mẫu1: bÀithuhoẠchlỚpĐẢngviÊnmỚi họvàtên: … · 2...
TRANSCRIPT
1
Mẫu 1:
BÀI THU HOẠCH LỚP ĐẢNG VIÊN MỚI
Họ và tên:
Năm tháng năm sinh:
Quê quán:
Hộ khẩu thường trú:
Ngày vào Đảng:
Nơi vào Đảng:
BÀI LÀM
Sau quá trình tham gia lớp bồi dưỡng Đảng viên mới, bản thân tôi rút ra những thu hoạch như
sau:
I. Về chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh
Con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng năm 1991 đã chỉ rõ: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”.
Đại hội IX khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo
con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắcvề những vấn đề cơ
bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống
tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường
cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và
dân tộc ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Trong
thời đại ngày nay có lắm chủ nghĩa nhưng chủ nghĩa Mác – Lênin là chủ nghĩa chân chính
nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất, là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận thực sự
cách mạng và khoa học.
2
Dưới ánh sángcủa chủ nghĩa Mác – Lênin, tổng kết kinh nghiệm cách mạng thế giới và thực
tiễn tình hình đất nước, Người đã chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức, cán bộ cho sự ra
đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, soạn thảo Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, xác
định đường lối đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, Người đã vận dụng nhuần nhuyễn chủ nghĩa Mác – Lênin, giải quyết thành công
những vấn đề cơ bản của cách mạngViệt Nam, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác, qua đó phát triển sáng tạo, làm phong phú thêm kho tàng lý luận Mác –
Lênin. Thắng lợi của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc và đưa
đất nước phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa theo tư tưởng Hồ
Chí Minh và đường lối của Đảng là một minh chứng sống động về sự vận dụng thành công
chủ nghĩa Mác – Lênin ở nước ta.
Việc vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện thực tiễn nước
ta hiện nay đang là vấn đề được Đảng ta hết sức quan tâm,coi đó là một trong những nhiệm
vụ hàng đầu. Vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phải đi liền với bổ
sung và phát triển dựa trênnhững vấn đề mà thực tiễn đặt ra. Phải chăm chú phát hiện, tổng
kết thực tiễn để tìm ra cái mới của lý luận, bổ sung cho kho tàng lý luận mác xít, dùng nó như
một kim chỉ nam dẫn đường chứ không phải kinh thánh để rơi vào giáo điều. Kiên quyết đấu
tranh chống những luận điệu và thủ đoạn đả kích, phủnhận, xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh.
Để đấu tranh có hiệu quả, cần nắm có hệ thống từng luận điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, gắn với hoàn cảnh lịch sử và yêu cầu cụ thể cần giải quyết. Đồng thời,
phải tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới;
đưa những tư tưởng, quan điểm đóvào thực tế cuộc sống, đem lại hiệu quả thiết thực nhằm
hiện thực hoá thắng lợi những đặc trưng cơ bản của cách mạng xã hội, hiện thực hoá thắng
lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đó là cách tốt
nhất để bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
3
Phải kiên quyết đấu tranh chống tư tưởng cơ hội, xét lại và bảo thủ, giáo điều. Kiên định chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề có tính nguyên tắc số một đối với Đảng
ta. Trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh có nghĩa là nắm vững
bản chất cách mạng, khoa học và nhân đạo, vận dụng một cách đúng đắn, thích hợp vào điều
kiện nước ta, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh một cách
sáng tạo, kiên quyết đấu tranh chống những luận điệu và thủ đoạn đả kích, phủ nhận, xuyên
tạc chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh từ phía những thế lực thù địch và những
kẻ cơ hội.Trong tình hình hiện nay, việc nghiên cứu, học tập để nắm vững, vận dụng sáng tạo,
bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu của mọi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.
Thực tiễn cách mạng nước ta từ khi có Đảng Cộng sản lãnh đạo đã khẳng định: Độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn. Hơn bảy mươi năm qua,
Đảng ta luôn luôn kiên định, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nhờ vậy,
Đảng đã lãnh đạo nhân dân giành được những thắng lợi vĩ đại.
Bài học chủ yếu, quan trọng hàng đầu của 15 năm tiến hành công cuộc đổimới và Đại hội IX
xác định cũng chính là phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc vàchủ nghĩa xã hội trên nền
tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.Từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã
hội những năm trước đó, Đại hội VI rút ra những bài học quý giá có tầm chỉ đạo trong việc
xác định hướng đi lên chủnghĩa xã hội ở nước ta:Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình,
Đảng phải quán triệt tư tưởng“lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể
của nhân dânlao động.Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành
độngtheo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật kháchquan là
điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh của dân
tộc với sức mạnh của thời đạitrong điều kiện mới.Bốn là, phải xây dựng Đảng ngang tầm với
nhiệm vụ chính trị của mộtĐảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa.Từ đó, Đảng ta nhấn mạnh rằng, để xác định đúng đắn phương hướng đilên
chủ nghĩa xã hội, phải vận dụng đúng quy luật khách quan. Tiêu chuẩn đánh giá sự vận dụng
đúng đắn các quy luật là đời sống vật chất và văn hoá của nhândân từng bước ổn định và
4
nâng cao, con người mới xã hội chủ nghĩa ngày cànghình thành rõ rệt, xã hội
ngày càng lành mạnh, chế độ xã hội chủ nghĩa đượccủng cố.Đại hội VI đã đặt
vấn đề chính sách xã hội một cách cơ bản. Lần đầu tiênchính sách xã hội được
xem xét một cách tổng thế và toàn diện gắn liền vớichính sách kinh tế, giải quyết
phù hợp với từng chặng đường đi lên chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở những quan
điểm cơ bản và lâu dài về chính sách xã hội. Điềunày thể hiện được bản chất của
chủ nghĩa xã hội, là cơ sở để đi đến mô hình chủnghĩa xã hội của nước ta ngày càng toàn diện
hơn. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (năm 1991) với chủtrương: tiếp tục sự
nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lênchủ nghĩa xã hội, đã thông qua Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời thông qua Chiến lược ổn
định và phát triểnkinh tế - xã hội đến năm 2000 (1991-2000). Đại hội VIII với việc xác định
rõ hơn mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở nước ta.Đại hội IX với việc bổ sung, phát triển quan
niệm mục tiêu và phươnghướng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.Tóm lại, độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lýtưởng của Đảng ta, dân tộc ta. Con đường này
phù hợp với chủ nghĩa Mác – Lênin và đã được thực tiễn kiểm nghiệm hơn bảy mươi năm
qua là hoàn toànđúng đắn. Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa là một nguyên tắc của đổi
mớimà thực chất là sự kiên định mục tiêu, lý tưởng của Đảng, kiên định con đường“độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” mà dân tộc Việt Nam đã lựachọn.
II. Về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhànước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa
1.Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt NamSự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
đối với sự nghiệp cách mạngViệt Nam là một tất yếu lịch sử và là tất yếu khách quan. Đảng
ta luôn là lựclượng chính trị duy nhất lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo Nhà nước và là nhân
tố bảo đảm mọi thắng lợi của cách mạng nước ta trong mọi giai đoạn lịch sử. Sựlãnh đạo toàn
diện của Đảng đối với Nhà nước và mọi mặt của đời sống xã hộiđược nhìn nhận như một quy
luật có tính tất yếu.Vai trò lãnh đạo của các tổ chức Đảng từ Trung ương đến địa phươngluôn
giữ tính chất quyết định và bao quát hầu hết các lĩnh vực của đời sống xãhội.Xây dựng Nhà
5
nước pháp quyền là một chủ trương lớn có tính chất quyếtđịnh thắng lợi công cuộc đổi mới
của Đảng Cộng sản Việt Nam
. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước được thể hiện trên những nộidung trọng yếu sau
đây:- Lãnh đạo các cơ quan nhà nước thể chế hoá đường lối, chủ trương,chính sách của Đảng
thành pháp luật, chủ trương, chính sách của Nhà nước và tổchức thực hiện thông qua bộ máy
nhà nước, đảm bảo cho đường lối, chủtrương, chính sách của Đảng trở thành hiện thực sinh
động trong đời sống toànxã hội.- Đảng lãnh đạo chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ công chức
đáp ứng yêucầu ngày càng cao của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủnghĩa của dân, do dân, vì dân.-. Đảng phải lãnh đạo công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát
hoạt động củacác cơ quan nhà nước. Nhìn tổng quát, nội dung Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà
nước pháp quyềnxã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là rất toàn diện và bao quát toàn
bộnhững vấn đề then chốt về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.2. Một số giải pháp
chủ yếu xây dựng ĐảngChủ trương của Đảng ta là phải xây dựng một chiến lược bảo vệ Tổ
quốcđồng bộ, trên tất cả các mặt trân, có sự tham gia của tất cả các lực lượng xã hội,mà một
số giải pháp chủ yếu cụ thể là:Một là, về xây dựng, chỉnh đốn Đảng:
Tiếp tục đi sâu, thực hiện tốt cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảngtheo tinh thần Nghị
quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII và Kết luận Hội nghịTrung ương 10 khoá IX, nhất là
đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống sự suy thoái vềchính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống; chống
tham nhũng, lãng phí, quan liêu;củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.- Đưa tự phê
bình và phê bình vào nền nếp sinh hoạt Đảng.- Tăng cường công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ
chính trị nội bộ- Đẩy mạnh việc thực hiện chủ trương luân chuyển cán bộ gắn với quyhoạch
đào tạo để chuẩn bị tốt nhân sự cho Đại hội Đảng bộ các cấp và Đại hộilần thứ X của Đảng.
- Tiếp tục củng cố, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức trongĐảng và giữa tổ
chức Đảng với tổ chức Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thểnhân dân, góp phần tiếp tục đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng.Hai là, về tư tưởng - văn hoá:- Thực hiện tốt chủ
trương tổng kết hoạt động lý luận - thực tiễn của Đảngtrong thời kỳ đổi mới; đẩy mạnh tổng
kết thực tiễn sự nghiệp bảo về Tổ quốctrong tình hình mới.- Đổi mới công tác chính trị - tư
tưởng sát hợp với từng tầng lợp nhândân, hướng mạnh về cơ sở, đặc biệt quan tâm đến thanh
niên, sinh viên, họcsinh; chú trọng giáo dục truyền thống yêu nước, niềm tự hào, tinh thần tự
6
cườngdân tộc, truyền thống dựng nước, giữ nước.- Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, chống sự xâmnhập của văn hoá phẩm độc hại từ bên ngoài vào.- Tăng cường
tính chủ động, tinh thần đấu tranh chống các luận điệuchống phá nước ta dưới chiêu bài dân
chủ, nhân quyền, tôn giáo, dân tộc.- Tăng cường lãnh đạo, quản lý công tác thông tin, báo chí,
xuất bản, vănhoá, văn nghệ; kịp thời ngăn chăn những quan điểm lệch lạc, thương mại hoá,
xarời tôn chỉ mục đích, lộ bí mật quốc gia, gây rối nội bộ, gây khó khăn cho sảnxuất kinh
doanh và quan hệ đối ngoại...Ba là, về kinh tế - xã hội:- Gắn tăng trưởng kinh tế với xây
dựng quan hệ sản xuất theo định hướngxã hội chủ nghĩa; bảo đảm vai trò chủ đạo thực sự của
kinh tế nhà nước.- Duy trì cho được sự ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh về tài chính-
tiền tệ, năng lượng, lương thực, thông tin; không để xảy ra những rối loạn; xáođộng lớn.-
Thực hiện tốt các chủ trương, giải pháp về hội nhập kinh tế quốc tế trong Nghị quyết số 07,
ngày 27-11-2001 của Bộ Chính trị (khoá IX), phấn đấu sớmgia nhập Tổ chức Thương mại
thế giới (WTO), bảo đảm quá trình hội nhập kinhtế quốc tế không gây xáo trộn kinh tế - xã
hội.
- Xây dựng có chọn lọc một số công trình, một số ngành, lĩnh vực kinh tếquan trọng, có hiệu
quả bảo đảm cho nền kinh tế giữ được độc lập tự chủ trongmọi tình huống.- Giải quyết tốt
hơn các vấn đề xã hội, nhất là việc làm, xoá đói giảmnghèo; hạn chế bằng được các tệ nạn xã
hội nghiêm trọng.- Xây dựng cơ chế để thực hiện có hiệu quả việc kết hợp chặt chẽ giữakinh
tế với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế; gắn việcthực hiện nhiệm vụ
quốc phòng, an ninh, kinh tế với hoạt động đối ngoại.- Rà soát, bổ sung, hoàn thiện và chỉ
đạo có hiệu quả việc thực hiện chiếnlược phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng trọng điểm.-
Chú trọng phát triển khoa học - công nghệ gắn với nhiệm vụ bảo vệ Tổquốc.Bốn là, quản lý
nhà nước về an ninh - quốc phòng - đối ngoại:- Thể chế hoá kịp thời các chủ trương, chính
sách về xây dựng nền quốc phòng toàn dân; từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo
vệ Tổ quốc,trước hết tập trung hoàn chỉnh pháp luật về quốc phòng, an ninh, đối ngoại;
xâydựng quy chế thống nhất quản lý đối ngoại và quy chế phối hợp quốc phòng, anninh, đối
ngoại.- Tăng cường thanh tra, kiểm tra việc triển khai thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an
ninh của các cấp, các ngành, các điạ phương, các đơn vị lực lượng vũtrang.- Tăng cường
công tác bảo vệ bí mật quốc gia, bảo đảm an ninh thông tin.- Mở rộng dân chủ trong Đảng và
7
nhân dân trên cơ sở Cương lĩnh, đườnglối của Đảng, pháp luật của Nhà nước; đồng thời chủ
động đấu tranh bằng nhiềuhình thức chống các luận điểm sai trái của các thế lực thù địch về
dân chủ, nhânquyền, dân tộc, tôn giáo.- Tăng cường mức đầu tư ngân sách hợp lý cho các
nhiệm vụ bảo đảmquốc phòng, an ninh, đối ngoại, kể cả cho các hoạt động an ninh trên lĩnh
vực tưtưởng, thông tin, đối ngoại nhân dân. Năm là, về quốc phòng, an ninh:
- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp quốc phòng, an
ninh và lực lượng vũ trang nhân dân ở các cấp, các ngành.+ Tăng cường chức năng tham
mưu của Đảng uỷ Quân sự Trung ương vàĐảng uỷ Công an Trung ương trong lĩnh vực quốc
phòng - an ninh+ Kiện toàn Ban Nghiên cứu của Bộ Chính trị về an ninh quốc gia ngangt ầm
với nh i ệm vụ . Chú trọng đào t ạo , bố t r í hợp lý độ i ngũ cán bộ cấp
ch i ến lược.+ Tập trung xây dựng các tổ chức đảng trong Quân đội nhân dân, Công annhân
dân thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức.- Củng cố và hoàn nền
quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân và thế trậnquốc phòng toàn dân gắn với thế trận
an ninh nhân dân trên từng địa bàn tỉnh,thành phố, đặc biệt là trên các địa bàn
chiến lược; xây dựng các khu vực phòngthủ vững chắc.- Tập trung xậy dựng lực
lược Quân đội và Công an có bản lĩnh chính trịvững vàng, lòng trung thành tuyệt
đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, với tổchức, biên chế, mức tăng đầu tư ngân
sách hợp lý, đủ sức hoàn thành nhiệm vụtrực tiếp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới.Sáu là, về đối ngoại:- Tiếp tục ưu tiên hàng đầu cho việc củng cố quan hệ với
các nước lánggiềng.- Thúc đẩy quan hệ với các nước và trung tâm lớn trên nguyên
tắc bìnhđẳng, cùng có lợi, không can thiệp công việc nội bộ của nhau, tạo thế đan
xenlợi ích giữa các nước với nước ta; tránh bị rơi vào thế đan xen lợi ích giữa
cácnước với nước ta; tránh bị rơi vào thế đối đầu, cô lập hay lệ thuộc.- Mở rộng quan hệ với
các nước độc lập dân tộc, các nước đang phát triển, phong trào không liên kết, các tổ
chức quốc tế và khu vực, các Đảng Cộng sản,công nhân, cánh tả, các phong trào giải
phóng và độc lập dân tộc, các phong tràocạch mạng, tiến bộ....; tích cực góp phần vào
cuộc đấu tranh của nhân dân thếgiới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội.
8
- Dành ưu tiên cao cho việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, mở rộngvà đa
dạng hoá thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ cho sự nghiệp côngnghiệp hoá,
hiện đại hoá, tạo lập lợi ích đan xen với các đối tác.- Gắn kết chặt chẽ hoạt động đối ngoại
của Đảng với hoạt động ngoại giaocủa Nhà nước và nhân dân. Tăng cường công
tác vận động cộng đồng ngườ iViệt Nam ở nước ngoài góp phần xây dựng và phát
triển đất nước, đồng thời bảovệ quyền lợi hợp pháp của họ.Củng cố và tăng cường quan
hệ đoàn kết và hợp tác với các Đảng Cộngsản và công nhân, với các đảng cánh tả,
các phong trào giải phóng và độc lậpdân tộc, với các phong trào cách mạng và tiến bộ
trên thế giới
III. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để xây dựng nền kinh tế độclập dân tự
chủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Để đảm bảo cho hội nhập kinh tế quốc tế thắng lợi, thực sự đáp ứng yêucầu xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cầnthấu suốt và
quán triệt các nguyên tắc và phương châm sau:- Nguyên tắc cơ bản và bao trùm là chủ động
hội nhập trên cơ sở bảo đảmgiữ vững độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm vững chắc anninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Giữ vững độc lập
tự chủ trongquá trình hội nhập được thể hiện trước hết trong quyết sách hội nhập nhằm
khaithác tối đa các lợi thế, đồng thời đối phó thắng lợi với các thách thức trong quátrình hội
nhập. Sự chủ động cần được thể hiện trong việc chọn lựa các tổ chứctham gia,
các đối tác ta có quan hệ và thời điểm tham gia. Tính chủ động cònđược thể hiện
qua việc chủ động xây dựng lộ trình hội nhập hợp lý trong khuônkhổ quy định chung; chủ
động điều chỉnh pháp luật, chính sách cho phù hợp;chủ động tổ chức sản xuấ t
và đ i ều hành kinh tế t rong nước nhằm nâng caokhông ngừng khả năng cạnh
tranh không chỉ trong thị trường nội địa và trên thịtrường quốc tế, chủ động phương
thức thực hiện các cam kết.- Phương châm cơ bản để thực hiện hội nhập là bảo đảm nguyên
tắc cùngcó lợi trong quan hệ song phương và đa phương mà ta tham gia. Theo
nguyên10
tắc này một mặt không thể để thiệt hại đến lợi ích cần có và hợp lý mà ta
đượchưởng; Mặt khác, phải chấp nhận một sự chia sẻ lợi ích cho các đối tác thì
9
theomức đóng góp của các bên hợp tác. Trong hợp tác liên kết, cần giữ vững nguyêntắc vừa
hợp tác vừa đấu tranh, vừa kiên quyết, vừa mềm dẻo, để đạt tới mục tiêu bảo vệ lợi ích chính
đáng của ta.
IV. Phương hướng và nhiệm vụ trong công tác xây dựng tổ chức cơ sở Đảng
trong thời gian tới
Toàn Đảng tập trung chỉ đạo xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng, tạo sựchuyển biến rõ rệt,
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, gắn xây dựng tổ chức
đảng và xây dựng, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở; nhất là đổi mới, nâng cao chất
lượng sinh hoạt chi bộ.Thực hiện những giải pháp đồng bộ, nhất là xây dựng cơ chế đế phát
huyquyền làm chủ, quyền giám sát của quần chúng đối với tổ chức đảng, đảng viên.Xây
dựng và thực hiện quy chế dân chủ trong Đảng.- Sớm xây dựng và đưa vào thực hiện
các quy định mới về vai trò, chứcnăng, nhiệm vụ của các loại hình tổ chức cơ sở
đảng đảm bảo vai trò hạt nhânlãnh đạo chính trị ở cơ sở.- Tổ chức thực hiện các chính
sách và công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộcơ sở, đặc biệt là ở những khu vực có vị trí
quan trọng và nhạy cảm về kinh tế,chính trị, vùng sâu, vùng xa. Cán bộ lãnh đạo chủ trì
và cấp ủy cấp trên trực tiếp phải chịu trách nhiệm liên đới nếu để tổ chức cơ sở đảng yếu kém.
V. Không ngừng phấn đấu và rèn luyện để xứng đáng với danh hiệungười
Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam
1. Vị trí, vai trò và nhiệm vụ của người Đảng viên
a) Đảng viên là chiến sỹ cách mạng trong đội quân tiên phong của giaicấp công
nhân Việt Nam, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. b) Đội ngũ đảng viên là
những người có trách nhiệm góp phần xây dựngđường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng; đồng thời có trách nhiệm tổ chứcthực hiện mọi đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng.c) Đảng viên dù ở cương vị nào, cũng vừa là người lãnh đạo, vừa là
người phục vụ quần chúng.Trong Điều lệ Đảng được các Đại hội của Đảng ban hành,
qua nhiều lầnsửa đổi, bổ sung, nhưng chưa bao giờ Chương I luôn là chương Đảng viên và
làmột trong những Chương quan trọng nhất. Điều lệ đã chỉ rõ những tiêu
chuẩđảng viên, điều kiện những người vào Đảng, nhiệm vụ của đảng viên.15
10
d) Đảng viên là người kiên định bảo vệ Đảng, bảo vệ đường lối, chủtrương của
Đảng.
2. Rèn luyện để xứng đáng với danh hiệu Đảng viên
Để xứng đáng với danh hiệu đảng viên cần thực hiện tốt tiêu chuẩn đảng viênquy
định trong Điều lệ Đảng.a) Tiêu chuẩn đảng viênTiêu chuẩn đảng viên là những
chuẩn mực quy định chất lượng của ngườiđảng viên, là tiêu chí phân ra giữa đảng
viên và quần chúng; là cơ sở để đánh giáchất lượng đảng viên; là căn cứ để tiến
hành mọi mặt công tác đảng viên. Mọiđảng viên phải dựa vào tiêu chuẩn đảng viên để
rèn luyện, phấn đấu.Đảng viên phải tuyệt đối trung thành với lý tưởng cộng sản, kiên định
lậptrường cách mạng của giai cấp công nhân, suốt đời phấn đấu cho mục tiêu,
lýtưởng của Đảng là xây dựng chủ ngh ĩa xã hộ i và chủ ngh ĩa cộng sản;
vữngvàng, không dao động trước bất kỳ khó khăn, thử thách nào. Những chuẩn mực đạo
đức mà người đảng viên cần có, đáp ứng nhữngđòi hỏi của công cuộc đổi mới lúc
này bao gồm cả động cơ, tình cảm, ý chí vànhững hành động đạo đức.Có ý thức tổ
chức kỷ luật, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất của Đảng trêncơ sở thực hiện đúng các
nguyên tắc của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dânchủ, thường xuyên tự phê bình và phê
bình..Có quan hệ mật thiết với quần chúng.Kết hợp chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế
của giai cấp công nhân. b) Mỗi đảng viên tự phấn đấu, rèn luyện xứng đáng với
danh hiệu ngườicộng sản trong hoàn cảnh mớiKhái niệm “đảng viên” bao hàm hai
mặt: cá nhân một con người mangdanh hiệu đảng viên và một thành viên của
Đảng (của một tổ chức đảng cụ thểvà của toàn Đảng nói chung). Người đảng viên chỉ
xứng đáng với danh hiệu caoquý của mình khi làm tròn bổn phận trên cả hai tư cách đó, nhờ
sự phấn đấu của bản thân và sự giúp đỡ, tạo điều kiện của tổ chức đảng.Về mặt cá nhân,
trước hết mỗi người đảng viên phải rèn luyện mình theonhững đức tính của con người Việt
Nam mà Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIIIđã chỉ ra và Kết luận Trung ương 10 khóa IX
một lần nữa khẳng định, như sau:16
+ Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc vàchủ nghĩa xã hội,
có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu,đoàn kết với nhân
dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lậpdân tộc, dân chủ và tiến
11
bộ xã hội.+ Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.+ Có lối sống lành
mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhânnghĩa, tôn trọng kỷ cương phép
nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệvà cải thiện môi trường sinh thái.+ Lao động
chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo,năng suất cao vì lợi ích
của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.+ Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết,
trình độ chuyên môn, trìnhđộ thẩm mỹ và thể lực.Được kết nạp vào Đảng, rồi trở
thành đảng viên chính thức là khởi đầumột quá trình phấn đấu, rèn luyện để giữ
vững và nêu cao vai trò người đảngviên. Là đảng viên của Đảng cộng sản Việt Nam,
mỗi cán bộ đảng viên phải:- Tích cực học tập và nâng cao trình độ kiến thức về mọi
mặt, nhất là vềlý luận chính trị, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước,
vềvăn hóa, khoa học – kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ.- Luôn phát huy tinh thần năng động,
sáng tạo, đóng góp ý kiến có giá trịtham gia vào sự lãnh đạo chung của tổ chức và
hoàn thành xuất sắc mọi nhiệmvụ được giao.- Tự giác gương mẫu giữ gìn phẩm chất
cộng sản, đạo đức của người cáchmạng, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư-
Giữ nghiêm kỷ luật đảng, thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức, sinhhoạt đảng và
chăm lo củng cố sự đoàn kết nhất trí của Đảng- Liên hệ mật thiêt với quần chúng; tôn trọng
tất cả mọi người; lắng nghetâm tư, nguyện vọng của quần chúng;- Luôn trau dồi phẩm
chất đạo đức của người đảng viên cộng sản, phấnđấu cho sự nghiệp cách mạng của
Đảng và nhân dân giao phó.
12
Mẫu 2Câu 1: Phân tích các nhiệm vụ, quyền hạn của Đảng Viên theo Điều Lệ Đảng
Điều lệ Đảng là văn bản pháp lý cơ bản của Đảng xác định tôn chỉ, mục đích, hệ tư tưởng,
các nguyên tắc về tổ chức, hoạt động, cơ cấu bộ máy của Đảng; quy định trách nhiệm, nghĩa
vụ, quyền hạn của đảng viên và của tổ chức đảng các cấp. Điều lệ Đảng nhằm tạo nên sự
thống nhất trong toàn Đảng.
Điều lệ Đảng gồm 12 chương, 48 điều. Trong đó chương I “ Đảng viên” có 8 điều, là chương
rất quan trọng. Điều 2 và điều 3 tại chương này đã quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Đảng
viên.
Điều 2 trong Điều lệ Đảng gồm 4 điểm, quy định nhiệm vụ của Đảng viên như sau.
Trước tiên, đảng viên phải tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng.
Sự trung thành này thể hiện ở việc chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ
Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Khi đã là đảng viên, cần tin
tưởng và làm theo đường lối, chính sách của Đảng đề ra.Bên cạnh đó, đảng viên phải hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao, phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng.
Đảng viên cần không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công
tác, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh. Bác Hồ đã dạy: “không
một phút giây nào được xa rời lý tưởng phấn đấu” và “không bao giờ buông lỏng cuộc đấu
trang với chủ nghĩa cá nhân - “kẻ địch còn ẩn nấp trong mình mỗi người chúng ta. Nó chờ
dịp hoặc thất bại, hoặc thắng lợi, để ngóc đầu dậy…” Lời Bác dạy đến ngày nay vẫn còn
nguyên giá trị. Vậy, đảng viên phải đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, cục bộ, quan
liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác. Đặc biệt trong hoàn cảnh hiện nay,
đảng viên càng cần phải thực hiện cho tốt nhiệm vụ này.
Điều lệ Đảng cũng nêu ra, nhiệm vụ của đảng viên là phải liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn
trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Bác Hồ đã từng nói về đạo đức cách mạnh
đối với đảng viên: “Đạo đức cách mạng là hoà mình với quần chúng thành một khối, tin quần
chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng. Do lời nói và việc làm, đảng
13
viên,đoàn viên và cán bộ làm cho dân tin, dân phục, dân yêu”. Đảng viên cần chăm lo đời
sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân, tích cực tham gia công
tác quần chúng, công tác xã hội nơi làm việc và nơi ở. Đó chính là cách thức hiệu quả nhất để
gần gũi và hiểu nhân dân. Ngoài ra, đảng viên có nhiệm vụ tuyên truyền vận động gia đình và
nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Mỗi đảng viên
chính là hạt nhân để tuyên truyền chính sách, cũng như là chiếc cầu nối giữa Đảng và quần
chúng.
Cuối cùng, nhiệm vụ của đảng viên là tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ
chức của Đảng. Mỗi đảng viên là quần chúng ưu tú được lựa chọn, được bồi dưỡng, được tin
cậy và giao phó trách nhiệm cao cả ấy. Bởi vậy, đảng viên phải phục tùng kỷ luật, giữ gìn
đoàn kết thống nhất trong Đảng, thường xuyên tự phê bình và phê bình, trung thực với Đảng.
Từng đảng viên cũng làm công tác phát triển đảng viên, sinh hoạt Đảng và đóng đảng phí
đúng quy định.
Để có thể thực hiện tốt những nhiệm vụ trên, mỗi đảng viên cần nắm vững những nội dung
cơ bản sau:
Đảng viên cần kiên định những vấn đề về quan điểm có tính nguyên tắc của Đảng. Đó là
những vấn đề về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nền tảng là chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Mình, Đảng là lực lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Nhà
nước là của dân, do dân và vì dân - thể hiện khối đại đoàn kết toàn dân, nguyên tắc cơ bản là
tập trung dân chủ, và kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
Đảng viên cần hiểu rõ cơ hội phát triển đất nước, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém
phát triển. Nhiệm vụ trước mắt là phấn đấu để nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
vào năm 2020. Hiện nay, đất nước ta đang gặp phải những thách thức lớn, những nguy cơ
đang đe doại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Đảng viên cần nhận thức được để tự giác
góp phần đẩy lùi, từng bước khắc phục những khó khăn và nguy cơ đó. Mỗi đảng viên phải
ra sức rèn luyện phẩm chất đạo đức, bài trừ thói hư tật xấu. Đặc biệt, đảng viên phải cảnh
giác và kiên quyết chống mọi âm mưu và thủ đoạn “ diễn biến hoá bình ”, gây bạo loạn lật đổ
của các thế hệ thù địch, trước hết là trong phạm vi chức trách, nhiệm vụ cụ thể của mỗi người.
Nhiệm vụ trung tâm của nước ta hiện nay là xây dựng phát triển kinh tế. Đất nước đã chuyển
14
sang thời kỳ phát triển mới, đòi hỏi mỗi đảng viên cần nâng cao kiến thức và năng lực, cũng
như phẩm chất chính trị đạo đức. Đảng viên phải là người tiên phong, gương mẫu cho quần
chúng noi theo.Ví dụ, Đảng viên cần nắm bắt kịp thời những lĩnh vực hiện nay đang có xu
hướng phát triển nhanh và mạnh như công nghệ thông tin, khoa học kỹ thuật… Việc trau dồi
phẩm chất rất quan trọng để tránh khỏi những tha hoá, biến chất đang ngày một nhiều trong
hàng ngũ đảng viên. Vì vậy, nhiệm vụ học tập càng trở nên đặc biệt quan trọng. Đây là nghĩa
vụ bắt buộc đối với mọi đảng viên. Tuỳ theo điều kiện và hoàn cảnh cụ thể mà tổ chức đảng
và mỗi đảng viên phải có kế hoạch, phương pháp, hình thức học tập để nâng cao trình độ lý
luận chính trị, kiến thức và năng lực thực tiễn.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, người đảng viên cần có mối quan hệ mật
thiết với quần chúng. Nhân dân lao động cần có Đảng với tư các là người lãnh đạo, lãnh tụ
chính trị đảm bảo cho cuộc đấu tranh của nhân dân giành thắng lợi. Lịch sử đã chứng minh
qua bao cuộng kháng chiến, nhờ có Đảng mà dân tộc ta đã vùng lên khởi nghĩa thành công,
đập tan xiềng xích nô lệ. Và ngược lại, Đảng cần được nhân dân ủng hộ, tích cực thực hiện
đường lối chính sách của Đảng. Điều này thể hiện rõ trong công cuộc giữ nước, toàn Đảng
toàn dân cùng kháng chiến. Hiện nay trong công cuộc xây dựng đất nước, Đảng càng cần sự
ủng hộ của nhân dân để “ xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn ”. Trong điều
kiện Đảng cầm quyền, đảng viên dễ quan liêu, xa rời nhân dân – đây là 1 nguy cơ lớn đối với
tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa. Vậy, mọi đang rviên phải tôn trọng và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, lắng nghe tâm tư nguyện vọng của nhân dân phản ánh với Đảng, tích
cực tuyên truyền vận động nhân dân và gia đình mình thực hiện đường lối của Đảng, pháp
luật của Nhà nước.
Cuối cùng, đảng viên chính là những người phải tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng,
bảo vệ đường lối chủ trương, chính sách nghị quyết của Đảng và Nhà nước. Đảng viên cần
nghiêm túc thực hiện tự phê bình và phê bình, đảm bảo đoàn kết nội bộ, làm cho Đảng thêm
trong sạch, vững mạnh, đồng thời tích cực làm công tác phát triển Đảng viên mới.
Với những nghĩa vụ như trên, người đảng viên cũng có những quyền hạn được quy định tại
điều 3 của Điều lệ Đảng.
Đảng viên được quyền thông tin và thảo luận các vấn đề về Cương lĩnh chính trị, điều lệ
15
Đảng, đường lối chính sách của Đảng. Đảng viên được biểu quyết công việc của Đảng. Đối
với nước ta là nước chỉ có 1 đảng cầm quyền, đây thật sự là vinh dự và cũng là trọng trách
lớn lao đối với mỗi đảng viên.
Đảng viên được ứng cử, đề cử và bẩu cử cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng theo quy định
của Ban Chấo hành Trung Ương.
Đảng viên được quyền phê bình, chất vấn về hoạt động của tổ chức Đảng và đảng viên ở mọi
cấp trong phạm vi tổ chức, báo cáo kiến nghị với các cơ quan có trách nhiệm và yêu cầu
được trả lời. Quyền hạn này của mỗi đảng viên nhằm giúp cho Đảng ngày càng trong sạch
vững mạnh.
Đảng viên được trình bày ý kiến khi tổ chức đảng nhận xét, quyết định công tác hoặc thi
hành kỷ luật đối với mình.
( Đảng viên dự bị có các quyền trên đây, trừ quyền biểu quyết, ứng cử và bầu cử cơ quan
lãnh đạo của Đảng )
Vậy, các quyền trên đây của đảng viên nhằm đảm bảo cho đảng viên thực hiện đầy đủ quyền
dân chủ về mặt chính trị trong tổ chức và sinh hoạt Đảng, tạo điều kiện cho đảng viên và tổ
chức đảng thực hiện đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ.
Tóm lại, việc tìm hiểu, phân tích và nắm rõ các nhiệm vụ, quyền hạn của mình sẽ giúp đảng
viên hoàn thành tốt vai trò của bản thân, đóng góp cống hiến hết sức mình cho Đảng, cho đất
nước.
Câu 2: Trình bày hướng phấn đấu của bản thân để trở thành Đảng viên Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam là lá cờ đầu của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả
dân tộc Việt Nam. Tôi có nguyện vọng được đứng trong hàng ngũ của Đảng, sau khi được
học lớp bồi dưỡng nhận thức về Đảng, tôi càng nhận thức được rõ hơn về Đảng Cộng sản và
càng quyết tâm phấn đấu để trở thành Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tôi đã xác định cho mình động cơ vào Đảng: Đảng là tổ chức các mạng có sứ mệnh cao cả
đoàn kết và lãnh đạo nhân dân đấu tranh cho độc lập và chủ nghĩa xã hội. Được đứng trong
hàng ngũ của Đảng là được đứng trong một tổ chức của những người cùng chung chí hướng
16
đấu tranh xây dựng một xã hội tốt đẹp, dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn mình.
Khi vào Đảng, bản thân tôi sẽ được phục vụ cách mạng, được phục vụ nhân dân, được nhân
dân tin cậy và yêu mến. Động cơ vào Đảng của tôi là muốn góp sức mình xây dựng đất nước
ta ngày càng tốt đẹp hơn nữa.
Để trở thành một đảng viên, tôi xác định bản thân phải rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm
chất đạo đức cách mạng. Tôi quyết kiên định mục tiêu, lý tưởng đã chọn, trong bất cứ tình
huống khó khăn nào cũng không giao động, giảm sút niềm tin và ý chí chiến đấu. Đồng thời,
tôi rèn luyện cho mình tinh thần độc lập, sáng tạo. Bản thân tôi đã nỗ lực học tập, nắm vững
lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nền tảng tư tưởng của Đảng. Tôi tự rèn luyện
mình qua thực tế hoạt động chính trị, xã hội. Bên cạnh đó tôi trau dồi đạo đức cách mạng, đi
đôi với chống chủ nghĩa cá nhân. Đạo đức cách mạng cần phải tu dưỡng rèn luyện suốt đời,
bởi vậy tôi sẽ củng cố hàng ngày để có được phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng. Tôi
nhận thức được, trong bối cảnh ngày nay, đạo đức cách mạng là ý chí, quyết tâm và góp sức
đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành quốc gia giàu mạnh, văn minh,
nhân dân làm chủ xã hội và có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Tôi quyết tâm đi theo
đường lối của Đảng: kết hợp hài hoà ba loại lợi ích: lợi ích toàn xã hội, lợi ích tập thể và lợi
ích cá nhân, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ.
Để phấn đấu trở thành một người đảng viên, tôi không quên nâng cao năng lực, hoàn thành
tốt những nghiệm vụ được giao. Đối với một sinh viên như tôi – còn ngồi trên ghế nhà trường,
thì nhiệm vụ trọng tâm là việc học. Tôi phấn đấu học tập thật tốt, hoạt động ngoại khoá hăng
say và hoàn thành tốt những nhiệm vụ được giao. Bên cạnh đó tôi cũng rất coi trọng việc học
tập chính trị. Đó là việc tham gia đầy đủ và có hiệu quả các buổi sinh hoạt chính trị công dân
sinh viên, tham gia lớp bồi dưỡng nhận thức về Đảng…
Truyền thống quý báu của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự gắn bó mật thiết, máu thịt với nhân
dân. Để phấn đấu được đứng trong hàng ngũ của Đảng, tôi hiểu rằng mình phải gắn bó với
tập thể, với nhân dân, tích cực tham gia hoạt động đoàn thể, công tác xã hội. Đối với tôi, đó
chính là tập thể lớp, là ngôi trường đại học của mình. Tôi cũng tham gia những hoạt động
đoàn thể và công tác xã hội, như những buổi ngoại khoá, tình nguyện…
Người phấn đấu vào Đảng phải tích cực tham gia xây dựng Đảng. Tôi nhận thức được rằng,
17
bằng sự hiểu biết và kinh nghiệm thực tế của mình, cần đóng góp ý kiến với chi bộ, đảng bộ.
Ngoài ra, cần tham gia xây dựng Đảng ở cơ sở bằng những việc làm như: Tích cực hưởng
ứng các phong trào, các hoạt động triển khai chủ trương, nhiệm vụ do đảng bộ, chi bộ đề ra
với tinh thần chủ động, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu cao nhất. Góp phần tích cực đưa những chủ
trương, nhiệm vụ đó vào cuộc sống. Chủ động nắm bắt tình hình thực tế, những tư tưởng của
quần chúng, kịp thời phản ánh đề xuất với tổ chức Đảng. Tích cực mạnh dạn tham gia góp ý
kiến đối với lãnh đạo của tổ chức Đảng và đội ngũ đảng viên. Tích cực và kiên quyết đấu
tranh bảo vệ Đảng, giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở cơ sở, đơn vị.
Trên đây là những nhận thức và suy nghĩ của bản thân tôi về hướng phấn đấu để trở thành
đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Dù bản thân còn nhiều hạn chế nhưng tôi sẽ cố gắng hết
sức mình để sớm được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Để làm được điều đó, tôi xin hứa sẽ
không ngừng học tập và rèn luyện, góp sức mình để xây dựng đất nước ta ngày càng giàu
mạnh.
18
Mẫu 3
Phần I. Vị trí, vai trò và nhiệm vụ của người đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
1. Vị trí, vai trò của người đảng viên:
- Đảng viên là chiến sỹ cách mạng trong đội quân tiên phong của giai cấp công nhân Việt
Nam, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.
- Đội ngũ đảng viên là những người có trách nhiệm góp phần xây dựng đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng; đồng thời có trách nhiệm tổ chức thực hiện mọi đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng.
- Đảng viên dù ở cương vị nào, cũng vừa là người lãnh đạo, vừa là người phục vụ quần
chúng.
- Đảng viên là người kiên định bảo vệ Đảng, bảo vệ đường lối, chủ trương của Đảng.
2. Nhiệm vụ của người đảng viên:
1. Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành nghiêm
chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà
nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của
Đảng.
2. Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm
chất chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân,
cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác.
3. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; chăm lo
đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân; tích cực tham gia
công tác quần chúng, công tác xã hội nơi làm việc và nơi ở; tuyên truyền vận động gia đình
và nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
4. Tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng; phục tùng kỷ luật,
giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình, trung thực
với Đảng; làm công tác phát triển đảng viên; sinh hoạt Đảng và đóng đảng phí đúng quy định.
19
Phần II. Không ngừng phấn đấu và rèn luyện để xứng đáng với danh hiệu đảng viên
1. Thực hiện tốt tiêu chuẩn đảng viên được quy định trong Điều lệ Đảng :
Một là, về lập trường giai cấp, bản lĩnh chính trị.
- Đảng viên phải tuyệt đối trung thành với lý tưởng cộng sản, kiên định lập trường cách mạng
của giai cấp công nhân, suốt đời phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng là xây dựng chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản; vững vàng, không dao động trước bất kỳ khó khăn, thử
thách nào. Có mục tiêu, lý tưởng là tiêu chí phân biệt giữa đảng viên và quần chúng.
- Mục tiêu, nhiệm vụ chính trị cụ thể của người đảng viên Việt Nam hiện nay là phấn đấu
thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, thực hiện thành công công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Có thể nói, thái
độ và sự tham gia tích cực thực hiện đường lối đổi mới là thước đo phẩm chất, năng lực, vai
trò tiên phong, gương mẫu của mỗi đảng viên.
Hai là, về nhận thức, kiến thức, năng lực toàn diện thực hiện công cuộc đổi mới đất
nước.
- Lênin đã dặn đi dặn lại những người cộng sản Nga rằng: nếu chỉ có nhiệt tình và lòng dũng
cảm không thôi thì không thể chiến thắng được chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội, mặc dù nhiệt tình cách mạng và lòng dũng cảm là yếu tố cực kỳ quan trọng. Để
chiến thắng chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, những người cộng sản
còn phải có kiến thức, có trình độ văn hoá cao, có trí thông minh và năng lực làm việc. Muốn
thế, phải không ngừng học tập, học tập một cách kiên trì và nghiêm túc; không bằng lòng với
những kinh nghiệm của mình; kiêu ngạo cộng sản là báo hiệu một sự tụt hậu…
- Đổi mới ở nước ta hiện nay là cuộc vận động cách mạng toàn diện và sâu sắc, diễn ra trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ngày nay, cách mạng khoa học và công nghệ phát
triển như vũ bão, kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hoá đang tạo ra thời cơ và thách thức
với tất cả quốc gia, dân tộc. Rõ ràng, trong tình hình đó, đảng viên phải không ngừng bồi
20
dưỡng những kiến thức văn hoá, khoa học - kỹ thuật, quản lý kinh tế - xã hội, pháp luật... để
có đủ năng lực thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Ba là, về phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn cán bộ, đảng viên phải nâng cao đạo
đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, mà nội dung cốt lõi của đạo đức cách mạng là
trung với nước, hiếu với dân; yêu thương con người; cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư;
có tinh thần quốc tế trong sáng, luôn xứng đáng với người lãnh đạo và người đầy tớ trung
thành của nhân dân... Những lời dạy đó của Người đến nay vẫn giữ nguyên vẹn giá trị và có ý
nghĩa to lớn trong thời kỳ đổi mới.
- Những chuẩn mực đạo đức mà người đảng viên cần có là lòng yêu nước sâu sắc, tôn trọng
và hết lòng phục nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có thái độ
tích cực ủng hộ xu thế đổi mới, tham gia vào công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng; thống
nhất giữa lời nói và việc làm.
- Đạo đức, lối sống mới yêu cầu dũng cảm vạch trần, phê phán những biểu hiện cơ hội, cá
nhân chủ nghĩa, những mưu toan dựa vào xu thế và hoàn cảnh đổi mới để tìm kiếm lợi ích
riêng cho bản thân mình.
- Tư tưởng và ý thức đạo đức phải đi liền với hành động, trong lao động, trong công việc,
trong quan hệ với con người, trong đấu tranh khắc phục mọi tệ nạn và làm lành mạng các
quan hệ xã hội.
Bốn là, có ý thức tổ chức kỷ luật, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất của Đảng trên cơ sở
thực hiện đúng các nguyên tắc của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, thường
xuyên tự phê bình và phê bình.
- Đoàn kết trong đảng là yêu cầu tối quan trọng của Đảng Cộng sản. Trong Đảng Cộng sản
không thể tồn tại nhiều phái, nhiều phe cánh với lập trường và lợi ích khác nhau. Đoàn kết đã
trở thành một truyền thống quý báu của Đảng ta mà tất cả các tổ chức đảng và đảng viên phải
ra sức giữ gìn, vun đắp như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Nền tảng của sự đoàn kết trong
21
Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, Điều lệ, đường lối và
các nguyên tắc tổ chức Đảng.
- Sức mạnh của Đảng là ở tính thống nhất: thống nhất quan điểm, thống nhất ý chí, thống
nhất hành động. Tập trung dân chủ là nguyên tắc bảo đảm sự thống nhất của Đảng. Vì vậy,
mọi cán bộ, đảng viên ở bất cứ cương vị nào đều phải tôn trọng và chấp hành đúng nguyên
tắc tập trung dân chủ.
- Đảng viên có trách nhiệm tích cực tham gia thảo luận các vấn đề thuộc về đường lối, chủ
trương của Đảng, có quyền chất vấn, tranh luận một cách thẳng thắn; đồng thời chú ý lắng
nghe và tôn trọng ý kiến của người khác. Khi đã thành quyết định của tập thể thì phải nghiêm
túc chấp hành, không được phát ngôn tuỳ tiện hoặc lan truyền những ý kiến, quan điểm riêng
của mình bên ngoài các hội nghị Đảng.
Năm là, có quan hệ mật thiết với quần chúng.
- Sức mạnh vô địch của Đảng là ở mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng nhân dân. Phát huy
dân chủ, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới. Vì vậy, mỗi đảng viên,
trước hết là đảng viên giữ cương vị lãnh đạo, có chức, có quyền, phải tôn trọng và phát huy
quyền làm chủ của dân, chăm lo đời sống hàng ngày của dân, tìm hiểu nguyện vọng và lắng
nghe ý kiến dân, giúp đỡ dân khi gặp khó khăn, kiên quyết đấu tranh chống bệnh quan liêu,
mệnh lệnh, gia trưởng, độc đoán, đặc quyền đặc lợi, trù dập, ức hiếp dân và mọi hành vi vi
phạm quyền dân chủ của dân. Đây là một vấn đề hết sức quan trọng, một yêu cầu rất cần thiết
đối với người đảng viên trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền.
- Sự gắn bó với quần chúng, mối liên hệ mật thiết với quần chúng không chỉ là một tiêu
chuẩn của nhân cách đảng viên, mà còn là sự thử thách đặc biệt thể hiện năng lực hoạt động
chính trị - thực tiễn, phương pháp và phong cách làm việc của mỗi đảng viên
Sáu là, kết hợp chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
- Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn luôn kết hợp chặt chẽ
giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế. Những thắng lợi của cách mạng Việt Nam
22
cũng có nguyên nhân từ đường lối quốc tế đúng đắn của Đảng. Nhiệm vụ của người đảng
viên là phải thực hiện đúng đắn đường lối đó của Đảng.
- Bước vào giai đoạn mới, vấn đề đoàn kết quốc tế của cách mạng Việt Nam mang nội dung
mới. Đó là, kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nguồn lực bên trong và bên ngoài, làm tốt nghĩa
vụ quốc tế trong hoàn cảnh mới.
2. Không ngừng tự phấn đấu, rèn luyện để xứng đáng với danh hiệu người đảng viên
cộng sản:
Khái niệm “đảng viên” bao hàm hai mặt: cá nhân một con người mang danh hiệu đảng
viên và một thành viên của Đảng (của một tổ chức đảng cụ thể và của toàn Đảng nói chung).
Người đảng viên chỉ xứng đáng với danh hiệu cao quý của mình khi làm tròn bổn phận trên
cả hai tư cách đó, nhờ sự phấn đấu của bản thân và sự giúp đỡ, tạo điều kiện của tổ chức
đảng.
Về mặt cá nhân: Trước hết mỗi người đảng viên phải rèn luyện mình theo những đức
tính của con người Việt Nam, đó là:
- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới
trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ
cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao vì lợi
ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể
lực.
Về tư cách đảng viên thành viên của tổ chức đảng:
23
- Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ
“cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chúng chỉ quý mến những người có tư cách,
đạo đức..., làm mực thước cho người ta bắt chước”. Đối với Đảng, “Chúng ta vào Đảng là để
hết lòng hết sức phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, làm trọn nhiệm vụ của người đảng viên”
- Yêu cầu của sự phấn đấu là giữ vững, tự khẳng định tư cách người cộng sản của mình và
không ngừng vượt lên chính mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: “tất cả các đảng viên, cán bộ
và chi bộ cần phải thường xuyên ôn lại, tự liên hệ và giữ đúng những tiêu chuẩn của người
đảng viên...”, coi đó là cách tốt nhất để xứng đáng với danh hiệu người cộng sản.
- Trong nhiệm vụ năng cao năng lực lãnh đạo và nâng cao sức chiến đấu của Đảng, Nghị
quyết Đại hội X chỉ rõ: từng cán bộ, đảng viên…phải có ý chí phấn đấu vươn lên, hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ được giao; thường xuyên rèn luyện phẩm chất đạo đức, không nể nang, né
tránh; kiên quyết đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, suy thoái ở ngay
trong bản thân mỗi đảng viên, trong từng tổ chức đảng, cơ quan nơi mình sinh hoạt, công tác,
ở trong Đảng và trong xã hội; dũng cảm đấu tranh chống các tư tưởng, quan điểm sai trái, thù
địch.
Về vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân:
- Vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân ở nước ta đã xuất hiện từ lâu trong quá trình tiến hành
công cuộc đổi mới. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, Đại hội X đã thảo luận, biểu quyết và thông
qua chủ trương: “Đảng viên làm kinh tế tư nhân phải gương mẫu chấp hành pháp luật, chính
sách của Nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành Điều lệ Đảng và quy định của Ban Chấp hành
Trung ương”.
- Cơ sở để Đại hội thông qua chủ trương trên là do nước ta đang trong chặng đường đầu của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với trình độ phát triển thấp kém của lực lượng sản xuất.
Nhiệm vụ trung tâm hiện nay là phát triển kinh tế, giải phóng mạnh mẽ các tiềm năng phát
triển trong xã hội, trong đó có trên 3 triệu đảng viên. Đó là thực hiện lời dạy của V.I. Lênin,
phải qua “ những bước trung gian”, “ bắc những nhịp cầu nhỏ” từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa
xã hội.
24
- Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, các thành phần kinh tế
cùng phát triển bình đẳng và đều là bộ phận cấu thành hữu cơ của nền kinh tế; kinh tế tư
nhân không đối lập với kinh tế nhà nước. Phát triển kinh tế tư nhân cũng là để phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- Tuy nhiên, kinh tế tư nhân, do chịu tác động của các quy luật thị trường có thể có những
những tác động tiêu cực đến tiêu chuẩn của người đảng viên. Để hạn chế những tác động tiêu
cực đó, Nghị quyết Đại hội X yêu cầu đảng viên phải khác với những công dân khác là ngoài
việc chấp hành đầy đủ chính sách, pháp luật của Nhà nước, còn phải chấp hành Điều lệ Đảng
và những quy định trong Đảng, để làm kinh tế tư nhân nhưng vẫn đảm bảo tiêu chuẩn và giữ
đúng tư cách đảng viên.
- Thực hiện Nghị quyết Đại hội X, Hội nghị Trung ương 3 khóa X đã thông qua những quy
định đối với đảng viên làm kinh tế tư nhân. Nhiệm vụ của mỗi đảng viên khi làm kinh tế tư
nhân là phải thực hiện tốt những quy định này.
Phần III. Công tác vận động nhân dân của người đảng viên
1. Quan điểm chỉ đạo công tác vận động nhân dân trong công cuộc đổi mới :
Một là, cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân, vì nhân dân.
- Tư tưởng “lấy dân làm gốc” được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa, nâng lên tầm cao mới, với
những nội dung mới.
- Đại hội X của Đảng đã nêu năm bài học chủ yếu rút ra sau 20 năm đổi mới, trong đó có bài
học: “đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng
tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới” .
Hai là, động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân
dân, kết hợp hài hoà các lợi ích, thống nhất lợi ích và nghĩa vụ công dân.
- Trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho đất nước, Đảng đã vạch ra
được đường lối, chủ trương đúng đắn, đáp ứng lợi ích, nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân
dân, đó là đấu tranh cho quyền dân sinh, dân chủ và lợi ích cao nhất là độc lập, tự do của đất
nước. Nhờ đó đã tập hợp được các tầng lớp nhân dân đi theo Đảng làm cách mạng.
25
- Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc giải
quyết quan hệ lợi ích theo nguyên tắc: lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội
gắn chặt và thống nhất với nhau, trong đó lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp. Kết hợp hài
hoà lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, lợi ích địa phương và lợi ích cả nước. Coi trọng lợi
ích cá nhân nhưng không tuyệt đối hoá, không chấp nhận chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ dẫn đến
mâu thuẫn xã hội gay gắt, làm tổn hại đến lợi ích chung của cộng đồng. Nhờ đó, qua 20 năm
đổi mới, chúng ta đã đạt được những thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
Đại hội X của Đảng khẳng định “kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã
hội...” là một động lực chủ yếu để phát triển đất nước. Quán triệt quan điểm này mới tạo ra
được phong trào hành động cách mạng rộng rãi của các tầng lớp nhân dân.
Ba là, các hình thức tập hợp nhân dân phải đa dạng.
- Trong giai đoạn mới của cách mạng phải đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân, vì cơ
cấu xã hội - giai cấp, xã hội - dân cư, xã hội - nghề nghiệp... có sự phát triển mới cùng với sự
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, làm cho nhu cầu lợi ích của xã hội,
của tổ chức và mỗi cá nhân hết sức đa dạng, phong phú. Mặt khác, trình độ của các tầng lớp
nhân dân không đồng nhất, do đó phải có cấp độ khác nhau về hình thức tập hợp. Đa dạng
hoá các hình thức tập hợp nhân dân là hợp với quy luật phát triển của xã hội trong nền kinh tế
thị trường với nhiều thành phần kinh tế ở nước ta.
- Cùng với hình thức tập hợp nhân dân, Đảng cũng nhấn mạnh đến phương thức và khẩu hiệu
vận động nhân dân sao cho phù hợp với trình độ từng đối tượng nhân dân, coi trọng việc vận
động bằng các điển hình tiên tiến.
- Theo tinh thần Đại hội X của Đảng, để phát huy dân chủ trong đời sống xã hội đòi hỏi phải
phát triển nhiều hình thức trong sinh hoạt xã hội. Vì vậy, bên cạnh việc củng cố, đổi mới tổ
chức và hoạt động của các đoàn thể chính trị - xã hội truyền thống, cần khuyến khích phát
triển những tổ chức mang tính xã hội, nghề nghiệp, nhân đạo, hữu nghị..., thu hút đông đảo
nhân dân thực hiện đường lối đổi mới của Đảng.
Bốn là, công tác vận động nhân dân là trách nhiệm của Đảng, chính quyền và các đoàn
thể nhân dân.
26
- Đảng phải lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị làm công tác dân vận nhằm thường xuyên
củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, coi trọng công tác kiểm tra việc thực
hiện các chủ trương về dân vận, nhất là đối với hệ thống chính quyền.
- Các cấp chính quyền phải chăm lo công tác quần chúng, vì Nhà nước của ta là Nhà nước
của dân, do dân, vì dân. Cần khắc phục tình trạng nhiều cấp chính quyền còn có những biểu
hiện coi nhẹ công tác dân vận và coi nhẹ việc xây dựng các tổ chức quần chúng.
- Các tổ chức đoàn thể, các hội nghề nghiệp... cần phải coi trọng công tác vận động đoàn viên,
hội viên, phải tiếp tục đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động cho phù hợp với tình hình
mới.
- Mọi cán bộ, đảng viên, mọi công chức, viên chức nhà nước đều phải làm tốt công tác dân
vận theo chức trách của mình.
2. Nhiệm vụ chủ yếu công tác vận động nhân dân của người đảng viên trong giai đoạn
mới :
Một là, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân.
- “Trọng dân” là điểm đầu tiên, điểm gốc, xuất phát từ quan điểm “cách mạng là sự nghiệp
của dân, do dân, vì dân” và Đảng “phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ trung
thành của nhân dân”.
- “Gần dân”, đòi hỏi người cán bộ phải có cách tiếp cận tốt với nhân dân, từ thái độ, tác
phong, lối sống của mình.
- “Hiểu dân” tức là phải hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng, những yêu cầu và những bức xúc của
dân, cả những điều dân nói ra và còn để trong lòng. Đây là vấn đề rất hệ trọng.
- “Học dân” vì trí tuệ và vì sức mạnh của dân là vô tận. Bác Hồ thường dạy cán bộ phải
“học dân chúng” để “nâng cao dân chúng”.
- “Có trách nhiệm với dân” chính là quan điểm vì dân. Bác Hồ dạy cán bộ không phải là
“quan cách mạng” mà là “người đày tớ thật trung thành của nhân dân”.
27
Hai là, tuyên truyền, vận động nhân dân, đưa mọi người tham gia vào các tổ chức thích
hợp để hoạt động.
- Để làm tốt công tác dân vận phải đặc biệt quan tâm đến việc vận động quần chúng tham gia
các tổ chức chính trị – xã hội. Ngay khi về nước, Bác Hồ đã thành lập Mặt trận Việt Minh,
tập hợp tất cả các giai cấp, tầng lớp vào tổ chức Việt Minh vận động "không trừ một ai", nhờ
đó đã tạo ra cao trào Cách mạng Tháng Tám, giành được chính quyền trong điều kiện rất khó
khăn, phức tạp.
- Trong công tác vận động nhân dân phải lấy thuyết phục làm chính, đó là vấn đề có tính
nguyên tắc. Phải kiên trì giáo dục, thuyết phục quần chúng, làm cho quần chúng hiểu rõ chủ
trương, chính sách để mọi người tự giác chấp hành. Việc tổ chức động viên quần chúng cần
gắn với việc thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, chăm lo lợi ích
thiết thực của nhân dân, đồng thời nâng cao giác ngộ chính trị cho quần chúng trong các tổ
chức Mặt trận, đoàn thể, các hội quần chúng, đưa quần chúng vào các hoạt động trong phong
trào cách mạng, phù hợp với trình độ từng đối tượng nhân dân.
Ba là, bồi dưỡng và nhân rộng điển hình và sử dụng quần chúng tiên tiến.
- Phương châm công tác vận động quần chúng là lấy quần chúng vận động quần chúng.
Người cán bộ, đảng viên phải biết dựa vào những người tiên tiến, biết nhân rộng, để động
viên, thúc đẩy mọi người làm theo.
- Việc bồi dưỡng và nhân rộng điển hình tiên tiến cần phối hợp và thông qua các tổ chức
đoàn thể chính trị - xã hội và các tổ chức hội quần chúng. Trong khi sử dụng quần chúng tiên
tiến thì tránh việc bỏ rơi quần chúng chậm tiến, cần kiên nhẫn giáo dục, động viên, khích lệ
họ tham gia phong trào chung, không nên lạm dụng tổ chức để đả kích, chê trách, dẫn quần
chúng dần đến chỗ bất mãn và có khi trở thành những người chống đối, ngăn cản phong trào.
Bốn là, nêu gương cho quần chúng noi theo.
- Đảng lãnh đạo quần chúng không chỉ bằng đường lối, chính sách mà còn thông qua vai trò
gương mẫu tiên phong trong nhận thức, trong hành động và trong đạo đức, lối sống, tác
phong của từng đảng viên.
28
- Nhiệm vụ người đảng viên là phải gương mẫu ở nơi làm việc; tuyên truyền vận động gia
đình mình thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Mỗi đảng viên đều phải gương mẫu lôi cuốn mọi người thực hiện nghĩa vụ công dân ở nơi cư
trú. Đảng viên tham gia các đoàn thể chính trị - xã hội phải gương mẫu để các hội viên khác
noi theo. Đảng viên phải thực hiện lời dạy của Bác Hồ: “Đảng viên đi trước, làng nước đi
sau”. Có như vậy, mới củng cố lòng tin của quần chúng đối với Đảng . / .