lời nói đầu - tapchikhcn.udn.vntapchikhcn.udn.vn/ortherfile/2017_10_5_15_44_856so...
TRANSCRIPT
Lời nói đầu
----
Căn cứ vào quy hoạch báo chí đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, theo văn bản đề nghị của Bộ Giáo dục và Đào tạo, ngày 25 tháng 11 năm 2002, Bộ Văn hoá - Thông tin đã ra Quyết định số 510/GP-BVHTT, cấp giấy phép hoạt động báo chí cho Tạp chí “Khoa học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng.
Ngày 10 tháng 8 năm 2006, Cục Báo chí Bộ Văn hoá - Thông tin đã có Công văn số 816/BC đồng ý cho phép Tạp chí “Khoa học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng được tăng kỳ xuất bản từ 03 tháng/kỳ lên thành 02 tháng/kỳ.
Ngày 6 tháng 2 năm 2007, Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ đã có Công văn số 44/TTKHCN-ISSN đồng ý cấp mã chuẩn quốc tế: ISSN 1859-1531 cho Tạp chí “Khoa học và Công nghệ”, Đại học Đà Nẵng.
Ngày 5 tháng 3 năm 2008, Cục Báo chí, Bộ Thông tin và Truyền thông đã có Công văn số 210/CBC cho phép Tạp chí “Khoa học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng, ngoài ngôn ngữ được thể hiện là tiếng Việt, được bổ sung thêm ngôn ngữ thể hiện bằng tiếng Anh và tiếng Pháp.
Ngày 15 tháng 9 năm 2011, Bộ Thông tin và Truyền thông đã có Quyết định số 1487/GP-BTTTT cấp Giấy phép sửa đổi, bổ sung cho phép Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng được tăng kỳ hạn xuất bản từ 02 tháng/kỳ lên 01 tháng/kỳ và tăng số trang từ 80 trang lên 150 trang.
Ngày 07 tháng 01 năm 2016, Bộ Thông tin và Truyền thông đã có Quyết định số 07/GP-BTTTT cấp Giấy phép hoạt động báo chí in cho Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng được xuất bản 15 kỳ/01 năm (trong đó, có 03 kỳ xuất bản bằng ngôn ngữ tiếng Anh).
Tạp chí “Khoa học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng ra đời với mục đích:
Công bố, giới thiệu các công trình nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực giảng dạy và đào tạo;
Thông tin các kết quả nghiên cứu khoa học ở trong và ngoài nước nhằm phục vụ cho công tác đào tạo của nhà trường;
Tuyên truyền, phổ biến đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học, công nghệ.
Tạp chí “Khoa học và Công nghệ” Đại học Đà Nẵng ra đời là sự kế thừa và phát huy truyền thống các tập san, thông báo, thông tin, kỷ yếu Hội thảo của Đại học Đà Nẵng và các trường thành viên trong gần 40 năm qua.
Ban Biên tập rất mong sự phối hợp cộng tác của đông đảo các nhà khoa học, nhà giáo, các cán bộ nghiên cứu trong và ngoài nhà trường, trong nước và ngoài nước để Tạp chí “Khoa học và Công nghệ” của Đại học Đà Nẵng ngày càng có chất lượng tốt hơn.
BAN BIÊN TẬP
MỤC LỤC ISSN 1859-1531 - Tạp chí KHCN ĐHĐN, Số 7(116).2017
KHOA HỌC KỸ THUẬT VÀ CÔNG NGHỆ
Ứng dụng phần mềm PVsyst thiết kế hệ thống điện năng lượng mặt trời áp mái tại Premier Village DaNang Resort
Using PVsyst software to design photovoltaic rooftop system at Premier Village DaNang Resort
Lưu Ngọc An, Trần Huy 1
Khảo sát sự biến thiên áp suất buồng thang thoát hiểm của nhà cao tầng khi xảy ra cháy
Surveying the pressure variation in emergency staircases of high-rise buildings in the event of fire
Nguyễn Quang An, Nguyễn Chí Tình 6
Xây dựng thuật toán nội suy đường tròn cho bộ điều khiển CNC trên nền FPGA
Building algorithm of circular interpolation for CNC controller based on FPGA
Đỗ Văn Cần, Đoàn Đức Tùng, Đoàn Quang Vinh 11
Ứng dụng dữ liệu mây vệ tinh trong dự báo sớm ngập lụt cho hạ du lưu vực sông Gianh tỉnh Quảng Bình
Applying satellite clouds to early flood forecasting at downstream of the Gianh river basin in Quang Binh province
Nguyễn Chi Công, Nguyễn Vĩnh Long 16
Nghiên cưu thu nhận dịch đạm thuy phân từ vỏ đầu tôm bằng enzyme alcalase
Research on obtaining protein hydrolysate from shrimp head waste using alcalase enzyme
Bùi Xuân Đông, Phạm Thị Mỹ, Huỳnh Văn Anh Thi, Trần Trung Thanh Bình, Ngô Thị Ngọc Bích, Nguyên Văn Tuyên, Hà Ngọc Tuấn 21
Điều khiển đồng bộ tính mô-men cho tay máy robot song song phẳng 3 bậc tự do
Synchronous computed torque control of 3 DOF planar parallel robotic manipulators
Lê Tiến Dũng, Lê Quang Dân 27
Nghiên cứu biến tính hóa học ống nano cacbon nhằm cải thiện tính phân tán trong môi trường phân cực
Study on chemical modification of carbon nanotubes to improve their dispersion in polar environment
Phan Thị Thúy Hằng, Trần Mạnh Lục, Nguyễn Đình Lâm 32
Kết quả xây dựng mô hình thâm canh giống ngô nếp Nù 66 trên đất trồng lúa nước vụ đông xuân tại xã Sa Nghĩa, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum
Results of building the comprehensive model of sticky corn Nu 66 on rice land in Sa Nghia commune, Sa Thay district, Kon Tum province
Nguyễn Phi Hùng, Thái Thị Bích Vân 36
Khai thác dữ liệu vệ tinh Jason-2 để quan trắc mực nước hồ chứa nước Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam
Applying satellite radar altimetry Jason-2 data to monitor Phu Ninh reservoir water level
Phạm Thành Hưng, Nguyễn Chi Công 39
Nghiên cứu ảnh hưởng lượng tiến dao đến lực cắt khi tiện thép C45 dùng mảnh dao hợp kim Cacbit Vonfram trên máy CNC Emco Concept Turn 250
A study on determining the feedrate influence on cutting force on turning C45 steel using Cacbit Vonfram cutter piece on
CNC Emco Concept Turn 250
Phạm Nguyễn Quốc Huy, Lê Minh Sơn, Trần Xuân Tùy 43
Tổng hợp copolymer block trên cơ sở poly(dimethylsiloxane) bằng phương pháp trùng hợp RAFT
Synthesis of poly(dimethylsiloxnae) based block copolymers by RAFT polymerization
Dương Thế Hy 48
Nghiên cứu thiết kế, chế tạo thiết bị đo độ tròn
Designing and manufacturing roundness measuring equipment
Trần Phi Líp King, Lưu Đức Bình 52
Cải tiến thuật toán di truyền áp dụng cho bài toán tái cấu trúc lưới điện có xét đến vị trí và công suất của nguồn điện phân tán kết nối vào lưới điện phân phối
Improvement of genetic algrithm for distribution network reconfiguration problem with the position and power capacity of
distributer connector gird
Nguyễn Tùng Linh, Trương Việt Anh, Nguyễn Thanh Thuận 56
Nghiên cứu lớp thụ động ức chế ăn mòn đa kim loại Mo/Zr/Ti trên nền thép
Corrosion inhibition of steel by chromium-free conversion coating on inorganic (Mo/Zr/Ti)
Dương Thị Hồng Phấn, Nguyễn Tiến Dũng, Lê Minh Đức, Đào Hùng Cường 62
Quản lý nước thải khu công nghiệp dịch vụ thủy sản Đà Nẵng: hiện trạng và trở ngại
Wastewater management in Danang’s industrial fishing service zone: current state and obstacles
Trần Văn Quang, Phan Thị Kim Thủy, Trịnh Vũ Long, Hoàng Ngọc Ân 67
Nghiên cưu tiêm năng áp dụng sản xuất sạch hơn cho làng nghề gốm Thanh Hà, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam
Researching on the potential of cleaner production application for Thanh Ha pottery craft village, Hoi An city, Quang Nam province
Phan Như Thúc 73
Bùn thải đô thị tại thành phố Đà Nẵng: hiện trạng và khả năng xử lý bằng phương pháp phân hủy kỵ khí
Sewage sludge in Danang city: current state and treatment by anaerobic digestion
Phan Thị Kim Thủy, Dương Gia Đức, Trần Văn Quang 79
Tổng hợp graphene đa lớp trên lá đồng bằng phương pháp kết tụ hóa học trong pha hơi
Synthesis of multi-layer graphene on copper foils by chemical vapor deposition method
Trương Hữu Trì, Lê Gia Trung, Phan Thanh Sơn, Nguyễn Đinh Lâm 84
Phương pháp truyền dữ liệu giữa hai điện thoại thông minh qua môi trường ánh sáng nhìn thấy
A data transmission method between two smartphones over visible light communication channels
Hà Duyên Trung, Nguyễn Tiến Hòa, Đỗ Trọng Tuấn 88
Ảnh hưởng của tỷ lệ phối trộn ethanol trong xăng sinh học đến tính năng kinh tế kỹ thuật và ô nhiễm động cơ đánh lửa cưỡng bức ở chế độ tải trung bình
Effects of ethanol addition to biological gasoline on performance and pollution of spark ignition engines using gasohol at middle load
Nguyễn Quang Trung, Dương Việt Dũng 94
Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình đo đạc của nhiễu từ
A study on the measurement conditions of electromagnetic noise
Bùi Thị Minh Tú 98
Ứng dụng D-STATCOM để cải thiện chất lượng điện áp trên hệ thống điện phân phối 22kV: khu công nghiệp Tân Bình, Tp. Hồ Chí Minh
D-STATCOM application to improve voltage quality in 22kV power distribution system: a case study at Tan Binh
industrial park, Ho Chi Minh city
Nguyễn Hữu Vinh, Hồ Thanh Tuấn, Nguyễn Hùng, Lê Kim Hùng 102
KHOA HỌC TỰ NHIÊN
Nghiên cứu chuyển hóa sucrose thành 5-hydroxymethyl-2-furfuraldehyde bằng sự kết hợp giữa nhiệt và xúc tác HCl
Conversion of sucrose into 5-hydroxymethyl-2-furfuraldehyde by combination of heat and HCl as a catalyst
Bùi Viết Cường, Nguyễn Thị Hường, Đặng Thị Thiện, Đoàn Thị Ngọc Thúy 107
Nghiên cứu thu nhận vị trí - thời gian để định lượng phơi chiếu cá nhân đối với không khí trong nhà
Research on recording the time-location patterns for estimating the personal exposure to indoor air
Trần Xuân Hồi 112
Nghiên cứu sử dụng cá Ngựa vằn (Danio rerio Hamilton, 1822) làm sinh vật cảnh báo sớm ô nhiễm nguồn nước cho nhà máy nước cấp
A study on using Zebra fish (Danio rerio Hamilton, 1822) as early warning organism for water pollution for water supply plants
Nguyễn Văn Khánh 117
Nghiên cứu thành phần hóa học của Trà hoa vàng (Camellia quephongnensis Hakoda et Ninh) bằng khối phổ phân giải cao
A study of chemical constituents of the Camellia quephongnensis Hakoda et Ninh flowers with high resolution mass spectrometry
Nguyễn Văn Minh Khôi, Phùng Văn Trung, Hoàng Minh Hảo, Nguyễn Thị Ngọc Lan, Giang Thị Kim Liên, Ngọ Thị Phương, Trần Quốc Thành, Lê Ngọc Hùng, Lê Minh Hà 121
Nhưng kêt qua bươc đâu vê thanh phân hoa hoc cua củ nghệ vàng (Curcuma longa. L) thu hai ơ tinh champasack Lào
Primary study of chemical compounds of Curcuma longa. L from champasack Laos
Sesavanh Menvilay, Giang Thị Kim Liên, Đào Hùng Cường 126
Nghiên cứu điều chế dendritic porphyrin dựa vào phản ứng click
Synthesis of dendritic porphyrin based on click reaction
Nguyễn Trần Nguyên 130
Đa dạng họ gừng (Zingiberaceae) ở vườn quốc gia Bến En, Thanh Hóa
Diversity of plants of Zingiberaceae at Ben En national park, Thanh Hoa province
Đậu Bá Thìn, Trịnh Thị Hoa, Hoàng Văn Chính 134
Ảnh hưởng của nhiệt độ và độ mặn đến quá trình phát triển phôi cá mao ếch (Allenbatrachus grunniens Linnaeus, 1758)
Effect of temperature and salinity on embryonic development of grunting toadfish (Allenbatrachus grunniens Linnaeus, 1758)
Nguyễn Phước Triệu, Cao Văn Hùng, Nguyễn Thị Phương Thảo 138
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 1
ỨNG DỤNG PHẦN MỀM PVSYST THIẾT KẾ HỆ THỐNG ĐIỆN NĂNG LƯỢNG
MẶT TRỜI ÁP MÁI TẠI PREMIER VILLAGE DANANG RESORT
USING PVSYST SOFTWARE TO DESIGN PHOTOVOLTAIC ROOFTOP SYSTEM
AT PREMIER VILLAGE DANANG RESORT
Lưu Ngọc An1, Trần Huy2 1Trường Đại học Bách khoa - Đại học Đà Nẵng; [email protected]
2Sinh viên Lớp 12D2, Trường Đại học Bách khoa - Đại học Đà Nẵng; [email protected]
Tóm tắt - Trong bài báo này, tác giả trình bày phương pháp thiết kế tối ưu một hệ thống điện năng lượng mặt trời lắp áp mái tại khu nghỉ dưỡng Premier Village DaNang Resort bằng cách sử dụng phần mềm đã được thương mại PVsyst. Từ các số liệu như: vị trí lắp đặt, công suất phụ tải, diện tích mái, hình dạng mái, ... một hệ thống được thiết kế với các thông số tối ưu như hướng lắp đặt, giá trị, số lượng và chủng loại pin quang điện cũng như các biến tần được đưa ra. Thêm vào đó, năng lượng bức xạ, quá trình vận hành, trao đổi công suất trong một năm của hệ thống, sản lượng điện năng, tổn thất điện năng, khả năng cắt giảm phát thải khí CO2 của hệ thống được phân tích, từ đó đánh giá được hiệu quả mà hệ thống mang lại.
Abstract - In this paper, the author presents an optimal design method for a photovoltaic rooftop system installation at the Premier Village Resort DaNang Resort by using PVsyst software. From the details such as installation location, load capacity, roof area, roof shape, ... a system designed with optimal parameters such as installation direction, value of pick power, quantity and the photovoltaic modules as well as inverters are offered. In addition, the global radiation, operation, capacity exchange in one year of the system, power output, power loss, CO2 reduction potential of the system are also analyzed. Accordingly, we can evaluate the effect that the system brings.
Từ khóa - hệ thống điện năng lượng mặt trời; tấm pin quang điện; biến tần; định cỡ hệ thống; tổn thất hệ thống.
Key words - PV system; photovoltaic module; inverter; sizing the system; system losses.
1. Đặt vấn đề
Nhu cầu vê năng lương cua con ngươi trong thơi đai
khoa hoc ky thuât phat triên không ngưng tăng. Vân đê đam
bao an ninh năng lương la điêu ma môi quôc gia luôn đăt
ra cho tương lai. Ngày nay, với sự nóng lên của khí hậu
toàn cầu gây ra bởi hiệu ứng nhà kính va cac hiên tương
thơi tiêt cưc đoan khac, cùng với sản lượng của nhiên liệu
hóa thạch ngày càng giảm và co xu hương can kiêt trong
tương lai, giá thành ngày càng tăng, việc sử dụng năng
lượng thay thế, tái tạo như là một giải pháp được sử dụng
rộng rãi ở các nước trên thế giới. Do vậy, việc bô sung các
nguồn này vào lưới điện truyền thống là một vấn đề đang
được quan tâm nghiên cứu và ứng dụng. Nguôn năng lương
điên măt trơi la môt trong nhưng nguôn thay thê quan trong
đo, bơi đây la nguôn năng lương đươc coi la vô tân, không
gây ô nhiêm môi trương. Tuy nhiên, viêc thiêt kê điên măt
trơi kha phưc tap, cac thông sô giưa tinh toan thiêt kê va
trong thưc tê co hê sô sai sô lơn lam anh hương đên chât
lương va tuôi tho cua hê thông, hiêu suât chuyên đôi va
tăng chi phí đâu tư. Ly do la cương đô bưc xa măt trơi thay
đôi theo không gian va thơi gian, viêc lưa chon lăp đăt tâm
pin măt trơi phu thuôc vao goc phương vi va đô nghiêng
cua tâm pin, cac bô điêu khiên chi lam viêc đung với hiêu
suât ơ môt khoang đăc tinh ky thuât va cac thông sô tôn
thât kha nhiêu nên viêc tinh toan băng cac công cu binh
thương rât kho khăn, mât thơi gian ma lai thiêu chinh xac.
Vi vây, viêc sư dung phân mêm đê tinh toan thiêt kê la môt
giai phap nhăm giai quyêt cac vân đê đo.
Hiên nay, trên thê giơi co nhiêu phân mêm đươc sư
dung đê tinh toan, thiêt kê hê thông quang điên. Môt sô
phân mêm đươc biêt đên như PVsyst, PVsol, Home Pro,
RETScreen, INSEL. Trong đo, phân mêm PVsyst va PVsol
đươc sư dung phổ biến ơ khu vưc Châu Âu va môt sô nươc
khac trên thê giơi [1].
Trong bài bao nay, tác giả sư dung phân mêm PVsyst
phiên ban 6.43 đê thiêt kê và mô phỏng hê thông điên năng
lương măt trơi áp mái tại khu du lịch nghi dương Premier
Village DaNang Resort.
2. Ly thuyêt thiêt kê hệ thống điên năng lương măt trơi
2.1. Mô hình hệ thống điện năng lượng mặt trời
Sau khi đánh giá các mô hình, tác giả thấy rằng mô hình
hệ thống điện năng lượng mặt trời nối lưới không có dự trữ
phù hợp với đặc điểm tại địa điểm thiết kế.
Hình 1. Mô hình hệ thống điện năng lượng mặt trời nối lưới
không có dự trữ
2.2. Các bước tính toán thiết kế hệ thống điện năng lượng
mặt trời nối lưới không có dự trữ
• Bước 1: Tính điện năng của hệ thống điện mặt trời
nối lưới cần thiết Ec
Viêc tinh chon điên năng san xuât Ec trong 1 ngay trung
binh cua hê thông nôi lươi la tuy thuôc vao nhu câu cua nha
đâu tư mong muôn, diên tich giơi han đê lăp đặt hệ thống
pin va quy định đâu nôi vào lưới điện.
• Bước 2: Tính công suất của hệ thống pin quang điện
Công suất của hệ thống pin quang điện thường được
tính ra công suất đỉnh hay cực đại đạt được, đó chính là
công suất của dàn pin trong điều kiện chuẩn vơi
Eo =1000W/m2 va nhiêt đô To=25oC.
P(Wp)=Ec.1000
ηmEβ, [WP] (1)
2 Lưu Ngọc An, Trần Huy
Trong đó:
Eβ [Wh/m2] cường độ bức xạ trên mặt phẳng đặt
nghiêng một góc β so với mặt phẳng ngang, giá trị này đo
được thực tế tại điểm đặt hệ thống PV.
ηm là hiệu suất của pin ở nhiệt độ T, đươc tinh như sau:
ηm
(T)= ηm
(T0)[1+Pc(T-T0)] (2)
Vơi: T la nhiêt đô lam viêc thương xuyên cua tâm pin;
Pc la hê sô nhiêt đô cua tấm pin quang điện [2].
• Bước 3: Tính số module pin quang điện mắc song
song và nối tiếp
+ Các giá trị đặc trưng cơ bản của module:
Điện áp làm việc tối ưu: Vm
Công suất đỉnh: Pm
+ Số module cần trong hệ thống: N= P(WP)
Pm (3)
Với N=NS.NP
+ Số module mắc nối tiếp: NS= V
Vm (4)
V: điện áp yêu cầu của hệ thống pin măt trơi.
+ Số module mắc song song: NP= N
NS (5)
• Bước 4: Chon hê thông hệ thống biến tần
Đôi vơi hê thông điên năng lương măt trơi nối lưới không
co dư trư, viêc chon hê thông biên tần quang điện phai tai đu
dong công suât tư hê thông pin măt trơi. Công suất đặt của
hệ thống bằng công suất định mức của hệ thống biến tần.
3. Số liêu thiết kế hê thông điện năng lương măt trơi nôi
lươi tai khu nghi dương Premier Village DaNang Resort
3.1. Đia điêm thiêt kê
+ Đia điêm thiêt kê: khu nghi dương Premier Village
DaNang Resort;
+ Vi tri đia ly: 16,0452 đô vi Băc; 108,252 đô kinh Đông;
+ Diên tich xây dựng: 156135 m2;
+ Tổng diện tích mái nhà: 20365,89m2.
3.2. Thông sô chính phu tai [5]
+ Công suât phu tai trung binh năm: 734 kW;
+ Công suât đinh trong 1 năm:1739 kW;
+ Điên năng tiêu thu hang năm: 6427 MWh.
3.3. Thông sô chính trạm biến áp
+ Tổng công suất đặt STBA: 3000kVA;
+ Điện áp Uc/Uh: 22/0,4 kV.
3.4. Lưa chon phương an va công suât lắp đặt cua hê
thông điên măt trơi nối lưới
• Lưa chon phương an lăp đăt
Dưa vao phân tich ưu, nhươc điêm cua các mô hinh điên
măt trơi, tiêm năng năng lương măt trơi va đăc điêm kiên
truc, tac gia quyêt đinh chon phương an lăp đăt hê thông
điên măt trơi nôi lươi không dư trư vơi cac tâm pin măt trơi
đươc tich hơp áp trên mai nha.
• Lưa chon công suât lăp đăt
+ Việc lựa chọn công suất lắp đặt của hệ thống ngoài
yêu cầu mà nhà đầu tư mong muốn thì phải đảm bảo hai
điều kiện là diện tích mái nhà có thể lắp đặt tấm pin quang
điện để đạt hiệu suất hệ thống cao và quy định ràng buộc
(Điều 41, Thông tư số 39/2015/TT-BCT, tổng công suất
đặt của hệ thống điện mặt trời đấu nối vào cấp điện áp hạ
áp của trạm biến áp hạ thế không được vượt quá 30% công
suất đặt của trạm biến áp đó) [3].
+ Diên tich có thể lăp đăt tâm pin: S = 7128,06 m2.
+ Công suất đặt của hệ thống: Pđ = 900kW.
4. Cài đặt thông số trong phần mềm
4.1. Định vị và thu thập dữ liệu khí tượng
Bảng 1. Kết quả dữ liệu khí tượng sau khi định vị địa điểm trong
phần mềm PVsyst (nguồn dữ liệu Meteonorm 7.1)
Địa điểm Premier Village DaNang Resort
Giá trị Tổng xạ Tán xạ Nhiệt độ không khí
Tháng kWh/m² kWh/m² °C
Tháng 1 100,4 65,9 20,2
Tháng 2 123,0 65,7 21,6
Tháng 3 156,8 81,3 24,2
Tháng 4 173,1 83,1 26,8
Tháng 5 195,5 82,8 28,9
Tháng 6 191,0 73,2 29,9
Tháng 7 193,4 76,5 29,7
Tháng 8 186,8 82,4 28,7
Tháng 9 140,4 72,5 26,6
Tháng 10 132,9 72,0 25,3
Tháng 11 108,6 59,6 23,3
Tháng 12 90,3 56,5 21,3
Năm 1792,2 871,5 25,5
+ Việc định vị và thu thập dữ liệu rất quan trọng, giúp
định cỡ hệ thống chính xác và dự đoán sản lượng điện năng
tạo ra của hệ thống.
+ Bảng 1 chỉ mang tính đánh giá tính thực tế dữ liệu khí
tượng tại địa điểm thiết kế, ngoài ra còn có một thư mục dữ
liệu theo giờ trong 1 năm được xuất ra từ phần mềm được
sử dụng để mô phỏng kết quả.
4.2. Định hướng lắp đặt tối ưu hệ thống pin quang điện
Hệ thống pin quang điện trong thiết kế này được lắp áp
trên mái nhà với góc nghiêng mái nhà bằng 28o. Sau khi
phân tích, đánh giá các giá trị tổn thất năng lượng bức xạ
của nhiều hướng lắp đặt khác nhau tại địa điểm thiết kế
bằng phần mềm PVsyst, tác giả chọn hai hướng lắp đặt
vuông góc với nhau với góc phương vị của tấm pin là 45o
và -45o (nghiêng về Tây Nam và Đông Nam của Trái Đất).
Hướng lắp đặt của từng nhà có thể thay đổi. Nếu có sự thay
đổi nào về góc phương vị của 2 mái thì tổng lượng bức xạ
trong 1 năm của 1 mái gần hướng chính Nam sẽ tăng lên
và một mái vuông góc với mái đó sẽ giảm xuống.
Sau khi phân tích và cài đặt hướng lắp đặt tối ưu trong
phần mềm, ta có kết quả đánh giá hiệu quả năng lượng
bức xạ trong 1 năm của phương thức lắp đặt trên được thể
hiện ở Hình 2. Trong đó: hệ số chuyển đổi là 0,98 và giá
trị tổn thất năng lượng bức xạ trung bình của hai hướng
lắp đặt trên là 3,2%, giá trị năng lượng tổng xạ trung bình
trên bề mặt hệ thống pin PV trong đạt 1754 kWh/m2 trong
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 3
1 năm. Sau khi so sánh với một số nhà máy trên thế giới
thì có thể thấy dự án đang thiết kế đảm bảo được yêu cầu
về bức xạ.
Hình 2. Cài đặt định hướng lắp đặt tấm pin quang điện
Những ưu và nhược điểm của phương thức lắp đặt hệ
thống pin quang điện lắp áp mái:
+ Ưu điểm: Chi phí đầu tư thiết bị lắp đặt hệ thống pin
giảm rất lớn bởi tận dụng được mái nhà để lắp áp hệ thống
pin quang điện. Giá trị tổn thất do vết bẩn sẽ giảm, yếu tố
về độ cao của nhà và độ nghiêng của mái nhà phù hợp cho
việc tiêu tan vết bẩn.
+ Nhược điểm: Hệ số tản nhiệt tấm pin giảm. Phát sinh
thêm tổn thất hướng lắp đặt của tấm pin do không thể điều
chỉnh được hướng của tấm pin vì để đảm bảo mỹ quan của
khu nghỉ dưỡng.
4.3. Lựa chọn tấm pin quang điện
Các tiêu chuẩn kiểm tra việc lựa chọn tấm pin quang
điện: IEC 61215, IEC 61730, IEC 60364-4-41, IEC 61701,
IEC 61853-1, IEC 62804, UL1703.
Khi chọn loại pin quang điện, ngoài việc phải đảm bảo
các tiêu chuẩn kỹ thuật thì cần phải chú ý đến giá thành và
chế độ bảo hành của sản phẩm đó.
Chọn tấm pin quang điện: SW 300-Mono của hãng sản
xuất SolarWorld.
Bảng 2. Thông số chính của module SW 300-Mono
Các thông số trong điều kiện STC 1000W/m2;25oC
Công suất đỉnh Pmax 300Wp
Điện áp hở mạch Voc 40,1V
Điện áp điểm công suất cực đại Vmpp 31,6V
Dòng điện ngắn mạch Isc 10,23A
Dòng điện điểm công suất cực đại Impp 9,57A
Hiệu suất module ηm 17,89%
4.4. Lựa chọn biến tần
Các tiêu chuẩn kiểm tra biến tần: IEC 61683:1999, IEC
61721:2004, IEC 62109-1&2:2011-2012, IEC 62116:2008.
Chọn biến tần: SUNNY TRIPOWER 60 của hãng sản
xuất SMA.
Bảng 3. Thông số chính của biến tần Sunny Tripower 60
Công suất đầu vào định mức (DC) 61240W
Điện áp đầu vào cực đại 1000V
Phạm vi điện áp tại MPP 570V→ 800V
Điện áp định mức đầu vào 630
Công suất đầu ra định mức (AC) 60000W
Điện áp đầu ra (điện áp dây) 400V±10%
Tần số định mức/phạm vi 50Hz/44Hz →55Hz
Tổng độ méo sóng hài (THD) <1%
Hiệu suất lớn nhất 98,8%
Các thông số kỹ thuật liên quan đến chọn biến tần trong
hệ thống điện năng lượng mặt trời nối lưới.
4.5. Các thông số tổn thất cài đặt trong phần mềm
• Hệ số tổn thất nhiệt của pin quang điện (Thermal
Loss Factor). Với hình thức lắp trên mái nhà thì hệ số tổn
thất nhiệt U= 15 (W/m2.K) [4].
• Tổn thất điện trở dây điện của hệ thống điện mặt trời
(Ohmic Losses). Chọn dây dẫn theo tiêu chuẩn tổn thất
điện áp ΔU/U=1% (theo giá trị tham khảo từ một số nước
châu Âu) [1].
Tổn thất chất lượng module pin quang điện (Module
Quality). Giá trị này quyết định bởi uy tín của nhà sản xuất.
Cài đặt trong phần mềm giá trị tổn thất này bằng 0%.
• Tổn thất hiệu ứng ánh sáng suy giảm cảm ứng
(Light Induced Degradution).
Giá trị này thường không cung cấp bởi nhà sản xuất
nhưng theo PVsyst thì giá trị tổn thất đó nằm trong khoảng
từ 1% đến 3% hoặc nhiều hơn. Giá trị tổn thất hiệu ứng suy
giảm cảm ứng ánh sáng được chọn cài đặt là 2% theo giá
trị mặc định của PVsyst [4].
• Tổn thất không phù hợp của các pin và tấm pin
quang điện (Array Mismatch Loss). Tổn thất này phần
mềm sẽ tính toán dựa trên 1 trong 2 phương pháp là phân
phối xác suất chuẩn Gauss hoặc ô vuông đặc tính PMPP [4].
• Tổn thất vết bẩn của hệ thống pin (Soiling Loss).
Trong phần này, tác giả chọn giá trị tổn thất theo tháng với
tháng 9, 10, 11, 12, 1 giá trị tổn thất là 1%, còn các tháng
còn lại giá trị tổn thất là 0%.
• Tổn thất phản xạ điều chỉnh góc tới trên mảng pin
quang điện theo độ nghiêng lắp đặt (IAM).
Khi chùm ánh sáng truyền từ môi trường có chiết suất
n1 sang môi trường có chiết suất n2, với n1 nhỏ hơn n2 và
góc tới 0 ≤ i< 90 thì một phần của chùm ánh sáng bị phản
xạ trở lại môi trường có chiết xuất n1. Thành phần này là
không mong muốn, gây tổn thất ánh sáng truyền đến môi
trường có chiết suất n2.
Công thức xác định tổn thất phản xạ của PVsyst: [4]
FIAM= 1-bo.(1/cos i -1) (6)
Theo PVsyst hệ số bo=0,05 đối với module tinh thể.
• Tổn thất điện năng phụ (Auxiliariaries energy loss).
Đây là phần điện năng tự dùng để vận hành nhà máy, bao
gồm hoạt động giám sát, đo lường và điều khiển hệ thống,
hệ thống làm mát, chiếu sáng tự dùng.
• Tổn thất suy giảm chất lượng pin quang điện.
Vấn đề này tùy thuộc vào chế độ bảo hành của nhà sản
xuất. Theo SolarWorld, loại module mà ta đã chọn có chế
độ bảo hành là tổn thất hàng năm không quá 0,7% và bảo
hành chất lượng trong 25 năm.
4 Lưu Ngọc An, Trần Huy
4.6. Định cỡ hệ thống trong phần mềm
Kết quả sau khi định cỡ số lượng tấm pin quang điện
và biến tần thể hiện bằng Bảng 4 và Hình 3.
Hình 3. Thông số cài đặt chi tiết trong phần mềm
Bảng 4. Một số thông số chính của hệ thống
Số lượng module pin quang điện 4048
Diện tích hệ thống quang điện 6787m2
Số module nối tiếp tạo thành 1 mảng 23
Số mảng module ghép song song 176
Công suất 1 module pin quang điện 300Wp
Công suất lắp đặt hệ thống pin quang điện 1214kWp
Công suất cực đại hệ thống pin quang điện 1152kWdc
Số lượng biến tần 15
Công suất định mức 1 biến tần 60kW
Công suất định mức của hệ thống biến tần 900kWac
5. Phân tích và đánh giá kết quả mô phỏng trong phần
mềm PVsyst
5.1. Phân bố năng lượng bức xạ và điện năng hệ thống
tạo ra trong một năm
Tổng năng lượng bức xạ tới bề mặt tấm pin quang điện
diện tích trung bình 1m2 nằm trong dãy giá trị từ
0,5 kWh/m2.ngày đến 7,3 kWh/m2.ngày, nhưng điểm phân
bố dày nhất nằm ở khoảng từ 6 kWh/m2.ngày đến
7kWh/m2.ngày. Điện năng tạo ra của hệ thống đó trong một
ngày phân bố từ 500 kWh/ngày đến 6500 kWh/ngày.
Hình 4. Biểu đồ phân bố năng lượng bức xạ trong một năm
theo giá trị trong 1 ngày
Điều đó chứng tỏ vị trí mà ta đang thiết kế có có cường
độ bức xạ mặt trời và điện năng sản xuất của hệ thống cao
so với nhiều nhà máy trên thế giới [1].
5.2. Phân bố công suất đầu ra của hệ thống quang điện
và đầu ra của hệ thống biến tần trong một năm
Dãy công suất đầu ra của hệ thống điện biến tần này
rộng. Công suất đầu vào và ra của hệ thống biến tần luôn
nhỏ hơn công suất định mức của hệ thống biến tần, vì vậy
hệ thống biến tần làm việc không bị quá tải.
Hình 5. Biều đồ phân bố công suất đầu ra của hệ thống
pin quang điện và hệ thống biến tần trong một năm
5.3. Phân bố điện áp của mảng pin quang điện
Giá trị điện áp đầu ra của mảng pin quang điện nằm
trong khoảng từ 570V đến 720V, trong phạm vi điện áp đầu
vào của biến tần tại điểm công suất cực đại từ 570V đến
800V, nghĩa là biến tần luôn làm việc bắt điểm công suất
cực đại. Tuy nhiên, vùng điện áp đầu vào lớn hơn điện áp
làm việc định mức của biến tần (630V- hiệu suất 98,8%)
làm cho hiệu suất của biến tần giảm.
Hình 6. Phân bố điện áp đầu ra mảng pin quang điện
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 5
5.4. Kết quả điện năng tạo ra của hệ thống
Hình 7. Sản lượng điện năng tạo ra của hệ thống
Bảng 5. Điện năng tạo ra của hệ thống pin quang điện
cung cấp cho phụ tải và lưới, xuất ra từ phần mềm
E_hệ thống
pin PV
E_hỗ trợ
phụ tải
E_đưa lên
lưới MWh MWh MWh
Tháng 1 108,4 98,7 6,4
Tháng 2 126,5 118,3 4,6
Tháng 3 150,1 134,6 11,3
Tháng 4 154,3 149,8 0,0
Tháng 5 162,9 158,4 0,0
Tháng 6 153,2 148,9 0,0
Tháng 7 157,3 152,8 0,0
Tháng 8 161,0 156,5 0,0
Tháng 9 128,9 125,1 0,0
Tháng 10 132,7 127,3 1,5
Tháng 11 116,0 109,4 3,1
Tháng 12 99,0 87,4 8,5
Năm 1650,4 1567,2 35,4
• Tỉ số hiệu suất hệ thống: PR = 76,2%
• Hệ số hệ thống: SF =24,4%
Điện năng tạo ra của hệ thống thay đổi theo tháng, năng
lượng tổng xạ trên đường chân trời tại địa điểm thiết kế tỉ
lệ với giá trị sản lượng điện năng tạo ra. Điện năng đưa lên
lưới là nhỏ, bởi phụ tải sử dụng điện năng lớn hơn điện
năng mà hệ thống tạo ra. Trong tháng 4, 5, 6, 7, 8, 9 không
có đưa công suất lên lưới, mặt dù giá trị năng lượng tổng
xạ lớn nhưng vì điện năng của phụ tải tiêu thụ tại khu du
lịch nghỉ dưỡng tăng cao vào mùa nắng nóng (Bảng 5).
Điện năng tạo ra của hệ thống mảng pin quang điện lớn hơn
tổng năng lượng cung cấp cho tải và điện năng đưa lên lưới
điện vì các yếu tố tổn thất trong hệ thống.
5.5. Khối lượng CO2 cắt giảm
Kết quả phân tích lượng CO2 tiết kiệm trong phần mềm:
+ Tổng khối lượng CO2 phát thải để tạo ra được hệ
thống điện năng lượng mặt trời trên là 2040,51 tấn.
+ Tổng khối lượng CO2 không phát thải do hệ thống
sản xuất điện năng là 16306,7 tấn trong 25 năm.
+ Tổng khối lượng CO2 tiết kiệm khi hệ thống hoạt
động sản xuất trong 25 năm là 12967,2 tấn.
6. Kết luận
Với việc ứng dụng phần mềm PVsyst thiết kế hệ thống
điện năng lượng mặt trời nối lưới tại khu du lịch nghỉ dưỡng
Premier Village DaNang Resort ta có các nhận xét sau:
+ Phần mềm đã giải quyết những khó khăn trong việc
thiết kế hệ thống điện năng lượng mặt trời nối lưới như định
hướng lắp đặt tối ưu hệ thống pin quang điện, tính toán các
thông số tổn thất và định cỡ tối ưu các thiết bị trong hệ thống
điện năng lượng mặt trời nối lưới tại địa điểm thiết kế.
+ Dựa vào kết quả mô phỏng trong phần mềm ta có thể
phân tích đánh giá các thông số của hệ thống từ đó đưa ra
các giải pháp để nâng cao chất lượng và sản lượng điện
năng hệ thống.
Những ưu điểm nếu lắp đặt hệ thống điện năng lượng
mặt trời nối lưới tại khu du lịch nghỉ dưỡng Premier Village
Danang Resort:
+ Đáp ứng một phần nhu cầu sử dụng điện của phụ tải.
+ Giảm quá tải hệ thống lưới điện tại địa phương, khi
phụ tải ở đây tăng nhanh chóng (các công trình xây dựng
mọc lên “như nấm”), công tác quy hoạch và phát triển lưới
điện tại địa phương gặp nhiều khó khăn.
+ Tạo điểm nhấn cho khu du lịch nghỉ dưỡng.
+ Chi phí đầu tư thấp hơn so với các nhà máy lắp đặt
trên cánh đồng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] John Kellenberg, Utility-Scale Solar Photovoltaic Power Plants, International Finance Corporation, 2015.
[2] Hoàng Dương Hùng, Năng lượng mặt trời lý thuyết và ứng dụng.
[3] Bộ Công Thương, Thông tư số: 39/2015/TT-BCT, Quy định hệ thống điện phân phối, 18/01/2015.
[4] Hướng dẫn sử dụng phần mềm PVsyst, “http://www.pvsyst.com/”.
[5] Tra cứu thông tin phụ tải, “http://www.cskh.cpc.vn/”.
(BBT nhận bài: 25/05/2017, hoàn tất thủ tục phản biện: 08/07/2017)
6 Nguyễn Quang An, Nguyễn Chí Tình
KHẢO SÁT SỰ BIẾN THIÊN ÁP SUẤT BUỒNG THANG THOÁT HIỂM CỦA
NHÀ CAO TẦNG KHI XẢY RA CHÁY
SURVEYING THE PRESSURE VARIATION IN EMERGENCY STAIRCASES
OF HIGH-RISE BUILDINGS IN THE EVENT OF FIRE
Nguyễn Quang An1, Nguyễn Chí Tình2 1Trường Đại học Phòng cháy chữa cháy; [email protected]
2Trường Đại học Mỏ - Địa chất; [email protected]
Tóm tắt - Khi xảy ra cháy trong các tòa nhà cao tầng, để ngăn khói và khí độc vào cầu thang thoát hiểm, buồng thang phải được tạo áp suất dư bằng hệ thống điều áp cầu thang. Áp suất dư trong buồng thang phải trong giới hạn cho phép để đảm bảo ngăn được khói, đồng thời không tạo ra lực cản quá lớn khi mở cửa thoát hiểm. Áp suất dư trong buồng thang phụ thuộc vào nhiều yếu tố và biến đổi phức tạp trong quá trình thoát hiểm. Bài báo này trình bày phương pháp mô phỏng sự biến thiên của áp suất dư trong buồng thang với các tình huống khác nhau. Việc mô phỏng được thực hiện bằng phần mềm FDS, đây là phần mềm chuyên dùng để mô phỏng động lực học của đám cháy. Qua đó đề xuất giải pháp giúp cải thiện tốt hơn hiệu quả hoạt động của hệ thống điều áp cầu thang.
Abstract - When fires happen in high-rise buildings, to prevent smoke and toxic gases into the emergency staircase, excess pressure must be created in the staircase by stair pressurization systems. Excess pressure in the staircase must be at permissible limits to stop the smoke, and cannot create a resistance force too big to open the exit door. Excess pressure in the staircase depends on many factors and complex changes in the emergency exit process. This paper presents simulation methods of pressure variation in the staircase in different situations. The simulation is performed using FDS software, a special software to simulate the dynamics of the fire. Thereby the paper proposes measures to improve operational efficiency of the stair pressurization systems.
Từ khóa - mô phỏng; khói; cháy; cầu thang; áp suất Key words - simulation; smoke; fire; stair; pressure
1. Đặt vấn đề
Hiện nay, vấn đề an toàn cho con người khi xảy ra cháy
trong các tòa nhà cao tầng là vấn đề rất được quan tâm. Khi
xảy ra cháy, khói và khí độc có thể lan nhanh đến các khu vực
xung quanh, trong đó có cả cầu thang thoát hiểm. Để ngăn
khói vào cầu thang thoát hiểm, trong các tòa nhà cao tầng hiện
nay đều có hệ thống điều áp cầu thang để tạo ra áp suất dư
trong buồng thang [1], [6]. Việc thiết kế hệ thống điều áp cầu
thang có thể dựa theo các tiêu chuẩn khác nhau như BS 5588-
part4-1998 của Anh, NFPA-92A-1988 của Mỹ, AS1668-1
của Australia, CP13 của Singapor. Theo tiêu chuẩn TCVN-
6160-1996 thì áp suất dư trong buồng thang hoặc phòng đệm
không được nhỏ hơn 2 kG/m2 (xấp xỉ 20 Pa) [4].
Áp suất dư trong buồng thang phụ thuộc vào nhiều yếu
tố và biến đổi trong quá trình hoạt động của hệ thống.
Trong quá trình thoát hiểm, các cửa luôn mở ra rồi đóng lại
làm cho áp suất dư biến đổi. Do chất khí có tính đàn hồi
nên sự biến đổi của áp suất dư rất phức tạp. Việc xác định
qui luật biến đổi của áp suất dư không thể thực hiện bằng
các phép tính toán thông thường. Các phần mềm mô phỏng
sẽ giúp giải quyết bài toán này.
Các tài liệu kỹ thuật hiện nay mới chỉ đề cập đến việc
tính toán hệ thống điều áp cầu thang trong chế độ tĩnh mà
chưa có đề cập đến chế độ động [1]. Phương pháp mô
phỏng dưới đây cho phép khảo sát, đánh giá chế độ động
để đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng cho hệ thống
điều áp cầu thang. Đây là phương pháp đang được ứng
dụng rộng rãi trên thế giới.
2. Kết quả nghiên cứu và khảo sát
2.1. Cơ sở lý thuyết
2.1.1. Hệ thống điều áp cầu thang
Hệ thống điều áp dùng để tăng áp suất ở những khu vực
cần ngăn chặn khói. Hệ thống điều áp cần tạo ra áp suất dư
đủ lớn để ngăn chặn khói vào các khu vực thoát hiểm,
nhưng áp suất dư cũng không được quá lớn để đảm bảo cho
trẻ em và người già có thể đẩy được cửa thoát hiểm. Hệ
thống điều áp cầu thang có thể áp dụng cho cả thang bộ và
thang máy. Dưới đây chỉ đề cập đến hệ thống điều áp đối
với cầu thang bộ thoát hiểm.
Trong hệ thống điều áp có thể sử dụng một họng phun
hoặc nhiều họng phun, với những tòa nhà siêu cao tầng đôi
khi phải sử dụng hệ thống điều áp phân vùng để tránh ảnh
hưởng của hiệu ứng ống khói. Trên Hình 1 mô tả các kiểu
điều áp khác nhau tùy theo cấu trúc của tòa nhà.
2.1.2. Áp suất dư trong trong chế độ tĩnh
Khi hệ thống điều áp cầu thang hoạt động ở chế độ tĩnh,
do ảnh hưởng của hiệu ứng ống khói nên áp suất dư trong
buồng thang thay đổi theo độ cao.
Sự chênh lệch nhiệt độ giữa bên trong và bên ngoài cầu
thang là nguyên nhân gây ra hiệu ứng ống khói. Nhiệt độ
trong buồng thang có thể tính theo công thức [7], [8]:
Ts = To + (TB – To) (1)
Hình 1. Hệ thống điều áp cầu thang
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 7
Trong đó: Ts: Nhiệt độ trong buồng thang (K);
To: Nhiệt độ bên ngoài nhà (K);
TB: Nhiệt độ trong tòa nhà (K);
: hệ số truyền nhiệt.
Áp suất dư tại độ cao y [7], [8]:
TSBy SBb
R
yFp p
F (2)
Trong đó: pSBy: áp suất dư tại độ cao y (Pa);
pSBb: áp suất dư tại tầng dưới cùng (Pa);
y: độ cao (m);
FT: hệ số nhiệt độ (Pa/m);
FR: hệ số dòng chảy.
Áp suất dư ở tầng trên cùng [7], [8]:
TSBt SBb
R
HFp p
F (3)
Trong đó: H là chiều cao của tòa nhà (cầu thang)
Hệ số nhiệt độ [7], [8]:
1 1atmT
o s
gPF
R T T
(4)
Trong đó:
g: gia tốc trọng trường, thường lấy g = 9,81 m/s2;
Patm: áp suất khí quyển (Pa);
R: hằng số khí, thường lấy R = 287 J/kg.K.
Tại mức nước biển, biểu thức trên trở thành:
1 13200T
o s
FT T
(5)
Hệ số dòng chảy [7], [8]:
2
21 SB B
R
BO S
A TF
A T (6)
Trong đó:
ASB: diện tích thoát khí giữa cầu thang với tòa nhà (m2);
ABO: diện tích thoát khí giữa tòa nhà với bên ngoài (m2);
TB: nhiệt độ trong tòa nhà (K);
TS: nhiệt độ trong cầu thang (K).
Trong trường hợp ASB nhỏ hơn nhiều so với ABO thì có
thể lấy FR 1.
Trên Hình 2 là đồ thị minh họa sự thay đổi của áp suất dư
theo chiều cao tòa nhà trong các điều kiện khí hậu khác nhau.
Áp suất dư trung bình [7], [8]:
23/2 3/2
4
9
SBt SBbSBav
SBt SBb
p pp
p p
(7)
Trường hợp áp suất dư ít thay đổi có thể tính gần đúng
theo công thức:
2
SBt SBb
SBav
p pp
(8)
Theo công thức (3) thì chiều cao tòa nhà càng lớn thì
độ chênh lệch áp suất giữa tầng trên cùng và dưới cùng
càng nhiều, khi đó áp suất dư trong buồng thang có thể nằm
ngoài giới hạn cho phép. Chiều cao giới hạn của tòa nhà để
áp suất dư nằm trong giới hạn cho phép [7], [8]:
ax min42,89.101 1
R m
m
o s
F p pH
T T
(9)
Trường hợp chiều cao tòa nhà vượt quá chiều cao giới
hạn thì cần phải có giải pháp để khắc phục sự chênh lệch
áp suất, chẳng hạn như giải pháp điều áp phân vùng.
Ví dụ:
Cho biết To = 295 K (220C), Ts = 300 K (270C)
Theo QCVN 06:2010 [5]:
pmax = 50 Pa, pmin = 20 Pa
FR = 1 (ASB << ABO)
Áp dụng công thức trên ta tính được Hm = 153,5 m
Nếu nhiệt độ bên trong và bên ngoài tòa nhà càng chênh
lệch thì ảnh hưởng của hiệu ứng ống khói càng mạnh, khi
đó chiều cao giới hạn sẽ càng giảm.
2.1.3. Áp suất dư trong chế độ động
Chế độ động có thể xuất hiện khi quạt gió thay đổi tốc
độ, các van gió đóng hoặc mở, cửa thoát hiểm đóng hoặc
mở, môi trường biến đổi... Các tác động đó làm cho áp suất
dư biến đổi theo thời gian. Việc khảo sát sự biến đổi của áp
suất dư có thể dựa vào phương trình miêu tả dòng chảy của
chất lưu, đó là phương trình Navier-Stokes.
Phương trình Navier-Stokes được xây dựng từ các định
luật bảo toàn khối lượng, động lượng và năng lượng. được
viết cho một thể tích bất kỳ [2], [9]. Dạng tổng quát của
phương trình:
. .u
u u p T ft
(10)
Trong đó: p grad p là Gradient áp suất;
T là Tensor ứng suất;
.T divT là các lực biến dạng trong chất lưu,
thông thường do hiệu ứng của tính nhớt;
p
p
h h
a, Khí hậu mùa đông b, Khí hậu mùa hè
Cầu thang không có khe hở
Cầu thang có khe hở
Hình 2. Sự thay đổi của áp suất dư theo độ cao
8 Nguyễn Quang An, Nguyễn Chí Tình
f là các lực khác (chẳng hạn như trọng lực).
Áp dụng với chất khí ta có phương trình viết dưới dạng
tensor [9]:
,( )iji
i j i d i
j i j
u pu u g f
t x x x
(11)
Trong đó: p là áp suất ;
là tensor ứng suất ;
là khối lượng riêng ;
fd,i đặc trưng cho lực cản chưa xác định ;
u là vận tốc có 3 thành phần u1= ux; u2 = uy; u3 = uz.
Đây là phương trình vi phân riêng phi tuyến nhiều ẩn
số. Cho đến nay chưa có lời giải hoàn chỉnh cho phương
trình này. Phương pháp phổ biến hiện nay để giải bài toán
này là sử dụng phương pháp sai phân gần đúng với sự trợ
giúp của máy tính.
Phương pháp mô phỏng số trực tiếp (DNS) thực hiện
bằng cách chuyển trực tiếp phương trình Navier-Stokes
sang phương trình sai phân. Tuy nhiên theo phương pháp
đó thì khối lượng tính toán sẽ rất lớn và sẽ mất rất nhiều
thời gian để giải một bài toán.
Phương pháp phổ biến hiện nay để giải bài toán này là sử
dụng phương pháp LES (Viết tắt của Large Eddy Simulation),
phương pháp này xuất phát từ việc lọc thông thấp trong một
khoảng cách để loại bỏ bớt những thành phần biến thiên
nhỏ, nhờ đó mà giảm được khối lượng tính toán. Đây là
phương pháp được sử dụng trong phần mềm FDS.
2.2. Mô phỏng sự biến thiên của áp suất dư trong buồng
thang thoát hiểm bằng phần mềm FDS
2.2.1. Sử dụng phần mềm FDS để mô phỏng sự biến thiên
của các thông số
FDS (viết tắt của Fire Dynamics Simulator) là một phần
mềm mô phỏng động lực học chất lưu của dòng khí và lửa
chuyển động. Phần mềm này giải quyết các bài toán mô
phỏng LES trên cơ sở các phương trình Navier-Stokes [2],
[3], [9], [10].
Kết quả mô phỏng thường được hiển thị dưới dạng hình
ảnh 3D nhờ phần mềm Smokeview đi kèm với FDS. Ngoài ra
các dữ liệu mô phỏng còn được lưu trong file có phần mở rộng
là csv. Có thể hiển thị kết quả dưới dạng đồ thị bằng cách mở
file với Excel, sau đó tạo đồ thị với công cụ Chart [3].
Bài toán mô phỏng được đặt ra với 2 trường hợp:
- Trường hợp 1: Tòa nhà 20 tầng. Quạt tăng áp có
Qmax = 6 m3/s, Pmax = 500 Pa;
- Trường hợp 2: Tòa nhà 40 tầng. Quạt tăng áp có
Qmax = 8 m3/s, Pmax = 500 Pa.
Các thông số còn lại trong 2 trường hợp giống nhau:
- Diện tích buồng thang: (5 × 3) m;
- Chiều cao mỗi tầng: 3 m;
- Nhiệt độ trong buồng thang: 250C;
- Nhiệt độ ngoài trời: 220C;
- Quạt tăng áp được đặt trên tầng thượng.
Trong thời gian đầu tất cả các cửa thoát hiểm đều đóng,
đến thời điểm 10s thì cửa tầng dưới dùng mở ra và đến thời
điểm 11s thì đóng lại. Giả thiết bỏ qua quán tính của quạt
gió khi khởi động.
2.2.2. Kết quả mô phỏng
Sau khi thực hiện chương trình mô phỏng cho 2 trường
hợp. Kết quả mô phỏng xem bằng Smokeview nhận được
như Hình 3 cho tòa nhà 20 tầng (trường hợp 1) và Hình 4
cho tòa nhà 40 tầng (trường hợp 2). Trong đó nhiệt độ tại
mỗi vị trí được xác định thông qua thang vạch màu.
Hình 3a. Áp suất dư trước khi mở cửa tầng 1
Hình 3b. Áp suất dư khi mở cửa tầng 1
Hình 3c. Áp suất dư sau khi đóng cửa tầng 1
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 9
Hình 4a. Áp suất dư trước khi mở cửa tầng 1
Hình 4b. Áp suất dư khi mở cửa tầng 1
Hình 4c. Áp suất dư sau khi đóng cửa tầng 1
Kết quả mô phỏng có thể theo dõi sự biến thiên áp suất
dư ở từng tầng của tòa nhà. Trên đồ thị (Hình 5) hiển thị sự
biến thiên của áp suất dư ở tầng trên cùng và tầng dưới
cùng trong 2 trường hợp.
Hình 5a. Sự thay đổi của áp suất dư (TH 1)
Hình 5b. Sự thay đổi của áp suất dư (TH 2)
Nếu không có tác động nhiễu do mở và đóng cửa thì
sau một khoảng thời gian, áp suất dư trong buồng thang sẽ
ổn định và hệ thống trở về chế độ tĩnh. Với tòa nhà 20 tầng
như trong trường hợp 1, nếu không có tác động nhiễu thì
đồ thị biến thiên áp suất như trên Hình 6. Độ chênh áp giữa
tầng trên cùng và dưới cùng sau khi ổn định đạt giá trị
khoảng 7 Pa. Nếu tính theo công thức (3) của chế độ tĩnh
thì độ chênh áp là:
1 13200.67,2 7,3
295 298
TSBt SBb
R
HFp p
F
Pa
Hình 6. Sự thay đổi của áp suất dư khi không có nhiễu
3. Bàn luận
Kết quả mô phỏng cho thấy, khi hệ thống điều áp cầu
-10
0
10
20
30
40
50
60
0 5 10 15 20
Ấp s
uất (P
a)
Thời gian (s)
T1
T20
-10.00
0.00
10.00
20.00
30.00
40.00
50.00
60.00
70.00
80.00
90.00
0.00 10.00 20.00
Áp s
uất (P
a)
Thời gian (s)
T1
T40
-10.00
0.00
10.00
20.00
30.00
40.00
50.00
60.00
70.00
0.0
0
4.0
3
8.0
5
12.0
7
16.0
9
20.1
1
24.1
3
28.1
5
Áp s
uất (P
a)
Thời gian (s)
T1
T20
10 Nguyễn Quang An, Nguyễn Chí Tình
thang hoạt động thì áp suất dư trong buồng thang biến thiên
phức tạp. Trong quá trình biến đổi của áp suất dư luôn kèm
theo sự dao động. Nguyên nhân của sự dao động chính do
tính đàn hồi của chất khí mà được thể hiện thông qua
phương trình Navier – Stokes.
Khi một cửa thoát hiểm mở ra rồi đóng lại, áp suất dư
tại khu vực đó có sự biến đổi đột ngột. Theo đồ thị biến
thiên của áp suất dư ta thấy:
- Trong khoảng thời gian đầu, khi áp suất buồng thang
chưa kịp tăng thì áp suất dư ở tầng 1 có lúc có giá trị âm do
ảnh hưởng của hiệu ứng ống khói.
- Trước khi mở cửa thoát hiểm thì áp suất dư trong
buồng thang tương đối ổn định.
- Khi mở cửa thoát hiểm tầng 1 tại thời điểm 10s thì áp
suất dư tại đó giảm xuống dưới 10 Pa (trong cả 2 trường hợp).
- Khi cửa thoát hiểm tầng 1 được đóng trở lại ở thời
điểm 11s thì áp suất dư tại đó tăng vọt lên rồi mới giảm
xuống giá trị bình thường. Trong trường hợp 2 thì hiện
tượng tăng vọt áp suất diễn ra mạnh hơn so với trường hợp
1. Áp suất dư trong trường hợp 2 vượt quá 80 Pa rồi giảm
xuống. Hiện tượng tăng vọt áp suất dư có thể tạo ra các
xung lực không mong muốn và thậm chí có thể tạo ra các
tình huống nguy hiểm.
- Áp suất dư ở tầng 1 biến thiên nhiều hơn so với các
tầng trên do tính đàn hồi của cột không khí. Chiều cao cột
không khí càng lớn thì tính đàn hồi càng mạnh làm cho áp
suất dư biến thiên càng nhiều. Ở đây chiều cao cột không
khí được tính từ vị trí đặt quạt (tầng thượng) đến vị trí cần
khảo sát. Ở trường hợp 2, do chiều cao của cột không khí
gấp đôi so với trường hợp 1 nên áp suất dư trong buồng
thang biến thiên nhiều hơn.
- Nếu không có tác động nhiễu do mở và đóng cửa thì
khi hệ thống ổn định, độ chênh áp giữa tầng trên cùng và
dưới cùng qua mô phỏng phù hợp với kết quả tính theo
công thức trong chế độ tĩnh.
4. Kết luận
Việc nghiên cứu chế độ động của hệ thống điều áp cầu
thang vốn là bài toán rất phức tạp. Hiện nay ở trong nước chưa
có công trình khoa học nào nghiên cứu về vấn đề này, trong
khi các nhà cao tầng ở Việt Nam không áp dụng giải pháp
phân vùng để điều áp như các nước phát triển. Phương pháp
mô phỏng bằng phần mềm FDS cho phép khảo sát và đánh
giá sự biến thiên của các thông số, qua đó đề xuất các giải pháp
nâng cao chất lượng cho hệ thống điều áp cầu thang.
Qua so sánh kết quả nghiên cứu trên đây cho thấy khi
hệ thống điều áp cầu thang hoạt động thì áp suất dư trong
buồng thang biến thiên phức tạp và chịu ảnh hưởng của
nhiều yếu tố. Trong đó một yếu tố quan trọng là chiều cao
của tòa nhà. Chiều cao của tòa nhà càng lớn thì ảnh hưởng
của hiệu ứng ống khói càng lớn, dẫn đến sự chênh lêch áp
suất dư giữa tầng trên và tầng dưới càng nhiều. Mặt khác
khi chiều cao tòa nhà càng lớn thì sự biến thiên của áp suất
dư càng phức tạp và khó kiểm soát.
Vì vậy đối với những tòa nhà siêu cao tầng, khi thiết kế
hệ thống điều áp cầu thang cần nghiên cứu áp dụng giải
pháp điều áp phân vùng. Bằng cách đó vừa giảm được ảnh
hưởng của hiệu ứng ống khói, vừa giảm được sự biến động
của áp suất dư.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Ngô Văn Xiêm, Trịnh Thế Dũng. Giáo trình phòng cháy trong xây dựng. NXB KHKT 2002.
[2] Nguyễn Quang An. Ứng dụng phương pháp LES để mô phỏng cho
đám cháy. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Đà Nẵng. Số
9(94). 2015. Tr 74 – 77.
[3] Nguyễn Quang An, Nguyễn Chí Tình. Đánh giá hệ thống hút khói
hành lang bằng phần mềm FDS. Tạp chí Khoa học và Công nghệ
Đại học Đà Nẵng. Số 3(100). 2016. Tr 5 – 8.
[4] TCVN 6160-1996. Phòng cháy chữa cháy nhà cao tầng, yêu cầu thiết kế.
[5] QCVN 06:2010. Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn cháy cho
nhà và công trình.
[6] ASHRAE Handbook- 2007-HVAC Applications (SI).
[7] John H. Klote, James A. Milke, Paul G. Turnbull, Ahmed Kashef,
Michael J. Ferreira. Handbook of Smoke Control Engineering.
Ashrae 2012.
[8] John H. Klote, James A. Milke. Principle of Smoke Management.
Ashrae 2002.
[9] Kevin McGrattan, Simo Hostikka, Randall McDermott, Jason
Floyd, Craig Weinschenk, Kristopher Overholt. Fire Dynamics Simulator Technical Reference Guide. National Institute of
Standards and Technology. US July 2014.
[10] Kevin McGrattan, Simo Hostikka, Randall McDermott, Jason
Floyd, Craig Weinschenk, Kristopher Overholt. Fire Dynamics
Simulator User’s Guide. National Institute of Standards and
Technology. US July 2014.
(BBT nhận bài: 06/06/2016, hoàn tất thủ tục phản biện: 24/07/2017)
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 11
XÂY DỰNG THUẬT TOÁN NỘI SUY ĐƯỜNG TRÒN
CHO BỘ ĐIỀU KHIỂN CNC TRÊN NỀN FPGA
BUILDING ALGORITHM OF CIRCULAR INTERPOLATION
FOR CNC CONTROLLER BASED ON FPGA
Đỗ Văn Cần1, Đoàn Đức Tùng1, Đoàn Quang Vinh2 1Trường Đại học Quy Nhơn; [email protected], [email protected]
2Đại học Đà Nẵng; [email protected]
Tóm tắt - Thuật toán nội suy là rất quan trọng trong bộ điều khiển số máy tính (CNC), nó đánh giá chất lượng và số lượng sản phẩm gia công trên máy công cụ. Nhiều thuật toán nội suy đã được nghiên cứu, ứng dụng, kể cả nội suy phần cứng và phần mềm. Do ảnh hưởng tốc độ số học của phần mềm máy tính, tính chính xác và tốc độ ăn dao của hệ thống điều khiển số dựa trên nội suy phần mềm phải tuân theo những hạn chế nhất định. Trong bài viết này, nhóm tác giả xây dựng thuật toán xấp xỉ bậc thang cải tiến cho nội suy đường tròn trên FPGA (Field-programmable gate array) phục vụ cho các chuyển động quỹ đạo không gian 2D, 3D. Kết quả mô phỏng và thực nghiệm cho thấy việc xây dựng thuật toán nội suy đường tròn xấp xỉ bậc thang trên nền FPGA tốt hơn so với các thuật toán mềm trước đây.
Abstract - Interpolation algorithm is very important in the Computerized Numerical Control (CNC) because it assesses the quality and quantity of products processed on machiine tools.Many algorithms have been researched and deployed including hardware interpolation and software interpolation. Owing to the influence of arithmetic speed of computer software, the accuracy and speed of numerical control system’s feed based on software interpolation are subject to certain restrictions. In this paper, the authors builds and improves stair approximation algorithm of circular interpolation on the FPGAs, for trajectory 2D, 3D space. The simulation and experimental results show that stair approximation algorithms of circular interpolation based on FPGAs are better than previous soft algorithms.
Từ khóa - nội suy đường tròn; thuật toán xấp xỉ bậc thang; FPGA; nội suy phần cứng; nội suy không gian 3D.
Key words - circular interpolation; stair approximation algorithm; FPGA; hardware interpolation; 3D space interpolation.
1. Đặt vấn đề
Chức năng nội suy đường tròn đã được sử dụng trong
các bộ điều khiển số máy tính (bộ CNC) dùng để tạo ra các
chuyển động gia công các trục servo. Các bộ CNC ngày
nay, thực hiện nội suy đường tròn sử dụng một trong các
thuật toán sau: DDA, xấp xỉ bậc thang, tìm kiếm trực tiếp,
Tustin, Euler, Taylor [1].
Thuật toán nội suy đường tròn phần mềm trong không
gian 2D được tìm thấy nhiều trong các nghiên cứu [2], [3].
Trong những năm gần đây, nghiên cứu thuật toán nội suy
đường tròn trong không gian 2D được triển khai trên FPGA
[4], [5] nhằm khai thác nhiều ưu điểm: tốc độ nhanh, dễ cấu
hình; các thuật toán nội suy xây dựng trên phần cứng cho đáp
ứng tốt hơn so với phần mềm. Đối với những thuật toán phức
tạp hoặc khi gia công đường cong bất kỳ thì việc xây dựng
thuật toán trên phần cứng gặp nhiều khó khăn, giải pháp thay
thế điều này là thực hiện chúng trên các lõi xử lý mềm [6].
Trong các chuyển động gia công không gian 3D, hay
xoắn ốc, một vài nghiên cứu xây dựng thuật toán trên phần
mềm đã được đưa ra. Các công trình [7], [8], [9] đã nghiên
cứu và ứng dụng về nội suy đường tròn trong không gian
3D khai thác sức mạnh máy tính tích hợp các phần mềm
CAM, CAD. Nội suy phần cứng có nhiều ưu điểm hơn so
với nội suy phần mềm như: chính xác hơn, thời gian thực
hiện nhanh hơn, đặc biệt giảm tải được CPU. Vì thế, nhóm
tác giả đề xuất xây dựng thuật toán xấp xỉ bậc thang cải
tiến cho nội suy đường tròn trong không gian 2D, 3D trên
FPGA nhằm đáp ứng các quỹ đạo gia công tốt hơn.
2. Nội dung
2.1. Đề xuất thuật toán nội suy đường tròn
Các bộ CNC ngày nay, sử dụng nội suy phần cứng
DDA cổ điển, hoặc nội suy phần mềm dùng thuật toán xấp
xỉ bậc thang. Trên Hinh 1 mô tả thuật toán xấp xỉ bậc thang
nội suy đường tròn trong không gian 2D XY ở góc phần tư
thứ nhất và hướng cùng chiều kim đồng hồ.
Giả sử rằng "dao cụ" đến vị trí (Xk, Yk) sau khi lặp bước
thứ k. Trong thuật toán này, biến Dk được tính bằng phương
trình (1).
222 RYXD kkk (1)
Theo hướng một bước tiến được xác định dựa trên Dk,
hướng ra lệch đường tròn và góc phần tư, nơi di chuyển
được thực hiện.
+ Dk<0: Trường hợp này có nghĩa là vị trí (Xk, Yk) nằm
bên trong một vòng tròn và trong trường hợp này, bước di
chuyển theo hướng dương của trục X.
+ Dk>0: Trường hợp này có nghĩa là vị trí (Xk, Yk) nằm
ở bên ngoài của một vòng tròn và trong trường hợp này,
bước di chuyển theo hướng âm của trục Y.
+ Dk = 0: Một trong hai quy tắc trên có thể được lựa
chọn và áp dụng tùy ý.
Hinh 1. Nguyên lý thuật toán xấp xỉ bậc thang [1]
Thuật toán này đòi hỏi một lượng nhỏ phép tính toán và
12 Đỗ Văn Cần, Đoàn Đức Tùng, Đoàn Quang Vinh
không gian bộ nhớ ít nên phù hợp với cấu trúc phần cứng.
Tuy nhiên, còn nhiều lần lặp, gọi N là số bước lặp đi lặp
lại, có thể được tính bằng phương trình (2).
ff YYXXN 00 (2)
Trong đó: (X0, Y0) là điểm bắt đầu, (Xf, Yf) là điểm kết thúc.
Đề xuất của nhóm tác giả, cải tiến giảm số lần lặp trong
thuật toán xấp xỉ bậc thang bằng cách thay phương trình
(1) bằng phương trình (3) ở đó thêm một chỉ số phụ.
222, RYXD jiji (3)
Trong phương trình (3), i và j tương ứng biểu thị số
lượng các bước dọc theo trục X và trục Y. Khi một bước
được thêm vào dọc theo trục X, phương trình (3) được thay
đổi thành phương trình (4).
ijii
jiji
XDXjDi
RYXD
,
222,1
12,
)1( (4)
Tương tự như vậy cho trường hợp khi trục Y giảm đi 1
bước. Khi đó, xung trên các trục được xác định bởi phương
trình (5) như sau:
2
2
1
1
ii
ii
XY
XX (5)
Nội dung của thuật toán xấp xỉ bậc thang cải tiến là xem
xét đến các hướng:
+ Tăng 1 BLU cho hướng X,
+ Giảm 1 BLU cho hướng Y,
+ Tăng 1 BLU cho hướng X và đồng thời giảm 1 BLU
cho hướng Y (chỉ có thể thực hiện trên phần cứng).
Trong đó, trường hợp thứ ba là phương pháp cải tiến
thêm vào so với thuật toán xấp xỉ bậc thang. Khi đó, thuật
toán sau cải tiến được biểu diễn trên Hinh 2.
Hinh 2. Thuật toán xấp xỉ bậc thang cải tiến
2.2. Đánh giá kết quả nghiên cứu
Biểu diễn thuật toán xấp xỉ bậc thang trước và sau cải
tiến với tham số: Điểm bắt đầu (0,10), điểm kết thúc (10,0),
hướng nội suy cùng chiều kim đồng hồ CW=0, đơn vị chiều
dài phép nội suy BLU=1.
Trên Hinh 3 là quỹ đạo chuyển động của các trục X, Y
của phép nội suy đường tròn trong mặt phẳng 2D XY.
Trong đó, "o-blue" là quỹ đạo sử dụng thuật toán xấp xỉ
bậc thang trước cải tiến và "*-red" là qũy đạo sau cải tiến.
Hinh 3. Quỹ đạo thuật toán xấp xỉ bậc thang
Kết quả cho thấy quỹ đạo nội suy tại các chu kỳ xung
trước cải tiến của X= {1, 2, 3, 5, 6, 8, 10, 12, 15, 20}, Y={4,
7, 9, 11, 13, 14, 16, 17, 18, 19} và sau cải tiến X= {1, 2, 3,
4, 5, 6, 8, 9, 11, 12} và Y= {4, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13,
14}. Như vậy, sai lệch của thuật toán xấp xỉ bậc thang là 1
BLU và sau cải tiến còn 0,5 BLU. Số lần lặp được giảm
xuống từ 20 còn 14 lần nhờ phát xung đồng thời X, Y tại
các vị trí 4, 6, 7, 8, 9, 11.
2.3. Xây dựng thuật toán trong không gian 3D
Đối với các phép nội suy đường tròn trong không gian
3D, thực hiện nội suy 2 trong số 3 trục. Dựa trên cơ sở thuật
toán Hinh 2, nhóm tác giả thực hiện trên không gian 3D với
một mặt phẳng và một trục tham chiếu tuyến tính.
Hinh 4. Quỹ đạo đường tròn nội suy mặt phẳng XY
trong không gian 3D
Trên Hinh 4 là kết quả của quỹ đạo khi thực hiện thuật
toán xấp xỉ bậc thang cải tiến trong không gian 3D, với mặt
phẳng nội suy đường tròn là XY (hoặc YZ) trục Z (hoặc X)
gọi là tham chiếu tuyến tính. Tương tự, thuật toán có thể
mở rộng thành các đường tròn nội suy trên mặt phẳng YZ
và XZ trong không gian 3D.
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 13
Kết quả mô phỏng thuật toán xấp xỉ bậc thang sau cải
tiến cho thấy quỹ đạo nội suy “o-red” bám sát theo đường
tròn mẫu trong mặt phẳng nội suy XY và tham chiếu tuyến
tính theo trục Z. Từ đó, thuật toán giải quyết được các
chuyển động đường tròn nội suy theo các mặt phẳng XY,
XZ, YZ trong không gian 3D cho các gia công máy công
cụ hoặc áp dụng cho các gia công ren, xoắn ốc…
2.4. Thiết kế thuật toán trên phần cứng FPGA trong
không gian 2D
Sử dụng ngôn ngữ Verilog để xây dựng thuật toán trên
cấu trúc phần cứng của FPGA, có các tham số đầu vào điểm
bắt đầu (x1, y1, z1) và điểm kết thúc (x2, y2, z2), vận tốc F là
các kiểu dữ liệu số nguyên 32 bit. Các đại lượng đầu ra xung
XPP, YPP, ZPP và XPM, YPM, ZPM và hướng nội suy
CW =0/1 cùng chiều/ ngược chiều kim đồng hồ là các kiểu
dữ liệu 1 bit, tương ứng với các trục X, Y, Z, và giá trị các
trục được định dạng số nguyên 32 bit. Sau khi thiết kế bằng
ngôn ngữ Verilog có tên noisuyduongtron.v tiến hành tổng
hợp, cấu hình trên FPGA và lần lượt mô phỏng kết quả xây
dựng thuật toán hai trường hợp trước và sau cải tiến.
Thực hiện mô phỏng thuật toán nội suy xấp xỉ bậc thang
trên FPGA khi chưa cải tiến với các tham số như ban đầu x1=0,
y1=10, x2=10, y2=0, tốc độ ăn dao F400. Trên Hinh 5 thể hiện
kết quả đầu ra, XPP, YPP là xung phát ra tại các thời điểm
1~20 trong thời gian 2,5ns tương ứng với giá trị X, Y đi được
10 đơn vị trong 20 chu kỳ xung ứng với tốc độ F=400.
Hinh 5. Kết quả thực hiện thuật toán xấp xỉ bậc thang trên FPGA
Thuật toán này không cho phép sự phát xung đồng thời
ở các trục, dẫn đến làm sai lệch so với quỹ đạo thực lớn (1
BLU). Vì vậy, số điểm nội suy tăng lên GPIO = 20 chu kỳ
xung, thời gian nội suy kéo dài 2,5ns (chu kỳ giả lập cho
mô phỏng clk = 10ps).
Cũng xây dựng trên FPGA với các tham số như Hinh
5, nhưng thuật toán lúc này được cải tiến như đề xuất phần
trên. Kết quả sau khi cải tiến thuật toán xấp xỉ bậc thang
thể hiện như Hinh 6. Với kết quả này, ta thấy tại các vị trí
4, 6, 7, 8, 9, 11 là sự phát xung đồng thời giữa các trục, nhờ
đặc điểm kiểm tra theo các hướng sai lệch quỹ đạo nhỏ nhất
đã được cải tiến. Thời gian hoàn thành nội suy rút ngắn từ
20 chu kỳ xung xuống còn 14 chu kỳ xung, thời gian nội
suy còn 1,9ns (cùng chu kỳ giả lập cho mô phỏng
clk = 10ps). Đồng thời sai lệch quỹ đạo được giảm xuống
từ 1 BLU còn 0,5 BLU và thỏa mãn với kết quả mô phỏng
lý thuyết thuật toán trên Hinh 3.
Hinh 6. Kết quả mô phỏng sử dụng thuật toán xấp xỉ bậc thang cải tiến trên FPGA
2.5. Thiết kế thuật toán trên phần cứng FPGA trong
không gian 3D
Từ kết quả đạt được khi xây dựng thuật toán xấp xỉ bậc
thang cải tiến trên FPGA ở không gian 2D ta sẽ thực hiện
trên không gian 3D. Như đã trình bày mục trên khi thực
hiện trong không gian 3D cần xác định mặt phẳng nội suy,
trục còn lại gọi là trục tham chiếu tuyến tính. Ta bổ sung
tín hiệu đầu vào lựa chọn mặt phẳng nội suy có tên “Space”
thanh ghi 2 bit với 3 trạng thái lựa chọn mặt phẳng nội suy
như sau: 00-XY; 01-XZ; 10-YZ. Kết quả Hinh 7 cho thấy
trên hai trục nội suy XY thỏa mãn với thuật toán trên Hinh
2 và kết quả mô phỏng như Hinh 6. Ngoài ra, ZPP phát
xung tại các thời điểm Z={1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 11} là
phù hợp với tham chiếu trục Z như kết quả mô phỏng trên
Hinh 4, với quan hệ hai trục X, Z là tuyến tính trong mặt
phẳng XZ.
14 Đỗ Văn Cần, Đoàn Đức Tùng, Đoàn Quang Vinh
Hinh 7. Mô phỏng thuật toán xấp xỉ bậc thang cải tiến trên FPGA với mặt phẳng nội suy XY trong không gian 3D
Để có cái nhìn được tổng quát hơn về thuật toán xấp xỉ
bậc thang cải tiến nội suy đường tròn trong không gian 3D,
tác giả tiến hành thực hiện với hệ số xung k = 10 lần so với
giá trị cài đặt trên. Kết quả Hinh 8 quỹ đạo cung tròn trong
không gian 3D lên mặt phẳng nội suy XY.
Hinh 8. Quỹ đạo nội suy đường tròn không gian 3D
Khi chiếu kết quả này lên mặt phẳng XY và YZ ta được
cung tròn như Hinh 3, ngược lại khi chiếu lên mặt phẳng XZ
ta được đường thẳng điều đó phản ảnh đúng với lý thuyết xây
dựng thuật toán với mặt phẳng nội suy XY (hoặc YZ) tham
chiếu tuyến tính theo trục Z (hoặc trục X) trong gian 3D.
Đánh giá sai lệch quỹ đạo trên các mặt phẳng, thì sai
lệch so với mặt phẳng XY, YZ là 0,5 BLU còn với mặt
phẳng XZ là 0. Trong khi đó, sai lệch quỹ đạo khi thuật
toán chưa cải tiến tất cả các mặt phẳng đều 1 BLU.
So sánh kết quả Hinh 4 và Hinh 8 ta thấy khi hệ số k
càng lớn kích thước BLU càng nhỏ thì sai lệch càng nhỏ
theo. Tiến hành thực hiện thuật toán này trên FPGA với hệ
số xung k=10 lần (trong thực tế thì k=1000 xung/đơn vị
chiều dài). Kết quả được thể hiện trên Hinh 9. Ta thấy, tổng
số bước được thực hiện 140/200 chu kỳ xung, giá trị xung
mỗi trục 100. Sự xuất hiện quan hệ xung trên các mặt phẳng
XY,YZ là đường tròn nội suy, còn mặt phẳng XZ là quan
hệ đường thẳng nên xung trên ZPP và ZPP là giống nhau.
Như vậy, kết quả phản ảnh đúng lý thuyết thuật toán trong
mọi trường hợp.
Hinh 9. Kết quả mô phỏng thuật toán xấp xỉ bậc thang cải tiến trên FPGA với hệ số xung k=10
2.6. Thực nghiệm thuật toán xấp xỉ bậc thang cải tiến nội
suy đường tròn trên FPGA trong không gian 3D
Tiến hành thực nghiệm kết quả trên KIT DE1 SoC với
dòng FPGA là 5CEBA7F31C6 với các đầu vào giả định
(x1,y1,z1) = (0,100,0); (x2,y2,z2) = (100,0,100), R=100,
CLK=50MHz, tốc độ F=400 (tương ứng chu kỳ xung
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 15
2KHz) các giá trị đầu ra XPP, YPP, XPP, XPM, YPM,
ZPM được gán cho GPIO_0[31:26].
Tần số clk 50MHz, hệ số xung k = 10 xung/BLU, thực
nghiệm được đo đặt tại các kênh phát xung của trục X, Y,
Z như Hinh 10 trong đó Y’ là kết quả đo kênh trục Y lần 2
cùng với trục Z của máy hiện sóng 2 kênh.
Kết quả cho thấy xung trên hai trục X, Y sẽ hình thành
quỹ đạo chuyển động đường tròn trên mặt phẳng XY, đối
với mặt phẳng XZ là chuyển động tuyến tính. Như vậy
nhóm tác giả khẳng định việc xây dựng thuật toán xấp xỉ
bậc thang cải tiến trên nền FPGA trong không gian 3D là
phù hợp.
Hinh 10. Kết quả thực nghiệm thuật toán cải tiến trên FPGA với hệ số xung k=10
3. Kết luận
Việc xây dựng thuật toán xấp xỉ bậc thang cải tiến cho
phép nội suy đường tròn trên nền FPGA trong không gian
2D, 3D là phù hợp với những công nghệ ngày nay, đặc biệt
sử dụng cho bộ CNC-on-Chip. Bài viết đã có những đóng
góp cụ thể như sau:
- Bước đầu đưa dòng sản phẩm FPGA vào ứng dụng
lĩnh vực điều khiển là phù hợp, trong bối cảnh thiết kế chíp
tại Việt Nam đang đi vào ứng dụng nhiều về FPGA và phù
hợp với xu hướng nghiên cứu trên thế giới về xây dựng
thuật toán điều khiển trên FPGA [2], [10].
- Đề xuất xây dựng thuật toán xấp xỉ bậc thang cải tiến
cho phép nội suy đường tròn trên nền phần cứng của FPGA
trong không gian 2D; qua đó giảm thiểu sai lệch từ 1 BLU
xuống còn 0,5 BLU và rút ngắn thời gian nội suy đường
tròn xuống 30% (từ 20 xuống 14 chu kỳ xung).
- Các kết quả mô phỏng và thực nghiệm kiểm chứng
được thuật toán xấp xỉ bậc thang cải tiến trong không gian
3D xây dựng trên phần cứng FPGA là khả thi, với quỹ đạo
sai lệch nhỏ và thời gian nội suy nhanh, mà tác giả chưa
tìm thấy các công trình trước đây.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] I. S. Suk-Hwan Suh, Seong Kyoon Kang Dae Hyuk Chung, “Theory and Design of CNC Systems”, in Springer Series in Advanced
Manufacturing, Springer S., 2008.
[2] J. Dong, T. Wang, B. Li, Z. Liu, and Z. Yu, “An FPGA-based low-
cost VLIW floating-point processor for CNC applications”,
Microprocessors and Microsystems, vol. 50, pp. 14–25, 2017.
[3] Y. Jin, Y. He, J. Fu, Z. Lin, and W. Gan, “A fine-interpolation-based
parametric interpolation method with a novel real-time look-ahead
algorithm”, Computer-Aided Design, 2014.
[4] J. J. De Santiago-Perez, R. a. Osornio-Rios, R. J. Romero-Troncoso,
and L. Morales-Velazquez, “FPGA-based hardware CNC
interpolator of Bezier, splines, B-splines and NURBS curves for
industrial applications”, Computers & Industrial Engineering, vol.
66, no. 4, pp. 925–932, Dec. 2013.
[5] M. A. Saifee, “Design and Implementation of 2-Axis Circular Interpolation
Controller in Field Programmable Gate Array (FPGA) for Computer Numerical Control (CNC) Machines and Robotics”, International Journal
of Computer Applications (0975 – 8887), vol. 106, no. 13, pp. 1–7, 2014.
[6] W. T. Ã. Lei, M. P. Sung, L. Y. Lin, and J. J. Huang, “Fast real-time
NURBS path interpolation for CNC machine tools”, vol. 47, pp.
1530–1541, 2007.
[7] F. Wang, H. Lin, L. Zheng, L. Yang, J. Feng, and H. Zhang, “Design
and implementation of five-axis transformation function in CNC system”, Chinese Journal of Aeronautics and Astronautics &
Beihang University, vol. 27, no. 2, pp. 425–437, 2014.
[8] R. Ramesh, S. Jyothirmai, and K. Lavanya, “Intelligent automation
of design and manufacturing in machine tools using an open
architecture motion controller”, Journal of Manufacturing Systems, vol. 32, no. 1, pp. 248–259, 2013.
[9] P. B. Carlos Maximiliano Giorgio Bort, Marco Leonesio, “A model-
based adaptive controller for chatter mitigation and productivity
enhancement in CNC milling machines”, Robotics and Computer-
Integrated Manufacturing, vol. 40, pp. 34–43, 2016.
[10] J. Liu, Y. Fu, Z. Han, and H. Fu, “Design of an Industrial Ethemet Based Embedded Open Architecture CNC System”, 2015
International Conference on Estimation, Detection and Information
Fusion (ICEDlF 2015), no. ICEDlF, pp. 413–417, 2015.
(BBT nhận bài: 10/05/2017, hoàn tất thủ tục phản biện: 02/06/2017)
16 Nguyễn Chi Công, Nguyễn Vĩnh Long
ỨNG DỤNG DỮ LIỆU MÂY VỆ TINH TRONG DỰ BÁO SỚM NGẬP LỤT
CHO HẠ DU LƯU VỰC SÔNG GIANH TỈNH QUẢNG BÌNH
APPLYING SATELLITE CLOUDS TO EARLY FLOOD FORECASTING AT DOWNSTREAM
OF THE GIANH RIVER BASIN IN QUANG BINH PROVINCE
Nguyễn Chi Công1, Nguyễn Vĩnh Long2 1Trương Đai hoc Bach khoa - Đại học Đà Nẵng; [email protected]
2Chi cục Phòng chống thiên tai khu vực Miền Trung và Tây Nguyên
Tóm tắt - Để phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai do lũ lụt gây ra, việc nghiên cứu các công cụ dự báo sớm và cảnh báo sớm là rất cần thiết, đặc biệt đối với khu vực Miền Trung nói chung và tỉnh Quảng Bình nói riêng. Nghiên cứu này áp dụng bộ công cụ tích hợp gồm: (i) mô hình thủy văn IFAS và (ii) mô hình thủy lực Nays2DFlood, kết hợp với mây vệ tinh để mô phỏng ngập lụt hạ du lưu vực sông Gianh, tỉnh Quảng Bình. Các mô hình này được hiệu chỉnh và kiểm định bởi hai trận lũ năm 2015 và 2016. Kết quả cho thấy khi sử dụng dữ liệu mây vệ tinh để dự báo ngập lụt thì thời gian dự báo sớm hơn so với sử dụng mưa của các trạm đo. Kết quả nghiên cứu này là cơ sở cho việc dự báo sớm ngập lụt cho hạ du lưu vực sông Gianh trong những năm tiếp theo.
Abstract - To prevent and mitigate natural disasters caused by floods, it is necessary to study early forecasting and early warning tools, especially in Central Vietnam and Quang Binh in particular. The aim of present work uses an integrated set of tools including: (i) IFAS hydrological model, and (ii) Nays2DFlood hydraulic model, combined with satellite clouds to simulate flooding for the downstream of the Gianh river basin, Quang Binh Province. These models are calibrated and tested by two floods in 2016 and 2015. The results indicate that if using satellite cloud data to predict flooding, the forecasting time is earlier than the rainfall utilization of the stations. These results are the basis for early flood forecasting for the downstream of the Gianh river basin in the coming years.
Từ khóa - IFAS; Nays2Dflood; mây vệ tinh; viễn thám; sông Gianh. Key words - IFAS; Nays2Dflood; satellite clouds; remote sensing; Gianh river.
1. Đặt vấn đề
Lưu vực sông Gianh và sông Nhật Lệ là hai lưu vực sông
lớn nhất của tỉnh Quảng Bình. Hàng năm lũ lụt do hai con
sông này đã gây thiệt hại rất nghiêm trọng cho vùng hạ lưu.
Đặc biệt năm 2016, theo báo cáo của UBND tỉnh Quảng Bình,
trận lũ từ ngày 11 đến ngày 17 tháng 10 với tổng lượng mưa
phổ biến từ 600-1000 mm, có nơi trên 1000 mm. Mực nước
trên sông Gianh tại Mai Hóa đạt 9,20m trên báo động (BĐ) III
là 2,7 m, trên sông Kiến Giang tại Lệ Thủy đạt 3,53m trên BĐ
III là 0,83 m. Trận lũ này đã gây thiệt hại gần 2800 tỷ đồng và
làm chết 14 người.
Hiện nay các nghiên cứu trong nước về ngập lụt hạ lưu
sông Nhật Lệ và sông Gianh thường sử dụng hai bộ mô
hình HEC hoặc MIKE để dự báo và cảnh báo ngập lụt hạ
lưu 6, 7. Tuy nhiên cơ sở dữ liệu mưa của cách tiếp cận
này dựa trên số liệu đo tại các trạm (số liệu đã xảy ra), nên
kết quả tính toán ngập lụt chỉ mang tính phục hồi hoặc kiểm
chứng lại mức độ ngập lụt của trận lũ đã xảy ra hoặc theo
các tần suất giả định. Trên thực tế để giảm thiểu những thiệt
hại do lũ lụt gây ra, người ta thường cần những thông tin
dự báo sớm về xu hướng như: diện ngập, chiều sâu ngập
và thời gian ngập của trận lũ trước khi nó diễn ra hoặc sắp
diễn ra. Để giải quyết vấn đề này, công nghệ viễn thám và
radar được ứng dụng để tính toán lượng mưa của trận lũ
trước khi nó xảy ra và làm cơ sở tính toán cho mô hình thủy
văn, thủy lực.
Nghiên cứu này bước đầu áp dụng công nghệ viễn thám
(mây vệ tinh) vào mô hình dự báo ngập lụt bằng mô hình
thủy văn IFAS và mô hình thủy lực Nays2DFlood của
Trường Đại học Hokkaido, Nhật Bản 1, 2, 3, 4. Đây
là mô hình có chức năng dự báo sớm và cảnh báo sớm về
nguy cơ lũ lụt bằng cách sử dụng dự báo mưa bằng mây vệ
tinh hoặc radar. Dữ liệu này sẽ đưa vào mô hình thủy văn
IFAS và mô hình thủy lực Nays2DFlood để hiệu chỉnh và
kiểm định bộ thông số mô hình, làm cơ sở cho dự báo
nhanh xu hướng ngập lụt hạ du.
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Mô hình thủy văn IFAS
IFAS sử dụng bộ thông số phân bố cho toàn bộ lưu vực,
theo đó lưu vực được số hóa và chia đều thành các tiểu lưu
vực với diện tích là 1 km2. Mỗi tiểu lưu vực được đặc trưng
bởi một bộ thông số thủy văn.
- Hiệu chỉnh bộ thông số mô hình IFAS được tiến hành
qua 3 bước sau:
(i) Chọn trận lũ để hiệu chỉnh và thu thập dữ liệu đường
quá trình lũ thực đo.
(ii) Hiệu chỉnh bộ thông số đặc trưng các lớp dòng chảy
của lưu vực nghiên cứu (BTS1) bằng cách so sánh giữa
đường lưu lượng thực đo và đường lưu lượng mô phỏng từ
dữ liệu mưa các trạm đo mưa trên lưu vực, thông qua chỉ
số Nash1.
(iii) Sử dụng bộ thông số đã hiệu chỉnh, tiến hành mô
phỏng đường lưu lượng từ dữ liệu mây vệ tinh và hiệu chỉnh
bộ thông số mây vệ tinh (BTS2) bằng cách so sánh với đường
lưu lượng thực đo thông qua chỉ số Nash2. Nghiên cứu sử
dụng dữ liệu mây vệ tinh Gsmap-NRT của Nhật Bản, dữ liệu
này được đồng bộ hóa cơ sở dữ liệu với mô hình IFAS. Nếu
chỉ số Nash1 và Nash2 < 0,7 thì cần tiến hành hiệu chỉnh lại
bộ thông số BTS1 và BTS2 nói trên.
- Kiểm định bộ thông số mô hình được thực hiện như
sau: Chọn trận lũ độc lập với trận lũ đã hiệu chỉnh. Giữ
nguyên bộ thông số BTS1 (Bảng 1) và BTS2 (Bảng 2), tiến
hành mô phỏng 2 đường lưu lượng từ: (i) mưa của các trạm
đo trên lưu vực và (ii) mưa từ mây vệ tinh. So sánh 2 đường
lưu lượng này với đường lưu lượng thực đo của trận lũ đã
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 17
chọn, thông qua chỉ số Nash1 và Nash2 tương ứng.
Bảng 1. Bộ thông số BTS1
Kí hiệu Thông số Đơn vị Giải thích
Bộ thông số lớp bề mặt
fo SKF cm/s Thể hiện khả năng thấm nước
Sf2 HFMXD m Chiều cao tối đa của bể
Sf1 HFMND m Chiều cao của dòng chảy
dưới mặt
Sfo HFOD M Chiều cao của dòng chảy thấm
N SNF m-1/3s1 Hệ số nhám bề mặt
HIFD M Giá trị ban đầu để tính
Αn FALFX Non Hệ số dòng chảy dưới mặt
Bộ thông số lớp nước ngầm
Au AUD (1/mm/day) 1/2 Hệ số dòng chảy ngầm
không giới hạn
Ag AGD 1/day Hệ số dòng chảy ngầm giới hạn
Sg HCGD M Chiều cao bể
HIGD M Chiều cao ban đầu để tính
Bộ thông số của lòng sông
RBW - Hệ số thiết lập chiều rộng sông
RBS Non Hệ số từ 0,3 ~ 0,5
RNS m-1/3s-1 Hệ số chính
RRID M Giá trị ban đầu để tính
RGWD 1/day Hệ số thấm của đáy sông
RHW - Mực nước của sông
hc=RHW. RHS
RHS - Giá trị để tính mực nước sông
RBH Non Chiều rộng của sông
RBET Non Độ dốc lòng sông
RLCOF Non Thông số chiều dài sông
Bảng 2. Bộ thông số BTS2
Kí hiệu Thông số Giải thích
x Sn Chỉ số biến đổi GSMap
y mj Tỷ lệ điều chỉnh
2.2. Mô hình thủy lực Nays2Dflood trong IRIC
IRIC (International River Interface Cooperative) là gói
phần mềm phân tích biến động lòng sông và dòng chảy trong
sông, được phát triển bởi quỹ tài trợ của Trung tâm Nghiên
cứu Phòng chống Thiên tai, Đại học Hokkaido.
Nays2DFlood là một modun giải quyết phân tích dòng chảy
lũ nhanh dựa vào mô phỏng dòng chảy 2 chiều ngang không
ổn định và không cần thông tin về số liệu mặt cắt địa hình.
Mô hình thủy lực Nays2DFlood được hiệu chỉnh và kiểm
định thông qua bản đồ hệ số nhám của lưu vực, dựa trên việc
so sánh giữa kết quả mô phỏng độ ngập lớn nhất trong mô
hình và số liệu mực nước thu thập được tại vị trí trạm thủy
văn Quảng Minh ở hạ du lưu vực sông Gianh.
3. Áp dụng và kết quả nghiên cứu
3.1. Áp dụng cho lưu vực nghiên cứu
Sông Gianh là con sông lớn thứ 2 tại Quảng Bình, nằm
phía Bắc của tỉnh. Tổng diện tích lưu vực tính đến trạm
thủy văn Đồng Tâm là 1150 km2 và đến trạm thủy văn Tân
Mỹ là 4420 km2. Lưu vực nghiên cứu nằm trên các huyện
Quảng Trạch, Bố Trạch, Tuyên Hóa và thị xã Ba Đồn thuộc
tỉnh Quảng Bình 5 (Hình 1).
Hình 1. Bản đồ vị trí lưu vực nghiên cứu
3.1.1. Các trạm đo mưa được sử dụng trong nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng 8 trạm đo mưa (Bảng 3). Trong đó,
có 6 trạm đo mưa nằm trong địa bàn tỉnh Quảng Bình, còn
lại có 2 trạm đo thuộc địa bàn của tỉnh Hà Tĩnh, lý do là để
tăng thêm mật độ trạm đo mưa trên lưu vực nhằm mục đích
tính toán mưa theo phương pháp đa giác Thái Sơn được
chính xác hơn.
Bảng 3. Tọa độ các trạm đo mưa
Tên trạm Tuyên Hóa Ba Đồn Minh Hóa Đồng Tâm
Vĩ độ 17052’59” 17045’00” 17048’00” 17055’00”
Kinh độ 106001’01” 106025’01” 106001’01” 106000’00”
Tên trạm Mai Hóa Tân Mỹ Kỳ Anh Hương Khê
Vĩ độ 17048’00” 17041’99” 18004’49” 18010’49”
Kinh độ 106010’58” 106025’58” 106017’14” 105043’14”
3.1.2. Bản đồ DEM và sử dụng đất lưu vực nghiên cứu
Trong mô hình thủy văn IFAS và mô hình thủy lực
Nays2DFlood, do hạn chế về khả năng cập nhật cơ sở dữ
liệu hiện trạng nên nhóm tác giả chỉ sử dụng cơ sở dữ liệu
DEM và bản đồ sử dụng đất lấy từ cơ sở dữ liệu toàn cầu.
3.1.3. Dữ liệu bản đồ hệ số nhám
Hình 2. Bản đồ hệ số nhám vùng nghiên cứu
Thực tế, để xác định hệ nhám n của lưu vực hay sườn
dốc rất khó, do nó còn phụ thuộc vào hiện trạng sử dụng
đất. Xây dựng bản đồ hệ số nhám Manning dựa trên bản đồ
18 Nguyễn Chi Công, Nguyễn Vĩnh Long
hiện trạng sử dụng đất của khu vực nghiên cứu (Bản đồ
hiện trạng sử dụng đất năm 2010 do Đài khí tượng thủy văn
Trung Trung Bộ cung cấp). Kết quả xây dựng bản đồ hệ số
nhám n được trình bày trong Hình 2.
3.1.4. Điều kiện biên và lưới tính toán
- Biên thượng lưu: Do lưu vực sông Gianh rất rộng lớn
và khá phức tạp, cộng thêm việc thu thập số liệu bị hạn chế
nên tác giả quyết định lựa chọn 3 biên thượng lưu tương
ứng với 3 nhánh sông chính của lưu vực sông Gianh. Đây
chính là 3 đường quá trình lưu lượng lũ chảy về các trạm
thủy văn Đồng Tâm, Tân Lâm và Phong Nha. Thời đoạn
lựa chọn tương ứng với 2 trận lũ năm 2016 (từ 11/10 -
17/10) và năm 2015 (từ 10/9 -18/9).
- Biên hạ lưu: Sử dụng đường quá trình mực nước tại
trạm thủy văn Tân Mỹ gần cửa ra của sông Gianh tương
ứng với thời gian xuất hiện 2 trận lũ nói trên.
- Chia lưới tính toán thủy lực và bản đồ cao độ:
Nghiên cứu sử dụng lưới cấu trúc ô vuông 100m x
100m để mô tả đặc điểm địa hình trong phạm vi mô phỏng
của hạ du lưu vực sông Gianh. Vùng nghiên cứu sử dụng
bản đồ với tỉ lệ 1/2000. Cao độ được chuẩn hóa về hệ tọa
độ VN2000 và cao độ quốc gia, lấy bản đồ VN2000 làm
nền để hiệu chỉnh (Hình 3).
Hình 3. Bản đồ chia lưới khu vực tính toán
3.2. Kết quả và bàn luận
3.2.1. Kết quả mô phỏng mô hình thủy văn
Các kết quả dưới đây thực hiện dựa trên 2 trận lũ, trong
đó: trận lũ tháng 10/2016 là trận lũ lớn nhất gần đây đo
được, dùng để hiệu chỉnh mô hình thủy văn và mô hình
mây vệ tinh. Trận lũ tháng 09/2015 được dùng để kiểm
định mô hình thủy văn và mô hình mây vệ tinh.
Hình 4. Kết quả hiệu chỉnh đường quá trình lũ
ngày 11 đến 17/10/2016
Hình 4 và 5 là kết quả hiệu chỉnh thông số của mô hình
thủy văn và mô hình mây vệ tinh cho trận lũ tháng 10/2016
(tại trạm thủy văn Đồng Tâm) với chỉ số Nash1= 0,9 và
Nash2= 0,7. Các thông số mô hình thủy văn và mô hình
mây vệ tinh được thể hiện trong Bảng 4 và Bảng 5.
Hình 5. Kết quả hiệu chỉnh đường quá trình lũ
ngày 11 đến 17/10/2016
Bảng 4. Bộ thông số BTS1
Bảng 5. Bộ thông số BTS2
Thông số Sn mj
Kí hiệu x Y
Giá trị Khi x <= 1,5 thì y = -0,30
Khi x >= 7,5 thì y = 0,30
Sau khi xác định được 2 bộ thông số của mô hình IFAS,
tác giả kiểm định cho 1 trận lũ độc lập vào tháng 09/2015.
Hình 6 và Hình 7 thể hiện kết quả kiểm định mô hình thủy
văn và mô hình mây vệ tinh với chỉ số Nash1= Nash2= 0,83.
Hình 6. Kết quả kiểm định đường quá trình lũ
ngày 10 đến 18/09/2015
Lớp
SKF HFMXD HFMND HFOD SNF FALFX HFID
0,00008 0,10 0,00001 0,0005 0,60 1,65 0,00
0,00002 0,50 0,010 0,0005 2,00 0,60 0,00
0,00001 0,10 0,010 0,0005 2,00 0,50 0,00
0,000001 0,001 0,0005 0,0001 0,10 0,90 0,00
0,00001 0,05 0,010 0,0050 2,00 0,50 0,00
AUD AGD HCGD HIGD
0,30 0,010 2,00 1,00
0,11 0,005 2,00 2,00
0,12 0,003 2,00 2,00
0,13 0,003 2,00 2,00
RBW RBS RNS RRID RGWD RHW RHS
7,00 0,50 0,04 0,20 0,00 9999,00 1,00
7,00 0,50 0,04 0,20 0,00 9999,00 1,00
7,00 0,50 0,04 0,20 0,00 9999,00 1,00
RBH RBET RLCOF
0,50 0,05 1,40
0,50 0,05 1,40
0,50 0,05 1,40
Bề mặt
Nước ngầm
Lòng sông
Các thông số
Mô phỏng
Thực đo
Mô phỏng
Thực đo
Mô phỏng
Thực đo
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 19
Hình 7. Kết quả kiểm định đường quá trình lũ
ngày 10 đến 18/09/2015
3.2.2. Kết quả mô phỏng mô hình thủy lực
Các kết quả mô tả dưới đây được thực hiện dựa trên 2
trận lũ tháng 10/2016 (dùng để hiệu chỉnh) và trận lũ tháng
09/2015 (dùng kiểm định). Mỗi trận lũ được mô phỏng theo
hai kịch bản biên thượng lưu:
-Kịch bản 1: Lưu lượng tại Đồng Tâm là lưu lượng
thực đo, tại Tân Lâm và Phong Nha do không có số liệu
thực đo nên sử dụng lưu lượng mô phỏng của mô hình thủy
văn IFAS từ mưa của các trạm đo trên lưu vực.
-Kịch bản 2: Lưu lượng tại Đồng Tâm, Tân Lâm và
Phong Nha là lưu lượng mô phỏng của mô hình thủy văn
IFAS từ mưa vệ tinh Gsmap-NRT của Nhật Bản.
Bảng 6 ước tính mực nước lũ tại trạm thủy văn Quảng
Minh của trận lũ tháng 10 năm 2016.
Bảng 6. Kết quả tính toán thủy lực tại
trạm thủy văn Quảng Minh, trận lũ tháng 10 năm 2016
Trạm Kịch bản mô phỏng Mực nước lớn nhất (m)
Quảng
Minh
Kịch bản 1 3,4 ~ 3,6
Kịch bản 2 3,3 ~ 3,6
Hình 8 và Hình 9 thể hiện kết quả mô phỏng phạm vi
và độ sâu ngập lụt lớn nhất của trận lũ tháng 10/2016 tương
ứng với kịch bản 1 và kịch bản 2.
Hiệu chỉnh mô hình thủy lực bằng cách so sánh mực
nước lớn nhất mô phỏng với mực nước lớn nhất thực đo tại
trạm thủy văn Quảng Minh vào thời điểm lúc 3h ngày
15/10/2016 là 3,49m.
Các kết quả trên cho thấy, kết quả mô phỏng khá phù
hợp với mực nước lũ lớn nhất đo được tại trạm Quảng
Minh. Do đó lấy bộ thông số hệ số nhám đã xây dựng để
kiểm định cho trận lũ độc lập vào tháng 09/2015.
Hình 8. Bản đồ ngập lụt lớn nhất của kịch bản 1
ứng với trận lũ ngày 11 đến 17/10/2016
Hình 9. Bản đồ ngập lụt lớn nhất của kịch bản 2
ứng với trận lũ ngày 11 đến 17/10/2016
Hình 10 và 11 thể hiện kết quả kiểm định mô hình ứng
với 2 kịch bản tương tự. Tại trạm thủy văn Quảng Minh,
kết quả mô phỏng trận lũ tháng 09 năm 2015 theo mô hình
Nays2DFlood được thể hiện qua Bảng 7. Mực nước lớn
nhất thực đo tại trạm thủy văn Quảng Minh vào thời điểm
lúc 1.00 giờ, ngày 15/09/2015 là 1,63m.
Hình 10. Bản đồ ngập lụt lớn nhất của kịch bản 1,
kiểm định trận lũ từ ngày 10 đến 18/09/2015
Hình 11. Bản đồ ngập lụt lớn nhất của kịch bản 2,
kiểm định cho trận lũ từ ngày 10 đến 18/09/2015
Bảng 7. Kết quả tính toán thủy lực tại
trạm thủy văn Quảng Minh, trận lũ tháng 09 năm 2015
Trạm Kịch bản mô phỏng Mực nước lớn nhất (m)
Quảng
Minh
Kịch bản 1 1,6 ~ 2,0
Kịch bản 2 1,7 ~ 2,1
Kết quả kiểm định trận lũ tháng 9/2015 cho thấy 2 kịch
bản mô phỏng cho kết quả tính toán mực nước lũ lớn nhất
tại trạm Quảng Minh rất phù hợp với mực nước lũ lớn
nhất thực đo. Điều này cho thấy bộ thông số của mô hình
thủy lực Nays2DFlood là tin cậy, có thể dùng để dự báo
Mô phỏng
Thực đo
20 Nguyễn Chi Công, Nguyễn Vĩnh Long
cho các trận lũ trong thời gian đến. Bên cạnh đó, do mô
hình thủy lực Nays2DFlood là mô hình thủy lực 2 chiều
ngang và với ô lưới tính toán kích thước 100 m x 100 m,
thời gian mô phỏng ngập lụt cho hạ lưu sông Gianh chỉ
mất khoảng 1,5 giờ.
Theo 2 kịch bản mô phỏng đã xây dựng thì kịch bản 2 có
lợi thế hơn là có thể dự báo sớm khả năng ngập lụt cho hạ
lưu sông Gianh nhờ mô hình tính mưa từ mây vệ tinh. Theo
đó mây vệ tinh cho phép dự báo trận mưa gây lũ sau 3 giờ
kể từ thời gian bắt đầu trận mưa thực tế gây lũ, đây chính là
độ trễ do truyền tín hiệu hình ảnh mây vệ tinh và sau mỗi giờ
sẽ nhận được hình ảnh tiếp theo. Do đó đường quá trình lũ
của kịch bản 2 được mô phỏng và cập nhật theo từng giờ.
Trong khi đó, đường quá trình lũ mô phỏng của kịch bản 1
chỉ tính được khi kết thúc trận mưa gây lũ vì lúc đó dữ liệu
đo mưa của các trạm mới truyền về.
4. Kết luận
Nghiên cứu bước đầu khai thác dữ liệu vệ tinh Gsmap-
NRT của Nhật Bản vào mô hình thủy văn IFAS và mô hình
thủy lực Nays2DFlood để dự báo sớm ngập lụt cho hạ lưu lưu
vực sông Gianh, tỉnh Quảng Bình, nơi vừa hứng chịu tổn thất
nặng nề về người và của sau trận lũ lịch sử năm 2016. Các kết
quả cho thấy khả năng ứng dụng cách tiếp cận này là rất khả
thi. Các bộ thông số của mô hình thủy văn, mây vệ tinh và
thủy lực được xác định cho lưu vực sông Gianh là rất tin cậy.
Đây chính là cơ sở dữ liệu để xây dựng bộ công cụ dự báo
sớm ngập lụt cho hạ lưu sông Gianh trong thời gian đến. Kết
quả dự báo này là cơ sở hỗ trợ ra quyết định cho chính quyền
địa phương ứng phó kịp thời.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] River Center of Hokkaido (2014). IRIC Software User’s Manual, Japan.
[2] Yasuyuki Shimizu (2015). Nays2DFlood Solver Manual, Hokkaido University, Japan.
[3] ICHARM Public Works Research Institute – Japan (2014), IFAS
ver.2.0 technical manual. International Centre for Water Hazard and
Risk Management.
[4] ICHARM, PWRI (2015). IFAS Quick Reference for ver 2.0, Japan.
[5] Nguyễn Đức Lý, Ngô Hải Dương, Nguyễn Đại (2013), Khí hậu và Thủy
văn tỉnh Quảng Bình, Nhà Xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
[6] Ngô Hải Dương (2016), Bản đồ ngập lụt tỉnh Quảng Bình vùng hạ
du sông Gianh và sông Nhật Lệ (Mô phỏng theo trận lũ tháng
10/2016), Đài Khí tượng Thủy văn tỉnh Quảng Bình.
[7] Hoàng Thái Bình, Trần Ngọc Anh, Đặng Đình Khá (2010), Ứng
dụng mô hình MIKE FLOOD tính ngập lụt hệ thông sông Nhật Lệ
tỉnh Quảng Bình. Tạp chí Khoa học ĐHQGNH, Khoa học tự nhiên và Công nghệ 26, số 3S(2010), p285-294.
(BBT nhận bài: 18/05/2017, hoàn tất thủ tục phản biện: 23/05/2017)
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 21
NGHIÊN CƯU THU NHẬN DỊCH ĐẠM THUY PHÂN
TỪ VỎ ĐẦU TÔM BẰNG ENZYME ALCALASE
RESEARCH ON OBTAINING PROTEIN HYDROLYSATE
FROM SHRIMP HEAD WASTE USING ALCALASE ENZYME
Bùi Xuân Đông1, Phạm Thị Mỹ2, Huỳnh Văn Anh Thi1, Trần Trung Thanh Bình3, Ngô Thị Ngọc Bích4,
Nguyên Văn Tuyên5, Hà Ngọc Tuấn6 1Trường Đại học Bách khoa - Đại học Đà Nẵng; [email protected]
2Trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng 3Trường Cao đẳng Bách khoa Đà Nẵng
4Học viện CNTT Microsoft – Đại học Đà Nẵng 5Trương Cao đẳng Lương thưc – Thưc phâm Đa Năng
6Trung tâm Chất lượng Nông Lâm Thủy sản vùng 2 – Đà Nẵng
Tóm tắt - Trong bài báo này, chế phẩm dịch đạm (PPH) từ vỏ đầu tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei) được nghiên cứu thu hồi bằng công nghệ enzyme. Enzyme alcalase đã được sử dụng để nghiên cứu phản ứng thủy phân protein trong vỏ đầu tôm. Nghiên cưu đã xác định được các thông số cơ bản của phản ứng enzyme để thủy phân protein trong vỏ đầu tôm như nhiệt độ môi trường, pH môi trường, tỷ lệ enzyme với cơ chất, thời gian phản ứng enzyme lần lượt là 55°C; 8,0; 1.5% và 80 phút, hiệu suất thu protein khi đó đạt mức 61,28 ± 0,5%. Chế phẩm dịch đạm từ vỏ đầu tôm có hàm lượng protein xác định được là 7,93%, hàm lượng nitơ axit amin là 0,87 gam/lít. Chế phẩm dịch đạm từ vỏ đầu tôm được xác định đủ điều kiện sử dụng làm thức ăn chăn nuôi (theo QCVN 01-183:2016/BNNPTNT).
Abstract - In this article, preparation of protein hydrolysate (PPH) from shrimp waste mainly comprising head and shell of Penaeus vannamei by enzymatic hydrolysis is presented. Enzyme alcalase is used to optimize hydrolysis conditions for shrimp waste hydrolysis. A model equation is proposed to determine effects of temperature; pH; enzyme/substrate ratio and time on degree of hydrolysis where optimum values are found to be 55°C; 8,0; 1.5% and 80 min, for maximum degree of hydrolysis 61,28±0,5% respectively. The extraction of prepared protein hydrolysate obtained contains protein content (7,93%) and nitrogen amino acid content (0,87 g/l). Prepared protein hydrolysate is suitable enough to recommend as a functional food additive (according to QCVN 01-183:2016/BNNPTNT).
Từ khóa - chế phẩm dịch đạm (PPH); vỏ đầu tôm; enzyme alcalase; Bacillus lichenifomis, protein; protease; endopeptidase; hợp chất có hoạt tính sinh học; ô nhiễm môi trường
Key words - preparation of protein hydrolysate (PPH); shrimp head waste; enzyme alcalase; Bacillus lichenifomis; protein; protease; endopeptidase; bioactive compound; environment pollution
1. Đặt vấn đề
Việc tận dụng phế liệu công nghiệp chế biến tôm để sản
xuất các sản phẩm giá trị gia tăng đã gây ra những tác động
xấu trong những năm qua. Tác động xấu sinh ra khi dùng
công nghệ lạc hậu có thể kể đến là vấn nạn ô nhiễm môi
trường. Công nghệ hiện đang sử dụng để xử lý phế liệu tôm
thải ra những sản phẩm phụ là các chất độc hại như HCl,
acid acetic và NaOH vào hệ sinh thái nước, tác động mạnh
tới môi sinh của động vật và thực vật trong nước, dẫn tới
mất cân bằng sinh thái. Vì vậy vấn đề nghiên cứu và sử
dụng công nghệ thay thế an toàn hơn là vấn đề cấp thiết [1].
Phế liệu vỏ đầu tôm chứa các hoạt chất sinh học như chitin,
chất màu, axit amin và các acid béo. Những hoạt chất sinh
học này được ứng dụng rộng rãi trong y học, điều trị, mỹ
phẩm, công nghiệp dệt và sản xuất giấy, công nghệ sinh
học và công nghệ thực phẩm [1, 3]. Mục tiêu của nghiên
cứu này là tìm giải pháp sinh học để thu các amino acid và
peptid (sản phẩm thủy phân protein) từ vỏ đầu tôm, từ đó
tạo ra chế phẩm dịch đạm nhằm định hướng ứng dụng trong
chăn nuôi. Chế phẩm dịch đạm (preparation of protein
hydrolysate- PPH) từ vỏ đầu tôm được dùng làm thức ăn
bổ sung trong chăn nuôi gia súc, gia cầm và trong nuôi
trồng thủy sản. Việc nghiên cứu sản xuất PPH hiện nay rất
được quan tâm [1-3].
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
2.1.1. Vỏ đầu tôm
Mẫu vỏ đầu tôm thuộc loại tôm thẻ chân trắng (Penaeus
vannamei) được thu mua tại Xí nghiệp đông lạnh 32 –
Công ty Cổ phần Thủy sản và Thương mại Thuận Phước,
Đà Nẵng. Các mẫu vỏ đầu tôm được chứa trong các túi
nilon và chuyển ngay về phòng kiểm nghiệm – Trung tâm
Chất lượng Nông Lâm Thủy sản Vùng 2, Đà Nẵng. Tại đây,
mẫu vỏ đầu tôm được rửa sạch dưới vòi nước chảy để bỏ
thịt vụn và bùn, sau đó để ráo nước và phân chia vào các
bao PE dán đê đảm bảo vô trùng, mỗi túi chứa 50g vỏ đầu
tôm nguyên liệu. Các mẫu này có thể sử dụng làm thí
nghiệm ngay hoặc đem đi cấp đông ở nhiệt độ -200C.
Những lần sử dụng tiếp theo sẽ tiến hành rã đông từ từ trong
tủ lạnh trước khi thực hiện các thí nghiệm.
Khi tiến hành thí nghiệm, các mẫu vỏ đầu tôm được
nghiền đến kích thước 2 – 3 mm để tăng diện tích tiếp xúc
với enzyme.
2.1.2. Enzyme
Nghiên cứu này sử dụng enzyme Alcalase 2.4L của
hãng Novo Nordisk, Bagsvaerd, Denmark.
Alcalase là enzyme thủy phân protein thu nhận từ
Bacillus lichenifomis. Chúng có khả năng phân cắt các liên
kết peptide nội phân tử (endopeptidase) để chuyển các phân
tử protein thành peptide. Các điều kiện tối thích cho
enzyme Alcalase là nhiệt độ từ 550C đến 700C, phụ thuộc
vào loại cơ chất, và giá trị pH là từ 6,5 đến 8,5.
22 Bùi Xuân Đông, Phạm Thị Mỹ, Huỳnh Văn Anh Thi, Trần Trung Thanh Bình, Ngô Thị Ngọc Bích, Nguyên Văn Tuyên, Hà Ngọc Tuấn
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Xác định tỷ lệ enzyme Alcalase/nguyên liệu vỏ đầu
tôm thích hợp cho phản ứng enzyme thủy phân protein
Cho 50g vỏ đầu tôm đã nghiền nhỏ (kích thước 2 –
3mm) vào các bao PE dán, bổ sung 50ml nước (trước đó
điều chỉnh pH nước về pH = 8 bằng NaOH 20%). Thêm
enzyme Alcalase 2.4L với các tỉ lệ là 0,5%, 1,0 %, 1,5% và
2,0% so với khối lượng nguyên liệu vỏ đầu tôm. Quá trình
thủy phân được thực hiện ở nhiệt độ 450C trong thời gian
80 phút. Tiến hành thu dịch thủy phân và đánh giá các chỉ
tiêu chất lượng.
2.2.2. Xác định giá trị pH thích hợp cho phản ứng enzyme
thủy phân protein trong vỏ đầu tôm
Cho 50g vỏ đầu tôm đã nghiền nhỏ (kích thước 2 - 3mm)
vào bao PE dán, bổ sung 50ml nước, điều chỉnh pH môi
trường các mẫu tương ứng pH = 6, pH = 7, pH = 8, pH = 9
bằng dung dịch NaOH 20%. Thêm enzyme Alcalase 2.4L
với tỉ lệ 1,5% so với khối lượng nguyên liệu vỏ đầu tôm. Quá
trình thủy phân được thực hiện ở nhiệt độ 450C trong thời
gian 80 phút. Tiến hành thu dịch thủy phân và đánh giá các
chỉ tiêu chất lượng nhằm tối ưu hóa thông số tiếp theo.
2.2.3. Xác định nhiệt độ thích hợp cho phản ứng enzyme
thủy phân protein trong vỏ đầu tôm
Cho 50g vỏ đầu tôm đã nghiền nhỏ (kích thước 2 –
3mm) vào bao PE dán, bổ sung 50ml nước, chỉnh pH môi
trường về pH = 8 bằng NaOH 20%. Thêm enzyme Alcalase
2.4L với tỉ lệ là 1,5% so với khối lượng nguyên liệu vỏ đầu
tôm. Quá trình thủy phân được thực hiện ở các giá trị nhiệt
độ là 400C, 450C, 500C, 550C trong thời gian 80 phút. Tiến
hành thu dịch thủy phân và đánh giá các chỉ tiêu chất lượng.
2.2.4. Hiệu suất thu hồi protein từ vỏ đầu tôm
Hiệu suất thu hồi protein từ vỏ đầu tôm được tính theo
công thức:
1
2
(%) 100N
N
CH
C
Trong đó: CN1- là hàm lượng protein trong dịch đạm;
CN2- là hàm lượng protein trong vỏ đâu tôm
nguyên liệu (Hàm lương protein đươc xác định thông qua
hàm lượng nitơ tông sô nhân với hê số chuyển đôi là 6,25)
2.3. Các phương pháp phân tích
2.3.1. Các phương pháp phân tích thành phần nguyên liệu
và chất lượng PPH
- Nghiên cứu sử dụng các phương pháp phân tích chuẩn
theo quy định hiện hành để phân tích thành phần hóa học
của nguyên liệu và sản phẩm PPH. Cụ thể như sau: hàm
lượng protein được xác định bằng phương pháp Kjeldahl;
hàm lượng lipit được xác định theo tiêu chuẩn NMKL số
131 – 1989; hàm lượng ẩm được xác định theo tiêu chuẩn
NMKL số 23 – 1991; hàm lượng tro được xác định theo
tiêu chuẩn NMKL số 173-2005; hàm lượng nitơ amin được
xác định theo TCVN 3708 – 1990; hàm lượng axit amin
được xác định theo TCVN 8764 – 2012.
- Hàm lượng astaxanthin trong đầu tôm được phân tích
theo phương pháp của Metusalach [4] và Tolasa và cộng
sự [5]. Cân chính xác 1g mẫu cho vào ống đồng hóa (hay
cốc thủy tinh).
Thêm 5ml dung môi chứa hexan và isopropanol với tỷ lệ
3:2 (v:v). Đồng hóa trong 2 phút với tốc độ 15000 vòng/phút.
Để yên 30 phút. Sau đó tiến hành lọc qua giấy lọc Whatman
No.1. Tách chiết 3 lần. Dịch chiết được đựng trong bình
chiết và bổ sung thêm nước muối sinh lý với tỷ lệ 1:2. Lắc
nhẹ bình chiết và để yên trong 10 phút ở nhiệt độ phòng cho
tách pha hoàn toàn. Tách bỏ pha dưới, lấy pha hexan bên
trên. Sau đó, rửa pha hexan bằng nước muối sinh lý. Tiến
hành cô quay chân không ở 400C để bay hơi hexan. Hòa tan
mẫu với ete dầu hỏa và định mức lên 10ml. Sau đó, tiến hành
pha loãng mẫu (nếu cần) và đo độ hấp thụ của dung dịch ở
bước sóng 468 nm (A468), dùng ete dầu hỏa làm dung dịch
so sánh. Hàm lượng astaxanthin tổng số trong mẫu được tính
theo công thức của Saito và Regier (1971):
( / )0, 2
A D VC g g
G
Trong đó: C: là hàm lượng astaxanthin (μg/g mẫu);
A: độ hấp thụ của dung dịch ở 468 nm;
V: thể tích pha loãng (ml);
D: hệ số pha loãng;
G: trọng lượng mẫu khô (g);
0,2: là độ hấp thụ của dung dịch ở bước sóng
468 nm của 1 μg/ml astaxanthin chuẩn.
2.3.2. Các phương pháp phân tích vi sinh
Khả năng lây nhiễm vi sinh vật có hại của PPH được
đánh giá thông qua việc: định lượng tổng số vi sinh vật hiếu
khí theo TCVN 4884 – 2005; định lượng Coliforms theo
TCVN 6848 – 2007; định lượng E. coli β- glucuronidase
dương tính theo TCVN 7924 – 2008; định lượng
Staphylococcus aureus tiêu chuẩn NMKL 66 – 2003.
2.4. Phương pháp xử lý số liệu
- Các thí nghiệm trong nghiên cứu được lặp lại tối thiểu
3 lần, kết quả đưa ra là trung bình hoặc có tính chất đại diện
tốt nhất cho 3 lần thí nghiệm.
Trong một số thí nghiệm có số lần lặp lại cao hơn và số
liệu được xử lý thống kê.
- Các kết quả được tính toán và xử lý bằng chương trình
Microsoft Excel 2010.
3. Kết quả nghiên cứu và khảo sát
3.1. Kết quả xác định thành phần hóa học của vỏ đầu tôm
Bảng 1 cho thấy độ ẩm của vỏ đầu tôm nguyên liệu là
79,5%, hàm lượng protein chiếm 63,1% và khoáng chiếm
18,7% theo hàm lượng chất khô.
Bảng 1. Thành phần hóa học của nguyên liệu
vỏ đầu tôm thẻ chân trắng
STT Chỉ tiêu phân tích Đơn vị Kết quả
1 Độ ẩm % 79,5±0,3
2 Hàm lượng tro % 18,7±0,06
3 Hàm lượng protein % 63,1±0,07
4 Hàm lượng lipit % 9,7±0,4
5 Hàm lượng astaxanthin mg/kg 141,8±0,3
Theo nghiên cứu của Trang Sĩ Trung và cộng sự [5],
hàm lượng protein chiếm 54,4% và hàm lượng khoáng
chiếm 21,2% theo hàm lượng chất khô của nguyên liệu vỏ
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 23
đầu tôm thẻ chân trắng. Các kết quả phân tích hàm lượng
protein và khoáng trong các thí nghiệm này có sự chênh
lệch so với tác giả trước có thể giải thích là do đặc điểm về
loài, thành phần thức ăn và chu kì sinh sản của tôm chân
trắng và vị trí địa lý.
Hàm lượng astaxanthin (carotenoid) trong nguyên liệu
vỏ đầu tôm chân trắng khoảng 141,85 mg/kg theo hàm
lượng chất khô, đây là thành phần thường được thu hồi để
ứng dụng trong y học và công nghệ thực phẩm [4; 5; 6].
Theo Sachindra và cộng sự [7], hàm lượng carotenoid
chứa trong vỏ đầu tôm khoảng 35 – 153 µg/g. Thành phần
carotenoid này sẽ ảnh hưởng nhiều đến chất lượng cảm quan
của sản phẩm chitin đồng thời làm ô nhiễm nguồn nước, do
đó cần xử lý triệt để trong quá trình sản xuất chitin.
Thành phần chính của carotenoid trong vỏ đầu tôm là
astaxanthin (86-96%) nên có thể hiểu thu carotenoid là thu
astaxanthin.
3.2. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng tỉ lệ enzyme Alcalase/
vỏ đầu tôm đến hiệu suất thủy phân protein từ vỏ đầu tôm
Nồng độ cơ chất và nồng độ enzyme có ảnh hưởng đến
tốc độ của phản ứng enzyme [13]. Trong Hình 1, hiệu suất
thu hồi protein phụ thuộc nhiều vào nồng độ enzyme
Alcalase sử dụng. Ở ty lê 0,5% enzyme Alcalase, hiệu suất
thu hồi protein là 30,46%, khi tỷ lệ enzyme tăng lên gấp hai,
gấp ba lần thì hiệu suất thu hồi tăng lên tương ứng là 43,96%
và 51,06%. Việc tăng tỷ lệ enzyme làm tăng hiệu suất thu
hồi protein do số lượng phân tử enzyme tiếp xúc và phân cắt
protein trong tăng. Nhưng khi tỷ lệ enzyme Alcalase/ vỏ đầu
tôm tăng lên 2,0% thì hiệu suất đạt 48,69%.
Shahidi và cộng sự [10] đã chứng minh rằng trong giai
đoạn đầu của quá trình thủy phân, lượng lớn protein hòa
tan sẽ được giải phóng và không có sự tăng lên các sản
phẩm thủy phân hòa tan khi thêm enzyme trong giai đoạn
ổn định của quá trình thủy phân.
Hình 1. Ảnh hưởng của nồng độ Enzyme alcalase
đến hiệu suất thu hồi protein từ vỏ đầu tôm
Diniz và Martin [11] đã báo cáo rằng, khi cơ chất có
mặt trong dịch thủy phân được gắn vào trung tâm hoạt động
của enzyme, các enzyme tự do có thể sẽ ức chế quá trình
thủy phân và có thể thủy phân chúng. Bởi vậy, việc tăng
nồng độ enzyme lên quá cao trên 4% không được khuyến
khích và sẽ không kinh tế.
Với phân tích trên đây, sử dụng tỷ lệ enzyme Alcalase
là 1,5% thì hiệu suất hiệu suất thu hồi protein là tốt nhất –
đạt mức 51,06%. Kết quả này sẽ được sử dụng cho các thí
nghiệm tiếp theo.
3.3. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của độ pH đến hiệu
suất thủy phân protein trong vỏ đầu tôm bằng enzyme
Theo Phạm Thị Trân Châu [12], pH môi trường ảnh
hưởng rõ rệt đến phản ứng enzyme vì nó ảnh hưởng đến
mức độ ion hóa cơ chất, enzyme và ảnh hưởng đến độ bền
của protein enzyme.
Hình 2 thể hiện ảnh hưởng của pH đến hiệu suất thu hồi
protein từ vỏ đầu tôm.
Hình 2. Ảnh hưởng của nồng độ pH đến
hiệu suất thu hồi protein từ vỏ đầu tôm
Khi sử dụng pH = 6 cho phản ứng thủy phân protein, đây
chưa phải là mức pH tối thích cho hoạt động của enzyme
Alcalase, bởi vậy hiệu suất thu hồi chỉ đạt 33,64%. Khi phản
ứng thủy phân vỏ đầu tôm được thực hiện ở pH trung tính
(pH = 7), hiệu suất thu hồi protein đã tăng lên một cách đáng
kể, khoảng 41,42%. Và khi phản ứng thủy phân thực hiện ở
giá trị pH là 8 thì hiệu suất thu hồi là 49,51%, đạt cao nhất
trong bốn phản ứng. Và cuối cùng, khi cho phản ứng xảy ra
ở pH = 9 thì đây không còn là điều kiện tối thích cho enzyme
Alcalase hoạt động, hiệu suất thu hồi protein giảm xuống còn
48,45%, điều này có thể giải thích do khi pH tăng sẽ ảnh
hưởng đến độ bền của enzyme làm cho hoạt động của nó trở
nên yếu hơn, kéo theo làm giảm lượng protein tạo thành.
Như vậy, giá trị pH = 8 sẽ là pH tối ưu cho quá trình thủy
phân vỏ đầu tôm thẻ chân trắng. Kết quả này sẽ được sử dụng
để thực hiện thí nghiệm tiếp theo.
3.4. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ đến
hiệu suất thủy phân protein
Theo Nguyễn Đức Lượng [13], nhiệt độ ảnh hưởng rất
lớn đến phản ứng enzyme và người ta thường sử dụng yếu
tố nhiệt độ để điều khiển hoạt động của enzyme và tốc độ
phản ứng trong bảo quản và chế biến thực phẩm.
Hình 3 thể hiện ảnh hưởng của nhiệt độ đên hiệu suất
thu hồi protein từ vỏ đầu tôm. Như thấy được trong hình,
sự thay đổi nhiệt độ ảnh hưởng rõ rệt nhất đến hiệu suất thu
hồi protein. Ở nhiệt độ 400C, hiệu suất thu hồi protein là
39,49%, khi tăng nhiệt độ lên thêm 50C thì hiệu suất thu
hồi protein tăng thêm 9,97%. Khi thực hiện phản ứng thủy
phân ở 500C thì hiệu suất thu hồi vẫn tăng nhưng tăng
chậm, chỉ tăng thêm 6,48% so với nhiệt độ 450C. Tiếp theo,
thí nghiệm được tiến hành ở 550C, hiệu suất thu hồi protein
chỉ tăng thêm 5,33% so với khi thực hiện ở 500C. Hiệu suất
24 Bùi Xuân Đông, Phạm Thị Mỹ, Huỳnh Văn Anh Thi, Trần Trung Thanh Bình, Ngô Thị Ngọc Bích, Nguyên Văn Tuyên, Hà Ngọc Tuấn
thu hồi protein cao nhất ở nhiệt độ 550C. Nhưng ở mức
nhiệt độ 600C thì hiệu suất thu hồi protein lại giảm, chỉ đạt
mức 50,1% có thể do enzyme bắt đầu bị biến tính dưới tác
dụng của nhiệt độ cao.
Hình 3. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến
hiệu suất thu hồi protein từ vỏ đầu tôm
Satya S. Dey & Krushna Chandra Dora [14], khi nghiên
cứu thủy phân thu hồi protein từ vỏ đầu tôm sú Penaeus
monodon bằng 4 loại enzyme Alcalase, Neutrase,
Protamex, Flavourzyme cho thấy Alcalase có tác dụng tốt
nhất. Chế độ tối ưu đề xuất thủy phân là ở nhiệt độ 59,370C,
pH 8,25, tỷ lệ enzyme/cơ chất 1,84%, thời gian 84,42 phút.
Như vậy, nếu so sánh với kế quả nghiên cứu của bài báo
này thì có sự khác biệt đáng kể. Điều này có thể giải thích
do nghiên cứu của Satya S. Dey & Krushna Chandra Dora
thủy phân trên đối tượng là tôm sú khác với đối tượng sử
dụng trong nghiên cứu này là tôm thẻ chân trắng. Ngoài ra,
do thành phần của vỏ đầu tôm nguyên liệu tôm khác nhau
theo vị trí địa lý, mùa vụ sinh trưởng, điều kiện môi trường
thủy phân, ... nên kết quả ở đây có sự khác nhau.
Như vậy, nhiệt độ 550C là thích hợp cho quá trình thủy
phân vỏ đầu tôm bằng enzyme Alcalase.
3.5. Kết quả khảo sát chất lượng PPH
Từ những nghiên cứu và luận giải trên đây, điều kiện
phản ứng enzyme xác định được là nhiệt độ môi trường
phản ứng 550C, tỉ lệ enzyme Alcalase/vỏ đầu tôm là 1,5%,
giá trị pH = 8 (được điều chỉnh bằng NaOH), thời gian phản
ứng là 80 phút.
Hình 4. Mẫu PPH từ vỏ đầu tôm
Nhóm nghiên cứu đã tiến hành thu PPH ở điều kiện xác
định được, hiệu suất thu protein đạt 61,28±0,5 % so với
hàm lượng trong nguyên liệu ban đầu, sau đó phân tích các
chỉ tiêu chất lượng PPH thu được. Trên Hình 4 là mẫu chế
phẩm PPH thu được sau khi thực hiện phản ứng enzyme.
3.5.1. Thành phần hóa học và thành phầm acid amin của PPH
Kết quả xác định thành phần hóa học và đặc tính hóa lý
của PPH được trình bày trong Bảng 2
Bảng 2. Kết quả phân tích thành phần hóa học PPH
Chỉ tiêu phân tích Đơn vị Kết quả
Độ ẩm % 90,5±0,06
Khoáng % 0,82±0,4
Protein (N×6,26) % 7,93±0,03
Lipit % 0,95±0,5
Astaxanthin mg/kg 25,5±0,5
Nitơ axit amin g/l 0,87±0,07
pH - 7,0-7,5
Phân tích kết quả trong Bảng 2, cho thấy hàm lượng
protein đạt mức 7,93%, ham lương nitơ axit amin ở mức
0,87g/l. Trong chế phẩm PPH còn chứa lipit và astaxanthin,
đây là những thành phần có giá trị dinh dưỡng và giá trị
sinh học cao.
Kêt quả phân tích thành phần cac axit amin trong PPH
được trình bày trong Bảng 3 và trên săc kí đô HPLC (Hình 5)
Bảng 3. Thành phần các axit amin trong chế phẩm PPH
STT Axit amin Kết quả
(g/l) STT Axit amin
Kết quả
(g/l)
1 Alanine 0,58 10 Glutamic axit 0,89
2 Glycine 0,52 11 Phenylalanine 0,27
3 Proline 0,56 12 Asparagine 0,68
4 Valine 0,44 13 Arginine 0,18
5 Serine 0,16 14 Cystine 0,1
6 Leucine 0,67 15 Lysine 0,66
7 Isoleucine 0,43 16 Histidine 0,14
8 Threonine 0,18 17 Tyrosine 0,09
9 Methionine 0,18 18 Tryptophan 0,03
Hình 5. Săc ki đô HPLC thu đươc khi phân tich
thanh phân axit amin cua chê phâm PPH
Trong Bảng 3, ta thấy PPH thu được từ quá trình thủy
phân vỏ đầu tôm bằng enzyme alcalase 2.4L chứa tổng hàm
lương axit amin là 6,76 g/l. Đặc biệt là các axit amin thiết
yếu có giá trị cao về dinh dưỡng như valine, leucine,
isoleucine, methionine, threonine, phenylalanine,
tryptophan, lysine, arginine, histidine [17].
Ibrahim và cộng sự [15], đã nghiên cứu thành phần các
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 25
axit amin trong vỏ đầu tôm he sấy khô và nhận thấy trong
nguyên liệu có chứa lượng các axit amin như axit glutamic
(8,38%), lysine (3,13%), valine (4,56%), asparagine (2,36%),
proline (2,0%). Do trong nghiên cứu của Ibrahim và cộng sự
đã sử dụng tôm sấy khô, dưới tác dụng của nhiệt độ nên đã
làm hao hụt phần lớn các axit amin. Vì vậy so với kết quả
nghiên cứu này thì có sự khác biệt như trên đã phân tích.
3.5.2. Kết quả phân tích các vi sinh vật gây bệnh trong PPH
Kết quả phân tích vi sinh vật trong PPH được trình bày
trên Hình 6 và Bảng 4.
Hình 6. Kết quả phân tích các vi sinh vật gây bệnh:
A – Coliforms; B – Escherichia coli;
C – Staphylococcus aureus; D – Tổng số vi sinh vật hiếu khí
Qua kết quả phân tích vi sinh vật thấy được chất lượng
của PPH là khá tốt. Các chỉ tiêu Coliforms, Escherichia
coli, Staphylococcus aureus ở mức dưới 01 CFU/ml và
tổng số vi sinh vật hiếu khí là 2,0 x 101 CFU/ml, các kết
quả này đều nằm trong giới hạn cho phép đối với các loại
thức ăn chăn nuôi [16]. Điều này có thể giải thích do chế
độ pH và nhiệt độ trong quá trình thủy phân đã ức chế gần
như hoàn toàn các vi sinh vật gây bệnh. Phần lớn các vi
sinh vật này phát triển ở nhiệt độ 30 – 370C, nên khi nâng
nhiệt độ lên 550C kéo dài trong 80 phút thì hầu hết các vi
sinh vật đã bị tiêu diệt.
Bảng 4. Kết quả phân tích vi sinh vật trong PPH
Chỉ tiêu phân tích Đơn vị Kết quả
Tổng số vi sinh vật hiếu khí CFU/ml 2,0 x 101
Coliforms CFU/ml <1,0
Escherichia coli CFU/ml <1,0
Staphylococcus aureus CFU/ml <1,0
3.6. Đề xuất quy trình công nghệ thu nhận PPH từ vỏ
đầu tôm
Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu ở trên, nhóm nghiên
cứu đề xuất quy trình công nghệ thu hồi PPH như Hình 7.
Quy trình công nghệ được mô tả như sau: Vỏ đầu tôm
sau quá trình rửa và xử lý để loại bỏ tạp chất được đưa vào
máy ép cơ học. Dưới tác dụng nén ép của trục vít phần thịt
đầu tôm sẽ được tách ra khỏi phần bã vỏ đầu tôm dưới dạng
dịch. Phần này sau đó được tinh chế và sử dụng như PPH.
Sau khi ép, vỏ tôm được nghiền tới kích thước 1-3 mm và
đưa sang quá trình thủy phân bằng enzyme Alcalase. Quá
trình thủy phân protein từ vỏ đầu tôm được thực hiện ở
nhiệt độ 550C, tỉ lệ enzyme Alcalase/vỏ đầu tôm là 1,5%,
tỉ lệ nước cất/ nguyên liệu là 1:1, giá trị pH = 8 trong thời
gian 80 phút. Sau khi kết thúc quá trình thủy phân, dịch
thủy phân protein được lọc và tách khỏi bã vỏ đầu tôm, quá
trình lọc có thể thực hiện trong máy lọc ép khung bản. Dịch
lọc thu được mang đi tinh chế qua các quá trình đồng hóa,
và cô đặc chân không để tạo PPH.
Hình 7. Quy trình công nghệ thu nhận PPH từ vỏ đầu tôm
4. Kết luận
Từ các kết quả nghiên cứu chúng tôi rút ra những kết
luận sau đây:
- Đã xác định được thành phần hóa học của vỏ đầu tôm
nguyên liệu, trong đó hàm lượng protein là 63,1%, lipit là
9,7%, astaxanthin là 141,85 mg/kg theo hàm lượng chất khô.
- Xác định được điều kiện thích hợp cho phản ứng
enzyme thủy phân protein trong vỏ đầu tôm nghiền nhỏ.
Cụ thể: tỉ lệ enzyme Alcalase/ vỏ đầu tôm là 1,5%, nhiệt độ
và pH môi trường phản ứng t=550C, pH = 8; thời gian phản
ứng là 80 phút. Hiệu suất thu protein đạt 61,28±0,5% so
với hàm lượng trong nguyên liệu ban đầu.
- Phân tích thành phần axit amin của PPH cho thấy chứa
hầu hết các axit amin như valine (0,44 g/l), lysine
(0,66 g/l), leucine (0,67 g/l), alanine (0,58 g/l), glycine
(0,52 g/l), proline (0,56 g/l), axit glutamic (0,89 g/l),
asparagine (0,68 g/l). Đây là các axit amin có gia tri dinh
dưỡng, có thể được sử dụng cho công nghệ thực phẩm và
thức ăn chăn nuôi.
- PPH có các chỉ tiêu vi sinh như Coliforms, Escherichia
coli, Staphylococcus aureusnhỏ hơn 1 CFU/ml và tổng số vi
sinh vật hiếu khí là 2,0 x 101 CFU/ml, các kết quả này đều nằm
trong giới hạn cho phép đối với các loại thức ăn chăn nuôi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Prameela Kandra & Murali Mohan Challa & Hemalatha Kalangi
Padma Jyothi, “Efficient use of shrimp waste: present and future
trends”. Appl Microbiol Biotechnol 2012, №93:pp. 17–29.
26 Bùi Xuân Đông, Phạm Thị Mỹ, Huỳnh Văn Anh Thi, Trần Trung Thanh Bình, Ngô Thị Ngọc Bích, Nguyên Văn Tuyên, Hà Ngọc Tuấn
[2] Trang Sĩ Trung, Trần Thị Luyến, Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn Thị
Hằng Phương. Chitin-Chitosan từ phế liệu thủy sản và ứng dụng. NXB Nông nghiệp, TP. HCM, 2010.
[3] Đỗ Văn Nam và ctv, “Nghiên cứu đánh giá hiện trạng môi trường các
cơ sở chế biến thủy sản, đề xuất các giải pháp quản lí”. Viện nghiên
cứu Hải Sản, Hai Phong, 2005.
[4] Metusalach, Brown, J.A., Shahidi, F., “Effects of stocking density on
colour characteristics and deposition of carotenoids in cultured Arctic
charr (Salvelinus alpinus)”. Food Chemistry, №59, 1997, pp.107–114.
[5] Tolasa, S., Cakli, S., Ostermeyer, U., “Determination of astaxanthin
and canthaxanthin in salmonid”. European Food Research and Technology, № 221, 2005, pp. 787–791.
[6] Trang Si Trung and Pham Thi Doan Phuong, “Bioactive Compounds
from By-Products of Shrimp Processing Industry in Vietnam”,
Journal of Food and Drug Analysis, № 20(1), 2012, pp. 194–197.
[7] N.M. Sachindra, N. Bhaskar, N.S. Mahendrakar, “Recovery of
carotenoids from shrimp waste in organic solvents”, Waste Management, № 26, 2006, pp. 1092–1098.
[8] Nguyễn Văn Ngoan và cộng sự, Nghiên cứu công nghệ tổng hợp sử
dụng phế thải trong sản xuất tôm đông lạnh xuất khẩu, Đề tài KN-
04-07, Viện nghiên cứu hải sản, Hải Phòng, 1995.
[9] Haslaniza, H., Maskat, M. Y., Wan Aida, W. M. and Mamot, S., “The
effects of enzyme concentration, temperature and incubation time on
nitrogen content and degree of hydrolysis of protein precipitate from cockle (Anadara granosa) meat wash water”, International Food
Research Journal, № 17, 2010, pp. 147–152.
[10] Fereidoon Shahidi, Xiao-Qing Han & Jozef Synowiecki, “Production
and characteristics of protein hydrolysates from capelin (Mallotus
villosus)”, Food Chemistry, № 53, 1995, pp. 285–293.
[11] Diniz F.M, Martin A.M., “Use of response surface methodology to
describe the combined effects of pH, temperature and E/S ratio on the hydrolysis of dogfish (Squalus acanthias) muscle”, Int J Food Sci
Tech, № 31, 1996, pp. 419–426.
[12] Phạm Thị Trân Châu, Trần Thị Áng, Hóa sinh học, Nhà xuất bản
Giáo dục, 2006.
[13] Nguyễn Đức Lượng, Công nghệ enzyme, Nhà xuất bản Đại học Quốc
gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2004.
[14] Satya Sadhan Dey & Krushna Chandra Dora, “Antioxidative activity of
protein hydrolysate produced by alcalase hydrolysis from shrimp waste (Penaeus monodon and Penaeus indicus)”, Journal of Food Science and
Technology, Volume 51, Issue 3, March 2014, , pp. 449–457.
[15] H.M. Ibrahim, M.F. Salama and H.A. El-Banna, “Shrimp’s waste:
Chemical composition, nutritional value and utilization”. Molecular
Nutrition & Food Research, Volume 43(6), 1999, pp. 418–423.
[16] QCVN 01-183:2016/BNNPTNT Quy định giới hạn tối đa cho phép
hàm lượng độc tố nấm mốc, kim loại nặng và vi sinh vật trong thức ăn hỗn hợp cho gia súc, gia cầm, Ha Nôi, 2016.
[17] Lê Ngoc Tu va công sư. Hoa sinh công nghiêp. NXB Khoa hoc va
Ky thuât, 1997.
(BBT nhận bài: 20/04/2017, hoàn tất thủ tục phản biện: 25/07/2017)
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 27
ĐIỀU KHIỂN ĐỒNG BỘ TÍNH MÔ-MEN
CHO TAY MÁY ROBOT SONG SONG PHẲNG 3 BẬC TỰ DO
SYNCHRONOUS COMPUTED TORQUE CONTROL
OF 3 DOF PLANAR PARALLEL ROBOTIC MANIPULATORS
Lê Tiến Dũng1, Lê Quang Dân2 1Trường Đại học Bách khoa - Đại học Đà Nẵng; [email protected]
2Trường Đại học Ulsan, Hàn Quốc; [email protected]
Tóm tắt - Trong bài báo này, một thuật toán điều khiển đồng bộ tính mô-men được trình bày cho điều khiển bám quỹ đạo của tay máy robot song song phẳng 3 bậc tự do. Trước hết, mô hình động lực học của tay máy robot song song phẳng 3 bậc tự do được xây dựng trên cơ sở áp dụng nguyên lý D’lambert. Sau đó, dựa trên mô hình động lực học này, một thuật toán điều khiển bám đồng bộ tính mô-men được đề xuất. Khác với các thuật toán điều khiển truyền thống trước đây chỉ xét đến sai số của riêng từng trục chuyển động, thuật toán điều khiển đồng bộ được phát triển sử dụng các khái niệm hàm đồng bộ và sai số đồng bộ để xét đồng thời sai số của các khớp chủ động của tay máy robot song song. Sự ổn định của thuật toán được chứng minh bằng lý thuyết ổn định Lyapunov. Để kiểm chứng sự hiệu quả của thuật toán điều khiển, các mô phỏng được thực hiện trên Matlab/ Simulink và SimMechanics cho tay máy robot song song phẳng 3 bậc tự do và so sánh với các thuật toán điều khiển truyền thống.
Abstract - In this paper, a synchronous computed torque control algorithm is presented for trajectory tracking control of 3 DOF planar parallel robotic manipulators. Firstly, a dynamic model of the parallel robotic manipulators is developed based on the application of D’lambert principle. After that, based on this dynamic model, a synchronous computed torque tracking controller is proposed. Different from traditional tracking controllers which consider only the error of individual joints, the synchronous tracking controller is developed using the principles of synchronization function and cross-coupling errors in order to consider error of active joints of parallel robotic manipulators in a synchronous manner. The stability of the proposed control algorithm is proved by Lyapunov theory. For demonstration of the effectiveness of the proposed control algorithm, simulations are conducted on Matlab/ Simulink and SimMechanics for a 3 DOF planar parallel robotic manipulator and are compared with some traditional tracking control algorithms.
Từ khóa - tay máy robot song song; điều khiển đồng bộ; hàm đồng bộ; sai số đồng bộ; điều khiển bám quỹ đạo.
Key words - parallel robotic manipulators; synchronous tracking control; synchronization function; cross-coupling errors; trajectory tracking control.
1. Đặt vấn đề
Ngày nay, tay máy robot công nghiệp đã trở nên phổ
biến và được ứng dụng rộng rãi trong công nghiệp cũng
như trong dân dụng. Xét về cấu trúc động học, tay máy
robot công nghiệp được chia thành hai loại: Tay máy robot
nối tiếp và tay máy robot song song. Mỗi loại tay máy này
đều có các ưu nhược điểm riêng và do đó được ứng dụng
để thực hiện các chức năng phù hợp với thế mạnh của
chúng. So với tay máy robot nối tiếp truyền thống, tay máy
robot song song có nhiều ưu điểm như độ chính xác cao,
độ cứng vững lớn, khả năng mang tải lớn, tốc độ chuyển
động nhanh và mô-men quán tính nhỏ. Tuy nhiên, tay máy
robot song song có một số hạn chế do tính chất của cấu trúc
động học như không gian làm việc nhỏ, mô hình động lực
học phức tạp, nhiều cấu hình kỳ dị và tính toán động học
phức tạp. Chính những hạn chế này làm cho việc điều khiển
tay máy robot song song phẳng gặp nhiều khó khăn và
thách thức hơn so với tay máy robot nối tiếp truyền thống.
Trong lịch sử phát triển của lý thuyết điều khiển cho tay
máy robot, đã có nhiều nhà khoa học, nhiều nhà nghiên cứu
công bố các công trình liên quan đến việc điều khiển bám
quỹ đạo cho tay máy robot song song. Trong [1], một thuật
toán điều khiển PD phi tuyến được đề xuất cho tay máy robot
song song có xét đến cấu trúc cơ khí của tay máy. Ở một
công bố khác [2], thuật toán điều khiển PD có bù thành phần
trọng lực được trình bày cho tay máy robot 6 bậc tự do truyền
động bằng thủy lực. Ngoài ra, một số biến thể của thuật toán
điều khiển PD phi tuyến và PID phi tuyến cũng đã được đề
xuất cho tay máy robot song song [3-5]. Đặc điểm chung của
các thuật toán điều khiển đã được đề xuất ở các công trình
nghiên cứu kể trên là đều dựa theo sai số các khớp của tay
máy robot song song mà chưa tính đến mô hình động lực học
của robot. Thuật toán điều khiển dựa theo sai số tuy đơn
giản, dễ thực hiện nhưng có những hạn chế về chất lượng
điều khiển do không tính đến động lực học của tay máy
robot. Để khắc phục hạn chế này, các thuật toán điều khiển
dựa theo mô hình động lực học đã được nghiên cứu và công
bố như: điều khiển tính mô-men [6, 7], điều khiển trượt [8],
điều khiển thích nghi [9, 10]. Các thuật toán này đã khắc
phục được hạn chế của phương pháp điều khiển chỉ dựa theo
sai số, tuy nhiên, các mạch vòng điều khiển đều chỉ lấy thông
tin sai số từ các khớp chuyển động riêng lẻ của robot. Điều
này chưa thật sự phù hợp với đặc điểm động học của tay máy
robot song song. Trong các tay máy robot song song, các
chuỗi động học đều được nối vào một khâu chấp hành cuối.
Chuyển động của mỗi chuỗi động học đều ảnh hưởng đến độ
chính xác điều khiển của khâu chấp hành cuối. Vì vậy, trong
thuật toán điều khiển nên tính đến sai số của các khớp chủ
động ảnh hưởng đến nhau.
Với những phân tích ở trên, bài báo này đề xuất một
thuật toán điều khiển đồng bộ cho tay máy robot song
song phẳng 3 bậc tự do. Thuật toán điều khiển được xây
dựng dựa trên mô hình động lực học của tay máy robot
kết hợp với các định nghĩa về hàm đồng bộ và sai số đồng
bộ. Khác với các thuật toán điều khiển truyền thống trước
đây chỉ xét đến sai số của riêng từng trục chuyển động,
thuật toán điều khiển của bài báo xét đồng thời sai số của
các khớp chủ động của tay máy robot song song. Sự ổn
định của hệ thống được đảm bảo bằng lý thuyết ổn định
Lyapunov.
28 Lê Tiến Dũng, Lê Quang Dân
2. Mô hình động lực học của tay máy robot song song 3
bậc tự do
Hình 1. Robot song song phẳng 3 bậc tự do
Một tay máy robot song song phẳng được thể hiện như
trên Hình 1. Nó bao gồm 3 khớp chủ động (A1, A1 và A3)
và 6 khớp thụ động (B1, B2, B3, C1, C2 và C3). Chiều dài
các thanh của robot là l1 = AiBi, l2 = BiCi (i = 1, 2, 3). Khâu
chấp hành cuối của tay máy robot là một tam giác đều
C1C2C3 với khoảng cách từ đỉnh đến tâm P của tam giác là
l3 = CiP (i = 1, 2, 3).
Ký hiệu các vector của tay máy robot như sau:
• 𝜃𝑎 = [𝜃𝑎1, 𝜃𝑎2, 𝜃𝑎3]𝑇 là vector góc của các khớp chủ
động.
• 𝜃𝑝 = [𝜃𝑝1, 𝜃𝑝2, 𝜃𝑝3]𝑇 là vector góc của các khớp thụ
động quan trọng.
• 𝑋𝑃 = [𝑥𝑃 , 𝑦𝑃 , 𝜙𝑃]𝑇 là vector vị trí và hướng của khâu
chấp hành cuối.
Mô hình động lực học của tay máy robot song song
phẳng 3 bậc tự do ở trên được thiết lập bằng cách sử dụng
nguyên lý D’lambert và phương pháp Lagrange. Trước hết,
giả sử tay máy robot được cắt ảo thành cấu trúc hở như trên
Hình 2. Sau đó, các phương trình Lagrange được thiết lập
cho cơ hệ với cấu trúc hở và các mô-men ở các khớp chủ
động được tính toán để tạo ra chuyển động thỏa mãn được
các ràng buộc của các chuỗi động học kín.
Mô hình động lực học của tay máy robot với cấu trúc
hệ hở được viết như sau:
𝑀𝑜�� + 𝐶𝑜�� = 𝜏𝑜 (1)
Trong đó:
Mo9x9 là ma trận quán tính của hệ hở;
Co9x9 là ma trận của các lực hướng tâm, lực Coriolis
của hệ hở;
o= [a, p, X] 9x1 là vector mô-men của tất cả các
khớp của tay máy robot;
= [a, p, Xp]9x1 là vector tất cả các biến khớp và
biến tọa độ khâu chấp hành cuối của robot.
Trong tay máy robot song song, chỉ có các khớp chủ
động được truyền động, do đó mô hình động lực học (1) chưa
thể sử dụng để làm cơ sở thiết kế các thuật toán điều khiển
cho tay máy robot. Để xây dựng thuật toán điều khiển, cần
thiết phải đưa mô hình động lực học về xây dựng trong mối
quan hệ với các tín hiệu vào là mô-men của các khớp chủ
động và điều khiển ở hệ tọa độ các biến khớp chủ động.
Hình 2. Cấu trúc hệ hở của robot có được bằng cách cắt ảo
ở các khớp thụ động
Dựa trên nguyên lý D’lambert, chúng ta có mối quan hệ
sau đây giữa vector mô-men của tất cả các khớp và vector
mô-men của các khớp chủ động [11]:
𝑊𝑇𝜏𝑜 = 𝜏𝑎 (2)
trong đó a = [a1, a2, a3]T là vector mô-men của các khớp
chủ động; W là ma trận Jacobian được tính từ mối quan hệ
động học ràng buộc của cơ hệ kín ban đầu của tay máy
robot song song. Phương trình của ma trận Jacobian W
được tính như sau:
𝑊 = [𝐼, 𝜕𝜃𝑝 𝜕𝜃𝑎⁄ , 𝜕𝑋𝑝 𝜕𝜃𝑎⁄ ]𝑇
𝜖 ℛ9𝑥3 (3)
Từ phương trình (3) chúng ta cũng sẽ có mối quan hệ
sau đây:
�� = [𝐼, 𝜕𝜃𝑝 𝜕𝜃𝑎⁄ , 𝜕𝑋𝑝 𝜕𝜃𝑎⁄ ]𝑇 𝑑𝜃𝑎
𝑑𝑡 (4)
tương đương với:
�� = 𝑊��𝑎 (5)
Để xây dựng mô hình động lực học của tay máy robot
song song trong hệ tọa độ khớp chủ động, chúng ta nhân 2
vế của phương trình (1) với WT. Kết quả có được:
𝑊𝑇(𝑀𝑜�� + 𝐶𝑜��) = 𝑊𝑇𝜏𝑜 (6)
Thay phương trình (2) và (4) vào phương trình (6)
chúng ta có:
𝑊𝑇𝑀𝑜𝑊��𝑎 + (𝑊𝑇𝑀𝑜�� + 𝑊𝑇𝐶𝑜𝑊)��𝑎 = 𝜏𝑎 (7)
Đặt:
𝑀𝑎 = 𝑊𝑇𝑀𝑜𝑊 là ma trận quán tính của tay máy robot
trong hệ tọa độ khớp chủ động.
𝐶𝑎 = 𝑊𝑇𝑀𝑜�� + 𝑊𝑇𝐶𝑜𝑊 là ma trận các lực hướng tâm
và Coriolis của tay máy robot trong hệ tọa độ khớp chủ động.
Như vậy, phương trình (7) có thể viết lại như sau:
𝑀𝑎��𝑎 + 𝐶𝑎��𝑎 = 𝜏𝑎 (8)
Phương trình (8) chính là mô hình động lực học của tay
máy robot song song phẳng 3 bậc tự do trong hệ tọa độ khớp
chủ động. Trong các mục tiếp theo, các thuật toán điều khiển
sẽ được thiết kế dựa trên mô hình động lực học (8).
3. Thuật toán điều khiển tính mô-men cho tay máy
robot song song phẳng 3 bậc tự do
Gọi da(t) là quỹ đạo góc quay mong muốn của các
khớp chủ động của tay máy robot. Các vector sai số quỹ
đạo và sai số vận tốc được định nghĩa như sau:
𝑒 = 𝜃𝑑𝑎(𝑡) − 𝜃𝑎(𝑡) (9)
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 29
�� = ��𝑑𝑎(𝑡) − ��𝑎(𝑡) (10)
Điều khiển tính mô-men là một thuật toán nổi tiếng và
rất hiệu quả cho việc điều khiển chuyển động bám quỹ đạo
của tay máy robot công nghiệp. Bên cạnh đó, thuật toán
này còn đảm bảo được tính ổn định toàn cục của hệ thống
[12]. Thuật toán điều khiển tính mô-men truyền thống cho
tay máy robot song song phẳng 3 bậc tự do trong bài báo
này được viết như sau:
𝜏𝑎 = 𝑀𝑎(��𝑑𝑎 + 𝐾𝑝𝑒 + 𝐾𝑣 ��) + 𝐶𝑎��𝑎 (11)
Trong đó, Kp3x3 và Kv3x3 là các ma trận tham số
xác định dương.
Bộ điều khiển (11) có thể được chia thành 2 thành phần.
Thành phần thứ nhất có tác dụng bù các thành phần động
lực học của robot theo quỹ đạo mong muốn:
𝜏𝑎1 = 𝑀𝑎��𝑑𝑎 + 𝐶𝑎��𝑎 (12)
Thành phần thứ 2 có tác dụng làm triệt tiêu sai số, đưa quỹ
đạo thực của tay máy robot bám theo quỹ đạo mong muốn:
𝜏𝑎2 = 𝑀𝑎(𝐾𝑝𝑒 + 𝐾𝑣��) (13)
Trước đây, thuật toán điều khiển tính mô-men truyền
thống được áp dụng nhiều cho việc điều khiển bám quỹ đạo
của tay máy robot nối tiếp. Gần đây thuật toán này cũng đã
được nhiều nhà nghiên cứu, nhiều công trình áp dụng cho
tay máy robot song song, kết quả đã có hiệu quả nhất định
trong việc điều khiển tay máy robot bám theo quỹ đạo
mong muốn. Tuy nhiên thuật toán điều khiển này mới chỉ
xét sai số của từng khớp chủ động riêng lẽ mà chưa xét sự
ảnh hưởng qua lại của các khớp chủ động với kết quả
chuyển động của khâu chấp hành cuối. Đối với tay máy
robot song song, do các chuỗi động học được nối kín với
nhau bằng khâu chấp hành cuối nên cần thiết phải điều
khiển đồng bộ giữa các khớp chủ động [13]. Trong mục
tiếp theo của bài báo, các tác giả đề xuất một thuật toán
điều khiển đồng bộ cho tay máy robot song song phẳng 3
bậc tự do dựa trên sự cải tiến của thuật toán điều khiển tính
mô-men truyền thống (11).
4. Điều khiển bám đồng bộ cho tay máy robot song song
phẳng 3 bậc tự do
Trước hết, định nghĩa lại sai số quỹ đạo như sau:
𝑒𝑎 = 𝜃𝑎(𝑡) − 𝜃𝑑𝑎(𝑡) (14)
Trong thuật toán điều khiển đồng bộ, không chỉ riêng
sai số của mỗi trục thành phần phải tiến về không
(eai(t) 0, i = 1,2,3) mà các sai số này phải cùng đồng thời
bằng nhau trong quá trình điều khiển bám quỹ đạo:
ea1(t) = ea2(t) = ea3(t) (15)
Sai số đồng bộ được định nghĩa như sau:
1(t) = ea1(t) - ea2(t)
2(t) = ea2(t) - ea3(t) (16)
3(t) = ea3(t) - ea1(t)
Mục tiêu của thuật toán điều khiển là các sai số đồng bộ
trong công thức (16) cùng tiến về 0, điều này có nghĩa là
thuật toán điều khiển xem xét sai số của các trục có sự ảnh
hưởng qua lại lẫn nhau. Để thực hiện điều này, chúng ta định
nghĩa một hàm sai số xen kênh ngang như sau:
*( )
10
te e dwi i i i
, i = 1,2,3 (17)
trong đó là hằng số dương, w là biến số thời gian.
Thuật toán điều khiển đồng bộ tính mô-men cho tay
máy robot song song phẳng 3 bậc tự do mà bài báo đề xuất
được viết như sau:
𝜏𝑎 = 𝑀𝑎��𝑑𝑎 + 𝑀𝑎(𝐾𝑝𝑒𝑎∗ + 𝐾𝑣��𝑎
∗) + 𝐶𝑎��𝑎 (18)
trong đó Kp3x3, Kv3x3 là các ma trận tham số xác định
dương. Các vector sai số xen kênh ngang: 𝑒𝑎
∗ = [𝑒1∗, 𝑒2
∗, 𝑒3∗]𝑇, ��𝑎
∗ = [��1∗, ��2
∗, ��3∗]𝑇.
Để chứng minh tính ổn định của thuật toán điều khiển
đề xuất, hàm Lyapunov được chọn như sau:
𝑉(𝑒𝑎∗ , ��𝑎
∗) = 1
2��𝑎
∗𝑇��𝑎∗ + ∫ 𝜎𝑇𝐾𝑝(𝜎)𝑑𝜎
𝑒𝑎∗
0 (19)
trong đó, vì Kp là ma trận xác định dương nên ta có [14]:
∫ 𝜎𝑇𝐾𝑝(𝜎)𝑑𝜎𝑒𝑎
∗
0= ∫ 𝜎1𝑘𝑝1(𝜎1)𝑑𝜎1
𝑒𝑎1∗
0 +
∫ 𝜎2𝑘𝑝2(𝜎2)𝑑𝜎2𝑒𝑎2
∗
0+ ∫ 𝜎3𝑘𝑝3(𝜎3)𝑑𝜎3
𝑒𝑎3∗
0 (20)
Đạo hàm của hàm Lyapunov (19) được tính bằng cách
sử dụng công thức (20) và công thức Leibnitz cho thành
phần tích phân như sau:
��(𝑒𝑎∗ , ��𝑎
∗) = ��𝑎∗𝑇��𝑎
∗ +𝑑
𝑑𝑡[∫ 𝜎𝑇𝐾𝑝(𝜎)𝑑𝜎
𝑒𝑎∗
0
]
= ��𝑎∗𝑇��𝑎
∗ + ∑𝜕
𝜕𝑒𝑎𝑖∗
3𝑖=1 [∫ 𝜎𝑖𝑘𝑝𝑖(𝜎𝑖)𝑑𝜎𝑖
𝑒𝑎𝑖∗
0] ��𝑎𝑖
∗
= ��𝑎∗𝑇��𝑎
∗ + ∑ 𝑒𝑎𝑖∗3
𝑖=1 𝑘𝑝𝑖(𝑒𝑎𝑖∗ )��𝑎𝑖
∗
= ��𝑎∗𝑇��𝑎
∗ + 𝑒𝑎∗𝑇𝐾𝑝��𝑎
∗ (21)
Từ mô hình động lực học (8) và phương trình của thuật
toán điều khiển đồng bộ tính mô-men (18) chúng ta có:
��𝑎∗ + 𝐾𝑝𝑒𝑎
∗ + 𝐾𝑣 ��𝑎∗ = 0 (22)
Nhân 2 vế của phương trình (22) với ��𝑎∗ và thay vào
phương trình (21) chúng ta có:
��(𝑒𝑎∗ , ��𝑎
∗) = −��𝑎∗𝑇𝐾𝑣 ��𝑎
∗ (23)
Do Kv là ma trận xác định dương, nên ��(𝑒𝑎∗ , ��𝑎
∗) ≤ 0.
Vì vậy chúng ta có thể kết luận là hệ thống điều khiển ổn
định dựa trên lý thuyết ổn định Lyapunov.
5. Mô phỏng kiểm chứng
Để kiểm chứng tính hiệu quả của thuật toán điều khiển
bám đồng bộ cho tay máy robot song song phẳng 3 bậc tự
do trong bài báo trình bày kết quả so sánh giữa bộ điều
khiển mô-men truyền thống và bộ điều khiển đồng bộ.
Robot được xây dựng mô phỏng dựa trên sự kết hợp phần
mềm Solidworks và Matlab/Simulink.
Bảng 1. Thông số của tay máy robot
Thanh Thông số
Chiều dài (m) Khối lượng (Kg) Mô-men quán tính
Chủ động 0.2ail 0.5aim 0.002ai
I
Bị động 0.2pi
l 0.55pim 0.0025pi
I
Khâu chấp
hành 0.125
el
0.17em
0.0006
eI
30 Lê Tiến Dũng, Lê Quang Dân
Trong đó: ail , pil là chiều dài của thanh truyền lần lượt
là của chủ động và bị động thứ th
i ; el là chiều dài từ tâm
khâu chấp hành đến khớp liên kết với thanh bị động. Trọng
tâm của các thanh truyền và khâu chấp hành được đặc ở
điểm chính giữa của thanh và trung tâm của khâu chấp
hành. mai và m pi là khối lượng của thanh truyền thứ th
i
lần lượt của thanh chủ động và thanh bị động; em là khối
lượng của khâu chấp hành; Ii là mô-men quán tính của
thanh thứ th
i (i=1, 2, 3).
Thông số của bộ điều khiển mô-men truyền thống có hệ
số 3 3250v
K I , 3 325eK I là ma trận với 3 3I là
ma trận đơn vị 3x3. Trong bộ điều khiển đồng bộ hệ số
đồng bộ 0.2 được chọn.
Quỹ đạo thiết kế của robot
3 / 12
( ) 0.25 0.03cos( )
( ) 0.03sin( )
( ) 0P
x t t
y t t
t
và ma sát tại khớp chủ động
0.03 ( ) 0.02 ( 1,2,3)fi ai ai
f sign i
Kết quả sai số của khâu chấp hành cuối theo các trục
tọa độ x, y và sai lệch góc quay được thể hiện trên Hình 3.
Đường nét đứt là kết quả của phương pháp điều khiển tính
mô-men truyền thống. Đường nét liền là kết quả của
phương pháp điều khiển đồng bộ tính mô-men mà bài báo
đề xuất. Chúng ta có thể thấy rõ rằng phương pháp điều
khiển đồng bộ tính mô-men mang lại kết quả sai số nhỏ
hơn và nhanh tiến đến xác lập hơn so với phương pháp
truyền thống.
Hình 4 thể hiện so sánh tín hiệu mô-men đầu vào truyền
động cho các khớp chủ động của tay máy robot (được tính
bởi thuật toán điều khiển). Kết quả cho thấy tín hiệu mô-men
ở trường hợp sử dụng phương pháp điều khiển đồng bộ tính
mô-men ít đập mạch hơn so với phương pháp truyền thống.
Hình 3. Sai số của khâu chấp hành cuối
Hình 4. Mô-men cung cấp tại khớp chủ động của robot
Hình 5. Kết quả bám theo quỹ đạo của khâu chấp hành
Kết quả điều khiển bám quỹ đạo của khâu chấp hành
cuối được thể hiện trên Hình 5. Chúng ta có thể thấy rõ
phương pháp điều khiển đồng bộ tính mô-men cho kết quả
bám quỹ đạo nhanh hơn và chính xác hơn so với phương
pháp điều khiển tính mô-men truyền thống.
6. Kết luận
Bài báo đã trình bày một thuật toán điều khiển đồng bộ
bám mô-men cho việc điều khiển bám quỹ đạo của tay máy
robot song song phẳng 3 bậc tự do. Trong bài báo, dựa trên
mô hình động lực học của tay máy robot, một thuật toán
điều khiển bám đồng bộ đã được đề xuất. Khác với các
thuật toán điều khiển truyền thống trước đây chỉ xét đến sai
số của riêng từng trục chuyển động, thuật toán điều khiển
đồng bộ được phát triển sử dụng các khái niệm hàm đồng
bộ và sai số đồng bộ để xét đồng thời sai số của các khớp
chủ động của tay máy robot song song. Sự ổn định của
thuật toán được chứng minh bằng lý thuyết ổn định
Lyapunov. Các mô phỏng kiểm chứng đã được thực hiện
trên Matlab/Simulink và SimMechanics cho tay máy robot
song song phẳng 3 bậc tự do. Kết quả cho thấy thuật toán
điều khiển mà bài báo đề xuất mang lại kết quả tốt hơn so
với thuật toán điều khiển tính mô-men truyền thống.
Lời ghi nhận
Bài báo là kết quả nghiên cứu của đề tài cấp Bộ Giáo
0 1 2 3 4 5 6 7-0.02
0
0.02
0.04
Time(s)
Sai so X
(m)
a) Sai so truc X
X Computed Torque Controller Error
X Synchronization Error
0 1 2 3 4 5 6 7-4
-2
0
2x 10
-3
Time(s)
Sai so Y
(m)
b) Sai so truc Y
Y Computed Torque Controller Error
Y Synchronization Error
0 1 2 3 4 5 6 7-1
-0.5
0
Time(s)
Sai so P
hi()
c) Sai so goc quay
Angle Computed Torque Controller Error
Angle Synchronization Error
0 0.5 1 1.5 2 2.5 3 3.5
-0.6
-0.4
-0.2
0
0.2
0.4
0.6
0.8
Time(s)
Torq
ue in C
om
pute
d T
orq
ue C
ontr
olle
r
a) Mo-men dung bo dieu khien CTC
Torque 1
Torque 2
Torque 3
0 0.5 1 1.5 2 2.5 3 3.5
-2
-1
0
1
2
Time(s)
Torq
ue in S
ynchro
niz
ation
b) Mo-men dung bo dieu khien dong bo
Torque 1
Torque 2
Torque 3
0.21 0.22 0.23 0.24 0.25 0.26 0.27 0.28 0.290.11
0.12
0.13
0.14
0.15
0.16
0.17
0.18
0.19
X(m)
Y(m
)
XY Desired
XY Computed Torque Controller
XY Synchronization
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 31
dục & Đào tạo mã số KYTH-17 năm 2017, tên đề tài
“Nghiên cứu thiết kế bộ điều khiển đồng bộ thích nghi cho
tay máy robot song song phẳng”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Su, Yuxin, et al., "Integration of saturated PI synchronous control
and PD feedback for control of parallel manipulators”, IEEE
Transactions on Robotics 22.1 (2006): 202-207.
[2] Yang, Chifu, et al., "PD control with gravity compensation for
hydraulic 6-DOF parallel manipulator”, Mechanism and Machine theory 45.4 (2010): 666-677.
[3] Su, Y. X., B. Y. Duan, and C. H. Zheng, "Nonlinear PID control of
a six-DOF parallel manipulator”, IEE Proceedings-Control Theory
and Applications 151.1 (2004): 95-102.
[4] Shang, Wei Wei, et al., "Augmented nonlinear PD controller for a
redundantly actuated parallel manipulator”, Advanced Robotics 23.12-13 (2009): 1725-1742.
[5] Su, Y. X., et al., "Nonlinear PD synchronized control for parallel
manipulators”, Robotics and Automation, 2005. ICRA 2005.
Proceedings of the 2005 IEEE International Conference on. IEEE, 2005.
[6] Le, Quang Dan, Hee-Jun Kang, and Tien Dung Le, "Adaptive
Extended Computed Torque Control of 3 DOF Planar Parallel
Manipulators Using Neural Network and Error Compensator”, International Conference on Intelligent Computing. Springer
International Publishing, 2016.
[7] Le, Tien Dung, et al., "An online self-gain tuning method using
neural networks for nonlinear PD computed torque controller of a 2-dof parallel manipulator”, Neurocomputing 116 (2013): 53-61.
[8] Le, Tien Dung, Hee-Jun Kang, and Young-Soo Suh, "Chattering-free
neuro-sliding mode control of 2-DOF planar parallel manipulators”,
International Journal of Advanced Robotic Systems10.1 (2013): 22.
[9] Cazalilla, J., et al., "Adaptive control of a 3-DOF parallel manipulator
considering payload handling and relevant parameter models”, Robotics
and Computer-Integrated Manufacturing 30.5 (2014): 468-477. [10] Le, Tien Dung, and Hee-Jun Kang, "An adaptive tracking controller
for parallel robotic manipulators based on fully tuned radial basic function networks”, Neurocomputing 137 (2014): 12-23.
[11] Nakamura, Yoshihiko, and Katsu Yamane, "Dynamics computation of
structure-varying kinematic chains and its application to human figures”,
IEEE Transactions on Robotics and Automation 16.2 (2000): 124-134.
[12] Song, Zuoshi, et al., "A computed torque controller for uncertain
robotic manipulator systems: Fuzzy approach”, fuzzy Sets and
Systems 154.2 (2005): 208-226.
[13] Ren, Lu, James K. Mills, and Dong Sun, "Adaptive synchronized
control for a planar parallel manipulator: theory and experiments”, Journal of dynamic systems, measurement, and control 128.4
(2006): 976-979.
[14] M.A. Llama, et al., Stable computed-torque control of robot
manipulators via fuzzy self-tuning, IEEE Trans. Syst. Man Cybern.
Part B Cybern. 30 (2000) 143–150.
(BBT nhận bài: 05/5/2017, hoàn tất thủ tục phản biện: 26/6/2017)
32 Phan Thị Thúy Hằng, Trần Mạnh Lục, Nguyễn Đình Lâm
NGHIÊN CỨU BIẾN TÍNH HÓA HỌC ỐNG NANO CACBON
NHẰM CẢI THIỆN TÍNH PHÂN TÁN TRONG MÔI TRƯỜNG PHÂN CỰC
STUDY ON CHEMICAL MODIFICATION OF CARBON NANOTUBES
TO IMPROVE THEIR DISPERSION IN POLAR ENVIRONMENT
Phan Thị Thúy Hằng1, Trần Mạnh Lục2, Nguyễn Đình Lâm1 1Trường Đại học Bách khoa - Đại học Đà Nẵng; [email protected], [email protected]
2Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng
Tóm tắt - Ống nano cacbon (CNTs) là loại vật liệu mới có nhiều đặc tính tuyệt vời như: độ cứng cao, tính dẫn điện tốt, khả năng phát xạ electron cao, các tính chất cơ học và độ bền hóa cao. Tuy nhiên, đặc trưng cấu tạo của CNTs là không phân cực, nên việc phân tán trong các môi trường phân cực của CNTs kém. Trong bài báo này chúng tôi trình bày kết quả khảo sát quá trình biến tính hóa học CNTs nhằm cải thiện khả năng phân tán của CNTs vào các môi trường phân cực như nước, dung môi hữu cơ phân cực, polyme phân cực,... Kết quả biến tính hóa học CNTs được đặc trưng bằng các phương pháp phân tích như phổ hồng ngoại biến đổi Fourier (FTIR), phổ nhiễu xạ tia X (XRD), kính hiển vi điện tử quét (SEM). Kết quả thu được cho thấy CNTs đã biến tính hóa học có khả năng phân tán và ổn định phân tán trong môi trường phân cực tốt hơn so CNTs nguyên thủy.
Abstract - Carbon nanotubes (CNTs) are new materials, which have many great properties such as high hardness, good electrical conductivity, high electron emission capability, high mechanical properties with chemical stability. However, structural characteristics of carbon nanotubes are not polar, so their dispersion in polar environments is poor. In this paper we reported the investigated results of chemical modification for CNTs to support improvement of dispersal ability of CNTs into polar environments such as water, polar organic solvent, polar polymers, etc. The results of CNTs functionation have been measured by analysis methods such as Fourier transform infrared (FTIR), X-ray diffraction (XRD), Scanning electron microscope (SEM). The results have shown that dispersal ability and dispersal stability in the polar environment of chemical modified CNTs have been better than neat CNTs.
Từ khóa - Ống nanocacbon; biến tính hóa học; khả năng phân tán; sự ổn định phân tán; môi trường phân cực
Key words - Carbon nanotubes; chemical modification; dispersal ability; dispersal stability; polar environment
1. Giới thiệu
Kể từ khi khám phá ra ống nano cacbon vào năm 1991
bởi Giáo sư Sumio Iijima, chỉ trong thời gian ngắn CNTs
đã có mặt trong rất nhiều ứng dụng khoa học và công nghệ
đặc biệt [1]. CNTs có các tính chất nổi trội hơn rất nhiều
vật liệu khác như: độ bền cơ học cao, dẫn điện dẫn nhiệt
tốt, chịu môi trường hóa chất... nên nó có ứng dụng rộng
rãi trong các lĩnh vực như công nghệ nano, điện tử, quang
học, y sinh và các lĩnh vực khác của khoa học vật liệu [1,
4]. Do vậy, các ống nanocacbon đã thu hút sự chú ý của
nhiều nhà khoa học trên khắp thế giới [2]. Sự quan tâm đặc
biệt này xuất phát từ đặc tính cấu trúc, cơ học và điện tử
nổi bật của chúng [2]. Nhóm tác giả của một báo cáo nhằm
tóm tắt một số thành tựu quan trọng trong lĩnh vực nghiên
cứu ống nano cacbon cả về thực nghiệm và lý thuyết kết
hợp với các ứng dụng công nghiệp có thể của ống nano [10]
đã cho thấy sự thu hút của CNTs đối với nhiều nhà khoa
học ở các lĩnh vực (điện, điện tử, sinh học, vật liệu...) trên
thế giới. Những nghiên cứu gần đây của các nhà khoa học
đó là các phương pháp biến tính hóa học CNTs cải thiện và
nâng cao hoạt tính cho CNTs nhằm mở rộng phạm vi ứng
dụng của chúng, đặc biệt là trong lĩnh vực vật liệu polyme
[3]. Trong đó CNTs được sử dụng làm vật liệu gia cường
cho polyme thì bề mặt của chúng phải được biến tính bằng
cách bổ sung các nhóm chức phân cực [10]. Điều này
không chỉ cải thiện tính phân tán trong nhựa phân cực mà
còn hỗ trợ khả năng hình thành liên kết ngang trong quá
trình đóng rắn đối với nhựa [10]. Trong đó đáng chú ý là
các quá trình nhằm biến đổi từ cấu hình C lai hóa sp2 sang
C sp3, việc này cho phép thay đổi các tính chất điện tử của
CNTs cũng như có thể điều chỉnh các tính chất bề mặt của
chúng, nhờ đó các tính năng mới có thể xuất hiện mà CNTs
nguyên bản không thể có được [4]. CNTs có tính dẫn nhiệt,
dẫn điện như một kim loại hoặc chất bán dẫn tùy thuộc vào
độ tinh khiết [3]. Tuy nhiên, do những đặc điểm về cấu trúc
bề mặt ống cacbon nano, nên việc phân tán cũng như tương
tác với các môi trường phân tán trong đó bao gồm dung
môi hữu cơ phân cực, nước, polyme phân cực... rất hạn chế.
Đặc biệt là do ảnh hưởng của hiệu ứng kích thước và hiệu
ứng bề mặt xảy ra với các vật liệu nano nên CNTs rất dễ
xảy ra hiện tượng kết tụ. Sự kết tụ này được hỗ trợ thêm
bởi liên kết Van der Walls khiến cho CNTs càng khó phân
tán trong các môi trường phân cực. Cũng chính hiện tượng
này làm cho khả năng phân tán và liên kết của CNTs với
môi trường phân tán không được tốt. Bên cạnh đó dưới
những tác động nhất định sẽ dễ dàng kéo CNTs ra khỏi hệ
phân tán dẫn đến hiện tượng lắng tụ [9]. Chính vì vậy, để
giúp cho khả năng phân tán và ổn định trạng thái phân tán
của CNTs vào các môi trường phân tán phân cực tốt, người
ta thường phải biến tính hóa học CNTs nhằm gắn các nhóm
chức có khả năng liên kết tốt với các phân tử môi trường
phân tán tương ứng [4, 5]. Một mốc quan trọng trong lĩnh
vực biến tính hóa học CNTs thu hút nhiều nhà nghiên cứu
đó là sự phát triển của quá trình oxy hóa cho CNTs liên
quan đến việc xử lý bằng siêu âm trong hỗn hợp axit nitric
và axit sulfuric [4]. Với các điều kiện khắc nghiệt như vậy
dẫn đến việc mở 2 đầu ống cũng như sự hình thành các
điểm khuyết tật trên bề mặt vách của ống [5]. Tiếp theo đó
là sự gắn các nhóm chức có chứa oxy (OH, CO, COO...)
dọc theo bề mặt của ống đồng thời với sự giải phóng carbon
dioxide (CO2). Các ống nano cacbon được chức hoá theo
cách này về cơ bản vẫn giữ nguyên cấu trúc tinh thể và cấu
trúc điện tử ban đầu của CNTs [4].
Có nhiều công trình nghiên cứu biến tính hóa học CNTs
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 33
đã được công bố trên các tạp chí khoa học, trong đó đáng
chú ý là kết quả nghiên cứu biến tính hóa học CNTs bằng
3 tác nhân oxy hóa gồm H2O2 30%, HNO3 69.7% và H2SO4
98% do nhóm tác giả Falah H Hussein [11]. Kết quả cho
thấy tác nhân H2O2 30% có khả năng oxy hóa kém nhất chỉ
xuất hiện nhóm chức OH, còn 2 tác nhân còn lại có khả
năng oxy hóa mạnh hơn và đã gắn được cả nhóm OH và
nhóm cacbonyl (CO) [11]. Thêm nữa là các công trình
nghiên cứu về sự biến tính hóa học oxy hóa CNTs của
nhóm tác giả D. Howard Fairbrother [11]. Theo kết quả
công bố cho thấy rằng mức độ oxy hóa (hàm lượng oxy gắn
trên bề mặt CNTs) phụ thuộc vào mức độ oxy hóa của các
tác nhân, trong đó các tác nhân khảo sát gồm: HNO3, hỗn
hợp HNO3/H2SO4 và KMnO4 [11]. Sự có mặt của các nhóm
chức chứa oxy dẫn đến việc giảm tương tác Van der Waals
giữa các CNTs, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tách CNTs
thành các ống riêng lẻ. Ngoài ra, việc gắn các nhóm chức
thích hợp làm cho các ống có thể phân tán trong môi trường
nước hoặc dung môi hữu cơ phân cực, từ đó có thể mở ra
khả năng điều chỉnh sự phân tán của CNTs trong các môi
trường phân cực khác như polyme phân cực [4]. Các
nghiên cứu khác cũng đáng chú ý là việc gắn các nhóm
chức vào bề mặt nano cacbon của các nhóm nghiên cứu
Holzinger và cộng sự [12], Kim và các cộng sự [13], Chen
và cộng sự [14].
Trong nghiên cứu này, có thể xem lần đầu tiên được sử
dụng hệ oxy hóa gồm hỗn hợp axit HNO3/HCl với tỷ lệ thể
tích 3:1, trong điều kiện nhiệt độ 55oC và thời gian duy trì
12h (điều kiện được chọn trên cơ sở các kết quả khảo sát
đối với tác nhân oxy hóa HNO3 riêng lẻ và hỗn hợp
HNO3/H2SO4 đã được công bố trong tài liệu [4,11]. Quá
trình biến tính hóa học CNTs được minh họa trong Hình 1.
Hình 1. Sơ đồ quá trình biến tính hóa học CNTs tạo O-CNTs
2. Thực nghiệm
2.1. Hóa chất
+ CNTs do Công ty TNHH Bảo Lâm Khoa sản xuất,
axit HCl 36,5%, axit HNO3 đặc 68% được sản xuất bởi
Xilong Chemical Factory và Guangdong Guanghua
Sci-Tech Co.
2.2. Biến tính hóa học CNTs
Phương pháp biến tính hóa học CNTs ở đây được chọn
phương pháp oxy hóa bằng hỗn hợp HNO3/HCl với tỷ lệ
thể tích là 3:1, trong điều kiện nhiệt độ là 55oC và thời gian
là 12h. Sản phẩm thu được là CNTs oxy hóa ký hiệu là
O-CNTs đem đi lọc rửa bằng nước cất trên phễu hút chân
không để loại bỏ hoàn toàn axit, thử nước rửa cho đến khi
đạt trung tính. Mẫu đem đi sấy trong tủ sấy chân không ở
nhiệt độ 60oC cho đến khối lượng không đổi, rồi cho vào
túi nhựa và bảo quản trong bình hút ẩm.
2.3. Các phương pháp phân tích đặc trưng của sản phẩm
biến tính hóa học
- Sử dụng phương pháp đo phổ hồng ngoại biến đổi
Fourier (FTIR) trên máy Nicolet 6700 tại Trung tâm Phân
tích hàng hóa hải quan Đà Nẵng để xác định sự có mặt của
các nhóm chức sau khi biến tính hóa học.
- Sử dụng phương pháp phân tích phổ nhiễu xạ tia X
(XRD) trên máy SIEMENS D5005 tại Phòng thí nghiệm
vật lý chất rắn Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại
học Quốc gia Hà Nội, để xác định cấu trúc tinh thể của
CNTs trước và sau biến tính hóa học.
- Sử dụng phương pháp phân tích bằng kính hiển vi điện
tử quét (SEM) loại S4800-NIHE, điện thế gia tốc 10 kV tại
Phòng Siêu cấu trúc của Viện dịch tễ Trung ương, để xác
định hình thái học của CNTs trước và sau biến tính hóa học.
2.4. Khảo sát khả năng phân tán và ổn định phân tán
trong môi trường phân cực là nước
Sử dụng phương pháp khuấy cơ học là khuấy từ với tốc
độ 200 v/phút, trong thời gian 1h và khuấy siêu âm với biên
độ tần số siêu âm là 40%, thời gian siêu âm là 1h để phân
tán CNTs vào môi trường phân tán là nước. Sau khi phân
tán để yên theo dõi trạng thái ổn định phân tán sau thời gian
là 1h, 3h và 3 ngày.
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Biến tính hóa học CNTs tạo O-CNTs
Kết quả khảo sát CNTs sau biến tính hóa học bằng phân
tích phổ FTIR được thể hiện trên Hình 2.
Hình 2. Phổ FT-IR của CNTs (a) và O-CNTs (b)
Từ Hình 2 cho thấy pic 3413,4 cm-1 với cường độ hấp
thụ mạnh đặc trưng cho dao động hóa trị của nhóm OH có
thể của nhóm COOH hoặc nhóm OH của nước (trong mẫu),
pic ở 1634 cm-1 đặc trưng cho dao động hóa trị của liên kết
C=O của nhóm cacboxyl, pic tại 1104 cm-1 đặc trưng cho dao
động hóa trị của liên kết C-O và pic ở 1456 cm-1 đặc trưng
cho dao động biến dạng của nhóm epoxy dạng C-O-C. Điều
này chứng tỏ quá trình oxy hóa đã làm xuất hiện các nhóm
chức chứa oxy C=O, COO, C-O-C trên bề mặt ống tức là có
b
HNO3/HCl
55oC, 12h
34 Phan Thị Thúy Hằng, Trần Mạnh Lục, Nguyễn Đình Lâm
sự biến đổi từ C lai hóa sp2 sang C sp3, kết quả này tương
đồng với các nghiên cứu trong tài liệu [4, 5, 9].
3.2. Đặc trưng tinh thể của CNTs và O-CNTs bằng phổ
nhiễu xạ tia X (XRD)
Hình 3. Phổ XRD của CNTs và O-CNTs
Kết quả khảo sát phổ nhiễu xạ tia X (XRD) trên Hình 3
cho thấy cấu trúc tinh thể của CNTs trước và sau biến tính
biến tính hóa học không có sự thay đổi, có nghĩa là sự biến
tính hóa học CNTs chỉ làm thay đổi thành phần cấu tạo (gắn
thêm các nhóm chức trên bề mặt ống) mà không làm thay
đổi cấu trúc tinh thể. Hơn nữa, cấu trúc tinh thể của CNTs
trước và sau biến tính hóa học hầu như không thay đổi là
do trong điều kiện biến tính hóa học đã chọn chỉ tác động
lên các vị trí C liên kết π (C=C) hoạt tính mà không làm
đứt các liên kết cộng hóa trị σ trong vòng 6 cạnh mạng tinh
thể graphit. Do vậy, cấu trúc tinh thể dạng ống vẫn được
giữ nguyên, kết quả này tương đồng với các kết quả trong
các tài liệu [4, 9]. Đây cũng chính là điều mà nhóm nghiên
cứu mong muốn đạt được.
3.3. Đặc trưng hình thái hình học của CNTs và O-CNTs
bằng kính hiển vi điện tử quét
Cấu trúc hình thái của CNTs và O-CNTs được xác định
bằng kính hiển vi điện tử quét. Kết quả phân tích SEM của
CNTs và O-CNTs được thể hiện trong Hình 4 và 5.
Hình 4. SEM của CNTs Hình 5. SEM của O-CNTs
Từ Hình 4 và 5 cho thấy đặc trưng hình thái hình học
của CNTs và O-CNTs đều có dạng ống. Điều này chứng
tỏ, CNTs trước và sau biến tính hóa học trong điều kiện
khảo sát hầu như không làm thay đổi về hình thái học. Như
vậy, điều kiện biến tính hóa học được lựa chọn chỉ gắn các
nhóm chức chứa oxy lên bề mặt của vách ống mà hoàn toàn
không làm biến đổi về hình thái hình học của CNTs ban
đầu. Đây chính là điều mà nhóm nghiên cứu mong muốn.
3.4. Khảo sát xác định phương pháp phân tán CNTs vào
trong môi trường phân tán là nước
Để xác định phương pháp phân tán hiệu quả đối với
CNTs trong nghiên cứu này tiến hành 2 phương pháp gồm:
khuấy cơ học (dùng máy khuấy từ) và khuấy siêu âm. Kết
quả được thể hiện ở Hình 6.
Hình 6. Phương pháp phân tán CNTs trong nước
Hình 6 cho thấy môi trường nước đã chuyển sang màu
đen của chất phân tán là CNTs đối với phương pháp khuấy
siêu âm, chứng tỏ sự phân tán đã xảy ra. Đối với phương
pháp khuấy từ (cơ học), môi trường phân tán (nước) không
có sự đổi màu và sau khi ngừng khuấy thì CNTs lắng tụ
xuống đáy cốc, chứng tỏ không phân tán được CNTs vào
môi trường nước. Có thể thấy rằng, vật liệu cấu trúc nano
thường có xu hướng kết tụ khi phân tán vào các môi trường.
Vì vậy, để phân tán cũng như xé nhỏ hạt nano cần phải
cung cấp đủ năng lượng để vượt qua lực liên kết này. Trong
đó, tác dụng của sóng siêu âm làm cho sự phân tán và phá
vỡ sự kết tụ của hạt nano xảy ra [6, 8]. Khi sóng siêu âm
lan truyền vào trong môi trường phân tán sẽ liên tục tạo ra
các chu kỳ xen kẽ giữa áp suất cao và áp suất thấp, điều
này gây tác động lên các lực liên kết của hạt nano. Đồng
thời, khi hàng loạt các bọt khí vỡ tung sẽ tạo ra một áp lực
tương tự động cơ phản lực của máy bay tác động lên chùm
hạt nano khiến chúng tách ra khỏi nhau dễ dàng [5, 9]. Do
vậy, siêu âm được xem là một phương pháp hiệu quả trong
việc phân tán CNTs.
3.5. Khảo sát đánh giá khả năng và trạng thái ổn định
phân tán của CNTs và O-CNTs vào môi trường phân tán
phân cực là H2O
Để đánh giá khả năng phân tán và trạng thái ổn định
phân tán của CNTs trước và sau biến tính hóa học, trong
nghiên cứu này tiến hành phân tán bằng phương pháp siêu
âm ở điều kiện 40% biên độ tần số sóng siêu âm, trong thời
gian 60 phút. Trạng thái phân tán được đánh giá bằng cách
quan sát thông qua hiện tượng lắng tụ của mẫu trong các
khoảng thời gian khác nhau: 1h, 3h và 3 ngày.
Kết quả khảo sát thu được thể hiện ở Hình 7.
Hình 7 (A) cho thấy sau khi siêu âm cả 2 mẫu đều phân
tán đồng nhất trong môi trường nước. Hình 7 (B) cho thấy
sau phân tán 1h thì mẫu CNTs bắt đầu lắng tụ, trong khi đó
mẫu O-CNTs vẫn ổn định. Hình 7 (C) cho thấy sau 3h thì
mẫu CNTs tiếp tục lắng tụ, còn mẫu O-CNTs vẫn giữ trạng
thái phân tán ổn định. Hình 7 (D) cho thấy sau 3 ngày thì
mẫu CNTs lắng tụ hoàn toàn, mẫu O-CNTs vẫn giữ nguyên
O-CNTs
CNTs
Khuấy siêu âm Khuấy từ
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 35
trạng thái phân tán ban đầu. Như vậy chứng tỏ trạng thái
ổn định phân tán của O-CNTs trong môi trường phân tán
phân cực tốt hơn nhiều so với CNTs. Kết quả này cũng phù
hợp với kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả Đỗ Quang
Kháng và cộng sự [9].
Hình 7. Kết quả khảo sát trạng thái phân tán của CNTs và
O-CNTs trong môi trường nước: sau khi siêu âm (A), để yên sau
siêu âm phân tán lần lượt: 1h (B), 3h (C) và 3 ngày (D)
Điều này cũng chứng tỏ sự có mặt của các nhóm chức
phân cực -COOH, -C=O, -OH trong O-CNTs nên dễ dàng
hình thành các liên kết với phân tử H2O như liên kết hydro,
liên kết phân cực. Do vậy mà O-CNTs có ái lực lớn với
nước nên giữ trạng thái phân tán ổn định trong môi trường
nước tốt hơn so với CNTs. Ngoài ra, sự có mặt của các
nhóm chức gắn trên bề mặt ống của CNTs đã làm tăng
khoảng cách và lực đẩy tĩnh điện giữa các ống sau khi siêu
âm nên có xu hướng giảm sự kết tụ [4, 6, 7]. Vì vậy mà khả
năng phân tán và ổn định trạng thái phân tán của O-CNTs
trong môi trường phân cực được cải thiện đáng kể.
4. Kết luận
Các kết quả phân tích đặc trưng O-CNTs và CNTs cho
thấy sự biến tính hóa học CNTs bằng hỗn hợp HNO3 /HCl
với tỷ lệ thể tích 3:1, trong điều kiện nhiệt độ là 55oC và
thời gian là 12h thành công.
Xác định được phương pháp phân tán CNTs vào môi
trường phân tán hiệu quả là phương pháp phân tán bằng
siêu âm.
Khả năng và trạng thái ổn định phân tán của CNTs sau
biến tính hóa học trong môi trường nước cải thiện đáng kể.
Điều này rất quan trọng khi sử dụng chúng trong các lĩnh
vực ứng dụng kết hợp với các loại vật liệu có tính phân cực
như cao su, sơn, keo dán, chất dẻo...
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Belluci, Carbon nanotubes: physics and applications, Physica Status Solidi, pp.34-47 (2005).
[2] Sinnott, Susan B, Andrews, Rodney, Carbon Nanotubes: Synthesis,
Properties, and Applications, Critical Reviews in Solid State and
Materials Sciences (2001).
[3] Valentin N. Popov, Review of Carbon nanotubes: properties and
application, Materials Science and Engineering R 43-61 (2004).
[4] K. Balasubramanian, M.Burghard, Review of Chemically
Functionalized Carbon Nanotubes, Small Journal, 1, No. 2, 180 –192 (2005).
[5] Garima Mittal, Vivek Dhand, Kyong Yop Rhee, Soo-jin Park, A
review on carbon nanotubes and graphene as fillers in reinforced
polymer nanocomposites, Journal of Industrial and Engineering
Chemistry 21.11-25 (2015).
[6] Ma P-C, Mo S-Y, Tang B-Z, Kim J-K, Dispersion, interfaces
interaction and re-agglomeration of functionalized carbon nanotubes in epoxy composites, Carbon 48(6):1824 (2010).
[7] Yu J, Grossiord N, Koning CE, Loos J, Controlling the dispersion
of multi-wall carbon nanotubes in aqueous surfactant solution,
Carbon 45(3):618-623 (2006).
[8] Fan Z, Advani SG, Rheology of multiwall carbon nanotube
suspensions, J Rheol 51(4):585 (2007).
[9] Chu Anh Vân, Lê Hồng Hải, Hồ Thị Oanh, Đỗ Quang Kháng,
Nghiên cứu biến tính bề mặt ống nanocarbon bằng phản ứng este
hóa Fisher, Tạp chí Hóa học 53(4) 520-525 (2015).
[10] Charles C. Chusuei and Mulugeta Wayu, Characterizing
Functionalized Carbon Nanotubes for Improved Fabrication in Aqueous Solution Environments, www.intechopen.com
[11] Kevin A. Wepasnick, Billy A. Smith & Julie L. Bitter D. Howard
Fairbrothe, Review of Chemical and structural characterization of
carbon nanotube surfaces, Anal Bioanal Chem DOI
10.1007/s00216-009-3332-5 (2010).
[12] Holzinger, M., Vostrowsky, O., Hirsch, A., Hennrich, F., Kappes,
M., Weiss, R.; Jellen, F, Sidewall Functionalization of Carbon Nanotubes, Ang. Chem. Inter. Ed., (2001).
[13] Kim, B.; Sigmund, W. M., Functionalized Multiwall Carbon
Nanotube/Gold, Nanoparticle Composites, Langmuir, 20, 8239-
8242 (2004).
[14] Chen, G.-X.; Kim, H.-S.; Park, B. H.; Yoon, J.-S, Controlled
Functionalization of Multiwalled Carbon Nanotubes with Various
Molecular-Weight Poly l-lactic acid,. J. Phys. Chem. B, 109, 22237-22243 (2005).
(BBT nhận bài: 17/02/2017, hoàn tất thủ tục phản biện: 25/07/2017)
(A)
(B)
(C)
(D)
CNTs O-CNTs
CNTs O-CNTs
CNTs O-CNTs
CNTs O-CNTs
36 Nguyễn Phi Hùng, Thái Thị Bích Vân
KẾT QUẢ XÂY DỰNG MÔ HÌNH THÂM CANH GIỐNG NGÔ NẾP NÙ 66
TRÊN ĐẤT TRỒNG LÚA NƯỚC VỤ ĐÔNG XUÂN TẠI XÃ SA NGHĨA,
HUYỆN SA THẦY, TỈNH KON TUM
RESULTS OF BUILDING THE COMPREHENSIVE MODEL OF STICKY CORN NU 66
ON RICE LAND IN SA NGHIA COMMUNE, SA THAY DISTRICT, KON TUM PROVINCE
Nguyễn Phi Hùng, Thái Thị Bích Vân
Đại học Đà Nẵng; [email protected]
Tóm tắt - Nghiên cứu đã tiến hành đánh giá các chỉ tiêu sinh trưởng, phát triển qua đó tính toán hiệu quả kinh tế của mô hình thâm canh giống ngô nếp Nù 66 vụ đông xuân 2016-2017 trên diện tích đất chỉ trồng lúa vụ mùa do thiếu nước tưới tại xã Sa Nghĩa, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum. Mô hình thực hiện trên diện tích 2,64 ha, năng suất bình quân đạt 75,8 tạ ngô tươi/ha. Mô hình thích ứng với biến đổi khí hậu, góp phần nâng cao hệ số sử dụng đất, giải quyết việc làm và mang lại lợi nhuận cho người nông dân 72.655.000 đồng/ha chỉ sau 72 ngày trồng; tỷ suất lãi so với vốn đầu tư đạt 2,34. Mô hình có thể khuyến cáo nông dân áp dụng sản xuất trên đất trồng lúa nước vụ đông xuân không chủ động nước tưới.
Abstract - The study has evaluated the growth and development criteria and estimated the economic efficiency of the model of sticky corn NU 66 in winter-spring crop of 2016-2017 on water shortage crop land in Sa Nghia Commune, Sa Thay district, Kon Tum province. The model was implemented on an area of 2.64 hectares with an average yield of 75.8 quintals of fresh corn per hectare. The model can adapt to climate change, making a contribution to the improvement of land use, job creation and profitability for farmers of 72,655,000 VND/ha only after 72 days, reaching 2.34 on the rate of investment return. The model can advise farmers to apply production to irrigated winter-spring crop without irrigation water.
Từ khóa - Sa Nghĩa; Sa Thầy; Kon Tum; ngô nếp; Nù 66; vụ đông xuân.
Key words - Sa Nghia; Sa Thay; Kon Tum; Sticky corn; Nu 66; winter-spring crop.
1. Đặt vấn đề
Tình hình biến đổi khí hậu, hạn hán thường xuyên diễn
ra, cùng với hệ thống tưới cho cây trồng vụ đông xuân ở
tỉnh Kon Tum còn hạn chế đã gây thiệt hại đáng kể cho
ngành nông nghiệp. Theo báo cáo của Ủy ban nhân dân
tỉnh Kon Tum, vụ đông xuân 2015-2016 trên địa bàn Tỉnh
đã xảy ra khô hạn, thiếu nước với diện tích 4.198,27 ha,
gồm 1.372,1 ha lúa, 2.533,3 ha cây công nghiệp, 49,52 ha
ngô, rau màu các loại và 243,35 ha cây trồng khác, tổng giá
trị thiệt hại ước tính khoảng 188.392,125 triệu đồng [4].
Để tăng diện tích gieo trồng cây hàng năm và đa dạng
hóa sản phẩm nông nghiệp, các cấp ủy Đảng, chính quyền,
các ngành chức năng của tỉnh Kon Tum đã tập trung chỉ đạo
chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên diện tích đất lúa thiếu nước
trong vụ đông xuân nhưng hiệu quả mang lại còn thấp do
nhiều nguyên nhân như ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, hệ
thống thủy lợi chưa đồng bộ, hạn chế về vốn đầu tư, chưa
xác định được loại cây trồng để chuyển đổi hiệu quả, …
Qua khảo sát cho thấy một số loại cây trồng ngắn ngày
như ngô, bí đỏ, các loại đậu đỗ, … sử dụng nước ít hơn rất
nhiều so với lúa, có khả năng thích nghi với điều kiện đất
đai, khí hậu vụ đông xuân trên đất trồng lúa nước. Nhu cầu
thị trường các loại nông sản này rất lớn, song chưa có một
kết quả nghiên cứu nào về thử nghiệm xây dựng mô hình
trồng vụ đông xuân trên đất lúa nước không chủ động nước
tưới mang lại hiệu quả kinh tế cao để khuyến cáo sản xuất
đại trà tại tỉnh Kon Tum.
Để sử dụng hiệu quả diện tích đất thiếu nước tưới vụ
đông xuân trong điều kiện hạn hán thường xuyên xảy ra,
tăng hệ số sử dụng đất góp phần giải quyết việc làm, tăng
thu nhập cho lao động khu vực nông thôn, chúng tôi đã
nghiên cứu xây dựng mô hình trồng ngô nếp Nù 66 tại xã
Sa Nghĩa, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum.
2. Nội dung, phương pháp nghiên cứu
2.1. Vật liệu, địa điểm, thời gian, quy mô nghiên cứu
- Vật liệu: Giống ngô nếp Nù 66.
- Địa điểm: Mô hình được thực hiện trên đất trồng lúa
đông xuân thiếu nước tưới của xã Sa Nghĩa, huyện Sa
Thầy, tỉnh Kon Tum.
- Thời gian nghiên cứu: vụ đông xuân 2016-2017.
- Tổng diện tích mô hình: 2,64 ha.
2.2. Nội dung nghiên cứu
- Theo dõi, đánh giá các chỉ tiêu sinh trưởng, phát triển.
- Theo dõi tình hình sâu bệnh hại.
- Đánh giá hiệu quả kinh tế.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Kỹ thuật áp dụng xây dựng mô hình thâm canh ngô
nếp theo Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN 01-56:
2011/BNNPTNT
- Thời vụ: Gieo hạt từ 15/12/2016 – 15/01/2017.
- Giống sử dụng: Ngô nếp Nù 66.
- Yêu cầu về đất trồng: Bằng phẳng, sạch cỏ dại, đảm
bảo độ ẩm đất lúc gieo khoảng 75-80% độ ẩm TĐĐR.
- Kỹ thuật gieo, khoảng cách, mật độ: Mỗi hốc gieo 2 hạt,
sâu từ 3 - 4 cm. Khi ngô 3 - 4 lá tiến hành tỉa lần 1, đến 5 - 6
lá tỉa lần 2, chỉ để lại mỗi hốc 1 cây. Khi ngô mọc mầm, nếu
gặp mưa phùn và xuất hiện sâu keo, sâu xám phá hoại thì sử
dụng thuốc bảo vệ thực vật theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
- Khoảng cách và mật độ gieo trồng: Khoảng cách
70 cm x 25 cm, mật độ 57.000 cây/ha.
- Phân bón:
+ Lượng phân chuồng từ 2,5 đến 5 tấn/ha hoặc phân
hữu cơ khác với lượng quy đổi tương đương.
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 37
+ Lượng phân vô cơ sử dụng tùy theo nhóm giống và
điều kiện đất đai của điểm xây dựng mô hình. Định mức
chung: 450 kg Urê, 600 Lân Supe, 200 kg Kali Clorua.
+ Thời điểm bón: Bón lót toàn bộ phân hữu cơ và phân
lân + 1/4 lượng đạm; Bón thúc lần 1 khi ngô 4 - 5 lá: 1/4
lượng đạm + 1/2 lượng kali; Bón thúc lần 2 khi ngô 8 - 9
lá 1/2 lượng đạm + 1/2 lượng kali.
- Chăm sóc: Khi ngô từ 4 đến 5 lá: Xới vun, bón thúc
lần 1 và vun nhẹ quanh gốc; khi ngô từ 8 đến 9 lá: Xới vun,
bón thúc lần 2 và vun cao chống đổ.
- Tưới tiêu: Đảm bảo đủ độ ẩm đất cho ngô trong suốt
quá trình sinh trưởng và phát triển, đặc biệt chú ý vào các
thời kỳ ngô 6-7 lá, xoắn nõn, trổ cờ, chín sữa.
- Phòng trừ sâu bệnh: Phòng trừ sâu bệnh và sử dụng
thuốc hoá học theo hướng dẫn của ngành bảo vệ thực vật.
- Thu hoạch: Khi ngô chín (chân hạt có vết đen hoặc
khoảng 75% số cây có lá bi khô) chọn ngày nắng ráo để thu
hoạch.
2.3.2. Các chỉ tiêu theo dõi
- Thời gian từ khi gieo đến mọc, thời gian thu hoạch
tươi sau khi gieo, thời gian sinh trưởng, số lá, chiều cao
cây, chiều cao đóng bắp, đường kính bắp, chiều dài bắp, số
bắp hữu hiệu/ cây, số hàng/ bắp, số hạt/ hàng, P1000 hạt.
- Tình hình sâu bệnh hại.
- Các yếu tố cấu thành năng suất (số bắp/cây, số hàng
hạt/bắp, số hạt/hàng, P 1000 hạt).
- Hiệu quả kinh tế của mô hình theo các tiêu chí:
Tổng giá trị thu nhập (GR) = Năng suất x Giá bán;
Tổng chi phí lưu động (TVC) = Chi phí vật tư + Chi phí
lao động + Chi phí năng lượng + Lãi suất vốn đầu tư;
Lợi nhuận (RVAC) = GR - TVC;
Tỷ suất lãi so với vốn đầu tư = RVAC/TVC.
2.3.3. Phương pháp xử lý số liệu
Sử dụng phần mềm Statistix 8.2 và Ms. Excel 2003
3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
3.1. Thời gian sinh trưởng và đặc điểm hình thái
Trong vụ đông xuân, việc bố trí thời vụ có ý nghĩa quan
trọng, giúp hạt giống nảy mầm thuận lợi và đảm bảo thời
kỳ tung phấn, phun râu của ngô có độ ẩm đất, độ ẩm không
khí thích hợp cho quá trình tạo hạt [1], [2]. Thời điểm gieo
hạt của mô hình trong khoảng 15/12/2016 đến 15/01/2017.
Kết quả theo dõi ghi nhận thời gian từ lúc gieo đến khi cây
mọc là 5 – 6 ngày; thời điểm thu sản phẩm tươi trung bình
chỉ sau 72 ngày trồng. Thời gian sinh trưởng của giống ngô
nếp Nù 66 từ 85-86 ngày, phù hợp với đặc điểm sinh học
của giống mà nhà sản xuất khuyến cáo.
Về đặc điểm hình thái, chiều cao cây dao động trong
khoảng 160,3 – 168,8 cm; chiều cao đóng bắp trung bình 7
1,3 cm; số lá trung bình 15,4 thuận lợi cho quá trình quang hợp.
3.2. Tình hình sâu bệnh hại
Sâu bệnh là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến
sinh trưởng, phát triển và năng suất của ngô [3]. Kết quả
theo dõi cho thấy mô hình nhiễm sâu bệnh hại ở mức độ
nhẹ, ảnh hưởng không đáng kể đến năng suất. Thời kỳ ngô
5 – 6 lá có xuất hiện sâu xám (mật độ 1 con/m2); trước khi
ngô trỗ cờ có 7% số cây bị sâu đục thân gây hại và 6,7% số
cây nhiễm bệnh khô vằn – một trong những bệnh nguy
hiểm đối với cây ngô.
3.3. Năng suất mô hình
Số liệu đo đếm cho thấy số bắp hữu hiệu trên cây là
1 bắp; số hàng hạt/ bắp dao động trong khoảng 15,5 – 17;
số hạt/ hàng đạt trung bình 29; số hạt/ hàng trung bình
29,0 hạt và trọng lượng 1000 hạt đạt từ 275,7 – 286,5g.
Năng suất ngô tươi trung bình của các hộ tham gia mô hình
đạt 75,8 tạ/ha, trong đó hộ Nguyễn Văn Ngọc đạt cao nhất
(79,2 tạ/ha).
Bảng 2. Các yếu tố cấu thành năng suất mô hình ngô nếp Nù 66
vụ đông xuân 2016-2017 tại xã Sa Nghĩa, huyện Sa Thầy
TT Tên hộ Số
bắp
Số hàng/
bắp
Số hạt/
hàng
P 1000
hạt (g)
Năng suất ngô
tươi (tạ/ha)
1 Hộ Phan
Lương 1,0 15,5 29,5 275,7 75,7
2 Hộ Võ Xuân
Phương 1,0 15,8 28,9 284,7 72,8
3 Hộ Nguyễn
Văn Ngọc 1,0 17 28,5 286,5 79,2
TB 1,0 16,1 29,0 282,3 75,8
3.4. Hiệu quả kinh tế của mô hình
Tổng chi phí đầu tư 1 ha ngô nếp Nù 66 là 31.045.000
đồng, trong đó chi phí nguyên vật liệu 11.045.000 đồng, chỉ
chiếm 35,6% tổng vốn đầu tư, phù hợp với khả năng đầu tư
của đa số các nông hộ. Tổng doanh thu đạt 103.700.000
đồng/ha, lãi thuần thu được 72.655.000 đồng/ha,
Bảng 1. Thời gian sinh trưởng, đặc điểm hình thái của giống ngô nếp Nù 66 vụ
đông xuân 2016-2017 tại xã Sa Nghĩa, huyện Sa Thầy
TT Tên hộ Thời gian
từ gieo đến
mọc (ngày)
Thời gian
thu hoạch
tươi (ngày)
Thời gian
sinh trưởng
(ngày)
Số
lá
Chiều
cao cây
(cm)
Chiều cao
đóng bắp
(cm)
Đường
kính
bắp (cm)
Chiều
dài bắp
(cm)
1 Hộ Phan Lương 5 70 85 15,6 160,3 70,6 5,5 18,9
2 Hộ Võ Xuân Phương 5 72 85 15,5 161,9 72,8 5,3 18,7
3 Hộ Nguyễn Văn Ngọc 6 74 86 15 168,8 70,6 5,4 17,8
TB 5,3 72 85,3 15,4 163,7 71,3 5,4 18,5
38 Nguyễn Phi Hùng, Thái Thị Bích Vân
mang lại lợi nhuận khá lớn cho người nông dân chỉ sau 72
ngày trồng. Mô hình đã nâng hệ số sử dụng đất gấp 2 lần,
giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho nông hộ.
Bảng 3. Hiệu quả kinh tế của mô hình
(tính trên diện tích 1.000 m2)
TT Nội dung chi Đơn vị
tính
Số
lượng
Đơn giá
(đồng)
Thành tiền
(đồng)
I Tổng chi phí 3.104.500
1 Chi phí công lao
động 2.000.000
Công chăm sóc
và thu hoạch Công 10 200.000 2.000.000
2 Chi phí vật tư 1.104.500
Giống Kg 2 35.000 70.000
Phân chuồng Kg 300 500 150.000
Urê Kg 30 7.500 225.000
Lân Kg 35 3.200 112.000
Kali Kg 25 7.500 187.500
BVTV Đồng 210.000
Chi phí tưới Đồng 150.000
II Tổng doanh thu 10.370.000
Năng suất (số bắp
thu hoạch 1000m2) Trái 5.185
Giá bán bình
quân/1 bắp Đồng 2.000
III Lãi thuần Đồng 7.265.500
IV
Tỷ suất lãi so với
vốn đầu tư 2,34
4. Kết luận và kiến nghị
4.1. Kết luận
Tại xã Sa Nghĩa, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum, trong
vụ đông xuân 2016 – 2017trên chân đất trồng lúa nước, mô
hình trồng ngô nếp Nù 66 cho thu hoạch chỉ sau 72 ngày
gieo trồng, mang lại hiệu quả kinh tế cao: năng suất tươi
đạt 75,8 tạ/ha, lãi thuần 72.655.000 đồng/ha, tỷ suất lãi so
với vốn đầu tư đạt 2,34.
4.2. Kiến nghị
- Mở rộng diện tích mô hình trồng ngô nếp Nù 66 vụ
đông xuân trên đất trồng lúa nước không chủ động tưới để
thu sản phẩm tươi tại xã Sa Nghĩa, huyện Sa Thầy, tỉnh
Kon Tum và các địa bàn có điều kiện tượng tự.
- Tùy theo diễn biến thời tiết từng năm, bố trí thời điểm
gieo hạt từ 15/12 – 15/01 năm sau; trồng với mật độ 55.000
cây/ ha, chăm sóc đúng quy trình kỹ thuật sẽ hạn chế sâu
bệnh hại và cho năng suất cao.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Phan Xuân Hào và cộng sự, “Kết quả bước đầu nghiên cứu và chọn tạo giống ngô nếp lai ở Việt Nam”, Tạp chí Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, số 01/2007.
[2] Nguyễn Thị Nhài, Báo cáo kết quả thực hiện đề tài Nghiên cứu chọn
tạo giống ngô nếp lai phục vụ sản xuất năm 2009, 2010, 2011.
[3] Ngô Hữu Tình, Trần Hồng Uy, Võ Đình Long, Bùi Mạnh Cường, Lê
Quý Kha, Nguyễn Thế Hùng (1997), Cây ngô, nguồn gốc, đa dạng
di truyền và quá trình phát triển, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
[4] Ủy ban nhân dân tỉnh Kon Tum, Báo cáo kết quả triển khai Nghị
quyết số 03/NQ-HĐND ngày 06/5/2016 của Hội đồng nhân dân tỉnh về việc giao chỉ tiêu sản xuất lúa vụ Đông xuân 2016-2017.
(BBT nhận bài: 25/05/2017, hoàn tất thủ tục phản biện: 09/06/2017)
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 39
KHAI THÁC DỮ LIỆU VỆ TINH JASON-2 ĐỂ QUAN TRẮC MỰC NƯỚC
HỒ CHỨA NƯỚC PHÚ NINH, TỈNH QUẢNG NAM
APPLYING SATELLITE RADAR ALTIMETRY JASON-2 DATA
TO MONITOR PHU NINH RESERVOIR WATER LEVEL
Phạm Thành Hưng, Nguyễn Chi Công
Trường Đại học Bách khoa, Đại học Đà Nẵng; [email protected]
Tóm tắt - Quan trắc mực nước trong hệ thống các công trình thuỷ lợi đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc vận hành hồ chứa nhằm cấp nước kịp thời cho sản xuất. Tuy nhiên, phương pháp này gặp rất nhiều khó khăn như tầm nhìn bị hạn chế hoặc mưa to, gió lớn. Trong khi đó, phương pháp đo tự động có chi phí rất cao. Trong những năm gần đây, việc ứng dụng dữ liệu miễn phí của vệ tinh đo cao để quan trắc mực nước trong các sông và hồ chứa lớn đang được ứng dụng rộng rãi trên thế giới. Tuy nhiên, phương pháp này chưa được sử dụng nhiều tại Việt Nam. Mục tiêu nghiên cứu này là khai thác dữ liệu đo cao mực nước từ vệ tinh Jason-2 (với chu kỳ lặp lại 10 ngày) để đo mực nước tại hồ chứa Phú Ninh. Kết quả nghiên cứu cho thấy, mực nước đo đạc dùng vệ tinh Jason-2 từ năm 2008 đến năm 2016 cho kết quả khá giống với mực nước thực đo tại hồ chứa Phú Ninh, với hệ số tương quan tương đối cao R2 = 0,995.
Abstract - Water level monitoring in reservoirs play an important role in developing operation rules. It is used to manage water supply and flood controls. Conventional methods are difficult to measure in flood events, while costs of automatic measurement systems are very high. Currently, application of satellite radar altimetry in water level monitoring at large rivers or reservoirs has received increasing attention. However, this application is still limited in Vietnam. This study aims to explore satellite radar altimetry Jason-2 (10-day) to measure water levels at Phu Ninh Reservoir. The results indicate that satellite altimetry-derived water levels have a good agreement with the in-situ water levels at the reservoir (R2=0,995). This reveals a potential application of satellite radar altimetry data to complement the in-situ data in this reservoir.
Từ khóa - mực nước hồ chứa; Jason-2; vệ tinh đo cao; hồ chứa Phú Ninh; ảnh vệ tinh Landsat TM 7
Key words - Water level; Jason-2; satelilte radar altimetry; Phu Ninh reservoir; Landsat TM 7
1. Đặt vấn đề
Vấn đề quản lý tài nguyên nước dưới tác động của biến
đổi khí hậu và sự gia tăng dân số ngày càng trở thành vấn đề
thu hút sự quan tâm trên thế giới. Một trong những công tác
quản lý tài nguyên nước là việc xây dựng quy trình vận hành
hiệu quả các hồ chứa phục vụ công tác cấp nước và điều tiết
lũ. Để đáp ứng được yêu cầu đó, số liệu đo đạc mực nước tại
các hồ chứa đóng vai trò hết sức quan trọng. Hiện nay, mực
nước tại hồ chứa thường được đo đạc theo phương pháp
truyền thống. Tuy nhiên, phương pháp này gặp nhiều khó
khăn đặc biệt trong điều kiện thời tiết mưa lũ.
Trong những năm gần đây, số liệu đo cao vệ tinh
(satellite radar altimetry) đã và đang được áp dụng rộng
rãi trong việc quan trắc mực nước trong các sông lớn và
các hồ chứa [1, 2]. Một trong các vệ tinh đo cao là vệ tinh
ENVISAT, được vận hành bởi cơ quan vũ trụ châu Âu ESA
(European Space Agency) với bước thời gian quan trắc là
35 ngày [3]. Khác với quỹ đạo của vệ tinh ENVISAT, các
vệ tinh T/P (Topex/Poseidon), Jason-1 và Jason-2 được vận
hành bởi cơ quan hàng không vũ trụ Mỹ NASA (National
Aeronautics and Space Administration) và Trung tâm
Nghiên cứu Vũ trụ Quốc gia Pháp CNES (Centre National
d'études Spatiales) với quỹ đạo quan trắc 10 ngày. Số liệu
của các vệ tinh đã và đang được khai thác để quan trắc mực
nước ở các lưu vực sông lớn chảy qua biên giới đa quốc
gia, như sông Mêkông [4], sông Ganges-Brahmaputra tại
Băng-la-đét [5]. Ngoài ra, các vệ tinh này còn được khai
thác để quan trắc mực nước các sông và hồ chứa lớn [6, 7].
Ở Việt Nam, Đoàn Văn Chinh [8] đã ứng dụng số liệu
đo cao của vệ tinh Jason-1 và T/P để quan trắc sự thay đổi
mực nước biển. Hiện nay, việc khai thác sử dụng số liệu
miễn phí từ vệ tinh đo cao để quan trắc mực nước trong các
sông và hồ chứa tại Việt Nam là một cách tiếp cận hoàn
toàn mới. Mục đích của nghiên cứu này là khai thác số liệu
đo cao của vệ tinh Jason-2 để quan trắc mực nước hồ chứa
Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam.
Nghiên cứu sử dụng ảnh vệ tinh Landsat TM7 để xác
định phần mặt nước hồ chứa Phú Ninh. Căn cứ vào vị trí
đường quan trắc (Pass 077) của vệ tinh Jason-2 trên mặt
đất (ground-tracksPass 077) và phần mặt nước hồ chứa
Phú Ninh để xác định khu giao cắt. Khu giao cắt này được
gọi là trạm ảo (virtual station). Mực nước quan trắc bằng
vệ tinh đo cao Jason-2 sẽ được tính toán tại vị trí trạm ảo
vừa được xác định. Kết quả mực nước quan trắc bằng vệ
tinh đo cao Jason-2 có tương quan khá chặt chẽ với mực
nước thực đo tại hồ chứa Phú Ninh.
2. Giới thiệu vùng nghiên cứu và dữ liệu
2.1. Vùng nghiên cứu
Hồ chứa nước Phú Ninh thuộc tỉnh Quảng Nam, được
khởi công xây dựng từ năm 1977, hoàn thành năm 1986
với dung tích 344 triệu m3 nước, nhằm cung cấp nước tưới
cho 23.000 ha đất nông nghiệp của các huyện: Phú Ninh,
Tam Kỳ, Núi Thành, Thăng Bình, Quế Sơn và Duy Xuyên
(Hình 1). Mực nước tại hồ được đo qua công trình tràn nằm
sát đập chính (điểm hình vuông màu vàng ở Hình 1c). Vị
trí đường quan trắc số 77 (Pass 77) của vệ tinh đo cao
Jason-2 (đường chấm đứt màu đỏ) cắt qua phần mặt nước
của hồ chứa Phú Ninh (Hình 1b và 1c). Phần giao cắt này
gọi là trạm ảo, được ký hiệu bằng khung chữ nhật màu đỏ
(ở giữa), và trọng tâm của trạm ảo được ký hiệu bằng tam
giác màu vàng (Hình 1c).
40 Phạm Thành Hưng, Nguyễn Chi Công
Hình 1. a) Vị trí tỉnh Quảng Nam, b) Vị trí hồ chứa Phú Ninh,
c) Vị trí đường quan trắc số 77 của Jason-2
2.2. Vệ tinh đo cao Jason-2
Nghiên cứu này khai thác số liệu đo cao của vệ tinh
Jason-2 vì vệ tinh này có bước thời gian đo đạc (10 ngày)
ngắn hơn vệ tinh ENVISAT (35 ngày). Vệ tinh Jason-2
được phóng lên quỹ đạo vào năm 2008 và vẫn đang hoạt
động để thu thập số liệu quan trắc mực nước toàn cầu [9].
Nghiên cứu sử dụng sản phẩm S-GDR (Sensor-Geopysical
Data Records) với tần suất sóng radar là 20 Hz tương ứng
với khoảng cách giữa hai điểm đo là gần 300m. Thông số
kỹ thuật của vệ tinh Jason-2 trình bày ở Bảng 1. Số liệu của
Jason-2 S-GDR có thể tải miễn phí tại
ftp://ftp.nodc.noaa.gov/pub/data.nodc/jason2/.
Bảng 1. Thông tin đặc tính của vệ tinh đo cao Jason-2
Tên vệ
tinh
Sản
phẩm
Chu kỳ
lặp lại
Độ phân
giải
Độ chính
xác đo cao
Giai đoạn
đo
Jason-
2/OSTM
S-GDR
(20hz) 10 ngày
300 m x
315 km 2,5 cm
2008-
hiện tại
2.3. Dữ liệu ảnh vệ tinh Landsat TM7
Ảnh viễn thám quang học (optical remote sensing) với
độ phân giải cao Landsat TM 7 (Thermatic Mapping) được
sử dụng để xác định ranh giới đường mặt nước của hồ chứa.
Landsat TM 7 có tổng cộng 8 kênh (band) đánh số thứ tự
từ 1 đến 7 và một kênh toàn sắc (panchromatic). Trong đó
vùng bức xạ nhìn thấy gồm kênh 1, 2 và 3. Vùng hồng
ngoại với độ phân giải 30 m gồm có kênh 4, 5 và 7. Kênh
số 6 thuộc vùng hồng ngoại nhiệt có độ phân giải 60 m.
Kênh toàn sắc có độ phân giải 15m. Ảnh vệ tinh Landsat
TM 7 có thể tải miễn phí từ trang web của USGS
(https://earthexplorer.usgs.gov).
2.4. Mực nước đo tại hồ Phú Ninh
Mực nước thực đo tại hồ Phú Ninh được quan trắc tại
vị trí tràn xả lũ. Mực nước được đo 2 lần một ngày và được
đo từ năm 2008 đến nay. Số liệu cao độ mực nước thực đo
tại hồ chứa được cung cấp bởi Công ty TNHHMTV Thuỷ
lợi Quảng Nam.
3. Phương pháp
3.1. Mực nước đo bằng vệ tinh đo cao Jason-2
Vệ tinh đo cao Jason-2 với mục đích chính là đo cao độ
mực nước biển (Hình 2a). Cao độ mực nước biển được tính
toán dựa theo nguyên lý được trình bày bởi Fu and
Cazenave [10]. Cao độ mực nước so với mặt chuẩn (H)
được tính toán như sau:
H = A – R + C (1)
Trong đó, A là độ cao của vệ tinh so với mặt chuẩn
(reference ellipsoid), R là khoảng cách giữa vệ tinh và mực
nước biển, C là các giá trị hiệu chỉnh sai số gây ra do ảnh
hưởng của tầng đối lưu, tầng điện ly, và thủy triều.
Khi áp dụng nguyên lý này để tính toán mực nước trong
sông và hồ chứa, sai số hiệu chỉnh chỉ kể đến là sai số ở
tầng đối lưu (dry troposphere, wet troposphere), tầng điện
ly (ionophere), và thủy triều (solid earth và pole tides). Các
sai số khác được áp dụng cho tính toán cao độ mực nước
biển được bỏ qua khi tính toán mực nước sông và hồ chứa
trên đất liền [11]. Hình 2b thể hiện các đường quan trắc của
vệ tinh đo cao Jason-2 cắt qua các hệ thống sông trên phần
đất liền Việt Nam.
Hình 2. (a) Nguyên lý đo đạc cao độ mực nước biển của vệ tinh
Jason-2 và các yếu tố ảnh hưởng đến sai số đo đạc,
(b) Đường quan trắc trên bề mặt trái đất (ground-tracks) của
vệ tinh Jason-2 cắt qua hệ thống sông Việt Nam
Khi vệ tinh đo cao độ mực nước trên đại dương, các
sóng tín hiệu phát ra từ vệ tinh đến mặt biển và phản xạ lại
vệ tinh không bị ảnh hưởng nhiễu bởi tầng phủ mặt đất
(rừng cây, bụi cỏ hay mặt đất). Tuy nhiên, khi vệ tinh đo
cao độ mực nước trong sông và hồ trên đất liền, sóng radar
thu và phát ra từ vệ tinh sẽ bị nhiễu bởi lớp phủ thực vật,
các cồn cát (đụn cát) trong sông, hoặc các đảo trong hồ
chứa. Vì vậy không thể áp dụng trực tiếp các tham số đo
đạc của vệ tinh đo cao Jason-2 cho đại dương vào tính toán
mực nước trong sông và hồ trên đất liền.
Do đó, Bamber [12] đã phát triển thuật toán Ice-1 để theo
dõi và phân tích lại dạng sóng (waveform re-tracker) phản
xạ từ mặt đất liền để ước tính các tham số cao độ và sai số
hiệu chỉnh khi quan trắc mực nước trên đất liền. Nghiên cứu
này sử dụng các tham số ước tính từ thuật toán Ice-1 để tính
toán cao độ mực nước cho hồ chứa Phú Ninh.
Đầu tiên, dữ liệu của các kênh 5, 4, và 3 của vệ tinh
Landsat TM7 được tổ hợp để tạo ra ảnh mô phỏng màu sắc
tự nhiên (đỏ - xanh lá cây- xanh da trời) (Hình 3). Sau đó
đường bao mặt nước hồ chứa được xác định dựa vào sự khác
biệt về màu sắc giữa mặt nước và mặt đất. Đường quan trắc
Pass 77 của vệ tinh Jason-2 thể hiện là các điểm hình vành
khăn cắt qua mặt thoáng hồ chứa (Hình 3). Phần giao cắt của
vệ tinh và hồ chứa (khung chữ nhật) được gọi là trạm ảo
(Hình 3). Kích thước của hình chữ nhật được chọn lựa sao
cho vừa đảm bảo chứa được nhiều điểm quan trắc của vệ tinh
nhất và đồng thời ít bị ảnh hưởng của phần mặt đất và cây
cối nhất. Sau khi xây dựng được trạm ảo, cao độ mực nước
được tính toán dựa theo công thức (1) tại các điểm quan trắc
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 41
thuộc bên trong hình chữ nhật (trạm ảo). Cao độ mực nước
hồ chứa tại một thời điểm quan trắc nhất định được xác định
bằng cách tính trung vị (median) của các điểm đo đã được
lựa chọn tại trạm ảo [13]. Cuối cùng, các điểm ngoại lai
(outliers) được loại bỏ từ chuỗi số liệu quan trắc bằng cách
so sánh các giá trị quan trắc với khoảng tin cậy 95%
(confidence interval of 95%) của toàn bộ chuỗi quan trắc.
Hình 3. Ảnh màu tự nhiên của hồ chứa Phú Ninh tạo ra
từ ảnh vệ tinh Landsat TM7. Đường chấm vành khăn là
đường quan trắc Pass 77 của vệ tinh Jason-2
3.2. Phương pháp đánh giá
Vị trí trạm thực đo tại hồ chứa Phú Ninh được bố trí tại
vị trí tràn xả lũ. Trong khi đó, vị trí trọng tâm của trạm ảo
nhằm về phía thượng lưu của hồ, cách vị trí trạm thực đo
tại tràn gần 5,6 km. Do khác nhau về vị trí quan trắc nên
hai chuỗi số liệu mực nước sẽ có chênh lệch độ cao gây ra
bởi độ dốc đường mặt nước trong hồ chứa. Để có thể so
sánh và đánh giá độ chính xác của mực nước quan trắc bằng
vệ tinh đo cao so với mực nước thực đo tại trạm, nghiên
cứu sử dụng phương pháp thu phóng (công thức 2) để
chuyển hai chuỗi số liệu mực nước về cùng một tỷ lệ để có
thể so sánh. Công thức thu phóng như sau
MNthu phóng = (MNquan trắc – MNmin) / (MNmax – MNmin) (2)
Trong đó, MNthu phóng là mực nước sau khi thu phóng,
MNquan trắc là mực nước quan trắc bằng vệ tinh hoặc trạm đo,
MNmax và MNmin tương ứng là mực nước lớn nhất và bé nhất
của chuỗi số liệu quan trắc bằng vệ tinh hoặc bằng trạm đo.
Hai chuỗi số liệu mực nước sau khi được thu phóng sẽ
được so sánh đánh giá dựa theo các tiêu chí về độ tương quan
(R2), sai số quân phương (RMSE), và độ thiên lệch (Bias)
R2 = [∑ (𝑦𝑖
𝑜−𝑦𝑜 )(��𝑖−��)𝑛𝑖=1
√∑ (𝑦𝑖𝑜−𝑦𝑜 )
2∑ (��𝑖−��)
2𝑛𝑖=1
𝑛𝑖=1
]
2
(3)
RMSE = √∑ (𝑦𝑖
𝑜−��𝑖)2𝑛𝑖=1
𝑛 (4)
Bias = (��
𝑦0 − 1) (5)
Trong đó, y0 là mực nước thực đo tại trạm, �� là mực
nước quan trắc bằng vệ tinh. 𝑦𝑜 và �� lần lượt là giá trị trung
bình của chuỗi mực nước đo tại trạm và mực nước quan
trắc bằng vệ tinh.
3.3. Phương trình quan hệ giữa mực nước thực đo và
mực nước quan trắc của vệ tinh
Để có thể sử dụng mực nước quan trắc bằng vệ tinh
trong việc ước tính mực nước tại trạm đo của hồ chứa,
phương trình hồi quy tuyến tính bậc nhất được áp dụng để
xây dựng quan hệ giữa hai chuỗi số liệu mực nước.
Y = a + bX (6)
Trong đó, a và b là hai hệ số của phương trình tuyến
tính bậc nhất. X là số liệu mực nước quan trắc bằng vệ tinh
(10 ngày). Y là số liệu mực nước ước tính tại vị trí trạm
thực đo tại cùng thời điểm tương ứng.
4. Kết quả và bàn luận
Kết quả cho thấy mực nước quan trắc bằng vệ tinh có
quan hệ rất chặt chẽ với mực nước đo tại trạm với hệ số
tương quan rất cao R2=0,995 (Hình 4). Mực nước quan trắc
bằng vệ tinh thể hiện khá rõ dao động mực nước theo mùa
(mùa khô và mùa mưa). Sự chênh lệch về độ lớn của hai
chuỗi mực nước trong Hình 4 là do ảnh hưởng của độ dốc
đường mặt nước trong hồ giữa hai vị trí đo đạc (cách nhau
gần 5,6 km).
Hình 4. Chuỗi số liệu mực nước đo tại hồ (đường nét liền) và
mực nước quan trắc bằng vệ tinh Jason-2 (điểm tròn)
Hai chuỗi số liệu mực nước sau khi được thu phóng về
cùng tỷ lệ (từ 0 đến 1) được thể hiện trong Hình 5. Kết quả
cho thấy rằng mực nước quan trắc bằng vệ tinh gần như mô
tả chính xác dao động của mực nước thực đo với độ lệch
quân phương RSME = 3 cm. Mực nước quan trắc bằng vệ
tinh Jason-2 bé hơn mực nước thực đo tại hồ là 0,03 m
(Hình 5). Nguyên nhân dẫn đến độ lệch này là do gió Tây
Nam tạo ra độ dềnh mực nước trong hồ chứa.
Hình 5. Số liệu mực nước thu phóng từ mực nước đo
tại trạm (đường nét liền) và mực nước thu phóng từ
số liệu quan trắc vệ tinh (điểm tròn)
Để có thể dự báo mực nước hồ chứa từ dữ liệu vệ tinh đo
cao Jason-2, phương trình hồi quy tuyến tính được thiết lập
dựa vào số liệu quan trắc mực nước từ vệ tinh và số liệu thực
đo tại hồ (Hình 6). Hệ số độ dốc của phương trình (b) gần
như bằng 1, do đó trị số a = -2,26 m thể hiện sự chênh lệch
độ cao mực nước giữa hai điểm đo. Hiện tại, do chưa có số
liệu thực đo về độ dốc đường mực nước trong hồ nên nghiên
42 Phạm Thành Hưng, Nguyễn Chi Công
cứu này tạm thời chưa đánh giá độ lệch mực nước giữa trạm
thực đo và trạm ảo. Tuy nhiên, kết quả cho thấy tiềm năng
trong việc sử dụng số liệu đo cao của vệ tinh Jason-2 trong
việc hỗ trợ quan trắc mực nước hồ chứa Phú Ninh.
Hình 6. Phương trình quan hệ giữa mực nước đo tại trạm và
mực nước quan trắc bằng vệ tinh Jason-2 (đường nét liền),
các giá trị mực nước quan trắc (điểm tròn)
5. Kết luận
Hiện nay, chưa có một nghiên cứu nào sử dụng số liệu
vệ tinh đo cao Jason-2 để quan trắc mực nước hồ chứa và
sông tại Việt Nam. Nghiên cứu này đã chỉ ra khả năng ứng
dụng của vệ tinh đo cao Jason-2 trong quan trắc mực nước
các hồ chứa Phú Ninh. Kết quả cho thấy mực nước quan
trắc bằng vệ tinh có tương quan chặt chẽ với mực nước đo
tại trạm (R2 = 0,995) và sai số khá nhỏ 3 cm. Phương trình
tương quan hồi quy tuyến tính có thể được sử dụng để ước
tính mực nước tại hồ chứa từ số liệu quan trắc của vệ tinh
đo cao Jason-2.
Với chu kỳ lặp lại là 10 ngày, số liệu vệ tinh Jason-2 có
thể được áp dụng cho việc xây dựng kế hoạch cấp nước của
hồ vào mùa khô. Tuy nhiên, số liệu mực nước quan trắc
bằng vệ tinh hiện tại chưa thể áp dụng cho việc điều tiết lũ
của hồ. Do đó, việc tạo ra số liệu mực nước hằng ngày từ
số liệu mực nước 10 ngày của vệ tinh đo cao Jason-2 là một
hướng nghiên cứu có nhiều tiềm năng. Nghiên cứu hiện tại
dừng lại ở việc đánh giá dựa trên toàn bộ chuỗi số liệu, việc
phân tích theo mùa nằm ngoài phạm vi đối tượng nghiên
cứu của bài báo này. Do đó, việc đánh giá độ chính xác của
số liệu đo cao từ vệ tinh theo mùa mưa và mùa khô là hướng
nghiên cứu tiếp theo của nhóm tác giả.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] C. M. Birkett and B. Beckley, "Investigating the Performance of the
Jason-2/OSTM Radar Altimeter over Lakes and Reservoirs”, Marine Geodesy, vol. 33, pp. 204-238, 2010.
[2] J.-F. Crétaux and C. Birkett, "Lake studies from satellite radar altimetry”,
Comptes Rendus Geoscience, vol. 338, pp. 1098-1112, 2006.
[3] S. Calmant and F. Seyler, "Continental surface waters from satellite
altimetry”, Comptes Rendus Geoscience, vol. 338, pp. 1113-1122, 2006.
[4] K.-T. Liu, K.-H. Tseng, C. Shum, C.-Y. Liu, C.-Y. Kuo, G. Liu, et
al., "Assessment of the Impact of Reservoirs in the Upper Mekong
River Using Satellite Radar Altimetry and Remote Sensing
Imageries”, Remote Sensing, vol. 8, p. 367, 2016.
[5] S. Biancamaria, F. Hossain, and D. P. Lettenmaier, "Forecasting
transboundary river water elevations from space”, Geophysical Research Letters, vol. 38, 2011.
[6] F. Papa, S. K. Bala, R. K. Pandey, F. Durand, V. Gopalakrishna, A.
Rahman, et al., "Ganga‐Brahmaputra river discharge from Jason‐2
radar altimetry: An update to the long‐term satellite‐derived
estimates of continental freshwater forcing flux into the Bay of Bengal”, Journal of Geophysical Research: Oceans, vol. 117, 2012.
[7] A. K. Dubey, P. K. Gupta, S. Dutta, and R. P. Singh, "An improved
methodology to estimate river stage and discharge using Jason-2
satellite data”, Journal of Hydrology, vol. 529, pp. 1776-1787, 2015.
[8] B. T. K. T. Đoàn Văn Chinh, Li Dawei, "Sử dụng số liệu đo vệ tinh
Topex/Poseidon và Jason-1 khảo sát sự thay đổi của nước biển”,
Tuyển tập Hội nghị khoa học thường niên- Đại học Thủy lợi, pp. 131-133, 2013.
[9] J. Dumont, V. Rosmorduc, N. Picot, S. Desai, H. Bonekamp, J. Figa,
et al., "OSTM/Jason-2 products handbook”, CNES: SALP-MU-M-OP-
15815-CN, EUMETSAT: EUM/OPS-JAS/MAN/08/0041, JPL: OSTM-
29-1237, NOAA/NESDIS: Polar Series/OSTM J, vol. 400, 2009.
[10] L.-L. Fu and A. Cazenave, Satellite altimetry and earth sciences: a handbook of techniques and applications vol. 69: Academic Press, 2000.
[11] J. G. Leon, S. Calmant, F. Seyler, M. P. Bonnet, M. Cauhopé, F.
Frappart, et al., "Rating curves and estimation of average water depth
at the upper Negro River based on satellite altimeter data and modeled
discharges”, Journal of Hydrology, vol. 328, pp. 481-496, 2006.
[12] J. L. Bamber, "Ice sheet altimeter processing scheme”, International
Journal of Remote Sensing, vol. 15, pp. 925-938, 1994.
[13] F. Frappart, F. Seyler, J.-M. Martinez, J. G. León, and A. Cazenave,
"Floodplain water storage in the Negro River basin estimated from
microwave remote sensing of inundation area and water levels”,
Remote Sensing of Environment, vol. 99, pp. 387-399, 2005.
(BBT nhận bài: 22/05/2017, hoàn tất thủ tục phản biện: 02/06/2017)
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 43
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG LƯỢNG TIẾN DAO ĐẾN LỰC CẮT
KHI TIỆN THÉP C45 DÙNG MẢNH DAO HỢP KIM CACBIT VONFRAM
TRÊN MÁY CNC EMCO CONCEPT TURN 250
A STUDY ON DETERMINING THE FEEDRATE INFLUENCE ON CUTTING FORCE
ON TURNING C45 STEEL USING CACBIT VONFRAM CUTTER PIECE
ON CNC EMCO CONCEPT TURN 250
Phạm Nguyễn Quốc Huy1, Lê Minh Sơn2, Trần Xuân Tùy1 1Trường Đại học Bách khoa - Đại học Đà Nẵng; [email protected], [email protected]
2Trường Cao đẳng Giao thông vận tải II; [email protected]
Tóm tắt - Bài báo giới thiệu phương pháp xác định ảnh hưởng của lượng tiến dao đến các lực cắt thành phần khi gia công tiện thép C45 trên máy tiện CNC Emco Concept Turn 250 bằng dụng cụ đo lực cắt DKM 2010 –TeLC. Tín hiệu đo sự thay đổi của các lực cắt thành phần được chuyển đổi thành tín hiệu số và xuất ra kết quả dưới dạng đồ thị bằng phần mềm XKM. Sử dụng phương pháp qui hoạch thực nghiệm dựa trên tiêu chuẩn Cochran và công cụ Fitting Curve của phần mềm Matlab 2014a để xây dựng công thức thực nghiệm đối với lực cắt chính (Pz) theo lượng tiến dao dọc (s). Từ công thức thực nghiệm vẽ đồ thị ảnh hưởng của lượng tiến dao s đến lực cắt chính khi tiện thép C45 dùng mảnh dao Cacbit Vonfram và kiểm nghiệm độ tin cậy của giá trị lực cắt chính.
Abstract - The article describes the method of determining the feedrate influence on cutting force on using turning material on CNC Emco Concept Turn 250 by cutting force measurement equipment named DKM 2010-TeLC. Measurement signal of changing part cutting forces will be transmitted to digital signals, and export result under graph by XKM software, thereby appreciating the changing part cutting forces. Use the experimental planning method relying on Cochran standard and the Fitting curve toolbox of Matlab 2014 a software to establish experimental formula for the main cutting force (PZ) upon the axial feedrate (s) parameter. From experimental formula, draw graph of the influence of axial federate on the main cutting force on turning C45 steel by Cacbit Vonfram cutter piece, and test the reliability of the main cutting force value.
Từ khóa - tiện; phương trình lực cắt; lực cắt; lượng tiến dao; máy CNC
Key words - turning process; cutting force equation; cutting force; CNC machine
1. Đặt vấn đề
Ảnh hưởng của chế độ cắt đến lực cắt đã được nhiều tác
giả nghiên cứu bằng nhiều phương pháp khác nhau:
phương pháp lý thuyết, phương pháp đo trực tiếp, phương
pháp toán thống kê xác suất [1].
Các phương pháp nghiên cứu trên đã đạt được kết quả
đáng ghi nhận: Lực cắt có giá trị nhỏ nhất khi tiện thép có
độ cứng khoảng 50 HRC, giá trị lực cắt khi tiện thép X12M
lớn hơn nhiều so với tiện thép 9XC ở cùng điều kiện gia
công và việc tối ưu chế độ cắt khi tiện thép 9XC bằng dụng
cụ cắt dùng vật liệu lập phương đa tinh thể (PCBN) phụ
thuộc nhiều vào vận tốc cắt ở giá trị khoảng 100m/phút,
đồng thời nghiên cứu đã xác định được mô hình hồi qui
biểu diễn giá trị lực cắt theo vận tốc cắt “v” và lượng tiến
dao “s” như sau [2]:
𝑃𝑍 = 3,719 ∗ 10−4𝑣3,30903𝑠1,497𝑙𝑛𝑣−6,6020 (1)
𝑃𝑋 = 0,0837𝑣2,1426𝑙𝑛𝑣−3,6504 (2)
Trong một kết quả nghiên cứu khác khi tiện thép
Cacbon thấp dùng mảnh dao TiC loại CNMG 12 04 08 TiN
bằng thuật toán Taguchi và mô hình dự đoán Logic mờ có
sử dụng thiết bị đo lực kế đã xác định được công thức tính
lực cắt (3) và so sánh được sự khác nhau giữa các phương
pháp xác định lực cắt (Hình 1) [8]:
𝑅 = 707 + 0,23𝑣 + 112𝑠 + 13,4𝑡 (3)
Trong đó, tốc độ cắt và lượng tiến dao ảnh hưởng đến
95% lực cắt.
Xác định sự thay đổi lực cắt khi gia công thực tế khá khó
khăn do điều kiện thiết bị đo, phụ thuộc vào từng loại vật
liệu, phương án chạy dao, vật liệu làm dao, thông số hình
học dao, độ cứng vững của thiết bị, đồ gá, ... cùng một chế
độ cắt. Bằng phương pháp đo thực nghiệm và phương pháp
toán thống kê, bài báo tập trung nghiên cứu xác định sự thay
đổi lực cắt dựa trên sự thay đổi lượng tiến dao khi tiện thép
C45 bằng mảnh dao hợp kim Cacbit Vonfram WC. Các thí
nghiệm được thực hiện trên máy CNC vì nó cho phép thay
đổi vô cấp các thông số chế độ cắt một cách chính xác trong
phạm vi rộng. Từ đó xây dựng công thức thực nghiệm để xác
định giá trị lực cắt theo lượng chạy doa trong cùng một điều
kiện cắt với các chi tiết khác nhau làm bằng vật liệu thép
C45, công thức này có thể được áp dụng khi gia công trên
máy CNC và các loại máy tiện thông thường.
Các thí nghiệm được thực hiện trên máy tiện CNC 3
trục Emco Concept Turn 250 và dụng cụ đo lực cắt DKM
2010 –TeLC tại Viện Công nghệ Cơ khí và Tự động hóa,
Trường Đại học Bách khoa - Đại học Đà Nẵng.
Hình 1. Biểu đồ so sánh giữa giữa kết quả
thực nghiệm và dự đoán
44 Phạm Nguyễn Quốc Huy, Lê Minh Sơn, Trần Xuân Tùy
2. Xác định ảnh hưởng của lượng tiến dao “s” đến lực
cắt chính PZ
Xây dựng công thức thực nghiệm lực cắt dựa trên sự thay
đổi lượng tiến dao (s) khi tiện thép C45 và sử dụng dao tiện
mảnh hợp kim Atorn CCMT 09T304-WP HC6620.
2.1. Thông số hình học và vật liệu mảnh dao tiện
Thông số hình học của dụng cụ cắt tạo nên bởi mảnh
dao và thân dao như sau:
- Góc trước = 00, góc sau α = 70;
- Góc nghiêng chính (góc tiến dao) = 900;
- Góc đỉnh dao: 800; Bán kính mũi dao R = 0,4 mm;
- Chiều dài cạnh cắt: l = 9,52 mm; chiều dày t = 3,97 mm.
Vật liệu làm mảnh dao gồm hợp kim cứng Vonfram và
Coban, có thêm TiC và TaC để tăng thêm độ bền nhiệt và
chống mài mòn.
2.2. Lắp đặt thiết bị đo DKM 2010 –TeLC trên máy tiện
CNC Emco Concept Turn 250
Xác định lực cắt bằng thiết bị đo DKM 2010 –TeLC
(Hình 3) với 5 thành phần: Lực cắt chính – PZ; Lực chạy
dao hướng kính phải/ trái–PYR/L; Lực tiếp tuyến –PX+/-
(hướng vào/ ra mâm cặp). Lực cắt tối đa 2000N (độ phân
giải 1N).
Hình 3. Nguyên lý đo lực cắt của dụng cụ đo
DKM 2010 –TeLC
Hình 4. Sơ đồ kết nối dụng cụ đo và xử lý số liệu đo
1: Phôi thép C45; 2: Thiết bị đo DKM 2010 có gá đặt dụng cụ
cắt; 3: Bộ chuyển đổi tương tự/số (A/D); 4: Máy tính
Thiết bị đo DKM 2010–TeLC sử dụng cảm biến điện
trở (Hình 3) thay đổi theo biến dạng của kết cấu chịu lực
gắn trong thiết bị đo do lực cắt gây ra, tín hiệu đo của cảm
biến được chuyển thành tín hiệu số thông qua bộ chuyển
đổi A/D. Tín hiệu số sau đó được chuyển qua máy tính qua
cổng COM và được xử lý bằng phần mềm XKM để xuất ra
kết quả dưới dạng đồ thị hoặc bảng (Hình 4).
Khi tiện trên máy CNC Emco Concept Turn 250, thiết
bị đo DKM 2010 –TeLC được gắn cố định vào ụ gá dao
tiện và dao tiện được gắn cố định với thiết bị đo (Hình 5).
Giữa thiết bị đo và máy tính được kết nối bằng cáp tín hiệu
sử dụng cổng COM. Thiết bị đo tác động độc lập không
ảnh hưởng đến hệ điều khiển máy CNC.
Hình 5. Gá lắp dụng cụ đo lực cắt DKM 2010 –TeLC trên máy
tiện CNC Concept Turn 250
1. Ụ gá dao; 2. Mảnh dao; 3. Phôi thép C45; 4. Thiết bị đo;
5. Máy tính ghi nhận giá trị đo
2.3. Xây dựng công thức thực nghiệm đối với “PZ”
Hình 6. Các thành phần lực cắt khi tiện
𝑃𝑍 (FC): Lực chạy dao; 𝑃𝑌(Ff): Lực hướng kính;
𝑃𝑋(Fp): Lực tiếp tuyến
Công thức xác định lực cắt tổng quát khi tiện [1], [4]:
R = √PX2 + PY
2 + PZ2 (4)
Trong đó:
+ PZ = CPZ. t PZ
X. s PZ
Y. v PZ
NKPZ
[N] (5)
+ PY = CPY. t PY
X. s PY
Y. v PY
NKPY
[N] (6)
+ PX = CPX. t PX
X. s PX
Y. v PX
NKPX
[N] (7)
2.3.1. Chế độ cắt khi tiện
- Chiều sâu cắt: t = 0,5 ÷ 1 mm;
- Vận tốc cắt: vC = 120 ÷ 240 m/ph;
- Lượng tiến dao: s= 0,12 ÷ 0,4 mm/vòng;
- Tiện dọc theo phương Z một khoảng 15 mm;
- Điều kiện cắt khô, không bôi trơn làm nguội.
2.3.2. Xác định lực cắt bằng thực nghiệm
Để đảm bảo độ tin cậy số liệu đo thực nghiệm, ta tiến
hành 5 lần đo lặp lại khi thay đổi lượng tiến dao s.
Kết quả đo được ghi nhận và hiển thị dưới dạng đồ thị,
với trục đứng thể hiện độ lớn của giá trị lực cắt thành phần
PZ, PY, PX và trục ngang thể hiện số điểm thu nhận giá trị đo.
Hình 2. Mũi dao Atorn CCMT 09T304-WP HC6620
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 45
Trong lần thực nghiệm này, ta chọn tần số lấy mẫu là
10Hz, tức là trong 1 giây, thiết bị sẽ đo được 10 giá trị.
Thiết lập bộ lọc Filter, khi giá trị lực lớn hơn 30N, thì
phần mềm mới thu nhận giá trị đo.
Ta tiến hành đo liên tục với 5 giá trị lượng tiến dao s:
0,12; 0,19, 0,26; 0,33; 0,4 mm/vg trên 5 phôi thép C45
trong 1 lần đo thực nghiệm, lặp lại 5 lần. Kết quả là đồ thị
thể hiện 5 đường giá trị lực cắt ứng với 5 giá trị lượng tiến
dao tạo thành một chuỗi liên tục. Kết quả đo và xử lý số
liệu lực cắt thực nghiệm như sau:
- Khi lượng tiến dao “s” thay đổi, cố định vC = 170
m/ph, t = 0,5 mm
Hình 7: Đồ thị kết quả đo lực cắt
1: Đồ thị PZ; 2: Đồ thị PY; 3: Đồ thị PX
Điểm 1 đến 37: s = 0,12 mm/vg;
Điểm 52 đến 76: s = 0,19 mm/vg;
Điểm 82 đến 100: s = 0,26 mm/vg;
Điểm 106 đến 119: s = 0,33 mm/vg;
Điểm 125 đến 136: s = 0,4 mm/vg;
Trong lần đo thứ 1, khi lượng tiến dao thay đổi từ
0,12 – 0,4 mm/vòng thì giá trị lực cắt chính PZ thay đổi từ
207 – 407 N. Đồ thị kết quả ở Hình 7 cho thấy giá trị lực
cắt đo được hầu như ổn định trên suốt chiều dài đường cắt
ứng với mỗi lượng tiến dao, và thời gian thu nhận dữ liệu
đo giảm khi lượng tiến dao tăng, dẫn đến số điểm đo được
cũng giảm dần.
Sau khi thực hiện 5 lần đo, lấy trung bình của các giá
trị đo được, ta có bảng kết quả sau:
Bảng 1. Kết quả đo khi s = 0,120,4 mm/vg;
vC = 170 m/ph; t = 0,5 mm
t = 0,5 mm; vc = 170 m/ph
S Lần 1 Lần 2 Lần 3 Lần 4 Lần 5
PZ PY PZ PY PZ PY PZ PY PZ PY
0,12 207 84 214 99 159 61 172 64 163 61
0,19 263 90 266 107 226 92 236 92 226 88
0,26 324 96 341 126 309 108 292 118 281 112
0,33 368 113 367 139 337 156 345 142 331 135
0,4 407 126 467 179 377 153 394 165 378 157
- Khi lượng tiến dao “s” thay đổi, vC = 170 m/ph, t = 1 mm
Hình 8. Kết quả đo
Điểm 2 – 75: s = 0,12; Điểm 80 – 95: s = 0,26;
Điểm 99 – 107: s = 0,4
Bảng 2. Kết quả đo khi thay đổi s = 0,120,4 mm/vg;
vC = 170 m/ph; t = 1,0 mm
t = 1 mm; vc = 170 mm/vg
s (mm/vg) 0,12 0,26 0,4
PZ (N) 325 585 807
PX (N) 169 227 276
PY (N) 71 109 174
- Khi thay đổi vận tốc cắt “vC”:
Hình 9. Kết quả đo lực cắt khi thay đổi vC (m/ph)
Điểm 2 – 10: vc = 240; Điểm 15 – 25: vc = 210;
Điểm 30 – 42: vc = 180; Điểm 47 – 61: vc = 150;
Điểm 67 – 84: vc = 120
Bảng 3. Kết quả đo khi thay đổi vc = 120 240 m/ph và
s = 0,3 mm/vg; t = 1 mm
t = 1 mm; s = 0,3 mm/vg
vC 240 210 180 150 120
PZ 675 614 661 635 624
PX 271 246 286 282 289
PY 152 147 158 166 173
Kết quả đo thực nghiệm tại Bảng 1, 2 và 3 cho thấy sự
thay đổi của thành phần lực cắt chính PZ là lớn nhất và lực
cắt phụ thuộc lượng tiến dao, vận tốc cắt, chiều sâu cắt.
Ngoài ra, từ biểu đồ lực cắt khoảng thời gian thay đổi đột
ngột lực cắt là rất ngắt, nên dù giá trị lực cắt có thể chưa đủ
lớn nhưng lực động do lực cắt gây ra đến kết cấu thân dao,
mũi dao và chi tiết là đáng phải quan tâm.
Bảng số liệu đo lực cắt cho thấy, giá trị lực cắt chính PZ
46 Phạm Nguyễn Quốc Huy, Lê Minh Sơn, Trần Xuân Tùy
chênh lệch lớn so với lực cắt hướng kính PY và PX. Việc
xác định sự thay đổi lực cắt chính dựa vào 3 tham số: s, t
và v là rất khó khăn. Vì vậy, bài báo tập trung vào việc xác
định sự thay đổi của lực cắt chính PZ khi thay đổi lượng
tiến dao dọc trục s thông qua Bảng 1 và xây dựng công thức
thực nghiệm lực cắt chính PZ.
2.3.3. Xác định phương trình lực cắt chính PZ [1] và [4]
Bảng 4. Bảng tính phương sai giá trị lực cắt chính PZ
s PZ 𝑃𝑍
(PZi-
P��)2 σi
2
0,12 207 214 159 172 163 183,00 2634,00 658,50
0,19 263 266 226 236 226 243,40 1555,20 388,80
0,26 324 341 309 292 281 309,40 2321,20 580,30
0,33 368 367 337 345 331 349,60 1167,20 291,80
0,4 407 467 377 394 378 404,60 5481,20 1370,30
Tổng 3289,70
Kiểm tra các giá trị lực cắt thực nghiệm bằng phương
pháp quy hoạch thực nghiệm theo tiêu chuẩn Cochran [3]:
+ Kiểm tra tính đồng nhất của phương sai, hay tính ổn
định giữa các lần thí nghiệm, với công thức tính phương sai:
𝜎𝑖2 = ∑
(𝑃𝑍𝑖−𝑃𝑍 )2
𝑟−1
𝑟𝑖=1 (r là số lần lặp lại: 5) (8)
+ Tính hệ số phân phối xác suất 𝐺𝑡𝑡 theo tiêu chuẩn
Cochran:
𝐺𝑡𝑡 =𝜎𝑚𝑎𝑥
2
𝜎12+𝜎2
2+⋯+𝜎𝑛2 =
1370,30
3289,70= 0,4165 (9)
+ Kiểm định hệ số theo tiêu chuẩn Cochran:
Tra bảng phân phối Cochran:
Gb(n,f,p) = Gb(5,4,0.05) = 0,5441
+ So sánh, ta có: Gtt< Gb
+ Kết luận: tính đồng nhất của phương sai được chấp nhận.
Từ phương trình lực cắt tổng quát và thành phần (4, 5,
6, 7). Và dựa trên việc thực nghiệm chọn chế độ cắt chỉ có
một yếu tố thay đổi là lượng chạy dao s, nên phương trình
tổng quát lực cắt chính có thể viết là:
𝑃𝑍 = 𝑎 ∗ 𝑠𝑏 (10)
Xác định hàm hồi quy cho lực cắt chính PZ bằng phương
pháp bình phương bé nhất thông qua thuật toán “least
square curve fitting” của phần mềm Matlab 2014a, với
dạng hàm mũ (Power) bậc 1:
Thuật toán “least square curve fitting”
clc
close all
clear all
Value_sheet_1 = xlsread('file_excel.xlsx');
% doc so lieu tu file excel
S = Value_sheet_1(:,1)
Pz =(Value_sheet_1(:,2) + Value_sheet_1(:,4) +
Value_sheet_1(:,6)+
Value_sheet_1(:,8)+Value_sheet_1(:,10))/5
figure(2);
plot(S,Pz,'.')
% Ve do thi quan he Pz va S
[aa,bb,xData_1,yData_1] = Fitting(S,Pz);
disp('Value of sheet 1')
disp(['Value of R^2 = ',num2str(bb.rsquare)])
disp(['General model Power1: y(x) =
',num2str(aa.a),'*x^',num2str(aa.b)]);
% Tim phuong trinh quan he bang ham Fitting Curve
figure(3)
plot(aa,'b'),hold all
plot(cc,'r')
plot(xData_1,yData_1,'.')
plot(xData_2,yData_2,'.')
legend('Luc cat chinh Pz','Luc huong kinh Py')
grid on
xlim([0.115 0.41])
Kết quả tính toán xác định được hệ số a, b:
a = 736,2678; b = 0,65844
Hệ số hồi quy: R2 = 0,9974
Vậy phương trình lực cắt thực nghiệm:
𝑃𝑍 = 736,2678 ∗ 𝑠0,65844 (11)
Hình 10. Đồ thị hàm lực cắt 𝑃𝑍 = 736,2678 ∗ 𝑠0,65844
3. Đánh giá và bình luận
Ta nhận thấy lực cắt chính PZ thay đổi lớn hơn nhiều so
với các lực cắt thành phần PX, PY khi thay đổi s. Từ đồ thị
lực cắt chính thực nghiệm, ta thấy PZ gần tuyến tính với
tham số lượng tiến dao dọc trục s (Hình 10).
Kiểm nghiệm giá trị lực cắt tính bằng công thức thực
nghiệm và đo bằng dụng cụ đo là gần bằng nhau và sai số
nằm trong giới hạn cho phép (<= 5%): Bảng 5 và Hình 11
Bảng 5. So sánh kết quả đo lực cắt chính PZ bằng thực nghiệm và
công thức khi thay đổi s ngẫu nhiên trong khoảng 0,12 ÷ 0,4 mm/vòng
t = 0,5 mm; vC = 170 m/ph; s = 0,15 mm/vg
Tính theo công
thức 𝑃𝑍 = 736,2678 ∗ 𝑠0,65844 = 211 (𝑁)
(sai số 4,46%)
Đo thực nghiệm PZ = 202 (N)
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 47
Đối chiếu các công thức thực nghiệm (1), (2), (3) và giá
trị đo thực nghiệm, ta nhận thấy lực cắt chính phụ thuộc
nhiều vào lượng tiến dao s cho dù vật liệu gia công khác
nhau. Với chế độ cắt được xác định ban đầu, ta nhận thấy
giá trị lực cắt thay đổi nhưng đảm bảo trong giới hạn cho
phép do lực cắt gây ra đối với dụng cụ cắt.
4. Kết luận
Bằng phương pháp đo thực nghiệm, phương pháp kiểm tra
tính đồng nhất của phương sai theo tiêu chuẩn Cochran và xử
lý kết quả thông qua công cụ Fitting Curve của phần mềm
Matlab 2014a, kết quả là đã xây dựng được công thức thực
nghiệm quan hệ giữa lực cắt PZ và lượng tiến dao dọc s (11)
khi tiện vật liệu thép C45 sử dụng mảnh dao hợp kim Vonfram
– Coban (CCMT 09T304-WP HC6620), với chế độ cắt: vận
tốc cắt v = 170 m/ph, chiều sâu cắt t = 0,5 mm và lượng chạy
dao s = 0,120,4 mm/vg, không bôi trơn làm nguội là:
𝑃𝑍 = 736,2678 ∗ 𝑠0,65844
Đồng thời, từ phương trình lực cắt chính PZ, xây dựng
được đồ thị thể hiện ảnh hưởng của lượng tiến dao s đến PZ
khi tiện thép C45 bằng mảnh dao hợp kim Cacbit Volfram
đối với các chi tiết trong cùng điều kiện gia công với độ tin
cậy cao.
Kết quả trên làm cơ sở tính toán lực cắt để khai thác
công suất máy nhằm nâng cao năng suất cắt, đảm bảo độ
cứng vững của hệ thống, độ bền của cơ cấu chạy dao của
máy CNC và độ bền của mảnh dao. Đồng thời, có thể tham
khảo để xác định lực cắt dựa trên nhiều tham số khác nhau:
lượng tiến dao và chiều sâu cắt hoặc vận tốc cắt và chiều
sâu cắt,... Xác định mối liên hệ giữa lực cắt và nhiệt cắt
bằng công thức thực nghiệm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Ngọc Đào, Trần thế San, Nguyễn Ngọc Bình, Chế độ cắt gia công cơ khí, NXB Đà Nẵng, 2002.
[2] Nguyễn Thị Quốc Dung, Nghiên cứu quá trình tiện thép hợp kim qua tôi
bằng dao PCBN, Luận án tiến sĩ kỹ thuật, Đại học Thái Nguyên, 2012.
[3] Nguyễn Minh Tuyển (2005), Quy hoạch thực nghiệm, Nxb Khoa học
và Kỹ thuật, Hà Nội.
[4] Trần Sỹ Túy, Nguyễn Duy, Nguyễn Văn Tự, Nguyên lý cắt kim
loại, NXB Đại học và trung học chuyên nghiệp, 1977.
[5] Amit Kumar Malik and VK Gorana,Effects on Cutting Forces in
Shaping Operation, European Journal of Advances in Engineering
and Technology, 2015, 2(6): 20-23, ISSN: 2394 - 658X.
[6] Masood Atahar Khan, Jayant K. Kittur, Vishal. Dutt Kohir, Study
and Analysis of Effect of Cutting Parameters on Cutting Forces and
Surface Roughness, Advanced Engineering and Applied Sciences: An International Journal 2015; 5(3): 63-73, ISSN 2320–3927.
[7] M.Tech Scholar, B.P. NandwanaProfessor, M.A. Saloda,M.S. Khidiya,
S. Jindal& S. BarvaliyaAssociate Professor, Assistant Professor,
Professor, M.TechScholar, Experimental Analysis of the Cutting Forces
in Dry Turning of EN8 Steel, Imperial Journal of Interdisciplinary Research (IJIR), Vol-2, Issue-7, 2016, ISSN: 2454-1362.
[8] S. Shankar, S.K. Thangarasu, T. Mohanraj and D.S. Pravien,
Prediction of cutting force in turning process:An experimental and
fuzzy approach, Journal of Intelligent & Fuzzy Systems 28 (2015)
1785–1793, Doi:10.3233/IFS-1.
(BBT nhận bài: 07/06/2017, hoàn tất thủ tục phản biện: 26/06/2017)
Hình 11. Kết quả đo thực nghiệm PZ khi t = 0,5 mm;
vc = 170 m/ph; s = 0,15 mm/vg
48 Dương Thế Hy
TỔNG HỢP COPOLYMER BLOCK TRÊN CƠ SỞ POLY(DIMETHYLSILOXANE)
BẰNG PHƯƠNG PHÁP TRÙNG HỢP RAFT
SYNTHESIS OF POLY(DIMETHYLSILOXNAE) BASED BLOCK COPOLYMERS
BY RAFT POLYMERIZATION
Dương Thế Hy
Trường Đại học Bách khoa - Đại học Đà Nẵng; [email protected]
Tóm tắt - Bài báo giới thiệu việc tổng hợp copolymer block trên cơ sở Poly(dimethylsiloxane) (PDMS) bằng phương pháp trùng hợp kiểm soát RAFT, một trong những phương pháp trùng hợp kiểm soát phổ biến hiện nay. Toàn bộ quá trình tổng hợp được tiến hành theo hai bước. Bước một là gắn tác nhân chuyền mạch mang nhóm chức acid carboxylic lên PDMS thương mại có nhóm chức hydroxyl ở cuối mạch bằng phản ứng ester hóa. Bước hai là trùng hợp monomer lên PDMS đã được gắn chất chuyền mạch. Động học quá trình trùng hợp đã được theo dõi và kết quả cho thấy quá trình trùng hợp được kiểm soát tốt, copolymer tạo ra có khối lượng phân tử như mong muốn và độ đa phân tán thấp. Ngoài ra, ảnh hưởng của việc thay thế nhóm chức acid trên chất chuyền mạch bằng nhóm chức ester lên sự kiểm soát quá trình trùng hợp cũng được khảo sát.
Abstract - This paper reports synthesis of poly(dimethylsiloxane) based block copolymers using RAFT polymerization, a well known method of controlled polymerizations. The copolymer synthesis goes through two stages. The first one is attachment of a chain transfer agent having a carboxylic acid function onto a commercial PDMS possessing an alcohol group at a chain end by esterification. The second one is monomer polymerization onto PDMS attached to the chain transfer agent. Kinetic data shows that the polymerization is well controlled. Obtained Block copolymers have average molecular weights close to predicted values and low polydispersities. In addition, influence of replacing acid carboxylic group in the chain transfer agent by an alcohol group on the control of polymerization is investigated.
Từ khóa - trùng hợp kiểm soát; PDMS; ester hóa; động học; độ đa phân tán.
Key words - controlled polymerization; PDMS; esterification; kinetic; polydispersities
1. Đặt vấn đề
Trùng hợp gốc thông thường, cho đến hiện tại, là phương
pháp được sử dụng phổ biến nhất trong công nghiệp do nó
có nhiều ưu điểm. Một số ưu điểm nổi bật là việc tạo gốc tự
do dễ dàng, nhiều monomer có thể được trùng hợp bằng
phương pháp này, nhiệt độ trùng hợp không cao, ít nhạy với
tạp chất (ví dụ ẩm, dung môi proton) so với trùng hợp ion
[1]. Tuy nhiên, phương pháp này cũng có những nhược
điểm. Các nhược điểm quan trọng là rất khó để tổng hợp
copolymer khối hoặc ghép, khó kiểm soát khối lượng phân
tử (KLPT), độ đa phân tán (Đ) và vi cấu trúc phân tử. Các
nhược điểm này xuất phát từ thời gian sống rất ngắn, khoảng
1 giây của các gốc tự do [2]. Trong khoảng thời gian này có
hàng trăm đến hàng ngàn phân tử monomer được gắn vào
gốc tự do để hình thành phân tử polymer.
Phương pháp trùng hợp gốc kiểm soát khắc phục được
những nhược điểm này bằng cách kéo dài thời gian sống của
các gốc tự do lên đến hàng giờ và bằng cách giảm tốc độ cộng
monomer vào gốc tự do. Nguyên tắc của trùng hợp gốc kiểm
soát là thiết lập một sự cân bằng động giữa một lượng nhỏ
gốc tự do hoạt động và lượng lớn còn lại ở dạng không hoạt
động [3]. Với trùng hợp kiểm soát, có thể tạo ra các
copolymer khối [4], [5], ghép [6], [7], hình sao [8], [9]… một
cách dễ dàng với KLPT mong muốn và độ đa phân tán thấp.
Ba phương pháp trùng hợp kiểm soát phổ biến nhất hiện
nay là phương pháp NMP (Nitroxide Mediated
Polymerization) [10], phương pháp ATRP (Atom Transfer
Radical Polymerization) [11] và phương pháp RAFT
(Reversible Addition-Fragmentation Chain Transfer) [12].
Trong phương pháp trùng hợp RAFT, ngoài monomer,
chất khơi mào như trùng hợp gốc thông thường còn sử dụng
chất chuyền mạch (CTA), là các thiocarbonate để tạo ra cân
bằng động như đề cập ở trên. Cấu trúc phân tử CTA có ảnh
hưởng quyết định đến tốc độ trùng hợp và mức độ kiểm
soát KLPT, độ đa phân tán của polymer [13]. KLPT của
polymer có thể dự đoán theo công thức 1.
𝑀𝑛 =[𝑀]0×𝑀𝑚𝑜𝑛𝑜𝑚𝑒𝑟×𝜌
[𝐶𝑇𝐴]0+ 𝑀𝐶𝑇𝐴 (1)
Trong đó: [M]0 là nồng độ mol ban đầu của monomer;
Mmonomer là KLPT tử monomer; là độ chuyển hóa của
monomer; [CTA]0 là nồng độ mol ban đầu của chất chuyền
mạch và MCTA là KLPT chất chuyền mạch.
Nghiên cứu này sử dụng phương pháp trùng hợp RAFT
để tổng hợp copolymer block trên cơ sở PDMS bằng cách
trùng hợp tert-butyldimethylsilyl methacrylate (MASi) lên
PDMS đã được gắn chất chuyền mạch (PDMS-CTA). Các
polymer trên cơ sở MASi đã được ứng dụng làm chất tạo
màng trong sơn chống nhiễm bẩn từ môi trường biển [14].
Ngoài ra, MASi cũng đã được xác nhận là monomer dễ
trùng hợp bằng phương phương pháp RAFT [15].
2. Thực nghiệm
2.1. Hóa chất
MASi được tặng bởi phòng thí nghiệm MAPIEM, Cộng
hòa Pháp. -hydroxyethylpropoxyl-ω-propyl
poly(dimethylsiloxane) (PDMS-OH) 5000 g.mol-1
(Gelest). 2-(Dodecylthiocarbonothioylthio)-2-
methylpropionic acid (CTA1), 4-cyano-4-
(dodecylsulfanylthiocarbonyl)sulfanylpentanoic acid
(CTA2) (Strem Chemicals), Dicyclohexylcarbodiimide
(DCC), 4-dimethylamino pyridine (DMAP), magiesium
sulfate, silicagel, hexane, methanol, dichloromethane
(DCM) và ethyl acetate (Sigma-Aldrich). Tất cả các hóa
chất trên được sử dụng không qua tinh chế.
2,2-azobis(isobutyronitrile) (AIBN) (Sigma-Aldrich) được
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 49
kết tủa lại trong methanol trước khi sử dụng. Toluene
(Sigma-Aldrich) được chưng cất trước khi sử dụng.
2.2. Tổng hợp PDMS-CTA
Việc tổng hợp PDMS-CTA được tiến hành theo quy
trình đã được mô tả [16], tuy nhiên, có một số thay đổi. Cụ
thể như sau: 2,806 g PDMS-OH (0,5 mmol) và 0,092 g
DMAP (0,75 mmol) được cho vào bình cầu 3 cổ có thanh
khuấy từ và hút chân không trong 2h. Sau đó phá chân
không bằng khí argon và cho 7 mL DCM vào trong khi vẫn
duy trì dòng khí argon. Tiếp tục nhỏ từng giọt dung dịch
chứa 0,273 g CTA1 (0,75 mmol), 0,309 g DCC (1,5 mmol)
trong 7 mL DCM vào. Bình cầu sau đó được ngâm vào bể
dầu đã được gia nhiệt đến 300C và duy trì nhiệt độ này trong
15h. Sau khi kết thúc phản ứng, hỗn hợp được ngâm trong
nước đá trong 3h và lọc để loại bỏ kết tủa. Dung môi được
cho bay hơi bằng hệ thống cô quay chân không. 250 mL
hexane được cho vào để hòa tan sản phẩm và chuyển qua
phểu chiết. Tiến hành chiết 3 lần, mỗi lần với 100 mL
methanol. Dung dịch PDMS-CTA1 trong hexane tiếp tục
được kết tủa trong methanol. Kết tủa PDMS-CTA1 được
hòa tan trở lại trong 100 mL hexane và được loại nước bằng
10 g MgSO4. Lọc bỏ MgSO4 và tiến hành cô quay chân
không để tách loại hexane, sau đó sản phẩm được cho qua
cột sắc kí silicagel với pha động là hỗn hợp hexane/ethyl
acetate. Sản phẩm thu được loại bỏ dung môi và sấy trong
chân không đến khối lượng không đổi.
2.3. Tổng hợp polymer
Homopolymer PMASi được tổng hợp như sau: cho
10 mL dung dịch trong toluene chứa 3 g MASi (15 mmol),
44,4 mg CTA1 (0,12 mmol) và 4 mg AIBN (0,024 mmol)
vào bình cầu 2 cổ dung tích 100 mL. Nồng độ monomer
ban đầu trong hệ phản ứng là 1,5 M và tỷ lệ mol
CTA/AIBN là 5/1. Sục khí argon để loại không khí trong
bình trong 40 phút. Bình phản ứng được ngâm vào bể dầu
đã được gia nhiệt lên 700C. Trong quá trình phản ứng, mẫu
được lấy để phân tích bằng một syringe thông qua nút cao
su trên bình. Kết thúc phản ứng, hỗn hợp phản ứng được
kết tủa trong methanol. Polymer kết tủa được sấy ở 400C
trong chân không đến khối lượng không đổi.
Copolymer được tổng hợp theo quy trình tương tự như
quy trình tổng hợp homopolymer. Sự khác nhau duy nhất
về nguyên liệu phản ứng là thay vì dùng CTA thì ở đây
dùng PDMS-CTA. Giá trị nồng độ monomer ban đầu trong
hỗn hợp phản ứng và tỷ lệ mol PDMS-CTA/AIBN cũng
giống như trong tổng hợp homopolymer.
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Xác định mức độ kiểm soát của CTA
Như đã đề cập ở trên, mức độ kiểm soát của quá trình
trùng hợp một monomer phụ thuộc vào cấu trúc phân tử
của CTA. Ở nghiên cứu này 2 CTA được lựa chọn để khảo
sát đối với quá trình trùng hợp MASi. Hình 1 biểu diễn sự
kiểm soát quá trình trùng hợp của 2 CTA được nghiên cứu.
Ở Hình 1a cho thấy quan hệ giữa ln([M]0/[M]). Trong đó
[M]0 và [M] tương ứng là nồng độ monomer ban đầu và tại
thời điểm t, và thời gian phản ứng là quan hệ tuyến tính.
Điều này chứng tỏ rằng nồng độ gốc tự do ở dạng hoạt động
trong hệ phản ứng được duy trì ổn định trong suốt thời gian
này [17]. Ngoài ra Hình 1a còn cho thấy có một khoảng
thời gian mà ở đó tốc độ tiêu thụ monomer gần như bằng
không, thời gian này được gọi là thời gian cảm ứng. Bằng
cách ngoại suy đường xu hướng, thời gian cảm ứng của
CTA1 và CTA2 đối với trùng hợp MASi xác định được
tương ứng là 90 phút và 50 phút. Sở dĩ xuất hiện thời gian
cảm ứng là do sự phân mảnh chậm hoặc sự ngắt mạch của
các gốc trung gian trong giai đoạn tiền cân bằng [18], [19].
Hình 1. (a) Ln([M]0/[M]) phụ thuộc thời gian của sự trùng hợp
MASi sử dụng CTA1 (♦), CTA2 (■), (b) sự biến đổi Mn (TD-SEC)
khi sử dụng CTA1 (♦), CTA2 (■) và sự biến đổi của Đ khi sử dụng
CTA1 (+), CTA 2 (●) theo độ chuyển hóa monomer.
Tỷ lệ mol MASi/CTA/AIBN là 615/5/1. KLPT trung bình số mong
muốn tại độ chuyển hóa monomer 100% là 25 kg.mol-1. Trong
hình b, đường nét đứt là đường xu hướng của số liệu thực nghiệm,
đường nét liền là đường lý thuyết về sự thay đổi KLPT polymer
theo thời gian trùng hợp.
Tuy nhiên, Hình 1b cho thấy sự kiểm soát của CTA1 và
CTA2 đối với quá trình trùng hợp MASi hoàn toàn khác
nhau. Đối với CTA1, ngay khi ở độ chuyển hóa monomer
rất thấp thì KLPT trung bình số của polymer tạo ra đã cao
hơn giá trị mong muốn của polymer cuối cùng, 25 kg.mol-1,
đồng thời biến thiên KLPT polymer theo độ chuyển hóa
monomer không theo quy luật tuyến tính. Điều này chứng
tỏ sự lớn lên của các mạch phân tử polymer trong hệ thống
phản ứng là không đồng đều. Giá trị của độ đa phân tán
nằm trong khoảng từ 1,4 đến 1,6 cũng cho thấy điều đó.
Đối với CTA2, các giá trị KLPT xác định bằng thực
nghiệm rất gần với giá trị tính toán (dựa vào phương trình
1), độ đa phân tán giảm nhanh trong giai đoạn đầu và đạt
giá trị không đổi, khoảng 1,1.
Như vậy có thể thấy việc sử dụng CTA2 trong trùng
hợp MASi cho kết quả tốt hơn so với CTA1. Tuy nhiên,
như đã đề cập ở phần trước, việc thay đổi cấu trúc phân tử
CTA có thể ảnh hưởng đến hiệu quả kiểm soát của nó đối
với sự trùng hợp một monomer nào đó. Do vậy CTA2 vẫn
được sử dụng để tổng hợp chất chuyền mạch cao phân tử
cho quá trình tổng hợp copolymer.
1
1,2
1,4
1,6
1,8
2
0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
0 20 40 60 80 100
Đ
Mn
(kg
.mo
l-1)
Độ chuyển hóa monomer (%)
0
0,3
0,6
0,9
1,2
1,5
1,8
0 100 200 300 400 500 600
Ln
([M
] 0/[
M])
Thời gian (phút)
(a)
(b)
50 Dương Thế Hy
3.2. Tổng hợp chất chuyền mạch cao phân tử (PDMS-CTA)
Để tổng hợp copolymer khối bằng phương pháp RAFT
người ta có thể dùng một trong hai cách. Cách thứ nhất là
cho lần lượt các monomer vào hệ phản ứng, cách thứ hai là
gắn chất chuyền mạch lên các phân tử polymer được tổng
hợp trước đó hoặc có sẵn trên thị trường và sau đó trùng
hợp monomer lên chất chuyền mạch cao phân tử này.
Nghiên cứu này sử dụng cách thứ hai. Phản ứng được sử
dụng để gắn chất chuyền mạch lên PDMS thương mại là
phản ứng ester hóa (sơ đồ 1). Do đây là phản ứng thuận
nghịch nên hệ xúc tác DCC/DMAP đã được dùng để tăng
hiệu suất của phản ứng [20]. Kết quả chụp phổ 1H-NMR
cho thấy hầu hết các lần thí nghiệm đều không thấy PDMS-
OH còn dư trong hỗn hợp sau phản ứng. Một vài trường
hợp vẫn còn một lượng nhỏ, khoảng 5% PDMS-OH. Có
thể tách PDMS-OH không phản ứng ra khỏi sản phẩm bằng
cách chạy sắc kí cột silicagel với pha động là hỗn hợp
hexane/ethyl acetate. Hình 2 biểu diễn phổ 1H-NMR (được
đo trên máy Brüker Advance 400 (400 MHz), dung môi
CDCl3, 16 scan) của PDMS-CTA1 sau khi đã tinh chế.
Trên phổ thu được đều có các peak đặc trưng của các
proton trong PDMS và CTA1. Khi tạo thành ester, có sự
dịch chuyển peak của các proton tại carbon số 9 và 10 trong
PDMS ban đầu từ 3,54 ppm và 3,73 ppm đến các vị trí
tương ứng là 3,62 ppm và 4,25 ppm trong sản phẩm. Trên
phổ của sản phẩm không còn xuất hiện 2 peak tại vị trí
3,54 ppm và 3,73 ppm chứng tỏ trong sản phẩm không còn
PDMS-OH. Trong quá trình tinh chế sản phẩm, có thể có
sự mất mát của phần sản phẩm có KLPT thấp, vì vậy KLPT
của sản phẩm cuối cùng phải được xác định lại. Độ trùng
hợp trung bình của PDMS (n trong Hình 2) trong sản phẩm
có thể được tính toán thông qua cường độ peak trên phổ 1H-NMR theo công thức 2.
𝑛 =𝐼0,072 𝑝𝑝𝑚
3𝐼4,25 𝑝𝑝𝑚− 1 (2)
Trong đó: I0,072 ppm và I4,25 ppm là cường độ các peak tương
ứng tại 0,072 ppm (peak số 5) và 4,25 ppm (peak số 10).
Hình 2. Phổ 1H-NMR của PDMS-CTA1 (16 scan trong dung
môi CDCl3)
3.3. Tổng hợp copolymer block
Toàn bộ quy trình tổng hợp copolymer block có thể
được tóm tắt theo sơ đồ 1.
Sơ đồ 1. Quy trình tổng hợp copolymer block
Giai đoạn trùng hợp MASi lên PDMS để tạo ra
copolymer được tiến hành tương tự như tổng hợp
homopolymer, chỉ khác là CTA được thay bằng PDMS-
CTA. Kết quả khảo sát động học cho thấy đối với cả hai chất
chuyền mạch, PDMS-CTA1 và PDMS-CTA2, quan hệ giữa
ln([M]0/[M]) và thời gian phản ứng cũng là quan hệ tuyến
tính (dữ liệu không được giới thiệu). Quan hệ này được duy
trì trong cả hai trường hợp đến độ chuyển hóa monomer trên
80%. Tuy nhiên, cũng giống như trong trường hợp chất
chuyền mạch ban đầu (CTA1 và CTA2), khi sử dụng chất
chuyền mạch PDMS-CTA1 thì sự biến đổi KLPT polymer
trong quá trình phản ứng không như dự đoán theo lí thuyết
(Hình 3a) và sản phẩm cuối cùng có KLPT trung bình số là
45 kg.mol-1, gần gấp đôi so với giá trị mong muốn là 25
kg.mol-1. Giá trị Đ mặc dù giảm dần theo độ chuyển hóa
monomer nhưng giá trị cuối cùng vẫn còn cao. Tín hiệu RI
thu được từ TD-SEC (đo trên máy GPC Max) (Hình 3b) cho
thấy sự dịch chuyển của peak theo thời gian phản ứng về
phía thời gian lưu bé hơn. Điều này chứng tỏ có sự trùng hợp
của MASi lên PDMS. Tuy nhiên các peak đều có 2 đỉnh và
rộng. Đây là kết quả của sự lớn lên không đồng đều của các
phân tử polymer trong hệ thống phản ứng.
Với chất chuyền mạch PDMS-CTA2 thì sự kiểm soát
quá trình trùng hợp là rất tốt. KLPT polymer thu được rất
gần với giá trị tính toán, giá trị Đ bé và giảm dần theo thời
gian (Hình 3a). Peak tín hiệu RI luôn luôn có 1 đỉnh hẹp và
dịch chuyển về phía thời gian lưu bé trong quá trình phản
ứng. Như vậy có thể thấy rằng việc thay nhóm acid trong
các CTA ban đầu bằng nhóm ester không làm thay đổi khả
năng kiểm soát đối với phản ứng trùng hợp MASi.
Hình 3. (a) Sự biến đổi Mn (TD-SEC) khi sử dụng PDMS-CTA1
(♦), PDMS-CTA2 (■) và sự biến đổi của Đ khi sử dụng PDMS-
CTA1 (+), PDMS-CTA 2 (●) theo độ chuyển hóa monomer.
Đường nét đứt là đường xu hướng của số liệu thực nghiệm, đường
nét liền là đường lý thuyết về sự thay đổi KLPT polymer theo thời
gian trùng hợp. (b) tín hiệu RI từ TD-SEC khi sử dụng PDMS-
CTA1(bên trái) và PDMS-CTA2 (bên phải). Các peak từ trái qua
phải tương ứng với thời gian phản ứng là 0h, 2h và 3h. Tỷ lệ mol
MASi/PDMS-CTA/AIBN là 475/5/1. KLPT trung bình số mong
muốn tại độ chuyển hóa monomer 100% là 25 kg.mol-1.
PDMS-OH + HOOC-CTA PDMS-CTA
PDMS-CTA + MASi PDMS-b-PMASi
DCC, DMAP
DCM, 300C
Toluene, 700C
AIBN
1
1,4
1,8
2,2
2,6
3
0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
0 20 40 60 80 100
Đ
Mn
(kg
.mo
l-1)
Độ chuyển hóa monomer (%)
(a)
(b)
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 51
4. Kết luận
Việc thay nhóm chức acid bằng nhóm chức ester trong
các CTA khảo sát không làm thay đổi khả năng kiểm soát
của chúng trong trùng hợp MASi. Chất chuyền mạch cao
phân tử đã được tổng hợp và được sử dụng để tổng hợp
copolymer block. Sự kiểm soát của quá trình trùng hợp đã
được xác nhận qua việc theo dõi động học của phản ứng
trùng hợp. Copolymer thu được có KLPT như mong muốn
và độ đa phân tán thấp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] P. B. Zetterlund, Y. Kagawa, and M. Okubo, “Controlled/Living
Radical Polymerization in Dispersed Systems”, Chem. Rev., vol. 108, no. 9, pp. 3747–3794, Sep. 2008.
[2] A. Goto and T. Fukuda, “Kinetics of living radical polymerization”,
Prog. Polym. Sci., vol. 29, no. 4, pp. 329–385, Apr. 2004.
[3] “Wiley: Controlled and Living Polymerizations: From Mechanisms to
Applications - Krzysztof Matyjaszewski, Axel H. E. Müller.” [Online].
Available: http://www.wiley.com/WileyCDA/WileyTitle/productCd-
3527324925.html. [Accessed: 11-May-2017].
[4] T. C. Castle, L. R. Hutchings, and E. Khosravi, “Synthesis of Block
Copolymers by Changing Living Anionic Polymerization into Living Ring Opening Metathesis Polymerization”, Macromolecules,
vol. 37, no. 6, pp. 2035–2040, Mar. 2004.
[5] X. Yu, T. Shi, G. Zhang, and L. An, “Synthesis of asymmetric H-
shaped block copolymer by the combination of atom transfer radical
polymerization and living anionic polymerization”, Polymer, vol. 47, no. 5, pp. 1538–1546, Feb. 2006.
[6] Y. Miura and M. Okada, “Synthesis of densely grafted copolymers
by nitroxide-mediated radical polymerization of styrene using
poly(phenylacetylene)s as a macroinitiator”, Polymer, vol. 45, no.
19, pp. 6539–6546, Sep. 2004.
[7] S. Sawada, A. Suzuki, T. Terai, and Y. Maekawa, “TEMPO addition into
pre-irradiated fluoropolymers and living-radical graft polymerization of styrene for preparation of polymer electrolyte membranes”, Radiat.
Phys. Chem., vol. 79, no. 4, pp. 471–478, Apr. 2010.
[8] B. Barboiu and V. Percec, “Metal Catalyzed Living Radical
Polymerization of Acrylonitrile Initiated with Sulfonyl Chlorides”,
Macromolecules, vol. 34, no. 25, pp. 8626–8636, Oct. 2001.
[9] D. Boschmann and P. Vana, “Z-RAFT Star Polymerizations of
Acrylates: Star Coupling via Intermolecular Chain Transfer to
Polymer”, Macromolecules, vol. 40, no. 8, pp. 2683–2693, Apr. 2007.
[10] M. K. Georges, R. P. N. Veregin, P. M. Kazmaier, and G. K. Hamer,
“Narrow molecular weight resins by a free-radical polymerization process”, Macromolecules, vol. 26, no. 11, pp. 2987–2988, May 1993.
[11] J.-S. Wang and K. Matyjaszewski, “‘Living’/Controlled Radical
Polymerization. Transition-Metal-Catalyzed Atom Transfer Radical
Polymerization in the Presence of a Conventional Radical Initiator”,
Macromolecules, vol. 28, no. 22, pp. 7572–7573, Oct. 1995.
[12] J. Chiefari et al., “Living Free-Radical Polymerization by Reversible
Addition−Fragmentation Chain Transfer: The RAFT Process”,
Macromolecules, vol. 31, no. 16, pp. 5559–5562, Aug. 1998.
[13] D. J. Keddie, G. Moad, E. Rizzardo, and S. H. Thang, “RAFT Agent
Design and Synthesis”, Macromolecules, vol. 45, no. 13, pp. 5321–5342, Jul. 2012.
[14] C. Bressy and A. Margaillan, “Erosion study of poly(trialkylsilyl
methacrylate)-based antifouling coatings”, Prog. Org. Coat., vol.
66, no. 4, pp. 400–405, Oct. 2009.
[15] M. N. Nguyen, C. Bressy, and A. Margaillan, “Controlled radical
polymerization of a trialkylsilyl methacrylate by reversible
addition–fragmentation chain transfer polymerization”, J. Polym. Sci. Part Polym. Chem., vol. 43, no. 22, pp. 5680–5689, Oct. 2005.
[16] M. L. Wadley and K. A. Cavicchi, “Synthesis of
polydimethylsiloxane-containing block copolymers via reversible
addition fragmentation chain transfer (RAFT) polymerization”, J.
Appl. Polym. Sci., vol. 115, no. 2, pp. 635–640, Jan. 2010.
[17] C. Barner-Kowollik, Handbook of RAFT Polymerization. John
Wiley & Sons, 2008.
[18] G. Moad, Y. K. Chong, A. Postma, E. Rizzardo, and S. H. Thang,
“Advances in RAFT polymerization: the synthesis of polymers with defined end-groups”, Polymer, vol. 46, no. 19, pp. 8458–8468, Sep. 2005.
[19] H. De Brouwer, M. A. J. Schellekens, B. Klumperman, M. J.
Monteiro, and A. L. German, “Controlled radical copolymerization
of styrene and maleic anhydride and the synthesis of novel
polyolefin-based block copolymers by reversible addition–fragmentation chain-transfer (RAFT) polymerization”, J. Polym.
Sci. Part Polym. Chem., vol. 38, no. 19, pp. 3596–3603, Oct. 2000.
[20] A. J. D. Magenau, N. Martinez-Castro, and R. F. Storey, “Site
Transformation of Polyisobutylene Chain Ends into Functional
RAFT Agents for Block Copolymer Synthesis”, Macromolecules, vol. 42, no. 7, pp. 2353–2359, Apr. 2009.
(BBT nhận bài: 18/05/2017, hoàn tất thủ tục phản biện: 25/07/2017)
52 Trần Phi Líp King, Lưu Đức Bình
NGHIÊN CỨU THIẾT KẾ, CHẾ TẠO THIẾT BỊ ĐO ĐỘ TRÒN
DESIGNING AND MANUFACTURING ROUNDNESS MEASURING EQUIPMENT
Trần Phi Líp King1, Lưu Đức Bình2 1Công ty Cổ phần Ô tô Trường Hải; [email protected]
2Trường Đại học Bách khoa - Đại học Đà Nẵng; [email protected]
Tóm tắt - Thực tiễn cho thấy rằng, trên 70% sản phẩm cơ khí có các bề mặt dạng trụ tròn. Một trong bốn chỉ tiêu đánh giá chất lượng sản phẩm cơ khí là độ chính xác hình dáng hình học, trong đó chỉ tiêu quan trọng nhất đối với bề mặt dạng trụ là độ tròn. Việc xác định độ tròn thường bằng thủ công (với đồng hồ so, thước đo dài…) hoặc bằng máy đo độ tròn. Mặc dù máy đo độ tròn có nhiều tính năng, độ chính xác cao; song thực tế ở Việt Nam hiện nay chưa có cơ sở nào chế tạo loại thiết bị này. Từ đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu, xây dựng được phương án thiết kế và chế tạo thành công thiết bị đo độ tròn cho các chi tiết có khối lượng nhỏ hơn 10kg, đường kính nhỏ hơn 100 mm, với độ chính xác 1μm.
Abstract - The reality shows that over 70% of mechanical products have circular cylindrical surfaces. One of the four criteria of the quality of mechanical products is geometric precision. Particularly, the most important criteria for the cylindrical surface is roundness. Determination of roundness is usually done manually (with indicator, metrometer...) or by roundness measuring equipment. Although the measuring machine has many features and high accuracy, in reality, there are no manufactures for such equipment in Vietnam yet. Therefore, we have conducted research and built a successful design and manufacture of roundness measuring equipment for details(samples) of less than 10kg in weight, less than 100mm in diameter, with a precision of 1μm.
Từ khóa - thiết bị đo độ tròn; đo lường; phương pháp đo; sai lệch biên dạng tròn; ứng dụng đo độ tròn trong cơ khí.
Key words - roundness measuring instrument; metrology; measurement method; roundness deformation deviation; application of roundness measurement in the mechanical industry.
1. Đặt vấn đề
Để đánh giá chất lượng sản phẩm cơ khí, cần dùng 4
chỉ tiêu về độ chính xác kích thước, hình dáng hình học, vị
trí tương quan và chất lượng bề mặt. Với bề mặt dạng trụ,
chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá độ chính xác hình dáng
hình học là độ tròn.
Sai lệch độ tròn là khoảng cách lớn nhất từ các điểm
của profin thực tới đường tròn áp đo trong mặt cắt ngang
vuông góc với đường tâm trụ. Để xác định sai lệch độ tròn,
thường dùng các biện pháp đo bằng đồng hồ so, bằng thước
kẹp hoặc bằng máy đo độ tròn [1].
Dĩ nhiên đo bằng máy đo độ tròn sẽ cho kết quả chính
xác cao, lưu và xử lý số liệu thuận lợi và đơn giản. Do đó,
hầu hết các nghiên cứu tại Việt Nam về lĩnh vực đo độ tròn
tập trung vào loại thiết bị này. Tác giả Vũ Toàn Thắng [6]
nghiên cứu phương pháp tính sai lệch độ tròn, độ cạnh từ
bộ số liệu đo; xây dựng mô hình thực nghiệm máy đo sai
lệch độ tròn có sự kết hợp đồng bộ của đệm khí quay, bàn
điều chỉnh đàn hồi, các đầu đo dịch chuyển dài và dịch
chuyển góc số hóa - ghép nối với máy tính và chương trình
sử lý số liệu đo, hoạt động theo đúng yêu cầu của một máy
đo sại lệch độ tròn hoàn chỉnh. Tác giả Tạ Thị Thúy Hương
[7] xác lập được kỹ thuật tính toán ổ khí quay tĩnh với kết
cấu đệm khí rãnh bằng phương pháp điện khí tương đương;
nghiên cứu, phân tích được các yếu tố ảnh hưởng tới khả
năng làm việc của ổ khí, đưa ra biện pháp công nghệ gia
công các chi tiết của ổ; ứng dụng để thiết kế, chế tạo các
loại ổ khí quay dùng trong đo lường; nghiên cứu, thiết kế,
chế tạo thành công mô hình thực nghiệm đo độ tròn sử
dụng ổ khí quay kết hợp 3 đầu đo trong điều kiện công nghệ
gia công cơ khí tại Việt Nam. Tác giả Vũ Thị Tâm [8] đánh
giá tổng quan về các phương pháp đo trên máy CMM, cơ
sở toán học, các phép đo công cụ toán về phép đo và sử lý
số liệu; xây dựng thuật toán mới xác định sai lệch độ tròn,
đồng thời viết chương trình ứng dụng trên máy CMM 544
Mitutoyo. Với các nghiên cứu tại nước ngoài, thường tập
trung vào việc loại bỏ độ lệch tâm tức thời trong phép đo
độ tròn như kết hợp nhiều đầu đo (Wei Gao [9]), đặt đầu
đo ở các góc khác nhau (G.X. Zhang [10]), …
Với mục đích chế tạo ra thiết bị đo độ tròn có độ chính xác
tương đối cao, số liệu đo được chuyển về máy tính, … nhưng
lại có giá thành thấp, dễ sử dụng, dễ điều chỉnh, sửa chữa, …
Chúng tôi đã nghiên cứu, lựa chọn được phương án thiết kế
và chế tạo thành công loại thiết bị đo độ tròn như trên, ứng
dụng rất tốt cho các cơ sở sản xuất cũng như đào tạo.
2. Thiết kế, chế tạo thiết bị đo độ tròn
Hiện nay, nguyên lý máy đo độ tròn được chia thành
hai kiểu theo phương pháp tạo đường tròn lý tưởng là đầu
đo quay - chi tiết đứng yên hoặc chi tiết quay - đầu đo đứng
yên, như Hình 1.
Hình 1. Sơ đồ nguyên lý máy đo độ tròn
Các loại máy đo độ tròn trên có thể có các bộ biến đổi
cảm ứng điện hoặc khí nén đóng vai trò các hệ thống đo.
Loại đầu đo quay - chi tiết đứng yên (Hình 1a) có ưu điểm
là trục chính mang đầu đo không tiếp nhận toàn bộ trọng
lượng chi tiết đo nhưng lại hạn chế kích thước đo do chiều
dài mũi đo có hạn. Loại chi tiết quay - đầu đo đứng yên
(Hình 1b) ít bị hạn chế về kích thước đo được nhưng lại
mang khối lượng vật đo khi quay nên loại này thường dùng
các loại ổ đỡ đặc biệt như đệm không khí, đệm từ…
Chúng tôi chọn thiết bị sẽ chế tạo theo sơ đồ nguyên lý
kiểu 1b với chi tiết đo được có kích thước đường kính trung
bình (<100), khối lượng 10kg, độ chính xác đo 1m.
Đầu đo
Chi tiết Chi tiết
Đầu đo
a) b)
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 53
2.1. Thiết kế cơ khí
2.1.1. Lựa chọn phương án thiết kế
Như đã nói ở trên, sơ đồ nguyên lý thiết kế chọn là chi
tiết quay, đầu đo đứng yên. Do vậy, cần phân tích lựa chọn
các phương án truyền động và gá đặt chi tiết.
a. Chọn phương án gá đặt chi tiết
Yêu cầu khi gá đặt chi tiết trên máy đo độ tròn là phải
đảm bảo độ đồng tâm của chi tiết và tâm quay, thao tác gá
đặt nhanh chóng, lực kẹp không cần lớn.
Nếu sử dụng bàn từ quay dẫn động bằng động cơ sẽ
đảm bảo được độ cứng vững cao. Tuy nhiên, phương án
này không đảm bảo được độ đồng tâm giữa trục chính và
tâm quay của chi tiết khi thiết bị làm việc. Hơn thế nữa giá
thành cũng khá cao.
Hình 2. Bàn từ quay
Sử dụng các trang bị công nghệ đã tiêu chuẩn như mâm
cặp 3 chấu hay ống kẹp đàn hồi sẽ đảm bảo được độ sai
lệch giữa trục chính và tâm quay của chi tiết là thấp, giá
thành cũng rẻ hơn rất nhiều so với bàn từ quay. Tuy nhiên,
mâm cặp 3 chấu lại dễ thao tác và các kết cấu cơ khí để liên
kết mâm cặp cũng đơn giản.
Hình 3. Mâm cặp 3 chấu và ống kẹp đàn hồi
Do đó, chúng tôi chọn mâm cặp 3 chấu làm trang bị gá
đặt cho chi tiết của thiết bị.
b. Chọn phương án truyền động
Khi đo độ tròn, tốc độ quay là rất nhỏ và chỉ cần quay
1 vòng. Do vậy, có thể chọn phương án truyền động bằng
động cơ điện thông qua bộ truyền trục vít – bánh vít để
giảm tốc độ (Hình 4).
Tuy nhiên, do tải trọng cần truyền động là nhỏ, kết hợp
với tốc độ nhỏ và chỉ quay 1 vòng/lần đo. Do đó, việc lựa
chọn động cơ bước là phù hợp hơn so với động cơ điện
thông thường. Khi đó, chỉ cần sử dụng bộ truyền đai để
quay mâm cặp (Hình 5).
Hình 4. Phương án truyền động bằng động cơ điện
và bộ truyền trục vít – bánh vít
Hình 5. Phương án truyền động bằng động cơ bước và
bộ truyền đai
Như vậy, sơ đồ nguyên lý của thiết bị đo độ tròn được
thiết kế như sau (Hình 6):
Hình 6. Sơ đồ nguyên lý máy thiết kế
Chi tiết đo 5 đặt lên bàn quay 7 được dẫn động bằng ổ
quay 4, trên bàn quay có bộ phận điều chỉnh để chỉnh tâm
chi tiết về trùng với tâm của bàn quay. Khi đo bàn mang
chi tiết quay, encoder 2 và đầu đo 6 dịch chuyển hướng
kính quanh chi tiết cho biết thông tin về vị trí góc quay θ
và bán kính đo R, quay chi tiết trên toàn vòng 3600 được
một bộ thông số đo (Ri,θi) với i = 1÷ n.
Giả sử chi tiết 5 có tâm O’, hệ thống bàn quay 7 có tâm
O. Nếu chi tiết được đặt lên bàn đo sao cho O’ trùng với O
54 Trần Phi Líp King, Lưu Đức Bình
thì biến thiên bán kính nhận được lên một đầu đo đặt hướng
kính sẽ mô tả profile bề mặt chi tiết, khi đó ta sẽ xác định
được sai lệch độ tròn.
2.1.2. Tính chọn các thông số
a. Chọn động cơ
Chọn bộ truyền đai răng với tỉ số truyền i = 2, số vòng
quay mâm cặp 5 n 10 (vg/ph). Chọn hiệu suất ổ lăn
1 = 0,99; của bộ truyền đai là 2 = 0,98 [9].
Số vòng quay của động cơ là:
5.2 10.210,416( / ) 20,8( / )
0,96 0,96dcvg ph n vg ph
Chọn loại động cơ bước kết hợp với driver điều khiển,
có góc bước 1.80
Từ thực nghiệm, lực động cơ cần thiết là 40 (N)
Công suất yêu cầu:
. 40.0,1
0,0041000 1000
yc
P vN kW
Công suất của động cơ:
0,004
0,004160,96
yc
ct
NN kW
Chọn động cơ có định mức điện áp 5V, dòng I = 2A
Do đó công suất N = U.I = 5.2 = 10W, phù hợp với công
suất yêu cầu.
b. Chọn mâm cặp
Với chi tiết đo có kính thước trung bình Φ <100 nên ta
lựa chọn mâm cặp có thông số kỹ thuật như Bảng 1.
Hình 7. Các thông số kỹ thuật chính mâm cặp
Bảng 1. Các thông số kỹ thuật của mâm cặp được chọn
A B C D E F G H
112 59 80 95 24 4.5 3-M8 42
2.2. Thiết kế hệ thống thu nhận dữ liệu
2.2.1. Chọn đồng hồ so
Chọn đồng hồ so Mitutoyo, số hiệu 543-280 với dải đo:
0 – 12,7mm; độ phân giải 0,001mm; đường kính trục gá
đồng hồ 8mm.
Sử dụng chân gá đồng hồ so Mitutoyo có các đường
kính lỗ dùng được là 4mm; 8mm; 9,53mm.
Hình 7. Đồng hồ so và chân gá
2.2.2. Encoder và cáp truyền dữ liệu
Chọn Encoder có các thông số kỹ thuật như sau:
- Đường kính 8mm;
- Độ phân giải 300 xung/vong;
- Pha ngõ ra 3 pha A, B, Z;
- Tần số đáp ứng Max 300Khz;
- Ngõ ra: ngõ ra totem pole;
- Nguồn cấp 12-24 VCD ± 5%; - Trở kháng cách ly: MIN 100MΩ.
Việc chọn cáp truyền dữ liệu phải đồng bộ với đồng hồ
và phải nhận được thông tin từ đồng hồ so chuyển qua máy
tính dưới dạng file Excel, do vậy chọn cáp nối SPC.
Tóm lại, ta có được sơ đồ thu nhận dữ liệu như sau:
Hình 8. Sơ đồ hệ thống thu nhận dữ liệu
2.2.3. Hệ thống xử lý dữ liệu
Sau khi ta đã chuyển đổi tín hiệu đo thành tín hiệu điện
áp, nghĩa là mỗi dịch chuyển 0,001 của đồng hồ so thành
một chu kỳ tín hiệu sin. Biến tín hiệu điện áp thành tín hiệu
đếm. Bộ đếm sẽ thực hiện phép đếm từng chu kỳ tín hiệu.
Như vậy, nếu đồng hồ dịch chuyển 0,001mm thì bộ đếm sẽ
nhảy một đơn vị đếm.
Để tín hiệu điện áp chuyển thành tín hiệu đếm, ta cần
phải chuyển đổi tín hiệu điện áp thành tín hiệu xung. Bộ
đếm được thiết kế dựa trên cơ sở đếm sườn xung. Mỗi một
chu kỳ tín hiệu sẽ chỉ có một thời điểm xung lên do đó việc
đếm xung sẽ không bị lỗi trong cùng một chu kỳ.
Tín hiệu thu nhận được sẽ chuyển trực tiếp vào file
Excel. Tại đây, chúng ta có thể tính toán sai lệch độ tròn
bằng cách viết các chương trình xử lý số liệu.
2.3. Lắp ráp, chế tạo thiết bị
Với các thông số của hệ thống cơ khí và hệ thống thu
nhận dữ liệu đã thiết kế; tiến hành lắp ráp, chế tạo các phần
tử tạo thành thiết bị như Hình 9.
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 55
Hình 9. Thiết bị đo độ tròn được chế tạo
Để hiệu chỉnh thiết bị sau khi chế tạo, sử dụng vòng bạc
chuẩn 50 và đo thử vòng bạc này.
Nhận định rằng,
- Nếu kết cấu quay định tâm không tốt, vòng bạc chuẩn
tròn tuyệt đối thì số liệu đo nhận được sẽ giống nhau về chu
kỳ. Nhưng lệch pha nhau theo vị trí góc xê dịch của vòng bi.
- Nếu kết cấu quay định tâm không tốt, vòng bạc chuẩn
bị méo thì chu kỳ và biên độ của số đo biến thiên bất kỳ
không giống nhau và cũng không trùng nhau.
- Nếu kết cấu quay định tâm tốt, chu kỳ và độ biến thiên
bán kính sau các lần đo trùng nhau, chính là sai lệch độ tròn.
Hình 10. Kết quả đo độ tròn thể hiện trên Matlab
3. Kết quả và bàn luận
Đã thiết kế, chế tạo thành công thiết bị đo sai lệch độ
tròn với kích thước đường kính trung bình (<100), khối
lượng 10kg, độ chính xác đo 1m.
Thiết bị đã hoạt động chính xác, dữ liệu truyền về máy
tính, phần mềm tính toán và hiển thị kết quả đo hoạt động tốt.
Nghiên cứu đã góp phần khẳng định khả năng có thể
lắp ráp, chế tạo các loại thiết bị đo chính xác với giá thành
rất cạnh tranh, có thể sử dụng tại các cơ sở sản xuất cơ khí
cũng như các phòng thí nghiệm đo lường.
Tuy nhiên, cần hoàn thiện thiết bị hơn về khả năng định
tâm cao của các chấu kẹp sau một thời gian sử dụng, vấn
đề rung động của thiết bị trong quá trình đo, ảnh hưởng của
việc gá đặt chi tiết (đặc biệt là chi tiết dài) đến kết quả đo,
các giải pháp để ổn định tín hiệu, loại trừ nhiễu và sai số
trong quá trình đo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Lưu Đức Bình, Châu Mạnh Lực, Kỹ thuật đo cơ khí. NXB Giáo dục Việt Nam, 2015.
[2] Nguyễn Phùng Quang, Matlab và simulink cho kỹ sư điều khiển tự
động. NXB Khoa học và Kỹ thuật, 2006.
[3] Nguyễn Tiến Thọ - Nguyễn Thị Xuân Bảy – Nguyễn Thị Cẩm Tú,
Kỹ thuật đo lường kiểm tra trong chế tạo cơ khí, Nhà xuất bản Khoa
học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2005
[4] Hồ Đắc Thọ, Nguyễn Thị Xuân Bảy, Cơ sở kỹ thuật đo trong chế
tạo máy, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 1984
[5] Nguyễn Hữu Lộc, Cơ sở thiết kế máy, Nhà xuất bản Đại học Quốc
gia, 2004.
[6] Vũ Toàn Thắng, Xây dựng phương pháp đo sai lệch độ tròn của các
chi tiết cơ khí trong hệ tọa độ cực. Luận án tiến sỹ kỹ thuật – Đại
học Bách khoa Hà Nội, 2006.
[7] Tạ Thị Thúy Hương, Cơ sở đảm bảo, nâng cao độ chính xác của
phép đo độ tròn, Luận án tiến sĩ Kỹ thuật cơ khí, Đại học Bách khoa Hà Nội, 2016.
[8] Vũ Thị Tâm, Thuật toán mới và chương trình Matlab xác định sai
lệch độ tròn từ dữ liệu đo trên máy CMM 544. Luận văn thạc sĩ Kỹ
thuật, Trường ĐH KTCN Thái Nguyên, 2010
[9] Wei GAO, Satoshi KIYONO, Roundness measurement by the
orthogonal mixed method, JSME, 61(589), 1995
[10] G. X. Zhang, R. K. Wang, Four-Point Method of Roundness and
Spindle Error Measurements, CIRP Annals, Manufacturing
Technology, Volume 42, Issue 1, 593-596, 1993
[11] Francis T. Farago, “Handbook of dimensional measurement”.
Industrial press Inc.
[12] Mitutoyo Corporation, Measuring Instruments Catalog, Unied
State of America, 2012
[13] Europa Lehrmittel, Mechanical and Metal trades handbook,
Germany, 2006.
[14] http://mdmetric.com
[15] http://www.roymech.co.uk
[16] http://www.nist.gov
(BBT nhận bài: 17/07/2017, hoàn tất thủ tục phản biện: 27/07/2017)
56 Nguyễn Tùng Linh, Trương Việt Anh, Nguyễn Thanh Thuận
CẢI TIẾN THUẬT TOÁN DI TRUYỀN ÁP DỤNG CHO BÀI TOÁN
TÁI CẤU TRÚC LƯỚI ĐIỆN CÓ XÉT ĐẾN VỊ TRÍ VÀ CÔNG SUẤT
CỦA NGUỒN ĐIỆN PHÂN TÁN KẾT NỐI VÀO LƯỚI ĐIỆN PHÂN PHỐI
IMPROVEMENT OF GENETIC ALGRITHM FOR DISTRIBUTION NETWORK
RECONFIGURATION PROBLEM WITH THE POSITION AND POWER CAPACITY
OF DISTRIBUTER CONNECTOR GIRD
Nguyễn Tùng Linh1, Trương Việt Anh2, Nguyễn Thanh Thuận3
1Trường Đại học Điện lực; [email protected] 2Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh; [email protected]
3Trường Cao đẳng nghề Công nghệ cao Đồng An
Tóm tắt - Trong tương lai nguồn năng lượng sạch từ các nguồn điện phân tán (Distributed generation - DG) sẽ đóng vai trò quan trọng trong các lưới điện phân phối. Việc kết nối DG vào lưới điện phân phối sẽ giúp nâng cao độ tin cậy và khả năng cung cấp điện, giảm tổn thất trong quá trình tuyền tải điện năng. Tuy nhiên, nó cũng đòi hỏi một cấu hình lưới hợp lý để nâng cao hiệu quả cung cấp điện cũng như sử dụng hiệu quả các nguồn điện phân tán. Do đó trong bài báo này, nhóm tác giả đề xuất phương pháp xác định vị trí và công suất của nguồn điện phân tán có xét đến bài toán tái cấu trúc lưới điện với hàm mục tiêu là giảm tổn thất công suất tác dụng. Phương pháp đề xuất được kiểm tra trên lưới điện mẫu của IEEE (Institute of Electrical and Electronics Engineers) và so sánh với các kết quả nghiên cứu khác.
Abstract - In the future, clean energy resources from distributed generation (DG) will play an important role in electrical distribution networks. Location and size of the distributed generators (DGs) and the number of DGs in distribution network system affect distribution network configuration in normal operating conditions and restoration conditions from faults. So, in this article, the authors propose using genetic algorithms to determine the location and capacity of scattered power considering the reconstruction problem of distribution network with the objective of reducing power losses. The proposed is tested on IEEE electric grid and compared with the results of other studies.
Từ khóa - lưới điện phân phối; tái cấu trúc; thuật toán gen; nguồn điện phân tán; giảm tổn thất điện năng.
Key words - electrical distribution network; reconfiguration; genetic algorithms; distributed generation; power loss reduction.
1. Giới thiệu
Cấu trúc hệ thống điện truyền thống có dạng dọc, mạng
phân phối sẽ nhận điện từ lưới truyền tải hoặc truyền tải
phụ sau đó cung cấp đến hộ tiêu thụ điện. Mạng lưới phân
phối có cấu trúc hình tia hoặc dạng mạch vòng nhưng vận
hành trong trạng thái hở. Dòng công suất trong trường hợp
này đổ về từ hệ thống thông qua mạng phân phối cung cấp
cho phụ tải. Vì vậy, việc truyền tải điện năng từ nhà máy
điện đến hộ tiêu thụ sẽ sinh ra tổn hao trên lưới truyền tải
và mạng phân phối (khoảng 10 - 15% tổng công suất của
hệ thống). Với cấu trúc mới của lưới phân phối hiện nay,
do có sự tham gia của các DG, dòng công suất không chỉ
đổ về từ hệ thống truyền tải mà còn lưu thông giữa các phần
của mạng phân phối với nhau, thậm chí đổ ngược về lưới
truyền tải. Cấu trúc này được gọi là cấu trúc ngang.
Với cấu trúc ngang có sự tham gia của các DG, lưới
điện phân phối (LĐPP) thực hiện tốt hơn nhiệm vụ cung
cấp năng lượng điện đến hộ tiêu thụ đảm bảo chất lượng
điện năng, độ tin cậy cung cấp điện và một số yêu cầu an
toàn trong giới hạn cho phép. Đồng thời mang lại nhiều lợi
ích khác như: giảm tải trên lưới điện, cải thiện điện áp,
giảm tổn thất công suất và điện năng, hỗ trợ lưới điện.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về bài toán tái cấu
hình LĐPP với hàm mục tiêu giảm tổn thất trên lưới điện
có kết nối với nhiều DG hoặc không có kết nối DG, tuy
nhiên vị trí và dung lượng của các DG này luôn được cho
trước. Các phương pháp chủ yếu dựa trên các đề xuất của
Merlin và Back [3] - giải quyết bài toán thông qua kỹ
thuật heuristic rời rạc nhánh - biên, Civanlar và các cộng
sự [4] - phương pháp trao đổi nhánh hay các phương pháp
heuristic hoặc meta-heuristic như GA, PSO, CSA mới
cũng được sử dụng để giải quyết bài toán này. Trong khi
đó, bài toán có xét đến vị trí và dung lượng DG chỉ được
xét trên LĐPP hình tia không có sự biến đổi cấu hình của
LĐPP được đề cập trong các nghiên cứu [8-14]. Điều này
đã không giải quyết được trọn vẹn bài toán đặt DG vì khi
có thay đổi cấu hình lưới, vị trí các DG sẽ không phù hợp
để phát huy khả năng ổn định điện áp và giảm tổn thất hay
việc bơm công suất quá lớn của các DG sẽ gây tổn hao
lớn trên LĐPP, gây xung đột giữa lợi ích của điện lực và
lợi ích khách hàng. Việc kết hợp hai bài toán vị trí và dung
lượng của DG với bài toán tái cấu trúc LĐPP [15-17] đã
giải quyết được cả hai mục tiêu là tính kinh tế vì đã tận
dụng tối đa công suất của DG, đồng thời đảm bảo được
hàm mục tiêu giảm tổn thất công suất trên lưới trong bài
toán tái cấu trúc là nhỏ nhất, do đó việc nghiên cứu này là
cần thiết.
Bài báo này tiếp cận bài toán xác định vị trí và công
suất của các DG trên LĐPP có xét đến bài toán tái cấu
hình vận hành lưới điện với mục tiêu là giảm tổn thất
công suất tác dụng và thỏa mãn công suất bơm vào lưới
của các khách hàng.
Giải pháp xác định vị trí và công suất của các DG tối
ưu và xác định cấu hình vận hành được thực hiện bằng hai
giai đoạn với thuật toán di truyền (GA - Genetic
Algorithm). Trong đó, giai đoạn thứ nhất sử dụng GA xác
định vị trí và công suất tối ưu của các máy phát phân tán
trên LĐPP kín (đóng tất cả các khóa điện); Giai đoạn thứ
hai, giải thuật di truyền được sử dụng để xác định cấu trúc
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 57
vận hành hở tối ưu của hệ thống. Kết quả bài toán được so
sánh với các nghiên cứu [12-15], cho thấy tính hiệu quả của
giải pháp đề xuất.
2. Mô hình bài toán tái cấu trúc có xét đến kết nối
nguồn điện phân tán vào lưới điện phân phối
2.1. Mô hình toán học của bài toán
Xét LĐPP đơn giản như Hình 1. Với 3 vị trí có lắp DG
cho phép không làm mất tính tổng quát khi mô tả tất cả các
trường hợp vị trí khóa mở và vị trí DG. Hàm tổn thất công
suất tác dụng P của LĐPP ở Hình 1 được viết tại biểu thức
(1), dòng điện nhánh trên LĐPP Hình 1 có thể biểu diễn
thành 2 thành phần như Hình 2: nhanh P QI I I . Để mô
tả hàm số P, phụ thuộc vào lượng công suất chuyển tải
hay dòng công suất chuyển tải, có thể sử dụng kỹ thuật bơm
vào và rút ra tại khoá điện đang mở trên nhánh MN cùng
một dòng điện có giá trị là IMN như Hình 3.
Hình 1. LĐPP hở có 3 nguồn DG
Hình 2. Hai thành phần của dòng điện nhánh
Hình 3. Dòng IPMN và IQ
MN rút ra và bơm vào tại khoá MN
Tổn hao công suất của LĐPP trước khi tái cấu hình lưới:
22n ntruoc DG DG DG DGP I I I R I I I R
PA PC QA QCPi i Qi ii 1 i 1
i OA i OA
22n n n nDG DG 2 2I I R I I R I R I RPC QCPi i Qi i Pi i Qi i
i 1 i 1 i 1 i 1
i ABC i ABC i CN i CN
2nDI I R I IPL QLPi i Qi
i 1
i OL
2n n nDG 2 2R I R I R
i Pi i Qi ii 1 i 1 i 1
i OL i LM i LM
Tổn hao công suất của LĐPP sau khi tái cấu trúc:
2nsau DG DG MNP I I I I R
PPA PCPi ii 1
i OA
2 2n nbu bu MN DG MNI I I I R I I I R
PQA QC Q PCQi i Pi ii 1 i 1
i OA i ABC
2 2n nDG MN MNI I I R I I R
PQC QQi i Pii 1 i 1
i ABC i CN
2MNI IQQi
i 1
i CN
2n nDG MNR I I I RPL Pi Pi i
i 1
i OL
2 2n nDG MN MNI I I R I I R
PQL QQi i Pi ii 1 i 1
i OL i LM
2 22nMN MN MNI I R I R I R
P MN MNQ QQi ii 1
i LM
Khi đó, bài toán xác định khóa mở trở thành bài toán
xác định giá trị bơm vào và rút ra Pj, Qj để tổn thất công
suất tác dụng là bé nhất.
Hay có thể biểu diễn bài toán trở thành tìm MN
PI và MN
QI
để giá trị P của lưới điện Hình 1 đạt cực tiểu thì: sau
MN
P
P0
I
và
sau
MN
Q
P0
I
nsauDG DG MN
PPA PCPi iMNi 1Pi OA
n nDG MN MN
P PPCPi i Pi ii 1 i 1i ABC i CN
n nQG MN MN MNPL P P P MNPi i Pi i
i 1 i 1i OL i LM
P0 I I I I R
I
I I I R I I R
I I I R I I R I R 0
nsaubu bu MNQA QC QQi iMN
i 1Qi OA
n nbu MN MNQC Q QQi i Qi i
i 1 i 1i ABC i CN
n nbu MN MN MN
MNQL Q Q QQi i Qi ii 1 i 1i OL i LM
P0 I I I I R
I
I I I R I I R
I I I R I I R I R 0
Giải ra được
𝐼𝑃𝑀𝑁 =
1
𝑅𝐿𝑜𝑜𝑝 [∑ 𝐼𝑃𝑖𝑅𝑖 − ∑ 𝐼𝑃𝑖𝑅𝑖𝑛𝑖=1
𝑖∈𝑂𝑁
𝑛𝑖=1
𝑖∈𝑂𝑀
] +
1
𝑅𝐿𝑜𝑜𝑝 [𝐼𝑃𝐴𝐷𝐺 ∑ 𝑅𝑖
𝑛𝑖=1
𝑖∈𝑂𝐴
+ 𝐼𝑃𝐶𝐷𝐺 ∑ 𝑅𝑖
𝑛𝑖=1
𝑖∈𝑂𝐶
− 𝐼𝑃𝐿𝐷𝐺 ∑ 𝑅𝑖
𝑛𝑖=1
𝑖∈𝑂𝐿
] (3)
𝐼𝑄𝑀𝑁 =
1
𝑅𝐿𝑜𝑜𝑝 [∑ 𝐼𝑄𝑖𝑅𝑖 − ∑ 𝐼𝑄𝑖𝑅𝑖𝑛𝑖=1
𝑖∈𝑂𝑁
𝑛𝑖=1
𝑖∈𝑂𝑀
] +
1
𝑅𝐿𝑜𝑜𝑝 [𝐼𝑄𝐴𝐷𝐺 ∑ 𝑅𝑖
𝑛𝑖=1
𝑖∈𝑂𝐴
+ 𝐼𝑄𝐶𝐷𝐺 ∑ 𝑅𝑖
𝑛𝑖=1
𝑖∈𝑂𝐶
− 𝐼𝑄𝐿𝐷𝐺 ∑ 𝑅𝑖
𝑛𝑖=1
𝑖∈𝑂𝐿
] (4)
Biểu thức (3) và (4) cho thấy việc đặt DG vào LĐPP sẽ
làm vị trí khóa mở sẽ thay đổi do các giá trị IPMN và IQ
MN
thay đổi khi có DG. Điều này cho thấy việc đặt DG tối ưu
trên LĐPP hình tia rồi mới xét đến bài toán tái cấu hình
LĐPP là không phù hợp.
Từ nhận xét trên, tác giả đề xuất một trình tự giải bài
toán xác định vị trí và dung lượng DG các bước như sau:
Inhánh
Ipnhánh
Iqnhánh
Iq
Ip
(1)
(2)
58 Nguyễn Tùng Linh, Trương Việt Anh, Nguyễn Thanh Thuận
• Đóng tất cả các khóa điện tạo thành LĐPP kín. Điều
chỉnh điện áp tại tất cả các nguồn (trạm biến áp cấp cho
LĐPP) có giá trị bằng nhau
• Tối ưu vị trí và công suất các nguồn phân tán trên lưới
điện kín sử dụng các thuật toán tối ưu sao cho tổn thất công
suất bé nhất.
• Tối ưu cấu trúc vận hành lưới điện phân phối sử dụng
các thuật toán tối ưu sao cho tổn thất công suất trên hệ
thống là bé nhất.
2.2. Hàm mục tiêu và các điều kiện ràng buộc
Tổn thất công suất của hệ thống bằng tổng tổn thất trên
các nhánh.
Ploss = ∑ ki∆Pi
Nbr
i=1
= ∑ ki. Ri. |Ii|2
Nnr
i=1
= ∑ kiRi
Pi2 + Qi
2
Vi2
Nbr
i=1
Trong đó:
ΔPi: tổn thất công suất tác dụng trên nhánh thứ i;
Nbr: tổng số nhánh;
Pi, Qi: công suất tác dụng, công suất phản kháng trên
nhánh thứ I;
Vi, Ii: điện áp nút kết nối của nhánh và dòng điện trên
nhánh thứ I;
Ploss: tổn thất công suất tác dụng của hệ thống;
ki: trạng thái của của các khóa điện, nếu ki = 0 khóa điện
thứ i mở và ngược lại.
Điều kiện ràng buộc
Phương pháp đề xuất được chia làm 2 giai đoạn, do đó
các điều kiện ràng buộc được chia như sau:
Giai đoạn 1: Xác định vị trí và công suất nguồn phân tán.
Giai đoạn 2: Xác định cấu trúc vận hành tối ưu của lưới điện.
Đối với giai đoạn 1, cần thỏa mãn các ràng buộc sau:
Giới hạn công suất phát của các máy phát phân tán:
PDGi,min ≤ PDG,i ≤ PDGi,max, với i = 1, 2, … , NDG
Giới hạn dòng điện trên các nhánh và điện áp các nút
|Ii| ≤ Ii,max, với i = 1, 2, … , Nbus
Vi,min ≤ |Vi| ≤ Vi,max, với i = 1, 2, … , Nbus
Đối với giai đoạn 2, bên cạnh việc phải thỏa mãn các
ràng buộc liên quan đến điện áp các nút và dòng điện trên
các nhánh phải nằm trong giới hạn cho phép, thì ràng buộc
về cấu trúc lưới hình tia là một trong những ràng buộc quan
trọng nhất của bài toán nhằm tìm ra cấu trúc vận hành hình
tia của LĐPP.
3. Đề xuất phương pháp sử dụng giải thuật di truyền
cho bài toán tái cấu trúc có xét đến nguồn phân tán
3.1. Giải thuật di truyền
Trong giai đoạn 1 và 2, thuật toán di truyền được sử
dụng để tối ưu các biến điều khiển. Các bước cơ bản của
thuật toán giải thuật di truyền được thực hiện như sau:
(1) Khởi tạo quần thể: Với các biến điều khiển cho
trước X, chọn ngẫu nhiên một quần thể nhiễm sắc thể
(NST) {𝑋01, 𝑋0
2, … , 𝑋0𝑝
} trong đó mỗi NST 𝑋0𝑖 có thể được
thể hiện bởi một chuỗi mã nhị phân hay các số liên tục. Khi
đó, mỗi NST tương ứng với một giá trị hàm mục tiêu
𝑓(𝑋0𝑖 ), và quần thể tương ứng với tập giá trị hàm mục tiêu
{𝑓(𝑋01), 𝑓(𝑋0
2), … , 𝑓(𝑋0𝑝
)}. Đặt thế hệ k = 0, di chuyển đến
bước tiếp theo.
(2) Lựa chọn: Chọn một cặp NST từ quần thể như là
một cha mẹ. Thông thường, NST với độ thích nghi lớn hơn
có một xác suất được lựa chọn lớn hơn.
(3) Ghép chéo: là hoạt động quan trọng trong thuật toán
Giải thuật di truyền. Mục đích của ghép chéo, là để trao đổi
thông tin đầy đủ giữa các nhiễm sắc thể (NST). Có rất nhiều
phương pháp ghép chéo, như ghép chéo một điểm và ghép
chéo đa điểm.
(4) Đột biến: là hoạt động quan trọng khác trong thuật
toán di truyền. Các đột biến tốt sẽ được giữ lại, và đột biến
xấu sẽ được loại bỏ. Thông thường, các NST với độ thích
nghi kém có xác suất được lựa chọn lớn hơn. Tương tự như
ghép chéo, có đột biến một điểm và đa điểm.
Thực hiện xong bước 2-4, một quần thể mới được sinh
ra thay thế cho thế hệ cha mẹ với một số NST mới và loại
bỏ một số NST xấu. Quần thể mới được đánh giá bằng hàm
thích nghi. Nếu các điều kiện hội tụ được thỏa mãn, thuật
toán sẽ được dừng lại ngược lại thuật toán sẽ quay lại bước
2 và tiếp tục thực hiện các bước tiếp theo.
3.2. Mã hóa các biến trong các giai đoạn
Giai đoạn 1: Các biến cần tối ưu là vị trí và công suất
các máy phát điện phân tán, vì vậy véctơ biến điều khiển
có dạng như sau:
𝑋𝑖 = [𝑉𝑇1𝑖 , … , 𝑉𝑇𝑚
𝑖 , 𝐷𝐺1𝑖 , … , 𝐷𝐺𝑚
𝑖 ] (5)
Trong đó, 𝑉𝑇𝑚𝑖 là vị trí các nút được lắp đặt DG nằm
trong giới hạn là tất cả các nút trong hệ thống trừ nút nguồn,
m là số lượng DG cần lắp đặt, 𝐷𝐺𝑚𝑖 là công suất của DG
cần lắp đặt.
Giai đoạn 2: Các biến cần tối ưu là các khóa điện mở trong
hệ thống, vì vậy véctơ biến điều khiển có dạng như sau:
𝑋𝑖 = [𝑆1𝑖 , 𝑆2
𝑖 … , 𝑆𝑁𝑂𝑖 ] (6)
Trong đó, 𝑆𝑁𝑂𝑖 là khóa điện mở, NO là số lượng khóa
mở để duy trì cấu trúc lưới hình tia.
Lưu đồ giải thuật chi tiết được trình bày trong Hình 4.
Phương pháp xác định vị trí và công suất nguồn phát
trong quy hoạch LĐPP được thực hiện như sau:
Bước 1: Đóng tất cả các khóa điện tạo thành LĐPP kín
Bước 2: Sử dụng giải thuật di truyền xác định vị trí và
công suất các máy phát điện phân tán trên LĐPP giảm tổn
thất công suất.
Bước 3: Cập nhật lại thông số LĐPP có sự xuất hiện
của các nguồn phân tán vừa xác định.
Bước 4: Sử dụng giải thuật di truyền xác định cấu trúc
vận hành hình tia LĐPP giảm tổn thất công suất.
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 59
Bắt đầu
Chọn thông số: quần thể N, số biến (vị trí, dung lượng DG), tỉ lệ
đột biến Xm, và tỉ lệ chọn lọc Xkeep, Số vòng lặp lớn nhất Itermax,1
- Khởi tạo ngẫu nhiên quần thể nhiễm sắc thể N
[vị trí DG,..., công suất DG,...]
Giải bài toán phân bố công suất và tính toán tổn thất công suất cho mỗi nhiễm sắc thể
- Giữ lại các nhiễm sắc thể tốt nhất dựa trên tỉ lệ chọn lọc Xkeep
- Chọn các cặp nhiễm sắc thể để ghép chéo
Xuất nhiễm sắc thể tốt nhất (có tổn thất công suất nhỏ nhất)
[vị trí DG, công suất DG]
Iter1 <= Itermax,1
đúng
sai
Thực hiện ghép chéo sử dụng phương pháp đơn điểm
- Thay thể ngẫu nhiên một số gen được chọn dựa trên Xm
- Kiểm tra các giới hạn ràng buộc của các nhiễm sắc thể mới
Kết thúc
Iter1 = Iter1 + 1
Đóng các khóa điện
Chọn thông số: quần thể N, số biến (số khóa điện mở), tỉ lệ đột
biến Xm, và tỉ lệ chọn lọc Xkeep, Số vòng lặp lớn nhất Itermax,2
- Khởi tạo ngẫu nhiên quần thể nhiễm sắc thể N
[s1, s2, …, sn]
Giải bài toán phân bố công suất và tính toán tổn thất công suất cho mỗi nhiễm sắc thể
- Giữ lại các nhiễm sắc thể tốt nhất dựa trên tỉ lệ chọn lọc Xkeep
- Chọn các cặp nhiễm sắc thể để ghép chéo
Xuất nhiễm sắc thể tốt nhất (có tổn thất công suất nhỏ nhất) bao gồm
[các khóa mở]
Iter2 <= Itermax,2
đúng
sai
Thực hiện ghép chéo sử dụng phương pháp đơn điểm
- Thay thể ngẫu nhiên một số gen được chọn dựa trên Xm
- Kiểm tra các giới hạn ràng buộc của các nhiễm sắc thể mới
Iter2 = Iter2 + 1
Cập nhật thông số DG vào thông số lưới
Hình 4. Lưu đồ giải thuật GA cho bài toán tái cấu trúc
4. Kiểm tra trên các lưới mẫu của IEEE
Hệ thống phân phối 33 nút, bao gồm 37 nhánh, 32 khóa
điện thường đóng và 5 khóa điện thường mở. Sơ đồ đơn tuyến
được trình bày trong Hình 5. Tổng công suất thực của tải và
công suất phản kháng của hệ thống tương ứng là 3.72MW và
2.3MVAR. Tổng tổn thất công suất thưc và công suất phản
kháng đối với các trường hợp ban đầu tính từ phân bố công
suất tương ứng là 202.68 kW và 135.14 kVAr. Độ lớn điện áp
nhỏ nhất của hệ thống là 0.9108 p.u. xảy ra tại nút 18.
1
23
1
4
5
67
8
1920
21
33
91011
12
22
35
1819
20
21
87
6
5
4
3
2
91011
1314
1534
1214
1316 17
18 33
36
15
16 17
2627
28
25 2627
32
29
29
23
24
25
37
2223
24
31
30
3231
30
29
Hình 5. Sơ đồ lưới điện 33 nút
Bảng 1. Kết quả thực hiện hai giai đoạn lượi điện 33 nút
Giai đoạn 1 Giai đoạn 2
Vị trí DG (nút) 32; 8; 25 32; 8; 25
PDG (MW) 0,8234;1,1047,
1,1073
0,8234; 1,1047,
1,1073
Khóa mở Không có khóa mở 33, 34, 11, 30, 28
Tổn thất (kW) 41,9082 53, 4274
Umin(pu) 0,9832 0,9685
Umax (pu) 1 1
Giá trị hàm mục tiêu 41,9082 53,4274
Thời gian tính toán (giây) 130,49 39,54
Bảng 1 trình bày kết quả tính toán trong hai giai đoạn.
Giai đoạn 1, vị trí các máy phát phân tán lần lượt được lắp
đặt tại các vị trí tối ưu là nút 32; 8 và 25 với công suất tương
ứng là 0,8234; 1,1047 và 1,1073 MW. Tổn thất công suất
trên lưới điện này là41.9082 kW. Tuy nhiên, cần lưu ý là
cấu trúc lưới trong giai đoạn 1 là cấu trúc lưới điện kín và
tổn thất công suất trên lưới điện kín là tổn thất bé nhất mà
lưới điện phân phối có thể đạt được. Sau khi xác định được
vị trí và công suất tối ưu của máy phát phân tán trên cấu
trúc lưới kín, giai đoạn 2 được thực hiện để tìm các khóa
điện mở. Cấu trúc lưới thu được với các khóa mở là 33; 34;
11; 30 và 28 tương ứng với tổn thất công suất 53.4274 kW.
Tổng tổn thất công suất đã được giảm 73,64% so với chưa
thực hiện tối ứu lưới điện Ngoài ra, điện áp thấp nhất trong
hệ thống đã được cải thiện từ 0,91081 tới 0,9685pu.
Quá trình hội tụ của giai đoạn 1 và giai đoạn 2 được thể
hiện trong các Hình 6, 7. Thời gian thực hiện tính toán trên
máy tính cá nhân core i3, ram 2G khoảng 170 s cho cả hai
giai đoạn.
Hình 6. Đặc tính hội tụ giải thuật di truyền giai đoạn 1
Hình 7. Đặc tính hội tụ giải thuật di truyền giai đoạn 2
Điện áp các nút trong hệ thống sau khi thực hiện hai giai
60 Nguyễn Tùng Linh, Trương Việt Anh, Nguyễn Thanh Thuận
đoạn được cho ở Hình 8. Từ Hình 8 cho thấy, điện áp các nút
trong giai đoạn 1 tốt hơn so với giai đoạn 2. Điều này khẳng
định, sự tối ưu của cấu trúc vận hành kín so với cấu trúc vận
hành hở. Do đó, nếu các thiết bị bảo vệ lưới điện đáp ứng nhu
cầu vận hành kín, thì việc vận hành LĐPP kín có nhiều ưu
điểm về tổn thất và điện áp các nút trên toàn hệ thống.
Hình 8. Điện áp các nút trong hai giai đoạn tính toán
Tuy nhiên, mặc dù điện áp các nút không tốt hơn cấu
trúc vận hành kín, nhưng rõ ràng điện áp các nút sau giai
đoạn 2 đã được cải thiện đáng kể so với cấu trúc ban đầu,
điều này được thể hiện bằng sự so sánh với điện áp ban đầu
tại Hình 8. Cấu trúc lưới và vị trí lắp đặt máy phát phân tán
tối ưu trên hệ thống được trình bày trên Hình 9.
Hình 9. Điện áp trước và sau khi tối ưu lưới điện
Cấu trúc tối ưu sau khi tính toán, Hình 10.
1
23
1
4
5
67
8
1920
21
33
91011
12
22
35
1819
20
21
87
6
5
4
3
2
91011
1314
1534
1214
1316 17
18 33
36
15
16 17
2627
28
25 2627
32
28
29
23
2425
37
2223
24
31
30
3231
30
29
G
G
G
Hình 10. Cấu trúc lưới tối ưu
Kết quả so sánh giữa các phương pháp được trình bày
trong Bảng 2 và Bảng 3. Từ kết quả so sánh cho thấy, ở
thành phần tổn thất công suất, phương pháp đề xuất có cấu
trúc lưới tối ưu với tổn thất công suất 53,43 kW so với
73,05 kW khi thực hiện bằng HSA và 67,11 kW với FWA.
Trong khi, điện áp nhỏ nhất tại các nút trong hệ thống là
gần như tương tự nhau với điện áp nhỏ nhất trên hệ thống
được thực hiện bằng phương pháp đề nghị, HSA và FWA
lần lượt là 0,9685, 0,9700 và 0,9713 p.u. Đối với thuật toán
CSA, tổn thất công suất thu được của phương pháp đề nghị
gần bằng với phương pháp CSA với tổn thất công suất của
hai phương pháp lần lượt là 53,43 kW và 53,21 kW. Từ kết
quả so sánh trong Bảng 2 ta nhận thấy phương pháp đề xuất
có Umin là 0.9685 thấp hơn so với điện áp Umin của phương
pháp CSA là 0.9806pu tuy nhiên vẫn nằm trong giới hạn
cho phép. Các thông số tổn thất công suất, các điều kiện
khóa mở/đóng, công suất huy động của nguồn điện phân
tán của phương án đề xuất so với các phương án trong bảng
so sánh là khả thi để thực hiện.
Bảng 2. So sánh kết quả thực hiện với cấu trúc ban đầu
LĐPP ban đầu
không có DG
LĐPP hở có
DG đề xuất
Vị trí DG (nút) Không 32; 8; 25
PDG (MW) Không 0,8234; 1,1047;
1,1073
Khóa mở 33; 34; 35; 36; 37 33; 34; 11; 30; 28
Tổn thất (kW) 202.68 53,4274
Umin(pu) 0,9108 0,9685
Umax (pu) 1 1
Giá trị hàm mục tiêu Không 53,4274
Thời gian tính toán (giây) Không 39,54
Bảng 3. So sánh kết quả thực hiện với các phương pháp
Phương pháp
đề nghị HSA [11]
FWA
[13] CSA [14]
Vị trí DG
(nút) 32; 8; 25 32;31; 33 32; 29; 18 18; 25; 7
P
DG(MW)
0,8234
1,1047
1,1073
P∑=3,035
0,5258
0,5586
0,5840
P∑=1,6684
0,5367
0,6158
0,5315
P∑=1,68
0,8968
1,4381
0,9646
P∑=3,299
Khóa mở 33; 34; 11;
30; 28
7; 14; 10;
32; 28
7; 14; 11;
32; 28
33; 34; 11;
31; 28
Ptt (kW) 53,43 73,05 67,11 53,21
Umin (pu) 0,9685 0,9700 0,9713 0,9806
5. Kết luận
Bài báo này tiếp cận bài toán xác định vị trí và công
suất máy phát điện phân tán trên LĐPP có xét đến cấu trúc
vận hành lưới điện với mục tiêu là giảm tổn thất công suất
tác dụng trên hệ thống phân phối. Giải pháp xác định vị trí
và công suất máy phát điện phân tán tối ưu và xác định cấu
trúc vận hành được thực hiện riêng rẽ bằng hai giai đoạn
sử dụng thuật toán di truyền. Trong đó, giai đoạn 1 sử dụng
thuật toán di truyền xác định vị trí và công suất tối ưu của
các máy phát phân tán trên lưới điện phân phối kín; Giai
đoạn 2 giải thuật di truyền được sử dụng để xác định cấu
trúc vận hành hở tối ưu của hệ thống. Từ kết quả của việc
áp dụng thử nghiệm phương pháp vào hệ thống mạng 33
nút, phương pháp thực hiện đơn giản, rút ngắn thời gian
thực hiện cho giải thuật di truyền vì số lượng biến cần tối
ưu trong mỗi lần thực hiện là tương đối nhỏ. Kết quả thực
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 61
hiện so sánh với một số nghiên cứu cho thấy sự phù hợp
của phương pháp đề xuất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] S. Kalambe and G. Agnihotri, “Loss minimzation techniques used
in distribution network: Bibliographical survey”, Renew. Sustain.
Energy Rev., vol. 29 pp. 184-200, 2014.
[2] T.T. Nguyen and A. V. Truong, “Distribution network
reconfiguration for power loss minimization and voltage profile improvement using cuckoo seach algorithm”, Int. j. Electr. Power
Energy Syst., vol. 68, pp. 233-242,2015.
[3] A. Merlin and H. Back, “Search for a minimal loss operating tree
configuration in an urban power distribution system”, Proceeding 5th
power Syst. Comput. Conf (PSCC), Cambridge, UK, vol. 1-18,1975.
[4] S. Civanlar, J.J. Grainger, H. Yin, and S.S.H. Lee, “Distribution
feeder reconfiguration for loss reduction s.”, IEEE Trans. Power Deliv., vol.3, no.3, pp. 1217-1223,1988.
[5] Lê Kim Hùng – Lê Thái Thanh, “Tối ưu hóa vị trí đặt và công suất
phátcủa nguồn phân tán trên mô hình lưới điện phân phối 22kV”,
Tạp chí KH &CN, Đại học Đà Nẵng số 2(25) 2008. pp 67-72
[6] D. Q. Hung, N. Mithulananthan, and R. C. Bansal, “An optimal
invesment planing framework for multiple distributed generation
units in industrial distribution systems”, Appl. Energy, vol.124, pp.62-72, 2014.
[7] César Augusto Peñuela Meneses, José RobertoSanches Mantovani,
“Improving the Grid Operation andReliability Cost of Distribution
Systems With Dispersed Generation”, IEEE Transactions on power
systems, vol. 28, no. 3, august 2013.
[8] V. V. S. N. Murty and A. Kumar, “Optimal placement of DG in
radial distribution systems bases on new voltage stability index
under load growth”, Int. J. Electr. Power Energy Syst., vol. 69, pp. 246-256, 2015
[9] I. a. Mohamed and M. Kowsalya, “Optimal size and siting of multiple
distributed generators in distribution system using bacterial foraging
optimization”, Swarm Evol. Comput. vol.15, pp. 58-65, 2014.
[10] A. Ameli, B. Shahab, K. Farid, and H. Mahmood-Reza, “A
Multiobjective Particle Swarm Optimization for Sizing and
Placement of DGs from DG Owner’s and Distribution Company’s Viewpoints”, IEEE Trans. POWER Deliv., vol. 29, no 4, pp. 1831-
1840, 2014.
[11] S. Tan, J. X. Xu, and S. K. Panda, “Optimization of distribution
network incorporating distributed generators: An integrated approach”, IEEE Trans. Power Syst., 28, no. 3, pp. 2421- 2432, 2013.
[12] R. S. Rao, K. Ravindra, K. Satish, and S. V. L. Narasimham, “Power
Loss Minimiztion in Distribution System Using Network
Reconfiguration in the Presence of Distributed Generation”, IEEE
Trans. Power Syst., vol. 28, no. 1, pp. 1-9, 2013
[13] A. Mohamed Imran, M. Kowsalya, and D. P. Kothari, “A novel
intergration technique for optimal network reconfiguration and distributed generation placement in power distribution networks”,
Int, J. Electr. Power Energy Syst., vol. 63, pp. 461-472, 2014.
[14] T. T. Nguyen, A. V. Truong, and T. A. Phung, “A novel method based
on adaptive cuckoo search for optimal network reconfiguration and
distributed generation allocation in distribution network”, Int. J. Electr. Power Energy Syst., vol. 78, pp. 801–815, 2016.
(BBT nhận bài: 05/05/2017, hoàn tất thủ tục phản biện: 14/06/2017)
62 Dương Thị Hồng Phấn, Nguyễn Tiến Dũng, Lê Minh Đức, Đào Hùng Cường
NGHIÊN CỨU LỚP THỤ ĐỘNG ỨC CHẾ ĂN MÒN ĐA KIM LOẠI
Mo/Zr/Ti TRÊN NỀN THÉP
CORROSION INHIBITION OF STEEL BY CHROMIUM-FREE CONVERSION COATING
ON INORGANIC (Mo/Zr/Ti)
Dương Thị Hồng Phấn1, Nguyễn Tiến Dũng1, Lê Minh Đức1, Đào Hùng Cường2 1Trường Đại học Bách khoa - Đại học Đà Nẵng; [email protected]
2Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng; [email protected]
Tóm tắt - Lớp phủ thụ động chứa Mo, Zr và Ti đã được thực hiện thành công trên nền thép bằng cách nhúng trong dung dịch chứa 17g/l Na2MoO4, 8g/l K2ZrF6, 1g/lH2TiF6 và pH= 5. Hình thái cấu trúc tế vi của bề mặt và sự hiện diện thành phần nguyên tố Mo/Zr/Ti trên bề mặt thép nền đã được nghiên cứu và xác nhận bằng kính hiển vi điện tử quét kết hợp phổ tán sắc năng lượng tia X (SEM/EDX). Đường cong phân cực biểu diễn mối quan hệ điện thế và dòng ăn mòn thu được khi có và không có lớp phủ thụ động trên nền thép cho thấy có sự giảm dòng ăn mòn trên bề mặt thép có phủ lớp thụ động này. Mặt khác, khả năng bảo vệ ăn mòn của lớp phủ thụ động còn được khảo sát bằng thiết bị phun sương muối, lớp màng phá hủy hoàn toàn sau thời gian 4 giờ. Lớp phủ thụ động đã tăng cường tính năng chống ăn mòn cho nền thép.
Abstract - Passivation coating containing Mo, Zr and Ti has been successfully applied on steel by dipping it in solution of 17g/l Na2MoO4, 8g/l K2ZrF6,1g/lH2TiF6 and pH= 5. The microscopic structure and the presence of Mo/Zr/Ti on surface of the steel have been studied using Scanning electron microscopy with energy-dispersive X-ray spectroscopy (SEM/EDX). Polarization method, applied to determine the corrosion potential and current of coating with and without pasivation layer on the steel, shows that the corrosion current density decreases when using Mo/Zr/Ti coating.On the other hand, the capacity of corrosive protection of pasivation coating is also investigated by the salt spray tests. Passivation layer can be completely destroyed after 4 hours of test. The pasivation layers can improve the anticorrosion of suface steels.
Từ khóa - Na2MoO4; K2ZrF6; H2TiF6; chống ăn mòn; lớp phủ thụ động; thiết bị phun sương muối.
Key words - Na2MoO4; K2ZrF6; H2TiF6; corrosion protection; passivation coating; salt spray tests.
1. Đặt vấn đề
Thép, một trong những vật liệu phổ biến nhất trên thế giới
nhờ vào khả năng chịu lực lớn và độ bền cao. Với hơn 1,3 tỷ
tấn được sản xuất hàng năm, sử dụng làm nguyên liệu chính
trong ngành xây dựng, công nghiệp cơ khí, phương tiện vận
tải và vũ khí [1]. Tuy nhiên, trong các môi trường không khí,
trong đất hay trong vùng ngập nước thì thép dễ bị ô-xy hóa,
phá hủy và làm giảm tuổi thọ của công trình một cách nhanh
chóng. Chính vì vậy, thụ động kim loại là một trong những
biện pháp hiệu quả, thông dụng nhất hiện nay để bảo vệ và
đảm bảo tính công tác của các cấu kiện thép [2].
Lớp thụ động phủ trên bề mặt thép với mục đích làm tăng
độ bám dính của màng hữu cơ với nền thép đồng thời nâng
cao khả năng chống ăn mòn cho nền kim loại. Trong đó, lớp
phủ thụ động truyền thống cromat trước đây đã được sử dụng
rộng rãi trong xử lý bề mặt của thép với khả năng chống ăn
mòn cao. Tuy nhiên, hexavalent chromium, Cr (VI) là chất
độc hại, gây nguy cơ ung thư ở người và ô nhiễm môi trường
cao. Do đó, muối cromat bị cấm sử dụng từ năm 2006 bởi
Luật bảo vệ môi trường EU, Tổ chức về hạn chế các chất độc
hại RoHS (Restriction Of Hazardous Substances) và theo Cơ
quan Bảo vệ Môi Sinh Hoa Kỳ (EPA) [3]. Trong xu thế phát
triển bền vững, nhiều lớp phủ chứa các thành phần thân thiện
với môi trường được các nhà khoa học trên thế giới tập trung
nghiên cứu định hướng thay thế Cr như molybdate,
phosphate, Ti/Zr và các nguyên tố đất hiếm [3, 4, 7, 9].
Lớp ức chế ăn mòn molybdate được đánh giá cao về
khả năng thay thế cho ion cromat (VI) trong lĩnh vực bảo
vệ kim loại bởi không những có khả năng chống ăn mòn
tốt tương tự, mà còn là chất ức chế không độc hại, an toàn
với môi trường [4]. Tuy nhiên, chất ức chế ăn mòn
molybdate chỉ đạt hiệu quả cao hơn khi có mặt của hợp chất
oxy hóa. Bên cạnh đó, màng thụ động Ti/Zr cũng được
đánh giá cao về khả năng ức chế ăn mòn trên bề mặt thép
trong những thập kỷ gần đây [9, 10].
Trong bài báo này, chúng tôi trình bày kết quả nghiên
cứu chế tạo lớp phủ chứa Mo/Zr/Ti trên nền thép bằng
phương pháp hóa học nhằm cải thiện khả năng bảo vệ chất
nền dưới tác động của môi trường xâm thực thông qua
phương pháp đo đường cong phân cực Tafel, phương pháp
mù sương muối. Bên cạnh đó, sử dụng kính hiển vi điện tử
quét phổ tán sắc năng lượng tia X (SEM/EDX) để cung cấp
thông tin về cấu trúc tế vi của bề mặt và thành phần nguyên
tố lớp phủ đa kim loại.
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Hóa chất và dụng cụ thí nghiệm
Các hóa chất K2ZrF6, Na2MoO4. 2H2O, H2TiF6 được
cung cấp từ hãng Aldrich, CHLB Đức.
Các loại hóa chất thông thường khác NaOH, Na2CO3,
Na3PO4, HNO3, các dụng cụ thí nghiệm khác được mua
trên thị trường Việt Nam.
2.2. Bài toán quy hoạch thực nghiệm
Bài toán quy hoạch thực nghiệm thiết lập ma trận gồm
27 thí nghiệm dựa trên phần mềm Statgraphics plus XVII.2
để đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng ăn mòn của
lớp phủ thụ động (Bảng 1). Các yếu tố ảnh hưởng cần khảo
sát bao gồm nồng độ hoạt tính của ZrF62 (4; 6 và 8 g/l của
K2ZrF6), TiF62 (1; 4 và 7g/l của H2TiF6), MoO4
2 (7; 14 và
21 g/l Na2MoO4.2H2O) và pH của dung dịch (2; 3,5; 5).
Nhiệt độ và thời gian ngâm mẫu trong dung dịch lần lượt là
200C và 3 phút, được duy trì trong tất cả các thí nghiệm.
2.3. Phương pháp tạo lớp phủ lớp thụ động Mo/Zr/Ti
Mẫu thép thường được chuẩn bị với kích thước
(40 x 15 x 1) mm đo đường cong phân cực, (25 x 10 x 1) mm
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 63
để phân tích hình ảnh cấu trúc tế vi hoặc (100 x 50 x 1) mm
đo độ mù sương muối theo tiêu chuẩn ASTM B117. Mẫu
được mài cơ học bằng các loại giấy nhám P600, P800 rồi
P1000 sẽ được rửa sạch trong dòng nước chảy rồi ngâm vào
dung dịch NaOH (10g/l), Na2CO3 (8g/l), Na3PO4 (12g/l) trong
30 phút để tẩy dầu mỡ.
Mẫu được rửa sạch bằng nước cất rồi tiếp tục ngâm vào
NaOH 5% nhiệt độ (70 800C) trong 30 phút với mục đích
hoạt hóa bề mặt. Mẫu rửa lại bằng nước cất và bảo quản
trong aceton. Tiến hành ngâm ngập mẫu thép trong dung
dịch ức chế với thời gian, nhiệt độ quy định cho 27 thí
nghiệm. Mỗi thí nghiệm tiến hành cho ba mẫu thép. Cuối
cùng đem mẫu sấy ở nhiệt độ (130 1400C) trong 40 phút.
2.4. Các phương pháp nghiên cứu hóa lý đặc trưng
2.4.1. Phương pháp đo đường cong Tafel
Đánh giá khả năng chống ăn mòn của lớp phủ qua phép đo
đường cong Tafel được thực hiện trên máy điện hóa đa năng
PGS-HH10 (Việt Nam) tại phòng thí nghiệm Hóa lý Trường
Đại học Bách khoa - Đại học Đà Nẵng. Các phép đo điện hóa
được thực hiện trên bình đo 3 điện cực: điện cực làm việc, điện
cực đối (thép không gỉ) và điện cực so sánh (Ag/AgCl).
2.4.2. Phương pháp phổ huỳnh quang tia X (XRF)
Các phép đo phân tích XRF để xác định thành phần thép
nền, lớp phủ thụ động được thực hiện tại Trung tâm Phân
tích Phân loại Xuất nhập khẩu, chi nhánh Miền Trung.
2.4.3. Kính hiển vi điện tử quét/ Phổ tán xạ năng lượng tia
X (SEM/EDX)
Mẫu được đo tại Trung tâm Đáng giá Hư hỏng Vật liệu,
Viện Khoa học Vật liệu (SEM/EDX Jeol JMS 6400, Japan).
2.4.4. Phương pháp đo độ mù sương muối
Phép đo được tiến hành tại Công ty sơn Hải Vân (SAM-
Y90, theo tiêu chuẩn ASTM B117).
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Xác định thế ăn mòn (Ecorr) từ việc đo đường cong
phân cực
3.1.1. Khảo sát thời gian ngâm mẫu ảnh hưởng đến thế ăn
mòn (Ecorr)
Hình 1. Đường cong phân cực của thép trong dung dịch
khi thay đổi thời gian ngâm (a)không ngâm, (b) 1phút,
(c) 2phút, (d) 3 phút và (e)4 phút. Tốc độ quét thế 10mV/s
Đường cong Tafel thu được trong dung dịch 21g/l
MoO42, 8g/l ZrF6
2, 7g/l TiF62 và pH = 2 với thời gian
ngâm mẫu khác nhau thể hiện trên Hình 1.
Có thể nhận thấy rằng, khi tăng dần thời gian ngâm mẫu
thì dòng ăn mòn đều có xu hướng giảm nhanh chóng và thế
ăn mòn dịch chuyển dần sang phía dương hơn so với thép
không phủ lớp thụ động (Ecorr= 0,65V). Tiếp tục tăng thời
gian ngâm mẫu lên 4 phút thì dòng ăn mòn lại tăng và thế
ăn mòn lại dịch chuyển về phía âm hơn (Ecorr= 0,53V).
Như vậy, tại thời gian ngâm mẫu là 3 phút (Ecorr= 0,33V)
có dòng và thế ăn mòn tốt hơn ngâm mẫu trong 1, 2 và
4 phút (Ecorr= 0,62; 0,47 và 0,53V). Trong môi trường
ăn mòn có chứa các tác nhân gây thụ động nói trên, các
phản ứng có thể xảy ra như sau:
+ Phản ứng anode là phản ứng hòa tan Fe
Fe = Fe2+ + 2e (1)
+ Phản ứng cathode là các phản ứng giải phòng H2, khử
O2 xảy ra đồng thời trên cathode tùy thuộc môi trường
O2 + H2O + 4e = 4OH (2)
2H+ + 2e = H2 (3)
Quá trình hình thành lớp phủ thụ động trên các vùng
cathode tế vi của mẫu thép
Na2MoO4 = 2Na+ + MoO42 (4)
Fe2+ + MoO42 = FeMoO4 (5)
MoO42 + 2FeMoO4 = Fe2(MoO4)3 (6)
ZrF62 + 4OH = ZrO2.2H2O + 6F (7)
TiF62- + 4OH = TiO2.2H2O + 6F (8)
Điều này có thể giải thích rằng, ban đầu Fe hòa tan nhiều,
phản ứng cathode (2) và (3) thuận lợi hơn do lượng electron
cung cấp nhiều, dẫn đến pH cục bộ tăng cao. Nhưng sau một
thời gian, xung quanh bề mặt mẫu thép, Fe2+ trong dung dịch
sẽ bão hòa, có sự cạnh tranh kết tủa giữa Mo, Zr, Ti và Fe
nên việc hình thành màng trên bề mặt sắt bị giảm xuống làm
cho thế ăn mòn chuyển trở lại về phía âm. Do đó, chọn thời
gian ngâm mẫu thích hợp nhất là 3 phút.
3.1.2. Thế ăn mòn (Ecorr) của 27 tổ mẫu trong bài toán quy
hoạch thực nghiệm
Hình 2. Đường cong Tafel của 10 tổ mẫu trong bài toán
quy hoạch thực nghiệm. Tốc độ quét thế 10mV/s
Dựa vào Hình 2, so với thép nền (Ecorr = 0,65V) thì tất
cả lớp phủ ở 27 tổ mẫu thí nghiệm cho thấy thế ăn mòn đều
dịch chuyển về phía dương hơn và đồng thời dòng ăn mòn
cũng giảm xuống đáng kể. Thế ăn mòn tăng nhiều nhất ở tổ
64 Dương Thị Hồng Phấn, Nguyễn Tiến Dũng, Lê Minh Đức, Đào Hùng Cường
mẫu 19 (Ecorr = 0,15V) và tăng ít nhất là tổ mẫu 22
(Ecorr = 0,54V) so với thép nền. Các mẫu còn lại cũng cho
kết quả phù hợp với hướng nghiên cứu khi dòng ăn mòn đều
giảm và thế ăn mòn dịch chuyển về phía dương (Bảng 1).
Bảng 1. Nồng độ các chất, độ pH và thế ăn mòn 27 mẫu
Mẫu MoO42 (g/l) H2TiF6 (g/l) K2ZrF6 (g/l) pH Ecorr (V)
1 14,0 4,0 6,0 3,5 0,39
2 14,0 4,0 6,0 3,5 0,40
3 14,0 4,0 6,0 3,5 0,38
4 7,0 1,0 4,0 2,0 0,30
5 7,0 1,0 4,0 5,0 0,53
6 7,0 1,0 8,0 2,0 0,48
7 7,0 1,0 8,0 5,0 0,26
8 7,0 7,0 4,0 2,0 0,32
9 7,0 7,0 4,0 5,0 0,51
10 7,0 7,0 8,0 2,0 0,29
11 7,0 7,0 8,0 5,0 0,18
12 14,0 1,0 4,0 2,0 0,46
13 14,0 1,0 4,0 5,0 0,34
14 14,0 1,0 8,0 2,0 0,21
15 14,0 1,0 8,0 5,0 0,17
16 14,0 7,0 4,0 2,0 0,50
17 14,0 7,0 4,0 5,0 0,40
18 14,0 7,0 8,0 2,0 0,29
19 14,0 7,0 8,0 5,0 0,15
20 21,0 1,0 4,0 2,0 0,37
21 21,0 1,0 4,0 5,0 0,45
22 21,0 1,0 8,0 2,0 0,54
23 21,0 1,0 8,0 5,0 0,22
24 21,0 7,0 4,0 2,0 0,48
25 21,0 7,0 4,0 5,0 0,25
26 21,0 7,0 8,0 2,0 0,37
27 21,0 7,0 8,0 5,0 0,32
Kết quả nghiên cứu quy hoạch thực nghiệm, cho phép
thiết lập được một phương trình hồi quy thể hiện sự phụ
thuộc Ecorr vào nồng độ và pH của các chất tham gia. Đây
là cơ sở chọn được điều kiện tối ưu để đạt thế ăn mòn cao.
3.2. Kết quả sơ bộ (Bài toán quy hoạch thực nghiệm)
3.2.1. Phương trình hồi quy của 4 yếu tố
Sau khi sử dụng phần mềm Statgraphics plus XVII.2
cho bài toán quy hoạch thực nghiệm 27 mẫu đã cho ra một
phương trình hồi quy:
Trên Hình 3 có thể nhận thấy rằng, việc sử dụng lớp
phủ thụ động Mo/Zr/Ti rất có hiệu quả trong việc chống ăn
mòn khi so sánh với thép nền. Lớp phủ thụ động ở nồng độ
tối ưu MoO42 17g/l, ZrF6
2 8g/l, TiF62 1g/l và pH=5 làm
giảm dòng ăn mòn một cách rõ rệt đồng thời thế ăn mòn
dịch chuyển về phía dương hơn (Ecorr = 0,19V) tăng 0,46V.
Hình 3. Đường cong Tafel của thép nền và thép phủ lớp
thụ động với dung dịch tối ưu. Tốc độ quét thế 10mV/s
Khi nhúng Fe vào dung dịch tối ưu, các phản ứng xảy ra:
H2TiF6 + Fe + 2H2O = TiO2 + Fe2+ + 4H+ + 6F + H2 (9)
Tạo màng kết tủa do xảy ra phản ứng (5) và (6)
Đồng thời, quá trình thủy phân xảy ra càng làm tăng
khả năng tạo màng trên thép đặc biệt khi pH cao sẽ xảy ra
phản ứng (7) và (8).
Fe2(MoO4)3, ZrO2 hoặc/ và TiO2 phát triển tại một số vị
trí tâm trên bề mặt Fe và phát triển thành màng [5, 6, 7, 8].
Theo cơ chế này, có thể xảy ra sự cạnh tranh kết tủa trên
điện cực Fe. Sự kết hợp của thành phần MoO42, ZrF6
2 và
TiF62 cho được màng thụ động có tính chất bảo vệ tốt hơn
màng chứa Ti và Mo [4] hay Zr và Ti [9].
3.2.2. Khảo sát sự phụ thuộc pH vào thế ăn mòn (Ecorr)
a. Đối với từng nguyên tố (Mo, Ti, Zr)
Đường cong Tafel thu được trong các dung dịch có pH
khác nhau được thể hiện;
Hình 5. Đường cong Tafel của a) MoO42, 17g/l; b) K2ZrF6, 8g/l;
c) H2TiF6, 1g/l khi pH thay đổi và d) từng dung dịch và hỗn hợp
dung dịch tối ưu tại pH=5. Tốc độ quét thế 10mV/s
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 65
Đối với MoO42 có nồng độ 17g/l
Có thể nhận thấy, khi giá trị pH của dung dịch chứa
MoO42 tăng lên thì thế ăn mòn cũng tăng theo về phía
dương hơn (0,46V đến 0,2V). Tuy nhiên dòng ăn mòn
tại pH =2 và 3,5 không giảm xuống rõ rệt bằng pH=5. Điều
này càng khẳng định thêm độ tin cậy của phương trình hồi
quy 4 yếu tố khi lựa chọn pH của dung dịch tối ưu.
Đối với K2ZrF6 nồng độ 8g/l
Dựa vào Hình 5b, ta thấy tại pH= 2 có thế ăn mòn
Ecorr= 0,42V, pH= 3,5 thế ăn mòn Ecorr= 0,35V và pH=5
thế ăn mòn Ecorr= 0,31V điều đó cho ta biết được khi pH
tăng lên thì thế ăn mòn cũng tăng lên và đồng thời dòng ăn
mòn của thép cũng giảm xuống.
Đối với H2TiF6 nồng độ 1g/l
Trên Hình 5c cũng cho thấy khi độ pH tăng từ 2 lên 5
thi thế ăn mòn của lớp phủ H2TiF6, 1g/l cũng tăng theo từ
0,3V lên 0,2V (tăng 0,10V). Tuy nhiên, tốc độ dòng ăn
mòn thay đổi không theo thế ăn mòn. Dòng ăn mòn tại
pH=3,5 là lớn nhất và tại pH = 5 là nhỏ nhất. Điều này càng
khẳng đinh, độ pH có ảnh hưởng rất lớn đến các nồng độ
của các dung dịch tối ưu.
b. So sánh đường cong Tafel của từng dung dịch tối
ưu riêng lẻ với hỗn hơp dung dịch Mo/Zr/Ti tại pH=5
Khi so sánh với thép nền thì từng dung dịch MoO42,
17g/l; K2ZrF6, 8g/l; H2TiF6, 1g/l và hỗn hợp dung dịch tối
ưu khi pH=5 thì tất cả các lớp phủ này đều làm giảm tốc độ
ăn mòn một cánh nhanh chóng và thế ăn mòn tăng lên đáng
kể. Lớp phủ thụ động Mo/Zr/Ti có thế ăn mòn lớn nhất khi
so với từng lớp phủ riêng lẻ tại cùng một pH.
3.3. Hình thái học và cấu trúc bề mặt
3.3.1. Kết quả nghiên cứu bằng kỹ thuật XRF
Thép phủ lớp thụ động trong dung dịch tối ưu được
chọn và đem đo XRF để phân tích thành phần nguyên tố
trên lớp nền thép. Kết quả thể hiện trong Bảng 2 cho thấy
Mo/Zr/Ti đều có trên lớp phủ thụ động với hàm lượng khác
nhau, nguyên tố Ti có mặt trên lớp phủ nhiều nhất (71,3%)
và nguyên tố Zr có hàm lượng tương đối nhỏ (1,7%) có thể
chọn chiều dày lớp phủ để quét chưa lớn.
Bảng 2. Thành phần các nguyên tố của lớp phủ thụ động
trên nền thép (chiều dày quét 100µm)
Nguyên tố Hàm lượng (%)
Mo 26,9219
Zr 1,7487
Ti 71,3294
3.3.2. SEM/EDX
Cấu trúc tế vi và thành phần nguyên tố trên bề mặt mẫu
được phân tích trên máy SEM/EDX Jeol JMS 6400. Trên
Hình 6a, 6b với mẫu thép ban đầu, có thể nhìn thấy các rãnh
sâu do quá trình mài cơ học ở trên bề mặt và chỉ peak thành
phần nguyên tố Fe và Si trên mẫu này.
Cấu trúc màng thụ động khá đặc biệt so với ban đầu,
nhìn thấy nhiều cấu trúc hạt nhỏ trên bề mặt (Hình 6c). Các
vết rãnh sâu do đánh bóng bề mặt mất hẳn. Trong quá trình
tạo màng thụ động ở pH= 5, các hợp chất muối của
FexMoyOz và oxit của Zr, Ti được tạo thành trên bề mặt
thép dựa vào cơ sở ban đầu là sự có mặt của các peak của
các nguyên tố Mo, Zr, Ti, Fe và O (Hình 6d).
Hình 6. SEM/EDX của bề mặt thép trước (a, b)
và sau (c, d) khi thụ động trong dung dịch chứa Mo/Zr/Ti
Nhìn vào kết quả EDX (Bảng 3, vị trí 1 và 2 tương ứng
trong Hình 6c), ở vùng 2 đã hiển thị rõ 3 thành phần Mo
(0,57% tính theo khối lượng), Zr (0,16%), Ti (0,05%).
Nhưng vùng 1 chỉ nhìn thấy thành phần Mo (0,89%),
Ti (0,19%). Peak của Zr không thể hiện, có thể do cường
độ của các peak Fe, Mo, C, O quá mạnh nên che khuất hoặc
lượng Zr có thể tham gia lớp phủ khá nhỏ ở vùng này.
Lớp phủ thụ động trên nền thép chủ yếu là các oxit của
Zr, Ti và muối của Mo. Sự có mặt của Fe2+ trong lớp phủ
thụ động có thể tạo nên hợp chất phức MoxZryTizOt, tạo nên
tính bảo vệ cho nền thép [5, 10, 11].
Bảng 3. Thành phần nguyên tố trên vùng 1 và 2
của bề mặt Fe sau khi thụ động
Nguyên tố %khối lượng
Vùng 1 Vùng 2
C 5,33 4,12
O 37,85 39,15
Mo 0,89 0,57
Zr 0,00 0,16
Ti 0,19 0,05
Fe 55,74 55,95
Tổng 100,00 100,00
3.4. Tính kháng ăn mòn
Khả năng chống ăn mòn của lớp phủ thụ động trên nền
thép thể hiện qua phép đo mù sương muối. Mẫu thép nền
và thép có phủ lớp thụ động có kích thước (100 x 50 x 1)
mm được đưa vào thiết bị phun muối SAM-Y90 ở dạng
sương theo dõi thời gian bắt đầu và kết thúc ăn mòn.
Kết quả cho thấy mẫu thép nền sau 1 giờ đặt vào thiết
bị thì toàn bộ bề mặt tấm thép đã phá hủy. Mẫu thép có phủ
lớp thụ động bị phá hủy hoàn toàn bề mặt sau 4 giờ đặt
mẫu. Như vậy việc phủ lớp thụ động lên thép làm chậm đi
thời gian phá hoại, do đó việc bảo vệ thép sẽ tốt hơn.
4. Kết luận
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã xác định được chế
độ tạo lớp màng thụ động trên nền thép bằng một phương
pháp đơn giản, dễ thực hiện nhúng mẫu thép vào dung
66 Dương Thị Hồng Phấn, Nguyễn Tiến Dũng, Lê Minh Đức, Đào Hùng Cường
dịch thụ động trong 3 phút. Dung dịch gồm 17g/l
Na2MoO4, 8g/l K2ZrF6, 1g/lH2TiF6; pH = 5.
Bằng phép đo điện hóa (đường cong phân cực, đường
Tafel) cho thấy màng thụ động có hiệu quả trong việc nâng
cao chống ăn mòn cho nền thép thể hiện qua: giảm dòng ăn
mòn, chuyển thế điện cực về phía dương hơn.
Các ảnh chụp SEM/EDX cho thấy cấu trúc khá đặc biệt
của lớp thụ động và xác định thành phần nguyên tố thể hiện
sự có mặt của Mo/Zr/Ti trên nền thép. Tuy nhiên có vùng
chưa hiện được rõ sự có mặt Zr, có thể do hàm lượng Zr
thấp, các peak của các nguyên tố khác mạnh hơn đã che
chắn nên không thể hiện rõ.
Khả năng chống ăn mòn của lớp phủ thụ động trên nền
thép thể hiện qua độ mù sương muối có thời gian ăn mòn
lâu hơn gấp 4 lần với thép nền trơ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Trịnh Xuân Sén, Ăn mòn và Bảo vệ kim loại, NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội, 2006. [2] Vale´ rie Sauvant-Moynot, Serge Gonzalez, Jean Kittel, Self-healing
coatings: An alternative route for anticorrosion protection, Progress
in Organic Coatings 63 (2008) 307–315.
[1] D. Heller, W. Fahrenholtz, M.J. O’Keefe, Effect of phosphate source
on the posttreatment and corrosion performance of cerium based conversion coatings on Al 2024-T3, J. Electrochem. Soc. 156 (11)
(2009) C400.
[3] Le Minh Duc, Nguyen Thi Huong, Duong Thi Hong Phan, Vu Quoc
Trung, Dao Hung Cuong, “Improve the corrosion resisitance Ti, Mo”, Tạp chí KH và CN, Viện Hàn lâm Khoa học và Công Nghệ Việt Nam,
Tập 53-Số 4A, 80-86, 2015 (2nd International Workshop on Corrosion
and Protection of Materials 26-29 October 2015, Ha Noi, Viet Nam). [4] R. Mohammad Hosseini, A.A. Sarabi, H. Eivaz Mohammadloo, M.
Sarayloo, “The performance improvement of Zr conversion coating
through Mn incorporation: With and without organic coating”,
Surface & Coatings Technolagy 258 (2014) 437446.
[5] G. Yoganandan, K. Pradeep Premkumar, J.N. Balaraju, “Evaluation
of corrosion resistance and self-healing behavior of zirconium–cerium conversion coating developed on AA2024 alloy”, Surface &
Coatings Technology 270 (2015) 249–258.
[6] H. Vakili, B. Ramezanzadeh, R. Amini, “The corrosion performance and adhesion properties of the epoxy coating applied on the steel
substrates treated by cerium-based conversioncoatings”, Corrosion Science 94 (2015) 466–475.
[7] Konrad Tarka, Thesis for the degree of licentiate of engineering,
Corrosion of painted galvanized steel pretreated with Zr-based thin films,
Chalmers university of technology, Gothenburg, Sweden 2015.
[8] Lê Minh Đức, Nâng cao khả năng chống ăn mòn của lớp phủ hữu cơ
bằng lớp biến tính Zr, Ti, Tạp chí Khoa học và Công nghệ - Đại học Đà Nẵng, Số 1(110).2017, 29, 2017.
[9] O. Lunder, C. Simensen, Y. Yu and K. Nisancioglu, “Formation and
characterisation of Ti – Zr based conversion layers on AA6060 aluminium”, Surf. Coatings Technol., vol.184, pp. 278–290, 2004.
[10] S. Adhikari, K. A. Unocic, Y. Zhai, G. S. Frankel, J. Zimmerman,
and W. Fristad, “Hexafluorozirconic acid based surface pretreatments: Characterization and performance assessment”,
Electrochim. Acta, vol. 56, no. 4, pp. 1912–1924, 2011.
(BBT nhận bài: 18/05/2017, hoàn tất thủ tục phản biện: 07/06/2017)
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 67
QUẢN LÝ NƯỚC THẢI KHU CÔNG NGHIỆP DỊCH VỤ THỦY SẢN ĐÀ NẴNG:
HIỆN TRẠNG VÀ TRỞ NGẠI
WASTEWATER MANAGEMENT IN DANANG’S INDUSTRIAL FISHING SERVICE ZONE:
CURRENT STATE AND OBSTACLES
Trần Văn Quang1, Phan Thị Kim Thủy1, Trịnh Vũ Long2, Hoàng Ngọc Ân1 1Trường Đại học Bách khoa - Đại học Đà Nẵng; [email protected], [email protected], [email protected]
2Công ty Thoát nước và Xử lý nước thải Đà Nẵng; [email protected]
Tóm tắt - Quản lý nước thải khu công nghiệp (KCN) dịch vụ thủy sản Đà Nãng gặp nhiều khó khăn do nước thải từ quá trình chế biến thủy sản có nồng độ các chất ô nhiễm cao, chế độ thải không ổn định và quản lý hạ tầng kỹ thuật đô thị còn nhiều hạn chế. Nghiên cứu hiện trạng quản lý nước thải KCN cho kết quả: các nhà máy đã xây dựng hệ thống xử lý nước thải với công nghệ áp dụng phù hợp, quản lý vận hành thiếu hiệu quả, dẫn đến sự quá tải của trạm xử lý tập trung, gây ô nhiễm môi trường. Các nguyên nhân và trở ngại bao gồm: năng lực quản lý vận hành chưa đáp ứng được yêu cầu, thiếu công cụ và thiết bị hỗ trợ; chính quyền đô thị chưa có giải pháp quản lý bền vững bùn thải. Để quản lý bền vững nước thải KCN, phải triển khai quy hoạch bùn thải, tăng cường năng lực cho người vận hành và áp dụng biện pháp kỹ thuật phù hợp, ổn định quá trình xử lý sinh học.
Abstract - Wastewater management in Danang’s industrial fishing service zones has had several difficulties due to waste water from seafood processing having high concentration of pollutants, unstable waste discharge and limited urban insfrastructure management. Research on the current state of wastewater management in industrial zones shows that: factories there have built wastewater treatment plants themselves with the proper technology, but inefficient operating management has led to overload in wastewater treatment plants of industrial zones and causes pollution. Causes and obstacles include: operating management not up to standard, lack of supporting tools and lack of sustaintable solutions to sludge management from the local government. To manage wastewater in industrial zones sustaintably, it is needed to develop sludge zoning, improve the operators’ knowledge and adopt suitable technology to stabilize the biological treatment process.
Từ khóa - chế biến thủy sản; khu công nghiệp; nước thải; quản lý nước thải; quản lý bùn thải.
Key words - seafood processing; industrial zone; wastewater; wastewater management; sludge management.
1. Đặt vấn đề
Ngành thủy sản Việt Nam đóng góp 4% GDP, 8% giá
trị xuất khẩu, 9% việc làm cho người lao động của cả nước
và là ngành chủ lực trong phát triển kinh tế xã hội khu vực
các tỉnh ven biển Miền Trung. Cùng với những đóng góp
cho phát triển, ngành chế biến thủy sản (CBTS) cũng là
một trong những ngành gây ô nhiễm nghiêm trọng đến môi
trường do lượng và thành phần các chất ô nhiễm trong nước
thải phức tạp, thay đổi theo mùa, phụ thuộc vào nguyên
liệu, sản phẩm chế biến [1, 2].
Với thành phần các chất ô nhiễm chủ yếu là các hợp
chất hữu cơ dễ phân hủy và giàu dinh dưỡng, phương pháp
xử lý sinh học là phương pháp xử lý có hiệu quả cao trong
việc kiểm soát ô nhiễm nước thải từ quá trình chế biến thủy
sản. Các phương pháp sinh học thường được áp dụng:
(1) quá trình kỵ khí, thiếu khí và hiếu khí như bể UASB, bể
bùn hoạt tính lơ lửng hiếu khí (Activated Sludge) và bể
thiếu khí (Anoxic); (2) xử lý sinh học hiếu khí như bể bùn
hoạt tính lơ lửng hiếu khí (Activated Sludge) và bể thiếu
khí (Anoxic); (3) mương oxy hóa tuần hoàn. Để quá trình
xử lý sinh học có hiệu quả, lượng dầu và mỡ phải được loại
bỏ triệt để, các công nghệ áp dụng trong bước tiền xử lý
bao gồm: (1) mương tách mỡ và bể tuyển nổi áp lực;
(2) kết hợp quá trình keo tụ/ tạo bông và tuyển nổi áp lực/
siêu nông; (3) lắng keo tụ/ lắng. Quá trình xử lý bậc III,
các phương pháp áp dụng bao gồm: (1) khử trùng; (2) lọc
áp lực và khử trùng hoặc keo tụ/ lắng và khử trùng. Tùy
thuộc vào nguồn tiếp nhận nước thải cột B hay A, QCVN
11-MT: 2015/BTNMT mà hệ thống xử lý nước thải
(XLNT) không hoặc cần phải có các bước tiền xử lý hay
quá trình xử lý bậc III. Bùn phát sinh từ hệ thống XLNT có
thể tái sử dụng làm compost [3].
Các hoạt động CBTS ở Đà Nẵng được tập trung ở khu
công nghiệp dịch vụ thủy sản (KCN DVTS) Đà Nẵng với
19 doanh nghiệp đang hoạt động. Nước thải sản xuất được
yêu cầu xử lý sơ bộ hoặc triệt để với nồng độ chất hữu cơ
theo COD phải nhỏ hơn 1.500 mg/l trước khi đấu nối vào
hệ thống thu gom và đưa về trạm xử lý tập trung của KCN
tiếp tục được xử lý đạt cột B trước khi thải vào nguồn tiếp
nhận là âu thuyền Thọ Quang [4].
Trạm XLNT tập trung KCN DVTS Đà Nẵng được xây
dựng từ năm 2009, công suất thiết kế 2.500m3/ngđ.. Với
công nghệ xử lý áp dụng bao gồm: (1) xử lý cơ học kết hợp
với gạn chất nổi; (2) sinh hóa 3 bậc: kỵ khí, thiếu khí và
hiếu khí và (3) khử trùng. Mặc dù tất cả các nhà máy, trạm
XLNT tập trung đã có rất nhiều cố gắng trong việc cải tạo
để nâng cao hiệu suất xử lý nhưng chất lượng nước sau xử
lý vẫn còn thiếu ổn định, nhiều thời điểm vượt quy chuẩn
cho phép và gây ảnh hưởng đến chất lượng môi trường khu
vực xung quanh.
Trong 5 năm gần đây, Ban quản lý các KCN và chế
xuất, Sở Tài nguyên Môi trường đã lồng ghép các chương
trình quốc gia với sự tài trợ của các tổ chức quốc tế thực
hiện các nghiên cứu triển khai đánh giá và tìm kiếm các
giải pháp, biện pháp giải quyết vấn đề. Các kết quả cụ thể:
Dự án VPEG, sự quá tải là do các trạm XLNT của các
nhà máy và trạm XLNT tập trung không đạt yêu cầu, kiến
nghị tạm ngừng cấp phép nâng công suất và đầu tư mới vào
KCN để kiểm soát lượng nước thải đưa về trạm XLNT tập
trung, các nhà máy cần hiệu chỉnh chế độ vận hành - nâng
cấp trạm XLNT để tránh quá tải [5].
Nghiên cứu tiền khả thi của RVO, các quá trình tiền xử
lý tại các nhà máy có công suất xả thải trên 500m3/ngđ.
68 Trần Văn Quang, Phan Thị Kim Thủy, Trịnh Vũ Long, Hoàng Ngọc Ân
không được tối ưu hóa và vận hành ở chế độ tự động. Các
công trình xử lý không được quản lý vận hành trong điều
kiện phù hợp, dẫn đến hiệu suất chuyển hóa các chất hữu
cơ thấp. Các đề xuất giải quyết vấn đề: tất cả các trạm
XLNT phải cải tiến bổ sung, tối ưu hóa quá trình xử lý và
để cải thiện quá trình cần có sự hướng dẫn và đào tạo cho
người vận hành. Các đề xuất cho các nhà máy: thay thế
thiết bị tuyển nổi, tăng thể tích bể Aeroten, tối ưu hóa và tự
động hóa quá trình vận hành. Chi phí để thực hiện các biện
pháp cải tạo và nâng cấp hệ thống XLNT dao động trong
khoảng từ 80 đến 220 ngàn EUR tùy thuộc điều kiện cụ thể
của từng nhà máy [6].
Trình diễn của KANSO, tại nhà máy đồ hộp Hạ Long,
để chống quá tải cho bể Aeroten, biện pháp nâng cao tải
trọng của bể Aeroten bằng vật liệu PVAGel với tỷ lệ thể
tích 20%, đảm bảo duy trì hiệu suất xử lý chất hữu cơ đến
90% và cho chất lượng nước sau xử lý có COD luôn nhỏ
hơn 300mg/l. Chi phí đề xuất cải tạo cho nhà máy là
3,1 triệu Yên và giá 1m3 đệm PVA là 40 ngàn Yên [7].
Từ các tài liệu kỹ thuật hướng dẫn chuyên ngành của
FAO [2], Tổng cục Môi trường [1] và các nghiên cứu trong
và ngoài nước [2 ,4, 5, 6, 7, 8, 9] có liên quan cho thấy:
công nghệ XLNT đã và đang áp dụng tại các nhà máy trong
KCN và trạm XLNT tập trung là phù hợp, cho chất lượng
nước sau xử lý có thể đạt được cột B, QCVN 11-MT:
2015/BTNMT. Nhưng thực tế là ngược lại, mặc dù được
xử lý hai lần bằng công nghệ phù hợp, nhưng chất lượng
nước sau xử lý vẫn không đáp ứng được yêu cầu cột B của
quy chuẩn. Như vậy, việc xác định rõ nguyên nhân, cụ thể
hóa các vấn đề tồn tại và trở ngại trong quản lý nước thải,
từ đó đề xuất các giải pháp quản lý và biện pháp kỹ thuật
là rất cần thiết không những về mặt môi trường mà còn góp
phần giúp các nhà máy trong KCN hoạt động ổn định và
phát triển sản xuất.
Nội dung bài báo là một phần kết quả nghiên cứu của
đề tài “Đánh giá các trở ngại và đề xuất biện pháp nâng
cao hiệu quả quản lý nước thải cho khu công nghiệp dịch
vụ thủy sản Đà Nẵng” do Trung tâm Nghiên cứu Bảo vệ
Môi trường (EPRC), Trường Đại học Bách khoa - Đại học
Đà Nẵng thực hiện với nguồn kinh phí từ Sở Khoa học và
Công nghệ thành phố Đà Nẵng.
2. Đối tượng, nội dung và phương pháp
2.1. Đối tượng
Nghiên cứu tập trung vào các đối tượng: nước thải, hệ
thống XLNT và hoạt động quản lý nước thải của các nhà máy
trong KCN. Các nhà máy điển hình được xem xét và đánh giá
chi tiết là: Bắc Đẩu, Hải Thanh, Danifood, Thủy sản Thuận
Phước và Đồ hộp Hạ Long. Vị trí các nhà máy và trạm XLNT
tập trung trong phạm vi KCN được trình bày tại Hình 1.
Hình 1. Vị trí các nhà máy trong phạm vi khu công nghiệp dịch vụ thủy sản Đà Nẵng
2.2. Nội dung
Thu thập tài liệu, số liệu thứ cấp và các thông tin sơ cấp
bằng các phiếu điều tra và phỏng vấn trực tiếp các người
quản lý, công nhân trực tiếp vận hành trạm XLNT của các
nhà máy. Các thông tin thu thập bao gồm: hệ thống thu gom
và xử lý nước thải, bùn thải; công nghệ XLNT áp dụng,
nhận thức và năng lực quản lý vận hành.
Từ các thông tin thu thập được, kế hoạch khảo sát, thu
thập số liệu bổ sung được thiết lập, triển khai quan trắc,
đánh giá công nghệ áp dụng và hiệu quả xử lý của nó tại
các nhà máy lựa chọn. Quá trình quan trắc được tiến hành
5 đợt/trạm với các thông số chất lượng nước: pH, TSS,
BOD5, COD, N-NH4, T-N, T-P và dầu mỡ trong khoảng
thời gian từ tháng 01/2016 đến tháng 01/2017.
Từ các số liệu quan trắc, các thông tin sơ cấp và thứ cấp
có được, xử lý số liệu và kiểm chứng độ tin cậy, đánh giá
hiện trạng, phân tích làm rõ các nguyên nhân và trở ngại
trong quản lý nước thải của các nhà máy trong KCN.
2.3. Phương pháp
Phương pháp thống kê, kết hợp với việc kiểm chứng và
hiệu chỉnh bằng các số liệu khảo sát bổ sung, được sử dụng
trong quá trình thu thập và xử lý các số liệu, tài liệu và các
thông tin liên quan đến các hoạt động sản xuất, quản lý và
vận hành các trạm XLNT của các nhà máy.
Phương pháp quan trắc và phân tích chất lượng nước,
được thực hiện theo các quy trình tiêu chuẩn với các thiết
bị đo, lấy mẫu và phân tích các thông số chất lượng nước
theo các tiêu chuẩn, quy chuẩn của quản lý nhà nước.
Phương pháp phân tích và đánh giá, hiệu quả xử lý của
các quá trình công nghệ, dựa trên cơ sở so sánh các thông
DANIF
OOD
ghi chó:
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 69
số tính toán với các giá trị tương ứng trong tiêu chuẩn
ngành [10] và sổ tay kỹ thuật [1]. Khả năng đáp ứng yêu
cầu xả thải được đánh giá theo quy định của quản lý nhà
nước tại địa phương và QCVN tương ứng [11].
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Nguồn phát sinh và thành phần nước thải
3.1.1. Nguồn và lượng nước thải
Khu công nghiệp DVTS Đà Nẵng có 19 nhà máy,
doanh nghiệp đang hoạt động. Nước thải từ các hoạt động
của nhà máy bao gồm: nước thải sinh hoạt và nước thải từ
quá trình chế biến sản phẩm. Nguồn và lượng thải phát sinh
từ các nhà máy phụ thuộc vào công suất, loại sản phẩm chế
biến và mùa vụ đánh bắt hải sản. Lượng nước thải sản xuất
trong năm 2016 thống kê và khảo sát được trình ở Bảng 1.
Bảng 1. Lượng nước thải lớn nhất, trung bình và sản phẩm
chế biến của các nhà máy trong KCN
Tt Nhà máy Sản phẩm
Nước thải (m3/ngày)
Lớn nhất Trung
bình
1 Thuận Phước Tôm 1.120 378
2 Danifoods Cá Fillet, Surimi 793 361
3 Bắc Đẩu Cá Fillet, Surimi 936 461
4 Hải Thanh Cá Fillet, Surimi 714 317
5 Đồ hộp Hạ Long Cá Ngừ đóng hộp 264 85
6 NMCBTS còn lại Cá Fillet 1.096 560
Tổng lượng nước thải 3.452 2.202
Lượng nước thải phát sinh từ các nhà máy có sự khác
biệt lớn giữa sản phẩm cá Fillet và Surimi (chả cá), lượng
nước thải trung bình từ quá trình chế biến Surimi chiếm
50%, Tôm 17,2% và lượng nước thải từ 4 nhà máy có công
suất lớn: Thuận Phước, Danifoods, Bắc Đẩu và Hải Thanh
chiếm gần 70% tổng lượng nước thải. Trong năm 2016,
lượng nước thải của các nhà máy thay đổi theo mùa và loại
sản phẩm trong ngày, lượng thải ngày lớn nhất, gấp 2 đến
4 lần so với giá trị trung bình và lượng nước thải lớn nhất
có thể phát sinh của các nhà máy trong KCN là
3.452m3/ngày (gấp 1,57 lần so với giá trị trung bình).
3.1.2. Thành phần và nồng độ các chất ô nhiễm
Các số liệu khảo sát về thành phần nước thải từ quá
trình chế biến các loại sản phẩm của các nhà máy trong
KCN được trình bày trong Bảng 2.
Nồng độ các chất ô nhiễm trong nước thải: các chất lơ
lửng (TSS), trong nước thải từ quá trình CBTS đều có giá
trị cao, giá trị trung bình xấp xỉ và lớn hơn 1.000mg/l. Thấp
nhất là nước thải từ quá trình chế biến tôm đông lạnh và
lớn nhất là từ quá trình chế biến surimi với giá trị cao nhất
khoảng 4.000mg/l và trung bình 2.700mg/l. Tương tự với
chất hữu cơ, giá trị BOD5 và COD từ quá trình chế biến sản
phẩm cá fillet là 1.000 và 1.500mg/l, cao nhất là nước thải
từ quá trình chế biến surimi 3.500 và 4.500mg/l. Nồng độ
các chất dinh dưỡng (N,P) cao và tăng dần từ sản phẩm cá
Fillet, Tôm, cá Ngừ đóng hộp và Surimi. Nồng độ dầu và
mỡ trong nước thải từ quá trình chế biến cá Ngừ đóng hộp
và Surimi là đặc biệt cao, trung bình là 1.305mg/l và
899,9mg/l. So sánh kết quả có được với các số liệu thống
kê trong sổ tay chuyên ngành [1] cho thấy, kết quả phân
tích là hợp lý và phù hợp với đặc điểm nước thải của quá
trình chế biến thủy sản.
Với thành phần các chất ô nhiễm chủ yếu là các chất
hữu cơ dễ phân hủy sinh học và dinh dưỡng cao, khoảng
dao động rộng và dầu mỡ nhiều, để kiểm soát tốt và ổn định
vấn đề ô nhiễm, các nhà máy cần phải áp dụng công nghệ
XLNT phù hợp với lượng và thành phần các chất ô nhiễm
cũng như đủ năng lực quản lý vận hành hệ thống, đáp ứng
yêu cầu của Ban Quản lý và QCVN tương ứng.
Bảng 2. Tính chất, thành phần nước thải từ quá trình chế biến các loại sản phẩm của các nhà máy trong KCN
Thông số Khoảng dao động (Trung bình)
Cá fillet Surimi Cá Ngừ đóng hộp Tôm đông lạnh
pH 7 – 7,4 (7,2) 6,8 – 7,5 (7,2) 6 – 6,7 (6,3) 6,8 – 7,1 (6,9)
TSS, mg/l 1.108 – 2.232 (1.644) 2.056 – 3.992 (2.707) 2.085 - 2.806 (2120,5) 122 – 1.676 (904)
BOD5, mg/l 584,3 – 2.203,6 (1.306,9) 2.158,8 – 4.796,1 (3.247,6) 2.314 - 2.813 (2430,2) 481,7 – 2.216,8 (1.557)
COD, mg/l 664 – 2.476 (1.526) 3.104 – 6.570 (4.544) 3.320 –3.980 (3.435,8) 669 – 3.260 (2.237)
N-NH4, mg/l 65,7 – 235,6 (140) 110 – 306 (212) 140 – 245,5 (198,8) 120 – 165 (137)
T-N, mg/l 182,1 – 398,6 (272) 196,4 – 476,3 (365) 175 -323 (275,7) 210 – 231 (218)
T-P, mg/l 12,77 – 25,18 (18,5) 18,1 – 101,4 (48,2) 31,1 - 83,5 (40,5) 25,85 – 32,59 (30,1)
Dầu mỡ, mg/l 90 – 402 (234,8) 532,5 – 1.443,3 (899,9) 522 – 2610 (1.305) 59 – 133 (96,8)
3.2. Quản lý nước thải tại các nhà máy trong KCN
3.2.1. Công nghệ áp dụng và chất lượng nước thải sau xử lý
Tất cả các nhà máy trong KCN đều xây dựng hệ thống
thoát nước mưa và nước thải riêng, nước thải sản xuất có
nồng độ các chất ô nhiễm cao, được thu gom đưa về trạm
XLNT, nước sau xử lý được thải ra hệ thống thu gom nước
thải của KCN và đưa về trạm XLNT tập trung.
Các phương pháp xử lý nước thải được các nhà máy lựa
chọn và áp dụng bao gồm: phương pháp cơ học với các quá
trình: lọc mảnh vụn thịt cá, gạn/ tuyển nổi hoặc keo tụ -
lắng, tách các chất không tan có kích thước, dầu, mỡ và
chất béo. Phương pháp sinh học với quá trình sinh hóa
trong điều kiện: kỵ khí, phân hủy các mảnh vụn nhỏ thịt cá
thành dạng phân tán nhỏ; quá trình thiếu khí, khử Nitơ và
hiếu khí chuyển hóa các chất hữu cơ ở dạng hòa tan, phân
tán nhỏ; và khử trùng. Thống kê về công nghệ XLNT và
xử lý bùn cặn áp dụng tại các nhà máy trong KCN DVTS
Đà Nẵng, trình bày tại Bảng 3.
70 Trần Văn Quang, Phan Thị Kim Thủy, Trịnh Vũ Long, Hoàng Ngọc Ân
Bảng 3. Công nghệ xử lý nước thải và bùn cặn áp dụng tại các nhà máy trong KCN DVTS Đà Nẵng
TT Nhà máy Công nghệ xử lý nước thải Công nghệ xử lý bùn cặn
1 Thuận Phước Nước thải Lưới lọc Kỵ khí (UASB) Aeroten Lắng
Keo tụ Lắng Khử trùng Hệ thống thu gom
Bùn, cặn Bể nén Máy ép Vận
chuyển
2 Danifoods Nước thải Lưới lọc Keo tụ Lắng Tuyển nổi áp lực
Aeroten (SBR) Hệ thống thu gom (HTTG)
Bùn, cặn Bể chứa phân hủy Vận
chuyển
3 Bắc Đẩu Nước thải Lưới lọc, gạn mỡ Keo tụ Tuyển nổi Kỵ khí
(UASB) Thiếu khí Aeroten Lắng HTTG.
Bùn cặn Bể chứa phân hủy Máy
ép Vận chuyển.
4 Hải Thanh Nước thải Lưới lọc, gạn mỡ Keo tụ Lắng Kỵ khí (UASB)
Aeroten Lắng HTTG.
Bùn, cặn Bể chứa phân hủy Máy
ép Vận chuyển.
5 Đồ hộp Hạ Long Nước thải Song chắn rác Aeroten Lắng HTTG. Bùn Bể phân hủy Vận chuyển
6 Các NMCBTS
khác trong KCN
Nước thải Song chắn rác Điều hòa kết hợp với phân hủy kỵ
khí Aeroten Lắng HTTG
Bùn Bể phân hủy Vận chuyển
Với nước thải từ quá trình chế biến Surimi có TSS, chất
hữu cơ và dầu mỡ cao, các nhà máy Danifoods, Bắc Đẩu
và Hải Thanh áp dụng quá trình keo tụ/ lắng và tuyển nổi
áp lực/ tuyển nổi siêu nông kết hợp keo tụ để tách các chất
lơ lửng và dầu mỡ, đảm bảo cho quá trình xử lý sinh học
tiếp theo ổn định. Các nhà máy còn lại, với nồng độ TSS
thấp, quá trình xử lý lựa chọn: quá trình kỵ khí phân hủy
các chất hữu cơ dạng lơ lửng thành dạng hòa tan và phân
tán nhỏ, tiếp theo là quá trình hiếu khí chuyển hóa và tách
các chất hữu cơ, chất dinh dưỡng.
Theo các tài liệu chuyên ngành và thực tiễn, công nghệ
XLNT áp dụng là phù hợp, đáp ứng yêu cầu cột B của
QCVN. Riêng nhà máy Đồ hộp Hạ Long, có nồng độ dầu
mỡ cao, việc tách bằng biện pháp gạn thủ công sẽ gặp nhiều
khó khăn trong việc duy trì hoạt động bể Aeroten.
Về xử lý bùn, cặn từ quá trình xử lý cơ học và bùn hoạt tính
dư từ quá trình sinh học, quá trình xử lý được áp dụng: nén, keo
tụ bằng polymer và ép (các nhà máy lớn); chứa kết hợp phân
huỷ kỵ khí (các nhà máy nhỏ), và khi đầy thuê Công ty Cổ phần
Môi trường Đô thị vận chuyển xử lý chung với phân bùn bể
phốt tại bãi chôn lấp rác Khánh Sơn. Hiện tại, vấn đề ô nhiễm
nước rỉ rác tại bãi chôn lấp đã trở nên nghiêm trọng, việc duy trì
dịch vụ này không được thường xuyên và đây là một trở ngại
lớn đến quá trình vận hành trạm XLNT của các nhà máy.
Các số liệu thống kê về giá trị COD của nước sau xử lý
tại điểm đấu nối vào hệ thống thu gom nước thải của KCN
cho kết quả: nhà máy Thuận Phước, 35/35 mẫu đạt cột B
(150mg/l), trong đó có 21/35 mẫu đạt cột A, QCVN
11:2015/BTNMT; Danifoods, 29/42 mẫu nhỏ hơn
300mg/l, trong đó 23 mẫu đạt cột B, mẫu có giá trị lớn nhất
là 730mg/l; nhà máy Bắc Đẩu, 4/37 mẫu đạt B và 35/37
trong khoảng từ 300 đến 1.500mg/l (mức quy định tối đa
của Ban Quản lý KCN [4]), lớn nhất là 1.994mg/l; Hải
Thanh, 18/39 mẫu đạt B, 29/39 trong khoảng 300 đến
1.500mg/l và lớn nhất 1.696mg/l; Đồ hộp Hạ Long, 2/25
mẫu đạt B và 4/25 mẫu lớn hơn 1.500mg/l và lớn nhất
4.611mg/l; Các nhà máy khác: nhà máy Sơn Trà, 9/11 mẫu
đạt cột B và 2/11 mẫu nhỏ hơn 300mg/l, còn lại phần lớn
không đáp ứng được cột B và tỷ lệ số mẫu vượt giá trị mức
quy định cho phép là khoảng 7 đến 20%.
Kết quả thống kê và khảo sát cho thấy, mặc dù công
nghệ xử lý áp dụng là phù hợp, nhưng chỉ có nhà máy
Thuận Phước, Danifoods và Sơn Trà có chất lượng nước
sau xử lý ổn định và đáp ứng được yêu cầu của Ban Quản
lý KCN. Các nhà máy còn lại, hiệu suất xử lý không ổn
định và ở nhiều thời điểm hiệu suất rất thấp, nồng độ các
chất ô nhiễm trong nước sau xử lý còn cao hơn giá trị trước
xử lý và đây là một trong những nguyên nhân gây trở ngại
đến quản lý vận hành trạm xử lý tập trung.
3.2.2. Quản lý vận hành và chi phí xử lý
Tất cả các nhà máy đều có bộ phận chuyên trách hoặc
kiêm nhiệm, chịu trách nhiệm về vấn đề môi trường và vận
hành trạm XLNT, tổ chức và số lượng người quản lý, vận
hành phụ thuộc vào quy mô sản xuất (lượng nước thải) và
sự quan tâm của người chủ doanh nghiệp. Các nhà máy có
lượng nước thải trên 300m3/ngđ. có bộ phận quản lý
chuyên trách và đủ nhân lực vận hành liên tục. Các nhà
máy có lượng thải ít, việc quản lý và vận hành thường là
do tổ Cơ – Điện kiêm nhiệm.
Về năng lực, các nhà máy Thuận Phước, Danifoods,
thủy sản Miền Trung và Thủy sản Sơn Trà, người quản lý
hoặc vận hành được đào tạo kiến thức chuyên môn về kỹ
thuật và công nghệ XLNT. Các nhà máy Hải Thanh và Bắc
Đẩu có người phụ trách và công nhân vận hành theo ca. Đồ
hộp Hạ Long và các nhà máy còn lại quản lý dạng kiêm
nhiệm và vận hành hệ thống theo kinh nghiệm tích lũy
được trong quá trình làm việc và trên cơ sở các hướng dẫn
ban đầu của tư vấn chuyển giao.
Tùy thuộc vào công nghệ xử lý, tổ chức quản lý vận
hành, chi phí trực tiếp (điện và hóa chất) cho việc xử lý dao
động trong khoảng từ 1.300 - 12.200 đồng/m3 nước thải.
Chi phí xử lý từ cao đến thấp được xếp theo thứ tự: Thủy
sản Thuận Phước, Danifoods, Hải Thanh, Bắc Đẩu, Đồ hộp
Hạ Long và các nhà máy chế biến cá Fillet.
So với các nhà máy CBTS có công suất, sản phẩm chế
biến và công nghệ xử lý áp dụng tương tự ở khu vực phía
Nam, mức chi phí như vậy là hợp lý. Tuy nhiên, do chất
lượng nước sau xử lý không ổn định và chưa đáp ứng được
các yêu cầu xả thải, các nhà máy đều phải trả phí xử lý cho
việc vận hành trạm xử lý tập trung của KCN với mức phí:
3.636 đồng (COD đạt cột B) và 8.600 đồng/m3 (COD 500-
1.500mg/l). Nếu lớn hơn sẽ cắt giảm lượng thải và không
cho phép xả thải nếu COD lớn hơn 3.000mg/l.
Với mức quy định về phí xả thải của Ban quản lý, các
nhà máy trong KCN phải trả phí cao hơn từ 3 đến 5 nghìn
đồng/m3 so với các nhà máy hoạt động trong các KCN
tương tự, làm tăng chi phí cho các nhà máy quản lý hệ
thống xử lý tốt (Thủy sản Thuận Phước) và không khuyến
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 71
khích được các nhà máy cải tiến quy trình vận hành, đảm
bảo xử lý ổn định, tránh quá tải cho trạm tập trung. Ngoài
ra, việc phải trả phí cao, không cho phép xả nước thải và
ngừng cấp giấy phép đầu tư mới, nâng công suất chế biến
sản phẩm, đã có những ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất
kinh doanh của các nhà máy và phát triển kinh kế xã hội.
3.3. Các trở ngại trong quản lý nước thải
3.3.1. Các trở ngại do các yếu tố khách quan
Các số liệu về lượng nước thải theo tháng trong các năm
2014, 2015, 2016 và theo ngày trong các tháng lớn nhất và
nhỏ nhất của các nhà máy được thống kê và trình bày ở
Hình 4.
Hình 4. Tổng hợp số liệu lưu lượng nước thải tại các doanh nghiệp điển hình trong KCN:
(a) Danifoods, (b) Bắc Đẩu, (c) Hải Thanh và (d) Đồ hộp Hạ Long
Số liệu Hình 4 cho thấy, lượng nước thải có sự thay đổi
rất lớn giữa các tháng trong năm và ngày trong tháng với
biên độ thay đổi là rất lớn, dao động trong khoảng từ không
có đến lớn nhất và phụ thuộc vào mùa vụ.
Với sự thay đổi lượng nước thải theo ngày lớn, các quá
trình xử lý cơ học và hóa lý với thời gian lưu ngắn (phút,
giờ) và tốc độ làm sạch nhanh, việc duy trì hiệu suất xử lý
ổn định là tương đối đơn giản, người vận hành chỉ cần bật
thêm bơm dự phòng và tăng liều lượng hóa chất keo tụ. Các
quá trình sinh hóa kỵ khí, thiếu khí và hiếu khí, hiệu suất
xử lý phụ thuộc vào tải trọng khối lượng (F/M) và thời gian
nước lưu dài (ít nhất là ½ ngày), sự tăng lưu lượng thường
dẫn đến hệ quả là: giảm hiệu suất xử lý do lượng bùn hoạt
tính không đủ để duy trì tỷ lệ F/M ổn định và có thể xảy ra
hiện tượng sốc tải do hệ vi khuẩn trong bùn hoạt tính chưa
kịp thích nghi. Đây là nguyên nhân chính dẫn đến chất
lượng nước sau xử lý ở nhiều thời điểm có giá trị COD cao
hơn giá trị đầu vào.
Hệ thống xử lý của các nhà máy có lượng nước thải ít,
quy mô đầu tư nhỏ, việc thẩm định hồ sơ thiết kế thi công
hệ thống xử lý thường ít được quan tâm, dẫn đến trong giai
đoạn đầu, lượng nước thải ít, chất lượng nước đáp ứng
được yêu cầu và khi sản xuất ổn định, sự quá tải xảy ra
thường xuyên, do việc tính toán thiết kế thường được tính
theo công suất, không xem xét đến đặc điểm và thành phần
nước thải. 12 nhà máy công suất nhỏ trong KCN có thiết
kế công nghệ xử lý là giống nhau, quy hoạch mặt bằng kiểu
hợp khối với bể lắng II được chọn là lắng đứng, có hình
vuông và đều thiếu biện pháp gạt bùn đáy và thu bùn nổi,
lượng bùn hồi lưu không đủ, dẫn đến hiện tượng sốc tải và
thối rữa xảy ra tương đối thường xuyên.
Việc không có dịch vụ ổn định thu gom bùn cặn thải từ
quá trình XLNT đã gây trở ngại đến vấn đề quản lý nước
thải. Các nhà máy lớn có lượng bùn thải nhiều và có thiết
bị ép, chủ động giải quyết vấn đề bằng cách cho các cơ sở
sản xuất phân hữu cơ và các hợp tác xã nông nghiệp sử
dụng làm phân bón, nhưng lượng không nhiều và hoàn toàn
bị động. Các nhà máy nhỏ, chấp nhận cho lượng bùn cặn
định kỳ chảy tràn cùng với nước sau xử lý vào hệ thống thu
gom nước thải của KCN.
Việc xả bùn thải vào hệ thống thu gom là không được
phép, với người quản lý trạm XLNT của các nhà máy là
điều không mong muốn, nhưng trong điều kiện hiện tại các
nhà máy không có phương án giải quyết. Việc thu gom và
quản lý bùn thải thuộc chức năng và nhiệm vụ của công ty
dịch vụ công ích, chịu sự quản lý của chính quyền đô thị.
(a)
(a)
(b)
(b)
(c)
(c)
(d)
(d)
72 Trần Văn Quang, Phan Thị Kim Thủy, Trịnh Vũ Long, Hoàng Ngọc Ân
3.3.2. Các trở ngại do yếu tố chủ quan
Với thời gian sản xuất chủ yếu là ban ngày hoặc hai ca
kéo dài, để duy trì tỷ lệ F/M ổn định, người vận hành phải
biết trước được kế hoạch sản xuất của ngày hôm sau và
trong tuần, để chuẩn bị hóa chất và duy trì lượng bùn hoạt
tính tương ứng với mức độ tăng tải. Công việc này đòi hỏi:
(1) người vận hành ngoài kiến thức chuyên môn, phải có
tinh thần trách nhiệm và có đủ các điều kiện để thực hiện.
Cụ thể: các thiết bị đo nhanh: pH, DO, nồng độ bùn, tốc độ
lắng của bùn hoạt tính và bể chứa bùn hoặc chứa lượng
nước thải tăng đột biến; (2) Quản lý doanh nghiệp phải
hiểu sự tăng chi phí là hợp lý, tỷ lệ tăng theo mức tăng sản
lượng sản phẩm và xem đây là trách nhiệm của người vận
hành, có sự ghi nhận về công việc của họ. Thực tế cho thấy,
các nhà máy tổ chức quản lý theo dạng kiêm nhiệm, thiếu
trang thiết bị hỗ trợ và có ít kinh nghiệm, thường khó có
thể đáp ứng được yêu cầu.
4. Kết luận và kiến nghị
Các nhà máy trong KCN đã xây dựng hệ thống xử lý
với công nghệ áp dụng phù hợp theo yêu cầu bảo vệ môi
trường của cơ quan quản lý. Cùng với sự hỗ trợ của các
chương trình quốc gia và các tổ chức tư vấn trong nước và
quốc tế, các nhà máy đã có sự cố gắng và nỗ lực nâng cấp,
cải tạo và quản lý vận hành, nhưng hiệu suất xử lý không
ổn định, nhiều thời điểm chất lượng nước vượt mức quy
định, gây ô nhiễm đến môi trường xung quanh, buộc phải
ngừng sản xuất để khắc phục, ảnh hưởng rất lớn đến hoạt
động sản xuất kinh doanh.
Nguyên nhân của việc xử lý nước thải thiếu hiệu quả là:
(1) do đặc thù của ngành chế biến thủy sản có lượng nguyên
liệu và chủng loại sản phẩm chế biến phụ thuộc vào mùa
vụ đánh bắt và khai thác hải sản, dẫn đến tải lượng các chất
ô nhiễm có sự thay đổi; (2) chưa có phương án giải quyết
bùn cặn thải từ quá trình xử lý nước thải; (3) năng lực quản
lý và vận hành chưa đáp ứng được yêu cầu; (4) thiếu các
công cụ hỗ trợ và biện pháp kỹ thuật kiểm soát vấn đề.
Trong điều kiện cơ sở hạ tầng KCN, để giải quyết các
trở ngại, đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh cho các
nhà máy ổn định và mở rộng sản xuất, các kiến nghị sau
được đề xuất: (1) Chính quyền đô thị cần phải có phương
án quản lý bền vững bùn cặn thải từ quá trình xử lý nước
thải theo hướng tiếp cận bền vững. Có thể áp dụng mô hình
sản xuất phân hữu cơ tương tự như các tỉnh vùng đồng bằng
sông Cửu Long; (2) nghiên cứu triển khai áp dụng biện
pháp kỹ thuật kiểm soát và hồi lưu bùn hoạt tính từ bể lắng
II, giúp cho các nhà máy có lượng nước thải ít, ổn định quá
trình xử lý; (3) tổ chức các khóa đào tạo, nâng cao năng lực
cho những người quản lý và vận hành hệ thống; (4) Phân
tích chi tiết về chi phí – lợi ích trong quản lý nước thải của
các nhà máy trên cơ sở so sánh các phương án: xử lý bậc I
bằng quá trình cơ học và hóa lý hoặc xử lý sinh học bậc II,
sau đó xả về trạm XLNT tập trung hoặc xử lý bậc III xả
trực tiếp ra nguồn tiếp nhận.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Tổng Cục Môi trường, Tài liệu kỹ thuật - Hướng dẫn đánh giá sự phù hợp của công nghệ xử lý nước thải và giới thiệu một số công
nghệ xử lý nước thải đối với ngành Chế biến thuỷ sản, Dệt may, Giấy
và bột giấy, Hà Nội năm 2011.
[2] Food and Agriculture Organization (FAO) of the United Nations,
Fisheries technical paper – 355 Wastewatertreatment in the fishery industry, Rome, 1996.
[3] Phong Tan Nguyen, Luan Thanh Mai, “Study on Fish Processing
Wastewater Treatment by Swim-bed and Stick-bed Processes”.
Journal of Water Sustainability, Volume 3, Issue 2, June 2013, 79–84.
[4] Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng, Quyết định số 290/UBND-
QLĐTh ngày 10/1/2013 về việc đảm bảo hoạt động của trạm XLNT
tập trung KCN DVTS Đà Nẵng.
[5] Sở Tài Nguyên Môi trường thành phố Đà Nẵng, Dự án quản lý nhà
nước về môi trường cấp tỉnh tại Việt Nam-VPEG. Báo cáo kiểm toán nước thải-Khu công nghiệp dịch vụ thủy sản Đà Nẵng, Đà Nẵng, 2012.
[6] Vitteveen + Bos (RVO), Feasibility study for improvement
wastewater treatment at seafood industrial Zone, Danang, Final
report. Danang, 2015.
[7] The general Environmetal Technos Co,.LTD. Kurray Aqua Co.,Ltd,
Hiyoshi Corporation; Education institution Osaka Prefecture
University, 2015-2016 Asia water environmental improvement model businese “Improvement businese of facility operation of
water treatment in fish processing factory in Vietnam”, Business
Final Report. Danang, 31st march 2016.
[8] Tran Van Quang, “A Study on Increasing the Stabilization of the
Wastewater Treatment from Fish and Seafood Processing”, Proceeding: Vietnam-Korea Workshop on Environ.technology in
water prevention, Hanoi 2004.
[9] Công ty thoát nước và xử lý nước thải Đà Nẵng, Báo cáo kỹ thuật
hiện trạng năng lực xử lý và đề xuất cải tạo trạm xử lý nước thải Thọ
Quang, 2013.
[10] Bộ xây dựng, TCVN 7957:2008 – Thoát nước – mạng lưới và công
trình bên ngoài – Tiêu chuẩn thiết kế, 2008.
[11] Bộ tài nguyên và môi trường, QCVN 11-MT:2015/BTNMT – Quy
chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải chế biến thủy sản, 2016.
(BBT nhận bài: 17/07/2017, hoàn tất thủ tục phản biện: 27/07/2017)
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 73
NGHIÊN CƯU TIÊM NĂNG ÁP DỤNG SẢN XUẤT SẠCH HƠN CHO
LÀNG NGHỀ GỐM THANH HÀ, THÀNH PHỐ HỘI AN, TỈNH QUẢNG NAM
RESEARCHING ON THE POTENTIAL OF CLEANER PRODUCTION APPLICATION FOR
THANH HA POTTERY CRAFT VILLAGE, HOI AN CITY, QUANG NAM PROVINCE
Phan Như Thúc
Trường Đại học Bách khoa - Đại học Đà Nẵng; [email protected]
Tóm tắt - Bài báo đã tiến hành điều tra, khảo sát, đánh giá hoạt động sản xuất tại Làng nghề gốm Thanh Hà, Hội An từ đó đề xuất các giải pháp sản xuất sạch hơn (SXSH) giúp giảm thiểu ô nhiễm môi trường, nâng cao hiệu quả sản xuất cho các hộ làm gốm trong làng nghề. Qua phân tích sơ bộ tính khả thi về mặt kinh tế, việc áp dụng các giải pháp SXSH tại cơ sở sản xuất gốm ông Lê Văn Xê giúp tiết kiệm được số tiền là 32.141.000 đồng/năm sau khi đã khấu trừ chi phí đầu tư ban đầu 37.000.000 đồng. Trong các năm tiếp theo chỉ tốn chi phí bảo dưỡng thiết bị mỗi năm khoảng 550.000 đồng, lợi nhuận thu được là 68.591.000 đồng/năm. Bên cạnh lợi ích về kinh tế, việc áp dụng SXSH giúp giảm thiểu tiêu hao năng lượng, nguyên nhiên vật liệu, hạn chế lượng chất thải phát sinh giảm thiểu ô nhiễm môi trường cho lang nghê gôm Thanh Hà, thành phô Hôi An, tinh Quảng Nam.
Abstract - This research is conducted to investigate, survey and assess the production activities at Thanh Ha pottery craft village, Hoi An, and propose cleaner production (CP) measures for reducing environmental pollution, increasing production efficiency for pottery makers in the village. Based on a preliminary analysis of economic feasibility, the application of cleaner production measures in the pottery production factory of Mr. Le Van Xe results in saving VND 32,141,000/year after deducting the initial investment fee of 37,000,000 VND. In the following years, the cost of maintenance of equipment is about 550,000 VND/year and the profit is 68,591,000 VND/year. Besides the economic benefits, CP application also helps to reduce the energy, fuel and material consumption, the amount of wastes generated as well as minimize environmental pollution in Thanh Ha pottery village, Hoi An city, Quang Nam province.
Từ khóa - làng nghề; gốm; Thanh Hà; Hội An; môi trường; san xuât sach hơn.
Key words - craft village; pottery; Thanh Ha; Hoi An; environment; cleaner production.
1. Đặt vấn đề
Nhưng năm vưa qua, ơ nhiêu vung nông thôn nươc ta
cac lang nghê đa phat triên kha manh, môt măt đong gop
đang kê cho phat triên kinh tê - xa hôi cua đia phương, bên
cạnh đó cung co nhưng tac đông nguy hai tơi môi trương,
sưc khoe người lao động và ngươi dân sinh sống tại các
làng nghề. Làng nghề gốm Thanh Hà, thành phố Hội An,
tỉnh Quảng Nam là một trong những làng nghề truyền
thống khá độc đáo và nổi tiếng, được hình thành cách đây
500 năm [1]. Tuy nhiên việc phát triển làng nghề gốm
Thanh Hà trong những năm gần đây còn một số hạn chế
như: quy mô sản xuất còn nhỏ, phân tán, năng suất lao động
thấp, ý thức bảo vệ môi trường sinh thái và bảo vệ chính
gia đình của người lao động còn khá hạn chế, môi trường
có xu hướng bị ô nhiễm [2]. Do đo cân co nhưng giai phap
thiêt thưc vơi chi phi thâp, phu hơp vơi kinh tê cua lang
nghê để giảm thiểu tiêu hao năng lượng, nguyên nhiên vật
liệu, hạn chế lượng chất thải phát sinh, giảm thiểu ô nhiễm
môi trường, nâng cao hiệu quả trong quá trình sản xuất.
Với những ý nghĩa kinh tế, văn hóa, xã hội to lớn mà
làng nghề gốm Thanh Hà mang lại và những khó khăn đang
gặp phải, rõ ràng việc bảo tồn và phát huy làng nghề truyền
thống một cách bền vững là một việc cần thiết, một hướng
đi đáng quan tâm. Nhằm mục đích bảo vệ môi trường
(BVMT) hướng đến phát triển bền vững (PTBV) cho làng
nghề gốm Thanh Hà trong quá trình sản xuất qua đó thu
hút khách du lịch đến thăm quan cân co nhưng biên phap
bảo vệ môi trường, giam thiêu chât thai ngay tai nguôn -
ngay tai khu vưc dân cư kha nhay cam [3] nhăm giam tac
đông xâu đên con ngươi va môi trương. Từ những vấn đề
thực tế trên, chúng tôi tiến hành: “Nghiên cứu tiêm năng
ap dung san xuât sach hơn cho làng nghề gốm Thanh Hà,
thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam”.
2. Đối tượng va phương phap nghiên cứu
2.1. Đối tượng
Hoat đông sản xuất gôm tại làng nghề gốm Thanh Hà,
thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam.
Các đề xuất giảm thiểu ô nhiễm theo hướng SXSH có
khả năng áp dụng tại làng nghề gốm Thanh Hà.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp thu thập điều tra khảo sát
Lập phiếu khảo sát, tiến hành phỏng vấn.
Phương pháp phỏng vấn nhanh: tiến hành phỏng vấn 8
hộ tham gia sản xuất về nguyên liệu, hóa chất sử dụng,
lượng nước phục vụ cho sản xuất, chất lượng môi trường,
sức khỏe và các phương pháp sử dụng để BVMT nơi sản
xuất và sức khỏe người lao động.
2.2.2. Phương pháp luận đánh giá sản xuất sạch hơn
Sản xuất sạch hơn là việc áp dụng liên tục chiến lược
phòng ngừa tổng hợp về môi trường vào các quá trình sản
xuất, sản phẩm và dịch vụ nhằm nâng cao hiệu suất sinh
thái và giảm thiểu rủi ro cho con người và môi trường [4]
Để thực hiện SXSH cho làng nghề ta tiến hành 6 bước
với 18 nhiệm vụ sau (Hình 1) [5]:
74 Phan Như Thúc
Hình 1. Sơ đồ các bước đánh giá sản xuất sạch hơn
3. Kêt qua nghiên cưu va thao luân
3.1. Hiên trang san xuât lang nghê gôm Thanh Ha
3.1.1. Quy trinh san xuât gôm
Sơ đô quy trinh san xuât gôm tai lang nghê gôm Thanh
Ha kem theo dong thai được trình bày ở Hình 2.
Đất sét đem về được đổ nước vào, dùng xuồng xăm kĩ,
nhào nhuyễn rồi dùng kéo xén đất, cắt mỏng 3 đến 4 lần.
Sau đó dùng sức người đạp đi đạp lại để tăng độ liên kết.
Khi đất đã được nhào nhuyễn kĩ thì chia thành từng
phần mới bắt đầu tạo dáng. Muốn tạo dáng trước tiên phải
chuốt. Khi chuốt phải có hai người, một người đứng 1 chân
còn chân kia đạp bàn xoay trong khi đó 2 tay làm con đất,
người còn lại (kĩ thuật chính) lấy con đất đặt lên bàn xoay,
cuốn thành hình sâu kèn rồi dùng cái sò, vòng, giẻ thấm
nước để tạo dáng sản phẩm (Hình 3).
Hinh 2. Sơ đô quy trinh công nghê san xuât tai
lang nghê gôm Thanh Ha kem theo dong thai
Hình 3. Tạo hình bằng cách xoay thủ công
Khi đã tạo dáng xong thì đem ra ngoài phơi nắng. Phơi
gốm se lại thì có 1 người sẽ dập hoa văn hay trang trí tùy
ý. Đối với sản phẩm có đáy bầu sau khi phơi se lại thì được
đưa vào bàn xoay lần thứ 2 úp ngược rồi dùng 1 dụng cụ
“vòng tròn” để tạo dáng lần cuối.
Sau khi gốm được phơi kĩ thì chất vào lò. Nhóm lửa
khoảng 7 -8 giờ khi thấy khói đốt đã hết mới bắt đầu đốt
thật lớn cho đến khi chín thì nghỉ lửa. Người thợ dùng “gốm
thăm” trong lò kéo ra để thử. Nghỉ lửa thì phá cửa lò cho
rộng để mau nguội, khoảng 1 ngày sau cho ra lò.
Bước 1: Cac công viêc
chuân bi cho thưc hiên
1. Thành lập nhóm đánh
giá SXSH;
2. Liêt kê cac bươc công
nghê san xuât gôm;
3. Nhân dang cac công
đoan gây lang phi.
Bước 2: Phân tích các
công đoan san xuât cua
lang nghê gôm
4. Chuẩn bị sơ đồ dong cua
qua trinh san xuât;
5. Cân bằng nguyên liệu,
năng lượng cho cac công
đoan chinh;
6. Xác định chi phí dòng
thải;
7. Phân tich nguyên nhân
dong thai.
Bước 3: Phat triên cac
cơ hôi san xuât sach hơn
8. Xây dưng các cơ hội
SXSH;
9. Lựa chọn các cơ hội
khả thi nhất.
Bước 4: Thưc hiên
cac giai phap SXSH
10. Đánh giá khả thi về
kỹ thuật;
11. Đánh giá khả thi về
kinh tế;
12. Đánh giá về mặt
môi trường;
13. Lựa chọn giải pháp
kha thi nhât để thực
hiện.
Bước 5: Thực hiện các
giải pháp SXSH
14. Chuẩn bị thực hiện;
15. Thực hiện các giải
pháp SXSH;
16. Quan trắc và đánh giá
kết quả.
Bước 6: Duy trì
SXSH
17. Duy trì các giải
pháp SXSH
18. Lựa chọn công
đoạn tiếp theo cho
trọng tâm đánh giá
SXSH (quay về
Bước 3).
Nhiệt tỏa
Nước
Đất sét
Củi
Than
Không khí
Nhiệt tỏa
Bụi
Khí thải
Tro xỉ
Thành phẩm
Phân loại, hoàn
chỉnh sản phẩm
Nhào, lọc đất
Cắt tỉa
Phơi sơ
bộ
Nung sản
phẩm
Phơi khô
Tạo hình
Làm nguội sản phẩm
Nước thải chứa SS
cao
Chất thải rắn: sỏi sạn
Chất thải rắn: đất sét
Bốc hơi
Bốc hơi
Chất thải rắn
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 75
3.1.2. Quy mô san xuât
San xuât theo quy mô nho, tưng hô gia đinh, thôn, xom.
Nguyên liêu, nhiên liêu: đât set, nươc, than, cui (Bảng 1).
Lưc lương lao đông: 50 ngươi (8 cơ sơ san xuât gôm),
không phân biêt tuôi tac, giơi tinh.
San phâm: nôi đât, binh hoa, lông binh, to he, lông đen
băng gôm, cac mô phong ky quan thê giơi, …
Bang 1. Quy mô san xuât gôm tai cac cơ sơ san xuât
gôm Thanh Ha (năm 2016)
STT Tên cơ sở
Lượng nguyên liệu sử
dụng trong năm 2016
Lượng thải bỏ
trong năm 2016
Đất
sét
(tân)
Nước
cấp
(tân)
Củi
(tân)
Than
cam 4
(kg)
Nước
thải
(tân)
Sỏi,
sạn
(kg)
Tro
xỉ
(tân)
Vật bể
nung
(tân)
1 Phùng Tấn
Cương 138,6 36 70,5 720 3,6 36 5,76 3,6
2 Nguyễn Lành 154 40 61,2 700 4 35 6,7 7,4
3 Nguyễn Ngữ 154 40 58,7 800 4 40 6,4 8
4 Nguyễn Văn
Tùng 144,4 37,5 58,7 600 3,75 30 6,45 6,8
5 Ngụy Trung 154 40 78,3 800 4 40 6,4 8
6 Lê Trọng 173,3 45 68,5 800 40 7,5 4,5
7 Lê Văn Xê 157,9 41 62,6 720 4,1 36 6,86 7,6
8 Nguyễn Văn
Xê 144,4 37,5 73,4 750 3,75 38 6 3,8
Tổng cộng 1221 317 531,6 5890 27,2 295 52,1 49,6
3.1.3. Sô lương lo nung gôm
Hình 4 mô tả số lượng và chủng loại lò nung gốm tại
làng nghề.
Hình 4. Số lượng lò nung tại làng nghề
3.1.4. Phương tiện bảo hộ lao động sử dụng cho sản xuất
tại làng nghề
Hình 5. Phương tiện bảo hộ lao động đang được
sử dụng ở làng nghề
Quá trình sản xuất gốm chủ yếu phát sinh nhiều bụi và
khí nên các hộ tham gia làm gốm đều đã tự trang bị cho
mình những dụng cụ nhằm bảo vệ sức khỏe trong quá trình
lao động (Hình 5).
3.2. Cân băng vât chât năng lương cho lo nung gôm
3.2.1. Cân băng vât chât lo nung gôm
Tỷ lệ khối lượng đầu vào và đầu ra:
%7,0100476.15
369.15476.15
x
Theo định luật bảo toàn khối lượng Gv1 = Gr1, nhưng
trong tính toán có một phần sai số và một phần khối lượng
bốc hơi (Bảng 2). Tuy nhiên lượng hao hụt này là không
đáng kể.
Bang 2. Cân băng vât chât lo nung gôm
Đầu vào Đầu ra
Nguyên
liệu
Ký
hiệu
Lượng
(kg/ngày) Chất thải
Ký
hiệu
Lượng
(kg/ngày)
Đất sét Gs 3.849 Thành phẩm Gtp 3.656
Vật bể nung Gbể 193
Củi Gc 1.467 Tro xỉ Gtx 190
Than Gt 20 Hơi nước Gn 886,44
Không khí Gkk 10.140 Khói thải Gkh 10.444
Tổng vào 15.476 Tổng ra 15.369
3.2.2. Cân băng năng lương lo nung gôm
Sơ đồ cân bằng năng lượng lò nung gốm được trình bày
ở Hình 6.
Hình 6. Sơ đồ cân bằng năng lượng
Bang 3. Cân băng năng lương cho 1 me nung gôm
Đầu vào Đầu ra
Nhiệt
lượng
Ký
hiệu
Lượng
(kcal/ngày)
Nhiệt
lượng
Ký
hiệu
Lượng
(kcal/ngày)
Nhiệt tỏa
ra do đưa
nhiên liệu
vào lò
Qnl 25.496
Nhiệt tỏa
ra do
nung sản
phẩm
Qsp 127.479
Nhiệt do
không khí
cấp vào lò
Qkk 75.442 Nhiệt ra
theo xỉ Qtx 5.130
Nhiệt cung
cấp từ quá
trình cháy
Qcháy 5.946.258
Nhiệt ra
theo khói Qkh 776.457
Nhiêt ra
thanh lo,
đay lo
QL 60.040
Nhiệt tổn
thất khác Qtt 5.078.089
Tổng vào Qvào 6.047.196 Tổng ra Qra 6.047.196
Theo định luật bảo toàn năng lượng:
Tổng nhiệt lượng vào lò = tổng nhiệt lượng ra khỏi lò
Nhiêt tôn thât khac chiêm 83,97% trong đo co nhiêt toa
ra tư noc lo, nhiêt toa ra tư cưa lo.
Do đo vấn đề cần quan tâm trong quá trình nung gốm
tại làng nghề gốm Thanh Hà là khí thải và nhiệt thừa toa ra
tư noc lo, cưa lo nung gôm (Bảng 3).
3.3. Nguyên nhân gây ra dong thai
Bảng 4 trình bày nguyên nhân gây ra dòng thải tại các
công đoạn sản xuất gốm.
9
2 4
0
2
4
6
8
10
Lò nung nhỏ (lò hộp)
không có ống khói
Lò nung úp
(lò lớn) không có ống khói
Lò nung úp
(lò lớn) có ống khói
Cái
Loại lò
6 2 70
10
Găng tay Kính khẩu trang
Hô
Phương tiện sử
dụng
Qkh
Qtt
Qtx
Qkk
Lò Nung Gốm
Qnl
Qcháy
Qsp
QL
76 Phan Như Thúc
Bang 4. Nguyên nhân gây ra dong thai
Dòng thải Công đoạn Nguyên nhân
Rơi vãi
đất sét,
sỏi sạn
Nhao, loc
đât
Làm thủ công, chưa có công nghệ
thay thế cho sức người
Khu vực tạo hình và bãi chứa
nguyên liệu trộn đất sét ở xa nhau
Nhiệt Nung san
phâm
Lò nung thủ công chưa có biện pháp
tận thu nguồn nhiệt (công nghệ cũ)
Khói
thải
Nung san
phâm
Chưa có biện pháp kiểm soát khí thải
phát sinh
Bụi Nung san
phâm
Chưa có biện pháp xử lý bụi trong
quá trình bốc dỡ sản phẩm
3.4. Đê xuât biên phap giam thiêu ô nhiêm theo hương
san xuât sach hơn
Để thuận tiện cho việc phân tích, đánh giá và áp dụng
các cơ hội SXSH cho các hộ làm gốm tại làng gốm Thanh
Hà chúng tôi lựa chọn hộ làm gốm ông Lê Văn Xê làm
nghiên cứu điển hình để triển khai các bước đánh giá
SXSH. Từ các đề xuất SXSH đối với hộ ông Lê Văn Xê có
thể triển khai áp dụng đối với các hộ làm gốm tương tự
trong Làng nghề gốm Thanh Hà, TP. Hội An.
3.4.1. Tăng cương quan ly nôi vi
Tinh toan va đưa ra đinh mưc sư dung nguyên liêu,
nhiên liêu hơp ly.
Tăng cương bao ôn cho lo nung gôm, khăc phuc hiên
tương âm ươt trong mua mưa, gây anh hương đên qua trinh
nung gôm.
Trang bi bao hô lao đông cho ngươi lao đông như: khâu
trang, găng tay, kinh.
Cac hô san xuât nho le nên gom lai đê nung môt me lơn.
3.4.2. Phân loai tai nguôn
Sư dung đât set co ham lương soi san it hơn đê cho ra
san phâm đep măt, thu hut ngươi mua.
3.4.3. Cai tiên thiêt bi
a. Trang bi may đun lam nhôi nhuyên đât va lam
chin đât
* Muc đich: Nâng cao hiêu qua lam đât, cho san phâm
chât lương tôt hơn, bên canh đo cai thiên sưc khoe ngươi
lao đông vê cac bênh đau lưng, viêm khơp.
Hình 7. May đun lam nhôi nhuyên đât va chin đât
* Thông tin sản phẩm (Hình 7):
+ Máy đùn;
+ Công suất: 7,5kW;
+ Năng suất: làm nhồi nhuyễn đất với công suất 5 m3/4 giờ;
+ Xuất sứ: Việt Nam.
* Chi phí đầu tư: 1 máy 25.000.000 đồng
* Chi phí làm bằng máy đùn
+ Chi phí điện năng làm 5m3 đất trong 4 giờ
1.500 VNĐ/kWh x 7,5 kW x 4 h= 45.000 đồng
+ Chi phí nhân công
Chi phí 1 nhân công trong 4 giờ: 75.000 đồng
Cần 2 nhân công làm trong 4 giờ
Tổng chi phí làm 5 m3 đất trong 4 giờ bằng máy đùn:
75.000 x 2 + 45.000 = 195.000 đồng
* Chi phí làm bằng phương pháp thủ công
+ Cần 20 nhân công làm 5m3 đất trong 4 giờ
+ Chi phí 1 nhân công trong 4 giờ: 75.000 đồng
Tổng chi phí làm 5m3 đất trong 4 giờ bằng phương pháp
thủ công: 75.000 x 20 = 1.500.000 đồng
* Chi phí tiết kiệm sản xuất 5m3 đất khi làm máy đùn
so với phương pháp thủ công:
1.500.000 – 195.000 = 1.305.000 đồng
Vậy chi phí tiết kiệm sản xuất 1m3 đất khi làm máy đùn
so với phương pháp thủ công: 261.000 đồng
* Tại hộ ông Lê Văn Xê, tổng lượng đất sét cần làm
trong 1 năm là 82m3, suy ra lợi tức thu được nếu sử dụng
máy đùn là: 261.000 x 82 = 21.402.000 đồng
Thời gian hoàn vốn:
25.000.0001,17
21.402.000 (năm)
Tính khả thi về mặt kinh tế cao, bên cạnh đó sản
phẩm cho ra chất lượng đẹp hơn, sẽ thu thêm lợi ích từ việc
bán sản phẩm đem lại.
b. Trang bị thêm mô tơ thiết kế cho bàn quay công
đoạn tạo hình
* Muc đich: Cai thiên sưc khoe ngươi lao đông vê cac bênh
đau lưng, viêm khơp, đông thơi nâng cao hiêu qua san xuât.
Hình 8. Thiết bị cải tiến trang bị thêm mô tơ
cho bàn quay công đoạn tạo hình
* Thông tin sản phẩm (Hình 8):
+ Mô tơ;
+ Công suất: 125W;
+ Xuất sứ: Việt Nam.
* Chi phí đầu tư: 2 mô tơ 4.000.000 đồng,
1 bàn quay 1.000.000 đồng
* Chi phí tạo hình sản phẩm bằng bàn quay có mô tơ
+ Chi phí điện năng tạo hình 5m3 đất trong 15 ngày
0,125kW x 1500 VNĐ/kWh x 8h x 2 x 15 = 45.000 đồng
+ Chi phí nhân công:
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 77
Chi phí 1 nhân công trong 1 ngày: 150.000 đồng
Cần 2 nhân công làm trong 15 ngày
Tổng chi phí tạo hình 5m3 đất trong 15 ngày:
150.000 x 2 x 15 + 45.000 = 4.545.000 đồng
* Chi phí làm bằng phương pháp thủ công
+ Cần 2 nhân công tạo hình 5m3 đất trong 20 ngày
+ Chi phí 1 nhân công trong 1 ngày: 150.000 đồng
Tổng chi phí làm 5 m3 đất trong 20 ngày bằng phương
pháp thủ công: 150.000 x 2 x 20 = 6.000.000 đồng
* Chi phí tiết kiệm khi tạo hình 5m3 đất bằng bàn quay
có mô tơ so với phương pháp thủ công:
6.000.000 -4.545.000 = 1.455.000 đồng
Chi phí tiết kiệm khi tạo hình 1m3 đất bằng bàn quay có
mô tơ so với phương pháp thủ công: 291.000 đồng
* Tại hộ ông Lê Văn Xê, tổng lượng đất sét cần làm
trong 1 năm là 82m3. Suy ra lợi tức thu được nếu tạo hình
bằng bàn quay có mô tơ là:
291.000 x 82 = 23.862.000 đồng
Thời gian hoàn vốn:
5.000.0000,21
23.862.000 (năm)
Tính khả thi về mặt kinh tế cao.
c. Thiêt kê cưa nap nhiên liêu qua trinh đôt lo nung gôm
* Mục đích nhằm giảm nhiệt tỏa ra cửa lò, bên cạnh đó
bảo vệ sức khỏe cho người lao động trong quá trình nung gốm.
Hình 9 cho thấy lò nung gốm thủ công đang hoạt động
của nhà Ông Lê Văn Xê với cửa nạp nhiên liệu hở.
Hình 9. Lò nung gốm nhà ông Lê Văn Xê
Hình 10. Chi tiết kích thước cải tiến cửa nạp liệu
cho quá trình đốt lò nhỏ hộ ông Lê Văn Xê
Từ miệng cửa nạp liệu, tiến hành xây lồi ra 125 mm để
tạo độ liên kết lò nung với miệng cửa nạp liệu ban đầu
(Hình 10).
Sau đó lắp cửa nạp liệu cải tiến bằng hệ thống đỡ bản
lề như Hình 11.
Hình 11. Cửa nạp nhiên liệu quá trình đốt lò nung gốm
(a) Cửa nạp nhiên liệu thiết kế;
(b) Phần cửa liên kết với bản lề; (c) Khóa cửa
Xung quanh cửa được phủ lớp sơn chịu nhiệt Cadin.
Cấu tạo cửa nạp liệu gồm 2 lớp [6], [7]:
Lớp I: gạch samot, δ1= 120mm,
λ1=0,837+0,58 x 10-3= 0,838 (W/m.oC).
Lớp II: thép, δ2= 5mm, λ2=58 (W/m2.oC).
Với: δ1, δ2 là chiều dày của các lớp vật liệu; λ1, λ2 là hệ
số dẫn điện lớp vật liệu.
Việc phân tích tính khả thi về mặt kinh tế, kỹ thuật và
môi trường của các giải pháp SXSH được dựa vào phương
pháp cho điểm theo tính khả thi của các giải pháp:
1 - 4 điểm: Tính khả thi thấp; 5 - 7 điểm: Tính khả thi trung
bình; 8 - 10 điểm: Tính khả thi cao.
Thứ tự ưu tiên thực hiện các giải pháp SXSH tại làng
nghề gốm Thanh Hà được trình bày ở Bảng 5.
Bảng 5. Tổng kết lợi ích từ các mặt và thứ tự ưu tiên
của các giải pháp SXSH
Các giải pháp SXSH
Lợi ích các mặt của các giải
pháp SXSH Tổng
điểm
Xếp
loại Kinh tế
(50%)
Kỹ thuật
(30%)
Môi trường
(20%)
Giải pháp 1: Sử dụng đất sét có hàm lượng sỏi sạn
ít hơn
8 4,0 1 0,3 3 0,6 4,9 Trung
bình
Giải pháp 2: Sử dụng
than đá có hàm lượng lưu huỳnh thấp, có nhiệt
trị cao
1 0,5 1 0,3 9 1,8 2,6 Thấp
Giải pháp 3: Trang bị thêm máy đùn làm nhồi nhuyễn
đất và làm chín đất
7 3,5 9 2,7 7 1,4 7,6 Cao
Giải pháp 4: Trang bị thêm
mô tơ thiết kế cho bàn quay công đoạn tạo hình
9 4,5 9 2,7 7 1,4 8,6 Cao
Giải pháp 5: Trang bị
thêm mô tơ và hộp số thiết kế cho bàn quay
công đoạn tạo hình
9 4,5 9 2,7 7 1,4 8,6 Cao
Giải pháp 6: Thiết kế
chụp hút khí thải, quạt cấp khí cho quá trình đốt
1 0,5 6 1,8 9 1,8 4,1 Thấp
Giải pháp 7: Cải tiến cửa
nạp nhiên liệu cho quá trình đốt, cửa bốc dỡ sản
phẩm gốm.
1 0,5 6 1,8 9 1,8 4,1 Thấp
Giải pháp 8: Bảo ôn lò
đốt, tránh tổn thất nhiệt, cung cấp đủ oxy cho quá
trình cháy
1 0,5 9 2,7 9 1,8 5 Trung bình
Giải pháp 9: Dồn nung chung lò nung lớn có
khả năng kiểm soát khí
thải tại lò nung
1 0,5 1 0,3 9 1,8 2,6 Thấp
450
205225
430
450125 125
205225125
430125
125 700125 125
205350125
555125
125
CHI TIEÁT CAÛI TIEÁN
CÖÛA NAÏP LIEÄU
KÍCH THÖÔÙT BAN ÑAÀU
CÖÛA NAÏP LIEÄU
MAËT ÑÖÙNG MAËT BEÂN
100
100
70
PHAÀN NOÁI VÔÙI CÖÛA
NAÏP LIEÄU BAN ÑAÀU
PHAÀN CÖÛA LIEÂN KEÁT
VÔÙI BAÛN LEÀ
MAËT ÑÖÙNG MAËT BEÂN MAËT ÑÖÙNG MAËT BEÂN
(a) (b) (c)
78 Phan Như Thúc
Các cơ sở làm gốm trong làng nghề gốm Thanh Hà, Hội
An thực hiện các giải pháp SXSH với thứ tự ưu tiên như
trên, đồng thời tiến hành giám sát và đánh giá kết quả để
có biện pháp can thiệp kịp thời.
4. Kết luận
Lang nghê gôm Thanh Ha co y nghia rât quan trong vê
măt kinh tê - xa hôi, gop phân giai quyêt viêc lam va đem
lai thu nhâp cho ngươi dân trong lang. Do đo viêc tim ra
cac giai phap nhăm tiêt kiêm chi phi san xuât, vưa bao vê
môi trương san xuât la môt hương tiếp cận giup cho lang
nghê phat triên bền vững.
Tiêm năng ap dung san xuât sach hơn đôi vơi cac hoat
đông san xuât công nghiêp nhìn chung rât nhiêu. Môt bươc
ngoăt mơi cho san xuât sach hơn la co thê đươc nghiên cưu,
ap dung vơi cac hoat đông lang nghê. Qua qua trinh nghiên
cưu ap dung san xuât sach hơn tai lang nghê gôm Thanh
Ha cho thấy cac giai phap đưa ra là hoan toan co tinh kha
thi. Cac giai phap bao gôm: tăng cương quan ly nôi vi, phân
loai tai nguôn, cai tiên thiêt bi. Nếu áp dụng các cơ hội được
đề xuất như trong nghiên cứu này thì năng suất sản xuất sẽ
tăng cao, tiết kiệm nguyên nhiên liệu, giảm phát thải chất
thải ra môi trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Phòng Văn hóa - Thông tin TP. Hội An, “Làng gốm Thanh Hà”, Du
lịch Hội An, 09/06/2015. [Online]. Available:
http://hoiantourism.info/pages/chuyenmuc_view.aspx?idchuyenmuc=723, [Accessed: 05/05/2017].
[2] Phan Như Thúc, Phạm Thị Nhã Yên, “Nghiên cứu đánh giá hiện
trạng và đề xuất biện pháp bảo vệ môi trường cho làng nghề gốm
Thanh Hà, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ - Đại học Đà Nẵng, 1(98), 2016, pp. 69-74.
[3] Đặng Kim Chi, Nguyễn Ngọc Lân, Trần Lệ Minh, Làng nghề Việt
Nam và Môi trường, NXB Khoa học và Kỹ thuật, 2012.
[4] Bộ Công thương, “Sản xuất sạch hơn là gì?”, Sản xuất sạch hơn tại
Việt Nam. [Online]. Available: http://www.sxsh.vn/vi-
VN/Home/FAQ.aspx,[Accessed: 05/05/2017].
[5] Nguyễn Đình Huấn, Tài liệu giảng dạy sản xuất sạch hơn, Trường
Đại học Bách khoa – Đại học Đà Nẵng, 2005.
[6] Trần Ngọc Chấn, Kĩ thuật thông gió, NXB Xây dựng, Hà Nội, 1998.
[7] Hoàng Thị Hiền, Thiết kế Thông gió Công nghiệp, NXB Xây dựng
Hà Nội, 2001.
(BBT nhận bài: 15/05/2017, hoàn tất thủ tục phản biện: 07/06/2017)
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 79
BÙN THẢI ĐÔ THỊ TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG: HIỆN TRẠNG VÀ KHẢ NĂNG
XỬ LÝ BẰNG PHƯƠNG PHÁP PHÂN HỦY KỴ KHÍ
SEWAGE SLUDGE IN DANANG CITY: CURRENT STATE AND TREATMENT BY
ANAEROBIC DIGESTION
Phan Thị Kim Thủy, Dương Gia Đức, Trần Văn Quang
Trường Đại học Bách khoa - Đại học Đà Nẵng
[email protected], [email protected], [email protected]
Tóm tắt - Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu về hiện trạng quản lý bùn thải đô thị và các thông số cơ bản của quá trình phân hủy kỵ khí làm cơ sở cho việc lựa chọn công nghệ xử lý bùn thải từ các trạm xử lý nước thải (XLNT) đô thị tiếp cận theo hướng giảm phát thải khí nhà kính tại Đà Nẵng. Kết quả nghiên cứu cho thấy, lượng lớn bùn thải từ hệ thống thoát nước phát sinh chứa lượng lớn chất hữu cơ dễ phân hủy sinh học, chất dinh dưỡng nhưng chưa được xử lý phù hợp. Thực nghiệm áp dụng phương pháp phân hủy kỵ khí (PHKH) trong xử lý bùn cặn từ trạm XLNT đô thị cho kết quả: (1) Bùn cặn từ trạm XLNT có thể được xử lý bằng phương pháp PHKH cho khả năng thu hồi biogas cao; (2) Chế độ vận hành liên lục tối ưu ở tải trọng 0,84gCHC/lít.ngày, sản lượng biogas 0,27l/gCHC; (3) Áp dụng phương pháp PHKH trong xử lý (XL) bùn cặn từ các trạm XLNT là cần thiết, góp phần giảm phát thải khí nhà kính cho thành phố trong tương lai.
Abstract - This paper presents the results of the current management of municipal sludge and the basic parameters of anaerobic process as the basis for choosing the technology for treating sludge from municipal wastewater treatment plants (MWTPs) towards reducing greenhouse gase (GHG) emissions in Da Nang city. The results show that a large quantity of sludge from sewage system has high concentration of organic matter and nutrients but they are not treated well. The experiment of anaerobic process for treating sludge from MWTPs shows that (1) Sludge from MWTPs can be treated by continuous anaerobic digestion and it can bring high efficiency and capability of collecting biogas; (2) The parameter of optimal continuous process is at load of 0.84g(Organic matter)/l.day with biogas amount of 0.27l/gram(Organic matter); (3) Treating sludge from MWTPs by anaerobic process is necessary and contributes to reducing GHG emissions for Danang city in the future.
Từ khóa - bùn thải; phân hủy kỵ khí; xử lý bùn cặn; xử lý nước thải; khí sinh học
Key words - sludge; anaerobic digestion; sludge treatment; wastewater treatment; biogas
1. Đặt vấn đề
Hệ thống thoát nước đô thị của Việt Nam chủ yếu là hệ
thống thoát nước chung cho cả 3 loại nước thải là nước thải
sinh hoạt, nước thải sản xuất và nước mưa. Phần lớn hệ
thống thoát nước các đô thị lớn đều đã được xây dựng từ
lâu, xuống cấp và quá tải. Quản lý hệ thống thoát nước đô
thị hiện nay được giao cho các Công ty trách nhiệm hữu
hạn (TNHH) nhà nước một thành viên Thoát nước Đô thị
(đối với các đô thị loại đặc biệt và loại I trực thuộc TƯ),
các công ty môi trường đô thị, công ty cấp thoát nước hoặc
công ty dịch vụ công trình đô thị (đối với các đô thị khác)
[1, 2]. Tại thành phố Đà Nẵng, Công ty Thoát nước và Xử
lý nước thải (TN&XLNT) là đơn vị thực hiện các nhiệm vụ
nạo vét bùn cặn mạng lưới thoát nước (cống và kênh
mương); việc hút, vận chuyển bùn thải từ bể tự hoại phần
lớn được các công ty tư nhân tham gia thực hiện và công
tác xử lý bùn thải từ hệ thống thoát nước do Công ty Cổ
phần Môi trường Đô thị Đà Nẵng thực hiện. Bùn cặn từ hệ
thống kênh mương được vận chuyển và đưa đi chôn lấp với
mục đích duy trì hoạt động thoát nước là chính. Bùn thải từ
các trạm xử lý nước thải chưa được quan tâm, xử lý triệt
để. Hoạt động hút phân bùn bể tự hoại chưa kiểm soát, chưa
khuyến khích được các hộ gia đình thông hút bể tự hoại
thường xuyên và chỉ thông hút bể tự hoại khi bể bị tắc và
tràn ra ngoài. Việc chôn lấp và xử lý bùn cặn thoát nước,
bùn thải bể tự hoại ... chưa có được quy trình thống nhất và
không được xử lý triệt để là nguyên nhân gây ô nhiễm môi
trường nước, đất và không khí khu vực [3]. Với đặc điểm
đặc trưng từ các loại bùn cặn: (1) phân bùn bể phốt có hàm
lượng chất hữu cơ cao, chất rắn có khoảng dao động rộng
và lượng lớn Nitơ, Phốt pho; (2) Bùn cặn từ hệ thống thoát
nước và xử lý nước thải (HTTN & XLNT) có khoảng dao
động nồng độ chất rắn, chất hữu cơ và chất dinh dưỡng rất
lớn phụ thuộc vào đặc điểm HTTN và đặc điểm lưu vực đã
gây khó khăn cho công tác xử lý cũng như đề xuất mô hình
quản lý bùn cặn một cách hiệu quả. Vì vậy, việc đánh giá
hiện trạng và đề xuất giải pháp quản lý bùn cặn từ hệ thống
thoát nước đô thị là rất cần thiết, không những chỉ ra các
vấn đề tồn tại và giải pháp xử lý bùn cặn từ HTTN mà còn
hướng đến việc xây dựng mô hình quản lý bùn cặn một
cách bền vững và giảm phát thải khí nhà kính. Nghiên cứu
được tập trung chính vào việc đánh giá hiện trạng thu gom
xử lý bùn cặn từ HTTN tại thành phố Đà Nẵng và thực
nghiệm áp dụng phương pháp phân hủy kỵ khí trong xử lý
bùn cặn từ trạm XLNT đô thị làm cơ sở quan trọng cho
việc tiếp cận, nghiên cứu sâu các giải pháp công nghệ xử
lý bùn cặn phù hợp với chiến lược quản lý môi trường bền
vững tại thành phố Đà Nẵng trong tương lai.
2. Vật liệu và phương pháp
2.1. Vật liệu và các mô hình thực nghiệm
Các loại bùn thải được xem xét trong nghiên cứu bao
gồm: Phân bùn bể phốt từ hộ gia đình (PBBP); bùn thải từ
trạm xử lý nước thải đô thị và bùn cặn từ hệ thống thoát
nước. Bùn thải sử dụng cho mô hình thực nghiệm áp dụng
phương pháp phân hủy kỵ khí được lấy trực tiếp từ quá
trình vận hành mô hình sinh hóa hiếu khí Aerotank (SBR)
với nước thải đầu vào lấy từ trạm XLNT Phú Lộc để tiến
hành thí nghiệm.
Mô hình xác định tốc độ phân hủy kỵ khí ở phòng thí
nghiệm được tiến hành trong trường hợp nạp liệu gián đoạn
(Hình 1) và liên tục (Hình 2).
80 Phan Thị Kim Thủy, Dương Gia Đức, Trần Văn Quang
Hình 1. Mô hình kỵ khí 500ml – chế độ gián đoạn
Mô hình với chế độ hoạt động gián đoạn bao gồm: Thiết
bị ổn định nhiệt độ, bình phản ứng hình trụ (500ml), hệ
thống đường ống thu khí, thiết bị khuấy trộn. Tiến hành vận
hành với bùn dư từ quá trình aerotank – SBR. Tiến hành
vận hành các mô hình thí nghiệm ở chế độ 550C và 350C.
Hình 2. Mô hình kỵ khí 160l – chế độ liên tục
Mô hình với chế độ hoạt động liên tục bao gồm: hình
trụ làm bằng thép (D = 450 mm, H = 1000 mm),
Vhữu ích =120 lít. Mô hình có lắp đặt hệ thống đường ống
dẫn khí, đồng hồ đo áp suất, túi chứa khí, bộ gia nhiệt và
hệ thống xáo trộn bằng cách tuần hoàn hỗn hợp biogas sinh
ra, bên ngoài có bọc lớp cách nhiệt, phễu nạp bùn cặn, van
xả nước đầu ra, van xả bùn đáy. Quá trình vận hành mô
hình luôn duy trì nhiệt độ (34-350C), kết hợp quá trình
khuấy trộn bằng sục khí. Hằng ngày nạp bùn với từng lưu
lượng khác nhau Q = 10 lít/ngày, 15 lít/ngày, 20 lít/ngày.
Thời gian vận hành tương ứng của mỗi lưu lượng là 10 -
20 ngày để xác định quá trình phân hủy. Đo đạc nhiệt độ,
thành phần khí sinh ra: 01 lần/ngày.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp thống kê
Tổng hợp, thu thập các tài liệu, số liệu liên quan: các tài
liệu, số liệu về hiện trạng thu gom và xử lý định kỳ bùn cặn
từ hệ thống thoát nước trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
2.2.2. Phương pháp khảo sát, lấy mẫu và phân tích
Phương pháp được áp dụng trong quá trình lấy mẫu bùn
cặn tại các hộ gia đình, hệ thống thoát nước, trạm xử lý nước
thải đô thị và được tuân theo tiêu chuẩn, quy chuẩn hiện hành.
2.2.3. Phương pháp mô hình
Sử dụng trong quá trình triển khai các nghiên cứu thực
nghiệm, bao gồm thiết lập và vận hành mô hình phân hủy
kỵ khí xử lý bùn cặn.
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Hiện trạng thu gom và xử lý bùn thải đô thị tại thành
phố Đà Nẵng
3.1.1. Phân bùn bể phốt
Các số liệu thu thập và tính toán lượng phân bùn bể phốt
phát sinh và thu gom tại thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2010
- 2016 được trình bày tại Bảng 1. Các số liệu thu thập, lấy
mẫu và phân tích về tính chất thành phần phân bùn bể phốt
được trình bày tại Bảng 2.
Bảng 1. Khối lượng phân bùn bể phốt phát sinh và thu gom
trong giai đoạn 2011-2015 [3]
Năm 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016
Phát sinh
(tấn/năm) 56.724 59.614 61.184 63.344 66.900 73.033 78.440
Thu gom
(tấn/năm) 16.766 22.616 19.688 29.200 24.700 21.495 16.971
Các số liệu tổng hợp cho thấy, lượng phân bùn bể phốt tại
các hộ gia đình được thu gom so với lượng phát sinh còn
chênh lệch khá lớn, chỉ chiếm khoảng 30-40% tổng lượng
phân bùn phát sinh hằng năm của thành phố. Khối lượng phân
bùn thu gom giữa các các năm cũng có sự chênh lệch đáng kể
(Năm 2010: 16.766 tấn; năm 2013: 29.200 tấn). Sự chênh lệch
giữa lượng thu gom – xử lý và lượng phát sinh phụ thuộc vào
nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng tập trung chủ yếu vào
việc quản lý vận hành bể tự hoại hộ gia đình, chính quyền
thành phố chưa có cơ chế quản lý, kiểm soát hoạt động này.
Việc thông hút phân bùn tại hộ gia đình chỉ diễn ra khi các hộ
dân có nhu cầu hoặc các trường hợp khi bể tự hoại bị tắc.
Bảng 2. Tính chất thành phần phân bùn bể phốt tại Tp. Đà Nẵng 2012-2014 và tại một số vị trí khảo sát năm 2015, 2016
Chỉ
tiêu
Đơn
vị
2012-2014 2015 2016
Min TB Max BBP1 BBP2 BBP3 BM1 BM2 BM3 BM4 BM5 BM6
pH - 7,3 7,7 8,2 7,4 7,6 7,4 7,5 7,6 7,8 7,7 7,6 7,9
SS mg/l 1.750 36.523 73.200 19.500 14.600 45.000 18.900 15.700 17.800 17.000 15.300 16.100
COD mg/l 2.550 40.495 64.400 14.200 11.500 24.800 15.200 12.785 14.950 15.000 11.800 13.700
T-N mg/l 864 3.045 5.180 1.720 1.380 3.853 1.834,8 1.454,1 1.557,7 1.707,0 1.605,0 1.234,2
T-P mg/l 98,6 1.077 2.028 482,5 356,2 754,5 600,6 556,7 568,9 633,6 523,5 431,0
Với kết quả phân tích được và so với các nghiên cứu
trước đây cho thấy, giá trị có được tại thời điểm khảo sát,
lấy mẫu năm 2016 là hoàn toàn phù hợp. Thành phần phân
bùn bể phốt có hàm lượng chất hữu cơ, chất rắn và lượng
Nitơ, Phốt pho cao. Kết quả đo được giữa các mẫu có sự
chênh lệch là do thời gian thông hút, thời gian lưu bùn cặn
giữa các vị trí khác nhau.
Với các số liệu thu thập và khảo sát, phân tích tại thời
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 81
điểm hiện tại cho thấy: Tại thành phố Đà Nẵng, thành phần
phân bùn bể phốt có chứa một lượng lớn các chất ô nhiễm
(chất rắn, chất hữu cơ, chất dinh dưỡng), khoảng dao động
của các chất ô nhiễm là khá rộng tùy thuộc vào đặc điểm
công trình, quá trình quản lý - vận hành công trình bể tự
hoại. Với các đặc điểm về tính chất thành phần phân bùn
bể phốt, nếu không có biện pháp quản lý phù hợp từ quy
mô hộ gia đình đến quy mô quận, huyện, tỉnh thì nguy cơ
gây ô nhiễm môi trường là rất lớn.
Việc thu gom vận chuyển phân bùn bể phốt chủ yếu do
các công ty tư nhân đảm nhận thực hiện. Phân bùn bể phốt sau
khi thu gom được xử lý bằng phương pháp ổn định bùn, tách
cặn khỏi chất lỏng và chôn lấp tại khu xử lý chất thải rắn
Khánh Sơn mà chưa quan tâm đến việc tận thu lượng chất dinh
dưỡng trong phân bùn cho các mục đích tái sử dụng. Sơ đồ
quy trình xử lý phân bùn bể phốt được thể hiện tại Hình 3.
Hình 3. Sơ đồ quy trình công nghệ xử lý phân bùn bể phốt
tại thành phố Đà Nẵng
3.1.2. Bùn thải từ hệ thống thoát nước
Công tác nạo vét khơi thông hệ thống thoát nước đô thị
do công ty TN&XLNT thành phố Đà nẵng thực hiện. Các
số liệu thống kê về lượng bùn cặn HTTN được nạo vét từ
2010 đến 2015 được thể hiện tại Bảng 3 và các số liệu phân
tích về tính chất thành phần bùn cặn từ HTTN được trình
bày tại Bảng 4.
Bảng 3. Khối lượng bùn cặn từ quá trình thông tắc và
nạo vét HTTN tại Tp. Đà Nẵng (2010-2015)
Năm 2010 2011 2012 2013 2014 2015
Bùn cặn
(tấn/năm) 5652 8243 4383 2807 2154 3669,5
Bảng 4. Tính chất thành phần bùn thải từ khơi thông nạo vét
hệ thống thoát nước (2016)
TT Chỉ tiêu Đơn vị Đợt 1 Đợt 2 Đợt 3
1 Độ ẩm % 84,4 84,8 43
2 Độ tro % 37,2 32,4 15,7
3 Tổng cacbon g/kg 0,301 0,430 0,488
4 Tổng Nitơ g/kg 1,29 1,4 1,45
5 Tổng Phospho g/kg 0,75 0,62 0,92
Với các số liệu thu thập được cho thấy, lượng bùn cặn
nạo vét từ HTTN qua các năm có sự chênh lệch đáng kể do
khối lượng nạo vét hằng năm phụ thuộc vào khối lượng
giao khoán từ UBND Thành phố, ngoài ra còn do nhiều
nguyên nhân khác có liên quan: hệ thống thoát nước là hệ
thống chung và không đồng bộ, sự thay đổi của khí hậu
(đặc biệt là sự thay đổi về lượng mưa hàng năm), công tác
quản lý, vận hành hệ thống thoát nước, … Tuy nhiên, các
số liệu thu thập được cho thấy có sự đầu tư và đạt hiệu quả
trong quản lý vận hành hệ thống, lượng bùn cặn nạo vét
giảm đi đáng kể từ 8.243tấn (2011) còn khoảng 2.154 tấn
(2014). Lượng phát sinh trung bình qua các năm giai đoạn
từ 2010-2015 đạt khoảng 4.484,7 tấn/năm.
Thành phần bùn cặn từ hệ thống thoát nước chứa hàm
lượng chất hữu cơ thấp, các chất dinh dưỡng T-N từ 1,2 -
1,5 g/kg khô, T-P từ 0,5-1 g/kg khô. Hàm lượng TOC từ
0,3 – 0,5 g/kg. Tuy nhiên, thành phần bùn cặn tại các lưu
vực - khu vực sẽ khác nhau tùy thuộc vào đặc điểm của
từng lưu vực - khu vực, điều kiện khí hậu và các yếu tố liên
quan khác. Thành phần hữu cơ trong bùn cặn sẽ thay đổi
theo thời gian do thời gian lưu giữ trong các công trình và
mạng lưới thoát nước lâu và phần lớn các chất hữu cơ trong
bùn cặn lắng đọng đã bị phân huỷ. Bùn cặn sau khi thu gom
được chôn lấp tại khu xử lý chất thải rắn Khánh Sơn.
3.1.3. Bùn thải từ các trạm XLNT đô thị
Các trạm XLNT đô thị tại thành phố Đà Nẵng hiện đang
sử dụng công nghệ hồ kỵ khí dạng đơn giản trừ trạm XLNT
Hòa Xuân và Phú Lộc áp dụng công nghệ hiếu khí (SBR)
mới được thi công xây dựng và đang vận hành thử nghiệm
nên lượng bùn dư rất ít và chỉ đủ vận hành hệ thống. Với
các trạm xử lý nước thải đô thị áp dụng công nghệ hồ kỵ
khí (Hòa Cường, Sơn Trà và Ngũ Hành Sơn), nước thải đô
thị từ hệ thống thoát nước chung, sau khi loại bỏ rác, lắng
cát được đưa vào hồ kỵ khí và được thải vào nguồn tiếp
nhận (sông và biển). Theo số liệu thống kê cho thấy, các hệ
thống này xử lý không đạt hiệu quả và nhiều thời điểm chất
lượng nước thải sau xử lý không đạt tiêu chuẩn [4, 5].
Ngoài ra tại các trạm hầu như không có các biện pháp phù
hợp về quản lý bùn thải từ vận hành hệ thống, bùn thải từ
hồ kỵ khí hầu như rất ít.
Theo chiến lược quản lý nước thải đến năm 2020 của
thành phố Đà Nẵng, công nghệ xử lý tại các trạm XLNT
dần được chuyển sang công nghệ sinh hóa hiếu khí (SBR)
và bùn cặn từ quá trình xử lý được đưa đến bể nén bùn sau
đó được làm khô bằng máy ép bùn và vận chuyển lên bãi
chôn lấp chất thải rắn Khánh Sơn để xử lý.
Các kết quả phân tích về tính chất thành phần bùn dư
từ mô hình SBR với nước thải đầu vào lấy từ trạm XLNT
Phú Lộc được trình bày tại Bảng 5.
Bảng 5. Tính chất thành phần bùn dư từ mô hình SBR với
nước thải đầu vào lấy từ trạm XLNT Phú Lộc
TT Chỉ tiêu Đơn vị BSBR
1 Độ ẩm % 99,0 - 99,1
2 Độ tro % 18,5 - 31,9
3 COD mg/l 7.600 – 9.600
4 N-NH4+ mg/l 190,0 – 240,0
5 P-PO43- mg/l 63,3 – 80,0
82 Phan Thị Kim Thủy, Dương Gia Đức, Trần Văn Quang
Kết quả phân tích cho thấy, bùn dư từ quá trình SBR có
chứa lượng lớn chất hữu cơ dễ phân hủy sinh học và chất
dinh dưỡng. Với khoảng dao động COD (7,6 - 9,6 g/l);
N-NH4+ (190 - 240 mg/l) và P-PO4
3- (63,3 - 80 mg/l). Tỷ lệ
chất hữu cơ và chất dinh dưỡng (C:N:P) phù hợp cho quá
trình xử lý bằng phương pháp phân hủy kỵ khí và thu hồi
năng lượng.
3.2. Kết quả thực nghiệm áp dụng phương pháp phân hủy
kỵ khí trong xử lý bùn cặn từ trạm xử lý nước thải đô thị
3.2.1. Xác định thông số tốc độ phân hủy bùn cặn ở chế độ
gián đoạn (lên men ấm và lên men nóng)
Kết quả theo dõi tổng lượng khí sinh ra tại mỗi mô hình
khi kết thúc thí nghiệm được trình bày tại Hình 4 và kết quả
tính toán thông số thực nghiệm, sản lượng khí của các mô
hình được thể hiện tại Bảng 6.
Hình 4. Tổng lượng khí sinh ra của 2 mô hình (350C & 550C)
Bảng 6. Thông số thực nghiệm và sản lượng khí
STT Mô hình Sản lượng khí
(ml/gCHC)
Thời gian lưu
(ngày)
1 Chế độ nóng (550C) 217 14
2 Chế độ ấm (350C) 180 16
Từ kết quả vận hành mô hình gián đoạn cho thấy: bùn
dư từ quá trình sinh hóa hiếu khí (SBR) có khả năng phân
hủy kỵ khí và ở chế độ nóng 550C thời gian thích nghi của
bùn dài (4 ngày), ở chế độ ấm 350C thời gian thích nghi
ngắn hơn (2 ngày). Tuy nhiên thời gian phân hủy chất hữu
cơ ở giai đoạn sau ở chế độ nóng lại ngắn hơn. Sản lượng
khí sinh ra tính trên 1 gam chất hữu cơ ở chế độ nóng là
0,217 lít và ở chế độ ấm là 0,18 lít.
Quá trình phân hủy ở chế độ nóng cho sản lượng khí
cao hơn và thời gian phân hủy chất hữu cơ ngắn hơn, tuy
nhiên yêu cầu phải gia nhiệt thường xuyên, tốn năng lượng,
trong khi đó đối với chế độ ấm cho sản lượng khí chỉ thấp
hơn khoảng 10% và không cần gia nhiệt, phù hợp với điều
kiện khí hậu ở Đà Nẵng do đó trong quá trình xử lý bùn cặn
bằng phương pháp phân hủy kỵ khí nên áp dụng với chế độ
ấm 350C.
3.2.2. Xác định thông số tốc độ phân hủy bùn cặn ở chế độ
liên tục (chế độ lên men ấm)
Kết quả hiệu suất phân hủy chất hữu cơ, sản lượng
biogas thu được theo các tải trọng và thành phần biogas thu
được tính từ lúc khởi động mô hình đến lúc mô hình được
ổn định lần lượt được thể hiện tại các Hình 5, 6 và 7.
Hình 5. Hiệu suất phân hủy CHC theo các tải trọng
Hình 6. Sản lượng biogas thu được theo tải trọng
Hình 7. Thành phần khí thu được theo thời gian vận hành
Kết quả thực nghiệm cho thấy, hiệu suất phân hủy chất
hữu cơ giảm dần theo sự tăng tải trọng. Cao nhất là 40,8%
ứng với tải trọng thấp nhất 0,42 gCHC/lít.ngày; khi tải
trọng tăng lên 0,63 gCHC/lít.ngày thì hiệu suất phân hủy
chất hữu cơ là 33,7% (0,63gCHC/lít.ngày ~ 33,7%);
(0,84gCHC/lít.ngày ~ 29,7%); (1,25 gCHC/lít.ngày ~ 25,5
%) và hiệu suất đạt thấp nhất là 22,9 % ứng với tải trọng
1,67 gCHC/lít.ngày.
Với sản lượng biogas thu hồi trên 1 đơn vị (1g CHC)
tăng từ 74 ml/gCHC lên 269 ml/gCHC khi tải trọng tăng từ
0,42 gCHC/lít.ngày đến 0,84 gCHC/lít.ngày; Sau đó sản
lượng biogas giảm xuống còn 251 ml/gCHC khi tải trọng
tăng lên 1,67 gCHC/lít.ngày. Lý do được giải thích do
lượng chất hữu cơ nạp vào hằng ngày lớn làm vi sinh vật
tiêu thụ không hết dẫn đến sốc tải và ở tải trọng thấp thì
lượng chất hữu cơ bị vi sinh vật tiêu thụ hết và thiếu lượng
chất hữu cơ. Bên cạnh đó, theo thời gian vận hành, thành
phần khí mêtan lúc mô hình ổn định đạt 65 – 75%,
O2: 0,7 – 1,8%; CO2:7,1 – 20,8%.
Như vậy, với các thực nghiệm cho thấy khi thiết kế, vận
hành công trình áp dụng phương pháp phân hủy kỵ khí
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 83
trong xử lý bùn cặn từ trạm xử lý nước thải đô thị nên chọn
tải trọng 0,84 gCHC/lít.ngày là tối ưu.
4. Kết luận
Tại thành phố Đà Nẵng, bùn thải đô thị phát sinh chủ
yếu là bùn bể tự hoại (phân bùn bể phốt), bùn từ hệ thống
thoát nước và bùn từ trạm XLNT. Công tác thu gom còn
nhiều hạn chế, chưa triệt để và chỉ chiếm 30-40% trên tổng
lượng phát sinh; Công nghệ xử lý bùn thải chủ yếu chôn
lấp, chưa hướng đến vấn đề thu hồi và tái sử dụng.
Bùn cặn tách ra từ quá trình sinh hóa hiếu khí (SBR) với
nước thải đầu vào lấy từ trạm XLNT đô thị Phú Lộc có
chứa lượng lớn chất hữu cơ dễ phân hủy sinh học và chất
dinh dưỡng. Với khoảng dao động: chất hữu cơ (COD) từ
7,6 – 9,6 g/l; Chất dinh dưỡng: N-NH4+ (190-240 mg/l) và
P-PO43- (63,3-80 mg/l). Tỷ lệ chất hữu cơ và chất dinh
dưỡng (C:N:P) phù hợp cho quá trình xử lý bằng phương
pháp phân hủy kỵ khí và thu hồi năng lượng.
Quá trình phân hủy kỵ khí bùn cặn từ quá trình sinh hóa
hiếu khí (SBR) tại trạm XLNT đô thị tại Tp. Đà Nẵng với
chế độ lên men ấm là phù hợp. Các thông số vận hành mô
hình ở chế độ liên tục có hiệu suất phân hủy các chất hữu cơ
giảm khi tải trọng tăng, sản lượng biogas thu được tăng dần
theo tải trọng và đạt tối ưu ở tải trọng 0,84 gCHC/lít.ngày.
Thành phần khí sinh học khi mô hình hoạt động ổn định:
CH4 khoảng 65% đến 75%, O2 khoảng 0,7% đến 1,8%, CO2
khoảng 7,1% đến 20,8%. Khí sinh học có khả năng cháy và
tỏa ra nhiệt lượng cao.
Để áp dụng công nghệ vào thực tiễn xử lý bùn cặn tại
thành phố Đà Nẵng hướng đến thu hồi tài nguyên và giảm
phát thải khí nhà kính cho thành phố trong tương lai, rất
cần thiết việc tiếp tục nghiên cứu sâu các yếu tố ảnh hưởng
và khả năng tận thu nguồn biogas từ quá trình phân hủy kỵ
khí bùn cặn từ quá trình sinh hóa hiếu khí (SBR) tại trạm
XLNT đô thị tại thành phố Đà Nẵng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Hồng Tiến, “Quản lý bùn thải ở Việt Nam: Những thách thức và đề xuất các giải pháp”, Tạp chí Môi trường, số 1+2/2015.
[2] Trần Đức Hạ, “Bổ sung nội dung xử lý bùn cặn hệ thống thoát nước
đô thị vào TCVN 7957:2008 - thoát nước: Mạng lưới bên ngoài và
công trình - tiêu chuẩn thiết kế”, Tạp chí Cấp thoát nước, số 5 (86)
T8/2012.
[3] Viện quy hoạch xây dựng Đà Nẵng, Quy hoạch xử lý chất thải rắn
thành phố Đà Nẵng đến năm 2030 - tầm nhìn đến năm 2050, 2015.
[4] Công ty thoát nước và xử lý nước thải đô thị Đà Nẵng, Báo cáo “Kết
quả quan trắc các trạm xử lý quí I,II năm 2014”, 2014.
[5] Ngân hàng thế giới, Đánh giá hoạt động quản lý nước thải đô thị Việt
Nam, 2013.
(BBT nhận bài: 28/06/2017, hoàn tất thủ tục phản biện: 27/07/2017)
84 Trương Hữu Trì, Lê Gia Trung, Phan Thanh Sơn, Nguyễn Đinh Lâm
TỔNG HỢP GRAPHENE ĐA LỚP TRÊN LÁ ĐỒNG BẰNG
PHƯƠNG PHÁP KẾT TỤ HÓA HỌC TRONG PHA HƠI
SYNTHESIS OF MULTI-LAYER GRAPHENE ON COPPER FOILS BY
CHEMICAL VAPOR DEPOSITION METHOD
Trương Hữu Trì*1, Lê Gia Trung2, Phan Thanh Sơn1, Nguyễn Đinh Lâm*1 1Trường Đại học Bách khoa - Đại học Đà Nẵng; [email protected]; [email protected]
2Học viên cao học K26 - Ngành Công nghệ Hóa học
Tóm tắt - Vật liệu graphene đã được cộng đồng các nhà khoa học quan tâm đặc biệt từ hơn một thập kỷ qua nhờ vào các tính chất ưu việt của chúng. Có nhiều phương pháp khác nhau đã được sử dụng để tổng hợp loại vật liệu này, trong đó phương pháp kết tụ hóa học trong pha hơi có ưu điểm lớn là tạo ra lớp graphene ít bị sai hỏng trong cấu trúc. Do vậy, ở nghiên cứu này, nhóm tác giả đã sử dụng phương pháp kết tụ hóa học trong pha hơi để tổng hợp graphene đa lớp trên lá đồng kim loại với nguồn carbon được sử dụng là dung dịch ethanol có nồng độ khác nhau. Sản phẩm tổng hợp được đánh giá chất lượng bằng kính hiển vi điện tử quét (SEM), quang phổ Raman. Kết quả thu được cho thấy nồng độ carbon trong môi trường phản ứng ảnh hưởng rất lớn không chỉ đến chất lượng sản phẩm mà cả số lớp graphene trong sản phẩm thu được.
Abstract - Graphene material has attracted much attention from the scientific community for over the last decade thanks to its novel properties. Different methods have been used to synthesize this material. Particularly, the chemical vapour deposition (CVD) method has the great advantage of making the graphene layer has fewer structural defects. Thus, in this study, the authors use chemical vapor deposition (CVD) to synthesize multi- layer graphene on copper foils using ethanol solution at different concentrations as carbon source. The quality of the final products are characterised by several techniques including scanning electron microscopy (SEM) and Raman spectrum. The results show that the carbon concentrations in the reaction medium affects not only the quality of the product but also the number of graphene layers in the product.
Từ khóa - CVD; graphene; FLG; SEM; Raman Key words - CVD; graphene; FLG; SEM; Raman
1. Giới thiệu chung
Graphene là một mặt phẳng đơn lớp của các nguyên tử
carbon gắn với nhau thông qua liên kết cộng hóa trị sp2
nhằm tạo thành một cấu trúc tinh thể hình lục giác đều bền
vững với cấu trúc hai chiều [1]. Vật liệu graphene được chế
tạo thành công và công bố đầu tiên bởi nhóm nghiên cứu
của Andre Geim tại Trường Đại học Manchester - Vương
Quốc Anh vào năm 2004 [1]. Khi xem xét về các đặc tính,
vật liệu graphene có nhiều tính chất ưu việt như độ dẫn điện,
độ dẫn nhiệt tốt [1-3], năng lượng vùng cấm (bandgap) gần
bằng zero [4], có độ bền cơ học cao và là vật liệu trong suốt
[1-3]. Ngoài ra, graphene còn là loại vật liệu mỏng nhất
trong tất cả các loại vật liệu mà chúng ta biết đến nay. Nhờ
các tính chất nổi trội mà loại vật liệu này đã được nghiên
cứu ứng dụng vào nhiều lĩnh vực khác nhau, đặc biệt cho
ngành điện tử như điện tử nano [5] và điện tử sinh học [6].
Tuy nhiên lĩnh vực ứng dụng còn phụ thuộc vào chất lượng
của graphene thu được, thông thường graphene có chất
lượng cao và ít lớp sẽ được sử dụng để chế tạo các linh kiện
điện tử với kích thước nanomet [7], chế tạo vật liệu siêu dẫn
[8], sử dụng làm vật liệu lưu trữ hydro. Với graphene có
chất lượng thấp hơn, số lớp nhiều (đa lớp) sẽ được sử dụng
làm chất mang cho xúc tác trong các phản ứng hóa học [9]
hay được sử dụng như những hợp phần trong vật liệu
composite nhằm gia tăng một số tính chất cơ lý [10].
Cho đến nay đã có rất nhiều phương pháp khác nhau
nhằm chế tạo hay tổng hợp vật liệu graphene như: Phương
pháp cắt vi cơ (micromechanical cleavage) [1], phương
pháp bóc tách hóa học (chemical exfoliation) [11], phương
pháp bóc tách bằng cách sử dụng sóng siêu âm tác động lên
graphite được phân tán trong dung môi như N-methyl-
pyrrolidone [7]. Những phương pháp vừa nêu có đặc điểm
chung là sử dụng graphite làm vật liệu ban đầu để tạo ra
sản phẩm, nên được gọi chung là quá trình từ trên xuống
(top-down process). Cùng với quá trình này thì quá trình từ
dưới lên (bottom-up process) hay còn gọi phương pháp
epitaxy cũng được sử dụng phổ biến trong tổng hợp
graphene. Bản chất của phương pháp epitaxy là tạo màng
đơn tinh thể trên bề mặt chất nền được chọn.
Phương pháp epitaxy được một số tác giả sử dụng chế tạo
graphene trên chất nền là silicon carbua (SiC), khi nhiệt đủ
lớn, do silic kém bền nhiệt hơn carbon nên chúng sẽ thăng hoa
trước, khi đó các nguyên tử carbon trên bề mặt vật liệu sẽ phân
bố lại và liên kết với nhau trong quá trình graphite hóa để tạo
thành lớp carbon mới. Khi khống chế tốt sự thăng hoa của silic
thì quá trình graphite hóa sẽ tạo thành một lớp carbon, đó
chính là tấm graphene [12]. Phương pháp epitaxy cũng được
sử dụng rộng rãi bởi nhiều nhóm nghiên cứu để tổng hợp
graphene trên bề mặt của các kim loại chuyển tiếp như nicken,
đồng bằng phương pháp kết tụ hóa học trong pha hơi (CVD)
với nguồn carbon khác nhau [13-15]. Ở phương pháp CVD,
khi dùng nhiệt để phân hủy nguồn carbon ở nhiệt độ cao sẽ
tạo ra được các nguyên tử carbon. Các nguyên tử carbon này
có thể thâm nhập vào sâu bên trong đế kim loại, sau đó khi
làm lạnh với một tốc độ phù hợp thì các nguyên tử carbon sẽ
khuếch tán trở lại bề mặt và liên kết với nhau để hình thành
nên lớp graphene. Phương pháp này có ưu điểm lớn là tạo ra
lớp graphene ít bị sai hỏng trong cấu trúc. Trong thực tế, mỗi
một phương pháp tổng hợp đều có những ưu và nhược điểm
riêng, do đó tùy thuộc vào mục đích sử dụng mà người ta sẽ
lựa chọn phương pháp nhằm sản xuất graphene phù hợp với
ứng dụng đã được xác định trước. Trong thực tế, vật liệu
graphene đơn lớp rất khó sản xuất và thao tác, do đó giá thành
thường rất cao. Để khắc phục điều này, các nhà khoa học đã
nghiên cứu sản xuất và sử dụng graphene đa lớp (few layer
graphene - FLG). Các kết quả công bố cho thấy khi số lớp
graphene trong vật liệu được khống chế trong một giới hạn
nhất định thì các tính chất ưu việt của graphene vẫn được đảm
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 85
bảo [2]. Việc sử dụng FLG thay cho graphene đơn lớp sẽ giúp
cho quá trình chế tạo và thao tác chúng được dễ dàng hơn, do
đó giá thành sẽ thấp hơn. Ở nghiên cứu này, nhóm tác giả đã
sử dụng phương pháp CVD để tổng hợp graphene đa lớp trên
nền đồng với nguồn carbon là ethanol có nồng độ khác nhau.
Sản phẩm thu được sẽ được đánh giá đặc trưng bằng một số
phương pháp phân tích hóa lý hiện đại như chụp ảnh bằng
kính hiển vi điện tử quét (SEM) và đo quang phổ Raman nhằm
đánh giá hình thái bên ngoài của sản phẩm và cấu trúc tinh thể
của mạng lưới graphene.
2. Thực nghiệm
2.1. Nguyên vật liệu ban đầu
Hóa chất và xúc tác: axit HCl nồng độ 36-38% (Xilong
chemical Co., Ltd, China), Acetone với độ tinh khiết 99%
thể tích (Đức Giang, Hà Nội, Việt Nam), Ethanol với độ
tinh khiết 99,7% thể tích (Đức Giang, Hà Nội, Việt Nam),
lá đồng có độ dày 25 μm với độ tinh khiết 99,98% (Sigma-
Aldrich Co., USA).
2.2. Quá trình tổng hợp
Lá đồng được cắt với kích thước 10×10 mm2 và rửa sạch
bề mặt bằng acetone rồi sấy khô, đặt nằm ngang trên thuyền
sứ ở giữa ống quartz có chiều dài 1200 mm, đường kính
45 mm đã được đặt trong lò gia nhiệt như trình bày trên Hình 1.
Hình 1. Sơ đồ đơn giản thiết bị tổng hợp
Quá trình tổng hợp được tiến hành như sau: trước hết,
toàn bộ hệ thống được đuổi không khí bằng dòng khí
argonvới lưu lượng 200 ml/phút trong 60 phút để loại bỏ
toàn bộ oxy trong hệ thống. Tiếp theo, hệ thống thiết bị phản
ứng được gia nhiệt bằng điện thông qua bộ điều chỉnh với
tốc độ gia nhiệt là 100C/phút đến nhiệt độ mong muốn
(9000C). Khi lò đạt đến nhiệt độ thì hỗn hợp khí H2 và Ar
được đưa qua lưu lượng kế để điều chỉnh lưu lượng với tỷ lệ
thích hợp rồi dẫn vào thiết bị tổng hợp để thực hiện quá trình
khử oxit đồng nhằm chuyển oxit về đồng kim loại làm chất
xúc tác cho quá trình tổng hợp. Sau quá trình khử, dòng khí
được cho sục qua bình đựng ethanol có nồng độ khác nhau
nhằm lôi cuốn ethanol và hơi nước vào trong thiết bị tổng
hợp. Bình chứa ethanol được sử dụng ở nghiên cứu này là
bình hai cổ, một cổ có ống dẫn nhằm đảm bảo cho hỗn hợp
khí được sục vào trong ethanol, cổ còn lại để dẫn hỗn hợp
khí và hơi vào thiết bị tổng hợp. Sau thời gian tổng hợp
(10 phút), ngừng cung cấp nguồn carbon và tiến hành giảm
nhiệt độ của hệ thống. Để có thể kiểm soát được tốc độ quá
trình làm lạnh, nhóm nghiên cứu đã tiến hành làm lạnh cả
bên trong (sử dụng khí argon) và bên ngoài ống (dùng không
khí nén thổi qua), khi nhiệt độ của hệ thống về đến nhiệt độ
phòng ngừng làm lạnh và đưa sản phẩm ra ngoài.
2.3. Đánh giá đặc tính của sản phẩm
Sản phẩm thu được đã được phân tích bằng ảnh SEM
trên thiết bị Jeol 6010LV nhằm xem xét hình thái bề mặt
của sản phẩm. Quang phổ Raman được đo trên máy
RENISHAW ở cường độ bức xạ 532nm nhằm đánh giá
chất lượng của sản phẩm.
3. Kết quả và thảo luận
Ở nghiên cứu này, nhóm tác giả đã tiến hành tổng hợp
03 mẫu ở nhiệt độ 900oC trong thời gian 10 phút với thành
phần hỗn hợp khí, nồng độ ethanol trong bình chứa khác
nhau, các mẫu được ký hiệu là M1, M2, M3 như trình bày
trong Bảng 1.
Bảng 1. Các thông số của quá trình tổng hợp
Ký hiệu mẫu
Điều kiện M1 M2 M3
Nồng độ ethanol (% thể tích) 1 0,75 0,65
H2 (ml/phút) 20 20 20
Ar (ml/phút) 200 200 200
Để đánh giá tính chất của sản phẩm thu được, trước hết
nhóm tác giả đã tiến hành chụp ảnh SEM của các mẫu, kết
quả được trình bày trên Hình 2. Quan sát ảnh SEM thu
được cho thấy, khi nồng độ của ethanol được sử dụng giảm
từ 1 đến 0,65% thể tích thì bề mặt của sản phẩm thu được
nhẵm hơn và giảm dần các hạt carbon nằm lại trên bề mặt.
Hình 2. Ảnh SEM của lá đồng và các mẫu M1, M2, M3
Để có thể khẳng định sản phẩm thu được chính là
graphene đa lớp, nhóm nghiên cứu đã tiến hành phân tích
các mẫu bằng quang phổ Raman, kết quả được trình bày
trên Hình 3.
Hình 3. Quang phổ Raman của sản phẩm
86 Trương Hữu Trì, Lê Gia Trung, Phan Thanh Sơn, Nguyễn Đinh Lâm
Quang phổ Raman là phương pháp phân tích được sử
dụng rất phổ biến trong đánh giá chất lượng và đặc trưng
của graphene hay graphene đa lớp (FLG) [13-18]. Theo các
kết quả công bố cho thấy, trong độ dịch chuyển Raman từ
1200 đến 3000cm-1 sẽ có 03 pic đặc trưng đối với vật liệu
graphene, đỉnh D (ở số sóng 1350cm-1), đỉnh G (ở số sóng
1585cm-1), đỉnh 2D (ở số sóng 2793cm-1). Các nghiên cứu
đã chỉ ra rằng: Đỉnh D đặc trưng cho mức độ sai hỏng trong
cấu trúc mạng lưới tinh thể, đỉnh G đặc trưng cho mức độ
tinh khiết và trật tự của mạng lưới cấu trúc trong mỗi lớp
graphene, đỉnh 2D đặc trưng cho số lớp của graphene
[15,16]. Từ kết quả nghiên cứu này, các nhà khoa học đã
sử dụng tỷ lệ cường độ ID/IG (với ID và IG là cường độ pic
tại đỉnh D và đỉnh G của vật liệu) để đánh giá chất lượng
hay mức độ khuyết tật trong mạng lưới cấu trúc của
graphene, khi tỷ lệ này càng nhỏ thì graphene mức độ
khuyết tật càng nhỏ và độ tinh sạch của sản phẩm càng cao.
Giá trị tỷ lệ cường độ I2D/IG (với I2D và IG là cường độ pic
tại đỉnh 2D và đỉnh G của vật liệu) đánh giá graphene đơn
lớp hay đa lớp, khi giá trị này càng cao thì số lớp graphene
trong sản phẩm càng nhỏ và ngược lại.
Kết quả tính toán tỷ lệ cường độ ID/IG của các mẫu tổng
hợp ở nghiên cứu này và kết quả của các nhóm nghiên cứu
khác được trình bày trong Bảng 2.
Bảng 2. Tỷ lệ cường độ ID/IG của một số kết quả khác nhau
Tính chất
Mẫu, Tác giả
Chất nền mang
graphene hoặc
FLG
Tỷ số
ID/IG
Tài liệu
tham khảo
M1 Cu 0,39 Kết quả thu
được ở nghiên
cứu này
M2 Cu 0,33
M3 Cu 0,29
Alexandra và
cộng sự
Thủy tinh 0,35-0,61 [18]
Dong và cộng sự Cu 0,26 [16]
Li và cộng sự Cu 0,23; 0,26 [15]
Từ kết quả ở Bảng 2 cho thấy khi giảm nồng độ của
ethanol trong bình chứa hay nồng độ carbon trong môi
trường phản ứng thì giá trị của ID/IG cũng giảm đi tương ứng
từ 0,39 đến 0,29. Với kết quả này cho phép khẳng định lại
kết quả về độ sạch thu được ở hình ảnh SEM. So sánh giá trị
ID/IG thu được ở nghiên cứu này với các kết quả từ các công
bố khác cho thấy giá trị thu được ở nghiên cứu này rất gần
với các kết quả công bố khác nên có thể khẳng định mẫu thu
được có độ sạch tốt và mức độ sai hỏng trong cấu trúc mạng
lưới tinh thể nhỏ hay sản phẩm có chất lượng cao.
Bảng 3. Tỷ lệ cường độ I2D/IG của một số kết quả khác nhau
Tính chất
Mẫu, Tác giả
Tỷ số I2D/IG Tài liệu tham
khảo Chất nền của
graphene hoặc FLG 1 lớp 2 lớp 3 lớp 4 lớp
Nhiều lớp
(multilayer)
M1 Cu 0,24 Kết quả thu
được ở nghiên
cứu này
M2 Cu 0,39
M3 Cu 0,49
Li và cộng sự Cu 2,07 1,3 0,22 [15]
Dong và cộng sự Cu 2,2 1,17 0,41 [16]
Alexandra và cộng sự Thủy tinh 0,28 [18]
Nan và cộng sự - 0,53; 0,64 [19]
Tiếp tục tính toán tỷ lệ cường độ I2D/IG của các mẫu
tổng hợp ở nghiên cứu này và của các nhóm nghiên cứu
khác, kết quả được trình bày trong Bảng 3. Từ kết quả được
công bố của các nhóm nghiên cứu khác nhau cho thấy,
graphene đơn lớp luôn có tỷ số I2D/IG cao nhất, giá trị này
giảm rất nhanh khi số lớp tăng lên. So sánh các giá trị của
tỷ số I2D/IG thu được ở nghiên cứu này với các kết quả của
các nhóm nghiên cứu khác, cho phép khẳng định sản phẩm
được tổng hợp ở nghiên cứu này là graphene đa lớp. Đối
với các mẫu được tổng hợp ở nghiên cứu này thì khi nồng
độ ethanol trong bình chứa hay nồng độ carbon trong môi
trường phản ứng giảm thì tỷ số I2D/IG tăng lên, do đó có thể
khẳng định số lớp graphene trong sản phẩm sẽ giảm xuống.
4. Kết luận
Ở nghiên cứu này, nhóm tác giả đã bước đầu đã xây
dựng thành công quy trình tổng hợp graphene cho phép thu
được sản phẩm graphene đa lớp, với chất lượng cao. Kết
quả thu được cũng cho thấy nồng độ carbon trong môi
trường phản ứng ảnh hưởng rất lớn đến không chỉ chất
lượng sản phẩm mà cả số lớp graphene trong sản phẩm.
Tuy nhiên, để có thể xác định được cụ thể về số lớp trong
sản phẩm thì cần có sử dụng những phân tích khác như kính
hiển vị điện tử truyền qua (TEM) hay kính hiển vi lực
nguyên tử (AFM). Ngoài ra, kết quả này đã mở ra cho
nhóm nghiên cứu những bước tiếp theo về khả năng nghiên
cứu khảo sát điều kiện tiến hành thí nghiệm để có thể khống
chế được số lớp graphene trong mỗi sản phẩm tổng hợp.
TAI LIỆU THAM KHẢO
[1] Novoselov, K. S.; Geim, A. K.; Morozov, S. V.; Jiang, D.; Zhang,Y.;
Dubonos, S. V.; Grigorieva, I.V.; Firsov, A. A., “Electric field Effect in etomically thin carbon films”. Science, Vol.306, (2004) p.666-669.
[2] Jian Ru Gong, Graphene - Synthesis, characterization, properties
and applications, Janeza Trdine 9, 51000 Rijeka, Croatia, 2011.
[3] Balandin, A. A.; Ghosh, S.; Bao, W.; Calizo, I.; Teweldebrahn, D.;
Miao, F.; Lau, C. N. “Superior thermal tonductivity of single layer
graphene”, Nano Letters, Vol.8 (2008), p.902-907.
[4] Q.Shao, G.Liu, D.Teweldebrhan, A.A.Balandin, “High-temperature
quenching of electrical resistance in graphene Interconnects”, Appl.
Phys. Lett, 92(20), 2008, p.202108.
[5] Kristóf Tahy, et al., Graphene Transistors, University of Notre
Dame, USA, 2011.
[6] Guo Shirui, Graphene-based Material Systems for
Nanoelectronicsand Energy Storage Devices, University of
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 87
California, USA, 2013.
[7] Blake P, Brimicombe PD, Nair RR, Booth TJ, Jiang D, Schedin F,
Ponomarenko LA, Morozov SV, Gleeson HF, Hill EW, Geim AK,
Novoselov KS, “Graphene-based liquid crystal device”, Nano Lett, Vol. 8(6) (2008), p.1704-1708.
[8] Stoller MD, Park S, Zhu Y, An J, Ruoff RS, “Graphene-based
ultracapacitors”, Nano Lett, Vol. 8(10) (2008), p.3498-3502
[9] Tri Truong-Huu, Kambiz Chizari, Izabela Janowska, Maria Simona
Moldovan, Ovidiu Ersen, Lam D. Nguyen, Marc J. Ledoux, Cuong
Pham-Huu, Dominique Begin, “Few-layer graphene supporting
palladium nanoparticles with a fully accessible effective surface for liquid-phase hydrogenation reaction”, Catalysis Today, Vol.189
(2012), p.77-82.
[10] Sasha Stankovich, Dmitriy A. Dikin, Geoffrey H. B. Dommett,
Kevin M. Kohlhaas, Eric J. Zimney, Eric A. Stach, Richard D. Piner, SonBinh T. Nguyen and Rodney S. Ruoff, “Graphene-based
composite materials”, Nature, Vol.442 (2006), p. 282-286.
[11] Eda, G.; Fanchini, G.; Chhowalla, M, “Large-area ultrathin films of
reduced graphene oxide as a transparent and flexible electronic
material” Nat. Nanotechnol, Vol.3 (2008), p.270-274.
[12] Claire Berger, Zhimin Song, Tianbo Li, Xuebin Li, Asmerom Y.
Ogbazghi, Rui Feng, Zhenting Dai, Alexei N. Marchenkov, Edward H. Conrad, Phillip N. First, and Walt A. de Heer,
“Ultrathin epitaxial graphite: 2D electron gas properties and a
route toward graphene-based nanoelectronics”, J. Phys. Chem. B. Vol.108(2004), p.19912-19916.
[13] Bhaviripudi, S., Jia, X., Dresselhaus, M. S., and Kong, J., “Role of
kinetic Factors in chemical vapor deposition synthesis of uniform large area graphene using copper catalyst”, Nano Letters, Vol.10
(2010), p.4128-4133.
[14] Xuesong Li, Weiwei Cai, Jinho An, Seyoung Kim, Junghyo Nah,
Dongxing Yang, Richard Piner, Aruna Velamakanni, Inhwa Jung,
Emanuel Tutuc, Sanjay K. Banerjee, Luigi Colombo, Rodney S. Ruoff, “Large-Area Synthesis of High-Quality and Uniform Graphene
Films on Copper Foils”. Science, Vol.324 (2009), p.1312-1314.
[15] Xiao chen Dong, Peng Wang, Wenjing Fang, Ching-Yuan Su, Yu-
Hsin Chen, Lain-Jong Li d, Wei Huang, Peng Chen, “Growth of
large-sized graphene thin-films by liquid precursor-based chemical vapor deposition under atmospheric pressure”, Carbon, Vol.49
(2011), p.3672-3678.
[16] Ying ying Wang, Zhen hua Ni, Ting Yu, Ze Xiang Shen, Hao min
Wang, Yi hong Wu, Wei Chen and Andrew Thye Shen Wee, “Raman Studies of Monolayer Graphene: The Substrate Effect”, J.
Phys. Chem. C 2008, 112, p.10637-10640.
[17] Alexandra S. Pavlova, Ekaterina A. Obraztsova, Alexey V.Belkin,
Christelle Monat, Pedro Rojo-Romeo, Elena D. Obraztsova.
“Liquid-phase exfoliation of flaky graphite”. Journal of Nanophotonics Vol. 10 (1) (2006), p.012525-1 - 012525-10.
[18] Li N, Wang Z Y, Zhao K K, Shi Z J, Gu Z N, Xu S K. (2010a). Large
scale synthesis of N-doped multi-layered graphene sheets by simple
arc-discharge method. Carbon, Vol.48, 1, p.255-259.
(BBT nhận bài: 10/7/2017, hoàn tất thủ tục phản biện: 24/7/2017)
88 Hà Duyên Trung, Nguyễn Tiến Hòa, Đỗ Trọng Tuấn
PHƯƠNG PHÁP TRUYỀN DỮ LIỆU GIỮA HAI ĐIỆN THOẠI THÔNG MINH
QUA MÔI TRƯỜNG ÁNH SÁNG NHÌN THẤY
A DATA TRANSMISSION METHOD BETWEEN TWO SMARTPHONES OVER VISIBLE
LIGHT COMMUNICATION CHANNELS
Hà Duyên Trung, Nguyễn Tiến Hòa, Đỗ Trọng Tuấn
Viện Điện tử Viễn thông, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội; [email protected]
Tóm tắt - Trong bài báo này, chúng tôi đề xuất một phương pháp tách dữ liệu mới sử dụng trong hệ thống truyền dẫn dữ liệu giữa hai điện thoại thông minh sử dụng hệ điều hành Android qua môi trường ánh sáng nhìn thấy. Chúng tôi lần lượt trình bày trong hệ thống thiết kế này, đầu tiên dữ liệu được mã hóa thành các hình ảnh. Tiếp đến, các hình ảnh này được hiển thị trên màn hình máy phát để truyền qua kênh truyền ánh sáng VLC. Sau đó, camera của máy thu sẽ tiếp nhận các ảnh này ở khoảng cách từ 10 đến 35 cm và cuối cùng giải mã khung để tách các dữ liệu ban đầu. Hệ thống tự thiết kế và phát triển của chúng tôi được thực thi trên nền tảng Android. Các kết quả thực nghiệm đã đánh giá được về tỷ lệ lỗi bit (BER) dưới tác động của các tham số khác nhau về cường độ sáng của màn hình máy phát, khoảng cách truyền dẫn và nhiễu môi trường gây ra bởi ánh sáng ngoài.
Abstract - In this paper, we propose a new detection approach for a data transmission system between two Android smart-phones over visible light communications (VLC) channels. In the designed system, data is firstly encoded into images. Secondly, these images are displayed on the flashing transmitter’s screen for transmitting over VLC channels. The receiver’s camera then captures the flashing images from the transmitter at distances of 10÷35 cm and finally decodes a frame subtraction to detect the transmitted data. The designed system is implemented and deve-lopped on Android operating platform. Practical experiments are implemented to evaluate bit error rate (BER) performance under the effect of several parameters on the data detection such as the bright-ness of the flashing transmitter’s screen, the transmitting distance and interference caused by the lux of lighting sources.
Từ khóa - điện thoại thông minh; Android; thông tin ánh sáng nhìn thấy; xử lý ảnh; tỷ lệ lỗi Bit (BER).
Key words - Smartphone; Android; visible light communications; image processing; Bit Error Rate (BER).
1. Giới thiệu
Ngày nay các thiết bị điện tử nói chung và điện thoại
thông minh nói riêng thực hiện truyền dẫn dữ liệu bằng
sóng vô tuyến điện từ, nó cho phép thực hiện kết nối ở tốc
độ tới Gbps trong môi trường fa-đing. Tuy nhiên, khi nhu
cầu truyền dữ liệu không dây tăng lên thì phổ tần số vô
tuyến sẽ dự báo sẽ dần cạn kiệt [1]. Thêm vào đó, do tác
động gây nhiễu sóng điện từ lẫn nhau giữa các thiết bị đầu
cuối sẽ làm ảnh hưởng tới những môi trường sử dụng có
tính đặc thù như trong bệnh viện hay trên máy bay [2].
Công nghệ truyền thông sử dụng ánh sáng nhìn thấy
VLC (Visible Light Communications) đã và đang được cho
là một công nghệ rất hấp dẫn ở những môi trường mà nhiễu
sóng điện từ là một vấn đề cần giải quyết [3], [4]. Thêm
nữa, trong khu vực yêu cầu bảo mật thông tin được đặt lên
hàng đầu như an ninh quốc phòng thì công nghệ này cho
phép tạo ra các kênh thông tin an toàn trong các môi trường
văn phòng hoặc toà nhà. Trong những năm gần đây, đã có
nghiên cứu về điện thoại thông minh có khả năng xử lý dữ
liệu thông tin từ nguồn ánh sáng của bộ đèn LED thông qua
cảm biến CMOS [5]-[8]. Picapi Camera của Casio [5] sử
dụng các chấm nhấp nháy trên màn hình hoặc nhấp nháy
ánh sáng màu để chuyển tải một lượng nhỏ dữ liệu. Tốc độ
dữ liệu rất thấp và đèn truyền cần phải có ánh sáng đặc biệt
để thay đổi màu sắc đỏ, xanh lục và xanh dương (RGB).
Các tác giả trong [6] đã khai thác hiệu ứng màn trập lăn
(rolling shutter) của cảm biến camera của máy thu và mã
hóa Manchester để liên tục tiếp nhận những thay đổi trạng
thái bật-tắt (on-off) của ánh sáng được phát đi từ đèn LED.
Để giải mã, camera chụp ảnh từ một bề mặt phản chiếu để
lấp đầy toàn bộ ảnh. Bằng cách tận dụng lợi thế của các
hàng khác nhau của điểm ảnh chụp vào thời điểm khác
nhau, phương pháp này cho tốc độ dữ liệu đạt được cao hơn
tốc độ khung hình camera và có thể đạt tốc độ dữ liệu là
3,1 kbps. Tuy nhiên, khi bề mặt phản xạ không đều và phức
tạp thì phương pháp này không còn phù hợp. Phương pháp
tiếp cận tương tự [6] được tác giả P. Ji và cộng sự đề xuất
sau đó trong [7] trên nền tảng iOS khi truyền dữ liệu giữa
ánh sáng phương tiện giao thông và camera điện thoại
thông minh (Vehicular VLC). Kết quả từ mẫu thử nghiệm
(prototype) thực tế chỉ ra ở khoảng cách tối đa 40cm cho tỷ
lệ lỗi bit (bit-error-rate, BER) là 0,72% và lỗi phát hiện
khung hình (frame-detection-error) là 1,7%. Tiếp theo đó,
cũng bằng phương pháp sử dụng cảm biến CMOS, tác giả
T.-H. Do và M. Yoo trình bày trong [8] phương pháp phân
tính toán học kết hợp mô phỏng về chất lượng tín hiệu trên
nhiễu (gồm nhiễu liên ký tự và nhiễu môi trường) nhận
được và tốc độ dữ liệu có xem xét đến tác động của các
tham số hệ thống như phép đo trắc quang, vận hành máy
ảnh, xử lý nhiếp ảnh và hình ảnh. Tuy nhiên, tất cả các
nghiên cứu trên chỉ tập trung vào các xử lý ảnh bên thu khi
tín hiệu được phát đi bằng mã hóa khóa bật-tắt (on-off
keying) ánh sáng từ các đèn LED đơn.
Đã có một số nghiên cứu gần đây đề cập tới việc sử
dụng mảng ma trận LED hay màn hình LCD của điện thoại
thông minh như là một thiết bị phát dữ liệu qua môi trường
ánh sáng nhìn thấy [9]-[11]. Tác giả trong [9] trình bày một
thử nghiệm hệ thống truyền dữ liệu giữa một máy phát
16×16 LEDs và một webcam thương mại để phát hiện và
tách dữ liệu khung hình ảnh phát đi. Bên thu sử dụng
phương pháp tách đường viền dựa trên phép biến đổi
Hough [10] để đạt tốc độ dữ liệu 15 bps trong phạm vi
0,5m-2m. Các tác giả trong [11] trình bày về dung lượng
đường truyền khi sử dụng camera của điện thoại thông
minh, xem xét đến sự thay đổi về cảm nhận của máy thu về
khoảng cách và góc truyền dẫn so với máy phát. Khi đó
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 89
dung lượng ước tính có thể đạt được tới hàng chục Mbps.
Tuy nhiên, mô hình nghiên cứu trong phòng thí nghiệm này
không đề cập tới nhiễu do ánh sáng của môi trường tác
động lên chất lượng truyền dữ liệu.
Gần đây nhất, tác giả Boubezari và các cộng sự đã trình
bày trong [12] một hệ thống truyền dẫn VLC giữa màn hình
và camera của điện thoại thông minh. Kỹ thuật SURF
(speeded up robust features) được sử dụng để giải mã hình
ảnh tại bên thu, xem xét đến suy hao đường truyền và nhiễu
liên ký tự ISI (inter-symbol interference). Tuy nhiên,
phương pháp tách hình ảnh dữ liệu này gặp phải trở ngại
khi tăng khoảng cách truyền dẫn do máy thu không thể tìm
được đủ các điểm khóa (keypoint) để thực hiện việc cắt
khung dữ liệu. Xuất phát từ vấn đề này, trong bài báo này
chúng tôi đề xuất sử dụng một phương pháp tách hình ảnh
dữ liệu mới để quá trình khôi phục được linh hoạt hơn.
Các đóng góp chính của bài báo gồm: (1) Phát triển mô
hình hệ thống truyền dữ liệu giữa hai điện thoại thông minh
qua kênh truyền có nhiễu môi trường và (2) Giải quyết một số
vấn đề cải thiện chất lượng tách dữ liệu ảnh bên thu sử dụng
ngưỡng Ohtsu dưới tác động của nhiễu ánh sáng môi trường.
2. Thiết kế hệ thống
Trong phần này, chúng tôi lần lượt trình bày chi tiết quá
trình thiết kế hệ thống, các thuật toán mã hóa dữ liệu bên
phát và xử lý khôi phục dữ liệu bên thu do chúng tôi tự phát
triển và được ứng dụng trực tiếp trên điện thoại thông minh.
2.1. Mô hình hệ thống
Tx
Light beam
Rx
Hình 1. Mô hình truyền dẫn dữ liệu
Hình 2. Sơ đồ chi tiết quá trình truyền dẫn dữ liệu
Mô hình truyền dẫn dữ liệu giữa thiết bị phát (Tx) và
thiết bị thu (Rx) qua môi trường ánh sáng nhìn thấy như
trên Hình 1. Trong đó, dòng dữ liệu truyền đi từ Tx sẽ được
mã hóa thành các dòng bits “0” và “1” và được sắp xếp
thành ma trận có kích thước M×N với M và N là độ phân
giải màn hình của Smartphone. Để đơn giản, ma trận bits
này sẽ được mã hóa thành hình ảnh bitmap với hai màu cơ
bản tương ứng là đen và trắng, và nó sẽ được hiển thị lên
màn hình của Tx. Khi bắt đầu một phiên truyền dữ liệu,
Tx sẽ phát ra một khung phát hiện bắt đầu, tiếp theo sau sẽ
là các khung chứa dữ liệu đã được mã hóa. Khi kết thúc,
Tx sẽ phát ra khung phát hiện kết thúc. Khung phát hiện
bắt đầu, và khung phát hiện kết thúc, sẽ được tạo ra một
cách ngẫu nhiên, và cố định sẵn ở trong ứng dụng, để tạo
sự đồng bộ khi thực hiện phiên truyền dữ liệu. Ở phía thu,
camare của thiết bị thu (Rx) sẽ có nhiệm vụ bắt những hình
ảnh của Tx để phục vụ việc phát hiện và khôi phục dữ liệu
(Hình 2).
Như vậy, quá trình truyền dẫn được chia làm 5 giai đoạn
chính: Mã hóa dữ liệu đầu vào, hiển thị hình ảnh trên màn
hình máy phát, thu nhận hình ảnh bên máy thu, xử lý và
khôi phục dữ liệu từ các khung ảnh chứa dữ liệu. Trong đó
hai giai đoạn mã hóa dữ liệu và hiển thị hình ảnh sẽ thuộc
phần xử lý của máy phát, nhiệm vụ của máy phát sẽ bao
gồm phần mã hóa dữ liệu từ dạng văn bản đầu vào thành
các dòng dữ liệu nhị phân, sau đó sẽ được mã hóa thành
các hình ảnh dữ liệu mã hóa. Máy thu bao gồm các thành
phần thu nhận hình ảnh, xử lý ảnh và khôi phục dữ liệu.
Mỗi phiên truyền có sự tham gia của hai thành phần hiển
thị hình ảnh và thu nhận hình ảnh. Chúng tôi sẽ lần lượt mô
tả các quá trình này ở phần tiếp theo của bài báo này.
2.2. Thiết bị phát (Tx)
2.2.1. Mã hóa dữ liệu văn bản thành dữ liệu bit
Người dùng thao tác với bàn phím nhập vào dữ liệu
hoặc duyệt các thư mục trong bộ nhớ của máy để chọn tập
tin dữ liệu cần gửi. Kiểu dữ liệu mà ứng dụng hỗ trợ trong
phạm vi bài báo này là kiểu văn bản (*.txt). Quá trình mã
hóa dữ liệu văn bản thành các bit 0 và 1, tương ứng với các
cell đen và trắng của hình ảnh được hiển thị trên màn hình
máy phát trong quá trình truyền. Ứng dụng hỗ trợ dữ liệu
đầu là ngôn ngữ tiếng Việt hoặc tiếng Anh. Các ký tự sẽ
được mã hóa theo bảng mã ASCII mở rộng. Theo đó, với
mỗi ký tự cần 8 bit để mã hóa, vì thế có tối đa 256 (28) kí
tự được mã hóa, phần lớn bao gồm các kí tự Latin, các chữ
số cùng các kí tự thông dụng (!”#&%...). Với các kí tự đặc
biệt ở bảng mã Unicode không nằm trong phạm vi của bảng
mã ASCII mở rộng, trước tiên cần phải biểu diễn các kí tự
này bằng các kí tự nằm trong mã ASCII mở rộng. Một kí
tự Unicode sẽ được mã hóa thành chuỗi 8 bit sử dụng bảng
mã ASCII mở rộng. Với ngôn ngữ JAVA của Android, các
kí tự Tiếng Việt không có trong bảng mã ASCII mở rộng
được mã hóa dưới dạng chuỗi: “\u + mã hex của kí tự nằm
trong bảng mã Unicode”. Như vậy, những kí tự có giá trị
mã ASCII mở rộng tương ứng nhỏ hơn 256 sẽ được mã hóa
bằng 8 bit của mã ASCII mở rộng. Đối với những kí tự có
giá trị mã lớn hơn 256, tức là không nằm trong bảng mã
ASCII mở rộng, trước tiên được chuyển về mã dạng JAVA
rồi sau đó mới mã hóa thành chuỗi bit nhị phân.
Tóm lại, đối với dữ liệu văn bản tiếng Anh, mỗi ký tự
sẽ được mã hóa trực tiếp sang mã ASCII nhị phân 8 bit.
Đối với dữ liệu văn bản tiếng Việt, các ký tự nằm ngoài
bảng mã ASCII mở rộng sẽ được chuyển sang mã JAVA
trước khi được mã hóa thành các bit nhị phân mã ASCII.
2.2.2. Ảnh dữ liệu mã hóa
Dữ liệu đầu vào của quá trình này là dữ liệu dạng dòng
bit thu được từ quá trình mã hóa dữ liệu như đã trình bày ở
trên. Quá trình mã hóa văn bản thành hình ảnh được thực
hiện như trên Hình 3 (a). Dữ liệu dạng văn bản sẽ được
chuyển thành các bit nhị phân, mỗi bit này sẽ tương ứng với
một cell đen hoặc trắng trên ảnh đầu ra. Kích thước của một
cell ảnh là 10×10 pixel (100 pixel), việc sử dụng cell ảnh lớn
90 Hà Duyên Trung, Nguyễn Tiến Hòa, Đỗ Trọng Tuấn
sẽ tăng độ chính xác của việc truyền dữ liệu với những
khoảng cách xa. Tuy nhiên, kích thước cell lớn đồng nghĩa
với việc biểu diễn được ít dữ liệu hơn trên cùng một bức ảnh.
Ảnh chứa dữ liệu sau khi chuyển đổi các bit thành các cell
đen, trắng (Hình 3 (b)). Các ảnh này sẽ được hiển thị trên
màn hình máy phát Tx trong quá trình truyền dữ liệu.
a) Giải thuật b) Hình ảnh mã hóa
Hình 3. Giải thuật mã hóa dữ liệu bit thành hình ảnh
2.3. Thiết bị thu (Rx)
2.3.1. Thu nhận hình ảnh
Camera máy thu Rx đảm nhận nhiệm vụ thu các khung dữ
liệu. Trong quá trình truyền-nhận, với mỗi khung hình thu
được, Rx cần kiểm tra đó có phải là khung kết thúc hay không.
Nếu đó không phải khung kết thúc, tức là vần còn dữ liệu cần
truyền, Rx sẽ phát tín hiệu ACK qua đèn flash, báo hiệu cho
bên phát hiển thị khung dữ liệu tiếp theo. Phiên truyền chỉ kết
thúc sau khi máy thu nhận được khung “kết thúc” từ màn hình
máy phát (Hình 4). Với các khung ảnh thu được, Rx sẽ chuyển
sang giai đoạn xử lý và khôi phục dữ liệu.
Hình 4. Sơ đồ giải thuật thu hình ảnh ở bên nhận
Cách để phát hiện khung “kết thúc” dựa trên phương
pháp tìm đường viền (contour) của các vật thể có trong
khung ảnh. Với điện thoại Android, ảnh thu được từ camera
ở định dạng YUV420 sẽ được chuyển sang ảnh mức xám.
Việc chuyển đổi này là cần thiết vì khung ảnh cần thu chỉ
chứa 2 màu đen và trắng, hơn nữa xử lý với ảnh mức xám
sẽ thuận lợi hơn (Hình 5). Sau đó tiến hành nhị phân ảnh
xám. Quá trình nhị phân hóa sẽ biến đổi từng pixel trong
ảnh thành điểm ảnh đen (mức cường độ sáng 0) hoặc điểm
ảnh trắng (mức cường độ sáng 255). Ở đây, chúng tôi sử
dụng phương pháp nhị phân hóa với ngưỡng tự động Otsu
vì phương pháp này có khắc phục được ảnh hưởng của ánh
sáng môi trường [13]. Để tìm đường viền của các vật thể
trong khung hình, ta sẽ sử dụng hàm findContours [14]
trong thư viện OpenCV. Khung hình được coi là khung
hình “kết thúc” khi nó thỏa mãn các điều kiện được quy
định sau: Khung có chứa vật thể có đường viền hình chữ
nhật (gọi là rect). Bên trong rect phải chứa 2 vật thể “con”
có đường viền dạng ngũ giác (5 đỉnh). Và diện tích hình
bao bởi đường viền của rect phải đủ lớn (>1000 pixels).
Nếu nhận thấy hình ảnh “kết thúc”, phiên truyền sẽ
hoàn tất. Dữ liệu thu được từ một phiên truyền gồm có một
hình ảnh “bắt đầu” và các hình ảnh chứa dữ liệu mã hóa.
Với các khung ảnh thu được, bên máy thu sẽ chuyển sang
giai đoạn xử lý và khôi phục dữ liệu.
Hình 5. Quá trình chuyển ảnh màu sang ảnh nhị phân
của ảnh có khung hình “kết thúc”
2.3.2. Xử lý trước khi khôi phục dữ liệu
Dữ liệu hình ảnh được đưa vào quá trình xử lý trước khi
khôi phục dữ liệu, gồm 3 phần:
a. Quá trình 1: Xác định tọa độ khung dữ liệu
Dữ liệu đầu vào camera của thiết bị thu được là các
khung hình, các dữ liệu này đã được lưu dưới dạng ma trận
trong bộ nhớ của ứng dụng. Một điểm ảnh trên hình ảnh
này được đặt trong một hệ tọa độ 2 chiều. Dữ liệu đầu vào
ở bước này là khung “bắt đầu” hình ảnh đầu tiên thu được
từ camera máy thu. Sau đó tọa độ màn hình máy phát được
xác định như sau: Tương tự như quá trình kiểm tra khung
“kết thúc”, khung “bắt đầu” với định dạng YUV420 sẽ
được chuyển đổi thành ảnh nhị phân. Ở đây, hàm
findContours của OpenCV tiếp tục được sử dụng để lấy
được khung dữ liệu. Một điều kiện lọc đưa ra là đường viền
của khung dữ liệu phải có dạng hình chữ nhật có kích thước
lớn (>1000 pixels), bên trong là một đường viền tam giác.
Khi đó, sẽ lọc bỏ những đường viền không mong muốn.
Tọa độ 4 đỉnh của hình chữ nhật chính là tọa độ các
đỉnh của khung dữ liệu. Đến đây có một vấn đề phát sinh
là khi xoay màn hình máy phát ở các vị trí ngang, dọc khác
nhau, làm thế nào để xác định được đúng thứ tự 4 góc trên-
trái, trên-phải, dưới-trái, dưới-phải của khung dữ liệu? Ý
tưởng để xác định vị trí 4 đỉnh: sử dụng một tam giác nhỏ
được đặt gần góc trên-trái khung bắt đầu, tính khoảng cách
từ trọng tâm tam giác này tới 4 đỉnh của khung dữ liệu.
Theo đó, thứ tự tăng dần các khoảng cách sẽ tương ứng với
thứ tự 4 góc là trên-trái, trên-phải, dưới-trái, dưới-phải.
Hình 6 dưới đây cho thấy tọa độ của khung dữ liệu với 4
đỉnh để tiến hành cắt khung dữ liệu.
Hình 6. Tọa độ 4 đỉnh của khung dữ liệu
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 91
b. Quá trình 2: Cắt các khung chứa dữ liệu
Hình 7. Biến đổi Perspective Transform với khung dữ liệu
Với tọa độ 4 đỉnh thu được ở trên, áp dụng phép biến đổi
Perspective Transform [15] ta tiến hành cắt các khung dữ
liệu (Hình 7). Trong không gian thực, đối với các vật thể có
cùng một kích thước ở các vị trí khác nhau trong không gian
ta thấy vật ở gần thì lớn hơn, vật ở xa thì nhỏ hơn, vật ở gần
thì rõ hơn, vật ở xa thì mờ hơn v.v. Đó là do ảnh hưởng của
luật xa gần trong bức ảnh. Khi biểu diễn hình ảnh của một
vật thể trong không gian thực ba chiều lên mặt phẳng hai
chiều thì hình dạng của vật thể đó sẽ bị biến dạng đi so với
thực tế. Trong xử lý ảnh, để khắc phục điều đó, phép biến
đổi Perspective Transform thường được sử dụng [15], [16].
Trong trường hợp đối tượng có hình chữ nhật, ảnh hưởng do
vị trí góc nhìn của mắt người hay camera, sẽ bị biến dạng,
không còn giữ được hình dạng gốc của nó. Để thực hiện phép
biến đổi Perspective Transform đối với khung dữ liệu hình
chữ nhật, bốn góc đỉnh của khung cần được xác định. Bốn
góc này chính là bốn góc thu được từ bước xác định tọa độ
khung dữ liệu ở trên. Kết quả sau bước xử lý này là danh
sách các ảnh chỉ chứa dữ liệu, các ảnh này là đầu vào cho
quá trình khôi phục dữ liệu.
2.3.3. Quá trình 3: Khôi phục dữ liệu
Dữ liệu đầu vào ở giai đoạn này là các khung chứa dữ
liệu mã hóa tách được từ bước cắt khung dữ liệu (Hình 8).
Quá trình nhị phân hóa sẽ biến đổi từng pixel trong ảnh thành
điểm ảnh đen (mức cường độ sáng 0) hoặc điểm ảnh trắng
(mức cường độ sáng 255). Phương pháp nhị phân hóa với
ngưỡng tự động Otsu được dùng do phương pháp này khắc
phục được ảnh hưởng của ánh sáng môi trường ngoài [13].
Kết quả thu được là những hình ảnh khung dữ liệu được
chuyển về ảnh nhị phân với hai màu đen và trắng (Hình 8).
Từ tiến hành bước tiếp theo về giải mã hình ảnh thành các
bit dữ liệu. Dữ liệu đầu vào là các ảnh chứa dữ liệu bit sau
khi nhị phân hóa. Với các hình ảnh nhị phân thu được, chúng
tôi tiến hành giải mã để thu được dữ liệu bit. Cụ thể, chuyển
đổi dữ liệu từ từng cell bằng quy tắc: cell màu đen tương ứng
với bit 0, cell trắng tương ứng với bit 1. Với kích thước một
cell là 10x10 pixel, tương ứng với 100 pixel, cell được cho
là màu đen khi có số lượng điểm ảnh đen (mức sáng 0) lớn
hớn số điểm ảnh trắng (mức sáng 255) và ngược lại. Tiến
hành duyệt từng cell trên bức ảnh, theo thứ tự từ trái qua phải
và từ trên xuống dưới, khi đó thu được bit có giá trị tương
ứng với độ sáng của từng cell. Kết thúc việc giải mã ảnh
chứa dữ liệu thu được chuỗi dữ liệu bit mà ảnh đó biểu diễn.
Hình 8. Nhị phân hóa ảnh và giải mã dữ liệu bit từ hình ảnh
3. Thử nghiệm và kết quả
Chúng tôi đã thực thi ứng dụng trên điện thoại thông
minh hoạt động với hệ điều hành Android, trình biên dịch
là Android Studio của Google. Ứng dụng được tích hợp thư
viện xử lý ảnh OpenCV phiên bản 2.4.10. Ứng dụng được
triển khai trên điện thoại Sony Z1 Compact với hệ điều
hành Android 5.1.1 và HTC One E8 với hệ điều hành
Android 6.0. Các thông số dữ liệu đầu vào (Bảng 1), thiết
bị máy phát (Bảng 2) và thiết bị máy thu (Bảng 3) như sau:
Bảng 1. Bảng thông số dữ liệu đầu vào
Định dạng tệp tin Văn bản (.txt)
Kích thước (byte) 2940
Chiều dài (ký tự) 2940
Số bit mã hóa (bit) 23520
Số ảnh mã hóa (ảnh) 4
Kiểu mã hóa Unicode
Bảng 2. Bảng thông số máy phát
Tên model Sony Z1 Compact
Kích thước màn hình 4.3 inches (1280×720 pixels)
Độ phân giải camera 20.7 megapixels
CPU 2.2 GHz, 4 lõi
Phiên bản Android 5.1
Bảng 3. Bảng thông số máy thu
Tên model HTC One E8
Kích thước màn hình 5.0 inches (1920×1080 pixels)
Độ phân giải camera 13 megapixels
CPU 2.5 GHz, 4 lõi
Phiên bản Android 6.0
Hình 9. Hình ảnh thử nghiệm
Smartphone
phát Smartphone
nhận
Nguồn ánh
sáng gây
nhiễu
92 Hà Duyên Trung, Nguyễn Tiến Hòa, Đỗ Trọng Tuấn
Tiêu chí được đưa ra để đánh giá kết quả của một phiên
truyền là tỉ lệ bit lỗi BER (Bit-error-rate). Hình 9 thể hiện
hình ảnh thử nghiệm quá trình truyền dữ liệu. Máy phát và
máy thu được gán cố định vào hai giá đỡ. Một nguồn sáng
từ đèn LED ngoài phát đi từ trên xuồng nhằm giả định
nhiễu môi trường. Chúng tôi tập trung thực hiện hai kịch
bản truyền dữ liệu như sau.
A. Kịch bản thử nghiệm
Kịch bản thử nghiệm 1: Đánh giá ảnh hưởng của độ
sáng màn hình máy thu tới việc truyền dữ liệu. Độ sáng
màn hình của máy phát ở các mức 25%, 50%, 75% và
100%. Cường độ ánh sáng của môi trường truyền được cố
định ở 450 lux. Khoảng cách giữa máy phát và máy thu
thay đổi từ 10 đến 60 cm với bước nhảy là 5cm.
Kịch bản thử nghiệm 2: So sánh hai phương pháp
truyền dữ liệu qua môi trường ánh sáng nhìn thấy. Cường độ
ánh sáng của môi trường truyền được cố định ở 450 lux. Độ
sáng màn hình của máy phát cố định ở mức 50%. Khoảng
cách giữa máy phát và máy thu thay đổi từ 10 đến 60 cm với
bước nhảy là 5cm. Chúng tôi thực nghiệm so sánh 2 phương
pháp truyền dữ liệu khác nhau. Phương pháp 1 (Method 1)
là phương pháp đề xuất và phương pháp 2 (Method 2) là
phương pháp sử dụng kỹ thuật SURF đã thực hiện trong tài
liệu tham khảo [10]. Hai phương pháp có cùng bản chất là
truyền dữ liệu qua môi trường ánh sáng nhìn thấy, cùng thực
hiện cách thức mã hóa dữ liệu thành các hình ảnh để truyền
đi dữ liệu. Điểm khác biệt giữa hai phương pháp nằm ở cách
thức cắt khung hình chứa dữ liệu. Với phương pháp tham
khảo, một hình ảnh được quy định là ảnh tham chiếu được
đặt vào trong ứng dụng có ở cả bên thu và bên phát. Khi
truyền dữ liệu, máy phát sẽ hiển thị hình ảnh đó, máy nhận
sẽ thu lại, sử dụng giải thuật phát hiện sự tương đồng giữa
hai bức hình từ những điểm được gọi là keypoint của ảnh, từ
đó tìm và xác định được khung hình dữ liệu.
B. Kết quả và đánh giá
Để đạt kết quả chính xác nhất, chúng tôi thực hiện mỗi
phép đo được thực hiện 30 lần, kết quả được ghi lại là giá
trị trung bình của 30 lần đo.
Kịch bản thứ nhất cho kết quả như trên Hình 10, khi thay
đổi độ sáng màn hình của máy phát với các mức 25%, 50%,
75% và 100%, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy sự khác
biệt. Trong cùng điều kiện về môi trường và khoảng cách
truyền, trường hợp độ sáng màn hình máy phát ở mức 50%
có tỉ lệ lỗi bit thấp nhất, BER luôn nhỏ hơn 10-5 trong khoảng
cách dưới 35cm. Tương tự với đó là trường hợp màn hình ở
độ sáng 25%. Khi màn hình phát sáng ở mức 100%, tỉ lệ bit
lỗi cao hơn nhiều so với các trường hợp khác, cụ thể với
khoảng cách 25cm, BER lên đến 10-4 so với tỉ lệ bit lỗi không
vượt quá 5. 10-6 với các mức độ sáng màn hình thấp hơn.
Với kịch bản thứ hai, phương pháp truyền dữ liệu mà
đồ án nghiên cứu được thử nghiệm so sánh kết quả với một
phương pháp truyền dữ liệu tham khảo [10] như trên Hình
11. Có thể thấy rằng, phương pháp tham khảo có tỉ lệ lỗi
bit cao hơn nhiều so với phương pháp đề xuất. BER của
phương pháp này tăng rất nhanh theo khoảng cách truyền,
và ở khoảng cách trên 45cm, không thể thực hiện truyền dữ
liệu được nữa bởi ở khoảng cách xa, máy thu không thể tìm
được đủ các keypoint để thực hiện việc cắt khung dữ liệu.
Hình 10. BER theo khoảng cách và độ sáng của màn hình máy phát
Hình 11. So sánh hai phương pháp theo BER theo khoảng cách truyền
4. Kết luận
Chúng tôi đã trình bày chi tiết phương pháp truyền dữ
liệu giữa hai smartphone qua môi trường ánh sáng nhìn
thấy. Kết quả chỉ ra rằng, ở khoảng cách 10 – 35 cm, tỷ lệ
lỗi BER là thấp nhất do hình ảnh thu được từ camera đảm
bảo được độ sắc nét cần thiết. Với những khoảng cách xa
hơn, hình ảnh camera thu sẽ mờ đi, do đó số bit lỗi cũng
tăng lên. Ảnh hưởng của ánh sáng môi trường đến quá trình
truyền dữ liệu là không đáng kể. Trong khi đó, khi độ sáng
màn hình máy phát lớn gây ra hiện tượng lóa sáng, nhiều
điểm ảnh đen sẽ bị ảnh hưởng bởi ánh sáng mạnh của màn
hình, khiến dữ liệu bị lỗi, với khoảng cách càng xa thì ảnh
hưởng này càng rõ rệt. Ngoài ra, chất lượng của phiên
truyền dữ liệu còn bị ảnh hưởng bởi cấu hình của máy điện
thoại phát và thu, điều kiện thực hiện thí nghiệm, độ rung
lắc màn hình, di chuyển thiết bị. Đây cũng là những vấn đề
sẽ được tiếp tục thực hiện trong các nghiên cứu tiếp theo.
Lời cảm ơn
Nghiên cứu này được tài trợ bởi Trường Đại học Bách
khoa Hà Nội trong đề tài mã số T2016-LN-12.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Ergul, E. Dinc, O. B. Akan, “Communicate to illuminate: State-of-
the-art and research challenges for visible light communications”,
Physical Commun., vol. 17, 2015, pp. 72–85.
[2] L. U. Khan, “Visible light communication: Applications,
architecture, standardization and research challenges”, Digital Commun. and Netw., vol. 3, no. 2, 2017, pp. 78–88, 2017.
[3] C. Hongda, et. al., “Advances and prospects in visible light
communications”, J. Semiconductors, vol. 37, no. 1, Jan. 2016.
[4] Jelena Vucic and Klaus-Dieter Langer, “High-Speed Visible Light
Communications: State-of-the-Art”, in Proc. of the Opt. Fiber
Commun. Conf., 2012, pp. 1-3.
[5] Casio Unveils Prototype of VLC System Using Smartphones at
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 93
CES, http://world.casio.com/news/2012/0115_VisibleLightcomm/
(Jan. 2012).
[6] C. Danakis, M. Afgani, G. Povey, I. Underwood, and H. Haas,
“Using a CMOS camera sensor for visible light communication”, in
Proc. IEEE Globecom Workshops, 2012, pp. 1244-1248.
[7] P. Ji, H.-M. Tsa, C. Wang, F. Li, “Vehicular Visible Light
Communications with LED Taillight and Rolling Shutter Camera”, in
Proc. 79th IEEE Vehicular Techn. Conf. (VTC Spring), 2014, pp. 1-6.
[8] T.-H. Do and M. Yoo, “Performance Analysis of Visible Light
Communication Using CMOS Sensors” Sensors J. vol 16, no. 3,
pp.1-23, 2016.
[9] N. Trang, L. N. Tuan, and J. Y. Min, “Practical design of screen-to-camera based optical camera communication”, in Proc. of the Int.
Conf. Infor. Netw., 2015, pp. 369-374.
[10] F. Dai, N. Zhang, and J. Xue, “Primal sketch of images based on
empirical mode decomposition and Hough transform”, in Proc. 3rd
IEEE Conf. on Industrial Elect. and Applications, pp. 2521-2524, 2008.
[11] A. Ashok, S. Jain, M. Gruteser, N. Mandayam, Y. Wenjia, and K.
Dana, “Capacity of pervasive camera based communication under
perspective distortions”, in Proc. IEEE Int. Conf. on Pervasive Comp. and Commun., pp. 112-120, 2014.
[12] R. Boubezari, H. L. Minh, Z. Ghassemlooy and A. Bouridane,
“Smartphone camera based visible light communication”, J.
Lightwave Technol., vol. 17, no. 34, 2016, pp. 4121-4127.
[13] Xiangyang Xu, Shengzhou Xu, Lianghai Jin, Enmin Song,
“Characteristic analysis of Otsu threshold and its applications”,
Pattern Recognition letters, vol. 32, no. 7, 2011, pp. 956-961.
[14] D. Ray, “Edge detection in digital image processing”, University of
Washington: Department of Mathematics, 2013.
[15] L. Jagannathan and C. V. Jawahar, “Perspective correction methods for camera-based document analysis”, in Proc. 1st Int. Workshop on
Camera-based Document Analysis and Recognition, pp. 148-154. 2005.
[16] T. Shakunaga and H. Kaneko, “Perspective angle transform:
Principle of shape from angles”, International Journal of Computer
Vision, vol. 3, no. 3, Sept. 1989, pp. 239-254.
(BBT nhận bài: 10/05/2017, hoàn tất thủ tục phản biện: 19/07/2017)
94 Nguyễn Quang Trung, Dương Việt Dũng
ẢNH HƯỞNG CỦA TỶ LỆ PHỐI TRỘN ETHANOL
TRONG XĂNG SINH HỌC ĐẾN TÍNH NĂNG KINH TẾ KỸ THUẬT VÀ
Ô NHIỄM ĐỘNG CƠ ĐÁNH LỬA CƯỠNG BỨC Ở CHẾ ĐỘ TẢI TRUNG BÌNH
EFFECTS OF ETHANOL ADDITION TO BIOLOGICAL GASOLINE ON PERFORMANCE
AND POLLUTION OF SPARK IGNITION ENGINES USING GASOHOL AT MIDDLE LOAD
Nguyễn Quang Trung, Dương Việt Dũng
Trường Đại học Bách khoa – Đại học Đà Nẵng; [email protected], [email protected]
Tóm tắt - Bài báo này trình bày kết quả thực nghiệm về tính kinh tế - kỹ thuật và ô nhiễm động cơ đánh lửa cưỡng bức sử dụng nhiên liệu xăng pha ethanol ở các tỷ lệ 0, 10, 15, 20 và 25% thể tích. Thực nghiệm được tiến hành trên động cơ thí nghiệm Daewoo A16DMS tại phòng thí nghiệm động cơ đốt trong của trường Đại học Bách khoa - Đại học Đà Nẵng. Điều kiện thực nghiệm được xác lập để xây dựng đặc tính tốc độ của động cơ ở vị trí bướm ga 50% cho dải tốc độ từ 1250 đến 4500 vòng/phút. Kết quả cho thấy có sự cải thiện về mô men, công suất, tiêu hao nhiên liệu và lượng phát thải của động cơ khi sử dụng E10, E15, so với xăng (E0) ở chế độ tải 50% vị trí bướm ga ở vùng tốc độ từ 2000 đến 4500 vòng/phút; Còn E20 và E25 tỏ ra bất lợi về công suất, mô men và suất tiêu hao nhiên liệu ở mọi tốc độ. Sự có mặt của nhân tố oxy trong ethanol là lý do làm tăng hệ số dư lượng không khí của hỗn hợp, giảm khả năng bay hơi của nhiên liệu, giảm nhiệt trị của nhiên liệu và đây chính là nguyên nhân của các thay đổi trên.
Abstract - This paper presents experimental results of the performance and exhaust pollution of spark ignition engines using gasoline-ethanol blended fuels at the rates of ethanol 0, 10, 15, 20 and 25% by volume. The experiment was conducted on the Daewoo A16DMS experimental engine at the internal combustion engine laboratory of the Danang University of Science and Technology. Experimental conditions were established to characterize the engine speed at the throttle position of 50% for the speed range from 1250 to 4500 rpm. Results show an improvement in torque, power, fuel consumption and engine emissions when using E10, E15, compared to gasoline (E0) at 50% throttle valve opening at speed range from 2000 to 4500 rpm; The E20 and E25 are at a disadvantage at all speeds. The presence of the oxygen factor in ethanol is the reason for increasing the air–fuel equivalence ratio, reducing the evaporation of the fuel, reducing the heating value of the blended fuel, and this is the cause of the above changes.
Từ khóa - ethanol; xăng; đánh lửa cưỡng bức; hệ số dư lượng không khí.
Key words - ethanol; gasoline; spark ignition; air–fuel equivalence ratio.
1. Đặt vấn đề
Nhiên liệu xăng dầu truyền thống với trữ lượng hạn chế,
quá trình đốt cháy những nhiên liệu này làm gia tăng
cacbondioxit trong khí quyển gây biến đổi khí hậu. Các
quốc gia gần đây đã thật sự quan tâm đến việc sử dụng
nhiên liệu sinh học như ethanol, methanol và butanol để
thay thế phần nào cho lượng xăng phải sử dụng [4, 9, 12].
Ethanol [8, 12] là chất lỏng không màu, còn được gọi
là rượu cồn, rượu ngũ cốc. Ethanol có cùng công thức hóa
học CH3CH2OH bất kể nó được sản xuất từ nguồn nguyên
liệu tinh bột hay đường, chẳng hạn như hạt ngô (chủ yếu là
ở Hoa Kỳ), mía đường (chủ yếu là ở Braxin), hoặc từ
cellulose (như các mùn cưa hoặc phế phẩm cây trồng).
Sự có mặt của nguyên tố oxy có độ âm điện cao trong
ethanol làm cho phân tử CH3CH2OH bị phân cực và dẫn đến
nhiều sự khác biệt so với xăng. Ethanol có trị số octan cao hơn
xăng, khi pha vào xăng làm tăng trị số octan cho xăng sinh
học. Ethanol có nhiệt trị thấp hơn so với xăng, theo các mức
độ khác nhau phụ thuộc vào tỷ lệ thể tích ethanol trong hỗn
hợp. Ethanol tinh khiết (99,5% ethanol) có nhiệt trị thấp hơn
30% so với xăng mỗi đơn vị thể tích. Tuy nhiên xét theo nhiệt
trị do đơn vị khối lượng hỗn hợp thì ethanol chỉ làm giảm chút
ít nhờ lượng không khí lý thuyết (L0=9kgkk/kgnl) nhỏ hơn đáng
kể so với xăng (L0=14,7kgkk/kgnl) vì vậy nếu tăng lượng nhiên
liệu phun tương ứng với mức giảm của L0 thì công suất động
cơ có thể không giảm. Do đó tác động của ethanol lên tính
kinh tế nhiên liệu phụ thuộc vào hàm lượng ethanol trong xăng
sinh học [12].
Ethanol lần đầu tiên được đề xuất làm nhiên liệu xe hơi
ở Hoa Kỳ vào những năm 1930, nhưng chỉ được sử dụng
rộng rãi sau năm 1970. Ethanol hiện nay là nhiên liệu cồn
phổ biến nhất được sử dụng trong ngành giao thông vận tải
trên thế giới. Ethanol đang được sử dụng hoặc là tinh khiết
hoặc như một phụ gia của xăng để làm nhiên liệu cho các
động cơ đốt cháy cưỡng bức. Nhiên liệu ethanol được sử
dụng rộng rãi ở Brazil và Hoa Kỳ, và cả hai nước này chiếm
khoảng 87,1% sản lượng nhiên liệu ethanol của thế giới
trong năm 2011 [4].
Tại Việt Nam, từ ngày 1 tháng 12 năm 2015, xăng sản
xuất, chế biến và kinh doanh để sử dụng trong xe có động cơ
trên toàn quốc là E5 và từ ngày 01 tháng 12 năm 2017 là E10
[1]. Trước đó, theo "Chiến lược phát triển nhiên liệu sinh học
đến năm 2015 với tầm nhìn đến năm 2025", sản xuất nhiên
liệu sinh học (ethanol và dầu diesel sinh học) sẽ đạt 5% nhu
cầu xăng dầu vào năm 2025. Nhiên liệu ethanol đã được thí
điểm và một số nhà máy ethanol sử dụng ngô và sắn làm
nguyên liệu hiện đang được xây dựng như Công ty Cổ phần
Nhiên liệu Sinh học PetroVietnam (100 triệu lít/ năm tại Phú
Thọ), Công ty Cổ phần Lúa Xanh (100.000 tấn/ năm tại
Quảng Ngãi), Sai Gon Biofuels và Công ty Dầu khí (40 triệu
lít / năm, tại Cát Lái TP. Hồ Chí Minh).
Ở Việt Nam, các nghiên cứu gần đây [2, 6, 7, 10, 11]
cho thấy, khi lượng ethanol pha trộn với xăng từ 5 đến 10%
khối lượng sẽ cải thiện đáng kể mô men, công suất, hiệu
suất và lượng khí thải khi so sánh với xăng. Ngoài ra, CO
và HC (hydrocarbon) giảm với sự gia tăng ethanol trong
hỗn hợp nhiên liệu. Tuy nhiên, nhiệt độ cao của ethanol
gây khó khăn cho động cơ bắt đầu lạnh do bốc hơi kém.
Trong khí hậu nóng, ethanol bị ảnh hưởng xấu do hiện
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 95
tượng nút hơi. Nó cũng bị ảnh hưởng bởi sự không tương
thích với một số vật liệu động cơ và hệ thống nhiên liệu khi
ethanol có nhiều trong xăng [3].
Bên cạnh đó, với thế mạnh của nền nông nghiệp Việt
Nam, sản lượng dồi dào của các sản phẩm nông nghiệp
truyền thống như mía, ngô, sắn... nên việc sử dụng tỷ lệ pha
trộn ethanol cao hơn 10% là cần thiết để đảm bảo an ninh
năng lượng. Vì vậy, chúng tôi đã mạnh dạn nghiên cứu sử
dụng xăng sinh học với tỷ lệ phối trộn của ethanol cao, cụ
thể là E10, E15, E20 [1, 5].
2. Nghiên cứu thực nghiệm
Hình 1. Bố trí các trang thiết bị trong phòng thí nghiệm
1. Máy tính điều khiển trung tâm;
2. Trung tâm xử lý dữ liệu Puma;
3. Bộ điều khiển tay ga THA-100;
4. Bộ đo lưu lượng khí nạp;
5. Hộp thu nhận các tín hiệu cảm biến;
6. Bộ đo độ lọt khí Cacter;
7. Các cảm biến gắn trên động cơ;
8. Bộ cấp và đo tiêu hao nhiên liệu;
9. Băng thử APA 204/8;
10. Bộ cấp và điều hoà nhiệt độ nước làm mát động cơ;
11. Thiết bị đo ô nhiễm khí thải Digas 4000;
12. Bộ giảm chấn khí nén;
13. Bệ thử nghiệm.
Thực nghiêm được tiến hành tại Phòng thí nghiệm Động
cơ đốt trong trường Đại học Bách khoa - Đại học Đà Nẵng
với các trang thiết bị đồng bộ của hãng AVL. Động cơ thí
nghiệm là động cơ Daewoo A16DMS được trang bị hệ thống
cảm biến ghi nhận các thông số quá trình nạp thải, thông số
vận hành hệ thống bôi trơn, làm mát, hệ thống cung cấp
nhiên liệu, tốc độ động cơ và áp suất buồng cháy. Băng thử
APA 204/8 được nối với động cơ qua khớp nối để gây tải
cho động cơ. APA 204/8 hoạt động như động cơ điện để kéo
động cơ thí nghiệm khi khởi động, ngược lại khi động cơ thí
nghiệm đã làm việc tùy theo giá trị tốc độ cần duy trì tại điểm
đo mà băng thử sẽ tạo ra mô men cản lúc này nó hoạt động
như máy phát điện.
Động cơ thí nghiệm là Daewoo A16DMS với các thông
số [6]:
- Nhiên liệu sử dụng: Xăng;
- Kiểu động cơ: E-TECII;
- Số xilanh 4;
- Dung tích: 1598 cm3;
- Hệ thống phân phối khí:16valve, DOHC;
- Hệ thống phun xăng điện tử EFI;
- Mômen cực đại: 145Nm, tại n = 3800 vòng/phút;
- Công suất cực đại: 77kW ở n= 5800 vòng/phút;
- Tỉ số nén: 9,5:1
- Đường kính xilanh: 79 mm;
- Hành trình piston: 81,5 mm.
Thông số băng thử công suất APA 204/8 [6]:
- Công suất cực đại Ne(max): 220 kW;
- Mômen quay cực đại Me(max): 934 Nm;
- Số vòng quay cực đại ne(max): 8000 vòng/phút.
3. Kết quả
Trong bài báo này kết quả nghiên cứu thể hiện ở chế
độ tải trung bình của động cơ ứng với 50% vị trí bướm ga
được xác lập bởi thiết bị THA100 với dải tốc độ thay đổi
từ 1250-4500vòng/phút có bước thay đổi 250vòng/phút.
Đây là chế độ tải đặc trưng cho điều kiện vận hành thực tế
của động cơ để qua đây xem xét ảnh hưởng của tỷ lệ tham
dự của ethanol đến mô men, công suất, suất tiêu hao nhiên
liệu và phát thải ô nhiễm của động cơ.
Hình 2. Diễn biến hệ số dư lượng không khí
của động cơ theo tốc độ và tỷ lệ tham dự của ethanol
Hình 2 thể hiện diễn biến của hệ số dư lượng không khí
theo tốc độ động cơ và theo tỷ lệ tham dự của ethanol trong
xăng sinh học khi áp suất phun nhiên liệu pfuel được xác lập
ở giá trị 3,2bar và hệ số dư lượng không khí được xác định
từ máy phân tích khí thải. Hệ số dư lượng khi động cơ sử
dụng xăng nguyên chất (E0) nhỏ hơn 1 ở tốc độ nhỏ 1250
vòng/phút và lớn hơn 2500 vòng/phút, quy luật thay đổi
tương đồng với diễn biến hệ số nạp của động cơ. Điều đáng
chú ý là ở pham vị tốc độ từ 3000 vòng/phút hệ số dư lượng
khá thấp điều này chứng tỏ nhiên liệu được bay hơi tốt và
hỗn hợp cháy hoàn thiện nên góp phần làm mô men tiếp cận
giá trị cực đại (xem Hình 3). Khi tốc độ động cơ đạt đến 4000
vòng/phút thì hệ số dư lượng tăng trở lại điều này chứng tỏ
khả năng cháy hoàn thiện đã kém đi do tốc độ động cơ lớn
làm giảm mô men của động cơ.
Khi tăng tỷ lệ tham dự của ethanol, quy luật diễn biến
hệ số dư lượng không khí ít thay đổi chỉ có giá trị tăng lên
0.75
0.85
0.95
1.05
1.15
1.25
1000 1500 2000 2500 3000 3500 4000 4500 5000
Engnine speed (rpm)
So sánh hệ số dư lượng không khí ở 50%BG
50%BG_E0
50%BG_E10
50%BG_E15
50%BG_E20
50%BG_E25
96 Nguyễn Quang Trung, Dương Việt Dũng
do có một lượng oxy được bổ sung từ nhiên liệu làm giảm
lượng không khí lý thuyết để đốt cháy hết 1kg nhiên liệu
L0. Tăng tỷ lệ ethanol trong khi lượng nhiên liệu cung cấp
tăng không đáng kể vì khối lượng riêng của ethanol chỉ lớn
hơn chút ít so với xăng dẫn đến sự giảm mô men, công suất
và tăng suất tiêu hao nhiên liệu có ích của động cơ khi sử
dụng nhiên liệu E20 và E25. Riêng đối với nhiên liệu E10
và E15 ít bị ảnh hưởng, thậm chí E15 có mô men, công suất
và E10 có tiêu hao nhiên liệu có ích tốt hơn xăng (E0) như
trên Hình 3, Hình 4 và Hình 5.
Hình 3. Diễn biến mô men có ích của động cơ
theo tốc độ và tỷ lệ tham dự của ethanol
Hình 4. Diễn biến công suất có ích của động cơ
theo tốc độ và tỷ lệ tham dự của ethanol
Hình 5. Diễn biến suất tiêu hao nhiên liệu có ích của động cơ
theo tốc độ và tỷ lệ tham dự của ethanol
Hệ số dư lượng không khí góp phần quan trọng tới quy
luật phát thải CO của khí xả động cơ khi diễn biến theo quy
luật ngược lại, mức phát thải CO tăng dần và đạt cực đại ở
tốc độ động cơ khoảng 3500vòng/phút và sau đó giảm dần.
Với hệ số dư lượng không khí tăng tương ứng với tỷ lệ
tham dự của ethanol nên phát thải CO của động cơ khi sử
dụng xăng E10, E15, E20 và E25 giảm đáng kể so với xăng
A92 (E0). Cụ thể mức phát thải CO cực đại 6,25% đối với
E0, 4,9% đối với E10, 4,41% đối với E15, 3,83% đối với
E20 và E25 chỉ còn 2,53% ứng với tỷ lệ giảm lần lượt 21%
khi so sánh E10 với E0, 29% khi so sánh E15 với E0, 39%
khi so sánh E20 với E0 và 59% khi so sánh E25 với E0
(xem Hình 6).
Hình 6. Diễn biến phát thải CO của động cơ
theo tốc độ và tỷ lệ tham dự của ethanol
Hình 7. Diễn biến phát thải HC của động cơ theo tốc độ và tỷ lệ
tham dự của ethanol
Khác chút ít với CO, quy luật phát thải HC có xu hướng
giảm dần khi tăng tốc độ động cơ với lý do là nhiên liệu đã
hóa hơi tốt, tuy nhiên ở phạm vi tốc độ từ
35003750vòng/phút động cơ phát HC cao hơn chút ít do
hỗn hợp đậm lên đáng kể và đây chính là phạm vi tốc độ
mà CO cao nhất. Ở 3500vòng/phút mức phát thải HC trong
khí xả động cơ ứng với E0, E10, E15, E20 và E25 lần lượt
là 112ppm, 102ppm, 61ppm, 67ppm và 92ppm ứng với tỷ
lệ giảm 8,9% khi so sánh E10 với E0, 45,5% khi so sánh
E15 với E0, 40% khi so sánh E20 với E0 và 17,8% khi so
sánh E25 với E0. Như vậy mức HC giảm khi tăng tỷ lệ
tham dự của ethanol và mức giảm HC tốt nhất là E15 và
E20 (Hình 7).
Trái ngược với CO và HC, NOx có xu hướng tăng dần
khi tăng tốc độ động cơ đến 3000 vòng/phút với lý do là
nhiệt độ khí thải tăng dần kết hợp với hệ số dư lượng không
khí >1, tuy nhiên ở phạm vi tốc độ từ 35003750
vòng/phút động cơ phát thải NOx giảm đáng kể do hỗn hợp
đậm lên khiến giảm nồng độ O2. Mức phát thải NOx tăng
khi tăng tỷ lệ ethanol, ở 3500vòng/phút mức phát thải NOx
trong khí xả động cơ ứng với E0, E10, E15, E20 và E25 lần
lượt là 845ppm, 1227ppm, 1542ppm, 1907ppm và
2031ppm ứng với tỷ lệ tăng 145% khi so sánh E10 với E0,
182% khi so sánh E15 với E0, 225% khi so sánh E20 với
E0 và 240% khi so sánh E25 với E0. Như vậy NOx tăng
khi tăng tỷ lệ tham dự của ethanol và mức tăng NOx ít nhất
là E10 (Hình 8).
50
60
70
80
90
100
110
120
1000 1500 2000 2500 3000 3500 4000 4500 5000
Torq
ue
(Nm
)
Engine speed (rpm)
So sánh mô men ở 50%BG
Torque (50%_E0)
Torque (50%_E10)
Torque (50%_E15)
Torque (50%_E20)
Torque (50%_E25)
0
10
20
30
40
50
60
1000 1500 2000 2500 3000 3500 4000 4500 5000
Po
we
r (k
W)
Engine speed (rpm)
So sánh công suất ở 50%BG
Power (50%_E0)
Power (50%_E10)
Power (50%_E15)
Power (50%_E20)
Power (50%_E25)
200
250
300
350
400
450
1000 1500 2000 2500 3000 3500 4000 4500 5000
FUEL
CO
SP(g
/kW
h)
Engine speed (rpm)
So sánh suất tiêu hao nhiên liệu ở 50%BG
FUELCOSP (50%_E0)
FUELCOSP (50%_E10)
FUELCOSP (50%_E15)
FUELCOSP (50%_E20)
FUELCOSP (50%_E25)
0
1
2
3
4
5
6
7
1000 1500 2000 2500 3000 3500 4000 4500 5000
CO
(%)
Engnine speed (rpm)
So sánh CO ở 50%BG
CO (50%BG_E0)
CO (50%BG_E10)
CO (50%BG_E15)
CO (50%BG_E20)
CO (50%BG_E25)
0
50
100
150
200
250
300
350
1000 1500 2000 2500 3000 3500 4000 4500 5000
HC
(pp
m)
Engnine speed (rpm)
So sánh HC ở 50%BGHC (50%BG_E0)
HC (50%BG_E10)
HC(50%BG_E15)
HC (50%BG_E20)
HC (30%BG_E25)
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 97
Hình 8. Diễn biến phát thải NOx của động cơ
theo tốc độ và tỷ lệ tham dự của ethanol
Hình 9. Diễn biến phát thải động cơ
theo tỷ lệ ethanol ở 3500 vòng/phút
4. Kết luận
Kết quả nghiên cứu thực nghiệm động cơ Daewoo
A16DMS trên băng thử APA 204/8 với nhiên liệu sử dụng
xăng A92 và xăng E10, xăng E15, xăng E20 và xăng E25
ở mức tải trung bình 50% vị trí bướm ga với phạm vi tốc
độ từ 1250 đến 4500 vòng/phút cho thấy:
- Khi lượng ethanol pha trộn với xăng từ 10 đến 15%
thể tích sẽ cải thiện chút ít mô men, công suất, suất tiêu hao
nhiên liệu có ích và đồng thời giảm phát thải CO và HC
trong khí thải khi so sánh với xăng. Cụ thể ở tốc độ
3500vòng/phút mức phát thải CO của động cơ đạt cực đại,
lúc này so với E0 mức giảm của E10 và E15 lần lượt 21%
và 29%; ở tốc độ này HC giảm 8,9% khi so sánh E10 với
E0, 45,5% khi so sánh E15 với E0.
- Khi lượng ethanol pha trộn với xăng từ 20 đến 25% thể
tích sẽ làm giảm chút ít mô men, công suất và tăng suất tiêu
hao nhiên liệu nhưng lượng phát thải CO và HC trong khí thải
giảm khi so sánh với xăng. Cụ thể ở tốc độ 3500vòng/phút,
phát thải CO giảm 39% khi so sánh E20 với E0 và 59% khi so
sánh E25 với E0; phát thải HC giảm 40% khi so sánh E20 với
E0 và 17,8% khi so sánh E25 với E0.
- Hạn chế lớn nhất E10, E15, E20 và E25 so với xăng
(E0) là mức phát thải NOx khá lớn khi mức tăng lên đến
145% khi so sánh E10 với E0, 182% khi so sánh E15 với
E0, 225% khi so sánh E20 với E0 và 240% khi so sánh E25
với E0 ở tốc độ 3500 vòng/phút.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Phú Cường, "Thực trạng và sự cần thiết ban hành lộ trình bắt buộc áp dụng tỷ lệ phối trộn NLSH với nhiên liệu truyền thống", Tạp
chí Khoa học và Công nghệ - Công nghiệp, 09, 2013, 23-25.
[2] Bùi Văn Ga, Bùi Văn Tấn, Nguyễn Văn Đông, "Ảnh hưởng của nhiên
liệu, tỷ số nén và góc đánh lửa sớm đến quá trình cháy hỗn hợp xăng-
ethanol trong động cơ daewoo", Tạp chí Khoa học và Công nghệ - Đại học Đà Nẵng, 1(98), 2016, 27-32.
[3] Lê Thị Kiều Oanh, Lưu Tiến Thuận, "Những khó khăn và giải pháp
đẩy mạnh tiêu dùng xăng sinh học E5 tại TP. Cần Thơ", Tạp chí Khoa
học Cần Thơ, 04, 2015, p. 15-23.
[4] Liễu Anh Đài, "Công nghiệp sản xuất cồn Ethanol và đường ở Brazil",
Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, 08, 2008, 32-34.
[5] Nguyễn Thị Hằng Nga, Nghiên cứu khả năng sản xuất etanol sinh học
từ phụ phẩm nông nghiệp, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, 2010.
[6] Lê Văn Tụy, Trần Văn Nam, Huỳnh Bá Vang, "Nghiên cứu thử
nghiệm độ hao mòn động cơ chạy xăng pha cồn", Tạp chí Khoa học
và Công nghệ - Đại học Đà Nẵng, 4(39), 2010, 227-234.
[7] Huỳnh Bá Vang, Nghiên cứu thực nghiệm tính năng kinh tế kỹ thuật
của ôtô sử dụng xăng A95 pha 10% ethanol, Đại học Đà Nẵng, 2011.
[8] Sarathy, S.M., et al., "Alcohol combustion chemistry", Progress in
Energy and Combustion Science, 44, 2014, 40-102.
[9] Szwaja, S. and J. Naber, "Combustion of n-butanol in a spark-ignition IC engine", Fuel, 89(7), 2010, 1573-1582.
[10] Tuan, L.A., et al., "Simulation study of motorcycle engines
charateristics fueled with ethanol-gasoline blends", Journal of Science
& Technology, 83B, 2011, 119-124.
[11] Tuan, L.A. and P.M. Tuan, "Impacts of Gasohol E5 and E10 on
Performance and Exhaust Emissions of In-used Motorcycle and Car:
A Case Study in Vietnam". Tạp chí Khoa học và Công nghệ các trường đại học kỹ thuật, 73B, 2009, 98-104.
[12] Wheals, A.E., et al., "Fuel ethanol after 25 years", Trends in
biotechnology, 17(12), 1999, 482-487.
(BBT nhận bài: 21/04/2017, hoàn tất thủ tục phản biện: 07/06/2017)
0
500
1000
1500
2000
2500
3000
1000 1500 2000 2500 3000 3500 4000 4500 5000
NO
x (p
pm
)
Engnine speed (rpm)
So sánh NOx ở 50%BGNOx (50%BG_E0)
NOx (50%BG_E10)
NOx (50%BG_E15)
NOx (50%BG_E20)
NOx (50%BG_E25)
0
50
100
150
200
250
0.2
0.3
0.4
0.5
0.6
0.7
0.8
0.9
1
1.1
0 5 10 15 20 25 30
HC
, N
Ox (
x1
0)
, C
O (
x1
0)
% Ethanol
So sánh phát thải ở 3500rpm
l
CO
HC
NOX
98 Bùi Thị Minh Tú
NGHIÊN CỨU CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
QUÁ TRÌNH ĐO ĐẠC CỦA NHIỄU TỪ
A STUDY ON THE MEASUREMENT CONDITIONS OF ELECTROMAGNETIC NOISE
Bùi Thị Minh Tú
Trường Đại học Bách khoa - Đại học Đà Nẵng; [email protected]
Tóm tắt - Nhiễu từ là loại sóng điện từ xuất phát từ sâu bên trong vật liệu từ khi đặt vật liệu từ trong một từ trường biến thiên, có quan hệ chặt chẽ với cấu trúc bên trong của vật liệu. Bằng cách đo đạc nhiễu từ tại bề mặt vật liệu, ta có thể đoán được cấu trúc bên trong của vật liệu đó mà không làm ảnh hưởng đến bản thân vật liệu như các cách thông thường. Tuy nhiên, các nghiên cứu hiện tại vẫn gặp khó khăn khi so sánh, đối chiếu lẫn nhau, chủ yếu là do những khác biệt trong điều kiện đo đạc. Bài báo này đề xuất một mô hình cho việc đo đạc nhiễu từ, hướng đến ứng dụng trong việc kiểm tra không phá hủy vật liệu, có tính đến các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình đo đạc và giải pháp khắc phục các yếu tố đó.
Abstract - Electromagnetic noise is an electromagnetic signal which originates inside the material when placing the material in a varying magnetic field. This noise is believed to be closely related to the structure of the material. Hence, by measuring the electromagnetic noise at the surface of the material, we can have an idea of the structure inside the material without destroying it as by classical methods. However, the study of this application of electromagnetic noise still faces the difficulties when comparing different results from different research groups mainly because of the difference in measuring conditions. This paper proposes a measuring model for the measurement of electromagnetic noise in view of non-destructive testing application, taking into account different measuring factors.
Từ khóa - nhiễu từ; đo đạc; mô hình hóa; kiểm tra không phá hủy; cấu trúc vật liệu.
Key words - magnetic noise; measurement; modelling; non-destructive testing; structure of material.
1. Đặt vấn đề
Vật liệu từ được chia thành các vùng từ ngăn cách nhau
bởi các bức tường từ. Khi không chịu tác động bởi các yếu
tố bên ngoài, các vùng từ này sẽ có các hướng khác nhau,
sao cho xét về mặt trung bình, vật liệu trung hòa về từ tính.
Khi đặt vật liệu dưới môi trường từ hóa, các bức tường di
chuyển, tạo nên tính từ cho vật liệu [1].
Nhiễu từ hay còn gọi là nhiễu Barkhausen (BN) là một
hiện tượng một loạt bước nhảy rời rạc và đột ngột xuất hiện
trong quá trình từ hóa vật liệu sắt từ khi đặt vật liệu này
trong môi trường từ hóa. Nguyên nhân chủ yếu là do các
khiếm khuyết vi mô gây cản trở bức tường từ trong quá
trình di chuyển của chúng (Hình 1), dẫn đến một đường
cong từ hóa không mịn [2, 3, 4]. Vì lý do này, người ta tin
rằng nhiễu từ chứa thông tin về cấu trúc vi mô của vật liệu.
Bằng cách phân tích nhiễu từ, trích xuất các thông tin chứa
đựng trong đó, ta có thể đoán biết được các thông tin về
cấu trúc vi mô của vật liệu như tỉ lệ tạp chất, những lỗi cấu
trúc hay những đứt gãy sâu bên trong vật liệu. Như vậy, nó
có thể được sử dụng như một kỹ thuật kiểm tra không phá
hủy nhanh và không tốn kém.
Hình 1. Bức tường từ bị ngăn cản do lỗi cấu trúc
và di chuyển khi từ trường ngoài tăng
Một số nghiên cứu cũng đã giới thiệu sự liên quan giữa
nhiễu từ và cấu trúc của vật liệu (ferrite, perlite và hỗn hợp
ferrite-perlite) như ở Hình 3 [5] hay giữa nhiễu từ và nhiệt
độ xử lý vật liệu như ở Hình 4 [6]. Tuy nhiên, việc ứng
dụng nhiễu từ trong việc phân tích cấu trúc của vật liệu vẫn
còn gặp nhiều khó khăn do việc xác định nguyên nhân
chính xác của sự hình thành nhiễu, cũng như các ảnh hưởng
của điều kiện đo đạc đến nhiễu thu được. Trong bài báo
này, ta chỉ xét đến các yếu tố ảnh hưởng đến sự đo đạc
nhiễu và các giải pháp có thể sử dụng để khắc phục chúng.
Hình 2. Nhiễu từ gây ra bởi cấu trúc lỗi bên trong vật liệu
Hình 3. Nhiễu từ và cấu trúc vi mô của vật liệu [5]
Hình 4. Nhiễu từ và nhiệt độ xử lý vật liệu [6]
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 99
2. Mô hình đo đạc nhiễu từ đề xuất
Hình 5. Mô hình đo đạc nhiễu từ đề xuất
Có nhiều mô hình đo đạc khác nhau của nhiễu từ. Mỗi mô
hình cho các kết quả khác nhau khi đo đạc. Điều này dẫn đến
việc so sánh các kết quả giữa các nhóm nghiên cứu khác nhau
không thực hiện được. Chính vì vậy, việc thống nhất giữa các
mô hình đo đạc khác nhau, hoặc phương pháp loại trừ các ảnh
hưởng của điều kiện đo đạc đến kết quả là vô cùng quan trọng.
Hình 5 giới thiệu mô hình đo đạc nhiễu từ đề xuất. Bộ
phận chính của mô hình này là phần tạo trường điện từ gồm
hai lõi chữ C bằng vật liệu ferit (NiZn) áp quanh một mẫu
vật có độ dày nhỏ. Cấu trúc này nhằm đảm bảo từ trường
tạo ra trong vật liệu là đồng nhất (Hình 6). Thiết kế này
cũng đã được kiểm chứng bằng các kết quả đo đạc, kết hợp
với mô hình phần tử hữu hạn [7].
Hình 6. Kiểm tra tính đồng nhất của từ trường bên trong mẫu thử
Hệ thống đo đạc gồm nguồn AC tạo sóng tam giác (đã
được loại bỏ hoàn toàn thành phần sóng cao tần nhờ bộ lọc
thông thấp LPF). Tín hiệu ra kết hợp với máy phát công
suất 60W, đi qua mạch khuếch đại để đảm bảo công suất
của tín hiệu tạo từ trường.
Sóng điện từ tạo ra bên trong vật liệu đi đến bề mặt và
được đo bởi cảm biến (sensor) đặt ở bề mặt. Tín hiệu đo đạc
được sau đó được khuếch đại và lọc nhiễu để thu được thành
phần mong muốn, mang các thông tin về cấu trúc của vật liệu.
Ngoài ra, ta còn có thể thực hiện phép đo đạc với hệ
thống có kích thước nhỏ hơn (Hình 7). Mô hình này phù
hợp với việc đo đạc khi chiều dài mẫu vật bị hạn chế hay
ta muốn đo tại một vị trí cụ thể của mẫu vật.
Hình 7. Hệ thống đo đạc nhiễu từ khi chiều dài mẫu vật bị hạn chế
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hệ thống đo đạc nhiễu từ
3.1. Từ trường được tạo thành bên trong mẫu thử
Hình 8. Từ trường hình thành bên trong mẫu thử
Các cuộn sơ cấp bao gồm N vòng dây quấn quanh lõi
ferit. Ở đây, hệ thống đề xuất sử dụng cùng số vòng N1 cho
cả hai cuộn. Tuy nhiên, việc sử dụng số vòng khác nhau ở
hai cuộn này không làm ảnh hưởng đến kết quả đo đạc. Áp
điện áp 𝑣(𝑡) vào các cuộn dây sơ cấp tạo ra từ thông Φ1
trong lõi ferit:
Φ1 = ∫𝑣(𝑡)
𝑁1𝑑𝑡 =
1
𝑁1∫ 𝑣(𝑡)𝑑𝑡. (1)
Khi không có thất thoát từ thông, từ thông xuất hiện
trong lõi vật liệu được tính bởi (2):
Φ = Φ1 +Φ1 = 2Φ1 = 2𝜇𝑓𝑒𝑟𝑖𝑡𝐻1𝑆, 2)
với S là diện tích mặt cắt của lõi ferit.
Như vậy, từ trường tạo ra trong mẫu thử được tính bằng:
H = 2𝐻1 =2Φ1
𝜇𝑓𝑒𝑟𝑖𝑡𝑆. (3)
3.2. Đặc tính của cảm biến
Tùy theo kích thước của mẫu vật cần đo đạc, ta có thể dùng
hai dạng cảm biến khác nhau: cảm biến vòng và cảm biến
cạnh bên (Hình 9). Cảm biến vòng gồm 120 vòng dây quấn
quanh ống ferit, cảm biến cạnh bên gồm 30 vòng dây quấn
quanh lõi đặc ferit. Cảm biến cạnh bên có ưu điểm về kích
thước nhỏ gọn và dễ sử dụng nên phù hợp với nhiều ứng dụng
hơn. Ta sẽ nghiên cứu kỹ về đặc tính của loại cảm biến này.
Hình 9. Cảm biến vòng và cảm biến cạnh bên
Để nghiên cứu về đặc tính của cảm biến cạnh bên, ta đặt
cảm biến vào ống solenoid có các thông số sau: (Hình 10)
- Số vòng dây Ns: 761;
- Đường kính D: 64mm;
- Chiều dài l: 542mm.
Hình 10. Đo đạc đặc tính của cảm biến cạnh bên
100 Bùi Thị Minh Tú
Cho dòng điện 𝑖 = 𝐼0𝑠𝑖𝑛𝜔0𝑡 chạy qua ống solenoid sẽ
tạo ra từ trường trong ống, từ trường này gây ra từ trường
cảm biến trong cảm biến cần đo đạc. Cảm ứng từ này có
thể được đo đạc bằng dòng điện ở đầu ra của cảm biến.
Ta có từ trường được tạo ra trong ống solenoid được
tính bằng:
B =𝜇0𝑁𝑠𝑖
𝑙= 𝜇0𝐻 (4)
→ H =𝑁𝑠𝑖
𝑙=
𝑁𝑠𝐼0𝑠𝑖𝑛𝜔0𝑡
𝑙 (5)
Từ thông xuất hiện trong cảm biến đặt trong cuộn
solenoid được tính bởi
Φ = B𝑆𝑐, (6)
với 𝑆𝑐 là diện tích mặt cắt của cảm biến.
Từ thông này lại tạo thành dòng điện chạy qua các vòng
dây của cảm biến theo công thức (7, 8):
𝑣𝑐 = 𝑁𝑐𝑑Φ
𝑑𝑡= 𝜇0𝑁𝑐𝑆𝑐
𝑑𝐻
𝑑𝑡, (7)
→ 𝑣𝑐 =𝜇0𝑁𝑐𝑆𝑐𝐼0
𝑙𝜔cos𝜔𝑡. (8)
Điện áp của dòng điện cảm ứng này được đo đạc và vẽ
theo tần số 𝜔 như Hình 11.
Hình 11. Dòng điện cảm ứng của cảm biến
Ta thấy rằng điện áp cảm ứng tăng theo hướng tuyến
tính với tần số của dòng điện kích ứng khi tần số này thấp
hơn một giá trị nhất định (trong trường hợp này là khoảng
430kHz). Khi tiếp tục tăng tần số của dòng điện kích ứng,
điện áp cảm ứng tăng mạnh, tạo thành đỉnh cộng hưởng
tại tần số 455kHz. Ta gọi đây là tần số cộng hưởng của
cảm biến.
Như vậy, cảm biến cạnh bên được lựa chọn có tính chất
tương tự như bộ lọc bậc 2 và trong tất cả các đo đạc, cần
phải xét đến ảnh hưởng này. Có thể kết luận rằng, để so
sánh nhiễu từ trong tất cả các hệ thống đo đạc, cần phải biết
rõ các thông tin, tính chất của cảm biến được sử dụng. Hai
cảm biến khác nhau có thể có tần số cộng hưởng khác nhau
và mức độ khuếch đại ở các dải tần khác tần số cộng hưởng
khác nhau. Đối với cảm biến cạnh bên được lựa chọn ở đây,
dải tần số hoạt động tốt nhất là dưới 430kHz.
3.3. Đặc tính của vật liệu
Tín hiệu thu được ở bề mặt vật liệu là một sóng điện từ
được tạo ra bởi sự biến thiên từ thông bên trong vật liệu.
Sóng điện từ được tạo ra ở độ sâu z của mẫu vật phải đi qua
và bị hấp thụ một phần bởi vật liệu để đến được bề mặt của
mẫu vật theo phương trình (9) (giả sử rằng vật liệu là đồng
nhất) [3].
A = 𝐴0𝑒−𝛼𝑧𝑒−𝑗(𝜔𝑡−𝛽𝛿), (9)
với A0: biên độ ban đầu của tín hiệu sóng điện từ; z: độ sâu
nơi sóng điện từ được tạo ra; 𝜔: tần số của tín hiệu; 𝛽: hệ
số pha; 𝛼 = √𝜋𝑓𝜇0𝜇𝑟𝜎: hệ số hấp thụ của vật liệu; 𝜇𝑟: độ
từ thẩm và 𝜎: độ điện dẫn và 𝑓: tần số tín hiệu.
Phương trình (9) cho thấy tín hiệu tần số cao sẽ nhanh
chóng bị hấp thụ bởi vật liệu. Như vậy, các thông tin về cấu
trúc bên trong vật liệu mà ta có thể có được, chỉ có thể được
khai thác trong thành phần tần số thấp của tín hiệu đo đạc
được. Lớp vật liệu có mật độ dòng điện cảm ứng cao được
gọi là hiệu ứng bề mặt của vật liệu. Vùng này là tương
đương với độ sâu 𝛿 bên dưới bề mặt vật liệu nơi mật độ
dòng giảm còn 𝐴
𝐴0= 𝑒−1.
Ta có thể tính được chiều dày của lớp hiệu ứng bề mặt
này như (7):
δ =1
√𝜋𝑓𝜇0𝜇𝑟𝜎= 503√
1
𝑓𝜇𝑟𝜎. (7)
Độ sâu của hiệu ứng bề mặt của vật liệu phụ thuộc vào
cả hai tần số của tín hiệu, độ từ thấm và độ điện dẫn của
vật liệu. Bảng 1 cung cấp các hằng số điện và từ cho một
số loại vật liệu thông dụng. Hầu hết các thép (acier) có độ
điện dẫn trong khoảng 106𝑆/𝑚 đến 107𝑆/𝑚 và độ từ thẩm
tối đa bằng 300. Hình 12 biểu diễn bề dày của hiệu ứng của
một số vật liệu.
Bảng 1. Hằng số điện và từ của một số loại vật liệu.
Fe Ni Co Cu Al
𝜎(𝑆/𝑚) 1 × 107 1.43× 107
1.72× 107
5.95× 107
3.6 × 107
𝜇𝑟 150 110 70 1 1
Hình 12. Bề dày hiệu ứng bề mặt của một số vật liệu
Có thể thấy được rằng, hiệu ứng bề mặt hay độ sâu mà
ta có thể khai thác thông tin từ nhiễu từ của thép khá thấp
(khoảng 10−5m cho một tín hiệu đến 200kHz). Như vậy,
các kết quả đo đạc chỉ có thể cung cấp được thông tin về
cấu trúc vật liệu trong độ sâu này.
4. Kết luận
Nhiễu từ chứa các thông tin về cấu trúc của vật liệu.
Nếu có thể khai thác tốt thông tin từ đây, việc xác định cấu
trúc của vật liệu có thể được tiến hành dễ dàng mà không
làm ảnh hưởng đến bản thân vật liệu.
Bài báo đã đề xuất mô hình đo đạc nhiễu từ, có xét đến
các yếu tố làm ảnh hưởng đến kết quả đo đạc. Để có được
kết quả có độ tin cậy cao, cần đảm bảo từ trường được tạo
ra bên trong vật liệu là đồng nhất. Để có thể so sánh các kết
quả đo đạc trong các điều kiện khác nhau, cần phải biết
thông tin về cảm biến đo đạc nhằm loại trừ ảnh hưởng của
nó đến tín hiệu đo đạc được. Cảm biến cạnh bên trong bài
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 101
báo này có tính chất gần giống bộ lọc bậc 2, tần số cộng
hưởng ở 455kHz và dải tần hoạt động tốt ở dưới 430kHz.
Ngoài ra, do ảnh hưởng của hiệu ứng bề mặt, tín hiệu sóng
điện từ bị hấp thụ phần lớn bởi vật liệu và thông tin khai
thác được chủ yếu đến từ lớp bề mặt của vật liệu. Muốn có
được thông tin ở những độ sâu cao hơn, cần tìm cách khai
thác thông tin chứa trong dải tần số thấp của tín hiệu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] G. Bertotti: Hysteresis in Magnetism: for Physicists, Materials Scientists, and Engineers. Academic Press, 1998.
[2] Alex Hubert and Rudolf Schafer: Magnetic Domain. The analysis of
magnetic microstructures. Springer, 1998.
[3] David Jiles: Introduction to magnetism and magnetic materials. 3rd
edition, CRC Press, 2016.
[4] Stefano Zapperi, Pierre Cizeau, Gianfranco Durin and H. Eugene
Stanley: Dynamics of a ferromagnetic domain wall: Avalanches,
depinning transition, and the Barkhausen effect. Physical Review B,
58(10):6353–6366, September 1998.
[5] O. Saquet, J. Chicois and A. Vincent: Barkhausen noise from plain
carbon steels: Analysis of the influence of microstructure. Materials
Science & Engineering A, 269:73– 82, 1999.
[6] Saeed Kahrobaee, Taha-Hossein Hejaz: A RSM-based predictive
model to characterize heat treating parameters of D2 steel using
combined Barkhausen noise and hysteresis loop methods. Journal of Magnetism and Magnetic Materials, Volume 433, 1 July 2017,
Pages 131-140.
[7] Bui Thi Minh Tu: Contribution à la modélisation du bruit
Barkhausen en relation avec la microstructure des materiaux ferromagnetiques. Universite de Technologie de Compiegne, 2010.
(BBT nhận bài: 10/07/2017; hoàn tất thủ tục phản biện: 24/07/2017)
102 Nguyễn Hữu Vinh, Hồ Thanh Tuấn, Nguyễn Hùng, Lê Kim Hùng
ỨNG DỤNG D-STATCOM ĐỂ CẢI THIỆN CHẤT LƯỢNG ĐIỆN ÁP TRÊN
HỆ THỐNG ĐIỆN PHÂN PHỐI 22KV: KHU CÔNG NGHIỆP TÂN BÌNH,
TP. HỒ CHÍ MINH
D-STATCOM APPLICATION TO IMPROVE VOLTAGE QUALITY IN 22KV POWER
DISTRIBUTION SYSTEM: A CASE STUDY AT TAN BINH INDUSTRIAL PARK,
HO CHI MINH CITY
Nguyễn Hữu Vinh1, Hồ Thanh Tuấn1, Nguyễn Hùng2, Lê Kim Hùng3 1Tổng công ty Điện lực TP.HCM; [email protected], [email protected]
2Trường Đại học Công nghệ TP.HCM; [email protected] 3Trường Đại học Bách khoa - Đại học Đà Nẵng; [email protected]
Tóm tắt - Bài báo này trình bày kết quả mô phỏng của việc sử dụng bộ bù đồng bộ tĩnh (D-STATCOM) dùng nghịch lưu nguồn áp (VSC) để nâng cao ổn định, cải thiện chất lượng điện áp của lưới điện phân phối 22kV thực tế tại Khu công nghiệp Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh. Bộ bù D-STATCOM dùng điều khiển PID được áp dụng để ổn định và cải thiện điện áp tại các nút phụ tải của hệ thống điện phân phối dưới các chế độ làm việc xác lập khi điện áp nguồn dao động hoặc phụ tải thay đổi và chế độ quá độ khi xảy ra sự cố ngắn mạch ba pha thoáng qua. Kết quả mô phỏng trong miền thời gian cho thấy hiệu quả của việc có sử dụng bộ bù D-STATCOM trong việc ổn định biên độ và cải thiện chất lượng điện áp khi xảy ra nhiễu nhỏ trong chế độ xác lập cũng như việc nâng cao biên độ, giảm dao động điện áp, phục hồi nhanh về giá trị ban đầu trong quá trình quá độ khi xảy ra nhiễu lớn trong hệ thống điện.
Abstract - This paper presents the simulation results of using a static synchronous compensator (D-STATCOM) based on voltage source converter (VSC) to enhance voltage stability and improve voltage quality of the actual 22kV power distribution system in Tan Binh Industrial Park, Ho Chi Minh City. The PID controller based D-STATCOM is applied to stabilize and improve voltage waveforms at load buses in the studied power system under various operating conditions such as oscillation of supply voltage source or variable load and transient conditions when three-phase short circuit fault occurs. Simulation results in a time domain are presented to show effectiveness of using the D-STATCOM for stability and improvement of voltage quality when small disturbances occur, and of enhancing voltage magnitude, mitigating voltage oscillation in transient conditions under a severe disturbance in the power system.
Từ khóa - bộ bù đồng bộ tĩnh lưới phân phối (D-STATCOM); bộ bù tĩnh (SVC); bộ nghịch lưu nguồn áp (VSC); cải thiện chất lượng điện áp; bộ điều khiển vi tích phân tỉ lệ (PID).
Key words - Distribution static synchronous compensator (D-STATCOM); Static var compensator (SVC); Voltage Source Converter (VSC); Voltage quality improvement; Proportional Integral Derivative (PID).
1. Giới thiệu
Trong những năm qua đã có nhiều công trình nghiên
cứu về đánh giá ổn định điện áp hệ thống điện trong chế độ
xác lập [1-4]. Trong [1], các tác giả sử dụng phương pháp
phân tích theo đường cong PV/QV để xác định được các
nút bị mất ổn định tĩnh hoặc độ dự trữ ổn định điện áp kém
để cần phải xem xét cải thiện ổn định áp chứ chưa đưa ra
biện pháp giải quyết. Trong [2-4], các tác giả cũng phân
tích ổn định hệ thống điện trong chế độ xác lập bình thường
và sự cố bị mất một đường dây hay máy phát cũng bằng
phương pháp phân tích PV/QV từ đó xác định được vị trí
và dung lượng thiết bị bù SVC cần thiết để nâng cao ổn
định điện áp cho các nút có nguy cơ mất ổn định tĩnh. Tuy
nhiên, việc áp dụng bộ bù SVC trên với giá trị cố định chỉ
hiệu quả cho một vài trạng thái vận hành xác định chứ
không hiệu quả bằng bộ bù đồng bộ tĩnh STATCOM, do
có đáp ứng nhanh và liên tục nhờ vào bộ điều khiển và
chuyển mạch của linh kiện điện tử công suất trong VSC
[4-5]. Ứng dụng STATCOM điều khiển dòng công suất và
ổn định điện áp được sử dụng trong [6]. Tuy nhiên, hiệu
quả khi dùng STATCOM để điều khiển dòng công suất tác
dụng thì không nhiều cộng với lưới điện kín nên việc cải
thiện biên độ điện áp tại tất cả các nút không rõ rệt. Trong
[7], các tác giả áp dụng STATCOM để ổn định điện áp và
cải thiện đáp ứng quá độ nhưng áp dụng cho lưới truyền tải
500kV dùng bộ điều khiển PI nên đáp ứng hơi chậm và sai
số xác lập lớn. Mô hình hóa và điều khiển STATCOM, đã
được đưa ra trong [8, 9] và cho thấy hiệu quả trong việc
điều khiển biên độ điện áp trong xác lập. Tuy nhiên, kết
quả nghiên cứu mới cho thấy hiệu quả cho bộ bù công suất
nhỏ và chỉ áp dụng trong lưới điện hạ thế. Gần đây có nhiều
công trình nghiên cứu ứng dụng STATCOM trong hệ thống
truyền tải cao thế, cho thấy hiệu quả của nó trong việc cải
thiện đáp ứng quá độ và giảm dao động hệ thống điện [10-
16]. Trong [10, 11], các tác giả chứng minh STATCOM
hiệu quả hơn SVC trong việc nâng cao ổn định động, giảm
dao động công suất cho hệ thống điện có nhiều máy phát
điện. Trong [12-14], các tác giả ứng dụng STATCOM
trong việc cải thiện đáp ứng quá độ, nâng cao ổn định áp
khi xảy ra ngắn mạch đối xứng và không đối xứng cho hệ
thống điện có nguồn điện gió kết lưới. Trong [15],
STATCOM với bộ điều khiển PID được dùng để giảm dao
động công suất và ổn định động máy phát điện khi xảy ra
ngắn mạch ba pha trên hệ thống điện xoay chiều có tụ điện
bù dọc. Trong [16], tác giả cũng áp dụng bộ điều khiển PID
cho STATCOM để cải thiện chất lượng điện áp khi có
nhiễu lớn trong hệ thống có nguồn điện mặt trời nối lưới.
Phương pháp điều khiển bền vững áp dụng vào tìm bộ điều
khiển vòng kín cho STATCOM, tuy nhiên tác giả chỉ phân
tích mà chưa mô phỏng để thấy được hiệu quả của nó [17].
Trong [18], tác giả dùng bộ điều khiển PI cho
D-STATCOM để bù công suất kháng và ổn định điện áp
nhưng chỉ áp dụng cho lưới điện công suất nhỏ một pha.
Phần lớn các công trình nghiên cứu trên được áp dụng
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 103
mạnh mẽ vào hệ thống truyền tải điện cao áp mà ít đề cập
đến việc giải quyết chất lượng điện cung cấp gần chổ khách
hàng. Hơn nữa, đa phần các bộ STATCOM trên sử dụng
nghịch lưu 6 bước dùng IGBT nên dạng sóng ngõ ra còn
chứa nhiều sóng hài, quá trình chuyển mạch làm mất cân
bằng điện áp trên tụ DC, chưa giải quyết được hiệu quả cả
trong xác lập và quá độ.
Bài báo này, đã trình bày việc ứng dụng bộ bù
D-Statcom sử dụng nghịch lưu đa bậc với chuyển mạch
GTO kết hợp kỹ thuật điều chế PWM vào mạng lưới điện
phân phối KCN IV, Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh để
cải thiện chất lượng điện áp của phụ tải trong chế độ xác
lập khi điện áp nguồn dao động và phụ tải thay đổi theo các
mức bình thường, thấp điểm, cao điểm trong ngày và chế
độ sự cố ngắn mạch ba pha thoáng qua. Kết quả mô phỏng
trong chế độ xác lập cho thấy rằng khi có lắp đặt D-
Statcomtại nút phụ tải thì điện áp tại nút đó được điều chỉnh
ổn định, biên độ điện áp luôn nằm trong giới hạn cho phép
≤ ±5%, giảm thời gian dao động, ổn định biên độ điện áp
không những tại nút lắp đặt D-Statcom mà còn cho những
nút lân cận cũng ảnh hưởng tốt từ việc lắp đặt này. Kết quả
mô phỏng quá trình quá độ khi xảy ra sự cố ngắn mạch ba
pha: khi có D-Statcom biên độ điện áp tại các nút được
nâng cao hơn so với khi không có D-Statcom và biên độ
điện áp phục hồi nhanh lại giá trị định mức 1pu như trước
khi sự cố và không xảy ra dao động. Điều này cho thấy hiệu
quả của việc dùng bộ bù D-Statcom vào việc cải thiện chất
lượng điện áp lưới phân phối trong chế độ xác lập và quá
độ, đồng thời cho thấy khả năng ứng dụng D-Statcom vào
thực tế để đảm bảo chất lượng điện áp khi vận hành và bị
tác động của nhiễu cho các phụ tải quan trọng trong các
khu công nghiệp.
2. Mô hình D-Statcom
2.1. Nguyên lý làm việc của D-Statcom
Hình 1 trình bày cấu trúc cơ bản của D-Statcom bao
gồm: một bộ biến đổi nguồn điện áp ba pha (VSC) dựa vào
chuyển mạch điện tử công suất chuyển nguồn điện áp DC
sang AC kế nối với phía thứ cấp của máy biến áp lên lưới
phân phối.
Hình 1. Cấu trúc cơ bản D-Statcom
Nguyên lý hoạt động của D-Statcom được trình bày
trên Hình 2.Việc điều chỉnh công suất phản kháng được
thực hiện bằng việc điều khiển bộ VSC. VSC sử dụng các
linh kiện điện tử công suất để điều chế thành điện áp xoay
chiều ba pha V2 từ nguồn một chiềuVdc được tích trên các
tụ điện. D-Statcom là một thiết bị bù ngang, nó điều chỉnh
điện áp tại vị trí nó lắp đặt đến giá trị mong muốn (Vref)
thông qua việc điều chỉnh biên độ và góc pha của điện áp
rơi giữa D-Statcom và hệ thống điện.
Hình 2. Nguyên lý hoạt động của D-STATCOM
Trong chế độ hoạt động ổn định điện áp thì D-Statcom
phát ra điện áp V2 cùng pha với V1 (δ = 0), do đó nó chỉ có
chức năng điều khiển công suất kháng. Bằng cách điều
khiển VSC để điện áp V2 tạo ra cùng pha với điện áp V1
của hệ thống nhưng có biên độ lớn hơn khiến dòng phản
kháng (Iq) chạy từ D-Statcom vào hệ thống điện, lúc này
dòng điện Iq hoạt động như một điện dung cung cấp công
suất phản kháng vào hệ thống điện, vì thế sẽ làm điện áp
hệ thống lên tăng lên. Ngược lại, nếu điện áp V2 tạo ra bởi
VSC có biên độ thấp hơn điện áp V1 của hệ thống khiến
dòng phản kháng (Iq) chạy từ hệ thống vào D-Statcom, lúc
này dòng điện Iq hoạt động như một điện cảm tiêu thụ công
suất phản kháng từ hệ thống, qua đó làm giảm điện áp hệ
thống điện tại chổ kết nối. Nếu điện áp V2 tạo ra bởi VSC
và điện áp hệ thống V1 bằng nhau thì không có trao đổi
công suất phản kháng.
2.2. Mô hình toán của D-Statcom
Hình 3. Sơ đồ đơn tuyến D-Statcom nối lưới
Với điện áp tạo ra từ D-Statcomtheo 2 thành phần trục
d và trục q được tính theo công thức sau [5-7]:
vqsta= Vdcstakmstacos(pcc+) (1)
vdsta= Vdcstakmstasin(pcc+) (2)
với kmsta là hệ số điều chế; sta góc pha trong điều khiển
D-Statcom; pcc là góc pha tại PCC; Vdcsta là điện áp DC
của D-Statcom; Cm là giá trị tụ điện DC của D-Statcom.
Phương trình quan hệ giữa điện áp DC và dòng điện
trong D-Statcom được tính bằng
(Cm)(��dcsta) =b[Idcsta (Vdcsta/Rm)] (3)
với dòng điện một chiều được tính bằng công thức sau
Idcsta= iqstakmcos(θpcc+) +idstakmsin(θpcc+) (4)
với iqsta và idsta là hai thành phần trục q và trục d của dòng
điện tại đầu cực ngõ ra của D-Statcom.
Sơ đồ khối điều khiển D-Statcom để điều chỉnh điện áp
được trình bày ở Hình 4. Bằng cách thay đổi góc kích sta
cho D-Statcom để điều khiển điện áp DC trên tụ điện như
Hình 4.a. Trong khi đó, thay đổi hệ số điều chế kmsta để
ista
Rm
Rsta Xsta
Vdcsta Cm
sta stakm ,α
VPCC
104 Nguyễn Hữu Vinh, Hồ Thanh Tuấn, Nguyễn Hùng, Lê Kim Hùng
điều khiển được điện áp xoay chiều vsta của D-Statcom như
Hình 4.b.
kmmax
kmmin
km
vbus
vbus_ref +
0km
+Ks
1+sTs
Hình 4. Sơ đồ khối điều khiển D-Statcom
3. Hệ thống điện nghiên cứu
B2 B3 B4
Đường dây Đường dây
0.12km 1.579km
D-STATCOM
Tải 1
Tân Bình 1
B1
B5
Đường dây
0.633km
0.35km
0.686km
Tải 4
Tải 2
Tải 3
B7
B6
B8
Đường dây
Đường dây
Đư
ờn
g d
ây
0.9
26k
m
110kV/22kV
22k
V/3
80V
22kV/380V
22kV/380V
22kV/380V
Hình 5. Sơ đồ đơn tuyến hệ thống điện phân phối 22Kv
phát tuyến KCN IV, Tân Bình, TP.HCM
Hình 5 giới thiệu sơ đồ lưới điện phân phối KCN IV
(thuộc phát tuyến KCN IV, Quận Tân Bình, TP.HCM),
nguồn điện áp từ trạm biến áp Tân Bình 1 110KV/22KV,
công suất 63MVA. Đường dây B2-B3 dài 0,12km, tại B3
có nhánh rẽ đến B5 dài 0,926km kết nối Tải 1 qua máy biến
thế 22kV/380V. Đường dây B2-B4 dài 1,579km, tại B4 kết
nối D-Statcom 22kV, ± 3MVAR. Sau B4 chia làm 3 nhánh
lần lượt là: đường dây B4-B6 dài 0,686km kết nối Tải 2
qua máy biến thế 22kV/380V, đường dây B4-B7 dài
0,633km kết nối Tải 3 qua máy biến thế 22kV/380V, đường
dây B4-B8 dài 0,35km kết nối Tải 4 qua máy biến thế
22kV/380V. Dữ liệu phụ tải được thu thập thực tế từ kho
dữ liệu đo đếm xa của Công ty Công nghệ Thông tin Điện
lực, thuộc Tổng Công ty Điện lực Thành phố Hồ Chí Minh.
Việc lắp đặt D-Statcom tại vị trí nút B4 vì đường dây phân
phối 22kV nằm ở xa trạm điện 110/22kV nhưng gần trung
tâm tải khu công nghiệp gồm các nút tải B6, B7, B8.
Hình 6. Sơ đồ mô phỏng hệ thống điện phân phối 22Kv
phát tuyến KCN IV, Tân Bình, TP.HCM
Hình 6 trình bày sơ đồ mô phỏng cho mạng điện phân
phối phát tuyến KCN IV, Tân Bình, TP.HCM trên môi
trường Matlab/ Simulink. Hình 7 trình bày sơ đồ mô phỏng
cho D-Statcom 22kV/± 3Mvar nối vào nút 4 (Bus 4) nhằm
ổn định biên độ điện áp tại nút này khi điện áp nguồn dao
động và phụ tải 1, 2, 3, 4 thay đổi trong ngày. D-Statcom
được xây dựng dựa vào bộ nghịch lưu nguồn áp sử dụng
IGBT kết hợp với máy biến áp để nối lên lưới phân phối
22kV. Bộ điều khiển PID được dùng để điều khiển điện áp
trong mô hình này.
Hình 7. Sơ đồ khối mô phỏng D-Statcom
4. Kết quả mô phỏng
4.1. Trường hợp điện áp nguồn dao động ±6% và công
suất các phụ tải 1, 2, 3, 4 không thay đổi
Thời gian mô phỏng là 0,5s. Tại thời điểm 0,2s điện áp
nguồn tăng 6% lên đến 1,06pu, sau đó tại thời điểm 0,3s
nguồn giảm 6% xuống 0,94pu và đến thời điểm 0,4s nguồn
trở về bình thường 1pu như trên Hình 8a (đường nét đứt).
Công suất các phụ tải như trong Bảng 1:
Bảng 1. Công suất các phụ tải 1, 2, 3, 4
Phụ tải 1 Phụ tải 2 Phụ tải 3 Phụ tải 4
P(kW) 784,35 439,24 627,48 501,99
Q(kVAr) 257,81 257,14 206,24 165,00
(a) Điện áp V tại nút 4 (b) Công suất P tại nút 4
(c) Công suất Q tại nút 4
Hình 8. Đặc tính P, Q, V tại nút 4 khi áp nguồn dao động
Hình 8 trình bày kết quả mô phỏng các đồ thị P, Q, V
trong trường hợp không có (đường nét đứt) và có (đường
nét liền) D-Statcom kết nối với nút 4 (B4). Kết quả cho thấy
khi không có D-Statcom (đường nét đứt) đồ thị điện áp bị
dao động vượt quá ±5%, vi phạm giới hạn cho phép theo
tiêu chuẩn [14] và khi có nối D-Statcom (đường nét liền) tại
nút 4 (B4) nối đến các nút tải (B6, B7, B8) thì điện áp ổn
định, bằng phẳng hơn và biên độ điện áp trở về gần với giá
trị định mức1pu như mong muốn. Tương tự các đồ thị công
suấtP, Q tại nút có nối D-Statcom (Bus 4) bằng phẳng hơn
và gần với giá trị ban đầu khi chưa có dao động điện áp
0,12km 1,579km 0,633km
0,35km
0,686km
0,9
26
km
a)
b)
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 105
nguồn. Công suất P dao động trong khoảng 2,28MW đến
2,5MW, công suất kháng Q dao động trong khoảng
0,79Mvar đến 0,9Mvar. Điều này cho thấy, hiệu quả của D-
Statcom trong việc ổn định biên độ, cải thiện chất lượng
điện áp tại các nút tải khi điện áp nguồn dao động.
4.2. Trường hợp thay đổi công suất các phụ tải 1, 2, 3, 4
Giá trị công suất các phụ tải thay đổi tương ứng các thời
điểm bình thường (Biểu 1), thấp điểm (Biểu 2) và cao điểm
(Biểu 3) dựa vào dữ liệu đo đếm được trình bày trong Bảng 2.
a) Điện áp tại nút 4 (b) Công suất P tại nút 4
có nối D-Statcom
(c) Công suất Q tại nút 4
Hình 9. P, Q, V tại nút 4 (B4) khi công suất tải thay đổi
Hình 9 trình bày kết quả mô phỏng các đồ thị P, Q, V
trong trường hợp không có (đường nét đứt) và có (đường
nét liền) D-Statcom kết nối với nút 4 (B4). Khi các tải thay
đổi vào các thời điểm bình thường, thấp điểm, cao điểm
như trong Bảng 2 thì điện áp nút 4 bị giảm nhỏ hơn định
mức và dao động không bằng phẳng (đường nét đứt).
Trường hợp có D-Statcom kết nối với nút 4 (B4) thì điện
áp bằng phẳng hơn, dao động nhỏ quanh giá trị định mức
1pu như mong muốn (đường nét liền). Đồ thị công suất P,
Q khi có D-Statcom được nâng cao hơn so với khi không
có D-Statcom.
Bảng 2. Công suất các phụ tải tại các thời điểm bình thường,
thấp điểm và cao điểm
Phụ tải Công suất Biểu 1 Biểu 2 Biểu 3
Phụ tải 1 P(kW) 1.623,20 1.358,30 1.724,60
Q(kVAr) 533,51 446,47 425,14
Phụ tải 2 P(kW) 908,98 760,67 965,78
Q(kVAr) 298,77 250,02 317,44
Phụ tải 3 P(kW) 1.298,54 1.086,67 1.379,69
Q(kVAr) 426,81 357,17 453,48
Phụ tải 4 P(kW) 1.038,83 869,34 1.103,75
Q(kVAr) 341,45 285,74 362,79
Hình 10 cho thấy biên độ điện áp tại nút 2 (B2) phía
nguồn cũng được nâng cao hơn, tránh xảy ra quá tải do tụt
áp quá nhiều do tải thay đổi. Điều này cho thấy hiệu quả
của D-Statcom trong việc điều chỉnh điện áp không những
ổn định điện áp tại nút kết nối mà còn ổn định điện áp ở
những nút lân cận nữa.
Hình 10. Điện áp tại nút 2 (B2)
4.3. Trường hợp xảy ra sự cố ngắn mạch ba pha thoáng
qua trên lưới phân phối tại Phụ tải 1
Sơ đồ mô phỏng khi xảy ra sự cố ngắn mạch ba pha
thoáng qua trên lưới phân phối tại Phụ tải 1 được trình bày
trên Hình 11.
Hình 11. Sơ đồ mô phỏng khi xảy ra sự cố ngắn mạch ba pha
thoáng qua trên lưới phân phối tại Phụ tải 1
Kết quả mô phỏng biên độ điện áp tại các nút B2 và B4
khi không có và có D-Statcom lắp đặt tại nút B4. Thời gian
mô phỏng từ 0 đến 0,8s. Thời gian xảy ra sự cố ngắn mạch
thoáng qua từ 0,4s đến 0,6s. Trên Hình 12, trường hợp
không có D-Statcom thì điện áp nguồn B2 giảm từ 0,95pu
đến 0,54pu trong thời gian xảy ra sự cố ngắn mạch, sau đó
từ 0,6s phục hồi về giá trị ban đầu 0,95pu như trước khi sự
cố. Khi có D-Statcom thì điện áp B2 giảm từ 1pu đến
0,56pu trong thời gian xảy ra sự cố ngắn mạch, sau đó phục
hồi về giá trị ban đầu 1pu như trước khi sự cố. Tương tự
trên Hình 13, trường hợp khi không có D-Statcom thì điện
áp nút B4 giảm từ 0,92pu đến 0,35pu trong thời gian xảy
ra sự cố ngắn mạch sau đó từ 0,6s phục hồi về giá trị ban
đầu 0,92pu như trước khi sự cố. Còn khi có
D-Statcom thì điện áp B4 giảm từ 1pu đến 0,56pu trong
thời gian xảy ra sự cố ngắn mạch sau đó phục hồi về giá trị
ban đầu 1pu như trước khi sự cố. Kết quả cho thấy khi có
lắp đặt D-Statcom thì biên độ điện áp tại nút B2 và B4 được
nâng cao hơn so với trường hợp không có D-Statcom khi
xảy ra sự cố ngắn mạch, đồng thời đáp ứng điện áp phục
hồi nhanh và ổn định lại bằng điện áp định mức 1pu như
trước khi sự cố, không xảy ra dao động điện áp sau sự cố,
nâng cao chất lượng điện áp cung cấp cho phụ tải. Tuy
nhiên phản ứng của STATCOM hiệu quả chưa cao trong
trường hợp này là do dự cố xảy ra ở vị trí gần về phía nguồn
hơn so với vị trí của STATCOM. Hơn nữa bộ PID thông
số cố định sẽ không hoạt động tốt trong tất cả các trường
hợp. Điều này có thể giải quyết bằng cách dùng kết hợp
PID với logic mờ, nơron hoặc điều khiển thích nghi cho
D-Statcom.
106 Nguyễn Hữu Vinh, Hồ Thanh Tuấn, Nguyễn Hùng, Lê Kim Hùng
Hình 12. Đáp ứng điện áp tại nút B2 khi xảy ra sự cố
ngắn mạch ba pha thoáng qua từ 0,4s đến 0,6s trên
lưới phân phối tại Phụ tải 1
Hình 13. Đáp ứng điện áp tại nút B4 khi xảy ra sự cố
ngắn mạch ba pha thoáng qua từ 0,4s đến 0,6s trên
lưới phân phối tại Phụ tải 1
5. Kết luận
Bài báo đã trình bày việc ứng dụng bộ D-Statcom vào
mạng lưới điện phân phối KCN IV, Tân Bình, TP.HCM để
cải thiện chất lượng điện áp của phụ tải trong chế độ xác
lập khi điện áp nguồn dao động và phụ tải thay đổi theo các
mức bình thường, thấp điểm, cao trong ngày và chế độ sự
cố ngắn mạch ba pha thoáng qua. Kết quả mô phỏng trong
chế độ xác lập cho thấy rằng khi có lắp đặt D-Statcom tại
nút phụ tải thì điện áp tại nút đó được điều chỉnh ổn định,
biên độ điện áp luôn nằm trong giới hạn cho phép ≤ ±5%,
giảm thời gian dao động, ổn định biên độ điện áp không
những tại nút lắp đặt D-Statcom mà còn cho những nút lân
cận cũng ảnh hưởng tốt từ việc lắp đặt này. Kết quả mô
phỏng quá trình quá độ khi xảy ra sự cố ngắn mạch ba pha
thì khi có D-Statcom biên độ điện áp tại các nút được nâng
cao hơn so với khi không có D-Statcom và biên độ điện áp
phục hồi nhanh lại giá trị định mức 1pu như trước khi sự
cố và không xảy ra dao động. Điều này cho thấy, hiệu quả
của việc dùng bộ bù D-Statcom vào việc cải thiện chất
lượng điện áp lưới phân phối trong chế độ xác lập và quá
độ, đồng thời cho thấy khả năng ứng dụng D-Statcom vào
thực tế để đảm bảo chất lượng điện áp khi vận hành và bị
tác động của nhiễu cho các phụ tải quan trọng trong các
khu công nghiệp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Tùng Lâm, Trần Thị Hằng, Nguyễn Văn Nhật, “Sử dụng đường cong PV/QV phân tích ổn định điện áp”, Tuyển tập báo cáo
Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học lần thứ 7 Đại học Đà Nẵng,
pp120-129, 2010. [2] Nguyễn Xuân Dũng, “Đánh giá ổn định điện áp 220kV khu vực miền
trung”, Luận văn thạc sĩ Đại học Đà Nẵng, 2012.
[3] Trần Văn Vinh, “Ứng dụng thiết bị SVC để nâng cao độ ổn định điện áp trong hệ thống điện”, Luận văn thạc sĩ Đại học Sư phạm Kỹ thuật
TP.HCM, 2013.
[4] Lê Đức Hiền, Trần Phương Châu, Trần Văn Dũng, Hà Đình Nguyên “Ứng dụng thiết bị STATCOM để nâng cao độ ổn định điện áp cho
hệ thống điện Việt Nam”, Tuyển tập báo cáo Hội nghị Sinh viên
Nghiên cứu Khoa học lần thứ 7 Đại học Đà Nẵng, pp.106-112, 2010. [5] Hồ Đắc Lộc, “Thiết bị FACTS trong hệ thống điện”, Nhà xuất bản
Xây dựng, 2013.
[6] D. Shen, and P. W. Lehn, “Modeling, analysis and control of a current source inverter based STATCOM”, IEEE Trans.on Power Deliverv.
Vol.17. No.l, pp. 248-253, 2002.
[7] A. Jain, K. Joshi, A. Behal,and N. Mohan, “Voltage regulation with STATCOMs:Modeling, control and results”, IEEE Trans. Power
Delivery, vol. 21, no. 2, pp. 726-735, 2006.
[8] Nguyen Huu Vinh, Le Kim Hung, Nguyen Hung, “Comparative Stability Improvement Studied of a Multi-machine System with a
STATCOM and a SVC”, The 2015 International Symposium on
Electrical and Electromics Engineering -ISEE 2015, Vietnam, pp.24-31, October 30th 2015.
[9] Nguyễn Hồng Anh, Lê Cao Quyền, “Lựa chọn thiết bị bù công suất
phản kháng tối ưu cho lưới điện 500kV Việt Nam”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng, pp.1-9, Số 3(26), 2008.
[10] Nguyen Huu Vinh, Nguyen Hung, Le Kim Hung, “Using a Statcom
to Enhance Stability of a Grid Connected Wind Power System”, The University of Da Nang, Journal of Science and Technology, pp.215-
219, Vol 11 (96), 2015.
[11] D. Manasa, M.GopiSivaPrasad, G.Jayakrishna, “Statcom Control
under Asymmetrical Grid Faults at FSIG- Wind Farm”, International
Journal of Electrical and Electronics Research,Vol. 2, Issue 2,
pp.124-132, June 2014. [12] H. Chong, A. Q. Huang, M. E. Baran, S. Bhattacharya, W.
Litzenberger, L. Anderson, A. L. Johnson, and A. A. Edris, “STATCOM impact study on the integration of a large wind farm
into a weak loop power system”, IEEE Trans. Energy Conversion,
vol. 23, no. 1, pp. 226-233, 2008. [13] K. V. Patil, J. Senthil, J. Jiang, and R. M. Mathur, “Application of
STATCOM for damping torsinal oscillations in series compensated AC
system”, IEEE Trans. Energy Conversion, vol. 13, no. 3, pp. 237-243, 1998. [14] A. Ganesh, R. Dahiya and G. K. Singh, "Development of simple
technique for STATCOM for voltage regulation and power quality
improvement”, 2016 IEEE International Conference on Power Electronics, Drives and Energy Systems (PEDES), Trivandrum,
India, pp.1-6,2016.
[15] Bô Công thương, Thông tư số 39/2015/TT-BCT “Qui định hệ thống điện phân phối”, Bộ Công thương, Hà Nội ngày 18/11/2015.
[16] Trần Đình Long”,Tra cứu về chất lượng điện năng”, Nhà xuất bản
Bách khoa Hà Nội, 2013. [17] P. M. Anderson and A. A. Fouad, “Power System Control and
Stability”, IEEE Press, 2d ed., 2003.
[18] P. Kundar, “Power System Stability and Control”. New York: McGraw-Hill, 1994.
(BBT nhận bài: 27/06/2017, hoàn tất thủ tục phản biện: 21/07/2017)
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 107
NGHIÊN CỨU CHUYỂN HÓA SUCROSE THÀNH 5-HYDROXYMETHYL-2-
FURFURALDEHYDE BẰNG SỰ KẾT HỢP GIỮA NHIỆT VÀ XÚC TÁC HCl
CONVERSION OF SUCROSE INTO 5-HYDROXYMETHYL-2-FURFURALDEHYDE
BY COMBINATION OF HEAT AND HCl AS A CATALYST
Bùi Viết Cường1, Nguyễn Thị Hường2, Đặng Thị Thiện2, Đoàn Thị Ngọc Thúy2 1Trường Đại học Bách khoa - Đại học Đà Nẵng; [email protected]
2Sinh viên ngành Công nghệ Thực phẩm, Trường Đại học Bách khoa - Đại học Đà Nẵng;
[email protected]; [email protected]; [email protected]
Tóm tắt - 5-Hydroxymethyl-2-Furfuraldehyde (5-HMF) có rất nhiều ứng dụng trong các lĩnh vực khác nhau của công nghiệp. Nghiên cứu được tiến hành nhằm khai thác những ưu điểm vượt trội của sự kết hợp giữa nhiệt và xúc tác HCl nhằm chuyển hóa sucrose thành 5-HMF. Các yếu tố ảnh hưởng đến phản ứng chuyển hóa được khảo sát: nhiệt độ, nồng độ xúc tác, thời gian, tỉ lệ cơ chất: chất xúc tác (g/ml). Các thông số tối ưu của phản ứng chuyển hóa được xác định: nhiệt độ 200ºC, nồng độ xúc tác HCl 2M, thời gian phản ứng 10 phút, tỉ lệ cơ chất : chất xúc tác 1:16 (g/ml) với hiệu suất chuyển hóa 5-HMFcao nhất là 43,34 ± 2,23 %. Kết quả nghiên cứu đã chứng minh sự kết hợp giữa nhiệt và xúc tác HCl với cơ chất sucrose có thể thay thế các phương pháp khác trong quá trình sản xuất 5-HMF.
Abstract - 5-Hydroxymethyl-2-Furfuraldehyde (5-HMF) has a variety of applications in many sectors of industry. This study is carried out to explore the advantages of the combination of heat and HCl as a catalyst to convert sucrose as a substrate into 5-HMF. The factors of the conversion reaction such as temperature, concentration of HCl, reaction time and ratio of substrate and catalyst (g/ml) are screened.The optimal factors selected for the conversion reaction are temperature of 200ºC, HCl concentration of 2M, reaction time of 10 m, sucrose ratio of 1:16 (g/ml) and HCl (g/ml) with 47,75 ± 3,87 % of the highest conversion yield of 5-HMF. The combination of heat and HCl as a catalyst with sucrose as a substrate can reach the approximate conversion yield of 5-HMF in comparison with other methods.
Từ khóa - 5-Hydroxymethyl-2-Furfuraldehyde; hiệu suất chuyển hóa 5-HMF; sucrose; xúc tác HCl; sự kết hợp giữa nhiệt và xúc tác HCl.
Key words - 5-Hydroxymethyl-2-Furfuraldehyde; conversion yield of 5-HMF; sucrose; HCl as a catalyst; combination of heat and HCl as a catalyst.
1. Đặt vấn đề
5-HMF là sản phẩm trung gian của phản ứng caramel
và phản ứng Maillard [1] . 5-HMF có rất nhiều ứng dụng
đa dạng trong các lĩnh vực khác nhau của công nghiệp. 5-
HMF là cơ chất để sản xuất polymer, nhựa tái sinh,
polyester, ... trong công nghiệp vật liệu; là chất có hoạt tính
sinh học cao được ứng dụng trong hóa nông, y dược, ...
được phối trộn với nhiên liệu lỏng trong công nghiệp năng
lượng; là cơ chất để tổng hợp dialdehyde, eter, chất béo có
khối lượng phân tử thấp và các dẫn xuất hữu cơ khác ... [2].
Hơn nữa, 5-HMF còn có tiềm năng ứng dụng trong y dược
như: điều chế thuốc điều trị các bệnh thần kinh, tim mạch
và nội tạng. Ngoài ra, 5-HMF còn có tác dụng làm giảm sự
tích tụ các chất độc trong cơ thể, đặc biệt còn có khả năng
loại bỏ các gốc tự do chống oxy hóa [3]. Trong công nghiệp
thực phẩm, hợp chất 5-HMF được sử dụng để tổng hợp các
chất phụ gia thực phẩm như: alapyridaine, acid levulinic,
acid fomic, ... [4]. Bên cạnh đó, 5-HMF là hợp chất có khả
năng ức chế sự phát triển của nấm men và vi khuẩn, vì vậy,
hợp chất này còn được sử dụng để bảo quản thực phẩm lên
men [5].
5-HMF và dẫn xuất của nó được phát hiện từ cuối thế kỉ
19 và cho đến nay đã có hơn 1000 công trình nghiên cứu về
phương pháp sản xuất 5-HMF được công bố, điều này đã
minh chứng cho tầm quan trọng của 5-HMF [6]. Phần lớn
các nghiên cứu trước sử dụng phương pháp kết hợp giữa
nhiệt: hơi nước bão hòa, hơi nước quá bão hòa, nước nhiệt
... [7] và các loại xúc tác khác nhau như: acid vô cơ, acid hữu
cơ, acid lewis, muối … [6] để chuyển hóa đường fructose
thành 5-HMF. Tuy nhiên, thiết bị dùng cho các nghiên cứu
đã tiến hành đắt tiền, làm việc ở áp suất cao, chi phí bảo trì
bảo dưỡng lớn nên là gánh nặng về kinh tế cho quá trình sản
xuất với qui mô công nghiệp. Hơn nữa, các acid vô cơ và
muối vô cơ được sử dụng làm chất xúc tác ở các nghiên cứu
trước bắt buộc phải loại bỏ hoàn toàn trước khi đưa vào sử
dụng trong y học, sinh học và thực phẩm. Đối với các nghiên
cứu sử dụng xúc tác acid hữu cơ thì cường lực xúc tác của
acid hữu cơ thấp hơn acid vô cơ và dễ dàng bị phân hủy bởi
nhiệt độ cao, điều này ảnh hưởng đáng kể đến phản ứng
chuyển hóa fructose thành 5-HMF.
Nguồn nhiệt trong nghiên cứu này có giá thành thấp,
vận hành đơn giản, chi phí bảo trì bảo dưỡng thấp và chưa
được khai thác triệt để chuyển hóa đường thành 5-HMF.
Ngoài ra, nguồn và giá thành của sucrose phong phú và
thấp hơn so với fructose. Hơn thế nữa, HCl được sử dụng
như một loại phụ gia thực phẩm vì tính an toàn đối với đối
tượng sử dụng [8]. Nên HCl sẽ là một xúc tác thích hợp cho
quá trình sản xuất 5-HMF, nhằm nâng cao khả năng sử
dụng của sản phẩm thô thu được sau phản ứng khi HCl
được loại bỏ bằng phương pháp trung hòa với NaOH hoặc
pha loãng đến nồng độ qui định như là một phụ gia thực
phẩm (0,05 M) [8].
Nghiên cứu này được tiến hành nhằm mục đích khai
thác những ưu điểm vượt trội của sự kết hợp giữa nhiệt và
xúc tác HCl nhằm chuyển hóa sucrose thành 5-HMF.
2. Nguyên liệu, hóa chất và phương pháp nghiên cứu
2.1. Nguyên liệu, hóa chất
Sucrose, phenol, acid sulfuric (95 - 98%),
dihydroxyacetone (DHA) (Merck-Đức); fructose (Himedia-
Ấn Độ); glucose, acid clohydric (36 - 38%), natri
hydroxit (96%), kali natri tartrate (Trung Quốc);
108 Bùi Viết Cường, Nguyễn Thị Hường, Đặng Thị Thiện, Đoàn Thị Ngọc Thúy
acid dinitrosalicylic, 5-Hydroxymethyl-2-Furfuraldehyde
(5-HMF), nước khử ion, methanol (Sigma-Aldrich, USA).
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Tất cả các phản ứng chuyển hóa được tiến hành trong
bình phản ứng kín bằng sứ (50 ml) chịu nhiệt và áp suất
cao với tủ sấy (101-2, Ketong, Trung Quốc). Các sản phẩm
thô thu được sau phản ứng chuyển hóa được bảo quản ở
4°C để tiến hành các phân tích tiếp theo.
2.2.1. Khảo sát ảnh hưởng của nhiệt độ phản ứng đến phản
ứng chuyển hóa sucrose thành 5-HMF
Sucrose với khối lượng 1g được hòa tan trong 10 ml
HCl 0,05M bằng máy khuấy từ. Hỗn hợp được thực hiện
phản ứng ở các nhiệt độ 100°C đến 220ºC, chênh lệch nhiệt
độ giữa các phản ứng là 20ºC. Mẫu trắng gồm sucrose (1g)
và 10 ml nước khử ion được tiến hành song song với các
điều kiện như mẫu có xúc tác.
2.2.2. Khảo sát ảnh hưởng của nồng độ xúc tác đến phản
ứng chuyển hóa sucrose thành 5-HMF
Sucrose với khối lượng 1g được hòa tan trong 10 ml
HCl ở các nồng độ khác nhau bằng máy khuấy từ. Hỗn hợp
được thực hiện phản ứng ở nhiệt độ tối ưu với các nồng độ
HCl(M): 0,05; 0,2; 0,4; 0,6; 0,8; 1,0; 1,2; 1,4; 1,6; 1,8; 2,0;
2,2; 2,4; 2,6; 2,8; 3,0.
2.2.3. Khảo sát ảnh hưởng của thời gian phản ứng đến
phản ứng chuyển hóa sucrose thành 5-HMF
Sucrose với khối lượng 1g được hòa tan trong 10 ml
HCl 2M bằng máy khuấy từ. Hỗn hợp được thực hiện phản
ứng ở nhiệt độ và nồng độ xúc tác tối ưu với các thời gian
phản ứng (phút): 5, 10, 15, 20, 25, 30, 35. Mẫu trắng gồm
1g sucrose và 10ml nước khử ion được tiến hành song song
với các điều kiện như mẫu có xúc tác.
2.2.4. Khảo sát ảnh hưởng của tỉ lệ cơ chất và chất xúc tác
đến phản ứngchuyển hóa sucrose thành 5-HMF
Hỗn hợp gồm sucrose và HCl được thực hiện phản ứng
ở nhiệt độ, nồng độ HCl và thời gian tối ưu đã được lựa
chọn với các tỉ lệ (cơ chất: chất xúc tác, g/ml): 1:2, 1:4, 1:6,
1:8, 1:10, 1:12, 1:14, 1:16, 1:18.
2.3. Phương pháp phân tích
2.3.1. Xác định hàm lượng carbohydrate tổng (TC)
Hàm lượng TC được xác định bằng phương pháp
phenol - sulfuric acid [9]. Hàm lượng TC được tính toán
bằng % (g TC/100g sucrose).
2.3.2. Xác định hàm lượng đường khử (RS)
Hàm lượng RS được xác định bằng phương pháp
dinitrosalicylic acid [10]. Hàm lượng RS được tính bằng %
(g RS/100g đường sucrose).
2.3.3. Độ hấp thụ UV của sản phẩm thô thu được sau phản
ứng chuyển hóa
Độ hấp thụ UV của sản phẩm thô thu được sau phản
ứng chuyển hóa được xác định tại bước sóng 284nm [11].
2.3.4. Xác định hiệu suất chuyển hóa sucrose thành 5-HMF
Hiệu suất chuyển hóa 5-HMF được xác định bằng
phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC). Sản phẩm
thô sau phản ứng được trung hòa bằng NaOH và lọc qua
màng lọc có đường kính lỗ màng 0,2µm. 20µL mẫu được
tiêm vào HPLC. Hỗn hợp nước khử ion và methanol
(90:10, v/v) được lọc qua màng lọc có đường kính lỗ màng
0,2 µm được sử dụng làm pha động với tốc độ dòng1
ml/phút. Cột C18 (Dionex, 5 µm, 120 Å, 4,6 x 50 mm), đầu
dò UV trên HPLC (Dionex Ultimate 3000, Thermo
Scientific, Mỹ) được sử dụng để phân tách và xác định độ
hấp thụ của 5-HMF tại bước sóng 284 nm. Hiệu suất
chuyển hóa sucrose thành5-HMF được tính bằng % (g 5-
HMF/100g sucrose).
2.3.5. Phương pháp phân tích số liệu
Phần mềm Minitab 16 được sử dụng để phân tích sự
khác biệt có ý nghĩa của kết quả thí nghiệm.
3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
3.1. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến phản ứng chuyển hóa
sucrose thành 5-HMF
Nhìn chung, nhiệt độ trong khoảng khảo sát không có
ảnh hưởng lớn đến phản ứng chuyển hóa sucrose thành
5-HMF khi không có xúc tác và có xúc tác. TC của phản
ứng có xúc tác và mẫu trắng thay đổi không lớn. RS có sự
thay đổi đáng kể đối với mẫu có xúc tác nhưng ngược lại
đối với mẫu trắng RS đều bằng 0. pH của mẫu trắng và mẫu
có xúc tác hầu như không thay đổi. Hiệu suất chuyển hóa
5-HMF và độ hấp thụ của sản phẩm thô (phản ánh mức độ
hình thành các sản phẩm trung gian của phản ứng caramel
[11]) không có sự khác nhau nhiều giữa các nhiệt độ đã lựa
chọn để khảo sát đối với mẫu có xúc tác và không thay đổi
đối với mẫu trắng.
Hình 1. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến hiệu suất chuyển hóa
sucrose thành 5-HMF
TC của mẫu xúc tác và mẫu trắng đều không có sự
chênh lệch đáng kể giữa các nhiệt độ. Với mẫu có xúc tác,
khi nhiệt độ tăng thì RS tăng dần, cụ thể từ 100 - 140ºC RS
tăng mạnh, trong khoảng nhiệt độ từ 140 - 220ºC RS tăng
không đáng kể và hàm lượng RS đạt cực đại với giá trị
0
2
4
6
0
20
40
60
80
100
100 120 140 160 180 200 220
pH
Ph
ần
tră
m (
%)
Nhiệt độ (°C ) Tổng carbohydrate (mẫu có xúc tác)
Tổng carbohydrate (mẫu trắng)
Đường khử (mẫu có xúc tác)
Đường khử (mẫu trắng)
pH (mẫu có xúc tác)
pH (mẫu trắng)
0.0
0.2
0.4
0.6
0.8
1.0
0.0
0.1
0.2
0.3
0.4
0.5
100 120 140 160 180 200 220
AB
S
Hiệ
u s
uất
ch
uyển
hóa
(%)
Nhiệt độ (ºC)Hiệu suất chuyển hóa 5-HMF (mẫu có xúc tác)
Hiệu suất chuyển hóa 5-HMF (mẫu trắng)
Độ hấp thụ (mẫu trắng)
Độ hấp thụ (mẫu có xúc tác)
A)
B)
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 109
90,14 ± 2,67% tại 220ºC.Với mẫu trắng thì hàm lượng RS
bằng 0 vì sự thủy phân sucrose thành đường khử (glucose
và fructose) không xảy ra. Khi nhiệt độ tăng dần cùng với
ảnh hưởng của xúc tác HCl 0,05 M, sucrose bị phân hủy
thành glucose, fructose và các hợp chất chứa nhóm chức
aldehyde (-CHO) vì vậy lượng RS tăng dần. Trong khi đó,
RS của mẫu trắng có giá trị 0 vì phản ứng thủy phân sucrose
thành glucose và fructose, hoặc chuyển hóa đường khử
thành các hợp chất có nhóm chức aldehyde (-CHO) chưa
xảy ra. pH của mẫu có xúc tác và mẫu trắng thay đổi không
đáng kể vì phản ứng phân hủy 5-HMF thành acid hữu cơ:
acid levulinic, acid formic [2]... diễn ra chậm. Khi nhiệt độ
tăng dần, hiệu suất chuyển hóa 5-HMF và độ hấp thụ của
mẫu có xúc tác tăng dần. Trong khoảng nhiệt độ 100-140ºC
hiệu suất chuyển hóa 5-HMF tăng không đáng kể, 140-
200ºC hiệu suất chuyển hóa 5-HMF tăng mạnh và từ 200-
220ºC 5-HMF tăng nhẹ. Hàm lượng 5-HMF đạt giá trị cực
đại cực đại là 0,30 ± 0,06% và độ hấp thụ cực đại là 0,96 ±
0,07 tại 220ºC. Phản ứng chuyển hóa sucrose thành 5-HMF
và các hợp chất trung gian không xảy ra khi không có xúc
tác trong khoảng nhiệt độ khảo sát nên hàm lượng 5-HMF
và độ hấp thụ của sản phẩm thô đều bằng 0. Bên cạnh đó,
kết quả nghiên cứu cũng cho thấy phản ứng chuyển hóa
bằng phương pháp nhiệt khi có mặt xúc tác HCl xảy ra tốt
hơn so với phản ứng chuyển hóa không có xúc tác.
Phân tích sự khác biệt có ý nghĩa được tiến hành và kết
quả phân tích cho thấy ở các nhiệt độ 200ºC và 220°C có sự
chênh lệch hiệu suất chuyển hóa 5-HMF không đáng kể và có
sự khác biệt hoàn toàn đối với các nhóm nhiệt độ phản ứng
khác. Do đó, nhiệt độ 200°C được lựa chọn làm nhiệt độ phản
ứng chuyển hóa tối ưu cho các nghiên cứu tiếp theo.
3.2. Ảnh hưởng của nồng độ xúc tác đến phản ứng
chuyển hóa sucrose thành 5-HMF
Nồng độ xúc tác có ảnh hưởng rất lớn đến phản ứng
chuyển hóa sucrose thành 5-HMF. TC, RS của phản ứng
có sự thay đổi lớn giữa các nồng độ xúc tác HCl được lựa
chọn để khảo sát. Bên cạnh đó, hiệu suất chuyển hóa 5-
HMF và độ hấp thụ của sản phẩm thô cũng có sự khác biệt
lớn giữa các nồng độ xúc tác HCl.
TC và RS không thay đổi đáng kể từ 0,05 M - 2,6 M và từ
2,6 M - 3,0 M giảm mạnh vì nồng độ HCl cao làm cho đường
khử (hợp chất có chứa nhóm aldehyde, -CHO) hoặc 5-HMF
(hợp chất có chứa nhóm aldehyde, -CHO) bị phân hủy thành:
acid levulinic, acid formic,... [2], hình thành polymer không
tan hoặc sản phẩm cuối của phản ứng caramel dẫn đến TC và
RS giảm đáng kể. Hơn thế nữa, phản ứng caramel xảy ra mãnh
liệt đã hình thành nên các hợp chất bay hơi hoặc polymer
không tan [2] được tạo thành với cơ chất 5-HMF đã làm cho
TC, RS giảm đáng kể. Tương ứng với sự thay đổi của TC và
RS thì hiệu suất chuyển hóa 5-HMF tăng nhanh và đạt cực đại
với giá trị 41,82 ± 2,63% tại nồng độ HCl 2,0 M. Tương tự,
độ hấp thụ của sản phẩm thô có xu hướng tăng nhanh từ 0,05
M đến 2,2 M và sau đó giảm dần vì khi tăng nồng độ xúc tác
các hợp chất màu của phản ứng caramel bị phân hủy [11].
Hiệu suất chuyển hóa 5-HMF tăng mạnh khi tăng nồng độ xúc
tác HCl đã cho thấy xúc tác HCl đóng vai trò quan trọng trong
phản ứng chuyển hóa sucrose thành 5-HMF bằng phương
pháp nhiệt.
Sự khác biệt có ý nghĩa của kết quả thí nghiệm được
phân tích cho thấy ở nồng độ 2 M có sự khác biệt hoàn toàn
đối với các nhóm nồng độ xúc tác khác. Do đó, nồng độ 2
M được lựa chọn làm nồng độ xúc tác tối ưu cho các nghiên
cứu tiếp theo.
Hình 2. Ảnh hưởng của nồng độ xúc tác HCl đến
hiệu suất chuyển hóa sucrose thành 5-HMF
Hình 3. Sắc kí đồ của sản phẩm thô thu được sau phản ứng
chuyển hóa (điều kiện phản ứng: 200ºC, HCl 2 M, 10 phút,
tỉ lệ cơ chất và chất xúc tác 1:10, g/ml).
3.3. Ảnh hưởng của thời gian đến phản ứng chuyển hóa
sucrose thành 5-HMF
Thời gian có ảnh hưởng lớn đến phản ứng chuyển hóa
sucrose thành 5-HMF khi nồng độ xúc tác HCl 2 M và nhiệt
độ phản ứng 200ºC và không có ảnh hưởng đối với mẫu
trắng. TC, RS của phản ứng chuyển hóa có xúc tác và mẫu
trắng thay đổi không đáng kể. Giá trị pH của mẫu trắng và
50
60
70
80
90
100
Ph
ần
trăm
(%
)
Nồng độ HCl (M)
Tổng carbohydrate Đường khử
0.0
0.4
0.8
1.2
1.6
0
20
40
60
AB
S
Hiệ
u s
uấ
t ch
uy
ển
hóa
(%
)
Nồng độ HCl (M)
Hiệu suất chuyển hóa sucrose thành 5-HMF Độ hấp thụ
5-HMF
DHA
A)
B)
110 Bùi Viết Cường, Nguyễn Thị Hường, Đặng Thị Thiện, Đoàn Thị Ngọc Thúy
mẫu có xúc tác hầu như không đổi. Hiệu suất chuyển hóa
5-HMF, độ hấp thụ có sự khác biệt đáng kể giữa các
khoảng thời gian phản ứng đối với mẫu có xúc tác và không
thay đổi đối với mẫu trắng.
Hình 4. Ảnh hưởng của thời gian đến hiệu suất chuyển hóa
sucrose thành 5-HMF
TC, RS của mẫu có xúc tác tăng từ 5 phút đến 10 phút
và sau đó giảm mạnh từ 10 phút đến 35 phút. Thời gian
phản ứng tăng thì hàm lượng TC, RS tăng do sucrose đã
phân hủy thành glucose, fructose, các sản phẩm trung gian
chứa nhóm chức aldehyde (-CHO). Tuy nhiên, khi kéo dài
thời gian phản ứng thì các sản phẩm trung gian sẽ bị phân
hủy thành các sản phẩm cuối cùng của phản ứng caramel
hoặc các sản phẩm phụ làm cho TC, RS giảm. Đối với mẫu
trắng, TC thay đổi không đáng kể và RS tại các điểm khảo
sát đều bằng 0 vì khả năng thủy phân sucrose thành fructose
và glucose không xảy ra khi không có xúc tác HCl. pH thay
đổi không đáng kể tại các mức thời gian phản ứng được
khảo sát. Đối với mẫu có xúc tác, hiệu suất chuyển hóa 5-
HMF tăng nhanh trong khoảng thời gian từ 5 đến 10 phút
và đạt cực đại với giá trị 41,82 ± 2,63%, sau đó giảm mạnh
trong khoảng thời gian từ 10 đến 35 phút. Độ hấp thụ của
sản phẩm thô đạt cực đại 1,45 ± 0,03 tại 15 phút. Khi tăng
thời gian phản ứng đã tạo điều kiện cho phản ứng chuyển
hóa sucrose thành 5-HMF xảy ra triệt để hơn, tuy nhiên khi
thời gian quá dài đã làm cho 5-HMF bị phân hủy đến sản
phẩm cuối cùng của phản ứng caramel hoặc phân hủy thành
acid levulinic, acid formic, ... làm cho hiệu suất chuyển hóa
5-HMF giảm. Đối với mẫu trắng thì hàm lượng 5-HMF
cũng như độ hấp thụ đều bằng 0. Do đó, HCl đã chứng
minh khả năng xúc tác vượt trội trong phản ứng chuyển hóa
sucrose thành 5-HMF bằng phương pháp nhiệt khi so sánh
với mẫu không có xúc tác trong khoảng thời gian phản ứng
được lựa chọn để khảo sát.
Phân tích sự khác biệt có ý nghĩa được tiến hành và kết
quả phân tích cho thấy ở thời gian phản ứng 10 phút có sự
khác biệt hoàn toàn đối với các khoảng thời gian phản ứng
còn lại. Do đó, thời gian 10 phút được lựa chọn làm thời
gian tối ưu cho các nghiên cứu tiếp theo.
3.4. Ảnh hưởng của tỉ lệ giữa cơ chất và chất xúc tác đến
phản ứng chuyển hóa sucrose thành 5-HMF
Nhìn chung, tỉ lệ giữa cơ chất và chất xúc tác có ảnh
hưởng lớn đến phản ứng chuyển hóa sucrose thành 5-HMF
ở nhiệt độ, nồng độ và thời gian tối ưu. TC, RS của phản
ứng có sự thay đổi không đáng kể. Giá trị pH hầu như
không đổi. Hiệu suất chuyển hóa 5-HMF và độ hấp thụ của
sản phẩm thô có sự khác biệt lớn giữa các tỉ lệ cơ chất: xúc
tác đã được lựa chọn để khảo sát.
Hình 5. Ảnh hưởng của tỉ lệ giữa cơ chất và chất xúc tác
đến hiệu suất chuyển hóa sucrose thành 5-HMF
TC, RS có xu hướng giảm dần, TC giảm từ 90,82 ±
2,62% đến 62,68 ± 3,42% và RS giảm từ 84,57 ± 2,86% đến
50,76 ± 0,87%, vì khi nồng độ sucrose quá cao thì sucrose
dễ bị phân hủy thành hợp chất màu và hợp chất bay hơi,
chính lượng hợp chất bay hơi là nguyên nhân dẫn đến TC và
RS giảm. Bên cạnh đó, 5-HMF hình thành cũng tham gia
vào phản ứng polymer hóa hình thành các polymer không
tan, cũng là nguyên nhân làm cho RS và TC giảm [2].
Độ hấp thụ tăng dần từ tỉ lệ 1:18 đến 1:2 bởi vì nồng độ
sucrose càng cao, phản ứng caramel càng dễ xảy ra dẫn đến
nồng độ của các sản phẩm trung gian lớn [12]. Hiệu suất
chuyển hóa 5-HMF tăng nhanh từ tỉ lệ 1:18 đến 1:16 và đạt
cực đại với giá trị 43,34 ± 2,23 %, từ tỉ lệ 1:16 đến 1:2 giảm
dần. Khi tăng nồng độ dung dịch sucrose đến giá trị thích
hợp sẽ tạo điều kiện tối ưu cho phản ứng chuyển hóa, tuy
nhiên khi nồng độ dung dịch sucrose quá cao sẽ làm cho
phản ứng caramel xảy ra mãnh liệt, các sản phẩm trung gian
chuyển hóa thành sản phẩm cuối cùng [12], hơn thế nữa, 5-
0
2
4
6
8
0
20
40
60
80
100
5 10 15 20 25 30 35
pH
Ph
ần
trăm
(%
)
Thời gian (phút)Tổng carbohydrate (mẫu có xúc tác)
Tổng carbohydrate (mẫu trắng)
Đường khử (mẫu có xúc tác)
Đường khử (mẫu trắng)
pH (mẫu có xúc tác)
pH(mẫu trắng)
0.0
0.4
0.8
1.2
1.6
0
20
40
60
5 10 15 20 25 30 35
AB
S
Hiệ
u s
uấ
t ch
uy
ển
hóa
(%
)
Thời gian (phút)
Hiệu suất chuyển hóa 5-HMF (mẫu có xúc tác)
Hiệu suất chuyển hóa 5-HMF (mẫu trắng)
Độ hấp thụ (mẫu có xúc tác)
Độ hấp thụ (mẫu trắng)
0.6
0.7
0.8
0.9
1.0
20
40
60
80
100
1:18 1:16 1:14 1:12 1:10 1:08 1:06 1:04 1:02
pH
Ph
ần
tră
m (
%)
Tỉ lệ ( cơ chất : chất xúc tác, g/ml)
Tổng carbohydrate Đường khử pH
0.0
0.4
0.8
1.2
1.6
0
20
40
60
1:18 1:16 1:14 1:12 1:10 1:08 1:06 1:04 1:02
AB
S
Hiệ
u s
uấ
t ch
uy
ển
hóa
(%
)
Tỉ lệ (cơ chất : chất xúc tác, g/ml)
Hiệu suất chuyển hóa5-HMF (mẫu có xúc tác)
Độ hấp thụ (mẫu có xúc tác)
A)
B)
A)
B)
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 111
HMF bị phân hủy thành acid hữu cơ: levulinic, acid formic,
... hoặc tổng hợp thành các polymer không tan nhằm tạo thế
cân bằng động cho phản ứng caramel [2] dẫn dến hiệu suất
chuyển hóa 5-HMF giảm.
Phân tích sự khác biệt có ý nghĩa được tiến hành và kết
quả phân tích cho thấy tỉ lệ giữa cơ chất: xúc tác là 1:16 có
sự khác biệt hoàn toàn đối với các tỉ lệ giữa cơ chất: xúc tác
còn lại. Do đó, tỉ lệ 1:16 được lựa chọn làm tỉ lệ tối ưu.
4. Kết luận
Kết quả nghiên cứu 4 yếu tố ảnh hưởng đến phản ứng
chuyển hóa sucrose thành 5-HMF bằng sự kết hợp giữa nhiệt
và xúc tác HCl cho thấy: nhiệt độ phản ứng ảnh hưởng không
đáng kể trong khoảng khảo sát, các yếu tố quyết định đến
phản ứng chuyển hóa là nồng độ xúc tác, thời gian phản ứng,
tỉ lệ cơ chất và chất xúc tác. Trong đó, nồng độ xúc tác là yếu
tố quyết định đến phản ứng chuyển hóa sucrose thành 5-
HMF. Ngoài ra, nghiên cứu đã lựa chọn được điều kiện tối
ưu để chuyển hóa sucrose thành 5-HMF bằng sự kết hợp giữa
nhiệt và xúc tác HCl là nhiệt độ 200ºC, nồng độ
HCl 2 M, thời gian phản ứng 10 phút, tỉ lệ giữa cơ chất và
chất xúc tác là 1:16 (g/ml). Phản ứng chuyển hóa được thực
hiện tại điều kiện tối ưu cho hiệu suất chuyển hóa sucrose
thành 5-HMF cao nhất 43,34 ± 2,23%.
Hiệu suất chuyển hóa sucrose thành 5-HMF (43,34 ±
2,23%) trong nghiên cứu này lớn hơn so với sự kết hợp
giữa nhiệt từ bức xạ vi sóng và xúc tác TiO2 với cơ chất
fructose (hiệu suất chuyển hóa 36%) [13], sự kết hợp giữa
nước, nhiệt và xúc tác TiO2 với cơ chất fructose (hiệu suất
chuyển hóa 5-HMF 20%) hoặc xúc tác ZrO2 với cơ chất
fructose (hiệu suất chuyển hóa 5-HMF 15%) [14] có thể
chứng minh sucrose là một nguyên liệu tiềm năng để sản
xuất 5-HMF và nguồn nhiệt và xúc tác HCl trong nghiên
cứu này có thể thay thế các nguồn nhiệt và xúc tác khác để
sản xuất 5-HMF với qui mô lớn.
Nghiên cứu này đã mở ra hướng mới trong nghiên cứu
chuyển hóa đường thành 5-HMF và đã chỉ ra những ưu điểm
của sự kết hợp giữa nhiệt và xúc tác HCl. Hơn thế nữa,
nghiên cứu đã tạo nền tảng cơ bản về sự kết hợp giữa nhiệt
độ và xúc tác cho các nghiên cứu tiếp theo tại Việt Nam nói
riêng và trên thế giới nói chung. Bên cạnh đó, mô hình
nghiên cứu này dễ dàng áp dụng cho các nguồn liệu khác
nhau như: rơm rạ, bã mía, vụn gỗ, … là phế phẩm và phụ
phẩm của nông nghiệp, lâm nghiệp, ... nhằm nâng cao hiệu
quả kinh tế và giải quyết vấn đề môi trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Simpson, B.K., et al., Food biochemistry and food processing, ed.
2nd. 2006, Iowa (USA): A John Wiley and Sons Ltd. Publications.
[2] F. N. D. C. Gomes, L.R.P., N. F. P. Ribeiro and M. M. V. M. Souza,,
Production of 5-hydroxymethylfurfural (hmf) via fructose dehydration: Effect of solvent and salting-out 2013.
[3] Li Yong-xin, et al., In Vitro Antioxidant Activity of 5-HMF Isolated
from Marine Red Alga Laurencia undulata in Free Radical Mediated
Oxidative Systems. 2009.
[4] van Putten, R.-J., Experimental and modelling studies on the
synthesis of 5-hydroxymethylfurfural from sugars. 2015.
[5] Zaldivar J., M.A., Ingram L.O,, Effect of selected aldehydes on the
growth and fermentation of ethanologenic Escherichiacoli. 1999.
[6] Jarosław Lewkowski, Synthesis, chemistry and applications of
5-hydroxymethylfurfural and its derivatives. 2001.
[7] Pornlada Daorattanachai, S.N., et al., 5-Hydroxymethylfurfural
production from sugars and cellulose in acid- and base-catalyzed conditions under hot compressed water. 2012.
[8] F.A.O. and W.H.O., C.A.-G.S.f.F.A., Food and Agriculture
Organization of the United Nations and World Heald Organization,
Viale delle Terme di Caracalla, 00153 Rome, Italy, 2015.
[9] Dubois, et al., Colorimetric method for determination of sugars and
related substances, analytical chemistry. 1956.
[10] Chaplin, M.F.a.K., J.F.,, Carbohydrate analysis - a practical
approach. 1994.
[11] Haghparast, S., Shabanpour, B., Kashiri, H., Alipour, G. and Sudagar, M.,,
A comparative study on antioxidative properties of carameled reducing
sugars; inhibitory effect on lipid oxidative and sensory improvement of glucose carameled products in shrimp flesh. 2012.
[12] Simpson, B.K., et al., Food biochemistry and food processing, ed.
2nd. 2006, Iowa (USA): A John Wiley and Sons Ltd. Publications.
[13] Rodrigo Lopes de Souza, et al., 5-Hydroxymethylfurfural (5-HMF)
Production from Hexoses: Limits of Heterogeneous Catalysis in
Hydrothermal Conditions and Potential of Concentrated Aqueous
Organic Acids as Reactive Solvent System. 2012.
[14] Tianfu Wang, Catalytic conversion of glucose to
5-hydroxymethylfurfural as a potential biorenewable platform chemical. 2014.
(BBT nhận bài: 19/04/2017, hoàn tất thủ tục phản biện: 21/07/2017)
112 Trần Xuân Hồi
NGHIÊN CỨU THU NHẬN VỊ TRÍ - THỜI GIAN ĐỂ
ĐỊNH LƯỢNG PHƠI CHIẾU CÁ NHÂN ĐỐI VỚI KHÔNG KHÍ TRONG NHÀ
RESEARCH ON RECORDING THE TIME-LOCATION PATTERNS
FOR ESTIMATING THE PERSONAL EXPOSURE TO INDOOR AIR
Trần Xuân Hồi
Trường Đại học Phú Yên; [email protected]
Tóm tắt - Nghiên cứu này hướng đến việc thu nhận lịch sử vị trí theo thời gian cho một nhóm nhân viên bức xạ. Sau đó, lượng phơi chiếu cá nhân đối với I-131 trong không khí được định lượng và đánh giá. Nhóm đối tượng gồm 9 người tham gia sản xuất I-131 tại Viện Nghiên cứu Hạt nhân Đà Lạt. Thời gian thực hiện thu nhận dữ liệu là 12 tháng. Một số kết luận rút ra từ nghiên cứu này đã góp phần trong việc hạn chế liều cho các cá nhân. Hơn nữa, phương pháp này có thể thực hiện tại các khu vực trong nhà ở hoặc nơi làm việc để thu thập dữ liệu về vị trí - thời gian trong đánh giá phơi không khí ô nhiễm. Tuy nhiên, với số lượng đối tượng nhiều thì phương pháp sẽ tốn thời gian lớn để phân tích số liệu.
Abstract - The aim of this research is to focus on recording the time-location patterns spent by a radiation worker group in 12 months. Then the exposure to I-131 of indoor air is estimated and assesssed individually. The object consists of 9 workers involved in a I-131 production line at Dalat Nuclear Research Institute. Some important conclusions from this paper have helped to constrain internal dose for the individuals. Moreover, the technique used in this research may be applied in the indoor areas for collecting time-location patterns to support data for the assessment of pollutant air exposure. However, this method will take long time to collect data in case of large objects or population-dose research.
Từ khóa - không khí trong nhà; I-131; liều chiếu trong; phơi chiếu cá nhân; vị trí-thời gian.
Key words - Indoor air; I-131; internal dose; personal exposure; time-location.
1. Giới thiệu
Các nhân viên bức xạ (NVBX) thao tác trực tiếp trên
các sản phẩm phóng xạ dễ bay hơi sẽ có nguy cơ về phơi
nhiễm trong vì họ hít phải không khí có chứa nhân phóng
xạ [2, 3, 5, 8, 14]. Một nghiên cứu đã công bố về định liều
chiếu trong (LCT) đối với I-131 cho kết quả rằng, LCT
hiệu dụng hàng năm của một số nhân viên là trên 1 mSv,
trong đó một nhân viên có LCT đạt 7,66 mSv và phải được
theo dõi cá nhân [2]. Theo Cơ quan Năng lượng Nguyên tử
Quốc tế (IAEA), một trong số các tình huống cần phải được
đánh giá lượng phơi nhiễm là các đối tượng thao tác trên
một lượng lớn đồng vị phóng xạ dùng trong y học, chẳng
hạn như I-131 [5]. Một trong số các phép định liều gián
tiếp thường dùng trong việc định LCT do nhân phóng xạ
thâm nhập qua đường hô hấp là dựa trên phép phân tích các
mẫu không khí được lấy nơi làm việc kết hợp với thống kê
vị trí - thời gian chiếm giữ mà người đó đã trải qua [5].
Để xây dựng mô hình đánh giá phơi nhiễm, nguyên lý
cơ bản đó là khớp các vị trí mà các đối tượng đã phơi chiếu
với nồng độ trung bình theo thời gian hoặc nồng độ liên tục
của khí ô nhiễm nơi mà họ đã từng ở đó [7, 10]. Việc thu
nhận vị trí theo thời gian mà con người đã trải qua, hay còn
gọi là lịch sử về vị trí - thời gian, gần đây các nhà nghiên
cứu đã sử dụng kết hợp một số phép bao gồm sử dụng hệ
thống câu hỏi phỏng vấn đối tượng, yêu cầu đối tượng ghi
chép nhật kí hoặc sử dụng các tình nguyện viên để đeo thiết
bị định vị toàn cầu (GPS) [3, 11, 15, 17].
Mô hình viết nhật kí thường được sử dụng như một
công cụ hữu ích để xây dựng hồ sơ kết cấu hoạt động - thời
gian của các đối tượng, tức nó cho biết họ đã làm gì và ở
đâu tương ứng vào lúc nào. Tuy nhiên, trong phương pháp
này có một yếu tố hạn chế là thông tin thu được là rất ít
trong trường hợp môi trường làm việc là trong nhà. Vì thế,
mô hình này sẽ cho độ tin cậy không cao trong các bước
xử lí số liệu sau đó. Sự phức tạp và độ chính xác của mô
hình đánh giá phơi nhiễm trong nhà bị hạn chế bởi độ chính
xác của các nội dung trong nhật kí [4].
Sử dụng phương pháp GPS có khả năng đưa đến sự
không chính xác về xác định vị trí một cách không mong
muốn. Hoạt động - thời gian xây dựng trên cơ sở GPS đã
được nghiên cứu kỹ lưỡng, kết quả về độ chính xác trung
bình là 7m trong trường hợp môi trường đô thị bình thường
[9]. Độ chính xác 7m có thể không phù hợp cho việc đánh
giá phơi nhiễm cá nhân trong nhà với kích thước các phòng
không quá lớn. Hơn nữa, sự phụ thuộc của độ chính xác
GPS vào nhiều yếu tố như vị trí bất lợi của vệ tinh, hoặc sự
nhiễu động của tầng điện li là những chướng ngại cần phải
giải quyết. Một nguyên nhân khác gây ra sai số là sự tắc
nghẽn tín hiệu từ vệ tinh. Do đó, sai số của GPS mang lại
sẽ đặt một đối tượng vào một vị trí sai trên mặt đất [1].
Tất cả các mô hình kể trên đều không đưa ra được vị trí
tọa độ một cách đủ chính xác của các cá nhân. Các nhà
nghiên cứu sử dụng các phương pháp này phải giảm thiểu
sự bất tiện đến công việc chung cũng như độ chính xác kém
của dữ liệu vì môi trường - thời gian trong trường hợp quan
trắc môi trường trong nhà. Để tránh khỏi các mặt hạn chế
này, một số tác giả đã đề nghị là sử dụng điện thoại thông
minh với sự hỗ trợ của các phần mềm ứng dụng trong việc
đánh dấu vị trí môi trường. Máy chụp ảnh, quay phim tích
hợp trên điện thoại có thể sử dụng để quan trắc một số vị
trí cố định và có thể cho ra một cơ sở dữ liệu chi tiết [4,
16]. Bên cạnh đó, máy lấy mẫu khí cố định có thể được sử
dụng để xác định nồng độ chất phóng xạ trong không khí,
nồng độ này có thể được kết hợp với các giả định về đặc
tính lí hóa của chất phóng xạ, tốc độ hít thở và thời gian
phơi chiếu của nhân viên để định lượng phơi chiếu [5].
Như vậy, trong điều kiện môi trường trong nhà và số
lượng đối tượng không nhiều thì việc sử dụng máy quay
phim của điện thoại để thu nhận vị trí - thời gian phơi chiếu
là một cách tiện lợi. Bằng cách sử dụng điện thoại có
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 113
camera, nghiên cứu này hướng đến việc thu nhận lịch sử vị
trí theo thời gian thật mà một nhóm NVBX đã trải qua. Sau
đó, lượng phơi chiếu cá nhân đối với I-131 được định lượng
và đánh giá. Nhóm đối tượng gồm 9 NVBX tham gia sản
xuất I-131 tại Viện Nghiên cứu Hạt nhân (NCHN) Đà Lạt.
Thời gian thực hiện thu nhận dữ liệu là 12 tháng. Một số
kết luận rút ra từ nghiên cứu này đã góp phần trong việc
hạn chế liều cho các NVBX.
2. Thiết bị và phương pháp
2.1. Ứng dụng cảm biến chuyển động Motion Recorder
Để thu được dữ liệu về các vị trí chiếm cứ theo thời gian
thực được trải qua bởi các đối tượng, nghiên cứu này dùng
một ứng dụng cảm biến chuyển động có tên là Motion
Recorder [12]. Ứng dụng này chạy trên hệ điều hành
Symbian của điện thoại với kích thước sau cài đặt là 76 kB.
Ứng dụng Motion Recorder sau khi cài đặt trên điện thoại,
nó sử dụng camera của điện thoại thành bộ phận ghi nhận
chuyển động. Nguyên tắc hoạt động dựa trên sự thay đổi hai
thông số của hình ảnh xuất hiện trên màn hình, bao gồm độ
nhạy sáng của các điểm ảnh (pixel change sensitivity) và độ
nhạy của sự thay đổi vị trí của các điểm sáng trên khung hình
(Motion detection sensitivity). Ứng dụng này cho phép người
dùng có thể điều chỉnh hai thông số này nhằm thu được các
chuyển động như mong muốn. Các chuyển động nhỏ khác
như các vật nhẹ trong phòng dao động vì gió thì được loại bỏ.
Thời gian khởi phát thu sau chuyển động được phát hiện từ 1
đến 10s. Ứng dụng cho phép chạy ngầm (không hiển thị màn
hình) nên tiết kiệm được dung lượng pin. Độ phân giải của tập
tin video có thể tùy chọn được bởi người dùng, có các mức
như QVGA, VGA, nHD và 720p.
Khi ứng dụng chạy, mọi cử động của các vật trên màn
hình giao diện của ứng dụng mà thỏa mãn các độ nhạy đã
cài đặt trước sẽ được ghi vào điện thoại dưới dạng một tập
tin phim có phụ đề là thời gian thực tại thời điểm ghi. Ngoài
ra, các thời điểm trên màn hình giao diện chỉ có khung hình
tĩnh thì không được ghi bởi ứng dụng và lúc đó điện thoại
đang ở trạng thái chờ.
a) b) c)
Hình 1. Bộ dụng cụ (a), cách bố trí để ghi thời gian (b) và hệ thống đang hoạt động tại Phòng 2 (c)
2.2. Bố trí thí nghiệm và thu thập dữ liệu thời gian
2.2.1. Bố trí thí nghiệm
Khu vực quan tâm của nghiên cứu này gồm có 3 phòng
liên tiếp nhau. Phòng ở giữa (Phòng 1) được thông với hai
phòng còn lại qua hai cửa (Hình 1). Từ hành lang, muốn đi
vào Phòng 1 thì phải đi qua cửa của Phòng 2 hoặc Phòng
3. Như vậy, có tổng cộng bốn cửa ra vào các phòng này và
chúng nằm gần nhau từng đôi một. Do đó, chỉ cần bố trí hai
điện thoại để quan sát các cử động diễn ra tại bốn cửa trên.
Các điện thoại quan sát và thu thập thông tin về thời
gian trong nghiên cứu này được gắn lên tường gần các cửa
ra vào như thể hiện trên Hình 1. Điện thoại thứ nhất được
gắn ở Phòng 2, quan sát sự ra vào Phòng 2 và Phòng 1 của
các nhân viên; điện thoại thứ hai gắn tại Phòng 3 và quan
sát sự ra vào Phòng 3 và Phòng 1 (Hình 1b). Góc quay của
các camera là một yếu tố cần được điều chỉnh hợp lí. Vị trí
đặt có độ cao khoảng 2 m, điều chỉnh sao cho có được góc
quay vừa đủ để nhận diện được đối tượng và không cản trở
công việc chung. Thời gian chạy trên hai điện thoại được
đồng bộ trước khi tiến hành đo.
Đối tượng nghiên cứu gồm có 9 nhân viên, được kí hiệu
từ W1 đến W9, tham gia sản xuất I-131 hoặc thường xuyên
có mặt tại các phòng quan tâm trong năm 2015 của Viện
Nghiên cứu Hạt nhân Đà Lạt. Đây là các đối tượng được
theo dõi vị trí - thời gian khi có quá trình sản xuất I-131
diễn ra. Các đối tượng này gồm ba nhóm nhiệm vụ. Nhóm
1 đảm nhận vận hành dây chuyền chưng cất gồm W1 và
W6; nhóm 2 có nhiệm vụ phân chia và đóng gói sản phẩm
gồm W3, W4, W5, W7 và W8; nhóm 3 là các đối tượng
khác gồm W2 và W9. Thời gian làm việc của các nhân viên
này thường bắt đầu lúc 8 giờ sáng cho đến khi hoàn thành
công việc khoảng 22 giờ tối.
2.2.2. Thu thập dữ liệu
Khi các nhân viên đi vào hoặc rời khỏi các phòng kiểm
soát, tức có đi ngang qua các cửa đã gắn điện thoại, sẽ tạo
ra trên màn hình giao diện một cử động. Khi đó ứng dụng
được kích hoạt, điện thoại sẽ thu chuyển động này ngay khi
xảy ra và gắn nhãn thời gian kiểu hh:mm:ss lên đoạn phim.
Dữ liệu thu được từ điện thoại sau đó được chuyển vào máy
tính để xử lí số liệu.
Tập tin video sau khi được ghi nhận sẽ có thời gian ngắn
hơn nhiều so với thời gian điện thoại đã quan trắc. Chẳng hạn,
đợt sản xuất ngày 18/7/2015, thời gian quan trắc của điện thoại
tại cửa Phòng 3 là từ 8:18 đến 22:33 (tương ứng là 14,25h)
trong khi tập tin video thu được có thời gian là 62 phút, tức rút
ngắn được 92,7% thời gian. Sự rút ngắn này mang lại các tiện
lợi như giảm thời gian xử lí dữ liệu, điện thoại được an toàn
và ổn định hơn về dung lượng pin và bộ nhớ.
Để tiết kiệm dung lượng pin, ứng dụng cho phép chạy
ngầm khi hoạt động. Hơn nữa, để tăng thời gian sống, các
điện thoại được cấp nguồn trực tiếp từ bộ pin dự phòng
(Hình 1a). Do đó, có thể lắp đặt hệ thống một cách dễ dàng
và linh động trong việc điều chỉnh hướng quay.
Kết quả thu được từ điện thoại sau khi thu thập số liệu
là một tập tin video có đính kèm thời gian thực. Các thông
tin gồm tên đối tượng, vị trí (phòng), thời điểm và khoảng
thời gian tương ứng mà đối tượng này đã trải qua ở các
114 Trần Xuân Hồi
phòng được xác định thông qua tập tin video và được nhập
thông tin vào Microsoft Excel để xử lí. Đây là cơ sở dữ liệu
để lập lịch sử về vị trí - thời gian phơi chiếu cho từng đối
tượng quan tâm.
3. Kết quả và nhận xét
3.1. Sự di chuyển của các đối tượng
Vì sự biến thiên mạnh theo không gian và thời gian của
nồng độ chất phóng xạ cũng như vị trí của các đối tượng
nên một trong các điều quan trọng khi định lượng phơi
nhiễm là phải khảo sát sự di chuyển của con người theo
thời gian [11, 15]. Lịch sử vị trí - thời gian chiếm cứ bởi
các đối tượng trong nghiên cứu này được thu nhận qua từng
đợt sản xuất I-131 trong năm 2015. Hình 2 thể hiện lịch sử
vị trí - thời gian của nhân viên phơi chiếu vào đợt sản xuất
20/6/2015. Có tổng cộng 11 biểu đồ thu được trong năm
2015 trong nghiên cứu này mà Hình 2 là một ví dụ.
Các vị trí chiếm cứ của các nhân viên trên Hình 2 gồm
Phòng 1, Phòng 2, Phòng 3 hoặc không ở các phòng này
(Ngoài) được thể hiện bằng các vạch tương ứng với các
mức độ đậm nhạt khác nhau và được gắn với trục thời gian
thực có độ phân giải là 1 phút. Thời gian phơi chiếu tổng
cộng ở từng tiểu môi trường của mỗi nhân viên chính là
tổng chiều dài thời gian theo trục hoành của các vạch cùng
màu tương ứng cho nhân viên đó. Kết quả tổng hợp được
thống kê ở Bảng 1.
Hình 2. Lịch sử chiếm cứ của 9 nhân viên vào đợt sản xuất 20/6/2015
Kết quả quan trắc cho thấy rằng, tần suất di chuyển
giữa các tiểu môi trường (các phòng) trong quá trình làm
việc của các nhân viên là rất lớn. Hơn nữa, mỗi đối tượng
có một dạng lịch sử chiếm cứ các vị trí là khác nhau và
không ổn định giữa các đợt sản xuất. Trong khi đó, nồng
độ trung bình của I-131 trong không khí tại các phòng
được ghi nhận là khá chênh lệch và nồng độ I-131 trong
ngày trong cùng một phòng cũng biến đổi một cách đáng
kể [13]. Vì thế, việc đánh dấu sự di chuyển thực tế của
con người theo không gian và thời gian kết hợp với phép
thu thập thông tin về các môi trường không khí mà họ đã
định cứ là các điều kiện quan trọng trong phép đánh giá
phơi chiếu cá nhân [11].
3.2. Đánh giá thời gian phơi chiếu
3.2.1. Thời gian phơi chiếu so với thời gian làm việc
Hiện nay, đánh giá của Trung tâm An toàn Bức xạ -
Viện Nghiên cứu Hạt nhân về thời gian phơi chiếu của các
NVBX tại khu vực sản xuất đồng vị I-131 là lấy ước lượng
thời gian phơi chiếu của từng nhân viên là từ 2 đến 4 giờ
mỗi đợt, chưa phân biệt được sự khác nhau giữa các nhân
viên. Con số này được đưa ra mà chưa có cơ sở thống kê
nào đáng tin cậy. Do đó, nghiên cứu này đã tiến hành ghi
nhận thời gian phơi chiếu từ các đợt sản xuất I-131 trong
năm 2015 của 9 nhân viên tại 3 phòng quan tâm, kết quả
khảo sát được thể hiện ở Bảng 1.
Bảng 1. Thời gian phơi chiếu tại 3 phòng trong năm 2015a
(phút)
Mã
nhân
viên
Phòng 1 Phòng 2 Phòng 3
Trung
bình phơi
chiếub (h)
W1 4007±14,5 329±7,9 395±5,0 7,17
W2 497±6,9 152±4,7 216±3,5 1,31
W3 825±10,1 2926±11,2 329±3,8 6,18
W4 657±10,0 3250±12,0 47±2,7 5,99
W5 613±8,8 291±7,2 43±2,2 1,43
W6 1928±12,1 1082±11,1 123±3,8 4,75
W7 1488±14,2 2143±14,8 111±3,6 5,67
W8c 45±3,2 873±4,6 0 2,55
W9 194±6,0 135±4,3 151±3,4 0,73
aKhông kể tháng 11, bTính trung bình cho mỗi đợt sản xuất tại 3 phòng; cTính cho 6 tháng (từ tháng 2 đến tháng 7); Wi: Mã nhân viên.
Một đặc điểm dễ nhận thấy từ Bảng 1 là thời lượng phơi
chiếu trung bình tại ba phòng cho mỗi đợt sản xuất là khác
nhau đáng kể giữa các đối tượng, giá trị này nằm trong
khoảng từ 0,73 đến 7,17 h, tức gấp nhau 9,8 lần. Trung bình
phơi chiếu của 9 nhân viên trong mỗi đợt sản xuất tính từ
là 4,0h so với tổng thời gian tham gia sản xuất là 12,9h,
chiếm 31%. Giá trị này có thể được dùng để ước lượng
LCT cho tập thể nếu biết được nồng độ trung bình của I-
131 trong không khí.
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 115
3.2.2. Thời lượng phơi chiếu theo từng vị trí
Như đã đề cập ở trên, nồng độ I-131 khác nhau đáng kể
giữa các phòng nên cần phải phân biệt vị trí phơi chiếu của
các đối tượng khi cần đánh giá lượng thâm nhập. Bảng 1 và
Hình 3 cho thấy rằng, thời lượng phơi chiếu tại các phòng
riêng lẻ là khác nhau đáng kể giữa các nhân viên. Một số
nhân viên chủ yếu chiếm giữ tại phòng 1, một số khác thì
tại phòng 2. Cụ thể, nhân viên W1 có mặt tại Phòng 1
(phòng chưng cất và đóng gói) với thời lượng cao nhất
(4007 phút) trong nhóm tham gia sản xuất. Tại Phòng 2
(phòng phân liều và chế tạo thuốc), các nhân viên có thời
gian chiếm giữ cao gồm W7, W3 và W4 với thời gian tương
ứng là 2143 phút, 2926 phút và 3250 phút.
Hình 3. Thời lượng phơi chiếu chi tiết của các nhân viên trong năm 2015
Nếu xét trên cùng một đối tượng thì thời gian phơi chiếu
giữa các tháng ở cùng một vị trí không khác nhau nhiều
(Hình 3). Điều này có ý nghĩa trong việc định liều dài hạn
cho từng cá nhân dựa vào nồng độ trung bình. Hoặc nó
cũng có ý nghĩa trong phép định liều tập thể theo từng
nhóm công việc.
3.3. Đánh giá lượng phơi chiếu
Sự khác biệt giữa thời gian phơi chiếu của các nhân
viên tương đối lớn như kể trên là nguyên nhân dẫn đến
mỗi cá nhân sẽ nhận một LCT hàng năm khác nhau đáng
kể. Dựa vào nồng độ I-131trung bình kết hợp với thời
lượng phơi chiếu ở Bảng 1, lượng phơi chiếu của từng cá
nhân trong năm 2015 (chỉ tính riêng cho I-131) tính theo
đơn vị DAC.h có thể tính được như thể hiện trên Bảng 2.
Từ đó ta có thể nhận ra rằng, lượng phơi chiếu của 9 đối
tượng đều thấp hơn nhiều so với số liệu được khuyến cáo
bởi Ủy ban Quốc tế về An toàn Bức xạ tại Ấn bản số 78
(ICRP-78) [6].
Bảng 2 cũng đưa ra kết quả định liều I-131 trên cùng
đối tượng từ phép phân tích nước tiểu. Nhìn chung, các đối
tượng có lượng phơi chiếu càng lớn thì nhận LCT cũng lớn.
Tuy nhiên, LCT phụ thuộc khá nhiều yếu tố nên để đưa ra
so sánh và đánh giá một cách chi tiết thì cần có một nghiên
cứu sâu hơn.
Bảng 2. So sánh lượng phơi chiếu của các đối tượng với tiêu chuẩn của ICRP-78
Mã nhân viên W1 W2 W3 W4 W5 W6 W7 W8 W9
Ea (DAC.h) 231 37 112 105 40 129 128 21 16
Tỉ lệb (%) 11,5 1,9 5,6 5,2 2,0 6,5 6,4 1,0 0,8
LCTc (mSv) 0,44 0,35 1,07 1,42 0,34 0,25 0,51 0,09 0,15
aLượng phơi chiếu đối với hơi I-131 năm 2015; bTỉ lệ giữa E với giới hạn phơi chiếu theo
ICRP; cĐược lấy từ kết quả định liều I-131 bằng phép phân tích nước tiểu năm 2015
R1R2R3R1R2R3R1R2R3R1R2R3R1R2R3R1R2R3R1R2R3R1R2R3R1R2R3
W1
W2
W3
W4
W5
W6
W7
W8
W9
0 1000 2000 3000 4000
Thời gian phơi chiếu (phút)
W-M
ã n
hân
viê
n,
R-P
hòn
g
Tháng 1
Tháng 2
Tháng 3
Tháng 4
Tháng 5
Tháng 6
Tháng 7
Tháng 8
Tháng 9
Tháng 10
Tháng 12
116 Trần Xuân Hồi
4. Kết luận
Trong bài báo này, tác giả đã trình bày những nghiên
cứu và đưa vào áp dụng kỹ thuật thu nhận thời gian phơi
chiếu cho từng cá nhân quan tâm. Có 9 đối tượng được theo
dõi vị trí theo thời gian trong khi làm việc tại các khu kiểm
soát thuộc khu vực sản xuất I-131. Phạm vi không gian
quan sát gồm ba căn phòng, mỗi phòng được xem như là
một tiểu môi trường. Toàn bộ số liệu về thời gian phơi
chiếu đều ghi nhận theo thời gian thực.
Kết quả cụ thể thu được là lịch sử về vị trí - thời gian
phơi chiếu trong cả năm 2015 của nhóm đối tượng. Có tổng
số 72 biểu đồ cá nhân về vị trí - thời gian được vẽ ra từ số
liệu ghi nhận được, mô tả vị trí của 9 NVBX đã trải qua tại
các tiểu môi trường trong suốt quá trình sản xuất I-131. Đây
là kết quả quan trọng để định lượng thâm nhập và LCT. Từ
số liệu thu được, có một số kết luận đáng quan tâm đã được
khuyến cáo như: Thời gian phơi chiếu I-131 của các nhân
viên là khá ít so với tổng thời gian diễn ra sản xuất; mỗi đối
tượng có một kiểu hình phơi chiếu đặc trưng.
Điện thoại thông minh được sử dụng để hỗ trợ ghi nhận
thời gian là một kết quả nghiên cứu đáng quan tâm trong
bài báo. Toàn bộ số liệu về kiểu hình phơi chiếu theo thời
gian thực của nhóm NVBX đều nhờ điện thoại thu nhận.
Qua 11 đợt chưng cất I-131, điện thoại đã đếm được 23021
phút (gần 384 h), là tổng thời gian phơi chiếu mà các đối
tượng đã trải qua tại các khu vực kiểm soát.
Với một chi phí thấp và độ chính xác cao, nghiên cứu
này có thể thực hiện tại các khu vực trong nhà có hiện hữu
không khí bị nhiễm xạ để đánh giá phơi nhiễm. Tuy nhiên,
khâu phân tích số liệu thời gian trong nghiên cứu này còn
thủ công, khó thực hiện trên nhiều đối tượng như trên phạm
vi cộng đồng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Beekhuizen J., Kromhout H., Huss A., and Vermeulen R.,
"Performance of GPS-devices for environmental exposure assessment", Journal of Exposure Science and Environmental
Epidemiology 23, 2013, 498-505.
[2] Bitar A., Maghrabi M., and Doubal A.W., "Assessment of intake and
internal dose from iodine-131 for exposed workers handling
radiopharmaceutical products", Applied Radiation and Isotopes 82,
2013, 370-375.
[3] Carneiro L.G., de Lucena E.A., da Silva Sampaio C., Dantas A.L.A.,
Sousa W.O., Santos M.S., and Dantas B.M., "Internal dosimetry of
nuclear medicine workers through the analysis of 131 I in aerosols", Applied Radiation and Isotopes 100, 2015, 70-74.
[4] Gerharz L.E., Krüger A., and Klemm O., "Applying indoor and
outdoor modeling techniques to estimate individual exposure to
PM2. 5 from personal GPS profiles and diaries: a pilot study",
Science of the total environment 407, 2009, 5184-5193.
[5] IAEA, Assessment of Occupational Exposure Due to Intakes of
Radionuclides, IAEA Safety Standards Series No. RS-G-1.2, Vienna, Austria. 1999.
[6] ICRP, Individual Monitoring for Internal Exposure of Workers (Part
1), ICRP Publication 78. Ann. ICRP 27. 1997.
[7] Klepeis N.E., "Modeling human exposure to air pollution", Human
exposure analysis 2006, 445-470.
[8] Krajewska G. and Pachocki K.A., "Assessment of exposure of workers
to ionizing radiation from radioiodine and technetium in nuclear
medicine departmental facilities", Medycyna pracy 64, 2013, 625-630.
[9] Nethery E., Mallach G., Rainham D., Goldberg M.S., and Wheeler
A.J., "Using Global Positioning Systems (GPS) and temperature
data to generate time-activity classifications for estimating personal
exposure in air monitoring studies: an automated method",
Environmental Health 13, 2014, 33.
[10] Ott W.R., "Concepts of human exposure to air pollution",
Environment International 7, 1982, 179-196.
[11] Steinle S., Reis S., and Sabel C.E., "Quantifying human exposure to
air pollution—Moving from static monitoring to spatio-temporally resolved personal exposure assessment", Science of The Total
Environment 443, 2013, 184-193.
[12] Ton Nam Software, MotionRecorder Quickstart Guide. 2013 [cited 2015 02
January]; Available from: http://tonnamsoftware.com/mrec/quickstart.html.
[13] Tran Xuan Hoi, Huynh Truc Phuong, and Nguyen Van Hung,
"Estimating the Internal Dose for 131I Production Workers From
Air Sampling Method", Radiation Protection Dosimetry 2016 10.1093/rpd/ncw269.
[14] Vidal M.V.S., Dantas A.L.A., and Dantas B., "A methodology for
auto-monitoring of internal contamination by 131I in nuclear medicine
workers", Radiation protection dosimetry 125, 2007, 483-487.
[15] Glasgow M.L., Rudra C.B., Yoo E.H., Demirbas M., Merriman J.,
Nayak P., Crabtree-Ide C., Szpiro A.A., Rudra A., Wactawski-
Wende J., and Mu L., "Using smartphones to collect time-activity data for long-term personal-level air pollution exposure
assessment", Journal of Exposure Science and Environmental
Epidemiology 26, 2014, 356-364.
[16] Broich A., Gerharz L., and Klemm O., "Personal monitoring of
exposure to particulate matter with a high temporal resolution", Environmental Science and Pollution Research 19, 2012, 2959-2972.
[17] Goldin L., Ansher L., Berlin A., Cheng J., Kanopkin D., Khazan A.,
Kisivuli M., Lortie M., Bunker Peterson E., Pohl L., Porter S., Zeng
V., Skogstrom T., Fragala M., Myatt T., Stewart J., and Allen J.,
"Indoor Air Quality Survey of Nail Salons in Boston", Journal of Immigrant and Minority Health 16, 2014, 508-514.
(BBT nhận bài: 16/06/2017, hoàn tất thủ tục phản biện: 13/07/2017)
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 117
NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG CÁ NGỰA VẰN (DANIO RERIO HAMILTON, 1822)
LÀM SINH VẬT CẢNH BÁO SỚM Ô NHIỄM NGUỒN NƯỚC
CHO NHÀ MÁY NƯỚC CẤP
A STUDY ON USING ZEBRA FISH (DANIO RERIO HAMILTON, 1822) AS EARLY
WARNING ORGANISM FOR WATER POLLUTION FOR WATER SUPPLY PLANTS
Nguyễn Văn Khánh
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng; [email protected]
Tóm tắt - Bài báo cung cấp kết quả nghiên cứu hành vi của cá Ngựa vằn (Danio rerio Hamilton, 1822) để sử dụng làm sinh vật cảnh báo sớm ô nhiễm nguồn nước cho nhà máy nước cấp. Hành vi bơi của cá Ngựa vằn cho thấy ở mức độ ô nhiễm 10% LC50-24h hoạt động bơi của cá gia tăng đáng kể, mức độ ô nhiễm từ 20% LC50-24h trở lên, hoạt động bơi giảm dần. Do đó, cá Ngựa vằn có thể phát hiện chất ô nhiễm ở nồng độ 10% LC50-24h (NaOCl) với sự thay đổi hành vi là gia tăng hoạt động bơi và suy giảm dần ở nồng độ 20% LC50-24h trở lên so với hoạt động ở môi trường nước bình thường. Kết quả này cho thấy, việc sử dụng hệ thống phần mềm để nhận dạng thay đổi hành vi của cá Ngựa vằn trong các môi trường nước ô nhiễm khác nhau là hoàn toàn khả thi. Đây là nền tảng cơ bản để thiết lập hệ thống cảnh báo sớm ô nhiễm môi trường nước trong các nghiên cứu tiếp theo.
Abstract - This paper aims to provide the result of study about behaviors of Zebra fish (Danio rerio Hamilton, 1822) in order to assess the capacity of using this species as an early warning organism for water pollution for water supply plants. The result indicates that at 10% LC50-24h of NaOCl, swimming behavior increases significantly in comparison with standard condition and at 20% LC50-24h of NaOCl upwards, it shows a gradual decrease. Therefore, it is possible to use Zebra fish to detect pollutants with concentration that is equivalent to 10% LC50-24h of NaOCl via observing changes in behaviors of fish. This study also indicates that using the software system to track the behavioral changes of fish in various contaminated environments is feasible and should be considered as the basis for further studies on monitoring water pollution by early warning organism in Vietnam.
Từ khóa - cá Ngựa Vằn; Danio rerio; ô nhiễm nguồn nước; sinh vật cảnh báo sớm.
Key words - Zebra fish; Danio rerio; water; pollution; early warning organism.
1. Mở đầu
Chất lượng nước thường xuyên bị ảnh hưởng bởi các
quá trình bất lợi như suy thoái đất, biến đổi khí hậu, các tác
động trực tiếp hay gián tiếp của con người [3]. Theo Viện
Khoa học Sự sống Quốc tế [3], nhiều nhà quản lý nhà máy
xử lý nước cấp nhận thấy rằng chất ô nhiễm từ nông nghiệp,
nước thải chưa xử lý, … là mối đe dọa hàng đầu đến việc
cung cấp nước.
Việc áp dụng công nghệ sinh tin học để giám sát nguồn
nước mặt ô nhiễm mang lại hiệu quả khả quan song vẫn còn
rất mới mẻ ở Việt Nam. Hiện nay, nhiều nghiên cứu quan
tâm đến việc dùng cá như một sinh vật chỉ thị (biomarker)
cho việc giám sát ô nhiễm nguồn nước bằng cách phân tích
hành vi để xác định nguồn nước bị ô nhiễm hay không. Ý
tưởng là khi nguồn nước bị ô nhiễm, các chất ô nhiễm sẽ ảnh
hưởng lên hoạt động của các vi sinh vật sống trong đó. Từ
đó, bằng cách quan sát sự thay đổi hành vi của vi sinh vật ta
có thể xác định sự ô nhiễm và các chất gây ô nhiễm.
Tuy nhiên, sinh vật được sử dụng với các phương pháp
này thường thích nghi với điều kiện sống bản địa; việc tìm
ra các sinh vật giống hệt như vậy để áp dụng cho bài toán
ở Việt Nam là một vấn đề khó khăn bởi nhiều khả năng
chúng không tồn tại trong điều kiện khí hậu ở Việt Nam.
Bài báo này cung cấp những kết quả trong việc “Nghiên
cứu sử dụng cá Ngựa vằn (Danio rerio) làm sinh vật cảnh
báo sớm ô nhiễm nguồn nước cho nhà máy nước cấp tại
thành phố Đà Nẵng”. Bài báo này cung cấp các cơ sở khoa
học cho việc nghiên cứu, phân tích hành vi của cá Ngựa
vằn (Danio rerio) trong môi trường nước sông thuần túy và
môi trường nước sông có chất giả ô nhiễm (NaOCl) với các
nồng độ khác nhau, từ đó xét xem cá có thay đổi hành vi
bơi khi ở môi trường có chất ô nhiễm hay không. Đây là
những dẫn liệu khoa học góp phần xây dựng chương trình
ứng dụng sinh vật cảnh báo sớm, giám sát ô nhiễm nguồn
nước tại Việt Nam.
2. Vật liệu và phương pháp nghiên cứu
Nguồn nước được sử dụng trong thí nghiệm được lấy từ
nguồn nước sinh hoạt của thủy cục và nguồn nước sông được
thu ở đầu vào của nhà máy nước Cầu Đỏ, TP. Đà Nẵng.
Các loài cá thường được sử dụng cho nghiên cứu cảnh
báo sớm là loài đã được biết rõ về đặc điểm sinh học, đã
được nhân nuôi dễ dàng, kích thước đồng đều, chủ động về
nguồn cung cấp. Nghiên cứu này loài cá được sử dụng là Cá
ngựa vằn (Danio rerio Hamilton, 1822) thuộc bộ
Cypriniformes (bộ cá chép), họ Cyprinidae (họ cá chép) và
đã được sử dụng trong nhiều nghiên cứu khác. Cá được mua
từ cửa hàng cá cảnh, thuần dưỡng trong bể 80 lít trong vòng
1 tuần. Trước khi làm thí nghiệm, ngừng cho ăn 24 giờ để
hạn chế phân cá làm ô nhiễm nước khi tiến hành thí nghiệm.
2.1. Thí nghiệm độc học LC50-24h
Thí nghiệm được thực hiện theo hướng dẫn của OECD
(Organization for Economic Cooperation and Development)
về hóa chất và cá trong thí nghiệm độc tính cấp tính:
Xác định LC50-24h với dãy năm nồng độ natri hipoclorit
(NaOCl) đối với cá Ngựa vằn: 33,33; 40,00; 51,67; 53,33;
58,33 mg/L và đối chứng (0 mg/L). Với mỗi nồng độ lặp lại
3 lô, mỗi lô có 10 cá thể/ 3lít nước. Thí nghiệm được thực
hiện theo phương pháp tĩnh trong 24h, sục khí thường xuyên.
Thí nghiệm được theo dõi và ghi nhận số cá chết thường
xuyên và vớt cá chết để hạn chế ảnh hưởng đến chất lượng
nước. Các thông số môi trường: DO, nhiệt độ và pH được đo
118 Nguyễn Văn Khánh
vào lúc bắt đầu và kết thúc thí nghiệm, để theo dõi sự ảnh
hưởng của các yếu tố đến kết quả thí nghiệm.
2.2. Thí nghiệm theo dõi sự thay đổi hành vi của cá
Dựa trên kết quả LC50-24h của cá, tiến hành thí nghiệm
theo dõi sự thay đổi hành vi với các mẫu nước sau: nước
cấp, nước sông, nước sông chứa 10% LC50-24h, 20% LC50-
24h, 30% LC50-24h, 40% LC50-24h với tần suất lặp lại 3
lần cho mỗi thí nghiệm.
Bể thí nghiệm là bể hồi lưu, được làm bằng kính với
dung tích 9 lít. Bóng đèn huỳnh quang được gắn phía trên
mỗi bể để duy trì ánh sáng. Cá được nuôi thích nghi trong
môi trường bể nước thí nghiệm 1 giờ trước khi tiến hành
thí nghiệm giám sát hành vi trong 5 giờ. Không cho cá ăn
trong vòng 24h trước khi thực hiện thí nghiệm để tránh hiện
tượng nước bị ô nhiễm do chất thải từ cá. Hoạt động bơi
của cá sẽ được ghi lại bằng hai camera gắn ở phía trên và
mặt bên của bể và truyền trực tiếp đến máy tính trung tâm.
Dữ liệu hình ảnh được xử lý bằng phần mềm Matlab và
xuất dữ liệu trên phần mềm Microsoft Excel để phân tích.
Hoạt động bơi của cá Ngựa vằn được xác định bằng cách
theo dõi quãng đường di chuyển của cá trong bể thử
nghiệm mỗi 5 phút và theo dõi liên tục trong 5 giờ. Các
thông số môi trường: DO, nhiệt độ, pH được theo dõi trong
suốt quá trình tiến hành thí nghiệm.
2.3. Xử lý số liệu
Các số liệu được xử lí, thống kê và vẽ biểu đồ bằng
phần mềm Excel. So sánh các giá trị trung bình bằng
phương pháp phân tích ANOVA và kiểm tra LSD với mức
ý nghĩa α = 0,05. Phân tích và vẽ biểu so sánh hành vi của
cá bằng phần mềm Origin version 6.0.
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Xác định LC50-24h của NaOCl đối với cá Ngựa vằn
Các thông số môi trường: DO, nhiệt độ, pH được giám
sát trong suốt quá trình thí nghiệm, nhằm theo dõi tính ổn
định của môi trường nước thí nghiệm (Bảng 1). Kết quả
cho thấy môi trường nước ổn định trong tất cả các lô và
trong suốt thí nghiệm (α = 0,05).
Bảng 1. Các thông số DO, Nhiệt độ, pH trong thời gian làm thí nghiệm LC5024h
Chỉ tiêu
Lô
DO (mg/L) Nhiệt độ (oC) pH
Đầu vào
tb±sd
Đầu ra
tb±sd
Đầu vào
tb±sd
Đầu ra
tb±sd
Đầu vào
tb±sd
Đầu ra
tb±sd
ĐC (n = 3) 7,03±0,21 7,13±0,17 26,25±0,96 27,00±1,15 6,98±0,11 7,06±0,19
NV1 (n = 3) 6,90±0,14 6,95±0,13 27,00±0,82 27,25±0,96 7,07±0,21 7,25±0,15
NV2 (n = 3) 6,95±0,13 7,00±0,22 26,50±1,29 27,25±1,71 7,26±0,07 7,25±0,23
NV3 (n = 3) 6,90±0,18 7,05±0,13 27,00±0,82 27,50±1,29 7,36±0,16 7,40±0,12
NV4 (n = 3) 7,00±0,18 7,08±0,13 27,50±1,29 27,50±0,58 7,41±0,19 7,53±0,18
NV5 (n = 3) 6,95±0,13 6,85±0,26 26,50±1,29 27,50±1,00 7,51±0,13 7,57±0,17
Sau 24 giờ tiếp xúc với hóa chất, ở nồng độ NaOCl thấp
nhất (33,33 mg/L) tỷ lệ cá chết khoảng 2,50%, tỷ lệ cá chết
tăng dần theo nồng độ NaOCl theo trình tự nồng độ càng
cao tỷ lệ cá chết càng cao (Bảng 2) và cá chết cao nhất ở
nồng độ cao nhất (58,33 mg/L) là 57,5%. Kết quả phân tích
tương quan và hồi quy xác định nồng độ gây chết 50% số
cá thể của NaOCl ở cá Ngựa vằn sau 24 giờ là 57,02 mg/L.
Bảng 2. Tỷ lệ cá Ngựa vằn chết theo nồng độ NaOCl
và giá trị LC50-24h
Nồng độ (mg/L) ĐC 33,33 40,00 51,67 53,33 58,33
Tỷ lệ cá chết (%) 0 2,50 10,00 22,50 30,00 57,50
LC50-24h (mg/L) 57,02
3.2. Hành vi của cá Ngựa vằn trong môi trường nước cấp
và nước sông không có NaOCl
Với mục tiêu hướng đến việc giám sát chất lượng nước
đầu vào của nhà máy xử lý nước bằng hệ thống cảnh báo
sớm, các thử nghiệm về hành vi của cá Ngựa vằn trong môi
trường nước sạch (nước thủy cục đã khử Clo trong 24h và
nước sông ở khu vực đầu vào của nhà máy cấp nước). Các
thông số môi trường từ lúc tiến hành thí nghiệm đến khi thí
nghiệm kết thúc liên tục được giám sát và cho thấy không
có thay đổi về chất lượng nước (α = 0,05) (Bảng 3).
Bảng 3. Thông số đầu vào và đầu ra của thí nghiệm
Lô thí nghiệm (n = 3) DO (mg/L) pH Nhiệt độ (oC)
Nước cấp Đầu vào 5,9±0,15 6,6±0,1 31,0±1,0
Đầu ra 5,8±0,15 6,7±0,05 32,5±0,3
Nước sông Đầu vào 5,3±0,10 6,9±0,1 30,8±1,0
Đầu ra 5,0±0,15 6,8±0,1 32,3±0,5
10% LC50-
24h
Đầu vào 6,2±0,15 7,1±0,1 31,0±1,5
Đầu ra 6,0±0,11 6,9±0,1 32,5±1,5
20% LC50-
24h
Đầu vào 6,3±0,10 7,0±0,1 32,3±0,5
Đầu ra 6,1±0,10 6,8±0,05 33,6±0,5
30% LC50-
24h
Đầu vào 6,2±0,15 7,2±0,1 31,0±1,5
Đầu ra 6,0±0,11 6,9±0,1 32,5±1,5
40% LC50-
24h
Đầu vào 6,3±0,10 7,0±0,1 32,3±0,5
Đầu ra 6,1±0,10 6,9±0,05 33,6±0,5
Kết quả phân tích Anova và kiểm tra LSD cho thấy
(Bảng 4), quãng đường di chuyển của cá Ngựa vằn trong môi
trường nước cấp và nước sông là không khác nhau (Hình
1.a). Trong khi đó, quãng đường di chuyển tăng cao khi ở
nồng độ 10% LC50 sau đó giảm dần theo sự gia tăng nồng độ
của NaOCl trong các lô thí nghiệm. Ở 10% LC50 cá Ngựa
vằn di chuyển nhanh hơn so với môi trường nước sông, đây
là hành vi “trốn chạy” của cá khi gặp điều kiện bất lợi (Hình
1.b). Và khi nồng độ NaOCl tăng lên khiến cá chuyển từ
“trốn chạy” sang trạng thái ngộ độc cấp tính và giảm khả
năng di chuyển. Ở 20% LC50-24h quãng đường di chuyển
của cá là 1.590,02 ± 80,59m, trong khi quãng đường di
chuyển của cá ở môi trường nước sông là 2.045,24 ± 359,46
m (Hình 1.c). Sự thay đổi hành vi bơi cũng được quan sát
thấy ở nhóm thí nghiệm 30% ngay khi tiến hành thí nghiệm,
cá bơi chậm hơn, quãng đường di chuyển ngắn hơn. Quãng
đường di chuyển mỗi 5 phút của cá ở môi trường chứa 30%
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 119
LC50-24h thấp hơn ở môi trường nước sông và thấp hơn cả
môi trường nước sông chứa 20% LC50-24h (Hình 1.d).
Chứng tỏ tốc độ bơi của cá chậm lại khi ô nhiễm tăng lên ở
mức 30% LC50-24h. Quãng đường di chuyển của cá Ngựa
vằn ở môi trường nước sông chứa 40% LC50-24h có sự suy
giảm so với quãng đường di chuyển trong môi trường đối
chứng (môi trường nước sông). So sánh quãng đường di
chuyển của cá trong môi trường chứa 40% LC50-24h với môi
trường chứa 30% LC50-24h thì không thấy sự khác biệt về ý
nghĩa (α=0,05) (Hình 1.e).
Bảng 4. Quãng đường di chuyển của cá Ngựa vằn
trong các môi trường nước khác nhau
Nghiệm thức Quãng đường trong
5 giờ (m)(n=3)
Quãng đường trong
5 phút (m)(n=3)
Nước cấp 2.074,09 ± 211,32a 34,57 ± 3,52a
Nước sông 2.045,24 ± 359,46a 34,09 ± 5,99a
10% LC50 3.017,41 ± 96,84b 50,29 ± 1,61b
20% LC50 1.590,02 ± 80,59c 26,50 ± 1,34c
30% LC50 799,64 ± 226,32d 13,33 ± 3,77d
40% LC50 701,66 ± 327,41d 11,69 ± 5,46d
Ghi chú: Các giá trị trung bình có cùng chữ cái a, b, c, d ở cùng một cột
không có sự khác nhau có ý nghĩa (α=0,05)
(1.a)
(1.b)
(1.c)
(1.d)
(1.e)
Hình 1. Quãng đường di chuyển của cá
trong các môi trường nước khác nhau
Kết quả tương tự cũng được quan sát thấy ở nghiên cứu
của Little và cộng sự [4], hoạt động bơi của cá tăng ở
ngưỡng ô nhiễm thấp sau đó suy giảm khi cá tiếp xúc với
những nồng độ cao hơn của DEF (photpho hữu cơ làm rụng
lá) hay 2,4-DMA ở nồng độ cao (5 - 50% LC50), một nghiên
cứu khác ở cá vược mặt trời (Bluegill) cũng đã chứng minh
điều tương tự, chuyển động của toàn bộ cơ thể cá suy giảm
khi có sự gia tăng nồng độ chất ô nhiễm [2]. Việc suy giảm
hành vi bơi có thể là một hành vi thích ứng về mặt sinh lý
làm giảm hoạt động trao đổi chất cân bằng nội môi từ đó
giảm nguy cơ tử vong [5].
120 Nguyễn Văn Khánh
4. Kết luận
Qua các kết quả thu được, xác định được LC50-24h của
NaOCl đối với cá Ngựa vằn là 57,02 mg/L. Nghiên cứu về
hành vi bơi của cá Ngựa vằn cho thấy ở mức độ ô nhiễm
10% LC50-24h hoạt động bơi của cá gia tăng đáng kể, mức
độ ô nhiễm từ 20% LC50-24h trở lên hoạt động bơi giảm
dần. Khi tiến hành so sánh ANOVA và phân tích LSD với
mức ý nghĩa α=0,05 nhận thấy quãng đường di chuyển của
cá đã có sự sai khác rõ rệt so với môi trường nước sông. Do
đó, cá Ngựa vằn có thể phát hiện chất ô nhiễm ở nồng độ
10% LC50-24h (NaOCl) với sự thay đổi hành vi là gia tăng
hoạt động bơi và suy giảm dần ở nồng độ 20% LC50-24h
trở lên so với hoạt động ở môi trường nước bình thường.
Kết quả này cho thấy, việc sử dụng hệ thống phần mềm
để nhận dạng thay đổi hành vi của cá Ngựa vằn trong các
môi trường nước ô nhiễm khác nhau là hoàn toàn khả thi.
Đây là nền tảng cơ bản để thiết lập hệ thống cảnh báo sớm
ô nhiễm môi trường nước trong các nghiên cứu tiếp theo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Danielly de Paiva Magalha˜es, Rodolfo Armando da Cunha, Jose´ Augusto Albuquerque dos Santos. Behavioral response of Zebrafish
Danio rerio Hamilton 1822 to sublethal stress by sodium hypochlorite:
ecotoxicological assay using an image analysis biomonitoring system. Springer Science+Business Media, LLC 2007.
[2] Finger SE, Little EE, Henry MG, Fairchild JF, Boyle TP (1985).
Comparison of laboratory and field assessment of fluorine, part I:
Effects of fluorine on the survival, growth, reproduction, and behavior
of aquatic organisms in laboratory tests. In: Boyle TP (ed) Validation and Predictability of laboratory methods for assessment the fate and
effects of contaminants in aquatic ecosystems. STP 865. American
Society for Testing and materials, Philadelphia, PA, pp 120–133.
[3] ILSI. (1999). Early warning monitoring to detect hazardous events
in water supplies. ILSI Press, Washington, D.C.
[4] Little EE, Archeski RD, Flerox BA, Kozlovskaya VI (1989).
Behavioral indicators of sublethal toxicity in rainbow trout. Arch Environ Con Tox 19(3):380–385.
[5] Schreck CB, Olla BL, Davis MW (1997) Behavioral response to
stress. In: Iwama GK, Pickering AAD, Sumpter JP, Schreck CB
(eds) Fish stress and health in aquaculture. Cambridge Univ Press,
Cambridge, pp 145–170.
(BBT nhận bài: 20/04/2017, hoàn tất thủ tục phản biện: 05/06/2017)
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 121
NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN HÓA HỌC CỦA TRÀ HOA VÀNG
(CAMELLIA QUEPHONGNENSIS HAKODA ET NINH) BẰNG KHỐI PHỔ
PHÂN GIẢI CAO
A STUDY OF CHEMICAL CONSTITUENTS OF THE CAMELLIA QUEPHONGNENSIS
HAKODA ET NINH FLOWERS WITH HIGH RESOLUTION MASS SPECTROMETRY
Nguyễn Văn Minh Khôi1, Phùng Văn Trung2, Hoàng Minh Hảo3, Nguyễn Thị Ngọc Lan4, Giang Thị Kim Liên5,
Ngọ Thị Phương6, Trần Quốc Thành7, Lê Ngọc Hùng1, Lê Minh Hà6 1Ban QLDA Phòng thí nghiệm chuyên ngành hóa dược, Trung tâm Đào tạo, Tư vấn và Chuyển giao công nghệ - VAST
2Viện Công nghệ Hóa học – VAST 3Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh
4Trường Đại học Nguyễn Tất Thành 5Đại học Đà Nẵng; [email protected]
6Viện Hóa học các hợp chất thiên nhiên – Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam 7Sở Khoa học Công nghệ Nghệ An
Tóm tắt - 46 hợp chất đã được phát hiện có mặt trong cao tổng cồn/ nước và 20 hợp chất được phát hiện trong cao chiết phân đoạn ethyl axetat hoa trà hoa vàng Camellia quephongensis Hakoda et Ninh thu tại Quế Phong, Nghệ An bằng việc sử dụng kỹ thuật sắc ký lỏng phân giải cao ghép nối khối phổ. Các nhóm hợp chất chính có mặt trong cả hai cao chiết là flavonoid, phenol và este. Trong cao chiết phân đoạn ethyl axetat không thấy sự có mặt của đường và dẫn xuất đường, amino axit và amin, bên cạnh đó hàm lượng các chất chính như flavonoid, phenol, este đã tăng lên đáng kể so với cao cồn/ nước. Kết quả phân tích này là phù hợp với việc sử dụng dung môi ethyl axetat để làm giàu các hoạt chất poliphenol từ trà hoa vàng. Ngoài ra cũng xác định được sự có mặt của các nguyên tố vi lượng rất đáng quí trong hoa trà hoa vàng Camellia quephongensis như germanium, selenium. Đây là những công bố bước đầu về kết quả nghiên cứu thành phần hóa học của hoa trà hoa vàng Camellia quephongensis.
Abstract - 46 compounds are found to be present in ethanol / water extract and 20 compounds are detected in ethyl acetate fraction of the Camellia quephongensis Hakoda et Ninh collected in Que Phong, Nghe An by using high resolution liquid chromatography combined with mass spectrometry. The major compound groups present in both extracts are flavonoids, phenols and esters. In ethyl acetate extract no presence of sugars and derivatives of sugars, amino acids and amines is observed and the content of major compound groups such as flavonoids, phenols, and esters increases significantly compared with alcohol / water extract. The results are consistent with the use of ethyl acetate to enrich the active polyphenol ingredients from the yellow tea. In addition, we also identify the presence of valuable trace elements in Camellia quephongensis such as germanium, selenium. These are the initial publications on the chemical composition of Camellia quephongensis.
Từ khóa - Camellia quephongensis; Trà hoa vàng; Camellia sp; poliphenol; khôi phô phân giải cao
Key words - Camellia quephongensis; yellow tea; Camellia sp; polyphenol; high resolution mass spectrometry
1. Đặt vấn đề
Trà hoa vàng thuộc chi trà (Camellia) là một loài thực
vật hạt kín trong họ Theaceae. Từ những năm 60 của thế
kỷ XX, lần đầu tiên Trà hoa vàng được phát hiện ở Quảng
Tây, Trung Quốc thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa
học. Từ đó, Trà hoa vàng được nhiều nước quan tâm nghiên
cứu vì có nhiều giá trị và công dụng đặc biệt. Ở Việt Nam,
cây Trà hoa vàng được tìm thấy ở tỉnh Quảng Ninh, Vĩnh
Phúc (Tam Đảo), Tuyên Quang, Yên Bái, Ninh Bình (Cúc
Phương), Nghệ An, Lâm Đồng...
Trà hoa vàng là loài cây quý hiếm, có nhiều giá trị để
sử dụng như lấy gỗ, có thể làm cây trồng tầng dưới ở các
đai rừng phòng hộ, trồng làm cây cảnh và làm đồ uống cao
cấp, có tác dụng phòng và chống các bệnh huyết áp, tim
mạch, tiểu đường, u bướu, … Về thành phần hóa học, loài
này chứa thành phần quan trọng như saponin, flavonoid,
các hợp chất phenolic, amino acid, các nguyên tố vi lượng,
các vitamin, … [2]. Tại huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An,
Trà hoa vàng có mặt hầu hết tại các xã của huyện nhưng
tập trung nhiều nhất là ở xã Hạnh Dịch, xã Thông Thụ và
xã Tiên Phong với loài Camellia quephongensis Hakoda et
Ninh được phát hiện và đặt tên bởi GS. Hakoda và PGS.
TS. Trần Ninh từ năm 2012-2013. Đây cũng là loài ưa
bóng, thường mọc dưới tán rừng thứ sinh, thường phân bố
dọc khe suối. Sản phẩm hiện nay từ Trà hoa vàng chủ yếu
dùng lá và hoa làm trà thực phẩm chức năng hỗ trợ chữa
các bệnh huyết áp, tim mạch, tiểu đường, u bướu … Thành
phần hóa học của nước Trà hoa vàng từ lá và hoa chủ yếu
là các hoạt chất được chiết ra trong nước ở nhiệt độ từ 70 –
900C trong thời gian từ một giờ tới nhiều giờ khi được sử
dụng pha trà.
Hiện nay ở Việt Nam việc sử dụng kỹ thuật sắc ký lỏng
phân giải cao ghép nối khối phổ Ultimate 3000 RSLC và
khối phổ phân giải cao Q Exactive Focus Orbitrap MS
(Thermo Scientific) để phát hiện các hợp chất trong cao chiết
tổng dựa trên mzCloud bằng việc ghép nối khối phổ MS/MS
từ thư viện dữ liệu phổ HRAM MS2 Spectral Libratory
Match-mzCloud còn chưa được phát triển do chưa được đầu
tư về trang thiết bị và các phần mềm phân tích xử lí số liệu,
trong khi đó trên thế giới ứng dụng này đã sử dụng rất lâu và
rất có hiệu quả trong việc phát hiện và phân tích nhanh các
thành phần hoạt chất trong dịch chiết tổng. Trong bài báo
này, chúng tôi công bố các kết quả đạt được ban đầu về thành
phần hóa học của các hợp chất có mặt trong cao chiết tổng
cồn/ nước và phân đoạn ethyl axetat giàu flavonoid của hoa
Trà hoa vàng loài Camellia Quephongnensis Hakoda et
Ninh cùng với các kết quả phân tích các thành phần khoáng
vi lượng của chúng.
122 N. V. M. Khôi, P. V. Trung, H. M. Hảo, N. T. N. Lan, G. T. K. Liên, N. T. Phương, T. Q. Thành, L. N. Hùng, L. M. Hà
2. Thưc nghiêm
2.1. Nguyên liệu, hóa chất và thiết bị
Nguyên liệu: Hoa trà hoa vàng (Camellia
quephongensis Hakoda et Ninh) được thu hái tại Quế
Phong, Nghệ An vào tháng 5 năm 2016 và được xác định
tên khoa học bởi đoàn nghiên cứu Nhật Bản do GS. Hakoda
phối hợp với PGS.TS. Trần Ninh.
Hóa chất: Ammonium Format, Methanol, Nước, Axít
Formic dùng cho phân tích HPLC từ hãng Fisher Scientific.
Chất chuẩn: Chất chuẩn bao gồm Quercetin (độ tinh
khiết 95%) và Rutin (độ tinh khiết 97%) được đặt mua từ
hãng Sigma Aldrich (St. Louis, MO, USA).
Thiết bị sử dụng
Hệ thống Sắc ký lỏng phân giải cao ghép nối khối phổ
phân giải cao bao gồm:
Sắc ký lỏng Ultimate 3000 RSLC và khối phổ phân giải
cao Q Exactive Focus Orbitrap MS (Thermo Scientific).
Điều kiện phân tích HPLC: Phân tích HPLC được thực
hiện trên Ultimate 3000 RSLC với đầu dò DAD (Thermo
Scientific, Mỹ). Thực hiện phân tách trên cột Thermo
Scientific Hypersil GOLD™ aQ Polar Endcapped cột C18,
1.9 µm, 2.1 mm × 100 mm. Pha động gồm 4mM
Ammonium Format pha trong dung dịch 0,1% Axít Formic
(Dung môi A) và 4mM Ammonium Format pha trong dung
dịch Methanol 0,1% Axít Formic (Dung môi B). Chương
trình gradient như sau: 0 – 1 phút: 5% (B), 1 – 7 phút: 98%
(B), 7 – 10 phút: 98% (B), 10,1 – 13 phút: 5% (B). Nhiệt độ:
30ºC. Thể tích tiêm mẫu: 10µL. Tốc độ dòng: 300 µL/min.
Điều kiện chạy cho khối phổ phân giải cao Q Exactive
Focus Orbitrap MS: Khối phổ tứ cực - phân giải cao
(Quadrupole-Orbitrap MS) sử dụng nguồn ion hóa H-ESI
(Ion hóa phun điện tử được gia nhiệt) với điện áp phun:
4500 V (positive), -4000 V (negative), nhiệt độ của bộ hóa
hơi: 40ºC, nhiệt độ ống chuyển ion: 275ºC. Lưu lượng khí
phun: 40 unit, lưu lượng khí hỗ trợ: 15 unit.
Sử dụng phương pháp scan sàng lọc hợp chất:
FS-ddMS2 (Full Scan + Data-dependent MS/MS). Độ
phân giải toàn dải quét: 70.000 FWHM tại m/z 200. Độ
phân giải MS/MS: 17.500 FWHM tại m/z 200. Dải Scan:
m/z 100 đến 1000, phân cực riêng. Tự động xử lý 10 tín
hiệu phụ thuộc lớn nhất. Năng lượng va chạm được chuẩn
hóa: được chia bậc với ba mức 10, 30 và 60. Độ rộng cách
ly tiên chât: 1,2 m/z. Tự động thực hiện MS/MS trên
ngưỡng cường độ: 1.5E4.
Phần mềm sử dụng
Phần mềm Thermo Scientific Compound Discoverer 2.0
Xử lý dữ liệu
Các hợp chất được xác định dựa trên mzCloud bằng
việc ghép nối khối phổ MS/MS từ thư viện dữ liệu phổ
HRAM MS2 Spectral Libratory Match-mzCloud. Các dữ
liệu chưa xử lý của dung môi blank và các mẫu chưa xác
định đã được xử lý và phát hiện các đặc tính (các hợp chất
giả định được đặc trưng bởi số khối của chúng) trong dữ
liệu MS đầy đủ và ID giả định được chỉ định cho các tính
năng này bằng cách tìm kiếm số khối chính xác và phổ
MS/MS dựa vào thư viện phổ mzCloud. Các dữ liệu chưa
xử lý từ phân cực dương (positive) và âm (negative) được
xử lý riêng.
2.2. Phương pháp tiến hành
2.2.1. Chuẩn bị mẫu
Chiết xuất cao tổng cồn/ nước: Hoa Trà hoa vàng khô
(100 gam) được nghiền thành bột mịn và ngâm chiết trong
500ml cồn: nước (7:3), siêu âm ở 50oC trong 20 phút. Lọc
thu dịch chiết và quá trình chiết được lặp lại 3 lần. Gộp dịch
chiết và quay cất chân không để loại kiệt dung môi thu
được cao tổng cồn nước, ký hiệu THV-1.
Chiết xuất phân đoạn giàu flavonoid: từ cao tổng cồn
nước THV-1 đem phân bố lại trong nước theo tỷ lệ khối
lượng dung dịch cao: nước là 1:1 và chiết phân bố với etyl
axetat, cất loại dung môi thu cao chiết ethyl axetat giàu các
hợp chất flavonoid, ký hiệu THV-2.
2.2.2. Khảo sát thành phần hóa học
Việc khảo sát thành phần hóa học được thực hiện bằng
các phương pháp phổ Hệ thống khối phổ phân giải cao
Q Exactive Focus Orbitrap MS (Thermo Scientific), và so
sánh số liệu phổ với tài liệu tham khảo.
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Thành phần hóa học của cao chiết cồn/nước
Kết quả phân tích cho thấy sự có mặt của 46 hợp chất
trong cao chiết tổng cồn/ nước của Trà hoa vàng
quephongensis (mẫu THV-1).
Hình 1. Sắc ký đồ cao cồn/ nước hoa trà hoa vàng
Thành phần hóa học và thành phần phần trăm tổng (theo
diện tích pic) của cao chiết cồn/ nước của hoa Trà hoa vàng
loài Camellia quephongnensis Hakoda et Ninh được thể hiện
ở Hình 1 và Bảng 1. Kết quả cho thấy trong cao chiết cồn
nước chứa các nhóm flavonoit, polyphenol, amino axít, axít
hữu cơ, đường và dẫn xuất đường, … Trong đó, các axit hữu
cơ chiếm tỷ lệ cao nhất (55,22%), tiếp đến là các amino axit
và amin (12,24%), flavonoid (7,38%), phenol (1,97%), este
(10,02%) và còn lại là các nhóm hợp chất khác.
Bảng 1. Thành phần hóa học cao cồn/ nước hoa trà hoa vàng THV-1
TT Tên chất Tỷ lệ
% KLPT
Thời gian
lưu (phút) Mz
Đường và dẫn xuất
đường 6,90
1 Gluconic acid 0,49 196,0578 0,83 94
2 L-Glutamic acid 0,94 147,0531 0,84 86
3 α,α-Trehalose 5,47 342,1155 0,85 92
Axit 55,22
4 D-(-)-Quinic acid 24,79 192,0629 0,85 89
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 123
5 DL-Malic acid 21,63 134,0212 0,89 96
6 Pipecolic acid 3,65 129,0789 0,9 89
7 Citric acid 1,74 192,0269 1,21 74
8 Methylmalonic acid 0,43 118,0263 1,23 86
9 Succinic acid 0,68 118,0263 1,42 87
10 2,4-Dihydroxybenzoic
acid 0,24 154,0263 3,45 88
11 Adipic acid 0,12 146,0577 3,58 90
12 Gentisic acid 0,55 154,0262 3,59 92
13 2-Isopropylmalic acid 0,13 176,0682 4,11 74
14 Isophthalic acid 0,07 166,0263 4,14 92
15 Suberic acid 0,03 174,0889 5,27 79
16 3-Phenyllactic acid 0,02 166,0627 5,3 82
17 Salicylic acid 0,16 138,0313 5,42 90
18 Benzoic acid 0,31 122,0365 5,55 92
19 Azelaic acid 0,08 188,1046 5,84 83
20 Atenolol acid 0,58 267,1471 6,76 86
21 Stearic acid 0,01 284,2711 9,94 97 Amino axit và amin 12,24
22 D-(+)-Proline 12,05 115,0632 0,86 94
23 4-Oxoproline 0,07 129,0423 1,21 88
24 Adenosine 0,12 267,0967 2,71 94 Flavonoid 7,38
25 Isorhamnetin 0,11 316,0596 1,02 75
26 Catechol 0,15 110,0365 3,5 94
27 Epicatechin 3,85 290,0788 4,21 93
28 Rutin 2,65 610,1523 5,7 90
29 Quercetin-3β-D-
glucoside 0,62 464,0949 5,72 83
Phenol 1,97
30 Pyrogallol 0,08 126,0314 1,61 83
31 Gallic acid 1,62 170,0213 2,33 92
32 Vanillin 0,03 152,047 5,59 79
33 Piceatannol 0,24 244,0736 7,11 70 Aldehyde và keton 0,34
34 Phthaldialdehyde 0,19 134,0366 4,97 94
35 Benzophenone 0,15 182,0732 7,13 86 Ester 10,02
37 Diallyl phthalate 0,45 246,0892 6,14 79
38 1-Stearoylglycerol 9,57 358,3081 9,41 87 Hydrocacbon 1,30
39 1,2,3,4-Tetramethyl-
1,3-cyclopentadiene 0,14 122,1095 4,66 78
40 Methoxsalen 1,16 216,0423 6,31 95 Nhóm hợp chất khác 4,64
41 5-Hydroxymethyl-2-
furaldehyde 2,53 126,0316 0,85 80
42 4-Acetamidobutanoic
acid 0,07 145,0737 1,93 74
43 α-Lapachone 1,71 242,0942 6,61 73
44 K 0,01 272,2348 8,75 89
45 Hexadecanamide 0,18 255,2562 9,13 76
46 Tridemorph 0,14 297,3032 10,33 84
3.2. Thành phần hóa học của phân đoạn chiết ethyl
axetat giàu flavonoid
Kết quả cho thấy đã xác nhận sự có mặt của 20 hợp chất
có trong phân đoạn chiết ethyl axetat mẫu Trà hoa vàng
(mẫu THV-2).
Thành phần hóa học và thành phần phần trăm tổng (theo
diện tích pic) của các nhóm chất có trong phân đoạn chiết
ethyl axetat hoa Trà hoa vàng loài Camellia quephongnensis
Hakoda et Ninh thể hiện ở Bảng 2 và Hình 2.
Hình 2. Sắc ký đồ phân đoạn ethyl axetat hoa trà hoa vàng
Bảng 2. Thành phần hóa học cua cao chiêt ethyl axetat
hoa Trà hoa vàng THV-1
TT Tên chất Tỷ lệ
% KLPT
Thời gian
lưu (phút) Mz
Axit 12,91
1 D-(-)-Quinic acid 1,28 192,063 0,86 91
2 DL-Malic acid 3,85 134,0212 0,86 96
3 Methylmalonic acid 0,83 118,0263 1,45 86
4 Succinic acid 1,16 118,0263 0,86 87
5 2,4-Dihydroxybenzoic
acid 0,38 154,0263 0,89 88
6 Gentisic acid 2,40 154,0263 3,6 92
7 Isophthalic acid 0,12 166,0262 4,17 73
8 Salicylic acid 1,08 138,0314 4,02 87
9 Benzoic acid 0,86 122,0365 4,59 93
10 Atenolol acid 0,91 267,1471 6,66 87
11 Stearic acid 0,05 284,271 9,95 94
Flavonoid 34,10
12 Catechol 0,85 110,0365 3,52 90
13 Epicatechin 22,63 290,0789 4,23 93
14 Rutin 3,60 610,1529 5,7 87
15 Quercetin-3β-D-
glucoside 7,03 464,0949 5,72 83
Phenol 12,20
16 Pyrogallol 0,81 126,0313 0,86 80
17 Gallic acid 11,39 170,0212 0,85 94
Aldehyde và keton 0,58
18 Benzophenone 0,58 182,0732 7,13 80
Ester 39,65
19 1-Stearoylglycerol 39,65 358,3081 9,42 88
Hydrocacbon 0,56
124 N. V. M. Khôi, P. V. Trung, H. M. Hảo, N. T. N. Lan, G. T. K. Liên, N. T. Phương, T. Q. Thành, L. N. Hùng, L. M. Hà
20 1,2,3,4-
Tetramethyl-1,3-
cyclopentadiene
0,56 122,1094 4,79 81
Kết quả cho thấy, trong phân đoạn chiết ethyl axetat
hàm lượng các hợp chất flavonoid chiếm 34,10%, phenol
chiếm 12,2%, axit hữu cơ chiếm 12,91%, còn lại là các hợp
chất khác như hidrocacbon, este, aldehyd và keton.
3.3. So sánh thành phần hóa học của cao tổng cồn nước
và cao chiết phân đoạn ethyl axetat
So sánh thành phần hóa học của cao tổng cồn nước và
cao chiết phân đoạn ethyl axetat của hoa trà hoa vàng
Camellia quephongnensis được thể hiện ở Bảng 3.
Bảng 3. So sánh thành phần hóa học cao tổng cồn nước và cao chiết
phân đoạn ethyl axetat hoa trà hoa vàng Camellia quephongnensis
T
T Tên chất
Tỷ lệ % chất
trong cao
tổng cồn nước
Tỷ lệ % chất
trong cao chiết
ethyl axetat
Đường và dẫn xuất đường 6,90 0
1 Gluconic acid 0,49 0
2 L-Glutamic acid 0,94 0
3 α,α-Trehalose 5,47 0
Axit 55,22 12,91
4 D-(-)-Quinic acid 24,79 1,28
5 DL-Malic acid 21,63 3,85
6 Pipecolic acid 3,65 0
7 Citric acid 1,74 0
8 Methylmalonic acid 0,43 0,83
9 Succinic acid 0,68 1,16
10 2,4-Dihydroxybenzoic acid 0,24 0,38
11 Adipic acid 0,12 0
12 Gentisic acid 0,55 2,40
13 2-Isopropylmalic acid 0,13 0
14 Isophthalic acid 0,07 0,12
15 Suberic acid 0,03 0
16 3-Phenyllactic acid 0,02 0
17 Salicylic acid 0,16 1,08
18 Benzoic acid 0,31 0,86
19 Azelaic acid 0,08 0
20 Atenolol acid 0,58 0,91
21 Stearic acid 0,01 0,05
Amino axit và amin 12,24 0,00
22 D-(+)-Proline 12,05 0
23 4-Oxoproline 0,07 0
24 Adenosine 0,12 0
Flavonoid 7,38 34,10
25 Isorhamnetin 0,11 0
26 Catechol 0,15 0,85
27 Epicatechin 3,85 22,63
28 Rutin 2,65 3,60
29 Quercetin-3-O- β-D-glucoside 0,62 7,03
Phenol 1,97 12,20
30 Pyrogallol 0,08 0,81
31 Gallic acid 1,62 11,39
32 Vanillin 0,03 0
33 Piceatannol 0,24 0
Aldehyde và keton 0,34 0,58
34 Phthaldialdehyde 0,19 0
35 Benzophenone 0,15 0,58
Ester 10,02 39,65
37 Diallyl phthalate 0,45 0
38 1-Stearoylglycerol 9,57 39,65
Hydrocacbon 1,30 0,56
39 1,2,3,4-Tetramethyl-
1,3-cyclopentadiene
0,14 0,56
40 Methoxsalen 1,16 0
Nhóm hợp chất khác 4,64 0,00
41 5-Hydroxymethyl-2-
furaldehyde
2,53 0
42 4-Acetamidobutanoic acid 0,07 0
43 α-Lapachone 1,71 0
44 K 0,01 0
45 Hexadecanamide 0,18 0
46 Tridemorph 0,14 0
Kết quả phân tích cho thấy trong cao chiết phân đoạn
ethyl axetat không chứa các nhóm chất đường và dẫn xuất
đường, amino axit và amin cùng với nhóm các hợp chất
khác, cho thấy việc chiết phân đoạn ethyl axetat khá chọn
lọc so với cao chiêt côn/ nước. Ngoài ra trong cao chiết
ethyl axetat hàm lượng một số chất chính là flavonoid và
phenol đã tăng lên đáng kế. Hàm lượng flavonoid trong cao
tổng cồn/ nước chiếm 7,38% còn trong cao chiết phân đoạn
ethyl axetat tăng lên thành 34,1%; hàm lượng phenol trong
cao cồn là 1,97% và trong cao ethyl axetat tăng lên thành
12,2%. Các hợp chất chính được nhận dạng cả trong cao
cồn nước và cao ethyl axetat là axit gallic (số khối là
170,02, thời gian lưu là 2,33 phút), epicatechin (số khối là
290,08, thời gian lưu là 4,21 phút), quercetin-3-O-β-D-
glucopyranoside (số khối là 302,04, thời gian lưu là 6,39
phút) và rutin (số khối là 610,15, thời gian lưu là 5,70 phút).
- Gallic acid: m/z = [M-H]- = 169,0141
- Epicatechin: m/z = [M-H]- = 289,0715; [M+FA]-
=335,0768
- Quercetin-3-O-β-D-glucopyranoside: m/z = [M-H]-
=463,0876
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 125
-Rutin: [M-H]- = 609,1452
Hình 3. Sắc ký đồ khối phổ của một số chất chính trong
cao tổng cồn/ nước và cao chiết phân đoạn ethyl axetat của
hoa Trà hoa vàng Camellia quephongnensis
So với các tài liệu đã công bố khi phân tích hoa khô của
Kim hoa trà (Camellia chrysantha) thì trong cao cồn nước
không phát hiện được các chất sau:
1. vitexin, số khối là 432,38;
2. kaempferol, số khối là 286,23;
3. kaempferol-3-O-β-D-glucopyranoside, số khối là
448,37;
4. lupeol, số khối là 426,7174;
5. oleanolic acid, số khối là 456,70032;
6. daucosterol, số khối là 576,8473;
7. β-sitosterol, số khối là 414,7067;
8. protocatechuicacid, số khối là 154,12;
9. vanillin, số khối là 152,15.
3.4. Thành phần các chất vi lượng
Một trong giá trị quan trọng của hoa Trà hoa vàng là chứa
các nguyên tố vi lượng như Germanium, Selenium và
Vanadium. Đây là các chất hiếm trong cây, có nhiều ý nghĩa
trong quá trình trao đổi chất của thực vật và giúp cho quá
trình chuyển hóa, bảo vệ đời sống trong cây. Ngoài ra, các
hợp chất này còn có ý nghĩa trong cuộc sống của con người
như bổ sung các chất này cho cơ thể con người mà không
thể tự tổng hợp được. Qua phân tích thành phần các chất
Germanium, Selenium, Vanadium có trong hoa từ 0,0035 -
0,0433µg/g; trong lá từ 0,0009 - 0,0015µg/g. Như vậy, muốn
khai thác và sử dụng các hợp chất này thì nên chiết xuất hoặc
sử dụng trực tiếp dưới trạng trà ở hoa là tốt nhất.
Các chất hiếm này có ý nghĩa rất quan trọng cho cơ thể
người và động vật, nó là nguồn nguyên liệu để điều hòa
enzim. Ngoài ra, các hợp chất này còn có tác dụng chống
ung thư như: Gernarium có khả năng cải thiện và tăng
cường hệ miễn dịch, tăng cường quá trình cung cấp oxy
cho cơ thể, tiêu diệt các gốc tự do gây hại. Bảo vệ cơ thể
chống lại những tia bức xạ của môi trường.
Kết quả phân tích hàm lượng các nguyên tố vi lương
trong cao cồn nước và cao ethyl axetat thêr hiện ở Bảng 4.
Bảng 4. Hàm lượng các nguyên tố vi lượng trong cao tổng cồn
nước và cao phân đoạn ethyl axetat của hoa Trà hoa vàng
Camellia quephongnensis
Nguyên tố vi
lượng (g/g)
Cao tổng cồn
nước
Cao chiết phân
đoạn ethyl axetat
Germanium 0,0430 0,0430
Selenium 0,0035 0,0038
Vanadium 0,0086 0,0085
4. Kêt luân
Bằng kỹ thuật sắc ký lỏng phân giải cao ghép nối khối
phổ gồm: Sắc ký lỏng Ultimate 3000 RSLC và khối phổ
phân giải cao Q Exactive Focus Orbitrap MS (Thermo
Scientific) và phát hiện các hợp chất dựa trên mzCloud bằng
việc ghép nối khối phổ MS/MS từ thư viện dữ liệu phổ
HRAM MS2 Spectral Libratory Match-mzCloud, 46 hợp
chất đã được phát hiện có mặt trong cao tổng cồn nước và
20 hợp chất được phát hiện trong cao chiết phân đoạn ethyl
axetat hoa Trà hoa vàng Camellia quephongensis Hakoda et
Ninh thu tại Quế Phong, Nghệ An. Các nhóm hợp chất chính
có mặt trong cả hai cao chiết là flavonoid, phenol và este.
Trong cao chiết ethyl axetat không thấy sự có mặt của đường
và dẫn xuất đường, amino axit và amin và hàm lượng các
chất chính như flavonoid, phenol, este đã tăng lên đáng kể
so với cao cồn nước. Kết quả phân tích này là hoàn toàn phù
hợp với việc sử dụng dung môi ethyl axetat để làm giàu các
hoạt chất poliphenol theo thông dụng trong hóa học. Ngoài
ra, cũng xác định được sự có mặt của các nguyên tố vi lượng
rất đáng quí trong hoa Trà hoa vàng như germanium,
selenium và vanadium. Đây là các kết quả sơ bộ ban đầu của
nhóm chúng tôi về phân tích hoa Trà hoa vàng Camellia
quephongnensis. Các nghiên cứu tiếp theo về thành phần hóa
học các loài trà hoa vàng đang được trồng và phát triển tại
Việt Nam đang được chúng tôi tiếp tục nghiên cứu.
Kết quả nghiên cứu cho thấy sắc ký lỏng phân giải cao
ghép nối khối phổ là phương pháp hữu hiệu, nhanh và đơn
giản, có độ chính xác cao để nhận dạng và xác định thành
phần hóa học của cao chiết tổng và các cao chiết phân đoạn
của các dược liệu.
Lời cám ơn: Các tác giả cám ơn Dự án Đầu tư xây dựng
phòng thí nghiệm chuyên ngành hóa dược đã đầu tư thiết
bị và kinh phí để thực hiện bài báo này.
TAI LIÊU THAM KHAO
[1] Peng Xiao, YU Da-Yong, Feng Bao-Min, Tang Ling, Wang Yong-Qi, Shi
Li-Ying, Chemical constituents from the flowers of Camellia chrysantha,
Institute of Materia Medica, Dalian University, Dalian 116622, China.
[2] Li Shi Rong, Study on Isolation and Antioxidation of Flavonoids
from the Flowers of Camelliachrysantha, Guangdong Ocean University, Master's thesis, 2012.
[3] Li Cuiyun, Duan Xiaoxian, Su Jianjia, et al., impact of leaves and
flowers of camellia chrysantha (hu) tuyama of different
concentrations on diethylnitrosaminal-induced precancerous lision
to liver of rat and hepatoma cells bel-7404, Journal of Guangxi Medical University 2007-05.
(BBT nhận bài: 16/06/2017, hoàn tất thủ tục phản biện: 26/06/2017)
126 Sesavanh Menvilay, Giang Thị Kim Liên, Đào Hùng Cường
NHỮNG KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU VỀ THÀNH PHẦN HOA HOC CUA CỦ NGHỆ
VÀNG (CURCUMA LONGA. L) THU HAI Ơ TINH CHAMPASACK LÀO
PRIMARY STUDY OF CHEMICAL COMPOUNDS OF
CURCUMA LONGA. L FROM CHAMPASACK LAOS
Sesavanh Menvilay1, Giang Thị Kim Liên2, Đào Hùng Cường3 1Trường Đai hoc Champasack Lào
2Đại học Đà Nẵng; [email protected] 3Trường Đại hoc Sư pham – Đại học Đà Nẵng
Tóm tắt - Tinh dâu củ nghệ vàng Champasack Lào thu đươc băng phương pháp chưng cât lôi cuôn hơi nước, thanh phân cua tinh dâu đươc xac đinh băng phương phap GC-MS, cac câu tư chinh gôm: Zingiberene (22,50%), Ar- tumerone (17,40%), Eucalyptol (15,66%). Thanh phân hoa hoc cua dich chiêt ethyl acetate đươc phân tich sơ bô bang phương phap GC-MS, đa đinh danh đươc 16 câu tư. Đông thơi, tư 1 phân đoan cua cao chiêt ethylacetate nghê vang đa phân lâp đươc câu tư M1 tinh sach. Băng viêc phôi hơp cac phương pháp phổ: khối phổ (MS), phổ cộng hưởng từ hạt nhân môt chiêu va hai chiêu (1H -NMR), (13C-NMR), COSY, phổ hồng ngoại IR cấu trúc cua hợp chất nay đa đươc xac đinh la Desmethoxycurcumin (C20H18O5). Theo tra cưu tai liêu tham khao, đây la công bô đâu tiên vê thanh phân hoa hoc cua củ nghệ Lào
Abstract - The essential oil of the Curcuma Longa rhizomes from Champasack, Laos obtained by the steam distillation method contains these main components: Zingiberene (22.50%), Ar- tumerone (17.40%), Eucalyptol (15.66%) and other components that have not been identified. The constituents of ethylacetate extract from Laos’ Curcuma Longa rhizomes have been investigated using GC/MS. 16 components have been identified and some other ones have not. Also, from this extract the compound M1- Desmethoxycurcumin (C20H18O5 - DMC) has been isolated and its structure has also been determined using spectroscopic methods (MS, IR, 1D and 2D-COSY-NMR) and compared with reported data. According to references, this is the first report about chemical composition of Laos’ Curcuma Longa. L.
Từ khóa - Nghệ vàng Lào; Desmethoxycurcumin; Zingiberene; Ar- tumerone; Eucalyptol.
Key words - Laos Curcuma Longa; Desmethoxycurcumin; Zingiberene; Ar- tumerone; Eucalyptol.
1. Đặt vân đê
Từ lâu Curcumin đã được biết đến như là một hoạt chất
có nguồn gốc từ thực vật đóng vai trò quan trọng trong nền
công nghiệp thực phẩm, mỹ phẩm và dược phẩm. Nhờ sự
hỗ trợ của các phương pháp vật lý hiện đạinhư phổ tử
ngoại, phổ hồng ngoại, phổ cộng hưởng từ hạt nhân, phổ
proton. các phương pháp sắc ký chẳng hạn là phương pháp
sắc ký khí, phương pháp sắc ký cột, phương pháp sắc ký
bản mỏng, phương pháp sắc ký lỏng cao áp [1, 4, 5], phù
hợp với việc nghiên cứu xác định thành phần hóa học và
cấu trúc của chất curcumin trong củ nghệ. Nghệ là một
trong những các loại cây rất phổ biến đã được sử dụng cách
đây gần 4000 năm, bắt nguồn từ văn hóa AyerVeda tại Ấn
Độ nó được thêm vào hầu hết các món ăn dù nó là thịt hay
rau. Ngày nay nghệ là nguồn hóa chất quý, có giá trị kinh
tế cao. Chính vì vậy, việc nghiên cứu chiết tách xác định
thành phần hóa học và xác định cấu trúc của hợp chất được
tách ra từ củ nghệ có ý nghĩa vô cùng quan trọng và cần
thiết. Nhiều công trình nghiên cứu ở các nước trên thế giới
đã nghiên cứu chiết tách curcumin từ củ nghệ, chất
curcumin đó có hoạt tính sinh học cao như giải độc gan,
hàn gắn vết thương, chống loát dạ dày, lưu thông và lọc
máu, điều trị bệnh Alzeimer, kháng viêm… Ngoài ra,
curcumin còn là chất chống oxy hóa mạnh, chống lão hóa
hiệu quả, giảm cholesteron trong máu, kìm hãm tế bào
HIV-1 [2,3].
Do hoạt tính sinh học quý giá của chất curcumin nên
việc nghiên cứu chiết tách, xác định thành phần hóa học,
xác định cấu trúc và sử dụng curcumin đang được nhiều
nước tiếp tục nghiên cứu sâu hơn. Trong đó có nghiên cứu
về củ nghệ Lào nhưng chưa có công trình nghiên cứu nào
nghiên cứu phân lập và xác định cấu trúc của chất curcumin
trong củ nghệ Lào. Do tầm quan trọng và ứng dụng của
chất curcumin về nhiều mặt, việc nghiên cứu phân lập và
xác định cấu trúc của curcumin trong củ nghệ Lào có ý
nghĩa quan trọngkhoa học, cũng như thực tiễn ứng dụng
các loại nghệ Lào. Mặt khác, để giúp ngành nông nghiệp
và công nghiệp của Lào chủ động được việc phát triển
giống nghệ, nguồn nguyên liệu curcumin trong nước, giúp
người dân hiểu sâu sắc về tầm quan trọng của cây và giải
quyết việc làm cho người dân, phát triển kinh tế bền vững
cho địa bàn tỉnh Champasack Lào và cũng như địa bàn bốn
tỉnh miền Nam Lào.
Bài báo này trinh bay kêt qua nghiên cưu cac điêu kiên
chiêt va phân lập hợp chất curcumin từ cao chiết nghệ vàng
Lào và xac đinh câu truc cua no bằng viêc kêt hơp cac
phương pháp hoa ly hiên đai.
2. Thưc nghiêm
2.1. Nguyên liêu
Nguyên liệu: củ nghệ vàng được thu hoạch vào tháng
4/2015 tại tỉnh Champasak – Lào.
2.2. Hóa chất và thiết bị
Các dung môi: n-hexane, ethyl acetate (EtOAc),
dichloromethane, methanol (MeOH), …
Sắc ký lơp mỏng (TLC) được thực hiện trên bản mỏng
silicagel tráng sẵn Merck 60 F254, thuốc hiện là vanillin
trong axit sunfuric đặc. Sắc ký cột sử dụng silical gel cỡ
hạt 0,04-0,063mm của hãng Merck.
Phổ hồng ngoại IR được đo trên thiết bị IMPACT 410
của hãng Nicolet Hoa Kỳ. Phổ cộng hưởng từ hạt nhân
NMR: AVANCE 500 MHz của hãng Bruker, CHLB Đức
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 127
tại Viện Hóa học với TMS làm nội chuẩn cho 1H và tín hiệu
dung môi làm chuẩn cho 13C-NMR. Thiêt bi săc ky khi
ghep nôi khôi phô GC-MSAgilent 7890A/5975C tại Trung
tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Do lường Chất lượng, số 2 Ngô
Quyền, Đà Nẵng.
Các dụng cụ thiết bị khác: thiêt bi chưng cât lôi cuôn
hơi nươc, máy cô quay chân không, cân phân tích, cốc thủy
tinh, các loại pipet, giấy lọc, cột sắc ky, ...
2.3. Chưng cât va xac đinh thanh phân hoa hoc cua tinh
dâu cunghê vang
Tinh dâu nghê vang đươc chưng cât tư nghệ tươi băng
phương phap chưng cât lôi cuôn hơi nươc. Cac yếu tố ảnh
hưởng đến lượng tinh dầu tư cu nghê gôm ty lê rắn (nguyên
liệu)/lỏng (dung môi) va thơi gian chưng cât.
2.3.1. Khảo sát cac yêu tô anh hương đên qua trinh chưng
cât tinh dâu
a. Tỷ lệ rắn (nguyên liệu)/lỏng (dung môi)
100 gam nguyên liêu rắn tư cu nghê tươi đươc chưng
cât trong nươc trong thơi gian 2h vơi thê tich nươc thay đôi
tư 100 ml đên 500 ml.
b. Thơi gian chưng cât
Chưng cât 100 gam nguyên liêu vơi ty lê răn long chon
đươc tư phân a, trong cac thơi gian khac nhau tư 2h đên 7h.
2.3.2. Xac đinh thanh phân hoa hoc cua tinh dâu cu nghê vang
Thanh phân hoa hoc cua tinh dâu nghê đươc xac đinh
băng phương phap GC-MS.
2.4. Khao sat thanh phân hoa hoc
Chiết chưng ninh 500g bột nghệ vàng thu gom tư
Champasack Lào trong hê dung môi ethyl acetate: aceton
với tỷ lệ (3:1). Sau khi chiết, lọc loai bo ba mâu lây dich
chiết,loai bơt dung môi bằng máy cất quay chân không để
lại 50 ml dịch chiết, loại bỏ tinh dầu ra khỏi dịch chiết bằng
dung môi diethyl ether thu được dich chiết nghệ vàng có
màu nâu sẫm.
2.4.1. Đinh danh cac câu tư trong dich chiêt băng phương
phap GC-MS
Môt phân dich chiêt đươc đươc phân tich băng thiêt bi
GC-MS. So sánh các thông số về thời gian lưu của các cấu
tử thu được với thư viện các chất chuẩn, độ trùng lặp đạt
trên 98% đê đinh danh cac chât.
2.4.2. Phân lâp va xac đinh câu truc curcumin
Phân dich chiêt con lai cô đuôi dung môi thu đươc cao
chiết. Tiên hanhphân tach va tinh chế 5g cao chiêt bằng
phương pháp sắc ký cột, kết hợp với sắc ký lớp mỏng với
các hệ dung môi thích hợp. Chất hấp phụ được sử dụng
trong săc ky côt là silicagel 60 F524 hãng Merck [1].
Hệ dung môi thích hợp dung đê phân lâp chât la hê
n- hexane: ethylacetate vơi tỷ lệ thay đôi tư (65:35) đên
(15:85). Phân đoan thu gom tư cac binh hưng35 – 82 cho
một vết săc ky tron đêu vơi màu vàng đậm. Kêt tinh lai va
cho hơi dung môi, thu được chất răn sach mau vang, ký
hiệu là M1, có khối lượng là 0,48g (chiêm 9,6% so vơi khôi
lương cao chiêt khô) và R f = 0,625.
Phổ khối MS cua chất M1 cho pic ion phân tử [M-H]-
có số khối m/z = 337.
Phô hông ngoai IR cua chât M1 cho cac tin hiêu đăc
trưng tai ν (cm-1): 3308; 1574; 1510; 1436; 1271; 1139;
967; 824.
3. Kêt qua va thao luân
3.1. Kết quả xac đinh thành phần hóa học trong tinh dầu
củ nghệ vàng Lào
3.1.1. Kêt qua khao sat cac điêu kiên chưng cât tinh dâu
a. Ty lê răn long
Kêt qua chưng cât tinh dâu vơi cac ty lê răn/long khac
nhau đươc trinh bay trên Bảng1.
Bang 1. Kêt qua chưng cât tinh dâu vơi cac ty lê răn/ long khac nhau
TT Khối lượng
nghệ (g)
Thể tích
nước (mL)
Thời gian
chiết (giờ)
Thể tích tinh
dầu (mL)
Hàm lượng
tinh dầu (%)
1 100 100 2 0,2 0,2
2 100 200 2 0,4 0,4
3 100 300 2 0,5 0,5
4 100 400 2 0,5 0,5
5 100 500 2 0,5 0,5
Tư kêt qua ơ Bảng 1 cho thây: ơ ty lê răn/ long = 100 g
nghê/300 ml dung môi thi thê tich tinh dâu va ham lương
tinh dâu thu đươc la lơn nhât (0,5 ml, ưng vơi ham lương
0,5%). Sư dung ty lê nay cho nghiên cưu tiêp theo.
b. Thơi gian chưng cât
Kêt qua chưng cât tinh dâu vơi ty lê răn/long = 100 g
nghê/300 ml dung môi đươc lưa chon ơ Muc a,vơi cac thơi
gian chưng cât khac nhau đươc trinh bay trên Bảng 2.
Bang 2. Kêt qua chưng cât tinh dâu vơi cac thơi gian
chưng câtkhac nhau
STT Khối luợng
nghệ (g)
Thể tích
nước (mL)
Thời gian
chiết (giờ)
Thể tích tinh
dầu (mL)
Hàm lượng
tinh dầu (%)
1 100 300 2 0,5 0,5
2 100 300 3 0,5 0,5
3 100 300 4 0,6 0,6
4 100 300 5 0,7 0,7
5 100 300 6 0,8 0,8
6 100 300 7 0,8 0,8
Kết quả ơ Bảng 2cho thây tinh dâu đat thê tích va ham
lương lơn nhât (0,8%) ơ điêu kiên chưng cât vơi ty lệ
rắn/lỏng (ty lệ khôi lương nghê trong nươc) la 100g nghệ/
300ml nước trong thời gian 6 giờ. Khi thơi gian chưng cât
tiêp tuc tăng thi ham lương tinh dâu không tăng nưa.
3.1.2. Thanh phân hoa hoc cua tinh dầu nghê vang Lao
Thanh phân hoa hoc cua tinh dầu nghê vang Lao đươc
trinh bay trên Bảng 3.
Bang 3. Thanh phân hoa hoc cua tinh dầu nghê vang Lao
STT RT(phút) Tên công thức hóa học Area(%)
1 4,879 a-Pinene 0,41
2 5,128 Camphene 0,06
3 5,426 p-Phellandrene 0,04
4 5,532 P-Pinene 0,14
5 5,928 a - Phellandrene 0,12
6 6,091 (+)-4-Carene 0,13
7 6,472 Eucalyptol 15,66
128 Sesavanh Menvilay, Giang Thị Kim Liên, Đào Hùng Cường
8 6,701 1,4-Cyclohexadiene, 1-
methyl-4-(1- methylethyl)- 0,08
9 7,161 Cyclohexene, 1-methyl-4-(1-
methylethylidene) - 2,39
10 7,202 Benzene, 1- methyl-4-(1-
methylethenyl)- 0,08
11 7,544 2,6-Dimethyl-1,3,5,7-
octatetraene, E, E- 0,02
12 8,190
Bicyclo[2.2.1] heptan-2-one,
1,7,7- trimethyl-, (1s)-
(Camphor)
0,18
13 8,458 Isobomeol 0,13
14 8,605 Bomeol 0,08
15 8,735 3-Cyclohexen-1 -ol, 4-methyl-
1-(1- methylethyl)- 0,24
16 9,646 2-Cyclohexen-1 -ol, 2-methyl-
5 -(1- methylethenyl)- 0,04
17 13,096
Cyclohexane, 1 -ethenyl-1 -
methyl-2,4- bis(1 -
methylethenyl)-,[1S-
(1.alpha.,2.beta.,4.beta.)] -
0,17
18 13,955 Caryophyllene 1,06
19 14,942 alpha -Caryophyllene 4,34
20 15,385 Benzene, 1-(1,5-dimethyl -4 -
hexenyl) - 4-methyl- 2,03
21 16,070
1,3-Cyclohexadiene, 5-(1,5-
dimethyl -4 - hexenyl)-2-methyl-,
[S-(R*,S*)]- (Zingiberene)
22,50
22 16,252
Cyclohexene-1 -methyl -4 -(5-
methyl -1- methylene-4-
hexenyl) - (S)
2,06
23 16,789
Cyclohexene -3-(1,5 -
dimethyl -4 - hexenyl)- 6-
methylene-[S-(R*, S*)]
11,03
24 17,544 Gamma. - Elemene 0,37
25 20,587 Ar-tumerone 17,40
26 20,687 Tumerone 5,98
27 21,348 Curlone 3,49
28 21,580
6,10-Dimethyl-3 -(1 -
mrthylethyl)-6- cyclodecen-
1,4-dione(Curdione)
0,04
Kêt qua trong Bảng 3 cho thây, đa xac đinh đươc 28 cấu
tử trong tinh dâu nghê vang Lao.Trong đó, tropone chiếm
hàm lượng cao nhất Zingiberene (22,50%), tiếp theo là Ar-
tumerone (17,40%) và Eucalyptol (15,66%) đây là những
chất có hoạt tính sinh học rất cao [6, 7]. Kêt qua nay phu
hơp vơi cac công bô vê thanh phân tinh dâu nghê vang cua
Viêt Nam. Theo tai liêu, sô lương câu tư đươc phat hiên
trong tinh dâu nghê vang thu hai tư Đông Nai, Quang Nam,
Nghê An, Binh Dương Viêt Nam it hơn so vơi trong tinh
dâu nghê vang Lao [6, 7].
3.2. Thanh phân hoa hoc cua dich chiêt
Cac câu tư trong dich chiêt ethylacetate đinh danh băng
phương phap GC-MS đươc trinh bay trên Bảng 4.
Kết quả thu được ở Bảng 4 cho thây, băng phương phap
GC-MS đa đinh danh đươc 16 cấu tử trong đó cấu tử có
hàm luợng nhiều nhất là Ar-tumerone (17,19%). Cac câu
tư con lai chưa đươc đinh danh chiêm 47,34%.
Bang 4. Thanh phân hoa hoc cua cu nghê vang
trong dung môi ethylacetate
STT RT(phút) Tên công thức hóa học Area(%)
1 5,888 Eucalyptol 0,53
2 7,114 Phenol, 2-methoxy- 0,35
3 8,090 Bicyclo[2.2.1]heptan-2-one,
1,7,7-trimethyl-, (1R)- 0,10
4 8,341 Isobomeol 0,13
5 8,739 3 -cyclohexene-1 -ol, 1 -methyl-
4-(1 - methylethylidene) - 0,12
6 8,638 Benzenmethanol 2,24
7 9,638 Benzofuran 1,06
8 11,576 2-methoxy-4-vinylphenol 1,89
9 14,631 Caryophyllene 0,83
10 16,004 1,6,10-dodecatriene 0,32
11 17,092 Benzene, 1-(1,5-dimethyl -4 -
hexenyl) -4 - methyl- 6,06
12 17,635
1,3-cyclohexadiene, 5-(1,5-
dumethyl-4- hexenyl)-2-methyl-
3 -methylene
5,82
13 21,759 Benzene, 1 -methyl-3 -(1 -
mrthylethyl)- 1,79
14 27,001 Ar-tumerone 17,19
15 27,208 Tumerone 7,30
16 29,272 Curlone 6,93
17 Cac câu tư chưa đinh danh 47,34
3.3. Xac đinh câu truc cua chât M1
Cac tin hiêu trên phô IR cho phep dư đoan cac nhom
chưc cua chât M1 như đươc trinh bay tai Bảng5.
Bảng 5. Phân tích phổ hồng ngoại (IR) của chất M1
STT ν (cm-1)
cua chât M1
ν (cm-1)
theo tài liệu [4]
Dự kiến
nhóm chức
1 3308 3600-3300 -OH (alcol)
2 1574; 1510 1600-1400 C=C (nhân
benzen)
3 1436 1475-1300 C-H
4 1271; 1139; 967; 824 1295- 650 R2C=CHR, Ar-H
Phổ khối cua chất M1 cho pic phân tử [M-H]- có số khối
m/z = 337, ưng vơi khôi lương phân tư cua chât M1 la 338.
Phổ 1H-NMR cua chất M1 cho thấy tín hiệu của
18 proton, phổ 13C-NMR cho thây tin hiêu cua 20 nguyên
tư C kêt hơp vơi phô MS cho phep dư đoan CTPT cua chât
M1 la C20H18O5. Cac tin hiêu đôi xưng trên phô 1H-NMR
va 13C-NMR, vơi cac sô lương proton va C trong phân tư
M1 hoan toan tương ưngvơi số lương proton va C có mặt
trong phân tử Desmethoxycurcumin (C20H18O5), Ở vùng
trường cao có 1 tín hiệu proton, trong đó có một pic đơn
(s)ở độ dịch chuyển 3,88ppm là tín hiệu của nhóm(-OCH3),
ở vùng trương thấp 5,90-6,85ppm có 7 tín hiệu proton. Trên
phô NMR hai chiêu xuât hiên cac tương tac proton-proton:
H-4, H-3; H4’, H3’; H-10, H-9; H-10’, H-9’; H-6’, H7’,
phu hơp vơi cac tương tac trong phân tư cua chât
Desmethoxycurcumin.
Câu truc cua chât M1 đươc khăng đinh nhơ viêc so sanh
vơi chât Desmethoxycurcumin (Hinh 1) đươc tông hơp
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 129
theo tai liêu [5, 8, 9]. Cac công trinh công bô trên thê giơi
cho thây chất curcumin có hoạt tính sinh học cao, chioongs
đông máu, là chất chống oxy hóa mạnh, có khả năng tiêu
diệt tế bào ung thư thế hệ mới, an toàn và không gây tác
dụng phụ [5, 8, 9].
Hình 1. Công thức câu tao của desmethoxycurcumin (DMC)
(C20H18O5, M= 338)
Các số liệu phổ 1H-NMR cua chât M1 (MeOD, 500
MHz) va chât so sanh (CDCl3, 500 MHz) đươc trinh bay
trên Bảng 6.
Bảng 6. Phổ 1H-NMR (MeOD, 500 MHz) của chất M1
Vi trí
C 𝛿𝐻 (ppm) cua chât M1
𝛿𝑐 (ppm) cua
desmethoxy-curcumin
[8]
1 5,90 (brs) 5,78
2/2’
3/3’ 6,55(d; 15,5)/ 6,58 (d; 15,5) 6,46 (d; 15,8;2H)
4/4’ 7,53(d; 15,5)/ 7,54(d; 15,5) 7,57/7,59
5/5’
6/6’ 7,45(d; 8,5)/ 7,17(brs) 7,10 (dd; 8,2)/7,03 (d; 1,5)
7/7’ 7,07(d; 8,5; 2H) 6,91 (d; 8,2;2H)
8/8’
9/9’ 6,80(d; 8,5)/ 6,80(d; 8,5) 6,84 (d; 8,5;2H)
10/10’ 7,45(d; 8,5)/ 6,80(br d; 8,5) 7,44 (d; 8,5)/6,91 (d; 8,2)
OCH3 3,88(s;3H) 3,93 (s;3H)
Các số liệu phổ 13C-NMR cua chât M1 (MeOD,
125MHZ) va chât so sanh (CDCl3, 125MHZ)đươc trinh bay
trên Bảng7. Trong qua trinh đo phô 13C-NMR, dung môi sư
dung cho chât M1 la MeOD va dung môi sư dung cho
Desmethoxy-curcumin trong tai liêu tham khao la CDCl3,
điêu nay ly giai tai sao co sư chênh lêch đô chuyên dich hoa
hoc cua 1 sô tin hiêu C giưa chât M1 va chât so sanh.
Bảng 7. Phổ 13C-NMR (MeOD, 125MHZ)của chất M1
Vi trí C 𝜹𝒄 ppm125 MHz
chât M1
𝜹𝒄Desmethoxy-
curcumin [8]
1 102,0 101,2
2/2’ 184,7/184,8 183,6 (2C)
3/3’ 122,0/122,3 122,8/122,9
4/4’ 142,1/141,8 147,0/146,9
5/5’ 128,0/128,6 127,9/127,7
6/6’ 111,8/131,1 109,7 / 140,6
7/7’ 149,3/ 116,8 146,8/115,9
8/8’ 150,3/161,0 147,9/157,6
9/9’ 116,5/116,8 114,8/114,8
10/10’ 124,0/131,1 129,9/140,1
OCH3 56,4 55,9
4. Kêt luân
1. Đa khao sat va tim đươc điêu kiên chưng cât tinh dâu
cu nghê băng phương phap chưng cât lôi cuôn hơi nươc,
cho ham lương tinh dâu lơn nhât (0,8%) như sau:
- Ty lê răn/long = 100 g nghê/300 ml dung môi;
- Thơi gian chưng cât: 6h.
2. Đa xac đinh đươc thanh phân hoa hoc cua tinh dâu
cu nghê vang Lao, trong đó tropone chiếm hàm lượng cao
nhất Zingiberene (22,50%), tiếp theo là Ar- tumerone
(17,40%) và Eucalyptol (15,66%) đây là những chất có
hoạt tính sinh học rất cao.
3. Băng phương phap GC-MS đa đinh danh đươc 16
cấu tử trong dich chiêt ethylacetate, trong đó cấu tử có hàm
luợng nhiều nhất là Ar-tumerone (17,19%).
4. Tư cao chiêt ethyl acetate đã phân lập va xác định
đươc câu truc cua Desmethoxycurcumin (DMC), câu tư
nay co khôi lương kha lơn, chiêm ham lương 9,6% so vơi
khôi lương cao chiêt khô.
Theo cac tra cưu tai liêu, đây la cac kêt qua nghiên cưu
đâu tiên vê thanh phân hoa hoc cua cua nghê vang Lao.
TAI LIÊU THAM KHAO
[1] Nguyễn Kim Phi Phụng, Phương pháp cô lập hợp chất hữu cơ, NXB
Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 2007.
[2] Đỗ Tất Lợi, Những cây thuốc và vị thuốc Viêt Nam, NXB Y học Hà
Nội, 2004.
[3] Nguyễn Văn Đàn, Ngô Ngọc Khuyến, Hợp chất thiên nhiên dùng
làm thuốc, NXB Y học Hà Nội, 1999.
[4] GS.TS KH. Từ Văn Mặc, Phân tích hóa lý phương pháp phổ nghiệm
nghiên cứu cấu trúc phân tử, NXB khoa học và kỹ thuật Hà Nội, 2003.
[5] T. Kosuge, H. Ishida, H. Yamasaki, Studies on active Substances in
the Herbs Used for Oketsu “Stagnant blood” in Chinese Medicine. III. On the anticoagulatus principles in curcuma rhizoma,
Chem.ABull. 33 (4), 1985, p. 1499-1502.
[6] Phan Thi Hoang Anh, Nghiên cưu quy trinh chiêt tach, tông hơp dân xuât
va xac đinh tinh chât, hoat tinh cua tinh dâu va curcumin tư cây nghê
vang (Curcuma Long L.) Binh Dương, Luân an tiên si ky thuât. 2013.
[7] Trân Thi Viêt Hoa, Trân Thi Phương thao, Vu Thi Thanh Tâm,
Thanh phân hoa hoc va tinh khang oxy hoa cua nghê đen(Curcuma zedoaria Berg.) trông ơ Viêt Nam, Tap chi Phat triên KH&CN, Tâp
10, sô 04, 2007, trang 37-46.
[8] Wisut Wichitnithad 1, Ubonthip Nimmannit 1,2, Sumrit Wacharasindhu
3 and Pornchai Rojsitthisak, Synthesis, Characterization and Biological
Evaluation of Succinate Prodrugs of Curcuminoids for Colon Cancer Treatment, Molecules, 16, 2011,p. 1888-1900.
[9] Tomoko KITA,Shinsuke IMAI,Hiroshi SAWADA,Hidehiko
KUMAGAI&Haruo SETO, The Biosynthetic Pathway of
Curcuminoid in Turmeric (Curcuma longa) as Revealed by 13C-Labeled Precursors, Bioscience, Biotechnology and Biochemistry Journal, Volum72, Issue 7, 2008, p. 1789-1798.
(BBT nhận bài: 31/5/2017, hoàn tất thủ tục phản biện: 14/6/2017)
130 Nguyễn Trần Nguyên
NGHIÊN CỨU ĐIỀU CHẾ DENDRITIC PORPHYRIN DỰA VÀO
PHẢN ỨNG CLICK
SYNTHESIS OF DENDRITIC PORPHYRIN BASED ON CLICK REACTION
Nguyễn Trần Nguyên
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng; [email protected]
Tóm tắt - Dendritic zinc(II)-porphyrin có chứa các đơn vị carbazole ở bên ngoài được điều chế dựa vào phản ứng click giữa Zn-porphyrin có chứa các nhóm azide (−N3), carbazole có chứa nhóm alkyne-1 và chất xúc tác [Cu(NCCH3)4][PF6]. 5,10,15,20-Tetrakis(3,5-bis(azidomethyl)-2,4,6-trimethylphenyl)porphyrin được tổng hợp dựa vào phản ứng Lindsey giữa 3,5-bis(azidomethyl)-2,4,6-trimethylbenzaldehyde và pyrrole trong dung môi CH2Cl2 và chất xúc tác BF3.OEt2. Carbazole có chứa nhóm alkyne-1 được điều chế dựa vào các phản ứng alkyl hóa Friedel – Crafts, phản ứng Ullmann và phản ứng Sonogashira. Cấu trúc các sản phẩm hình thành được chứng minh bằng các phương pháp phổ MS, 1H NMR, 13C NMR. Phổ khối MALDI – TOF xuất hiện peak tương ứng với khối lượng phân tử của dendrimer có nhân Zn(II)-porphyrin. Phổ 1H NMR xuất hiện peak tương ứng với proton của các nhóm CH2 (methylene) liên kết trực tiếp với nguyên tử N của vòng triazole.
Abstract - Dendritic zinc(II)-porphyrin bearing carbazole units at the terminals has been prepared via click reaction of azide-substituted Zn-porphyrin precursors and carbazole-based terminal alkyne under [Cu(NCCH3)4][PF6] catalysis. 5,10,15,20-Tetrakis(3,5-bis(azidomethyl)-2,4,6-trimethylphenyl)porphyrin is synthesized from Lindsey reaction between 3,5-bis(azidomethyl)-2,4,6-trimethylbenzaldehyde and pyrrole in CH2Cl2 and BF3.OEt2 catalyst. Carbazole-based terminal alkyne is made from Friedel – Crafts alkylation, Ullmann coupling and Sonogashira coupling. The structure of products is confirmed by mass spectrometry and nuclear magnetic resonance spectroscopy (1H NMR, 13C NMR). The MALDI – TOF spectrum shows the peak that corresponds with molecular weight of target dendritic porphyrin. Then there appears
a new methylene peak diagnostic for the formation of triazole groups in dendrimer.
Từ khóa - dendritic porphyrin; porphyrin; carbazole; phản ứng click; azido porphyrin
Key words - dendritic porphyrin; porphyrin; carbazole; click reaction; azido porphyrin
1. Đặt vấn đề
Vật liệu chứa porphyrin đã và đang nhận được sự quan
tâm của các nhà khoa học do chúng có những ứng dụng
hứa hẹn trong các ngành khoa học vật liệu [1], xúc tác [2],
thiết kế sensor [3], quang trị liệu trong điều trị ung thư
(photodynamic therapy – PDT) [4] và điện tử hữu cơ [5].
Vì thế, việc thiết kế và điều chế các dendritic porphyrin
(còn được gọi là các dendrimer có nhân là porphyrin) có
cấu trúc và tính chất đặc biệt là một hướng nghiên cứu thú
vị để mở rộng các ứng dụng tiềm năng của porphyrin [6].
Ngoài ra, việc lựa chọn dendron có ảnh hưởng đến cấu trúc
và tính chất của phân tử dendrimer được thiết kế. Các dẫn
xuất của carbazole có thể được xem là các phân tử dendron
tiềm năng cho các dendrimer có nhân porphyrin [7].
Carbazole là một hợp chất chứa hệ liên hợp giàu electron,
các vị trí 3, 6 và 9 là những vị trí dễ tham gia phản ứng thế
electrophile [8]. Khi thay thế nguyên tử hydro ở vị trí số 9
của carbazole bằng một vòng thơm sẽ làm giảm năng lượng
của HOMO [9] và vì vậy, dẫn xuất của carbazole có thể
được sử dụng để chế tạo vật liệu phát quang (light –
emitting device) [10]. Các nhà khoa học đã tìm ra nhiều
phương pháp để điều chế các dendrimer thế hệ mới và phản
ứng click cũng được xem là một công cụ đơn giản và hữu
hiệu để đạt được mục tiêu này. Phản ứng đóng vòng của
azide (−N3) và alkyne-1 sử dụng xúc tác Cu(I) có tính chọn
lọc lập thể cho việc hình thành sản phẩm 1,2,3-triazole thế
ở vị trí 1,4 với hiệu suất cao [11]. Trong lĩnh vực hóa học
porphyrin, một số Zn(II)porphyrin đã được kết nối với
fullerene qua cầu triazole và tính chất quang lí của chúng
cũng đã được công bố [11b,12]. Một số dendrimer chứa
nhiểu porphyrin đã được điều chế dựa vào phản ứng click
và chúng có thể được dùng để chế tạo tấm pin năng lượng
mặt trời [13]. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình
nào nghiên cứu việc kết nối giữa porphyrin và carbazole
dựa vào phản ứng click. Trong bài báo này tôi công bố việc
điều chế dendrimer có nhân porphyrin dựa vào phản ứng
click giữa azido porphyrin và carbozole chứa nhóm alkyne-
1 khi có xúc tác [Cu(NCCH3)4][PF6].
2. Phương pháp nghiên cứu
Azido porphyrin, 5,10,15,20-tetrakis(3,5-
bis(azidomethyl)-2,4,6-trimethylphenyl)porphyrin, được điều
chế dựa vào phản ứng Lindsey giữa 3,5-bis (azidomethyl)-
2,4,6-trimethylbenzaldehyde và pyrrole trong dung môi
CH2Cl2, chất xúc tác BF3.OEt2. Zn(II)porphyrin được điều chế
từ phản ứng của 5,10,15,20-tetrakis(3,5-bis(azidomethyl)-
2,4,6-trimethylphenyl)porphyrin và (CH3COO)2Zn trong
dung môi CHCl3. 3,6-Di-tert-butyl-9-(4-ethynylphenyl)-9H-
carbazole được điều chế từ carbazole dựa vào các phản ứng
alkyl hóa Friedel – Crafts, phản ứng Ullmann và phản ứng
Sonogashira. Dendrimer có nhân porphyrin được điều chế dựa
vào phản ứng click giữa Zn(II)porphyrin và 3,6-di-tert-butyl-
9-(4-ethynylphenyl)-9H-carbazole trong dung môi THF và
chất xúc tác [Cu(NCCH3)4][PF6]. Các sản phẩm điều chế được
chứng minh cấu trúc bằng các phương pháp phổ 1H NMR, 13C
NMR, MS. Phổ 1H NMR, 13C NMR được đo trên máy Bruker
Avance 300 MHz, Bruker AMX 400 MHz hoặc Bruker
Avance II+ 600 MHz. Phổ MS được đo trên máy HP5989A
apparatus (CI và EI, năng lượng ion hóa 70 eV). Phổ khối
MALDI-TOF của dendrimer được đo trên máy Bruker
Daltonics – ultraflex II & ultraflex II TOF/TOF và matrix là
axit 2,5-dihydroxylbenzoic.
3. Kết quả nghiên cứu và bình luận
3.1. Điều chế 3,5-bis(azidomethyl)-2,4,6-trimethylbenzaldehyde
Phản ứng điều chế 3,5-bis(azidomethyl)-2,4,6-
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 131
trimethylbenzaldehyde (4) được tiến hành tương tự phản
ứng điều chế mesitaldehyde khi cho
1,3,5-trimethylbenzene phản ứng với dichloromethyl
methyl ether khi có mặt của xúc tác axit Lewis TiCl4 [14].
Dichloromethyl methyl ether phản ứng với hợp chất thơm
theo cơ chế phản ứng alkyl hóa Friedel – Crafts, tiếp theo
là phản ứng thủy phân để tạo aldehyde thơm.
Tuy nhiên, phản ứng của 1,3-bis(bromomethyl)-2,4,6-
trimethylbenzene (1) và dichloromethyl methyl ether
(Cl2CHOCH3) tạo hỗn hợp hai sản phẩm
3,5-bis(bromomethyl)-2,4,6-trimethylbenzaldehyde (2) và
3-bromomethyl-5-chloromethyl-2,4,6-
trimethylbenzaldehyde (3). Hai aldehyde 2 và 3 không thể
tách ra khỏi nhau khi đi qua sắc kí cột. Hỗn hợp hai
aldehyde thơm này được cho phản ứng với NaN3 trong
dung môi acetone/H2O và sản phẩm 3,5-bis(azidomethyl)-
2,4,6-trimethylbenzaldehyde (4) (Hình 1) thu được ở dạng
tinh khiết sau khi tinh chế bằng sắc kí cột.
Hình 1. Điều chế 3,5-bis(azidomethyl)-2,4,6-
trimethylbenzaldehyde
Hình 2. Phổ 1H NMR của 3,5-bis(azidomethyl)-
2,4,6-trimethylbenzaldehyde
Phổ 1H NMR của 3,5-bis(azidomethyl)-2,4,6-
trimethylbenzaldehyde cho thấy sự xuất hiện của peak
tương ứng với nguyên tử H của nhóm –CHO ở 10.62 ppm,
peak tương ứng với 4 nguyên tử H của hai nhóm −CH2−
liên kết trực tiếp với hai nhóm –N3 ở 4.5 ppm và hai peak
tương ứng với chín nguyên tử H của ba nhóm −CH3 ở
2.54 ppm và 2.49 ppm (Hình 2).
3.2. Điều chế 3,6-di-tert-butyl-9-(4-ethynylphenyl)-
9H-carbazole
Nhóm tert-butyl được gắn vào vị trí 3 và 6 của
carbazole thông qua phản ứng alkyl hóa Friedel – Crafts
giữa carbazole (5) và tert-butyl chloride trong dung môi
CH2Cl2 để thu được sản phẩm 3,6-di-tert-butyl-9H-
carbazole (6) [15]. Sau đó, phản ứng Ullmann giữa hợp
chất 6 và 1,4-diiodobenzene khi có mặt của chất xúc tác
CuI và K2CO3, sản phẩm của phản ứng là 3,6-di-tert-butyl-
9-(4-iodophenyl)-9H-carbazole (7). Hợp chất 8 được tổng
hợp với hiệu suất 85% dựa vào phản ứng Sonogashira giữa
hợp chất 7 và (trimethylsilyl)acetylene trong hỗn hợp dung
môi THF và Et3N (tỉ lệ 1:1), và hỗn hợp xúc tác CuI và
[PPh3]2PdCl2. Sau đó hợp chất 8 được đưa về dạng alkyne-
1 (9) với hiệu suất 98% [16] (Hình 3).
Hình 3. (a) AlCl3, CH2Cl2, nhiệt độ phòng, 3-4 giờ;
(b) CuI, K2CO3, DMF, 170oC, để qua đêm; (c) [PPh3]2PdCl2,
CuI, THF, Et3N, 60oC, 8 giờ; (d) TBAF (1 M in THF), THF,
nhiệt độ phòng, 10 phút
3.3. Tổng hợp 5,10,15,20-tetrakis(3,5-bis(azidomethyl)-
2,4,6-trimethylphenyl)porphyrin
Điều kiện phản ứng điều chế porphyrin theo phương pháp
Lindsey đã được tối ưu hóa. Hiệu suất sản phẩm porphyrin thu
được phụ thuộc vào nồng độ các chất tham gia phản ứng trong
dung môi CH2Cl2 khan và lượng xúc tác BF3.OEt2 sử dụng. Ở
nồng độ 10 mM của các chất tham gia phản ứng (aldehyde
thơm và pyrrole theo tỉ lệ 1 mmol/1 mmol) trong dung môi
CH2Cl2 và 0,3 mmol BF3.OEt2, hiệu suất sản phẩm porphyrin
thu được trong khoảng từ 30 đến 40% [17].
Áp dụng điều kiện đã được tối ưu hóa vào phản ứng
điều chế 5,10,15,20-tetrakis(3,5-bis(azidomethyl)-2,4,6-
trimethylphenyl)porphyrin, tuy nhiên sản phẩm phản ứng
không xuất hiện. Khi tăng thời gian phản ứng và tăng lượng
xúc tác BF3.OEt2 cũng không thu được sản phẩm mong
muốn. Ngoài ra, axit trifluoroacetic (TFA) cũng được sử
dụng thay thế cho BF3.OEt2, tuy nhiên porphyrin mong
muốn cũng không hình thành.
Năm 1989, Lindsey và Wagner đã công bố phản ứng
điều chế tetramesitylporphyrin (12). Phản ứng của
mesitaldehyde (11) và pyrrole (10) trong dung môi CH2Cl2,
chất xúc tác BF3.OEt2 hoặc TFA không thu được sản phẩm
tetramesitylporphyrin. Tuy nhiên, tetramesitylporphyrin
thu được với hiệu suất từ 29 đến 32% khi thêm 0,75%
ethanol tuyệt đối vào dung môi CH2Cl2 khan [18] (Hình 4).
Hình 4. (1) BF3.OEt2 (0,3 mmol), 0,75% C2H5OH trong CH2Cl2,
nhiệt độ phòng, 1 giờ; (2) p-chloranil, 40oC, 1 giờ
Khi dùng 0,3 mmol BF3.OEt2 và nồng độ của các chất
phản ứng 4 và 10 là 10 mM trong dung môi CH2Cl2 chứa
0,75% ethanol tinh khiết, sản phẩm thu được là 5,10,15-
tris(3,5-bis(azidomethyl)-2,4,6-trimethylphenyl)corrole
1.0
00
0
4.2
35
2
6.4
02
1
3.1
78
9
Inte
gra
l
10
.62
04
4.5
04
5
2.5
47
4
2.4
96
6
1.2
57
6
(ppm)
0.01.02.03.04.05.06.07.08.09.010.0
CHO
N3N3
132 Nguyễn Trần Nguyên
(13) với hiệu suất 10% và không có porphyrin nào xuất
hiện (Hình 5).
Hình 5. (1) BF3.OEt2 (0.3 mmol), 0.75% C2H5OH trong CH2Cl2,
nhiệt độ phòng, 1 giờ; (2) p-chloranil, 40oC, 1 giờ
Khi tăng lượng chất xúc tác BF3.OEt2 lên 0,8 mmol thì
thu được sản phẩm 5,10,15,20-tetrakis(3,5-
bis(azidomethyl)-2,4,6-trimethylphenyl)porphyrin (14)
nhưng với hiệu suất thấp 9% (Hình 6).
Hình 6. (1) BF3.OEt2 (0.8 mmol), 0.75% C2H5OH trong CH2Cl2,
nhiệt độ phòng, 1 giờ; (2) p-chloranil, 40oC, 1 giờ
Hình 7. Phổ 1H NMR của 5,10,15,20-tetrakis(3,5-
bis(azidomethyl)-2,4,6-trimethylphenyl)porphyrin
Phổ 1H NMR của 5,10,15,20-tetrakis(3,5-
bis(azidomethyl)-2,4,6-trimethylphenyl)porphyrin cho
thấy sự xuất hiện của các peak: peak ở 8.56 ppm tương ứng
với tám nguyên tử H của bốn vòng pyrrole trong porphyrin,
peak ở 4.72 ppm tương ứng với 16 nguyên tử H của tám
nhóm −CH2− (nhóm methylene) liên kết với nhóm –N3,
peak ở 2.78 ppm tương ứng với mười hai nguyên tử H của
bốn nhóm CH3 tương đương, peak ở 1.93 ppm tương ứng
với hai bốn nguyên tử H của tám nhóm CH3 tương đương.
Ngoài ra còn xuất hiện peak ở - 2.38 ppm tương ứng với
hai nguyên tử H liên kết với N của vòng pyrrole (Hình 7).
3.4. Điều chế dendrimer có nhân porphyrin
Phản ứng đóng vòng giữa azide (−N3) và alkyne-1 sử
dụng xúc tác Cu(I), còn được gọi là phản ứng CuAAC hay
phản ứng click, có thể tiến hành trong nhiều loại dung môi
khác nhau và các nguồn xúc tác Cu(I) khác nhau. Phản ứng
giữa 5,10,15,20-tetrakis(3,5-bis(azidomethyl)-2,4,6-
trimethylphenyl)porphyrin (14) và 3,6-di-tert-butyl-9-(4-
ethynylphenyl)-carbazole (9) được tiến hành trong dung
môi THF và xúc tác [Cu(NCCH3)4][PF6]. Tuy nhiên, sản
phẩm phản ứng là dendrimer có nhân Cu(II)porphyrin, đây
là hợp chất không phát huỳnh quang. Để tránh việc hình
thành Cu(II)porphyrin, porphyrin 14 được cho phản ứng
với (CH3COO)2Zn trong dung môi CHCl3 để tạo
Zn(II)porphyrin 15 và porphyrin này được cho phản ứng
với carbazole 9 để tạo sản phẩm dendrimer có nhân
Zn(II)porphyrin 16 với hiệu suất 30% (Hình 8).
Hình 8. (1) 1 mmol Zn(II)porphyrin, 4 mmol carbazole,
2 giọt Et3N và 0,2 mmol [Cu(NCCH3)4][PF6], 60oC, 4 giờ
Hình 9. Phổ khối MALDI – TOF của dendrimer 16
Hình 10. Phổ 1H NMR của dendrimer có nhân Zn(II)porphyrin
Sự hình thành dendrimer có nhân Zn(II)porphyrin 16
được chứng minh bằng phổ khối MALDI – TOF (Hình 9)
và phổ 1H NMR. Phổ 1H NMR (Hình 10) của dendrimer 16
cho thấy peak tương ứng với proton của nhóm −CH2N3 của
Zn(II)porphyrin 15 ở 4.7 ppm biến mất hoàn toàn và xuất
hiện peak ở 5,8 ppm là proton của nhóm methylene (CH2)
8.0
00
0
16
.1
25
12
.1
39
24
.2
08
1.9
77
5
In
te
gra
l
8.5
69
5
4.7
24
4
2.7
86
2
1.9
33
2
-2
.3
83
9
(ppm)
-2.5-1.5-0.50.51.52.53.54.55.56.57.58.5
Ng28-p
N
NH N
HN
N3N3
N3
N3
N3
N3
N3N3
8.0
00
0
16
.22
2
16
.08
3
8.1
63
0
16
.11
3
16
.20
7
15
.68
9
16
.24
0
12
.05
1
24
.15
7
14
3.9
3
Inte
gra
l
8.7
01
5
8.1
36
4
8.0
28
8
8.0
11
2
7.7
20
8
7.5
72
2
7.5
51
6
7.3
98
1
7.3
80
5
7.3
22
8
7.3
01
3
7.2
40
7
5.6
99
7
2.5
01
2
1.9
09
7
1.4
28
6
(ppm)
0.00.51.01.52.02.53.03.54.04.55.05.56.06.57.07.58.08.59.0
DENDRIMER C
16
.22
2
16
.08
3
8.1
63
0
16
.11
3
16
.20
7
15
.68
9
Inte
gra
l
8.1
36
4
8.0
28
8
8.0
11
2
7.7
20
8
7.5
72
2
7.5
51
6
7.3
98
1
7.3
80
5
7.3
22
8
7.3
01
3
7.2
40
7
(ppm)
7.27.47.67.88.08.2
N
N N
N
NN
N
N
NN
N
N
N
NN
N
NN
NN
N
NN
N
NN
N N
NN
N
N
NN
N
N
Zn
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 133
mới tương ứng với sự hình thành vòng triazole trong sản
phẩm dendrimer.
4. Kết luận
Đã điều chế được dendrimer có nhân Zn(II)porphyrin
dựa vào phản ứng đóng vòng click giữa Zn(II)porphyrin
có nhóm azide (−N3) và carbazole có nhóm alkyne-1.
Phản ứng được tiến hành trong dung môi THF, chất xúc
tác [Cu(NCCH3)4][PF6] và hiệu suất phản ứng đạt 30%.
Phổ khối MALDI – TOF xuất hiện peak có tỉ số khối
lượng trên điện tích m/z = 1628,632 [M+], đây chính là
khối lượng phân tử của dendrimer sản phẩm. Ngoài ra,
phổ 1H NMR của sản phẩm dendrimer cho thấy sự biến
mất của peak tương ứng với proton của nhóm methylene
(CH2) liên kết với nhóm azide (−N3) trong porphyrin 15
và sự xuất hiện của peak tương ứng với proton của nhóm
methylene (CH2) liên kết với vòng triazole ở sản phẩm
dendrimer tổng hợp được.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] J. H. Chou, H. S. Nalwa, M. E. Kosal, N. A. Rakow, K. S. Suslick, The Porphyrin Handbook (Eds.: K. M. Kadish, K. M. Smith, R.
Guilard), Academic Press, San Diego, 2000, vol. 6, pp. 41-121.
[2] T. Aida, S. Inoue, K. S. Suslick, The Porphyrin Handbook (Eds.: K.
M. Kadish, K. M. Smith, R. Guilard), Academic Press, San Diego,
2000, vol. 6, pp. 133-153.
[3] T. Malinski, The Porphyrin Handbook (Eds.: K. M. Kadish, K. M. Smith,
R. Guilard), Academic Press, San Diego, 2000, vol. 6, pp. 240-250.
[4] R. K. Pandey, G. Zheng, The Porphyrin Handbook (Eds.: K. M.
Kadish, K. M. Smith, R. Guilard), Academic Press, San Diego, 2000, vol. 6, pp. 157-224.
[5] M. G. Walter, A. B. Rudine, C. C. Wamser, “Porphyrins and
phthalocyanines in solar photovoltaic cells”, J. Porphyrins
Phthalocyanines, 14, 2010, 759-792
[6] W. Maes, W. Dehaen, “Synthetic aspects of porphyrin dendrimers”,
Eur. J. Org. Chem, 2009, 4719-4752.
[7] F. Loiseau, S. Campagna, A. Hameurlaine, W. Dehaen, “Dendrimers
made of porphyrin cores and carbazole chromophores as peripheral
units. Absorption spectra, luminescence properties, and oxidation behavior”, J. Am. Chem. Soc, 127, 2005 11352-11363.
[8] A. V. Dijken, K. Brunner, H. Borner, B. M. W. Langeveld, High
Efficient OLEDs with Phosphorescent Materials (Eds.: H. Yersin),
VCH, Weinheim, 2008, pp. 326-322.
[9] H. Zhang, X. Wan, X. Xue, Y. Li, A. Yu, Y. Chen, “Selective tuning
of the HOMO–LUMO gap of carbazole-based donor–acceptor–
donor compounds toward different emission colors”, Eur. J. Org. Chem., 2010, 1681-1687.
[10] G. Bubniene, T. Malinauskas, M. Daskeviciene, V. Jankauskas, V.
Getautis, “Easily functionalizable carbazole based building blocks
with extended conjugated systems for optoelectronic applications”, Tetrahedron, 66, 2010, 3199-3206.
[11] V. V. Rostovtsev, L. G. Green, V. V. Fokin, K. B. Sharpless, “A
stepwise huisgen cycloaddition process: copper(I)-catalyzed
regioselective "ligation" of azides and terminal alkynes”, Angew.
Chem. Int. Ed., 41, 2002, 2596-2599.
[12] Y. Hizume, K. Tashiro, R. Charvet, Y. Yamamoto, A. Saeki, S. Seki,
T. Aida, “Chiroselective assembly of a chiral porphyrin−fullerene dyad: Photoconductive nanofiber with a top-class ambipolar charge-
carrier mobility”, J. Am. Chem. Soc., 132, 2010, 6628-6629
[13] A. Takai, M. Chkounda, A. Eggenspiller, C. P. Gros, M. Lachkar, J. M.
Barbe, S. Fukuzumi, “Efficient photoinduced electron transfer in a
porphyrin tripod−fullerene supramolecular complex via π−π interactions in nonpolar media”, J. Am. Chem. Soc., 132, 2010, 4477-4489.
[14] A. P. Yakubov, M. V. Tsyganov, L. I. Belen’kii, M. M. Krayushkin,
“Formylation and dichloromethylation as alternative directions of
rieche reaction. A novel to the synthesis of sterically hindered
aromatic dialdhydes”, Tetrahedron, 49, 1993, 3397-3404.
[15] V. C. Gibson, S. K. Spitzmesser, A. J. P. White and D. J. Williams,
“Synthesis and reactivity of 1,8-bis(imino)carbazolide complexes of iron, cobalt and manganese”, Dalton Trans., 13, 2003, 2718-2727
[16] Z. Zhu, J. S. More, “Synthesis and characterization of
monodendrons based on 9-phenylcarbazole”, J. Org. Chem., 65,
2000, 116-123.
[17] J. Zhang, Y. Li, W. Yang, S.-W. Lai, C. Zhou, H. Liu, C. -M. Che,
Y. Li, “A smart porphyrin cage for recognizing azide anions”, Chem.
Commun., 48, 2012, 3602-3604.
[18] J. S. Lindsey, R. W. Wagner, “Investigation of the synthesis of ortho-
substituted tetraphenylporphyrins”, J. Org. Chem., 54, 1989, 828-836.
(BBT nhận bài: 31/05/2017, hoàn tất thủ tục phản biện: 07/06/2017)
134 Đậu Bá Thìn, Trịnh Thị Hoa, Hoàng Văn Chính
ĐA DẠNG HỌ GỪNG (ZINGIBERACEAE)
Ở VƯỜN QUỐC GIA BẾN EN, THANH HÓA
DIVERSITY OF PLANTS OF ZINGIBERACEAE
AT BEN EN NATIONAL PARK, THANH HOA PROVINCE
Đậu Bá Thìn1, Trịnh Thị Hoa2, Hoàng Văn Chính1 1Trường Đại học Hồng Đức; [email protected]
2Trường THPT Đào Duy Từ, Thanh Hóa
Tóm tắt - Kết quả nghiên cứu họ Gừng (Zingiberaceae) ở Vườn Quốc gia (VQG) Bến En, Thanh Hóa, mẫu được thu từ năm 2015 đến năm 2017. Bước đầu đã xác định được 31 loài, 7 chi, trong đó 2 chi và 19 loài bổ sung cho danh lục VQG Bến En (2007, 2008, 2013). Các chi đa dạng nhất tại khu vực nghiên cứu là Riềng (Alpinia) -12 loài, Gừng (Zingiber) -7 loài, Sa nhân (Amomum) - 5 loài. Các loài cây thuộc họ Gừng (Zingiberaceae) ở khu vực nghiên cứu có các giá trị sử dụng khác nhau như: cho tinh dầu 31 loài, làm thuốc 27 loài, làm gia vị 8 loài, ăn được và làm cảnh 3 loài. Họ Gừng ở khu vực nghiên cứu có 3 yếu tố địa lý chính: yếu tố nhiệt đới chiếm 64,52% tổng số loài; yếu tố ôn đới chiếm 6,45% và yếu tố đặc hữu chiếm 29,03%.
Abstract - This paper presents some results of research on family Zingiberaceae at Ben En National Park, Thanh Hoa province, from 2015 to 2017. A total of 31 species belonging to 7 genera of Zingiberaceae were collected and identified. There were 2 genera and 19 species found as new records for the plant list of Ben En published in 2007, 2008 and 2013. Alpinia was the richest genus (12 species), then followed by Zingiber (7 species), Amomum (5 species) and other genera (1 to 4 species). The number of useful plant species of the Zingiberaceae is categorized as follows: 31 species supplying essential oil, 27 species as medicinal plants, 8 species for spices, 3 species being edible and 3 species being ornamental. The Zingiberaceae at Ben En National park is mainly comprised of the tropical element (64.52%), temperate element (6.45%) and endemic element (29.03%).
Từ khóa - đa dạng; họ Gừng; Bến En; Vườn Quốc gia; Thanh Hóa. Key words - diversity; Zingiberaceae; Ben En; National Park; Thanh Hoa.
1. Mở đầu
Ở Việt Nam, đến nay họ Gừng đã biết có khoảng 19 chi
với 141 loài và 3 thứ, phân bố ở nhiều vùng trong cả nước
[2]. Trong đó nhiều loài có giá trị rất quan trọng, chủ yếu
làm thuốc chữa bệnh như: Riềng thuốc (Alpinia
officinarum Hance) làm gia vị và làm thuốc; Nghệ
(Curcuma domestica Val.) làm thuốc chữa bệnh đau dạ
dày, bệnh vàng da; Gừng (Zingiber officinale Rosc.) làm
mứt, làm thuốc,... [3].
Vườn Quốc gia (VQG) Bến En nằm cách thành phố
Thanh Hoá khoảng 45 km về phía Tây Nam thuộc địa
phận hai huyện Như Xuân và Như Thanh tỉnh Thanh
Hóa. VQG Bến En được thành lập theo Quyết định số 33-
CT ngày 27/01/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
(nay là Thủ tướng Chính phủ) là một quần thể sinh thái
có hệ thống núi, hồ với tổng diện tích quản lý là
14.734,67 ha, trong đó phân khu bảo vệ nghiêm ngặt là
6.388,30 ha, phân khu phục hồi sinh thái là 6.346,37 ha
và phân khu hành chính dịch vụ là 2.000 ha. VQG Bến
En gồm 16 tiểu khu, hồ sông Mực và khu núi đá Hải Vân.
Hiện nay, đã có một số công trình nghiên cứu về đa dạng
thực vật ở VQG Bến En, tuy nhiên nghiên cứu đầy đủ về
taxon bậc họ thì chưa có nghiên cứu nào. Bài báo này là
kết quả nghiên cứu về họ Gừng (Zingiberaceae) ở
VQG Bến En nhằm cung cấp thêm những dẫn liệu để góp
phần bảo tồn, khai thác và phát triển nguồn tài nguyên
thực vật có hiệu quả.
2. Phương pháp nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là các loài thuộc họ Gừng phân
bố ở VQG Bến En, Thanh Hóa.
- Mẫu vật được thu thập theo phương pháp nghiên cứu
của Nguyễn Nghĩa Thìn [11], R.M. Klein và D.T. Klein [7],
thời gian thực hiện từ tháng 8/2015 đến 03/2017.
- Định loại: Sử dụng phương pháp hình thái so sánh theo
các tài liệu của Phạm Hoàng Hộ [5], Nguyễn Quốc Bình [2],
Thực vật chí Trung Quốc [12].
- Đánh giá về giá trị sử dụng dựa vào phương pháp phỏng
vấn có sự tham gia (PRA) và các tài liệu của Võ Văn Chi
[3], Trần Đình Lý và cộng sự [8], Nguyễn Quốc Bình [2].
- Đánh giá yếu tố địa lý theo Nguyễn Nghĩa Thìn [11].
3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
3.1. Đa dạng về thành phần loài
Qua điều tra, thu mẫu và định loại đã xác định được 31
loài của 07 chi thuộc họ Gừng (Zingiberaceae) ở VQG Bến
En, Thanh Hóa. So với kết quả nghiên cứu của Đỗ Ngọc
Đài và cộng sự [4], Hoang Van Sam và cộng sự [10], danh
lục thực vật trong báo cáo dự án Quy hoạch bảo tồn và phát
triển bền vững rừng đặc dụng VQG Bến En đến năm 2020
của Ban Quản lý VQG Bến En (2013) [1], đã bổ sung được
02 chi và 19 loài (là những loài đánh dấu *) thuộc họ Gừng
ở VQG Bến En, Thanh Hóa.
Kết quả chi tiết được trình bày tại Bảng 1.
Bảng 1. Danh lục các loài họ Gừng (Zingiberaceae) ở Vườn Quốc gia Bến En, Thanh Hóa
TT Tên khoa học Tên Việt Nam Yếu tố địa lý Giá trị sử dụng
1 Alpinia galanga (L.) Willd. Riềng nếp 5.4 E, M, S
2 Alpinia globosa (Lour.) Horan. Sẹ 6.1 E, M
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 135
TT Tên khoa học Tên Việt Nam Yếu tố địa lý Giá trị sử dụng
3 Alpinia kwangsiensis T. L. Wu & S. J. Chen* Riềng quảng tây 4.4 E, Ed, M
4 Alpinia macroura K. Schum.* Riềng đuôi nhọn 4.4 E
5 Alpinia malaccaensis (Burm. f.) Rosc.* Riềng malacca 4 E, M
6 Alpinia menghaiensis S.Q. Tong & Y. M. Xia* Riềng meng hai 6.1 E, Ed, M
7 Alpinia napoensis H. Dong & G. J. Xu Riềng 6.1 E, M
8 Alpinia oblongifolia Hayata* Riềng tàu 4.1 E, M, S
9 Alpinia officinarum Hance* Riềng thuốc 4 E, M, S
10 Alpinia polyantha D. Fang* Riềng nhiều hoa 6.1 E, M
11 Alpinia tonkinensis Gagnep.* Riềng bắc bộ 6.1 E, M
12 Alpinia zerumbet (Pers.) B. L. Burtt. & R. M. Sm. Riềng đẹp 5.4 E, M, Or
13 Amomum gagnepainii T. L. Wu, K. K. Larsen & Turland* Riềng ấm 6.1 E, M, S
14 Amomum maximum Roxb.* Đậu khấu chín cánh 4 E, M
15 Amomum muricarpum Elmer* Sa nhân quả có mỏ 4.1 E, M
16 Amomum villosum Lour. Sa nhân 4.2 E, M, S
17 Amomum xanthoides Wall. ex Baker* Sa nhân ké 4.2 E, M, S
18 Curcuma aromatica Salisb. Nghệ trắng 4.2 E, M
19 Curcuma longa L. Nghệ 2.2 E, M, S
20 Curcuma zedoaria (Berg.) Rosc. Nghệ đen 4 E, Ed, M
21 Distichochlamys benenica Q. B. Nguyen & Škorničk Gừng đen bến en 6 E, M
22 Hedychium gardnerianum Rosc.* Ngải tiên gardner 4.2 E
23 Hedychium villosum Wall.* Ngải tiên lông 4 E
24 Kaempferia galanga L.* Địa liền 3.1 E, M
25 Zingiber eberhardtii Gagnep. Gừng eberhardt 6 E
26 Zingiber gramineum Blume* Gừng lúa 4.1 E, M
27 Zingiber monophyllum Gagnep.* Gừng một lá 6 E, M
28 Zingiber montanum (Koenig) Link ex A. Dietr* Gừng núi 4 E, M
29 Zingiber officinale Rosc. Gừng 4 E, M, S
30 Zingiber rubens Roxb.* Gừng đỏ 4.2 E, M, Or
31 Zingiber zerumbet (L.) Smith Gừng gió 4 E, M, Or
Ghi chú: M (cây làm thuốc); E (cây cho tinh dầu); Or (cây làm cảnh); S (cây làm gia vị); 2.2 (Nhiệt đới châu Á, châu Phi
và Châu Mỹ); 3.1 (Nhiệt đới châu Á và châu Úc); 4 (Nhiệt đới châu Á); 4.1 (Đông Dương – Malêzi); 4.2 (Lục địa châu Á
nhiệt đới); 4.4 (Đông Dương - Nam Trung Quốc); 5.4 (Đông Á); 6 (Đặc hữu Việt Nam); 6.1 (Cận đặc hữu Việt Nam).
3.2. Đa dạng các bậc taxon
Từ bảng danh lục các loài thực vật thuộc họ Gừng
(Zingiberaceae), tiến hành phân tích sự đa dạng loài. Kết
quả được trình bày tại Bảng 2.
Bảng 2. Phân bố số lượng loài trong các chi
của họ Gừng (Zingiberaceae) ở VQG Bến En
TT Chi Loài
Tên Latinh Tên Việt Nam Số lượng Tỷ lệ %
1 Alpinia Riềng 12 38,71
2 Amomum Sa nhân 5 16,13
3 Curcuma Nghệ 3 9,68
4 Distichochlamys Gừng đen 1 3,23
5 Hedychium Ngải tiên 2 6,45
6 Kaempferia Địa liền 1 3,23
7 Zingiber Gừng 7 22,58
Tổng 31 100
Qua Bảng 2 cho thấy, trong số 7 chi thuộc họ Gừng ở
khu vực nghiên cứu, Alpinia là chi giàu loài nhất với
12 loài (chiếm 38,71% tổng số loài), tiếp đến là Zingiber
có 7 loài (chiếm 22,58% tổng số loài), Amomum có 5 loài
(chiếm 16,13% tổng số loài), Curcuma có 3 loài (chiếm
9,68% tổng số loài), 1 chi có 2 loài (chiếm 6,45% tổng số
loài) là Hedychium, 2 chi có 1 loài (chiếm 3,23% tổng số
loài) là Distichochlamys và Kaempferia.
So với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Quốc Bình khi
nghiên cứu họ Gừng ở Việt Nam [2], cho thấy mặc dù với
diện tích chỉ chiếm gần bằng 0,05% tổng diện tích của cả
nước, nhưng tại VQG Bến En, Thanh Hóa họ Gừng có 7/19
chi (chiếm 36,84% tổng số chi) và 31/144 loài (chiếm
21,53% tổng số loài) thuộc họ Gừng của Việt Nam. Chứng
tỏ, sự phân bố của họ Gừng ở VQG Bến En, Thanh Hóa
khá đa dạng về bậc chi.
3.3. Đa dạng về giá trị sử dụng
Gia tri sư dung cua cac loai trong ho Gừng ơ VQG Bến
En, Thanh Hóa được xác định dưa vao phương pháp phỏng
vấn có sự tham gia (PRA) và cac tai liêu: “1900 cây có ích
của Việt Nam” Trần Đình Lý và cộng sự [8], “Từ điển cây
thuốc Việt Nam” của Võ Văn Chi [3], “Cây cỏ Việt Nam”
136 Đậu Bá Thìn, Trịnh Thị Hoa, Hoàng Văn Chính
của Phạm Hoàng Hộ [5], “Những cây thuốc và vị thuốc Việt
Nam” của Đỗ Tất Lợi [9], “Lâm sản ngoài gỗ Việt Nam” của
Triệu Văn Hùng [6], … đã xác định được 31 loai chiêm
100% tông sô loai trong họ Gừng đươc sư dung vao cac muc
đích khac nhau như lam thuôc, làm gia vị, lấy tinh dầu, ăn
được, làm cảnh. Trong đo, 1 loai co thê có 1 hoăc nhiêu gia
tri sư dung khac nhau như: 04 loai có 1 gia tri sư dung; 13
loai có 2 gia tri sử dụng; 14 loai cho 3 gia tri sư dung. Gia tri
sư dụng của các loài thực vật thuôc họ Gừng (Zingiberaceae)
ở VQG Bến En, Thanh Hóa được trình bày ở Bảng 3.
Bảng 3. Giá trị sử dụng của các loài
thuộc họ Gừng (Zingiberaceae) ở VQG Bến En, Thanh Hóa
TT Công dụng Ký hiệu Số lượng Tỷ lệ %
1 Nhóm cây cho tinh dầu
(Essential Oil) E 31 100
2 Nhóm cây làm thuốc
(Medicine) M 27 87,10
3 Nhóm cây làm gia vị
(Spices) S 8 25,81
4 Nhóm cây ăn được
(Edible) Ed 3 9,68
5 Nhóm cây làm cảnh
(Ornamental) Or 3 9,68
- Nhóm cây cho tinh dầu: Là nhóm có số lượng loài
đứng thứ nhất với 31 loài chiếm 100% trong tổng số loài
hiện biết, cho thấy nguồn tài nguyên chứa tinh dầu họ Gừng
ở VQG Bến En đa dạng, gồm một số loài điển hình như:
Sẹ (Alpinia globosa (Lour.) Horan.), Riềng quảng tây
(Alpinia kwangsiensis T. L. Wu & S. J. Chen), Riềng đuôi
nhọn (Alpinia macroura K. Schum.), Riềng malacca (Alpinia
malaccaensis (Burm.f.) Rosc.), Riềng bắc bộ (Alpinia
tonkinensis Gagnep.), Đậu khấu chín cánh (Amomum
maximum Roxb.), Sa nhân quả mỏ (Amomum muricarpum
Elmer), Riềng ấm (Amomum gagnepainii T. L. Wu, K. K.
Larsen & Turland), Nghệ (Curcuma longa L.), Gừng
(Zingiber officinale Rosc.), ....
- Nhóm cây làm thuốc: Là nhóm có số lượng loài đứng
thứ hai với 27 loài chiếm 87,10% tổng số loài hiện biết,
một số loài điển hình như: Sẹ (Alpinia globosa (Lour.)
Horan.), Riềng quảng tây (Alpinia kwangsiensis T. L. Wu
& S. J. Chen), Riềng (Alpinia napoensis H. Dong & G. J.
Xu), Riềng thuốc (Alpinia officinarum Hance), Riềng bắc
bộ (Alpinia tonkinensis Gagnep.), Đầu khấu chín cánh
(Amomum maximum Roxb.), Sa nhân quả mỏ (Amomum
muricarpum Elmer), Riềng ấm (Amomum gagnepainii T.
L. Wu, K. K. Larsen & Turland), Nghệ (Curcuma longa
L.), Gừng (Zingiber officinale Rosc.), ....
- Nhóm cây làm gia vị: Nhóm này có 08 loài chiếm
25,81% trong tổng số loài hiện biết, gồm những loài điển
hình như: Riềng nếp (Alpinia galanga (L.) Willd.), Riềng tàu
(Alpinia oblongifolia Hayata), Riềng thuốc (Alpinia
officinarum Hance), Riềng ấm (Amomum gagnepainii T. L.
Wu, K. K. Larsen & Turland), Nghệ (Curcuma longa L.),
Gừng (Zingiber officinale Rosc.), ....
- Nhóm cây ăn được và làm cảnh: Đây là hai nhóm có số
lượng loài ít nhất với 03 loài ở mỗi nhóm (chiếm 9,68% tổng
số loài hiện biết).
Nhóm cây ăn được gồm Riềng quảng tây (Alpinia
kwangsiensis T. L. Wu & S. J. Chen), Riềng meng hai
(Alpinia menghaiensis S.Q. Tong & Y. M. Xia) và Nghệ đen
(Curcuma zedoaria (Berg.) Rosc.).
Nhóm cây làm cảnh vì có hoa đẹp như: Riềng đẹp
(Alpinia zerumbet (Pers.) B. L. Burtt. & R. M. Sm.), Gừng
đỏ (Zingiber rubens Roxb.) và Gừng gió (Zingiber zerumbet
(L.) Smith).
3.4. Đa dạng về yếu tố địa lý
Từ bảng danh mục các loài thực vật thuộc họ Gừng
(Zingiberaceae), áp dụng hệ thống phân loại các yếu tố địa
lý theo Nguyễn Nghĩa Thìn [11], đã xác định được sự phân
bố yếu tố địa lý của 31/31 loài (chiếm 100%) trong họ
Gừng ở VQG Bến En, Thanh Hóa. Kết quả được trình bày
tại Bảng 4.
Bảng 4. Yếu tố địa lý của các loài
trong họ Gừng (Zingiberaceae) ở VQG Bến En, Thanh Hóa
Các yếu tố địa lý (ký hiệu) Số loài Tỷ lệ (%)
Liên nhiệt đới (2.2) 1 3,23
Cổ nhiệt đới (3.1) 1 3,23
Nhiệt đới châu Á (4; 4.1; 4.2; 4.4) 18 58,06
Ôn đới Bắc (5.4) 2 6,45
Đặc hữu Việt Nam (6; 6.1) 9 29,03
Tổng 31 100
Kết quả Bảng 4, cho thấy trong các yếu tố địa lý, yếu tố
nhiệt đới châu Á chiếm tỷ lệ cao nhất với 18 loài (chiếm
58,06%), tiếp đến yếu tố đặc hữu Việt Nam với 09 loài
(chiếm 29,03%), yếu tố ôn đới với 02 loài (chiếm 6,45%),
yếu tố liên nhiệt đới và cổ nhiệt đới mỗi yếu tố 1 loài
(chiếm 3,23%).
Qua đó cho thấy tính độc đáo của các loài thuộc họ Gừng
ở VQG Bến En, Thanh Hóa đặc trưng cho khu hệ thực vật
mang tính nhiệt đới. Trong đó, có 03 loài (chiếm 9,68%) là
đặc hữu Việt Nam, bao gồm: Gừng đen bến en
(Distichochlamys benenica Q. B. Nguyen & Škorničk),
Gừng eberhardt (Zingiber eberhardtii Gagnep.) và Gừng một
lá (Zingiber monophyllum Gagnep.), đặc biệt chi Gừng đen
(Distichochlamys) đặc hữu ở khu vực Bắc Trung Bộ và loài
Gừng đen bến en (Distichochlamys benenica Q. B. Nguyen
& Škorničk) là đặc hữu ở Bến En; 06 loài (chiếm 19,35%)
thuộc loài cận đặc hữu Việt Nam: Sẹ (Alpinia globosa (Lour.)
Horan.), Riềng meng hai (Alpinia menghaiensis S.Q. Tong &
Y. M. Xia), Riềng (Alpinia napoensis H. Dong & G. J. Xu),
Riềng nhiều hoa (Alpinia polyantha D. Fang), Riềng bắc bộ
(Alpinia tonkinensis Gagnep.) và Riềng ấm (Amomum
gagnepainii T. L. Wu, K. K. Larsen & Turland).
4. Kết luận
- Kết quả nghiên cứu đã xác định được 31 loài, 07 chi
của họ Gừng ở VQG Bến En, Thanh Hóa, trong đó có
02 chi và 19 loài lần đầu tiên được tìm thấy tại khu vực này.
- Các chi đa dạng nhất tại khu vực nghiên cứu là Alpinia
(12 loài), Zingiber (7 loài), Amomum (5 loài).
- Các loài cây họ Gừng ở khu vực nghiên cứu có các giá
trị sử dụng khác nhau, 31 loài cho tinh dầu, 27 loài làm thuốc,
8 loài sử dụng làm gia vị, 3 loài ăn được và 3 loài làm cảnh.
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 137
- Họ Gừng ở khu vực nghiên cứu thuộc 5 yếu tố địa lý
chính, yếu tố nhiệt đới châu Á chiếm 58,06%, yếu tố đặc hữu
Việt Nam chiếm 29,03%, yếu tố ôn đới chiếm 6,45%, yếu tố
liên nhiệt đới và cổ nhiệt đới mỗi yếu tố chiếm 3,23%.
Lời cảm ơn: Nghiên cứu này được tài trợ bởi Đề tài
Cấp Bộ, Mã số: B2017-HĐT-03.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Ban Quản lý VQG Bến En, Báo cáo dự án Quy hoạch bảo tồn và phát triển bền vững rừng đặc dụng VQG Bến En đến năm 2020,
Thanh Hóa, 2013.
[2] Nguyễn Quốc Bình, Nghiên cứu phân loại họ Gừng (Zingiberaceae)
ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Sinh học, Viện Sinh thái và Tài nguyên
sinh vật, 2011.
[3] Võ Văn Chi, Từ điển cây thuốc Việt Nam, Tập 2, Nxb Y học, Hà
Nội, 2012.
[4] Đỗ Ngọc Đài và nnk, “Đánh giá tính đa dạng hệ thực vật bậc cao có
mạch trên núi đá vôi VQG Bến En, Thanh Hóa”, Tạp chí Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn, số 19, Nxb Nông nghiệp-Hà Nội, 2017, 6 trang (106-111).
[5] Phạm Hoàng Hộ, Cây cỏ Việt Nam, tập 1, Nxb trẻ, TP HCM, 2000.
[6] Triệu Văn Hùng, Lâm sản ngoài gỗ Việt Nam, Nxb Bản đồ, Hà
Nội, 2007.
[7] Klein R.M., Klein D.T., Phương pháp nghiên cứu thực vật, Tập 2, Nxb
Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 1979.
[8] Trần Đình Lý, 1900 loài cây có ích ở Việt Nam, Nxb Thế giới, 1993.
[9] Đỗ Tất Lợi, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, Nxb Khoa học
và Kỹ thuật, Hà Nội, 2003.
[10] Hoang Van Sam, Pieter Baas, Paul A. J. Kessler: Plant Biodiversity
in Ben En National Park, Vietnam, Agriculture Publishing House, Hanoi, 2008.
[11] Nguyễn Nghĩa Thìn, Các phương pháp nghiên cứu thực vật. Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội, 2008.
[12] Delin Wu & Kai Larsen, Zingiberaceae in Flora of China, Science
Press, Beijing, and Missouri Botanical Garden Press, St. Louis,
2000.
(BBT nhận bài: 27/04/2017, hoàn tất thủ tục phản biện: 06/06/2017)
138 Nguyễn Phước Triệu, Cao Văn Hùng, Nguyễn Thị Phương Thảo
ẢNH HƯỞNG CỦA NHIỆT ĐỘ VÀ ĐỘ MẶN ĐẾN QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
PHÔI CÁ MAO ẾCH (Allenbatrachus grunniens LINNAEUS, 1758)
EFFECT OF TEMPERATURE AND SALINITY ON EMBRYONIC DEVELOPMENT
OF GRUNTING TOADFISH (Allenbatrachus grunniens LINNAEUS, 1758)
Nguyễn Phước Triệu, Cao Văn Hùng, Nguyễn Thị Phương Thảo
Phân Viện Nghiên cứu Hải sản phía Nam; [email protected]
Tóm tắt - Nghiên cứu sự ảnh hưởng của nhiệt độ và độ mặn lên sự phát triển phôi cá mao ếch bao gồm hai nội dung, thí nghiệm 1 được bố trí ở 3 mức nhiệt độ là 28°C, 30°C và 32°C và thí nghiệm 2 được bố trí ở 5 mức độ mặn là 14‰, 17‰, 20‰, 23‰ và 26‰. Kết quả cho thấy thời gian từ khi trứng được thụ tinh đến lúc nở ở nhiệt độ 32°C (319 giờ) ngắn hơn so với ở 28°C và 30°C. Tỷ lệ nở đạt cao nhất ở nhiệt độ 28°C (57,6%), thấp nhất là ở 32°C (44,8%). Tỷ lệ dị hình bắt gặp cao nhất ở nhiệt độ 32°C đạt 9,5%, thấp hơn ở 28°C và 30°C lần lượt là 4,3% và 5,9%. Độ mặn cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của phôi cá mao ếch. Thời gian trứng nở nhanh nhất ở độ mặn 26‰ (333 giờ). Tỷ lệ trứng nở ra cao nhất ở độ mặn 20‰ (59,4%), thấp nhất là ở 14‰ (36,6%). Tỷ lệ dị hình đạt cao nhất ở độ mặn 14‰ (4,2%) thấp hơn ở 26‰ (4,1%), 17‰ (3,7%), thấp nhất là 20‰ (3,3%).
Abstract - The study consists of two individual experiments about the effects of temperature and salinity on embryonic development of Grunting Toadfish. The first experiment is conducted at three different temperatures of 28°C, 30°C and 32°C. The second is conducted at five different levels of salinity of 14‰, 17‰, 20‰, 23‰ and 26‰. The results show that the time for the eggs to be fertilized and hatch at temperature level of 32°C is shorter than at 28°C and 30°C. The highest hatching rate is at 28°C (57.6%), the lowest is at 32°C (44.8%). The highest deformity rate is found in treatment of 32°C (9.5%) lower than at 28oC and 30oC respectively of 4.3% and 5.9%. The salinity also affects the embryonic development of Grunting Toadfish. The fastest hatching time is at 26‰, (333h). The highest hatching rate is at 20‰, (59.4%), the lowest is at 14 ‰, (36.6%). The highest deformity rate is at 14‰, (4.2%) lower than at 26‰, (4.1%); 17‰, (3.7%), the lowest is at 20‰, (3.3%).
Từ khóa - Cá mao ếch; Allenbatrachus grunniens; ảnh hưởng của nhiệt độ; ảnh hưởng của độ mặn; quá trính phát triển phôi
Key words - Grunting Toadfish; Allenbatrachus grunniens; effect of temperature; effect of salinity; embryonic development
1. Đặt vấn đề
Cá mao ếch Allenbatrachus grunniens (Linnaeus,
1758) là loài rộng muối, chúng thường sống ở vùng cửa
sông nước lợ, nước mặn, nền đáy khu vực có đá sỏi, gốc
cây, ẩn mình trong hang hốc, dưới lớp bùn cát,… phân bố
ở Tây Thái Bình - Ấn Độ Dương, vịnh Persian và vùng
châu thổ sông Mê Kông (www.fishbase.org). Ở giai đoạn
phát triển phôi các yếu tố môi trường như: nhiệt độ, pH, độ
mặn, oxy hòa tan,… trong đó, nguyên nhân ảnh hưởng trực
tiếp tới sự phát triển và tỷ lệ nở của trứng cá là nhiệt độ và
độ mặn (Alderdice, 1988).
Nhiệt độ ảnh hưởng đến tốc độ phát triển và quá trình trao
đổi chất của phôi, nhiệt độ càng cao thời gian phát triển phôi
càng ngắn và ngược lại, nhưng tỷ lệ dị hình càng cao
(Arenzona et al., 2002; Vũ Văn Sáng và Trần Thế Mưu, 2013;
Vũ Văn Sáng và ctv., 2013); Độ mặn quá thấp hay quá cao thì
quá trình phát triển và nở của phôi bị chậm do phải tiêu tốn
năng lượng cho quá trình điều hòa áp suất thẩm thấu để duy
trì sự cân bằng (Paciencia and Corazon, 1993; Fashina
Bombata and Busari, 2003). Tuy nhiên, cá mao ếch là đối
tượng nghiên cứu mới, các đặc điểm về các giai đoạn phát
triển phôi cũng như ảnh hưởng của nhiệt độ và độ mặn đến
quá trình này là chưa được công bố. Do đó, việc đánh giá ảnh
hưởng của hai yếu tố trên là cần thiết, nhằm xác định nhiệt độ
và độ mặn thích hợp, làm cơ sở cho quy trình sản xuất giống.
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 3 đến tháng 9 năm
2016 tại Phân viện Nghiên cứu Hải sản phía Nam.
2.2. Phương pháp bố trí thí nghiệm
Thử nghiệm độ hoạt hóa tinh trùng với các độ mặn khác
nhau để xác định độ mặn mà tinh trùng có sự hoạt hoá tốt
nhất gọi là S‰, sau đó tiến hành bố trí thí nghiệm. Các mức
độ mặn thử nghiệm được xác định khi lấy mẫu nước ở nơi
khai thác vào mùa sinh sản.
2.2.1. Thí nghiệm ảnh hưởng của nhiệt độ
Thi nghiệm được bố trí ở các mức nhiệt độ: 28°C; 30°C
và 32°C mỗi nghiệm thức lặp lại 3 lần, trứng được ấp trong
điều kiện độ mặn S‰. Cách bố trí thí nghiệm được trình
bày chi tiết ở Bảng 1.
Bảng 1. Thí nghiệm ảnh hưởng của nhiệt độ
lên sự phát triển phôi cá mao ếch
Nghiệm thức Nhiệt độ (C) Số trứng Số lần lặp
1 28 300 3
2 30 300 3
3 32 300 3
2.2.2. Thí nghiệm ảnh hưởng của độ mặn
Thí nghiệm được bố trí ở các độ mặn: S‰; (S ± 3) ‰;
(S ± 6) ‰ mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần trong điều
kiện nhiệt độ (30 ± 1) °C. Cách bố trí thí nghiệm được trình
bày chi tiết ở Bảng 2.
Bảng 2. Thí nghiệm ảnh hưởng của độ mặn
lên sự phát triển phôi cá mao ếch
Nghiệm thức Độ mặn S (‰) Số trứng Số lần lặp
1 S - 6 300 3
2 S - 3 300 3
3 S 300 3
4 S + 3 300 3
5 S + 6 300 3
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 7(116).2017 139
2.3. Điều kiện thí nghiệm và các chỉ tiêu theo dõi
Trứng được ấp trong điều kiện nước chảy tràn, các yếu tố
môi trường được theo dõi thường xuyên và đảm bảo cho sự
phát triển của phôi; nồng độ pH: 7,5-8,0; DO: (5,0-5,5) mg/l.
Tỷ lệ thụ tinh (TLTT) được xác định bằng cách quan
sát trực tiếp và tính bằng công thức:
𝑇𝐿𝑇𝑇 (%) =𝑆ố 𝑡𝑟ứ𝑛𝑔 𝑡ℎụ 𝑡𝑖𝑛ℎ
𝑇ổ𝑛𝑔 𝑠ố 𝑡𝑟ứ𝑛𝑔× 100
Thời gian nở là thời gian từ khi trứng được thu tinh cho
đến khi trứng nở hoàn toàn;
Tỷ lệ cá nở (TLN) được tính bằng công thức:
𝑇𝐿𝑁 (%) =𝑆ố 𝑐á 𝑛ở
𝑆ố 𝑡𝑟ứ𝑛𝑔 𝑡ℎụ 𝑡𝑖𝑛ℎ× 100
Tổng số cá con dị hình được xác định bằng cách quan
sát và đếm trực tiếp và tỷ lệ dị hình (TLDH) được tính bằng
công thức:
𝑇𝐿𝐷𝐻 (%) =𝑆ố 𝑐á 𝑐𝑜𝑛 𝑑ị ℎì𝑛ℎ
𝑆ố 𝑐á 𝑛ở× 100
2.4. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu được tính toán dưới dạng giá trị phần trăm, giá
trị trung bình và độ lệch chuẩn, phân tích phương sai một
nhân tố. Phần mềm Microsoft Excel 2013 và SPSS for
Window 13.0 được sử dụng để xử lý số liệu.
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến quá trình phát triển phôi
Trứng cá mao ếch là trứng dính, có đường kính trứng
tương đối lớn từ 5,38 đến 6,01 mm. Qua kết quả nghiên
cứu cho thấy, nhiệt độ có ảnh hưởng đến quá trình phát
triển phôi của cá mao ếch, nhiệt độ càng cao thì quá trình
phát triển phôi càng nhanh và ngược lại. Trong khoảng
nhiệt độ 28-32C thì thời gian từ khi trứng được thụ tinh
đến lúc nở ở 32C (319 giờ) ngắn hơn so với ở 30C và
28C lần lượt là 336 và 367 giờ và giữa nghiệm thức 28C
và 32C khác biệt có ý nghĩa (P < 0,05) (Bảng 3).
Trong thí nghiệm các mức nhiệt độ cao và thấp hơn
không được bố trí nên chưa xác định được các ngưỡng
nhiệt độ thích hợp và ngưỡng chịu đựng phát triển của phôi.
Qua kết quả nghiên cứu cho thấy, trứng cá mao ếch khi
được thụ tinh ở độ mặn tinh trùng có độ hoạt hóa tốt nhất
là 20‰ thì tỷ lệ thụ tinh giữa các nghiệm thức không có sự
khác biệt (P > 0,05). Tỷ lệ nở đạt cao nhất ở nghiệm thức
28C (57,6%); thấp nhất là ở nghiệm thức 32C (44,8%) và
khác biệt có ý nghĩa (P < 0,05). Tương tự, tỷ lệ dị hình cũng
bắt gặp cao nhất ở nghiệm thức 32C đạt 9,5%; thấp hơn ở
nhiệt độ 28C (4,3%) và 30C (5,9%) và khác biệt có ý
nghĩa (P < 0,05) giữa nghiệm thức 28C và 32C (Bảng 3).
Nhiệt độ ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình phát triển của
phôi cá cũng như các giai đoạn phân cắt của phôi (Vũ Văn
Sáng và Trần Thế Mưu, 2013; Vũ Văn Sáng và ctv., 2013).
Nhiệt độ thấp sẽ làm chậm quá trình phát triển phôi (Small
and Bates, 2001; Lin et al., 2006); Nhiệt độ cao làm tăng
nhanh quá trình phát triển phôi nhưng gây tỷ lệ chết cao hơn
(Kyeong-Ho Han and Jae-Kwon Cho, 2007) và tỷ lệ cá con
nở ra bị dị hình cũng tăng (Arenzona et al., 2002). Theo kết
quả Gudger (1908) thì thời gian phát triển phôi cá cóc
(Opsanus tau) là 11 ngày và cho rằng cho rằng do có sự khác
biệt về nhiệt độ nước nên có sự khác biệt về thời gian nở, ở
nơi có nhiệt độ cao hơn thì phôi phát triển nhanh hơn.
Bảng 3. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến
quá trình phát triển phôi cá mao ếch
Chỉ tiêu Nhiệt độ
28C 30C 32C
Tỷ lệ thụ tinh (%) 86,2 ± 2,0a 84,1 ± 2,5ab 81,9 ± 1,7b
Thời gian nở (giờ) 367 ± 2,6a 336 ± 1,0ab 319 ± 1,7b
Tỷ lệ nở (%) 57,6 ± 2,8a 50,9 ± 0,3ab 44,8 ± 2,7b
Tỷ lệ cá con dị hình (%) 4,3 ± 0,7a 5,9 ± 2,5a 9,5 ± 1,0b
Ghi chú: Các chữ cái trong cùng một hàng khác nhau thì khác
biệt có ý nghĩa (P < 0,05)
3.2. Ảnh hưởng của độ mặn đến quá trình phát triển phôi
Độ mặn có ảnh hưởng đến quá trình thụ tinh cũng như
quá trình phát triển phôi của cá mao ếch, tỷ lệ trứng thụ tinh
đạt cao nhất ở độ mặn tinh trùng có độ hoạt hóa tốt nhất là
20‰ và thấp hơn ở các độ mặn 23‰; 26‰; 17‰ và 14‰.
Tương tự, tỷ lệ trứng nở ra cũng cao nhất ở độ mặn 20‰
(59,4%) và giảm dần ở các mức độ mặn 23‰, 26‰, 17‰,
thấp nhất là ở độ mặn 14‰ (36,6%) và khác biệt có ý nghĩa
(P < 0,05) với các nghiệm thức còn lại (Bảng 4).
Độ mặn cũng ảnh hưởng đến thời gian nở của trứng cá
mao ếch và tỷ lệ cá con nở ra dị hình nhưng không đáng kể.
Thời gian nở nhanh nhất ở độ mặn 26‰ (333 giờ) và chậm
dần khi độ mặn giảm từ 23‰ - 14‰. Tỷ lệ dị hình đạt cao
nhất ở độ mặn 14‰ (4,2%) thấp hơn ở 26‰ (4,1%); 17‰
(3,7%); thấp nhất là 20‰ (3,3%) và sự khác biệt không có ý
nghĩa (P > 0,05) giữa các mức độ mặn (Bảng 4).
Qua kết quả trên cho thấy, trứng cá mao ếch có thể phát
triển từ độ mặn 14‰ đến 26‰. Độ mặn ảnh hưởng tới sự
cân bằng áp suất thẩm thấu của tế bào và do đó ảnh hưởng
tới sự chuyển hóa năng lượng trong quá trình phát triển
phôi của cá (Sampaio and Bianchini, 2002), nhưng đối với
những loài trứng có số lượng noãn hoàng cao, kích thước
trứng lớn thì tỷ lệ sống sót của phôi và ấu trùng thường cao
(Palazon-Fernandez et al., 2001).
Bảng 4. Ảnh hưởng của độ mặn đến quá trình ấp nở trứng cá Mao ếch
Chỉ tiêu Độ mặn
14‰ 17‰ 20‰ 23‰ 26‰
Tỷ lệ thụ tinh (%) 65,7 ± 1,7a 73,0 ± 1,5a 84,7 ± 1,5b 82,3 ± 2,7b 80,3 ± 2,5ab
Thời gian nở (giờ) 340 ± 2,6ab 338 ± 1,7a 336 ± 2,0a 335 ± 1,7a 333 ± 1,0ac
Tỷ lệ nở (%) 36,6 ± 2,7c 45,2 ± 1,3a 59,4 ± 6,3b 53,4 ±3,3ab 50,7 ± 1,7ab
Tỷ lệ cá con dị hình (%) 4,2 ± 0,3a 3,7 ± 0,4a 3,3 ± 0,4a 3,5 ± 0,3a 4,1 ± 0,6a
Ghi chú: Các chữ cái trong cùng một hàng khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa (P < 0,05)
140 Nguyễn Phước Triệu, Cao Văn Hùng, Nguyễn Thị Phương Thảo
Hình 1. Một số giai đoạn phát triển của cá mao ếch ở điều kiện nhiệt độ 28C, độ mặn 20‰
a) Trứng được thụ tinh; b) Trứng bắt đầu phân cắt - sau 6 giờ; c) 2 tế bào - 15 giờ; d) 4 tế bào - 30 giờ; e) 8 tế bào - 45 giờ;
f) Phôi dâu - 103 giờ; g) Phôi vị - 166 giờ; h) Phôi thần kinh - 217 giờ; i) Phôi hoàn chỉnh - 316 giờ; j) Trứng nở - 367 giờ
4. Kết luận và đề xuất
4.1. Kết luận
Nhiệt độ ảnh hưởng đến quá trình phát triển phôi của cá
mao ếch, nhiệt độ thích hợp cho việc ấp nở cá mao ếch từ
28C đến 30C với tỷ lệ nở đạt trên 50%, tỷ lệ dị hình thấp
từ 4,3% - 5,9%. Độ mặn cũng ảnh hưởng đến quá trình ấp
nở phôi cá mao ếch, độ mặn thích hợp từ 20‰ đến 26‰
với tỷ lệ nở trên 50% và tỷ lệ dị hình từ 3,3% - 4,1%.
4.2. Đề xuất
Cần nghiên cứu sự ảnh hưởng của hệ thống ấp nở và
các yếu tố môi trường khác đến quá trình phát triển phôi cá
mao ếch.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Alderdice D.F. (1988). Osmotic and ionic regulation in teleost eggs
and larvae. In: W.S. Hoar and D.J. Randall (Editors), Fish
Physiology, Vol. 11, Part A. Academic Press, San Diego, CA, pp. 163-251.
[2] Arenzon, A., Lemos, C. A. and Bohrer, M. B. C. 2002. The influence
of temperature on the embryonic development of the Annual fish
Cynopoecilus melanotaenia (Cyprinodontiformes, Rivulidae).
Brazilian Journal of Biology. vol.62, no.4b: 743-747.
[3] Fashina-Bombata H.A. and A.N. Busari. 2003. Influence of salinity
on the developmental stages of African catfish Heterobranchus longifilis (Valenciennes, 1840). Aquaculture, vol 224: 213-222.
[4] Fishbase. Allenbatrachus grunniens (Linnaeus, 1758) Grunting
toadfish. http://www. fishbase.org/summary/ Allenbatrachus-
grunniens.html.
[5] Gudger E. W. 1908. Habits and Life History of the Toadfish (Opsanus
tau). Paper presented before the Fourth International Fishery Congress held at Washington U. S. A., September 22 to 26, 1908. Bulletin of the
Bureau of Fisheries, Vol. XXVIII, Document No. 709: 1071-1109.
[6] Kyeong-Ho Han and Jae-Kwon Cho. 2007. Effect of Water
Temperature on the Embryonic Development of Panther Puffer
Takifugu pardalis. Journal of Aquaculture, Vol. 20(4): 265-269.
[7] Lin Q., Lu J., Gao Y., Shen L., Cai J. and Luo J. 2006. The effect of
temperature on gonad, embryonic development and survival rate of juvenile seahorses, Hippocampus kuda Bleeker. Aquaculture, Vol
254: 701-713.
[8] Paciencia S. Young and Corazon E. Dueiias. 1993. Salinity tolerance
of fertilized eggs and yolksac larvae of the rabbitfish Siganus guttatus
(Bloch). Aquaculture, Vol 112: 363-377.
[9] Palazon-Fernandez, J. L,. Arias, A. M. And Sarasquete, C., 2001.
Aspects of the reproductive biology of toadfish, Hoplobatrachus didactylus (Schneider, 1801) (Pisces: Batrachoididae). Scientia
Marina (Sci. Mar,.) 65(2): 131-138.
[10] Sampaio, L. A. and Bianchini A. 2002. Salinity effects on
osmoregulation and growth of the euryhaline flounder Paralichthys orbignyanus. Journal of Experimental Marine Biology and Ecology,
Vol 269: 187-196.
[11] Small B.C. and Bates T.D. (2001). Effect of lowtemperature
incubation of channel catfish Ictalurus punctatus eggs on
development, survival, and growth. Journal World Aquaculture Society, Vol 32: 189-194.
[12] Vũ Văn Sáng và Trần Thế Mưu. 2103. Ảnh hưởng của nhiệt độ và độ
mặn đến sự phát triển phôi của cá song hổ (Epinephelus fuscoguttatus).
Tạp chí Khoa học và Phát triển 2013, tập 11, số 1: 41-45.
[13] Vũ Văn Sáng, Trần Thế Mưu và Vũ Văn In. 2013. Ảnh hưởng của nhiệt độ
và độ mặn đến sự phát triển phôi, tỷ lệ nở của cá song chuột (Cromileptes
altivelis). Tạp chí Khoa học và Phát triển 2013, tập 11, số 5: 648-653.
(BBT nhận bài: 16/05/2017, hoàn tất thủ tục phản biện: 27/07/2017)
a
b
c
d
e
f
g
h
i
j