một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- pháp luật đại cương

57
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LUẬT HÌNH SỰ VÀ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ PHẦN I. LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM I. KHÁI QUÁT VỀ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1. Khái niệm Để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội, trật tự xã hội, Nhà nước dùng nhiều biện pháp khác nhau vừa có tính thuyết phục vừa có tính cưỡng chế để đấu tranh, ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật. Tùy theo tính chất, mức độ của các vi phạm pháp luật mà nhà nước lựa chọn sử dụng các chế tài thích hợp như: Dân sự, hành chính, kinh tế, hình sự... mà trong đó chế tài hình sự là nghiêm khắc nhất nhằm xử lý bất kỳ người nào có hành vi xâm phạm nghiêm trọng các lợi ích của Nhà nước, của xã hội và của công dân. Như vậy, Luật hình sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật của nước ta, bao gồm hệ thống các quy định pháp luật do Nhà nước ban hành trong đó xác định rõ những hành vi vi phạm nào là tội phạm, đồng thời, quy định hình phạt đối với từng tội phạm cụ thể. Trong hệ thống pháp luật của nước ta chỉ có Bộ luật hình sự do Quốc hội ban hành mới quy định về tội phạm và về hình phạt. Ngoài Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất thì không có cơ quan nào khác có quyền quy định về tội phạm và về hình phạt. Hệ thống các quy định của luật hình sự được chia làm hai phần: - Phần chung: Bao gồm các quy định về nguyên tắc, nhiệm vụ của Luật hình sự, về những vấn đề chung về tội phạm và hình phạt. - Phần các tội phạm: Bao gồm các quy định xác định các dấu hiệu pháp lý của từng tội phạm cụ thể, loại hình phạt và mức hình phạt áp dụng đối với từng tội phạm đó. Phần chung và Phần các tội phạm của Luật hình sự có mối quan hệ mật thiết hữu cơ với nhau tạo nên sự hoàn chỉnh của Luật hình sự. Để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với mỗi tội phạm được quy định ở Phần các tội phạm cần phải tuân thủ những quy định của Phần chung. Mặt khác, Phần chung muốn phát huy tác dụng khi áp dụng vào thực tiễn của công tác đấu tranh chống tội phạm phải dựa vào các quy định ở Phần các tội phạm. 2. Nhiệm vụ

Upload: tran-thi-my-lan

Post on 16-Feb-2017

345 views

Category:

Law


2 download

TRANSCRIPT

Page 1: Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LUẬT HÌNH SỰ VÀ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ

PHẦN I. LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAMI. KHÁI QUÁT VỀ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM1. Khái niệmĐể thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội, trật tự xã hội, Nhà nước dùng nhiều

biện pháp khác nhau vừa có tính thuyết phục vừa có tính cưỡng chế để đấu tranh, ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật. Tùy theo tính chất, mức độ của các vi phạm pháp luật mà nhà nước lựa chọn sử dụng các chế tài thích hợp như: Dân sự, hành chính, kinh tế, hình sự... mà trong đó chế tài hình sự là nghiêm khắc nhất nhằm xử lý bất kỳ người nào có hành vi xâm phạm nghiêm trọng các lợi ích của Nhà nước, của xã hội và của công dân.

Như vậy, Luật hình sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật của nước ta, bao gồm hệ thống các quy định pháp luật do Nhà nước ban hành trong đó xác định rõ những hành vi vi phạm nào là tội phạm, đồng thời, quy định hình phạt đối với từng tội phạm cụ thể.

Trong hệ thống pháp luật của nước ta chỉ có Bộ luật hình sự do Quốc hội ban hành mới quy định về tội phạm và về hình phạt. Ngoài Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất thì không có cơ quan nào khác có quyền quy định về tội phạm và về hình phạt. Hệ thống các quy định của luật hình sự được chia làm hai phần:

- Phần chung: Bao gồm các quy định về nguyên tắc, nhiệm vụ của Luật hình sự, về những vấn đề chung về tội phạm và hình phạt.

- Phần các tội phạm: Bao gồm các quy định xác định các dấu hiệu pháp lý của từng tội phạm cụ thể, loại hình phạt và mức hình phạt áp dụng đối với từng tội phạm đó.

Phần chung và Phần các tội phạm của Luật hình sự có mối quan hệ mật thiết hữu cơ với nhau tạo nên sự hoàn chỉnh của Luật hình sự. Để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với mỗi tội phạm được quy định ở Phần các tội phạm cần phải tuân thủ những quy định của Phần chung. Mặt khác, Phần chung muốn phát huy tác dụng khi áp dụng vào thực tiễn của công tác đấu tranh chống tội phạm phải dựa vào các quy định ở Phần các tội phạm.

2. Nhiệm vụNhiệm vụ chung của Luật hình sự là bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân

dân lao động để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (sau đây viết tắt là XHCN). Trong giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ của Luật hình sự là "bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, chống mọi hành vi phạm tội; đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm".

Page 2: Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương

Như vậy, nhiệm vụ đầu tiên của Luật hình sự trong giai đoạn hiện nay là bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Để bảo vệ các lợi ích này, Luật hình sự quy định và mô tả hành vi phạm tội, tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, quy định loại và mức hình phạt cụ thể đối với từng tội phạm để dựa vào đó các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án được chính xác, công minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Nhiệm vụ tiếp theo của Luật hình sự là giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm được thể hiện ở chỗ các quy định của Luật hình sự giúp cho mọi người biết được hành vi nào là tội phạm để tự điều chỉnh hành vi của mình, tránh những hành vi bị cấm hoặc tự thực hiện hành vi mà pháp luật bắt buộc phải làm ... Thực chất, nhiệm vụ giáo dục của Luật hình sự là nhiệm vụ phòng ngừa tội phạm nói chung.

Từ nhiệm vụ "bảo vệ" và nhiệm vụ "giáo dục" của Luật hình sự chúng ta thấy nổi lên nhiệm vụ chính của Luật hình sự là đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.

3. Những nguyên tắc cơ bảnCác nguyên tắc cơ bản của Luật hình sự là những tư tưởng chỉ đạo toàn bộ quá trình

xây dựng và áp dụng các quy định của Luật hình sự vào đấu tranh phòng chống tội phạm. Những nguyên tắc này được xây dựng trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của pháp luật XHCN. Những nguyên tắc đó là:

- Nguyên tắc pháp chế XHCN là một nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt toàn bộ hoạt động xây dựng cũng như áp dụng Luật hình sự.

Đối với cơ quan lập pháp (Quốc hội), nguyên tắc pháp chế XHCN được thể hiện ở chỗ: Những hành vi bị coi là tội phạm và phải chịu hình phạt phải được Luật hình sự quy định; việc sửa đổi, bổ sung hay huỷ bỏ tội phạm nhất định phải được tiến hành một cách kịp thời và hợp pháp theo đúng quy định của pháp luật.

Đối với các cơ quan hành pháp và tư pháp, nguyên tắc pháp chế XHCN đòi hỏi việc áp dụng Luật hình sự cũng như việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm và của bản thân người phạm tội phải chính xác và thống nhất. Nguyên tắc pháp chế XHCN cũng đòi hỏi việc xét xử phải đúng người, đúng tội, không một hành vi phạm tội và người phạm tội nào tránh khỏi việc bị xử lý theo luật hình sự, không được xử oan người vô tội. Mọi sự tùy tiện trong điều tra, truy tố và xét xử đối với công dân đều bị coi là vi phạm nghiêm trọng pháp chế XHCN.

- Nguyên tắc dân chủ XHCN thể hiện ở chỗ, Luật hình sự bảo vệ, tôn trọng và kiên quyết xử lý mọi hành vi xâm phạm đến các quyền tự do dân chủ của công dân. Luật hình sự không phân biệt đối xử vì địa vị xã hội hoặc tình trạng tài sản, mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội, đồng thời, bảo đảm cho nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào việc xây dựng và áp dụng luật hình sự, đấu tranh phòng và chống tội phạm.

Page 3: Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương

Mặt chuyên chính của nguyên tắc dân chủ XHCN thể hiện ở chỗ xử lý nghiêm các hành vi phạm tội, nhất là các trường hợp cố ý phạm tội, gây thiệt hại lớn cho Nhà nước, cho xã hội và công dân cũng như chuyên chính với kẻ phạm tội là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, lưu manh, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội; người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả nghiêm trọng.

- Nguyên tắc nhân đạo XHCN luôn luôn được thể hiện rõ nét trong chính sách hình sự của Nhà nước ta. Việc áp dụng hình phạt đối với kẻ phạm tội chủ yếu là nhằm giáo dục, cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội. Hình phạt trong luật hình sự không nhằm gây đau đớn về thể xác và không hạ thấp phẩm giá của con người. Luật hình sự khoan hồng đối với người tự thú, thành khẩn khai báo, tố giác người đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra. Nguyên tắc nhân đạo XHCN còn thể hiện ở chỗ trong Luật hình sự có nhiều loại hình phạt không tước tự do; hình phạt chung thân và tử hình chỉ được phép áp dụng trong những trường hợp thật đặc biệt và phạm vi áp dụng cũng có giới hạn nhất định và không được phép áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội, đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi xét xử. Ngoài ra, Luật hình sự còn có các quy định khác nhằm tạo điều kiện cho người phạm tội tự cải tạo tốt như các quy định về miễn trách nhiệm hình sự; miễn hoặc giảm hình phạt; án treo ...

- Nguyên tắc kết hợp hài hòa chủ nghĩa yêu nước và tinh thần quốc tế vô sản là sự thể hiện chính sách đối ngoại của Luật hình sự nước ta. Luật hình sự trừng trị các hành vi phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh; ghi nhận và bảo đảm thực hiện các cam kết quốc tế của Nhà nước trong cuộc đấu tranh chung của loài người chống các hành vi gây chiến tranh, chống các tội ác diệt chủng, diệt môi sinh, môi trường cũng như các tội phạm mang tính quốc tế khác.

Ngoài ra, còn có một số nguyên tắc khác có tính chất đặc thù riêng của Luật hình sự, như các nguyên tắc: Trách nhiệm cá nhân, có lỗi, cá thể hoá hình phạt ...

4. Một số vấn đề về chính sách hình sự4.1. Cơ sở trách nhiệm hình sựĐiều 2 Bộ luật hình sự 1999 quy định: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật

hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”. Như vậy, cơ sở của trách nhiệm hình sự là việc một người đã thực hiện một tội được quy định trong Bộ luật hình sự. Để xác định xem có một tội phạm quy định trong Bộ luật hình sự đã được thực hiện hay không, hay nói cách khác, có cơ sở trách nhiệm hình sự hay không, trước hết, chúng ta cần phải xem xét các yếu tố khách quan, chủ quan bắt buộc sau đây của tội phạm:

- Trên thực tế có xảy ra hành vi nguy hiểm cho xã hội được mô tả trong cấu thành các tội phạm cụ thể của Bộ luật hình sự hay không và hành vi đó có nguy hiểm cho xã hội hay không. Đây là yếu tố bắt buộc thuộc mặt khách quan của tội phạm. Nếu xác định được không có hành vi nguy hiểm cho xã hội xảy ra hoặc hành vi đó không có dấu hiệu

Page 4: Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương

của tội phạm hoặc thậm chí tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì cũng không được thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự.

- Người thực hiện hành vi đó có lỗi hay không. Đây là yếu tố bắt buộc thuộc mặt chủ quan của tội phạm. Nếu xác định được người thực hiện hành vi không có lỗi (cố ý hoặc vô ý) thì dù hành vi có nguy hiểm cho xã hội đến mức nào người thực hiện hành vi đó cũng không phải chịu trách nhiệm hình sự. Ví dụ: Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội do sự kiện bất ngờ, tức là trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó.

- Người thực hiện hành vi đó đã đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự hay chưa hoặc người đó có năng lực trách nhiệm hình sự hay không. Đây là các yếu tố bắt buộc thuộc chủ thể của tội phạm. Nếu xác định được người thực hiện hành vi chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự hoặc không có năng lực trách nhiệm hình sự, thì dù hành vi có nguy hiểm cho xã hội đến mức nào người thực hiện hành vi đó cũng không phải chịu trách nhiệm hình sự. Ví dụ: Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội chưa đủ 14 tuổi hoặc người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự, tức là trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình.

Ngoài ra, còn có những yếu tố khách quan, chủ quan khác không bắt buộc của tội phạm cũng cần được xác định như: hậu quả của hành vi; mục đích, động cơ thực hiện hành vi; những đặc điểm về nhân thân của người thực hiện hành vi. Chỉ khi xác định được chính xác, đầy đủ các yếu tố khách quan, chủ quan của tội phạm thì mới có thể quyết định được đúng đắn việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.

4.2. Nguyên tắc xử lý hình sựNguyên tắc xử lý hình sự được quy định rõ tại Điều 3 Bộ luật hình sự 1999, theo đó,

mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật; mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội.

Khi xử lý về hình sự phải kết hợp hài hòa giữa giáo dục với trừng trị. Nghiêm trị đối với người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, lưu manh, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội; người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả nghiêm trọng, đồng thời khoan hồng đối với người tự thú, thành khẩn khai báo, tố giác người đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra.

Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, đã hối cải, thì có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù và giao họ cho cơ quan, tổ chức hoặc gia đình giám sát, giáo dục.

Đối với người bị phạt tù thì buộc họ phải chấp hành hình phạt trong trại giam nhưng phải lao động, học tập để trở thành người có ích cho xã hội và nếu họ có nhiều tiến bộ thì xét để giảm việc chấp hành hình phạt. Còn khi người bị phạt tù đã chấp hành xong hình

Page 5: Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương

phạt thì cần tạo điều kiện cho họ làm ăn, sinh sống lương thiện, hoà nhập với cộng đồng và khi có đủ điều kiện do luật định thì họ được xóa án tích.

4.3. Miễn trách nhiệm hình sự; miễn, giảm hình phạt- Theo quy định tại Điều 25 Bộ luật hình sự 1999 thì bị cáo có thể được Tòa án miễn

trách nhiệm hình sự, nếu có một trong những căn cứ sau đây:+ Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do chuyển biến của tình hình mà hành

vi phạm tội hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;+ Trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội đã tự thú, khai rõ sự việc,

góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm;

+ Khi có quyết định đại xá của Quốc hội. - Theo quy định tại Điều 57 Bộ luật hình sự thì người bị kết án có thể được miễn

chấp hành hình phạt trong các trường hợp sau đây:+ Khi người bị kết án cải tạo không giam giữ hoặc tù có thời hạn chưa chấp hành

hình phạt mà lại lập công lớn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo và người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.

+ Khi có quyết định đặc xá của Chủ tịch nước hoặc quyết định đại xá của Quốc hội . + Khi người bị kết án đang được hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt theo

quy định của Bộ luật hình sự mà trong thời gian được hoãn hoặc tạm đình chỉ đã lập công.+ Khi người bị phạt cấm cư trú hoặc quản chế đã chấp hành được một phần hai thời

hạn hình phạt và cải tạo tốt.Một hình thức miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện là án treo.- Các điều kiện để xét giảm hình phạt được quy định rõ tại các điều 58 và 59 Bộ

luật hình sự. Cụ thể: + Đối với người bị kết án cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù phải có đủ 03 điều

kiện sau đây mới được xét giảm hình phạt: * Đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất định;* Có nhiều tiến bộ, thể hiện trên các mặt như thành thật hối cải; tích cực lao động,

học tập... chứng tỏ sự quyết tâm cải tạo;* Có đề nghị của cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương được giao trách

nhiệm trực tiếp giám sát, giáo dục (đối với người chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ) hoặc cơ quan thi hành án phạt tù (đối với người chấp hành hình phạt tù).

+ Đối với người bị kết án phạt tiền phải có đủ điều kiện sau đây mới được xét giảm hình phạt:

* Đã tích cực chấp hành được một phần hình phạt;

Page 6: Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương

* Bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hoả hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra mà không thể tiếp tục chấp hành được phần hình phạt còn lại hoặc lập công lớn;

* Có đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân.- Thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là một phần ba thời hạn

đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt tù từ ba mươi năm trở xuống, mười hai năm đối với tù chung thân. Một người có thể được giảm nhiều lần, nhưng phải bảo đảm chấp hành được một phần hai mức hình phạt đã tuyên. Người bị kết án tù chung thân, lần đầu được giảm xuống ba mươi năm tù và dù được giảm nhiều lần cũng phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là hai mươi năm.

Đối với người đã được giảm một phần hình phạt mà lại phạm tội mới nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì Toà án chỉ xét giảm lần đầu sau khi người đó đã chấp hành được hai phần ba mức hình phạt chung hoặc hai mươi năm nếu là tù chung thân.

Đối với người bị kết án có lý do đáng được khoan hồng thêm như đã lập công, đã quá già yếu hoặc mắc bệnh hiểm nghèo, thì Toà án có thể xét giảm vào thời gian sớm hơn hoặc với mức cao hơn so với thời gian và mức quy định chung.

4.4. Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tộiDo người chưa thành niên có những đặc điểm phát triển tâm - sinh lý khác biệt so

với người đã thành niên như: Chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như tâm sinh lý, trình độ nhận thức và kinh nghiệm sống của họ còn hạn chế cho nên Luật hình sự có chính sách xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội khác hẳn so với người đã thành niên phạm tội.

Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu là nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Trong mọi trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của người chưa thành niên, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác định khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm. Nếu người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục thì có thể miễn trách nhiệm hình sự cho họ.

Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm.

Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, thì Toà án áp dụng biện pháp tư pháp đối với họ. Trong trường hợp cần phải xử phạt tù có thời hạn thì Toà án cho người chưa thành niên phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội tương ứng. Tuyệt đối, Tòa án không được xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người chưa

Page 7: Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương

thành niên phạm tội, không được áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội cũng như không áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 69 BLHS).

Người chưa thành niên bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù, nếu có nhiều tiến bộ và đã chấp hành được một phần tư thời hạn, thì được Toà án xét giảm theo quy định của pháp luật; nếu lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo, thì được xét giảm ngay và có thể được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại. Trường hợp người chưa thành niên bị phạt tiền nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hoả hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra hoặc lập công lớn, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát, Toà án có thể quyết định giảm hoặc miễn việc chấp hành phần tiền phạt còn lại (Điều 76 BLHS).

Người chưa thành niên phạm tội được xoá án tích khi có đủ 1/2 thời hạn do luật định đối với người đã thành niên. Điều đáng lưu ý là, nếu người chưa thành niên phạm tội không bị áp dụng hình phạt mà được áp dụng biện pháp tư pháp thì không bị coi là có án tích. Ngoài ra, án mà Tòa án có thẩm quyền đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi thì không được tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.

II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TỘI PHẠM 1. Khái quát về tội phạm1.1. Khái niệm tội phạmĐiều 8 Bộ luật hình sự 1999 quy định rõ khái niệm tội phạm, theo đó tội phạm được

hiểu là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.

Như vậy, nói một cách khái quát thì tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt. Pháp luật hình sự không trừng trị tư tưởng của con người và những biểu hiện của nó ra bên ngoài mà không thông qua hành vi. Tuy nhiên, hành vi chỉ bị coi là tội phạm khi nó đồng thời thỏa mãn 4 yếu tố: Nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt.

- Trước hết, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, tức là gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ như: an ninh quốc gia; tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người; quyền tự do dân chủ của công dân; sở hữu; trật tự quản lý kinh tế; trật tự an toàn xã hội; trật tự quản lý hành chính...

- Tội phạm là hành vi có lỗi, tức là hành vi đó phải là kết quả của sự tự lựa chọn và quyết định của chủ thể trong khi có đủ điều kiện lựa chọn và quyết định một xử sự khác

Page 8: Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương

phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Luật hình sự của ta không phải trừng trị một hành vi phạm tội mà chính là trừng trị người đã thực hiện hành vi phạm tội đó nhằm cải tạo, giáo dục họ mà mục đích này chỉ có thể đạt được khi người đó có lỗi. Đối với người không có lỗi thì hình phạt không thể phát huy tác dụng giáo dục, cải tạo được.

- Tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự, tức là hành vi đó phải được quy định trong Bộ luật hình sự dưới dạng một tội danh cụ thể. Ví dụ: Tội giết người, tội buôn lậu, tội gây ô nhiễm nguồn nước, tội hủy hoại rừng, tội gây rối trật tự công cộng.

- Tội phạm là hành vi phải chịu hình phạt, tức là bất cứ người phạm tội nào cũng đều có thể phải chịu hình phạt được quy định ngay trong từng điều khoản cụ thể đối với từng hành vi phạm tội cụ thể.

1.2. Phân loại tội phạmPhân loại tội phạm là phân chia các tội phạm ra từng nhóm (từng loại) dựa trên

những căn cứ nhất định giúp cho cơ quan có thẩm quyền đề ra chính sách hình sự một cách phù hợp đối với từng loại tội phạm cũng như đối với từng tội phạm cụ thể và giúp cho Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án áp dụng những biện pháp cần thiết để truy tố, xét xử đúng người, đúng tội.

Trước hết, căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội thì tội phạm được chia thành 04 loại:

- Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù;

- Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù;

- Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù;

- Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.

Ngoài ra, việc phân loại còn có thể dựa vào những căn cứ khác tuỳ thuộc vào yêu cầu cần nghiên cứu. Ví dụ: Căn cứ vào hình thức lỗi thì tội phạm được chia thành 02 loại: Tội phạm được thực hiện do cố ý và tội phạm được thực hiện do vô ý; căn cứ vào mức độ thực hiện hành vi phạm tội thì tội phạm được chia thành 03 loại: Tội phạm ở giai đoạn chuẩn bị, tội phạm chưa đạt và tội phạm đã hoàn thành; căn cứ vào sự tham gia trong hoạt động phạm tội thì tội phạm được chia thành 02: Tội phạm được thực hiện đơn lẻ và tội phạm được thực hiện nhiều người (đồng phạm đơn giản, phạm tội có tổ chức); căn cứ vào khách thể bị xâm hại thì tội phạm được chia thành 14 loại theo 14 chương "Phần các tội phạm" của Bộ luật hình sự; ...

2. Tuổi chịu trách nhiệm hình sựLuật hình sự quy định tuổi bắt đầu có năng lực trách nhiệm hình sự và tuổi có năng

lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. Như vậy, người chưa đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự

Page 9: Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương

khi thực hiện hành vi được quy định trong Bộ luật hình sự thì luôn được coi là không có lỗi.

Theo quy định tại Điều 12 của Bộ luật hình sự thì:- Tuổi bắt đầu có năng lực trách nhiệm hình sự là từ đủ 14 tuổi (14 tuổi tròn) trở lên.

Điều đó có nghĩa là những người chưa đủ 14 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về bất cứ hành vi vi phạm pháp luật nào của họ. Những người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi tuy có năng lực trách nhiệm hình sự nhưng chưa đầy đủ (hạn chế), họ chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Như vậy, những người này không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng nhưng do vô ý.

- Tuổi có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ là từ đủ 16 tuổi (tức 16 tuổi tròn) trở lên. Điều đó có nghĩa là, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.

3. Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sựThông thường một hành vi có đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm thì được

coi là tội phạm và người thực hiện hành vi đó phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy vậy, trong thực tế có không ít trường hợp hành vi của một người về mặt hình thức có các yếu tố cấu thành tội phạm nhưng lại có những lý do nhất định làm mất tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi và do đó trách nhiệm hình sự bị loại trừ. Bộ luật hình sự quy định 02 trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự. Đó là: Phòng vệ chính đáng (Điều 15) và tình thế cấp thiết (Điều 16).

Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác, mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Ví dụ: hành vi của một người chống trả lại tên cướp có vũ khí để bảo đảm an toàn tính mạng, tài sản cho hành khách trên xe ô tô; hành vi đánh bị thương kẻ đang thực hiện hành vi giết người hoặc hành vi của nạn nhân chống trả gây thương tích cho kẻ đang thực hiện hành vi hiếp dâm...

Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh một nguy cơ đang thực tế đe doạ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa. Ví dụ: Khi tàu gặp bão lớn, Thuyền trưởng quyết định vứt bỏ hết hàng hoá trên tàu để bảo đảm an toàn cho tính mạng của những người trên tàu hoặc khi hoả hoạn xảy ra, những người cứu hoả đã phá bỏ nhà bên cạnh để ngăn không cho đám cháy lây lan...

Phòng vệ chính đáng và hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm, do vậy, người thực hiện hành vi phòng vệ chính đáng và gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, nếu người đó vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (tức là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại) hoặc gây ra thiệt

Page 10: Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương

hại rõ ràng vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết, thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá đó.

4. Các giai đoạn thực hiện tội phạmĐể xác định chính xác mức độ thực hiện ý định phạm tội làm cơ sở cho việc xác

định phạm vi, mức độ trách nhiệm hình sự và hình phạt, Bộ luật hình sự đã phân chia quá trình thực hiện tội phạm cố ý thành ba giai đoạn: Giai đoạn chuẩn bị phạm tội, giai đoạn phạm tội chưa đạt và giai đoạn phạm tội đã hoàn thành.

4.1. Chuẩn bị phạm tội là giai đoạn đầu trong quá trình thực hiện tội phạm cố ý. Hành vi chuẩn bị phạm tội phần lớn được thực hiện bằng hành động tích cực như: Chuẩn bị kế hoạch, phương án phạm tội; nghiên cứu, xem xét địa điểm, thời gian thực hiện tội phạm; tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện phạm tội hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm, nhưng cũng có trường hợp được thực hiện bằng không hành động.

Theo quy định tại Điều 17 Bộ luật hình sự thì chỉ người chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc một tội đặc biệt nghiêm trọng mới phải chịu trách nhiệm hình sự về tội định thực hiện. Như vậy, người thực hiện hành vi chuẩn bị phạm tội ít nghiêm trọng và tội nghiêm trọng không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội định thực hiện.

4.2. Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. Trong giai đoạn phạm tội chưa đạt, người phạm tội đã bắt đầu thực hiện tội phạm nhưng chưa thực hiện được đến cùng do những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội như: Do bị chống trả quyết liệt; do công cụ, phương tiện phạm tội không phù hợp; do có những trở ngại khách quan ngăn cản hậu quả xảy ra ...

Có hai dạng phạm tội chưa đạt:- Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành là trường hợp chưa đạt về hậu quả và chưa

hoàn thành về hành vi vì người phạm tội không có điều kiện để thực hiện được đầy đủ các hành vi phạm tội.

- Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành là trường hợp chưa đạt về hậu quả nhưng đã hoàn thành hành vi. Người phạm tội đã thực hiện tội phạm đến cùng nhưng không đạt được mục đích mong muốn. Thông thường thì trường hợp phạm tội chưa đạt đã hoàn thành nguy hiểm hơn trường hợp phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành, do vậy, cần phải được xử phạt nặng hơn.

Theo quy định tại Điều 18 Bộ luật hình sự thì người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt.

Trong trường hợp tội phạm không được thực hiện đến cùng nhưng không phải do nguyên nhân khách quan mà do ý chí của người phạm tội tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng mặc dù không có gì ngăn cản thì đó không phải là phạm tội chưa đạt mà là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội

Page 11: Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương

được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.

4.3. Phạm tội đã hoàn thành là trường hợp hành vi phạm tội thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm. Cần phân biệt việc phạm tội đã hoàn thành với việc phạm tội đã kết thúc. Khi nói đến việc phạm tội đã hoàn thành là nói đến khía cạnh pháp lý của việc thực hiện tội phạm, tức là khi hành vi được thực hiện đã thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm. Còn khi nói đến việc phạm tội đã kết thúc là muốn nói đến thời điểm hành vi phạm tội thực tế được chấm dứt hẳn.

Thời điểm hoàn thành của các loại tội phạm là khác nhau. Đối với các tội phạm có cấu thành vật chất thì thời điểm hoàn thành là khi hậu quả nguy hiểm cho xã hội được mô tả trong điều luật quy định về tội đó xảy ra; đối với các tội phạm có cấu thành hình thức thì thời điểm hoàn thành là khi người phạm tội đã thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong điều luật quy định về tội đó.

5. Vấn đề đồng phạm - Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.

Như vậy, để khẳng định xem có đồng phạm hay không đòi hỏi phải xác định rõ các dấu hiệu sau đây:

+ Có hai người trở lên tham gia thực hiện tội phạm và những người này phải có đủ các điều kiện của chủ thể tội phạm (như: Độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự).

+ Những người này phải cùng cố ý thực hiện tội phạm. Trong đồng phạm, mỗi người đồng phạm không chỉ cố ý với hành vi của mình mà còn biết và mong muốn sự cố ý của những người đồng phạm khác. Nếu chỉ có sự cố ý của mỗi người mà chưa có sự cùng cố ý của người khác thì chưa thể có đồng phạm được. Đối với những tội mà mục đích là dấu hiệu bắt buộc thì những người đồng phạm còn phải cùng mục đích.

+ Những người này phải cùng thực hiện một tội phạm, tức là mỗi người đều phải có hành vi tham gia thực hiện tội phạm với vai trò tổ chức, xúi giục, giúp sức hoặc trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội. Nếu không có một trong những loại hành vi này thì không thể coi là cùng thực hiện tội phạm và do vậy cũng không thể là người đồng phạm được.

Một hình thức cao của đồng phạm là phạm tội có tổ chức, tức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm.

- Những người cùng tham gia thực hiện tội phạm gọi là những người đồng phạm. Có 4 loại người đồng phạm:

+ Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.+ Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.+ Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.+ Người giúp sức là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực

hiện tội phạm.III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HÌNH PHẠT

Page 12: Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương

1. Khái niệm, mục đích1.1. Khái niệmTheo quy định tại Điều 26 Bộ luật hình sự thì hình phạt là biện pháp cưỡng chế

nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự và do Toà án quyết định.

Trước hết, hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước. Tính nghiêm khắc của hình phạt thể hiện ở chỗ nó có thể tước bỏ hoặc hạn chế những quyền và lợi ích thiết thân của người phạm tội như: Quyền tự do, quyền chính trị, quyền sở hữu, thậm chí là cả quyền sống. Ngoài ra, hình phạt bao giờ cũng để lại cho người bị kết án hậu quả pháp lý là án tích trong một thời gian nhất định do luật định.

Hình phạt được Bộ luật hình sự quy định cả ở phần chung lẫn phần các tội phạm. Phần chung quy định về khái niệm, mục đích, hệ thống hình phạt, các nguyên tắc quyết định hình phạt và miễn, giảm hình phạt. Phần các tội phạm quy định các loại hình phạt và mức hình phạt đối với từng tội phạm cụ thể.

Hình phạt phải do Tòa án quyết định nhân danh Nhà nước. Hình phạt được Tòa án tuyên đối với người phạm tội thể hiện sự lên án của Nhà nước đối với họ và hành vi phạm tội do họ gây ra.

Theo quy định của Bộ luật hình sự nước ta thì hình phạt chỉ có thể được áp dụng đối với người phạm tội, tức là thể nhân. Luật hình sự nước ta hiện nay chưa quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân với tư cách là một tổ chức, do vậy, cũng chưa có quy định việc áp dụng hình phạt đối với pháp nhân.

1.2. Mục đíchMục đích của hình phạt là kết quả thực tế cuối cùng mà Nhà nước mong muốn đạt

được khi quy định trách nhiệm hình sự đối với tội phạm và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội. Theo quy định tại Điều 27 Bộ luật hình sự thì hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Như vậy, mục đích của hình phạt thể hiện trước hết ở chỗ hình phạt tác động trực tiếp đến người phạm tội, không chỉ trừng trị mà còn nhằm cải tạo, giáo dục, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Đây chính là mục đích phòng ngừa riêng của hình phạt. Trong phòng ngừa riêng, giữa trừng trị và cải tạo, giáo dục người phạm tội, ngăn ngừa họ phạm tội mới có quan hệ tương tác qua lại với nhau rất chặt chẽ. Không thể nói đến cải tạo, giáo dục được người phạm tội nếu như hình phạt trừng trị họ không tương xứng với tội phạm đã gây ra (quá nặng hoặc quá nhẹ). Trừng trị công minh là yếu tố tiên quyết quan trọng để bảo đảm mục đích cải tạo, giáo dục.

Mục đích phòng ngừa chung của hình phạt thể hiện ở chỗ hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội trong từng trường hợp cụ thể bao giờ cũng tác động đến những người khác. Tuỳ thuộc vào từng vụ án hình sự cụ thể, ý thức pháp luật,

Page 13: Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương

sự chú ý riêng cũng như đặc điểm tâm lý của mỗi người... mà mức độ tác động của hình phạt đối với họ cũng khác nhau. Hình phạt răn đe mọi người tránh xa việc phạm tội. Để đạt được mục đích phòng ngừa chung của hình phạt đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp về kinh tế, chính trị, tư tưởng, tổ chức, pháp lý, văn hoá, giáo dục... trong đó, tuyên truyền giáo dục pháp luật nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật cho công dân có ý nghĩa hết sức to lớn.

Phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung là hai mặt không thể tách rời nhau của hình phạt, chúng ảnh hưởng qua lại lẫn nhau trong mục đích chung của hình phạt.

2. Hệ thống hình phạt2.1. Hệ thống hình phạt chungĐiều 28 Bộ luật hình sự quy định 07 hình phạt chính và 07 hình phạt bổ sung, theo

đó, đối với mỗi tội phạm, người phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung. Cụ thể như sau:

- Hình phạt chính bao gồm:+ Cảnh cáo là loại hình phạt nhẹ nhất trong các hình phạt chính thể hiện sự khiển

trách công khai của Nhà nước đối với người bị kết án. Cảnh cáo được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt.

+ Phạt tiền là hình phạt mang tính kinh tế thể hiện ở việc tước của người bị kết án một khoản tiền nhất định sung công quỹ nhà nước. Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người phạm tội ít nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, trật tự công cộng, trật tự quản lý hành chính và một số tội phạm khác do Bộ luật hình sự quy định.

Mức phạt tiền được quyết định tuỳ theo tính chất và mức độ nghiêm trọng của tội phạm được thực hiện, đồng thời, có xét đến tình hình tài sản của người phạm tội, sự biến động giá cả, nhưng không được thấp hơn một triệu đồng.

+ Cải tạo không giam giữ là hình phạt không buộc người bị kết án phải cách ly khỏi xã hội mà họ được giao cho cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục nhằm phát huy vai trò của quần chúng nhân dân tham gia vào việc giáo dục, cải tạo người phạm tội. Cải tạo không giam giữ được áp dụng từ sáu tháng đến ba năm đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật hình sự quy định mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú rõ ràng, nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội.

Người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ và bị khấu trừ một phần thu nhập từ 5% đến 20% để sung quỹ nhà nước. Trong trường hợp đặc biệt, Toà án có thể cho miễn việc khấu trừ thu nhập, nhưng phải ghi rõ lý do trong bản án. Nếu người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ một ngày tạm giữ, tạm giam bằng ba ngày cải tạo không giam giữ. Tòa án giao người bị phạt cải tạo

Page 14: Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương

không giam giữ cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó thường trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó.

+ Trục xuất là hình phạt buộc người nước ngoài bị kết án phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

+ Tù có thời hạn là hình phạt buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại trại giam (tức là cách ly khỏi xã hội) trong một thời hạn nhất định.

Tù có thời hạn đối với người phạm một tội có mức tối thiểu là ba tháng, mức tối đa là hai mươi năm. Thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ một ngày tạm giữ, tạm giam bằng một ngày tù.

+ Tù chung thân là hình phạt tù không thời hạn được áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, nhưng chưa đến mức bị xử phạt tử hình. Không áp dụng tù chung thân đối với người chưa thành niên phạm tội.

+ Tử hình là hình phạt đặc biệt, nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.

Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội, đối với phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi bị xét xử. Không thi hành án tử hình đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Trong trường hợp này hình phạt tử hình chuyển thành tù chung thân. Trường hợp người bị kết án tử hình được ân giảm, thì hình phạt tử hình chuyển thành tù chung thân.

- Hình phạt bổ sung bao gồm: + Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định được

áp dụng khi xét thấy nếu để người bị kết án đảm nhiệm chức vụ, hành nghề hoặc làm công việc đó, thì có thể gây nguy hại cho xã hội.

Thời hạn cấm là từ một năm đến năm năm, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù hoặc từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật nếu hình phạt chính là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc trong trường hợp người bị kết án được hưởng án treo.

+ Cấm cư trú là buộc người bị kết án phạt tù không được tạm trú và thường trú ở một số địa phương nhất định.

Thời hạn cấm cư trú là từ một năm đến năm năm, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù.

+ Quản chế là buộc người bị kết án phạt tù về các tội xâm phạm an ninh quốc gia, người tái phạm nguy hiểm hoặc người bị kết án phạt tù về tội phạm khác trong những trường hợp do Bộ luật hình sự quy định phải cư trú, làm ăn sinh sống và cải tạo ở một địa phương nhất định, có sự kiểm soát, giáo dục của chính quyền và nhân dân địa phương trong thời hạn từ một năm đến năm năm, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù.

Page 15: Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương

Trong thời gian quản chế, người bị kết án không được tự ý ra khỏi nơi cư trú, bị tước một số quyền công dân theo Điều 39 của Bộ luật hình sự và bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định.

+ Tước một số quyền công dân là hình phạt bổ sung được áp dụng đối với công dân Việt Nam bị kết án phạt tù về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội phạm khác trong những trường hợp do Bộ luật hình sự quy định.

Các quyền công dân mà người phạm tội có thể bị Tòa án tước là: Quyền ứng cử, quyền bầu cử đại biểu cơ quan quyền lực nhà nước; quyền làm việc trong các cơ quan nhà nước và quyền phục vụ trong lực lượng vũ trang nhân dân

Thời hạn tước một số quyền công dân là từ một năm đến năm năm, kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù hoặc kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật trong trường hợp người bị kết án được hưởng án treo.

+ Tịch thu tài sản là tước một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của người bị kết án sung quỹ nhà nước.

Tịch thu tài sản chỉ được áp dụng đối với người bị kết án về tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng trong trường hợp do Bộ luật hình sự quy định. Khi tịch thu toàn bộ tài sản vẫn để cho người bị kết án và gia đình họ có điều kiện sinh sống.

+ Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính được áp dụng đối với người phạm các tội về tham nhũng, ma tuý hoặc những tội phạm khác do Bộ luật hình sự quy định.

+ Trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính.2.2. Các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tộiTheo quy định tại Điều 71 Bộ luật hình sự thì người chưa thành niên phạm tội chỉ bị

áp dụng một trong các hình phạt sau đây đối với mỗi tội phạm: - Cảnh cáo được áp dụng đối với người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18

tuổi phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt.

- Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người chưa thành niên phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, nếu người đó có thu nhập hoặc có tài sản riêng.

Mức phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội không quá một phần hai mức tiền phạt mà điều luật quy định.

- Cải tạo không giam giữ được áp dụng đối với người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật hình sự quy định mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú rõ ràng, nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội.

Thời hạn cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành niên phạm tội không quá một phần hai thời hạn mà điều luật quy định. Khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành niên phạm tội, thì không khấu trừ thu nhập của người đó.

Page 16: Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương

- Tù có thời hạn được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội theo quy định sau đây:

+ Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá mười tám năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định;

+ Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá mười hai năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định.

3. Vấn đề quyết định hình phạt3.1. Căn cứ quyết định hình phạt Quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa chọn một hình phạt cụ thể do Bộ luật hình

sự quy định để áp dụng đối với người phạm tội.Điều 45 Bộ luật hình sự quy định, khi quyết định hình phạt, Toà án căn cứ vào quy

định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. Như vậy, có thể thấy có 04 căn cứ mà Tòa án phải dựa vào đó để quyết định hình phạt đối với người phạm tội:

- Quy định của Bộ luật hình sự, tức là các quy định có tính nguyên tắc về tội phạm và hình phạt trong Phần chung của Bộ luật hình sự và các điều khoản quy định hình phạt đối với tội phạm cụ thể trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự

- Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội , tức là những đặc tính về chất và về lượng của mỗi tội phạm cụ thể cho phép phân biệt tội phạm ở nhóm này với tội phạm ở nhóm khác cũng như phân biệt mức độ nguy hiểm cho xã hội giữa tội phạm này với tội phạm khác trong cùng một nhóm hoặc đối với cùng một tội danh nhưng trong những trường hợp phạm tội khác nhau. Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội thể hiện ở tính chất và tầm quan trọng của khách thể bị xâm hại; hành vi đã thực hiện; hình thức thực hiện tội phạm; giai đoạn thực hiện tội phạm; thủ đoạn, hoàn cảnh, địa điểm, thời gian phạm tội; hậu quả do tội phạm gây ra; hình thức, mức độ lỗi; động cơ, mục đích phạm tội, ...

- Nhân thân người phạm tội, tức là tổng hợp những đặc điểm nói lên tính chất của một con người. Những đặc điểm đó có ảnh hưởng nhất định đến hành vi phạm tội và khả năng cải tạo, giáo dục người phạm tội. Xét đến nhân thân người phạm tội là xét đến những mối quan hệ giữa người ấy với xã hội, tập thể, gia đình và với người khác cũng như những đặc điểm của bản thân người đó. Đặc điểm nhân thân người phạm tội có rất nhiều loại, như:

+ Những đặc điểm mang tính chất pháp lý (tức là đặc điểm có ảnh hưởng trực tiếp đến tội phạm) được Bộ luật hình sự quy định là tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ hình

Page 17: Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương

phạt như: Phạm tội lần đầu hay đã có tiền án, tái phạm, tái phạm nguy hiểm, người chưa thành niên, có thái độ tự thú, hối cải, lập công chuộc tội hay ngoan cố ...;

+ Những đặc điểm có quan hệ đến ý thức chính trị, ý thức lao động, trình độ nhận thức, hiểu biết của người phạm tội như: Thành phần, trình độ văn hoá, nghề nghiệp...;

+ Những đặc điểm có quan hệ đến các đối tượng của các chính sách lớn của Đảng và Nhà nước như: Người phạm tội thuộc dân tộc ít người, thuộc gia đình liệt sỹ, là nhân sĩ, trí thức có tên tuổi, là người làm nghề tôn giáo...;

+ Những đặc điểm phản ánh hoàn cảnh thực tế của người phạm tội như: Bị lâm bệnh hiểm nghèo, là người già yếu, là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con nhỏ, có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn của bản thân hay của gia đình...

- Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự gồm có:+ Người phạm tội đã ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của tội phạm;+ Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả;+ Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;+ Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết; + Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của

người bị hại hoặc người khác gây ra;+ Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;+ Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn; + Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;+ Phạm tội vì bị người khác đe doạ, cưỡng bức;+ Phạm tội do lạc hậu; + Người phạm tội là phụ nữ có thai;+ Người phạm tội là người già;+ Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng

điều khiển hành vi của mình;+ Người phạm tội tự thú;+ Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;+ Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện, điều tra tội

phạm;+ Người phạm tội đã lập công chuộc tội;+ Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập

hoặc công tác.Theo quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự thì khi quyết định hình phạt, Toà án cần

lưu ý là các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật hình sự quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ một lần nữa, đồng thời ngoài các tình

Page 18: Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương

tiết nêu trên, Toà án còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án.

- Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự bao gồm:+ Phạm tội có tổ chức;+ Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp;+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội;+ Phạm tội có tính chất côn đồ;+ Phạm tội vì động cơ đê hèn;+ Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng;+ Phạm tội nhiều lần, tái phạm, tái phạm nguy hiểm;+ Phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ có thai, người già, người ở trong tình trạng không

thể tự vệ được hoặc đối với người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác;

+ Xâm phạm tài sản của Nhà nước;+ Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng;+ Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc

những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội;+ Dùng thủ đoạn xảo quyệt, tàn ác phạm tội hoặc thủ đoạn, phương tiện có khả năng

gây nguy hại cho nhiều người;+ Xúi giục người chưa thành niên phạm tội;+ Có hành động xảo quyệt, hung hãn nhằm trốn tránh, che giấu tội phạm.Theo quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự thì chỉ những tình tiết liệt kê ở trên mới

được coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Những tình tiết đã là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng một lần nữa khi quyết định hình phạt.

3.2. Quyết định hình phạt trong một số trường hợpCác Điều từ 50 đến 53 của Bộ luật hình sự quy định việc quyết định hình phạt trong

các trường hợp: phạm nhiều tội; tổng hợp hình phạt của nhiều bản án; chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và đồng phạm.

- Trường hợp phạm nhiều tội: Khi xét xử cùng một lần một người phạm nhiều tội, Toà án quyết định hình phạt đối với từng tội, sau đó tổng hợp hình phạt theo quy định sau đây:

+ Nếu các hình phạt đã tuyên cùng là cải tạo không giam giữ hoặc cùng là tù có thời hạn, thì các hình phạt đó được cộng lại thành hình phạt chung; hình phạt chung không được vượt quá ba năm đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, ba mươi năm đối với hình phạt tù có thời hạn;

Page 19: Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương

+ Nếu các hình phạt đã tuyên là cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, thì hình phạt cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành hình phạt tù theo tỷ lệ cứ ba ngày cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành một ngày tù để tổng hợp thành hình phạt chung;

+ Trong số các hình phạt đã tuyên, nếu hình phạt nặng nhất là tù chung thân thì hình phạt chung là tù chung thân; nếu hình phạt nặng nhất là tử hình thì hình phạt chung là tử hình;

+ Nếu các hình phạt bổ sung đã tuyên là cùng loại thì hình phạt chung được quyết định trong giới hạn do Bộ luật này quy định đối với loại hình phạt đó; nếu các hình phạt bổ sung đã tuyên là khác loại thì người bị kết án phải chấp hành tất cả các hình phạt đã tuyên.

+ Hình phạt trục xuất và phạt tiền không tổng hợp với các loại hình phạt khác; các khoản tiền phạt được cộng lại thành hình phạt chung;

- Trường hợp tổng hợp hình phạt của nhiều bản án: Trong trường hợp một người đang phải chấp hành một bản án mà lại bị xét xử về một tội phạm khác thì Tòa án quyết định hình phạt đối với tội đang bị xét xử, sau đó quyết định hình phạt chung theo quy tắc sau:

+ Nếu tội phạm đang bị xét xử được thực hiện trước khi có bản án mà người đó đang chấp hành, thì Tòa án tổng hợp hình phạt đối với tội đang bị xét xử với toàn bộ hình phạt của bản án đang chấp hành rồi quyết định hình phạt chung. Thời gian đã chấp hành hình phạt của bản án trước được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt chung.

+ Nếu tội phạm đang bị xét xử được thực hiện sau khi có bản án mà người đó đang chấp hành (phạm tội mới), thì Tòa án tổng hợp hình phạt đối với tội mới với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án đang chấp hành rồi quyết định hình phạt chung.

- Trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt: Đối với hành vi chuẩn bị phạm tội và hành vi phạm tội chưa đạt, hình phạt được quyết định theo các điều của Bộ luật hình sự về các tội phạm tương ứng tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng theo quy tắc sau:

+ Đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng là không quá hai mươi năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định.

+ Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình, thì chỉ có thể áp dụng các hình phạt này trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định.

- Trường hợp đồng phạm: Khi quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm, Toà án phải xét đến tính chất của đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của

Page 20: Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương

từng người đồng phạm. Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự thuộc người đồng phạm nào, thì chỉ áp dụng đối với người đó.

4. Vấn đề án treo, xoá án tích4.1. Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Theo quy định

tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm.

Trong thời gian thử thách, Toà án giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó thường trú để giám sát và giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó. Người được hưởng án treo có thể phải chịu một số hình phạt bổ sung như: Phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định theo quy định của Bộ luật hình sự.

Nếu người bị kết án đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát và giáo dục, Toà án có thể quyết định rút ngắn thời gian thử thách. Trường hợp, người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách, thì Toà án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt tù của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định của Bộ luật hình sự.

4.2. Xoá án tích là một chế định mang tính nhân đạo của luật hình sự thể hiện ở chỗ khi người bị kết án được xoá án tích thì họ được coi như chưa bị kết án (không có tiền án) và nếu sau khi được xoá án tích người đó lại phạm tội mới thì cũng coi như phạm tội lần đầu mà không được căn cứ vào án tích mà họ đã được xoá để xác định là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.

- Theo quy định tại Điều 64 Bộ luật hình sự thì trong những trường hợp sau đây, người bị kết án đương nhiên được xoá án tích:

+ Người được miễn hình phạt.+ Người bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc được hưởng án treo

nhưng không phải về các tội xâm phạm an ninh quốc gia, các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh mà không phạm tội mới trong thời hạn một năm, kể từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án.

+ Người bị phạt tù đến ba năm nhưng không phải về các tội xâm phạm an ninh quốc gia, các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh mà không phạm tội mới trong thời hạn ba năm, kể từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án.

+ Người bị phạt tù từ trên ba năm đến mười lăm năm nhưng không phải về các tội xâm phạm an ninh quốc gia, các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm

Page 21: Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương

chiến tranh mà không phạm tội mới trong thời hạn năm năm, kể từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án.

+ Người bị phạt tù trên mười lăm năm nhưng không phải về các tội xâm phạm an ninh quốc gia, các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh mà không phạm tội mới trong thời hạn bảy năm, kể từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án.

- Theo quy định tại Điều 65 Bộ luật hình sự thì việc xoá án tích cho người bị kết án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia, các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh phải do Tòa án quyết định căn cứ vào tính chất của tội phạm đã được thực hiện, nhân thân, thái độ chấp hành pháp luật và thái độ lao động của người bị kết án theo quy tắc sau đây:

+ Người bị phạt tù đến ba năm mà không phạm tội mới trong thời hạn ba năm, kể từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án.

+ Người bị phạt tù từ trên ba năm đến mười lăm năm mà không phạm tội mới trong thời hạn bảy năm, kể từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án;

+ Người bị phạt tù trên mười lăm năm mà không phạm tội mới trong thời hạn mười năm, kể từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án.

Người bị Tòa án bác đơn xin xóa án tích lần đầu phải chờ một năm sau mới được xin xóa án tích; nếu bị bác đơn lần thứ hai trở đi thì phải sau hai năm mới được xin xóa án tích.

Trong trường hợp người bị kết án có những biểu hiện tiến bộ rõ rệt và đã lập công, được cơ quan, tổ chức nơi người đó công tác hoặc chính quyền địa phương nơi người đó thường trú đề nghị, thì có thể được Toà án xoá án tích nếu người đó đã bảo đảm được ít nhất một phần ba thời hạn quy định.

- Theo quy định tại Điều 65 Bộ luật hình sự thì thời hạn để xoá án tích được tính căn cứ vào hình phạt chính đã tuyên. Nếu chưa được xoá án tích mà phạm tội mới, thì thời hạn để xoá án tích cũ tính từ ngày chấp hành xong bản án mới.

Việc chấp hành xong bản án bao gồm việc chấp hành xong hình phạt chính, hình phạt bổ sung (kể cả trường hợp người bị kết án được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại) và các quyết định khác của bản án.

PHẦN II. LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAMI. KHÁI QUÁT VỀ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM1. Khái niệm Luật tố tụng hình sựLuật tố tụng hình sự là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật, bao gồm

tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự nhằm giải quyết đúng đắn vụ

Page 22: Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương

án, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, của xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Trong đấu tranh phòng chống tội phạm, Nhà nước sử dụng nhiều hình thức, biện pháp khác nhau, trong đó có biện pháp của Luật hình sự và Luật tố tụng hình sự. Sử dụng biện pháp của Luật tố tụng hình sự, Nhà nước quy định trình tự giải quyết vụ án, quyền và nghĩa vụ của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng... toàn bộ các quy phạm này tồn tại trong sự hữu cơ, bổ sung cho nhau và tạo thành ngành Luật tố tụng hình sự trong hệ thống pháp luật của Nhà nước ta.

2. Nhiệm vụ của Luật tố tụng hình sựNhiệm vụ của luật tố tụng hình sự được khái quát một cách cô đọng tại Điều 1 của

Bộ luật tố tụng hình sự. Đó là: - Luật tố tụng hình sự quy định trình tự, thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và

thi hành án hình sự nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.

Để bảo đảm xử lý công minh mọi hành vi phạm tội thì trình tự, thủ tục tố tụng hình sự (bao gồm: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án) phải được quy định thật đầy đủ và chặt chẽ để hạn chế những vi phạm quyền tự do dân chủ của công dân, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng, bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hình sự được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội và đặc biệt là không làm oan người vô tội.

- Luật tố tụng hình sự quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng.

Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát và Tòa án là những cơ quan tiến hành tố tụng, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với nhau để phát hiện, ngăn chặn và xử lý tội phạm. Việc quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan này cũng như quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của những người tiến hành tố tụng (Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án) có ý nghĩa hết sức to lớn, góp phần vào việc xử lý tội phạm được nhanh chóng, kịp thời và có hiệu quả.

- Luật tố tụng hình sự quy định quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, của các cơ quan, tổ chức và công dân.

Quán triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc", Luật tố tụng hình sự xác định quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng hình sự của các cơ quan, tổ chức và công dân. Để việc tham gia tố tụng hình sự có hiệu quả, góp phần xử lý tội phạm chính xác đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng hình sự, Luật tố tụng hình sự quy định rõ quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, của các cơ quan, tổ chức và công dân. Những quy định chính xác, hợp lý về quyền và nghĩa vụ của những người tham gia

Page 23: Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương

tố tụng có tác dụng rất lớn đối với việc phát hiện nhanh chóng, xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội.

- Cùng với Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.

II. KHÁI QUÁT VỀ QUÁ TRÌNH TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Tố tụng hình sự là toàn bộ hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều

tra, Viện kiểm sát, Tòa án), của người tiến hành tố tụng (Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án), của những người tham gia tố tụng (Bị can, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi liên quan đến vụ án hình sự,...) và của các cá nhân, tổ chức khác góp phần vào việc giải quyết vụ án theo quy định của luật tố tụng hình sự.

1. Khởi tố, điều tra1.1. Cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sựTheo quy định tại Điều 104 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì những cơ quan sau

đây có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự:- Cơ quan điều tra (khi xác định có dấu hiệu tội phạm);- Thủ trưởng đơn vị Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng

Cảnh sát biển (khi phát hiện những hành vi phạm tội đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự trong lĩnh vực quản lý của mình);

- Thủ trưởng các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (trong trường hợp khi làm nhiệm vụ của mình mà phát hiện sự việc có dấu hiệu phạm tội);

- Viện kiểm sát (trong trường hợp Viện kiểm sát hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án của cơ quan điều tra, của Thủ trưởng đơn vị Bộ đội biên phòng, cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, của Thủ trưởng các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra và trong trường hợp Hội đồng xét xử yêu cầu khởi tố vụ án);

- Hội đồng xét xử (trong trường hợp qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra).

1.2. Cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra

- Theo quy định tại Điều 110 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và các điều từ 9, 10, 13, 14 và 17 của Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004 thì cơ quan điều tra chuyên trách gồm có:

+ Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân (Cơ quan Cảnh sát điều tra, Cơ quan An ninh điều tra);

Page 24: Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương

+ Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân (Cơ quan điều tra hình sự, Cơ quan An ninh điều tra);

+ Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương).

- Theo quy định tại Điều 111 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và các điều từ điều 19 đến điều 25 của Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004 thì ngoài các cơ quan điều tra chuyên trách nêu trên còn có các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, bao gồm:

+ Bộ đội biên phòng;+ Hải quan;+ Kiểm lâm;+ Lực lượng Cảnh sát biển;+ Các cơ quan khác của Công an nhân dân (Cảnh sát giao thông đường bộ - đường

sắt, Cảnh sát giao thông đường thủy, Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy, Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp, Trại tạm giam, Trại giam, Cơ quan an ninh trực tiếp đấu tranh phòng, chống các tội phạm);

+ Các cơ quan khác của Quân đội nhân dân (Trại tạm giam, Trại giam trong quân đội, Thủ trưởng đơn vị độc lập cấp trung đoàn và tương đương khi phát hiện những hành vi phạm tội thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân, xảy ra trong khu vực đóng quân của đơn vị).

1.3. Khái quát về thẩm quyền điều traThẩm quyền điều tra vụ án hình sự được quy định tại Điều 110 của Bộ luật tố tụng

hình sự năm 2003. Cụ thể:- Xét theo tính chất của vụ việc, thẩm quyền điều tra vụ án hình sự được quy định

như sau:+ Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân điều tra tất cả các tội phạm, trừ những

tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân và Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

+ Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân điều tra các tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự.

+ Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao điều tra một số loại tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp.

- Xét theo địa bàn nơi tội phạm xảy ra, thì Cơ quan điều tra có thẩm quyền điều tra những vụ án hình sự mà tội phạm xảy ra trên địa phận của mình. Trong trường hợp không xác định được địa điểm xảy ra tội phạm thì việc điều tra thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra nơi phát hiện tội phạm, nơi bị can cư trú hoặc bị bắt.

- Thẩm quyền điều tra vụ án hình sự cũng được xác định theo cấp của Cơ quan điều tra, theo đó:

Page 25: Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương

+ Cơ quan điều tra cấp huyện, Cơ quan điều tra quân sự khu vực điều tra những vụ án hình sự về những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp huyện, Toà án quân sự khu vực.

+ Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu điều tra những vụ án hình sự về những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp tỉnh, Toà án quân sự cấp quân khu hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra cấp dưới nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra.

+ Cơ quan điều tra cấp trung ương điều tra những vụ án hình sự về những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra.

Ngoài ra, Điều 111 Bộ luật tố tụng hình sự cũng quy định quyền hạn điều tra của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, theo đó:

- Khi phát hiện những hành vi phạm tội đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự trong lĩnh vực quản lý của mình thì Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển có thẩm quyền:

+ Đối với tội phạm ít nghiêm trọng trong trường hợp phạm tội quả tang, chứng cứ và lai lịch người phạm tội rõ ràng thì ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tiến hành điều tra và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát có thẩm quyền trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án.

+ Đối với tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội phạm ít nghiêm trọng nhưng phức tạp thì ra quyết định khởi tố vụ án, tiến hành những hoạt động điều tra ban đầu và chuyển hồ sơ cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án.

- Các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong khi làm nhiệm vụ của mình, nếu phát hiện sự việc có dấu hiệu phạm tội, thì có quyền khởi tố vụ án, tiến hành những hoạt động điều tra ban đầu và chuyển hồ sơ cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án.

1.4. Một số nội dung cơ bản về thủ tục điều traSau khi khởi tố vụ án hình sự, Cơ quan điều tra tiến hành các hoạt động điều tra theo

quy định của Luật tố tụng hình sự như: khởi tố bị can và hỏi cung bị can; lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; tiến hành đối chất, nhận dạng; tiến hành các hoạt động khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản, khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, xem xét dấu vết trên thân thể, thực nghiệm điều tra, giám định và kết thúc điều tra

Page 26: Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương

Khi tiến hành hoạt động điều tra, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong phạm vi thẩm quyền tố tụng của mình phải thực hiện đúng nguyên tắc, trình tự, thủ tục tố tụng đối với hoạt động điều tra theo quy định của Luật tố tụng hình sự và Viện kiểm sát có trách nhiệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của các cơ quan này.

2. Kiểm sát điều tra, truy tố2.1. Khái quát về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát điều traKhi thực hiện công tác kiểm sát điều tra, Viện kiểm sát có những nhiệm vụ và quyền

hạn sau đây:- Kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của

Cơ quan điều tra;- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng;- Giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền điều tra;- Yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục các vi phạm pháp luật trong hoạt động điều

tra; cung cấp tài liệu cần thiết về vi phạm pháp luật của Điều tra viên; yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra xử lý nghiêm minh Điều tra viên đã vi phạm pháp luật trong khi tiến hành điều tra;

- Kiến nghị với cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật.

2.2. Khái quát về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra

Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

- Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; - Yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự,

quyết định khởi tố bị can theo quy định của Luật tố tụng hình sự;- Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra;- Trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của Luật tố tụng hình

sự khi xét thấy cần thiết;- Yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên theo quy định của Luật

tố tụng hình sự; - Khởi tố về hình sự nếu hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm;- Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các

biện pháp ngăn chặn khác;

Page 27: Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương

- Quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra theo quy định của Luật tố tụng hình sự. Trong trường hợp không phê chuẩn thì trong quyết định không phê chuẩn phải nêu rõ lý do;

- Huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra; - Yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can;- Quyết định việc truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.2.3. Khái quát về hoạt động truy tố của Viện kiểm sátSau khi việc điều tra kết thúc, vụ án được chuyển cho Viện Kiểm sát có thẩm quyền

để xem xét việc truy tố. Trong thời hạn do Luật tố tụng hình sự quy định, Viện kiểm sát phải ra một trong những quyết định sau đây:

- Truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng. Nội dung bản cáo trạng phải ghi rõ ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm xảy ra tội phạm; thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội, hậu quả của tội phạm và những tình tiết quan trọng khác; những chứng cứ xác định tội trạng của bị can, những tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; nhân thân của bị can và mọi tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án. Phần kết luận của bản cáo trạng ghi rõ tội danh và điều khoản của Bộ luật hình sự được áp dụng.

- Trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung khi nghiên cứu hồ sơ vụ án phát hiện thấy còn thiếu những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà Viện kiểm sát không thể tự mình bổ sung được hoặc có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng cũng như có căn cứ để khởi tố bị can về một tội phạm khác hoặc có người đồng phạm khác.

- Đình chỉ vụ án khi có một trong những căn cứ do luật định như: không có sự việc phạm tội; hành vi không cấu thành tội phạm; người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật; đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; tội phạm đã được đại xá; người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác hoặc người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu ...

- Tạm đình chỉ vụ án khi bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác mà có chứng nhận của Hội đồng giám định pháp y hoặc khi bị can bỏ trốn mà không biết rõ bị can đang ở đâu; trong trường hợp này phải yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can.

Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra một trong những quyết định nêu trên, Viện kiểm sát phải thông báo cho bị can, người bào chữa biết; giao bản cáo trạng, quyết định đình chỉ vụ án hoặc quyết định tạm đình chỉ vụ án cho bị can. Trường hợp truy tố thì trong thời hạn ba ngày, kể từ khi ra quyết định truy tố bằng bản cáo trạng, Viện kiểm sát phải gửi hồ sơ vụ án và bản cáo trạng đến Tòa án.

Nếu thấy vụ án không thuộc thẩm quyền truy tố của mình, thì Viện Kiểm sát ra ngay quyết định chuyển vụ án cho Viện Kiểm sát có thẩm quyền.

3. Xét xử3.1. Khái quát về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của các Tòa án

Page 28: Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương

Thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của các Tòa án được quy định tại Điều 170 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Cụ thể:

- Trước hết, thẩm quyền xét xử của các Tòa án được xác định theo cấp Tòa án, theo đó:

+ Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng, trừ các tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, các tội phạm phá hoại hoà bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh; các tội phạm quy định tại các điều 93, 95, 96, 172, 216, 217, 218, 219, 221, 222, 223, 224, 225, 226, 263, 293, 294, 295, 296, 322 và 323 của Bộ luật hình sự.

+ Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm không thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp dưới mà mình lấy lên để xét xử.

Khi bị cáo phạm nhiều tội, trong đó có tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp trên, thì Tòa án cấp trên xét xử toàn bộ vụ án.

- Xét theo địa bàn nơi tội phạm xảy ra, thì Tòa án có thẩm quyền xét xử vụ án hình sự là Tòa án nơi tội phạm được thực hiện. Trong trường hợp tội phạm được thực hiện tại nhiều nơi khác nhau hoặc không xác định được nơi thực hiện tội phạm thì Tòa án có thẩm quyền xét xử là Tòa án nơi kết thúc việc điều tra.

Những tội phạm xảy ra trên tàu bay hoặc tàu biển của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang hoạt động ngoài không phận hoặc lãnh hải Việt Nam thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án Việt Nam, nơi có sân bay hoặc bến cảng trở về đầu tiên hoặc nơi tàu bay, tàu biển đó được đăng ký.

- Xét theo đối tượng người phạm tội, thì thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được xác định như sau:

+ Bị cáo phạm tội ở nước ngoài nếu xét xử ở Việt Nam thì do Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi cư trú cuối cùng của bị cáo ở trong nước xét xử. Nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng ở trong nước của bị cáo thì tùy trường hợp, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ra quyết định giao cho Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội hoặc Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử.

+ Bị cáo phạm tội ở nước ngoài, nếu thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự thì do Tòa án quân sự cấp quân khu trở lên xét xử theo quyết định của Chánh án Tòa án quân sự trung ương.

3.2. Khái quát về thẩm quyền xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm của Tòa án

- Theo tinh thần quy định tại Điều 242 Bộ luật tố tụng hình sự thì thẩm quyền xét xử phúc thẩm được quy định như sau:

+ Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu xét xử phúc thẩm vụ án;

Page 29: Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương

+ Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án quân sự trung ương xét xử phúc thẩm đối với vụ án của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu.

- Theo Điều 279 Bộ luật tố tụng hình sự thì thẩm quyền giám đốc thẩm được quy định như sau:

+ Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện bị kháng nghị; Ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự cấp quân khu giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự khu vực bị kháng nghị.

+ Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh bị kháng nghị; Tòa án quân sự trung ương giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp quân khu bị kháng nghị.

+ Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án quân sự trung ương, của Toà hình sự và của các Toà phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao bị kháng nghị.

Những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật về cùng một vụ án hình sự thuộc thẩm quyền giám đốc thẩm của các cấp Tòa án khác nhau thì Tòa án cấp có thẩm quyền cấp trên giám đốc thẩm toàn bộ vụ án.

- Theo Điều 296 Bộ luật tố tụng hình sự thì thẩm quyền tái thẩm được quy định như sau:

+ Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh tái thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện; Ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự cấp quân khu tái thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự khu vực.

+ Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao tái thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh; Tòa án quân sự trung ương tái thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp quân khu.

+ Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tái thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án quân sự trung ương, của Toà hình sự và của các Toà phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao.

3.3. Một số nội dung cơ bản về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm: Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm 01 Thẩm phán và 02 Hội thẩm nhân dân. Trường hợp

vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp, thì Hội đồng xét xử có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân.

Đối với vụ án mà bị cáo bị đưa ra xét xử về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình thì Hội đồng xét xử gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân.

- Khái quát về trình tự, thủ tục xét xử sơ thẩm:

Page 30: Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương

Việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được tiến hành qua 5 giai đoạn (5 bước) quan trọng sau đây:

* Chuẩn bị xét xử: Sau khi nhận hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa có nhiệm vụ

nghiên cứu hồ sơ; giải quyết các khiếu nại và yêu cầu của những người tham gia tố tụng và tiến hành những việc khác cần thiết cho việc mở phiên tòa.

* Bắt đầu phiên tòa: Khi bắt đầu phiên tòa, chủ tọa phiên tòa đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử. Sau khi

nghe Thư ký Tòa án báo cáo danh sách những người được triệu tập đã có mặt, chủ tọa phiên tòa kiểm tra căn cước của những người đó và giải thích cho họ biết quyền và nghĩa vụ của họ tại phiên tòa.

Hội đồng xét xử giải quyết việc đề nghị thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên, Thư ký Tòa án, người giám định, người phiên dịch và những yêu cầu về xem xét chứng cứ (nếu có) và hoãn phiên tòa khi có người vắng mặt.

* Xét hỏi tại phiên tòa: Thủ tục xét hỏi tại phiên tòa được bắt đầu bằng việc Kiểm sát viên đọc bản cáo

trạng. Việc xét hỏi từng người được tiến hành theo thứ tự sau: chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi đến các Hội thẩm nhân dân, sau đó đến Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Những người tham gia phiên tòa cũng có quyền đề nghị với chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ. Người giám định được hỏi về những vấn đề có liên quan đến việc giám định.

Khi xét hỏi, Hội đồng xét xử có thể công bố những lời khai của những người tham gia tố tụng tại Cơ quan điều tra và xem xét những vật chứng có liên quan trong vụ án.

Tại phiên tòa, Thẩm phán chủ tọa điều khiển việc hỏi bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của những người đó; hỏi người làm chứng, người giám định; xem xét vật chứng; xem xét tại chỗ; việc trình bày, công bố các tài liệu của vụ án và nhận xét, báo cáo của các cơ quan, tổ chức.

* Tranh luận tại phiên tòa: Tranh luận là giai đoạn tiếp theo sau khi kết thúc việc xét hỏi tại phiên tòa. Ở giai

đoạn này, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung cáo trạng hoặc kết luận về tội nhẹ hơn; nếu thấy không có căn cứ để kết tội thì rút toàn bộ quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo không có tội. Bị cáo trình bày lời bào chữa, nếu bị cáo có người bào chữa thì người này bào chữa cho bị cáo. Bị cáo có quyền bổ sung ý kiến bào chữa. Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ được trình bày ý kiến để bảo vệ quyền và lợi ích của mình, nếu có người bảo vệ quyền lợi cho họ thì người này có quyền trình bày, bổ sung ý kiến.

Page 31: Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương

Bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến về luận tội của Kiểm sát viên và đưa ra đề nghị của mình; Kiểm sát viên phải đưa ra những lập luận của mình đối với từng ý kiến.

Những người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác. Chủ toạ phiên toà không được hạn chế thời gian tranh luận, tạo điều kiện cho những người tham gia tranh luận trình bày hết ý kiến, nhưng có quyền cắt những ý kiến không liên quan đến vụ án.

Chủ tọa phiên tòa có quyền đề nghị kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án của người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác mà những ý kiến đó chưa được Kiểm sát viên tranh luận.

Nếu qua tranh luận mà thấy cần xem xét thêm chứng cứ thì Hội đồng xét xử có thể quyết định trở lại việc xét hỏi. Xét hỏi xong phải tiếp tục tranh luận. Giai đoạn tranh luận tại phiên tòa được kết thúc bằng việc bị cáo nói lời sau cùng.

* Nghị án: Sau khi kết thúc phần tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử lui vào phòng nghị

án. Chỉ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân mới có quyền nghị án. Các thành viên của Hội đồng xét xử phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số về từng vấn đề một. Thẩm phán biểu quyết sau cùng. Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được đưa vào hồ sơ vụ án. Nếu qua việc nghị án mà thấy có tình tiết của vụ án chưa được xét hỏi hoặc xét hỏi chưa đầy đủ thì Hội đồng xét xử quyết định trở lại việc xét hỏi và tranh luận.

Khi nghị án chỉ được căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên toà. Trong trường hợp Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì Hội đồng xét xử vẫn giải quyết những vấn đề của vụ án; nếu có căn cứ xác định bị cáo không có tội thì tuyên bố bị cáo không có tội; nếu thấy việc rút truy tố không có căn cứ thì quyết định tạm đình chỉ vụ án và kiến nghị với Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp.

Bản án của Tòa án quyết định việc bị cáo có phạm tội hay không phạm tội, hình phạt và các biện pháp tư pháp khác phải được thảo luận và thông qua tại phòng nghị án. Các quyết định về việc thay đổi thành viên của Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, Thư ký Tòa án, người giám định, người phiên dịch; chuyển vụ án; yêu cầu điều tra bổ sung; tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án; về việc bắt giam hoặc trả tự do cho bị cáo cũng phải được thảo luận và thông qua tại phòng nghị án và phải được lập thành văn bản. Đối với quyết định về các vấn đề khác được thì Hội đồng xét xử thảo luận và thông qua tại phòng xử án, không phải lập thành văn bản, nhưng phải được ghi vào biên bản phiên tòa.

Việc nghị án phải có biên bản ghi lại các ý kiến đã thảo luận và quyết định của Hội đồng xét xử. Biên bản nghị án phải được tất cả các thành viên Hội đồng xét xử ký tại phòng nghị án trước khi tuyên án.

* Tuyên án:

Page 32: Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương

Khi tuyên án mọi người trong phòng xử án phải đứng dậy. Chủ tọa phiên tòa hoặc một thành viên khác của hội đồng xét xử đọc bản án và sau khi đọc xong có thể giải thích thêm về việc chấp hành bản án và quyền kháng cáo.

Nếu bị cáo không biết tiếng Việt thì sau khi tuyên án, người phiên dịch phải đọc lại cho bị cáo nghe toàn bộ bản án sang thứ tiếng mà bị cáo biết.

Sau khi tuyên án, Hội đồng xét xử có thể quyết định bắt tạm giam bị cáo để bảo đảm việc thi hành án theo quy định tại Điều 228 Bộ luật tố tụng hình sự.

Hội đồng xét xử phải tuyên bố trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo đang bị tạm giam, nếu họ không bị tạm giam về một tội phạm khác (trong trường hợp bị cáo không có tội; được miễn trách nhiệm hình sự hoặc được miễn hình phạt; bị xử phạt bằng các hình phạt không phải là hình phạt tù; bị xử phạt tù, nhưng được hưởng án treo; thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời gian bị cáo đã bị tạm giam).

3.4. Một số nội dung cơ bản về thủ tục phúc thẩm- Người có quyền kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm:+ Những người sau đây có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm của Tòa

án: Bị cáo, người bị hại, người đại diện hợp pháp của họ (đối với toàn bộ bản án hoặc quyết định sơ thẩm); người bào chữa (để bảo vệ lợi ích của người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất); nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ (đối với phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại); người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người đại diện hợp pháp của họ (đối với phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ); người bảo vệ quyền lợi của người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất (đối với phần bản án, quyết định của Tòa án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ); người được Tòa án tuyên bố là không có tội (đối với phần lý do bản án sơ thẩm đã tuyên họ không có tội).

+ Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm của Tòa án.

- Thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm:+ Thời hạn kháng cáo là mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với bị cáo, đương

sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản sao bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết; nếu đơn kháng cáo gửi qua bưu điện thì ngày kháng cáo được tính căn cứ vào ngày bưu điện nơi gửi đóng dấu ở phong bì. Trong trường hợp đơn kháng cáo gửi qua Ban giám thị trại tạm giam, thì ngày kháng cáo được tính căn cứ vào ngày Ban giám thị trại tạm giam nhận được đơn.

Việc kháng cáo quá hạn có thể được Tòa án chấp nhận, nếu có lý do chính đáng.+ Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là mười lăm ngày, của Viện kiểm

sát cấp trên trực tiếp là ba mươi ngày, kể từ ngày tuyên án.- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm:

Page 33: Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương

Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm ba Thẩm phán và trong trường hợp cần thiết có thể có thêm hai Hội thẩm nhân dân.

- Khái quát về thủ tục xét xử phúc thẩm:+ Sự tham gia phiên tòa phúc thẩm của Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp là bắt

buộc, nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì phải hoãn phiên tòa. Người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người kháng cáo, người có

quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị được triệu tập tham gia phiên tòa. Nếu có người vắng mặt mà có lý do chính đáng thì Hội đồng xét xử có thể vẫn tiến hành xét xử nhưng không được ra bản án hoặc quyết định không có lợi cho bị cáo hoặc đương sự vắng mặt. Trong các trường hợp khác thì phải hoãn phiên tòa. Thời hạn hoãn phiên tòa không được quá ba mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên tòa.

Sự tham gia phiên tòa của những người khác do Tòa án cấp phúc thẩm quyết định, nếu xét thấy sự có mặt của họ là cần thiết.

+ Trước khi xét xử hoặc trong khi xét hỏi tại phiên tòa, Viện kiểm sát có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của Tòa án bổ sung chứng cứ mới; người đã kháng cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự cũng có quyền bổ sung tài liệu, đồ vật. Chứng cứ cũ, chứng cứ mới, tài liệu, đồ vật mới bổ sung đều phải được xem xét tại phiên tòa. Bản án của Tòa án cấp phúc thẩm phải căn cứ vào cả chứng cứ cũ và mới.

+ Phiên tòa phúc thẩm cũng tiến hành như phiên tòa sơ thẩm nhưng trước khi xét hỏi, một thành viên của Hội đồng xét xử phải trình bày tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm, nội dung của kháng cáo hoặc kháng nghị. Khi tranh luận, Kiểm sát viên phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án.

- Thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm: Tòa án cấp phúc thẩm có quyền quyết định:+ Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm;+ Sửa bản án sơ thẩm;+ Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án để điều tra lại hoặc xét xử lại.+ Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.3.5. Một số nội dung cơ bản về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm- Căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm:+ Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là việc điều tra xét hỏi tại phiên

tòa phiến diện hoặc không đầy đủ; kết luận trong bản án hoặc quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án; có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong khi điều tra, truy tố hoặc xét xử; có những sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng Bộ luật hình sự.

+ Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là lời khai của người làm chứng, kết luận giám định, lời dịch của người phiên dịch có những điểm quan trọng được phát hiện

Page 34: Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương

là không đúng sự thật; Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm đã có kết luận không đúng làm cho vụ án bị xét xử sai; vật chứng, biên bản điều tra, biên bản các hoạt động tố tụng khác hoặc những tài liệu khác trong vụ án bị giả mạo hoặc không đúng sự thật; những tình tiết khác làm cho việc giải quyết vụ án không đúng sự thật.

- Người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm:+ Người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là Chánh án Tòa án nhân

dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (đối với bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án các cấp, trừ quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao); Chánh án Tòa án quân sự trung ương và Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương (đối với bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp dưới); Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu và Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu (đối với bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới).

Để góp phần giúp cho những người nói trên thực hiện quyền kháng nghị của mình, Luật tố tụng hình sự quy định về việc phát hiện bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật cần xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, theo đó người bị kết án, cơ quan, tổ chức và mọi công dân đều có quyền phát hiện những vi phạm pháp luật trong các bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và thông báo cho những người có quyền kháng nghị.

+ Người có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (đối với những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án các cấp, trừ quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao); Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương (đối với những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp dưới); Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh (đối với những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện); Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu (đối với những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự khu vực).

- Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm:+ Việc kháng nghị giám đốc thẩm theo hướng không có lợi cho người bị kết án chỉ

được tiến hành trong thời hạn một năm, kể từ ngày bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật; việc kháng nghị theo hướng có lợi cho người bị kết án có thể được tiến hành bất cứ lúc nào, kể cả trường hợp người bị kết án đã chết mà cần minh oan cho họ.

+ Việc kháng nghị tái thẩm theo hướng không có lợi cho người bị kết án phải tiến hành trong thời hạn không được quá một năm, kể từ ngày Viện kiểm sát nhận được tin báo về tình tiết mới được phát hiện và phải trong thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 23 của Bộ luật hình sự; việc kháng nghị theo hướng có lợi cho người bị kết án thì không hạn chế về thời gian và được tiến hành trong cả trường hợp người bị kết án đã chết mà cần minh oan cho họ.

Page 35: Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương

+ Việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm về dân sự trong vụ án hình sự đối với nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được tiến hành theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự .

- Thành phần Hội đồng giám đốc thẩm, Hội đồng tái thẩm:+ Hội đồng giám đốc thẩm, Hội đồng tái thẩm của Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối

cao hoặc của Tòa án quân sự trung ương gồm ba Thẩm phán. + Hội đồng giám đốc thẩm, Hội đồng tái thẩm của Uỷ ban Thẩm phán Tòa án nhân

dân cấp tỉnh hoặc của Uỷ ban Thẩm phán Tòa án quân sự cấp quân khu phải có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên của Uỷ ban Thẩm phán tham gia xét xử.

+ Hội đồng giám đốc thẩm, Hội đồng tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao phải có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên của Hội đồng Thẩm phán tham gia xét xử.

Quyết định giám đốc thẩm của Uỷ ban Thẩm phán hoặc Hội đồng Thẩm phán phải được quá nửa tổng số thành viên của Uỷ ban Thẩm phán hoặc Hội đồng Thẩm phán tán thành.

- Khái quát về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm:Chánh án Tòa án phân công một Thẩm phán làm bản thuyết trình về vụ án tại phiên

tòa. Bản thuyết trình tóm tắt nội dung vụ án và các bản án, quyết định của các cấp Tòa án, nội dung của kháng nghị. Bản thuyết trình phải được gửi trước cho các thành viên Hội đồng giám đốc thẩm hoặc Hội đồng tái thẩm chậm nhất là bảy ngày trước ngày mở phiên tòa.

Phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm phải có sự tham gia của Viện kiểm sát cùng cấp. Khi xét thấy cần thiết, Tòa án phải triệu tập người bị kết án, người bào chữa và có thể triệu tập những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị tham gia phiên tòa.

Tại phiên tòa, một thành viên của Hội đồng giám đốc thẩm hoặc Hội đồng tái thẩm trình bày bản thuyết trình về vụ án. Các thành viên của Hội đồng phát biểu ý kiến và đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án.

Nếu đã triệu tập người bị kết án, người bào chữa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị thì những người này được trình bày ý kiến trước khi đại diện Viện kiểm sát phát biểu. Trong trường hợp họ vắng mặt thì Hội đồng vẫn có thể tiến hành xét xử .

Tại phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm của Uỷ ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Uỷ ban Thẩm phán Tòa án quân sự cấp quân khu hoặc Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao khi biểu quyết về nội dung kháng nghị thì phải biểu quyết theo trình tự những ý kiến đồng ý với kháng nghị, những ý kiến không đồng ý với kháng nghị. Nếu không có loại ý kiến nào được quá nửa tổng số thành viên của Uỷ ban Thẩm phán, Hội đồng giám đốc thẩm biểu quyết tán thành thì phải hoãn phiên tòa. Trong thời hạn không quá ba mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên tòa thì Uỷ ban Thẩm phán, Hội

Page 36: Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương

đồng Thẩm phán phải mở phiên tòa xét xử lại vụ án với sự tham gia của toàn thể các thành viên.

- Thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm, Hội đồng tái thẩm:Hội đồng giám đốc thẩm, Hội đồng tái thẩm có quyền ra quyết định:+ Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực

pháp luật;+ Hủy bản án hoặc quyết định bị kháng nghị để điều tra lại hoặc xét xử lại;+ Huỷ bản án hoặc quyết định bị kháng nghị và đình chỉ vụ án.4. Thi hành án hình sự4.1. Khái quát về các cơ quan có nhiệm vụ thi hành án hình sự Điều 257 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định các cơ quan, tổ chức có nhiệm

vụ thi hành bản án và quyết định của Tòa án, bao gồm: Hội đồng thi hành hình phạt tử hình; cơ quan Công an; chính quyền xã, phường, thị trấn; cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án cư trú hoặc làm việc; cơ sở chuyên khoa y tế; cơ quan thi hành án dân sự; các tổ chức thi hành án trong Quân đội. Cụ thể:

- Hội đồng thi hành hình phạt tử hình.- Cơ quan Công an thi hành hình phạt trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân và

tham gia Hội đồng thi hành hình phạt tử hình.- Chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án cư trú

hoặc làm việc có nhiệm vụ theo dõi, giáo dục, giám sát việc cải tạo của những người được hưởng án treo hoặc bị phạt cải tạo không giam giữ.

- Chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi thi hành án đảm nhiệm việc thi hành hình phạt quản chế, cấm cư trú, tước một số quyền công dân, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định.

- Cơ sở chuyên khoa y tế thi hành quyết định về bắt buộc chữa bệnh.- Cơ quan thi hành án dân sự thi hành hình phạt phạt tiền, tịch thu tài sản và quyết

định dân sự trong vụ án hình sự. - Các tổ chức thi hành án trong Quân đội đảm nhiệm việc thi hành bản án và quyết

định của Tòa án quân sự, trừ hình phạt trục xuất.Các cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ thi hành bản án và quyết định của Tòa án có trách

nhiệm phải báo cho Chánh án Tòa án đã ra quyết định thi hành án về việc bản án hoặc quyết định đã được thi hành; nếu chưa thi hành được thì phải nói rõ lý do.

4.2. Một số nội dung cơ bản về thủ tục thi hành án hình sựĐiều 255 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định về những bản án và quyết định

được thi hành, theo đó, về nguyên tắc, những bản án và quyết định về hình sự được thi hành phải là những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật, bao gồm:

Page 37: Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương

- Những bản án và quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm;

- Những bản án và quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm;- Những quyết định của Tòa án giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.Tuy vậy, cũng có một ngoại lệ là trong trường hợp bị cáo đang bị tạm giam mà Tòa

án cấp sơ thẩm quyết định đình chỉ vụ án, không kết tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt cho bị cáo, hình phạt không phải là tù giam hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo hoặc khi thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời hạn đã tạm giam thì bản án hoặc quyết định của Tòa án được thi hành ngay, mặc dù vẫn có thể bị kháng nghị, kháng cáo.

Theo quy định tại Điều 256 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì trong hạn bảy ngày, kể từ ngày bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày nhận được bản án, quyết định phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm, quyết định tái thẩm, Chánh án Tòa án đã xử sơ thẩm phải ra quyết định thi hành án hoặc ủy thác cho Tòa án khác cùng cấp ra quyết định thi hành án.

Trong quyết định thi hành án phải ghi rõ họ tên người ra quyết định; tên cơ quan có nhiệm vụ thi hành bản án hoặc quyết định; họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của người bị kết án; bản án hoặc quyết định mà người bị kết án phải chấp hành. Trường hợp người bị kết án đang tại ngoại thì quyết định thi hành án phạt tù phải ghi rõ trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được quyết định, người đó phải có mặt tại cơ quan Công an để thi hành án.

Quyết định thi hành án, trích lục bản án hoặc quyết định phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp nơi thi hành án, cơ quan thi hành án và người bị kết án. Trường hợp người bị kết án phạt tù đang tại ngoại mà bỏ trốn, thì Chánh án Tòa án đã ra quyết định thi hành án yêu cầu cơ quan Công an cùng cấp ra quyết định truy nã.

5. Khái quát về việc bắt, tạm giữ, tạm giam người; kê biên tài sản5.1. Căn cứ áp dụng- Chỉ được bắt khẩn cấp trong những trường hợp sau đây:+ Khi có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm

trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;+ Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy

và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn;

+ Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu huỷ chứng cứ.

Đối với người phạm tội quả tang (tức là đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt), cũng như người đang bị truy nã thì bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải ngay đến cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Uỷ ban nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản và giải ngay người bị bắt đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền.

Page 38: Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương

- Tạm giữ có thể được áp dụng đối với những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã .

- Tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng hoặc tuy phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm nhưng có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.

Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ các trường hợp sau đây: người đó bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã; người đó đã được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử; người đó phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng, nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.

- Kê biên tài sản chỉ áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định có thể tịch thu tài sản hoặc phạt tiền cũng như đối với người phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.

5.2. Thẩm quyền áp dụng- Những người sau đây có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam:+ Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự

các cấp;+ Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp;+ Thẩm phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó chánh toà Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân

tối cao; Hội đồng xét xử;+ Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trong trường hợp này, lệnh

bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. - Những người sau đây có quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp:+ Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;+ Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ

huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới; + Người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến

cảng.- Những người sau đây có quyền quyết định tạm giữ người:+ Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;+ Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ

huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới;

Page 39: Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương

+ Người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng;

+ Chỉ huy trưởng vùng Cảnh sát biển.- Những người sau đây có quyền ra lệnh tạm giam:+ Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự

các cấp;+ Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp;+ Thẩm phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó chánh toà Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân

tối cao; Hội đồng xét xử;+ Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trong trường hợp này, lệnh

bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. - Những người sau đây có quyền ra lệnh kê biên tài sản của bị can, bị cáo:+ Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự

các cấp;+ Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp;+ Thẩm phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó chánh toà Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân

tối cao; Hội đồng xét xử;+ Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trong trường hợp này, lệnh

kê biên tài sản phải được thông báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp trước khi thi hành. 5.3. Thời hạn tạm giữ, tạm giam- Thời hạn tạm giữ:Thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày, kể từ khi Cơ quan điều tra nhận người bị

bắt; trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn thêm nhưng không quá ba ngày. Trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng không quá ba ngày. Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn. Như vậy, thời hạn tạm giữ tối đa là 9 ngày, kể từ khi Cơ quan điều tra nhận người bị bắt.

- Thời hạn tạm giam bị can, bị cáo:+ Thời hạn tạm giam để điều tra không quá 02 tháng (đối với tội phạm ít nghiêm

trọng), 03 tháng (đối với tội phạm nghiêm trọng), 04 tháng (đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng). Các thời hạn này có thể được Viện kiểm sát có thẩm quyền gia hạn theo quy định tại Điều 120 Bộ luật tố tụng hình sự. Cụ thể:

+ Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam 01 lần không quá 01 tháng. Như vậy, thời hạn tạm giam tối đa để điều tra đối với tội phạm ít nghiêm trọng là 03 tháng.

+ Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam 02 lần,

Page 40: Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương

lần thứ nhất không quá 02 tháng và lần thứ hai không quá 01 tháng. Như vậy, thời hạn tạm giam tối đa để điều tra đối với tội phạm nghiêm trọng là 06 tháng.

+ Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam 02 lần, lần thứ nhất không quá 03 tháng, lần thứ hai không quá 02 tháng. Như vậy, thời hạn tạm giam tối đa để điều tra đối với tội phạm rất nghiêm trọng là 09 tháng.

+ Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam 03 lần, mỗi lần không quá 04 tháng. Như vậy, thời hạn tạm giam tối đa để điều tra đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là 16 tháng.

+ Trong trường hợp cần thiết đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền gia hạn thêm một lần nữa không quá 04 tháng. Như vậy, thời hạn tạm giam tối đa để điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia là 20 tháng.

* Thời hạn tạm giam để quyết định việc truy tố tối đa không được quá 30 ngày (đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng) và 45 ngày (đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng).

* Thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử tối đa không được quá 45 ngày (đối với tội phạm ít nghiêm trọng), 60 ngày (đối với tội phạm nghiêm trọng), 03 tháng (đối với tội phạm rất nghiêm trọng) và 04 tháng (đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng).

Đối với bị cáo đang bị tạm giam mà đến ngày mở phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét thấy cần tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử, thì Tòa án ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên tòa.

5.4. Một số nội dung cơ bản về thủ tục bắt người, kê biên tài sản- Thủ tục bắt người: + Lệnh bắt phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh; họ tên,

địa chỉ của người bị bắt và lý do bắt. Lệnh bắt phải có chữ ký của người ra lệnh và có đóng dấu. Người thi hành lệnh phải đọc lệnh, giải thích lệnh, quyền và nghĩa vụ của người bị bắt và phải lập biên bản về việc bắt.

+ Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó cư trú phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người láng giềng của người bị bắt chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó làm việc phải có đại diện cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi khác phải có sự chứng kiến của đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi tiến hành bắt người.

Không được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp bắt khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã.

+ Người thi hành lệnh bắt trong mọi trường hợp đều phải lập biên bản, trong đó phải ghi rõ ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm bắt, nơi lập biên bản; những việc đã làm, tình hình diễn biến trong khi thi hành lệnh bắt, những đồ vật, tài liệu bị tạm giữ và những khiếu nại của người bị bắt. Biên bản phải được đọc cho người bị bắt và những người chứng kiến nghe. Người bị bắt, người thi hành lệnh bắt và người chứng kiến phải cùng ký tên vào

Page 41: Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương

biên bản, nếu ai có ý kiến khác hoặc không đồng ý với nội dung biên bản thì có quyền ghi vào biên bản và ký tên.

Việc tạm giữ đồ vật, tài liệu của người bị bắt phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

+ Khi giao và nhận người bị bắt, hai bên giao và nhận phải lập biên bản. Trong biên bản giao nhận còn phải ghi rõ việc bàn giao các biên bản lấy lời khai, đồ vật, tài liệu đã thu thập được, tình trạng sức khoẻ của người bị bắt và mọi tình tiết xảy ra lúc giao nhận.

+ Trong mọi trường hợp, việc bắt khẩn cấp phải được báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp để xét phê chuẩn. Viện kiểm sát phải kiểm sát chặt chẽ căn cứ bắt khẩn cấp; trong trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát phải trực tiếp gặp, hỏi người bị bắt trước khi xem xét, quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn.

Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị xét phê chuẩn và tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Nếu Viện kiểm sát quyết định không phê chuẩn thì người đã ra lệnh bắt phải trả tự do ngay cho người bị bắt.

- Thủ tục kê biên tài sản:+ Chỉ kê biên phần tài sản tương ứng với mức có thể bị tịch thu, phạt tiền hoặc bồi

thường thiệt hại. Tài sản bị kê biên được giao cho chủ tài sản hoặc thân nhân của họ bảo quản. Người được giao bảo quản mà có hành vi tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu, hủy hoại tài sản bị kê biên thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 310 của Bộ luật hình sự.

+ Khi tiến hành kê biên tài sản, phải có mặt đương sự hoặc người đã thành niên trong gia đình, đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người láng giếng chứng kiến.

+ Người tiến hành kê biên phải lập biên bản theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, trong đó ghi rõ tên và tình trạng từng tài sản bị kê biên. Biên bản phải được đọc cho đương sự và những người có mặt nghe và cùng ký tên. Những khiếu nại của đương sự được ghi vào biên bản, có chữ ký xác nhận của họ và của người tiến hành kê biên.

Biên bản kê biên được lập thành ba bản: một bản được giao ngay cho đương sự sau khi kê biên xong; một bản gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và một bản đưa vào hồ sơ vụ án.

III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ BÀO CHỮA1. Quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáoQuyền bào chữa là một trong những quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp ghi

nhận và việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ và bị can, bị cáo đã trở thành một nguyên tắc tố tụng hình sự quan trọng.

Theo quy định tại các Điều 48, 49 và 50 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được thể hiện ở hai khía cạnh, hai góc độ. Đó là, quyền tự bào chữa và quyền nhờ người khác bào chữa.

Page 42: Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương

Để thực hiện quyền bào chữa của mình, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền: được biết lý do mình bị tạm giữ; mình bị khởi tố về tội gì; được giải thích về quyền và nghĩa vụ; trình bày lời khai; đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; được nhận các quyết định tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; khiếu nại các quyết định, hành vi tố tụng của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Bị cáo có quyền tham gia phiên toà, trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa; nói lời sau cùng trước khi nghị án; kháng cáo bản án, quyết định của Toà án.

2. Lựa chọn và thay đổi người bào chữaTheo quy định tại Điều 57 Bộ luật tố tụng hình sự thì về nguyên tắc, người bào chữa

do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ lựa chọn. Để bảo đảm quyền bào chữa cho bị can, bị cáo, Bộ luật tố tụng hình sự cũng quy định trong những trường hợp sau đây, nếu bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình:

- Bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được quy định tại Bộ luật hình sự;

- Bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.

Mặc dù vậy, bị can, bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa được chỉ định trong các trường hợp nêu trên.

Ngoài ra, Bộ luật tố tụng hình sự cũng quy định Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền chủ động cử bào chữa viên nhân dân để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình.

3. Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa- Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong trường hợp bắt người khẩn cấp hoặc bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị

truy nã thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì

Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.

- Người bào chữa có quyền: Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa; đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can; đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch

Page 43: Một số vấn đề về luật hình sự và tố tụng- Pháp luật đại cương

theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác; đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam; đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật; tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà; khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; kháng cáo bản án, quyết định của Toà án, nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.

- Người bào chữa có nghĩa vụ: Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo; tuỳ theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án phải giao cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án; giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ; không được từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà mình đã đảm nhận bào chữa, nếu không có lý do chính đáng; tôn trọng sự thật và pháp luật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án; không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.

Người bào chữa làm trái pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa, xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.