lỜi mỞ ĐẦu -...
TRANSCRIPT
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
1
LỜI MỞ ĐẦU
Rửa tiền là một khâu quan trọng quá trình hoạt động tội phạm nhằm
che đậy, xoá nhoà nguồn gốc bất hợp pháp của những thu nhập có được từ
hoạt động phạm tội. Thuật ngữ "rửa tiền " đã trở nên quen thuộc ở nhiều nước
trên thế giới.
Với vụ rửa tiền đầu tiên xuất hiện tại Hoa Kỳ vào năm 1920, cho tới
nay nó đã xuất hiện ở hầu hết các nước trên thế giới với các mức độ khác
nhau nhưng ngày càng có xu hướng gia tăng. Hoạt động rửa tiền cũng ngày
một tinh vi hơn, khó bị phát hiện hơn.
Chúng ta biết rằng hoạt động rửa tiền thường gắn liền với một hoặc
nhiều hoạt động tội phạm nước đó. Do vậy hậu quả của nạn rửa tiền là vô
cùng nghiêm trọng đối với nền kinh tế - xã hội, nó có thể phá huỷ nền kinh tế,
an ninh và gây ra những hậu quả xấu cho xã hội, đồng thời nó khuyến khích
hoạt động mua bán ma tuý, khủng bố, các quan chức Nhà nước tham nhũng
và kéo theo những hoạt động phạm tội khác; nó tác động rất lớn đến hiệu quả
hoạt động và làm sai lệch quá trình hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô, làm
tăng nguy cơ phá sản của các ngân hàng và làm mất đi vai trò kiểm soát các
chính sách của Chính phủ... Nếu không kiểm soát được, nạn rửa tiền có thể ăn
mòn tình hình tài chính của một nước do gây ra những ảnh hưởng bất lợi tới
tỷ giá, lãi suất và tác động đến hệ thống tài chính toàn cầu. Có thể nói nạn
"rửa tiền" không chỉ là vấn đề của các cơ quan thực thi pháp luật mà nó còn là
mối đe doạ nghiêm trọng nền an ninh của một quốc gia và cộng đồng quốc
tế...
Vì những lý do này mà chống rửa tiền đang là một yêu cầu cấp bách
đối với các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam.
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
2
Với mong muốn góp ý kiến vào cuộc đấu tranh chống "rửa tiền " đầy
khó khăn này, nhằm từng bước làm trong sạch hệ thống tài chính, ổn định
kinh tế xã hội, tác giả mạnh dạn đưa ra đề tài: "Rửa tiền và chống rửa tiền -
hiện tượng, giải pháp ở các nước trên thế giới và Việt Nam".
Đề tài làm rõ những nội dung cơ bản về phương diện lý luận cũng như
thực tiễn về nạn rửa tiền, về cuộc đấu tranh chống rửa tiền ở một số quốc gia
trên thế giới. Từ đó đưa ra một số giải pháp và kiến nghị để cuộc đấu tranh
chống rửa tiền thành công.
Do còn hạn chế về nhiều mặt, chắc chắn đề tài còn những thiếu sót nhất
định. Rất mong thầy cô và bạn đọc góp ý để đề tài được hoàn thiện hơn. Xin
chân thành cảm ơn!
Cuối cùng, em xin cám ơn giảng viên PGS.-TS. Nguyễn Thị Quy đã tận
tình giúp đỡ em thực hiện đề tài này.
Hà nội, tháng 5 năm 2003
Nguyễn Thị Thu Trang
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
3
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.........................................................................................1
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ RỬA TIỀN .......................................6
I. KHÁI NIỆM VÀ QUI TRÈNH RỬA TIỀN .............................................. 6
1. Khái niệm. ........................................................................................... 6
1.1. Định nghĩa: ................................................................................. 6
1.2. Lịch sử nạn rửa tiền ..................................................................... 9
2. Qui trình rửa tiền ................................................................................ 12
2.1. Chu trình rửa tiền...................................................................... 12
2.2. Các hình thức rửa tiền .............................................................. 15
II. HẬU QUẢ NẠN RỬA TIỀN................................................................ 18
1. Những thị trường mới nổi dễ bị tổn thương....................................... 19
2. Làm suy yếu khu vực kinh tế tư nhân ................................................ 19
3. Làm suy yếu toàn bộ thị trường tài chính .......................................... 20
4. Làm mất sự kiểm soát chính sách kinh tế .......................................... 20
5. Sự sai lệch và mất ổn định về kinh tế ................................................ 21
6. Gây tổn hại Ngân khố quốc gia:......................................................... 22
7. Gây nên rủi ro cho những nỗ lực tư nhân hoá ................................... 22
8. Nguy cơ tổn hại danh tiếng ................................................................ 22
9. Những cái giá phải trả về mặt xã hội ................................................. 24
III. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG RỬA TIỀN QUA HỆ THỐNG NGÂN
HÀNG ......................................................................................................... 24
IV. CÁC VĂN BẢN PHÁP LÍ SỬ DỤNG TRONG CHỐNG
“RỬA TIỀN”............................................................................................... 29
Kết luận chương I: .................................................................................. 32
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
4
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG RỬA TIỀN VÀ CHỐNG RỬA
TIỀN Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM ......... 33
I. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG RỬA TIỀN VÀ CHỐNG RỬA TIỀN
MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI............................................................. 33
1. Rửa tiền - chống rửa tiền tại Hoa Kỳ ................................................. 34
1.1. Khái quát chung:......................................................................... 34
1.2. Chống rửa tiền của Hoa Kỳ:........................................................ 37
1.2.1. Những cơ sở pháp lý then chốt của Hoa Kỳ. ...................... 37
1.2.2 Dấu vết hồ sơ: ..................................................................... 39
1.2.3. Vòng quay toàn cầu............................................................. 42
1.2.4. Những định hướng trong tương lai:................................... 43
1.3. Những thành tựu đạt được trong cuộc chiến chống rửa tiền của
Hoa Kỳ..................................................................................................... 44
1.3.1. Chiến dịch "thuần hoá chú lừa"........................................ 44
1.3.2. Chiến dịch “công việc mạo hiểm”.................................... 45
1.3.3. Những vụ việc liên quan đến hệ thống chuyển đổi đồng
tiền peso chợ đen..................................................................................... 47
1.3.4. Những khó khăn trong các vụ chống rửa tiền quốc tế:
Chiến dịch Casablanca ........................................................................... 48
2. Rửa tiền - chống rửa tiền ở Thái Lan ................................................. 51
3. Rửa tiền- chống rửa tiền tại Hồng Kông........................................... 54
II. RỬA TIỀN VÀ CHỐNG RỬA TIỀN Ở VIỆT NAM ............................ 57
1. Khái quát chung: ................................................................................ 57
2. Thực trạng cụ thể ................................................................................ 59
Kết luận chương II. ................................................................................. 60
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
5
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GểP PHẦN CHỐNG NẠN RỬA TIỀN VÀ
NHỮNG KIẾN NGHỊ .........................................................................62
I. SỰ CẦN THIẾT CHỐNG RỬA TIỀN VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ ........ 62
1. Sự cần thiết phải chống “rửa tiền” ...................................................... 62
2. Định hướng chống “rửa tiền”.............................................................. 60
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỐNG RỬA TIỀN.......................................... 64
1. Các biện pháp kĩ thuật và đào tạo ..................................................... 64
1.1. Đào tạo các đối tác. .................................................................... 66
1.2. Các sáng tạo hỗ trợ đa phương : ............................................... 71
2. Biện pháp của ngành ngân hàng. ........................................................ 72
2.1. Mục tiêu của chính sách “nhận biết khách hàng”-KYC ............ 72
2.2. Nội dung của chính sách “nhận biết khách hàng”..................... 73
2.3. Nguyên tắc cơ bản của Chính sách “nhận biết khách hàng” .... 74
3. Hợp tác quốc tế chống “rửa tiền”....................................................... 75
III. NHỮNG KIẾN NGHỊ VỚI VIỆT NAM .............................................. 77
Kết luận chương III. ................................................................................ 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................80
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
6
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ RỬA TIỀN
I. KHÁI NIỆM VÀ QUY TRÌNH RỬA TIỀN
1. Khái niệm.
1.1. Định nghĩa: Một cách chung nhất có thể hiểu rửa tiền là hành động hợp thức hoá số
tiền kiếm được một cách bất hợp pháp và tránh sự kiểm soát các hoạt động
phi pháp của các cơ quan hành pháp.
Vậy đối tượng tham gia hành vi rửa tiền là ai? Câu trả lời đơn giản là
bọn tội phạm. Nhưng câu trả lời này không hoàn toàn phản ánh sự thực. Bởi
trong thực tế, người ta có thể tìm thấy bọn rửa tiền ở mọi ngóc ngách của
cuộc sống, trong đó có những tên hoạt động hết sức đơn giản, có những tên
hoạt động hết sức tinh vi: từ việc đặt cược đua ngựa, buôn lậu, trốn thuế, gửi
tiền vào ngân hàng... đến rửa tiền thông qua các công cụ tài chính hiện đại.
Tuy nhiên tội phạm rửa tiền không phải chỉ là những tên chủ mưu rửa tiền mà
cả những đối tượng giúp để một tên tội phạm thực hiện hoạt động rửa tiền.
Điều này có nghĩa là, nếu các chủ ngân hàng, các luật sư, các kế toán, những
người buôn bán xe hơi và những người khác cho phép ai đó rửa tiền thông
qua các hoạt động kinh doanh của mình thì họ cũng là những tên rửa tiền. Nói
chung điều duy nhất có thể biện hộ cho một người là anh ta đã không biết gì
về việc đang xảy ra; lý do như vậy có vẻ không mấy thuyết phục. Tuy nhiên
trong các phiên toà, dù có được ghi trong các điều khoản luật hay do những
phỏng đoán từ các chứng cứ thì nhiệm vụ chứng minh sự vô tội của anh ta
chuyển sang cho bị cáo.
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
7
Trong nhiều trường hợp, những người không phải là doanh nhân hay
không phải là những tên tội phạm cũng đều có nguy cơ trở thành tội phạm rửa
tiền nếu như họ chứa chấp, nắm giữ hộ tiền hay tài sản thu được từ các vụ rửa
tiền. Một ví dụ rõ nhất trong tình huống này là vợ hay bạn gái của một tên tội
phạm biết hoặc nghi ngờ chồng hay bạn trai của mình sử dụng nguồn lợi bất
chính để mua nhà, mua xe hay mua đồ trang sức đắt tiền.v.v... cũng trở thành
hoặc bị coi là tội phạm rửa tiền.
Đối tượng sau cùng bị coi là tội phạm rửa tiền phải kể đến là những
người giúp bọn tội phạm vạch ra kế hoạch rửa tiền cho dù họ không thực sự
tham gia vào kế hoạch đó. Như vậy một kế toán gợi ý cho bọn rửa tiền một kế
hoạch trốn thuế thì chính viên kế toán này cũng trở thành tội phạm rửa tiền.
Một vấn đề đặt ra là tại sao bọn tội phạm lại rửa tiền?
Hiện nay, người ta biết tới ba loại tội phạm cơ bản là: tội phạm vì tình
hay vì danh dự, tội phá hoại mang tính bạo lực và tội phạm kinh tế. Nếu bỏ
qua số ít tội phạm phá hoại thì phần đông là tội phạm kinh tế - phạm tội vì
tiền. Nhưng đối tượng này phạm tội vì hai lý do: một là, do bị kích động, tức
là chúng muốn chứng tỏ rằng chúng có thể làm được việc đó và bỏ trốn sau
khi phạm tội; hai là, vì chúng cho rằng nếu phạm tội thì chúng sẽ có nhiều
tiền hơn là bằng cách nỗ lực kiếm tiền theo đúng luật.
Sau khi kiếm được tiền bằng cách phạm tội, bọn chúng sẽ sử dụng tiền
đó cho một trong ba mục đích: đưa trực tiếp vào một vụ phạm tội khác; dấu
tiền để sử dụng sau này; hoặc trực tiếp vào một vụ phạm tội .
Trong những phương pháp điều tra chuẩn mực và đạt được những
thành công nhất là điều tra "theo dấu đồng tiền". Vì vậy, bọn tội phạm muốn
chuyển đi xa một cách nhanh chóng để "xoá dấu đồng tiền" trước khi các điều
tra viên có thể phát hiện ra. Từ xưa tới nay, chúng đều muốn dấu tiền vào một
chỗ kín đáo để những điều tra viên không làm được gì. Thêm vào đó, nếu các
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
8
điều tra viên cho rằng ai đó có liên quan tới tội phạm thì họ sẽ tiến hành điều
tra trước tiên nguồn tài chính và các công việc trước đây của đối tượng này.
Vì thế, bọn tội phạm cần phải lôi tiền ra khỏi chỗ kín bằng cách nào đó mà
anh ta có thể giải thích là anh ta đã lấy nó từ đâu.
Tuy nhiên, khi thấy một người tiêu xài nhiều hơn số tiền họ có, ví dụ
một người thợ làm đầu không có người khách nào mà lại có một chiếc xe mui
trần, thì chúng ta có quyền nghi ngờ họ có dính líu đến hành vi "rửa tiền".
Những người muốn trốn thuế rửa tiền để che dấu về nguồn gốc của tiền
và tài sản hoặc họ có thể dấu tiền trong các tài khoản mở tại Ngân hàng,
thường dưới tên của con cái hay người thân của họ, miễn sao để những người
quản lý thu nhập sẽ không phát hiện ra. Đôi khi, chỉ đơn giản là họ tiến hành
các hoạt động bên ngoài mà chỉ một phần hoạt động đó bị ghi chép lại.
Nhìn chung, hành vi rửa tiền là rất đa dạng, nó có thể tồn tại dưới dạng
này hoặc dạng khác. Khi khoa học công nghệ này phát triển, hành vi này càng
trở nên tinh vi hơn. Muốn hạn chế được hành vi này phải tìm ra nguồn gốc
sâu xa của nó, tức trả lời câu hỏi: "Tại sao xảy ra nạn rửa tiền".
Theo ước tính thì 80% các vụ phạm tội về tài sản, ví như hành động ăn
trộm là để thoả mãn thói quen nghiện hút; nếu không có ai muốn mua những
hàng hoá là đồ ăn cắp thì bọn tội phạm sẽ không có cơ sở để ăn trộm vì chúng
sẽ không thể bán lấy tiền được.
Ở hầu hết các nước, nếu một người buôn bán đồ ăn cắp (điều này có
nghĩa là anh ta mua chúng từ một bên ăn trộm rồi bán lấy tiền lời) thì tội của
anh ta còn nghiêm trọng hơn là tội của tên tội phạm đã ăn trộm hàng hoá đó.
Vì vậy, người ta tin tưởng rằng có thể giảm các vụ ăn trộm chỉ bằng cách làm
cho chúng không thể đem lại lợi nhuận cho bọn tội phạm.
Tuy nhiên, hiện nay loại tội phạm tài chính ngày càng gia tăng với cách
phạm tội ngày càng tinh vi thì tiền không còn tồn tại dưới dạng vật chất. Ở
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
9
đây, tiền chẳng khác nào những thông tin trên màn hình máy tính hay chính
xác hơn là những kí tự lưu trữ trong bộ nhớ của máy vi tính. Vì thế khó có thể
thấy người ta mua bán đồ ăn trộm vì thực tế chẳng có gì cả. Kết quả là, khung
luật hình sự có đưa ra cách xác định một vật chất của những đồ ăn trộm, ăn
cắp là không thể áp dụng được (hoặc các toà án cho rằng nó không thích ứng)
đối với những loại tiền hoặc tài sản khác phi vật chất.
Các nhà lập pháp và hành pháp có một câu thành ngữ cho rằng để giảm
bớt tội phạm phải "triệt tiêu lợi nhuận của bọn tội phạm", nghĩa là xác minh
các tài sản bắt nguồn từ lợi nhuận từ các vụ phạm tội và tịch thu chúng theo
lệnh của toà án hoặc dựa vào sức mạnh của quyền lực hành chính.
Tóm lại rửa tiền là một hoạt động phi pháp. Chúng ta có thấy thấy hành
vi rửa tiền thường đi kèm với các hành vi tội phạm. Để chống rửa tiền hiệu
quả trước hết chúng ta hãy xem diễn biến của nó trong lịch sử và những tác
động của nó.
1.2. Lịch sử nạn rửa tiền Rửa tiền xuất hiện lần đầu tiên ở Mỹ vào năm 1920 và đến năm 1999
thì nhu cầu rửa tiền ngày càng lớn và lan rộng ra nhiều nước trên thế giới.
Theo báo cáo năm 2000 của Cơ quan chống các chất gây nghiện quốc tế (gọi
tắt là INCSR) cho tới thời điểm này số các nước có tình trạng rửa tiền ở mức
độ đáng lo ngại đã lên tới mức hai con số. Cụ thể tổ chức này chia mức độ
hoạt động rửa tiền ở các quốc gia thành 3 mức chủ yếu: Nhóm mức độ lo ngại
cao; Nhóm mức độ lo ngại trung bình và nhóm được theo dõi. Sự phân chia
này dựa trên các tiêu chí: (1) có hay không có những cơ quan tài chính của
quốc gia tiến hành các giao dịch có liên quan trực tiếp đến lượng tiền thu
được từ những tội phạm nghiêm trọng; (2) phạm vi của hoạt động xét xử hay
bất cập ảnh hưởng đến rửa tiền; (3) bản chất và qui mô của tình trạng rửa tiền
ở nước ta (ví dụ: ở đó có hay không có dính dáng đến ma tuý hay những hoạt
động buôn lậu); (4) những cách thức mà mỗi quốc gia quan tâm đến tình hình
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
10
cụ thể khi có chi nhánh quốc tế; (5) Những tác động hiện tại mà mỗi quốc gia
quan tâm; (6) Có hay không việc giới hạn các hành vi bảo vệ pháp luật được
phép chỉ ra những vấn đề cụ thể; (7) Có hay không có việc thiếu thủ tục cho
phép hoạt động và bỏ sót các Trung tâm buôn bán và tài chính nước ngoài; (8)
Có hay không giới hạn của pháp luật đang thực thi ngày càng có hiệu quả; và
sự hợp tác quốc tế trong việc chống rửa tiền ở các quốc gia.
Bảng 1: DANH SÁCH CÁC QUỐC GIA/NHÓM MỨC ĐỘ LO NGẠI VỀ RỬA TIỀN
QUỐC GIA /NHÓM MỨC ĐỘ
LO NGẠI LỚN
QUỐC GIA /NHÓM MỨC ĐỘ
LO NGẠI TRUNG BÌNH
QUỐC GIA /NHÓM THEO DÕI
ANTIGUA INDONEXIA ALBANIA CHILA AFGHANMISTAN CROATIA
BARBUDA ISLE OF MAN ARGENTIRA COOK LLANDS ALGERIA CUBA
AUSTRALIA ISRAEL ARUBA KOREA, ANGOLA DENMARK
AUSTRIA ITALY BAHRAIN COSTA RICA ANGUILLA ERITREA
BAHAMAS JAPAN BELIZE CZECH ARMENIA ESTONIA
BRAZIL TERSEY BOLIAVIA ECUADOR AZERBAIJAN ETHIOPLA
BURMA LEBANON BRITISH SAMMOA BANGLADESH FIJI
CANADA LIECHTESNTEIN . ISLANDS SEYCHELLES BELARUS FINLAND
CAYMAN MEXICO BARBADOS SLOVAKIA BENIN GEORGIA
CHINA NAURU BELGIUM SOUTH AFRICA BENMUDA GHANA
COLOMBIA HOLLAND EGYPT ST.LUCIA BOSNIA AND GUYANA
CYPRUS NIGERIA EL TURKS AND BOTS WWANA IRAN
DOMINICA PAKISTAN GIBNALTAR UKRAINE BRUNEI TORDAN
FRANCE PANAMA HAITI VANUATU CAMEROON KA
GERMANY PARAGUAY HONDURAS VIETNAM COTE D'IVOIRE TRENYA
GREECE PHILLIPINE INRELAND YUGOSLAVIA KYRGYZSTAN LAOS
GRENADA RUSSIA JAMAICA BULGARIA MONTSSERRAT SAUDI
GUENSEY SINGAPORE KOREA CAMBODIA MORO CCO SWNEGAL
HONGKONG SPAIN KOREA, MALAYSIA MOZAMBIQUE SLOVENIA
HUNGARY ST-KITTS AND LATVIA MARSHALL NAMI BIA SOLOMON
INDIA ST.VICENT MACAU MONACO NEPAL SRI LANKA
UNITED SWITZERLAND PALAU NATHERLANDS NEW ZEALAND SURINAME
EMIRATES TAIWAN PERU ICARAGUA NIGER SWAZILAND
UNITED THAILAND POLAND NIUE NOI WUAY SWEDEN
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
11
URUGUAY TURKEY PORTUGAL ROMANIA OMAN TAJIKISTAN
UNITED VENEZUELA PAPUA NEW TANZAMIA
Việc rửa tiền lan nhanh như vậy không phải là điều khó hiểu bởi có rất
nhiều đối tượng có nhu cầu rửa tiền: buôn bán ma tuý, trốn lậu thuế, tội phạm
có tổ chức, cướp ngân hàng, khủng bố... Hàng năm ước tính riêng tiền buôn
bán ma tuý có tới 110 tỷ USD được rửa qua hệ thống ngân hàng Mỹ.
Ngày nay, có rất nhiều kỹ thuật rửa tiền khác nhau. Sự lựa chọn kỹ
thuật rửa tiền khác nhau tuỳ thuộc vào các tiêu thức:
- Môi trường kinh doanh trực tiếp: về nguyên tắc, không có giới hạn
cho những khuôn mẫu của việc rửa tiền, nhưng trên thực tế, những người rửa
tiền cố gắng lựa chọn cách làm cho lợi nhuận của họ giống với lợi nhuận của
việc kinh doanh thông thường và thuộc thẩm quyền quyết định của họ.
- Mức độ nghiêm trọng: khối lượng tiền ít được rửa định kỳ sẽ đòi hỏi
kỹ nghệ rửa tiền khác xa so với số tiền lớn.
- Yêu cầu của luật pháp: những người rửa tiền sẽ cố gắng chuyển thu
nhập bất hợp pháp đến rửa tiền tại những vùng không có quy định về chống
rửa tiền.
Trường đua ngựa là một ví dụ điển hình về công nghệ rửa tiền sơ khai.
Những người rửa tiền dùng đồng tiền bất hợp pháp của mình để mua vé thắng
cược, có thể đặt thêm tiền cho người thắng cuộc và sau đó trình vé lấy tiền.
Những đồng tiền đó có thể coi là nguồn thu nhập bất hợp pháp từ đánh bạc.
Công nghệ này được kéo dài trong lịch sử và đến nay vẫn sử dụng.
Trong trò chơi xổ số có cả những nhóm người mua vé trúng thưởng và
bán chúng cho những người có tiền phải rửa.
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
12
Những Công ty hoạt động bất hợp pháp phải nhờ cậy đến công nghệ
rửa tiền bất kỳ lúc nào. Bởi những đồng tiền "bẩn" sẽ mang lại cho họ nhiều
rủi ro. Nó có thể là một mắt xích liên kết đồng tiền đó với hoạt động tội phạm
cơ sở. Nó càng có thể cung cấp một dấu hiệu, một bằng chứng của tội phạm
hoặc có thể bị tịch thu. Vì vậy đối với tội phạm thì rửa tiền là một việc làm
cần thiết để tách rời đồng tiền khỏi hoạt động phạm tội cơ sở hoặc tìm kiếm
một giải thích hợp pháp về nó. Hoạt động tội phạm cơ sở thường là: buôn lậu,
buôn ma tuý, buôn bán phụ nữ, tham nhũng.v.v...
Rửa tiền bằng kỹ thuật hiện đại, tinh vi hơn có quan hệ mật thiết đến
hoạt động tài chính ngân hàng. Ngân hàng và các tổ chức tài chính có thể vô
tình trở thành người trung gian cho việc chuyển tiền hoặc gửi tiền thu được
thu được từ các hoạt động phạm tội. Tội phạm và đồng bọn của chúng sử
dụng hệ thống tài chính - ngân hàng để thực hiện việc thanh toán và chuyển
tiền, vốn từ tài khoản này sang tài khoản khác, che dấu nguồn gốc và chủ sở
hữu của đồng tiền. Đồng thời, các ngân hàng còn cung ứng cho chúng dịch vụ
bảo quản tiền một cách thuận lợi và an toàn. Tất cả những hoạt động đó hầu
hết đều liên quan đến việc rửa tiền.
Như vậy, cho dù ở mức thô sơ hay tinh vi thì hoạt động rửa tiền đã lan
rộng ra hầu hết các nước trên thế giới. Để nhận biết được một hoạt động nào
đó - có là hoạt động rửa tiền hay không, chúng ta hãy xem xét tiến trình
chuyển tiền từ đồng tiền bất hợp pháp sang đồng tiền hợp pháp diễn ra như
thế nào.
2. Qui trình rửa tiền
2.1. Chu trình rửa tiền: Việc rửa tiền gồm 3 bước và đôi khi cũng chồng chéo nhau: sắp xếp,
chia nhỏ và pha trộn.
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
13
Trong khâu sắp xếp, số tiền phải được chuyển đổi để che dấu nguồn
gốc bất hợp pháp. Ví dụ tiền buôn bán ma tuý bất hợp pháp hầu hết là các tờ
giấy bạc nhỏ và số lượng thậm chí còn... nặng nề và cồng kềnh hơn lượng ma
tuý bán ra.
Chuyển đổi những tờ giấy bạc này sang một đơn vị tiền tệ lớn hơn, séc,
tiền mặt hoặc những cách thức thanh toán khác, thường là sự trao đổi tiền mặt
(như nhà hàng, khách sạn, các công ty kinh doanh máy bán hàng tự động,
sòng bạc và rửa xe).
Trong khâu chia nhỏ, bọn rửa tiền thường cố gắng che dấu những đầu
mối của số tiền qua các hoạt động tội phạm bằng cách chia nhỏ số tiền qua
các vụ kiếm chác khổng lồ. Ví dụ, bọn tội phạm nếu muốn rửa số tiền lớn thì
sẽ thành lập các công ty buôn bán ở những nước mà chúng biết rằng không có
những quy định bảo mật ngân hàng tinh vi, khắt khe hoặc những quy định về
chống rửa tiền lỏng lẻo. Số tiền "bẩn" này sau đó sẽ luân chuyển dưới những
vỏ bọc này cho tới khi chúng hoàn toàn trở nên "sạch sẽ".
Những vụ giao dịch như thế này thường được nguỵ trang và trà trộn với
hàng tỉ tỷ đô la giao dịch hợp pháp mỗi ngày. Hình thức "đòi nợ" và "hoá đơn
đúp" thường là những mánh khoé hay dùng. Trong hình thức "đòi nợ", bọn tội
phạm thường gửi tiền ở nước ngoài để bí mật kiểm soát và sau đó ném tiền
vào các công ty "đòi nợ" trở lại. Thủ tục này được sử dụng vì rất khó có thể
xác định được coi thực sự quản lý tài sản ở một số nước. Trong hình thức
"Hoá đơn đúp", việc chuyển tiền ra hoặc vào một nước - một ngân hàng nước
ngoài thường quy ước giữ hai quyển sổ hoá đơn. Để chuyển số tiền "sạch"
này sang Mỹ đánh phí rất cao đối với hàng hoá, dịch vụ. Để chuyển đi số tiền
này (để tránh đánh thuế) các công ty Mỹ lại bị đánh phí.
Các hình thức rửa tiền khác như mua các mặt hàng có giá trị lớn -
chứng khoán, ô tô, máy bay, séc du lịch - thường được đăng kí dưới tên một
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
14
người khác để tránh gây chú ý. Các sòng bạc cũng là nơi đôi khi được sử
dụng vì họ sẵn sàng lấy tiền mặt. Khi được chuyển tiền thành đồng séc, số
tiền này sẽ thành tiền được bạc và có thể rút séc tại ngân hàng của sòng bạc.
Khâu cuối cùng là đồng hoá số tiền, là kỳ thâu tiền của bọn tội phạm. Ở
khâu này, bọn tội phạm sẽ chuyển số tiền để đầu tư các hoạt động kinh tế lớn
- thường là các hình thức đầu tư điển hình như bất động sản, mua bán các
hàng hoá xa xỉ.
Ngoài ra, người ta còn quan tâm việc rửa tiền dưới góc độ là các giao
dịch nhằm che đậy nguồn tài sản chính để những tài sản này được sử dụng
không cần phải thoả thuận với giới tội phạm - những kẻ đang cố gắng sử
dụng chúng.
Với quan điểm như vậy thì các giao dịch rửa tiền được chia làm 3 giai
đoạn:
Giai đoạn 1: Giai đoạn sắp đặt: quá trình sắp đặt các nguồn tiền bất
hợp pháp vào các tổ chức tài chính thông qua việc đặt cọc, ký quỹ, chuyển
tiền hoặc các phương tiện khác.
Giai đoạn 2: Giai đoạn phân loại: Quá trình chia tách nguồn tiền bất
hợp pháp khỏi nguồn gốc của nó bằng cách sử dụng một loạt các giao dịch tài
chính để làm "trong sạch" đồng tiền một cách hợp pháp.
Giai đoạn 3: Giai đoạn gộp lại: Tập trung thu hồi tiền về từ các tài
khoản nhưng không làm cho các cấp chính quyền nghi ngờ hay chính là việc
sử dụng các giao dịch có vẻ hợp pháp để che đậy nguồn tiền bất hợp pháp.
Bằng những quá trình này, tội phạm chuyển nguồn tiền có được từ
những hoạt động bất hợp pháp thành tiền với nguồn gốc có vẻ hợp pháp.
Quan niệm này có vẻ chưa phản ảnh đầy đủ khái niệm "rửa tiền " bởi
mới chỉ để cập chủ yếu tới "rửa tiền " liên quan tới hệ thống tài chính. Tuy
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
15
nhên, cũng giống như quan niệm ban đầu, nó cũng phản ánh được bản chất
của "rửa tiền" là biến các nguồn tiền thu nhập bất hợp pháp thành nguồn thu
có vẻ hợp pháp .
Một mô hình khái quát về chu trình rửa tiền được mô tả tại trang sau.
Hình 1: MÔ TẢ KHÁI QUÁT CHU TRÌNH RỬA TIỀN THÔNG THƯỜNG
2.2. Các hình thức rửa tiền:
Việc thực hiện các chu trình rửa tiền thường thông qua một số hình
thức nhất định. Ở đây xin đề cập một số hình thức rửa tiền mà các tổ chức
phạm tội trên thế giới thường sử dụng. Đó là:
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
16
a. Cơ cấu lại: Đây là hình thức tẩy rửa tiền thông dụng nhất. Nó liên
quan đến nhiều cá nhân, mỗi người giữ với một lượng tiền nhỏ hoặc mua hối
phiếu ngân hàng dưới 10.000 USD. Phương pháp này thông dụng ở Mỹ và
Canada.
b. Đổi tiền: Đổi tiền cung cấp một dịch vụ cho phép các cá nhân mua
ngoại tệ, và sau đó số ngoại tệ này được chuyển ra nước ngoài. Tiền cũng có
thể được gửi qua đường điện tín - tới các ngân hàng nước ngoài ở mọi nơi
trên thế giới.
c. Mua tài sản: Bọn chuyên rửa tiền thường mua những đồ vật đắt tiền
như ô tô, tàu thuyền, máy bay hoặc bất động sản. Trong nhiều trường hợp bọn
tội phạm có thể sử dụng bất động sản trên, nhưng thường đăng ký bất động
sản này dưới tên người khác.
d. Qua người môi giới cổ phiếu: Là hình thức mà bọn rửa tiền thông
qua người môi giới cổ phiếu dùng tiền mặt để mua một số lượng cổ phiếu lớn
và sau đó chúng trở thành cổ đông của các công ty cổ phần - chủ sở hữu hợp
pháp.
e. Chuyển tiền bằng điện tín hoặc thư chuyển tiền: Phương thức này
cho phép chuyển tiền từ nơi này sang nơi khác hoặc sang quốc gia khác mà
không phải mang tiền đi.
f. Rửa tiền trong các sòng bạc: Thông qua hình thức cá cược, đánh bạc,
tiền thắng bạc có thể được coi như có nguồn gốc hợp pháp.
g. Làm sạch (Refining): Thông qua các cá nhân để đổi đồng tiền mệnh
giá như lấy tiền có mệnh giá lớn. Đây là một cách làm phổ thông, có thể đổi ở
nhiều ngân hàng mà không gây sự nghi ngờ.
h. Kinh doanh hợp pháp: Bọn tội phạm tiến hành kinh doanh hoặc đầu
tư kinh doanh nhằm mục đích trộn lẫn số tiền thu được từ hoạt động phi pháp
và hoạt động kinh doanh hợp pháp. Dưới hình thức này, bọn tội phạm mua
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
17
những nhà hàng, quán bar, hộp đêm, khách sạn, quầy thu đổi tiền, các hãng
máy móc, điểm rửa xe...
Ngoài ra bọn rửa tiền có thể thoả thuận với người bán tài sản ghi trên
hoá đơn giá trị thấp hơn giá trị thực tế và hối lộ khoản chênh lệch cho người
bán. Bằng cách này bọn tội phạm rửa tiền có thể mua một tài sản có giá trị lớn
với giá thấp. Sau khi giữ tài sản trên một thời gian thì bọn rửa tiền bán ra với
giá trị thực của tài sản đó hoặc cao hơn.
Đặc biệt trong xu thế phát triển thị trường tài chính mới (các công cụ
phát sinh) được củng cố và nâng cao thì các hình thức rửa tiền mới sẽ phát
sinh và ngày càng khó nhận diện. Điều này xảy ra là vì:
- Một khối lượng lớn "tiền bẩn" được dấu kín nguồn gốc ;
- Chứng khoán tính lỏng cao có thể mua bán nhanh trong một thời gian
ngắn (có thể một vài lần trong một ngày làm việc);
- Mục đích của việc chuyển tiền khó đánh giá;
- Rất ít và không có thời gian để điều tra sự nghi ngờ.
Theo số liệu của Ngân hàng thanh toán quốc tế thì khối lượng giao dịch
cuối năm 1999 của các công cụ tài chính được giao dịch trên thị trường OTC
(over –the- counter market) là 88,201 tỷ USD (các số liệu cụ thể trình bày
trong biểu đồ 1 dưới đây).
Biểu 1: SỐ LIỆU VỀ LƯỢNG TIỀN “BẨN” ĐƯỢC RỬA QUA THỊ TRƯỜNG OTC
TROMG NĂM 1999
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
18
43.936
9.38
2.444 2.3
30.134
05
101520253035404550
Ho¸n ®æi l∙isuÊt
Lùa chän l∙isuÊt
Ho¸n ®æitiÒn tÖ
Lùa chäntiÒn tÖ
Kh¸c
Tû USD
Nghiệp vụ hoán đổi tiền tệ được sử dụng lần đầu tiên trên vào năm
1976, nghiệp vụ hoán đổi lãi suất được sử dụng lần đầu tiên vào năm 1981.
Tuy nhiên, cho đến nay, nghiệp vụ hoán đổi lãi suất đã chiếm một tỷ trọng lớn
trong các giao dịch công cụ tài chính mới.
Tóm lại, cho dù hình thức rửa tiền có tinh vi đến đâu cũng có kẽ hở.
Vấn đề là các quốc gia phải tận dụng được những kẽ hở này để nâng cao hiệu
quả cuộc đấu tranh "chống rửa tiền".
II. HẬU QUẢ NẠN RỬA TIỀN
Nếu nạn "rửa tiền " không được phát hiện và ngăn chặn sẽ dẫn đến
những hậu quả gì? Qua nghiên cứu và đánh giá cho thấy: Nạn rửa tiền có thể
phá huỷ nền kinh tế, an ninh và gây những hậu quả xấu cho xã hội. Nó
khuyến khích, mua bán ma tuý, khủng bố, buôn bán vũ khí trái phép, quan
chức Nhà nước tham nhũng và những hoạt động tội phạm khác. Tội phạm
ngày càng tăng ở phạm vi quốc tế và những khía cạnh tài chính của tội phạm
đã trở nên ngày càng phức tạp do sự tiến bộ nhanh chóng của toàn cầu hoá và
công nghệ của ngành dịch vụ tài chính.
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
19
Cùng với việc tạo điều kiện tài liệu cho thương mại hợp pháp, những hệ
thống tài chính hiện đại cũng cho phép tội phạm luân chuyển hàng triệu USD
bằng cách sử dụng những máy tính cá nhân và những đĩa vệ tinh. Bởi vì nạn
rửa tiền đã có cơ sở là qui mô của hệ thống và hoạt động tài chính hiện có,
việc lựa chọn các phương tiện rửa tiền của bọn tội phạm chỉ còn phụ thuộc
vào khả năng sáng tạo của chúng. Tiền được chuyển qua các điểm đổi tiền,
các Trung tâm môi giới chứng khoán, những kẻ buôn bán vàng, các sòng bạc,
những kẻ buôn bán ô tô, các công ty bảo hiểm và các công ty thương mại. Sự
dễ dãi của hệ thống ngân hàng tư nhân; ngân hàng hải ngoại, các công ty bảo
bọc; những khu vực mậu dịch tự do, hệ thống hữu tuyến và tài chính thương
mại, tất cả đều có thể che đậy những hoạt động bất hợp pháp. Bằng những
cách đó, tội phạm rửa tiền thao túng tài chính của các nước trên thế giới.
Nếu không kiểm soát được, nạn rửa tiền có thể ăn mòn toàn bộ tổ chức
tài chính của một nước. Do sự liên kết của thị trường tư bản, nạn rửa tiền gây
ra những ảnh hưởng bất lợi tới tỷ giá của đồng tiền và tỷ lệ lãi suất. Và cuối
cùng, những khoản tiền được rửa thâm nhập vào hệ thống tài chính toàn cầu,
nơi chúng có thể làm suy yếu nền kinh tế và đồng tiền của một quốc gia. Như
vậy, nạn rửa tiền không phải chỉ là vấn đề của các cơ quan thực thi pháp luật
mà còn đe doạ nghiêm trọng nền an ninh quốc gia và quốc tế.
Những hậu quả của nạn "rửa tiền" phải kể đến là:
1. Những thị trường mới nổi dễ bị tổn thương Nạn "rửa tiền" không chỉ là một vấn đề của các thị trường tài chính lớn
và Trung tâm tài chính của thế giới mà còn là một vấn đề đối với những thị
trường mới nổi. Quả vậy, bất kỳ quốc gia nào trong hệ thống tài chính quốc tế
đều bị nguy hiểm. Vì các thị trường mới nổi của các khu vực tài chính và kinh
tế, nên chúng ngày càng trở thành cái đích để ngắm đối với các hoạt động rửa
tiền.
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
20
Những nỗ lực ngày càng tăng của các Chính phủ ở những thị trường tài
chính lớn và những Trung tâm tài chính quốc tế nhằm chống lại hoạt động rửa
tiền lại khuyến khích những kẻ rửa tiền chuyển các hoạt động của chúng sang
những thị trường mới nổi. Như bằng chứng cho điều này là sự luân chuyển
tiền mặt ngày càng tăng qua biên giới để tới những thị trường quản lý lỏng lẻo
trong việc phát hiện việc rửa tiền vào hệ thống tài chính và sự đầu tư đang gia
tăng của những nhóm tội phạm có tổ chức vào bất động sản và kinh doanh
trong những thị trường đang nổi. Việc xem xét kỹ một số ảnh hưởng tiêu cực
này trong cả nền kinh tế vi mô và vĩ mô lý giải tại sao nạn rửa tiền lại là một
mối đe doạ nghiêm trọng, đặc biệt là ở những thị trường đang nổi.
2. Làm suy yếu khu vực kinh tế tư nhân Một trong những tác động kinh tế vi mô nghiêm trọng nhất của nạn rửa
tiền là ở khu vực tư nhân. Những kẻ rửa tiền dùng những công ty nguỵ trang
để trộn lẫn khoản tiền từ những hoạt động bất chính với những khoản tiền hợp
pháp để che dấu khoản tiền bất hợp pháp. Ví dụ như ở Hoa Kỳ, tội phạm có tổ
chức đã dùng những cửa hàng bán pizza để che đậy những khoản tiền bất
chính từ buôn bán heroin. Những công ty ngụy trang này có thể tiếp cận với
những nguồn tiền bất chính và những nguồn tiền này bao cấp toàn bộ sản
phẩm và dịch vụ của công ty ở mức độ thấp hơn tỷ giá thị trường.
Trong một số trường hợp các công ty ngụy trang này có thể đưa ra
những sản phẩm với giá thấp hơn giá thành sản phẩm. Do vậy, những công ty
ngụy trang có lợi thế cạnh tranh hơn so với những công ty hợp pháp trong thu
hút vốn từ các thị trường tài chính. Điều này làm cho các doanh nghiệp hợp
pháp rất khó khăn nếu không muốn nói là không thể cạnh tranh lại được với
những công ty ngụy trang với nguồn vốn được bao cấp, một tình huống mà
các tổ chức tội phạm có thể gây hại cho đa số các doanh nghiệp tư nhân.
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
21
Rõ ràng là sự quản lý của các công ty tội phạm này không phù hợp với
những nguyên tắc của các doanh nghiệp trong thị trường tự do truyền thống,
điều này sẽ có ảnh hưởng tiêu cực tới kinh tế vĩ mô.
3. Làm suy yếu toàn bộ thị trường tài chính Tổ chức tài chính dựa vào các nguồn tiền bất chính gặp nhiều thử thách
trong việc quản lý một cách thích đáng tài sản, tiền nợ và sự hoạt động của
nó. Ví dụ như một số lượng tiền lớn được rửa có thể được chuyển đến một tổ
chức tài chính nhưng sau đó lại biến mất một cách đột ngột, không thông báo
qua sự chuyển giao hữu tuyến để đối phó với những nhân tố phi thị trường
như những hoạt động nhằm thực thi luật pháp. Điều này có thể gây ra những
vấn đề cho khả năng thanh toán tiền mặt và hoạt động của các ngân hàng.
Thực tế, các hoạt động phạm tội đã liên kết với một số ngân hàng thua
lỗ trên toàn cầu, bao gồm cả ngân hàng Internet đầu tiên- Ngân hàng của khối
cộng đồng chung châu Âu. Hơn nữa, một số cuộc khủng hoảng tài chính trong
những năm 90 như sự lừa đảo, nạn rửa tiền, những vụ ăn trộm ở BCCI và sự
sụp đổ năm 1995 của Ngân hàng Barings như là một kế hoạch bắt nguồn từ sự
liều lĩnh do những nhà kinh doanh ở các công ty được bao cấp thực hiện- Có
những yếu tố lừa đảo hoặc tội phạm nghiêm trọng.
4. Làm mất sự kiểm soát chính sách kinh tế Micheal Camdesus, cựu giám đốc điều hành Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF)
đã dự tính rằng qui mô to lớn của nạn rửa tiền đã chiếm từ 2 đến 5% tổng sản
lượng quốc nội của thế giới, hay ít nhất 600.000 triệu đô la. Tại một số nước
có những thị trường mới nổi, những khoản tiền bất hợp pháp này làm cho
ngân khố của Chính phủ nhỏ lại, kết quả là Chính phủ mất quyền kiểm soát
chính sách kinh tế. Thực vậy, trong một số trường hợp, số lượng khổng lồ của
những tài sản có được do rửa tiền có thể được sử dụng làm lũng đoạn thị
trường trong khu vực và thậm chí cả những nền kinh tế nhỏ.
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
22
Nạn rửa tiền có thể tác động bất lợi đến đồng tiền và tỷ lệ lãi suất vì
những kẻ rửa tiền tái đầu tư vào những tổ chức mà âm mưu của chúng ít có
khả năng bị phát hiện hơn là đầu tư vào những nơi mà tỷ lệ lợi nhuận cao.
Chính điều này làm cho chúng ta không xác định được những thay đổi về nhu
cầu tiền tệ và sự biến đổi gia tăng của các nguồn vốn ... dẫn tới mục tiêu chính
sách tiền tệ quốc gia không được thực hiện.
Nạn rửa tiền có thể làm tăng mối đe doạ về sự bất ổn của đồng tiền do
không xác định được nguồn gốc của những sai lệch trong giá cả tài sản và
hàng hoá.
Tóm lại, nạn rửa tiền và tội phạm tài chính có thể gây ra những thay đổi
khôn lường trong nhu cầu về tiền tệ và sự biến đổi gia tăng của luồng vốn
quốc tế, tỷ lệ lãi suất và tỷ giá hối đoái. Bản chất không lường trước được của
nạn rửa tiền, cùng với sự mất quyền kiểm soát chính sách kinh tế, đi kèm theo
nó khó có thể có được một chính sách kinh tế lành mạnh.
5. Sự sai lệch và mất ổn định về kinh tế Những kẻ rửa tiền không quan tâm đến việc tạo ra lợi nhuận từ những
khoản đầu tư bằng việc bảo vệ những khoản tiền của chúng. Vì thế, chúng
"đầu tư " vốn vào các hoạt động không cần thiết phải mang lại lợi ích về kinh
tế ở những nước lưu giữ các khoản tiền của chúng. Hơn thế, sự tăng trưởng
kinh tế phải bị tổn hại, vì tội phạm rửa tiền và tài chính chuyển vốn từ những
dự án đầu tư lành mạnh sang những dự án đầu tư chất lượng thấp miễn sao
chúng che dấu được các khoản tiền bất chính. Ví dụ: như tại một số nước, các
ngành công nghiệp như xây dựng và khách sạn được cung cấp tài chính không
phải do những đòi hỏi thực tế mà do những lợi ích trước mắt của những kẻ
rửa tiền. Khi những ngành này không còn phù hợp với những kẻ rửa tiền thì
chúng bị loại bỏ, gây ra những sụp đổ và những thiệt hại khổng lồ cho những
nền kinh tế không thể chịu được những tổn thất như vậy.
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
23
6. Gây tổn hại Ngân khố quốc gia Nạn rửa tiền làm giảm nguồn thu từ thuế của Chính phủ, bởi vậy nó
trực tiếp làm phương hại đến những người đóng thuế chân chính. Nó cũng
làm cho việc thu thuế của Chính phủ trở nên khó khăn hơn. Nhìn chung, việc
tổn hại đến ngân khố quốc gia có nghĩa là tỷ lệ thuế cao hơn so với thông
thường nếu những khoản tiền phạm tội không phải nộp thuế là hợp pháp.
7. Gây nên rủi ro cho những nỗ lực tư nhân hoá: Hoạt động "rửa tiền” sẽ đe doạ đối với các quốc gia muốn thực hiện cải
cách nền kinh tế của mình bằng việc thực hiện tư nhân hoá nền kinh tế. Thông
qua "rửa tiền”, các tổ chức tội phạm có nhiều tiền để trả quá cao hơn những
người mua bằng tiền hợp pháp để mua lại Doanh nghiệp Nhà nước. Kết quả là
trong việc khởi đầu của tư nhân hoá cùng với việc mang lại những lợi ích kinh
tế thì chính nó là phương tiện "rửa tiền” của bọn tội phạm.
Trước đây, những kẻ rửa tiền thường mua những bến cảng, du thuyền,
khách sạn, sòng bài và ngân hàng để che đậy những khoản tiền bất chính và
để đẩy mạnh những hoạt động tội phạm của chúng.
8. Nguy cơ tổn hại danh tiếng Các quốc gia không thể chấp nhận được việc tiếng tăm và những công
ty tài chính của họ bị một tổ chức rửa tiền làm ô uế, đặc biệt là trong nền kinh
tế toàn cầu ngày nay. Niềm tin vào thị trường và vào vai trò của lợi nhuận bị
xói mòn do nạn rửa tiền và những tội phạm tài chính như rửa những khoản
tiền bất hợp pháp, gian lận tài chính lan rộng, buôn bán những thông tin mật
là tham ô. Tiếng xấu từ những hoạt động như vậy đã làm giảm những cơ hội
hợp pháp và sự tăng trưởng bền vững, trong khi đó lại thu hút những tổ chức
tội phạm quốc tế với tiếng xấu và những mục tiêu ngắn hạn. Điều này có thể
làm suy yếu sự phát triển và tăng trưởng về kinh tế. Hơn thế nữa, một khi đất
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
24
nước đã bị tiếng xấu về tài chính, thì việc gây dựng lại tiếng tăm là rất khó
khăn và cần nguồn lực đáng kể của Chính phủ để giải quyết vấn đề mà lẽ ra
đã có thể ngăn ngừa với sự kiểm soát chống lại nạn rửa tiền.
9. Những cái giá phải trả về mặt xã hội Có những nguy cơ và cái giá rất đắt phải trả về mặt xã hội có liên quan
đến nạn rửa tiền. Nạn rửa tiền là một quá trình quan trọng đối với những kẻ
phạm tội. Nó cho phép những kẻ buôn bán ma tuý, những tên buôn lậu và
những kẻ phạm tội khác mở rộng hoạt động của mình. Nó làm cho chi phí của
Chính phủ tăng lên để chống lại những hậu quả nghiêm trọng do việc rửa tiền
gây ra, đó là các yêu cầu về việc thực thi pháp luật gia tăng và những chi phí
cho việc chăm sóc sức khoẻ (ví dụ như điều trị những người nghiện ma tuý...).
Trong số những tác động tiêu cực khác đến nền kinh tế xã hội, việc rửa
tiền còn chuyển quyền lực kinh tế từ thị trường, Chính phủ và từ mọi người
dân sang những tên tội phạm. Tóm lại, chúng quay lại câu ngạn ngữ cổ rằng
tội ác không trả giá cho những gì chúng gây ra.
Hơn nữa, toàn bộ quyền lực đổ dồn vào những tên tội phạm, bằng việc
rửa tiền lại gây ra nạn tham nhũng của mọi bộ phận xã hội. Trong trường hợp
nghiêm trọng thì nó có thể dẫn đến việc nắm giữ Chính phủ hợp pháp.
Nhìn chung nạn rửa tiền đặt ra cho cộng đồng chung thế giới những thử
thách khó khăn và phức tạp. Thật vậy, tính chất toàn cầu của nạn rửa tiền đòi
hỏi phải có sự hợp tác và những chuẩn mực quốc tế nếu chúng ta muốn giảm
khả năng "rửa tiền” của những tên tội phạm và việc thực hiện những hành vi
tội phạm của chúng.
III. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG RỬA TIỀN QUA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
25
Trong các cách thức mà tội phạm tài chính sử dụng để rửa tiền thì rửa
tiền qua hệ thống ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn. Đặc biệt trong điều kiện hiện
nay- khi mà các ứng dụng khoa học – kỹ thuật tiên tiến được áp dụng rộng rãi
trong các giao dịch ngân hàng, cộng với những món lời khổng lồ thu được sau
khi rửa tiền qua ngân hàng, thì ngân hàng được xem như một “cỗ máy rửa
tiền” (money-laundering machine) thuận lợi nhất. Vì thế, ngành Ngân hàng
cần và luôn phải ý thức đầy đủ về vai trò của mình trong việc chống nạn "rửa
tiền”.
Các ngân hàng cũng cần thấy rằng, các hoạt động mà họ tiến hành
nhằm ngăn chặn việc rửa tiền không chỉ là những nguyên tắc có tính chất bắt
buộc mà còn là lợi ích thiết thân. Tất cả các tổ chức tài chính, các ngân hàng
và phi ngân hàng đều dễ bị dính líu đến những hoạt động rửa tiền. Ngân hàng
cần luôn đi đầu trong việc phát triển các chương trình nhằm phát hiện và ngăn
chặn việc rửa tiền, điều tra các cơ quan phi ngân hàng tương ứng với họ thực
hiện rất tốt để cạnh tranh. Rửa tiền cũng như các hoạt động phạm tội ngầm
khác - lừa đảo, in tiền giả, buôn lậu ma tuý và hối hộ - làm suy yếu thanh
danh và vị thế của một số tổ chức tài chính, trong đó có ngân hàng. Một ngân
hàng có vết nhơ do việc rửa tiền sẽ bị các cơ quan ban hành văn bản quy định
buộc tội, bị các cơ quan chấp hành pháp luật trừng trị hay bị giới báo chí lên
án mạnh mẽ vì những tai tiếng đó.
Để thực hiện một cách hiệu quả chương trình chống rửa tiền, các ngân
hàng tiến hành tìm hiểu và phân chia qui trình rửa tiền gồm ba giai đoạn, mỗi
giai đoạn đều có mối liên hệ với một đơn vị tài chính.
� Đổi chỗ: Giai đoạn trực tiếp phân bổ lượng tiền mặt thu được từ
những hoạt động phi pháp.
� Tạo vỏ bọc: Giai đoạn tách những khoản tiền bất hợp pháp khỏi
nguồn của chúng bằng cách tạo nên một loạt những vỏ bọc phức
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
26
tạp dưới hình thức các giao dịch tài chính để cản trở việc kiểm
toán dấu vết, che đậy nguồn gốc của những khoản tiền đó và làm
mai danh ẩn tích chủ thực sự của nó.
� Hợp thức hoá: Giai đoạn đưa các khoản tiền đã được rửa trở lại
hệ thống lưu thông trong nền kinh tế theo cách thức giống như
các khoản tiền này là kết quả của các hoạt động kinh tế hợp
pháp.
Mặc dù các giai đoạn trong quy trình rửa tiền có khác đôi chút so với
cách nhìn nhận ở phần trước nhưng vẫn phản ánh được bản chất nạn "rửa
tiền”. Tuỳ từng giai đoạn, các ngân hàng cần có các biện pháp thích hợp để
phát hiện để ngăn chặn hoạt động rửa tiền, tránh những hậu quả đáng tiếc có
thể xảy ra.
Trong các ngân hàng thì hệ thống ngân hàng vãng lai - được coi là một
kênh lớn nhất, phổ biến nhất để bọn tội phạm rửa tiền. Hoạt động Ngân hàng
vãng lai bao hàm một ngân hàng cung cấp các dịch vụ cho ngân hàng khác
nhằm luân chuyển tiền tệ, chuyển đổi ngoại tệ hoặc tiến hành những giao dịch
tài chính khác. Một khi hoạt động ngân hàng vãng lai không được kiểm soát
chặt chẽ thì chắc chắn sẽ bị bọn tội phạm lợi dụng để tiến hành rửa tiền.
Bọn tội phạm lợi dụng hệ thống ngân hàng vãng lai như thế nào?
Trước hết chúng sử dụng các ngân hàng nước ngoài có độ rủi ro cao để
tiến hành mở tài khoản vãng lai tại các ngân hàng mà chúng định dùng để rửa
tiền. Những ngân hàng nước ngoài này có thể là: (1) Ngân hàng vỏ bọc
(shellbank) không hề hiện diện trực tiếp ở nước khác để giao dịch làm ăn với
khách hàng của họ; (2) Ngân hàng hải ngoại (offshore bank) được phéo giao
dịch làm ăn với những người nước ngoài bằng ngoại tệ; hoặc (3) những ngân
hàng ở những nước được điều tiết bởi những luật lệ kiểm soát lỏng lẻo hoặc
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
27
thiếu sự kiểm soát chống rửa tiền đã tạo điều kiện cho việc lợi dụng ngân
hàng và những hành vi phạm pháp.
Những ngân hàng có độ rủi ro cao này thường chỉ có nguồn vốn và
nhân lực hạn hẹp, họ sử dụng các tài khoản ngân hàng vãng lai của họ để giao
dịch, cung cấp dịch vụ cho khách hàng, luân chuyển tiền tệ. Sự thẩm tra của
các tổ chức có thẩm quyền cho thấy nhiều ngân hàng đã kí thác toàn bộ quỹ
của họ và tiến hành mọi giao dịch tài khoản vãng lai, nhập hoạt động vãng lai
vào những hoạt động khác của họ.
Sau khi đã thành công trong việc nấp bóng các ngân hàng nước ngoài
có độ rủi ro cao nói trên, bọn tội phạm sẽ tiến hành hàng loạt các giao dịch
trên tài khoản vãng lai để rửa tiền.
Một số ví dụ về các giao dịch rửa tiền thông qua tài khoản vãng lai:
* Hợp thức hoá các khoản thu nhập bất chính thông qua ký quỹ hoặc
tiến hành chuyển những khoản tiền mà ngân hàng có độ rủi ro cao biết hoặc
phải biết là có dính líu dến buôn bán ma tuý, gian lận tài chính hoặc hoạt động
bất chính khác.
* Đầu tư lợi nhuận cao bằng cách ve vãn các nhà đầu tư chuyển tiền
vào các tài khoản vãng lai nhằm nhận lãi suất cao, nhưng sau đó chối bỏ
không trả lại tiền cho các nhà đầu tư bị lừa dối.
* Âm mưu chiếm đoạt tiền ký nợ trả trước bằng cách đòi khách hàng
phải nộp một khoản tiền trả trước cho một khoản phí lớn để chuyển tiền vào
tài khoản vãng lai, thu phí xong nhưng không trả lại khoản tiền ứng trước.
* Tạo thuận lợi cho việc trốn thuế thông qua việc nhập các khoản ký
quỹ của khách hàng với những khoản tiền khác trong tài khoản vãng lai,
khuyến khích khách hàng dựa vào các luật lệ về bí mật ngân hàng và bí mật
công ty của nước sở tại của ngân hàng nước ngoài để trốn tránh các nhà chức
trách thuế.
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
28
* Tạo thuận lợi cho hoạt động cá cược qua Internet qua việc sử dụng tài
khoản vãng lai để nhận và luân chuyển các khoản thu nhập cá cược.
Những ngân hàng nước ngoài có độ rủi ro cao nói trên và khách hàng
liên quan đến tội phạm của họ thâm nhập vào các tài khoản vãng lai, tạo thuận
lợi cho tội phạm phát triển, làm suy yếu hệ thống tài chính của một quốc gia,
là một gánh nặng cho người dân đóng thuế và người tiêu dùng, lấp đầy các
hồ sơ toà án với những vụ truy tố hình sự hoặc tranh chấp dân sự.
Những khoảng trống trong các giao dịch vãng lai:
- Nhiều ngân hàng khi cho phép các ngân hàng đối tác nước ngoài mở tài
khoản vãng lai tại ngân hàng mình đã không có sự thẩm tra đầy đủ và
xác đáng về sự quản lý của ngân hàng, các nguồn tài chính, danh tiếng,
môi trường điều tiết và biện pháp chống rửa tiền. Một nguyên tắc khá
phổ biến đối với nhiều ngân hàng là: bất kỳ ngân hàng nào có giấy phép
đang hiệu lực do cơ quan nước ngoài có thẩm quyền cấp đều có đủ điều
kiện để mở tài khoản vãng lai, bởi lẽ các ngân hàng tin tưởng vào giấy
phép đó như chứng cứ về danh tiếng tốt đẹp của ngân hàng đối tác nước
ngoài.
- Nhiều ngân hàng chỉ dựa vào sự kiểm tra qua sổ sách hoạt động mở tài
khoản và giám sát một cách có hạn sự chuyển tiền, mặc dù phần lớn các
giao dịch vãng lai bao gồm cả tiền đến lẫn tiền đi.
Những bất cập này biến hệ thống ngân hàng vãng lai thành kênh rửa tiền
bẩn đang ồ ạt chảy vào hệ thống tài chính của nhiều quốc gia.
Nếu các ngân hàng vãng lai chịu đóng cửa đối với các ngân hàng nước
ngoài đáng ngờ và kiểm tra chặt chẽ các ngân hàng nước ngoài có độ rủi ro
cao, chắc chắn sẽ triệt tiêu được bộ máy rửa tiền khổng lồ, vô hiệu hoá hoạt
động bất hợp pháp, hạn chế hoạt động ngân hàng hải ngoại bất chính và trói
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
29
tay các phần tử tội phạm trong việc gửi tiền bất chính vào các ngân hàng
trong nước.
Tóm lại, qua thực trạng rửa tiền qua hệ thống ngân hàng vãng lai,
chúng ta thấy ngành ngân hàng là một trong những cơ quan có vai trò đặc biệt
"quan trọng", là kênh chủ yếu để bọn tội phạm tài chính thực hiện "rửa tiền”.
Vì thế, làm lành mạnh hệ thống ngân hàng và làm trong sạch các giao dịch tài
chính là một trong những biện pháp quan trọng để chống rửa tiền.
IV. CÁC VĂN BẢN PHÁP LÝ SỬ DỤNG TRONG CHỐNG "RỬA TIỀN”
"Rửa tiền” không còn là hiện tượng xảy ra trong phạm vi một quốc gia
mà là hiện tượng ngày càng mang tính chất quốc tế. Vì thế, để "rửa tiền” phải
có sự phối hợp không phải chỉ có các tổ chức trong nước mà cần phải có sự
hợp tác quốc tế. Điều này thể hiện trước hết ở các văn bản pháp quy chống
"rửa tiền”.
Đứng trên phương diện quốc gia , mỗi quốc gia cần có văn bản pháp
quy chuyên về lĩnh vực chống rửa tiền như các Nghị định về chống "rửa tiền”,
các đạo luật, bộ luật về chống "rửa tiền”. Do thu nhập của bọn tội phạm "làm
sạch" là các thu nhập từ các hoạt động bất chính: cá cược, buôn bán ma tuý,
tham nhũng... Những hoạt động tội phạm nên các văn bản pháp quy về chống
rửa tiền cần có sự thống nhất với các văn bản đã có về chống các loại hình tội
phạm như bộ luật hình sự, luật dân sự.
Đứng trên phương diện quốc tế, văn bản pháp quy mang tính chất phổ
biến được nhiều quốc gia biết đến là Khuyến nghị về chống “rửa tiền” của
FATF - tổ chức hay lực lượng đặc nhiệm tài chính chống rửa tiền và tội phạm
tài chính. Những khuyến nghị này được xem là các phương pháp cơ bản cho
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
30
việc thiết lập các khuôn khổ pháp lý chống lại việc rửa tiền với các nội dung
cơ bản sau:
* Từ khuyến nghị 1 đến khuyến nghị 3 là các quy định chung, khuyến
nghị các quốc gia nên từng bước và tiến tới thực hiện đầy đủ 40 khuyến nghị
này. Yêu cầu đặt ra là: các quy định trong luật bảo vệ khách hàng của các tổ
chức tài chính tín dụng không cản trở việc thực hiện các quy định về phòng,
chống rửa tiền. Để chương trình phòng chống rửa tiền đạt kết quả cao cần có
sự nỗ lực hợp tác quốc tế trong lĩnh vực phòng chống xét xử, dẫn độ tội phạm
nói chung.
* Từ khuyến nghị 4 đến khuyến nghị 6 là các quy định nêu lên phạm vi
hoạt động phạm tội rửa tiền, khuyến nghị các quốc gia tạo lập các cơ sở pháp
lý cho việc chống rửa tiền và bổ sung hoàn thiện các cơ sở pháp luật này
nhằm đảm bảo các quy định luôn phù hợp với tình hình thực tiễn và sự phát
triển của xã hội. Danh mục các loại tội phạm dẫn đến hành vi rửa tiền cần
được xác định và bổ sung theo mức độ hành vi phức tạp của hoạt động phạm
tội của từng thời kỳ.
* Khuyến nghị 7 nêu lên chính sách pháp lý cho việc xử lý, tước đoạt
xung công các tài sản và thu nhập bất hợp pháp trong các vụ rửa tiền và các
văn bản hợp tác quốc tế. Mặt khác, khuyến nghị cũng nêu lên việc thực hiện
tốt các văn bản pháp quy quy định về việc thực hiện các hợp đồng kinh tế.
Việc áp dụng tốt các chế tài áp dụng đối với các vi phạm hợp đồng kinh tế có
tác dụng tích cực , thúc đẩy việc thực hiện các quy định về chống rửa tiền.
* Khuyến nghị 8 và khuyến nghị 9 là quy định về các đối tượng phải
thực hiện các quy chế giám sát tài chính và thực hiện nhận dạng khách hàng,
lưu giữ hồ sơ về các giao dịch đáng ngờ. Theo khuyến nghị, việc thực hiện cơ
chế giám sát tài chính nên được áp dụng đối với tất cả các ngân hàng và các tổ
chức tài chính phi ngân hàng. Việc thực hiện cơ chế giám sát tài chính, phát
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
31
hiện và tố giác các khách hàng và các giao dịch đáng ngờ không có tính chất
bắt buộc nhưng được khuyến khích thực hiện ở các doanh nghiệp và ở các tổ
chức tài chính chuyên ngành khác. Danh mục các hoạt động tài chính bắt
buộc phải thực hiện nhận dạng khách hàng gửi báo cáo đến các nhà chức
trách chống rửa tiền và lưu giữ hồ sơ, các giao dịch đáng ngờ được Chính phủ
các nước xác định và bổ sung phù hợp với bối cảnh cụ thể.
* Từ khuyến nghị 10 đến khuyến nghị 13 nêu lên cách thu thập thông
tin nhận dạng khách hàng (có thể là tổ chức hoặc cá nhân) và quy định thời
hạn lưu giữ hồ sơ, thông tin về khách hàng và các lần giao dịch (ít nhất là 5
năm) mà các tổ chức hoạt động tài chính phải thực hiện. Nguyên tắc chung là
không cho mở tài khoản thực hiện uỷ thác và cho thuê két sắt an toàn dưới các
tên giả hoặc khuyết danh, các thông tin cơ bản của khách hàng bao gồm: tên
địa chỉ.v.v..., căn cứ vào các giấy tờ tài liệu chính thức như: đối với cá nhân
có thể là giấy chứng minh thư, hộ chiếu, giấy phép lái xe; đối với các tổ chức
có thể là các giấy phép thành lập công ty, ngành nghề kinh doanh, nơi đóng
trụ sở chính... Đối với những khách hàng có những thông tin chưa rõ ràng, tổ
chức tài chính cần tiến hành thẩm tra nhằm có được những thông tin trung
thực nhất về khách hàng, việc lưu giữ thông tin phải đáp ứng được việc tái
hiện lại từng phần giao dịch (thời gian, số lượng và tiền tệ trong các lần giao
dịch đó) của khách hàng phục vụ tốt nhất cho việc điều tra khi có yêu cầu của
nhà chức trách.
* Từ khuyến nghị 14 đến khuyến nghị 19 nêu lên các hình thức động
viên, khen thưởng các tổ chức - tài chính thực hiện tốt các quy định chống rửa
tiền và các quy định pháp lý bảo vệ các tổ chức và cá nhân thực hiện các quy
định chống rửa tiền. Các quy định về kiểm soát nội bộ để tăng cường hiệu quả
hoạt động của hệ thống, quy định cấm tổ chức và cá nhân cảnh báo với khách
hàng về các thông tin đáng ngờ đã báo cáo.
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
32
* Từ khuyến nghị 20 đến khuyến nghị 21 nêu lên việc thực hiện các quy
định chống rửa tiền đối với các tổ chức có Chi nhánh hoạt động tại các nước
không có hoặc chưa có đủ các quy định về chống rửa tiền.
* Từ khuyến nghị 22 đến khuyến nghị 25 nêu một số biện pháp phòng
ngừa khác.
* Từ khuyến nghị 26 đến khuyến nghị 29 nêu mối quan hệ qua lại giữa
việc thực hiện các quy định chống rửa tiền với các quy định khác về xử phạt
hành chính hoặc xử lý các tranh chấp trong việc thực hiện hợp đồng kinh tế...
* Từ khuyến nghị 30 đến khuyến nghị 40 nêu lên các quy định về tăng
cường hợp tác quốc tế, như các quy định về trao đổi thông tin, quy định về
điều tra, định giá, thu hồi tài sản và thu nhập bất chính hợp pháp tham gia vào
các vụ rửa tiền, các quy định về nguyên tắc xét xử, địa điểm xét xử và tỷ lệ
phân chia tài sản tịch thu khi có các vụ phạm tội xuyên quốc gia và các quy
định về dẫn độ tội phạm.
Các khuyến nghị này được coi như là cẩm nang cho các quốc gia trong
việc chống nạn "rửa tiền”.
Kết luận chương I: Qua chương này chúng ta đã phần nào hình dung được thế nào là rửa
tiền, nó được thực hiện như thế nào và hậu quả to lớn do nạn rửa tiền gây ra.
Bên cạnh đó, chương cũng khái quát vè cái nhìn của ngành ngân hàng về rửa
tiền và các văn bản pháp quy cần có và hiện có liên quan tới "rửa tiền” và
chống rửa tiền.
Để đưa ra được những giải pháp cụ thể nhằm phòng chống nạn rửa tiền,
trước hết chúng ta hãy xem xét hiện tượng rửa tiền ở một số quốc gia trên thế
giới và Việt Nam.
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
33
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG RỬA TIỀN - CHỐNG RỬA TIỀN Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
I. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG RỬA TIỀN VÀ CHỐNG "RỬA TIỀN” TRÊN THẾ GIỚI
Cho tới thời điểm hiện nay, hoạt động rửa tiền đã diễn ra ở khá nhiều
nước trên thế giới. Lượng tiền rửa chiếm một tỷ trọng lớn trong khối lượng
tiền lưu chuyển trên toàn cầu. Theo ước tính của FATF - lực lượng đặc nhiệm
hành động tài chính, tiền "bẩn" đã được rửa có thể lên tới 1500 tỷ USD mỗi
năm. Năm 2001, thế giới có khoảng 70 "thiên đường trốn thuế", cũng thường
được gọi là Trung tâm tiền tệ hải ngoại, tụ tập khoảng 40.000 ngân hàng, 44%
tập trung ở vùng Caribean và Mỹ La tinh, 28% ở châu Âu, 18% ở châu Á,
10% ở Châu Phi - Trung Đông, kiểm soát khoảng 5000 tỷ USD. Phần lớn các
Trung tâm này đóng vai trò "Trung tâm đặt hàng" chủ yếu phục vụ các Trung
tâm tiền tệ lớn hơn như New York, London, Tokyo. Hàng năm lượng tiền
nằm lại hoặc chuyển qua các "thiên đường trốn thuế" này, ước tính bằng một
nửa tổng số tiền trên toàn thế giới, biến các Trung tâm này cũng trở thành
những Trung tâm rửa tiền quốc tế quan trọng.
Một cái nhìn sơ lược như vậy đã cho chúng ta thấy "rửa tiền” ngày
càng trở thành vấn đề mang tính chất toàn cầu và hiệu quả của nó đối với nền
kinh tế xã hội là vô cùng nghiêm trọng. Tiến hành chống nạn rửa tiền là một
yêu cầu hết sức bức thiết. Vậy cụ thể tình trạng rửa tiền và chống rửa tiền ở
các quốc gia ở mức độ nào và nguy cơ "tiềm ẩn" là gì, chúng ta hãy cùng
xem xét.
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
34
1. Rửa tiền - chống rửa tiền tại Hoa Kỳ
1.1. Khái quát chung: Hoa Kỳ là quốc gia đầu tiên xuất hiện nạn rửa tiền vào năm 1920.
Nhiều vụ rửa tiền đã trôi qua kể từ vụ hình sự đầu tiên dính dáng đến lợi
nhuận, nhưng tại Mỹ chỉ mãi đến năm 1986 đây, "rửa tiền” mới chính thức
được coi là bất hợp pháp với mốc là vụ xì-căng-đan Watergate.
Trong khi không bị chính thức cấm cho đến năm 1986, rửa tiền đã xuất
hiện trong nhiều vụ án hình sự. Hai vụ án hình sự khét tiếng nhất của Mỹ
trong thế kỷ 20 đã bị bỏ dở do không tìm được các dấu vết về tài chính. Tên
trùm găngtơ Al Capone cuối cùng đã bị kết án vì tội trốn thuế. Tên Bruno
Richard Haupdman, người đã bắt cọc con trai của viên phi công nổi tiếng
Chartes Lindbeng năm 1932 đã bị bắt vì không rửa được số tiền đòi chuộc
một cách kín đáo. Như chúng ta đã biết năm 1989 dư luận nổi cộm về số tiền
bị chiếm đoạt một cách bất hợp pháp ở Nga có thể được gửi trong hệ thống
ngân hàng Mỹ, vấn đề "tiền bẩn" vẫn chưa được giải quyết.
Do giới tội phạm thường che dấu các hoạt động của mình nên những số
tiền được thay tên đổi họ này không được biết một cách chính xác nhưng Quỹ
tiền tệ quốc tế IMF đã ước tính hàng năm số tiền này có thể lên đến từ 3 đến
5% tổng doanh thu toàn thế giới.
Lực lượng tài chính đặc nhiệm của nhóm Giao thông đã đưa ra con số
khác từ 300.000 triệu đến 500.000 triệu đô la Mỹ. Theo tạp chí Business
Week, chỉ riêng trong nền kinh tế Mỹ, hàng ngày có khoảng 2 triệu đô la Mỹ
được thay tên đổi họ. Như vậy, thực thi pháp luật chỉ là một nỗ lực mò kim
đáy bể mà thôi.
Đứng trước tình trạng này, một yêu cầu cấp thiết đặt ra với Chính phủ
Hoa Kỳ là phải có những quy định cụ thể phù hợp về những biện pháp hữu
hiệu chống rửa tiền. Trong đó, những điểm đầu trên cần chú ý là: kết hợp hoạt
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
35
động trong nước với các hoạt động của tổ chức quốc tế bởi theo ý kiến của
một số quan chức Hoa Kỳ thì thường việc thực thi pháp luật Hoa Kỳ bị thất
bại do sự phức tạp của những điều luật của nước ngoài cũng như sự thiếu hợp
tác của Chính phủ nước ngoài. Do vậy việc phối hợp trong hành động chống
"rửa tiền” là hết sức cần thiết.
Trở lại vụ Watergate, kể từ khi quyết sách nổi tiếng của vụ tai tiếng này
có tên "những người đàn ông của Tổng thống" được viết ra "theo dấu đồng
tiền" đã trở thành một câu cửa miệng khi muốn nói đến việc đối phó với giới
tội phạm câu cửa miệng này do cơ quan thực thi pháp luật của Hoa Kỳ tạo ra
từ những năm 70, Chính phủ Hoa Kỳ đã nhấn mạnh cách tiếp cận ba chiều để
chống lại tội phạm: truy tố những tội phạm nguy hiểm; theo dấu vết đồng tiền
qua những cuộc điểu tra về rửa tiền; bắt giữ tiền và công cụ hành nghề của
giới tội phạm. Chỉ có cách theo dấu đồng tiền chúng ta mới có thể phát hiện ra
toàn bộ qui mô của tội phạm và tổ chức phạm pháp mới có thể bị tiêu diệt.
Khi Chính phủ Hoa Kỳ ban hành luật chống rửa tiền đầu tiên vào năm
1986 thì họ cũng đã xác định được cơ bản đâu là vấn đề trong nước. Từ năm
1986, nạn rửa tiền trở thành một vấn đề toàn cầu, bao gồm cả giao dịch tài
chính quốc tế, buôn lậu tiền bị pháp luật và cưỡng chế quy định thì khi đó vấn
đề sẽ thế nào.
Cơ sở pháp lý chống rửa tiền của Mỹ là Luật bảo mật ngân hàng (BSA)
năm 1970, theo đó không hình sự hoá các hoạt động rửa tiền nhưng yêu cầu
các tổ chức tài chính xây dựng và đảm bảo "dấu vết trên giấy tờ" liên quan
đến một số giao dịch. Luật BSA liên tục bị phản đối. Một số người chì trích
những chi phí áp dụng. Một số người khác lại cho rằng nó trái lại điều sửa đổi
lần 4 của Hiến pháp Mỹ về chống lại việc khám xét và bắt giữ vô cớ và Điều
sửa đổi lần 5 về tự buộc tội. Mặc dù luật này vẫn được ủng hộ nhưng cho đến
nay một số phần vẫn còn gây tranh cãi. Thẩm phán Douglas đã nói rằng "Tôi
cũng chưa thể đồng ý rằng nước Mỹ đã bị những tệ nạn lũng đoạn đến nỗi mà
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
36
chúng ta cần phải bớt đi những rào cản về mặt Hiến pháp để tạo ra cho các
chính quyền dân sự có những phương tiện để bắt bọn tội phạm”.
Do việc buôn bán ma tuý phát triển, Quốc hội Mỹ ngày càng quan tâm
hơn đến vấn đề rửa tiền và đã đặt ra nó ngoài vòng pháp luật vào năm 1984
bằng việc đưa ra những điều khoản quy định cụ thể về hành vi vi phạm Luật
Bảo mật ngân hàng (BSA) qua đạo luật về các tổ chức tống tiền và tham
nhũng. Cuối cùng đạo luật rửa tiền (1986) quy định rửa tiền là tội phạm liên
bang. Nó bổ sung ba tội mới trong luật hình sự: cố ý dụ dỗ một hoạt động
giao dịch lớn hơn mức 10000 đô la có được từ các hoạt động phạm pháp và
cố ý tiến hành những giao dịch nhằm tránh những quy định của Luật Bảo mật
ngân hàng (BSA). Quy định cuối cùng có những chỗ "hổng" vì tội phạm rửa
tiền sẽ thuê người mở hàng hoạt khoản ký quĩ hay những séc tiền mặt với số
tiền dưới mức 10.000 đô la.
Luật này đã được bổ sung một vài lần. Đạo luật phòng chống ma tuý
(1998) đã làm tăng đáng kể mức hình phạt và đỏi hỏi sự nghiêm ngặt, chính
xác trong điều tra phát hiện ra tài liệu ghi chép về lượng tiền mặt từ những
hoạt động làm tiền cụ thể. (Đa số những yêu cầu có liên quan tới tài liệu ghi
chép từ các hoạt động làm tiền kể cả đã huỷ bỏ) thêm vào đó, các quy định
này cho phép Bộ tài chính Hoa Kỳ được bắt buộc các tổ chức tài chính ở
những khu vực cụ thể phải cung cấp những báo cáo về những giao dịch tiền tệ
ở mức dưới 10.000 đô la. Đạo luật này cũng quy định Bộ Tài chính đàm phán
các hiệp định quốc tế song phương để ghi nhận những giao dịch tiền tệ Hoa
Kỳ lớn và chia sẻ những thông tin này qua biên giới mà tội phạm ở một nước
nhưng rửa tiền ở nước khác. Tiền tệ các công cụ tiền tệ, các luồng vốn giao
dịch qua phương tiện điện tử có thể vượt qua biên giới của các quốc gia, cho
phép tội phạm ở các nước khác giấu tiền ở Hoa Kỳ và cho phép những tên tội
phạm Hoa Kỳ giấu những khoản tiền bất chính của chúng ở hàng trăm nước
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
37
trên thế giới mà không phải lo lắng rằng những hoạt động của chúng sẽ bị
pháp luật phát hiện.
Tuy nhiên, bất chấp những thay đổi mà chúng ta chứng kiến trong thế
giới tài chính, thì vấn đề cơ bản đối với những kẻ rửa tiền, đặc biệt là những
khoản tiền từ buôn bán ma tuý bất hợp pháp vẫn còn tồn tại và cất dấu và
chuyển những khoản tiền mặt bất chính khổng lồ. Vì lý do này, thậm chí trên
phạm vi quốc tế, điều quan trọng mà Chính phủ Hoa Kỳ nhấn mạnh là trong
công đoạn đầu tiên của việc rửa tiền, những kẻ rửa tiền sẽ tìm cách đưa
những khoản tiền bất hợp pháp vào hệ thống tài chính.
Kết quả của việc tập trung nỗ lực vào công đoạn này là những ngân
hàng và công ty tài chính Hoa Kỳ đã và đang giữ đầu mối chống lại việc đưa
các khoản tiền mặt bất hợp pháp vào hệ thống tài chính. Cho dù có một số
trường hợp ngoại lệ xảy ra nhưng chúng ta cũng rất thành công trong việc
ngăn chặn những kẻ rửa tiền tiếp cận với những ngân hàng Hoa Kỳ. Và kết
quả là những thể chế tài chính phi truyền thống dể rửa những khoản tiền bất
hợp pháp của chúng. Một số phương pháp rửa tiền thường xuyên được sử
dụng bao gồm việc lưu hành một lượng tiền buôn lậu lớn, rửa tiền bằng cách
giao dịch thương mại qua hệ thống đổi đồng peso ở thị trường chợ đen
Côlombia, và sử dụng dịch vụ kinh doanh tiền như gửi tiền diện tử, dịch vụ
casas de cambio, dịch vụ tiền gửi qua các công tin cậy, séc du lịch và séc
chuyển khoản.
1.2. Chống rửa tiền của Hoa Kỳ:
1.2.1. Những cơ sở pháp lý then chốt của Hoa Kỳ. Tại Hoa Kỳ, các cơ quan thực thi pháp luật rất quan tâm đến các cơ sở
pháp lý chống lại hoạt động rửa tiền vì nó sẽ có hiệu quả hơn là tấn công trực
tiếp vào các loại tội phạm. Ví dụ, trong các vụ buôn bán ma tuý, mức lợi
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
38
nhuận thu được có thể lên tới 1000 phần trăm hấp dẫn đủ để đảm bảo cung
cấp cho các tội phạm trong trường hợp chúng bị tống vào tù .
Đạo luật chống rửa tiền Annuntio – Wylie (1992) đã mở rộng những
quy định của luật bảo mật Ngân hàng về “Giao dịch tài chính”, bổ sung thêm
điều khoản đối với giai đoạn chuẩn bị phạm tội và đặt ra ngoài vòng pháp
luật những “Giao dịch chuyển đổi tiền bất hợp pháp”. Đạo luật Annuntio –
Wylie được biết đến với việc chỉ ra rõ hành vi nào sẽ bị áp dụng “hình phạt
khai tử”, nó quy định nếu ngân hàng bị buộc tội rửa tiền, cơ quan thanh tra
hữu quan của ngân hàng liên bang phải bắt đầu một quá trình gồm chấm dứt
đặc quyền của nó hay thu hồi huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm của nó, phụ thuộc
vào kết quả thanh tra sơ bộ của ngân hàng. Đạo luật Annuntio – Wylie cũng
thiết lập nên nhóm tư vấn luật bảo mật ngân hàng (mà Cục dự trữ liên bang là
một thành viên sáng lập) nhằm đề xuất những cách thức để tăng cường hiệu
quả trong việc áp dụng những chương trình chống rửa tiền của Bộ Tài chính
Đạo luật ngăn chặn rửa tiền (1994) đã lấp chỗ trống cho những quy
định của luật về âm mưu và tội phạm có tổ chức trong khi đạo luật chống
khủng bố (1996) bổ sung thêm những loại tội phạm khủng bố cũng như
khẳng định những hành vi về tội rửa tiền và Đạo luật Kiểm soát Bảo hiểm y
tế (1996) quy định rõ những hành vi “xâm hại sức khoẻ Liên bang”.
Hình phạt cho các loại tội phạm bao gồm từ có thời hạn tới 20 năm và
mức phạt tiền lên tới 500.000 đôla hay gấp hai lần số tiền vi phạm, tuỳ thuộc
vào mức phạt nào lớn hơn sẽ áp dụng ở mức đó. Ở mức cao nhất của hình
phạt, những kẻ vi phạm có thể bị bổ sang những hình phạt về dân sự ngang
với giá thị tài sản sở hữu, tiền của hay các tiền lãi liên quan đến các hoạt
động kinh doanh. Quốc hội Mỹ có ý định làm cho các hình phạt này trở nên
khắt khe hơn. Trước đạo luật về rửa tiền năm 1986, bị đơn bị truy tố theo qui
chế có sự ưu đãi đối với những hoạt động bất chính trong đó có tội phạm rửa
tiền, cũng như tội phạm trốn thuế, tội đồng loã, tội vi phạm bảo mật ngân
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
39
hàng, tội hối lộ và tội lừa đảo. Nhìn chung những qui chế đó đều có hình phạt
ít khắt khe hơn nhiều.
Nhưng từ góc độ tiền tệ , cuộc sống của nhứng kẻ vi phạm thực sự trở
nên tồi tệ khi đạo luật về bắt giữ tài sản vào cuộc. Những đạo luật này tách
chung khỏi những nguồn nuôi dưỡng tội phạm hoặc những công cụ được
chúng sử dụng. Theo qui luật của đạo luật sửa đổi về việc Bắt giữ tài sản dân
sự năm 2000, chính phủ Hoa kỳ hiện nay phải tiến một bước cao hơn nữa
nhằm bắt giữ tịch thu tài sản. Để tịch thu tài sản phải đưa ra những lý do xác
đáng về nguồn gốc có được nhứng tài sản đó là do hoạt động phạm pháp. Để
tịch thu dân sự thành công, phải chứng minh được những trường hợp đó có
chứng cứ rõ ràng và để thành công bắt giữ tội phạm phải chứng minh được
nhứng trường hợp đó thực sự có những bằng chứng không thể chối cãi được.
Tài sản bị phạt có thể được chia tới tất cả những cơ quan thi hành pháp luật
có tham gia, một cách giải quyết chi tiết rất có hiệu quả để thu hút sự hợp tác
từ các cơ quan thi hành pháp luật ở nước ngoài.
Về phương diện pháp lý, rửa tiền là khái niệm tương tự một số tội xâm
phạm có chủ ý trong giao dịch tiền tệ đó là tài sản có được từ nguồn gốc phi
pháp. Để kết án, người khởi tố phải đưa ra âm mưu của các bị cáo trong các
giao dịch tiền tệ hay hoạt động chuyển giao quốc tế có liên quan tới những
khoản tiền có được từ một “ hoạt động bất hợp pháp”. Danh sách của những
loại hoạt động đó vô cùng dài và bao gồm cả việc nhận đưa hối lộ làm hàng
giả buôn bán ma tuý, hoạt động tình báo, tống tiền, lừa đảo, giết người, bắt
cóc, in tiền giả và dĩ nhiên cả gian lận nghiệp vụ ngân hàng.
1.2.2 Dấu vết hồ sơ: Các cơ quan khởi tố xem xét hồ sơ khi có được lệnh theo đạo luật bảo
mật ngân hàng và những điểm bổ sung của nó sẽ là công cụ chủ yếu trong
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
40
việc điều tra nghiên cứu và khởi tố tội sửa tiền. Các cơ quan đó sử dụng 5
dạng báo cáo về dấu vết trong giao dịch tài chính.
* Báo cáo giao dịch tiền tệ tài liệu được thiết lập khi một tổ chức tài
chính nhận hay cấp số tiênf hơn 10.000 USD. Báo cáo bao gồm tên và địa chỉ
của người thực hiện giao dịch, nhận dạng cá nhân số tài khoản và số thẻ bảo
hiểm xã hội của bất kỳ người nào đã tiến hành hoạt động giao dịch (Báo cáo
lượng tiền giao dịch không nhất thiết phải lập được trong mọi giao dịch tiền
mặt lớn. Các ngân hàng có thể miễn đối với các khách hàng quen, đáng tin
cậy, nhờ đó có thể giảm số lượng thực hiện các báo cáo giao dịch tiền tệ.
* Báo cáo về hoạt động nghi vấn: lập hồ sơ khi bất kỳ nhân viên ngân
hàng thấy có căn cứ để nghi ngờ một người sửa tiền, bất kể qui mô giao dịch
đó như thế nào.
* Mẫu biểu IRS - 8300. Lập hồ sơ khi người nào đó trong một thương
vụ nhận những khoản tiền mặt được trả trong trao đổi hàng hoá hay dịch vụ
vượt quá mức 10.000 USD trong giao dịch đơn lẻ hay một loạt những giao
dịch liên quan.
* Báo cáo tiền tệ và phương tiện thanh toán khác: lập hồ sơ khi một
người đến hay ra khỏi Hoa kỳ với lượng tiền tệ hoặc phương tiện thanh toán
khác có giá trị quá 10.000 USD. Mang theo nhiều hơn số lượng này thì hoàn
toàn hợp pháp nếu có đủ giấy tờ, nếu không có giấy tờ thì có thể dẫn đến
những hình phạt những 5 năm tù hoặc tịch biên tài sản.
* Mẫu tài khoản ngân hàng nước ngoài: lập hồ sơ khi một người nào
đó trong năm kiểm soát tài khoản nước ngoài trị giá hơn 10.000 USD.
Tất cả những báo cáo đó giúp cho cơ quan điều tra “lần theo dấu
đồng tiền”. Mạng lưới chống tội phạm tài chính (FINCEN), được Bộ Tài
Chính Hoa kỳ thành lập năm 1990 đã hậu thuẫn cho các cơ quan thi hành
pháp luật trong việc phân tích , có trách nhiệm duy trì tốt báo cáo đó. Khi có
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
41
cơ hội, những báo cáo cần có sự chỉnh lý những thông tin hữu dụng sẽ được
thu nhập và loại bỏ những báo cáo không cần thiết.
Bằng việc áp dụng các hình thức trên, các tổ chức tài chính hỗ trợ cho
các cơ quan thi hành pháp luật có thẩm quyền trong cuộc chiến chống lại rửa
tiền. Các hình thức đó cũng chỉ ra giá trị đích thực của các cơ quan đó cũng
như của các khách hàng hợp pháp.
Mạng lưới chống tội phạm Tài Chính (FINCEN) dự toán chi phí của
việc thiết lập và lưu trữ hồ sơ với BAS hoàn thành năm 1999 lên tới 109 triệu
USD, trong đó không kể đến chi phí đào tạo và kiểm tra nhân sự, thay đổi các
chương trình máy tính cho phù hợp và sự bất tiện đối với những khách hàng
hợp pháp. Cũng có những lo ngại rằng những tổ chức tài chính nhỏ thường
phải gánh chịu sự phân bổ không công bằng những chi phí trên đây.
Thêm vào đó hiệu quả của các hình thức này cũng là một vấn đề được
đặt ra. Cựu cục trưởng Cục dự trữ Liên Bang Larry Lindsey theo dõi từ năm
1996, các ngân hàng đã lập 77 triệu hồ sơ báo cáo về giao dịch tiền tệ nhưng
chỉ phát hiện được 7300 bị cáo đã buộc tội nhưng chỉ có 580 người bị tuyên
bố là có tội. Xét một cách công bằng, ngoài 580 người bị buộc tội, Bộ Tư
pháp Hoa kỳ cũng đã kết tội được 2295 vụ, chiếm tỷ lệ 40% các bản án đã
tuyên . Những người quản lý ngân hàng và đại diện cho các cơ quan thực thi
pháp luật bảo vệ việc áp dụng Luật bảo mật ngân hàng (BSA), cho rằng các
giao dịch tiền tệ chưa bao giờ là căn cứ để khởi tố và cục dự trữ Liên Bang
tiếp tục ủng hộ họ.
Vai trò của cục dự trữ Liên Bang trong cuộc đấu tranh chống rửa
tiền: Mặc dù không phải là cơ quan thi hành pháp luật, Cục dự trữ Liên bang
vẫn tích cực tiến hành các hoạt động ngăn chặn việc sử dụng các tổ chức tài
chính để rửa tiền. Các hoạt động của cục dự trữ Liên Bang bao gồm chỉ đạo
các nghiên cứu BSA, triển khai hướng dẫn chống rửa tiền và chuẩn bị ý kiến
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
42
chuyên môn cho lãnh đạo các cơ quan thi hành pháp luật của Hoa kỳ, các
ngân hàng nước ngoài chuyên biệt và các tổ chức Chính phủ. Các tổ chức tài
chính và các nhân viên của họ được coi là yếu tố nhanh nhất chống lại rửa
tiền và cục Dự trữ Liên bang nhấn mạnh tầm quan trọng của các ngân hàng
trong việc củng cố kiểm soát để bảo vệ bản thân khách hàng của ngân hàng
và bản thân khách hàng trước những hoạt động bất hợp pháp. Trong tất cả
hướng dẫn các nhân viên giám sát của FBI, nó kiểm tra việc tuân thủ bảo mật
ngân hàng. Bất kỳ sự phát hiện nào về những điều chưa làm được như hệ
thống kiểm tra nội bộ hay sự tập huấn kém cỏi đều dẫn đến cuộc thẩm tra giai
đoạn hai còn nghiêm ngặt hơn.
Cục dự trữ liên bang hoàn thành việc phát triển quan điểm một “qui
trình hoàn thiện thích đáng”. Theo chính sách này, các ngân hàng có những
vấn đề còn tồn đọng sẽ được yêu cầu phải thoả thuận để đảm bảo việc tuân
thủ các qui trình cho tương lai. Những thoả thuận này được thiết kế với mục
đích đảm bảo sự nhận biết và sự báo cáo đúng lúc, chính xác hoạt động tội
phạm được biết rõ hay còn nghi vấn chống lại hay làm cho ngân hàng dính
líu tới hoạt động chống lại các cơ quan thực thi pháp luật và các cơ quan
thanh tra hữu quan.
1.2.3. Vòng quay toàn cầu Trong hệ thống tài chính toàn cầu, các quỹ có thể được di chuyển ngay
lập tức từ quốc gia này tới quốc gia khác, làm cho sự hợp tác quốc tế càng
quan trọng hơn trong cuộc chiến chống rửa tiền. Trong năm 1989, các nước
G7 đã thiết lập lực lượng đặc nhiệm về hoạt động tài chính (gọi tắt là FATF)
để phát triển chiến lược chống rửa tiền. Năm tiếp theo, lực lượng này đã phác
thảo “40 điều khuyến nghị” trong đó đòi hỏi các quốc gia thành viên giúp đỡ
lẫn nhau trong việc phát hiệnh rửa tiền, ngăn ngừa việc ban hành các đạo luật
làm cản trở những hoạt động điều tra rửa tiền, tội phạm và báo cáo những
giao dịch có nghi vấn. Mặc dù lực lượng đặc nhiệm bao gồm các trung tâm
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
43
tài chính lớn ở Bắc Mỹ, Châu Âu và Châu Á nhưng một số quốc gia vẫn chưa
phải là thành viên của FATF. Vào tháng 6 năm 2000, FATF đã phát hành
danh sách 15 quốc gia “ nhiễm những vấn đề nghiêm trọng”. Vào tháng 7, Bộ
trưởng tài chính các nước G7 đã bổ sung với kế hoạch nhằm thuyết phục
những nước này hợp tác bằng cách đe doạ sẽ cắt mối quan hệ với hệ thống
Ngân hàng Thế giới trừ phi họ tích cực hơn trong cuộc chiến chống rửa tiền.
Thêm vào đó các tổ chức tài chính độc lập tại các nước G7 cảnh báo bằng
những giao dịch với các quốc gia đó sẽ bị xem xét cực kỳ kỹ lưỡng.
1.2.4. Những định hướng trong tương lai: Trước tình trạng rửa tiền ngày một tinh vi, Hoa kỳ quyết tâm thực hiện
một chính sách kiểm soát chặt chẽ hơn.
Thứ nhất, hệ thống thanh toán điện tử qua Internet đang phát triển làm
cho giao dịch điện tử trở lên dễ dàng. Một số hệ thống tạp chung vào việc
giúp cho người sử dụng ngày càng bí mật trong các hoạt động tiền tệ. Tốc độ
truyền điện tử được kết hợp với những khoản tiền mặt ẩn danh đã làm xuất
hiện ngày càng nhiều những kẻ tiến hành rửa tiền. Trong khi đây là một vấn
đề đối với các cơ quan thi hành pháp luật hữu quan, thì đồng tiền điện tử hiện
nay rất thiếu những thể chế cần thiết để điều chỉnh nhằm qui định kiểm soát
bọn tội phạm. Hơn thế nữa những kẻ rửa tiền không lo lắng tới hệ thống tổ
chức ngân hàng điện tử, trong giới hạn mối cân bằng thấp và các giao dịch tài
chính có thể kiểm tra.
Thứ hai, thể chế pháp lý được ban hành cho phép Bộ Tài chính có
thẩm quyền mạnh mẽ để chiến đấu với nạn rửa tiền, các cơ quan thấp hơn có
quyền cấm những giao dịch giữa trung tâm tài chính ở nước ngoài với các
ngân hàng Hoa kỳ hay các trung tâm môi giới. Bộ Tài chính hiện nay không
có quyền ngăn cản các công ty tài chính Hoa kỳ tiến hành các giao dịch làm
ăn ở các quốc gia dường như làm ngơ trước việc rửa tiền, trừ phi đề nghị
quốc hội ban hành các chế tài chống lại các quốc gia được coi là tiềm ẩn mối
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
44
đe doạ đối với nền an ninh của Mỹ. Các thanh tra viên của Bộ Tài chính luôn
cảnh báo các ngân hàng về các khoản tiền của tổ chức nước ngoài thường
xuyên vi phạm các chuẩn mực đã được công nhận, nhưng những viên thanh
tra này không có thẩm quyền như luật định.
Nói tóm lại vào 30 năm trở lại đây các nhà làm luật Hoa Kỳ đã ban
hành một loạt luật lệ nơi điều tra để cố gắng tạo nên những công cụ sắc bén
chống lại những thủ thuật lách luật tinh vi của bọn rửa tiền. Trên cơ sở là một
tổ chức quản lý Ngân hàng, Ngân hàng dự trữ liên bang có vai trò quan trọng
trong cuộc chiến chống rửa tiền có qui mô toàn cầu nên sự tăng cường hợp
tác quốc tế thơì gian gần đây là sự phát triển đầy hứa hẹn. Dĩ nhiên cùng với
lòng nhiệt huyết bắt giữ tội phạm, chúng ta cũng cần phải thấy được lợi ích
mà luật pháp và sự quản lý mang lại so với cái giá mà các tổ chức tài chính
mà người tiêu dùng phải chịu.
1.3. Những thành tựu đạt được trong cuộc chiến chống rửa tiền của Hoa Kỳ
Bằng những đạo luật khắt khe trong những nỗ lực kiểm soát hoạt động
tài chính để chống rửa tiền, Hoa Kỳ đã đạt được những thành tựu đáng kể
trong cuộc chiến đấu chống rửa tiền đầy khó khăn này. Ở đây chỉ xin đề cập
đến một số chiến dịch chống rửa tiền có hiệu quả nổi bật.
1.3.1. Chiến dịch "thuần hoá chú lừa" Ngày 01 tháng 07 năm 1998, Trưởng phòng tài chính, Chủ tịch và Phó
Chủ tịch của Công ty Supermail, Inc… một công ty séc chuyển khoản đã bị
bắt vì tham gia vào một vụ rửa tiền trong một vụ điều tra kéo dài trong vòng
2 năm do văn phòng chống rửa tiền ở Los Angeles của Cục điều tra Liên
bang và phòng cảnh sát Los Angeles tiến hành. Theo hồ sơ, công ty này là
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
45
một trong những công ty hàng đầu của Hoa Kỳ cung cấp dịch vụ cho Mexico
và Châu Mỹ La tinh.
Ba thành viên quản trị cùng với 6 nhân viên đã bị bắt sau khi đại bồi
thẩm đoàn Liên bang đã đưa ra bản cáo trạng với 67 điểm kết tội 11 bị cáo
bao gồm cả Công ty Supermail có âm mưu rửa tiền, né tránh yêu cầu báo cáo
về lưu hành tiền tệ và chiếm đoạt tài sản một cách bất hợp pháp.
Mục tiêu đầu tiên của cuộc điều tra là quỹ của Công ty ở Reseda,
California. Những người điều tra dưới vỏ bọc bí mật đã tiếp cận với người
quản lý, người đã đồng ý rửa những đồng tiền "ma tuý" với khoản phí tiền
mặt. Đặc biệt người quản lý chuyển một số lượng tiền mặt lớn thành giấy
lệnh chuyển tiền của Công ty. Khi có một lượng tiền lớn cần được rửa, người
quản lý sẽ yêu cầu các cộng sự làm việc ở những khu vực khác giúp đỡ. Khi
một người quản lý mới điều hành những hoạt động ở chi nhánh Reseda vào
tháng 4 năm 1997 thì anh ta đưa tới công ty một số nhân viên. Những nhân
viên này được phép phát hành những phiếu gửi tiền và chuyển một lượng tiền
bất chính lớn tới một tài khoản bí mật ở Miami, trong khi số tiền để duy trì
hoạt động vẫn nằm trong quỹ của công ty.
Tổng cộng các bị cáo đã rửa tổng cộng trên 3 triệu USD tiền "ma tuý".
Người ta cho rằng đây là một trong những vụ điều tra chống lại nạn rửa tiền
nhằm vào giới kinh doanh séc chuyển khoản lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ.
1.3.2. Chiến dịch “công việc mạo hiểm” Từ khi hầu hết các đường dây rửa tiền với quy mô lớn bao gồm cả
những khoản tiền buôn bán ma tuý hình thành thì nạn rửa những khoản tiền
của tội phạm "cổ cồn" ngày càng trở thành một hiện tượng nghiêm trọng.
Chiến dịch “công việc mạo hiểm” do Cục hải quan Liên bang và FBI tiến
hành vào năm 1994 sau khi một bọn lừa đảo đăng quảng cáo trên một số tờ
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
46
báo và ấn phẩm kinh doanh lớn của Hoa Kỳ. Những tin quảng cáo này đưa ra
những đề nghị cho vay vốn đối với những chủ hãng kinh doanh với "khoản
phí trả trước". Các nạn nhân trên toàn thế giới bắt đầu trả những khoản tiền
lãi trả trước từ 50.000 đến 2,2 triệu USD để có thể được vay vốn. Sau khi trả
khoản tiền này, các nạn nhân được yêu cầu ký một bản hợp đồng yêu cầu họ
ngay lập tức mở thư tín dụng từ 2 -20 triệu USD làm tiền thế chấp cho khoản
vay. Nếu các nạn nhân không thể mở thư tín dụng với một khoản tiền lớn như
vậy, ngay lập tức bọn lừa đảo bảo rằng họ đã vi phạm điều khoản của hợp
đồng và giữ tiền lãi trả trước của họ. Trên thực tế những kẻ chủ mưu của kế
hoạch này biết rằng các nạn nhân sẽ không thể đáp ứng được các điều khoản
của hợp đồng và bằng cách đó chúng đã chiếm của các nạn nhân những
khoản tiền lãi trả trước.
Để che đậy số tiền chúng đã ăn cắp, những kẻ lừa đảo này mở ngân
hàng Caribean American Bank ở Antigua và Barbuda vào năm 1994. Cục Hải
quan Liên bang và FBI đã phát hiện ra rằng ngân hàng này chỉ hoạt động bề
ngoài, là một trong 18 ngân hàng hoạt động dưới sự kiểm soát của Ngân hàng
quốc tế Châu Mỹ (A.I.B - Ltd) ở Antigua. Cả hai ngân hàng này bị đóng cửa
do tội lừa đảo. Chính từ các ngân hàng này và vô số những Công ty bình
phong khác, bọn lừa đảo có thể mua máy bay, thuyền đua, xe cộ, bất động
sản và những tài sản khác bằng các khoản tiền lừa đảo. Một số bị cáo phát
hành những thẻ tín dụng lớn - dưới tên của những công ty bình phong - qua
hệ thống ngân hàng ở Antigua, vì vậy chúng có thể tiêu thụ những khoản tiền
ăn cắp thẻ tín dụng ở khắp nơi trên thế giới. Ít nhất 400 người trên thế giới đã
bị mất tiền vì vụ lừa đảo này. Nhưng mục đích của chúng là còn lừa thêm
nhiều người hơn nữa. Tổng số tiền của vụ lừa đảo trên có thể không bao giờ
được tiết lộ, nhưng người ta ước tính khoảng 60 triệu USD. Kể từ đó, 19
người bị kết án trong chiến dịch “công việc mạo hiểm”. Hoa kỳ đang tìm
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
47
cách dẫn độ một bị cáo ở Antigua bị buộc tội thành lập ngân hàng Caribean
American Banh cho bọn lừa đảo cũng như dẫn độ bị cáo khác ở Thái Lan về.
1.3.3. Những vụ việc liên quan đến hệ thống chuyển đổi đồng tiền peso chợ đen.
* Chiến dịch khinh công: Một trong những chiến dịch thành công gần
đây tấn công vào hệ thống thị trường chợ đen chuyển đổi đồng peso là chiến
dịch khinh công cuộc điều tra do Cục Hải quan liên bang tiến hành. Từ tháng
3/1997 đến tháng 5/1999, các nhân viên tham gia chiến dịch khinh công đã
chiếm được lòng tin của bọn môi giới buôn bán đồng peso Colombia làm
việc cho các trùm buôn ma tuý Colombia, chúng giao cho các nhân viên mật
những khoản tiền mặt khổng lồ thu được từ việc buôn bán ma tuý. Những
nhân viên này đưa những khoản tiền mặt đó vào các tài khoản cho chính phủ
kiểm soát.
Sau mỗi vụ, những kẻ đổi tiền peso lại chỉ thị cho các nhân viên mật
chuyển tiền vào các tài khoản ngân hàng đã được chỉ định. Thông qua hệ
thống thị trường chợ đen chuyển đổi đồng peso Colombia, bọn môi giới đổi
tiền peso đã lấy đồng peso thu được từ việc nhập khẩu hàng hoá Mỹ để đổi
đồng đô la ở các tài khoản bí mật. Bọn này sẽ gởi vào các tài khoản ngân
hàng của các nhà xuất khẩu Mỹ khoản tiền đô la như một khoản thanh toán
cho hàng hoá mà nhà nhập khẩu Colombia đã nhận được cũng như cho các
bên thứ ba liên quan đến hệ thống chuyển đổi này. Kết thúc chu kỳ rửa tiền
đó, các nhà nhập khẩu Colombia nhận được khi xác nhận là việc chuyển tiền
đô la đã hoàn tất chuyển cho bọn môi giới buôn bán đồng peso khoản tiền
tương đương bằng đồng peso. Sau đó, bọn này sẽ lập peso cho các trùm buôn
ma tuý Colombia.
Chiến dịch khinh công đạt được kết quả với 14 bản cáo trạng và 29 bị
cáo: 12 tên bị kết án vì tội rửa tiền và tham gia buôn bán ma tuý bị tống giam.
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
48
Ngoài ra các vụ việc dân sự cũng được khởi tố, xét xử các tài khoản ngân
hàng đã nhận những khoản thu được từ buôn bán ma tuý ở Mỹ cũng như ở
các nước khác.
* Chiến dịch Juno: Cũng như vậy, chiến dịch Juno kết hợp được năng
lực của Cục phòng chống ma tuý, Phòng điều tra hình sự hải quan nội địa và
Văn phòng chưởng lý liên bang ở Atlanta thành một lực lượng đặc nhiệm
điều tra chống rửa tiền. Vào 12/1999, tại bồi thẩm đoàn liên bang đặt ở
Atlanta kết án 5 bị cáo từ Colombia dính líu đến hệ thống rửa tiền và buôn
bán ma tuý với vòng quay hàng triệu đô la. Theo sự chỉ đạo của những kẻ
hiện nay là bị cáo, các nhân viên bí mật tham gia chiến dịch Juno đã từng giữ
những tài khoản lợi nhuận thu được từ ma tuý từ 100.000 đến 500.000 USD .
Các khoản thu được từ ma tuý cũng được rải ở những thành phố khác của Mỹ
như Dallas, Huston, New york , Newark, Providence, Chicago cũng như
Madrid và Rome
Những người tham gia chiến dịch Juno sau đó đã chuyển tiền từ những
thành phố nói trên đến tài khoản bí mật ở Atlanta. Theo chỉ thị của những kẻ
hiện nay đã bị kết án, tiền được chuyển đến hàng loạt các tài khoản ở Mỹ và
trên toàn thế giới. Cũng như trong chiến dịch khinh công, lợi nhuận thu được
từ ma tuý ở chiến dịch này được hợp pháp hoá qua hệ thống chuyển đổi đồng
peso chợ đen, khi bọn môi giới đổi tiền peso đã lấy đồng peso thu được từ
việc nhập khẩu hàng hoá Mỹ để đổi thành đồng đô la ở các tài khoản bí mật.
Và một lần nữa các vụ việc dân sự lại được khởi xướng để thu hồi những
khoản tiền đã chuyển vào tài khoản nội địa và nước ngoài.
1.3.4. Những khó khăn trong các vụ chống rửa tiền quốc tế: Chiến dịch Casablanca Chiến dịch khinh công và Juno thu được thắng lợi không chỉ trên
phương diện điều tra tội phạm, kết tội, kết án và tịch thu tài sản mà còn phát
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
49
hiện và tiêu diệt một phần của hệ thống chuyển đổi đồng peso chợ đen.
Những vụ việc trong hai chiến dịch điều tra này đã cho thấy những khó khăn,
phức tạp trong việc bắt giữ các khoản thu nhập bất chính khi chúng đã được
chuyển ra khỏi Hoa kỳ, đặc biệt khi thông qua các tài khoản vãng lai.
Thứ nhất, mỗi khi tiếp nhận các ngân hàng hải ngoại có văn phòng đại
diện ở nước ngoài, các nhà chức trách thực thi pháp luật Mỹ đề nghị các cơ
quan có thẩm quyền của các nước sở tại giúp đỡ, khả năng bắt giữ những
khoản tiền đó phụ thuộc vào sự lành mạnh của luật lệ ở nước đó mà nhiều lúc
mâu thuẫn với luật pháp Hoa kỳ và có thể nảy sinh những tranh cãi phức tạp,
tốn nhiều thời gian về thẩm quyền và địa điểm xét xử đối với một vụ việc bắt
giữ tiền. Trong nhiều trường hợp, các nhà thực thi pháp luật của Hoa kỳ
không biết được điểm đến cuối cùng và người nhận của những khoản tiền
được gửi qua tài khoản vãng lai và chỉ xác thực sự kiện như một vụ việc đã
rồi.
Các vấn đề phức tạp do tài khoản vãng lai gây ra không chỉ nảy sinh
trong các vụ việc bắt giữ tiền trong chiến dịch “Khinh công” và chiến dịch
Juno mà còn ở những vụ việc khác. Ví dụ như trong chiến dịch Casablanca
truy tố việc rửa tiền ở Los Angeles liên quan đến các ngân hàng nước ngoài
và tài khoản vãng lai của họ, các công tố viên của Washington D.C đã khởi tố
dân sự ở quận Colombia đối với những khoản tiền đã được chuyển khoản
vào các tài khoản nước ngoài. Những nỗ lực của nước Mỹ được các tài khoản
tiền đó đưa lại những kết quả khác nhau phụ thuộc vào nước mà chúng được
chuyển đến. Trong một số trường hợp, nước Mỹ nhận được sự hợp tác từ
phía các đồng sự nước ngoài, nhưng một số trường hợp khác lại không nhận
được sự hợp tác đó. Trong một số trường hợp khi có sự hơp tác thì rắc rối và
tranh cãi lại nảy sinh về địa điểm và thẩm quyền tố tụng cũng như về nguồn
gốc thực sự của khoản tiền.
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
50
Ví dụ, như trong một trường hợp tiền được chuyển vào tài khoản ngân
hàng ở nước ngoài. Sau khi đã khởi kiện dân sự, Bộ Tư pháp Mỹ đề nghị
Chính phủ nước sở tại trợ giúp phong toả các khoản tiền theo tinh thần của
công ước Viên 1998. Kết quả là các đồng sự nước ngoài đủ thẩm vấn nhân
viên của ngân hàng và phát hiện ra rằng ngân hàng có tài khoản mà các
khoản tiền đó được chuyển đến có trụ sở ở nơi khác .
Theo tinh thần Hiệp ước hỗ trợ tư pháp với nước thứ hai, Bộ Tư pháp
Mỹ thông báo cho các cơ quan có thẩm quyền ở đó biết rằng họ có thông tin
về việc chuyển tiền thu được từ ma tuý vào các tài khoản ngân hàng, thuộc
thẩm quyền tài phán của họ. Do luật pháp của nước sở tại chỉ công nhận sự
hỗ trợ về mặt hình sự và không hỗ trợ về mặt dân sự, chính quyền ở nước đó
đã tự mở cuộc điều tra dựa trên thông tin mà nước Mỹ cung cấp và sau đó đã
phong toả các tài khoản. Nhân đây cũng xin lưu ý là trước khi toà phán quyết
thì không ai bị coi là tội phạm cả nên việc làm trên không công bằng cho dù
các khoản tiền đó có thể thu được bằng con đường bất chính, tội phạm. Hơn
nữa, ngân hàng không hề có một bất động sản hay một chi nhánh nào thuộc
thẩm quyền xét xử của toà án sở tại, và mọi tài sản đảm bảo cho các trái vụ
của ngân hàng đều nằm ở nước khác. Cuối cùng, sau khi lần hết vòng đã phát
hiện ra rằng tài sản đang bị theo dõi có thể nằm ở tài khoản vãng lai của ngân
hàng nước ngoài tại một ngân hàng Hoa kỳ ở thành phố NewYork.
Quả thật, ở đây có rất nhiều những cản trở cho triển vọng thành công
của việc tịch biên tài sản bằng những thủ tục dân sự, bởi lẽ tiềm ẩn sự tranh
cãi về thẩm quyền: những tài sản bị nghi ngờ thực sự "nằm" ở tài khoản vãng
lai của ngân hàng nước ngoài ở NewYork.
Mặc dù quận Colombia mới thực sự có thẩm quyền tài phán tương ứng
để tịch biên tài sản bằng thủ tục dân sự. Điều này cho thấy những khó khăn
mà chúng ta sẽ gặp phải khi tìm kiếm, phát hiện, bắt giữ và tịch biên những
khoản tiền ở các tài khoản vãng lai của các ngân hàng nước ngoài.
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
51
Điều đáng chú ý là những chiến dịch trên đây đã tái tạo lại những tình
huống khi các chính phủ nước ngoài hợp tác với những đề nghị của Hoa kỳ.
Trong nhiều trường hợp, không có được sự hợp tác như vậy và những khó
khăn càng tăng lên bội phần khi chúng ta gặp phải nền pháp luật về bí mật
ngân hàng không chịu hợp tác.
Tóm lại Mỹ là quốc gia mà hiện tượng "rửa tiền" xảy ra tương đối
nhiều và mang tính chất phức tạp. Tuy nhiên, được sự quan tâm của các cơ
quan hữu quan với bộ luật "chống rửa tiền" và các văn bản pháp lý liên quan,
đặc biệt là những nỗ lực trong nước và quốc tế, nạn rửa tiền ở quốc gia này
đang dần được kiểm soát.
2. Rửa tiền - chống rửa tiền ở Thái Lan Tại Thái Lan, "tiền bẩn " đang được làm cho trở lên "sạch hơn”. Năm
1999, nước này đã thực thi Luật chống rửa tiền, một trong những đạo luật
tiến bộ nhất ở Châu Á, không chỉ nhằm vào loại tội phạm "cổ cồn " mà cả
vào hoạt động phi pháp của nền kinh tế ngầm. Bốn năm trôi qua, luật này đã
phát huy tác dụng làm cho nạn rửa tiền ở Thái Lan không còn là thường ngày
nữa.
Trong một cuộc phỏng vấn gần đây với tờ Far Eastern Economic
Review, ông Peeraphan Prempooti - Tổng thư ký văn phòng chống nạn rửa
tiền (AMLO) khẳng định : luật này không loại trừ một ai cả, cho dù anh có
quyền cao, chức trọng đi nữa mà vi phạm luật thì cũng bị truy tố. Và đúng
như lời lẽ hùng hồn ấy, cho đến nay văn phòng này đã và đang xử lý rất
nhiều vụ nhưng mới chủ yếu là những vụ nhỏ.
Trong tháng 12 năm 2000 các nhà chức trách Thái Lan đã phát hiện
một vụ rửa tiền trị giá 7,7 tỷ Bath (tương đương 170 triệu USD) có liên quan
đến khoảng 37 công ty hàng đầu mà đã đánh lừa được cả những nhà ngân
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
52
hàng giàu kinh nghiệm và các nhà chính trị. Trong một vụ mang tính chất
quốc tế vào tháng 8 năm 2001, văn phòng chống nạn rửa tiền đã giúp chặn
đứng một vụ mua bán cổ phiếu bất hợp pháp bắt giữ 85 người nước ngoài bị
buộc tội có liên quan đến hoạt động rửa tiền xuyên quốc gia.
Trong khi đó trên khắp cả nước cảnh sát Thái Lan đã thu giữ tài sản và
đất đai của những kẻ bị tình nghi là buôn bán ma tuý, trong năm, họ đã thu
được tổng số tài sản trị gía hơn 250 triệu Bath. Nhằm hướng tới có qui định
chặt chẽ hơn đối với hoạt động của thị trường tài chính và thị trường bất động
sản, Thái Lan rất thận trọng đi từng bước nhỏ nhưng sự định hướng là rất rõ
ràng, bởi vì nguyên nhân của khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 là do
những quy định lỏng lẻo trong hệ thống ngân hàng và một cơ chế quản lý
kém.
Văn phòng chống nạn rửa tiền đã thiết lập được một cơ chế thanh tra
nhằm ngăn chặn sự tái diễn cuả những vụ tham nhũng lớn trong quá khứ và
nó cũng góp phần phát hiện ra những khoản chi không được minh bạch và
các khoản trốn thuế bấy lâu nay đã gây những tổn thất lớn cho quốc gia này.
Theo một viên chức cao cấp của văn phòng hành pháp Western có trụ
sở tại Bangkok thì Mỹ phải mất 15 năm mới có thể đưa ra đạo luật chống rửa
tiền và có hiệu lực trong khi Thái Lan đã thực hiện tốt được cả hai.
Không theo tiền lệ quốc tế, văn phòng chống nạn rửa tiền dự tính thực
thi luật chống rửa tiền mới có hiệu lực trở về trước. Điều này có thể dẫn tới
sự bùng nổ những tranh cãi về mặt chính trị. Cho tới bây giờ, chưa có vụ nào
trước năm 1997 được xem xét mặc dù có hàng tỷ Bath trong tài khoản tiền
gửi ngân hàng và vốn cổ đông trong nước đã biến mất, mà rất có thể, số tiền
này đã bị chảy ra các tài khoản ở ngân hàng nước ngoài. Ông Peeraphan nói
rằng, văn phòng chống nạn rửa tiền đang tích cực truy xét những vụ này, tìm
ra và thu hồi số tiền đã biến mất trước cuộc khủng hoảng năm 1997, đồng
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
53
thời ông cũng có trong tay một danh sách tên và tài khoản ngân hàng nước
ngoài đang được thẩm tra.
Về cơ sở vật chất, cho đến nay, Mỹ đã giúp văn phòng chống nạn rửa
tiền cả về vốn lẫn công nghệ, một phần mềm chuyên việt để phát hiện những
mối liên kết và làm thành các mô hình từ các báo cáo tài chính khác nhau.
Một phần cứng cũng đã được sẵn sàng tiếp nhận các báo cáo giao dịch từ
hàng trăm tổ chức tài chính. Về mặt nhân lực, các thanh tra của văn phòng
chống nạn rửa tiền được đào tạo tại một học viện hành pháp quốc tế do Mỹ
tài trợ ở Bangkok về các loại tội phạm trong lĩnh vực tài chính tiền tệ.
Điều quan trọng nhất đối với việc thực thi pháp luật này là có sự tham
gia của ngân hàng. Giờ đây, quy định về việc không hỏi (no questions) về tài
khoản tiền mặt của khách hàng đã được dần thay thế bởi quy định hiểu biết
về khách hàng với từng nhân viên ngân hàng. Cán bộ tín dụng phải thông báo
tất cả các giao dịch có giá trị lớn hơn 2 triệu Baht cho văn phòng chống nạn
rửa tiền, đồng thời cũng phải thông báo các giao dịch đang nghi do bọn rửa
tiền thực hiện nhiều giao dịch có giá trị dưới mức quy định tối thiểu. Sở địa
chính Thái lan cũng phải thông báo tất cả các hợp đồng mua bán bất động
sản lớn hơn 5 triệu Baht.
Như đã đề cập ở trên, Văn phòng chống nạn rửa tiền Thailand đang nổi
lên như là một mô hình đáng học tập trong khu vực. Malaysia và Indonesia
cũng áp dụng mô hình này. Hàn quốc và Nhật Bản đã cử chuyên gia đến
tham khảo. Ông Peeraphan cho rằng một quốc gia không thể một mình chống
nạn rửa tiền vì nó là một loại tội phạm không biên giới, do đó, bộ máy hành
pháp của các quốc gia phải có sự tương đồng.
Tuy nhiên, không phải là không có sự cản trở, một số người vẫn phản
đối về quy định truy tố những vụ trước khi luật này ban hành. Theo một luật
sư hàng đầu của Thái Lan, Thawat Damsa - ard, mà thân chủ của ông đã bị
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
54
thu giữ tài sản thì: "Nguyên tắc có hiệu lực trở về từ trước không nên áp dụng
bởi luật quy định rằng tất cả tài sản thuộc sở hữu của một người là không
được xâm phạm. Thuật ngữ này là quá rộng". Một câu hỏi lớn hơn đặt ra đối
với văn phòng chống nạn rửa tiền là phạm vi thẩm quyền của nó là bao xa.
Với hơn 40% GDP của Thái Lan được coi là có nguồn gốc từ kinh tế ngầm
và luật mới này bao trùm cả từ loại tội phạm "cổ cồn" đến nạn mại dâm thì
Văn phòng chống nạn rửa tiền sẽ hoạt động thử nghiệm để chứng tỏ tính toàn
cầu của luật này. Cho đến nay, số vụ được đưa ra truy tố chủ yếu là những vụ
buôn lậu ma tuý nhỏ, quan chức cấp cao nhất bị truy tố chỉ là viên trung tá
cảnh sát.
Rất nhiều nhà chính trị của Chính phủ hiện thời bắt đầu nhận thức khi
cuộc khủng hoảng nổ ra năm 1997. Theo một số nhận định khá tin cậy thì
phải có một số quan chức sẽ phải có rời nhiệm sở một khi Văn phòng chống
nạn rửa tiền ra tay. Mặc dầu trên thực tế trụ sở tổ chức này là độc lập nhưng
nó vẫn cần sự hợp tác từ nhiều phía để có thể phát hiện thêm nhiều vụ phức
tạp hơn. Theo một số nhân viên của văn phòng hành pháp Westers thì các vụ
rửa tiền không dễ dàng giải quyết một cách nhanh chóng được, chúng mất rất
nhiều thời gian và nguồn lực. Nó cũng như việc thách đố đặt trước mặt bạn
100.000 ô nhớ toàn là mầu trắng mà bạn phải biết bạn đang làm cái gì.
Như vậy, sau Mỹ, Thái Lan là quốc gia có nhiều thành công trong công
cuộc chống "rửa tiền".
3. Rửa tiền- chống rửa tiền tại Hồng Kông Mới đây, một quan chức của ngành cảnh sát Hồng Kông khẳng định
rằng, trong thời gian qua, nhiều tên khủng bố đã tiến hành nhiều đợt rửa tiền
thông qua các ngân hàng ở Hồng Kông. Ông Dick Lee, Phó uỷ viên cảnh sát
Hồng Kông nhận định trong thời gian tới rất ít khả năng bọn khủng bố sẽ tiến
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
55
hành những hành động tấn công tại Hồng Kông nhưng bọn chúng sẽ tăng
cường rửa tiền thông qua hệ thống ngân hàng ở vùng lãnh thổ này.
Trong tháng 10 vừa qua, nhiều phương tiện thông tin đại chúng ở Mỹ
đã loan tin rằng, theo nhận định của nhiều chuyên gia Liên hợp quốc, mạng
lưới Al-Qaeda của Osama- Binladen đang có nhiều tài khoản ngân hàng ở
Hồng Kông. Một chuyên gia của Liên Hợp quốc nhận xét: "Chưa có dấu hiệu
nào cho thấy bọn khủng bố sẽ tiến hành các cuộc tấn công tại Hồng Kông.
Nhưng có nhiều khả năng những tên thuộc nhóm Al-Qaeda sẽ tăng cường lợi
dụng thành phố quốc tế có nhiều người qua lại và có hệ thống tài chính -
ngân hàng phức tạp này để tiếp tục thực hiện rửa tiền”.
Ông Dick - Lee cho biết, hiện có nhiều tài khoản ngân hàng ở Hồng
Kông có dấu hiệu liên quan đến nhóm khủng bố Al-Qaeda. Ngoài ra, ông
Dick - Lee còn khẳng định rằng việc cảnh sát Hồng Kông phát hiện và bắt
giữ 3 kẻ cung cấp vũ khí cho nhóm Al-Qaeda (Hai người có quốc tịch
Pakistan và một người có quốc tịch Mỹ) vào ngày 20/9 năm nay không phải
là lần đầu tiên cảnh sát của vùng lãnh thổ này phát hiện và xử lý những vụ
liên quan đến bọn khủng bố. Ba tên này bị bắt trong khi đang mua 4 tên lửa
Stinger để bắn máy bay. Trước đó, theo Cục điều tra trung ương Mỹ (FBI) 3
tên này đã dùng 5 tấn Hasit (chế bằng lá thuốc non và đọt gai dầu) và 600kg
Heroin để đổi lấy tên lửa cung cấp cho mạng Al-Qaeda.
Để trấn an nhân dân và khách quốc tế, các quan chức của ngành cảnh
sát Hồng Kông tuyên bố rằng, trong thời gian tới, chính quyền vùng lãnh thổ
này sẽ tăng cường các biện pháp truy lùng và bắt giữ những tên khủng bố đi
qua, đồng thời sẽ đẩy mạnh công tác kiểm tra để phong toả các tài khoản mà
bọn khủng bố mở tại các ngân hàng hoạt động trên thị trường này. Bên cạnh
đó cũng theo ngành cảnh sát Hồng Kông, chính quyền Hồng Kông sẽ tăng
cường hợp tác với các nước và các tổ chức quốc tế để phát hiện và bắt giữ
những tên khủng bố đi qua hoặc có những hành động rửa tiền qua Hồng
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
56
Kông. Ngoài ra chính quyền Hồng Kông sẽ tăng cường vai trò của ngành tình
báo để chống khủng bố và hoạt động rửa tiền.
Cho tới nay, cảnh sát Hồng Kông đã ghi nhận và điều tra được 6800
vụ rửa tiền. Tuy nhiên họ cũng cho biết đó chỉ là những vụ rửa tiền được biết
đến còn có bao nhiêu vụ rửa tiền thì họ không tổng kết được.
Từ năm 1989, luật trừng trị tội rửa tiền được ban hành tới nay, cảnh sát
đã truy tố 99 cá nhân, tịch thu được 39 triệu USD tang vật liên quan đến tội
phạm rửa tiền. Thời gian tới, công tác chống rửa tiền sẽ có những thành công
mới.
Ngoài ra ở các nước khác trên thế giới, công tác chống rửa tiền cũng
đạt được thành công nhất định. Mới đây (17/1/2003), Tây Ban Nha đã phá
đường dây rửa tiền lớn nhất Châu Âu. Bộ Nội vụ nước này cho biết, cảnh sát
đã bắt giữ 101 nghi phạm người Tây ban nha, Colombia và Dominica sau
cuộc điều tra kéo dài suốt 2 năm qua. Họ còn thu được 542kg cocaine và 9,5
triệu Euro tiền mặt liên quan đến hoạt động buôn bán ma tuý.
Bộ trưởng Bộ Nội vụ Tây Ban Nha Angel Aceber khẳng định: "Đây là
chiến dịch điều tra tội phạm lớn nhất ở Tây Ban Nha và chắc chắn cũng là
một trong những chiến dịch quan trọng nhất từng được tiến hành ở Châu Âu”.
Theo ông Acebes, các nhà điều tra đã phát hiện việc các nghi phạm đã
tiến hành “rửa” tổng cộng 237,5 triệu EURO thu đợc từ hoạt động buôn bán
ma tuý. Thủ đoạn của chúng là mua đô la Mỹ từ cơ quan hối đoái Tây Ban
Nha, với sự tiếp tay của các nhân viên ở đây (những kẻ tòng phạm này cũng
bị bắt).
Chiến dịch triệt phá mạng lới rửa tiền nói trên đợc bắt đầu từ năm 2001.
Những nghi phạm đã bị bắt trong hàng loạt các vụ đột kích suốt 20 tháng qua.
Sự kiện này diễn ra trong bối cảnh Madrit đang phát động truy quét tội phạm
trên diện rộng.
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
57
Như vậy, “rửa tiền” là hoạt động quốc tế và rất khó kiểm soát ngay cả
khi đã có đạo luật chống rửa tiền. Một minh chứng rõ ràng là đạo luật chống
rửa tiền của Philipines được ra đời từ năm 2001, nhưng cho tới nay, cũng
giống như Nga, Nauru, Ukraine và Grenada, Philipines vẫn bị nhóm hoạt
động tài chính về rửa tiền - GAFI – coi là “điểm hẹn” của bọn tội phạm rửa
tiền. FATF ước tính, bình quân mỗi năm lượng tiền bẩn được rửa thông qua
hệ thống ngân hàng Châu Á - Thái Bình Dương vào khoảng 200 tỷ USD, tổng
lượng tiền bẩn được rửa hàng năm trên toàn thế giới vào khoảng 1000 tỷ
USD. FATF cho rằng hoạt động rửa tiền vẫn diễn ra tại nhiều nước là do các
nước này chưa thực hiện nghiêm ngặt các biện pháp kiểm soát tình trạng này
II. RỬA TIỀN – CHỐNG RỬA TIỀN Ở VIỆT NAM.
1. Khái quát chung “Rửa tiền” là hình thức phạm tội mang tính chất quốc tế. Nó sẵn sàng
thâm nhập vào các quốc gia và gây tổn hại đến quốc gia, đặc biệt là những
quốc gia mà việc kiểm soát hoạt động này còn cha chặt chẽ, trong đó có Việt
nam.
Ở nước ta “rửa tiền” cũng tồn tại dưới nhiều hình thức nhưng chủ yếu
là qua hoạt động kinh doanh và qua hệ thống ngân hàng. Phần lớn các đồng
tiền phi pháp qua hệ thống ngân hàng đều trở thành tiền sạch. Vì thế mà ngời
ta gọi hệ thống ngân hàng là cỗ máy rửa tiền (money – laundering machine)
cho bọn tội phạm. Rửa tiền là hình thức tội phạm có tổ chức và gây nhiều tác
hại lớn cho nền kinh tế vì nó tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tội
phạm, đặc biệt là buôn lậu, bành trướng hoạt động. Các nước sẽ phải chịu
những khoản tổn thất khổng lồ vì các tội phạm đó. Như trên đã nói, rửa tiền
còn làm suy yếu và ảnh hưởng đến thanh danh của hệ thống tài chính ngân
hàng.
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
58
Trong một vụ án tham nhũng xét xử năm 1999 ở Việt nam, các cơ quan
pháp luật đã phát hiện hai nhân vật trọng tâm của vụ án có tài khoản ở nước
ngoài. Mới đây, Ngân hàng đầu tư và phát triển đã nhận được e-mail từ
Nigeria yêu cầu ngân hàng mở tài khoản để nhận 28 triệu USD, bù lại sẽ nhận
được 15% của số tiền này. Trong vụ án ngân hàng Cổ phần Nông thôn Thanh
Hoá, khi bị phanh phui thì các cơ quan chức năng đã phát hiện có tới 20 tờ séc
– mỗi tờ trị giá một triệu USD của các ngân hàng nước ngoài gửi vào tài
khoản của ngân hàng này và giả thiết được đưa ra là ngân hàng này đã cho
bọn tội phạm quốc tế mượn tư cách pháp nhân để rửa tiền.
Tổ chức cảnh sát quốc tế Interpol trong một cảnh báo mới đây với
Chính phủ Việt nam, đã cho rằng, Việt nam đang trở thành một trong những
đích nhắm của bọn tội phạm quốc tế trong việc hình thành những đường dây
rửa tiền xuyên quốc gia. Báo chí và các cơ quan chức năng đã từng lên tiếng
cảnh báo các doanh nghiệp Việt nam về âm mưu rửa tiền của các tổ chức tội
phạm quốc tế thông qua các đề nghị cho vay. Một số doanh nghiệp Việt nam
đã nhận đợc lời chào mời của một Công ty Dầu khí ở Châu Phi về việc ký các
hợp đồng vay tiền, trong đó bỏ trống phần ghi tên đối tác nớc ngoài. Một số tổ
chức tài chính nước ngoài cũng đã đề nghị cung cấp những khoản vay lên
đến hàng trăm triệu USD với lãi suất thấp và thời hạn hàng chục năm cho các
doanh nghiệp Việt nam có sự bảo lãnh của Ngân hàng nhà nước, và đối tác
Việt nam sẽ được hưởng hoa hồng lên đến 30-40% giá trị hợp đồng. Theo
Ngân hàng Nhà nước, việc cho ra đời nghị định chống rửa tiền là cấp thiết bởi
rửa tiền là hoạt động tội phạm mang tính chất quốc tế. Nhiều nước trong khu
vực và trên thế giới như Thái Lan, Philipines, Đài Loan, Mỹ, Nhật Bản… đã
ban hành luật chống rửa tiền. Ở nước ta trong thời gian qua các cơ quan quản
lý Nhà nước và cơ quan bảo vệ pháp luật đã phát hiện được nhiều hành vi của
tổ chức, cá nhân vi phạm các quy tắc quản lý nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ và
hoạt động ngân hàng.
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
59
Một quan chức khác của Ngân hàng Nhà nước cho rằng, hoạt động rửa
tiền mang tính quốc tế, vì thế, đặc biệt sau vụ nước Mỹ bị tấn công ngày 11/9,
hầu hết các nước đều đề cao việc chống rửa tiền. Việc cần thiết phải sớm có
các quy định về chống rửa tiền trở nên cấp bách hơn. Đây cũng là một trong
những yêu cầu cần thiết để hệ thống ngân hàng Việt nam sớm hội nhập với
quốc tế.
Tuy nhiên, hiện nay Việt Nam vẫn đợc xem là “nền kinh tế tiền mặt”,
vì thế tác động của các quy định về chống rửa tiền sẽ chưa được thực sự lớn
như những nước khác. Về lâu dài, việc chống rửa tiền sẽ phải quy định thành
luật riêng.
2. Thực trạng cụ thể Thực tế, người ta cũng không xác định được chính xác thời điểm “rửa
tiền” xuất hiện ở Việt nam. Nhưng gần đây, đã xuất hiện nhiều ý kiến về “rửa
tiền” ở Việt nam.
Có thể nhiều hoạt động liên quan đến rửa tiền nhưng do luật pháp nước
ta về vấn đề chống rửa tiền chưa hoàn thiện nên không kiểm soát được hoạt
động này.
Gần đây người ta cho rằng Hà Kiều Anh – cô cựu Hoa hậu Việt nam -
đã rửa tiền cho Đông Nam Associate- một công ty buôn lậu điện thoại di động
lớn nhất Việt nam. Điều này không phải không có cơ sở. Công ty Đông Nam
do Nguyễn Gia Thiều – chồng Hà Kiều Anh – là công ty kinh doanh điện
thoại di động trốn thuế.
Dư luận rất phẫn nộ trước việc “những kẻ bòn rút tiền của Nhà nước và
nhân dân để xây dựng nhà cao cửa rộng, rửa tiền bẩn đó vào kinh doanh nhà
hàng ở khắp mọi nơi. Một điều mà xã hội cũng rất quan tâm là tất cả những
lời khai báo của hoa hậu “làm kinh tế giỏi” Hà Kiều Anh. Mấy ngày đầu xảy
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
60
ra vụ việc, cô khai rằng không có ai là người thân tham gia vào công ty Đông
Nam… Vậy mà mấy hôm sau, ban chuyên án lại tìm được một công ty “con”
do mẹ cô làm giám đốc ở Hà nội. Chính cô là giám đốc công ty “con” của
Đông Nam, mà lại luôn chối tội với cơ quan điều tra rằng không hề hay biết
gì về việc làm ăn của Nguyễn Gia Thiều. Vậy hoá ra, cô là “bù nhìn” do
chồng dựng lên làm giám đốc (cô lại là người làm kinh tế giỏi, quản lý nhà
hàng này, quản lý nhà hàng nọ…)
Hơn nữa, cô còn có bất động sản mà những người mẫu đắt giá nhất
Việt nam làm ngày, làm đêm cũng không thể có số tiền như vậy. Hai nhà
hàng từ 10 nhà hàng từ Bắc chí Nam cũng không thể có lãi nhiều mà xây nổi
căn biệt thự, cũng như mở nhà hàng ở Mỹ như cô. Điều đó chứng tỏ ai đã là
người rửa tiền cho Đông Nam và tài sản kếch sù mà cô hoa hậu có ở điều tra
thì đã quá rõ hoàn toàn trái ngược với những gì cô đã khai báo với cơ quan
pháp luật.
Giá như có một quy chế kiểm soát rửa tiền chặt chẽ thì có lẽ không phải
bây giờ chúng ta mới phát hiện ra những tội phạm rửa tiền như Hà Kiều Anh
và nhiều tội phạm rửa tiền khác nữa.
Kết luận chương II. Tội phạm “rửa tiền” có mặt ở hầu hết các nước trên thế giới với hành vi
rửa tiền ngày càng tinh vi. Hiện nay các quốc gia đang có nhiều nỗ lực trong
chống rửa tiền với hệ thống luật pháp và các biện pháp kiểm soát hành vi rửa
tiền ngày càng phát huy hiệu quả. Hoa kỳ là quốc gia đạt được khá nhiều
thành tựu trong chống rửa tiền. Các quốc gia trong đó có Việt nam cần có
những vận dụng sáng tạo kinh nghiệm của Hoa Kỳ để giành thắng lợi trong
cuộc chiến chống rửa tiền.
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
62
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN CHỐNG NẠN RỬA TIỀN VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ
I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI CHỐNG “RỬA TIỀN” VÀ NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG CHỐNG “RỬA TIỀN”
1. Sự cần thiết phải chống “rửa tiền” Có thể khẳng định rằng nạn “rửa tiền “ là một vấn đề nhạy cảm và phải
trả giá rất đắt về mặt xã hội. Nếu nguy cơ rửa tiền không được phát hiện và
ngăn chặn, nó sẽ là điều kiện để những kẻ buôn bán ma tuý, những tên trùm
buôn lậu, tham nhũng và những kẻ phạm tội khác mở rộng hoạt động của
mình, đồng thời làm cho chi phí của Chính phủ phải tăng lên để chống lại
những hậu quả nghiêm trọng do việc rửa tiền gây ra. Đó là những khoản chi
phí cho việc thực hiện pháp luật hoặc tăng chi phí cho việc chăm sóc sức
khoẻ cộng đồng (điều trị những người nghiện ma tuý…) Đồng thời còn tác
động tiêu cực đến mọi mặt của nền kinh tế, xã hội đó và nạn tham nhũng ở
mọi bộ phận của xã hội có thể xảy ra, nó gặm nhấm nền kinh tế của đất nước
và sự thịnh vượng cuả toàn xã hội.
Ngày nay nạn “rửa tiền “ không còn bó hẹp trong một quốc gia hay
một cộng đồng nào đó mà nó đã lan rộng ra khắp thế giới. Hoạt động của bọn
tội phạm ngày càng được mở rộng và vươn ra công nghệ ngày càng cao,
thông qua các hình thức tội phạm xuyên quốc gia có tổ chức. Chính vì vậy
mà chống rửa tiền là việc hết sức cần thiết. Mỗi quốc gia phải chủ động tạo ra
các biện pháp kiểm soát nạn rửa tiền cũng như két hợp cùng các tổ chức quốc
tế để loại trừ hiện tượng này.
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
63
Tại Việt Nam, hiện tượng cũng đã xuất hiện và ngày càng có nguy cơ
gia tăng. Tác hại của nó đang từng bước đe doạ nền kinh tế xã hội. Do đó,
cùng với thế giới, Việt Nam cần thiết phải chống rửa tiền .
2. Định hướng chống “rửa tiền” Theo ông Steven L.Peterson, giám đốc điều hành chương trình chống
tội phạm- Cục phòng chống ma tuý quốc tế và công tác chống tội phạm- Bộ
ngoại giao Hoa Kỳ thì: “Một đất nước muốn chống nạn rửa tiền cần phải có
một cơ sở hạ tầng về luật, tài chính và cơ quan thực thi pháp luật”. Ông nói
thêm rằng hợp tác giữa khu vực tư nhân và nhà nước trong một quốc gia và
quốc gia này vơí một quốc gia khác là những yếu tố hết sức quan trọng. Một
yếu tố hết sức cần thiết khác đó là việc đào tạo, huấn luyện cho tất cả các cơ
quan, tổ chức tham gia trong mặt trận đấu tranh chống nạn rửa tiền
Đấu tranh chống lại bọn rửa tiền không chỉ làm giảm đi những vụ tội
phạm về tài chính mà nó còn giúp loại trừ bớt nạn khủng bố và những loại
hình tội phạm khác có thể dẫn đến những tội phạm cực kỳ nghiêm trọng. Để
chống lại nạn rửa tiền một cách có hiệu quả một quốc gia cần phải có những
điều kiện sau:
- Thứ nhất, các quan chức chính phủ cần phải đảm bảo rằng họ có
một hệ thống luật, tài chính cần thiết và cơ sở pháp lý thực thi để chống lại
nạn rửa tiền.“40 khuyến nghị” của lực lượng tài chính đặc nhiệm(FATA),
một tiêu chuẩn được quốc tế công nhận trong vấn đề này đã chỉ ra cách thức
mà các nước cần phải làm để tự vệ không bị nạn rửa tiền lạm dụng. Các nước
cần phải đảm bảo rằng các cơ quan chế tài pháp luật, các cơ quan ra quy định
và hệ thống pháp luật của đất nước mình phải thường xuyên liên hệ, chia sẻ
thông tin và phối hợp cùng nhau.
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
64
- Thứ hai, cần phải có sự tham gia của các lãnh đạo trong khu vực
kinh doanh tư nhân, đặc biệt là trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, để cùng hỗ
trợ các sáng kiến của Chính phủ chống lại các tội phạm tài chính và nạn rửa
tiền .
- Thứ ba, các nước cần tham gia tích cực vào các diễn đàn quốc tế
và khu vực để không ngừng nâng cao hiểu biết của mình và củng cố hợp tác
với các nước đối tác khác để chống lại nạn rửa tiền.
- Thứ tư, thông qua các thoả thuận hợp tác, các nước cần chia sẻ
kịp thời các thông tin quan trọng liên quan đến nạn rửa tiền và các tội phạm
tài chính, có như vậy các nước mới không trở thành đồng minh của bọn rửa
tiền.
Đây là những định hướng cơ bản để cuộc đấu tranh chống rửa tiền có
hiệu quả. Để thực hiện thành công cuộc đấu tranh chống nạn “rửa tiền”, các
quốc gia cần phối hợp đồng bộ các biện pháp trong một quốc gia cũng như
phối hợp cùng hành động với các tổ chức quốc tế.
II MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỐNG RỬA TIỀN Với mong muốn kiểm soát được nạn rửa tiền, dưới đây xin đưa ra một
số giải pháp tổng quát. Các quốc gia tuỳ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh cụ
thể của mình mà áp dụng cho phù hợp, hiệu quả.
1. Các biện pháp kĩ thuật và đào tạo Các chương trình hỗ trợ kĩ thuật và đào tạo một cách chính quy là rất
quan trọng đối với việc xây dựng những chế định để có thể tiếp cận thường
xuyên đối với các vấn đề của nạn rửa tiền. Như vậy, các nước cuối cùng sẽ có
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
65
thể cải thiện khả năng của mình chống lại nạn rửa tiền và họ có thể trở thành
các đối tác hiệu quả trong nỗ lực chống lại nạn rửa tiền trên toàn cầu.
Cục phòng chống ma tuý và thực thi pháp luật (INL) của Bộ ngoại giao
Mỹ đang hoàn thiện các chương trình hỗ trợ chống nạn rửa tiền. INL tham
gia và hỗ trợ các cơ quan chống rửa tiền và đưa ra những đề xuất chính sách
liên quan đến các hoạt động rửa tiền quốc tế.
Bộ ngoại giao đã vừa xây dựng một giải pháp để hỗ trợ các cơ quan
liên quan thiết lập những mạng lưới phòng chống rửa tiền để bảo vệ các nền
kinh tế và các chính phủ không bị các tội phạm hành chính làm lũng loạn và
ngăn chặn nạn rửa tiền trên quy mô quốc tế. Giải pháp này gồm các công tác
đào tạo, hỗ trợ kỹ thuật và những đánh giá về các trường hợp rửa tiền cụ thể
hay đưa ra những thiếu sót để đạt được các mục tiêu thực hiện cụ thể, xây
dựng thể chế phù hợp.
Ví dụ với giải pháp này là các nhà hoạch định chính sách và các cơ
quan thực hiện có thể xác định rằng tại một nước còn tồn tại những hạn chế
vì nước đó chưa có cơ quan tình báo tài chính (FIU) để có thể thực hiện chức
năng đầu mối quan trọng & chương trình chống nạn rửa tiền của quốc gia.
Các FIU có khả năng trao đổi nhanh chóng các thông tin (giữa các tổ chức tài
chính và các cơ quan thực thi pháp luật như công tố hay cơ quan có thẩm
quyền khác), khi bảo vệ lợi ích của các cá nhân vô tội liên quan đến những số
liệu đó.
Ngyên nhân về việc thiếu FIU ở các nước cũng khác nhau nên chương
trình này được xây dựng để đáp ứng nhu cầu của mỗi nước.Ví dụ, nếu vấn đề
ở đây là thiếu các quy định Bộ Ngoại giao có thể giúp tài trợ cho một chuyên
gia hoạch định lấy từ hệ thống dự trữ quốc gia Mỹ để nước này dự thảo
những quy định hoặc các phương hướng dẫn thích hợp và sau đó tổ chức một
loạt các khoá đào tạo để những chuyên gia, các cán bộ cấp dưới và những
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
66
nhân viên khác có thể học cách làm như thế nào để thực hiện những quy định
này có hiệu quả. Nếu là vấn đề về phần cứng hoặc phân tích, Bộ Ngoại giao
có thể tài trợ cho các chuyên gia từ FIU của Hoa Kỳ đến giúp đỡ nước này,
sau đây được gọi là FINCEN.
Trong năm 2000, Bộ ngoại giao đã thành lập nhiều trung tâm điều tiết
Ngân hàng và thực thi pháp luật nhằm tổ chức các khoá đào tạo và hỗ trợ về
kỹ thuật về các giải pháp ứng phó với nạn rửa tiền và các cuộc điều tra tài
chính giữa các đối tác trên toàn cầu. Những khoá đào tạo này giúp cho những
nhà điều tra tài chính , các nhà hoạch định trong ngân hàng và các bên có truy
tố có những công cụ cần thiết để phát hiện điều tra và khởi tố những vụ rửa
tiền, những tội phạm tài chính và những hoạt động liên quan đến tội phạm
khác. Những khoá học này đã được tổ chức tại Mỹ và một số khu vực liên
quan mà chương trình đang tập trung vào.
INL đã tài trợ 60 chương trình trong năm 2000 để chống lại tội phạm
tài chính và rửa tiền, triển khai bộ phận tình báo tài chính. Ngoài ra INL cũng
giúp nhiều cơ quan liên bang thực hiện đào tạo phục vụ công tác chống tội
phạm tài chính và các cơ quan về tội phạm tài chính cơ quan và xây dựng các
khoá đào tạo chuyên sâu tại một số tổ chức để chống lại nạn rửa tiền .
1.1. Đào tạo các đối tác. Các cơ quan sau cung cấp các khoá đào tạo chống rửa tiền và các khoá
hỗ trợ kỹ thuật thông qua INL:
a. Mạng lưới chế tài đối với tội phạm tài chính (FINCEN):
FINCEN là cơ quan tình báo Tài chính Hoa Kỳ do Bộ tài chính quản lý, hỗ
trợ kỹ thuật và tổ chức các khoá đào tạo cho các quan chức chính phủ nước
ngoài, các nhà hoạch định tài chính, các quan chức thực thi pháp luật, và các
ngân hàng. Các khoá đào tạo này bao trùm rất nhiều chủ đề các loại hình rửa
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
67
tiền, tổ chức và vận hành cơ quan tình báo tài chính, thành lập hệ thống toàn
diện về phòng chống nạn rửa tiền, hoạt động và cấu trúc mạng vi tính, các hệ
thống phòng chống nạn rửa tiền của từng nước và các quy định. FINCEN
cũng phối hợp chặt chẽ với Egmont Group gồm 50 cơ quan tình báo tài chính
để giúp các nước thành lập các bộ phận tình báo tài chính của riêng mình.
Ngoài ra, nhiều nước cũng đã được FINCEN giúp đỡ như Argentina,
Armenia, Bahanias, Đức, Hy lạp, Hồng Kông, Ấn Độ, Indonesia, Đảo Man,
Jamaica, Tersey, Kazakhsitan, Lebano, Italia, Liechtenstein, Nauru, Nigeria,
Hà Lan, Lalan, Paragoay, Nga, Seycheele, Nam Phi, Thuỵ Sỹ, St. Vincen
Grenadines, Đài Loan, Tanzania, Thái Lan, Tonga, Vương quốc Anh,
FINCEN cũng thực hiện trao đổi các bộ với các cơ quan tình báo tài chính
của Hàn Quốc và Bỉ.
b. Cơ quan quản lý doanh thu nội bộ (IRS) : cơ quan quản lý doanh
thu nội bộ thuộc Bộ tài chính Mỹ, tập trung hoạt động đào tạo của mình vào
kỹ năng điều tra liên quan đến tội phạm tài chính và rửa tiền. Mục đích của
những khoá đào tạo này là giúp chính phủ các nước thiết lập và hoàn thiện
các luật lệ chống rửa tiền, các hình thức tội pham thuế và tịch thu tài sản.
Ngoài ra IRS giúp điều tra những trường hợp vi phạm những luật này và
khuyến khích mạng lưới chống rửa tiền tuân theo các tiêu chuẩn quốc tế.
c. Cơ quan bảo mật: bộ phận bảo mật thuộc Bộ Tài chính Mỹ tham
gia vào các công tác đào tạo các quan chức chính phủ và các quan chức thực
thi pháp luật về các gian lận tài chính, điều tra các vụ tiền giả và những tội
phạm khác liên quan đến thương mại điện tử.
Trong năm 2000, Bộ phận bảo mật đã hỗ trợ cho các chương trình của
INL thông qua việc đào tạo cho các tổ chức tài chính và thực thi pháp luật tại
Trung Quốc, Nigeria, Bulgari và Lithuana. Ngoài ra bộ phận này cũng có
những bài giảng tại các học viện của Hungari và Thái Lan và tổ chức các lớp
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
68
học đặc biệt tại Bulgari, Colombia, Hy Lạp, Italia, Mêxicô, và Rumani và tại
hội thảo của Interpol tổ chức tại Lyon, Pháp.
d. Cục hải quan Liên bang (VSCS): Cục Hải Quan, phòng điều tra,
bộ phận điêù tra tài chính thuộc Bộ Tài chính đã giúp hỗ trợ các chuyên gia
về điều tra các vụ rửa tiền theo cách truyền thống và rửa tiền lén lút, họ sẽ là
những người phổ biến những kinh nghiệm của mình cho các nhân viên ngân
hang, quan chức hoạch định và thực thi pháp luật có tên trong các chương
trình INL.
Là người chủ trì hoặc đồng chủ trì với các cơ quan liên bang khác,
trong năm 2000, VSCS đã tổ chức nhiều hội thảo về phòng chống tội phạm
tài chính và rửa tiền ở trong cũng như ở ngoài nước với số nhân viên được
đào tạo lên đến 725 người từ 16 quốc gia trên thế giới.
e. Cơ quan hỗ trợ kỹ thuật (OTA): Cơ quan hỗ trợ kỹ thuật thuộc
Bộ Tài chính hỗ trợ cho các quan chức cao cấp của nhiều bộ và các ngân
hàng trung ương trong lĩnh vực cải cách thuế, quản lý và phát hành nợ chính
phủ, định hướng và quản lý ngân sách, cải cách tổ chức tài chính, cải cách
các cơ quan thực thi pháp luật liên quan đến rửa tiền và các tội phạm tài
chính khác. OTA phối hợp với các nhân viên của sứ quán và khách hàng của
nước sở tại để thực hiện những dự án dài hạn, thiết kế nhằm mục đích thúc
đẩy những thay đổi có tổ chức hệ thống và áp dụng các cơ cấu tổ chức mới.
Trong năm 2000, một số dự án đã được thực hiện ở một số nước như
Armenia (hỗ trợ kỹ thuật để xử lý tội phạm tài chính, tội phạm có tổ chức, tội
phạm đánh bạc và những gian lận không bảo hiểm); tại Salvador (soạn thảo
và thực hiện luật chống lại nạn rửa tiền, giúp đỡ thiết kế, xây dựng và tuyển
cán bộ cho cơ quan tài chính của ElSahador); tại Georgia (hợp tác với cơ
quan tài chính của quốc tế Mỹ, Bộ tư pháp , uỷ ban hối đoái và chứng khoán
Mỹ, thực hiện báo cáo về các quan chức của cơ quan chứng khoán quốc gia);
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
69
tại Indonesia (xây dựng các chương trình đào tạo để nâng cao khả năng kiểm
toán cho các cán bộ của các phòng thuộc cơ quan cơ cấu, thuộc ngân hàng
Indonessia và cung cấp các kiến thức liên quan đến các vụ điều tra về rửa tiền
và thu hồi tài sản) tại Moldova (hỗ trợ kỹ thuật cho những người soạn thảo
phần về tội phạm tài chính và kinh tế của bộ luật tố tụng hình sự hiện đang
được quốc hội xem xét, hỗ trợ cho bộ tài chính hình thành cơ quan phụ trách
trốn thuế và nhóm công tác về gian lận trong ngân hàng, đào tạo pháp lý và
hỗ trợ chống lại gian lận tín dụng, gian lận giấy tờ và xây dựng các nghành
nghiên cứu pháp lý cho chính phủ). Các cơ quan tư vấn của cơ quan thực thi
pháp luật cũng giúp Peru và Malaysia để soạn thảo và thảo luận cơ sở pháp lý
chống lại nạn rửa tiền .
f. Cơ quan đào tạo khởi tố nước ngoài (OPDAT): đây chính là nơi
đào tạo các nhân viên thực thi pháp luật, các thẩm phán, các uỷ viên công tố.
Trong năm 2000, OPDAT đã tài trợ cho 13 hội thảo trên thé giới liên quan
đến vấn đề thu hồi tài sản và rửa tiền. Khoảng 800 học viên đã được dào tạo
về rửa tiền xuyên quốc gia, thu hồi tài sản quốc tế và phân chia tài sản.
Ngoài ra bộ phận chống rửa tiền và thu hồi tài sản của Bộ tư pháp đã tổ
chức một hội thảo khu vực về rửa tiền và thu hồi tài sản tại Buenos Aires với
sự tham gia của 200 uỷ viên công tố và các nhân viên thực thi pháp luật từ
Argentina, Paraguay và Bolivia.
g. Cơ quan phòng chống ma tuý (DEA) phòng đào tạo của cơ quan,
bộ đào tạo quốc tế nằm trong một phần của chương trình tịch thu tài sản của
Bộ Tư pháp đã tổ chức nhiều hội thảo về rửa tiền và tịch thu tài sản quốc tế.
Những hội thảo này đưa ra những so sánh phân tích luật của Mỹ
với những nước khác và xây dựng mối quan hệ và thiết lập mạng lưới thông
tin giữa các quan chức nhân viên thực thi pháp luật liên quan đến ma tuý và
các công bố về vấn đề rửa tiền trong đó có các khoá học đặc biệt dành cho
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
70
các nhà quản lý ngân hàng trung ương nước ngoài, cảnh sát hải quan và các
công tố viên.
Trong năm 2000, một số hội thảo đã đươc tổ chức Hungari, Panama,
Peru, Singapo, Nam Phi, Tây ban Nha và các khoá đào tạo khu vực về chống
nạn rửa tiền đã được thực hiện ở Brazil.
h. Cục điều tra liên bang (FBI): Bộ phận phụ trách về vấn đề rửa
tiền của Cục điều tra Liên bang thuộc Bộ tư pháp đã đào tạo nhiều nhân viên
thực thi pháp luật quốc tế để điều tra các hình thức rửa tiền. Các khoá đào tạo
này tập trung chú ý tới các mánh khoé mà bọn rửa tiền thường sử dụng để
che dấu và nguỵ trang nguồn gốc của số tiền bất hơp pháp và cung cấp các
biện pháp thực thi pháp luật với khả năng truy lùng dấu vết nguồn gốc và chủ
sở hữu của những số tiền đó. FBI cũng cung cấp các chuyên gia đào tạo nâng
cao về những kỹ năng, công nghệ hiện đại và truyền thống. Ví dụ như Ngân
hàng Internet, thẻ tín dụng thông minh và thẻ điện tử.
- Trong năm 2000, FBI đã hỗ trợ nhiều khoá đào tạo chống tội
phạm tài chính và rửa tiền tại Moldova, Pakistan, Panama, Nga, Phần Lan,
Slovakia, Ukraina và Việt Nam. Ngoài ra FBI cũng đã tổ chức có nhiều khoá
đào tạo và hội thảo chuyên đề về rửa tiền tại học viện FBI của Quantico,
Virginia và trụ sở của FBI tại Washington D.C.
- Hội đồng quản trị của hệ thống dự trữ liên bang nhân viên của
cục dự trữ liên bang, Ngân hàng Trung ương Mỹ cũng đã tổ chức các khoá
đào tạo và cung cấp thông tin về các thủ tục và mánh khoé rửa tiền cho các
nhân viên thực thi pháp luật nước ngoài, các chuyên gia tư vấn của ngân hàng
trung ương cho hàng chục nước mỗi năm bao gồm Angentina, Brazil, Canbe,
Czech, Ecuador, Phần Lan, Nga và các nước nam Thái Bình Dương, Vương
quốc Ả rập thống nhất và Uraguay.
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
71
1.2. Các sáng tạo hỗ trợ đa phương : - Nằm trong chương trình chống rửa tiền, INL nhận ra nhu cầu dài
hạn về các chương trình đào tạo trong khu vực, ví dụ, INL cùng với liên minh
châu Âu và vương quốc Anh đã tài trợ cho chương trình chống rửa tiền của
các nước vùng Caribe (CALP ) nhằm mục đích làm giảm các vụ rửa tiền có
thể dẫn đến các tội phạm hình sự nghiêm trọng bằng cách ngăn chặn, điều tra
và khởi tố kịp thời các vụ rửa tiền. CALP cũng đang cố gắng phát triển
nhừng gì có thể được về mặt tổ chức tại các nước Caribe để giải quyết các
vấn đề liên quan đến chống rửa tiền tại các nước, khu vực và trên thế giới.
- INL cũng tham gia và hỗ trợ tài chính cho nhiều cơ quan, tổ chức
chống rửa tiền trên toàn thế giới. Trong năm 2000 đã trợ giúp cho nhóm
chống rửa tiền châu Á- Thái Bình Dương (ABG), lực lượng tài chính đặc
nhiệm vùng Caribe, lực lượng tài chính đặc nhiệm và hội đồng châu Âu
(COE) ; APG và COE cũng được hỗ trợ để thực hiện nhiều trình đào tạo đa
phương cho các thành viên.
- Tiếp theo các chương trình đào tạo của INL là các biện pháp
phối hợp liên ngành để giữa các cơ quan thực thi pháp luật đề xuất bao gồm
các học viện về thực thi pháp luật quốc tế ILEAS do INL thành lập và tài trợ
tổ chức nhiều khoá học về thực thi pháp luật cho các quan chức quản lý bậc
trung. Các khoá đào tạo này gồm các học phần giảng về tội phạm tài chính và
rửa tiền. Các hội thảo về những chủ đề này càng được tổ chức cho các quan
chức thực thi pháp luật cao cấp.
- Các sáng kiến của ILEAS được xây đựng trên cơ sở khu vực.
Học viện ILEAS đầu tiên của châu Âu được thành lập tại Budapest và tập
trung chủ yếu vào đào tạo cảnh sát và các cơ tư pháp hình sự của các nước
SNG và Trung Âu. Một học viên ILEA khác của khu vực Đông Nam Á đã
khai giảng vào tháng 3 năm 1999 tại BangKok và cho đến nay đã có hơn
1000 quan chức từ mười nước Đông Nam Á tham dự các khoá học ở đây.
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
72
Một học viên ILEA cũng đã thành lập tại Đông Hemisphere nhưng địa điểm
lâu dài cho học viện này còn đang được xem xét. Ngoài ra, học viện ILEA ở
khu vực Nam Phi tại Ganorone cũng đã khai giảng ngày 23/4/2001.
Với các biện pháp kỹ thuật đào tạo, hệ thống chống rửa tiền và tội
phạm tài chính ngày càng đạt hiệu quả cao hơn.
2. Biện pháp của ngành ngân hàng. Trong hệ thống các hình thức được sử dụng để rửa tiền bọn tội phạm
đặc biệt quan tâm tới rửa tiền qua hệ thống ngân hàng. Những vụ rửa tiền lớn
phát hiện gần đây chủ yếu có liên quan tới hệ thống ngân hàng. Vì vậy ngành
ngân hàng cần có những nỗ lực đặc biệt trong cuộc chống rửa tiền đầy khó
khăn này.
Điều có nghĩa là ngành ngân hàng phải thấy được rằng mình luôn là cái
đích mà bọn tội phạm thường xuyên nhắm để rửa tiền. Do vậy nghành ngân
hàng phải phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, cán bộ ban ngành có liên quan
để thực hiện hiệu quả cuộc đấu tranh chống rửa tiền . Đó là đào tạo đội ngũ
nhân viên có đủ trình độ nhận biết khách hàng, thiết lập, sử dụng các biện
pháp kỹ thuật đào tạo… để chống rửa tiền. Trong tất cả các công đoạn của
bọn tội phạm muốn rửa tiền qua ngân hàng thì giai đoạn để phát hiện hành vi
rửa tiền nhất là giai đoạn khách hàng khai báo thông tin để mở tài khoản. Vì
thế, ngày nay, thực hiện chính sách nhận biết khách hàng(know your
customer- KYC) đang từng bước phát triển được hiệu quả trong việc chống
rửa tiền. Ở đây xin giới thiệu về chính sách này để tiện tham khảo vận dụng.
2.1. Mục tiêu của chính sách “nhận biết khách hàng”-KYC - Làm tăng khả năng đảm bảo cho các ngân hàng tuân thủ tất cả
các điều luật và các qui định.
- Làm giảm khả năng các ngân hàng trở thành nạn nhân của những
hoạt động bất hợp pháp do khách hàng của họ thực hiện.
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
73
- Bảo vệ uy tín và danh tiếng của khách hàng.
- Không làm cản trở mối quan hệ tốt đẹp giữa ngân hàng và các
khách hàng tốt của họ.
2.2. Nội dung của chính sách “nhận biết khách hàng” Chính sách “nhận biết khách hàng” phải được áp dụng với tất cả mọi
khách hàng giao dịch trong nước và quốc tế, phải yêu cầu cung cấp các bằng
chứng chứng minh nhân thân của khách hàng như: hộ chiếu, giấy phép lái xe,
chứng minh nhân dân và bằng chứng về các quyền sở hữu lợi nhuận từ các
giao dịch thực hiện qua ngân hàng. Chính sách “nhận biết khách hàng” cũng
phải được áp dụng đối với tất cả các loại hình doanh nghiệp. Người đại diện
doanh nghiệp cũng như người thừa kế phải được luật pháp thừa nhận. Tất cả
các báo cáo của doanh nghiệp phải chính xác và cập nhật (đặc biệt là các báo
cáo về tên sở hữu doanh nghiệp) để làm căn cứ kiện cáo trong trường hợp rửa
tiền. Tất cả các thủ tục “nhận biết khách hàng” này đều được thực hiện kể từ
khi khách hàng đặt quan hệ giao dịch. Một loạt các công việc cần thực hiện
để nhận biết khách hàng:
- Nếu cá nhân mở tài khoản có địa chỉ nhà riêng và nơi làm việc
không cùng địa chỉ bàn với ngân hàng thì nhân viên ngân hàng phải tìm hiểu
tại sao khách hàng lại mở tài khoản tại ngân hàng mình.
- Sau khi khách hàng mở tài khoản, các ngân hàng phải gọi điện
đến nhà riêng (đối với cá nhân) và trụ sở công ty (đối với công ty) để cảm ơn
khách hàng về việc mở tài khoản. Thông qua đó ngân hàng sẽ mở rộng điều
tra đối với những số điện thoại không giao dịch được
- Ngân hàng cần phải hỏi nguồn gốc của một khối lượng tiền mặt
lớn dùng để mở tài khoản hoặc tìm hiểu về khách hàng thông qua các ngân
hàng phục vụ trước đó.
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
74
- Ngân hàng cũng cần phải kiểm tra trực tiếp tại trụ sở công ty để
thấy rõ sự tồn tại và khả năng cung cấp dịch vụ của công ty.
- Yêu cầu khách hàng là doanh nghiệp cung cấp:
+ Báo cáo tài chính của doanh nghiệp
+ Danh sách, địa chỉ của khách hàng và người cung cấp chính của
doanh nghiệp. Thông qua danh sách này, ngân hàng sẽ kiểm tra được các
hoạt động đáng ngờ của khách hàng như tài khoản tiền gửi mâu thuẫn với
hoạt động kinh doanh, việc mua bán, thanh toán, chuyển tiền bằng điện,
chuyển vốn ra nước ngoài mâu thuẫn với hoạt động kinh doanh.
+ Miêu tả lĩnh vực hoạt động kinh doanh chính và các giao dịch quốc
tế thường xuyên.
Các ngân hàng có một hệ thống kiểm soát nội bộ để giám sát các giao
dịch nhằm xác định giao dịch đó có mâu thuẫn với sự miêu tả của khách hàng
không. Ngân hàng cũng nên có một chính sách để duy trì sự hiểu biết rộng về
các nghiệp vụ kinh doanh cuả khách hàng cũng như các giao dịch họ thực
hiện. Điều đó sẽ giúp cho ngân hàng dự đoán được chắc chắn mối quan hệ
giữa các giao dịch mà khách hàng có thể đang thực hiện, từ đó biết được
nguồn thu nhập của họ.
+ Dự tính khối lượng bán hàng bằng tiền mặt nhằm kiểm tra gián tiếp
nguồn gốc tiền mặt nộp vào tài khoản.
2.3. Nguyên tắc cơ bản của Chính sách “nhận biết khách hàng” - Thiết lập chức năng kiểm soát nội bộ tính tuân thủ với những
nhiệm vụ:
+ Kiểm tra giao dịch, đánh giá sự tuân thủ chính sách và các thủ tục.
+ Kiểm tra những nhân viên đang làm việc để đánh giá sự hiểu biết về
pháp luật và chính sách, thủ tục của ngân hàng.
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
75
+ Xem xét những chính sách đã được ban hành và những chương trình
đào tạo để tiến hành đề nghị chỉnh sửa cho phù hợp hơn
+ Báo cáo tất cả những điều phát hiện được cho người quản lý cấp cao.
- Phân định rõ trách nhiệm giữa điều hành hàng ngày với chức
năng kiểm soát nội bộ
- Đảm bảo đội ngũ nhân viên được đào tạo phù hợp đầy đủ tất cả
các khía cạnh của những chính sách và thủ tục nội bộ. Một chương trình đào
tạo phù hợp bao gồm:
+ Tất cả các nhân viên nghiệp vụ, nhân viên kiểm toán nội bộ, nhân
viên giao dịch với khách hàng đều phải được đào tạo cơ bản về nghiệp vụ
ngân hàng, kể cả những phương pháp và kế hoạch rửa tiền thông thường.
+ Thường xuyên bồi dưỡng để nhân viên được cung cấp thông tin cập
nhật và hiện hành nhất
- Người quản lý cấp cao phải tiến hành các qui định, qui trình phù hợp
được ban giám đốc phê chuẩn và thi hành đầy đủ. Đồng thời người quản lý
cấp cao phải được cung cấp thông tin về tình hình thực hiện kế hoạch, các
báo cáo kiểm toán và báo cáo đề xuất về bất kỳ sự không tuân thủ nào.
- Việc vận dụng chính sách “nhận biết khách hàng” kết hợp với các
biện pháp khác với sự phối hợp đồng bộ của các cơ quan hữu quan chắc chắn
sẽ mang lại nhiều thắng lợi trong cuộc chiến chống rửa tiền.
3. Hợp tác quốc tế chống “rửa tiền” Rửa tiền cho tới thời điểm hiện nay đã mang tính chất quốc tế. Vì thế
để chống rửa tiền cần có sự hợp tác của các quốc gia – hợp tác quốc tế.
Tổ chức hàng đầu hoạt động mang tính chất quốc tế trong lĩnh vực
chống rửa tiền là FATF: lực lượng tài chính đặc nhiệm chống rửa tiền .
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
76
FATF đã đưa ra các chuẩn mực cho phong trào chống rửa tiền quốc tế
là “40 khuyến nghị” và “những điều phụ lục” bao gồm hệ thống tư pháp hình
sự và thực thi pháp luật, hệ thống tài chính và sự điều tiết hệ thống đó, và hợp
tác quốc tế để chống “rửa tiền” (Nội dung sơ lược của các khuyến nghị đã đề
cập ở trên). Những khuyến nghị này đưa ra những nguyên tắc hành động và
cho phép các nước áp dụng chúng một cách linh hoạt tuỳ theo thực trạng và
luật pháp từng nước).
Thêm vào đó, nhằm thúc đẩy việc thực hiện các chuẩn mực quốc tế về
chống rửa tiền trên toàn thế giới FATF đã xúc tiến thành lập các nhóm hành
động khu vực. Những nhóm này có địa vị quan sát viên đối với FATF. Chức
năng của thành viên khu vực này cũng như các thành viên của FATF. Ví dụ
như nhóm khu vực đánh giá lẫn nhau giữa các thành viên và theo dõi xu
hướng rửa tiền trong khu vực.
Những nỗ lực phát triển những nhóm khu vực của FATF ở Châu Phi
và Nam Mỹ đã dẫn đến việc thành lập nhóm chống rửa tiền Đông và Nam
Phi. Lực lượng đặc nhiệm về hoạt động tài chính và chống rửa tiền ở Nam
Mỹ. Những tổ chức khu vực khác theo dạng FATF là nhóm chống rửa tiền ở
Châu Á - Thái Bình Dương, lực lượng đặc nhiệm về hoạt động tài chính ở
vùng biển Caribean, và Uỷ ban hội đồng Châu âu PC – R- EV.
Sự hợp tác chặt chẽ với các tổ chức quốc tế còn có nghĩa là FATF đã
dựng lên mạng lưới chống rửa tiền toàn cầu. Nhiều tổ chức tham gia vào
cuộc chiến chống rửa tiền với tư cách như quan sát viên của FATF như ngân
hàng phát triển Châu Á, Ngân hàng tái đầu tư và phát triển Châu âu (EBRD),
Ngân hàng phát triển liên Hoa Kỳ (IADB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), nhóm
thanh tra ngân hàng hải ngoại (OGBS), Văn phòng liên hợp quốc về kiểm
soát ma tuý và ngăn ngừa tội phạm (ONO DCCP). Nhiều tổ chức quốc tế đã
hình thành các chương trình chống rửa tiền quan trọng.
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
77
III. NHỮNG KIẾN NGHỊ VỚI VIỆT NAM
Hậu quả nạn rửa tiền là vô cùng nghiêm trọng, vì thế điều tất yếu là
phải chống nạn rửa tiền. Nhưng làm sao để cuộc chiến chống nạn rửa tiền
thành công, trên đây đã đề ra một số giải pháp mang tính chất tổng quát mà
vận dụng nó cần phải có điều kiện và thời gian lâu dài. Trước mắt, để giành
thắng lợi trong cuộc chiến chống “rửa tiền”, xin đưa ra một số kiến nghị ở
Việt nam.
1. Đối với ngân hàng Nhà nước Việt nam: Cần nghiên cứu, bổ sung để
sớm trình Chính phủ – nghị định về chống rửa tiền, để chúng ta có một văn
bản pháp quy chuyên ngành trong lĩnh vực tiền tệ.
2. Đối với Chính phủ Việt nam: cần xem xét, phê duyệt sớm nghị định
về chống rửa tiền - Đồng thời chỉ đạo phối hợp các ban ngành, cơ quan, tổ
chức trong nước và nước ngoài trong việc chống rửa tiền.
3. Đối với các cá nhân: khi thấy mọi người hay ai đó có liên quan hoặc
có biểu hiện của hành vi rửa tiền cần báo ngay cho cơ quan có thẩm quyền để
sớm có biện pháp kịp thời.
Kết luận chương III. Trong chương chủ yếu đưa ra các biện pháp truyền thống để chống rửa
tiền. Bên cạnh đó có đưa ra một số kiến nghị về chống rửa tiền ở Việt nam.
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
78
KẾT LUẬN CHUNG
Rửa tiền là hành vi tội phạm mang tính chất quốc tế và hậu quả của nạn
rửa tiền là không lường hết được nếu nó không được kiểm soát chặt chẽ.
Phân tích thực trạng và xu hướng rửa tiền của bọn tội phạm tại các
nước khác nhau, chúng ta thấy được bản chất cực kỳ nguy hiểm của hoạt
động này. Nó lôi kéo hầu hết các thành phần kinh tế quan trọng của đất nước
tham gia vào quy trình rửa tiền: các cơ quan trung ương, các doanh nghiệp
nhà nước... và nhất là nó lợi dụng hoạt động của các ngân hàng-một thành
phần được coi là mạch máu của nền kinh tế quốc gia... Đối với nền kinh tế
toàn cầu, nó làm suy yếu mối quan hệ kinh tế quốc tế, phá hoại uy tín của
nhiều tổ chức tài chính, ngân hàng; nó cản trở trào lưu hội nhập của các thị
trường tài chính, làm phá hỏng mối quan hệ liên ngân hàng toàn cầu.
Nguy hiểm hơn là nạn rửa tiền làm tha hoá nhiều quan chức chính phủ,
các doanh nhân cũng như nhiều thành phần dân cư khác. Tất cả đều vì lợi
nhuận, vì bị đồng tiền dụ dỗ mà đã vô tình hay hữu ý tiếp tay, phục vụ cho
bọn tội phạm, bọn tham nhũng. Như vậy, hậu quả xã hội của nạn rửa tiền
cũng nghiêm trọng không kém hậu quả kinh tế mà nó gây ra.
Nhận thức được mức độ nguy hiểm của hoạt động rửa tiền, cộng đồng
thế giới đã nhanh chóng vào cuộc. Nhiều tổ chức chống rửa tiền quốc tế đã
được thành lập như Lực lượng đặc nhiệm tài chính (FAFT) đã được thành lập
tại Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Phi.
Không thờ ơ với các hoạt động quốc tế, Việt nam của chúng ta cũng đã
tích cực hoạch định các chương trình phòng và chống rửa tiền. Như đã phân
tích ở trên, với một hệ thống ngân hàng hoạt động còn manh mún, một thị
trường tài chính còn non trẻ, Việt nam đang và sẽ trở thành đích ngắm của
bọn rửa tiền. Đã có một vài hiện tượng nghi ngờ là rửa tiền tại Việt nam. Nếu
không có một khung pháp lý chặt chẽ về vấn đề này, và nếu như không trang
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
79
bị một kiến thức đầy đủ cho các cán bộ ngân hàng trong việc phát hiện và xử
lý các hành vi nghi ngờ về rửa tiền thì chẳng bao lâu nữa hoạt động này sẽ
nhanh chóng xâm nhập và hoành hành ở nước ta.
Tuy nhiên, như chúng ta đã biết, Chính phủ Việt nam và hệ thống ngân
hàng đã nhanh chóng hoạch định các chương trình cụ thể chống rửa tiền. Tại
Ngân hàng Ngoại thương Việt nam- một ngân hàng có nhiều giao dịch quốc
tế nhất, đã xây dựng một quy trình “nhận biết khách hàng” (KYC) cụ thể để
thực hiện tại các bộ phận tín dụng, quan hệ đại lý, chuyển tiền...Cuối năm
2002, theo khuyến cáo của Cục điều tra liên bang Mỹ, cũng như thực hiện chỉ
đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt nam, Ngân hàng Ngoại thương Việt nam
đã yêu cầu toàn bộ các chi nhánh trong hệ thống kiểm tra, báo cáo và phong
toả các tài khoản (nếu có) có liên quan đến mạng lưới khủng bố Al Queda.
Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt nam – cơ quan quản lý cao nhất về
ngân hàng, hiện tại đang hoàn chỉnh nội dung dự thảo Nghị định về chống
rửa tiền để trình lên Chính phủ phê duyệt. Dự kiến Nghị định này sẽ được ban
hành vào cuối năm 2003.
Ngoài việc hoàn thiện các văn bản pháp lý về rửa tiền, Việt nam cũng
luôn luôn hướng tới hội nhập và tìm kiếm sự hỗ trợ của các tổ chức chống rửa
tiền trên thế giới trong cuộc chiến đấu đầy cam go với một loại hình tội phạm
mới có tên là “tội phạm rửa tiền” này.
Hy vọng với sự nỗ lực hợp tác của các quốc gia cũng như việc nâng cao
tầm nhận thức của mọi người dân về nạn rửa tiền, công cuộc chống rửa tiền sễ
ngày một đạt nhiều thắng lợi, và các đồng tiền “bẩn” thu từ ma tuý, buôn lậu,
tham nhũng, khủng bố... sẽ không còn khả năng được “làm sạch” một cách
phi pháp nữa.
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
80
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Anti – Money Laundering – Seminar – Hanoi, 30 may 2002
Presentedby: David Hsu- Vice president – Regional Compliance
Officer- Citibank
2. Kinh tế – Tài chính tiền tệ thế giới – Ngân hàng Nhà nước số 3/2003
3. Tạp chí Điện tử của Bộ Ngoại giao Hoa kỳ, triển vọng kinh tế 5/2001
4. Những người đàn ông của Tổng thống
5. Sự cần thiết phải ban hành nghị định chống rửa tiền ở Việt nam –
Thạc sĩ Nguyễn Thị Phụng – Tạp chí Ngân hàng số 7/2002
6. Chống nạn rửa tiền qua ngân hàng tư nhân – Hoàng Liên Sơn - Đầu
tư chứng khoán số 157, 9/12/02.
7. Chính sách nhận biết khách hàng, một chính sách chống rửa tiền hiệu
quả ở Mỹ – Minh Nghĩa – Tạp chí Ngân hàng số 11/02.
8. Thái Lan với việc chống rửa tiền – Nguyễn Thị Tam. Tạp chí Ngân
hàng số 12/2001
9. Mỹ chống khủng bố trong lĩnh vực tiền tệ – Hương Giang (Theo tạp
chí Trung Quốc)
10. Quan hệ giữa rửa tiền và sự an toàn của hệ thống Ngân hàng Tài
chính – Minh Nghĩa NHNN – Thị trường tài chính tiền tệ số ẵ
11. Ba “Thiên đường rửa tiền” có thể bị trừng phạt.
Lan Anh – theo BBC, 26/0/01
12. Thời báo Ngân hàng các số năm 2000, 2001, 2002, 2003.
13. Thời báo kinh tế Việt nam 2001, 2002, 2003
Khoá luận tốt nghiệp – Khoa KTĐN- Đại học Ngoại thương Hà nội
Nguyễn Thị Thu Trang- Lớp A2-CN9
81
14. Phân tích tài chính doanh nghiệp …2001, 2002, 2003
15. Tạp chí Ngân hàng …2001, 2002, 2003
16. Thị trường tài chính tiền tệ 2001, 2002, 2003
17. Nhiều vụ rửa tiền được thực hiện tại Hồng Kông Gia thành (Theo
báo chí nước ngoài)
Đầu tư chứng khoán số 155, 25/11/02
18. Ngăn chặn hoạt động rửa tiền (Philipines có hoàn tất việc bổ sung
một số điều vào luật chống rửa tiền.
Đầu tư chứng khoán số 67, 17/2/03