lanh dao thuot linh va goi chung

59
Lãnh đạo thuc linh và Hi chúng Tác gi : Xuân Thu · Ta · Lãnh Đạo Thuc Linh và SCu Ri · Lãnh Đạo và Khi Tượng · Người Lãnh Đạo · Bàn Tay Lãnh Đạo · Đánh giá mi quan h· Người Lãnh Đạo Thuc Linh Và Nhu Cu ca Hi Chúng · Người Lãnh Đạo Bi ết Nhìn Nhn Li ta “Thưa Thy, Thy kn dnày cho riêng chúng tôi hay cho tt cmi người?” (LuLc 12:41) Chúa dy tôi hay dy người khác? Chúa khuyên tôi hay khuyên người khác? Chúa dùng tôi hay người khác? Chúa tính s vi tôi hay vi người khác? Chúng ta c ũng thường thc mc như vy. Khi đứng trước trách nhi m, chúng ta thường nói: “Sao lại là tôi!” Còn khi đứng trước quyn l i, chúng ta đòi: “Phải dành cho tôi chớ!” Khi Chúa khuyến cáo, chúng ta nói: “Đây là khuyến cáo dành cho người này người kia - không phi là tôi.” Li u có ai trong chúng ta hi Chúa như ông Phi-e-rơ tng hỏi Chúa không? “Thưa Thy, Thy kn dnày cho riêng chúng tôi hay cho tt cmi người?” Mi người chúng ta hãy thưa với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa kn dnày cho con.” LÃNH ĐẠO THUC LINH VÀ SCU RI 1. Nhà lãnh đạo thuc linh c ũng là người. P hi chăng người lãnh đạo thuc linh là Cơ Đốc nhân siêu phàm, ho c là Cơ Đốc nhân super siêu hng? Nhi u người nghĩ lãnh đạo thuc linh là nhng bc ‘á thánh’ trên cao, có trình độ thuc linh đẳng cp dưới Đức Chúa Tri nhưng trên con người mt bc, là người có nếp s ng đạo không thchê trách được, có l i nói chc như đinh đóng c t, có thhô phong hoán vũ… Rồi nhi u người lãnh đạo thuc linh

Upload: codocnhan

Post on 21-Jan-2018

88 views

Category:

Spiritual


2 download

TRANSCRIPT

Lãnh đạo thuộc linh và Hội chúng Tác giả: Xuân Thu

· Tựa

· Lãnh Đạo Thuộc Linh và Sự Cứu Rỗi · Lãnh Đạo và Khải Tượng

· Người Lãnh Đạo · Bàn Tay Lãnh Đạo

· Đánh giá mối quan hệ · Người Lãnh Đạo Thuộc Linh Và Nhu Cầu của Hội Chúng · Người Lãnh Đạo Biết Nhìn Nhận

Lời tựa

“Thưa Thầy, Thầy kể ẩn dụ này cho riêng chúng tôi hay cho tất cả mọi người?” (LuLc 12:41) Chúa dạy tôi hay dạy người khác? Chúa khuyên tôi hay khuyên người khác? Chúa

dùng tôi hay người khác? Chúa tính sổ với tôi hay với người khác? Chúng ta cũng thường thắc mắc như vậy.

Khi đứng trước trách nhiệm, chúng ta thường nói: “Sao lại là tôi!” Còn khi đứng

trước quyền lợi, chúng ta đòi: “Phải dành cho tôi chớ!” Khi Chúa khuyến cáo, chúng ta nói: “Đây là khuyến cáo dành cho người này người kia - không phải là

tôi.”

Liệu có ai trong chúng ta hỏi Chúa như ông Phi-e-rơ từng hỏi Chúa không? “Thưa Thầy, Thầy kể ẩn dụ này cho riêng chúng tôi hay cho tất cả mọi người?”

Mỗi người chúng ta hãy thưa với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa kể ẩn dụ này cho con.”

LÃNH ĐẠO THUỘC LINH VÀ SỰ CỨU RỖI

1. Nhà lãnh đạo thuộc linh cũng là người. P hải chăng người lãnh đạo thuộc linh là Cơ Đốc nhân siêu phàm, hoặc là Cơ Đốc

nhân super siêu hạng? Nhiều người nghĩ lãnh đạo thuộc linh là những bậc ‘á thánh’ ở trên cao, có trình độ thuộc linh ở đẳng cấp dưới Đức Chúa Trời nhưng trên con

người một bậc, là người có nếp sống đạo không thể chê trách được, có lời nói chắc như đinh đóng cột, có thể hô phong hoán vũ… Rồi nhiều người lãnh đạo thuộc linh

cứ tưởng mình ‘ngon’ lắm, bây giờ mình đã là ‘ông này bà kia’ đã có tên tuổi trong giới lãnh đạo thuộc linh và nghĩ rằng có thể một mình tả xung hữu đột trong hội

chúng. Nếu giới lãnh đạo thuộc linh thành tâm tự rà soát bản thân, có thể họ không hài

lòng về tình trạng thuộc linh của họ. Chẳng những họ không hài lòng mà hội chúng cũng không hài lòng về họ. Hội chúng nói chung có thể bày tỏ những thất vọng của

mình đối với người lãnh đạo thuộc linh qua nhiều cách: Thiếu niên có thể không nói ra ý nghĩ của chúng, nhưng trong thâm tâm các em chẳng bao giờ tin lời giáo

viên lớp Kinh Thánh. Thanh niên có thể bày tỏ nỗi bất mãn đối với các anh chị hướng dẫn bằng cách bỏ nhóm, hoặc đến nhóm mà không thèm nghe, hoặc chỉ lo

nói chuyện với nhau. Vì sao? Khi buộc lòng phải nói lên suy nghĩ, có thể các bạn thanh niên sẽ nói: “Anh ấy chỉ nói giỏi thôi, chứ sống thì không đúng với lời anh

ấy dạy.” Còn tín hữu phản ứng đối với các vị lãnh đạo thì nhiều cách lắm. Một tín hữu hoặc một người cộng sự sẽ thổ lộ nhiều điều bất ngờ nếu họ có cơ hội nói lên

những thất vọng đối với người lãnh đạo thuộc linh. Nói ra không phải là làm tình làm tội người lãnh đạo thuộc linh, nhưng để tìm cách cảm thông và tha thứ những bất toàn của người lãnh đạo thuộc linh. Chắc chắn sẽ

có nhiều câu trả lời khác nhau khi vấn đề sau đây được đặt ra: Ông bà có thể cảm thông và tha thứ những bất toàn nào của người lãnh đạo thuộc linh; và không thể

chấp nhận những sai lầm nào của người lãnh đạo thuộc linh? Cả thành phần lãnh đạo lẫn thành phần bị chi phối bởi nhà lãnh đạo cần nhớ rằng

người lãnh đạo thuộc linh cũng chỉ là người phàm

2. Là người ra sao? T hử xét xem biểu đồ dưới đây là của ai. Của người lãnh đạo thuộc linh hoặc của người được lãnh đạo?

Hình 1

Có lần một người lãnh đạo thuộc linh nọ chia sẻ cho hội chúng về đời sống Cơ Đốc mạnh mẽ và tăng trưởng. Ông vẽ biểu đồ này (hình 1) và nói rằng đời sống người

Cơ Đốc bình thường phải luôn luôn tiến theo đường thẳng đi lên. Phải luôn luôn mạnh mẽ trong đức tin, luôn luôn đắc thắng… Rồi ông ví sánh đời sống giống Cơ

Đốc nhân như cái máy điều hoà không khí, và nói rằng Cơ Đốc nhân mạnh mẽ thì không thay đổi trước nghịch cảnh, dù mưa gió bão bùng hoặc nắng nóng khô hạn

thì luôn luôn giữ được sự tươi mới trong đời sống. Thật ra từ người lãnh đạo cho đến tín hữu nào có ai không mơ ước một đời sống Cơ Đốc thẳng tiến lên chốn cao hơn! Nhưng Kinh Thánh cũng nhận định rằng khi

chúng ta yếu đuối là lúc chúng ta mạnh mẽ. Người Cơ Đốc không phải lúc nào cũng mạnh mẽ, không phải lúc nào cũng tươi mới. Nếu bảo giống cái máy điều hoà

không khí thì không sai, nhưng cái máy điều hoà không khí đôi khi cũng bị hỏng và làm cho căn phòng nóng hơn thay vì mát mẻ.

Chẳng trách gì hội chúng mà ngay cả người lãnh đạo thuộc linh đôi khi cũng giống như cái máy điều hoà không khí bị hỏng. Ông Mô-se nổi nóng trước dân chúng bội

nghịch, quan xét Sam-sôn sa ngã, vua Đa-vít, vua Sa-lô-môn phạm tội, tiên tri Ê-li ngã lòng, tiên tri Giô-na không vâng lời… Người lãnh đạo thuộc linh cũng là

những con người bất toàn. Tuy nhiên, bất toàn của họ không dẫn đến sự diệt vong và vô vọng, vì họ đang trên con đường tiến đến sự trọn lành. Những bất toàn của

họ vẫn gọi là tội lỗi, nhưng tiên tri Na-than vẫn có thể báo cho vua Đa-vít rằng: “… vua không chết đâu” khi vua xưng nhận vua đã phạm tội với Chúa.

Có thể biểu thị đời sống thực tế của một Cơ Đốc nhân bằng biểu đồ dưới đây:

Hình 2

Sau khi được cứu, họ rất hăng hái phấn khởi theo Chúa, phần thuộc linh tiến bộ rất nhanh, nhưng chẳng bao lâu thì xẹp xuống, nguội dần; đời sống thuộc linh bắt đầu kém cỏi. Có thể họ vấp ngã trong nghề nghiệp, trong tình yêu và trong gia đình,

thậm chí họ có thể mất đức tin, rời khỏi Hội Thánh, oán trách con người, oán trách Chúa thay vì ca ngợi Ngài. Nếu được bồi dưỡng thuộc linh (như là được bồi linh,

học Kinh Thánh thường xuyên với một nhóm bạn…) họ có cơ may sực tỉnh, phần thuộc linh có thể tiến bộ trở lại, tuy chậm chạp và có thể là không đạt đến độ cao

như thời gian đầu. Nhưng những đợt bồi dưỡng thuộc linh đó đôi khi như đám mây mau tan, nên sau đó đời thuộc linh họ lại sa sút. Nói chung là đời sống thuộc linh của đại đa số tín hữu không tăng trưởng, thậm chí có thể lùi, cùng lắm là chỉ ở một

mức độ nhất định, không mạnh, không yếu, không chết nhưng không kết quả. Vì hội chúng gồm những con người ‘thất thường’ như thế cho nên người lãnh đạo

thuộc linh muốn họ trở thành những con người ‘phi thường’ như trong hình 1, dù rằng ngay bản thân người lãnh đạo cũng không thể đạt được. Nếu mỗi người (kể cả

người lãnh đạo thuộc linh) thành thật vẽ biểu đồ về cuộc đời theo Chúa của mình chắc chắn cũng có những chặng đường lên, đường xuống và đường ngang. Lên thì

chậm, xuống thì nhanh và ngang thì tà tà. Người lãnh đạo thuộc linh cũng là con người. Nếp sống đạo, mối quan hệ của

người lãnh đạo đôi khi cũng có những bước trồi sụt. Đôi khi rất đáng khích lệ, đôi khi thì kém hào hứng, đôi khi thì thật tồi tệ. Vấn đề là: Người lãnh đạo thuộc linh

có nhận ra mình là ai không? Có nhận biết những người mình đang lãnh đạo là ai không? Không phải thiên sứ, cũng chẳng phải quỉ dữ, mà là con người. Còn hội

chúng có biết rằng người lãnh đạo của mình là ai không? Họ chẳng qua cũng là con người mà thôi. Nhận biết mình là ai, biết công nhận thực trạng của mình sẽ giúp chúng ta khiêm

nhường hơn, biết nhờ cậy Chúa hơn và biết cảm thông với người khác hơn.

3. Được cứu chưa? V ề nguyên tắc người lãnh đạo thuộc linh là người nắm giữ chìa khoá của Nước

Trời. Chính vì đặc quyền này mà chẳng mấy khi người ta nêu ra vấn đề “được cứu chưa?” đối với người lãnh đạo thuộc linh. Chúng ta cho rằng hễ là người lãnh đạo

thuộc linh thì đương nhiên là phải được cứu rồi. Nhưng sự thật không phải như vậy.

Chúa Giê-xu từng đặt vấn đề: “Người mù có thể dẫn người mù không?” (LuLc 6:39) Đương nhiên là không, tuy nhiên khi Chúa nói như vậy nghĩa là trong thực tế

vẫn có người mù dẫn người mù. Không thiếu gì những người lãnh đạo thuộc linh mù về nhiều lãnh vực, kể cả lãnh vực cứu rỗi mà vẫn dẫn dắt nhiều người khác.

Nhiều người trong chúng ta biết câu chuyện của ông John Wesley, người sáng lập Giáo Hội Giám lý, từng làm giáo sĩ ba năm ở Mỹ. Một ngày kia ông gặp một người

cũng đi giảng Tin Lành. Người đó đã hỏi ông John Wesley là ông thật sự có “được cứu, và trở nên con của Chúa” chưa. Khi ông John Wesley trở về Anh quốc, ông

viết trong nhật ký của mình như thế này: “Tôi học được điều gì? Tôi học được điều mà chính tôi không hề ngờ đến, đó là tôi, một người đến Mỹ quốc với mục đích

thay đổi những người khác, nhưng bản thân tôi chưa hề được Đức Chúa Trời thay đổi.” Được cứu, trở nên con của Chúa là vấn đề tối quan trọng và thiết yếu đối với người

lãnh đạo thuộc linh cấp gia đình lẫn người lãnh đạo thuộc linh cấp Hội Thánh . Trong gia đình, cha mẹ lãnh đạo con cái; tại lớp học Kinh Thánh, các giáo viên

lãnh đạo học viên; trong Hội Thánh, lãnh đạo thuộc linh là những người mà hội chúng luôn luôn tin cậy, lắng nghe và trông đợi. Chuyện gì sẽ xảy ra, nếu những

người lãnh đạo thuộc linh từ cấp gia đình đến cấp Hội Thánh đều chưa được cứu? Nhiều khi chúng ta lo cứu những tội nhân hư mất ở ngoài đời trong khi ngay tại

trong Hội Thánh có vô số người hư mất. Rồi chúng ta kêu gọi đám người hư mất trong hội chúng nói về Chúa Cứu Thế cho những người hư mất ngoài đời. Cuộc

sống ‘theo đạo’ và ‘vào đạo’ làm cho nhiều người hiểu sai, nghĩ lầm và không bao giờ tự rà soát xem họ có phải là con của Chúa hoặc chưa.

4. Được cứu như thế nào?

K inh Thánh có ghi lại những trường hợp được cứu đáng cho cả người lãnh đạo thuộc linh và tín hữu suy ngẫm.

(1) Được cứu một cách may mắn.

39 Một trong hai phạm nhân bị treo trên cây thập tự cũng mắng nhiếc Chúa: “Chú mày là Đấng Cứu Thế à? Hãy tự cứu mình đi, rồi cứu tụi tao nữa!” 40Nhưng anh

kia trách hắn: “Cậu đang chịu cùng một án phạt, thế mà cậu cũng không sợ Đức Chúa Trời sao? 41Cậu và tớ cùng chịu án phạt này là phải rồi, tụi mình gieo gió thì

phải gặt bão, nhưng người này không làm việc gì ác cả.” 42Rồi anh thưa: “Lạy Thầy Giê-xu! Khi Thầy đến trong Nước Thầy, xin nhớ đến tôi!” 43Chúa Giê-xu

bảo anh: “Tôi hứa với anh: Hôm nay anh sẽ ở với tôi trong Ba-ra-đi” (LuLc 23:39-43)

Đây là câu chuyện về hai phạm nhân bị đóng đinh bên cạnh Chúa Giê-xu. Suốt cả đời hai phạm nhân này chuyên làm điều ác, đến khi sắp chết thì một trong hai

người thưa với Chúa: “Xin nhớ đến tôi!” và lập tức được Chúa hứa: “Hôm nay anh sẽ ở với tôi…”

Được Chúa cứu là điều chắc chắn, tuy nhiên phạm nhân được cứu không còn cơ hội để sống cho Chúa. Anh ta có muốn làm gì cho Chúa thì cũng không còn cơ hội

vì hai tay đang bị đinh đóng chặt vào cây thập tự; anh muốn đi đâu vì Chúa cũng không được vì hai chân đang bị đinh đóng chặt vào cây thập tự. Anh chỉ còn vài

giờ đồng hồ hấp hối rồi tắt thở, nhưng anh ta được cứu, được cứu vào giây phút cuối cùng một cách bất ngờ.

Giữa chúng ta và phạm nhân này có điểm khác nhau và giống nhau. Khác nhau ở chỗ trong khi phạm nhân này không còn có cơ hội để sống phục vụ Chúa thì chúng

ta lại là những người có rất nhiều cơ hội để sống phục vụ Chúa. Giống nhau ở chỗ suốt cuộc đời chúng ta sống cho bản thân, chúng ta theo ý riêng, theo thế gian vì chúng ta không muốn sống cho Chúa. Chúng ta không chịu sống cho Chúa, không

có kết quả cho Chúa và không là chứng nhân tốt cho Ngài dù đã tin Chúa. Khi còn trẻ chúng ta phân trần: “Tôi còn trẻ, chưa đủ tài năng, tôi không làm

được.” Khi trưởng thành chúng ta thoái thác viện cớ: “Viêc này tôi có khả năng làm, nhưng tôi bận rộn, không có thì giờ.” Đến lúc tuổi già chúng ta đùn đẩy: “Để

người khác làm, tôi già rồi, mệt lắm.” Tất nhiên trong ngày cuối cùng chúng ta vẫn được cứu. Nhưng thật tiếc cho bao nhiêu năm tháng và cơ hội đã trôi qua.

Thật đáng thương và đáng trách cho những người lãnh đạo và hội chúng đang ‘ngơ ngẩn nhìn nhau’ trong khi họ biết rất rõ nhu cầu của mình và của người xung

quanh (SaSt 42:1).

(2) Được cứu một cách đáng sợ.

1Có tin đồn ra khắp nơi rằng trong anh em có sự dâm loạn, dâm loạn đến thế, dẫu người ngoại đạo cũng chẳng có giống như vậy: là đến nỗi trong anh em có kẻ lấy vợ của cha mình. 2Anh em còn lên mình kiêu ngạo! Anh em chẳng từng buồn rầu,

hầu cho kẻ phạm tội đó bị trừ bỏ khỏi vòng anh em thì hơn! 3Về phần tôi, thân dầu xa cách mà lòng ở tại đó, (vì anh em và lòng tôi được hội hiệp với quyền phép của

Đức Chúa Giê-xu là Chúa chúng ta), 4nên tôi đã dường như có mặt ở đó, nhân danh Đức Chúa Giê-xu là Chúa chúng ta, tuyên án kẻ phạm tội đó 5rằng, một người như thế phải phó cho quỷ Sa-tan, để huỷ hoại phần xác thịt, hầu cho linh hồn

được cứu trong ngày Đức Chúa Giê-xu. ( ICo1Cr 5:1-5)

Khi viết thư cho Hội Thánh ở Cô-rinh-tô ông Phao-lô trách Hội Thánh vì họ không có thái độ đúng đắn đối với tội lỗi của một thành viên trong Hội Thánh. Sau đó,

ông Phao-lô nhân danh Chúa Giê-xu tuyên án người đã tin Chúa mà phạm tội, ông viết: “một người như thế phải phó cho quỉ Sa-tan, để huỷ hoại phần xác thịt, hầu

cho linh hồn được cứu trong ngày Đức Chúa Giê-xu (ICo1Cr 5:1-5). Việc ‘phó cho quỷ Sa-tan, để huỷ hoại phần xác thịt’ làm chúng ta liên tưởng và so

sánh với trường hợp ông Gióp. “Đức Giê-hô-va phán với Sa-tan rằng: Kìa, người ở trong tay ngươi; nhưng chỉ hãy giữ mạng sống người” (Giop G 2:6). Ở đây chúng

ta thấy Đức Chúa Trời đã phó ông Gióp cho Sa-tan và Sa-tan đã “hành hại Gióp một bịnh ung độc, từ bàn chân cho đến chót đầu” (Giop G 2:7).

Việc ông Gióp là một người ‘vốn trọn vẹn và ngay thẳng, kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác’ (Giop G 1:1) được phó cho Sa-tan khác hẳn một tín hữu

phạm tội vô luân, không chịu ăn năn và bị phó cho Sa-tan. Người phạm tội bị tuyên án và phó cho Sa-tan khác với người được Chúa kể là

công nghĩa dù đang bị Sa-tan hành hạ dày vò. Người thứ nhất bị loại ra khỏi mối thông công với Chúa và với Hội Thánh, nhưng người thứ hai vẫn còn giữ nguyên

mối tương giao với Chúa và sự thông công với anh em mình. Người thứ nhất không ở với Chúa, không được Chúa bảo vệ, còn người thứ hai được Chúa ở cùng và bảo vệ. Người thứ nhất không được Chúa an ủi khích lệ, không còn hy vọng nào

cả khi khổ đau, còn người thứ hai được an ủi vỗ về và vẫn còn niềm tin và hy vọng dù đang khổ đau.

Dù ông Gióp bị Sa-tan hành hạ, đày đoạ nhưng Chúa không bỏ rơi ông, ông khóc nhưng Chúa lau nước mắt cho ông, ông đau đớn Chúa vỗ về an ủi ông, ông thắc

mắc, Chúa giải đáp cho ông… Cuối cùng Chúa phục hồi và ban phước gấp bội cho ông. Còn người bị Đức Chúa Trời loại bỏ, suốt cuộc đời không có vui mừng, mà

khổ đau triền miên dù chung cuộc được cứu, nhưng được cứu như thế thật đáng sợ. Người lãnh đạo thuộc linh cần tỉnh thức để không rơi vào tình trạng bị Đức Chúa

Trời ruồng bỏ.

(3) Được cứu một cách đáng thương. 9Vả, chúng tôi là bạn cùng làm việc với Đức Chúa Trời; anh em là ruộng của Đức Chúa Trời cày, nhà của Đức Chúa Trời xây. 10Theo ơn Đức Chúa Trời ban cho

tôi, tôi đã lập nền như một tay thợ khéo, mà có kẻ khác cất lên trên; nhưng ai nấy phải cẩn thận về sự mình xây trên nền đó. 11Vì, chẳng ai có thể lập một nền khác

ngoài nền đã lập, là Đức Chúa Giê-xu Cứu Thế. 12Nếu có kẻ lấy vàng, bạc, bửu thạch, gỗ, cỏ khô, rơm rạ mà xây trên nền ấy, 13thì công việc của mỗi người sẽ bày

tỏ ra. Ngày đến sẽ tỏ tường công việc đó; nó sẽ trình ra trong lửa, và công việc của mỗi người đáng giá nào, lửa sẽ chỉ ra. 14Vì bằng công việc của ai xây trên nền

được còn lại, thì thợ đó sẽ lãnh phần thưởng mình. 15Nếu công việc họ bị thiêu huỷ, thì mất phần thưởng. Còn về phần người đó, sẽ được cứu, song dường như

qua lửa vậy. (ICo1Cr 3:9-15) Gây dựng đời sống bản thân và gây dựng đời sống người khác là trách nhiệm của

mỗi Cơ Đốc nhân. Tuy nhiên chúng ta phục vụ như thế nào? Khi đọc ICo1Cr 3:9-15 chúng ta liên tưởng đến những người xây nhà trên những cái nền giống

nhau. Ai nấy đều lo chọn lựa vật liệu, tốn thì giờ công sức để thiết kế và xây dựng ngôi nhà của mình. Rồi sự thử nghiệm đến. Những ngôi nhà xây bằng vật liệu

vàng, bạc và bửu thạch thì còn nguyên; những ngôi nhà lấy gỗ, cỏ khô rơm rạ làm vật liệu thì chỉ còn trơ lại cái nền mà thôi.

Ông Phao-lô kết luận về chủ nhân của những ngôi nhà chỉ còn sót lại cái nền trơ trụi: “Nếu công việc họ bị thiêu huỷ, thì mất phần thưởng. Còn về phần người đó,

sẽ được cứu, song dường như qua lửa” (ICo1Cr 3:15). Thử hình dung về tình trạng của hai người sau một trận hoả hoạn: một người mất

tất cả và ‘suýt’ mất mạng; còn một người thì cả tánh mạng lẫn nhà cửa đều an toàn. Cả hai đều toàn mạng, nhưng khác nhau về thành quả có còn hoặc mất.

Ông Phao-lô nói: “Ai nấy phải cẩn thận về sự mình xây trên nền đó” (Câu 10b). Người lãnh đạo là người đang xây dựng một công trình. Công trình này có thể nhìn

thấy trong hiện tại, nhưng còn tồn tại trong đời sau hoặc không lại là một chuyện khác. Tuy nhiên, ngay trong hiện tại bản thân người lãnh đạo có thể biết trong cõi đời sau công trình của mình có tồn tại hoặc không, vì ông biết mình đang dùng vật

liệu gì để xây dựng công trình.

(4) Được cứu một cách sung mãn. 6Về phần ta, ta đang bị đổ ra làm lễ quán, kỳ qua đời của ta gần rồi. 7Ta đã đánh

trận tốt lành, đã xong sự chạy, đã giữ được đức tin. 8Hiện nay mão triều thiên của sự công bình đã để dành cho ta; Chúa là quan án công bình, sẽ ban mão ấy cho ta

trong ngày đó, không những cho ta mà thôi, nhưng cũng cho mọi kẻ yêu mến sự hiện đến của Ngài. (IITi 2Tm 4:6-8)

Tất nhiên không phải chỉ có ba trường hợp được cứu như trên. Vì sự cứu rỗi là mầu nhiệm, những kinh nghiệm được cứu là vô cùng. Ông Phao-lô cũng có thể nhận

mình được cứu một cách lạ lùng trên con đường Đa-mách, nhưng điểm mấu chốt là diễn trình của sự cứu chuộc không dừng lại ở chỗ được cứu song dường như qua

lửa. Ông Phao-lô đã kết luận về đời sống của mình sau những năm tháng được Chúa cứu chuộc: “Ta đã đánh trận tốt lành, đã xong sự chạy, đã giữ được đức tin.

Hiện nay mão triều thiên của sự công bình đã để dành cho ta...” (IITi 2Tm 4:7,8a) Trong câu 6, ông Phao-lô nói về hiện tại của ông. Đó là thời điểm cuối cùng, thời

điểm mà với phạm nhân bị đóng đinh trong Lu-ca thì không còn cơ hội nữa, còn đối với ông Phao-lô thời điểm cuối cùng vẫn là cơ hội. Chúa Giê-xu đã cứu ông cho ông có cơ hội sống cho Chúa, và bây giờ đến thời điểm cuối cùng ông cũng có

cơ hội chết cho Chúa. Trong câu 7, nhà lãnh đạo thuộc linh Phao-lô ôn lại và đúc kết quá trình theo Chúa

của mình và ông thấy đó là một cuộc chiến đấu thắng lợi, là một cuộc chạy đua được hoàn tất tốt và một mối quan hệ được duy trì toàn vẹn.

Ông Phao-lô dám hướng về tương lai của mình và khẳng định ngay trong hiện tại rằng ‘mão triều thiên của sự công bình’ đã để dành cho ông. Ông Phao-lô được

cứu, nhưng được cứu cách dư dật.

5. Nóng - Hâm hẩm - Lạnh 14Ngươi cũng hãy viết cho thiên sứ của Hội Thánh Lao-đi-xê rằng:

Này là lời phán của Đấng A-men, Đấng làm chứng thành tín chân thật, Đấng làm đầu cội rễ cuộc sáng thế của Đức Chúa Trời: 15Ta biết công việc của ngươi; ngươi

không lạnh cũng không nóng. Ước gì ngươi lạnh hoặc nóng thì hay! 16Vậy, vì ngươi hâm hẩm, không nóng cũng không lạnh, nên ta sẽ nhả ngươi ra khỏi miệng

ta. 17 Vả, ngươi nói: Ta giàu, ta nên giàu có rồi, không cần chi nữa; song ngươi không biết rằng mình khổ sở, khốn khó, nghèo ngặt, đui mù và loã lồ. 18Ta khuyên ngươi hãy mua vàng thử lửa của ta, hầu cho ngươi trở nên giàu có, mua những áo

trắng, hầu cho ngươi được mặc vào và điều xấu hổ về sự trần truồng ngươi khỏi lộ ra; lại mua thuốc xức mắt đặng thoa mắt ngươi, hầu cho ngươi thấy được. 19Phàm

những kẻ ta yêu thì ta quở trách sửa phạt; vậy hãy có lòng sốt sắng, và ăn năn đi. 20Này, ta đứng ngoài cửa mà gõ; nếu ai nghe tiếng ta mà mở cửa cho, thì ta sẽ vào

cùng người ấy, ăn bữa tối với người, và người với ta. (KhKh 3:14-20)

Lời cảnh tỉnh trong KhKh 3:14-20l nhắc đến ba loại Hội Thánh, ba loại tín hữu: (1) Nóng,

(2) Hâm hẩm, và (3) Lạnh.

Từ vị trí lãnh đạo thuộc linh, chúng ta thường đánh giá một cách khái quát về hội chúng qua hai biểu đồ dưới đây:

Biểu đồ về tình trạng thuộc linh

Biểu đồ về tình trạng phục vụ.

Làm việc Nhìn người làm Bỏ dở

- Biểu đồ mô tả về tình trạng thuộc linh của hội chúng. Có 10% tín hữu thuộc loại tích cực hăng hái; 80% hâm hẩm và 10% nguội lạnh.

Thế nào là tích cực hăng hái, thế nào là hâm hẩm và thế nào là nguội lạnh? - Biểu đồ mô tả về tình trạng phục vụ của hội chúng. Trong Hội Thánh có 10% tín hữu làm việc, 80% nhìn người khác làm việc, và 10% còn lại thì bỏ việc (bỏ dở

không làm) Căn cứ vào đâu để có những biểu đồ này? Điều nguy hiểm là khi tự xét mình hoặc

nhận xét về người khác, chúng ta thường đặt hai biểu đồ chồng lên nhau. Chúng ta cho rằng người hăng say hoạt động, nói nhiều… là người tích cực hăng

hái, yêu mến Chúa. Còn người thụ động, ít phát biểu, không cống hiến gì cho Hội Thánh là người hâm hẩm. Người không đi nhà thờ là người nguội lạnh.

Chúng ta thường nhận xét và đánh giá một người có hoạt động trong Hội Thánh là người sốt sắng. Có thể họ đạt được một số thành quả nhất định, thế là chúng ta cho

rằng họ sung mãn về phần thuộc linh nên có thể giao cho họ chăm lo cứu giúp người khác.

Cách con người nhìn nhận và đánh giá khác với cách Đức Chúa Trời nhìn nhận và đánh giá. Đối với Chúa, người hoạt động trong Hội Thánh chưa hẳn là người sốt

sắng, tất nhiên người đó không phải là loại nguội lạnh, nhưng họ có thể bị xếp vào loại hâm hẩm. Đó là trường hợp của Hội Thánh ở Lao-đi-xê. Hội Thánh có những

công việc, nghĩa là họ không phải là những người ngồi không mà nhìn người khác làm việc.

Chẳng những họ có công việc mà họ còn cho rằng họ có thành quả nữa: “Ta giàu, ta nên giàu có rồi, không cần chi nữa”. Người có công việc, có thành quả vẫn có thể là loại người hâm hẩm.

Lại càng nguy hiểm hơn nữa khi người có công việc, có thành quả lại là người không biết rõ thực trạng đáng tồi tệ của mình, là người “không biết mình khổ sở,

khốn khó, nghèo ngặt, đui mù và loã lồ”. Đây có phải là tình trạng mà chúng ta thường cho là người nguội lạnh đang phải chịu không?

Người có công việc rất dễ có ảo tưởng cho rằng họ là người hăng say năng nổ và mạnh mẽ, trong khi thật ra họ thuộc loại hâm hẩm và có đặc điểm của người nguội

lạnh. Cho dù rõ ràng là trong Hội Thánh ngày này chỉ có 10% tín hữu làm công việc của

Hội Thánh, 90% tín hữu còn lại không làm gì cả và chỉ nhìn người khác làm công việc. Dù biểu hiện của con người là ba mức độ: nóng - lạnh - hâm hẩm, nhưng đối

với Chúa, Ngài chỉ phân làm hai loại người: giàu và nghèo, thấy được và đui mù (câu 18-19), và hai thái độ tiếp nhận hoặc từ chối tiếng gọi của Ngài (câu 20). Là người lãnh đạo Cơ Đốc bạn cần nhìn vào bản thân trước khi giúp người khác.

Bạn đang ở trong tình trạng nào? Liệu Đức Chúa Trời có kêu gọi một người như bạn vào việc lãnh đạo thuộc linh không?

Đúng là nhà lãnh đạo thuộc linh cũng chỉ là con người yếu đuối, thậm chí có thể dở hơn người mình lãnh đạo về nhiều phương diện, nhưng về phương diện thuộc linh

người lãnh đạo không thể thiếu sót và bỏ qua bước cứu rỗi được. Vì bạn là một nhà lãnh đạo thuộc linh.

LÃNH ĐẠO & KHẢI TƯỢNG

1 Lời của Giê-rê-mi, con trai Hinh-kia, một trong các thầy tế lễ ở A-na-tốt, xứ

Bên-gia-min. 2 Có lời Đức Giê-hô-va phán cùng người trong đời Giô-si-a, con trai A-môn, vua Giu-đa, năm thứ mười ba đời vua ấy; 3 lại có phán cùng người trong

đời Giê-hô-gia-kim, con trai Giô-si-a, vua Giu-đa, vua Giu-đa, cho đến năm thứ mười một đời vua Sê-đê-kia, con trai Giô-si-a, vua Giu-đa, tức là năm mà

Giê-ru-sa-lem bị bắt làm phu tù trong tháng thứ năm. 4 Có lời Đức Giê-hô-va phán cùng tôi như vầy: “Trước khi tạo nên con trong lòng

mẹ, ta đã biết con rồi; 5 trước khi con sinh ra, ta đã biệt riêng con, lập con làm kẻ tiên tri cho các nước.”

6 Tôi thưa rằng: “Ôi! Hỡi Chúa Giê-hô-va, này con chẳng biết nói chi, vì con là con trẻ.” 7 Nhưng Đức Giê-hô-va lại phán: “Chớ nói: ‘Con là con trẻ’; vì con sẽ đi

khắp nơi nào ta sai con đi, và sẽ nói mọi điều ta truyền cho nói. 8 Đừng sợ vì cớ chúng nó; vì ta ở với con đặng giải cứu con.” Đức Giê-hô-va phán vậy.

9 Đoạn Đức Giê-hô-va dang tay ra rờ miệng tôi. Đức Giê-hô-va phán cùng tôi rằng: “Này, ta đặt những lời ta trong miệng con. 10 Hãy xem, ngày nay ta đã lập

con trên các dân các nước, đặng con hoặc nhổ, hoặc phá, hoặc diệt, hoặc đổ, hoặc dựng, hoặc trồng.” 11 Lại có lời Đức Giê-hô-va phán cùng tôi rằng: “Hỡi Giê-rê-mi, con thấy gì?” Tôi

thưa rằng: “Con thấy một gậy bằng cây hạnh.” 12 Đức Giê-hô-va bèn phán: “Con thấy phải đó; ta sẽ tỉnh thức, giữ lời phán ta đặng làm trọn.”

13 Lại có lời Đức Giê-hô-va phán cùng tôi lần thứ hai mà rằng: “Con thấy gì?” Tôi thưa: “Con thấy một nồi nước sôi từ phương bắc bắn ra.” 14 Đức Giê-hô-va phán:

“Ấy là hoạn nạn từ phương bắc sẽ giáng cho hết thảy dân cư trên đất này. 15 Vậy, ta sẽ gọi mọi họ hàng của các nước phương bắc, Đức Giê-hô-va phán vậy. Chúng

nó sẽ đến, và ai nấy đặt ngôi mình nơi cửa thành Giê-ru-sa-lem, vây đánh các vách thành ấy, và các thành của Giu-đa. 16 Ta sẽ rao sự xét đoán ta nghịch cùng chúng

nó, vì điều ác chúng nó đã làm; bởi chưng chúng nó đã lìa bỏ ta, đốt hương cho các thần, và thờ lạy việc tay mình làm ra.

17 “Vậy, con hãy thắt lưng, chờ dậy, bảo cho chúng nó mọi sự mà ta truyền cho con. Đừng sợ sệt vì cớ chúng nó, kẻo ta làm cho con sợ sệt trước mặt chúng nó chăng. 18 Này, ngày nay, ta lập con lên làm thành vững bền, làm cột bằng sắt, làm

tường bằng đồng, nghịch cùng cả đất này, nghịch cùng các vua Giu-đa, các quan trưởng nó, các thầy tế lễ, và dân trong đất. 19 Họ sẽ đánh nhau với con, nhưng

không thắng con; vì ta ở cùng con đặng giải cứu con.” Đức Giê-hô-va phán vậy. Gie Gr 1:1-19

C húng ta thường nghe nói người lãnh đạo thuộc linh phải có khải tượng. Khải

tượng làm nên nhà lãnh đạo thuộc linh có kết quả. Rồi chúng ta cũng nghe nhiều người nói: “Tôi có khải tượng…” này nọ, nhưng thật

sự là thế nào? Có thể nhiều người ngộ ra cùng một vấn đề nhưng không nói ra. Còn có người lại nói ra, bàn luận về những vấn đề đó; nhưng những điều người này ngộ

ra chưa hẳn là khải tượng của Chúa. Vì sao?

1. Khải tượng - bắt đầu từ người lãnh đạo thuộc linh. “L ời của Giê-rê-mi, con trai Hinh-kia, một trong các thầy tế lễ ở A-na-tốt, xứ

Bên-gia-min” (câu 1). Ông Giê-rê-mi là một trong các thầy tế lễ ở A-na-tốt, xứ Bên-gia-min. Làm thầy tế lễ là giữ một chức vụ, nhưng đừng nghĩ rằng có chức vụ

là sẽ có khải tượng. Chức vụ tạo cho đương sự một địa vị đặc biệt, cho đương sự cơ hội để nhận được khải tượng, nhưng cần biết rằng rất nhiều người có chức vụ,

mà không hề nhận được bất cứ khải tượng nào trong quá trình thi hành chức vụ. Một người có chức vụ mà không có khải tượng có bị mất chức không? Khi có chức

vụ, có nhiệm vụ đương sự nghiễm nhiên trở thành lãnh đạo thuộc linh. Nếu không có khải tượng đương sự vẫn lãnh đạo thuộc linh. Tuy nhiên trong trường hợp này điều gì sẽ xảy ra? Đương sự chỉ là một “công-chức-của-Hội-Thánh” sáng vác ô đi,

tối vác ô về, không có chất lượng, không có gì mới mẻ, thiếu hào hứng, thiếu thách thức, không có kết quả thuộc linh thật sự.

Người lãnh đạo có thể ngủ quên trong chức vụ và công việc bề bộn của Hội Thánh mà không khao khát khải tượng. Cho nên bạn cần cẩn thận, nhận được chức vụ và

trở nên một người lãnh đạo thuộc linh là một chuyện, còn có khải tượng hoặc không lại là một chuyện khác.

Bạn có đang khao khát được Chúa ban cho một khải tượng nào không?

2. Khải tượng - kết quả của mối tương giao giữa người lãnh đạo thuộc linh với Chúa -Đấng ban khải tượng. “C ó lời Đức Giê-hô-va phán cùng người (Giê-rê-mi) trong đời Giô-si-a …; lại có

lời Đức Giê-hô-va phán cùng người trong đời Giê-hô-gia-kim …, cho đến năm thứ mười một đời vua Sê-đê-kia …, tức là năm Giê-ru-sa-lem bị bắt làm phu tù trong

tháng thứ năm” (Câu 2-3). 2 Các Vua từ 22-25 mô tả bối cảnh xã hội và tình trạng thuộc linh của các đời vua

Giu-đa: Vua Gô-si-a, vua Giê-hô-gia-kim, vua Sê-đê-kia (vua Giô-a-cha và vua Giê-hô-gia-kin không được nêu danh trong Giê-rê-mi vì mỗi người trị vì chỉ 3

tháng). Có vua làm điều thiện, có vua làm điều ác; có thời kỳ phục hưng niềm tin, rồi đến thời kỳ suy bại; có phước hạnh mà cũng có bất hạnh.

Trong bối cảnh như vậy, ông Giê-rê-mi là người có chức vụ tế lễ, là nhà lãnh đạo thuộc linh, luôn luôn giữ mối tương giao với Chúa. Vì vậy ở nhiều thời điểm, ở

nhiều giai đoạn thăng trầm của xã hội, Chúa luôn luôn phán dạy ông Giê-rê-mi. Cụm từ “có lời Đức Giê-hô-va phán cùng người” và “phán cùng tôi” được lặp đi lặp lại nhiều lần.

Đây là điểm khác biệt quan trọng giữa người lãnh đạo thuộc linh với hội chúng là dân của Chúa. Hội chúng rất dễ theo thời, dễ bị hoàn cảnh và con người tác động

và chi phối. Thấy vua làm điều tốt, dân chúng làm điều tốt; nhưng khi thấy vua làm điều xấu thì dân chúng cũng chẳng ngần ngại làm điều xấu. Hội chúng làm điều

thiện hoặc điều ác tuỳ theo tác động của người lãnh đạo và sự chi phối của hoàn cảnh.

Nếu người lãnh đạo thuộc linh giống như hội chúng, tốt thì theo (là đúng), mà xấu cũng theo; hoàn cảnh thuận tiện thì tương giao tốt với Chúa, hoàn cảnh khó khăn

lại bỏ đi; nói cách khác nếu đời sống thuộc linh cứ trồi sụt như hội chúng thì người lãnh đạo thuộc linh đó khó lòng phục vụ kết quả vì không nhận được từ nơi Chúa

một điều gì cả. Nói như vậy không có nghĩa là người lãnh đạo thuộc linh không có những lúc

lưỡng lự, buồn chán, ngã lòng… Nhưng vần đề là bất chấp những hoàn cảnh đó mối tương giao giữa người đó với Chúa không hề gián đoạn. Cho nên trước khi

thấy khải tượng, trước khi nghe được sứ điệp của Chúa, người lãnh đạo thuộc linh cần có một quá trình tương giao với Chúa .

Tương giao ở đây nói lên mối quan hệ giữa người lãnh đạo thuộc linh với Chúa. Tương giao ở đây cũng nói lên tình trạng bền bỉ, liên tục, không gián đoạn.

Tương giao ở đây cũng nói lên sự trưởng thành theo năm tháng của người lãnh đạo thuộc linh. Tương giao ở đây cũng là biểu hiện của lòng trung thành không gì lay chuyển của

người lãnh đạo thuộc linh đối với Chúa. Đây là mối tương giao lâu dài, là một quá trình chớ không phải là một thời điểm

đột xuất. Nhiều người trông đợi có một biến cố siêu việt xảy ra trong cuộc đời của mình để tương giao với Chúa - nhưng chờ đợi hoài mà chẳng thấy gì cả.

Tương giao giữa người lãnh đạo thuộc linh với Chúa là một vấn đề và đã trở thành nan đề, vì nhiều người chỉ chú trọng vào công việc mà không chú trọng đến mối

tương giao giữa mình với Chúa. Người lãnh đạo thuộc linh lo sắp xếp chương trình, mời diễn giả, tổ chức học Kinh

Thánh, cầu nguyện, để làm gì? Để đưa hội chúng vào mối tương giao và trưởng thành trong tương giao với Chúa. Thế còn nhà lãnh đạo thuộc linh thì sao? Ông ta

lo tổ chức, lo điều hành… nhưng những điều đó lại không đưa ông ta vào mối tương giao với Chúa. Vì khi hội chúng học Kinh Thánh ông ta ngồi với họ chỉ với mục đích là quan sát; khi hội chúng cầu nguyện ông ta có mặt chỉ là để kiểm soát,

khi hội chúng nghe giảng dạy Lời Chúa, ông ta cũng có mặt, nhưng chỉ để xem buổi nhóm bồi linh kết quả ra sao. Khi hội chúng được huấn luyện, ông ta cũng có

mặt, nhưng chỉ lo việc ở vòng ngoài. Nói cách khác, người lãnh đạo thuộc linh cố gắng đưa hội chúng vào quĩ đạo, trong khi bản thân chỉ đứng ở bệ phóng để quan

sát. Đó là chưa kể đến những chương trình, những công việc của người lãnh đạo thuộc

linh làm cản trở mối tương giao giữa người ấy với Chúa. Thì giờ lo làm việc chiếm hết thời gian tương giao với Chúa. Người lãnh đạo thuộc linh kêu gọi hội chúng

đọc Kinh Thánh, cầu nguyện, còn bản thân lại không học Kinh Thánh, không cầu nguyện, không suy ngẫm. Không có cơ hội ở riêng với Chúa nên tự bản thân người

lãnh đạo thuộc linh đánh mất mối tương giao với Chúa. Thật là nguy hiểm khi người lãnh đạo thuộc linh tìm đủ mọi cách để đưa quần

chúng vào trong mối tương giao với Chúa, còn chính nhà lãnh đạo thuộc linh lại đánh mất mối tương giao đó. Cho nên chúng ta không nên ngạc nhiên khi ở nhiều

nơi, người lãnh đạo thuộc linh không thấy những điều hội chúng thấy, không làm được những việc hội chúng làm. Nói cách khác, khải tượng của Chúa thay vì được

bày tỏ cho các nhà lãnh đạo thuộc linh thì nay lại được bày tỏ cho dân của Chúa. Người lãnh đạo thuộc linh bị tụt hậu, phải chạy theo quần chúng, đó là chưa kể đến

những biểu hiện tiêu cực như là mặc cảm, độc đoán, lấy thịt (chức vụ) đè người… Bạn có cần xem xét lại mối tương giao giữa bạn với Chúa không? Chúa cho bạn

thấy những gì, hoặc là bạn chỉ thấy nhờ người khác? Khải tượng của một người lãnh đạo tuỳ thuộc vào mối quan hệ giữa người đó với

Chúa. Mối tương giao với Chúa dẫn bạn đi từ đâu đến đâu?

3. Khải tượng phải bắt đầu từ bản thân (câu 4-11). C húa nói cùng ông Giê-rê-mi: “Ta đã biết con - Ta đã biệt riêng con - Ta lập con”.

Chúa cho ông Giê-rê-mi biết mối quan hệ giữa Ngài với ông như vậy để làm gì? Để ông Giê-rê-mi nhận biết rằng Chúa muốn dùng cuộc đời của ông.

Chúa nói với ông Giê-rê-mi: “Ta đã biết con,” bao hàm ý nghĩa con là đối tượng Ta dựng nên và lựa chọn, Ta biết con và lựa chọn con.

Chúa nói với ông Giê-rê-mi: “Ta đã biệt riêng con.” Trong GaGl 1:15: “…Đức Chúa Trời là Đấng đã để riêng tôi ra từ lúc còn trong lòng mẹ, và lấy ân điển gọi

tôi…” Chúa nói với ông Giê-rê-mi: “Ta lập con,” cũng có nghĩa là Ta chỉ định con, ta bổ nhiệm con.

Chúa biết con vì Ngài tạo dựng nên con, Ngài biết ưu điểm và nhược điểm của con, Ngài biết cái tốt và cái xấu trong con. Tác giả Thi Thiên 139 nói về Chúa biết

con người của ông như thế nào. Chúa biết con là điều kỳ diệu về tình yêu của Chúa. Nhưng Chúa biệt riêng con lại càng kỳ diệu hơn. Đây là chương trình và ý

định đặc biệt của Chúa cho con. Chúa biệt riêng con không có nghĩa là Ngài loại bỏ người khác. Mỗi người được Chúa biệt riêng cho một công việc.

Chúa lập con, Ngài tin dùng con. Ngài lập con, muốn con nhận trách nhiệm Ngài giao.

Ông Phao-lô trong ITi1Tm 1:12-17 nói về Chúa đối với bản thân ông như thế nào. “Ngài đã xét ta trung thành, lập ta làm kẻ giúp việc.”

Trong mối tương giao với Chúa người lãnh đạo thuộc linh nghe tiếng phán của Chúa, biết chương trình và ý định của Chúa đối với cuộc đời mình, nhận biết Chúa

một cách mới mẻ, một cách riêng tư: Ta với con; nhận biết Chúa theo như cách Chúa bày tỏ chớ không như cách suy nghĩ chủ quan của bản thân.

Chúa nói về ông Giê-rê-mi như thế, còn ông Giê-rê-mi nói về chính ông như thế nào? “Con chẳng biết nói chi, vì con còn là con trẻ.” Vì cớ còn trẻ, nghĩa là vì còn

non nớt, vì còn thiếu kinh nghiệm, chưa đủ tư cách và chưa có khả năng cho nên ông Giê-rê-mi:

- Không dám nói vì chưa có tư cách và khả năng. - Không dám ra đi vì còn non nớt.

- Sợ con người. Không dám nói dù có sứ điệp Chúa cho. Nhiều người không nói được vì không có

sứ điệp. Ông Giê-rê-mi có sứ điệp “Chúa truyền cho nói” nhưng lại không dám nói (câu 6).

Không dám ra đi dù được Chúa sai phái. Nhiều người ra đi khi Chúa không hề sai phái. Còn Giê-rê-mi được Chúa sai phái lại không dám ra đi (câu 7).

Không dám… vì sợ con người, vì chưa biết là Chúa sẽ ở với và giải cứu ông (câu 8).

Ông Giê-rê-mi nhận định về bản thân ông có chính xác không? Ông nói đúng, nhưng chỉ đúng một phần, nói cách khác, ông chưa nhận định đầy đủ về ông. Ông Giê-rê-mi thưa: “Ôi! Hỡi Chúa Giê-hô-va, nay con chẳng biết nói chi, vì con

là con trẻ.” Thật ra ông Giê-rê-mi nên nói: -Con chẳng biết nói chi, vì con là con trẻ, nhưng Lời Chúa ở trong miệng con và

Chúa truyền cho con nói. Như vậy mới đầy đủ. -Con còn trẻ, con không đủ tư cách, nhưng Chúa biết con, đã biệt riêng con, đã lập

con và đã chỉ định con. -Con còn trẻ, con không dám ra đi, không dám dấn thân, nhưng Chúa sai con đi.

-Con còn trẻ, con sợ hãi, nhưng Chúa ở với con và giải cứu con. Làm sao ông Giê-rê-mi có thể nhận ra tình trạng của mình vừa trẻ tuổi, sợ hãi, vừa

non nớt, không có khả năng mà lại có thể nhận biết Chúa gọi ông đứng ra đảm nhiệm công việc của Ngài? Câu trả lời vẫn là mối tương giao với Chúa. Tương

giao với Chúa dẫn người lãnh đạo thuộc linh đến chỗ nhận biết chính Chúa là ai, nhận biết mình là ai, nhận biết điều Chúa muốn đối với đời sống mình. Qua mối tương giao với Chúa, người lãnh đạo thuộc linh nhận biết Chúa tể trị trên

đời sống mình, Chúa chọn lựa mình để làm việc cho Ngài. Hơn thế nữa, trong mối tương giao với Chúa, không phải chỉ có việc Chúa phán

với ông Giê-rê-mi. Tương giao còn có việc Chúa dang tay rờ miệng ông nữa. Chúa chạm đến, sờ đến môi miệng của ông Giê-rê-mi. Vì là một tiên tri nên Chúa ‘rờ

miệng’ ông Giê-rê-mi và ‘đặt lời Chúa trong miệng ông’ (câu 9). Cần lưu ý điểm này trong qui luật tương giao. Nếu không nhận lời thì Chúa không

chạm đến. Giữa ông Giê-rê-mi với Chúa có một mối tương giao.

Chúa đã bày tỏ ý định của Ngài cho ông Giê-rê-mi. Ông Giê-rê-mi trả lời: Chúa ơi, con không thể.

Chúa trả lời, Ta là Đấng có thể, cho nên con có thể. Ông Giê-rê-mi tự do chấp nhận hoặc không.

Khi ông chấp nhận thì Chúa đụng đến ông, đặt lời Ngài trong miệng ông. Đồng thời Ngài xác nhận Ngài đã lập ông (câu 10).

4. Đấng ban cho khải tượng và nội dung của khải tượng. N hờ mối tương giao người lãnh đạo thuộc linh nhìn biết Chúa, nhìn biết chính

mình. Khi thuận phục ý muốn Chúa trên cuộc đời mình, khi nhận lấy trách nhiệm, người lãnh đạo thuộc linh sẽ nghe Chúa hỏi: “Con thấy gì?”

Chúa hỏi ông Giê-rê-mi câu này đến hai lần. Không phải để ông trả lời đại khái như là: Con thấy con còn trẻ; con thấy đông người con sợ… Những chuyện đó

Chúa đã giải quyết với ông rồi. Ông Giê-rê-mi đã thấy chính mình, cũng đã thấy điều Chúa đã làm và sẽ làm cho

mình. Bây giờ Chúa hỏi ông: “Con thấy gì?” Người lãnh đạo thuộc linh cần thấy gì nữa?

Ông Giê-rê-mi thưa với Chúa, (1) ông thấy cây hạnh, ‘cây thức’ hoặc thấy sự tỉnh thức của Đức Chúa Trời. (2) Rồi ông thấy một nồi nước sôi từ phương bắc bắn ra, tức là thấy nội dung của khải tượng.

Thứ nhất, người lãnh đạo thuộc linh cần thấy sự tỉnh thức của Đức Chúa Trời. Chúa là Đấng tỉnh thức - Ngài là Đấng không hề nhắp mắt, cũng không buồn ngủ -

để lời Ngài nói, chương trình, ý định và khải tượng Ngài đã và sẽ bày tỏ sẽ được hoàn thành.

Thấy sự tỉnh thức của Đức Chúa Trời rất có ý nghĩa đối với người lãnh đạo thuộc linh. Vừa có ý nghĩa khích lệ và cũng có ý nghĩa cảnh cáo.

Khích lệ: khi một người lãnh đạo nhận trách nhiệm, ông nhìn thấy Chúa là Đấng tỉnh thức. Ngài sẽ hoàn thành những điều Ngài bày tỏ cho ông. Đó là sự khích lệ,

sự thành tín của Đức Chúa Trời. Cảnh báo: khi từ chối nhận trách nhiệm người lãnh đạo phải biết rằng Chúa là

Đấng tỉnh thức. Chúa đã chọn, biệt riêng và lập đương sự. Rồi Ngài bày tỏ về chính mình Ngài lẫn công tác của đương sự, nhưng đương sự từ chối. Chẳng phải vì cớ đương sự từ chối mà công việc của Chúa, chương trình và ý định của Ngài sẽ

bị lở dở. Đương sự phải biết rằng Đức Chúa Trời là Đấng tỉnh thức, Ngài vẫn có thể hoàn thành công việc của Ngài. Nhưng người lãnh đạo nào từ chối nhận công

tác thì người ấy đánh mất cơ hội tham gia trong chương trình của Đức Chúa Trời. Thử hỏi là người lãnh đạo thuộc linh sau khi thấy cây hạnh - ‘cây thức’, thấy sự

tỉnh thức của Đức Chúa Trời, liệu bạn có thái độ thế nào đối với khải tượng Chúa đã và sẽ bày tỏ?

Thứ hai, người lãnh đạo thuộc linh cần thấy nội dung sứ điệp Chúa muốn ông ta làm. (Câu 13-16)

Khải tượng về chức vụ của mình là bước khởi đầu của người lãnh đạo thuộc linh. Nhìn biết Đấng ban khải tượng là Đấng tỉnh thức sẽ khích lệ người lãnh đạo thuộc

linh. Sau đó là được tiếp tục nhìn thấy, nghe thấy những điều Chúa muốn mình thực hiện trong từng chặng đường của chức vu.

Ông Giê-rê-mi không thấy hết, không nghe hết những điều ông sẽ nói, sẽ làm trong cùng một thời điểm. Nội dung của sứ điệp sẽ tiếp tục được bày tỏ cho ông

Giê-rê-mi trong từng chặng đường.

5. Khải tượng sẽ dẫn nhà lãnh đạo thuộc linh đến đâu? (Câu 17-19) N ội dung lời Chúa phán với ông Giê-rê-mi:

• Chúa khích lệ - làm điều tích cực: Hãy thắt lưng, chờ dậy. Hãy bảo (nói) - hành động

• Chúa khuyên - bỏ điều tiêu cực: Đừng sợ con người. • Chúa xác định: Ta lập con. • Chúa báo trước: Sẽ gặp khó khăn. Sẽ đánh nhau. Sẽ gian khổ.

• Chúa hứa: Họ không thắng con. Ta ở cùng con. Ta giải cứu con. Chúa muốn người nhận được khải tượng của Ngài phải sẵn sàng, sẵn sàng hành

động, sẵn sàng dấn thân vào lãnh vực mà Chúa bày tỏ cho mình. Nhiều người có khải tượng nhưng lại trốn tránh, không chịu dấn thân. Ông Giô-na là một bằng

chứng. Khi nhận được khải tượng của Chúa, thì đồng thời người lãnh đạo thuộc linh cũng

đối diện với hai cái bóng khổng lồ: Cái bóng thứ nhất ngăn trở việc thực hiện khải tượng là chính bản thân người lãnh đạo thuộc linh. Con người này đưa ra những lý

do để trốn tránh nhiệm vụ (ông Giê-rê-mi trốn tránh bằng câu nói: Con chẳng biết nói chi, vì con là con trẻ). Cái bóng thứ hai ngăn trở người lãnh đạo thuộc linh là

con người sẽ nghe sứ điệp. Vì sao lại sợ con người? Vì con người không ủng hộ, con người ngăn trở, con người làm khó dễ… Nhiều nhà lãnh đạo thuộc linh nói áp lực từ con người còn nặng nề hơn là áp lực từ hoàn cảnh. Chúa bảo “đừng sợ sệt vì

cớ chúng nó kẻo ta làm cho con sợ sệt trước mặt chúng nó chăng” Người lãnh đạo thuộc linh phản ứng trước áp lực của con người như thế nào thì Chúa sẽ làm như

vậy với người đó. Người đó e ngại, Chúa sẽ e ngại; người đó chạy trốn, Chúa không thể xuất đầu lộ diện; người đó yếu đuối, Chúa không thể làm cho mạnh mẽ.

Chúa xác định “Ta lập con lên”, làm thành vững bền, làm cột bằng sắt, làm tường bằng đồng. Chúa dùng người lãnh đạo thuộc linh như cái thành bền vững, có sự an

ninh và vững vàng nơi con người đó; dân Chúa trông cậy vào cái thành bền vững đó.

Chúa cũng cho người lãnh đạo thuộc linh vừa có phẩm giá (giá trị) vừa có sức mạnh như cột bằng sắt. Một cột trụ có khả năng giữ vững công trình.

Chúa cho người lãnh đạo thuộc linh như tường bằng đồng (Việt Nam ta có câu ‘mình đồng da sắt’ nói lên sức chịu đựng, khả năng đứng vững trước mọi áp lực).

Gie Gr 15:20 “Ta sẽ khiến con làm tường đồng vững bền cho dân này, họ sẽ đánh với con, nhưng không thắng con được, vì ta ở cùng con đặng cứu con và giải thoát

con. Đức Giê-hô-va phán vậy” Chúa báo trước với người chịu dấn thân về những khó khăn: “Họ sẽ đánh nhau với

con”. Chúa không hứa với người lãnh đạo thuộc linh là sẽ không bị bách hại, không gặp khó khăn.

Vấn đề là người lãnh đạo thuộc linh có chấp nhận những điều sẽ xảy ra và tin vào kết quả Chúa nói với mình không? Nhiều nhà lãnh đạo thuộc linh không muốn gặp

những khó khăn khi dấn thân vào chức vụ. Rồi một số người khi dấn thân chỉ kinh nghiệm lời Chúa ở phần đầu là “họ sẽ đánh

nhau với con”. Nhưng họ không kinh nghiệm đúng như điều Chúa hứa trong phần sau “nhưng họ không thắng con”. Vì sao? Vì người lãnh đạo thuộc linh thất bại,

không thắng như Chúa nói. Cho nên họ khổ sở, cay đắng, buồn phiền trong chức vụ, họ than van và hoàn toàn không có niềm vui sau khi dấn thân.

Chúa hứa ở cùng và giải cứu. “Ta ở cùng con để giải cứu con.” Nhìn đến Chúa, người lãnh đạo thấy Ngài là sức

mạnh và là niềm hi vọng. Chúa không bỏ mặc người lãnh đạo sau khi bày tỏ và bảo ông ta dấn thân. Ngài ở cùng ông ta. Thậm chí ngay cả khi người lãnh đạo bị mọi người lìa bỏ và chống lại, ông ta cũng không cô đơn.

“Ta ở cùng con để giải cứu con.” Người lãnh đạo thuộc linh cần thấy mình chỉ là con người bất tài, yếu đuối, cho nên người lãnh đạo thuộc linh luôn luôn cần Chúa

giúp đỡ và giải cứu. Tóm tắt

Người lãnh đạo thuộc linh 1. Cần có khải tượng. Người lãnh đạo thuộc linh là người đầu tiên phải có khải

tượng. 2. Cần có mối tương giao với Chúa. Mối tương giao giữa người lãnh đạo thuộc linh

với Chúa đem đến kết quả là khải tượng. 3. Cần thấy mình là một phần của khải tượng. Người lãnh đạo nhận biết Chúa

muốn dùng mình. 4. Cần thấy Chúa và nội dung của khải tượng. Chúa khích lệ, cảnh báo và ban sứ điệp trong từng chặng đường.

5. Cần sẵn sàng dấn thân sống cho khải tượng. Dù sẽ gặp khó khăn nhưng luôn luôn có Chúa ở cùng và giải cứu.

NGƯỜI LÃNH ĐẠO

1 Khi đã định rằng chúng ta phải đi đàng biển qua nước I-ta-li, họ bèn giao Phao-lô và mấy tên phạm nhân khác cho người thầy đội tên là Giu-lơ, về đội quân Âu-gu-ta. 2 Chúng ta xuống một chiếc tàu ở A-tra-mít phải trẩy đi dọc bờ biển

A-si, đoạn thì ra đi. A-ri-tạc, là người Ma-xê-đoan, về thành Tê-sa-lô-ni-ca, cùng đi với chúng ta. 3 Đến ngày sau, chúng ta tới thành Xi-đôn, thì Giu-lơ đãi Phao-lô

cách nhân từ, cho phép người đi thăm bạn hữu mình, và được họ lo việc mình. 4 Đoạn, từ nơi đó, chúng ta theo mé bờ đảo Chíp-rơ, vì bấy giờ ngược gió. 5 Sau khi

vượt qua biển Si-li-si và Bam-phi-ly, thì chúng ta đến thành My-ra, trong xứ Ly-si. 6 Ở đó, thầy đội thấy có một chiếc tàu ở A-léc-xan-tri sẽ đi qua I-ta-li, bèn cho

chúng ta xuống tàu đó. 7 Tàu chạy chậm lắm, mất nhiều ngày khó nhọc mới tới ngang thành Cơ-nít. Vì gió quá, tàu không thể ghé bến được, nên chúng ta lại men

theo mé bờ đảo Cơ-rết, qua Sa-môn. 8 Khi đã chịu khó đi dọc theo nơi đó, chúng ta mới đến một nơi gọi là Mỹ-cảng, gần thành La-sê.

9 Trải lâu ngày, tàu chạy phải nguy hiểm (vì kỳ Kiêng ăn đã qua rồi), Phao-lô bảo trước cho những người trong tàu, 10 rằng: “Tôi thấy sự vượt biển này chắc sẽ phải

nguy hiểm và hư hại, chẳng những cho hàng hoá và chiếc tàu mà thôi, lại đến thân chúng ta nữa.” 11 Nhưng thầy đội tin lời người lái tàu và chủ tàu hơn là lời Phao-lô

nói. 12 Vì cảng đó không tiện cho tàu đậu lúc mùa đông, nên phần nhiều người đều bàn rằng phải lìa khỏi đó và ráng sức đến cảng Phê-nít, là cảng của đảo Cơ-rết,

hướng phía tây nam và phía tây bắc, đặng qua mùa đông ở đó. 13 Vừa có gió nam non bắt đầu thổi, họ tưởng rằng có thể tới nơi mình đã định, thì kéo neo mà đi dọc theo gần đảo Cơ-rết,

14 Nhưng cách ít lâu có trận gió dữ tợn gọi là gió Ơ-ra-qui-lôn thổi lên vật vào đảo. 15 Tàu đã phải bạt đi, chống lại gió chẳng nổi, nên chúng ta để mặc cho theo

chiều gió. 16 Tàu bị bạt đến dưới một hòn đảo kia gọi là Cơ-lô-đa, chúng ta khó nhọc lắm mới cầm được chiếc thuyền. 17 Sau khi trục lên, họ dùng phương thế làm

cho chắc chắn: Lấy dây ràng phía dưới chiếc tàu lại; đoạn lại sợ mắc cạn trên bãi Si-rơ-tơ, thì hạ buồm xuống, để mặc gió đưa trôi đi. 18 Đến ngày mai, vì bão cứ

thổi cũng mạnh như vậy luôn, họ bèn quăng hàng hoá xuống biển. 19 Ngày thứ ba, chúng ta dùng chính tay mình quăng đồ đạc trong tàu xuống biển. 20 Trong mấy

ngày, mặt trời chẳng có, ngôi sao cũng không, mà bão thì vẫn thổi ào ào luôn, đến nỗi chúng ta chẳng còn trông cậy được cứu nữa.

21 Vì họ không ăn đã lâu, nên Phao-lô đứng dậy giữa đám họ, mà nói rằng: “Hỡi bạn hữu ta, chớ chi bữa trước tin lời ta mà chẳng rời khỏi đảo Cơ-rết, thì chúng ta đã chẳng mắc cơn nguy hiểm và tổn hại này. 22 Nhưng bây giờ, ta khuyên các

ngươi hãy vững lòng; trong các ngươi chẳng mất ai hết, chỉ mất chiếc tàu mà thôi. 23 Vì đêm nay, một thiên sứ của Đức Chúa Trời, là Đấng ta thuộc về và hầu việc,

có hiện đến cùng ta mà phán rằng: 24 ‘Hỡi Phao-lô, đừng sợ chi hết; ngươi phải ứng hầu trước mặt Xê-xa; và này, Đức Chúa Trời đã ban cho ngươi hết thảy những

kẻ cùng đi biển với ngươi.’ 25 Vậy, hỡi các ông, hãy vững lòng, vì ta có lòng tin cậy Đức Chúa Trời rằng sẽ xảy ra như lời Ngài phán vậy; 26 nhưng chúng ta chắc

sẽ bị tấp lên một hòn đảo nào.” 27 Đã đến đêm thứ mười bốn mà chúng ta cứ trôi nổi trên biển A-đờ-ria-tích, lúc

nửa đêm, các bạn tàu ngờ đang đến gần một đất nào. 28 Họ thả trái dò xuống, thì thấy sâu hai chục sải; hơi xa một ít, lại thả nữa, thì thấy hai mươi lăm sải. 29 Bấy

giờ, sợ đụng rạn, họ bèn từ trên đầu lái tàu quăng bốn neo xuống và ước ao đến sáng. 30 Nhưng bạn tàu tìm phương lánh khỏi chiếc tàu và thả chiếc tam bản

xuống biển, giả đò đi thả neo đằng trước mũi, 31 thì Phao-lô nói với thầy đội và lính rằng: “Nếu những người này chẳng cứ ở trong tàu, thì các ông chẳng được

cứu.” 32 Bọn lính bèn cắt dây buộc tam bản, làm cho rớt xuống. 33 Đoạn, trong khi đợi trời sáng, Phao-lô khuyên ai nấy hãy ăn.. Người nói: “Hôm nay là ngày thứ

mười bốn mà các ngươi đang trông đợi, nhịn đói chẳng ăn chút nào. 34 Vậy, ta khuyên các ngươi hãy ăn, vì thật là rất cần cho sự cứu của các ngươi và chẳng ai

trong vòng các ngươi sẽ mất một sợi tóc trên đầu mình.” 35 Nói như vậy rồi, người bèn lấy bánh, đứng trước mặt mọi người, tạ ơn Đức Chúa Trời rồi, thì bẻ ra, và ăn.

36 Bấy giờ ai nấy đều giục lòng, và ăn. 37 Vả, số chúng ta hết thảy ở trong tàu được hai trăm bảy mươi sáu người. 38 Họ đã ăn vừa no nê, bèn quăng đồ lương

thực xuống biển, làm cho nhẹ tàu đi. 39 Đến sáng ngày, họ chẳng nhận biết là đất nào, nhưng thấy có cái vịnh và bờ,

bèn định đỗ tàu vào đó và núp, xem có thể được chăng. 40 Vậy, họ dứt dây bỏ neo xuống biển, tháo dây bánh lái; đoạn, xổ buồm sau lái thuận theo gió, tìm lối chạy vào bờ. 41 Song chạy nhầm chỗ hai ngọn nước biển xáp nhau, thì họ làm cho tàu bị

cạn tại đó; đầu mũi cắm xuống không động đậy được, còn đầu lái bị sóng đánh dữ lắm nên nát hết. 42 Bấy giờ quân lính bàn định giết các tù phạm, e có người nào

trong bọn họ lội thoát khỏi chăng. 43 Nhưng thầy đội muốn cứu Phao-lô, nên ngăn trở nghị định đó. Người truyền cho ai biết lội thì nhảy xuống nước trước đi mà lội

vào bờ, 44 và truyền cho những kẻ còn lại, người thì cỡi trên ván, kẻ thì cỡi trên miếng vách nát của chiếc tàu. Thế là ai nấy đều được lên bờ vô sự vậy. (Cong Cv

27:1-44)

C ông Vụ Các Sứ Đồ chương 27 ghi lại chuyến đi qua I-ta-li của ông Phao-lô trong tư cách một tù nhân. Cùng đi với ông là những cộng sự trung thành. Chặng đầu tiên là chuyến đi từ A-ra-mít đến thành My-ra trong xứ Ly-si (câu 2-5).

Con tàu phải trải qua biển A-si (câu 2), biển Si-li-si và biển Bam-phi-ly. Đây là chuyến đi ngược gió.

Trong chặng tiếp theo họ phải chuyển sang một con tàu khác, đó là con tàu ở A-léc-xan-tri sẽ đi qua I-ta-li (câu 6). Trước hết là từ thành My-ra cho đến Mỹ

Cảng, gần thành La-sê. Đây là chuyến đi nhiều ngày, khó nhọc và nguy hiểm. Chặng thứ ba dự định từ Mỹ Cảng đi Phê-nít (câu 12). Chuyến hải hành phát xuất

từ Mỹ Cảng gồm có 276 người, gồm chủ tàu, người lái tàu và thuỷ thủ đoàn; hành khách gồm có thầy đội Giu-lơ và toán lính thuộc quyền, các phạm nhân trong đó

có ông Phao-lô (kể cả ông A-ri-tạc), và những bạn tàu. Những con người trên tàu mong mỏi điều gì trong chuyến ra khơi lần này? Họ đã

trải qua nhiều gian nan khó nhọc rồi, mong rằng lần này sẽ thuận buồm xuôi gió.

Ai có thể lãnh đạo ?

C huyến đi này có nhiều điểm lý thú. (1) Trong chuyến đi có hành khách thuộc nhiều tầng lớp, nhiều dân tộc (Hy Lạp, Do Thái và La Mã) và (2) có những người

lãnh đạo cùng đi với nhau, cùng sống với nhau, cùng đối diện và giải quyết những nan đề chung, bên cạnh những nan đề cá nhân.

Ông Phao-lô vốn là người lãnh đạo của những chuyến đi truyền giáo. Vào thời điểm này ông là một tù nhân đang bị giải đến La-mã. Thầy đội Giu-lơ, là người

La-mã, thuộc tiểu đoàn Âu-gu-tơ, là người chỉ huy toán lính áp giải tù nhân. Chủ tàu là người sở hữu con tàu, người lái tàu có kiến thức chuyên môn về hàng hải.

Hai người này cũng có thuỷ thủ làm việc cho họ. Họ là những người chỉ huy con tàu

Những người lãnh đạo này không những đi cùng với nhau mà họ còn tỏ ra thân thiện với nhau. Họ có thể đề xuất ý kiến của mình, góp ý cho nhau cách giải quyết

nan đề, dường như họ không cãi lộn với nhau hoặc giận nhau. Có lẽ lý do đơn giản là vì họ có chung một mục tiêu, đối phó chung một nan đề và cùng ở trên một con

tàu. Cho nên họ buộc phải chung sức để sống chết với nhau. Thế nhưng người lãnh đạo là ai? Phải chăng người lãnh đạo là người nói nhiều nhất ? Nếu vậy thì lãnh đạo chắc là ông Phao-lô, vì qua cách ông Lu-ca ghi lại thì

ông Phao-lô là người nói nhiều nhất trong chuyến đi này. Hoặc người lãnh đạo là người có quyền nhất ? Thầy đội kể như có quyền nhất.

Quyết định tối hậu là ở thầy đội. Quyền sinh sát nằm trong tay thầy đội. Hoặc người lãnh đạo là người có kiến thức và trình độ chuyên môn, người nắm

vững khoa học kỹ thuật ? Chủ tàu và người lái tàu có thể đáp ứng vấn đề này. Ai cũng có thể lãnh đạo, nhưng muốn lãnh đạo cho có hiệu quả thì cần gì? Để

không đưa con tàu vào nơi nguy hiểm người lãnh đạo cần gì? Hãy lên tàu cùng đi với họ để qua những con người đó chúng ta có thể tìm ra những yếu tố cần thiết

cho một người lãnh đạo.

Người lãnh đạo với tầm nhìn xa trông rộng. T rong câu 10, ông Phao-lô báo trước cho những người trong tàu: “Tôi thấy sự vượt biển này chắc sẽ phải nguy hiểm và hư hại, chẳng những cho hàng hoá và

chiếc tàu mà thôi, lại đến thân chúng ta nữa.” Khi nói những lời này, ông Phao-lô không phải là người chỉ huy con tàu - ông đang là một tù nhân, nhưng là một tù

nhân được kính trọng. Tuy nhiên lời nói của ông Phao-lô cho thấy một đặc điểm của người lãnh đạo.

Người lãnh đạo phải là người biết nhìn xa trông rộng, phải dự báo những điều có thể xảy ra . Nói như vậy phải chăng người chủ tàu và người lái tàu không có dự

báo. Thật ra họ có dự báo, nhưng dự báo của họ không giống với dự báo của ông Phao-lô. Ông Phao-lô bảo sẽ gặp nguy hiểm và nguy hại, còn chủ tàu và lái tàu cho

rằng sẽ vượt qua nguy hiểm và sẽ được an toàn. Dự báo của ông Phao-lô nhằm bảo vệ toàn bộ con tàu và con người trong chuyến

đi. Cho nên ông chủ trương cứ ở lại, khoan nhổ neo. Còn chủ tàu không phải là người xem thường tài sản của mình, người lái tàu cũng không phải là người xem

thường uy tín nghề nghiệp của mình; họ cũng không phải là những người xem thường của cải và sinh mạng của hành khách. Cả hai là những người hết lòng trong

công việc và muốn mọi người ‘đi đến nơi về đến chốn’. Dự báo của họ là với khả năng của con tàu và khả năng của người lái tàu, con tàu có thể vượt qua biển để

đến cảng Phê-nít. Cho nên họ chủ trương cứ nhổ neo. Căn cứ vào đâu để cho rằng cứ ra khơi, sẽ đến nơi bình an? Người chủ tàu và

người lái tàu là người từng trải trong kinh nghiệm đi biển, biết nhìn thời tiết, có kinh nghiệm trong chuyên môn…

Người chủ tàu có thể nghĩ: Đây là tàu của tôi, nếu có gió bão, tàu của tôi sẽ chịu nổi. Sao lại nói tàu của tôi bị hư hại? Người lái tàu có thể nghĩ: Tôi là người lái tàu

kinh nghiệm đầy mình, từng bao nhiêu lần vượt biển. Đúng là thời tiết rất xấu, nhưng nếu không dám ra khơi thì khi nào mới đến nơi? Khi đã lấy tài sản của mình

làm cơ sở, lấy kinh nghiệm chuyên môn mà quả quyết thì thật khó cho những con người này chấp nhận góp ý của người khác, hoặc để cho người khác làm chỉ huy hoặc góp ý hướng dẫn trong lãnh vực chuyên môn của họ.

Còn ông Phao-lô căn cứ vào đâu mà ‘đòi góp ý’ (nói nhẹ) hoặc ‘đòi làm chỉ huy’ (nói nặng) trong việc này? Trong cuộc sống phục vụ, ông Phao-lô luôn luôn được

Chúa hướng dẫn qua nhiều cách khác nhau. Trong Cong Cv 16:6-8, Thánh Linh của Chúa đã cản trở đoàn truyền giáo do ông

Phao-lô lãnh đạo khi họ muốn vào truyền giảng tại xứ A-si. Thánh Linh cản trở cách nào thì ông Lu-ca không ghi lại cách cụ thể, nhưng đây là cơ sở cho những

quyết định của ông Phao-lô. Chương Cong Cv 16:9, ghi lại sự kiện trong ban đêm ông Phao-lô thấy sự hiện

thấy. Ông thấy một người Ma-xê-đoan đứng trước mặt ông mà nài xin ông qua Ma-xê-đoan để cứu giúp họ. Và ông Phao-lô đã qua xứ Ma-xê-đoan.

Chương Cong Cv 21:7-14, cho biết ông Phao-lô quyết định căn cứ vào sự bày tỏ cách gián tiếp của Chúa qua môi miệng người khác. Một tiên tri tên là A-ga-bút đến thăm đoàn truyền giáo của ông Phao-lô. Ông A-ga-bút đã dùng dây lưng của

ông Phao-lô trói tay chân mình và nói trước việc ông Phao-lô phải chịu khổ vì Chúa tại thành Giê-ru-sa-lem.

Chương Cong Cv 23:11 ghi: “Qua đêm sau, Chúa hiện đến cùng người mà phán rằng: Hãy giục lòng mạnh mẽ, ngươi đã làm chứng cho ta tại thành phố

Giê-ru-sa-lem thể nào, thì cũng phải làm chứng cho ta tại thành Rô-ma thể ấy.” Ông Phao-lô từng vượt biển để đi truyền giáo, không phải chỉ một lần, mà nhiều

lần. Ông cũng là người có kinh nghiệm đi biển, nhưng chỉ dựa vào kinh nghiệm cá nhân thì chưa đủ, hoặc dựa vào kiến thức học hỏi lâu năm cũng chưa đủ. Ông

Phao-lô còn dựa vào mối tương giao giữa ông với Chúa và giữa Chúa với ông. Tin ở mình hoặc tin ở Chúa? Nói đúng hơn là tin vào kinh nghiệm của mình với Chúa.

Đây có phải là phẩm chất của người lãnh đạo không? Người tin vào sự tương giao giữa bản thân với Chúa chắc chắn đã lo xây dựng mối tương giao đó và tiếp tục

duy trì mối tương giao đó. Đây là đặc điểm của người lãnh đạo Cơ Đốc. Người lãnh đạo cần tin vào kinh nghiệm, tin vào kiến thức của bản thân, nếu không

thêm kinh nghiệm, không thêm kiến thức thì sẽ bị lạc hậu và bị đào thải. Tuy nhiên bên cạnh nỗ lực thêm lên trong kinh nghiệm, thêm kiến thức người lãnh đạo không

được xem thường và bỏ qua mối tương giao giữa mình với Chúa. Yếu tố quyết định là kinh nghiệm bản thân, là kiến thức chuyên môn hoặc là kinh

nghiệm với Chúa? Làm thế nào để có thể xác định đúng? Làm thế nào để những dự kiến tương lai rõ ràng? Khi đứng trước một nan đề, dĩ nhiên là cần xem kiến thức

chỉ dẫn hướng xử lý nào, kinh nghiệm bản thân thúc giục nên tháo gỡ ra sao, người xung quanh khuyên nên chọn biện pháp nào… Nhưng quan trọng hơn hết, trước

hết và cuối cùng cần cân nhắc xem Chúa có lên tiếng, có phán dạy về nan đề này không? Chúa bảo phải giải quyết ra sao?

Chúa có lên tiếng hoặc không còn tuỳ thuộc vào sự kiện bản thân có duy trì mối tương giao với Chúa như thế nào. Rồi cũng tuỳ thuộc vào thái độ coi trọng hoặc xem nhẹ của đương sự đối với mối quan hệ với Chúa. Nhiều người chỉ chú trọng

đến chuyện tương giao với con người, lo chu toàn công việc, nhưng xem nhẹ hoặc rất hời hợt trong tương giao với Chúa, cho nên không nhìn thấy gì hoặc chỉ biết

nhìn vấn đề theo ý mình. Nói như vậy không có nghĩa là nhờ nhìn xa trông rộng mà người lãnh đạo tránh

được tai ương. Chúa Giê-xu nhìn thấy trước con đường thập tự, ông Phao-lô biết trước việc gì sẽ xảy đến cho ông khi ông đến Giê-ru-sa-lem.

Người lãnh đạo với quyết định. L ời bàn của ông Phao-lô, rồi lời bàn của chủ tàu và người lái tàu đặt thầy đội

Giu-lơ vào tình thế khó xử. Nên nghe theo ông Phao-lô hoặc nghe theo chủ tàu và người lái tàu? Quyết định của người lãnh đạo là làm sao đem lại điều tốt nhất cho

những người trong phạm vi trách nhiệm của mình. Không một người nào muốn đưa con tàu mình chịu trách nhiệm vào sự nguy hiểm.

Trong câu 11: “Nhưng thầy đội tin lời người chủ tàu và người lái tàu hơn là lời Phao-lô nói.” Câu Kinh Thánh vừa cho chúng ta thấy thầy đội là người có quyền

nhất ở đây. Ông có quyền tiếp tục chuyến đi hoặc ở lại chờ đợi. Trong câu 12 cho thấy còn một yếu tố nữa ảnh hưởng đến quyết định của thầy đội đó là “nhiều người

đều bàn rằng phải lìa khỏi đó và ráng sức đến cảng Phê-nít”. Kèm theo đó là thời tiết có vẻ thuận lợi: “gió nam non bắt đầu thổi” (Câu 13). Quyết định của thầy đội

dựa vào (1) kinh nghiệm chuyên môn, (2) theo đa số và (3) theo ngoại cảnh hơn là dựa vào thiểu số và lời nói của Phao-lô (mặc dù thầy đội rất kính trọng ông

Phao-lô). Thầy đội quyết định bằng cách nhìn vào con tàu có chủ tàu cùng đi, nhìn vào kinh

nghiệm của người lái tàu, nhìn vào số đông người cùng một ý, nhìn vào thời tiết có vẻ khả quan, thuận lợi. Nhưng tất cả chỉ là yếu tố bên ngoài, còn bản thân thầy đội

thì sao? Có người cho rằng người lãnh đạo khôn khéo là người không đưa ra quan điểm của

mình trước, mà để cho mọi người nêu ý kiến của họ. Cuối cùng người lãnh đạo mới tổng hợp ý kiến của mọi người lại thành một quan điểm dung hoà, hoặc theo

nguyên tắc thiểu số phải phục tùng đa số. Như vậy mới có thể lãnh đạo lâu dài. Trong thực tế đôi khi chúng ta quyết định theo lời khuyên của một số người, nhưng

vẫn cần xét xem ai dẫn dắt họ. Suy nghĩ của họ, ý kiến của họ phát xuất từ đâu? Và đương nhiên phải thấy rõ là lời khuyên của họ không trái với lời Kinh Thánh

Thầy đội tin lời người chủ tàu và người lái tàu hơn là tin lời của ông Phao-lô có thể là chuyện thường tình. Vì nếu làm theo đa số, nếu làm theo người có chuyên môn

mà lỡ có chuyện không hay xảy ra thì không ai ‘đổ hô’. Tin người chủ tàu hơn là tin hành khách. Tin lời người có chuyên môn (người lái tàu) hơn là tin lời nhà

truyền giáo. Tuy nhiên chúng ta cần biết người lãnh đạo khôn ngoan không bao giờ chỉ căn cứ trên sự hiểu biết về chuyên môn; cũng không để cho số đông điều khiển quyết định

của mình. Đứng về phương diện của ông Phao-lô, ông không phải là chủ tàu, cũng không có

chuyên môn trong việc lái tàu, ông chỉ là hành khách, là tù nhân, chẳng có quyền hành gì cả. Thông thường chẳng mấy ai chịu làm theo lời nói của người lãnh đạo

đích thực trong buổi đầu cả. Vì đối với nhận xét của họ thì người đó chẳng có tiền, chẳng có quyền, chẳng có uy tín, chẳng có vây cánh. Tóm lại chẳng có gì đáng cho

họ khâm phục trọng vọng cả.

Một phương thức lãnh đạo T rong một cộng đoàn, khi bạn đưa ra một dự kiến đúng, nhưng bạn lại thuộc về thiểu số, chẳng ai chấp nhận đề xuất của bạn, bạn làm gì? Nếu bạn là một hành

khách tự do, không bị ai áp giải. Bạn nói tàu sẽ gặp nguy hiểm vì bão, nhưng họ cứ ra khơi, liệu bạn có cùng đi với họ không?

Điểm lý thú trong câu chuyện này là thiểu số đúng mà vẫn phải phục tùng đa số sai. Ông Phao-lô không muốn gặp bão, nhưng vì là một tù nhân nên ông phải lên

tàu cùng đi với họ. Phẩm chất tốt của người lãnh đạo đôi khi nằm ở chỗ sống chết với cộng đoàn để

sửa cái sai của cộng đoàn. Cùng đi với họ để uốn nắn họ, điều chỉnh suy nghĩ, hành vi của họ cho đúng. Chúa Giê-xu đi với các môn đệ, ăn uống với người tội lỗi và

phường thâu thuế để thay đổi suy nghĩ và hành vi của họ. Nói như thế không có nghĩa là khi thấy cái sai của người khác, người lãnh đạo phải sai giống như họ. Có

những trường hợp người lãnh đạo cần phải có biện pháp mạnh mẽ và dứt khoát ngay từ đầu đối với những sai trật.

Điều chính yếu ở đây là không rời bỏ con tàu, không bỏ rơi cộng đoàn mới có thể giúp cho cộng đoàn được. Đây là điều khó nhất của nhiều người. Trong gia đình thì

người chồng có thể bỏ gia đình khi chỉ lo bù khú với bạn bè, hoặc bà vợ chỉ lê la ở ngoài chợ hoặc nhà láng giềng, còn con cái thì bỏ nhà ra đi. Không ai chịu gắn bó,

sống với con tàu gia đình của mình. Ngày nay nhiều người lãnh đạo cũng như tín hữu, khi gặp chuyện bất đồng, ngoài

việc bơi vào bờ (rút lui) họ còn có thể nhảy từ tàu này sang tàu khác, họ để mặc cho người khác trong cảnh ‘sống chết mặc bay’. Đó là chưa nói đến chuyện trước

khi bỏ tàu họ có thể khủng bố hoặc cho nổ con tàu trong tinh thần ‘được ăn cả ngã về tay không’.

Thật ra có một số trường hợp người lãnh đạo phải rời con tàu, vì nơi đó không phải là chỗ của ông ta. Đây là trường hợp ông Giô-na. Ông Giô-na có những điều kiện

cho phép trở thành người chỉ huy, đặc biệt là chỉ huy trên những con tàu gặp bão tố. Ông biết nguyên nhân của cơn bão, ông cũng biết nhìn xa trông rộng, có thể dự

đoán khi nào thì bão tan, biết cách giải quyết vấn đề để vượt qua khó khăn, đặc biệt là ông biết rằng khi ông rời tàu thì bão tan, sóng yên biển lặng. Ông lên con tàu nào thì trước sau gì cũng sinh chuyện vì mặc dù ông có thể nhìn xa trông rộng, lại

biết cả cách giải quyết vấn đề nhưng ông đang ở trong một vị trí không dành cho ông.

Chúa Giê-xu thì ngược lại, Ngài đến với con tàu đang gặp sóng gió dữ dội, với những con người đang chèo chống vất vả để làm gió yên biển lặng và đưa con tàu

đến nơi đến chốn. Người lãnh đạo là người cần đến với cộng đoàn, gắn bó với họ, sống chết với họ để giúp đỡ họ hoặc để sửa sai khi cần.

Làm gì trong nghịch cảnh? N gười lãnh đạo nên làm gì trong nghịch cảnh? Phải chăng ta nên bắt chước ông

Giô-na đề xuất biện pháp là chính mình phải rời khỏi tàu thay vì chờ cho người ta đề xuất một cách xử lý khác không thoả đáng. Còn nếu cứ ở lại trong tàu thì ta nên

làm gì? Trước hết ta cần biết qua về con tàu mà 276 người đang ở trong đó là loại tàu nào?

Đây là con tàu từ A-léc-xan-tri đến thành My-ra và đang trên đường đi đến I-ta-li (La Mã). Có thể đây là một con tàu chở hàng hoá từ Ai-cập đến La Mã.

Con tàu vừa chở hàng hoá vừa chở 276 người không phải là con tàu nhỏ. Thời đó một con tàu loại lớn dài khoảng 45m, rộng 11m, và cao 10m. Phần đuôi tàu giống

như một cánh cung vươn cao và cong như cổ ngỗng. Bánh lái tàu làm bằng hai tấm ván lớn, đặt ở hai bên ở phần đuôi. Tàu chỉ có một cột buồm với một cánh buồm

lớn hình vuông may bằng vải gai hoặc bằng da thú. Nhược điểm của con tàu này là dàn buồm. Vì chỉ có một cột buồm nên cánh buồm rất lớn khiến cho việc điều

khiển con tàu rất khó khăn. Khi gặp bão một lực rất lớn đập vào thân tàu làm cho tàu rất dễ vỡ tan.

Người chỉ huy một con tàu đại loại như vậy sẽ làm gì để đối phó với cơn bão? Nếu là người chỉ huy, bạn sẽ áp dụng những biện pháp nào khi tàu gặp bão? Công Vụ

27 có ghi lại vài biện pháp đối phó với cơn bão. Cách thứ nhất là “chống lại ” (câu 15a). Đây là phản ứng tất nhiên của con người

khi gặp nghịch cảnh. Kinh Thánh Tân Ước có ghi lại việc các môn đệ của Chúa Giê-xu gặp sóng gió trên hồ Ga-li-lê. Trong cả hai lần (Mac Mc 4:35-41 6:45-52)

họ đều gắng sức chèo chống cực nhọc hy vọng đến bờ sớm để cho mọi người được an toàn. Chống lại hoàn cảnh là phản ứng tất nhiên khi đối diện với nghịch cảnh.

Công việc này chẳng những tốn nhiều sức lực mà cũng cần làm cho đúng. Đây là sự phối hợp giữa những con người trong tàu với nhau. Người thì lo lái tàu, người

thì hạ buồm, người thì tát nước… Cách thứ nhì là “để mặc cho theo chiều gió ” (câu 15b). Vì sao phải theo cách này?

Vì “chống lại gió chẳng nổi” (câu 15a). Đây là phản ứng tiếp theo của con người khi bó tay trước nghịch cảnh. Chống không nổi thì phải chìu theo. Theo cách này

thì chỉ có người lái tàu làm việc, còn những người khác thì buông xuôi phó mặc may rủi. Kết quả là đến nơi mình không muốn đến “tàu bị bạt đến dưới một hòn đảo nhỏ kia gọi là Cơ-lô-đa” (câu 16). Chìu theo hoàn cảnh là cách ít tốn sức lực

nhất, vì buông xuôi ngồi đó hoặc đứng đó mà nhìn sự việc diễn tiến. Xấu hơn hoặc tốt hơn không do nỗ lực của chúng ta mà hoàn toàn tuỳ thuộc vào hoàn cảnh.

Cách thứ ba là “cầm được chiếc thuyền” (câu 16b). Nghĩa là làm chủ, điều khiển con thuyền. Giữ nó đứng vững tại chỗ. Cố gắng điều khiển nó. Với cách này thì đòi

hỏi nỗ lực của cả tàu. Đây là phản ứng sau khi suy nghĩ lại. Không thể chìu theo hoàn cảnh, cũng khó chống lại hoàn cảnh, phải làm sao giữ con tàu không bị trôi

đi, cũng không bị bão đánh bể. Cách thứ ba kèm theo phương cách thứ tư đó là dùng chuyên môn kỹ thuật để giữ

con tàu “lấy dây ràng phía dưới chiếc tàu lại”. Dùng kỹ thuật để bảo vệ con tàu, để tàu không bị bể ra, sau đó là cách để mặc gió đưa trôi đi (câu 17). Đây cũng là cách

chìu theo hoàn cảnh, nhưng có vẻ khôn ngoan hơn, đó là bên cạnh việc phó mặc cho gió và nước đưa đẩy thì cũng chuẩn bị trước để không bị thiệt hại. Trong trường hợp này cho thấy kỹ thuật cũng chỉ nhằm giảm thiểu thiệt hại chứ không

giải quyết được nghịch cảnh. Cách thứ năm là chọn lựa , ‘bỏ của lấy người’. Trước hết là quăng hàng hoá xuống

biển, sau đó là quăng đồ đạc trong tàu xuống biển. Trong nghịch cảnh, con người quan trọng hoặc vật chất quan trọng? Đây cũng là điều chúng ta cần suy nghĩ. Vì

trong thuật lãnh đạo, đôi khi người ta lại ‘giữ của’ mà ‘quăng người’ khỏi con tàu khi gặp phải khó khăn. Thậm chí có người khi đã sắp chết đuối rồi mà vẫn còn khư

khư nắm chặt lấy ba đồng bạc cắc, không chịu bỏ của để giữ lấy người. Cũng có trường hợp phải ‘bỏ một người để lấy nhiều người’, đây là trường hợp mà

chính người chăn phải hi sinh để cứu bầy chiên. Điều này cho thấy nếu cần hi sinh thì người lãnh đạo phải hi sinh chớ không phải bắt con chiên phải hi sinh. Cũng có

trường hợp ‘bỏ nhiều người để lấy một người’, đây là trường hợp hi sinh con chiên để giữ thể diện cho người chăn. Nếu sửa dạy khi con chiên sai, thì không có gì sai

lầm; nhưng tiếc là có khi cả đàn chiên không có gì sai cả, nhưng cả đàn bị bán, hoặc bị tan đàn xẻ nghé chỉ vì người chăn cứ duy trì cách làm việc sai trật của

mình. Người lãnh đạo luôn luôn phải đối diện với sự chọn lựa và quyết định. Dưới đây là

những cách mà người lãnh đạo và cộng đoàn dùng để đối phó với hoàn cảnh: 1. Đối phó bằng sức mình. Ch ống lại nghịch cảnh

2. Đối phó bằng cách buông trôi.Ch ìu theo hoàn cảnh. 3. Đối phó bằng cách khống chế.Ch ế ngự con tàu.

4. Đối phó bằng kỹ thuật.Ch uyên môn kỹ thuật. 5. Đối phó bằng cách bỏ của lấy người.Ch ọn lựa

Những phương cách trên đây có gì sai trật không? Người lãnh đạo có nên dùng những phương cách đó không? Nếu chúng ta ở trên con tàu đó thì chắc cũng làm

như vậy thôi. Sau khi áp dụng kết quả cuối cùng của mấy biện pháp chống bão này là gì? Kết quả có khả quan không? Câu 29 “Mặt trời chẳng có, ngôi sao cũng không, mà bão

thì vẫn thổi ào ào luôn, đến nỗi chúng ta chẳng còn trông cậy được cứu nữa.”

Lãnh đạo bất đắc dĩ ! Ô ng Phao-lô làm gì trong nghịch cảnh? Ông buộc phải chấp nhận một chuyến đi

mà ông biết sẽ gặp nhiều khó khăn. Ông làm gì? Chắc chắn như bao con người khác trên tàu, ông Phao-lô đã làm tất cả những việc người ta bảo ông làm. Đến câu

21 ông Lu-ca mới để cho ông Phao-lô xuất hiện, và ông ‘soán quyền lãnh đạo’, hoặc trở nên người chỉ huy trong một tình cảnh dường như không ai muốn chỉ huy, ai cũng muốn rút lui hoặc từ chức, vì chẳng ai muốn đứng mũi chịu sào trong cảnh

dầu sôi lửa bỏng như thế này. Thật ra khi ông Phao-lô nói những lời này, người lái tàu vẫn lái tàu, chủ tàu vẫn

làm chủ tàu, thầy đội vẫn là người chỉ huy trên con tàu, và ông Phao-lô cũng vẫn là một hành khách tù nhân trên con tàu. Nhưng lời nói của ông trở thành lời nói có

trọng lượng và đáng để cho giới lãnh đạo suy nghĩ và học tập. Qua cách nói của ông Phao-lô: “Hỡi bạn hữu ta, chớ chi bữa trước tin lời ta mà

chẳng rời khỏi đảo Cơ-rết, thì chúng ta đã chẳng mắc cơn nguy hiểm và tổn hại này.” Câu nói của ông Phao-lô ám chỉ ba vấn đề:

(1) Ông Phao-lô gọi những người từng không nghe lời ông là bạn hữu. Ông không coi họ là đối thủ, là kẻ thù của ông.

(2) Người lãnh đạo đừng bao giờ đưa con tàu vào cơn bão để rồi gặp nguy hiểm và tổn hại.

(3) Tiếc rằng trước đây các bạn đã không tin lời tôi, bây giờ các bạn nên tin lời của tôi.

Chẳng những tin vào lời ông nói mà còn làm theo lời ông. Một điều rất quan trọng mà người lãnh đạo cần có là lời nói đáng tin cậy có sức

thuyết phục người khác. Khi hội chúng không tin, không chịu tin, không còn tin, không thèm tin vào lời nói của người lãnh đạo nữa, nghĩa là uy tín của người lãnh

đạo chưa có hoặc không còn nữa; nghĩa là khó có thể lãnh đạo được ai; và nghĩa là nếu còn lãnh đạo thì hội chúng chỉ còn là những con người lãnh đạm gượng gạo,

còn công việc thì chán ngắt buồn tẻ. Tất nhiên người lãnh đạo không thể cứ nhắc mãi đến chuyện thất bại, chuyện quá

khứ, chuyện không chịu nghe lời… Ông Phao-lô chỉ nhắc nhở bài học quá khứ một cách nhẹ nhàng còn bây giờ trong thực tại nguy khốn, mất hi vọng, người lãnh đạo

cần làm gì? Thầy đội, người chủ tàu, người lái tàu đều mất hi vọng, không có sự bình an.

Người lãnh đạo không có hi vọng gì, liệu có thể làm được gì cho con tàu đây? Có thể họ chỉ ra lệnh cho người này làm việc này, làm việc kia… Người trên tàu có

thể vâng lời làm việc này, làm việc kia và hoàn thành công việc, nhưng cuối cùng cả người lãnh đạo và người được lãnh đạo đều không có hi vọng. Ông Phao-lô nói: “Nhưng bây giờ, ta khuyên các ngươi hãy vững lòng; trong các

ngươi chẳng mất ai hết, chỉ mất chiếc tàu mà thôi” (Câu 22). Người lãnh đạo phải đem hi vọng đến cho người cộng sự . Lãnh đạo không phải chỉ bắt con người thực

hiện phương thức này, công việc kia… rồi sau đó thất vọng. Nhưng cần nhìn thấy khía cạnh tích cực là đằng sau những công việc đó con người có hi vọng? Muốn

vậy, bản thân người lãnh đạo phải có hi vọng, phải có lòng bình an. Bản thân ông Phao-lô vẫn giữ được niềm hi vọng và lòng bình an trong khi mọi người hầu như

hoàn toàn tuyệt vọng và bất an. Lời nói đáng tin, niềm hi vọng và lòng bình an của ông Phao-lô đến từ đâu? Trong

câu 23-26 cho chúng ta biết. “Vì đêm nay, một thiên sứ của Đức Chúa Trời, là Đấng ta thuộc về và hầu việc, có hiện đến cùng ta mà phán rằng….” Chúng ta có

bàn về người lãnh đạo với khả năng nhìn xa trông rộng, khả năng nhìn xa trông rộng đó đến từ mối tương giao giữa đương sự với Đấng mà đương sự thuộc về và hầu việc . Nhờ mối tương giao với Chúa mà người lãnh đạo có khải tượng, có tầm

nhìn xa trông rộng, có niềm hi vọng và lòng bình an. Nếu sắp xếp lại chúng ta sẽ thấy trật tự sau đây:

(1) Người lãnh đạo duy trì mối tương giao với Chúa. (2) Người lãnh đạo được Chúa bày tỏ để có thể nhìn xa trông rộng.

(3) Người lãnh đạo sống trong mối quan hệ với con người. Cùng làm việc với con người, đem hi vọng đến cho con người.

Trong số 276 người nghe ông Phao-lô nói: “trong các ngươi chẳng mất ai hết, chỉ mất chiếc tàu mà thôi” có thể có một người rất thất vọng, đó là ai? Đó là chủ tàu vì

bị tán gia bại sản. Nhưng có thể người chủ tàu cũng vui. Vui vì tuy mất tàu nhưng những người đi trên con tàu của mình được toàn mạng thì cũng thoả lòng rồi. Hoá

ra lãnh đạo không phải chỉ là giữ con thuyền trong cơn bão, không phải chỉ là làm sao điều khiển và kiểm soát con tàu, cũng không phải chỉ dùng kỹ thuật để bảo vệ

con tàu… mặc dù còn tàu là còn người. Nhưng lãnh đạo trên hết là hướng đến con người, chớ không phải đơn thuần là bảo vệ tổ chức hoặc duy trì công việc. Lãnh

đạo lấy con người làm mục đích chính chứ không phải lấy tổ chức và công việc làm mục đích chính.

Tuy nhiên không phải ai cũng toàn tâm toàn ý tin vào lời người lãnh đạo, cũng không phải ai cũng trung thành với con tàu. Sẽ có một số người tìm cách đào ngũ,

lén lút rời bỏ cộng đoàn. Đây là trường hợp trong câu 27-30, trong đêm thứ mười bốn một số người tìm cách rời bỏ con tàu.

Những người tìm cách rời tàu là ai? Chắc chắn không phải là chủ tàu, cũng không phải là người lái tàu, cũng không phải là thầy đội hoặc lính tráng, lại càng không

phải là tù nhân. Vậy những người đó là ai? Ông Lu-ca gọi họ là những ‘bạn tàu’. “Bạn tàu tìm phương lánh khỏi chiếc tàu” (Câu 30). Đám hành khách này không

muốn gắn bó với những người khác vì họ không có trách nhiệm gì trên con tàu này cả. Tàu không phải là của họ, họ cũng chẳng có cổ phần nào trên con tàu; họ cũng không phải là người chỉ huy; họ cũng không phải là tù nhân; cũng không có trách

nhiệm gì với ai và với con tàu. Đối với họ con tàu chỉ là phương tiện, còn người khác không phải đối tượng để họ phải gắn bó hoặc sống chết với nhau. Đối với

đám người này thì bản thân của họ, toan tính cho riêng họ là quan trọng hơn cả. Họ tính chuyện trốn khỏi tàu vì nghĩ rằng ít người thì họ có thể tự lo cho sự an nguy

của họ. Rời bỏ cộng đoàn một cách công khai hoà thuận và minh bạch thì không ai chê

trách. Nhưng khi con tàu lâm cảnh nguy nan bão tố, đang có những vấn đề cần phải giải quyết mà một nhóm người lại bỏ trốn đi thì thật là đáng chê trách và

không đẹp chút nào. Về sau chính những người toan tính lén lút rời bỏ tàu chắc chắn sẽ cám ơn ông Phao-lô, vì nếu không có ý kiến của ông chưa chắc họ đã toàn

mạng. Nhưng vấn đề chính là tinh thần những người còn lại trên tàu sẽ bị rúng động như thế nào khi biết một số người đã bỏ tàu trốn đi. Việc này gây rối loạn làm cho lòng tin của một số người sẽ bị lung lay, và một số nhóm người khác sẽ

lần lượt tìm cách bỏ tàu (mà không hề nghĩ đến chuyện sống chết thế nào). Trước đó ông đã lên tiếng để đem đến hi vọng, đừng sợ ; bây giờ ông cần lên tiếng

để những người trên tàu đừng bỏ đi . Người lãnh đạo cần đem đến sự an tâm cho từng cá nhân, nhưng người lãnh đạo cũng làm sao để an dân . Cá nhân được an tâm

nhưng nếu cộng đoàn không an dân thì cộng đoàn mất bình an, mà cộng đoàn mất bình an thì cá nhân cũng mất bình an.

Bạn sẽ làm gì khi biết trong cộng đoàn mình có người tính chuyện bỏ đi? Bạn sẽ làm cách nào để ngăn lại?

Ông Phao-lô không tố cáo họ, không làm họ xấu hổ. Ông chỉ nói với người có thể giải quyết được vấn đề là thầy đội và toán lính, và họ đã giải quyết được vấn đề.

Nói theo cách lãnh đạo, lãnh đạo là người cậy người khác làm việc. Một loại ‘giám đốc’. Lãnh đạo không phải là người làm hết chuyện này đến chuyện kia, nhưng

lãnh đạo khôn ngoan là người xác định việc và tìm người thích hợp để giao việc. Sau khi làm cho cá nhân an tâm, làm cho cộng đoàn an dân, bây giờ cần làm gì?

Dù là con người của khải tượng nhưng ông Phao-lô cũng là con người thực tế. Thực tế đó nhắm vào con người, coi con người là quan trọng. “Vậy ta khuyên các

ngươi hãy ăn, vì thật là rất cần cho sự cứu của các ngươi và chẳng ai trong vòng các ngươi sẽ mất một sợi tóc trên đầu mình” (Câu 34). Ăn mới có sức lực để bơi,

để có thể chịu đựng được cái lạnh dưới nước, để thoát chết. Thiên sứ của Đức Giê-hô-va đụng đến tiên tri Ê-li và nói rằng: “Hãy chổi dậy và

ăn, vì đường xa quá cho ngươi” (IVua 1V 19:7). Chúng ta thấy mục tiêu của ông Phao-lô trong trường hợp này nhắm vào con người

chớ không nhắm vào con thuyền. Còn con người là sẽ có nhiều thứ, nếu mất con người thì dù có nhiều thứ và nhiều công việc thì cũng chẳng ích gì. Thông thường

giới lãnh đạo chỉ chú ý đến công việc, phải làm, phải cống hiến; nhưng lại không quan tâm đến con người đảm nhiệm công việc để xem đương sự có đủ sức làm không? Có thức ăn nào nuôi thể xác, tinh thần, tâm linh đương sự chưa?

Chẳng những khuyên mọi người ăn mà ông Phao-lô còn làm gương cho mọi người nữa. Làm gương trong việc ăn thì thật là dễ dàng. Nhưng trong cảnh gió bão dồi

dập mà ăn không phải là chuyện dễ, nhưng dù sao so với những việc khác thì ăn hoá ra dễ. Ông Phao-lô làm gương trong chuyện nhỏ nhưng vẫn có thể củng cố tinh

thần mọi người trên tàu. Nếu người lãnh đạo có thể tạo lòng tin và khích lệ người khác làm những việc đơn giản nhất, dễ dàng nhất thì đó là bước đầu để thôi thúc họ

làm những việc tiếp theo.

Giờ đây đến màn kết. Ông Phao-lô nói trước ‘chỉ mất chiếc tàu mà thôi’, nhưng giới chuyên môn, người lái tàu và chủ tàu tìm cách cứu cả hai. Họ hi vọng cứu được cả con tàu và con

người. Kết quả là con tàu bị mắc cạn, sắp bị bể ra. Ông Phao-lô nói trước ‘trong các ngươi chẳng mất ai hết’, nhưng ‘bọn lính bàn

định giết các tù phạm’. Họ cho rằng các tù phạm nhân cơ hội tàu vỡ sẽ trốn đi. Dù ‘tù phạm’ Phao-lô không có ý tưởng đó, nhưng chắc gì những tù phạm khác không

có ý tưởng bỏ trốn? Trước đó thì bạn tàu tìm cách trốn, giờ đây thì lính tráng nghi rằng tù phạm sẽ trốn. Giờ thì nan đề không đến từ cơn bão, nhưng đến từ con

người. Người lãnh đạo phải giải quyết những nan đề phát xuất từ hoàn cảnh bên ngoài

nhưng cũng phải giải quyết những nan đề từ bên trong. Tận bên trong con người. Con người không có lòng tin, con người không an tâm, con người tiếc của, con

người trốn chạy, con người nghi ngờ, … Cuối cùng thì thầy đội cũng trở thành người lãnh đạo (1) khi ông không theo số

đông; (2) chẳng những không theo số đông mà còn ngăn trở nghị định đó (câu 43); (3) truyền đạt mệnh lệnh để mỗi người biết họ phải làm gì (câu 43b-44).

Mất tàu rồi, tàu vỡ rồi, có còn lãnh đạo được không?

CUỘC HÀNH TRÌNH CỦA PHAO-LÔ ĐẾN LA-MÃ (59-62 S.C.) (Công Vụ Các Sứ ĐỒ 27 - 28)

CUỘC HÀNH TRÌNH CỦA PHAO-LÔ ĐẾN LA-MÃ (59-62 S.C.)

Khi ông Phao-lô đến thành Giê-ru-sa-lem, “các người Giu-đa, quê A-si” nhận ra ông và hô hoán lên, vu cáo là ông làm ô uế đền thờ (Cong Cv 21:27-28). Khó khăn

lắm ông mới được cứu thoát khỏi cái chết trong tay đám đông dân chúng. Toán lính La-mã đưa ông về đồn Antonia và giam giữ ông trong chỗ an toàn. Sau đó một

đội lính La-mã đưa ông đến Sê-sa-rê (Caesarea) cho quan Phê-lít xét xử. Sau khi nghe ông Phao-lô tự bào chữa cách hùng hồn, quan Phê-lít quyết định giam lỏng

ông tại lao xá. Thế là ông Phao-lô ở tù thêm hai năm tại đó, rồi được đưa ra cho quan Phê-tu xét xử. Trong kỳ xét xử này, ông Phao-lô vin vào quyền công dân

La-mã nên xin được xét xử bởi hoàng đế tại tòa án ở La-mã. Thế là ông được đưa đi La-mã đúng theo luật pháp hiện hành. Chặng hành trình đầu ông đi qua các cảng Si-đôn (Sidon), My-ra (Myra) ở xứ Ly-si (Lycia). Tại đây đoàn lữ khách chuyển

qua một con tàu chở lúa mì, khởi hành từ cảng A-léc-xan-tri (Alexandria) đi La-mã. Mặc dù mùa đi biển sắp hết rồi nhưng thuyền trưởng quyết định phiêu lưu

hy vọng thoát khỏi mọi mối nguy hiểm do thời tiết gây ra. Sau khi vượt qua khỏi vùng đảo Cơ-rết (Crete) thì tàu gặp bão trong vùng gần biển A-đờ-ria-tích

(Adriatic). Tàu trôi giạt đến đảo Man-tơ (Malta) thì vỡ. Ông Phao-lô và hành khách đồng hành sống tại đây qua suốt mùa đông. Đến mùa xuân họ tiếp tục cuộc

hành trình. Sau khi ghé qua Sy-ra-cu-sơ (Syracuse) và Rê-ghi-um (Rhegium) tàu trực chỉ La-mã và cập bờ ở cảng Pu-xô-lơ (Puteoli). Từ Pu-xô-lơ (Puteoli) họ đến

Rô-ma bằng đường bộ. Tại đây ông Phao-lô tiếp tục hoạt động truyền giáo một thời gian nữa.

BÀN TAY LÃNH ĐẠO

(QUAN HỆ GIỮA CHỦ VÀ QUẢN GIA)

45 “Vậy ai là đầy tớ trung thành và khôn ngoan, người mà chủ đã cắt đặt cai quản người làm trong nhà mình để phân phát thực phẩm cho họ đúng giờ? 46 Phúc cho

đầy tớ ấy khi chủ về thấy người đầy tớ làm như thế. 47 Tôi nói thật với anh em, chủ sẽ cắt đặt người ấy cai quản toàn bộ tài sản của mình. 48 Nhưng nếu đầy tớ ấy

xấu, tự nhủ trong lòng: “Chủ ta sẽ về trễ!”, 49 rồi bắt đầu đánh đập các đầy tớ khác và ăn nhậu với bọn say sưa. 50 Chủ của đầy tớ ấy sẽ về vào ngày hắn không ngờ và

vào giờ hắn không biết, 51 sẽ phân thây hắn và định phần của hắn với bọn đạo đức giả, chỗ có khóc lóc và nghiến răng!

(Mat Mt 24:45-51)

42 Chúa dạy: “Ai là người quản gia trung thành và khôn ngoan được chủ cắt đặt quản lý các gia nhân trong nhà để cấp phát lương thực cho họ đúng giờ? 43 Phúc

cho người đầy tớ, khi chủ về thấy người ấy đang làm như vậy. 44 Tôi nói thật với anh em, chủ sẽ cắt đặt người ấy quản lý toàn bộ tài sản của mình. 45 Nhưng nếu

người đầy tớ ấy tự nhủ: ‘Chủ ta còn lâu mới về’, rồi bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gái và chè chén say sưa, 46 chủ sẽ về trong ngày hắn không ngờ, vào giờ hắn không

biết, sẽ phanh thây hắn, cho hắn chịu chung số phận với những người vô tín. 47 “Đầy tớ nào đã biết ý chủ mà không chuẩn bị sẵn sàng, hoặc không làm theo ý chủ thì sẽ bị đòn nhiều. 48 Còn người không biết ý chủ, lỡ làm những việc đáng bị

phạt thì sẽ bị đòn ít. Ai được ban cho nhiều, sẽ bị đòi lại nhiều; ai được giao phó nhiều, sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn.”

(LuLc 12:42-48) Đ ọc qua câu chuyện, chúng ta tưởng chừng như mối quan hệ giữa người quản gia

với chủ xa cách lắm, xa cách đến nỗi người quản gia bất trung và dại dột có thể nghĩ rằng: “Chủ ta sẽ về trễ!” Nhưng xem xét thấu đáo câu chuyện ta thấy giữa chủ

và người quản gia có mối quan hệ rất gần gũi. Gần gũi đến nỗi chủ có thể giao phó công việc cho người quản gia và đi xa. Vấn đề là người quản gia có nhận ra điều

đó hay không. Xem xét mối quan hệ giữa chủ với người quản gia, chúng ta thấy có những yếu tố

sau đây. (1) Trước hết là lòng tin cậy. Quan hệ giữa chủ với quản gia là quan hệ về lòng tin. Chủ có lòng tin nơi quản gia.

-Làm thế nào chủ lại có lòng tin nơi quản gia? Có thể nào tin cậy một người mới quen, một người mà ta không biết rõ, một người không có khả năng, không có

phẩm chất tốt. Lòng tin phải có cơ sở nếu không sẽ rơi vào trường hợp giao trứng cho ác.

-Nhiều người lãnh đạo không có lòng tin nơi con người, vì sợ tin tưởng vào ai đó thì sau này sẽ thất vọng. Càng tin người thì càng vỡ mộng. Cho nên không tin ai

cả. Và vì không tin ai cả cho nên thay vì phân quyền, họ lại tập trung quyền hành. Hậu quả là bản thân người lãnh đạo trở thành kẻ độc tài đáng ghét mà cũng đáng

thương, công việc đình đốn không hiệu quả. . . -Cũng có người lại cả tin. Chưa biết rõ về đối tượng đã vội tin. Nghe người nói hay

là tin ngay. Cho nên tiền mất tật mang, thất vọng não nề. -Muốn có lòng tin cậy đúng chỗ và đúng mức thì phải làm gì?

Lòng tin bao gồm việc tiếp nhận, thông công và tìm hiểu. Ba điều này liên hệ với nhau trong một vòng tròn trôn ốc. Có tiếp nhận mới thông công với nhau, nhờ

thông công với nhau mà có thể hiểu biết nhau. Sự hiểu biết chỉ có thể gia tăng khi tiếp tục tiếp nhận nhau và thông công với nhau.

Điều này cho chúng ta biết người lãnh đạo phải chọn người, tất nhiên không thể dừng lại ở giai đoạn đó, cần tiếp nhận đương sự với ưu điểm lẫn nhược điểm. Sau

đó phải duy trì mối quan hệ qua sự thông công, chuyện trò, chia sẻ. Người lãnh đạo cũng không dừng lại sau khi hiểu đương sự nhưng tin cậy và giao công tác.

Xây dựng lòng tin là cả một quá trình từng bước xây dựng. Đòi hỏi lòng chân thành, lòng kiên nhẫn và thời gian.

Có thể thẩm định mối quan hệ của mình đối với đối tượng khác và mối quan hệ của đối tượng đối với mình nhờ bảng Đánh Giá Mối Quan Hệ. (Xem Đánh Giá Mối

Quan Hệ. Trang ____ ).

(2) Tiếp theo là trao trọng trách. Lòng tin cậy dẫn đến việc giao phó, uỷ thác. Vì tin cậy cho nên mới cắt đặt, giao phó công tác. -Trao trọng trách là sự khiêm nhường của người lãnh đạo. Khi uỷ thác cho quản

gia người chủ muốn nói: Tôi không làm việc một mình, tôi cần có anh, tôi không đủ sức, không có anh thì không được.

-Trao trọng trách là cụ thể hoá lòng tin. Không phải chỉ tin cậy bằng lời nói mông lung mơ hồ nhưng chứng tỏ sự tin cậy bằng cách uỷ thác công tác. Tôi giao phó

cho anh chứng tỏ tôi tin anh. -Trao trọng trách thế nào? Uỷ thác nghĩa là gì? Là giao công việc. Kèm với công

việc là uỷ nhiệm một số quyền hạn và thẩm quyền quyết định trong phạm vi công việc. Như vậy, người được trao trách nhiệm bước vào một vị trí có quyền hạn rõ

rệt tức là có chức vị, có quyền hạn tương xứng để thực hiện công tác. -Theo thời gian lòng tin có thể thay đổi theo chiều hướng tốt hơn thì tiếp tục trao trách nhiệm hoặc xấu đi thì giảm trách nhiệm hoặc ngưng luôn.

Chức vụ và công tác thoạt tiên căn cứ vào mức độ tin cậy của chủ và năng lực hoặc khả năng của con người phục vụ. Nhưng đó chỉ là bước đầu, vì sau đó chủ không

chỉ căn cứ vào khả năng mà còn căn cứ vào sự khôn ngoan và lòng trung thành của người phục vụ.

Người chủ Người quản gia

Lần 1: Lòng tin & sự uỷ thác (M1) Khả năng

Được giao công việc Có chức vụ và quyền hạn

Lần 2:

Lòng tin & sự uỷ thác (M2) Khả năng Trung thành và khôn ngoan

Được giao công việc lớn hơn Có chức vụ và quyền hạn cao hơn

Có thưởng vì thành quả.

(3) Thứ ba là thời gian. Chủ ấn định cho quản gia một khoảng thời gian để thực hiện công việc chủ đã giao. Thời gian là cơ hội để quản gia bày tỏ lòng trung thành

qua việc làm. Mục đích của thời gian không nhằm làm cho quản gia xa chủ, xa công việc mà làm cho quản gia gần chủ gần công việc hơn. Càng gắn bó với công

việc thì theo thời gian cây trái đơm hoa kết quả; ngược lại càng lơ là công việc thì theo thời gian cỏ cây xơ xác, nhà cửa tan hoang.

Thời gian không những là thước đo thành quả mà thời gian cũng là thước đo lòng kiên trì, bền bỉ trong công việc và lòng trung thành. Một trong những bài học của ChCn 24:30-34 là cách sử dụng thời gian.

(4) Thứ tư là thanh tra. Muốn thanh tra chủ phải trở về, vào thời điểm nào thì không ai biết. Thanh tra là có mặt để quản gia tường trình về cách thực hiện công việc và thành quả của công việc (Lu-ca 19).

-Nhiều người nói: “Đã tin rồi cần gì kiểm tra nữa.” Ta thử phân tích xem đằng sau câu nói này có vấn đề gì?

Nếu người chủ, người lãnh đạo nói câu nói này tức là trong bản thân lẫn công tác lãnh đạo đang có vấn đề. Bạn thử phát biểu xem bản thân người lãnh đạo có vấn đề gì và công tác lãnh đạo

có vấn đề gì? (Ông ta không biết thuật lãnh đạo.

Ông ta không có hướng đi cho toàn bộ doanh nghiệp của ông. Ông ta không muốn tin quản gia hơn nữa.

Ông ta không muốn giúp cho quản gia tiến hơn nữa. Ông ta không muốn thưởng cho quản gia.)

Nếu quản gia nói câu nói này thì anh ta đang có vấn đề trong công việc chủ giao và bản thân anh ta cũng đang trục trặc.

(Anh ta không có hi vọng trong công việc, không mong chủ biết mình tốt xấu thế nào.

Có lẽ anh ta gặp nhiều rắc rối trong công việc mà không muốn chủ biết. Anh ta không có tổ chức. Anh ta tự ái, bất tài không muốn tường trình.

Anh ta không muốn chứng tỏ mình.) -Khi kiểm tra, ta làm gì? Kiểm tra lãnh vực nào?

Kiểm tra điều gì? Kiểm tra theo tiêu chuẩn nào?

-Kiểm tra ích lợi ra sao? Kiểm tra có lợi cho cả chủ và quản gia. Kiểm tra là một cách tổng kết, một cách

đánh giá hoặc cho điểm, hoặc xếp loại. Qua kiểm tra giúp cho cả người lãnh đạo lẫn người quản gia xác định được nhiều vấn đề.

· Xác định giá trị công việc. Biết đã làm gì, làm đúng hoặc sai,

làm đến mức độ nào. · Xác định giá trị bản thân.

Phẩm chất tốt - xấu; trung thành - bất trung;

khôn ngoan - dại dột; siêng năng - biếng nhác. · Xác định mối quan hệ.

Chủ - quản gia; Bạn - thù; Gần - xa;

(5) Thứ năm là thưởng phạt . Người sống theo luật-yêu-thương-thiếu-hiểu-biết thường dùng câu “tình yêu

thương che đậy vô số tội lỗi” trong công tác quản lý. Người lãnh đạo theo chủ trương ‘tình-yêu-thương-che-đậy-vô-số-tội-lỗi’ không

phạt quản gia bất trung, nhưng đồng thời cũng ‘che đậy’ luôn vô số điều tốt của những quản gia trung thành, cho nên họ cũng chẳng chịu thưởng cho ai. Có người lãnh đạo cảm thấy không khen thì không được. Cho nên quản gia tốt,

giỏi khen đã đành mà dở, bất trung cũng khen. Tốt thưởng nhiều còn xấu thưởng ít, nói chung là thưởng cho mọi người. Lãnh đạo như vậy là phá hoại công việc. Phá

bằng tình-yêu-thương-thiếu-hiểu-biết, và hại quản gia bằng tình-yêu-thương-thiếu-hiểu-biết.

Còn quản gia không quan tâm đến chuyện thưởng phạt là tự lừa dối mình. Giống như người đi làm mà không mong tăng lương. Làm việc tốt mà không nghĩ đến

chuyện thăng tiến. Cho nên thưởng phạt là điều cần thiết cho cả người lãnh đạo lẫn quản gia.

Thưởng phạt gồm cả hai khía cạnh vật chất và tinh thần. Bạn hãy liệt kê và phân tích những hành động thưởng phạt.

Thí dụ: Được chủ tôn trọng hơn trước

Lời khen, Chức vụ cao hơn, Bổng lộc nhiều hơn.

Giao phó trách nhiệm lớn hơn. Bàn tay lãnh đạo

Vấn đề Nan đề Phương pháp

1. Tin cậy. -Làm sao tin? -Hỏi thăm người khác -______________ -________________

-______________ -________________ -______________ -________________

2. Trao trọng trách -Không có gì uỷ thác -Phân chia công việc -______________ -________________

-______________ -________________ -______________ -________________

3. Thời gian -Ai quyết định? -Cách sử dụng thời gian

-______________ -________________ -______________ -________________ -______________ -________________

4. Thanh tra -Hình thức nào? -Có hệ thống -______________ -________________ -______________ -________________

-______________ -________________

5. Thưởng phạt -Thưởng gì? -Bằng lời nói -______________ -________________ -______________ -________________

-______________ -________________ -Ban đầu lòng tin cậy (1) và trao trọng trách (2) không tạo nên ‘người ngay kẻ

gian’. Đầu tiên chỉ cho thấy sự kỳ vọng của chủ đối với quản gia. -Thời gian (3) và thanh tra (4) là cơ hội để người quản gia chứng minh sự khôn

ngoan và lòng trung thành của mình. -Thưởng phạt (5) không thuộc về quản gia, nhưng quản gia có thể tự quyết định

cho vận mệnh của mình và phải tâm phục khẩu phục khi được thưởng hoặc bị phạt.

BÀN TAY LÃNH ĐẠO 1. TIN CẬY

2. TRAO TRỌNG TRÁCH 3. THỜI GIAN

4. THANH TRA 5. HƯỞNG PHẠT

ĐÁNH GIÁ MỐI QUAN HỆ

- Dùng cách này đánh giá mối quan hệ của cá nhân với:

· Với những thành viên trong gia đình. · Với những người bạn thân, người cộng sự…

· Với những những người cùng niềm tin trong HT.

- Không dùng để đánh giá với người mới quen.

- Mỗi lần và mỗi tờ chỉ đánh giá với một người.

- Sau một thời gian có thể đánh giá lại mối quan hệ.

- Có bảy lãnh vực bạn phải đánh giá.

- Mỗi lãnh vực có hai thái cực đối nghịch nhau về mức độ. Thí dụ trong việc ‘Chia xẻ’ có mức độ từ ‘Khép kín’ đến ‘Cởi mở’.

- Có bảy mức độ để bạn đánh dấu.

- Phía trên dành để bạn đánh giá người ấy (Anh ấy / Chị ấy). - Phía dưới dành cho bạn tự đánh giá bản thân (Tôi).

Bảng Đánh Giá Mối Quan Hệ Của Tôi Với __________________ MỨC ĐỘ CHIA XẺ

KHÉP KÍN CỞI MỞ MỨC ĐỘ LẮNG NGHE

KHÔNG LẮNG NGHE LẮNG NGHE MỨC ĐỘ NUÔI DƯỠNG PHÁ ĐỔ HỖ TRỢ

MỨC ĐỘ CHẤP NHẬN CHỈ TRÍCH TÁN THƯỞNG

MỨC ĐỘ THUỘC LINH KHÉP KÍN CỞI MỞ

MỨC ĐỘ PHÁT TRIỂN KIỀM CHẾ BUÔNG THẢ

MỨC ĐỘ THÂN MẬT LẠNH LÙNG THÂN THIỆN

1. Mức độ chia xẻ. Bạn có chia xẻ những cảm xúc và những suy nghĩ của bạn không? Hay là bạn giữ

kín và không muốn chia xẻ? Bạn có phải đoán những suy nghĩ của đối tượng; và đối tượng có phải đoán những

suy nghĩ của bạn không? ‘Khép kín’ là không chịu chia xẻ những suy nghĩ của mình.

‘Cởi mở’ là sẵn sàng chia xẻ những suy nghĩ của mình.

2. Mức độ lắng nghe. Bạn có lắng nghe và cố gắng hiểu đối tượng hay là bạn phớt lờ?

Bạn chỉ trả lời theo thói quen hoặc bạn thật sự lắng nghe và mong hiểu những gì người nói?

3. Mức độ nuôi dưỡng . Bạn có ủng hộ, động viên, giúp đỡ đối tượng không? Hoặc bạn phá đổ, không quan

tâm đến công việc của đối tượng? Bạn có luôn ao ước điều tốt cho đối tượng không? Và đối tượng có ao ước điều tốt

cho bạn không?

4. Mức độ tán thành. Bạn có khích lệ đối tượng bằng lời nói không? Bạn khen ngợi và nói những điều

tốt về đối tượng, hoặc bạn lo chỉ trích, hoặc nói toàn những điều tiêu cực, nói những điều xấu hoặc là đổ lỗi cho nhau?

5. Mức độ thuộc linh. Bạn có thể nói chuyện với nhau một cách thoải mái về những vấn đề thuộc linh

không? Bạn có chia xẻ những biến chuyển trong mối thông công giữa bạn với Chúa (Thí

dụ: những nan đề, những đắc thắng, những thất bại thuộc linh, những khải tượng, những mục tiêu…) hay bạn giữ kín những vấn đề thuộc linh?

6. Mức độ phát triển. Bạn có giúp cho đối tượng cảm thấy thoải mái để tăng trưởng và trở nên như người

Chúa mong mỏi không? Hay là bạn cố kềm hãm, kiểm soát và khống chế đối tượng theo ý bạn muốn?

Đối tượng có để cho bạn tăng trưởng cách tự do hay đối tượng kềm hãm và kiểm soát bạn?

7. Mức độ thân mật.

Bạn có tỏ ra thân thiện cách cụ thể và trong sáng không? Hay bạn và đối tượng tỏ ra lạnh nhạt và không thích nhau?

* Sau khi đánh giá xong (mỗi người một tờ đánh giá), hai người ngồi lại với nhau

để đối chiếu và thảo luận xem: - Bạn đánh giá về đối tượng thế nào.

- Đối tượng đánh giá về bạn thế nào. - Bạn có đánh giá đúng về bản thân như đối tượng đánh giá không.

- Đối tượng có đánh giá đúng về mình như bạn đánh giá không.

* Sau một thời gian có thể ngồi lại để đánh giá xem mối quan hệ tiến triển theo chiều hướng tốt hơn hay xấu hơn.

NGƯỜI LÃNH ĐẠO THUỘC LINH & NHU CẦU CỦA HỘI CHÚNG

29 Từ đó, Chúa Giê-xu đến bờ hồ Ga-li-lê, rồi đi lên núi và ngồi tại đó. 30 Dân chúng đông đảo đến cùng Ngài, đem theo những người què quặt, đui mù, bại liệt,

câm điếc và nhiều người bệnh khác, rồi đặt dưới chân Chúa. Ngài chữa lành cho họ. 31 Khi thấy người câm nói được, người khuyết tật được lành, người què đi

được, và người mù thấy được, dân chúng kinh ngạc và ca ngợi Đức Chúa Trời của I-xơ-ra-ên.

32 Chúa Giê-xu gọi các môn đệ đến và nói: “Tôi cảm thương dân chúng, vì họ ở với tôi đã ba ngày rồi mà bây giờ không có gì ăn cả. Tôi không muốn để họ bụng

đói đi về, e họ sẽ bị xỉu dọc đường chăng!” 33 Các môn đệ thưa: “Tại nơi hoang vắng này chúng tôi tìm đâu ra đủ bánh để quần chúng đông đảo như thế này ăn cho no?”

34 Chúa Giê-xu hỏi họ: “Anh em có bao nhiêu ổ bánh?” Họ nói: “Thưa, có bảy ổ và vài con cá nhỏ.”

35 Chúa truyền cho dân chúng ngồi xuống đất, 36 rồi cầm bảy ổ bánh và những con cá ấy, dâng lời cảm tạ, bẻ ra trao cho các môn đệ; các môn đệ phân phát cho

dân chúng. 37 Tất cả đều ăn no nê. Sau đó, họ giữ lại những miếng vụn thừa, được bảy thúng đầy. 38 Số người ăn hôm ấy, chỉ tính nam giới là bốn ngàn người, chưa

kể phụ nữ và trẻ em. 39 Sau khi giải tán dân chúng, Chúa xuống thuyền đi đến vùng Ma-ga-lan.

(Mat Mt 15:29-39)

H ội chúng đi theo người lãnh đạo vì cớ gì? Dân chúng đến với Chúa Giê-xu là vì Chúa Giê-xu hoặc vì nhu cầu của họ? Chúng ta thấy cả hai: Chúa Giê-xu quá tuyệt vời cho nên tôi đến với Chúa; hoặc: Tôi, người thân của tôi, bạn bè của tôi bị đau,

bị điên, bị đui, bị điếc… cho nên chúng tôi đến với Chúa. Dù cho là vì cớ gì đi nữa thì Chúa Giê-xu vẫn là một Người vừa trên cả tuyệt vời vừa có thể thoả mãn nhu

cầu của những người đến với Ngài. Vấn đề người lãnh đạo cần suy nghĩ là hội chúng đến với người lãnh đạo vì cớ gì? Vì người lãnh đạo hoặc vì nhu cầu của hội

chúng? Trong câu chuyện Chúa Giê-xu chữa bệnh cho nhiều người và nuôi bốn ngàn

người ta thấy có ba nhóm người: (1) Nhóm lãnh đạo. (Chúa Giê-xu). Ít nhất.

(2) Nhóm phục vụ. (Các môn đệ). Một số người. (3) Nhóm hội chúng. (Dân chúng). Đông người.

Ai trong chúng ta cũng có ít nhiều kinh nghiệm về ba nhóm trên. Khi phụ trách ban ngành, bạn là người lãnh đạo. Khi đi nhóm thờ phượng, chúng ta thuộc về hội

chúng; rồi đi thăm viếng, làm công tác xã hội…, chúng ta là người phục vụ. Bạn hiện đang ở trong nhóm nào? Bạn thấy ở trong nhóm nào dễ nhất? Nhóm lãnh

đạo, nhóm phục vụ hoặc là hội chúng? Làm sao chúng ta thoả lòng khi tham gia vào các nhóm kể trên?

Chúa Giê-xu (Lãnh đạo)

_________________

C á c m ô n đ ệ (P h ụ c v ụ)

_______________________________

D â n c h ú n g ( H ộ i c h ú n g )

N hóm dễ chịu, dễ thở, dễ ăn nhất là ‘nhóm hội chúng’. Vì đông nhất cho nên hội

chúng cũng là nhóm người ‘nhiều bịnh tật nhất’. Hội chúng có thể trở nên thụ động hoặc sinh động, dễ tan rã hoặc dễ tập họp, có mục đích hoặc chẳng có gì cả. Nếu

không có hội chúng thì chẳng cần đến người phục vụ và người lãnh đạo. Hội chúng ngày hôm nay (trong đó có bạn và tôi) rất khác xa với ‘đám đông dân

chúng’ ngày xưa. Kẻ thù của Chúa Giê-xu cho rằng ‘đám dân chúng’ là những người ‘chẳng thông hiểu luật pháp gì cả’ (GiGa 7:49). Chính đám người đó lại là

những người hưởng được nhiều điều nhất từ Chúa Giê-xu. Còn ngày nay, nhiều người đi nhà thờ đã lâu năm lại nói rằng mình chẳng nhận

được gì cả, chẳng kinh nghiệm thêm điều gì ngoài việc tin Chúa. Sau bao nhiêu năm theo Chúa có người vẫn chưa làm chứng về Phúc Âm được (vẫn còn câm), có

người vẫn không hiểu nổi Lời Chúa (còn nghễnh ngãng), người khác thì vẫn chưa tự lo cho bản thân (vẫn còn liệt). Đây là hình ảnh của một hội chúng bệnh hoạn

triền miên, luôn luôn bị đói vì không có thức ăn thuộc linh cho nên thiếu những hoạt động có kết quả gây kinh ngạc. Khi nhận xét về một người nào đó, có người bảo: ‘Anh ta làm tín đồ còn chưa xong

vậy mà bày đặt làm thầy…’ Hoặc là: ‘Không biết ông ta làm tín đồ có nổi không, chứ đừng nói làm nhân sự…’ Về một phương diện câu nói này cho thấy hội chúng

là cấp lớp vỡ lòng. Cả người phục vụ lẫn người lãnh đạo đều có một thời gian làm thành viên của hội chúng, đều phải nỗ lực học tập như mọi tín hữu khác.

N hóm phục vụ thì sao? Nhóm người này không đông đảo như hội chúng, nhưng họ xuất thân từ hội chúng. So với hội chúng họ là những người ít mắc bệnh ‘què quặt, đui mù, bại liệt, câm điếc và các bệnh khác’. Tuy nhiên họ cũng không phải

là những con người hoàn toàn. Vì tuy ít ‘bệnh’ nhưng họ lại thường ‘mắc tật’. Họ cần được tỉa sửa nhiều về những ‘tật xấu’ trong quan niệm, trong cách sống với

nhau khi phục vụ. Ngày xưa qua cái nhìn của giới lãnh đạo Do Thái giáo, nhóm phục vụ là các môn

đệ, ‘là những người từng ở với Chúa Giê-xu’ và ‘là những người dốt nát không học’. Họ thuộc về tầng lớp lao động bình thường trong xã hội. Thế nhưng họ đã chuyển thông điệp của Phúc Âm từ Lời đến hành động; từ trời cao đến tận cuộc

sống đời thường. Còn Hội Thánh ngày nay, rất nhiều người phục vụ thuộc tầng lớp tri thức Cơ Đốc,

trải qua nhiều khoá huấn luyện, nhưng tiếc thay, nhìn họ người ta không rõ họ có thật sự ở với Chúa Giê-xu hoặc không. Chẳng những họ không giữ được trật tự cho

hội chúng mà lại luôn nói câu ‘xin… giải tán!’ để ‘họ… tự mua thức ăn’, vì ‘chúng ta không có…’ Ý muốn nói là chúng ta không làm được gì đâu. Là người phục vụ

mà chỉ đi tới đi lui với đôi tay trống rỗng và giơ lên đầu hàng vì không biết phải làm gì cho hội chúng thì thật là tiếc.

C òn giới lãnh đạo thì sao? Nhóm này ít người nhất. Thường thường một nhóm phục vụ mười hai người có

một lãnh đạo (Chúa Giê-xu và nhóm mười hai người). Trong đó có thể một nhóm hạt nhân gồm lãnh đạo và ba người (Chúa gần ông Phi-e-rơ, Giăng và Gia-cơ), rồi

có thể mỗi người trong ba người này chịu trách nhiệm về ba môn đệ còn lại; mười ba người lãnh đạo 72 người (Chúa, nhóm mười hai người và 72 môn đệ); rồi 85

người lãnh đạo vài ngàn người (4 ngàn, 5 ngàn…) Đặc điểm của nhóm lãnh đạo là họ có một người lãnh đạo rất tuyệt, họ vừa đi theo

người lãnh đạo để làm môn đệ, họ vừa tập làm hội chúng khi nghe Chúa giảng dạy, họ vừa học vừa tập làm người phục vụ khi được Chúa huấn luyện và sai đi từng

đôi; và họ tập tành

1 Chúa _________

3 Phi-e-rơ,

Giăng, Gia-cơ __________________

12 s ứ đ ồ

__________________________

7 2 m ô n đ ệ

__________________________________

5 0 0 0 n g ư ờ i 6 0 0 0 n g ư ờ i 7 0 0 0 n g ư ờ i

làm người lãnh đạo những nhóm nhỏ ngay trong thời gian theo Chúa. Họ là loại người 3 trong 1 - vừa là thành viên của hội chúng, vừa là người phục vụ và vừa là người lãnh đạo, nhưng mục tiêu chính của họ là trở nên người phục vụ và người

lãnh đạo. Ngày nay, trong các cộng đoàn Cơ Đốc, thành phần lãnh đạo đông người hoặc ít

người đều có trong tay cơ cấu tổ chức rất chặt chẽ và bài bản. Thế nhưng bên trong cơ cấu đó họ là những nhà lãnh đạo cô đơn, không có ai đi theo họ. Nhà thờ trở thành xí nghiệp có giám đốc với công nhân và sản phẩm (thường thường là kém

chất lượng). Thiếu gì người lãnh đạo biết rõ rằng người ta đã chán ngấy mình rồi, học viên đến với nhóm học Kinh Thánh chẳng qua là thương hại tổ trưởng, hội

chúng đến nhà thờ chỉ vì thương hại người chăn vì hội chúng không hi vọng nhận được gì từ nơi giới lãnh đạo. Họ không có ‘quyền’, cũng chẳng có ‘bánh’, cũng

chẳng có ‘cá’ cho hội chúng. Cho nên họ chẳng ‘chữa lành’ cho ai được, cũng chẳng cho ai được ‘ăn no nê’. Nói cách khác chẳng có gì là hấp dẫn hoặc tuyệt vời

cả. Làm ‘dân’ không phải là chuyện dễ ăn, còn làm ‘bồi bàn’ để ‘làm vui lòng khách

đến vừa lòng khách đi’ thì không phải là chuyện của những tay mơ, còn trở nên người lãnh đạo như Chúa Giê-xu thì lại là chuyện quá khó.

Thế thì phải làm sao khi bạn là con-người-ba-trong-một? T rước hết bạn hãy làm một người trong hội chúng. Hãy nhìn vào tấm gương của những hội chúng tích cực (câu 29-31). Nếu bạn là người phục vụ hoặc trở thành

người lãnh đạo của một hội chúng, bạn sẽ mong mỏi hội chúng đó như thế nào? Kinh nghiệm bản thân từng là thành viên của một hội chúng từ tiêu cực trở nên tích

cực, từ thụ động trở nên chủ động sẽ giúp cho bạn rất nhiều khi phục vụ hoặc lãnh đạo sau này.

Có nhiều từ liên quan đến dân chúng. Họ: (1)Đến cùng Chúa, (2)Đem theo… (3)Đặt dưới chân Chúa. (4)… Được. Và ...

(1)Dân chúng đông đảo đến với Chúa Giê-xu vì nhu cầu có thật của bản thân họ. Nhu cầu của họ rất đơn giản, nhưng rất thật: họ muốn gặp mặt Chúa, muốn nghe

Chúa nói, muốn thấy việc Chúa làm, muốn Chúa chữa lành tật bệnh cho họ. Điều nguy hiểm của giới phục vụ và giới lãnh đạo ngày nay phải chăng là họ đặt

vấn đề (không sai và không chê vào đâu được) ‘Đến với Chúa tay trắng thôi sao?’ Do đó họ lo làm việc Hội Thánh, lo làm cho có để mang theo khi đến với Chúa.

Nhưng nếu ‘tập làm dân’ có lẽ trước hết chúng ta phải đến với Chúa vì nhu cầu có thật của bản thân thay vì chỉ lo chạy đôn chạy đáo làm điều này việc kia cho người

khác. (2)Để lo cho bản thân, chỉ cần một mình đến với Chúa Gê-xu, để lo cho người

khác thì chính mình phải đem theo, phải đưa người khác đến cùng Chúa. Như vậy ta đến với Chúa không những chỉ vì nhu cầu thật của bản thân mà cũng vì nhu cầu

thật của người mà ta quan tâm đến. Một hội chúng thất bại là hội chúng không có ước muốn gì cả. Họ không nhận ra

nhu cầu của họ. Hội Thánh không có gì hấp dẫn họ. Họ chẳng khao khát Chúa Giê-xu. Họ không quan tâm đến tình trạng của bản thân cũng chẳng để ý gì đến

tình trạng và nhu cầu của những người quanh họ. Vì không thật sự lo cho mình, cũng không lo cho nhu cầu của người khác, nên đến với cộng đoàn Cơ Đốc họ thấy không có gì hào hứng.

Bản thân đến với Chúa phải tốn thời gian và sức lực; khi đem người khác đến với Chúa càng tốn nhiều thời gian và sức lực hơn nữa. Chúa Giê-xu đi đến bờ hồ, rồi đi

lên núi cao, muốn đến với Chúa tôi phải đi đến bờ hồ, rồi đi lên núi cao. Thật là mệt. Nhưng đó là thách thức mà hội chúng cần đối diện và vượt qua khi muốn đến

với Chúa. Thách thức đó dành cho những người lo cho bản thân và cả cho những người lo cho người khác.

Bạn lo cho bản thân và lo cho người khác đến mức độ nào? Nói rõ hơn là trong mối quan hệ với Chúa, bạn lo cho đời sống thuộc linh của bạn đến mức độ nào. Chỉ

dừng lại ở mức độ suy nghĩ, hoặc tiến đến mức độ hành động cụ thể. Hoặc nói cách khác bạn lo cho bản thân như một người biếng nhác hoặc như một người siêng

năng, như người dại dột hoặc như người khôn ngoan? (3)Khi bản thân có nhu cầu, khi đưa người khác với nhu cầu của họ đến với Chúa thì mới có thể đặt mình dưới chân Chúa. Đặt gì dưới chân Chúa Giê-xu? Không

phải là lễ vật, cũng chẳng phải là con sinh, mà là con người thật của bản thân và của họ. Con người thật của chúng ta và của người chúng ta đem đến không phải là

con người toàn hảo, cũng không phải là con người biết ‘hiến cả thảy cho Ngài’, nhưng là con người yếu đuối, bệnh tật. Đây là hành động của niềm tin tích cực,

giao phó cho Chúa, tin Chúa giải quyết nhu cầu của mình, xin Chúa chữa lành cho con người của mình.

Bạn nghĩ xem khi một hội chúng gồm những con người đến với Chúa vì nhu cầu thật của mình và vì nhu cầu của những người mà mình quan tâm, ai nấy đều đặt

chính mình và những người mình yêu mến dưới chân Chúa, ngay cả khi chưa có phép màu xảy ra, những con người hoạt động trong hội chúng đó cũng đã làm cho

không khí của cộng đoàn trở nên sinh động rồi. Thất bại lớn nhất của cộng đoàn ngày nay, phải chăng do chúng ta không thật sự

đến với Chúa? Phải chăng chúng ta đến với Chúa với nhu cầu không thật? Phải chăng chúng ta không thể đặt chính mình hoặc đặt người khác dưới chân Chúa chỉ

vì chúng ta không thật sự lo cho bản thân, cũng không thật sự lo cho người khác. Là một người lãnh đạo hoặc một người phục vụ, bạn hãy bắt đầu ở điểm cơ bản

này. (4)Kết quả của việc bản thân đến với Chúa, đem người khác đến với Chúa, đặt

mình dưới chân Chúa là họ được lành. Được lành là mong mỏi cơ bản của các thành viên trong Hội Thánh. Trong hội chúng còn đầy dẫy những người ‘què quặt,

đui mù, bại liệt, câm điếc và các bệnh khác’ và họ cần được lành trước khi có thể trở nên hữu ích cho cộng đoàn.

Đôi khi chúng ta làm ngược lại, chúng ta bắt những người chưa được lành phải nghe cho ra, thấy cho rõ, nói cho được và làm cho tốt. Họ ráng nghe, ráng thấy,

ráng nói, ráng làm . Chẳng bao lâu họ sẽ xa Chúa, thất vọng nhiều hơn vì cớ gánh nặng chúng ta chất trên họ. Thử tưởng tượng một hội chúng với nhiều người được lành, tự nhiên sẽ là một hội

chúng có niềm vui, có tiếng ca tụng Chúa, có sức sống và sự năng động của Chúa. Không cần phải ép buộc mới nghe, mới nói, mới làm.

T iếp theo, hãy tập tành làm một người phục vụ. Trong câu 29-31 chúng ta không

thấy bóng dáng của người phục vụ đâu cả, dường như họ hoà lẫn trong đám dân chúng đông đảo. Thử hỏi trong ba ngày dân chúng đến với Chúa Giê-xu, các môn

đệ làm gì? Nếu hỏi về Chúa Giê-xu thì có lẽ dễ trả lời hơn, Ngài làm hai việc chính: chữa bệnh và giảng đạo. Khi Chúa chữa bệnh, các môn đệ làm gì? Khi Chúa giảng các môn đệ làm gì? Nhân vật chính dường như là dân chúng và Chúa Giê-xu,

còn các môn đệ, những người phục vụ chỉ là cái bóng mờ. Họ đi tới, đi lui trong đám đông, có thể họ không mặc đồng phục như các nhân viên y tế trong các buổi

khám bệnh phát thuốc. Nhưng họ sờ sờ ra đó, mười hai người với bảy mươi hai người, nhưng ông Ma-thi-ơ lại không viết một chữ nào về họ cả.

Người phục vụ là người vô danh , không ai biết đến họ. Tuy vô danh nhưng họ là những người có một vai trò giữa hội chúng và người lãnh đạo. Trong một buổi

khám bệnh và phát thuốc cho người nghèo thì trung gian giữa y bác sĩ và bệnh nhân là các trật tự viên và các nhân viên y tế. Họ sắp xếp chỗ ngồi, giữ trật tự, ghi

số, hỏi thăm ghi hồ sơ bệnh, phát thuốc… Bệnh nhân thấy họ, nghe họ kêu tên, nghe họ dặn dò, nhưng sau đó hoàn toàn quên mất họ. Bệnh nhân chỉ trông đợi và

nhớ bác sĩ chớ không nhớ nhóm người phục vụ. Đến câu 32-39 ta mới thấy nhóm phục vụ xuất hiện. Nghĩa là sau ba ngày lo sắp

xếp, lo giữ trật tự, lo làm đủ mọi thứ chuyện lặt vặt cho đám đông và cho Chúa Giê-xu, bây giờ họ mới được nhắc đến. Và khi nhắc đến họ ta thấy người phục vụ

là người phải làm vô số việc. Những việc họ làm vừa liên quan đến nhu cầu trước mắt của đám đông, vừa liên quan đến Chúa Giê-xu, người lãnh đạo của họ. Khi

người bệnh đến thì làm những công việc này, nhưng khi đãi dân chúng ăn thì họ phải chuyển sang những việc khác.

Nhìn Chúa Giê-xu chữa bệnh cho bệnh nhân, còn các môn đệ thì hoà lẫn vào trong đám đông hoặc quanh quẩn gần bên Chúa, ta thấy Chúa thật quyền năng, còn các

môn đệ thì chỉ biết nhìn. Bạn đừng lo khi bạn đang làm người phục vụ mà phải làm loại công việc đơn giản, hèn mọn không quan trọng, và đôi khi chỉ biết đứng nhìn.

Bạn hãy an tâm vì tuy làm vô số việc lặt vặt nhưng người phục vụ là người vô quyền . Trách nhiệm của người phục vụ không phải là giải quyết vấn đề. Họ là

những người làm những công việc rất khiêm nhường, nhỏ nhặt, linh tinh với mục tiêu là giữ trật tự, đem lại sự bình ổn cho cộng đoàn, chuẩn bị cho từng cá nhân

trong cộng đoàn gặp được Chúa. Chính vì vô quyền mà người phục vụ là người vô vụ lợi . Người phục vụ không

phải là ‘dân cò’, hoặc là ‘dân mối lái’ để mà kiếm áp-phe. Ông Ghê-ha-xi, người phục vụ mà đòi làm cò, là gương xấu cho chúng ta. Thuật sĩ Xi-môn khi tin Chúa rồi vẫn tính chuyện ‘hối lộ’ tiền bạc để kiếm chút quyền năng nhằm phục vụ để

hành nghề kiếm lời đã bị ông Phi-e-rơ cảnh cáo. Điều chúng ta cần chú ý là Đấng có đầy quyền năng bày tỏ sự vô vụ lợi trong khi giúp người đáng giúp, thì vì sao

giới phục vụ lại đòi lợi lộc trong khi họ là những người vô quyền? Có một điểm khác nhau giữa người phục vụ với một người trong hội chúng, đó là

mối quan hệ giữa người lãnh đạo với người phục vụ không giống như mối quan hệ giữa người lãnh đạo với hội chúng. Chúa Giê-xu chữa bệnh cho dân chúng, nhưng

Chúa Giê-xu tâm sự với các môn đệ, nói với họ những việc Ngài muốn thực hiện. Ở đây chúng ta lại thấy người phục vụ là người phải đối diện với những điều vô lý.

Phải nghe những ước muốn thật vô lý như là muốn đãi đoàn dân; phải vâng lời thực hiện những công việc cũng vô lý, như là múc nước lã cho khách dự tiệc cưới

uống, như là bảy cái bánh và vài con cá mà có thể phân phát cho bốn ngàn người. Khi Chúa Giê-xu tâm sự với các môn đệ, Ngài biết họ là những người vô quyền, nhưng họ không thể là những người vô tâm và vô cảm trước nhu cầu thiết thực của

dân chúng. Họ phải dám đối diện với những thách thức từ dân chúng. Khi cá nhân mỗi người dám đối diện với thách thức thì sẽ có đời sống hào hứng và

kinh nghiệm nơi Chúa. Cũng vậy, người phục vụ cũng cần dám đối diện với những thách thức, những thách thức từ đối tượng mình phục vụ, những thách thức tưởng

chừng quá sức, rất vô lý. Nhưng bên kia những thách thức là niềm vui của những người phục vụ.

Chúa Giê-xu đặt trước các môn đệ một thách thức phát xuất từ nhu cầu của đoàn dân đông đảo, họ đang đói và đang đợi. Họ đã được lành rồi, bây giờ họ cần được

no đủ. Chúa không bảo các môn đệ hoá bánh cho đoàn dân vì họ chưa có quyền năng. Nhưng Ngài muốn họ nhận trách nhiệm về nhu cầu của đoàn dân này. Còn

việc đãi dân chúng là việc của Chúa. Thế thì người phục vụ là người như thế nào? Bạn hãy gắn bó với hội chúng và kết

hợp với người lãnh đạo. Vì sao? Vì bạn vô danh, vô quyền. Người phục vụ phải làm gì? Hãy gắn bó với hội chúng và nói chuyện với người lãnh đạo. Bạn sẽ biết

bạn phải làm gì.

C uối cùng hãy học cách lãnh đạo nơi Chúa Giê-xu. Câu 29: “Chúa Giê-xu đi đến bờ hồ Ga-li-lê, rồi đi lên núi và ngồi tại đó.” Trong vai trò là người lãnh đạo, có lúc

Chúa Giê-xu ‘đi tìm và cứu người bị chết mất’ nhưng cũng có lúc Chúa để cho người ta tìm đến với Ngài. Đây là đặc điểm rất bình thường của người lãnh đạo.

Người lãnh đạo là người biết khi nào mình cần đến với hội chúng và khi nào để cho hội chúng đến với mình. Khi để cho dân chúng đến với mình nghĩa là người lãnh đạo phải ‘ngồi tại đó’ mà

đợi dân chúng. Chúa Giê-xu ngồi tại đó bao lâu, chúng ta không biết, Ngài bắt đầu chương trình lúc nào? Khi có vài người hoặc đợi đến vài trăm hoặc vài ngàn,

chúng ta không biết. Có thể khi có người là Ngài bắt đầu công việc. Nơi Chúa Giê-xu chọn là nơi nào? Ở trên núi. Một địa điểm thích hợp cho số đông

người. Rõ ràng là Chúa Giê-xu đã tiên liệu trước địa điểm cần thiết cho chương trình Ngài sẽ làm. Ở đây chúng ta thấy người lãnh đạo cũng là người biết cách tổ

chức (phải chọn địa điểm thích hợp, phải biết tiên liệu, …) Một người muốn đến với Chúa Giê-xu, hoặc muốn đem người khác đến với Chúa

phải đi đến bờ hồ, phải đi lên núi. Chuyện không đơn giản, vì phải tốn thời gian, sức lực. Phải chăng Chúa làm tình làm tội đám dân tội nghiệp đang cần Ngài? Thật

ra không phải như vậy vì bất cứ ai muốn đến với Chúa đều phải trả một cái giá nào đó. Và đây là thuật lãnh đạo. Người lãnh đạo là người biết đề ra thách thức cho hội chúng . Bản thân mỗi người muốn đến với Chúa phải trả giá, phải vượt qua những

thách thức. Có thách thức mang tính cá nhân, có thách thức chung cho tất cả mọi người.

Câu 30a: “Dân chúng đông đảo đến cùng Ngài, đem theo… đặt dưới chân Ngài.” Chúng ta hãy tưởng tượng quang cảnh lúc bấy giờ, dù các môn đệ có giữ gìn trật tự

tốt cách mấy, thì số người đến với Chúa càng ngày càng tăng thêm. Con người càng tăng thì nhu cầu càng tăng và công việc càng tăng. Kinh Thánh cho chúng ta

biết những con người được ‘đem theo’ đó đều được đặt dưới chân Chúa. Ở đây chúng ta thấy người lãnh đạo là người phải chịu nhiều áp lực. Đặt biệt là áp lực từ

con người mình phục vụ. Đó là chưa kể đến những áp lực khác. Cho nên dù Chúa Giê-xu có ngồi ở đó, có ở núi cao thoáng mát thì Ngài không phải là người nhàn

nhã. Câu 30b: “Ngài chữa lành cho họ”. Thật là tuyệt diệu. Nếu Chúa Giê-xu không làm

được điều này, chuyện gì sẽ xảy ra? Nếu có nhiều người tìm đến, nhưng người lãnh đạo không làm được gì cho họ thì sẽ ra sao? Một hội chúng đông đảo trông đợi, kỳ

vọng rất nhiều nơi người lãnh đạo. Nhưng rồi người lãnh đạo không làm được gì cả thì sẽ ra sao? Nên nhớ rằng công tác của người lãnh đạo không phải là làm sao cho

có đông người tìm đến với mình, đi theo mình, đặt lòng tin nơi mình… mà là có bao nhiêu người được chữa lành. Muốn vậy người lãnh đạo phải là người có quyền

năng. Quyền năng chữa lành cho con người. Không ai huấn luyện, sắp xếp hàng ngũ cho một đạo binh ốm yếu bệnh tật. Nhiều nhà lãnh đạo lo tổ chức hàng ngũ lớp

lang, nào là tướng sĩ tượng xe pháo mã… nhưng toàn là những quân cờ thương tật. Cần chữa lành cho họ trước mới dùng họ được. Mà cũng không thể coi họ như

những con cờ được. Người lãnh đạo không phải chỉ thay đổi từng cá nhân con người, nhưng xoay

chuyển cả hội chúng . Chúa Giê-xu đã làm cho dân chúng kinh ngạc và ca ngợi Đức Chúa Trời. Muốn vậy người lãnh đạo phải cho hội chúng ‘thấy’. Mở đầu câu

31 là: ‘Khi thấy …’ Chúa Giê-xu không phải chỉ nói cho người ta nghe, nhưng Ngài cho người ta thấy. Đã nghe lời Chúa rồi, bây giờ dân chúng thấy việc Chúa

làm. Người lãnh đạo phải là người cho hội chúng thấy được công việc của Đức Chúa Trời qua từng đời sống cá nhân. Chính những nhân chứng sống đó làm cho hội chúng rúng động và ca ngợi Đức Chúa Trời.

Người lãnh đạo thay đổi hội chúng qua bản thân mình và qua những con người được thay đổi. Người lãnh đạo không nói: “Bà con hãy thay đổi đi!” Hội chúng

chưa thể thay đổi được nếu không có những cá nhân thay đổi, nếu chưa thấy quyền năng từ người lãnh đạo. Nhiều nhà lãnh đạo than thở: “Tôi nói mà chẳng ai chịu

nghe!” Phản ứng của hội chúng thường là thụ động ‘như tượng’ hoặc cùng lắm là cười mà thôi. Thật ra họ đã nghe nhiều rồi nhưng họ chưa thấy gì cả. Họ không

thấy quyền năng nơi người lãnh đạo, họ chỉ thấy những cá nhân đến với người lãnh đạo, đặt lòng tin cậy, nhưng sau đó thất vọng và tức tưởi bỏ đi (chớ không bỏ

Chúa). Những điều đó chỉ làm cho hội chúng kinh sợ và không ca ngợi Đức Chúa Trời.

Câu 32: “Chúa Giê-xu gọi các môn đệ đến và nói.” Từ câu 29-31, ta thấy ông Ma-thi-ơ chẳng viết gì về các môn đệ, và Chúa Giê-xu cũng chẳng nói gì với họ. Vì sao? Vì họ đang bận rộn phục vụ. Đến chiều ngày thứ ba, sau khi dân chúng đã

thấy rồi, đã nghe rồi, đã kinh ngạc và ca ngợi Đức Chúa Trời rồi; khi mà những người phục vụ nghĩ rằng sau phần tôn vinh là phần tất lễ để hội chúng ra về. Chúng

ta xong việc, ba ngày quá tốt, được phước quá, thành công quá, bây giờ là lúc chấm dứt để nghỉ ngơi. Lúc đó Chúa Giê-xu gọi họ đến và nói với họ, Chúa hướng

dẫn họ vào phương diện khác của sự phục vụ. Phục vụ là vô cùng, không có điểm chấm dứt. Muốn như vậy người lãnh đạo phải chia xẻ chương trình và ý định của

mình với người cộng sự. Chúng ta thường thấy người lãnh đạo chuyên ra lệnh và rất cách biệt với cấp dưới. Chúa Giê-xu không lãnh đạo theo kiểu đó.

Chúng ta học được nhiều điều nơi nội dung câu nói của Chúa Giê-xu trong câu 32. Người lãnh đạo yêu thương và quan tâm đến hội chúng. Muốn như vậy người lãnh

đạo phải hiểu người. Rất dễ nhưng rất khó. Rất đơn giản, rất bình thường nhưng vì quá đơn giản và quá thường tình cho nên người lãnh đạo không chịu hiểu, hoặc

không chịu quan tâm. Có lẽ chúng ta nên dùng một từ ngữ ít khi dùng cho giới lãnh đạo, đó là từ chu đáo. Chúa Giê-xu thật chu đáo. Ngài lo cho đoàn dân từng li từng

tí. Đó là tình yêu và sự quan tâm. Người lãnh đạo phải là người phát hiện nhu cầu của hội chúng. Không đợi có

người xỉu mới biết là họ quá đói. Không đợi họ ốm o gầy mòn mới biết là suy dinh dưỡng. Chúa không đặt đoàn dân trước một sự thách thức (như các môn đệ muốn

làm là để họ tự đi tìm mua thức ăn) vì họ đã vượt qua thách thức rồi (từ xa đến gặp Chúa), và vì nhu cầu của họ là cấp bách (đã ở lại và nghe giảng ba ngày rồi). Đoàn

dân mới kinh nghiệm ‘Chúa Giê-xu là một ra-bi’, họ mới kinh nghiệm ‘Chúa Giê-xu là một vị bác sĩ’, nhưng họ chưa kinh nghiệm ‘Chúa Giê-xu là một người

làm bánh mì’, họ mới tin Chúa ở một khía cạnh này, giờ đây cần tin Chúa trong một khía cạnh khác nữa.

Người lãnh đạo muốn người cộng sự suy nghĩ tích cực giống như khi đứng trước những thách thức. Khi tâm sự, chia xẻ với các môn đệ, Chúa không có ý bảo họ phải hoá bánh cho bốn ngàn người ăn, nhưng Ngài muốn khơi dậy nơi các môn đệ

sự quan tâm như Ngài, lòng cảm thương như Ngài, lòng ước muốn như Ngài. Người lãnh đạo cần có người đồng tâm, đồng tư tưởng… với mình. Các môn đệ

biết đoàn dân đông đảo, biết họ đang đói và nếu phải đáp ứng nhu cầu trước mắt thì các môn đệ cho rằng không có tiền và tìm đâu cho đủ bánh. Nói cách khác là

bất khả thi. Người lãnh đạo nên làm gì khi người cộng sự không hiểu hoặc không muốn hưởng

ứng điều người lãnh đạo muốn làm cho hội chúng? Chúa Giê-xu làm gì? Chúa Giê-xu hỏi các môn đệ: “Anh em có bao nhiêu ổ bánh?”

Trong lần hoá bánh nuôi năm ngàn người (Giăng 6), Chúa nhìn dân chúng đông đảo và Ngài hỏi ông Phi-líp: “Chúng ta mua đâu ra bánh cho họ đây?” (Câu 5).

Ông Giăng cho chúng ta biết: “Chúa hỏi như thế chỉ để thử ông Phi-líp, và thật ra trước khi hỏi Ngài đã biết mình sắp làm gì.” (Câu 6). Chúa hỏi để thử và Ngài sắp làm điều Ngài hỏi.

Trong Mác chương 6, Chúa đặt các môn đệ trước thách thức và trách nhiệm: “Chính anh em hãy cho họ ăn” (Câu 37a).

Các môn đệ thưa với Ngài: “Chúng tôi phải đi mua hai trăm đơ-na-ri tiền bánh để cho họ ăn sao?” (Câu 37b).

Chúa hỏi các môn đệ: “Anh em có bao nhiêu ổ bánh? Đi xem lại đi!” Sau khi đã thăm dò, họ thưa: “Chúng tôi có năm ổ bánh và hai con cá.”

Điều này cho thấy giữa câu hỏi ‘có bao nhiêu?’ của Chúa với câu trả lời ‘chúng tôi có…’ của các môn đệ có một khoảng cách, đó là việc đi thăm dò, tìm hiểu xem họ

có gì, dân chúng có gì. Lần này trước bốn ngàn người, Chúa tâm sự với các môn đệ, chắc chắn Ngài biết

mình sắp làm gì. Khi Chúa hỏi các môn đệ: “Anh em có bao nhiêu ổ bánh?” dường như không phải Ngài thử các môn đệ nữa mà Ngài nhắc nhở họ nhớ lại trường hợp

tương tự trước đó. Anh em không nhớ lần trước sao? Anh em không nhớ lần trước anh em đã làm gì sao? Khi Chúa Giê-xu hỏi, về phần Chúa, Ngài biết Ngài sắp làm

gì; về phần các môn đệ, họ biết Chúa đang nhắc nhở họ, bảo họ làm việc họ cần phải làm thay vì than thở và bó tay trước nhu cầu của đoàn dân. Người lãnh đạo

chẳng những biết việc mình phải làm, đồng thời cũng nhắc nhở người khác làm việc họ đáng phải làm.

Chúa Giê-xu nhắc nhở và khích lệ các môn đệ việc họ cần đi vào trong đoàn dân để thăm dò tìm kiếm. Người phục vụ cần thâm nhập vào hội chúng, không phải chỉ

biết nhu cầu của họ, mà còn cần biết họ đang có gì. Ngày nay Chúa có thể hỏi những những người phục vụ: “Anh em có bao nhiêu… Đi xem lại đi!” Có bao

nhiêu thực phẩm, bao nhiêu trang phục, bao nhiêu thuốc men, bao nhiêu tiền bạc, bao nhiêu tài năng, bao nhiêu thì giờ… Người lãnh đạo là người tìm kiếm sự góp

phần của người phục vụ và của hội chúng. Chúng ta hãy tưởng tượng những người phục vụ (các môn đệ) toả ra trong đám đông hơn bốn ngàn người để thăm dò xem ai có bánh và cá. Những người phục vụ

thay vì rao hỏi: “Ai cần bánh cần cá không?” bây giờ họ rao: “Ai có bánh có cá không?” Phải chi là ba ngày trước! Bây giờ thì còn gì nữa! Kết cục là sau khi đi

hỏi thăm, tìm hiểu, gom thu nhóm phục vụ chỉ đem về có ‘bảy ổ bánh và vài con cá nhỏ’. Thành tích quá khiêm tốn. Thế nhưng điều khích lệ những người phục vụ đó

là Chúa nhận lấy kết quả nhỏ nhoi đó. Người lãnh đạo không bao giờ từ chối sự đóng góp nhỏ nhoi nhất. Vì đây là công khó của một nhóm người và tấm lòng rộng

rãi của một vài người. Con người chúng ta thường bất mãn và coi thường hội chúng, chê bai sự đóng góp

của họ. Chúng ta nói rằng: Có chút xíu thì làm được cái gì. Và khi chê bai khả năng của hội chúng hoặc người phục vụ người lãnh đạo ngầm ý coi trọng khả năng

của mình, lo diễu võ dương oai và mắc bẫy ma quỷ. Chắc bạn ngạc nhiên khi thấy có một nhân vật đáng ghét được nhắc đến ở đây. Bạn hãy nhớ rằng người lãnh đạo Cơ Đốc luôn phải đối diện với những mưu chước phá

rối của ma quỷ. Bạn có nhớ trong sa mạc, khi Chúa Giê-xu bị đói, ma quỷ đã dụ dỗ Chúa Giê-xu làm gì không? Hoá đá thành bánh. Giờ đây Chúa có thể chê bảy ổ

bánh và vài con cá nhỏ và nói: “Chẳng cần ba cái vặt vãnh này, ta sẽ hoá đá thành bánh và cá cho đoàn dân.” Ngài có thể làm được, nhưng cùng lúc Ngài cũng rơi

vào cái bẫy của ma quỷ. Như nói ở trên, người lãnh đạo là nhà tổ chức. Khi tổ chức thì có sự phân công

giữa người lãnh đạo với nhóm phục vụ và hội chúng. Từ câu 35-39 người lãnh đạo là chủ tiệc, là người đãi bữa ăn; giới phục vụ là người bồi bàn; còn dân chúng đông

đảo là thực khách. Để có một bữa ăn mỗi nhóm cần biết vai trò và công việc của mình.

Trong vai trò người được mời, phận sự của dân chúng là tuân theo sự chỉ dẫn của người phục vụ (câu 35); trông đợi bánh và cá (câu 36); tiếp nhận bánh và cá (câu

36); ăn cho no (câu 37). Trong vai trò người phục vụ bữa ăn, phận sự của các môn đệ là sắp xếp, ổn định đoàn dân (câu 35); tìm bánh và cá trong dân chúng (câu 36);

tiếp nhận bánh và cá từ Chúa và phân phát cho dân chúng (câu 36); tổng kết sau khi thu dọn (câu 37) và thống kê (câu 38).

Trong vai trò là chủ tiệc, phận sự của Chúa Giê-xu là truyền lệnh (câu 35) và cầm bánh và cá, dâng lời cảm tạ, bẻ ra trao cho môn đệ (câu 36). Người lãnh đạo là

người truyền lệnh, là người tiếp nhận, là người cầu nguyện, là người cung cấp thực phẩm. Người lãnh đạo là người có mối liên hệ tốt với người cộng sự, với hội chúng

và với Đức Chúa Trời với mục tiêu là làm cho người cộng sự thật sự dấn thân phục vụ, cho hội chúng được no nê và danh Cha được tôn cao .

S au khi tất cả đều ăn no nê, Chúa Giê-xu giải tán dân chúng. Trong Mac Mc 8:9 ghi “Xong, Chúa cho họ ra về.” Người lãnh đạo phải trả hội chúng về với đời sống

thường nhật. Người lãnh đạo phải biết giải tán hội chúng. Thời gian lên núi, ở với Chúa đã đủ rồi, bây giờ trở về với đời sống trong những mối quan hệ. Chúa không

muốn giữ những con người vừa kinh nghiệm về quyền năng của Ngài ở lại với Ngài, Ngài muốn họ ra về trong niềm hân hoan vui sống trong xã hội. Chúa từng

nói với nhiều người: “Hãy về nhà! Chúc bình an!” Lên núi đến với Chúa cũng là thách thức, xuống núi trở về nhà cũng là thách thức. Thách thức đó phát xuất từ

mối quan hệ giữa người đó với Chúa, chớ không phải từ ngoại tại. Chúa đã nói với người vừa được Chúa đuổi quỷ, khi anh ta xin được theo Ngài, Chúa không cho,

nhưng Ngài bảo: “Anh hãy trở về nhà với bà con thân thuộc của anh, thuật lại cho họ về tất cả những việc Chúa đã làm cho anh và về tình thương của Ngài đối với anh!” (Mac Mc 5:18-19). Các thành viên trong hội chúng trở thành người hoạt

động. Hơn thế nữa người của hội chúng tiến đến chỗ của người phục vụ, trở thành người cộng sự của Chúa Giê-xu. Người lãnh đạo cần khích lệ hội chúng trở thành

người cộng sự với mình. Họ vẫn là những người của hội chúng, nhưng không phải là hội chúng bệnh tật, thụ động, thiếu ăn; nhưng trở thành những con người mạnh

mẽ, sinh động, no đủ. Trong khi hội chúng trở về với đời sống thì người lãnh đạo cũng phải lo trở về

đúng với vị trí của mình. Muốn như vậy người lãnh đạo là người biết chỗ dừng . Trong lần trước khi hoá bánh cho năm ngàn người ăn, ông Giăng ghi lại: Khi thấy

Chúa làm dấu lạ như thế người ta bàn: “Người này đúng là ‘vị tiên tri sẽ đến trong thế gian’, như Kinh Thánh báo trước.” Còn Chúa Giê-xu, vì biết họ sắp đến bắt

mình đi để tôn làm vua nên Ngài ẩn một mình trên núi (GiGa 6:14-15). Khi thành công, chỗ của người lãnh đạo là ở đâu? Ở một mình. Thật ra nhiều người lãnh đạo

và phục vụ không muốn ở một mình khi thành công. Họ muốn được tôn vinh, muốn được giải Oscar về những đóng góp to lớn cho nhân loại. Họ muốn khen

tặng nhau. Chúa Giê-xu thành công, dân chúng hiểu lầm Ngài, thật đáng buồn. Ngài thoả mãn nhu cầu cho họ, nhưng họ chưa hiểu đúng Phúc Âm của Ngài.

Nhưng không vì thế mà Ngài không vui lòng đãi họ ăn no nê, Ngài đãi họ, nhưng không đồng tình với những suy nghĩ sai trật của họ.

Người lãnh đạo có thể thất bại vì thành công. Cho nên phải hết sức cẩn thận khi thành công. Thành công có thể quật ngã người lãnh đạo. Con đường nhanh nhất dẫn đến thất bại là thành công.

Hãy làm một thành viên của hội chúng;

tập tành làm người phục vụ; học cách lãnh đạo nơi Chúa Giê-xu.

NGƯỜI LÃNH ĐẠO BIẾT NHÌN NHẬN

9 Trong lúc đó ta có nói cùng các ngươi rằng: Một mình ta không đủ sức cai trị các ngươi. 10 Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi đã gia thêm các ngươi, kìa ngày nay, các ngươi đông như sao trên trời. 11 Nguyện Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ

phụ các ngươi khiến các ngươi thêm lên gấp ngàn lần và ban phước cho, y như Ngài đã phán cùng các ngươi. 12 Một mình ta làm thế nào mang lấy trách nhiệm

và gánh nặng về điều tranh tụng của các ngươi? 13 Hãy chọn trong mỗi chi phái các ngươi những người khôn ngoan, thông sáng, có tiếng, và ta sẽ lập họ lên làm

quan trưởng các ngươi. 14 Các ngươi có đáp rằng: Việc ngươi toan làm thật tốt thay. 15 Bấy giờ, ta chọn lấy những người quan trưởng của các chi phái, là những

người khôn ngoan, có tiếng, lập lên làm quan tướng các ngươi, hoặc cai ngàn người, hoặc cai trăm người, hoặc cai năm mươi người, hoặc cai mười người, và làm quản lý trong những chi phái của các ngươi.

16 Trong lúc đó, ta ra lịnh cho những quan xét các ngươi rằng: Hãy nghe anh em các ngươi, và lấy công bình mà xét đoán sự tranh tụng của mỗi người với anh em

mình, hay là với khách ngoại bang ở cùng người. 17 Trong việc xét đoán, các ngươi chớ tư vị ai; hãy nghe người hèn như nghe người sang, đừng có sợ ai, vì sự

xét đoán thuộc về Đức Chúa Trời. Phàm việc nào lấy làm khó cho các ngươi, hãy đem đến trước mặt ta thì ta sẽ nghe cho. 18 Vậy, trong lúc đó, ta có truyền cho các

ngươi mọi điều mình phải làm. (PhuDnl 1:9-18)

P hân đoạn Kinh Thánh ghi lại lời nhắn nhủ của người lãnh đạo là ông Mô-se dành cho ‘các ngươi’ là hội chúng I-xơ-ra-ên. Ông Mô-se được Chúa chọn lựa, kêu gọi

và lập lên làm người lãnh đạo cho tuyển dân của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời dùng ông để hướng dẫn tuyển dân của Ngài. Nhưng sau một thời gian ông Mô-se

phát hiện ra rằng giữa ông và hội chúng đông đảo cần có một nhóm người làm trung gian để cùng với ông làm công tác lãnh đạo

Người lãnh đạo biết nhìn nhận. L à người lãnh đạo, ông Mô-se nhận biết thực lực của bản thân, nhận biết thực lực của Đức Chúa Trời, nhận biết hội chúng và nhận biết những người cộng sự với

ông. Là người lãnh đạo ông Mô-se nói: “Một mình ta không đủ sức cai trị các ngươi…”

(Câu 9). Đây là hình ảnh người lãnh đạo thừa nhận thực lực của bản thân. Người lãnh đạo cần ý thức về con người giới hạn của mình. Vì không phải là người có

trăm tay nghìn mắt, cũng chỉ có 24 giờ một ngày, phải đối diện với trăm công nghìn việc, người lãnh đạo cần thừa nhận rằng ‘một mình ta không đủ sức’. Khi thừa nhận như vậy người lãnh đạo chứng tỏ ông hiểu rõ bản thân mà đồng thời

ông cũng nhận được sự giúp đỡ rất nhiều. Đối với công việc, người lãnh đạo không còn ‘một mình’ làm hết việc này đến việc kia. Đối với Đức Chúa Trời ông hạ mình

và nhờ cậy nơi Ngài. Đối với cộng đồng, ông sẽ khiêm nhường tìm người cộng sự, không cố tình duy trì cảnh ‘một mình một cõi’ trong công tác phục vụ.

Ba giai đoạn trong cuộc đời ông Mô-se là một bài học cho những người lãnh đạo. Thoạt tiên ông cho rằng mình là ‘người có thể’ khi ông dùng sức mạnh của bản

thân để cứu giúp người anh em xa lạ của mình. Nhưng sau đó ông phải sống cuộc đời ‘người không thể’ khi đi chăn chiên trong đồng vắng. Cuối cùng Đức Chúa

Trời cho ông Mô-se biết rằng khi Ngài dùng đời sống của ông thì ông là ‘người có thể’.

Ông Mô-se thừa nhận sự yếu đuối của bản thân. Nhưng ông Mô-se nhìn thấy lời hứa, quyền năng và ơn phước của Giê-hô-va Đức Chúa Trời đối với tuyển dân của Chúa. Đây là hình ảnh người lãnh đạo nhận biết thực lực của Giê-hô-va Đức Chúa

Trời. Ông Mô-se nói: “Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi đã gia thêm các ngươi, kìa ngày nay, các ngươi đông như sao trên trời. Nguyện Giê-hô-va Đức Chúa Trời

của tổ phụ các ngươi khiến các ngươi thêm lên gấp ngàn lần và ban phước cho, y như Ngài đã phán cùng các ngươi” (Câu 10-11).

Đức Chúa Trời là Đấng làm cho công tác phục vụ của người lãnh đạo trở nên có kết quả. Ngài là Đấng thành tín, Ngài thực hiện lời hứa của Ngài, làm cho tuyển

dân tăng lên và ban phước cho họ. Vinh quang thuộc về Đức Chúa Trời. Nhìn thấy công việc Đức Chúa Trời làm đối với dân của Ngài sẽ giúp cho người

lãnh đạo thừa nhận thực trạng của cộng đồng của người thuộc về Chúa. Số lượng người thuộc về Chúa tăng là điều đáng mừng. Nhưng nỗi lo của người lãnh đạo có

trách nhiệm là lo về phẩm chất tốt hoặc xấu. Nếu cộng đồng Cơ Đốc chỉ gia tăng về số lượng nhưng thiếu phẩm chất Cơ Đốc thì cộng đồng Cơ Đốc đó chỉ là đám

đông vô dụng. Cần có một nhóm người chăm sóc và nuôi dưỡng phần thuộc linh của họ.

Nhìn thấy công việc Đức Chúa Trời làm đối với tuyển dân của Ngài cũng giúp cho người lãnh đạo tiếp tục thừa nhận thực lực của mình : “Một mình ta làm thế nào

mang lấy trách nhiệm và gánh nặng…” (Câu 14). Người lãnh đạo không từ chối trách nhiệm và gánh nặng nhưng muốn chu toàn trách nhiệm và gánh nặng. Người

lãnh đạo biết rằng nếu lãnh đạo theo kiểu ‘một mình’ thì không thể nào chu toàn trách nhiệm. Cần có nhiều người cộng tác để chia sẻ trách nhiệm và gánh nặng.

Người lãnh đạo khôn ngoan là người dám đề nghị với tuyển dân của Chúa để có người cộng tác và cùng chia sẻ trách nhiệm. Điều này chứng tỏ người lãnh đạo có

mối quan hệ tốt với tuyển dân của Chúa. Đây là hình ảnh người lãnh đạo công nhận cộng đoàn của mình . Ông không xa cách hội chúng, ông gần gũi họ, biết tình

trạng của họ, biết nhu cầu của họ và biết tôn trọng họ. “Hãy chọn… những người khôn ngoan, thông sáng, có tiếng, và ta sẽ lập họ lên

làm quan trưởng các ngươi” (Câu 13). Đây là hình ảnh người lãnh đạo công nhận người cộng sự của mình. Đây là những con người được chọn và được lập để chịu

trách nhiệm về những người trong chi phái mình. Họ không phải là người xa lạ đối với anh em của mình trái lại họ rất gần gũi và là người giữa vòng anh em mình mà ra. Chính những người được lập lên làm ‘quan trưởng’ này sẽ góp phần rất lớn

trong công tác phục vụ cộng đồng dân Chúa. Công nhận người cùng làm việc với mình không dừng lại ở chỗ ‘chọn’ những

người có phẩm chất tốt và ‘lập họ lên làm quan tướng’ mà còn chỉ dẫn cho họ biết trách nhiệm và biết phương cách để thực hiện trách nhiệm của họ. Nhiều người

được lập lên nhưng không được dẫn dắt chỉ bảo về vai trò của họ, cho nên đôi khi họ có tên trong danh sách nhưng không ích lợi gì cho cộng đồng. Như vậy chỉ làm

cho cơ cấu tổ chức trở nên cồng kềnh vô ích. Cần chỉ dẫn họ lắng nghe anh em. Họ cần biết giải quyết những nan đề mang tính

cá nhân của những người trong nhóm. Họ cần biết giữ mối liên lạc giữa anh em trong nhóm với người lãnh đạo trên họ.

Quan trưởng biết nhìn nhận. N gười lãnh đạo cần giúp những người cộng sự có nhận thức chính xác và đúng

đắn. Có nhận thức đúng đắn thì mới phục vụ hiệu quả. Được cộng đồng, được người khác công nhận là một việc, các quan trưởng cần nhận thức về chính bản

thân họ. Trong đời sống của người phục vụ Chúa, chúng ta nên sắp xếp những điểm sau đây

theo trình tự nào? - Được chọn. - Được lập lên. - Đời sống khôn ngoan, thông sáng, có tiếng tốt.

(1) Đời sống khôn ngoan, thông sáng, có tiếng tốt. (2) Được chọn.

(3) Được lập lên. (1) Người có phẩm chất khôn ngoan, thông sáng, có tiếng tốt là tiêu chuẩn để được

chọn và lập lên làm quan trưởng. “Hãy chọn trong mỗi chi phái các ngươi những người khôn ngoan, thông sáng, có

tiếng, và ta sẽ lập họ lên làm quan trưởng các ngươi” (Câu 13). “Bấy giờ, ta chọn lấy những người quan trưởng của các chi phái, là những người khôn ngoan, có

tiếng, lập lên làm quan tướng các ngươi” (Câu 15). Khôn ngoan và thông sáng ở đây không phải chỉ ở phạm trù tri thức mà ở trong

nếp sống kính sợ Chúa. Kính sợ Đức Giê-hô-va, ấy là khởi đầu sự khôn ngoan;

Sự nhìn biết Đấng Thánh, đó là sự thông sáng. (ChCn 9:10)

Khôn ngoan và thông sáng là nền tảng của một người lãnh đạo tốt. Phẩm chất khôn ngoan và thông sáng đến từ đâu? Đến từ mối tương giao với Chúa, chính nhờ mối

tương giao với Chúa mà một người trở nên khôn ngoan và thông sáng. Trái ngược của khôn ngoan và thông sáng là ngu muội và dại dột. Điều gì làm cho một người

trở nên ngu muội và dại dột? Biết bí quyết trở nên khôn ngoan và thông sáng bạn sẽ biết vì sao một số người lại trở nên ngu muội và dại dột. Muốn trở nên khôn ngoan và thông sáng bạn cần coi trọng sự tương giao với Chúa.

Nhờ tương giao với Chúa mà bạn được Chúa cảnh cáo, được Chúa hướng dẫn, được Chúa ban sức mạnh, được Chúa bảo vệ… Nếu trong tương giao với Chúa mà

bạn kinh nghiệm được ba điều sau đây thì phẩm chất khôn ngoan và thông sáng sẽ hình thành trong bạn. Bằng không thì bạn đánh mất sự tương giao, chỉ có kinh

nghiệm tiêu cực thì bạn đang ở trong tình trạng ngu muội và dại dột. a. Khi tương giao với Chúa chắc chắn Ngài nhắc nhở bạn về những tội lỗi còn vấn

vương trong đời sống của bạn. Bạn đã dứt khoát bỏ những tội lỗi đó hoặc bạn còn quyến luyến chưa chịu từ bỏ? Nếu ngay từ đầu bạn không chịu từ bỏ tội lỗi dù là

tội nhỏ nhoi thì bạn đang đi bước đầu vào một đời sống thiếu khôn ngoan, thiếu sáng suốt.

b. Khi tương giao với Chúa, với lời Chúa, bạn có hết lòng, hết ý, hết linh hồn không? Trong LuLc 6:46-49 Chúa Giê-xu trách những người xưng là có tương giao với Chúa nhưng họ chỉ tương giao cách nửa vời. “Sao các ngươi gọi ta: Chúa,

Chúa, mà không làm theo lời ta phán? (Câu 46). Tương giao đích thực, triệt để và nhờ đó trở nên khôn ngoan là: “Người nào đến cùng ta, nghe lời ta, và làm theo”

(Câu 47). Tương giao không phải chỉ có nói suông, không phải chỉ là tìm đến để nhìn, không phải chỉ là lắng nghe mà còn phải làm theo nữa. Nhờ làm theo lời

Chúa mà bạn có phẩm chất khôn ngoan và thông sáng. c. Khi tương giao với Chúa bạn có ý thức về sự hiện diện của Chúa trong tất cả

mọi sinh hoạt, mọi ngõ ngách của đời sống bạn không? Chúng ta thường chia đời sống của mình ra nhiều khu vực, nhiều căn phòng từ ăn uống, học hành, vui chơi

giải trí, âm nhạc, bạn bè… và có một căn phòng gọi là phòng VIP, chúng ta dành cho Chúa (!) Đó là căn phòng dành riêng cho Chúa sử dụng vào thời gian chúng ta

ấn định. Sáng sớm chúng ta xẹt vào chào Chúa, tối đến trước khi đi ngủ chúng ta chúc Chúa ngủ ngon; ngày Chúa nhật chúng ta mời Chúa đi nhà thờ… Nói chung

là có một vài giờ giấc nhất định. Chúng ta khoanh vùng và ấn định khu vực giới hạn của Chúa còn các khu vực khác chúng ta tự do hành động. Sống theo kiểu này

khó gọi là sống khôn ngoan, vì đậm tính lường gạt và ranh ma quỉ quái. Người khôn ngoan và thông sáng không chịu để tội lỗi vấn vương đời sống mình,

không tự đánh lừa khi xây dựng đời sống trên cát, không sống gian dối với Chúa, không giới hạn sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời mình.

Bạn thấy chưa? Người lãnh đạo Cơ Đốc không khởi đầu từ công việc nhưng từ bản thân, từ nội tâm, từ bản chất được hình thành nhờ mối tương giao với Chúa và lời

Ngài. Khôn ngoan và thông sáng sẽ quyết định con người lãnh đạo và phương thức lãnh đạo.

Bàn về sự khôn ngoan và thông sáng ChCn 8:1 viết: Sự khôn ngoan há chẳng kêu lên sao?

Sự thông sáng há không vang tiếng mình ra ư? Nếu sự ngu muội cũng gây tiếng vang (ChCn 9:13-16) thì sự khôn ngoan, thông sáng cũng bộc lộ ra, và lên tiếng. Cho nên một người ‘có tiếng’ mà phát xuất từ

phẩm chất khôn ngoan thông sáng sẽ khác với một người ‘có tiếng’ phát xuất từ sự ngu muội dại khờ.

Con người tìm cách tạo nên tiếng tăm bằng nhiều cách. Nhờ dáng vẻ bề ngoài, nhờ truyền thống gia đình, nhờ truyền thống Hội Thánh, nhờ môi trường đang học tập

là một cách tạo tiếng tăm. Sự nhiệt thành cũng tạo nên tiếng tăm. Sống giả dối, thiếu thành thật là một cách tạo nên tiếng tăm. Dùng tiền bạc, thế lực để gây ảnh

hưởng cũng tạo nên tiếng tăm. ‘Tiếng tăm’ của một quan trưởng phải phát xuất từ đời sống có phẩm chất khôn

ngoan và thông sáng. Cây tốt sanh trái tốt, đây không phải là tiếng tăm nguỵ tạo, mà là bông trái tự nhiên của đời sống có mối tương giao tốt với Chúa. Sống với

những bông trái giả tuy có tạo nên tiếng tăm, nhưng trước sau gì những trái giả cũng lộ ra. Đó là lý do khiến cho nhiều người lãnh đạo ‘nổi tiếng’ về những chuyện xấu xa không xứng đáng với vai trò lãnh đạo.

Tiếng tăm của bạn phát xuất từ đâu? Có phải từ phẩm chất khôn ngoan, thông sáng nhờ mối tương giao với Chúa không? Hoặc là phát xuất từ những điều gì khác?

Hãy nhớ rằng mối tương giao tốt với Chúa là nguồn của bản chất khôn ngoan và thông sáng, và khi được bộc lộ ra trong nếp sống sẽ tạo nên tiếng tốt. Nhờ đó cộng

đồng thân quen nhận biết và chọn lựa bạn. (2) Đối với chi phái của mình thì quan trưởng cần nhận thức rằng họ là người được

chọn. Ai chọn? Ông Mô-se nói với các chi phái: “Hãy chọn trong mỗi chi phái các ngươi…”, sau đó ông kể lại: “Bấy giờ, ta chọn lấy những người…”. Điều này cho

thấy từng chi phái cùng ông Mô-se chọn lựa những quan trưởng. Chúng ta thấy có sự kết hợp giữa các cộng đồng nhỏ với người lãnh đạo. Vừa cho thấy phương pháp

làm việc, vừa bày tỏ sự tôn trọng lẫn nhau, lòng tin cậy lẫn nhau và bổ sung cho nhau trong việc tổ chức nhân sự.

Ông Mô-se tôn trọng và tin cậy các chi phái sẽ chọn được những người xứng đáng, ngược lại các chi phái cũng tôn trọng ý kiến của ông Mô-se. Ông Mô-se cần người

giúp đỡ, các chi phái cần có người lãnh đạo, cả hai cần hợp tác với nhau trong việc chọn lựa, như vậy sẽ không buồn lòng nhau, không đổ hô cho nhau về những

người được chọn. Trong một chi phái có môt vài người được chọn. Nếu bạn là một trong những

người đó bạn sẽ nghĩ gì? Được chọn hoặc bị chọn? Vui hoặc buồn? Nhận lời hoặc từ chối? Thông thường những người được chọn có nhiều phản ứng khác nhau. Đó

là chuyện rất tự nhiên. Bản thân ông Mô-se khi biết Chúa chọn ông dẫn dắt tuyển dân của Ngài, ông nói: “Tôi là ai?...” Khi được Chúa chọn ông Ghê-đê-ôn rất

hoang mang và lưỡng lự, rồi hồ nghi về những gì Chúa muốn ông làm. Tuy nhiên đó chỉ là phản ứng thoạt đầu, sau đó họ đều toàn tâm toàn ý với việc họ được chọn.

Bạn có muốn bắt chước ông Ghê-đê-ôn xin Chúa hết dấu hiệu này đến dấu hiệu khác không? Coi chừng, vì khi xin những dấu hiệu đó bạn có thể trở thành người hồ nghi và lưỡng lự đối với công việc Chúa giao cho bạn.

Cũng nên nhớ rằng được chọn chỉ là bước khởi đầu thôi chớ chưa phải là điểm kết thúc. Đây là khởi đầu của sự tôn trọng còn việc bạn có được tiếp tục tôn trọng hoặc

không lại là vấn đề khác. Có một khởi đầu của cơ hội phục vụ nhưng chưa chắc bạn biết tận dụng cơ hội đó. Có một khởi đầu của một đời sống phục vụ nhưng

chưa chắc bạn sẽ bền tâm bền chí cống hiến. (3) Đối với người có thẩm quyền cao hơn, quan trưởng cần nhận thức rằng họ là

người được lập lên. Dù toàn thể một chi phái chọn ra quan trưởng, rồi công nhận, rồi toàn thể 12 chi phái công nhận quan trưởng, nhưng ông Mô-se, người lãnh đạo

của toàn thể cộng đồng là người lập quan trưởng vào chức vụ. Điều này cho thấy quan trưởng không phải chỉ chịu trách nhiệm đối với chi phái mình mà còn chịu

trách nhiệm đối với người lãnh đạo của mình. Quan trưởng làm việc theo chỉ dẫn của người lãnh đạo, người lập mình lên chớ không làm việc theo sự điều khiển của chi phái, của hội chúng.

Có những hội chúng khi nổi loạn đã nói: “Chúng tôi lập anh lên, anh phải nghe theo chúng tôi!” Người quan trưởng kiên định sẽ xác định rằng không phải hội

chúng lập quan trưởng nhưng người lãnh đạo lập quan trưởng. Hội chúng - quan trưởng - người lãnh đạo có thể bàn bạc với nhau, tham khảo ý kiến với nhau,

nhưng trong tổ chức của cộng đồng, quan trưởng phải vâng theo người lãnh đạo ở trên mình.

Khi chọn lựa thì căn cứ vào phẩm chất, nhưng chưa giao chức vụ, khi lập lên thì ban danh hiệu và giao chức vụ. Những con người có phẩm chất tốt bây giờ trở

thành người có chức vụ. Ông Mô-se dùng ba từ ngữ để chỉ về những người được lập lên, đó là: quan trưởng, quan tướng và quan xét (từ ‘cai’ và ‘quản lý’ là nói về

công việc). Khi nói đến quan trưởng là nói đến vai trò tổng quát của người lãnh đạo. Khi nói

đến quan tướng là nói đến vai trò chiến đấu của người lãnh đạo trong chiến trận với kẻ thù. Khi nói đến quan xét là nói đến vai trò dạy dỗ giám sát xét xử của người

lãnh đạo trong đời sống thường nhật. Một người có thể làm ba công việc này, cũng có thể ba người làm ba công việc này. Tuy nhiên ba từ ngữ trên cho thấy khi được

lập lên làm người lãnh đạo thì đương sự cần nhận biết vai trò và ảnh hưởng của mình đối với cộng đồng.

(4) Quan trưởng cần nhận thức rằng họ là người nhận công tác để phục vụ những người dưới mình . Được lập lên để phục vụ chớ không phải để hưởng quyền lợi

theo kiểu ‘ăn không ngồi rồi’ và ‘ngồi mát ăn bát vàng’. Ông Mô-se nhấn mạnh đến vai trò quan xét của người quan trưởng qua hai công việc ‘cai’ và ‘quản lý’

một số người từ 1000 đến 100, đến 50, đến 10 người. Để có thể hình dung mức độ của công việc chúng ta sẽ xem xét hai mô hình quản

lý: quản lý theo 3 cấp và quản lý theo 6 cấp. Trong XuXh 3:10. “Vậy bây giờ, hãy lại đây, đặng ta sai ngươi đi đến Pha-ra-ôn, để dắt dân ta, là dân Y-sơ-ra-ên, ra khỏi xứ Ê-díp-tô.” Câu Kinh Thánh này cho

thấy một tổ chức có 3 cấp quản lý: Đức Chúa Trời - Mô-se - Dân sự Lãnh đạo Chịu tr.nhiệm về ai? Chịu tr.nhiệm với ai?

Đức Chúa Trời Mô-se

Mô-se Dân sự Đức Chúa Trời

Đến XuXh 18:13-27 cho thấy một tổ chức có 6 cấp quản lý: Đức Chúa Trời -

Mô-se - Quan trưởng cơ - Thầy đội - Quan cơ 50 lính - Quan cơ 10 lính

Lãnh đạo Chịu tr.nhiệm về ai? Chịu tr. nhiệm với ai? Số

Đức Chúa Trời Mô-se 1

Mô-se Quan trưởng cơ Đức Chúa Trời 600

Quan trưởng cơ Thầy đội Mô-se 10

Thầy đội Quan cơ 50 Quan trưởng cơ 2

Quan cơ 50 Quan cơ 10 Thầy đội 5

Quan cơ 10 Dân Quan cơ 50 10

Trong 3 cấp quản lý, ta thấy:

1. Đức Chúa Trời chịu trách nhiệm về ông Mô-se.

2. Ông Mô-se chịu trách nhiệm về tuyển dân Chúa và ông Mô-se chịu trách nhiệm với Chúa.

3. Dân Chúa chịu trách nhiệm về hành vi của họ với Mô-se.

Trong 6 cấp quản lý, ta thấy: 1. Đức Chúa Trời chịu trách nhiệm về ông Mô-se.

2. Ông Mô-se chịu trách nhiệm về 600 quan trưởng cơ (1.000 người) và chịu trách nhiệm với Đức Chúa Trời.

Vì có hơn 60 vạn người, ông Mô-se cần 600 quan trưởng cơ. 3. Quan trưởng cơ chịu trách nhiệm về10 thầy đội (100 người), và chịu trách nhiệm

với ông Mô-se. 4. Thầy đội (100 người) chịu trách nhiệm 2 quan cơ (50 người)và chịu trách nhiệm với quan trưởng cơ.

5. Quan cơ (50 người) chịu trách nhiệm 5 quan cơ (10 người) và chịu trách nhiệm với thầy đội.

6. Quan cơ (10 người) chịu trách nhiệm 10 người và chịu trách nhiệm với quan cơ (50 người).

7. Dân sự chịu trách nhiệm về hành vi của họ và chịu trách nhiệm trước quan cơ (10 người).

Như vậy cứ 1.000 người ông Mô-se cần 131 người lãnh đạo, 100 người cần 13 người lãnh đạo.

10 người cần 1 người lãnh đạo.

Những cấp quản lý trong tổ chức này chỉ nói lên quan hệ giữa người với người, chưa nói lên quan hệ giữa người với Chúa.

(6) Quan trưởng cần nhận thức rằng họ là người có những mối quan hệ trong công việc .

Có phẩm chất tốt để trở nên một quan trưởng. Đã được chọn, được cộng đồng công nhận, được ông Mô-se lập lên. Bây giờ phải làm gì? Phải làm ‘quan xét’.

Từ một con người như bao nhiêu người khác bây giờ trở thành một quan trưởng, một quan tướng, một quan xét, tôi phải làm những gì? Câu 16-18 cho thấy các quan trưởng không bị bỏ mặc nhưng họ được ông Mô-se hướng dẫn cho biết phải

làm những gì. “Vậy, trong lúc đó, ta có truyền cho các ngươi mọi điều mình phải làm” (Câu 18).

a. Đối với người trên mình. Quan trưởng không phải chỉ biết người dưới mình là ai, nhưng trước hết phải biết người trên mình là ai. “Ta ra lệnh cho những quan

xét…” (Câu 16). Quan trưởng cần nhận lệnh của người trên mình. Có mối quan hệ với người ở trên mình. Người trên mình là ai? Tuỳ theo chức vụ của mình mà

chúng ta biết người trên mình là ai. (Xem sơ đồ). Người lãnh đạo dù lớn hoặc nhỏ cần thiết lập mối quan hệ với người trên mình. Mối liên hệ này không đơn thuần là

những mệnh lệnh hoặc những công việc phải thực hiện, nhưng là sự thông công giữa những người trong công tác lãnh đạo và phục vụ. Nếu ông Mô-se và các quan

trưởng không có mối quan hệ thông công với nhau tốt thì khó có mối quan hệ tốt trong công tác tốt.

b. Đối với người trong nhóm mình. Đây là điều ông Mô-se chia sẻ lại cho các quan trưởng: “Hãy nghe anh em các ngươi…” (Câu 16). Người lãnh đạo phải biết nghe

người trong nhóm của mình . Đây là cách thiết lập mối quan hệ tốt với nhau. Lắng nghe nói lên sự quan tâm. Lắng nghe thì phải tốn thì giờ. Lắng nghe thì cần kiên

nhẫn. Người lãnh đạo phải có đôi tai lớn mới nghe được. Là thường dân lắng nghe nhau khác với quan trưởng lắng nghe. Nhiều quan trưởng

đánh mất phẩm chất lãnh đạo khi làm một người của hội chúng trong cộng đồng Cơ Đốc. Thí dụ: Khi đi trại hè, bạn được chọn và giữ vai trò nhóm trưởng, bạn

chứng tỏ mình là một nhóm trưởng tốt, bạn lắng nghe tốt, giúp đỡ hoặc điều chỉnh tốt những sai trật của trại viên. Năm kế tiếp bạn cũng đi trại, nhưng một người

khác làm nhóm trưởng, thử hỏi bạn có còn giữ phẩm chất của người nhóm trưởng không? Cứ nhìn vào thái độ và sinh hoạt của bạn trong trại thì biết. Bạn có quan tâm đến những bạn khác trong nhóm, bạn có lắng nghe nhưng chẳng những bạn

không điều chỉnh những sai trật trong nhóm mà còn đầu têu những việc mà bạn biết một trại viên không nên làm. Bạn đã đánh mất khả năng và phẩm chất lãnh

đạo. Khi chưa làm quan trưởng bạn cũng lắng nghe, cũng quan tâm, cũng giúp đỡ để

giải quyết vấn đề. Nhưng khi trở thành quan trưởng thì việc lắng nghe của bạn khác hơn. Trước đây có thể bạn chỉ nghe một hai người gần với mình, thân với

mình, còn bây giờ bạn phải quan tâm và lắng nghe tất cả những người trong nhóm. Trước đây bạn có thể chọn người để lắng nghe, bây giờ làm quan trưởng, bạn trở

thành “cái thùng” chứa tâm sự của mọi người. Ở điểm này cho thấy bạn cần lắng nghe tất cả không phân biệt sang hèn thân sơ.

Tai thính rồi mới đến mắt sáng. Lắng nghe rồi lo giúp giải quyết. Người lãnh đạo cần đề ra cách giải quyết những nan đề trong đời sống thường nhật của người trong nhóm của mình . Chúng ta thường suy nghĩ đến những chuyện cao siêu thần bí

nhưng thật ra chúng ta cần quan tâm, lắng nghe và giải quyết những nan đề trong cuộc sống đời thường của các thành viên trong nhóm. Chính vì những rắc rối trong

cuộc sống đời thường đã làm cho đời sống của một cá nhân không trưởng thành, khiến cho mối quan hệ với Chúa, với người khác cứ mãi mãi lỏng lẻo. Cho nên khi

bạn giúp một người giải quyết những vấn đề đời thường chính là giúp người ấy trưởng thành trong nếp sống đạo.

Điều cần chú ý là khi bạn giải quyết vấn đề trong đời sống của các thành viên trong nhóm thì có thể gây ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực trên ‘khách ngoại bang ở

cùng ngươi’. c. Đối với Đức Chúa Trời và lời của Ngài. Ông Mô-se nói về sự ‘công bình’,

‘không tây vị’, ‘không sợ hãi’ khi đối diện với con người và khi giải quyết công việc. Người lãnh đạo rất dễ bất công, bất minh và bất hợp pháp, vì cho mình là

người bề trên, là người có quyền nên muốn làm gì thì làm. Cũng có những người lãnh đạo dễ bị mua chuộc và dẫn dụ, cho nên tây vị. Cũng có những người lãnh

đạo không chịu nổi những áp lực, họ sợ mất lòng, sợ mất bạn, sợ mất đủ thứ… Ông Mô-se nêu lên nguyên tắc làm kim chỉ nam cho các quan trưởng trong khi thi

hành chức vụ của họ. Đó là ‘sự xét đoán thuộc về Đức Chúa Trời’ . Đây là chìa khoá giúp cho các nhà lãnh đạo khi giải quyết những vấn đề trong cộng đồng.

Theo luật của đời này, theo luật rừng… sẽ không có tình yêu thương và sự công chính. Theo ý con người, (ý của bản thân, ý của người khác), theo tình cảm… sẽ

tây vị, thiên lệch. Theo sự nhìn nhận của bản thân, theo phán đoán về hậu quả… sẽ sợ hãi không dám thẳng thắn. Cho nên cần phải thực hiện công tác theo nguyên tắc

của Đức Chúa Trời. Một người lãnh đạo không có Lời Chúa thì khó mà sống theo nguyên tắc của Lời

Chúa . Không có mối tương giao với Chúa thì khó mà tin rằng sự xét đoán thuộc về Đức Chúa Trời. Khi nói rằng sự xét đoán thuộc về Đức Chúa Trời không có nghĩa là người quan xét không xét đoán, nhưng người quan xét thực hiện công việc

của mình với lòng tin rằng Đức Chúa Trời ở với mình và đồng công với mình trong công tác xét xử.

Nếu ông Mô-se thừa nhận thực lực hạn chế của mình thì ông cũng cho các quan trưởng biết họ cũng bị hạn chế. Có những việc họ không thể giải quyết được.

Nhưng không phải vì không giải quyết được những việc khó mà họ không có uy tín để làm quan trưởng. Nhiều người ngã lòng hoặc từ bỏ chức vụ lãnh đạo khi không

giải quyết được một vài việc nan giải trong cộng đồng. Hoặc họ tự ái, mặc cảm, quá yêu mình và chưa thừa nhận rằng họ cũng là con người có giới hạn nên mới

làm như thế. Ông Mô-se tạo cơ hội cho những người cùng cộng sự với ông, ông sẽ cùng họ giải

quyết nan đề. Điều này giúp cho các quan trưởng không bỏ dở những chuyện nan giải và biết cách giải quyết vấn đề một cách triệt để. Nhiều người lãnh đạo không giải quyết rốt ráo những vấn đề khó khăn hoặc bỏ dở công việc khi gặp những trở

ngại. Điều này làm cho hội chúng mất lòng tin nơi người lãnh đạo và trở nên thờ ơ đối với công việc.

Cần trao đổi với người lãnh đạo của mình những nan đề không giải quyết được để cùng nhau giải quyết. Điều này cho thấy quan trưởng không phải chỉ là người chỉ

biết thi hành mệnh lệnh của lãnh đạo mà còn có người lãnh đạo cùng san sẻ gánh nặng, người lắng nghe, chỉ dẫn và cùng giải quyết những nan đề trong chức vụ.