lờ ứng của cựu Đại Đức phậ ễ ệ ật vì khao khát tìm chân lý ... · kiện...
TRANSCRIPT
Lời Chứng Của Cựu Đại Đức Phật giáo Nguyễn Huệ Nhật
Vì Khao Khát Tìm Chân Lý Một Cựu Đại Đức Phật giáo Gặp
Chúa
Tác giả: Mục Sư Nguyễn Huệ Nhật
Cảm tạ Chúa, hôm nay tôi làm chứng về ơn cứu rỗi của Chúa trên
đời sống của tôi. Nguyên tôi là một tu sĩ Phật giáo, một đại đức
được Chúa cứu ra khỏi tôn giáo thế gian. Suốt mấy chục năm qua
tôi được gặp Chúa, được sống trong ơn thương xót của Ngài, được
Chúa tha tội và đặc biệt là được sự dẫn dắt của Chúa để chiến thắng
tội lỗi. Nhờ ơn Chúa, tôi kinh nghiệm được tình yêu thương, sự vui
mừng khiêm tốn, thánh khiết. Đó là bằng chứng về nước thiên
đàng. Thật là phước hạnh rất lớn lao không thể tưởng tượng được.
Tôi sinh ra năm 45. Lớn lên trong chiến tranh Pháp Việt. Giết chóc
tra tấn tù đày làm cho tôi sợ hãi. Tôi cho rằng đó là tội lỗi, là điều
làm cho tôi luôn lo âu và mơ ước đi tìm một cuộc sống hoà bình
nhân ái, không hận thù, không tội ác.
Sau 1954, đất nước hoà bình, Phật giáo được truyền về làng tôi.
Lúc ấy tôi đã lên 9, 10 tuổi. Tôi thích học kinh và xin ba mẹ tôi vào
chùa đi tu. Ba mẹ tôi không muốn cho con cái đi tu, mải đến năm
13 tuổi tôi mới được vào chùa. Năm năm đầu tiên làm chú tiểu học
kinh, học đạo, tôi bắt đầu biết suy nghĩ và nhận thức được những
điều mới mẻ hơn. Tôi chứng kiến và cảm nghiệm những vấn đề tội
lỗi khác xẩy ra trong con người mình, và nơi những người cùng tu.
Những người thầy, người bạn của mình. Những tội lỗi như chiến
tranh chém giết thì không xẩy ra trong chùa, nhưng những cuộc
chiến về tư dục, quyền lợi, địa vị, danh vọng của con người thì xẩy
ra thường xuyên một cách yên lặng nhưng khủng khiếp không thua
gì chiến tranh, hận thù, chém giết mà tôi đã sợ hãi trước đây. Từ đó
tôi cảm thấy thất vọng. Tôi nghĩ rằng nếu có địa ngục, thì các vị tu
hành phải vào trước. Ở ngoài đời tranh chấp giết nhau một cách ồn
ào, công khai nhưng trong chỗ tu hành yên tĩnh thì những tư dục,
những tranh chấp, những hơn thua xẩy ra một cách yên lặng, ít ai
biết. Thấy vậy, tôi buồn chán và nghĩ rằng có lẽ mình phải tìm một
cái chết có để chấm dứt một kiếp sống mà mình biết chắc là không
bao giờ thoát khỏi tội lỗi. Năm 1963, lúc đó tôi vừa 18 tuổi, nhân
cuộc đấu tranh chống chính phủ Ngô Đình Diệm, tôi nghĩ rằng
mình tình nguyện tự thiêu để hiến dâng thân thể tội lỗi nầy cho Phật
Pháp, họa may mình mới thoát khỏi cuộc đời u ám nầy. Tôi thấy
kết quả tự thiêu của hòa thượng Thích Quảng Đức đem lại thành
công cho Phật giáo rất lớn. Sau đó Phật giáo đấu tranh trở lại, tôi đã
tình nguyện tự thiêu để tìm một lối thoát cho linh hồn mình. Nhưng
ba lần chuẩn bị đổ xăng để thiêu trong các cuộc biểu tình, tôi vẫn
còn sống sót cho đến ngày cụ Ngô Đình Diệm bị lật đỗ. Tôi được
giáo hội thương mến, được quý trọng như thánh sống vậy. Nhưng
tôi cảm thấy ngỡ ngàng, vì đó cũng là một sự khó khăn cho tôi; ước
vọng của tôi là đi tìm một cái chết để chấm dứt một đời sống mà
mình biết rằng mình không thoát ra được tội lỗi. Bây giờ còn
sống,nhưng nội tâm của tôi vẫn còn những khó khăn trăn trở tiếp
theo.
Năm 1965 cuộc đấu tranh chống chính quyền miền Nam tái diễn ở
sài Gòn, tôi suy nghĩ đến tự thiêu một lần nữa, nhưng bất ngờ tôi
mục kích một vài sự kiện trái ngang phi lý trong hàng ngũ lãnh đạo
trong Việt Nam Quốc Tự, tôi bỏ ý định tự thiêu. Tôi nghĩ, mình sẵn
sàng chết cho Đạo Pháp, nhưng Đạo Pháp đầy dẫy sự hổn mang
trong hàng ngũ lãnh đạo như thế nầy thì cái chết của mình có ích
chi? Tôi tự nhủ mình cố gắng tu học để xem sao. Tu học thêm được
5 năm nữa, tôi được Phật Học Viện Nha Trang xếp vào danh sách
thọ giới Tỳ Kheo vào năm 1968. Được làm một vị Tỳ Kheo, một vị
đại đức, tôi càng cố gắng tu học thêm để tìm chân lý, tìm cái cảm
nghiệm kết quả của một vị tu hành cho chính mình, và tôi chịu khó
như thế cho đến 1972. Thật ra tôi biết con đường đi tu chỉ khó khăn
đối với những ai thật tâm tìm chân lý giải thoát mà thôi. Lý thuyết
tu hành thì rất hay, nhưng trên thực tế con người vẫn là con người;
họ không thể thực hành được những gì mà sách vở đã viết. Trong
Phật giáo có một điều, khi người ta không toại nguyện, người ta dễ
tự tử, tự thiêu, hoặc tuyệt thực, hoặc tạo cho mình một cái chết để
giải quyết cái mà mình không thể đạt được. Tôi có những người
bạn trong chùa đã tự tử. Tôi đã chứng kiến cái chết của họ nên cứ
suy nghĩ về cái chết của mình. Tôi tham gia công tác cứu trợ nạn
nhân chiến cuộc, nuôi các trẻ mồ côi để giải tỏa những suy nghĩ bất
toại trong đầu óc mình. Phật giáo gọi đó là phiền não. Tôi hay đem
những điều nầy tâm sự với anh em cùng tu, nhưng không mấy ai
thích nghe. Phần nhiều người ta tìm một cuộc sống yên thân, khỏi
đi lính, có địa vị, được học hành, được kính trọng. Lớn lên làm một
ông thầy, được mọi người quý mến, và có đời sống vật chất rất đầy
đủ; thậm chí người ta quỳ xuống để lạy mình. Phần đông người ta
cho vậy là một kết quả quá lớn rồi. Nhưng tôi quyết chí đi tu để
thành phật, để tìm chân lý, để giải thoát khỏi tội lỗi. Còn những
quyền lợi và địa vị mà người ta đạt được, tôi quan sát thấy ngoài
đời cũng như ở trong đạo, người ta càng đạt tới địa vị cao, càng xẩy
ra những cuộc tranh chấp vì uy tín, quyền lợi phe nhóm và cá nhân.
Lắm khi tình trạng ấy còn rối reng hơn cả những rối reng ngoài đời.
Nhất là giai đoạn Phật giáo tranh chấp ngôi chùa Việt Nam Quốc
Tự năm 1966. Càng nhìn vào thực tế, tôi càng mệt mỏi với chiếc áo
thầy tu của mình. Tôi làm thơ để tự cười mình:
Ta nghe viễn mộng mơ hồ
Am ba lạnh ngắt cơ hồ tình hoang
Vì duyên gặp mộng bên đàng
Ta nghe một tiếng oanh vàng quặn đau
Tỉnh ra mới biết nỗi sầu:
Ca sa còn mặc, chiếc đầu tròn vo!
Học Phật và chiêm nghiệm về đời sống thực tế tu hành trong Phật
giáo, tôi cũng tìm hiểu về Hoà Hảo, Cao Đài và làm quen với các tu
sỹ Công Giáo. Năm 1967, tôi vào nhà dòng Thiên An ở Huế để tìm
hiểu cuộc sống tu hành của các linh mục. Họ đối xử với tôi rất tử tế,
nhưng sau một đôi lần dự lễ, tôi vẫn cảm thấy nghi lễ và phép tắc
tôn giáo có những cái giống nhau, nhưng đó không phải là con
đường cho tôi đi tìm chân lý. Năm 1969, tôi cố ý không xin giấy
hoãn dịch để trình diện nhập ngũ, nhưng không đủ sức khỏe, bị trả
về chùa.
Cuối năm 1972 sau trận chiến kinh khủng ở miền Trung, trận Đại
Lộ Kinh Hoàng. Ngày rằm và ngày 16 tháng Ba âm Lịch năm đó,
tôi chạy lui chạy tới ở đoạn đường Cầu Dài Bến Đá và chứng kiến
người ta chết rất nhiều. Tôi mở ra hai trại tỵ nạn ở Huế và Đà Nẵng,
sau đó trở về Saigon yên lặng đọc sách. Đầu tiên tôi đọc bộ sách
Tiếu Ngạo Giang Hồ. Bộ sách nầy vừa giải trí vừa tìm được những
ý nghĩa lắc léo của cuộc đời. Sau đó tôi đọc hai quyển sách của nhà
văn Hermann Hesse, người Đức. Quyển thứ nhất, ông viết về đời
sống của Đức Phật ở An Độ. Quyển thứ nhì mang tên hai người
bạn, một người tên là Narsiz, một người tên là Goldmund. Narsiz
thích chiêm nghiệm về đời sống sâu lắng của tâm linh qua kinh
điển và triết lý. Goldmund thích đi vào cuộc đời để tìm hiểu ý nghĩa
cuộc sống. Ông bỏ nhà dòng dấn thân vào cuộc sống phàm tục. Có
khi thành công, có khi khi thất bại; nhưng sau cùng ông thấy được ý
nghĩa cuộc đời. Mặc dù giáp mặt với bao đau khổ, nhưng
Goldmund vẫn yêu quý cuộc sống. Tôi nghĩ mình có thể bắt chước
Goldmund để cởi áo tu ra ngoài đời xem thử cuộc sống ra sao.
Mình biết tu là thế nào rồi. Bây giờ cần ra đời để biết cuộc sống
thực tế ra sao. Thay vì tự tử, tôi liều mạng cở áo ra đời tới đâu thì
tới.
Cuối năm 1972, tôi quyết định cởi chiếc áo cà sa dù cuộc sống lúc
đó khó khăn lắm. Nhưng tôi được làm việc cho cơ quan xã hội
Terre Des Hommes Đức, cho nên cũng có lương hướng, có điều
kiện để tò mò tìm hiểu những cái mà mình chưa biết. Một năm sau,
anh bạn đồng tu của tôi giới thiệu một người phụ nữ để lập gia
đình. Anh ta khuyên tôi cưới cô bạn của anh để cứu cô ta khỏi sa
vào hoàn cảnh nghiệt ngã, và cũng giúp anh ta tiếp tục tu hành. Tôi
nghĩ đến hoàn cảnh của bạn, và chính mình cũng cần có vợ. Tuy đã
ra đời cả năm rồi, nhưng tôi chưa hiểu ý nghĩa lập gia đình như bây
giờ đâu, bởi thế tôi đồng ý cưới vợ một cách dễ dàng. Cưới vợ được
hai tuần lễ, tôi đi công tác ở Đà Nẵng. Một tôi hôm nhận được một
lá thư của anh bạn hàng xóm cho biết rằng cái ông thầy tu giới
thiệu người vợ cho tôi đang ngủ với vợ tôi ngay trong nhà tôi. Tôi
về tìm hiểu sự thật mới ngã ngũ ra rằng anh bạn nầy muốn tôi cưới
cô bồ của anh ta để lâu lâu lợi dụng tôi đi vắng, anh ta đến hú hý
với nàng. Tôi trách anh ta, nhưng bị anh ta mắng lại: “vợ mầy, mầy
không ngủ thì tao ngủ!” Thật là oái ăm, tôi là một cựu thầy tu mà
vẫn bị mắc bẫy thầy tu để làm chuồng giữ trâu không công cho
người khác cày! Thật ra người tu hành có nhu cầu phụ nữ bức thiết
hơn người ngoài đời, nhưng không muốn gánh trách nhiệm và hậu
quả. Tôi mới cưới vợ, chưa kịp làm hôn thú thì đã đổ vỡ! Vài tháng
sau, bà ấy về báo cho tôi biết bà ta đã có bầu. Tôi hỏi “bầu của ai?”
Bà ấy bảo: “của anh chứ của ai nữa!” Tôi băn khoăn lắm. Nếu từ
chối, tôi vẫn từ chối được. Nhưng tôi nghĩ, nếu mình từ chối mà cái
bầu ấy lại là con mình thật là tội lỗi. Nếu không phải là con mình,
nhưng mình chịu trách nhiệm cũng không xấu xa gì. Tôi thách thức
với cuộc đời để xem thử ra sao! Tôi liều mạng nói với bà: “thôi
được, cứ xem như đó là cái bầu của tôi và tôi sẽ nuôi bà cho đến
ngày sinh đẻ đứa con rồi bà hãy giao cho tôi.” Mỗi khi cần tiền, bà
ấy về lấy tiền rồi đi. Vừa sinh đứa con ba ngày, bà giao cho tôi. Lúc
đầu tôi cũng sợ, nhưng bây giờ tôi cám ơn Chúa; tại sao lúc đó
mình quyết định như vậy! Những ngày đầu nuôi đứa nhỏ khá khó
khăn. Nhưng chỉ một vài tháng sau, đứa nhỏ bắt đầu mụ mẫm, gần
gũi mình, nó có mùi thơm con nít rất dễ thương. Tôi làm gà trống
nuôi con, nhờ một bà cụ hàng xóm săn sóc. Tôi đi làm về ấp ủ với
con mình và chợt thấy một niềm cái hạnh phúc rất mới mẻ và thú
vị. Tôi học được nhiều điều trong đứa bé. Trong cảnh khó khăn như
thế tôi trở lại tu theo pháp môn thiền định của giáo phái Phổ Quang.
Lúc đó nhà thơ Bùi Giáng về sống với tôi. Ông Bùi Giáng rất yêu
trẻ con.
Đến năm 1975, bé được 13 tháng tuổi. Cộng sản vào gần tới
Sàigòn, tôi làm công tác xã hội; sợ Saigon sẽ bị đánh tới tấp, không
biết sẽ xẩy ra như thế nào, tôi đồng ý đưa con tôi qua Đức cùng với
các em trẻ mồ côi trong cơ quan Terres Des Hommes để lo công tác
xã hội và tìm người thân. Khi cộng sản chiếm Saigon, tôi bị tù vì đã
làm việc cho cơ quan ngoại quốc, bị nghi là CIA. Thời gian bị
giam, tôi ngồi thiền và chiêm nghiệm đời sống của mình. Một trong
những đề tài suy nghĩ của tôi trong tù là những ý tưởng được viết
trên vách do những người tù để lại. Những câu thần chú, Phật Bà
Quan Âm, những câu về Đức Mẹ Maria. Nhưng có một câu làm tôi
suy nghĩ mãi, ấy là “Chúa ơi tại sao con khổ thế nầy?”. Đây là
nguồn cảm xúc cho tôi viết bài thơ Chào Khốn Khổ để tự an ủi
mình. Người ta thả tôi ra cuối năm 1977, nhưng họ trục xuất tôi
khỏi thành phố. Trong lúc đang chới với như vậy, bạn bè giới thiệu
cho tôi một người phụ nữ. Bà ta đã từng có một đứa con riêng như
tôi. Chúng tôi quyết định lập lại gia đình lần thứ hai. Nhưng khi
chuẩn bị đám cưới, tôi mới biết hôn thê của mình là một nữ tình
báo cộng sản! Tôi buồn lắm, nhưng rất thương bà ấy và muốn kéo
bà ta ra khỏi cái ngành nầy. Tôi không ngờ sống với một người vợ
như vậy gặp nhiều ngang trái không lường hết nổi! Ngay đêm tân
hôn cũng đã suýt đổ vỡ rồi. Nhưng tôi nghĩ rằng cuộc đời mình
phải biết nhịn nhục, phải biết chăm sóc, hạnh phúc là do mình vun
xới lấy nó. Tôi rất thương vợ tôi và biết chịu khó lắm. Rồi chúng
tôi cũng có một đứa con. Tôi thất nghiệp, không có hộ khẩu ở thành
phố; vợ tôi đi làm, tôi ở nhà nuôi con. Đây là cơ hội thứ hai tôi
được nuôi con. Nuôi đứa trẻ, mình học được nhiều điều lắm. Trong
đứa trẻ có nhiều cái rất là quý. Một hôm ông Bùi Giáng đến thăm
tôi. Thấy con tôi đẹp, nhưng ông trông nét mặt tôi rất là buồn. Tôi
có nhiều điều buồn. Tôi suy nghĩ đến xã hội Việt Nam. Con mình
xinh đẹp như thế nầy, nhưng lớn lên, nó trở thành cái gì? Trong một
xã hội phi nhân, con trẻ lớn lên sẽ lãnh đủ! Tôi thất vọng lắm. Bùi
Giáng nhìn nỗi buồn trên nét măt tôi bên cạnh đứa bé xinh đẹp, ông
đùa: “con mầy đẹp quá mầy cho tao lạy nó vài lạy.” Xong rồi ông
nói tiếp “Chúa Giê-xu bảo hãy trở nên như con trẻ mới thấy nước
thiên đàng”. Tôi hỏi ông Bùi Giáng: “Chúa Giê-xu nói câu hay
vậy hà? Ở đâu?” Ông bảo: “Trong Kinh Thánh chớ đâu! Mầy chưa
đọc Kinh Thánh hà?” Tôi bảo “chưa”. Sau đó ông khuyên tôi đọc
Kinh Thánh. Tôi rất thích cách đùa dởn của ông Bùi Giáng. Tôi
chơi thân với ông Bùi Giáng đã lâu, nay nghe ông giới thiệu lời dạy
của Chúa Jesus có vẻ hấp dẫn, nhưng tôi chưa hề đọc. Tôi nhớ lại
mình có hai quyển Kinh Thánh. Một quyển Kinh Thánh trọn bộ do
trưởng Hướng Đạo Nguyễn Quang Minh tặng năm 1971 và quyển
Tân Ước Ghi-đê-ôn do cụ Tuyền cho hồi năm 1973, tôi cất trong
căn nhà cũ ở Tân Thuận. Tôi có nhiều sách trong căn nhà nầy,
nhưng khi bị bắt thì tất cả sách vở đều bị tịch thu hết. Mọi thứ trong
nhà đều bị lấy, thậm chí cái công tắc điện họ cũng tháo gở luôn. Ra
khỏi tù, tôi trở về căn nhà xác xơ, tôi cho người khác ở. Bây giờ
nhớ lại tôi đã cất hai quyển Kinh Thánh nầy khuất bên sau cái đà gỗ
sát bức vách. Biết đâu chưa có ai mó tay vào! Hồi đó Kinh Thánh là
loại sách tôi không đọc tới nên cất kỹ để khỏi bị choán chỗ.
Vào một buổi tối, tôi đưa bà xã về thăm căn nhà cũ, xin chủ nhà vói
tay lên phía sau đà gỗ sát vách để lấy hai quyển Kinh Thánh. Vừa
vói tay lên, tôi đụng vào hai quyển Kinh Thánh! Trải qua sáu bảy
năm vật đổi sao dời từ khi tôi cở áo tu, thất bại gia đình, bị tù đày,
nhà cửa mất hết, nhưng hai quyển sách vẫn nằm yên ở đây. Điều
nầy cho tôi cảm giác là có Đức Chúa Trời dõi mắt theo tôi. Tôi đem
Kinh Thánh về đọc, từ từ tôi gặp lời của Chúa Giê-xu. Lời Chúa ở
chỗ tôi gặp là Mathiơ đoạn 11: 25-30. Chúa ca ngợi Cha trên trời vì
Ngài bày tỏ chân lý của Ngài cho những đứa con trẻ, nhưng Ngài
lại che dấu chân lý đó ở những người khôn ngoan và sáng láng.
Ngài cũng nói: ”Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến
cùng ta, ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ.” Khi đọc tới đây tôi
xúc động. Tôi cảm thấy chính mình là một kẻ mệt mỏi và gánh
nặng cần một sự yên nghỉ. Bấy lâu nay tôi cứ tưởng mình là người
hiểu biết, là người có thiện chí; muốn làm công tác xã hội, muốn
xây dựng cuộc đời, mình đi tìm chân lý, ước mơ cái đẹp, nhưng bây
giờ mình có gì đâu! Mọi sự đều thất bại và tôi không có được một
chút yên nghỉ nữa. Câu cuối trong đoạn nầy Chúa Giê-xu nói “Ta
có lòng nhu mì và khiêm nhường.” Ơ chỗ nầy tôi cũng rất cảm
động, vì chính tôi thấy mình chẳng bao giờ có một chút nhu mì, hay
một tý khiêm nhường; và đặc biệt là mình chưa hề được yên nghỉ.
Những câu Kinh Thánh nầy dã làm cho tôi cảm nhận rằng Chúa
Giê-xu nói với tôi và chính tôi cần Ngài, cho nên tôi đọc tiếp, đọc
tiếp, đọc tiếp cho đến khi tôi thấy Chúa Giê-xu dạy về tình yêu
thương, về sự cầu nguyện . Chúa Giê-xu dạy rõ ràng, ngắn gọn và
thực tế, chứ không mông lung mơ hồ và phức tạp như kinh sách
Phật giáo. Đặc biệt đoạn Kinh Thánh nầy tôi thấy Chúa Giê-xu tóm
tắt về thiền một cách súc tích, dễ hiểu và đầy cả sự soi sáng sâu xa:
“Tôi khen ngợi Cha, vì Cha đã giấu điều nầy nơi kẻ khôn ngoan
người sáng láng; nhưng Cha lại bày tỏ cho những con trẻ hay.
Thưa Cha, Phải, thật như vậy, vì Cha thấy điều đó là tốt lành.
Hởi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng ta, ta sẽ cho
các ngươi được yên nghỉ.” Tôi cảm thấy Chúa Giê-xu tóm tắt
những gì tinh tuý nhất, mà thiền tông đã không làm nổi. Tôi bắt đầu
kính trọng Chúa Giê-xu và đọc Kinh Thánh cẩn thận hơn. Đặc biệt
Chúa dạy hãy nhân danh Ngài mà cầu nguyện. Và cầu chi thì được
nấy. Tôi nghĩ rằng, thôi bây giờ mình cầu nguyện thử; nếu Chúa
cho thì mình tin Ngài. Nếu Chúa không cho thì thôi, mình biết Ngài
tốt là được rồi, chứ cũng không dám tin như một kẻ đi theo Ngài
thật sự. Điều tôi cầu nguyện ở đây là xin Chúa giúp tôi thuyết phục
được bà vợ để xin một căn nhà, và một chiếc xích lô để kiếm sống.
Vì vợ tôi là cán bộ mà bà không bao giờ xin nhà của chính phủ. Bà
thuê chỗ nầy thuê chỗ kia, mỗi năm dọn nhà mấy lần khiến những
bài thơ và nhật ký của tôi mất, tôi tiếc đứt ruột nên tôi muốn thuyết
phục vợ tôi xin nhà với tư cách là cán bộ. Bà làm công tác chìm,
nhưng cũng có một công tác nổi. Bà là giám đốc đoàn hát Quảng
Đông và Triều Châu ở Chợ Lớn. Tôi đang cầu nguyện như vậy,
bỗng dưng xẩy ra một chuyện bất ngờ. Vợ tôi bị đuổi sở vì đánh
gãy răng cấp trên của mình. Trong đợt cải tạo văn hóa, bà bị giáng
chức giám đốc xuống phó giám đốc nên bà hận ông giám đốc mới.
Trong một cuộc cãi cọ, bà đấm gãy răng ông giám đốc. Bà bị lập
biên bản và phải nghỉ việc. Tôi vừa mới cầu nguyện nhờ Chúa
thuyết phục bà vợ chấp nhận xin nhà chính phủ, bây giờ bà bị đuổi
ra khỏi cơ quan chính phủ. Tôi rầu lắm. Bây giờ phải lo thưa kiện
để giúp bà kiếm lại công việc. Tôi đang xoay xở như vậy thì ông
giám đốc cho tôi biết rằng “vợ anh làm việc lâu nay nhưng chưa có
nhà ở. Bây giờ anh đừng kiện tụng gì cả, hãy khuyên bà ấy làm đơn
xin nhà ở đi. Bà ấy bị đuổi sở nhưng tư cách cán bộ vẫn còn”.
Nghe vậy, tôi về thuyết phục bà. Nhờ mất việc, bà ấy mới chịu xin
nhà. Chúng tôi làm đơn, ông giám đốc ký, đưa lên Phòng Nghệ
Thuật Sân Khấu, rồi qua Sở Văn Hóa Thông Tin, Sở Nhà Đất; ít
bữa sau người ta cho một căn nhà quá to, chúng tôi không dám ở,
phải kiếm một nhà nhỏ hơn để khỏi bị lấy lại. Tôi cầu xin Chúa cho
con có một cái nhà ở và một chiếc xích lô để đạp. Bây giờ tôi có
được cái nhà ở và có ngay chiếc xích lô. Tôi bắt đầu vui sướng đạp
xích lô. Nhưng đạp xích lô một thời gian ngắn, rồi chán nản mau
lắm, vì rất là cực nhọc và đặc biệt là gặp khách hàng lường gạt tôi
một cuốc xe. Tôi chán nản, bỏ về đọc Kinh Thánh. Cầm quyển
Kinh Thánh trên tay, tôi lật đại, trúng đâu đọc đó. Không ngờ tôi
đọc trúng Mathiơ đoạn 5, Chúa nói là hãy yêu thương kẻ thù
nghịch. Đoạn nầy tôi đã đọc rồi nhưng chưa để ý lắm. Hôm nay tôi
cãi lộn tức tối ngoài đường, bây giờ về đọc lại đúng chỗ nầy. Chúa
nói các ngươi yêu vợ con, yêu bạn bè, yêu thân thuộc; điều đó
người ngoại cũng làm được. Phải yêu thương kẻ thù nghịch giống
như bản tính của Cha các ngươi trên trời, vì Ngài làm mưa và làm
nắng để nuôi người công bình và người gian ác. Phật giáo chưa bao
giờ dạy tôi yêu kẻ thù nghịch. Tôi nghĩ Chúa dạy cũng lạ thật. Chúa
biểu mình yêu kẻ thù nghịch là cả một điều mà mình chưa bao giờ
làm được. Kẻ thù nghịch mà phải yêu!!! Và tôi ngẫm nghĩ, nếu
mình không yêu kẻ thù nghịch được thì cuộc đời mình càng thêm
bất hạnh. Tôi nhớ lại mình đã cầu nguyện với Chúa, mình xin nhà
ở, mình xin xe xích lô, bây giờ có cả rồi nhưng mình quên, mình
không nhớ tới lời mình đã cầu nguyện. Lòng tôi đã từng nói nếu
cầu nguyện mà Chúa cho thì tôi tin Chúa. Thế mà tôi cũng chưa
tin. Tôi tự thấy mình là một kẻ bất nghĩa, vô ơn mà Chúa vẫn
thương. Giây phút đó tôi nhận ra mình là người có tội với Chúa và
tôi ăn năn với Chúa và khóc như một đứa trẻ. Tôi tự nhủ nếu không
yêu được kẻ thù nghịch, ít ra mình đừng oán hận họ nữa. Lòng tôi
cảm thấy nhẹ nhàng, ngày hôm sau tôi đạp xích lô và cảm thấy vui
vui. Tôi muốn có những cuốc xe thật dài để khách ngồi trên xe xích
lô và tôi ngồi đàng sau, tâm tình với họ về tình yêu của Chúa Giê-
xu, về đức tin. Và tôi rất thích đọc Kinh Thánh. Từ đó tôi tìm thấy
được cái hạnh phúc mỗi khi đọc Lời Chúa. Tôi muốn trốn ra nước
ngoài để học về Chúa, để phục vụ Chúa. Gia đình vợ tôi ở vùng
biển Phước Hải. Bà chị vợ thường tổ chức vượt biên để kiếm lời.
Chồng bà làm bí thư xã Phước Hải. Chuyến nầy vợ chồng tôi kiếm
khách và được đi. Không ngờ thất bại hết! Khi thất bại, vợ tôi ra
công an xã nhận tội để ở tù thế cho bà chị, còn tôi nằm trốn trong
chiếc quan tài của bà cụ già trên 80 tuổi, bà nội của một người bạn.
Nằm trong quan tài một ngày một đêm thì bị du kích phát hiện, tôi
chạy vô núi, nằm thêm một ngày một đêm nữa; vừa đói khát, vừa
sợ thật là thê thảm. Ban đêm nhìn lên bầu trời, tôi cầu nguyện: “xin
Chúa tha tội cho con. Con đã có Chúa, đã vui vẻ, hạnh phúc rồi.
Đáng lẽ con tin Chúa thì sống ở đâu cũng được. Con trốn ra đi là
điều sai lầm, nên Chúa không cho. Bây giờ cả nhà 3 người thất lạc
ba nơi. Riêng con bị như thế nầy, xin Chúa tha tội cho con và cho
con trở về Saigon để con tìm lại đứa con của con. Vì đứa con của
con lúc đó mới hai mươi mấy tháng tuổi, nó lạc ở đâu. Khi bỏ chạy,
con gởi nó lại giữa một cái sân nhà anh Băng Hồ. Bây giờ nhớ nó,
con hối hận lắm.”
Chúa nhậm lời cầu nguyện của tôi rất lạ lùng. Tôi phải nói là Chúa
nhậm lời hết và Chúa cho tôi về Saigon một cách an toàn, rồi Chúa
giúp đỡ cho tôi có người tình nguyện đi tìm con tôi. Chính người
tình nguyện đi tìm con tôi cũng tin Chúa luôn. Đó là anh Võ Văn
Tài, nay cả gia đình anh đều tin Chúa. Những ngày đau khổ như vậy
tôi thấy Chúa là trên hết. Lúc đó tôi chỉ còn bám vào Chúa để kêu
cầu mà thôi. Thậm chí tôi không ăn, không tắm không muốn ngủ
nữa. Chỉ xin Chúa cho gặp lại con tôi và đi thăm nuôi vợ. Và tất cả
những điều đó Chúa ban cho hết, cho nên đức tin của tôi lớn lên
những ngày như vậy. Tôi viết thư làm chứng cho vợ tôi ở trong tù.
Tôi bắt đầu đi nhà thờ. Như vậy, cả năm trước tôi đã đọc Kinh
Thánh rồi tin Chúa, tôi vượt biên, nhưng chưa bao giờ đi nhà thờ.
Đến ngày 3 tháng 01 năm 1981 lần đầu tiên tôi đi nhà thờ và cầu
nguyện tin Chúa tại Hội thánh Trần Cao Vân với mục sư Hồ Hiếu
Hạ. Sau đó vợ tôi trốn từ nhà tù về và bà cũng đi nhà thờ. Chúng tôi
từ Chợ Lớn, hai vợ chồng và đứa con đi xe đạp nhóm ở Trần Cao
Vân. Mỗi lần đi nhóm, vợ chồng tôi ưa cãi nhau lắm. Thấy đi xa
cũng hơi khó khăn, tôi xin mục sư Hạ giới thiệu về hội thánh Tuy
Lý Vương. Chúng tôi học Kinh Thánh Baptem ở Tuy Lý Vương và.
Mục sư Đinh Thiên Tứ làm báp tem cho vợ chồng tôi. Mới đó mà
tôi đã được ở trong Chúa trên 20 năm rồi. Cảm tạ Chúa. Ở trong
Chúa, từng bước tôi kinh nghiệm sự dắt dẫn của Chúa. Đầu tiên tôi
cầu nguyện bỏ hút thuốc, bỏ uống rượu, bỏ tật nói dối, nói phét, rồi
thoát khỏi âu lo, buồn phiền để học Lời Chúa, hầu việc Chúa. Tiếp
theo đó tôi gặp những thử thách mới. Tôi sống được 10 năm hạnh
phúc với vợ con vì ở trong Chúa mình sống chung thủy với vợ con
và được sự bình an. Đó là 10 năm thật sự hạnh phúc. Nhưng sau đó
vợ tôi không bỏ cái ngành tình báo được. Vì thế gia đình tôi lâm
lụy nhiều đau thương phức tạp khác, đến năm 1989 phải đổ vỡ. Đổ
vỡ gia đình lần thứ hai ở trong Chúa đau đớn vô cùng. Ngày xưa
chưa có Chúa, sự đổ vỡ gia đình không làm tôi đau đớn mấy,
nhưng bây giờ có Chúa rồi, sự đổ vỡ gia đình thật là xót xa. Tôi
mất mát cả tinh thần lẫn vật chất. Vợ tôi trốn đi nước ngoài, mang
theo đứa con, để lại cho tôi một đống nợ, tôi sa sút rất nhiều.
Nhưng cảm tạ Chúa, tôi có thể sa sút như thế, nhưng đức tin của tôi
trong Chúa không bao giờ sa sút. Tôi cám ơn Chúa ở chỗ là trong
cảnh bế tắc như vậy tôi có Chúa để kêu cầu. Và dần dần Chúa mở
đường cho tôi. Vợ tôi được qua Mỹ. Cuối năm 1993 bà về VN xin
lỗi và bảo lãnh cho tôi qua Mỹ. Nhưng không ngờ từng bước một
Chúa cho tôi cả một kế hoạch tình báo nhằm gài tôi qua Hoa Kỳ
làm việc cho cộng sản. Khi được Chúa cho thấy điều đó, tôi nghiền
ngẫm lắng nghe tiếng phán của Chúa và cuối cùng tôi đã từ chối. Vì
vậy hồ sơ bảo lãnh của tôi bị hủy, tôi tiếp tục gặp khó khăn. Nhưng
cảm tạ Chúa, mặc dù hoàn cảnh khó khăn như thế, Chúa cho tôi mở
hội thánh tư gia và tham gia hội thánh Nazarene. Tôi là người đầu
tiên mở ra hội thánh Nazarene Việt Nam năm 1992-93. Cảm tạ
Chúa, sau khi tôi tin Chúa, gia đình tôi cũng có được ba mươi hai
người tin Chúa. Có một đứa cháu tôi bây giờ làm mục sư. Tôi nhớ
là có những đại đức như đại đức Từ Vân, đại đức Trí Dũng, đại đức
Trì Liên, đại đức Ngộ Thiện và ni cô Diệu Thiện, đó là những
người bạn của tôi và họ đã tin Chúa. Đặc biệt đại đức Ngộ Thiện tự
đọc Kinh Thánh và tin Chúa như tôi. Ông cầu nguyện tại hội thánh
Saigon. Ông đến học Kinh Thánh với tôi, sau đó ông về Bến Tre
cởi áo thầy tu và nhóm lại ở hội thánh Tân Thạch. Còn ni cô Diệu
Thiện thì đã lập gia đình và sinh hoạt tại hội thánh Phạm Thế Hiển
Saigon. Khi tin Chúa thì trải qua những sự bắt bớ. Nhưng sự bắt bớ
trong Chúa thật là phước hạnh. Đặc biệt tôi rất sung sướng vì mỗi
lần bị bắt bớ là mỗi lần tôi có cơ hội để nói về tình yêu của Chúa
cho công an. Qua các vụ tra hỏi của công an, tôi được làm chứng
cho hai công an tin Chúa, trong đó có một người quen vợ tôi. Bùi
Giáng thấy tôi gặp Chúa đầy phước hạnh, ông cũng tuyên xưng đức
tin và sinh hoạt ở Hội Thánh Tuy Lý Vương với tôi một thời gian.
Dầu gặp những khó khăn liên tục, nhưng đến lúc Chúa mở đường
cho tôi ra nước ngoài. Tôi đã cầu nguyện xin Chúa ra nước ngoài
để giải quyết vấn đề vợ con cho minh bạch, bởi vì một người trong
Chúa mà không giải quyết gia cảnh rõ ràng là khó hầu việc Chúa.
Hoặc ly dị, hoặc đoàn tụ chứ không thể nửa nạc nửa mỡ làm ô danh
Chúa. Khi Chúa cho qua Đức, tôi tưởng sẽ được qua Mỹ để giải
quyết vấn đề gia đình. Nhưng luật pháp ở đây không đúng như điều
tôi nghĩ. Hết visa ở Đức, buộc tôi phải xin tỵ nạn. Suốt 5 năm nay ở
trong các trại tỵ nạn Đức, Chúa cho tôi học được nhiều điều về
những nguyên nhân khó khăn, đau khổ của dân tộc VN. Tại sao họ
phải đi tỵ nạn? Tại sao họ khổ, tủi nhục như thế nầy? Và tại sao
một số người Việt Nam hôm nay đi kiếm sống như những con thiêu
thân? Tại sao họ phải làm những việc phạm pháp một cách tự
nhiên?.v.v. Khi học được những điều nầy, tôi đau đớn cầu nguyện
với Chúa. Chúa cho tôi thấy rằng Ngài muốn tôi ở trong hoàn cảnh
như thế nầy để đem Tin lành đến cho nhiều người VN. Khi nghe
tiếng gọi của Chúa, tôi tiếp tục học Kinh Thánh, cầu nguyện với
Chúa và hầu việc Ngài. Tôi làm chứng Ơn Chúa cho họ. Chúa dắt
dùng tôi hình thành hội thánh Tinh Lành Việt Nam Đông Berlin:
Sau một thời gian, chúng tôi được mục sư Gernot người Đức, cô
Cheryl người Mỹ giúp đỡ về các nhu cầu thuộclinh. Lúc đầu chỉ
một vài người, bây giờ Chúa cho vài ba chục người nhóm lại hàng
tuần. Tôi sung sướng vô cùng. Điều sung sướng nhất của một con
người sống ở giữa trần gian nầy là được Chúa tha tội, được tái
sinh trong Đức Thánh Linh, được thánh hóa, được Chúa dẫn dắt để
chiến thắng tội lỗi từng bước. Nhất là khi nhìn thấy Chúa tái sinh
anh chị em mình. Dù có yếu đuối, có phạm tội đi nữa, mình cầu xin
Chúa, Ngài vẫn giải cứu mình ra khỏi tội lỗi để được sống gần
Chúa đầy phước hạnh, bình an. Tôi thấy điều quý báu nhất khi
mình còn sống trên đời là có Chúa, và được Chúa dùng để đem tình
yêu của Ngài đến cho người khác, được chia xẻ sự sống của Lời
Chúa mà mình kinh nghiệm từng ngày.
Hơn hai mươi năm tôi học Kinh Thánh và hầu việc Chúa âm thầm.
Khi còn ở VN, tôi là một ông đại đức tin Chúa nên nhiều người biết
đến. Tôi đi đâu, người ta cũng theo dõi dễ dàng, sự bắt bớ xẩy ra
thường xuyên. Có khi người ta theo dõi tôi, nhưng để bắt người
khác. Bây giờ qua đây tôi được hầu việc Chúa tự do. Chúa ban cho
tôi những ngày sống trong trại tỵ nạn, đáng ra là những ngày rất
buồn, rất thất vọng, rất chán nản. Nhưng ngược lại đây là những
ngày phước hạnh nhất của đời tôi. Trong cảnh buồn khổ thiếu thốn
nầy, tôi có tự do phục vụ Chúa và tiếp tục thấy bàn tay của Chúa
chăm sóc mình như Lời Chúa đã hứa là Ngài không bao giờ bỏ
mình, Ngài không bao giờ để cho mình phải mồ côi cả. Ở bất cứ
hoàn cảnh nào nếu mình tìm kiếm Chúa, mình gặp Ngài. Sung
sướng nhất cho mình mỗi ngày là mình được găp Chúa, được tương
giao với Chúa, được kinh nghiệm sự sống trong Lời Chúa. Tôi cầu
nguyện xin Chúa cho con được hầu việc Ngài. Bây giờ Chúa cho
tôi hầu việc Ngài được tự do viết sách, làm thơ. Tôi có cơ hội để
giảng Tin Lành cho người Việt và cả người Đức. Tôi không biết
còn có hạnh phúc nào lớn hơn nữa; đáng lẽ ra mình đã chết rồi,
đáng lẽ mình đã bị tội lỗi đè bẹp; đáng lẽ mình đã tuyệt vọng, đã tự
tử. Nhưng bây giờ có Chúa, được thoát ra khỏi tội lỗi và tâm linh
mình nhìn thấy chân lý, tức là Đức Chúa Trời, Đấng dựng nên
mình. Đấng vô hình, nhưng Ngài hiện diện trong thân thể, trong
tâm hồn của mình để thay đổi những xấu xa gian ác của mình, để
biến mình trở thành con người mới, một con người tin tưởng, con
người đơn sơ, lạc quan, tin quyết. Đây là một điều kỳ diệu. Một
điều mà tự bản thân tôi không thể làm được và tôi tin rằng không có
một người nào có thể tự sửa mình từ một kẻ có tội thành ra vô tội
được, trừ khi tiếp nhận ơn tha thứ của Đức Chúa Trời trong Chúa
Jesus Christ để được tái sinh. Vì mỗi ngày mình sống ngoài Chúa
thì mình càng xấu thêm, càng tham lam thêm, sa bại thêm, chán nản
thêm, cằn cỗi thêm, già đi; cho dù mình có thêm nhiều kinh
nghiệm, nhiều tri thức, nhưng mình vẫn xa chân lý. Ngược lại, mỗi
ngày ở trong Chúa, tôi thấy mình như trẻ ra, thấy mình tươi mới
hơn và yêu quý cuộc sống hơn.
Tôi đang gặp những thử thách. Hoàn cảnh gia đình của tôi vẫn chưa
giải quyết được. Trước đây vì sợ sự hiểu lầm làm tối danh Chúa và
có hại cho Hội Thánh, nên tôi phải nói lên đôi chút sự thật. Nhưng
bây giờ tôi yên nghỉ. Tôi tin rằng Chúa có cách giải quyết cho tôi.
Tôi tin chắc sẽ đến thời điểm Ngài bẻ gãy nan đề nầy, vì Chúa đã
biết trước cả rồi. Điều quan trọng là Chúa khiến tôi yêu được những
kẻ hại mình. Chúa là Đấng vô sở bất tri. Không có một cái gì mà
Ngài không biết. Ngài là Đấng vô sở bất tại, không có nơi nào mà
Ngài không hiện diện. Ngài là Đấng vô sở bất năng, không có một
cái gì mà Chúa không làm được. Tôi phó thác mọi sự cho Ngài. Tôi
là một người hạnh phúc nhất mà trước đây không bao giờ tôi có thể
tưởng tượng mình có thể hạnh phúc được như vậy. Cảm tạ Chúa,
Chúa đã cứu Ba tôi, Chúa đã cứu Bác ruột tôi và Cô ruột tôi và
những người trong dòng dõi, trong gia đình tôi. Trong niềm vui cứu
rỗi, tôi nói rằng:
Ngày xưa mặc áo thầy tu
Nhưng sao tội lỗi mịt mù sương mây
Bây giờ trong Chúa phước thay
Nhận ơn tha thứ lòng đầy bình an
Con vui thấy nước thiên đàng
Thân còn cõi đất, hồn vang nước trời.
Cảm tạ Chúa, tôi làm chứng đôi điều như vậy để quý vị thấy rằng
cái hạnh phúc trên đời nầy không phải căn cứ vào vật chất, vào
danh vọng, không phải căn cứ vào chiếc áo tôn giáo, mà hạnh phúc
trên đời nầy là có Đức Chúa Trời. Đời sống của mình là đền thờ
của Ngài, là của lễ sống dâng lên cho Ngài, là dụng cụ, là phương
tiện để thể hiện tình yêu của Ngài, để rao giảng ơn cứu rỗi của
Ngài. Vì cõi đất tạm nầy đến một ngày nào đó sẽ tan biến hết và
còn lại cái tinh túy, cái hằng hữu trong chúng ta là linh hồn của
chúng ta. Đức Thánh Linh đã thánh hóa chúng ta để dẫn linh hồn
chúng ta về nước trời đời đời. Cám ơn Chúa.
Nguyễn Huệ Nhật
Source:
http://www.tinlanhhyvong.com/Loi_Chung_Cua_Cuu_Dai_Duc_P
hat_Giao.html