lich su van hoa vat chat thoi tien su dong nam a

Upload: sach-tinh-ha

Post on 07-Aug-2018

217 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

  • 8/20/2019 Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A

    1/29

    Science & Technology Development, Vol 10, No.09 - 2007

    Trang 36

    LỊCH SỬ  VĂN HÓA VẬT CHẤT THỜ I TIỀN SỬ  ĐÔNG NAM Á – MỘT THẾ K Ỷ ĐIỀN DÃ VÀ LIÊN HIỆP NGHIÊN CỨ U

    Phạm Đứ c Mạnh

    Tr ườ ng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM

    TÓM T  Ắ T: Việt Nam là bộ phận lãnh thổ  trung tâm “nằ m giữ a  Đông Nam Á”, t ừ   cổ  

     xư a đ ã có vị trí “tiề n đồn” (Avant-Monde) giữ a hai thế  giớ i văn minh Trung Hoa và  Ấ n  Độ.

    Tìm hiể u nhữ ng d ấ u tích hoạt động của con ng ườ i trong tr ườ ng k  ỳ l ịch sử   trên đấ t Việt Nam

    không tách r ờ i khung cảnh khu vự c là xu hướ ng nghiên cứ u phổ   cậ p trong giớ i “Việt Nam

    học” ở  nhiề u nướ c trên thế  giớ i trong nhữ ng thậ p k  ỷ g ần đ ây. C ũng trong thờ i gian này, số  

    l ượ ng các di tích văn hóa vật chấ t  Đông Nam Á đượ c phát hiện, khai quật và công bố  trong

    các công trình nghiên cứ u chuyên luận và t ổ ng hợ  p bằ ng nhiề u thứ  tiế ng khác nhau t ăng lên

    mau chóng.  Đã có học giả  t ừ ng báo động về   tình tr ạng “bùng nổ   thông tin khảo cổ  học” ở  

    nướ c ta và trong khu vự c, gây khó khăn cho việc theo dõi tri thứ c “đ ã đượ c tích l ũ y cần thiế tcho khu vự c chuyên môn hẹ p của mình, chư a nói đế n việc tìm hiể u tình hình chung”. Bài này

    cố  g ắ ng giớ i thiệu khái quát l ịch sử   nghiên cứ u văn hóa vật chấ t thờ i tiề n sử  – sơ  sử   Đông

     Nam Á vớ i nhữ ng chặng đườ ng tiế n triể n chính yế u t ừ  hơ n thế  k  ỷ nay, qua đ ó khắ c họa các k ế t

    quả khảo cứ u và nhận thứ c chuyên ngành và liên ngành về   Đông Nam Á cổ  xư a, trong đ ó có

    nhữ ng đ óng góp r ấ t đ áng k ể  của nề n khảo cổ  học Việt Nam. 

    1. NHẬN THỨ C LIÊN NGÀNH VỀ 

    MỘT THỰ C THỂ ĐỊA – VĂN HÓA

    RIÊNG BIỆT

    Tr ướ c đây, vùng đất này vô danh.

    Trong các cặ p mắt lữ  hành của nhà thám

    hiểm, linh mục truyền đạo, các nhà tự 

    nhiên học và quan chức “tiề n tr ạm” thực

    dân Phươ ng Tây, vùng thiên nhiên mơ   hồ 

    như  “viễ n địa- viễ n đảo” này đượ c hiểu

    như  là vùng đất bán lục địa và hải đảo

    nằm trong địa vực r ộng lớ n hơ n nhiều lần,

    có khi chung cùng bán đảo Ấn, hoặc gộ p

    cả  Cực Đông và Cực Nam Châu Á để 

    mang chung danh: Viễn Đông (Extrêm-

    Orient; Far East),…; có khi lại gồm thâunhiều khu vực hẹ p hơ n: Đông Dươ ng,

     Nam Dươ ng …, và cùng vớ i Nam Á (đồng

     bằng Ấn Hằng, bán đảo Indostan, Srilanka)

    hợ  p thành 1/10 miền địa lý tự nhiên (cấ p Á

    lục địa) của cả  liên lục địa Á-Âu. Từ cuối

    thế k ỷ 19, khi đượ c các học giả Áo đặt tên

    riêng “Sudost Asien”, miền đất-đảo này

     phân ranh vớ i Đông Bắc Á và Tây Nam Á

    như  một thực thể Địa-Sinh thái riêng biệt

    nằm giữa chí tuyến Bắc và xích đạo, mang

  • 8/20/2019 Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A

    2/29

    TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 10, SỐ 09 - 2007

    Trang 37

    chất bán đảo và điều kiện hoàn lưu gió

    mùa. Đây là bộ phận cực nam của tầng nền

    Châu Á, vớ i chất nền lục địa cổ  nhất

    Paleozoi, từ  vận động tạo sơ n Hymalaya

    cuối cùng tuổi Creta thuộc kiểu Thái Bình

    Dươ ng, dẫn đến sự  hình thành tầng nền

    Đông Dươ ng – cốt lõi của Đông Nam Á

    lục địa. Hiện còn dấu vết vùng rìa ở   dãy

    Cardamones (Campuchia) và Nam Tr ườ ng

    Sơ n, vớ i các tích tụ  sa thạch dày ở   cao

    nguyên Khorat và các tích tụ ngoại vi miền

    Tây Thái Lan. Vận động tạo sơ n tuổi

    Trung Sinh hình thành thềm Sunda tồn tại

    đến cuối Pleistocene muộn và bị nướ c biểnnhấn chìm tớ i 2/5 diện tích do gián băng

    cuối cùng khoảng 20.000 năm tr ướ c, tách

    r ờ i các đảo lớ n Borneo, Sumatra, Java và

    hàng ngàn đảo nhỏ, và ngắt đứt “vành đ ai

    núi l ử a” từ  Pegou Yoma (Myanmar) qua

    Java – Sulawesi – Philippine. Vớ i điều

    kiện địa hình cơ   bản gồm các sơ n khối

    thành tạo Trung Sinh và Tân Sinh chi phối

    các dòng chảy lớ n Mekong, Irrawadi,

    Salween, Chao Phraya… hướ ng biển phía

     Nam và Đông Nam, các cao nguyên và

    châu thổ  nội địa “mầu mỡ   bậc nhấ t thế  

     giớ i”, cùng “cõi thiên đườ ng cuố i cùng

    trên tr ần gian” vớ i nghìn đảo nhỏ. Nhiều

    học giả vẫn coi biển Đông như ranh giớ i tự 

    nhiên phân cách 2 thế giớ i đất liền và hải

    đảo Đông Nam Á; Trong đó, Đông Nam Álục địa chiếm gần nửa diện tích Khu vực

    (khoảng 1.800.000km²) thườ ng đượ c các

    nhà địa lý tự  nhiên – nhân văn phân ranh

    từ bán đảo Malacca tính từ eo Kra tr ở  lên.

    Đông Nam Á hải đảo là chuỗi đảo lớ n giáp

    Malacca như  Sumatra, Java, Borneo r ồi

    vòng qua phía Đông và hướ ng Bắc tớ i

    Sulawesi, quần đảo Molluca, lên

    Philippines vớ i 7.000 hòn đảo như “chùm

    chìa khóa mở   vào Biể n  Đông”[44], vớ i

    đườ ng Wallace (hoặc Huxley) phân ranh 2

    quần động vật Châu Á và Châu Úc, gần

    như  tươ ng ứng vớ i 2 vùng khí hậu nhiệt

    đớ i (Đông Nam Á lục địa, Bắc và Trung

    Philippines, Nam Sulawesi, Đông Java, cáctiểu đảo Sunda) và xích đạo (bán đảo

    Malacca, Sumatra, Tây Java, Borneo, Bắc

    Sulawesi, một phần Nam Mindanao), cùng

    2 thảm r ừng nhiệt đớ i r ụng lá (deciduous

    tropical forest) và r ừng mưa xích đạo

    (equatorial rain forest) [3: 1985]. Đươ ng

    nhiên, lãnh thổ  chung r ộng 4.476.000km²

    mang tầm cỡ   một tiểu lục địa này chắn

    ngang 2 châu lục (Á – Uc) và 2 đại dươ ng

    (Ấn Độ Dươ ng – Thái Bình Dươ ng) mang

    nhiều đặc điểm chung về  kiến tạo (khối

    trung tâm và miền uốn nế p Trung Sinh –

    Tân Sinh theo Bocdanov và Pusrovsky).

    Về khí hậu (“chiế c áo choàng chung ” của

    miền xích đạo – Á xích đạo, hay nhiệt đớ i

    nóng ẩm theo Alisov phân biệt vớ i Bắc Á

    khí hậu lạnh và Nam Á khí hậu thườ ngxuyên khô, vớ i lượ ng mưa trung bình trên

  • 8/20/2019 Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A

    3/29

    Science & Technology Development, Vol 10, No.09 - 2007

    Trang 38

    1000mm/năm). Về  thổ  nhưỡ ng (vùng địa

    hóa theo Gladovskaya), về  thế  giớ i động

    vật – thực vật Á miền Ấn Độ  – Mã Lai

    thuộc miền cổ  nhiệt đớ i (theo Aliukhin),

    vớ i thảm r ừng phủ  hơ n 60% diện tích,

    chiếm phân nửa r ừng giá tr ị  Châu Á

    (không tính Siberia) và vượ t xa Châu Âu,

    Châu Mỹ, Châu Đại Dươ ng, vớ i nhiều

    ngàn giống loài (tớ i 35000 loài cây có

    hoa), cùng các nguồn tài nguyên phong

     phú, đặc biệt như  thiếc, sắt, quặng laterite

    chứa k ền, nhôm, mangan, nickel, crom,

    k ẽm, chì, vàng, hồng ngọc, dầu mỏ…mà,

    theo nhiều địa lý gia phươ ng Tây(J.Barren, L.Bernot, I.Caive, S.Rursles,

    Delvert, G.Condominas), “không một nơ i

    nào trên thế  giớ i mà thiên nhiên l ại giàu có

    và đ a d ạng đế n thế ” [32]. Tính thống nhất

    của thực thể Địa – Văn hoá Đông Nam Á

    đượ c định tính ngay từ  thờ i băng hà Đệ Tứ 

    K ỷ, lúc các cầu lục địa r ộng lớ n thiết lậ p

    trên biển Đông khi hải thoái trong thế 

    Pleistocène đượ c xem như  là các “C ầu

    nố i” tạo điều kiện giao lưu thiết yếu các

    luồng di cư  động vật – thực vật và cả 

    những bầy ngườ i nguyên thủy từ  các dãy

    núi và các dòng chảy chuyển theo hướ ng

    Kinh tuyến – Á Kinh tuyến từ Nam Trung

    Quốc – bắc Việt Nam và tây Miến Điện –

     bắc Thái Lan trong diễn trình “Chinh phục

    Thái Bình Dươ ng” qua Mã Lai,Philippines, xuống Sumatra, Java, Timor…

    và ngượ c lại. R ồi, khi những cái “cầu

    Sunda” bị  đứt đi lúc biển dâng trong thế 

    Holocène, thì con ngườ i vẫn tiế p tục tiến

    trình này nhờ   tiến bộ  k ỹ  thuật, và họ  “l ại

    có thể   vượ t biể n vớ i nhữ ng thuyề n bè của

    mình” [25: 1985]; Và cứ thế, quan hệ giao

    lưu văn hóa – tín ngưỡ ng, chuyển giao k ỹ 

    thuật, lan truyền những cảm hứng về nghệ 

    thuật lại đượ c họ  tiế p tục và tăng cườ ng

    suất thờ i tiền sử – sơ  sử  từ  trình độ hàng

    hải nguyên thủy đến văn minh. Theo đó,

    quan hệ văn hóa từ  tiền sử giớ i hạn trong

    tiểu vực (theo giáo sư Mỹ W.Solheim II),

    Đông Nam Á lục địa đượ c tính từ  v ĩ  tuyến30 phía Bắc lên tớ i dãy Tần L ĩ nh hoặc

    sông Dươ ng Tử  xuống đến Singapore và

    Đông Nam Á hải đảo tính từ  Đài Loan

    thậm chí cả quần đảo Okinawa (Nhật Bản)

    qua quần đảo Andaman, Nicoba. Về  phía

    tây, đến tận Atsam (miền Đông Ấn Độ) có

    thể tính cả một bộ phận tây New Zealand.

     Nhưng tính thống nhất của khu vực

    này phải đượ c đặt trong khung cảnh Châu

    lục mớ i hiểu rõ chất “ Ngã Ba  Đườ ng”

    (Carrefour ) của các tộc ngườ i, văn minh

    và nghệ  thuật bản xứ  [24; 34: 1961]. Về 

    mặt lịch sử – văn hóa đượ c minh định như 

    một “Chỉ nh thể   trong đ a d ạng” (Unité

    dans la diversité) [56: 1978], mà dù có

    quan hệ  lâu đờ i và sâu nặng vớ i những

    “Cái nôi văn minh” cổ  kính và danh giá bậc nhất nhân loại ở  Thung lũng Ấn Hằng

  • 8/20/2019 Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A

    4/29

    TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 10, SỐ 09 - 2007

    Trang 39

    và Trung lưu Hoàng Hà thì vẫn là một

    Đông Nam Á nổi nét “ phi  Ấ n – phi Hoa”.

    Đó là hợ  p thể  văn hóa – văn minh miền

    núi-trung du-đồng bằng-hải đảo “thố ng

    nhấ t trong đ a d ạng ”. Vớ i giớ i hạn riêng từ 

     bắc (từ chân mạch Nam dải Tần L ĩ nh Nam

    Tr ườ ng Giang) xuống nam (gồm cả  bình

    nguyên Giang Hán, Giang Hoài) và tây

    (gồm cả  Atsam ở   bán đảo Đông An),

    Đông Nam Á là cươ ng vực phân bố  và

    sáng tạo văn hóa của những cộng đồng

    ngườ i bản địa nói các ngữ  hệ  lớ n nhất và

    có quan hệ nguồn gốc ngữ tộc Austric vớ i

    nhau như  Nam Á (Austroasiatic) – Mon-Khmer, Việt Mườ ng; Tày – Thái, Lào

    Mao, Tạng-Miến và Nam Đảo

    (Austronesian). Đó là một Đông Nam Á

    “ phi Ấ n” dù đã đón nhận và l ĩ nh hội những

    làn sóng văn hóa tôn giáo Ấn Độ dội đến

    từ  Tây Phươ ng Thiên Trúc ưa suy luận

    tr ừu tượ ng, hướ ng nội, coi tr ọng tính phổ 

    quát và khoa học nhân văn nặng màu sắc

    tâm linh. Đó cũng là một Đông Nam Á

    “ phi Hoa” từ  triết lý thực dụng và phươ ng

     pháp tr ực quan cụ  thể  đến hệ  thống quan

    niệm Nho giáo “tu thân, t ề   gia, tr ị  quố c,

    bình thiên hạ” từng theo chân các đoàn

    quân xâm lượ c chinh phục nhiều dân tộc

    gieo r ắc hiểm họa đồng hóa về  chính tr ị,

    văn hóa, nghệ  thuật, tôn giáo suốt trong

    tr ườ ng k ỳ lịch sử  [48]. Đó là hợ  p thể vănhóa – văn minh miền núi – trung du, đồng

     bằng và hải đảo “thố ng nhấ t trong đ a

    d ạng ”, vớ i quá trình đan xen giao lưu tiế p

     biến hội tụ nhiều tuyến, nhiều chiều, nhiều

     phong cách của các “ Nam Quố c sơ n hà”

    suốt chiều dài lịch sử từ  khi con ngườ i bắt

    đầu lao động đến lúc biết “nhậ p hòa và

    biế n đổ i thiên nhiên”. Vớ i phát minh nông

    nghiệ p, bắt đầu tr ồng tr ọt chăn nuôi, chiếm

    l ĩ nh đồng bằng và hải đảo, hình thành các

    dân tộc và sáng tạo văn hóa bản địa, xây

    đắ p truyền thống, Đông Nam Á đã tạo

    dựng bản sắc và bản l ĩ nh hội nhậ p phát

    sáng của riêng mình, khác Ấn và khác

    Hoa.Đó là hợ  p thể  các “hồn nướ c” mang

    những “hằ ng số ” (constances) của riêng

    mình giữa lửa (nươ ng r ẫy, hỏa thiêu) và

    nướ c (ruộng nướ c, thủy lậu); giữa đất liền

    (núi cao, chân núi, thung lũng trung du),

    đồng bằng (châu thổ  dọc sông và cửa bể)

    và hải đảo; giữa thuần dưỡ ng bò trâu, voi,

    ngựa làm gia súc trên thảo nguyên vớ i

    đánh bắt cá từ  hải thuyền trên sông biển;

    giữa Cự  thạch về  văn hóa và tư  tưở ng

    (Megalithisme) cùng những tổng thể  đại

    công trình kiến trúc đền núi-tháp tượ ng,

    trình độ  vô song kiểu Angkor, Vátphu,

    Pagan, Champa, Dhvaravati, Srivijaya,

    Majapahit…, bên những tiểu công trình

    kiểu nhà rông, đình làng, tr ống đồng…; và

    các bản sắc văn hóa riêng về  ẩm thực vàchốn ở , y phục và trang sức… “ phi  Ấ n –

  • 8/20/2019 Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A

    5/29

    Science & Technology Development, Vol 10, No.09 - 2007

    Trang 40

     phi Hoa” (đắ p thành đất, rào lũy tre, chắn

    gỗ, đi thuyền khác vớ i táng thức trong

    quan tài hình thuyền, ăn tươ ng và nướ c

    mắm; mặc váy áo bằng vỏ  cây, tơ i lá, da

    thú, lông chim khác vớ i đóng khố ở   tr ần;

    để r ăng tr ắng và nhuộm r ăng đen khác vớ i

    tết tóc, xõa tóc hay búi tóc, mang ngọc trai,

    ngọc bích hay hồng ngọc…) [56: 1978].

    2.THÀNH TỰ U KHẢO CỨ U VÀ

    NHẬN THỨ C CHUYÊN NGÀNH VỀ 

    VĂN HÓA VẬT CHẤT THỜ I TIỀN SỬ  

     – SƠ   SỬ   TRÊN ĐẤT LIỀN VÀ HẢI

    ĐẢO ĐÔNG NAM Á

    Lịch sử  nghiên cứu văn hóa nguyên

    thủy Đông Nam Á manh nha từ  đầu thế k ỷ 

    18, khi những rìu đồng khám phá ở  

    Celebes, nhóm đảo Meluccas, Java và các

    tr ống đồng Pedjeng, Bali tàng tr ữ  ở   Bảo

    tàng Leiden đượ c G.E.Rumphius miêu tả 

    từ 1705. Nhưng các công cuộc điền dã lớ n

    chỉ đượ c chú ý từ  nửa cuối thế k ỷ 19 – đầu

    thế k ỷ 20, khi phần lớ n Đông Nam Á thành

    thuộc địa đế  quốc và xuất hiện những tổ 

    chức khoa học Phươ ng Tây đầu tiên chỉ 

    đạo các chươ ng trình khảo cứu; Ví như,

    Hội nghiên cứu địa chất và Phái đoàn

    Khảo cổ  học (KCH) Đông Dươ ng – tiền

    thân của Tr ườ ng Viễn Đông bác cổ (Ecole

    Francaise d’Extrême-Orient - EFEO) của

    Pháp (1898-1899), Ủy ban KCH

    (Oudheidkundige Commissie) thành lậ p1901 và đổi thành Sở   KCH

    (Oudheidkundige Dienst) năm 1913 ở  

    Indonesia của Hà Lan, Bảo tàng Raffles và

     Ngành Mã Lai của Hội hoàng gia Châu Á

    (Malayan Branch of Royal Asiatic

    Society); hay Hội Siêm học (Siam Society)

    ở  Thái Lan.v.v… Những công bố phát hiện

    di vật văn hóa tiền sử  – sơ   sử  xuất hiện

    ngày càng nhiều ở   Indonesia, Mã Lai,

    Miến Điện, Campuchia và Việt Nam.

     Những cuộc khai quật thờ i này thườ ng ở  

    trình độ thấ p, thực thi đơ n lẻ ở  từng nướ c,

    nhưng thu hoạch lại r ất ấn tượ ng. Chẳng

    hạn cuộc khai quật cồn sò Gua Kepah; các

    di tích hang động vùng Perak – Ipoh ở  MãLai; ở   Cù Lao Rùa, các hang động Bình

    Gia, Bắc Sơ n, Hòa Bình (Việt Nam); các

    di chỉ thờ i đại Đồng ở  Indonesia …

     Những công trình hệ  thống phân loại

    tìm hiểu xuất xứ tr ống đồng Đông Nam Á

    tàng tr ữ  ở   nhiều bảo tàng Âu - Á như 

    Berlin, Dresden, Paris, London, Roma,

    Viên, Stockhom, Leiden, Kiev, Calcutta;

     Negara, Đại học Mã Lai, Raffles, Kuala

    Lumpur, Batavia, Jakarta… do các nhà dân

    tộc học Đức, Hà Lan, Áo chuyên khảo từ 

    r ất sớ m như:  A.B.Mayer, W.Foy (1884-

    1897 ),  F.Hirth (1904), J.J.M.Degroot

    (1898), J.D.E.Schmeltz (1896),

    G.P.Rouffaer (1917), H.Parmentier

    (1918), đặc biệt là  F.Heger (1902), ngườ i

    đầu tiên đề  xuất quê hươ ng tr ống HI ở  miền Bắc Việt Nam [29].v.v… Nhiều hoạt

  • 8/20/2019 Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A

    6/29

    TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 10, SỐ 09 - 2007

    Trang 41

    động sưu tầm cổ  vật của các nhà thám

    hiểm, truyền giáo, nhà thầu, s ĩ  quan, quan

    cai tr ị, bác s ĩ , địa chất gia, viên chức Châu

    Âu tại Đông Dươ ng; tại đảo Palawan,

    Baholi, trên quần đảo Philippine. Đặc biệt,

    các khám phá bất ngờ   của J.Bouchot ở  

    hầm mộ Cự  thạch Xuân Lộc (Việt Nam),

    các di tích kiến trúc tế  lễ  – mộ  táng và

    tượ ng Cự  thạch k ỳ  lạ  của thế  giớ i Nam

    Đảo trên cao nguyên Pasemah (Nam

    Sumatra). Các họa thạch dành cho giả thiết

    về “một cuộc viễ n chinh của hoàng t ử   Phù

     Nam” đến Nam Dươ ng [61], về cuộc viễn

    du “ Nhữ ng đứ a con của mặt tr ờ i” từ  HyLạ p đến Mỹ Châu ( Perry W.J.1918-1923)

    và các cuộc khảo cứu khai quật của TS

    Van der Hoop [33] ở  Indonesia; của Juneir

    Surveyor (1895), của thạc s ĩ   Dân tộc học

    I.H.N.Evans, ngườ i thành lậ p Hội nghiên

    cứu Khảo cổ học Mã Lai ở  các thậ p k ỷ 20

     – 30, H.D.Noone (1935), Mubin Sheppard

    (1936), H.D.Collins (1937), R.O.Winstedt

    (1941)… ở   các mộ hoa cươ ng chứa di vật

    đồng sắt và chuỗi hồng mã não, thủy tinh,

    gốm ở  Mã Lai… Cần k ể riêng về các khám

     phá ban đầu của L.Pajot từ 1924-1932 ven

     bờ   Sông Mã vớ i 700 di vật đầu tiên về 

    “Thờ i đại  Đồng thau ở   Bắ c K  ỳ  và Bắ c

    Trung K  ỳ” [21] mở  đầu cho các mùa điền

    dã lớ n Đông Sơ n của nhà khảo cổ  Thụy

    Điển O.Jansé 1935-1939 và chuyên khảo“ Nghiên cứ u khảo cổ  học ở   Đông Dươ ng ”.

    Các sưu tậ p này cũng là cơ   sở   để  nhiều

    chuyên gia thảo luận về  thuật ngữ  danh

    tiếng “V ăn hóa  Đông S ơ n”do R.Heine

    Geldern đề  xuất từ  1934. Các công trình

    của học giả  Pháp V.Goloubew về  di tích

    văn hóa, nghệ  thuật tr ống cùng “C ư   dân

     Đông S ơ n và ng ườ i M ườ ng” [21], bên các

    công trình của học giả  Hà Lan Van Stein

    Callenfels thảo luận về: “Tuổ i của tr ố ng

    đồng cổ ” (1937 ), của học giả  Nhật Bản

    T.Kobayashi về: “ N ề n văn hóa cổ  ở  đồng

    bằ ng Bắ c Bộ  Đông Dươ ng” (1937 ), của

    học giả Trung Quốc Tr ịnh S ư   H ứ a (1937):

    “Lượ c khảo về   tr ố ng đồng ”, của học giả Thụy Điển  Karlgren (1942) bàn về: “ Niên

    đại sơ   k  ỳ  văn hóa  Đông S ơ n” và O.Jansé

     bàn về  “ Nguồn g ố c văn minh Việt Nam”

    [34]… Có thể  coi Đại hội tiền sử  Viễn

    Đông lần 1 họ p tại Hà Nội mùa xuân 1932,

    là sự  kiện khoa học quốc tế  đánh dấu

    chặng đườ ng đầu tiên nghiên cứu lịch sử 

    văn hóa vật chất tiền sử Đông Nam Á của

    giớ i khoa học Phươ ng Tây, vớ i nghị quyết

    quan tr ọng thừa nhận thuật ngữ “V ăn hóa

     Hòa Bình” chung cho cả  khu vực. Bên

    cạnh Hội nghị khoa học Thái Bình Dươ ng

    lần thứ  4 ở  Djakarta 1929, Hội nghị  quốc

    tế  lần thứ  18 của các nhà Đông Phươ ng

    học ở   Leiden 12-1932, cũng là một Đại

    hội tậ p hợ  p hệ  thống các phát hiện đáng

    giá nhất, mở  đầu cho sự  liên k ết khu vựccủa giớ i khảo cổ quốc tế hoạt động ở  Đông

  • 8/20/2019 Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A

    7/29

    Science & Technology Development, Vol 10, No.09 - 2007

    Trang 42

     Nam Á - tiền thân của Hiệ p hội tiền sử An

    Độ-Thái Bình Dươ ng (Indo-Pacific

    Prehistory Association) ngày này, là khơ i

    nguồn cho những chuyên khảo tổng hợ  p

    đầu tiên từng mảng “ Đông Dươ ng” –

    “Miế n  Điện” – “Philippines” –

    “Indonesia” – “Mã Lai” ….của bức tranh

    tiền sử  Đông Nam Á, từ  “ Lần hội t ụ Hòa

     Bình” đến “ Lần hội t ụ  Đông S ơ n” của toàn

    khu vực. Các nghiên cứu này gắn liền vớ i

    tên tuổi “ Nhữ ng nhà tiề n khu” của Khảo cổ 

    học Đông Nam Á như: H.Mansuy [40],

    M.Colani [11], V. Goloubew [21], L.Finot

    [18], I.H.N. Evans [17], A.N.G.van derHoop [33], P.V.Stein van Callenfels [7],

    E.Patte [46], H.O.Beyer [5], P.Lévy [36],

    H.L.Movius [41], M.W.F.Tweedie [56],

    H.R.van Heekeren [28], O.Janse 34],

    G.Coedès [10] .v.v. Đươ ng nhiên, hầu hết

    các công trình nghiên cứu tổng hợ  p này

    thườ ng r ậ p khuôn theo mô hình giai đoạn

    của Châu Âu đươ ng thờ i, mang đậm ảnh

    hưở ng của lý thuyết truyền bá và thiên di

    tộc ngườ i từ buổi đầu thế k ỷ và nhìn chung

    đều đánh giá thấ p các thành tựu văn hóa

    Đông Nam Á. Điển hình nhất cho quan

    điểm chung của giớ i học thuật Phươ ng Tây

    là các học thuyết “truyề n bá”

    (diffussionisme) và “thiên di”

    (migrationisme) do nhà bác học về dân tộc

    và lịch sử  nghệ  thuật ngườ i Áo R.HeineGeldern xây dựng ở  Vien từ 1927 và hoàn

    thiện dần trong các chuyên khảo: “Quê

    hươ ng đầu tiên và nhữ ng cuộc thiên di sớ m

    nhấ t của ng ườ i Nam  Đảo”; “Nghệ  thuật

    tiề n Phật Giáo Trung Quố c và  Đông Nam

     Á và ảnh hưở ng của nó ở   Châu  Đại

     Dươ ng”; “V ấ n đề  ng ườ i Tochara và cuộc

    thiên di t ừ   xứ  Pont” [30].

    Trong các chuyên khảo đó, R.Heine

    Geldern đã tổng hợ  p toàn bộ  tri thức

    đươ ng thờ i về  khảo cổ  học, dân tộc học,

    ngôn ngữ học để phác dựng bức tranh toàn

    cảnh Đông Nam Á, nhưng khác vớ i các

    học giả chỉ quan tâm đến loại hình di vật,

    k ỹ thuật và niên đại, ông đặc biệt chú tâmđến văn hóa và con ngườ i, xây dựng mô

    hình theo truyền bá luận – một trào lưu phổ 

    cậ p trong nhân học phản ứng lại các lý

    thuyết tiến hóa luận của thế  k ỷ  19 [25:

    1983]. Ông tậ p trung trình bày 2 cột mốc

    quan tr ọng trong diễn trình văn hóa Đông

     Nam Á là Đá mớ i và Kim khí. Theo ông,

    trong thờ i hậu k ỳ Đá mớ i Đông Nam Á, có

    3 nền văn hóa nối tiế p nhau của 3 nhóm cư 

    dân khác nhau: văn hóa rìu hình tr ụ 

    (Walzenbeilkultur) của cư  dân nói tiếng

    Papua, văn hóa rìu vai (Schulterbeilkultur)

    của cư dân nói tiếng Nam Á và văn hóa rìu

    tứ  giác (Vierkantbeilkultur) của ngườ i nói

    tiếng Nam Đảo. Ông đặc biệt quan tâm đến

    cuộc thiên di của ngườ i Nam Đảo đến từ 

    Trung Quốc bằng nhiều hướ ng qua ĐôngDươ ng, Mã Lai toả ra hải phận Đông Nam

  • 8/20/2019 Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A

    8/29

    TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 10, SỐ 09 - 2007

    Trang 43

    Á và Châu Đại Dươ ng. Theo ông, chủ 

    nhân các văn hóa trên mang những yếu tố 

    văn hóa vật chất và tinh thần riêng biệt. Do

    vậy sự  biến đổi văn hóa khu vực này chỉ 

    diễn ra bằng sự  lan truyền và thay thế 

    nhau. Ở  các luận văn liên hệ đến thờ i đại

    kim khí, tác giả  coi các cuộc thiên di

    (Wanderung) như  phươ ng tiện quan tr ọng

    để  xây dựng mô hình văn hóa Đông Nam

    Á, đẩy xa hơ n quan điểm truyền bá luận

    của mình. Ông đề  xuất thuật ngữ  “V ăn

    hóa  Đông S ơ n” cho toàn bộ  văn hóa đồ 

    đồng thau ở  đông nam Trung Quốc, Đông

    Dươ ng và Indonesia, vớ i niên đại mở  đầukhoảng thế k ỷ 7-8 BC. Ông cố gắng chứng

    minh văn hóa Đông Sơ n trên toàn khu vực

    ấy bắt nguồn từ  các văn hóa Halstatt và

    Caucase ở   Phươ ng Tây, đặc biệt văn hóa

    của ngườ i Kimmer. Ông cố  gắng gắn

    nguồn gốc văn hóa Đông Sơ n vớ i các cuộc

    thiên di của tộc ngườ i Tochara, từ xứ Pont

     – tên cổ  của Hắc Hải, sang Phươ ng Đông

     băng ngang qua Trung Quốc. Dù không

    thừa nhận là “nhà truyề n bá luận” cực

    đoan hay ôn hòa (1956), nhưng các quan

    điểm do R.Heine Geldern khở i xướ ng

    đượ c ông duy trì bồi đắ p bảo thủ suốt trong

    nhiều thậ p k ỷ  sau. Ví như, năm 1932,

    R.Heinne Geldern không chấ p nhận quan

    điểm của W.J.Perry (1918) về  một cộng

    đồng cư  dân vớ i văn hóa khở i nguồn từ Đông Ấn có ảnh hưở ng của nền văn minh

    cao hơ n k ết hợ  p các đạo Bà Là Môn, Phật,

    Hồi giáo di cư  đến Indonesia vì nhu cầu

    tìm vàng và đồ quý, mang theo nghề tr ồng

    lúa và k ỹ  thuật ruộng tướ i nướ c, thuật

    luyện kim và chế kim hoàn, k ỹ nghệ đá và

    xây dựng Cự  thạch, tục thờ   thần Mặt tr ờ i

    và thờ   Sinh thực khí…, nhưng Heine

    Geldern chia xẻ vớ i W.J.Perry về mối quan

    hệ  giữa Cự  thạch Assam và Burma vớ i

    Phươ ng Tây (Châu Âu, Bắc Phi, Syria) về 

    một phía và vớ i Ahu và Marae của

    Polynesia về  phía khác. Ông tin r ằng Cự 

    thạch đến cùng những ngườ i Nam Đảo –

    chủ nhân rìu tứ giác theo “làn sóng di cư ”từ  Archipelago và Viễn Ấn, Malacca

    khoảng 2000-1500 BC. Năm 1945, khi

    quan niệm văn hóa Cự  thạch là mắt xích

    giữa sự sống và cái chết, ông phân chia Cự 

    thạch Nam Dươ ng thành 2 truyền thống: 1.

    Truyền thống “ già hơ n” liên quan vớ i “làn

     sóng văn hóa t ộc ng ườ i” (ethnic and

    cultural waves) từ đất liền Châu lục đến từ 

    Đá mớ i khoảng 2500=1500 BC, mang theo

     phong tục tạo dựng Menhir, Dolmen, thạch

    tự  tháp.. tạo nên phong cách nguyên thủy

    và “t ĩ nh hơ n” bắt đầu từ Nam Sumatra đến

    Java, Sulawesi… 2. Làn sóng Cự  thạch

    “tr ẻ  hơ n” liên quan vớ i các nhóm cư  dân

    đến từ  thờ i văn hóa Đông Sơ n sơ   k ỳ  Sắt,

    mang phong cách nghệ  thuật chịa ảnh

    hưở ng Đông Sơ n trang trí nhiều hơ n và“động hơ n” ở   Pasemah và nghệ  thuật

  • 8/20/2019 Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A

    9/29

    Science & Technology Development, Vol 10, No.09 - 2007

    Trang 44

    Batak (Sumatra), Kalimantan,

    Sulawesi…Văn hóa Đông Sơ n thống tr ị 

    Indonesia tr ướ c tiến trình Ấn Độ  hóa và

    tiế p tục in dấu trong các nghệ thuật Java và

    Tây Melanesia. Cội nguồn văn hóa Đông

    Sơ n xét tr ở   lại cũng nhờ   các cảm hướ ng

    truyền từ Phươ ng Tây đến… Cho đến tận

    lúc gần lìa đờ i, 1966, khi bàn về: “ M ột số  

     phong cách nghệ  thuật bộ  l ạc  Đông Nam

     Á: một thí nghiệm trong l ịch sử   nghệ 

    thuật ” tác giả còn viết r ằng: “ Dù tôi đ úng

    hay sai trong việc đư a ng ườ i Kimmer và

    ng ườ i Tochara vào bứ c tranh Đông Nam Á

    thì vẫ n còn l ại sự  giố ng nhau rõ ràng giữ acác di vật và hoa văn  Đông S ơ n vớ i

     Phươ ng Tây, nghĩ a là vớ i Châu Au và

     Kavkaz, mà đ iề u đ ó chỉ   có thể   giải thích

    bằ ng một cuộc thiên di t ộc ng ườ i”. Quan

    điểm truyền bá luận xuyên suất các mô

    hình văn hóa và bản đồ  thiên di tộc ngườ i

    của R.Heine Geldern có ảnh hưở ng sâu sắc

    và dài lâu đến các nhà tiền sử  học đươ ng

    thờ i và nhiều thế  hệ  học trò ông như 

    H.Mansuy (1925), M. Colani (1938),

    E. Patte (1936), Movius (1943), H.O. Beyer

    (1948), W. Tweedie (1957), H.R. Van

     Heekeren (1957-1958)…Đặc biệt, nhiều

    luận thuyết về  thiên di văn hóa từ  Tây

    sang Đông đượ c nhiều học giả  như 

    W.Samolin, O.Jansé, C.Schuster,

    K.Jettmar, Per Sorensen ủng hộ  và phát

    trên thêm khi tham luận Hội nghị khoa học

    quốc tế tại Đại học Columbia 1967 [25].

    Cùng vớ i việc xây dựng và phổ  biến

    học thuyết truyền bá luận, Khảo cổ  học

    điền dã Đông Nam Á trong các thậ p k ỷ 

    tr ướ c và sau thế chiến 2 cũng có nhiều thu

    hoạch quan tr ọng trên đất liền và nhiều hải

    đảo của khu vực. Lần đầu tiên ngườ i ta ghi

    nhận về  khả  năng tồn tại các k ỹ  nghệ Đá

    cũ  sơ   k ỳ  ở   hơ n 20 địa điểm; Ví như,

    Anyatha (Miến Điện), “V ăn hóa Patjitan”

    (Indonesia), “V ăn hóa Kota Tampan” (Mã

    Lai); “V ăn hóa Cabalwan” (Philippines);

    cùng vết tích mớ i của ngườ i vượ n và cáchomonid hóa thạch cùng công cụ cuội ghè

    thô ở  Java, ở  Tam Hang, Tam Paloi (Lào);

    ở   Stungtreng – Snoul, Loang Spean và

    Phnom Loang (Campuchia), ở  Thái Lan…

     Ngườ i ta chú ý hơ n đến phân tích loại

    hình, hệ  thống thuật ngữ, tổng k ết thành

    tựu thực địa, đưa tầm nhìn xa hơ n ngoài

     phạm vi một nướ c. Bên cạnh các nỗ lực cá

    nhân ở   từng tiểu vực, như  các chuyên

    khảo lớ n về  các loại hình di tích Đá lớ n

    đặc sắc phân bố  trên 2 cao nguyên Sầm

     Nưa và cánh đồng Chum Đá Xiêng

    Khoảng miền Bắc Lào của M.Colani [11];

    Các cuộc điền dã của học giả Pháp ở  Long

    An, Bình Phướ c (Việt Nam), các di tồn

    “văn hóa Sa Hu ỳnh” và các mùa khai quật

    của học giả  Thụy Điển O.Jansé ở   ĐôngSơ n [34], của P.Lévy ở   Mlu Prei,

  • 8/20/2019 Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A

    10/29

    TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 10, SỐ 09 - 2007

    Trang 45

    Campuchia [36], của L.Malleret vớ i văn

    hóa Oc Eo ở   delta Mekong (1938-1944)

    [39]…

     Ngoài việc Hội nghị  các nhà tiền sử 

    học Viễn Đông lần 2-4 luân phiên nhóm

    họ p ở   Manila (1935), Singapore (1938),

    Manila (1953)…., đã xuất hiện các chuyên

    khảo cố  gắng vượ t qua khu vực để  khảo

    cứu trên bình diện Châu lục chẳng hạn

    những ý tưở ng liên hệ  vượ t nội vùng như 

    các phức hợ  p gốm Philippines, Mã

    Lai…vớ i truyền thống gốm Sa Huỳnh và

    cả  Châu Đại Dươ ng của H.Parmentier,

    B.A.Peacock, các đối sánh di tích Cự thạch cùng di vật vượ t qua lục địa Đông

     Nam Á đến Trung Hoa (ý kiến M.Colani

    về  gốc gác hạt chuỗi Xiêng Khoảng) hay

    đến sơ n khối Calhar Ấn Độ  cách đó

    1200km (ý kiến P.Bellwood về  quan hệ 

    thân thuộc 2 vùng này)….; Đặc biệt, công

    trình: “Các văn hóa sơ  k  ỳ  Đá cũ ở  Nam và

     Đông Á ” của học giả Mỹ H.L.Movius [41]

    đượ c đánh giá như: “ Bản t ổ ng k ế t hay nhấ t

    về   thờ i đại  Đá  Đông Nam Á…”, dẫu r ằng

    điểm sai lầm nghiên tr ọng của Movius là

    sự lý giải Đông Nam Á như vùng trì tr ệ về 

    văn hóa của H.L.Movius chứng minh thiên

    kiến nặng nề  của học thuật Phươ ng Tây

    trong suất hơ n nửa thế  k ỷ  này. Các luận

    điểm về những cuộc thiên di xứ Pont sang

    Đông Nam Á của Heine Geldern và mốiràng buộc nguồn gốc của văn hóa đất liền

    và hải đảo ở   khu vực này vớ i miền đông

    nam Châu Âu [28]; Từ  những phác thảo

    đúng của Viện s ĩ  Pháp G.Coedes ở  thậ p k ỷ 

    40 về “V ăn minh Nam Á ” thờ i sơ  sử vớ i k ỹ 

    thuật sử dụng trâu bò, dùng cày, làm ruộng

    tướ i, tôn tr ọng phụ nữ, thờ  phụng trên cao,

    vạn vật hữu linh, nhị nguyên luận trong tư 

    duy… đến các luận thuyết sai của chính

    ông trong: “Các dân t ộc  Đông Dươ ng

    (Lịch sử   và V ăn minh)” [10] r ằng: “ Điề u

    thú vị đ áng nêu là, t ừ   thờ i tiề n sử  , các cư  

    dân bản địa Đông Dươ ng d ườ ng như  thiế u

    thiên tài sáng t ạo và t ỏ ra ít khả năng tiế n

    hóa và tiế n bộ nế u như  không có đ óng gópt ừ   bên ngoài”. Từ  các ý kiến của học giả 

    Anh G.Clark trong: “ Lịch sử   thế  giớ i” [9]

    r ằng: “ M ột trong nhữ ng lý do chủ  yế u

    khiế n l ục địa  Đông Nam Á đ áng đượ c

    nghiên cứ u là nó giố ng như   một thứ   ố ng

    khói qua đ ó con ng ườ i đ ã t ỏa ra Indonesia,

     Melanesia và các miề n xa hơ n. M ột lý do

    khác là vị  trí trung gian của nó giữ a hai

    trung tâm văn hóa chủ  yế u là  Ấ n  Độ  và

    Trung Hoa. Cho r ằ ng Đông Nam Á t ự  thân

    nó là cái nôi của một nề n văn minh cổ  d ự a

    trên nông nghiệ p tr ồng lúa là không đượ c

    chứ ng thự c bằ ng tài liệu khảo cổ   học”;

    Đến các luận điểm của N.N.Tcheboksarov

    và V.R.Kabo trong “Các dân t ộc  Đông

     Nam Á” [55] về: “ K  ỹ   thuật luyện kim và

    chế   tác kim loại  Đông Nam Á xuấ t hiệnd ướ i ảnh hưở ng của 2 trung tâm Sông An

  • 8/20/2019 Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A

    11/29

    Science & Technology Development, Vol 10, No.09 - 2007

    Trang 46

    và Sông Hoàng. K  ỹ  thuật luyện kim ở  trung

    tâm Sông  Ấ n đ ã đượ c ng ườ i Dravida và

    ng ườ i Munda truyề n cho ng ườ i Môn

     Khmer  Đông Dươ ng, còn k  ỹ   thuật luyện

    kim sông Hoàng Hà đượ c truyề n vào

     Đông Nam Á qua các bộ  l ạc Việt cổ ”; và

    các ý tưở ng của F.L.Dunn [16] về k ỹ nghệ 

    chế  tác Đá từ  1100 – 5000 BP. ở   Đông

     Nam Á biểu tr ưng “truyề n thố ng khu vự c

    bảo thủ” (conservative areal tradition);

    các cố  gắng lần tìm “nguồn g ố c Trung

    Quố c” của không ít thành tựu Đá mớ i –

    Kim khí Đông Nam Á cụ  thể  như:

    W.Linehan [37], W.Watson [60],P.Bellwood [3], C.F.W.Higham [31] …

    Bắt đầu từ  các thậ p k ỷ  60-70 tr ở   lại

    đây, lịch sử  nghiên cứu tiền sử  và sơ   sử 

    Đông Nam Á chứng kiến sự  xuất hiện

    nhiều tổ chức chuyên ngành bản địa và sự 

    liên hiệ p điền dã và nghiên cứu quốc tế có

    hệ  thống và trên quy mô lớ n. Sự  nghiên

    cứu này ở   trình độ  hiện đại, vớ i sự  tăng

    cườ ng k ỹ thuật – công nghệ mớ i ứng dụng

    từ khai đào đến xét nghiệm mẫu vật, nâng

    cao chất lượ ng chuyên ngành và liên ngành

    trong các công trình tổng hợ  p. Sự liên hiệ p

    nghiên cứu mở  r ộng giữa nhiều tr ườ ng Đại

    học, viện nghiên cứu của nhiều quốc gia

    trong Khu vực, Châu Lục và Thế giớ i, vớ i

    những mô hình hợ  p tác có thể làm mẫu về 

    nội dung và tinh thần liên hiệ p. Nhờ   thế,“ M ặc cho còn nhữ ng khoảng tr ố ng r ộng

    l ớ n trong hiể u biế t chúng ta, khố i l ượ ng

    của tri thứ c đ ã tích l ũ y về   l ịch sử   Đông

     Nam Á và Châu  Đại Dươ ng đ ã khá là đồ 

     sộ” [3]. Giờ  đây đã có sự  phối hợ  p điền dã

     bình đẳng và tốt hơ n giữa các học giả 

    nhiều nướ c như  Indonesia, Mã Lai,

    Philippines, Thái Lan, Việt Nam, Lào,

    Campuchia, Singapore, Philippines…,

    hoặc giữa các học giả từng nướ c vớ i nhiều

    tổ  chức khoa học Âu – Mỹ – Nga – Nhật

    trên quần đảo Philippines, ở   Mã Lai, ở  

    Indonesia và các chươ ng trình hợ  p tác đào

    tạo tiến s ĩ   – khảo sát khai quật giữa

    Indonesia và Philippines vớ i Úc, ĐanMạch, Hà Lan, Mỹ, Anh, Nhật, Pháp… –

    Mỹ trên nhiều hải đảo…

    Trên đất liền Đông Nam Á, các đoàn

    khảo sát Lào – Việt, Lào – Ý, Lào – Nhật,

    Lào – New Zealand thực thi nhiều mùa

    điền dã hang động, bình nguyên, vùng hồ 

    đâp nướ c, đặc biệt khai quật quần thể đền

    tháp thờ i Cổ  sử  Vát Phu (Nam Lào). Ở 

    Campuchia, các giáo viên vàsinh viên Đại

    học Hoàng Gia Phnom Penh cùng các giáo

    sư  tiến s ĩ   chuyên gia thuộc các đại học

    Đức, Hawai (Mỹ), các tổ  chức văn hóa

     Nhật Bản khai quật cụm thành đất hình

    tròn ở   Kongpong Chàm, thám sát 1 trung

    tâm Phù Nam ở   Angkor Borey, trùng tu

    quần thể  Angkor, nghiên cứu Khảo cổ  –

    Dân tộc nghề gốm cổ  truyền bản xứ, pháthiện nhiều di tích ở   Biển Hồ…. Đặc biệt

  • 8/20/2019 Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A

    12/29

    TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 10, SỐ 09 - 2007

    Trang 47

    sôi nổi trên đất Thái, từ các đoàn hợ  p tác

    Thái-Đan Mạch (1961-1962) khảo cứu Ban

    Kao, Ong Bah, Thái-Anh (1965), Thái-Mỹ 

    (1966)…, các học giả  Thái thườ ng niên

     phối hợ  p vớ i cá nhân hoặc tổ chức của một

    hoặc nhiều nướ c trên thế  giớ i (Mỹ, Nhật,

    Đức, Pháp, Anh, Đan Mạch, Hà Lan, Ý,

    Thụy S ĩ , New Zealand, Uc, Indonesia, Việt

     Nam) nghiên cứu chuyên đề hoặc đa ngành

    ngắn hạn hoặc nhiều mùa… đưa lại nhiều

     bằng chứng sinh động, nhiều bài học kinh

    nghiệm quý báu về sự hợ  p tác nghiên cứu

    hữu hiệu và mở   r ộng hơ n giữa Đại học

    quốc tế  vớ i Thái Lan. Nhiều tổ  chức vănhóa-khoa học cả trong và ngoài nướ c Thái

    cùng khai quật nhiều mùa điền dã và khám

     phá nhiều di tích văn hóa làm chấn động

    giớ i tiền sử  học thế  giớ i trong nhiều thậ p

    k ỷ [2; 22; 23; 52].

    Ở  Việt Nam, nhiều Viện nghiên cứu,

     bảo tàng và các Đại học ở  Hà Nội, Huế, TP

    Hồ Chí Minh đã chủ động đẩy mạnh công

    tác tuyên truyền đối ngoại, tăng cườ ng phổ 

     biến các giá tr ị riêng của truyền thống văn

    hóa dân tộc, “mở  cử a” đón nhận sự góp ý,

    thảo luận học thuật và sự  giúp đỡ   đồng

    nghiệ p nướ c ngoài, tổ chức hội nghị quốc

    tế, xây dựng các chươ ng trình hợ  p tác lớ n,

    lâu niên, vớ i nhận thức chung để mở  r ộng

    tầm hiểu biết quá khứ  cả Đông Nam Á –

    Châu lục – Thế giớ i để hiểu sâu sắc hơ n ditích của chính mình và bổ  sung kho tàng

     phươ ng pháp nghiên cứu khoa học bằng

    những thành tựu k ỹ thuật – công nghệ tiên

    tiến. Đó là khuynh hướ ng không thể  đảo

    ngượ c của nền Khảo cổ  học dân tộc hiện

    đại. Ngoài việc tham gia tích cực trong

    nhiều tổ  chức khoa học Quốc tế  lớ n, giớ i

    khoa học Việt Nam còn chủ động tổ chức

    các Hội nghị Quốc tế “Việt Nam học l ần I -

     II ”; “60 năm phát hiện – công bố  văn hóa

     Hòa Bình”; “T ươ ng lai học” và “ Phát triể n

    đ ô thị bề n vữ ng, vai trò của nghiên cứ u và

     giáo d ục”; “ Đô thị  cổ   H ội An” và “V ăn

    hóa Sa Hu ỳnh ở   H ội An” và “ M ột thế   k  ỷ 

     KCH Việt Nam”… ở   Hà Nội, TP.Hồ  ChíMinh, Hội An…, thu hút hàng tr ăm học giả 

    từ  nhiều nướ c trên Thế  giớ i đến tham

    luận. Từ buổi đầu xây dựng đội ngũ  trong

    các tổ  chức hạt nhân đầu tiên (Bộ  môn

    Khảo cổ  học – Khoa Sử, Tr ườ ng Đại học

    Tổng hợ  p Hà Nội, Đội Khảo cổ – Bộ Văn

    hóa) đến nay, chúng ta đã chủ  động mờ i

    nhiều học giả  uyên bác ngoại quốc đến

    cùng thảo luận và xây dựng các chươ ng

    trình hợ  p tác song phươ ng – đa phươ ng

    trên nhiều l ĩ nh vực nghiên cứu – đào tạo

    của các khoa học Nhân văn như: vớ i các

    học giả đến từ Trung Quốc (GS. Ngô Nhữ 

    Khang), Hunggari (TS Kiszely Istvan), Ấn

    Độ  (GS.Banarjee), Nga (Viện s ĩ  Rybacov,

    GSTS P.I.Boriscovsky, GS.TS

    V.M.Masson, GS. TS Deopik, GSTSY.A.Dzadnheprovsky, TS S.N.Murabev,

  • 8/20/2019 Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A

    13/29

    Science & Technology Development, Vol 10, No.09 - 2007

    Trang 48

    TS A.N.Matiukin, TS N.K.Anhixiutkin, TS

    V.I.Timopheev, TS S.S.Minhaev, GS

    Dakharuk, TS Ranov, TS Kontrin, TS

    Machukkin, TS Ranov, TS Minhaiev, TS

    Muraviov, TS Anhixiutkin, TS Timofeev),

    Mỹ  (GSTS W.G.Solheim, TS Chester

    Groman, GSTS Rush Ciochon), Anh (TS

    I.Glover, Ruth Prior), Đức (Viện s ĩ  Herma,

    TS Hans Quitta, TS Kolh, TS W.Lobo; TS

    Albrecht, TS Haidle, TS A.Reinecke), Úc

    (GS.TS Helmut Loofs-Wissowa, GS.TS

    P.Bellwood), Đan Mạch (TS Per

    Sorensen), Pháp (GS. G.Condominas, TS.

    P.Y.Manguin, M.Vallerin, E.Bourdonneau,B.Ravez), Nhật (GS.TS Hakari, GS.TS.

    Gakuji Hasebe, GS Yoji Aoygi, GS.TS Eiji

     Nitta, GS.TS Keiji Imamura, GS Ueno

    Kunikazu, GS Sakurai, TS Mariko

    Yamagata, Th.S Nishimura Masanari, TS

    Yasushi Kojo, Asako Morimoto, Hiroki

     Nishida, Hidejumi Ogawa, Nishitani

    Masaru, Shinzato Takayuki, Katsuko

    Tanaka, Kazuchiko Tanaka, Takenori

    Tsuda, Hirano Yuko, Kato Toki), New

    Zealand (GS. C.Higham, TS B.Vincent),

    Đài Loan (Chen Weichun, Tsang Cheng

    Hwa, Chen Kwang Tzuu, Chen Yumei,

    Chang Kuang Jen, Kuo Su Chiu),

    Hongkong (GS.TS Tang Chung), Miến

    Điện (TS Min Aung Thwe), Thái Lan (GS

    hoàng thân Thái Subahadris Diskul),Bungaria (Nicolae Siracov, Syoboda

    Sirarova, Srephanea Ivanoka, Vasil Popov,

    Gosrodin Radov Gorpodinov) và các nhà

    nghiên cứu Việt kiều ở  Bắc Mỹ như Linh

    mục Tr ần Tam Tỉnh, GS Lươ ng Văn Hy,

     Nguyễn Bá Khoách…).

    Các chươ ng trình hợ  p tác điền dã lâu

    niên đượ c thực thi cùng nhiều phươ ng

     pháp khai đào, lấy mẫu, giám định ở   trình

    độ  hiện đại của Thế  giớ i. Chẳng hạn các

    cuộc khai quật – nghiên cứu ở  Hang Hùm

    (Lạng Sơ n), Luy Lâu (Bắc Ninh), hang

    Làng Tráng, Mái Đá Điều (Thanh Hóa),

    Làng Vạc, Đồng Mỏm (Nghệ An), K ỳ Anh

    (Hà T ĩ nh), Cồn Nền (Quảng Bình), CồnRàng (Huế), Gò Sành (Bình Định), Sa

    Huỳnh (Quảng Ngãi), Quần thể  Cự  thạch

    Hàng Gòn (Đồng Nai), Gò Ô Chùa và An

    Sơ n (Long An), Đa Cai (Bình Thuận),

    V ĩ nh Hưng (Cần Thơ ), Đại Làng, Cát Tiên

    (Lâm Đồng), Oc Eo – Ba Thê (An Giang)

    .v.v… Đặc biệt, nhiều đoàn công tác đa

    quốc gia đượ c thiết lậ p giữa Việt Nam và

     Nhật Bản, Úc, Mỹ, Anh, Đức, New

    Zealand, Thái Lan, Campuchia…, để  khai

    quật Trà Kiệu, Hội An, các “Thánh địa”

    thươ ng cảng xưa; các lò gốm Hợ  p Lễ, Gò

    Sành, Chu Đậu hoặc hợ  p tác “ Khảo cổ  học

    d ướ i nướ c” tr ục vớ t tàu đắm dướ i đáy biển

    Việt Nam để nghiên cứu gốm cổ Việt Nam

    trong mối quan hệ thươ ng mại Đông Nam

    Á và Châu Á, các chươ ng trình trùng tutháp Champa vớ i chuyên gia Balan, nghiên

  • 8/20/2019 Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A

    14/29

    TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 10, SỐ 09 - 2007

    Trang 49

    cứu bảo tồn “ Di sản văn hóa Thế   giớ i” ở  

    Huế và Hội An… Chính xu thế tất yếu mở  

    r ộng tầm nhìn ra Đông Nam Á và thế giớ i;

    vị  trí và thành tựu nghiên cứu chuyên

    ngành – liên ngành Việt Nam học là cơ  sở  

    để  “mở   cử a” đối ngoại, đón nhận cơ   hội

    hợ  p tác nghiên cứu chuyên sâu hữu hiệu

    hơ n, chứng tỏ  uy tín học thuật Việt Nam

    trên tr ườ ng Quốc tế  , học hỏi đúc rút kinh

    nghiệm liên hiệ p nghiên cứu – hợ  p tác

    chuyên ngành – đa ngành từ  nửa thế  k ỷ 

    qua và khơ i mở  những chân tr ờ i mớ i cho

    chính các khoa học xã hội và nhân văn của

    dân tộc. Sự  liên hiệ p nghiên cứu làmnguồn liệu vật chất liên quan đến thờ i tiền

    sử  – sơ   sử  Đông Nam Á tăng thêm mau

    chóng, vớ i nhiều chuyên khảo tổng k ết về 

    những chươ ng trình điền dã nghiên cứu lớ n

    như: “Tiề n sử   Mã Lai” [56], “Tiề n sử  

     Borneo” [27]; “Các hang Tabon” trên đảo

    Palawan [19]; “ H ậu k  ỳ thờ i đại  Đá ở  miề n

     Đông Indonesia” [20].

    Đặc biệt, là các thành quả  hợ  p lực

    nghiên cứu của những phái đoàn điều tra

    tổng hợ  p quy tụ chuyên gia Đại học nhiều

    nướ c Thái, Anh, Mỹ, New Zealand, Nhật

    Bản, Indonesia trong các hang động, làng

    mạc, ngh ĩ a địa nổi danh trên đất Thái, vớ i

    những khám phá gây chấn động thế  giớ i

    học thuật trong nhiều thậ p k ỷ, khở i sự  từ 

    cao nguyên Cò R ạt (Thái Lan). Những phát hiện Thái Lan đượ c coi là “bấ t ng ờ  

    nhấ t Châu l ục” đầu tiên là k ết quả  khai

    quật Hang Ma (Spirit Cave) vớ i các chứng

    cứ về sự xuất hiện sớ m nhất Thế giớ i của

    nông nghiệ p nguyên thủy Đông Nam Á

    của C.F.Gorman ở  Khoa Nhân học Tr ườ ng

    Đại học California [22]; cho đến vết tích

    Ban Chiang – Nonnok Tha về cuộc “Cách

    mạng luyện kim” Đông Nam Á sớ m hơ n cả 

    Lưỡ ng Hà, An Hằng [23]. Những khám

     phá bất ngờ  đến từ  Thái Lan và các tiểu

    vực đượ c ví như  thứ  “ Ánh sáng mớ i d ọi

    vào quá khứ   bị  lãng quên”[52], đã khiến

    cho bức tranh văn hóa tiền sử – sơ  sử Đông

     Nam Á tr ở  thành “ M ột bứ c khảm nhữ ng ấ nt ượ ng” (A Mosaic of Impressions), gây nên

    không khí tranh luận học thuật nóng bỏng

    chưa từng thấy, từ  ngọn nguồn cuộc sống

    đến các phát minh khoa học có tính cách

    mạnh trong diễn trình tiến hóa qua

    “ Ng ưỡ ng cử a” của Văn minh đầu tiên.

    Đã xuất hiện khá nhiều luận thuyết

    mớ i, những mô hình mớ i phục dựng khác

    truyền thống bức tranh văn hóa từng tiểu

    vực và hy vọng khái quát toàn cảnh Đông

     Nam Á, từ  mô hình 4 thờ i k ỳ  nảy mầm

    (Germinal), thành hình (Formative), Chớ m

    nở   (Incipient), Xuất hiện (Emergent) mà

    F.Landa Jocano xây dựng cho Philippines

    (1967); Mô hình 2 truyền thống khu vực

     bảo thủ  và cách tân (Conservative and

    Innovation Areal Traditions) ở  Đông NamÁ của F.Dunn [16]; Mô hình của

  • 8/20/2019 Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A

    15/29

    Science & Technology Development, Vol 10, No.09 - 2007

    Trang 50

    B.Peacock (1971) ứng dụng cho Mã Lai;

    Mô hình mà P.Bellwood [3] về 4 giai đoạn

    tr ướ c gốm (Preceramic), Đá mớ i

    (Neolithic), Sơ   k ỳ  và Hâu k ỳ  Kim khí

    (Early and Late Metal) hình dung ở  hải đảo

    Đông Nam Á từ 1 vạn năm tr ở  lại; Các mô

    hình về: “Con đườ ng phát triể n thờ i đại

     Đá cũ” và “2 con d ườ ng  Đá mớ i hóa ở  

     Đông Nam Á ” dành riêng cho vùng đất liền

    và miền hải đảo; Mô hình “Gỗ ” (Lignic)

    và “Tre-Karst” (Bamboo-Karst ) của Hà

    Văn Tấn [25], G.G.Poppe (1983), cùng các

    lý thuyết “Phản mô hình” vớ i Kael

    L.Hutterer (Đại học Michigan) là đại biểuchống các luận điểm về  sự  phát triển văn

    hóa đồng nhất và nhấn mạnh sự phát triển

    không đồng đều trong từng tiểu vực Đông

     Nam Á.

     Ngườ i đượ c mệnh danh là “Ông già

     Đông Nam Á ”, vị chủ tịch tổ chức quốc tế 

    nghiên cứu tiền sử  Châu Á – Thái Bình

    Dươ ng là GSTS Wilheim Solheim ở   Đại

    học Hawai, đánh giá r ất cao phát hiện mớ i

    và yêu cầu phải có “Cái nhìn mớ i về  Tiề n

     sử   Đông Nam Á ”. Ông chính là tác giả đề 

    xuất nhiều luận điểm táo bạo đến mức:

     Nếu thất bại của Mỹ  ở   Đông Dươ ng mở  

    mắt cho nhiều ngườ i Phươ ng Tây về Đông

     Nam Á, thì phát hiện khoa học mớ i cũng

    có tác dụng lớ n lao chẳng kém, bở i r ằng

    những bướ c tiến đến văn minh có thể xuất phát từ  Đông Nam Á. Ngay từ 1967, ông

    trình bày sự  ra đờ i sớ m của nhiều thành

    tựu văn hóa cổ  Đông Nam Á như  nghề 

    tr ồng tr ọt, thuật luyện kim, nghề  làm gốm

    và k ỹ  nghệ  đóng thuyền… Vớ i niên biểu

    nông nghiệ p tớ i 15.000 năm, ông cho r ằng

    Đông Nam Á từng chứng thực những

    ngườ i nông dân nguyên thủy Hòa Bình làm

    một cuộc “Cách mạng Nông nghiệ p”

    (Agricultural Revolution) sớ m nhất hành

    tinh; chủ nhân văn hóa Hòa Bình là cư dân

    tr ồng tr ọt sớ m nhất trên thế  giớ i và là

    ngườ i thợ  gốm văn thừng từ 1 vạn năm về 

    tr ướ c; Các văn hóa Ngưỡ ng Thiều – Long

    Sơ n bắt nguồn từ  một “tiể u văn hóa”(Subculture) Hòa Bình và di động từ Nam

    lên Bắc. Từ  nhiều ngàn năm BC., ngườ i

    Đông Nam Á bằng thuyền bè của họ  đã

    cậ p bến Đài Loan, Nhật Bản, mang đến

    quần đảo Nhật nghề  tr ồng Taro và nhiều

    giống cây tr ồng khác. Khoảng 4000 năm

    BC. Đông Nam Á sáng chế  nghề  luyện

    kim đồng…. Khác tất cả  những ngườ i đi

    tr ướ c, ông lần tìm cội nguồn đầu tiên của

    ngườ i Nam Đảo “ Nusantao” trong khối cư 

    dân chủ nhân k ỹ nghệ công cụ vỏ sò ở  hải

    đảo (Nam Philippines – Đông Indonesia)

    mà từ  đó họ  lan tỏa khắ p hải phận Đông

     Nam Á, những phân khu của Châu Đại

    Dươ ng và thâm nhậ p sâu vào nội địa Đông

     Nam Á, chứ không phải là ngượ c lại [52].

    W.G.Solheim chống lại toàn bộ  luậnđiểm của học giả  Ao Heine Geldern, từ 

  • 8/20/2019 Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A

    16/29

    TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 10, SỐ 09 - 2007

    Trang 51

    những cuộc thiên di của ngườ i Nam Đảo

    và ngườ i Tokhara từ Hắc Hải, đến các cội

    nguồn Halstatt, Caucase, Kimmer phươ ng

    Tây của văn hóa Đông Sơ n. Đoạn tuyệt các

    mô hình giai đoạn cũ mô phỏng Châu Âu,

    từ  1969, ông chủ tr ươ ng “ Làm l ại tiề n sử  

     Đông Nam Á ”, vớ i mô hình hoàn toàn mớ i

    về chất trên khung sườ n các bậc thang tiến

    hóa gọi là: Đá (Lithic); Gỗ  (Lignic); K ết

    tinh (Crystallitic); Mở   r ộng

    (Extensionistic) và Đế  quốc xung đột

    (Conflicting Empires). Sự  hăng hái của

    ông trong nhiều ý tưở ng bị không ít ngườ i

     phê bình là thiếu thận tr ọng. Nhưng, vớ iviệc nhấn mạnh sự  phát triển r ực r ỡ   và

    sáng tạo của văn hóa – văn minh Đông

     Nam Á, thẳng thừng đoạn tuyệt vớ i quá

    khứ miệt thị văn hóa Khu vực này, ông tr ở  

    thành đại biểu cho khuynh hướ ng “ phản

    truyề n bá luận” trong lịch sử  khảo cứu

    văn hóa vật chất ở   khu vực này [25], mà

    động cơ   lành mạnh đượ c ông phát biểu

    ngay khi “ Làm l ại tiề n sử   Đông Nam Á ”,

    r ằng: “S ự   khác biệt rõ ràng nhấ t giữ a sự  

     phục d ự ng của tôi và sự  phục d ự ng truyề n

    thố ng d ự a vào Heine Geldern là trong

     phục d ự ng của tôi, cư  dân  Đông Nam Á là

    nhữ ng ng ườ i cách tân, đ óng góp nhiề u cho

    văn hóa Bắ c Trung Quố c và sự  phát triể n

    về  sau của văn hóa đ ó; Đố i l ậ p vớ i việc coi

     Đông Nam Á là một “ngõ cụt” (cut de sac)

    mà nhữ ng đổ i mớ i và tiế n bộ  đề u là t ừ  

    ngoài t ớ i”.

    Cùng vớ i các luận thuyết, quan điểm

    và không khí thảo luận, hợ  p tác điền dã –

    giám định, trao đổi k ết quả  khảo cứu và

    học thuật mớ i, Khảo cổ  học hiện đại của

    khu vực cũng chứng nhận sự  xuất hiện

    nhiều tổng k ết tiểu vực lớ n và chuyên khảo

    vớ i những phươ ng pháp tiế p cận chuyên

    ngành ở   trình độ  hiện đại và liên ngành

    truyền thống khác như:

    - Tiế p cận kinh tế  học, khảo cứu các

    chất lượ ng kiếm sống, mô thức sống của

    cư dân tiền sử, sự chuyển tiế p từ nền kinh

    tế khai thác tướ c đoạt của thiên nhiên sang

    nền kinh tế  sàn xuất, các mô hình kinh tế 

    tiền sử, tiêu chí về nội hàm của cách mạng

    Đá mớ i – cách mạng nông nghiệ p ở  Đông

     Nam Á…; tiế p cận Sinh thái học, lý giải

    đặc điểm văn hóa tiến sử  Đông Nam Á

    thông qua mối quan hệ giữa con ngườ i và

    môi tr ườ ng sống, phân tích ảnh hưở ng của

    các hệ sinh thái vớ i mô thức sống;

    - Tiế p cận xã hội học, khảo sát vấn đề 

    dân số  học tiền sử, phân tích xã hội học

    qua tài liệu mộ  táng, nghiên cứu các phân

    tầng xã hội, tìm hiểu thành lũy và vấn đề 

    đô thị hóa… [25].

    Là một chuyên ngành trong các khoa

    học xã hội – Nhân văn kiếm tìm lý giải dấu

    tích văn hóa vật chất cổ xưa trên lãnh thổ 

    và lãnh hải “mặt tiề n” bán đảo Đông

  • 8/20/2019 Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A

    17/29

    Science & Technology Development, Vol 10, No.09 - 2007

    Trang 52

    Dươ ng ở   trung tâm Đông Nam Á nơ i vị 

    thế  “C ử a ngõ” (Gateway) của giao lưu

    văn hóa địa vực nằm bên và khác biệt Ấn –

    Hoa [49] – nơ i “ Ngã ba đườ ng của các nề n

    nghệ thuật” (Le Carrefour des Arts – [24] ) 

    hoặc “ Ngã ba đườ ng của các t ộc ng ườ i và

    văn minh” (Carrefour de peuple et de

    civilisation – [34]), nền Khảo cổ học khai

    sinh cùng đất nướ c Việt Nam Dân Chủ 

    Cộng Hòa, thực thi nhiều công trình

    chuyên khảo và tổng hợ  p, góp phần tích

    cực trong sự  hình thành phát triển lịch sử 

    Văn hóa – Văn minh Khu vực, góp nhiều

    thành tựu cho bức tranh tiền sử  – sơ   sử Đông Nam Á, đượ c nhiều học giả uyên bác

    trên thế giớ i thừa nhận [3; 22; 31; 38; 51;

    52]; vớ i nhiều công trình chuyên khảo và

    tổng hợ  p về Lịch sử sáng tạo văn hóa, hun

    đúc văn minh, trau dồi bản l ĩ nh Việt Nam

    [26; 57; 58; 35; 50…], minh định từ  hàng

    tr ăm công trình TS Sử  học, Nhân học,

    Khảo cổ học, Văn hóa học và các chuyên

    khảo về các văn hóa Phùng nguyên, Đồng

    Đậu, Gò Mun, Đông Sơ n, Xóm Cồn,

    Quảng Nam – Đà Nẵng, Sa Huỳnh, Dốc

    Chùa, Bưng Bạc, Đồng Nai, Óc Eo,

    Champa, Bàu Tró, Quỳnh Văn, Hòa Bình,

    Bắc Sơ n, Núi Đọ  , Thần Sa, Châu Can,

    Việt Khê, Lũng Hòa, Cổ  Loa, Trà Kiệu.

    Khảo cổ  học thờ i đại Đá và thờ i đại Kim

    khí, chuyên khảo về nghề chế tác trang sứcđá, đồ thủy tinh, đồ sơ n, tr ống đồng Đông

    Sơ n ở  Việt Nam và Đông Nam Á, đàn đá

    Bình Đa, Lộc Hòa, 3 thậ p k ỷ  Tạ p chí

    chuyên ngành, 38 tậ p k ỷ  yếu thườ ng niên

    đồng thờ i cũng là ngành khoa học duy nhất

    ở  Việt Nam duy trì thườ ng niên sinh hoạt

    khoa học toàn quốc.

    Chính đặc điểm coi tr ọng nghiên cứu

    truyền thống dân tộc, khơ i dậy những giá

    tr ị  văn hóa vật chất, tinh thần cao đẹ p cổ 

    xưa để thấu hiểu cuộc sống con ngườ i hôm

    nay và nhận thức thờ i cuộc Việt Nam trong

    tr ườ ng k ỳ lịch sử trong quan hệ Đông Nam

    Á, đã cho phép khảo cổ học Việt Nam tìm

    hiểu “tính Đông Nam Á ” trong các văn hóatiền sử  – sơ   sử  Việt Nam trong bối cảnh

    đại đồng về  nhân chủng, ngôn ngữ  tộc

    ngườ i và trình độ sáng tạo văn hóa từ cuộc

    sống mông muội thờ i đại Đá, đến các sự 

    nghiệ p phát minh v ĩ   đại ra cây tr ồng, vật

    nuôi, thuật chế  luyện kim khí và “Cách

    mạng ” cuộc sống nguyên thủy, vững bướ c

    đến văn minh sớ m. Qua các lần “ H ội t ụ”

    tầm cỡ   Hoà Bình và Đông Sơ n trên toàn

    khu vực ấy, vận mệnh từng Nhà nướ c và

    Dân tộc đầu tiên không tách r ờ i các tiểu

    vực láng giềng. Nhà nghiên cứu Dân tộc

    học sáng lậ p Trung tâmKhoa học Pháp

    nghiên cứu Đông Nam Á Georges

    Condominas đã biểu dươ ng quan điểm tìm

    về  nguồn gốc, thấm sâu, khai thác truyền

    thống của chúng ta như  “có giá tr ị  thứ ct ỉ nh” giớ i nghiên cứu Âu Mỹ đang xa r ờ i

  • 8/20/2019 Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A

    18/29

    TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 10, SỐ 09 - 2007

    Trang 53

     phươ ng châm cơ   bản của Triết học Hy

    Lạ p, cội nguồn của tư  tưở ng Nhân văn

    Phươ ng Tây: “ Hãy t ự  mình biế t mình”. Nữ 

    tiến s ĩ   Mỹ  Jane Werner “đ ánh giá nhận

    thứ c cần nghiên cứ u Việt Nam trong quan

    hệ mật thiế t vớ i Đông Nam Á như  một phát

    hiện xuấ t sắ c và một đ óng góp quý giá cho

    khoa học của Khoa học Xã hội Việt Nam”

    [50].

     Những nhận thức đáng giá khác mà

    Khảo cổ  học Việt Nam và Đông Nam Á

    thu nhận đượ c trong giai đoạn phát triển ở  

    trình độ hiện đại tựu trung là:

    1. 

     Những bằng chứng vật chất minh

    định Đông Nam Á là một trong những cái

    nôi đầu tiên có tuổi vào loại xưa nhất trong

    lịch sử  nhân hóa từ  vượ n ngườ i Homo

    Erectus đến loài ngườ i Homo Sapiens, là

    một trung tâm thực hiện bướ c nhảy vọt

    Sapiens hóa trong tuổi thơ   Nhân loại, khi

     bắt đầu biết chế tác công cụ Đá thô và lao

    động đến phát minh nông nghiệ p “Cách

    mạng ” cuộc sống nguyên thủy, ở   những

    chặng đườ ng lớ n từ  Lampang, Núi Đọ,

    Xuân Lộc, Biển Hồ, Anyath, Kota

    Tampan, Patijitan …, qua “ Lần hội t ụ” đầu

    tiên Sơ n Vi – Hòa Bình, đến các “V ườ n

    ươ m” thành tựu văn minh kim khí từ  hậu

    Đá [25]. Từ  các nhân cốt của ngườ i vượ n

    Java đầu tiên ở   hải đảo, các Homo

    Soloensis và ngườ i Mã Bá Quảng Đôngmang các đặc điểm Neandertal ở   Đông

     Nam Á có thêm các chứng cớ  mớ i ở  New

    Gwe(1993), Modjokerto (1971-1994),

    mảnh tướ c đi kèm cốt sọ Sambungmachan

    (Jacob 1975), Ngebung (Semah 1992);

     Những vết tích hóa thạch vượ n nhân hình

    Ramapithecus niên đại Miocene đầu tiên ở  

    Đông Nam Á tớ i khoảng 8 triệu năm, liên

    quan vớ i cốt sọ Lufengpithecus khám phá

    ở  Lộc Phong, Nguyên Mưu (Vân Nam) gọi

    là Driopithecus và Ramapithecus phát hiện

    trong địa tầng sét nâu Cánh tân sớ m, cùng

    3 công cụ  thạch anh – hoạt động chế  tác

    cách nay cả  triệu năm; đã gợ i mở   hướ ng

    tìm các linh tr ưở ng gần ngườ i các vùngthan nâu (lignite) Việt Nam. Sự hợ  p tác mở  

    ra triển vọng kiếm tìm các phươ ng pháp

    giải mã thông tin mớ i, để  nghiên cứu tốt

    hơ n và nhận thức đáng tin hơ n các nẻo

    đườ ng nhân hóa chính những nguồn liệu

    vật chất vốn có trong quá khứ  khai đào

    Đông Nam Á.

    Văn hóa hậu k ỳ  Đá cũ  Sơ n Vi bổ 

    khuyết tri thức về cội nguồn văn hóa Hòa

    Bình và việc xác lậ p k ỹ  nghệ  Ngườ m là

    thành tựu lớ n cho nhận thức tiền sử  cả 

    Đông Nam Á. Văn hóa Hòa Bình hiện

    đượ c ghi nhận từ  góc độ Địa – văn hóa là

    cái nôi của Cách mạnh Đá mớ i ở  Việt Nam

    và Đông Nam Á, là bàn đạ p cho nền văn

    minh nông nghiệ p đồng bằng châu thổ thờ i

    Kim khí [56] cùng nhiều thành tựu chuyênkhảo – tổng hợ  p nhận thức thờ i đại Đá Việt

  • 8/20/2019 Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A

    19/29

    Science & Technology Development, Vol 10, No.09 - 2007

    Trang 54

     Nam cống hiến cho khu vực và thế giớ i về 

    nhiều văn hóa Đá mớ i sau Hòa Bình (Bản

    Môn (Sơ n La, Lai Châu; Soi Nhụ  (Hạ 

    Long – Quảng Ninh); Cái Bèo ở  đảo Cát

    Bà; Hoa Lộc (Đa Bút – Thanh Hóa);

    Quỳnh Văn ven biển Nghệ T ĩ nh; Bàu Tró

    (Quảng Bình); Bàu Dũ  (ven biển Quảng

    Đà); Biển Hồ  (Lung Leng, Tây Nguyên)

    .v.v…, xứng đáng điểm danh bên cạnh các

    khám phá khu vực như: Hang Ma (Thái

    Lan), Hà Mẫu Đậu và Bành Đầu Sơ n (Nam

    Trung Hoa) .v.v…

    2.  Đây cũng là một nơ i hiếm có trên

    thế  giớ i phát minh ra, cùng vớ i nôngnghiệ p, luyện kim, cuộc sống văn minh –

    “ Lần hội t ụ   Đông S ơ n” và định hình

    “ Phong cách  Đông S ơ n” (Dongsonian

    Style) của toàn khu vực. Vớ i “S ự   ra đờ i

    của Việt Nam” [54] và nhiều quốc gia sơ  

    khở i trên tầng nền “ Môn cổ ” và văn hóa

    các tộc ngườ i bản địa chung sắc màu của

    một “V ăn minh thự c vật – V ăn minh nông

    nghiệ p” khác Ấn – khác Hoa. Ngoài chuỗi

    khám phá giàu tính “Cách tân” các lối ngh ĩ  

    hướ ng về  lục địa già phía Tây của hành

    tinh, một trong những thành tựu gây nhiều

    “hư ng phấ n trí tuệ” Âu – Mỹ chính là nhận

    thức của nền Khảo cổ  học Việt Nam qua

    nhiều thậ p k ỷ  khám phá khảo cứu về  3

    trung tâm k ết tinh Văn hóa – Văn minh

    thờ i Kim khí: ĐÔNG SƠ N – SA HUỲ NH – ĐỒ NG NAI. Các phức hệ giá tr ị văn hóa

    tiểu vực khẳng định từng trình độ sáng tạo

    đặc sắc riêng, tạo thành nghệ thuật độc đáo

    riêng, nhưng thống nhất trong bình diện

    khu vực của “ phong cách  Đông S ơ n” và

    đều cách mạng nhờ   các nỗ  lực nội sinh

    gắng sức đan hòa giữa các sự  nghiệ p bảo

    lưu giá tr ị truyền thống và đón nhận giá tr ị 

    ngoại sinh trong giao lưu hỗn dung đa

    hướ ng để đổi mớ i và tiến bộ.

    Trong nền Văn minh Sông Hồng,

    những thành tựu ghi nhận sự phát triển của

    nền nông nghiệ p dùng cày và sức kéo trâu

     bò, tr ồng lúa nướ c quảng canh, cấu trúc hội

    nguyên văn hóa đa tộc ngườ i giàu tínhnhân văn, sự  hình thành sớ m giai cấ p và

    nhà nướ c vớ i ý thức dân tộc giàu cá tính và

     bản l ĩ nh mãnh liệt đã xây đắ p và gìn giữ 

    “nghiệ p xư a họ Hùng ”. Thờ i k ỳ  này đượ c

    minh định ở  nhiều hệ thống tư liệu từ hàng

    ngàn di tích của các văn hóa tiền Đông Sơ n

    như  Phùng Nguyên – Đồng Đậu – Gò

    Mun đến “ Đỉ nh đ iể m  Đông S ơ n” – “Bướ c

    hội t ụ V ăn hóa” Đông Sơ n vớ i 275 di tích.

    Thành tựu này đượ c nhiều học giả  nướ c

    ngoài kinh ngạc và quan tâm sâu sắc khi

    tìm hiểu văn minh Việt cổ trong bình diện

    giao tiế p văn hóa của Ban Chiang, Non

     Nok Tha (Thái Lan), Đông Nam Á hải đảo,

    văn minh Điền thờ i Hán (Vân Nam –

    Trung Quốc), vớ i khu vực chế tác kim loại

    Bắc Việt Nam bên cạnh khu vực sôngMékong. Thờ i k ỳ  hình thành Nhà nướ c

  • 8/20/2019 Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A

    20/29

    TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 10, SỐ 09 - 2007

    Trang 55

    Văn Lang của  Vua Hùng, “S ự   hình thành

     Dân t ộc Việt”  và “S ự   ra đờ i của Việt

     Nam”  [2; 3; 12-15; 31; 38; 43; 45; 51-53;

    54]. Về phức hệ di tích Sa Huỳnh, 90 năm

     phát hiện và nghiên cứu di sản vật chất

    vùng duyên hải Nam Trung Bộ (Việt Nam)

    đã đưa lại nhiều nhận thức cơ  yếu và thú vị 

    về các tộc ngườ i bản địa cư trú và sáng tạo

    văn hóa hòa điệu vớ i khung cảnh thiên

    nhiên hẹ p cả  núi r ừng – trung du – đồng

     bằng – hải đảo trên cơ   tầng nông nghiệ p

    duyên hải, nghề  r ừng, nghề  biển và phát

    triển hàng hải trong quỹ  đạo chung của

    “một nề n V ăn minh biể n” (Prsylusky).Điều này đượ c minh định chính từ các văn

    hóa tiền thân: Xóm Cồn, Long Thạnh,

    Bình Châu, đến Sa Huỳnh, vớ i “ Không

     gian giao l ư u văn hóa” ở  tầm mức khu vực

    và châu lục như: gốm tô mầu, khuyên tai

    đá ngọc Nephrite có 3 mấu kiểu “ Lingling-

    O” và có 2 đầu thú trong vòng lan tỏa của

    “Truyề n thố ng táng t ục mộ  chum” ở   Việt

     Nam, Đông Nam Á và Đông Á… [25; 49;

    56]. Phức hệ  Văn hóa Kim khí Đồng Nai

    hình thành và phát triển trên cơ   tầng kinh

    tế sản xuất nông nghiệ p phát đốt nươ ng r ẫy

    tr ồng lúa cạn và rau đậu, cây có quả, củ 

    cho bột, kinh tế khai thác lâm hải sản và sự 

    mở   r ộng của lao động thủ  công chế  tác

    công cụ, vũ khí, trang sức bằng đá và kim

    loại, vật dụng gốm thô, kiến tạo các làngnội vùng, các trung tâm quần cư  kinh tế,

    chính tr ị  hạt nhân đủ  sức điều hành các

    “Tiề n cảng thị” nơ i duyên hải khai triển

    thông thươ ng và hoạt động giao lưu văn

    hóa k ỹ  thuật ngoại vùng. Vớ i các tr ống

    đồng kiểu Đông Sơ n ở   Nam Bộ, đàn đá

    Bình Đa- Lộc Hòa, Qua Long Giao, mộ Cự 

    thạch Hang Gòn - những “ Hiện t ượ ng

     Đồng Nai” trong lịch sử  thăng tr ầm của

    văn hóa và văm minh Đông Nam Á [49].

    3.  Trong diễn trình thăng tr ầm từ 

    “V ăn minh Thự c vật”, “V ăn minh nông

    nghiệ p tr ồng rau-củ” đế n “V ăn minh lúa

     g ạo”, đã hình thành từ r ất sớ m “tính  Đông

     Nam Á ” cho từng tiểu vực và cộng đồngtộc ngườ i để nhìn từ góc độ lịch sử văn hóa

    vật chất là “ Phi  Ấ n phi Hoa”. Đặc biệt thú

    vị  khi quan sát toàn thể  “ Bứ c tranh khu

    vự c”, hay ở  từng phần tạm tách “đấ t liề n”

    (Mainland) và “hải đảo” (Islands) [3; 31].

    Hoặc giả  chỉ  riêng tr ườ ng hợ  p Việt Nam

    [25] vớ i tính cách thăng tr ầm riêng của

    một “ Hiện t ượ ng Lịch sử ” (Historical

     Phenomenon) trong diễn trình 2 thiên k ỷ 

    tr ướ c Công lịch. Từ  các văn hóa nông

    nghiệ p dùng cày và sử  dụng sức kéo trâu

     bò, sự phân hóa xã hội, trình độ  sử  dụng

    địa hình, nhận thức sinh thái, văn hóa và

    nghệ thuật, phong tục tậ p quán, tín ngưỡ ng

    tôn giáo, tậ p tục ma chay, cách ăn mặc ở  

     pha tr ộn sắc tộc như búi tóc (Malayo), cắt

    tóc ngắn (Môn Khmer), tết tóc (Mèo –Dao, Tạng – Miến), các giả định chủ nhân

  • 8/20/2019 Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A

    21/29

    Science & Technology Development, Vol 10, No.09 - 2007

    Trang 56

    và vòng hợ  p nhất tộc ngườ i từ  “tiề n Đông

    S ơ n” (Phùng nguyên Tày cổ, Gò Con Lợ n

     Nam Á cổ, Hạ  Long Malayo), qua vòng

    vận động Đồng Đậu - Gò Mun tr ội dần lên

    yếu tố Tày – Thái cổ đến đỉnh cao k ết tinh

    văn hóa Đông Sơ n, hình thành dân tộc Việt

    cổ, vớ i Nướ c Văn Lang – Âu Lạc của Vua

    Hùng và Vua Thục An Dươ ng Vươ ng thờ i

    Đông Sơ n mang hình hài Nhà Nướ c sơ  

    khai đa tộc ngườ i [25; 48-50; 56]. Các biểu

    tượ ng tuyệt vờ i của trí tuệ Việt cổ cô đúc

    trong tr ống thạ p của Văn hóa Đông Sơ n –

    nền văn hóa triển nở   dọc các dòng chảy

    lớ n như Hồng Hà, Sông Mã, Sông Lam từ ngọn nguồn đến cuối bể có ít nhiều dị biệt

    nhưng mang giá tr ị “hồn nướ c” chung, hội

    tụ các “ H ồn thiêng núi sông ” ngay từ buổi

     bình minh của lịch sử dân tộc. Tính “ Đông

     Nam Á ” của tiểu vực này trong không gian

    và thờ i gian lan tỏa của tr ống Đông Sơ n

    đượ c coi như  là đỉnh cao hội tụ  mớ i của

    nhiều tộc ngườ i trên đất liền và toàn hải

    đảo, từ những ý tưở ng đồng nhất thực thể 

    văn hóa có tr ống nơ i đây vớ i toàn bộ văn

    hóa đồ  đồng Đông Nam Á của Heine

    Geldern [30] đến các cách hiểu về  ảnh

    hưở ng tầm khu vực của Đông Sơ n giớ i hạn

    trong phong cách chế luyện Đồng khác Ấn

     – Hoa [3], hoặc coi sự  có mặt của tr ống

    Đông Sơ n ở   đó đây Đông Nam Á không

    chỉ đơ n giản là vật phẩm thông thươ ng màcòn có thể như  thứ  “Quyề n tr ượ ng ” hoặc

    “ Nghi tr ượ ng ” ban phong đi từ  “Thủ  đ ô

     Phong Châu” của các Vua Hùng [38]. Từ 

    các văn hóa nông nghiệ p không dùng cày

    hay phát đốt nươ ng r ẫy ở  duyên hải Trung

    Bộ – Sa Huỳnh “tiề n Chăm” và Nam Bộ –

    Đồng Nai “tiề n Phù Nam”, các cư dân tiểu

    vực đượ c hình dung về nhân học như  loại

    hình hỗn chủng pha màu Môn-Khmer,

     Nam Á và Nam Đảo, cũng là các chủ nhân

    ông xã hội có giai cấ p đầu tiên ngang thờ i

    vớ i Văn Lang – Âu Lạc ở  cực Nam Trung

    Bộ  và Nam Bộ  Việt Nam. Hình hài các

     Nhà nướ c sơ   khở i ấy gắn liền vớ i các

    “Chiefdams” hoặc các “ Kurung ” tiểu vực,theo các mạng lướ i phân quyền riêng cổ sơ  

    hơ n mô hình “V ươ ng ” và “ Lạc t ướ ng” –

    “Lạc hầu”. Ở  Nam Trung Bộ, theo dõi

    trong bia ký, dân gian, nghệ thuật tạo hình

    Chàm cổ, có thể đó là hình hài Nhà nướ c

    đầu tiên cuả thủ l ĩ nh tối thượ ng của các thủ 

    l ĩ nh bộ lạc Dừa (Nari Kela Vamsa) và Cau

    (Kramuka Vamsa) từ  Quảng Nam – Bình

    Định đến Khánh Hòa – Bình Thuận. Nhà

    nướ c manh nha của quốc gia Lâm Ấ p Khu

    Liên trong Thủy Kinh Chú, quốc gia Sri

    Mara trong bia chữ  Phạn sớ m nhất Đông

     Nam Á Võ Cạnh vào cuối thế k ỷ 2 AD vớ i

    đô thành Sư  tử  Sinhapara [25; 56]. Ở 

     Nam Bộ, đó là các chứng tích vật chất thờ i

    Sơ  sử liên quan đến “Văn hóa Oc Eo”, góp

     phần minh giải cuộc chiến của các“ Kurung ” Nam Bộ  cùng cuộc tình duyên

  • 8/20/2019 Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A

    22/29

    TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 10, SỐ 09 - 2007

    Trang 57

    Hỗn Điền vớ i nữ chúa Phù Nam Liễu Diệ p

    ở   đồng bằng châu thổ  Mekong trong ảnh

    hưở ng của văn hóa nghệ  thuật tín ngưỡ ng

    Tây Phươ ng Thiên Trúc theo chân các đạo

    s ĩ   Ấn Độ  Giáo Bà La Môn tràn vào thế 

    giớ i hải đảo Đông Nam Á [49]. Trong bình

    diện giao lưu lan tỏa “ Phong cách  Đông

    S ơ n” ở  khu vực, ảnh hưở ng Văn minh đúc

    tr ống đồng Việt cổ có vai trò quan tr ọng là

    sự  thật lịch sử  hiển minh, đượ c nhiều

    chuyên khảo lớ n phân giải như “tính  Đông

     Nam Á ” chung cho nhiều tiểu vực. Nhưng

    sự phát triển độc lậ p có vai trò quyết định,

    làm nên tính độc đáo của diện mạo, bảnsắc tiểu vực, có khuynh hướ ng phát triển

    riêng, vớ i các “ Hào khí  Đồng Nai – Sa

     Hu ỳnh –  Đông S ơ n” riêng cũng như  bản

    l ĩ nh khắc phục số  phận lịch sử  riêng của

    từng cộng đồng dân tộc trong toàn Khu

    vực.

    4. 

    Qua đó, hình thành bản l ĩ nh

    “chố ng đồng hóa”, để  tr ườ ng tồn, phát

    triển và tiế p tục sáng tạo văn hóa, xây đắ p

    các “hồn nướ c” và bản l ĩ nh giữ  gìn “hồn

    nướ c”, tạo dựng khu vực thành “ Bứ c

    khảm” giàu ấn tượ ng “Thố ng nhấ t trong đ a

    d ạng” [48], phát sáng độc lậ p tr ướ c sức ép

    của “2 khố i cư  dân và văn minh khổ ng l ồ”

    của nhân loại trên bình diện châu lục, mà

    qua nhiều hiểm họa của tr ườ ng k ỳ  lịch sử 

    lớ n có khi khôn lườ ng có khi đến khó tinkiểu cả  “Thiên niên thuộc Bắ c”, kiểu họa

     bành tr ướ ng quốc tế  từng chiếm quá nủa

    liên Châu lục Âu Á kiểu Nguyên Mông,

    hay chịu cả  thế  k ỷ  “Thuộc địa” thực dân

     phát xít và đế quốc, “Ta” vẫ n là “Ta”.

    5.  Khảo cổ học Việt Nam và Khu vực

    tr ướ c thềm Thiên k ỷ  mớ i vớ i nhiều thử 

    thách mớ i và nhiều vận hội đổi mớ i, ứng

    dụng nhiều thủ  pháp điền dã, khảo cứu,

    quan sát, lý thuyết và quan điểm triết học

    chuyên ngành mớ i. Nhưng những giá tr ị 

    hữu ái của truyền thống giao lưu mật thiết

    tự  xa xưa vẫn còn nguyên và còn nguyên

    hy vọng vẫn là quỹ  đạo chung tr ướ c các

    thách thức “Toàn cầu hóa”. Những đốitượ ng nghiên cứu nền tảng vẫn không hề 

    thay đổi – di tích lịch sử văn hóa vật chất –

    là “trí nhớ ” của các dân tộc trong tr ườ ng

    k ỳ  lịch sử. Mục tiêu tối thượ ng của ngành

    khoa học này vẫn không hề  đổi: vẫn là

    khoa học “mang đồng mang đ á tr ả l ại cho

    cuộc số ng xư a”, vẫn là một chuyên ngành

    của Sử học “nhắ c nhở  chúng ta lao động là

    nguồn g ố c của t ấ t cả , lao động d ũng cảm

    và thông minh, lao động sản sinh ra mọi

    đạo đứ c của con ng ườ i, mọi phẩ m giá của

    dân t ộc” [50], vẫn thẫm đẫm chất nhân

    văn khi khám phá quá khứ, hiểu biết văn

    hóa – văn minh xưa để  thêm nể  kính tiền

    nhân, tự  hào quá khư, góp phần giáo

    dưỡ ng lòng yêu nướ c và tình yêu lao động,

    đào tạo thế hệ tr ẻ sáng tạo và gìn giữ  “hồn

  • 8/20/2019 Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A

    23/29

    Science & Technology Development, Vol 10, No.09 - 2007

    Trang 58

    nướ c” và đất nướ c “có hồn” hiện tại cho tươ ng lai.

    THE PREHISTORIC MATERIAL CULTURES IN SOUTHEAST ASIA,A CENTURY OF THE COUNTRYSIDE & RESEARCH CONJUGATION

    Pham Duc Manh

    University of Social Sciences & Humanities, VNU-HCM

     ABSTRACT : In the Prehistoric Time, Vietnam–a part of The Southeast Asian Central

    Territory had a position named “Avant-Monde” among 2 “Civilization Cradles”: China and

     India. In some recently decades, the study of activity traces of human in Vietnam closely

    connecting the Southeast Asian Context is being the spread research tendency of “Vietnamese

    Studies” scholars in the Universe. In this period, the quatity of discovered – excavated –

     published monuments of material cultures in Southeast Asia rapidly increa