logistics.gov.vnlogistics.gov.vn/upload/bc logistics hoa ky nam 2019.docx · web viewtheo cơ quan...

33
BỘ CÔNG THƯƠNG TRUNG TÂM THÔNG TIN CÔNG NGHIỆP VÀ THƯƠNG MẠI BÁO CÁO TÌNH HÌNH THỊ TRƯỜNG LOGISTICS HOA KỲ Số tháng 12/2019 THUỘC NHIỆM VỤ “Xây dựng Hệ thống cung cấp, kết nối thông tin, dữ liệu logistics giai đoạn 2017-2020”

Upload: others

Post on 07-Feb-2020

2 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

BỘ CÔNG THƯƠNG

TRUNG TÂM THÔNG TIN CÔNG NGHIỆP VÀ THƯƠNG MẠI

BÁO CÁO

TÌNH HÌNH THỊ TRƯỜNG LOGISTICS HOA KỲ

Số tháng 12/2019

THUỘC NHIỆM VỤ

“Xây dựng Hệ thống cung cấp, kết nối thông tin, dữ liệu logistics giai đoạn 2017-2020”

Hà Nội, 2019

MỤC LỤC

1. Tình hình và xu hướng chung:..................................................................3

1.1. Thị trường logistics nói chung..............................................................3

1.2. Một số vấn đề kinh tế thương mại tác động đến hoạt động logistics của Hoa Kỳ trong tháng.................................................................................7

2. Tình hình vận tải và cảng biển................................................................10

2.1. Tình hình chung:................................................................................10

2.2. Vận tải đường bộ:................................................................................10

2.3. Hàng hải và cảng biển........................................................................13

2.4. Vận tải đường sắt và vận tải đa phương thức:...................................16

2.5. Vận tải hàng không.............................................................................16

3. Dịch vụ kho, bãi, bảo quản, đóng gói:.....................................................18

4. Hoạt động giao nhận, công nghệ trong logistics và thương mại điện tử:20

1

TỔNG QUAN

Tháng 12/2019 dự kiến lượng hàng được xử lý bởi các cảng của Hoa Kỳ giảm xuống còn 1,79 triệu TEUs vì thuế quan mới và yếu tố mùa vụ khiến lượng hàng nhập khẩu giảm vào dịp Tết Dương lịch hàng năm. Tính chung cả năm 2019, khối lượng hàng hóa đạt khoảng 21,9 triệu TEUs, tăng 0,8% so với kỷ lục lập được trước.

Theo cơ quan thống kê quốc gia Hoa Kỳ (BTS), trong tháng 10/2019, dịch vụ vận tải hàng hóa bằng xe tải, đường thủy, đường ống và đường hàng không tăng, trong khi vận tải đường sắt và đa phương thức sụt giảm.

Khối lượng vận chuyển hàng hóa bằng đường sắt của Hoa Kỳ duy trì xu hướng giảm trong tháng 11 và 12/2019.

Bộ Giao thông Vận tải Hoa Kỳ (DOT) lần thứ tư trì hoãn đề xuất quy tắc về thiết bị bay không người lái điều khiển từ xa (ID drone).

Hàng hóa bị trả lại đã khiến các nhà bán lẻ bị mất khoảng 50 tỷ USD lợi nhuận mỗi năm vì “reverse logistics” kém hiệu quả. Mỗi năm có hơn 10 tỷ trường hợp lô hàng phát sinh không cần thiết do ngành bán lẻ không có khả năng quản lý vấn đề về giao hàng, quan hệ với khách hàng, dẫn đến chi phí lưu kho gia tăng....

Amazon tạm dừng dịch vụ giao hàng FedEx Ground cho các khách hàng thuộc diện ưu tiên đầy đủ (Fulfill Prime customer)

.

2

NỘI DUNG BÁO CÁO

1. Tình hình và xu hướng chung: 1.1. Thị trường logistics nói chung

Theo báo cáo phân tích thị trường của IBISworld (2019)1, ngành công nghiệp Logistics bên thứ ba (3PL) của Hoa Kỳ đã tăng trưởng đều đặn trong giai đoạn 2014-2019, phù hợp với nhu cầu chung của nền kinh tế. Các công ty trong ngành cung cấp các dịch vụ logistics thuê ngoài, bao gồm nhập kho, giao nhận, đóng gói, tư vấn, thực hiện đơn hàng, môi giới và chứng từ vận tải.

Các nhà khai thác 3PL cũng cung cấp để tích hợp và tùy chỉnh các dịch vụ của họ cho khách hàng. Khi nền kinh tế Mỹ và các yếu tố kinh tế vĩ mô toàn cầu như chi tiêu tiêu dùng, sản lượng công nghiệp và thương mại, khối lượng hàng hóa được cải thiện tăng lên và nhu cầu về dịch vụ logistics tăng lên. Đặc biệt, chuỗi cung ứng toàn cầu ngày càng phức tạp đã khuyến khích các chủ hàng thuê ngoài cho các nhà cung cấp 3PL, dẫn đến nhu cầu của ngành tăng cao.

Doanh thu thị trường logistics bên thứ 3 của Hoa Kỳ (3PL) đạt 194,2 tỷ USD vào năm 2019, tăng 2,7% so với năm 2018. Như vậy thị trường này đã đạt mức tăng trưởng trung bình là 3% trong giai đoạn 2014-2019.

Công nghệ sẽ tiếp tục định hình bối cảnh logistics vào năm 2020, khi các công ty trải nghiệm kết nối tốt hơn, truy cập dữ liệu tốt hơn và sử dụng rộng rãi hơn các phân tích và trí tuệ nhân tạo.

Các giải pháp thông minh và các giải pháp thay thế bền vững sẽ là điều kiện để các công ty logistics duy trì tính cạnh tranh. Xu hướng rõ nét cho thấy các công ty đang tích cực áp dụng công nghệ tiên tiến mới để cải thiện trung tâm phân phối, kho, vận chuyển và quản lý vận tải. Chỉ riêng ở Hoa Kỳ, ngành vận tải mặt đất và thị trường logistics kho là một doanh nghiệp trị giá 1,3 nghìn tỷ đô la giúp mang lại nhiều hàng hóa hơn cho thị trường. Ngành giao thông

1 https://www.ibisworld.com/industry-statistics/market-size/third-party-logistics-united-states

3

vận tải bao gồm một số ngành công nghiệp từ logistics, vận tải hàng không, đường bộ, hàng hải, hàng không và cơ sở hạ tầng giao thông.

Trong 10 năm qua, lĩnh vực vận tải logistics của Hoa Kỳ đã phải đối mặt với các thách thức sau:

Đảm bảo Hiệu quả hoạt động, dự báo chính xác nhu cầu kinh doanh, quản lý nhân lực

Logistics chiều ngược lại (reverse logistics), kiểm soát hàng tồn kho chi phí nhiên liệu, các vấn đề môi trường

Lịch giao hàng, điều kiện thời tiết khắc nghiệt Nhận dữ liệu đúng như hàng hóa đang trong lộ trình, quản lý kho Thực hiện đơn hàng, quản lý hàng trả lại, quản lý vận chuyển,

phân phối

Để giải quyết các vấn đề trên, ngành logistics của Hoa Kỳ đang phải nỗ lực áp dụng công nghệ mới. Các xu hướng công nghệ tạo ảnh hưởng đến vận tải và logistics của Hoa Kỳ trong năm 2020 có thể kể đến:

1. Blockchain

Đây là công nghệ mới nổi nhưng đang trở nên phổ biến hơn tại Hoa Kỳ, được thiết kế đặc biệt để chuyển đổi hoạt động kinh doanh, ghi lại các giao dịch theo dõi tài sản và tạo ra một hệ thống minh bạch và hiệu quả để quản lý tất cả các tài liệu liên quan đến quy trình logistics.

Công nghệ này với công cụ hỗ trợ có nguồn gốc từ một nhánh toán học gọi là mật mã giúp theo dõi lịch sử hiệu suất của các nhà mạng và các nhà cung cấp khác. Logistsics thông minh giúp cả chủ hàng và nhà cung cấp dịch vụ logistics tiết kiệm thời gian và tiền bạc rất lớn, nhất là trong bối cảnh những biến động về thương mại có thể làm phát sinh nhiều chi phí khác trong quá trình giao thương. Blockchain giúp tăng cường bảo mật trong chuỗi cung ứng, bao gồm giảm gian lận, tắc nghẽn và lỗi, đảm bảo chứng nhận của bên thứ ba và tăng hiệu quả của hoạt động logistics.

4

2. Internet vạn vật (IoT)

Internet của vạn vật là một hệ sinh thái bao gồm các thiết bị thông minh hỗ trợ web với bộ xử lý, cảm biến và phần cứng giao tiếp. Tại Hoa Kỳ, với hệ thống internet phát triển hàng đầu trên thế giới và sự chuẩn hóa về dữ liệu trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế, dữ liệu được thu thập và các cảm biến thông minh, ô tô và xe tải có thể cảnh báo các phương tiện về những nguy cơ tiềm ẩn phía trước.

Xe tải được tích hợp các công cụ hỗ trợ IoT với dữ liệu lái xe, lập bản đồ và video theo thời gian thực. Các phương tiện thông minh sẽ có thể nhìn thấy những khúc cua và góc khuất ở khoảng cách xa, xác định người đi bộ, người đi xe đạp và bất kỳ mối nguy hiểm nào khác trên đường

IoT sẽ cách mạng hóa giao thông vận tải và giảm đáng kể 80% sự cố và mang lại khả năng hiển thị trên các mạng sản xuất toàn cầu.

Trình điều khiển sử dụng loT có thể giám sát hiệu suất nhiên liệu, phanh, tốc độ và sẽ hiển thị an toàn cho người lái xe và với các nhà quản lý vận chuyển hàng rào và logistics có thể xem nếu các gói hàng hoặc lô hàng bị lệch.

Đầu tư từ các công ty lớn như AT & T, Alcatel-Lucent, IBM, Verizon, Cisco Systems và General Electric đã thúc đẩy công nghệ này vào vận tải.

Hệ sinh thái giúp mang lại trí thông minh cho các công ty từ xa trong thời gian thực và tối ưu hóa việc sử dụng tài sản thông qua các mô hình vận chuyển và chia sẻ backhaul. Có thể theo dõi tập trung các dòng chảy như tháp điều khiển và các mô hình hợp tác mới.

Internet of Things dự kiến sẽ biến đổi ngành vận tải Hoa Kỳ bằng cách thu thập dữ liệu và thông tin quan trọng từ các xu hướng kinh doanh và công nghệ liên quan đến phân tích dữ liệu và tự động hóa di động. Giao tiếp được cải thiện và hiểu rõ hơn về phân phối dữ liệu với tàu hỏa, xe tải, tàu và máy bay.

3. Trí tuệ nhân tạo (AI)

5

AI giúp tăng sự an toàn của hành khách, giúp giảm tắc nghẽn giao thông và tai nạn, giảm lượng khí thải carbon và cũng giảm thiểu chi phí tài chính chung, cụ thể như sau:

quản lý giao thông xác định địa điểm du lịch nguy hiểm thiết kế hoặc đánh giá tính toàn vẹn cấu trúc lập kế hoạch hoạt động xây dựng lập kế hoạch bảo trì

Các loại AI được sử dụng trong Giao thông vận tải gồm có:

Các hệ thống dựa trên tri thức (KBS), là các công cụ suy luận dựa trên quy tắc như hệ thống chuyên gia, hệ thống lý luận dựa trên trường hợp hoặc dựa trên tác nhân.

Mạng lưới thần kinh (NN), hoặc hệ thống các nơ-ron nhân tạo với các phương pháp học tập như truyền ngược.

Các thuật toán di truyền (GA) hoặc các phương pháp ngẫu nhiên kết hợp và thử nghiệm các giải pháp để xác định giải pháp tốt nhất trong một số thế hệ thử.

Các phương pháp dựa trên tác nhân (ABM), một cách mới để mô hình hóa các hệ thống phức tạp với các bộ phận tương tác có vẻ phù hợp với các phương tiện giao thông khá tốt.

4. Dữ liệu lớn

Dữ liệu lớn giúp tránh sự gián đoạn trong hệ thống giao thông và bảo trì thiết bị sử dụng tối ưu hóa từ bảo trì hệ thống dự đoán. Dữ liệu lớn đang cách mạng hóa nhiều lĩnh vực kinh doanh và logistics.

6

Logistics dữ liệu lớn có thể được sử dụng để tối ưu hóa định tuyến, hợp lý hóa các chức năng của nhà máy và mang lại sự minh bạch cho toàn bộ chuỗi cung ứng, vì lợi ích của cả các công ty logistics.

Các công ty logistics có mức độ tin cậy cao hơn khi sử dụng dữ liệu lớn và việc phân phối hàng hóa và dịch vụ có dữ liệu quan trọng giúp phân tích thời gian thực, quy trình được cải thiện và minh bạch hơn.

1.2. Một số vấn đề kinh tế thương mại tác động đến hoạt động logistics của Hoa Kỳ trong tháng

Hoa Kỳ và Trung Quốc đã áp thuế nhập khẩu đối với hàng hóa của một cách có hệ thống kể từ tháng 3 năm 2018. Trong những tháng tiếp theo, cả hai nước cũng đã tìm kiếm một thỏa thuận thương mại để giảm bớt áp lực căng thẳng giữa hai bên.

Vào ngày 13 tháng 12 năm 2019, hai nước đã hoàn thành giai đoạn 1 của một thỏa thuận triển vọng lớn hơn. Mức thuế hiện tại vẫn được áp dụng trong thời gian ngắn tới, trong khi các mức thuế trừng phạt tiếp theo trước đây dự kiến bắt đầu vào ngày 15 tháng 12 năm 2019 lại được hủy bỏ.

Tranh chấp thuế quan giữa Hoa Kỳ và Canada và Mexico không nặng nề như với Trung Quốc và những vấn đề đó có thể sẽ được giải quyết khi Thỏa thuận Hoa Kỳ-Mexico-Canada (USMCA) được tất cả các bên phê chuẩn để thay thế Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ, hoặc NAFTA, đã được áp dụng từ năm 1994.

Ngoài ra, cuộc bầu cử lại và mở rộng đa số của Đảng Bảo thủ ở Anh có thể thúc đẩy Brexit thực sự diễn ra vào năm 2020 và mở ra một lựa chọn cho Hoa Kỳ để thực hiện một thỏa thuận thương mại song phương độc lập với Anh trong các cuộc đàm phán với Liên minh Châu Âu .

Khi các cuộc chiến tranh thương mại, đàm phán và thỏa thuận thương mại khác nhau diễn ra, thuế quan được áp dụng, giống như thuế bán hàng, cho một tập hợp con hạn chế của dòng chảy thương mại. Thuế được áp dụng đối

7

với các mặt hàng hữu hình như nguyên liệu thô, các bộ phận sản xuất, lắp ráp phụ và hàng hóa thành phẩm. Nhưng cũng những loại luồng thương mại khác cũng ảnh hưởng trực tiếp đến cán cân thương mại. Ví dụ, thương mại dịch vụ (tức là các mặt hàng vô hình); chuyển thu nhập (về mặt kỹ thuật, lợi nhuận kiếm được từ tài sản thuộc sở hữu nước ngoài); và tiền dưới dạng quà tặng (được gọi là chuyển khoản không được đáp ứng). Tính di động xuyên biên giới của người lao động, nguồn dữ liệu và kết nối vốn tài chính (ví dụ: cổ phiếu và trái phiếu) cũng là dòng chảy thương mại. Ngay cả dịch vụ vận chuyển xuyên biên giới cũng là một dòng chảy thương mại. Khi phân tích tác động địa chính trị của thương mại quốc tế, dịch vụ vận tải là một phần quan trọng của quá trình.

Kinh doanh các mặt hàng hữu hình không phải là một hoạt động khép kín. Khi người mua và người bán cách nhau một khoảng cách đáng kể, giao dịch của họ phải được tạo điều kiện thuận lợi bằng việc vận chuyển. Nếu các hãng vận tải cho thuê được sử dụng, thì thương mại xuyên biên giới của mặt hàng hữu hình bao gồm thương mại vận tải xuyên biên giới. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là làm thế nào để phân loại vận chuyển cho thuê xuyên biên giới?

Khi xem xét một chiếc xe tải đi từ Canada đến Hoa Kỳ với một lượng hàng hóa, dòng di chuyển vào vào Hoa Kỳ sẽ bao gồm hàng hóa nhập khẩu, một chiếc xe tải Canada và cả tài xế. Tất nhiên, nếu xe tải và tài xế được cư trú tại Hoa Kỳ và chỉ đơn thuần đi vào Canada để lấy hàng thì không có luồng giao dịch bổ sung nào trên đầu nhập khẩu hàng hóa như ở Hoa Kỳ. Đối với Canada, đó sẽ là một vấn đề khác. Canada tạm thời thừa nhận nhập cảnh xe tải và tài xế Hoa Kỳ vào nền kinh tế của mình để tạo điều kiện cho một hoạt động xuất khẩu liên quan đến vận tải hàng hóa của Canada. Do đó, phát sinh chứng từ (tài liệu) thương mại đơn giản liên quan đến xe tải và người lái xe.

Nhưng một câu hỏi khác là: ai đã sắp xếp cho dịch vụ vận chuyển (tức là, ai là người gửi hàng hóa và một bên tham gia vận đơn)? Đó có phải là người bán hàng hóa ở Canada (tức là nhà xuất khẩu trên hồ sơ) hay đó là người mua ở Hoa Kỳ (tức là, nhà nhập khẩu trên hồ sơ)? Điều này có thể phức tạp hơn nếu

8

một trong hai bên này thuê một công ty giao nhận vận tải và nếu cần nhiều hơn một hãng vận tải cho thuê để hoàn thành việc giao hàng. Điều quan trọng là xác định được ai trả tiền cho việc vận chuyển hoặc các phân đoạn vận chuyển, bởi vì nếu tiền đi qua biên giới thì đó là một phần của thương mại quốc tế. Nếu người bán hàng hóa ở Canada thuê hãng vận tải cho thuê của Hoa Kỳ, thì hãng này thực chất đã nhập dịch vụ của Hoa Kỳ tạo điều kiện cho hàng xuất khẩu của Canada. Như vậy, một dịch vụ của Hoa Kỳ đã được xuất khẩu để tạo điều kiện cho việc nhập khẩu của Hoa Kỳ.

Điều này có nghĩa là, khi xem xét lợi ích của một quốc gia trong thương mại song phương hoặc đa phương, cần tính đến cả những dịch vụ đi kèm, không thể chỉ đơn thuần dựa trên cán cân thương mại hàng hóa và điều tiết nó bằng thuế quan.

Bây giờ hãy xem xét một hàng nhập khẩu từ Trung Quốc và vận tải liên quan. Ví dụ, hãng vận tải (ví dụ: tàu biển hoặc vận tải hàng không) là của Trung Quốc hay Hoa Kỳ hay một bên thứ 3? Ai là người trả tiền cho dịch vụ vận tải: Là người gửi hàng từ Trung Quốc hay người mua hàng ở Hoa Kỳ? Việc trả lời được các câu hỏi này sẽ xác định được Hoa Kỳ đang nhập hoặc xuất một dịch vụ để tạo điều kiện cho việc nhập hàng hóa hữu hình. Cán cân thương mại tổng thể được tạo thành từ cả hàng hóa hữu hình và dịch vụ.

Thuế quan do Hoa Kỳ áp đặt đối với Trung Quốc áp dụng cho hơn một nửa số hàng nhập khẩu hữu hình được vận chuyển từ Trung Quốc. Các dịch vụ không phải chịu thuế mặc dù chúng có thể phải chịu các hàng rào phi thuế quan (NTBs). Khi đồng nhân dân tệ mất giá so với đồng đô la Mỹ, có ý kiến cho rằng đó là do lực lượng thị trường hoặc thao túng tiền tệ, là Trung Quốc trợ cấp không công bằng cho một ngành công nghiệp nếu nó thực sự là một nhánh của chính phủ? Người ta hy vọng rằng Trung Quốc, kể từ khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2001, có thể đã trở nên tập trung vào thị trường tự do hơn vào thương mại.

Giao thông vận tải là con dao hai lưỡi trong thương mại quốc tế. Nó là cần thiết để tạo thuận lợi cho thương mại nhưng nếu chi phí vận tải quá cao đối

9

với người gửi hàng và / hoặc người nhận hàngthì giao dịch sẽ không diễn ra. Thuế quan chỉ là một trong những công cụ điều tiết thương mại giữa các quốc gia.

2. Tình hình vận tải và cảng biển2.1. Tình hình chung:

Theo số liệu được công bố mới nhất (ngày 11/12/2019) của Cơ quan thống kê quốc gia Hoa Kỳ (Bureau of Statistics- BTS), chỉ số dịch vụ vận tải (Freight Transporation service Index-TSI) của nước này đã đạt 138,6 trong tháng 10/2019, mức cao nhất đạt được trong tháng 10 của 3 năm trở lại đây, đồng thời cũng tăng 2 điểm so với mức đã đạt được trong tháng 9/2019. Như vậy, so với mức đáy của khủng hoảng kinh tế (tháng 4/2009), đến tháng 10/2019 chỉ số TSI của Hoa Kỳ đã tăng tới 46%.

Bảng 1: Chỉ số vận tải theo tháng của Hoa Kỳ (năm gốc 2000=0)

ThángNăm 2016

Năm 2017

Năm 2018

Năm 2019

1 121.7 123.5 130.4 137.42 121.2 124.3 132.9 136.33 120 124.3 134.5 136.94 122.1 124.7 134.6 138.35 121.5 124.9 135.4 138.36 122.2 125.3 136.2 137.97 125 127.6 135.1 138.88 122.8 128 135.1 140.19 121.7 127.6 136.8 136.610 122.4 129.1 137.9 138.611 123 131.2 13912 123.7 132.2 136

Nguồn: Cơ quan Thống kê quốc gia Hoa Kỳ

Theo BTS, trong tháng 10/2019, dịch vụ vận tải hàng hóa bằng xe tải, đường thủy, đường ống và đường hàng không tăng, trong khi vận tải đường sắt và đa phương thức sụt giảm.

2.2.Vận tải đường bộ:

10

Theo Cục Thống kê Giao thông Vận tải Hoa Kỳ (BTS), xe tải tiếp tục vận chuyển phần lớn hàng hóa xuất nhập khẩu xuyên biên giới giữa Hoa Kỳ với Canada và Mexico trong tháng 10/2019.

Vận chuyển hàng hóa bằng xe tải xuyên biên giới giữa Hoa Kỳ, Canada và Mexico đạt tổng cộng 68,2 tỷ USD, chiếm 64% tổng số cước vận chuyển hàng hóa xuyên biên giới trong tháng 10/2019, giảm 3,3% so với tháng 10/2018.

Vận chuyển bằng xe tải đảm nhận 72% toàn bộ hàng hóa xuyên biên giới Hoa Kỳ-Mexico, trị giá 38,2 tỷ USD vào tháng 10/2019, so với 39,4 tỷ USD trong cùng kỳ năm 2018, giảm gần 3%.

Đây là lần thứ hai trong 12 tháng khối lượng hàng hóa giữa Hoa Kỳ và Mexico giảm.

Vào tháng 6/2019, vận tải hàng hóa xuyên biên giới đã giảm 1% so với cùng kỳ năm 2018. Một phần sự sụt giảm về khối lượng hàng hóa có thể được quy cho thời gian chờ đợi của xe tải tại biên giới tăng vào tháng 4 và tháng 5 khi Tổng thống Mỹ Donald Trump đe dọa xiết chặt thuế quan đối với Mexico về vấn đề nhập cư.

Vận tải hàng hóa bằng xe tải giữa Hoa Kỳ và Canada đạt tổng cộng 30 tỷ đô la trong tháng 10, giảm 2,5% so với cùng kỳ năm 2018.

Vào tháng 10 năm 2019, ba trung tâm xe tải bận rộn nhất cho vận tải hàng hóa xuyên biên giới tiếp tục là Laredo (15,6 tỷ USD), Detroit (9,4 tỷ USD) và El Paso (6,1 tỷ USD), chiếm 45,6% tổng lượng hàng hóa xe tải xuyên biên giới.

Theo phân tích của WorldCity dựa trên dữ liệu mới nhất của Cục điều tra dân số Hoa Kỳ, Mexico là đối tác thương mại hàng đầu của Hoa Kỳ từ đầu năm đến tháng 10/2019, với kim ngạch xuất nhập khẩu là 517,7 tỷ USD.

Ba mặt hàng vận chuyển bằng xe tải hàng đầu trong tháng 10/2019 là máy tính và phụ tùng (13,3 tỷ USD); máy móc điện (11,6 tỷ USD) và xe cơ giới và phụ tùng (10,1 tỷ USD).

11

12

Hình 1: Vận chuyển hàng hóa bằng xe tải giữa Hoa Kỳ và Mexico

2.3. Hàng hải và cảng biển2.3.1. Vận chuyển hàng hải:

Vận tải hàng hóa bằng đường biển giữa Hoa Kỳ và Mexico đạt 5,1 tỷ USD trong tháng 10/2019, so với 6,3 tỷ USD vào tháng 10/2018.

Theo số liệu của Cơ quan thống kê quốc gia Hoa Kỳ, với việc Mexico là cửa ngõ vào Hoa Kỳ cho các doanh nghiệp từ các quốc gia khác, nhiều quốc gia đã tranh thủ vận chuyển hàng hóa trước thời hạn thuế quan do Tổng thống Mỹ Donald Trump áp dụng đối với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc. Do đó, năm 2019, Mexico xuất khẩu khoảng 27 tỷ USD hàng hóa sang Hoa Kỳ, chiếm khoảng 6% tổng xuất khẩu của nước này.

Chiến tranh thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc đã gây ra thiệt hại nặng nề cho các giao dịch vận tải xuyên Thái Bình Dương trong hai năm qua. Chỉ riêng trong tháng 11/2019, xuất khẩu của Trung Quốc sang Mỹ đã giảm 23% so với cùng kỳ năm ngoái.

Theo hãng thông tin thị trường vận tải Freightos, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của Trung Quốc sang Hoa Kỳ (sau khi bóc tách các yếu tố mùa vụ) kỳ

13

vào tháng trước đã về mức thấp nhất kể từ tháng 1 năm 1996. Căng thẳng thương mại giữa hai nước đã ảnh hưởng nặng nề đến giá cước vận chuyển trong năm 2019 giữa Trung Quốc-Hoa Kỳ. Cước bờ Tây (West Coast) hiện thấp hơn 20% so với một năm trước.

Hình 2: Chỉ số cước vận tải hàng hóa Baltic của Freightos năm 2019

Nguồn: Freightos

Trang thông tin về Vận tải FreightWaves đầu năm nay đã đưa dự đoán rằng khối lượng vận chuyển từ châu Á đến Bắc Mỹ sẽ giảm lần đầu tiên trong một thập kỷ.

Theo hãng Alphaliner, thỏa thuận tạm ngừng căng thẳng thương mại giữa hai bên được đưa ra ngày 13 tháng 12 năm 2019 giữa hai quốc gia khó có thể tạo ra sức bật ngắn hạn vào năm tới.

Trung Quốc đã hủy bỏ thuế quan trả đũa đối với hàng nhập khẩu của Hoa Kỳ và dự kiến sẽ tăng mua sản phẩm và dịch vụ của Hoa Kỳ thêm khoảng 200 tỷ USD trong hai năm tới.

Tuy nhiên, hãng Alphaliner lưu ý, mức thuế 25% mà Hoa Kỳ áp đặt đối với khoảng 250 tỷ USD hàng nhập khẩu của Trung Quốc vẫn không thay đổi.

14

Do đó, thương mại xuyên Thái Bình Dương theo hướng về phía đông vẫn dự kiến sẽ ghi nhận mức giảm hàng năm đầu tiên kể từ năm 2009, với việc nhập khẩu hàng hóa đóng trong container của Hoa Kỳ từ Viễn Đông dự kiến sẽ giảm 2,4% xuống còn 15,7 triệu đơn vị tương đương hai mươi feet (TEUs) trong cả năm 2019, so với 16,1 triệu TEUs trong năm 2018.

Hãng Alphaliner ước tính rằng hàng nhập khẩu hàng hóa đóng trong container của Hoa Kỳ từ Trung Quốc đã giảm 8,2% trong 11 tháng đầu năm 2019 và tỷ trọng nhập khẩu của Trung Quốc từ Viễn Đông đã giảm từ 69% năm ngoái xuống còn 64%.

Nhập khẩu của Hoa Kỳ từ các thị trường Viễn Đông tăng 15,4%, với mức tăng trên tất cả các thị trường trừ Hồng Kông.

2.3.2. Cảng biển:

Theo báo cáo mới của Liên đoàn bán lẻ quốc gia Hoa Kỳ (NRF) và hãng Hackett Associates, khối lượng hàng hóa tại các cảng container lớn của Hoa Kỳ đã tăng mạnh trong tháng 11/2019 khi các nhà bán lẻ nhập khẩu hàng hóa trước mức thuế mới sẽ có hiệu lực trong tháng 12/2019.

Các cảng được thống kê trong báo cáo này gồm các cảng lớn của Hoa Kỳ như: Los Angeles / Long Beach, Oakland, Seattle và Tacoma ở Bờ Tây Hoa Kỳ như New York / New Jersey, Cảng Virginia, Charleston, Savannah, Cảng Everglades, Miami và Jacksonville ở Bờ Đông và Houston ở Bờ Vịnh.

Theo đó, các cảng của Hoa Kỳ được theo dõi bởi Global Port Tracker đã xử lý 1,88 triệu TEUs trong tháng 10/2019, tháng gần nhất có các số liệu thực tế. Con số này tăng 0,6% so với tháng 9/2019 nhưng giảm 7,5% so với mức kỷ lục theo tháng là 2 triệu TEUs vào tháng 10 năm 2018.

Tháng 11/2019, khối lượng hàng hóa qua các cảng đã tăng mạnh, thống kê sơ bộ đạt 1,95 triệu TEUs, tăng 8% so với cùng kỳ năm trước khi các nhà bán lẻ tăng nhập khẩu trước tháng này. Đây là mức cao nhất kể từ mức 1,97

15

triệu TEUs trong tháng 8/2019, khi các nhà bán lẻ đã làm điều tương tự trước khi thuế quan có hiệu lực vào tháng 9/2019.

Theo thống kê sơ bộ, tháng 12/2019 lượng hàng được xử lý bởi các cảng của Hoa Kỳ giảm xuống còn 1,79 triệu TEUs vì thuế quan mới và yếu tố mùa vụ khiến lượng hàng nhập khẩu giảm vào dịp Tết Dương lịch hàng năm. Như vậy cả năm 2019 ước đạt kỷ lục mới là 21,9 triệu TEUs, tăng 0,8% so với kỷ lục trước đó là 21,8 triệu TEUs.

2.4. Vận tải đường sắt và vận tải đa phương thức:

Khối lượng vận chuyển hàng hóa bằng đường sắt của Hoa Kỳ duy trì xu hướng giảm.

Khối lượng vận chuyển hàng hóa bằng đường sắt tiếp tục thấp hơn so với cùng kỳ năm 2018 trong bối cảnh những bất ổn thương mại của Hoa Kỳ, nhất là khi khối lượng đã tăng mạnh vào tháng 12 năm 2018 vì các chủ hàng tìm cách tăng các chuyến hàng trước khi Hoa Kỳ áp thuế quan của đối với một số hàng hóa từ Trung Quốc. Vào thời điểm đó, lưu lượng đường sắt tăng mạnh, đặc biệt là vận tải đa phương thức.

Theo Hiệp hội Đường sắt Hoa Kỳ (AAR), tổng khối lượng đường sắt của Hoa Kỳ tính đến nay đạt 25,8 triệu toa và các đơn vị đa phương thức cho tuần kết thúc vào ngày 14 tháng 12 năm 2019, giảm 4,8% so với cùng kỳ năm 2018,.

Trong khi đó, khối lượng vận chuyển hàng hóa bằng đường sắt khu vực Bắc Mỹ tính đến nay đạt tổng cộng 35,3 triệu toa và các đơn vị đa phương, giảm 3,8% so với cùng kỳ năm 2018. AAR hy vọng thông qua thỏa thuận thương mại cuối cùng giữa Hoa Kỳ, Mexico và Canada, được gọi là USMCA, sẽ mang lại một số sự chắc chắn cho chính sách thương mại của Hoa Kỳ, ít nhất là đối với thị trường Bắc Mỹ. AAR đã tham gia các hiệp hội đối tác của mình ở Canada và Mexico để USMCA được tận dụng có hiệu quả trong lĩnh vực đường sắt.

2.5. Vận tải hàng không

16

Bộ Giao thông Vận tải Hoa Kỳ (DOT) lần thứ tư trì hoãn đề xuất quy tắc về thiết bị bay không người lái điều khiển từ xa (ID drone).

Bộ Giao thông Vận tải Hoa Kỳ đã một lần nữa trì hoãn xuất bản quy định dự kiến được đề xuất về việc xác định và giám sát từ xa các hệ thống máy bay không người lái (UAS).

Ngày 20/12/2019 phát ngôn viên của Cơ quan Hàng không Liên bang Hoa Kỳ cho biết hiện cơ quan này đang thực hiện các thủ tục cuối cùng để chính thức xuất bản các quy định liên quan trong Sổ đăng ký liên bang và công khai quy tắc này trước cuối tháng 12/2019.

Quy định này dự kiến sẽ đưa ra các tiêu chuẩn và chính sách cho UAS hoạt động tại Hoa Kỳ. Thực hiện các hệ thống ID từ xa được coi là bước tiếp theo quan trọng trong việc tích hợp máy bay không người lái vào Hệ thống không phận quốc gia, phát triển ngành công nghiệp máy bay không người lái thương mại và sử dụng chúng trong nhiều ứng dụng, bao gồm cả hoạt động vận chuyển hàng hóa.

Giám sát ID từ xa đề cập đến khả năng của UAS, hoặc drone, trong suốt chuyến bay để cung cấp thông tin nhận dạng và các thông tin theo dõi khác cần thiết cho các bên liên quan. Quy định này ban đầu dự kiến được xuất bản vào tháng 5/2019 nhưng bị trì hoãn đến tháng 7, sau đó là tháng 9 và cuối cùng là ngày 20/12/2019.

Quy chế này sẽ cho phép FAA kiểm soát không lưu, thực thi pháp luật và các cơ quan khác xác định và phân biệt các hoạt động bay không người lái được ủy quyền với các hoạt động có thể gây ra mối đe dọa an toàn hoặc an ninh. Hiện tại, máy bay không người lái có thể được vận hành ẩn danh và rất khó theo dõi. Với ID từ xa, bộ điều khiển không lưu hoặc những người khác giám sát giao thông hàng không sẽ có thể liên lạc với máy bay không người lái, trạm điều khiển của nó hoặc cả hai, khi cần thiết.

17

Tháng 12/2019, sự xuất hiện của máy bay không người lái tại sân bay London Gatwick đã khiến sân bay bận rộn thứ hai của Hoa Kỳ này phải đóng cửa đường băng trong 33 giờ, hủy hoặc hoãn khoảng 1.000 chuyến bay.

3. Dịch vụ kho, bãi, bảo quản, đóng gói:

Nhu cầu về các kho hàng dọc tại New York và New Jersey

Sau khi trở thành cửa ngõ số 2 cho các container đường biển ở Mỹ, New York và New Jersey cần chú ý nhiều hơn đến các vấn đề trên đất liền ảnh hưởng đến vận chuyển hàng hóa, bao gồm các thiết kế kho hàng, kết nối sáng tạo hơn và những cải tiến rất cần thiết cho hạ tầng và quy trình khai thác trung tâm hàng hóa.

Trong một hội thảo trực tuyến được tài trợ bởi Hội nghị bàn tròn New York và New Jersey của Hội đồng các chuyên gia quản lý chuỗi cung ứng, Adam Lomasney, phó chủ tịch vận tải tại Tập đoàn phát triển kinh tế thành phố New York, cho biết ngành logistics tại đây có thách thức lớn nhất là phục vụ lớn nhất thị trường tiêu dùng ở khu vực đông dân nhất và là một trong những khu vực có chi phí cao nhất ở Mỹ

Các thành phố đang chú ý nhiều hơn đến việc giải quyết tắc nghẽn trong lĩnh vực kho bãi và vận chuyển cũng như những chi phí phát sinh.

Anne Strauss-Wieder, giám đốc kế hoạch vận chuyển hàng hóa tại Cơ quan hoạch định giao thông vận tải Bắc Jersey, đã báo cáo sự tăng trưởng tích cực về lượng hàng hóa đường biển đến các cảng New Jersey và New York.

Trước khi cầu Bayonne được nâng lên năm 2016, chỉ có khoảng 1% số tàu container ghé thăm khu vực này có sức chứa 10.000 TEU tương đương hai mươi feet. Nhưng việc giải phóng mặt bằng sau khi nâng cầu hiện nay đã làm tăng 30% số tàu container đến cảng New York có sức tải 10.000 TEU trở lên trong năm 2019.

18

Kho hàng dọc, với ví dụ chính của Hoa Kỳ là cơ sở do công ty logistics Prologis xây dựng ở Seattle, là mô hình cho việc lưu kho trong tương lai do hạn chế về quỹ đất tại thành phố.

Nhà ga quân đội Brooklyn, được chế tạo cho các tàu khởi hành trong Thế chiến II, là nguyên mẫu cho một nhà kho thẳng đứng có thể được phục vụ trực tiếp bằng đường sắt và tàu. Mô hình này được tái phát triển để sử dụng cho các doanh nghiệp công nghiệp và sản xuất.

Năm 2020, dự kiến sẽ có một nhà kho nhiều tầng rộng 1,3 triệu mét vuông ở Brooklyn. Bridge Partners Partners và DH Property Holdings đang phát triển khu vực kho bãi rộng 18 mẫu, cho phép xe tải có thể đưa hàng hóa lên vị trí kho trên bốn tầng.

Ngoài ra, công ty kho bãi Triangle Equities đang tìm cách phát triển một nhà kho ba tầng rộng 300.000 mét vuông để phục vụ hàng hóa hàng không đi qua Sân bay Quốc tế John F. Kennedy, thêm vào 600.000 feet vuông không gian hàng hóa hàng không tư nhân đã được bổ sung trong hai năm qua. Tập đoàn bất động sản Innovo cũng dự kiến sẽ mở một nhà kho rộng 1 triệu mét vuông trên 20 mẫu Anh tại khu vực Bronx.

Nhưng những nhà kho đó sẽ ít có giá trị nếu máy bay và xe tải không thể vận chuyển hàng hóa. New York có kế hoạch đầu tư 13 tỷ USD để hiện đại hóa sân bay JFK.

Sở Giao thông vận tải thành phố dự kiến khiến sẽ xây dựng thêm đường đi nối giữa các khu vực kho và sẽ hoàn thành năm 2026 để tối ưu hóa hoạt động vận chuyển hàng hóa giữa các trung tâm phân phối. Hai con đường cũ sẽ phải được gỡ xuống cùng một lúc để sửa tường chắn giữ cả hai hẫng, đòi hỏi phải chuyển hướng giao thông qua các khu phố lân cận, nhưng kế hoạch này bị người dân phản đối và cần đến những ý tưởng phù hợp hơn.

Các nhà hoạch định thành phố vẫn đang tìm cách giảm tải hàng hóa vận chuyển đường bộ sang vận tải đường thủy thông qua các dự án như Liên minh

19

Đường cao tốc Bắc Đại Tây Dương, một nỗ lực chung của NYCEDC và Cảng vụ New York và New Jersey để tăng số lượng chở container bằng xà lan.

Nhưng sự phát triển trong không gian lưu trữ của New Jersey, thấp hơn hơn so với New York. New Jersey có 8 triệu feet vuông không gian lưu kho đang được xây dựng, bổ sung cho 830 triệu feet vuông hiện có. Kể từ năm 2018, hơn 100 nhà kho mới đã được mở tại New Jersey.

Công ty Bridge Development Partners, cũng đang ủng hộ nhà kho Brooklyn, đang phát triển hơn một nửa không gian đó. Trong hai quý đầu năm 2020, Bridge sẽ mở 3,85 triệu feet vuông không gian kho I-78 ở biên giới với Pennsylvania. Trong nửa cuối năm 2020, tăng thêm 1,2 triệu feet vuông tại Somerset, New Jersey.

Công ty thương mại điện tử Amazon đã có 18 cơ sở tại bang này, bao gồm bốn trung tâm phân phối rộng hơn 1 triệu feet vuông.

4. Hoạt động giao nhận, công nghệ trong logistics và thương mại điện tử:

Lượng hàng hóa mua bán trực tuyến bị trả lại tại Hoa Kỳ sẽ lên tới 41,6 tỷ USD trong dịp Tết Dương lịch năm 2019, theo dự báo từ công ty dịch vụ bất động sản CBRE Services Inc. (NYSE: CBRE) và công ty công nghệ Optoro trong báo cáo được công bố vào cuối ngày 19/12/2019.

Hàng hóa bị trả lại đã khiến các nhà bán lẻ bị mất khoảng 50 tỷ USD lợi nhuận mỗi năm vì “reverse logistics” kém hiệu quả. Mỗi năm có hơn 10 tỷ trường hợp lô hàng phát sinh không cần thiết do ngành bán lẻ không có khả năng quản lý vấn đề về giao hàng, quan hệ với khách hàng, dẫn đến chi phí lưu kho gia tăng....

Vấn đề nan giải trong bán lẻ là người tiêu dùng thường không chịu trách nhiệm đối với việc trả lại hàng. Ví dụ, Amazon.com, Inc. (NASDAQ: AMZN) đang cung cấp dịch vụ vận chuyển miễn phí cho khách hàng khi họ trả lại hàng qua 18.000 điểm, bao gồm cả xe bán tải của đối tác giao hàng UPS Inc.

20

(NYSE: UPS) và giao hàng xuống (không cần túi) tại các cửa hàng bán lẻ của UPS Store.

Về phần mình, UPS ước tính rằng khối lượng hoàn trả sẽ đạt mức cao nhất vào ngày 2/1/2020 ở mức 1,9 triệu đơn hàng, tăng 28% so với mức cao nhất đã từng đạt trong kỳ nghỉ lễ tết Dương lịch 2018.

CBRE cho biết lợi nhuận trong doanh số bán hàng trực tuyến của Mỹ sẽ từ 15% đến 30% cho trong năm nay. Doanh số bán lẻ trong các kỳ nghỉ của Hoa Kỳ, theo ước tính nhà cung cấp dữ liệu Digital Commerce 360 ước tính là 138,5 tỷ đô la. Tỷ lệ lợi nhuận trung bình của hàng hóa bán tại cửa hàng là khoảng 8%.

Tỷ lệ hoàn trả trực tuyến cao hơn nhiều do một phần do các công ty bán hàng vẫn áp dụng chính sách vận chuyển miễn phí, cho phép người tiêu dùng đặt hàng nhiều phiên bản của cùng một mặt hàng và trả lại bao nhiêu tùy chọn mà không phải chịu bất kỳ hậu quả chi phí nào. Không giống như hàng hóa mua tại cửa hàng, hàng hóa được đặt hàng trực tuyến không thể được lấy mẫu trước khi mua.

Ngoài ra, trong khi các mặt hàng mua tại cửa hàng thường được trả lại nơi họ đã mua, các đơn đặt hàng trực tuyến thường không quay trở lại kho từ nơi chúng được chọn và đóng gói. Hàng hóa có thể được trả lại bất cứ nơi nào trong hệ thống bán lẻ. Một sản phẩm có thể được đặt lại trong một cửa hàng, bán cho những người giảm giá, quyên góp cho từ thiện hoặc đơn giản là vứt đi. Trong mọi trường hợp, khấu hao sản phẩm đóng một vai trò trong chiến lược của nhà bán lẻ. Đồ điện tử có giá trị cao mất giá nhanh hơn nhiều so với mặc quần áo.

Năng lực trung tâm phân phối có sẵn cũng là một vấn đề. Theo dữ liệu của CBRE, việc xử lý các cơ sở trả lại cần nhiều không gian hơn 15% đến 20% so với trung tâm phân phối truyền thống vì khối lượng, kích thước và điểm đến cuối cùng của hàng trả lại không nhất quán và đa dạng. Nhiều trung tâm xử lý cả logistics chuyển tiếp và ngược lại.

21

Amazon tạm dừng dịch vụ giao hàng FedEx Ground cho các khách hàng thuộc diện ưu tiên đầy đủ (Fulfill Prime customer)

Bắt đầu từ ngày 18 tháng 12 năm 2019, Amazon.com. Inc. (NASDAQ: AMZN) không cho phép các công ty sử dụng trang web của mình để bán sản phẩm nhưng tự xử lý việc sử dụng một đơn vị FedEx Corp để giao hàng, với lý do đơn vị FedEx không có khả năng đạt được các mục tiêu hiệu suất của Amazon.

FedEx Ground và đơn vị phụ FedEx Home Delivery của họ đã gặp sự cố khi đáp ứng các mục tiêu đúng hạn của Amazon trên dịch vụ SFP. Một khách hàng của SFP cho biết công ty của ông đã ngừng sử dụng FedEx Ground và FedEx Home Delivery hơn một năm trước do vấn đề dịch vụ. Theo chương trình SFP, thương nhân có thể chọn đối tác giao hàng và hoàn thành của họ và duy trì trạng thái bán hàng Prime họ mong muốn miễn là họ đáp ứng các hướng dẫn của Amazon về hiệu suất giao hàng. Những người giao hàng không tuân thủ các nguyên tắc có nguy cơ mất chỉ định Prime trên trang web.

FedEx và Amazon đã chấm dứt các mối quan hệ hợp đồng của họ vào đầu năm nay cho việc giao hàng trên không và trên bộ tại Hoa Kỳ. Theo một nguồn tin thân cận với FedEx, FedEx đã chấm dứt phần vận tải trên không trong mối quan hệ, trong khi Amazon kết thúc phần giao hàng mặt đất, với lý do hiệu suất giao hàng không chính xác. Amazon, công ty đang xây dựng mạng lưới vận chuyển và logistics của riêng mình, hiện đã đáp ứng được dịch vụ giao hàng cho cấp khoảng một nửa số lô hàng của mình.

22