ng céng s¶n viÖt nam l·nh §¹o chèng diÔn biÕn hßa b×nh …hcma.vn/uploads/2016/5/4/luan...
TRANSCRIPT
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRẦN QUỐC DƢƠNG
§¶NG CéNG S¶N VIÖT NAM L·NH §¹O
CHèNG “DIÔN BIÕN HßA B×NH” TR£N LÜNH VùC T¦ T¦ëNG
TRONG GIAI §O¹N HIÖN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
CHUYÊN NGÀNH: XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƢỚC
HÀ NỘI - 2016
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
TRẦN QUỐC DƢƠNG
§¶NG CéNG S¶N VIÖT NAM L·NH §¹O
CHèNG “DIÔN BIÕN HßA B×NH” TR£N LÜNH VùC T¦ T¦ëNG
TRONG GIAI §O¹N HIÖN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƢỚC
M : 62 31 02 03
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. GS. TS. Tạ Ngọc Tấn
2. PGS. TS. Lê Kim Việt
HÀ NỘI - 2016
LỜI C M ĐO N
C
T c iả
Trần Qu c Dƣơn
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chƣơn 1: TỔNG QU N TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QU N ĐẾN
ĐỀ TÀI
6
1.1. Các công trình khoa học trong nước 6
1.2. Những nghiên cứu của nước ngoài 21
1.3. Những kết quả đã được nghiên cứu và hướng nghiên cứu của Luận án 23
Chƣơn 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VỀ ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO CHỐNG “DIỄN BIẾN HOÀ
BÌNH” TRÊN LĨNH VỰC TƢ TƢỞNG GI I ĐOẠN HIỆN NAY
26
2.1. Những vấn đề chủ yếu về “diễn biến hoà bình” và “diễn biến hoà
bình” trên lĩnh vực tư tưởng
26
2.2. Chống “diễn biến hoà bình” và Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
chống “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tư tưởng – khái niệm, chủ
thể, nội dung, phương thức
53
Chƣơn 3: ĐẢNG LÃNH ĐẠO CHỐNG “DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH”
TRÊN LĨNH VỰC TƢ TƢỞNG TỪ NĂM 1995 ĐẾN NAY -
THỰC TRẠNG NGUYÊN NHÂN, KINH NGHIỆM
69
3.1. Thực trạng Đảng lãnh đạo chống “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực
tư tưởng từ năm 1995 đến nay
69
3.2. Nguyên nhân và kinh nghiệm Đảng lãnh đạo chống “diễn biến hoà
bình” trên lĩnh vực tư tưởng từ năm 1995 đên nay
100
Chƣơn 4: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
TĂNG CƢỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦ ĐẢNG CHỐNG “DIỄN
BIẾN HOÀ BÌNH” TRÊN LĨNH VỰC TƢ TƢỞNG ĐẾN NĂM
2025
113
4.1. Thuận lợi, khó khăn thách thức và phương hướng lãnh đạo của Đảng
trong chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng
113
4.2. Những giải pháp chủ yếu tăng cường sự lãnh đạo chống “diễn biến hòa
bình” trên lĩnh vực tư tưởng đến năm 2025
127
KẾT LUẬN 153
CÁC CÔNG TRÌNH KHO HỌC ĐÃ CÔNG BỐ 156
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 158
PHỤ LỤC 169
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CNĐQ : Chủ nghĩa Đế quốc
CNMLN : Chủ nghĩa Mác - Lênin
CNTB : Chủ nghĩa Tư bản
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
DBHB : “Diễn biến hòa bình”
ĐCS : Đảng Cộng sản
ĐCSVN : Đảng Cộng sản Việt Nam
HTMLN : Học thuyết Mác - Lênin
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự chống phá chủ nghĩa xã hội (CNXH) của các thế lực thù địch bằng
chiến lược “diễn biến hoà bình” (DBHB) ở nửa cuối thế kỷ XX là một trong
những nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự sụp đổ mô hình CNXH ở các nước
Đông Âu và Liên Xô trước đây. Sau sự kiện đó, chúng tiếp tục thực hiện
chiến lược DBHB với âm mưu, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, thâm độc hơn
hòng xoá bỏ các nước XHCN còn lại và phong trào độc lập, dân chủ, tiến bộ
trên thế giới. Trong đó, Việt Nam là một trọng điểm chống phá của chúng.
Đối với Việt Nam, âm mưu nhất quán của các thế lực thù địch là xoá bỏ
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xoá bỏ chế độ XHCN ở nước
ta. Để thực hiện âm mưu đó chúng đẩy mạnh chống phá trên tất cả các lĩnh
vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, ngoại giao kết hợp răn đe về quân sự
với phương châm: lấy chống phá về chính trị, tư tưởng làm khâu đột phá hàng
đầu; lấy mua chuộc kinh tế làm mũi nhọn; lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo,
nhân quyền làm ngòi nổ; dùng ngoại giao để hỗ trợ hậu thuẫn; dùng quân sự
để răn đe và có thể can thiệp lật đổ chế độ. Đối với Việt Nam thực hiện
DBHB trên lĩnh vực tư tưởng là một trọng tâm trong âm mưu thủ đoạn của
các thế lực thù địch.
Thời gian tới, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp,
khó lường. Các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh thực hiện DBHB mà trọng
tâm là DBHB trên lĩnh vực tư tưởng nhằm làm cho nội bộ ta chuyển hoá,
Đảng mất vai trò lãnh đạo đất nước, chệch hướng con đường CNXH. Đặc
biệt, các thế lực thù địch tiếp tục chống phá và can thiệp vào công việc nội bộ
nước ta, kích động bạo loạn, lật đổ và đẩy mạnh hoạt động DBHB, thúc đẩy
“tự diễn biến” trong nội bộ ta.
2
Từ nhận thức sâu sắc về âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch,
Đảng đã xác định phương hướng và đưa ra các giải pháp phù hợp, lãnh đạo
chống lại các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch đạt nhiều kết quả to
lớn. Đảng đã coi trọng lãnh đạo đổi mới nội dung, phương thức tiến hành
công tác tư tưởng, lý luận, tuyên truyền trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
nhằm nâng cao cảnh giác cách mạng làm thất bại âm mưu thủ đoạn DBHB
của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng.
Tuy nhiên quá trình lãnh đạo chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng,
không ít cấp uỷ, tổ chức đảng chưa thực sự quan tâm đầy đủ đến công tác giáo
dục chính trị tư tưởng, lơ là mất cảnh giác, lúng túng về nội dung, phương
thức lãnh đạo đấu tranh; sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ đối với các cơ
quan truyền thông, phương tiện thông tin đại chúng trong nhiệm vụ chống
DBHB trên lĩnh vực tư tưởng chưa kịp thời, thiếu hiệu quả, chưa phát huy
được vai trò của các nhà lý luận trong việc phản bác lại luận điệu của các thế
lực thù địch. Trong nội bộ Đảng, việc đấu tranh phê bình với các biểu hiện
suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống còn hạn chế, thường nể nang,
né tránh, thiếu kiên quyết, làm ảnh hưởng tới sự đoàn kết thống nhất trong
Đảng và trong xã hội.
Đặc biệt vẫn còn một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhân dân
ta chưa nhận thức đúng âm mưu, thủ đoạn DBHB trên lĩnh vực tư tưởng của
các thế lực thù địch, dẫn đến mơ hồ, mất cảnh giác, bị động đối phó trước một
số tình huống cụ thể do kẻ địch gây ra. Trong điều kiện hiện nay, cùng với tác
động của DBHB trên lĩnh vực tư tưởng, đã xuất hiện quá trình “tự diễn biến”,
“tự chuyển hoá” trong một bộ phận cán bộ đảng viên khá phức tạp. Một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả một số cán bộ chủ chốt các
cấp bị suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, xa vào chủ nghĩa cá
nhân cơ hội, thực dụng. Đặc biệt nguy hiểm là quá trình chuyển hoá từ cơ hội,
thực dụng về kinh tế sang cơ hội, thực dụng về chính trị, từ tha hoá về đạo
đức và lối sống sang tha hoá về tư tưởng.
3
Trong những năm tới, nhiệm vụ chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng
sẽ diễn ra rất quyết liệt và phức tạp hơn, đòi hỏi Đảng, các tổ chức đảng phải
tăng cường lãnh đạo, kiên quyết, chủ động đập tan mọi âm mưu thủ đoạn của
các thế lực thù địch trong DBHB trên lĩnh vực tư tưởng và khắc phục kịp thời
hiện tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên
và nhân dân cũng như trong toàn hệ thống chính trị ở nước ta. Vì vậy, việc
tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, đề xuất một hệ thống các giải pháp tăng lãnh
đạo của Đảng chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng trong những năm tới là vấn
đề cần thiết và cấp bách.
Để góp phần giải quyết vấn đề cấp bách nêu trên, tác giả chọn và thực
hiện đề tài: “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo chống “diễn biến hoà bình”
trên lĩnh vực tư tưởng trong giai đoạn hiện nay” làm luận án tiến sĩ Chính trị
học, chuyên ngành Xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nước, với mong muốn
góp phần vào nhiệm vụ lãnh đạo chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng ngày
càng hiệu quả hơn, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận n
2.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về Đảng lãnh đạo
chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng, luận án đề xuất phương hướng và giải
pháp khả thi nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng chống DBHB trên lĩnh
vực tư tưởng trong những năm tới.
2.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn Đảng lãnh đạo chống
DBHB của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng như: khái niệm về
DBHB, DBHB trên lĩnh vực tư tưởng; “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”; khái
niệm chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng, Đảng lãnh đạo chống DBHB trên
lĩnh vực tư tưởng; nội dung và phương thức lãnh đạo chống DBHB trên lĩnh
vực tư tưởng.
4
- Đánh giá đúng thực trạng DBHB trên lĩnh vực tư tưởng và thực trạng
sự lãnh đạo của Đảng đối với chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng từ năm
1995 đến nay; chỉ ra ưu khuyết điểm, nguyên nhân, kinh nghiệm.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu khả thi tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng đến
năm 2025.
3. Đ i tƣợng, phạm vi n hiên cứu
3.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của luận án là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung, luận án nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng trong chống
DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
- Về thời gian, luận án nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng từ 1995 đến nay.
- Phương hướng, giải pháp đề xuất trong luận án có giá trị đến năm 2025.
4. Cơ ở lý luận, thực tiễn và phƣơn ph p n hiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
- Luận án dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng
Đảng, Đảng lãnh đạo công tác tư tưởng.
- Cơ sở thực tiễn của luận án là thực trạng sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng từ 1995 đến nay.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, và các
phương pháp lịch sử - lôgíc, phân tích, tổng hợp, phương pháp chuyên gia, so
sánh, tổng kết thực tiễn.
5
5. Đón óp mới về khoa học của luận n
- Làm rõ khái niệm: DBHB trên lĩnh vực tư tưởng, Đảng lãnh đạo
chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
- Một số kinh nghiệm về Đảng lãnh đạo chống DBHB trên lĩnh vực tư
tưởng từ năm 1995 đến nay.
- Đề xuất 7 giải pháp về Đảng lãnh đạo chống DBHB trên lĩnh vực tư
tưởng trong đó giải pháp then chốt: chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”
trên lĩnh vực tư tưởng để chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
6. Ý n hĩa lý luận và thực tiễn của luận n
Kết quả nghiên cứu của luận án còn có thể được dùng làm tài liệu tham
khảo cho các cơ quan, ban ngành của Đảng và cấp uỷ địa phương trong quá
trình lãnh đạo chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng thời gian tới.
Luận án còn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác
nghiên cứu, giảng dạy môn Xây dựng Đảng, Chính trị học, Công tác tư tưởng,
Giáo dục quốc phòng và an ninh... trong các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
của Đảng và Nhà nước.
7. Kết cấu của luận n
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án gồm 4 chương, 9 tiết.
6
Chƣơn 1
TỔNG QU N TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QU N ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH KHO HỌC TRONG NƢỚC
1.1.1. Đề tài khoa học
Vấn đề chống DBHB nói chung và chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng
nói riêng là vấn đề lớn và phức tạp, thường xuyên được Đảng quan tâm lãnh
đạo; các tổ chức đảng trong toàn Đảng, cơ quan, các nhà nghiên cứu, nhà hoạt
động thực tiễn cũng đã có nhiều những công trình nghiên cứu về chống
DBHB và chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng như:
Đề tài khoa học cấp bộ; mã số 04.23/06-10, Học viện Quốc phòng - Bộ
Quốc phòng, “D b ạ “diễn bi ò b ”
l ù i với Vi t Nam trong thời kỳ mớ ững ch ơ i
p p p òng ch ” [31].
Đề tài đã phân tích, đưa ra luận cứ sát thực về âm mưu, thủ đoạn
chiến lược DBHB của các thế lực thù địch, dự báo âm mưu chống phá cách
mạng Việt Nam trong thời gian tới, đồng thời đưa ra các kiến nghị với
Đảng, nhà nước để đấu tranh phòng, chống hiệu quả chiến lược DBHB.
Đặc biệt đề tài đã dự báo khoa học về những âm mưu thâm độc của kẻ thù
tạo điều kiện cho khả năng “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ ta,
nhất là trong giai đoạn cách mạng hiện nay khi Mỹ bình thường hoá quan
hệ với Việt Nam và đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng quan hệ
với tất cả các nước vì hoà bình, hợp tác hữu nghị của Đảng ta. Tuy nhiên,
do giới hạn, phạm vi, đối tượng nghiên cứu nên đề tài chưa nghiên cứu và
chưa đề cập sâu đến nội dung lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam trong
chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng. Đề tài đưa ra bảy kiến nghị chủ yếu
trong đấu tranh chống DBHB trong thời gian tới:
7
Mộ về lãnh đạo, chỉ đạo phòng, chống DBHB
H về giáo dục nâng cao nhận thức đối với cuộc đấu tranh phòng
chống DBHB
B về phòng chống DBHB trên lĩnh vực tổ chức nhân sự.
B về phòng chống DBHB trên lĩnh vực kinh tế.
Nă về phòng chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá, xã hội.
S về phòng, chống DBHB trên lĩnh vực QP - AN.
B về phòng chống DBHB trên lĩnh vực đối ngoại.
Các kiến nghị trên rất bổ ích để tham khảo, đề xuất những giải pháp
chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng. Tác giả của luận án tham khảo và kế
thừa nội dung dự báo và một số giải pháp cụ thể của đề tài để đi sâu nghiên
cứu về sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam trong chống DBHB trên
lĩnh vực tư tưởng, đặc biệt một số nội dung về chống “tự diễn biến”, “tự
chuyển hoá”.
Đề tài khoa học cấp bộ, ò ộ bộ H
C H C M ộ ễ b
b ; do Lê im Việt làm chủ
nhiệm 134].
Đề tài đã phân tích, làm rõ bản chất, âm mưu thủ đoạn của các thế lực
thù địch trong chiến lược DBHB trên lĩnh vực tư tưởng lý luận. Đề tài cũng
đã nêu lên thực trạng cuộc đấu tranh chống DBHB và vai trò của đội ngũ cán
bộ khoa học của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trong cuộc đấu
tranh chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng lý luận hiện nay. Đề tài đã đưa ra
một số giải pháp chủ yếu và kiến nghị nhằm nâng cao vai trò, trách nhiệm của
đội ngũ cán bộ khoa học của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trong
cuộc đấu tranh chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng lý luận đó là:
Mộ , nâng cao nhận thức về DBHB trên lĩnh vực tư tưởng và phương
hướng đấu tranh
8
H về kiện toàn tổ chức, bộ máy sắp xếp bố trí đội ngũ cán bộ khoa
học trong Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
B đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ khoa
học trong Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
B xây dựng cơ chế chính sách nhằm phát huy vai trò đội ngũ cán
bộ trong Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đấu tranh chống DBHB
trên lĩnh vực tư tưởng lý luận
Nă , tạo môi trường thuận lợi cho đội ngũ cán bộ khoa học chống
DBHB trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận
Những kết quả nghiên cứu của đề tài là nguồn tài liệu bổ ích, có giá trị để
luận án tham khảo, tiếp thu trong việc tìm giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ
trong cuộc đấu tranh chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng giai đoạn hiện nay.
Đề tài khoa học cấp nhà nước, N u qu u tranh ch ng
“ ễn bi n b ” p p n ch „ diễn bi ”
“ chuyển ” do tác giả Đặng Vặn Hiếu làm chủ nhiệm [71].
Đề tài khẳng định Việt Nam có vị trí địa lý vô cùng quan trọng trong
chiến lược của các nước lớn; Đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc Việt Nam
luôn luôn giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH. Các thế lực thù
địch luôn xác định Việt Nam là trọng điểm chống phá nhằm thực hiện DBHB
để lật đổ chế độ mà không cần đến chiến tranh. Trong đó, khâu đột phá quan
trọng là DBHB trên lĩnh vực tư tưởng hòng gây hoang mang, dao động về lập
trường tư tưởng, hoài nghi về Chủ nghĩa Mác - Lênin, con đường lên CNXH.
Trong đề tài các nhà khoa học cũng chỉ ra hoạt động phá hoại tư tưởng tập
trung trên một số vấn đề sau:
Mộ , đẩy mạnh tiến công nền tảng tư tưởng của Đảng ta, Cương lĩnh
và chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
H lợi dụng vấn đề trong tôn giáo, dân tộc để tuyên truyền xuyên
9
tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền.
B lợi dụng báo chí, xuất bản tác động và lái quá trình “dân chủ
hoá” ở Việt Nam.
Trong công trình các nhà khoa học chỉ ra nguyên nhân, dự báo tình
hình và đưa ra các giải pháp cụ thể góp phần đấu tranh thắng lợi hoạt động
tuyên truyền phá hoại tư tưởng của các thế lực thù địch nhằm ngăn chặn xu
hướng “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”. Các tác giả chỉ ra, các cấp uỷ trong
toàn Đảng cần thực hiện tốt biện pháp sau:
Th nh t, tiếp tục quán triệt sâu sắc nghị quyết TW 4 (khoá XI) “Một
s v ề c p b ề Đ ng hi ” và chỉ thị số 34- CT/TW
ngày 17-4-2009 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “ ă ờ u tranh
ch ạ ộ DBHB ă ”
Th hai, làm tốt công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng, công tác bảo vệ
chính trị nội bộ, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ. Các cơ quan từ Trung ương
xuống địa phương phải làm tốt việc phát hiện, giải quyết vấn đề phức tạp
Th ba, đẩy mạnh đấu tranh chống DBHB củng cố tốt trận địa tư
tưởng, kịp thời phản bác lại luận điệu vu cáo của địch, khẳng định sự đúng
đắn của đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước.
Th Tăng cường hiệu quả quản lý của nhà nước trên lĩnh vực xuất
bản, báo chí, phát thanh, truyền hình, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, quản lý
của nhà nước.
Nă đẩy mạnh hoạt động thông tin đối ngoại tuyên truyền về đường
lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước, tranh thủ sự ủng hộ của
quốc tế.
S nghiên cứu bài học từ sự sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và
Đông Âu, kết hợp với tổng kết 25 năm đổi mới để bổ sung cho lý luận về con
đường đi lên CNXH ở Việt Nam.
Trong nghiên cứu tác giả luận án kế thừa các nghiên cứu và kiến nghị
10
chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng của công trình để đưa ra giải pháp chống
DBHB trên lĩnh vực tư tưởng và chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong
thời gian tới.
Đề tài cấp Bộ, Những y u t ộ “ diễn bi ” “ chuyển
” ớc ta hi n nay, do tác giả Tô Lâm làm chủ nhiệm [90].
Đề tài nhận định, từ sau khi CNXH ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ,
trong giới văn nghệ sỹ, trí thức nước ta xuất hiện nhiều tác phẩm, bài viết..
biểu hiện của tình trạng đang “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”. Qua đó các nhà
khoa học phân tích, chỉ ra các yếu tố tác động đến “tự diễn biến”, “tự chuyển
hoá”. Các nhà khoa học khái quát tình hình quốc tế, khu vực có nhiều biến
động tạo những bất lợi cho phong trào cộng sản quốc tế và CNXH. Bên cạnh
đó trong quá trình hội nhập, còn nhiều vấn đề lý luận còn nhiều vấn đề còn
chưa theo kịp với thực tiễn vì vậy còn nhiều người có sự nhận định lệch lạc về
đường lối, chính sách và mô hình phát triển đất nước, đó là là một trong
những nguyên nhân thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong
nội bộ ta.
Các nhà khoa học đề cập đến vấn đề một bộ phận cán bộ, đảng viên do
tác động của mặt trái của cơ chế thị trường, do kém rèn luyện, tu dưỡng đã
thoái hoá biến chất, chạy chức, chạy quyền từ đó làm ảnh hưởng tới uy tín của
Đảng, Nhà nước.
Trong luận án tác giả đã kế thừa những kết quả của công trình để đánh
giá thực trạng chống DBHB trong thời gian qua và nguyên nhân của “tự diễn
biến”, “tự chuyển hoá” mà công trình đã phân tích để đưa ra giải pháp chống
“tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”.
Đề tài khoa học cấp bộ của Viện 70 Tổng cục V- Bộ Công an, Cuộc
u tranh ch l ù ch l i dụ ể ch p
mạ ớc ta [132]. Đề tài đã chỉ ra những âm mưu thủ đoạn lợi dụng tôn
giáo chống phá cách mạng nước ta, trong đó có chống phá về tư tưởng trong
11
lĩnh vực tôn giáo. Đặc biệt từ các luận cứ khoa học, tập thể các tác giả đã
khẳng định: các thế lực thù địch coi tôn giáo là đạo quân thứ năm để tiến hành
xoá bỏ CNXH trên đất nước ta. Đề tài đã có nhiều số liệu quan trọng, các dự
báo, phương hướng chống DBHB trên lĩnh vực tôn giáo trong thời gian tới,
đặc biệt những nội dung liên quan đến tư tưởng về tôn giáo rất bổ ích cho
nghiên cứu thủ đoạn của DBHB trên lĩnh vực tư tưởng của các thế lực thù
địch hướng tới đối tượng tác động là những người theo tôn giáo.
Đề tài khoa học cấp Bộ, “Đ u tranh với hoạ ộ “ ễn bi n
b ” l ù i vớ ớc ta hi ” của tập
thể giảng viên Học viện An ninh nhân dân [73]. Đề tài đã chỉ ra âm mưu, thủ
đoạn của chiến lược DBHB chống phá cách mạng Việt Nam đối với học sinh,
sinh viên, và những biện pháp đấu tranh của lực lượng Công an trong thời
gian vừa qua. Trong đề tài, các nhà khoa học cũng chỉ rõ với học sinh, sinh
viên, các thế lực thù địch rất quan tâm đến lĩnh vực chuyển hoá tư tưởng vì
chúng cho rằng cần tác động mạnh mẽ để chuyển hoá tư tưởng với thế hệ trẻ
vì đó là người chủ tương lai của đất nước. Đề tài đưa ra dự báo về âm mưu
của các thế lực thù địch chống phá sinh viên trong chiến lược DBHB thời
gian tới:
Mộ các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh hoạt động phá hoại tư
tưởng đối với sinh viên.
H tác động hình thành khuynh hướng, phong trào đối lập trong
sinh viên.
B tăng cường tác động gây ảnh hưởng trong sinh viên, xâm nhập
tác động chuyển hoá nội bộ, cài cắm nội gián.
Đồng thời các nhà khoa học đưa ra bốn giải pháp cơ bản để phòng,
chống DBHB với sinh viên trong thời gian tới đó là:
Th nh t, thống nhất nhận thức, từng bước xây dựng các đề án đấu tranh
chống diễn biến hoà bình đảm bảo Công an trên lĩnh vực giáo dục đại học.
12
Th hai, chủ động giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh có liên quan
không để các thế lực thù địch lợi dụng tác động DBHB đối với sinh viên.
Th ba, nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực giáo
dục đào tạo và đối với sinh viên.
Th tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục bảo
vệ An ninh quốc gia trong các trường đại học.
Kết quả của công trình nêu trên đã giúp cho luận án có cách tiếp cận
đầy đủ và số liệu sát đúng nghiên cứu về đối tượng của DBHB trên lĩnh vực
tư tưởng hướng tới tác động đó là giới trẻ, học sinh, sinh viên.
1.1.2. C c ch
“P ò “ ễn bi n b ” Vi t Nam- Những v ề n
c tiễ ”, do tác giả Lê Minh Vụ và Nguyễn Tiến Quốc đồng chủ biên
[136].
Cuốn sách tập hợp các bài viết, nghiên cứu DBHB trên nhiều phương
diện khác nhau nhằm giúp bạn đọc có bức tranh toàn cảnh về DBHB, bao
gồm: C ng, n với vi t bạ
“DBHB” ới của tác giả Lê Minh Vụ; Cuộ p ò ,
ch “p ” ộ ới của tác giả Nguyễn
Vĩnh Thắng; C ớc những lu p Đ ng cộng
s n Vi t Nam của tác giả Nguyễn Quang Phác; V ề l i dụ b
“ ” “ ề ” th l ù ch ch p ạng
Vi t Nam hi n nay của tác giả Nguyễn Tiến Sỹ; X ạc l ch sử ộ
hạ th p ã ụ Vi t Nam - th ạ ộc c “D ễn bi n
b ” n nay của tác giả Nguyễn Văn Thế... Các tác giả nhấn mạnh, DBHB
là một trong những chiến lược cơ bản phản cách mạng của các thế lực thù
địch, có phạm vi toàn cầu được hình thành từ những năm cuối thập kỷ 40, đầu
thập kỷ 50 và hoàn chỉnh ở thập kỷ 80 của thế kỷ XX nhằm chống phá các
nước XHCN, phong trào độc lập dân tộc và phong trào cách mạng tiến bộ trên
13
thế giới. Các tác giả đã nêu rõ âm mưu thủ đoạn xuyên suốt của các thế lực
thù địch nhằm xoá bỏ độc lập dân tộc và CNXH, để đạt được âm mưu đó
chúng dùng mọi phương thức, thủ đoạn chống phá nhất là trên lĩnh vực tư
tưởng, đặc biệt là tư tưởng chính trị, đồng thời cũng nêu ra một số giải pháp
cụ thể để đấu tranh phòng, chống chiến lược DBHB, nhất là chống “tự diễn
biến”, “tự chuyển hoá”.
S th t v ề ền trong chi “ ễn bi n
b ” Vi t Nam, do tác giả Trương Thành Trung chủ biên [130].
Cuốn sách nêu trên đã luận giải vấn đề dân chủ và cuộc đấu tranh vì
dân chủ trong lịch sử nhân loại, âm mưu thủ đoạn trong dùng dân chủ, nhân
quyền để thực hiện DBHB ở Việt Nam, nhân quyền và cuộc đấu tranh nhân
quyền trong lịch sử nhân loại…tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng
CSVN về chăm lo bảo vệ quyền con người; kiên định về niềm tin thắng lợi
của nền dân chủ XHCN. Cuốn sách đã giúp cho bạn đọc những thông tin thiết
thực, lý luận sâu sắc kịp thời trong cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý
luận phòng chống chiến lược DBHB bảo vệ sự nghiệp đổi mới và độc lập dân
tộc và CNXH ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay; cuốn sách bàn sâu về
DBHB trên lĩnh vực “nhân quyền”, “dân chủ” qua đó góp phần cho cuộc đấu
tranh trên lĩnh vực tư tưởng, nhưng trong cuốn sách cũng chưa đề cập sâu đến
vai trò và sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc đấu tranh phòng, chống chiến lược
DBHB nói chung và trên lĩnh vực tư tưởng nói riêng..
P ò “ diễn bi ” “ chuyển ” bộ
hi n nay, do tác giả Vũ Văn Phúc chủ biên [103].
Cuốn sách gồm 48 bài tham luận của các đồng chí lãnh đạo, quản lý
các cấp, các nhà khoa học… được tuyển chọn từ hội thảo cùng tên do Tạp chí
Cộng sản, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam và Đảng uỷ khối
cơ quan Trung ương phối hợp tổ chức.
Cuốn sách đánh giá, phân tích một cách hệ thống, đa diện, nhiều góc
14
cạnh, nhận diện những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trên tất cả
các lĩnh vực, với tư cách là một thách thức tồn vong của chế độ ta. Các bài
viết cũng đưa ra các đòi hỏi, yêu cầu, phương thức để chống diễn biến hoà
bình, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong giai đoạn mới của cách
mạng Việt Nam.
P ò “ iễn bi n b ” v ề
b o v nền t ng c Đ ng hi n nay, do tác giả Nguyễn Bá Dương
chủ biên [40]. Sách gồm ba phần:
Ph n một, vì sao các thế lực thù địch lại đẩy mạnh chống phá nền tảng
tư tưởng của Đảng ta là Chủ nghĩa Mac - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ph n hai, V.I. Lênin và phát triển sáng tạo Học thuyết Mác - Bài học
cần nắm vững trong đấu tranh tư tưởng, lý luận hiện nay.
Ph n ba, lập trường Macsxit trong khẳng định bản chất khoa học, cách
mạng tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng ta.
Cuốn sách đã luận giải các khía cạnh khác nhau về phòng, chống
DBHB trên lĩnh vực chính trị, cho ta thấy bức tranh toàn cảnh về cuộc đấu
tranh tư tưởng, lý luận và sự cần thiết bảo vệ nền tảng tư tưởng lý luận của
Đảng ta trong bối cảnh phức tạp hiện nay. Cuốn sách cũng chỉ rõ bản chất và
cách thức phòng chống DBHB, “Tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong giai
đoạn hiện nay. Quá trình nghiên cứu tác giả kế thừa những luận giải khoa học,
cần thiết bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ta và những cách thức đấu tranh
chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
G p p n ch “ ễn bi n b ” c q , qu c
p ò do tác giả Nguyễn Mạnh Hưởng chủ biên [83].
Cuốn sách đã phân tích âm mưu thủ đoạn DBHB của các thế lực thù
địch đặc biệt trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận sẽ thật sự nguy hiểm vì qua đó có
thể tạo lên sự hoài nghi, mất niềm tin vào Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
15
Hồ Chí Minh, vào đường lối quan điểm của Đảng và vai trò quản lý của nhà
nước, gây rối loạn về chính trị, tư tưởng trong xã hội.
Tác giả phân tích quan điểm, tư duy mới của Đảng ta về nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng hiện nay cũng như nhiệm vụ quân sự,
quốc phòng đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới. Tác giả vạch rõ tính thù địch, phản động, phản khoa học của các quan
điểm sai trái của địch; phê phán quan điểm mơ hồ, mất cảnh giác, nhận thức
không đúng về vấn đề đó, từ đó xác định nhiệm vụ của công tác Quân sự,
quốc phòng trong thời gian tới là lực lượng nòng cốt trong phòng, chống
chiến lược DBHB của các thế lực thù địch. Tác giả luận án sẽ kế thừa nội
dung tư duy mới của Đảng về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới
đặc biệt trong chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng về quốc phòng, an ninh.
Một s v ề về “diễn bi n b ” “diễn bi n b ”
ă , của tác giả Nguyễn Mạnh Hưởng [84].
Cuốn sách đã trình tự lôgic từ vấn đề hệ tư tưởng của Đảng ta, khẳng
định sự lãnh đạo của Đảng ta với hệ thống chính trị là tất yếu, đồng thời vạch
trần tính chất thù địch sai trái của kẻ địch trong các học thuyết về tư tưởng
của chúng. Tác giả vận dụng những luận điểm tư tưởng của Đảng trong đấu
tranh chống những luận điểm sai trái thù địch chống phá cách mạng nước ta
giai đoạn hiện nay và đề cập đến những hiện tượng về “tự diễn biến” trong
nội bộ ta đưa ra những giải pháp để chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
V m quyề ò ã ạo c Đ ng Cộng s n Vi t Nam
ều ki n mới, do tác giả Đỗ Hoài Nam chủ biên [95].
Cuốn sách kế thừa nhiều luận điểm cơ bản về vị trí cầm quyền và vai
trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam được đề cập ở nhiều công trình
nghiên cứu trước đây, đồng thời, có bước phát triển mới trong luận giải về
quan niệm cầm quyền, lý luận cầm quyền, quan điểm cơ bản về sự cầm quyền
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường
16
định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN và xã
hội dân sự định hướng XHCN v.v...
Cuốn sách luận giải kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhà nước
pháp quyền XHCN và xã hội dân sự định hướng XHCN là ba trụ cột cơ bản
và được đặt trong một thể thống nhất hữu cơ, tạo ra nhiều điều kiện mới chưa
có tiền lệ trong lịch sử tác động đến sự cầm quyền và lãnh đạo của Đảng cộng
sản Việt Nam; nhấn mạnh tính cạnh tranh của kinh tế thị trường, tính pháp
quyền của nhà nước và tính dân sự của xã hội.
Tập thể tác giả khẳng định: trải qua gần 80 năm lãnh đạo đất nước,
Đảng cộng sản Việt Nam đã thể hiện đầy đủ vai trò là ngọn cờ tập hợp trí tuệ,
sức mạnh và tinh hoa của dân tộc. Đó là vai trò không thể thay thế bởi lẽ nó là
vai trò của trí tuệ và niềm tin, vai trò của sự thống nhất và đoàn kết, vai trò
của sự hướng dẫn quần chúng hành động theo đúng quy luật khách quan và
phù hợp với yêu cầu thực tiễn đất nước. Dù phải đối mặt với nhiều khó khăn,
thậm chí cả những thử thách tưởng chừng khó vượt qua, Đảng vẫn luôn là
người cầm lái kiên định, sáng suốt để lãnh đạo đất nước phát triển tới ngày
hôm nay. Qua phân tích, đánh giá về đảng cầm quyền trong hệ thống chính trị
ở một số nước tư bản chủ nghĩa; sự cầm quyền của Đảng cộng sản Trung
Quốc trong điều kiện cải cách, mở cửa, xây dựng CNXH mang mầu sắc
Trung Quốc; vị trí cầm quyền và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam trước và đặc biệt là trong 20 năm đổi mới; các tác giả đã đưa ra một số
quan điểm, nội dung và giải pháp cơ bản nhằm củng cố và nâng cao vị trí cầm
quyền và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đến năm 2010 và tầm
nhìn đến năm 2020. Tác giả kế thừa nội dung giải pháp nâng cao vị trí vai trò
của Đảng để vận dụng vào luận án, đưa ra giải pháp Đảng lãnh đạo phòng,
chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
1.1.3. C c luận n tiến ĩ, luận văn thạc ĩ
Luận án Q ổi mớ ụ ng cho
17
bộ ơ trong cuộ u tranh ch ng “diễn bi n b ”,
của tác giả Vũ Ngọc m.
Tác giả luận án đã nêu rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, hệ thống công tác
giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ đảng viên ở cơ sở từ đó nâng cao nhận
thức đúng đắn về chính trị tư tưởng và vận dụng vào phòng, chống chiến lược
DBHB, đồng thời đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục chính trị
tư tưởng cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở để phòng, chống DBHB bảo vệ Tổ
quốc. Tuy nhiên do đối tượng, phạm vi nghiên cứu tác giả chỉ đi sâu vào giáo
dục chính trị tư tưởng cho cán bộ đảng viên ở cơ sở. Tác giả kế thừa những
biện pháp giáo dục chính trị tư tưởng để có giải pháp và nội dung cụ thể giúp
các tổ chức cơ sở đảng nâng cao chất lượng giáo dục cho cán bộ đảng viên có
nhận thức chính trị đúng đắn trong chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
Luận án N ụ
ộ ớ ộ ớ , của tác giả
Nguyễn Văn Cần [33].
Tác giả luận án đã phân tích vị trí vai trò, cơ sở lý luận của việc giáo
dục chính trị tư tưởng cho cán bộ chiến sỹ trong quân đội, từ đó có giải pháp
nâng cao chất lượng giáo dục chính trị để cho cán bộ chiến sỹ trong quân đội
nhận thức tư tưởng đúng, đầy đủ hơn, giữ vững lập trường tư tưởng, trung
thành với Đảng, nhân dân hoàn thành mọi nhiệm vụ do Đảng, Nhà nước giao
phó. Đây cũng là những nội dung quý báu mà tác giả sẽ vận dụng để đề ra
biện pháp giáo dục tư tưởng cho cán bộ đảng viên nói chung và lực lượng
nòng cốt trong phòng chống DBHB là Quân đội nhân dân và Công an nhân
dân, cùng toàn Đảng, toàn dân tham gia, chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng
của các thế lực thù địch.
Luận văn Đ u tranh kinh t trong ch “ ễn bi b ” a ch
qu c ớ ạn hi n nay, của tác giả Nguyễn Công
Cời [36].
18
Tác giả luận văn nêu rõ âm mưu DBHB của kẻ địch trên lĩnh vực kinh tế,
chúng muốn lấy kinh tế làm mũi nhọn để chuyển hoá XHCN ở Việt Nam, và từ
kinh tế kẻ địch âm mưu chuyển hoá nhận thức về tư tưởng đặc biệt tư tưởng
chính trị, tư tưởng văn hoá để chúng thực hiện DBHB xoá bỏ CNXH. Trong
chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng thì tư tưởng về kinh tế là vấn đề quan trọng
vì vậy những nội dung trong luận văn sẽ giúp cho tác giả có thêm một số cơ sở
để luận giải và đề ra giải pháp chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
Luận án S ã ạ Đ ớ b ờ ỳ ổ ớ ;
của tác giả Nguyễn Vũ Tiến [123].
Tác giả luận án đã làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn về sự lãnh đạo của
Đảng đối với báo chí, thực trạng sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí trong
thời k đổi mới và đưa ra những giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với báo chí... Trong luận án, tác giả cũng đã đề cập đến vai
trò của báo chí như là một công cụ sắc bén trong công tác tư tưởng, lý luận,
và trong chống DBHB của các thế lực thù địch. Đây là những nội dung tốt, bổ
ích để luận án kế thừa, tiếp thu, vận dụng.
1.1.4. C c bài b o khoa học
Bài Đ ã ạ p ò ng chi c “ ễn bi n b ” bạo
loạn l ổ c l ù ch Vi t Nam hi n nay, của tác giả Tâm
Trang [125].
Trên cơ sở phân tích âm mưu, thủ đoạn của chiến lược DBHB của các
thế lực thù địch, tác giả đã làm rõ quan điểm của Đảng và nêu ra những giải
pháp nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng trong cuộc đấu tranh này:
Mộ tiếp tục giữ vững và củng cố nâng cao niềm tin về mục tiêu lý
tưởng cách mạng.
H đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức cách mạng
trong cán bộ, đảng viên, nhân dân ta về quan điểm, chính sách của Đảng và
nhà nước.
19
B , tiếp tục củng cố thế trận, tổ chức lực lượng, đấu tranh kịp thời.
B giữ vững nguyên tắc sinh hoạt đảng, chấp hành nghiêm nguyên
tắc tập trung dân chủ, ý thức tổ chức kỷ luật, nêu cao tinh thần tự phê bình và
phê bình, giữ sự đoàn kết thống nhất trong đảng.
Nă , chủ động định hình, thiết lập khung lý luận, luận cứ, luận điểm
đấu tranh tư tưởng, sẵn sàng đáp trả lại quan điểm, tư tưởng thù địch.
S , Đẩy mạnh công tác quản lý về nhà nước về báo chí, tuyên truyền.
Bài Ch “ ễn bi n b ” - nhi m vụ quan tr ng. Tác giả nêu
những thành tựu đạt được trong 20 năm thực hiện Cương lĩnh đổi mới -
(Cương lĩnh 1991), đã đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, đời
sống của nhân dân đã có những cải thiện đáng kể, vị thế, uy tín của Việt Nam
đã được nâng cao rõ rệt… Tuy nhiên, đất nước vẫn đang đứng trước nhiều
thách thức, trong đó có chiến lược DBHB của các thế lực thù địch lợi dụng
dân chủ, nhân quyền nhằm: can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định
chính trị của Việt Nam. Đấu tranh chống lại các âm mưu, thủ đoạn DBHB của
chủ nghĩa đế quốc, các phần tử phản động, tay sai và những kẻ thoái hoá về
chính trị là một trong những nhiệm vụ quan trọng của chúng ta trong giai
đoạn cách mạng mới…
Bên cạnh đó còn một số bài như: P ò “ ễn bi b ”
c l ù ă , của tác giả Nguyễn
Thành Chương 35]; “Diễn bi b ” v ột chi c nguy hiểm
c l ù ch ch p Đ ng ta, ch ộ ta của tác giả Trần Duy
[39]; “Diễn bi b ” u qu của tác giả
Nguyễn Viết Hiền [69]; Â ử dụ I ể ch p p
vỡ niềm tin trong chi “ ễn bi b ” l ù ch
của tác giả Nguyễn Thành Hưng 81]; P ò “ ễn bi b ”
20
ă của tác giả Lê Mạnh Hùng
[80]; Cò “ ễn bi b ” ng Vi t Nam của tác giả Bùi
Phan K .
Các bài viết đi sâu vào các lĩnh vực khác nhau nhưng đều xác định
DBHB là chiến lược nguy hiểm, phản cách mạng trên mọi lĩnh vực đặc biệt
trên lĩnh vực tư tưởng và đều nêu rõ đó là nguyên nhân để “tự diễn biến”, “tự
chuyển hoá” trong nội bộ ta là do tác động của DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
Đây là những nội dung hết sức quan trọng cho tác giả nghiên cứu cần kế thừa.
Và còn nhiều bài nói lên sự lãnh đạo của Đảng như: X Đ ng
c m quyền: Một s kinh nghi m từ th c tiễ ổi mới Vi t Nam của tác giả
Nguyễn Phú Trọng [128]; Về s c m quyền c Đ ng của tác giả Nhị Lê [91];
Đ ng Cộng s n Vi t Nam c m quyề ã ạ ớ ã ội trong s
nghi p ổi mới - một s v ề ặt ra của tác giả Hoàng Chí Bảo [19]. Các
bài viết đã tập trung phân tích trong điều kiện có chính quyền, thì nhiệm vụ
của Đảng là xây dựng và giữ vững chính quyền, triệt để sử dụng và phát huy
quyền lực chính quyền để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, trấn áp các
lực lượng chống đối. Đồng thời đã làm rõ các thực trạng, yêu cầu của đất
nước, của thế giới để chỉ ra tính tất yếu của việc Đảng phải đổi mới. Việc đổi
mới sự lãnh đạo trong tình hình hiện nay phải đảm bảo các nguyên tắc như
giữ vững ổn định chính trị, tư tưởng, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Đó
cũng là những nội dung tác giả vận dụng đưa ra các giải pháp trong quá trình
đổi mới, chỉnh đốn Đảng để đấu tranh có hiệu quả với lực lượng chống đối,
âm mưu thực hiện DBHB trên lĩnh vực tư tưởng bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ
và đất nước.
1. 2. NHỮNG NGHIÊN CỨU CỦ NƢỚC NGOÀI
Cuốn B ề v ề ch ng “ ễn bi b ”, do tác giả Nguyễn
Huy Quý (dịch) [110].
Trong cuốn sách các tác giả đã bàn về DBHB, nêu ra những âm mưu
21
thủ đoạn thâm độc của kẻ thù nhất là sau khi Liên Xô sụp đổ. Cuốn sách đã
nêu rõ những âm mưu thủ đoạn của kẻ thù chống lại Học thuyết Mác- Lênin,
tư tưởng Mao Trạch Đông trong quá trình xây dựng CNXH đặc sắc ở Trung
Quốc và biện pháp đấu tranh của Trung Quốc.
Cuốn Cuộ s c giữa hai ch ộ ã ộ : B ề ch ng “diễn bi n
b ” của tác giả Cốc Văn Khang [88].
Tác giả đã đề cập vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong đấu tranh với
các quan điểm trái chiều để xây dựng một xã hội trong sạch. Tác giả cuốn sách
cũng phân tích và so sánh về tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa so với chế
độ tư bản chủ nghĩa trên lĩnh vực lãnh đạo về chính trị, kinh tế và chế độ xã hội.
Sổ ổ ch ng c ặc khu Thẩm Quy n (tài liệu tham
khảo) Bộ Tổ chức Thành uỷ Thẩm Quyến [32].
Cuốn sách đã đề cập nhiều tới nghĩa vụ của đảng viên. Nghĩa vụ của
đảng viên là phải gánh trách nhiệm đưa cương lĩnh của Đảng vào thực tiễn,
hoàn thành nhiệm vụ của Đảng, là yêu cầu cơ bản của Đảng đối với đảng
viên, là cụ thể hoá điều kiện cơ bản mà đảng viên phải có. Điều lệ Đảng quy
định về chấp hành nghĩa vụ của đảng viên về tư tưởng, về chính trị, tổ chức
và tác phong và cả về trình độ khoa học, văn hoá, nghiệp vụ, xác định rõ ràng
trách nhiệm hết mình của đảng viên, đề ra quy phạm hành động của đảng
viên. Tác giả luận án nghiên cứu, kế thừa để đề xuất các giải pháp chống “tự
diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong cán bộ đảng viên giai đoạn hiện nay.
Kỷ yếu X Đ ng c m quyền - kinh nghi m c a Vi t Nam, kinh
nghi m c a Trung Qu c. Hội thảo lý luận giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và
Đảng Cộng sản Trung Quốc [79].
Đây là cuộc hội thảo thu hút được nhiều nhà lãnh đạo, các chuyên gia
đầu ngành về công tác xây dựng Đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng
Cộng sản Trung Quốc. Sách gồm 322 trang. Các bài viết đề cập khá toàn diện
về công tác xây dựng Đảng của mỗi đảng viên và những kinh nghiệm của
22
Đảng Cộng sản Trung Quốc về xây dựng tổ chức đảng và đảng viên. Tác giả
luận án tiếp thu những kinh nghiệm của các tác giả về xây dựng Đảng để đưa
ra các giải pháp lãnh đạo của Đảng chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
Cuốn X Đ ng trong sạch, vững mạ ới, kinh
nghi m Trung Qu c - kinh nghi m c a Vi t Nam của tác giả Lý Bồi Nguyên,
có bài viết “Thực tiễn và sự tìm tòi về xây dựng tổ chức cơ sở và xây dựng
đội ngũ đảng viên của Đảng Cộng sản Trung Quốc” [97].
Cuốn sách nêu những kinh nghiệm về sự phối hợp trong công tác quản
lý đảng viên của Đảng Cộng sản Trung Quốc và đi sâu nghiên cứu tình hình
quản lý đảng viên trong cơ quan nhà nước giai đoạn hiện nay để đề xuất
những giải pháp cụ thể, khả thi phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”.
Tác giả luận án kế thừa kinh nghiệm trong cuốn sách để nghiên cứu đề xuất
giải pháp lãnh đạo chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”.
Bên cạnh đó có một số công bài phát biểu của các nhà lãnh đạo, công
trình nghiên cứu như: K ừ ộ ã ạ ộ
c m quyề ă ờ ă c ch p ò b n ch ng r i
ro của Hạ Quốc Cường [37]. ă ờ b ã ạo, c gắng
ng lớp ã ạ ă ổi, ph ạt của Tôn
Hiểu Quần [107]. K p ơ Đ ển
khai cuộ Đ p u tranh ch
của Chu Húc Đông. P ò “ ễn bi b ” L
ới KẸOXUVĂNINTHẠVÔNG X [86]. Các công trình trên đã nêu
rõ những nguyên lý của công tác tuyên truyền, công tác tư tưởng trong tình
hình thế giới đang diễn biến phức tạp; âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù
địch chống phá các Đảng cộng sản và các nước XHCN; đưa ra các biện pháp
chống tha hoá, biến chất, chống tham nhũng từ đó phòng, chống DBHB có
hiệu quả. Các tác giả đi sâu nghiên cứu về điều kiện nước mình nhưng cho ta
thấy toàn cảnh “bức tranh” DBHB của các thế lực thù địch với một số nước
23
trên thế giới, từ đó thấy rõ sự điều chỉnh cụ thể với Việt Nam.
1.3. NHỮNG KẾT QUẢ ĐÃ ĐƢỢC NGHIÊN CỨU VÀ HƢỚNG NGHIÊN
CỨU CỦA LUẬN ÁN
1.3.1. Kết quả đ n hiên cứu
Các công trình, tài liệu của các tác giả trong và ngoài nước nêu trên đều
tập trung phòng chống, DBHB nói chung. Các công trình khẳng định: trong
giai đoạn mở cửa, hội nhập quốc tế chúng ta đứng trước rất nhiều thời cơ và
thách thức đan xen thì việc giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, thực hiện
đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược là vô cùng vất vả, gian truân. Những công
trình, tài liệu cũng đã làm rõ:
Mộ bản chất, âm mưu, thủ đoạn của chiến lược DBHB chống phá
CNXH và chống phá cách mạng Việt Nam, đưa ra những dự báo thời gian tới.
Nhiều công trình đã đi sâu vào nhiều giải pháp có giá trị thực tiễn trong chống
DBHB và một số giải pháp trong chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
H nêu ra những tác động tiêu cực do DBHB và DBHB trên lĩnh
vực tư tưởng, từ đó khẳng định chúng ta còn rất nhiều yếu kém, bất cập trong
quản lý nhà nước, vì vậy có cơ hội cho chiến lược DBHB có thể xâm nhập và
chống phá chúng ta.
B chỉ ra tầm quan trọng cấp bách của việc chống DBHB nhất là
chống hiện tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ.
B đưa ra một số giải pháp trong hoạt động lãnh đạo của các tổ
chức đảng trong chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng cũng như hoạt động
công tác tư tưởng của Đảng ta.
Nă đã khẳng định nhiệm vụ chống DBHB nói chung và chống
DBHB trên lĩnh vực tư tưởng nói riêng là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn
dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước.
Tuy nhiên trong các công trình chưa có công trình nào nghiên cứu
24
Đảng lãnh đạo chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng và cũng chưa tổng kết
thực tiễn tình hình hoạt động DBHB của các thế lực thù địch và Đảng lãnh
đạo chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng từ năm 1995 đến nay.
1.3.2. Những vấn đề luận n tiếp tục n hiên cứu
Các công trình đề cập ở trên, đã bàn đến vấn đề chống DBHB và chống
DBHB trên lĩnh vực tư tưởng. Một số công trình đã đi sâu luận giải cơ sở lý
luận và thực tiễn về chống DBHB, chỉ ra phương hướng và giải pháp tăng
cường chống DBHB ở một địa bàn cụ thể, lĩnh vực cụ thể. Tuy nhiên, hiện
vẫn còn nhiều vấn đề cần được tiếp tục làm sáng tỏ.
Mộ khái niệm, bản chất, âm mưu, nội dung chống phá cách mạng
Việt Nam trong DBHB trên lĩnh vực tư tưởng. Vấn đề “tự diễn biến”, “tự
chuyển hoá” ở Việt Nam hiện nay.
H tình hình chống phá của các thế lực thù địch bằng DBHB trên
lĩnh vực tư tưởng và tác động nguy hiểm của nó với cách mạng Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.
B làm rõ khái niệm Đảng lãnh đạo chống DBHB trên lĩnh vực tư
tưởng; các chủ thể, lực lượng tham gia và phương thức chống DBHB trên lĩnh
vực tư tưởng.
B đề cập một cách cơ bản, có hệ thống nội dung, phương thức
Đảng lãnh đạo chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay.
Nă chỉ ra các ưu điểm, hạn chế trong sự lãnh đạo của Đảng chống
DBHB trên lĩnh vực tư tưởng trong thời gian qua qua; phân tích các nguyên
nhân của ưu điểm, nguyên nhân của hạn chế và rút ra một số kinh nghiệm
trong Đảng lãnh đạo chống DBHB thời gian tới.
S đề xuất hệ thống giải pháp đồng bộ, khả thi nhằm tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng trong chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng trong những
năm tới.
25
Chƣơn 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM LÃNH ĐẠO CHỐNG “DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH”
TRÊN LĨNH VỰC TƢ TƢỞNG GI I ĐOẠN HIỆN NAY
2.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHỦ YẾU VỀ “DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH” VÀ “DIỄN
BIẾN HOÀ BÌNH” TRÊN LĨNH VỰC TƢ TƢỞNG
2.1.1. Những vấn đề chủ yếu về “diễn biến hoà bình”
Ngày 7/11/1917 cách mạng tháng Mười Nga thành công, nhà nước Xô
Viết ra đời mở ra một thời đại mới trong lịch sử phát triển của xã hội loài
người. Ngay sau khi thành lập, nước Nga Xô Viết dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản do Lênin đứng đầu đã nhanh chóng xây dựng một Nhà nước XHCN
từng bước hùng mạnh. Cùng với sự ra đời của nước Nga Xô Viết, phong trào
Cộng sản cũng phát triển mạnh ở khắp năm châu.
Chủ nghĩa phát xít đứng đầu là phát xít Đức nhận thấy đây là một
“hiểm hoạ” cho ý đồ bành trướng thế giới của mình và để ngăn chặn “hiểm
hoạ Cộng sản”, phát xít Đức cùng với đồng minh là Ý và Nhật đã gây ra cuộc
chiến tranh thế giới lần thứ 2 (1939-1945).
Sau cuộc chiến tàn khốc, mục tiêu của phương Tây tiêu diệt Liên Xô
không những không đạt được, mà trái lại đã có hàng loạt nước XHCN ở châu
Âu, châu Á ra đời. Chủ nghĩa xã hội trở thành một trào lưu thế giới lôi cuốn
các dân tộc bị áp bức khắp năm châu đứng lên tự giải phóng khỏi ách thống
trị của các chế độ thực dân phong kiến. Kể từ đây, thế giới xuất hiện hai hệ
thống xã hội đối lập: hệ thống XHCN và hệ thống TBCN.
Như vậy sau đại chiến thế giới lần II, sự ra đời của hệ thống XHCN cho
thấy phương Tây không thể tiêu diệt được CNXH bằng sức mạnh quân sự. So
sánh tương quan lực lượng trên thế giới có sự thay đổi lớn và sâu sắc. Các
chiến lược gia phương Tây tính toán chọn một giải pháp mới để tiêu diệt
26
CNXH. Lợi dụng những mặt hạn chế, chưa hoàn thiện của xã hội Xô Viết
đang trong bước quá độ lên CNXH và thấy ở đó những yếu tố có thể khai
thác, lợi dụng. Các chiến lược gia Hoa K mà điển hình là G.F.Kennan,
Giáo sư Chính trị của Mỹ từng là đại diện lâm thời của Mỹ tại Liên Xô, cho
rằng thay vì dùng chiến tranh quân sự đánh phá từ bên ngoài vào, phương
Tây cần tìm kiếm cách tác động để các nước này “thay đổi từ bên trong”,
“cần khích lệ những xu hướng tìm lối thoát cho sự sụp đổ hoặc sự suy yếu
dần của chính quyền Xô Viết”. Đây được coi là những ý tưởng ban đầu về
DBHB được hình thành.
Những âm mưu, hoạt động DBHB chống chế độ XHCN đã được các
thế lực đế quốc tiến hành ngay sau chiến tranh thế giới lần thứ II. Quá trình đó
gắn liền với chiến lược “ngăn chặn” của Mỹ. Các đời tổng thống Mỹ, bắt đầu
từ Truman đã tiến hành “chiến tranh lạnh”, đối đầu quyết liệt, toàn diện với
Liên Xô và các nước XHCN.
Bước vào những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX, DBHB đã được
phương Tây đẩy mạnh thực hiện và phát triển dần hoàn thiện trở thành một
chiến lược chống chế độ XHCN trên phạm vi toàn thế giới. Năm 1988,
R.Nicxon cho công bố cuốn sách “ Năm 1999 - Chiến thắng không cần
chiến tranh” trong đó ông ta đã trình bày một cách đầy đủ, toàn diện về
chiến lược DBHB.
“Diễn biến hoà bình” còn có những tên gọi như “biến đổi hoà bình”,
“cạnh tranh hoà bình”, “chuyển hoá hoà bình”, “chiến thắng không cần chiến
tranh”... Hiện nay, có nhiều khái niệm “diễn biến hoà bình” của các nhà
nghiên cứu, các tác giả cả ở trong và ngoài nước.
Theo từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học - Hoàng Phê chủ biên
[100] thì: diễn biến là diễn ra sự biến đổi. ( b ổ
nhiều diễn bi n ph c tạp). Cũng theo đó, “diễn biến hoà bình” là diễn biến
dần dần đến cuối cùng chuyển sang một chế độ chính trị khác, không qua bạo
27
lực. Cũng trong từ điển này, thì thù địch là: kẻ ở phía đối lập, có hành động,
tư tưởng chống đối lại một cách quyết liệt; thủ đoạn là: cách làm khôn khéo,
thường là xảo trá, chỉ cốt sao được mục đích.
Chiến lược DBHB có mục tiêu đầy tham vọng là thủ tiêu hoàn toàn chế
độ CNXH trên phạm vi thế giới. Để thực hiện mục tiêu thủ tiêu chế độ
XHCN, các thế lực thù địch đã sử dụng mọi biện pháp và thủ đoạn, chủ động
tiến công. Tuy cách tiếp cận, trình bày, diễn đạt có khác nhau, song các khái
niệm này đều thống nhất cho rằng DBHB là một phương thức chống CNXH
của các thế lực thù địch bằng các biện pháp chủ yếu là phi quân sự.
Từ những phân tích, cùng với nghiên cứu tham khảo các quan niệm về
DBHB của các công trình nghiên cứu khác, có thể hiểu: “D ễn bi n
b ” c ph ạng c l ù ch, sử dụng tổng
h p p ơ p ể thẩm th p t c
v c ời s ã ộ u, chuyển từ b n tớ ụp ổ
ch ộ ã ội ch ề ộc l p ộ n
chi n tranh.
Qua khái niệm DBHB như trên, có thể thấy:
Về ch thể, tiến hành chiến lược DBHB là các thế lực thù địch chống
các nước XHCN và độc lập dân tộc, tiến bộ.
Về p ơ c, dùng tổng hợp các phương thức, trên tất cả các lĩnh
vực nhưng đều phi vũ trang, không rầm rộ, mà hết sức mềm mại, qua từng
giai đoạn: làm suy yếu, đến chuyển hoá từ bên trong, rồi sụt đổ các nước
XHCN và độc lập dân tộc
Về nội dung, tấn công vào tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội của các
nước XHCN, các nước độc lập dân tộc.
Về mụ , làm suy yếu tiến đến xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản, xoá bỏ CNXH, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
B n ch t của DBHB, chính là cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô
28
sản với giai cấp tư sản, giữa hai giá trị tiến bộ và lạc hậu, giữa CNXH với
CNTB, trong điều kiện mới, hoàn cảnh và phương thức mới
“Diễn biến hoà bình” từ khi ra đời, các thế lực thù địch đã có âm mưu
nhằm chống phá CNXH cũng như phong trào độc lập dân tộc và tiến bộ xã
hội. cả những nước có xu hướng tiến bộ và cả những nước chúng cho là “khó
bảo”, không thận thiện với phương Tây. Bên cạnh đó nhiều quan niệm cho
rằng DBHB không chỉ do các thế lực thù địch ở các nước phương Tây mà có
thể còn ở một số nước khác. Nhưng trong phạm vi của luận án, tác giả nghiên
cứu tới DBHB của các thế lực thù địch ở phương Tây, cũng chỉ đề cập tới nội
dung chúng chống phá CNXH nói chung, chống phá Việt Nam nói riêng và
nghiên cứu chuyên sâu vào việc chống cách mạng Việt Nam bằng DBHB trên
lĩnh vực tư tưởng.
Với cách mạng Việt Nam, sau khi chúng ta hoàn toàn thống nhất đất
nước, các thế lực thù địch cho rằng không thể dùng chiến tranh quân sự để
chống phá và xoá bỏ CNXH ở Việt Nam, chúng triệt để áp dụng chiến lược
DBHB chống phá cách mạng nước ta. Nhìn lại quá trình thực hiện chiến lược
DBHB chống Việt Nam của các thế lực thù địch cho thấy, các hoạt động được
hình thành theo hai giai đoạn rõ rệt:
Từ ă 1995 về ớc: giai đoạn này tình hình khủng hoảng ở Liên
Xô và các nước XHCN ở Đông Âu tác động tiêu cực đến cách mạng Việt
Nam. Bên cạnh đó chúng ta vừa thoát khỏi cuộc chiến tranh, lại bị bao vây
cấm vận toàn diện và đồng thời thực hiện hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ
quốc. Lúc này kinh tế - xã hội trong nước lâm vào khó khăn, khủng hoảng
trầm trọng. Các thế lực thù địch đẩy mạnh các hoạt động chống phá nhằm gây
biến động chính trị, tiến tới bạo loạn lật đổ chế độ XHCN ở Việt Nam. Chúng
chống phá trên nhiều lĩnh vực:
Mộ hoạt động cô lập Việt Nam về ngoại giao, bao vây cấm vận, phá
hoại kinh tế.
H , chống phá tư tưởng, các thế lực thù địch tổ chức và đẩy mạnh
29
hoạt động phá hoại tư tưởng chống Việt Nam chủ yếu từ nước ngoài. Bằng
mọi luận điệu xuyên tạc, chúng tập trung bôi nhọ, hạ thấp uy tín và cô lập
Việt Nam trước cộng đồng quốc tế.
B , yểm trợ cho hoạt động phá hoại của các thế lực phản động trong
và ngoài nước.
Nét nổi bật của giai đoạn này là phương Tây cộng tác chống Việt Nam rất
cực đoan với mục tiêu thông qua cấm vận, kết hợp với tài trợ cho các thế lực
phản động trong và ngoài nước phá hoại để Việt Nam sụp đổ. Song dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với đường lối đúng đắn, công cuộc đổi mới ở
nước ta giành được những thành tựu hết sức to lớn, phá thế bao vây cấm vận, các
hoạt động chống phá của các thế lực thù địch bị ngăn chặn, đẩy lùi, tình hình an
ninh chính trị ổn định, toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững. Năm 1994, Mỹ bỏ cấm
vận, năm 1995 Mỹ chính thức bình thường hoá quan hệ đối với Việt Nam.
Từ ă 1995 n nay: sau khi các nước XHCN ở Liên Xô và Đông Âu
sụp đổ tạo ra sự khủng hoảng nghiêm trọng trong phong trào công nhân quốc
tế, CNXH tạm lâm vào thoái trào đã tác động tiêu cực tới cách mạng Việt
Nam. Lợi dụng những thiếu sót trong công cuộc đổi mới đất nước, các thế lực
thù địch tăng cường hoạt động DBHB chống phá Việt Nam với nhiều phương
thức, thủ đoạn mới.
Th nh t, đẩy mạnh thực hiện hoạt động phá hoại tư tưởng mà trọng
điểm của giai đoạn này là thực hiện chiến lược “ngoại giao thân thiện”.
Th hai, hoạt động phá hoại kinh tế, trong đó tập trung thực hiện chiến
lược “chi phối đầu tư”.
Th ba, hoạt động phá hoại ngầm. Các thế lực thù địch tổ chức thực
hiện chiến lược “khoét sâu nội bộ”, để thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, dùng
thủ đoạn chuyển hoá đội ngũ cán bộ, đảng viên làm “nòng cốt” để chuyển hoá
Đảng Cộng sản Việt Nam. Tách chính quyền xa dần nhân dân, làm lu mờ vai
trò của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với xã hội.
Th đẩy mạnh chống phá trên các lĩnh vực chính trị, văn hoá, xã
30
hội. Chúng thông qua các cơ chế hợp tác để xâm nhập, truyền bá các “chuẩn
mực” giá trị văn hoá tư sản, đồng thời dùng lợi dụng các thủ đoạn xuyên tạc
lịch sử để bành trướng của các nước khác, gây sức ép, áp đặt can thiệp vào
công việc nội bộ, nhằm từng bước lái Việt Nam đi chệch hướng XHCN, thực
hiện đa nguyên, đa đảng.
Có thể thấy, hoạt động DBHB của các thế lực thù địch ở giai đoạn hai
này nhất quán với giai đoạn trước. Tuy nhiên, do bối cảnh và tình hình thay
đổi, các thủ đoạn, phương thức chống phá của các thế lực thù địch đã có sự
điều chỉnh thích hợp nhưng tinh vi và xảo quyệt hơn nhiều. Giai đoạn này
giới tuyến địch - ta không rõ ràng như giai đoạn trước vì vậy dễ dẫn đến việc
mơ hồ, mất cảnh giác trong mọi tầng lớp nhân dân và cán bộ đảng viên. Đặc
biệt giai đoạn này lợi dụng việc bình thường hoá quan hệ với Việt Nam, các
thế lực thù địch tăng cường chống phá trên lĩnh vực tư tưởng và thúc đẩy “Tự
diễn biến”, “Tự chuyển hoá” trong nội bộ chúng ta.
2.1.2. Những vấn đề cơ bản về “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực
tƣ tƣởng
Đại từ điển tiếng Việt [98], cho rằng: Tư tưởng là quan điểm và ý nghĩ
chung của con người đối với hiện thực khách quan, đối với xã hội (nói tổng
quát) và vì vậy có tư tưởng tiến bộ, tư tưởng lạc hậu.
Tư tưởng theo nghĩa rộng, nghĩa chung nhất là một hình thái của ý thức
xã hội được hình thành một cách bền vững, sâu sắc trong tâm trí con người,
có tác dụng lôi cuốn mạnh mẽ, hướng dẫn hành động của con người trong một
thời gian tương đối dài. Tư tưởng hướng hành động tới đích đã vạch ra.
Tư tưởng theo nghĩa hẹp là một hình thái cụ thể của ý thức xã hội, ý
thức cá nhân con người, phản ánh tính chất phong phú, đa dạng trong ý thức
và hướng hành động của con người. Nói đến tư tưởng có thể là tư tưởng
chung của cộng đồng, của một giai cấp hay của một bộ phận nhỏ của giai cấp.
Nhưng tư tưởng cũng có thể là tư tưởng của cá nhân con người.
Như vậy, những luận điểm trên cho thấy sự đa dạng, đa diện của tư tưởng,
31
nhưng cái chung nhất của tư tưởng là sự phản ánh khái quát hiện thực khách
quan trong ý thức, biểu hiện những lợi ích của con người, của giai cấp và của xã
hội. Đó là ý thức phản ánh tồn tại xã hội dưới dạng khái quát, phản ánh lợi ích
của một con người, một tập đoàn, một giai cấp, một dân tộc, một thời đại nhất
định. Sự phản ánh đó có thể đúng và chưa đúng, thậm chí có thể sai.
Do đó, trong xã hội có giai cấp luôn có sự đấu tranh giữa các giai cấp
về mặt tư tưởng để truyền bá tư tưởng của giai cấp mình nhằm mục đích
tập hợp quần chúng, giác ngộ họ theo quan điểm tư tưởng của giai cấp
mình, tạo nên sức mạnh hành động, giành thắng lợi trong đấu tranh giai
cấp. Giai cấp nào thống trị xã hội cũng phải tiến hành làm công tác tư
tưởng của giai cấp mình.
Lĩnh vực tư tưởng, theo từ điển Tiếng Việt [100] định nghĩa: lĩnh vực
là phạm vi hoạt động, phân biệt với các phạm vị hoạt động khác trong xã hội.
Ví dụ: Lĩnh vực khoa học. Lĩnh vực tư tưởng. Lĩnh vực hoạt động
Công tác tư tưởng, được hiểu là hoạt động có mục đích của một giai
cấp, một chính đảng, nhằm hình thành, phát triển, truyền bá hệ tư tưởng của
giai cấp trong quần chúng, thúc đẩy quần chúng đi tới hành động.
Từ những nhận thức cơ bản trên có thể hiểu: “Diễn bi n b ”
ng ớc ta tổng thể ạ ộ p
th l ù ch nhằ ề ạc ch M - L
ng H C M ờng l Đ N ớc Vi N
ộ ú ò bộ
i với Đ N ớc ch ộ ã ội ch .
“Diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tư tưởng là một bộ phận nằm trong
chiến lược DBHB của các thế lực thù địch, nhưng nó là bộ phận chủ yếu nhất,
là mặt trận nóng bỏng nhất, có quan hệ biện chứng, mật thiết với DBHB trên
các lĩnh vực khác, song DBHB trên lĩnh vực tư tưởng ở một góc độ nhất định
nó có thể quyết định và chi phối các hoạt động DBHB trên lĩnh vực khác như
32
kinh tế, văn hoá, khoa học...
Mụ ơ b n c DBHB : gây hoang mang
giao động, giảm sút lòng tin vào nền tảng tư tưởng, sự lãnh đạo của Đảng, chế
độ XHCN, chuyển hoá tư tưởng, dẫn đến hành động chống lại đường lối chủ
trương của Đảng, Nhà nước, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng.
Đ ộng c DBHB : toàn thể cán
bộ, đảng viên, nhân dân, mọi tầng lớp xã hội và các tổ chức đảng, hệ thống
chính quyền, các đoàn thể chính trị xã hội.
Nội dung c a “diễn bi n b ” ng: chúng thực
hiện tổng hợp các nội dung để dần dần thay đổi, chuyển hoá tư tưởng, dẫn
đến hành động chống lại Đảng, Nhà nước và lợi ích của dân tộc, đất nước.
Nhưng chủ yếu những nội dung sau:
Mộ , tuyên truyền hòng phủ nhận các giá trị lý luận và thực tiễn của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận thành tựu của
CNXH ở nước ta, xuyên tạc đường lối của Đảng, nhà nước hòng làm dao
động tư tưởng và hoài nghi của đảng viên, nhân dân vào sự lãnh đạo của
Đảng.
H xâm nhập, truyền bá, ca ngợi các giá trị của CNTB, các học
thuyết tư sản vào Việt Nam với mục đích nó sẽ là tư tưởng chủ đạo trong đời
sống nhân dân.
B kích động, hướng dẫn, cổ vũ tiến hành các hoạt động chống
Đảng và Nhà nước ta tạo ra sự thay về nhận thức, tin tưởng trong đảng viên
và nhân dân ta về vai trò lãnh đạo của Đảng, điều hành của Nhà Nước .
B , hình thành các tổ chức chính trị đối lập trong và ngoài nước
chống phá chúng ta đặc biệt chúng tạo dựng các “ngọn cờ” với luồng tư tưởng
đối lập với Đảng ta.
P ơ c ch p : chúng dùng tổng hợp các phương thức chống
33
phá trên tất cả các lĩnh vực chủ yếu phương thức sau:
Th nh t, dùng thủ đoạn hoạt động tuyên truyền chống phá. Chúng
tuyên truyền xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nền
tảng tư tưởng của Đảng cộng sản Việt Nam, xuyên tạc chủ trương đường lối
của Đảng, lợi dụng một số yếu kém, tồn tại trong lãnh đạo quản lý để xuyên
tạc các thành tựu của Đảng và nhân dân ta đã giành được, làm méo mó mô
hình CNXH và phủ nhận con đường đi lên CNXH mà nhân dân ta đã chọn.
Hoạt động tuyên truyền của chúng làm nhiễu loạn, lẫn lộn thật, giả, trắng đen,
gây hoang mang dao động trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Th hai, dùng thủ đoạn tập hợp lực lượng đối lập chống phá. Chúng
không chỉ tuyên truyền mà còn kết hợp lực lượng bên trong và bên ngoài để
chống phá với nhiều “quân binh chủng” cả hợp pháp và bất hợp pháp. Chúng
kết hợp lực lượng phản động, bất mãn trong nước điều tra thu thập tin tức,
tình hình, mọi mặt về tình hình đất nước để phục vụ cho tuyên truyền chống
phá. Móc nối với phần tử phản cách mạng mua chuộc, lôi kéo các phần tử bất
mãn, đối lập, cũng như cán bộ, đảng viên có lập trường tư tưởng không vững
vàng, thoái hoá, biến chất, kích động họ chống lại ĐCSVN và nhà nước
XHCN lợi dụng dân chủ để tạo dựng ngọn cờ, tập hợp lực lượng cả trong và
ngoài để tiến hành hoạt động phá hoại.
Th ba, dùng thủ đoạn đẩy mạnh chuyển hoá, phân hoá nội bộ. Chúng
tìm cách chuyển hoá, phân hoá, chia rẽ nội bộ Đảng, nội bộ cán bộ, đảng viên
trong hệ thống chính trị, để gây rối loạn trong nước, mất niềm tin, dao động tư
tưởng đến suy yếu vai trò lãnh đạo, vai trò quản lý của cán bộ đảng viên với
nhau và với các tầng lớp nhân dân.
Th lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, nhân quyền, dân chủ. Chúng
thường xuyên kích động chia rẽ đoàn kết dân tộc, kích động đòi tự trị lý khai,
lợi dụng sự nhận thức hạn chế của một số đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng
sâu, vùng xa để kích động xuyên tạc đường lối của Đảng, chính sách pháp luật
34
của Nhà nước, chúng dùng thuyết “mỗi dân tộc một quốc gia” để lừa gạt một
số đồng bào dân tộc thiểu số. Chúng còn lợi dụng vấn đề nhân quyền, dân chủ
để xuyên tạc, tạo cớ gây áp lực hòng can thiệp, hỗ trợ chống phá ta từ nhiều
phía, với luận điệu “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, „thuyết dân chủ tư sản”.
Th ă thông qua các phương tiện truyền thông, các báo đài, các tài
liệu độc hại để “tiến công tâm lý” làm sụp đổ lòng tin, thay đổi tư tưởng. Với
phương châm “Tăng cường công việc của đài phát thanh” để nó “vượt qua
biên giới và biển cả”, vượt qua “màn sắt và tường đá”; hay “Chi một đôla cho
tuyên truyền bằng chi năm đôla cho quốc phòng”, “Phải làm cho tin tức
phương Tây xuyên qua dãy chướng ngại của chủ nghĩa cực quyền”... hoạt
động DBHB trên lĩnh vực tư tưởng chống Việt Nam được các thế lực thù địch
tiến hành với một hệ thống phương tiện phong phú và đa dạng.
Th , thông qua các hợp tác, viện trợ để lôi kéo, chuyển hoá tư
tưởng với cán bộ, đảng viên và nhân dân ta. Trong quá trình hợp tác đầu tư,
viện trợ dưới nhiều danh nghĩa khác nhau, các thế lực thù địch cũng lợi dụng
để tìm cách tuyên truyền, lôi kéo, chuyển hoá tư tưởng, gây giảm sút lòng tin,
hoài nghi vào chế độ, chống lại đường lối quan điểm của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước.
Với những phương thức chống phá chủ yếu nêu trên, các thế lực thù
địch hòng đạt được mục tiêu chuyển hoá tư tưởng trong nội bộ ta nhất là trong
nội bộ Đảng và cùng quá trình đó là tác động để chúng ta “tự diễn biến, “tự
chuyển hoá”.
2.1.3. Một s vấn đề cơ bản về “tự diễn biến”, “tự chuyển ho ” và
“tự diễn biến”, “tự chuyển ho ” trên lĩnh vực tƣ tƣởng
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, là thuật ngữ lần đầu tiên được sử
dụng trong nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng: “Chủ động phòng ngừa,
đấu tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong
nội bộ ta; khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
35
trong bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên” [62, tr.157].
Đây là nhóm thuật ngữ có nhiều tranh luận và cách tiếp cận khác nhau,
nhưng “tự diễn biến” nói chung chỉ sự vận động bên trong của mọi sự vật,
hiện tượng. Quá trình “tự diễn biến” chịu sự tác động và chi phối của cả nhân
tố khách quan và chủ quan, trong đó nhân tố chủ quan là quan trọng. Thông
thường, khi nói đến “tự diễn biến”, người ta thường đề cập đến cả hai khuynh
hướng của quá trình vận động, theo xu hướng tiến bộ và tích cực, hoặc theo
xu hướng tiêu cực, tan rã và thoái trào. “Tự diễn biến” trong trường hợp này
là nói lên với ý nghĩa tiêu cực. Nói cách khác, “tự diễn biến” là một thủ đoạn
cực k nguy hiểm nhưng khó nhận diện trong chiến lược DBHB đồng thời nó
cũng là là hậu quả của DBHB.
“Tự chuyển hoá” là sự nối tiếp của quá trình “tự diễn biến”. hi sự
biến đổi về chất đã làm thay đổi quan điểm tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống của cán bộ, đảng viên sẽ dẫn đến hành động chống lại chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Theo đó, “tự diễn biến” và “tự chuyển hoá” là hai vấn đề, nhưng chúng
nối tiếp nhau và có quan hệ chặt chẽ với nhau. “Tự diễn biến” là quá trình thẩm
thấu từng ngày, từng hoạt động, còn “tự chuyển hoá” là đích đến, là hệ quả của
sự “tự diễn biến”. Như vậy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” là một quá trình,
diễn ra trong một thời gian nhất định. Thời gian dài hay ngắn phụ thuộc vào
từng con người, từng tổ chức. Nó phụ thuộc vào độ vững vàng về lập trường,
bản lĩnh chính trị của từng cán bộ, đảng viên và độ “liêm” về đạo đức, lối
sống của họ.
Đối tượng của “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” mà các thế lực thù địch
nhằm tới là các tổ chức, cá nhân trong hệ thống chính trị và mọi tầng lớp nhân
dân trong xã hội, trong đó tập trung vào hệ thống tổ chức của Đảng, chính
quyền, đoàn thể và đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức nhà nước
và lực lượng vũ trang. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
36
sống, phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, ích kỷ,
tham nhũng, lãng phí, tu tiện, vô nguyên tắc của một bộ phận cán bộ, đảng
viên có chức có quyền để các thế lực thù địch lợi dụng thúc đẩy quá trình “tự
diễn biến”, “tự chuyển hoá”.
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” ở nước ta hiện nay đang diễn biến hết
sức phức tạp trên các lĩnh vực của đời sống xã hội với nhiều mức độ khác
nhau, đặc biệt dưới tác động của DBHB trên lĩnh vực tư tưởng thì “tự diễn
biến”, “tự chuyển hoá” trên lĩnh vực tư tưởng, đang có chiều hướng gia tăng,
khó lường.
“Tự diễn biến”, trên lĩnh vực tư tưởng là sự hoài nghi chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; thiếu niềm tin, hoài nghi, vai trò lãnh đạo của
Đảng, con đường đi lên xã hội chủ nghĩa; xa rời các nguyên lý xây dựng
Đảng, phê phán lịch sử thiếu khách quan, bôi nhọ hình ảnh lãnh tụ và các
đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước…
“Tự chuyển hoá” trên lĩnh vực tư tưởng là sự nối tiếp của quá trình “tự
diễn biến” trên lĩnh vực tư tưởng. Khi sự biến đổi về chất đã làm thay đổi quan
điểm tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ đảng viên, sẽ dẫn đến
hành động chống lại chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Như vậy : “ diễn bi ” “ chuyển ”
s ừ b b ổ ạ c,
l i s ng c a một bộ ph bộ, n ề ớ
c t d n chuẩn m c c ời Cộng s n, c ờ XHCN
d n xa rời, r i ộng ch ng lại ắc, quan ểm
ch M - L ng H C M ờng l a
Đ ng, N ớ ộ ã ội ch .
Quá trình hình thành và phát triển của “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”
trên lĩnh vực tư tưởng với ba giai đoạn:
Mộ , ở giai đoạn ban đầu, đối tượng thể hiện sự hoang mang, dao
37
động về tư tưởng chính trị, sự hoài nghi về sự lãnh đạo của Đảng, tính khoa
học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, và hoài nghi con
đường đi lên CNXH.
H , giai đoạn tiếp theo đối tượng bắt đầu chủ động hơn trong tiếp
nhận những thông tin trái chiều, những luận điệu chống đối, hoặc lý luận
phản động.
B , đối tượng hoàn toàn có tư tưởng phản động, chống đối. Và như vậy
“tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” là hậu quả của DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” của cá nhân nếu không được ngăn
chăn kịp thời triệt để sẽ dẫn đến tổ chức bị suy thoái, tự tan rã. hi “tự diễn
biến”, “tự chuyển hoá” diễn ra ở tầm vĩ mô hoặc trong phần lớn cán bộ, đảng
viên sẽ dẫn đến sự chuyển hoá từ chế độ XHCN sang con đường TBCN. Như
vậy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” là hậu quả của DBHB và là giai đoạn nối
tiếp của DBHB. Nó là hậu quả của DBHB, khi cán bộ đảng viên ta không đủ
bản lĩnh đề kháng chống lại khi bị tác động của DBHB nhất là DBHB trên
lĩnh vực tư tưởng.
Ở Việt Nam, trước sự tấn công của kẻ thù bằng DBHB trên lĩnh vực tư
tưởng và sự thiếu tu dưỡng rèn luyện của một bộ phận cán bộ, đảng viên và
nhân dân, đã làm xuất hiện bệnh cơ hội chính trị, thực dụng, thiếu trung thực
gia tăng, thái độ thờ ơ, giảm sút lòng tin, phai nhạt lý tưởng, kỷ cương, kỷ luật
không nghiêm, nói và làm trái với quan điểm, đường lối của Đảng. Một bộ
phận cán bộ lãnh đạo, đảng viên ở các cấp, các ngành mơ hồ, mất cảnh giác,
thoái hoá, biến chất, chạy chức, chạy quyền, tranh giành, kèn cựa địa vị, tham
nhũng, sách nhiễu nhân dân, vi phạm pháp luật và chuẩn mực văn hoá, đạo
đức, lối sống là những biểu hiện rõ nhất của “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”
trên lĩnh vực tư tưởng trong nội bộ của ta.
Bên cạnh “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, trên lĩnh vực tư tưởng thì
38
cũng còn biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trên lĩnh vực khác như:
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” về kinh tế là sự phủ nhận nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên lĩnh vực văn hoá, xã hội, đạo đức,
lối sống, là sự đề cao, sùng bái, chạy theo văn hoá, lối sống tư sản; từ bỏ các
giá trị văn hoá, đạo đức truyền thống, các giá trị văn hoá, đạo đức xã hội chủ
nghĩa; xuyên tạc lịch sử, phủ nhận nền văn hoá cách mạng; đánh mất bản sắc
văn hoá dân tộc; đề cao chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng… “Tự diễn
biến” về văn hoá, xã hội, đạo đức, lối sống thường là sự khởi đầu cho “tự
diễn biến” về tư tưởng. Trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh, biểu hiện của “tự
diễn biến” “tự chuyển hoá”, là thay đổi bản chất nền quốc phòng, thay đổi
bản chất cách mạng của lực lượng vũ trang, quân đội kiểu mới của giai cấp
vô sản, v.v...
2.1.4. Hoạt độn “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tƣ tƣởng của
c c thế lực thù địch ch ng Việt Nam từ năm 1995 tới nay
Từ sau năm 1995 đến nay lợi dụng việc bình thường hoá quan hệ của
Việt Nam với Mỹ, và chủ trương mở cửa hội nhập quốc tế, các thế lực thù
địch càng đẩy mạnh thực hiện chống phá cách mạng Việt Nam trong đó
DBHB trên lĩnh vực tư tưởng vẫn là mặt trận nóng bỏng nhất. Các thế lực thù
địch sử dụng một số phương thức cơ bản sau:
2.1.4.1. Tăng cường hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc, bôi nhọ lý
luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng
Để thực hiện tuyên truyền chống phá chúng ta, các thế lực thù địch
trước hết tập trung vào phủ nhận các giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận con đường đi lên CNXH và những thành tựu
của cách mạng Việt Nam trong thời gian qua. Chúng luận giải và tìm cách
chứng minh cho rằng CNXH là “không tưởng”, du nhập chủ nghĩa Mác -
Lênin, vào Việt Nam là một “sai lầm lịch sử”, chỉ đưa đến tai hoạ vì chủ
nghĩa Mác - Lênin, là tư tưởng ngoại lai, xa lạ với truyền thống dân tộc;
39
học thuyết Mác - Lênin, chỉ phù hợp với thế kỷ XIX, ở một chừng mực nào
đó với trình độ, lực lượng sản xuất và văn hoá Nga, không phù hợp với thế
kỷ này, với nước ta, từ đó cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời ở
Việt Nam.
Tập trung tuyên truyền, phản bác chủ nghĩa Mác - Lênin trên nhiều lĩnh
vực, trước hết là vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp; vấn đề tập trung dân
chủ; vấn đề chuyên chính vô sản. Mục đích hòng lung lạc tư tưởng, nhiễu loạn
tư tưởng, trắng đen lẫn lộn, dẫn đến xoá bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin trong đời
sống chính trị, tinh thần của nhân dân ta. Bên cạnh đó chúng bôi nhọ, xuyên
đạo đức, tác phong của Hồ Chí Minh hòng phủ nhận sạch trơn giá trị tư tưởng
Hồ Chí Minh với cách mạng Việt Nam
Cùng với phản bác chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
chúng còn tích cực truyền bá tư tưởng đối lập với chủ nghĩa Mac-Lênin.
Chúng đẩy mạnh tuyên truyền các tư tưởng đối lập với CNXH như ca ngợi
chủ nghĩa đa nguyên, chủ nghĩa dân chủ, chủ nghĩa thực dụng, đòi bỏ điều 4
trong Hiến pháp, tuyên truyền đòi xây dựng nhà nước “Tam quyền phân lập”
theo mô hình phương tây. Tất cả những thủ đoạn, nội dung trên đều nhằm lẫn
lộn trắng đen, gây hoang mang dao động niềm tin của nhân dân với Đảng, chế
độ XHCN.
Để thực hiện thủ đoạn tuyên truyền chúng huy động một số lượng
khổng lồ phương tiện truyền thông, đài báo và phát tán các tài liệu chống phá
chúng ta. Theo báo cáo của cơ quan chức năng hiện nay có khoảng có 61 đài
phát thanh và truyền hình có chương trình Việt ngữ, 429 tờ báo, tạp chí, trên
80 nhà xuất bản bên ngoài tập trung tuyên truyền chống phá ta. Mỗi năm có
hơn 3.000 tài liệu chiến tranh tâm lý phá hoại tư tưởng, 28.000 thư ân xá quốc
tế xâm nhập, tán phát qua con đường bưu điện quốc tế, Internet và gần 11.000
ấn phẩm được đưa vào bằng nhiều con đường khác nhau…
2.1.4.2. Ráo riết tập hợp lực lượng, hình thành các tổ chức chính trị
40
đối lập trong nước để chống phá cách mạng Việt Nam
Một trong những thủ đoạn then chốt của DBHB là hình thành lực lượng
đối lập, chống đối Đảng và Nhà nước XHCN, đặc biệt là lực lượng chống đối
từ bên trong. Do vậy, trong DBHB trên lĩnh vực tư tưởng, các thế lực thù địch
tìm mọi cách tác động hướng tới hình thành lực lượng, tổ chức đối lập, lấy đó
làm lực lượng nòng cốt trong các hoạt động chống đối Đảng và Nhà nước ta.
Về tổ chức lực lượng chúng đã tập hợp những phần tử chống đối đủ
mọi loại, trên các lĩnh vực, lập nên những tổ chức hoạt động chống cách mạng
Việt Nam. Chúng tập trung mua chuộc, nâng đỡ, tạo dựng lực lượng trong
nước gồm những phần tử nguỵ quân, nguỵ quyền tay sai trước đây. Đáng lưu
ý chúng tích cực móc nối với những phần tử cơ hội chính trị, bất mãn thoái
hoá, những người có ý kiến bất đồng trong cán bộ, đảng viên, một số văn
nghệ sĩ..., số này tuy ít nhưng rất nguy hiểm, họ đã tham gia viết các bài, các
tài liệu để phát tán trong nước và gửi ra nước ngoài chống phá chúng ta.
Đây là một trong những thủ đoạn thâm độc và hết sức nguy hiểm của
các thế lực thù địch trong DBHB trên lĩnh vực tư tưởng, là bước phát triển, là
kết quả của hoạt động phá hoại tư tưởng. Thực tế cho thấy, hoạt động hình
thành tổ chức và phát triển lực lượng đối lập thường được các thế lực thù địch
tiến hành thông qua các tổ chức mang nhiều danh nghĩa khác nhau, hoặc
thông qua tăng cường liên kết, tài trợ, cổ vũ, chỉ đạo số đối tượng phản động
trong nước, cực đoan, quá khích trong nước để hình thành tổ chức chính trị
đối lập trong nước chống phá cách mạng Việt Nam.
Để tăng cường cho thủ đoạn này, các thế lực thù địch tìm cách nắm các
chức sắc, tín đồ các tôn giáo hòng tạo ra lực lượng đối trọng với Đảng và Nhà
nước, chống lại các quan điểm, tư tưởng, đường lối chủ trương của đảng, nhà
nước. Để nắm quần chúng tín đồ, chúng luôn tìm cách mua chuộc, lôi kéo
hàng ngũ chức sắc các tôn giáo, bởi đây là những người nắm giữ các vị trí
lãnh đạo trong giáo hội, là người dẫn dắt tinh thần, “coi giữ phần hồn” của tín
41
đồ, có vai trò, ảnh hưởng rất lớn đến tâm tư, tình cảm và chi phối các hoạt
động của tín đồ. Chúng triệt để lợi dụng chính sách của nhà nước Việt Nam
để phát triển giáo hội, chọn các linh mục, nhà sư trẻ đưa đi đào tạo ở nước
ngoài để đưa về phụ trách các nhà thờ, chùa chiền trong nước, tham gia lãnh
đạo phong trào.
Các thế lực thù địch đặc biệt mở rộng các đối tượng trong sinh viên
Việt Nam. Thông qua các hoạt động văn hoá, xã hội, cấp học bổng để thu hút
sinh viên tham gia; trong đó đáng chú ý là hoạt động của các tổ chức hội
nhóm tôn giáo trong học sinh sinh viên. Với phương thức hoạt động này,
trong những năm qua các tổ chức hội nhóm, đặc biệt là những tổ chức hội
nhóm tôn giáo đã thu hút một số lượng không nhỏ sinh viên tham gia.
Các tổ chức chính trị đối lập cũng được chúng cũng tổ chức huấn
luyện, đào tạo, xây dựng những “ngọn cờ”, “nòng cốt” làm hạt nhân phát triển
lực lượng chống đối trong nước. Thông qua hoạt động của các đoàn quan
chức chính phủ, quốc hội sang Việt Nam và các cơ quan ngoại giao đặt tại
Việt Nam, họ công khai gặp gỡ, ủng hộ các hoạt động chống Việt Nam.
Bằng sự hậu thuẫn của các thế lực thù địch ở bên ngoài, kết hợp với
bọn phản động trong nước trong nước tăng cường liên kết, tập hợp lực lượng,
hình thành tổ chức chính trị đối lập. Theo các cơ quan chức năng từ năm 2006
đến nay, cơ quan an ninh Việt Nam đã phát hiện 34 tổ chức chính trị đối lập
do các đối tượng phản động trong nước được sự hỗ trợ từ bên ngoài, cầm đầu
hoặc khởi xướng công bố thành lập.
2.1.4.3. Tích cực thúc đẩy hoạt động chuyển hoá, phân hoá nội bộ
Tác động để chuyển hoá nội bộ cán bộ, đảng viên, công chức, nhân
viên trong hệ thống chính trị được các thế lực thù địch đặc biệt quan tâm, sử
dụng trong DBHB trên lĩnh vực tư tưởng nhất là một bộ phận cán bộ, đảng
viên có khả năng tiếp cận bí mật nhà nước, bí mật nội bộ. Các hoạt động
chuyển hoá, phân hoá nội bộ được các thế lực thù địch thực hiện như sau:
Mộ , tác động mua chuộc bằng tiền, hiện vật có giá trị làm thay đổi
42
tư tưởng, dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong một số cán bộ, đảng
viên nhất là ở cấp chiến lược và cơ quan trọng yếu, từ đó tác động để họ tham
mưu, đề xuất hòng thay đổi đường lối, của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà
nước theo hướng phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, thay đổi định hướng
XHCN trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước.
Đã có một số đối tượng lợi dụng vai trò, uy tín và vị trí công tác để đưa
ra các quan điểm, tư tưởng đối lập, kêu gọi và vận động các tầng lớp xã hội
ủng hộ. Thậm chí, có đối tượng cũng lợi dụng việc được tham gia soạn thảo
các văn kiện, thực hiện các đề tài khoa học liên quan đến công tác xây dựng
Đảng đã tìm cách để lồng ghép và đưa ra các quan điểm, nội dung tác động
nhằm làm chệch hướng đường lối, chủ trương của Đảng.
Điển hình là có đối tượng đã công khai phân tích một cách sai trái chủ
trương đổi mới, dân chủ trong đường lối của Đảng, đưa một số nội dung lệch
lạc vào trong các văn bản của Đảng, đòi ra báo tư nhân, đòi Đảng chấp nhận
các quan điểm đối lập. Có người với cương vị được giao đã đưa ra quan điểm
“định hướng rộng”, đòi Đảng phải “cởi trói”, chỉ đạo một số nhà văn và trí
thức thực hiện đề tài công khai kêu gọi xoá bỏ điều 4 trong Hiến pháp, đòi
Đảng phải chấp nhận đa nguyên, đa Đảng, từ đó gây chia rẽ Đảng với dân,
mất lòng tin vào con đường đi lên CNXH.
Điển hình như năm 2003, lợi dụng việc được Đảng đồng ý cho Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam mở “diễn đàn trí thức”, một số đối tượng trong nước và
các phần tử thù địch ở nước ngoài đã công khai tuyên truyền quan điểm chống
Đảng, Nhà nước, đưa ra các quan điểm sai trái trong hội thảo. Các đối tượng
cũng mưu đồ tạo làn sóng công luận gây áp lực nhằm làm thay đổi đường lối,
chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước như đòi thay đổi Hiến pháp, đòi
xoá bỏ điều 4 trong Hiến pháp, đòi thay Quốc k , Quốc ca, đòi đổi tên Đảng,
đòi trung lập hoá quân đội, công an...
H , tác động kích động, bôi xấu lẫn nhau làm phân hoá nội bộ cán
43
bộ trong hệ thống chính trị, lôi kéo những người đang có biểu hiện bất mãn,
cung cấp thông tin sai lạc, tác động chuyển hoá nhận thức để họ ủng hộ hoạt
động chống đối của đối tượng phản động. Lợi dụng những cán bộ đang có
biểu hiện bất mãn hoặc bất đồng quan điểm, chính kiến ở một khía cạnh nào
đó trong công việc hoặc trong quan hệ để cung cấp những thông tin sai lệch
nhằm chuyển hoá nhận thức của họ đi đến ủng hộ những hoạt động của các
thế lực thù địch. Nguy hiểm hơn, những người này lại biến những người từng
là bạn, là đồng chí của mình thành thù địch, đối lập
2.1.4.4. Lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc, nhân quyền, dân chủ để
chống phá
Chúng lợi dụng vấn đề tôn giáo của đồng bào có tín ngưỡng tôn giáo để
vu cáo xuyên tạc Đảng, Nhà nước ta đàn áp tôn giáo, chia rẽ người có tín
ngưỡng và không tín ngưỡng để chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc.
Hiện nay, ở Việt Nam có 6 tôn giáo lớn và hàng chục tôn giáo nhỏ với
số tín đồ chiếm khoảng 25% dân số. Trong lĩnh vực tôn giáo, giai đoạn từ
năm 1995 đến nay, các thế lực thù địch ở nước ngoài hậu thuẫn cho các đối
tượng trong nước hoạt động vừa theo phương thức thích nghi thời đại, phát
triển tôn giáo mở rộng ảnh hưởng để nắm quần chúng, mặt khác, đẩy mạnh
hoạt động chống Nhà nước ta một cách cực đoan, gây ra hàng chục điểm nóng
về tôn giáo để gây rối trật tự ở nhiều địa bàn, tăng cường hoạt động truyền
đạo trái phép ở các thành phố lớn trong lớp trẻ và ở các địa bàn chiến lược ở
vùng núi phía Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam bộ [132, tr.34].
Mặc dù chính sách tôn giáo tự do tín ngưỡng và tự do không tín
ngưỡng của Đảng và nhà nước đã được quần chúng có đạo và quần chúng
không theo đạo thực hiện tốt đẹp trong lịch sử cách mạng Việt Nam từ trước
tới nay, nhưng kẻ địch luôn âm mưu và hoạt động chống phá. Các thế lực thù
địch cho rằng, trong cuộc chiến tranh, Đảng cộng sản Việt Nam đã dựa vào ba
lực lượng chính là “liên minh công - nông”, “tôn giáo” và “dân tộc” để chiến
44
phương Tây cũng sẽ sử dụng chính những lực lượng đó để DBHB trên lĩnh
vực tư tưởng, “chuyển hoá” Việt Nam.
Do vậy, các thế lực thù địch vẫn triệt để lợi dụng “con bài tôn giáo”,
vấn đề tôn giáo để thực hiện ý đồ chính trị. Chúng liên tục nuôi dưỡng, kích
động và chỉ đạo bọn phản động, cực đoan trong các tôn giáo tiến hành các
hoạt động chống phá Việt Nam. Cùng với việc rao giảng, tuyên truyền về giá
trị “tự do, dân chủ” theo kiểu phương Tây, họ đang tích cực hỗ trợ, chỉ đạo
các nhóm phản động trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài củng cố các tổ
chức, hội đoàn núp bóng tôn giáo để tập hợp lực lượng lớn mạnh nhằm tạo
ảnh hưởng, chi phối hoạt động tôn giáo tại Việt Nam.
Cùng với vấn đề tôn giáo, các thế lực thù địch rất chú trọng đến vấn đề
dân tộc. Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, theo điều tra dân số công bố năm
1998 Việt Nam hiện có 54 dân tộc, đông nhất là người Kinh chiếm 87% dân
số, sống chủ yếu ở đồng bằng, đô thị và số ít sống xen kẽ ở trung du miền núi.
Còn lại 53 dân tộc khác, chiếm 13% dân số sống chủ yếu là miền núi, vùng
sâu, vùng xa [132, tr.53].
Trong lịch sử phát triển lâu dài của đất nước, trong công cuộc dựng
nước và giữ nước, các dân tộc Việt Nam đã sớm đoàn kết gắn bó cùng nhau
chung sức để tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, những
thành công trong việc xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc chúng ta cũng
còn những tồn tại trong việc giải quyết những chính sách dân tộc cụ thể, làm
cho sự phát triển trong các dân tộc, các vùng miền còn có những khoảng cách
về phát triển kinh tế. Một vài dân tộc thiểu số có quan hệ thân tộc với những
tổ chức quốc tế và một bộ phận người Việt Nam ở nước ngoài nên đã có sự so
sánh và khi bị kích động, lừa gạt dễ bùng nổ xung đột. Những sự kiện xảy ra
ở Tây Nguyên đầu năm 2001, năm 2004; sự kiện ở Mường Nhé năm 2011 là
một minh chứng cụ thể.
Trong vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” các thế lực thù địch ra sức đề
45
cao dân chủ Tư sản, xuyên tạc bản chất nền dân chủ của ta, vu khống Việt
Nam vi phạm “dân chủ”, “nhân quyền”, từ đó đòi: “giải tán sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam với đội ngũ trí thức”, từ sự thua lỗ của một số tập
đoàn kinh tế chúng suy diễn: “kinh tế nhà nước không thể giữ vai trò chủ đạo”
và “phải xoá sổ kinh tế nhà nước”. Các thế lực thù địch còn đưa ra những
chiêu bài "nhân quyền cao hơn chủ quyền”, “nhân quyền không biên giới”,
vấn đề “nhân quyền về bản chất không còn được coi là công việc thuộc nội bộ
của một quốc gia”, để chống phá chúng ta.
Việc lợi dụng các vấn đề “dân tộc, dân chủ, nhân quyền và tự do tôn giáo”
để gây sức ép với Việt Nam và can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam đã
trở thành thủ đoạn không bao giờ thiếu của các thế lực thù địch chống phá cách
mạng Việt Nam nhất là trong DBHB trên lĩnh vực tư tưởng. Chúng cũng khẳng
định, sẽ sử dụng vấn đề tôn giáo và dân tộc như những “khối u ác tính” để thử sức
chống đỡ của chính quyền Việt Nam.
2.1.4.5. Triệt để lợi dụng các phương tiện, truyền thông, sử dụng tài
liệu xuyên tạc độc hại để chống phá tư tưởng
Phương thức tuyên truyền chống phá này cũng rất đa dạng các thế lực
thù địch huy động, hệ thống phương tiện truyền thông, thông tin, báo, đài,
chương trình phát thanh và phương tiện điện tử hiện đại với một hệ thống rất
đồ sộ liên tục ngày đêm thực hiện tuyên truyền chống phá chúng ta.
Các thế lực thù địch còn câu kết với nhau để xuất bản các tờ báo “chui”
tuyên truyền phá hoại tư tưởng như bán nguyệt san “Tổ quốc”, tập san “Tự do
ngôn luận”... Trong thời gian diễn ra Hội nghị PEC 14 và chuyến thăm Việt
Nam của Tổng thống Mỹ năm 2006, tổ chức “Chính phủ Việt Nam tự do” đã
chỉ đạo thu thập số điện thoại, email của học sinh, sinh viên, thanh niên để thử
nghiệm chương trình phát thanh trực tuyến qua mạng internet và điện thoại di
động nhằm kêu gọi, kích động xuống đường biểu tình.
Manh động hơn, trong năm 2005 và 2006, tổ chức “Chính phủ Việt
46
Nam tự do” còn triển khai các kế hoạch đưa phương tiện phá sóng vào nước
ta với ý đồ chèn cướp sóng Đài Tiếng nói Việt Nam và các đài địa phương để
phát chương trình “phát thanh lưu động”, tuyên truyền kích động biểu tình
bạo loạn, khuếch trương thanh thế, kêu gọi toàn dân “tổng nổi dậy” cướp
chính quyền.
Báo điện tử, Internet, từ khi hệ thống báo điện tử ra đời, mạng internet
phát triển mạnh, thông tin trên mạng đã và đang trở thành “đối thủ” cạnh
tranh của các loại hình báo chí khác. Thế giới hiện có gần 2,3 tỷ người sử
dụng internet, chiếm xấp xỉ 1/3 số dân toàn cầu, tăng hơn 6 lần so với năm
2000. Đến nay, nước ta có hơn 30,9 triệu người sử dụng Internet, bằng
35,33% dân số. Bên cạnh hàng chục báo, tạp chí điện tử, gần 1.200 trang
thông tin điện tử đăng ký hoạt động, còn có hàng triệu blog cá nhân, hàng
trăm mạng xã hội không đăng ký, đặt máy chủ ở nước ngoài.
Các phương tiện bưu chính - viễn thông (fax, internet), blog cá nhân,
các trang mạng xã hội facebook... trong những năm qua đã được sử dụng triệt
để trong hoạt động phá hoại tư tưởng của các thế lực thù địch khi Việt Nam
mở rộng hoà nhập vào mạng lưới thông tin quốc tế. Điển hình những năm
2000 - 2001, các đối tượng cầm đầu trong tổ chức phản động lợi dụng đồng
bào dân tộc thiểu số đã sử dụng triệt để các phương tiện điện thoại, fax trong
liên lạc, chỉ đạo hoạt động chống đối, gây rối mất ổn định tại địa bàn Tây
Nguyên. Điển hình là mạng điện tử của các tổ chức phản động Việt Tân, Vì
dân, hối 8406, Lực lượng “dân tộc cứu nguy Tổ quốc”, “Người Việt vì dân
tộc Việt”.... Chúng tạo ra các trang mạng, các blog mang tên: Dân làm báo,
Quan làm báo, Dân luận, Tổ quốc, Đối thoại, X-cafes, Đàn chim Việt, TTX
vỉa hè, Đối thoại Online... Đặc biệt, gần đây trên mạng Internet còn xuất hiện
hàng chục trang web có máy chủ ở nước ngoài, mạo danh các đồng chí uỷ
viên Bộ chính trị, uỷ viên Trung ương đảng, lãnh đạo các ban, bộ, ngành,
đoàn thể, địa phương, một số nhân vật được chú ý [132, tr.61].
Một số thông tin, luận điệu sai trái, độc hại còn nhân danh “đấu tranh
47
chống tham nhũng tiêu cực”, “bảo vệ chủ quyền biển đảo”, “phản biện xã hội”,
“hiến kế cho Đảng”, “đấu tranh chống tham nhũng tiêu cực”, thực chất là nhằm
hạ thấp uy tín của Đảng, Nhà nước, chia rẽ nội bộ, chia rẽ Đảng, Nhà nước với
nhân dân. Những luận điệu nêu trên được gieo rắc một cách tinh vi, với những
thủ đoạn thổi phồng, bịa đặt hoặc mập mờ, lẫn lộn thật giả, cho nên đã tác động
tiêu cực đến một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân ta.
Cùng với việc dùng các phương tiện truyền thông, đài báo, phương tiện
liên lạc điện tử tiên tiến chúng còn trực tiếp chuyển và phát tán tài liệu vào để
chống phá chúng ta. Việc chuyển và phát tán tài liệu cũng rất đa dạng, một số
loại tài liệu do bọn phản động lưu vong chuyển vào trong nước; tài liệu do
bọn phản động trong nước, số phần tử bất mãn viết và phát tán dưới danh
nghĩa, loại tài liệu tung tin thất thiệt, trắng trợn vu cáo “một số cán bộ cấp cao
có tiền gửi ở ngân hàng nước ngoài; một số loại tài liệu là những hồi ký của
một số người tự in, tự phát hành. Ngoài ra, còn rất nhiều loại văn hoá phẩm có
nội dung không tốt như: băng hình, đĩa hình, phim sex,... Theo thống kê chưa
đầy đủ, trong 5 năm trở lại đây, bình quân mỗi năm ta thu giữ 4.856 tài liệu
phản động, 16.530 thư. Riêng Hải quan sân bay Tân Sơn Nhất có những năm
đã phát hiện thu giữ 2.131 cuộn băng video, đĩa có nội dung xấu, phản động,
đồi truỵ, 843 tạp chí sách báo có nội dung như trên. Ngay năm sau đó, số
băng thu được là 1.501, tài liệu sách báo là 434. Đó là số ta thu được, liệu còn
bao nhiêu ta chưa phát hiện ra?... Những con số trên cho ta thấy, kẻ thù đặc
biệt coi trọng phương này để làm chuyển hoá tư tưởng của nhân dân ta, thực
hiện DBHB trên lĩnh vực tư tưởng [132, tr.62].
Mục đích và hậu quả của các loại tài liệu được chuyển vào và phát tán
tạo mâu thuẫn trong nội bộ của chúng ta gây sự hoang mang, nghi ngờ, làm
xói mòn niềm tin của quần chúng nhân dân, của cán bộ, đảng viên vào sự lãnh
đạo của Đảng, vào chế độ XHCN, nhất là trong khi chúng ta chuẩn bị tổ chức
Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XII của Đảng.
2.1.4.6. Thông qua hợp tác viện trợ để lôi kéo, chuyển hoá chống phá
48
Phương thức này, các thế lực thù địch thường sử dụng là tăng cường
giao lưu, trao đổi, tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế, tăng cường hoạt động trên
lĩnh vực giáo dục đào tạo để chuyển hoá tư tưởng, tuyên truyền chống phá cách
mạng nước ta. Chúng tổ chức giao lưu, trao đổi dưới nhiều hình thức, với mọi
đối tượng có thể tiếp xúc được để tuyên truyền phá hoại điển hình như:
Mộ tăng cường tiếp xúc trực tiếp với nhiều đối tượng như công
nhân, học sinh, sinh viên, thanh niên…. Dưới nhiều hình thức trao đổi, toạ
đàm, mạn đàm, giao lưu…để tuyên truyền phá hoại tư tưởng. Đây là hình
thức được các thế lực thù địch sử dụng phổ biến trong hoạt động tuyên truyền
phá hoại tư tưởng đối với chúng ta trong những năm qua. Với hình thức này,
đối tượng tuyên truyền chủ yếu dùng lời nói, kết hợp với các hiện vật, phương
tiện có chứa nội dung tuyên truyền, để truyền bá những luận điệu chống đối
vai trò lãnh đạo của Đảng, xuyên tạc chế độ XHCN, truyền bá các giá trị tư
sản phương Tây.
H , thông qua hội thảo, giảng dạy đã đưa ra các câu hỏi trắc nghiệm
có nội dung tuyên truyền kích động về các vấn đề đa nguyên, đa đảng, phủ
nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ nhận chế độ XHCN. Với thủ đoạn này,
đối phương vừa tác động đến tâm tư, suy nghĩ của sinh viên, đồng thời qua đó
thăm dò, nắm bắt được quan điểm, tư tưởng của sinh viên về tình hình chính
trị, xã hội từ đó có các hình thức, nội dung tác động phù hợp. Thủ đoạn tuyên
truyền này được các đối tượng thù địch sử dụng khá mạnh vào các năm 2001,
2002 ở các trường đại học và gần đây khi các cấp đang chuẩn bị Đại hội Đảng
tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII.
Từ những nội dung, thủ đoạn, phương thức mà các thế lực thù địch sử
dụng trong chiến lược DBHB nêu trên có thể thấy hoạt động của DBHB trên
lĩnh vực tư tưởng đã và đang gây ra những tác hại không nhỏ, có thể nêu lên ở
một số biểu hiện sau đây.
Một số cán bộ, đảng viên và nhân dân hoang mang, dao động, mất
49
phương hướng, giảm sút lòng tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hoặc muốn
đi theo hướng phát triển chế độ TBCN.
Kết quả cuộc điều tra dư luận xã hội trong những năm gần đây cho
thấy, tỷ lệ số người cho rằng “hiện tượng tán phát tài liệu xấu, tuyên truyền
các quan điểm sai trái, xuyên tạc, bôi nhọ chế độ là vấn đề bức xúc trong
năm” tăng dần từ 17% đến 28% qua các năm; tác động của thủ đoạn “DBHB”
tăng từ 5% đến 10% qua các năm [17, tr.3].
Kết quả cuộc điều tra về tác động của các quan điểm, hành động sai
trái, thù địch trong DBHB trên lĩnh vực tư tưởng, tới tâm trạng, thái độ cán
bộ, đảng viên và nhân dân; cho thấy, có tới 33% đối tượng cán bộ và 45% đối
tượng nhân dân được hỏi đã trả lời: các thông tin xuyên tạc, vu cáo, bịa đặt,
nói xấu Đảng, nói xấu chế độ, bôi nhọ lãnh đạo của các thế lực thù địch đã tác
động lớn đến sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, lý tưởng XHCN trong xã hội
hiện nay [17, tr.3].
Đáng nói còn có biểu hiện mong muốn đa nguyên chính trị, đa đảng đối
lập ở một số cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị. Có cán bộ,
đảng viên đã viết, phát ngôn và phát tán tài liệu có nội dung trái với Cương
lĩnh chính trị, đường lối, nghị quyết, chỉ thị của Đảng; công khai phê phán sự
lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Chính phủ. hông ít cán bộ, đảng
viên, tuy vẫn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vẫn gắn bó với chế độ,
nhưng thụ động, thiếu bản lĩnh, không dám đấu tranh với những luận điệu sai
trái, của các thế lực thù địch hoặc do nhận thức không đầy đủ, bị lợi dụng nên
đã ủng hộ, phụ hoạ, truyền bá những quan điểm chính trị phản động.
Đã xuất hiện một bộ phận học sinh, sinh viên thiếu lòng tin vào con
đường đi lên CNXH và công cuộc đổi mới do Đảng lãnh đạo, nhận thức hạn
chế về âm mưu, hoạt động chống phá ta của các thế lực thù địch, đề cao quan
điểm “dân chủ tư sản”; sống thực dụng, ích kỷ, cá biệt có hiện tượng tha hoá
50
về nhân cách; một số viết bài cho đài nước ngoài nói xấu chế độ ta để xin học
bổng đi du học và không quay trở lại Việt Nam phục vụ đất nước, phục vụ
nhân dân, trong đó có chính những người thân của họ.
Trên lĩnh vực văn hoá, văn nghệ, báo chí, xuất bản đã xuất hiện khuynh
hướng cực đoan phản ánh hiện thực đời sống chỉ là những yếu kém, tiêu cực;
một số tác phẩm bôi đen, phỉ báng lịch sử, “hạ bệ thần tượng”, phủ định sạch
trơn, quay lưng lại với đời sống nhân dân. Một khuynh hướng khác, nguy
hiểm hơn, đòi “lật án” để bào chữa, thậm chí “phong Thánh” cho một số nhà
văn, nhà hoạt động chính trị - xã hội từng có sai lầm trong quá khứ; đòi “khơi
thông một dòng văn học đang âm thầm chảy” (dòng văn học của những cây
bút chống cộng trước nắm 1975); đòi đánh giá lại và đề cao “công lao” của
một số nhân vật lịch sử đối với đất nước; mở diễn đàn bàn thảo, tranh luận
nhiều vấn đề nhạy cảm.
Sự hậu thuẫn, tài trợ của các thế lực thù địch nước ngoài đối với hoạt
động DBHB trên lĩnh vực tư tưởng ngày càng tăng cường, thậm chí là công
khai làm gia tăng mâu thuẫn nội bộ nhân dân. Thực tế cho thấy, các hoạt động
DBHB trên lĩnh vực tư tưởng đang có những biến thái đáng lo ngại có xu
hướng mở rộng, xu hướng liên kết của tổ chức phản động giữa các vùng,
miền; giữa đối tượng khác với đối tượng chống đối trong tôn giáo, phản cách
mạng được tha và liên kết với các đối tượng phản động lưu vong ngày càng
đẩy mạnh khiến chúng ta rất khó ngăn chặn. Những biểu hiện này nếu không
có những biện pháp hữu hiệu sẽ trở thành nhân tố nguy hiểm đe doạ sự ổn
định chính trị của đất nước.
Với những tác động của âm mưu, thủ đoạn thâm hiểm, các thế lực thù
địch đã tác động làm phân hoá nội bộ Đảng, làm tha hoá một bộ phận cán bộ
đảng viên. Điều này đã được Đảng đánh giá tại Nghị quyết Trung ương 5
khoá X và trong Nghị quyết TW 4 khoá XI:
Một số mặt tiêu cực về tư tưởng đang có biểu hiện phức tạp và
51
nghiêm trọng hơn, tiềm ẩn các nguy cơ trực tiếp gây mất ổn định
chính trị. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức và lối
sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân
chưa được khắc phục có hiệu quả, làm giảm sức chiến đấu của
Đảng và lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước. Trong Đảng đã
xuất hiện các ý kiến khác nhau vè một số vấn đề cơ bản liên quan
tới đường lối, chủ trưởng, chính sách của Đảng, Nhà nước ảnh
hưởng tới sự thống nhất tư tưởng. Trong cán bộ, đảng viên và nhân
dân, sinh viên, kể cả trong những lực lượng nòng cốt, gắn bó với
Đảng, với chế độ đã phát sinh một số vấn đề tư tưởng, tâm trạng
bức xúc đáng lo ngại, ảnh hưởng tới tính đồng thuận xã hội. Các
phần tử cơ hội chính trị trong nước móc nối với thế lực thù địch,
phản động ở nước ngoài xuyên tạc, vu cáo, chống phá quyết liệt
Đảng, Nhà nước ta trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng [63, tr.3].
Trong đánh giá tình hình và nguyên nhân của Nghị quyết TW 4 (khoá
XI) đảng ta nhận định:
Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng
viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện
khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích
kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị,
cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tu tiện, vô nguyên tắc... [56,tr.3].
Và Đảng ta khẳng định tình hình trên do nhiều nguyên nhân trong đó
có nguyên nhân:
…các thế lực thù địch không từ bỏ âm mưu và hoạt động “diễn biến hoà
bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, tăng cường hoạt động
chống phá, chia rẽ nội bộ Đảng và phá hoại mối quan hệ gắn bó giữa
Đảng với nhân dân, làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng [63, tr.4].
Với những hậu quả nêu trên, có thể nói hoạt động phá hoại tư tưởng
52
của các thế lực thù địch đã tác động tiêu cực trên nhiều mặt của đời sống xã
hội từ chính trị, kinh tế, văn hoá, tư tưởng, đạo đức, lối sống... Nguy hiểm
hơn là cùng với những nguyên nhân chủ quan khác, hoạt động DBHB trên
lĩnh vực tư tưởng của các thế lực thù địch đang là nguyên nhân trực tiếp góp
phần tạo nên nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong một bộ phận cán
bộ, đảng viên của chúng ta.
2.2. CHỐNG “DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH” VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
LÃNH ĐẠO CHỐNG “DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH” TRÊN LĨNH VỰC TƢ TƢỞNG -
KHÁI NIỆM, CHỦ THỂ, NỘI DUNG, PHƢƠNG THỨC
2.2.1. Kh i niệm, nội dun , phƣơn thức ch n “diễn biến hoà
bình” trên lĩnh vực tƣ tƣởng
2.2.1.1. Khái niệm
Theo Từ điển Tiếng Việt [100] định nghĩa ch ng là hoạt động ngược
lại, gây trở lực cho hành động của ai hoặc tác động của cái gì, dùng sức mạnh
vật chất hay tinh thần để chống lại hay diệt trừ, ví dụ: chống thiên tai; chống
lại kẻ thù; chống các tổ chức phản động.
Như vậy “chống” là hành động chủ động của chủ thể làm thất bại hành
động của đối phương. Trong thực hiện DBHB trên lĩnh vực tư tưởng của các
thế lực thù địch, chúng dùng mọi cách thức thủ đoạn trên lĩnh vực tư tưởng để
chống phá chúng ta. Để hạn chế tác động đến vô hiệu hoá các hành động, thủ
đoạn đó chúng ta cũng phải dùng mọi phương thức, biện pháp chống lại các
cách thức thủ đoạn đó. Qua tiếp cận, nghiên cứu có thể đưa ra khái niệm về
chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng là: Ch DBHB ng
c ch thể ù c mạ c, bi p p ề ng, tổ
ch p p ể ă ặ t bạ ạn c a
p ơ trong DBHB ng.
Như vậy cũng cần hiểu chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng là hoạt động
ở cao hơn, quyết liệt hơn, chủ động hơn so với phê phán các biểu hiện, hành
động suy thoái về tư tưởng chính trị, phê phán DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
53
2.2.1.2. Nội dung chống “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tư tưởng
Cũng trên cơ sở khái niệm vừa nêu và nội dung các thế lực thù địch
chống phá bằng DBHB trên lĩnh vực tư tưởng thì nội dung cơ bản phải chống
DBHB trên lĩnh vực tư tưởng là:
Th nh t, chống việc chúng tuyên truyền, xuyên tạc, học thuyết Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam, về lý luận CNXH. Đây là nội dung hàng đầu chúng tập trung chống phá
với mục đích chúng ta xa rời rồi từ bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng và nhân
dân ta đã lựa chọn, làm cho mọi người hoài nghi về con đường đi lên CNXH
và phủ nhận tính ưu việt cũng như những thành tựu mà chúng ta đã đạt được
trong quá trình xây dựng CNXH vừa qua.
Th hai, chống việc chúng tập hợp lực lượng phản động trong nước kết
hợp với nước ngoài; tập hợp bọn bất mãn, cơ hội hình thành lực lượng đối lập
để chống phá cách mạng. Đây là nội dung rất quan trọng vì các thế lực thù
địch luôn tìm mọi cách tạo dựng “ngọn cờ” chống đối với Đảng, chính quyền
để đạt được mục đích trong DBHB trên lĩnh vực tư tưởng. Chúng tập hợp,
quy nạp những phần tử phản động, bất mãn, thoái hoá biến chất, kết hợp với
các phần tử phản động bất hảo trong và ngoài nước hình thành các tổ chức đối
lập chống phá chúng ta từ bên trong và từ bên ngoài.
Th ba, chống lại các thủ đoạn hòng chia rẽ đoàn kết trong nội bộ
Đảng, hệ thống chính trị chính quyền, trong nhân dân và giữa dân với Đảng,
Đảng với chính quyền. Đây là nội dung thường xuyên liên tục chúng ta phải
cảnh giác, các thế lực thù địch luôn chống phá nội bộ ta từ nhiều phía, chúng
dùng mọi thủ đoạn tuyên truyền, kích động, xuyên tạc, vu cáo hòng chia rẽ
đoàn kết nội bộ Đảng, chính quyền, nhân dân đặc biệt chia rẽ Đảng với dân,
Đảng với chính quyền.
Th t chống việc chúng lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn
giáo, dân tộc để chia rẽ khối đoàn kết dân tộc. Đây là nội dung được chúng
thường xuyên lợi dụng triệt để và thường xuyên, đặc biệt Việt Nam ta có 54
54
dân tộc anh em và lực lượng tôn giáo đa dạng, đông đảo đó là điều kiện cho
chúng lợi dụng kích động, xuyên tạc, chia rẽ kết hợp với chiêu bài “dân chủ”,
“nhân quyền” để chống phá chúng ta.
Th ă , chống lại việc chúng dùng các phương tiện tuyên truyền, chi
phối đầu tư, hợp tác đồng thời kết hợp chúng làm chuyển hoá, suy thoái về
chính trị, tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đây cũng là việc
chúng làm thường xuyên, liên tục với nhiều thủ đoạn thâm độc, tinh vi. Qua
tuyên truyền kết hợp với lôi kéo về kinh tế như đầu tư, hợp tác chúng hòng
chuyển hoá tư tưởng, chính trị, lối sống của cán bộ, đảng viên và nhân dân và
dẫn đến hiện tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ chúng ta.
2.2.1.3. Phương thức chống “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tư tưởng
Để thực hiện chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng trên cơ sở những nội
dung cơ bản nêu trên chúng ta cần dùng nhiều phương thức kết hợp trên các
lĩnh vực để làm thất bại thủ đoạn thâm độc của kẻ thù.
Mộ , thông qua việc đưa ra các Nghị quyết, chủ trương, đường lối
của Đảng, các biện pháp tổ chức lãnh đạo, các biện pháp hành chính, luật
pháp để chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
H thông qua công tác tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục để cán
bộ, đảng viên và nhân dân hiểu đầy đủ, đúng về những âm mưu, thủ đoạn
thâm độc của kẻ thù, qua đó cần trang bị nhận thức đầy đủ về trách nhiệm của
mỗi con người, tổ chức để từ đó có biện pháp, cách thức phòng và chống có
hiệu quả DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
B thông qua công tác cán bộ, tổ chức và phát huy vai trò tiên
phong, gương mẫu của mỗi cán bộ đảng viên để thực hiện chống DBHB trên
lĩnh vực tư tưởng có hiệu quả. Mỗi cán bộ đảng viên phải thực sự là chiến sỹ
tiên phong trên lĩnh vực này, qua đó làm gương, nhân rộng trong cộng đồng
nhân dân cùng tạo thành sức mạnh tổng hợp chống DBHB trên lĩnh vực tư
tưởng đạt kết quả tốt.
55
B , đồng thời phát huy vai trò của các lực lượng chuyên môn,
chuyên trách cùng với hệ thống các mặt trận đoàn thể, các tổ chức chính trị xã
hội cùng thực hiện chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
Nă thông qua công tác kiểm tra giám sát, sơ tổng kết kinh nghiệm
đúc rút những bài học quý báu trên thực tiễn để thực hiện chống DBHB trên
lĩnh vực tư tưởng. Đây là phương thức vô cùng quan trọng, qua kiểm tra giám
phát phát hiện điểm mạnh, yếu kịp thời chấn chỉnh, đưa ra phương thức phù
hợp để thực hiện nhiệm vụ. Cũng qua sơ tổng kết, rút kinh nghiệm vừa đạt
được những mục đích nêu trên lại có điều kiện học tập, trao đổi kinh nghiệm
thực tế, phát hiện âm mưu thủ đoạn mới của kẻ thù từ đó chống DBHB trên
lĩnh vực tư tưởng có hiệu quả ngày càng cao.
2.2.2. Kh i niệm Đản l nh đạo ch n “diễn biến hoà bình” trên
lĩnh vực tƣ tƣởng
Theo Từ điển Tiếng Việt [100] định nghĩa ã ạo: đề ra chủ trương,
đường lối và tổ chức, động viên thực hiện. Ví dụ: Đảng lãnh đạo cách mạng;
Đảng lãnh đạo quần chúng đấu tranh; lãnh đạo hội nghị.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo đất nước đấu tranh giành
thắng lợi trong các cuộc chiến tranh giải pháp dân tộc, bảo vệ Tổ quốc. Trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, qua từng giai đoạn cách mạng, Đảng
đã thể hiện vai trò tiên phong trong việc lãnh đạo toàn quân, toàn dân chống
các thế lực thù địch bảo vệ thành quả cách mạng.
Trong cuộc đấu tranh đó, Đảng đã sử dụng nhiều biện pháp khác nhau
tạo sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của toàn Đảng, toàn dân
trong việc phát hiện, đấu tranh ngăn chặn, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn,
phương thức và hoạt động của kẻ thù, trong đó có công tác tư tưởng.
Công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận cấu
thành rất quan trọng trong hoạt động lãnh đạo của Đảng. Như vậy: Đ ng cộng
s n Vi N ã ạo ch DBHB ổng thể
56
hoạ ộ ã ạo, chỉ ạo, tổ ch c, sử dụng s c mạnh tổng h p c a Đ ng
c h th ể p ò ừa, p n, ă ặn, l t bại
, th ạn, c l ù ch trong DBHB
p p n b o v Đ N ớ ộ ã ội ch
Về ch thể ã ạo, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất,
chủ thể lãnh đạo chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
Tuy nhiên, sự lãnh đạo của Đảng được phân công cụ thể như: Ban chấp
hành Trung ương, trực tiếp và thường xuyên là Bộ chính trị, Ban bí thư trung
ương Đảng là cơ quan lãnh đạo cao nhất, đề ra quan điểm, chủ trương, nhiệm
vụ và giải pháp lớn. Các tổ chức đảng ở các địa phương, bộ, ban, ngành…có
nhiệm vụ tham mưu, đề xuất các chủ trương và tổ chức thực hiện các chủ
trương của Ban chấp hành Trung ương, Bộ chính trị, Ban bí thư về chống
DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
Các đảng, đoàn, ban cán sự đảng, theo chức năng, nhiệm vụ của mình,
lãnh đạo cơ quan và phối hợp với các cơ quan chức năng tiến hành chống
DBHB trên lĩnh vực tư tưởng ở cơ quan, tổ chức, địa phương mình. Các ban
thường vụ, cấp uỷ ở địa phương lãnh đạo chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng
trên địa bàn, cơ quan mình.
Đ ã ạo, là toàn hệ thống chính trị, toàn quân, toàn dân, các
tổ chức Chính trị - Xã hội, các đơn vị cơ quan chuyên trách, chuyên môn.
Đảng lãnh đạo chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng dùng sức mạnh
tổng hợp của toàn hệ thống đảng, chính quyền, đoàn thể và nhân dân và lực
lượng chuyên môn, chuyên trách của đảng và chính quyền như các cơ quan
chuyên môn làm công tác tư tưởng, nghiên cứu, tuyên truyền. Lực lượng
chuyên trách như quân đội, công an, dân quân tự vệ, bảo vệ chính trị nội bộ,
tình báo và những cơ quan đặc biệt. Các cơ quan lập pháp, hành pháp của Nhà
nước có trách nhiệm ban hành pháp luật tiến hành các biện pháp quản lý nhà
nước về an ninh, trật tự. Viện kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân có trách
57
nhiệm phối hợp với các cơ quan bảo vệ pháp luật để làm tốt việc việc phát
hiện, ngăn chặn, xử lý. Các tổ chức khác trong hệ thống chính trị như mặt trận
tổ quốc, các đoàn thể Chính trị - Xã hội có trách nhiệm tuyên truyền giáo dục
thanh niên, đoàn viên, ngăn ngừa, đồng thời tuyên truyền, động viên các tầng
lớp nhân dân cảnh giác, chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
2.2.3. Nội dun Đản l nh đạo ch n “diễn biến hoà bình” trên
lĩnh vực tƣ tƣởng
2.2.3.1. Lãnh đạo Đảng, chính quyền các cấp xác định nhiệm vụ, chủ
trương và phương thức tiến hành chống “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực
tư tưởng
Đây là nội dung quan trọng hàng đầu trong các nội dung lãnh đạo
của Đảng, nếu xác định đúng sẽ quyết định đến hiệu quả nhiệm vụ chống
DBHB trên lĩnh vực tư tưởng. Đảng đã xác định đây là trách nhiệm của
Đảng, vì vậy từ Trung ương đảng đến cấp uỷ các cấp phải xác định rõ ràng
đường lối, quan điểm, tư tưởng, xây dựng, phát triển hệ thống lý luận, hoàn
thiện các thể chế pháp luật... thực hiện nhiệm vụ chống DBHB trên lĩnh
vực tư tưởng và chỉ đạo các lực lượng sử dụng phương thức tiến hành đấu
tranh với từng lĩnh vực, trong từng giai đoạn. Công việc này chặt chẽ hay
không có ý nghĩa quyết định chất lượng, kết quả của nhiệm vụ chống
DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
Trong xác định đường lối chủ trương và các giải pháp thực hiện, Đảng
cần xác định nhiệm vụ mang tính chiến lược lâu dài, đồng thời có nhiệm vụ
cụ thể trong từng giai đoạn.
Để xác định được đường lối, chủ trương đúng đắn, Đảng làm công tác
nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, dự báo tình hình, khả năng hình thành và
phương thức hoạt động DBHB trên lĩnh vực tư tưởng trong từng thời điểm,
từng giai đoạn nhất là trong bối cảnh biến động phức tạp của quốc tế và trong
nước, và âm mưu, phương thức của các thế lực thù địch tiến hành trong từng
58
giai đoạn. Trong dự báo cần dự báo nhiều tình huống nhiều phương án, đây là
vấn đề quan trong trong bối cảnh hiện nay.
Trên thực tế, sự chống phá của các thế lực thù địch với cách mạng Việt
Nam trong DBHB trên lĩnh vực tư tưởng không hề giống nhau, thậm chí
chúng luôn biết phát hiện và tìm ra những điểm yếu trong vai trò lãnh đạo,
quản lý tại một lĩnh vực, địa bàn cụ thể để lợi dụng tấn công đặc biệt khi có sự
kiện nhạy cảm ảnh hưởng tới tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân.
2.2.3.2. Lãnh đạo hệ thống các cơ quan tư tưởng, văn hoá và truyền
thông chống “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tư tưởng
Đảng xác định trách nhiệm của các cơ quan tư tưởng, văn hoá, truyền
thông, báo chí cách mạng là một trong những cơ quan hàng đầu trong hệ
thống Đảng, hệ thống chính trị để bảo vệ những giá trị khoa học của lý luận
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh bảo vệ đường lối của Đảng
cộng sản Việt Nam. Đảng lấy đó làm cơ sở để đấu tranh phê phán những quan
điểm lệch lạc, vạch trần sự man trá, nguỵ biện, xuyên tạc của các thế lực thù
địch đối với đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Bên
cạnh đó các hình thức truyền thông, báo chí, văn hoá cũng là kênh thông tin
quan trọng góp phần đắc lực vào việc điều chỉnh nhận thức và hành vi trong
cán bộ, đảng viên, nhân dân và trong toàn xã hội, khơi dậy lòng yêu nước, yêu
Đảng, yêu Tổ quốc và bảo vệ Tổ quốc.
Do vậy, Đảng thường xuyên tăng cường sự lãnh đạo và quản lý công
tác tư tưởng, văn hoá, truyền thông, báo chí, xuất bản…. Các tổ chức đảng từ
Trung ương đến cơ sở, các cấp uỷ và đảng viên được giao trách nhiệm trên
lĩnh vực này thường xuyên giáo dục, quán triệt và triển khai nâng cao việc
nhận thức và trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, nhân viên trong các cơ quan
đó trong nhiệm vụ chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng. Đồng thời Đảng lãnh
đạo, chỉ đạo, chủ động sử dụng công cụ quan trọng này trong đấu tranh phản
bác các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch và các phần tử xấu hoạt
59
động chống Đảng và Nhà nước. Quá trình thực hiện các cơ quan này cũng
đồng thời thực hiện tuyên truyền để điều chỉnh nhận thức cho cán bộ, đảng
viên và nhân dân góp phần quan trọng trong lãnh đạo chống DBHB trên lĩnh
vực tư tưởng.
2.2.3.3. Lãnh đạo các cơ quan, ban ngành, tổ chức chính trị xã hội
phối hợp chống “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tư tưởng
Kết quả chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng tu thuộc vào cách thức
lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng, tổ chức lực lượng và phối hợp các cơ quan, lực
lượng của cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp cùng phát huy sức mạnh tổng hợp.
Đảng lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, ban ngành, lực lượng trong hệ
thống chính trị phát huy vai trò trách nhiệm của mình đồng thời phối hợp với
các tổ chức Chính trị - xã hội như Mặt trận tổ quốc, Liên đoàn lao động Việt
Nam, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt
Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam và các đoàn thể nhân dân khác tạo lên sức
mạnh tổng hợp trong chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng. Đây là nội dung vô
cùng quan trọng, vì lãnh đạo, tổ chức, phối hợp chặt chẽ đồng bộ các lực
lượng, các tổ chức trong nước ngoài việc tạo thành sức mạnh tổng hợp to lớn
bên trong đồng thời cũng là điều kiện để tranh thủ được sự ủng hộ từ bên
ngoài, ngăn chặn sự can thiệp, vu cáo của các thế lực thù địch, sự tiếp tay của
các tổ chức phản động bên ngoài.
Mỗi cấp uỷ đảng các cấp, có sự phân công nhiệm vụ cho từng thành
viên, mỗi thành viên đảm trách một hoặc nhiều nhiệm vụ, mỗi nhiệm vụ sẽ
phải cụ thể hoá từng giai đoạn. Trong lãnh đạo, chỉ đạo cần phân công trách
nhiệm cho các lực lượng tham gia đấu tranh và trong mỗi nội dung, tình
huống sẽ có phương án cụ thể để phối hợp nhịp nhàng mới tạo được sức mạnh
tổng hợp. Như vậy Đảng không chỉ là người lãnh đạo, mà còn là người tổ
chức, chỉ huy để các lực lượng có sự gắn kết và phối hợp đồng bộ trong
nhiệm vụ chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
60
2.2.3.4. Lãnh đạo, xây dựng lực lượng chuyên trách vững mạnh
trong chống “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tư tưởng
Việc xây dựng, nâng cao chất lượng, trình độ cho đội ngũ cán bộ
chuyên trách có vai trò hết sức quan trọng trong chống DBHB trên lĩnh vực
tư tưởng. Đội ngũ chuyên trách bao gồm đội ngũ cán bộ lý luận chính trị,
các nhà khoa học chuyên môn, đội ngũ làm công tác nghiên cứu dự báo, lực
lượng bảo vệ chính trị nội bộ, tình báo, các lực công an quân đội đặc biệt
đặc thù…
Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng này đủ về số lượng, tốt về chất
lượng, tinh thông nghiệp vụ, vững vàng, kiên định về lập trường chính trị, tư
tưởng. Lãnh đạo xây dựng đội ngũ chuyên trách này phải tuyển lựa, tìm chọn
trong số hoạt động chuyên môn hoặc có kế hoạch phát hiện, đào tạo từ đầu
nhưng cần có năng khiếu hoặc khả năng vượt trội đặc biệt.
Quá trình xây dựng và đào tạo lực lượng chuyên trách luôn được cập
nhật thông tin đầy đủ, bám sát tình hình thực tế của cuộc đấu tranh trên mặt
trận tư tưởng, nắm chắc quan điểm đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam
và cả những điều chỉnh từng thời điểm trong việc lãnh đạo chỉ đạo đường lối
phát triển của đất nước. Họ là lực lượng hiểu rõ, nắm tình hình chuyên sâu để
tham mưu cho Đảng nội dung, phương thức tiến hành đấu tranh trên mặt trận
tư tưởng, lý luận.
Các thế lực thù địch cũng có những cơ quan, lực lượng đặc biệt để
chuyên chống phá chúng ta về từng lĩnh vực, nhất là lĩnh vực tư tưởng, vì vậy
lực lượng chuyên trách của ta cũng phải đủ khả năng đáp trả lại các hoạt động
đó và còn làm tốt công tác phòng ngừa, vô hiệu hoá bọn chúng. Trong quá
trình lãnh đạo xây dựng lực lượng chuyên trách Đảng quan tâm xây dựng lực
lượng công an, quân đội có tính chất đặc biệt chuyên xử lý những sự cố đặc
biệt khi có tình huống, đó là lực lượng đặc biệt tinh nhuệ có nhiều trang thiết
bị tối tân, tiên tiến để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
61
Lực lượng bảo vệ chính trị nội bộ ngoài việc thực hiện nhiệm vụ
thường xuyên thì trong chống diễn biến hoà bình trên lĩnh vực tư tưởng cần
được củng cố hoàn thiện, đầy đủ cả về trình độ và số lượng tránh kiêm nhiệm
nhiều việc. Đây là những cán bộ chiến sỹ “gác cổng” cho an ninh nội bộ ta
đồng thời là những người phát hiện, sàng lọc, đấu tranh với các phần tử chống
Đảng, chống chế độ, thoái hoá biến chất hoặc đối tượng “tự chuyển hoá”.
2.2.3.5. Lãnh đạo Nhà nước, chính quyền các cấp thực hiện chức
năng quản lý nhà nước trong đấu tranh chống “diễn biến hoà bình” trên
lĩnh vực tư tưởng
Cuộc đấu tranh chống DBHB chỉ thực sự có hiệu quả khi có sự kết hợp
chặt chẽ giữa công tác tuyên truyền, giáo dục với công tác quản lý nhà nước,
bằng các công cụ pháp luật. Phải pháp lý hoá các luật, các hình thức, biện
pháp đấu tranh chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng. Vì vậy Đảng phải lãnh
đạo các cơ quan nhà nước đề cao vai trò, trách nhiệm trong cuộc đấu tranh
chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
Đảng lãnh đạo các cơ quan nhà nước từng ngành, từng cấp thực hiện tốt
chức năng quản lý nhà nước của mình trên lĩnh vực được giao đồng thời cùng
phối hợp, chỉ đạo các cơ quan chức năng cụ thể hoá đường lối, chủ trương của
Đảng thành luật, quy định, quy chế để mọi công dân trong xã hội thực hiện.
Ngoài ra khi phát hiện những bất cập thì cần kiến nghị với Đảng, Quốc hội,
Chính phủ ban hành những văn bản pháp lý cần thiết để có cơ sở hành lang
pháp lý áp dụng các biện pháp kịp thời.
Trong công tác quản lý nhà nước nếu không được lãnh đạo kịp thời đầy
đủ nhiều cơ quan, ban ngành, địa phương dễ xa dân, hành dân, vô nguyên tắc,
tu tiện tiến tới tham ô, tham nhũng. Điều đó dễ làm cho cán bộ bị thoái hoá
biến chất, các thế lực thù địch lợi dụng cài cắm, xuyên tạc hoặc tác động để
thực hiện đẩy nhanh “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ ta.
2.2.3.6. Lãnh đạo các tổ chức Đảng và toàn hệ thống chính trị chống
62
“tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ
Bài học về nguyên nhân trực tiếp, thể hiện ở giai đoạn cuối cùng của
cuộc khủng hoảng - sụp đổ Liên Xô, Đông Âu là xuất hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hoá” ngay trong nội bộ ban lãnh đạo của Đảng cộng sản Liên Xô và
Nhà nước Liên Xô. Và ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã lo lắng rất sớm về sự suy
thoái đạo đức, lối sống của những người “lên mặt làm quan cách mạng”, sa vào
chủ nghĩa cá nhân trong hàng ngũ cán bộ, đảng viên, vì vậy phòng, chống “tự
diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ ta thực chất là phòng ngừa, triệt tiêu
nguyên nhân chủ quan dẫn đến thoái hoá, biến chất là vấn đề có ý nghĩa quyết
định, là nhiệm vụ then chốt trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.
Trong quá trình lãnh đạo nhiệm vụ này, một trong các vấn đề mấu chốt
là cần làm cho mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhận diện rõ âm mưu, thủ
đoạn, các hình thức, biện pháp của các thế lực thù địch thúc đẩy “tự diễn
biến”, “tự chuyển hoá” nội bộ ta. Lãnh đạo quán triệt cho toàn thể cán bộ,
đảng viên và nhân dân hiểu rằng, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” có thể xảy
ra và chúng tấn công ở mọi cấp, mọi ngành, mọi lĩnh vực, không riêng các cơ
quan trọng yếu hoặc ở trung ương.
Trong quá trình lãnh đạo, các cấp uỷ, tổ chức đảng phải thường xuyên
quán triệt lãnh đạo nội dung chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” chính là
một “mắt xích” quan trọng lãnh đạo chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng vì.
Như vậy lãnh đạo chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng đồng thời cũng phải
lãnh đạo chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, muốn lãnh đạo chống “tự
diễn biến”, “tự chuyển hoá” đạt kết quả thì phải lãnh đạo chống DBHB trên
lĩnh vực tư tưởng một cách triệt để.
2.2.4. Phƣơn thức Đản l nh đạo ch ng “diễn biến hoà bình” trên
lĩnh vực tƣ tƣởng
2.2.4.1. Đảng lãnh đạo bằng nghị quyết, chỉ thị của Ban chấp hành
63
Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và của Đảng uỷ các cấp
Trong quá trình lãnh đạo chống DBHB nói chung và chống DBHB trên
lĩnh vực tư tưởng nói riêng, Đảng lãnh đạo bằng nghị quyết, chỉ thị, quy
định... Đây là những định hướng, nền tảng cơ sở quan trọng quyết định
phương hướng, nội dung, phương pháp tiến hành để cả hệ thống chính trị và
toàn xã hội thực hiện. Các nghị quyết lãnh đạo phải kịp thời, sát đúng, kịp
thời điều chỉnh trong từng giai đoạn và được quán triệt, thực hiện, kiểm tra
thường xuyên.
Các cấp uỷ đảng căn cứ vào nghị quyết chỉ thị, hướng dẫn của cấp trên
và tình hình cụ thể của cơ quan, đơn vị, địa phương mình ra các nghị quyết,
chỉ thị thường xuyên hoặc chuyên đề lãnh đạo trong từng giai đoạn hoặc trong
một quá trình. Các cơ quan đơn vị chuyên môn chuyên trách ngoài việc ra
nghị quyết của cấp mình cần tham mưu, hướng dẫn cho các cấp uỷ, tổ chức
đảng khác ra nghị quyết cho phù hợp, sát đúng và kịp thời.
Cùng với việc ban hành các văn kiện lãnh đạo, chỉ đạo Đảng tiến hành
nhiều biện pháp đồng bộ như trực tiếp chỉ đạo Hội đồng lý luận Trung ương
và một số cơ quan khoa học nghiên cứu, thảo luận những vấn đề lý luận và
thực tiễn chưa sáng tỏ, làm căn cứ để nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng
viên đấu tranh phê phán các quan điểm lệch lạc, sai trái, bảo vệ đường lối
quan điểm của Đảng. Ra các nghị quyết lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan thông
tấn, báo chí viết bài đấu tranh làm rõ đúng sai, tranh thủ quần chúng, tạo dư
luận xã hội phê phán những quan điểm sai trái, tăng cường sự thống nhất về
nhận thức tư tưởng, chính trị trong Đảng và xã hội. Qua đó các nghị quyết,
chỉ thị của Đảng kịp đi vào cuộc sống và nhiệm vụ chống DBHB trên lĩnh vực
tư tưởng đạt được nhiều kết quả, làm thất bại nhiều âm mưu, thủ đoạn của các
thế lực thù địch giữ vững sự ổn định chính trị đất nước.
2.2.4.2. Đảng lãnh đạo bằng tuyên truyền, thuyết phục sâu rộng
trong Đảng và toàn thể nhân dân
Lãnh đạo thông qua công tác tuyên truyền, Đảng truyền tải nội dung
64
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và luật pháp Nhà nước, đến cán
bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân, từ đó củng cố lòng tin vào sự lãnh đạo
của Đảng, quản lý của Nhà nước, kịp thời có những đóng góp hoàn thiện và
điều chỉnh đường lối chủ trương sát đúng với thực tiễn, cũng qua công tác
tuyên truyền mọi người nhận thức đúng trách nhiệm vai trò của mình để tự
giác thực hiện nghĩa vụ trách nhiệm của mình chống lại các âm mưu xuyên
tạc, chống phá của các thế lực thù địch.
Trong lãnh đạo tuyên truyền, giúp cho mọi người nắm chắc về âm mưu, thủ
đoạn, phương thức DBHB của các thế lực thù địch để từ đó mọi người có nhận thức
sâu sắc và tự “miễn dịch” với các “nọc độc” về tư tưởng của các thế lực thù địch.
Trong tình hình hiện nay từ Trung ương Đảng, Bộ chính trị, Ban bí thư
đến cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp đã và đang thường xuyên đổi mới và không
ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền, thuyết phục, giáo
dục chính trị, tư tưởng, giáo dục tình hình, nhiệm vụ cách mạng, bằng nhiều
hình thức, biện pháp khác nhau. Các cấp uỷ cũng thường xuyên quán triệt,
tuyên truyền, tổ chức thực hiện đầy đủ các nghị quyết như Nghị quyết Trung
ương 5 (khoá X) về công tác tư tưởng lý luận và báo chí. Công tác thông tin,
tuyên truyền, báo chí, xuất bản... luôn bám sát nhiệm vụ của cách mạng, bảo
đảm đúng định hướng chính trị, đúng quan điểm, đường lối của Đảng. Các
hoạt động văn hoá, văn nghệ cũng được lãnh đạo, tổ chức thường xuyên, sát
nhiệm vụ thực tiễn của cơ quan, đơn vị, địa phương và góp phần có hiệu quả
vào nhiệm vụ chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
2.2.4.3. Lãnh đạo bằng hành động gương mẫu của đảng viên
Đường lối chủ trương chính sách của Đảng chỉ đến được với nhân dân,
được thực hiện hiệu quả khi đội ngũ cán bộ đảng viên thực sự tiên phong
gương mẫu, họ là những chiến sỹ xung kích trên mặt trận tư tưởng. Chính vì
vậy cán bộ đảng viên phải luôn là người tiên phong, gương mẫu trong việc
chống lại các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá ta trên
lĩnh vực tư tưởng. Các cấp uỷ, tổ chức đảng thường xuyên giáo dục, phổ biến
65
và lãnh đạo công tác tư tưởng để cán bộ đảng viên nhận thức rõ, đủ âm mưu
thâm độc của kẻ thù, chủ động chống lại và làm gương cho quần chúng, nhân
dân noi theo. Sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên là vấn đề rất quan trọng để
củng cố uy tín và vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng trong chống DBHB trên
lĩnh vực tư tưởng của các thế lực thù địch.
Lãnh đạo để mỗi cán bộ, đảng viên phải xác định rõ trách nhiệm của
mình trên vị trí công tác được giao, đồng thời phải thường xuyên tự mình rèn
luyện, trau rồi đạo đức cách mạng, thực sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công,
vô tư, thấy đúng phải bảo vệ, thấy sai phải đấu tranh, phê phán. hông được
để nhu cầu, lợi ích, tình cảm cá nhân, gia đình chi phối trong khi thực hiện
nhiệm vụ... nếu thiếu tinh thần trách nhiệm, không tự tu dưỡng, tự rèn luyện,
vụ lợi sẽ dẫn đến vi phạm chuẩn mực đạo đức, vi phạm kỷ luật đảng, tự mình
đánh mất vai trò lãnh đạo quần chúng trong cuộc đấu tranh này.
Trong lãnh đạo cũng kịp thời phát hiện những hiện tượng suy thoái,
giảm sút lòng tin, không thực sự tiên phong gương mẫu trong đội ngũ cán bộ
đảng viên để từ đó điều chỉnh, uốn nắn hoặc đưa ra khỏi hàng ngũ của Đảng,
hệ thống chính trị.
2.2.4.4. Lãnh đạo bằng công tác tổ chức, thông qua tổ chức đảng và
công tác cán bộ trong cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội
Thông qua các tổ chức, các tổ chức cơ sở đảng để rèn luyện cán bộ
đảng viên đồng thời củng cố đoàn kết. Cán bộ đảng viên trong tổ chức được
học tập, quán triệt nâng cao nhận thức trau dồi phẩm chất cách mạng đồng
thời nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch từ đó chủ động chống
DBHB trên lĩnh vực tư tưởng có hiệu quả và giú đỡ quần chúng nhân dân
nhận thức đầy đủ, có biện pháp tích cực cùng chống DBHB trên lĩnh vực tư
tưởng. Cũng trong quá trình đó lãnh đạo đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống
“tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” và suy thoái về tư tưởng, chính trị; thực hiện
nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ; đẩy mạnh tự phê bình và phê bình;
chống tham nhũng, lãng phí; giải quyết một cách dứt điểm những hiện tượng
66
tiêu cực, tệ nạn trong xã hội, các vấn đề bức xúc của cán bộ, đảng viên và
nhân dân... Mỗi tổ chức đảng cần xác định vấn đề trọng tâm, cấp bách đấu
tranh có trọng điểm, dứt điểm để củng cố nhận thức của cán bộ, Đảng viên,
nhân dân, làm thất bại âm mưu địch.
Đồng thời lãnh đạo xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, tạo
sự tin tưởng trong các tầng lớp nhân dân, từ đó củng cố mối liên kết gắn bó
giữa Đảng với nhân dân, giữa nhân dân với Đảng, để người dân ủng hộ và
tích cực tham gia tạo nên sức mạnh tổng hợp để huy động đông đảo các lực
lượng tham gia chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
2.2.4.5. Đảng lãnh đạo bằng công tác kiểm tra, giám sát, tổng kết rút
kinh nghiệm
Trong lãnh đạo chống diễn biến hoà bình trên lĩnh vực tư tưởng và
phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, để tạo nên sức mạnh tổng hợp,
thực hiện nhiệm vụ có hiệu quả thì công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng
giữ vai trò quan trọng. Trong thời gian qua, hiện tượng “tự diễn biến”, “tự
chuyển hoá” có nguy cơ tăng cao, một phần do yếu kém của công tác kiểm
tra, giám sát.
Kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng gồm nhiều nội dung, trước hết là
kiểm tra việc đảng viên thực hiện Điều lệ Đảng, thực hiện 19 điều đảng viên
không được làm; kiểm tra đảng viên có dấu hiệu vi phạm; kiểm tra đảng viên
thực hiện chỉ thị, nghị quyết của Đảng... Kiểm tra, giám sát về phẩm chất đạo
đức và kết quả thực hiện nhiệm vụ chấp hành đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chấp hành Điều lệ Đảng, chủ
trương, nghị quyết của cấp uỷ. Thực tiễn cho thấy, ở những nơi làm tốt công
tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng, thì nơi đó tổ chức đảng được củng cố,
vững mạnh, nhiệm vụ chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng đạt kết quả tốt.
Các cấp uỷ đảng lãnh đạo, chỉ đạo, tăng cường kiểm tra, giám sát công
tác giáo dục, quản lý, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên theo thẩm quyền và
tăng cường kiểm tra việc thực hiện nghị quyết của cấp uỷ về những vấn đề đã
67
được bàn và thông qua. Đặc biệt cần làm tốt công tác kiểm tra đối với cán bộ,
đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
Công tác kiểm tra giám sát cũng cần tạo dư luận lên án, phê phán
những biểu hiện sai trái về đạo đức, lối sống theo chuẩn mực tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh, kịp thời phát hiện, xử lý kiên quyết, nghiêm minh, dứt
điểm, công khai các sai phạm của cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ lãnh đạo,
quản lý... mới xây dựng được lòng tin trong quần chúng nhân dân.
Tiểu kết chƣơn 2
Âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt
nam không thay đổi. Để thực hiện âm mưu chống phá đó chúng thường xuyên
dùng mọi thủ đoạn, phương thức đặc biệt chúng dùng DBHB trên lĩnh vực tư
tưởng với mưu đồ chuyển hoá tư tưởng đến xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng
cộng sản, xoá bỏ chế độ XHCN ở Việt nam.
Trong thời gian qua, sự chống phá của các thế lực thù địch bằng DBHB
trên lĩnh vực tư tưởng hết sức thâm độc, xảo quyệt. Quá trình chống phá đó đã
gây ra không ít tác động đến nhiều cán bộ, đảng viên và nhân dân, đặc biệt nó
đã làm cho một bộ phận cán bộ đảng viên suy thoái, tha hoá và có biểu hiện bị
“tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”.
Đảng đã nhận thức đúng tầm quan trọng của nhiệm vụ lãnh đạo chống
DBHB trên lĩnh vực tư tưởng vì vậy đã có những nội dung phương thức lãnh
đạo hiệu quả chống lại những âm mưu thủ đoạn thâm độc của kẻ thù.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ lãnh đạo chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng
cần đánh giá đúng thực trạng nhiệm vụ lãnh đạo trong thời gian qua, rút ra được
những ưu điểm, khuyết điểm, chỉ ra nguyên nhân, bài học để có giải pháp phù
hợp lãnh đạo chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng trong thời gian tới.
68
Chƣơn 3
ĐẢNG LÃNH ĐẠO CHỐNG “DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH”
TRÊN LĨNH VỰC TƢ TƢỞNG TỪ NĂM 1995 ĐẾN NAY –
THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN, KINH NGHIỆM
3.1. THỰC TRẠNG ĐẢNG LÃNH ĐẠO CHỐNG “DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH”
TRÊN LĨNH VỰC TƢ TƢỞNG TỪ NĂM 1995 ĐẾN NAY
3.1.1. Nhữn ƣu điểm chủ yếu và kết quả đạt đƣợc
3.1.1.1. Về nội dung lãnh đạo
Thứ nhất, Đ ã ờng l ểm, nhi m vụ, ch
ơ p ơ c ti ỉ ạo ộ ặt
ú , k p thời.
Trước yêu cầu đòi hỏi nhiệm vụ chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng, Đảng
ta đã kịp thời ra các nghị quyết lãnh đạo chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
Hội nghị Trung ương 8 (khoá VII) (ngày 16-23/1/1995) đã chỉ rõ: phải
gắn cuộc đấu tranh chống DBHB với cuộc đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác-
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ chế độ XHCN, chống mọi khuynh
hướng cơ hội, xét lại hay giáo điều.
Sau Hội nghị Trung ương 8, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số: 09-NQ/BCT
về: những định hướng lớn trong công tác tư tưởng và chỉ đạo toàn Đảng nghiên
cứu học tập, và sau đó có kết luận về công tác an ninh thời gian qua.
Tại Hội nghị Trung ương 3 (khoá VIII), Đảng ta đã tiến hành đánh giá
tình hình, vạch rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư
tưởng, ra thông báo kết luận: “Bảo vệ nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh, đường
lối của Đảng; đấu tranh chống các luận điệu sai trái và chống đối của những
kẻ cơ hội về chính trị và phản động”; đồng thời, chỉ đạo các cấp uỷ Đảng tăng
cường quản lý đảng viên, yêu cầu đảng viên giữ đúng nguyên tắc tổ chức,
không lưu truyền, tán phát các tài liệu bất hợp pháp.
69
Tiếp đó ngày 25/11/1996, Bộ Chính trị ban hành chỉ thị số 05 chỉ đạo
cuộc đấu tranh chống DBHB về tư tưởng, chính trị. Và ngày 25/12/1997, Bộ
Chính trị ban hành chỉ thị số 25 “Về việc nói và viết những vấn đề liên quan
đến lịch sử và các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước”, chấn chỉnh kỷ luật
nói và viết của cán bộ, đảng viên về đề tài lịch sử cách mạng.
Trước những diễn biến phức tạp mới ngày 16/7/1998, Hội nghị Trung
ương 5 (khoá VIII) có kết luận số: 01 -KL/TW “Về đấu tranh chống các quan
điểm sai trái, bảo vệ Cương lĩnh, Điều lệ và đường lối của Đảng”. Trong văn bản
kết luận này, Đảng ta một lần nữa khẳng định tính đúng đắn của Cương lĩnh,
Điều lệ, đường lối của Đảng và hoàn toàn bác bỏ những quan điểm sai trái.
Hội nghị Trung ương 5 (khoá VIII) Đảng cũng đã thông qua nghị quyết
định hướng về vấn đề văn hoá, văn nghệ. Đến tháng 02-1999 Đảng ra Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 6 về “Một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong
công tác xây dựng Đảng giai đoạn hiện nay”... những nghị quyết này đã thể
hiện rõ tư tưởng chỉ đạo trong công tác phòng ngừa và đấu tranh với các hoạt
động chống phá của các thế lực thù địch.
Ngày 22/3/2001 Bộ Chính trị ban hành chỉ thị số 64 - CT/TW “Về giữ
nghiêm kỷ luật phát ngôn và bảo vệ bí mật của Đảng trong tình hình hiện
nay”. Chỉ thị số 64- CT/TW nêu rõ:
Tình trạng một số cán bộ, đảng viên vi phạm nguyên tắc tổ chức
Đảng, không chấp hành nghiêm kỷ luật phát ngôn và bảo vệ bí
mật của Đảng và Nhà nước, đã để lộ tin tức, tán phát tài liệu
không đúng nguyên tắc, tung tin sai lệch về nội bộ Đảng, gây tác
động xấu tới ổn định chính trị, giữ gìn kỷ luật, kỷ cương, sự đoàn
kết thống nhất trong Đảng và trong nhân dân, để kẻ xấu và các
thế lực thù địch, xuyên tạc, làm giảm uy tín của Đảng, chống phá
chế độ ta [55, tr. 3].
70
Chỉ thị số 64 - CT/BCT yêu cầu:
…các cấp uỷ Đảng tăng cường giáo dục, quản lý cán bộ, đảng viên
nêu cao ý thức tổ chức kỷ luật, ý thức trách nhiệm và tinh thần đấu
tranh, giữ vững đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Mọi cán bộ, đảng
viên phải chấp hành nghiêm kỷ luật phát ngôn và bảo vệ bí mật của
Đảng và Nhà nước, không lan truyền những thông tin sai lệch,
những thư nặc danh, mạo danh có động cơ xấu, những thông tin về
nhân sự chưa được tổ chức Đảng thông báo, tiết lộ bí mật của Đảng
và Nhà nước [55, tr.3].
Đến ngày 4/1/2002, Ban Bí thư có chỉ thị số 05 -CT/BBT “Về tăng
cường cuộc đấu tranh chống các luận điệu sai trái và các hoạt động tán phát
tài liệu chống Việt Nam”.
Ngày 30/12/2002, Ban Bí thư ra Thông báo kết luận số 94 “Về nhiệm
vụ tăng cường cuộc đấu tranh chống âm mưu DBHB trên lĩnh vực tư tưởng-
văn hoá”.
Trong Hội nghị TW 5 (khoá IX) , ngày 18/3/2002 ra Nghị quyết “Về
nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới”. Và
ngay trong Hội nghị TW 12 khoá IX, Đảng có Kết luận về “tăng cường công
tác tư tưởng trong tình hình mới”.
Tới Hội nghị Trung ương 5 (khoá X) Ban cấp hành Trung ương ra Nghị
quyết Trung ương 5, ngày 14-7-2007 về “công tác tư tưởng, lý luận và báo chí
trước yêu cầu đổi mới”
Trên cơ sở nhận thức kịp thời về sự chống phá điên cuồng của kẻ thù
và tình hình cách mạng nước nhà, Bộ chính trị ra Nghị quyết số 23-NQ/TW
ngày 16/6/2008 về “Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong
thời k mới”.
Đặc biệt Nghị quyết Trung ương 9 ( khoá X), ngày 02-2-2009 “về một
số nhiệm vụ, giải pháp lớn nhằm tiếp tục thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại
hội toàn quốc lần thứ X của Đảng”
71
Và trước hoạt động phá hoại tư tưởng ngày càng quyết liệt của các thế
lực thù địch, ngày 17/4/2009, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 34-CT/TƯ về
“Tăng cường cuộc đấu tranh chống âm mưu, hoạt động DBHB trên lĩnh vực
tư tưởng, văn hoá”.
Trước diễn biến phức tạp do tác động của DBHB trên lĩnh vực tư tưởng
và tình hình trong nước, quốc tế Trung ương đảng khoá XI đã họp và ra Nghị
quyết số 12-NQ/TƯ.
Ngày 16/1/2012, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị
quyết số 12-NQ/TW - Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khoá XI): “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.
Đảng đã phân tích tình hình và xác định nguyên nhân của việc một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức,
lối sống,…và đưa ra các nhóm giải pháp để giải quyết vấn đề cấp bách về xây
dựng Đảng trong giai đoạn hiện nay, trong đó nguyên nhân và giải pháp đảng
ta đều xác định trong đó có nguyên nhân của chiến lược DBHB và giải pháp
đề cập tới chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng chính là một trong những giải
pháp cơ bản.
Hội nghị TW 8 (khoá XI) đã ra nghị quyết 28/NQ - TW về “Chiến lược
bảo vệ Tổ quốc thời k mới”, Hội nghị TW 9 ( hoá XI) về công tác văn hoá
và các chỉ thị, nghị quyết của các cấp luôn thể hiện đầy đủ sự quan tâm đặc
biệt lãnh đạo về chống DBHB nói chung trên lĩnh vực tư tưởng nói riêng giai
đoạn hiện nay và lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành Trung ương khoá XI trình
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII phần tăng cường quốc phòng, an ninh
Đảng đã xác định: “Đấu tranh làm thất bại âm mưu “diễn biến hoà bình”, hoạt
động phá hoại, gây rối, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; bước đầu đối
phó có hiệu quả với mối đe doạ an ninh phi truyền thống, kiềm chế sự gia
tăng của tội phạm” [8]. Trong nghị quyết của Đại Hội lần thứ XII, phần xác
72
định sáu nhiệm vụ trọng tâm, nhiệm vụ trọng tâm đầu tiên được Đảng xác
định: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hoá” trong nội bộ….
Nội dung cơ bản xuyên suốt trong các nghị quyết của Đảng về nhiệm
vụ chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng đó là:
- Chống DBHB của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng để bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ chế độ XHCN là một nhiệm vụ quan
trọng của công tác tư tưởng, lý luận hiện nay.
- Chống DBHB của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng là bộ
phận khăng khít của cuộc đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn DBHB trên tất
cả các lĩnh vực.
- Chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng, của các thế lực thù địch là
nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ, tổ chức đảng
các cấp.
Đồng thời, Bộ Chính trị, Ban Bí thư cũng đã đề ra nhiều chủ trương biện
pháp đúng đắn, kịp thời và lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan chức năng giải quyết
những vấn đề cấp bách đặt ra trong chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
Thứ hai, ã ạo, chỉ ạo ú ội dung u tranh ch ng
DBHB ng với ă ề .
Đảng lãnh đạo, chỉ đạo tăng cường vai trò công tác tư tưởng - văn hoá,
đồng thời nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan truyền thông đại
chúng. Các cấp uỷ đảng, từ trung ương tới địa phương đã thể hiện rõ vai trò
chủ công, đồng thời lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan chức năng làm công tác tư
tưởng, truyền thông thường xuyên giáo dục chính trị tư tưởng, cung cấp kịp
thời những thông tin về tình hình trong và ngoài nước nhất là những vấn đề
lớn của đất nước cho cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân. Cũng trên cơ sở
đó kịp thời nắm bắt tình hình, tư tưởng của cán bộ, đảng viên, quần chúng
73
nhân dân để đề ra những biện pháp tuyên truyền thích hợp và có biện pháp xử
lý kịp thời các tình huống và với các hoạt động chống phá trên địa phương,
địa bàn, cơ quan mình.
Đảng đã lãnh đạo các phương tiện thông tin đại chúng đã phát huy
vai trò là kênh thông tin quan trọng định hướng ý thức chính trị cho các
giai tầng xã hội, đồng thời cũng là lực lượng đấu tranh mạnh mẽ, trực diện
với hoạt động DBHB trên lĩnh vực tư tưởng, để bảo vệ Đảng và pháp luật
Nhà nước.
Đảng đã chỉ đạo Ban tuyên giáo Trung ương, Bộ Công an, Bộ giáo dục
và đào tạo, Bộ Thông tin và truyền thông, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh, các phương tiện truyền thông đại chúng... đã tổ chức nhiều đợt tuyên
truyền sâu rộng trong toàn xã hội, tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng,
pháp luật cho cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân, thanh niên, sinh viên,
trí thức trẻ nâng cao ý thức “đủ sức đề kháng”, “tự bảo vệ mình”, chấp hành
chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước. Cảnh giác phòng
chống các hoạt động lôi kéo của các thế lực thù địch bằng DBHB trên lĩnh
vực tư tưởng.
Đặc biệt, Ban bí thư Trung ương đã thành lập nhóm “Chuyên gia
nghiên cứu đấu tranh chống thông tin quan điểm sai trái, thù địch”, qua hơn
hai năm đó có hàng nghìn bài viết, chuyên đề nghiên cứu của các nhà lý luận,
khoa học, cơ quan an ninh... để đấu tranh cả về lý luận, học thuật và thực tiễn
phản bác lại các luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc của các thế lực thù địch.
Thứ ba, ã ạo ơ b ổ ch ã ội ph i
h p ch DBHB ng.
Đảng lãnh đạo phối hợp các cơ quan, lực lượng chuyên môn, chuyên
trách tổ chức quần chúng cùng tham gia chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng
thường xuyên, hiệu quả. Dưới sự chỉ đạo của Ban chấp hành Trung ương, Bộ
74
Chính trị, Ban Bí thư, sự phối hợp giữa các ban, ngành với nhau, giữa trung
ương và địa phương; giữa các tổ chức đảng, chính quyền và tổ chức chính trị
xã hội trong thời gian qua khá nhịp nhàng, hiệu quả.
Lãnh đạo phối hợp đấu tranh với các luận điệu sai trái, thù địch trên các
phương tiện thông tin đại chúng, nhất là trên mạng Internet, bước đầu thu
được những kết quả đáng khích lệ. Đã cơ bản bao vây, ngăn chặn, hạn chế
được tác hại của những hoạt động tuyên truyền phá hoại tư tưởng của các thế
lực thù địch trong các tầng lớp xã hội. Chúng ta đã giành được thế chủ động,
liên tục tấn công vô hiệu hoá hoạt động của các đối tượng, ngăn chặn được tác
hại của hoạt động chống đảng do DBHB trên lĩnh vực tư tưởng gây ra.
Lãnh đạo, chỉ đạo việc đẩy mạnh huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ
thống chính trị tham gia chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng, các cơ quan, ban
ngành, các tổ chức chính trị xã hội, các lực lượng vũ trang và toàn thể nhân
dân. Tu vị trí công tác, lứa tuổi, thành phần đều nâng cao ý thức cảnh giác,
chủ động phát hiện và đập tan âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, củng
cố trận địa tư tưởng lý luận.
Đảng lãnh đạo các cơ quan đối ngoại phối hợp chống DBHB trên lĩnh
vực tư tưởng, lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan ngoại giao, đối ngoại chủ động
nắm bắt tình hình, kịp thời áp dụng biện pháp đấu tranh ngoại giao nhằm ngăn
chặn, hạn chế hoạt động tụ tập, phát triển lực lượng ở nước ngoài, sự liên kết
giữa bọn phản động lưu vong người Việt với các cá nhân, tổ chức chống đối ở
trong nước.
Đảng lãnh đạo cơ quan báo chí tuyên truyền đối ngoại kêu gọi và tranh
thủ được nhiều diễn đàn quốc tế để tập hợp lực lượng đấu tranh chống âm
mưu, thủ đoạn diễn biến hoà bình trên lĩnh vực tư tưởng của địch. Vị thế quốc
tế của Việt Nam ngày càng được nâng cao, quan hệ quốc tế ngày càng mở
rộng, tạo được môi trường thuận lợi phục vụ cho công cuộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
75
Thứ tư, lã ạ ng l ững
mạ ù DBHB ạt hi u qu .
Lãnh đạo chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng và đấu tranh chống “tự
diễn biến”, “tự chuyển hoá” cần phải có lực lượng chuyên môn, chuyên trách
giỏi về nghiệp vụ, vững vàng về bản lĩnh chính trị tư tưởng, tinh thông trong
xử lý những vấn đề nhạy cảm.
Đảng lãnh đạo cấp uỷ, các tổ chức đảng, các cơ quan từ Trung ương,
đến các địa phương, đề ra các tiêu chí, mục tiêu và ra nghị quyết lãnh đạo cấp
mình trong xây dựng lực lượng chuyên môn, chuyên trách chống DBHB trên
lĩnh vực tư tưởng.
Lãnh đạo xây dựng được một hệ thống các nhà khoa học, nghiên cứu,
dự báo ở nhiều cơ quan, ban ngành, các cán bộ làm công tác bảo vệ chính trị
nội bộ và nhiều đơn vị đặc biệt chuyên trách của công an, quân đội được kiện
toàn theo yêu cầu nhiệm vụ
Một trong những lực lượng chuyên môn, chuyên trách quan trọng đó là
báo chí, dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ, tổ chức đảng tại các cơ quan báo chí
Việt Nam trong thời gian qua đã phát triển nhanh chóng cả về số lượng và
chất lượng, báo chí nước ta ngày càng đổi mới phong phú về nội dung và hình
thức thông tin tuyên truyền, đa dạng về loại hình, cơ cấu ấn phẩm theo hướng
hiện đại góp phần to lớn vào nhiệm vụ chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
Hiện nay, trong cả nước có hơn 700 cơ quan báo chí in với hơn 900 ấn
phẩm; 67 đài phát thanh, truyền hình; 21 báo điện tử, 160 trang tin điện tử
mang tính báo chí; có 6 nhà cung cấp dịch vụ và kết nối Internet; 20 nhà cung
cấp dịch vụ Internet và hơn 50 nhà cung cấp thông tin và báo điện tử trên
Internet. Báo điện tử đã phát triển nhanh, tăng 32,5%/năm. Đài Truyền hình
Việt Nam đã phủ sóng đến 85% hộ gia đình trong nước và đến nhiều vùng
trên thế giới...
76
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Trung ương, của Bộ Chính trị,
Ban Bí thư và các tổ chức cơ sở Đảng các cấp, với sự nỗ lực phấn đấu của đội
ngũ cán bộ, đảng viên các cơ quan thông tin đại chúng đã thực sự trở thành
những chiến sĩ tiên phong trên mặt trận tư tưởng. Báo chí đã tích cực tuyên
truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phản ánh những ý kiến đóng
góp tâm huyết của các nhà khoa học, các giới đồng bào. Kịp thời phê phán,
đấu tranh với các hiện tượng tiêu cực, những thói hư tật xấu trong xã hội; phê
phán, bác bỏ những thông tin, quan điểm sai trái, âm mưu “diễn biến hoà
bình” của các thế lực phản động, thù địch, góp phần vào việc củng cố lòng tin
của nhân dân đối với sự nghiệp đổi mới.
Các lực lượng chuyên môn khác như công an, quân đội, an ninh mạng,...
Đảng lãnh đạo từng bước dần được củng cố, kiện toàn và hoàn thiện cả về số
lượng và chất lượng, đủ sức ứng phó với những tình huống xảy ra, chống có
hiệu quả thủ đoạn DBHB của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng.
Thứ năm, ã ạo, N ớ ề p th c hi n t t ch c
ă ớc ng thờ ã ạo n h th ng lu p p ể
th c hi n t t nhi m vụ ch DBHB v ng.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, thời gian vừa qua đã xây dựng, hoàn thiện,
sửa đổi Hiến pháp và nhiều Luật, Nghị định, văn bản làm cơ sở cho quá trình
hoàn chỉnh các chức năng quản lý, điều hành của cơ quan nhà nước, tham gia
chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng, góp phần vào công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, kịp thời trấn áp các đối tượng, thế lực thù địch chống phá
cách mạng Việt Nam. Thời gian vừa qua chúng ta đã hoàn thiện được nhiều
luật như Luật Chống khủng bố, Luật An ninh, Luật Quốc phòng, Luật Giáo
dục quốc phòng & an ninh, Luật Phòng chống tội phạm… đồng thời Đảng
lãnh đạo triển khai, phổ biến các luật đi vào cuộc sống, góp phần nâng cao
cảnh giác, nhận thức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân góp phần
vào chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng có hiệu quả.
77
Đảng lãnh đạo, chỉ đạo các cấp uỷ từ trung ương tới địa phương, ban
ngành, lãnh đạo cơ quan chuyên môn, chính quyền các cấp thực hiện nhiệm
vụ quản lý nhà nước trên các lĩnh vực. Đảng lãnh đạo thực hiện nhiều biện
pháp đồng loạt như cải cách các thủ tục hành chính, quy định về việc tiếp dân,
quản lý báo chí xuất bản, quản lý hoạt động văn hoá… các cơ quan nhà nước
qua đó có chuyển biến tích cực góp phần quan trọng vào nhiệm vụ chống
DBHB trên lĩnh vực tư tưởng. Các cơ quan hành pháp, tư pháp đã khởi tố, xử
lý trước pháp luật, xử phạt hành chính... các đối tượng vi phạm, áp dụng
nhiều biện pháp quản lý nghiệp vụ vì vậy đã ngăn chặn được nhiều hiện tượng
và tình huống xảy ra. Đồng thời Đảng lãnh đạo tập trung đẩy mạnh công tác
vận động quần chúng, phát huy vai trò quần chúng tham gia xây dựng chính
quyền các cấp, góp ý, phê bình, phát hiện ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, tố
giác các hiện tượng sách nhiễu, phiền hà của cán bộ đảng viên trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ.
Thứ sáu, ã ạo, chỉ ạo c p uỷ ề u tranh ch ng
“ diễn bi ” “ chuyển ” ội bộ Đ N ớ ể
Đảng đã nhận thức và lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời chống “tự diễn biến”,
“tự chuyển hoá” trong nội bộ đảng, hệ thống chính trị và toàn thể nhân dân và
xác định là nhiệm vụ cấp thiết. Đại hội lần thứ XI của Đảng, xác định phòng,
chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” là một trong những nhiệm vụ trọng
tâm của công tác xây dựng Đảng trong tình hình hiện nay.
Chủ trương này của Đại hội XI, tiếp tục được khẳng định trong Nghị
quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khoá XI: Một số vấn đề
cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay: “Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê
phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ Đảng” [63].
Trong lãnh đạo, Đảng xác định để thực hiện tốt vấn đề này, cần làm rõ
những vấn đề lý luận và thực tiễn về phòng, chống sự “tự diễn biến”, “tự
78
chuyển hoá” trong nội bộ Đảng, mà trước hết là trong đội ngũ cán bộ, đảng
viên. Đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo việc tập trung nghiên cứu thực tiễn, lý luận có
các quan điểm chỉ đạo cụ thể trong từng giai đoạn trên từng lĩnh vực đạt nhiều
kết quả trong nhiệm vụ chống sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, góp phần
vào nhiệm vụ chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
Điển hình như triển khai động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực
hiện thắng lợi các chủ trương, nghị quyết của Đảng như Nghị quyết Trung
ương 4 (khoá XI); tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội
ngũ cán bộ, đảng viên giữ cương vị lãnh đạo, chủ trì, đứng đầu các cơ quan
Đảng, Nhà nước thật sự trong sạch, vững mạnh, thực hiện tốt việc học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, luôn nêu cao tính tiên phong,
gương mẫu trong mọi lúc, mọi nơi để lôi cuốn quần chúng học tập, noi theo.
Lãnh đạo quan tâm chăm lo xây dựng các tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ,
đảng viên vững mạnh, đẩy mạnh cuộc đấu tranh ngăn chặn đẩy lùi tình trạng
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ,
đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp nhằm kiên quyết loại
bỏ những con “sâu mọt” ra khỏi bộ máy cơ quan Đảng, Nhà nước, làm trong
sạch các tổ chức đảng, bộ máy chính quyền.
3.1.1.2. Về phương thức lãnh đạo
Một là, t p ã ạo chỉ ạo vi c triển khai tổ ch c th c hi
ngh quy t, chỉ th , k t lu n c Đ ng về ch DBHB ng.
Trong từng giai đoạn, từng tình hình cụ thể, Ban chấp hành Trung ương,
Bộ chính trị, Ban bí thư và cấp uỷ Đảng, tổ chức Đảng, Ban cán sự đảng đã có
những nghị quyết, văn bản chỉ đạo hướng dẫn thực hiện các nghị quyết và công
tác chính trị, tư tưởng, văn hoá, an ninh… chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng,
trong nội bộ đảng và trong các tầng lớp nhân dân; ban hành văn bản chỉ đạo lực
lượng chuyên môn, chuyên trách, lực lượng làm công tác tham mưu, đồng thời
hướng dẫn thực hiện chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
79
Về nghiên cứu lý luận Bộ chính trị, Ban bí thư trực tiếp chỉ đạo Hội
đồng lý luận Trung ương và một số cơ quan khoa học nghiên cứu, thảo luận
những vấn đề lý luận và thực tiễn chưa sáng tỏ, làm căn cứ để nâng cao nhận
thức cho cán bộ, đảng viên đấu tranh phê phán các quan điểm lệch lạc, sai
trái, bảo vệ đường lối quan điểm của Đảng.
Về thông tin đại chúng, Đảng chỉ đạo các cơ quan thông tấn, báo chí
viết bài đấu tranh làm rõ đúng sai, tranh thủ quần chúng, tạo dư luận xã hội
phê phán những quan điểm sai trái, tăng cường sự thống nhất về nhận thức tư
tưởng, chính trị trong Đảng và xã hội… Các báo như Nhân dân, Quân đội
nhân dân, Đại đoàn kết, Hà Nội mới, Sài Gòn giải phóng..., các tạp chí như
Tạp chí Cộng sản, Xây dựng Đảng, Tư tưởng- Văn hoá... có rất nhiều bài viết
có tính lý luận, thực tiễn và chiến đấu cao, thực hiện đúng tư tưởng chỉ đạo
đấu tranh ngôn luận của Đảng.
Về công tác giáo dục, đào tạo, Đảng chỉ đạo tổ chức biên soạn lại giáo
trình chuẩn và sách giáo khoa chính trị Mác- Lênin, xuất bản nhiều loại sách
nghiên cứu lý luận chuyên đề nhằm khẳng định tính khoa học và cách mạng
của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; đồng thời, chỉ đạo chấn
chỉnh việc giảng dạy và học tập lý luận chính trị trong Đảng, đoàn thể chính
trị, trong các trường đại học, cao đẳng.
Về thông tin đối ngoại, Đảng chỉ đạo thành lập cơ quan thông tin đối
ngoại, phủ sóng rộng hơn diện phủ sóng của đài phát thanh, mở thêm kênh đài
truyền hình, tăng cường các hoạt động đối ngoại của các báo và tạp chí lớn,
đưa lên mạng Internet trang Website của Đảng cộng sản Việt Nam và của các
báo: Nhân dân, Thời báo inh tế, Lao động, Tạp chí Cộng sản, Tạp chí Xây
dựng Đảng, Tạp chí Quê hương...
Về biện pháp kỹ thuật và công nghệ, Đảng chỉ đạo các hoạt động làm
vô hiệu hoá một số chương trình phát thanh có nội dung xấu độc hại bằng
tiếng Việt và tiếng một số dân tộc ít người của các thế lực thù địch; đồng thời
80
dựng bức tường lửa ngăn chặn sự thâm nhập thẩm lậu của các sản phẩm văn
hoá mang tư tưởng xấu độc trên mạng Internet.
Sau khi Ban Bí thư ban hành thông báo ết luận 94, ngày 7/2/2003, và
có hướng dẫn thực hiện thông báo kết luận 94, Ban chỉ đạo chống DBHB trên
lĩnh vực tư tưởng - văn hoá của Trung ương (gọi tắt là Ban Chỉ đạo Trung
ương 94) kết hợp với Ban chỉ đạo của các bộ, ngành, trung ương các đoàn thể
chính trị và các tỉnh, thành phố đã được thành lập và đi vào hoạt động.
Ban chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương hoạt động dần dần đi vào nề nếp
trên cơ sở xây dựng chương trình hành động, tổ chức nắm tình hình và tổ chức
giao ban đề kịp thời tham mưu cho cấp uỷ chỉ đạo công tác đấu tranh chống
DBHB trên 1ĩnh vực tư tưởng. Trong chương trình hành động các cấp uỷ đã
đặt nhiệm vụ chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng là một trong những nội dung
rất quan trọng và mũi nhọn hiện nay của chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới. Đồng thời phải đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phát
triển kinh tế - xã hội, thực hiện có hiệu quả chương trình "xoá đói, giảm
nghèo", „xây dựng nông thôn mới”… ; tập trung giải quyết các vấn đề xã hội,
nhất là đẩy lùi các tệ nạn xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo,
nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực.
Khi triển khai thực hiện Chỉ thị 67-CT/TW của Bộ Chính trị ngày
01/4/1996 “Về việc tăng cường chỉ đạo, quản lý, đấu tranh làm thất bại âm
mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch dùng phương tiện thông tin, điện tử để
chống phá cách mạng Việt Nam”, các tổ chức đảng trong toàn đảng đã lãnh
đạo, chỉ đạo các cơ quan thông tin đại chúng đăng tải liên tiếp các bài phê
phán, bác bỏ những quan điểm sai trái, đánh lui một bước những âm mưu phá
hoại về tư tưởng của các thế lực thù địch.
Nhiều đề tài khoa học đã phân tích các luận cứ khoa học bảo vệ chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ con đường đi lên CNXH
ở nước ta hiện nay . Đồng thời cũng lãnh đạo triển khai có hàng loạt bài viết
81
chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng đăng trên báo Nhân dân, Tạp chí Cộng
sản, Tạp chí Tư tưởng-Văn hoá, Tạp chí Thông tin công tác tư tưởng, Tạp
chí Thông tin Đối ngoại, Tạp chí Lịch sử Đảng... Bên cạnh đó, Ban Tuyên
giáo Trung ương đã cho in, phát hành một số cuốn sách có nội dung về đấu
tranh tư tưởng chính trị, chống lại âm mưu DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
Hai là, ă ờ ã ạ ền, thuy t phục, v n
ộ bộ u tranh ch ng DBHB.
Đảng lãnh đạo bằng phương thức thuyết phục đạt nhiều kết quả, qua
phương thức này nhiều cán bộ, đảng viên, nhân dân đã hiểu rõ hơn âm mưu
thủ đoạn của kẻ địch, đồng thời thấy được tính chất nguy hiểm của DBHB
trên lĩnh vực tư tưởng. Qua đó tự giác, chủ động trong và đoàn kết, đồng tâm
hiệp lực cùng Đảng, chính quyền thực hiện tốt nhiệm vụ trong từng giai đoạn
nhất là lúc cần sự đoàn kết nhất trí thật cao để kịp thời chống lại thủ đoạn
thâm độc của kẻ thù.
Đảng lãnh đạo đổi mới phương thức tuyên truyền, thuyết phục tới toàn
Đảng, toàn dân toàn quân, qua đó đã giảm bớt hiện tượng phổ biến nghị quyết
cứng nhắc hoặc mệnh lệnh hành chính, vì vậy hiệu quả lãnh đạo được nâng
lên nhất là khi có vấn đề nhạy cảm về tư tưởng hoặc lý luận. Trong tuyên
truyền thuyết phục Đảng lãnh đạo nhiều biện pháp nhưng đặc biệt chú trọng
biện pháp thuyết phục những người có uy tín, qua việc thuyết phục những
người có uy tín trong cộng đồng dân cư như: già làng, trưởng bản, người đứng
đầu dòng họ, người có uy tín trong cộng đồng... để họ nhận rõ âm mưu và
hành động chống phá của các thế lực thù địch trong hoạt động DBHB trên
lĩnh vực tư tưởng, từ đó chính họ sẽ là người trực tiếp hoặc kết hợp cùng
Đảng thuyết phục, vận động quần chúng tham gia công tác đấu tranh do đảng
lãnh đạo có hiệu quả.
Ba là, p ò ơ u c bộ ng DBHB
ng.
82
Lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng
thông qua tính tiên phong gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên là nhiệm
vụ quan trọng để xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng vượt qua
mọi khó khăn thử thách, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chống DBHB trên
lĩnh vực tư tưởng. Thông qua việc phát huy vai trò tiên phong gương mẫu,
nêu gương của cán bộ, đảng viên đã làm cho nhân dân tin tưởng vào sự lãnh
đạo của Đảng, tin tưởng vào sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo, cũng
qua đó cán bộ đảng viên phải tự rèn luyện tu dưỡng đó là biện pháp quan
trọng để ngăn ngừa, khắc phục tác động mặt trái của cơ chế thị trường, chủ
nghĩa cá nhân, tệ quan liêu, tham nhũng, hạn chế thấp nhất tác động tiêu cực
cám dỗ về vật chất của cuộc sống hàng ngày, để họ thực sự là hạt nhân lãnh
đạo, chỗ dựa tin cậy cho quần chúng trong mọi thử thách.
Trong những năm qua các cấp uỷ đảng trong Đảng luôn quan tâm,
chăm lo bồi dưỡng tính tiên phong gương mẫu cho đội ngũ cán bộ, đảng viên,
có những chủ trương giải pháp phù hợp với từng thời k , từng nhiệm vụ. Nhờ
vậy tính tiên phong gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Đảng
luôn được giữ vững và phát huy, đã tạo được lớp lớp cán bộ, đảng viên ưu tú,
vượt qua mọi khó khó khăn gian khổ, hy sinh quên mình, tiên phong gương
mẫu đi đầu trong thực hiện nhiệm vụ, trên các mặt công tác nhất là trong
chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
Những kết quả đạt được nêu trên đã góp phần rất quan trọng vào việc
làm thất bại các âm mưu và hoạt động của DBHB trên lĩnh vực tư tưởng, giữ
vững ổn định chính trị, an ninh, quốc phòng của đất nước. Đại đa số cán bộ,
đảng viên và nhân dân vẫn vững vàng, tin tưởng vào Đảng, Nhà nước, vào
công cuộc đổi mới và triển vọng phát triển tốt đẹp của đất nước ta, tham gia
tích cực vào mặt trận đấu tranh với những âm mưu, hoạt động sai trái, chống
lại đất nước của các thể lực thù địch.
83
Bốn là, ã ạo ổ ch ề ể
ch DBHB ng.
Trên cơ sở điều lệ đảng, các quy định của đảng và nguyên tắc tổ chức,
cán bộ các cấp uỷ đảng đã chủ động đưa các nội dung về chống DBHB trên
lĩnh vực tư tưởng, cũng như âm mưu đẩy mạnh “tự diễn biến”, “tự chuyển
hoá”, chia rẽ ly gián nội bộ của các thế lực thù địch vào nội dung công tác cán
bộ, từ đó xây dựng ý thức, tư tưởng, nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi cán bộ,
đảng viên làm cơ sở xác định mục tiêu phấn đấu trong từng giai đoạn và nghĩa
vụ, trách nhiệm trong tổ chức tham gia đấu tranh, phản bác các quan điểm sai
trái, thù địch. Việc làm này đã đạt được cả hai mục đích, vừa để mỗi cán bộ,
đảng viên nâng cao vai trò lãnh đạo mọi mặt của đời sống xã hội, vừa làm
công tác phòng ngừa và răn đe đối với những cán bộ, đảng viên có tư tưởng
hoang mang, dao động.
Việc nhận xét, đánh giá, quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ thời gian qua đã
thu được nhiều kết quả tốt, trên cơ sở phấn đấu rèn luyện của cán bộ, đảng viên
đối chiếu với Điều lệ Đảng, quy định của Đảng, Luật công chức viên chức, luật
lao động… tiêu chí cấp uỷ, tổ chức đảng, cơ quan, đoàn thể nơi mình công tác
đề ra có đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm cán bộ, đảng viên
đúng người, đúng việc từ đó tạo động lực cho cán bộ, đảng viên phấn đấu và
xây dựng tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể trong sạch vững mạnh góp phần
hoàn thành nhiệm vụ chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng, chống “tự diễn
biến”, “tự chuyển hoá”. Công việc đó đòi hỏi phải khách quan, cụ thể, lịch sử,
phát triển sẽ tạo động lực cho cán bộ, đảng viên hoàn thành nhiệm vụ, chống
âm mưu của các thế lực thù địch, không bị địch dụ dỗ lôi kéo.
Thông qua các tổ chức, đoàn thể chính trị, xã hội để tuyên truyền, giáo
dục cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, nhân dân hiểu rõ âm mưu thâm
độc của kẻ thù và qua tổ chức để đấu tranh chống các biểu hiện suy giảm lòng
tin, suy thoái tư tưởng hoặc lập trường tư tưởng không vững vàng, cũng qua
84
tổ chức các thành viên trong tổ chức đoàn thể sẽ là nòng cốt tuyên truyền,
thuyết phục gia đình, người thân hiểu và tham gia chống DBHB trên lĩnh vực
tư tưởng có hiệu quả.
Năm là, ờ ơ ổng k t, kiể DBHB
ng.
Từ thực tiễn chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng, các cơ quan chức
năng, cấp uỷ và tổ chức đảng ở các bộ, ban, ngành, địa phương từ Trung ương
xuống cơ sở cũng đã tổng kết, rút kinh nghiệm và tham mưu cho lãnh đạo
Đảng, Nhà nước, Chính phủ ra các nghị quyết lãnh đạo ở ngành mình, địa
phương mình, đồng thời chỉ đạo nhiều vấn đề cơ bản, chiến lược về công tác
tư tưởng, lý luận đảm bảo an ninh quốc gia, chống DBHB trên lĩnh vực tư
tưởng. Điển hình như việc đề ra quy chế phối hợp giữa các ban, ngành, đoàn
thể góp phần phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong nhiệm vụ
chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
Trong các nghị quyết về công tác lãnh đạo của đảng đòi hỏi mỗi cán
bộ, đảng viên phải thống nhất nhận thức về ý chí và hành động, nói và làm
theo nghị quyết, thực hiện đúng cương lĩnh, điều lệ của đảng... do vậy lãnh
đạo bằng công tác, kiểm tra, giám sát việc thực hiện nghị quyết của đảng, thời
gian vừa qua đã kịp thời rút kinh nghiệm những việc đã làm được, chưa làm
được, phát hiện những cá nhân, tổ chức có sai phạm, những biểu hiện của sự
hoang mang, dao động... để có những giải pháp giáo dục, ngăn chặn kịp thời,
phù hợp, trong quá trình lãnh đạo qua công tác kiểm tra giám sát cũng chủ
động phát hiện những sai sót trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo để kịp thời củng
cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng vững mạnh.
3.1.2. Những hạn chế và yếu kém
Từ đặc điểm của tình hình thế giới và trong nước, từ tính chất, nhiệm vụ
của cách mạng Việt Nam, thời gian qua, Đảng lãnh đạo chống DBHB trên lĩnh
vực tư tưởng tuy đã đạt được nhiều kết quả song vẫn còn một số hạn chế, như:
85
3.1.2.1. Về nội dung lãnh đạo
Một là, một s tổ ch ng, c p uỷ ,
k p thời tinh th quy t, chỉ th c a c p ề ch DBHB
nh nhi m vụ ề ra ngh quy ã ạo
c a c p ò m, k t qu ã ạ ò ạn ch .
Một số tổ chức đảng, ở một số nơi chưa quán triệt đầy đủ, sâu sắc nghị
quyết của cấp trên, chưa nhận thức đầy đủ về âm mưu, thủ đoạn của các thế
lực thù địch, còn chủ quan, khinh địch trước những thủ đoạn tinh vi xảo quyệt
của các thế lực thù địch trong từng giai đoạn vì vậy chưa kịp thời ra nghị
quyết lãnh đạo, hoặc có ra nghị quyết chưa khoa học, chưa đầy đủ, hệ thống.
Nhiều khi nghị quyết lãnh đạo còn chung chung, chưa sát với đòi hỏi
của tình hình, nhiệm vụ và chưa có giải pháp hiệu quả chống lại những thủ
đoạn, phương thức mới của kẻ thù vì vậy quá trình tổ chức thực hiện lãnh đạo
chưa sâu, hiệu quả lãnh đạo còn hạn chế, dẫn đến còn nhiều bất cập khó khăn
huy động lực lượng chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
Có lúc, có nơi một số cấp uỷ đảng, đảng viên nhận thức chưa đầy đủ về
ý nghĩa tầm quan trọng, tính chất sống còn, đòi hỏi cấp thiết trước mắt cũng
như lâu dài của công tác chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng, nên quá trình ra
nghị quyết lãnh đạo, tổ chức thực hiện lãnh đạo có biểu hiện sơ sài, hình thức,
nhiều nơi coi đây là nhiệm vụ của cấp trên vì vậy tìm cách đẩy trách nhiệm
lên trên hoặc cho cơ quan chức năng, chuyên trách.
Trong chương trình nghị sự hoạt động của một số cấp uỷ, tổ chức đảng
ở một số nơi sau mỗi k đại hội thiếu tập trung chỉ đạo, chưa ban hành nghị
quyết, nhất là nghị quyết chuyên đề để tập trung sự lãnh đạo và chỉ đạo về
lĩnh vực này. Trong thực tế có những nơi chủ trương, biện pháp tổ chức lãnh
đạo lĩnh vực này coi như là một công việc được nói thêm trong công tác tư
tưởng. Triển khai nghị quyết còn chậm, nhiều khi nội dung sơ sài, biện pháp
chung chung, không phân công trách nhiệm cụ thể cho cấp uỷ viên hoặc đảng
86
viên từ đó hiệu quả lãnh đạo hạn chế, không thể hiện tính chiến đấu cao trong
nhiệm vụ chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
Hai là, một s c p uỷ, tổ ch ã ạ ơ ơ
b ề DBHB p thờ ụ thể, nhiều
ơ u qu ò ạn ch , vi ền về ờng l i c Đ p n
b ạ u c a kẻ ù ò t phục.
Lãnh đạo chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng ở một số cơ quan tư
tưởng, lý luận, các phương tiện truyền thông đại chúng ở một số nơi, còn có
những điểm bất cập, thiếu sót. Nhiều cơ quan tuyên truyền, đài báo khi
thông tin về quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước làm
chưa đều, chưa sâu, chưa cụ thể, nhiều bài nói, bài viết chưa nêu bật các
quan điểm, đường lối đúng đắn của Đảng. Còn có những biểu hiện thiếu
nhạy bén chính trị, chưa làm tốt chức năng định hướng dư luận, chưa thực
hiện tốt tôn chỉ mục đích; còn để lọt thông tin không trung thực, thiếu chính
xác, giật gân, câu khách, lộ bí mật; khai thác thông tin nước ngoài thiếu
chọn lọc; chưa làm tốt công tác phát hiện, tuyên truyền các điển hình tiên
tiến, cổ vũ phong trào thi đua yêu nước. Một số cơ quan báo chí chậm đổi
mới nội dung và hình thức; tuyên truyền thiếu hấp dẫn, chưa làm chủ được
thông tin.
Một số tổ chức đảng chưa có chương trình kế hoạch xác định rõ nội
dung, mục đích yêu cầu, biện pháp để lãnh đạo các đơn vị, cơ quan của mình
tham gia, phối hợp cùng với cơ quan tư tưởng, báo chí, truyền thông đấu tranh
tích cực, chủ động có hiệu quả chống lại các thủ đoạn, phương thức chống
phá của các thế lực thù địch. Việc tập hợp cung cấp các thông tin thiếu kịp
thời, thiếu hệ thống, thiếu định hướng cụ thể, các hình thức lãnh đạo, thực
hiện tuyên truyền còn làm qua loa, đại khái, thiếu sức thuyết phục nhiều nơi
chưa chuẩn bị được các phương tiện tuyên truyền phù hợp hoặc minh hoạ để
người tiếp thu dễ tiếp nhận thông tin.
87
Đại đa số những người làm công tác thông tin đại chúng ở nước ta hiện
nay là những người tốt, có tâm huyết với dân tộc, tin theo Đảng, theo cách
mạng và chiến đấu để thực hiện lý tưởng cách mạng. Song, bên cạnh đó tinh
thần đấu tranh và kỹ năng đấu tranh của một bộ phận lực lượng chuyên trách
chưa đồng đều. Những yếu kém của đội ngũ báo chí, xuất bản đã được nhận
định một cách xác đáng trong Chỉ thị 22 của Bộ Chính trị về công tác này.
Những yếu kém đó đã hạn chế hiệu quả của cuộc đấu tranh chống DBHB
trên lĩnh vực tư tưởng qua các phương tiện thông tin đại chúng. Trong thực
tế cho thấy một bộ phận cán bộ, đảng viên kể cả trong công tác tư tưởng bị
tác động của DBHB đã dẫn đến thoái hoá, biến chất, ảnh hưởng tiêu cực đến
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, làm suy giảm lòng tin của
nhân dân đối với Đảng và Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Ba là ã ạo chỉ ạo vi c ph i h p giữ ơ ơ ổ
ch ch DBHB ò ng bộ, nh p ơ ph i
h p, hi u qu
Trong lãnh đạo, việc huy động các ban, ngành cùng tham gia công tác
chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng cũng hạn chế. Mặc dù thời gian gần đây
đã có chuyển biến tích cực như phối hợp giữa Ban Tuyên giáo, Bộ Thông tin
và Truyền thông với các cơ quan báo chí để mở các đợt cao điểm tấn công
chính trị, vạch trần bản chất phản động, của các thế lực thù địch, nhưng chủ
yếu vẫn là có sự chỉ đạo của Ban Bí thư, Bộ Chính trị hoặc do cơ quan chuyên
trách đề xuất các cấp uỷ, tổ chức đảng chưa kịp thời chủ động trong nội dung
này. Nhiều lúc chưa tổ chức đội ngũ chuyên trách, có trình độ lý luận vững để
viết bài phản bác các thông tin sai lệch, thông tin thổi phồng, bóp mép, thông
tin không đầy đủ... trên các phương tiện của chúng nhất là trên mạng internet.
Bên cạnh đó việc thiếu cơ chế quan hệ và cơ chế thông tin giữa một số
tổ chức đảng ở Trung ương với cấp uỷ địa phương, các cơ quan với nhau, cơ
chế phối hợp giữa cơ quan làm công tác tư tưởng của Đảng với chính quyền,
88
các đoàn thể chính trị, xã hội, giữa các đơn vị làm công tác tư tưởng còn thiếu
cụ thể, chưa đồng bộ, chưa tạo được sự thống nhất cao trong đánh giá tình
hình, trong đề xuất chủ trương, giải pháp tổ chức đấu tranh chống DBHB trên
lĩnh vực tư tưởng.
Việc lãnh đạo để phối hợp giữa các đơn vị, cơ quan chuyên môn,
chuyên trách, nghiệp vụ nhìn chung chưa thật tốt; sự phối hợp giữa cơ quan
Tuyên giáo, truyền thông với cơ quan an ninh với các bộ, ban, ngành chưa
chặt chẽ và chưa có cơ chế hợp lý nên chưa thực sự phát huy được sức mạnh
tổng hợp của cả hệ thống chính trị vào cuộc đấu tranh này. Sự lãnh đạo, chỉ
đạo của Đảng trong việc phối hợp giữa một số cơ quan chức năng trong đấu
tranh kịp thời khi có tình huống đột xuất hoặc có những tình huống đặc biệt
cũng nhiều hạn chế nên dẫn đến hiệu quả chưa cao, nhất là việc nắm những
động thái, thủ đoạn mới của các thế lực thù địch và tình hình tư tưởng ở cơ sở
chưa sâu sát dẫn đến những tình huống bất ngờ, như: vụ biểu tình ở Sóc Trăng
tháng 2-2007, vụ biểu tình gây rối ở Tây Nguyên tháng 4-2008, vụ việc xảy ra
tại 42 Nhà chung, 178 Thái Hà - Hà Nội, tại tháp chuông nhà thờ Tam toà
Quảng Bình... Công tác phối hợp giữa các đơn vị chuyên trách của lực lượng
Công an tuy đạt được nhiều thành công tích cực, song vẫn còn một số tồn tại.
Bốn là ã ạ ng l ều
ơ òn b t c p, thi u l ng ỏi.
Các cấp từ trung ương xuống địa phương đều được biên chế các cơ
quan chuyên môn, chuyên trách hoặc kiêm nhiệm. Trong thời gian qua nhiều
nơi việc kiện toàn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và tuyển dụng cán bộ, nhân
viên làm công tác này còn nhiều tồn tại không theo kịp đòi hỏi của nhiệm vụ
đặt ra. Lực lượng làm công tác bảo vệ chính trị nội bộ nhiều nơi còn chưa
kiện toàn đầy đủ, còn kiêm nhiệm nhiều và còn chưa được đào tạo bài bản.
Lực lượng chuyên trách đặc thù như Công an, cơ động còn mỏng do tổ chức
biên chế, trong khi đó trang bị đảm bảo cho hoạt động còn khiêm tốn.
89
Có nhiều nơi vừa thiếu vừa thừa, hoặc đội ngũ này có nhiều cán bộ tuy
tâm huyết nhưng không kịp thời được cập nhật, bồi dưỡng nên không đủ năng
lực, điều kiện thực hiện nhiệm vụ theo đòi hỏi của tình hình nhất là đòi hỏi về
trình độ khoa học kỹ thuật theo xu thế phát triển như: trình độ tin học, ngoại
ngữ... chính vì vậy nhiều nơi đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng, báo chí chưa
ngang tầm với sự phát triển, còn thiếu các chuyên gia giỏi về công tác tư tưởng.
Quá trình hoạt động DBHB trên lĩnh vực tư tưởng các thế lực thù địch
đẩy mạnh “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” đội ngũ cán bộ, nhân viên ngành
thông tin, truyền thông vì đội ngũ này có quan hệ chặt chẽ và trực tiếp nhất
với quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” nội bộ Đảng, Nhà nước. Chính
vì vậy nên các thế lực thù địch đẩy mạnh hoạt động “tự diễn biến”, “tự
chuyển hoá” trên lĩnh vực này. Nhưng trên thực tế nhiều cấp uỷ tổ chức đảng
không những chưa nhận thức đầy đủ mà nhiều nơi còn chưa chủ động có nội
dung lãnh đạo cụ thể, hiệu quả chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong
đội ngũ chuyên môn chuyên trách vì vậy đã có những nội dung đấu tranh còn
kém hiệu quả, thiếu tính thuyết phục.
Năm là ã ạo về tổ ch c th c hi n nhi m vụ qu ớc c
ơ b ò u qu trong th c hi n nhi m vụ
ò ề ờng l i c Đ ng.
Đảng lãnh đạo Nhà nước và hệ thống chính trị vì vậy việc lãnh đạo các
cơ quan nhà nước trong hệ thống chính trị thực hiện chức năng quản lý nhà
nước theo chức năng được phân công là một trong những nội dung quan trọng
trong lãnh đạo chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng. Trong thời gian qua
nhiều tổ chức đảng, cấp uỷ thực hiện nội dung này còn đơn điệu, sơ sài, kết
quả hạn chế, có nơi tổ chức đảng làm thay chính quyền dẫn đến tình trạng
“lấn sân”, có nơi thì lại buông lỏng “khoán trắng” cho cơ quan việc tổ chức
lãnh đạo, kiểm tra giám sát thiếu chặt chẽ vì vậy ảnh hưởng tới việc hoàn
thành nhiệm vụ. Việc lãnh đạo các cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà
90
nước còn biểu hiện yếu kém về thực hiện chức năng, về quan hệ với Đảng,
với dân vì vậy nhiều cán bộ, đảng viên trong cơ quan sách nhiễu với dân,
“hành dân” trên lĩnh vực mình quản lý và còn nhiều biểu hiện lợi dụng chức
quyền tham ô, tham nhũng, lãng phí…
Trong quản lý nhà nước của các cơ quan chuyên trách chống DBHB
trên lĩnh vực tư tưởng cũng còn nhiều khuyết điểm, các cấp uỷ, tổ chức đảng
nhiều nơi còn chủ quan, khinh địch vì vậy trong thời gian vừa qua xảy ra
nhiều hiện tượng đáng tiếc. Một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả số đã về
hưu và số đang công tác trong các cơ quan Đảng, Nhà nước do nhận thức lệch
lạc, mơ hồ nên đã không những không gương mẫu đi đầu lại có có hoạt động
ủng hộ, ngầm tiếp tay cho các thế lực thù địch hoạt động chống đối.
Nguyên nhân chính do công tác lãnh đạo chưa đầy đủ kịp thời còn
chiếu lệ, cũng có phần là do công tác tuyên truyền chính trị tư tưởng của ta
cũng bất cập, hệ thống lý luận chưa kịp đổi mới so với biến đổi nhanh chóng
của tình hình thực tế; thực trạng xã hội cũng nhiều tệ nạn như tham nhũng,
tiêu cực, công tác quản lý nhà nước cũng nhiều yếu kém, gây bức xúc trong
xã hội và làm “biến chất” cán bộ, đảng viên; họ chỉ nghĩ hành vi chống đảng
cụ thể mới là vi phạm, nhưng họ lại không nghĩ rằng chính sự yếu kém trong
rèn luyện đạo đức, sự ích kỷ, cá nhân... chính là môi trường tốt cho các thế
lực thù địch lợi dụng, lôi kéo và khai thác triệt để sử dụng tuyên truyền chống
Đảng, Nhà nước và chế độ.
Sáu là, một s c p uỷ, tổ ch ng nh n th
ch ộng triển khai ch ng “ diễn bi ” “ chuyển ” u qu .
Trong thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo có tình trạng ở một số nơi nặng về
đảng vụ, về nhiệm vụ chuyên môn, ít đề cập tới công tác tư tưởng hoặc cho
rằng Đảng viên là người tốt về tư tưởng không cần nói nhiều…. vì vậy khó
nắm bắt được tình hình diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên thuộc mình
quản lý dưới tác động của xã hội, đặc biệt tác động của hoạt động DBHB trên
91
lĩnh vực tư tưởng. Nhiều tổ chức đảng chưa đưa ra được nội dung yêu cầu
chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng vào sinh hoạt thường k của Đảng; vẫn
còn tình trạng chủ quan cho là đảng viên không thể bị “diễn biến” hoặc “tự
diễn biến” mắc mưu địch.
Nhiều cán bộ, đảng viên coi đây là việc của Trung ương, việc của cấp
uỷ chứ không phải việc của mình. Hơn nữa còn có những đảng viên, quần
chúng không hiểu thế nào là DBHB, “diễn biến” hoặc “tự diễn biến” và nó
diễn ra như thế nào và mình phải đề phòng, chống lại ra sao trong từng trường
hợp cụ thể. Nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng không nhận thức được rằng các thế
lực thù địch xác định rằng, lực lượng bên ngoài là tác nhân kích thích quan
trọng; lực lượng “ngầm” bên trong nội bộ Đảng, Nhà nước đóng vai trò quyết
định, là hạt nhân nòng cốt cho sự “chuyển hoá”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự
chuyển hoá” trong nội bộ Đảng, Nhà nước. Vì vậy, thực hiện “chuyển hoá”
nội bộ Đảng, Nhà nước thông qua con đường “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”
nội bộ chúng hướng đến xây dựng “đội ngũ cán bộ mới”, tức là những người
đối lập với Đảng, Nhà nước các thế lực thù địch đang tìm cách đưa các nhân
tố này vào trong các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Quốc hội, Chính phủ; từng
bước hình thành các phe phái, khuynh hướng đối lập với Đảng Cộng sản Việt
Nam. Nhưng trong thời gian qua nhiều nơi lãnh đạo tuyên truyền, phổ biến,
quán triệt để cán bộ, đảng viên, nhân dân nhận thức điều này chưa rõ, chưa
đầy đủ nên đã có nhiều cán bộ, đảng viên suy thoái về chính trị, tư tưởng và
đạo đức thậm chí có cả hành động, bài viết chống lại đường lối của Đảng.
Chính vì còn nhiều sơ hở nên các thế lực thù địch thực hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hoá” bằng nhiều thủ đoạn trong đó đẩy mạnh tác động ráo
riết thúc đẩy cho tình trạng tham nhũng diễn ra trong chúng ta và lợi dụng
việc chống tham nhũng, những sơ hở, thiếu sót của Đảng, Nhà nước để kích
động, gây chia rẽ, tạo sự nghi ngờ trong các tầng lớp nhân dân; gây mâu thuẫn
trong nội bộ Đảng, vu khống, nói xấu lãnh đạo Đảng, Nhà nước; dùng tiền
92
mua chuộc, lôi kéo các phần tử bất mãn, cơ hội, “đỏ vỏ xanh lòng” để thực
hiện ý đồ “dùng cộng sản lật đổ cộng sản”, làm cho sự “mọt rỗng từ bên trong
nội bộ Đảng, Nhà nước” diễn ra nhanh chóng, nhưng chính các cấp uỷ đảng,
tổ chức đảng và nhiều đảng viên chưa nhận thức đủ điều này vì vậy trong việc
xây dựng kiện toàn đội ngũ cán bộ nhân viên trên lĩnh vực này còn nhiều
thiếu sót bất cập dẫn đến có nhiều cán bộ đảng viên ở lĩnh vực công tác này
đã bị “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”.
3.1.2.2. Về phương thức lãnh đạo
Một là, vi c triển khai ngh quy t chỉ th c a c p nhiều c p uỷ, tổ
ch ò p thờ ụ thể, trong nh n th ò
quy ã ạo c p ển khai th c hi ò m, nhiều
ơ ò ời h t, qua l p ơ ã ạ p
Việc triển khai các Nghị quyết, Chỉ thị, Thông báo, ết luận của Ban
Chấp hành Trung ương, Bộ chính trị, Ban Bí thư, cấp uỷ cấp trên, về chống
DBHB trên lĩnh vực tư tưởng ở một số ngành, địa phương cũng có biểu hiện
làm lướt, mang tính hình thức. Nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên
và nhân dân về âm mưu, thủ đoạn DBHB của các thế lực thù địch còn mơ hồ,
một bộ phận tuy đã nhận thức được nhưng chưa tham gia vào công việc đấu
tranh của đoàn thể, tổ chức nào mà ngại va chạm hoặc nghe ngóng tình hình;
một số nơi quan niệm chống DBHB là của Trung ương, của cấp trên ... vì thế
cũng mất cảnh giác và chưa biểu thị thái độ của mình trong các âm mưu, hoạt
động chống phá của các thế lực thù địch trong DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
Một số tổ chức Đảng, cấp uỷ thiếu chủ động bàn bạc ra nghị quyết và
triển khai thực hiện lãnh đạo thường xuyên cũng như khi có nhiệm vụ, tình
hình đột xuất, vì vậy thường không có sự phân công cụ thể người phụ trách,
thiếu tổ chức chỉ đạo chặt chẽ. Đồng thời nhiều tổ chức Đảng nhất là ở cơ sở
cũng không chủ động, thường thực hiện theo sự chỉ đạo, nhắc nhở của cấp
trên hoặc của cơ quan chức năng nên không liên tục, thiếu bài bản và thể hiện
sự thiếu thống nhất trong công tác tư tưởng.
93
Hai là ền, thuy t phục, v ộ bộ,
nhiều c p uỷ, tổ ch ng ờ
ớ u qu .
Lãnh đạo bằng hình thức tuyên truyền trong thời gian qua biểu hiện
nhiều tồn tại bất cập, hình thức tuyên truyền còn đơn điệu, nghèo nàn, nặng
về phổ biến, quy định không có biện pháp vận động, thuyết phục hợp lý hoặc
đi vào chiều sâu. Nhiều cấp uỷ và tổ chức đảng thường kết hợp như nói thêm
vào các buổi sinh hoạt hoặc học tập nghị quyết, phổ biến nội dung khác vì vậy
hiệu quả không cao, không thu hút được người nghe. Có nơi tuy tổ chức thành
những buổi tuyên truyền riêng nhưng lại khô cứng, không thu hút được người
tiếp thu, chưa lồng vào các nội dung khác cho sinh động như các cuộc thi tìm
hiểu, văn nghệ, diễn đàn. Các cơ quan tuyên truyền còn hạn chế về chất lượng
như trong một số bài viết còn thiếu sắc bén, kịp thời trong đấu tranh phê phán,
phản bác các quan điểm, tư tưởng thù địch trong các hoạt động báo chí, tính
chiến đấu và tính thuyết phục trong các bài viết chưa cao.
Như nghị quyết TW 4 (khoá XI) chỉ ra nguyên nhân:
Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối
sống nhiều khi còn hình thức, chưa đủ sức động viên và thường
xuyên nâng cao ý chí cách mạng của cán bộ, đảng viên; một số nơi
có tình trạng những việc làm đúng, gương người tốt không được đề
cao, bảo vệ; những sai sót, vi phạm không được phê phán, xử lý
nghiêm minh [63].
Trong lãnh đạo bằng phương thức cung cấp thông tin cho các tầng lớp
cán bộ, đảng viên và nhân dân còn nhiều yếu kém ở một số khâu như: đưa
thông tin về những vụ việc tiêu cực, hay những việc chúng ta đang gặp khó
khăn trong xây dựng và phát triển đất nước, thường thiếu chủ động, hoặc đưa
thông tin trái ngược nhau trên một số tờ báo cụ thể. Tình trạng này dẫn đến
làm giảm hiệu lực trong việc tạo dư luận, định hướng dư luận. Có một số
94
trường hợp thông tin về những khó khăn hoặc khuyết điểm của các cơ quan,
tổ chức thực thi nhiệm vụ cụ thể lại phiến diện, sự vụ, đôi khi có tính moi
móc, thiếu xây dựng, tạo nên một kiểu tâm lý đối lập giữa dân với Đảng và
Nhà nước, tạo ra những khe hở mà lực lượng thù địch đã và đang lợi dụng.
Trong thông tin đối ngoại nhất là cho bà con kiều bào Việt Nam ở nước ngoài
chưa cụ thể, nhiều khi chưa nhận thức hết âm mưu, thủ đoạn DBHB của địch
trên lĩnh vực ngoại giao, đối ngoại nên tuyên truyền đối ngoại, kêu gọi kiều bào
ủng hộ đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước và chống lại các luận
điệu của kẻ thù cũng như tấn công vào các tổ chức phản động nước ngoài
chống phá chúng ta chưa hiệu quả, nhiều khi tuyên truyền thuyết phục đối
ngoại của chúng ta chưa thật sự theo kịp với tình hình biến động mau lẹ của thế
giới. Các cơ quan thực thi nhiệm vụ tuyên truyền đối ngoại có lúc lại thiếu tinh
thần chủ động tiến công trong hoạt động đối ngoại với các thế lực thù địch.
Ba là, một bộ ph ỏ bộ ơ u,
gi m ú u ớ é u
qu ã p , ề ạ c, l i s ng.
Nghị quyết TW 4 (khoá XI) chỉ rõ:
Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng
viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện
khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích
kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị,
cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tu tiện, vô nguyên tắc... [63].
Trên lĩnh vực này việc lãnh đạo chỉ đạo của Đảng trong đấu tranh với tệ
tham nhũng, lãng phí, quan liêu nhiều nơi chưa được hiệu quả cao. Có nhiều
nơi, thậm chí có những việc “đánh trống bỏ dùi” làm giảm lòng tin của nhân
dân với cán bộ, đảng viên. Những vụ việc nổi cộm đã được phát hiện, đấu tranh
và dư luận đề cập nhiều thì không được thông tin một cách chính xác, đầy đủ,
95
kịp thời nên mặc dù sau đó có những văn bản thông báo, có kết luận của cơ
quan điều tra nhưng không thuyết phục và thậm chí cũng tạo nên sự hoài nghi
trong quần chúng nhân dân.
Có những vụ việc “bị chìm xuồng” một cách khó lý giải, có những sai
phạm đã rõ ràng nhưng cơ quan quản lý không xử lý triệt để và đề ra biện
pháp khắc phục sai phạm, không nhận thiếu sót mà có ý đùn đẩy trách nhiệm
theo kiểu “công thì nhận riêng, tội thì chịu chung” hay nhận thiếu sót nhưng
không muốn có hình thức xử lý.
Nhiều thủ tục hành chính tạo nên sự rắc rối để cho những người thực
thi nhiệm vụ có điều kiện để “hành dân”, kiếm tiền, tạo nên sự quan liêu cửa
quyền “chốn công đường”... tất cả những điều đó là “mảnh đất tốt” cho các
thế lực thù địch thổi phồng, bóp méo, xuyên tạc và tạo làn sóng dư luận ủng
hộ cho những thứ gọi là “dân oan”, “nhân quyền”, “tự do”, “công lý”...
Bốn là, ổ ch bộ hi u qu ã ạ
Việc bố trí, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ, đảng viên vào các vị trí công tác
phù hợp, để cán bộ đảng viên phát huy được vai trò trách nhiệm của mình,
góp phần chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng là việc làm có tính chất quyết
định vì đó là cái “gốc” của mọi công việc. Thực tế nhiều cấp uỷ tổ chức đảng
làm công tác này chưa sát, chưa đúng, chưa trúng gây ra nhiều hậu quả như:
cán bộ đảng viên có biểu hiện bất mãn tiêu cực, không đủ năng lực hoàn
thành nhiệm vụ…từ đó tạo điều kiện cho “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” có
cơ hội tiến công làm thoái hoá biến chất nhiều cán bộ đảng viên
Lãnh đạo thông qua tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể là biện pháp
thiết thực vì thông qua tổ chức để rèn luyện, thử thách cán bộ, đảng viên; giáo
dục bồi dưỡng cán bộ, đảng viên trưởng thành như qua công tác, sinh hoạt,
học tập, qua việc tự rèn luyện theo tiêu chí được bổ nhiệm, phân công…Trong
việc lãnh đạo bằng công tác tổ chức, cán bộ có một thực tế tại nhiều địa
phương, nhiều ngành do công tác tổ chức, cán bộ làm không tốt, không đúng
96
quy trình (và cả hiện tượng “chạy chức, chạy quyền” trở nên phổ biến) đã tự
nó tước bỏ phương thức lãnh đạo này. Những sai phạm nhỏ không được quan
tâm, xử lý đã trở thành sai phạm lớn; từ cơ hội về kinh tế dẫn đến cơ hội về
chính trị; từ tư tưởng cơ hội thành hành động cơ hội... sự “biến mất” vai trò
tiên phong gương mẫu của đảng viên không hiếm gặp. Từ hiện tượng “tự
chuyển biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ đã biến những cán bộ của đảng
trở thành đối tượng bất mãn, cơ hội hoặc chống đối, làm tay sai cho các thế
lực thù địch. Trên thực tế do tác động của hoạt động DBHB trên lĩnh vực tư
tưởng đã từng bước đẩy đối tượng loại này dễ trở thành tay sai cho các thế lực
thù địch, mà khi đối tượng này trở thành tay sai cho chúng lại thực sự trở nên
nguy hiểm.
Lãnh đạo thông qua tổ chức phải nói đến công tác quản lý, bảo vệ chính
trị nội bộ cũng còn nhiều sơ hở dẫn đến tình trạng lộ, lọt những thông tin quan
trọng để các thế lực thù địch có thể lợi dụng. Những năm gần đây, hàng loạt
đơn thư, hồi ký của một số đồng chí nguyên là cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà
nước chứa đựng nhiều nội dung cuộc họp cơ mật của cơ quan Đảng, Nhà
nước bị đưa lên mạng internet, tán phát rộng rãi đã bị các thế lực thù địch lợi
dụng, xuyên tạc.
Việc lãnh đạo thông qua các tổ chức như các bộ, ban, ngành chức năng
còn lúng túng. Việc quản lý ngăn chặn các khuynh hướng tiêu cực trong hoạt
động văn hoá, văn nghệ, xuất bản báo chí cũng hữu khuynh, né tránh. Xu
hướng thoát ly khỏi sự lãnh đạo của Đảng vẫn còn tiềm ẩn, nhất là trong lĩnh
vực báo chí văn hoá, văn nghệ. Tình trạng chạy theo xu hướng thị trường,
thương mại hoá, bỏ qua định hướng tuyên truyền, giáo dục ngày càng lan rộng.
Năm là, ể ỉ ạo tổng k t th c tiễn ch ng
DBHB c ng nhiề ơ ờ , hi u qu th p.
Trong việc lãnh đạo bằng công tác kiểm tra, giám sát Trung ương Đảng
đã chỉ rõ: công tác lãnh đạo, chỉ đạo mà không kiểm tra giám sát thì không
97
phát huy tác dụng. hông trông chờ vào sự tự giác, và cũng không thể chỉ tin
vào các báo cáo từ cơ sở mà không có kiểm tra. Trong “sự kiện” Tây Nguyên
2001 rõ ràng có sự bị động, bất ngờ, thế nhưng ngay sau khi tăng cường nhiều
lực lượng xuống cơ sở, triển khai nhiều giải pháp phòng ngừa lại vẫn xảy ra
“hiện tượng” vào năm 2004. Ở đây rõ ràng có sự thiếu kiểm tra thông tin từ
cơ sở, không giám sát khi triển khai các giải pháp phòng ngừa của các cơ
quan chức năng.
Nhiều nơi, trong quá trình thực hiện lãnh đạo sau mỗi giai đoạn, mỗi sự
việc không kịp thời tổng kết rút kinh nghiệm cho những nội dung vừa thực
hiện. Vì vậy chưa đưa ra những ưu, nhược điểm, rút ra bài học kinh nghiệm
cho xử lý và lãnh đạo giai đoạn sau hoặc làm bài học cho các địa phương, cơ
quan khác đưa ra những phương thức cụ thể lãnh đạo cho từng tình huống.
Từ những hạn chế, thiếu sót nêu trên vì vậy trong nhận thức tư tưởng,
quan niệm chỉ đạo của nhiều đơn vị, tổ chức đảng còn coi nhẹ. Thực tiễn các
hoạt động nhiều nơi còn rời rạc, thiếu chỉ đạo, thiếu tập trung, cấp uỷ đảng và
tổ chức đảng một số nơi chưa có những tổng kết sâu sắc, cụ thể về nhận thức
tư tưởng, tình hình tư tưởng trong Đảng và trong xã hội, về sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng có những yếu
điểm, thiếu sót gì; chưa rút ra được những bài học kinh nghiệm về nhận thức
tư tưởng, chỉ đạo lý luận, thực tiễn đặt ra trong chống DBHB trên mặt trận tư
tưởng hiện nay.
Sáu là ã ạo ch “ diễn bi ” “ chuyển ” ội bộ
t ch ộng, ò ều hạn ch .
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” là sản phẩm và là biểu hiện cụ thể của
DBHB, do sức ép và áp lực từ DBHB tạo nên là chủ yếu . Như vậy, DBHB là
hoạt động tấn công từ phía kẻ thù, còn “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” là nói
về quá trình diễn ra trong chính nội bộ ta vì vậy để chống DBHB nói chung
và DBHB trên lĩnh vực tư tưởng nói riêng thì đồng thời với việc ngăn chặn
98
bên ngoài phải chủ động ngăn ngừa bên trong và ngược lại. Để chống DBHB
trên lĩnh vực tư tưởng việc chủ động chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” là
một trong những phương thức quan trọng và quyết định tới toàn bộ các
phương thức khác. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong lĩnh vực tư tưởng,
thể hiện tập trung trước hết là ở sự dao động về chính trị, mất định hướng,
khủng hoảng niềm tin, đường lối chiến lược và lý luận. Ở Việt Nam, trước sự
tấn công của kẻ thù bằng DBHB đã làm gia tăng bệnh cơ hội, thực dụng, thiếu
trung thực, thái độ thờ ơ, giảm sút lòng tin, phai nhạt lý tưởng, kỷ cương, kỷ
luật không nghiêm, nói và làm trái với quan điểm, đường lối của Đảng.
Nhưng thực tế cho thấy việc lãnh đạo ngăn chặn nội dung này thời gian
vừa qua tại nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng và ở từng cán bộ đảng viên còn chưa
đạt yêu cầu. Nhiều cấp uỷ chưa nhận thức đúng về tính chất nguy hại của “tự
diễn biến”, “tự chuyển hoá” hoặc có nhận thức đúng thì lại không đánh giá
đúng thực trạng ở cán bộ đảng viên mình đang quản lý để kịp thời ngăn chăn.
Nhiều nơi cho rằng điều đó không thể xảy ra ở nơi mình vì vậy việc tuyên
truyền, giáo dục chưa sâu, chưa đúng, có nơi còn chưa có những chương trình
cụ thể để chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” một cách hệ thống vì vậy
trong lãnh đạo nội dung này thường chỉ là kết hợp nói thêm trong triển khai
nhiệm vụ chung trên lĩnh vực tư tưởng.
Biện pháp lãnh đạo để chống lại hiện tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển
hoá” còn nhiều bất cập như việc quán triệt và thực hiện nghiêm túc, có hiệu
quả các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng và quy định của Nhà nước về công tác
tổ chức, cán bộ, bảo vệ an ninh chính trị nội bộ chưa đầy đủ tạo điều kiện cho
“tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” xâm nhập. Lãnh đạo thực hiện phương châm,
nguyên tắc bảo vệ an ninh chính trị nội bộ là “chủ động phòng ngừa, giữ vững
bên trong là chính”, “tự bảo vệ mình là chính” chưa sâu sắc và còn nhiều kẽ
hở vì vậy là điều kiện cho các thế lực thù địch tấn công tạo nên “tự diễn
biến”, “tự chuyển hoá”. Lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện các giải pháp
99
bảo vệ chặt chẽ an ninh chính trị nội bộ, vô hiệu hoá hoạt động thâm nhập, tác
động chuyển hoá nội bộ, thay đổi chế độ chính trị ở Việt Nam của các thế lực
thù địch và bọn phản động chưa thường xuyên còn hình thức.
Ở nhiều tổ chức đảng và cấp uỷ nhất là nông thôn và vùng sâu vùng xa
việc chủ động nắm tình hình, phát hiện sớm những biểu hiện “tự diễn biến”,
“tự chuyển hoá” trong nội bộ cơ quan, đơn vị để giải quyết, xử lý chưa kịp
thời kiên quyết. Những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ,
đảng viên là vấn đề không thể xem thường, bởi vì suy thoái về đạo đức, lối
sống là tiền đề của sự suy thoái về tư tưởng chính trị. Nhưng trong thời gian
qua nhiều nơi cấp uỷ, tổ chức đảng chưa tập trung phát hiện kịp thời được
những cán bộ, đảng viên mơ hồ về lập trường chính trị, có quan điểm sai trái,
không tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những người có
lối sống thực dụng, phẩm chất đạo đức không lành mạnh, quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, tiêu cực, xa rời nhân dân để đấu tranh, xử lý theo các quy
định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
3.2. NGUYÊN NHÂN, KINH NGHIỆM ĐẢNG LÃNH ĐẠO CHỐNG “DIỄN
BIẾN HOÀ BÌNH” TRÊN LĨNH VỰC TƢ TƢỞNG TỪ NĂM 1995 TỚI NAY
3.2.1. N uyên nhân
3.2.1.1. Nguyên nhân của ưu điểm
Mộ do nh n th ú ắn c a Đ ng về ạn c a kẻ
ù m quan tr ng s ò a nhi m vụ ch DBHB
ã ờng l i ch ơ ú
Từ Trung ương đến các tổ chức đảng, cấp uỷ các cấp ban ngành, địa
phương đa số đã nhận thức sâu sắc vị trí đặc biệt quan trọng trong nhiệm vụ
chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng, vì vậy đẩy mạnh công tác giáo dục chính
trị, tư tưởng tuyên truyền cho cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân nhận rõ
âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá cách mạng nước ta.
Cùng với nhận thức và tuyên truyền, các cấp uỷ Đảng từ Trung ương tới
100
nhiều địa phương, cơ sở cũng kịp thời đề xuất nội dung, phương thức, biện
pháp lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, toàn diện với các giải pháp cụ thể đối phù hợp
với từng lĩnh vực khác nhau thực hiện nhiệm vụ chống DBHB trên lĩnh vực tư
tưởng đạt hiệu quả tối đa.
H Đ ã ộ ã ạo, chỉ ạo, triể quy t,
chỉ th i vớ ơ ng ể ơ
ng k p thời q ã ạo,tổ ch c th c hi n ch DBHB
ng u qu , k p thời.
Đồng thời với việc ra nghị quyết, chỉ thị, các tổ chức Đảng từ Trung
ương tới các địa phương đã triển khai sâu rộng thực hiện kịp thời, đồng bộ các
nghị quyết, chỉ thị đó tới các cấp để tổ chức lãnh đạo thực hiện các nghị
quyết, chỉ thị, chủ trương được đề ra. Trong quá trình nhận thức, quán triệt
các Nghị quyết, chỉ thị từ các cấp, các cấp uỷ, tổ chức Đảng chú trọng triển
khai và tập trung vào các cơ quan đơn vị làm công tác tư tưởng coi đó là khâu
đột phá, then chốt cho các lĩnh vực khác để chống DBHB trên lĩnh vực tư
tưởng đạt kết quả cao nhất.
Các cấp uỷ, các tổ chức đảng từ Trung ương tới địa phương, chuyên về
công tác tư tưởng, lý luận, thông tin, truyền thông… chủ động quán triệt, tổ
chức triển khai, lãnh đạo, chỉ đạo chống lại các luận điệu tuyên truyền, xuyên
tạc, vu cáo của kẻ thù, các luận điệu xuyên tạc của kẻ địch có hiệu quả, đồng
thời tuyên truyền phổ biến đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà
nước kịp thời, thường xuyên. Lãnh đạo cơ quan chuyên môn, đội ngũ cán bộ,
đảng viên biên tập các bài viết, bài nói tuyên truyền phê phán, bác bỏ luận
điệu sai trái của địch kịp thời, sâu sắc.
B bộ ng b
tr vữ nh, ch ộng ch DBHB
c ti p ạ c những k t qu
101
Cán bộ, đảng viên trong Đảng từ Trung ương tới địa phương chuyên
mô về công tác tư tưởng đa phần thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên
định lập trường cách mạng, nhất trí cao với đường lối, quan điểm, tư tưởng
của Đảng, tích cực tuyên truyền tư tưởng của Đảng vào thực tiễn cuộc sống,
gương mẫu đi đầu trong chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
Các tổ chức Đảng, các cấp uỷ, các cán bộ, các nhà nghiên cứu khoa
học, các nhà lý luận trên lĩnh vực tư tưởng đã luôn luôn kiên cường đứng
trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên
quyết đấu tranh với những luận điểm thù địch, sai trái, bảo vệ quan điểm,
đường lối của Đảng.
3.2.1.2. Nguyên nhân của khuyết điểm
Mộ ộng c ã ộ ững mặ a
nền kinh t th ờ b ạ ều v ề th c tiễ
c u k p thời, th ộ a nhiều t ng lớp ã ội.
Kinh tế, xã hội còn nhiều khó khăn tác động đến đời sống của cán bộ,
đảng viên và nhân dân, đồng thời mặt trái nền kinh tế thị trường xuất hiện
nhiều vấn đề phức tạp, quan hệ lợi ích thay đổi, phân hoá, bên cạnh đó công tác
quản lý xã hội, quản lý kinh tế, xây dựng Đảng còn không ít yếu kém, khuyết
điểm đã tạo ra khó khăn cho công tác tư tưởng và chống DBHB trên lĩnh vực
tư tưởng. Như Nghị quyết Trung ương lần thứ tư (khoá XI) nhận định:
…nguyên nhân khách quan do việc thực hiện đổi mới kinh tế phải
vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, chưa lường hết được những tác động
của mặt trái cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế; chưa có sự chuẩn
bị thật kỹ về lập trường, tư tưởng và cả cách thức tiếp cận mới cho
cán bộ, đảng viên 63].
Sự nghiệp đổi mới đang dần đi vào chiều sâu, quan hệ đối ngoại được
mở rộng, xuất hiện hàng loạt vấn đề mới, nhiều chiều hướng tư tưởng khác
nhau đan xen, đòi hỏi phải nghiên cứu và xử lý nhanh, kịp thời, trong khi đó
102
công tác lý luận, phương thức lãnh đạo công tác tư tưởng chưa theo kịp tình
hình, đối tượng. Chính điều đó làm hạn chế nhiều về nhận thức, dẫn đến nhiều
diễn biến về tâm tư, tư tưởng của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân,
ảnh hưởng tới nhiệm vụ lãnh đạo chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
H s ch p l ù t tr c ti p,
với m ộ ă ều th ạn tinh vi ù
x o quy t, tiềm l c kinh t , khoa h c c ú ớn lạ ờ
ú ú ơ ề ơ
ng c a ta nhiề ò b ộ ú ú .
Các hình thức, phương pháp, thủ đoạn tinh vi xảo quyệt với những
phương tiện, thiết bị hiện đại của kẻ thù là một nguyên nhân trực tiếp, nguy
hiểm gây khó khăn cho công tác tư tưởng cũng như chống DBHB trên lĩnh
vực tư tưởng. Trong khi đó, các cơ quan làm công tác tư tưởng chưa linh hoạt
đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức, tuyên truyền đường lối đổi mới
của Đảng trên tất cả các lĩnh vực. Như Nghị quyết Trung ương lần thứ tư
(khoa XI) nhận định:
Trong khi đó, các thế lực thù địch không từ bỏ âm mưu và hoạt
động “diễn biến hoà bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển
hoá”, tăng cường hoạt động chống phá, chia rẽ nội bộ Đảng và phá
hoại mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân, làm suy yếu vai
trò lãnh đạo của Đảng [63].
Việc đối thoại, tranh luận chưa nhiều, chưa coi trọng lắng nghe thông tin
nhiều chiều, chưa tạo được cơ chế toàn xã hội làm công tác tư tưởng. Tình
trạng thụ động, chờ định hướng của Trung ương vẫn tồn tại ở một số cấp uỷ, tổ
chức Đảng làm công tác tư tưởng. Chưa có nhiều biện pháp lãnh đạo, còn thiếu
nhiều phương tiện đấu tranh với những phương tiện hiện đại, công nghệ cao
của các thế lực thù địch.
103
B nh n th c c a một s c p uỷ, tổ ch ề
ạn mới c a kẻ ù ò ạn ch ã ạo, chỉ ạ ò
ú ú c bi p p p thời, hi u qu ã ạo ch ng
DBHB ng tạ p ơ ơ
Một số tổ chức đảng, cấp uỷ do nhận thức còn chưa đầy đủ về âm mưu
thủ đoạn mới, thâm độc xảo quyệt của kẻ thù trong giai đoạn hiện nay. Chưa
thấy hết nguy hại của DBHB trên lĩnh vực tư tưởng. Vì vậy thiếu chủ động
bàn bạc ra nghị quyết lãnh đạo, không có sự phân công cụ thể người phụ
trách, thiếu tổ chức chỉ đạo chặt chẽ. Các tổ chức đảng nhất là ở cơ sở làm
việc bị động, chủ yếu theo sự chỉ đạo, nhắc nhở của cấp trên nên không liên
tục, thiếu bài bản và thể hiện sự thiếu thống nhất trong công tác tư tưởng
Có nhiều nơi còn chưa quan tâm đúng mức đến việc lãnh đạo phối hợp
giữa các ban, ngành; phối hợp giữa các ban, ngành với cơ quan chuyên trách
và toàn thể các tổ chức chính trị xã hội tạo thành sức mạnh tổng hợp thực hiện
nhiệm vụ, đáng nói có nơi còn quan niệm rằng đó là việc của cơ quan an ninh,
cơ quan bảo vệ chính trị nội bộ hoặc của cơ quan làm công tác tư tưởng nên
chưa phát huy được sức mạnh vào cuộc của cả hệ thống chính trị.
Một bộ phận cán bộ đảng viên chưa nhận thức được sự nguy hại của
DBHB trên lĩnh vực tư tưởng, đơn giản hoá ý thức, sự băng hoại về đạo đức
và lối sống, buông lỏng kỷ cương kỷ luật. Thậm chí do không học tập, tiếp
nhận thông tin một cách không đầy đủ dẫn đến việc đồng lòng, thoả hiệp hay
đơn giản hoá các hành vi chống đối, không nhận thức những thủ đoạn tuyên
truyền “ngọt ngào” của các thế lực thù địch được mình tiếp nhận chính là
mầm mống, tiền đề dẫn đến các hành vi cực đoan trong các hoạt động chống
đối Đảng và Nhà nước.
B th c tiễn c ộ ổi mới, s p ển c ã ội, s
bi ổi mau lẹ c a quan h n xen ph c tạp giớ c, ò
hỏi u n ng ều v ề mớ ặt ra
104
c i th ụ thể, c t vi ã ạo th c hi n
ò ạn ch , p thời; b ạ ch ộ
ò ều b t c p ạ bộ
ngang t m.
Sự nghiệp cách mạng và yêu cầu của công cuộc đổi mới, sự biến đổi
tình hình mau lẹ, đòi hỏi nhiều nội dung cần nghiên cứu và lý giải, nhưng việc
đầu tư nghiên cứu, tổng kết thực tiễn còn hạn chế hoặc có đầu tư nghiên cứu
nhưng hiệu quả chưa cao, chưa sát thực, không trúng những vấn đề cần lý
giải. Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị còn chung chung và có nhiều
nơi còn hình thức, không sâu, không cụ thể thiết thực nên sự phản bác các
quan điểm sai trái mà các thế lực thù địch liên tục tạo ra, dựng lên chưa có kết
quả như yêu cầu đòi hỏi.
Việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức nghiên cứu, bổ sung cho lý luận trên cơ
sở tổng kết thực tiễn còn nhiều hạn chế, chưa ngang tầm, chưa kịp thời, chưa
thấu đáo với đòi hỏi của cách mạng, sự biến đổi của tình hình, nhất là những
gia tăng phức tạp trong khu vực và thế giới. Các phương tiện, thiết bị phục vụ
cho việc chống lại các luận điệu của kẻ thù còn hạn chế thậm chí còn lạc hậu,
không theo kịp đòi hỏi của sự phát triển của khoa học, công nghệ.
Nă , ã ạo, chỉ ạo vi c ạo, b ỡng, quy hoạch ộ
bộ n, ơ ú ò
ngang t m với s p ển ò hỏi c a nhi m vụ ò ỏi
c a từ ạn.
Cán bộ làm công tác lý luận một phần không nhỏ còn chưa được quy
hoạch, đào tạo bài bản, chuyên sâu, không theo kịp tình hình nên một số hạn
chế về chuyên môn. Nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng chưa chú trọng lãnh đạo, chỉ
đạo các cấp chủ động có kế hoạch phát hiện, bồi dưỡng, đào tạo các chuyên
gia giỏi, chuyên sâu về lý luận cũng như công tác tư tưởng vì vậy đội ngũ này
còn mỏng và ít chuyên gia. Chế độ đãi ngộ đối với cán bộ làm công tác lý
105
luận, công tác tư tưởng nhất là những người có trình độ và khả năng chuyên
môn sâu, chưa tương xứng với lao động đặc thù với trình độ trí tuệ và chuyên
môn. Chính vì vậy một bộ phận cán bộ, đảng viên làm công tác lý luận tư
tưởng, đã bị tác động của DBHB trên lĩnh vực tư tưởng và trong số đó không
ít người đã dẫn đến thoái hoá, biến chất. Hơn nữa, nhận thức và lý luận của
một số đảng viên làm công tác nòng cốt trong nhiệm vụ chống DBHB trên
lĩnh vực tư tưởng còn thiếu sắc bén, không kịp thời trong đấu tranh phê phán,
phản bác các quan điểm, tư tưởng thù địch nổi rõ như lĩnh vực các hoạt động
báo chí, tuyên truyền thời gian qua tính chiến đấu và tính thuyết phục nhiều
bài viết, bài nói chưa cao, chưa thuyết phục.
S k p thời ã ạo, chỉ ạo ng ỉnh ơ
quan h , ph i h p c a ơ b ổ ch ể
th c hi n nhi m vụ ch ng “ ễn bi n b ” ng
Chưa lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức kịp thời đề ra hệ thống thống nhất
các quy định, cơ chế quan hệ và cơ chế thông tin giữa một số cơ quan trong tổ
chức đảng với nhau; cơ quan tuyên giáo, truyền thông ở cấp trên với cấp uỷ,
chính quyền địa phương địa phương; cơ chế giữa cơ quan làm công tác tư
tưởng của Đảng với chính quyền, các đoàn thể chính trị, xã hội; cơ chế giữa
các đơn vị làm công tác tư tưởng vì thế thường còn thiếu cụ thể, chưa đồng
bộ, chưa tạo được sự thống nhất cao trong đánh giá tình hình, trong đề xuất
chủ trương, giải pháp tổ chức chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của nhiều cấp uỷ, tổ chức Đảng chưa
tạo được cơ chế khuyến khích đối thoại, tranh luận, tuyên truyền. Các cấp uỷ,
tổ chức đảng thường chú trọng tập trung nhiều vào nội dung chủ trương,
chính sách, nhưng coi nhẹ điều kiện thực hiện, xuất hiện tư tưởng chủ quan
trong đánh giá tình hình tư tưởng vì vậy hiệu quả không cao. Bên cạnh đó,
việc lãnh đạo, quy định quản lý thông tin, nhất là những thông tin liên quan
tới bí mật nhà nước còn nhiều nơi, nhiều lúc lỏng lẻo, nhiều sơ hở.
106
Chưa chú ý lãnh đạo sự phối hợp đồng bộ giữa các loại hình và hình
thức thông tin đại chúng; giữa thông tin đại chúng với các ấn phẩm về khoa
học, văn học nghệ thuật, kể cả sách công cụ như là từ điển trong đấu tranh
chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng. Phương thức nghiệp vụ của các loại
hình và hình thức thông tin có thể khác nhau, song phương hướng chính trị
chỉ có một, nhưng thời gian qua các phương tiện thông tin đại chúng tuy
đồng tâm nhất trí cao, có bản lĩnh chính trị vững vàng và tay nghề cao nhưng
chưa đạt được yêu cầu đề ra so với đòi hỏi của trận địa chống DBHB trên
lĩnh vực tư tưởng.
3.2.2. Kinh nghiệm
Từ những thành công, ưu điểm và hạn chế về sự lãnh đạo của Đảng trong
chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng, có thể rút ra một số kinh nghiệm sau:
Thứ nhất, nh với ch M - L ng H C M
v n dụ ạo cụ thể nh cụ thể ều ki ơ b n quy t
n hi u qu ã ạo ch DBHB ng.
Chủ nghĩa Mác- Lênin là đỉnh cao của trí tuệ nhân loại, là Học thuyết
khoa học toàn diện, sâu sắc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta nhân dân
ta vận dụng thực hiện thắng lợi trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo
vệ và xây dựng đất nước. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm
toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết
quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều
kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng
to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi. Muốn lãnh đạo thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng thì điều kiện kiên quyết và
nhất quán là phải kiên định với nền tảng tư tưởng mà Đảng và nhân dân ta
đã lựa chọn.
107
iên định sự lãnh đạo của Đảng, đưa nhanh đường lối, chủ trương
chính sách của Đảng, Nhà nước vào cuộc sống, nắm vững đường lối, quan
điểm của Đảng, đặt nhiệm vụ đấu tranh chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng
dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng trên cơ sở vận dụng
sáng tạo các quy định của pháp luật là điều kiện đảm bảo cho thắng lợi của
nhiệm vụ chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
Thứ hai, ục nh n th ú về v nhi p
ò a tổ ch ng, c p uỷ Đ ng th c hi n
ch DBHB c ng ơ quan tr ng quy nh thắng l i
nhi m vụ ã ạo ch DBHB ng..
Nhận thức đúng về trách nhiệm của bản thân, của tổ chức đảng, của
tập thể cấp uỷ trong nhiệm vụ lãnh đạo chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng
có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Khi nhận thức đúng thì có hành động đúng,
nhận thức đúng về vị trí trách nhiệm trước hết tự mình, tổ chức của mình sẽ
có đường lối chủ trương lãnh đạo đúng đắn, sát thực và bản thân mỗi người
có hành động thiết thực, hiệu quả và quá trình thực hiện lãnh đạo sẽ hoàn
thành được nhiệm vụ, chống lại âm mưu thủ đoạn của kẻ thù dù có thâm
hiểm đến đâu.
Phát huy vai trò của tổ chức đảng, của cán bộ, đảng viên và từng cấp uỷ
viên sẽ đảm bảo hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ lãnh đạo. Trong lãnh đạo chống
DBHB trên lĩnh vực tư tưởng cần phát huy tốt đội ngũ này nhất là đội ngũ cán
bộ, đảng viên đang công tác chuyên trách trong lĩnh vực tư tưởng, lý luận;
trong nghiên cứu, đề xuất với Đảng và Nhà nước những chủ trương, định
hướng chiến lược về xây dựng phát triển đất nước; đồng thời trực tiếp tham
gia thực hiện, đưa đường lối, chính sách vào cuộc sống; tham mưu cho Đảng
và Nhà nước ra được những Nghị quyết quan trọng về tăng cường chống
DBHB trên lĩnh vực tư tưởng. Tăng cường lãnh đạo, nâng cao vai trò của cấp
uỷ, của tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể, nhân dân về bảo vệ chính trị nội
108
bộ, quản lý các hoạt động xuất bản, báo chí, văn hoá nghệ thuật, bưu chính
viễn thông, công nghệ thông tin..cũng là những kinh nghiệm quý báu được rút
ra trong quá trình chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng thời gian qua.
Thứ ba, ờ ă ờ u, tổng k t th c
tiễ ổi mới n; ạ
tạo, b ỡ ộ n, nghi p vụ ộ bộ
ơ ơ b n
quan tr ng trong ã ạo ch DBHB ng.
Đây là nhân tố quan trọng quyết định sự thắng lợi trong quá trình xây
dựng CNXH nói chung và lãnh đạo chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng nói
riêng. Trên lĩnh vực tư tưởng, các thế lực thù địch luôn tập trung phản kích,
phủ định nhằm xoá bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng và nhân dân ta đó là chủ
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là mưu đồ lâu dài cũng như
trước mắt của các thế lực thù địch để thực hiện ý đồ chiến lược làm chuyển
hoá thể chế chính trị ở nước ta. Để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, trong
bất cứ hoàn cảnh nào, dù tình hình thế giới biến động và trong nước khó khăn,
phức tạp đến đâu, Đảng ta vẫn luôn bảo vệ và giữ vững, kiên định mục tiêu,
lý tưởng cộng sản. Theo quan điểm của Đảng ta và thực tế cho thấy, đến nay,
tuy có những vấn đề cần bổ sung, phát triển song chủ nghĩa Mác- Lênin, vẫn
là học thuyết cách mạng khoa học nhất, tiên tiến nhất, là “vũ khí tinh thần”
của giai cấp công nhân, là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta cũng như của nhân dân tiến bộ trên thế giới.
Chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng, phụ thuộc ở mức quyết định vào
chất lượng đội ngũ làm công tác tư tưởng, công tác lý luận, vì vậy việc lãnh
đạo, chỉ đạo, tổ chức nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch đúng đủ đội
ngũ cán bộ này là vô cùng cần thiết và xuyên suốt, đó cũng là kinh nghiệm
quý báu được đúc rút từ thực tiễn qua nhiều giai đoạn cách mạng. Nếu không
làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng trước mắt cũng như lâu dài sẽ
109
ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng công tác đấu tranh chống DBHB trên lĩnh
vực tư tưởng.
hi được đào tạo bồi dưỡng, quy hoạch bài bản trong qua trình thực
hiện nhiệm vụ đội ngũ này sẽ chủ động thực hiện nhiệm vụ và có nội dung và
phương thức đấu tranh chống lại những âm mưu, thủ đoạn DBHB trên lĩnh
vực tư tưởng của các thế lực thù địch theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu
quả. Sức thuyết phục của các bài viết, bài nói trên các phương tiện thông tin
đại chúng điều đó lại phụ thuộc rất nhiều vào trình độ của người thực hiện.
Thứ tư, ớng về về ơ , ph i k t h p vớ ơ , tạo s th ng nh t
cao giữ ổ ch ng, giữ ơ ơ c
hi n nhi m vụ ch DBHB ng ều ki ù
tr ng th c hi n thắng l i nhi m vụ.
Để lãnh đạo chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng có kết quả cần phải
trên nền tảng được sự đồng tình, ủng hộ và sự đồng thuận của nhân dân, các
tầng lớp, dư luận xã hội. Để làm được điều đó trước hết Đảng phải lãnh đạo,
chỉ đạo các tổ chức đảng từ Trung ương xuống cơ sở phải có sự thống nhất,
đồng thuận, các cơ quan nhất là cơ quan chuyên môn có sự thống nhất tuyệt
đối từ đó có biện pháp, chủ trương, đường lối phù hợp và hợp giữa “ý Đảng,
lòng dân” tạo thành sự đồng thuận hưởng ứng, ủng hộ trong toàn thể nhân
dân. Trên cơ sở đó phải chú ý đến cơ sở, vì cơ sở vì đây là nơi các thế lực
thù địch tập trung chống phá nhiều nhất, điều kiện lại hạn chế nhất là vùng
sâu, vùng xa, nhân dân ở đây lại chịu nhiều thiếu thốn, vất vả hơn so với các
thành phố, trung tâm lớn trong cả nước. Chính cơ sở là nơi trực tiếp thực
hiện và kiểm nghiệm tính đúng đắn của các đường lối, chủ trương của Đảng
vì vậy phải hướng về cơ sở, vì cơ sở và không được xa rời cơ sở dẫn đến
giáo điều, xa thực tế.
Thứ năm, ã ạo ch DBHB ng ph ờng
ục, ng thời gắn vớ p ò “ diễn bi ” “
chuyển ”
110
Kẻ địch tiến công chúng ta liên tục lại với nhiều luận điệu, quan điểm
sai trái thâm độc, lắt léo và tinh vi, chúng luôn kết hợp với mục tiêu đẩy mạnh
“tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ ta. Chính vì vậy trong lãnh đạo
chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng phải thường xuyên liên tục không được
chủ quan khinh địch, không thoả mãn dừng lại, nhất là không được mất cảnh
giác với “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” ngay trong nội bộ và mỗi cán bộ
đảng viên và mỗi con người chúng ta.
Trong quá trình chống phá ta, các thế lực thù địch tìm mọi cách đẩy
mạnh “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ ta, thực tế giai đoạn vừa
qua cho thấy kẻ địch coi đây là một trong những mục tiêu mũi nhọn. Vấn
đề này tuy không mới nhưng trong bối cảnh hiện nay và qua những thành
tựu cách mạng mà Đảng và nhân dân ta giành được, chúng nhận thấy
không đơn thuần thực hiện DBHB đơn thuần như một số nước khác, vì vậy
các thế lực thù địch tập trung đẩy mạnh tạo “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”
vì vậy chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng phải đi đôi với phòng, chống
“tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”.
Trên thực tế, tác động tạo ra “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội
bộ ta trong thời gian qua các thế lực thù địch đã đạt được một phần kết quả
trong nội bộ ta, tức là chúng đã tác động có kết quả nhất định trong mục đích
của DBHB trên lĩnh vực tư tưởng. Đây cũng là khâu then chốt ta cần lãnh đạo
để đảm bảo thắng lợi cho nhiệm vụ lãnh đạo chống DBHB trên lĩnh vực tư
tưởng. Đây không chỉ là kinh nghiệm quý báu được rút ra trong nhiều giai
đoạn của sự nghiệp cách mạng và thực tiễn chống DBHB trên lĩnh vực tư
tưởng, mà còn đồng thời mang tính nguyên tắc lâu dài, tính thời sự trong bối
cảnh hiện nay, đó là nội dung vô cùng quan trọng trong lãnh đạo, tổ chức thực
hiện của mọi cấp uỷ, tổ chức đảng, các cơ quan chuyên môn thực hiện nhiệm
vụ chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
111
Tiểu kết chƣơn 3
Từ sau năm 1995 tới nay, Việt Nam và Mỹ đã bình thường hoá quan hệ
và đi tới hợp tác trên nhiều lĩnh vực tạo điều kiện để các bên cùng phát triển
kinh tế, xã hội và nhiều lĩnh vực có hiệu quả. Đời sống của nhân dân đã được
nâng lên, chúng ta đã thoát khỏi khủng hoảng và đạt được nhiều thành tựu
trong xây dựng và bảo vệ đất nước. Nhưng trong quá trình đó các thế lực thù
địch vẫn không từ bỏ âm mưu phá hoại cách mạng nước ta, lợi dụng mối quan
hệ và chủ trương của Đảng cộng sản Việt Nam trong mở cửa, hội nhập, đa
phương hoá quan hệ và hợp tác với các quốc gia trên thế giới, chúng thực hiện
nhiều âm mưu thâm độc tinh vi, thủ đoạn xảo quyệt chống phá chúng ta hòng
xoá bỏ CNXH ở Việt Nam. Chúng đã liên tục điều chỉnh hoạt động trong
từng giai đoạn, thời điểm nhất định và dùng DBHB trên lĩnh vực tư tưởng là
một trong những hoạt động chủ yếu để chống phá cách mạng Việt Nam.
Nhận thức đầy đủ âm mưu, thủ đoạn thâm độc đó của các thế lực thù
địch trong DBHB trên lĩnh vực tư tưởng, Đảng ta đã chủ động đổi mới nội
dung, phương thức lãnh đạo chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng và thu được
nhiều kết quả to lớn. Nhưng bên cạnh đó còn rất nhiều tồn tại, bất cập, để lãnh
đạo chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng đạt được yêu cầu đề ra đòi hỏi Đảng
phải có những nội dung, phương thức mới phù hợp trên cơ sở những bài học
rút ra trong thời gian qua, đây là đòi hỏi cấp thiết trong sứ mệnh lịch sử của
Đảng với cách mạng nước ta.
112
Chƣơn 4
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TĂNG
CƢỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦ ĐẢNG CHỐNG “DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH”
TRÊN LĨNH VỰC TƢ TƢỞNG ĐẾN NĂM 2025
4.1. THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN THÁCH THỨC VÀ PHƢƠNG HƢỚNG
LÃNH ĐẠO CỦ ĐẢNG TRONG CHỐNG “DIỄN BIẾN HOÀ BÌNH” TRÊN LĨNH
VỰC TƢ TƢỞNG
4.1.1. Dự b o thuận lợi, khó khăn th ch thức
4.1.1.1. Dự báo thuận lợi
Tình hình thế giới, khu vực và xu thế hội nhập quốc tế của nước ta
ngày càng sâu rộng, nhất là hội nhập kinh tế là một trong những thuận lợi cơ
bản trong thời gian tới. Việc thực hiện các hiệp định thương mại tự do đã có
và tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, cùng với việc hình
thành Cộng đồng SE N mở ra nhiều cơ hội thuận lợi cho cách mạng Việt
Nam phát triển. Khi mở rộng hợp tác với thế giới qua các hiệp định, hợp tác
đó chúng ta có điều kiện phát triển kinh tế, xây dựng đất nước, tiếp thu khoa
học kỹ thuật tiên tiến, nâng cao trình độ, để góp phần chống lại các âm mưu,
thủ đoạn chống phá của kẻ thù. Cũng qua đó quốc tế có điều kiện hiểu đầy đủ,
đúng đắn chúng ta hơn, chúng ta có tiếng nói trong nhiều tổ chức, từ đó sẽ tạo
điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Cũng do xu
thế chung và cục diện thế giới thay đổi sẽ hạn chế và không còn tình trạng
nhiều nước đòi bá chủ áp đặt với các quốc gia khác về chế độ chính trị, về tư
tưởng, các quốc gia dân tộc tự quyết định vận mệnh của mình. Như vậy các
thế lực thù địch không thể thường xuyên, trắng trợn vu cáo, xuyên tạc tình
hình chính trị, tư tưởng cũng như mọi lĩnh vực khác của ta như trước đây.
Cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão, khoa học công
nghệ thông tin phát triển nhanh, làm cho giao lưu khoa học, văn hoá, tư tưởng
được mở rộng và liên thông toàn cầu. Chúng ta có điều kiện tiếp thu những
113
tinh hoa của nhân loại phục vụ cho công tác tư tưởng. Đồng thời, sự loè bịp,
xuyên tạc, vu cáo của các thế lực thù địch về tình hình cách mạng Việt Nam
với thế giới và nhiều lĩnh vực khác sẽ giảm đi.
Sau 30 năm đổi mới, thế và lực của nước ta đã lớn mạnh hơn nhiều và
có thêm kinh nghiệm trong lãnh đạo, quản lý, điều hành phát triển kinh tế - xã
hội. Từ một nước kém phát triển, Việt Nam đã gia nhập nhóm nước đang phát
triển. Tình hình an ninh, quốc phòng được giữ vững, cơ cấu nền kinh tế từng
bước được chuyển đổi tích cực theo hướng hiện đại, Việt Nam cũng đạt nhiều
thành tích vượt bậc về xoá đói, giảm nghèo, an sinh xã hội và bình đẳng giới.
Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, đa dạng hoá, quan hệ
đối ngoại của Việt Nam không ngừng được mở rộng. Cán bộ, đảng viên trong
toàn Đảng luôn kiên định mục tiêu, lý tưởng của Đảng, tin theo chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường mà Đảng và nhân dân đã
lựa chọn.
Thành tựu của công cuộc đổi mới cũng góp phần nâng cao ý thức chính
trị, tư tưởng, tinh thần của cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng thời tinh thần
cảnh giác cách mạng cũng đạt ở tầm cao mới. Một thành tựu hết sức quan
trọng khác là sự đồng thuận trong xã hội đã được chuyển biển một cách rõ
nét. Tại Việt Nam, người dân đồng thuận trong những chủ trương lớn xây
dựng đất nước, phương thức phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt là, khi đất
nước có những mối đe doạ từ bên ngoài như xâm phạm chủ quyền lãnh thổ,
Biển đảo.. người dân cả nước đã kề vai sát cánh cùng với Đảng kiên quyết,
kiên trì đấu tranh bảo vệ lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc. Có nhiều lúc khi
đất nước gặp khó khăn thì truyền thống đại đoàn kết của Dân tộc được phát
huy trở thành động lực trong sự phát triển của đất nước.
Thành tựu từ công cuộc bảo vệ tổ quốc và xây dựng đất nước trong
giai đoạn qua đã chứng tỏ sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Điều đó cũng chứng minh tính đúng đắn, giá trị khoa học của chủ
114
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng được khẳng định, đó
cũng là những thuận lợi để chúng ta đồng thuận thực hiện nhiệm vụ cách
mạng giai đoạn trước mắt cũng như lâu dài.
Đại hội Đảng các cấp và Đại hội lần thứ XII của Đảng vừa thành công
rực rỡ là điều kiện chúng ta kiểm điểm đánh giá lại những mặt ưu khuyết
điểm, khẳng định tính đúng đắn khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, các cấp uỷ, tổ chức đảng có những bài học quý giá rút ra
từ thực tiễn làm cơ sở khoa học cho lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ trong thời
gian tới, những nội dung cơ bản của nhiệm vụ nói chung và công tác tư tưởng
được đại hội các cấp đề ra và chủ trương của Đảng ta tại Đại hội lần thứ XII
cho cách mạng Việt Nam là thuận lợi to lớn cho nhiệm vụ chống DBHB trên
lĩnh vực tư tưởng thời gian tới.
Đặc biệt kết quả, thành tựu rất to lớn đạt được khi ta triển khai thực
hiện Nghị quyết TW 4 (khoá XI) thời gian qua là cơ sở thuận lợi cho nhiệm
vụ thời gian tới trên tất cả các lĩnh vực nhất là công tác tư tưởng và chống
DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
Thành tựu trong công cuộc lãnh đạo chống DBHB nói chung và chống
DBHB trên lĩnh vực tư tưởng nói riêng của Đảng ta cho ta nhiều bài học quý
báu tiếp tục thực hiện nhiệm vụ chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng trong
thời gian tới. Đó là những thuận lợi cơ bản cho nhiệm vụ chống DBHB trên
lĩnh vực tư tưởng trong giai đoạn mới.
4.1.1.2. Dự báo khó khăn thách thức
Trong những năm tới, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có những
diễn biến phức tạp, khó lường. Hoà bình và hợp tác phát triển là xu thế lớn
nhưng chủ nghĩa dân tộc cực đoan, xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động
khủng bố tiếp tục gia tăng. Các nước lớn tăng cường sức mạnh quân sự và
cạnh tranh chiến lược trong khu vực ngày càng quyết liệt. Tranh chấp lãnh thổ,
đặc biệt là tranh chấp trên Biển Đông diễn biến gay gắt, phức tạp. Các quốc
115
gia đều điều chỉnh chiến lược phát triển, tăng cường liên kết, vừa hợp tác, vừa
cạnh tranh, nhất là trong thương mại, đầu tư, nhân lực, khoa học, công nghệ. Hội
nhập quốc tế của nước ta ngày càng sâu rộng, nhất là hội nhập kinh tế. Việc
thực hiện các hiệp định thương mại tự do đã có và tham gia các hiệp định
thương mại tự do thế hệ mới, cùng với việc hình thành Cộng đồng SE N mở
ra nhiều cơ hội thuận lợi cho phát triển nhưng cũng đặt ra không ít khó khăn,
thách thức, các thế lực thù địch sẽ len lỏi vào quá trình hội nhập để chống phá
chúng ta nhất là trên lĩnh vực tư tưởng.
Tình hình khu vực còn nhiều vấn đề phức tạp khó lường, tranh chấp
biển, đảo, lãnh thổ ngày càng gay gắt, các nước lớn với nhiều tham vọng sẽ
ngang nhiên vi phạm luật pháp quốc tế để áp đặt và có nhiều hành động vi
phạm tới chủ quyền lãnh thổ, Biển đảo, gây ảnh hưởng tới tâm lý, tinh thần
của cán bộ đảng viên, nhân dân và cả những nhà đầu tư đã và sẽ đấu tư vào
nước ta.
Sau 30 năm đổi mới, tuy chúng ta đã đạt được những thành quả quan
trọng, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Nhiệm vụ bảo đảm an ninh
chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ
còn rất nặng nề. Nhu cầu đầu tư cho phát triển, nhất là kết cấu hạ tầng, bảo
đảm an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh, nguồn lực còn hạn hẹp. Âm mưu,
thủ đoạn DBHB nói chung và DBHB trên lĩnh vực tư tưởng nói riêng của các
thế lực thù địch sẽ tiếp tục diễn ra với nhiều âm mưu, thủ đoạn thâm độc,
nham hiểm hơn.
Đặc biệt với xu thế hội nhập, mở cửa của Đảng ta để xây dựng và bảo
vệ đất nước cũng sẽ là những yếu tố cho các thế lực thù địch lợi dụng để
chống phá chúng ta. Việt Nam đã là thành viên của cộng đồng sian vì vậy
việc tới đây miễn các thủ tục hành chính trong cộng đồng, cho phép “công
dân sian” đi lại giữa các quốc gia cũng dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng để
xâm nhập, chuyển giao tài liệu chống Đảng, chống Nhà nước… Tiến tới khi
116
thoả thuận hiệp định TPP các nước xuyên Châu á, Thái Bình Dương có những
“rào cản” bị dỡ bỏ cũng tạo điều kiện cho các thế lực thù địch lợi dụng chống
phá. Cùng với sự hội nhập đó các thế lực thù địch ráo riết đẩy việc thúc đẩy
“tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” từ bên trong nội bộ Đảng, Nhà nước ta và
“xâm lăng văn hoá” nhằm xoá bỏ chế độ XHCN và bản sắc văn hoá Việt
Nam, coi đó là mũi đột phá, hòng làm tan rã niềm tin, gây hỗn loạn về lý luận
và tư tưởng, tạo ra những “khoảng trống tư tưởng” để dần dần đưa hệ tư
tưởng tư sản thâm nhập vào cán bộ, đảng viên và nhân dân nhằm chuyển hoá,
xoá bỏ hệ tư tưởng XHCN.
Trong khi đó kinh tế nước ta còn nghèo, nợ công còn cao, đời sống
nhân dân gặp nhiều khó khăn, nhất là các địa bàn vùng sâu vùng xa. Bên cạnh
đó phân hoá giàu, nghèo do mặt trái của kinh tế thị trường sẽ ngày một sâu
sắc, rõ rệt ảnh hưởng đến tư tưởng, tình cảm, truyền thống của người Việt
Nam. Tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống tình trạng
quan liêu, tham nhũng, lợi ích nhóm, phai nhạt lý tưởng, cá nhân chủ nghĩa,
cơ hội thực dụng…trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên có chiều
hướng tăng, có mặt nghiêm trọng. Kinh nghiệm chống DBHB trên lĩnh vực tư
tưởng ở nhiều tổ chức, cấp uỷ và cơ quan chuyên môn còn mỏng là những
khó khăn trong thời gian tới.
Từ nay đến năm 2025, âm mưu DBHB nói chung và DBHB trên lĩnh
vực tư tưởng nói riêng của các thế lực thù địch vẫn là một trong những chiến
lược cơ bản, chủ yếu chống phá cách mạng Việt Nam. Các thế lực thù địch
tiếp tục các hoạt động hậu thuẫn, tài trợ, chỉ đạo đường hướng cho hoạt động
của bọn phản động lưu vong người Việt và bọn phản động trong nước thực
hiện hoạt động chống phá, kích động bọn phản động trong nước tăng cường
các hoạt động nhất là phá hoại tư tưởng trong những năm tới, đặc biệt là thời
điểm tổ chức các sự kiện lớn. Chúng sẽ lợi dụng những thiếu sót khuyết
điểm trong lãnh đạo, chỉ đạo của một số tổ chức đảng, điều hành một số lĩnh
117
vực của cơ quan công quyền xuyên tạc, chia rẽ Đảng với nhân dân thậm chí
kích động, xuyên tạc gây bức xúc trong nhân.
Công nghệ thông tin ngày càng phát triển sẽ thúc đẩy giao lưu thông tin
của các quốc gia, trong đó có việc truyền bá thông tin độc hại, gây nhiễu loạn
tâm lý tư tưởng trong cán bộ đảng viên. Công tác quản lý lĩnh vực này còn
nhiều hạn chế vì vậy các thế lực thù địch lợi dụng phương tiện này để tuyên
truyền, phát tán thông tin, tài liệu xuyên tạc sự thật trắng đen lẫn lộn.
Chúng ta tiến hành triển khai quán triệt và học tập, thực hiện Nghị
quyết Đại hội Đảng lần thứ XII, các thế lực thù địch coi đây là điều kiện để
chúng tập trung đẩy mạnh các hoạt động DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
Chúng sẽ tập trung xuyên tạc, bóp méo những chủ trương đường lối của Đảng
hòng hạn chế tinh thần, nội dung của Nghị quyết vào cuộc sống của đảng viên
và nhân dân ta. Qua đó chúng hy vọng sẽ chuyển hoá về tư tưởng, chuyển hoá
những nguyên tắc cơ bản của Cương lĩnh chính trị và những nguyên tắc cơ
bản của đường lối theo định hướng XHCN.
Chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng là một trọng những nội dung cơ
bản, thường xuyên của cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng. Đó cũng là đòi
hỏi và thách thức không nhỏ đối với toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta trong
quá trình xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc XHCN trước mắt đến năm 2025
cũng như lâu dài.
4.1.2. Quan điểm, mục tiêu phƣơn hƣớng, l nh đạo ch ng “diễn
biến hòa bình” trên lĩnh vực tƣ tƣởng đến năm 2025
4.1.2.1. uan điểm lãnh đạo
Một là ã ạo ch DBHB ng ph ơ
nh mụ ờ ộc l p ộ CNXH i quy t t t m i quan h
b o v Tổ qu c Vi t Nam XHCN, quan h giữ ng.
Độc lập dân tộc là điều kiện kiên quyết để thực hiện CNXH và
CNXH là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng CNXH
118
và bảo vệ Tổ quốc XHCN là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ
biện chứng với nhau.
Đây là con đường duy nhất đúng của cách mạng Việt Nam, là sự lựa
chọn đúng đắn mà Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân
dân ta đã lựa chọn. Ngày nay, độc lập dân tộc và CNXH vẫn là mục tiêu hàng
đầu của cách mạng Việt Nam. Việc đấu tranh chống DBHB nói chung và
DBHB trên lĩnh vực tư tưởng nói riêng có hiệu quả hay không, có đúng
hướng hay không phải dựa trên nền tảng kiên định mục tiêu độc lập dân tộc
và CNXH, gắn chặt với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chính vì vậy
nhiệm vụ lãnh đạo chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng phải quán triệt tinh
thần kết hợp giữa xây và chống.
Hai là, nhi m vụ ch ng DBHB ng m vụ ơ
b ờ p b u trong nhi m vụ qu p ò
m vụ ù ng trong chi c b o v Tổ qu c.
Để thực hiện thắng lợi chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới,
Đảng ta đã xác định phải tiến hành tốt nhiều nhiệm vụ cơ bản, trong đó chống
DBHB nói chung và chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng là nhiệm vụ có ý
nghĩa quan trọng hàng đầu. Nhiệm vụ bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước XHCN,
bảo vệ nhân dân, giữ vững hoà bình và ổn định đất nước là mục tiêu hàng đầu
trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc thời k mới.
Bảo vệ Tổ quốc và bảo vệ Đảng, Nhà nước là hai nhiệm vụ gắn chặt
với nhau. Đảng, Nhà nước muốn tồn tại và phát triển vững mạnh phải trên cơ
sở nền tảng là Tổ quốc và dân tộc được hoà bình. Mặt khác Tổ quốc và dân
tộc muốn có hoà bình, ổn định phải có Đảng, Nhà nước vững mạnh, phải đấu
tranh bảo vệ tư tưởng nền tảng của Đảng, loại bỏ những tư tưởng tiêu cực,
phản động làm yếu Đảng. Đó cũng chính là nhiệm vụ của chống DBHB trên
lĩnh vực tư tưởng.
119
Ba là, ch DBHB m c a
Đ a c h th p uỷ, tổ
ch ừ ò u.
Nhiệm vụ chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng không thể thực hiện
thắng lợi khi không có sự tham gia ủng hộ của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân, của cả hệ thống chính trị. Đây là trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên
và của mỗi người dân trước Đảng, tổ quốc, dân tộc và các thế hệ mai sau.
Chính vì vậy trong thực hiện nhiệm vụ chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng
mọi người dân Việt Nam, kiều bào nước ngoài, mọi tổ chức chính trị xã hội
cũng như toàn hệ thống chính trị nhất là cán bộ, đảng viên, công chức viên
chức đều có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ quan trọng cấp bách này. Trong
quá trình thực hiện và để huy động được lực lượng đông đảo, đầy đủ và để
mọi lực lượng đồng thuận thực hiện có hiệu quả thì trách nhiệm của các cấp
uỷ đảng, tổ chức đảng và cá nhân từng đảng viên là vô cùng quan trọng và có
tính chất quyết định với toàn bộ quá trình thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo chống
DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
Bốn là, k t h p ch ng DBHB ng vớ p ò ng
DBHB ời s ã ội, k t h p giữ ng.
Các lĩnh vực đời sống xã hội, kinh tế, văn hoá, chính trị… đều có quan
hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại với nhau. Các thế lực thù địch luôn tìm
mọi thủ đoạn tiến hành đồng thời DBHB trên các lĩnh vực, chính chúng cũng
dùng DBHB trên các lĩnh vực khác nhau để tác động tạo điều kiện cho DBHB
các lĩnh vực khác thực hiện có hiệu quả đặc biệt là tác động vào DBHB trên
lĩnh vực tư tưởng vì vậy trong quá trình lãnh đạo chống DBHB trên lĩnh vực
tư tưởng phải đặt trong mối quan hệ chung với đấu tranh DBHB trên các lĩnh
vực khác.
Chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng là cơ sở định hướng để phòng,
chống DBHB trên các lĩnh vực khác như quốc phòng, an ninh, kinh tế…và
120
ngược lại chống DBHB trên lĩnh vực khác có tác động hỗ trợ cho chống
DBHB trên lĩnh vực tư tưởng. Quá trình thực hiện chống thì một nguyên tắc
không thể coi nhẹ là kết hợp „chống” với “xây”, nếu ta xây dựng củng cố tốt
sẽ có điều kiện để chống và khi “xây” tốt thì tự „chống” càng tốt hơn. Việc
kết hợp giữa xây và chống là điều kiện quan trọng trong đấu tranh chống
DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
Năm là, gắn ã ạo ch DBHB ng với ã ạo
Đ N ớc XHCN trong sạch vững mạnh c về
ổ ch p trung ngă ặ “ diễn bi ”
“ chuyển ” ội bộ Đ N ớc.
Âm mưu, mục tiêu chủ yếu của chiến lược DBHB nói chung và DBHB
trên lĩnh vực tư tưởng nói riêng là xoá bỏ Đảng Cộng sản Việt Nam, xoá bỏ
chế độ, thể chế chính trị và Nhà nước XHCN. Để đạt mục tiêu các thế lực thù
địch tìm cách thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ
Đảng. Để chống lại âm mưu, mục tiêu đó Đảng và toàn hệ thống chính trị,
phải mạnh, đủ sức đề kháng với những tác động xấu từ bên ngoài. Đảng, Nhà
nước mạnh chính là điều kiện cốt yếu để ngăn chặn những tiêu cực, yếu kém
trong nội bộ Đảng, Nhà nước.
Chính vì vậy trong lãnh đạo và tổ chức thực hiện chống DBHB trên
lĩnh vực tư tưởng phải gắn chặt với việc xây dựng Đảng, Nhà nước XHCN
vững mạnh về mọi mặt trước hết để bảo vệ Đảng, Nhà nước và để Đảng,
Nhà nước, toàn thể hệ thống Chính trị đủ mạnh chống lại âm mưu, thủ đoạn
thâm độc của kẻ thù. Đây là nguyên tắc và cũng là phương thức cơ bản thực
hiện nhiệm vụ chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
Sáu là, ch ng DBHB ộ
ă p c tạp, nhạy c ò ỏi ph é é p ơ
p ển kinh t ã ội n h th p p t XHCN.
121
Các thế lực thù địch không bao giờ từ bỏ âm mưu, mục tiêu chống phá
cách mạng Việt Nam vì vậy cuộc đấu tranh chống DBHB nói chung và chống
DBHB trên lĩnh vực tư tưởng nói riêng sẽ lâu dài, khó khăn, phức tạp. Để
lãnh đạo chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng đạt được hiệu quả bảo vệ thành
quả của cách mạng Đảng ta luôn xác định đây là mặt trận nóng bỏng, gay go
nhưng lâu dài, phức tạp vì vậy phải kiên trì, kiên quyết, khéo léo, thường
xuyên, liên tục không chủ quan khinh địch, luôn linh hoạt trong các biện pháp
trên cơ sở nguyên tắc không thay đổi.
Bên cạnh đó để đảm bảo điều kiện cho nhiệm vụ chống DBHB trên
lĩnh vực tư tưởng thì việc phát triển kinh tế xã hội, hoàn chỉnh pháp luật là
nhiệm vụ liên tục thường xuyên không thể thiếu. Kinh tế xã hội ổn định thì có
điều kiện hoàn thành mọi nhiệm vụ, kinh tế xã hội phát triển thì nhân dân yên
tâm tin tưởng vào sự nghiệp cách mạng; các hệ thống pháp luật XHCN có đầy
đủ thì có cơ sở và biện pháp đấu tranh với các âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù
nhất là đối với các phần tử chống đối và bọn cơ hội chính trị trong nước cũng
như bọn phản động bên ngoài xâm nhập vào trong nước chống phá chúng ta.
4.1.2.2. Mục tiêu phương hướng lãnh đạo
Đảng lãnh đạo làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch
trong hoạt động DBHB trên lĩnh vực tư tưởng, chống phá cách mạng Việt
Nam. Bảo vệ Đảng, chế độ, bảo vệ sự nghiệp đổi mới, giữ vững ổn định chính
trị, môi trường hoà bình của đất nước, giữ vững lòng tin của nhân dân theo
con đường định hướng XHCN; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc bảo vệ toàn vẹn lợi ích quốc gia, dân tộc
an ninh quốc gia, trật tự xã hội trong mọi điều kiện hoàn cảnh. Để đạt được
nội dung nêu trên trong thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo chống DBHB trên lĩnh
vực tư tưởng cần:
Mộ , giữ vững vai trò chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
là nền tảng tư tưởng là kim chỉ nam cho mọi hành động của toàn Đảng, toàn
122
dân ta. Đây là mục tiêu hàng đầu và là nguyên tắc không thể thay đổi trong
bất k hoàn cảnh nào của sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
H giữ vững mục tiêu lý tưởng của Đảng, của dân tộc, kiên định
với con đường CNXH mà Đảng, Chủ tịch Hồ chí Minh và nhân dân ta đã lựa
chọn, kiên quyết không đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập.
\B giữ vững sự đoàn kết nhất trí trong Đảng, giữa Đảng và nhân
dân cả về tư tưởng, tổ chức, chính trị, huy động được sức mạnh của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân bảo vệ đường lối của Đảng, bảo vệ sự lãnh đạo của
Đảng với hệ thống chính trị.
Phương hướng chỉ đạo công tác lãnh đạo của Đảng chống DBHB trên
lĩnh vực tư tưởng là: các cấp uỷ đảng lãnh đạo tuyệt đối trực tiếp, về mọi mặt,
trên cơ sở huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, trước
mắt chúng ta cần trọng tâm lãnh đạo theo phương hướng chủ yếu sau:
Thứ nhất, t p ổ ch ng vững mạ
ò hi m c bộ DBHB c
ng.
Thực hiện tốt công tác xây dựng đảng, nâng cao năng lực và sức chiến
đấu của các tổ chức đảng trong toàn đảng, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh
đạo để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị của mỗi tổ chức đảng. Phát huy
tốt năng lực của đảng trong nâng cao chất lượng công tác tư tưởng, trong công
tác lãnh đạo, chỉ đạo, trong việc tuyên truyền quán triệt và tổ chức thực hiện
tốt nghị quyết Đại hội đảng lần thứ XII vào trong đảng, các tổ chức chính trị -
xã hội và các tầng lớp nhân dân.
Tăng cường xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, quản lý tốt đội ngũ
cán bộ, đảng viên giỏi chuyên môn nghiệp vụ, có bản lĩnh chính trị vững
vàng, có phẩm chất đạo đức tốt, được nhân dân tin yêu. Chú trọng công tác
phát triển đảng, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên
nhất là đảng viên trẻ. Giáo dục tinh thần cảnh giác cách mạng, tạo sức đề
123
kháng cao trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, chủ động tấn công đánh bại
từng âm mưu thủ đoạn của DBHB trên lĩnh vực tư tưởng, đặc biệt chú ý
chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá‟ trong nội bộ Đảng và nhân dân. Phải
thực sự đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận để tiếp tục phát triển chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm cung cấp vũ khí lý luận sắc bén,
nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị cho cán bộ, đảng
viên và nhân dân, đồng thời, bác bỏ có hiệu quả các các luận điệu sai trái.
Thứ hai ã ạo, chỉ ạo chặt chẽ, k p thờ p ơ
ạ ú ng DBHB t ng.
Phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc
tăng cường phổ biến, quán triệt tới các cấp uỷ, chính quyền, đoàn thể, cán bộ,
đảng viên, nhân dân các quan điểm tư tưởng, chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước và về công tác bảo vệ trận địa an ninh tư tưởng trong tình
hình mới, nâng cao nhận thức, thống nhất nhận thức và hành động, tổ chức tốt
cuộc đấu tranh chống các quan điểm sai trái, phản động của các thế lực thù
địch chống phá cách mạng Việt Nam trên lĩnh vực tư tưởng.
Lãnh đạo để bổ sung, hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật để nâng
cao chất lượng hệ thống thông tin, truyền thông đại chúng như sách báo, tạp
chí, báo điện tử, internet,… nhằm đáp ứng nhu cầu nắm bắt thông tin của các
tầng lớp nhân dân; tích cực đổi mới, nâng cao chất lượng sáng tác, có nhiều
chương trình mới, hay hơn, hấp dẫn hơn để đáp ứng nhu cầu thưởng thức các
giá trị văn hoá, tinh thần của nhân dân, của cán bộ, chiến sĩ. Đây là những
biện pháp tốt để lấn át các trào lưu thông tin, truyền thông điện tử, sách báo,
băng nhạc, đĩa hình… phi chính thống mà thế lực thù địch đang sử dụng để
chống phá ta.
Thứ ba, ã ạo ă ờng ph i h p ộ ng trong
ã ội ch DBHB ng.
Lãnh đạo tốt việc tổ chức lực lượng, phối kết hợp giữa các bộ, ban,
ngành, địa phương nhất là nơi có "điểm nóng chính trị - xã hội " kịp thời sơ
124
kết, tổng kết trong từng giai đoạn hoặc mỗi nhiệm vụ nhất là tổng kết các
chuyên đề về bảo vệ trận địa an ninh tư tưởng theo khu vực, theo lĩnh vực
địch tập trung chống phá (dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền), theo những
đối tượng nhạy cảm (trí thức, văn nghệ sĩ, thanh niên, sinh viên...), từ đó rút
ra những kết luận, những cách thức giải quyết các tình huống nảy sinh trong
thực tiễn chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng với các thế lực thù địch.
Các cán bộ lý luận, các cán bộ thông tin đại chúng, đội ngũ giảng viên
chính trị, báo cáo viên, tuyên truyền viên phải làm tròn vai trò chiến sĩ xung
kích trong cuộc đấu tranh này. Hơn lúc nào hết, các cán bộ tư tưởng chuyên
trách của Đảng phải ra sức học tập lý luận chính trị và nghiệp vụ rèn luyện
bản lĩnh và đạo đức cách mạng, mài sắc vũ khí tư tưởng và phát huy sức
mạnh tổng hợp của các binh chủng tư tưởng, chủ động tiến công đánh bại mọi
thủ đoạn, âm mưu DBHB trên lĩnh vực tư tưởng, giữ vững ổn định chính trị,
góp phần đưa sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng XHCN,
đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá thắng lợi vì mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
Thực hiện tư tưởng chỉ đạo của Đảng là mở rộng dân chủ, phát huy tự
do tư tưởng, khai thác mọi tiềm năng sáng tạo trong nghiên cứu khoa học,
nghiên cứu lý luận để tạo thành sức mạnh tổng hợp, nhưng phải giữ nghiêm
kỷ cương trong việc phổ biến những kết quả nghiên cứu. Phải gắn trách
nhiệm đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, chống các tệ nạn xã
hội, các thói hư tật xấu với cuộc đấu tranh chống tư tưởng sai trái, thù địch.
Thứ tư ã ạo, chỉ ạo, tổ ch ơ ơ
ch ă ộ p ă ặ ạt
ộng ch p ớ ớ t Nam.
Do đặc thù của nhiệm vụ chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng cần có
lực lượng chuyên môn, chuyên trách, có những lực lượng đặc biệt, hoạt động
đặc thù như cơ quan tình báo, phản gián, an ninh đặc biệt…vì vậy lãnh đạo
125
chỉ đạo các cơ quan, lực lượng này cũng mạng tính đặc thù. Tu thuộc vào
chức năng nhiệm vụ mà cấp uỷ, lãnh đạo trực tiếp hoặc cơ quan đặc thù có
phương thức lãnh đạo hợp lý, nhất là việc phát hiện ngăn chặn từ bên trong và
ngăn ngừa bên ngoài cần có sự phối hợp lãnh đạo trong và ngoài nước phù
hợp, hiệu quả.
Lãnh đạo thực hiện nâng cấp, hiện đại hoá phương tiện truyền thông
của ta đồng thời có biện pháp ngăn chặn như phá sóng các đài phát thanh,
kênh truyền hình của các thế lực phản động, từng bước vô hiệu hoá tác dụng
tuyên truyền thù địch, tạo “bức tường lửa” trên mạng Internet. Nghiên cứu âm
mưu, thủ đoạn, hành động của các thế lực phản động, thù địch, chủ động phát
hiện sớm tình hình, xây dựng và thực hiện các chương trình, đề án đấu tranh
trên tất cả các hướng, các mũi tấn công. hông để bị động đối phó với những
thông tin sai lạc, vu khống. Chống khuynh hướng phi chính trị hoá, thương
mại hoá, tư nhân hoá trá hình trong hoạt động tư tưởng, văn hoá. Đây cũng là
nhiệm vụ cần xác định cụ thể trong phương hướng lãnh đạo thời gian tới.
Lãnh đạo việc chủ động tham gia hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực
thông tin đại chúng, đẩy mạnh thông tin đối ngoại, đấu tranh có hiệu quả với
thông tin xuyên tạc, áp đặt của các lực lượng thù địch và làm thất bại âm
mưu, thủ đoạn DBHB trên lĩnh vực tư tưởng của chúng ngay từ bên ngoài.
Thứ năm, ã ạo ch ộ ẩ ù ă ặ “ diễn bi ” “
chuyển ” ội bộ ể ch DBHB ng.
Đây là một trong những nội dung then chốt trong lãnh đạo chống DBHB
trên lĩnh vực tư tưởng. Biểu hiện của “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” rất
phong phú, đa dạng. Đối với tư tưởng chính trị, biểu hiện của “tự chuyển
hoá”, “tự diễn biến” là nghi ngờ, xa rời phai nhạt, rồi đến từ bỏ chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ bỏ mục tiêu, lý tưởng CNXH, thay
đổi đường lối phát triển đất nước, hạ thấp, vô hiệu hoá đến xoá bỏ vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản, thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, v.v…
126
Trong tình hình hiện nay, cần nhận thức sâu sắc rằng, nguy cơ “tự diễn biến”,
“tự chuyển hoá” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên là hiện hữu. Nguy cơ đó xuất
hiện từ cả hai phía, các thế lực thù địch và từ chính chúng ta dưới tác động
của DBHB nói chung và DBHB trên lĩnh vực tư tưởng nói riêng. Chính vì vậy
để chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng cần đẩy lùi, ngăn chặn “tự diễn biến”,
“tự chuyển hoá”.
Để thực hiện được phương hướng nêu trên, trước mắt cần tiếp tục nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu trong Đảng, đẩy mạnh tổng kết thực
tiễn và nghiên cứu lý luận, thảo luận dân chủ, sớm làm rõ và kết luận những
vấn đề mới, bức xúc nảy sinh từ thực tiễn làm cơ sở cho cuộc đấu tranh chống
những tư tưởng sai trái, bảo vệ vững chắc quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ trận địa an ninh tư tưởng. Tiến hành
một cách có hệ thống việc trang bị những kiến thức lý luận chính trị cơ bản
cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trong quá trình triển khai thực hiện các
nghị quyết của Đảng, giúp cán bộ, đảng viên và mọi người dân đủ sức giải
đáp những vấn đề của cuộc sống và miễn dịch với các luận điệu tuyên truyền
phản động của các thế lực thù địch.
4.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TĂNG CƢỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CHỐNG
“DIỄN BIẾN HÕ BÌNH” TRÊN LĨNH VỰC TƢ TƢỞNG ĐẾN NĂM 2025
Để lãnh đạo chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng của các thế lực thù
địch trong thời gian tới, trên cơ sở những quan điểm, mục tiêu, phương hướng
cơ bản, trên các lĩnh vực, Đảng lãnh đạo toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tiến
hành đồng bộ các giải pháp thực hiện tốt nhiệm vụ chống DBHB trên lĩnh vực
tư tưởng, trước hết thực hiện các giải pháp cơ bản sau sau:
4.2.1. Tăn cƣờng l nh đạo nân cao nhận thức và tr ch nhiệm của
c c cấp uỷ, tổ chức đản và c n bộ đản viên tron ch ng “diễn biến hoà
bình” trên lĩnh vực tƣ tƣởng
Nhận thức đúng thì sẽ có đường lối chủ trương và hành động đúng. Các
cấp uỷ, tổ chức đảng và mọi đảng viên phải có nhận thức đúng tầm quan
127
trọng, tính chất sống còn của nhiệm vụ chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
Lãnh đạo nâng cao nhận thức đầy đủ âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù
địch trong DBHB nói chung và DBHB trên lĩnh vực tư tưởng nói riêng qua đó
đề cao vai trò trách nhiệm của cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ đảng viên trong
nhiệm vụ chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng. Để phát huy hiệu quả công tác
lãnh đạo chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng trong thời gian tới cần phải:
Một là, ã ạ ục, t ề n th c
Đ i t ng lớp ã ội về t m quan tr ng
c a nhi m vụ ch DBHB ng.
Trước hết các cấp uỷ, tổ chức đảng phải có trách nhiệm làm tốt công
tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, các tổ
chức cơ quan trong hệ tống chính trị, các đoàn thể chính trị - xã hội, từ đó
nhân rộng trong toàn dân một cách thường xuyên, liên tục bằng các giải pháp
phù hợp. Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng phải góp phần
quan trọng nâng cao nhận thức tư tưởng, tinh thần cảnh giác cách mạng, phát
động ý thức đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, thù địch, đi ngược lợi
ích toàn dân; lãnh đạo nhận thức và thực hiện giữ vững nền tảng tư tưởng của
Đảng ta là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và lợi ích của toàn
dân vừa là trước mắt đồng thời là lâu dài sống còn của sự nghiệp cách mạng
Việt nam.
Thường xuyên tuyên truyền giáo dục quan điểm, đường lối của Đảng,
trong đó đặc biệt coi trọng giáo dục, quán triệt sâu sắc nhiệm vụ kết hợp phát
triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh; giữa chống DBHB
trên lĩnh vực tư tưởng với chống DBHB trê lĩnh vực khác. Tiếp tục quán triệt
sâu sắc Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị khoá VIII, Nghị quyết TW8 - hoá
IX, Đường lối và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 (được
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI thông qua), Nghị quyết 28 (TW 8 - hoá
XI), đặc biệt là nghị quyết của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ tư
128
(khoá XI), đồng thời đẩy mạnh cuộc vận động học tập theo tấm gương đạo
đức Chủ tịch Hồ Chí Minh….
Quan tâm giáo dục lòng yêu nước, tinh thần tự tôn và truyền thống dân
tộc, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, chống nhận thức mơ hồ trong
chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
Những nội dung giáo dục này phải được tiến hành thường xuyên, rộng
rãi trong nhân dân, nhất là học sinh, sinh viên, thế hệ trẻ cả nước, đồng bào và
chức sắc tôn giáo, quá trình giáo dục chú ý đảm bảo phù hợp với từng đối
tượng, kết hợp phương pháp truyền thống với hiện đại, giữa lý luận với thực
tiễn, đặc biệt là những thực tiễn mới nảy sinh.
Hai là, ã ạo ă ờ ục nh n th bộ,
ề b n ch ạ DBHB ng c a
l ù ữ ơ c lớ i vớ ạng
ớc ta trong nhữ ă ới.
Làm rõ những âm mưu, thủ đoạn tinh vi xảo quyệt của các thế lực thù
địch trong bối cảnh quốc tế và khu vực đã thay đổi, từ đó xác định rõ yêu cầu,
nhiệm vụ chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng ở mỗi cấp, ngành, địa phương,
cơ quan, đơn vị và mỗi người theo cương vị đảm nhiệm, nhằm biến nhận thức
thành hành động cụ thể đặc biệt trên lĩnh vực tư tưởng.
Trong nội dung này cần giáo dục, tuyên truyền để nhận diện, phân biệt
rõ bọn phản động trong nước và bọn phản động người Việt lưu vong; người
nước ngoài do các thế lực thù địch cài cắm bọn cầm đầu, cực đoan, quá khích
những phần tử phản động, nguy hiểm, đối tượng bị lôi kéo, kích động, do
nhận thức lệch lạc và số “bất đồng quan điểm” là đối tượng cần phải giáo dục,
thuyết phục. Qua giáo dục để mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân không mơ
hồ mất cảnh giác hoặc tin vào những luận điệu, tin đồn thất thiệt, thấy được
đó là những nguy cơ đang đe doạ sự tồn vong của chế độ, lợi ích trước mắt
cũng như lâu dài của Dân tộc, quốc gia mà bao năm hy sinh ta mời giành
129
được. Qua giáo dục để cho mọi tầng lớp nhân dân hiểu và tự mỗi người phản
bác lại các luận điệu của kẻ thù, tự chống lại sự dao động tư tưởng ngay trong
mỗi cá nhân, tổ chức, từ đó tạo ra sức mạnh tổng hợp trong nhiệm vụ chống
DBHB trên lĩnh vực tư tưởng .
Ba là, ã ạo g ụ ề ể m i c p uỷ, tổ ch ng,
n th DBHB ng,
ch “ diễn bi ” “ chuyể ” m vụ c Đ
, c p ới s ã ạo c Đ ng.
Chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển
hoá” là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; của
các cấp, các ngành, vì vậy mỗi cấp uỷ đảng, cán bộ đảng viên phải ý thức
được trách nhiệm của mình chủ động, kiên trì và thường xuyên làm tốt nhiệm
vụ được phân công. Nhưng tất cả các cấp ngành, cán bộ đảng viên phải hành
động thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng, đó là nguyên nhân quyết định sự
thành bại của nhiệm vụ này.
Mặt trận tư tưởng rất quyết liệt không có giới tuyến địch - ta rõ ràng
mà nó nằm ngay trong nội bộ, trong mỗi con người, từng là đồng chí của ta vì
vậy phải sử dụng sức mạnh của cả hệ thống chính trị, đề cao trách nhiệm của
mỗi cán bộ đảng viên, dựa vào nhân dân để vạch trần âm mưu thủ đoạn của
những phần tử thoái hoá biến chất. Phải lãnh đạo các cơ quan chuyên môn,
mọi cán bộ đảng viên cùng đồng lòng thực hiện và làm hạn chế sự liên kết,
móc nối của các thế lực thù địch ở nước ngoài đối với bọn phản động ở trong
nước; vô hiệu hoá, làm thất bại âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch
trong việc tìm kiếm, tạo dựng “ngọn cờ”, “nòng cốt” để hình thành tổ chức,
lực lượng chính trị đối lập ở Việt Nam. Hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả,
tác hại mà các thế lực thù địch gây ra.
Vấn đề chất lượng cuộc đấu tranh chống lại các thế lực thù địch trên
mặt trận tư tưởng đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng vì vậy phải luôn luôn gắn
130
với chất lượng công tác xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh
chính trị, có trình độ chuyên môn đủ sức đứng vững trong cuộc đấu tranh này.
Việc kiện toàn xây dựng tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh có ý nghĩa hết
sức quan trọng. Các cấp uỷ phải lãnh đạo chặt chẽ chính quyền các đoàn thể,
xây dựng chương trình, nội dung, kế hoạch hành động cụ thể. Xác định rõ nội
dung biện pháp tiến hành đấu tranh trong từng giai đoạn cụ thể đồng thời xác
định các nội dung xây dựng Đảng đi cùng.
4.2.2. Chăm lo xây dựn Đảng vững mạnh, nân cao chất lƣợn đội
n ũ c n bộ, đản viên
Để làm thất bại DBHB trên lĩnh vực tư tưởng của các thế lực thù địch
trong thời k mới, Đảng phải tiến hành đồng bộ các nội dung, biện pháp xây
dựng Đảng vững mạnh, trong đó trước hết cần tập trung thực hiện tốt những
nội dung, biện pháp chủ yếu sau:
Một là Đ ng vững mạnh c về ổ ch c
t quy nh.
Đẩy mạnh xây dựng Đảng về chính trị, cần tập trung và bổ sung, hoàn
thiện, cụ thể hoá cương lĩnh, đường lối, nghị quyết, làm cho đường lối luôn
luôn đúng đắn, kịp thời, hợp quy luật, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời k mới, phải luôn giữ vững và tăng cường
bản chất giai cấp công nhân, xây dựng bản lĩnh chính trị, lý tưởng cách mạng,
tư tưởng tốt cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Trước hết cần đưa Nghị quyết Đại
hội Đảng lần thứ XII vào cuộc sống, tiếp tục thực hiện tốt hơn Nghị quyết
TW 4 (khoá XI) và các Nghị quyết chỉ thị của Đảng, đồng thời nghiên cứu lý
luận, tổng kết thực tiễn để xây dựng, bổ sung kịp thời vào đường lối quan
điểm của Đảng trong giai đoạn tiếp theo.
Tăng cường xây dựng Đảng về tư tưởng, trong những năm tới, để
chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng có hiệu quả, cần chủ động nghiên cứu
xây dựng chiến lược công tác tư tưởng trong tình hình mới; đổi mới mạnh
131
mẽ nội dung, hình thức, biện pháp giáo dục chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Công tác tư tưởng của Đảng cần nâng cao tính chiến đấu, sức thuyết phục,
bám sát thực tiễn, kịp thời đấu tranh khắc phục những biểu hiện phai nhạt lý
tưởng, cơ hội, chạy theo lợi ích cá nhân; kiên quyết phê phán những quan
điểm sai trái, bác bỏ những luận điệu phản động, để đánh bại mọi thủ đoạn
DBHB nói chung và DBHB trên lĩnh vực tư tưởng nói riêng, của các thế lực
thù địch.
Để nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng, Đảng cũng tiếp tục lãnh đạo
tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, kịp thời làm sáng tỏ hơn
những vấn đề về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta; về Đảng cầm
quyền và công tác xây dựng Đảng trong điều kiện mới …Tiếp tục đẩy mạnh
và thực hiện nghị quyết TW 4 ( hoá XI), trên cơ sở những kết quả vừa đạt
được khi triển khai nghị quyết thời gian vừa qua và thực tiễn thời gian tới,
thường xuyên quán triệt, triển khai thực hiện các nhiệm vụ nghị quyết đề ra,
đồng thời giáo dục đạo đức cách mạng, truyền thống vẻ vang của Đảng làm
cơ sở cho cán bộ, đảng viên và nhân dân quyết tâm chống DBHB trên lĩnh
vực tư tưởng. Đặc biệt, Đảng phải quan tâm giáo dục, rèn luyện đạo đức cách
mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên; tiếp tục đẩy mạnh và phát huy kết quả
cuộc vận động: “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Tiếp tục cụ thể hoá đường lối văn hoá của Đảng, giữ gìn, phát huy bản
sắc văn hoá dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại... theo tinh thần
nghị quyết Trung ương IX (khoá XI). Đảng phải tăng cường lãnh đạo công tác
thông tin, tuyên truyền, cổ động; kiên quyết đấu tranh khắc phục những biểu
hiện lệch lạc trong hoạt động báo chí, xuất bản, văn hoá, văn nghệ… nhất là
những biểu hiện xa rời tôn chỉ, mục đích, chạy theo thị hiếu thấp hèn, vì lợi
ích cá nhân, cục bộ. Các cấp uỷ, tổ chức đảng phải luôn coi trọng công tác
kiểm tra, giám sát về rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
132
Chăm lo xây dựng Đảng về tổ chức, xây dựng Đảng về tổ chức bao gồm
nhiều nội dung, biện pháp cụ thể, trong đó trước hết cần tiếp tục thực hiện có
hiệu quả cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho các tổ chức Đảng
trong sạch vững mạnh, đội ngũ đảng viên thực sự tiên phong gương mẫu. Trong
quá trình xây dựng, chỉnh đốn, cần kiên quyết đấu tranh loại bỏ những phần tử
cơ hội, thoái hoá biến chất ra khỏi đội ngũ của đảng, để góp phần nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu, tạo được niềm tin trong nhân dân. Đảng phải
không ngừng tự hoàn thiện, cụ thể hoá, quy chế hoá các nguyên tắc tổ chức,
hoạt động của Đảng, đảm bảo mở rộng và phát huy dân chủ trong Đảng. Đồng
thời thường xuyên kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng từ Trung ương tới cơ
sở, gắn với xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu bộ máy, cơ chế vận hành
và lề lối làm việc. Đặc biệt phải kiên quyết chống tiêu cực trong công tác cán
bộ, phải đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ và công tác bảo vệ chính trị nội bộ.
Trong công tác cán bộ, phải luôn thực hiện đúng nguyên tắc tính đảng, tính
thống nhất trong lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đồng thời
đề cao trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị và người đứng đầu tổ
chức về công tác cán bộ. Đảng phải thường xuyên coi trọng công tác bảo vệ
chính trị nội bộ, chú ý bảo vệ Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, làm cho
Đảng thực sự trong sạch vững mạnh.
Hai là, ph i ă ờng ã ạ ă ng, c ng c
ch ộ bộ
Đây là một trong những nội dung trọng yếu của công tác xây dựng
Đảng và cũng là nội dung quan trọng đối với nhiệm vụ lãnh đạo chống DBHB
trên lĩnh vực tư tưởng. Để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, cần
chăm lo giáo dục, rèn luyện đảng viên theo các yêu cầu mà các k Đại hội
Đảng toàn quốc đã xác định về tư tưởng chính trị; trình độ năng lực và phẩm
chất đạo đức, lối sống. Trong quá trình giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên,
cần phải thường sàng lọc, kiên quyết đưa những người không đủ tiêu chuẩn
133
đảng viên ra khỏi Đảng, kịp thời phát hiện hiện tượng suy thoái, phần tử bị
địch cài cắm, mua chuộc. Đổi mới và xây dựng các tiêu chí đánh giá cán bộ
đảng viên nhưng trên cơ sở: khách quan, cụ thể, lịch sử, phát triển.
Tăng cường giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, nhằm nâng cao nhận thức tư tưởng, quan điểm lập trường, phương
pháp luận khoa học... cho cán bộ, đảng viên, làm cho họ biết xem xét và giải
quyết đúng đắn những vấn đề thực tiễn đặt ra về chống DBHB trên lĩnh vực
tư tưởng của các thế lực thù địch, đặc biệt ngăn chặn và đẩy lùi hiện tượng “tự
diễn biến”, “tự chuyển hoá”.
Để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, chống “tự diễn biến”, “tự
chuyển hoá”, trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù tình hình thế giới và trong nước
khó khăn, phức tạp đến đâu, cũng phải lãnh đạo để mọi cán bộ, đảng viên
luôn kiên định với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững
mục tiêu, lý tưởng cộng sản.
Nhận thức được những nguy cơ của tình trạng suy thoái đạo đức trong
Đảng, tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong cán bộ, đảng viên và
nhân dân, từ nhiều năm nay Đảng ta đã có những nghị quyết quan trọng về
công tác lý luận, ví dụ: Nghị quyết 01-NQ/TW ngày 28-3-1992 của Bộ Chính
trị “Về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay”. Hội nghị lần thứ V Ban
Chấp hành Trung ương (khoá IX) đã ra nghị quyết “Về nhiệm vụ chủ yếu của
công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới”. Đặc biệt nghị quyết TW4
( hoá XI) về những vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng, đây là một trong
những nội dung trọng tâm. Tuy nhiên, trên thực tế, chúng ta chưa phê phán và
đấu tranh kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng,
những quan điểm mơ hồ, sai trái. Do đó, lý luận phải tiên phong bảo vệ và
phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện cụ
thể của nước ta ở hoàn cảnh hiện nay; làm sáng tỏ, sâu sắc và cụ thể hơn nữa
134
con đường đi lên CNXH ở Việt Nam nhằm đấu tranh làm thất bại mọi âm
mưu của kẻ thù chủ nghĩa cơ hội, xét lại và hiện tượng “tự diễn biến”, “tự
chuyển hoá”.
4.2.3. Tăn cƣờng đổi mới nội dun , phƣơn thức l nh đạo phòn ,
ch ng “tự diễn biến”, “tự chuyển ho ” để thực hiện có hiệu quả ch ng
“diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tƣ tƣởng
Lãnh đạo chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng có hiệu quả hay không
phụ thuộc một phần quyết định vào việc lãnh đạo thực hiện phòng, chống “tự
diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong cán bộ đảng viên và toàn thể nhân dân. Đây
là vấn đề hệ trọng quyết định tới sự nghiệp cách mạng của chúng ta. Từ Đại
hội lần thứ XI đến nay nhất là trong nghị quyết TW 4 ( hoá XI) của Đảng
chúng ta coi nhiệm vụ này là sống còn trong sự nghiệp xây dựng Đảng, bảo
vệ Tổ quốc và chế độ XHCN. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này ta cần:
Đổi mới nộ ã ạo: căn cứ vào nghị quyết và hướng dẫn của
Bộ chính trị, Ban Bí thư, đặc biệt Nghị quyết TW 4 (khoá XI) và kết quả
thực hiện Nghị quyết TW 4 (khoá XI) vừa qua, các cấp uỷ, tổ chức đảng từ
Trung ương xuống cơ sở cần xác định rõ nội dung, biện pháp, yêu cầu đạt
được cụ thể trong nhiệm vụ phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”
phù hợp với từng giai đoạn, với tình hình tại địa phương, đơn vị mình. Cần
xác định rõ những vấn đề trọng tâm trọng điểm, vấn đề nhạy cảm vấn đề
trước mắt cần giải quyết dứt điểm, tránh chung chung dàn trải. Đổi mới cũng
có nghĩa không được chung chung như trước, phải khẳng định rõ trong tổ
chức, cơ quan mình đã có hiện tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” chưa
và ở mức nào, là ai hoặc nhóm nào từ đó kịp thời chấn chỉnh hoặc xử lý.
Đây là vấn đề rất khó khăn vì “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” là cái khó
nhận thấy ngay cả trong mỗi con người và khi đã bị “tự diễn biến”, “tự
chuyển hoá” cá nhân, con người đó cũng không dễ nhận ra, không dễ đấu
135
tranh được với chính mình mà cần có tổ chức, đồng chí, đồng đội và quần
chúng xung quanh giúp đỡ. Đây là nội dung hết sức quan trọng quyết định
hàng đầu đến toàn bộ kết quả lãnh đạo.
Trước hết cần lãnh đạo về nhận thức phòng, chống “tự diễn biển”, “tự
chuyển hoá”, không để cán bộ, đảng viên và nhân dân mơ hồ, mất cảnh giác
về âm mưu của các thế lực thù địch đẩy mạnh “tự diễn biển”, “tự chuyển hoá”
trong nội bộ ta. Phải nâng cao cảnh giác cách mạng để mỗi cán bộ, đảng viên
tự mình phòng, chống “tự diễn biển”, “tự chuyển hoá” cho mình và giúp đỡ
những người xung quanh tự phòng, chống “tự diễn biển”, “tự chuyển hoá”.
Đồng thời phải coi việc lãnh đạo phòng, chống “tự diễn biến”, “tự
chuyển hoá” là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các ngành,
các cấp dưới sự lãnh đạo của Đảng và phải tăng cường công tác tư tưởng, lý
luận, bảo vệ và giữ vừng nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nếu không vững vàng về xác định nền tảng tư
tưởng thì chính là cơ sở và là sự bắt đầu của “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”
trong mỗi chúng ta, vì vậy lãnh đạo nhận thức chung và nhận thức nền tảng tư
tưởng, kiên định với nền tảng đó là yếu tố hàng đầu trong nội dung cần đổi
mới lãnh đạo.
hông chỉ lãnh đạo thông qua Nghị quyết mà các cấp uỷ, tổ chức đảng
phải trực tiếp chỉ đạo, kiểm tra giám sát các cơ quan tư tưởng, văn hoá, phương
tiện thông tin đại chúng và mạng Internet tăng cường tuyên truyền đến mọi cán
bộ, đảng viên và nhân dân cả nước và kiều bào ở nước ngoài cùng nhận thức rõ
âm mưu thủ đoạn của kẻ thù, trách nhiệm và biện pháp phòng, chống “tự diễn
biển”, “tự chuyển hoá” trên từng vị trí, địa vị của mỗi người.
Một trong những vấn đề đặt ra là để phòng, chống “tự diễn biển”, “tự
chuyển hoá” phải làm cho công tác tư tưởng, công tác lý luận đi vào thực
tiễn cuộc sống. Công tác tư tưởng phải đáp ứng được tâm tư, nguyện vọng
136
của người dân, công tác lý luận cần phải giải đáp được những vấn đề chưa
sáng tỏ, những vấn đề cuộc sống đang đặt ra. Lãnh đạo chặt chẽ công tác
tuyên truyền các đợt sinh hoạt chính trị rộng lớn, các sự kiện lớn của Đảng,
đất nước, dân tộc thảo luận các văn kiện Đảng, góp ý xây dựng pháp luật, đó
là những nội dung cần tăng cường tích cực chủ động hơn trong thời gian tới
để đạt được yêu cầu trong nhiệm vụ lãnh đạo phòng chống “tự diễn biến”,
“tự chuyển hoá”, góp phần quyết định vào lãnh đạo chống DBHB trên lĩnh
vực tư tưởng.
Trong quá trình đổi mới nội dung các cấp uỷ, tổ chức đảng cần đặc
biệt quan tâm đổi mới lãnh đạo việc xây dựng củng cố lực lượng chuyên
môn, chuyên trách. Đây là lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ
phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” vì vậy phải nắm chắc tư
tưởng, nâng cao trình độ năng lực, chuyên môn nghiệp vụ cho bộ phận
chuyên trách này. Lãnh đạo lực lượng này không được chung chung hoặc
“giao khoán” cho cấp uỷ, cơ quan tổ chức chuyên môn chuyên trách mà phải
từ các cấp, các ngành trên cơ sở tôn trọng nghiệp vụ đặc thù vì vậy nội dung
lãnh đạo cần có sự nghiên cứu, tăng cường, phù hợp với từng lực lượng. Các
lực lượng an ninh nội bộ, an ninh văn hoá, đặc tình, bảo vệ chính trị…là
những lực lượng chuyên môn chuyên trách có tính chuyên biệt và nắm chắc
những biến đổi, những biểu hiện của nhiều cá nhân, tổ chức có biểu hiện “tự
diễn biến”, “tự chuyển hoá” một cách tương đối đầy đủ, cụ thể hơn vì lực
lượng này có nghiệp vụ đặc biệt.
Từ thực tiễn lãnh đạo chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng, và lãnh đạo
chống âm mưu thực hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” của các thế lực thù
địch cho ta thấy, khi khó khăn, thử thách xuất hiện là lúc tư tưởng dễ dao động,
tâm lý hoang mang, mất phương hướng dễ nảy sinh trong một bộ phận cán bộ,
đảng viên. Chính đó là cơ hội cho “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” xuất hiện, đó
cũng là lúc nguy cơ giảm sút lòng tin, phai nhạt lý tưởng... và cũng là lúc có cơ
137
hội “ngóc đầu”, chống đối trong số những kẻ cơ hội, thực dụng. Vì vậy trong
đổi mới nội dung lãnh đạo các cấp uỷ, tổ chức đảng phải luôn coi trọng và đổi
mới công tác tư tưởng, lý luận, công tác phòng, chống “tự diễn biến”, “tự
chuyển hoá” trong sinh hoạt đảng vì đó luôn là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối
với sự nghiệp bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN, góp phần
giải đáp những vấn đề do thực tiễn đặt ra, củng cố niềm tin vào lý tưởng cộng
sản và con đường XHCN mà nhân dân ta đã lựa chọn, vì vậy nâng cao nhận
thức về vấn đề này là sống còn trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Đổi mớ p ơ ã ạo: trong thời gian tới cần căn cứ vào tình
hình, nhiệm vụ của từng tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị và thực tiễn âm
mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá, tiến hành đổi mới
phương thức lãnh đạo nâng cao hiệu quả lãnh đạo phòng, chống “tự diễn
biến”, “tự chuyển hoá” góp phần quyết định vào nhiệm vụ lãnh đạo chống
DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
Trong việc triển khai nghị quyết của cấp trên và triển khai nghị quyết
lãnh đạo cấp mình phải kịp thời, sát với yêu cầu nhiệm vụ, tránh chung chung
giàn trải, có nhiều nghị quyết chuyên đề, chuyên sâu vào từng nội dung chống
DBHB trên lĩnh vực tư tưởng, mà thường xuyên phải quán triệt nhiệm vụ
phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, coi nhiệm vụ lãnh đạo chống
“tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” là sống còn trong nhiệm vụ chống DBHB trên
lĩnh vực tư tưởng. hi quán triệt, phổ biến các chỉ thị, nghị quyết các cấp cần
đổi mới cách thức truyền đạt, tuyên truyền, tăng cường đối thoại trong học
tập, tránh hiện tượng “học chay”, phương thức nội dung nghèo nàn. Phối hợp
tốt giữa việc nghiên cứu, học tập, quán triệt với việc tuyên truyền, giải thích, đi
sâu tìm hiểu những nội dung nghị quyết trên các phương tiện thông tin đại chúng
phòng, chống “tự diễn biển”, “tự chuyển hoá”. Báo, đài phát thanh, truyền hình
cần được huy động, tập trung và thường xuyên có nhiều bài viết tuyên truyền,
phổ biến nghị quyết của Đảng cũng như nghị quyết của ngành, địa phương, cơ
138
sở, kịp thời phổ biến các âm mưu thủ đoạn của kẻ địch hòng thực hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ ta.
Đổi mới sinh hoạt cấp uỷ, chi bộ theo hình thức vẫn đảm bảo sinh
hoạt đúng định k như quy định của Điều lệ Đảng nhưng chú trọng sinh hoạt
theo chuyên đề, thường xuyên ra nghị quyết, đánh giá kết quả thực hiện nghị
quyết chuyên đề về lãnh đạo phòng, chống “tự diễn biển”, “tự chuyển hoá”.
Cấp uỷ chủ động lên kế hoạch về nội dung để sinh hoạt có chất lượng, theo
chiều sâu. Riêng đối với các cơ quan làm thông tin đại chúng, khối nghiên
cứu lý luận việc sinh hoạt chi bộ phải chú trọng đảm bảo sự thống nhất về tư
tưởng, vì vấn đề tư tưởng có ảnh hưởng trực tiếp đến những sản phẩm mà họ
cung cấp cho xã hội, trong đó luôn luôn kịp thời và liên tục, đầy đủ quán
triệt tinh thần, nhiệm vụ, nội dung phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển
hoá” trong nội bộ.
Chủ động lãnh đạo để kịp thời nắm bắt tình hình tư tưởng của cán bộ
đảng viên và nhân dân, nắm bắt dư luận xã hội, có biện pháp phù hợp trong
tuyên truyền thuyết phục đồng thời qua đó hiểu rõ được tình hình tư tưởng của
cán bộ, đảng viên và nhân dân để đưa ra phương thức lãnh đạo trong từng hoàn
cảnh và đối tượng cụ thể phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”. Việc
đổi mới nắm bắt tình hình tư tưởng đòi hỏi cấp uỷ phải đi sâu vào cơ sở, chi bộ,
cần phải định k hoặc đột xuất dự và kiểm tra sinh hoạt chi bộ, đoàn thể để
nắm những vấn đề tư tưởng phát sinh trong cán bộ, đảng viên để xử lý và bổ
sung vào phương thức lãnh đạo có hiệu quả. Ngoài việc đi sâu sát thường
xuyên yêu cầu các tổ chức đảng, tổ chức chính quyền, đoàn thể báo cáo định k
hay đột xuất tình hình tư tưởng để kết hợp với thực tế nắm bắt tư tưởng và quản
lý cán bộ đảng viên, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”.
Trong thông tin thời sự: đảm bảo thông tin định k và thường xuyên
các vấn đề thời sự trong nước và quốc tế; những chính sách của Đảng và
Nhà nước qua các hình thức, biện pháp như: mở lớp nghe báo cáo viên
139
truyền đạt, thông tin qua các bản tin nội bộ, qua hệ thống mạng nội bộ, qua
phương tiện thông tin đại chúng, qua sinh hoạt chi bộ... Nội dung thông tin
phải thiết thực, cần thiết; Tránh tình trạng “đói thông tin”, bất bình đẳng
trong tiếp cận thông tin, nhất là những thông tin đóng vai trò phục vụ cho
những cán bộ đang làm công tác đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn DBHB
trên lĩnh vực tư tưởng.
Đảng bộ các bộ, ban ngành, các cơ quan Trung ương và các tỉnh, thành
phố cần hình thành một tổ chức chuyên môn theo dõi, nghiên cứu và xử lý các
quan điểm sai trái và thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, góp phần quan trọng
phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”. Mở rộng dân chủ, phát huy tự
do tư tưởng trong sinh hoạt đảng, trong sinh hoạt lý luận chính là phát huy
tính tích cực và tự do tư tưởng trong thảo luận, tranh luận; hết sức tôn trọng,
lắng nghe ý kiến khác nhau qua đó phát hiện, ngăn chặn hiện tượng “tự diễn
biến”, “tự chuyển hoá”, nhưng trong phương thức này cần đổi mới cụ thể rõ
ràng vì trong quá trình tranh luận, đối thoại dễ xảy ra tình trạng “chụp mũ”,
quy kết, bài xích ý kiến của nhau đó lại là “mảnh đất màu mỡ” cho “tự diễn
biến”, “tự chuyển hoá” phát triển. Tăng cường tổ chức các cuộc hội thảo khoa
học, tạo ra các diễn đàn tranh luận, đối thoại một cách cởi mở, thẳng thắn để
đi đến sự nhất trí thực chất trong nội bộ Đảng đối với những vấn đề lý luận.
Cố nhiên, trong hội thảo có thể nói hết ý mình, làm được như vậy mới tạo cơ
hội để cán bộ rèn luyện bản lĩnh chính trị phục vụ cho công tác chống DBHB
trên lĩnh vực tư tưởng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”. Trong tình
hình hiện nay rất khó và không nên cấm đoán các thông tin. inh nghiệm chỉ
ra rằng một thông tin càng bưng bít lại càng gây tò mò muốn biết. Sự lan
truyền thông tin như vậy rất dễ gây hậu quả xấu, trừ những loại thông tin
tuyệt mật liên quan đến an ninh quốc gia. Do đó các cấp uỷ, tổ chức đảng khi
thấy xuất hiện những thông tin loại này cần định hướng các cơ quan thông tin
cần chủ động giải thích cặn kẽ theo quan điểm chính thống, như vậy sẽ tạo
140
được dư luận xã hội đồng tình ủng hộ, sự đồng thuận trong xã hội. Đó là điều
kiện cực k tốt để khắc phục những tác hại do sự xâm nhập của những quan
điểm sai trái và thù địch và là điều kiện cơ bản để phòng, chống “tự diễn
biến”, “tự chuyển hoá” một cách thiết thực, hiệu quả.
Để thực hiện tốt phòng, chống “tự diễn biển”, “tự chuyển hoá” cần phải
lãnh đạo xây dựng, nâng cao chất lượng các cơ quan tham mưu cho Đảng, các
cơ quan này phải tham mưu để có những nội dung, phương thức kịp thời,
đúng, sát và giúp Đảng đề ra đường lối, phương thức khả thi trong từng giai
đoạn. Để lãnh đạo thực hiện phòng, chống “tự diễn biển”, “tự chuyển hoá” đạt
được hiệu quả thiết thực cần lãnh đạo đồng bộ các biện pháp, nhưng chú ý
đặc biệt tới việc đổi mới xây dựng, kiện toàn tổ chức cơ sở đảng vững mạnh,
không cồng kềnh nhưng cũng không được thiếu, đây là điều kiện quan trọng
trong phương thức lãnh đạo phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”.
Trong lãnh đạo phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” góp phần
quyết định vào nhiệm vụ lãnh đạo chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng thì cả
đổi mới về nội dung và phương thức lãnh đạo cần quan tâm đặc biệt tới công
tác tư tưởng, lý luận. Công tác tư tưởng, lý luận có vai trò, vị trí quan trọng
trong việc xây dựng đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; khẳng
định, bảo vệ và tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước; giữ vững sự đoàn kết thống nhất trong đảng
và sự đồng thuận trong xã hội; trang bị “vũ khí” chiến lược để có thể đấu
tranh, loại bỏ những quan điểm lệch lạc, phi chính trị, phi đạo đức, góp phần
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng đồng thời là
phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ của chúng ta.
4.2.4. L nh đạo xây dựng củng c Nhà nƣớc, mặt trận, đoàn thể vững
mạnh, huy độn c c lực lƣợng tron toàn x hội tham gia ch n “diễn biến
hoà bình” trên lĩnh vực tƣ tƣởng
Xây dựng hoàn thiện hệ thống cơ quan Nhà nước, vững mạnh là nhiệm
vụ thường xuyên liên tục và vô cùng quan trọng, nhất là trong chống DBHB
141
trên lĩnh vực tư tưởng, vì đó là một trong những trọng điểm cơ bản nhất trong
mục tiêu chống phá của các thế lực thù địch. Để xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN của Việt Nam, Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân, phải
tiến hành đồng bộ nhiều nội dung, biện pháp trong đó trước hết cần tập trung
thực hiện tốt những nội dung, biện pháp chủ yếu sau:
Mộ , không ngừng kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng
cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội, của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban
của Quốc hội. Đổi mới mạnh mẽ quy trình, phương pháp các k họp Quốc hội
và Uỷ ban thường vụ Quốc hội; tăng cường chất vấn của các đại biểu quốc
hội, các uỷ viên uỷ ban thường vụ quốc hội với các thành viên của chính phủ,
nhất là với các bộ, ngành trong hoạt động còn nhiều bất cập, hoặc nhạy cảm.
H , tiếp tục sắp xếp tổ chức, bộ máy của Chính phủ, cơ quan, địa
phương theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Xây dựng nền hành chính
Nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại. Tiếp tục đẩy
mạnh cải cách hành chính theo hướng: công khai - minh bạch - vì dân; kiên
quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, coi đây là nhiệm vụ
thường xuyên của tất cả các tổ chức trong hệ thống chính trị. Đặc biệt, cần tập
trung xây dựng cho được một đội ngũ công chức giỏi về nghiệp vụ, trong
sáng về đạo đức, luôn trung thành, tận tuỵ phục vụ nhân dân.
B , đẩy mạnh thực hiện cải cách tư pháp, xây dựng nền tư pháp
trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý và quyền con
người. Kiện toàn các cơ quan tư pháp theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu
lực, hiệu quả, gọn đầu mối và sát dân. Tăng cường xây dựng, đào tạo bồi
dưỡng cán bộ, nhân viên ngành tư pháp có đạo đức liêm, chính và nghiệp vụ
chuyên ngành đạt trình độ quốc gia và quốc tế.
B , không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Hội
đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp, bảo đảm thực hiện đúng thẩm
quyền và tự chịu trách nhiệm trong phạm vi được phân cấp.
142
Nă , tập trung xây dựng chính quyền cơ sở vững mạnh, đây là vấn
đề có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng nói chung và chống
DBHB trên lĩnh vực tư tưởng nói riêng. Thực tiễn trong nhiều năm qua đã
khẳng định rằng, nơi nào có chính quyền cơ sở vững mạnh, thì nơi đó phong
trào cách mạng của quần chúng mạnh mẽ, thế trận lòng dân được củng cố
vững chắc, chống DBHB đạt hiệu quả cao.
S , xây dựng các đoàn thể nhân dân, mặt trận đáp ứng yêu cầu đòi
hỏi nhiệm vụ trong tình hình mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của
Nhà nước, các đoàn thể nhân dân sẽ tập hợp lực lượng đông đảo quần chúng
tham gia chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng, góp phần bảo vệ tổ quốc
XHCN. Chính vì thế, xây dựng các đoàn thể nhân dân vững mạnh là xây dựng
lực lượng hùng hậu cho chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng ở mọi thời điểm,
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đặc biệt cần chú trọng tập hợp lực
lượng trong toàn xã hội, chú ý tới giới văn nghệ sỹ, trí thức, các nhà khoa học
người Việt Nam ở nước ngoài, chức sắc tôn giáo, những người có uy tín, già
làng, trưởng bản,... để tập hợp lực lượng tạo thành sức mạnh tổng hợp chống
DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
4.2.5. Xây dựn và nân cao chất lƣợn đội n ũ làm côn t c tƣ
tƣởn , lý luận và lực lƣợn chuyên tr ch ch n “diễn biến hoà bình” trên
lĩnh vực tƣ tƣởng
Những người làm công tác tư tưởng và lực lượng chuyên trách có vị trí
vai trò vô cùng quan trọng trong nhiệm vụ chống DBHB trên lĩnh vực tư
tưởng. Về lực lượng làm công tác tư tưởng, thời gian tới Đảng ta cần:
Lã ạ n bộ ng: kiện toàn biên chế
tổ chức, nâng cao chất lượng các cơ quan tuyên giáo, cơ quan nghiên cứu, Hội
đồng lý luận Trung ương, cơ quan an ninh tư tưởng văn hoá, cơ quan báo chí,
đài phát thanh và các phương tiện truyền thông đại chúng. Có cơ chế phối hợp
rõ ràng trên từng lĩnh vực với từng cơ quan trên cơ sở hoàn chỉnh các quy chế
143
như: quy chế quản lý thông tin của cơ quan chủ quản báo chí; quy chế người
phát ngôn của các cơ quan các cấp nhất là cấp Trung ương; quy chế chuyển
tải thông tin nhạy cảm của cơ quan báo chí lên cấp trên (không theo hình thức
đăng tải). Đi cùng với việc xây dựng quy chế, các cấp uỷ, các tổ chức đảng
cần phải thường xuyên phối hợp với các bộ, ngành chức năng, các Ban Đảng
ở Trung ương, địa phương và các đơn vị khác rà soát, bổ sung, sửa đổi, ban
hành mới các văn bản thể chế quy định của Đảng, Chính phủ về công tác quản
lý nội bộ;. Ngăn chặn những hoạt động tán phát tài liệu xấu, thông tin bịa đặt,
thư nặc danh, mạo danh làm lợi cho các thế lực thù địch; thực hiện đúng quy
định tiếp xúc với người nước ngoài; quy định việc tổ chức tham gia các hội
nghị, hội thảo, gặp gỡ, tiếp xúc do các cá nhân và cơ quan nước ngoài tổ chức
tại Việt Nam. Xây dựng quy chế nắm tình hình và phản ánh tình hình tư
tưởng, dư luận xã hội từ cơ sở, chú trọng những thông tin, những cơ sở liên
quan đến việc lưu hành tài liệu có quan điểm sai trái, nơi có nhân vật cơ hội
chính trị và chống đối được xác định cư trú, nơi có tổ chức ngầm với các hoạt
động trái phép.
Các cơ quan nghiên cứu và làm công tác lý luận phải bám sát thực tiễn,
mở rộng dân chủ, phát huy tự do tư tưởng, khai thác mọi tiềm năng sáng tạo
trong nhân dân; tránh mệnh lệnh, áp đặt, tu tiện, duy ý chí đồng thời giữ
nghiêm kỷ luật, không phát ngôn bừa bãi, không phát tán tài liệu phản động
để kẻ thù lợi dụng chống phá Đảng, chống phá chế độ.
N ă ộ lu n: chất lượng,
hiệu quả công tác tư tưởng và chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng luôn gắn
liền với năng lực lãnh đạo của các tổ chức Đảng và phẩm chất, năng lực của
đội ngũ cán bộ, đảng viên làm công tác tư tưởng. Việc xây dựng củng cố và
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng có ý nghĩa vô cùng
quan trọng.
144
Trong những năm qua, nhiều cán bộ, đảng viên đang công tác trên
lĩnh vực tư tưởng đã tự học tập, tự nghiên cứu, hoàn thành nhiệm vụ ở mức
độ cao. Trình độ cán bộ, đảng viên làm công tác tư tưởng ở mọi cấp được
nâng lên, tuy nhiên chất lượng vẫn chưa thực sự đồng đều. Thực tế cho thấy
số người trình độ vượt lên, lại có một số người trình độ lạc hậu hoặc đi
xuống, hoàn thành nhiệm vụ ở mức độ thấp. Vì vậy, vấn đề đặt ra hiện nay
đối với cán bộ, đảng viên các cơ quan làm công tác tư tưởng phải không
ngừng tu dưỡng rèn luyện phấn đấu nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp
vụ công tác.
Trong điều kiện mới với những người làm công tác tư tưởng phải có
những tiêu chuẩn cơ bản yêu cầu cán bộ, đảng viên phải đạt được như lập
trường tư tưởng vững vàng, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ… Chủ tịch Hồ
Chí Minh thường nói đến tiêu chuẩn "đức và tài" của người cán bộ. Trong Di
chúc, Người dùng từ “hồng và chuyên” để nói về tiêu chuẩn người cán bộ
trong thời k quá độ lên CNXH ở nước ta. “Hồng và chuyên” đều phải ngang
nhau, không thể xem nhẹ mặt nào.
Muốn nâng cao trình độ công tác, một mặt, đòi hỏi người cán bộ, đảng
viên nói chung, cán bộ, đảng viên làm việc trong lĩnh vực công tác tư tưởng
nói riêng phải không ngừng tự phấn đấu tự vươn lên, mặt khác, đòi hỏi tổ
chức đảng và tổ chức cơ quan phải quan tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng
viên. Để làm tốt công tác bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ và rèn luyện tính
đảng cho đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng cần chú ý:
Kết hợp hài hoà giáo dục chính trị tư tưởng với giáo dục đạo đức, lối
sống và bồi dưỡng kiến thức, năng lực nghiệp vụ chuyên môn cho đội ngũ cán
bộ của mình. Phẩm chất chính trị, tư tưởng là cốt lõi của người cán bộ. Vì
vậy, công tác bồi dưỡng, giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên của
đảng luôn giữ vững đạo đức cách mạng, lối sống trung thực, lành mạnh là
145
điều hệ trọng mà mỗi tổ chức đảng nhất là cơ quan về công tác tư tưởng,
truyền thông càng phải cần phải làm thường xuyên, cụ thể, hiệu quả.
Có chính sách đúng và thực hiện tốt các chế độ, chính sách đãi ngộ cán
bộ làm công tác tư tưởng, lý luận. Chính sách đối với cán bộ đảng hiện nay
vẫn đang còn có nhiều bất cập, đặc biệt là chính sách đối với các nhà khoa
học làm việc trong các cơ quan chuyên về công tác tư tưởng, trong các cơ
quan lý luận và thông tin đại chúng. Một số người làm việc rất có hiệu quả, có
nhiều đóng góp trong việc hoạch định đường lối, chính sách tận tuỵ, có trình
độ chuyên môn, trình độ lý luận và kinh nghiệm thực tiễn, được cơ quan nơi
công tác thừa nhận. Nhưng mà sự đãi ngộ trong chính sách chưa có sự hợp lý,
tương xứng.
Để thường xuyên tổ chức các lớp học tập, nghiên cứu các vấn đề
thường xuyên cũng như khi mới có phát sinh trong tư tưởng, và có các Nghị
quyết, chỉ thị, quan điểm mới của Đảng trong các cơ quan, đơn vị, địa
phương. Đào tạo, bồi dưỡng, củng cố, kiện toàn đội ngũ giảng viên lý luận
chính trị, tư tưởng đường lối có trình độ, năng khiếu, kinh nghiệm, và kiểm
tra, giám sát thường xuyên đảm bảo chất lượng.
Sự coi trọng lãnh đạo, chỉ đạo công tác tư tưởng, lý luận, coi trọng lãnh
đạo đấu tranh chống lại những quan điểm sai trái, chống lại âm mưu, thủ đoạn
DBHB đã được nêu trong Nghị quyết Trung ương V (khoá IX) của Đảng:
Từ Ban chấp hành Trung ương, Bộ chính trị, Ban Bí thư đến cấp
uỷ, Ban cán sự Đảng, đảng đoàn đều phải coi trọng lãnh đạo, chỉ
đạo của công tác tư tưởng, lý luận. Bí thư, cấp uỷ, thủ trưởng các
đơn vị phải có chương trình kế hoạch lãnh đạo, chỉ đạo công tác tư
tưởng lý luận; thực hiện chế độ giao ban tư tưởng định k hoặc đột
xuất của cấp uỷ đảng [57, tr.6].
Cần đặc biệt quan tâm đến việc lãnh đạo xây dựng lực lượng chuyên
trách như bảo vệ chính trị nội bộ, công an, bộ đội, tình báo và các cơ quan
146
chuyên môn đặc thù. Cán bộ làm nhiệm vụ bảo vệ chính trị nội bộ là người
“gác cổng” đầu vào đồng thời là những người góp phần quan trọng giúp
chúng ta loại trừ các phần tử thoái hoá, biến chất, đối tượng địch cài cắm và
những đối tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ của chúng ta.
Chính vì vậy phải có kế hoạch quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng, đãi ngộ xứng
đáng để nâng cao hiệu quả hoạt động của lực lượng này.
Bên cạnh đó là lực lượng vũ trang như Tình báo, đặc nhiệm, cơ động,
an ninh… đó là những lực lượng vô cùng quan trọng trong thời bình cũng như
thời chiến, lực lượng này có vai trò xử lý nhiều vấn đề có tính chất dứt điểm
khi xảy ra những vấn đề cấp bách, tình huống đặc biệt. Chính vì vậy việc lựa
chọn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ và đảm bảo phương tiện, trang
bị cho lực lượng chuyên trách cần thường xuyên, hiệu quả và kịp thời. Các
cấp uỷ, tổ chức đảng trong toàn Đảng tăng cường lãnh đạo giáo dục đạo đức,
phẩm chất đạo đức và tinh thần cho lực lượng này để xây dựng các lực lượng
chuyên trách là công cụ sắc bén của Đảng, Nhà nước trong mọi tình huống.
4.2.6. Đẩy mạnh ph t triển kinh tế, văn ho , x hội, nân cao đời
s ng vật chất và tinh thần của nhân dân, đầu tƣ thích đ n cơ ở vật
chất, hiện đại ho phƣơn tiện kỹ thuật phục vụ ch n “diễn biến hoà
bình” trên lĩnh vực tƣ tƣởng
Lãnh đạo đẩy mạnh phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân nhất là các vùng xa xôi hẻo lánh vùng đồng bào dân
tộc thiểu số và vùng đồng bào theo tôn giáo là đòi hỏi quan trọng trong thực
hiện lãnh đạo chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng. Đường lối phát triển kinh
tế thị trường theo định hướng XHCN cũng là sự đảm bảo chống lại ý đồ thâm
độc của đối phương phá hoại kinh tế trong DBHB, bằng lôi kéo, ép buộc
chúng ta vào con đường phát triển kinh tế TBCN. Đẩy mạnh phát triển kinh tế
theo định hướng XHCN là làm tăng thực lực sức mạnh vật chất cho đất nước
để không rơi vào nguy cơ bị tụt hậu ngày càng xa với thế giới. Đó cũng là
147
cách để chúng ta đứng vững trước các đòn tấn công bằng kinh tế, bằng tư
tưởng của đối phương.
Đẩy mạnh phát triển kinh tế, làm cho đời sống nhân dân ngày càng
được cải thiện, xoá đói giảm nghèo, tăng thêm việc làm cho người lao động,
từng bước nâng cao phúc lợi công cộng sẽ làm cho nhân dân yên tâm phấn
khởi, tin tưởng vào Đảng và Chính phủ, đoàn kết một lòng chống lại các hoạt
động phá hoại của kẻ thù trong chiến lược DBHB nói chung và DBHB trên
lĩnh vực tư tưởng nói riêng.
Tiếp tục thực hiện tốt chương trình xoá đói giảm nghèo, xây dựng nông
thôn mới đi liền với hỗ trợ làm giàu chính đáng của nhân dân, đặc biệt là ở
vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo, các vùng nông thôn. Cần rà soát lại một
cách nghiêm túc từ chính sách cho đến tổ chức thực hiện các chính sách xoá
đói giảm nghèo trong những năm qua để kịp thời rút ra những bài học kinh
nghiệm, chấn chỉnh những lệch lạc, từ đó nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác
này, bảo đảm cho người nghèo thật sự được hưởng những thành tựu chung
của đổi mới, những tình thương nhân ái của toàn xã hội, tự vươn lên thoát
nghèo và từng bước làm giàu.
Xét ở một phạm vi nhất định, giải quyết tốt các vấn đề xã hội như đã nói
trên cũng là biện pháp khắc phục mặt trái của kinh tế thị trường, góp phần vào
đường lối toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Những mặt trái đó chính là
những trở lực lớn của xã hội XHCN mà nhân dân ta đang xây dựng, đang được
các thế lực thù địch lợi dụng một cách triệt để nhằm thực hiện DBHB trên lĩnh
vực tư tưởng chống phá cách mạng nước ta. Giữ vững định hướng XHCN
trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường, đẩy lùi nguy cơ DBHB trên
lĩnh vực tư tưởng ở nước ta hiện nay cũng như trong thời k mới tu thuộc rất
lớn vào kết quả đấu tranh khắc phục những mặt trái đó. Coi trọng việc bảo vệ
an ninh kinh tế vì đây là lĩnh vực mà chúng ta còn rất nhiều thiếu sót. Đặc biệt
chú ý không để địch thông qua kinh tế để chuyển hoá chính trị.
148
Bên cạnh đó cần lãnh đạo nâng cao vai trò, hiệu lực và hiệu quả trong
định hướng, quản lý của Nhà nước đối với các lĩnh vực hoạt động văn hoá
trên phạm vi cả nước. Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu, nhằm
củng cố hệ giá trị của nền văn hoá Việt Nam, ngăn chặn và đẩy lùi sự thâm
nhập của hệ giá trị văn hoá tư sản vào Việt Nam. Thời gian tới, cần tập trung
vào các vấn đề cụ thể như giữ vững và nâng cao hệ thống các giá trị xã hội tốt
đẹp Việt Nam, nhất là giá trị đạo đức, giá trị nhân văn của nền văn hoá Việt
Nam. Phát huy tinh thần đoàn kết, nhân ái, giá trị to lớn trong văn hoá Việt
Nam, nhằm xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ngày càng vững chắc; củng
cố, giữ vững niềm tin của toàn Đảng, toàn dân vào mục tiêu, lý tưởng XHCN,
khắc phục mọi biểu hiện giao động, ngả nghiêng, sa sút phẩm chất, đạo đức,
lối sống cách mạng; khai thác, phát huy, phát triển mạnh mẽ bản sắc văn
hoá của các tộc. Đưa các giá trị văn hoá Việt Nam thấm sâu vào các lĩnh vực
của đời sống xã hội thông qua công tác giáo dục, truyền thông, sinh hoạt cộng
đồng, phong trào thi đua, chính sách, kế hoạch, mục tiêu, chương trình phát
triển kinh tế - xã hội...
Quản lý tốt, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả mọi biểu hiện
khuynh hướng tư tưởng tư sản, lối sống tư bản thực dụng, các quan niệm giá trị
phản động; phê phán, ngăn chặn các sản phẩm văn hoá đồi truỵ, độc hại, tư
tưởng chạy theo đồng tiền, vọng ngoại; phê phán tư tưởng, khuynh hướng coi
thường văn hoá dân tộc. Coi trọng văn hoá tín ngưỡng, tôn giáo, song đồng
thời đấu tranh chống lại việc lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo, để làm mất
dần vai trò chủ đạo của chủ nghĩa Mac- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên mặt
trận văn hoá. Cần lãnh đạo và định hướng cụ thể việc tiếp thu văn hoá nước
ngoài một cách có chọn lọc. Chủ động phân tích và đánh giá khoa học các tác
phẩm văn học nước ngoài trong tiếp nhận và quảng bá, quan tâm giáo dục
thẩm mỹ cho công chúng.
149
Đổi mới công tác chỉ đạo, quản lý nhà nước để bám sát, hỗ trợ, nhạy
bén, linh hoạt trong các lĩnh vực, các hoạt động văn hoá. Thể chế hoá các
quan điểm, định hướng của Đảng về văn hoá nghệ thuật. Có kế hoạch và
chiến lược phát triển trong lĩnh vực văn hoá nghệ thuật. Chăm lo phát hiện bồi
dưỡng, có chính sách hợp lý và phát huy tài năng văn hoá nghệ thuật, khơi
dậy nguồn lực sáng tạo của văn nghệ sĩ. hẳng định, tôn trọng, bảo đảm
quyền tự do sáng tạo, đồng thời nêu cao trách nhiệm công dân của văn nghệ
sĩ, để có nhiều tác phẩm tiêu biểu phụng sự đất nước và dân tộc.
Đầu tư mua sắm, cải tiến và nâng cấp các trang thiết bị, phương tiện để
hoạt động chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng. Đây là vấn đề vô cùng quan
trong nhưng thường có nhiều bất cập như về kinh phí, khả năng khai thác, đáp
ứng công nghệ theo yêu cầu của nhiệm vụ. Nhưng để chống DBHB trên lĩnh
vực tư tưởng đạt kết quả thì cấp uỷ chính quyền và cơ quan chuyên môn phải
đặc biệt quan tâm và chú trọng nâng cấp các trang thiết bị phục vụ cho nhiệm
vụ, chú trọng tới sự phát triển nhanh của khoa học công nghệ nên đi tắt đón
đầu những phương tiện, trang thiết bị công nghệ tiên tiến.
Hiện nay các thế lực thù địch lợi dụng khoa học công nghệ phát triển
cao chúng dùng nhiều phương tiện hiện đại chống phá chúng ta vì vậy chúng
ta cũng cần có các phương tiện phù hợp chống lại chúng. Đây là điều kiện
quan trọng trong tình hình hiện nay, vì vậy mua sắm, trang bị và đào tạo
nguồn lực có đủ trình độ sử dụng các phương tiện hiện đại, chống lại các âm
mưu của chúng là nhiệm vụ cấp thiết.
4.2.7. Tăn cƣờn kiểm tra, i m t và thực hiện ơ kết, tổng kết,
rút kinh n hiệm
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và
xã hội. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính
sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động,
150
tổ chức, công tác cán bộ, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu
của đảng viên. Lãnh đạo không kiểm tra, giám sát coi như không lãnh đạo,
vì vậy công tác kiểm tra giám sát phải là một trọng những nội dung, phương
thức lãnh đạo có vai trò vô cùng quan trọng có tính chất quyết định trong
hoạt động lãnh đạo của Đảng trên mọi lĩnh vực đặc biệt trong lãnh đạo
chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
Công tác kiểm tra giám sát tiến hành thường xuyên hoặc đột xuất,
hoặc khi có dấu hiệu vi phạm, nhưng trong nhiệm vụ lãnh đạo chống DBHB
trên lĩnh vực tư tưởng thì công tác kiểm tra giám sát không chỉ đơn thuần là
phương thức lãnh đạo mà là một trong những giải pháp then chốt của những
then chốt. Chính vì vậy trong lãnh đạo chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng,
phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, công tác kiểm tra, giám sát kỷ
luật Đảng giữ vai trò quan trọng, đáp ứng yêu cầu khắc phục những khuyết
điểm khi mới manh nha qua đó kịp thời phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh.
Trong kiểm tra giám sát làm đúng, đủ, kịp thời, xử lý đúng người, đúng việc,
nêu gương điển hình cũng là biện pháp tuyên truyền giáo dục, thuyết phục
đảng viên và quần chúng nhận thức rõ hơn về âm mưu thâm độc và thủ đoạn
xảo quyệt của kẻ thù trong DBHB trên lĩnh vực tư tưởng.
Trong kiểm tra, giám sát, cần chú ý lắng nghe dư luận của quần chúng,
tiếp nhận ý kiến của mặt trận, đoàn thể nhân dân nhận xét, phê bình cán bộ,
đảng viên; coi trọng phát hiện các nhân tố tích cực, điển hình tiên tiến, giúp
cho cấp uỷ tổng kết, rút ra nhưng kinh nghiệm hay, những cán bộ, đảng viên
tiêu biểu... để bồi dưỡng và nhân rộng.
Trong thời gian tới cần tích cực, kiểm tra, giám sát việc triển khai thực
hiện các Nghị quyết của Đảng, nhất là Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI); tổ
chức thực hiện rộng khắp, nền nếp, thường xuyên, có hiệu quả Chỉ thị 03 của
Bộ Chính trị, gắn với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; kiên
quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị,
151
đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên để nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phòng, chống tích cực, hiệu quả “tự diễn
biến”, “tự chuyển hoá” ngay trong nội bộ Đảng làm điều kiện cơ sở phòng
chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nhân dân, qua đó củng cố niềm
tin của đảng viên và nhân dân đối với Đảng.
Đồng thời cần tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng và tổ chức
đảng về công tác sơ tổng kết, rút ra bài học, bổ sung vào lý luận, định hướng
cho nội dung nhiệm vụ lãnh đạo. Trong thời gian qua một số nơi chưa có
những tổng kết sâu sắc, cụ thể về nhận thức tư tưởng, tình hình tư tưởng trong
Đảng và trong xã hội, về sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư tưởng có
những yếu điểm, thiếu sót gì; chưa rút ra được những bài học kinh nghiệm về
nhận thức tư tưởng, chỉ đạo lý luận, thực tiễn đặt ra trong quá trình đấu tranh
chống DBHB trên mặt trận tư tưởng hiện nay. Đặc biệt trong lãnh đạo kinh
nghiệm được và chưa được; lý do nguyên nhân từ đâu, còn chưa tổng kết
thường xuyên, cụ thể, đặc biệt cần tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo chống
DBHB trên lĩnh vực tư tưởng ở các vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn hẻo
lánh, vùng có nhiều đồng bào tôn giáo từ đó phổ biến, tuyên truyền, đưa ra
các giải pháp, đối sách trong từng tình huống cụ thể. Nhiều điển hình trong
thực hiện lãnh đạo và trực tiếp tiến hành chống DBHB, chống Bạo loạn lật đổ,
chống gây rối… cần được tích cực tuyên truyền, nêu gương, phổ biến kinh
nghiệm trong thời gian tới. Các lực lượng đặc biệt chuyên trách, chuyên môn
càn tăng cường diễn tập với những tình huống đa dạng, trong nhiều hoàn cảnh
phức tạp từ đó có kinh nghiệm xử lý nhiều tình huống vì âm mưu và thủ đoạn
của kẻ thù luôn thay đổi về cách thức thủ đoạn hoạt động.
Đây là vấn đề hệ trọng tăng cường lãnh đạo, kịp thời cần khắc phục tồn
tại ngay trong thời gian tới là giải pháp vô cùng quan trọng trong lãnh đạo thực
hiện nhiệm vụ chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng đạt được yêu cầu đề ra./.
152
KẾT LUẬN
Diễn biến hoà bình là chiến lược phản cách mạng của các thế lực thù
địch chống phá chúng ta hòng làm suy yếu, chuyển hoá đến xoá bỏ vai trò
lãnh đạo của Đảng với hệ thống chính trị, xoá bỏ CNXH đưa Việt Nam đi
theo quỹ đạo của CNTB phụ thuộc vào phương Tây nhưng không dùng tới
chiến tranh.
Bản chất, âm mưu của chiến lược DBHB là không hề thay đổi, song
phương thức thủ đoạn của chiến lược DBHB thì biến hoá khôn lường và ngày
càng tinh vi, xảo quyệt của. Đấu tranh phòng, chống DBHB nói chung và
chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng nói riêng cũng như phòng, chống “tự
diễn biến”, “tự chuyển hoá” là vấn đề có ý nghĩa sống còn của cách mạng
Việt Nam và là nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên cấp bách, hàng đầu của toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Vạch trần bản chất, âm mưu, thủ đoạn trong
chiến lược DBHB nói chung và DBHB trên lĩnh vực tư tưởng nói riêng đồng
thời chủ động ngăn chặn và kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ
đoạn đó của các thế lực thù địch là nhiệm vụ chính trị đặc biệt quan trọng
trong tình hình hiện nay.
Trong thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam,
chúng ta đã thu được nhiều kết quả trong nhiệm vụ chống DBHB trên lĩnh
vực tư tưởng. Trong quá trình lãnh đạo chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng
Đảng ta đã có nhiều nghị quyết, chủ trương và triển khai lãnh đạo đúng, đủ,
kịp thời vì vậy chúng ta bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng ta là
chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quy tụ được khối đại đoàn kết
dân tộc, huy động đông đảo lực lượng đoàn kết quanh Đảng, có nội dung,
phương thức phù hợp lãnh đạo, chỉ đạo có hiệu quả làm thất bại nhiều thủ
đoạn thâm độc của kẻ thù bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ sự nghiệp đổi
mới xây dựng đất nước và bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN.
153
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đó còn nhiều cấp uỷ, tổ
chức đảng và nhiều cán bộ đảng viên nhận thức chưa đầy đủ về âm mưu thủ
đoạn của các thế lực thù địch, chủ quan khinh địch hoặc còn chưa có nội dung
phương thức lãnh đạo chỉ đạo chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng có hiệu
quả, cá biệt còn có nhiều vụ việc đáng tiếc xảy ra. Đặc biệt trong thời gian
qua hiện tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” đã xuất hiện và có nhiều nơi
có tính chất nghiêm trọng ảnh hưởng và làm suy giảm lòng tin của nhân dân
vào sự lãnh đạo của Đảng và vào cán bộ đảng viên. Chống DBHB trên lĩnh
vực tư tưởng đồng thời phải phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” là
vấn đề cấp bách trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
Kết quả đạt được và tồn tại nêu trên đều cho ta những bài học quý giá
và kinh nghiệm quý báu về nhiệm vụ lãnh đạo chống DBHB trên lĩnh vực tư
tưởng nói riêng. Để đạt được kết quả tốt hơn trong nhiệm vụ lãnh đạo chống
DBHB trên lĩnh vực tư tưởng thời gian tới chúng ta phải kịp thời rút kinh
nghiệm những lĩnh vực đạt được và những điều chưa được, đặc biệt căn cứ
những kinh nghiệm quý báu đã rút ra trong quá trình đó để làm tốt hơn nữa
nhiệm vụ lãnh đạo chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng trong thời gian tới.
Chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng thực chất vẫn là cuộc đấu tranh
giai cấp, đấu tranh dân tộc dưới hình thức mới nhưng nó diễn ra trong bối
cảnh thế giới, khu vực đầy biến động phức tạp và có nhiều khó khăn cho
chúng ta, do đó sẽ còn lâu dài, gian khổ. Để đánh bại những âm mưu, thủ
đoạn thâm độc ấy, chúng ta phải tiến hành đồng bộ hệ thống các chủ trương,
giải pháp, bao gồm cả những giải pháp chiến lược chung và những giải pháp
phòng, chống cụ thể trên từng mặt, từng lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trước hết, chúng ta phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng chống DBHB
trên lĩnh vực tư tưởng. Tăng cường lãnh đạo nhiệm vụ xây dựng Đảng, giáo
dục chính trị, tư tưởng nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho toàn Đảng,
toàn dân về nhiệm vụ chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng. Có nhận thức được
154
đầy đủ, sâu sắc các âm mưu, thủ đoạn thâm độc, sự nguy hại to lớn của DBHB
trên lĩnh vực tư tưởng của địch thì mới xác định được đầy đủ trách nhiệm trong
tiến hành phòng, chống. Mặt khác, phải trên cơ sở xác định rõ trách nhiệm, thì
mới nêu cao quyết tâm, nỗ lực thực hiện các nhiệm vụ chống DBHB trên lĩnh
vực tư tưởng một cách kiên quyết, triệt để và đạt hiệu quả cao.
Một trong những vấn đề trọng tâm của giải pháp chống DBHB trên lĩnh
vực tư tưởng là phải đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo phòng, chống “tự
diễn biến”, “tự chuyển hoá”, đây là nội dung gần đây được đề cập nhiều
nhưng có tính chất quyết định đến chất lượng của cuộc đấu tranh.
Bên cạnh đó cần nhận thức rằng: chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng,
chúng ta phải tập trung tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp trong đó trọng tâm
thực hiện bảy giải pháp cơ bản nêu trên, không được coi nhẹ giải pháp nào
và quá trình thực hiện phải đặt trong mối quan hệ tổng thể, kết hợp chặt chẽ
với nhau. Hệ thống các chủ trương, giải pháp trên cũng cần phải được tiến
hành thống nhất từ trên xuống ở các cấp, các ngành, các địa phương và các
cơ quan, đơn vị. Thực hiện tốt các giải pháp trọng yếu này, nhất định chúng
ta sẽ đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn thâm độc trong DBHB trên lĩnh vực tư
tưởng của các thế lực thù địch góp phần bảo vệ vững chắc Tổ Quốc Việt
Nam XHCN.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận án, tác giả luận án đã tập trung
nghiên cứu những thực trạng, nguyên nhân rút ra kinh nghiệm trong quá trình
Đảng lãnh đạo chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng và đưa ra một số giải
pháp cơ bản Đảng lãnh đạo chống DBHB trên lĩnh vực tư tưởng trong thời
gian tới. Tuy nhiên do điều kiện nghiên cứu, trình độ của tác giả còn nhiều
hạn chế kính mong các nhà khoa học và các bạn các đồng chí đóng góp, giúp
đỡ để luận án ngày càng hoàn thiện.
155
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHO HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
1. C c bài đăn trên tạp chí
1. Trần Quốc Dương (2010), “Đẩy mạnh trẻ hoá đội ngũ cán bộ ở cơ sở”, Tạp
N n.
2. Trần Quốc Dương (2011), “Nhìn lại một năm thực hiện giáo dục quốc
phòng - an ninh ở trung tâm Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí
Minh”, G ục Qu p ò - An ninh.
3. Trần Quốc Dương (2012), “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong giáo
dục đấu tranh phòng chống chiến lược “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch
chống phá cách mạng Việt nam trên lĩnh vực tư tưởng”, Tạp G ục, (287).
4. Trần Quốc Dương (2014), “Thực hiện quan điểm của Đảng về kết hợp
phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường Quốc phòng - An ninh”, Tạp Q c
p ò , (4).
5. Trần Quốc Dương (2013), “Phòng chống “diễn biến hoà bình” ở địa bàn
vùng sâu vùng xa các tỉnh Tây bắc”, Tạp K c H u c n, (8).
6. Trần Quốc Dương, “Cảnh giác với âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình”
của các thế lực thù địch trong học sinh, sinh viên giai đoạn hiện nay”, Tạp
, (29).
2. Tài liệu, Gi o trình
1. Giáo trình Trung cấp lý luận Chính trị - Hành chính
Bài 11: Trần Quốc Dương (2014), X p ển kinh t - ã ội
gắn với Qu p ò - An ninh, Nxb Chính trị quốc gia, Chỉnh lý bổ sung.
Bài 12: Trần Quốc Dương (2014), C p ò ng tội phạm
nạ ã ội hi n nay, Nxb Chính trị quốc gia, Chỉnh lý bổ sung.
2. Giáo trình cử nhân Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh:
Bài 10: Trần Quốc Dương (2014), C p ò ng tội phạm
nạ ã ội hi n nay, đề án 1677 nghiệm thu 2014.
156
Bài 8: Trần Quốc Dương (2014), X p ển kinh t - ã ội gắn
với Qu p ò - An ninh, đề án 1677 nghiệm thu 2014.
3. Giáo trình Cao cấp Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh:
Bài 8: Trần Quốc Dương (2014), C t p ò ng tội phạm
nạ ã ội hi n nay, đề án 1677 nghiệm thu 2014.
157
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Ngọc m (2002) Q ổi mớ o dụ
bộ ơ trong cuộ u tranh ch ng
“diễn bi b ”, Luận án tiến sĩ Chính trị học, Hà Nội.
2. Lê Đình nh (2013) (chủ nhiệm), Hoạ ộ ộ é ơ
c l ù i vớ ộ c Vi t Nam - th c
trạ p p p ò ừ u tranh c ơ
ạn hi n nay, Đề tài nghiên cứu khoa học, Học viện An
ninh nhân dân.
3. Ngô Hoàng nh (2013), P p ểm ph nh ờ
ch ã ội Vi t Nam hi n nay, Luận án Tiến sĩ Triết học,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ chí Minh, Hà Nội.
4. Ban chỉ đạo đấu tranh chống “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tư tưởng -
văn hoá của Trung ương (2003), B 01-BC/BCĐ 20-
11-2003 về cuộ u tranh ch ng “ ễn bi b ”
c l ù ng- ă .
5. Ban Chấp hành trung ương (2016), Đại hộ Đ c l n
th XII, Hà Nội.
6. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (1997), B ổng k
ng - ă c, Hà Nội.
7. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (1998), B ổng k
ng - ă , Hà Nội.
8. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (1999), B ổng k
ng, Hà Nội.
9. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (1999), u tham kh o phục vụ
u Ngh quy ơ 6 ( n 2) Ban Ch p
ơ Đ III, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
158
10. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (2000), 70 ă ng -
ă Đ ng truyền th ng vẻ m to lớn, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
11. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (2000), B ổng k
ng - ă , Hà Nội.
12. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (2000), Sơ c sử
ng - ă Đ ng Cộng s n Vi t Nam, 1930-2000, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
13. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (2001), Đề tài khoa học cấp nhà
nước KHXH 05-02 về ổi mớ ch ng, hi u qu
ng, (Báo cáo tổng quan), Hà Nội.
14. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (2001), P ạn
“ ễn bi b ” l ù ch ch p
v ng, nhánh đề tài HXH 05-02, Hà Nội.
15. Ban Tư tưởng - Văn hoá (2003), H ớng d n s 2686-HD/ H
7/2/2003 th c hi b t lu n s 94-TB/TW c a Ban b
về nhi m vụ ă ờng cuộ u tranh ch “ ễn bi n
b ” ng- ă , Hà Nội.
16. Nguyễn Bình Bàn (2001), “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng gắn với bảo vệ an ninh chính trị trong thời k mới”,
Tạp c L ch sử Đ ng, (9).
17. Nguyễn Bình Bàn (2002), “Mấy vấn đề rút ra qua nghiên cứu, tìm hiểu
kết quả tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng
lực lượng Công an nhân dân trong tình hình hiện nay”, Tạp
C , (3).
18. Nguyễn Bình Bàn (2007), Đ ng Cộng s n Vi N ã ạo s nghi p
b o v - một s v ề về c tiễn,
Sách chuyên khảo, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
159
19. Hoàng Chí Bảo (2006), “Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền lãnh đạo
nhà nước và xã hội trong sự nghiệp đổi mới - một số vấn đề đặt ra”,
Tạp Cộng s n, (17).
20. Báo Quân đội Nhân dân (2011), Ch “ ễn bi b ” - nhi m vụ
quan tr ng, tháng 5 năm 2011.
21. Bill Clinton (1995), “Tuyên bố về việc Mỹ bình thường hoá quan hệ với
Việt Nam”, B N D n, ngày 13-7 - 1995 (Trang 1 cột 2).
22. Bộ Bưu chính - Viễn thông (2004), Chỉ th s 07/20Q4/CT-BCVT
19-7-2004 về vi c ă ờ ạ I
cộng, Hà Nội.
23. Bộ Chính trị (2001), Chỉ th s 64 - CT/TW về n 22-3-2001 về giữ
nghi ỷ lu p b o v b t c Đ
hi n nay, Hà Nội.
24. Bộ Chính trị (2005), Chỉ th s 48-CT/TW 14-02-2005 về b o v b
m t c Đ ng, kỷ lu p , Hà Nội.
25. Bộ Chính trị (2006), Chỉ th s 05-CT/TW 14-10-2006 về ăng
ờ ã ạ m b o an ninh qu
mới, Hà Nội.
26. Bộ Chính trị (2007), Q nh s 57-QĐ/ W 03-5-2007 về một s
v ề về b o v nội bộ Đ ng, Hà Nội.
27. Bộ Chính trị (2014), Chỉ th 39-CT/TW 18-8 về ă ờ
b o v nội bộ n nay, Hà Nội.
28. Bộ Công an (2001), Hoạ ộng vi n tr p p c NGO ớc
Vi N ững v ề ặ
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
29. Bộ Công an, Tổng cục An ninh (2014) (chủ trì), C ã ạo, chỉ
ạ m b o an ninh nộ nội bộ trong giai
ạn hi n nay, Đề tài cấp bộ, Hà Nội.
160
30. Bộ Công an, Tổng cục An ninh (2014) (chủ trì), Một s v ề về
ã ạo, chỉ ạ m b o an ni i ngoạ u tranh
ch p ạn hi n nay, Đề tài cấp bộ, Hà Nội.
31. Bộ Quốc phòng, Học viện Quốc phòng (2011), D b ạn
“D ễ b b ” l ù i với Vi t Nam
trong thời kỳ mớ ững ch ơ g gi p p p ò ng, Đề
tài khoa học cấp bộ mã số 04.23/06-10, Hà Nội.
32. Bộ Tổ chức Thành uỷ Thẩm Quyến (1996), Sổ ổ ch ng
c ặc khu Thẩm Quyển (tài liệu tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
33. Nguyễn Văn Cần (2001), N ụ
ộ ớ ộ
ớ , Luận án tiến sĩ Quân sự, Học viện Chính trị Quân
sự, Hà Nội.
34. Chính phủ (2001), Ngh nh s 56/2001/NĐ-CP nh về xử phạt vi
phạ ề ă , Hà Nội.
35. Nguyễn Thành Chương (2005) “Phòng, chống “diễn biến hoà bình” của
các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng văn hoá”, Tạp
thu Vi t Nam, Học viện Quốc phòng, (1).
36. Nguyễn Công Cời (2000), Đ u tranh kinh t trong ch “ ễn bi
b ” a ch qu c ớ ạn hi n nay,
Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội.
37. Hạ Quốc Cường (2004), “ hông ngừng nâng cao trình độ lãnh đạo và
trình độ cầm quyền, tăng cường năng lực chống tha hoá, phòng biến
chất và chống rủi ro”, ỷ yếu hội thảo X Đ ng c m quyền -
kinh nghi m c a Vi t Nam, kinh nghi m c a Trung Qu c, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
161
38. Trần Xuân Dung (2007), “Nghiên cứu, quán triệt quan điểm kết hợp phát
triển kinh tế - xã hội với tăng cường sức mạnh quốc phòng và an
ninh trong Văn kiện Đại hội X của Đảng vào giảng dạy bài bảo vệ
Tổ quốc XHCN tại Học viện n ninh nhân dân”, Tạp C
(5).
39. Trần Duy (2006), ““Diễn biến hoà bình” vẫn là một chiến lược nguy
hiểm của các thế lực thù địch chống phá Đảng ta, chế độ ta”, Tạp
Q p ò , (3).
40. Nguyễn Bá Dương (chủ biên) (2010), P ò “ ễn bi b ”
ề b o v nền t ng c Đ ng
hi n nay, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
41. Đảng Cộng sản Việt Nam (1990), Ngh quy t s 08A Hội ngh l n th
B C p ơ Đ ( I) 27-3 về
ớc XHCN, s p ại c a ch qu m
vụ c p b a Đ ng ta, Hà Nội.
42. Đảng Cộng sàn Việt Nam (1990), Ngh quy t s 08B-NQ/HNTW, c a Hội
ngh l n th B C p ơ Đ ( I)
27-3 về ú ộng qu ú
ới, Hà Nội.
43. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), ă Đại hộ ại biể c
l n th VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
44. Đảng Cộng sản Việt Nam (1992), Ngh quy t s 03-NQ/HNTW c a Hội
ngh l n th ba Ban Ch p ơ Đ II về
nhi m vụ qu p ò b o v an ninh qu c gia ch ng Diễn bi n
b ch. Nxb Sự thật, Hà Nội
45. Đảng Cộng sản Việt Nam (1992), ă n Hội ngh l n th ba Ban Ch p
ơ II L ội bộ, Hà Nội.
162
46. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), ă n Hội ngh ại biể c
giữa nhi m kỳ III L ội bộ, Hà Nội.
47. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), ă Đại hộ ại biể c
l n th VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), B o v nền t ơ
ờng l i c Đ u tranh ch ng
i c a nhữ ờ ơ ội về b n ph ộng, Báo cáo
của Bộ Chính trị trình bày tại Hội nghị Trung ương 3 khoá VIII, Hà
Nội.
49. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Chỉ th s 25-C / W 25-12-1997
về vi t những v ề n l ch sử ng
ã ạ Đ N ớc, Hà Nội.
50. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), ă n Hội ngh l n th ba Ban Ch p
ơ III, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
51. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), ă n Hội ngh l n th B C p
ơ III, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
52. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), ă n Hội ngh l n th ă B
Ch p ơ ( III) về p ển nền
ă N b n sắ ộc, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
53. Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Đề ơ ới thi u Ngh quy t c a Bộ
C về B o v an ninh qu c gia, Hà Nội.
54. Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), ă n Hội ngh l n th ( n 2)
Ban Ch p ơ ( III) về một s v ề ơ b
c p b Đ ng hi n nay, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
55. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Bộ C b ỉ th s 64 -
163
CT/TW n 22-3-2001 về giữ ỷ lu p b o v b
m t c Đ n nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
56. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), ă Đại hộ c l n th IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
57. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Ngh quy t Hội ngh ơ 5
IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
58. Đảng Cộng sản việt Nam (2003), Ngh quy t s 08-NQ/TW ngày 12-7-
2003 về chi c b o v Tổ qu ới, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
59. Đảng Cộng sản việt Nam (2006), ă Đại hộ ại biể c l n
th X, N b C qu c gia, Hà Nội.
60. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Ngh quy t Hội ngh ơ 5
X 14-7 về n v b ớ
c ổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
61. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Ngh quy t Hội ngh ơ 9
X 02-02-2009 về một s nhi m vụ, gi p p ớn nhằm
ti p tục th c hi n thắng l i, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
62. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), ă Đại hộ ại biể c l n
th XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
63. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Ngh quy t s 12-NQ/TW y 16-01-
2012 c a Hội ngh l n th B C p ơ Đ ng
( XI) về một s v ề c p b ề Đ ng hi n nay,
Hà Nội.
64. Nguyễn hoa Điềm (2001), “Công tác tư tưởng góp phần thực hiện thành
công Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX”
ng, (6), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
164
65. Chu Húc Đông (2004), “ iên trì phương châm quản lý Đảng nghiêm
minh, triển khai cuộc xây dựng Đảng phong liêm chính và đấu tranh
chống tham nhũng”, ỷ yếu hội thảo X Đ ng c m quyền -
kinh nghi m c a Vi t Nam, kinh nghi m c a Trung Qu c, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
66. Nguyễn Đình Đức (1996), Những y u t
ộ c c trạ p p,
Luận án tiến sĩ khoa học triết học, Hà Nội.
67. G.Bu-sơ (1989), D ễ ă ạ ờ C ẳ S A ION b -dat,
ngày 12-5-1989.
68. Phạm Ngọc Hiền (chủ biên), iều Tiến Hùng, Hồ Anh Tuấn (2012), Hỏi
- p ề “ ễn bi b ” “ ạ ”, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
69. Nguyễn Viết Hiền (2006), ““Diễn biến hoà bình” và tham nhũng, thách
thức và hậu quả”, Tạp Q p ò , (10).
70. Vũ Hiền, Trần Quang Nhiếp (2000), B ộ u tranh ch ng
diễn bi b , Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
71. Đặng Văn Hiếu (2013) (chủ nhiệm), Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ
N u qu “ ễn bi b ”
v p p p ò “ diễn bi ” “ chuyển
”.
72. Học viện n ninh nhân dân (1998), Một s v ề về b o v an ninh
qu c gia, Giáo trình Bộ môn Nghiệp vụ I, Hà Nội.
73. Học viện An ninh nhân dân (2011), Đ u tranh với hoạ ộ “ ễn bi n
b ” l ù i vớ ớc ta hi n
nay, Đề tài khoa học cấp bộ.
165
74. Học viện Chính trị Quốc Gia Hồ Chí Minh (1999), G p
cộng s n p c t p p
ộc, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
75. Học viện Quốc phòng - Bộ Quốc phòng (2011), D b
ạ “ ễn bi ò b ” l ù i với Vi t
Nam trong thời kỳ mớ ững ch ơ p p p ò
ch ng. Hội đồng lý luận Trung ương (1996), Một s v ề về ch
M - L ờ ại hi n nay, Đề tài khoa học cấp bộ,
mã số 04.23/06-10, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
76. Nguyễn Ngọc Hồi (2006), “Một số vấn đề đặt ra đối với chiến lược bảo
vệ tổ quốc trong giai đoạn hiện nay”, Tạp X Đ ng, (8).
77. Hội thảo lý luận giữa Đảng cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản
Trung Quốc (2004), X Đ ng c m quyền - kinh nghi m c a
Vi t Nam, kinh nghi m c a Trung Qu c, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
78. Hội thảo lý luận giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung
Quốc (2013), X Đ ng trong sạch, vững mạ
ới, kinh nghi m Trung Qu c - kinh nghi m c a Vi t Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
79. Ngô Thu Huệ, Lý Luyện Trung (1996), K n s ã
ạo c Đ ng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
80. Lê Mạnh Hùng (2008), “Phòng, chống “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực
tư tưởng văn hoá trong thanh niên”, Tạp N thu
Vi t Nam, Học viện Quốc phòng, (5).
81. Nguyễn Thành Hưng (2012), “Âm mưu sử dụng Internet để chống phá tư
tưởng, phá vỡ niềm tin trong chiến lược “diễn biến hoà bình” của
các thế lực thù địch”, Tạp N thu Vi t Nam, Học
166
viện Quốc phòng, (6).
82. Lê Minh Hương (2001), “Bài phát biểu tại Hội nghị công tác xây dựng
lực lượng Công an nhân dân ngày 19-11-2001”, Tạp X ng
l C , (12).
83. Nguyễn Mạnh Hưởng (2012), G p p n ch “ ễn bi b ”
, qu p ò , Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà
Nội.
84. Nguyễn Mạnh Hưởng (2013), Một s v ề về “ ễn bi b ”
ch “ ễn bi b ” ă , Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội.
85. Nguyễn Văn Hưởng (2007), “Giữ vững an ninh chính trị xã hội để hội
nhập và phát triển”, Tạp Cộng s n, (780).
86. Kẹoxuvăninthạvông Xa (2005), “Phòng, chống “diễn biến hoà bình” ở
Lào trong tình hình mới”, Tạp thu Vi t Nam,
Học viện Quốc phòng, (6).
87. Cốc Văn hang (1994), Cuộ s c giữa hai ch ộ ã ộ : B ề
ch “ ễn bi b ”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
88. Trần Bá hoa (2003), “Những điều chỉnh mới trong chiến lược n ninh và
chính sách đối ngoại của Mỹ”, Tạp Cộng s n, (1 + 2).
89. Bùi Phan (2006), “Còn chiến lược “diễn biến hoà bình” chống Việt
Nam”, Tạp Q p ò , (4).
90. Tô Lâm (2013) (chủ nhiệm), Đề tài nghiên cứu khoa học “N ững y u t
ộ “ diễn bi ” “ chuyể ” ớc ta hi n nay
2013”.
91. Nhị Lê (2006), “Về sự cầm quyền của Đảng”, Tạp Cộng s n, (16).
92. Trương Giang Long (2014), “ diễn bi n”, “t chuyể ” về v ề
ặ i vớ n nay, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
93. Trương Giang Long (2015), “Định hướng giá trị trong giáo dục thanh
167
niên, sinh viên công an nhân dân hiện nay”, Tạp C
, (2).
94. Lê Văn Lý (1999), S ã ạo c Đ ng trong một s c tr ng y u
c ời S ã ộ ớc ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
95. Đỗ Hoài Nam (chủ biên) (2008), V m quyề ò ã ạo c a
Đ ng Cộng s n Vi N ều ki n mới, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
96. Vũ Văn Năm (2007), Hoạ ộ é p ển l ng trong thanh
c trẻ c ơ ộ ột s
v ề ặ , Đề tài khoa học cấp cơ sở, Tổng
cục n ninh nhân dân.
97. Lý Bồi Nguyên (2013), “Thực tiễn và sự tìm tòi về xây dựng tổ chức cơ
sở và xây dựng đội ngũ đảng viên của Đảng Cộng sản Trung Quốc”,
Kỷ yếu hội thảo X Đ ng c m quyền - kinh nghi m c a Vi t
Nam, kinh nghi m c a Trung Qu c, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
98. Nhiều tác giả (1994), Đại từ ển ti ng Vi t, Nxb Hà Nội.
99. Richard Nixon (1999), Chi n thắ n chi n tranh, Bản dịch của
Tổng cục II - Bộ Quốc phòng.
100. Hoàng Phê (1998), Từ ển ti ng Vi t, Viện ngôn ngữ học, Hà Nội.
101. Nguyễn Trọng Phúc (1999), ò ã ạo c Đ ng Cộng s n Vi t Nam
trong thời kỳ ổi mớ ớc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
102. Nguyễn Trọng Phúc (2000), “Bài học lý luận - thực tiễn trong lãnh đạo
thực hiện nhiệm vụ bảo vệ sự nghiệp xây dựng CNXH của Đảng
Cộng sản Việt Nam”, Tạp C , (12).
103. Vũ Văn Phúc (chủ biên) (2013), P ò “ diễn bi ” “ chuyển
” bộ n nay, Nxb Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội.
168
104. Đào Duy Quát (2000), “Tiếp tục đổi mới phương thức, nâng cao chất
lượng hiệu quả công tác tư tưởng trong tình hình mới”,
C ng, (11).
105. Đào Duy Quát (2000), “Tìm hiểu thực trạng phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế sau khi Liên Xô tan rã và triển vọng của phong
trào vài thập niên đầu thế kỷ XXI”, C ng,
(4).
106. Đào Duy Quát (2000), C ng - ă c p huy n,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
107. Tôn Hiểu Quần (2004), “Tăng cường xây dựng ban lãnh đạo, cố gắng
hình thành tầng lớp lãnh đạo hăng hái, sôi nổi, phấn đấu thành đạt”,
Kỷ yếu hội thảo X Đ ng c m quyền - kinh nghi m c a Vi t
Nam, kinh nghi m c a Trung Qu c, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
108. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2004), Lu B
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
109. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Lu t An
ninh qu c gia, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
110. Nguyễn Huy Quý (dịch) (1993), B ề v ề ch ng “ ễn bi
b ”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
111. Nguyễn Văn Quyền (2007), “Đảng lãnh đạo các cơ quan tư pháp trong
điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân và vì dân”, Tạp Cộng s n, (1).
112. Lê nh San (1994), Chi “ ễn bi b ” a ch
qu c ch p ã ội, Luận án Phó tiến sĩ Lịch sử, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
113. Nhật Tân (2007), “Giữ vững ổn định chính trị - xã hội để phát triển đất
nước trong tình hình mới”, Tạp Cộng s n, (772).
114. Trần Trọng Tân (1995), G p p ổi mớ ng,
169
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
115. Vũ Quang Tạo (2007), “Bảo vệ và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa
một tư tường cơ bản của Đại hội X”, Tạp L ch sử Đ ng, (6).
116. Nguyễn Đình Tập (2004), “Tìm hiểu quan điểm Hồ Chí Minh về phát huy
vai trò nhân dân bảo vệ an ninh, trật tự”, Tạp Cộng s n, (11).
117. Hữu Thọ (1996), Ch " ễn bi b " l c
ù ặt tr ng - ă , Tài liệu tham khảo,
ngày 26-12-1996.
118. Hữu Thọ, Đào Duy Quát (1999), Ti p tụ ổi mớ t
l ng u qu ng - ă
mới, Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương, Hà Nội.
119. Hữu Thọ (2001), “Từ thực tiễn cần suy nghĩ sâu hơn về công tác tư tưởng”,
ng, (3).
120. Dương Thông (chủ biên) (1994), Một s v ề về “ ễn bi b ”
“ ễn bi b ” ớc ta, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
121. Thông tấn xã Việt Nam (2000), ASEAN Đ Bắ Á, Tài liệu
tham khảo đặc biệt, (277), ngày 29-11-1996.
122. Lê Bá Thuyên (1991), C ớ “C ă ặ ”
Nxb Sự thật, Hà Nội.
123. Nguyễn Vũ Tiến (2003), S ã ạ Đ ớ b
ờ ỳ ổ ớ Luận án tiến sĩ lịch sử, Học viện chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
124. Tổng cục Xây dựng lực lượng Công an nhân dân, Cục Công tác chính trị
(1993), Hỏ p ề “diễn bi ò b ”, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội.
125. Tâm Trang (2012), “Đảng lãnh đạo phòng chống chiến lược diễn biến hoà
170
bình, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch ở Việt Nam hiện nay”,
Tạp L , (6).
126. Vũ Hải Triều (2014) (chủ nhiệm), ă ờng b o v an ninh nội bộ,
p ò “ diễn bi ” “ chuyể ” p p n th c hi n
thắng l i Ngh quy ơ 4 XI 2014, Đề tài nghiên cứu
khoa học.
127. Nguyễn Phú Trọng (1999), “Tạo bước chuyển biến mới trong việc học
tập lý luận chính trị của cán bộ, đảng viên”, Tạp Cộng s n, (11).
128. Nguyễn Phú Trọng (2004), “Xây dựng Đảng cấm quyền: Một số kinh
nghiệm từ thực tiễn đổi mới ở Việt Nam”, Tạp Cộng s n, (5).
129. Trần Trọng (2002), “Về học thuyết G. Bu-sơ và chiến lược “chiến tranh
không thương vong” của Mỹ”, Tạp Cộng s n, (8).
130. Trương Thành Trung (chủ biên) (2011), S th t v ề
quyền trong chi “ ễn bi ò b ” Vi t Nam, Nxb
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
131. Đào Duy Tùng (1999), Một s v ề về ng, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
132. Viện 70 Tổng cục V- Bộ Công an (2010), Cuộ u tranh ch
l ù ch l i dụ ể ch p ạ ớc ta, Đề
tài khoa học cấp bộ.
133. Viện Chiến lược - Khoa học Bộ Công an (2014) (chủ trì), Q ểm, ch
ơ ề b o v Tổ qu m b o an ninh, tr t t ng l c
C N quy Đại hội XI c Đ ng, Đề
tài nghiên cứu khoa học.
134. Lê im Việt (chủ nhiệm) (2007), ò ộ bộ
H C H C M ộ
ễ b b ;
171
Đề tài khoa học cấp bộ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chi Minh
chủ trì.
135. Nguyễn Hồng Vinh (chủ nhiệm) (2006), N u, ph b
ể ù ch, b o v nền t ng c Đ ng Cộng
s n Vi N ới.
136. Lê Minh Vụ, Nguyễn Tiến Quốc (2009) (đồng chủ biên), P ò , ch ng
“ ễn bi b ” Vi t Nam - những v ề c
tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
137. William J.Clinton (1997), Chi c an ninh qu c gia, s cam k
m rộng, 1995-1996 ( o), Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
172
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
Báo chí nước ta đã phát triển thành một hệ thống khá hoàn chỉnh, đủ
sức đáp ứng nhu cầu của mọi đối tượng; công nghệ và kỹ thuật làm báo có
bước phát triển vượt bậc, trình độ đạt ngang tầm các nước tiên tiến trong khu
vực; đội ngũ những người làm báo lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng
đến nay:
Cả nước có hơn 13 nghìn người đã được cấp thẻ nhà báo, trên 10 nghìn
người khác là cán bộ, nhân viên kỹ thuật, hành chính làm việc trong các cơ
quan báo chí. Ngoài ra, còn có hàng chục ngàn cộng tác viên.
Tính đến nay, cả nước có 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,
485 huyện trong tổng số 512 huyện, 8.950 xã/ 10.359 xã nhận được báo Nhân
dân trong ngày, khoảng trên 70% dân số được xem truyền hình và trên 80%
dân số được nghe Đài Tiếng nói Việt Nam. Cùng với sự phát triển của khoa
học và công nghệ, các báo điện tử được thành lập và ngày càng phát triển, thu
hút đông đảo bạn đọc trong và ngoài nước.
Với ưu thế ấy, hiển nhiên báo chí cách mạng, nếu thực hiện tốt trách
nhiệm chính trị, tôn chỉ mục đích của mình, hội tụ đông đủ sức mạnh, sẽ tạo
nên bước đột phá mạnh mẽ trong hoạt động thông tin, tuyên truyền; trong đó,
nội dung đấu tranh trực tiếp phản bác các luận điệu xuyên tạc của các thế lực
thù địch sẽ góp phần quan trọng vào việc ổn định và phát triển đất nước. Đó
là những thành công to lớn trong việc Đảng lãnh đạo chống DBHB trên lĩnh
vực tư tưởng thời gian qua [135].
173
Phụ lục 2
Số lượng đài báo của các thế lực thù địch thực hiện tuyên truyền chống
phá tư tưởng của các thế lực thù địch với cách mạng Việt Nam [135].
STT NĂM ĐÀI PHÁT TH NH BÁO VIẾT TRUYỀN
HÌNH
1 1975 02 Đài (VO , BBC) 02 Tờ
2 1985 18 Đài tiếng Việt 200 Tờ
3 1990 28 Đài tiếng Việt 560 Báo + Tạo chí
4 1994 38 Đài tiếng Việt 620 Báo + Tạp chí
5 1995
Đến Nay
Đƣa thêm
53 Đài tiếng Việt
Đƣa thêm
500 Báo và Tạp chí
06 ênh
174
TỔNG HỢP KẾT QUẢ
CÁC CUỘC ĐIỀU TR NGHIÊN CỨU DƢ LUẬN XÃ HỘI
(Nguồn rút ra từ kết quả nghiên cứu đề tài: "Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác
tư tưởng" của Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương)
Cuộc điều tra dư luận xã hội về những thành tựu và những mặt còn tồn
tại của đất nước trong năm 1998 được Trung tâm nghiên cứu dư luận xã hội
triển khai trong tháng 12 năm 1998. Mục đích chủ yếu của cuộc điều tra là
tìm hiểu sự đánh giá của nhân dân về các thành tựu và những mặt còn tồn tại
của đất nước trong năm 1998. Số phiếu phát ra: 3000, thu về: 2800 (đạt 93%).
Nội dung: Ý kiến của nhân dân về các lĩnh vực hoạt động đã thu
được những kết quả bước đầu đáng phấn khởi trong năm 1998.
1. Xóa đói giảm nghèo 62%
2. Chăm sóc các đối tượng chính sách xã hội 47%
3. Giữ gìn trật tự, an toàn xã hội 43%
4. Phát triển sản xuất, tạo công ăn việc làm cho xã hội 40%
5. Phát triển giáo dục, nâng cao trình độ dân trí 40%
6. Phát triển văn hóa, nâng cao đời sống tinh thần của dân 39%
7. Cải cách hành chính, giảm bớt phiền hà cho dân 33%
8. Chống tham nhũng và suy thoái đạo đức, lối sống trong cán
bộ, đảng viên 31%
9. Thực hiện chủ trương đại đoàn kết dân tộc 29%
10. Đổi mới tư duy, phát trển lý luận, gắn lý luận với thực tiễn 28%
11. Khắc phục tệ quan liêu, mất dân chủ 27%
12. Đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động của các cơ quan Đảng,
Nhà nước, đoàn thể... 25%
13. Bảo đảm sự công bằng xã hội 24%