literature review
DESCRIPTION
abcTRANSCRIPT
Literature review.
1.1. KHÁI QUÁT MARKETING
1.1.1. Khái niệm, vai trò, chức năng Marketing
1.1.1.1. Khái niệm Marketing
Bất kể một sản phẩm, một thương hiệu nhãn hiệu nào muốn đến được với người
tiêu dùng, khách hàng thì đều cần đến sự trợ giúp của marketing. Marketing diễn ra
khắp mọi nơi, tiếp xúc với chúng ta hàng ngày. Tuy nhiên, Marketing lại là một lĩnh
vực được hiểu rất khác nhau và không ít trong số đó có những cách hiểu sai lệch,
nhầm lẫn hoặc hiểu không trọn vẹn. Bản chất cuả Marketing không đơn thuần là
làm thị trường , tiếp thị, là bán hàng, là quảng cáo hay nghiên cứu thị trường. Đó chỉ
là một phần nhỏ chứ không phải toàn bộ hoạt động Marketing. Nói như ông Peter
Druck, một trong những nhà lý luận chủ chốt về các vấn đề quản trị thì “mục đích
của Marketing không cần thiết là đẩy mạnh tiêu thụ. Mục đích cuả nó là nhận biết
và hiểu khách hàng kĩ đến mức hàng hóa hay dịch vụ sẽ đáp ứng đúng thị hiếu của
khách hàng và tự nó được tiêu thụ”. Ngày nay, Marketing được hiểu rộng hơn, đa
dạng và phức tạp hơn, vì Marketing không chỉ tồn tại trong sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ, mà ngay cả trong cuộc sống con người nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng
cao của con người và khơi gợi những nhu cầu còn tiềm ẩn. Marketing là một khái
niệm rất rộng lớn, vì vậy nó có nhiều định nghĩa khác nhau. Đây là một số định
nghiã về Marketing qua các giai đoạn phát triển:
Theo học viện Hamilton cuả Mỹ : “Marketing là hoạt động kinh tế trong đó
hàng hóa được đưa từ sản xuất đến người tiêu dùng”
Theo viện quản lý Malaysia :”Marketing là nghệ thuật kết hợp, vận dụng các
nỗ lực cần thiết nhằm khám phá, sáng tạo, thỏa mãn gợi mở những nhu cầu của
khách hàng để tạo ra lợi nhuận”.
Theo hiệp hội Marketing Hoa Kỳ : “ Marketing là quá trình hoạch định và
quản lý thực hiện việc định giá, chiêu thị và phân phối các ý tưởng, hàng hóa, dịch
1
vụ nhằm mục đích tạo ra các giao dịch để thỏa mãn những mục tiêu của cá nhân,
của tổ chức và của xã hội”
Theo hiệp hội Marketing Nhật Bản : “ Marketing là một hoạt động tổng hợp
mà qua đó các doanh nghiệp hay tổ chức khác – có tầm nhìn chiến lược và thấu
hiểu khách hàng sẽ tạo ra thị trường cho mình bằng phương thức cạnh tranh công
bằng”.
Định nghĩa của Philip Kottler: “Marketing là một quá trình xã hội mà trong
đó những cá nhân hay nhóm có thể nhận được những thứ mà họ cần thông qua việc
tạo ra và trao đổi tự do những sản phẩm, dịch vụ có giá trị với người khác”.
1.1.1.2. Vai trò Marketing
Marketing có một vai trò rất quan trọng trong kinh doanh. Nó hướng dẫn, chỉ
đạo và phối hợp các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Nhờ các
hoạt động marketing các quyết định đề ra trong sản xuất kinh doanh có cơ sở khoa
học vững chắc hơn xí nghiệp có điều kiên và thông tin đầy đủ hơn thoả mãn mọi
yêu cầu của khách hàng. Marketing có sự ảnh hưởng to lớn, ảnh hưởng quyết định
đến doanh số, chi phí, lợi nhuận và qua đó đến hiệu quả cũa sản xuất kinh doanh.
Bên cạnh đó Marketing còn là công cụ cạnh tranh giúp doanh nghiệp xác lập vị trí,
uy tín của mình trên thương trường.
1.1.1.3. Chức năng Marketing
- Marketing giúp doanh nghiệp nghiên cứu , thu thập những thông tin về thị
trường đồng thời phân tích được nhu cầu thị hiếu của khách hàng và giúp
doanh nghiệp phát hiện ra nhu cầu tiềm ẩn của thị trường.
- Khả năng thích ứng nhu cầu về sản phẩm, về giá cả, về mặt tiêu thụ và về
mặt thông tin khuyến khích tiêu thụ qua các hoạt động chiêu thị .
2
- Khi đời sống nhu cầu của con người ngày càng phát triển thì hoạt động
marketing luôn phải nghiên cứu đưa ra sản phẩm mới ích dụng mới nhằm
thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của cuộc sống.
- Thoả mãn nhu cầu chính là cách thức giúp doanh nghiệp có doanh số và lợi
nhuận kinh doanh hiệu quả lâu dài.
- Phối hợp các bộ phận trong doanh nghiệp nhằm đạt được mục tiêu chung của
doanh nghiệp và hướng tới sự thoả mãn nhu cầu của khách hàng.
1.1.2. Qúa trình Marketing Mix
Qúa trình marketing mix phải trải qua ba bước như sau :
R STP MM
R (Research) : Đây chính là quá trình thu thập xử lý và phân tích thông tin
marketing như thông tin về thị trường, người tiêu dùng, môi trường… Qúa
trình nghiên cứu sẽ giúp cho doanh nghiệp xác định được thị hiếu tiêu dùng,
cơ hội thị trường… và chuẩn bị những điều kiện và chiến lược thích hợp để
tham gia vào thị trường.
STP (Segmentation, targeting, positioning) : Đây còn gọi là quá trình phân
khúc, chọn thị trường mục tiêu và định vị. Phân khúc thị trường còn là quá
trình phân chia thị trường thành các phân khúc nhỏ căn cứ vào các tiêu thức
phân khúc phù hợp tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chọn thị trường mục
tiêu. Tiếp đến là chọn thị trường mục tiêu, thị trường mục tiêu ở đây là phần
thị trường mà công ty lựa chọn và họ sẽ hướng mọi nỗ lực marketing để phục
vụ cho thị trường này. Khi đã xác định phân khúc và thị trường mục tiêu thì
doanh nghiệp sẽ định vị sản phẩm của mình, và nó cũng chính là quá trình sử
dụng những nỗ lực marketing để thương hiệu hay sản phẩm tạo được vị thế
riêng biệt trong môi trường cạnh tranh, người tiêu dùng trong thị trường mục
tiêu có thể phân biệt thương hiệu hay sản phẩm của công ty với thương hiệu
cạnh tranh khác. Qúa trình này giúp cho doanh nghiệp xác định được nhóm
khách hàng mình sẽ theo đuổi và chọn được thị trường phù hợp với khả năng
3
đồng thời tạo lập được nhận thức, khác biệt trong tâm trí khách hàng về sản
phẩm dịch vụ của mình.
MM (Marketing mix) : Ở bước cuối cùng, dựa trên cơ sở thị trường mục tiêu
đã được lựa chọn, doanh nghiệp sẽ thiết kế một chiến lược phối thức
marketing để định hướng và phục vụ cho thị trường mục tiêu đó.
Nghiên cứu thị trường đặt nền móng cho sự hình thành marketing hỗn hợp.
Marketing hỗn hợp là sự phối hợp hay sắp xếp những thành phần của
marketing sao cho phù hợp với hoàn cành thực tế. Nếu sự phối hợp hay sắp
xếp này mà tốt, hợp lý thì công việc kinh doanh của xí nghiệp sẽ đạt hiệu quả
kinh doanh cao.
Các thành tố cấu thành Marketing Mix :
- Sản phẩm (Product) : Sản phẩm là những thứ mà doanh nghiệp cung cấp
cho thị trường, quyết định sản phẩm bao gồm: chủng loại, kích cỡ sản
phẩm, chất lượng, thiết kế. bao bì, nhãn hiệu, chức năng, dịch vụ…
nhằng đáp ứng nhu cầu khách hàng
- Gía cả (Price) : Giá là khoản tiền mà khách hàng bỏ ra để sở hữu và sử
dụng sản phẩm/dịch vụ, quyết định về giá cả bao gồm phương pháp định
giá, mức giá, chiến thuật điều chỉnh giá theo sự biến động của thị trường
và người tiêu dùng…
- Phân phối (Place) : Phân phối là hoạt động nhằm đưa sản phẩm đến tay
khách hàng, quyết định phân phối gồm các quyết định: lựa chọn, thiết lập
kênh phân phối, tổ chức và quản lý kênh phân phối, thiết lập các quan hệ
và duy trì quan hệ với các trung gian, vận chuyển, bảo quản dự trữ hàng
hoá
Chiêu thị hay truyển thông (Promotion) : Chiêu thị là những hoât động nhằm
thông tin sản phẩm, xây dựng hình ảnh doanh nghiệp và các chương trình
khuyến khích tiêu thụ.
1.2. NỘI DUNG CHIẾN LƯỢC SẢN PHẨM CỦA MỘT DOANH NGHIỆP
1.2.1. Khái niệm sản phẩm
4
Theo quan điểm truyền thống cổ điển thì sản phẩm là sự tổng hợp các đặc tính
vật lý học hoá học và sinh học… có thể quan sát được dùng để thoả mãn những nhu
cầu cụ thể của sản xuất học đời sống. Nhưng ngày nay khi đứng trên quan điểm
Marketing thì ta lại thấy rằng sản phẩm là thứ có khả năng thoả mãn nhu cầu mong
nuốn của khách hàng, cống hiến lợi ích cho họ và có thể đưa ra chào bán trên thị
trường với khả năng thu hút sự chú ý và tiêu dùng. Theo đó, một sản phẩm được
cấu tạo và hình thành từ hai yếu tố cơ bản như là yếu tố vật chất và yếu tố phi vật
chất. Theo quan điểm này, sản phẩm vừa phải là cái “ đã có”, vừa là cái “đang và
tiếp tục phát sinh” trong trạng thái biến đổi không ngừng của nhu cầu. Ngày nay,
người tiêu dùng hiện đại khi mua một sản phẩm không chỉ chú ý đến khía cạnh vật
chất mà còn quan tâm nhiều đến khía cạnh phi vật chất, khía cạnh hữu hình và cả
yếu tố vô hình của sản phẩm.
Sản phẩm còn như là một lời giải đáp vật chất cho nhu cầu được định hướng qua
việc nghiên cứu thị trường, nó tập hợp các đặc trưng chúc năng, đặc trưng vật chất
và đặc trưng tâm lý. Và cuối cùng sản phẩm còn là một lời cam kết của doanh
nghiệp với khách hàng như là sản phẩm sẽ phục vụ cho ai? Sản phẩm đem đến cho
khách hàng những lợi ích gì? Có gì vượt trội và khác biệt với đối thủ cạnh tranh…
1.2.2. Khái niệm chiến lược sản phẩm
Khi đã định hình được sản phẩm là gì, thì doanh nghiệp phải lên kế hoạch, chiến
lược cho sản phẩm đó. Chiến lược sản phẩm được hiểu là những định hướng và những
qui định liên quan đến quá trình sản xuất kinh doanh sản phẩm. Qua đó giúp cho công ty
có thể đạt được những mục tiêu kinh doanh trong từng thời kỳ và thỏa mãn được nhu cầu
khách hàng.
1.2.3. Vai trò chiến lược sản phẩm
Chiến lược sản phẩm đóng vai trò hết sức quan trọng, nó là nền tảng là xương
sống của chiến lược Marketing. Chiến lược sản phẩm như một vũ khí sắc bén nhất
trong quá trình cạnh tranh trên thị trường.
5
Nhờ có chiến lược sản phẩm mà các doanh nghiệp có thể định hướng phát triển
rõ ràng và phân bổ được nguồn lực hợp lý. Đồng thời nó còn giúp công ty nâng cao
được lợi thế cạnh tranh và đáp ứng thoả mãn được nhu cầu của khách hàng.
Khi thực hiện tốt được chiến lược sản phẩm thì các chiến lược khác sẽ được phối
hợp và triển khai một cách hiệu quả hơn.Triển khai chiến lược sản phẩm còn là một
trong những yếu tố giúp doanh nghiệp thực hiện tốt các mục tiêu marketing được
đặt ra trong từng thời kỳ.
1.2.4. Nội dung chiến lược sản phẩm
1.2.4.1. Kích thước tập hợp sản phẩm
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần xác định rõ kích thước tập
hợp sản phẩm mà họ dự định thoả mãn cho thị trường. Kích thước tập hợp sản phẩm
là số loại sản phẩm cùng với số lượng chủng loại và mẫu mã sản phẩm. Kích thước
tập hợp sản phẩm bao gồm các số đo: chiều rộng, chiều dài và chiều sâu của tập hợp
sản phẩm. Chiều rộng của tập hợp sản phẩm là số lượng các dòng sản phẩm.Chiều
dài của tập hợp sản phẩm là tổng số món hàng của doanh nghiệp. Chiều sâu của tập
hợp sản phẩm thể hiện số mẫu của mỗi sản phẩm trong dòng sản phẩm
Quyết định về danh mục sản phẩm kinh doanh.
Hạn chế doanh mục sản phẩm kinh doanh: Qua phân tích tình hình thị
trường và khả năng của mình doanh nghiệp quyết định loại bỏ những
nhóm hàng hoặc loại sản phẩm mà họ cho rằng ít hoặc không có hiệu
quả.
Mở rộng sản phẩm: Ngoài những ngành hàng hoặc loại sản phẩm kinh
doanh, doanh nghiệp quyết định mở rộng sang lĩnh vực kinh doanh khác
hoặc mở rộng thêm danh mục sản phẩm kinh doanh.
Thay đổi sản phẩm kinh doanh.
Quyết định về dòng sản phẩm.
Thu hẹp dòng sản phẩm: Khi doanh nghiệp nhận thấy một số chủng loại
sản phẩm không đảm bảo thỏa mãn nhu cầu khách hàng, không đe, lại lợi
nhuận cho doanh nghiệp.
6
Mở rộng dòng sản phẩm kinh doanh: Nhằm tăng khả năng lựa chọn sản
phẩm, thỏa mãn nhu cầu cho những nhóm khách hàng khác nhau.
Hiện đại hóa dòng sản phẩm: Loại trừ những chủng loại sản phẩm lạc
hậu, cải tiến và giới thiệu những sản phẩm mới hơn.
Hoàn thiện và nâng cao đặc tính sử dụng của sản phẩm nhằm đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng.
Trong quá trình kinh doanh sản phẩm, doanh nghiệp sẽ có những nỗ lực:
Hoàn thiện cấu trúc kỹ thuật của sản phẩm.
Nâng cao thông số kỹ thuật của sản phẩm.
Tăng cường tính hữu dụng của sản phẩm.
1.2.4.2. Nhãn hiệu sản phẩm
Nhãn hiệu sản phẩm là tên gọi, thuật ngữ, dấu hiệu, biểu tượng hoặc tổng hợp
những yếu tố trên nhằm xác nhận sản phẩm hay dịch vụ của một doanh nghiệp và
phân biệt với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh.
Nhãn hiệu bao gồm những thành phần cơ bản sau:
Tên gọi nhãn hiệu (brand name): Phần đọc được của nhãn hiệu.
Biểu tượng nhãn (symbol): bộ phận của nhãn hiệu có thể nhận biết
được nhưng không đọc được. Nó có thể được thể hiện dưới dạng các
hình vẽ cách điệu, màu sắc, hoặc tên nhãn hiệu được thiết kế theo kiểu
đặc thù.
Yêu cầu tên nhãn hiệu:
Tên nhãn hiệu phải dễ đọc, dễ nhớ, mang tính chất phổ thông.
Tên gọi phải được quốc tế hóa theo mẫu tự la tinh.
Không nhái tên của đối thủ cạnh tranh, phải phân biệt được với tất cả
các tên gọi khác.
Không được mang ý nghĩa xấu, tên phải đề cập được chất lượng cũng
như công dụng của sản phẩm.
Tính pháp lý trong việc đặt tên sản phẩm
7
Giá trị tài sản nhãn hiệu là một tài sản rất có giá trị đối với một công ty.
Tuy nhiên, giá trị này thay đổi tùy thuộc vào uy tín nhãn hiệu và khả năng
marketing của doanh nghiệp cho nhãn hiệu đó.
Giá trị tài sản nhãn hiệu có vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp, nhất là
vai trò thu hút người tiêu dùng, là biểu hiện uy tín của một doanh nghiệp, là phương
tiện hữu hiệu của quảng cáo và phát triển thị trường. Nhãn hiệu trở nên có giá trị và
là một tài sản sở hữu trí tuệ quan trọng của các doanh nghiệp bên cạnh các tài sản sở
hữu trí tuệ khác như sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, tên gọi xuất xứ, bản quyền
tác giả, tác phẩm…
Các nhãn hiệu sẽ có giá trị khác nhau trên thị trường. nhãn hiệu nào càng có
uy tín, mức độ trung thành với nhãn hiệu của khách hàng cao thì giá trị của nhãn
hiệu đó càng lớn và ngược lại. Vì vậy, các doanh nghiệp thường có những biện
pháp để quản lý nhãn hiệu một cách cẩn thận và có hiệu quả.
Trong yếu tố nhãn hiệu sản phẩm có những quyết định liên quan đến
nhãn hiệu là quyết định về cách đặt tên nhãn, quyết định về người đứng tên nhãn, và
quyết định nâng cao uy tín nhãn hiệu.
1.2.4.3. Quyết định liên quan đến đặc tính sản phẩm
Chất lượng sản phẩm: Chất lượng sản phẩm là tổng thể những chỉ tiêu và đặc
trưng của sản phẩm, thể hiện được sự thỏa mãn nhu cầu trong điều kiện tiêu
dùng xác định, phù hợp với công dụng của sản phẩm.Chất lượng là một trong
những công cụ định vị chủ yếu của nhà làm marketing, chất lượng thể hiện:
tính bền, tính tin cậy, tính an toàn, dễ sử dụng, dễ sửa chữa.Có 4 mức chất
lượng : thấp, trung bình, cao, hảo hạng. Để bảo đảm chất lượng sản phẩm
trong quá trình sản xuất kinh doanh, niềm tin của khách hàng về chất lượng
sản phẩm và uy tín của mình, doanh nghiệp thực hiện quản lý chất lượng rất
chặt chẽ.
Đặc tính sản phẩm: Là những đặc điểm thể hiện chức năng sản phẩm và tạo
sự khác biệt khi sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp. Hiện nay các doanh
nghiệp thường đi nghiên cứu thị trường và hành vi tiêu dùng khách hàng để
8
đưa vào sản phẩm những đặc tính mới nhằm phục vụ nhu cầu ngày càng cao
của khách hàng.
Thiết kế sản phẩm: Những yếu tố nêu trên thể hiện khả năng thiết kế của sản
phẩm, thiết kế sản phẩm bảo đảm tính chất, kiểu dáng, công dụng và độ tin
cậy của sản phẩm.Mỗi sản phẩm có thiết kế tốt không chỉ thể hiện ở hình
thức của nó mà còn giúp cho người mua cảm thấy an toàn, sử dụng dễ dàng,
thuận tiện, hưởng được những dịch vụ tốt, doanh nghiệp đạt hiệu quả cao
trong quá trình sản xuất, kinh doanh sản phẩm.
1.2.4.4. Thiết kế bao bì sản phẩm
Bao bì có vai trò rất quan trọng. Một số nhà marketing đã coi bao bì là chữ P thứ
năm cùng với 4 chữ P trong marketing mix (Packeage). Tuy nhiên hầu hết giới
marketing đều cho rằng bao bì là một yếu tố trong chiến lược sản phẩm.Việc tạo
bao bì (Packaging). Là những hoạt động nhằm vẽ kiểu và sản phẩm đồ chứa hay đồ
bao gói cho một sản phẩm. Bao bì gồm 3 lớp:
- Bao bì lớp đầu là cái trực tiếp chứa sản phẩm. Ví dụ chai đựng nước hoa là
bao bì lớp đầu.
- Bao bì lớp nhì là bao bì bảo vệ bao bì lớp đầu và sẽ bỏ đi khi ta sắp dùng sản
phẩm đó. Hộp đựng chai nước hoa là bao bì lớp nhì. Nó có tác dụng bảo vệ
bổ sung, vừa là chỗ để quảng cáo thêm.
- Bao bì vận chuyển là lớp bao bì cần thiết cho việc lưu kho và vận chuyển.
Một số hộp cứng đựng 6 tá chai nước hoa nói trên là bao bì vận chuyển
Một thành phần không thể thiếu trên bao bì là nhãn và thông tin gắn trên bao bì
hoặc sản phẩm. Bao bì là công cụ đắc lực trong hoạt động marketing với nhũng
chức năng cơ bản như là :
- Cung cấp cho khách hàng những thông tin cần thiết về sản phẩm như thông
tin về nhà sản xuất, hướng dẫn sử dụng, thành phần sản phẩm, thời hạn sử
dụng…
- Giúp bảo vệ được sản phẩm tránh khỏi bị hư hỏng biến chất trong quá trình
vận chuyển, tiêu thụ sản phẩm.
9
- Bao bì còn thể hiện được hình ảnh về nhãn hiệu, công ty, thể hiện ý tưởng
định vị của sản phẩm.
- Nó còn tác động vào hành vi khách hàng qua hình thức, màu sắc và thông tin
trên bao bì.
Cuối cùng, trong quá trình thiết kế bao bì sản phẩm, các doanh nghiệp luôn có
những quyết định cơ bản về chọn nguyên liệu để sản xuất bao bì sản phẩm và thiết
kế nhãn gắn trên bao bì sản phẩm. Việc thiết kế nhãn gắn trên bao bì phải tuân thủ
theo những quy định của chính phủ và yêu cầu của khách hàng.
1.2.4.5. Dịch vụ hỗ trợ sản phẩm
Dịch vụ cho khách hàng là một yếu tố quan trọng trong chiến lược sản phẩm. Các
sản phẩm như xà bông, kem đánh răng, mì ăn liền hay hay muối thì chẳng có dịch
vụ đi kèm. Những sản phẩm như xe hơi, tủ lạnh, tivi thường có kèm theo dịch vụ để
tăng khả năng thu hút khách hàng. Các dịch vụ có thể bao gồm: hướng dẫn sử dụng,
bảo trì, giao hàng theo ý khách và bán trả góp, chuyên chở, lắp đặt sản phẩm, tư vấn
tiêu dùng... Dịch vụ khách hàng phải làm thật tốt và với chất lượng cao. Chúng sẽ là
những công cụ cạnh tranh có hiệu quả trên thương trường.
1.2.4.6. Phát triển sản phẩm mới
Phát triển sản phẩm mới là một vấn đề cực kỳ quan trọng trong chiến lược sản phẩm
của doanh nghiệp. Do nhu cầu, thị hiếu của khách hàng luôn thay đổi, những công
nghệ mới được áp dụng ngày càng nhiều, áp lực cạnh tranh tăng dần và yêu cầu
phát triển của bản thân đòi hỏi các doanh nghiệp cần có chương trình nghiên cứu và
phát triển những sản phẩm mới.
Nhằm hạn chế tối đa các rủi ro có thể xảy ra, doanh nghiệp luôn xem xét quá
trình phát triển sản phẩm mới qua nhiều giai đoạn:
Hình thành và lựa chọn ý tưởng.
Soạn thảo và thẩm định dự án.
Xây dựng chiến lược marketing cho sản phẩm.
Thiết kế kỹ thuật, hoàn thiện sản phẩm.
Thử nghiệm sản phẩm.
10
Triển khai sản xuất, tung sản phẩm mới ra thị trường.
1.2.4.7. Chu kỳ sống sản phẩm
Sản phẩm mới khi giới thiệu thành công trên thị trường vẫn chưa đảm bảo khả
năng kinh doanh lâu dài của chúng.Doanh nghiệp cần có những điều chỉnh trong
chiến lược marketing theo sự thay đổi của thị trường.Điều này đòi hỏi doanh nghiệp
theo dõi chặt chẽ tình hình kinh doanh của sản phẩm, diễn biến thị trường để có
những quyết định phù hợp.Vấn đề khá quan trọng cho các nhà quản lý là việc nhận
ra sản phẩm của họ đang ở giai đoạn nào trong chu kỳ sống, ở một thời điểm được
đưa ra. Môi trường cạnh tranh và những chiến lược marketing tổng hợp thường sẽ
khác nhau trong mỗi giai đoạn. Về cơ bản, chu kỳ sống sản phẩm trải qua 4 giai
đoạn
Giai đoạn giới thiệu trên thị trường
Giai đoạn tung ra thị trường bắt đầu khi một sản phẩm mới được đem ra bán trên thị
trường. Cần phải có thời gian để trải sản phẩm ra một số thị trường và đảm bảo vận
chuyển cho các đại lý, nên nhịp độ tăng trưởng mức tiêu thụ có thể là chậm do sản
phẩm chưa được nhiều người tiêu dùng biết đến hoặc người tiêu dùng chưa từ bỏ
được thói quen sử dụng sản phẩm hiện tại. Giai đoạn này đòi hỏi doanh nghiệp cần
đẩy mạnh những hoạt động chiêu thị để thông tin và gia tăng mức độ nhận biết của
khách hàng về sản phẩm, tác động vào những nhóm khách hàng sẵn sang mua sản
phẩm, tổ chức hệ thống tiêu thụ hợp lý trong giai đoạn đầu nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm. Đặc biệt ở giai đoạn giới thiệu sản phẩm, chi
phí bỏ ra để tiếp tục hoàn thiện sản phẩm và chi phí marketing cho sản phẩm cao
nhưng doanh nghiệp thường phải chịu lỗ hoặc lợi nhuận nếu có sẽ rất thấp.
Giai đoạn phát triển
Giai đoạn phát triển được đánh dấu bằng mức tiêu thụ tăng nhanh.Các đối thủ cạnh
tranh xâm nhập thị trường vì bị hấp dẫn bởi những cơ hội mở rộng sản xuất và lợi
nhuận cao. Họ tung ra những tính chất mới của sản phẩm và phát triển thêm các cửa
11
hàng phân phối.Giá cả vẫn giữ nguyên hay có giảm xuống đôi chút vì nhu cầu tăng
rất nhanh.Lợi nhuận trong giai đoạn này tăng, bởi vì chi phí kích thích tiêu thụ được
tính cho một khối lượng bán lớn hơn, đồng thời lại cắt giảm chi phí sản xuất
Giai đoạn chín muồi
Đây là giai đoạn ổn định của quá trình kinh doanh sản phẩm, sản lượng tiêu thụ và
doanh thu đạt tối đa, tuy nhiên mức độ tăng trưởng chậm do thị trường đã bão hòa,
cạnh tranh gay gắt. Các vấn đề cần lưu ý trong giai đoạn này là phải cố gắng duy trì
sức tiêu thị trên thị trường hiện có, khai thác những thị trường mới; cải tiến sản
phẩm, củng cố kênh phân phối hiện có đồng thời với phát triển những kênh mới,
tăng cường các hoạt động chiêu thị.
Giai đoạn suy thoái
Diễn ra khi khối lượng sản phẩm tiêu thị và lợi nhuận giảm sút một cách nghiêm
trọng.Vì thế doanh nghiệp phải thường xuyên thu thập những thông tin về xu hướng
thị trường, phân tích diễn biến doanh số, lợi nhuận… và nhất là luôn phải chú ý các
vấn đề như phát hiện ra những sản phẩm yếu kém, xác định rõ chiến lược Marketing
cần thực hiện, quyết định loại bỏ những sản phẩm yếu kém.
1.3. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CHIẾN LƯỢC SẢN PHẦM
1.3.1. Môi trường Marketing
Môi trường Marketing là các lực lượng, tác nhân nằm ngoài chức năng quản trị
marketing của công ty ảnh hưởng đến khả năng phục vụ khác hàng và hoạt động
marketing của công ty. Môi trường marketing luôn biến động, nó có thể tạo ra
những cơ hội hoặc đe doạ thách thức đối với doanh nghiệp.
1.3.1.1. Môi trường vĩ mô
Môi trường kinh tế
Bao gồm: xu hướng của GDP, tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp, thu
nhập và sự phân hoá ở các tầng lớp dân cư và vùng điạ lý… Phân tích yếu tố kinh tế
sẽ giúp doanh nghiệp nhận dạng được khách hàng của mình. Một khi kinh tế phát
triển thu nhập người dân tăng lên, sẽ ảnh hưỏng rất nhiều đến hành vi mua hàng của
họ. Nền kinh tế ổn định thì thu nhập của người dân sẽ ổn định khi đó nhu cầu cuộc
12
sống của họ cao hơn và đó lại là cơ hội cho các doanh nghiệp cung ứng sản phẩm
cho người tiêu dùng giúp cho sản lượng sản phẩm bán ra của doanh nghiệp cao hơn
và sẽ có tác động ngược lại nếu nền kinh tế bất ổn có nhiều biến động.
Môi trường văn hoá xã hội
Trong xã hội đặc thù nào đó sẽ hình thành lối sống, quan điểm sống, giá trị và
những tiêu chuẩn của họ. Văn hóa từng vùng, từng nước từng khu vực sẽ chi phối
đến hành vi mua hàng của khách hàng. Đặc tính văn hóa chi phối ảnh hưởng đến
quyết định mua hàng. Vì thế trước khi triển khai chiến lược sản phẩm ở bất kỳ lãnh
thổ, vùng điạ lý nào, nhà Marketing cũng phải nghiên cứu hết sức kĩ lưỡng vấn đề
văn hóa địa phương, văn hóa vùng miển để có những sản phẩm và những chiến lược
phù hợp với phong tục, tập quán, nét văn hóa. Khi thiết kế và triển khai các chiến lược
marketing mà cụ thể ở đây là chiến lược sản phẩm để đáp ứng nhu cầu cho những khách
hàng ở các thị trường khác nhau (như thiết kế sản phẩm, phát triển sản phẩm mới,…) mà
không gặp rủi ro do khác biệt về văn hóa.
Môi trường chính trị
Doanh nghiệp khi nghiên cứu thị trường, tung ra những chiến lược Marketing chủ
lực, hay những chiến lược Marketing bộ phận cũng cần nghiên cứu về môi trường
luật pháp, chính trị của thị trường nhắm đến. Đó là hệ thống pháp luật, hiến pháp
và nghị định, các bộ luật, các pháp lệnh, các chính sách, cơ chế điều chỉnh của
Chính phủ…Doanh nghiêp cần thông hiểu để có thể kinh doanh và phát triển sản
phẩm mà không bị ngăn cản bởi điều kiện pháp lý.
1.3.1.2. Môi trường vi mô
Đối thủ cạnh tranh
“Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng”. Nghiên cứu về đối thủ cạnh tranh để từ
đó xây dựng các chiến lược đối phó phù hợp. Có được những thông tin về đối thủ
cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ đảm bảo cho doanh nghiệp có một vị trí tốt trên thị
trường. Nó cũng đồng thời giúp doanh nghiệp linh hoạt và đáp ứng nhanh với
những thay đổi của thị trường. Bằng cách biết được các doanh nghiệp khác đang
làm gì, doanh nghiệp có thể chắc chắn được là giá cả của doanh nghiệp là cạnh
13
tranh, công việc marketing của doanh nghiệp là hợp lý, và sản phẩm của doanh
nghiệp thu hút người mua. Sản phẩm của doanh nghiệp cần phải khác biệt so với
các sản phẩm khác thì mới thành công được, và để làm được điều này doanh nghiệp
cần phải lợi dụng những điểm yếu của đối thủ cạnh tranh. Đối thủ cạnh tranh vừa là
nguồn áp lục thách thức, vừa là nguồn động lực để đẩy mạnh các chiến lược sản
phẩm của công ty bởi để có thể tồn tại, cạnh tranh được với các đối thủ tiềm năng
thì công ty phải không ngừng đề ra các chiến lược sản phẩm thật hiệu quả, độc đáo
và khác biệt với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường.
Khách hàng
Khách hàng là một nhân tố quan trọng quyết định sự tồn tại của một doanh nghiệp,
một sản phẩm. Khách hàng vừa là người mua hàng của doanh nghiệp nhưng cũng là
người mua hàng của đối thủ cạnh tranh.Vì thế doanh nghiệp cần phải tôn trọng
khách hàng và tìm mọi cách thỏa mãn nhu cầu của họ. Ý muốn và thị hiếu của
khách hàng luôn thay đổi theo không gian và thời gian. Vì vậy, doanh nghiệp phải
dự báo được những nhân tố dẫn đến sự thay đổi đó, để kịp thời phục vụ khách hàng.
Khách hàng cũng chính là đối tượng mà doanh nghiệp cần hướng tới để từ đó đề ra
các chiến lược sản phẩm hợp lí và hiệu quả.
Giới công chúng
Theo Philip Kotler : “Công chúng là một nhóm bất kì, tỏ ra quan tâm thực sự hay có
thể sẽ quan tâm đến những hoạt động của doanh nghiệp, họ có ảnh hưởng đến
những khả năng đạt tới những mục tiêu mà doanh nghiệp đề ra”.
Giới công chúng bao gồm: giới tài chính, công chúng thuộc các phương tiện thông
tin,công chúng thuộc các cơ quan Nhà nước, nhóm công dân hành động, công
chúng điạ phương, quần chúng đông đảo, công chúng nội bộ. Công chúng có thể
hoặc hỗ trợ hoặc chống lại những nỗ lực của doanh nghiệp nhằm phục vụ thị
trường. Họ có sự tác động mạnh lên hành vi mua sắm sản phẩm hàng hóa của người
tiêu dùng và điều này sẽ tác động đến khả năng tiêu thụ kinh doanh sản phẩm của
doanh nghiệp. Vì thế, doanh nghiệp cần chú ý để có thể ngăn chặn và khắc phục nếu
có những sự cố có thể xảy ra.
14
Nhà cung ứng
Nhà cung ứng là người cung cấp các nguồn lực cho công ty như dịch vụ, nguyên vật
liệu , nguồn nhân lực…Các nhà Marketing cần nắm được khả năng cung ứng của họ
cả về chất và lượng nhằm phòng tránh sự gia tăng giá cả của nhà cung ứng có thể
gây khó khăn cho doanh nghiệp, ảnh hưởng đến khả năng phục vụ khách hàng mục
tiêu của doanh nghiệp trong dài hạn. Do đó, các doanh nghiệp không thụ động trước
sự tác động của môi trường mà phải theo dõi phân tích, dự đoán và chuẩn bị các
chiến lược đáp ứng nhằm giúp doanh nghiệp tận dụng cơ hội kinh doanh và phòng
ngừa rủi ro mà môi trường mang lại. Nhà cung ứng ảnh hưởng khá nhiều đến chiếc
lược sản phẩm bởi chỉ có những nhà cung ứng vật liệu tốt, máy móc tốt, hiện đại
mới có thể nâng cao được chất lượng sản phẩm từ đó mới giúp chiến lược sản phẩm
diễn ra thuận lợi và hiệu quả.
1.3.2. Gía cả
Giá là yếu tố có ảnh hưởng quyết định đến hành vi mua của người tiêu dùng. Do đó,
việc định giá cho phù hợp với chất lượng sản phẩm và túi tiền của khách hàng có
vai trò quyết định đến doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp. Khi một sản phẩm
đáp ứng được nhu cầu của thị trường mà định giá quá cao so với túi tiền của khách
hàng thì chắc chắn sẽ không thể tồn tại, còn nếu giá quá thấp thì sẽ bị đánh giá là
chất lượng kém. Như vậy, chiến lược giá phải luôn đi đôi với chiến lược sản phẩm.
1.3.3. Phân phối
Hệ thống phân phối được xem như là trung gian giữa nhà sản xuất, kinh doanh với
người tiêu dùng. Như vậy các nhà phân phối chính là những người tiếp xúc trực tiếp
với khách hàng để tiêu thụ sản phẩm. Do đó, chiến lược phân phối có mối liên hệ
chặt chẽ với chiến lược sản phẩm, giúp cho sản phẩm đến tận tay người tiêu dùng.
Chiến lược phân phối giúp doanh nghiệp tăng cường mức độ bao phủ thị trường tạo
sự thuận lợi cho chiến lược sản phẩm có thể đưa sản phẩm thâm nhập vào các khúc
thị trường mới, phát triển các khu vực thị trường địa lý mới. Chiến lược phân phối
giúp cho chiến lược sản phẩm có thể triển khai một số hoạt động đến khách hàng
15
như: giới thiệu sản phẩm mới, các dịch vụ hỗ trợ, hậu mãi chăm sóc khách hàng,…
nhằm thỏa mãn tốt nhu cầu của thị trường.
1.3.4. Chiêu thị
Một sản phẩm khi tung ra thị trường, muốn khách hàng biết đến và quyết định mua
thì cần phải có những chiến lược chiêu thị tác động vào nhận thức của khách hàng.
Chiêu thị có vai trò đặc biệt quan trọng không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn đối
với người tiêu dùng và xã hội. Đây chính là công cụ truyền đạt thông tin về sản
phẩm đến người tiêu dùng, nhằm cung cấp cho người tiêu dùng lượng thông tin cần
thiết để tác động vào quyết định mua hàng của họ. Ngoài ra, chiêu thị còn giúp xây
dựng hình ảnh tích cực cho doanh nghiệp, giải quyết những khủng hoảng, sai lệch
về sản phẩm, tạo sự chú ý của khách hàng đối với sản phẩm. Chiêu thị cung cấp
kiến thức giúp người dùng nâng cao về nhận thức sản phẩm trên thị trường. Từ đó
hoạt động chiêu thị đưa các chiến lược sản phẩm của công ty đến gần khách hàng
hơn, tạo sự hiểu biết và sự chú ý của họ về các chiến lược này như: phát triển sản
phẩm mới, thiết kế các mẫu bao bì.
16