lac viet don toan

72
LẠC VIỆT ĐỘN TOÁN TÁC GIẢ : Nguyễn Vũ Tuấn Anh Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông Phương SƯU TẦM-TẢI VỀ-ĐÓNG GÓI THÀNH EBOOK : NGÔ ĐỨC KHẢI PHẦN NỘI DUNG ĐƯỢC GIỮ NGUYÊN BẢN 1

Upload: vu-viet-anh

Post on 05-Aug-2015

309 views

Category:

Documents


4 download

TRANSCRIPT

Page 1: Lac Viet Don Toan

LẠC VIỆT ĐỘN TOÁN

TÁC GIẢ:  Nguyễn Vũ Tuấn Anh

Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông Phương

SƯU TẦM-TẢI VỀ-ĐÓNG GÓI THÀNH EBOOK :

NGÔ ĐỨC KHẢI

PHẦN NỘI DUNG ĐƯỢC GIỮ NGUYÊN BẢN

1

Page 2: Lac Viet Don Toan

Lời giới thiệu

 Nguyễn Vũ Tuấn Anh

Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông Phương

Cho đên nay chung ta đa biêt khả năng tiên tri của các phương pháp trong Lý học Đông phương về

những gi mà trí tuệ hiện đại chưa đạt đên đuơc đa chứng tỏ sự chính xác cao hơn bất cứ một

phương tiện dư báo khoa học hiện đại nào...

Là người đã có gân 20 năm tìm hiểu về văn hoá cổ Lạc Việt và Lý học Đông Phương - Tôi xin trình

bày một phương pháp dự báo đã được chứng nghiệm qua nhiều năm mà sau nhiều lân chỉnh sửa

được đặt tên chính thức là Lạc Việt độn toán.

Như các môn tiên tri khác thuộc Lý học Đông phương, chỉ cân biết phương pháp độn Lạc Việt độn

toán thì cũng độn và toán được chuyện của thế nhân. Phân phương pháp độn của Lạc Việt độn toán

rất dê hiểu vì nó là sự kết hợp những phương pháp độn toán đơn giản còn lưu truyền trong dân gian,

được bổ sung và hiệu chỉnh của cả một hệ thống lý thuyết phục hồi lại từ văn minh Lạc Việt, trên

cơ sở nguyên lý Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ. Bởi vậy, những di sản độn toán đơn giản còn lưu

truyền trong dân gian như Lục Nhâm Đại độn và Bát môn độn giáp được bổ sung, hiệu chỉnh phối

hợp trong Lạc Việt độn toán đã trở thành một môn dự báo vi diệu, có khả năng tiên tri trên xem

thiên văn, dưới xét địa lý, nhân sự, xã hội vạn sự đều có thể dự báo, không thua kém gì các môn dụ

báo đã lưu truyền hàng ngàn năm trong xã hội Đông phương cổ. Điều này đã chứng nghiệm từ gân

20 năm qua. Kể từ năm 2004 những dự báo nhân danh Lạc Việt độn toán đã chứng tỏ khả năng của

nó trên website tuvilyso.com qua lời dự báo sóng thân tại Indonesia và Philippine. Cùng với rất

nhiều các hiện tượng xã hội, thiên tai, cuộc sống được dự báo đều đặn hàng năm từ 2004 đến nay

với hiệu quả dự báo cao, kể cả những việc được quan tâm trên thế giới. Phương pháp dự báo Lạc

Việt độn toán được chính thức công bố và truyền đạt thử nghiệm lân đâu tiên trên website

vietlyso.com. Nay Lạc Việt độn toán được hoàn chỉnh và tổng hợp nâng cao về cả phương pháp lẫn

lý thuyết và đồng thời được công bố trên trang web chính thức của Trung tâm nghiên cứu lý học

Đông phương để mọi người đều có thể tham khảo ứng dụng.

Lạc Việt độn toán là hệ quả nghiệm chứng trong hệ thống lý thuyết của thuyết Âm Dương Ngũ

hành, được phục hồi nhân danh nền văn hiến Việt trải gân 5000 năm lịch sử. Nó nhằm chứng tỏ

nhân danh tiêu chí khoa học cho yếu tố tiên tri của một lý thuyết được coi là khoa học.

Ứng dụng được môn này, ngoài việc tự giup mình còn phải có tâm hồn khoáng đạt, thánh thiện giup

ích được cho đời. Những ai sử dụng phương pháp độn toán này, hãy tôn vinh tổ tiên của người Lạc

Việt từ thời Hùng Vương đã tạo dựng nên một nền văn hiến vĩ đại với giá trị tri thức siêu việt, đây

chất nhân bản và tình yêu con người.

Hàng năm vào những ngày lê Tết, những ai đang học hỏi tìm về cội nguồn của nền minh triết Đông

phương, hãy ngắm nhìn chiếc bánh Chưng, bánh Dày và chiêm nghiệm sẽ thấy được ý nghĩa vi diệu

sâu lắng trong tâm linh. Bốn sợi Lạc Hồng buộc trên chiếc bánh chưng - hình thành cửu cung

nguyên thuỷ cho tất cả các môn độn toán Đông phương và sự vi diệu của Lạc Việt độn toán cũng

bắt đâu từ cửu cung này.

2

Page 3: Lac Viet Don Toan

Lời tựa

Tiến sĩ Phạm Thị Minh Hoàng

Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông Phương

Lời tựa 

Nhà nghiên cứu Nguyên Vu Tuấn Anh, tên thật là Nguyên Vu Diệu, có nickname thường sử dụng

trên các diên đàn lý học Đông phương là Thiên Sứ. Ông sinh năm 1949 tại Hà nội, hiện nay là

Giám đôc Trung Tâm Lý Học  Đông Phuơng, có trụ sơ tại TP HCM thuộc Hội nghiên cứu khoa học

Việt Nam – ASIA.

Trong quá trình tìm hiểu nhằm chứng minh một thực tế khách quan về nền văn minh Lạc Việt trải

gân 5000 năm văn hiến, dựa trên những nguyên lý lý thuyết được phục hồi của thuyết Âm Dương

Ngũ hành và Bát quái là ký hiệu siêu công thức của học thuyết này, ông đã kết tập hai phuơng pháp

độn toán còn lưu truyền trong dân gian là “Lục nhâm tiểu độn"(Có sách viết "Lục Nhâm đại độn”) 

và “Bát môn độn giáp” để hiệu chỉnh và phục hồi lại môn Lạc Việt độn toán của tổ tiên. Lạc Việt

độn toán không phải là sự kết hợp khô khan giữa hai môn dự báo đơn giản nói trên. Lạc Việt Độn

Toán chính là hệ quả của tính hoàn chỉnh và thống nhất của thuyết Âm Dương Ngũ Hành với

nguyên lý nhất quán là Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ và nhân danh những tiêu chí khoa học hiện

đại.

Từ một giả thuyết ban đâu về cội nguồn Kinh Dịch, cho đến phương pháp Lạc Việt độn toán đã

được nghiệm đung và  kiểm chứng về cả lý thuyết lẫn thực hành trên thực tế từ gân 20 năm nay cho

chính tác giả là ông Nguyên Vũ Tuấn Anh và cho những người tìm hiểu và ứng dụng môn này

trong những năm gân đấy. Lạc Việt độn toán ngày càng hoàn thiện về nhiều mặt trong quá trình tìm

hiểu và tiến tới phục hồi hoàn chỉnh thuyết Âm Dương Ngũ hành .  Với chut duyên may khi đến với

Lạc Việt Độn Toán, tôi đuợc ông Nguyên Vũ Tuấn Anh - nguời đã có công  phục hồi lại phuơng

pháp độn của tổ tiên Lạc Việt giao cho công việc biên soạn cuốn sách từ khối luợng đồ sộ những

bài viết mà thời gian qua ông đã rất tận tình truyền tải kiến thức và kinh nghiệm tới học viên lớp

Lạc Việt độn toán và tới các bạn đọc giả quan tâm. Nhiều, rất nhiều những dự đoán của ông và các

học viên đã ứng nghiệm trong thời gian qua trong thực tế đã chứng tỏ phuơng pháp Lạc Việt Độn

Toán rất dê hiểu và có tính ứng dụng thực tiên rất cao . 

Nhu câu muốn biết truớc, dự đoán việc, nắm bắt thông tin để mong gặp đuợc điều tốt, tránh đuợc

điều dữ  là lòng mong muốn chính đáng của con nguời. Cuốn Lạc Việt Độn toán phuơng pháp và

ứng dụng đuợc viết ra chính là thể theo yêu câu ngày càng cao của bạn đọc khăp nơi, nhằm giới

thiệu một cách có hệ thống phân cơ bản phương pháp và cách ứng dụng .

Tiến sĩ Phạm Thị Minh Hoàng

3

Page 4: Lac Viet Don Toan

Lạc Việt độn toán phần 1Nguyên lý lý thuyết của Lạc Việt độn toán  

Tri thức khoa học hiện đại thừa nhận tiêu chí khoa học này. Vấn đề ơ đây là qui luật đó là qui luật

gi, phản ánh một thực tại nào và khi đa chứng tỏ một khả năng tiên tri thi đằng sau nó phải là một

lý thuyêt khoa học...

1 - Sự ra đời của Lạc Việt Độn Toán

Một phương pháp hoặc một lý thuyết khoa học được coi là đung thì phải có tính hệ thống, tính nhất

quán, tính quy luật, tính khách quan và có khả năng tiên tri. Tiêu chí khoa học.Tri thức khoa học

hiện đại thừa nhận tiêu chí khoa học này. Vấn đề ở đây là qui luật đó là qui luật gì, phản ánh một

thực tại nào và khi đã chứng tỏ một khả năng tiên tri thì đằng sau nó phải là một lý thuyết khoa học.

Vậy khả năng tiên tri của các phương pháp dự báo thuộc Lý học Đông phương cổ phải phản ánh

một qui luật nào đó của vũ trụ, tính khái quát càng lớn chứng tỏ tính quy luật càng rất bao trùm.

Vấn đề là chung ta hiểu gì về thực tại vận động của những qui luật đó qua những phương pháp dự

đoán thuộc Lý học Đông phương. Lạc Việt độn toán đã thoả mãn yêu câu đó bởi tính khái quát cao:

chỉ có 48 quẻ để dự báo cho tất cả sự vật sự việc từ nhỏ đến lớn so với quẻ Dịch có 64 quẻ và tính

chi tiết hoàn hảo cho từng hào. Điều này chứng tỏ Bốc Dịch với 64 quẻ là sản phẩm được hoàn hảo

ở một giá trị nhận thức về vũ trụ, trái đất và con người sâu hơn Lạc Việt độn toán. Chung ta có thể

nhận xét rằng Lạc Việt độn toán trên thực tế ra đời trước khi có phương pháp Bốc Dịch. Nói một

cách khác: Lạc Việt độn toán có tính khái quát và gân với những nguyên lý căn bản của thuyết Âm

Dương Ngũ hành, tuy không sâu và chi tiết bằng Bốc Dịch. Nhưng vì tính thất truyền của một

nguyên lý lý thuyết phản ánh một thực tại đã tạo dựng ra nó và sự sai lệch do thất truyền nên

phương pháp Bốc Dịch trở nên huyền bí và có những sai lệch và đây cũng là tình trạng chung của

các phương pháp tiên tri phương Đông. Trên đây cũng chỉ là ý tưởng ban đâu về sự suy luận tính

lịch sử thời gian của sự ra đời hai phương pháp Bốc Dịch và Lạc Việt độn toán. Hy vọng đó sẽ là

những ý tưởng để sau này có ai nghiên cứu về lịch sử hình thành các phương pháp tiên tri của Lý

Học Đông phương sẽ tiếp tục tìm hiểu và tìm ra những lời giải cho các hiện tượng từ hàng ngàn,

thậm chí hàng chục ngàn năm trước.

Tôi không tự cho mình là người sáng taọ ra môn Lạc Việt độn toán. Mà chỉ là người phục hồi lại

môn này và những nguyên lý của nó từ những di sản còn lại lưu truyền trong văn hoá phương

Đông. Hay nói cách khác: Nội dung của Lạc Việt độn toán đã tồn tại trên thực tế từ hàng thiên niên

kỷ trước. Nó đã bị thất truyền khi nền văn minh Việt sụp đổ ở miến nam sông Dương Tử. Nay được

phục hồi lại nhân danh nền văn hiến Lạc Việt.

Lạc Việt độn toán phần 1 - 1

2 –Những di sản còn lại – Bát môn độn giáp và Lục Nhâm Đại độn

Lạc Việt độn toán coi Bát Môn và Lục Nhâm là hai yêu tô cấu thành quan trọng khi phôi với Âm

Dương Ngu hành và nguyên lý căn của Lý học Đông phương thuộc về văn minh Việt là “Hậu Thiên

Lạc Việt phôi Hà Đồ’’. Xin xem “Tim về cội nguồn Kinh Dịch” và “Hà Đồ trong văn minh Lạc

Việt”.

4

Page 5: Lac Viet Don Toan

Nhưng Bát môn độn giáp và Lục Nhâm đại độn nguyên thuỷ vốn chỉ là hai phương pháp dự báo rất

đơn giản còn lưu truyền trong dân gian và không liên quan gì đến nhau. Phương pháp độn của Bát

Môn và Lục Nhâm lân lượt như sau:

2-1/   Phương pháp độn Lục Nhâm Đại độn lưu truyền trong dân gian

Đồ hình lục nhâm đại độn (Lời truyền trong dân gian)

Phương pháp này căn cứ trên một đồ hình chia làm 6 cung và mỗi cung có tên gọi như hình trên. Có

hai cách lấy quẻ cho phương pháp này là:

2 – 1 – 1:   Phương pháp lưu truyền ở miền Bắc Việt Nam

* Bắt đâu từ cung Đại An là năm Tý, tính thuận theo chiều kim đồng hồ lân lượt mỗi năm một

cung, đến năm định toán thì dừng lại. * Lấy cung đó làm tháng Giêng cũng theo chiều kim đồng hồ

mỗi tháng một cung, đến tháng định toán thì dừng lại. * Lấy cung đó làm ngày mùng Một của

tháng, thuận theo chiều kim đồng hồ lân lượt mỗi ngày một cung cho đến ngày định toán thì dừng

lại. * Lấy cung đó làm giờ Tý, thuận theo chiều kim đồng hồ, mỗi cung một giờ, đến giờ định toán

thì dừng lại. Khi giờ dừng ở cung nào thì được quẻ đó.Thí dụ:* Năm Mậu Tý, Tháng Hai, ngày 24,

giờ Mùi (Từ 13g đến 15 giờ).Năm Tý tại cung Đại An. Tháng Giêng cũng tại đây, tháng Hai sẽ ở

cung Lưu Niên. Ngày mùng Một tháng Hai cũng bắt đâư từ cung Lưu Niên. Đếm thuận mỗi cung

một ngày thì ngày 24 ở cung Đại An. Giờ Tý tính từ cung Đại An lân lượt mỗi cung một giờ thì giờ

Mùi sẽ ở cung Lưu Niên. Đến đây chung ta được quẻ Lưu Niên theo phương pháp lưu truyền ở

miền Bắc Việt Nam.* Năm Kỷ Sửu, tháng Năm, ngày 19 giờ Ngọ (Từ 11g đến 13g)

Năm Tý ở cung Đại An thì năm Sửu ở cung Lưu Niên. Tháng Giêng cũng tại đây. Tháng Năm theo

thuận tự từ Lưu Niên là 1 đếm đến tháng 5 sẽ ở Vô Vong. Ngày mùng Một từ Vô Vong đếm thuận

đến ngày 19 cũng tại cung Vô Vong. Giờ Tý của ngày 19 tại cung Vô Vong đến thuận đến giờ toán

quẻ là Ngọ cũng là an tại cung Vô Vong. Như vậy t6a được quẻ Vô Vong cuả Lục Nhâm Đại độn.

2 – 1 – 2:   Phương pháp lưu truyền ở miền Nam Việt Nam

Tôi trích dẫn dưới đây là bài của Thái Tuế trên trang tuvilyso.com giới thiệu về phương pháp toán

Lục Nhâm Đại độn còn lưu truyền phổ biến ở miến Nam Việt Nam, để tham khảo.

Môn độn toán này do ông Lý Thuân Phong sáng chế. Tài liệu môn này đã thất truyền.

Qua sự tìm tòi cổ thư ghép nhặt và tổng hợp các yếu tố có liên quan trong môn học này (không biết

có trùng với bản chính không?) khi mang ra ứng dụng thấy xác liệu dự đoán rất phù hợp với công

việc của nhiều người.

5

Page 6: Lac Viet Don Toan

Vì khảo cứu trong tình huống thiếu thốn tài liệu, nên đỉnh cao của môn học không đạt tới được. Rất

ước mong sự đóng góp khảo cứu của nhiều người có cơ hội biết môn này.

Khởi tháng Giêng ở cung Đại An, thứ tự theo chiều kim đồng hồ, mỗi cung một tháng, cho đến

tháng cân toán. Sau khi có cung của tháng, ta khởi ngày mùng MỘT ở cung đó, đếm thuận mỗi

cung một ngày tới ngày hiện tại. Ta khởi cung đó là giờ TÝ, đếm mỗi giờ một cung cho tới giờ hiện

tại.

Thí dụ: Ngày 09 tháng 09 âm lịch, giờ Tị, có người nhờ tính, ta lấy cung như sau:

- Tháng 09 ở cung Tốc Hỉ, ngày 9 ở cung Tiểu Cát, giờ Tị ở cung Xích Khẩu. Vậy ta có tháng Tốc

Hỷ, ngày Tiểu Cát, giờ Xích Khẩu.

- Ở độn toán, người ta chỉ dùng ngày và giờ để tính, còn cung tháng chỉ phụ giup thôi.

- Ngày là chủ, là mình. Giờ là khách, là việc.

- Tháng phụ gup cho hai ý trên theo tuổi.

Như vậy, so sánh giữa hai phương pháp tính quẻ Lục Nhâm Đại độn (Có nơi gọi là Lục Nhâm Tiểu

độn) lưu truyền ở miền Bắc và miền Nam Việt Nam thì chung khác nhau ở chỗ căn bản là: Phương

pháp toán lưu truyền ở miến Bắc có tính năm theo Âm lịch và phương pháp ở miền Nam thì chỉ tính

tháng.

Lưu ý:

* Xuất phát từ tính hợp lý của vấn đề về vị trí của Lục Nhâm đại độn trong Lạc Việt độn toán thì

chung ta ứng dụng việc toán quẻ Lục Nhâm Đại độn theo phương pháp toán quẻ lưu truyền ở miến

Bắc. Tức là có tính năm. Năm Tý bắt đâu từ cung Đại An.

* Để tiện việc tính nhanh, các ngày mùng 1, mùng 7, 13, 19, 25 bao giờ cũng cùng một cung.

2 – 1 – 3:   Kết luận

Lạc Việt độn toán dùng phương pháp độn Lục Nhâm Đại độn lưu truyền ở miến Bắc Việt Nam làm

phương pháp độn chính thức cho Lục Nhâm đại độn Lạc Việt độn toán. 

2 – 2 :   Phương pháp độn Bát môn độn giáp lưu truyền trong dân gian

Bát môn có ký hiệu các cung hoàn toàn giống môn Thái Ất thân kinh và Kỳ môn độn giáp. Đồng

thời 9 cung trên Bát môn cũng là đồ hình căn bản của thuật toán Thái Ất và Độn giáp.

Đồ hình Bát môn độn giáp (Lưu truyền trong dân gian.)

6

Page 7: Lac Viet Don Toan

2 – 2 – 1:   Phương pháp toán quẻ Bát Môn Đại độn lưu truyền ở miền Bắc Việt Nam

Phương pháp này không tính năm, mà bắt đâu từ cung Sinh tính là tháng Giêng, đếm thuận theo

chiều kim đồng hồ đến tháng cân toán. Từ cung này tiến lên một cung là tính là ngày mùng Một của

tháng đó, đếm thuận theo chiều kim đồng hồ đến ngày cân toán. Tiến lên một cung là giờ Tý, đếm

thuận mỗi cung một giờ đến giờ cân toán. Dừng lại ở cung nào ta được quẻ Bát Môn Đại độn ở

cung đó.

Thí dụ:

* Tháng ba, ngày 24, giờ Tỵ (Từ 9g đến 11g).

Bắt đâu từ cung Sinh là tháng thứ nhất, đếm đến tháng Ba là cung Đỗ. Tiến lên một cung là cung

Cành là ngày mùng Một đếm đến ngày 24 là cung Đỗ. Tiến lên một cung là cung Cảnh lấy là giờ

Tý đếm đến giờ Tỵ lại là cung Đỗ. Quẻ lấy được theo phương pháp Bát Môn Đại độn là quẻ Đỗ.*

Tháng 9, ngày 19, giờ Thân.Tháng Giêng từ cung Sinh đếm đến tháng 9 vẫn là cung Sinh. Tiến lên

một cung ngày mùng Một vào cung Thương. Từ cung này đếm thuận đến ngày 19 ở cung Cảnh.

Tiến lên một cung thì giờ Tý ở cung Tử, đếm thuận đến giờ Thân là cung Tử. Quẻ Bát Môn độn

giáp lấy được là quẻ Tử.

2 – 2 – 2:   Phương pháp toán quẻ Bát Môn Đại độn lưu truyền ở miền Nam Việt Nam

Có hai cách toán Bát môn độn giáp: 

2 – 2 –   2 –   1:   Phương pháp toán Bát Môn thư nhât:  

Tính thuận theo chiều kim đồng hồ khởi tháng Giêng từ cung Sinh, tiếp đến

 Tháng 2/3 đồng cung tại Thương.

 Tháng 4 cung Đỗ.

 Tháng 5/ 6 đồng cung tại Cảnh.

 Tháng 7 cung Tử.

 Tháng 8/ 9 đồng cung tại Kinh.

 Tháng 10 cung Khai

 Tháng 11/ 12 đồng cung tại Hưu.

Trong phương pháp này, các tháng Mộ của tứ hành vào chung một cung với tháng vượng của hành

đó. Xuân thuộc Mộc. Tháng 3 là Mộ của Xuân, ghép vào tháng 2......Như vậy ta có đủ 12 tháng

phối với Bát môn.

Với phương pháp này ta thấy:

*  Phép độn Bát Môn thuận theo 4 mùa, điều này phối Hà Đồ là hợp lý. Đây cũng là đồ hình của 12

thiên bàn Tử Vi - Ngũ hành tương sinh thuận theo chiều kim đồng hồ của Hà Đồ. Cách phối này

xác quyết sự phối Bát Môn với Hà đồ ở trên.

* Do có hai tháng bị trùng quẻ theo mùa, nên sự tuân hoàn bị chựng lại theo mùa, có nghĩa là đến

tháng cuối của mùa nào thì quẻ sẽ trùng với tháng trước đó.

7

Page 8: Lac Viet Don Toan

2 – 2- 2- 2: Phương pháp toán Bát Môn thư hai:  

Tháng Giêng tại cung Sinh, tính thuận mỗi cung một tháng cho đến hết 12 tháng. Phương pháp độn

này sẽ cho 4 tháng cuối năm có các quẻ lặp lại với 4 tháng đâu năm. Vì đồ hình Bát Môn được luận

theo thuận tự 12 tháng trong năm, nên cũng xác quyết cho chung ta về sự phối Bát Môn với Hà Đồ

(Hà Đồ: Bốn mùa - Ngũ hành tương sinh - theo chiều thuận kim đồng hồ).

Như vậy, thoạt nhìn dê nhận thấy sự hợp lý của phương pháp 1. Nhưng nếu so sánh với qui luật vận

động liên tục và lặp lại của tự nhiên và vũ trụ, thì không thể có sự lặp lại theo cùng đơn vị thời gian

trong tự nhiên. Bởi vậy, không thể có quẻ lặp lại theo từng tháng mùa.

Theo phương pháp thứ hai - cũng là điều liên quan đến phương pháp Bốc Dịch theo giờ do ông

Thiệu Khang Tiết công bố vào thời Tống - chung ta sẽ có 8 quẻ Dịch liên tiếp nhau thuộc 8 giờ đâu

trong ngày và 4 quẻ dịch lặp lại trong 4 giờ cuối, giờ ta  là 2 giờ đồng hồ Tây,cho thấy có sự trùng

khớp hợp lý giữa tự nhiên và phương pháp bốc Dịch, nên tôi đã chứng nghiệm và chọn cách tính

tháng theo phương pháp 2 cho Lạc Việt độn toán.

Tuy nhiên tôi công nhận tính thiếu vắng của toán năm trong quá trình tìm hiểu Bát môn trong Lạc

Việt độn toán. Hy vọng sau này bạn đọc nghiên cứu Lạc Việt độn toán phát hiện ra phương pháp

tính năm mà thấy hợp lý về nhiều phương diện thì chung ta có thể hiệu chỉnh và thay đổi.

Lưu ý:

* Xuất phát từ tính hợp lý của vấn đề về vị trí của Bát Môn độn giáp trong Lạc Việt độn toán thì

chung ta ứng dụng việc toán quẻ Bát Môn độn giáp theo phương pháp toán quẻ lưu truyền ở miến

Bắc, tức cũng phương pháp một ở Miền Nam. Tức là mỗi tháng thuận tự tiến lên một cung, bắt đâu

từ cung Sinh.

* Để tiện việc tính nhanh, các tháng 1, tháng 9 bao giờ cũng cùng một cung. Các ngày mùng 1,

mùng 9, 17, 25 cùng một cung.

2 – 2 – 3: Kết luận

Lạc Việt độn toán dùng phương pháp độn Bát Môn Độn giáp lưu truyền ở miến Bắc Việt Nam và

phương pháp 1 trùng khớp lưu truyền ở miền Nam Việt Nam làm phương pháp độn chính thức cho

Bát Môn trong Lạc Việt độn toán

Lạc Việt độn toán phần 1 – 2

3 – Năng lượng cực lớn

Chung ta chắc chẳng bao giờ biêt đươc năng lương của một que diêm cháy loé lên cách chung ta

10 km, đơn giản vi năng lương của que diêm quá nhỏ. Nhưng người ta vẫn nhận ra hinh ảnh một

ngôi sao bùng vỡ cách chung ta hàng ngàn năm ánh sáng, vi năng lương của chung cực lớn. Đây

chỉ là một hinh ảnh thí dụ đê chung ta xem xét sự tồn tại của Bát Môn và Lục nhâm dưới một hinh

thức đơn giản .

Tại sao những phương pháp độn đơn giản như Bát Môn và Lục Nhâm ít thông tin hơn cả bói chân

gà, mà lại có thể xuyên suốt hàng ngàn năm thăng trâm của lịch sử?

8

Page 9: Lac Viet Don Toan

Phải chăng trước đây nó vốn là một môn dự đoán rất chính xác và hoàn chỉnh, nhưng sự thăng trâm

của lịch sử đã làm nó mai một và rời rạc một cách vô tình hoặc cố ý?

Phải chăng trước đây nó đã từng như một vì sao chứa năng lượng cực lớn còn tồn tại đến bây giờ 

cùng với sự bùng vỡ của một nền văn minh từ hàng ngàn năm trước? Chính từ ý nghĩ đó tôi đã đi

đến quyết định ứng dụng thuyết Âm Dương Ngũ Hành - là một học thuyết vũ trụ quan hoàn chỉnh,

nhất quán với nguyên lý căn của học thuyết này là Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ từ văn minh Lạc

Việt mà sách cổ chữ Hán không thể hiện điều này để phục hồi môn Lạc Việt độn toán.

Phương pháp dự báo của Lạc Việt độn toán ứng dụng trên thực tế từ nhiều năm qua trên mọi

phương diện do tác giả và những anh chị em nghiên cứu tham khảo thực hiện đã cho thấy khả năng

dự báo rất hiệu quả của môn này. Sự phục hồi môn Lạc Việt độn toán từ những di sản văn hoá phi

vật thể lưu truyền trong dân gian chính là một bằng chứng sắc sảo không chỉ minh chứng cho sự

hoàn chỉnh nhất quán và tính khoa học của thuyết Âm Dương Ngũ hành thuộc về văn minh Lạc

Việt mà còn là một bằng chứng cho thấy một nền văn minh đã thất truyền vì lịch sử bị vùi lấp. Đó

chính là nền văn hiến của người Lạc Việt trải gân 5000 năm, một thời huyền vĩ ở miền nam Dương

Tử.

Lạc Việt độn toán phần 1 – 3

4 – Nguyên lý căn đế của Lạc Việt độn toán.

Chung ta cung cần phải tiêp tục tim hiêu cả thực tại nào đa tạo nên sự nhận thức đê tổng hơp thành

hệ thông lý thuyêt Âm Dương Ngu hành có khả năng ứng dụng một cách rộng rai trên khắp các lĩnh

vực từ vu trụ đên mọi vấn đề của cuộc sông và con người?...

Nếu chung ta chỉ học và tìm hiểu phương pháp ứng dụng để dự trắc không thôi, thì đó là hiểu phân

ngọn. Muốn biết sâu thêm, ngoài việc chung ta dùng phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ

hành thì chỉ là hệ quả của một lý thuyết, không phải là bản thân lý thuyết đó, chung ta cũng cân

phải tìm hiểu cả nguyên lý và thực tại nào đã tạo nên sự nhận thức để tổng hợp thành nguyên lý lý

thuyết đó. Nhưng thuyết Âm Dương Ngũ hành là một học thuyết đã thất truyền hoàn toàn. Tất cả

những cái gì còn lại chỉ là sự giải thích theo phương pháp luận của nó. Trong các bản văn chữ Hán

cổ kim, không thể hiện tính hoàn chỉnh của học thuyết này. Trong Hoàng Đế Nội kinh tố vấn,

thuyết Âm Dương Ngũ hành thể hiện bằng phương pháp luận của nó. Nhưng phương pháp luận chỉ

là hệ quả của một lý thuyết và không phải bản thân lý thuyết đó.

Ngay chính cả các nhà nghiên cứu Trung Hoa hiện đại cũng như cổ xưa, đến bây giờ cũng thừa

nhận chưa thể biết được nguồn gốc đích thực của học thuyết này. 

Do đó, khi chung ta dùng phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành thì đó cũng chỉ là hệ

quả của một lý thuyết, không phải chính bản thân lý thuyết đó. Chung ta cũng cân phải tiếp tục tìm

hiểu cả thực tại nào đã tạo nên sự nhận thức để tổng hợp thành hệ thống lý thuyết Âm Dương Ngũ

hành có khả năng ứng dụng một cách rộng rãi trên khắp các lĩnh vực từ vũ trụ đến mọi vấn đề của

cuộc sống và con người? Hiện nay, nếu coi hệ thống những luận điểm nhân danh nền văn hiến Việt

là đung thì chung ta mới chỉ dừng lại ở mối liên hệ hợp lý và nhất quán giữa các vấn đề liên quan

trên một nguyên lý nhất quán. Nhưng chưa xác định được định lượng các mối liên hệ thực tại nào

làm nên lý thuyết này. Đây sẽ là quá trình lâu dài, gian khổ và tốn nhiều tâm huyết của nhiều thế hệ.

9

Page 10: Lac Viet Don Toan

Tuy nhiên, căn cứ vào những tiêu chí khoa học cho một lý thuyết hoặc một phương pháp hay giả

thiết khoa học, chung ta đủ cở sở để ứng dụng một cách nhất quán nguyên lý được phục hồi để phục

chế lại những giả trị văn hoá khoa học cổ đại, mà một trong những giá trị này chính là phương pháp

dự báo Lạc Việt độn toán.  

Ngay trong Lạc Việt độn toán, nếu không hiểu gì về thuyết Âm Dương Ngũ hành mà chỉ biết

phương pháp độn thì cũng có thể độn quẻ và dự báo được. Bởi vì ý nghĩa của từng quẻ đã cho một

khái niệm định tính của sự kiện cân chiêm đoán.

Tình trạng chung của tất cả các môn dự báo Đông Phương có liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ

hành đều như vậy: Chung ta chỉ biết phương pháp ứng dụng, còn nguyên lý và lý thuyết thì rất mơ

hồ.

Bởi vậy, tôi chẳng quản tài hèn, cố gắng đem đến cho các bạn những phát kiến của mình, nhằm

phục hồi lại những nguyên lý và giá trị đích thực của nền Lý học Đông phương.

Những phát kiến này căn cứ theo tiêu chí khoa học hiện đại nhất cho rằng:

* Một lý thuyết khoa học được coi là đung, phải có khả năng giải thích một cách hợp lý hâu hết

những vấn đề liên quan đến nó một cách hoàn chỉnh, nhất quán, thể hiện được tính khách quan, tính

qui luật và khả năng tiên tri.

* Một lý thuyết khoa học mới phải dung nạp được những lý thuyết khoa học trước đó phản ánh

những qui luật thực tại đã được thừa nhận. Đây cũng chính là lý do để tôi thấy cân phải trình bày

những nguyên lý căn bản của môn này trước khi nêu cụ thể phương pháp độn của Lạc Việt độn

toán.

4 – 1: Hà Đồ phối Hậu Thiên Lạc Việt

Trong các sách và bài viết của mình, đặc biệt là cuốn ’’Hà đồ trong văn minh Lạc Việt”  và “Tìm về

cội nguồn Kinh Dịch”, tôi đã chứng minh  Hà đồ chính là đồ hình căn bản trong Lý học Đông

phương và hoàn toàn không phải là Lạc Thư như cổ thư chữ Hán nói tới.

Hà Đồ chính là một đồ hình phản ảnh một thực tế sự vận động và tương tác có tính qui luật của Ngũ

tinh trong Thái Dương hệ với Địa câu, được qui ước hoá với tri thức thuộc về nền văn minh cổ thể

hiện trong thuyết Âm Dương Ngũ hành. 

Trước đây trong những cuốn sách và bài viết của tôi chỉ mang tính lập luận hợp lý giữa những hiện

tượng và vấn đề liên quan. Nhưng với trình thiên văn Sky mapro kiểm chứng vị trí của Ngũ tinh

trên bâu trời từ hàng ngàn năm trước CN và hàng ngàn năm sau thì có thể khẳng định đây là một

vấn đề không cân phải bàn cãi về tính khoa học và cả tính hợp lý trong lý luận cũng như trên thực

tế. Tất cả các nhà khoa học về vật lý thiên văn trên thế giới và mọi người có điều kiện quan sát

thiên văn có thể kiểm chứng điều này. Từ đó, tôi có thể khẳng định chắc chắn rằng:

Huyền thoại Long Mã hiện trên sông Hoàng Hà mang Hà Đồ và vua Phục Hy căn cứ vào đó để làm

ra Tiên thiên bát quái là một câu chuyện... huyền thoại đung nghĩa và không có giá trị thực tế.

Tiêu chí khoa học đã xác quyết rằng:

10

Page 11: Lac Viet Don Toan

Tính quy luật làm nên khả năng tiên tri và vạn vật đều có tương tác. Căn cứ trên cơ sở khoa học này

thì chung ta có thể khẳng định rằng sự vận động có tính quy luật của các hành tinh trên Thái Dương

hệ (Hậu Thiên), chính là cơ sở của Hậu Thiên Bát quái. Bởi vậy, Lạc Việt độn toán lấy “Hà Đồ

phối Hậu thiên Lạc Việt” làm nguyên lý căn để về nguyên lý lý thuyết. Điều này thể hiện tính nhất

quán trong nguyên lý học thuật cổ Đông phương thuộc về văn minh Lạc Việt, có khả năng lý giải

một cách hợp lý những vấn đề và hiện tượng liên quan đến nó. Nguyên lý này ứng dụng một cách

nhất quán trong việc lý giải mọi phương pháp và hiện tượng liên quan đến Lý học Đông phương từ

Tử Vi, bốc Dịch, phong thuỷ..vv... Là cơ sở cho sự hiệu chỉnh và phục hồi những giá trị của học

thuyết Âm Dương Ngũ hành đã thất truyền. Tính nhất quán là một trong yếu tố cân chứng tỏ một lý

thuyết được coi là khoa học. Bởi vậy sự trùng khớp giữa đồ hình Bát Môn và Hà Đồ một lân nữa

chứng tỏ tính hoàn chỉnh và nhất quán của nguyên lý  ’’Hà Đồ phối Hậu Thiên Lạc Việt”.

So sánh hai hình sau đây, chung ta sẽ nhận thấy điều này.

Đồ hình Hà Đồ phối Hậu Thiên Lạc Việt (Đã xoay lại theo qui ước của bản đồ hiện đại)

Để chứng tỏ rõ hơn nguyên lý này, chung ta nghiệm lý như sau: trên Cửu cung Hà Đồ và Cửu Cung

Lạc thư đều có từng cặp Ngũ hành cho tám cung (Bát Môn) -  Hà Đồ tính thuận theo chiều kim

đồng hồ theo chiều Ngũ hành tương sinh và Lạc Thư tính nghịch theo chiều kim đồng hồ theo chiều

Ngũ hành tương khắc. Điều này được minh hoạ bằng hình dưới đây:

Hà Đồ phối Hậu Thiên Lạc

Nguyên lý căn để thuộc về văn hiến Việt

Lạc thư phối Hậu Thiên Văn Vương

11

Page 12: Lac Viet Don Toan

Tương truyền có xuất xứ từ trên lưng con rùa thân trên sông Lạc.Vua Văn Vương căn cứ vào đấy để

làm ra Hậu Thiên Văn Vương. So sánh hai đồ hình trên chung ta thấy hai cụm: Thuỷ (Hiển thị màu

xanh Dương) - Càn (Tây Bắc), độ số 6, Khảm (Chính Bắc) độ số 1 và Mộc (Hiển thị màu xanh lá

cây) – Cấn (Đông Bắc) độ số 8, Chấn (Chính Đông) độ số 3 có vị trí và phương vị hoàn toàn giống

nhau.

Nhưng đến hai cụm Hoả và Kim thì có những khác biệt sau đây:

* Ở Lạc Thư: Phía Đông Nam và chính Nam là độ số của Âm Dương Kim số 4 – 9 phối quái Ly

Hoả và quái Tốn Mộc (Theo sách Hán) .

Ở Hà Đồ: Phía Đông Nam và chính Nam là độ số của Âm Dương Hoả số 2 – 7 phối quái Ly Hoả và

quái Khôn Thổ.

Ở Lạc Thư: Phía Tây Nam và chính Tây là độ số của Âm Dương Hoả, số 2 – 7 phối quái Khôn Thổ

và quái Đoài Kim.

Ở Hà Đồ: Phía Tây Nam và chính Tây là độ số của Âm Dương Kim  số 4 – 9 phối quái Tốn Âm

Kim và quái Đoài Dương Kim. Ta thấy: 

Về nguyên tắc (Về lý): Bát môn chỉ có thể hoặc phối Lạc Thư hoặc phối Hà Đồ. Và dù phối với đồ

hình nào thì trên Bát môn độn giáp cũng phải có hai cặp cùng hành tương ứng. Đây là tiền đề thứ

nhất. Từ đó cho chung ta một hệ quả là sự nghiệm suy sau:

4-1-1:

Chung ta nhận thấy rằng:

Khai - sự trôi chảy, sự dẫn hướng hành Thuỷ. Như vậy cặp cùng hành với Khai là Hưu trên Bát

Môn cũng phải thuộc Thuỷ (Hưu: Thuỷ Tù - sự ngưng trệ). Trong các sách cổ như Thái Ất, Kỳ

Môn đều coi Khai Hưu thuộc Thuỷ.

Khai Hưu thuộc Thuỷ thì Sinh Thương tiếp theo phải thuộc Mộc dù phối Bát Môn với Lạc Thư hay

Hà Đồ (xem hình trên).

4-1-2:

Nếu chung ta sắp Bát môn với bất cứ Lạc Thư hoặc Hà Đồ thì cũng sẽ có hai hành hợp lý tiếp nối

là:

*  Lạc thư: Đỗ Cảnh thuộc Kim, độ số 4 - 9.

Hà Đồ : Đỗ Cảnh thuộc Hoả, độ số 2 - 7.

* Lạc thư: Tử Kinh thuộc Hoả, độ số 2 - 7

Hà Đồ: Tử Kinh thuộc Kim, độ số 4 - 9.

Theo suy lý về khái niệm trực tiếp của danh từ thì tôi thấy Đỗ Cảnh : Sự thành đạt, vẻ đẹp thì đây

chính là nội dung gân gũi của quẻ Ly thuộc Hoả.

Do đó hai cung Đỗ Cảnh hoàn toàn phù hợp với Hà Đồ nằm ở phương Nam tương ứng với quái Ly.

12

Page 13: Lac Viet Don Toan

Tương tự,  sự chứng nghiệm cho thấy hai cung Tử Kinh phù hợp với hành Kim, có tính sát phạt,

đồng nghĩa với khái niệm trực tiếp của hai danh từ này. Sự phối Bát môn với Hà Đồ còn cho chung

ta phương vị của Bát Môn cũng chính là phương vị của Hà Đồ. Tính hợp lý của sự phối hợp này

còn cho chung ta sự hợp lý của mọi vân đề liên quan.

Bởi vậy: Đồ hình căn bản và là nguyên lý của Bát Môn chính là Hà Đồ.

Ta cũng dê dàng nhận thấy: Trong Bát môn độn giáp lưu truyền trong dân gian, các quẻ không có

ngũ hành và phương vị từng quẻ riêng biệt chỉ có khái niệm của quẻ đó qua tên quẻ.

Đồ hình Lạc thư nếu không phối Hậu Thiên, cũng không thể xác định phương vị qua độ số. Bởi vì,

nếu xét riêng Lạc Thư gọi 1 Thuỷ là phương Bắc thì không thể độ số 9 - độ số của - Kim lại ở

phương Nam. Nhưng ngược lại, Hà Đồ nếu đứng riêng một mình thì tự nó có phương vị tương ứng

với Hậu Thiên qua độ số 1 Chính Bắc hợp với Khảm Thủy, 7 chính Nam hợp với Ly Hoả, 9 chính

Tây hợp với Đoài Kim và 3 Mộc chính Đông hợp với Chấn Mộc. Bởi vây:

Hậu Thiên phối với Hà Đồ thì phương vị và ngũ hành của Tứ chính (Khảm - Chấn - Lý - Đoài),

hoàn toàn phù hợp với phương vị ngũ hành của Hà Đồ và tính chất của các quái thuộc tứ chinh.

Do đó:

Bát Môn khi phối với Hà Đồ thì tám cung Bát môn sẽ có phương vị của Hà Đồ và đuợc ứng dụng

trong Lạc Việt Độn Toán.

4 – 1 – 3: Kết luận

Hà Đồ phối Hậu Thiện Lạc Việt chính là nguyên lý căn để của phương pháp ứng dụng Bát Môn độn

giáp trong phương pháp dự báo Lạc Việt độn toán.

4 – 2: Hậu Thiên Lạc Việt và Hậu Thiên Văn Vương

Nếu bạn chưa tìm hiểu gì về Bát quái gồm hai đồ hình căn bản là Tiên Thiên Bát quái và Hậu thiên

bát quái, bạn có thể tham khảo các sách đã xuất bản sau đây:

* Kinh Dịch – tác giả Ngô Tất Tố.

* Kinh Dịch – Đạo của người quân tử. Tác giả Nguyên Hiến Lê.

* Kinh Dịch – Vũ trụ quan Đông phương. Tác giả Nguyên Hữu Lượng.

Trên cơ sở này bạn sẽ có khái niệm về Hậu Thiên Văn Vương để từ đó bạn sẽ tiếp tục tham khảo

cuốn:

* Tìm về cội nguồn Kinh Dịch. Tác giả Nguyên Vũ Tuấn Anh.

* Hà Đồ trong văn mijnh Lạc Việt. Tác giả Nguyên Vũ Tuấn Anh.

Để tìm hiểu về Hậu Thiên Lạc Việt. Tạm thời tôi giới thiệu hai đồ hình này để các bạn có thể tham

khảo:

13

Page 14: Lac Viet Don Toan

Hậu Thiên Văn Vương Hậu Thiên Lạc Việt

Tương truyền do vua Văn Vương bị giam ở ngục Dữu Lý nghĩ ra đồ hình này, căn cứ vào Lạc Thư

là đồ hình xuất hiện trên lưng rủa thân trên sông Lạc

Do Nguyên Vũ Tuấn Anh phục hồi trên cơ sở sự phân tích hợp lý các hiện tượng liên quan. Nhân

danh nền văn minh Lạc Việt.

Kết luận: Căn cứ vào những luận cứ đã chứng minh trong các sách được giới thiệu ở trên. Căn cứ

theo tiêu chí khoa học hiện đại cho một lý thuyết khoa học; căn cứ vào thực tế chứng nghiệm và

khả năng lý giải hợp lý các vấn để liên quan. Đồ hình Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ là nguyên lý

căn để của tất cả các phương pháp ứng dụng trong học thuật cổ Đông Phương, trong đó có phươpng

pháp ứng dụng dự báo Lạc Việt độn toán.

Lạc Việt độn toán phần 1 – 4

Thiệu Vĩ Hoa đã viết: ”Nạp âm ngũ hành trong bảng 60 Giáp tý căn cứ theo nguyên tắc gì để xác

định; người xưa tuy có bàn đến nhưng không có căn cứ rõ ràng và cũng chưa bàn được minh bạch.

Do đó vẫn là huyền bí khó hiểu ,bảng 60 Giáp tý biến hoá vô cùng”.

5 –  Lạc Thư hoa giáp nguyên tắc ưng dụng trong Lạc Việt độn toán

Sự phục hồi những nguyên lý căn để của thuyết Âm Dương Ngũ hành căn cứ theo tiêu chí khoa học

được cộng đồng của tất cả các ngành khoa học thế giời thừa nhận. Sự phát kiến đâu tiên mà tôi

mong các bạn tìm hiểu Lạc Việt độn toán là "Nguyên lý nạp âm trong bảng 60 hoa giáp". Đây cũng

chính là nguyên lý của sự thay đổi vị trí Thuỷ Hoả để các bạn quan tâm thấy được tính qui luật và

tính nhất quán, hoàn chỉnh của một học thuyết - Thuyết Âm Dương Ngũ hành - hoàn toàn không có

gì là huyền bí, huyên hoặc. Nhưng với bản Lục thập hoa giáp lưu truyền trong cổ thư chữ Hán, thì

ngay chính giới học thuật, nghiên cứu Trung Hoa hiện đại cũng như cổ xưa, đến bây giờ cũng thừa

nhận chưa thể biết được nguồn gốc đích thực của nó  và họ vẫn cho là huyền bí khó hiểu.

Thiệu Vĩ Hoa đã viết:

”Nạp âm ngũ hành trong bảng 60 Giáp tý căn cứ theo nguyên tắc gì để xác định; người xưa tuy có

bàn đến nhưng không có căn cứ rõ ràng và cũng chưa bàn được minh bạch. Do đó vẫn là huyền bí

khó hiểu, bảng 60 Giáp tý biến hoá vô cùng”.

14

Page 15: Lac Viet Don Toan

Với 48 quẻ Lạc Việt độn toán, mà mỗi năm chỉ có 24 quẻ đã chứng tỏ tính đơn giản của Lạc Việt

độn toán so với các phương pháp tiên tri khác. Nhưng điều dê hiểu là sự đơn giản đó phải được bù

đắp bằng tính chính xác của hệ thống lý thuyết, hoặc sự chính xác của các nguyên lý liên quan hỗ

trợ, thì mới có khả năng chứng tỏ tính tiên tri hiệu quả của nó. Một trong những nguyên lý chính

xác và có qui luật chính là Lạc thư hoa giáp -sách của người Lạc Việt viết về chu kỳ 60 tuân hoàn

của trái đất trong vũ trụ. 

Lạc thư hoa giáp với tính hợp lý, tính qui luật và có hệ thống cũng như khả năng giải thích hâu hết

những vấn đề liên quan đã chứng tỏ tính khoa học của nó. Điều này đã được chứng minh trong cuốn

“Thời Hùng vuơng và bí ẩn Lục thập hoa giáp” và cuốn “Hà đồ trong văn minh Lạc Việt”, trong đó

các tài liệu sưu tâm được có nguồn gốc từ cổ thư chữ Hán cổ kim, liên quan và đuợc phân tích.

Không có tính qui luật thì không có khả năng tiên tri.

Đây là một tiêu chí khoa học mà tôi luôn nhắc nhở.

Bây giờ chung ta so sánh bảng Lạc Thư hoa giáp nhân danh nền văn hiến Việt và bảng Lục thập

hoa giáp lưu truyền trong cổ thư chữ Hán, để thấy tính hợp lý, tính quy luật và tính hiệu quả hơn

hẳn bảng Lục thập hoa giáp từ cổ thư chữ Hán.

Để có phương tiện khảo chứng trong ứng dụng của Lạc Việt độn toán, tôi xin trình bày toàn bộ

bảng Lạc thư hoa giáp từ văn minh Lạc Việt dưới đây:

Ngũ vận - Kỳ thư nhât

Lục khí - Vận 1

Tam Âm Tam Dương

Giáp Tí. Ất Sữu: Hải Trung Kim

Bính Dân. Đinh Mão: Giáng Hạ Thuỷ

Mậu Thìn. Kỷ Tỵ: Đại Lâm Mộc

Lục khí - Vận 2

Tam Âm Tam Dương

Canh Ngọ. Tân Mùi: Lộ Bàng Thổ

Nhâm Thân. Quí Dậu: Kiếm Phong Kim

Giáp Tuất. Ất Hợi: Tuyền trung Thuỷ

Lục khí – Vận 3

Tam Âm Tam Dương

Bính Tí, Đinh Sữu: Lư Trung Hoả

Mậu Dân, Kỷ Mão: Thành Đâu Thổ

Canh Thìn, Tân Tỵ: Bạch Lạp Kim

Lục khí - Vận 4

Tam Âm Tam Dương

15

Page 16: Lac Viet Don Toan

Nhâm Ngọ, Quí Mùi: Dương Liêu Mộc

Giáp Thân, Ất Dậu: Sơn Đâu Hoả

Bính Tuất, Đinh Hợi: Ốc Thượng Thổ

Lục khí - Vận 5

Tam Âm Tam Dương

Mậu Tí, Kỷ Sữu: Trường Lưu thuỷ

Canh Dân, Tân Mão: Tùng Bách Mộc

Nhâm Thìn, Quí Tỵ:  Tích Lịch Hoả

Ngũ vận-Kỳ thư II

Lục khí - vận 1

Tam Âm Tam Dương

Giáp Ngọ, Ất Mùi: Sa Trung Kim

Bính Thân, Đinh Dậu: Thiên Hà Thuỷ

Mậu Tuất, Kỷ Hợ: Bình Địa Mộc

Lục Khí - Vận 2

Tam Âm Tam Dương

Canh Tí, Tân Sữu: Bích Thượng Thổ

Nhâm Dân, Quí Mão: Kim Bạch Kim

Giáp Thìn, Ất Tỵ: Đại Khê Thuỷ

Lục Khí - Vận 3

Tam Âm Tam Dương

16

Page 17: Lac Viet Don Toan

Bính Ngọ, Đinh Mùi: Sơn Hạ Hoả

Mậu Thân, Kỷ Dậu: Đại Dịch Thổ

Canh Tuất, Tân Hợi: Thoa Xuyến Kim

Lục khí - Vận 4

Tam Âm Tam Dương

Nhâm Tí, Quí Sữu: Tang Đố Mộc

Giáp Dân, Ất Mão: Phuc Đăng Hoả

Bính Thìn, Đinh Tỵ: Sa Trung Thổ

Lục khí - Vận 5

Tam Âm Tam Dương

Mậu Ngọ, Kỷ Mùi: Đại Hải Thuỷ

Canh Thân, Tân Dậu: Thạch Lựu Mộc

Nhâm Tuất, Quí Hợi: Thiên Thượng Hoả.

Như vậy, chung ta cũng nhận thấy tính qui luật và nhất quán, hoàn chỉnh của bảng Lạc thư hoa

giáp. Trong Lạc thư hoa giáp, sự khác biệt với Lục thập hoa giáp có nguồn gốc từ cổ thư chữ Hán

chỉ ở hai hành thuỷ và hoả. Mọi sự minh chứng về tính hợp lý trong các vấn để liên quan xin xem

sách và tư liệu đã dẫn.

Kết Luận: Bảng Lạc Thư hoa giáp – Sách của người Lạc Việt viết về chu kỳ vận động trong 60

năm của trái Đất trong vũ trụ - theo cách giải thích với những khái niệm của thuyết Âm Dương Ngũ

hành là nguyên tắc ứng dụng chính thức trong Lạc Việt độn toán để tính sự tương tác của các hiện

tượng liến quan theo thuyết Âm Dương Ngũ hành được phục hồi nhân danh nền văn hiến Việt.

6/ Nguyên lý của Lục Nhâm và Hậu thiên Lạc Việt trong Lạc Việt độn toán.

Tôi đưa các dị bản khác nhau của Lục Nhâm tiêu độn nhằm chứng tỏ những nguyên lý lý thuyêt căn

bản của các phương pháp độn toán Đông phương (bao gồm cả Tử Vi; Tử Binh....) và sự nhận thức

về một thực tại là tiền đề của nó đa bị thất truyền , mà trong trường hơp này đó chính là những dị

bản của Lục Nhâm tiêu độn.

Phương pháp lưu truyền ở miền Bắc có tính năm, giống cách tính trong bài viết của Thái Tuế bắt

đâu năm Tý ở cung Đại An. Phương pháp ở miền Nam toán từ tháng 1 bắt đâu ở cung Đại An và

không toán năm. Còn một dị bản thứ ba khác là các cung Đại An, Tốc hỷ, Tiểu cát bị lệch sang phải

và thay chỗ cho nhau,dị bản này cũng tính tháng Giêng từ cung Đại an và không tính năm. Về cách

gọi thì miền Bắc gọi môn này là Lục Nhâm đại độn, ở miền Nam gọi là Lục Nhâm tiểu độn. Dù với

cách gọi nào thì  cả  ba phương pháp này đều có một nền tảng đồ hình giống nhau và đều không có

sự liên hệ với Ngũ Hành. Lục Nhâm đại độn có 6 cung, có sự lien hệ  với Lục khí và tương quan

thực tại với chu kỳ của sao Thái tuế và chỉ có Hậu thiên bát quái Lạc Việt mới có khả năng kết hợp

hai cặp quái Điên đảo dịch thành 2 cặp bất dịch và tạo thành 6 cực như sau:

17

Page 18: Lac Viet Don Toan

Cặp bât dịch

Hậu Thiên Lạc Việt đổi chỗ Tốn Khôn mới tạo được cặp bất dịch này

Trên cơ sở này mới tạo thành 6 cực liên hệ với 6 quẻ Lục Nhâm như sau: 

Từ cơ sở này, tính chất của 6 cung Lục Nhâm như sau Lưu Niên: Giữ lại thời gian. Biểu tương cho

sự ngăn trở hiểm ác, âm mưu… Đây chính là hành thuỷ, vậy liên hệ với quẻ Khảm. Tốc Hỷ: Niềm

vui đến nhanh. Biểu tượng cho sáng sủa, vẻ đẹp… Đây chính là hành Hoả, vậy liên hệ với quẻ Ly.

Xích khẩu: Tranh chấp, cự cãi, lý luận, xung sát… Đây là thuộc tính của hành Kim, vậy liên hệ với

Tốn – Đoài.Tiểu Cát: Niềm vui nhỏ, dịu dàng, mềm mỏng, vươn lên… Đây là thuộc tính của hành

Mộc.vậy liên hệ với Cấn - Chấn. Như vậy tứ hành đã an vị . Còn hai quẻ nữa khởi đâu của vạn sự

chính là Càn Khôn… liên hệ với: Càn – Đại An và Khôn – Vô vong. Từ đó ta thấy Lục Nhâm chính

là sự sắp xếp theo những cặp đối xứng và xung sát nhau như Khảm Thuỷ -   Ly Hoả; Tốn Đoài  Kim

-  Cấn Chấn Mộc; Khôn Âm Hoả đới Thổ - Càn Âm Kim đới thuỷ theo chiều tương khắc của Ngũ

Hành. Xin xem sự mô tả dưới đây:

Khảm Ly Tốn và Đoài

Thuỷ Hoả Kim

Lưu niên Tốc Hỷ Xích Khẩu

Càn Khôn Cấn và Chấn

Dương Thổ Âm Thổ Mộc

Đại an Vô Vong Tiểu Cát

Lạc Việt độn toán phân 1 - 6

7/ Bát môn và Lục Nhâm câu thành phương pháp Lạc Việt độn toán.

Qua sự phân tích trên, chung ta thấy có sự liên hệ của Hà Đồ với Bát môn và Hà Đồ - Hậu thiên

Lạc Việt với Lục Nhâm. Cả hai, Bát Môn và Lục Nhâm đều có gôc từ Hà Đồ. từ đó suy luận ra

chung phải có liên hệ với nhau.

Bát Môn trực tiếp từ Hà Đồ - cái có trước - thuộc Dương sẽ Tĩnh.

Lục Nhâm có sau từ Hậu thiên Lạc Việt - hệ quả của hệ quả - thuộc Âm sẽ động.

18

Page 19: Lac Viet Don Toan

Xin lưu ý  Dương Tịnh - Âm Động là lý thuyết căn bản được phục hồi từ Văn hiến Lạc Việt. còn

sách Hán thì ngược lại Dương Động - Âm Tịnh. Đến đây ta đã thấy hai phương pháp độn Lục

Nhâm và Bát Môn phải có một sự liên hệ với nhau trong một phương pháp tiên tri hoàn chỉnh.

Xét hai phương pháp ta thấy 6 cung trong Lục Nhâm chính là tượng của lục khí tương tác và là một

nửa chu kỳ Âm Dương của vòng Thái Tuế. Chu kỳ sao Thái Tuế - Sao Mộc quay quanh mặt trời là

12 năm, phân Âm Dương mỗi chu kỳ là 6 năm. Trong Lạc Thư Hoa Giáp thì 6 năm vừa đung một

vận có tính qui luât. 10 vận vừa đung một hoa giáp 60 năm; phân Âm Dương thành 2 kỷ, mỗi kỷ 30

năm, khác với  Lục thập hoa giáp từ sách Hán, không thể hiện được một vận là 6 năm. Đối chiếu

với các hiện tượng liên quan thì việc tính thêm năm vào phương pháp độn Lục Nhâm là hợp lý.

Phương pháp dự báo Lạc Việt độn toán là sự kết hợp giữa hai quẻ của Bát Môn và Lục Nhâm trong

cùng một thời điểm toán quẻ.

* Bát môn thuộc Dương – theo nguyên lý Dương trước Âm sau và Dương tịnh Âm Động. Nến quẻ

Lạc Việt độn toán lấy Bát Môn làm quẻ ngoại thể hiện hoàn cảnh, điều kiện bên ngoài của sự việc,

sự vật cân luận đoán.

* Lục Nhâm có sau thuộc Âm. Nến quẻ Lạc Việt độn toán lấy Lục Nhâm thể hiện bản chất sự việc

sự vật cân luận đoán.

Tóm lại  Lạc Việt độn toán hoàn toàn dựa trên sự phục hồi của Thuyết Âm Dương Ngũ hành từ văn

minh Lạc Việt, trong đó lấy Hà Đồ làm đồ hình là nguyên lý và Lục Nhâm Đại độn và Bát môn độn

giáp là những mảnh còn sót lại của một phương pháp độn toán rất kỳ vĩ từ ngàn xưa.   Đó là lý do

môn độn toán này tồn tại hàng ngàn năm, cùng các phương pháp rất trí tuệ khác mà sự thất truyền

không lớn là Thái Ất, Tử vi. Lạc Việt độn toán có tính qui luật, tính minh triết về những giá trị căn

bản liên quan đến con người. Hay nói một cách khác: nó mang dấu ấn của một tri thức Hàn lâm.  

Lạc Việt độn toán là một phương pháp không hề tồn tại trong cổ thư chữ Hán. Do đó nó khẳng định

tính nhất quán, tính hệ thống và khả năng tiên tri theo tiếu chí khoa học mình chứng cho nền văn

hiến Lạc Việt một thời huyền vĩ ở bờ Nam sông Dương Tử với lịch sử trải gân 5000 năm.

Kết Luận

Bát Môn độn giáp và Lục Nhâm đại độn là hai nội dung căn bản của phương pháp dự báo Lạc Việt

độn toán. Quẻ Lạc Việt độn toán là sự kết hợp giữa hai quẻ Bát Môn và Lục Nhâm trong cùng một

thời điểm toán quẻ.

* Bát môn thuộc Dương – theo nguyên lý Dương trước Âm sau và Dương tịnh Âm Động. Nến quẻ

Lạc Việt độn toán lấy Bát Môn làm quẻ ngoại thể hiện hoàn cảnh, điều kiện bên ngoài của sự việc,

sự vật cân luận đoán.

* Lục Nhâm có sau thuộc Âm. Nến quẻ Lạc Việt độn toán lấy Lục Nhâm thể hiện bản chất sự việc

sự vật cân luận đoán.

Lạc Việt độn toán phần 2

Phương pháp độn quẻ Lạc Vệt độn toán

19

Page 20: Lac Viet Don Toan

Phương pháp độn que trong Lạc Việt độn toán đa trinh bày ơ phần trên 2 – 1 và 2 – 2  thuộc phần

Một của sách này. Chung ta thấy rằng rất đơn giản, dê học, nhưng việc luận que lại tuỳ thuộc hoàn

toàn vào câu hỏi của nguời độn dùng que đê toán việc gi  và sự chính xác tuỳ thuộc khả năng của

người luận đoán. Tuy nhiên những việc đơn giản với câu hỏi cụ thê thi que Lạc Việt độn toán đăc

biệt dê ứng dụng. Phương pháp độn Lạc Việt độn toán gồm hai bộ phận cấu thành trong que là độn

Bát Môn và Lục Nhâm. Cung  và cung như tất cả các môn dự báo tiên tri khác của Lý học phương

Đông, đều dùng âm lịch.

Phần này giới thiệu với các bạn phương pháp độn que đơn giản trên bàn tay:

1 – Độn Bát môn.

Độn Bát Môn Đại Độn: Dùng 8 đốt ngón tay trên bàn tay

1 – 1: Bắt đâu từ cung Sinh  ở đốt thứ nhất ngón trỏ là tháng thứ nhất trong năm, tính thuận theo

chiều kim đồng hồ - mỗi tháng một cung - đến tháng cân toán.

1 - 2: Tiến 1 cung là ngày mùng 1 của tháng đó, tính thuận mỗi ngày một cung - đến ngày cân toán.

1 - 3: Tiến 1 cung là giờ Tí của ngày đó, tính thuận - mỗi giờ một cung - đến giờ cân toán trong

ngày, dừng tại cung nào ra quẻ tên cung đó.

Thí dụ:

Giờ Tuất, ngày 19 tháng 5.

Bắt đâu từ cung Sinh là tháng 1 đếm thuận chiều kim đồng hồ đến tháng 5, dừng ở cung Tử. Tiến 1

cung là cung Kinh, đếm thuận đến 19 là cung Hưu. Tiến 1 cung là  cung Sinh giờ Tí đếm đến giờ

Tuất, toán được là cung Đỗ, tức quẻ Đỗ.

2 - Độn Lục Nhâm

Độn Lục Nhâm: Dùng 6 đốt ngón tay trên bàn tay

2 – 1: Năm Tí từ cung Đại An, trên đốt thứ nhất ngón trỏ, chiều thuận kim đồng hồ - mỗi năm một

cung - đến năm cân toán, dừng ở cung nào là tháng 1 của năm đó.

2 – 2: Từ tháng 1 tính thuận - mỗi tháng một cung - đến tháng cân toán, dừng ở cung nào là ngày 1

của tháng đó.

20

Page 21: Lac Viet Don Toan

2 - 3: Từ ngày 1 tính thuận mỗi ngày một cung – đến ngày cân toán dừng lại ở cung nào là giờ Tí

của ngày đó.

Từ giờ Tí tính thuận đến giờ cân toán, ta sẽ được quẻ Lục Nhâm cân toán.

Thí dụ: Giờ Tuất ngày 19 tháng 5 năm Tỵ.

Bắt đâu từ cung Đại an là năm Tí, đếm thuận theo chiều kim đồng hồ đến năm Tỵ là cung Vô Vong.

Từ cung Vô Vong là tháng 1, đếm thuận đến tháng 5 là cung Xích khẩu.

Từ cung Xích khẩu là ngày 1, đếm thuận đến ngày 19 là cung Xích khẩu. Từ cung Xích khẩu là giờ

Tí, đếm thuận đến giờ Tuất là cung Lưu niên,toán được cung Lưu Niên. 

3 – Quẻ Lạc Việt độn toán

Như vậy, kết hợp hai cung của Bát môn và Lục Nhâm trong cùng đơn vị thời gian luận quẻ trong

bài trên là:

* 1 – 3: Giờ Tuất ngày 19 tháng 5 - Quẻ Bát Môn = Đỗ.

* 2 – 3: Giờ Tuất ngày 19 tháng 5 - Quẻ Lục Nhâm = Lưu Niên.

Ta có quẻ của Lạc Việt độn toán là: Đỗ - Lưu Niên - năm âm

* Quẻ Bát môn trong Lạc Việt độn toán  tương ứng hoàn cảnh, điều kiện môi trường của sự vật sự

việc, với quẻ Thượng trong bốc Dịch.* Quẻ Lục Nhâm trong Lạc Việt độn toán tương ứng với hiện

trạng, bản chất sự vật, sự việc, với tương ứng với quẻ Hạ trong Bốc Dịch.

3 – 1:  Cách lây quẻ Lạc Việt độn toán bằng công thưc. 

Cũng có một cách độn quẻ Lạc Việt độn toán tính theo số dư do Ninh Thuận – Học viên lớp Lạc

Việt độn toán - giới thiệu.

Xin giới thiệu để các bạn tham khảo.

3 – 1 –  1: An quẻ Bát môn: 

Lấy số Tháng + Ngày + Giờ chia cho 8 còn dư bao nhiêu so số dư với thứ tự của các quẻ Bát môn

sẽ ra quẻ Bát môn.

Ví dụ : Tháng 9 + ngày 25 + giờ Dân 3 = 37 chia 8 dư 5, 5 là quẻ Tử của Bát môn

3 – 1 – 2: An quẻ Lục nhâm:

Lấy số Năm + Tháng + Ngày + Giờ  - 3 chia cho 6 còn dư bao nhiêu so số dư với thứ tự của quẻ

Lục nhâm sẽ ra quẻ Lục nhâm

* Ví dụ : Năm Tuất ( 11 ) + Tháng 9 + ngày 25 + giờ dân (3 ) = 48 – 3 = 45 chia cho 6 còn dư 3 , 3

là Tốc Hỉ. Đại An được tính là quẻ thứ nhất.

Như vậy kết hợp hai quẻ Bát Môn và Lục Nhâm ra quẻ Lạc Việt độn toán là:

Tử - Tốc Hỉ

3 – 1 – 3: Kết Luận

21

Page 22: Lac Viet Don Toan

Quẻ Lạc Việt độn toán là sự kết hợp giữa hai quẻ Lục Nhâm và Bát môn lấy trong cùng một không

thời gian toán quẻ.

4 – Một số nguyên tắc khi độn quẻ: 

4 – 1: Thời gian lây quẻ

Ở địa phương nào thì dùng giờ địa phương đó khi độn quẻ. Cứ hai giờ quốc tế thì bằng một giờ Âm

lịch. Nếu rơi vào thời gian giữa hai giờ – từ chuyên dùng gọi là giờ khe - thì dùng cả hai quẻ của hai

giờ đó để luận.

Khái niệm giờ khe: Giờ khe là thời điểm giao nhau của hai giờ âm lịch .

Thí dụ: Động quẻ vào khoảng 9 giờ sáng tức giữa hai giờ là Thìn – Tỵ. Quẻ giờ Thìn là Thương Vô

Vong; quẻ giờ Tỵ là Đỗ Tốc Hỷ thì lấy cả hai quẻ để luận. Quẻ trước là tiền vận, là hiện trạng. Quẻ

sau là kết quả.

4 – 1 – 1: Quy ước chung giờ Âm lịch và giờ Quốc tế

1) 11 – 01 giờ =Giờ Tý 2) 01 – 03 giờ =Giờ Sửu

3) 03 – 05 giờ =Giờ Dân 4) 05 – 07 giờ =Giờ Mão

5) 07 – 09 giờ =Giở Thìn 6) 09 – 11 giờ =Giờ Tỵ

7) 11 – 13 giờ =Giờ Ngọ 8) 13 – 15 giờ =Giờ Mùi

9) 15 – 17 giờ = Giờ Thân 10)17 - 19 giờ= Giờ Dậu

11) 19 – 21 giờ=Giờ Tuất 12) 21 – 23 giờ=Giờ Hợi.

4 – 1 – 2: Bảng tra giờ mặt trời dùng trong dự báo tương ưng tại Việt Nam.

Trên thực tế giữa giờ qui ước theo bảng trên dùng cho bất cứ quốc gia nào và giờ địa phương nơi cư

tru của người luận quẻ, lấy số Tử Vi...vv... lại có một chênh lệch giữa mui giờ qui ước và giờ địa

phương. Bởi vì giờ qui ước lấy theo vị trí địa lý thủ đô của quốc gia sở tại. Nhưng giờ địa phương

thực tế so với mặt trời đôi khi cách nhau hàng nửa giờ, thâm chí ở những quốc gia lớn như Nga,

lãnh thổ trải dài trên nhiều mui giờ thì sự chênh lệch giữa giờ qui ước và giờ địa phương là rất lớn.

Bởi vậy, chung ta cân bảng này dùng trong dự báo tại Việt Nam và từ đó suy ra các địa phương

khác nhau trên thế giới.

Lưu ý:

Bảng tra giờ chênh lệch này do một trí giả ở Sài Gòn vào những năm 60 đã kỳ công trong nhiều

năm đo bóng mặt trời để so sánh tìm ra. Khi tìm được danh tính vị này tôi sẽ xin bổ xung sau. Giờ

Dương lịch trong bảng này đã được hiệu chỉnh phù hợp với giờ qui ước của nhà nước.

4 – 2: Điều kiện thời gian luận quẻ:

Giả sử  vào giờ Ngọ định bấm quẻ mà không độn vì lý do gì đó, đến giờ Mùi mới độn thì tính quẻ

giờ Mùi. Nếu giờ Ngọ đã bấm thành quẻ rồi thì tính quẻ giờ Ngọ. Nếu do biết trước - do học thành

thạo nên biết an quẻ trước trong ngày, rồi đợi giờ tốt quẻ tốt mới an quẻ để hỏi việc thì quẻ không

nghiệm.

22

Page 23: Lac Viet Don Toan

4 – 3: Khái niệm ngẫu nhiên và tính cảm ưng khi độn quẻ:

Khái niệm ngẫu nhiên này thuờng được hiểu theo cách nhìn thông dụng của đời thường là một sự

tương tác phi qui luật, không thể tiên liệu. Nhưng theo thuyết Âm Dương Ngũ hành thì không hề có

cái gì là ngẫu nhiên trong sự tương tác chằng chịt của tự nhiên, xã hội và con người cả. Ngay cái

goị là "cảm ứng tiên tri" cũng không hề ngẫu nhiên.Chính sự tương tác có tính qui luật lên ngay ý

thức của chung ta, để chung ta phải độn quẻ vào giờ này, chứ không phải giờ khác và quẻ phải là

"a", chứ không phải "b" để quyết định tiên tri sự việc sẽ là thế này, chứ không phải thế kia là một

chuỗi tất yếu có tính qui luật.

Tôi xin được bắt đâu bằng tính ngẫu nhiên xâu chuỗi của các vấn đề liên quan như sau:

* Một sự kiện xảy ra gây thắc mắc cân hỏi.

* Thời gian người trong cuộc cân hỏi vào giờ này chứ không phải giờ khác.

* Thời gian nguời luận gieo quẻ và trả lời.

23

Page 24: Lac Viet Don Toan

Thông thường thì thời gian hỏi và trả lời trùng khớp. Ở quẻ Dịch với việc thả ba đồng chinh thì tính

ngẫu nhiên rất cao ở chính phương pháp gieo quẻ.

Tất cả những yếu tố liên hệ xâu chuỗi này đều mang tính ngẫu nhiên. Nhưng - giả thiết - nó ra một

quẻ nghiệm và sự lý giải tiên tri đung thì tất cả những chuỗi ngẫu nhiên đó có vẻ như là tính tất yếu.

Nguyên nhân nào để có hiện tượng này? Điều này được giải thích -  chứ chưa phải chứng minh -

qua thí nghiệm của vật lý lượng tử: Chính là sự tương tác có tính quy luật của ý thức với các hạt cơ

bản. Tôi đã phân tích và chứng minh rằng: Ý thức có thuộc tính vật chất và chịu sự tương tác có

tính quy luật của vũ trụ. Tính tương tác này là hai chiều. Xin xem kỹ hơn luận đề này trong tiểu

luận ’’Định mệnh có thật hay không?”. Chính vì tính tương tác có tính quy luật của ý thức với quy

luật của thiên nhiên và ngược lại, nên hoàn toàn không có vấn đề ngẫu nhiên trong chuỗi sự kiện

dẫn đến việc gieo quẻ trong Bốc Dịch, hay độn quẻ trong Lạc Việt độn toán.  Nhưng đó là ý thức

rất tập trung. Như vậy, chung ta không thể có một phân tích sáng suốt và được quẻ nghiệm, nếu

không có sự tập trung tư tưởng. Và sự tập trung này cân cảm hứng với việc độn quẻ. Thông thường

thì các nhà chiêm tinh trả lời ngay khi được hỏi, vì tính chuyên nghiệp và cảm hứng tiên tri sẵn có

của họ. Nhưng bản chất của vấn đề vẫn là cảm hứng.

Những nguời mới học  Lạc Việt độn toán không phải là tiên tri chuyên nghiệp, tôi khuyên khi có

cảm hứng hãy độn quẻ. Tuy nhiên mọi nguời vẫn có thể độn quẻ trả lời ngay khi được hỏi, nếu họ

có cảm hứng tức thời

4 – 3 – 1:  Nguyên tắc chọn quẻ trong hợp nhiều người cùng độn một việc:

Trường hợp có nhiều nguời cùng độn quẻ và cho những quẻ khác nhau vào thời điểm không thời

gian khác nhau sẽ chọn quẻ hợp lý nhất cho sự việc để giải và mọi chi tiết của sự việc cân báo sẽ là

sự tổng hợp các quẻ đã độn của người khác.

Chung ta giả thiết rằng: Tất cả các quẻ khác nhau đều nghiệm cho một sự việc. Mới nghe có vẻ như

vô lý. Nhưng thực ra thì mỗi quẻ sẽ phản ánh một phân của sự việc. Người giỏi và kiến thức rộng

có thể suy ra toàn bộ sự việc từ quẻ đã độn. Điều này cũng giống như nhà khảo cổ tìm ra mấy cái

xương con khủng long để suy ra toàn bộ con Khủng long.

4 – 3 – 2: Nguyên tắc chọn quẻ do người hỏi độn:

Nếu nguời hỏi tự độn quẻ rồi lấy quẻ đó hỏi nguời luận giải thì mọi chuyện sẽ toán theo quẻ đã độn.

4 – 3 – 3: Phương vị trong quẻ Lạc Việt độn toán

Khi xem sự việc với những câu hỏi như: Anh A có khỏi bệnh không? Hoặc cháu B lớn lên có

nghịch không? Trường hợp này không tính phuơng vị. Phương vị chỉ được xét đến khi câu hỏi có

yếu tố phương vị. Thí dụ: Người này ở đâu tới? Việc này xảy ra ở đâu?...vv....

Phạm vi không gian độn quẻ cho sự việc trong trong nước (Quốc gia) thì lấy nơi mình cư tru là tâm

để định phương vị. Xem việc có tính quốc tế thì lấy thủ đô nơi mình độn quẻ làm tâm định phương

vị. Quẻ Bát Môn xác định phương vị xảy ra sự kiện.

Quẻ Bát môn kết hợp Lục Nhâm xác định tính chất sự kiện, hoặc hậu quả sự kiện.

24

Page 25: Lac Viet Don Toan

Lạc Việt độn toán phần 3

Ý nghĩa của quẻ Lạc Việt độn toán

Lạc Việt độn toán là sự kêt hơp giữa hai que Bát Môn độn giáp và Lục Nhâm Đại độn. Sự

tương tác theo tính chất ngu hành và vị trí tương tác Âm Dương của hai quỷe này với tính chất

của từng que sẽ quyêt định tính chất của dự báo cho các sự kiện. Bơi vậy phần này chứng ta tim

hiêu vê ý nghĩa của các qủe trong Lạc Việt độn toán.

1 - Ý nghĩa của quẻ  Bát Môn độn giáp

1 – 1:   Sinh (Mộc): Sinh nghĩa là: Sống, là sự bắt đâu (cho một việc, một cái gì đó), là ý tưởng

ban đâu, là mâm cây, là cỏ, là cây nhỏ, là loại cây mềm yếu (cây Liêu chẳng hạn), là mùa xuân,

là sự hứa hẹn, là hy vọng… Cung Sinh là Âm Mộc, nhưng nghĩa Sinh thuộc Dương Mộc. Độ số

là 3. Về phương vị là chính Đông. Về màu sắc là xanh lá mạ, xanh non.

1 – 2:  Thương (Mộc): Thương nghĩa là: Buồn, là thuộc trạng thái tình cảm, là cây lớn, là sự

phát triền sung mãn sắp chuyển sang giai đoạn suy vi. Cung Thương là Dương Mộc, nhưng

nghĩa của Thương thuộc Âm Mộc. Độ số là 8. Về phương vị là Đông Bắc. Về màu sắc là xanh

lá cây xậm.

1 – 3:  Đỗ (Hoải): Đỗ nghĩa là: Đạt, là sự thành đạt, là kết quả tốt đẹp, là được việc, là quí nhân

phù trợ. Cung Đỗ là Âm Hoả, nhưng nghĩa của Đỗ thuộc Dương Hoả. Độ số là 7. Về Phương vị

là chính Nam. Về màu sắc là màu đỏ.

1 – 4: Cảnh (Hỏa): Cảnh nghĩa là: Đi chơi ở trong sự nhàn hạ, phong lưu. Là từ xa tới, là du

lịch, là đi xa, là vẻ đẹp, là nhà đẹp, cao rộng có vườn cây hoặc nội thất rực rỡ. Cung Cảnh thuộc

Dương Hoả, nhưng nghĩa của Cảnh thuộc Âm Hoả. Độ số là 2. Về phương vị là Đông Nam. Về

màu sắc là màu đỏ nâu. Cảnh, vì là Âm Hỏa – chính vị Khôn Thổ (Theo Hậu thiên Lạc Việt) –

nên còn có ý nghĩa là Âm Thổ: miếng đất đẹp.

1 – 5:  Tử (Kim): Tử nghĩa là: Chết, sự chấm dứt, kết thuc, là cắt đứt, là sát phạt, là tiền bạc tài

sản lưu động, là người làm nghề cơ khí, kim khí, là võ nghiệp, nếu là bác sĩ thì liên quan đến

mổ xẻ, là nghe… Cung Tử thuộc Âm Kim, nhưng nghĩa của Tử thuộc Dương Kim. Độ số là 9.

Về phương vị là chính Tây. Về màu sắc là màu trắng. Tử, cũng còn có nghĩa là con cái.

1 – 6:  Kinh (Kim): Kinh nghĩa là: Kinh sợ, đột ngột, sự bất ngờ, là giật gân, là người làm việc

táo bạo, mạo hiểm … Cung Kinh thuộc Dương Kim, nhưng nghĩa của Kinh thuộc Âm Kim. Độ

số là 4. Về màu sắc là trắng xám.

1 – 7:  Khai (Thủy): Khai nghĩa là dòng nước chảy, là sự khai thông, là trôi đi, là thoát khỏi sự

bế tắc, là đi xa thuận lợi, tượng là âm thanh, dài, mềm… Cung Khai thuộc Âm Thuỷ, nhưng

nghĩa của Khai thuộc Dương Thuỷ. Độ số là 1. Về màu sắc là xanh dương, là đen bóng.

25

Page 26: Lac Viet Don Toan

1 – 8:  Hưu (Thủy): Hưu nghĩa là: Nghỉ, sự ngưng trệ, sự nghỉ ngơi do bất lực, kiệt sức, là bế

tắc. Cung Hưu thuộc Dương Thuỷ, nhưng nghĩa của Hưu thuộc Âm Thuỷ. Độ số là 6. Về màu

là màu đen xỉn, xanh đen.

2 - Ý nghĩa các quẻ Lục Nhâm Đại độn

2 – 1:  Đại an (Thổ): Đại an thuộc Dương Thổ, nghĩa là bình yên lớn. Tính chất chậm chạp

nhưng chắc chắn, thuộc về tài sản là nhà đất lớn, là miếng đất hoặc vùng đất lớn, là nguồn lợi

ổn định, chắc chắn. Về người là bậc quân tử chín chắn, nữ hiền hậu tính cách điềm đạm, là

người đây đặn, béo tốt. Về công việc là sự ổn định, là người làm tại nơi trung tâm, có quyền

chức địa vị. Về nơi làm việc là cơ quan hoặc bộ phận quan trọng. Về bệnh liên quan đến dạ dày

hoặc tỳ. Về phương vị là nơi trung tâm. Về màu sắc là màu vàng thổ. Tượng là vật to… Độ số

là 5

Tính chất cung này hiền lành, cầu an, găp xấu giảm xấu, găp tôt giảm tôt.

Tương hinh: Căn nhà, bất động sản, hộp gỗ

Kinh nghiệm: Xuất hành vào giờ, ngày Đại An, thi tim người hay vắng nhà, lo việc hay bị dời ngày,

chỉ có đi xa là binh an vô sự.

2 – 2:  Lưu niên (Thủy): Lưu niên thuộc Thuỷ, nghĩa là giữ lại thời gian. Có tính hiểm độc, lừa

dối, âm mưu, là mưu toan, là sự do dự, lo lắng. Thuộc về tài sản là thất thoát, phá sản. Thuộc về

sự việc là trì trệ. Là công việc không chính danh, có tính phiêu lưu mạo hiểm, là phi pháp, phi

đạo đức. Là chết chóc tai nạn. Về bệnh thì liên quan đến máu huyết hoặc thận. Về phương vị là

phương Bắc hoặc Tây Bắc. Về màu là màu đen hoặc xanh dương. Về độ số là 1 và 6.

Tính chất cung này tri trệ, kéo dài, găp xấu thi tăng xấu, găp tôt thi tăng tôt, vi nó là hành Hoả.

Tương hinh: Cơ quan luật pháp, nhà thương, nhà tù, giấy tờ.

Kinh nghiệm: Xuất hành vào giờ Lưu Liên dê găp người, và hay ngồi lâu, rất nhiều người có thư tín

ơ ngày Lưu Liên.

2 – 3:  Tốc Hỷ (Hỏa): Tốc hỷ thuộc Hoả, nghĩa là sự vui vẻ, may mắn, là nhanh chóng, là tốt

đẹp sáng sủa. Về người là quí nhân hay giup đỡ người khác, là người thông minh, tài cao học

rộng. Về công việc là chính danh, về học vấn là sự thành đạt, có học vị cao, là những dịch vụ

phục vụ cho vẻ đẹp, cho nhu câu tinh thân. Về hiện tượng là thuộc về văn hóa, giáo dục. Là

người mang những giá trị tinh thân cao quí. Về bệnh liên quan đến tim hoặc tinh thân. Về màu

sắc là màu đỏ, về phương vị là hướng Nam hoặc Đông Nam. Về độ số là 2 và 7.

Tính chất cung này là thông tin, thư tín, nói chung là các phương tiện và tính chất thông tin.

Tương hinh: Đám cưới, tinh cảm, tin thư.

Kinh nghiệm: Đang mong người ơ xa mà găp cung Tôc Hỷ thi người ơ xa sẽ về.

2 – 4:  Xích Khẩu (Kim): Xích khẩu thuộc Kim. Nghĩa là sự tranh luận, cãi nhau, tiếng ồn ào,

tiếng động. Về sự việc là tranh chấp kiện tụng. Về nghề nghiệp là nghề liên quan đến kim khí,

máy móc; liên quan đến miệng như: dạy học, luật sư, quảng cáo, thông tin… Về người là người

hay nói, lý luận khuc chiết, là người thấp, đây đặn, nhiều lý trí. Về bệnh tật là bệnh liên quan

26

Page 27: Lac Viet Don Toan

đến phổi, tai, xương cốt. Về hướng là hướng Tây hoặc Tây Nam. Về màu sắc là màu trắng hoặc

xám trắng. Về độ số là 4 và 9.

Tính chất cung này là ăn uông, bàn cai, nói chung là các chất có liên quan tới Miệng.

Tương hinh: Đám tiệc, đại hội, xe cộ, quán xá.

Kinh nghiệm: Xuất hành mà găp ngày hay giờ Xích Khẩu thi hay băp chuyện bàn luận, ăn uông.

2 – 5:  Tiểu Cát (Mộc): Tiểu cát thuộc Mộc. Nghĩa là niềm vui nhỏ, là tin tức vui, là tình cảm,

tình yêu, sự quí mến. Về sự vật là sách vở, là tri thức, học hành, là cây cối. Về người là người

giàu tình cảm, là hôn nhân, tình duyên. Về nghề nghiệp là người buôn bán nhỏ, có tiểu lợi, là

người làm ăn liên quan đến gỗ cây, sách vở, tri thức… Về hình thể là người yểu điệu, mình dây,

duyên dáng; đàn ông cao gây có tính hiền, ham học hỏi. Về bệnh liên quan đến gan.Về hướng là

hướng Đông hoặc Đông Bắc. Về màu sắc là màu xanh lá cây. Về độ số là 3 và 8.

Tính chất cung này chủ về lơi lộc, làm ăn giao dịch, buôn bán.

Tương hinh: Chơ bua, nơi giao dịch buôn bán.

Kinh nghiệm: Xuất hành vào ngày giờ Tiêu Cát thi hay găp bạn, công việc trôi chảy tôt đẹp.

2 – 6:  Vô Vong (Thổ): Vô vong thuộc Âm Thổ. Nghĩa là không được việc gì, hoặc không sao

cả; là đất bỏ hoang. Về người là người vô tích sự, thất nghiệp. Gặp hạn thì hoá giải. Về màu sắc

là màu vàng đất xỉn. Về phương vị là ở cạnh nơi trung tâm, ở phía dưới, là nền nhà. Về độ số là

10.

Tính chất cung này là ma quái, tai nạn, trộm cắp, nói chung các tính chất xấu.

Tương hinh: Đám ma, nghĩa địa, vung lầy.

Kinh nghiệm: Ngày giờ Không Vong rất xấu, rất nhiều người mất của vào ngày giờ này mà không

tim lại đươc.

4 – Ý nghĩa của 6 cung kết hợp

Khởi THÁNG ở cung ĐẠI AN, bắt đâu từ tháng GIÊNG, thứ tự theo chiều kim đồng hồ, mỗi cung

một tháng. Sau khi có cung của tháng, ta khởi ngày MỒNG MỘT ở cung đó, đếm thuận mỗi cung

một ngày tới ngày hiện tại. Ta khởi GIỜ ở cung đó là giờ TÝ, đếm mỗi giờ một cung cho tới giờ

hiện tại.

Thí dụ: Ngày 09 tháng 09 âm lịch, giờ Tị, có người nhờ tính, ta lấy cung như sau:

- Tháng 09 ở cung TỐC HỈ, ngày 9 ở cung TIỂU CÁT, giờ Tị ở cung XÍCH KHẨU. Vậy ta có

tháng TỐC HỶ + ngày TIỂU CÁT + giờ XÍCH KHẨU

- Ở độn toán, người ta chỉ dùng NGÀY và GIỜ để tính, còn cung THÁNG chỉ phụ giup thôi.

- NGÀY là chủ, là mình. GIỜ là khách, là việc.

- Tháng phụ gup cho hai ý trên theo tuổi

1- ĐẠI AN

+ Đại An: Bình an không có việc gì hết

+ Lưu Niên: Dùng dằng khó quyết định, nửa muốn nửa không

+ Tôc Hỉ: Nếu Tốc Hỉ là giờ, thì lợi việc tiến hành nhanh, gấp.

+ Xích Khẩu: Dời đổi, đi đứng liên quan vận chuyển

+ Tiêu Cát: Thất nghiệp chờ việc, sửa nhà

27

Page 28: Lac Viet Don Toan

+ Vô Vong: Buồn phiền, bế tắc.

2- LƯU NIÊN

+ Lưu Niên: Trì trệ, chờ đợi, rắc rối pháp luật

+ Tôc Hỉ: Bực tức, thư tín xa

+ Xích Khẩu: Xung đột mang tới pháp lý, hoạ khẩu

+ Vô Vong: Chui luồn, trốn chạy, các việc làm phi pháp.

+ Đại An: Dùng dằng, khó quyết định.

3- TỐC HỈ

+ Tôc Hỉ: Có việc bất ngờ, tin thư xa.

+ Xích Khẩu: Cãi vã, tranh luận, khẩu thiệt

+ Tiêu Cát: Có quà cáp, lợi lộc bất ngờ.

+ Vô Vong: Du lịch, vui chơi

+ Đại An: Nếu Đại An là giờ, thì lợi việc lâu dài.

+ Lưu Niên: Bực tức, thư tín xa.

4- XÍCH KHẨU

+ Xích Khẩu: Bạn luận, tranh cãi, ăn uống.

+ Tiêu Cát: Bàn làm ăn, dịch vụ, môi giới

+ Vô Vong: Trước xấu sau tốt (tốt phân sau)

+ Đại An: Dời đổi, đi đứng, vận chuyển.

+ Lưu Niên: Xung đột đưa tới pháp lý, hoạ khẩu.

+ Tôc Hỉ: Cải vã, tranh luận, khẩu thiệt.

5- TIỂU CÁT

+ Tiêu Cát: Công việc làm ăn lớn, lợi lộc lớn

+ Vô Vong: Tổn tài, lỗ lã, ốm đau

+ Đại An: Thất nghiệp, chờ việc, sửa nhà.

+ Lưu Niên: Tài lộc lớn, buôn bán lớn

+ Tôc Hỉ: (coi phân trên)

+ Xích Khẩu: (coi phân trên)

6- VÔ VONG

+ Vô Vong: Chết chóc, xui rủi lớn, nói chung là các hiện tượng xấu ở độ cao.

+ Đại An: (coi phân trên)

+ Lưu Niên (coi phân trên)

+ Tôc Hỉ: (coi phân trên)

+ Xích Khẩu: (coi phân trên)

+ Tiêu Cát: (coi phân trên)

4 – Các quẻ Lạc Việt độn toán

Lạc Việt độn toán có tính khái quát rất cao. Các phương pháp bói toán từ nền lý học Đông phương

cổ với khả năng tiên tri phải phản ánh một qui luật nào đó của vũ trụ. Tính khái quát càng lớn càng

28

Page 29: Lac Viet Don Toan

chứng tỏ tính quy luật rất bao trùm. Vấn đề là chung ta hiểu gì về thực tại vận động của những qui

luật đó qua những phương pháp bói toán thuộc Lý học Đông phương.

Chung ta cũng nhận thấy chỉ có 48 quẻ để dự báo cho tất cả sự vật sự việc từ nhỏ đến lớn so với quẻ

Dịch có 64 quẻ với tính chi tiết hoàn hảo cho từng hào Có thể Lạc Việt độn toán đã ra đời trước khi

có phương pháp Bốc Dịch với 64 quẻ với chi tiết chiêm nghiệm đến từng hào. Nói một cách khác:

Lạc Việt độn toán có tính khái quát và gân với những nguyên lý căn bản của thuyết Âm Dương Ngũ

hành. Nhưng vì tính thất truyền của một nguyên lý lý thuyết phản ánh một thực tại đã tạo dựng ra

nó và chưa thật chính xác do thất truyền, nên phương pháp Bốc Dịch trở nên huyền bí và có những

sai lệch như tình trạng chung của các phương pháp tiên tri phương Đông .

Đây chỉ là ý tưởng ban đâu của riêng tôi về sự suy luận tính lịch sử thời gian của sự ra đời hai

phương pháp Bốc Dịch và Lạc Việt độn toán . Nhưng hy vong từ gợi ý này, sẽ là những ý tưởng để

sau đây có ai nghiên cứu về lịch sử hình thành các phương pháp tiên tri của Lý học Đông phương sẽ

tiếp tục tìm hiểu và tìm ra những lời giải cho các hiện tượng từ hàng ngàn, thậm chí hàng chục ngàn

năm trước.

Bây giờ chung ta quay lại với 48 quẻ của Lạc Việt độn toán. Trong Lạc Việt độn toán chỉ có 48 quẻ,

nhưng vì tính phân Âm Dương trong từng năm khi toán quẻ, nên thực tế mỗi năm chỉ dùng 24 quẻ.

Sự thay đổi 24 quẻ trong từng năm nằm ở Lục Nhâm.

3 – 1: Năm Âm Dương theo Thiên can:

* Những năm thuộc Dương tính theo Thiên Can là: Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm.

* Những năm thuộc Âm tính theo Thiên Can là: Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý.

Tử khái niệm Âm Dương của Thiên Can, mà đứng đâu Dương là Giáp và đâu Âm là Ất cho chung

ta thấy rằng: Mộn Độn giáp chính là dưới con Giáp. Môn Thái Ất chính là trên con Ất. Những cổ

thư chữ Hán còn lưu truyền chứng tỏ có hai môn tách biệt là “Kỳ Môn độn giáp” và “Thái Ất thân

kinh’’. Nhưng thực ra nguyên thuỷ của hai bộ sách này chỉ là một. Bởi vì nó đều phản ánh nguyên

lý của sự hoà hợp, tương tác  Âm Dương trong vũ trụ. Đây chỉ là lời bàn thêm không chứng minh.

3 – 2: Năm Âm Dương theo Địa chi:

* Những năm thuộc Dương theo Địa chi là: Tý, Dân, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất.

* Những năm thuộc Âm theo Địa chi là: Sửu, Mão, Tỵ, Mùi, Dậu, Hợi.

Trong Lạc Việt độn toán thì quẻ Bát môn bao giờ đâu năm - giờ Tý, tháng Giêng - cũng là quẻ Đỗ.

Đây là tính bất di bất dịch của Lạc Việt độn toán.

Quẻ Đỗ cho tất cả các năm mang tính triết học rất sâu sắc: Nó chứng tỏ tính phát sinh và phát triển

không ngừng nghỉ của vũ trụ. Đỗ tức là đạt nhưng đây là cái Đạt của vũ trụ và tính khách quan vận

động và phát triển của nó, còn đối với con người thì vấn đề tốt xấu còn phụ thuộc vào các yếu tố

khác. Bản thân vũ trụ thì sự phát triển tuân hoàn, có tính qui luật, tính khách quan. Nói theo ngôn

ngữ cổ chính là tính ’’tự nhiên, như nhiên”. Tốt xấu là theo quan niệm của con người. Ví dụ việc ăn

thịt bò là bổ với con người, nhưng là sự bi thảm với con bò...từ đó chung ta suy luận ra.

29

Page 30: Lac Viet Don Toan

4 – Ý nghĩa các quẻ Lạc Việt độn toán

Lạc Việt độn toán có 48 quẻ phân Âm Dương theo năm, là sự tương tác của hai quẻ Bát Môn và

Lục Nhâm với ý nghĩa khái quát như sau:

4 – 1: Quẻ Lạc Việt độn toán năm Dương.

Các quẻ Lạc Việt độn toán năm Dương gồm 24 quẻ trình bày lại như sau:

Đỗ: Tiểu cát - Đại An - Tốc Hỷ.

Cảnh: Lưu niên - Xích khẩu - Vô vong.

Tử: Tiểu cát - Đại An - Tốc Hỷ.

Kinh:  Lưu niên - Xích khẩu - Vô vong.

Khai:   Tiểu cát - Đại An - Tốc Hỷ.

Hưu:  Lưu niên - Xích khẩu - Vô vong

Sinh:   Tiểu cát - Đại An - Tốc Hỷ.

Thương:  Lưu niên - Xích khẩu - Vô vong

4 – 1 – 1: Ý nghĩa các quẻ Lạc Việt độn toán năm Dương

4–1–1–1: Đỗ Tiểu Cát: Tiểu Cát Mộc sinh Đỗ Hoả. Nội sinh ngoại. Việc thành đạt do cố gắng,

Tiểu lợi.

4–1–1–2: Đỗ Đại An: Đỗ Hoả sinh Đại An Thổ. Ngoại sinh nội. Thuận lợi, Tốt. Chủ về Công

danh tài lợi.

4–1–1–3: Đỗ Tốc Hỷ: Đỗ Hoả ngang hoà Tốc Hỷ Hoả. Hoà hợp, đồng thuận. Mọi việc tốt đẹp.

Chủ về công danh, tiếng tăm, tri tuệ..

4–1–1– 4: Cảnh Xích Khẩu: Âm Hoả đới Thổ vừa khắc vừa sinh Xích Khẩu Kim.

4–1–1–5: Cảnh Vô Vong: Âm Hoả đới Thổ sinh Vô Vong Thổ. Ngoại sinh nội. Điều kiện

thuận lợi cho hoàn cảnh tự thân vốn không khả quan. Chủ quý nhân phù trợ.

4–1–1–6: Cảnh Lưu Niên: Âm Hoả đới Thổ xung khắc Lưu Niên Thuỷ. Hình thức bên ngoài

tốt đẹp không thể hiện nội dung bên trong đang xấu.

4–1–1–7: Tử Tốc Hỷ: Tốc Hỷ Hoả khắc Tử Kim. Nội lục mạnh khắc chế được hoàn cảnh

không thuận lợi. Chủ sự cố gắng vượt lên hoàn cảnh.

4–1–1–8: Tử Tiểu Cát: Tử Kim khắc Tiểu Cát Mộc. Hoàn cảnh không thuận lợi. Thiệt hại nhỏ.

Chủ tình cảm suy.

4–1–1–9: Tử Đại An: Đại An Thổ sinh Tử Kim. Chủ sinh xuất bất lợi. Sự nghiệp hao tổn,

nhưng không đáng kể.

4–1–1–10: Kinh Lưu Niên: Kinh Kim sinh Lưu Niên Thuỷ. Chủ bất ngờ suy bại lớn. (Ghi

chu: Đây là quẻ dự báo sóng thân Indonesia – Philippin. )

4–1–1–11: Kinh Xích Khẩu: Hai hành Kim ngang hoà. Chủ bất ngờ gây tranh chấp lớn. Về số

mệnh tuỳ câu hỏi chủ bất ngờ có tài lộc lớn nhưng không dê dàng.

4–1–1–12: Kinh Vô Vong: Vô Vong Âm Thổ sinh xuất Kinh Kim. Tượng vàng nổi trên mặt

đất. Đem thân dâng hiến cho đời. Tuy có tiếng vang, nhưng việc không thành.

4–1–1–13: Khai Đại An: Đại An Thổ khắc Khai Thuỷ. Tượng nước chảy thông trên mặt đất.

Từ từ, thận trong việc thành. Quẻ Dịch tương ứng Thuỷ Địa Sư.

30

Page 31: Lac Viet Don Toan

4–1–1–14: Khai Tốc Hỷ: Khai Thuỷ khắc Tốc Hỷ Hoả. Tượng dòng suối đẹp chảy ảo ạt. Mọi

việc hanh thông vì tương ứng tính chất tốt của quẻ. Nhưng thành việc phải biết dừng.

4–1–1–15: Khai Tiểu Cát: Khai Thuỷ sinh Tiểu Cát Mộc. Ngoại sinh nội. Hoàn cảnh tốt cho

bản thể. Phát chậm, nhưng chắc chắn.

4–1–1–16: Hưu Lưu Niên: Lưỡng Thuỷ thuỷ triệt. Quẻ xấu, lo buồn thế cuộc, thời vận.

4–1–1–17: Hưu Xích Khẩu: Xích khẩu Kim sinh Hưu Thuỷ tù. Chủ sự lưỡng lự, tranh chấp

nội bộ và không còn cơ hội.

4–1–1–18: Hưu Vô Vong: Tượng nước chảy ngâm dưới đất. Không dùng được việc gì.

4–1–1–19: Sinh Đại An: Sinh Mộc khắc Đại An Thổ. Tượng bãi cỏ xanh tốt rộng lớn. Quẻ tốt,

chậm chắc chắn sẽ thành công. Khó khăn không đáng kể.

4–1–1–20: Sinh Tốc Hỷ: Sinh Mộc sinh Tốc Hỷ Hoả. Tượng cỏ khô đốt lửa. Điều kiện tuy

thuận lợi nhưng không thoả mãn nhu câu. Nôn nóng thất bại.

4–1–1–21: Sinh Tiểu Cát: Lưỡng Mộc thành Lâm. Quẻ tốt.  Mọi việc tiệm tiến hanh thông, do

tính của mộc phát chậm. Phải biết thuận thế phát triển.

4–1–1–22: Thương Lưu Niên: Lưu Niên Thuỷ sinh Thương Mộc. Hoàn cảnh buồn bã, khiến

lo lắng không yên. Mưu sự cũng thất bại. Phải chờ đợi.

4–1–1–23: Thương Xich Khẩu: Xích khẩu Kim khắc thương Mộc. Chủ tranh chấp tổn hại.

Việc thành nhưng bất lợi về tình.

4–1–1–24: Thương Vô Vong: Thương Mộc khắc Vô Vong Thổ. Tượng nhà tranh xiêu veo,

sụp nát. Việc buồn không thành.

4 –  2 : Quẻ Lạc Việt độn toán năm Âm.

Các quẻ Lạc Việt độn toán năm Âm gồm 24 quẻ trình bày lại như sau:

Đỗ: Lưu niên - Xích khẩu - Vô vong.

Cảnh: Tiểu cát - Đại An - Tốc Hỷ.

Tử: Lưu niên - Xích khẩu - Vô vong.

Kinh: Tiểu cát - Đại An - Tốc Hỷ.

Khai: Lưu niên - Xích khẩu - Vô vong.

Hưu: Tiểu cát - Đại An - Tốc Hỷ.

Sinh: Lưu niên - Xích khẩu - Vô vong.

Thương: Tiểu cát - Đại An - Tốc Hỷ.

4 – 2 – 1: Ý nghĩa các quẻ Lạc Việt độn toán năm Âm.

4–2–1–1: Đỗ Lưu niên: Lưu Niên thuỷ khắc Đỗ Hoả. Nội khắc ngoại. Hình thức không phản

ánh nội dung. Cẩn thận với hình thức bên ngoài của đối tượng.

4–2–1–2: Đỗ Xích khẩu: Ngoại khắc nội. Bề ngoài tuy nhiệt tình, nhưng bên trong còn phân

vân chưa quyết. Cuối cùng sẽ đạt. Thích hợp với việc tiệc tùng, ăn nhâu, tranh luận, bàn cãi.

4–2–1–3: Đỗ Vô vong: Ngoại sinh nội. Một kẻ được nâng đỡ nhiệt tình,nhưng nội lực yếu.

Cuối cùng không được việc.

31

Page 32: Lac Viet Don Toan

4–2–1–4: Cảnh Tiểu cát: Nội sinh ngoại với ý nghĩa Cảnh Âm Hỏa, Nội khắc Ngoại với ý

nghĩa Cảnh Âm Thổ Khôn chính vị. Nếu Hỏa Vượng thì nội sinh ngoại. Hỏa mộ thì nội khắc

ngoại. Thích hợp với du lịch, đi chơi xa. Làm ăn xa Tiểu Lợi.

4–2–1–5: Cảnh Đại An: Ngoại sinh nội. Công việc thuận lợi. Lợi kiến Đại Nhân. Sự thăng

quan tiến chức, công việc thuận lợi. Diên tiến chậm như chắc chắn.

4–2–1–6: Cảnh Tốc Hỷ: Nôi sinh Ngoại. Âm Dương tương hợp. Đi xa vui vẻ. Mọi chuyện tốt

đẹp, bản thân có hao tổn, nhưng hại nhỏ, lợi lớn.

Lưu ý:

Đây là quẻ dự báo khi có cuộc đảo chính ở Liên Xô 1992. Hỏi (Vào giờ Tuất đung ngày xảy ra

đảo chính): Ông Tổng Thống có bị mất chức không? Trả lời: Ông ta đang ở xa, hai ngày sau về.

Vẫn làm Tổng Thống. Cuộc đảo chính thất bại. Quẻ nghiệm.

4–2–1–7: Tử Lưu niên: Ngoại sinh nội. Kim Sinh Thủy. Hoàn cảnh bi đát, bế tắc dẫn đến bất

lợi cho chủ thể. Chủ sự chết chóc, đau buồn. Thích hợp với những việc không chính danh.

Nhưng hậu quả cũng rất xấu sau này.

Thí dụ như đi buôn lậu. Gặp quẻ này sẽ thoát nạn tức thời. Nhưng cuối cùng sự việc cũng bị

phanh phui. Hậu quả nặng nề. Quẻ nqaỳ khuyên người nên thận trọng, cân nhắc, suy nghĩ chín

chắn trước khi quyết định công việc. Lợi cho sự im lặng, nghiên cứu, tư duy. Nhưng rất chậm.

4–2–1–8: Tử Xích khẩu: Nội ngoại ngang hòa. Quẻ Thuân kim. Hình tượng của sự kiện cáo,

tranh chấp quyết liệt, chiến tranh tàn khốc. Hùn hạp làm ăn bất lợi, tiền bạc hao tán.

Lưu ý: Đây là quẻ xác định cuộc chiến ở Afganixtan giữa Hoa kỳ và Taliban.

4–2–1–9: Tử Vô vong: Nội sinh ngoại. Hoàn cảnh bế tắc, không được việc. Bi đát, hao tổn.

Nhưng cuối cùng vượt qua được.

4–2–1–10: Kinh Tiểu cát: Ngoại khắc nội. Dương Kim khắc Mộc. Khắc sát Dương Mộc,

nhưng không khắc Âm Mộc. Chủ sự bất ngờ liên quan đến, học hành , thi cử, giấy tờ....Sẽ thất

tình do sự kiện bất ngờ (Trường hợp tình duyên đang nồng thắm), nhưng có tình duyên bất ngờ,

hoặc chuyển biến bất ngờ về tình cảm (Nếu đang bất lợi về tình duyên).

4–2–1–11: Kinh Đại An: Nội sinh ngoại. Chủ sự bất ngờ ở trong bề trên có lợi cho đương số

(Chủ thể coi bói). Động đất lớn nhưng không gây tác hại. Về nhà cửa thì nguy nga tráng lệ.

4–2–1–12: Kinh Tốc Hỷ: Nội Khắc Ngoại. Chủ tin vui bất ngờ. Sự kiện bất ngờ. Nếu đang vui

vẻ, gặp quẻ này thì niềm vui không hoàn hảo.

4–2–1–13: Khai Lưu Niên: Quẻ thuân thủy. Tương đương với quẻ thuân Khảm trong Kinh

Dịch. Thành đạt nhờ tư duy sâu sắc. Cân thận trọng với chính mình. Vượng vào Xuân Thu.

4–2–1–14: Khai Xích Khẩu: Nội sinh Ngoại. Chủ sự tranh luận thành công, danh tiếng. Thuận

cho việc quảng cáo, du lịch, hội thảo, họp mặt; kinh doang du lịch lữ hành, nhà hàng. Hùn hạp

thành công. Đâu tư luc đâu hao tốn nhưng sau phát triển...

4–2–1–15: Khai Vô Vong: Nội khắc ngoại. Nhưng Âm Thổ không khắc Dương Thủy. Tượng

nước chảy trên lòng sông. Việc hanh thông, nhưng chủ thể không lợi. Tượng của việc làm phuc,

từ thiện, nên hậu vận tốt đẹp. Quẻ này tượng cho người quân tử "Lo trước cái lo của thiên hạ.

Vui sau cái vui của thiên hạ". Kẻ tiểu nhân không dùng được.

32

Page 33: Lac Viet Don Toan

4–2–1–16: Hưu Tốc Hỷ: Ngoại khắc nội. Nhưng Âm Thủy không khắc Dương Hỏa. Hình ảnh:

Quân tử được thời (Hỏa Vượng), đem điều chính giáo hóa tiểu nhân. Thất thể (Hỏa suy) giữ

mình ẩn dật. Lòng không thay đổi.

4–2–1–17: Hưu Tiểu Cát: Ngoại sinh nội. Bế tắc nhất thời. sau tốt. Chủ sự kiên trì sẽ thành

công.

4–2–1–18: Hưu Đại An: Nội khắc ngoại. Điều kiện bất lợi. kiên trì sẽ thành công.

4–2–1–19: Sinh Lưu Niên: Nội sinh ngoại. Hoàn cảnh thuận lợi. Nhưng trong lòng hồ nghi,

không quyết đoán. Chuyện xấu mới đến. Cân suy ngẫm chín chắn.

4–2–1–20: Sinh Xích Khẩu: Nội khắc ngoại. Việc quyết tâm thì sẽ thành, cân bàn bạc kỹ

lưỡng. Lợi đến từ tiền bạc, quan hệ. Cẩn thận tranh chấp cữ cãi liên quan đến giấy tờ.

4–2–1–21: Sinh Vô Vong: Ngoại khắc nội. Ngoại lực yếu không được việc, không khắc được.

Hy vọng đến, nhưng việc không thành. Lợi cho việc Thổ mộc (Sửa chữa nhà cửa).

4–2–1–22: Thương Tốc Hỷ: Ngoại sinh nội. Hoàn cảnh tuy khó khăn, nhưng nhờ trí tuệ và sự

trong sáng sẽ thành công. ứng xử vui vẻ. Giống như một người bị chủ nợ đến đòi, tiếp họ vui

vẻ, cứ hoàn cảnh thực mà khất nợ, sẽ qua được.

4–2–1–23: Thương Tiểu Cát: Nội ngoại ngang hòa. Vượng vào mùa Đông - Xuân. Hợp Hợi

Mão Mùi, Thân Tý Thìn. Chuyện tình cảm buồn. Nhưng có hậu về sau. Sự việc thành nhưng

chậm.

4–2–1–24: Thương Đại An: Ngoại khắc nội. lợi việc Thổ Mộc (Xây dựng nhà cửa). Chuyện

buồn, thương tổn. Nhưng quẻ nội mạnh sẽ qua.

Tổng cộng 24 quẻ.

Lưu ý: Trong năm Dương, những quẻ tốt của Bát môn bao giờ cũng đi cùng với những quẻ tốt

trong Lục Nhâm và ngược lại.

Như vậy, những năm Dương sẽ có 24 quẻ Dương và năm Âm sẽ có 24 quẻ Âm. Năm nào sử

dụng quẻ của năm đó. Trong năm Âm thì quẻ không bao giờ cực xấu và cũng không có cực tốt.

Trong năm Dương thì ngược lại, có những quẻ cực xấu và cực tốt. Trong Lạc Việt độn toán chỉ

có 48 quẻ, nhưng vì tính phân Âm Dương trong từng năm khi toán quẻ, nên thực tế mỗi năm

chỉ dùng 24 quẻ. Sự thay đổi 24 quẻ trong từng năm nằm ở Lục Nhâm.

Lạc Việt độn toán phần 4

Phương pháp luận quẻ Lạc Việt độn toán

So với các phương pháp dự báo khác, Lạc Việt độn toán là con đường ngắn nhất đê tới đỉnh cao

của cảm thông Thiên Địa. Nhưng chính bơi phương pháp độn que đơn giản, nên đòi hỏi người toán

que phải có cảm ứng nhậy cảm và có sự rèn luyện cảm ứng trong tất cả các cấp của nó. Các

phương pháp độn toán khác thi vi tính phức tạp của phương pháp phân tích que, nên người học bị

chấp vào phương pháp tính toán phức tạp nên khả năng cảm ứng sẽ thấp hơn. Nhưng tất cả mọi

con đường đều tới La Ma.

1 – Cảm ưng và câp độ luận giải

1 – 1: Tính cảm ưng trong Lạc Việt độn toán:

33

Page 34: Lac Viet Don Toan

Đây là yếu tố quan quan trong cân khi luận quẻ, không chỉ trong Lạc Việt độn toán mà trong bất cứ

phương pháp tiên tri nào. Nó là một yếu tố cân, không thể thiếu và có tính quyết định tính chính xác

khi luận quẻ. Kết hợp với yếu tố là nội dung câu hỏi đã trình bày ở trên, nếu không có cảm hứng thì

dù đã định hướng được quẻ do câu hỏi cũng sẽ luận sai. Bởi vậy, trường hợp không có cảm hứng,

hoặc bị chi phối thì quẻ sẽ bớt tính chính xác, hoặc tệ hơn nữa là sẽ sai.

Cảm hứng luận quẻ được tạo ra chính là do người hỏi quẻ hòa nhịp đung với cảm hứng luận quẻ

của người tư vấn. Bởi vậy, một trong những phương pháp của Lạc Việt độn toán là tính giờ độn quẻ

căn cứ vào cảm hứng của chính người độn, do người độn quyết định, chứ không tính theo giờ hỏi

quẻ.

So với các phương pháp dự báo khác, Lạc Việt độn toán là con đường ngắn nhất để tới đỉnh cao của

cảm thông Thiên Địa. Nhưng chính bởi phương pháp độn quẻ đơn giản, nên đòi hỏi người toán quẻ

phải có cảm ứng nhậy cảm và có sự rèn luyện cảm ứng trong tất cả các cấp của nó. Các phương

pháp độn toán khác thì vì tính phức tạp của phương pháp phân tích quẻ, nên người học bị chấp vào

phương pháp tính toán phức tạp nên khả năng cảm ứng sẽ thấp hơn. Nhưng tất cả mọi con đường

đều tới La Mã.

Cảm ứng trong khi hướng về đối tượng phải vô tư, trong sáng và khách quan. Nói theo ngôn ngữ cổ

tức là không để tạp niệm và bị chấp. Bởi vậy, người xưa dùng biện pháp thắp nhang và khấn vái

nhằm tập trung tư tưởng. Hình thức này dê bị coi là "mê tín dị đoan". Đời sau chỉ biết ứng dụng

phương pháp mà không hiểu tại sao, nên không lý giải được mối liên hệ giữa sự khấn vái và sự ứng

nghiệm của quẻ. Thực ra đó chỉ là một hình thức tập trung tư tưởng.

Quẻ Lạc Việt độn toán rất dê học. Chỉ cân tập trung trong nửa ngày, các bạn quan tâm có thể thành

thạo lập quẻ. Nhưng sự khó khăn và cũng là chỗ vi diệu của Lạc Việt độn toán chính là ở chỗ luận

quẻ. Liên hệ từ tên và tượng quẻ, bạn có thể cảm ứng luận đến tận cùng của tất cả những sự kiện

đến trong những điều muốn biết. Giống như một vạt nắng chiều gây cảm hứng cho nhà thơ, quẻ Lạc

Việt độn toán gây cảm hứng cho nhà tiên tri, giup đạt đến sự tận cùng sự vi diệu qua sự thăng hoa

trong cảm hứng của bạn.

Tất cả các phương pháp tiên tri khác, đều có công thức chặt chẽ và phức tạp.thậm chí có thể lập

trình cho từng quẻ, dù phương pháp đó phức tạp đến đâu và lập ngay cả những lời giải đoán, nhưng

điều này là không thể với Lạc Việt độn toán.

Sẽ không có một trình nào hoàn chỉnh cho một phương pháp tiên tri của nền Lý học Đông phương

với lời giải các kết quả của nó. Bởi vì, không ai có thể lập trình được toàn bộ sự tương tác vũ trụ

cho một hành vi nhỏ nhoi của con người.

Những câu hỏi là vô định cho cùng một quẻ, mà quẻ lại phụ thuộc rất lớn vào chính câu hỏi. Lập

trình chỉ là động tác đơn giản hoá lao động khi phải viết hoặc tính cách lập quẻ bằng tay mà thôi,

trong khi còn nhiều sự huyền vĩ chưa đuợc khám phá.

34

Page 35: Lac Viet Don Toan

Bởi những nguyên nhân tương tác phức tạp không thể dùng lý trí và sự hiểu biết giới hạn của cá

nhân đối với sự thiên biến vạn hoá của thiên nhiên, cuộc sống và con người, cho nên tính cảm ứng

được đặc biệt coi trọng trong dự báo. Cảm ứng càng cao, tri thức càng rộng thì dự báo càng chính

xác. Cảm ứng phải có định hướng về đối tượng cân hỏi. Nếu không định hướng được đối tượng - dù

rất mơ hồ và trừu tượng (Thí dụ:hỏi ’’Năm nay điều gì xẩy ra?” - là một câu hỏi trừu tượng với

nhiều đối tượng) - thì trong thế gian tỷ tỷ đối tượng, không có định hướng thì sẽ không thể luận quẻ

được. Trong trường hợp này chỉ có thể cảm ứng được những vấn đề chính.

Cảm ứng và tri thức của người tư vấn phải từ hình tượng của quẻ đã độn được, để xác định, một hay

nhiều yếu tố cấu thành nên đối tượng, hoặc luận ra toàn thể hính thái đối tượng đó . Bởi vậy, sự

hiểu biết càng rộng, suy đoán càng chính xác.

Tất cả những yếu tố nêu trên cho thấy: yếu tố cảm ứng của người độn quẻ với câu hỏi tự thân hay

khách quan do người khác hỏi là rất quan trọng trong Lạc Việt độn toán. Sự chính xác của Lạc Việt

độn toán và khả năng tiên tri của nó, hoàn toàn phụ thuộc vào độ cảm ứng của chính tâm hồn nguời

độn quẻ .

Nếu độn được nhiều quẻ khác nhau, do ở nhiều địa phương có mui giờ khác nhau, hoặc cùng một

địa phương nhưng luận nhiều quẻ trong những giờ khác nhau cho cùng một sự việc thì trường hợp

này – giả thiết quẻ nghiêm - mỗi quẻ sẽ chỉ ra một hoặc nhiều yếu tố khác nhau cấu thành nên sự

vật hoặc sự việc cân dự báo. Vì tính chất khác nhau của các yếu tố khác nhau cấu thành nên sự vật

hay sự việc cân dự báo, nên quẻ khác nhau.

Bởi vậy, khi độn quẻ xong thì quẻ đã cho chung ta thấy một phân của yếu tố cấu thành nên đối

tượng. Điều này giống như một cái xe hơi bị bịt gân kín mít và chung ta chỉ nhìn thấy một bộ phận -

yếu tố cấu thành xe hơi - của nó và chung ta phải luận ra toàn thể chiếc xe hơi. Tất nhiên, nếu chung

ta có kiến thức về chiếc xe hơi thì chung ta sẽ luận ra chiếc xe hơi. Còn nếu chung ta không có kiến

thức về chiếc xe hơi thì có nhìn cả cái xe cũng không hiểu nó là cái gì, vì nếu chung ta sống ở thời

chưa có xe hơi, thì cùng lắm cũng chỉ luận ra cái xe mà thôi.

Như tất cả các phương pháp dự báo phương Đông khác, quẻ Lạc Việt độn toán có thể đoán từ chi

tiết của vụ việc nhỏ và khái quát đến những vụ việc lớn. Ưu điểm của Lạc Việt độn toán là học rất

dê, nắm vững nhanh phương pháp độn quẻ, có thể trả lời nhiều câu hỏi một luc với điều kiện không

bị lạc quẻ. Những việc bình thường trong sinh hoạt và đời sống thì chỉ cân một tri thức trung bình

hoặc sự từng trải đều luận được. Nhưng để luận quẻ Lạc Việt độn toán ở trường hợp có tính qui mô

lớn như: sóng thân, đại dịch... vv – tóm lại là có tính quốc tế, diện rộng - cân phải có một tư duy

logic cao và kiến thức sâu

1 – 2: Các câp độ và khả năng luận giải Lạc Việt độn toán

1 – 2 – 1: Câp I của Lạc Việt độn toán

Ở cấp này chỉ cấn thông thạo các độn quẻ,  sự cảm ứng và câu hỏi chỉ đơn giản dùng quẻ để dự báo

trong sinh hoạt thường ngày, tự thân tính chất quẻ đã cho biết sự việc tốt xấu, nên dê đoán trung.

35

Page 36: Lac Viet Don Toan

Luc đâu thì tra sách để xem. Khi đến đỉnh cao của giai đoạn này, sẽ không cân dở sách nữa mà ý

nghĩa từng quẻ  đều thuộc làu và cộng với kinh nghiệm đoán sẽ dê trung.

1 – 2 – 2: Câp II của Lạc Việt độn toán

Đến cấp II thì đối tượng cân biết đã bắt đâu phức tạp vì vượt qua giới hạn của sinh hoạt quanh ta.

Bởi vậy cảm ứng của chung ta phải rất nhạy cảm, tâm phải vô tư, kiến thức rộng và nhuân nhuyên

phương pháp luận khi giải quẻ thì dự báo mới chính xác. Nhưng ở cấp này, vẫn nằm trong các quẻ

độn và không vượt ra được phương pháp luận và cảm ứng trong 48 quẻ Lạc Việt độn toán.

Đến cấp này cân phối hợp những quy luật sinh khắc của Ngũ hành trong không thời gian, Như tiết

khí, hành khí của tháng, năm, mệnh vận của người cân tư vấn tương tác với quẻ.

1 – 2 – 3: Câp III của Lạc Việt độn toán:

Luc này cảm ứng đã thuân thục, sự nhậy cảm tăng cao, không cân đến quẻ mà chỉ cân nhìn tượng

có liên quan đến quẻ để phán xét. Luc này tượng có trước và quẻ có sau. Không phân biệt quẻ Âm

hay quẻ Dương.

* Thí dụ:

Một ô tô lớn phóng nhanh trên đường gây cảm ứng bất ngờ vì xốc do chiếc xe lớn chạy nhanh đưa

lại tượng quẻ Kinh - Xích khẩu nên luận rằng: sẽ có tai nạn lớn sau đó. Đây là trướng hợp giông

như Thiệu Khang Tiết cảm ứng với tiếng chim phương Bắc, nhưng hót ở phương Nam. Đoán rằng:

Nhà Nam Tống sắp mất .

* Thí dụ:

Có người lấy nickname ’’Nắng Chiều” nhờ tư vấn chuyện tình cảm.

Tôi đã cảm hứng luận quẻ theo nickname này: Nắng Chiều là tựa của bài hát về những kỷ niệm cũ

nơi quê nhà. Nắng chiều không gay gắt, nhưng gợi nhớ quá khứ của một ngày đã qua của những

người yêu nhau. Họ còn nhớ đến nhau, nhưng cuộc sống đã làm tình cũ chỉ còn là kỷ niệm cho mỗi

khi trống vắng trong tâm hồn.

Nắng chiều là sự tiếc nuối ngày qua, chứ không còn là tình yêu, tình người mãnh liệt. Nắng chiều là

cái đến tất nhiên sau trưa hè, chứng tỏ họ đã một thời sống với nhau, rất nồng ấm, chân thành và trải

lòng cho nhau, không hề gian dối. Nắng chiều chỉ còn ở phía cuối xa xa, phải chăng họ đã không

còn bên nhau, mà mỗi người mỗi nới, chân trời góc biển.

Nắng chiều tượng của mùa thu mà cả không gian cũng hiu hắt với tình người. Bởi vậy với sự suy

luận này thì cân nhanh lên để giữ lại hoàng hôn. Đừng để chiều tím phủ chân trời thì tình đi không

trở lại. Nắng chiều sẽ chỉ đẹp cho đến hết tháng 8 Âm lịch. Sau đó là ’’Chiều Tím’’. Bản thân Nắng

Chiều đã xác nhận chính xác 100% về cả quá khứ lẫn hiện tại.

1 – 2 – 4: Câp IV của Lạc Việt độn toán:

Đến cấp IV trong lý gọi là cảm thông Thiên Địa, không cân gieo quẻ nữa. Luc này chỉ thấy là biết,

tâm hồn thanh tịnh, vô tư, vô tính, trut bỏ tham hận và nhận thấy vũ trụ, trời, người cùng vạn vật, cỏ

36

Page 37: Lac Viet Don Toan

cây đều đồng nhất thể. Đây là luc nhìn thấy gì nói nấy, cứ thế mà toán… Không chỉ Lạc Việt độn

toán mà hâu như khắp trong các phương pháp dự báo Đông phương đều có thể đạt đến cấp này.

Đức Phật nói: "Một con cá vẫy đuôi, có thể chấn động tam thiên, đại thiên thế giới".

Luc ấy, khi thốt nhiên hạnh ngộ, nhận thấy vô thường, vạn vật nhất thể cảm ứng mà đoán mọi

chuyện thế gian. Đó chính là sự tương quan tương hợp, là đỉnh cao nhất của cảm ứng tiên tri.

Ông Trịnh Xuân Thuận có viết: “Để giải thích bất cứ một hiện tượng dù rất nhỏ, cũng phải viện dẫn

đến lịch sử của toàn thể vũ trụ”

Tôi quan niệm  rằng:

Tất cả các phương pháp dự báo tiên tri đều phải là hệ quả của một hệ thống nguyên lý lý thuyết đã

hoàn chỉnh trước đó.

2  - Lac Việt độn toán luận giải

2 – 1: Điều đặc biệt cần chú ý là luận quẻ liên quan rât chặt chẽ đến câu hỏi.

Nếu không căn cứ vào câu hỏi thì không có cơ sở luận quẻ. Chính vì tính đa dạng của cuộc sống và

của  mỗi con người chung ta, cân xác định được mục đich của câu hỏi và suy xét, cân nhắc kỹ từng

từ của câu hỏi. Trong Lạc Việt độn toán, cùng một quẻ như nhau, cùng một sự việc giống nhau cho

một người hỏi; nhưng cách hỏi khác nhau sẽ cho kết quả khác nhau. Câu hỏi là một yếu tố tương tác

rất quan trọng trong việc toán quẻ Lạc Việt độn toán. Bởi vì bản thân danh tự của quẻ Lạc Việt độn

toán sẽ không nói lên điều gì, ngoài định tính tốt xấu đơn giản. Nhưng trước một câu hỏi kết hợp

với quẻ độn được thì chính câu hỏi là sự định hướng cho việc luận quẻ từ tính chất quẻ đó, để dự

báo hay tìm hiểu bản chất sự việc.

Thí dụ:

Với một quẻ Sinh Tiểu Cát thì tự danh tính của quẻ đó sẽ không nói lên điều gì. Nhưng nếu có một

câu hỏi – như là: “Liệu tôi làm việc này, hoặc chuyện kia thì tốt hay xấu”...vv.... thì chính câu hỏi

đã định hướng cho việc luận quẻ Sinh Tiểu Cát, vốn là một quẻ tốt.

Hoặc: Cũng cùng quẻ Sinh Tiểu Cát, nhưng với câu hỏi:”Chung tôi định đâu tư làm ăn lớn được

không?” thì quẻ này cho thấy không được vì   tính chất của quẻ chỉ là tiểu lợi và sự mạnh.Như vậy,

cùng một quẻ, cùng một sự việc, nhưng cách hỏi khác nhau đã cho kết qủa khác nhau trong khả

năng tiên tri .

2 – 2 : Kết luận:

Luận quẻ, cân chu ý phân tích nội dung câu hỏi.  Hiểu sai câu hỏi sẽ định hướng sai khi luận quẻ.

3 – 1: Luận giải và ý nghĩa của quẻ

3 – 1 – 1: Luận và giải quẻ đơn giản.

Một quẻ được coi là đơn giản khi câu hỏi chỉ mang một ý nghĩa đơn tuyến khi giải quẻ. Quẻ đơn

giản chỉ để trả lời cho các trường hợp là xấu – tốt, thắng – thua, đuợc - mất, vui - buồn, nên - không

v.v…  .

37

Page 38: Lac Viet Don Toan

Quẻ Lạc Việt độn toán có thể luận từ đơn giản đến phức tạp. Đơn giản nhất là luận theo ý nghĩa

trực tiếp của quẻ, thí dụ: Tử là chết, Vô vong là không được việc gì. Vậy Tử Vô vong là một quẻ

xấu, việc bất thành, bế tắc....

Ta thấy trong quẻ Lạc Việt độn toán,việc đâu tiên cân nhìn tổng quát tượng quẻ để thấy kết quả dự

báo của việc cân toán, ý nghĩa trực tiếp của tên quẻ. Tên quẻ biểu hiện cho tượng quẻ và tượng quẻ

cho biết ngay sự tốt xấu sẽ có ngay câu trả lời cho những trường hợp đơn giản trên. Đây là phương

pháp luận quẻ đơn giản nhất. Phương pháp này có thể áp dụng cho mọi trình độ.

* Ví dụ:

Một học viên lớp Lạc Việt độn toán thấy nguời bạn lo cho sức khỏe của nguời thây vì thấy thây

không được khỏe, hình như bị bệnh, bèn độn một quẻ hỏi sức khoẻ của thây.

Tháng 3 ngày 6. Giờ Mùi năm Bính Tuất – 2006.

Quẻ: Sinh - Ðại An.

Luận quẻ: thây vẫn khỏe, chỉ làm việc nhiều quá nên hơi mệt.

3 – 1 – 2: Luận và giải quẻ phưc tạp.

Một quẻ được coi là phức tạp vì tính phức tạp của sự vật hay sự việc cân giải đoán, dẫn đến phương

pháp luận quẻ phức tạp. Để luận đoán loại câu hỏi này cân vận dụng sự tương tác của Âm Dương

Ngũ hành thể hiện trong quẻ, hoặc phải dùng quẻ độn để tìm hiểu sâu bản chất sự vật, sự việc cân

luận đoán.

* Ví dụ:

Anh Killbill yêu câu dùng Lạc Việt độn toán để đoán một vật anh mới mua được. Đề nghị cho biết

là vật gì? Các học viên Lạc Việt độn toán lân lượt toán quẻ như sau:

* Quẻ của  Ninh Thuận:

Khai Đại an .

Ninh Thuận đã thấy Khai Thuỷ liên quan đến nhạc - Thuỷ có tính chất sóng tượng âm thanh. Đại an

là cái hộp màu vàng và to. Khai còn có nghĩa là một vật dài kèm với một vật to màu vàng và âm

thanh "khai" từ đó mà ra.

* Quẻ của What:

Tử Đại An.

Quẻ này luận ra cây đàn - Tử Kim trên cái thùng gỗ màu vàng và to. Thùng gỗ màu vàng sinh kim,

tức dây đàn. Trong cây đàn guita, thùng gỗ là thể của cây đàn và nó là lý của âm thanh trên cây đàn.

* Quẻ của Mai Trâm:

Sinh Tốc Hỷ là mới có một niềm vui. Đây là một giá trị văn hoá, Tốc Hỷ là ánh sáng, là văn hoá .

Quẻ độn: Thương Xích khẩu

Thương là buồn là trạng thái tình cảm, Xích Khẩu là nói lên trạng thái đó. Xích khẩu Kim chính là

âm thanh phát ra từ dây đàn để nói lên tình cảm Thương Mộc. Chính là cây đàn.

38

Page 39: Lac Viet Don Toan

Như vậy, chung ta thấy rằng: Cả 3 quẻ dù khác nhau đều có khả năng luận ra cây đàn và một quẻ đã

luận đung. Qua đó ta thấy khi trong tâm tưởng chung ta nghĩ về một đối tượng do tác động của câu

hỏi thì chính cảm ứng của chung ta sẻ đưa suy luận theo chiều hướng đó. Vì vậy mỗi quẻ dù khác

nhau đều khai thác những yếu tố khác nhau của đối tượng cân khám phá hay nói cách khác: mỗi

quẻ chỉ ra một hoặc nhiều yếu tố khác nhau cấu thành nên đối tượng cân khám phá. Vì tính chất

khác nhau của các yếu tố khác nhau thuộc về đối tượng cân khám phá, nên quẻ khác nhau. Điều nay

tương tự như nhà khảo cổ khám phá ra một khuc xương của con Khủng long và suy luận ra toàn bộ

hình thể của con Khủng long khi còn sống.

3 – 1 – 3: Tính khách quan của quẻ và lợi ích của con người.

Lạc Việt độn toán có tính qui luật và khách quan. Cũng như thiên nhiên không có tốt xấu. Những

quan niệm tốt và xấu là do con người quan niệm. Ngày tốt mà con người khai trương lại là ngày xấu

của con heo bị mổ làm vật cung tế. Trên cơ sở này người luận đoán theo bất cứ phương pháp nào –

Bốc Dịch, Mai Hoa, Lạc Việt độn toán ....- cân khách quan và chiêm nghiệm về quy luật của thiên

nhiên xã hội và con người thể hiện qua quẻ toán được – vốn bản chất chỉ là phản ánh một giai đoạn

tồn tại của tự nhiên ứng với quẻ và không có tốt xấu. Bởi vậy, quẻ tốt hay xấu còn tuỳ thuộc vào sự

việc cân hỏi và đối tượng, tùy tính chất câu hỏi và nguời đặt câu hỏi

Ví dụ trong năm Ất Đậu 2005 - quẻ  Cảnh Tốc Hỷ được coi là quẻ tốt nhất, Tử Lưu Niên là quẻ xấu

nhất.

Nhưng sự xấu tốt đó phân nhiều phụ thuộc vào ý niệm phổ biến của con người. Bản chất của quẻ

chỉ phản ánh tính chất của qui luật thiên nhiên phản ánh qua tượng quẻ.

* Ví dụ: Một người già bệnh nặng gân chết. Thân nhân hỏi: Người này có chết không? Quẻ ra là

Cảnh Tốc Hỷ thì chưa thể luận là người này sẽ sống khỏe mạnh và sẽ đi du lịch được. Bản chất của

quẻ chỉ là sự nhàn hạ và nhanh chóng. Trường hợp cụ thể này phải luận là người bệnh sẽ chết nhanh

và thanh thản.

* Ví dụ: Nếu đánh đề, bán độ trong trận bóng mà gặp quẻ Tử Lưu Niên thì vụ bán độ đã không bị

phát hiện (Nếu là nguời bán độ đặt câu hỏi). Vì Tử - là chết, là ngăn chặn thuộc  hành Kim, sinh

Lưu Niên - Âm mưu, lừa lọc - thuộc Thuỷ. Do đó với quẻ Tử Lưu Niên thì Tử Kim sinh Lưu Niên

Thuỷ, nên việc thành. Tuy nhiên vì bản chất quẻ xấu. Bởi vậy, nếu nghiện cờ bạc, làm việc mờ ám

thì sớm hay muộn cũng vướng vào pháp luật.

3 – 1 – 4: Tính giới hạn của quẻ và sự phong phú của cuộc sống.

Cũng như các phương pháp dự báo khác. Quẻ thì giới hạn. Như Bộc Dịch chỉ có 64 quẻ, Lạc Việt

độn toán 48 quẻ. Nhưng cuộc sống thì muôn hình vạn trạng mà quẻ cân chiêm đoán. Bởi vậy, mỗi

một quẻ phải quản hành trăm ngàn sự việc sự vật. Như bàn về nghề nghiệp gặp quẻ Khai Xích khẩu

thì cũng có hàng trăm nghề liên quan đến quẻ này:

Tiếp thị, ngoại giao, trực điện thoại, cô thày giáo, nhà hàng, phát thanh viên, luật sư...vv. Ngồi

trước màn hình lên mạng cũng là Khai Xích Khẩu (Xích Khẩu: cái miệng - màn hình. Khai: đường

truyền). Đó là chưa kể đến những nghề rất lạ đang xuất hiện vượt ra ngoài kiến thức phổ thông. Bởi

39

Page 40: Lac Viet Don Toan

vậy, đôi khi trước sự muôn vẻ của cuộc sống, người luận đoán cân tham vấn thân chủ. Như khi

được hỏi về sự thành công trong nghề nghiệp thì nên hay hỏi thẳng: Anh/ Chị làm nghề gì rồi sau

đó mới khớp lại với quẻ xem có hợp không. Ngoài mấy nghề chính - có từ ngàn xưa dê đoán vì

mang tính khái quát là: Sĩ, công, nông, thương, võ nghiệp, quan lại...còn những nghề mới bây giờ

thì rất khó đoán chính xác. Bởi vậy cân kiến thức rông và suy đoán logic phù hợp với hoàn cảnh.

Ví dụ:

Khi tôi ở  Hanoi, một người bạn rất thân chỉ vào cửa hàng văn phòng phẩm và nói: “Tớ muốn mua

tặng cậu một món quà làm kỷ niệm . Nghe nói cậu bói toán giỏi lắm. Vậy đố cậu, tớ định mua cho

cậu cái gì ?”

Vì là bạn thân, tôi chẳng câu nệ, độn được ngay quẻ: Khai Tiểu Cát . Tôi luận rằng: Khai là một vật

dài, Tiểu cát là giá trị nhỏ, niềm vui nhỏ, chủ về tình cảm. Khai Thuỷ dưỡng Tiểu Cát Mộc. Như

vậy vật này nhằm mục đích kỷ niệm cho một tình cảm, chứ không phải mua chỉ để dùng. “Cậu đoán

đung rồi ! Nhưng nó là cái gì?”

Thật khó quá! Tôi nghĩ chỉ có thể là cái but hoặc quyển sách! Nhưng cũng ko phải vì đây là lý

tương sinh Khai Thuỷ dưỡng Tiểu Cát Mộc thì vật này bền vững về thời gian. Tiểu Cát Mộc lại là

trong cửa hàng văn phòng phẩm, nên tôi đoán là cái but. “Thế mà cũng đoán ! Bạn tôi cười.”

Thì ra anh ấy mua tặng tôi cái cà vạt . Tôi cự lại: “Cậu  chỉ vào cửa hàng văn phòng phẩm bảo đoán

thì đến tài Thánh tớ cũng ko tưởng tượng được là trong đó lại có thể bán cà vạt.”

Thông thường  các cửa hàng văn phòng phẩm không bán cà vạt.

Qua đó để  bạn đọc  thấy: Quẻ không sai. Nhưng vấn đề là ở chỗ luận thế nào và nó tuỳ thuộc vào

sự hiểu biết với điều kiện môi trường. Nếu như tôi vào trong cửa hàng đó quan sát thì may ra có thể

đoán là cái cà vạt.

Trong bất cứ trường hợp nào, để luận đung đến chi tiết một cách chính xác thì phải có kiến thức

rộng về vấn đề liên quan .

Thiếu tri thức thì chỉ đoán chung chung được thôi . Cụ thể trong trường hợp trên, phải có kiến thức

- thấy được - về các mặt hàng bán trong cửa hàng văn phòng phẩm, để đoán ra cái cà vạt trong hàng

trăm mặt hàng của cửa hàng. Còn ko biết trong đó nó bán cái gì thì... chịu.

Bởi vậy, những người muốn ứng dụng các phương pháp dự báo rất cân kiến thức rộng về nhiều

phương diện. Kiến thức càng rộng khả năng luận đoán càng chính xác. Bởi vậy những người dự

đoán xuất sắc thuờng  là người uyên bác. Điều này đung với tất cả các bộ môn dự đoán.

3 – 1 – 5: Quẻ và sự phản ánh cục bộ sự việc.

Quẻ đôi khi chỉ phản ánh cục bộ sự vật hay sự việc. Thí dụ điển hình là việc luận đoán cây đàn

guita ở trên. Bởi vậy, người luận đoán cân có kiến thức rộng để từ một phân của sự vật, sự việc suy

luận ra toàn bộ sự việc.

40

Page 41: Lac Viet Don Toan

Với giả thiết quẻ luôn luôn ứng đung sự việc nhưng do trình độ giải đoán hạn chế, nhất là đối với

nguời mới học nên kết quả giải đoán có khi đung có khi sai, do ý nghĩa của quẻ  thường thể hiện

trong thực tiên dưới nhiều hình thức muôn màu muôn vẻ nên người giải đoán nhiều khi không hình

dung được hết  các tình huống, cũng có khi người hỏi chỉ căn cứ vào câu hỏi của mình để đánh giá

đung sai trong khi quẻ lại ứng vào phương diện khác của câu hỏi mà người hỏi vô tình không nghĩ

tới.

Một kinh nghiệm nữa là để chi tiết thêm về điều cân đoán: khi đã hiện quẻ và nêu đuợc bản chất nội

dung sự việc có thể cân phải hỏi thêm hoặc yêu câu thân chủ  mô tả thêm chi tiết điều ta cân đoán

để xem có ứng đung với điều đoán không thì việc luận đoán sẽ theo sát và đung  hướng chung ta

đưa ra.

Ví dụ trường hợp có người hỏi về việc giấy tờ xuất ngoại. Tôi không căn cứ vào thời gian hỏi quẻ

mà độn theo giờ tôi coi quẻ. Cụ thể là:

Người hỏi vào giờ Tỵ ngày 21 tháng 19.

Nhưng tôi lấy quẻ vào giờ Thìn, ngày 22 tháng 10 năm Ất Dậu:

Quẻ Tử Lưu Niên cho việc giấy tờ.

Quẻ Tử Lưu Niên có nghĩa đen là chết và giữ lại thời gian.Quẻ này phù hợp với hiện trạng đang lo

lắng của người hỏi. Lưu Niên trong trường hợp này là lo lắng, suy nghĩ trước một thực trạng khó

khăn (Tử - nghĩa là chết rồi, bị chăn lại, không còn hy vọng gì). Lưu Niên cũng còn có nghĩa là họ

đã tiến hành làm việc này từ lâu - ít nhất là trên 6 năm.

Khi làm thủ tục để đi cũng chẳng hy vọng gì. Tử có nghĩa là hoàn cảnh bên ngoài như: điều kiện

giấy tờ khó khăn, không hoàn chỉnh, phải bổ xung mất thì giờ và chờ đợi.

Nhưng Tử thuộc Kim sinh Lưu niên Thuỷ. Nên tuy có khó khăn vậy, nhưng về căn bản họ lại có thế

mạnh như là sự ưu tiên hoặc mối quan hệ với người bảo lãnh tốt, hoặc sự bảo lãnh chính danh phù

hợp với chính sách nhập cư của nước sở tại. Nên cuối cùng họ sẽ vượt qua được, tuy  lâu.

Quẻ độn là Kinh Tốc Hỷ. Cho thấy họ sẽ có bất ngờ vào phut chót và vượt qua được hoàn cảnh.

Tốc Hỷ Hoả là bản mệnh của họ, là nội hàm của sự việc thắng Kinh Kim. Quẻ Tử - Kinh là điều

kiện môi trường đều thuộc Kim. Kinh còn có nghĩa là nước lớn nên cũng có thể luận là một cường

quốc lớn phương Tây, có thể là Hoa Kỳ.

Với quẻ này thì cuối xuân hoặc đâu hè sang năm họ sẽ đi.

Quẻ nghiệm.

3 – 1 – 6: Nhiều người cùng luận một việc.

Trường hợp đặc biệt này thường chỉ xảy ra khi luận đoán những sự kiện lớn trong xã hội được

nhiều người quan tâm; như cuộc chiến tranh Vùng Vịnh....Hoặc được thực hiện bởi một nhóm tư

vấn dự báo các sự kiện mang tính xã hội, hoặc quốc gia; như Hội Chiêm tinh Hoàng gia Thái

Lan.....

41

Page 42: Lac Viet Don Toan

Khi rơi vào trường hợp này thì về nguyên tắc ”chân lý chỉ có một” nên tất cả các quẻ nghiệm đều

phải nhất quán cho diên biến trong tương lai của sự việc và phản ánh đung toàn bộ hay một phân sự

việc. Cho dù dùng phương pháp dự báo nào: Lạc Việt độn toán,  Bốc phệ, Mai hoa.....Xét riêng Lạc

Việt độn toán, nếu quẻ nghiệm thì dù ra quẻ khác nhau, nhưng để dự báo một việc như nhau thì

cũng sẽ rơi vào trường hợp trên: Hoặc phản ánh toàn bộ sự việc, hoặc một phân sự việc và tất cả

phải nghiệm đung một cách nhất quán cho diên biến tương lai của sự việc.

Trong cổ thư có ghi nhận về phương pháp ứng sử của nhà vua với các quẻ dự báo mà một phân

trong đó được miêu tả như sau: Nếu ba người cùng bói ra quẻ khác nhau thì vua theo hai người.

Nhưng đây chính là điều cân lưu ý:

Điều kiện này chỉ được coi là đung với ba người (hoặc hơn) đều nắm vững phương pháp dự báo và

tài năng ngang nhau. Dự báo là một khoa học thực sự như tất cả các bộ môn khoa học khác, được

thừa nhận trong tiêu chí khoa học. Tất nhiên đã là khoa học thì không lệ thuộc vào số đông. Ngày

xưa khi vua Lý bị bệnh nan y, số đông những nhà lương y tài giỏi thời bấy giờ đều bó tay. Nhưng

một mình hòa thượng Khổng Minh Không đã chữa được cho nhà vua. Do đó, nguyên lý theo số

đông trong dự báo là một việc cân xem xét, nó chỉ có khả năng đung trong điều kiện tôi đã trình bày

ở trên.

Chung ta cùng quán xét hiện tượng thực tế dưới đây, minh họa cho trường hợp này. Năm 2006 –

Bính Tuất. Nước Pháp đang rộn lên vì luật lao động mới. Nghiệp đoàn và sinh viên râm rập biểu

tình. Sự việc chưa ngã ngũ nên mới chứng tỏ được sự linh nghiệm của Lạc Việt độn toán.

Hai học viên lớp Lạc Việt độn toán là What và Luke cùng dự đoán cho câu hỏi:

- Bộ luật lao động của chính phủ Pháp có được thi hành không?

- Cuối cùng cái gì sẽ xảy ra liên quan đến bộ luật lao động này?

Học viên What:

Quẻ Tử Tốc Hỷ. Tốc Hỷ thuộc Hỏa, chủ về may mắn thành công. Tử thuộc Kim là khó khăn trắc

trở... Bộ luật này sẽ được áp dụng trên nước Pháp trong vòng 2-7 tháng nữa. Hơn nữa, dân Pháp có

truyền thống biểu tình đình công. Nên đâu lại vào đó. Ai biểu tình cứ biểu tình, chính phủ biểu áp

dụng thì cứ áp dụng.

Quẻ độn: Kinh Xích khẩu là sẽ có sự đối đâu quyết liệt giữa các nghiệp đoàn và sinh viên với chính

phủ Pháp. Hai hành Kim đối chọi nhau chan chát. Xích Khẩu tức là sự đối thoại, hô hào đình công

bãi thị rất lớn. Cuối cùng thì chính phủ Pháp sẽ dùng quyền lực của mình (Kinh) để quyết đoán vấn

đề, chấm dứt mọi sự chống đối theo luật pháp qui định.

Chủ thể của câu hỏi là "Bộ luật lao động" ứng với Tốc Hỷ Hoả thắng kim. Chứng tỏ nó sẽ được áp

dụng vào mùa hè này. Nhanh là tháng 4 (Hai tháng sau), Chậm là tháng 7/ 8 Âm lịch. Bộ luật này

sau khi áp dụng còn tiếp tục gây tranh cãi và sẽ là đề tài của phe đối lập trong chính trường Pháp về

sau (Kinh Xích khẩu ).

Học viên Luke:

42

Page 43: Lac Viet Don Toan

Năm Bính Tuất, tháng 2 ngày 28, giờ Tuất.

Quẻ: Sinh - Đại An. Đây là sự áp đặt từ bộ máy lập pháp nên sẽ rơi vào tình trạng "trên bảo dưới

đành nghe". Quẻ này cho thấy điều luật này ít nhiều cũng có mặt tích cực của nó và là khởi mào cho

một cuộc cải tổ và mang tính bắt buộc.

Chống đối là có, nhưng chỉ từ những người dân thấp cổ bé họng mà thôi. Bộ luật lao động chắc

chắn sẽ được thi hành. Thời gian thi hành là tháng 8 âm lịch.

Quẻ độn Thương - Lưu Niên. Điều gì sẽ xảy ra sau đó?

Dư luận sẽ xôn xao, người dân sẽ hoang mang. Sẽ có những cuộc đình công nhưng sẽ không có

những hành động cực đoan, nhưng rồi thì người dân cũng phải chấp nhận bộ luật này thôi.

Quẻ nghiệm.

3 – 2:  Quẻ độn

Ưu điểm của quẻ Lạc Việt độn toán là có thể xem cho nhiều người một luc và trả lời nhiều câu hỏi

một luc, chính là nhờ quẻ độn. Nhưng cân lưu ý tất cả những quẻ độn trong một giờ đều là những

phân tử tập hợp của quẻ trong giờ đó và chịu ảnh hưởng của quẻ chính chủ giờ đó.

Ví dụ: Kinh –Vô vong /năm duơng/là một quẻ xấu, quản một giờ mà chung ta độn được. Như vậy

tất cả những quẻ độn trong giờ này dù tốt thì cũng chỉ là những hiện tượng trong một phạm trù xấu

và ngược lại.

Trong cùng một giờ, có từ hai người trở lên cân vấn quẻ thì người đâu tính vào quẻ chính, người

thứ hai tính vào quẻ độn kế, người thứ 3 tính vào quẻ độn tiếp theo nữa....

 Một người hỏi nhiều việc thì cứ thế độn tiếp.Trường hợp này chỉ ứng dụng đông người và coi liên

tục, cân chu ý vì rất dê lạc quẻ .

Tôi đã có lân xem cho 2 cô bé cùng tuổi, đến cùng một giờ, tuổi bố mẹ như nhau, chỉ khác có tuối

và giới tính người em ut. Trường hợp này phải ứng dụng độn quẻ’

Tuy nhiên Lạc Việt độn toán cũng có mặt hạn chế hơn so với Bốc Dịch là khó đoán thật chính xác

về thời gian.

Ví dụ :

Trong cuộc chiến vùng Vịnh II - kết hợp với Tử Vi của ông Hussen - tôi chỉ đoán được: "Cuối

tháng hai xảy ra chiến tranh và đâu tháng ba Âm lịch kết thuc". Trong khi đó Thiên Cơ dùng Dịch

đoán chính xác tới ngày chiến tranh, và Dương Tường (Tức Thanh Long) thì dung sai đoán trước

ngày kết thuc chiến tranh chỉ có 3 ngày.

Đây là việc tôi đang tìm hiểu thêm về mặt lý thuyết. Hy vọng với thời gian các bạn sẽ cùng chung

tôi nghiên cứu phát hiện và hoàn chỉnh.

Lưu ý:

43

Page 44: Lac Viet Don Toan

Quẻ độn nằm trong phạm trù của quẻ chính. Nhưng nếu là người khác hỏi, hoặc là sự việc khác thì

tính chất của quẻ độn vẫn chiếm vai trò chủ đạo. Quẻ chính chỉ là yếu tố xét để gia giàm.

3 – 2 – 1: Lạc Việt độn toán và khả năng hóa giải sự xâu

Trên thực tế khả năng hoá giải của Lạc Việt độn toán đã đuợc chững nghiệm qua thực tế, chuyện

nhỏ hoá giải nhỏ, chuyện lớn hoá giải lớn...nhưng cũng có những chuyện không thể hóa giải ,vì quẻ

cho biết không thể hoá giải được.

Ví dụ: Đây là một truờng hợp rất cụ thể độn quẻ cho thấy khả năng hoá giải rất cao ,và tôi cảm ơn

hội viên Bluepearl đã đồng ý cho chứng nghiệm công khai.

Bluepearl yêu câu giup đỡ vì một việc nan giải. Cụ thể là hợp đồng đã ký với khách hàng có  nguy

cơ bị hủy bỏ do trục trặc về nguồn cung cấp. Hậu quả là sẽ bị khiếu kiện bồi thường rất rắc rối, mặc

dù đang rất nỗ lực để cứu vãn hợp đồng này không biết có được không?

Quẻ Sinh -  Xích Khẩu

Quẻ này cho thấy rõ: Qua mùa xuân mọi việc sẽ trở nên rắc rối, Xích Khẩu chủ sự tranh chấp, cự

cãi. Quẻ Sinh cho thấy sự việc đã manh nha bắt đâu. Nhưng Sinh Mộc vượng vào mùa Xuân nên sự

việc chưa xảy ra bây giờ. Bởi vậy khi sự việc tiên đoán xấu và bản chất sự việc cho thấy khả năng

xấu xảy ra thì tất yếu chung ta phải tìm một phương pháp hóa giải. Quẻ Lạc Viêt Độn Toán đồng

thời đã chỉ ra một hướng hóa giải.

Phương pháp hóa giải của sự kiện này nằm ngay trong quẻ độn của Sinh Xích Khẩu là Thương Tiểu

Cát.Thương Tiểu Cát là thuân Mộc, xét hai quẻ liên tiếp liên quan đến nhau ta thấy ba hành Mộc

chống lại một hành Kim là Xích Khẩu – vốn là quẻ mang tính tranh chấp cự cãi, kiện tụng trong

trương hợp này  ....

Mộc trong trường hợp này sắp thứ tự sẽ thấy :

Sinh = Sự bắt đâu, mới xuất hiên...

Thương= Trạng thái tình cảm buồn,...

Tiểu Cát = Sự vui vẻ, lợi nhỏ, tình cảm...

Kim khắc Mộc là lý của Ngũ hành. Nhưng Mộc quá vượng Kim sẽ không khắc nổi, đó là dụng của

Ngũ Hành.

Như tôi đã trình bày: Quẻ Bát Môn là điều kiện môi trường. Quẻ Luc Nhâm là bản chất nội dung

của sự việc, sự vật đây là quẻ thuân về tình cảm. Vậy sách lược đối phó là dùng tình cảm để thuyết

phục: Quẻ thuộc Mộc (Tiểu Cát) còn có nghĩa là giấy tờ hợp đồng. Như vậy đối sách cụ thể là dùng

tình cảm (ăn nhậu, tâm sự, nói khó, kêu gọi sự thông cảm..),   để sửa lại hoặc hủy bỏ hợp đồng.

Biến hành Kim của Xích Khẩu mang yếu tố kiện cáo, thành sự hủy hợp đồng, dùng tình cảm để xóa

đi sự mâu thuẫn. Nếu có người nữ khoảng 30 tuổi hợp tác trong việc này chắc thành công.

44

Page 45: Lac Viet Don Toan

Xác nghiệm: Bluepearl đã đi gặp khách hàng để thương thuyết và đã áp dụng kế sách hóa giải theo

huớng tình cảm, trình bày hoàn cảnh, năn nỉ,... cuối cùng đối tác đồng ý sửa hợp đồng. Mong muốn

của Bluepearl đổi nhà cung cấp đã thành công hoàn toàn.

Lưu ý:

Không phải quẻ độn nào cũng hóa giải được

Lạc Việt độn toán phần 5

Khả năng và giá trị của Lạc Việt độn toán

Lạc Việt Độn Toán là hệ quả của một lý thuyêt vu trụ quan cổ Đông phương đươc phục hồi, xác

định trên cơ sơ hơp lý lý thuyêt nguyên lý tạo ra là ’’Hậu Thiên Lạc Việt phôi Hà Đồ”. Lạc Việt

độn toán hoàn toàn ứng dụng phương pháp luận của thuyêt Âm Dương Ngu hành với tư cách là

một lý thuyêt nhất quán và hoàn chỉnh... 

I – Vị trí của Lạc Việt độn toán trong văn hóa cổ Đông phương.

Lạc Việt Độn Toán là hệ quả của một lý thuyết vũ trụ quan cổ Đông phương được phục hồi, xác

định trên cơ sở hợp lý lý thuyết nguyên lý tạo ra là ’’Hậu Thiên Lạc Việt phối Hà Đồ”. Lạc Việt

độn toán hoàn toàn ứng dụng phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành với tư cách là một

lý thuyết nhất quán và hoàn chỉnh. Lý thuyết này và Lạc Việt độn toán không hề tồn tại trong cổ thư

chữ Hán. Chưa một triều đại nào trong lịch sử văn minh Hoa Hạ coi thuyết Âm Dương Ngũ hành

như một học thuyết chính thống trong xã hội. Lạc Việt độn toán cũng chưa bao giờ được ứng dụng

trong lịch sử văn hóa cổ Hoa Hạ cho đến ngày nay với phương pháp và nội dung này. Điều này

chứng minh rằng Thuyết Âm Dương ngũ hành đã tồn tại trên thực tế trong văn minh cổ nhân loại.

Chính thực tế này là cơ sở phục hồi Lạc Việt độn toán.

Bởi vậy, nên tính tích cực của môn này chính là sự chứng tỏ khả năng phát triển của một luận điểm

nhân danh khoa học, theo tiêư chí khoa học chứng minh rằng: Lịch sử văn hiến Việt trải gân 5000

năm.

1 – Tính khoa học của Lạc Việt độn toán

Tính khoa học này được xác định theo tiêu chí khoa học cho một lý thuyết hoặc phương pháp khoa

học: ”Một lý thuyết khoa học được coi là đung nếu nó giải thích hợp lý hâu hết những vấn đề liên

quan đến nó một cách nhất quán, hoàn chỉnh, có tính quy luật, tính khách quan và khả năng tiên tri”

Căn cứ theo tiêu chí khoa học trên thì chung ta thấy rằng:

- Lạc Việt độn toán với tư cách là một phương pháp tiên tri đã dự đoán tất cả những vấn đề liên

quan đến nó và chứng tỏ hiệu quả rất cao của phương pháp dự báo.

- Phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành và nguyên lý căn để ’’Hậu thiên Lạc Việt phối

Hà Đồ” được ứng dụng một cách nhất quán và hoàn chỉnh trong phương pháp Lạc Việt độn toán.

- Lạc Việt độn toán hoàn toàn mang tính quy luật và tất yếu là khách quan trong phương pháp.

45

Page 46: Lac Viet Don Toan

Cũng như một giả thuyết khoa học hoặc một phương pháp khoa học, Lạc Việt độn toán cũng cân có

thời gian để hoàn thiên, nhưng đó là những điều kiện cân bổ sung chứ không phải lý do để phản

bác.

2 – Tính ưu việt của phuơng pháp Lạc Việt Độn Toán

Tính ưu việt của phương pháp Lạc Việt Độn Toán chỉ là so sánh với các phương pháp dự báo khác

đang lưu truyền trên thực tế hiện nay, chứ không phải so sánh với nhu câu về hiệu quả dự báo và

thực tế thiên nhiên và cuộc sống.

2 – 1: Những ưu điểm của Lạc Việt động toán ở chỗ là hệ quả của một lý thuyết vũ trụ quan cổ

Đông phương được phục hồi, trên cơ sở đó xác định được nguyên lý tạo ra nó chính là ’’Hậu Thiên

Lạc Việt phối Hà Đồ” . Bởi vậy, sự tiếp thu Lạc Việt độn toán hoàn toàn phù hợp với tính hệ thống

và hợp lý trong tư duy. Do đó, sự tham khảo và nghiên cứu Lạc Việt độn toán sẽ được tiếp thu

nhanh chóng so với tất cả các phương pháp dự báo khác. Đây là một trong những ưu điểm nổi trội

nhất của Lạc Việt độn toán. Trên thực tế, nhưng người tham khảo, nghiên cứu ứng dụng Lạc Việt

độn toán đều tiếp thu một cách nhanh chóng phương pháp ứng dụng với khả năng dự báo xuất sắc.

Ngoài ra Lạc Việt độn toán còn có những khả năng sau đấy:

2 –  2: Cùng một thời điểm có thể trả lời nhiều câu hỏi một luc bằng cách lấy quẻ độn liên tiếp

nhau. So với phương pháp dự báo khác thường bị hạn chế không thể trả lời nhiều câu hỏi một luc

thì đây là ưu điểm của Lạc Việt độn toán.

2 – 3: Phối hợp với phương pháp tính giờ để có thể chủ động chọn quẻ tốt, giờ đẹp để tiến hành

công việc. Sau khi chọn được một ngày tốt - theo các cách phổ biến - để "Lợi kiến đại nhân" thì ta

chọn giờ tốt hợp lý. Thí dụ giờ Hoàng Đạo vào các giờ trong ngày có thể giao tiếp như buổi trưa,

buổi chiều...Sau đó dùng quẻ Lạc Việt độn toán để tìm một quẻ tốt trùng khớp với một giờ Hoàng

Đạo và giờ Hoàng Đạo lại trùng với một quẻ tốt vào khoảng giờ hợp lý cho công việc cân tiến hành

sẽ có khả năng dê thành công hơn. Có quẻ thật tốt trong ngày nhưng lại rơi vào giờ Dân, Sửu chẳng

hạn thì cũng bỏ.

Trong thực tế chọn một giờ cực tốt để có thể thay đổi số phận là rất khó. Ngày giờ tốt thường là chỉ

có thể làm giảm nhẹ cái xấu. Đây không phải ưu điểm nổi bật vì Chu Dịch cũng thực hiện được

điều này.

2 – 4: Tính đơn giản của Lạc Việt độn toán khiến người biết toán quẻ có thể có ngay dự báo cân

thiết để ứng xử.

2 – 5: Lưu ý: Một số ưu điểm của Lạc Việt độn toán so với các phương pháp dự báo khác mang

tính thời gian. Trong tương lai, khi thuyết Âm Dương Ngũ hành và mối liện hệ của nó với các

phương pháp ứng dụng được phục hồi thì sẽ có một số ưu điểm của Lạc Việt độn toán mất tính vượt

trội.

3 - Tính hạn chế của Lạc Việt độn toán.

Lạc Việt độn là một phương tiên của con người dùng để dự báo tương lai, nên nó cũng phải có tính

hạn chế của nó như tất cả những phương tiện mà con người đã tạo ra. Đây cũng chính là sự hạn chế

46

Page 47: Lac Viet Don Toan

chung của tất cả các phương pháp ứng dụng của con người nhân danh khoa học. Có thể nói rằng:

Tất cả các phương pháp ứng dụng và công cụ dù là vật thể hay phi vật thể do con người tạo ra đều

có những giới hạn của nó. Tất cả đều không tuyệt đối vì không nhân danh Thượng Đế.

Không riêng Lạc Việt độn toán mà có thể nói rằng: Tất cả những phương pháp ứng dụng dự báo

của nền Lý học Đông phương cổ đều có những hạn chế chính bởi bản chất khoa học của nó - Cho

dù người ta giải thích nó như thế nào: ”mê tín dị đoan”, hay sản phẩm của thân thánh....

Tính hạn chế này cũng nằm ngay tại phương pháp của nó, bao gồm:

3 – 1:Tính quy ước của thời gian và thực tế vận động của vũ trụ.

3 – 2:Sự khái quát của nội dung quẻ và tính cụ thể của muôn mặt sự việc, sự vật.

3 – 3 :Tính quy ước của thời gian lên không gian bề mặt địa câu khiên vị trí người luận đoán dê sai

lệch về phương pháp. Thí dụ như thời gian ở hai cực. Từ đó suy ra: Sự luận đoán tiên tri khó chính

xác ở vùng Hàn đới hoặc cận hàn đới gân hai cực Địa câu.

Tuy nhiên, mặc dù có những hạn chế trên thì phương pháp dự báo Lạc Việt độn toán và có thể nói

rằng: Hâu hết những phương pháp dự báo đều là hệ quả của một học thuyết vũ trụ quan rất cao cấp

vượt ra ngoài khả năng nhận thức của tri thức khoa học hiện đại và phù hợp với tiêu chí khoa học

cho một lý thuyết khoa học. Việc này đã thể hiện qua hiệu quả dự báo trải hàng ngàn năm trong xã

hội loài người của các phương pháp dự báo Đông phương.

HÌNH TƯỢNG VÀ QUẺ

Trong thực tế cuộc sống có những phương pháp bói toán, mà những dữ kiện ban đâu của nó có vẻ

như không tuân thủ một qui luật nào cả. Thí dụ như bói Avata của chị Laviedt, bói theo tên của

Mai Tím....Những phương pháp bói này chỉ cân một dữ kiện có vẻ như như ngẫu nhiên và không

có qui luật nhất định. Nhưng điều kỳ lạ là sự dự báo cũng rất hiệu quả. Vậy đằng sau tính hiệu quả

tiên tri ấy là một thực tại nào?

Bởi vì, trước những hiện tượng tồn tại trên thực tế , bao giờ cũng có một thực tại khác là nguyên

nhân của nó. Chung ta đang tìm hiểu phương pháp dự báo và thực tại nào là nguyên nhân của nó,

chứ chung ta không xét tính độ tin cậy vào lời tiên tri một cách mù quáng.

Trở lại với các phương pháp dự báo trên - theo cái nhìn của tôi sẽ chứng minh sau - chung chính là

hệ quả tiếp nối của các phuơng pháp dự báo có tính quy luật, tương tự như: Bốc Dịch, Mai Hoa,

Lạc Việt độn tóan ..vv.. Những phương pháp đó đã thất truyền, chỉ còn lại hệ quả của nó, nên đời

sau khó hiểu thấy mơ hồ .

Đó chính là phương pháp dùng hình tượng để lập quẻ. Một phương pháp lập quẻ cao cấp hơn với

phương pháp truyền thống dựa vào ngày giờ tháng năm độn quẻ. Đây cũng chính là phương pháp

dự báo của câp III Lạc Việt độn toán.

Trong Lạc Việt độn toán khi lập được quẻ, chung ta có tính chất của quẻ và nội dung quẻ. Thí dụ

như: Tiểu Cát là quyển sách, là giấy tờ, là lợi nhỏ, là cô gái trẻ ....

Vậy thì ngược lại trong mối tương quan liên hệ của nó, nếu chung ta nhìn thấy quyền sách đẹp và

xinh xắn thì đấy chính là quẻ Tiểu Cát.

47

Page 48: Lac Viet Don Toan

Về lý thuyết, chu kỳ 64 quẻ dịch - cũng như 48 quẻ Lạc Việt độn toán - và nội dung từng quẻ, có

khả năng tiên tri và giải thích tất cả mọi hiện tượng trong vũ trụ.

Như vậy, một quẻ Lạc Việt độn toán, cũng như một quẻ Dịch đều tương trưng cho một tập hợp vô

cùng lớn các sự vật, sự kiện...trên thế gian.....

Hay nói một cách khác: Tất cả các hiện tượng trên thế gian đều có thể là những phân tử nằm trong

tập hợp của 1/64 của quẻ Dịch, hoặc 1/48 của Lạc Việt độn toán ....

Do đó, càng tập hợp được nhiều hiện tượng liên quan thì khái niệm của chung ta về một quẻ bói

liên quan đến các hiện tượng nội hàm trong nó càng phong phu.

Trong quá trình tương tác và tiến hoá của vật chất trong vũ trụ - được diên tả bằng khái niệm của

thuyết Âm Dương Ngũ hành - một quái Dịch có thể có hình tượng, như:

Khảm thuỷ, là cây có lõi cứng và to, là tên ăn trộm....

Tương tự như vậy, một quẻ của Lạc Việt độn toán cũng phân Ngũ Hành và Âm Dương và nó cũng

phản ánh một sự tương tác tiến hoá của vũ trụ có tính qui luật. Đây chính là điều làm nên khả năng

tiên tri của quẻ Dịch, hoặc Lạc Việt độn toán ...

* Nguyên lý lý thuyết tiếp theo là:

Do vũ trụ xuất phát từ một bản thể duy nhất - theo cách giải thích của thuyết Âm Dương Ngũ hành -

là Thái Cực. Do trong quá trình tương tác và vận động có tính quy luật mà hình thành vạn vật, nên

tất cả mọi hiện tượng đều có liên thông với nhau bởi tính duy nhất ban đâu - Thái cực - đó. Chính vì

tính liên thông này là cơ sở để nhìn tượng lập quẻ và tạo ra khả năng tiên tri, khi mà mỗi quẻ phản

ánh tính quy luật và sự vận động của mọi hiện tượng.

Các nhà khoa học hiện đại đã nhận thấy rằng: Vạn vật từ các thiên hà khổng lồ đến siêu vi khuẩn

đều được cấu thành từ những hạt cơ bản khởi nguyên của vũ trụ (Tương tự khái niệm về Âm -

Dương - Ngũ hành trong thuyết Âm Dương Ngũ Hành), Nhưng do sự tương tác khác nhau mà hình

thành các hiện tượng khác nhau và phân biệt giữa một thiên hà với siêu vi khuẩn. Các nhà khoa học

hàng đâu thường ví von sự giống và khác nhau này giữa chiếc chìa khóa và bông hoa hồng. Bởi

vậy, sự tồn tại của chiếc chìa khoá hay bông hoa hồng chính là kết quả của một quá trình hình thành

tương tác trong lịch sử vũ trụ.

Đó là lý do ông Trịnh Xuân Thuận đã diên đạt:

Để giải thích một hiện tượng dù rất nhỏ phải viện dẫn đến toàn thể lịch sử hình thành vũ trụ .

Qua những trí thức khoa học hiện đại trên, chung ta có cơ sở nhận thức để khẳng định tính liên

thông và đồng tính chất của mọi hiện tượng trong vũ trụ từ qua khứ, hiện tại và vị lai - tất cả chung

đều mang tính qui luật và có khả năng tiên tri. Tất nhiên, điều này mang tính lý thuyết.

Chính vì tính liên thông và là hiện tượng nội hàm trong một quẻ ấy, nên chính hình tượng của hiện

tượng có thể liên hệ với quẻ và tạo ra khả năng tiên tri.

Điều kiện này chỉ có thể thể thực hiện được - trong điều kiện lý thuyết đã thất truyền - là chung ta

phải rất thành thạo độn và toán quẻ ở câp II Lạc Việt độn toán. Bởi - trong điều kiện lý thuyết thất

truyền - chung ta phải tập hợp những khái niệm về các hiện tượng nội hàm trong một quẻ, càng

nhiều càng tốt, để có một khả năng hình thành một khái niệm tổng quát về hình tượng trong một

quẻ. Hay nói đơn giản hơn, chung ta phải làm bài tập chăm chỉ.

Trên đây, tôi đã khái quát có tính lý thuyết về những cơ sở của sự liên hệ giữa hình tượng và quẻ

Lạc Việt độn toán không theo tính độn toán truyền thống (Dựa vào ngày giờ tháng năm toán quẻ).

Anh chị em cũng lưu ý:

48

Page 49: Lac Viet Don Toan

Việc cảm ứng hình tượng liên hệ với quẻ Lạc Việt độn toán, không giống việc Ngài Thiệu Khang

Tiết cảm ứng dựa trên tiếng chim phương Bắc hót ở phương Nam mà đoán: "Nhà Nam Tống sắp

mất". Khả năng dự báo của Ngài Thiệu Khang Tiết dựa trên một thực tại khác, không liên quan

đến vấn đề tôi trình bày. Khi nào có dịp tôi sẽ trình bày sau để anh chị em tham khảo.

49