mẠc ĐĨnh chi - macdinhchireunion.netmacdinhchireunion.net/misc/giaiphamxuanmdc2012.pdf ·...
TRANSCRIPT
Ta cho nhau mùa Xuân
MẠC ĐĨNH CHI
Giai
phẩm
Xuân
2012
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 3
Hội Ái Hữu Trung Học
Mạc Đĩnh Chi
Mạc Đĩnh Chi Reunion được thành lập
vào ngày 5 tháng 4 năm 2001 với 3 hội viên,
và được đổi tên là Hội Ái Hữu Trung Học
Mạc Đĩnh Chi (HAHTHMDC)
vào ngày 01 tháng 9 năm 2002. Hiện
nay HAHTHMDC đã có trên 174 hội
viên cư ngụ tại các quốc gia : Mỹ, Gia Nã
Đại, Pháp, Đức, Úc Đại Lợi và Việt Nam.
Chủ Trương
Hội Ái Hữu Trung Học Mạc Đĩnh Chi
được thành lập nhằm giúp các cựu học sinh
trường Trung Học Mạc Đĩnh Chi có phương
tiện liên-lạc, kết chặt tình thân hữu, tương
thân tương trợ lẩn nhau. Để cho tình bạn
luôn tươi sáng, HAHTHMDC chủ
trương KHÔNG sinh-hoạt chính trị (trong
phạm vi hoạt động), do đó Ban Chấp Hành
mong rằng các bạn tôn trọng chủ trương nầy
khi gia nhập HAHTHMDC.
HAHTHMDC dùng website với tên
Mạng (domain name)
macdinhchireunion.net để phát triển chủ
trương của Hội và thông tin với các hội
viên. Website nầy được tổ chức như một tạp
chí văn nghệ và hy vọng sẽ góp phần vào
việc bảo tồn văn hoá Việt Nam.
Mai vàng Ảnh Vy Trương
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 4
Tổ Chức
Ban Cố Vấn Giáo Sư
Thầy Lý Di
(Hiệu Trưởng). [email protected]
Thầy Nguyễn Vũ
Hải (Toán). [email protected]
Thầy Phạm Quân
Hồng (Việt Văn). [email protected]
Thầy Nguyễn Hữu
Điện. [email protected]
Thầy Nguyễn Trí
Thành [email protected]
Ban Chấp Hành
Liêu Hoàn Vũ,
Hội Trưởng [email protected]
Phan Ngọc Thành,
Phó Chủ Tịch [email protected]
Quách Xuân Sơn,
Phó Chủ Tịch [email protected]
Web Masters
Liêu Hoàn Vũ,
Trưởng Ban [email protected]
Kim Minh,
Phó Trưởng Ban [email protected]
Trần Văn Giang [email protected]
Quách Xuân Sơn [email protected]
Ban Nội Vụ
Cao Bích Hạnh,
Trưởng Ban
Ngô Mỹ Kiều,
Phó Trưởng Ban [email protected]
Ban Ngoại Vụ
Nguyễn Kim Thoa,
Trưởng Ban [email protected]
Lư Khải Minh
Phó Trưởng Ban [email protected]
Ban Báo Chí
Trần Văn Giang,
Trưởng Ban [email protected]
Nguyễn Hoàn Khải
Phó Trưởng Ban [email protected]
Xã Hội
Tăng Ngọc Hồng
Trưởng Ban, Thủ
Quỹ - Quỹ Tương
Trợ
Đặng Huệ Hoa,
Phó Trưởng Ban [email protected]
Văn Nghệ
Bùi Anh Tuấn,
Trưởng Ban [email protected]
Lâm Vĩnh Hiên,
Phó Trưởng Ban
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 5
Mục Lục Trang
Lời tựa …….………………….………….. 6
Ta cho nhau mùa xuân … ( NMKiều) ..… 7
Tuổi trẻ mộc mạc ... (GS Lý Di) ....…… 9
Thơ Nhược Thu ...………………....…… 20
Năm Thìn … (TVGiang) .…….………... 22
Thơ Nguyễn Thị Khánh-Minh ………… 29
Xuân và Thuế … (NMKiều)…………… 31
Tự chữa bịnh … (NVPhước)…………… 37
Thơ Nguyễn Thị Hồng-Mai …...……….. 39
Nói Tiếng Mễ … (TVGiang) ……...…… 40
Thơ Nguyễn Thị Kim-Minh …….……… 43
Thơ Văn … ( VM Hùng) ……..….……. 44
Giai Thọai Văn Chương … (GS PQHồng)
………………………………………….. 49
Truyện cười ……………….…………… 52
Thơ Lâm Kim Chung …………….…..… 55
Nhất Quỉ ... (Ngô Tường ) …………….. 56
Luật 50-50 ... (NVPhước) …………..… 58
Thơ Nguyễn Hữu Tưởng ………….…… 59
Thay lá Ảnh: Vy Trương
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 6
Lời tựa
Rào trước
Tờ báo Xuân MĐC 2012 lại đến tay quý
Thầy Cô và các bạn năm nay như một món
quà tết văn nghệ.
Cứ theo ý tôi thì năm nay Hội Ái hữu
Học sinh Trung học MĐC không ra báo
Xuân; bởi vì tôi cứ nhắm theo cái tinh thần
của hội là “hai năm mới tổ chức đại hội một
lần” cho đỡ mệt! Thiệt tình! Mãi cho đến
tháng 10 / 2011 anh Võ Mạnh Hùng, người
nghệ sĩ tài hoa cựu học sinh MĐC K76, mới
lên tiếng “théc méc” là:
- Năm nay quý vị có định ra báo Xuân hay
không mà đến bi giờ (tháng 10) vẫn không
nghe nói năng gì hết trơn hết trọi?
Tôi, trong vai trò Trưởng Ban báo chí,
khi nghe câu hỏi này, chỉ đánh bài “im lặng
là vàng.”
Nhưng anh Nguyễn Hoàn Khải (K76),
Phó trưởng Ban báo chí, người trẻ tuổi “yêu
đời yêu người,” hăng tiết vịt, không để yên,
muốn giữ ngọn lửa “Báo Xuân” tiếp tục
cháy, cho nên tuyên bố:
- Có báo Xuân chứ. Why not?
Ngay sau đó anh Nguyễn Hoàn Khải
đã đăng lời giới thiệu chủ đề báo Xuân
MĐC 2012 và kêu gọi sự đóng góp bài vở
của gia đình MĐC trên “message board”
của trang mạng “macdinhchireunion.net.”
Phần tôi, anh Khải yêu cầu tôi viết cho vài
bài và giữ vai trò “Chủ bút” (editor); có
nghĩa là tôi với chút vốn liếng về văn phạm
và chính tả sẽ duyệt lại tất cả các bài nào
anh Khải gởi đến tay tôi. Còn lại, anh Khải
sẽ tùy theo nội dung của từng bài gởi đến
rồi lựa chọn cho đăng trong số này hay giữ
lại…
Đón sau
Một con én (hay hai ba con) không thể
tài nào làm được mùa Xuân (2012). Tờ báo
Xuân MĐC 2012 thành hình là do sự đóng
góp bài vở, ý kiến quý báu của Thầy Cô và
các bạn đồng môn vẫn còn quan tâm đến
sinh hoạt và tình ái hữu cựu học sinh
MĐC…
Tôi đã đọc qua bản thảo cuối cùng của
tờ báo Xuân MĐC 2012 trước khi lên
khuôn, và với kinh nghiệm viết lách của cá
nhân tôi, tôi thấy nội dung tờ báo có giá trị
rất cao;
Tờ báo, tuy nhỏ bé, có thể làm trường
MĐC hãnh diện sánh vai (nếu khiêm
nhường chưa muốn nói là còn “ngon lành”
hơn!) các trường trung học bạn mà kích
thước và tiếng tăm của họ trước đây có vẻ
trội còn hơn trường MĐC thân yêu của
chúng ta. Đây không phải là vấn đề “mèo
khen mèo dài đuôi” mà là:
“It is hard to be humble when you are
truly good!”
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 7
Một điểm son khác của tờ báo Xuân 2012
này (cũng như tờ báo Xuân năm 2011) là do
nỗ lực và thiện chí đặc biệt của hai bạn
Nguyễn Hoàn Khải (K76) và Võ Quang
(K70): Tờ báo đến tay quý Thầy Cô và các
bạn mà không tốn một đồng bạc ấn phí nào
của Hội Ái hữu Cựu Học sinh Trung học
MĐC. Tuy vậy, người Mỹ họ vẫn thường
nói là:
- “Nothing is free; it is paid for, one way or
another.”
Có lẽ đúng như vậy!
Thân mến,
Thay mặt cho Ban Báo Chí.
Trần Văn Giang
MĐC K68
Xuân Nhâm Thìn 2012
TA
CHO
NHAU
MÙA XUÂN
Xuân, Hạ, Thu, Đông…bốn mùa trong
năm như một chu kỳ cứ luôn xoay vòng..
tuần tự như một con thoi đưa dòng thời
gian trôi… Phải công nhận tạo hóa thật
tuyệt diệu và ưu ái khi ban cho ta bốn mùa
với những sắc thái riêng của chúng. Bốn
mùa khác nhau để ta không nhàm chán và
cũng để có luyến tiếc và nôn nao đón chờ…
Nói đến mùa Xuân người ta thường
nghĩ đến cái tươi vui, rộn ràng…tuy không
quá rực rỡ, nóng bỏng như mùa Hạ…Trong
khi mùa Hạ tràn đầy sinh lực, chan chứa
nắng làm ta thổn thức suốt ngày dài không
muốn ngủ…mùa Thu mang cho ta cái êm
dịu, nhẹ nhàng sau những ngày hè rực
nắng, oi bức.
Hơn thế nữa, mùa Thu còn tượng trưng
cho sự lãng mạn, thơ mộng. Nghe đến mùa
Thu ta co thể mơ màng liên tưởng đến một
đôi tình nhân tay trong tay đang dìu nhau
trên con đường đầy những cành cây lá ngã
mầu vàng và ung ủng đỏ, thỉnh thoảng lại
rơi lất phất theo cơn gió thu nhè nhẹ..thật
thơ mộng không kém gì cảnh mặt trời len
lén lui gót trong hoàng hôn. Nghĩ đến mùa
Đông, người ta lại mường tượng đến những
cành cây trơ lá, đến cái khí tiết lành lạnh,
rồi lại mơ đến bầu không khí ấm cúng khi
gia đình, bạn bè quay quần với nhau bên
bếp lửa hồng…
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 8
Tuy nhiên, với tôi, mùa Xuân có lẽ là
mùa tôi yêu nhất vì nó là mùa của Hy Vọng.
Những cành cây trơ lá đang say sưa trong
giấc ngủ Đông nay nhờ có những tia nắng
Xuân nồng nàn tươi mát đã trở mình thức
giấc, bắt đầu trổi mầm, sinh lá, kết
hoa…Cho nên mùa Xuân cũng tượng trưng
cho một sự mở đầu, một cái gì đó mới mẻ và
đầy triển vọng, là mùa của Sự Sống. Nắng
Xuân chan chứa tưới lên muôn hoa và vạn
vật…Hoa thi nhau đua nở muôn sắc muôn
mầu còn chim thì líu lo từng đàn thỏ thẻ trên
cành tạo nên một cảnh tượng thật hạnh phúc
đầm thắm, cho nên Xuân cũng là mùa của
Hạnh Phúc, của Yêu Thương. Đây là những
yếu tố cho ta yêu Xuân, nôn Xuân, và chào
mừng Xuân…
Trở về với thực tế, chúng ta ai ai cũng
ít hoặc nhiều, trực tiếp hay gián tiếp, bị ảnh
hưởng của tình trạng kinh tế khó khăn hiện
tại. Hầu như trong chúng ta, ai cũng có thân
nhân, bạn bè, hoặc bản thân từng bị mất
việc, bị cắt giảm giờ làm, hoặc bớt đi những
phúc lợi khác trong công ăn việc làm.
Những khía cạnh khác như doanh thu trong
cơ sở thương mại, đầu tư trong thị trường
chứng khoáng hoặc địa ốc cũng đều bị ảnh
hưởng. Nói chung là ta bị bao vây nhiều
mặt như đang lạc trong một trận đồ quanh
co nhiều gút mắt chưa có cách gỡ…
Thế nhưng, như ta đã biết, thời gian
cũng không ngừng trôi, cái chu kỳ Bốn Mùa
của ta cũng không vì kinh tế trì trệ mà dừng
lại ở đó. Dù muốn dù không, con thoi thời
gian vẫn thản nhiên xoay và đang ung dung
mang nàng Xuân của ta đến…
Thôi thì kinh tế ì ạch ta không có nhiều
tài lộc để cho nhau thì trong bầu không khí
Xuân vui tươi rộn ràng này, trong tình thầy
trò, đồng môn khắn khít, ta hãy cho nhau
những nụ cười thật tươi, những lời chúc
tụng thật tốt đẹp, cũng như những an ủi
chân thành, nhiệt tình cổ võ cho nhau…
Ta hãy cho nhau những tia hy vọng
mong một năm mới có nhiều đổi mới tốt, an
khang hơn và hạnh phúc hơn…
Ta hãy cho nhau mùa Xuân!
Bên Thềm Xuân Nhâm Thìn
2012
Ngô Mỹ Kiều
MDC (K80)
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 9
Tuổi trẻ
mộc mạc,
tuổi già
bơ vơ…
GS : Lý Di
Bãi cát trắng, dãy thùy dương bát ngát
hằng đôi mươi cây số, núi non hùng vĩ,
đường đèo lên, đường đèo xuống, cảnh vật
còn đầy thiên nhiên, bàn tay con người chưa
khai phá nhiều, cảnh rừng núi hùng vĩ, lòng
người cũng chao đảo, hăng hái sống động
hơn, dòng nước sông trong khe, khác hẳn
trong Nam, khi nước lớn dòng sông mênh
mông, nước xuống thấp, bãi cát trắng trải
dài hai bên, sông nước trong veo, có thể lội
bộ ngang qua dễ dàng, trong Nam dòng sông
thật sâu, đục ngầu, đầy phù sa; đó là cảm
tưởng của một thanh niên 23 tuổi vừa tốt
nghiệp đại học đi nhận nhiệm sở đầu đời.
Vào năm 1959, có bằng tú tài đi dạy học
hoặc kiếm ăn được rồi. Nếu đi học thì đường
học vấn rộng rãi, vì nhu cầu của xã hội quá
thiếu chuyên viên, chánh phủ Ngô đình
Diệm mở rộng nền giáo dục, mở trường dạy
mọi ngành nghề, việc học dễ dàng, muốn
học ngành nào cũng được, chỉ thi tuyển,
việc thi tuyển cũng không khó khăn lắm vì
sĩ số còn ít. Mãi sau này, việc thi tuyển quá
gay go đôi khi đi đến chỗ vô lý, thi vài ba
ngàn, nhưng nhận không bao nhiêu. Thật
may mắn cho tuổi học trò của lứa tuổi
chúng tôi, được vậy còn thích đèo bồng
thêm, lựa trường tốt và có học bổng mới
chịu học, có thể xin vào các đại học như kỹ
thuật Phú Thọ, Quốc Gia Hành Chánh,
Nông Lâm Súc, Đại Học Sư Phạm, Quân
Y, ngành quân y mới vào là được lãnh
lương và gắn lon chuẩn úy ngay, các
trường trên đều được cấp học bổng khoảng
1500 đồng/tháng, số tiền này đủ cho một
sinh viên sống và giải trí chút ít. Đối với
một học sinh, sau khi đậu Tú Tài, thi tuyển
vào học một chuyên khoa nào đó thì ra
trường lương bổng hậu hỉ gần như việc làm
được bảo đảm suốt đời, thoải mái lắm chứ.
Đó là thời gian khoảng thập niên 60… Đối
với gia đình có bề thế, khá giả thì học
trường Dược, trường Y, Luật hay đi xuất
ngoại. Riêng tôi thì phải tự biên tự diễn,
mỗi năm về quê nghỉ hè vui quá, mắt không
thấy gì khác hơn là đi dạy, thấy mấy ông
thầy dạy học khỏe quá, được mỗi năm hai
tháng hè và mỗi tuần chỉ phải dạy 16 giờ,
mà dạy các lớp thi Tú tài thì cực hơn lại
được bớt thêm một giờ chỉ còn 15 giờ, tha
hồ mà đi chơi, muốn kiếm thêm tiền thì
thiếu gì trường tư. Với lối suy nghĩ này
đưa tôi vào nghề gõ đầu trẻ… Đến nay, sau
bao năm lăn lộn với cuộc sống Mỹ, lăn lóc
qua nhiều nghề, tôi vẫn yêu nghề godautre
của tôi, một nghề thật thánh thiện và vô tư.
Nhìn lại đàn con mỗi đứa làm một nghề sao
thấy bận rộn và xô bồ quá, ngay cả việc lựa
vợ của chúng cũng thấy khó khăn. Chỉ quen
biết năm ba người cộng thêm 8 giờ làm mỗi
ngày, chưa kể overtime và trực, tôi thường
trêu tụi nó, ba dạy học tuy nghèo nhưng
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 10
cưới vợ dễ lắm, không biết đẹp xấu thế nào
chứ ít nhứt cũng được theo ý mình.
Và nhiệm sở đầu đời của tôi là trường
trung học Bồng Sơn, Bình Định, tôi dạy ở
đất miền Trung nầy được hơn một năm rưỡi
trước khi đổi về dạy trung học Tống Phước
Hiệp/Vĩnh Long. Bồng Sơn đối với là tôi
bồng lai tiên cảnh, một thành phố đẹp, khá
sung túc, có con sông Lại Giang, có biển, có
núi, hướng tây là một dãy núi và hướng
đông cách biển không xa. Thời gian sống ở
đây thật ngắn ngủi nhưng tôi có cơ hội đi
khắp nơi từ thành phố Nha trang đến Quảng
Trị, mỗi miền một vẻ, cảnh vật hùng vĩ, núi
non trùng điệp….
Bãi biển Sa Huỳnh
Bãi biển miền trung tuyệt vời, bãi đẹp
phải nói là bãi Sa Huỳnh, nếu bạn đi xe lửa
từ Sa Huỳnh ra Quảng Ngãi là bạn đi dọc
theo biển xanh, bãi cát trắng xoá, mịn màng
và dài theo rừng thùy dương reo, phất phơ
trong gió.
Sau nhiều năm bôn ba ở hải ngoại, bãi
biển gần như đâu đâu cũng lạnh lẽo, bãi biển
Cali, dài hàng ngàn cây số, người thưa, kể là
bãi biển đẹp, nhưng đối với tôi quá lạnh, bao
năm sống ở Cali chỉ dám tắm đôi ba lần.
Còn ở châu Âu, biển cũng lạnh, mùa hè,
người là người nằm phơi nắng san sát, chán
chết, chỉ có những bãi “nude”, tò mò, ráng
đi cho biết với người, để người chê mình
quê mùa, biển Hawaii thì ấm, rất nhiều du
thuyền, nhà nghỉ mát sang trọng nhưng nó
cũng xa lạ sao ấy. Nhìn chung, với chút
chủ quan thêm vào khung cảnh quê nhà,
những chiếc ghe cá thô sơ, những xóm nhà
lá nhà ngói lưa thưa, tôi có cảm tưởng bãi
biển Việt Nam, bãi biển quê hương có dòng
nước ấm áp là đẹp hơn cả.
Lúc tôi còn đi học chỉ biết Trà Vinh quê
mình, Saigon và xa lắm là Vũng Tàu! Ở
Saigon chơi với các bạn học chung quanh
vùng phụ cận và nhứt là vùng Phú Lâm, câu
cá chèo ghe, hái bần. Vào năm 1954,
đường Hậu Giang, từ Chợ Lớn ra Phú Lâm
chỉ là khoảng đất trống và là những rẫy của
người Tiều trồng rau cải, vào dịp hè, mỗi
lần về quê Trà Vinh, sáng sớm, hành khách
và xe đò phải ra đường Hậu Giang chờ
khoảng đồn Cây Mai, đồn nằm giữa Phú
Lâm và Chợ lớn, hàng xe đò đậu hàng này
dài cả cây số chờ đến khi đoàn xe quân đội
đến mở đường, gỡ mìn, chướng ngại vật đi
trước rồi xe đò mới chạy theo sau trong lúc
chờ xe chạy, hành khách xuống ăn hàng,
các em bé, các bà bán hàng đủ các loại thức
ăn.
Quê tôi ở Trà Vinh, sinh trưởng ở một
làng có tên rất lạ ít ai biết là Ất Ếch, tên
người dân thường dùng, nhưng trên giấy tờ
có tên khá đẹp là làng Huyền Hội, khi lớn
lên cưới vợ, lại cưới nhằm một cô cũng quê
mùa không kém, cô nàng lại sinh ra ở làng
Cái Cao, tỉnh Cần Thơ, trước khi cưới vợ,
tôi chả biết Cái Cao là cái gì?
Theo cha tôi kể lại, sở dĩ làng tôi có cái
tên mộc mạc như vậy là khi lúc cha tôi còn
bé thì mỗi lần trời đổ mưa, chiều chiều
khúc nhạc đồng quê trỗi dậy ếch nhái kêu
inh ỏi, nhảy đầy đồng, đôi khi nhảy cả vào
nhà. Ếch nhái quá nhiều đến nổi người đi
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 11
soi nhái, gặp lúc nhái đang bắt cặp, người
soi chỉ bắt con dưới (con cái to và nhiều thịt)
và tha cho các chàng đực rựa, may mắn
thay! Nông dân mặc sức ăn ếch chiên và
nhậu rượu đế. Khi lớn lên, kiểm nghiệm lại
thấy lời nói cũng đúng vì lúc cha tôi còn bé
chắc khoảng năm 1910-1915, lúc đó đất còn
rộng người còn thưa. Đến năm 1930, dân số
khoảng hơn 10 triệu; năm 1954, Việt Nam
có 24 triệu dân; 13 triệu ở miền Bắc và 11
triệu ở miền Nam; đến năm 1975 dân số
tăng 50 triệu và đến năm 1990, VN có 80
triệu dân. Thời cha tôi còn bé dân số VN
chắc khoảng 5, 7 triệu dân số, vào thời này,
sau mùa gặt, khi ruộng khô các ao còn lại
đầy cá. Theo thống kê vào năm 1804, dân
số thế giới chưa tới 1 tỉ; 2 tỉ vào năm 1927;
3 tỉ vào năm 1959; 4 tỉ vào năm 1974; 5 tỉ
vào năm 1987; 6 tỉ vào năm 1998 và 7 tỉ vào
tháng 10 năm 2011. Quả đất bất ổn, khốn
đốn và khổ sở cũng vì sự gia tăng dân số
này…
Câu cá là một thú vui của bọn trẻ …
Ất Ếch, quê tôi sống chỉ là một làng
nhỏ, cách thành phố Trà Vinh khoảng 18
cây số, trên đường từ Trà Vinh lên Vĩnh
Long đến chợ Bình Phú (còn gọi là Láng
Thé) quẹo trái, đi thêm 4 cây số là đến.
Dân làng hiền lành, làng nằm bên góc của
một dòng sông thật nhỏ (khoảng 10m chiều
ngang) uốn cong, giữa làng là một nhà lồng
chợ, hai bên là hai dãy phố trệt, đầu chợ là
“ Nhà việc” là nơi các quan chức làng làm
việc, bên kia Nhà việc là một ngôi trường
nho nhỏ dễ thương, qua cầu bên kia sông có
Chùa Bà do người Tàu xây cất để cúng vái,
thờ phượng, chung quanh làng toàn là đồng
ruộng, trong làng, ông nội tôi có 2 tiệm
chạp phô (tạp hoá) sống khá sung túc và
cha tôi được lên Saigon học trung học
trường Tàu, tôi không biết học giỏi tới đâu,
nhưng suốt ngày chỉ thấy ông ngâm thơ và
đọc sách, tôi biết ông nội tôi từ bên Tàu qua
nhưng không biết trong hoàn cảnh nào?
Những nhóm người Trung Hoa vào Việt
Nam rất sớm, năm 1671 Mạc Cửu cùng một
nhóm thương buôn đến định cư tại Hà Tiên,
cũng khoảng thời điểm đó, cựu thần nhà
Minh chống nhà Thanh đến Việt Nam,
trong đó có Trần Thượng Xuyên và Dương
Ngạn Địch đến vùng Biên Hòa và Mỹ Tho,
tôi không biết ông nội, ông cố tôi qua vào
năm nào? Tôi nghĩ vì người Trung Hoa
qua Việt Nam bằng tàu, nên ta gọi người
Hoa là người Tàu, và nước Trung hoa là
nước Tàu, tổ tông tôi đã bỏ nước ra đi,
không chịu dừng lại các đô thị, thành phố
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 12
lớn như Saigon cho cuộc sống đỡ nhọc
nhằn, đã xuống đến Trà Vinh, không dừng
lại mà còn xuống đến làng Ất Ếch, một ngôi
làng hẻo lánh. Ông nội không biết tiếng Việt
có rành không mà lại cưới được một bà Việt
Nam, gia đình đất ruộng cũng nhiều, thế mới
tài!!!
Tôi sống ở xứ Ất Ếch đến 6 tuổi, cuộc
sống rất bình thản, suốt ngày lang thang ở
sân trường hoặc theo các anh lớn tuổi hơn ra
bờ ruộng hái cành trâm bầu để làm ná thung
bắn chim, hoặc ngồi dưới góc còng, một loại
cây khá lớn, hoa tím đẹp, cuống lá khi khô
có cái cù ngoéo để đá gà, cành ai gãy thì
người đó thua, trò chơi rất đơn sơ mộc mạc,
hoặc những buổi trưa hè, sau nhà là con
sông nhỏ khi sông nước ròng, dòng nước
sông nhỏ hẳn lại, hai bãi bùn khá rộng, nhìn
xuống bãi bùn hai bên, cả một thế giới nhỏ
thu hẹp, nào chuồn chuồn bay kiếm ăn, cua
nhỏ cua lớn chạy tung tăng, nhất là cá thòi
lòi chạy qua lại như con thoi, riêng tôi chỉ
chú ý đến những mảnh màu trắng hình cong
cong thỉnh thoảng nhô lên khỏi bùn, đúng
rồi, đó những mảnh màu trắng của trứng, lội
xuống bùn để lượm những quả trứng do
những cô vịt đẻ sót, đôi khi lượm được đôi
ba quả trứng, thật không có gì mừng bằng,
có những buổi chiều rảnh rang, cha tôi cùng
người bạn dẫn tôi đi câu rê, cuộc sống thật
vô tư thanh thản không bị áp lực, đua đòi,
mất cả tuổi trẻ.
Rồi thời buổi thay đổi, năm 1945, mới
6 tuổi chưa biết gì hết, tối tối vui quá, thanh
niên tiền phong của Việt Minh họp mặt ca
hát tưng bừng, nhà giàu trong làng hỗ trợ
phong trào đem quà tặng đủ thứ ngay cả tiền
vàng bạc. Rồi một hôm tiếng súng nổ, Pháp
trở lại đô hộ Việt Nam, cha tôi đưa gia đình
vào trong Kinh, đi sâu vào vùng Việt Minh,
một vùng xa chợ khoảng 3 cây số ở nhà của
ông cậu Ba để lánh nạn. Cha tôi còn lại ở
chợ để coi nhà, tối không có gì ăn, lần đầu
tiên tôi biết đói… Sáng hôm sau, cha tôi
vào đem cả gia đình ra chợ thuê sẵn ghe để
đi Trà Vinh lánh nạn, đó là một quyết định
cho định mệnh gia đình, nếu không thì đã
theo luồn sóng Việt Minh vào bưng luôn…
Mà có thể bây giờ tôi làm to lắm, hoặc đi tù
đày hay đã đi bán muối cũng không chừng,
không biết được sẽ ra sao???
Trên đường tản cư bằng ghe, đêm tối cả
gia đình phải nghỉ lại nhà người quen, ngủ
dưới mái hiên để được che sương, không
mùng, màn đêm buồn thảm, nửa đêm khuya
bỗng thức giấc, lòng hơi sợ, nhìn lên cành
cây gió đưa nhè nhẹ che khuất ánh trăng lúc
ẩn lúc hiện, tôi sợ ma, tôi đánh thức anh tôi
để đở sợ, hình ảnh ấy cho tới ngày hôm nay
vẫn còn trong đầu óc tôi, một kỷ niệm của
tuổi trẻ tôi không bao giờ quên.
Sau này trưởng thành mới biết năm
1945, chính trị Việt Nam rối bời, từ năm
1941 trở đi, quân đội Nhựt trở thành người
chỉ huy Đông Dương. Năm 1943, Nhựt
chiếm lấy chủ quyền của Pháp ở Việt Nam
và bắt giam tất cả quân đội, chính quyền,
dân Pháp ở Đông Dương và dựng lên chánh
phủ Trần Trọng Kim với sự đồng tình của
vua Bảo Đại, đến tháng 8 năm 1945, Nhựt
thua trận, trao Việt Nam lại cho liên quân
Anh-Pháp theo sự thỏa thuận của Đồng
minh, Việt Nam trở nên rất khẩn trương và
rất cấp bách. Chính phủ Trần Trọng Kim
không còn thích ứng với tình hình mới,
trong khoảng thời gian này, cộng sản Việt
Minh, với sự hổ trợ của Tàu và Nga đã
công khai tuyên bố độc lập. Đến tháng 8
năm 1945 vua Bảo Đại trao quyền cai trị
quốc gia cho Cộng sản Việt Nam, từ đây
cuộc tranh chấp chính quyền đẫm máu giữa
Pháp và Việt Minh, Pháp từ từ chiếm lại
các thành phố ở Việt Nam…
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 13
Tản cư sống ở tỉnh thành Trà Vinh, cuộc
sống trở nên eo hẹp, chỉ ra khỏi thành phố
vài ba cây số là mất an ninh, thanh niên Việt
Nam dễ bị nghi kỵ, Pháp dễ dãi và tin tưởng
người Hoa hơn vì họ ít quan tâm đến chính
trị, người Hoa thường lập thành bang để tiếp
xúc với chính quyền, bang Quảng Đông,
bang Tiều, bang Hẹ, bang Phước Kiến và
người đứng đầu mỗi bang thường gọi là ông
Bang (bang trưởng) được nhiều ưu đãi của
chính quyền. Người Pháp dễ dãi cho người
Hoa buôn bán và cho người Hoa giữ quốc
tịch Hoa, vì thế mà người Hoa vào thời này
không phải bị động viên, lúc bấy giờ thanh
niên Việt Nam bị động viên làm nghĩa vụ
công dân, trong lúc thanh niên người Hoa
được kể là người ngoại quốc, không phải đi
lính, luật lệ này được áp dụng trên toàn quốc
từ Bắc xuống Nam.
Chính quyền Pháp còn cho phép mỗi
tỉnh mở trường Hoa dạy tiếng Hoa, riêng ở
Chợ Lớn thì có nhiều trường Hoa rất đồ sộ,
tiểu học lẫn trung học, đặc biệt có cả một
trường trung học lớn dạy toàn tiếng Pháp và
tiếng Hoa (Hoa gọi là trường Trung Pháp,
Pháp gọi trường “Franco Chinois”), để đào
tạo các viên chức cho các cơ quan hành
chánh hay thương mại của guồng máy cai trị
Pháp, sau này trường được đổi tên thành
trường Bác Ái, trường này nằm ở khu đất rất
rộng, giữa đường Thành Thái và Nguyễn
Trải, trước trường Quốc Gia Sư Phạm cũ.
Từ lúc chiếm được Việt Nam, chính
phủ Pháp kềm chế nền giáo dục Việt Nam,
hầu hết miền Nam chỉ toàn các trường tiểu
học, chỉ vài tỉnh lớn có trường trung học
thôi. Mãi đến năm 1954, sau hiệp định
Geneve, đất nước chia đôi, Pháp bắt đầu mất
thế lực ở miền Nam, tổng thống Ngô đình
Diệm mới áp đặt bắt buộc tất cả mọi người
Hoa phải nhập Việt tịch và có đủ quyền lợi
và nhiệm vụ như người Việt, từ đây người
Hoa phải thi hành nghĩa vụ quân sự như
người Việt, tôi không biết rõ sau năm 1954
ở miền Bắc người Hoa có phải thi hành
nghĩa vụ này không, trong Nam người Hoa
nếu muốn giữ quốc tịch Hoa thì không
được hành 11 nghề, trong tiến trình thay đổi
này, bộ giáo dục cho Việt hóa các trường
Hoa bằng cách dạy tiếng Việt nhiều hơn và
đây là nền tảng của sự thành lập trường
trung học Mạc Đĩnh Chi. Vào năm 1957,
khi mới khai giảng, nhân viên nhà trường
phải khuyến khích và khuyến dụ các học
sinh Hoa vào học vô điều kiện, dần dần khó
khăn hơn vào học phải thi tuyển, nhưng thí
sinh người Hoa vẫn được ưu tiên thêm một
số điểm, để rồi Việt hóa hẳn sau vài năm…
Lúc khởi đầu chỉ mở lớp Đệ thất và Đệ
lục (lớp 6 và lớp 7), đến năm 1970 trường
có 10 lớp từ lớp Đệ thất đến Đệ tứ, 6 lớp từ
Đệ tam đến Đệ nhị và 4 lớp Đệ nhất, trường
không đủ phòng ốc và để tăng sĩ số, giúp đở
cho học sinh nghèo, sau này bộ giáo dục
cho mở thêm rất nhiều lớp đêm, một phòng
ốc được xử dụng cho 3 lớp, sáng, chiều và
tối, vị hiệu trưởng đầu tiên tốn rất nhiều
công sức cho trường Mạc Đĩnh Chi (1957)
là cụ Đỗ văn Trần…
Tuổi trẻ hiện nay sống bị rất nhiều áp
lực, có những em sau khi học ở trường, sau
giờ học phải đi học nhạc, thể thao, võ thuật
…tối mới về, lớn lên phải học ngày học
đêm để thi vào các trường danh tiếng, cuộc
sống này là hậu quả của đà dân số địa cầu
gia tăng quá mức. Nghĩ lại, thấy tuổi trẻ
mình sướng quá, không phải khổ như nhiều
người nghĩ, không cần xe đưa rước, không
giờ giấc nghiêm khắc, tới giờ học là tự mặc
quầo áo rồi đi, đi sớm đi muộn gì cũng
không ai biết, đầu hớt ca rê (hớt ngắn) để
cho sạch, áo mặc thế nào cũng được, 1 giờ
trưa mới học mà 11 giờ đã đi, để ngồi
xuống lề đường dưới hàng me già gốc rất to
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 14
mà tôi không biết có từ thuở nào? Con
đường mà tôi muốn nói là con đường nằm
giữa trường tiểu học Trà Vinh và dinh tỉnh
trưởng, hai hàng me vệ đường rợp bóng mát
cho con đường nhựa dài hun hút. Vào mùa
gió Tết, gió Tết hây hây, me rụng lộp độp,
mặc sức mà lượm, bấy giờ quá bé chưa hiểu
được “cảm giác” và cũng chưa biết mùi vị
“phủi nhẹ lá me trên vai em gầy”. Ai sống ở
Trà Vinh mà không hưởng được cảnh vị này
thì quả thật là thiếu sót, cuộc sống an nhàn
thảnh thơi, cuối tuần đi chơi ở ao “Bà Om”,
đây là ao quá lớn đối với một trẻ 10 tuổi.
Ao Bà Om
Theo tục truyền của người Miên thì ao
này được tạo nên do sự thi công tranh đua
đào đất của phái nam và phái nữ tạo nên …
Đến mùa mưa, đây là cả một ao sen mênh
mông, mùa sen nở, khung cảnh màu sắc rực
rỡ, chung quanh ao được bao phủ bởi những
tàng cổ thụ gồm cây dầu, cây sao cao vút tạo
đầy bóng mát chung quanh bờ hồ, có những
cây, đất bị nước mưa cuốn trôi đi để lại
những cái rễ cao cả thước trông rất là lạ, ao
này, cuối tuần là nơi tụ họp của thanh nam
nữ tú hay những cặp tình nhân đến tình tự,
ngồi quán cóc cà phê. Ra khỏi ao Bà Om
không xa lắm, đi qua con đường tráng nhựa,
theo con đường làng vào chợ Sâm Bua cũng
là nơi thường xuyên các học trò vào hái
trâm, quả to bằng ngón tay cái, khi chín trổ
màu tím, ngọt lịm, ăn xong lưỡi cũng trổ
màu tím của quả trâm. Vào những ngày hè
nóng bức, chúng tôi đi Vàm, nằm cạnh bên
con sông mênh mông, gió mát, nằm võng
đong đưa để uống nước dừa Xiêm tươi mát,
còn muốn tìm nguồn vui khác, có thể rủ vài
ba đứa bạn qua ruộng ở Đầu Bờ vớt cá thia
thia…
Tôi tuy đi lang thang, chơi nhiều, nhưng
may mắn được thầy cô thương mến, thầy cô
càng thương mến thì mình càng hãnh diện
nhưng lại càng cực, thầy cô sai bảo làm đủ
chuyện, từ chuyện mỗi ngày phải viết bài
trên bảng đen đến sáng thứ bảy nào cũng
phải đến nhà thầy cô để cộng sổ. Viết tới
đây tôi cũng cảm một nỗi buồn man mác
vừa nhớ quê nhớ ơn quý thầy cô và nay các
thầy cô chắc đã ra người thiên cổ, học ở Trà
Vinh cũng có những cái vui vui, cũng vào
ban nhạc của trường do thầy Hợi hướng
dẫn, tôi trong ban nhạc với cây đàn
mandoline là được các cô bé đồng tuổi biết
nhiều lắm rồi, ban nhạc này được trình diễn
ở tòa tỉnh hay vào những dịp phát phần
thưởng trước khi nghỉ hè, trong điệu vũ bài
“Nụ cười sơn cước“. Hình ảnh của một cô
gái tên Bạch Liên, tóc hơi uốn ngắn, trong
bộ áo bà ba với điệu múa lả lướt, mà tôi vẫn
nhớ mãi đến ngày nay…
Ngoài những kỷ niệm êm đềm của tuổi
thơ, tôi cũng không quên những cảnh đau
thương, khoảng 1948, chiều chiều, phòng
nhì Pháp dẫn những người tù tử tội đi
ngang qua nhà tôi xuống đầu cầu và sau đó
là những tiếng súng nổ… xác đẩy xuống
sông.
Sau khi xong học xong tiểu học, lần đầu
tiên lên Saigon, đường đi khoảng 200km,
phải qua bắc Mỹ Thuận. Xa nhà lần đầu
tiên, Sàigon đối với tôi quá xa, phải đi suốt
ngày mới tới, đường xấu, mệt mỏi, vì chưa
quen đi xe lại bị nôn mửa. Tôi lên ở nhờ
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 15
người cậu để đi học ở đường Hồng Bàng
(xưa tên là Charles Thompson), hơi đối diện
với trường Hồng Bàng, mỗi ngày phải đạp
xe ra Petrus Ký học, kỷ luật quá nghiêm,
một lần bịnh xuống phòng y tế, gặp ông
Hiệu trưởng nói chuyện với ông y tá toàn
bằng tiếng Tây, tiếng u nghe rốp rốp, ớn
quá! Lúc bấy giờ bạn bè học chung trường
ở vùng Chợ Lớn rất đông và thường đi chơi
chung, đá banh, ăn uống nhứt là ra vùng
ngoại ô Phú Lâm.
Sau hiệp định Geneve 1954, cả hai
miền Bắc Nam đất nước rất bận vì chuyển
qua chính quyền mới, phong trào di cư,
nhưng người dân miền Nam bấy giờ nhứt là
vào tuổi học trò như chúng tôi rất thoải mái,
đi chơi khắp mọi nẻo đường. Từ Trà Vinh
tôi cùng bạn bè xuống Ba Động chơi (một
bãi biển cách thành phố khoảng hơn 25 cây
số), đất nước thật thanh bình, tình trạng nầy
kéo dài đến năm 1957, vùng xa xôi bắt đầu
mất an ninh…
Học Petrus Ký khô khan quá, vô trường
thì kỷ luật, thầy cô thì nghiêm trang, sáng
sáng, cứ chiếc xe đạp chờ ngoài cổng,
chuông reo thì cổng mở, theo lịnh thầy giám
thị đem xe đạp vào chỗ để xe đạp, đồng
phục hẳn hòi, xếp hàng vô để xe đạp rồi mới
vào lớp, vào lớp phải đứng dậy khi thầy đến,
khi thầy khoác tay cho phép ngồi xuống mới
được ngồi. Cả trường không một bóng hồng,
chỉ có vài chị lớp 12 năm cuối cùng, trông
khá nghiêm trang, thấy nể chứ không dám
thích. Khi xưa thấy ai dạy Petrus Ky oai
quyền quá, già mới thấy bất hạnh cho ai dạy
Petrus ký từ khô khan đến héo!
Sau 4 năm học, việc học cũng dễ và
được suôn sẻ, vào thời này, khoảng năm 57,
58, mặc dù ở dưới quê bắt đầu mất an ninh,
nhưng không trầm trọng lắm. Nhờ viện trợ
dồi dào của Mỹ, nếp sống của người dân
miền Nam khá sung túc, dưới quê đã có ghe
máy đuôi tôm, máy phát điện, thành phố
nhiều xe “mô bi lết”, các cô thì chạy xe “vê
lô xô lex”. Tôi còn nhớ lương của quân
nhân và thư ký hằng tháng trên một ngàn
đồng, một người giúp việc nhà khoảng 300
đồng, một bao gạo chỉ xanh (100Kg) giá
300 đồng trong lúc một vị giáo sư dạy Đại
học giờ phụ trội được trả 300 đồng, một xã
hội mới được mở rộng để thay thế cho một
xã hội cũ kỹ, hẹp hòi, ù lì vì bị Pháp cai trị
trong bao năm qua, nền giáo dục giam hảm
đến nổi học lớp nhì (lớp 4), phải mất 2 năm
để lên học lớp nhất (lớp 5) bằng trung học
Đệ nhất cấp cũng có hai loại, gọi là
“Diplome” (bằng Thành Chung), hoặc là
Brevet (dễ dãi hơn, dành cho dân tây), một
học sinh thi Tú Tài có khi trượt 3 năm chỉ
vì thi hạch miệng (thi orale).
Trường Mạc Đĩnh Chi được chọn là
trường Trung học Tổng hợp, chương trình
này được cải tiến để nền giáo dục Việt Nam
được thực dụng và tránh lối học từ chương,
tôi được chọn trong phái đoàn gồm 12 hiệu
trưởng trung học tổng hợp để quan sát và
tìm hiểu tổ chức và điều hành của một
trường trung học tại Hoa kỳ. Chuyến công
du này mất 4 tháng đi rất nhiều tiểu bang
nhất là ở vùng đông bắc nước Mỹ, đi từ các
trường ở thành phố lớn, đến các trường ở
làng quê chỉ chừng vài trăm dân. Ở những
vùng quê, đất quá rộng, từ nhà đến trường
phải mất vài miles, các học sinh buổi sáng
phải lái xe tụ lại một địa điểm nào đó, để
cùng đi chung một chiếc xe (school bus)
đến trường. Chúng tôi cũng được viếng thủ
đô người da đỏ và các trường học ở đây,
trường nơi đây cũng nghèo và một lớp học
cũng đông đúc, lớp học sĩ số cũng 50, 60
giống như Việt Nam mình. Trong một dịp
nghỉ cuối tuần, một người Mỹ đã từng làm
việc ở Việt Nam mời tôi đến nhà chơi,
trong buổi trò chuyện ông nói là người
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 16
Pháp không có làm được gì cho Việt Nam
sau 100 năm đô hộ, mà người Việt lại thích
người Pháp? Câu hỏi này làm tôi suy nghĩ
nhiều, sâu hơn, mà thật vậy, người Pháp chả
làm gì hết ngoài vài mươi cây cầu sắt, vài ba
con đường nhựa và một nền giáo dục như
nói đoạn trên chỉ đào tạo một số người nói
tiếng Pháp để sai khiến cai trị, để lại một
nền văn minh chia rẽ Nam, Trung, Bắc, sau
đó bỏ lại 20 năm chiến tranh đẫm máu tàn
khốc và một mớ rối bồng bông tồn tại cho
đến ngày nay.
Là một học sinh trong gia đình không
khá giả lắm, cha mẹ phải nuôi 4 anh chị em
đi học, tuổi mới lớn, phải tự lo cho cuộc
sống, ngày nghỉ thường lang thang với bè
bạn, làm gì cũng tự quyết định, ít khi tham
khảo ý kiến của gia đình vì ở dưới quê,
nhưng nếu có hỏi thì chắc gia đình cũng
không giải quyết được gì nhiều.
Dường như tôi đậu Trung học đệ nhứt
cấp cũng rất cao vào năm 1957, với trình độ
này, các học sinh có thể nhập ngủ học khóa
sĩ quan, có thể thi vào trường Cán sự Công
Chánh, Cán sự Y tế, Cán sự Nông Lâm Súc,
Quốc gia Sư phạm hoặc học lên cao thi Tú
Tài, Việt Nam lúc đó thường nghề lựa mình
nhiều hơn là mình chọn nghề. Thi cử xong,
bạn bè thì cứ rủ đi chơi, với luận điệu: “cứ
đi thi chơi thử sức, đậu rồi không học thì
chết ai”, một đám tôi 5 đứa, bộ 5 cùng lớp
đều thi đậu vào trường Quốc gia Sư phạm,
vì ham vui. Một luận điệu khác: “đậu rồi
mà không học thì uổng”, bạn bè đâu bỏ nhau
được, và nhất là mỗi tháng được 800 đồng
mặc sức phong lưu, lần đầu tiên làm ra tiền
mà! Tôi rất buồn tiếc phải bỏ trường Petrus
Ký, vì khó xin vào và cũng là điều hãnh diện
cho gia đình, nhưng quyết định của chúng
tôi không sai…
Trường Sư Phạm dạy dễ và quá dở,
chán nản vì nhàn rỗi, nhưng đã lỡ làng,
không trở lại được, tôi vô lớp chỉ ngồi bàn
cuối lớp để điểm danh cho có mặt, bọn tôi
lấy một phần tiền học bổng để đóng học phí
cho trung tâm Khuyến Học lớp đêm do bộ
Giáo Dục mở, ở đường Lê văn Duyệt, để
khuyến khích những người ham học. Sau
giờ học, mỗi ngày phải cuốc nửa giờ xe đạp
ra trường học. Ngay năm đầu tôi may mắn
đậu Tú Tài 1, năm thứ 2, tôi đậu Tú Tài 2
và rồi cả 5 chúng tôi đều có niềm vui là đậu
vào Đại học Sư Phạm…
Cuộc sống cứ trôi qua với nghề thầy
giáo, cưới vợ, sinh con, xã hội chiến tranh
triền miên, đầy tang tóc, các học sinh cũ tin
tức tử trận hằng ngày, ngày Saigon sắp mất,
tôi không đi, có lẽ vì lương tâm nhà giáo
còn trìu mến với đất nước, hi vọng sau
chiến tranh với mảnh đất quá phì nhiêu, làm
ít ăn nhiều, vị trí địa dư tốt nhất vùng Đông
Nam Á sẽ sớm trở nên cường thịnh?
Rồi miền Trung mất… Rồi Saigon
mất…
Với chính sách nhà nước xã hội chủ
nghĩa thời bấy giờ con cái “Ngụy” không
được vào đại học. Chắc cũng có chút máu
giang hồ của tổ tiên để lại, tôi ra đi với hai
con ngây thơ, thật bé bỏng còn trong vòng
tay mẹ… Tôi thật cám ơn Trời Phật cho gia
đình tôi được đến bến bờ bình yên, trong
việc ra đi này cái rủi nhiều hơn cái may,
nếu không nói là thập tử nhất sanh, tới bờ
bến cũng không phải là hay, bị bắt lại hay
làm mồi cho cá cũng không phải là dở, mà
chỉ biết cầu khẩn và cầu xin ở Ơn trên.
Mất hết tài sản để đến Mỹ, tôi lại nghĩ
đến những người bạn Bắc của tôi, chúng tôi
trắng tay một lần, các bạn trắng tay 2 lần.
Nghĩ lại chưa có một dân tộc nào, thế hệ
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 17
trước bị đô hộ, bóc lột và thất học, thế hệ
của chúng tôi, giặc giả triền miên, dân chúng
tràn đầy đau khổ, thanh niên không biết tuổi
trẻ là gì! Như ếch ngồi đáy giếng, được
chiếc đồng hồ, một cái áo mới vào dịp Tết,
một cái đùi gà để ăn vào dịp cúng quảy,
được chiếc “mô bi lết” chạy trên con đường
tráng nhựa phẳng là sướng tỉ tê rồi, hạnh
phúc lắm rồi, nhưng biết đâu nhờ năm ba cái
hạnh phúc nho nhỏ đó mà mình cảm thấy
vui, can đảm sống.
Đến Mỹ, bơ vơ, ngột ngạt với cuộc
sống mới, trên xe từ phi trường về nhà, chạy
ngang qua cầu nhìn xuống xa lộ, đứa con
trai gần 3 tuổi, thấy cả dòng xe chạy chỉ bảo
ba coi xe đồ chơi nhiều quá, mà đúng vậy,
đó là cái nhìn của trẻ 3 tuổi. Đến Mỹ, kể
như được sinh lại lần thứ hai, rất mừng
nhưng thật đa đoan ở tuổi 40, việc lớn thì
không làm được, việc nhỏ cũng làm không
xong, cũng đã từng mở nhà hàng, không thất
bại, cũng không thành công, nghề cực quá,
thầy giáo chịu không nổi, khách ăn về trễ
cũng càu nhàu, bị Mỹ đen gạt gẫm cũng
không biết, cứ mỗi lần nàng đặt mua một
món đồ ăn về sở, thì có phone lại phàn nàn
là có con ruồi để được một phần ăn khác
không tính tiền… Cũng có nghĩ đến một
nghề khác, sửa xe thì thấy bánh xe to quá, sợ
quá, khiêng không nổi, nghề bán nhà cửa,
nghề bán bảo hiểm thì phải lanh lợi và phải
nhiều mánh khoé, điều tốt khoe, điều xấu thì
lấp, cũng không hạp, chỉ còn chút chữ nghĩa,
đi dạy lại cũng không xong, phải học lại lấy
“credentials” mới đủ điều kiện dạy. Đối với
những người lớn tuổi có trình độ Đại học,
qua Mỹ cái khổ nhất là học lại làm thầy
giáo, dược sĩ, bác sĩ và nhất là luật sư trở
ngại nhất là ngôn ngữ, bạn bè tôi cũng là bác
sĩ, mới qua đi học lại nói lại mỗi lần nghe
Mỹ gọi “phone” là muốn run lên, nhiều
người rất thành công khi học lại lấy bằng,
lợi tức cao, nhưng thường làm việc với cộng
đồng ngưới Việt. Họ cũng khó gia nhập
cộng đồng Mỹ, mình nói chữ nào ra chữ
nấy, Mỹ nó nói tin tức, chính trị, kinh tế
mình còn hiểu được, còn về thể thao, chửi
thề thì chào thua, đó không kể tiếng lóng và
nói chữ còn chữ mất, còn những người học
kỹ thuật hay kiến trúc thì có phần thoải mái
hơn trong việc làm chuyên về kỹ thuật vì ít
dùng ngôn ngữ.
Tôi đến Mỹ được may mắn vào lúc
ngành điện tử đang lên, phải kiếm tiền gấp
để nuôi vợ con, tôi vào học trường CDI,
một trường chuyên dạy điện tử, sau 6 tháng
tốt nghiệp, tôi đi xin việc, bao nhiêu là chỗ
nhận… Sau cùng tôi làm cho một hãng rất
bề thế là NCR (National Cash Register),
hãng này trước 1975, có trụ sở ở Saigon,
mà bạn bè thường đùa là văn phòng của sở
“Người Cày có Ruộng”, kế rạp hát Olympic
đường Hồng thập Tự. Vì là thời điện tử mới
chớm nở, nhu cầu rất cần. Đó là năm 1981,
lúc đó hãng trả tôi 5.5 đồng/giờ, mặc sức
làm giờ phụ trội, đời sống trở nên dễ dãi
lần, giá sinh hoạt rẻ, tôi còn nhớ mua một
thùng cam lớn giá chỉ 5 đồng… Cuộc sống
cứ trôi dần...
Tuy kiếm ra tiền, nhưng đồng lương
còn quá thấp so với tiêu chuẩn của Mỹ,
không đi chơi, không ăn nhà hàng, chỉ dẫn
vợ con ra “park” chơi vào cuối tuần, không
“shopping”, mà đi “thrifty” (tiệm bán đồ
cũ), đi làm đem theo thức ăn cho buổi ăn
trưa, nhưng tôi cảm thấy cuộc sống khá đầy
đủ, nhà cửa êm ấm vợ con đề huề. Lúc ở
Việt Nam chỉ mong ra nước ngoài, đi hái
dâu sống cũng chịu, hiện tại thì được quá
hơn ý muốn rồi chứ! Hạnh phúc lắm chứ!
Nhưng tâm tư thấy sao sao đó, khó diễn tả,
mỗi ngày ra vào nhà, cứ gặp hàng xóm thì
cứ “hai” (“hi”...) qua rồi “hai” lại hoài mà
thân mật không được, không phải tại hàng
xóm thiếu thiện cảm, họ rất tốt với hàng
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 18
xóm, mà tại mình, văn hóa, phong tục không
giống và nhứt là ngôn ngữ, gặp Mỹ tiếng
nào ra tiếng nấy, có thân mật thì cũng trong
điều độ, không mày tao như bạn bè, đi ra
dạo phố, hàng tốt bán la liệt, bãi biển trãi
dài mênh mông, đẹp đẽ, sạch sẽ, các thắng
cảnh như Grand Canyon, Yellow Stone, thì
đúng là kỳ quan của thế giới nhưng bà xã tôi
vẫn nói sao thấy xa lạ và không thấy đó là
của mình …
Sau hơn 30 năm sống ở Mỹ, sau khi hưu, tôi
quả cảm thấy bơ vơ. Ở Mỹ hay đi các nước
khác chơi, đố ai đoán được tôi là người gì?
Đa số nghĩ tôi là Tàu hay Nhật và hiện tại
con cái tôi cũng bơ vơ như tôi, có đứa sinh
tại Mỹ, nếu ai hỏi anh là người gì, nếu trả lời
tôi là người Mỹ, người bạn sẽ cười, người
Mỹ sao quá nhỏ không giống Mỹ mà nếu nó
trả lời tôi là người Việt thì sao nói tiếng Việt
lơ lớ…! Điều đó cho tôi cảm tưởng rằng đa
số người Mỹ chưa chấp nhận mình vào cộng
đồng Mỹ mà là người ngoại cuộc, biết đâu
trong thâm tâm họ vẫn còn cho mình là
người ăn đậu ở nhờ và còn có thể mình còn
đang hưởng trợ cấp của xã hội của họ, đó là
không kể bao nhiêu sự hiểu lầm và kỳ thị
khác…
Với tuổi về hưu, nhàn rỗi, tôi cố tìm
hiểu lại lai lịch tôi trong xã hội, người Việt
thường chê Nhựt là thực dân, giống như quả
chuối, lòng dạ thì trắng, cách sống của
người da trắng, nhưng da vàng, mũi vẫn tẹt.
Mỗi người có cái cốt (tạm dùng như vậy),
cốt sinh học (“biology”) sẽ không sửa đổi
được, người Việt Nam mà có tóc nhuộm
thành vàng, và mắt sửa thành xanh sẽ không
giữ được mãi mãi, màu tóc và mắt từ từ sẽ
đen lại, vì đó là cốt sinh học của con người.
Con người sống ở xã hội nào đào tạo thì sẽ
được đào tạo theo xã hội đó, ta tạm gọi là
cốt xã hội, cốt tính này sẽ thay đổi dần theo
xã hội nơi mình đang sinh sống. Thanh niên
Việt Nam sống ở các nước ngoài thì tùy
theo nhịp độ gia nhập ở đó, qua lúc 5 tuổi,
10 tuổi, hay sinh ở Mỹ …sống nơi địa
phương cộng đồng người Việt nhiều hay ít,
nhịp độ nhanh chậm còn tùy vào phong tục
tập quán của cuộc sống gia đình, cha mẹ rất
nhiều. Ở Mỹ, người lớn tuổi nếu sống vùng
chung quanh Phước Lộc Thọ và chỉ dùng
tiếng Việt cũng thoải mái được.
Sống ở Việt Nam đến 40 năm, 30 năm
sống ở Mỹ, tính ra ở Việt Nam vẫn lâu hơn
ở Mỹ. Những kỷ niệm cũ của tuổi thơ, sức
khỏe của tuổi trẻ, những thương trộm nhớ
thầm, ước mộng tương lai, vợ đẹp con
ngoan, những buổi rong chơi trên bãi biển
Vũng Tàu, những vườn cây đầy trái ngọt
lịm, mãng cầu dai, chôm chôm, nhãn …
Tất cả các kỷ niệm trên dù muốn dù không
vẫn không phai nhòa trong trí óc, vẫn mãi
còn trong ký ức. Qua đến Mỹ thì mọi việc
đã an bài, chỉ kiếm đồng tiền nuôi vợ con,
phập phòng cho cuộc sống, rồi mọi việc
cũng an bài cho đến ngày về hưu….
Riêng tôi không có gì vui thích bằng
lúc về hưu, về hưu là lúc mình cố bỏ ra
ngoài mọi phiền toái của cuộc sống nhưng
đồng thời suy nghĩ nhiều về cứu cánh của
cuộc sống, là lúc mà mình có thì giờ đọc
sách, gìn giữ sức khoẻ, dùng “internet”,
uống cà phê, đánh cờ với bạn bè, vui chơi
với đàn cháu, nhưng sướng là không còn
trách nhiệm với chúng, cũng hạnh phúc nhờ
bà xã luôn luôn tôn trọng ý thích của tôi, tôi
cũng cảm ơn đất nước đã cưu mang tôi và
cho tôi có cuộc sống thoải mái của ngày
hôm nay. Tôi cũng thích về Viêt Nam, để
thăm lại nơi chôn nhau cắt rún, những nơi
mình ra dạy lúc đầu đời, những danh lam
thắng cảnh mà thời chiến chinh mình không
đi tới, trò chuyện với bác xích lô, chị bán cà
phê vĩa hè, tìm hiểu nếp sống và hiện tình
của đất nước mình, có dịp nói lại tiếng Việt,
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 19
cũng thích thú lắm chứ. Nếu có nhìn lại
cảnh đái đường, trộm vặt, cũng không bực
dọc chê bai mà còn thông cảm, thương tâm
cho một xã hội còn nghèo nàn, và nếu tôi
sống tại đây, tôi cũng sẽ như bao nhiêu
người thân yêu này, dù sao cũng là một đất
nước ôm ấp cưu mang mình hơn 40 năm
trời, bảo quên đi làm sao được. Đi du lịch
các nước châu Âu, chỉ cởi ngựa xem hoa,
những lâu đài xưa cổ, những vẻ đẹp của
dòng sông Seine, những khách du lịch “bô
lô ba la” mình cũng không muốn trò chuyện,
cũng không có gì dính dấp đến họ, ngay cả
tour Eiffel, Ga Lyon, Grand Canyon, New
York cũng ngắm nhìn một cách vô cảm...
Chuyện về Việt Nam thường là tạo dị
ứng nơi các bà, điều này thật không sai chút
nào, bao gia đình tan vở về việc này, nhưng
cũng có nhiều bà thích về Việt Nam vì là nơi
chôn nhau cắt rún, là nơi để tình tự dân tộc.
Việt Nam vẫn mãi mãi là con người và đất
nước Việt Nam cũng chỉ là da vàng mũi
tẹt… Xuân đến, gió trở mùa khi gió bấc thổi,
khí trời khác thường, áo quần phơi rất chóng
khô, mai, cúc, vạn thọ tạo nên khung cảnh
vàng tươi rực rỡ không bao giờ quên…
Càng lớn tuổi càng rảnh rang càng thấy
nhớ… Định chế chính trị của bất cứ một
quốc gia nào, cũng chỉ là giai đoạn, Việt
Nam đã nuôi tôi hơn nửa cuộc đời, cuộc
sống, kỷ niệm tốt xấu cũng đã đi sâu vào
tiềm thức của tôi rồi! Giờ phải sống với xã
hội Mỹ, dù có triệu triệu phú đi nữa, chắc
hẳn phải cảm thấy nhiều bơ vơ, nếu mình
không cảm thấy bơ vơ, là mình hơi bất bình
thường hay mình tự dối lòng??? Nói về dị
ứng của các bà đối với các ông chồng về
Việt Nam, tôi xin mách quý bà một toa
thuốc, tôi đọc lóm được trong quyển “Sống
đẹp” của Nguyễn hiến Lê:
Thời xưa, có một doanh nhân về già
muốn cưới một người thiếp để hầu hạ, người
vợ buồn quá viết mấy câu thơ khuyên
chồng:
Lấy một nắm đất sét,
Nắn thành hình anh,
Đắp thành hình em,
Rồi đập phá cả hai, nhào chung lại,
Lại nắn thành hình anh,
Lại đấp thành hình em,
Trong chất đất của em có anh,
Trong chất đất của anh có em…
Với bài thơ quá chung thủy và chắc
cũng chiều chồng lắm lắm, làm ông chồng
cảm động, thôi không cưới thiếp nữa…
Chiều chồng và chung thủy là toa thuốc
tuyệt vời đó, các bà suy nghĩ lại coi mình
đã tròn bổn phận chưa? Còn nếu toa thuốc
này không hiệu quả, thì tôi mách cho các bà
toa thuốc khác, khi ông chồng về, cửa đóng
then gài, cho ổng ngủ ngoài sương lạnh một
đêm cho tởn, cho đáng đời đàn ông hư đốn,
viết câu này chắc tôi được điểm rất cao của
bà xã, bà cũng vui, vì có được ông chồng
quá xứng đáng, vui cả làng, phải vui chứ,
mà không biết kết quả ra sao? Biết đâu sau
đêm lạnh lẽo, ông già bị phạt xong, cũng
vui luôn, và sau đó ông còn tính toán gì
nữa… Lòng người ai biết được, hì, hì…nếu
không được như ý thì tôi cũng chào thua,
đời người như gió thoảng, như mây bay
giữa lưng trời, nhưng cũng là phân bón của
thiên nhiên, hãy tận hưởng, đừng thét mét
nữa người ơi!
GS : Lý Di
Mùa xuân 2012
Hiệu Trưởng TH MĐC
Sài Gòn 1969 -- 1975
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 20
*****************************
Trang Thơ
Nhược Thu
Xuân Đau
Ừ thôi em đợi hay không đợi Anh hái mây bay để gói quà Chẳng gói nụ hôn vào gió nữa Chỉ là dăm ký nắng thêu hoa Ừ thôi em thích hay không thích Nắng cũng đi qua cuối phố chiều Gió cũng xôn xao cười tóc xỏa Áo vờn theo bóng cũng xiêu xiêu Ừ thôi em bực hay không bực Ly đá làm sao rửa được buồn Khi đã đóng băng vào giấc mộng Mộng tan thành nước dở dang tuôn
Ừ thôi em trách hay không trách Ly đá còn đâu nước đã trào Em rót nụ cười bông tuyết nở Anh cầm thơ hứng rớt Xuân đau Nhược Thu ................................
Nắng Xuân Xa
Anh về giữa buổi sắp bình minh Nghe tiếng chim reo rất gợi tình Gợi cả một mùa xuân lũ thứ Bên trời đông lạnh nắng lung linh Nắng của quê mình anh để lại Sưởi hồng môi má của em xưa Em soi một nửa còn phân nửa Cất để làm chi kẻo lỡ mùa Mai mốt anh về cho nắng khác Nắng màu em giữ để tô môi Nắng trong em lắp vào đôi mắt Nắng úa dành cho lúc dỗi đời .... Còn nắng xuân này anh lỡ mượn Khi về sẽ trả một thành hai Vì xuân nào cũng như xuân nấy
Nắng ở trong lòng sao cứ phai NhuocThu
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 21
Nhược Thu……….
và những Tập Thơ đã
xuất bản …
Tên thật: Tạ văn Hiến
Nơi sinh:
Lịch Hội Thượng Ba Xuyên.(Sóc Trăng).
Theo học tại trường Mạc Ðỉnh Chi Phú Lâm, đại
học Văn Khoa Sài Gòn.
Cựu Sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Bị
tập trung lao động (học tập) tại các địa điểm :
Trại Yên Bái, Phong Quang (Lào Kay), Vĩnh
Quang (Vĩnh Phú).
Hiện định cư tại thành phố San Diego California
USA cùng gia đình
Khởi viết trước 1975 trên các nhật báo, tuần san tại
Sài gòn.
Tác phẩm đã xuất bản :
Góp Nhặt (thơ, in chung với Sông Cửu, 2003)
Chung Ngắm Một Vầng Trăng (thơ, 2004)
Đếm Những Hư Hao (in chung Thi Hạnh, 2006 )
Góp bài trong các thi tập :
Vườn Thơ Tao Ngộ (nhiều tác gỉả)
Tuyển Tập Văn Thơ 2003 (nhiều tác gỉả)
Tuyển Tập Văn Học Thời Nay (nhiều tác gỉả 2004)
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 22
@@@@@@@@@
Trần Văn Giang
Văn Bút
Mùa Xuân :
Năm Thìn nói
chuyện Rồng…
(Con Rồng Việt Nam)
Dân Việt, cũng như các dân tộc chịu ảnh
hưởng văn hóa Trung Hoa, xem Rồng (xin
phép được viết “Rồng” chữ hoa trong bài
này) như một linh vật đứng đầu Tứ linh
(Long, Lân, Quy, và Phượng) có quyền lực
vô biên, được thờ phụng và kính trọng;
trong khi văn hóa Tây phương lại xem Rồng
như một quái vật dị hình phun lửa và khói;
hay là một ác thần sinh ra sấm chớp; chủ
trương phá hoại hơn là xây dựng.
Từ xưa, qua lịch sử Á đông nói chung,
con Rồng đã là biểu tượng của vương quyền,
sức mạnh vô địch, sự thiện mỹ, lòng can
đảm, sự thiêng liêng… Tất cả những câu
chuyện, vật dụng, ngôi thứ có liên quan đến
Rồng đều là chuyện cao cả, tốt đẹp và hạnh
phúc. Rồng được tin là đem lại sự trường
sinh, sung túc, ấm no và an vui cho mọi
người. Rõ rệt, Rồng có ảnh hưởng rất lớn
trong đời sống hàng ngày cũng như văn hóa
dân Việt từ lúc lập quốc. Hình tượng Rồng
được đặt, khắc, chạm một cách công phu và
trang trọng trong các kiến trúc văn hóa,
cung điện hoàng gia, nơi công cộng cũng
như nơi trang nghiêm thờ phượng (bàn thờ
gia tiên, đình, chùa, miễu…)
Hình dạng Rồng cũng là một đề tài lớn
được bàn cãi. Theo huyền thoại, Rồng hình
dạng giống một con rắn lớn có đầu to, chân
ngắn và ngón chân có móng. Chúng ta thấy
Rồng có (hoặc không có) sừng, Rồng có
cánh, Rồng có vẩy, Rồng có râu, Rồng có
móng, Rồng có đuôi… Rồng chân có 5
ngón (theo sách Trung Hoa) như đã được
ghi chép:
“Từ đời Hán Cao Tổ, con Rồng 5 móng là
biểu tượng cho uy quyền nhà vua – thiên tử.
Hình tượng Rồng có ở trên áo bào, ngai
vàng và các vật khác. Hoàng tử, con trai
trưởng kế vị ngai vàng cũng được sử dụng
hình tượng Rồng 5 móng.”
(“Mỹ thuật đình làng đồng bằng Bắc Bộ,”
Tiến sĩ Nguyễn Văn Cung – NXB Văn hóa
Thông tin, trang 216).
Trong khi Rồng Đại Hàn chân có 4
ngón; Rồng Nhật Bản chân có 3 ngón.
Rồng Việt Nam, theo tôi tìm hiểu (?), là
loại Rồng chân có 3 ngón như Rồng Nhật
Bản… bởi vì hình Rồng Việt Nam (chân
có 3 ngón) được thấy trạm khắc trên bệ
tượng Phật A-di-đà chùa Phật Tích tại
huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (chùa này
được công nhận là di tích lịch sử văn hóa
cấp quốc gia; Theo tài liệu cổ thì chùa Phật
Tích được khởi dựng vào năm Thái Bình
thứ 4 - năm 1057 - thời nhà Lý); và Rồng
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 23
gốm men trắng trang trí trên lan can tại
Hoàng Thành Thăng Long (không rõ xuất
xứ năm nào?) cũng có chân 3 ngón…
Về mầu sắc: Rồng vàng, Rồng xanh,
Rồng đỏ, Rồng đen, Rồng “multi-
TechniColor” (bụng mầu đỏ, lưng đen vằn
mầu xanh, hông mầu vàng…) Việt Nam ta
chuộng Rồng vàng (Golden Dragon) hơn cả.
Mặc dù không có cánh, nhưng người ta
tin là Rồng bay được như trong cảnh, các
bức tranh Rồng bay giữa trời và mây. Đôi
khi, Rồng cũng được vẽ có cánh (“Phi
Long”). Đây là một hình ảnh thiêng liêng
mà chúng ta cũng thường thấy tiên, thiên
thần… cũng có cánh.
Rồng trong phép Phong Thủy
Rồng tượng trưng cho sức mạnh và sự
thống trị (nam giới) được xếp đặt, được vẽ
chung với Phượng tượng trưng cho sự thanh
cao của phẩm cách, sự trang nhã của học
vấn cũng có dáng vẻ ngang tàng, kiêu hãnh
(nữ giới). Hình ảnh Rồng-Phượng (cặp song
ca Long-Phụng) như một biểu hiệu của sự
kết hợp hoàn mỹ, sự thịnh vượng và trường
cửu mà mọi người hoài vọng. Riêng hình
Rồng còn được vẽ (hay chạm) thành hai con
(Rồng) quay đầu về hai huớng khác nhau
tượng trưng cho sự trường sinh và theo đúng
phép âm-dương (?)
Con Rồng còn đóng phần trong việc
khảo sát nghiên cứu phương vị (vị trí) tốt
xấu của dương trạch (nhà và đất) ảnh hưởng
đến vận số của những người sống trong (hay
chung quanh) căn nhà hay thửa đất nào đó.
Đứng trong nhà nhìn ra thì bên tay trái
của căn nhà được gọi là “Con Rồng Xanh”
(Thanh Long). Căn nhà hay cơ sở thương
mại mà bên trái có đồi, cây cối hùng vỹ thì
vượng về “Thanh Long.” Nếu “Thanh
long” sụp lún, thấp lõm là tượng suy thoái.
Phía Thanh Long có con sông hay dòng
nước chẩy bao ôm vòng thì rất tốt (phong
thủy gọi là thế “Rồng quẩy nước”). Nếu
dòng sông chẩy lệch xa ra thì gia chủ khó
hưng vượng về tiền tài. Ngoài dòng nước,
mảnh đất nơi phía Thanh Long (phía trái)
mà bị hao mòn là tượng hao tán tiền bạc;
suy yếu về sức khỏe; Phía Thanh Long của
căn nhà nếu có chợ thì bất lợi cho người
con trai trong nhà đó (?) Bàn học, bàn làm
việc của con trai không nên đặt quay ra
hướng (có chợ) này… Nếu phía trái căn
nhà có một dẫy cao ốc mà ở cuối dẫy cao
ốc này tự nhiên có một kiến trúc nhô cao
lên (hình tượng đuôi Rồng nổi lên) thì các
nhà Phong thủy cho là dấu hiệu báo trước
sự kiện người con trai út trong gia đình sẽ
phải liên lụy đế vấn đề luật pháp, tranh
tụng; phải cẩn thận.
Cũng nên biết, một số sách Phong thủy
của các tác giả như Đoàn Văn Thông,
Nguyễn Phúc Vĩnh Tung... có đề cập đến
huy hiệu (“logo”) của trường Võ Bị Quốc
Gia Đà Lạt (QLVNCH) ngày trước với
hình con Rồng vàng và cây kiếm vàng (xem
ảnh kèm).
(Huy hiệu của trường VBQG)
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 24
Nhìn trên hình vẽ thì huy hiệu này
giống như một con Rồng bị thanh kiếm đâm
xuyên qua đầu (?) (Xin lưu ý, nhận xét này
có thể không chính xác! Còn tùy cách nhìn
của mỗi người!) Nhưng theo họ nhận định
thì do biểu tượng huy hiệu đó (con Rồng bị
thanh kiếm đâm xuyên qua đầu) mà hầu hết
(?) các sĩ quan thủ khoa xuất thân từ trường
ra (trước năm 1975) tử trận rất sớm (?) ....
(Xin mở “link” sau đây để đọc thêm chi tiết
về các sĩ quan tốt nghiệp thủ khoa các khóa
của trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt:
http://nguyentin.tripod.com/tuonglanh_gocv
obi-u.htm)
Tương tự, việc lựa chọn “logo” cũng
có ảnh hưởng không nhỏ đến vận may của
một công ty, một doanh nghiệp. Thiết kế
“logo” ngoài việc lựa chọn dạng hình nên có
hình tròn và đường cong thì an toàn hơn
những thiết kế có những hình nhọn, sắc bén,
nhiều góc cạnh; thiết kế còn có thể sử dụng
hình ảnh các con thú (trong “logo”) để chỉ
sự dũng cảm, sức mạnh, sự nhanh nhẹn và
chính xác của chúng, và cũng để lợi dụng ý
nghĩa Cát tường của chúng trong phép
Phong Thuỷ.
Trong đó, Rồng là con vật thường được
người ta chuộng nhất trong khi chọn biểu
tượng - do tư tưởng sùng bái Rồng của văn
hóa Á Đông; vì Rồng tượng trưng cho uy
quyền tột đỉnh như Vua chúa ngày xưa; vì
Rồng là đứng đầu trong Tứ Linh; vì Rồng là
biểu tượng hợp Thủy mà Thủy là tiền tài
vậy, vì Rồng là một biểu tượng Cát lành
trong Phong Thuỷ... Con Rồng nên thiết kế
bay vút lên cao, giương nanh múa vuốt thể
hiện cái nét "Tiềm Long thăng thiên" Rồng
bay thỏa sức vẫy vùng, thần uy hiển hiện,
tượng cho tham vọng và sự thăng tiến của
công ty, của doanh nghiệp. Không nên nhốt
Rồng lại trong các hình dạng chật hẹp - hàm
ý bị vây kín, bị cầm tù rất xấu theo thuật
Phong Thuỷ; do Rồng thật vốn có tính linh
động, cần không gian rộng mở để tự do bay
lượn mà làm mưa tạo Phúc.
Con Rồng Việt Nam
Con Rồng Việt Nam mang bản sắc
riêng biệt Việt Nam, theo trí tưởng tượng
riêng của người Việt không giống như
Rồng Trung Hoa (và các quốc gia khác)
trong các trang trí kiến trúc, điêu khắc và
hội họa hình Rồng,
Các di tích về con Rồng Việt Nam còn
lại khá ít do các biến động lịch sử qua thời
gian và sự Hán hóa của từng triều đại
phong kiến cho mãi đến nhà Nguyễn.
Từ thời xa xưa, người Việt thích sống
quanh các vùng sông nước nên họ đã tôn
sùng cá sấu như một con vật linh thiêng
(vào thời kỳ này vùng đất người Việt sống
còn rất nhiều cá sấu). Cá sấu tượng trưng
cho sự trù phú và sức mạnh, người Việt đã
thần thánh hóa loài cá sấu lên thành con
"Giao Long" mà người Trung Hoa gọi sau
này. Một cách thức tô điểm cho hình hài
con cá sấu nhiều chi tiết tưởng tượng và
cũng nhiều ý nghĩa hơn, rất có thể từ con
Giao Long này mà người Trung Hoa đã tạo
ra con Rồng Trung Hoa của họ.
Con Rồng tồn tại cùng tâm thức của
người Việt suốt từ thời Văn Lang - Âu Lạc.
Trong cả ngàn năm bị đô hộ bởi Trung
Hoa, trong hoàn cảnh chung của chính sách
Hán hóa, hình ảnh con Rồng Việt Nam phát
triển ít nhiều theo các ảnh hưởng, các xu
hướng giống với con Rồng của người Hán.
Đến khi giành được độc lập, thời kỳ nhà Lý
lên nắm quyền, đặt tên nước là Đại Việt (để
sánh ngang với Đại Tống của Trung Hoa),
Việt Nam đã có con Rồng cho riêng mình
và khác với con Rồng Trung Hoa. Văn hóa
(Đại Việt) nói chung, trong đó có mỹ thuật
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 25
đã khẳng định được cấp bậc và tính độc lập
trong nghệ thuật thể hiện của mình. Xuất
hiện từ việc trang trí kinh thành cung điện
lộng lẫy, chùa chiền đồ sộ..., con Rồng Việt
Nam được tạo từ bản chất văn hóa dân tộc,
kết hợp với yếu tố văn hóa Chàm và văn hóa
Trung Hoa.
Rồng Việt Nam có những đặc trưng Việt
Nam rõ ràng như sau:
Thân Rồng uốn hình “sin” 12 khúc, đại
diện 12 tháng trong năm, biểu trưng cho sự
thay đổi thời tiết năm tháng, sự trù phú và
phồn vinh của nền văn hóa nông nghiệp lúa
nước. Thân mềm mại uốn lượn thể hiện sự
biến hóa và khả năng thay đổi, dịch chuyển
thiên nhiên của con Rồng – một linh vật cai
quản thời tiết, mùa màng. Trên lưng có vây
nhỏ liền mạch và đều đặn.
Đầu Rồng là phần rất đặc biệt, hoàn
toàn khác Rồng Trung Hoa. Rồng Việt Nam
có bờm dài, râu cằm, không sừng (như Rồng
Trung Hoa). Mắt lồi to, hàm mở rộng có
răng nanh ngắt lên, đây là điểm hoàn toàn
khác với các con Rồng khác của các nước.
Đặc biệt là cái mào ở mũi, gợn sóng đều đặn
(có người gọi là “mào lửa”) chứ không phải
là cái mũi thú như Rồng Trung Hoa. Lưỡi
mảnh rất dài.
Miệng Rồng luôn ngậm viên châu
(ngọc). Ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung
Hoa Rồng hay cầm, nắm ngọc bằng chân
trước. Viên châu tượng trưng cho tính nhân
văn, tri thức và lòng cao thượng. Đầu Rồng
luôn hướng lên như đớp lấy viên ngọc thể
hiện tinh thần tôn trọng các giá trị nhân văn
cao quý, theo đuổi sự uyên bác và tinh thần
cao thượng.
Những điều đặc biệt, đã nêu ở trên,
được đặt lên trên tất cả các giá trị khác kể cả
sức mạnh và sự thống trị thường thấy của
một con Rồng phương Đông. Toàn thân
Rồng toát lên sự uyển chuyển và một sức
đàn hồi rất lớn từ cái vươn chân dài, đầu
ngẩng cao, dáng đầu rực lửa thể hiện cho
khí thế hừng hực muốn tiến chinh phục các
giá trị văn minh nhất của phương Đông cổ.
Rồng Việt Nam là một hình tượng
hoàn hảo về mỹ thuật, có cá tính rõ ràng và
đặc trưng cho dân tộc Việt. Tiếc rằng nó đã
bị vùi lấp bởi sự sùng bái văn hóa Hán của
các triều đại phong kiến cuối cùng và sự
hủy diệt văn hóa đã xảy ra khi nhà Minh
xâm lược Việt Nam.
(theo wikipedia Việt ngữ)
Về thời điểm, mốc lịch sử và ý tưởng
của nhà điêu khắc gửi gấm qua các tác
phẩm Rồng đá, có nhiều giả thuyết khác
nhau. Song về thời điểm lịch sử qua hình
tượng Rồng Việt Nam, sách đã từng chép
như sau:
Rồng thời Lý “Mào, mũi và bờm là
những thành phần cơ thể được cấu tạo rất
sinh động, bằng những nét độc đáo và được
mang theo một ý thức nhất định: Mào thoát
ra từ môi đến đường sống quyện với răng
nanh, xoắn xuýt, rung rinh bốc lên như
ngọn lửa; bờm ở sau gáy cuồn cuộn bốc lên
nhiều đợt từ cổ họng, cùng với túm râu ở
hàm dưới đều uốn lượn nhịp nhàng như làn
sóng và bay lướt tựa lá cờ đuôi nheo được
gió, mũi cấu tạo bằng những đường cong
xếp chồng nhau phập phồng gây ra ấn
tượng về nguồn nước…”
Rồng Thời Trần “Thành phần cấu tạo
của đầu Rồng không chặt chẽ như trước:
Văn dạng xoắn ốc đôi không thể vắng ở bất
cứ con Rồng nào thời Lý, thì nay mất dần,
bờm và râu kém nhịp nhàng, mào không
linh lợi, dần mọc thêm cái tai và cặp sừng
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 26
cùng kiểu với cái mũi biến dạng đều thuộc
về loại thú bốn chân.”
Rồng thời Lê “Đầu to, bờm tóc thô dày,
mũi lớn, nhiều sợi ria, tai thú, sừng vặn
xoắn ốc rồi chẻ chạc, chân gân guốc xòe
rộng các ngón.” Rồng thời Cảnh Hưng
1740-1786 (Nhà Hậu Lê – vua Lê Hiển Tông
1717-1786,) “Thể hiện yếu ớt, mảnh khảnh,
đi vào công thức cân đối khô khan kết hợp
với chạm nông, nên hình bẹt và cứng, lại bị
biến dạng rắc rối. Râu Rồng thường bố trí
đều đặn, đuôi cong xoắn lại hình xoáy ốc.”
Có nhiều con Rồng thời Hậu Lê còn có dáng
uể oải như đang buồn ngủ. Đó là dấu hiệu
của thời đại vua nhà Lê bị chúa Trịnh đàn
áp, tiếm hết quyền hành.
Rồng thời Nguyễn “Gượng gạo, ngơ
ngác, chắp vá, vụn vặt, cố làm ra vẻ nghiêm
chỉnh mà không đường hoàng được, bộ mặt
trở thành gớm ghiếc, đe dọa… thường xuất
hiện với phượng, lân, rùa để hợp thành bộ
“Tứ linh.”
(“Mỹ thuật Lý Trần – Mỹ thuật Phật giáo,”
Chu Quang Chứ – NXB Mỹ thuật 2001,
trang 307, 309, 310, 314, 315).
Như vậy, ở mỗi giai đoạn phát triển con
Rồng có một tính cách riêng, phù hợp yêu
cầu thời điểm lịch sử xã hội. Nó chính là thứ
ngôn ngữ nghệ thuật tạo hình, giúp chúng ta
nhận biết tương đối chính xác thời khắc ra
đời của các công trình kiến trúc, điêu khắc,
và hội họa được sáng tạo không ghi niên
hiệu.
Con Rồng trong dân gian gắn với cội
nguồn nòi giống “Con Rồng cháu tiên.”
Dân Việt, theo truyền thuyết cũng như văn
hóa, qua tất cả các sử liệu được ghi chép lại,
mặc dủ có nhiều mâu thuẫn, đều khẳng định
một cách vững vàng, đã tự xem mình là con
cháu của giống Rồng (và Tiên!) và luôn luôn
tự hào về sự liên hệ thiêng liêng mơ hồ khó
giải thích này. Chẳng hạn:
Các bộ sử lâu đời nhất của nước ta
nước ta còn lưu giữ được cho đến nay,
(ngoại trừ “Đại Việt sử lược” tác giả khuyết
danh, viết dưới thời nhà Trần - khoảng cuối
thề kỷ 14), đều chép tương tự nhau về Kỷ
Họ Hồng Bàng, Kinh Dương Vương và Lạc
Long Quân, như “Đại Việt sử ký toàn thư”
do Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, và Ngô Sĩ
Liên soạn thảo năm 1272 thời Trần, chép về
Kinh Dương Vương như sau:
"Xưa, cháu ba đời của Viêm Đế họ Thần
Nông là Đế Minh sinh ra Đế Nghi, sau Đế
Minh nhân đi tuần phương Nam, đến Ngũ
Lĩnh lấy con gái Vụ Tiên, sinh ra vua...
phong cho vua làm Kinh Dương Vương, cai
quản phương Nam, gọi là nước Xích Quỷ...
Vua lấy con gái Động Đình Quân tên là
Thần Long sinh ra Lạc Long Quân."
(“Đại Việt Sử ký Toàn thư,” phần Ngoại
Kỷ, quyển I, tr. 3).
“Lạc Long Quân tên húy là Sùng Lãm, con
trai của Kim Dương Vương. Vua lấy con
gái Đế Lai là Âu Cơ, sinh ra trăm con trai
(tục truyền sinh ra trăm trứng) là tổ của
Bách Việt. Một hôm vua bảo Âu Cơ rằng:
Ta là giống rồng, nàng là giống Tiên, thủy
hỏa khắc nhau, khó lòng đoàn tụ. Bèn từ
biệt nhau, chia 50 con theo mẹ về núi, 50
con theo cha về miền Nam (có bản chép về
Nam Hải). Phong con trưởng làm Hùng
Vương nối ngôi vua...”
(“Đại Việt Sử ký Toàn thư,” quyển I –
NXB Văn học, tr. 63).
Trong các bộ sử cận đại cũng ghi lại
chuyện “con Rồng cháu Tiên.” Như sử gia
Phạm Văn Sơn viết:
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 27
"Lạc Long Quân lấy Âu Cơ sinh ra một bọc
có trăm trứng nở ra 100 con trai, nửa theo
mẹ lên núi, nửa theo cha xuống bể Nam Hải,
vì mẹ là giống Tiên, và cha là giống Rồng."
(theo “Việt Sử Toàn Thư” tr. 38)
Rồng còn là sự che chở, bảo vệ; có khả
năng vùng vẫy ngoài biển khơi, bay bổng
lên thượng giới (thiên đàng), nằm cuộn trên
mặt đất qua hình dáng của các dòng sông
lớn (sông Cửu Long, sông Hồng), rặng núi
dài. Dân Việt còn lập Miễu thờ Rồng dọc
theo các con sông lớn nhỏ. mạch nước, bờ
biển, vì vẫn tin là Rồng thuộc “dương” cai
quản, làm chủ khí hậu và tất cả các nguồn
nước chẩy như sông, thác, biển; và các
nguồn gió mạnh như bão (storms) “lốc”
(tornado, twisters). Rồng liên quan đến
nước, hàm chứa ý nghĩa của sự phồn thực,
những mong mưa thuận gió hoà; Rồng phun
nước tưới cho cây trồng tốt tươi, bởi cư dân
nông nghiệp, để cầu mong Rồng sẽ sẽ giúp
dân về vấn đề thủy lợi cho mùa màng ngành
canh tác hay ngăn cản gió bão cho nghề
đánh cá ngoài biển. Nơi nào có Rồng che
chở thì nơi đó được yên ổn làm ăn sinh
sống.
Ý nghĩa xã hội của con Rồng trong dân
gian dần dần mờ nhạt, khi mà ý thức hệ nho
giáo phong kiến giữ địa vị độc tôn thì vua
chúa lấy con Rồng làm biểu tượng uy
nghiêm của ngôi báu, điều này được các
sách chép, như sau:
“Con Rồng truyền thống Việt Nam bị ức
chế, phải tiếp nhận nhiều chi tiết ở Rồng
Trung Hoa và lộ rõ tính tượng trưng cho uy
quyền nhà vua.” (“Mỹ thuật Lý Trần – Mỹ
Thuật Phật giáo,” Chu Quang Chứ – NXB
Mỹ Thuật, trang 309).
Các trỉều đại phong kiến Việt Nam
không bao giờ cần phải e dè trong việc lạm
dụng chữ Rồng (“Long”) qua mọi hoàn
cảnh, hình thức liên quan đến vua chúa. Từ
Long nhan (sắc diện vua, chữ ‘mầu mè’ này
còn được dùng để làm chữ tâu vua thay cho
chữ “Bệ hạ, Thánh thượng”), Long thể
(mình, thể lực, sức khỏe của vua), Long bào
(áo vua mặc), Long sàng (giường vua nắm),
Long xa (xe vua đi)… Rất oái oăm, đôi khi
vua cũng bị “tổ trác” về chuyện Rồng
chẳng hạn như vào những năm mất mùa
gặp hạn hán hay tai họa lớn vì mưa bão lụt
thì dân bất mãn mất tín nhiệm vua (đôi khi
dân nổi loạn, truất phế vua); vì cho rằng
vua thiếu đức độ (?) cho nên thần “Rồng”
nổi giận giáng họa cho dân tình… Trong
mùa hạn hán hay lụt lội, các chức sắc làng
xã và đôi khi có cả sự tham dự của các quan
triều đình do vua chỉ định tổ chức cúng bái,
dâng tế lễ để cầu xin mưa, hoặc cầu xin hạ
bớt bão lụt… Ngoài ra hàng năm, sau các
vụ mùa (hay các lễ hội lớn) vua vẫn thường
ra lệnh dân chúng phải cử hành các nghi lễ
liên quan đến Rồng như: múa Rồng, đua
thuyền Rồng, diễn hành / rước hình tượng
Rồng… với chủ ý (dị đoan?) làm mọi cách
cho Thần Rồng được hài lòng (?) và có như
thế vua nhà ta được yên chí ngồi tại ngôi vị
mà trị dân (!).
Còn người Tuổi Thìn (con Rồng) thì
sao?
Con Rồng là một chi thứ 5 của 12 con
giáp. Con Rồng là một trong những con
giáp hùng mạnh nhất.
May thay tuổi Rồng vị tha, thông minh,
và bền bĩ. Biết chắc mình muốn gì và quyết
tâm đạt cho bằng được.
Hơn thế nữa, tuổi Rồng tạo ảnh hưởng
trên bạn bè dễ dàng và thường là trung tâm
điểm gây chú ý trong những cuộc họp mặt
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 28
giao tế. Như thế chưa đủ, tuổi Rồng lại đào
hoa nữa chứ lị!
Bạn bè lúc nào cũng chú tâm lắng nghe
theo Tuổi nầy xúi giục và khi tới lúc cho ý
kiến, tuổi Rồng nắm phần chủ thắng.
Rồng thì lúc nào cũng mô tả lớn hơn sự
thật.
Tuổi Rồng kiêu hãnh bao nhiêu thì lại
xuất sắc bấy nhiêu về mặt khởi công cũng
như đốc thúc cho công việc được trôi chảy.
Tuổi Rồng nghĩ rằng mình sinh ra là để
dẫn đầu!
Cả đời cũng không nghèo, nếu không
muốn nói là khá giả hơn người, mặc dầu
chẳng bao giờ. Tuổi nầy bị mãnh lực đồng
tiền kích động.
Tuổi Rồng thà ôm súng bắn không đạn
chớ không chịu buông súng. Nói vậy có
nghĩa là tuổi Rồng biết lợi dụng thời cơ,
luôn luôn tìm cách củng cố sức mạnh đáng
kể của mình.
Dũng mãnh như vậy cho nên khi lâm
cảnh bực bội thua thiệt, tuổi nầy vẫn vùng
vẫy không biết chịu thua là gì.
Có vần đề? Cần câu trả lời? Cứ hỏi
người tuổi Rồng! Thật ra Tuổi nầy chỉ
muốn có một vai trò: lãnh đạo, làm vua, ra
lệnh (thiệt tình!)
Họ là người có tài lãnh đạo thật sự, tự
biết mình phải làm gì để được ngồi cao hơn
hết.
Qua mặt tuổi Rồng thì không nên làm -
Coi chừng bị phun lửa phỏng da!
Lời khuyên cho tuổi Rồng:
“Khôn ngoan là nên hấp thu những nguyên
tắc về tùy thời, cảm thông và tha thứ. Cao
hơn, mạnh hơn, tưởng như được người
trọng nể, nhưng cũng khiến Tuổi nầy sống
một cuộc sống không trọn vẹn.
Nếu như tuổi Rồng biết cân bằng giữa ước
vọng thành công và biết tán thưởng chuyện
nhỏ nhặt, họ sẽ sống một cuộc sống đáng
sống hơn.”
Tam Hạp: Tuổi Rồng hạp với tuổi Tí (con
Chuột) và tuổi Thân (con Khỉ).
Tứ Xung: Tuổi Rồng khắc / kỵ tuổi Sửu
(con Trâu), tuổi Mùi (con Dê) và tuổi Tuất
(con Chó).
Tóm lại, người nào sinh vào năm Thìn
có đầy đủ các cá tính nổi bật của con Rồng
như: có sức khỏe, giầu có, trường thọ; và tự
tin vào khả năng của mình (đôi khi không
chịu nghe ý kiến của người khác), tự đặt
tiêu chuẩn thành đạt cho chính mình, bất
khuất không chịu thua dễ dàng, cố gắng
một mình vượt qua tất cả các trở ngại để đi
đến thành công.
(theo Quỷ Cốc tiên sinh).
Tham khảo:
- “Con Rồng Việt Nam” theo Wikipedia
chữ Việt.
- “Con Rồng Việt Nam qua tác phẩm điêu
khắc nghệ thuật ‘Ông Rồng,’”Nguyễn
Thượng Luyến.
Trần Văn Giang
Xuân Nhâm Thìn – 2012
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 29
Trang Thơ
Nguyễn Thị Khánh Minh
TRỜI ĐẤT THÁNG GIÊNG
So dây trời đất, khảy
Nẩy một nhịp xuân tràn
Ô, tháng Giêng nào vậy.
Dọn lòng đi mới mẻ
Theo vòng quay đất trời
Ô tháng Giêng tráng lệ!
Trời nghiêng và đất mở
Chậm thôi đừng bồn chồn
Kẻo vỡ tháng Giêng non
Nhẹ thôi đừng bối rối
Gỡ từng phút giây tơ
Đi vào lòng nắng mới
Dọn lòng đi chan hòa
Đem nụ cười xuống phố
Chào nhau, tháng Giêng hoa.
VƯỜN THƠM
Như có gì trời bỏ giữa vườn thơm
Sao nắng trong, sao lựng hồng cả gió
Mắt ai nhìn
như lúa đang hương
Cứ gọi tôi bước ngần reo thế nhé
Tôi theo về lích chích tiếng chim sâu
Ô lá trầu không
vướng cái hương cau
Nắng nở lâm tâm vồng rau muống đất
Thầm thì hoa. Thầm thì mật ban sơ
Mắt ai nhìn
bắc võng tiếng ầu ơ…
BỐN MÙA THƠM
Anh gầy ban mai
Em thơm mộng hạt
Nhú chồi xanh ngát
Anh cơi nắng chiều
Em khói lam theo
Hương nồng củi lửa
Anh rơm nắng lụa
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 30
Em giây tơ hồng
Tầm gửi hừng đông
Anh ru gió thổi
Đêm em trăng nội
Ta đồng dao sương
Anh xanh đồi nương
Em về bước rẫy
Gùi hoa nắng đẫy
Bốn mùa trao hương…
VÒNG QUAY TRÒN
Già thêm một tuổi đất tròn
Nghe con gió vẫn ngọn nguồn tinh mơ
Vòng quay trái đất non tơ,
Mỗi bình minh lại trẻ thơ mặt trời
Vòng quay tròn, bước đi chơi…
Vòng quay tròn, mùa xuân ơi
Bỗng nhiên thăm thẳm một trời mắt xanh
Cuốn vào con nắng long lanh
Dạ thưa trời đất, cùng anh cõi này…
Một vòng sinh tử đang quay
Đưa tôi về lại những ngày sơ sinh
Ca dao bồng bế ru mình.
MỒNG MỘT TẾT
Mới tinh trời của tháng giêng
Niềm vui mồng một bên thềm bói hoa
Ơ kìa, ngày cũ chưa xa…
MÙA XUÂN. MƯA
Dường như nắng chưa biết mùa xuân về
Trời xám cùng những dự báo về một cơn
bão lớn, về một trận động đất, về một ngày
tận thế, có thể.
Tôi thảng thốt.
Như một tiếng chim vừa hoảng hốt trong
mưa.
Không thể bắt đầu mùa xuân như thế.
Có tiếng khóc của ai đó vừa cất lên chào
ngày thứ nhất. Nắng một ngày nõn xuân,
tiên đoán cuộc đời sẽ mãi là những ngày
nắng đẹp, nên người yêu mầu xanh, yêu
thanh bình, yêu những đơn sơ. Người đến
em từ giấc mơ. Mùa xuân phương Nam rực
rỡ nắng.
Tại sao bắt đầu mùa xuân bằng những trận
mưa và gió.
Gió Santa Ana. Gió có gai làm tôi buốt
nhói.
Phía bên kia đại dương trời đất chập chùng
tin dữ.
Bình yên cũ, gần đây thôi, mà như đã thành
cổ tích.
Nỗi sợ đồng hóa hết mọi thứ. Thiên tai
mong manh hóa hết mọi điều.
Tại gió, tại mưa không nhớ hạn kỳ? Tại đất
tại trời xô lệch?
Những ngày vắng vẻ tin nắng.
Thảng thốt nỗi sợ về một điều không kịp
trong đời.
Phải nói đi thôi kẻo hỗn độn đất trời. Phải
nói đi thôi kẻo ta bay thành tro bụi.
Phải nói đi thôi tiếng của hôm nay, kẻo mai
kia ta phải đi lại từ đầu.Em sợ con đường
dài thương khó đi tới những mẫu tự tình
yêu.
Chiều bay theo gió. Lá khô chạy cuống quít
trên đường. Lá khô mang màu đỏ.
Những hạt nước mắt biến màu dưới cơn gió
chướng.
Gió Santa Ana chập choạng hai phương
trời.
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 31
Mây Sài Gòn giăng ngang mắt đợi. Lá
phong đỏ con đường Số Một. Lá me bay con
đường Duy Tân. Chiếc xe đạp quay bao
nhiêu vòng thiếu nữ. Ngừng xe nhặt lá vàng,
viết một tên trên lá. Chiếc lá theo nghìn dặm
thời gian, ở đâu? Nằm khô trong tập giấy
xưa, trong ký ức, trên vệ đường heo may xứ
lạ, hay hạt bụi trong con gió thời gian?
Mưa bắt đầu mùa xuân ở đây
Mưa mặn nước mắt.
Nhòa trời Santa Ana.
Mơ hồ một nơi đẹp như cổ tích, và thời gian
thần thoại.
Xin thêm một khoảnh khắc để em về, như cô
Tấm xưa, kịp đánh rơi một chiếc guốc, làm
nên một chuyện tình trước lúc nửa đêm.
Chắc chắn anh sẽ đi tìm em, em biết.
Em sẽ kịp nhặt vào ký ức mình hơi ấm một
không gian, và một nụ hôn Romeo dưới ánh
trăng vội vã.
Và anh ơi, chúng ta sẽ cùng viết lại trang cổ
tích mùa xuân ấy với giấc mơ màu nắng.
Dĩ nhiên không phải mùa xuân mưa, như ở
đây.
Và, mãi mãi, thời gian chúng ta không có ký
ức chia ly.
Santa Ana, mùa xuân 2012
NGUYỄN THỊ
KHÁNH MINH
Xuân và… Thuế
* Ngô Mỹ Kiều * MĐC 1980
Mai vàng lại nở… lại một mùa xuân
về. Người người vui vẻ, hớn hở chào mừng
và kỳ vọng vào một năm mới, an khang
hơn, thịnh vượng hơn. Tuy nhiên, khi cái
không khí đón xuân dần dà nguôi, người ta
lại từ từ trở về với thực tế, với những sinh
hoạt bình thường rồi lo đến một vấn đề
khác…THUẾ!
Thật vậy, mùa Xuân và mùa Thuế hầu
như đi đôi với nhau. Xuân thường đến trong
tháng Giêng hoặc tháng Hai còn mùa thuế
thì đậu ở tháng Tư. Tuy nhiên, buồn cười
thay, người ta yêu và mong xuân bao nhiêu
thì lại chán và ngao ngán Thuế đến bấy
nhiêu. Đã đành không ai trong chúng ta
thích thuế cả, nhưng nó đã là một thực tế
không thể tránh được.
“ Thuế” là gì? Và nó có ảnh hưởng gì
đến ta?
Thuế là gì?
Theo định nghĩa của “Wikipedia,”
“Thuế (tax)” là một ngân khoản được áp đặt
lên người trả thuế hoặc thành phần thụ thuế
bởi chính quyền hoặc một cơ quan có thẩm
quyền mà nếu không thanh toán sẽ bị luật
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 32
pháp trừng phạt. Nói như thế thì thuế là một
nghĩa vụ, một bổn phận. Thật ra thuế đã có
từ ngàn xưa ở mọi triều đại, ở mọi quốc gia.
Có khác chăng là phân loại thuế, cách áp
đặt, mức cao thấp, và đối tượng thọ thuế mà
thôi.
Thuế, trong tiếng nôm na có người gọi là
“máu” để nuôi chính quyền, thế nên mới có
câu là “chính phủ hút ‘máu’ nhân dân” để
phản ảnh sự kêu ca than phiền của người
dân đối với chính quyền về sự áp đặt thuế.
Như máu nuôi sống cơ thể, những thu
nhập của thuế rất cần thiết và giúp trang trải
cho chi phí điều hành và duy trì guồng máy
quốc gia, giúp phòng bị quân sự, giữ gìn an
ninh trật tự xã hội, và quản lý các công trình
công cộng và cung cấp nhiều dịch vụ cho
dân như học đường, y tế, đường xá, cầu
cống, xã hội, cũng như nhiều công vụ khác.
Không ai chối cãi là có rất nhiều loại
thuế ở xã hội Hoa Kỳ. Tiêu biểu nhất là
thuế lợi tức, thuế nhà, thuế đất, thuế tiêu thụ,
thuế lưu hành, thuế xăng, và cả thuế tử
(death tax – estate tax or inheritance tax!…).
Đã gọi là thuế thì ai cũng chán, nhưng
nếu nhìn một cách lạc quan hơn thì có loại
thuế ta vẫn “thích” trả hơn loại thuế khác;
chẳng hạn như thuế tài sản vì có làm chủ
một món vật gì đó mới bị đóng thuế, thế thì
có khả năng làm chủ và trả chút thuế vẫn
hơn là không có.
Trong đặc tính phức tạp của thuế, với
khuôn khổ giới hạn của tờ báo và bài viết,
tôi chỉ muốn chia sẻ một số kiến thức cơ bản
về thuế Tài Sản (property tax) chiếu theo
luật ở tiểu bang California. Loại thuế này
cũng khá quen thuộc với mọi người chúng ta
vì hầu như trong chúng ta ai cũng đã từng
làm chủ một căn nhà hoặc một miếng đất,
có tầu thuyền hoặc một cơ sở thương mại.
Những “Tài Sản” nào bị đánh thuế?
Như tên gọi của nó, Thuế Tài Sản là
thuế đánh trên giá trị đương kim của sản
vật, bao gồm những bất động sản như nhà,
đất, cũng như các tài sản cá nhân như máy
bay, tầu thuyền hoặc các thiết kế máy móc
của các cơ sở thương mại.
Ai Quản Trị Thuế Tài Sản ?
Thuế Tài Sản ở tiểu bang California
được điều hành bởi 58 quận hạt địa phương
(counties), thông thường do sự phối hợp
của ba cơ quan của Quận: Sở Định Giá
(Assessor), Sở Thu Thuế (Tax Collector),
và Sở Kiểm Duyệt Thuế (Auditor-
Controller).
Sở Định Giá (Assessor) là cơ quan có
thẩm quyền định giá, dựa trên giá mua khai
trên bằng khoán, giấy tờ chuyển nhượng,
giấy phép xây cất (construction permit),
hoặc bằng các phương thức khác. Đây
cũng là nơi người trả thuế xin giảm thuế
(exemptions), nếu hội đủ điều kiện, hoặc
khiếu nại về giá trị sản vật bị đánh thuế.
Mặt khác thì Sở Kiểm Duyệt Thuế
(Auditor-Controller) định mức thuế cơ bản
(general levy) theo khu vực và cộng vào
hóa đơn thuế các khoản thuế đặc biệt do các
thành phố (cities) và cơ quan địa phương
(special assessment districts) đăng ký.
Sau khi sản vật đã được định giá và
thuế đã được ấn định, Sở Thu Thuế (Tax
Collector) phụ trách gởi hóa đơn ra và thu
nhận tiền thuế từ người thu. thuế. Số thu
này được đúc kết và sau đó chuyển lên Sở
Kiểm Duyệt Thuế (Auditor-Controller) để
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 33
phân chia về các cơ quan đánh thuế (taxing
agencies).
Tìm Hiểu Hóa Đơn Thuế
Thuế Tài Sản ở tiểu bang California là
thuế dựa trên giá trị của sản vật (ad
valorem).
Mức thuế cơ bản (General Levy) cho
nhà và đất ở California là 1% trên giá trị căn
nhà. Do đó, một căn nhà trị giá $400,000 sẽ
bị đánh thuế cơ bản khoảng $4,000 cho một
năm. Tuy nhiên, nếu có các khoản thuế đặc
biệt (special assessment or mello roos) thì
hóa đơn thuế có thể cộng thêm vài trăm hoặc
vài ngàn một năm, tùy theo khu vực của căn
nhà.
Thông thường thì các khoản thuế này
thường áp đặt ở những vùng đất mới khai
thác, vì cần các công trái (local general
obligation bonds or special assessment
bonds) để trang trải cho việc xây cất trường
học, thư viện, thiết lập hệ thống điện,
nước…
Luật thuế cũng có những điều khoản
giảm thuế, tiêu biểu là giảm bớt $7,000 giá
trị nhà cho những ai sống trong căn nhà
mình làm chủ (Homeowners’exemption)
cũng như miễn thuế cho nhà thờ (Church
Exemption) và giảm $100,000 - $150,000
giá trị nhà cho thương phế binh (Disabled
Veterans’Exemption).
Phân Loại Thuế :
Như đã đề cập ở trên, thuế Tài Sản đánh
trên nhiều sản vật khác nhau.
Tiêu biểu nhất là nhà, đất, và gồm cả
nhà di động (mobile home) và được phân
loại là “Bất Động Sản” (secured).
Thuế cũng được áp đặt lên máy bay,
tàu, và các thiết kế máy móc và dụng cụ
dùng trong các cơ sở thương mại
(equipments and business properties). Vì có
thể đổi dời và có tính cách di động, các vật
sở hữu này được phân loại là “Động Sản”
(unsecured). Ngoài ra, còn một loại thuế
khác nữa gọi là thuế phụ trội
(supplemental).
Sau đây, chúng ta sẽ phân biệt sơ lược
ba loại thuế này qua những đặc điểm của
chúng.
1- Thuế “Bất Động Sản”(Secured
Taxes):
Đúng như tên gọi của nó, thuế bất động
sản đánh trên những sản vật bất khả “động
đậy.” Ví dụ như nhà, đất… Vì tính cách tự
nhiên “bất khả động đậy” này, thuế Bất
Động Sản có khả năng “ràng buộc” (lien)
vào sản vật, chứ không “ràng buộc” vào cá
nhân nào.
Khác với lịch tây (calendar year), lịch
thuế (fiscal year) ở tiểu bang California là
từ 1 tháng 7 năm này cho đến 30 tháng Sáu
năm sau. Mỗi một hóa đơn thuế “Bất Động
Sản” được chia ra làm hai khoản để trả
trong năm: hạn kỳ là 10 tháng 12 cho khoản
đầu và 10 tháng 4 cho khoản cuối.
Nếu để trễ hạn thì sẽ bị phạt 10% cho
khoản đầu và 10% cộng thêm $31 (hoặc
nhiều hơn, tùy Quận) cho khoản thứ hai.
Qua đến 1 tháng 7, những khoản thuế
trong năm chưa được thanh toán sẽ bị phạt
thêm $35 (hoặc hơn, tùy Quận) tiền
“chuộc” (redemption fee) và sẽ bị tính tiền
phạt là 1.5% cho mỗi tháng trên số thuế còn
thiếu.
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 34
Ví dụ, $2,000 thuế trễ hạn kỳ 10 tháng
4 đến tháng 8 sẽ thành $2,326 ($2,000 +
$200 + $31+ $35+ $60 = $2,326) và sẽ còn
tăng cho đến khi trả đủ.
Nguy hại hơn nữa là sau 5 năm nếu
khoản thuế này chưa được thanh toán sẽ bị
Sở Thu Thuế lên bảng để đấu giá (public
auction–tax sale) sau khi đã cộng thêm các
chi phí linh tinh khác; và đã được lần lượt
thông báo đến người chủ hoặc người có liên
quan (parties of interest) bằng thư bảo đảm
(certified mail); và đăng thông báo ở báo địa
phương theo sự đòi hỏi của Luật Thuế.
Chiếu theo luật, quyền chuộc lại nhà sẽ
chấm dứt vào 5 giờ chiều trước ngày đấu giá
đã được công bố.
Rất may là có một điều khoản trong
luật thuế (Section 4217 of the Revenue and
Taxation Code) cho phép người nợ thuế trả
góp số thuế cũ trong vòng 5 năm
(Installment Payment Plan) cũng như cho
phép Sở Thu Thuế (Tax Collector) thu một
lệ phí để trang trải cho dịch vụ này.
Khi đang còn ở chương trình trả góp
nầy, sở thuế không được quyền đem nhà đất
đi bán.
Tuy nhiên, để ghi danh vào chương
trình trả góp nầy, người trả thuế phải bỏ
xuống (down payment) 20% trên số thuế
còn nợ. Ngoài ra, để duy trì chương trình trả
góp nầy, nguời trả thuế sẽ phải trả thuế hàng
năm đều đặn và tiếp tục trả ít nhất là 20% kế
tiếp khoản thuế cũ cộng thêm 1.5% tiền lời
cho mỗi tháng trên số thuế còn lại. Nếu
không giữ đúng hai điều kiện này thì chương
trình trả góp coi như không còn hiệu lực
(lapse).
Ngoài chương trình trả góp 5 năm này,
một số quận hạt ở California còn cho phép
người trả thuế phân kỳ trả tự do số tiền
mình muốn trả đến khi dứt . Tuy nhiên,
khác với chương trình trả góp 5 năm, sự
phân kỳ này không tước đi quyền đem nhà
đi bán của Quận.
2- Thuế “Động Sản” (Unsecured
Taxes):
Thuế nầy đánh lên những sản vật có
thể đổi dời; điển hình là đánh vào ta`u ,
máy bay, và các thiết kế máy móc hoặc
dụng cụ của các cơ sở thương mại. Cũng vì
những sản vật này có thể “di động,” cho
nên không thể “ràng buộc” vào vật, mà phải
“buộc” vào chủ nhân của nó.
Cũng khác với thuế “Bất Động Sản,”
hóa đơn thuế “Động Sản” đuoc gởi ra vào
khoảng tháng Sáu và trả trong một hạn kỳ
một, hạn chót là 31 tháng 8. Sau đó, 10%
tiền phạt sẽ được cộng vào nếu trễ.
Còn nếu như trễ hơn 31 tháng 10, tiền
phạt sẽ là 1.5% cho mỗi tháng còn thiếu.
Cũng sau ngày 31 tháng 10, Sở Thu Thuế
có thể gởi hồ sơ đến Sở Đăng Bộ
(Recorders’office) để đăng ký “đặc quyền”
(lien filing) vào sổ bộ dưới tên của người
thiếu thuế.
Việc đăng ký “đặc quyền” này có hiệu
lực trong vòng 10 năm và là một trong
những phương cách hiệu quả để truy thuế
và bảo đảm quyến lợi của Văn Phòng Thu
Thuế.
Vì có thể ảnh hưởng xấu đến hồ sơ tín
dụng cá nhân và gây trở ngại trong đơn vay
mượn, nó có tác dụng “buộc” người thiếu
thuế thanh toán số nợ thuế.
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 35
Đương nhiên là lệ phí để đăng ký
(khoảng $13) này cũng sẽ được cộng vào
hóa đơn thuế. Sau khi hết hiệu lực sau 10
năm, Sở Thu Thuế sẽ phải đăng ký lại nếu
muốn tiếp tục truy thuế.
Ngược lại, khi sở thuế thấy số nợ được
thanh toán đầy đủ, Sở Thu Thuế sẽ gởi một
văn kiện khác để loại bỏ cái “đặc quyền”
này (release of lien).
Tùy theo số nợ thuế lớn hoặc nhỏ, một
phương pháp truy thuế khác cũng khá hữu
hiệu được áp dụng bởi Sở Thu Thuế là cho
nhân viên thu thuế gọi điện thoại hoặc đến
tận nơi để dán giấy báo (post notice); thậm
chí đến phong tỏa trương mục ngân hàng
(bank account seizure) hoặc tịch thu (seize)
và bán đấu giá những tài sản bị tịch thu.
Thuế Động Sản cũng có thể được chia
ra nhiều lần để trả mà người chủ không cần
phải xin gia nhập vào chương trình trả góp,
nếu không thể trả dứt một lần. Số tiền trả
mỗi phân kỳ cũng không nhất thiết là bao
nhiêu, cũng như không giới hạn bao nhiêu
phân kỳ.
Nói tóm lại, Sở Thu Thuế cứ tiếp tục
nhận tie^`n cho đến khi số thuế đã được
thanh toán đầy đủ. Trong quá trình phân kỳ,
tiền phạt vẫn là 1.5% cho mỗi tháng trên số
tiền còn lại.
Một đặc điểm khác đáng nói của thuế
Động Sản là điều khoản 2195 trong luật thuế
(Section 2195 of the Revenue and Taxation
Code).
Nếu như số thuế thiếu vẫn còn tồn tại
và chưa được thanh toán sau 30 năm, Sở
Thuế sẽ không còn khả năng và thẩm quyền
để truy thuế nữa; và số thuế này phải được
xem như là đã được thanh tóan
(conclusively presumed paid). Thế nhưng,
có ai muốn thiếu thuế và có tên trong “Sổ
Đen” đến 30 năm?
Trong một vài trường hợp, thuế có thể
được chuyển từ sổ Thuế “Bất Động Sản”
qua so^? Thuế “Động Sản.” Một thí dụ
điển hình là nhà di động (mobile home).
Khi còn trong năm, thuế nhà di động được
xếp loại “Bất Động Sản” nhưng nếu đến
cuối năm chưa trả dứt sẽ chuyển thành
Thuế “Động Sản.”
3/ Thuế “Phụ Trội” (Supplemental
Taxes):
Ta thường nghe “làm giờ phụ trội”
(overtime); hoặc “thu nhập phụ trội”
(supplemental income); hoặc “tiền già phụ
trội” (SSI – supplemental security income),
còn thuế cũng có thuế “phụ trội” ? .
Đúng thế, thuế “Phụ Trội” trong
phạm vi tài sản ra đời khi có đạo luật 13
(proposition 13). Theo đạo luật này, Sở
Định Giá (Assessors’ office) không
được quyền tăng quá 2% trên giá trị của
căn nhà hoặc miếng đất trong một năm,
ngoại trừ những trường hợp sau đây:
• Thay đổi sở hữu chủ (change in
ownership) …
• Xây cất (new construction / addition):
Nhà mới cất hoặc thêm phòng, xây hồ
bơi…
Khi những trường hợp này xảy ra, Sở
Định Giá sẽ có quyền định lại giá căn nhà
(hoặc miếng đất) theo giá thị trường. Một
thí dụ điển hình sau đây cho thấy có nhiều
trường hợp hai căn nhà có giá trị tương
đương với nhau, cùng một khu vực, mà
thuế lại khác nhau:
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 36
“Nhà anh A mua 20 năm về trước với
giá $100,000. Trong 20 năm qua, anh A vẫn
còn làm chủ và không hề sửa đổi gì thêm
(thêm phòng.. chẳng hạn).
Đến năm 2011, thì trong sổ thuế, trị
giá của căn nhà anh khoảng $145,000, trong
khi trị giá đương thời là $300,000. Do đó,
thuế của anh cho năm 2011 khoảng chừng
$1,566 ($145,000 x 1.08% = $1,566).
Trong khi đó, anh láng giềng B vừa mới
mua căn nhà kế bên với giá là $300,000.
Chiếu theo đạo luật 13, Sở Định Giá có thể
dựa trên giá mua của anh B để đánh thuế.
Kết quả là hóa đơn thuế của anh B sẽ là
$3,240 ($300,000 x 1.08% = $3,240) – một
sai biệt đến $1,674 cho hai căn nhà tương
đương giá trị nhau!”
Từ “Phụ Trội” ở đây cũng có nghĩa là
để bổ túc. Khi những sự kiện trên xẩy ra sau
ngày giá trị của căn nhà, miếng đất đã được
định cho lịch thuế hiện hành, số sai biệt giữa
giá trị cũ và giá trị mới sẽ được dùng để tạo
ra hóa đơn “phụ trội” (supplemental tax bill)
thay vì phải sửa đổi lại hóa đơn thuế cũ.
Tuy nhiên, “phụ trội” ở đây cũng
không nhất thiết có nghĩa là “đóng thêm.”
Tùy theo sự sai biệt của giá trị mới và cũ,
đôi khi sự tái định giá lại đưa đến “negative
supplemental assessment,” tức là thay vì tạo
ra một hóa đơn thuế “phụ trội” nó sẽ đưa
đến sự “bồi hoàn thuế” (tax refund) do số
thuế dựa trên giá trị cũ cao hơn số thuế dựa
trên giá trị mới.
Trường hợp này xẩy ra khi giá nhà tụt
giảm theo như tình hình địa ốc hiện nay.
Khi mới sang tên, người chủ mới sẽ trả
thuế dựa trên hóa đơn thuế cũ đã định sẵn.
Sau khi Sở Định Giá tái định giá dựa
theo giá mua trên bằng khoán , sự sai biệt
giữa giá mua ($220,000) thấp hơn giá
trong sổ thuế (tax roll ) ($300,000) sẽ tuần
tự đưa đến số thuế sai biệt là $864
[($300,000 x 1.08%) – ($220,000 x 1.08%)
= $864].
Số tiền bồi hoàn sẽ được dựa trên số
ngày làm chủ trong năm.
Điều khoản trong đạo luật 8
(Proposition 8) cũng cho phép sự tái định
giá một khi giá thị trường thấp hơn giá
được ấn định bởi Sở Định Giá. Người chủ
nhà, chủ đất có thể đệ đơn xin tái định giá
trong trường hợp này.
Tuy nhiên với tình hình suy thoái trầm
trọng của thị trường địa ốc hiện nay, Sở
Định Giá của nhiều Quận đã tự động tái xét
điều chỉnh lại giá trị của nhà đất mà không
cần phải có đơn xin của người chủ. Sự kiện
này đồng thời cũng đã đưa đến sự thiếu hụt
ngân sách của nhiều Quận vì lợi tức đã tụt
giảm.
Tùy trường hợp, thuế phụ trội có thể là
bất động sản, hoặc động sản. Vì đó là
những trường hợp đặc biệt tạo ra, thuế phụ
trội chỉ đến một lần (one-time bill) và có kỳ
hạn khác với hóa đơn thuế thông thường
hàng năm.
Sau khi xem xét hồ sơ chuyển nhượng
và đã tái định giá, Sở Định Giá sẽ gởi đến
người chủ mới một giấy thông báo (Notice
of Assessment) và hóa đơn thuế sẽ đi sau,
với kỳ hạn ít nhất là 30 ngày.
Nói một cách vắn tắt, thuế tài sản là
một trong những loại thuế khá phổ thông và
gần gũi với đời sống chúng ta. Tuy nó là
một trong những chi phí để làm chủ một tài
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 37
sản và chiếm một phần trong ngân quỹ gia
đình hàng năm, thuế tài sản là một nghĩa vụ
của người có tài sản để đóng góp vào sự xây
dựng cộng đồng nơi mình cư ngụ.
Trong khuôn khổ giới hạn của bài viết
này, tôi hy vọng rằng đã chia sẻ một số kiến
thức cơ bản trong lãnh vực thuế khá phổ
thông nhưng ít được nhắc đến. Tôi cũng hy
vọng với số kiến thức này, người mua (nhà,
đất…) sẽ có thêm cân nhắc, xem xét và tìm
hiểu giá thuế của khu vực trước khi mua
nhà, đất… để tránh bị “giật mình” khi nhận
hóa đơn thuế.
Một khi đã làm chủ căn nhà, đất rồi
chúng ta cũng nên cẩn thận hoạch định ngân
quỹ gia đình để đóng thuế đúng hạn kỳ và
tránh bị phạt lãng phí; hoặc bị mất nhà một
cách oan uổng!
Ngô Mỹ Kiều MĐC 1980
Xuân Nhâm Thìn 2012
********** Tự
chữa
bịnh…
Nguyễn Văn Phước
MĐC 1969
Sinh lão bịnh tử là thiên luật dành cho
kiếp người. Trong đó bịnh là kẻ ngoan cố,
dễ đến mà không dễ đi. Nếu không gặp
phải thầy thuốc cứng tay, hắn cứ ở lỳ.
Nhưng bịnh tật là kẻ thù đồng hành của
loài người. Bịnh đã có mặt ngay khi loài
người có mặt trên quả đất nầy. Thuở sơ
khai, loài người làm sao chống lại bịnh tật
khi chưa có đại phu, chưa có thầy thuốc
như ngày nay. Để loài người có thể tồn tại
đến bây giờ, tổ tiên ta đã có những phương
cách chữa bịnh. Theo y học Phương Đông
Trung Quốc, đã được ghi chép thành Thần
Nông Bản Thảo, Lôi Công Dược Đối. Đến
thời Minh, Lý Thời Trân hệ thống hoá và
viết thành bộ sách “Bản Thảo Cương Mục.”
Theo Lý Thời Trân quanh ta 50 dặm thế
nào cũng có thuốc chữa bịnh cho ta. Nước
ta cũng có Hải Thượng Lãn Ông và Tuệ
Tĩnh đã truyền cho chúng ta nhiều nghiên
cứu y thuật.
Với một gia tài y học đồ sộ như vậy
của tiền nhân, tôi không có tham vọng viết
nên một cuốn sách về chữa bịnh, vì đã có
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 38
quá nhiều thầy thuốc làm nên việc ấy rồi.
Chỉ riêng Giáo sư Tiến Sĩ Đổ Tất Lợi đã có
15 sách, 113 công trình khoa học cống hiến
cho chúng ta mặc tình nghiên cứu. Tôi chỉ
muốn giới thiệu một vài phương cách chữa
bịnh đơn giản, không tốn kém nhiều và phổ
quát do gia đình Mạc Đĩnh Chi truyền đạt lại
để đồng môn có thể tự chữa bịnh cho mình.
I- MUỐI VŨ KHÍ SÁT TRÙNG
Theo MĐC K73 Nguyễn văn Tài, tổ tiên
chúng ta đã dùng muối làm chất sát trùng.
Bao đời nay, chữ "eau de sel" là câu kinh
nhật tụng của các thầy thuốc Phương Tây
trong việc chữa và phòng sự nhiễm trùng.
Nguyên tắc sát trùng là dựa vào tính
thẩm thấu nước qua màng tế bào. Bất cứ tế
bào sống nào cũng có tính thẩm thấu nước
qua màng tế bào vào môi trường ưu trương
và ngược lại hút nước vào tế bào từ môi
trường nhược trương.
Vi trùng cũng là một tế bào, nó mất
nước khi nằm trong môi trường có muối
mặn cho đến khi khô và chết đi. Áp dụng
quy luật nầy để dùng muối làm dung dịch
sát trùng. Sau đây xin ghi lại một số phương
cách sát trùng nhờ vào muối như sau:
I-1 MUỐI SÁT TRÙNG MŨI, RĂNG VÀ
MIỆNG
Đồng hành với thức ăn đưa vào cơ thể
qua miệng, các vật thể có hại theo vào và
đọng lại khu trú trong răng, miệng và các
phụ lưu. Để làm sạch nó, súc miệng bằng
muối là cách làm đơn giản, dễ dàng và rẻ
tiền nhất. Nhiều ông bà cụ ở nông thôn Việt
Nam quanh năm chỉ đánh răng với muối mà
đến chết răng vẫn cứng chắc là một chứng
minh cụ thể.
Mũi là nơi tiếp nhận “Oxy,” đồng
thời là nơi đón nhận vi trùng, vi khuẩn,
khói bụi theo không khí vào cơ thể. Do đó
sự hắt hơi, sổ mũi là hành động phản vệ của
cơ thể để tống xuất các vật thể lạ trên. Để
giúp mũi nhanh chóng tống xuất chúng,
chúng ta nhỏ vào mỗi bên mũi 2 giọt nước
muối đậm đặc. Nước muối vào, vừa sát
trùng mũi, vừa kích thích mũi tiết ra dịch
mũi làm rửa mũi và hắt hơi đẩy các tạp, dị
chất ra ngoài, cắt đứt sự xâm nhập của bịnh
tật vào cơ thể. Đó là cách ngừa cảm cúm dể
dàng nhất.
I-2 MUỐI SÁT TRÙNG VẾT THƯƠNG
Trước khi có những chất sát trùng khác,
tổ tiên chúng ta đã dùng muối làm dung
dịch tẩy rửa vết thương, và ngâm những vết
thương quá nặng. Áp dụng phương pháp sát
trùng bằng ngâm vết thương, chúng ta có
thể băng vết thương bằng “gạc,” xong tưới
nước muối đậm đặc lên tấm “gạc” ấy. Tấm
“gạc” trên giữ một lớp nước muối che phủ
vết thương như là chúng ta ngâm vết
thương vào dung dịch nước muối đậm đặc
vậy. Sau thời gian từ 20-30 phút đủ để cho
vi trùng bị muối rút hết nước, bi khô và
chết, chúng ta rửa lại vết thương và bôi “pô
mát.” Cách sát trùng và rửa vết thương nầy
không làm tổn thương các tế bào mới được
sinh ra như khi rửa bằng các hóa chất khác
như “Betadine” chẳng hạn.
II - TỎI TRỊ LOÃNG MÁU, CAO MÁU
VÀ BỊNH TIM
Những người bị Tiểu đường,
“Cholesterol” cao làm máu bị đặc, mạch
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 39
máu bị hẹp laị nên tim phải đập nhanh hơn,
đi đến cao huyết áp. Trong Tây Y, Bác Sĩ
dùng Aspirin, Plavix hay Welchol để làm
loãng máu ra. Nhưng nếu không có thuốc thì
sao? MĐC K70 Huỳnh Thị Thanh Kiều giới
thiệu cho chúng ta dùng một loại thực phẩm
để thay thế những thuốc trên để thực hiện
nhiệm vụ nầy: TỎI.
Bằng cách:
Bẻ củ tỏi ra thành những tép nhỏ, để
vào lò “Vi ba” (“Microwave,”) lò mạnh thì
trong 1 phút, lò yếu từ 1,5 - 2 phút. Nếu
không có lò Vi ba thì hấp với cơm. Tỏi chín
ăn ngon như ăn khoai lang luộc, không có
mùi hôi. Ăn sáng 1 tép, chiều 1 tép. Bịnh
nhẹ ăn tép nhỏ, bịnh nặng ăn tép lớn. Tỏi
làm máu loãng nên lưu thông tốt, khôi phục
được sức khỏe mà ta tưởng phải nhờ
“Viagra” mới làm được.
III- ĐẬU BẮP VÀ CAU KHÔ TRỊ
BỊNH TIỂU ĐƯỜNG
Tiểu đường có 2 lọai: “Type” 1 và
“Type” 2.
“Type” 1 là do sự khiếm khuyết của hệ
nội tiết, khiến người bịnh thiếu chất
“Insulin” nên phải chích “Insulin” nhân tạo
từ nhỏ.
“Type” 2 thường bị mắc bịnh sau tuổi
40, do 2 nguyên nhân :
1- Tụy tạng không sản xuất đủ
“Insulin,”
2- Màng tế bào ngăn chận sự hấp thu
“Insulin” vào tế bào để chuyển hóa chất
“glucozage.”
Trong “Type” 2 nầy, tùy theo từng
trường hợp mà có những chất hổ trợ cho sự
giảm đường huyết, trong đó có những chất
có vị đắng và chát như cau khô, lá và trái
khổ qua.Đặc biệt nhát là trái đậu bắp.
MĐC 69 Trần Thanh Nhơn đã giới
thiệu cách dùng như sau:
Lấy 3-4 trái đậu bắp non, cắt đầu
đuôi, cắt dọc ra và cắt thành từng đoạn
ngắn 2-3 cm ngâm vào ½ ly nước. Sau 6
tiếng đồng hồ uống nước và ăn trái trước
khi ăn cơm. Đường huyết sẽ hạ, giảm lượng
thuốc. Muốn bỏ thuốc luôn, thử ăn nhiều
đậu bắp hơn xem sao.
IV- LÒNG TRẮNG TRỨNG TRỊ
PHỎNG
Trước chuyến đi du lịch dài ngày,
chân tôi lỡ chạm vào “bô” xe. Dù vết phỏng
chưa làm hư da nhưng cũng gây sự lo âu
cho nên cứ bôi đắp dầu mù u, gây mùi khó
chịu cho đoàn. MĐC 73 Nguyễn Thị Quý
Loan mách cho cách chữa phỏng như sau:
Lấy lòng trắng trứng gà bôi vào chỗ
phỏng. Lòng trắng tạo thành một tấm
màng dầy bảo vệ lớp da phỏng và vết
thương; đồng thời thẩm thấu nước đọng
thoát hơi ra ngoài, không bị phồng lên.
Gần 10 ngày sau lớp da non đẩy lớp da
chết ra ngoài khoe màu ửng hồng.
Nguyễn Văn Phước MĐC K69
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 40
Trang Thơ
Nguyễn Thị Hồng Mai
Xuân Bình Yên
Rồi em sẽ bình yên, Lòng dặn lòng, em sẽ bình yên. Quên ngày vui, quên cả ưu phiền, Quên hạnh phúc như quên miền đau khổ. Dẫu xuân qua rồi xuân đến, Mai trên cành hoa vẫn rơi rơi… Xuân thinh lặng dù chới với lòng người, Hỡi em nhé! Hãy bình yên, Để một thời vẫn nhớ!
Viết cho MDC Xuân 2012
Nói tiếng Mễ? (“Are you speaking Spanish?”)
Lời mở đầu:
Xin mời quý vị đọc một vài mẩu chuyện đời
“thật” của tác giả.
TVG
*
1- Năm 1976, tôi làm phụ bếp (“cook
helper”) trong một nhà hàng ăn nhỏ loại
“all you can eat” của Mỹ ở San Diego.
Vào buổi chiều người bếp chính (Mỹ trắng)
về rồi thì trong bếp chỉ còn tôi và một anh
chàng rửa chén (cũng là thuyền nhân người
Việt gốc “củ cải muối”); bên ngoài phòng
ăn thì có hai cô tiếp viên (“waitresses”) Mỹ
trắng. Người chủ Mỹ trắng thường ngồi
“cashier” và trả lời điện thoại.
Trong giờ ăn, thường hay có điện thoại của
khách hàng gọi vào nhà hàng; một là hay
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 41
hỏi đường (directions) đi đến tiệm; hai là hỏi
nhà hàng hôm nay có món gì?…
Một hôm ông chủ nhà hàng phải chạy ra nhà
băng, hai cô “waitresses” đều bận tay, tôi
chẳng đặng đừng phải trả lời điện thoại của
khách hàng gọi đến. Mặc dù mới đến Mỹ
(cuối năm 1975), nhưng kể ra Anh văn của
tôi cũng không đến nỗi tệ lắm (năm 1978,
tôi đã “scored” 550 điểm trong kỳ thi
TOEFL – Test of English as Foreign
Language - tại San Diego; Nên biết hệ thống
đại học University of California, UCLA
chẳng hạn, chỉ cần “score” với 500 điểm
cho sinh viên ngoại quốc). Về Anh ngữ,
phần nghe (“Listening comprehension”) của
tôi cũng khá; nhưng vì tôi đã 27 tuổi khi
đến Mỹ nên phần đọc (“pronunciation”) còn
bị “accent” nặng lắm. Sau khi nghe bà
khách hỏi đường đi tới tiệm, tôi hiểu ngay
câu hỏi và bắt đầu chỉ dẫn (bằng Anh ngữ)
cho bà khách bằng cách nói đia chỉ tiệm
cũng như cái ngã tư (“crossed street”) gần
nhất. Bà khách này sau khi nghe tôi trình
bày xong, im lặng vài giây đồng hồ rồi nói:
- “Are you speaking Spanish?”
Trời đất!
2- Năm 1975, nhiều người Việt tị nạn cs
đến Mỹ ở hoàn cảnh hoàn toàn ngọng tiếng
Mỹ – No English. Một anh bạn láng giềng tị
nạn của tôi, trước đây khi còn ở Việt Nam là
dân đánh cá ở Vũng tầu, đã kể cho tôi câu
chuyện sau đây:
Anh ta có một người chú họ đi du học ở Mỹ
trước 30 tháng 4 năm 1975 đến thăm anh ta
tại nhà và chỉ dẫn anh cách học Anh ngữ cho
mau chóng như sau:
- “Cách tốt và mau nhất (direct English) là
xem TV… Cháu cứ chịu khó xem TV…
mới đầu tiên sẽ chẳng hiểu gì cả, nhưng chỉ
một vài tháng là có hiểu chút ít Anh ngữ
rồi.”
5-6 tháng sau, người chú họ đó lại thăm và
xem việc học hành Anh ngữ (qua TV) của
thằng cháu đã tới đâu rồi; thì thấy thằng
cháu vẫn ngọng 100% như ngày nào.
Người chú thắc mắc hỏi:
- “Thế cháu có chịu khó xem TV như chú
đã chỉ dẫn cháu không?”
Anh ta trả lời và chỉ vào cái TV trong nhà:
- “Vâng. Cháu vẫn xem TV mỗi ngày...
Như chú thấy cái đài mà cháu thích nhất
đang có trên màn ảnh TV kia kìa...”
Ông chú nhìn vào màn ảnh TV mới kêu
trời:
- “Trời đất! Hèn gì mà mày không hiểu
được Anh ngữ. Thằng chết tiệt! Đó là ‘đài
Mễ.’ (Spanish channel)”
Trời đất!
3- Năm 1978 tôi quyết định bỏ tất cả các
công việc tay chân đang làm (rửa chén, phụ
bếp, phụ thợ xây cất…), ôn lại một ít vốn
liếng Anh ngữ, thi lại các “tests” như SAT,
ACH, TOEFL... để chuẩn bị trở lại trường
học Mỹ. Tôi dự định cố gắng lấy một mảnh
bằng Mỹ để kiếm cơm sống trên đất Mỹ…
Từ khi trở lại trường học (1979), Anh ngữ
của tôi (cả “Reading” và “Listening
comprehensions”) đều tiến triển rất khả
quan. Tôi đã có thể coi TV và hiểu khi nào
là chương trình (“TV program”) chính, khi
nào là phần thương mại (“TV
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 42
commercials”) không như trước đây cứ
tưởng phần thương mại là một phần của
chương trình đang xem; không phân biệt
được cái nào ra cái nào?!…
Hai chương trình TV mà tôi thích nhất là:
“The Benny Hill’s Show” và “Archie
Bunker.”
Anh chàng Benny Hill là một thiên tài hiếm
có. Trong mỗi Benny Hill’s show dài cả
tiếng đồng hồ rất vui nhộn, cười mệt nghỉ
mà các diễn viên không cần phải nói một
câu Anh ngữ nào… Tất cả chỉ cần đông tác
diễn xuất và nhạc đệm. Thành ra Mễ, Việt,
Tầu… Tóm lại các di dân còn ngọng Anh
ngữ xem đều hiểu từ đầu đến đuôi không
khó khăn gì; Dân Mít ta rất thích show này.
Riêng chương trình “Archie Bunker” là một
bài học, một hình ảnh tiêu biểu phản ánh xã
hôi Mỹ kỳ thị chủng tộc… Sự kỳ thị (của
Archie Bunker) cho thấy rõ là xuất phát từ
sự ngu xuẩn (“ignorance”) và lòng ganh tị
(“jealousy”). Anh chàng Archie Bunker là
một cựu chiến binh, làm thợ tay chân, sống
vất vả nghèo.. thành ra anh ta ghét, kỳ thị
tất cả các giống dân thiểu số sống chung
quanh anh ta. Hai vợ chồng Archi Bunker,
đứa con gái và anh chàng con rể thất nghiệp
sống chen chúc nhau trong một “apartment”
hai phòng ngủ. Archi Bunker không hề dấu
diếm là anh ta ghét dân Mễ, Do thái, Ba lan,
Mỹ đen, dân Á châu… sống trên đất Mỹ.
Archi Bunker cho là vì đám di dân này mà
cuộc đời và gia đình anh ta phải vất vả (?)…
Một hôm, trong “show,” vào giờ ăn tối, gia
đình Archi Bunker sắp sửa dùng bữa thì
nghe gia đình hàng xóm người Mễ đọc
“Kinh lạy Cha” rất ồn ào. Archie Bunker
nổi nóng quất ầm lên:
- Trời đất! Xin vui lòng đọc kinh Chúa
bằng tiếng Anh (“Oh my God! Please pray
in English!”).
Anh chàng con rể (trong “show” là một
thanh niên cấp tiến – liberal – người di dân
gốc Ba lan; luôn luôn bất đồng ý kiến với
ông bố vợ Archie Bunker) có vẻ không
bằng lòng, hỏi Archie Bunker:
- Why? Tại sao? Họ là người Mễ thì tại sao
họ phải đọc kinh bằng Anh ngữ?
Archi Bunker trợn mắt quát:
- Bởi vì God không hiểu tiếng Mễ
(“because God do not understand
Spanish”)… vì vậy mà mấy thằng Mễ đến
sống ở đây trên 100 năm vẫn nghèo!
Trời đất!
4- Tôi có đứa con gái 6 tuổi. Từ lúc cháu
còn bé còn sơ sinh đã gởi cháu ở nhà trẻ
(“daycare center”) của Mỹ và bây giở đi
học trường Mỹ cho nên cháu chỉ nói hoàn
toàn 100% tiếng Mỹ mặc dầu cháu nghe và
hiểu tiếng Việt lai rai (nhưng vẫn cứ trả lời
bằng tiếng Mỹ). Bà xã tôi hơi ưu tư:
- “Thôi chết rồi! Con Annemarie chỉ nói
toàn tiếng Mỹ… bây giờ phải bắt đầu dạy
nó nói tiếng Việt Nam là vừa…”
Rồi khi cả gia đình tôi ngồi tại bàn ăn, bà
xã tôi dạy cháu Annemarie tiếng Việt bằng
cách bắt cháu lập lại một câu tiếng Việt đơn
giản:
- “Con ăn cơm.”
Cháu gái không đọc, nhưng lại nhìn mẹ và
ngơ ngác hỏi:
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 43
- “Are you speaking Spanish?”
Trời đất!
Trần Văn Giang
MĐC K68
Xuân Nhâm Thìn 2012.
*****************
Trang Thơ
Nguyễn Thị
Kim Minh
Xuân…..
Xuân về em có biết hay không?
Mùa xuân cánh én lượn trong vườn
Đón xuân tình mới lòng muôn thưở
Nhớ lại bóng hình dáng em xưa
Em đi vũ khúc hoa đào nở
Em đứng mùa xuân rộn lối về
Em ngồi tựa cửa lòng xuân thả
Gợi nét thiên thanh một dáng hình
Chiều nay em nhé ta ghé em
Tặng em một đóa hoa mai rừng
Trao em trao cả mùa xuân tới
Nhớ nhé em ơi những tháng ngày
Mùa Xuân chiều xuống lòng rộn rã
Đón xuân đón cả những ngày thơ
Thơ em róc rách làn suối chảy
Rửa mát linh hồn hết thương đau
Xuân này lại nữa những xuân sau
Ta mang cánh mỏng lụa xuân thì
Ép nhẹ trong ngăn thơm mùi mới
Gởi đến em thơ một chữ tình….
Xuân…..
Xuân này rộn rã đón em sang
Sang ngang cô gái má xuân hồng
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 44
Ngàn xuân phơi phới hoa xuân nở
Khúc hát đồng dao rộn nét xuân
Xuân sang em còn có ước xuân
Cho cô gái thắm, thắm duyên hồng
Duyên mơ một mái nhà nho nhỏ
Ấm áp tình xuân bên lá dong
Xuân này bánh mứt đón xênh xang
Em khoe áo mới với hoa đèn
Ngày xuân pháo nổ rộn muôn ngã
Ta nhặt pháo hồng giỡn em yêu
Ngày xuân hoa cúc mai đào nở
Em có âm thầm nở nét duyên
Tình ta đậm mãi bên xuân mới
Em có thương người bên mái tranh
Xuân xanh mãi mãi vẫn còn xanh
Ta mang tơ óng lụa hoa vàng
Gởi em má thắm xuân mơn mởn
Giữ hộ xuân thì nét em yêu….
Xuân….
Nguyễn Thị Kim Minh
Kim Minh & Mỹ Thuật tạc tượng….
Trang
TẠp bÚt…
Võ MẠnh HÙng
Sắm tết thời di động
Những ngày giáp tết Sài Gòn nhộn nhịp
ghê gớm. Một trong cái sự nhộn nhịp dễ
thấy nhất là các gian hàng di động trên hè
phố. Chẳng biết bao giờ? từ hồi nảo hồi
nào? mà các gian hàng di động này xuất
hiện.
Thật ra không phải chỉ là những ngày
tết, mà trước tết, trong tết, sau tết đều có
bóng dáng các anh chàng, các cô nàng hay
các chị chàng ngồi, đứng, quỳ, thậm chí bò,
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 45
nằm trên hè phố với hàng đống quần áo, đủ
cỡ đủ “model,” từ ngoại y đến nội y hoặc
nửa nội, nửa ngoại đều có đủ…
Và đâu phải chỉ có quần áo. Còn nào là
giày dép đủ kiểu đủ loại, rồi nào là túi xách,
bóp đầm… thôi thì thượng vàng hạ cám từ
“Louis Vutton” “Made in China” hay
“Made in Vina” quận tám, cho đến dây nịt
“Gucci” Italy “Made in ‘quăng đi’ (nhìn một
cái là đi luôn)” v..v..
Thế thì có phải là chỉ những dân chơi miệt
vườn mới ghé qua hàng của các cô em hay
sao?
Không đâu à nhe ! Người viết bài này đã
làm một cái “ma két tinh rì sớt” bỏ túi và
nhận thấy dân Sài Gòn không phân biệt sang
hèn (nhưng dân SG xưa nay đâu có phân
biệt sang hèn!) chạy ngang, đi ngang hay
ngồi ngang (dĩ nhiên là ngồi trên xế hộp rùi)
mà lỡ có thấy một cái gì ưng cái ý, ưng cái
bụng thì vẩn xề xuống lựa lựa, coi coi…
nhiều khi còn bóp bóp, nắn nắn rất chi là
điệu nghệ đầy đam mê nữa ấy chứ (đam mê
đây là đam mê lành mạnh).
Những phố tập trung cái sự kinh doanh
hàng tết thời di động này tập trung ở những
con đường như Nguyễn Trãi là quần áo, nón
dép, giày, phụ tùng của nam giới như bóp,
ví, dây nịt “khô mực…,” đồ nghề của chị em
như nón tây nón ta, nón tai bèo, nội y to nhỏ,
dây nhợ một mảnh hai ba mảnh, trên dưới
đủ cả; rồi thì guốc cao, giầy bít búp bê, dép
lê, hài, rồi nào là khăn choàng mùa Đông Sẻ
Gòn, vòng nhẫn “dzàng” thiệt, “dzàng” giả.
Ở đây thì cũng có phân chia đẳng cấp theo
diện tích lấn chiếm lòng lề đường, ngồi
trước hàng hiệu hay cạnh cột đèn…
Quý vị nào thích bụi đời “amateur” thì có
đường Trần Quốc Toản (đường 3/2 bây giờ)
từ chỗ chợ “hải sản” (gọi như thế cho hợp
thời, chứ không nhẽ gọi là chợ cá như ngày
xưa à?) Trần Quốc Toản cũ, bây giờ thì là
siêu thị Sài Gòn. Nơi đây tập trung hàng
“jean đủ kiểu cũ mới tức là đồ “sida, rồi
“jean” Hồ Cẩm Đào, lại còn có phụ tùng đồ
chơi nam nữ hàng nhái hàng hiệu đủ thứ
(lành mạnh à nhe) dĩ nhiên là hàng “sida, ”
hàng China …
Nói nào ngay là anh chị em nào muốn có
hàng độc không bị đụng hàng thì ghé vào
đây là ăn chắc. Lỡ có ai hỏi thì cứ mạnh
dạn “em tậu trong shop phố Lê thị Riêng
quận 1” cũng chẳng sao, vì nó giống nhau y
chang, một đàng là nơi mua sắm của các
em (thường do Việt kiều hay Mỹ kiều trả
tiền).
Lại nghe đồn rằng sau khi mua xong và
sau khi các các “khúc ruột ngàn dặm” hoặc
“khúc ruột thừa” trả xong tiền thì chỉ một tí
ngay sau đó, các em quay lại “kính gởi”
cho chủ tiệm; và chủ tiệm nhận lại hàng rồi
thối tiền lại cho các em ( ?!) một đàng là
của dân chơi không ngại mưa rơi trên thành
phố … “chát” ( bây giờ chổ nào cũng có
“chat” cả, nói như thế không phải là ngoa
ngôn chứ lỵ!) còn thêm một đàng của dân
chơi cầu ba cẳng (bên hông chợ lớn - cầu
này bi giờ bị phá thành đường rồi).
Nói về hàng Jean” còn phải kể đường
một chiều Nguyễn Đình Chiểu. Ngày xưa
đây là nơi tọa lạc của những tiệm may nổi
cộm như tiệm Vinh chuyên may sơ mi nổi
tiếng hay tiệm quần tây, Adam v..v.. Bây
giờ thì tiến bộ hơn vì con đường tràn ngập
các gian hàng quần áo “jean, ” nón “jean”
(đoạn gần ngả tư Cao Thắng) ; Và nếu quý
vị rẽ phải, quẹo vào đường (?… quên rồi),
thì nơi đây còn có giày dép hàng ngoại đồ
cổ hay còn gọi nôm na là giầy “sida” với
nhiều đôi giầy tuyệt chiêu mà các chàng
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 46
hay cô nàng ca sỹ mới nổi hay mới trồi đều
thích ghé thăm…
Thế thì cái “sự sắm sửa” này mà dân Sài
Gòn chăm chú chắc cũng là bởi cái giá trị
của món đồ nhiều khi là vô tận (nếu bạn vớ
được một đôi giầy da, kiếng kiểu Italy mà
mang đi nhẩy đầm không đụng hàng thì là
vô tận chứ còn gì nữa?)… Nếu so với số tiền
mà bạn phải bỏ ra, và thật ra nếu bạn không
có một sự thông duyệt cùng những kinh
nghiệm trả giá kỳ kèo hoặc thậm chí chém
gió thì cũng không dễ “lụm” được những
hàng độc địa như tui vừa kể, và dĩ nhiên
nhiều khi bạn cũng sẽ được hân hạnh làm
bạn với những “quân tử kiếm” thiên hạ đệ
nhất giả cỡ Nhạc Bất Quần chưởng môn
“Hoa Sơn chợ lớn…”
Các thương xá vĩa hè của Sài Gòn còn
cung cấp hàng công nghệ cao với đầy đủ giá
tiền. Bạn có thể mua một chiếc điện thoại di
động cực “cool” với giá chỉ vài chục đến
một hai trăm ngàn (một chiếc Samsung nắp
bật hàng hot …. Năm 2005 với giá chỉ
100k), loại này tập trung nhiều nhất là chợ
Lý Nam Đế gần chợ điện tử Nhật Tảo đường
Lý Thường Kiệt quận 5…
Với thời hạn bảo hành chỉ tối đa 7 ngày!
Ba ngày tết bạn vẫn có thể hát “karaoke” với
thiết bị điện tử đủ mọi nhãn hiệu, xem TV
LCD HD hay TV bình dân “Made in Nhật
Tảo” có màn hình tối tân kết hợp giữa hai
loại công nghệ thể hiện đỉnh cao trí tuệ của
dân ta đó là TV màn hình tái chế từ màn
hình “computer mạch điện tử” “Made in
Chúng Của” với “sac-xi” chế tạo tại tổ hợp
công nghiệp nhựa tái chế Chợ Lớn. Giá thì
rẻ như bèo (700K cho một em 14 inch …)
Bà con nông nghiệp miền Tây cực kỳ ưa
chuộng loại TV này, nền công nghiệp tiên
tiến của dân ta còn cung cấp vô số sản phẩm
như mắt kính đủ loại từ cận viển loạn đổi
màu từ “multicolor” đến đen thui “Mafia
Hongkong;” rồi nào là bút viết “Parker” đồ
cổ, hôp quẹt “Zipo” hằm bà lằng…
Nếu quí vị là người yêu nghệ “thực.” Ý
quên! Là người “iêu” nghệ thuật điêu khắc,
hội họa muốn biến phòng khách nhà mình
thành nơi trưng bày tác phẩm nghệ “thực, ”
muốn biến sân vườn thành nơi chiêm
ngưỡng các giá trị “dzăng” hóa đồng thau
xi măng bột nặn thì các “ga le ri” bụi đời
trên phố Trần Phú (tức là Nguyễn Hoàng
của thời xa xưa thân ái) nằm vắt ngang
quận 5 và quận 10, là nguồn cung “Ok”
nhứt xứ. Nơi đây, ngày xưa có tiệm phở
Nguyễn Hoàng khá nổi tiếng, bi giờ thì có
“Liên hiệp thịt cầy 2” (khúc cuối đường gần
ra đến đường Hồng Thập Tự cũ - bây chừ
là NTMK ) - “Liên hiệp thịt cầy 1” thì nằm
tận ở ngã ba ông Tạ.
Tại các “ga le rì” này đủ loại tuyệt tác
của đủ loại tên tuổi trong và ngoài nước tả
pín lù” về mọi loại trường phái điêu khắc
hội họa của toàn nhân loại, đặc biệt được
sáng tác hay sáng chế từ những cảm xúc…
của khách hàng thế mới ác liệt; tức là bạn
có thể đặt hàng tranh lớn bé sơn dầu sơn
TOA, sơn nước theo ý muốn; hoặc tượng to
nhỏ chim chi bướm gì cũng có. Thế mới
ghê!…
Ba ngày xuân ngoài những thứ thuộc
loại trang bị hình thức như vừa kể thì còn
một loại hang hóa dành cho các quý vị trí
thức hay trí “ngủ gật” (vì thức nhiều quá
mạng mủng tùm lum cho nên ban ngày đi
làm ngồi bàn giấy lúc nào cũng gật gù ra vẽ
đang tâm đắc chân lý chói qua tim …)
Sách, loại hàng hóa này thật ra không
phải là hàng “hot” ba ngày xuân vì ba ngày
xuân thì nhậu và chơi mới là hoạt động chủ
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 47
lực của phe ta ; Tuy nhiên phe ta cũng có
một số bác “lấy trí nhân để thay cường
bạo… lực” gia đình của các bác gái sư tử
hống, chủ trương tìm nơi vắng vẻ thanh tao,
cho nên ngày xuân, sách hay câu đối, hay
thư pháp – (cái vụ vẽ mực “Chúng Của” cổ
đại) – tui không dám xài chữ mực “Tàu” vì
tui đã bị một huynh “China” tha thiết
khuyến cáo không nên xài chữ “Tàu” trong
bất cứ trường hợp nào, Ví dụ: Nồi thịt kho
…“Chúng Của,” v..v.. – Các thầy khóa vẽ
loằng ngoằng mà nhiều khi tui cố trợn mắt
ba độ thôi miên một hồi lâu vẩn không hiểu
các dị nhân viết kí rì... Thế mới đau chứ!)
cũng xuống phố rầm rộ.
Buổi tối đi dọc đường 3/2 gần nhà sách
Phương Nam, ta sẽ thấy các thư viện vĩa hè
khá là rầm rộ mà đặc biệt là “chơi “ toàn thứ
dữ, tỷ như “Bố già” (bản gốc!) hay
“Kamasutra,” “Góp nhặt cát đá,” lại còn
“Zen” hoặc “Tăng cường sinh lý nam giới, “
“Quý cô (bà) muốn gì!? ” Các “thư
viện”này còn đặc biệt xuất hiện ở nơi ít ai
ngờ tới như công viên, bùng binh (ở gần mũi
tàu Phú Lâm, công viên Phú Lâm cũng có
dù không thường xuyên).
Điểm qua các loại hàng họ vừa kể mà
quên các trung tâm băng đĩa nhạc di động
thì quả là thiếu sót to bự…
Một buổi chiều cuối năm ta đang ngồi lai
rai bên quán cóc vĩa hè thả hồn trôi dìa dĩ
vãng xa xưa của những mùa xuân năm ấy…
thì bổng có tiếng ầm đùng xoèn xoẹt rồi một
giọng ca dĩ vãng cỡ Chế Linh với “Xuân này
con không về chắc mẹ buồn lắm ?…” hay
với giọng ca thời hiện đại như Quang Lê
“Xuân này con dìa mẹ ở đâu?...” Thì ta biết
ngay là một trung tâm băng đĩa lậu lưu động
đang từ từ xuất hiện.
Thường thì “trung tâm” tọa lạc trên một
xe ba bánh chạy bằng cơm, do chủ nhân
“Ma ri cờ lê” Tô hay Tommy Huỳnh trực
tiếp điều hành kiêm giao dịch, kiêm luôn
thu ngân. Giá cả thời khủng hoảng kinh tế
cho nên rất dễ chấp nhận: chỉ từ 5000VND
đến 15000 VND một DVD mà thôi. Ba
ngày xuân mua một mớ đĩa về coi mệt nghỉ.
Coi xong đem quăng luôn…
Như thế ta thấy mỗi thời đã mỗi khác.
Nhớ ngày xưa (mỗi lần mà tui viết ba chữ
“nhớ ngày xưa” thì tui chợt thấy một niềm
xúc động… đậy vô cùng bủn rủn tay chưng,
cảm động khôn tả !) cách đây cũng ba bốn
chục năm thôi, mỗi khi xuân về lấp ló ngoài
hiên, hay đang thập thò trước cửa thì tui
vẫn thường lượn lờ khắp Sài Gòn …
Cái Sài Gòn bé tí êm đềm mà nồng nhiệt
của tui (lại cảm động nữa rồi) bằng chiếc
Honda “dame” xanh có cái yên hai màu đỏ
trắng (sic) đôi khi may mắn thì có đèo thêm
một cái “rờ mooc” nhí nhảnh sau lưng, hay
một thằng bạn cười nham nhở khi hắn bình
luận cái quần “jean” ống loe có “phẹc mơ
tuya” của tui là đồ chùi sàn tàu (nếu là tàu
tham dự đại chiến Hoàng Sa thì cũng hân
hạnh).
Cái ngày xưa ấy rõ ràng là rất ít khi
mình đi chợ vĩa hè như bây chừ. Không
biết đó là tiến hay lùi? Có lẽ do lúc này xe
gắn mày chạy đầy đường nên hàng hóa
cũng xuống đầy đường, tạo ra một nét văn
hóa lề đường rất đặc trưng của Sài Gòn
ngày nay. Không biết nên buồn hay nên
vui…
Võ Mạnh Hùng
– những ngày giáp tết Nhâm Thìn 2012
@@@@@@@@@@@@@@@@@@@
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 48
Võ Mạnh Hùng….
Với cây đàn Guitar cùng bạn bè chung lớp
Võ
Mạnh
Hùng
…và Thơ
Xuân đợi Ngồi một mình tôi đếm những ngón tay
Như ngày xưa mưa qua thì Xuân đợi Ngồi một mình tôi rồi tôi nghĩ ngợi Thôi chờ mong Xuân cũng vội không về
Ngồi một mình tôi mấy dặm sơn khê
Mưa mù mây cõi u mê tình sầu
Ngồi một mình tôi không ngồi lâu
Nghe thời gian vội gật đầu cho qua
Cho qua em cho qua tôi rồi thôi Cho tình mong manh cho trăng tàn chiếu lạnh
Cho Xuân thì ngây ngây lận đận
Cho ôm em ngất ngất tận … Cà mau !
Hạc trắng ven đồi Chẳng phải ta đã từng mơ hoa gấm
Lấp lánh vàng mai bạc ánh sao
Mơ làm gió thốc lộng trời cao
Nghiêng cánh thép bổ nhào vào giông bão
Chẳng phải ta đã từng mơ sắc trắng
Bập bềnh sóng biếc hoa trăng tan
Mơ ngày nghiêng nắng lên đồi pháo
Chập chùng đồn khuya …mờ sương tan
Tan tành thôi , tan tành thôi Xuân ơi ! Chiều đi qua hạc trắng mãi ven đồi Nghe khúc hát , vàng xưa mời quay lại Viễn lạc hồn thơ… trùng xa khơi
Võ Mạnh Hùng MĐC 76 Xuân Nhâm Thìn 2012
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 49
Giai Thoại
Văn Chương GS: Phạm Quân Hồng
1- Thơ vịnh Kiều
Nói về thơ vịnh Kiều thì có quá nhiều.
Ở đây chỉ nói về vài bài chê trách nàng Kiều
mà thôi.
Nhà Nho Nguyễn Công Trứ, cực kỳ bảo
thủ theo đạo lý Khổng Mạnh, đã nghiêm
khắc lên án Thúy kiều nặng nề:
Ai chẳng biết má hồng thời mệnh bạc
Trách Kiều như chưa vẹn tấm lòng vàng
Chiếc quạt thoa đành phụ nghĩa với Kim
lang
Nặng vì hiếu, nhẹ vì tình thời cũng phải
Từ Mã Giám Sinh cho đến chàng Từ Hải
Cánh hoa tàn đem bán lại chốn thanh lâu
Bấy giờ Kiều còn hiếu vào đâu
Mà bướm chán ong chường chi mãi thế!
Bạc mệnh chẳng lầm người hiếu nghĩa
Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm
Ai ơi nghĩ lại kẻo lầm…
Uy Viễn Tướng Quân kết tội Thúy Kiều
như vậy thật là quá đáng; chẳng bù cho Chu
Mạnh Trinh khen ngợi hết lời: “Biết đâu
bông hạnh nở ngoài tường chưa để con ong
qua tới.”
Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu cũng là nòi
tình, thương xót Thúy Kiều nhưng cũng
không chấp nhận được cảnh nàng gẩy đàn
hầu rượu Hồ Tôn Hiến sau khi xúi Từ Hải
ra hàng khiến Từ mắc mưu Tổng đốc họ Hồ
đến phải chết đứng giữa trận tiền:
Tiếng sấm ân tình bốn mặt ran
Tướng quân chi tiếc cánh hoa tàn
Hai hàng nước mắt, đôi làn sóng
Nửa đám ma chồng, nửa tiệc quan
Tổng đốc ví thương người bạc mệnh
Tiền Đường chưa chắc mả hồng nhan
Trơ vơ nắm đất bờ song nọ
Hồn có xa nghe mấy tiếng đàn.
Nếu như Tổng đốc Hồ Tôn Hiến thu
nạp Kiều làm tiểu thiếp, không đem gả cho
gã thổ quan thì liệu Kiều có gieo mình
xuống sông Tiền Đường hay không?
Hồi đầu thế kỷ trước, một nhà nho vô
danh cũng có bài thơ vịnh Kiếu. Lời lẽ bài
thơ này dung tục, có thể nói là hơi thô bỉ,
nhưng không phải tác gỉa nhắm vào nàng
Kiều mà mục đích là để đả kích một vị
quan tỉnh đã ngông nghênh, xem thường
Nho sĩ thiên hạ:
Khóa kín buồng xuân để đợi chờ
Mà em mất nết tự bao giờ
Chàng Kim mê gái công đeo đẳng
Viên ngoại chiều con chết ngất ngơ
Kiếp trước hẹn hò con đĩ Đạm
Duyên sau gặp gỡ bố cu Từ
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 50
Mười lăm năm ấy bao nhiêu sướng
Còn trách làm chi gã bán tơ.
Số là vị quan ấy, giống như hầu hết các
quan lại thời đó, đều xuất thân khoa bảng;
sính làm thơ. Ông ta có bài thơ chẳng biết
hay dở ra sao; nhưng thói thường thì “vợ
người, văn ta” cho nên chắc ông ta phải tự
hào về bài thơ ấy lắm nên đã mướn thợ khắc
bài thơ trên núi. Tệ hơn là năm sau ông ta
lại lên núi kêu thợ khắc vào núi đôi bàn chân
của mình. Hành động đó đã làm nhiều Nho
sĩ khó chịu và lên tiếng mỉa mai:
Năm ngoái ông lên đục mấy vần
Năm nay ông lại đục đôi chân
Khen cho đá cũng bền gan nhỉ
Chịu để cho ông đục mấy lần…
Rủi cho vị quan ấy là cái tên hai chữ của
ông lại trùng với tên hai nhân vật trong
“Đoạn trường tân thanh” là Đạm Tiên và Từ
Hải cho nên mới bị người ta dùng lối chơi
chữ và những lời lẽ dung tục “bố cu,” “con
đĩ” mà chửi xéo.
2- Thơ Yết Hậu
Các thể thơ của ta có một thể rất đặc biệt.
Bài thơ có 4 câu; 3 câu trên, mỗi câu có thể
có 5 hoặc 7 chữ; nhưng câu cuối cùng chỉ có
1 chữ.
Bài thơ Yết hậu nổi tiếng nhất là bài “Tự
trào” của Chiêu Lỳ Phạm Thái. Phạm Thái
và mối tình của ông với nàng Trương Quỳnh
Như được nhiều người biết đến nhờ cuốn
tiểu thuyết “Tiêu sơn tráng sĩ” của nhà văn
Khái Hưng. Bộ tiểu thuyết này nói về con
cháu các cựu thần nhà hậu Lê sống dưới thời
Tây Sơn nhưng vẫn nuôi mộng “phù Lê,”
khôi phục lại ngai vàng cho nhà Lê. Mưu
đồ thất bại, Phạm Thái, một tráng sĩ Tiêu
sơn, đã phải đến ẩn cư ở nhà một người bạn;
và yêu tha thiết cô em gái của ngườii bạn là
Trương Quỳnh Như. Vì bà mẹ của Quỳnh
Như không biết lai lịch thưc của Phạm
Thái, chỉ biết ông là một nhà sư phá giới
nên nhân duyên không thành. Khi Qùynh
Như chết, Phạm Thái say sưa, được gọi là
Chiêu Lỳ, đã viết:
Sống ở dương gian đánh chén nhè
Chết về âm phủ cắp kè kè
Diêm vương phán hỏi rằng chi đó
Be!
Các bậc đàn anh ở trường Bưởi (tiền
thân của trường Chu Văn An) có kể lại câu
chuyện về giáo sư Dương Quảng Hàm như
sau:
“Khi giảng về thơ Yết Hâu, giáo sư hỏi
học trò đã hiểu rõ chưa? Và nếu hiểu rõ thì
làm thử một bài. Thấy mấy học sinh ở
“xóm nhà lá” cuối lớp cười khúc khích với
nhau; thầy hỏi đã làm được bài thơ chưa?
Mấy anh thực ra đã làm xong rồi; nhưng
không dám đọc sợ thầy giận. Được thầy
hứa không giận, mấy học trò tinh nghịch đó
mới trình thầy bài thơ:
Sống ở dương gian chỉ khạc đàm
Chết về âm phủ nói làm nhàm
Diêm vương mới hỏi rằng ai đó
- Hàm!”
Tiếp theo đây là câu chuyện vui về thơ
Yết Hậu đã có từ hồi đầu thế kỷ trước;
nhưng tôi thay đổi vài chi tiết cho thích hợp
với hoàn cảnh của người Việt tị nạn tại Mỹ
sau năm 1975:
Hồi mới tới Mỹ, phần nhiếu người
Việt chúng ta vì thiếu chuyên môn cho nên
thường phải làm những công việc với lương
thấp. Do đó mỗi khi được gọi cho làm
thêm giờ phụ trội lương gấp đôi (hay gấp
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 51
rưỡi) thì không mấy ai từ chối. Mà làm việc
nhiều thì mệt cho nên anh chồng trẻ đã sao
lãng bổn phận (!) Chị vợ vốn sính làm thơ
nên nhắc khéo:
Sức dài vai rộng để làm chi
Tắm mát ăn no lại ngủ khì
Mình ơi! Thức dậy chiều em tí
Đi!
Anh chồng khất:
Suốt tuần bận bịu “ô vờ thai” (“overtime”)
Mỏi cả xương sườn, mỏi vả vai
Việc “ấy” hôm nay xin hoãn lại
Mai!
Cô vợ không bằng lòng:
“Ô vờ thai” toàn chuyện long bông
Mình ráng chiều em kiếm chút bồng
Nay lại hẹn mai, mai hẹn mốt
Không!
Anh chồng bèn nổi sùng lên:
Nằm chung lắm lúc bực mình sao
Mình muốn yên thân nó cứ gào
Ừ! Mày muốn chết, ông cho chết
Nào!
…
3- Ấu học Ngũ Ngôn Thi
“Ấu học Ngũ Ngôn Thi” là sách học của
học trò còn học chữ Hán ngày xưa, gồm
những bài thơ 5 chữ. Có bài nói về sự “sung
sướng” của đời người để khuyến khích
người đi học:
Cửu hạn phùng cam vũ
Tha hương ngộ cố tri
Động phòng hoa chúc dạ
Kim bảng quải danh thì
Nghĩa là:
Nắng hạn lâu gặp mưa rào
Quê người gặp bạn cũ
Đêm động phòng hoa chúc
Thi đậu có tên trên bảng vàng
Có người thêm hai chữ vào mỗi câu
thành ra bài thơ thất ngôn và làm cho ý
nghĩa bài thơ mạnh haơn:
Thất niên cửu hạn phùng cam vũ
Thiên lý tha hương ngộ cố tri
Hòa thượng động phòng hoa chúc dạ
Hàn nho kim bảng quải danh thì
Hai chữ “Thất niên” (7 năm) cho thấy
nắng hạn đã quá lâu.
Câu thứ hai nói sự xa quê hương,
“thiên lý” thật xa, thì chính bản thân tôi đã
cảm nghiệm. Tháng 9 năm 1975, tôi và gia
đình tới trại tị nạn là căn cứ Thủy Quân Lục
Chiến Mỹ tại Nam California. Trong hơn
hai tuần lễ ở trong trại, tinh thần hoang
mang, chưa biết tương lai sẽ ra sao. Tôi đã
gặp lại mấy người thân: 2 người trong họ, 2
người bạn đồng nghiệp và 2 học sinh cũ ở
trường MĐC. Tay bắt mặt mừng, niềm vui
khó tả.
Câu thứ 3 có vẻ hơi “xúc phạm” bậc tu
hành (nếu là bậc chân tu).
Câu cuối cho ta thấy rõ, “Hàn Nho” là
kẻ sĩ nghèo mà thi đậu thì cuộc đời sẽ thay
đổi nhiều; chắc chắn sẽ sung sướng hơn
người khá giả cũng thi đậu như họ.
Lại có người tinh nghịch, cũng thêm
hai chữ vào đầu của 4 câu ngũ ngôn; nhưng
lại làm cho bài thơ có ý nghĩa trái ngược:
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 52
Diêm điền cửu hạn phùng cam vũ
Đào trái tha hương ngộ cố tri
Quan hoạn động phòng hoa chúc dạ
Cừu nhân kim bảng quải danh thì
“Diêm điền” là ruộng muối. Dân làm
ruộng muối phơi nước biển để lấy muối mà
gặp mưa thì làm sao có muối đây?
“Đào trái” là trốn nợ. Đi xa để trốn nợ
mà gặp người quen biết rõ lai lịch mình thì
còn mặt mũi nào?
“Quan hoạn” (thái giám) làm sao mà
cưới vợ? Mà động phòng đề làm gì?
“Cừu nhân” là kẻ thù. Thấy kẻ thù thi
đậu rồi mai đây ăn trên ngồi chốc thì mối
hận khó mà nuốt trôi!
GS:Phạm Quân Hồng Xuân Nhâm Thìn - 2012
Chuyện Cười
1. Những lý do chúng ta không nên coi
thường trẻ con
Một đứa bé gái trong lớp mẫu giáo nói
chuyện với cô giáo về cá voi (whales). Cô
giáo giải thích là mặc dù cá voi có cơ thể
rất lớn đồ sộ nhưng chúng không thể nuốt
người ta được vì cuống họng của cá voi
không lớn cho lắm.
Nhưng cô bé quả quyết:
- Không! Thưa Cô, bạn con là Jonah đã bị
cá voi nuốt thiệt mà!
Cô giáo có vẻ hơi bực mình, lập lại:
- Cô đã nói là cá voi không thể nuốt người
ta được (“it was physically impossible”).
Con có hiểu không?
Cô bé gái nói:
- OK! Vậy thì khi con lên thiên đàng con
sẽ hỏi lại Jonah.
Đến đây Cô giáo vẫn còn bực, chưa chịu
thua:
- Nhưng lỡ bạn Jonah của em xuống địa
ngục thì sao?
Cô bé gái trả lời ngay:
- Trong trường hợp đó thì Cô nên đi hỏi
Jonah.
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 53
2. Trong giờ học giáo lý sáng chủ nhật, hôm
đó, Cô giáo phụ trách giảng về “Mười điều
răn” (The Ten Commandments) cho các học
trò 5-6 tuổi.
Sau khi giảng giải xong. Cô giáo trở lại, ôn
qua về điều thứ 4: “Thảo kính cha mẹ”
(Honor your father and your mother); và
quay ra hỏi học trò:
- Các em có thấy điều nào Thiên Chúa đã
dạy chúng ta về cách đối xử với anh, chị, em
của chúng ta hay không?
Một cậu bé có vẻ lớn nhất trong đám học trò
không cần chờ đợi trả lời ngay là:
- Dạ thưa Cô. Đó là điều 5: “Chớ giết
người” (“Thou shall not kill”).
3. Vào một hôm, có một em bé gái ngồi xem
Mẹ đang rửa chén bát ở trong bếp. Cô bé
chợt nhận ra là trên đầu bà mẹ có mấy sợi
tóc bạc chỉa ra từ trên mái tóc đen. Cô bé
nhìn mẹ và thắc mắc:
- Tại sao mẹ lại có mấy cọng tóc bạc trên
đầu?
Bà mẹ trả lời:
- Mỗi lần con gái không nghe lời mẹ, làm
mẹ buồn thì một sợi tóc đen của mẹ biến
thành tóc bạc.
Cô bé nhẫm nghĩ một hồi rồi nói:
- Tại sao tóc Bà ngoại lại bạc trắng hết?
Mẹ: - Trời đất!!!
4. Cô giáo đang giảng bài Vạn Vật về sự
tuần hoàn của máu. Để làm cho “sự tuần
hoàn” dễ hiểu hơn, Cô giáo cho thí dụ:
- Này các em, Nếu Cô đứng ngược đầu như
thể Cô trồng cây chuối thì máu sẽ tụ vào
đầu làm mặt Cô đỏ lên.
Tự nhiên có một cậu học trò nhỏ thắc mắc:
- Tại sao khi em đứng thẳng tự nhiên mà
máu không chạy và tụ dưới hai bàn chân
em?
Một em học trò khác nhanh nhẩu trả lời
dùm Cô giáo:
- Bởi vì chân của mi không trống rỗng
("Cause your feet ain't empty") như đầu Cô!
5. Bệnh nhân Norma ra sao?
Một bà cụ già gọi điện thoại đến phòng y tá
trực của bệnh viện St. Joseph và nhã nhặn
hỏi:
- Xin phòng trực có thể cho tôi biết bệnh
tình của một bệnh nhân hay không?
Cô Y tá phòng trực trả lời lễ phép:
- Chúng tôi rất hân hạnh trả lời bà. Xin bà
cho biết tên bệnh nhân và số phòng đang
nằm.
Bà cụ qua giọng nói có vẻ yếu ớt trả lời:
- Norma Findlay. Phòng số 302.
Người y tá trực liền nói:
- Xin bà làm ơn giữ máy để tôi phối kiểm
với người y tá phụ trách phòng 302.
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 54
Sau vài phút, cô ý tá trực trở lại cầm điện
thọai và nói:
- Thật là một tin vui. Cô y tá phụ trách
phòng 302 cho biết bà Norma rất mạnh giỏi:
Áp huyết đo rất bình thường và kết quả thử
máu mới trở về cho thấy bệnh của bà Norma
đã khỏi; và bác sỉ Cohen dự trù sẽ cho bà
Norna xuất viện sáng ngày mai,
Bà Cụ trả lời:
- Thật tốt đẹp vì tôi đang lo lắng quá. Cám
ơn Chúa cho tôi cái tin vui này.
Người y tá nói:
- Không có chi. Bà có phải là con gái của
bệnh nhân Norma Findlay không?
Bà cụ già trả lời:
- Không. Tôi chính là bệnh nhân Norma
Findlay đang nằm ở phòng 302… Chẳng có
ai nói cho tôi biết gì hết trơn hết trọi cả!!!
Cô y tá trực: - Trời đất!!!
6. “COMPLETE” và “FINISHED”
Không có tự điển Anh ngữ nào giải nghĩa
một cách đầy đủ, dễ hiểu về sự khác biệt
giữa hai chữ “COMPLETE” và
“FINISHED.” Có nhiều người còn nói
nghĩa của hai chữ này không có gì khác
nhau cả.
Thực ra hai chữ có nghĩa khác nhau mà các
bạn sẽ thấy qua các thí dụ đơn giản mà tôi
lượm lặt như sau:
When you marry the right woman, you are
COMPLETE.
And when you marry the wrong woman,
you are FINISHED.
And when the right one catches you with
the wrong one, you are ---COMPLETELY
FINISHED
Sau khi đọc các thí dụ ở trên, một anh bạn
đồng môn của tôi (là người sưu tầm) không
đồng ý; anh đòi phải giải nghĩa như sau:
When you are single, you are COMPLETE.
When you marry the right one, you are
rightly FINISHED.
When you marry the wrong one, you are
wrongly FINISHED.
When the right one catches you with the
wrong one, you are bloody FINISHED.
Only when you die, you are COMPLETELY
FINISHED.
Trần Văn Giang (Sưu tầm)
Xuân Nhâm Thìn – 2012
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 55
Trang thơ
Lâm
Kim
Chung MĐC 1968
Bài thơ
cho mùa
Xuân
năm nào...
Có những Xuân xưa em tuổi nữ sinh Khi Sài Gòn đêm vọng về tiếng súng
Ngây ngô hy vọng nguyện cầu đêm Xuân
Góc trời ngoại ô hỏa châu chói sáng.
Đám nữ sinh thêu khăn làm quà tặng
Những người hùng, đồn trấn vạn dặm xa
Mỗi năm Thầy Đĩnh đưa đoàn văn nghệ
Đến tiền đồn đem tặng chút Hương Xuân
Em gói quà mà lòng nghe xao xuyến
Thầm nguyện cầu phép lạ đến mỗi đêm
Và sau đó cùng những năm liên tiếp
Cô nữ sinh yêu người lính trận xa.
7 năm sau vẫn người yêu của lính
Ngồi trên xe Jeep, chiếc phi cơ vận tải
Mỗi Xuân theo đám bạn đến tiền đồn
Mỹ Tho, Long Xuyên, Cần Thơ, Rạch Giá
Món quà Xuân những tiếng hát chân tình
Chiếc bánh chưng, lá thư và gói thuốc
Phút thân tình, cảm thông và tình người
Trao cho nhau lại chia tay vội vã
Em trở về với mơ mộng đoàn viên
Anh ở lại tiền đồn bảo an đất nước.
31 năm đổi thay, em người viễn xứ
Mỗi Xuân về vẫn lại nhớ Xuân xưa
Hoa tuyết rơi phủ lối vào trước ngõ
Pháo nơi đây không có, phố quạnh hiu.
Lâm Kim Chung
MĐC K68
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 56
Trang Văn
Ngô Tường MĐC 1983
Nhất Quỉ
Nhì Ma
Thứ Ba
Học Trò…
Ai có trải qua đời học sinh chắc không
lạ gì câu nói này.
Nhớ ngày nào ở quê nhà khi còn dưới
mái trường trung học, không dễ gì quên
được những chuyện “động trời” của đám
học trò, làm cho thầy cô phải dở khóc dở
cười.
Chẳng hạn như chuyện mấy “ông thần”
trong lớp lấy mắt mèo trét lên trên bàn, ghế
của một vị thầy để “trả thù” cho việc thầy
làm nhục mấy trò trước cả lớp, cho trò cái
“trứng vịt tròn vo” lại còn kèm theo lời chê
bai thậm tệ chỉ vì trò không thuộc lòng nỗi
bài Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi .
Đám học trò quỉ quái nhìn nhau cười tủm
tỉm, còn thầy thì cứ ôm đàn mà gãi lia gãi lịa
không còn tâm trí đâu đến bài giảng, nhìn
mà thấy tội nghiệp làm sao .
Tưởng rằng đã qua tuổi học trò và khi
đặt chân đến vùng đất mới này sẽ không
còn nghe thấy những chuyện cười ra nước
mắt như vậy. Thế mà, có ai học được chữ
ngờ!
Duyên lành đưa đẩy, người viết lại
bước vào nghiệp cầm phấn trước bục giảng.
Cái cảm giác thương hại cho thầy cô mình
ngày xưa lại càng thêm thấm thía khi chính
mình là nạn nhân của đám học trò quỷ quái.
Tôi còn nhớ năm đầu tiên nhận lớp, có
biết bao nhiêu “chuyện ly kỳ” xảy ra. Như
các bạn đã biết rồi đó, học trò ở Mỹ nhờ ăn
nhiều hamburger hoặc hot dogs nên đứa
nào cũng dềnh dàng, to con, đứng cao hơn
mình ít nhất là một cái đầu. Có một lần vì
bất mãn một xử lý mà theo trò là không
công bằng, “ông” học trò đó rượt thầy chạy
có cờ trong lớp học. Lần đó học trò bị cấm
học (suspend) mất mấy ngày, còn thầy thì
bị một phen hú vía. Một lần khác, thầy
giáo nhận một cú phone mà người gọi xưng
danh rõ ràng (anh hùng mà sợ ai!) và nói là
sẽ … đá đít thầy nếu thầy “dám méc” má
của cậu ta về hành vi xấu của cậu.
Đương nhiên là nhờ “ở hiền gặp lành”
thầy giáo cũng thoát nạn, riêng ông thần nọ
thì được cho đi chỗ khác học!
Một trong những “kỷ niệm” nhớ đời
nhất vẫn là chuyện … học trò “chôn” sách
giáo khoa … trong bồn cầu vệ sinh. Thầy
vẫn không phát hiện được cho đến khi có
học trò báo tin là bồn cầu bị nghẹt, nước bắt
đầu tràn ra lai láng. Lúc đó mới vỡ lẽ ra là
cả nguyên cuốn sách nằm vất vưỡng, kẹt
cứng trong bồn cầu.
Những chuyện “thần sầu quỉ khóc” như
vậy cũng không có gì là lạ ở học đường,
nhất là với những thầy giáo mới như tôi dạo
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 57
đó. Tôi còn nhớ ngày xưa ở Việt nam, có
lần vì uất ức quá vì những trò phá phách của
“đám xếp thứ ba sau quỉ ma trong lớp” mà
cô giáo trẻ dạy Lý mới ra trường của chúng
tôi phải bật khóc.
Cũng không hiểu là vì thương hại cho
cô hay là thực sự hối hận về những việc làm
quá đáng của mình mà sau đó không thấy trò
quấy nhiễu và cô giáo thì không còn … khóc
nữa.
Ở bên này, không biết “nước mắt cá
sấu” có … một tác dụng gì đến đám học trò
…. đa sắc tộc kia không, chỉ có một điều
bao nhiêu năm giảng dạy ở môi trường giáo
dục trên xứ người cho tôi thấy một điều:
con nít nào cho dù ở nơi đâu, cho dù có to
xác đến đâu và cho dù chúng có phá phách
và hung dữ như thế nào đi nữa, thì chúng
vẫn là … con nít - với đầu óc còn non nớt và
chưa hiểu được nhiều điều mà người lớn
chúng ta hiểu ra. (Phải chỉ bảo từng li từng
tí thì mới may ra chúng hiểu.).
Có lẽ nếu không phá phách thì … không
phải là con nít! Mà đã là con nít thì chúng
cũng có cái rất … dễ thương. Tôi nhớ lúc
còn là giáo sinh đi thực tập, sau cả một học
kỳ quay thầy như chong chóng, ngày hôm
đó là ngày cuối cùng, lớp học bỗng xì xầm
với nhau chuyện gì đó, sau mới biết là tụi
học trò chuyền nhau cánh thiệp để viết cho
thầy thực tập những lời cám ơn chân thành.
Khi nói lời từ giã và nhận cánh thiệp từ tay
của cô học trò đại diện, tự dưng bao khổ
nhọc mấy tháng qua đều tiêu tan đâu mất.
Nụ cười của cô bé học trò thuộc loại lý lắc
trong lớp này hôm đó thấy dễ thuơng lạ
lùng…
Một lần khác, lúc này tôi đã thực thụ là
thầy giáo, khi biết là tôi … được đổi đi nơi
khác dạy, cả lớp học nhao nhao hẳn lên năn
nỉ thầy giáo đừng bỏ chúng ra đi. Bên dưới
dòng chữ “Please do not leave us!” là cả
mấy chục chữ ký của từng đứa học trò
trong lớp.
Cho dù không thể làm khác được, lần
đó phải chia tay nhưng dù sao lời nói “xin
đừng xa chúng em” như lúc nào cũng văng
vẳng bên tai của tôi.
Lại có một lần, đang đi xớ rớ ngoài phố
Bolsa bỗng nghe ai gọi tên mình. Nhìn kỹ
lại mới nhận ra một “ông” học trò cũ của
mình. Sau bao năm xa cách, “ông” còn
nhắc lại chuyện xưa và bày tỏ sự hối tiếc
của mình. Ngày đó, vì muốn “cúp cua” mà
không có cách nào thoát được “gông xiềng”
của mẹ hiền cho nên sau khi được mẹ chở
đến trường, vào đến lớp thì cố tình phá
phách để bị thầy đuổi ra khỏi lớp học và …
“chuồn” luôn để đến hẹn với bạn mình.
Trong lúc trò chuyện, học trò không
quên cám ơn thầy đã kiên nhẫn và cho trò
một cơ may để sửa đổi hành vi của mình…
Còn có rất nhiều “kỷ niệm” mà trong
khuôn khổ một bài viết không tiện kể hết
ra. Chỉ có một điều người viết muốn nêu ra
là khi đã ở lâu trong nghề thì thường sự phá
phách của đám học trò không còn là vấn đề
đáng lưu tâm hàng đầu nữa.
Có lẽ bạn sẽ hỏi vậy thì con nít ở bên
đây dễ hay khó dạy hơn ở quê mình. Chắc
chắn là khó hơn rồi vì mình phải học hỏi rất
nhiều về ngôn ngữ và văn hóa ngoại quốc
và còn nhiều thứ khác nữa.
Trong khuôn khổ của bài viết này,
người viết chỉ có thể nói rằng “Nhất Quỉ
Nhì Ma Thứ Ba Học Trò” thì lúc nào cũng
đúng và ở đâu cũng đúng.
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 58
Học trò phá phách lắm bạn ơi, nhưng…
dù sao thì chúng vẫn không phải là quỉ hay
là ma (thứ ba thôi mà!), chúng chỉ là …
những đứa học trò mà chúng ta vẫn có thể
tìm thấy tìm thấy đuợc những dễ thương
tiềm ẩn của chúng nó. Chỉ có điều là phải
chịu khó tìm hiểu và … khai thác những
tiềm ẩn quí báu này, vậy thôi.
Bên thềm Xuân Nhâm Thìn 2012
Ngô Tường Visit site : MDCR, link Liên Kết:
Ngô Tường - K83
Nguyễn Hữu Tưởng MĐC 71
òng LUẬT
50-50 Khi còn ở Việt nam, sáng ngủ dậy, ngồi
vào bàn, đã có người bưng khi thì đĩa trứng
ốp la , khi thi tô hủ tiếu Nam Vang ... và ly
cà phê sữa bốc khói, thơm lừng.
Trưa, chiều ngoài việc tiệc tùng ra lúc
nào cũng có mâm cơm 3 món và tráng
miệng đầy đủ. Đi ngang qua chỗ hắn ngồi ,
bước chân vợ hắn êm như bước chân mèo.
Một tiếng tằng hắng của hắn vang lên, đang
nói vợ hắn cũng dừng lại .
Sự vui mừng khi nhận được thư mời
Interview để định cư tại Hoa Kỳ của Tòa
lãnh sự qua đi, hắn băn khoăn khi sang Mỹ
vị thế độc tôn của người đàn ông sẽ tuột
xuống thấp hơn vị thế con chó, còn vị thế
vợ hắn sẽ vọt lên hạng nhì, khiến hắn chần
chừ trong việc điền hồ sơ.
Đột nhiên hắn vui vẻ điền đơn, vì hắn
vừa mới nhậu với một Việt Kiều Mỹ, anh
ta nói ở Mỹ rất bình đẳng, cái gì cũng 50-
50. Chính trị có 2 đảng, dân được chọn 1
trong 2. Quan hệ vợ chồng cũng 50-50.
- Khi ý vợ và chồng tương tự nhau,
nhất định phải nghe theo ý chồng.
- Khi ý vợ và chồng khác nhau, chỉ lúc
ấy mới chiều theo ý vợ.
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 59
Hắn sung sướng lâng lâng với con số 50-
50 khi viết hồ sơ, và bận rộn lo thu xếp
chuyện gia đình để sang Mỹ.
Sang Mỹ thiếu rượu, thiếu sự lâng lâng ,
đối diện với thực tế thân phận đàn ông phũ
phàng, hắn đâm oán trách Ông Việt Kiều với
cái luật 50-50 “quái ác” nọ và ao ước vị thế
đàn bà của vợ . Hắn thầm van vái phải chi
mình trở thành đàn bà.
Trong giấc ngủ, Đức Mẹ đã cho hắn thử
toại ước làm đàn bà thử 3 ngày. Ngày thứ
nhất hắn đem hết kinh nghiệm ăn uống để
nấu bửa ăn đầu tiên trong đời. Bữa ăn ngon
cực kỳ, chồng hắn rất hài lòng , cộng với sự
phấn khích của việc lần đầu làm đàn ông ,
chồng hắn đã đem đến cho hắn sự sung
sướng tột độ. Sang ngày thứ hai, ngoài việc
đưa con đi học, hắn còn phải đi chợ mới nấu
ăn, còn phải giặt giũ, ôi sao đồ dơ nhiều thế
nầy! Sang ngày thứ ba còn thêm lau nhà tưới
cây, dọn cỏ, đổ rác, tối về còn thêm chiều
chồng nữa. Hắn thật sự mệt mõi và không
hứng thú. Trong giấc ngủ, gặp lại Đức Mẹ,
hắn van xin trở lại làm đàn ông. Đức Mẹ nói
chậm quá rồi con ơi, trong đêm đầu tiên làm
đàn bà con đã có thai, phải chờ sanh 9 tháng
và 6 tháng nuôi con, vì chỉ có sữa của con là
tốt nhất cho em bé. Kinh hoàng quá, hắn kêu
rú lên và tỉnh ngủ.
NGUYỄN VĂN PHƯỚC MĐC 69
Trang Thơ
Nguyễn Hữu
Tưởng MĐC 71
chút Tết trong lòng tâm tưởng
1970
Hoa đã vàng đơm trên kẽm gai
Đường lên phố cũ áo trêu bầy
bướm bay tắm nắng trên giàn tóc
Với dáng xuân tròn vai áo ai
Pháo đã bày trên sạp nến hương
Người lính già nua đứng vệ đường
Vẽ bong bóng đỏ màu rao bán
Bằng nét tay ngày xưa súng gươm
1980
Khi áng nắng chĩu cành mai chiếu thủy
Thủy tiên dâng hương tống cựu nghinh tân
Cánh đào đơm hoa xác pháo chào lân
Xuân theo Tết dẫm bừa lên nỗi nhớ
1990
Nghe như em mới vào xuân
ngập ngừng gieo nhẹ bước chân giao mùa
Trên đồng cỏ nắng đưa trưa
Một cành mơ trắng lưa thưa điểm vàng
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 60
Bên này đông mới vừa tan
Trên tà áo mộng em mang thơ về
2000
Ngắm cúc mai vàng ánh thủy tinh
Giọt sương năm cũ ẩn trên cành
hoa đào nghe nốt lời chim hót
Thương cả đời hoa nở giữa bình
2010
Tầm xuân én lượn quanh trời
Mai ươm cánh ướp vàng đồi tầm dâu
Tết rơi xuống chén rượu đào
Mang theo những giấc mơ màu khói hương
UTrTrang Thơ
Nguyễn Hữu Tưởng MĐC 71
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 61
Ban Biên Tập Giai Phẩm Xuân
MĐC năm Nhâm Thìn 2012…
Chân thành cám ơn quí Thầy, Cô
và các anh, chị cựu học sinh Trung
Học Mạc Đĩnh Chi đã sáng tác và
trao tặng những bông hoa đẹp cho
Giai Phẩm Xuân 2012…
BBT kính chúc quí Thầy, Cô và
các anh, chị cựu học sinh một năm
Nhâm Thìn 2012… bình an, hạnh
phúc và sức khoẻ...
Kính Thân
BBT Giai Phẩm Xuân MĐC
Trần Văn Giang
Nguyễn Hoàn Khải
Võ Quang
Giai phẩm Xuân 2012 – Ta cho nhau mùa Xuân
Trang 62