lý do chọn Đề tài · web viewlý do chọn Đề tài ngày nay cùng với sự phát...
TRANSCRIPT
Lý Do Chọn Đề TàiNgày nay cùng với sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật và khối lượng tri
thức của nhân loại, cùng với các cuộc cách mạng về vận chuyển - viễn thông - du lịch các
quốc gia trên thế giới đang bước vào giai đoạn đầu tiên của quá trình mở rộng cánh cửa trong
mọi lĩnh vực để hội nhập với thế giới bên ngoài. Quá trình khu vực hóa, toàn cầu hóa, cùng
với một số học thuyết như học thuyết "thế giới phẳng" đó chứng minh một chân lý rằng : "hội
nhập để tồn tại và phát triển". Thực tế đó chỉ ra rằng không một quốc gia nào có thể phát triển
nếu như tự cô lập mình và tuyên bố không cần thiết lập mối quan hệ quan hệ với các nước
khác.
Thuật ngữ toàn cầu hóa (globalization) hiện nay đã xuất hiện trong mọi cuốn từ điển
và mọi ngôn ngữ, mặc dù là một từ mới xuất hiện trong cuối thế kỷ XX. Cùng với nó, thuật
ngữ khu vực hóa cũng là một trong những từ xuất hiện nhiều nhất trong các trang báo và
những tác phẩm nghiên cứu gần đây. Điều này nói lên rằng thế giới đang xích lại gần nhau
hơn và các mối quan hệ bang giao giữa các nước không còn là các mối quan hệ cục bộ và
khép kín như trong các thời kỳ văn minh trước đây. Đa phương hóa cùng với quá trình hội
nhập toàn cầu là xu hướng tất yếu và mở ra một thời kỳ phát triển mới của nhân loại.
Trong quá trình này, Việt Nam là một trong những nước tham gia muộn do các yếu tố
về mặt lịch sử - văn hóa. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, cùng với sự nỗ lực của Đảng,
Nhà nước và với tinh thần vươn lên mạnh mẽ của cả dân tộc; vị thế của đất nước ngày càng
được khẳng định, nền kinh tế phát triển bùng nổ, những thành tựu lớn về mặt văn hóa - xã
hội... Việt Nam đang có bước đi đúng đắn trong tiến trình này thông qua những sự kiện lớn
như: tham gia tổ chức thương mại thế giới (WTO); thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 220
nước; trở thành thành viên của nhiều tổ chức lớn và có uy tín (liên hợp quốc,ASEAN,
APEC...) năm 2010 Việt Nam là chủ tịch của ASEAN.Mặt khác, do tham gia muộn cộng với
điều kiện kinh tế còn hạn chế, nước ta phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức trong
quá trình hội nhập.
Cũng như các nền kinh tế khác, kinh tế Việt Nam cũng phải đối mặt với nhiều thách
thức và có nhiều thời cơ hơn bao giờ hết cụ thể là cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008-
2009 đã làm cho cả nền tài chính thế giới sụp đổ trong tương lai sẽ còn nhiều rủi ro mà chung
ta không thể lường trước đươc.
1
Để tồn tại và phát triển trong thời kỳ mới, đòi hỏi các doanh nghiệp của Việt Nam có
sự thích ứng nhạy bén, năng động, sáng tạo và đặc biệt phải có được chiến lược phát triển
doanh nghiệp phù hợp nhằm thu lại lợi ích tối đa cho doanh nghiệp và mang lại lợi ích cho đất
nước. Các doanh nghiệp giữ vai trò ổn định nền kinh tế ở phần lớn các nền kinh tế và Làm
cho nền kinh tế năng động:Đây cũng là chủ đề của bài luận này với tiêu đề : “ Nâng cao khả
năng thích ứng của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế
” .Các doanh nghiệp là một trong các tế bào vi mô của nền kinh tế các doanh nghiệp lớn mạnh
thì nền kinh tế sẽ lớn mạnh .Doanh nhiệp ổn định thì đất nước ổn định và phát triển.
2
Phần II :Nội dung
Chương I : Những cơ hội của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời kỳ hội
nhập kinh tế thế giới.
1.Những cơ hội của nền kinh tế Việt Nam khi gia nhập nền kinh tế thế giới
Tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đối với việc xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong sự nghiệp đổi mới hiện nay. Cùng với quá
trình mở cửa, phát triển kinh tế thị trường, định hướng XHCN, Đảng ta đã khẳng định toàn
cầu hoá kinh tế là xu thế khách quan, một mặt tạo ra những điều kiện cho ta cơ hội để hội
nhập quốc tế, thực hiện bước “đi tắt đón đầu”, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước .
Như vậy, quá trình toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế có thể tạo ra cơ
hội và đồng thời cũng đặt ra thách thức đối với sự phát triển của văn hóa Việt Nam.
Về thời cơ, hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện thuận lợi để đổi mới tư duy về kinh
tế, tạo cơ hội cho quá trình đổi mới tư duy về văn hóa trong cơ chế thị trường, định hướng
XHCN và mở rộng giao lưu văn hóa trong xu thế toàn cầu hoá. Đây là cơ hội rất lớn để chúng
ta xem xét, đánh giá vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội, gắn kết chặt chẽ
nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa với nhiệm vụ phát triển kinh tế và xây dựng Đảng,
củng cố hệ thống chính trị, khai thác văn hóa như một động lực, như một nguồn lực để phát
triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt là trong thời kỳ xuất hiện nền kinh tế thị trường và xã hội thông
tin, khoa học – công nghệ, một thành tựu lớn của sự sáng tạo văn hóa trở thành nguồn lực trực
tiếp thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội để phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học - công
nghệ, xây dựng và phát triển nguồn lực con người, đặc biệt là nâng cao trình độ chuyên môn
của đội ngũ trí thức và nguồn nhân lực chất lượng cao trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, góp phần xây dựng văn minh đô thị và công nghiệp, tạo động lực để hiện
đại hoá văn hóa dân tộc. Hiện đại hoá văn hóa dân tộc trước hết phải được chuẩn bị trong hệ
thống giáo dục - đào tạo và trong hệ thống giáo dục ngoài nhà trường để tạo lập môi trường
văn hóa lành mạnh cho quá trình xây dựng con người đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới
đất nước và sự biến đổi của tình hình quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội để chuyển giao vốn, chuyển giao khoa học kỹ
thuật, công nghệ, chuyển giao kỹ năng và kinh nghiệm tổ chức và phát triển các ngành công
nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa (công nghệ truyền thông, công nghệ sản xuất phim, băng
3
hình, dịch vụ vui chơi giải trí, thúc đẩy quá trình dân chủ hoá về thông tin toàn cầu, kích thích
năng lực sáng tạo của nền văn hóa dân tộc.
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra cơ hội để mở rộng xuất nhập khẩu văn hóa phẩm, mở
rộng hợp tác quốc tế về văn hóa, góp phần nâng cao trình độ dân trí, đáp ứng nhu cầu văn hóa
tinh thần ngày càng cao của nhân dân du nhập các loại hình văn hóa, nghệ thuật, giải trí, thể
thao, giới thiệu các thành tựu văn hóa Việt Nam ra nước ngoài...).
Hội nhập kinh tế quốc tế góp phần tăng trưởng kinh tế, tạo điều kiện để xây dựng cơ
sở vật chất kỹ thuật hiện đại cho sự nghiệp phát triển văn hóa dân tộc. Các khu công nghiệp,
khu chế xuất mọc lên nhiều các liên doanh, liên kết kinh tế quốc tế mở rộng, các khu vui chơi
giải trí, văn hóa, thể thao được nâng cấp, tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu học tập, thưởng thức
văn hóa, nghệ thuật của nhân dân ngày càng cao.
Nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế về kinh tế, chính trị, ngoại giao, Các
đối tác kinh tế, thương mại đánh giá Việt Nam như là một đối tác quan trọng và giàu tiềm
năng của khu vực Ðông - Nam Á. Vai trò của nước ta trong các hoạt động của WTO,
ASEAN, APEC, ASEM và các tổ chức quốc tế ngày càng được nâng cao. Ðặc biệt, việc trở
thành Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an LHQ nhiệm kỳ 2008 - 2009 đã chứng tỏ
uy tín quốc tế ngày càng cao của Việt Nam. Hiên nay Việt Nam là Chủ tịch Asean năm 2010
Hội nhập kinh tế quốc tế tác động vào tinh thần dân tộc, ý thức cộng đồng, kích thích
tinh thần dân tộc phát triển, thúc đẩy tinh thần cạnh tranh để nâng cao vị thế văn hóa của dân
tộc trong khu vực và cộng đồng quốc tế.
Hội nhập tạo ra lợi thế cạnh tranh mới của kinh tế VAC (Vườn - Ao - Chuồng). Nghề
trồng trọt, nghề làm vườn... từ lâu đã là niềm tự hào của nông dân Việt Nam. Xuất phát từ nền
kinh tế nông nghiệp, với trí thông minh, linh hoạt, tiếp thu nhanh và cần cù lao động cộng với
bàn tay khéo léo, óc thẩm mỹ và sự sáng tạo, chỉ sau hơn 30 năm, nông dân nước ta đã thoát
được đói, giảm được nghèo, vươn lên đứng trong top đầu thế giới về xuất khẩu một số mặt
hàng nông sản như gạo, cao su, càphê, hồ tiêu, điều, chè, thuỷ sản, đồ gỗ... VAC đã trở thành
danh từ đi vào từ điển Việt Nam, được “xuất khẩu” ra nước ngoài như một thương hiệu của
thời kỳ đổi mới, có luận cứ khoa học, có thành tựu được khẳng định và đang tiếp tục được
nghiên cứu phát triển, hoàn thiện. Khi hội nhập kinh tế tạo điều kiện nâng cao vị thế của các
sản phẩm nông nghiệp Việt Nam trên trường quốc tế .Việt Nam với xuất phát là một nước
nông nghiệp vì vậy đây là một lợi thế cần được chú ý phát triển.
Mở rộng thị trường, tăng quy mô sản xuất từ đó hưởng tính lợi ích kinh tế nhờ quy mô
.Giảm chi phí xuất khẩu gắn với việc phân bổ hạn ngạch, từ đó làm tăng khả năng cạnh tranh
của hàng xuất khẩu.Các doanh nghiệp gặp nhiều thuận lợi hơn trong thủ tục xuất khẩu, từ đó
4
tăng kim ngạch xuất khẩu. Hệ thống luật pháp trở nên thuận lợi hơn đối với các hoạt động
kinh doanh và doanh nghiệp bảo vệ bởi các công cụ giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế
Xuất khẩu của Việt Nam sẽ không bị bó hẹp trong các hiệp định song phương và khu
vực mà sẽ có thị trường toàn cầu. Các doanh nghiệp và hàng hóa của ta sẽ không bị phân biệt
đối xử so với doanh nghiệp và hàng hóa của các nước khác theo điều kiện đối xử tối huệ quốc
(MFN) và đối xử quốc gia (NT).
Hệ thống chính sách của ta được làm rõ theo quy định của WTO, sẽ tạo điều kiện cho
các nhà đầu tư yên tâm đầu tư vào Việt Nam, tǎng khả nǎng thu hút vốn, công nghệ và học
hỏi được các kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Hệ thống kinh tế - thương mại dựa trên các
nguyên tắc chứ không phải là sức mạnh, sẽ làm cho hoạt động sản xuất - kinh doanh dễ dàng
hơn với tất cả các thành viên. WTO có cơ chế giải quyết tranh chấp giúp cho các nước nhỏ
hơn sẽ có nhiều tiếng nói hơn.Việc giảm bớt hàng rào thương mại cho phép thương mại tǎng
trưởng, góp phần làm tǎng trưởng kinh tế nói chung.
5
2. Những thành tựu đã đạt được :
Nước ta triển khai hội nhập kinh tế quốc tế chưa lâu, kinh nghiệm còn hạn chế nhưng
cũng đã mang lại những kết quả bước đầu khá khả quan. Đó là:
Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá và hội
nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 170 nước và có quan
hệ kinh tế - thương mại với trên 160 nước và vùng lãnh thổ, với hầu hết các tổ chức quốc tế,
khu vực quan trọng.
Đẩy lùi được chính sách bao vây, cấm vận của các nước, thế lực thù địch. Tạo được
thế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, nâng cao vị thế của Việt Nam trên
chính trường và thương trường quốc tế. Đã củng cố và tăng cường quan hệ đoàn kết, hợp tác
và hữu nghị với các nước xã hội chủ nghĩa, các nước láng giềng có chung biên giới; góp phần
tích cực củng cố sự gắn kết, giữ vững nguyên tắc cơ bản của ASEAN, thúc đẩy quan hệ hợp
tác nội khối và với bên ngoài.
Tiếp tục mở rộng và tăng cường quan hệ hợp tác, phát triển ổn định, lâu dài với nhiều
nước khác trên thế giới. Tích cực tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu như xóa đói, giảm
nghèo, phòng chống các dịch bệnh hiểm nghèo, chống khủng bố, phòng chống thiên tai, bảo
vệ môi trường, ủng hộ và tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới chống
chiến tranh. Quan hệ đối ngoại của Đảng, hoạt động đối ngoại nhân dân sống động hơn. Xử lý
kịp thời, có hiệu quả các vấn đề phức tạp nảy sinh trong quan hệ đối ngoại với các nước. Việt
Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào
ngày 11-1-2007 là một dấu mốc quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước
ta. Những thành tựu đạt được trong hai năm qua cho thấy, việc Việt Nam tham gia vào WTO
là phù hợp với thực tế khách quan và xu thế hợp tác, hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra
ngày càng mạnh mẽ và sâu sắc trên thế giới hiện nay. Trên tinh thần chủ động hội nhập, cùng
với việc tham gia Khu vực Thương mại Tự do ASEAN (AFTA), Thỏa thuận ASEAN - Trung
Quốc, ASEAN - Hàn Quốc, thực hiện các thỏa thuận song phương như Hiệp định Thương
mại Việt Nam - Hoa Kỳ, Hiệp định đối tác Kinh tế toàn diện với Nhật Bản, tham gia các diễn
đàn hợp tác kinh tế liên khu vực ASEM, APEC, Việt Nam đã thật sự hội nhập vào nền kinh tế
thế giới. Ngay sau khi gia nhập WTO, chúng ta cũng đã bắt tay vào xây dựng Chiến lược hội
nhập kinh tế quốc tế. Ngày 5-2-2007, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Ðảng
khóa X đã ban hành.
6
Nghị quyết số 08-NQ/T.Ư về "Một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát
triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của WTO". Theo đó, Chính phủ, các bộ,
ngành và địa phương cũng đã ban hành các Chương trình hành động theo các định hướng lớn
của Ðảng. Ðể thực hiện nghĩa vụ thành viên WTO, Việt Nam đã tiến hành điều chỉnh chính
sách thương mại theo hướng minh bạch và thông thoáng hơn, ban hành nhiều luật và các văn
bản dưới luật để thực hiện các cam kết đa phương, mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ, cũng
như các biện pháp cải cách đồng bộ trong nước nhằm tận dụng tốt các cơ hội và vượt qua
thách thức trong quá trình hội nhập. Hiện nay là chủ tịch luân phiên của Asean năm 2010
ngày càng khẳng định vai trò và vị trí của mình.
Khắc phục được tình trạng khủng hoảng thị trường do hệ thống xã hội chủ nghĩa ở
Liên Xô (cũ) và các nước Đông Âu sụp đổ, khủng hoảng kinh tế trong khu vực năm 1997,
đồng thời cũng đã mở rộng được thị trường xuất khẩu. Nền kinh tế đã vượt qua giai khủng
hoảng tài chính toàn cấu năm 2007 và đạt mức tăng trưởng ổn định năm 2009 chất lượng,
hiệu quả và sức cạnh tranh của một số lĩnh vực và sản phẩm có chuyển biến. Cơ cấu của nền
kinh tế tiếp tục có bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa và từng bước hiện đại hóa.
Tiếp tục thực hiện có kết quả chủ trương giữ vững độc lập, tự chủ về kinh tế, có tiến bộ đáng
kể trong việc phát huy các nguồn nội lực của đất nước, của các thành phần kinh tế cho đầu tư
phát triển; đồng thời tiếp tục mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế. Thể chế kinh tế tiếp tục được
đổi mới, đang tiếp tục hình thành và phát triển các loại thị trường.
Năm 2004, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của cả nước đạt 26,003 tỷ USD, tăng
28,9% so với năm 2003 và là mức tăng cao nhất trong bốn năm trở lại đây. Ðây là một trong
những thành tựu nổi bật của nền kinh tế nước ta năm qua. Cụ thể, 11 tháng của năm 2009,
kim ngạch xuất khẩu đạt 51 tỷ USD. Dự kiến tháng 12 này, chúng ta sẽ xuất khẩu được
khoảng hơn 5 tỷ USD nữa. Như vậy cả năm, cả nước kim ngạch xuất khẩu ước khoảng hơn
56,5 tỷ USD. Nhìn vào xuất khẩu thì thấy một số mặt hàng phát triển tương đối tốt, vượt cả kế
hoạch, ví dụ như hạt tiêu tăng hơn 5%, đặc biệt gạo đã tăng tới 24,4% so với kế hoạch, than
đá và dầu thô cũng duy trì được kim ngạch. Xuất khẩu nông sản được xem là thành công khi
tính đến thời điểm hiện nay, tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm, thủy sản đã
đạt khoảng 15 tỷ USD, trong đó nông sản đạt trên 8 tỷ USD, thủy sản trên 4 tỷ USD, lâm sản
trên 2 tỷ USD. Trong khi đó, đối với lĩnh vực công nghiệp, mặt hàng dệt may đã gần chạm
đích khi kim ngạch có thể đạt 9,1 tỷ USD, da giầy đạt khoảng 4,1 tỷ USD, xuất khẩu đồ gỗ
với nhiều nỗ lực ước đạt 2,7 tỷ USD, chỉ thấp hơn năm 2008 khoảng 100 triệu USD.
7
Thu hút được nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và tranh thủ được nguồn
viện trợ phát triển chính thức (ODA) ngày càng lớn và giảm đáng kể nợ nước ngoài. Năm
2004, vốn thực hiện của khu vực đầu tư nước ngoài đạt 2,85 tỷ USD, tăng 7,5% so với năm
2003 và vượt so với dự kiến ban đầu (mục tiêu năm 2004 là 2,75 tỷ USD). Doanh thu của khu
vực đầu tư nước ngoài trong năm 2004 đạt khoảng 18 tỷ USD, tăng 20% so với năm 2003.
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo thêm việc làm cho 7,4 vạn lao động, đưa
tổng số lao động trực tiếp lên khoảng 74 vạn người. Năm 2004 cả nước đã thu hút được hơn
4,2 tỷ USD vốn đầu tư mới, tăng 37,8% so với năm 2003, trong đó vốn cấp mới đạt trên 2,2 tỷ
USD và vốn bổ sung đạt gần 2 tỷ USD. Trong tháng 1 năm 2010, ước tính các dự án đầu tư
trực tiếp nước ngoài đã giải ngân được 400 triệu USD, tăng 33,3% so với cùng kỳ năm 2009.
Đây là mức tăng khá cao trong tháng đầu tiên của năm 2010 Trong tháng 01 năm 2010, tính
cả dầu thô các doanh nghiệp ĐTNN đã xuất khẩu 2,67 tỷ USD, tăng 35,5% so với cùng kỳ
năm 2009; nếu không kể dầu thô các doanh nghiệp FDI xuất khẩu 2,1 tỷ USD, tăng 35,4% so
với cùng kỳ 2009; nhập khẩu của khu vực ĐTNN đạt 2,35 tỷ USD, tăng 87,8% so với cùng kỳ
năm trước. Cũng trong tháng, đã có 40 dự án được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn
đầu tư đăng ký 285,1 triệu USD; bằng 80% về số dự án và tăng 78,2% về tổng vốn đầu tư so
với cùng kỳ năm 2009. Trong số các dự án cấp mới này, đáng chú ý có các dự án lớn được
cấp phép là: dự án Công ty TNHH Promenada Canany của Thái Lan với mục tiêu xây dựng,
quản lý, vận hành 1 tòa nhà trung tâm thương mại để cho thuê với tổng vốn đầu tư 95 triệu
USD; dự án Công ty TNHH Hoya Lens Việt Nam tại Bình Dương, tổng vốn đầu tư 66 triệu
USD; dự án nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi Hải Dương, tổng vốn đầu tư 37 triệu USD và
dự án Công ty TNHH Yakult Việt Nam tại Bình Dương, tổng vốn đầu tư 25,8 triệu USD.
Cùng trong thời gian đầu năm đã có 3 lượt dự án điều chỉnh tăng vốn với tổng vốn đầu tư
đăng ký tăng thêm là 32,9 triệu USD, tăng 31,6% về tổng vốn đầu tư tăng thêm so với cùng
kỳ năm 2009. Tính chung cả vốn cấp mới và tăng thêm trong tháng Giêng, Việt Nam đã thu
hút thêm 318 triệu USD vốn đầu tư đăng ký, tăng 71,9% so với cùng kỳ năm 2009.
Việc tăng cường vận động xúc tiến đầu tư ở nước ngoài, việc ký kết và thực hiện các
hiệp định song phương liên quan đến đầu tư đã xuất hiện động thái mới về đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam thể hiện qua việc gia tăng số lượng nhà đầu tư vào Việt Nam khảo sát, tìm kiếm
cơ hội đầu tư, kinh doanh. Xu hướng nói trên đã tạo điều kiện để hình thành các dự án đầu tư
mới trong năm 2005. Nếu tính cả số vốn của những dự án mới được cấp phép và số vốn bổ
sung của những dự án đang hoạt động thì tổng số vốn đăng ký mới trong 7 tháng đầu năm
2005 đạt khoảng 3,2 tỷ USD, tăng 66,6% so với cùng kỳ năm trước. Theo số liệu tổng hợp
của Bộ Công Thương, trong năm 2009 các địa phương đã cấp phép cho 169 dự án đầu tư vào
8
mua bán hàng hóa (bao gồm nhập khẩu và phân phối), trong đó, 41 dự án thành lập mới và
128 là dự án đã có hoạt động sản xuất kinh doanh tại Việt Nam bổ sung thêm mục tiêu phân
phối hàng hóa. Do các dự án này đơn thuần kinh doanh thương mại, không gắn với xây dựng
cơ sở vật chất, nên có vốn đầu tư thấp, trung bình 300 nghìn USD/dự án. Đa số các dự án này
mới xin được giấy phép nên thực tế chưa triển khai hoạt động, Bộ Công Thương cho biết. Về
diện mặt hàng, có 26 dự án là phân phối hàng tiêu dùng, 143 dự án là phân phối máy móc
thiết bị và nguyên vật liệu cho sản xuất. Về hình thức kinh doanh, có duy nhất 1 dự án của
Hoa Kỳ đăng ký phân phối thực phẩm chức năng theo hình thức đa cấp. “Cho đến thời điểm
này không có nhà đầu tư nước ngoài đề nghị thành lập cơ sở bán lẻ theo mô hình trung tâm
thương mại”, báo cáo của Bộ Công Thương cho biết. Nguồn vốn đầu tư FDI trong lĩnh vực
mua bán hàng hóa chủ yếu đến từ các quốc gia và vùng lãnh thổ châu Á như Đài Loan, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapore và một số quốc gia khác như Ý, Pháp, Đức.Địa bàn
thu hút nhiều dự án là Hà Nội, Tp.HCM, Bình Dương, Đồng Nai, và Long An.“Hiện đang
xuất hiện xu hướng một số hãng nước ngoài chuyển trụ sở của họ tại các nước Đông Nam Á
về Việt Nam. Điều này tạo cho Việt Nam vị thế mới .Cũng trong năm 2009, Bộ Công Thương
đã xác nhận đăng ký hoạt động nhượng quyền tại Việt Nam cho 25 doanh nghiệp nước ngoài.
Hầu hết trong số này là các doanh nghiệp đã có thương hiệu uy tín lớn trên thế giới và đến từ
các nước phát triển như Anh, Mỹ, Canada, Thụy Sỹ, Italia, Úc, Singapore...
Tiếp thu được nhiều thành tựu mới về khoa học, công nghệ và kỹ năng quản lý. Nhiều
ngành kinh tế mới đã xuất hiện dựa trên cơ sở tăng cao hàm lượng chất xám trong sản xuất -
kinh doanh. Các ngành cơ khí chế tạo, đóng tàu… từng bước được nâng lên tầm cao mới, sản
phẩm ngày càng tạo được uy tín trên thị trường trong và ngoài nước. Cơ cấu kinh tế chuyển
dịch mạnh mẽ theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Tỷ trọng giá trị công nghiệp và
dịch vụ trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) ngày càng tăng, nông nghiệp ngày càng giảm.
Trong đó xu hướng tỷ trọng giá trị của dịch vụ ngày càng tăng, tổng giá trị sản phẩm nông -
công nghiệp ngày càng giảm tương ứng.
Về giáo dục - đào tạo, khoa học công nghệ, phát triển văn hóa xã hội: Giáo dục, đào
tạo và khoa học công nghệ có bước phát triển mới. Nước ta đã đạt chuẩn quốc gia về xóa nạn
mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Phát triển văn hóa, xây dựng đời sống văn hóa và nếp
sống văn minh có tiến bộ ở tất cả các tỉnh, thành trong cả nước. Việt Nam đã nhảy lên vị trí
thứ 9 với tỷ lệ tăng ngoạn mục 46% trong "bảng tổng sắp"10 nơi có số lượng sinh viên đang
học ở Mỹ nhiều nhất. Năm học 2008 - 2009, các trường CĐ, ĐH ở Mỹ đang có gần 13.000
SV Việt Nam.Đây là năm thứ ba liên tiếp, tỷ lệ sinh viên Việt Nam học ở Mỹ tăng (năm học
2007-2008: 45%, năm trước: 31%). Đồng thời, "thứ hạng" đã nhích lên 11 bậc so với 2 năm
9
trước đó.Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân đã được chú trọng hơn. Công tác dân số và kế
hoạch hóa gia đình đạt kết quả tốt. Phong trào toàn dân rèn luyện tập thể dục thể thao được
đẩy mạnh. Công tác xóa đói giảm nghèo tiếp tục đạt kết quả quan trọng, giải quyết việc làm
có tiến bộ, mức sống của các tầng lớp dân cư ở các vùng, miền trong cả nước tiếp tục được cải
thiện. Công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, tiêu cực, tệ nạn xã hội được đẩy mạnh, kiên
quyết có hiệu quả hơn.
Về quốc phòng an ninh Tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định; quốc phòng và an
ninh được tăng cường. Các lực lượng vũ trang và nhân dân làm tốt nhiệm vụ bảo vệ độc lập
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm an ninh quốc gia. Tổ chức quân đội và công an được
điều chỉnh theo yêu cầu mới. Việc kết hợp quốc phòng và an ninh với phát triển kinh tế và
công tác đối ngoại có tiến bộ..Bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng
đối với lực lượng vũ trang tạo cơ sở pháp lý cho thực hiện nhiệm vụ quốc phòng và an
ninh.Tiếp tục xây dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân theo hướng cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, vững vàng về chính trị, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc,
Đảng và nhân dân.Xây dựng được thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân
dân, nhất là ở những vùng trọng điểm.Ngăn chặn và làm thất bại âm mưu chống phá của các
thế lực thù địch .Giải quyết có hiệu quả các vụ việc đột xuất, phức tạp, đẩy mạnh cuộc đấu
tranh phòng chống tội phạm, góp phần bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Công bố sách trắng quốc phòng 2009 lần đầu tiên, Việt Nam công khai ngân sách quốc
phòng, năm 2008 khoảng 27.000 tỉ đồng, chiếm 1,8% ngân sách quốc gia. Sách Trắng nêu
chủ trương của Việt Nam duy trì và phát triển quốc phòng đủ mạnh, kiên trì chính sách quốc
phòng mang tính chất hòa bình, tự vệ mà trọng tâm là xây dựng nền quốc phòng toàn dân.
Việt Nam xây dựng quân đội có tổ chức chặt chẽ, có kỷ luật nghiêm, có lực lượng thường trực
hợp lý, lực lượng dự bị hùng hậu, được huấn luyện và trang bị các loại vũ khí ngày càng hiện
đại, đủ khả năng bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, các lợi ích quốc gia
và chế độ dân chủ nhân dân
Nước ta gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) từ cuối năm 2007, chính nhờ
hội nhập, kinh tế VAC đã tạo được lợi thế mới. Đến nay, đã có 17 mặt hàng liên quan đến
VAC xuất khẩu ra thị trường nước ngoài, gồm bưởi Năm Roi, bưởi da xanh, nhãn tiêu da bò,
vải thiều, chôm chôm Đồng Nai, thanh long Bình Thuận, chanh quả, ớt, mãng cầu ta (na) Tây
Ninh, sapôchê (hồng xiêm), dưa hấu, chuối tiêu, vú sữa Lò Rèn, dứa, dừa, xoài cát Hoà Lộc,
xoài cát Chu. Tổng giá trị xuất khẩu rau quả năm 2008 đạt 390 triệu USD. Với con số này,
chúng ta hoàn toàn có khả năng về trước thời gian kế hoạch đạt 450 triệu USD kim ngạch
xuất khẩu rau quả vào năm 2010.
10
Về hoa, chúng ta có bước tiến vượt bậc. Chỉ sau 15 năm đầu tư, các công ty nước
ngoài và nông dân ở Lâm Đồng đã xây dựng hệ thống sản xuất hoa và giống hoa sánh ngang
với trình độ sản xuất hoa tiên tiến nhất thế giới của Hà Lan. Hiện nay, vùng hoa ứng dụng
công nghệ cao ở đây đã lên tới 10.000ha, thu nhập đạt 100 triệu đồng đến 2 tỷ đồng/ha, trong
đó có 1.200ha hoa trồng trong nhà kính, nhà lưới. Nông dân Việt Nam đã xuất khẩu được hoa
và giống hoa sang thị trường Nhật Bản, Australia, EU... Theo Sở Nông nghiệp và PTNT Lâm
Đồng, năm 2008, kim ngạch xuất khẩu hoa của tỉnh đã đạt 66 triệu USD, tăng bình quân
20%/năm.
Về quả, một thí dụ là không ai nghĩ có thể xuất khẩu được mãng cầu ta vì khó chế
biến, vỏ mỏng, mau chín, khó vận chuyển. Nhưng hiện nay, bà con nông dân ở Tây Ninh đã
xây dựng được vùng chuyên canh mãng cầu ta rộng gần 4.000ha có chất lượng cao, trồng theo
kỹ thuật tiên tiến, phân lô theo tuổi vườn, áp dụng trồng một tuổi giống, chăm sóc theo quy
trình, đồng loạt đánh lá và bón phân, tưới tiêu chủ động, thu hái đúng độ chín để xuất khẩu.
Nhiều nông dân giỏi còn chăm cho cây tốt rồi đồng loạt tuốt hết lá, tạo khô hạn, kích thích ra
hoa trái vụ, giá trị thu nhập tăng gấp 4-5 lần so với chính vụ. Mãng cầu ta Tây Ninh có trái
đều, trọng lượng khoảng 300 - 350g/quả, mắt lì và nở màu xanh ngọc, vỏ mỏng. Gần đây, Tây
Ninh đã xuất khẩu được mãng cầu qua đường hàng không. Vì thế ở vùng này đã xuất hiện
một từ: “Mãng cầu bay”. Hoa và mãng cầu ta vốn được coi là nông sản khó xuất khẩu vậy mà
nông dân Việt Nam đã làm được. Từ đây, chúng ta có thể tin rằng, các loại trái cây khác hoàn
toàn có thể “cất cánh” ra thế giới thành công. Bản chất của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là
phát triển công nghệ. Để có thể sản xuất hàng hoá, hiện nay thế giới đang áp dụng công nghệ
GAP (thực hành sản xuất tốt) trong sản xuất lương thực, thực phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu
của người tiêu dùng. Vì vậy, VAC của nước ta cần đi theo xu hướng này và ứng dụng rộng rãi
thành tựu công nghệ đã được quốc tế hoá, đồng thời tiếp biến công nghệ, sáng tạo công nghệ
thích nghi, cụ thể là tiêu chuẩn Việt GAP cho thương hiệu đặc sản Việt Nam với nhiều tầng,
nhiều loại cho từng cây, con, từng vùng sinh thái, phù hợp với các hình thức tổ chức sản xuất
hàng hoá như hộ lớn, trang trại, nhóm hộ, hợp tác xã, doanh nghiệp... Để thích ứng với xu
hướng mới này, trong giai đoạn mới, hệ thống tổ chức sản xuất - khoa học nông nghiệp và
nông dân, tổ chức Hội Làm vườn các cấp cần tập trung nghiên cứu, tổng kết, phổ cập công
nghệ VietGAP để nhân rộng các mô hình GAP như hợp tác xã nho Ba Mọi (Ninh Thuận), hợp
tác xã gạo Tân Hiệp (Kiên Giang), hợp tác xã quả Mỹ Thành (Tiền Giang), hợp tác xã chè
Tân Cương (Thái Nguyên)... , tạo nên giá trị gia tăng và lợi nhuận cho nông dân.
Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) cho biết, tính đến hết tháng 25/11/2009, Việt
Nam đã xuất khẩu được 5,6 triệu tấn gạo, đạt giá trị 2 tỷ 266 triệu USD, tăng 33% về số
11
lượng, nhưng lại giảm 7,7% giá trị so với cùng kỳ năm 2008. Đó là điều được nhận ra rất sớm
khi liên tục những tháng đầu năm 2009 khi giá gạo vào thời điểm khá thấp, có lúc chỉ còn 365
USD một tấn gạo 5% tấm. Nếu tính bình quân giá xuất khẩu chỉ đạt 404,69 USD một tấn,
giảm 180,86 USD so với năm 2008. Một dự báo thị trường xuất khẩu gạo 2010 tốt sẽ giúp giá
cả tăng lên và người làm ra hạt lúa cũng thu lợi khá hơn. Các chuyên gia cho rằng đây cũng là
thời cơ để nâng giá trị hạt gạo Việt Nam.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam trong quý I/2010 là 32,3 tỷ
USD, tăng 19,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu là 14,46 tỷ USD, tăng 1,6%
và nhập khẩu là 17,86 tỷ USD, tăng 40,2%. Cán cân thương mại hàng hoá thâm hụt 3,4 tỷ
USD, bằng 23,5% xuất khẩu. :
- Hàng dệt may: tháng 3/2010, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam là 810 triệu
USD, tăng 36% so với tháng trước, nâng tổng kim ngạch nhóm hàng này trong quý I/2010 lên
hơn 2,22 tỷ USD, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm 2009. Các thị trường chính nhập khẩu hàng
dệt may của Việt Nam là Hoa Kỳ: 1,29 tỷ USD, tăng 23%; EU: 329 triệu USD, giảm 2,3%;
Nhật Bản: 236 triệu USD, tăng 7,9%.
- Giày dép các loại: Xuất khẩu giày dép các loại tháng 3/2010 đạt 330 triệu USD, tăng
21,9% so với tháng trước, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này quý I/2010 lên hơn
1 tỷ USD, tăng 8% so với cùng kỳ năm trước. Hết quý I/2010, EU là thị trường dẫn đầu về
nhập khẩu nhóm hàng giày dép của nước ta, với kim ngạch đạt 454 triệu USD, chiếm 45,2%
kim ngạch xuất khẩu cả nước. Tiếp theo là thị trường Hoa Kỳ: 263 triệu USD, Nhật Bản: 46,6
triệu USD, Mêxicô: 35,9 triệu USD… Đặc biệt, trong quý I/2010, xuất khẩu nhóm hàng này
sang thị trường Braxin tăng mạnh đạt 25 triệu USD (quý I/2009 là 4,4 triệu USD).
- Sắt thép các loại: Tính đến hết tháng 3/2010, lượng sắt thép xuất khẩu đạt 263 nghìn tấn,
tăng 182,4% và trị giá là 201 triệu USD, tăng 158% so với 3 tháng/2009. Thị trường chính
nhập khẩu sắt thép các loại của Việt Nam trong 3 tháng qua là: Campuchia với 76,5 nghìn tấn
(trị giá: 48,9 triệu USD); Inđônêxia với 33,7 nghìn tấn (trị giá: 28 triệu USD); Malaixia với
32,8 nghìn tấn (trị giá: 25,5 triệu USD); Braxin với 23,5 nghìn tấn (trị giá: 15,4 triệu USD.
- Hàng thuỷ sản: kim ngạch xuất khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam trong tháng là 362 triệu
USD, tăng 59% so với tháng trước, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu quý I/2010 lên 895 triệu
USD, tăng 19% so với cùng kỳ năm 2009. Đối tác nhập khẩu thuỷ sản của Việt Nam nhiều
nhất trong quý I là: thị trường EU đạt 233 triệu USD (tăng 11,4%), Nhật Bản đạt 155 triệu
USD (tăng 12,2%) và Hoa Kỳ đạt 143 triệu USD (tăng 26,5%).
12
- Dầu thô: xuất khẩu trong tháng là 886 nghìn tấn, đạt trị giá 549 triệu USD. Hết quý I/2010,
lượng dầu thô xuất khẩu của nước ta đạt 2,24 triệu tấn, giảm 47,1%; trị giá đạt 1,35 tỷ USD,
chỉ giảm 9,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong quý I/2010, dầu thô của nước ta chủ yếu
được xuất khẩu sang Ôxtrâylia với 775 nghìn tấn, giảm 15,6%; sang Singapore: 507 nghìn
tấn, giảm 40,7%; sang Trung Quốc: 265 nghìn tấn, giảm 28%; sang Malaysia: 174 nghìn tấn,
giảm 77,4%... so với 3 tháng/2009.
- Gạo: lượng xuất khẩu gạo trong tháng đạt gần 710 nghìn tấn, tăng gấp hơn 2 so với tháng
trước với trị giá là 383 triệu USD, tăng 86,8%. Hết tháng 3/2010, Việt Nam xuất khẩu được
1,44 triệu tấn gạo ra thị trường thế giới, giảm tới 19%, trị giá đạt 793 triệu USD, chỉ giảm
2,5% so với cùng kỳ năm 2009. Đối tác chính nhập khẩu gạo của nước ta trong quý I/2010
vẫn là một số thị trường truyền thống như Philippin: 782 nghìn tấn, Malaysia: 117 nghìn tấn,
Cu ba: 98,1 nghìn tấn, Đài Loan: 96 nghìn tấn, Singapore: 79,1 nghìn tấn.
- Cao su: lượng cao su xuất khẩu trong tháng đạt gần 47 nghìn tấn, nâng tổng lượng xuất
khẩu mặt hàng này của cả nước trong quý I/2010 lên 123 nghìn tấn, tăng 3,7% và trị giá là
325 triệu USD, tăng gần gấp 2 lần so với cùng kỳ năm 2009. Trung Quốc vẫn là đối tác chính
nhập khẩu cao su của Việt Nam với 83,9 nghìn tấn, chiếm tới 68,1% lượng cao su xuất khẩu
của cả nước.
- Than đá: trong tháng 3/2010, xuất khẩu mặt hàng này đạt gần 2 triệu tấn, tăng 34,7% so với
tháng trước, nâng tổng lượng than xuất khẩu của cả nước trong quý I/2010 lên 4,8 triệu tấn,
giảm 14,2%; trị giá đạt 343 triệu USD, tăng 22,5% so với cùng kỳ năm trước.Trong 3 tháng
qua, than đá của nước ta chủ yếu xuất sang thị trường Trung Quốc với 3,43 triệu tấn, chiếm
71,5% tổng lượng xuất khẩu mặt hàng này của cả nước. Tiếp theo là thị trường Nhật Bản: 550
nghìn tấn, Hàn Quốc: 507 nghìn tấn, Thái Lan: 81,5 nghìn tấn, Ấn Độ: 63,8 nghìn tấn.
- Cà phê: hết tháng 3/2010, lượng xuất khẩu cà phê của nước ta là 345 nghìn tấn, giảm 22%
về lượng và trị giá là 483 triệu USD, giảm 27,8% so với quý I/2009. Thị trường tiêu thụ cà
phê lớn nhất của nước ta trong 3 tháng qua là EU: 137 nghìn tấn, giảm mạnh tới 44,4% ; tiếp
theo là ASEAN: 66,9 nghìn tấn, tăng 12,4%; Nhật Bản: 39,6 nghìn tấn, giảm 8,4%...so với 3
tháng/ 2009
- Gỗ & sản phẩm gỗ: tháng 3/2010, xuất khẩu mặt hàng này đạt 279 triệu USD, tăng 62,1%
so với tháng trước. Nâng tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của Việt Nam quý I/2010
lên 747 triệu USD, tăng 31,7% so với cùng kỳ năm 2009. Hết quý I/2010, Hoa Kỳ tiếp tục là
thị trường nhập khẩu nhóm hàng này nhiều nhất của Việt Nam với 279 triệu USD, tăng
37,2%, tiếp theo là thị trường EU: 198 triệu USD, tăng 6,5%; Nhật Bản: 95 triệu USD, tăng
9,4%.
13
- Máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh kiện: trong tháng xuất khẩu đạt 277 triệu USD, tăng
44,9% so với tháng 2, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này trong quý I/2010 lên
gần 700 triệu USD. Dẫn đầu về nhập khẩu nhóm hàng này của Việt Nam trong quý I/2010
vẫn là thị trường Hoa Kỳ: 124 triệu USD, tiếp theo là Nhật Bản: 102 triệu USD, Trung Quốc:
79 triệu USD.
Kinh tế hộ nông dân vẫn còn tồn tại lâu dài nên định hướng lớn của chúng ta là tiếp
tục xoá đói, giảm nghèo, cải tạo, tổ chức lại vườn tạp, thiết kế vườn, ruộng, nương bậc thang
ở vùng đất dốc, huấn luyện nông dân, phổ cập giống mới và công nghệ canh tác bền vững
nhằm nâng cao chất lượng sống, giúp nông dân bước lên nấc thang mới của bậc thang giá trị
các hệ thống nông nghiệp hiện nay.
14
Chương II : những thách thức của các doanh nghiệp việt nam trong thời kỳ
hội nhập kinh tế thế giới
1.Những thách thức Tạo ra sự chệch hướng về phát triển văn hóa. Mục tiêu xây dựng nền văn hóa Việt
Nam trong thời kỳ đổi mới là xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Mục
tiêu này đang bị nhiều cản trở do tính thương mại của hoạt động văn hóa đang diễn ra một
cách xô bồ, hỗn loạn, không chỉ dừng lại ở suy thoái lối sống và đạo đức xã hội ở một bộ
phận không nhỏ, mà còn có nguy cơ làm biến dạng cả mục tiêu, lý tưởng chính trị định
hướng, vi phạm các nguyên tắc và chuẩn mực xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc. Sự du nhập tràn lan và hỗn loạn các sản phẩm văn hóa độc hại của nước ngoài, đặc
biệt là chủ nghĩa đế quốc trong văn hóa tác động vào có thể làm cho văn hóa nước ta suy yếu
và lệ thuộc.
Sự phân hoá xã hội trên lĩnh vực văn hóa diễn ra mạnh mẽ cùng với quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế. Đời sống văn hóa của các vùng nông thôn, miền núi, đời sống văn hóa của
những nhóm xã hội nghèo so với các vùng đô thị, các loại hình nghề nghiệp có thu nhập cao
khoảng cách ngày càng xa. Đặc biệt là đời sống văn hóa của công nhân, của nông dân, nhất là
ở những vùng dân tộc thiểu số và miền núi sẽ ngày càng gặp nhiều khó khăn trước quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế.
Sự suy thoái về lối sống, đạo đức xã hội, có nguy cơ ngày càng gia tăng, nhất là sự sa
sút về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và nếp sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên và
nhân dân; mức độ trầm trọng của tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, của các tệ nạn xã hội và
các tiêu cực xã hội khác”. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự mất ổn định, thậm
chí đe doạ sự tồn tại chế độ chính trị - xã hội.
Sức cạnh tranh của văn hóa dân tộc đối với các nền văn hóa trong khu vực và cộng
đồng quốc tế yếu. Sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta phải bao hàm cả sức cạnh tranh về
văn hóa như: hàm lượng khoa học trong giá trị sản phẩm, vận dụng các tiêu chuẩn quản lý
chất lượng sản phẩm (ISO), tiêu chuẩn về môi trường lao động và sinh hoạt cộng đồng (SA
8000), tiêu chuẩn về minh bạch trong kế toán, kiểm toán, trình độ am hiểu luật pháp quốc tế
và các nền văn hóa của các đối tác kinh tế. Trình độ về khoa học - công nghệ, giáo dục đào
tạo, chỉ số về HDI của Việt Nam rất thấp so với các nước trong khu vực và cộng đồng quốc
tế.
Đội ngũ trí thức khoa học và trí thức văn nghệ gặp nhiều khó khăn trong sáng tạo. Thị
trường khoa học mới hình thành, còn nhiều bất cập cả về chính sách và quản lý sở hữu trí tuệ.
15
Việc thu hút nhân tài vào các cơ quan công quyền khó khăn do chế độ đãi ngộ thấp. Tình
trạng rò rỉ chất xám ngày càng gia tăng, do trình độ tổ chức quản lý của Nhà nước còn nhiều
mặt hạn chế và chiến lược sử dụng nhân tài có mặt chưa hợp lý.
Cạnh tranh trở nên quyết liệt hơn. Cạnh tranh không chỉ giữa doanh nghiệp nước ta
với doanh nghiệp các nước trên thị trường nước ngoài để xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ mà
cạnh tranh ngay trên thị trường trong nước. Điều đó gây sức ép không nhỏ đối với nhiều
doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp đã quen với sự trợ giúp của Nhà nước, những
doanh nghiệp có tiềm lực tài chính và công nghệ yếu kém mà tình trạng này lại khá phổ biến
ở doanh nghiệp nước ta.
Hội nhập kinh tế quốc tế với sự chuyển dịch tự do qua biên giới các yếu tố của quá
trình tái sản xuất hàng hóa và dịch vụ tiềm ẩn nhiều rủi ro, trong đó có cả những rủi ro về mặt
xã hội. Thách thức ở đây là đề ra được những chính sách đúng đắn nhằm tăng cường khả năng
kiểm soát vĩ mô, nâng cao tính năng động và khả năng thích ứng nhanh của toàn bộ nền kinh
tế, củng cố và tăng cường các giải pháp an sinh xã hội để khắc phục những khó khăn ngắn
hạn. Tóm lại, phải tạo dựng được môi trường để quá trình chuyển dịch cơ cấu và bố trí lại
nguồn lực diễn ra một cách suôn sẻ, với chi phí thấp.
Hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra những yêu cầu hết sức cấp bách cho việc bổ sung
và hoàn thiện thể chế. Trong thời gian qua, mặc dù đã có nhiều nỗ lực để hoàn thiện khuôn
khổ pháp luật có liên quan đến kinh tế và thương mại nhưng chúng ta vẫn còn rất nhiều việc
phải làm. Trước hết, phải liên tục hoàn thiện môi trường kinh doanh để thu hút đầu tư và phát
huy mọi tiềm lực của tất cả các thành phần kinh tế. Đồng thời không ngừng hoàn thiện các
quy định về cạnh tranh để bảo đảm một môi trường cạnh tranh lành mạnh và công bằng khi
hộp nhập.
Hội nhập kinh tế quốc tế cũng đã làm bộc lộ nhiều bất cập của nền hành chính quốc
gia. Do một trong những nguyên tắc chủ đạo của WTO là minh bạch hóa nên khi gia nhập
WTO, nền hành chính quốc gia chắc chắn sẽ phải có sự thay đổi theo hướng công khai hơn,
minh bạch hơn và hiệu quả hơn. Đó phải là nền hành chính vì quyền lợi chính đáng của mọi
người dân, trong đó có doanh nghiệp và doanh nhân, lấy người dân, doanh nghiệp, doanh
nhân làm trọng tâm phục vụ, khăc phục mọi biểu hiện trì trệ, thờ ơ và vô trách nhiệm. Nếu
không tạo ra được một nền hành chính như vậy thì chẳng những không tận dụng được các cơ
hội do hội nhập kinh tế nói chung và việc gia nhập WTO nói riêng đem lại mà cũng không
chống được tham nhũng, lãng phí nguồn lực.
Để bảo đảm tiến trình hội nhập đạt hiệu quả, bên cạnh quyết tâm về chủ trươn, cần
phải có một đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước và đội ngũ doanh nhân đủ mạnh. Đây cũng là
16
một thách thức to lớn đối với Việt Nam do phần đông cán bộ của ta còn bị hạn chế về kinh
nghiệm điều hành nền kinh tế mở, có sự tham gia của yếu tố nước ngoài. Nếu không có sự
chuẩn bị phù hợp, thách thức này sẽ chuyển thành những khó khăn dài hạn rất khó khắc phục.
Hội nhập kinh tế quốc tế dẫn đến sự hợp tác về an ninh và văn hóa. Đồng thời, việc
mở cửa thị trường, mở rộng giao lưu trong điều kiện bùng nổ thông tin hiện nay, bên cạnh
nhiều mặt tốt, những cái xấu cũng du nhập vào, đòi hỏi các cấp lãnh đạo, quản lý và mọi
người dân phải nâng cao bản lĩnh chính trị, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc nhằm nâng cao
sức đề kháng, chống lại sự tha hóa, biến chất, chống lại lối sống hưởng thụ, tự do tư sản..
Nguy cơ bị áp dụng các biện pháp tự vệ Việc gia nhập WTO một mặt làm tăng cơ hội
đẩy mạnh xuất khẩu, đặc biệt là sang các thị trường đang áp dụng hạn ngạch đối với Việt
Nam, nhưng một mặt cũng kèm theo nguy cơ bị các thành viên, đặc biệt là các thành viên lớn
như Hoa Kỳ, EU áp dụng biện pháp tự vệ. Trung Quốc là một bài học về vấn đề này. Hiện
nay, xuất khẩu hàng dệt may Trung Quốc – nước xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới –
đang bị ảnh hưởng mạnh do Hoa Kỳ và EU đã và sẽ áp đặt hạn ngạch hoặc tái áp đặt hạn
ngạch đối với nhiều mã hàng theo điều khoản tự vệ Trung Quốc đã nhân nhượng khi gia nhập
WTO. Theo ước tính, những biện pháp hạn chế của Hoa Kỳ trong thời gian gần đây đã làm
giảm tới 30% xuất khẩu của Trung Quốc vào thị trường này và Trung Quốc đang bị giảm thị
phần tại Hoa Kỳ đối với nhiều mã hàng. Mặc dù so với Trung Quốc, ngành dệt may Việt
Nam có năng lực chỉ bằng 1/50 và hiện chỉ chiếm 3% thị phần hàng dệt may nhập khẩu vào
Hoa Kỳ. Mặt khác, Việt Nam đa phần chỉ xuất khẩu hàng may sẵn nên không ảnh hưởng đến
ngành công nghiệp dệt của Hoa Kỳ. Tuy nhiên không loại trừ khả năng khi lượng hàng dệt
may xuất khẩu của Việt Nam tăng mạnh sau khi gia nhập, Hoa Kỳ và một số thành viên khác
sẽ áp dụng biện pháp tự vệ với hàng dệt may Việt Nam, từ đó có khả năng tiềm ẩn nguy cơ rủi
ro cao và ảnh hưởng xấu tới ngành dệt may do đặc thù của ngành là thời gian từ khi ký kết
hợp đồng – thu xếp vải, nguyên phụ liệu – sản xuất, giao hàng kéo dài từ 4-5 tháng. Việc các
nước nhập khẩu có quyền áp dụng biện pháp hạn chế nhập khẩu hàng dệt may vào bất cứ thời
điểm nào sẽ làm tăng tính ổn định và gây thiệt hại nghiêm trọng đối với các nhà xuất khẩu và
nhập khẩu do sản xuất bị dở dang.
Nguy cơ bị áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với các mặt hàng Vụ kiện cá tra,
cá basa của Hoa Kỳ đối với Việt Nam và một loạt những vụ kiện chống bán phá giá mà các
thành viên phát triển thường áp dụng với các thành viên đang phát triển cho thấy một thực tế
là hàng xuất khẩu từ các thành viên đang phát triển, bao gồm cả hàng dệt may Việt nam có
nhiều nguy cơ bị các thành viên phát triển như Hoa Kỳ, EU... áp dụng biện pháp chống bán
17
phá giá. Đặc biệt, dệt may là mặt hàng mà Việt Nam rất có ưu thế về giá, cho nên nguy cơ này
có khả năng cao.
Hàng dệt may sản xuất trong nước có thể bị cạnh tranh mạnh hơn .Hiện nay hầu hết
hàng dệt may nước ngoài có mặt tại Việt Nam là hàng Trung Quốc giá rẻ nhập lậu. Vì vậy,
việc giảm thuế theo lộ trình cam kết với WTO có khả năng cũng sẽ không làm tăng mạnh
lượng hàng nhập khẩu vào Việt Nam, đặc biệt là từ thị trường Trung Quốc, mà chỉ có tác
động làm tăng một số lượng nhất định hàng dệt may, đặc biệt là hàng may sẵn vào thị trường
trong nước. Do vậy, đây có thể được coi là một thách thức không đáng kể.
Một số khó khăn đối với mặt hàng nông sản của việt nam khi xuất khẩu sang các thị
trường bằng các biện pháp khoa học kỹ thuật. Do trình độ khoa học kỹ thuật của việc nam còn
yếu nên chưa áp dụng các biện pháp khoa học vào nông nghiệp chưa kiểm soát được dư lượng
thuốc bảo vệ thực vật và một số tiêu chuẩn khác để nông sản việt nam được chấp nhận tại
những thị trường khó tính như Mỹ,Nhật và một số nước khác Sản xuất các sản phẩm có tiêu
chuẩn cao và canh tranh về giá và chất lượng và những sản phẩm này có thể được bán cả ở thị
trường trong nước và quốc tế.
Quy mô của doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) khó thích ứng với tình hình kinh tế
các doanh nghiệp thường thiếu kỹ năng và kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực quản lý. Các
doanh nghiệp thiếu hợp sự hợp tác lẫn nhau trong quá trình kinh doanh quốc tế. Cơ sở hạ tầng
của các doanh nghiệp vừa và nhỏ việt nam không đủ điều kiện để đáp ứng các điều kiện kinh
tế thế giới .Doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt vời những rào cản thương mại phi thuế quan
các chính sách liên quan đến luật lệ nước ngoài. Các vấn đề về kế cấu hạ tầng khác như
đường xá, viễn thông, cung cấp năng lượng,Tiêu chuẩn hoá,tuân thủ các quy định về nhãn
mác và xuất xứ các doanh nghiệp việt nam còn vẫn còn yếu kém. các Khung khổ luật pháp
minh bạch để bảo vệ và trợ giúp hợp lý bằng pháp luật vấn đề bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và
bảo vệ kiến thức truyền thống. sự hiểu biết Hiểu biết về thực tiễn kinh doanh quốc tế chưa
nhiều.
Khó khăn trong tiếp cân vốn từ khu vực tài chính chính thức – theo Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, chỉ có 32,4% DNVVN đủ điều kiện để vay từ các ngân hàng chính thức – do vậy họ
phải có được tài chính từ các nguồn khác để cạnh tranh. Thách thức lớn nhất rõ ràng là phát
triển cơ chế và phương tiện để hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và rất nhỏ trở thành các doanh
nghiệp mạnh, có khả năng cạnh tranh. Trong việc thúc đẩy tăng trưởng của các DNVVN, điều
quan trọng là đảm bảo rằng họ thực sự tạo ra các sản phẩm và dịch vụ có thể bán được và chỉ
dừng lại ở việc lập dự án. 97% doanh nghiệp Việt Nam là các DNVVN, đây không phải là
18
một tỷ lệ khác thường, nhưng tại Việt Nam, khác biệt giữa các DNVVN, thường là quy mô
nhỏ, với các doanh nghiệp lớn hơn là đáng kể
Một trong những rào cản nữa đó là vấn đề về ngôn ngữ trong điều kiên mở rộng giao
thương các doanh nghiệp thường xuyên giao lưu với nhiều đối tác kinh doanh vì vậy các
doanh nghiệp không chỉ giỏi về nghiệp vụ chuyên môn mà còn giỏi về ngoại ngữ thì mới có
thể đưa doanh nghiệp phát triển và đương đầu với nhưng cơ hội và thách thức
Phạm vi giảm thuế rộng ảnh hưởng đáng kể đến nguồn thu thuế hiện đang chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng thu ngân sách của Chính phủ. Dòng vốn đổ vào có thể mang theo những
rủi ro và làm trầm trọng thêm những yếu kém nội tại về cơ cấu và kinh tế vĩ mô, đặc biệt là
những với dòng vốn chảy vào do đầu cơ có thể dễ dàng chảy ra nếu có những thay đổi về tình
hình kinh doanh hay kỳ vọng của các nhà đầu tư.
Đối với các dịch vụ phân phối, các doanh nghiệp nước ngoài sẽ được phép tham gia
trong lĩnh vực bán lẻ đối với tất cả các sản phẩm nhập khẩu hợp pháp và sản xuất trong nước,
trừ 10 sản phẩm nhạy cảm đối với nền kinh tế. Cả 10 sản phẩm này cũng sẽ được cho phép
trong những năm tới. Do đó, đa số các hình thức phân phối hàng hoá và dịch vụ được thực
hiện thông qua các cơ sở thương mại cá thể nhỏ của Việt Nam sẽ khó cạnh tranh được với các
trung tâm phân phối, bán hàng hoá với giá cả hấp dẫn và kinh doanh thương mại hiệu quả hơn
nhờ vào kinh tế quy mô.
Khi Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế thế giới, đất nước trở nên dễ bị tổn thương hơn
trước các biến động kinh tế quốc tế. Thương mại với các nước phát triển tăng, trong khi tiếp
tục cải thiện thị trường và kinh doanh thương mại, với thị trường mở hơn và giảm bớt các hạn
ngạch do việc thực hiện cam kết gia nhập WTO đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp Việt
Nam sẽ cần phải bảo vệ chính họ trước những tác động tiêu cực.
Khi Việt Nam tham gia nhiều hơn vào quá trình toàn cầu hoá sau khi trở thành thành
viên WTO, nền kinh tế sẽ chịu ảnh hưởng nhiều hơn từ các biến cố của kinh tế thế giới. Theo
truyền thống, đồng Việt Nam được gắn chặt với đôla Mỹ, nhưng sự giảm giá gần đây của đôla
đang khiến chính phủ phải mở rộng sự kiềm toả để tạo điều kiện cho sự giao dịch giữa đồng
và đôla. Các nhà nhập khẩu ViệtNam đang nhận thấy những áp lực khiến thu nhập thấp hơn
do đôla giảm giá. Nỗi lo sợ về lạm phát cũng đe doạ sự phát triển vững chắc của khu vực
doanh nghiệp.
Các tác động tiêu cực gây ra mối đe doạ cho các phương thức kinh doanh lâu năm và
truyền thống được bù đắp nhiều hơn bằng các cơ hội và tác động tích cực mà việc gia nhập
WTO đem lại cho các doanh nghiệp. Gia nhập WTO được mong muốn sẽ cùng có lợi cho tất
cả các bên, nếu không như vậy thì các nền kinh tế trên thế giới sẽ chẳng tha thiết yêu cầu
19
được trở thành thành viên của tổ chức này. Sự cần thiết phải tuân thủ các cam kết WTO buộc
các nước đang phát
2.Những tồn tại Bước đầu chúng ta đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, nhưng cũng vẫn còn
những mặt hạn chế, yếu kém nhất định. Cụ thể là: Nhận thức về hội nhập của cán bộ và nhân
dân chưa được nhất trí cao. Chưa có một kế hoạch tổng thể và dài hạn để hội nhập kinh tế
quốc tế; hệ thống chính sách, luật pháp quản lý kinh tế, thương mại chưa hoàn chỉnh, còn có
những chính sách, luật chưa thực sự phù hợp với những thông lệ quốc tế; lực lượng sản xuất
có nguy cơ tụt hậu so với trình độ phát triển chung của thế giới, do đó sức cạnh tranh hàng
hoá kém, hiệu quả đầu tư thấp. Cơ cấu hàng hoá chủ yếu là bán sản phẩm và gia công, xuất
khẩu tuy với khối lượng lớn nhưng giá trị thu được thấp.
Trước xu thế nhập khẩu và sức cạnh tranh chưa đủ mạnh, có thể dẫn đến khả năng mất
thị trường trong và ngoài nước. Trong thời gian qua, mục tiêu phát triển kinh tế của ta là
hướng về xuất khẩu, nhưng thực tế lại có xu hướng thực hiện theo mô hình công nghiệp hoá
thay thế nhập khẩu. Tháng 3/2010, trị giá nhập khẩu hàng hoá cả nước là 6,75 tỷ USD, tăng
33,1% so với tháng trước. Trong đó, xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI)
đạt 2,86 tỷ USD, nâng tổng kim ngạch nhập khẩu của khu vực này đạt gần 7,3 tỷ USD, tăng
57,3% so với cùng kỳ năm 2009.
Nền kinh tế đang ở trình độ phát triển chậm, còn chênh lệch quá nhiều so với các nước
trong khu vực; đội ngũ cán bộ quản lý còn thiếu, yếu, đặc biệt là đội ngũ cán bộ làm trong
lĩnh vực kinh tế đối ngoại; Bản sắc văn hoá đang bị đe doạ, đặc biệt là lối sống của lớp trẻ.
Một điều đáng buồn là tình trạng giáo dục trong gia đình bị buông lỏng, từ đó xuất hiện "bụi
nhà". Không những quan hệ giữa con người với nhau trên thị trường bị đồng tiền chi phối, mà
cả những quan hệ trong gia đình cũng bị sức mạnh của đồng tiền làm băng hoại. Vì sự cám dỗ
của đồng tiền mà người ta sẵn sàng để cho người thân của mình bán rẻ nhân phẩm, tiếp tay
cho các tệ nạn xã hội. Vì đồng tiền mà con cái hành hung cha mẹ, anh em từ bỏ nhau, vợ
chồng ly tán... các quan hệ trong gia đình bị đảo lộn. Chính sự rối loạn trong quan hệ gia đình
là một trong những nguyên nhân làm cho cái ác, cái bất lương có điều kiện phát triển. Còn ở
nhà trường, đặc biệt là trong giới sinh viên, đã nảy sinh xu hướng quan tâm nhiều đến lợi ích
kinh tế của cá nhân, điều đó được biểu hiện trong việc chọn ngành nghề để làm giàu hoặc có
quyền lực. Khi tất nghiệp ra trường, phần lớn trong số họ không muốn làm việc ở các cơ quan
của tổ chức Đảng, đoàn thể, giáo dục... "Thập nạn" trong sinh viên hiện nay, như tiêu cực
trong thi cử, cờ bạc, quan hệ tình dục phóng túng, mê tín dị đoan, uống rượu say, nghiện hút,
20
cắm quán, trộm cướp, ham mê văn hoá phẩm đồi truỵ, vô kỷ luật, mất trật tự vệ sinh, đua đòi,
chạy theo lối sống tiêu dùng cho thấy, thực trạng đạo đức sinh viên đang đặt ra nhiều vấn đề
cần phải nghiên cứu, giải quyết.Ngoài xã hội đã xuất hiện những cách sống và lối sống xa lạ,
trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc. Một bộ phận trong các tầng lớp nhân dân, các thành
phần xã hội khi mưu cầu lợi ích cá nhân đã chà đạp lên những khuôn mẫu, những giá trị đạo
đức truyền thống. Nạn tham nhũng, buôn lậu, làm giàu bất chính và các tệ nạn xã hội khác
đang phát triển. Đặc biệt, "một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng bản thân,
phai nhạt lý tưởng, mất cảnh giác, giảm sút ý chí, kém ý thức tổ chức kỷ luật, sa đọa về đạo
đức và lối sống. Thực tế cho thấy rằng, những năm gần đây, số vụ buôn lậu, buôn bán ma tuý,
làm hàng giả được phát hiện ngày càng tăng. Một bộ phận trong lớp trẻ hiện nay có xu hướng
chạy theo lối sống thực dụng, buông thả, sùng bái đồng tiền, quay lưng lại với các giá trị văn
hoá truyền thống, đạo đức truyền thống. Trái với truyền thống coi trọng tình nhân ái của dân
tộc ta, một bộ phận trong nhân dân, chủ yếu là lớp trẻ, vị thành niên đã và đang sa vào cuộc
sống bạo lực, phi nhân tính. Tình hình tội phạm hình Bự ở Việt Nam trong quá trình chuyển
sang nền kinh tế thị trường đang ở mức khá nghiêm trọng so với trước. Một loạt tội danh mới
nguy hiểm đã xuất hiện, như khủng bố cá nhân, tống tiền, bắt cóc trẻ em, buôn bấn phụ nữ,
buôn bán chất nổ, chất ma tuý với số lượng lớn, tổ chức đâm thuê chém mướn, môi giới mại
dâm, xì ke ma tuý. Tình hình phụ nữ phạm tội và các vụ phạm tội do người chưa thành niên
thực hiện có chiều hướng gia tăng.
Kinh tế tiểu nông, sản xuất manh mún, chưa áp dụng công nghệ tiên tiến, chỉ đáp ứng
nhu cầu tự cấp tự túc của nông dân, không hoặc có rất ít sản phẩm hàng hoá. Tinh thần làm
việc đó đã ăn sâu vào phong cách làm việc của việt nam. so với nhiều nước Việt Nam là nước
xuất khẩu lúa gạo hàng đầu thế giới nhưng đời sống của người dân chưa cao, nông dân Việt
Nam còn hạn chế cả về vốn, trình độ và mức độ thụ hưởng an sinh xã hội. Trong khi đó, sản
xuất nông nghiệp ngày càng gặp nhiều khó khăn, rủi ro và thiếu bền vững. Sản xuất phát triển,
hàng nông sản xuất khẩu ngày càng nhiều nhưng nông dân vẫn nghèo cho nên không hấp dẫn
họ gắn bó với nghề. Mức độ đầu tư (nhất là khoa học - công nghệ, cơ sở hạ tầng...) cho sản
xuất nông nghiệp còn thấp, chưa đồng bộ. Diện tích đất sản xuất nông nghiệp giảm, nông dân
sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, thiếu đồng bộ và chưa kết nối thị trường. Trong khi chi phí sản
xuất tăng cao, giá các mặt hàng nông sản bấp bênh, yếu tố thời tiết bất thường, nhiều loại dịch
hại nguy hiểm xuất hiện khiến chất lượng con giống, vật nuôi, cây trồng ảnh hưởng nhiều đến
năng suất, chất lượng sản phẩm. Ðiểm yếu nhất là cơ giới hóa trong nông nghiệp chỉ tập trung
21
ở khâu làm đất, vận chuyển và xay xát lúa gạo; còn các khâu gieo cấy, chăm sóc, thu hoạch
lúa và các loại cây trồng khác mức độ cơ giới hóa rất thấp, chủ yếu là lao động thủ công.
Một số nạn tham nhũng ở việt nam cũng là vấn đề đáng đề cập đến Trong năm 2009,
Thanh tra các bộ, ngành và các địa phương đã phát hiện 150 vụ, 431 người có hành vi liên
quan đến tham nhũng, với số tài sản là 74,85 tỷ đồng, 10,6 ha đất, kiến nghị thu hồi 55,2 tỷ
đồng, xử lý hành chính 64 tập thể, 366 cá nhân, 41 trường hợp là người đứng đầu, cấp phó
của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra tham nhũng, chuyển cơ quan điều tra
xử lý hình sự 68 vụ 84 người. đây là một con số đáng báo động.
Còn tồn tại nhiều thủ tục phức tạp ,bô máy cơ quan chính quyền còn cồng kềnh gây
phiền hà cho dân và các doanh nghiệp đến làm thủ tục có quá nhiều cơ quan có thẩm quyền
ban hành các thủ tục hành chính. Cho đến nay, chưa có cơ quan, tổ chức nào thống kê xem ở
Việt Nam, những cơ quan nào được ban hành thủ tục hành chính. Các thủ tục hành chính
chồng chéo, mâu thuẫn... không có cơ chế để lựa chọn áp dụng thủ tục nào. các thủ tục hành
chính thường xuất phát từ nhu cầu quản lý của cơ quan công quyền chứ ít đếm xỉa đến quyền
lợi của các tổ chức, cá nhân khác có liên quan. Do đó, hầu hết các thủ tục hành chính đều tìm
cách tạo thuận lợi cho cơ quan có thẩm quyền, đẩy khó khăn về phía người dân thời gian hoàn
tất thủ tục hành chính thường là quá dài và không có thời điểm cuối cùng, không có cơ chế
chịu trách nhiệm nếu để quá thời gian quy định. Tình trạng người dân nộp giấy tờ, xin hàng tá
các loại con dấu, chữ ký rồi... mỏi cổ chờ đợi là phổ biến. các biện pháp bảo đảm cho người
dân có đủ điều kiện để khiếu nại, tố cáo, khởi kiện không cụ thể, không rõ ràng. Các quy định
ràng buộc trách nhiệm thường rất chung chung, thậm chí rất nhiều thủ tục không quy định
trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền. Khi quyền và lợi ích của họ bị xâm hại, họ
không có căn cứ nên không thể làm gì được để buộc cơ quan công quyền chịu trách nhiệm.
việc giáo dục đạo đức, ý thức của công chức liên quan đến thủ tục hành chính chưa được quan
tâm đúng mức. Cùng với chế độ tiền lương còn bất cập hiện nay cũng là những nguyên nhân
dẫn đến tình trạng các thủ tục hành chính rườm rà và thói cửa quyền, nhũng nhiễu, "bệnh
hành dân" đang rất phổ biến trong các cơ quan công quyền.
22
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao khả năng thích ứng của các doanh
nghiệp việt nam trong thời kỳ hội nhậpNhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các DNVVN Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập, các DN cần phải giải quyết một số vấn đề sau
Cần phải tăng cường năng lực quản trị kinh doanh của các giám đốc và cán bộ quản lý
trong các DNVVN. Tăng khả năng cạnh tranh của các DN trong đó có DNVVN bằng cách
nâng cao năng lực lảnh đạo của các chủ DN là yếu tố thiết yếu. Hai yếu tố thiết yếu hình
thành năng lực tổng hợp của một doanh nhân đó là tố chất nghiệp chủ và năng lực quản
lý.Tuy nhiên, ở nước ta trong nhiều trường hợp, một doanh nhân có được yếu tố thứ nhất lại
thiếu yếu tố thứ hai; hoặc phát triển các yếu tố đó không đồng đều, không theo kịp sự phát
triển nhanh chóng và sự đòi hỏi khắc nghiệt của hoạt động kinh doanh với mức độ cạnh tranh
quốc tế hoá ngày càng cao. Để phát triển các năng lực nói trên, cần có sự nỗ lực của bản thân
DN và sự hỗ trợ của các cơ quan, tổ chức hữu quan; nhưng sự chủ động, tích cực phấn đấu
của bản thân mỗi giám đốc và nhà kinh doanh phải là nhân tố quyết định. Doanh nhân cần
được chú trọng nâng cao những kỹ năng cần thiết và cập nhật những kiến thức hiện đại để đủ
sức bước vào nền kinh tế tri thức. Một số kiến thức và kỹ năng có thể đã có nhưng cần được
hệ thống hoá và cập nhật, trong đó, cần đặc biệt chú ý những kỹ năng hữu ích như: Kỹ năng
quản trị hiệu quả trong môi trường cạnh tranh; kỹ năng lãnh đạo của nghiệp chủ và giám đốc
DN; kỹ năng quản lý sự thay đổi; kỹ năng thuyết trình, đàm phán, giao tiếp và quan hệ công
chúng; kỹ năng quản lý thời gian. Những kỹ năng này kết hợp với các kiến thức quản trị có
hiệu quả sẽ có tác động quyết định đối với các doanh nhân, các nghiệp chủ và các nhà quản lý
DN trong đó có DNVVN, qua đó làm tăng khả năng cạnh tranh của các DN. Tiến hành sắp
xếp bố trí hợp lý đội ngũ cán bộ quản lý và lao động hiện có ở các doanh nghiệp. Cần phát
hiện người có năng lực, bố trí họ vào những công việc phù hợp với ngành nghề, trình độ và
năng lực sở trường. Bổ sung những cán bộ, lao động đủ tiêu chuẩn, có triển vọng phát triển,
đồng thời thay thế những cán bộ, nhân viên không đủ năng lực, không đủ tiêu chuẩn, vi phạm
pháp luật và đạo đức. Đây là giải pháp quan trọng để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu
quả công tác của đội ngũ cán bộ hiện có mà chưa cần đến việc đào tạo, bồi dưỡng. Tạo sự gắn
bó về quyền lợi và trách nhiệm của người lao động với doanh nghiệp bằng các chính sách
như: đầu tư cho đào tạo, bảo đảm công ăn việc làm ổn định cho người lao động kể cả khi có
biến động, xây dựng chế độ tiền lương và thưởng theo hướng khuyến khích người lao động có
23
những đóng góp tích cực cho sự phát triển của doanh nghiệp. Đa dạng hóa các kỹ năng và
đảm bảo khả năng thích ứng của người lao động khi cần có sự điều chỉnh lao động trong nội
bộ doanh nghiệp. Biện pháp này sẽ giúp các doanh nghiệp có thể dễ dàng điều chỉnh lao động
khi có những biến động, giảm được chi phí để tuyển dụng hay thuyên chuyển lao động. Tiêu
chuẩn hóa cán bộ, lao động trong doanh nghiệp. Ở mỗi ngành nghề, vị trí công tác, cung bậc
công việc đòi hỏi kiến thức, kỹ năng về chuyên môn khác nhau. Do đó tiêu chuẩn hóa cán bộ
phải cụ thể hóa đối với từng ngành nghề, từng loại công việc và phải phù hợp, đáp ứng được
yêu cầu phát triển trong từng thời kỳ. Khi xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, cần phải tham khảo
điều kiện khu vực và đặc thù của Việt Nam, tôn trọng tính văn hóa kinh doanh của doanh
nghiệp. Áp dụng cơ chế bổ sung và đào thải nhân lực để duy trì đội ngũ cán bộ quản lý kinh
doanh, nhân viên tinh thông nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh của thị trường.Đào tạo và
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, lao động để có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, sử dụng
thành thạo vi tính, am hiểu thị trường thế giới và luật lệ buôn bán quốc tế.
Phát triển năng lực quản trị chiến lược của cán bộ quản lý trong các DNVVN.Sự yếu
kém về tầm nhìn chiến lược trong phát triển kinh doanh là một trong những nguyên nhân của
sự thất bại trong phát triển dài hạn. Có DN hoạt động rất thành công ở quy mô nhỏ nhưng thất
bại ngay khi bước vào giai đoạn mở rộng quy mô. Các DNVVN đều phải xây dựng khả năng
phát triển một cách bền vững, nếu không sẽ khó trụ vững trong cuộc cạnh tranh. Những
trường hợp DN phát triển rầm rộ trong một vài năm, sau đó suy yếu nhanh, thậm chí tan vỡ là
các minh chứng. Để bồi dưỡng, phát triển năng lực quản lý chiến lược và tư duy chiến lược
cho đội ngũ giám đốc và cán bộ kinh doanh trong các DNVVN, cần chú trọng đặc biệt những
kỹ năng: Phân tích kinh doanh, dự đoán và định hướng chiến lược, lý thuyết và quản trị chiến
lược, quản trị rủi ro và tính nhạy cảm trong quản lý.Về mặt chiến lược cạnh tranh, các DN
Việt Nam còn rất yếu về liên kết nhóm, đặc biệt là trên phạm vi quốc gia. Vừa cạnh tranh vừa
hợp tác, hợp tác để tăng cường khả năng cạnh tranh; nếu các DN chỉ thuần tuý chú ý đến mặt
cạnh tranh mà bỏ qua mặt hợp tác thì rất sai lầm. Phải biết hợp tác đi đôi với cạnh tranh để
giảm bớt căng thẳng và tăng cường năng lực cạnh tranh của DN. Xác định rõ chức năng,
nhiệm vụ của các bộ phận trong hệ thống tổ chức kinh doanh của doanh nghiệp, cần có sự
phân biệt tương đối về tính chất, công việc của các bộ phận, tránh sự chồng chéo, tạo điều
kiện cho cán bộ quản lý tập trung đầu tư chuyên sâu và đảm bảo sự hoạt động của các bộ phận
trong doanh nghiệp một cách nhịp nhàng. Điều chỉnh hợp lý tầm, hạn quản trị phù hợp với
yêu cầu của đội ngũ cán bộ quản lý trong doanh nghiệp với xây dựng mạng lưới thông tin, xác
định các quyết định đưa ra một cách chính xác, hiệu quả. Đảm bảo thông tin trong nội bộ
doanh nghiệp, đây là điều kiện quyết định sự tồn tại của bất cứ một tổ chức nào. Đảm bảo
24
thông tin tất làm cho mọi thành viên hiểu rõ được mục đích của tổ chức, có thể đạt được sự
thống nhất giữa mục đích cá nhân và mục đích của tập thể
Xây dựng hệ thống kế toán quản trị cho các DN Việt Nam và khuyến khích các DN áp
dụng.Hệ thống kế toán quản trị có thể giúp cho DN đánh giá được năng lực cạnh tranh của
mình, giúp cho các chủ DN đưa ra các quyết định ngắn hạn và dài hạn một cách khoa học.
Đồng thời có thể chỉ ra các nguyên nhân yếu kém trong khâu sản xuất, đánh giá được trách
nhiệm quản lý của các bộ phận quản lý. Nó cho phép doanh nghiệp lập các dự toán sản xuất
và kinh doanh, cung cấp thông tin cho việc ra quyết định của nhà quản trị nhanh chóng. Khi
DNVVN phát triển mở rộng phạm vi hoạt động thì việc xây dựng hệ thống kế toán quản trị
giúp các DN này dể dàng thích nghi. Và việc quản lý theo kiểu gia đình sẽ không còn phù hợp
nữa, việc phát triển này là một tất yếu và phù hợp với xu thế phát triển của các DN.
Tăng cường vai trò của các hiệp hội, các câu lạc bộ giám đốc và các tổ chức chuyên
môn đối với sự phát triển của các DNVVN. So với nhiều nước có nền kinh tế phát triển, vai
trò của các hiệp hội chuyên ngành, các câu lạc bộ… ở nước ta trong việc giao lưu, xúc tiến
thương mại, trao đổi thông tin và hỗ trợ phát triển chuyên môn còn hạn chế, mờ nhạt cả về số
lượng, quy mô và nội dung hoạt động. Vì vậy cần chú trọng hơn nữa việc tổ chức các buổi
trao đổi sinh hoạt, giới thiệu kinh nghiệm trong nước và quốc tế, cập nhật thông tin về ngành
và về hoạt động kinh doanh. Những hoạt động đó tuy đơn giản nhưng rất bổ ích, tạo điều kiện
phát triển và hoàn thiện năng lực của các giám đốc và cán bộ quản lý kinh doanh.
Bồi dưỡng khả năng kinh doanh quốc tế và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế của
DNVVN. Hiện nay, mặc dù đã có những bước tiến lớn nhưng nếu so với trình độ quốc tế thì
hầu hết các DNVVN Việt Nam còn tụt hậu một khoảng cách đáng kể. Muốn nâng cao năng
lực cạnh tranh của các DN trên thương trường quốc tế thì chính bản thân các giám đốc và cán
bộ quản lý DN trước hết cần tăng cường khả năng đó. Đây là đòn bẩy nhân tố con người trong
các tổ chức kinh doanh. Điều này các doanh nhân và nhà quản lý trong các DNVVN có thể
thực hiện được (bằng chứng là đã có những doanh nhân Việt Nam thành công trên thương
trường quốc tế). Tuy nhiên, con số này còn quá ít và phát triển còn mang tính tự phát. Đã đến
lúc ở cấp vĩ mô cần quan tâm có tính hệ thống nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh quốc tế.
Những kinh nghiệm và sự thành công của Hàn Quốc và Đài Loan trong lĩnh vực này rất đáng
được chúng ta nghiên cứu và chọn lọc. Đối với giám đốc và nhà quản lý DN, để nâng cao khả
năng làm việc và giao dịch quốc tế, tiếp cận các tiêu chuẩn, các thông lệ của thế giới thì cần
chú trọng phát triển những kiến thức, kỹ năng chủ yếu như: Năng lực về ngoại ngữ (mặc dù
có thể sử dụng người phiên dịch nhưng cần có ngoại ngữ tối thiểu và nên hạn chế sự phụ
thuộc hoàn toàn vào phiên dịch). Đ ây có lẽ là một trong những điểm đáng chú ý nhất đối với
25
các DN ở nước ta, đặc biệt là các DNVVN. Kiến thức cơ bản về văn hoá, xã hội, lịch sử trong
kinh doanh quốc tế. Giao tiếp quốc tế và xử lý sự khác biệt về văn hoá trong kinh
doanh.Thông lệ quốc tế trong lĩnh vực /ngành kinh doanh.
Tăng cường sự hỗ trợ của Chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước trong quá trình
thúc đẩy sự phát triển của các DNVVN. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, mục tiêu của kế hoạch
phát triển DNVVN 2006-2010 là đến năm 2010, các DNVVN tạo thêm được 2, 5 triệu chỗ
làm việc mới, xuất khẩu trực tiếp 3-6%. Cùng với sự tăng trưởng mạnh mẽ của các DNVVN,
cơ chế chính sách của Nhà nước cần được tiếp tục đổi mới, hoàn thiện và thực sự tạo điều
kiện hỗ trợ sức cạnh tranh cho các DNVVN trên thương trường trong và ngoài nước.
Trong thời gian gần đây, cơ chế chính sách quản lý của Nhà nước đối với các DN,
trong đó có DNVVN đã từng bước được hoàn thiện. Động lực kinh doanh đã được phát huy,
nhiều rào cản đã được loại bỏ, tạo điều kiện cho mọi DN hoạt động trong và ngoài nước. Cục
phát triển DNVVN đã được thành lập và có một số hoạt động bước đầu. Một số công cụ
chính sách vĩ mô đã phát huy tác dụng như: Luật DN, Nghị định 90, Quỹ hỗ trợ DNVVN, cơ
chế tín dụng… Tuy nhiên, còn nhiều việc phải làm trên con đường hoàn thiện hệ thống chính
sách và cơ chế quản lý vĩ mô nhằm tăng cường sức cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển năng
động và có hiệu quả của DNVVN. Chính phủ và các cơ quan nhà nước cần góp phần mạnh
mẽ hơn nữa trong việc xây dựng và hỗ trợ phát triển các DNVVN. Các công cụ chính sách
của Nhà nước và sự hỗ trợ trên các mặt khác nhau là rất cần thiết. Môi trường kinh doanh,
môi trường pháp lý và các nhân tố xã hội có ảnh hưởng rất lớn đối với doanh nhân và nền
kinh tế của đất nước. Do đó, thông qua chủ trương chính sách cụ thể, Nhà nước cần tạo điều
kiện thuận lợi hơn cho hoạt động kinh doanh phát triển, qua đó hình thành một khu vực
DNVVN hoạt động có hiệu quả và phát triển bền vững. Sự phát triển của khu vực này sẽ góp
phần đắc lực trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và sự phát triển phồn thịnh của
nước nhà.
Hỗ trợ tư vấn về thiết bị, công nghệ mới hiện đại, thích hợp và cung cấp thông tin
công nghệ, thị trường cho các DNVVN, tạo lập và phát triển thị trường công nghệ, tạo điều
kiện để các DN này tăng cường cạnh tranh trong sản xuất, chế biến sản phẩm. Chính phủ cần
thành lập một số tổ chức hỗ trợ tư vấn (bằng những hình thức đa dạng) trong các lĩnh vực,
ngành nghề khác nhau, giúp các DNVVN nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản
phẩm, có thêm một tiềm lực mới trong công cuộc hội nhập quốc tế.
Tăng cường hoạt động marketing hỗn hợp, tăng cường công tác nghiên cứu thị
trường ,nghiên cứu thị trường là công việc cần thiết đầu tiên đối vời bất cứ doanh nghiệp nào
trong quá trình kinh doanh. Một doanh nghiệp không thể khai thác hết tiềm năng của mình
26
cũng như không thoả mãn tất được nhu cầu của khách hàng nếu không có được đầy đủ các
thông tin chính xác về thị trường. thông qua việc nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp sẽ nắm
được những thông tin cần thiết về giá cả, cung cầu hàng hóa và dịch vụ mà doanh nghiệp
đang kính doanh hoặc sẽ kinh doanh để đề ra những phương án chiến lược và biện pháp cụ
thể được thực hiện mục tiêu kinh doanh đề ra. Quá trình nghiên cứu thị trường là quá trình thu
thập thông tin, số liệu về thị trường kinh doanh, phân tích so sánh số liệu đó và rút ra kết luận,
từ đó đề ra các biện pháp thích hợp đối với các doanh nghiệp. Để công tác nghiên cứu thị
trường đạt hiệu quả cao, các doanh nghiệp cần kết hợp cả hai phương pháp nghiên cứu tại bàn
và phương pháp nghiên cứu tại hiện trường.
Hoàn thiện chiến lược sản phẩm của doanh nghiệp, các doanh nghiệp cần chọn những
sản phẩm có thế mạnh, không ngừng cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa sản
phẩm theo nhu cầu tiêu dùng ngày càng đa dạng và nâng cao của xã hội. Khai thác có hiệu
quả lợi thế của quốc gia trong lựa chọn sản phẩm kinh doanh, hiện đại hóa khâu thiết kế sản
phẩm, lựa chọn hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến trên thế giới phù hợp với doanh nghiệp
để nâng cao chiến lược sản phẩm.Doanh nghiệp cần quan tâm đến chiến lược thích ứng hóa
sản phẩm nhằm thoả mãn đến mức cao nhất nhu cầu thị trường. Trong chiến lược kinh doanh,
doanh nghiệp còn phải tính đến việc phát triển các sản phẩm mới, phải xem xét thái độ đối với
sản phẩm của người tiêu dùng để kịp thời đưa ra các giải pháp cần thiết. Doanh nghiệp cần
quán triệt sâu sắc việc coi trọng chiến lược sản phẩm gắn với việc đổi mới sản phẩm, gắn với
chiến lược nhãn hiệu và các chiến lược dịch vụ gắn với sản phẩm. Sản phẩm phải đảm bảo
thích nghi và đáp ứng nhu cầu thị trường về chất lượng, kiểu dáng, mẫu mã và bao gói. Sự
thích ứng của sản phẩm với một thị trường phụ thuộc vào 2 yếu tố cơ bản: mức độ chấp nhận
người tiêu dùng cuối cùng và mức độ sẵn sàng chấp nhận của các nhà sản xuất, của các khách
hàng trung gian (nhà bán buôn, nhà bán lẻ).
Hoàn thiện chiến lược phân phối và tổ chức mạng lưới bán hàng nhiệm vụ phát triển
hệ thống kênh phân phối cần được xác lập và điều khiển bởi cấp quản lý cao nhất của doanh
nghiệp. Kênh phân phối cần được đầu tư về vật chất tiền bạc và nhân lực tương xứng với mục
tiêu mà nó phải theo đuổi.Cần kiên quyết loại trừ những cách thức tổ chức và quản lý kênh đã
quá lạc hậu và lỗi thời. Doanh nghiệp nên chọn kiểu kênh phân phối dọc (đây là kiểu tổ chức
kênh rất hiệu quả và đang được áp dụng phổ biến). Tư tưởng cơ bản hệ thống kênh phân phối
dọc là: Trong kênh gồm có nhiều thành viên khác nhau (nhà sản xuất, nhà bán buôn, bán lẻ )
Các thành viên liên kết với nhau thành một hệ thống thống nhất, chặt chẽ, bền vững để không
bị phá vỡ bởi bất kỳ xung lực nào từ môi trường bên ngoài.Trong kênh phải có một tổ chức
giữ vai trò người chỉ huy kênh (thường là nhà sản xuất). Quản lý giữa các tổ chức hay thành
27
viên kênh phải đảm bản chặt chẽ đến mức tạo ra một sự lưu thông thông suất của hàng hóa và
các dòng chảy khác trong kênh từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng cuối cùng và ngược
lại.Tính thống nhất và sự liên kết chặt chẽ giữa các thành viên kênh được đảm bảo bằng sự
hợp tác toàn diện và dựa trên nền tảng thống nhất lợi ích của toàn bộ hệ thống kênh và của
từng thành viên kênh. Để tạo lập được một hệ thống kênh phân phối dọc, các doanh nghiệp
cần quan tâm đến một số hoạt động cụ thể sau:
Đầu tư xứng đáng cho việc thiết kế (hay xây dựng hệ thống kênh hoàn hảo, tạo ra một
cơ cấu kênh phân phối tối ưu về chiều dài (số cấp độ trung gian của kênh), chiều rộng (sản
lượng thành viên ở cùng một cấp độ của kênh), số lượng kênh được sử dụng và tỷ trọng hàng
hóa được phân bổ vào mỗi kênh. Muốn vậy phải tiến hành phân tích toàn diện các yếu tố nội
tại của Công ty, các yếu tố thuộc về trung gian phân phối, thị trường khách hàng và các yếu tố
khác thuộc môi trường vĩ mô của kinh doanh.Sau khi thiết kế được một cơ cấu kênh phân
phối tối ưu, các doanh nghiệp phải biến các mô hình này thành hiện thực, nghĩa là phát triển
mạng lưới phân phối và thực hiện các biện pháp để điều khiển, quản lý nó. Trong quá trình
phát triển mạng lưới, tuyển chọn, thu hút các thành viên kênh cũng như quá trình quản lý
kênh, các doanh nghiệp không chỉ đơn thuần đầu tư tiền bạc mà phải có những kế sách khôn
ngoan kiên trì, mềm dẻo, khai thác những khía cạnh văn hóa, tập quán truyền thõng của người
Việt Nam.
Doanh nghiệp phải xử lý kịp thời có hiệu quả các mâu thuẫn, xung đột trong kênh, giải
quyết các xung đột ngay từ khi mời phát sinh. Muốn vậy, phải thực hiện phân loại chúng. Với
mỗi loại xung đột có những biện pháp xử lý thích hợp: thoả thuận về mục tiêu cơ bản, thành
lập Hội đồng phân phối, sử dụng biện pháp ngoại giao, trung gian hoà giải hay trọng tài phán
xử.
Doanh nghiệp cũng cần thường xuyên đánh giá hoạt động của các thành viên kênh để
có sự quản lý và điều chỉnh hệ thống kênh một cách có căn cứ và kịp thời.
Tăng cường công tác quảng cáo, xúc tiên bán hàng và các loại dịch vụ đê kích thích
sức mua của thị trường.Quảng cáo và tuyên truyền trong truyền tin và xúc tiến hỗn hợp phải
hướng đồng thời tới ba mục tiêu là: thông tin, thuyết phục và gợi nhớ. Tư tưởng chủ đạo của
các thông điệp đưa ra phải dựa vào nguồn gốc sản phẩm, gây chú ý đến điều gì đó của sản
phẩm đối với khách hàng. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần quảng cáo uy tín của doanh
nghiệp và tính nổi trội của các dịch vụ đi theo. Trong quá trình thực hiện chiến lược quảng
cáo và tuyên truyền, doanh nghiệp có thể thực hiện theo quy định 6 bước như sau: Xác định
rõ đối tượng tác động mục tiêu là ai, là người mua tiềm năng, người sử dụng hiện tại, người
quyết định mua hàng hay người có tác động ảnh hưởng, cá nhân hay tổ chức.Xác định các
28
mục tiêu cần phải đạt được. Mục tiêu cần phải đạt được có thể chỉ là thông báo (khi bắt đầu
quảng cáo và tuyên truyền) hoặc mục tiêu thuyết phục khách hàng có sự nhận thức đầy đủ và
lòng tin vào sản phẩm và sự phục vụ của doanh nghiệp, hoặc chỉ là mục tiêu nhắc nhở khách
hàng để họ có thể nhớ đến sản phẩm và doanh nghiệp. Lựa chọn các phương án phân bổ ngân
sách cho hoạt động truyền tin và xúc tiến hỗn hợp. Có nhiều phương pháp xác định ngân sách
như: tuỳ theo khả năng, phần trăm trên doanh số, phương pháp ngang bằng cạnh tranh,
phương pháp theo mục tiêu, phương pháp phân tích, so sánh. Quyết định các công cụ truyền
tin và xúc tiến hỗn hợp. Nội dung chủ yếu của bước này là lựa chọn công cụ có tính khả thi
cao, phù hợp với khả năng tài chính và đáp ứng được mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra trong chiến
lược truyền tin và xúc tiến hỗn hợp.Tổ chức thực hiện các hoạt động truyền tin và xúc tiến
hỗn hợp. Trong quá trình tổ chức thực hiện phải chú ý tới luật pháp và quy định của Nhà nước
về truyền tin và xúc tiến hỗn hợp về ngôn ngữ, biểu tượng, nội đung và các hình thức được
ghép và không được ghép.Kiểm soát, đánh giá hiệu quả và hiệu chỉnh chiến lược khi cần thiết.
Các doanh nghiệp để phát triển thị trường và tăng doanh thu cần tăng cường các hoạt động
dịch vụ trước, trong và sau bán hàng như: dịch vụ chào hàng, bảo hành sửa chữa miễn phí,
cung ứng đồng bộ có bảo đảm, vận chuyển đến tận tay người tiêu dùng một cách nhanh
chóng, chính xác, chu đáo, theo yêu cầu của khách hàng với chất lượng cao hơn so với đối thủ
cạnh tranh.Các doanh nghiệp cần có ban dịch vụ khách hàng để xử lý các khiếu nại và điều
chỉnh, cung ứng các dịch vụ khách hàng một cách tốt nhất.
Giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm nâng cao nhận thức của mọi thành viên
trong từng doanh nghiệp, không chỉ từ đội ngũ lãnh đạo, quản lý mà ngay cả đội ngũ người
lao động về ý nghĩa sống còn của việc giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm và nâng
cao chất lượng sản phẩm.Khơi dậy khả năng sáng tạo, phát huy trí tuệ của từng cá nhân và tập
thể nhằm tìm cách tối thiểu hóa chi phí sản xuất, đặc biệt là chi phí nguyên liệu, chi phí quản
lý doanh nghiệp... Ngoài ra, từng thành viên trong doanh nghiệp, đặc biệt là đội ngũ cán bộ
quản lý và đội ngũ lao động trực tiếp làm ra sản phẩm cần tự trau dồi, nâng cao trình độ
chuyên môn, trình độ tay nghề.
Với hiện trạng công nghệ và thiết bị sản xuất lạc hậu như hiện nay của các doanh
nghiệp Việt Nam đã dẫn tới tình trạng định mức tiêu hao về chi phí nguyên vật liệu lớn và
phát sinh thêm nhiều chi phí cho sửa chữa, bảo dưỡng. Do đó, trước mắt cần đẩy mạnh đầu tư
và thay thế một số loại thiết bị, máy móc sản xuất đã quá lạc hậu, cho năng suất thấp và tiêu
hao nhiều năng lượng. Tuy nhiên, trong điều kiện nhiều doanh nghiệp còn thiếu vốn, tiềm lực
tài chính chưa đủ mạnh để đầu tư đồng bộ công nghệ và thiết bị thì các doanh nghiệp này cần
chủ động trong việc liên kết và hợp tác kinh doanh với nhau. Sự hợp tác liên kết giữa các
29
doanh nghiệp thuộc các ngành khác nhau sẽ giúp các doanh nghiệp giảm thiểu những khó
khăn về tài chính, công nghệ, vốn, thị trường... và đẩy mạnh nội lực phát triển cho doanh
nghiệp.
Xây dựng và phát triển thương hiệu doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải phát triển sáng
tạo nhãn hiệu. Các doanh nghiệp cần trao việc hoạch định chiến lược và sáng tạo nhãn hiệu
cho các chuyên gia nhằm mục đích là biến mình thành người thẩm định, sử dụng các dịch vụ
tư vấn như: tư vấn sáng tạo phát triển nhãn hiệu, tư vấn về pháp lý, tư vấn kinh doanh và
hoạch định chiến lược, tư vấn về quảng cáo và truyền thông, giám sát các nhà cung cấp dịch
vụ tư vấn. Việc sử dụng dịch vụ này sẽ đưa lại những điều tốt hơn cho doanh nghiệp.
Xây dựng thương hiệu phải khơi dậy cảm xúc của khách hàng. Để xây dựng một
thương hiệu được khách hàng tin cậy thì doanh nghiệp cần phải hiểu rõ người hách hàng của
mình hơn ai hết,và luôn lấy sự hài lòng của khách hàng làm trọng tâm cho mọi hoạt động.
Doanh nghiệp phải coi thương hiệu là công cụ bảo vệ lợi ích của mình. Để làm được
điều này, trước tiên phải mở rộng thương hiệu bằng cách sử dụng thương hiệu đã thành danh
của sản phẩm này cho một loại sản phẩm khác có chung kỹ năng, hoặc tạo ra một sản phẩm
mới bổ sung cho sản phẩm đã có để làm tăng sự hài lòng và mức độ cảm nhận của khách hàng
mục tiêu với sản phẩm đó.
Nâng cao nhận thức về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa. Các doanh nghiệp cũng cần nhận
thức rằng mình là chủ thể trong các quan hệ về sở hữu trí tuệ. Các nhãn hiệu, kiểu đáng hàng
hóa xuất khẩu là tài sản của doanh nghiệp. Do vậy, việc đăng ký sở hữu công nghiệp, đăng ký
độc quyền nhãn hiệu hàng hóa, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thương hiệu tại
các thị trường mà doanh nghiệp có chiến lược đầu tư kinh doanh là rất cần thiết.
Hoàn thiện hệ thống thông tin, chủ động áp dụng thương mại điện tử trong điều hành
kinh doanh.Để thúc đẩy hoạt đòng kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải xây dựng được hệ
thống thông tin như: thông tin về môi trường kinh doanh, thông tin về hệ thống phân phối, giá
cả mặt hàng hiện hành, thông tin về tình hình và viễn cảnh của thị trường, thông tin về hệ
thống giao thông vận tải. Để có được hệ thống thông tin trên, đòi hỏi hệ thống thông tin của
doanh nghiệp ngày càng được hoàn thiện và có chất lượng cao. Các biện pháp sau đây có thể
phần nào đóng góp cho việc xây dựng hệ thống thông tin này: Xây dựng các chi nhánh nhằm
thu được thông tin chính xác, kịp thời về giá cả, chất lượng, điều kiện giao hàng.Liên kết vời
các bạn hàng truyền thống để họ có thể giúp đỡ về vấn đề thông tin. Xây dựng một đội ngũ
cán bộ chuyên trách nhằm nghiên cứu đầy đủ, cung cấp thông tin về thị trường có thể dự báo
về các biến động của thị trường.Áp dụng biện pháp tin học hóa vào hoạt động kinh doanh
thông qua việc hòa mạng với hệ thống thông tin đã có trên thế giới. Các doanh nghiệp cần
30
phải xây dựng một mạng tin học có thể nối mạng với Intemet nhằm thu thập thông tin ở thị
trường thế giới. Dưới tác động của khoa học và công nghệ, mà đặc 'biệt là công nghệ thông
tin đã làm xuất hiện hình thức thương mại tiên tiến - thương mại điện tử. Doanh nghiệp của
nước ta tuy quy mô còn nhỏ bé và hoạt động trên một thị trường hạn chế, nhưng cũng phải
chủ động áp dụng và phát triển thương mại điện tử, nếu không sẽ bị cô lập với thế giới bên
ngoài. Việc triển khai áp dụng thương mại điện tử có thể được tiến hành từng bước, từ thấp
tới cao. Giai đoạn đầu tư có thể triển khai chủ yếu ở khâu xúc tiến hoạt động kinh doanh, dưới
hình thức mở trang web quảng cáo trên mạng, tìm kiếm thông tin về thị trường và bán hàng
trên mạng, tiến hành các giao dịch trước khi ký kết hợp đồng và sử dụng cho các mục đích
quản - trị bên trong doanh nghiệp. Khi điều kiện cơ sở hạ tầng và cơ sở pháp lý cho phép thì
có thể tiến tới ký kết hợp đồng và thực hiện thanh toán trên mạng.Để phát triển thương mại
điện tử, các doanh nghiệp kể cả doanh nghiệp sản xuất và thương mại cần chủ động xây dựng
và triển khai áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng quốc tế như ISO: 9000, HACCP và
ISO: 14.000... vì kinh doanh trên mạng đòi hỏi rất cao về tiêu chuẩn hóa sản phẩm và chất
lượng.
Xây dựng nền văn hóa của doanh nghiệp Để có được một nền văn hóa doanh nghiệp,
doanh nghiệp phải xây dựng mối quan hệ ứng xử tốt đẹp giữa các thành viên trong tổ chức tạo
ra văn hóa riêng cho các doanh nghiệp Việt Nam.Có nhiều yếu tố tạo nên sự thành công của
một tổ chức, một doanh nghiệp trong xu hướng hội nhập nền kinh tế khu vực và trên thế giới
hiện nay, thật sự thiếu sót nếu chúng ta không nhận ra được yếu tố văn hóa của doanh nghiệp
là động lực, sức mạnh tinh thần bên trong cho doanh nghiệp, một trong những yếu tố nền tảng
để doanh nghiệp có thể phát triển bền vững trong cuộc cạnh tranh đầy khốc liệt.Một doanh
nghiệp mạnh phải là một doanh nghiệp có thể tạo ra được một nền văn hóa doanh nghiệp gồm
những quan niệm giá trị cơ bản và ý thức trách nhiệm được toàn thể công nhân viên chấp
nhận, một môi trường tâm lý thúc đẩy công nhân viên không ngừng phấn đấu, bảo đảm cho
doanh nghiệp luôn luôn thành công, tích cực thúc đẩy quá trình đổi mới và phát triển của
doanh nghiệp. Nền văn hóa của một dân tộc hay của một doanh nghiệp đều cần phải trải qua
một thời gian nuôi dưỡng lâu dài chứ không phải chỉ do một số người vạch ra là xong. Những
điều đó khẳng định là nền văn hóa dân tộc và văn hóa doanh nghiệp hiện đại không phải chỉ là
một quá trình lựa chọn tự nhiên mà là một quá trình xây dựng tích cực với sự tham gia của
nhiều người.
31
Kết LuậnTrong những năm gần đây, chúng ta chứng kiến sự phát triển nhanh chóng và mạnh
mẽ của xu thế toàn cầu hoá, nhất là trong lĩnh vực kinh tế. Xu thế này mở ra nhiều cơ hội,
đồng thời cũng đặt các quốc gia trước sự lựa chọn không dễ dàng: đứng ngoài xu thế đó thì bị
cô lập và tụt hậu, tham gia thì phải ứng phó với sự cạnh tranh mạnh mẽ. Tuy nhiên, xu hướng
chung là các quốc gia lớn nhỏ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác và liên kết khu
vực, liên kết quốc tế về kinh tế, thương mại và nhiều lĩnh vực hoạt động khác. Điều đó cũng
lý giải tại sao hầu hết các nước, kể cả các nước đang phát triển, thậm chí kém phát triển, cũng
tham gia vào quá trình hội nhập, từng bước chấp nhận những “ luật chơi” chung của các tổ
chức khu vực và quốc tế .
Trong lộ trình tham gia thương mại quốc tế, vị trí của các khu vực doanh nghiệp cũng
có nhiều thay đổi, xuất phát từ sự thay đổi lợi thế so sánh của quy mô và tổ chức doanh
nghiệp. Trừ những tập đoàn xuyên quốc gia đang có xu hướng hợp nhất hoá để tập trung tiềm
lực phát triển công nghệ mũi nhọn thì tính dễ thích ứng, mức độ biến hoá linh hoạt và vấn đề
giải quyết lao động, việc làm tốt hơn. Đã mang lại vị trí quan trọng hơn cho các doanh nghiệp
trong nền kinh tế của các nước kể cả phát triển và đang phát triển.
Tham gia vào quá trình hội nhập là mong muốn của nhiều doanh nghiệp. Tuy nhiên,
một khoảng cách mà không phải doanh nghiệp nào cũng có khả năng để vượt qua, nhất là đối
với nhiều doanh nghiệp Việt Nam, khoảng cách này còn rất xa vời. Trong điều kiện thực tế
Việt Nam, doanh nghiệp ngày càng khẳng định vị thế của mình là khu vực đóng góp quan
trọng vào tổng sản phẩm quốc nội của đất nước, tham gia xuất khẩu và giải quyết việc làm
cho người lao động. Tóm lại, doanh nghiệp Việt Nam cần có sự nổ lực và sự hỗ trợ rất lớn
của nhà nước để có thể tham gia và trở thành lực lượng xuất khẩu quan trọng của đất nước.
Trong quá trình xây dựng và chỉ đạo thực hiện các chiến lược xuất khẩu quốc gia, nhà nước
phải có các biện pháp chính sách cụ thể và thiết thực để phát triển xuất khẩu của khu vực
doanh nghiệp này nhằm đảm bảo thực hiện thắng lợi các mục tiêu xuất khẩu, đóng góp cho sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.Trong quá trình công hội nhập kinh tế quốc tế
có rất nhiều rủi ro và thách thức vì vậy các doanh nghiệp phải luôn luôn cân nhắc ,cẩn trọng
để tránh bị tổn thất và hạn chế tối đa tổn thất có thể xảy ra đối với doanh nghiệp mình phải
luôn đề cao cảnh giác và đưa ra nhưng giải pháp để đối đầu với rủi ro.
32
33