ngƣời bạn tốt thì khó mà biết đƣợc những sai lầm của bản thân".
HƢỚNG DẪN LÀM BÀI - ĐỀ NÀY CẦN
Học sinh phải thể hiện được kỹ năn làm văn nghị luận xã hội (khoảng 600 từ)
bộc lộ được quan niệm đúng đắn, những hiểu biết xã hội, có liên hệ với lứa tuổi...
Đề này có thể làm theo nhiều cách, nhưng bài làm phải đảm bảo những ý cơ
bản sau:
1. Giải thích ngắn gọn khái niệm và nội dung câu nói:
- "Bạn", theo từ điển Tiếng Việt: "Người quen biết và có tình cảm thân thiện
với nhau nhưng không phải là họ hàng" (Trang 97)
- "Bạn tốt": người bạn lý tưởng, giúp nhau những điều có ý nghĩa nhất. Câu nói
lập luận theo kiểu giả thiết, điều kiện - kết quả, nhằm nhấn mạnh vào vai trò, ý nghĩa
của bạn tốt, giúp ta nhận ra những sai lầm, những điều chưa tốt để hoàn thiện bản thân,
giải thích rõ vì sao? (là con người, ai cũng có những khuyết điểm, thiếu sót. Bạn là
người dễ thấy khuyết điểm của ta. Bạn là người hiểu tâm tư, hoàn cảnh, sở thích, cá
tính của ta nên có thể giúp ta dễ tiếp thu, sửa chữa).
2. Bình luận mở rộng
- Ở lứa tuổi nào và ở đâu, ta cũng cần có bạn, đặc biệt là bạn tốt.
- Nhưng vấn đề là phải biết "ở chọn nơi, chơi chọn bạn" và biết lắng nghe, biết
sửa chữa, biết tôn trọng tình bạn, muốn thế trước hết mình phải là người bạn rất chân
tình và thuỷ chung.
3. Lấy thực tế để chứng minh làm sáng tỏ ý kiến của mình.
BÀI LÀM THAM KHẢO
I Mở bài:
Ca dao ta xưa đã ca ngợi niềm vui gặp gỡ bạn hiền, bạn tốt bằng một hình ảnh
thật độc đáo và thi vị:
"Ra đi vừa gặp bạn hiền
322
Cũng bằng ăn quả đào tiên trên trời"
Vậy bạn hiền, bạn tốt có vai trò, ý nghĩa như thế nào đối với bản thân mỗi
chúng ta mà được cha ông ta ngợi ca đến thế? Bởi vì như một ai đó đã khẳng định:
"Nếu không có ngƣời bạn tốt thì khó mà biết đƣợc những sai lầm của bản thân".
II. Thân bài:
1. Giải thích khái niệm và nội dung câu nói
Để hiểu được vai trò của người bạn tốt, trước hết chúng ta phải tìm hiểu thế nào
là "bạn" và thế nào là "bạn tốt" ? Bạn là những người không phải là họ hàng mà là
những người quen biết và có tình cảm thân thiết với nhau, có quan hệ gần gũi, luôn
luôn coi nhau ngang hàng, do hợp nhau về tính tình, quan niệm, sở thích...còn "bạn
tốt" là người bạn hiểu ta, luôn luôn quan tâm, chia sẻ với ta những niềm vui, nỗi buồn.
Đó còn là người biết đưa ra những lời khuyên hữu ích nhất cho ta và có khả năng giúp
ta nhận thức được việc làm sai trái, để ta tu dưỡng, sửa chữa, để trở thành người sống
có ích cho xã hội, cộng đồng. Người bạn tốt còn là người luôn luôn ở bên ta, không
bao giờ rời bỏ ta lúc ta gặp hoạn nạn. Điều đó cũng có nghĩa: người bạn tốt là người vô
cùng cần thiết đối với ta, luôn luôn giúp ta những điều có ý nghĩa nhất trong cuộc sống.
2. Nội dung câu nói: Đề cao vai trò, ý nghĩa của ngƣời bạn tốt
Câu nói trên đã dùng kiểu lập luận theo quan hệ giả thiết, điều kiện - kết quả
"nếu không có....thì khó mà" để nhấn mạnh vai trò ý nghĩa của bạn tốt. Bạn tốt đã trở
thành điều kiện, tiền đề quan trọng để giúp ta nhận ra sai lầm, những điều chưa tốt để
ta hoàn thiện bản thân về mọi phương diện như cách cư xử, học tập, tu dưỡng, công
tác, sức khoẻ, sự nghiệp....
3. Vì sao bạn tốt lại có vai trò quan trọng nhƣ vậy đối với bản thân?
Vì sao bạn tốt lại có vai trò, ý nghĩa quan trọng như vậy đối với mỗi bản thân
chúng ta? Bởi lẽ con người thì không mấy ai là không có khiếm khuyết trong lời nói,
trong hành động, trong ứng xử, trong quan niệm, trong lối sống. Song không phải lúc
nào ta cũng nhận ra được. Trong khi đó bạn, từ góc độ khách quan, dễ thấy những
323
khuyết điểm mà ta không thấy. Từ đó với tư cách là người bạn tốt gần ta về tâm lý,
thấu hiểu ta về những điều sâu kín trong tâm tư, nên nhắc nhở, khuyên răn ta bằng
những lời lẽ chân tình, tha thiết nên dễ tiếp thu để sửa chữa. Điều này nhiều khi những
người thân yêu nhất trong gia đình vẫn không làm được. Chẳng hạn một người chồng
có nhiều uẩn khúc trong lòng mà người vợ không thể hiểu hết và có thể giúp chồng
giải toả được như những người bạn thân của chồng. Một người mẹ thấy con gần đây
có những biểu hiện tâm lý không bình thường như chán học, ít nói và trở nên ưu tư gần
như bị trầm cảm, mà mẹ không sao hiểu hết được và giúp con trở về trạng thái bình
thường được. Có lẽ trong trường hợp ấy, chỉ có nhờ bạn thân của con gái mẹ mới có
thể "chữa lành" căn bệnh bí ẩn của con được. Bở vì theo nhận xét của các chuyên gia
tâm lý lứa tuổi thì trẻ em, thanh thiếu niên ở lứa tuổi trung học cơ sở, trung học phổ
thông đặc biệt coi trọng tình bạn, đề cao tình bạn và xem đó là một thứ tình cảm rất
thiêng liêng và cao cả. Đúng như một nhà văn Nga đã nói: "Ngƣời ta có thể quên tất
cả những điều đã học, quên cả thầy giáo của mình, nhƣng quên sao đƣợc những bạn
học, những ngƣời cùng ta tâm sự về những mối tình đầu, cùng ta chia sẻ đồng bạc
cuối cùng, cùng ta xây đắp mộng tƣơng lai" (Ô -lếch - vi -ta) và "Tình bạn có thể làm
cho con ngƣời ta trở nên cao thƣợng và đẹp đẽ, làm cho đời sống càng tƣơi đẹp, sáng
mãi và vui vẻ". Vì thế lời khuyên bảo của bạn lắm lúc có một hiệu lực và ý nghĩa thật
bất ngờ đối với mỗi chúng ta.
Những điều đã phân tích ở trên cho thấy đã là bạn tốt đúng theo nghĩa của nó
thì phải có sự chân thành và luôn luôn thể hiện trách nhiệm với bản thân ta. Nhờ đó mà
ta sẽ không mắc sai lầm trong cuộc sống và có thể hoàn thiện bản thân. Ngược lại, nếu
không có bạn tốt, hoặc đấy là bạn xấu, thì ta sẽ tiếp tục mắc sai lầm và không hoàn
thiện được bản thân.
Bình luận mở rộng
Như vậy đến đây ta có thể khẳng định người bạn tốt xứng đáng là một tâm
gương sáng nhất để ta luôn luôn soi vào đó mà hoàn thiện mình. Vì thế sống trên đời
chúng ta không thể thiếu bạn tốt. Có nhiều bạn tốt chẳng khác nào chúng ta luôn luôn
được sống trong bầu dưỡng khí trong sạch và như có được một sự bảo hiểm bằng vàng
rất tin cậy. Do đó, ở lứa tuổi nào và ở đâu, chúng ta cũng cần kết bạn và cần nhiều bạn
tốt, vấn đề là chúng ta phải luôn luôn nhớ những lời căn bản của cha ông "Ở chọn nơi,
324
chơi chọn bạn" . Khi đã có được những người bạn tốt, ta phải biết lắng nghe, biết sửa
chữa, biết trân trọng tình bạn, biết đặt niềm tin vào bạn, chủ động giãi bãy với những
người bạn đáng tin cậy về những băn khoăn, day dứt, nh tâm tư, tình cảm, dự định sâu
kín trong lòng và như thế chúng ta cũng phải là người bạn tốt.
Thực tế lịch sử loài người đã có biết bao câu chuyện cảm động về những tấm
gương của những người bạn tốt đã giúp nhau vươn lên trong cuộc sống và làm nên
những sự nghiệp vinh quang. Đó là câu chuyện Lưu Bình - Dương Lễ, là tình bạn giữa
Xuân Diệu và Huy Cận và kỳ diệu hơn nữa là "tình bạn vĩ đại và cảm động" giữa hai
lãnh tụ thiên tài của giai cấp vô sản thế giới: Mác và Ăng ghen.
III.Kết luận
Giờ đây, chúng ta đang ngồi trên ghế nhà trường, đang ở lứa tuổi học sinh, tuổi
của hoài bão và khát vọng, của ngưỡng cửa bước vào đời, chúng ra rất cần có nhiều
bạn tốt để sẻ chia, giúp đỡ nhau trong học tập, tu dưỡng, phấn đấu để vượt qua những
chướng ngại trong cuộc sống, nhằm chiếm lĩnh những "đỉnh olimpia" cho cuộc đời
trong một tương lai không xa.
Đề 16b. Anh (chị) hãy trình bày suy nghĩ của mình về "Bệnh vô cảm" trong xã hội
ta hiện nay
HƢỚNG DẪN LÀM BÀI
Học sinh phải thể hiện được kỹ năng làm "Văn nghị luận xã hội" (khoảng 600
từ), bộc lộ được những suy nghĩ đúng đắn, những hiểu biết xã hội, có liên hệ với thực
tế cuộc sống.
Đề này thuộc kiểu bài bình luận. Nhưng để bình luận vấn đề, học sinh phải giải
thích, chứng minh. Có như thế, bài làm mới sâu sắc và toàn diện. Thực chất của những
bài văn nghị luận là những bài văn có sự tổng hợp các thao tác tư duy - nghị luận: vừa
giải thích, vừa bình luận, vừa chứng minh. Tuy vậy đối với đề bài trên, bài làm cần
phải đảm bảo những ý cơ bản sau:
1. Thế nào là bệnh vô cảm?
325
2. Những biểu hiện của bệnh vô cảm
3. Bình luận mở rộng: Hậu quả của bệnh vô cảm
4. Liên hệ với bản thân, đề ra nhiệm vụ, thái độ của mình trước căn bệnh đó (có
thể đưa vào phần kết luận).
326
BÀI LÀM THAM KHẢO
I. Mở bài
Thời đại ngày nay là thời đại kinh tế thị trường. Sống trong xã hội đó, hàng
ngày nảy sinh ra hiện tượng nhiều người lao vào kiếm tiền, lo vun vén cho bản thân và
gia đình mình mà thờ ơ trước những vấn đề bức xúc của cuộc sống xã hội, gây nên
một căn bệnh tinh thần khá nguy hiểm: "Bệnh vô cảm" , một căn bệnh có nguy cơ lan
rộng làm băng hoại đạo đức truyền thống của dân tộc, làm ô nhiễm môi trường tốt đẹp
của xã hội mới.
II. Thân bài
1. Thế nào là bệnh vô cảm?
"Bệnh vô cảm" là căn bệnh tâm hồn của những người có trái tim lạnh giá,
không xúc động, sống ích kỷ, lạnh lùng, cho sự an toàn của bản thân mình là trên hết.
Họ thờ ơ, làm ngơ trước những điều xấu xa, hoặc nỗi bất hạnh, không may của những
người sống xung quanh mình.
2. Những biểu hiện của bệnh vô cảm.
Bệnh vô cảm có những biểu hiện thật, đa dạng, muôn màu muôn vẻ: vô cảm đối
với cuộc sống, xã hội; vô cảm đối với đồng loại, gia đình, người thân, bạn bè, thậm chí
vô cảm đối với chính bản thân mình.
Đi đường gặp những người bị tai nạn, gãy tay, gãy chân hoặc nằm bất tỉnh,
những kẻ vô cảm chẳng có phản ứng nào mà chỉ biết dửng dưng chứng kiến với thái
độ "Thờ ơ con mắt lạnh. Nhìn chúng có hề chi!" (Tố Hữu). Lên xe ô tô, thấy kẻ gian
móc túi hoặc bọn côn đồ hành hung hành khách, họ cũng chỉ lờ di xem như đấy không
phải chuyện của mình. Sống trong cơ quan trường học, chứng kiến bao chuyện ngang
trái như cấp trên hối lộ, thầy giáo ngang nhiên bạo hành học sinh, còn học sinh thì
quay cóp gian lận trong thi cử, họ cũng không mở miệng mà ngoảnh mặt làm ngơ.
Hoặc trông thấy hiện tượng những tên Xuân Tóc Đỏ thời nay "nghênh ngang" "nhâng
nháo trâng tráo, xỏ xiên, bịp bợm" họ vẫn im lặng, không mảy may lên tiếng.
Sự vô cảm là một căn bệnh đang có chiều hướng lan rộng trong xã hội ta, nó
đang len lỏi khắp mọi nơi. Nó không chỉ diễn ra ngoài xã hội mà còn xâm nhập vào
327
trong các gia đình, những người thân ruột thịt. Tôi đã chứng kiên cảnh có nhà cha mẹ
bị ốm nặng nằm liệt giường mà con cái không đoái hoài gì đến, trái lại cứ điềm nhiên
"thƣởng thức" hết trò vui này đến trò vui khác trên ti vi.
3. Bình luận mở rộng: Hậu quả của bệnh vô cảm.
Căn bệnh vô cảm sẽ gây nên hậu quả thật khủng khiếp cho xã hội, cộng đồng,
đất nước. Nó biến con người thành kẻ vô trách nhiệm, vô lương tâm và vô văn hóa,
thậm chí là kẻ tội đồ. Có thể nói đó là căn bệnh của những kẻ " cháy nhà hàng xóm
bằng chân nhƣ vại" . Nó sẽ làm cho một người cán bộ, người công dân trong xã hội ta
trở nên xa rời quần chúng, thiếu trách nhiệm trong công việc. Cũng vì vô cảm mà
nhiều bác sĩ đã để cho nhiều bệnh nhân cần phải cấp cứu mà phải nằm chờ hàng nửa
tiếng đồng hồ nên đã dẫn đến hậu quả bệnh nhân bị chết một cách oan khuất. Cũng vì
vô cảm mà nhiều thầy giáo không hề quan tâm đến hoàn cảnh éo le của học sinh, mà
cứ mắng mỏ quát nạt các em dẫn đến hậu quả nhiều em bị bệnh trầm cảm, thậm chí là
nhảy lầu tự tử.
Căn bệnh vô cảm là căn bệnh của những người sẵn sàng quay lưng lại với
những nỗi đau khổ, bất hạnh của đồng loại, sẵn sàng làm ngơ trước cái xấu, cái ác, nên
làm cho cái xấu, cái ác có mảnh đất mầu mỡ để sinh sôi nẩy nở như "cỏ mọc hoang"
và đang đầu độc, chế ngự cuộc sống tốt đẹp của con người trong xã hội mới của chúng
ta hôm nay.
Căn bệnh vô cảm là căn bệnh của phường ích kỷ luôn luôn nhìn đời bằng cặp
mắt ráo hoảnh. Nó đang làm mất đi một điều vô cùng thiêng liêng và quý giá. Đó là
tình thương giữa con người với con người. Mà tình thương theo Nam Cao, nó là tiêu
chuẩn quan trọng nhất để xác định tư cách con người "Không có tình thƣơng, con
ngƣời chỉ là một con vật bị sai khiến bởi lòng ích kỷ" (Đời thừa). Bệnh vô cảm đang
làm "nhiễm mặn" , vẩn đục và xói mòn dần truyền thống đạo lý đẹp nhất của con
người Việt Nam: "Thƣơng ngƣời nhƣ thể thƣơng thân" . Và khi căn bệnh này ngự trị,
thì con người sống với con người trong mối quan hệ hết sức lỏng lẻo. Ở đó thiếu hơi
ấm của tình thương, của niềm cảm thông, của sự cưu mang, đùm bọc, sẻ chia, giúp đỡ
lẫn nhau. Một cuộc sống như thế là cuộc sống của "Một sa mạc đời đìu hiu lạnh giá".
Thật buồn đau và thất vọng biết bao!
328
III. Kết luận
Để xứng đáng với danh nghĩa "con ngƣời" đầy kiêu hãnh, mỗi chúng ta hãy nói
không với bệnh vô cảm, hãy ra sức tu dưỡng lòng yêu thương, vị tha, sự trung thực và
lòng dũng cảm. Hãy cùng nhau làm một việc gì đó dù rất nhỏ để khơi dậy dòng sông
tình nghĩa nhân ái truyền thống của dân tộc để cho nó ngày càng tuôn chảy, ngày càng
trong xanh và long lanh toả sáng./.
Đề 17b. Trước cái đói nghèo và những cuộc đời bất hạnh vẫn còn trong xã hội
nước ta.
HƢỚNG DẪN LÀM BÀI
Đề mở. Đề bài đặt ra một vấn đề xã hội rất đáng quan tâm ở nước ta hiện nay để
người viết bàn luận một cách rộng rãi theo chủ kiến của mình, không định hướng trước
hoặc khuôn vào một nội dung, ý tưởng nào cả. Phạm vi bàn luận rất rộng, người viết
có thể bàn luận toàn bộ vấn đề hoặc chỉ đề cập, đi sâu vào một, hai khía cạnh mà
mình tâm đắc và nắm vững nhất. Dưới đây là một số gợi ý về luận đề đặt ra của đề bài:
- Vì sao ở đất nước ta vẫn còn đói nghèo và những cuộc đời bất hạnh?
- Cần nhìn nhận hiện tượng đói nghèo và những cuộc đời bất hạnh đó như thế
nào?
- Trách nhiệm và tình thương của cộng đồng trước hiện tượng xã hội đó:
+ Chống bệnh vô cảm, dửng dưng đối với đồng loại, ở đây lại là đồng bào trong
một nước.
+ Xuất phát từ tình thương và trách nhiệm để có biện pháp giúp đỡ người nghèo,
người tàn tật, bất hạnh một cách có hiệu quả nhất:
Giúp đỡ về vật chất (tiền bạc, nhà cửa)...để họ vượt qua.
329
Giúp đỡ về tinh thần, nghị lực, nghề nghiệp, cách sống....để họ tạo dựng
cuộc sống, đi lên bằng chính đôi chân của mình.
Lập các hội từ thiện, các tổ chức nhân đạo giúp người nghèo, người tàn
tật,...
- Nêu những tấm gương tiêu biểu:
+ Về những cá nhân, tổ chức giúp đỡ người nghèo, người tàn tật có hiệu quả.
+ Về những tấm gương vượt khó đi lên của chính những người nghèo, người
tàn tật.
BÀI LÀM THAM KHẢO
Mở bài:
Nhiễu điều phủ lấy giá gƣơng
Ngƣời trong một nƣớc phải thƣơng nhau cùng.
Nhân dân ta vốn có truyền thống nhân đạo. "Thương người như thể thương
thân", "Lá lành đùm lá rách" không chỉ là những câu nói cửa miệng mà chính là tấm
lòng sâu thẳm và hành động chí tình của những người con Lạc cháu Hồng trên dải
hình chữ S từ bao đời nay đã cưu mang, đùm bọc lẫn nhau. Ngày xưa đã thế, ngày nay
lại càng hơn thế. Truyền thống tốt đẹp của dân tộc đã gặp ánh sáng khoa học của thời
đại để tạo nên những hiệu quả to lớn đẩy lùi cái đói nghèo và những cuộc đời bất hạnh
vẫn còn trong xã hội trên bước đường đi lên của đất nước.
Thân bài:
1) Vì sao đất nƣớc ta vẫn còn đói nghèo và những cuộc đời bất hạnh
Đất nước đang đổi mới, phát triển, đi lên nhưng cái đói nghèo và những cuộc
đời bất hạnh vẫn còn hiện hữu trong xã hội - chua xót và nhức nhối! Vì sao như vậy và
cần nhìn nhận hiện tượng đó như thế nào? Đi lên từ một đất nước nông nghiệp lạc hậu
hàng ngàn năm nay, không thể một sớm một chiều có thể xoá bỏ ngay được cái đói
nghèo ấy. Lại nữa, và đây mới là nguyên nhân chủ yếu, đất nước ta đã trải qua ba
mươi năm chiến tranh ác liệt, hậu quả của nó để lại không chỉ là cái đói nghèo mà còn
là những cuộc đời bất hạnh của bao nhiêu con người tàn tật do chiến tranh, đặc biệt là
330
những di chứng khôn lường của chất độc màu da cam đi-ô-xin mà kẻ thù đã rải xuống
trên nhiều vùng đất nước và nhiễm độc vào hàng triệu con người. Nhìn nhận như vậy
mới thấy được tội ác tày trời của kẻ thù xâm lược, càng nhận rõ sự đau khổ ghê gớm
của "nạn nhân chiến tranh" mà nhân dân ta phải hứng chịu, càng yêu thương, chia sẻ
và có trách nhiệm hơn đối với những cuộc đời bất hạnh đó. Đói nghèo và bất hạnh
không còn là của riêng ai mà trở thành một vấn đề nhức nhối của toàn xã hội đòi hỏi
mọi người phải chung lưng đấu cật để cùng giải quyết. Ở đây vừa là tình thương vừa là
trách nhiệm. Tình thương giữa những con người với nhau "thương người như thể
thương thân", nhưng cũng là trách nhiệm của "người trong một nước phải thương nhau
cùng". Chính vì thế, chúng ta phải chống bệnh vô cảm, phải lên án những người dửng
dƣng, không quan tâm đến cái đói nghèo và những cuộc đời bất hạn vẫn trong xã hội
nước ta. Vì chất độc da cam, nhiều cặp vợ chồng không thể có con hoặc chỉ sinh ra
những quái thai; vì chất độc da cam, những em bé mới ra đời đã bị tật nguyền, không
nhìn thấy ánh sáng, không nghe được âm thanh, không sinh hoạt như con người bình
thường, trở thành gánh gặng và nỗi ám ảnh suốt cuộc đời của gia đình và xã
hội...Những con người như thế, lẽ nào ta có thể dửng dưng, vô cảm được, trong khi ta
được sống đầy đủ, sung sướng, được ăn ngon, mặc đẹp, được vui chơi, học hành thoải
mái? Theo tôi, dửng dưng, vô cảm trước những con người này là một sự thất đức, chưa
nói là có quan tâm đến họ, có giúp đỡ họ không? Bởi, không là họ hàng, nhưng họ
cũng là đồng bào, cùng dân tộc, và chí ít, họ cũng là con người, là đồng loại của ta; và
quan trọng hơn, họ chính là "nạn nhân" của một cuộc chiến tranh tàn khốc do kẻ thù
gây ra trên đất nước ta, trên quê hương của họ. Lẽ nào ta lại có thể vô cảm, nhẫn tâm
như thế!
2. Cần nhìn nhận hiện tƣợng trên nhƣ thế nào?
Đương nhiên, số người vô cảm, dửng dưng, nếu có, cũng chỉ là số ít và đó là
điều đáng tiếc. Dòng máu thương người của dân tộc Việt Nam không cho phép như
vậy. Và trong thực tế, cả nước đã đến với họ - những người nghèo, tàn tật, bất hạnh -
để cùng sẻ chia, đùm bọc họ trong cánh tay yêu thương của mình. Nhiều tổ chức được
thành lập - cấp Nhà nước, cấp tỉnh, cấp hội, đoàn thể,... để cứu trợ; nhiều cơ quan,
công ty, nhà máy, thậm chí không hiếm những cá nhân đã trở thành những "Mạnh
Thường Quân" của người nghèo, người tàn tật, người bất hạnh; nhiều bà mẹ, người
331
chị...đã trở thành những "bà Tiên" , "bà Phật" của người nghèo ngày nay như trong cổ
tích xưa, và nhiều câu chuyện đã trở thành huyền thoại như chàng thanh niên Nguyễn
Hữu Ân vừa tự học đại học vừa nuôi người mẹ ruột và mẹ nuôi trong bệnh viện, cô
sinh viên Nguyễn Hoàng Oanh tự kiếm sống để vừa học vừa nuôi ba chị em nghèo
khiếm thị ở Quảng Bình,...
3. Ý nghĩa của những việc làm tình thƣơng. Trách nhiệm của cộng đồng và mỗi
chúng ta.
Những nghĩa cử ấy, những tấm lòng ấy chắc chắn sẽ sưởi ấm, động viên nhiều
cho những người nghèo, người bất hạnh vượt qua khó khăn, vươn lên trong cuộc sống.
Sự giúp đỡ về vật chất (tiền của, nhà cửa) là rất cần để tạo dựng cuộc sống cho họ. Đó
là yếu tố cần thiết ban đầu. Nhưng điều quan trọng hơn là phải truyền cho họ nghị lực,
niềm tin và cách sống tự lập trên chính đôi chân và bàn tay của họ. Ai đó đã nói rất
đúng: "Cho con cá đã quý, nhưng cho cái cần câu để câu cá còn quý hơn". Phải tạo cho
họ một nghề nghiệp ổn định để họ tự sống và chính họ sẽ tự xoá bỏ cái đói nghèo và
đẩy lùi sự bất hạnh của mình từng bước. Điều này mang ý nghĩa nhân văn lớn lao khi
chính họ sẽ tự định đoạt lấy cuộc đời và hạnh phúc của họ. Trong thực tế đã có nhiều
tấm gương người nghèo, người tàn tật, bất hạnh tự đi lên bằng nghị lực, niềm tin, sức
mạnh của mình và họ đã trở thành những người hữu ích cho xã hội, được xã hội tôn
vinh và yêu quý. Đó cũng là một tiền đề quan trọng giúp cho đất nước xoá bỏ đói
nghèo, tiến lên xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh như mong muốn
của Đảng và nhân dân ta.