Đường vào triết họ việt namường-vào... · ngày nay trước sự khủng hoảng ý...

489
Nguyn Văn Nhim Đường vào Triết hc Vit Nam cũng là Triết hc nhp môn Phù Đổng

Upload: others

Post on 02-Nov-2019

3 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

Nguyễn Văn Nhiệm  

 

 

 

 

 

  

                                                    

Đường vào Triết học

Việt Nam

cũng là

Triết học nhập môn  

 

Phù Đổng                                                  

Page 2: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

1

Nguyễn Văn Nhiệm

Đường vào triết học Việt Nam cũng là

Triết học nhập môn Tác giả giữ bản quyền

Page 3: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

2

Page 4: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

3

Đường vào Triết học Việt Nam cũng là

Triết học nhập môn của Nguyễn Văn Nhiệm biên khảo Tác giả tự xuất bản, in lần thứ nhất đầu năm 2008 và giữ bản quyền. Văn phòng Chưởng khế Spaichingen I ( Đức quốc ), đại diện Chưởng khế Feller xác nhận thời điểm đệ trình tư chứng ngày 11.01.2008 với số chứng nhận 2008 Nr.25 Notariat Spaichingen I (B.R Deutschland ) Notarvertreter Feller Hauptstr. 87 * 78549 Spaichingen Feststellung des Zeitpunktes der Vorlegung einer privaten Urkunde am 11.01.2008 Urkundenrolle 2008 Nr.25

Page 5: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

4

Page 6: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

5

Cảm tạ Xin chân thành cảm ơn Quý tác giả những sách quý mà tôi đã mạn phép làm tài liệu tham khảo để viết cuốn sách này. Trân trọng Nguyễn Văn Nhiệm

Page 7: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

6

Page 8: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

7

Phần I ***

Con đường triết lý hay khái lược lịch sử tư tưởng

Việt-Nam ***

Dẫn nhập Để đi đến nơi đến chốn bình an mà không lo sợ lạc đường và mất

nhiều thời giờ,người ta phải chọn một con đường nào an toàn nhất, đúng nhất và gần nhất. Nhưng vấn đề là làm sao biết được con đường nào đúng để chọn mà đi, con đường nào sai để tránh. Ở đây người ta lại phải vận dụng đến khả năng tư tưởng và kinh nghiệm. Có thể có nhiều con đường cùng dẫn đến nơi mà mình muốn đến và ngược lại một con đường cũng có thể đưa đến những nơi chốn khác nhau. Người ta có thể chọn lựa,nhưng có một điều chắc chắn rằng không ai chọn cho mình con đường để đi đến nơi mong muốn mà nhiều người khác đi trước, có cùng cứu cánh, đã bao phen lầm lạc và đã quyết định đổi lộ trình từ lâu rồi. Khi nói chọn cho mình con đường đúng để đi đến nơi mong muốn là đồng thời người ta cũng xác định phương hướng nào đúng để đi, nếu không sẽ đi ngược chiều và không bao giờ tới được mục tiêu cả. Trong ngôn ngữ người ta có thể ghép hai danh từ con đường và phương hướng thành một danh từ kép là đường hướng. Đến đây con đường từ nghĩa cụ thể đã chuyển sang nghĩa trừu tượng. Ngược lại khi nói đến con đường tư tưởng,con đường triết lý, đường vào triết học…là người ta đã chuyển ý nghĩa trừu tượng về cụ thể bằng hình ảnh con đường. Ở về phía cuối con đường ấy người ta thấy ló dạng một khung cửa mở rộng, hay đúng hơn một khung trời với cầu vòng ngủ sắc tuyệt vời có cùng chung một nguồn ánh sáng. Đó là chân trời tư tưởng, chân trời triết lý sáng ngời.

Người ta có thể chọn con đường triết lý Tây phương, con đường triết lý Đông phương, con đường triết lý Việt-Nam hay con đường triết lý bất kỳ nào khác, nhưng không ai rời bỏ chỗ mình đang ở, mà chỗ đó cũng sẵn có những con đường thênh thang, để đến một nơi xa xôi ngàn dặm nào đó rồi

Page 9: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

8

mới bắt đầu cuộc hành trình thì có chắc gì đó là con đường đúng đắn, an toàn và gần nhứt, mặc dầu đường nào cũng có thể dẫn đến mục tiêu như người xưa đã nói:“ Đồng qui nhi thù đồ“.

Ngược dòng lịch sử để trở về nguồn, vào thời lập quốc, người Việt Nam trong nhóm Bách Việt do áp lực của Hán tộc, đã di chuyển từ vùng Hoa Nam xuống tập trung ở lưu vực sông Hồng –Hà và các vùng đồi núi phụ cận và sau đó đã trở thành một trong những cái nôi của loài người. Chúng ta thử hình dung lúc ấy cảnh vật còn hoang vu với biết bao chướng ngại vật và những người Việt đầu tiên đã ra công khai phá. Mỗi bước đi của họ đã để lại dấu chân, rồi cả một dân tộc đi qua đều để lại vô số những dấu chân nhiều như số cát của sông Hồng-Hà không sao đếm hết. Trải qua bao đời, vô lượng dấu chân ấy đã tạo thành con đường, con đường dân tộc thênh thang. Con đường này là Đạo sống. Đạo là phạm trù được bàn đến nhiều nhất ở triết học của Lão Tử, là nguyên khí và cũng là nguyên lý của vũ trụ chi phối thế giới vạn vật. Nguyên khí nói lên nguồn gốc, nguyên lý nói lên phương thức, qui luật vận động của vạn sự vật. Sống theo Đạo tức là sống sao cho phù hợp với các qui luật trong sự hài hòa giữa con người với Tự nhiên. Như vậy Đạo cũng là con đường sống. Con đường này đã được Tổ-tiên xây đắp và ngày nay con cháu có bổn phận phải bảo tồn và tiếp tục tài bồi. Nếu chẳng may con đường ấy bị ngưng trệ vì chướng ngại thì con cháu phải ra sức khai thông. Một trong những chướng ngại đó là thành kiến và mặc cảm. Có người cho rằng người Việt không có những tư tưởng lớn , vì thế họ chủ trương du nhập những tư tưởng bên ngoài và cuồng nhiệt đón nhận y nguyên một chủ thuyết mà họ cho là thuộc hạng „đỉnh cao của trí tuệ“, tôn vinh lên hàng chủ đạo, quyết định vận mệnh cho cả một dân tộc. Khả năng tư tưởng của dân tộc và thực tế của đất nước đã cho thấy rõ những thành kiến đó là sai lầm và nguy hại. Nếu quả thật người Việt không có hệ tư tưởng đáng kể riêng cho dân tộc mình thì trong quá trình dựng nước và giữ nước làm sao có thể vừa bao phen bảo vệ được độc lập tự chủ,vừa khai phá, xây dựng mọi mặt kể cả tư tưởng, văn hóa và mở rộng bờ cõi để có được một giang san gấm vóc như ngày hôm nay. Lòng tự hào dân tộc về “ bốn ngàn năm văn hiến „ không phải chỉ là một huyền thoại suông, vô căn cứ. Một loại cây tàng lá xum xê đón nhận nắng mưa, cũng bao phen chịu đựng phong ba bảo táp mà vẫn đứng vững vàng và thường xuyên đơm hoa kết quả, thì ắt phải có cội rễ vững chắc bám sâu vào lòng đất phì nhiêu.Dân tộc Việt nhất định phải có một hệ tư tưởng đúng đắn, sáng tạo và độc đáo riêng của mình, nếu không như vậy thì trong những giai đoạn cam go chống ngoại xâm làm sao có được những vị anh hùng hào kiệt xuất hiện đúng lúc để làm

Page 10: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

9

nên lịch sử vẻ vang, và đặc biệt trong triều đại nhà Trần, chúng ta thấy xuất hiện hàng loạt những vị anh hùng kiệt xuất như thế, từ vua, quan, binh sĩ cho đến thường dân, từ thanh niên cho đến các vị bô lão, ai ai cũng có thể trở nên anh hùng. Họ là những người có lòng yêu nước nồng nàn, có đủ tài đức, có lòng dũng cảm phi thường sẵn sàng hy sinh vì đại nghĩa,xem thường danh lợi cá nhân. Chính họ đã nâng sự nghiệp anh hùng lên tận đỉnh cao thành chủ nghĩa anh hùng. Bởi thế nền văn học bình dân mới có câu ca dao sau đây:

“ Ở đời muôn sự của chung, Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi. „ Chính nhờ chủ nghĩa anh hùng, tinh hoa của triết lý hành động, mà

quân dân nhà Trần đã ba lần đánh bại quân Mông Cổ, một đội quân xăm lăng hung hãn nhất đã từng chiếm trọn Trung Quốc và làm chủ nhiều nơi trên thế giới vào thế kỷ XIII.

Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc muốn quay về nghiên cứu hệ tư tưởng truyền thống thời đại Lý-Trần oanh liệt để khả dĩ tìm ra một lối thoát, xác định lại hướng đi đúng đắn cho dân tộc. Việc làm này tuy khó khăn nhưng không phải là không thể thực hiện được vì bên cạnh những chướng ngại nhất thời còn có những thuận lợi cơ bản. Những chướng ngại là những ý thức cực đoan, độc tôn ngoại lai như những cụm cây hoang dại mọc rãi rác đó đây, rễ nông cạn; còn thuận lợi là tư tưởng truyền thống dân tộc với khả năng tiềm tàng như những rừng cây bạt ngàn có cội rễ lớn bám sâu vào lòng đất quê hương. Tuy nói là những cụm cây hoang dại lẻ tẻ nhưng nếu thiếu quyết tâm, thiếu sáng suốt thì cũng khó khai quang ra thông lộ để tìm thấy lại cái “ bản lai diện mục „ của hệ tư tưởng truyền thống vốn đã có từ thời lập quốc xa xưa,mà chính nó là tiền đề cho mọi thắng lợi vẻ vang trong suốt chiều dài lịch sử chứ không riêng thời đại Lý-Trần.Tư tưởng truyền thống này kết đọng trên ngọn cỏ, cành cây nơi đồng nội, ngưng tụ trên những bình nguyên phì nhiêu, tích lũy trong sông núi và bàng bạc khắp bầu trời Việt-Nam trong tư thế nguyên ngôn và vô ngôn. Chỉ nắm bắt được trọn vẹn tinh hoa của tư tưởng Việt, người nào trở thành tính thể Việt, hay nói khác đi người nào thể hiện được trọn vẹn Việt tính.

Ngày xưa người Việt Nam có được thứ trực giác nhạy bén đặc biệt mà không cần vận dụng đến suy luận quanh co, không xuyên qua một giả định nào cả. Phương pháp tư tưởng uyên nguyên này chẳng khác nào tôn chỉ của Thiền phái Đại thừa Phật giáo: “ Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật. „ Đó là một khả năng siêu việt, một khả

Page 11: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

10

năng độc đáo mà người Việt Nam xưa kia đã có được và vì thế họ đã chọn chữ Việt làm tên cho dân tộc mình. Việt hay siêu việt hiểu như một khả năng vượt bực sẽ được trình bày trong qui luật lượng biến thành phẩm và hiểu như xuất tính thể sẽ được trình bày trong phần tri thức luận sau này. Khả năng này gắn liền với dòng sinh mệnh của dân tộc và biện minh hùng hồn cho sự trường tồn của Tổ quốc. Thực vậy, trong giai đoạn hơn ngàn năm Bắc thuộc, các triều đại đế quốc phong kiến phương Bắc đã áp dụng mọi phương pháp thống trị vừa tàn bạo vừa thâm hiểm nhằm triệt tiêu mọi cơ sở vật chất cũng như tinh thần của người Việt. biến đất Giao Châu thành quận huyện của họ và đồng hóa dòng giống Lạc Việt vào Hán tộc. Nhiều bộ tộc trong nhóm Bách Việt đã lần lược bị xóa tên trong khoản thời gian trước và sau đời Tần, duy chỉ còn lại giống Lạc Việt.

Dân tộc Việt Nam trải qua bao triều đại , trước sau như một, vẫn duy trì được độc lập tự chủ, vẫn nói tiếng Việt và bảo tồn được phong tục, tập quán tốt đẹp của mình cho đến ngày nay. Đây chắc chắn không phải là một sự ngẩu nhiên mà phải xuất phát từ một nguyên nhân sâu xa nhất định. Cái nguyên nhân đó không gì khác hơn là dân tộc tính và chính đó là suối nguồn cho hệ tư tưởng Việt. Dân tộc tính và Việt tính cũng chỉ là một.

Trở về với lịch sử trong thời kỳ Bắc thuộc, bên cạnh những nổ lực chiến đấu chống ngoại xâm để giành lại độc lập tự chủ, người Việt còn mở mặt trận văn hóa đối kháng với văn hóa đế quốc phong kiến phương Bắc và đã thành công. Kể từ sau chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng và trải qua các triều đại Ngô, Đinh và tiền Lê, văn chương truyền khẩu giữ địa vị chủ yếu. Kể từ triều Lý trở về sau, nền văn học chữ Hán với tiếng Hán Việt được hình thành và được gọi là nền văn chương bác học của giới Nho sĩ để phân biệt với nền văn học bình dân của đại đa số quần chúng ở nông thôn.Chữ quốc ngữ với mẫu tự La tinh chỉ mới xuất hiện sau này vào khoảng thế kỷ XVIII. Bên cạnh giá trị văn chương, nghệ thuật của nền văn học còn có giá trị của tư tưởng triết lý. Do đó muốn nghiên cứu lịch sử tư tưởng triết lý dân tộc không còn cách nào khác hơn là quay về nghiên cứu nền văn học dân tộc trên phương diện tư tưởng, bởi vì người xưa thường quan niệm rằng văn chương được dùng để chuyên chở đạo lý.

Page 12: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

11

Chương 1

Tư tưởng trong nền văn học bình dân Trong phần nghiên cứu nền văn học bình dân, tư tưởng được chú trọng

hơn là văn chương và có mấy điểm đặc trưng sau đây: * Truyền khẩu:

Truyền khẩu là phương thức độc đáo của nền văn học bình dân và chính ngay trong phương thức đó cũng đã nói lên những ý tưởng sâu sắc. Lịch sử đã cho biết cuộc đấu tranh của dân tộc Việt để giành độc lập tự chủ vô cùng gian truân và dai dẳng , cho nên người Việt chưa rảnh tay và có điều kiện thuận lợi để tạo cho mình một thứ chữ viết riêng làm phương tiện để phát huy văn hóa. Mặt khác với chính sách cai trị hà khắc nhằm nô lệ hóa người dân bản xứ, đế quốc phong kiến không bao giờ chấp nhận và cho phép như thế, cho nên cứ mỗi lần kéo quân qua xăm chiếm Nam bang, họ triệt hạ hết tất cả mọi cơ sở từ vật chất cho đến tinh thần tại địa phương, đem về phương Bắc những báu vật, người tài giỏi và sách vở sáng tác quý giá. Để bảo tồn văn hóa riêng cho mình đối kháng lại với văn hóa nô dịch của đế quốc, người Việt không còn cách nào khác hơn là sử dụng phương pháp truyền khẩu. Đó là phương tiện văn hóa vô hình, phi vật chất hữu hiệu và an toàn nhất, mà kẻ xăm lược không biết đâu để nắm bắt, tiêu diệt. Phương pháp này có thể được so sánh với chiến thuật tiêu thổ kháng chiến, một chiến thuật mà thật ra không có gì mới lạ đối với dân Việt, nó đã được khai triển thành công bao phen từ đời nhà Trần trong ba cuộc kháng chiến vĩ đại chống quân Mông Cổ. Chính trong cái phương tiện vô hình tướng này đã biểu lộ tư tưởng rất đặc sắc.Muốn cho sự truyền cảm và truyền bá tư tưởng từ miệng người này sang miệng người kia, từ đồng bằng cho đến núi đồi,từ thành thị cho đến thôn quê, từ đời này qua đời kia cho được dễ dàng, văn chương truyền khẩu phải ngắn gọn ,dễ nhớ.Sự kiện không có chữ viết là một thiệt thòi lớn cho nền văn học nước nhà thời đó vì người ta không có phương tiện để khai triển tư tưởng một cách sâu rộng được. Tuy nhiên đó chỉ là lối suy nghĩ thông thường , còn đối với những bậc học giả uyên thâm thời đó thì lại khác, họ quan niệm văn chương hay không nhất thiết phải dài dòng, càng ngắn gọn, hàm súc càng tốt, ngắn cho đến khi nào không thể giản lược được nữa mới thôi, chỉ còn lại một vài chữ như nguyên ngôn và giới hạn cuối cùng là vô ngôn. Tư tưởng lúc đó đã thăng hoa , siêu vượt ra khỏi những hạn hẹp của ngôn từ mà hòa nhập vào Tự nhiên.

Page 13: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

12

Theo tinh thần của kinh Dịch , càng biến hóa càng phồn tạp ra mãi,cho nên nếu quay trở về với tình trạng giản dị lúc ban đầu thì sẽ tiếp cận với nguyên lý uyên nguyên của vũ trụ:

“ Dị giản nhi thiên hạ chi lý đắc hỹ „ (Dịch:Hệ từ thượng) Lão Tử cũng quan niệm: “ Theo Đạo, ngày càng bớt, bớt rồi lại bớt đến

mức vô vi „ ( Vi Đạo nhật tổn, tổn chi hựu tổn, dĩ chí ư vô vi ) (ĐĐK, ch.48) Vô vi đó là trở về với Đạo, tức là nguyên khí và cũng là nguyên lý vậy. Bây giờ chúng ta thử xét câu ca dao dưới đây: “ Dã tràng xe cát biển Đông, Nhọc lòng mà chẳng nên công cán gì „ Chúng ta hãy giản lược nó từng bước:trước hết,hãy bỏ câu sau,chỉ còn

lại câu đầu là:“Dã tràng xe cát biển Đông „ và lại tiếp tục giản lược một bước nữa, cuối cùng chỉ còn lại:“Công dã tràng“. Hai câu ca dao trước khi giản lược biểu lộ rõ ràng tư tưởng bi quan, hoài nghi, trong khi đó sau khi giản lược, thành ngữ :“Công dã tràng „ có thể được hiểu với nhiều thái độ khác nhau : có thể theo thái độ hoài nghi, bi quan; cũng có thể theo thực tại luận, có nghĩa là mặc cho những làn sóng vô tình đều đặn tràn vào bãi biển, phủ phàng xóa bỏ mọi công trình kiến tạo, những con dã tràng vẫn kiên trì xe cát và vẫn sống từ đời nọ sang đời kia. Một phán quyết, một nhận định thực ra còn phải tùy thuộc vào quan điểm của con người.Tục ngữ có câu:

“ Đứng núi này,trông núi nọ „ Khi ở cương vị con người mà quan sát và phán đoán về sinh hoạt của

con dã tràng, người ta thấy công trình của con vật nhỏ bé này chỉ trong vòng không đầy một phút đã bị những đợt sóng xóa bỏ, cũng như những đóa hoa phù dung sớm nở tối tàn, cho nên người ta mới cảm thấy quá phủ phàng.Nếu đem so sánh sự việc này với công trình lao động tạo dựng của con người, những trận thiên tai như bảo lụt hàng năm ở Việt –Nam đã tàn phá mùa màng, nhà cửa của con người cũng rất phủ phàng và con người cũng vẫn kiên trì xây dựng lại không ngừng, chúng ta nhận thấy tính chất của sự việc cũng tương tự mặc dầu với những chu kỳ khác nhau. Ở chu kỳ một phút , những đợt sóng biển xóa bỏ công trình lao động của giống dã tràng , ở chu kỳ một năm, bảo lụt tàn phá công trình lao động của con người, rồi ở chu kỳ khoảng bảy mươi năm, cái chết xóa bỏ một mạng sống của con người, nhưng đời sống của con người nói chung vẫn tồn tại. Sự khác biệt ở đây là dã tràng sinh hoạt với bản năng, còn con người sinh hoạt với ý thức, ý thức đấu tranh với thiên nhiên để cải tạo thiên nhiên, ngăn ngừa hoặc giảm thiểu sự thiệt hại do thiên tai mang lại.

Một thí dụ khác là câu tục ngữ:

Page 14: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

13

“ Ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vung „ Ở câu này, người ta có thể giản lược thành “ Ếch ngồi đáy giếng „ là đầy đủ ý nghĩa, hoặc đơn giản hơn nữa,chỉ với “ con ếch „ cũng đã nói lên cái quan điểm hẹp hòi, thiển cận rồi.

Tóm lại, giản dị, ngắn gọn là đặc tính đầu tiên của văn học truyền khẩu. Một điều rất ngạc nhiên và thú vị là những câu ca dao, tục ngữ ngắn gọn không thể giản lược ấy lại chứa đựng những nội dung, tư tưởng đặc sắc chẳng khác nào phương pháp tư tưởng của các bậc Thánh hiền Đông phương thuở xưa.

Ở kinh Kim cang, Đức Phật dường như chủ trương viết tới đâu là xóa bỏ hết chữ tới đó, nói tới đâu là phủ nhận hết tới đó cho đến cuối cùng không còn một chữ nào, một lời nào để cho các đệ tử và người đời sau không còn bám víu, chấp trước vào văn tự mà có trở ngại cho sự giác ngộ. Để cảnh giác các đệ tử chớ nên mê chấp vào ngôn từ, có lần Đức Phật nói:“ Ta thuyết pháp trong khoảng bốn mươi chín năm mà như chưa từng nói một lần nào…Kìa, đệ tử hãy xem theo ngón tay ta mà thấy mặt trăng, nhưng nên nhớ rằng ngón tay ta không phải là mặt trăng! „

Khổng Tử bảo với Tử Cống rằng:“Dư dục vô ngôn „ (Ta muốn không nói.)

Tử Cống thưa:“ Tử như bất ngôn, tắc tiểu tử hà thuật yên „ ( Nếu Phu Tử không nói thì đệ tử biết noi theo vào đâu? )

Khổng Tử nói:“Thiên hà ngôn tai!Tứ thời hành yên,bách vật sinh yên.Thiên hà ngôn tai! „ ( Trời có nói gì đâu! Bốn mùa chuyển vần, trăm vật sinh nở.Trời có nói gì đâu! ) ( Luận ngữ )

Lão Tử ở chương 5 ĐĐK chủ trương:“ Đa ngôn sổ cùng, bất như thủ trung „ nghĩa là nói nhiều bao nhiêu cũng không sao nói hết được, thà là giữ lấy mực trung; còn ở chương 23: “ Hy ngôn, tự nhiên „ nghĩa là ít nói chừng nào hay chừng nấy, cho nên ông đã đề xướng phương thức:“Bất ngôn chi giáo „

Ngôn ngữ là phương tiện, mà ý tưởng mới là cứu cánh. Ý tưởng siêu vượt khỏi sự hạn hẹp của ngôn từ:“ Ý tại ngôn ngoại.“Bởi thế cho nên mới có châm ngôn: “ Lời nói là bạc,mà im lặng là vàng. „ và người xưa quan niệm, nếu chưa lúc phải nói thì không nên nói; đến lúc phải nói thì chỉ nói ít lời, cốt để khêu gợi ,tạo điều kiện cho mọi người cùng tham gia suy nghĩ, chứ không ai suy nghĩ thế cho người khác theo qui luật:“ Đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu. „

Những kẻ tầm thường trong giới Nho học, mà người đời thường gọi là hủ Nho, mang nặng thành kiến, chỉ chấp vào hệ thống lý trí phân chia chi ly,

Page 15: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

14

biện biệt, một chiều, chuộng từ chương, đa văn mà coi thường văn học bình dân:

« Nôm na là cha mách qué » chớ họ có biết đâu rằng: « Biết một cách rộng rãi bao trùm là đại tri; biết một cách vụn vặt chia lìa là tiểu tri » (Trang Tử-Tề vật luận) Biết một cách rộng rãi bao trùm đó là trực giác; còn biết một cách vụn vặt chia lìa là cái biết theo lý trí nhị nguyên biện biệt. Trang Tử cũng nói: “ Có nơm là vì cá;

Đặng cá, hãy quên nơm. Có dò là vì thỏ; Đặng thỏ,hãy quên dò. Có lời là vì ý ; Đặng ý ,hãy quên lời. Ta tìm đâu đặng người biết quên lời, hầu cùng nhau đàm luận ! » Phái Thiền học của Phật giáo Đại thừa còn đi xa hơn nữa trong vấn đề

ngôn ngữ và ý tưởng là : « Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự,trực chỉ nhân tâm, kiến Tánh thành Phật. » như đã nói ở trên kia.

Thiền sư Vô Ngôn Thông vốn người Quãng Châu, đã rời khỏi chùa Hòa An ở Trung Quốc để đến Việt Nam sống tại chùa Kiến Sơ vào năm 820. Một câu hỏi được đặt ra, tại sao Vô Ngôn Thông đã rời Trung Quốc mà đến Việt Nam ?Có thể Thiền sư đã ôm ấp một quan điểm Thiền hoàn toàn khác hẳn với những gì đang lưu hành trong giới Thiền học Trung Quốc về nguồn gốc của Thiền.Thiền sư đã bác bỏ quan điểm coi nguồn gốc của Phật giáo chỉ có ở Ấn Độ và cũng bác bỏ truyền thuyết nói rằng Thiền bắt đầu với tổ Bồ Đề Đạt Ma truyền xuống bằng hình ảnh « năm lá » là Lâm Tế, Quy Sơn, Tào Động, Vân Môn và Pháp Nhãn :

« Các phương đồn đãi Dối tự rao truyền Rằng thỉ tổ ta Chính tự Tây Thiên Truyền pháp nhãn tạng Gọi đấy là Thiền Một hoa năm lá Hạt giống liên miên »

Và xác định rằng : «Tâm tông đều gọi Thanh tịnh bản nhiên Tây Thiên đất này

Page 16: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

15

Đất này Tây Thiên. » Như vậy thì Thiền bắt nguồn từ tính bản nhiên thanh tịnh của mỗi con

người, do đó nơi đâu có con người thì nơi đó có Thiền.Thiền là nối lại, là tìm lại tính bản nhiên thanh tịnh ấy, là làm sáng lại Phật tính của mỗi người và đất nước Việt Nam cũng có thể là đất Phật, đất nước của sự giác ngộ .Theo Vô Ngôn Thông , Thiền chỉ bắt nguồn nơi đâu có những con người có khả năng thực hiện nó, có khả năng thể nhập nó chứ không cần luận thuyết dong dài và có lẽ Thiền sư đã nhận thấy người Việt Nam có khả tính như thế,Việt tính,cho nên Thiền sư đã chọn Việt Nam làm quê hương, bởi vì :

« Đất lành, chim đậu. » Vô Ngôn Thông đã nhận thấy quê hương mới này quả thật là một vùng

đất lành, vùng đất hứa với những con người có phẩm chất gần với tính thanh tịnh bản nhiên và ngay cả giới bình dân cũng có khả năng trực giác uyên nguyên được thể hiện trong văn học bình dân,họ có khả năng phát biểu chân lý dưới dạng những nguyên lý bằng vài câu ngắn gọn, với nguyên ngôn gần như vô ngôn.

Thiền uyển tập anh có ghi về Vô Ngôn Thông : « Tính tình trầm hậu, ít nói, lặng biết, hiểu rõ mọi việc, cho nên người đương thời gọi là Vô Ngôn Thông...Ngoài việc cơm cháo, sư vui với cái vui Thiền, thường ngồi xoay mặt vào vách, chưa từng nói năng, nhiều năm mà không ai biết...Thiền học nước Việt ta bắt đầu từ sư vậy. »

Như vậy,việcVô Ngôn Thông rời bỏ Trung Quốc sang ở Việt Nam là theo tiếng gọi của qui luật :

« Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. » và :

« Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, Vô duyên đối diện bất tương phùng. » * Tác giả trong văn học bình dân : Về vấn đề này, chúng ta có thể nói ngay rằng, tác giả là vô danh. Thực

ra, bất cứ một câu hò, một vần thơ,một câu ca dao,một chuyện kể đều phải có xuất xứ, có tác giả sáng tác ra nó, nhưng do việc truyền khẩu, truyền từ miệng người này sang người kia , từ nơi này sang nơi khác, từ đời nọ sang đời kia cho nên dần dần tên của tác giả bị lãng quên và trở thành vô danh. Nhưng chính sự vô danh này lại biến thành hữu danh, một thứ danh siêu việt trên tinh thần « vô kỷ, vô công, vô danh ».Chuyện kể Phù Đổng Thiên Vương là điển hình cho tinh thần siêu việt đó : khi xưa,có cậu bé tên là Thiết-Lung, ở làng Phù Đổng, cởi ngựa sắt, cầm giáo sắt, đội mủ sắt phá tan

Page 17: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

16

được giặc Ân, rồi sau đó bay lên núi Sóc Sơn biến mất. Đó là hành động siêu việt.

Khoảng thập niên 1960, ông Bàng Bá Lân có lên tiếng nhận hai câu ca dao có hình ảnh tuyệt đẹp sau đây là của mình đã sáng tác :

« Hởi cô tát nước bên đàng , Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi. » Điều này không có gì đáng ngạc nhiên cả, vì thật ra đã có rất nhiều câu

thơ hay đẹp về văn chương, súc tích về tư tưởng của nhiều tác giả từ nền văn học bác học đã cống hiến cho nền văn học bình dân, góp phần làm phong phú cho lãnh vực này. Giữa cái riêng và cái chung như vậy đã có quan hệ biện chứng với nhau một cách hài hòa theo qui luật biện chứng quân bình(sẽ được nghiên cứu sau này).

Ngược lại, các tác giả trong nền văn học bác học cũng thường mượn ở nền văn học bình dân những ý tưởng và đôi khi nguyên cả câu ca dao để làm phong phú cho tác phẩm của mình.

Một vài thí dụ : « Của là muôn sự của chung, Sinh không thác lại, tay không có gì. » ( Gia huấn ca-Nguyễn Trải)

lấy ý từ : « Ở đời muôn sự của chung, Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi. » ( Ca dao) « Lặn lội thân cò nơi quãng vắng, Eo sèo mặt nước buổi đò đông. » (Tú Xương) phóng tác từ « Con cò lặn lội bờ sông, Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non. » (Ca dao) « Cố đấm ăn xôi,xôi lại hẩm, Cầm bằng làm mướn,mướn không công. » (Hồ Xuân Hương)

mượn từ : « Cố đấm ăn xôi. »

và « Làm mướn không công. » (Tục ngữ) « E thay những sự phi thường,

Page 18: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

17

Dễ dò rốn bể, khôn lường đáy sông. » (Kiều-Nguyễn Du) lấy từ : « Dò sông,dò biển dễ dò, Nào ai lấy thước mà đo lòng người. » (Ca dao) * Thể văn : Nền văn học bình dân bao gồm ca dao, tục ngữ và truyện kể, nhưng nổi

bật nhứt là ca dao và tục ngữ.Riêng đối với ca dao, có mấy thể sau đây : thể lục bát, song thất lục bát, thể nói lối và có khi là thể tổng hợp của các thể nói trên. Ngoài ra tùy theo cách kết cấu, nghĩa là cách xếp đặt ý tứ, ca dao còn có các thể phú, thể tỉ, thể hứng và các thể thơ xen lẫn nhau.

Thể văn là vấn đề hình thức, nhưng cái đặc sắc của văn học bình dân là ở chổ hình thức cũng có liên hệ với nội dung.

Chúng ta thử xét riêng thể hứng. Thể này nói về tình cảm của con người nhân cảm xúc vì cảnh vật bên ngoài mà phát ra, tức là xúc cảnh sinh tình. Trong thể này, trước hết người ta tả một vật gì làm câu khai mào, rồi mượn đấy mà tiếp tục tả ý mình muốn nói.Những câu khai mào ấy nhiều khi không chỉ để gây cảm hứng, mà còn diển tả những tư tưởng liên hệ một cách sâu sắc với ý chánh.

Ví dụ : « Nắng mưa là chuyện của trời, Tương tư là chuyện của anh yêu mình. » Câu khai mào bằng chuyện « nắng mưa », mới nghe qua tưởng chừng

như bâng quơ, nhưng khi xét kỷ thì thấy không bâng quơ chút nào cả, vì nắng mưa là hiện tượng của thế giới tự nhiên, thể hiện nguyên lý âm dương của trời đất, trong khi đó tình yêu trai gái cũng là sự thể hiện cái nguyên lý âm dương sinh thành ấy mà thôi.

Trong bài thơ « Tương tư » của Nguyễn Bính có hai câu như sau : « Gió mưa là bệnh của trời, Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng. »

Còn trong bài thơ «Yêu hoa » của Nguyễn Công Trứ cũng có câu : « Thêm hương khi lá gió mưa cành » Các thi sĩ mượn hình ảnh gió mưa để nói đến chuyện tình ái, còn người

bình dân ở nông thôn lại dùng hình ảnh nắng mưa, mà hình ảnh này lại càng làm nổi bật ý niệm âm dương hơn.

Một ví dụ khác : « Quả cau nho nhỏ, Cái vỏ vân vân,

Page 19: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

18

Nay anh học gần, Mai anh học xa, Anh lấy em từ thủơ mười ba, Đến năm mười tám thiếp đà năm con, Ra đường thiếp hảy còn son, Về nhà thiếp đã năm con cùng chàng. » Khai mào bằng hình ảnh quả cau vừa gây được cảm hứng vừa có ý

nghĩa vì trầu cau là một trong những lễ vật cưới hỏi đặc trưng của phong tục tập quán Việt Nam :

« Giúp em quan tám tiền cheo, Quan năm tiền cưới, lại đèo buồng cau. » Ngoài ra trầu cau còn được xử dụng trong việc giao tế nói chung có tính

cách nghi thức : « Miếng trầu là đầu câu chuyện. » Khi sự giao tế qui về sự giao thiệp giữa con gái và con trai thì việc mời

mọc ăn trầu chỉ là để bày tỏ tình yêu : « Vào vườn hái quả cau xanh, Bổ ra làm sáu mời anh xơi trầu. Trầu này têm những vôi tàu, Giữa đệm cát cánh, hai đầu quế cay. Trầu này ăn thật là say, Dù mặn dù nhạt dù cay dù nồng. Dù chăng nên đạo vợ chồng, Xơi năm ba miếng kẻo lòng nhớ thương. » Trầu cau là một sản vật rất phổ biến trong xã hội Việt Nam ngày trước,

cho nên mặc dầu có giá trị nhưng lại không đắt lắm. Tuy nhiên nếu ai không khéo léo xử dụng nó đúng cách, đúng lúc thì sẽ có lúc hối tiếc, ân hận như tình tự trong bài « lỡ làng » sau đây :

« Trèo lên cây bưởi hái hoa, Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân. Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc, Em đã có chồng anh tiếc lắm thay. Đắt gì một miếng trầu cay, Sao anh không hỏi những ngày còn không... » Sự lỡ làng thường khi do sự vô tình không để ý đến qui luật tự nhiên,

hình ảnh « mương không đào » nhắc nhở những chàng trai cái nguyên nhân của sự lỡ làng ấy :

« Thương thương, nhớ nhớ, thương thương,

Page 20: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

19

Nước kia muốn chảy mà mương không đào. » Rồi hình ảnh « nhịp cầu » vừa gợi lên ý nghĩa nối liền thông cảm : « Ước gì sông hẹp vài gang, Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi . »

cũng vừa gợi lên ý nghĩa xa cách, mong chờ : « Qua cầu ngã nón trông cầu, Cầu bao nhiêu nhịp, dạ sầu bấy nhiêu. » Nhịp cầu không những chỉ nối liền thông cảm, mà còn là phương tiện

dẫn đến mọi cứu cánh : « Muốn sang thì bắt cầu kiều, Muốn con hay chữ hãy yêu mến thầy. » Mặc dầu liên hệ là qui luật tự nhiên,nhưng cũng cần có tác động của

con người thì mới mau có kết quả như ý được, cho nên với hình ảnh « con đường » thì dầu cho đường có xa mà có mối mai thì xa cũng hóa ra gần mà thôi :

« Đường xa xa thật là xa, Mượn mình làm mối cho ta một người. Một người mười tám , đôi mươi, Một người vừa đẹp, vừa tươi...như mình. » Hình ảnh nói ở đây tức là tượng của vũ trụ quan Dịch. Hệ từ truyện

nói : « Dịch giả tượng dã, tượng dã giả tượng dã. »

nghĩa là Dịch cốt ở hình ảnh, hình ảnh ấy là tượng trưng vậy. Và Hệ từ truyện cũng giải thích :

« Tại thiên thành tượng, tại địa thành hình, biến hóa hiện hỹ. » nghĩa là ở trên trời là hình ảnh, ở dưới đất là hình thể, biến hóa hiện ra vậy.Biến hóa từ cái bản thể cơ bản duy nhứt, phổ biến đại đồng là nguyên lý của vũ trụ mà biểu hiện ra vạn vật có thiên hình vạn trạng qua hình ảnh tương tự là tượng. Như vậy tượng là môi giới giữa thế giới hữu hình (địa) và thế giới siêu hình(thiên). Ở đây, trong nền văn học bình dân Việt Nam, hình ảnh nói lên sự liên hệ giữa tâm tư(tình cảm và tư tưởng) của con người với những qui luật tự nhiên.

Bài ca dao sau đây cho thấy rằng văn học bình dân cũng đã móc nối những hình ảnh từ trên trời với những sự việc ở dưới đất :

« Trên trời có đám mây xanh, Ở giữa mây trắng, chung quanh mây vàng. Ước gì anh lấy được nàng, Thời anh mua gạch Bát Tràng về xây.

Page 21: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

20

Xây dọc rồi lại xây ngang, Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân. » Ở đây người con trai có ước mơ muốn mô phỏng theo hình ảnh từ trên

trời, bức tranh thiên nhiên với những đám mây xanh, trắng, vàng tuyệt đẹp để xây ở trần gian nầy một cái hồ bán nguyệt cũng tuyệt đẹp như thế để phục vụ riêng cho nàng.

Văn chương bình dân Việt Nam có rất nhiều câu ca dao với những hình ảnh phong phú có ý nghĩa tương tự như vậy, Hình thức và nội dung của văn thể đó chứng tỏ rằng người Việt khi xưa đã trực giác được qui luật liên hệ và đã áp dụng khéo léo vào đời sống xã hội cũng như trong văn học. Định luật liên hệ phổ biến sẽ được trình bày sau này trong phần những nguyên lý căn bản của triết học.

* Tư tưởng : Có vài sách nghiên cứu và phê bình văn học đã cho rằng văn chương

bình dân không có triết lý cao siêu như Việt Nam thi văn giảng luận của Hà Như Chi ở trang 40. Nhưng thử hỏi , thế nào là triết lý cao siêu ? Cứ nhìn lại nền siêu hình học Tây phương thì rõ, một nền triết học mà biết bao nhà trí thức, học giả đã tôn sùng mà cũng có khi bị lung lay như một tòa lâu đài lún sâu trong bải cát, bởi vì cho tới ngày hôm nay, những nguyên lý cơ bản của nền siêu hình học đó mâu thuẩn với những nguyên lý khoa học.Trong khi đó, những tư tưởng trong nền văn học bình dân Việt Nam vẫn trường tồn với thời gian, đã tiến đến gần và hòa nhập vào chân lý tự bao giờ.

* Chân lý : Muốn đạt được chân lý hay tri thức đúng đắn trước hết phải có quan

điểm đúng đắn. Quan điểm : Phê phán những quan điểm nông cạn,hẹp hòi : « Ếch ngồi đáy giếng, coi trời bằng vung. » Nhận thức của người đời thường thường có tính cách chủ quan : « Suy bụng ta ra bụng người. »

chẳng khác nào như Trang Tử đã nói : « Đồng với ta, cho ta là phải ; không đồng với ta, cho ta là trái. »

Phê phán chủ nghĩa duy tâm chủ quan và nhấn mạnh tính cách khách quan trong nhận thức :

« Có mợ thì chợ cũng đông, Không mợ thì chợ không không bửa nào. »

hoặc :

Page 22: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

21

« Có ai nước cũng đứng lờ, Không ai nước cũng đứng cơ mực này. » Óc hoài nghi, sự thắc mắc, ngạc nhiên :

Không nên cả tin một cách dễ dàng những gì mình chưa thực sự hiểu biết, cho nên văn học bình dân luôn luôn nhắc nhở :

« Bởi tin nên mắc, bởi chắc nên lầm. » Nếu đem so sánh tư tưởng trên với tư tưởng của các nhà hiền triết

xưa kia, chúng ta nhận thấy cũng không có khác biệt : Socrates nói : « Điều mà tôi biết nhiều nhất và rõ nhất trong đời tôi,

là tôi không biết gì cả. » Platon nói : « Biết ngạc nhiên, đó là nguồn gốc của triết học. » Khổng Tử nói : « Cái gì biết thì cho là biết, cái gì không biết thì

chịu là không biết, ấy là biết vậy. » Trang Tử viết : « Thiên hạ đều biết tìm hiểu cái mà mình chưa biết,

mà chẳng ai biết tìm hiểu cái mà mình đã biết ; đều biết chê cái mà mình cho là không phải, mà chẳng ai biết chê cái mà mình đã cho là phải. (Khứ cự)

Tính chính xác : Trên con đường đi tìm chân lý, xây dựng tri thức, người bình dân Việt

Nam đã luôn luôn cân nhắc, thận trọng từng ly để tránh sai lầm với phương châm :

« Trật một ly, đi một dặm. » Họ đánh giá cao sự thận trọng, vì nếu không như thế sẽ có những hậu

quả không tốt, những thiệt hại không nhỏ : « Trật con toán,bán con trâu. » Tính xác thực : Đến với chân lý bằng con đường chính trực, tránh tà kiến, bởi thế mới có sự lưu ý, cảnh giác : « Chớ lấy vải thưa mà che mắt thánh. »

không nên mê tín, dị đoan : « Tay cầm tiền quý bo bo, Đưa cho thầy bói thêm lo vào mình. »

và cũng tránh những thuật huyền bí, thiếu cơ sở khoa học : « Hòn đất mà biết nói năng, Thì thầy địa lý hàm răng không còn. » Khuyên con người : « Ăn ngay, nói thật.

và :

Page 23: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

22

« Ăn có nhai, nói có nghĩ. » tránh lối xuyên tạc sự thật, khuynh loát dư luận, lừa đảo con người theo lối :

« Lưỡi không xương nhiều điều lắc léo. » Nếu theo con đường chánh trực mà đi sẽ được mọi sự lành : « Ăn ngay nói thật, mọi tật mọi lành. » Như vậy, ở đây chúng ta nhận thấy nổi bật lên sự liên hệ giữa chân lý

và đạo đức, mà thực ra chúng đồng nhứt với nhau ở tận căn nguyên. Học hành : Học hành gồm hai từ đơn là học và hành ghép lại. Trong bài phú

« Thầy đồ » của Tú Xương có viết : « Thầy đồ, thầy đạc Dạy học, dạy hành. » Lối chơi chữ của tác giả tuy có tính cách trào phúng, nhưng đã nhấn

mạnh đến vai trò của từng chữ, mà thiếu một trong hai từ ngữ sẽ mất ý nghĩa vì nếu chỉ có học mà không có hành thì cái học đó chỉ là cái học suông, thiếu thực dụng và ngược lại nếu chỉ có hành mà thiếu học thì hành chỉ là hành động mò mẫm. Ý tưởng này, một cách nào đó có liên quan với thuyết tri hành hợp nhất của triết học Đông phương.

Học để thông suốt các nguyên lý, các qui luật tự nhiên để sau đó có thể áp dụng vào trong thực hành, kỷ thuật,trong đời sống thực tiển :

« Có học thì mới biết, Có đi thì mới đến. »

hay : « Vô học bất thuật. » Cho nên việc học phải được coi trọng và người ta phải học ngay từ

thuở nhỏ : « Rừng Nhu bể thẩm khôn dò, Nhỏ mà không học lớn mò sao ra. »

Giáo dục gia đình rất được coi trọng, vì xưa kia trường học không có nhiều như ngày nay :

« Uốn cây từ thuở còn non, Dạy con từ thuở con còn thơ ngây. » Thông thường , muốn cho việc học được thành công, người ta cần phải

có ông thầy giỏi, vì người ta quan niệm rằng : « Không thầy đố mầy làm nên. »

do đó người Việt Nam xưa kia rất yêu mến ông thầy : « Muốn sang phải bắt cầu kiều, Muốn cho hay chữ phải yêu mến thầy. »

Page 24: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

23

Chẳng những yêu mến, mà còn kính trọng ông thầy như cha mẹ nữa : « Mùng một ở nhà cha, Mùng hai nhà vợ, mùng ba nhà thầy. » Tại sao phải kính trọng ông thầy ? Có thể do quan niệm về giá trị thời

trước : « nhất sĩ, nhì nông » ,và cũng có thể là do lòng tin nơi luật nhân quả : « Kính thầy mới được làm thầy. » Không bảo thủ hẹp hòi, mà mở rộng tầm mắt, luôn luôn vươn tới

những chân trời xa lạ tìm tòi, học hỏi những cái hay của người, để củng cố và làm phong phú thêm cho kiến thức của mình :

« Đi cho biết đó biết đây, Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn. » hay : « Đi một ngày đàng, học sàng khôn. » Khi đã có căn bản học vấn rồi thì đến giai đoạn nghiên cứu, tự suy nghĩ

tìm tòi để có sáng kiến, phát minh, tránh lối học lõm bề ngoài của người : « Khôn thì trong trí lượng ra, Dại thì học lõm người ta bề ngoài. » Không học ví cũng như người mù, cho nên người ta gọi là « mù chữ »,

còn có học mà học sai cũng như học lõm cái cặn bã của người thì cũng ví như người có mắt mà không con ngươi vậy.

Khi người mù mà nhờ người khác dẫn đường cũng mù như mình thì hậu quả chỉ bi thảm :

« Mù dắt mù, cả hai lăn cù xuống ao. » Việc học đối với một người đã quan trọng như vậy thì việc dạy học đối

với nhiều người, rồi công tác giáo dục hay nói rộng hơn nữa, công tác văn hóa lại càng quan trọng hơn nữa, vì thế xưa kia Lão Tử mới nói: « Làm văn hóa mà sai lầm thì hại muôn đời. »

Văn học bình dân đã phê phán những ai có tư tưởng vọng ngoại, coi thường và không tin tưởng nơi mình :

« Bụt chùa nhà không thiêng. » ngược lại, khuyến khích lòng tự tin, ca ngợi những người có tinh thần tự lập :

« Nên ra tay kiếm tay cờ, Chẳng nên thì chớ, chẳng nhờ tay ai. » Thực ra con người nói chung đều có khả năng nội tại tiềm tàng như

Đức Phật đã từng dạy : « Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh. »,và nhứt là người Việt Nam, những con người sống trên đất nước mà Vô Ngôn Thông đã xác nhận là : « Tây Thiên đất này,

Page 25: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

24

Đất này Tây Thiên. » Cho nên vấn đề là phải nổ lực,vì rằng : « Chuông có gỏ mới kêu, Đèn có khêu mới rạng. » hay : « Chuông không đánh không kêu, Đường không đi không đến. » và : « Có học mới biết, Có đi mới đến. » Khả năng tiềm tàng đó của con người ví như viên ngọc,mà nếu

không được mài dủa khéo léo thì cũng không thể trở thành vật qúi giá được : « Ngọc kia chẳng dủa chẳng mài, Cũng thành vô dụng, cũng hoài ngọc đi. » hay : « Ngọc bất trác, bất thành khí, Nhân bất học, bất tri lý. » Ở sách Lễ ký thì : « Ngọc bất trác, bất thành khí. Nhân bất học bất tri

đạo. » Mục đích của giáo dục là đào tạo nhân tài, nhưng có tài mà thiếu

đức thì rất nguy hại, người Đông phương từ xưa đã quan niệm như vậy : « Đức thắng tài vi quân tử ; tài thắng đức vi tiểu nhân. » Cho nên nền văn học bình dân rất coi trọng đức dục và đã xếp đức dục

lên trên trí dục : « Tiên học lễ, hậu học văn. » Như vậy nền giáo dục của Việt Nam xưa kia theo như nền văn học

bình dân cho biết, mặc dầu khoa học, kỹ thuật chưa phát triển, nhưng đã có tính cách toàn diện, có chương trình đào tạo khá hoàn chỉnh, kết hợp đầy đủ, hài hòa lễ nghĩa, luân lý, đạo đức, kiến thức và nghề nghiệp.

« Dạy con từ thuở tiểu sinh, Gần thầy, gần bạn tập tành lễ nghi. Học cho cách vật trí tri, Văn chương chữ nghĩa nghề gì cũng thông. » * Tri thức bình dân : Người bình dân Việt Nam từ lâu đã có một kho tàng tri thức đáng

kể, mà chưa hề mâu thuẩn với tri thức khoa học. Có phải họ chỉ có quan niệm « trời tròn, đất vuông » như truyền thuyết « bánh dầy,bánh chưng » không ? Có thể quan niệm này lúc đầu do những người làm nghề nông, suốt

Page 26: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

25

đời sống quanh quẩn trên ruộng đồng ; họ hình dung quả đất cũng vuông như mảnh vườn, thửa ruộng mà họ đang trồng trọt,cày cấy.

Đây không phải là tri thức đích xác mà người xưa chỉ cốt mượn một câu chuyện có tính cách huyền thoại để diển đạt cái lý tưởng toàn chân, toàn thiện, toàn mỹ xuyên qua hai dạng hoàn hảo của hình học là hình vuông và hình tròn.Do đó mới có câu cầu chúc trong lúc sinh đẻ là :

« Mẹ tròn, con vuông. » Trong bài ca dao sau đây, « nghĩa vuông tròn » là có ý nói đến tình yêu

trăm năm hạnh phúc : « Quế càng già càng tốt, Mía càng đốt càng ngon, Anh thương em đặng nghĩa vuông tròn. Mấy sông cũng lội, mấy hòn cũng leo. » Trong truyện Kiều của Nguyễn Du cũng có câu : « Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn, Khuôn xanh biết có vuông tròn mà hay. » Nước Việt Nam có nhiều bình nguyên, sông ngòi và nằm ven biển, cho

nên ngoài nghề nông còn có nghề đánh cá. Những người này khi lênh đênh trên biển cả mênh mông để mưu sống mới có dịp mở rộng tầm mắt, họ nhìn thấy mặt biển không phải phẳng lì như đồng ruộng, mà hơi khum, khiến họ phải suy nghĩ. Những người làm nghề nông cũng vậy, những khi gặt hái, thu hoạch hoa màu họ thường dùng phên đan để che nắng và họ đã rút được kinh nghiệm này :

« Nắng bề nào, che bề đó. » Do sự kiện trên, họ đã suy ra được hình dạng thực sự của quả đất :quả

đất hình cầu. Ý niệm này đã được chứng minh rõ ràng qua sự xuất hiện sớm sủa của từ ngữ quả đất hay trái đất : quả đất được hình dung như một trái cây hay quả, có nghĩa là nó có hình cầu.

Những người có chủ trương chân lý theo đường thẳng, chân lý một chiều, thiên chấp vào đạo đức, luân lý hình thức nhị nguyên đã phê phán tư tưởng trên là thiếu lập trường vững chắc, xu thời, không chính trực. Sở dĩ có sự phê phán như trên là do quan điểm phiến diện, nếu mở rộng tầm nhìn thì thấy chân lý thật sự không phải diển ra theo đường thẳng, mà theo vòng tròn hay nói đúng hơn là theo đường trôn ốc (sẽ nghiên cứu sau).

Sự thật có hai bề : Sự thật bao giờ cũng có hai bề: bề mặt và bề trái. Hai bề này trông

có vẽ đối nghịch nhau nhưng thực ra là biểu hiệu cho cùng một thực tại, có

Page 27: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

26

tác dụng biện chứng với nhau, chứ không diễn ra một chiều. Bởi vậy người xưa thường khuyên rằng :

« Nói đi rồi hãy nói lại. » Vì nếu không như thế, người ta sẽ rơi vào tình trạng chủ quan phiến

diện, nói một chiều. Do tính chất hai chiều của sự thật như vậy, cho nên thay vì nói đến mặt tích cực của vấn đề, người ta cũng có thể chỉ nói đến khía cạnh tiêu cực, ví dụ :

« Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược. » hay : « Ông nói gà, bà nói vịt. » Khi nêu lên mặt tiêu cực, người ta chỉ có ý nói đến cái không hay của

nó để tránh và chọn mặt đối lập tức là mặt tích cực. Quan niệm về sướng-khổ theo biện chứng linh động dựa trên cặp

phạm trù bản thể-hiện tượng, chứ không cứng nhắc như ở nhị nguyên luận : « Ở đời Kiệt,Trụ sướng sao, Có rừng nem béo, có ao rượu đầy. Ở đời Nghiêu Thuấn khổ thay, Giếng đào mà uống, ruộng cày mà ăn. » Ở đây, thực trạng sướng-khổ không có tính cách cố định, mà có thể

hoán chuyển lẫn nhau. Bất cứ một sự việc nào cũng vậy, nếu xét về cái dụng của nó, thì

bên cạnh lợi cũng đi kèm theo cái hại : « Có lợi thì phải có hại. » Mấy câu ca dao với lối chơi chữ dí dỏm sau đây của người bình dân

nói lên cái ý nghĩa giữa lợi và hại ấy : « Bà già đi chợ Cầu Đông, Bói xem một quẻ có chồng lợi không. Thầy gieo một quẻ dặn rằng, Lợi thì có lợi, nhưng răng không còn. » Ngoài tính chất của sự việc ra, tác dụng của nó cũng thường có hai

chiều : « Con dao hai lưỡi. » Ví dụ như việc sử dụng thuốc trụ sinh, bên cạnh tác dụng trị liệu của nó

bao giờ cũng có tác dụng phụ làm tác hại ít nhiều phần nào đến một vài bộ phận khác của thân thể, cho nên người ta thường hay nhắc nhở : « Chớ nên lạm dụng thuốc trụ sinh. »

Thường thường thì nếu được cái này thì mất cái kia : « Hồng nhan bạc phận, »

Page 28: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

27

hay : « Hồng nhan đa truân. » hoặc : « Xa mỏi chân, gần mỏi miệng. » và : « Xa chùa vắng trống, gần chùa inh tai. » Ngày xưa Khổng Tử ở Trung Hoa, một hôm đứng trên bờ nhìn dòng

sông nói : « Thệ giả như tư phù, bất sả trú dạ » (Chảy như thế ư, ngày đêm không thôi.) (Luận ngữ)

Ở Hy Lạp Heraklit cũng nói tương tự : « Tất cả đều chảy. » Trong khi đó, ở Việt Nam người bình dân khi xưa cũng đã sử dụng trực

giác cảm tính : « Con sông bên lở, bên bồi. » hay : « Nước chảy chỗ trủng. » hoặc : « Nước sông có lúc đục lúc trong. »

và như vậy đã có nhận định về bản chất của sự chảy của dòng sông một cách rõ ràng hơn: nước chảy theo thiên lý từ chỗ cao xuống chỗ trủng thấp, không chảy thẳng tắp mà uốn quanh co tùy nơi (không gian) và có lúc đục lúc trong (thời gian). Hơn thế nữa, họ còn thấy được tính chất đối lập, mâu thuẫn trong nhiều lãnh vực khác nhau của thế giới hiện tượng, sự vật vật chất cũng như hiện tượng tâm lý nữa và họ đã rút ra được một kinh nghiệm sống : Ví dụ : « Trèo cao té nặng. » hay : « Bạo phát bạo tàn » hoặc : « Cây cao thì gió càng lay, Càng cao danh vọng, càng dày gian truân. » hay : « Yêu nhau lắm, cắn nhau đau.» và : « Làm ít, hà tiện có dư, Làm hung, ăn dữ, chẳng dư đồng nào. »

Những tính chất phân cực đối đải trên được đúc kết trong qui luật mâu thuẫn, âm dương. Một bài ca đồng dao với những lời lẽ mộc mạc cũng đã nói lên được trọn vẹn cái ý nghĩa của tư tưởng ấy :nguyên lý âm dương sinh thành :

Page 29: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

28

« Trời mưa lâm râm, Cây trâm có trái Con gái có chồng Đàn ông có vợ Đàn bà có con. » Nói chung , tri thức trong nền văn học bình dân đã kết đọng lại dưới

dạng những nguyên lý rất đặc sắc, đa dạng và phong phú. * Các qui luật căn bản : ° Luật gần xa : _ « Xa mặt,cách lòng. » _ « Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ. Vô duyên đối diện bất tương phùng. » _ « Xa mỏi chân, gần mỏi miệng. » _ « Bà con xa, không bằng láng giềng gần. » _ « Gần mực đen, gần đèn sáng. » _ « Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén. » ° Luật nhân quả :

_ « Lửa gần rơm. » (Luật nhân quả + luật gần xa)

_ « Có tích mới dịch nên tuồng. » _ « Ai ăn trầu thì nấy đỏ môi. » _ « Ai ăn mặn thì nấy khát nước. » _ « Có học thì mới có biết, Có đi thì mới có đến. » _ « Ở hiền thì lại gặp lành, Ở ác gặp dữ tan tành như tro. » Do đó người ta mới năng chăm lo trau dồi đạo đức : « Người trồng cây hạnh người chơi, Ta trồng cây đức để đời về sau. » ° Nguyên lý quân bình : Thế giới vật chất và tinh thần luôn luôn dao động và phân cực, cho

nên có mâu thuẫn, còn cái gì liên kết các mặt đối lập của mâu thuẫn lại với nhau trong một thể thống nhất lại là nguyên lý quân bình. Không có nguyên lý này thì không có sự tồn tại.

Chúng ta thử đọc mấy câu ca dao sau đây : « Ta yêu nhau xa cũng như gần,

Page 30: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

29

Tham bên phú quý phụ bần khó coi. Ta yêu nhau duyên phận mà thôi, Của thì như nước, hết vơi lại đầy. » Trong đó có những cặp mâu thuẫn là xa với gần, phú quý với bần, đầy

với vơi. Theo phép biện chứng quân bình ( sẽ được nghiên cứu ở phần triết học nhập môn ) các cặp mâu thuẫn này có tác dụng qua lại với nhau trong khuôn khổ của nguyên lý quân bình, nghĩa là tránh thái quá, cực đoan. Trong bài ca dao này, tình yêu nằm tại trung tâm của nguyên lý quân bình, đã quân bình hóa các cặp mâu thuẫn nói trên, nghĩa là kéo chúng lại gần với nhau.

Trong lãnh vực tình duyên, nếu cặp âm dương, nam nữ theo đúng qui luật quân bình, thì quan hệ lứa đôi sẽ khắng khít « dính như keo », còn trái lại sẽ « nghễnh ngãng như kèo đục vênh »

« Phải duyên thì dính như keo, Trái duyên nghễnh ngãng như kèo đục vênh. » Luật mâu thuẫn, âm dương được điều hợp bởi hai qui luật quân bình và

không quân bình. Khi không có quân bình thì xuất hiện mâu thuẫn, âm dương cách biệt ; lúc quân bình được tái lập thì âm dương lại hòa hợp :

« Con sông kia nước chảy lờ đờ, Con thuyền lững đững với trăng mờ nào soi. Con sông kia bên lỡ bên bồi, Lỡ kia lỡ mãi, bên bồi bồi thêm. Lúc bao giờ gió đứng, sóng êm, Con thuyền anh xuôi ngược qua đêm lại về. Với em anh trót nặng lời thề. »

Bên lỡ, bên bồi là âm dương phân cách ; gió đứng, sóng êm là quân bình tái lập. Bản chất của cuộc sống là động, như « trời vần vũ », như « sóng gợn » là vì thực tại bị phân hóa thành âm dương, mâu thuẫn cũng như nam với nữ khác biệt, nhưng nhờ có luật quân bình điều hợp thì cũng nên « nghĩa phu thê » « Trời vần vũ mây giăng tứ phía, Đất biển Đông sóng gợn tứ bề. Làm sao cho nên nghĩa phu thê, Đó chồng, đây vợ, ra về có đôi. » Âm dương sinh thành là qui luật phổ biến của thế giới tự nhiên : « Sóng bên doi bế vòi bên vịnh, Đôi đứa mình trời định đã lâu. »

Page 31: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

30

Doi là phần đất nhô ra, là dương, vịnh là phần đất lõm vào, là âm. « Sóng bên doi bế vòi bên vịnh » ngụ ý rằng âm dương có khuynh hướng muốn kết hợp với nhau, cho nên việc nam nữ kết hợp thành lứa đôi để tài bồi cho nhau là hợp với tự nhiên : « Nước càng quyến cát làm doi, Phương chi ta chẳng tài bồi lấy nhau. »

Câu : « Nắng bề nào, che bề nấy. »

chứng tỏ rằng, người bình dân đã có ý thức biện chứng quân bình, nghĩa là xem các bề như nhau (âm dương đồng đẳng), không chấp vào một mặt cố định nào cả ; tùy thời, tùy hoàn cảnh mà mặt này có ưu thế hơn mặt kia.

Quân bình có những đặc tính như sau : hòa hợp, hài hòa, điều hòa, hòa thuận, điều độ, ôn hòa...

Luật quân bình có mặt trong mọi lãnh vực và có vai trò quan trọng : _ Trong thiên nhiên : Trong thiên nhiên, khi các cặp mâu thuẫn (mưa - nắng) điều hòa theo

luật quân bình thì mọi sự được hanh thông. Đối với người bình dân Việt Nam mà đại đa số là nông dân, thì đó là « ơn Trời » :

« Ơn Trời mưa nắng phải thì, Nơi thì bừa cạn, nơi thì cày sâu . » Vì thế người ta cầu nguyện Trời cho có mưa thuận gió hòa, để có cuộc

sống an vui : « Lạy Trời mưa thuận gió hòa, Để cho chiêm tốt mùa tươi em mừng. » _ Trong đoàn thể, xã hội,quốc gia : Lời kêu gọi trong văn học bình dân : « Bầu ơi thương lấy bí cùng, Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn. »

cho thấy rằng, trong một quốc gia tuy có nhiều chủng tộc khác nhau, nhưng có thể có sự hòa hợp rất tốt. Đó là sự hòa hợp trong sự sai biệt hay hòa mà không đồng.

Muốn có sự hòa hợp trong xã hội, đoàn thể, quốc gia thì mọi người phải tránh cảnh :

« Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược. » hoặc :

« Ông nói gà, bà nói vịt. » _ Trong gia đình :

Page 32: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

31

Nếu gia đình sống theo đạo quân bình, có nghĩa là thể hiện được sự hòa thuận thì đương nhiên có hạnh phúc :

« Vợ chồng là nghĩa tào khang, Chồng hòa, vợ thuận nhà thường yên vui. » Vợ chồng mà có hòa thuận rồi thì cái gì cũng êm đẹp như cảnh đầm ấm

gia đình trong bửa ăn đạm bạc được diển tả qua câu ca dao sau đây : « Cá trê mà nấu canh bầu, Chồng chen, vợ húp gật đầu khen ngon. » Ngoài ra, vợ chồng khi đã có hòa thuận rồi thì làm gì cũng thành công : « Thuận vợ, thuận chồng tác biển Đông cũng cạn. » Còn anh em hòa thuận thì đó là nguyện vọng chung của gia đình, nhứt

là của cha mẹ : « Yêu nhau như thể chân tay, Anh em hòa thuận, hai thân vui vầy . »

và : « Em thuận,anh hòa là nhà có phúc. » Ai khéo sống theo đạo quân bình thì sẽ được an lành.Chúng ta hảy lắng

nghe câu ca dao sau đây thì thấy rõ cái công hiệu kỳ lạ của qui luật đó : « Trồng trầu thì phải khai mương, Làm trai hai vợ phải thương cho đồng. » Dây trầu thiếu nước sẽ héo, mà úng nước cũng chết ; cho nên muốn

trồng trầu có kết quả tốt, người ta phải khai mương dẫn nước vào để tưới khi trời nắng hạn và tháo nước ra bớt những khi mưa dầm. Tóm lại, việc tưới tiêu phải điều hòa, tức là giữ cho đúng luật quân bình.

Câu mào đầu rất có ý nghĩa, nó khéo léo đưa người nghe, người đọc vào đề tàì « làm trai hai vợ », một vấn đề lắc léo nhất trong cuộc sống gia đình, vì đàn bà rất hay ghen :

« Ớt nào là ớt chẳng cay, Gái nào là gái chẳng hay ghen chồng. » Ngày xưa, ở Việt Nam có tục đa thê : « Trai năm thê bảy thiếp, Gái chính chuyên một chồng. » Khi người đàn bà không sanh được con trai cho gia đình để nối dõi tông

đường, thì người chồng được phép cưới vợ bé với hy vọng sẽ có con trai. Lâu dần có sự lạm dụng do lòng tham lam của người đàn ông mà trở thành một tập tục không mấy tốt đẹp :

« Sông bao nhiêu nước cho vừa, Trai bao nhiêu vợ vẫn chưa vừa lòng. »

Page 33: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

32

Về phương diện tâm lý, không có một người đàn bà nào muốn cái cảnh có chồng chung cả :

« Đói lòng nằm gốc cây sung, Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng. » Ghen là hiện tượng tâm lý vô cùng phức tạp của những con người đang

yêu thương nhau. Một khi đàn bà nổi cơn ghen lên thì hậu quả thật là bi tráng, vì :

« Một vợ nằm giường lèo Hai vợ nằm chèo queo Ba vợ ra chuồng heo. » Ấy vậy mà cũng vẫn có những người đàn ông có đủ bản lãnh cầm cân

nẩy mực, giữ vững thế quân bình, tạo được sự hài hòa trong đại gia đình có nhiều bà vợ và lúc nhúc đàn con.

Một trong những hệ luận quan trọng được rút ra từ luật quân bình là tránh cực đoan :

« Không thái quá, chớ bất cập. » Và hệ luận này được áp dụng ngay trong đạo vợ chồng : « Bên thẳng thì bên phải dùn, Hai bên đều thẳng sau cùng đứt dây. » Ý tưởng này chẳng khác nào ý tưởng trong kinh Dịch : « Tri tiến-thoái, tồn-vong chi đạo. » Nguyên tắc « khai mương » nói trên cũng có thể so sánh với nguyên tắc

trong kinh Dịch : « Dịch : cùng tắc biến, biến tắc thông. » Do đó một hệ luận khác nữa của luật quân bình là : « Tức nước vở bờ. » Lịch sử Việt Nam là lịch sử đấu tranh : đấu tranh với thiên nhiên, với

nạn ngoại xâm, với nạn ngu dốt,nghèo đói,bất công theo tinh thần của đạo quân bình một cách toàn diện, chứ không như quan niệm của Karl Marx đã thu hẹp nội dung của sự đấu tranh về chỉ một phương diện :

« Lịch sử là lịch sử giai cấp đấu tranh. » Câu chuyện huyền thoại « Sơn Tinh-Thủy Tinh » cho thấy sự đấu tranh

với thiên nhiên rất cam go, dai dẳng : « Ông tha mà bà chẳng tha, Đánh nhau một trận mùng ba tháng mười. » Ở Việt Nam, vào khoảng mùng ba tháng mười thường hay có bảo lụt dữ

dội.

Page 34: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

33

« Cái khó bó cái khôn. », ý tưởng phối hợp với thực hành tích lũy thành kinh nghiệm và người Việt Nam khi xưa đã biết thuật trị thủy, không những chỉ có kỹ thuật dẫn thủy nhập điền, tưới tiêu mà còn có kỹ thuật đê điều nữa. Công trình đắp đê sông Hồng Hà đã được thực hiện từ lâu, nó quyết định sự sống còn của người dân sống ở ven sông này : « Cây cao chẳng quản gió lay, Đê cao chẳng quản nước sông tràn vào. » Luật quân bình : quân bình giũa nội lực và ngoại lực qui định hình thái của vạn vật : « Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài. » Do đó một hệ luận rất quan trọng được rút ra từ qui luật quân bình là sự thích nghi với môi trường sống.

Tính thích nghi này cũng đi liền với tính ảnh hưởng giữa các sự vật ở gần với nhau, vì chúng có khuynh hướng tiến đến trạng thái quân bình với nhau :

« Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. » hay :

« Theo ma mặc aó giấy, Ở với ai bắt chước người nấy. »

và : « Đi với Bụt, mặc áo cà sa, Đi với ma , mặc áo giấy. »

Người ta áp dụng các đặc tính này vào kỹ thuật ngụy trang trong các trận chiến chống ngoại xâm mà nổi tiếng nhứt trong lịch sử đấu tranh của dân tộc là trận chiến trên sông Bạch Đằng với những cọc nhọn bằng gỗ lim được đóng chặc dưới lòng sông, ẩn dưới nước.Với chiến thuật này, Ngô Quyền đã chiến thắng vẻ vang quân Nam Hán và sau đó quân dân nhà Trần dưới sự chỉ huy của Trần Hưng Đạo cũng lại chiến thắng oanh liệt quân Mông Cổ một lần nữa cũng ngay trên con sông lịch sử này :

« Đánh giặc thì đánh giữa sông, Chớ đánh trong cạn phải chông mà chìm »

Tục xâm mình của người Việt Nam thời xa xưa ở đất Giao Chỉ cũng là thuật ngụy trang để khi xuống nước săn tìm hải sản,người ta không bị giao long làm hại, vì chúng lầm tưởng những người này là đồng loại với mình.

Nói tóm lại, quân bình là thế cân bằng giữa hai mặt đối lập của thực tại theo quan điểm động của phép biện chứng quân bình ; còn với quan điểm tỉnh thì các mặt đối đải kia lại được hiểu theo nhị nguyên luận.

Page 35: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

34

Về phương diện hình học, vị trí quân bình là trung điểm của hai điểm đối diện nhau. Ngoài ra còn có một thế quân bình đặc biệt nữa là thế chân vạc :

« Dù ai nói ngã nói nghiêng, Thì ta cũng vững như kiềng ba chân. » Với thế « kiềng ba chân », điểm quân bình không nằm trên đoạn thẳng,

mà nằm trên mặt phẳng được xác định bên trong hình tam giác. Thế kiềng ba chân là tiêu biểu cho tam nguyên luận. Chân lý phân đôi thành các mặt đối lập có tính nhị nguyên, đồng thời cũng có tính cách biện chứng, rồi sau đó được tổng hợp thành cái thứ ba, cho nên gọi là tam nguyên.Tam nguyên cũng là nhứt nguyên, nghĩa là cái thứ ba cũng là cái thứ nhứt nhưng ở trình độ cao hơn.

° Luật tuần hoàn : Sự hiểu biết về hình dạng quả đất hình cầu và sự chuyển động tròn của

nó cũng như sự hiểu biết về tính cách mâu thuẫn của sự vật khiến cho người ta nghĩ ra có một qui luật liên hệ đặc biệt :

« Ruộng nương là cái đồng lần, Trời đất xoay dần kẻ trước người sau. Chưa ai ba họ cùng giàu, Chưa ai nghèo khổ đến đâu ba đời. »

hay : « Cái vòng danh lợi cong cong, Kẻ hòng ra khỏi, người mong bước vào. » Hình ảnh « trời đất xoay dần », « cái vòng cong cong » đã gợi ý cho

người ta biết rằng, cái qui luật liên hệ đặc biệt kia không gì khác hơn là qui luật tuần hoàn. Đã là qui luật thì nhiều khi nó thậm chí vô tình và tàn nhẫn như những tình trạng sau đây :

« Khi kiến ăn cá, khi cá ăn kiến. » hoặc : « Được là vua, thua là giặc. » Cho nên nói chung, khi đã hiểu được lẽ thịnh suy xoay dần thì người ta chọn thái độ sống theo luật quân bình, nghĩa là không bi quan cũng không lạc quan một cách thái quá,là vì :

« Sông có khúc, người có lúc. » hay : « Khi nắng còn có khi mưa. » hoặc : « Ta yêu nhau duyên phận mà thôi,

Page 36: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

35

Của thì như nước, hết đầy lại vơi. » Cho nên : « Giàu ba mươi tuổi chớ mừng, Khó ba mươi tuổi em đừng vội lo. » Từ đó có sự tin tưởng : « Phượng hoàng gặp bước cheo leo, Sa cơ thất thế phải theo đàn gà. Bao giờ mưa thuận gió hòa, Thay lông đổi cánh lại ra phượng hoàng. » Niềm tin này là niềm tin có cơ sở, cho nên người bình dân Việt Nam không có thái độ chờ thời tiêu cực, mà có ý chí, có quyết tâm phấn đấu : « Làm trai có chí lập thân, Rồi ra gặp hội phong vân cũng vừa. »

*Ý thức : Về phương diện này, chúng ta sẽ vô cùng ngạc nhiên khi khám phá ra ở

nền văn học bình dân cả một chân trời ý tưởng phong phú và đa diện, chẳng khác nào một hệ thống triết học đã được giản lược, cô động về dạng bản chất phổ quát và nguyên lý căn bản.

°Nhân sinh quan : Dịch quan niệm bốn giai đoạn biến dịch của vạn sự, vạn vật là : thành,

thịnh, suy, hủy ; còn ở nhà Phật là : thành, trụ, hoại, không. Cũng tương tự như truyền thống triết học Đông phương nói trên, văn

học bình dân quan niệm cuộc sống cũng biến dịch, đời người có hạn, và lắm khi ngắn ngủi :

« Hoa phù dung sớm nở tối tàn. » và : « Người đời khác nữa là hoa, Sớm còn tối mất, nở ra lại tàn. » Sống là khuynh hướng chính đầu tiên của con người và những người con hiếu thảo ngày xưa luôn cầu mong cho cha mẹ được sống lâu với mình : « Mỗi đêm mỗi thắp đèn trời, Cầu cho cha mẹ sống đời với con. » Nói chung người ta cố gắng dùng đủ mọi cách để kéo dài sự sống, nhưng trên thực tế nào có được như mong muốn : « Bói ra ma, quét nhà ra rác. » Chẳng những sử dụng thuật bói toán đoán trước việc lành dữ để kịp thời lo liệu, đối phó, người ta còn vận dụng cả y thuật nữa mà đã có mấy ai thoát khỏi được cái chết đâu, là vì :

Page 37: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

36

« Chửa được bệnh, không ai chửa được mệnh. » Muốn mà không đưọc như ý thì đó là nguyên nhân của sự khổ, nhưng quan niệm khổ của văn học bình dân không nhuộm màu sắc bi thảm như ở văn chương bác học, ví dụ như cảnh « bể thảm » sau đây của Đoàn Như Khuê : « Bể thảm mênh mông sóng lụt trời, Một mình chèo một chiếc thuyền chơi. Thuyền ai ngược gió ai xuôi gió, Xem lại cùng trong bể thảm thôi. » Trong khi đó, văn học bình dân xem khổ như một điều tự nhiên : « Hữu thân hữu khổ. » lấy nó làm đối tượng phấn đấu để vượt qua và qua đó mà rèn luyện bản thân : « Có thân thì có khổ, Có khổ mới nên thân. » Mặc dầu đời có khổ thật, nhưng theo qui luật tự nhiên thì hể có khổ phải có sướng để lấy lại quân bình, chứ không lẽ đời cứ khổ triền miên thì không một ai muốn sống làm chi, bởi thế người bình dân Việt Nam nhứt là người nông dân không hề nao núng, họ quan niệm một cách đơn giản rằng : « Trời sanh voi sanh cỏ. » và với niềm tin vững chắc : « Còn trời, còn nước, còn mây, Còn ao rau muống, còn đầy chum tương. » cho nên đừng có lo nghĩ vẩn vơ, mà ngoài công việc đồng áng mệt nhọc người ta vẫn có thể vui chơi giải trí. Do tính cách đặc thù của nền nông nghiệp thời đó, việc ăn chơi có khi kéo dài cả tháng : « Tháng giêng là tháng ăn chơi, Tháng hai cờ bạc, tháng ba rượu chè. » Họ quan niệm một cách thực tế : « Ăn được ngủ được là tiên, Không ăn không ngủ, mất tiền thêm lo. » và cũng có khi họ có tư tưởng sống vội vàng, hối hả : « Ai ơi chơi lấy kẻo già, Măng mọc có lứa, người ta có thì. Chơi xuân kẻo hết xuân đi, Cái già sòng sọc nó thì theo sau. » Có thể đó chỉ là thiểu số, còn đại đa số quần chúng có quan niệm đúng đắn hơn :

Page 38: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

37

« Ăn để sống,chứ không sống để ăn. » Họ không phải thuộc loại ăn không ngồi rồi, lười biếng, ăn chơi phóng túng, mà thực chất cố hữu vẫn là chăm chỉ, cần cù lao động : « Có khó mới có mà ăn, Ngồi không ai dễ mang phần đến cho » hay : « Có vất vả mới có thanh nhàn, Ngồi không ai dễ cầm tàn che cho. » hoặc : « Thế gian giàu bởi chữ cần, Có mà lười biếng thì thân chẳng còn. » Họ tin tưởng mạnh mẽ ở tương lai sáng lạn của nền nông nghiệp nước nhà : « Thật thà chăm chỉ thú quê, Chuyên nghề nông nghiệp là nghề vinh quang. » Nhờ Trời mưa thuận gió hòa, khắp nơi trên quê hương đều trúng mùa, mọi người được yên vui, hạnh phúc và làm tròn đạo hiếu trung : « Trời cho cày cấy đầy đồng, Xứ nào xứ nấy trong lòng vui ghê. Một mai gặt lúa đem về, Thờ cha, kính mẹ nhiều bề hiếu trung. » Đây là niềm vui chung của mọi người, của cả nước, cả làng, mà trung tâm để mở hội ăn mừng thường là ở những ngôi đình làng, cho nên người ta thường nói « hội hè đình đám » : « Làng ta mở hội ăn mừng, Chuông kêu, trống rống vang lừng đôi bên. » Trở lại vấn đề sống chết, đối với người bình dân Việt Nam thì đó là một chân lý hiển nhiên từ bao đời : « Cái sống hết, cái chết đến. » và nền văn học bình dân có để lại một quan niệm rất rõ ràng về vấn đề này : « Chữ rằng : sinh ký tử quy, Sống còn thì ở, chết đi thì về. » Đời sống ví như một cuộc phiêu lưu, một cuộc du lịch nơi trần thế, hay như nơi quán trọ, người ta chỉ lưu lại nơi đây một thời gian nhứt định nào đó rồi lại trở về quê hương vĩnh cữu của mình, chứ không ai bám gốc bám rể mãi nơi đây.Quê hương đó tuy vô hình, mắt không thể nhìn thấy được, tay không thể sờ mó được, nhưng đó là cái thường hằng, nguồn gốc cho mọi cái có trên đời. Nó đi đi, về về, có quan hệ như sự tụ tán của năng lượng và vật chất vậy :

Page 39: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

38

« Lá rụng về cội. » Lẽ sống đã rõ ràng như vậy, nên con người không cần phải quá bận tâm, lo lắng cũng không phải sợ chết, vì thực ra muốn chết cũng không phải dễ : « Muốn ăn phải lăn vô bếp, Muốn chết phải lết vô hòm. » Tư tưởng và thái độ chững chạc của giới bình dân trong nền văn học dân gian về lẽ sống chết có thể so sánh với tư tưởng của Trang Tử trong Tề vật luận : « Hiểu tận vạn vật rồi, mới thấy nó thuần nhất. Ta sao biết ham sống chẳng phải là lầm ? Ta sao biết sợ chết lại chẳng là mê, mà không biết cho đó là con đường về ? Lệ Cơ, con của một phong nhơn xứ Ngại, gả cho vua nước Tấn. Khi về nhà chồng, lụy ước dầm bâu. Kịp khi đến hoàng cung, cùng vua đồng sàng, nếm mùi sô hoạn, rồi lại hối hận giọt lệ ngày xưa. Ta biết đâu kẻ chết lại không hối hận vì mình đã mong được sống thêm ? » Bởi thế họ không có ảo tưởng về sự sống « trường sinh bất tử » kiểu « lột da sống đời » của con người theo nghĩa cá nhân, mà sự sống là sự sống nói chung của con người được duy trì qua từng thế hệ : « Tre già măng mọc. » hay : « Sơn Bình, Kẻ Gốm không xa, Cách một cái quán với ba quãng đồng. Bên dưới có sông, Bên trên có chợ, Ta lấy mình làm vợ nên chăng ? Tre già để gốc cho măng » Đó là ý thức về cuộc sống có ý hướng tính rõ rệt, có triển vọng hướng về tương lai, cho nên mới có quan niệm : « Con hơn cha là nhà có phúc. » ° Giá trị : Ý thức về giá trị thay đổi tùy theo thời, tùy theo hoàn cảnh xã hội, nhưng nói chung thì người bình dân Việt Nam xưa có quan niệm về thang giá trị như sau : _Con người được quí trọng trên hết : « Người còn thì của cũng còn. » hoặc : « Người làm nên của, của không làm nên người. » _Trọng tánh nết hơn sắc đẹp :

Page 40: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

39

« Cái nết đánh chết cái đẹp. » hay : « Xấu người đẹp nết, còn hơn đẹp người. » _Phẩm quí hơn lượng : « Quí hồ tinh, bất quí hồ đa. » hoặc : « Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh. » _Chuộng nội dung hơn hình thức : « Khen ai khéo đúc chuông chì, Dạng thì có dạng, đánh thì không kêu. » _Thích nhu hơn cương : « Lạt mềm buộc chặt . » _Trọng văn khinh võ : do bản tính ôn hòa, không thích võ lực. « Quan văn thất phẩm thì sang, Quan võ thất phẩm phải mang gươm hầu. » _Trọng nam khinh nữ : có liên quan đến tục đa thê. « Con gái là con người ta, Con dâu mới thực mẹ cha mua về. » Nói chung, về phương diện giá trị người bình dân chú ý nhiều đến nội dung hơn là hình thức, bản chất hơn là hiện tượng, phẩm hơn lượng. ° Con người : Như đã nói ở phần giá trị, con người vốn quí. Cái lý do của sự quí trọng ấy không ngoài cái phẩm chất của con người. Người Việt Nam đã chọn chữ « Việt » để đặt cho tên dân tộc mình là đã gởi gắm ở đó tất cả hoài bảo của mình, mong muốn rằng tất cả mọi người trong cộng đồng dân tộc đều có phẩm chất cao. Việt có nghĩa là siêu việt, khả năng siêu vượt lên trên mọi trở ngại để thắng vượt như sự tích cá chép vượt Vũ Môn : hàng năm cá chép kéo đến Vũ Môn thi nhảy, con nào vượt lên được thì hóa rồng, ý nói những người có tài năng phi thường làm nên sự nghiệp vĩ đại, nên danh phận : « Bao giờ cá lý hóa long, Đền ơn cha mẹ ẵm bồng ngày xưa . » Việc đền đáp công ơn cha mẹ cũng khó khăn như việc cá chép hóa rồng, phải kiên trì tích lũy dần dần lượng biến thành phẩm. Trong việc thăng hoa phẩm chất này, tức siêu việt, ngoài yếu tố nội tại ra, còn có yếu tố ngoại tại nữa : « Bao giờ mưa thuận gió hòa, Thay long đổi cánh lại ra phượng hoàng. »

Page 41: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

40

Nói một cách vắn tắt, siêu việt tính là Việt tính, là phẩm chất của dân tộc tính của người Việt Nam. _Tính bình đẳng nguyên thủy : Con người thoạt kỳ thủy bình đẳng, nhưng dần dần về sau do hoàn cảnh xã hội mà bị phân hóa rồi có sự phân biệt : « Hơn nhau cái aó cái quần, Nếu để mình trần ai cũng như ai. » hoặc : « Tối lửa tắt đèn, trắng cũng như đen. » Bình đẳng là bình đẳng ở nguồn gốc, nhưng ở thế giới biểu hiện thì tùy theo công phu rèn luyện tâm thân mà phẩm chất có thấp có cao, có tôn ti trật tự chứ không phải « cá mè một lứa ». Nhớ lại Vô Ngôn Thông đã xác nhận : « Tây Thiên đất này, Đất này Tây Thiên. » có nghĩa là đất nước này là đất nước của những con người có Phật tánh, và đồng thời cũng có Việt tánh. Thật ra hai Tánh đó cũng chỉ là Một, nhưng tùy theo từng trường hợp, từng phương diện mà biểu hiện khác nhau. Tánh đó là viên Ngọc quí của mọi người, nhưng phải được mài dũa đúng mức mới có giá trị : « Ngọc kia chẳng dủa chẳng mài, Cũng thành vô dụng, cũng hoài ngọc đi. » Nền văn học dân gian tập trung ở thôn quê, ít có cơ hội tiếp xúc với các thế lực bên ngoài, nên ít chịu ảnh hưởng tư tưởng ngoại lai, do đó có khả năng phản ánh trung thực tư tưởng cũng như đặc tính thuần túy của dân tộc. Nói một cách khác, muốn tìm biết dân tộc tính của dân tộc Việt Nam hay Việt tính thì không thể bỏ qua việc nghiên cứu nền văn học bình dân này. Kết quả việc nghiên cứu cho thấy người Việt Nam có những đức tính sau đây : _Giàu lòng từ thiện, nhân ái : « Thương người như thể thương thân. » và : « Nhiểu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng. » _Có tinh thần tương thân tương trợ : « Lá lành đùm lá rách. » hay : « Miếng khi đói bằng gói khi no. »

Page 42: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

41

_Phê phán những người giàu có ích kỷ : « Nhà giàu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột. » _Khoan dung : « Giơ cao đánh sẻ. » _Thương yêu cả súc vật : « Trâu ơi ta bảo trâu này, Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta. Cấy cày vốn nghiệp nông gia, Ta đây trâu đó ai mà quản công. Bao giờ cây lúa còn bông, Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn. » _Cân nhắc,thận trọng : « Khôn ba năm, dại một giờ. » hay : « Trật một ly, đi một dặm. » _Trong sạch : « Lành cho sạch, rách cho thơm. » hay : « Giấy rách phải giữ lấy lề. » _Ngay thật : « Ăn ngay,nói thật mọi tật mọi lành. » _Khuyên không nên dối trá : « Chớ lấy vải thưa mà che mắt thánh. » _Khuyên không nên tham lam : « Tham thì thâm. » hay : « Nhân tham tài tất tử, Điểu tham thực tất vong. » Và phê phán những kẻ có nhiều lòng tham : « Bắt cá hai tay. » hay : « Đứng núi nầy, trông núi nọ. » _Dịu dàng, hòa nhã : « Chim khôn kêu tiếng rảnh rang, Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe. » hoặc : « Lời nói không mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. »

Page 43: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

42

và : « Lời thanh nói tiếng cũng thanh, Chuông kêu sẻ đánh bên vành cũng kêu. » _Nhường nhịn : « Một câu nhịn, chín câu lành. » hay : « Chữ đễ nghĩa là nhường, Nhường anh, nhường chị, lại nhường người trên. » _Khiêm tốn : « Ai nhứt thì tôi thứ nhì, Ai mà hơn nữa tôi thì thứ ba. » _Cương quyết : Tuy khiêm tốn, hòa nhã nhưng rất cương quyết : « Ai ơi ! đã quyết thì hành, Đã đẵn, thì vác cả cành lẫn cây. » _ Không nản lòng : « Chớ thấy sóng cả mà rả tay chèo. » _Kiên nhẫn : « Còn nước, còn tát. » _Tự tin : « Chân cứng, đá mềm. » hay : « Non cao cũng có người trèo, Đường dẫu hiểm nghèo cũng có lối đi. » _Có ý chí : « Ai ơi có chí thì nên, Có công mài sắt, có ngày nên kim. » _Cần kiệm : « Tích tiểu thành đại, Tích thiểu thành đa. » hay : « Kiến tha lâu đầy ổ. » cho nên : « Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm. » hoặc : « Làm ít hà tiện có dư, Làm hung ăn dữ chẳng dư đồng nào. »

Page 44: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

43

_Chăm chỉ, siêng năng, chuyên cần : « Rủ nhau đi cấy đi cày, Bây giờ khó nhọc có ngày phong lưu. Trên đồng cạn dưới đồng sâu, Chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa. » Những người nông dân khả ái yêu nghề, yêu đồng ruộng, yêu quê hương, chuyên cần làm việc với phương châm : « cày sâu cuốc bẫm ». Họ đặt tin tưởng ở những vụ mùa lúa tốt với niềm hy vọng được sống ấm no, hạnh phúc cho nên họ hăng hái làm việc vui vẻ với câu hát, tiếng hò làm vơi đi phần nào mệt nhọc mà công việc lại mau xong. « Ở đây tre lũy rơm đồng, Thôn đoài thương mến xóm đông một nhà. Hò khoan này khúc âu ca, Mồ hôi thắm đất sửa hòa vun cây. » Cho nên người ta mới tha thiết kêu gọi : « Ai ơi đừng bỏ ruộng hoang, Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu. » _Tự lập, tự chủ : « Ta về ta tắm ao ta, Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn. » cho nên không thích nương tựa, dựa dẫm : « Trúc xinh trúc mọc đầu đình, Em xinh em đứng một mình cũng xinh. » Trúc xinh trúc mọc bờ ao, Em xinh em đứng chỗ nào cũng xinh. » cũng không thích nhờ cậy ai : « Nên ra tay kiếm tay cờ, Không nên thì chớ, chẳng nhờ tay ai. » _Có tinh thần đấu tranh, hiếu động : « Làm trai cho đáng nên trai, Xuống đông đông tĩnh, lên đoài đoài tan. » _Can đảm, mạo hiểm : « Không vào hang cọp sao bắt được cọp con. » _Không chuộng hư danh : « Cái vòng danh lợi cong cong, Kẻ hòng ra khỏi người mong bước vào. Sự đời nghĩ cũng nực cười, Một con cá lội mấy người buông câu. »

Page 45: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

44

_Trọng danh dự, để tiếng tốt lại với đời : « Hùm chết để da, người ta chết để tiếng. » hay : « Chữ rằng hổ tử lưu bì, Làm người phải để danh gì hậu lai. » _Anh hùng : « Ở đời muôn sự của chung, Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi. » Anh hùng là một kiểu mẫu điển hình của Việt tính, tức khả năng siêu việt phi thường, một phẩm chất cao quí. Anh hùng kết hợp bởi hai chữ « anh » là một loại hoa lan đứng đầu trong các loài hoa ; « hùng » là loại gấu gan dạ hay loài chim đẹp đứng đầu trong các loài thú (Thảo trung chi anh, thú trung chi hùng). Do phẩm chất cao tột và luôn luôn được quí trọng của mẫu người anh hùng, cho nên cũng có những kẻ giả dạng anh hùng, mà người bình dân gọi là « anh hùng rơm » : « Anh hùng gì anh hùng rơm, Ta cho mớ lửa hết xương anh hùng. » _Khôn ngoan : Tính cách khôn ngoan của người bình dân : - « Khôn từ trong trứng khôn ra, Dại dẫu đến già cũng dại. »

- « Khôn ngoan chẳng lọ là nhiều, Người khôn mới nói nửa điều đã khôn. » - « Người khôn đón trước rào sau, Để cho người dại biết đâu mà dò. » - « Khôn thì trong trí lượng ra, Dại thì học lõm người ta bề ngoài. » - « Khôn ngoan đối đáp người ngoài, Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau. »

Do thường xuyên đấu tranh chống với hiểm họa ngoại xâm và thiên tai cho nên con người phải khôn ngoan thì mới sống còn : « Khôn sống, mống chết. » Cái khôn đó cũng không phải là cái khôn như thường tình, mà là cái khôn siêu vượt, nối liền với cái biết của đạo sống quân bình linh động, không thiên chấp một cách cứng nhắc vào một khuynh hướng nhứt định nào, cũng không khư khư theo một lề lối điển hình nào cả : « Khôn cũng chết, dại cũng chết, ai biết thì sống. » Ý tưởng này chẳng khác nào tinh thần của Dịch học :

Page 46: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

45

« Tri tiến-thoái, tồn-vong chi đạo. » _Nhàn tản : Tuy có tính hiếu động, đấu tranh nhưng người Việt nói chung cũng thích nhàn tản : « Nghêu ngao vui thú yên hà, Mai là bạn cũ, hạc là người quen. » _Trọng tư cách thanh cao : « Trong đầm gì đẹp bằng sen, Lá xanh bông trắng, lại chen nhị vàng. Nhị vàng, bông trắng, lá xanh, Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. » _Trọng đạo đức, luân thường : « Người trồng cây hạnh người chơi, Ta trồng cây đức để đời về sau. » Lý do : vì người ta tin tưởng vào sức mạnh của đạo đức : « Đức trọng, quỉ thần kinh. » và đồng thời người ta cũng tin tưởng vào luật nhân quả : « Ở hiền thì lại gặp lành, Ở ác gặp dữ, tan tành như tro. » ° Luân lý : Luân lý đi liền với đạo đức, nó qui định rõ bổn phận của mọi người trong xã hội : -Con gái : « Phận gái tứ đức vẹn tuyền, Công, dung, ngôn, hạnh giữ gìn chẳng sai. » -Con trai : « Làm trai chí quyết tang bồng, Sao cho rõ mặt anh hùng mới cam. » Con cái hiếu thảo với cha mẹ, anh em để với nhau, học trò kính thầy, người dân trung với vua, với nước : « Thờ cha mẹ ở hết lòng, Ấy là chữ hiếu dạy trong luân thường. Chữ đễ nghĩa là nhường, Nhường anh, nhường chị, lại nhường bề trên. » hay :

« Một mai gặt lúa đem về, Thờ cha kính mẹ nhiều bề hiếu trung. » và :

Page 47: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

46

« Công cha, nghĩa mẹ khó quên, Ơn vua lộc nước mong đền con ơi. »

Xa hơn nữa, con người còn phải nhớ đến công ơn của Tổ tiên : « Con người có bố, có ông Như cây có cội, như sông có nguồn. » và : « Ăn trái nhớ kẻ trồng cây, Uống nước nhớ người đào giếng. » ° Tín ngưỡng : Nếu Nho giáo có nhiều ảnh hưởng về phương diện luân lý, thì Phật giáo lại có ảnh hưỏng lớn trong tín ngưỡng nhưng đã được bình dân hoá, kết hợp Phật với Trời, thiên về thực tiển hơn trừu tượng : « Nghiêng vai ngửa vái Phật,Trời Đương cơn hoạn nạn độ người trầm luân. Dẫu xây chín bậc phù đồ, Chẳng bằng làm phúc cứu cho một người. » hay : « Lạy Trời mưa xuống Lấy nước tôi uống Lấy ruộng tôi cày Lấy bát cơm đầy Lấy khúc cá to. » Người ta tin tưởng vào luật nhân quả của nhà Phật : « Ở hiền thì lại gặp lành, Ở ác gặp dữ, tan tành như tro. » hoặc : « Trồng cây chua, ăn quả chua, Trồng cây ngọt, ăn quả ngọt. » Luật nhân quả còn được gọi là nhân duyên, bởi vì bên cạnh nguyên nhân nội tại còn có nguyên nhân ngoại tại nữa làm trợ lực(duyên), cũng có ảnh hưởng rất lớn đối với kết quả. Trong lãnh vực tình ái, người ta thường hiểu rằng : « Lắm duyên, nhiều nợ. » điều đó có nghĩa là nếu ít duyên thì ít nợ, còn như nếu không có duyên thì không có nợ, mà không có nợ thì được thong dong, thư thả. Nhưng trên thực tế lại khác hẳn, cái duyên là mối băn khoăn, trăn trở lớn nhất của người đàn bà trong cuộc hiện sinh. Duyên trong lãnh vực này là sức hấp dẫn, lôi cuốn mãnh liệt của vẻ đẹp gợi thương như trong bài « mười thương » : « Một thương tóc bỏ đuôi gà,

Page 48: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

47

Hai thương ăn nói mặn mà có duyên. Ba thương má lúm đồng tiền, Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua. Năm thương dải yếm đeo bùa, Sáu thương nón thượng quai tua dịu dàng. Bảy thương ăn nói khôn ngoan, Tám thương má phấn ngó càng thêm xinh. Chín thương em ở một mình, Mười thương con mắt đưa tình với ai. » và cũng gợi nhớ : « Mình về mình nhớ ta chăng ? Ta về ta nhớ hàm răng mình cười. » Người đàn bà nàocũng mong muốn cho mình có thật nhiều duyên, họ rất lo lắng, xao xuyến, buồn rầu và sợ mình hết duyên : « Một mình lo bảy lo ba, Lo cau trổ muộn, lo già hết duyên. Còn duyên kẻ đón người đưa, Hết duyên đi sớm về trưa một mình. » Người bình dân trọng tín ngưỡng nhưng chống lại mê tín, dị đoan : « Tay cầm tiền quí bo bo, Đưa cho thầy bói thêm lo vào mình. » hay : « Thầy địa, thầy bói, thầy đồng Nghe ba thầy ấy thì lông không còn. » ° Dân tộc : Thế giới vạn vật muôn loài đều có nguồn gốc như cây có cội, như nước có nguồn, như chim có tổ và con người thì có Ông Bà, Tổ Tiên : « Chim có tổ, người có tông. » hay : « Cây có cội, nước có nguồn. » và : « Con người có bố có ông, Như cây có cội, như sông có nguồn. » Một trong những đặc điểm của nền luân lý truyền thống Việt Nam là ân nghĩa sinh thành : « Ăn trái nhớ kẻ trồng cây, Uống nước nhớ người đào giếng. » hay :

Page 49: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

48

« Uống nước nhớ nguồn. » Bổn phận của con người là phải nhớ công ơn của tiền nhân, đem lòng hiếu kính mà phụng thờ và đã từ lâu trở thành một đạo sống, đạo thờ Ông Bà, Tổ Tiên : « Trứng rồng lại nở ra rồng, Hạt thông lại nở cây thông rườm rà. Có cha sinh mới ra ta, Làm nên thời bởi mẹ cha vun trồng. Khôn ngoan nhờ ấm cha ông, Làm nên phải đoái tổ tông phụng thờ. Đạo làm con chớ hửng hờ, Phải đem hiếu kính mà thờ từ nghiêm. » Về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam, văn học bình dân có câu ca dao sau đây : « Trứng rồng lại nở ra rồng, Liu điu lại nở ra dòng liu điu. » hay : « Trứng rồng lại nở ra rồng, Hạt thông lại nở cây thông rườm rà. » Những câu ca dao trên đây tóm lược truyền thuyết « Trứng rồng » hay « con rồng cháu tiên » với mục đích gây lòng tự hào dân tộc, củng cố niềm tin và tăng cường sức mạnh cho mọi người dân ra sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Rồng (Lạc Long Quân), Tiên (Âu Cơ) tượng trưng cho hai nguyên lý âm-dương. Lạc Long Quân lấy nàng Âu Cơ sanh ra trăm trứng, nở ra trăm người con, có nghĩa là âm-dương hoà hợp sinh thành. Nhưng bản chất của âm dương lại mâu thuẫn, cho nên sau một thời gian sống chung với nhau, một hôm Lạc Long Quân nói với Âu Cơ rằng : « Ta vốn là con cháu Thủy thần, nàng thuộc nòi Tiên, nước lửa khắc nhau không thể kết hợp lâu dài được. Vậy xin chia tay để giữ lấy dòng giống. Nàng nên đem năm mươi con lên núi, ta đem năm mươi con xuống bể. » Sự phân tán này tạo điều kiện cho sự sinh sôi nẩy nở về phương diện dân số cũng như sự khai phá, mở rộng đất đai, lãnh thổ theo đúng như tinh thần của nguyên lý âm dương, qui luật mâu thuẫn : có mâu thuẫn mới có vận động, mới có phát triển. Nhưng nếu chỉ có sự phân tán không thôi thì mọi sự vật sẽ mãi mãi chia lìa, tan rã ; cho nên theo qui luật quân bình thì còn cần phải có sự hội tụ nữa : có tán thì phải có tụ ; có đi thì phải có về. Về ở đây có nghĩa là về Nguồn :

Page 50: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

49

« Lá rụng về cội. » Dịch học có viết : « Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái... » như vậy Thái cực tức Bản thể vũ trụ đại đồng là nguồn gốc của mọi sự vật. Lưỡng nghi tức Âm dương có tính cách tương đối cho nên bên cạnh tính cách mâu thuẫn còn có tính hòa hợp theo tinh thần của luật quân bình, nếu không như thế thì sẽ không có sinh thành, tồn tại. Như vậy thế giới vạn vật có thiên hình vạn trạng do nguyên lý âm dương tạo tác sinh thành cũng có tính chất vừa mâu thuẫn vừa hòa hợp, tuy nhiên chúng đều có cùng chung một nguồn gốc. Ở phạm vi gia đình, anh em có cùng chung cha mẹ phải hòa thuận với nhau : « Anh em nào phải người xa, Cùng chung Bác Mẹ một nhà cùng chung. Yêu nhau như thể tay chân, Anh em hòa thuận hai thân vui vầy. Khôn ngoan đối đáp người ngoài, Gà cùng một Mẹ chớ hoài đá nhau. » Ở phạm vi quốc gia, các dân tộc khác nhau cùng sống chung trên một đất nước đều thương yêu đoàn kết nhau,không có vấn đề phân biệt, kỳ thị chủng tộc : « Bầu ơi thương lấy bí cùng, Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn . » Còn ở phạm vi quốc tế thì lại có tinh thần nhân loại đại đồng : « Năm châu một chợ, Bốn bể một nhà. » hay : « Tứ hải giai huynh đệ. » ° Đất nước, quê hương, Tổ quốc : Đất nước Việt Nam là cái nôi êm ấm, là quê hương giàu đẹp với : « Tiền rừng, bạc bể. » hay : « Chim, gà, cá, lợn, canh rau Mùa nào thức nấy, giữ màu quê hương. » và : « Hết gạo thì có Đồng Nai, Hết củi thì có Tân Sài chở ra. » Đó là một đất nước đầy hứa hẹn cho nên người dân có lòng yêu nước nồng nàn và cũng có nhiều người nước ngoài nhứt là những người từ

Page 51: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

50

phương Bắc đã tìm đến đây để sinh cơ lập nghiệp, trong đó có cả những người tỵ nạn chính trị. Họ đã thành khẩn nhận nơi nầy làm quê hương và cũng đã có những đóng góp như những người dân bản xứ : « Đất lành chim đậu. » Đất nước nầy không phải tự nhiên có, mà do Tổ tiên đã khó nhọc gầy dựng lên, cho nên con cháu có bổn phận tiếp tục bồi đắp làm cho Quê hương giàu đẹp thêm lên và họ cũng sẵn sàng hy sinh, hết lòng bảo vệ Tổ quốc : « Cái nhà là nhà của ta, Ông cố ông cha làm ra. Cháu con phải gìn giữ lấy, Muôn năm nhớ nước non nhà. » Với những đức tính vốn có : thông minh, siêng năng, kiên quyết, đoàn kết, dũng cảm, anh hùng...cộng thêm lòng yêu nước thiết tha, họ tin tưởng mãnh liệt vào sự trường tồn của đất nước và tiền đồ của Tổ quốc : « Nước non là nước non trời, Ai phân được nước, ai dời được non. » ° Chính trị : Chế độ chính trị của Việt Nam từ xưa đến đầu thế kỷ XX là chế độ quân chủ. Chế độ nầy qua nhiều triều đại có đặc điểm đáng để ý là rất chú trọng đến phong tục tập quán của địa phương : « Phép vua còn thua lệ làng. » Pháp chế của triều đình nhiều khi còn phải nhượng bước tập tục của làng xã ; điều đó có nghĩa là mặc dù chế độ là quân chủ, nhưng triều đình đã có tôn trọng dân và người dân cũng đã có ý thức rất sớm về vai trò quan trọng của mình trong đời sống chính trị : « Quan nhứt thời, dân vạn đại. » Hội nghị Diên Hồng vào năm 1284 do Thượng hoàng Trần Thánh Tông triệu tập để hỏi ý kiến các bô lão toàn quốc về việc nên hòa hay chiến cũng như bàn mưu chước chống giặc Mông Cổ đã chứng tỏ cái tinh thần tôn trọng dân thời đó. Nói chung, chính trị và phong tục, tập quán ngày xưa ở Việt Nam có quan hệ với nhau cho nên sau làng xã, tập tục gia đình cũng được tôn trọng : « Nhập giang tùy khúc, Nhập gia tùy tục. » Ở phạm vi gia đình, ngày xưa có tục hôn nhân nghiêm khắc, người ta quan niệm : « Áo mặc sao qua khỏi đầu. » hay quan niệm « môn đăng hộ đối » :

Page 52: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

51

« Nồi nào vung nấy » rồi lại có tục cheo cưới tức là thách cưới, mặc cả, trả giá trong hôn nhân : « Có cưới mà chẳng có cheo, Nhân duyên trắc trở như kèo không đinh. » Do tục lệ này, vô tình hay hữu ý cha mẹ đã gả bán con gái cho nhà trai, cho nên trong dân gian mới có câu ca dao : « Con gái là con người ta, Con dâu mới thật mẹ cha mua về. » Tục lệ này đã gây đau khổ cho không biết bao nhiêu đôi vợ chồng mới cưới không tương hợp với nhau : « Mẹ tôi tham thúng xôi dền, Tham con lợn béo tham tiền Cảnh Hưng. Tôi đã bảo mẹ rằng đừng, Mẹ hấm mẹ hứ mẹ bưng ngay vào. Bây giờ kẻ thấp người cao, Như đôi đũa lệch biết sao cho vừa. » hay : « Đường đi những lách cùng lau, Cha mẹ ham giàu ép uổng duyên con. » Nạn ép duyên này đã gây phản ứng trong quần chúng : « Ép dầu , ép mở, Ai nở ép duyên. » Điều này chứng tỏ rằng người bình dân Việt Nam đã có ý thức, phản ứng cũng như hành động theo luật quân bình để ngăn chận những gì thái quá và do đó các tập tục không tốt đẹp dần dần bị bải bỏ, người ta chỉ giữ lại những gì tốt đẹp gọi là thuần phong mỹ tục. Thật ra cha mẹ nào cũng cưng yêu con cái : « Nâng như nâng trứng, Hứng như hứng hoa. » Nhưng giáo dục gia đình rất nghiêm khắc : « Thương cho roi cho vọt, Ghét cho ngọt cho bùi.” đặc biệt là con gái luôn luôn chịu sự chi phối của cha mẹ nhứt là trong việc hôn nhân: “Ra đi mẹ có dặn rằng, Làm thân con gái chớ ăn trầu người.” Sự nghiêm khắc đôi khi trở thành cực đoan: “Ví dù con phụng bay qua,

Page 53: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

52

Mẹ bảo con gà, con cũng nói theo.” Và hậu quả là có nhiều cô gái đã trở thành nạn nhân của sự việc”cha mẹ đặt đâu, con ngồi đó”, cho nên vấn đề hạnh phúc bấp bênh, may nhờ, rủi chịu: “Con gái có hai bến sông, Bến đục thì chịu bến trong thì nhờ.” Cũng vì tính cách cực đoan này mà đã có khi đưa đến hiện tượng”tức nước vở bờ”,cho nên từ tình trạng khắt khe đã bùng nổ thành phóng túng: “Lẳng lơ cũng chẳng có mòn, Chính chuyên cũng chẳng sơn son để dành.” hay : “Lẳng lơ chết cũng ra ma, Chính chuyên chết cũng khiêng ra ngoài đồng.” Đây là sự mâu thuẫn ở phạm vi gia đình, sự mâu thuẫn thế hệ cũng như sự mâu thuẫn giữa sự ràng buộc của của tập tục và ý chí tự do của con người mà trong đó có vài trường hợp lẻ loi đã đi lệch lạc ra ngoài luật quân bình, chứ phần đông những bậc làm cha mẹ đều có sự giáo dục con cái tốt: “Con ơi muốn nên thân người, Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha.” với mục đích gầy dựng cho con cái: “Có con gầy dựng cho con, Gọi là nối đức tổ tông dõi truyền.” Mặc dầu trong khung cửa gia đình, tập tục khắc khe, nhưng ở ngoài đồng áng, giữa cảnh trời mây non nước bát ngát của thiên nhiên, tình yêu thật sự của trai gái bộc lộ rất tự nhiên và đẹp đẻ biết bao như nội dung của mấy câu ca dao trữ tình sau đây: “ Hôm qua tát nước đầu đình, Để quên cái áo trên cành hoa sen. Em được thì cho anh xin, Hay là em để làm tin trong nhà. Áo anh đứt chỉ đường tà, Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu. » Sự mâu thuẫn tiếp theo là sự mâu thuẫn giữa pháp lệnh của vua quan với nguyện vọng của người dân : « Chiếu vua mồng sáu tháng ba, Cấm quần không đáy người ta hãi hùng. » Thời nào may mắn có vua anh minh, quan lại thanh liêm theo đúng nghĩa « dân chi phụ mẫu » thì dân chúng sống ấm no, hạnh phúc, yên vui như sự mô tả của câu ca dao sau đây :

Page 54: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

53

« Làng ta mở hội ăn mừng, Chuông kêu trống dóng vang lừng đôi bên. » Nhưng cũng có khi người dân phải chịu nhiều nổi đắng cay, cơ cực, đổ mồ hôi, xương máu để phục vụ cho vua quan : « Vạn niên là vạn niên nào, Thành xây xương lính, hào đào máu dân. » Vào những thời kỳ vận nước suy vong, ở triều đình thường có những chuyện bất chính xảy ra từ trên xuống dưới : « Người trên ở chẳng kỷ cương, Khiến cho kẻ dưới lập trường mây mưa. » hay : « Thượng bất chánh, hạ tất loạn. » Văn học bình dân đã châm biếm những ông quan mất tư cách : « Em là con gái đồng trinh, Em đi bán rượu qua dinh ông Nghè. Ông Nghè sai lính ra de, « Trăm lạy ông Nghè em đã có con. » « Có con thì mặc có con, Thắt lưng cho giòn mà lấy chồng quan. » Rồi nào là cảnh mua quan bán tước : « Mười quan thì được tước hầu, Năm quan tước bá ai hầu thua ai. » nào là cảnh tranh giành quyền lợi : « Trâu cột thì ghét trâu ăn, Quan võ thì ghét quan văn dài quần. » Thật là quá nhiễu nhương với nạn tham quan gian ác cho nên mới có câu : « Quan tha, ma bắt. » Chúng chẳng những vơ vét của cải của dân, mà còn ăn cắp công quỷ để làm giàu, cho nên bản chất của chúng là những đứa ăn cắp không hơn không kém : « Cắp đêm là trộm, cắp ngày là quan. » Thực ra câu ca dao thường được nghe như sau : « Con ơi nhớ lấy câu này, Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan » Cắp và cướp là họ hàng, bà con với nhau, lén lút là cắp mà công khai là cướp. Trang Tử có câu nói mỉa mai : « Thiết câu giả tru, thiết quốc giả hầu » nghĩa là trộm cái móc thì bị tội xử tử, còn trộm cả nước thì được làm vua chư hầu.

Page 55: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

54

Trong tình huống đó, người dân lâm vào cảnh khốn cùng : « Chạy trời không khỏi nắng. » họ cũng không biết kêu cứu vào đâu : « Ngắn cổ bé miệng, kêu không thấu trời. » Bởi thế lắm khi người dân không còn kính trọng giới quan lại nữa và tỏ thái độ bất phục tòng : « Quan có cần nhưng dân chưa vội, Quan có vội, quan lội quan sang. » Sự hứa hẹn của vua quan dù có nhiều nhưng nếu không thiết thực thì đối với người dân nghèo cũng trở thành vô nghĩa thôi. Nguyện vọng của họ thật đơn giản, chỉ mong được sống ấm no, yên lành cũng như thằng Bườm chỉ cần nắm xôi : « Thằng Bườm có cái quạt mo, Phú ông xin đổi ba bò chín trâu. Bườm rằng : Bườm chẳng lấy trâu, Phú ông xin đổi một xâu cá mè. Bườm rằng : Bườm chẳng lấy mè, Phú ông xin đổi một bè gỗ lim. Bườm rằng : bườm chẳng lấy lim, Phú ông xin đổi con chim đồi mồi. Bườm rằng : bườm chẳng lấy mồi, Phú ông xin đổi nắm xôi, Bườm cười. » Một bài đồng dao nữa cũng rất có ý nghĩa, đó là bài « con chuột-con mèo » : « Con mèo trèo lên cây cau, Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà. Chú chuột đi chợ đường xa, Mua mắm, mua muối giỗ cha chú mèo. » Con mèo có bao giờ chịu buông tha con chuột. Đó là một sự thật muôn đời không thay đổi. Nếu chuột quen thói khôn vặt, hạ mình, luồn cúi, nịnh hót mèo thì chắc gì được mèo tha mạng. Còn nếu ngu ngốc, đần độn lại càng chết sớm ; vậy chỉ khi nào hiểu biết, tức là cái biết theo đạo sống quân bình, cái biết : « tri tiến-thoái, tồn-vong chi đạo » thì mới sống còn : « Khôn chết, dại cũng chết, chỉ có biết mới sống. » Cứ khi nào mèo lân la đến gần, chuột bèn tìm cớ lánh mặt : « Tránh voi chẳng xấu mặt nào. »

Page 56: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

55

Chuột giả vờ đi chợ xa, mua lễ vật để làm giổ cha chú mèo, tỏ lòng cung kính, thần phục. Chuột thừa hiểu dã tâm của mèo với luật « mạnh được, yếu thua » và « lý của kẻ mạnh ». Đây là bài ca đồng dao có tính cách ngụ ngôn : mèo ám chỉ đế quốc phong kiến phương Bắc lúc nào cũng lăm le chờ cơ hội thôn tính nước láng giềng nhỏ ở phương Nam, mặc dù nước này hàng năm vẫn nộp triều cống. Chuột ở đây không phải là con chuột yếu đuối vĩnh viễn theo định mệnh khắc nghiệt lúc nào cũng làm mồi ngon cho mèo, cũng không phải là con gà con ngơ ngác làm mồi ngon cho diều hâu, mà nó vốn là « con cháu rồng tiên », » « con cháu Lạc Hồng » có đủ khôn ngoan, biết vận dụng mọi tiềm lực để có lúc hóa thân thành con phượng hoàng bay bổng trên bầu trời cao : « Phượng hoàng gặp bước cheo leo, Sa cơ thất thế phải theo đàn gà. Bao giờ mưa thuận gió hòa, Thay lông đổi cánh lại ra phượng hoàng. » Hết đế quốc phong kiến phương Bắc lại đến đế quốc thực dân phương Tây : « Giặc Tây đánh tới Cần Giờ, Bậu đừng thương nhớ đợi chờ uổng công. » Làm dân thuộc địa muôn phần tủi nhục : « Bước lên trường án ông quan ba, Ở trên lính gác, Ở dưới mã tà canh, Biết làm sao em vô được trong thành thăm anh ! » Lúc nước nhà nguy biến mới biết rõ được lòng người : « Cháy nhà ra mặt chuột. » hay : « Nước loạn mới biết tôi trung. » Cũng đôi khi có những người có trách nhiệm lãnh đạo đất nước dung dưỡng những kẻ xấu làm thiệt hại cho nước nhà : « Nuôi ong tay áo, nuôi khỉ dòm nhà. » cũng tương tự như vua Trần Thái Tông có nói : « Nhận tặc tác tử. » Đó là do sự thiếu sáng suốt : « Bởi tin nên mắc, bởi chắc nên lầm. » lại cũng có người tham danh lợi chạy theo giặc : « Rước voi dày mả tổ. » hay : « Cõng rắn cắn gà nhà. »

Page 57: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

56

Ở thời Trần có những người thuộc dòng dõi hoàng tộc như Trần Di Ái, Trần Ích Tắc rước giặc Mông Cổ dày xéo, cướp phá quê hương, Ô Mã Nhi đã khai quật, phá lăng tổ nhà Trần. Giặc cướp nước với gươm giáo đã nguy hại như vậy, nhưng cũng có thứ giặc không gươm giáo còn gây tác hại nhiều hơn gấp bội, đó là việc rước những tà thuyết cực đoan ngoại lai vào, phá hỏng đạo sống quân bình truyền thống của dân tộc. Cũng có kẻ quên hết luân thường, đạo lý chạy theo thế lực đồng tiền : « Ví dầu tình bậu muốn thôi, Bậu gieo tiếng dữ cho rời bậu ra. Bậu ra bậu lấy quan ba, Bậu ăn bánh mì, bậu nói tiếng Tây. » Nhưng may mắn thay, đây chỉ là thiểu số, còn đại đa số quần chúng nhân dân đều có lòng yêu nước, thương nòi, đều thấm nhuần đạo lý luân thường truyền thống : « Công cha nghĩa mẹ chớ quên, Ơn vua lộc nước mong đền con ơi ! » mọi người đều hết lòng chống giặc giữ nước : « Chẻ tre bện sáo cho dầy, Ngăn ngang sông Mỹ(Mỹ Tho)có ngày gặp nhau. » Muốn chống giặc có hiệu quả để giữ nước, trước hết phải củng cố tinh thần đoàn kết dân tộc, vì : « Đoàn kết thì sống, Chia rẻ thì chết. » hay : « Hợp quần gây sức mạnh. » và : « Một cây làm chẳng nên non, Ba cây dụm lại nên hòn núi cao. » phải có nhất trí và tránh cảnh : « Ông nói gà, bà nói vịt. » hay : « Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược. » cần có sự thống nhất thành một khối : « Một nhà hai chủ không hòa, Hai vua một nước ắt là không yên. » Thống nhứt, đoàn kết, nhất trí sẽ tạo thành sức mạnh phi thường ví như : « Tiếng trống rống ngàn quân. »

Page 58: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

57

Sức mạnh đó được biểu thị qua câu chuyện thần thoại về một cậu bé ở làng Gióng phá giặc Ân cứu nước , được gọi là « sức mạnh Phù Đổng ». Thông thường, con người khi có cùng chung một mối hiểm họa, có cùng chung một mối lo thì dễ đoàn kết lại với nhau, nhưng sau đó, khi thái bình phục hồi, cùng hưởng lợi lộc thì dễ chia rẽ. Thế rồi cũng có lúc chế độ chính trị lại trở nên lạc hậu, lại nẩy sinh đầy rẩy bất công : « Ong làm nên mật mà không được ăn, Yến làm nên tổ mà không được ở. » rồi nghèo giàu quá chênh lệch : « Đã giàu thì lại giàu thêm, Đã khó lại khó cả đêm lẫn ngày. » Ở nông thôn, nạn cường hào, ác bá, địa chủ, phú hào truyền kiếp : « Ba vuông sánh với bảy tròn, Đời cha vinh hiển, đời con sang giàu.” Xã hội Việt Nam xưa có bốn giai cấp chính: sĩ, nông, công, thương. Chế độ giai cấp này chỉ có tính cách tương đối, tùy thời, tùy hoàn cảnh mà có thay đổi, chứ không quá nặng nề và cố định như ở vài nước khác: “Nhất sĩ nhì nông, Hết gạo chạy rong, Nhất nông nhì sĩ.” hay: “Nay mừng những kẻ nông phu, Cầu cho hòa cốc, phong thu bình thời. Vốn xưa nông ở bậc hai, Thuận hòa mưa gió nông thời lên trên.” Do tính cách đặc thù này, cách mạng xã hội tại nước ta không nhứt thiết phải cần đến phương thức đấu tranh giai cấp bạo lực cực đoan, cũng không chủ trương phân chia giai cấp, quên lãng đấu tranh để mặc chế độ bất công hoành hành, mà cách mạng xã hội phải dựa trên nền tảng của đạo sống quân bình. Theo tinh thần của đạo sống này thì mọi người khi mới sinh ra đều bình đẳng; đó là tính bình đẳng nguyên thủy: “Hơn nhau cái áo cái quần, Nếu để mình trần ai cũng như ai.” Ruộng đất cũng không phải muôn đời độc quyền thuộc về phú hào, địa chủ, mà vấn đề quan trọng là chuyên cần lao động, ra sức đấu tranh không ngừng thì sẽ có tương lai tươi sáng: “Ruộng nương là cái đồng lần,

Page 59: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

58

Trời đất xoay dần kẻ trước người sau. Chưa ai ba họ cùng giàu, Chưa ai nghèo khổ đến đâu ba đời.” Đó là mầm mống của tư tưởng cách mạng: “Con vua thì lại làm vua, Con sãi ở chùa lại quét lá đa. Bao giờ dân nổi can qua, Con vua thất thế phải ra quét chùa.” Nhưng nếu cách mạng chỉ được hiểu như là một sự đổi đời, một sự đảo ngược giá trị thì không phải là cách mạng đúng nghĩa của nó, bởi vì nếu như thế người ta chỉ thay ngôi, đổi chủ, thay giai cấp này bằng bằng giai cấp khác để rồi bất công vẫn là bất công, mà cách mạng thực sự phải xóa bỏ sự bất công, thực hiện sự công bằng theo tinh thần của đạo sống quân bình. Đến đây chúng ta thấy rằng nền văn học bình dân Việt Nam thật phong phú và đa diện, khác hẳn với nhận định nông cạn của một vài người cho rằng tư tưởng của nền văn học bình dân không có gì đáng kể, cũng như thành kiến của vài nhà Nho xưa kia: “Nôm na mách qué”. Những tư tưởng bình dân này không phải chỉ rời rạc, lẻ tẻ, mà chúng đã trở thành một hệ thống có chủ đạo, đó là đạo sống quân bình truyền thống của dân tộc. Hơn thế nữa, hệ tư tưởng này cũng không phải là hệ thống đóng kín, mà nó có khuynh hướng muốn siêu vượt lên trên bình diện cao hơn như tinh thần của truyện kể ”Cá chép vượt vũ môn” hay bài ca dao “phượng hoàng”.

Page 60: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

59

Chương 2

Tư tưởng trong nền văn học bác học Việc nghiên cứu tư tưởng trong lãnh vực này gặp nhiều khó khăn vì thiếu tư liệu. Điều này lại do hoàn cảnh đặc biệt của đất nước: lịch sử cho biết dân tộc Việt Nam trải qua trên ngàn năm bị đế quốc phong kiến phương Bắc đô hộ. Cứ mỗi lần kéo quân qua xâm lăng Giao Chỉ (VN khi xưa), họ tàn phá mọi cơ sở vật chất và tinh thần nơi đây, tiêu hủy tại chỗ và cướp mọi báo vật mang về phương Bắc. Điển hình là cuộc xâm lăng nước ta của nhà Đông Hán vào năm 43. Sau khi đánh bại hai Bà Trưng, Mã Viện thiết lập ngay một chế độ cai trị vô cùng hà khắc, chủ trương tiêu diệt bằng bạo lực những yếu tố bảo thủ, sức đề kháng của người dân bị trị có thể làm trở ngại cho chính sách đồng hóa của họ. Trong ý đồ đó, Mã Viện đã “điều tấu Việt luật với Hán luật sai khác hơn mười điều, bèn cùng người Việt giải rõ cự chế để ước thúc. Từ đó về sau, LạcViệt vâng việc cả của Mã tướng quân.” (Truyện Mã Viện trong Hán hậu thư-Lịch sử PGVN của Lê Mạnh Thát). Đoạn văn này được viết theo quan điểm của kẻ thống trị, tuy nhiên chúng ta có thể thấy một điều quan trọng là trước đó đã có bộ Việt luật khá hoàn chỉnh trên đất Giao Chỉ rồi, mà rất tiếc hiện nay không còn nữa. Đó là số phận chung của hầu hết các tài liệu văn học, lịch sử, tư tưởng nơi đây. Kẻ xâm lược không bao giờ muốn và không bao giờ cho phép người dân bản xứ có văn hóa riêng, chữ viết riêng để ngăn ngừa tận gốc ý chí quật khởi, ý thức độc lập tự chủ của họ. Mã Viện cho dựng một chiếc cột đồng rất lớn ở biên giới có khắc sáu chữ:” Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt”, ý chừng để khoe kỳ công của y và đồng thời để dọa nạt, răn đe người dân Giao Chỉ. Đến thế kỷ thứ XIV, vào năm 1406 nhà Minh lấy cớ “phù Trần, diệt Hồ” lại đem quân xâm chiếm nước ta. Sau khi tiêu diệt được nhà Hồ thì “Lữ Nghị và Hoàng Phúc được đặc ủy mọi việc quân chính, sau đó bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh rút quân về Tàu mang theo bản đồ nước ta, đàn bà , con gái, các sách sử, đồ thư, truyện ký về Kim Lăng dâng lên Minh Đế, do đó chúng ta mất nhiều sách quí, mà nhân tài hai triều Lý, Trần đã biên soạn “ (Việt sử tân biên-Phạm Văn Sơn) Mặc dầu có nạn ngoại xâm thường xuyên như vậy, một số tài liệu văn học, tư tưởng, lịch sử...cũng đã được bảo quản phần nào trong dân chúng ở nông thôn và nhất là trong những ngôi chùa ở tận miền rừng núi hẻo lánh. Điều đó giải thích vì sao những tài liệu còn giữ lại được phần nhiều là của Phật giáo và nhất là Thiền tông. Trong thời gian gần đây, với sự tiến

Page 61: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

60

bộ của khoa học, khoa khảo cổ học đã có được những thành quả đáng kể: nhiều cổ vật đã được khai quật, được nghiên cứu. Bên cạnh đó, những tài liệu từ các nước ngoài cũng có thể giúp ích phần nào cho việc nghiên cứu lịch sử tư tưởng dân tộc. Tuy nhiên khi sử dụng các tài liệu bên ngoài, người nghiên cứu cần phải thận trọng phối kiểm sự kiện lịch sử, đối chiếu quan điểm của người viết với quan điểm của mình, nghĩa là việc sử dụng tài liệu phải có phê phán và lựa chọn. Trong lịch sử đấu tranh của dân tộc, thời đại huy hoàng nhứt là thời đại nhà Lý và thời đại nhà Trần: nhà Lý đã oanh liệt phạt Tống, bình Chiêm; nhà Trần đã ba lần anh dũng chiến thắng quân Mông Cổ. Điều đó chứng tỏ rằng nước Việt Nam thời đó đã thực sự hùng mạnh về mọi phương diện và đã có một hệ thống tư tưởng chỉ đạo đúng đắn, vững chắc. Nhắc đến lịch sử tư tưởng thời đại Lý-Trần, người ta không thể nào không nói đến một vấn đề tư tưởng lớn là “Tam giáo đồng nguyên”. Vậy thế nào là tam giáo đồng nguyên cũng như nội dung triết lý, người chủ trương và thành quả ra sao? Ở đây không cần thiết phải trình bày tường tận học thuyết của ba tôn giáo Phật, Lão, Nho mà chỉ cần nêu lên những nét đặc trưng của ba tôn giáo ấy có tham dự vào sự tổng hợp sáng tạo do nhu cầu của thời đại. Làm thế nào để tổng hợp được ba tôn giáo mà nhìn chung có vẻ mâu thuẩn với nhau, đó quả thật là nghệ thuật của người xưa. Thật vậy, nếu đứng trên quan điểm của triết học duy lý, khái niệm thì những gì mâu thuẫn phải chống đối, bài trừ nhau, nhưng ở đây ba tôn giáo Phật, Lão, Nho không phải là thứ triết học duy lý, khái niệm tịnh mà là triết học sinh động, khai phóng hay nói đúng hơn là đạo học. Ở bình diện tục đế hay hình nhi hạ tức là ở thế giới hiện tượng thì ba tôn giáo có thể bổ túc cho nhau, còn ở bình diện chân đế hay hình nhi thượng thì ba khuynh hướng này sẽ gặp gỡ với nhau theo nguyên tắc: “đồng qui nhi thù đồ” Đó là nguyên tắc tổng quát của sự tổng hợp, mà các thành phần sẽ gặp nhau tại căn nguyên, cho nên mới gọi là tam giáo đồng nguyên.

Page 62: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

61

* Tam giáo đồng nguyên Chúng ta thử xét hai phương diện tri, hành tức là tri thức và hành vi đạo đức của ba tôn giáo đó để xem chúng có cùng chung một gốc hay không?

Phương diện tri thức * Phật giáo: Trong Phật giáo, giác tính Bồ đề là cái biết tối cao siêu vượt lên trên cái biết thông thường ở bình diện hình danh sắc tướng. Đức tính này nơi chúng sinh ai ai cũng có cả, cho nên Đức Phật mới bảo:”tất cả chúng sinh đều có Phật tánh”. Mục đích tối cao của Phật giáo là giác ngộ để giải thoát. Giác ngộ hay Bồ đề là trạng thái tinh thần, một trình độ ý thức của tâm do công phu tu tập, nhất niệm, nhất tâm thiền định mang lại. Như thế không phải cầu tìm Phật ở ngoài, mà phải cầu tìm ngay trong tâm mình, tự mình phải thực hiện lấy. Kinh Pháp Cú viết: “Các bậc Như lai chỉ làm cái việc chỉ đường thôi, mỗi người phải tự đi đến, chứ không ai đi thế cho ai cả.” Kinh Hoa Nghiêm cũng nói: “lý sự vô ngại” nghĩa là cái lý siêu hình của vũ trụ cùng với vạn sự vật không có ngăn cách, mà tất cả có liên hệ với nhau. Do đó có thể dùng định niệm, tham thiền để nối liền cá nhân với Thực tại tối cao. Tôn chỉ của Phật giáo là “chuyển mê khải ngộ” hay “đáo bỉ ngạn”(đến bờ bên kia). Lúc mê lầm thì tâm chấp ngã, còn phân chia đối đãi, biện biệt, còn phân biệt ta với vật. Ở trình độ ý thức này, Thực tại chỉ là một thứ Thực tại bị nhận thức hóa, có tính cách tương đối. Khi giác ngộ thì tâm thường trụ, bất biến, đại đồng. Cái tâm ấy có đồng bản thể với vũ trụ và được gọi bằng nhiều tên: tâm Bát nhã, Chân như, Nhất như, Như lai, Phật tâm, Phật tính. Ở trình độ giác ngộ này, người ta sẽ có Trí huệ Bát nhã, nơi mà mọi mâu thuẫn đều biến mất, nhường chỗ cho Bình đẳng vô hạn và Thực tại sẽ trở thành tuyệt đối. Để đạt đến Thực tại tuyệt đối, Chân lý Bát nhã, người ta không thể suy tư bằng ý niệm danh lý được (bất khả tư nghì) mà phải dùng biện chứng phủ định để phá trừ kiến chấp, khai phóng ngay cả những giáo điều, cho nên Phật thuyết pháp xong rồi lại phủ định ngay: “Ta thuyết pháp trong khoảng bốn mươi chín năm, mà chưa từng nói một lời...” và kinh Kim Cương cũng có viết: “Cái gọi là Phật pháp, tức chẳng phải là Phật pháp, nên gọi là Phật pháp.” Tuy nhiên nếu chỉ có phủ định cũng chưa đủ, mà phải có cả khẳng định nữa mới được. Đó là Trung đạo luận hay bình đẳng

Page 63: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

62

luận là phương pháp siêu vượt thế giới hiện tượng sai biệt để đi vào bản thể tuyệt đối tức là giải thoát với một quan năng nhận thức đặc biệt là tâm bình đẳng vô sai biệt cũng là bất nhị pháp môn. Kinh Đại Niết Bàn có viết: “Thấy tất cả đều là không, mà chẳng thấy cái chẳng không thì chẳng gọi là Trung đạo. Thấy tất cả là vô ngã, mà chẳng thấy có ngã cũng chẳng gọi là Trung đạo.Trung đạo ấy gọi là Phật tính.” * Nho Giáo:

Nho giáo cũng quan niệm rằng giữa Trời Đất và con người, vạn vật có liên quan mật thiết với nhau. Nếu thông hiểu tận căn việc của người thì cũng có thể thông hiểu lẽ huyền diệu của Trời Đất. Mạnh Tử nói:

“Vạn vật giai bị ư ngã, phản thân nhi thành, lạc mạc đại yên” (Vạn vật đều đầy đủ nơi bản thân ta đây, chỉ cần trở về đó một cách thành thực, thì còn gì vui bằng) .

Trình Y Xuyên của Tống Nho cũng nói: “Nhất nhơn chi tâm, tức thiên hạ chi tâm, nhất vật chi lý, tức vạn vật chi lý.” (Cái tâm, cái lý của mỗi vật tức cái tâm, cái lý của vạn vật.)

Con người có một địa vị quan trọng và được xem là vật tối linh trong vạn vật bởi vì “người là cái đức của trời đất, sự giao hợp của âm dương, sự hội tụ của quỉ thần, cái khí tinh tú của ngũ hành.” (Nhân giả kỳ thiên địa chi đức, âm dương chi giao, quỉ thần chi hội, ngũ hành chi tú khí giả) (Lễ ký). Nhờ có tinh thần và khí chất tinh tú ấy mà người ta mới sáng suốt hiểu hết các sự vật, phân biệt phải trái, hay dở. Cái sáng suốt ấy đã có sẳn trong con người gọi là minh đức, lương tri, tức là thứ trực giác mẫn tiệp có thể thấu hiểu ngay chân lý các sự vật. Cái năng khiếu tri giác ấy ở ngay trong tâm của con nguời. Tâm người ta càng hư tĩnh bao nhiêu, nghĩa là không bị vật dục chi phối, cái tính sáng suốt tự nhiên không bị che lấp, thì cái trực giác càng minh mẫn.

Sách Trung Dung có viết: “Thành giả, thiên chi đạo dã. Thành chi giả, nhân chi đạo dã. Tự thành minh vị chi Tính. Tự minh thành vị chi giáo.” (Lòng thành là đạo của trời vậy. Hoàn thành cái đạo ấy là đạo của người vậy. Từ cái lòng thành phát ra nguồn sáng gọi là tính. Từ nguồn sáng trở nên lòng thành là công phu giáo dục.) và : “ Thiên mệnh chi vị tính, suất tính chi vị đạo, tu đạo chi vị giáo.” ( Mệnh trời gọi là tính, làm phát triển tính gọi là đạo, tu sửa đạo gọi là giáo )

Khổng Tử cho rằng: “Cái tính ấy ai cũng có, nhưng vì tập quán mà thành ra mỗi người một khác, duy chỉ có bậc thượng trí với kẻ hạ ngu thì

Page 64: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

63

mới không biến đổi mà thôi.” (Tính tương cận giã, tập tương viễn giã, duy thượng trí dữ hạ ngu bất di.) (Luận ngữ)

Nếu đem so sánh câu này với câu nói của Đức Phật:”Tất cả chúng sinh đều có Phật tính.” thì nhận thấy rằng nó còn có tính cách phân biệt.

Trong nhân loại tuy có bậc thượng trí và kẻ hạ ngu như vậy nhưng chỉ hiếm hoi, còn đại đa số là hạng trung nhân có thể dạy bảo được cả, cho nên Khổng Tử rất chú trọng đến vấn đề giáo dục và nói rằng:”Hữu giáo vô loại” (Có dạy mà không phân chủng loại) (Luận ngữ)

Giáo dục giúp phát triển cái tính (suất tính) và làm cho sáng cái đức sáng của con người, thế cho nên cái “cái đạo của bậc đại học là ở sự làm cho sáng cái đức sáng...” (Đại học chi đạo, tại minh minh đức...) (Đại học)

Khổng Tử không mãn nguyện với lối tri thức thông thường bằng kiến văn, bằng danh lý suy luận, mà muốn vươn tới cái ý thức dung hòa cả lý lẫn tình:”Biết đạo không bằng yêu đạo, yêu đạo không bằng vui.” (Tri chi bất như hiếu chi, hiếu chi bất như lạc chi.) (Luận ngữ). Thế cho nên phương pháp giáo dục lý tưởng nhứt là dùng thi thơ làm nẩy nở phong phú tính tình, dùng lễ để đưa vào khuôn khổ, phép tắc; dùng âm nhạc để điều hòa tâm hồn: “Hưng ư thi, lập ư lễ, thành ư nhạc.” (Khởi hứng bằng kinh thi, uốn nắn bằng phép tắc, hoàn thành ở nhạc.) (Luận ngữ)

Khổng tử có tự thuật lịch trình tu học của mình, những kinh nghiệm đã trải qua, và những thành tựu như sau:”Ta từ mười lăm tuổi để chí vào sự học, đến ba mươi thì giữ vững được chí không thay đổi, bốn mươi hết nghi hoặc, năm mươi biết được thiên mệnh, sáu mươi thì tai nghe đã thuận đạo trời, bảy mươi thì tùy theo lòng muốn mà không ra ngoài phép tắc, tức là nhập diệu vào hòa điệu đạo lý thiên địa nhân vậy.” (Ngô thập hữu ngũ nhi chí vu học, tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên mệnh, lục thập nhi nhĩ thuận, thất thập nhi tòng tâm sở dục bất du củ. ) (Luận ngữ)

Tiến tới trình độ đó là đã thành rồi vậy, cho nên cũng không cần phải nói gì cả:”Dư dục vô ngôn. Thiên hà ngôn tai! tứ thời hành yên, bách vật sinh yên. Thiên hà ngôn tai! “ (Ta muốn không nói. Trời có nói gì đâu! mà bốn mùa vận hành, trăm vật sinh nở. Trời có nói gì đâu! ) (Luận ngữ)

* Lão giáo: Lão Tử là người đầu tiên trong lịch sử triết học dùng chữ Đạo để chỉ cái Thực tại tuyệt đối mà tri thức khái niệm không thể đạt đến được, cho nên ở chương 1 ĐĐK có câu:” Đạo khả đạo phi thường Đạo.” (Đạo mà có thể gọi tên thì không phải là Đạo thường còn)

Page 65: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

64

Về mối tương quan giữa người và vũ trụ , Lão Tử quan niệm:”Người bắt chước đất, đất bắt chước trời, trời bắt chước đạo, đạo bắt chước tự nhiên.” (Nhân pháp địa, địa pháp thiên, thiên pháp đạo, đạo pháp tự nhiên) ( ĐĐK Chương 25 ) Trang Tử cũng nói:”Trời đất với ta cùng sinh, vạn vật với ta là một thể.” (Thiên địa dữ ngã tịnh sinh, nhi vạn vật dữ ngã vi nhất) Vậy thì con người có khả năng và có bổn phận phải quay trở về với Đạo để tìm lại chân tính của mình: “Phản giả Đạo chi động” (Trở lại cái động của Đạo) (Chương 40) Chương 16 có viết: “Trở về với cội rễ gọi là Tịnh. Ấy gọi là Phục Mạng. Phục Mạng gọi là Thường. Biết Thường gọi là Minh...” (Quy căn viết Tịnh. Thị vị viết Phục Mạng. Phục Mạng viết Thường. Tri Thường viết Minh...) Thường là thường còn, là vĩnh cữu, tức là Đạo. Biết được cái Thường của Đạo là người sáng suốt. Muốn được như vậy, trước hết người ta phải từ bỏ tư dục: “Kiến tố bảo phác. Thiểu tư quả dục.” (Ăn ở giản dị, chất phác. Ít riêng tư, ít tham dục). Sau đó phải giải phóng óc nhị nguyên, óc phân chia biện biệt, mà phải xem tất cả là Một thì mới có thể huyền đồng cùng Đạo: “Nhụt bén nhọn, bỏ chia phân, hòa ánh sáng, đồng bụi bặm, ấy gọi là Huyền đồng.(Tỏa kỳ nhuệ, giải kỳ phân, hòa kỳ quang, đồng kỳ trần, thị vị Huyền đồng) (Chương 56) Chương 64: “Học cái không thể học được, giúp chúng nhơn hối mà trở về.” (Học bất học, phục chúng nhân chi sở quá.) .Trở về ở đây là trở về Đạo. Vì như đã nói:” Đạo khả đạo phi thường Đạo.”, cho nên chương 56 có viết: “Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri.” (Biết thì không nói. Nói thì không biết). Kẻ không biết Đạo hay nói nhiều, giảng luận dài dòng; còn người biết Đạo thì lại thường lặng thinh vì họ đã nhập được vào cửa của Đạo rồi, tức là cửa ra vào của mọi huyền diệu trong trời đất (Chúng diệu chi môn), cho nên người đã đắc Đạo thì có khả năng: “Không ra khỏi ngõ mà biết được việc thiên hạ, không dòm qua cửa sổ mà thấy được Đạo Trời”(Bất xuất hộ, tri thiên hạ. Bất khuy dũ, kiến Thiên Đạo)(Chương 47) Trang Tử cũng không tán thành cái biết nhị nguyên: “Chưa thành thực trong tâm mình mới có chuyện cải nhau về phải trái.” (Vị thành hồ tâm nhi hữu thị phi), cũng không thích biện bác vì: “Kẻ biện luận thì không thấy vậy.” (Biện giả dã hữu bất kiến dã) Ông có nêu rõ tính chất và giá trị của các trình độ hiểu biết và lời nói như sau: “Biết lớn thênh thang, biết nhỏ chi ly, vụn vặt. Lời nói lớn bao

Page 66: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

65

quát, lời nói nhỏ làm nhàm.” (Đại tri hàn hàn, tiểu tri nhàn nhàn. Đại ngôn viêm viêm, tiểu ngôn chiêm chiêm ). Ông cũng nói: “ Hay biện phân thì có chỗ không thấy được. Vả lại, đại đạo thì không có tên, đại biện thì không có lời” ( Biện dã giả, hữu bất kiến dã. Phù đại đạo bất xưng, đại biện bất ngôn ) Rồi ông tuyên bố: “Ai biết được cái biện luận không lời, cái đạo không lý thuyết.” (Thục tri bất ngôn chi biện, bất đạo chi đạo) Ở thiên Đại Tông Sư có đoạn văn như sau: “ Nhan Hồi nói: Hồi được thêm! Trọng Ni hỏi: là nghĩa gì? Nhan Hồi nói : Tôi quên nhân nghĩa. Trọng Ni nói : Được nhưng mà chưa trọn. Một hôm khác lại ra mắt và nói :

_ Hồi được thêm. _ Là nghĩa gì thế ? _ Hồi quên Lễ Nhạc.

_ Được, nhưng chưa trọn. Một hôm khác nữa lại ra mắt mà rằng : _ Hồi được thêm. _ Là nghĩa gì ? _ Hồi ngồi mà quên rồi. Trọng Ni ngạc nhiên hỏi : _ Ngồi mà quên là thế nào ? Nhan Hồi nói : Giải thể, bỏ thông minh, lìa hình, bỏ trí, đồng với Đạo lớn. Đó gọi là ngồi mà quên ( Tọa vong ). Tọa vong cũng tương tự như Thiền định của Phật giáo là phương pháp thuần túy kinh nghiệm nối liền tâm thân với Bản thể vũ trụ, nhận thức trực tiếp Thực tại với bình đẳng quan, là huyền đồng với Bản thể của Đạo. Người đắc đạo không phải là người không biết thị phi, tức nhị nguyên tương đối, mà là người đã siêu vượt lên trên nó để bước vào nhất nguyên tuyệt đối, bình đẳng : « Bậc Thánh nhân dung hòa các mặt phải trái mà gởi vào trong thiên lý quân bình : đó gọi là lưỡng hành » ( Thị dĩ Thánh nhân hòa chi dĩ thị phi, nhi hưu hồ thiên quân, thị chi vị lưỡng hành ). Điều đó có nghĩa là bậc Thánh nhân vì sự hòa mà cũng nói đến thị phi chứ không phải không biết thị phi, rồi đứng yên ở thiên quân, tức ngay trục bánh xe Trời, cho nên mới gọi là lưỡng hành.

Page 67: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

66

Tóm lại, về phương diện tri thức luận cả ba tôn giáo Phật, Nho, Lão đều tin tưởng rằng ngay bên trong thế giới hiện tượng biến dịch có một Thực tại tuyệt đối bất biến mà người ta có thể đạt tới được, không bằng tri thức nhị nguyên biện biệt mà bằng bình đẳng quan và bằng thực nghiệm bản thân với con đường ngoại hướng hành động trong nhân quần xã hội cũng như tâm giới nội hướng.

Hành vi đạo đức * Phật giáo: Kinh Pháp Hoa viết: “Phật vì người cầu đạo Thanh Văn nói pháp Tứ đế thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, cứu cánh Niết bàn; vì hạng cầu quả Duyên Giác nói pháp mười hai nhân duyên ; vì hàng Bồ Tát nói sáu pháp Ba la mật làm cho chứng được quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác, thành bậc nhất thiết chủng trí.” ( Trí của Phật ) Tứ đế : Khổ đế, tập đế, diệt đế, đạo đế. Thập nhị nhân duyên : vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử. Sáu Ba la mật còn gọi là lục độ : bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ. Thanh Văn còn gọi là độc giác nhờ quán sát âm thanh của vạn vật, thế giới hiện tượng để nhận ra chân lý, trong đó có bốn chân lý kỳ diệu Tứ đế mà Đức Phật đã dạy. Khi việc quán sát thành tựu viên mãn thì tự gíác ngộ hoàn toàn nên còn gọi là độc giác. Duyên Giác nhờ quán sát 12 nhân duyên để thấu rõ chân lý mà giác ngộ. Trong kinh, Thanh Văn và Duyên Giác thường được gọi là Nhị thừa. Còn ở Bồ Tát thừa, Bồ Tát là người tự mình giác ngộ, lại còn nguyện đem sự giác ngộ của mình truyền dạy lại cho chúng sinh để họ cùng được giác ngộ ( tự giác và giác tha ). Hạnh của Bồ Tát thì không thể lường được, nhưng có thể thu về sáu Ba la mật như đã kể ở trên. Để chứng được quả Vô thượng chính đẳng chính giác, tức có được trí huệ Bát nhã của Phật, người ta cần phải dùng sáu Ba la mật đó làm phương tiện. Sáu Ba la mật này đòi hỏi một sự hy sinh tự kỷ, đả phá ngã chấp, ngã dục để thực hiện Chân không diệu hữu. Ví dụ như bố thí Ba la mật chẳng hạn, phải hội đủ “tam luân thể không”, nghĩa là không nhận mình là người cho, không nhận có kẻ nhận của mình cho, không nhận có vật để mình cho, mà phải coi việc bố thí như một việc tự nhiên, không làm không đươc.

Page 68: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

67

Đức Phật tùy theo trình độ, căn cơ của chúng sinh mà dùng sức phương tiện nói pháp, tất cả đều nhằm vào việc chứng được một Phật thừa « nhất thiết chủng trí » « Các đức Phật Như lai chỉ giáo hóa Bồ tát những điều làm ra thường vì một việc : chỉ đem tri kiến Phật chỉ cho chúng sinh tỏ ngộ thôi...chỉ dùng một Phật thừa mà vì chúng sinh nói pháp, không có các thừa hoặc hai hoặc ba khác » ( Kinh Pháp hoa, phẩm phương tiện ) Ở phẩm « Dược thảo dụ » có viết : « Các giống cây lớn nhỏ, tùy hạng thượng, trung, hạ mà hấp thụ khác nhau. Một cụm mây tuôn mưa xuống xứng theo mỗi giống loại mà cây cỏ được sinh trưởng, đơm hoa kết trái. Dầu rằng một cõi đất sinh, một trận mưa thấm nhuần mà các cỏ cây đều có sai khác...Như mây lớn kia mưa rưới khắp tất cả cỏ cây, lùm rừng và các thứ cỏ thuốc, theo giống của mỗi thứ đều được đượm nhuần đầy đủ, đều được sinh trưởng. » Cỏ cây có sự hấp thụ không đồng là do sự sai khác giống loại, chứ nước mưa thì chỉ có một vị thôi, cũng như pháp của Như lai chỉ có một, mà có sai khác là do căn cơ của chúng sinh không đồng, cho nên chỉ có một Phật thừa, không hai cũng không ba. Nói tóm lại, Đức Phật với lòng Từ bi vô hạn cứu độ khắp chúng sinh, bình đẳng nói pháp như mưa một vị, mặc dầu tùy căn tánh mà thọ bẩm không đồng, nhưng Ngài dạy rằng nếu thực hành đúng hạnh Bồ Tát đều sẽ thành Phật. * Nho giáo: Sách Đại học viết: “Cái đạo của bậc đại học là ở chỗ làm cho sáng cái đức sáng, ở sự thân yêu người, ở sự đến chí thiện mới thôi ” (Đại học chi đạo tại minh minh đức, tại thân dân, tại chỉ ư chí thiện.) Xem thế đủ thấy Đạo của Khổng Tử đặc biệt chú trọng đến chí thiện, mà chí thiện tức là đạt nhân. Ngài cũng nói:”Quân tử lấy nhân làm thể là đủ làm trưởng thành cho người, hợp các cái tốt đẹp là đủ làm cho hợp lễ. lợi cho vạn vật là đủ làm cho hòa cái nghĩa, biết cái trinh chính mà cố giữ là đủ làm gốc cho mọi sự.” (Quân tử thể nhân túc dĩ trưởng nhân, gia hội túc dĩ hợp lễ, lợi vật túc dĩ hòa nghĩa, trinh cố túc dĩ cán sự.) Do đó nhân đứng đầu các điều thiện. Nhân ai cũng có: « Nhân có đâu xa, ta muốn nhân thì nhân đến vậy. » (Nhân viễn hồ tai, ngã dục nhân, tư nhân chí hỷ.) Tất cả hành vi đạo đức của con người đều đặt tất cả ở nhân: “Người quân tử trong bửa ăn cũng không trái với nhân, vội vàng cũng phải theo nhân, hoạn nạn cũng phải theo nhân.” (Quân tử vô chung thực chi gian vi nhân, tháo thứ tất ư thị, điên bái tất ư thị.)

Page 69: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

68

Đạo nhân có thể vừa thấp để ai cũng theo được, nhưng cũng cao vô cùng khiến cho bậc hiền như Nhan Hồi cũng chỉ giữ được trong ba tháng không trái đạo nhân mà thôi: “Nhan Hồi lòng giữ được ba tháng không trái với đạo nhân, còn người khác thì chỉ được một ngày, một tháng là cùng.” (Hồi giả kỳ tâm tam nguyệt bất vi nhân, kỳ dư nhật nguyệt chí yên nhi dĩ.) Chính Khổng Tử cũng khiêm tốn nhận rằng: “Nếu bậc thánh và bậc nhân thì ta sao dám.” (Nhược thánh dữ nhân, tắc ngộ khởi cảm) (Luận ngữ) Các bậc thánh và bậc nhân thuộc hình nhi thượng, còn ở hình nhi hạ Khổng Tử chủ trương dạy cho người ta thành người có đức hạnh hoàn toàn, có nhân phẩm cao quí, mẫu người đó gọi là quân tử hay đại trượng phu: « Giàu sang không thể làm mất tấm lòng của mình, nghèo nàn không thể làm cho đổi được cái chí của mình, uy vũ không thể làm cho khuất phục được cái khí của mình, ấy thế mới gọi là đại trượng phu. » (Phú quí bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất, thử chi vị đại trượng phu.) ( Đằng Văn Công hạ ) * Lão giáo: Lão Tử coi thường nhân nghĩa mà trọng đạo đức bởi vì ông quan niệm: « Đạo lớn mất mới có nhân nghĩa. » (Đại đạo phế, hữu nhân nghĩa) Thế cho nên ông chủ trương: « Dứt nhân bỏ nghĩa, dân lại thảo lành. » (Tuyệt nhân khí nghĩa, dân phục hiếu từ ) Ông cũng phân biệt Thượng đức khác với Hạ đức như sau: « Đức mà cao là không có đức, bởi vậy mới có đức ; đức mà thấp là không mất đức, nên không có đức. » (Thượng đức bất đức, thị dĩ hữu đức. Hạ đức bất thất đức, thị dĩ vô đức.) Bậc chí nhân là những người đã huyền đồng vào bản thể vũ trụ, tức là đã sống theo Đạo, theo Tự nhiên: « Nhân pháp Địa, Địa pháp Thiên, Thiên pháp Đạo, Đạo pháp Tự nhiên . » ( Người khuôn theo Đất, Đất khuôn theo Trời, Trời khuôn theo Đạo, Đạo khuôn theo Tự nhiên.) Lúcđó nhãn kiến nhị nguyên biến mất, không còn ranh giới phân chia ta với người-vật, phải với trái nữa. Chính ở tận cùng căn nguyên này mới xuất hiện Thượng đức, cũng là Huyền đức: « Đạo sinh đó, đức nuôi đó. Cấp dưỡng đó, nuôi nấng đó, đùm bọc đó, bồi sức đó, dưỡng nuôi đó, che chở đó. Sanh mà không chiếm làm của mình, làm mà không cậy công, làm bậc trên mà không làm chủ, đó gọi là Huyền đức. » ( Đạo sinh chi, Đức súc chi. Trưởng chi dục chi. Đình chi độc chi, dưỡng chi phúc chi. Sanh nhi bất hữu, vi nhi bất thị, trưởng nhi bất tể thị vị Huyền đức.)

Page 70: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

69

Tương tự với ý đó ở Tiêu diêu du, Trang Tử có viết: “ Chí nhân vô kỷ, thần nhân vô công, thánh nhân vô danh.” Đó là đức hạnh cao tột của bậc chân nhân, tức là người đã huyền đồng cùng Tạo hóa, nhập thể Đạo. Đến đây chúng ta nhận thấy rằng, mặc dầu ở hình nhi hạ tuy có đường lối khác nhau, nhưng ở hình nhi thượng ba tôn giáo Phật, Nho, Lão đã gặp gỡ ở tận cùng căn nguyên là Tâm vũ trụ nên mới gọi là “ đồng qui nhi thù đồ ” và tại đó Tri và Hành cũng hợp nhất: chí Chân cũng đồng thời là chí Thiện, chí Mỹ. Đây là nguyên tắc căn bản của sự tổng hợp, nếu không có điểm hội tụ chung đó thì sự tổng hợp khó thành tựu.

Tình trạng tam giáo từ trước cho đến thời đại Lý Trần Vấn đề Tam giáo đồng nguyên không phải xuất hiện một cách ngẫu nhiên, đột xuất ở thời đại Lý-Trần, mà phải có một quá trình, nghĩa là trước đó đã có sự tiếp xúc của ba tôn giáo này rồi trên đất Giao Châu, do người Việt chủ động dung nạp sáng tạo theo nhu cầu sinh tồn của mình. Trong Thiền uyển tập anh, khi trả lời câu hỏi của Hoàng Thái Hậu Phù Thánh Linh Nhân (Ỷ Lan) (1096) về câu hỏi “ Phật giáo đến nước này từ lúc nào? ”, Quốc sư Thông Biện dẫn lời Pháp sư Đàm Thiên nói: “ Một phương Giao Châu, đường thông Thiên Trúc, Phật pháp lúc mới tới thì Giang Đông chưa có, mà Luy Lâu lại dựng chùa hơn hai mươi ngôi, độ tăng hơn 500 người,dịch kinh 15 quyển vì nó có trước vậy. Vào lúc ấy đã có Khâu Đà La, Ma La Kỳ Vực, Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương, Mâu Bác tại đó...” Qua câu trả lời này thì Phật giáo được truyền vào Việt Nam trước Trung Quốc vậy và đã xuất hiện những nhân vật nổi tiếng như Khương Tăng Hội, Mâu Tử... Trong “ Lý hoặc luận ”, phần tự truyện Mâu Tử viết: “ Thời ấy sau khi Linh Đế băng hà, thiên hạ nhiễu loạn, chỉ Giao Châu tạm yên. Người tài phương Bắc đều đến để ở, phần lớn học phép tịch cốc trường sinh của thần tiên.” Như vậy Nho học và Lão học cũng theo đoàn người tỵ nạn đến nơi đây vào thời gian sau khi vua Linh Đế bên Trung Quốc băng hà (189) Cũng trong phần này, Mâu Tử viết: “ Mâu Tử đã đọc kinh truyện Chư tử, sách không kể lớn nhỏ, không sách gì là không thích. Tuy không ưa binh pháp, mà vẫn đọc nó. Tuy đọc sách thần tiên bất tử, ông dẹp đi không tin, cho là dối trá.” Mâu Tử cũng vạch ra những giới hạn của điển huấn Nho giáo như vấn đề chữ hiếu với qui định “ thân thể tóc da nhận từ cha mẹ, không dám tổn thương ” mà “ nay sa môn cạo đầu, sao trái với lời thánh nhân ”. Mâu Tử kể câu chuyện: “ Người Tề đi thuyền, cha rơi xuống

Page 71: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

70

sông uống nước. Người con xách cha mình chúc đầu lộn ngược cho nước từ trong miệng chảy ra.” Người cha sống được, nhưng chúc đầu cha lộn ngược thì không gì bất hiếu hơn. Nhưng nếu không làm như vậy, người cha sẽ chết. Cũng tương tự như vậy với qui định “nam nữ thụ thụ bất thân” khi chị dâu rủi ro rớt xuống sông, em chồng không dám thò tay cứu vớt thì chị dâu sẽ chết đuối. Mâu Tử qua “ lý hoặc luận ” cũng nổ lực phá vở óc tự tôn của người Hán thời bấy giờ khi dẫn câu từ Tả truyện nói rằng: “ Sao Bắc đẩu ở trung tâm của Trời, nhưng lại ỡ phía Bắc của người.” để rồi nhận xét rằng:“ Đất Hán chưa chắc là trung tâm của trời đất ”. Lý luận này cũng đúng với thực tế vì nếu đất Hán là trung tâm trời đất, có tính ưu việt thì tại sao người tài phương Bắc đều đến để ở như đã nói ở trên cũng như truyện Sĩ Nhiếp trong Ngô Chí mô tả: “ Nhiếp tính khí khoan hậu, khiêm hư hạ sĩ, sĩ nhân Trung Quốc đến dựa tỵ nạn kể cả số trăm.” Trong khi đó ở Lục độ tập kinh, Khương Tăng Hội cũng phê phán quan niệm vô hậu hẹp hòi của Mạnh Tử nêu lên: “ Bất hiếu có ba, vô hậu là lớn nhứt ”, Ông viết: “ Ta muốn cái đạo vô dục, ý muốn ấy mới quý. Đem đạo truyến cho thần, đem đức trao cho thánh, thần thánh truyền nhau giáo hóa rộng lớn không bao giờ lui, đó mới là sự thừa tự tốt. Bây giờ các người ngăn nguồn đạo, chặt gốc đức, có thể gọi là kẻ vô hậu đó vậy.” Như vậy những người trí thức thời đó như Mâu Tử, Khương Tăng Hội cùng với Phật giáo đứng hẳn vào hàng ngũ dân tộc, chống lại chính sách văn hóa nô dịch phương Bắc. Mâu Tử có tên là Dung, tự Tử Bác, người gốc Thương Ngô, sinh khoảng năm 160, viết Lý hoặc luận khoảng năm 198 và mất vào năm 230. Khương Tăng Hội, tổ tiên người Khương Cư, mấy đời ở Thiên Trúc, cha buôn bán, dời đến Giao Chỉ. Hội năm mười tuổi , song thân đều mất, khi chịu tang xong bèn xuất gia, siêng năng hết mực. Là con người rộng rải, nhã nhặn, có tầm hiểu biết, dốc chí hiếu học, rõ hiểu ba tạng, xem khắp sáu kinh, thiên văn đồ vĩ phần lớn biết hết, giỏi việc ăn nói, lanh việc viết văn.(Theo Huệ Hạo-Lịch sử PGVN của Lê Mạnh Thát) Về phía Nho giáo, ngoài Lý Cầm, Lý Tiến rời bỏ quê hương chạy sang phục vụ đế quốc phong kiến phương Bắc, còn có nhân vật tiêu biểu nhất làm công cụ cho chính sách văn hóa nô dịch là Lưu Hy. Ở đoạn Thích châu quốc, Hy giải thích chữ “ Việt ” như sau: “ Nước mọi rợ, vượt lễ nghĩa không có câu thực.” ( Di man chi quốc, độ việt lễ nghĩa, vô sở câu giả.). Lưu Hy đã đứng trên lập trường tự tôn của Hán tộc để giải thích chữ

Page 72: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

71

Việt là vượt khỏi lễ nghĩa, ý nói là kẻ man di không có lễ nghĩa, tức là lễ nghĩa của người Hán. Nhưng theo quan điểm của người Việt thì “ Việt ” cũng là vượt khỏi lễ nghĩa, nhưng nói cho rõ là vượt khỏi lễ nghĩa nô dịch của kẻ xâm lăng, phủ nhận nó và cương quyết bảo tồn lễ nghĩa truyền thống quý báu của mình. Sự kiện này giải thích cho chúng ta hiểu tại sao trong cuộc vận động độc lập của nước ta trong thời kỳ này thiếu bóng Nho sĩ và Nho giáo không đóng một vai trò tích cực nào cả, trong khi đó Phật giáo đã đứng hẳn về phía dân tộc và đã có những đóng góp to lớn về cả mọi mặt. Trong Lục độ tập kinh, qua anh thợ săn, Hội nói: “ Tôi ở đời đã lâu, thấy Nho gia không bằng Phật tử ”. Còn Lý hoặc luận của Mâu Tử cũng xác nhận rằng Phật giáo như “ sông biển ”, còn bảy kinh của Nho gia thì như “ ngòi rạch, giếng suối ”; Phật giáo sáng “ như mặt trời mặt trăng ” còn Nho giáo “ như đèn như đóm ” và cũng nói rằng đạo đó thì “ ở nhà có thể dùng để thờ cha mẹ, giúp nước có thể dùng để trị dân, sống riêng có thể dùng để tu thân.” Ngoài ra Mâu Tử cũng có viết: “ Tất cả mọi loài hàm huyết đều thuộc về Phật cả, đều có Phật tánh cả ” ( Lịch sử PGVN của Lê Mạnh Thát), điều này có nghĩa là mọi người đều bình đẳng , do đó câu nói của Lưu Hy rõ ràng có tính cách kỳ thị chủng tộc. Tư tưởng kỳ thị này cũng có ngay trong giới lảnh đạo Phật giáo Trung Quốc khi Hụê Năng (638-713) lần đầu tiên bái yết Ngũ tổ Hoằng Nhẫn ở Hoàng Mai, Ngũ tổ cũng bảo: “Anh là người xứ Lĩnh Nam, lại là Mường Mán, muốn làm Phật thế nào được?” Huệ Năng trả lời: “Người thì có kẻ Nam người Bắc, Phật tính vốn không có Nam Bắc. Cái thân Mường Mán tuy không giống với Hòa thượng, nhưng Phật tính có gì sai khác?” Thật là một câu trả lời rắn rỏi, cương quyết chống lại tư tưởng kỳ thị chủng tộc hẹp hòi, cho dù người đối thoại là một vị tổ Thiền tông. Tại Giao Châu, đối lập với tính kỳ thị chủng tộc của đế quốc xâm lăng, tính bình đẳng của Phật giáo càng nổi bật sáng tỏ, cho nên dân tộc và Phật giáo đã trở thành một khối thống nhất, có cùng chung một hoài bảo là xây dựng một cuộc sống tự do, bình đẳng. Tôn chỉ của Phật giáo là cứu khổ quần sinh, mà không nổi khổ nào bi thảm bằng nổi khổ của người dân bị đô hộ. Phật giáo không thể làm ngơ trước cảnh đọa đày của người dân bị đô hộ để được yên thân tu hành hay tiếp tay với đế quốc để được đặc ân, đặc lợi, mà đã dứt khoát đứng hẳn vào hàng ngũ dân tộc, ủng hộ hoặc trực

Page 73: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

72

tiếp tham dự vào các cuộc vận động tranh thủ độc lập và đặc biệt là đảm nhận công việc đào tạo hầu hết nhân tài cho đất nước. Việt sử tiêu án có viết như sau: “ Xét sử, một đời vua Đại Hành, không thấy có nhắc gì đến học hiệu và khoa cử. Những thư từ đi lại thời bấy giờ,như là thư xin tập vị, lời nói uyển chuyển và đắc thể, đến bài nối vần thơ Thiên nhai, ca khúc tiển sứ thần tình, ý lanh lẹ, đầy đủ tình tự văn nhân cũng không thể hơn được, không biết học hành từ đâu? Người anh hùng hơn đời thì đời nào cũng không thiếu, cho nên tuy không thấy có dạy dỗ hay có những vị Nho thần khởi thảo và nhuận sắc nhưng mà như Hồng Du học thức uyên bác làm đến chức Thái sư, Ngô Chân Lưu(Khuông Việt) là cho tăng mà sung việc ứng đối với sứ Tàu cũng làm nổi trách nhiệm thư phụng.” Sử gia Ngô Thời Sĩ với quan điểm của giới Nho sĩ chỉ biết có Nho giáo độc tôn, chứ không biết rằng kể từ những thế kỷ đầu cho đến năm 1070 khi mới xây Văn miếu, có học hiệu và khoa cử Nho giáo vào khoảng năm 1075 thì các nhân tài trí thức của dân tộc đã do các vị Thiền sư Phật giáo đào tạo từ lâu tại các ngôi chùa ở khắp nơi trong nước, mà chương trình học gồm cả kinh sách Phật lẫn sách Chư tử bằng Hán văn. Trong số các ngôi chùa đó, có chùa Tiên Sơn là nổi bật hơn cả. Tiên Sơn đã là trung tâm Phật giáo lớn tại nước ta, đã đào tạo được những nhân vật nổi tiếng như Huệ Thắng, Đạo Thiền..., tiếp nhận những vị sư nước ngoài như Đàm Hoằng từ phương Bắc xuống để tu học, cũng như tiếp đón Dharmadeva từ Tây nam đến đây để dạy thiền cho đồ chúng. Sau khi Tì Ni Đa Lưu Chi mất vào năm 594, Pháp Hiền cũng đến đây để tu tập và truyền dạy như Thiền uyển tập anh đã ghi: “ Khi Chi tịch rồi, Sư thẳng vào núi ấy tu tậpThiền định, hình như cây khô, vật ngã đều quên, chim bay đến chầu, dã thú vây quanh. Người đương thời nghe tiếng đến học không thể đếm xiết. Nhân đó sư lập chùa dạy dỗ học trò. Tăng chúng đến ở thường hơn 300.Thiền học phương Nam nhờ thế mà thịnh...” Truyền thống này cứ tiếp nối liên tục cho đến thế kỷ thứ X, những nhân vật trí thức nổi danh xuất hiện như Đại sư Khuông Việt, Thiền sư Pháp Thuận,mà danh Nho Lê Quí Đôn sau này còn xưng tụng: “ Sư Thuận thi cú, Tống sứ kinh dị. Chân Lưu từ điệu, danh chấn nhất thời.” ( Câu thơ của Sư Đổ Thuận khiến sứ giả Tống kinh ngạc. Điệu ca của Chân Lưu nổi tiếng một thời )

Page 74: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

73

Nổi bật nhất là Thiền sư Vạn Hạnh, người đã nuôi nấng, dạy dỗ Lý Công Uẩn sau này trở thành vua Lý Thái Tổ, mở đầu cho một thời kỳ độc lập, tự chủ và phát triển lâu dài. Cho đến đây thì việc tổng hợp tam giáo bắt đầu do nhu cầu của đất nước trong giai đoạn mới,vừa xây dựng, phát triển, vừa bảo vệ Tổ quốc, mà thành phần chủ động là Phật giáo. Lão giáo chỉ có ảnh hưởng sâu đậm trong lãnh vực nghệ thuật, thiên nhiên, còn biến thể của nó là tư tưởng về thần tiên, trường sinh, bất tử thì không được giới trí thức hưởng ứng. Mâu Tử viết trong tự truyện: “ Mâu Tử đọc kinh truyện Chư tử, sách không kể lớn nhỏ, không sách gì là không thích. Tuy không ưa binh pháp, mà vẫn đọc nó. Tuy đọc sách thần tiên bất tử, ông dẹp đi không tin, cho là dối trá. Thời ấy, sau khi Linh Đế băng hà, thiên hạ nhiễu loạn, chỉ có Giao Châu tạm yên; người lạ phương Bắc đều đến để ở, phần lớn luyện phép tịch cốc trường sinh của thần tiên.” Còn Nho giáo trong những thời kỳ đầu với Khổng Tử khoan dung, quãng đại đã quan niệm rằng Thiên lý tuy biến hóa, phân chia ra trăm đường nghìn lối, nhưng cuối cùng cũng qui về một mối mà thôi. Ngài nói: “ Thiên hạ hà tư hà lự? Thiên hạ đồng qui nhi thù đồ, nhất tri nhi bách lự. Thiên hạ hà tư hà lự?” ( Thiên hạ có lo nghĩ gì? Thiên hạ tuy có nhiều đường khác nhau, nhưng cũng về một chỗ, trăm điều lo nghĩ mà vẫn quay về một mối. Thiên hạ có lo nghĩ gì? ) Như vậy Khổng Tử không bao giờ bài bác hay công kích đạo nào cả. Nhưng cho đến đời Đường bên Trung Quốc, xuất hiện một Hàn Dũ ( 768-820 ) bài xích Phật, Lão, độc tôn Nho giáo. Ông nói: “ Vua không ra lệnh, thì mất cái sở dĩ làm ông vua; tôi không thi hành cái lệnh của vua mà đạt cho đến dân, thì mất cái sở dĩ làm người tôi; dân không làm ra thóc gạo và các đồ dùng, không thông những tài hóa để thờ bề trên thì phải giết. Nay cái phép của Phật là phải bỏ cái nghĩa vua tôi, bỏ cái tình cha con, cấm cái đạo tương sinh tương dưỡng, để cầu lấy cái gọi là thanh tĩnh tịch diệt.” Đến đời Tống thì Trương Tái tức là Trương Hoành Cừ ( 1020-1076 ) cũng bài xích Phật, Lão và chống lại chủ trương Tam giáo, khẳng định sự độc tôn của Nho giáo: “...Nếu nói rằng hư năng sinh khí thì cái hư vô cùng cái khí có hạn. Cái thể và cái dụng khác hẳn, thành ra theo cái thuyết “hữu sinh ư vô” của Lão giáo, mà không biết rằng hữu và vô là cái lẽ thường của hồn nhất. Nếu nói rằng vạn tượng là vật hiện ra trong Thái hư, thì vật với hư không giúp nhau, hình tự hình, tính tự tính. Hình, tính, trời, người không quan hệ với nhau, thành ra lại mắc vào cái học thuyết của Phật giáo, cho sơn hà và đại địa là cái bệnh hoạn. Đạo trời mà không

Page 75: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

74

rõ, là bởi kẻ mờ tối biết lược qua cái thể hư không là tính, không biết lấy Thiên đạo làm cái dụng, rồi lấy cái ý kiến nhỏ mọn của người ta làm cái nhân duyên của trời đất. Khi cái sáng mà không rõ hết, thì nói bậy rằng: thế giới, kiền khôn là ảo hóa. Không tìm thấy cái cốt yếu của sự u minh, bèn vượt bực nghĩ càn mà thôi. Không hiểu rõ cái lẽ nhất âm nhất dương làm phạm vi cho trời đất, suốt đến cả ngày đêm và cái qui củ của tam cực đại trung, bèn bảo là Nho, Phật, Lão hỗn nhiên một đường...”( Nho giáo -Trần Trọng Kim ) Mặc dầu những lời phê bình trên không phản ánh đúng đắn thực chất lý thuyết của Phật,Lão, nhưng cũng có ảnh hưởng không nhỏ đối với giới Nho sĩ ở Việt Nam, cho nên sử thần Lê Văn Hưu đời Trần đã phê bình nghiêm khắc về Lý Thái Tổ như sau: “ Lý Thái Tổ lên ngôi Hoàng đế mới được 2 năm, nhà tông miếu chưa xây, đàn xã tắc chưa dựng, đã tạo được 8 chùa ở phủ Thiên Đức, lại sửa sang tự quán ở các lộ, độ hơn 1000 người ở kinh sư làm tăng, phí phạm về thổ, mộc, tài, lực không thể kể hết được. Của chẳng phải do trời mưa xuống, sức chẳng phải do thần làm ra, há chẳng phải là khơi máu mủ của dân sao! Khơi máu mủ của dân, có thể gọi là làm phúc được không? Vị chúa sáng nghiệp tự mình cần kiệm mà còn lo con cháu xa xỉ lười biếng, thế mà Thái Tổ lại làm như vậy, nên đời sau xây tường cao ngất trời, đẽo đá mà dựng cột chùa, nhà Phật tráng lệ gấp bội cung vua. Kẻ trước đều bắt chước như vậy, đến nổi phải hủy hoại hình thể, thay đổi áo quần, phá bỏ sản nghiệp, xa lánh người thân; trăm họ quá nửa là sư, trong nước chỗ nào cũng có chùa chiền, nguyên ủy há không phải từ đó mà ra sao! ” (Toàn thư) Sử thần Ngô Thờ Sĩ sau này cũng phê bình: “ Danh Nho đời cổ có học rộng bách gia, xuất nhập cả đạo Lão và Phật, nhưng rút cục vẫn phải trở lại cần đến lục kinh; nếu học vấn lẫn lộn không được thuần nhất, tâm đã tạp không chuyên nhất, thì có ích gì cho việc đời mà cũng cho được xuất thân.” (Việt sử tiêu án) Đó là những lời phê bình của các sử thần với quan điểm của Nho giáo. Thực ra, nói chung thì giới Nho sĩ phần nhiều sống ở kinh thành, cho nên trong thời kỳ Bắc thuộc có nhiều cơ hội tiếp xúc với văn hóa ngoại lai nô dịch núp dưới danh nghĩa Nho học từ phương Bắc tràn xuống mà đại biểu như Lưu Hy có tư tưởng ngược lại với nguyện vọng của nhân dân Việt Nam. Thế cho nên suốt ngàn năm này không thấy xuất hiện Nho sĩ Việt nào sáng giá để tham gia hoặc lảnh đạo cuộc vận động độc lập dân tộc, mà lại có những người như Lý Cầm, Lý Tiến cam tâm phục vụ cho nhà Hán bên Trung Quốc như đã nói.

Page 76: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

75

Bình luận về nhân tài đời Lý, Phan Huy Chú trong “ Lịch triều hiến chương ” có viết như sau: “ Xét triều Lý hơn 200 năm, các vị phụ thần không phải ít, nhưng sử sách ghi chép đều chỉ thấy có quan chức mà không chép công trạng. Đại để các vị ấy đều là theo thời thế mà làm việc cho xong, không có công nghiệp đáng chép lại. Các vị có công nghiệp rõ rệt ai cũng biết duy có bốn vị, mà ông Lý (Lý Đạo Thành) và ông Tô(Tô Hiến Thành) là to tát hơn cả. Đến như Du Đô, Vũ Nhĩ, Văn Thinh, Tử Khắc thì a dua gian tà chỉ tổ cho người đời chê cười ”. Nguyên nhân sâu xa đưa đến tình trạng trên là vì Nho giáo không đi sâu vào lòng dân tộc mà còn đi theo quan điểm văn hóa nô dịch như Lưu Hy xem nước Việt như là “ di man chi quốc ” và về sau những Nho sĩ thiếu ý thức dân tộc lại còn chê cười, mỉa mai nền văn học bình dân là “nôm na mách qué ” Trong suốt một chiều dài lịch sử như vậy, nhân tài Nho sĩ quả thực hiếm hoi đến nổi Lê Quát vào thế kỷ thứ XIV phải than thở: “ Ta thuở nhỏ đi học, chí dốc vào cổ kim, cũng biết qua về đạo thánh, muốn lấy đó mà dạy dân, thế mà rốt cuộc không một làng nào tin theo cả. Ta cũng thường dạo chơi sông núi, dấu chân khắp nửa thiên hạ, thế mà chưa từng gặp một trường học hay văn miếu nào. Ta vì thế hết sức xấu hổ đối với các tín đồ của nhà Phật .” (Đại Việt sử ký toàn thư)

Vai trò chủ động của Phật giáo trong Tam giáo Trái với Nho giáo, Phật giáo với tinh thần bình đẳng, lòng từ bi bác ái thương yêu khắp chúng sinh, luôn luôn cứu khổ cứu nạn, đã thực sự đi sâu vào lòng dân tộc và đã được tiếp nhận một cách nồng nhiệt. Phật giáo đã gắn bó mật thiết với quê hương, thịnh suy của Phật giáo cũng là thinh suy của đất nước và ngược lại. Đất nước này là quê hương của người Việt yêu chuộng tự do, hòa bình, có ý thức độc lập tự chủ, đồng thời cũng là nơi sẵn sàng đón nhận những ai thực tâm muốn đến nơi đây sinh sống, lập nghiệp một cách lương thiện và thực tế trong lịch sử đã có nhiều người đến nhận nơi này làm quê hương đúng như tinh thần câu tục ngữ: “ Đất lành chim đậu ” Đất này là đất lành mà cũng là đất hứa, hứa hẹn một tương lai sáng lạn. Trong đoàn người di dân ấy có Thiền sư Vô Ngôn Thông, ông đã đến Việt Nam vào năm 820 và sống tu tại chùa Kiến Sơ. Đất nước này không những là đất lành, đất hứa mà còn là đất Phật nữa, Vô Ngôn Thông đã xác nhận như thế trong một bài kệ : “Các phương đồn đại

Page 77: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

76

Dối tự rao truyền Rằng thỉ tổ ta Chính tự Tây Thiên Truyền pháp nhãn tạng Gọi đấy là Thiền Một hoa năm cánh Hạt giống liên miên Ngầm hợp mật ngữ Muôn vạn có duyên Tâm tông đều gọi Thanh tịnh bản nhiên Tây Thiên đất này Đất này Tây Thiên Xưa nay nhật nguyệt Đụng đâu cũng vướng Phật tổ thành oan Sai một mảy may Đi mất trăm ngàn Người khéo xem xét Chớ lừa cháu con Dẫu có hỏi ta Ta vốn Vô Ngôn.” Vô Ngôn Thông đã phủ nhận quan điểm chỉ coi Ấn Độ là đất Phật và Thiền tông chỉ do Tổ Bồ Đề Đạt Ma truyền lại với hình ảnh”một hoa năm cánh” (Lâm Tế, Quy Sơn, Tào Động, Vân Môn, Pháp Nhãn) mà xác nhận nơi đây cũng là đất Phật, đất của sự giác ngộ, đất nước có thể xuất hiện những vị Phật cứu độ quần sinh: “Tây Thiên đất này Đất này Tây Thiên” Với tư tưởng chính chắn, khoáng đại như thế, Phật giáo mới có đủ tư cách đóng vai trò chủ động trong việc tổng hợp ba tôn giáo Phật, Nho, Lão: phát huy những điểm tương đồng, dung hòa những tư tưởng xem ra như xung khắc, vượt lên trên mâu thuẫn ở một vài phương diện cục bộ để tiến tới sự tổng hợp sáng tạo, xây dựng một hệ tư tưởng đúng đắn, củng cố ý thức dân tộc, hổ trợ hữu hiệu cho sự lãnh đạo trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong sự nghiệp này có sự lãnh đạo trực tiếp của các vị vua Phật tử tài đức, sự khuôn phò của các quần thần trung kiên và nhất là sự tham gia của các vị Thiền sư trí thức, đạo hạnh nổi tiếng. Sự quan hệ

Page 78: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

77

giữa các cấp lãnh đạo trong thời kỳ này rất gắn bó, thường có sự ca ngợi tài đức, công trạng lẫn nhau cũng như những lời trình tấu quốc sách hoặc can gián vua. Vua Lý Nhân Tông có làm bài thơ truy tặng Thiền sư Vạn Hạnh như sau: “Vạn Hạnh dung tam tế Chân phù cổ sấm thi Hương quan danh Cổ Pháp Trụ tích chấn vương kỳ.” (Vạn Hạnh dung ba cõi Thật hiệp lời sấm xưa Quê hương tên Cổ Pháp Chống gậy trấn kinh đô) Vua cũng khen tặng Thiền sư Giác Hải và Thông Huyền Chân nhân bằng bài thơ sau đây: “Giác Hải tâm như hải Thông Huyền đạo hựu huyền Thần thông kiêm biến hóa Nhất Phật nhất Thần tiên.” (Giác Hải tâm như hải Thông Huyền đạo lại huyền Thần thông cùng biến hóa Một Phật một Thần tiên.) Bia Linh Xứng do Đại sư Hải Chiếu viết ca ngợi công trạng Lý Thường Kiệt, nhân vật tiêu biểu của thời đại đã từng oanh liệt phạt Tống, bình Chiêm, nêu cao ý thức trách nhiệm, danh dự của dân tộc: “Việt hữu Lý công Cổ nhân chuẩn thức Mục quận ký sinh Chưởng sư tất khắc Danh dương cực hạ Thanh chân hà vực.” ( Việt có Lý công Theo dấu người xưa Coi quận yên dân Đánh đâu được đó Tiếng động cõi xa Danh lừng trung thổ)

Page 79: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

78

Lời tấu lý trị loạn hưng vong trong thiên hạ của Quốc sư Viên Thông trình lên vua Lý Thần Tông vào năm 1130, Thiền uyển tập anh ghi như sau: “ Thiên hạ cũng như đồ dùng, để chỗ yên thì được yên, để chỗ nguy thì bị nguy, xin đấng nhân chủ hãy làm sao được như thế. Dùng đức hiếu sinh hợp với lòng dân, cho nên dân yêu thương như cha mẹ, trông ngóng như trời trăng. Đó là để thiên hạ vào chỗ yên vậy.” Lại đáp: “Việc trị loạn là do quan chức, được người thì trị, mất người thì loạn. Thần từng xem qua các triều vua chúa thời trước, chưa từng có triều đại nào không dùng bậc quân tử mà được thịnh, không dùng kẻ tiểu nhân mà suy. Cho đến nổi như thế, không phải nguyên nhân một sớm một chiều, mà chỗ do lai đã lâu lắm vậy. Trời đất không phải bổng nhiên sinh ra nóng lạnh tức là tuần tự có xuân, thu. Đấng nhân quân không thể bỗng nhiên hưng vong, tất là từ từ có thiện ác. Thánh chúa đời xưa vì biết nó như vậy, nên nương theo cái đức không nghỉ của trời để sửa mình, dựa vào cái đức không nghỉ của đất để yên người. Sửa mình tức cẩn thận trong lòng, run rẩy như đi trên băng mỏng. Yên người là kính yêu kẻ dưới, sợ hải tợ leo bám cành mục. Làm thế thì không gì là không hưng, trái thế thì không gì là không suy, sự lần hồi của việc hưng vong chính ở nơi đây vậy.” So sánh lời trình tấu trên với câu sau đây của kinh Dịch:”Tôi mà giết vua, con mà giết cha, đâu phải do một sớm một chiều: nó dần dần mà đến vậy” .(Thần thí kỳ quân, tử thí kỳ phụ, phi nhất tiêu nhất tịch chi cố: kỳ sở do lai giả, tiệm hĩ ). Lời trình tấu trên đây đã tỏ rõ tư tưởng nhân trị. Lời truyền của vua Lý Nhân Tông khi trao chức Giáo nguyên Thiền viện cho Đại sư Mãn Giác: “ Bậc chí nhân thị hiện, tất lo việc cứu đời, không hạnh nào chẳng đủ, không việc gì chẳng làm, không phải chỉ có sức định huệ, mà cũng có công phò tá. Vậy kính xin bổ nhiệm Ngài.”(Thiền uyển tập anh) Lời nói này tỏ rõ tinh thần Tam giáo, xác định chức năng của con người trong xã hội. Một tu sĩ ngoài công việc tu đạo cầu tìm giác ngộ, giải thoát còn có nhiệm vụ đối với nhân quần, đối với đất nước nữa, nghĩa là tri hành phải hợp nhất. Điều này cũng rất phù hợp với hạnh Bồ tát. Sau đây là lời can gián vua Lý Cao Tông của Tăng phó Nguyễn Thường vào năm 1202. Sách Việt sử lược ghi: “ Mùa đông tháng 10 vua ngự ra hành cung Hải Thanh. Đêm nào cũng sai nhạc công gảy đàn Bà Lỗ, hát khúc hát theo điệu Chiêm Thành, tiếng nghe ai oán thảm thiết, tả hữu nghe hát đều rơi nước mắt. Tăng phó Nguyễn Thường nói với vua rằng: “Tôi thấy bài tựa kinh thi có nói: Âm nhạc của nước loạn nghe như oán, như giạn vì chính sự nước ấy là sai trái. Âm nhạc của nước bị mất

Page 80: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

79

nghe như thương như nhớ vì dân nước ấy bị khốn cùng. Nay chúa thượng dong chơi vô độ, chính sự,giáo hóa sai trái lìa tan. Dân đen buồn khổ đến thế là cùng. Mà ngày nay nghe âm nhạc ai oán, đó chẳng phải là điều nước loạn nước mất hay sao? Tôi biết rằng xe giá chuyến này trở về tất không lại ngự ra cung ấy nữa.” Lời can gián trên đây vừa tha thiết vừa cương trục. Cương trực vì nó không có tính cách a dua như bọn nịnh thần cốt làm hài lòng vua để được vinh thân phì gia mà dám nói thẳng sự thật, dù cho sự thật ấy có thể làm mất lòng vua. Tha thiết vì mục đích của sự can gián cao cả, chỉ vì tiền đồ của dân tộc: nếu vua là đấng minh quân thì đất nước sẽ cường thịnh, nhân dân được nhờ; ngược lại nếu vua là kẻ hôn quân thì đại họa sẽ đến không lâu. Qua những lời can gián chúng ta cũng thấy rõ tinh thần Tam giáo thời đó, giới tăng sĩ không những thông thạo giáo lý Phật mà còn am tường sách Nho. Phật và Nho đã bổ túc cho nhau làm cho nhân sinh trở nên phong phú. Phật mà không Nho dễ sa vào tình trạng tiêu cực, đôi khi trở thành mê tín, dị đoan. Nho mà không Phật dễ trở thành câu chấp hẹp hòi, chuộng hình thức. Thiền sư Cữu Chỉ đời vua Lý Thánh Tông thủơ nhỏ hiếu học, sách Nho, sách Phật không thứ gì là không quán xuyến; một hôm than rằng: “Khổng Mặc chấp có, Trang Lão chấp không, sách vở của thế tục chẳng phải là phương giải thoát. Chỉ có Phật pháp không kể có, không, có thể dứt sanh tử, nhưng phải siêng năng giữ giới, cầu bậc thiện tri thức ấn chứng mới được.” (Thiền uyển tập anh) Rồi Thiền sư Trí cũng nói: “Vả Nho gia có thể thuyết lý về cái đạo vua, tôi, cha , con; Phật giáo có thể nói về công quả của Bồ Tát, Thanh Văn. Hai giáo lý tuy khác nhau mà đi về một mối. Tuy nhiên ra khỏi được cái vòng đau khổ của sống chết, cắt đứt được nổi tính toán Có hay Không thì chỉ có Thích học mới có thể được mà thôi.” Để thực hiện quốc sách Tam giáo các vị vua triều Lý đã làm những công việc sau đây như sách sử ghi chép: Vua Lý Thái Tổ: “Ngài cho lập Văn Miếu để tôn sùng Nho học và mở khoa thi Tam giáo.” (Việt sử tân biên) Vua Lý Thánh Tông: “Mùa thu tháng 8 (1070) tu sửa Văn Miếu, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và Phối tượng, vẽ tượng 72 nhà Hiền, bốn mùa cúng tế, Hoàng Thái Tử đến học.” (Đại Việt sử ký toàn thư)

Page 81: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

80

Vua Lý Nhân Tông: “Mùa xuân tháng 2 (1075) chiếu tuyển Minh kinh bác học và thi tam trường Nho học. Lê Văn Thịnh trúng tuyển tiến vào hầu vua học.” Đó là sơ lược chủ trương Tam giáo ở triều đại nhà Lý mà nội dung chính yếu bao gồm trong hai phương diện Tri-Hành như đã trình bày đại lược ở phần nguyên tắc của sự tổng hợp. Sau đây là phần nghiên cứu thêm về nội dung của triết lý Tam giáo.

Nội dung căn bản của triết lý Tam giáo đồng nguyên Do vai trò chủ động của sự tổng hợp, những vấn đề căn bản của triết lý Tam giáo được trình bầy theo quan điểm của Phật giáo như sau: có, không, sống, chết, ấn chứng, trì giới, giác ngộ, giải thoát... đó cũng là những vấn đề then chốt của triết học nhân loại nói chung.

Hữu-vô (Có-không) Thế giới hiện tượng biến dịch không ngừng, lúc hiện ra , khi biến mất; cho nên mới xuất hiện vấn đề có- không, sống- chết mâu thuẫn với nhau. Với quan điểm thông thường (tục đế), người ta nhận thấy rằng sự vật trong thế giới hiện tượng lúc thì có, vì người ta có thể sờ mó và cũng có thể chiếm hữu chúng được; nhưng không bao lâu chúng lại bị hủy diệt, biến mất đi thì rõ ràng lại không rồi. Đứng trước cảnh tượng biến dịch vô thường như vậy trái với lòng mong cầu của con người luôn luôn hướng về vĩnh cữu, người ta cảm thấy đau lòng: “Tuồng ảo hóa đã bày ra đấy, Cảnh phù du trông thấy mà đau.” (Ôn Như Hầu) Sở dĩ có tình trạng đó vì con người có quan điểm đối lập với thiên nhiên, đứng bên ngoài để nhìn sự vật, hiện tượng mà trong thực tế con người không làm sao ly khai ra khỏi vũ trụ được và hơn nữa con người cũng biến dịch cùng với sự vật. Thật ra ngay bên trong sự vật biến dịch kia đã có một cái gì bất biến, tự tại rồi. Có không thể từ hư vô mà đến, để rồi lại trở về với hư vô. Muốn đạt đến chân lý tuyệt đối trên bình diện chân đế, con người phải thay đổi quan điểm, rời bỏ nhản kiến nhị nguyên chấp vào hình danh sắc tướng, mà đi sâu vào Bản thể, tự đặt mình vào lòng vũ trụ thì lúc đó không còn có sự phân chia chủ thể- khách thể nữa, mà mọi mâu thuẫn đều biến mất.

Page 82: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

81

Quá trình ý thức này trong Phật giáo được thực hiện bằng biện chứng phủ định siêu vượt lên trên mâu thuẫn để hợp nhất ở một Tâm là Tâm vũ trụ hóa , Bản thể đại đồng, Thực tại tối cao, Chân như hay Chân lý tuyệt đối. Tuy có nhiều tên gọi khác nhau, nhưng tất cả đều chỉ cùng một thực tại. Quá trình biện chứng đó trải qua mấy chặng đường sau đây: phủ định có (không có), phủ định không (không không) để đạt đến Chân Không (Sunyata) cũng gọi tắt là Không. Không này ở Chân đế, khác với không ở Tục đế, không phải là không có gì cả, mà chỉ có nghĩa là không còn có nhân duyên ràng buộc, không có mâu thuẫn nữa. Có và không tương đối ở bình diện Tục đế nay nhập làm Một ở bình diện Chân đế gọi là Chân không Diệu hữu. Như vậy có hay không trong thế giới hiện tượng chỉ là tác dụng biểu hiện của một Thực tại thường hằng, hay nói khác đi thế giới sự vật, hiện tượng tuy biến dịch nhưng đã có cái gì bất biến ở bên trong rồi. Trong Phật giáo, quá trình biện chứng nói trên không phải là biện chứng duy lý, khái niệm như ở triết học Hegel, mà là biện chứng giải thoát, một quá trình thực nghiệm tâm linh bằng cả tâm thân để nối liền con người với vũ trụ trong cùng một Nhất tâm. Đó là quá trình tu tập và hiệu năng của phép Thiền định. Công phu Thiền định sẽ đưa con người đến một trạng thái tỉnh thức chân lý Bát Nhã gọi là Ngộ, chứ chưa phải là Chánh đẳng chánh giác, là sự giác ngộ cùng tột về Phật tính. Thiền học thường nói đến Ngộ hơn là Chánh giác. Ngộ cũng có nhiều trình độ khác nhau, nó có thể xuất hiện đột biến gọi là Đốn ngộ hay dần dần do công phu tu tập gọi là Tiệm ngộ. Lúc đầu trạng thái Ngộ đó còn lờ mờ, rồi do công phu, nổ lực vượt bực nó phát triển đến sáng tỏ và cuối cùng trở nên Viên giác. Trong lãnh vực Thiền, các vị Thiền sư thường diển tả tư tưởng của mình bằng những câu đối đáp kiểu Thiền học hoặc qua những bài kệ ngắn, cô đọng, hàm súc, mỗi vị mỗi vẻ khiến cho nền văn học Thiền trở nên phong phú, sống động. * Đại sư Khuông Việt (933-1011)

“Mộc trung nguyên hữu hỏa Hữu hỏa hỏa hoàn sinh Nhược vị mộc vô hỏa Toàn toại hà do manh.” (Trong cây vốn có lửa Có lửa, lửa mới bừng Nếu bảo cây không lửa

Page 83: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

82

Cọ xát do đâu bùng.) Sự vật do nhân duyên mà có và cũng do nhân duyên mà không, tất cả chỉ là tác dụng biến hóa của một Thực tại duy nhất mà thôi. Với quan niệm như thế, Đại sư giải thích quan niệm ngũ hành như là những phương diện tác dụng khác nhau của một Thực thể chung, cho nên chúng có thể biến hóa từ cái nọ sang cái kia, chứ không biệt lập nhau. Tư tưởng này phù hợp với tri thức khoa học ngày nay về tương quan giữa vật chất và năng lượng .

* Tăng thống Khánh Hỷ (1067-1142) Một hôm đệ tử Pháp Dung hỏi: “Rõ được sắc không, thì sắc là phàm hay thánh?” Sư trả lời bằng bài kệ: “Nhọc đời thôi hỏi sắc cùng không Học đạo chẳng qua phỏng tổ tông Thiên ngoại tìm đâu khôn định thể Nhân gian trồng quế há thành rừng ? Càn khôn gom lại đầu sợi tóc Nhật nguyệt nằm trong hạt cải mòng Trước mặt nắm tay dùng việc lớn Ai hay phàm thánh với tây đông.” (Lao sinh hưu vấn sắc kiêm không Học đạo vô qua phỏng tổ tông Thiên ngoại mịch tâm nan định thể Nhân gian thực quế khởi thành tùng Kiền khôn tận thị mao đầu thượng Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung Đại dụng hiện tiền quyền tại thủ Thùy tri phàm thánh dữ tây đông)

Bài kệ trên đây tóm tắt vũ trụ quan của Thiền.Tìm kiếm tâm ngoài không gian, thời gian thì khó định được hình thể vì nó vô hạn.Tâm hay Bản thể đại đồng tràn ngập khắp vũ trụ, chứa đựng trong mọi vật dù lớn dù nhỏ. Vũ trụ trọn vẹn trên đầu sợi lông, sợi tóc; cũng như mặt trời mặt trăng bao gồm trong hạt cải.Thể với dụng của tâm quan hệ với nhau như nắm tay tại nơi đây. Như vậy thì khoan hỏi về có hay không và phân biệt phàm tục với thánh nhân làm chi. * Thiền sư Thường Chiếu (đời Lý Cao Tông)

“Tại thế giới hiện là thân người Tâm là tạng Như lai

Page 84: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

83

Chiếu sáng không phương hướng Tìm cái ấy không bờ bến. » ( Tại thế vi nhân thân Tâm vi Như lai tạng Chiếu diệu thả vô phương Tầm chi cánh tuyệt khoáng.)

Thân con người hàm chứa cái Tâm Như lai bất biến, đại đồng tỏa ánh sáng kỳ diệu khắp mọi phương. Người ta không thể dò tìm cái tạng Như lai ấy được vì nó mênh mông vô hạn. * Đạo Hạnh tức Từ Lộ (đời Lý Nhân Tông)

« Tạo có mảy may có, Làm không tất cả không. Có không như trăng nước, Chớ vướng có không không” (Tác hữu trần sa hữu, Vi không nhất thiết không. Hữu không như thủy nguyệt, Vật trước hữu không không. )

Có không chỉ là lẽ tương đối như mặt trăng chiếu trong nước, thế cho nên đừng chấp có, phủ nhận không vì cả hai đều không phải Thực tại tuyệt đối thường còn. * Thiền sư Viên Chiếu ( ?-1117) (đời Lý Nhân Tông)

Trước khi nhập tịch vào năm 1091, Thiền sư ung dung từ biệt đệ tử : « Trong thân thể ta đây, cốt tiết gân mạch đều do tứ đại giả hợp mà tạo nên, sở hữu cũng rất bất thường không vững bền, ví như tòa nhà đã hư nát, cột xà đều rơi rụng, vậy nay trân trọng vĩnh biệt các người, nghe lời kệ : « Thân như tường vách đã suy đồi, Thế tục hoang mang khóc chẳng thôi. Nếu hiểu tâm không, không sắc tướng, Sắc không ẩn hiện phó vận trời. » (Thân như tường bích bĩ đồi thì, Cử thế thông thông thục bất bi. Nhược đạt tâm không vô sắc tướng, Sắc không ẩn hiện nhậm suy di.) Làm thân con người có sinh thì có diệt, có thành phải có hoại. Nếu đã rõ cái lý tâm không thì hãy nương theo vận trời mà không cần để ý tới có không. * Thiền sư Vạn Hạnh ( ?-1025)

Page 85: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

84

« Thân như bóng chớp có rồi không, Cây cỏ xuân tươi thu héo hon. Tùy vận thịnh suy không hải sợ, Thịnh suy đầu cỏ có phơi sương. » (Thân như điện ảnh hữu hoàn vô, Vạn mộc xuân sinh thu hựu khô. Nhậm vận thịnh suy vô bố uý, Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.)

Thiền sư nương theo nguồn sống tuần hoàn có hòa điệu của vũ trụ để nối liền đời sống trần tục với đời sống đạo, tổng hợp Dụng với Thể vào một Thực tại toàn diện. Biết rõ lẽ thịnh suy như thế, nên đừng có sợ vì thịnh suy như giọt sương đọng trên ngọn cỏ vậy thôi.

* Bản Tỉnh Thiền sư : .« Thân huyễn vốn từ không tịch sinh,

Giống như trong kính hiện ra hình. Hiểu rành hết thảy đều không huyễn, Thật tướng phút giây thân huyễn thành. » (Huyễn thân bản tự không tịch mịch, Do như kính hình tượng. Giác liễu nhất thiết không huyễn thân, Tu du chứng thực tướng.) Cái thân con người vốn từ chỗ không tịch mịch sinh ra cũng giống như hình ảnh trong gương, chỉ là cảnh giả mà thôi. Một khi đã giác ngộ cái thân không huyễn ấy thì ngay trong phút chốc cái tướng chân thật sẽ hiện ra liền.

Liễu sanh tử ( Thấu triệt lẽ sống chết) Vấn đề sống chết cũng tương tự như vấn đề có không. Nếu nhìn theo quan điểm thông thường thì có sinh ra, có sống, có chết, có đoàn tụ có chia lìa cho nên con người cảm thấy đau khổ. Nhưng đối với người giác ngộ thì sống chết chỉ là hai phương diện tác dụng, một đi một về của một Thực tại duy nhứt mà thôi, như vậy chết không phải là hết, là mất. * Thiền sư Thiện Hội ( ?-900) : có lần bảo Thiền sư Vân Phong ( ?-956) « Sống chết là việc lớn, cần phải giải quyết ngay. » Sư hỏi : « Khi sống chết đến, làm sao tránh khỏi ? » Hội đáp : « Hãy nắm lấy chỗ không sống chết mà tránh. »

Page 86: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

85

Sư hỏi : « Thế nào là chỗ không sống chết ? » Hội đáp : « Ngay trong sống chết nắm lấy nó mới được. » Sư hỏi : « Làm sao mà hiểu ? » Hội đáp : « Ngươi hãy đi, chiều nay sẽ đến. » Chiều sau lại vào như đã hẹn, Hội bảo : « Đợi đến sáng mai đông đủ sẽ chứng minh cho ngươi. » Sư hoát nhiên tỉnh ngộ, liền sụp lạy. Hội hỏi : « Ngươi hiểu thế nào ? » Sư đưa nắm tay lên, thưa : « Bất tiếu là cái này đây. » Hội liền bảo thôi. (Thiền uyển tập anh) Đưa nắm tay lên mà không cần giải thích, đó là thái độ thể nhập đạo lý không ngôn từ, chỉ có những bậc đắc Thiền mới hiểu mà thôi. Ở Tề vật luận Trang Tử có viết : « Lấy ngón tay mà thí dụ rằng ngón tay không phải là ngón tay, sao bằng lấy cái không phải là ngón tay để thí dụ rằng ngón tay không phải là ngón tay. Lấy con ngựa mà thí dụ rằng con ngựa không phải là con ngựa, sao bằng lấy cái không phải là con ngựa để thí dụ rằng con ngựa không phải là con ngựa. Trời đất khác nào ngón tay nói trên. Vạn vật khác nào con ngựa nói trên. » Thông thường người ta lấy tên gọi để chỉ vật, vật luôn luôn biến đổi, mà tên gọi không thay đổi. Đối với sự vật thay đổi thì từ có biến ra không, từ phải biến ra trái. Có không, phải trái đều là tương đối. Trước khi có tên gọi thì Trời đất, vạn vật thực sự là gì ? Cái thực tại tự thân đó vượt khỏi giới hạn của ngôn ngữ, ý niệm cho nên phải « trực chỉ nhân tâm » như Vân Phong dơ cao nắm tay là đủ. Trước kia Vân Phong chưa hiểu thế nào là « Ngay trong sống chết hiểu lấy cái không sống chết » vì còn chấp vào suy luận, ý nghĩa của danh từ sống chết và không sống chết. Ở kinh Pháp Hoa có đoạn như sau : « Thôi Xá Lợi Phất ! Chẳng cần nói nữa. Vì sao ? Vì pháp khó hiểu ít có thứ nhất mà Phật trọn nên đó, chỉ có Phật cùng Phật mới có thể thấu tột tướng chân thật của các pháp, nghĩa là các pháp : tướng như vậy, tính như vậy, thể như vậy, lực như vậy, tác như vậy, nhơn như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, trước sau rốt ráo như vậy. » « Chẳng cần nói nữa » mà cảm nhận « như vậy, như vậy » cũng như hành động đưa nắm tay lên của Vân Phong hay ý nghĩa câu sau đây trong bài kệ của kệ Khánh Hỷ : « Đại dụng hiện tiền quyền tại thủ » ( Trước mặt nắm tay dùng việc lớn ) nghĩa là Thể với Dụng của Tâm quan hệ với nhau như nắm tay tại nơi đây.

Page 87: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

86

* Trì Bát (1049-1118) : Thiền sư có để lại một bài kệ khi nhập tịch :

« Có chết tất có sống Có sống tất có chết Chết đời lấy làm buồn Sống đời lấy làm vui Buồn vui thật vô cùng Bỗng nhiên thành đây đó Đối với việc sống chết Chẳng có gì bận lòng Án tô rô tô rô tất rị. » (Hữu tử tất hữu sinh Hữu sinh tất hữu tử Tử vi thế sở bi Sinh vi thế sở hỷ Bi hỷ lưỡng vô cùng Hốt nhiên thành bỉ thử Ư chư sinh tử bất quan hoài Úm tô lô tất lý! )

Việc sinh tử là lẽ tất nhiên, người ta không nên quá quan tâm để mừng vui hay buồn khổ. Vấn đề ở đây là chỉ cần thay đổi quan điểm chủ quan của mình. * Thiền sư Quãng Nghiêm (1122-1190):

„Lìa tịch hãy nói tịch diệt đi Sinh vô sinh rồi thuyết vô sinh Tài trai có chí tung hoành Hãy khoan theo bước tiến hành Như lai.“ (Ly tịch phương ngôn tịch diệt khứ Sinh vô sinh hậu thuyết vô sinh Nam nhi tự hữu sung thiên chí Hưu hướng Như lai hành xứ hành)

Phải đứng trong sinh tử để tự tìm hiểu lý vô sinh tử, phải hiểu qua thuần túy kinh nghiệm tự thân rồi mới có thể ngôn thuyết được. Cái kinh nghiệm ấy không phải là kết quả của suy tưởng, mà là cuộc đời phấn đấu, nổ lực để biến đổi con người từ Mê đến Ngộ. Con người phải có đầy đủ nghị lực, ý chí, kiên nhẫn trên đường tu thân, tu đạo, chớ có mơ màng dẫm theo dấu vết của Đức Như lai đã đi. * Cư sĩ Thông Sư (?-1228):

Page 88: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

87

…Lại hỏi: “Nghĩa vô sinh là gì?“ Sư đáp: “Phân biệt các uẩn đây Tính nó vốn vắng trơn Trống không nên không diệt Đấy là nghĩa vô sinh.“ Lại hỏi:“Thế nào là lý vô sinh?“ Sư đáp:“ Điều phục được các uẩn Mới tỏ được tánh không Tánh không, không thể diệt Đấy là lẽ vô sinh.“

Điều phục được các uẩn rồi thì tánh không sáng rõ : không sinh không diệt. Đó là nghĩa và cái lý vô sinh. * Thiền sư Thuần Chân ( ?-1105) :

« Chân tánh thường không tánh Sao từng có sinh diệt Thân là pháp sinh diệt Pháp tánh diệt chửa từng . » (Chân tính thường vô tính Hà tằng hữu sinh diệt Thân thị sinh diệt pháp Pháp tính vị tằng diệt.)

Hai phương diện của Thực tại là Thể và Dụng. Trên bình diện ý thức danh lý thì có ngã và vật lưỡng nguyên đối đãi, nên thấy có sinh có diệt ; vươn tới ý thức trực giác giác ngộ thì vật ngã, tình lý hợp nhất, Chân tánh hay Không tánh hiện ra thì không còn sinh diệt nữa. * Đại sư Mãn Giác (1052-1096) :

« Xuân đi trăm hoa rụng, Xuân về trăm hoa tươi. Sự đời dòng nước chảy, Tuổi già đầu tóc phai. Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết, Đêm qua sân trước một cành mai.” (Xuân khứ bách hoa lạc, Xuân đáo bách hoa khai. Sự trục nhãn tiền quá, Lão tòng đầu thượng lai. Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận, Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.)

Page 89: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

88

Thế giới hiện tượng biến đổi liên tục, sinh diệt nối tiếp, nhưng chớ nên nghĩ rằng xuân tàn hoa rụng hết vào cỏi hư vô vĩnh viễn. Đàng sau thế giới sự vật biến dịch còn có cái gì bất biến, thường còn, đó là Thực tại tuyệt đối. * Đạo Huệ Thiền sư:

“Thân mầu và thể nhiệm, Không hợp, chẳng chia phôi . . Nếu ai muốn tách bạch, Lò lửa bông hoa cười.” (Sắc thân dữ diệu thể, Bất hợp bất phân ly. Nhược nhân yếu nhân biệt, Lô trung hoa nhất chi .)

Thân mầu là thân Phật, mà tính thể Phật thì mầu nhiệm; Phật thân và phật thể huyền diệu ấy không thể hợp lại mà cũng không thể phân chia; người ta có thể tưởng tượng như có một bông hoa nở trong lò lửa .

Công phu tu đạo, trì giới, tinh tấn Muốn đạt thành chánh quả con người phải có công phu tu đạo, trì giới, vô cầu, tinh tấn mà hạnh Bồ Tát là lý tưởng để noi theo. * Thiền sư Tín Học(?-1200) thường dạy: “Có lợi tất có nhiễm Có nhiễm tất có lợi Có lợi có nhiễm Bồ Tát không làm Không lợi không nhiễm Bồ Tát mới làm” * Thiền sư Y Sơn: (?-1216):

“Ham danh chuộng lợi, Đều như bọt nước trôi sông . Kết phúc gieo duyên, Ấy là trong lòng hoài bảo .”

Danh lợi đều như bọt nước, theo hạnh Bồ Tát làm phúc mới chính là hoài bảo của con người đạo hạnh. * Thiền sư Bảo Giám:

“Thành Phật khôn riêng sức dũa mài, Phải nhờ trí tuệ tót xa vời . Nhận ra đạo Phật nơi mầu nhiệm,

Page 90: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

89

Chẳng khác trên không tỏa mặt trời .” (Đắc thành chánh giác hãn bằng tu, Chỉ vị lao lung trí tuệ ưu Nhận đắc mô ni huyền diệu lý Chính như thiên thượng hiển kim ô)

Lên được thượng thừa là nhờ siêng năng, nhưng thành chánh giác phải nhờ trí tuệ cao siêu. Ai có được thứ trí tuệ ấy mới nhận được lẽ huyền diệu của đạo Phật, cũng sẽ sáng tỏ như mặt trời chiếu rọi khắp vũ trụ. * Thiền sư Viên Học:

“Sáu căn ám ảnh, khổ đêm dài, Ma tối xui ra biếng nhác hoài . Hôm sớm nghe chuông hồn thức tỉnh, Thần thông được gặp, hết thần lười” (Lục thức thường hôn chung dạ khổ, Vô minh bị phú cửu mê dung . Chú dạ văn chung khai giác ngộ, Lãn thần tĩnh khước đắc thần thông)

( Văn học đời Lý của Ngô Tất Tố: Chú dạ, có sách viết: trú dạ ) Con người luôn đau khổ vì sáu căn ám muội, bị vô minh che lấp cho nên biếng nhác. Nhưng sớm hôm được nghe tiếng chuông chùa nhà Phật thì sẽ có được sự tĩnh thức, rồi siêng năng tu đạo thì sự lười biếng biến mất và sẽ có được thần thông . * Thiền sư Chân Không (1046-1100): Trước khi mất, Thiền sư nói: “Đạo tâm đã thành Giáo ta đã hành Ta theo biến hóa” Cuộc đời của một Thiền sư là hành đạo, mà cứu cánh là giác ngộ, giải thoát .Khi đạo tâm đã thành rồi thì theo lẽ biến hóa mà đi một cách bình thản.

Ấn chứng * Thiền sư Cữu Chỉ: Theo Thiền uyển tập anh:” Cữu Chỉ một ngày nọ ôm sách than rằng:”Khổng Mặc chấp có, Trang Lão chấp không, sách vở của thế tục

Page 91: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

90

chẳng phải là phương giải thoát.Chỉ có Phật pháp không kể có, không, có thể dứt sanh tử, nhưng phải siêng năng giữ giới, cầu bậc thiện tri thức ấn chứng cho mới được ”.Nhân đó bỏ tục, đến chùa Cảm Ứng ở Ba Sơn thọ cụ túc với Định Hương Trưởng Lão. Ngày cầu đạo, Trưởng Lão hỏi: “ Thế nào là nghĩa cứu cánh? ” Sư đáp:” Chưa. “ Định Hương nói: “ Ta với ngươi là nghĩa của cứu cánh rồi.” Sư ngẫm nghĩ, Định Hương nói: “ Qua mất rồi.” Nhờ lời nói đó, Sư rõ được yếu chỉ.Nhân đó lấy tên là Cữu Chỉ.” Đấy là công việc ấn chứng, nghĩa là nhờ năng lực trí tuệ cũng như đạo đức của một bậc chân tu đã có công phu cao khích động vào tâm của đệ tử cho đến tận tiềm thức để đánh thức khả năng giác ngộ tiềm tàng . Ở Đông phương người ta cho rằng trí tuệ Bát nhã, Minh đức vốn là tác dụng căn bản của bản tính đại đồng của Thực tại tối cao, tiềm ẩn tiên thiên trong tâm, bình thường bị tư dục che lấp nên trở thành vô minh. Khi bức màn vô minh được vén lên thì ánh sáng bản nhiên của tâm tỏ rạng. Việc vén bức màn vô minh kia là do công phu tu đạo của mình và với sự trợ giúp của một vị thầy có công phu cao. Việc học đạo cốt ở phản tỉnh chứ không phải tiếp thu tri kiến cho nhiều. * Thiền sư Đạo Hạnh (?-1117): Thiền uyển tập anh có ghi câu chuyện về Thiền sư Đạo Hạnh đi tìm xin ấn chứng.:”Sư dạo khắp tùng lâm hỏi xin ấn chứng. Nghe Kiều Trí Huyền hóa đạo ở Thái Bình, Sư nhún mình đến tham yết, trình hỏi chân tâm bằng bài kệ: “Lâu lẫn bụi đời chửa biết vàng Chẳng hay đâu chốn ấy lòng chân Nguyện xin chỉ rõ bày phương tiện Thấy trọn Như Như khỏi nhọc tìm” (Cữu hỗn phàm trần vị thức câm Bất tri hà xứ thị chân tâm Nguyện thì chỉ đích khai phương tiện Liễu kiến Như Như đoạn khổ tầm” Trí Huyền đáp lại bằng bài kệ: “Tiếng ngọc lặng đưa lời nhiệm mầu Ở trong tỏ rõ ý Thiền nao Bồ đề đạo đó hà sa kể Muốn tới còn xa mấy vạn sào (Ngọc lý bí thanh diễn diệu âm

Page 92: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

91

Cá trung mãn lục lộ Thiền tâm Hà sa cánh thị Bồ Đề đạo Nghĩ hướng Bồ Đề cách vạn tầm) Sư mù mịt không hiểu, mới đến giảng hội của Sùng Phạm chùa Pháp Vân hỏi: “Thế nào là chân tâm? “ Phạm hỏi lại: “Cái gì chẳng phải là chân tâm? “ Sư tỉnh ngộ nói: “Làm thế nào bảo đảm? “ Phạm đáp:” Đói ăn, khát uống.”

Truyền tâm ấn * Tì Ni Đa Lưu Chi: Về việc truyền tâm ấn, Thiền uyển tập anh viết về Tì Ni Đa Lưu Chi như sau: “Một hôm Sư gọi đệ tử là Pháp Hiền dạy rằng: “ Tâm ấn chư Phật Tất không lừa dối Tròn đồng thái hư Không thiếu không dư Không đi không đến Không được không mất Chẳng một chẳng khác Chẳng thường chẳng đoạn Vốn không chỗ sinh Cũng không chỗ diệt Cũng chẳng lìa xa Vì đối vọng duyên Nên giả đặt tên Bởi thế chư Phật ba đời Cũng dùng như thế mà được Tổ sư nhiều đời Cũng dùng như thế mà được Ta cũng dùng như thế mà được Ngươi cũng dùng như thế mà được Cho đến hữu tình, vô tình Cũng dùng như thế mà được Vả Tổ ta Xán công Khi ấn cho ta tâm đó Bảo ta mau Nam hành giáo hóa Không nên ở lại đây lâu

Page 93: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

92

Từng trải nhiều nơi Mới đến được đây Nay gặp phải ngươi Quả hợp huyền ký Ngươi khéo giữ gìn Giờ đi ta đến.” Tâm ấn chư Phật tức là Tâm Bồ Đề vượt ra ngoài ngôn ngữ, văn tự, khái niệm danh lý với những phẩm chất như đã được xác định trong phần đầu bái kệ. Người ta không thể dùng tri thức kiến văn để hiểu được, mà cần phải sống với chính nó, phải thể nhập nó mới được. Vì mọi người đều có Phật tính, cho nên ai cũng có thể thực hiện được sự thể nhập đó, từ chư Phật ba đời, các vị Tổ sư cho đến loài hữu tình, vô tình cũng thế.

* Thiền sư Nguyên Học (?-1181): Lúc sắp thị tịch Sư gọi chúng đến dạy: “Đạo không hình tướng Trước mắt chẳng xa Xoay lại tìm kiếm, Chớ cầu người ta Dẫu cho cầu được Được chẳng thực đâu Ví có được thật Thật đó vật nào? Vì thế chư Phật ba đời Lịch đại sư tổ Ấn thọ tâm truyền Cũng nói thế cả.” Việc cầu tìm ấn chứng cũng như việc truyền tâm ấn rất quan trọng trong đời tu đạo để đạt tới cứu cánh giác ngộ, giải thoát. Người tu hành vận dụng tự lực cũng như đón nhận tha lực, nhưng tự lực bao giờ cũng là chính yếu vì chính bản thân mình phải tự thực hiện sự thể nhập đạo.

Giác ngộ, giải thoát * Thiền sư Thường Chiếu (?-1203): Có vị tăng hỏi:” Khi vật và ta duyên nhau thì làm thế nào?” Sư đáp: “ Ta vật đều quên,

Page 94: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

93

Tâm tính vô thường Dễ sinh dễ diệt Giây phút không ngừng Ai kẻ vin bắt? Sinh thì vật sinh Diệt thì vật diệt Pháp kia có được Thường không sinh diệt.” Thế giới sự vật, hiện tượng vô thường, sinh diệt từng giây phút không ngừng, duyên với nhau mà sinh, cũng duyên với nhau mà diệt. Chỉ khi nào có được pháp kia tức không tính,ta vật đều quên, chủ thể và khách thể nhập thành một với Đạo thì mới rõ lẽ thường không sinh diệt. Đến lúc sắp mất, Sư nhóm chúng nói kệ: “ Đạo vốn không nhan sắc Ngày ngày mới mới Ngoài đại thiên sa giới Nơi đâu chẳng phải nhà ” Đạo vốn Không tính, ở khắp vũ trụ nơi đâu cũng có. * Thiền sư Tịnh Không (1091-1170): Có vị Tăng hỏi: “ từ trước trực chỉ là nói cái gì? ” Sư đáp: “ Ngày ngày đi gặt lúa Giờ giờ kho lẫm không ” Tăng thưa: “ Con chẳng hiểu ” Sư dạy: “ Trời trăng luôn sáng, Mây nổi khuất che ” Rồi Sư đọc kệ: “ Người trí không ngộ đạo Ngộ đạo tức kẻ đần Nằm dài chân khách duỗi Sao biết ngụy cùng chân ” “ Trực chỉ nhân tâm ”, “ kiến tánh thành Phật ” là tôn chỉ của Thiền học. Những ai mà bộ não đã chứa đầy tri kiến như kho lẫm đầy lúa củ thì không chứa được lúa mới, như bầu trời nhiều mây che khuất mặt trời, mặt trăng vậy.Thế cho nên người trí, tức là người có kiến thức danh lý dựa trên ý niệm nhị nguyên đối đãi thì không ngộ được đạo, mà trái lại chỉ những người chất phác mới có thể ngộ được đạo mà thôi . * Thiền sư Bảo Giám: Khi sắp viên tịch, Sư nói kệ:

Page 95: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

94

“ Được thành chánh giác ít nhờ tu, Trí tuệ ưu tiên thoát ngục tù . Nhận lẽ ma ni huyền diệu ấy, Như kìa trời rộng tỏa vừng ô . Người trí như trăng chiếu khắp trời, Sáng trùm mọi cõi chẳng vì ai . Nếu người muốn biết nên phân biệt, Man mác chiều non khói tỏa khơi.” Trí tuệ là trí huệ Bá Nhã, tức là vô lượng trí, khác xa với cái trí của kiến thức nhị nguyên.Có được trí huệ Bát Nhã ấy thì chẳng khác nào trăng sáng giữa trời chiếu khắp tất cả. * Trưởng lão Định Không (?-1050): Thiền uyển tập anh ghi: “Một hôm Sư hỏi Đa Bảo: “ Làm thế nào thấy được chân tâm? ” Bảo dạy: “ Chính ngươi tự phát hiện.” Sư bỗng nhiên hiểu được yếu chỉ, liền thưa: “ Hết thảy đều như thế, chứ có riêng gì tôi.” Bảo hỏi:” Ngươi đã hiểu chưa?” Sư đáp: “ Khi đệ tử hiểu rồi, cũng giống như lúc chưa hiểu.” Bảo dạy: “ Nên đem tâm đó mà quyết chắc.” Sư bưng tai, đứng quay lưng lại. Bảo liền quát: “đi”. Sư sụp lạy. Bảo dạy: “ Từ nay ngươi hãy như một kẻ đui điếc trong việc tiếp người.” Khi đã có Trí huệ rồi thì tri kiến nhị nguyên biến mất, thế cho nên mới nói rằng khi hiểu rồi (bằng Trí huệ) thì cũng giống như lúc chưa hiểu (hiểu nhị nguyên) * Thiền sư Giác Hải:

“ Khi người tóc đã sương pha, Thì cho người biết bạn già cùng ai . Muốn hỏi cảnh giới Như Lai, Long môn điểm ngạch lại quay trở về ” (Liễu dụng nhữ đầu bạch Báo nhĩ tác lão thức Nhược vãn Phật cảnh giới Long môn tao điểm ngạch)

Giữa Phật và chúng sinh có quan hệ như cá chép hóa long.Hàng năm cá chép dự thi vượt Vũ môn, nếu vượt được sẽ hóa rồng, bằng không bị điểm ngạch (chấm đỏ ở trán) trở về tu luyện tiếp..Con người tu đạo cũng

Page 96: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

95

vậy phải rất công phu, tâm lực tích lũy dần dần đến khi viên mãn thì siêu vượt bừng sáng, tích lượng biến thành phẩm. * Thiền sư Định Hương :

“Nguyên lai Bản thể không nơi chốn Nơi chốn của nó là đầu mối Chân như Chân Như huyễn ảo như thế Ảo với hữu tức là không không”

(Bản lai vô xứ sở : mệnh đề phủ định Xứ sở thị Chân tông : mệnh đề khẳng định Chân tông như thị ảo : vừa khẳng vừa phủ định Ảo hữu tức không không) : phủ, khẳng, phủ phủ.

Đó là quá trình thực hiện ý thức biện chứng giác ngộ, cái hai lần phủ định là trạng thái thuần túy ý thức không ngôn ngữ, không ý niệm . * Vua Lý Thái Tông (1028-1054): Một hôm ở Đại nội có tiệc chay thết đải các Tăng chúng, vua nói: “Trẫm nghĩ cái tâm nguyện của Phật tổ, học giả chê trách lẫn nhau . Nay muốn cùng các vị Thạc đức, ai nấy bày tỏ sở kiến của mình để xem dụng tâm như thế nào .” Và Thái Tông mở đầu bằng bài kệ: “Bát nhã chân vô tông Nhân không, ngã diệc không Quá, hiện, vị lai Phật Pháp tính bản tương đồng” Trí huệ Bát nhã là Chân như không có đầu mối, nguồn gốc.Đối tượng tha nhân không thì chủ thể ngã cũng không.Năng tri với sở tri hợp làm một, thể dụng hợp nhất ở Bát nhã, Chân như vô thời gian.Phật tính hay Bản thể đại đồng tự biểu hiện ra thiên hình vạn trạng gọi là Pháp. Pháp tức vũ trụ biểu hiện với Bản tính hay Tính thì đồng nhất với nhau. * Thiền sư Cứu Chỉ (đời Lý Thánh Tông):

“ Rõ biết thân tâm vốn lặng yên Thần thông biến hóa hiện mọi tướng Hữu vi vô vi từ đây hiện Thế giới hà sa không thể lượng Tuy dù biến khắp cả hư không Mỗi mỗi xem ra chẳng hình dạng Ngàn năm, muôn năm khó sánh đó Xứ xứ nơi nơi thường tỏ rạng.”

(Giác liễu thân tâm bản ngưng tịch

Page 97: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

96

Thần thông biến hóa hiện chư tướng Hữu vi vô vi tùng thử xuất Hà sa thế giới bất khả lượng Tuy nhiên biến mãn hư không giới Nhất nhất quán lai một hình trạng Thiên cổ, vạn cổ nan thử huống Giới giới xứ xứ thường lãng lãng) Thế giới hiện tượng tuy muôn hình nghìn vẽ không thể lượng được, nhưng đều do một tâm yên lặng tức Bản thể mà thần thông biến hiện ra. Thực hiện được cái Tâm ấy,tức ý thức vũ trụ đại đồng thì lúc đó:”xứ xứ nơi nơi thường tỏ rạng” Thực hiện được cái Tâm ấy là cứu cánh tối hậu của người cầu đạo, là giác ngộ, là giải thoát, tức là đã siêu vượt khỏi thế giới hiện tượng với tâm sai biệt nhị nguyên vươn đến cõi bình đẳng nhất nguyên với tâm vô sai biệt đi vào Bản thể tuyệt đối. Đạt đến trình độ này, cũng giống như người đã vượt sông qua đến bên kia bờ giác, nên không còn cần dùng đến chiếc bè nữa ( giáo lý ) cũng không còn phải trì giới hay tu thiền định nữa, cho nên Đàn Kinh mới có câu: “ Tâm bình hà lao trì giới; hạnh trực hà dụng tu Thiền” nghĩa là tâm bình đẳng thì cần chi phải trì giới; hạnh trực ( cũng chỉ tâm bình đẳng ) thì cần gì phải dùng lối tu Thiền. Trên thực tế, đạt đến trí huệ Bát nhã với tâm bình đẳng để vào Bản thể tuyệt đối không phải là dễ như vua Trần Nhân Tông đã nói trong “ Cư trần lạc đạo”: “ Trúc hóa rồng một hai là họa”. Cho nên chưa qua sông mà đã vội bỏ bè, còn trong vòng tâm sai biệt mà không trì giới, không tu Thiền thì làm sao đạt cứu cánh giác ngộ, giải thoát được. Thiền tông có “ Thập ngưu đồ” tức là mười bức họa để mô tả công phu hàng phục tâm từ tình trạng vô minh cho đến lúc “ kiến tánh” , từ mê đến ngộ như sau: 1. Vị mục: chưa thu phục được con trâu, trâu hoàn toàn đen, nghĩa là tâm chìm đắm trong vô minh. Người chăn lấy cỏ lá dụ nó, trong khi đó bầu trời đầy mây đen u ám.

2. Sơ điều: hai bên mới thuận với nhau, người chăn cột cái mồm trâu, giơ roi lên để khuất phục nó. Mồm trâu biến trắng, tức trị được khẩu nghiệp, bước đầu của tứ giới: chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tiến.

3. Thụ chế: chịu theo mệnh lệnh của người chăn, theo giới luật. Trọn đầu trâu biến trắng, nghĩa là hiểu bằng trí biện biệt. Tâm và trí chưa hòa nhau, vẫn còn dây cột và cây roi.

Page 98: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

97

4. Hồi thủ: Trâu ngoan ngoãn chịu để người chăn cột vào cây. Phần đầu và thân trước biến trắng: Tâm và trí bắt đầu hòa nhau, những tính cao thượng nẩy nở.

5. Tuần phục: hoàn toàn thuần phục, không còn cột trâu nữa, trâu ngoan ngoãn theo người chăn. Người chăn vẫn còn giữ sợi dây và cây roi. Phần đầu, thân trên và thân giữa trâu biến trắng.

6. Vô ngại: không còn ngăn cách nữa, chỉ cái đuôi còn đen. Trâu yên lặng, thần phục. Người không còn lo ngại, ung dung ngồi thổi sáo. Trâu lắng nghe nhạc. Nền trời quang đảng. Người, cảnh, vật hòa đồng. Hoa nở, tỏa hương thơm.

7. Nhậm vận: rất tin nhau, thành thật phục tùng. Dù thả lỏng, trâu quanh quẩn bên người chăn, cũng không cần tiếng nhạc xoa dịu, người chăn ngủ cũng không sao. Hoa lá mọc đầy, trâu tha hồ ăn. Trâu trở thành hoàn toàn trắng. Trong ngoài hòa đồng, tranh chấp nội tâm chấm dứt.

8. Tương vong: quên nhau, không để ý mà không rời nhau. Mặt đất mất dạng, người vật ngao du trên cõi trời mây. Nửa chòm sao Bắc đẩu hiện ra với mặt trời. Tối và sáng chen nhau, ngày đêm một màu, thiện ác không phân.

9. Độc chiếu: Cả hai thành một, không còn thấy trâu nữa. Người và

chân thể là một, người trở về cội nguồn tìm thấy “ bản lai diện mục”, chòm sao Bắc đẩu mọc đủ, mặt trời và chòm sao thành một.

10. Song dẫn: ( dẫn là tận diệt ) hoàn toàn tiêu diệt cả người lẫn vật, chỉ còn là Chân không ( hình vòng tròn )

Nghiên cứu lịch sử tư tưởng Việt Nam không thể nào không nghiên cứu Thiền.

Thiền với Tam giáo Đến đây chúng ta thấy tư tưởng Tam giáo thời Lý hầu hết là của các vị Thiền sư, điều này thật rõ ràng vì trong thời kỳ Tam giáo thịnh hành, sự gặp gở giữa Phật giáo và Lão giáo đã tạo ra Thiền học Việt Nam nổi tiếng.

Page 99: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

98

Phép Yoga truyền thống ở Ấn Độ và phép đạo dẫn của Lão Trang có cùng chung triết lý cơ bản là khai triển sự sống từ nhịp điệu vận động của hơi thở với mục đích là làm chủ lấy bản thân mình, cũng như làm chủ thiên nhiên tại nơi mình. Thiền (Dhyana) là trạng thái ý thức cao, chỉ sau Tam muội tam Bồ đề tối cao của tinh thần giác ngộ. Ở khoa Thiền, sự tập trung tinh thần, tâm lý, sinh lý sẽ đưa đến những khả năng tinh xảo nơi con người, những trực giác tinh vi, nối liền con người với Thiên nhiên và đồng nhất với vũ trụ trong một tâm duy nhất. Ở Thiền, trí thức kiến văn dựa trên ý niệm danh lý chẳng những không còn thích hợp nữa, mà còn là trở ngại lớn cho việc tinh tấn, giác ngộ vì vạn vật sống động biến dịch không ngừng, trong khi ý niệm thì bất biến. Kinh Đại phạm Thiên vương vấn quyết có viết:” Chánh pháp nhãn tàng, Niết bàn diệu tâm, thực tướng vô tướng, pháp môn vi diệu, bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật.” Tôn chỉ đó có mục đích giải thoát tinh thần con người không bị vướng mắc trong hình thức giáo lý. Văn tự tuy rất cần thiết để truyền bá tư tưởng, tuy nhiên nó có tính giới hạn, vì thế không nên chấp vào văn tự, giáo điều. Đức Phật giả lập giáo lý để cứu độ chúng sinh, nhưng sau đó lại phủ định ngay vì không muốn chúng sinh bị lụy. Thiền tông triệt để khai thác chủ trương này để giác ngộ, giải thoát.

* Thiền sư Huệ Sinh (?-1064) “ Non Già vừng nguyệt tĩnh Biển thẫm chiếc thuyền không Hiểu thấu không và có Rừng Thiền mặc ruổi rong .” (Tịch tịch Lăng Già nguyệt Không, không độ hải chu Tri không, không giác hữu Tam muội nhiệm thông chu.)

Chỗ cùng tột của Thiền Tam muội cũng im lặng như bóng trăng trên núi Lăng Già, hư không như chiếc thuyền vượt biển .Hiểu thấu lẽ có tức không, không tức có là đã đạt được tới chỗ sâu xa, mầu nhiệm của đạo Phật, lúc đó người ta có thể tự do, thông dong qua lại rừng Thiền.

Thiền học nghệ thuật Thiền học không những cống hiến những phương pháp giác ngộ, giải thoát, mà còn để lại một nền văn học nghệ thuật Thiền quý báu với những

Page 100: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

99

vấn đáp cũng như những thơ văn, những bài kệ đượm mùi Thiền sâu sắc. Nguồn cảm hứng của văn thơ Thiền là đạo lý uyên nguyên hòa hợp với cái đẹp của thiên nhiên. Những câu vấn đáp và những bài kệ của các vị Thiền sư nhằm thức tỉnh tâm Bát nhã, ý thức trực giác cho đệ tử và vì thốt ra từ tâm giác ngộ nên có một ý nghĩa nghệ thuật thâm trầm. Chúng ta thử đọc mẫu vấn đáp sau đây giữa Thiền sư Thiền Lão và vua Lý Thái Tông như Thiền uyển tập anh ghi: “Vào khoảng Thông Thụy (1034-1038), Lý Thái Tông có lần đến chùa và hỏi Sư rằng: “Hòa Thượng ở núi này đến nay được bao lâu?” Sư thưa: “ Chỉ biết tháng ngày này Ai hay xuân thu trước.” (Đản tri kim nhật nguyệt Thùy thức cựu xuân thu) Vua hỏi: “ Hàng ngày làm việc gì?” Sư đáp: “ Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh ngoại Trăng trong mây bạc hiện toàn chân.” (Thúy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh Bạch vân minh nguyệt hiện toàn chân) Vua hỏi: “ có ý chỉ gì?” Sư đáp: “ Lắm lời không ích về sau.” Vua hoát nhiên có sở đắc.” Người đã giác ngộ thì ý thức về thời gian khác với người thường: thời gian không còn có sự phân chia quá khứ, hiện tại và tương lai mà chỉ còn lại một hiện tại mà thôi, hay nói cách khác một khoảnh khắc cũng là vĩnh cữu, vô thủy vô chung. Cho nên người có tâm hồn vui với Đạo thì sống ung dung tự tại không cần bận tâm lo nghĩ đến quá khứ và vị lai làm gì. Mặt khác khi con người đã giác ngộ thì nội giới, ngoại giới, ta, vật không còn phân chia ngăn cách nữa, lòng người ta tràn ngập nguồn sống tự nhiên, vui với bụi trúc xanh biếc, biểu tượng cho người quân tử, với những bông cúc vàng đầy vẻ thanh tao cũng như với trăng trong, mây trắng mà cảm thông với Chân lý, Thực tại siêu nhiên không bằng quan niệm, mà bằng kinh nghiệm thuần túy của tâm thân. * Thiền sư Chân Không (1046-1100 ): Thiền uyển tập anh có ghi:” Một lần có vị Tăng hỏi:”Thế nào là đạo mầu?” Sư đáp: “ Giác ngộ rồi mới biết.” Tăng hỏi thêm: “ Đối với giáo chỉ của người xưa thì người học này chưa hiểu. Nay dạy như vậy làm sao hiểu được?”

Page 101: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

100

Sư đáp: “ Nếu đến nhà tiên trong động thẩm Thuốc đan đổi cốt được đem về.” Hỏi : “ Thế nào là viên thuốc đan?” Sư đáp: “ Nhiều kiếp ngu si không biết rõ Sáng nay chợt ngộ được tỏ bày.” Hỏi: “ Thế nào là tỏ bày?” Sư đáp: “ Tỏ bày chiếu khắp cõi ta bà Tất cả chúng sinh cùng một nhà.” Lại hỏi: “ Tuy không giải đích xác nơi nơi đều gặp y. Cái nào là y?” Sư đáp: “Lửa kiếp lẩy lừng thiêu rụi hết Núi xanh như cũ trắng mây bay.” Lại hỏi: “ Sắc thân tan rã rồi thì sao?” Sư đáp: “ Xuân đến xuân đi nghi xuân hết Hoa rơi hoa nở chỉ là xuân” Tăng ngẫm nghĩ, Sư quát: “Đồng bằng sau cơn lửa Cây cối mỗi tươi thêm.” Tăng vái lạy.” Trọng tâm của cuộc vấn đáp trên đây chỉ xoay chung quanh ý nghĩa của Đạo mầu. Đó là Thực tại tuyệt đối, Bản tính đại đồng, Chân như bất biến mà từ đó biểu hiện ra thế giới hiện tượng biến dịch thiên hình vạn trạng, cho nên mới nói rằng đâu đâu cũng đều gặp y. Đừng thấy xuân đến xuân đi rồi nghi là xuân hết, mà phải hiểu rằng đó chỉ là lẽ biến dịch tuần hoàn của thế giới tự nhiên. Đồng bằng sau cơn lửa tuy bị cháy rụi nhưng không phải là bị hủy diệt hoàn toàn, mà trái lại sau đó cây cối thêm tốt tươi..Như thế là tại sao?-là vì đàng sau thế giới hiện tượng biến dịch còn có Thực tại tuyệt đối thường còn làm nền tảng chứ không phải là Hư vô. Lúc sắp tịch, Thiền sư Chân Không có làm bài kệ: “ Trống vắng gốc mầu sáng rực ra Gió hòa nổi dậy khắp ta bà Người người thảy biết vô vi sướng Nếu được vô vi mới phải nhà (Diệu bản hư vô nhật nhật khoa Hòa phong xuy khởi biến bà bà Nhân nhân tận thức vô vi lạc Nhược đắc vô vi thủy thị gia) Hư vô hay Không tính là Bản tính đại đồng không còn tùy thuộc những điều kiện nhân duyên mà luôn luôn tự tại thường hằng. Nó như

Page 102: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

101

ngọn gió hiền hòa thổi mát khắp mọi nơi. Cảnh tịch mịch ấy ai mà không mến, cho nên lên được tới cõi ấy mới chính thực là ngôi nhà vĩnh viễn của mình. * Thiền sư Mãn Giác: Ý tưởng của Thiền sư Chân Không cũng là ý tưởng của bài thơ sau đây của Thiền sư Mãn Giác: “ Xuân đi, trăm hoa rụng Xuân đến, trăm hoa cười Việc đời qua trước mắt Già đến trên đầu rồi ! Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết Ngoài sân đêm trước một cành mai.” (Xuân khứ bách hoa lạc Xuân đáo bách hoa khai Sự chục nhỡn tiền quá Lão tòng đầu thượng lai Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.) ( Theo “ Văn học đời Lý của N.T.Tố: Sự chục, có sách ghi sự trục.) Xuân đi xuân đến, hoa nở hoa rụng hết đợt này đến đợt khác nhưng cành mai bao giờ cũng là cành mai. Người đạt đạo có thể vượt ra ngoài cuộc sinh hóa của trời đất cũng ví như cành hoa mai. Hoa mai là biểu tượng của người quân tử, là hình ảnh của vẻ đẹp mùa xuân dân tộc muôn thuở. * Thiền sư Ngộ Ấn (1020-1088): Có người hỏi sư:” Phật là gì? Pháp là gì? Thiền là gì ? » Sư đáp : « Đấng Pháp vương vô thượng, ở thân là Phật, ở miệng là Pháp, ở tâm là Thiền. Tuy là ba phần, nhưng điểm kết là một, ví như nước của ba con sông kia, tùy chỗ đặt tên, tên gọi tuy không giống, nhưng tính của nước thì không khác. » Khi sắp tịch, Sư nói bái kệ sau : « Diệu tính rỗng không chẳng thể bâu Rỗng không tâm ngộ có gì đâu Trên non ngọc đốt màu thường đẹp Sen nở trong lò ướt chưa khô.” (Diệu tính hư vô bất khả phàn ! Hư vô tâm ngộ đắc hà nan? Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận,

Page 103: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

102

Liên phát lô trung thấp vị càn.) Triết lý tam bản của Thiền sư Ngộ Ấn: lấy thân làm Phật, lấy khẩu làm Pháp, lấy tâm làm Thiền đã rút từ tinh hoa của kinh Pháp Hoa với quan niệm Tam đế viên dung.Tam đế là Không đế, Giả đế, Trung đế hay Bản thể, hiện tượng, quan hệ .Chúng chỉ là ba phương diện của cùng một Thực tại. Thực tại này có bản tính kỳ diệu kiên cố như viên ngọc đốt thiêu trên núi mà màu sắc vẫn đẹp,như đóa hoa sen nẩy nở trong lò lửa mà vẫn không khô héo. Hoa sen là biểu tượng của tinh thần Phật giáo đã được nói đến ở kinh Pháp hoa và cũng là hình ảnh của vẻ đẹp phổ biến của dân tộc, vì ở khắp mọi miền đất nước, nơi đâu cũng có đầm sen và nhất là ở những nơi tôn nghiêm như lăng miếu, chùa, đình đều có những hồ sen vừa đẹp vừa trang trọng, thanh cao. * Thiền sư Viên Chiếu (999-1090): Thiền uyển tập anh có ghi những câu vấn đáp sâu sắc sau đây: Có tăng hỏi: “ Phật với Thánh nghĩa ấy thế nào?” Sư đáp: “ Cúc trùng dương dưới dậu Oanh thục khí đầu cành” (Ly hạ trùng dương cúc Chi đầu thục khí oanh) Lại hỏi: “Cảm ơn, nhưng người học này không hiểu, xin thầy dạy lại.” Sư đáp: “Ngày thì ác vàng dọi Đêm đến thỏ bạc soi” (Trú tắc kim ô chiếu Dạ lai ngọc thố minh) Tăng lại hỏi: “ Chân ý Sư đã rõ.Máy huyền ấy thế nào?” Sư đáp: “Bưng chậu nước đầy không cẩn thận Một phen vấp ngã hối mà chi ?” (Bất thận thủy bàn kình mãn thứ Nhất tào tha điệt hối hà chi) Vị tăng nói: “ Cảm ơn thầy.” Sư chỉ nói: “ Sóng sông chìm chớ tát Gieo mình tự đắm thôi” (Mạc trạc giang ba nịch Thân lai khước tự trầm) Sự quan hệ giữa Phật và Thánh hay giữa Phật giáo và Nho giáo là tùy thời, tùy hoàn cảnh mà vận dụng ví như hoa cúc và chim oanh. Hoa cúc đến tiết trùng dương của mùa thu thì nở. Chim oanh vào tiết mùa xuân ấm áp bay nhảy rộn rả, ca hót líu lo. Mỗi thời mỗi việc, không thể lẫn lộn

Page 104: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

103

nhau được.Cũng cùng ý đó, ban ngày mặt trời tỏ rạng, còn ban đêm trăng soi khắp trần gian.Ý nói Phật giáo và Nho giáo đều có tác dụng riêng nên có thể bổ xung cho nhau như một sự phân công.Tuy nhiên quan hệ này không phải dễ nhận ra và thực hiện tốt.Nó đòi hỏi sự tinh tế, thận trọng của con người giống như lúc bưng một chậu nước đầy, nếu không khéo sẽ có thể bị vấp ngã.Cho nên vì tính cách quan trọng của sự quan hệ mà phải làm thế nào bảo đảm sự thành công, tránh thất bại cũng như tránh những nguy hiểm có thể xảy ra. “Sóng sông chìm chớ tát Gieo mình tự đắm thôi” Cũng ở phần Thiền sư Viên Chiếu, Thiền uyển tẩp anh ghi tiếp: Tăng hỏi: “ Kiến tánh thành Phật nghĩa ấy thế nào?” Sư đáp: “ Xuân đến cây khô hoa đua nở Gió đưa ngàn dặm nức hương thần” Tăng thưa: “ Học nhân không hiểu, xin thầy dạy lại” Sư đáp: “Muôn năm cây cà ấy Xanh ngát tận chân mây” Thấy được Bản tính đại đồng tức thể nhập Phật tính thì thành Phật, cho nên mới nói “tức tâm tức Phật”, nghĩa là tới được tâm (Tính) tức là tới Phật. Khi đã đắc đạo thì cũng giống như cây khô gặp xuân hoa đua nở, tỏa hương thần khắp dặm xa.Phật tính ấy cũng ví như cây cà rất bình thường (mọi chúng sinh đều có Phật tính), nhưng muôn năm xanh ngát tận chân mây. Lại hỏi: “ Dứt hết nói năng ý ấy thế nào?” Sư đáp: “ Theo gió tiếng còi luồn bụi trúc Kèm trăng trái núi quá đầu tường” (Giốc hưởng tùy phong xuyên trúc đáo Sơn nham đái nguyệt quá tường lai) Dứt hết nói năng, ý nói người ta khi đã đắc đạo rồi thì thuận với lẽ Tự nhiên, lẽ Đạo mà không bị chướng ngại như tiếng còi theo gió luồn bụi trúc, như ánh trăng bàng bạc khắp muôn nơi. Lại hỏi: “ Tâm Pháp đều quên, thì Tính tức Chân.Thế nào là Chân?” Sư đáp: “ Hoa núi mưa sa, Thần nữ khóc Trúc sân gió thổi, Bá Nha đờn ” (Vũ trích nham hoa, Thần nữ lệ Phong sao đình trúc, Bá Nha cầm) ( có sách ghi : phong xao) Chân lý ở bình diện ý thức nhị nguyên thì khách quan, lạnh lùng; còn Thiện, Mỹ là hai phương diện chủ quan đối với Thực tại: Chân là nhìn

Page 105: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

104

theo tác dụng của lý trí, Mỹ là nhìn theo tác dụng tình cảm và Thiện là nhìn theo tác dụng của ý chí. Khi giác ngộ thì ba phương diện lý trí, tình cảm, ý chí đều qui về một Tâm ý thức thì Chân,Thiện,Mỹ cũng qui về một Thực tại. Ở đây không còn có sự phân biệt chủ thể, khách thể nữa nên Chân lý không còn khách quan lạnh lùng.Lý trí cũng là tình cảm, cũng là ý chí trong một Tâm ý thức duy nhất .Cho nên để trả lời câu hỏi về Chân, Thiền sư đã sử dụng những hình ảnh thi ca Thiền trữ tình, diễm lệ của phương diện Mỹ để trả lời cho Chân thật là tuyệt diệu. Lại hỏi: “ Xanh xanh trúc biếc thảy Chân như: Thế nào là dụng của Chân như? ” Sư đáp: “ Tặng anh ngàn dặm xa Cười mang trà một bình ” (Tặng quân thiên lý viễn Tiếu bả nhất bình trà) Chân như là Thực tại tuyệt đối, là Bản tính đại đồng hoàn toàn vô tư, vô dục, vô cầu.Thiền sư ví Chân như ở đây như tình bạn đầm ấm, thường cùng nhau đối ẩm và đàm đạo. Lúc chia tay còn “tặng anh một bình trà” để mang theo dọc đường ngàn dặm xa.Tình bạn thắm thiết ở đây đồng thời cũng nói lên tinh thần trà đạo tao nhã của các Thiền sư Việt Nam vậy. Lại hỏi: “ Tổ truyền nhau là truyền những gì? ” Sư đáp: “ Đói đến tìm thức ăn Rét thời xin áo mặc ” (Cơ tức nghiết phạn Hàn tức trước y) Theo tinh thần câu trả lời trên của Thiền sư Viên Chiếu, chúng ta thấy các vị Tổ truyền cho nhau có gì là cao siêu ngoài sức tưởng tượng của con người đâu, ngược lại đó chỉ là những việc hết sức bình thường hàng ngày như đói cần thức ăn, lạnh cần áo quần mặc, vì đối với Phật giáo, những hành động của con người dù tầm thường đến đâu cũng đều mang Phật tính cả. Ý tưởng đó cũng tương tự như câu trả lời của Định Hương với Đa Bảo: Bảo hỏi: “ Ngươi đã hiểu chưa? ” Sư đáp: “ Khi đệ tử hiểu rồi, cũng giống như lúc chưa hiểu.” Thật vậy người đã giác ngộ rồi cũng sống, sinh hoạt như bao nhiêu người khác, từ việc tu hành nơi chùa chiền, giáo dục, đào tạo nhân tài cho xã hội cho đến gánh vác những trách nhiệm trọng đại khi đất nước cần

Page 106: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

105

đến; chỉ có một sự thay đổi nơi đây là sự thay đổi quan điểm ý thức, cái ý thức của kẻ giác ngộ. Nghiên cứu nền văn học Thiền, chúng ta thấy ngưồn cảm hứng chính của thơ văn là Đạo lý và Thiên nhiên. Ở trình độ giác ngộ, Tâm Thiền cũng là Tâm vũ trụ, Thực tại tối cao duy nhất: Đạo lý, Thiên nhiên, Chân, Thiện, Mỹ gặp nhau ở một Tâm. Văn thơ Thiền là nơi để con người nối liền Tâm cá nhân với vận hành của vũ trụ để sống vui với Đạo qua cảnh đẹp của Thiên nhiên, nhìn Chân lý với mỹ cảm kinh nghiệm, qua những hình tượng thi ca phong phú. Kinh Dịch có nói: « Dịch giả tượng dã, tượng dã giả tượng dã » ( Kinh Dịch cốt ở hình ảnh, hình ảnh ấy là tượng trưng vậy ) Và cũng nói: « Tại thiên thành tượng, tại địa thành hình, biến hóa hiện hỹ » ( Ở trên trời là hình ảnh, ở dưới đất là hình thể, biến hóa hiện ra vậy ) Sự biến hóa bắt đầu từ một Bản thể cơ bản duy nhất có tính cách phổ biến đại đồng, tức nguyên lý vũ trụ cho đến thế giới thiên hình vạn trạng . Dịch cũng nói: « Thiên địa chi đại đức viết sinh » ( Cái đức lớn vô hạn của Trời Đất là sự sống ) hay nói cách khác cái Bản thể vũ trụ là nguồn sống vô hạn. Bản thể ấy tự biểu hiện ra vật thể qua Tượng ( hình ảnh ) thiên biến vạn hóa. Tượng là môi giới giữa thế giới hữu hình (Địa) và thế giới siêu nhiên (Thiên).Người ta đã phát huy ý nghĩa của Tượng dần dần thành chủ nghĩa tượng trưng trong nghệ thuật . Trong những cuộc vấn đáp và các bài kệ của các vị Thiền sư chúng ta thấy có rất nhiều hình tượng thi ca, nghệ thuật được sử dụng một cách tài tình, những hình ảnh thiên nhiên đầy vẻ thẫm mỹ được dùng để diễn tả Đạo lý uyên nguyên: Ở Thiền sư Thiền Lão, có những hình tượng thi ca nổi bật như: Trúc biếc, hoa vàng, trăng trong, mây bạc… Ở thiền sư Chân Không: động thẳm, núi xanh, mây trắng bay, xuân đến xuân đi, hoa rơi, hoa nở, đồng bằng sau cơn lửa, cây cối mỗi tươi thơm… Ở Thiền sư Mãn Giác: trăm hoa rụng, trăm hoa cười, cành mai… Ở Thiền sư Huệ Sinh: non Già (núi Lăng Già), trăng lặng, biển thẳm, chiếc thuyền không, rừng Thiền… Ở Thiền sư Ngộ Ấn: ngọc thiêu trên núi, sen nở trong lò: đó là hình ảnh mạnh mẽ, kiên cường khiến người ta liên tưởng đến hình ảnh viên ngọc kim cương trong kinh Bát nhã tượng trưng cho trí huệ Bát nhã, và hình ảnh hoa sen trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa.

Page 107: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

106

Ở Thiền sư Viên Chiếu thì những hình tượng thi ca nghệ thuật lại càng phong phú, đa diện, bóng bẩy: cúc trùng dương dưới dậu, oanh thục khí đầu cành, ác vàng dọi, thỏ bạc soi, bưng chậu nước đầy, sóng sông, gieo mình, cây khô, hoa đua nở, gió đưa ngàn dặm, nức hương thần, tiếng còi luồn bụi trúc, hoa núi mưa sa, thần nữ lệ…thật trữ tình, diễm lệ. Đó là vài nét nghệ thuật trong nền văn học Thiền. Ngoài ra còn có các ngành nghệ thuật khác như mỹ thuật, hội họa, điêu khắc và nhứt là kiến trúc đều chịu ảnh hưởng hầu hết ở Phật giáo. Vì các vị vua đời Lý cũng như đời Trần đều là những Phật tử mộ đạo nên việc trùng tu và xây dựng chùa chiền rất được ưu tiên đến nổi sau này đến đời Lê, sử gia Nho sĩ Ngô Thời Sĩ đã phê bình: « Vua Lý Thái Tổ sinh trưởng nhờ cửa Phật, Khánh Vân nuôi lớn, Vạn Hạnh dạy dỗ, thuyết nhân quả ăn sâu ở trong lòng, cho nên khi mới kiến quốc đã sáng tạo nhiều chùa, cấp điệp độ tăng chúng, muốn đưa cả thế giới vào nước Phật, bất luận hiền ngu, muốn cho qui y Phật, đến đời sau nhà Lý mới khởi lên ngôi chùa cao sát mây, lập nên cột chùa bằng đá cao vót, lấy sự thờ Phật làm việc thường phải có của một nước ».( Việt sử tiêu án) Trong số những ngôi chùa đó, đáng kể nhất về phương diện lịch sử là chùa Khai Quốc, chùa Pháp Vân, chùa Kiến Sơ và chùa Diên Hựu . Chùa Khai Quốc: được vua Lý Nam Đế và Đại sư Khuông Việt cho xây bên bờ sông Hồng ngay sau khi giành được độc lập cho dân tộc. Để đánh dấu cho sự kiện lịch sử trọng đại này, chùa có tên là Khai Quốc tức mở nước. Sau nầy chùa được dời vào Hồ Tây và có tên là Trấn Quốc. Chùa Pháp Vân: hiện nay còn nằm tại thôn Khương Tự, xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Chùa này là nơi ra đời dòng Thiền Pháp Vân nổi tiếng của Phật giáo Việt Nam với các Thiền sư như Pháp Hiền, Thanh Biện, Định Không, La Quí, Pháp Thuận, Vạn Hạnh... Chùa Kiến Sơ: do Thiền sư Cảm Thành lập nên tại làng Phù Đổng, huyện Gia Lâm, Hà Nội, hiện còn thờ Thiền sư Vô Ngôn Thông và Lý Thái Tổ. Chùa Kiến Sơ đã là một trung tâm lớn của Phật giáo với dòng Thiền Kiến Sơ gồm những Thiền sư có tên tuổi như sau: Cảm Thành, Khuông Việt, Đa Bảo, Viên Chiếu, Mãn Giác, Thông Biện; Ngộ Ấn... Chùa Diên Hựu: được xây cất vào năm 1049 đời vua Lý Thái Tông. Về sự việc này, Đại Việt sử ký toàn thư viết: « Mùa đông tháng 10 dựng chùa Diên Hựu. Nguyên trước vua chiêm bao thấy Phật Quan Âm ngồi trên tòa sen, dắt vua lên tòa. Khi thức dậy, vua đem việc ấy nói với bề tôi. Có người cho là điềm không lành. Có sư Thiền Tuệ khuyên vua làm chùa, dựng cột đá giữa đất, làm tòa sen của Phật Quan Âm đặt trên cột, như đã

Page 108: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

107

thấy trong mộng. Cho các sư nhiễu quanh, tụng kinh cầu vua sống lâu. Vì thế gọi là chùa Diên Hựu » Về hình dạng kiến trúc thì chùa Một Cột được dựng trên một cột đá lớn, đứng sừng sững giữa một hồ nước vuông. Mái chùa lợp ngói, góc cong cong vươn lên như cánh hoa sen nở. Cột đá lớn nhô lên khỏi mặt hồ, khiến người ta liên tưởng đến một cọng sen nhô lên khỏi mặt nước. Hoa sen là hình ảnh tượng trưng cho tinh thần triết lý Phật giáo, cho nên có một bộ kinh quan trọng của Đại thừa mang tên Diệu pháp liên hoa. Mặc dầu nói rằng tất cả chúng sinh đều có Phật tính, nhưng nếu không có “ diệu pháp ”, tức phương tiện tốt thì cũng khó đắc quả; ngược lại nếu có “ diệu pháp ” thì cứu cánh sẽ dễ thành tựu hơn. Trong cuộc đời tu đạo, người ta ví lúc giác ngộ cũng giống như hoa sen nở tỏa ngát mùi thơm. Bản chất và hiện tượng, cứu cánh và phương tiện không rời nhau, có thể nói là không hai, không khác nhau cũng như hoa sen thành tựu, đơm bông, nở nhụy là nhờ bùn nước làm phương tiện. Vật chất với tinh thần là hai phương diện biểu hiện của một Thực tại, nguồn sống đại đồng. Hoa sen không những là hình ảnh tượng trưng tinh thần cho Phật giáo mà còn là tiêu biểu cho tinh thần thanh cao của dân tộc Việt Nam nữa, cho nên trong văn học bình dân có bài ca dao “Hoa sen” sau đây: “ Trong đầm gì đẹp bằng sen, Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng. Nhụy vàng bông trắng lá xanh, Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.” Trong “ Việt Nam văn học sử yếu ”, ông Dương Quãng Hàm xếp bài ca dao “ Hoa sen ” vào loại tả tư cách bậc quân tử, nhưng thật ra người ta thường dùng hình ảnh cây trúc, hoa mai để tượng trưng cho tinh thần của mẫu người này nhiều hơn. Theo ý kiến của chúng tôi như đã nói, hoa sen là hình ảnh tượng trưng cho tinh thần dân tộc Việt Nam và cho con người nói chung, tức là cho những ai có tinh thần thanh cao, chứ không riêng cho một giới nào cả. Bây giờ chúng ta thử so sánh ý nghĩa “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn ” từ hai quan điểm: Quan điểm Nho giáo: tức là quan điểm “ hòa nhi bất đồng ”. Với quan điểm này thì “ Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn ” có ý nói ngưòi quân tử mặc dầu sống hòa hợp với quần chúng bình dân nhưng vẫn giữ được tính thanh cao của mình. Ở đây chúng ta nhận thấy còn có sự phân cách giữa lớp người quân tử với quần chúng ở nông thôn, cho nên mới có câu nói có tính cách kỳ thị của giới Nho sĩ đã để lại ấn dấu sâu đậm trong văn học bình dân: “ Nôm na là cha mách qué ”

Page 109: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

108

Quan điểm Phật giáo: Thế giới hiện tượng, sự vật thiên hình vạn trạng chỉ là biểu hiện tác dụng của Thực tại duy nhứt cho nên bùn, nước với sen không mâu thuẫn, mà tất cả hòa hợp với nhau để cho sen đơm bông nở nhụy, tỏa hương thơm khắp ao hồ, đồng nội. Hoa sen nở, tỏa hương thơm là hình ảnh tượng trưng cho con người lúc giác ngộ. Sự giác ngộ ấy xảy ra chính ngay tại thế gian này chứ không đâu xa cả, cũng như hoa sen kia nở chính từ ao đầm bùn lầy nước đọng vậy. Đức Phật có dạy rằng: “ Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh ” và “ Ngươi là kẻ đang thành Phật, còn ta là kẻ đã thành Phật ”, nghĩa là ai cũng có thể giác ngộ thành Phật cả, chỉ có vấn đề là tùy theo công phu tu đạo mà có kẻ trước người sau. Ở đây chúng ta thấy nổi bật lên tính cách bình đẳng căn nguyên của tất cả chúng sinh. Hình ảnh hoa sen cũng được tìm thấy ở một bệ đá do các chuyên gia khảo cổ khai quật được vào khoảng giữa thế kỷ XX tại chùa Vạn Phúc. Mỗi mặt bệ đá có khắc hình lá Bồ đề với hình hoa sen ở giữa, hai bên là hình nhạc công sử dụng những nhạc khí, mỗi bên năm người. Qua hình ảnh đó, chúng ta thấy quan niệm về Phật là Phật tánh ở Tâm Bồ đề ai ai cũng có. Ngoài ra hình ảnh hoa sen, biểu tượng cho tinh thần Phật giáo còn được tìm thấy ở công trình kiến trúc ngôi chùa Một Cột lịch sử còn gọi là chùa Diên Hựu: cột chùa là hình ảnh cọng sen, mái chùa là hình ảnh hoa sen. Kiến trúc này cũng đồng thời kết hợp với nguyên lý âm dương sinh thành của vũ trụ quan Dịch: cột chùa tượng trưng cho nguyên lý dương, mái chùa tượng trưng cho nguyên lý âm. Hầu hết đình, chùa, lăng, miếu, cung điện đều được lợp bằng ngói âm dương: ngói dương lồi lên trong khi ngói âm lõm xuống tương phản, nhưng chúng kết hợp ăn khớp với nhau tạo thành những mái nhà vừa đẹp vừa bền chắc. Vũ trụ quan Dịch còn được thể hiện trong công trình kiến trúc kinh đô Thăng Long của vua Lý Thái Tổ vào năm1010. Theo như sự trích dẫn của Việt sử tân biên về bài nghiên cứu của ông Trần Huy Bá thì sơ đồ kiến trúc thành Thăng Long được mô tả như sau: “...Cái đường vòng chạy xung quanh nội thành biểu tượng cho Thái cực. Hai nhánh sông Tô Lịch, bên hữu có hồ Lãng Bạc là úng thủy, bên tả thông ra đường lưu thủy là sông Nhị Hà. Đó là biểu trưng cho Lưỡng nghi. Cung điện nhà vua ở giữa có bốn mặt đều nhau, ấy là Tứ tượng. Thêm bốn kiến trúc bốn cổng, ấy là Bát quái. Tất cả các đường bắt đầu từ vòng Thái cực mà đi chi chít không biết bao nhiêu, ấy là biến hóa vô cùng vậy...”

Page 110: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

109

Kinh Dịch, Hệ từ có viết: “ Dịch hữu Thái cực, thị sinh Lưỡng nghi. Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát quái.” (Dịch có Thái cực, rồi sinh hai nghi. Hai nghi sinh bốn tượng, bốn tượng sinh tám quẻ.) Thái cực là nguyên lý thuần nhất chưa phân chia, là nguồn sống vô hạn, là Bản thể của vũ trụ đại đồng. Bản thể ấy tự biểu hiện ra vật thể có thiên hình vạn trạng. Xem thế chúng ta thấy những công trình nghệ thuật kiến trúc khi xưa biểu hiện tính sáng tạo của dân tộc phối hợp với tư tưởng Phật giáo cũng như vũ trụ quan Dịch.

Thiền học nghệ thuật với công tác ngoại giao Khuynh hướng Thiền học nghệ thuật không những để lại cho hậu thế một nền văn học quý báu, mà còn có những đóng góp độc đáo trong lãnh vực ngoại giao, nêu cao danh dự, thể diện giống nòi và nhất là đã xây dựng được ý thức độc lập dân tộc. * Đại sư Khuông Việt (933-1011): Về Đại sư Khuông Việt, Thiền uyển tập anh viết: “ Năm Thiên phúc thứ bảy (986), người Tống là Nguyễn Giác sang sứ nước ta. Bấy giờ Pháp sư Đỗ Thuận cũng có tiếng tăm lừng lẩy. Vua sai Pháp sư cải trang làm người lái đò để nghinh đón Giác ở Giang Khúc. Giác thấy Pháp sư giỏi bàn văn chương, bèn đem thơ tặng, có câu: “ Ngoài trời lại có trời soi rạng ”. Vua đưa hỏi Sư. Sư thưa rằng: “ Đây nó muốn tôn kính Bệ hạ cùng với chúa nó không khác ”. Khi Giác trở về, Sư làm một bài từ nhan đề “Vương lang qui ” để tiển đưa: “ Trời lành gió thuận, gấm buồm dương Thần tiên về đế hương Muôn trùng vạn dặm biển mênh mang Trời xanh xa dặm trường Tình ray rứt chén lên đường Bịn rịn sứ tinh lang Nguyện đem thâm ý vì Nam bang Phân minh tâu Thượng hoàng.” ( Tường quang phong hảo cầm phàm trương Thần tiên phục đế hương Thiên trùng vạn lý thiệp thương lương Cửu thiên qui lộ trường Tình thảm thiết đối ly thương Phàn luyến sứ tinh lang

Page 111: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

110

Nguyện tương thâm ý vị Nam cương Phân minh tấu ngã hoàng.) Bài “ Vương lang qui ” của Đại sư Khuông Việt đã có một vị trí quan trọng trong lịch sử ngoại giao và văn học dân tộc.Phan Huy Chú cũng đã đánh giá cao: “ Khúc hát hay cũng đủ khoe có nhân tài, mà quốc thể thêm được tôn trọng, làm cho người Bắc phải khuất phục...” * Thiền sư Pháp Thuận ( 925-990 ): Về Thiền sư Pháp Thuận, Thiền uyển tập anh ghi: “ Năm Thiên phúc thứ bảy ( 986 ), người Tống là Nguyễn Giác sang sứ, vua sai Sư cải trang làm quan coi bến, để theo dõi hành động của y. Gặp khi có hai con ngỗng bơi trên sông, Giác ngâm chơi rằng: “ Song song ngỗng một đôi Ngửa mặt ngó ven trời.” (Nga nga lưỡng nga nga Ngưỡng diện hướng thiên nha) Sư đang cầm chèo, ngâm tiếp: “ Lông trắng phơi dòng biếc Sóng xanh chân hồng bơi ” ( Bạch mao phô lục thủy Hồng trạo bãi thanh nha ) Giác do thế thán phục. Vua thường đem vận nước dài ngắn hỏi Sư. Sư đáp: “ Vận nước như mây quấn Trời Nam mở thái bình Vô vi trên điện các Xứ xứ hết binh đao ” ( Quốc tộ như đằng lạc Nam thiên lý thái bình Vô vi cư điện các Xứ xứ tức binh đao ) Lê Quí Đôn sau này đã xưng tụng Đại sư Khuông Việt và Thiền sư Pháp Thuận như sau: “ Sư Thuận thi cú, Tống sứ kinh dị. Chân Lưu từ điệu, danh chấn nhất thời.” ( Câu thơ của sư Đỗ Thuận khiến sứ giả Tống kinh ngạc. Điệu ca của Chân Lưu nổi tiếng một thời.) * Bài thơ thần nổi tiếng “ Nước Nam sông núi ”( Nam quốc sơn hà ):

Page 112: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

111

Liên quan tới bài thơ trên có hai nguồn gốc khác nhau: Lĩnh Nam chích quái ghi: “ Triều hoàng đế Đại Hành nhà Lê năm Tân tỵ Thiên phúc thứ nhất ( 981 ), Tống Thái Tổ sai bọn tướng quân Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng đem quân xâm lược nước Nam, đến sông Đại Than. Vua Lê Đại Hành và tướng quân Phạm Cự Lượng đóng quân ở sông Đồ Lỗ để chống lại. Hai bên đối lũy giữ nhau. Vua Đại Hành ban đêm mơ thấy hai người thần ở trên sông... Đến đêm hôm sau, vua mơ thấy một thần nhân đem quỉ bộ áo trắng từ phía Nam Bình giang tới, và một vị thần nhân đem quỉ bộ áo đỏ từ sông Như Nguyệt xuống. Cả hai đều nhắm trại giặc mà đánh. Ngày 23 tháng 10 vào lúc canh ba của đêm, khí trời tối mịt, gió lớn mưa dồn nổ ra, quân Tống tan vỡ. Thần mập mờ đứng trên không trung, cao tiếng ngâm: “ Nước Nam sông núi vua Nam ở Rành rẽ phân chia tại sách trời Giặc nghịch sao nay dám đến phạm Chúng bây chuốc bại chắc ngay thôi.” ( Nam quốc sơn hà Nam đế cư Tiệt nhiên dĩ định tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư ) Đại Việt sử ký toàn thư lại ghi khác: “ Thế truyền rằng, Thường Kiệt dựng rào dọc sông để cố giữ. Một đêm quân sĩ bỗng nghe trong đền Trương tướng quân có tiếng to ngâm rằng: “ Nam quốc sơn hà Nam đế cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư ” Rồi quả sau như thế...” Hai bài thơ ghi lại ở trên giống nhau , chỉ hơi khác ở câu thứ hai: dĩ định và định phận. Như vậy hai bài thơ đó thật ra chỉ là một và nó có thể xuất hiện trong khoảng thời gian mà quân dân Việt Nam đối phó với sư đe dọa của nhà Tống, có nghĩa là từ thời vua Lê Đại Hành cho đến thời danh tướng Lý Thường Kiệt. Nội dung của bài thơ thần là một bản tuyên ngôn độc lập, xác nhận quyền làm chủ đất nước của người Việt Nam một cõi riêng biệt ở phương Nam, mà trong thực tế đã thực sự có độc lập, tự chủ từ thời Ngô, Đinh, Lê và khẳng định rằng không ai có quyền xâm phạm đến.

Page 113: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

112

Bài thơ thần xuất hiện đúng vào thời điểm mà đất nước cần củng cố niềm tin tất thắng cho toàn dân, toàn quân chống lại ý đồ xâm lược của đế quốc, và lần đầu tiên người Việt đã đưa ra phạm trù chính trị Nam-Bắc, xác định một chiến tuyến thật rõ ràng, dứt khoát. Thật vậy, vào năm 980 vua Tống là Triệu Khuông Nghĩa sai sứ là Lư Đa Tốn đem thư qua với lời lẽ đe dọa: “ Ta đang chuẩn bị xe ngựa, quân lính, sắp xếp các thứ chiêng trống, lành hay dữ, tự ngươi xét lấy.” Trước những lời đe dọa đó, triều đình và quân dân nước Nam không hề nao núng, muôn người như một đoàn kết thành một khối thống nhất cương quyết bảo vệ Tổ quốc. Kết quả là vua Lê Đại Hành và quân dân nước Nam đã chiến thắng vẻ vang, chém được tướng giặc là Hầu Nhân Bảo tại trận, bắt sống bọn Quách Quân Biện, Triệu Phụng Quân...phá vở ý chí xâm lược của nhà Tống. Về sau danh tướng Lý Thường Kiệt khi đem binh phạt Tống, cắm trại dọc theo sông Như Nguyệt, một đêm cũng nghe tiếng đọc to bài thơ thần “ Nam quốc sơn hà ” như đã nói ở trên. Đó là bản tuyên ngôn độc lập mà cũng là bài hịch động viên tinh thần binh sĩ trước khi ra trận và kết quả là đội quân tinh nhuệ của Lý thường Kiệt đã phá tan được quân Tống với quân số gấp bội cho nên trong dân gian có lưu truyền câu ca dao: “ Nực cười châu chấu đá xe Tưởng rằng chấu ngã ai dè xe nghiêng.” Bia Linh xứng do Hải Chiếu đại sư viết ghi lại công trạng của Lý Thường Kiệt, nhân vật tiêu biểu của thời đại như sau: “ Việt có Lý Công Theo dấu người cổ Coi quận yên dân Đánh đâu được đó Tiếng động cõi xa Danh lừng trung thổ Định phúc chốn này Qui sùng Phật tổ.” ( Việt hữu Lý công Cổ nhân chuẩn thức Mục quận ký ninh Chưởng sư tất khắc Danh dương cực hạ Thanh chấn hà vực Tông giáo qui sùng

Page 114: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

113

Cảnh phúc thị thực)

Thiền học tượng số, tiên tri, sấm vĩ Một khuynh hướng khác của Thiền tông là khuynh hướng tượng số, tiên tri, sấm vĩ. Phật giáo Thiền tông chuyên về đường tu luyện khả năng trực giác giác ngộ của con người, nếu đem cái trực giác ấy áp dụng vào Dịch học thì tượng số biến thành lời sấm tiên tri điềm lành dữ, vận nước ngắn dài. Do yêu cầu thực tiển của thời đại mà môn khoa học huyền bí này được triệt để khai thác trong các cuộc vận động chánh trị giúp nước. Những thiên tài trong lảnh vực này gồm có: Định Không, La Quý, Vạn Hạnh... Nói về Thiền sư Định Không ( ?-808 ), Thiền uyển tập anh ghi: “ Chùa Thiền Chúng, làng Dịch Bảng, Phủ Thiên Đức. Người Cổ Pháp, họ Nguyễn, mấy đời vọng tộc. Sư là người am hiểu thế số, hành động đúng phép tắc. Người trong nhà tôn thờ, đều gọi là trưởng lão. Về già, Sư đến Pháp hội của Nam Dương ở Long Tuyền, nghe giảng, hiểu được ý chỉ, do đó sư phát tâm theo Phật. Trong khoảng Đường Trinh Nguyên (785-804), Sư lập chùa Huỳnh Lâm ở làng mình. Khi mới đào đất đắp nền, gặp một lư hương và mười cái khánh. Sư sai người đem xuống sông rửa. Một cái lặn mất đi, đến đáy sông mới dừng. Sư giải thích rằng: chữ thập, chữ khẩu hợp thành chữ Cổ; chữ thủy, chữ khứ hợp thành chữ Pháp; chữ thổ chỉ chỗ ta ở, chỉ đất đai làng này. Nhân đó, Sư đổi tên làng mình làm Cổ Pháp. Sư lại làm bài tụng rằng: “ Đất bày pháp khí

Một món đồng ròng Để Phật pháp được hưng long Đặt tên làng là Cổ Pháp.” ( Địa trình pháp khí Nhất phẩm tinh đồng Trí Phật pháp chi hưng long Lập hương danh Cổ Pháp )

Sư lại nói : « Hiện ra pháp khí Mười cái chuông đồng Họ Lý làm vua Ba phẩm thành công. » (Pháp khí xuất hiện

Page 115: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

114

Thập khẩu đồng chung Lý hưng vương Tam phẩm thành công) Sư lại nói : « Mười cái xuống nước đất Cổ Pháp đấy tên làng Gà sau tháng chuột ở Chính lúc tam bảo hưng » (Thập khẩu thủy thổ khứ Cổ pháp danh hương hiệu Kê cư loan nguyệt hậu Chính thị hưng Tam bảo) Khi sắp tịch, Sư gọi đệ tử Thông Thiện dạy rằng : « Ta muốn mở rộng làng xóm, nhưng e nửa chừng gặp tai họa, chắc có kẻ lạ đến phá hoại đất nước ta. Sau khi ta mất, con khéo giữ pháp này, gặp người họ Đinh thì truyền, nguyện ta mãn vậy. » Nói xong, Sư cáo biệt mà tịch, thọ 79 tuổi. Lúc ấy là năm Mậu Tý Đường Nguyên Hòa thứ 3 ( 808 ). Thông Thiện dựng tháp ở phía tây chùa Lục Tổ và ghi lời phú chúc của Sư mà chôn giấu đi. » Tiểu sử trên cho thấy Thiền sư Định Không là người am hiểu thế số. Điều này không có gì lạ cả vì môn Thiên văn đồ vĩ đã có ở nước ta từ lâu bên cạnh nền giáo dục của Phật giáo và đã có những vị Thiền sư xuất sắc trong lảnh vực này, mà Định Không là một trong những người đó. Những lời sấm tiên tri của Định Không không thể giải thích theo lý lẽ nhân quả được. Những sự kiện tiên tri có tính cách phi lý, chỉ có thể qui về hiện tượng cảm ứng, định luật đồng bộ phi nhân quả mà thôi. Định Không lúc nào cũng ấp ủ một hoài bảo về nền độc lập vững bền cho Tổ quốc và Phật giáo hưng thịnh. Hoài bảo ấy càng ngày càng tràn đầy trong tiềm thức, thế cho nên những sự kiện về những chiếc khánh kia đã gọi lên ở tinh thần Định Không trực giác về Thực tại tuyệt đối, nguồn sống đại đồng vượt không gian, thời gian làm xuất hiện khả tính tiên tri thần bí. Định Không đã đề xướng chủ thuyết « Địa linh nhân kiệt » cho rằng đất nước này có khí tượng đế vương, có thể xuất hiện những bậc anh tài làm chủ đất nước và Phật giáo được hưng thịnh. Nói về La Quý, Thiền uyển tập anh ghi : « Trưởng lão La Quý chùa Song Lâm, hương Phủ Ninh ; phủ Thiên Đức, người An Chân, họ Đinh. Thuở nhỏ vân du các phương, học hỏi khắp ở các bậc Thiền đức. Trải qua nhiều năm không gặp duyên đạo, bèn sắp thối chí. Sau tại pháp hội của

Page 116: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

115

Thông Thiện ở chùa Thiền Chúng, nghe nói một lời, lòng liền khai ngộ, bèn chịu phục thờ làm thầy. Khi Thiện sắp tịch, gọi Sư đến dạy : « Xưa thầy ta là Định Công căn dặn ta rằng : con khéo giữ pháp của ta, gặp người họ Đinh thì truyền. Con đúng là người đó. Ta nay đi vậy. » Khi đã đắc pháp, Sư tùy phương diễn hóa, chọn đất dựng chùa. Mỗi khi nói ra lời nào, tất là phù sấm. Sư có lần ở chùa Lục Tổ, đúc tượng Lục Tổ bằng vàng, sau sợ trộm lấy đi, bèn đem chôn ở cửa chùa và dặn : « Gặp vua sáng lấy ra, đụng chúa tối giấu đi. » Khi sắp tịch, Sư bảo đệ tử Thiền Ông rằng : « Xưa kia, Cao Biền xây thành bên sông Tô Lịch, biết đất Cổ Pháp ta có khí tượng đế vương, nên đã đào đứt con sông Điềm và những ao Phù Chẩn đến 19 chỗ để trấn yểm. Nay ta đã khuyên Khúc Lãm lấp lại như xưa. Lại nữa, ở chùa Châu Minh ta có trồng một cây bông gạo để trấn chỗ đứt, biết đời sau ắt có kẻ hưng vương ra đời để phò dựng Chánh pháp của ta. Sau khi ta tịch, con khéo xây một ngọn tháp bằng đất, dùng phép yểm giấu trong đó, chớ cho người thấy. » Nói xong Sư tịch, thọ 85 tuổi. Lại kể rằng, vào năm Bính thân đời Đường Thanh Thái thứ 3 ( 936 ), Sư trồng cây bông gạo, thường có bài kệ rằng : « Đại sơn đầu rồng ngẩng Đuôi cù ẩn Châu Minh Thập bát tử định thành Bông gạo hiện long hình Thỏ gà trong tháng chuột Nhất định thấy trời lên.” ( Đại sơn long đầu khởi Cù vĩ ẩn Châu Minh Thập bát tử định thành Miên thọ hiện long hình Thố kê thử nguyệt nội Định kiến nhật xuất thanh ) La Quý đã kế thừa tư tưởng của Định Không, hoàn thành những nhiệm vụ cẩn mật được giao phó, tạo điều kiện thuận lợi “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” để cho minh chúa ra đời. La Quý cũng đã cho Khúc Lãm phá vỡ kế hoạch trấn yểm mạch đất của Cao Biền, người mà Định Không đã tiên đoán sẽ đến phá đất nước ta. Quả vậy, vào năm 865 Cao Biền sang nước ta theo lệnh của vua Đường: « Trẫm nghe An Nam có nhiều ngôi đất thiên

Page 117: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

116

tử, ngươi tinh thông về địa lý, nên hết sức yểm đi và vẽ hình thế đất ấy đem về cho trẫm xem. » Vua Đường đánh giá An Nam có nhiều « ngôi đất thiên tử » nên đã ra lệnh Biền dùng thủ đoạn trấn yểm mạch đất nhằm khủng bố tinh thần dân Việt và đè bẹp ý chí đấu tranh của họ. Thực hiện ý đồ đó, Cao Biền đánh chiếm Việt Nam vào năm 865. Y cho đắp lớn thành Đại La để phòng ngừa quân khởi nghĩa tấn công. Sau đó y lại cho đào nhiều kênh lạch để tiện đường vận chuyển quân lương phục vụ cho mưu đồ thống trị lâu dài nơi đây. Về sự kiện đó sách « Việt sử tân biên » viết như sau: « Trong thành có tới 40 vạn nóc nhà. Sự sống của nhân dân rất là sầm uất. Ông(Cao Biền) lại khai phá ghềnh thác để mở rộng đường thủy cho các tàu bè buôn bán đi lại. » Như vậy là người viết sử ca tụng Cao Biền, người đã bắt hàng vạn dân Việt đổ mồ hôi, xương máu, nước mắt để thực hiện những công trình đó. Hành động đó của Biền rất thâm, bắt người dân bị trị tự xây nhà tù kiên cố để tự nhốt lấy mình, rèn những sợi dây xích sắt chắc chắn để tự cột lấy mình. Ngoài ra Biền còn đi khắp nơi quan sát, đánh giá các mạch đất để trấn yểm, trong đó có việc « đục đứt sông Điềm và ao Phù Chẩn » như đã nói. Trong khi đó, về phía Việt Nam, Định Không đã cho phổ biến chủ thuyết « địa linh nhân kiệt » cũng tương đồng với tư tưởng tiếp theo sau đó « Tây thiên đất này, đất này Tây thiên » của Vô Ngôn Thông, rồi được La Quý tiếp tục khai triển, khẳng định đất nước này có thể sản sinh những bậc anh tài có đủ khả năng bảo vệ độc lập, xây dựng đất nước và cũng đủ sức đánh tan mọi cuộc xâm lăng bất cứ từ đâu đến. Nói về Thiền sư Vạn Hạnh ( ?-1025 ), Thiền uyển tập anh ghi: « Chùa Lục Tổ, làng Dịch Bảng, Phủ Thiên Đức. Người Cổ Pháp, họ Nguyễn. Gia đình đời đời thờ Phật. Thuở nhỏ Sư đã khác thường, gồm thông ba học, nghiên cứu trăm luận, xem thường công danh. Năm 21 tuổi xuất gia, cùng với Định Huệ thờ Thiền Ông chùa Lục Tổ làm thầy. Ngoài lúc hầu hạ, Sư học tập quên cả mệt mỏi. Sau khi Thiền Ông viên tịch, Sư chuyên tập pháp môn Tổng trì tam ma địa, lấy đó làm việc riêng mình. Bấy giờ Sư nói ra lời nào thiên hạ đều cho là phù sấm. Hoàng đế Lê Đại Hành hết lòng tôn kính Sư. Năm Thiên Phúc thứ 1 ( 980 ) tướng Tống là Hầu Nhân Bảo kéo quân sang cướp nước ta, đóng quân tại Cương Giáp, Lãng Sơn. Vua mời Sư đến, đem chuyện thắng bại ra hỏi, Sư đáp: « Trong vòng ba, bảy ngày giặc phải lui ». Sau quả nhiên như thế.

Page 118: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

117

Đến khi vua muốn đánh Chiêm Thành, việc bàn định chưa dứt khoát, Sư tâu: « Xin mau cất binh, nếu không ắt mất cơ hội ». Sau đánh quả nhiên thắng trận. Thường có kẻ gian là Đổ Ngân, muốn mưu hại Sư. Khi việc chưa phát, Sư biết trước, đưa cho y một bài thơ: « Cây đất sinh nhau bạc với vàng Cớ sao cừu nghịch mãi cưu mang Bấy giờ năm miệng hồn thu dứt Thật đến về sau chẳng hận lòng » ( Thổ mộc tương sinh ngân bạn kim Vi hà mưu ngã uẩn linh khâm Đương thời ngũ khẩu thu tâm tuyệt Chân chí vị lai bất hận tâm ) Ngân sợ liền thôi. Ấy, tài tiên tri vãng giám của Sư đại loại như thế. Bấy giờ Ngọa Triều bạo ngược, trời người oán ghét. Lý Thái Tổ khi ấy giữ chức Thân vệ, chưa lên ngôi. Trong khoảng thời gian này, những điềm xấu tốt xuất hiện lẫn lộn nhau. Như viện Hàm Toại chùa Ứng Thiên Tâm, châu Cổ Pháp có con chó trắng, lông trên lưng kết thành chữ “ Thiên tử ”. Sét đánh vào cây bông gạo để lại dấu chữ. Ngôi mộ Hiển Khánh đại vương, bốn bề đêm nghe có tiếng đọc tụng. Cây đa chùa Song Lâm sâu ăn vỏ, thành nét chữ “ Quốc ”. Ấy đại khái những việc mà tùy theo chỗ tai nghe mắt thấy Sư đã xét bàn thì mỗi mỗi đều phù hợp với điềm Lê diệt, Lý hưng. Vì vậy, ngày Lý Thái Tổ lên ngôi, Sư ở tại chùa Lục Tổ đã biết trước, bảo với người bác và người chú của vua rằng: « Thiên tử đã băng, Lý Thân vệ hiện đang ở nhà, tay chân họ Lý túc trực trong thành lên tới số ngàn.Trong trưa này,Thân vệ ắt lên được ngôi » Rồi yết bảng ở đường cái nói rằng: « Tật Lê chìm bể Bắc Hạt Lý mọc trời Nam Bốn phương gươm giáo lặng Tám cõi mừng bình an ». ( Tật lê trầm Bắc thủy Lý tử thọ Nam thiên Tứ phương can qua tỉnh Bát biều hạ bình yên ) Hai vương nghe nói rất sợ, sai người đi hỏi tin tức, quả đúng như lời Sư nói.

Page 119: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

118

Đến ngày 15 tháng 5 năm Thuận Thiên thứ 16 (1025), Sư không bệnh nói bài kệ: « Thân như bóng chớp có rồi không Cây cỏ xuân tươi thu héo hon Theo vận thịnh suy không hãi sợ Thịnh suy đầu cỏ tựa phơi sương » ( Thân như điện ảnh hữu hoàn vô Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô Nhậm vận thịnh suy vô bố uý Thịnh suy như lộ thảo đầu phô ) Rồi Sư dạy đệ tử rằng: « Các con muốn đi đâu? Thầy không lấy chỗ trụ để trụ, không nương vào chỗ không trụ để trụ » Nói xong giây lát thì tịch. Vua và sĩ thứ làm lễ trà tỳ, lượm cốt dựng tháp để thờ. Lý Nhân Tông thường có bài kệ truy tặng rằng: « Vạn Hạnh dung ba cõi Thật hiệp lời sấm xưa Quê hương tên Cổ Pháp Chống gậy trấn kinh vua » ( Vạn Hạnh dung tam tế Chân phù cổ sấm thi Hương quan danh Cổ Pháp Trụ tích trấn vương kỳ ) Theo như tiểu sử ghi trên, lúc nhỏ Vạn Hạnh theo đuổi tam học tức là học thuyết ba tôn giáo lớn của thời đại ở Đông phương là Phật, Lão, Nho. Trong giai đoạn đầu của sự học, việc tiếp thu có tính cách giáo điều, chưa có ý thức phản tỉnh, phê phán, cho nên ở phương diện nào đó thấy có sự mâu thuẫn giữa ba tôn giáo đó. Đến khi nghiên cứu Bách môn luận của Aryadeva, đệ tử của Long Thọ ( Nagajuna ) Vạn Hạnh đã áp dụng phương pháp biện chứng trực giác, phủ định tất cả hiện tượng hình, danh, sắc, tướng, tiến đến Thực tại tuyệt đối, không còn lệ thuộc vào điều kiện nhân duyên, không gian, thời gian. Nhưng phủ định ở đây không phải chỉ trên bình diện danh lý, khái niệm của lý trí suy luận, mà bằng cả thái độ sống với tâm thân để thực hiện Chân không ( Sunyata ). Đạt đến trạng thái này thì mọi mâu thuẫn biến mất. Tiếp theo đó, Vạn Hạnh chuyên tập pháp môn Tổng trì tam ma địa ( Samadhi ), tức là trạng thái siêu thức của nhà Phật đạt được bằng phép Thiền định. Đến đây, Thiền sư đã thực hiện được Tâm vô niệm nhất quán là Bản thể tâm linh vũ trụ, tức nguồn sống liên tục, không còn có quá khứ, hiện tại, tương lai nữa, mà hiện tại cũng là quá

Page 120: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

119

khứ, cũng là tương lai. Lúc ấy, Thiền sư đã có được thần thức, có thể đoán trước những điều sắp xảy ra: « Thần dĩ tri lai, trí dĩ tàng vãng » ( kinh Dịch ) Vạn Hạnh đã sử dụng khả năng siêu thức này vào việc tiên tri về chuyện lành dữ, vận nước thịnh suy, vận động chính trị phụng sự dân tộc. Vào thời kỳ ấy, mặc dầu đất nước đã thực sự có độc lập, có được những thành quả vẻ vang như Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng ( 939 ), Đinh Tiên Hoàng thống nhất 12 sứ quân ( 968 ) và Lê Đại Hành chiến thắng quân Tống tại Lạng Sơn, tuy nhiên ba triều đại này không được lâu bền vì nền tảng chưa được củng cố vững chắc. Thật vậy Ngô Quyền sống không lâu, Đinh Tiên Hoàng bị gian thần Đổ Thích ám sát, còn Lê Đại Hành sau khi băng hà các con xâu xé, tranh giành nhau. Long Việt mới lên ngôi được ba ngày bị em là Lê Long Đĩnh giết chết, cướp ngôi. Đại Việt sử ký toàn thư có ghi lại bài sấm sau đây vào năm 974: « Đổ Thích giết Đinh Đinh Nhà Lê nổi thánh minh Tranh nhau nhiều quỉ dữ Đường xá người vắng tanh Mười hai xưng đại vương Mười ác không một lành Thập bát tử lên tiên Kể hai chục ngày liền. »

( Đổ Thích thí Đinh Đinh Lê gia xuất thánh minh Cạnh đầu đa hoằng quỉ Đạo lộ tuyệt nhân hành Thập nhị xưng đại vương Thập ác vô nhất thiện Thập bát tử đăng tiên Kế đô nhị thập thiên )

Nội dung bài sấm nói Đổ Thích giết vua Đinh, Lê Đại Hành là thánh minh, có 12 người con thì 10 người là ác. Rồi thì nhà Lý sẽ lên ngôi thay thế nhà Lê. Bài sấm đó xuất hiện vào năm 974, thời điểm mà Lý Công Uẩn vừa mới ra đời, có liên quan đến lời sấm tiên tri của Định Không khoảng 200 năm về trước: « Họ Lý hưng vương » ( Lý hưng vương ) ( Định Không )

Page 121: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

120

với « Thập bát tử lên tiên » ( Thập bát tử đăng tiên ) trong đó « Thập bát tử » = Lý Chúng ta nhận thấy chủ nghĩa « địa linh nhân kiệt » của Định Không được La Quý tiếp nối và đến Vạn Hạnh thì hoài bảo của Định Không có triển vọng trở thành hiện thực. Vốn sẵn có dự kiến cho nên vừa ngay khi gặp Lý Công Uẩn lần đầu tiên, Vạn Hạnh đặc biệt chú ý ngay như Đại Việt sử ký toàn thư ghi: « Lúc còn trẻ thơ, đến học ở chùa Lục Tổ, Sư Vạn Hạnh thấy khen rằng: Đây là ngưòi phi thưòng, sau khi lớn lên, tất có thể giải quyết rối rắm, mà làm minh chúa của thiên hạ » Vạn Hạnh đã nuôi nấng, ra sức dạy dỗ Lý Công Uẩn trở thành người tài đức kiêm toàn, sửa soạn dư luận cũng như sắp xếp kế hoạch để chuẩn bị đưa Lý Công Uẩn lên làm vua. Ở bất cứ thời đại nào cũng vậy, người lãnh đạo cũng cần hội đủ cả hai đức tính tài và đức. Có như thế, đất nước mới mong được hưng thịnh, vững bền; còn nếu chẳng may gặp phải hôn quân, bạo chúa, triều thần tham nhũng, gian ác thì đất nưóc bị kiệt quệ và nguy cơ mất nước sẽ không xa. Các vị Thiền sư thời đó đã có một quan niệm hết sức rộng rãi về vấn đề trung quân ái quốc, không chủ trương ủng hộ một dòng họ nào nhất định, mà chỉ lấy tiêu chuẩn tài đức làm đầu. Các vị Thiền sư đó có tầm mắt nhìn xa, thấy rộng, quan tâm đến tiền đồ và tương lai của Tổ quốc, khẳng định rằng nền độc lập chỉ vững bền khi đất nước có minh quân, triều thần là những người có tài, có đức, nhân dân có tinh thần đoàn kết, có quyết tâm xây dựng đất nước giàu mạnh, bảo vệ hữu hiệu nền độc lập, tự chủ và nhất là đặc biệt chú trọng nâng cao văn hóa, chấn hưng đạo đức luân lý. Thiền sư Vạn Hạnh kiên trì theo đuổi lý tưởng này cho nên ngoài việc tu hành, Sư lúc nào cũng nổ lực vận động trên mọi lảnh vực và sau đó đã cùng với quần thần trong đó có Đào Cam Mộc đưa Lý Công Uẩn lên ngôi thành công vào năm 1010, mở đầu một thời kỳ thịnh trị lâu dài.

Page 122: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

121

Ma thuật thần thông Một khuynh hướng khác nữa của Thiền tông là khuynh hướng ma thuật thần thông, do ảnh hưởng tư tưởng Mật tông ( Tantrismus ) và phép luyện khí trường sinh của Lão giáo. Ở Mật tông, người ta quan niệm trong thân thể con người có một trung tâm năng lực nguyên khí ( Kundalini ) tập trung tại đan điền, được tượng trưng bằng con rắn quấn khúc. Năng lực ấy khi thức tỉnh sẽ ngoi theo đường xương sống lên đến não nở thành đóa hoa sen. Lúc ấy năng lực nguyên khí này từ bình diện sinh lý chuyển sang bình diện tâm lý, tâm linh thăng hoa thành những quyền năng phi thưòng. Như vậy vấn đề là làm sao đánh thức con rắn ấy dậy, kêu gọi nguyên khí tiềm tàng ấy để chuyển hóa nó. Còn ở Lão Tử, thuật trường sinh dựa vào tư tưởng: « Chưa biết phối hợp trống mái mà giữ được trọn vẹn tác động, ấy là tinh khí cùng cực vậy » ( Vị tri tẫn mẫu chi hợp nhi toàn tác tinh chi chí dã ) ( ĐĐ kinh ). Khi đã luyện được thuật này thì ngưòi ta có những quyền năng thần thông: « Ai biết cái đạo nhiếp sinh, Đi đường không gặp tê giác, hổ báo, Vào trận không mặc binh giáp, Tê giác không chỗ để húc, Hổ báo không chỗ để vồ, Binh khí không chỗ đâm phạm. Tại sao vậy? Vì ở người ấy không có chỗ chết nữa » (Cái văn thiện nhiếp sinh giả, Lục hành bất ngộ tỷ hổ, Nhập quân bất bị giáp binh, Tỷ vô sở đầu kỳ giác, Hổ vô sở thố kỳ trảo, Binh vô sở dung kỳ nhẫn. Phù hà cố? Dĩ kỳ vô tử địa.) (ĐĐ kinh. Chương 50) Theo khuynh hướng này có các Thiền sư Ma Kha, Giác Hải, Minh Không, Đại Điên, Từ Lộ, đạo sĩ Thông Huyền… Sách « Nam Ông mộng lục » của Lê Trừng viết về sự tích « Minh Không thần dị » có đoạn như sau: « …Thế tử năm nhỏ tuổi bỗng lông mọc đầy mình, nhảy nhót gầm thét, đầu mặt dần dần biến thành hổ. Vua cho tìm khắp nơi thầy thuốc, thầy

Page 123: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

122

cúng, nhà Sư Đạo sĩ, hết thảy đều bó tay. Nghe tiếng Minh Không có pháp thuật, sai Sứ đi thuyền đến mời… Đến khuya xuống thuyền, Sư bảo Sứ giả và thủy thủ nên ngủ say một giấc chờ mặt trăng lên Sư sẽ gọi dậy kéo buồm, không thế thì Sư không đi. Sứ giả khẩn khoản thỉnh cầu không được, đều xuống thuyền nằm giả vờ ngủ. Chỉ thấy thuyền lướt gió vút vút di chuyển. Đến lúc trăng lên, Sư gọi dậy thì thuyền đã đậu ở bến sông Kinh đô, trải qua hơn 300 dặm rồi vậy. Sư bay vào trong cung, đem nước để tắm rửa cho Thế tử, liền tay lông tuột đi, thân thể trở lại bình an. Vua hỏi lý do. Sư nói: - Người tu hành chỉ một ý niệm sai lầm, sám hối tẩy trừ đi là khỏi, không khó khăn gì. Vua lại hỏi, nhà Sư được phép thần thông gì mà có thể đi trên không? Sư nói : - Không phải, thần vốn có bệnh phong*, gặp lúc phát ra, không còn thấy muôn hình tượng, không biết gì là không trung, bèn cứ tin thế mà đi vậy. Chẳng có thần thông gì cả » ( * tương tự như trường hợp Ramakrishna, một tu sĩ đắc đạo ( 1836- 1886 ) ở Ấn Độ có thiên tư về phương diện sinh lý và tâm lý có khả năng xuất thần nhập hóa, nhập định ) Về thuật phi hành này cũng tương tự khả năng tiên tri như đã nói, một đàng thuộc về phương diện không gian, còn một đàng thuộc về phương diện thời gian mà thôi. Một người khi đã đắc đạo rồi thì tâm cá nhân nối liền với tâm vũ trụ trong một Nhất tâm, thế giới hiện tượng, sự vật đa thù qui về một Thực tại tuyệt đối duy nhất, tính tương đối của thời gian, không gian biến mất, nghĩa là quá khứ, vị lai qui về một hiện tại liên tục; khoảng cách không gian cũng không còn nữa ( khoảng cách hơn 300 dặm mà dường như trong gang tấc). Đó là trạng thái xuất thần nhập hóa. Nói tóm lại, với thần thức thì tương lai thu về hiện tại, nên người ta có thể tiên tri và với thần thông thì không gian không còn ngăn cách, nên người ta ở đây cũng là ở đó trong khoảnh khắc. Đó là lối giải thích theo siêu thức, còn ở bình diện ý thức thì những câu nói của Lão Tử cũng như câu trả lời vua của Minh Không nên hiểu theo nghĩa bóng bẩy của nó chứ, nếu tin như thật thì là mê tín, dị đoan. Khuynh hướng pháp thuật thần thông phổ biến một thời. Nó đưa đến hai tác dụng nghịch chiều với nhau: khi tinh thần con người lành mạnh thì tín ngưỡng chân chánh hướng thượng, khi tinh thần con người đồi trụy thì tín ngưỡng lâm vào vòng mê tín, bất chính. Cái không khí tín ngưỡng mê tín, pháp thuật bất chính đã tràn ngập trong triều đình cuối thời nhà Lý kể từ Lý Cao Tông. Việt sử lược có kể một câu chuyện như sau:

Page 124: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

123

« Mùa thu( 1187 ) có một Sư người Tây Vực đến. Vua hỏi Sư biết làm phép gì, Sư trả lời: « Biết giáng hổ » Vua sai tên Chỉ hầu phụng ngự Lê Năng Trường đem Sư về nhà công quán ở, sai người bắt hổ để thử pháp thuật của Sư. Hơn một tuần sau, Sư nói với Năng Trường rằng hổ ấy có thể phục được. Năng Trường tâu vua. Vua sai dựng chuồng ở gác Vĩnh Bình, rồi sai nhà Sư vào trong chuồng. Sư vừa đi rén rén bước một vừa đọc chú, bước về phía hổ, lấy gậy đánh vào đầu nó. hổ chồm lại vồ lấy gậy. Sư nhân đó tâu với vua rằng: « Có người ác đã giải mất phép chú của thần, xin lại lập đàn cầu Phật, nhiên hậu sẽ thi hành phép thuật » Vua y lời, Sư lại lập đàn cầu đảo. Vua muốn thử phép thuật đến cùng. Một hôm vua sai Sư lại vào chuồng hổ, hổ bèn nhảy chồm lên cào thét. Sư sợ hãi lùi lại, không biết làm thế nào, bèn tựa chuồng mà chết » Việt sử lược cũng lại kể: « Vua tính sợ sấm, mỗi khi sấm động thì sợ hải. Có tên cận thần là Nguyễn Dư nói rằng có phép giáng sấm. Gặp khi có tiếng sấm nổ, vua sai Dư giáng sấm. Dư ngững mặt lên trời đọc chú. Tiếng sấm càng lớn. Vua hỏi vặn việc đó, Dư nói rằng: « Thần răn nó đã lâu, nào ngờ nó còn cường bạo như thế đó! » Tinh thần cuối thời Lý đến giai đoạn quá suy nhược cho đến nổi Huệ Tông vừa nối ngôi Cao Tông đã thối chí muốn bỏ ngôi vua đi tu: « Trẫm là người đức bạc thẹn với cơ đồ quí báu, đến nỗi loạn ly, gần sụp đổ mất cơ nghiệp của người xưa, để cho cung giá phải nhiều lần dời đổi. Nay trẫm muốn thối lui nhường ngôi trời cho người hiền đức » . Nói đoạn Vua cầm dao định cắt tóc » ( Việt sử lược ) Đó là đại khái tình trạng suy đồi, chìm đắm trong mê tín vào cuối thời nhà Lý. Ông Ngô Thời Sĩ có viết trong « Việt sử tiêu án » như sau: « Kinh Dịch nói rằng, gặp phải vị vua âm nhu, tất phải có bầy tôi dương cương để mà giúp đở, mới làm nên việc » Nếu tất cả triều thần đều gian nịnh như Nguyễn Dư thì thật là tai họa cho đất nước, nhưng may thay lúc đó cũng còn có những con người cương trực như Trần Thủ Độ, xuất hiện đúng lúc để cứu nguy tình thế, chuyển từ nhà Lý đang trong cơn suy thoái trầm trọng sang nhà Trần để thoát khỏi cơn khủng hoảng, bế tắc, tạo một sinh khí mới cho đất nước. Về việc thay đổi quyền lực chính trị thời đại Lý-Trần, chúng ta nhận thấy có một đặc điểm nổi bật là quan niệm về lòng trung quân ái quốc, không giống với các thời đại sau này khi tư tưởng Nho giáo trở thành độc tôn, nhứt là tư tưởng Tống Nho hẹp hòi tôn quân triệt để, quan niệm cực đoan: « Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung » hay « Trung thần bất sự

Page 125: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

124

nhị quân » từ bao đời trước bên Tàu được các hủ Nho cố chấp ghi lòng tạc dạ. Về thang giá trị thì thời đại Lý-Trần đã đặt lòng trung quân ở bên dưới lòng ái quốc, nghĩa là lòng trung quân được xem là phương tiện, còn lòng ái quốc mới là cứu cánh, trong khi các triều đại về sau thì ngược lại xem lòng yêu nưóc chỉ là phương tiện, là cái cớ để bó buộc con ngưòi tôn sùng một cá nhân, một dòng họ, một đảng phái. Theo tính qui luật, đường hướng nào hợp với Đạo, thuận với lẽ tự nhiên thì thông, còn trái lại sẽ bị bế tắc. Nếu Vạn Hạnh là một Thiền sư học giả uyên thâm, đã sử dụng tài trí, trực giác giác ngộ, vận dụng khả năng tiên tri, phù sấm vào cuộc vận động chính trị đưa Lý Công Uẩn lên ngôi vua, chấm dứt thời kỳ đồi trụy của Lê Ngọa Triều, thì Trần Thủ Độ ngược lại chỉ là con người ít học, nhưng giàu nghị lực, cương trực, ý chí sắt thép, đôi khi tàn bạo với triết lý hành động bình dân « nhổ cỏ, phải nhổ cho tận gốc » đã dùng mưu chước để chấm dứt một tình trạng u tối, mê hoặc ở cuối triều Lý, đưa nhà Trần lên để tạo một khí thế mới cho dân tộc. Thủ Độ là người có tinh thần quốc gia, dân tộc cao, đặt hết tin tưởng vào tiền đồ của Tổ quốc, đã để lại trong lịch sử một câu nói đáng ghi nhớ khi vua Trần Thái Tông lộ vẻ nao núng, lo âu trước làn sóng xâm lăng đầu tiên của quân Mông Cổ:“ Đầu thần còn đây chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo ngại „ Ông là một nhà hành động thực tiễn, với phương tiện nào cũng được cho dù tàn bạo, trái với luân thường đạo lý miễn là đạt được mục đích. Thủ Độ đã làm những điều tàn ác như bức tử Huệ Tông, chôn sống tôn thất nhà Lý, ép vua lấy vợ của anh là Trần Liễu lập lên làm Hoàng hậu. Mặc dầu với vài hành động trái nhân luân như vậy, Thủ Độ vẫn được xem là một người có công lớn đối với quốc gia, dân tộc, đối với nhà Trần, đã được Ngô Thời Sĩ bình luận như sau trong Việt sử tiêu án: « Thủ Độ tuy không học vấn gì, nhưng có tài lược hơn người, thân làm Tể tướng, việc gì cũng để ý, vì thế mà giúp vua gây dựng nên vương nghiệp, giữ trọn vẹn công danh; vua Thái Tông làm văn bia ở sinh từ trọng đãi một cách đặc biệt » Về mặt tư tưởng triết học, nhà Trần tiếp tục khai triển tinh thần Tam giáo đã có từ đời nhà Lý, nhưng với một sắc thái đặc biệt nhập thế, tích cực hơn, với mức độ mạnh mẻ hơn. Người có công lớn trong việc phục hưng và phát triển triết học Tam giáo không ai khác hơn là nhà vua học giả Trần Thái Tông, người mà giới văn học, triết học mệnh danh là « bó đuốc soi sáng Thiền học Việt Nam »

Page 126: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

125

* Vua Trần Thái Tông Nói về vua Trần Thái Tông ( 1225-1258 ), Việt sử tiêu án viết: « Vua tên là Cảnh, được Bà Chiêu Hoàng truyền ngôi cho, làm vua được 33 năm. Vua là người khoan nhân, có độ lượng đế vương, lập ra chế độ, điển chương đã văn minh, đáng khen, nhưng chỉ vì tam cương lộn bậy, nhiều điều xấu xa trong chốn buồng khuê… Vua lấy vợ của anh là Trần Liễu lập làm Hoàng hậu, giáng Bà Chiêu Thánh xuống làm Công chúa. Bấy giờ Bà Chiêu Thánh không có con mà vợ Liễu đã có mang 3 tháng, Thủ Độ và Bà Thiên Cực mật mưu lấy cho vua làm Hoàng hậu. Liễu giận lắm tụ tập đại quân ở Đại giang làm loạn. Trong lòng vua bất tự an, đương đêm ra ở với Phù Vân Quốc sư ở núi Yên Tử. Thủ Độ đưa quần thần đến mời vua về kinh đô. Vua nói: « Ta tuổi trẻ không cha, chưa kham nổi việc nước, nên không dám ở ngôi vua để làm nhục cho xã tắc » Thủ Độ nói: « Vua ở đâu tức là triều đình ở đấy, xin phá núi để xây dựng cung điện » Quốc sư xin với vua: « Bệ hạ nên hồi loan, không nên để cảnh sơn lâm bị phá hủy » , vua mới chịu về » Đọc phần tựa sách Thiền tông chỉ nam sau đây, chúng ta sẽ thấy rõ sự kiện vua bỏ ngôi vua vào núi Yên Tử cầu đạo, hiểu được tâm trạng cũng như tư tưởng của nhà vua lúc đó: « Trẫm trộm nghĩ Phật coi như chân lý thì không có phân biệt ra Nam phương hay Bắc phương, đều có thể cầu tìm được. Tính người ta sinh ra có người trí người ngu, nhưng cùng tư bẫm khả năng giác ngộ. Bởi thế mà giáo lý của Phật để dạy quần chúng mê lầm phương tiện giải thoát, đường tắc thấu rõ lẽ sống chết. Trách nhiệm nặng của Thánh hiền trước là cầm cân công lý cho đời này, làm khuôn phép cho đời sau vậy. Cho nên Lục tổ Huệ Năng đã có nói: « Tiên đại thánh nhân dữ Đại sư vô biệt » nghĩa là Đại thánh với Đại sư không có gì phân biệt. Đủ biết giáo lý của Phật ta lại mượn tay Thánh hiền để truyền bá ra đời. Nay Trẫm làm sao có thể không lấy trách nhiệm của Tiên thánh làm trách nhiệm của mình, giáo lý của Đức Phật làm giáo lý của mình được? Vả lại Trẫm đây từ trẻ thơ mới có trí hiểu biết, sớm đã được nghe lời dạy của Thiền sư liền lắng suy tư, dẹp nghĩ ngợi, rất mực thanh tĩnh, cố tâm chuyên vào nội giáo, hỏi han xem xét về Thiền tông. Lòng vô tư tìm thầy, thành tín mộ đạo. Tuy bấy giờ ý chí nội hướng đã manh nha mà động cơ cảm xúc còn chưa đạt được.

Page 127: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

126

Năm 16 tuổi thì Thái hậu, mẹ Trẫm đã chán cõi đời. Trẫm những nằm rơm, gối đất, khóc ra máu mắt, lòng đau như cắt. Đang lo phiền đau đớn không còn nghĩ đến chuyện gì, được vài năm thì Thái Tổ cha Trẫm lại cũng tạ thế. Thương mẹ chưa khuây, xót cha càng thấm thía. Bồi hồi ngao ngán khó nguôi nỗi lòng. Trẫm nghĩ tình cha mẹ đối với con dẫu có nát xương tan thịt chưa đủ báo đền muôn phần được một. Huống chi Trẫm xét Thái Tổ Hoàng đế mở dựng cơ nghiệp đã rất khó khăn, sửa nước giúp đời lại càng hệ trọng. Từ khi Ngài đem ngôi báu trao cho Trẫm còn lúc trẻ thơ, Trẫm những sớm khuya canh cánh lo sợ không một lúc nào yên lòng. Riêng thầm nghĩ : Ở trên đã không còn cha mẹ để nương nhờ, thì ở dưới cũng e không đáp ứng nổi sự mong mỏi của dân chúng. Biết tính sao đây? Rồi cố tìm, cố nghĩ: âu là lui về núi rừng, tìm về Phật giáo để hiểu rõ bí quyết của sống chết mà báo đáp công đức cù lao, được thế chẳng cũng hay lắm sao? Bấy giờ ý chí của Trẫm đã nhất quyết. Hiệu Thiên ứng Chính bình thứ 5 ( 1245 ) năm Bính thân, đêm mồng 3 tháng 4, Trẫm nhân mặc áo mỏng thường đi ra cửa cung bảo người hầu tả hữu: « Ta muốn đi chơi, nghe trộm lời dân để xem nguyện vọng của họ, họa may biết được sự khó nhọc của chúng » Lúc ấy chẳng qua đi theo bên Trẫm độ bảy, tám người. Đêm ấy vào giờ hợi, một mình một ngựa cất lẻn ra đi. Khi đi qua sông Nhị Hà, liền hướng về phía Đông mà tiến, mới thật tình bảo cho tả hữu biết. Họ kinh ngạc, đều ứa nước mắt khóc lóc. Qua sáng hôm sau vào giờ Mão thì đến bến đò Đại Than, dưới núi Phả Lại. Trẫm e có kẻ nhận biết, nên phải lấy vạt áo che mặt mà qua sông, rồi theo đường tắt lên núi. Đến tối hôm ấy vào nghỉ trong chùa Giác Hạnh, đợi sáng lại đi. Trèo lội vất vả, núi hiểm, suối sâu, ngựa mệt không thể tiến được nữa. Trẫm bèn bỏ ngựa, vựa vào vách đá mà đi. Đến giờ Mùi mới tới núi Yên Tử. Qua hôm sau trèo thẳng lên đỉnh, vào ra mắt Quốc sư Trúc Lâm và vị Đại sa môn ở đây. Thấy Trẫm, Quốc sư mừng vui hớn hở thông thả bảo Trẫm rằng: « Lão tăng ở rừng núi lâu xương cứng, thể gầy, ăn rau răm, nhai hạt dẻ, uống nước suối, vui cảnh rừng, lòng nhẹ như mây nổi nên mới theo gió vào đây. Nay nhà vua bỏ địa vị nhân chủ, nghĩ đến cảnh quê mùa rừng núi, hẳn có muốn tìm hỏi gì mới đến đây? » Trẫm nghe Sư nói, hai hàng nước mắt tự nhiên không cầm được, nhân mới đáp rằng: « Trẫm còn thơ ấu, sớm mất hai thân, trơ vơ đứng trên sĩ dân, không chỗ nương tựa. Nghĩ lại sự nghiệp của Đế vương đời trước thịnh suy không thường, cho nên vào núi này chỉ cầu làm Phật, không cầu vật chi khác »

Page 128: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

127

Sư đáp: « Núi vốn không có Phật, Phật tồn nơi tâm, tâm yên lặng mà biết ấy gọi là Phật thật. Nay nếu nhà vua giác ngộ được tâm này thì lập tức thành Phật không phải khó nhọc tìm ở bên ngoài vậy » Bấy giờ Trần Công là chú của Trẫm, em họ Tiên quân, được Tiên quân gởi gắm con côi. Sau khi Tiên quân về Trời, bỏ lại cõi đời và quần thần, Trẫm tôn chú lên làm Thái sư. Thái sư nghe tin Trẫm đi khỏi, bèn chia các ngã sai tả hữu đi tìm khắp mọi nơi dấu tích. Họ bèn tìm vào trong núi này. Gặp Trẫm, Trần Công thống thiết nói: « Tôi chịu lời ủy thác của Tiên quân, phụng sự nhà vua, làm chủ thần dân. Nhân dân đang mong đợi Bệ hạ như con đỏ trông đợi cha mẹ. Huống chi ngày nay, các cố lão trong triều đình đều là họ hàng thân thích cả, sĩ thứ trong nước thảy đều vui vẻ phục tùng, đến cả đứa trẻ lên bảy tuổi cũng đều biết nhà vua là cha mẹ dân. Vả lại Thái tổ vừa mới bỏ tôi, hòn đất trên nấm mồ chưa ráo, lời dặn dò bên tai còn văng vẳng. Thế mà Bệ hạ trốn tránh vào rừng núi, ẩn cư để cầu thỏa lấy ý chí của mình. Tôi dám nói: Bệ hạ vì mục đích tu lấy cho riêng mình mà làm thế thì được, nhưng còn quốc gia xã tắc thì sao? Ví để lời khen suông cho đời sau thì sao bằng lấy chính thân mình làm người dẫn đạo cho thiên hạ? Nhà vua nếu không nghĩ lại, quần thần chúng tôi cùng nhân dân xin cùng chết ngay hôm nay, quyết không trở về » Thấy Thái sư và các bô lão, quần thần đều không có ý bỏ Trẫm, Trẫm mới đem lời Thái sư nói với Quốc sư. Quốc sư nắm lấy tay Trẫm mà rằng: « Phàm làm đấng nhân quân, phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình và tâm thiên hạ làm tâm của mình. Nay thiên hạ muốn đón nhà vua về cung, nhà vua không về sao được? Tuy nhiên sự tìm hiểu về nội điển của Phật giáo xin mong Bệ hạ đừng phút nào quên! » Bởi vậy Trẫm với mọi người lại trở về kinh, cố gắng bước lên ngôi báu dòng dã trong mười mấy năm trời, mỗi khi có cơ hội nhàn rỗi việc nuớc, Trẫm lại tụ hợp các bậc kỳ đức để hỏi đạo Thiền, kinh sách các tôn giáo chính, không sót chỗ nào không tham cứu tìm tòi. Trẫm thường ngày tụng kinh Kim cương, có lần đọc đến câu: « Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm „ nên sinh cái tâm không có chấp. Đang lúc đặt quyển xuống ngâm thì chợt khoát nhiên tự ngộ. Bỗng nhiên tự sáng, mới đem giác ngộ ấy làm thành lời ca này đặt tên là“ Thiền tông chỉ nam » Năm ấy Quốc sư ở núi Yên Tử về kinh đô, Trẫm mời vào chùa Thắng Nghiêm để mở bản in các kinh và đưa tập này cho sư coi. Coi rồi Quốc sư ngậm ngùi và nói: « Tâm các vị Phật ở cả tại đây vậy, sao không khắc in để dạy cho hậu thế? »

Page 129: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

128

Trẫm nghe lời bèn sai thợ viết ra chữ Khải và truyền cho đem in, không phải chỉ dùng để dẫn bảo đường mê cho đời sau mà thôi, ý Trẫm còn muốn nối công nghiệp đức Tiên thánh mà làm cho rộng thêm nữa. Nhân thế mới tự tay viết bài tựa này. »( Thiền học Trần thái tông-Nguyễn Đăng Thục, tr.145-150 ) Tựa sách Thiền tông chỉ nam trên đây đã tóm tắt triết lý Thiền của nhà vua. Nó gồm mấy điểm sau đây: Điểm thứ nhất: quan điểm Thiền của nhà vua. Đàng sau thế giới hiện tượng biến dịch có một Thực tại tuyệt đối, Bản thể đại đồng, là Phật, là Tính mà mọi người đều có thụ bẩm, bình đẳng như nhau. Nhưng khi thể hiện ra thế giới sự vật thiên hình vạn trạng thì có kẻ trí người ngu, kẻ ở phương Nam, người ở phương Bắc nhưng đều có khả năng giác ngộ cả, và khi giác ngộ rồi thì tất cả như nhau, không khác. Về lẽ sống chết cũng vậy: lúc mê thì thấy có sống có chết mâu thuẫn với đau khổ, tan thương ví như mặt nước nổi sóng lúc nhô lên, lúc hụp xuống vì bị động; lúc ngộ rồi thì coi sống chết như sự đi đi về về từ một Thực tại vĩnh cữu, ví như mặt nước im lặng phẳng lì, sóng đã tan biến đi vào lòng nước, và nổi lo âu về sống chết cũng không còn nữa. Điểm thứ hai: Động cơ thúc đẩy nhà vua đi tìm Chân lý, cầu Phật. Nhà vua viết: « …Trẫm đây từ trẻ thơ mới có trí hiểu biết, sớm đã được nghe lời dạy của Thiền sư liền lắng suy tư, dẹp nghĩ ngợi, rất mực thanh tĩnh, có chuyên tâm vào nội giáo, hỏi han xem xét về Thiền tông. Lòng vô tư tìm thầy, thành tín mộ đạo. Tuy bấy giờ ý chí nội hướng đã manh nha mà động cơ cảm xúc còn chưa đạt được » « Ý chí nội hướng đã manh nha », nhưng còn ngấm ngầm ở thâm sâu của Tâm thức chưa đủ để phát ra thành hành động bên ngoài. Ý chí này lớn dần với thời gian, cho đến năm 16 tuổi, mẹ vua mất; được vài năm thì cha lại mất; không những thế Thủ Độ còn ép vua lấy chị dâu đã có mang 3 tháng làm Hoàng hậu, giáng Chiêu Hoàng xuống làm Công chúa. Đó là lý do khiến nhà vua quyết định: « âu là lui về núi rừng, tìm về Phật giáo để hiểu rõ bí quyết của sống chết mà báo đáp công đức cù lao ». Điểm thứ ba: quan điểm của nhà tu hành xuất thế. Quốc sư Phù Vân với thái độ sống thoát tục, ngoài vòng lễ nghi, tập quán của xã hội, vui với Thiên nhiên, đói ăn rau răm, nhai hạt dẻ, khát uống nước suối, làm bạn cùng núi rừng, lòng nhẹ như mây nổi, không còn vướng chút tư dục.

Page 130: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

129

Ngay khi thấy nhà vua đến, Quốc sư đã thấy trước được sự tình, nên hỏi ngay: « Nay Bệ hạ bỏ ngôi chủ nhân dân, nghĩ đến cảnh quê mùa của đồng rừng, thực có cầu tìm điều gì mà tới đây? » Nhà vua nói ngay lên nguyện vọng duy nhất của mình là chỉ cầu làm Phật, không cầu vật chi khác. Quốc sư muốn đánh thức phản tỉnh của nhà vua, nên chỉ ngay Chân lý mà con người thực sự mong cầu, Sư nói: « Núi vốn không có Phật, Phật tồn nơi tâm, tâm yên lặng mà biết ấy gọi là Phật thật. Nay nếu nhà vua giác ngộ được tâm này thì lập tức thành Phật không phải khó nhọc tìm ở bên ngoài vậy. » Như vậy nhà vua không nhất thiết phải tìm vào rừng núi, có thể ở lại với ngôi vị lãnh đạo, hoàn thành trách nhiệm cao cả đối với dân, với nước mà cuối cùng cũng có thể giác ngộ, chứ không nên chấp vào hình thức xuất thế hay nhập thế. Quốc sư nhắn nhủ tiếp: « Phàm làm đấng nhân quân, phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình và tâm thiên hạ làm tâm của mình. Nay thiên hạ muốn đón nhà vua về cung, nhà vua không về sao được? Tuy nhiên sự tìm hiểu về nội điển của Phật giáo xin mong Bệ hạ đừng phút nào quên! » Đó là thái độ dung hòa cả hai quan niệm xuất thế lẫn nhập thế vào cuộc sống hiện thực. Điểm thứ tư: quan điểm nhập thế. Đại diện cho quan điểm này là Trần Thủ Độ, một nhà hành động hoàn toàn nhập thế. Ngay khi nghe tin vua rời khỏi kinh thành vào núi Yên Tử, ông bèn đem cả quần thần đuổi theo. Khi gặp vua, ông đã tha thiết thuyết phục: « Tôi chịu lời ủy thác của Tiên quân, tôn nhà vua lên ngôi chủ dân và thần. Nhân dân mong đợi ở Bệ hạ khác nào con đỏ mong đợi cha mẹ vậy. Huống chi ngày nay những vị cố lão trong triều, đều là họ hàng thân thích, những sĩ phu thứ dân trong nưóc hết thảy vui vẻ phục tùng, cho đến trẻ lên bảy cũng đều biết nhà vua là cha mẹ dân. Vả lại Thái Tổ vừa mới bỏ tôi, hòn đất trên nắm mồ chưa ráo, lời dặn dò bên tai còn văng vẳng. Thế mà Bệ hạ trốn lánh vào rừng núi, ẩn cư để cầu thỏa lấy cho riêng mình mà làm thế thì được, nhưng còn quốc gia, xã tắc thì sao? Ví để lời khen suông cho đời sau thì sao bằng lấy chính thân mình làm ngưòi dẫn đạo cho thiên hạ? Nhà vua nếu không nghĩ lại, quần thần chúng tôi cùng nhân dân xin cùng chết ngay hôm nay, quyết không trở về » Nếu Quốc sư thuyết về quan điểm xuất thế, nhập thế thì Thái sư lại nói về trách nhiệm cá nhân và lẽ sống chung của đoàn thể một cách thiết thực

Page 131: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

130

trong hành động. Sau khi nghe hai nhà xuất thế và nhập thế thuyết phục, và thấy triều thần cũng như dân chúng không có ý bỏ mình, nhà vua mới quay về với ngôi vị lãnh đạo của mình mà theo con đường tổng hợp, dung hòa hai đường lối xuất thế, nhập thế; hữu vi, vô vi. Điểm thứ năm: giác ngộ. « Trẫm thường ngày tụng đọc kinh Kim cương, có lần đọc đến câu: « Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm „ nên sinh cái tâm không có chỗ chấp. Đang lúc đặt quyển xuống ngâm thì chợt khoát nhiên tự ngộ » Đó là đốn ngộ. Nhưng xét cho kỹ thì không phải tự nhiên ngộ được, mà đó là cả một quá trình tu tập công phu, tích lũy những chủng tử lành, phát triển dần theo qui luật lượng biến thành phẩm mà đạt được giác ngộ. Đây là phần mở đầu cho tác phẩm « Khóa hư lục » của vua Trần Thái Tông, tức sách giảng về Thái hư hay Chân không ( Sunyata ), triết học Thiền, một biện chứng Bát nhã hay trực giác đồng nhất với Tự tính, Thực tại tuyệt đối. Nội dung triết lý của sách khóa hư có thể được tóm tắc trong bàì kệ « Bốn núi » ( Tứ sơn kệ ) sau đây: « Bốn núi vách cao, cây xanh tốt, Giác ngộ đều không, muôn vật không. Mừng có con lừa ba chân đấy, Cưỡi lưng thẳng tiến đỉnh non Bồng » ( Tứ sơn tiêu bích vạn thanh tùng, Liễu ngộ đô vô vạn vật không. Hỉ đắc lư nhi tam cước tại, Mạch kỵ đả sấn thượng cao phong.) Câu đầu nói về vũ trụ, câu thứ hai nói về tri thức, câu thứ ba nói về thân tâm, câu thứ tư kết luận bằng biện chứng giải thoát.

*Vũ trụ: Thái Tôn đã khéo léo mô tả vũ trụ ảo hóa, vô thường bằng những dòng thơ nghệ thuật. Bốn núi tượng trưng cho 4 chân lý kỳ diệu ( tứ diệu đế ), giáo lý căn bản của nhà Phật kết hợp với thuyết 12 nhân duyên (thập nhị nhân duyên ) Con lừa là hình ảnh cổ xe chuyên chở ( thừa ), là phương tiện đưa đến giác ngộ. Kinh Pháp Hoa có viết: « Mười phương trên đất Phật, chỉ có pháp một thừa, không có hai hay ba, trừ thuyết phương tiện của Phật ». Ở đây con lừa của Thái tông có 3 chân.

Page 132: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

131

Số 3 tượng trưng cho tam nghiệp: Thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp; cũng tượng trưng cho tam tài: thiên, địa, nhân ở Nho giáo. Số 4 tượng trưng cho tứ diệu đế: khổ, tập, diệt, đạo đế và bốn núi sinh, bệnh, lão, tử. 3 x 4=12 tượng trưng cho thuyết thập nhị nhân duyên.Ngoài ra 3 / 4 cũng là « Thiên viên địa phương » ( Trời tròn đất vuông ) và cũng chỉ hình tam giác tứ diện của Pythagoras. Thái tông đã hợp nhất thuyết tam tài: thiên, địa, nhân của Nho giáo với thuyết tam nghiệp: thân, khẩu, ý của Phật giáo; thuyết âm dương của Dịch học với thuyết sắc không sinh hóa vào Tâm không hay Pháp tính nội tại, siêu nhiên. Cuộc sinh hóa tuần hoàn tượng trưng 4 núi thời tiết do từ Pháp tính biểu hiện ra theo nghiệp báo và nhân duyên cũng như từ Thái cực như kinh Dịch nói: « Dịch hữu Thái cực, thị sinh lưỡng nghi… » hay Lão Tử nói: « Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật » Vậy đàng sau thế giới hiện tượng biến dịch không ngừng có một Thực tại thường còn: « Ta nghe nói có bản tính huyền diệu ngưng kết, chân tâm lặng sâu, không có nên hay hỏng, mà tính lý trí không xét được đến đầu mối. Hợp tan, còn hết, há phải chăng tai mắt có thể tham gia vào ảnh hưởng của nó được. Có không, co kéo; đạo đời san bằng mà riêng nó một mình còn siêu nhiên không có trong ngoài. Đấy là nguồn chính yếu của Tự tính Kim cương vậy ».( Kim cương tam muội kinh tự ) Tự tính ấy đưọc gọi bằng nhiều tên khác nhau như Thực tại tuyệt đối, Chân như, Pháp tính, Chân tâm, Tâm linh vũ trụ…để nói về Thực thể đồng nhất, đại đồng vừa nội tại, vừa siêu nhiên. * Tri thức: Như đã nói đàng sau thế giới hiện tượng còn có cái gì tồn tại mà người ta có thể trực giác, nhưng không thể diễn tả được bằng ngôn ngữ, ý niệm. Vì không còn có tính chất hiện tượng nữa, không còn lệ thuộc vào điều kiện nhân duyên cho nên gọi Tồn tại ấy là Không ( Sunyata ), nghĩa là cái không phải hiện tượng, không lệ thuộc vào điều kiện nhân duyên. Không không phải là không có gì cả, không phải hoàn toàn hư vô, phủ nhận tất cả Thực tại, mà chỉ phủ nhận thế giới hiện tượng chúng ta tri giác là không có Tự tính. Như vậy, chúng ta có thể nói rằng thế giới hiện tượng có, nhưng không thực. Về vấn đề tri thức, Thái Tông cho rằng Chân lý của Thực tại chỉ được khám phá bằng trực giác chứ không bằng tri thức thông thường, tức là tri thức khái niệm, danh lý.

Page 133: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

132

Trong « lục thì sám hối khóa nghi tự » Thái Tông viết: « Vả chăng chúng sinh ở chỗ tính giác bản lai tròn sáng trong sạch, sâu thẩm như Thái hư, một hạt bụi không bợn. Dù từ cái bọt mê chợt nổi lên, đất nhơ hiện ra, năng tri và sở tri hai bên tựa nhau, Phật với ngã hai cái tính toán, bản tính với gốc tính phân biệt, người trí với kẻ ngu chia hai, đi theo một đường thì khó mà vào được hiểu biết » Cái biết tri thức khái niệm đối đãi năng tri với sở tri, chủ quan với khách quan không thể nhập được vào Thực tại tuyệt đối hay Chân không . Cái giác tính Bồ đề vốn sẵn có tại nơi chúng sinh, cho nên bất kỳ ai từ kẻ trí đến người ngu đều có thể giác ngộ được cả bằng con đường trực giác với cái Tâm khai phóng, vô niệm: « Há biết rằng tính giác Bồ đề, ai ai nên tròn vẹn; nào hay gốc thiện Bát nhã, người người đầy đủ. Chớ hỏi người này đại ẩn hay tiểu ẩn, đừng phân biệt kẻ tại gia với kẻ xuất gia. Chẳng nên câu chấp vào tăng hay tục mà chỉ cần biện biệt cái tâm của mình, vốn không phân ra tâm nam hay tâm nữ thì còn chấp vào hình thức bên ngoài làm chi. Chưa sáng tỏ người ta lầm phân biệt ra ba tôn giáo khác nhau, hể thấu được đến nơi thì cùng giác ngộ một tâm » Thái tông đã đem cái tri thức đến chỗ liễu ngộ đồng nhất với Chân không là Tâm vũ trụ đại đồng không còn đối tượng nữa. * Thân tâm-sắc thân: Sắc thân là hiện tượng biến dịch vô thường, do một niệm sai lầm nổi lên hợp cùng nhân duyên, ngũ uẩn giả hợp, trôi nổi trong cảnh luân hồi như tuồng ảo hóa, được diễn tả qua hình ảnh bốn núi thời gian: xuân sinh, hạ lão, thu bệnh, đông tử. Thái Tông tha thiết kêu gọi mọi người đừng mê muội chạy theo thế giới hão huyền, hình danh, sắc tướng, mà hãy quay về với Chân tâm: « Hởi các người: Thân thể là nguồn gốc của đau khổ, tính chất là nguyên nhân của nghiệp báo. Nếu chúng ta tự lấy những cái ấy làm có thật là ta ngộ nhận thằng giặc làm con mình. Các người hãy xem xét lại cho kỹ. Chỉ là cái thân hình này chưa đầu nhập vào bào thai thì nó ở đâu mà có? Bởi vì do ý niệm nổi lên trong tinh thần, hội hợp các điều kiện nhân duyên, ngũ uẩn tạo nên mà lầm sinh ra có thể mạo, hình dung giả dối xuất hiện.Thế rồi quên cái chân thật, gốc nguồn mà biểu hiện các vẻ hư ngụy. Hoặc là con gái hoặc là con trai, hoặc đẹp hoặc xấu, hết thảy đều do cái tâm thức phóng tán ra bên ngoài, không ai là kẻ lui gót quay trở về gốc nguồn chân thật; rong ruổi đầu đường sống chết mà bỏ mất bộ mặt bản lai của mình. Do đấy, nếu chú ý nhìn nhận bên ngoài, ai người biết quay cổ nhìn lại vào trong tâm. Gặp lúc sinh ra thì chỉ biết sinh hoá,

Page 134: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

133

đến đâu cũng chỉ như người mộng nói chuyện mộng. Chập chờn cuồn cuộn, bối rối loay hoay. Lấy thế giới ảo huyền làm thật, trái ngược với Chân không để đuổi theo hình danh sắc tướng. Cán xương khô cài hoa điểm ngọc, túi da thối phủ sạ xông lan. Cắt lụa là bọc bao máu mủ, xâu hoa đeo vào thùng phân tiểu. Ngoài có trang sức như thế mà chung qui vẫn chỉ là ô uế… » ( Phổ khuyến sắc thân-Thiền học T.Thái Tông-N.Đ.Thục) Nhà vua vạch rõ cho mọi người thấy chính sắc thân là nguồn gốc của đau khổ, vì nó là nơi chất chứa nghiệp báo, tức là những hành động phản ứng nối tiếp nhau. Nghiệp báo ví như nhà tù giam nhốt con người trong đó, vậy hãy mau phá bỏ ngục tù để tìm phương giải thoát: « Trăm năm trong cõi đời người, khác gì một ngày một đêm trong ngục. Nếu ai là kẻ có đủ mắt tinh nên sớm kíp nhìn lại hồi tâm. Cất mình khỏi hang sống chết, giang tay xé lưới ái ân. Chẳng kể trai hay gái, ai cũng nên tu, hoặc trí hoặc ngu đều có phận cả » ( Phổ khuyến sắc thân ) * Con đường giải thoát:

Trên con đường giải thoát, người tu hành sử dụng biện chứng phủ định để phá trừ kiến chấp, phủ định triệt để thế giới hình danh sắc tướng không thật để đạt đến Chân không. Nhưng đây không phải là biện chứng ý niệm, danh lý, mà là thực hiện cuộc sống Đạo bằng cả tâm thân để nối cá nhân với Bản thể đại đồng trong một Nhất tâm.

Quá trình đó không phải dễ dàng. Chừng nào còn sắc thân là còn ở trên bình diện đối đãi lưỡng nguyên, con người còn bị nghiệp báo chi phối, còn trôi nổi trong vòng sanh tử luân hồi. Con người phải luôn siêng năng tu hành tinh tấn, giữ giới, niệm Phật, gieo nhân tốt, tạo căn lành, phát triển hành vi đạo đức với tâm vô dục, vô niệm, vô ngã thì mới mong cởi bỏ được nghiệp báo:

« Nếu chưa thấu tâm Phật, ý Tổ thì trước hết hãy chăm giữ giới, niệm kinh. Kịp đến lúc Phật cũng không, Tổ cũng không, tất cả chỉ có đồng nhất thể, mình cũng là Phật, mình cũng là ý Tổ thì bấy giờ còn giữ giới nào, niệm kinh nào. Trong thế giới ảo sắc cũng nhìn ra chân sắc, ở tại thân phàm tục mà là ở tại pháp thân. Phá được sáu giặc của tri giác làm thành ra sáu thức thần thông, biến cảnh tám khổ ra tám lạc cảnh tự tại » ( Phổ khuyến sắc thân ) Nhà vua đề cao phương pháp giản dị nhất, phù hợp với đại chúng là niệm Phật: « Hạng hạ trí lấy niệm Phật làm bước thang, lấy sức tinh tấn làm chỗ đậu, chú ý vào duyên thiện, cầu nguyện sinh vào nước Phật. Chuyên cần

Page 135: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

134

không nghỉ, tâm tính thuần thục, sau khi chết đi tùy theo ý nguyện mà được sinh vào nước Phật… Như muốn niệm Phật tức lấy bậc hạ trí làm trước. Sao thế? Vì có sự chú ý vậy, ví như xây lầu ba tầng mà không bắt đầu xây từ tầng dưới thì việc ấy chưa từng thấy vậy » Sám hối cũng được chú trọng: « Tiện cho sự đi lại dưới sông, trên đất ấy là thuyền xe, rửa sạch những nhơ bụi bám vào thân tâm ấy là lễ sám. Muốn rửa sạch nhơ bụi ở thân tâm mà không dùng đến lễ sám thì khác gì muốn tiện đi lại mà không dùng đến thuyền xe vậy » ( Lục thì sám hối khóa nghi ) Ngoài ra người tu hành còn phải dùng đến khoa Thiền định nữa, vì chỉ có Thiền định mới có tập trung cao độ, nối liền tâm cá nhân với tâm vũ trụ, mới kiến Tính được mà thôi:

« Kìa người học đạo chỉ cốt cần thấy trực tiếp cái Tự tính. Tuy có chịu thi hành hết thảy các kỷ luật thanh tĩnh mà không ngồi Thiền thì năng lực chú ý không nẩy sinh. Năng lực chú ý của tinh thần không nẩy sinh thì ý niệm sai lầm không tắt được mà lại muốn thấy Tự tính thì chẳng cũng khó thay! » ( Tọa Thiền luận )

Trạng thái kinh nghiệm thuần túy ở môn Thiền định không phải dễ đạt, thực nghiệm nó cũng khó như „vuốt râu hùm“, như“ đi trên đầu gậy“, nhưng đã nhập được vào đấy rồi thì như cảnh thông reo, mây bay, nước chảy:

« Nay ta vì các người không ngại miệng hùm vuốt râu, đầu gậy tiến bước. Nơi nơi gió táp thông reo, lặng nơi trăng chiếu hồ trong. Lúc đi như mây bay, nước chảy. Khi đứng như núi yên non trấn…trong hang quỉ mà là lâu đài Di Lặc, dưới núi tối có cảnh giới không khác của Phổ Hiền. Nơi nơi tạng lớn sáng rực, Chân tính là môn Pháp không hai »

( Phổ thuyết hướng thượng nhất lộ ) Đó là tư tưởng « bất nhị Pháp môn » ở kinh Hoa Nghiêm. Ở « niệm Phật luận » cũng có viết: « Tâm tức là Phật, không phải

thêm bớt chi nữa. Ý niệm là bụi, không dung một điểm nào ở trong tâm ấy, ở đấy vốn trong sạch không chút bụi nhơ, cho nên bao giờ cũng như thế không vang động gọi là Như như, tức là thể của Phật. Thực thể Phật thế nào thì Thực thể ngã như thế, không có hai hình tướng. Hình tướng và hình tướng không có hai, yên lặng còn luôn mà không biết, thế là Phật sống »

Page 136: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

135

Trên đây Thái Tông nói về Ý thức tối cao, về Thực tại vũ trụ tuyệt đối, là ý thức của tâm giác ngộ bình đẳng không còn chủ thể, khách thể, ngã vật nữa, là Chân không đồng nhất chưa phân chia làm hai phương diện Thể, Dụng. Thực thể ngã cũng là Thực thể Phật không hai không khác. Không biết là điều kiện cần thiết để tiến tới giác ngộ, vì nếu còn biết là còn ý niệm nổi lên làm vẩn đục Thực thể ngã ( Tâm thể ) không thể nhập được vào Thực thể Phật Chân như.

* Tinh thần Tam giáo: Thái Tông nối tiếp chủ trương Tam giáo với tinh thần tổng hợp sáng

tạo và với một sinh khí mới. Ngài thuở nhỏ hiếu học, lớn lên thích nghiên cứu như « Thiền tông

chỉ nam tự » ghi: « Khoảng mười năm nay, hễ gặp dịp nhàn rỗi, hội họp các bậc thạc

đức hiền năng, tham thiền hỏi đạo, cùng kinh sách các giáo lý chính, không giáo lý nào không khảo cứu »

« Kim cương tam muội tự » cũng viết: « Trẫm nay ở ngôi báo, lạm đứng lãnh đạo nhân dân. Mỗi khi nghĩ

đến khó khăn gian nan, ngày đêm khôn quên đi được. Việc tuy muôn vàn, vả trộm lúc thừa nhàn, chăm chỉ tiếc thì giờ, học càng cố gắng thêm. Tuy chữ Đinh lo chưa hết, đêm đến canh khuya hãy còn xem sách. Đã xem kinh sách của Khổng Nho, lại xem đến kinh sách của Phật giáo »

Ngài đã có công trình nghiên cứu sâu rộng ba tôn giáo chính như vậy là chuẩn bị cho một sự tổng hợp sáng tạo mới.

Nhắc lại tư tưởng của Thiền sư Cứu Chỉ thời Lý: « Khổng Mặc chấp có, Trang Lão chấp không, sách vở của thế tục chẳng phải là phương giải thoát: Chỉ có Phật pháp không kể có, không, có thể dứt sanh tử, nhưng phải siêng năng giữ giới, cầu bậc thiện tri thức ấn chứng cho mới được »

Trong khi đó, ở bài tựa « Thiền tông chỉ nam » vua Trần Thái Tông viết:

« Trẫm trộm cho rằng Phật là Thực tại tối cao không lệ thuộc vào địa phương Nam hay Bắc, ở đâu cũng có thể tu hành cầu đạo.

Tính chất người ta sinh ra có kẻ thông minh, có kẻ ngu độn nhưng cũng đều có thể bẫm thụ sự giác ngộ.Thế nên để dạy bảo cho quần chúng ngu mê lấy phương tiện, soi sáng con đường tắt về sự sống chết, đấy là giáo lý chính của Đức Phật ta. Có phận sự cầm cân nẩy mực cho đời thế gian, làm mẫu mực cho đời sau, đấy là trách nhiệm của bậc thánh hiền xưa. Cho nên Lục tổ Huệ Năng có nói: « Các Thánh nhân đi trước với các đại Phật sư không khác nhau » thì biết rằng giáo lý của đức Phật ta

Page 137: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

136

lại phải mượn tay Thánh đi trước để truyền bá vào đời vậy. Nay Trẫm làm sao lại có thể không lấy trách nhiệm của Thánh trước làm trách nhiệm của mình, giáo lý của đức Phật ta làm giáo lý của mình được! »

Thái Tông không hẳn quan niệm như Cứu Chỉ mà mượn lời của Lục tổ Huệ Năng cho rằng Đại thánh với Đại sư không khác nhau, Phật giáo với Nho giáo có thể bổ túc cho nhau.

Có lần có vị sư danh tiếng của nhà Tống là Đức Thành hỏi vua Trần Thái Tông:

Sư hỏi: « Mưa tạnh rồi sắc núi sáng sủa, mây tan đi trong động lại sáng ra. Làm thế nào mà đường ẩn náo và đường hiển hiện là một như nhau? »

Vua nói: « Trừ là đứa con chính thực của nhà ta thì người nào dám hướng vào trong ấy mà đi? »

Sư nói : « Xưa nay không có đường khác nhau, kẻ đạt đạo đều chung cùng đường! Bệ hạ bảo có một mình Thế tôn đạt đạo thôi sao? »

Vua nói: « Mưa xuân không có cao hay thấp, cành hoa có cành ngắn cành dài. » ( Ngữ lục vấn đáp môn hạ )

Thái Tông quan niệm đường xuất thế với đường nhập thế như nhau vì cùng đưa đến cứu cánh chung là Thực tại bình đẳng, đại đồng như mưa xuân không có cao thấp, chỉ có hiện tượng khác nhau vì còn lệ thuộc vào nhân duyên, không gian, thời gian như cành hoa có ngắn dài. « Đứa con chính thật của nhà ta » ẩn trong hiện tượng chính là bản chất tiềm tàng, khi nào giải quyết xong những mâu thuẫn của hiện tượng thì bản lai diện mục của nó được phục hồi như xưa. Lúc đó Hiện tượng nhập vào Bản thể, Thể Dụng hợp nhất cho nên con đường xuất thế, nhập thế không có chi mâu thuẫn, chỉ là những phương tiện khác nhau mà thôi. Khi đạt đến trình độ này thì những bụi bặm ý niệm đều biến mất, Tâm thức trở nên yên lặng, trong sáng không chút bợn nhơ. Người đắc đạo có được một thứ tri thức tối cao bình đẳng và Thái Tông nhận thấy đặc tính này đều được thể hiện trọn vẹn ở cả ba tôn giáo Phật, Nho, Lão:

« Kìa người học đạo chỉ cầu thấy trực tiếp cái Tự tính ( kiến tính ). Tuy có chịu thi hành hết thảy các kỷ luật thanh tĩnh mà không ngồi Thiền thì năng lực chú ý không nẩy sinh. Năng lực chú ý của tinh thần không nẩy sinh thì ý niệm sai lầm không tắt được mà lại muốn thấy Tự tính thì chẳng cũng khó thay.

Bởi thế cho nên Thích Già Văn Phật vào núi Tuyết ngồi Thiền suốt sáu năm, chim sẻ làm tổ trên đầu, cỏ mọc chui qua vế, thân tâm nhất phiến. Tử Kỳ ngồi tựa ghế, hình thể như cành khô, tâm như tro nguội. Nhan Hồi

Page 138: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

137

ngồi quên buông thỏng chân tay thân thể, không dùng đến trí hiểu biết nữa, xa cả ngu mê lẫn trí thức, đồng nhất với Đạo lớn. Đấy là các vị Thánh hiền của ba giáo xưa từng lấy sự ngồi tập trung tinh thần để thành tựu đạo lý. »

Đạo lý là tiêu chuẩn tối cao của giá trị các hành vi nhân sinh và vũ trụ, cho nên Thái Tông viết:

« Kìa đời chỉ biết có vàng ngọc là quí, nhưng xét cho kỹ về chỗ quí trọng thì không bằng thân mệnh vậy…

Tuy nói thân mệnh là quí trọng hết sức, song cũng chưa trọng bằng cái Đạo tối cao. Thế nên Khổng Tử có nói: « Sớm nghe được đạo, tối chết cũng cam lòng » Lão Tử cũng nói: « Ta có sự lo lớn là vì ta có cái thân » Thế Tôn cầu đạo bỏ thân cứu hổ. Thế chẳng phải ba đấng Thánh đều khinh thân mà trọng đạo đấy ư?

Thân ơi! Thân mệnh là rất trọng mà còn nên bỏ để cầu lấy đạo vô thượng Bồ đề, huống chi là vàng bạc châu báu là vật rất đáng khinh thì lại còn tiếc mà chi?... » ( Khuyến phát tâm văn )

Vì quan niệm đạo tối cao như vậy, nên Thái Tông ngoài việc triều chính dóc hết lòng tu học:

« …hễ gặp lúc nhàn rỗi, hội hợp các bậc thạc đức hiền năng, tham Thiền hỏi đạo, cùng kinh sách các giáo lý chính, không giáo lý nào không khảo cứu. » Nhà vua viết « khóa hư lục » là để thức tĩnh mọi người:

« Trăm năm trong cõi đời người, khác gì một ngày một đêm trong ngục. Nếu ai là kẻ có đủ mắt tinh nên sớm kíp nhìn lại hồi tâm. Cất mình khỏi hang sống chết, giang tay xé lưới ái ân. Chẳng kể trai hay gái, ai ai cũng nên tu, hoặc trí hoặc ngu đều có phận cả..Nếu chưa thấu tâm Phật, ý Tổ thì trước hết hãy chăm chỉ giữ giới, niệm kinh… » ( phổ khuyến sắc thân ).

Ngài đã vận động người dân tu học, tạo thành một phong trào sống đạo đức rộng lớn, thành tâm kính thỉnh chư Phật, chư Bồ tát chứng kiến chúng sinh qua sông:

« Khuyên mời Đức Phật khắp thời không Chư vị Bồ tát, Thánh, Hiền, Tăng Mở lòng từ bi rộng vô cùng Chứng kiến chúng sinh sang qua sông » Thái Tông xác nhận rằng nhờ thành kính hết lòng tụng đọc kinh Kim

cương mà được tỏ ngộ chân lý:

Page 139: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

138

« Trẫm thường ngày tụng đọc kinh Kim cương, có lần đọc đến câu: « Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm » nên sinh cái tâm không có chỗ chấp. Đang lúc đặt quyển xuống ngâm thì chợt khoát nhiên tự ngộ »

Ở kinh Bát- nhã- ba- la- mật- đa có câu thần chú sau đây: « Yết đế, yết đế, Ba-la-yết-đế, Ba-la-tăng-yết-đế, Bồ-đề- tát-bà-ha » ( Độ, độ, độ khắp cả, độ sang bến bờ bên kia, khắp độ tất cả sang bờ

bên kia, giác ngộ! ) Đấy là tiếng gọi tiến lên, vượt qua, một thái độ tích cực cao độ, thể

hiện đầy đủ đức tính bi, trí , dũng của con nhà Phật. Thật là vô lý cho những ai chỉ nhìn thấy Phật giáo như là một tôn giáo bi quan yếm thế! Trần Thái Tông đã thể hiện trọn vẹn được ba đức tính bi, trí, dũng đó của Phật. Thực vậy, Ngài là vị vua nhân từ, không màng danh lợi, trọng trách nhiệm, xem xuất thế và nhập thế chỉ là hai phương tiện như nhau. Về đức hạnh cứu độ chúng sinh thì không gì thực tế bằng việc chăm lo cho dân cho nước, sửa sang nền chính trị sao cho dân được ấm no, hạnh phúc, an cư lạc nghiệp, đất nước thanh bình, độc lập chủ quyền được củng cố, tránh cảnh nước mất nhà tan, dân chúng điêu linh ( Nhà vua lãnh đạo cuộc kháng chiến chống cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ lần thứ nhất vào năm 1257 ) Ngô Thời Sĩ có nhận định như sau: « Mấy năm đầu vua Thái Tông có tính tà dâm do Thủ Độ xui bảo cả, đến mấy năm sau để ý học vấn, tấn tới được nhiều, lại càng nghiên cứu nội điển làm ra sách « khóa hư lục » mến cảnh sơn lâm, coi sống chết như nhau, tuy ý tứ gần với đạo Phật « không tịch » mà chí thì rộng xa, cao siêu, cho nên bỏ ngôi báu như trút dép nát vậy » ( Việt sử tiêu án ) Và Ngô Thời Sĩ cũng ca ngợi rằng: « Vua lập ra nhà học, tôn chuộng nghề văn, dựng nên nhà giảng tập việc võ. Cả văn lẫn võ có vẻ rực rỡ lắm cho nên có các ông Hán Siêu, Trung Ngạn, Nhật Duật, Ngũ Lão nối nhau xuất hiện, Văn Trinh và Hưng Đạo là bậc danh tướng lẩy lừng thời bấy giờ, là kết quả của sự tôn chuộng văn võ đó » ( Việt sử tiêu án ) Thái Tông không những nhân từ, độ lượng mà còn can đảm, anh dũng nữa, xem sống chết như nhau: « Tháng 10 mùa đông năm thứ10 (1241) người Thổ, Mán, nhà Tống sang cướp biên giới. Nhà vua hạ lệnh cho viên đội trưởng là Phạm Kính Ân đem quân đi đánh tan được. Nhà vua đi tuần ngoài biên thùy, nhân tiện đi luôn vào đất Tống. Nhà vua thân đem quân chèo thuyền từ trại Vĩnh Bình qua Châu Khâm, Châu Liêm, tự xưng là trai lang, rồi cắm thuyền

Page 140: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

139

trong cõi đất ấy, chỉ đi bằng mấy chiếc thuyền Kim phụng, Nhật quang và Nguyệt quang. Ban đầu người châu ấy không biết tình hình thế nào đều sợ chạy cả, lúc biết ra, họ mới giăng xích sắt ở giữa giòng sông để ngăn cản đường thủy. Nhà vua sai nhổ lấy vài chiếc neo bằng sắt đem về. » Ở « Niệm Phật luận », Thái Tông đã định nghĩa một cách thông suốt thế nào là Phật sống: « Tâm tức Phật, không phải thêm bớt chi nữa. Ý niệm là bụi, không dung một điểm nào ở trong tâm ấy, ở đấy vốn trong sạch không chút bụi nhơ, cho nên bao giờ cũng như thế không vang động gọi là Như như, tức là thể của Phật. Thực thể Phật thế nào thì thực thể ngã như thế, không có hai hình tướng. Hình tướng và hình tướng không có hai, yên lặng còn luôn mà không biết, thế là Phật sống » Như vậy, đối chiếu với cuộc đời tu đạo, khả năng tĩnh thức, giác ngộ cũng như công nghiệp của nhà vua lo cho dân, cho nước thì quả thật Ngài là một vị Phật sống ở đời và cũng là một vị Bồ tát tại thế vậy.

Page 141: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

140

* Vua Trần Nhân Tông Vua Trần Nhân Tông sinh ngày 11 tháng 11 năm 1258. ĐVSKTT mô tả: « Được tinh anh của thánh nhân, đạo mạo thuần túy, nhan sắc như vàng, thể chất hoàn toàn, thần khí tươi sáng, hai cung đều cho là lạ, gọi là Kim Tiên đồng tử, vai bên tả có nốt ruồi đen, cho nên có thể cáng đáng được việc lớn. » Thánh đăng ngữ lục cũng viết tương tự: « Đến khi vua ra đời, màu da như vàng ròng. Thánh tông đặt tên là Kim Phật. Bên vai phải vua có nốt ruồi đen như hạt đậu lớn. Kẻ thức giả bảo: « Ngày khác chắc chắn có thể gánh vác việc lớn » Sách trên viết tiếp: « Điều Ngự tính vua thông minh, đa năng hiếu học, xem trải mọi sách, thông nội ngoại điển » … « Năm vừa 16 tuổi, được lập làm Hoàng thái tử, Điều Ngự cố từ ba lần, xin cho em thay mình, nhưng đều không được. Đem trưởng nữ của Nguyên Từ Quốc mẫu cho làm vợ, tức là Thái hậu Khâm Từ. Duyên cầm sắt tuy hài hòa, nhưng lòng vua thì rất nhạt nhẽo » « Lòng nhạt nhẽo » vì tâm trí nhà vua lúc nào cũng nghĩ đến cái Đạo tối cao, không màng danh lợi, những muốn nối chí của ông nội là vua Trần Thái Tông: « Một đêm vào giờ tý, vua bèn vượt thành mà đi, tìm vào núi Yên Tử. Đến chùa Tháp núi Đông Cứu thì trời đã sáng mà mình lại rất mệt, bèn vào nghỉ ở trong tháp. Vị sư chùa thấy diện mạo vua khác thường, bèn đem thức ăn dâng vua… » « Hoàng hậu đem tâu hết cho vua nghe. Vua ra lệnh cho quần thần tung ra bốn phương tìm kiếm. Thái tử bất đắc dĩ tự trở về và lên ngôi. Tuy ở nơi cữu trùng sang trọng mà vẫn tự mình giữ thanh tịnh »

* Hòa Bình và chiến tranh: Trần Nhân Tông lên ngôi vua vào ngày 22 tháng 10 năm Mậu dần (1278 ). Vừa mới lên ngôi, vua Trần Nhân Tông đã đứng trước một tình thế nguy khốn, hiểm nghèo của đất nước: Hốt Tất Liệt đang ráo riết chuẩn bị xâm lăng nước Việt. ĐVSKTT ghi: « Vua Nguyên nghe Thái Tông mất, có ý mưu tính nước ta, sai Thượng thư bộ lễ là Sài Thung đến. Bấy giờ sứ nước ta là Lê Khắc Phục đang trở về gặp quân Nguyên đánh nhà Tống, bèn theo đường Hồ Quãng về nước. Thung cùng theo tới, mượn cớ vua không xin mệnh mà tự lập, dựng lời bảo vua khiến vào chầu. Vua nghe, sai Trịnh Đình Toản, Đổ Quốc Kế đến Nguyên. Nhà Nguyên giữ Đình Toản không cho về. »

Page 142: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

141

Ngày mồng 4 tháng 12 năm Mậu dần ( 1278 ), vua Trần Nhân Tông nhận chiếu của Hốt Tất Liệt và Sài Thung đã đọc: « Nước ngươi nội phụ đã hơn 20 năm. Sáu việc vừa rồi còn chưa thấy theo. Ngươi nếu không chầu thì hãy sửa thành trì của ngươi, chỉnh đốn quân đội ngươi để đợi quân ta. Cha ngươi đã nhận lệnh ta làm vua. Ngươi không xin lệnh mà tự lập, nay lại không chầu. Ngày sau triều đình gia tội thì lấy gì mà trốn? » Sáu việc là những đòi hỏi nặng nề mà Nguyên chủ đã đưa ra vào năm 1267, thời vua Trần Thánh Tông. Trước những hành động trịch thượng và dã tâm đế quốc đó, vua Trần Nhân Tông đã khôn khéo áp dụng một chính sách ngoại giao mềm dẽo, nhúng nhường nhưng cũng không kém phần cương quyết nhằm kéo dài cuộc thương thuyết, tạo cơ hội cho quân dân Việt có đủ thời giờ củng cố lực lượng, chuẩn bị tất cả mọi mặt sẵn sàng đối phó với cuộc chiến tranh xâm lăng chắc chắn sẽ xảy ra. Theo An Nam truyện của Nguyên sử, vua Trần Nhân Tông đã sai Phạm Minh Tự, Trịnh Quốc Toản và Đổ Quốc Kế đem biểu gởi cho vua Nguyên, từ chối việc vào chầu: « Cô thần bẫm khí yếu đuối. Vả lại đường xá khó khăn, chỉ luống phơi xương trắng làm cho Bệ hạ phải xót thương mà không ích lợi gì cho triều đình trong muôn một. Cúi mong Bệ hạ xót thương tiểu quốc xa xôi, khiến cho thần cùng những kẻ quan quả cô độc giữ được tánh mạng, để suốt đời phụng sự Bệ hạ. Đó là điều may lớn cho cô thần và cũng là phước lớn cho sinh linh » Trịnh Quốc Toản bị giữ ở lại Đại Đô, Sài Thung cùng Đổ Quốc Kế trở lại nước Việt, tiếp tục đưa điều kiện đe dọa như An Nam truyện của Nguyên sử đã chép: « Nếu quả không thể đến chầu được thì hãy dồn vàng thay cho thân mình, dùng hai ngọc trai thay cho mắt mình cùng với hiền sĩ, phương kỷ tử đệ hai người và hai loại thợ mỗi thứ hai người để thay cho thổ dân. Nếu không thế thì hãy sửa sang thành trì của ngươi, để đợi sự phán xét. » Để tiếp tục chính sách ngoại giao mềm dẽo, né tránh chiến tranh, kéo dài càng lâu càng tốt, vua Trần Nhân Tông cử chú họ là Trần Di Ái cùng Lê Tuân, Lê Mục đi sứ sang Nguyên thay cho mình ( 1281 ). Nguyên chủ không chịu, bèn nắm lấy cơ hội này thành lập chính phủ bù nhìn tay sai, phong Di Ái làm An Nam quốc vương. Hốt Tất Liệt viết chiếu nại lý do: « Cho sứ sang vời thì ngươi kiếm cớ không đi, nay lại cố ý trái mệnh, chỉ sai chú là Di Ái vào chầu…Ngươi đã cáo bệnh không vào chầu thì nay cho ngươi được nghỉ mà thuốc thang điều dưỡng, ta đã lập chú ngươi là Di Ái thay ngươi làm vua nước An Nam »

Page 143: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

142

Năm 1282, Sài Thung được lệnh mang 1000 quân đưa Di Ái và đồng bọn về nước. Sự kiện này Việt sử tân biên viết:“ Sài thung bị bắn lòi một mắt chạy trốn về Tầu, cái triều đình bù nhìn và Việt gian kể từ Di Ái trở xuống đều bị bắt và phải tội đồ sung làm quân lính. Cuộc đấu tranh ngoại giao đến đây cực kỳ căng thẳng hầu như sắp tan vỡ và cuộc chiến tranh khốc liệt không thể nào tránh được. Trước tình thế đó, vua Trần Nhân Tông gấp rút lo củng cố mọi tiềm lực quốc gia về mọi mặt: chính trị, quân sự, kinh tế và ngoại giao. Việc bang giao với Chiêm Thành được đặc biệt chú ý cải thiện để đáp ứng kịp thời đòi hỏi của thời cuộc vì Chiêm Thành là vị trí chiến lược vô cùng quan trọng về phía Nam nước Việt. Quả vậy, vào tháng 10 năm Quý mùi (1283), sứ Nguyên là Đào Bỉnh Trực đem thư sang đòi hỏi ta giúp binh lương và cho mượn đường để đánh Chiêm Thành. Thật là vô lý cho lý lẽ của đế quốc, thực ra đây chỉ là gian kế để tấn công bất ngờ nước Việt. Vua Trần Nhân Tông trả lời bằng thơ: « Chiêm Thành phụng thờ tiểu quốc đã lâu. Lão phụ tôi chỉ chăm vỗ về họ bằng đức tốt. Đến đời tôi cũng nối theo ý chí ấy. Từ khi Lão phụ tôi qui thuận thiên triều đến nay đã 30 năm, can qua tỏ ra không dùng nữa, quân lính đổi ra làm dân đinh, một là để dùng vào việc cống hiến thiên triều, một là để tỏ không dám hai lòng. Xin Các hạ thương tình mà xét cho thì hay lắm. Còn việc giúp lương, nước tôi bé nhỏ, đất giáp với biển, ngũ cốc sản xuất không nhiều. Từ sau đại quân kéo đi rồi(cuộc xâm lăng của Mông Cổ lần thứ nhất1257) trăm họ siêu dạt, thêm nổi nước lụt, hạn hán, no bửa sớm, đói bửa hôm, thật là cực khổ. Nhưng đối với mệnh lệnh của Các hạ đâu có dám trái nên nghĩ xin đến địa phận châu Vĩnh An ở bờ cõi Khâm Châu đợi để góp nộp… » Kể từ khi Sài Thung bị thương chạy về và thái độ của nhà Trần cương quyết không chịu khuất phục, việc đòi mượn đường và giúp lương thực đi đánh Chiêm Thành bị khước từ, Hốt Tất Liệt hết sức tức giận quyết định cuộc chiến tranh xâm lăng trừng phạt. ĐVSKTT ghi: « Tháng 12 Trần Phủ (sứ của Đại Việt) từ nước Nguyên về nói vua Nguyên sai Thái tử là Trấn Nam Vương Thoát Hoan, Bình chương A Lạt và bọn A Lý Hải Nha đem quân, thác cớ mượn đường đi đánh Chiêm Thành, chia đường xâm lấn. » Để đối phó với chiến tranh, vua Trần Nhân Tông ra lệnh cho các Vương hầu đem toàn bộ quân đội thủy lục tập trận, phong cho Trần Hưng

Page 144: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

143

Đạo làm Quốc Công Tiết Chế thống lĩnh toàn quân và giao cho những tướng tài giỏi nhiệm vụ chuẩn bị đối phó. Tháng 8 năm 1284 Trần Hưng Đạo đề nghị tổ chức một cuộc tổng duyệt binh tại Đông Bộ Đầu gần thủ đô Thăng Long để nêu cao khí thế và sau đó bố trí đến trấn giữ các nơi xung yếu để nghinh địch. Cuộc xâm lăng lần thứ 2 của quân Nguyên khai diễn vào ngày 21 tháng chạp năm Giáp thân 1284. Họ huy động một lực lượng lớn tới 50 vạn quân đặt dưới quyền tổng chỉ huy của Thái tử Thoát Hoan cùng với các tướng tài có nhiều kinh nghiệm trong các chiến trường lớn. Cũng cùng thời gian đó, Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông cho triệu tập các bô lão trong cả nước về điện Diên Hồng để trưng cầu dân ý cùng hỏi kế đánh giặc. Các vị bô lão đếu đồng thanh: « Nên đánh ». Về việc này,Việt sử tiêu án viết: « Thánh Tông muốn làm thế để xem sự ái mộ, thành thật của hạ dân và muốn cho họ nghe dụ hỏi mà cảm kích hăng hái lên » Trước hội nghị Diên Hồng, hội nghị quân sự cao cấp cũng được bí mật triệu tập tại Bình Than để bàn mưu chống giặc. Trong hội nghị này có một sự kiện đặc biệt đáng chú ý là Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản còn ít tuổi không được góp lời, Quốc Toản lấy làm bực tức tay cầm quả cam bóp nát lúc nào không hay biết. Khi trở về nhà Quốc Toản hội họp gia nô được hơn 1000 người, tự sắm vũ khí, kéo cờ đánh giặc. Như vậy, quân dân Đại Việt dưới sự lãnh đạo của vua Trần Nhân Tông đã chuẩn bị chu đáo mọi mặt, tinh thần cũng như vật chất để nghinh chiến và cuối cùng đã chiến thắng vẻ vang quân Nguyên hai lần liên tiếp vào những năm 1285 và 1288 và lần đầu vào năm 1257 ở đời vua Trần Thái Tông. Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải đã làm bài thơ tổng kết cuộc chiến thắng anh hùng của toàn dân, toàn quân và kêu gọi mọi người ra sức xây dựng nền Thái bình lâu dài cho đất nước: « Đoạt sóc Chương Dương độ Cầm Hồ Hàm Tử quan Thái bình tu trí lực Vạn cổ cựu giang san. » ( Cướp giáo bến Chương Dương Bắt Hồ cửa Hàm Tử Thái bình gắng sức lên! Non nước này muôn thuở ) ( Việt sử tân biên : Đoạt sóc- có sách ghi Đoạt sáo )

Page 145: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

144

Nhìn thấy đất nước trở lại bình yên, Thượng hoàng Trần Thánh Tông có làm hai câu thơ: « Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã Sơn hà thiên cổ điện kim âu » ( Xã tắc hai phen bon ngựa đá Non sông muôn thuở vững âu vàng ) Vào thế kỷ XIII, Đại Việt là một nước nhỏ mà đã ba lần oanh liệt chiến thắng quân Mông Cổ, đội quân hung hản đã từng xâm chiếm, tàn phá nhiều nước trên thế giới, đã thiết lập một đế quốc rộng lớn từ Á sang Âu. Những kỳ công lịch sử này của người Việt không phải là một sự ngẫu nhiên, mà ắt phải có những nguyên do nhất định. Thật vậy, khi mới xét qua tương quan lực lượng của hai bên chúng ta nhận thấy có sự chênh lệch rõ rệt. Phía Đại Việt, tức phía chiến đấu tự vệ đã tổng động viên được một lực lượng vỏn vẹn 20 vạn quân đặt dưới quyền điều khiển của Hưng Đạo Vương và dưới sự chỉ huy tối cao của vua Trần Nhân Tông như ĐVSKTT đã ghi : « Hưng Đạo Vương vâng lệnh điều quân dân các lộ Hải Đông, Vân Trà, Bà Điểm, chọn người mạnh khỏe làm quân tiên phong vượt biển vào Nam. Thế quân đã hơi nổi. Các quân nghe thế, không quân nào là không đến tụ họp. Vua làm thơ đề ở cuối thuyền rằng : « Cối Kê việc cũ ông nên nhớ Hoan Ái vẫn còn mười vạn quân » ( Cối Kê cựu sự quân tu ký Hoan Ái do tồn thập vạn binh.) Hưng Vũ Vương Nghiễn, Minh Hiến Vương Uất, Hưng Nhượng Vương Tảng, Hưng Trí Vương Hiện đốc xuất quân các xứ Bằng Hà, Na Sầm, Trà Hương, Yên Sinh, Long Nhã, cộng 20 vạn đến họp ở Vạn Kiếp theo sự điều khiển của Hưng Đạo Vương để chống quân Nguyên ». Còn về phía quân Mông Cổ như ở cuộc xâm lăng lần thứ ba chẳng hạn đã tung ra một lực lượng hùng hậu với quân số lên tới 80 vạn quân, riêng cánh quân của bọn Áo Lỗ Xích, Ô Mã Nhi, Trương Văn Hổ đã hơn 50 vạn như ĐVSKTT đã ghi : « Vua Nguyên sắc cho Thượng thư sảnh Áo Lỗ Xích, Bình chương sự Ô Mã Nhi, Đại tướng Trương Văn Hổ điều động 50 vạn quân, sai Hồ Quãng làm 300 chiếc thuyền đi biển hẹn đến tháng 8, họp cả ở Châu Khâm và Châu Liêm, sai đem quân ba hành tỉnh Giang Chiết, Hồ Quãng và Giang Tây xâm lấn phương Nam, mượn cớ đưa kẻ đầu hàng Trần Ích Tắc về nước, lập làm An Nam quốc vương ».

Page 146: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

145

Tương quan lực lượng hai bên là như thế, mà cuối cùng quân dân Đại Việt đã liên tiếp đánh bại ba cuộc xâm lăng ồ ạt của quân Mông Cổ. Lúc mới xua quân qua, quân Nguyên tỏ ra hung hản, dữ tợn, thẳng tay cướp phá, tàn sát, biểu dương tính tàn bạo của kẻ đế quốc như lá thư của vua Trần Nhân Tông gởi cho Hốt Tất Liệt vào tháng 4 năm1288 đã tố cáo : « Chúng đốt phá hết chùa chiền khắp nước, đào bới mồ mã tổ tiên, bắt giết người dân già trẻ, đập phá sản nghiệp của trăm họ. Các hành động tàn nhẫn phá phách, không gì là không làm ». Ô Mã Nhi dù đã nếm mùi bại trận lần trước, lần này khi mới nhập trận cũng vẫn còn hung hăng, quyết bắt cho bằng được vua Trần Nhân Tông, hắn hống hách tuyên bố : « lên trời, ta theo lên trời ; chạy xuống đất, ta theo xuống đất ; trốn lên núi, ta theo lên núi ; lặn xuống biển, ta theo xuống biển. » Tương phản với lúc mới xua quân qua, khi thua trận tháo chạy rút về tình cảnh của tàn quân xâm lăng thật là thảm hại. Nguyên sử đã chép : « Đi đến sông Sách, buộc cầu nổi để vượt sông.. Quân chưa kịp sang sông thì phục binh trong rừng đã đổ ra. Quan quân phần lớn chết chìm, hết sức đánh mới được ra khỏi đất Giao Chỉ. »(cuộc xâm lăng lần thứ 2) Và : « Trấn Nam Vương dẫn quân về...Người Giao hơn 4 vạn chận đường chính. Bấy giờ quân ta ( Nguyên) thiếu ăn, vừa mệt đánh trận, tướng tá nhìn nhau thất sắc... » ( cuộc xâm lăng lần thứ 3 ) Như trên đã trình bày, tương quan lực lượng hai bên là như thế và kết quả thắng bại lại như thế thì cái sức mạnh nào đã làm thay đổi hẳn cán cân để đưa đến chiến thắng của Đại Việt. Nói một cách cụ thể thì nguyên nhân của chiến thắng trên là do tài năng lãnh đạo của vua quan nhà Trần cùng với tinh thần đoàn kết, lòng hy sinh, tính dũng cảm cao độ của toàn dân, toàn quân Đại Việt. Nói một cách sâu xa hơn là thời đó đã biểu hiện được Việt tính, mà yếu tố quan trọng là tinh thần dân tộc với ý thức dân tộc cao độ qua triết lý hành động thực tiển, đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập, tự chủ. * Ý thức dân tộc : Nước Việt Nam đã hơn 1000 năm bị phương Bắc đô hộ, dân Việt đã có kinh nghiệm đau thương về nổi cơ cực, nhục nhã của kẻ mất nước, dân chúng phải lặn xuống tận đáy biển để tìm ngọc trai, lên rừng sâu để săn tê giác lấy sừng về nộp cho Đô hộ phủ. Người dân nước Đại Việt thời đó đã được giáo dục kỹ về lịch sử của nước mình : lịch sử của dân tộc Việt là lịch sử đấu tranh không ngừng, đấu tranh với thiên nhiên và nhất là đấu

Page 147: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

146

tranh chống ngoại xâm để tồn tại. Trong quá trình lịch sử đó, các vị anh hùng dân tộc đã lần lượt xuất hiện để cứu nguy đất nước như Hai Bà Trưng, bà Triệu, Lý Bôn, Khúc Thừa Dụ, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Đại Hành, Lý Thường Kiệt...và đất nước Việt Nam đã thực sự có độc lập, có chủ quyền và người dân Việt đã được sống trong cảnh thanh bình hơn 200 năm qua. Bài thơ thần sông núi nổi tiếng đã ra đời vào khoảng từ thời vua Lê Đại Hành cho đến thời danh tướng Lý Thường Kiệt đánh quân Tống là một bản tuyên ngôn độc lập : « Nam quốc sơn hà Nam đế cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư » Bản tuyên ngôn đó là sự khẳng định về một Chân lý : đó là sự độc lập của đất nước Việt một cõi ở phương Nam, nó xác định dứt khoát phạm trù chính trị Nam-Bắc, một đưòng ranh giới đấu tranh rõ ràng. Thế cho nên khi tướng Trần Bình Trọng chẳng may sa cơ thất thế bị bắt ở trận Đà Mạc ngày 21 tháng giêng năm Ất dậu ( 1285 ), Thoát Hoan đã đem chức tước chiêu dụ không được như ĐVSKTTghi : « Khi bị bắt, không chịu ăn. Giặc hỏi việc nước, không trả lời. Hỏi : « Có muốn làm vương đất Bắc không ? » Vương thét lớn : « Thà làm quỉ nước Nam, chứ không làm vương đất Bắc ». Rồi bị giết ». Người dân Việt ý thức sâu xa giá trị của độc lập, tự do cho nên trong cuộc đấu tranh ngoại giao dai dẳng với nhà Nguyên, vua Trần Nhân Tông trước sau như một không chấp nhận việc sang chầu Nguyên chủ, vì sang chầu có nghĩa là đầu hàng giặc, và kinh nghiệm cho biết rằng đầu hàng giặc là mất nước , là bị nô lệ nhục nhã. Gương lịch sử còn sờ sờ đó : vào năm 226, sau khi Sĩ Nhiếp mất, con là Sĩ Huy lên thay, lúc ban đầu còn chống lại ý đồ thôn tính Giao Chỉ của Tôn Quyền, nhưng sau đó vì thiếu cương quyết bị Lữ Đại thông qua Sĩ Khuông dỗ dành về chuyện họa phúc nên siêu lòng, rồi hàng phục. Lữ Đại trở mặt, bắt Huy chém đầu gởi về Vũ Xương. Dân Việt vốn yêu chuộng hòa bình, nhưng phải là nền hòa bình đích thực bảo đảm độc lập, tự chủ do chính mình đấu tranh mà có chứ không phải như luận điệu của Trần Kiện, Lê Thực, những kẻ hàng giặc như An Nam chí lược ghi : « Kiện gọi bọn Thực vào : « Thế tử bị gọi mà không vào chầu đến nổi có chiến tranh. Nguy hiểm ở trong sớm chiều, mà vẫn chấp mê không tỉnh, nở để nước mất nhà tan ư ? »

Page 148: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

147

Lý thuyết địa linh nhân kiệt đã thấm nhuần trong tinh thần mọi người, họ tin tưởng rằng đất nước lúc nào cũng có đủ người tài đức để lãnh đạo, có những vị anh hùng cứu nguy đất nước khi cần, mà mẫu người anh hùng siêu việt, lý tưởng đã được huyền thoại hóa trong truyện Phù Đỗng Thiên Vương. Những ý niệm về đất lành, đất hứa, đất Phật đã nâng cao lòng yêu nước của toàn dân, nên họ quyết tâm ra sức xây dựng và bảo vệ nó. Tinh thần đoàn kết là yếu tố quan trọng, quyết định sự sống còn của dân tộc, cho nên trong nền văn học bình dân mới có lời kêu gọi tha thiết : « Bầu ơi ! thương lấy bí cùng, Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn » hoặc câu : « Đoàn kết sống, chia rẻ chết » như một khẩu hiệu, một qui luật mà mọi người dân đều thuộc nằm lòng. Tinh thần đoàn kết đó được thể hiện trước hết ở các nhà lãnh đạo để làm gương cho dân như câu chuyện « vì nước quên thù nhà » của Trần Hưng Đạo do Việt sử tân biên ghi : « Lúc sắp chết Trần Liễu trối trăn với Trần Quốc Tuấn như sau : « Mai sau nếu con không vì ta mà lấy thiên hạ thì ta nằm dưới đất cũng không nhắm mắt được ». Lời di chúc đó, Ngài không quên nhưng trong bụng không cho là phải ». Thế cho nên sự đoàn kết dưới đời Trần đặc biệt rộng lớn, từ vua quan, thường dân, bô lão, thiếu niên như Trần Quốc Toản, cho đến nô tỳ như Yết Kiêu, Dã Tượng đều hết lòng đánh giặc. Về Yết Kiêu, Dã Tượng ĐVSKTT có ghi : « Trước đây Hưng Đạo Vương có gia nô tên là Dã Tượng và Yết Kiêu. Ông đối đãi họ rất hậu. Khi quân Nguyên đến, Yết Kiêu giữ thuyền ở Bãi Tân. Dã Tượng thì đi theo Hưng Đạo. Lúc quan quân thua trận, quân thuyền đều giải tán. Vương muốn theo lối chân núi mà đi. Dã Tượng nói : « Yết Kiêu chưa thấy Đại vương, tức không dời thuyền chỗ khác ». Vương đi ngay đến Bãi Tân, chỉ có thuyền của Yết Kiêu còn đấy. Vương mừng lắm, nói rằng : « Chim hồng hộc có thể bay cao là nhờ vào sáu trụ xương cánh. Nếu không có thì cũng như chim thường thôi ». Do có cơ sở tinh thần vững chắc như vậy, quân dân nhà Trần có quyết tâm rất cao. Ở hội nghị Diên Hồng các vị bô lão đại diện nhân dân đều đồng thanh « nên đánh ». Các binh sĩ đều có thích vào cánh tay hai chữ « sát thát » bằng mực để bày tỏ ý chí quyết chiến, quyết thắng. Có lần vua Trần Nhân Tông hỏi thử ý kiến Hưng Đạo Vương : « Thế giặc lớn như vậy, chống với nó e dân sự sẽ tàn hại hay là hàng chúng nó để cứu lấy dân ? Hưng Đạo Vương khẳng khái trả lời : « Bệ hạ vì lòng thương dân

Page 149: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

148

mà nghĩ như vậy nhưng tôn miếu và xã tắc thì sao ? Nếu Bệ hạ muốn hàng, xin hãy chém đầu tôi đi trước đã ! » ( Việt sử tân biên ) Trong trận Bạch Đằng nổi tiếng, Hưng Đạo Vương cùng với quân sĩ khi xuống tới Hóa Giang cùng thề : « Trận này không phá xong giặc Nguyên thì không về đến sông này nữa ! » Tinh thần của quân dân Đại Việt lên cao chưa từng thấy trong thời kỳ chiến tranh chống xâm lăng là như thế đó, còn về tư tưởng lãnh đạo, chính sách quốc gia cụ thể thì sao ? * Tư tưởng lãnh đạo, chính sách quốc gia : Bản thân của các vị vua Trần trong thời kỳ này đều là những Phật tử thuần thành và khi nhường ngôi lại cho con để trở thành Thái Thượng hoàng đều xuất gia tu hành và trở thành những Thiền sư giác ngộ. Chính vua Trần Thái Tông năm 1251 tự tay soạn bài Minh để khuyên bảo hoàng gia thi hành càc điều trung, hiếu, hòa, tốn, ôn, lượng, cung, kiệm. Vua Trần Nhân Tông là vị vua anh minh, nhân hậu đã thực hiện một chính sách cai trị thân dân mặc dầu hình thức là chế độ quân chủ phong kiến. Hội nghị Diên Hồng thể hiện phần nào tính cách dân chủ mới mẻ thời đó, chứng tỏ sự quan tâm của giới lảnh đạo đối với ý kiến toàn dân. Tính thân dân của nhà vua được ĐVSKTT mô tả trong sự kiện sau đây : « Vua thường đi chơi ở bên ngoài, giữa đường gặp gia đồng của các vương hầu, tất gọi rõ tên mà hỏi : « chủ mày ở đâu ? » đồng thời răn các vệ sĩ không được phép đuổi. Đến khi về cung, vua gọi tả hữu nói : « ngày thường thì có thị vệ ở hai bên, đến khi quốc gia nhiễu nạn thì chỉ bọn ấy có mặt thôi » Ấy bởi vua cảm kích trước sự hộ tùng lúc vua ở trong gió bụi mà nói thế ». ĐVSKTT cũng ghi lại sau đây câu chuyện chia xẻ cho nhau miếng cơm gạo hẩm trong những ngày khó khăn : « Lúc ấy vua ngự chiếc thuyền nhẹ, sang lộ Hải Đông. Ngày đã gần chiều, vua chưa ăn cơm sáng, có tiểu tốt là Trần Lai đem dâng cơm gạo xấu. Vua khen là trung, ban cho tước phẩm, kiêm chức tiểu tư xã Hữu Triều Môn ở Bạch Đằng ». Do tính nhân hậu, nhà vua thường cho đại xá để cho những kẻ phạm tội trong lúc lỡ lầm có cơ hội cải thiện làm ăn sinh sống. Tính nhân đạo của nhà vua không chỉ giới hạn ở đồng bào ruột thịt mà còn đối với kẻ thù nữa..Câu chuyên sau đây được An Nam chí lược kể : « ... Ô Mã Nhi và Vạn hộ Lưu Khuê đi thuyền nhẹ trốn thoát ra biển. Tiểu Lý đi thuyền phía sau, thấy cơ không thoát được, tự đâm cổ. Vua Trần cho người cứu sống. » Đức tính hiếu sinh, hiếu hòa, nhân đạo đó sau chiến tranh đã trở thành chính sách khoan hồng rộng lớn, hàng vạn quân Nguyên bại trận bị bắt lần

Page 150: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

149

lượt được trao trả về phương Bắc trong đó có nhân vật cao cấp như Tích Lệ Cơ, Phàn Tiếp...nhưng Phàn Tiếp bị bệnh chết được hỏa táng, tro tàn của hắn được vợ mang về nước. Riêng Ô Mã Nhi trong mấy cuộc chiến đã có những hành động quá tàn bạo, cướp của, giết người, đốt phá làng mạc, khai quật cả lăng tẩm của vua Trần Thái Tông ở Long Hưng và nhất là hắn quyết truy lùng bắt cho được vua Trần Nhân Tông về giao nộp cho Nguyên chủ. Tội của y không thể nào được tha thứ nên đã bị trừng trị và việc này được ĐVSKTTghi như sau : « Mùa xuân tháng hai năm Kỷ sửu (1289), sai Nội thủ gia Hoàng Tá Thôn đưa bọn Ô Mã Nhi về nước, dùng kế của Hưng Đạo Vương, cho người giỏi bơi lội làm phu chèo, ban đêm dùi thuyền cho chìm, bọn Ô Mã Nhi đều chết đuối cả ». * Chính sách kinh tế : Nhà Trần đã tạo điều kiện cho nền kinh tế toàn dân phát triển để trước hết có đầy đủ nguồn vật chất phục vụ cho cuộc chiến đấu giữ nước và sau đó là phục hồi nhanh chóng cuộc sống ấm no của toàn dân sau cuộc chiến vệ quốc nhiều hao tổn. Về nông nghiệp thì « lúa mỗi năm gặt bốn lần, tuy vào mùa đông rét, mạ vẫn phơi phới » Về thương mại thì « thôn xóm đều có chợ, mỗi hai ngày họp một lần, trăm món tạp hóa đều dồi dào. Cứ năm dặm thì dựng một ngôi nhà ba gian, bốn mặt đều đặt sạp để làm chỗ họp chợ » Về công nghiệp : « Ngói hình như miếng ván, trên thì rất vuông nhưng nhọn ở nửa dưới, giống như cái cân thóc xưa gác ngang một nửa cây tre làm rui, dùng đinh tre đóng ngói vào trên rui, từ cái diềm theo thứ lớp đè lên nhau cho đến nóc nhà, đẹp, mềm mại như vảy cá ». Kỹ thuật đóng thuyền : « Thuyền nhẹ và dài, ván rất mỏng, đuôi thuyền như cánh chim uyên ương, hai bên nổi cao, dùng đến 30 tên lính để chèo, phần lớn là có đến trăm tên, chạy nhanh như bay ». Những chi tiết trên được Trần Phu ghi trong An Nam tức sự.( trích dẫn từ Toàn tập Trần Nhân Tông của Lê Mạnh Thát ) Nước Đại Việt đã trải qua ba cuộc chiến tranh khốc liệt, tiêu hao biết bao nhiêu nhân lực và tài sản, thế mà Trần Phu khi đến nơi đây vào năm 1293, nhìn thấy tận mắt sự phục hồi nhanh chóng và đã có những phát triển khởi sắc, mặc dầu trước đó vào năm 1290 và 1291 có nạn lụt. Trong những lúc gặp thiên tai như thế, triều đình đã giảm thuế, tạo điều kiện cho dân làm ăn sinh sống, và đồng thời có những tổ chức cứu tế xã hội chu đáo. * Chính sách quốc phòng :

Page 151: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

150

Rút kinh nghiệm trong lịch sử về dã tâm xâm lược của đế quốc phong kiến phương Bắc, triều đình nhà Trần lúc nào cũng nghĩ đến việc củng cố quốc phòng, luyện tập binh sĩ. Thời bình thì có sổ đinh, hộ tịch khai trình, ghi chép rõ ràng ; vô sự thì dân đinh được tiếp tục làm nông nghiệp, lúc có chiến tranh thì theo danh sách mà tổng động viên, bấy giờ thì ai cũng là binh lính cả.

* Chính sách thưởng phạt : Chính sách thưởng phạt phân minh. ĐVSKTT ghi : « Mùa thu tháng 8 (1285 ), sai Tả bộc xạ Khương Công Giới tuyên phong các công thần theo thứ bậc khác nhau và trị tội những kẻ đầu hàng giặc » Về việc lấy công chuộc tội, ĐVSKTTghi lại câu chuyện Trần Khánh Dư như sau : « Bấy giờ, quân thủy của nhà Nguyên đánh Vân Đồn. Hưng Đạo Vương đem hết công việc biên giới giao cho phó tướng của Vân Đồn là Nhân Huệ Vương Khánh Dư. Khánh Dư đánh thất lợi. Thượng hoàng nghe tin, sai Trung sứ đến xiềng Khánh Dư đem về kinh. Khánh Dư bảo với Trung sứ rằng : « Lấy quân luật mà xử, tôi đành chịu tội, nhưng xin hoãn cho vài ba ngày để tôi lập công chuộc tội, rồi sau về chịu búa rìu cũng chưa muộn ». Trung sứ nghe theo lời xin. Khánh Dư liệu biết quân giặc qua rồi, thì thuyền lương tất phải theo sau, bèn thu nhặt quân còn lại để đợi. Chốc lát sau, thuyền chở lương quả đến. Bèn đánh bại, bắt được quân lương khí giới của giặc không kể xiết, bắt được giặc cũng rất nhiều. Liền chạy thư về báo. Thượng hoàng nghe, tha hết tội trước ». Chẳng những tưởng thưởng mà còn bồi thường thiệt hại cho những người có công góp sức đánh giặc giữ quê hương, xóm làng như văn bia chùa Hưng Phúc ở Thanh Hóa đã ghi về việc Lê Công Mạnh cùng với anh em, bà con họ hàng và người trong hương An Duyên đã có công chận đánh quân Toa Đô ở bến Cổ Bút : « Khoảng năm Thiệu Bảo, giặc Hồ trở xuống phương Nam. Hữu tướng giặc là Toa Đô tiến quân theo đường biển, đi tắt qua ngõ Cổ Khê bằng con đường của hương An Duyên này. Ông (Lê Công Mạnh ) đem người trong hương chận ở bến Cổ Bút, cùng đánh nhau với giặc. Giặc cơ hồ không rút chạy được. Nhưng vì có kẻ gian trong hương hàng giặc chỉ đường, nên nhà cửa của ông bị đốt phá, công việc xây chùa không thành. Đến khi giặc lui, nhà vua trở lại kinh đô, ông đem việc tâu lên. Vua xuống chiếu tra xét, rồi lấy sản vật trong hương bồi thường cho ông, để khuyến khích người trung cần, nêu rõ công sức của ông vậy. » * Chiến thuật, chiến lược :

Page 152: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

151

Quân Mông Cổ có lối đánh thần tốc, dốc toàn lực nhằm thẳng vào đối phương mà tấn công như trời long đất lở. Họ có biệt tài cởi ngựa, bắn cung tên. Chuyện chém giết đối với họ là việc thường xuyên, đến mức độ tàn bạo. Thế cho nên chống lại quân Mông Cổ mà lấy cường lực đối chọi với cường lực thì quả thật là một việc liều lĩnh, nguy hiểm. Quân dân Đại Việt chiến đấu vì sự sống còn của mình cho nên không được phép phạm lỗi lầm trong chiến lược cũng như chiến thuật. Các vua quan nhà Trần đã thi thố tài năng lãnh đạo, chỉ huy trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc rất có cân nhắc, thận trọng. Họ đã khai triển các yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa triệt để và nắm vững nguyên tắc « biết người, biết ta » Trong một hội nghị cao cấp, vua Trần Nhân Tông đã hỏi ý kiến Trần Hưng Đạo : « Thế giặc năm nay thế nào ? » Trần Hưng Đạo trả lời : « Nước ta thái bình lâu ngày, dân không biết việc binh, nên năm trước quân Nguyên xâm lấn, hoặc có người đầu hàng trốn tránh. Nhờ uy binh của Tổ tông và thần vũ của Bệ hạ, mà đã quét sạch được rợ Hồ. Nay nếu nó lại sang thì quân ta đã quen với việc đánh dẹp, mà quân nó lại thì ngại việc đi xa. vả lại, nó đã cạch về sự thất bại của Hằng và Quán, nên quân Nguyên không có lòng chiến đấu nữa. Cứ ý thần xem, thì tất đánh tan được chúng. » ( ĐVSKTT ) Lúc mới xua quân ồ ạt tràn qua Đại Việt, thế giặc rất hung hãn, quân đội nhà Trần được chia ra trấn giữ những nơi hiểm yếu để ngăn chận địch, nhưng tránh đụng độ lớn để bảo toàn chủ lực, dùng phục binh để làm tiêu hao dần và làm nhục nhuệ khí của địch, chờ dịp thuận tiện tập trung phản công lớn. An Nam truyện của Nguyên sử có viết : « Quan quân tập họp các tướng bàn việc người Giao chống cự quan quân. Bọn chúng tuy nhiều lần thua tan, nhưng quân chúng lại thêm càng lúc càng nhiều. Quan quân khốn thiếu, tử thương cũng nhiều. Ngựa quân Mông Cổ không thi thố được kỷ năng. Bèn bỏ kinh thành vượt sông lên bờ bắc, quyết nghị rút quân về đóng ở châu Tư Minh. Trấn Nam Vương đồng ý, bèn dẫn quân về. Ngày đó, Lưu Thế Anh kịch chiến với hơn hai vạn binh của Hưng Đạo Vương và Hưng Ninh Vương ». Quân Mông Cổ là đoàn quân xâm lăng vượt đường xa vạn dặm nên có khó khăn trong việc vận chuyển quân lương, cho nên việc phá quân lương của giặc là một việc quan trọng ưu tiên hàng đầu mà quân dân Đại Việt phải thực hiện cho bằng được để đạt thắng lợi ở các chiến trường vì « tận lương vô kế », địch phải thua.

Page 153: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

152

Ngày 11 tháng giêng năm Mậu tý ( 1288 ), Trần Khánh Dư đánh tan đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ ở cửa Lục, tịch thu và phá hủy rất nhiều quân lương và vũ khí. Chiến thuật « tiêu thổ kháng chiến » không thấy sách sử nói rõ, có thể vì qua ba cuộc chiến khốc liệt, tài nguyên của Đại Việt kiệt quệ nên không còn có gì nhiều để phải tiêu hủy khi rút lui. Tuy nhiên có mấy sự kiện liên quan ít nhiều đến chiến thuật đó. Ngày 20 tháng 8 năm Canh tý ( 1300 ), Hưng Đạo Vương mất, trước khi lâm chung, vua Anh Tông đến thăm và có ý vấn kế : « Vua Anh Tông hỏi : « Rủi khi Đại vương khuất núi đi rồi, giặc Bắc lại sang, thì đối phó như thế nào ? » Hưng Đạo Vương đáp : « Xưa Triệu Vũ Đế lập quốc, vua Hán cho quân sang đánh, Triệu Vũ Đế cho dân đốt phá sạch quang đồng nội, không để quân địch cướp bóc lương thảo... » ( Việt sử tân biên) Trong khi đó An Nam truyện của Nguyên sử viết : « ...Hôm sau, Trấn Nam Vương vào quốc đô nước đó, cung thất đều trống trơn, chỉ lưu lại mấy lá thư của hành tỉnh, tất cả đều bị xé nát ». Và An Nam truyện cũng viết : « Các tướng sĩ nhân thế nói rằng Giao Chỉ không có thành trì có thể giữ được, kho lẫm có thể ăn được, thuyền lương của bọn Trương Văn Hổ không đến. Mà tiết trời đã nóng, sợ lương hết quân mệt, không lấy gì để kéo dài lâu, làm nhục triều đình. Nên bảo toàn quân để mà trở về. Trấn Nam Vương làm theo ». * Chiến thuật có tính cách lịch sử : cọc sắt dưới sông Bạch Đằng. Theo ĐVSKTT : « Quân Nguyên hội tại sông Bạch Đằng để đón thuyền lương của bọn Trương Văn Hổ nhưng không gặp. Hưng Đạo Vương đem quân đánh, giặc bị thua. Trước đó Vương đã trồng cọc ở sông Bạch Đằng phủ cỏ lên trên. Hôm ấy nhân lúc nước triều lên, Vương cho quân khiêu chiến, rồi giả thua chạy về Bắc. Bọn giặc đuổi theo, quân ta cố sức đánh lại. Nước triều rút, thuyền giặc bị vướng cọc. Nguyễn Khoái đem quân Thánh dực dũng nghĩa cùng đánh với giặc, bắt được Bình chương Áo Lỗ Xích. Hai vua đem quân tiếp đến, tung quân đánh lớn. Quân Nguyên chết đuối không thể kể xiết, nuớc sông vì thế đỏ ngầu. Rồi Văn Hổ đến, phục binh hai bờ đổ ra đánh. Giặc lại thua. Nước triều rút rất nhanh, thuyền lương của Văn Hổ gác lên trên cọc, nghiêng đắm gần hết. Quân Nguyên chết đuối rất đông, bắt được hơn 400 thuyền tuần tiểu. Nội minh tự Đỗ Hành bắt được Ô Mã Nhi và Tích Lệ Cơ Vương, dâng lên

Page 154: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

153

Thượng hoàng. Thượng hoàng sai dẫn lên thuyền ngự cùng ngồi và nói chuyện vui vẻ uống rượu ». * Tâm lý chiến : Bên cạnh chiến tranh cơ giới, chiến tranh tâm lý cũng hết sức quan trọng, quyết định sự thắng bại. Hưng Đạo Vương đã làm hịch kêu gọi tướng sĩ, nhân dân ra sức chống giặc : « ...Ta đây, ngày thì quên ăn, đêm thì quên ngủ, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức rằng chưa được xả thịt lột da quân giặc, dầu thân này phơi ngoài nội cỏ, xác này gói trong da ngựa, thì cũng đành lòng. Các ngươi ở cùng ta coi giữ binh quyền, cũng đã lâu ngày, không có áo thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho ăn, quan còn nhỏ, thì ta thăng thưởng, lương có ít thì ta tặng cấp, đi thủy thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa, lúc hoạn nạn thì cùng nhau sống chết, lúc nhàn hạ thì cùng nhau vui cười, những cách cư xử so với Vương Công Kiên, Đường Ngột Ngãi ngày xưa cũng chẳng kém gì. Nay các ngươi trông thấy chủ nhục mà không biết lo, trông thấy quốc sĩ mà không biết thẹn, thân làm tướng phải hầu giặc, mà không biết tức, tai nghe nhạc để hiến ngụy sứ, mà không biết căm ;hoặc lấy việc chọi gà làm vui đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển, hoặc vui thú về ruộng vườn, hoặc quyến luyến về vợ con, hoặc nghĩ về lợi riêng mà quên việc nước, hoặc ham về săn bắn mà quên việc binh, hoặc thích rượu ngon, hoặc mê tiếng hát. Nếu có giặc đến, thì cựa gà trống sao cho đâm thủng được áo giáp ; mẹo cờ bạc sao cho dùng nổi cuộc quân mưu ; dầu rằng ruộng lắm tiền nhiều, thân ấy nghìn vàng khôn chuộc ; vả lại vợ bìu con díu, nước này trăm sự nghĩ sao ? Tiền của đâu mà mua được đầu giặc ; chó săn ấy thì địch sao nổi quân thù ; chén rượu ngon không làm được cho giặc say chết ; tiếng hát hay không làm được cho giặc điếc tai ; khi bấy giờ chẳng những là gia quyến của ta bị hại, mà vợ con của các ngươi cũng nguy ; chẳng những là ta chịu nhục bây giờ mà trăm năm về sau, tiếng xấu hãy còn mãi mãi, mà gia thanh của các ngươi cũng chẳng khỏi mang tiếng nhục, đến lúc bấy giờ các ngươi dầu muốn vui vẻ, phỏng có được hay không ? Nay ta bảo thật các ngươi, nên cẩn thận như nơi củi lửa, nên giữ gìn như kẻ húp canh, dạy bảo quân sĩ, luyện tập cung tên, khiến cho người nào cũng có sức khỏe như Bàng Môn và Hậu Nghệ, thì mới có thể dẹp tan được quân giặc, mà lập nên công danh ; chẳng những là thái ấp của ta được vững bền, mà các ngươi cũng đều được hưởng bỗng lộc ; chẳng những là gia quyến của ta được yên ổn, mà các ngươi cũng đều được vui

Page 155: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

154

với vợ con, chẳng những là tiền nhân ta được vẻ vang, mà các ngươi cũng được phụng thờ Tổ phủ, trăm năm vinh hiển, chẳng những là một mình ta được sung sướng, mà các ngươi cũng được lưu truyền sử sách, nghìn đời thơm tho ; đến bấy giờ các ngươi dẫu không vui vẻ cũng tự khắc được vui vẻ... » Bài hịch đã đánh một đòn tâm lý thẳng vào bản tính liêm sỉ của mọi người, nỗi nhục bị giặc khinh khi, ơn vua lộc nước phải báo đền, phải dẹp bỏ lợi lộc, thú vui riêng, năng luyện tập cung tên để dẹp giặc, lập công danh. Bài hịch cũng nhắc nhở cho mọi người một điều có tính cách qui luật là đất nước còn thì tất cả còn, đất nước mất thì tất cả mất. Nói về chính nghĩa thì kẻ xâm lăng bao giờ cũng phi nghĩa, trái với nhân tâm vì là kẻ đi cướp nước người, thường tỏ ra tàn bạo như Thiên nam hành ký của Thuyết Phu viết : « Chúng đốt phá hết chùa chiền khắp nước, đào bới mồ mã tổ tiên, bắt giết người dân già trẻ, đập phá sản nghiệp của trăm họ. Các hành động tàn nhẫn phá phách, không gì là không làm ». Thật đúng với câu nói của Thành Cát Tư Hãn : « Nơi nào ngựa Mông Cổ đi qua, cây cỏ cũng hết sống » Chính nghĩa bao giờ cũng ở về phía những người tự vệ, họ chiến đấu cho lý tưởng độc lập, tự do, cho quyền sống của con người. Cũng vì thế mà tinh thần chiến đấu của họ rất cao, quyết sống chết với giặc nên đã thích vào cánh tay hai chữ « sát thát » Trong khi đó, kẻ xâm lăng thường có tâm lý tự tôn, khinh địch, dựa vào thế lực ồ ạt, nhưng lại không bền bĩ, nếu không thắng nhanh chóng lâu ngày dễ sanh nản lòng. Hơn nữa trong hàng ngũ của quân Mông Cổ có một số quân lính cũ của nhà Tống người Hán xem như lính đánh thuê. Họ làm sao có tinh thần chiến đấu khi mà trước đó không lâu quân Mông Cổ đã dày xéo quê hương họ, gây biết bao cảnh núi xương, sông máu. Như vậy thì họ chỉ chiến đấu miễn cưỡng. Mặt khác do thời tiết, khí hậu khắc nghiệt, rồi quân lương bị phá cho nên bệnh tât, đói khát đã làm cho quân xâm lăng hết lòng chiến đấu. Điều này, Nguyên sử có viết : « Tướng sĩ ta ( Mông Cổ ) phần nhiều là người phương Bắc. Lúc xuân hạ giao nhau, chướng khí bệnh tật hoành hành. Chưa bắt được giặc ta không thể giữ lâu được ». Trong khi đó, quân dân Đại Việt nắm vững các yếu tố « thiên thời, địa lợi, nhân hòa », lúc ẩn lúc hiện đột kích, khi thời cơ thuận lợi thì tập trung phản công như sấm sét khiến kẻ xâm lăng đã xuống tinh thần lại càng mất

Page 156: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

155

hết tinh thần : « Bấy giờ quân ta thiếu ăn, vừa mệt đánh trận, tướng tá nhìn nhau thất sắc » ( Nguyên sử ) Quân Mông Cổ chỉ còn có cách rút quân về, từ bỏ giấc mộng xâm lăng : « ( A Bát Xích ) chọn các quân bộ kỵ, sai đi trước mở đường, vừa đánh vừa đi, ngày mấy chục hiệp. Giặc chiếm các điểm cao hiểm trở, bắn tên độc xuống. Tướng sĩ cột vết thương để đánh. Các quân hộ vệ Hoàng tử ra khỏi nước giặc » ( Nguyên sử ) Trên đây là những điều trình bày khái quát về sự nghiệp giữ nước của nhà Trần, tài năng lãnh đạo chỉ huy của vua quan, sức chiến đấu kiên cường của quân dân, tinh thần đoàn kết cao độ, lòng yêu nước nồng nàn, bản tính vốn ôn hòa, yêu chuộng hòa bình, nhưng lại rất cương quyết với tinh thần đấu tranh quyết chiến quyết thắng chống xâm lăng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Đại Việt . Đó cũng là nội dung của triết lý hành động trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, nó không phải là một thứ triết học với hệ thống ý niệm, lý luận, mà là hành động thực tiển, cho nên suốt cả chiều dài của lịch sử Việt Nam là một chuỗi đấu tranh, sự đấu tranh toàn diện trên tất cả mọi mặt. * Văn hóa: Thật vậy, bên cạnh những thành tích đấu tranh chống xâm lăng, nền văn hóa đời Trần cũng đã có những nét khởi sắc đặc biệt nhất là chữ Nôm đã thấy xuất hiện và rất được khuyến khích bởi tinh thần độc lập muốn thoát ly khỏi ảnh hưởng của nền văn hóa phương Bắc. Xu hướng văn thơ chữ Nôm có dịp bành trướng, tiếng Việt lần đầu tiên đã được dùng làm thi ca, khúc ngâm và Hàn Thuyên ở huyện Thanh Lâm, tỉnh Hải Dương là người rất giỏi thư phú chữ Nôm. Phong trào này mới đầu bị bọn Nho sĩ tiểu nhân, hủ Nho khinh thường và mỉa mai : « Nôm na là cha mách qué » Mặc dầu vậy, chữ Nôm càng ngày càng phát triển theo xu hướng dân tộc và đã chứng tỏ có khả năng thực hiện được chức năng ghi chép những tư tưởng thánh hiền chứ không riêng gì chữ Hán : « Nói Nôm tiếng thị tiếng phi Đến lập văn tự lại y thánh hiền. » Vua Trần Nhân Tông là vị vua anh minh, đạo đức, văn võ toàn tài đã để lại cho đời sau hai tác phẩm văn Nôm tiên phong là « Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca » và « Cư trần lạc đạo ». Đó là hai tác phẩm văn học có tính cách luận đề đã chứng minh khả năng dùng tiếng Việt để diển tả những tư tưởng trừu tượng tương đối khó nắm bắt một cách khéo léo và dễ hiểu.

Page 157: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

156

Nội dung của luận đề này đã được tóm tắt ngay ở tựa đề của hai bản văn nói trên. Người xưa thường nhắc nhở : « hữu thân hữu khổ », cho nên nếu may mắn có được hạnh phúc thì chớ nên vội tự đắc vì bên cạnh cái hạnh phúc đó bao giờ cũng có cái không may, cái bất hạnh đang chực chờ : « Sinh có nhân thân Ấy là họa cả. » Cái thân huyễn của con người theo luật biến dịch tự nhiên : thành, trụ, hoại, không ( Phật giáo ) hay thành, thịnh, suy, hủy ( Dịch ) mà biến hóa không ngừng như phù vân, như bọt biển. Vạn sự vật do nhân duyên mà hợp thành ( tụ ), và cũng do nhân duyên mà tan rã ( tán ), cho nên tất cả chỉ là Không : « Cốc hay thân huyễn Chẳng khác phù vân Vạn sự giai không Tựa dường bọt bể » Cho nên nếu lấy quan điểm rộng mà xét thì cuộc sống chẳng khác nào một giấc chiêm bao : «Ai ai xá cốc Bằng huyễn chiêm bao Xẩy tỉnh giấc hoè Châu rơi lã chã » Thế giới hiện tượng thiên hình vạn trạng tuy biến hóa vô thường, nhưng đàng sau nó có một Thực tại bất biến, thường còn, chứ không phải hư vô: « Địa thủy hỏa phong Dầu là biến hóa Pháp thân thường trụ Phổ mãn Thái hư » Đứng trước sự thật vô thường như vậy, ngày xưa ở Ấn Độ có hai khuynh hướng cực đoan mà Đức Phật đã khuyên mọi người nên tránh. Đức Phật nói: « Có hai cái cực đoan mà người muốn sống được một đời sống giải thoát cần phải tránh xa! Cực đoan thứ nhất là lấy những lạc thú xác thịt làm mục đích của loài người. Đó là một nếp sống thô bỉ và ngu xuẩn! Nhưng cái cực đoan thứ hai là sống một đời khổ hạnh, ép xác cũng chỉ gây tạo cho con người thêm đau khổ, vất vả vô ích! » Đức Phật đã tránh hai cực đoan ấy và vạch ra con đường Trung đạo đưa đến trí huệ Bát nhã và giải thoát.

Page 158: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

157

Những kẻ phàm phu chưa hiểu đạo thì bám vào công danh để hưởng lạc thú không cần biết hậu quả về sau: « Công danh mảng đắm Ấy toàn là những đứa ngây thơ » hoặc: « Ngựa cao tán cả, Diêm Vương nào kể đứa nghênh ngang. Gác ngọc lầu vàng, Ngục tốt thiếu chi người yêu quí. Chuộng công danh, lồng nhân ngã, Thực ấy phàm phu. » Người hiểu đạo thì ngược lại, không chạy theo thanh sắc, chơi bời trụy lạc: « Lánh thị phi, ghê thanh sắc, Ngại chơi bời dặm liễu đường hoa.” mà họ siêng năng nghiên cứu sách thánh hiền, đọc kinh, yêu Tính sáng vốn đã có sẵn trong lòng mỗi người. Tính sáng ấy là Bồ đề tâm, là Giác tính, là trí huệ Bát nhã: “Sách Dịch xem chơi, Yêu tính sáng, yêu hơn châu báu; Kinh nhàn đọc dấu, Trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim. » Không có gì quí hơn cái tính sáng ấy mà ở Phật giáo là Phật tính, còn ở Khổng giáo là Minh đức, ở Lão-Trang là Tự minh. Giữ Tâm thanh tịnh, không cho vọng động, niệm khởi, dứt trừ nhân ngã, dừng hết tham sân thì Thực tướng Kim cương Bát nhã sẽ hiện sáng mà thành tựu Tâm viên giác. Cõi Tịnh độ, Tây phương cực lạc không ở đâu xa cả, mà ở ngay tại Tâm thôi, « tức tâm tức Phật »: « Miễn được lòng rồi, Chẳng còn phép khác. Gìn tính sáng, tính mới hầu an; Nén niềm vọng, niềm dừng chẳng thác. Dứt trừ nhân ngã, thì ra Tướng thực Kim cương; Dừng hết tham sân, mới lảu lòng màu Viên giác. Tịnh độ là lòng trong sạch, Chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương. Di Đà là tính sáng soi,

Page 159: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

158

Mựa phải nhọc tìm về Cực lạc. » Đức Phật đã dạy rằng : « Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh » và « Ngươi là kẻ đang thành Phật, còn ta là kẻ đã thành Phật. » Điều đó có nghĩa là Phật ở tại Tâm của mỗi người và ai ai cũng có thể trở thành Phật nếu biết tu hành đúng mức. Cũng vì vậy mà Vô Ngôn Thông trước kia có nhấn mạnh rằng : « Tây thiên đất này Đất này Tây thiên » Nếu con người ở thời Mâu Tử, Khương Tăng Hội thắc mắc : « sao không thấy chân hình Đức Phật » thì sau này với tư tưởng « Tây thiên đất này », đất nước Việt quả nhiên đã xuất hiện biết bao vị Anh hùng dân tộc lỗi lạc phi thường cứu dân, cứu nước và ở thời nhà Trần có hai vị vua anh minh có đầy đủ những đức tính Bi, Trí, Dũng xứng đáng được người đời xưng tụng là những vị Phật sống, hay những vị Bồ tát tại thế. Đất nước Đại Việt sau những năm chiến tranh chống ngoại xâm đã thực sự trở nên thanh bình, thịnh trị như cõi Phật, mà Trạng nguyên Huyền Quang Lý Tải Đạo đã mô tả như sau : « Phen những ôi ! Tây trúc dường nào Năm châu có mấy Non Linh Thứu ai đem về đây Cảnh Phi Lai mặt đà thấy đáy Vào những cõi thánh thênh thênh Thoát rẽ lòng phàm phây phấy » Vì quan niệm như thế cho nên mọi người dân sẵn sàng hy sinh chiến đấu bảo vệ quê hương cũng như hăng say kiến thiết, xây dựng đất nước. Trong chiến tranh, giặc đã tàn phá đất nước: « chúng đốt phá hết chùa chiền khắp nước, đào bới mồ mã tổ tiên, bắt giết người dân già trẻ, đập phá sản nghiệp của trăm họ. Các hành động tàn nhẫn, phá phách, không gì là không làm », cho nên việc trước mắt là tái thiết xóm làng như xây dựng cầu cống, đóng thuyền đò, sửa xây chùa chiền với tấm lòng từ bi hỷ xả: « Dựng cầu đò, dồi chiền tháp, Ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu. Săn hỷ xả, nhuyễn từ bi, Nội tự tại kinh lòng hằng đọc. » Công tác « dựng cầu đò » giúp dân tiện việc làm ăn sinh sống, « dồi chiền tháp » vì đó là trung tâm văn hóa, xã hội của người dân như chính vua Trần Nhân Tông đã nhận xét và đánh giá:

Page 160: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

159

« Núi hoang rừng quạnh, Ấy là nơi dật sĩ tiêu dao. Chiền vắng am thanh, Chỉn thực cảnh đạo nhân du hí » Tuy bận rộn với công việc quốc gia, xã hội, thi thố tài năng « kinh bang tế thế » mà người ta vẫn không quên rèn luyện tâm thân, trau dồi đạo đức, luân lý như trung với vua, với nước, hiếu thảo với cha mẹ, thể hiện hạnh Bồ tát trang nghiêm: « Sạch giới lòng, dồi giới tướng, Nội ngoại nên Bồ tát trang nghiêm. Ngay thờ chúa, thảo thờ cha, Đi đỗ mới trượng phu trung hiếu. » Con người lúc nào cũng quí trọng Thánh hiền, yêu mến Phật Cồ Đàm: « Vâng ơn Thánh, xót mẹ cha, thờ thầy học đạo, Mến Đức Cồ, kiêng bùi ngọt, cầm giới ăn chay. Cảm Đức Từ bi, để nhiều kiếp nguyền cho thân cận. Đội ơn cứu độ, nát muôn thân thà chịu đắng cay. Nghĩa hãy nhớ, đạo chẳng quên, Hương hoa cúng xem còn nên thảo ». Việc tu hành không nhất thiết phải từ bỏ trần tục, nương náu cửa chùa ở nơi sơn lâm vắng vẻ, mà phạm trù Đời với Đạo đã được vua Trần Nhân Tông xác định tương quan rõ ràng: Đạo và Đời không phải là hai, không phải khác nhau, cho nên mới có tựa đề bài phú” Cư trần lạc đạo”. Một người làm việc xuất sắc ở đời, hết lòng phục vụ cho dân cho nước không vì tư lợi, cứu giúp con người thoát cảnh đọa đày, nô lệ thì công đức nhiều khi còn hơn cả những người chính thức xuất gia tu hành nơi am thanh, chùa vắng mà chưa thật sự dứt hết vọng niệm, mê chấp: « Há vì ở Cánh Diều Yên Tử, Rần thanh sắc niềm dững chẳng chuyển. Lọ chi ngồi am Sạn non Đông. Trần tục mà nên, phúc ấy càng yêu hết tấc, Sơn lâm chẳng cốc, họa kia thực cả đồ công ” Khi xưa vua Trần Thái Tông bỏ ngôi báu vào núi Yên Tử gặp Quốc sư Phù Vân có nói: “.vào núi này chỉ cầu làm Phật, không cầu vật chi khác ”. Quốc sư đáp: “ Núi vốn không có Phật, Phật tồn nơi tâm, tâm yên lặng mà biết ấy gọi là chân Phật.” Đến nay vua Trần Nhân Tông đã ý thức Phật không ở đâu xa cả, mà Phật ở tại trong nhà, ở tại nơi tâm ta:

Page 161: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

160

“ Bụt ở cong nhà, Chẳng phải tìm xa. Nhân khuấy bổn nên ta tìm Bụt, Đến cốc hay chỉn Bụt là tu » Thành thị hay sơn lâm chẳng qua chỉ là hoàn cảnh, phương tiện mà thôi, còn cứu cánh vẫn là sự giác ngộ, giải thoát. Vấn đề quan trọng trong đời sống tu đạo là ngoài nổ lực của bản thân cũng cần phải có ông Thầy giỏi ấn chứng cho mới được : « Đấng Thượng sĩ chứng thực mà nên, Ai ghẻ có sơn lâm thành thị. » Còn như ở thành thị mà tâm yên lặng như ở núi rừng thì vấn đề tại gia hay xuất gia, nhập thế hay xuất thế sẽ không thành vấn đề nữa : « Mình tại thành thị Nết dụng sơn lâm » Tư tưởng đó cũng đã xuất hiện trong văn học bình dân như sau : « Thứ nhất là tu tại gia Thứ nhì tu chợ Thứ ba tu chùa » Như vậy ở đây chỉ còn lại vấn đề khó dễ mà thôi, nơi nào thanh tĩnh thì dễ tu hơn nơi nhộn nhịp, ồn ào. Vì vậy vua Trần Nhân Tông sau khi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ ở đời rồi thì chọn nơi yên tĩnh để dưỡng thân : « ...Kiếm chốn dưỡng thân Khuất tịch non cao Náu mình sơn dã Vượn mừng hủ hỷ Làm bạn cùng ta Vắng vẻ ngàn kia Thân lòng hỷ xả Thanh nhàn vô sự Quét tước đài hoa Thờ phụng bụt trời » Dầu ở núi rừng hay thành thị, con người nếu muốn có một đời sống đạo hạnh thanh cao cũng đều phải cố gắng ; « Dốc chí tu hành Giấy sồi bô bả » dứt bỏ tam nghiệp : thân, khẩu, ý nghiệp và thực hiện Tâm không : « Hãy xá vô tâm

Page 162: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

161

Tự nhiên hợp đạo Dừng tam nghiệp mới lặng thân tâm » cởi bỏ nhân duyên, xa lìa kiến chấp nhị nguyên, phân biệt nhân ngã, bỉ thử, thị phi...thì giác tính Bồ đề sẽ sáng tỏ : « Niệm lòng vằn vặc Giác tính quang quang Chẳng còn bỉ thử Tranh chấp nhân ngã Trần duyên rũ hết Thị phi chẳng hề » giữ tâm thanh tịnh, trừ nghi hoặc, tránh tham, sân, si là gốc rễ của phiền não để chứng được tam thân : pháp thân, báo thân, hóa thân (hay ứng thân) ; không còn lệ thuộc vào lục căn : mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể ( cảm xúc ), ý ; khử trừ lục tặc : « Miển cốc một lòng Thì rồi mọi hoặc Chuyển tam độc mới chứng tam thân Đoạn lục căn, nên trừ lục tặc Tìm đường hoán cốt » thực hành hạnh bố thí, thương khắp muôn loài : « Cắt thịt phân cho Dầu là chim cá Thân này chẳng quản Bửa đói bửa no » Ngoài các biện pháp kể trên, Thiền học không thể thiếu được đối với những ai thực sự muốn cầu tìm giác ngộ, giải thoát vì Thiền có khả năng nối liền cá nhân với Chân không, Thực tại tuyệt đối, Bản thể đại đồng : « Tham thiền kén bạn Nát thân mình mới khá hồi ân ; Học đạo thờ thầy Lọt xương óc chưa thông của báo » Có nhiều phương pháp mà người tu hành có thể lựa chọn như Vương lão chém mèo, thầy Hồ đuổi chó... « Vương lão chém mèo, Rạt thảy lòng ngừa thủ tọa. Thầy Hồ khua chó, Trỏ xem trí nhẹ con giàng” Nhưng cứu cánh giác ngộ nào có khác :

Page 163: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

162

« Vậy cho hay : Cơ quan tổ giáo Tuy khác nhiều đàng Chẳng cách mấy gang » Tuy nói như vậy nhưng muốn đạt được giác ngộ cũng không phải là chuyện dễ dàng : « Phô người học đạo Vô số nhiều thay Trúc hóa nên rồng Một hai là họa » Nguyên do là : « Bởi lòng vờ vịt Trỏ Bắc làm Nam » Đó cũng là tình trạng mà Điều Ngự Trần Nhân Tông đã nói đến trong bài giảng tại chùa Sùng Nghiêm : « Câu có câu không Chẳng có chẳng không Khắc thuyền tìm gươm Bản đồ tìm ngựa... Nón tuyết giày bông Ôm cây đợi thỏ... Quên trăng giữ ngón Chết đuối trên bờ... Câu có câu không Ngó phải ngó trái Ráo riết hùa theo Ồn ào tranh cãi » Con đường tu đạo thực ra còn phải trải qua nhiều gian nan thử thách, còn đòi hỏi nhiều công phu và quyết tâm cao độ : « Rèn lòng làm bụt Chỉn xá tua một sức dồi mài Đãi cát kén vàng Còn lại phải nhiều phen lựa lọc » Tuy chuyện « trúc hóa rồng, một hai là họa », nhưng với định luật tích lũy lượng biến thành phẩm, con người tin tưởng rằng nếu hội đủ điều kiện nhân duyên cũng sẽ có ngày « cá chép vượt vũ môn » mà đạt được đạo : « Tích nhân nghì, tu đạo đức Ai hay này chẳng Thích Ca

Page 164: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

163

Cầm giới hạnh, đoạn xan tham Chỉn thực ấy là Di Lặc” Đến đây con người giác ngộ không còn chấp vào thanh sắc, thấu rõ Chân không, Chân như, Bát nhã: “ Hỏi phép chân không Hề chi lánh ngại thanh chấp sắc. Biết Chân như, tin Bát nhã Chớ còn tìm Phật tổ Tây Đông ” Vì đã giải thoát khỏi thế giới hình danh, sắc tướng, thể nhập Chân không,cho nên bậc giác ngộ có thể xướng”khúc vô sinh”,”thái bình ca” bằng đàn không dây, sáo không lỗ, nhạc không âm sắc, không lời: “ Lẫy tam huyền, nong tam yếu, một cất một ma Cầm vốn thiếu huyền Xá đàn dấu xoang vô sinh khúc Địch chăng có lỗ Cũng bấm chơi xướng thái bình ca ”. Trần Nhân Tông kết thúc bài phú “ Cư trần lạc đạo ” bằng bài kệ: “ Cư trần lạc đạo thả tùy duyên Cơ tắc xan hề khốn tắc miên Gia trung hữu bảo hưu tầm mích Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền ” ( Ở đời vui đạo, hãy tùy duyên, Đói cứ ăn đi mệt ngủ liền Trong nhà có báu thôi tìm kiếm, Đối cảnh vô tâm, chớ hỏi thiền ) Để thể hiện khuynh hướng , chủ trương “ cư trần lạc đạo ”, yểm trợ cho các chính sách quốc gia, vua Trần Nhân Tông đã cho phát triển Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử để thay thế cho Thiền phái Thảo Đường đã được sáng lập từ đời vua Lý Thánh Tông. Sự khác biệt giữa hai Thiền phái là ở chỗ Thiền phái Thảo Đường chủ yếu giành cho giới vua quan, còn Thiền phái trúc Lâm thì chẳng những giành cho giới vua chúa, quí tộc mà còn cho cả dân chúng nữa trong phạm vi rộng lớn hơn. Mục đích chung của cả hai Thiền phái là để thỏa mãn nhu cầu của thời đại, nâng cao phẩm chất của cuộc sống đạo và đời cũng như công cuộc phát triển đất nước, mở rộng bờ cõi, tăng gia dân số. Như lịch sử cho biết thì ở đời Lý ba châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính đã được sáp nhập vào bản đồ Đại Việt; còn ở đời Trần thì có thêm hai châu Ô Mã, Việt Lý.

Page 165: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

164

Như vậy có thể nói rằng Thiền phái Thảo Đường và Trúc Lâm là đặc trưng cho thời đại Lý-Trần trong hệ thống Tam giáo đồng nguyên, mà Trúc Lâm là một khai triển tiếp nối của Thảo Đường, là một dòng Thiền thế tục với các Thiền sư, cư sĩ xuất phát từ vua, quan và dân chúng. Vua Trần Nhân Tông lúc nào cũng mong muốn nâng cao phẩm chất của cuộc sống đạo và đời theo tinh thần “cư trần lạc đạo”, cho nên sau khi nhường ngôi vua lại cho Thái tử để làm Thái thượng hoàng, Ngài xuất gia và thường hay thuyết pháp. Trong một buổi thuyết pháp tại chùa Sùng Nghiêm, Thái thượng hoàng mở đầu bài giảng bằng hai câu thơ tha thiết khuyên mọi người như sau: “ Đổ quyên rền rĩ, trăng ngày sáng, Đừng để tầm thường xuân luống qua ”.

Page 166: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

165

* Nguyễn Trãi (1380-1442) Khuynh hướng Tam giáo đồng nguyên cực thịnh đời Lý-Trần bởi vì các vị vua thời đó như Lý Thái Tổ, tức Lý Công Uẩn xuất thân từ cửa Phật, rồi đến các vị vua Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông đều là những Phật tử thuần thành, về sau đều nhường ngôi lại cho Thái tử làm Thái thượng hoàng, đều xuất gia trở thành Thiền sư đắc đạo, được người đời xưng tụng như Phật sống, Bồ tát tại thế. Với tinh thần tổng hợp sáng tạo, các vị vua anh minh và các vị Thiền sư nổi tiếng thời này đã chủ trương phát triển tư tưởng Tam giáo để phục vụ đất nước, dân tộc. Các kỳ thi Tam giáo được tổ chức để tuyển chọn người hiền tài. Ngoài việc phát triển Phật học, Nho học cũng được đặc biệt quan tâm: nhà Lý cho xây Văn miếu năm 1070 ở Thăng Long (Hà Nội) để thờ Khổng Tử, lập Quốc tử giám năm 1076 để đào tạo nhân tài cho hai ngành văn võ; kể từ năm 1227 nhà Trần lạị mở khoa thi Tam giáo, rồi tiếp theo sau đó lại mở khoa thi tam khôi ( thi đình) và thiết lập Quốc học viện dạy tứ thư, ngũ kinh...Việc chăm lo giáo dục này làm cho Nho học phát triển dần. Mới đầu vì triều đình còn mở các kỳ thi Tam giáo để tuyển chọn nhân tài cho nên giới Nho sĩ còn thỏa hiệp phần nào với tư tưởng cởi mở của Tam giáo, nhưng về sau giới này được đào tạo càng ngày càng đông, trở thành một lực lượng đáng kể, mà phần đông chịu ảnh hưởng của Tống Nho cho nên đã đi đến thiên chấp, độc tôn. Ngô Thời Sĩ trong Việt sử tiêu án đã phê bình: “ Danh Nho đời cổ có học rộng bách gia, xuất nhập cả đạo Lão và Phật, nhưng rút cục vẫn phải trở lại cầu đến lục kinh; nếu học vấn lẫn lộn không được thuần nhất, tâm đã tạp không chuyên nhất, thì có ích gì cho việc đời mà cũng cho được xuất thân ”.( xuất thân là đổ đạt kỳ thi Tam giáo ) Ngô Sĩ Liên cũng phê bình như sau: “ Đạo Lão nói về vấn đề thiên biến vạn hóa, có đức không phải đức, tùy cảm ứng vật, có dấu vết thì không còn mãi. Đạo Phật dạy điều không sống không chết, không đến không đi, cũng không có gân sức, không có tướng mạo. Đấy là cái học có sâu rộng mà không thuần, tâm rối mà không nhất trí, thì dù có được ra phù vua giúp nước, hiểu lẽ huyền diệu của A Nan, Ma Ha thì có ích gì cho thế đạo quốc dân. Cho xuất thân để làm gì?”( Lịch triều hiến chương ) Tình trạng Nho giáo và giới Nho sĩ kể từ đây được Trần Trong Kim nhận xét như sau: “...Song các học giả về sau lại theo cái học của Trương

Page 167: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

166

Hoành Cừ, Trình Y Xuyên và Chu Hối Am cho cái học của những nhà này là phần trung kiên của Nho giáo. Cái học này thiên về mặt cư kính thượng lễ và cùng lý, thành ra một cái học rất chi ly, hay câu nệ những tiểu tiết vụn vặt, trái với tông chỉ khoan dung hoằng đại của Khổng giáo. Cái học ấy đến đời Minh, đời Thanh hãy còn thịnh, gây ra cái lưu tệ đến bây giờ ta còn trông thấy ”( Nho giáo- T.T.Kim ) Mặt khác, khi nhà Minh lấy danh nghĩa điếu phạt họ Hồ cướp ngôi vua Trần, đem quân xâm chiếm Việt Nam, họ chủ trương lập lại chính sách đồng hóa như hơn ngàn năm đô hộ trước đây, nhưng được tăng cường tới mức tối đa. Việt sử tân biên ghi: “ Lữ Nghị và Hoàng Phúc được đặc ủy mọi việc quân chính, sau đó bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh rút quân về Tàu mang theo bản đồ nước ta, đàn bà con gái, các sử sách, đồ thư, truyện ký về Kim Lăng dâng lên Minh đế, do dó chúng ta mất rất nhiều sách quý mà nhân tài hai triều Lý Trần đã biên soạn ”... “ Chưa hết! giặc còn di phong hoán tục, nhồi sọ người Việt chúng ta bằng những cổ thư của họ(dĩ nhiên họ xuyên tạc ý tưởng của các tiên nho, tiên hiền) cho dân học cả nghề bói toán, nghề phù thủy mục đích du nhập các mê tín quàng xiên theo chính sách ngu dân và cũng là để tiêu diệt văn hóa và tinh thần cố hữu của Lạc Việt chúng ta từ ngàn năm vốn được xây dựng trên một căn bản, tự do, độc lập, anh dũng ”. Tình trạng tinh thần của con người ở giai đoạn này nhứt là tầng lớp quý tộc, giới Nho sĩ thật là sa sút, cho mãi đến về sau này khi cuộc kháng chiến chống Minh thành công mà tình trạng này cũng chưa có dấu hiệu được phục hồi. Ngay như người anh hùng lịch sử dân tộc là Bình Định Vương Lê Lợi mà ĐVSKTT còn phê bình như sau: “ Có thể gọi là mưu lớn sáng nghiệp. Song đa nghi hay giết, đó là chỗ kém ”. Cũng theo ĐVSKTT, Lê Lợi đã nói những lời rất khẳng khái như sau: “ Ta sở dĩ cất quân đánh giặc, không phải là có lòng tham lam phú quý, chỉ là muốn cho người ngàn năm về sau biết ta không chịu làm tôi giặc tàn ngược thôi ”. Thế mà sau khi kháng chiến thành công, Lê Lợi lại có những hành động không chính đáng của một bậc minh quân như việc giết Trần Cảo, Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xão, nghe theo lời dèm pha của bọn nịnh thần mà có lòng nghi kỵ Nguyễn Trải là bậc khai quốc công thần. Sau thời Lê Thái Tổ, tình trạng lại càng tệ hại hơn nữa, quyền bính đều nằm trong tay bọn tham quan thủ lợi, bè phái, hoang dâm, rượu chè, mê tín dị đoan. Như việc xây cất chùa Báo Thiên, do công việc nặng nhọc mà đời sống thì cơ cực lầm than nên Cao Sư Đãng có vụng miệng nói rằng: “Thiên tử thì không có đức để đến hạn hán, đại thần thì ăn của đút, cứ

Page 168: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

167

dùng người vô công, có gì là thiện đâu mà làm chùa to thế? ” Có người cáo giác nên Đãng bị chém. Tình trạng băng hoại của xã hội thời này còn để lại ấn dấu sâu đậm trong thi văn của Nguyễn Trãi. Con người thời này phần đông đã đánh mất cái tâm chân thật của mình, đắm chìm trong cảnh giả dối, khủng hoảng niềm tin: “ Nào ai dễ có lòng chân thật Ở thế tin gì miệng đãi bôi ” ( Tự thán, QATT ) Người ta phần đông chỉ biết vụ lợi mà không có tình nghĩa: “ Giàu người hợp khó người tan Hai ấy hằng lề sự thế gian Những kẻ ân cần khi phú quý Họa ai bao bọc thủa gian nan Lều không, con cái hằng tình phụ Bếp lạnh, anh tam biếng hỏi han ” ( Bảo kinh cảnh giới, QATT ) Lòng người quanh co khó lường được biểu lộ qua lời nói ác độc. Chông mác vốn đã bén nhọn, mà miệng lưỡi của con người lại còn bén nhọn hiểm ác hơn nữa: “ Miệng thế nhọn hơn chông mác nhọn Lòng người quanh nữa nước non quanh ” ( cùng bài thơ trích dẫn trên ) Mặc dầu biết rõ lòng người đen bạc, hiểm độc như thế: “ Ngoài chăng mọi chốn đều thông hết Bui một lòng người cực hiểm thay!” ( Mạn thuật, QATT ) nhưng Nguyễn Trãi vẫn chủ trương sống, hành động, đấu tranh theo con đường nhân nghĩa: “ Lòng thế bạc đen dầu nó biến Ta thìn nhân nghĩa chớ loàn đơn ” ( Bảo kinh cảnh giới, QATT ) hay: “ Cơm kẻ bất nhân, ăn ấy chớ Áo người vô nghĩa mặc chăng thà ” ( Trần tình, QATT ) Tương phản với bọn tham quan nhũng lạm vơ vét của cải, công sức của dân để sống xa hoa, trụy lạc, ông sống một đời sống thanh bần như tinh thần hai câu thơ trong bài thơ “ Ký hữu ”( Gửi bạn ):

Page 169: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

168

“ Thập tải độc thư, bần đáo cốt Bàn vô mục túc, tọa vô chiên ” ( Mười năm đọc sách, nghèo tận xương Mâm ăn không rau đậu, ngồi không nệm ) tự mình lo liệu nhu cầu đạm bạc mà cũng không kém phần tao nhã cho mình: “ Ao cạn vớt bèo cấy muống Trì thanh phát cỏ ương sen ” ( Thuật hứng, QATT ) Mặc dầu lỗi hẹn với người bạn cố tri là cảnh núi rừng, suối đá đầy tình nghĩa để dấn thân vào đời, tham gia lãnh đạo kháng chiến giải phóng dân tộc thành công, những mong đem chút tài năng kinh bang tế thế giúp dân, giúp nước, lập công danh, nhưng nào ngờ sau năm mươi năm tích cực đấu tranh, kết quả chỉ là sự phũ phàng: danh chỉ là thứ danh suông, mà họa là họa thật, trung thần bị cô lập giữa đám nịnh thần gièm pha: “ Phù tục thăng trầm ngũ thập niên Cố sơn tuyền thạch phụ tình duyên Hư danh thực họa thù kham tiếu Chúng báng cô trung tuyệt khả liên ” ( Oan thán ) ( Trải năm mươi năm nổi chìm trong cõi tục Trót phụ tình duyên với suối đá nơi núi cũ Danh suông mà vạ thực, thật đáng buồn cười Bao kẻ gièm pha, người trung cô lập, quả đáng thương!) Nguyễn Trãi cảm thấy càng ngày càng lạc lõng giữa một xã hội lừa đão, phản bội, gian tham nên đã làm bài “ Tự thán” để bày tỏ nỗi lòng: “ Chiếc thuyền lơ lửng trên sông, Biết đem tâm sự ngõ cùng ai hay! Chắc chi thiên hạ đời nay, Mà đem non nước làm rầy chiêm bao. Đã buồn vì trận mưa rào, Lại đau về nỗi ào ào gió đông. Mây trôi nước chảy xuôi dòng, Chiếc thuyền hờ hững bên sông một mình.” Ở thời kỳ Nho giáo độc tôn phá sản với tầng lớp Nho sĩ hủ lậu như vậy mà tại sao có cuộc kháng chiến chống quân Minh giải phóng dân tộc thành công vẻ vang. Có nhiều nguyên nhân, nhưng cái nguyên nhân chính yếu, sâu xa nhất là Dân tộc tính, là Việt tính tức là Tính siêu việt tiềm ẩn nơi

Page 170: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

169

thâm sâu của tâm hồn người dân Việt. Cái Việt tính ấy thật là lu mờ ở giới Nho sĩ hủ lậu thời bấy giờ cũng như ở bất kỳ những người nào bị mê hoặc bởi những tà thuyết ngoại lai, nhưng ngược lại nó vẫn còn tương đối nguyên vẹn ở đại đa số quần chúng nhân dân, nhất là những người ở nông thôn ít có dịp tiếp xúc với nền văn hóa ngoại nhập, mà nguy hại nhất là thứ văn hóa nô dịch do chủ nghĩa đế quốc cố ý đem vào. Việt tính ấy sẽ bừng sáng khi có điều kiện thích ứng theo qui luật “đồng thanh tương ứng ”, cũng như qui luật tích lũy lượng biến thành phẩm. Theo tiếng gọi của Tổ quốc, Việt tính trổi dậy mãnh liệt ở quần chúng nhân dân mà đại biểu sáng chói nhất là người anh hùng áo vải Lê Lợi. Ông tuy thuộc giai cấp phú hào, một trong những giai cấp bóc lột thời đó như sự mô tả của Nguyễn Trãi qua hai câu thơ sau đây trong bài “ bảo kinh cảnh giới ”: “ Bất nhân vô số nhà hào phú Của ấy nào ai từng được chầy ” nhưng Lê Lợi là người có chí lớn, siêu vượt lên trên mọi cái tầm thường, đáp ứng lời kêu gọi của núi sông, ông đã đứng ra đảm nhận trọng trách cứu giống nòi thoát khỏi ách đô hộ bạo ngược của nhà Minh. Việt sử tân biên viết: “ Lúc thiếu thời, ông đã trông thấy cái cảnh quốc phá gia vong như các sĩ phu khác giữa buổi ấy là buổi nhà Hồ sụp đổ, giặc Minh hiếp đáp đồng bào, nên tuy là dòng dõi nhà hào trưởng giàu có, ông đã nuôi chí lớn. Ông không chịu khoanh tay nhìn dân tộc chết dần chết mòn và sống cái sống nhục nhã của người dân mất nước. Ngoài kinh sử, ông nghiên cứu cả binh thư, trận pháp để ứng dụng cái sở năng của mình vào việc cứu quốc sau này. Ông dùng tiền bạc dư dật trong nhà để thu phục nhân tâm, kết nạp hiền sĩ khắp nơi nên nổi tiếng Mạnh thường quân một phương. Bọn quan Tàu nghe tiếng ông được nhân dân mến chuộng cho người đến dụ, có khi dùng uy thế để dọa nạt nhưng ông nhất định từ chối ”. Việt tính ấy cũng nổi bật ở Nguyễn Trãi, một đại biểu xuất sắc hiếm có của giới sĩ phu thời bấy giờ. Nói về ông, Việt sử tân biên có ghi: “ Năm Canh thân ( 1380 ) niên hiệu Xương Phù thứ tư đời vua Đế Nghiễn, tại dinh quan Tư đồ Trần Nguyên Đán trong thành Thăng Long người ta nghe thấy tiếng đứa trẻ oe oe chào đời. Đứa trẻ đó sau này đã trở nên một nhân vật quan hệ cho lịch sử, cho non sông đất Việt...Nguyễn Trãi ra đời được ông ngoại nâng niu như hòn ngọc. Trần công thường nói:-Thằng bé này, tướng mạo khác thường, cơ nghiệp Hoàng Trần sớm chầy tất đổ. Biết đâu

Page 171: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

170

sau này nó chẳng là một nhân vật kỳ kiệt cho ngoại gia hưởng chút thơm lây”. Năm 1400 nhà Hồ mở khoa thi, Nguyễn Trãi đậu Thái học sinh( Tiến sĩ ), sau làm quan với chức Ngự sử đài chánh trưởng. Năm 1407, quân Minh sang bắt cha con Hồ Quý Ly và triều thần, trong đó có Nguyễn Phi Khanh, cha của Nguyễn Trãi giải về Tàu. Ông theo hầu cha, nhưng đến ải Nam Quan, Nguyễn Phi Khanh nhân lúc vắng gọi ông lại bảo: “ Ta già rồi, chết cũng không đáng tiếc, con có học có tài nên về tìm chân chúa lo trả thù cho cha, rửa hận cho nước. Thế mới là đại hiếu, sao lại khóc lóc như đàn bà con trẻ?” ( Việt sử tân biên ) Nguyễn Trãi nghe lời cha trở về tham gia phong trào kháng chiến phục quốc, nhưng chẳng bao lâu bị giặc bắt, Trương Phụ thấy ông còn trẻ, có tài nên dụ ra làm quan nhưng ông nhất định từ chối. Trương Phụ muốn giết, nhưng Hoàng Phúc thấy ông tướng mạo kỳ vĩ xin tha cho, nhưng ông phải bị giam lỏng trong thành Đông Quan. Trong thời gian này, ông có làm bài thơ vô đề tả tình cảnh khốn đốn: “ Góc thành Nam, lều một gian No nước uống, thiếu cơm ăn Con đòi trốn, dễ ai quyến Bầy ngựa gầy, thiếu kẻ chăn Ao bởi hẹp hòi, khôn thả cá Nhà quen xuế xóa ngại nuôi văn Triều quan chẳng phải, ẩn chẳng phải Góc thành Nam, lều một gian ” Có lẽ trong thời gian này ông tập trung tư duy, tìm phương cách cứu dân cứu nước và đã phác họa ra được “ Bình Ngô sách ”. Đến khi gặp Lê Lợi, ông dâng trao tập sách lược bí mật này, đã được Lê lợi đánh giá cao, mời cộng tác, đem thực hiện ngay phương thức chỉ đạo đúng đắn, tài tình ấy và đã đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi vẻ vang như lịch sử đã cho biết. Như đã nói nền Nho học thời này chịu ảnh hưởng nặng nề tư tưởng của Tống Nho độc tôn cho nên nền văn hóa mất hết khả năng thâu hóa sáng tạo, giới Nho sĩ chỉ còn chuộng từ chương, hư danh. Nguyễn Trãi cũng là một Nho sĩ đỗ đạt lúc đương thời, nhưng tại sao lại có được phẩm chất cao cả khác thường để làm tròn sứ mạng lịch sử như vậy. Nghiên cứu lại sự nghiệp văn chương của ông trong nền văn học Việt Nam, chúng ta hy vọng sẽ biết được điều đó, vì văn chương tức là con người, bao giờ cũng phản ánh con người.

Page 172: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

171

Thật vậy, lúc còn trẻ Nguyễn Trãi đã theo nghiệp Nho gia, đổ đạt, làm quan, tham gia kháng chiến thành tựu, những mong thi thố tài năng lập công danh với đời, nào ngờ thực thế phũ phàng, danh theo đuổi kia chỉ là một thứ hư danh: “ Thanh niên phương dự ái nho lâm Lão khứ hư danh phó mộng tầm ” ( Mạn thành ) ( Lúc tuổi xanh tiếng thơm sực nức rừng Nho Già rồi, để mặc cho chiêm bao đi tìm cái danh suông ) Công danh sự nghiệp theo đuổi với hệ thống Nho học thời buổi này chỉ có vẻ bề thế bên ngoài, nhưng thực chất không đủ khả năng thực hiện hoài bảo của đấng trượng phu, cho nên cái hư danh chỉ làm khổ lụy thân mình và xấu hổ mà thôi: “ Thiếu niên trường ốc tiếng hư bay Phải lụy vì danh đã hổ thay!” ( Tự thán, QATT ) Đọc bài thơ chữ Hán “ Tống Tăng Đạo Khiêm qui sơn ”( Tiễn Sư Đạo Khiêm về núi ), chúng ta thấy Nguyễn Trãi tự nhận mình cũng là một Thiền sư thượng thừa: “ Ký tằng giảng học thập dư niên Kim hựu tương phùng nhất dạ miên Thả hỉ mộng trung phao tục sự Cánh tầm thạch thượng thoại tiền duyên Minh triêu Linh phố hoàn phi tích Hà nhật Côn sơn cộng thính tuyền Lão khứ cuồng ngôn hưu quái ngã Lâm kỳ ngã diệc thượng thừa thiền ” ( Nhớ từng giảng học hơn mười năm Nay lại gặp nhau, ngủ một đêm Hãy mừng trong chiêm bao vứt bỏ việc trần tục Lại tìm phiến đá cùng nhau ngồi bàn luận duyên xưa Sáng mai tích trượng còn bay tới Linh phố Ngày nào lại cùng nghe suối reo ở Côn sơn Già đến nói ngông, xin chớ lấy làm lạ Tới khúc đường rẽ, ta cũng là một thiền sư thượng thừa ) Bài thơ chữ Hán tiếp theo là “ Đề Yên Tử sơn Hoa Yên Tự ” ( Thăm chùa Hoa Yên trên núi Yên Tử ) : “Yên sơn sơn thượng tối cao phong

Page 173: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

172

Tài ngũ canh sơ nhật chính hồng Vũ trụ nhãn cùng thương hải ngoại Tiếu đàm nhân tại bích vân trung Ủng môn ngọc sóc sâm thiên mẫu Quải thạch châu lưu lạc bán không Nhân miếu đương niên di tích tại Bạch hào quang lí đổ trùng đồng ” ( Núi Yên Tử cao nhất trên dãy núi Mặt trời đỏ rừng đầu trống canh năm Phóng mắt trong vũ trụ trông suốt ngoài biển xanh Tiếng người cười nói trong mây biếc Trước cửa hộ vệ có nghìn mẫu giáo ngọc xum xuê Đá rủ những tua hạt châu rơi xuống lưng chừng không Di tích vua Nhân Tông còn mãi đó Giữa bóng sáng lông mày trắng được thấy đôi mắt trùng đồng ) Thiền khí rực rỡ của hai bài thơ trên nếu không phải là người thực sự có tâm Thiền thì không thể nào có được. Bài thơ “ Thăm chùa Hoa Yên trên núi Yên Tử ”, nơi phát sinh dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử với di tích vua Trần Nhân Tông là vị Tổ thứ nhất chứng tỏ rằng tư tưởng Tam giáo vẫn còn có ảnh hưởng sâu đậm đối với Nguyễn Trãi, người đã hoàn toàn thất vọng hệ tư tưởng Tống Nho độc tôn đương thời. Do thấm nhuần tư tưởng “ Cư trần lạc đạo” của Vua Trần Nhân Tông, ông đã thực sự sống đời sống Thiền mà không khoác chiếc áo Thiền sư như tinh thần bài thơ họa vần bài “ hà yên ngụ hứng ” của một người bạn: “ Mao ốc tam gian dã thủy nha Thiếu niên bát lạc cựu phân hoa Đắc an phận xứ nhưng tùy phận Vị xuất gia thời thả trú gia Hạm lý vân sơn vô sủng nhục Thành trung hiên miện tổng trần sa ” ( Ba gian nhà tranh ở bến nước ngoài nội Anh hoa tuổi trẻ đã đánh rụng không còn gì Được chỗ an phận hãy tùy theo phận Khi chưa xuất gia hãy trú ở nhà Mây núi trong vòng lan can không có sủng nhục Ngựa xe, áo mũ trong thành đều là cát bụi )

Page 174: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

173

Xuất gia hay tại gia đều là hình thức, là phương tiện; còn nội dung, cứu cánh là Thiền chất .Thái độ “ được chỗ an phận hãy tùy theo phận ” cũng tương tự như thái độ “ nương theo vận mệnh lên xuống tự nhiên mà không còn lo sợ ” ( nhậm vận thịnh suy vô bố úy ) của Thiền sư Vạn Hạnh thời Lý. Do đó Nguyễn Trãi quan niệm vấn đề “ ra-ẩn ” ( xuất.xử ) không khác nhau: “ Lãm huy nghĩ học minh dương phượng Viễn hại chung vi tị dặc hồng Luân lạc thiên nhai câu thị khách Niên lai xuất xử lược tương đồng ” ( Họa hương tiên sinh vận giản chư đồng chí ) ( Nhìn ánh sáng, muốn học chim phượng gáy vừng đông Xa lánh tai họa, rút cục chim hồng tránh nơi săn bắn Đều là khách lận đận nơi phương trời Lâu nay ra hay ẩn chẳng có gì khác nhau ) ( Họa vần của vị tiên sinh trong làng gởi cho người đồng chí ) Ở bình diện tục đế thì có sự phân chia đối đãi, biện biệt thấp cao, thế giới hiện tượng biến đổi như tuồng ảo hóa, như giấc chiêm bao, cho nên con người mới cảm thấy đau khổ. Một khi đã đạt được tâm Thiền rồi ý thức nhị nguyên trở thành nhất nguyên, tất cả đều thống nhất ở Tâm không, cho nên con người cảm thấy đầm ấm: “ Người ảo hóa khoe thân ảo hóa Thủa chiêm bao thốt sự chiêm bao Rừng thiền ắt thấy nên đầm ấm Đường thế nào nơi chẳng thấp cao ” ( Thuật hứng, QATT ) Lúc đó cho dù ở ẩn nơi núi sông thanh vắng nào có khác chi lúc ra làm quan nơi thành thị, nơi đâu mà không cảm thấy an nhiên tự tại: “ Tham nhàn lánh đến giang san Ngày vắng xem chơi, sách một an Am rợp chim kêu hoa sẻ động Song âm hương tiễn khói sơ tàn Mưa thu tưới ba đường cúc Gió xuân đưa một luống lan Ẩn cả lọ chi thành thị nữa Nào đâu là chẳng đất nhà quan ” ( Ngôn chí, QATT )

Page 175: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

174

Ngược lại, lúc nhập thế hành đạo giúp đời, mặc dù với biết bao phiền toái, mà có được tâm thiền , đạt đạo tự nhiên thì nào có khác gì cuộc sống ẩn dật nơi chốn lâm tuyền: “ Kẻ thời nên bụt kẻ nên tiên Tượng thấy ba thân đã có duyên Bành được, thương thua con tạo hóa Diều bay, cá nhảy đạo tự nhiên Có thân ma lệ phạp bằng hữu Đọc sách thời xem thấy thánh hiền Ta nếu ở đâu vui thú đấy Người xưa ẩn cả lọ lâm tuyền ” ( Tự thán, QATT ) Ở đây tác giả dùng thuật ngữ nhà Phật ba thân ( tam thân ) tức pháp thân, báo thân, ứng thân. Pháp thân là thân chân thật, thường trú, không biến đổi, không bị chi phối bởi không gian, thời gian, không thể nắm bắt được bằng tri thức danh lý, khái niệm, không bị sinh lão bịnh tử chi phối. Pháp thân tức là Chân như, là pháp tính, là bản thể. Báo thân là hiện thân chúng sinh của Phật. Thân này giả hợp, vô thường, bị sinh lão bệnh tử chi phối như bao nhiêu thân chúng sinh khác. Ứng thân cũng gọi là hóa thân hay ứng hóa thân là thân hóa hiện của Phật. Do tâm nguyện cứu độ chúng sinh một cách bình đẳng, bao la chư Phật thường tùy duyên mà ứng hiện làm nhiều loại thân khác nhau của các loài chúng sinh để hóa độ. Thấu rõ lẽ huyền diệu của ba thân như vậy cho nên “ kẻ thời nên bụt kẻ nên tiên ”, còn vấn đề xuất xử với đại ẩn, tiểu ẩn cần gì phải phân biệt. Con người một khi đã dập tắt được mọi ý niệm, mọi tương tranh, hòa nhập vào cõi Nhất như: “ Nhất niệm tức lai thiên niệm tức Kê trùng tự thử liểu tương tranh ” ( Thu dạ khách cảm ) ( Một ý nghĩ dặp tắt xong thì muôn nghìn ý nghĩ khác cũng tắt theo Câu chuyện gà với sâu từ đây không còn tranh cải nữa ) thì đừng có hỏi người ấy là Phật, Tiên hay Thánh mà phải nhận ra cái Tâm tỉnh thức của họ. Với Tâm tỉnh thức thì mọi sự đều đẹp đẻ, tao nhã, phong phú như bẻ một cành trúc để dò lòng nước mà băng qua suối, quét dọn am để tiếp đón khách thập phương theo mây bay đưa đến, ánh trăng rọi vào hồ

Page 176: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

175

cho cá lội họp đàn, ngại phát cây động rừng để chim về làm tổ... đó là thú vui của kẻ tỉnh thức biết trân trọng với cái Đẹp của Thiên nhiên: “ Bẻ cái trúc hòng phân suối Quét con am để chứa mây Trì tham nguyệt hiện chăng buông cá Rừng tiếc chim về ngại phát cây Dù bụt, dù tiên ai kẻ hỏi Ông này đã có thú ông này ” ( Mãn thuật, QATT ) Kẻ tỉnh thức là kẻ hết mê lầm, dơ tay áo giũ hết bụi lầm, tìm đến tùng lâm là nơi có chùa chiền tĩnh lặng để cùng với vị sơn tăng làm bạn ngâm tâm đầu ý hợp. Chủ khách đều đạt đến trình độ vô tâm cho nên không còn có sự phân biệt chủ- khách nữa. Vô tâm tức Tâm không, là trình độ tối cao của con người giác ngộ, của các vị Thiền sư tỉnh thức: “ Giũ bao nhiêu bụi, bụi lầm Dơ tay áo đến tùng lâm Rừng nhiều cây rợp hoa chày động Đường ít người đi cỏ kíp xâm Chủ vô tâm ỷ khách vô tâm Trúc thông hiên vắng trong khi ấy Năng mỗ sơn tăng làm bạn ngâm ” ( Ngôn chí, QATT ) Người đạt tới Tâm không hay Vô tâm thì có được những phẩm chất như sau: - không còn bị tư tâm, tư dục chi phối nên công chính, không tham lam, nhũng lạm, hối mại quyền thế. - tâm không cũng là tâm bình đẳng cho nên không có óc kỳ thị, phân chia bè phái, dòng họ, chủng tộc, không cố chấp, không có óc độc đoán, độc tôn . - tâm không tức là Phật tánh cho nên bao hàm cả bi, trí, dũng: ° Bi: thương yêu chúng sanh mà cụ thể là thương yêu đồng bào bị đày đọa, áp bức, lầm than nên không ngần ngại dấn thân cứu khổ. ° Trí: trí huệ Bát nhã là trí huệ siêu vượt lên trên tri thức nhị nguyên thông thường, là tri thức tuyệt đối, thấu suốt Chân lý. ° Dũng: cho nên không khiếp sợ trước bạo lực. Ba yếu tố trên tạo thành Đại hùng, Đại lực, Đại từ bi có sức mạnh không gì phá vỡ như viên kim cương bất hoại.

Page 177: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

176

Đến đây chúng ta mới hiểu rõ vì sao Nguyễn Trãi có tư cách, phẩm chất khác hẳn với giới Nho sĩ đương thời cho nên mới làm nên lịch sử oanh liệt như thế. Sau khi đánh đuổi giặc Minh ra khỏi bờ cõi, dân tộc được được giải phóng, hòa bình được vãn hồi trên khắp quê hương, Bình Định Vương Lê Lợi cử Nguyễn Trãi viết tuyên cáo cho quốc dân tức là bài “ Bình Ngô đại cáo ”. Đây là một áng văn chính trị xuất sắc được ghi vào văn học sử nước nhà. Nghiên cứu bản văn đó chúng ta có thể biết được cuộc kháng chiến gian khổ, dũng cảm, mưu lược, chính nghĩa và chiến thắng vẻ vang của dân tộc Việt Nam trong một thời kỳ lịch sử. Thật vậy, mở đầu bài tuyên cáo Nguyễn Trãi viết: “ Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt chỉ vì khử bạo ” ( Chúng tôi dùng bản dịch của Bùi Kỷ ) Trong việc thực hiện nhân nghĩa, “ yên dân ” là cứu cánh còn việc “quân điếu phạt ” chỉ là phương tiện để “ khử bạo ” Lý do của công cuộc khởi nghĩa cấp bách trước hết là để giải thoát dân ra khỏi ách cai trị hà khắc của nhà Minh: “ Vì họ Hồ chính sự phiền hà, để trong nước nhân dân oán bạn. Quân cường Minh đã thừa cơ tứ ngược, bọn gian tà bán nước cầu vinh. Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ xuống hầm tai vạ. Chước dối đủ muôn nghìn khóe, ác chứa ngót hai mươi năm. Bại nhân nghĩa nát cả càn khôn, nặng khóa liễm vét không sơn trạch. Nào lên rừng đào mỏ, nào xuống bể mò châu, nào hố bẫy hươu đen, nào lưới dò chim trả. Tàn hại cả côn trùng, thảo mộc, nheo nhóc thay quan quả điên liên. Kẻ há miệng, đứa nhe răng, máu mở bấy no nê chửa chán. Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa. Nặng nề những nỗi phu phen, bắt bớ mất cả nghề canh cửi. Độc ác thay! trúc rừng không ghi hết tội. Dơ bẩn thay! nước bể không rửa sạch mùi. Lẽ nào trời đất tha cho, ai bảo thần nhân nhịn được ”. Chính sách đô hộ bạo ngược này cũng đã được Việt sử tân biên viết như sau: “ Cũng như các triều đại trước trong mười thế kỷ đô hộ xưa, họ rất lưu tâm đến việc đồng hóa dân Việt để chúng ta quên nguồn mất gốc...

Page 178: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

177

Sau việc gột rửa cái tinh thần cố hữu là căn bản của mọi cá tính dân tộc chúng ta, họ còn làm cả chuyện di phong đảo tục nữa: đàn ông bị cấm không được cạo đầu, đàn bà con gái phải bận quần dài, áo ngắn đúng như dân của họ. Thuế khóa định như sau: mỗi mẫu ruộng phải nộp 5 thưng thóc. Mỗi mẫu phù sa phải nộp 1 lạng tơ, mỗi cân tơ phải nộp một tấm lụa. Họ đặt quan lại đốc thúc dân phu khai các mỏ vàng , bạc. Hàng năm, quan bản cục và nội quan được cử lập hội đồng xem xét lại rồi đưa vàng bạc về Tàu. Tại các miền duyên hải, họ ốp dân làm muối và cũng có sự kiểm soát gắt gao. Muối làm được bao nhiêu cuối tháng phải nộp hết vào ty Đề chưởng. Nấu muối lậu hay bán muối lậu không có giấy phép phải tội rất nặng. Tại Vân Đồn, họ đặt một cơ sở kiếm hạt trai. Mỗi ngày hàng ngàn người phải lặn xuống đáy biển để mò ngọc. Để kiểm tra dân chúng, họ phát những “ hộ thiếp ” ghi tên tuổi, trú quán của dân đinh, đóng dấu vào giữa, một nửa vào mặt thiếp, một nửa vào cuống. Nếu hai phần so không hợp với nhau, người mang thiếp sẽ phải đi sung quân ( đi đày ). Ngoài chế độ chế khoá, ta còn phải nộp cácvật quý như: hồ tiêu, sừng tê giác, voi bạch, quế tốt, hương liệu, hươu trắng. Số thóc mỗi năm phải nộp về Tàu là 13 triệu 80 vạn hộc (mỗi hộc chừng 60 lít ). Voi, bò, ngựa 135.900 con. Thuyền 8.700 chiếc. Quân giới 2.539.000 chiếc đủ các loại. Về việc cai trị....Những người ra làm việc ở các cấp dưới như Lý trưởng và Giáp thủ thường bị đánh đập rất khổ sở... Chính sách đô hộ kể đã chu đáo và việc bóc lột nhân dân đến thế thật là cổ kim Á Âu chưa bao giờ có. Đẳng cấp sĩ phu và dân chúng Việt Nam như tỉnh một giấc mơ dữ dội. Có lẽ ngay cả những kẻ Việt gian cũng âm thầm hối tiếc thời quá vãng, dầu sao cũng không đến nỗi khốc hại như vậy, trừ những kẻ có căn cốt làm nô lệ và bất cố liêm sĩ mới điềm nhiên khoanh tay nhìn ngoại nhân chà đạp và hút máu mủ đồng bào. Nhân dân đau khổ hết chỗ nói, nhất là khi bọn Lý Bân, Mã Kỳ đến thay Trương Phụ. Có nhiều nơi cha lìa con, vợ lìa chồng trốn vào rừng sâu, có nhiều người được nghe tiếng gọi của hồn nước nên mới nẩy ra phong trào phản đế ngay hai năm sau ào ạt như lửa được gió thổi mạnh ” Các phong trào kháng chiến phản đế tự phát của nhân dân nổi lên khắp nơi và đặc biệt là hai cuộc khởi nghĩa của vua Giản Định và vua Trùng Quang nhà hậu Trần, nhưng nói chung các cuộc khởi nghĩa này

Page 179: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

178

còn nhiều khuyết điểm, thiếu sự thống nhất, thiếu yếu tố lãnh đạo sáng suốt, thiếu sách lược trường kỳ nên chẳng bao lâu, vào năm 1413 thì hoàn toàn tan rả. Do cuộc thất bại lần này mà nhân dân thêm một lần nữa bị giặc Minh khủng bố dữ dội, Việt sử tân biên ghi: “ Những người dự vào cuộc kháng chiến, những người bị tình nghi “phản nghịch” bị chúng tàn sát thẳng tay: xác chết chất cao như núi, ruột người treo lòng thòng trên các cành cây, đầu người đem nấu, làng mạc bị đốt, phụ nữ bị hãm hiếp vô kể...” Do sự bại trận của nhà Hồ và nhà hậu Trần không bao xa, lòng người còn hoang mang, e ngại cho nên vào năm 1416 khi nhóm kháng chiến của Lê Lợi nổi lên ở Thanh Hóa, tổ chức hội thề ở Lũng Nhai để chuẫn bị khởi nghĩa, chỉ có vỏn vẹn 18 người. Tình trạng nhân tài, tuấn kiệt vào lúc này thật khan hiếm như BNĐC ghi: “ Vừa khi cờ nghĩa dấy lên, chính lúc quân thù đang thịnh. Lại ngặt vì: tuấn kiệt như sao buổi sớm, nhân tài như lá mùa thu.” Vì thế khi dựng cờ khởi nghĩa vào đầu năm 1418, Nguyễn Trãi phải lợi dụng lòng mê tín của người dân, nhúng bút vào mỡ, viết lên lá cây trong rừng tám chữ: “ Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần”. Sau đó kiến theo đường mỡ ăn thủng lá thành hình tám chữ nói trên. Dân chúng cho là điềm thần dị, đồn đãi gần xa nên người ta mới tìm đến theo kháng chiến càng ngày càng đông. Nếu ngày xưa Thiền sư Vạn Hanh đã vận động dư luận quần chúng để chuẩn bị làm một cuộc cách mạng đảo chánh không hao tốn một giọt máu,đưa Lý Công Uẩn lên ngôi vua, mở ra triều đại nhà Lý thịnh trị lâu dài từ thế kỷ XI, thì bây giờ Nguyễn Trãi dùng mỡ viết lên lá cây rừng để thông báo cho nhân dân biết thời điểm, nơi chốn hội quân khởi nghĩa , mở ra một cuộc trường kỳ kháng chiến giải phóng dân tộc thành công, đưa người anh hùng áo vải Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, lập ra triều đại nhà Lê ở thế kỷ XV. Cuộc kháng chiến thật là truân chiên, gian khổ bởi vì kẻ địch mạnh lại gian hiễm, còn quân giải phóng mới đầu có nhiều khó khăn về lương thực cũng như quân số, BNĐC viết: “ Phần thì giận hung đồ ngang dọc, phần thì lo quốc bộ khó khăn. Khi Linh sơn lương hết mấy tuần, khi Khôi huyện quân không một đội ”. Theo như các sử sách , có lần quân kháng chiến bị giặc bao vây ở Chí Linh, tình cảnh thật nguy khốn, Lê Lai phải giả mặc áo ngự bào cưỡi voi xung trận, hy sinh để giặc lầm tưởng là Lê Lợi vây bắt, rồi yên trí lui

Page 180: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

179

quân. Do cái công ơn “ liều mình cứu chúa” này, Lê Lợi hứa rằng sau này khi mình chết ( ngày 22-08-1433 ), con cháu phải cúng giỗ Lê Lai trước, cho nên trong dân gian mới có câu: “ Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi ”. Có khi quân sĩ hao tổn nhiều, lương thực thiếu thốn, cả tháng binh sĩ phải ăn củ chuối, rau cỏ, làm thịt cả ngựa voi, tinh thần mỏi mệt. Mặc dầu với biết bao nỗi khó khăn như vậy, nhưng với lòng yêu nước thương dân, nghĩa quân muôn người như một, từ lãnh tụ cho đến binh sĩ một lòng hy sinh vì Đại nghĩa, bất chấp nguy nan: “ Có lẽ trời muốn trao cho gánh nặng, bắt trải qua bách chiết thiên ma, Cho nên ta cố gắng gan bền, chấp hết cả nhất sinh thập tử ”. Để khôi phục lại nguyên lực, Bình Định Vương bất đắc dĩ sai Lê Trân xin cầu hòa với giặc. Quân Minh ưng thuận vì xét đánh không lợi, có ý chiêu dụ dần dần. Trong thời gian này, thiên tài Nguyễn Trãi khai triển chiến lược “ Bình Ngô sách ”, làm thế nào để chuyển yếu thành mạnh, chuyển bại thành thắng. Trước hết ông rút kinh nghiệm về phương diện ý thức của cuộc kháng chiến chống giặc Minh của nhà Hồ như tinh thần của bài thơ chữ Hán “Quan hải ” (Đóng cửa bể ) như sau: “ Thung mộc trùng trùng hải lãng tiền Trầm giang thiết tỏa diệc đồ nhiên Phúc chu thủy tín dân do thủy Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên Họa phúc hữu môi phi nhất nhật Anh hùng di hận kỷ thiên niên Kiền khôn kim cổ vô cùng ý Khước tại thương lương viễn thụ yên ” ( Cọc cắm lớp này đến lớp khác trước sóng bể Giăng dây sắt ngầm khóa sông lại cũng luống công thôi Úp thuyền mới rõ sức dân như nước Hiểm yếu không cậy đươc mệnh ở trời Họa phúc đều có nguyên nhân cả không phải chuyện một ngày dấy lên Anh hùng còn để mối giận đến mấy nghìn năm Cái ý của trời đất xưa nay vốn không cùng Chính ở nơi dòng nước xanh hơi khói trên lùm cây xa ) Hồ Hán Thương dù có lấy bao nhiêu cọc gỗ cắm dưới nước, lấy dây sắt căng ngang sông để ngăn cản giặc, nhưng lòng dân không ủng hộ thì

Page 181: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

180

cũng thành vô ích. Đánh úp được thuyền giặc thì chỉ bởi sức mạnh vô địch của dân như sức mạnh của nước mà thôi. Yếu tố nhân dân vô cùng quan trọng, được lòng dân thì công cuộc kháng chiến mới có thể thành công, còn như làm mất lòng dân thì coi như nắm chắc phần thất bại. Việc lấy bạo lực thuần túy để chống chọi với bạo lực thì bạo lực nào mạnh hơn sẽ thắng. Chiến thắng bằng bạo lực này chưa hẳn là thuộc về chính nghĩa, cho nên mở đầu BNĐC, có câu: “ Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt chỉ vì khử bạo ”. Công cuộc kháng chiến phản đế có sứ mạng khẩn cấp là trừ gian diệt bạo, cứu nguy cho cả một dân tộc khỏi bị diệt vong thì không thể nào phó mặc cho may rủi lấy sức đọ sức mà phải vận dụng hết tất cả tiềm năng với tinh thần quyết chiến quyết thắng. Tiềm năng đó là sức mạnh tổng hợp cả hai lãnh vực vật chất và tinh thần. Nói theo như ngôn ngữ ngày nay thì ngoài sức mạnh quân sự thuần túy, còn phải khai thác sức mạnh tâm lý chiến nữa. Cái sức mạnh này là “đại nghĩa” tức chính nghĩa lớn và “chí nhân” tức lòng nhân cao tột. Chính nghĩa bao giờ cũng thuộc về phía người tự vệ cho nên mới gọi là nghĩa quân, còn phi nghĩa thuộc về kẻ đi cướp nước. Chỉ có nghĩa quân mới có lòng nhân, vì họ hy sinh để cứu người, còn kẻ xâm lăng thì gây tội ác đủ điều không sao kể hết. Một khi đã khai thác được sức mạnh này rồi thì cán cân lực lương nghiêng về phía có chính nghĩa ngay: “ Thế giặc mạnh, ta yếu mà ta địch nổi, quân giặc nhiều ta ít mà ta được luôn. Dọn hay: Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân mà thay cường bạo ”. ( BNĐC ) Nhưng muốn thực hiện thành công sách lược này người lãnh đạo phải có cái tâm tương xứng với Tâm Bi,Trí ,Dũng như đã nói ở trên, mà ở thời đại này chỉ có Nguyễn Trãi là người đã chứng ngộ được. Người có tâm Đại bi thì mới thể hiện được chí nhân. Người có trí hụê mới thấu suốt Chân lý và nêu cao được chính nghĩa.

Người có Dũng khí như đã nói là người không khiếp sợ trước bạo lực, họ điềm nhiên trước mọi biến cố, không còn có thế lực bên ngoài nào có thể làm lay chuyển được tâm hồn của họ nữa như mẫu người lý tưởng của Mạnh Tử quan niệm là bậc Đại trượng phu:

“ Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất ” ( Giàu sang không làm cho ham muốn, nghèo hèn không làm cho

thay lòng đổi dạ, uy quyền võ lực không làm khuất phục được chí khí của mình )

Page 182: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

181

Họ là kẻ đã tự thắng, mà đã tự thắng thì có sức mạnh vô địch, phi thường.

Đức Phật có nói: “ Chiến thắng vạn quân không bằng tự chiến thắng mình ” Ở ĐĐK chương 33, Lão Tử cũng nói: “ Thắng nhân giả hữu lực, tự thắng giả cường ” ( Thắng người là có sức, thắng mình là mạnh ) Trong lịch sử triết học Đông phương, những bậc Đại trượng phu, bậc

Thánh ( Nho giáo ); những bậc Chí nhân, Chân nhân ( Lão, Trang ); Chư Phật, Bồ Tát ( Phật giáo ) đều là những bậc đã trải qua giai đoạn tự thắng mình cả.

Nói theo lịch sử tư tưởng Việt Nam, những ai thể hiện được tính thể Việt đều đã tự thắng mình Họ là những người biết kiên trì, ẩn nhẫn rèn luyện tâm thân, tích lũy lượng biến thành phẩm, siêu vượt mọi chướng ngại để đạt được Việt tính phi thường, mà hiện thân là những vị Anh hùng dân tộc cứu khốn phò nguy, lúc chết được người đời tôn thờ như thần thánh.

Nói về công phu rèn luyện tâm thân để đạt được Siêu việt tính (đắc đạo ) ở chương “Đạt sinh” của Trang Tử có câu chuyện “ con gà đá độ” như sau:

“ Kỷ Tỉnh Tử lãnh phần tập gà đá cho vua. Được mười ngày, hỏi thăm đã xong chưa?

Đáp: Chưa! Hãy còn kiêu khí. Mười ngày nữa, lại hỏi thăm: Xong chưa? Đáp: Chưa! Còn đáp lại với vang, với bóng. Mười ngày nữa, lại hỏi thăm: Xong chưa? Đáp: Chưa! Mắt nhìn còn hăng và khí còn thịnh lắm! Mười ngày nữa, lại hỏi thăm: Xong chưa? Đáp: Sắp được rồi. Nghe tiếng gà khác mà lòng nó không chao động.

Nhìn nó như con gà bằng gỗ. Đức của nó toàn rồi! Gà lạ không con nào dám đối đầu với nó, trông thấy nó là quay đầu chạy mất!”

Muốn đạt tới tình trạng điềm nhiên, có được đức tính điềm đạm cao tột để có sức mạnh phi thường, thì thanh tịnh vô vi là điều kiện cần thiết và cũng là dịp để phục hồi, nuôi dưỡng, phát huy cho Nguyên khí lớn mạnh. Cho nên đối với những bậc đắc đạo, những vị anh hùng, ẩn dật không phải là để hưởng thú an nhàn ích kỷ, mà là âm thầm chuẩn bị cho hành đông quyết liệt, phi thường sau đó.

Page 183: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

182

Nguyễn Trãi là người có đầy đủ phẩm chất nói trên, đã thi triển sách lược chỉ đạo chiến tranh linh động, khi nhu, khi cương khiến cho kẻ cường địch không biết đâu mà đối phó:

“ Do sự biết người, biết mình, biết làm kẻ yếu và biết làm kẻ mạnh. Đợi thời cơ, xem thế yếu của địch, giấu lưỡi sắc, che mũi nhọn. Gối lên củi mà nằm, treo mật mà nếm Lo rửa sạch thẹn xưa và thu lại bờ cõi cũ ... Trong thì rèn chiến cụ, ngoài thì giả hòa thân Quyên vàng mộ kẻ sĩ, giết voi để khao quân Người người thân yêu bề trên, liều chết cho kẻ chí lớn, tự nguyện

đem hết sức báo đền ân” ( Do kỳ tri bỉ tri kỷ, năng nhược năng cường Đãi thời tứ tệ, thu phong liễm mang Chẩm tân nhi ngọa, huyền đởm nhi thường Tư tuyết tiền sĩ. Dĩ phục cố cương ... Nội tu chiến cụ, ngoại thác hòa thân Quyên kim mộ sĩ, sát tượng thưởng quân Nhân hoài thân thượng dĩ tử trưởng, tự dục hiệu lực dĩ thù ân ) ( Chí Linh sơn phú ) Thế rồi nghĩa quân ngày càng lớn mạnh, trong khi đó giặc cướp nước

ngày càng suy yếu, mỏi mệt: “ Tiếng tăm quân ta ngày càng lừng lẫy Giặc chỉ chạy ngược chạy xuôi ngày càng mỏi mệt ” ( Ngã chi quân thanh, nhật dĩ ích chấn Tặc chi bôn bệnh, nhật dĩ ích bì ) ( Chí Linh sơn phú ) Cán cân sức mạnh đã hoàn toàn thay đổi, địch quân từ chỗ hung hăng

cướp phá ngang dọc đã trở thành bị động, bốn bề bị bao vây nguy khốn: “ Lưỡi dao ta đang sắc, ngọn giáo giặc phải lùi. Lại thêm quân bốn mặt vây thành, hẹn đến rằm tháng mười diệt tặc ” Với chính sách nhân nghĩa và với dũng lược của con người tỉnh thức,

điềm nhiên, Nguyễn Trãi đã nhiều lần viết thư chiêu hàng và cũng có khi không ngại miệng cọp vào thành Đông Quan và nhiều thành khác lấy lời lẽ lợi hại chiêu dụ địch và đã nhiều lần thành công vẻ vang không kém gì những trận thắng lớn.

Page 184: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

183

Trong thư ngỏ cùng tướng sĩ địch trong thành Tam Giang, ông dùng đòn tâm công đánh vào ý thức thời thế ở chỗ “ thức thời đạt biến ”, với lý luận đanh thép, dẫn chứng cụ thể tình hình các chiến trường, phân tách thiệt hơn để cho địch thấy không còn con đường nào khác hơn là mở cửa thành ra đầu hàng:

“ Chỗ đáng quý của người quân tử là ở chỗ thức thời đạt biến, lượng sức biết mình. Nay có kẻ lấy quả trứng chim để chống lại núi Thái, lấy càng bọ ngựa để cản lại bánh xe mà tự cho là sức có thừa, tưởng cũng tự ngu quá lắm. Lũ ngươi lấy một vài ba trăm quân giữ mảnh cô thành để cùng ta đối kháng, phỏng có khác gì như thế. Thử nghĩ thành trì của các ngươi cao sâu không thấm với thành Nghệ An, lương thực của các ngươi đầy đủ sao bằng thành Diễn Châu, mà quân vũ dũng cảm tử lại lấy đâu nhiều như quân Diễn Nghệ, quan tước của các ngươi lại không lớn bằng Sái Đô đốc. Nay Diễn Nghệ, Thuận Hóa, Tân Hóa, Tân Binh, Tiền Vệ, Thị Kiều, Xương Giang, Trấn Giang, các xứ quân giữ thành đều mở cửa ra hàng. Dưới cây Bồ đề ( bến Bồ đề ), Sái Đô đốc đã định ngày rút quân về kinh, phàm những quan quân và vợ con, tài sản đều không bị phạm đến mảy may nào cả. Vậy mà lũ ngươi cứ mê lú, không chịu tính xa, sao mà kiến cơ một cách chậm muộn như thế?

Các tướng sĩ của ta, ai cũng đều hăm hở muốn phá vào thành, nhưng ta nghĩ thương số người vô tội ở trong thành vì các ngươi mà bị vạ lây, tiếng trống nổi lên, ngọc đá không còn phân biệt, bởi vậy viết mấy dòng chữ này gởi đến ”.

Từ sự phân tách ý thức thời thế, lúc được thời, lúc mất thời nhà thuyết khách chuyển sang vạch trần sự giả dối của kẻ xâm lược như ở phần mở đầu bức thư gởi Tổng binh Vương Thông như sau:

“ Xưa nay người giỏi dùng binh là ở chỗ hiểu biết thời thế. Được thời và có thế thì mất làm còn, nhỏ hóa ra lớn. Mất thời và không thế thì trở mạnh ra yếu, đổi yên làm nguy, chỉ ở trong khoảng trở bàn tay mà thôi. Nay các ngươi không rõ thời thế, chỉ dối giả quen, há đủ nói chuyện việc binh được. Dạo trước trong mang gian dối, ngoài thác giảng hòa, đắp lủy đào hào, cho quân cứu viện, tâm tích không tỏ, trong ngoài bất nhất, như vậy khiến ta tin sao được mà chẳng ngờ ”

Phần tiếp của bức thư là đòn cân não quyết liệt đánh thẳng vào tâm lý của đoàn quân cướp nước rằng nghĩa quân đã làm chủ tình hình khắp mọi chiến trường, vạch rõ cái thế nguy khốn của địch như “ miếng thịt trên thớt ”, “ con cá trong chậu ” :

Page 185: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

184

“ Nay các ngươi kế cùng sức kiệt, lính tráng mỏi mệt, trong không lương thảo, ngoài không cứu viện, bám bíu lấy một khoảng đất, thoi thóp trong một mảnh thành chẳng phải là miếng thịt trên thớt, con cá trong chậu rồi sao? Vậy mà còn lừa dối dân ta, dụ dỗ những điều phi nghĩa.”

Đoạn cuối bức thư kêu gọi sự hồi tâm của quân giặc, đừng có hão huyền mong chờ viện binh vô ích, mà hãy nhận ra tham vọng, tội ác của bọn Phương Chính, Mã Kỳ, trở giáo chém lấy đầu chúng đem dâng nộp thì sẽ tránh được cái nạn “ cá thịt ”, được giúp phương tiện về nước an toàn, nối lại hòa hiếu:

“ Cổ nhân có câu: “ Nước xa không cứu được lửa gần ” dù có viện binh đến đây cũng không cứu nổi sự bại vong ấy. Ngày xưa Phương Chính, Mã Kỳ chỉ chuyên làm sự hà ngược, sinh linh lầm cát, thiên hạ oán than; nào đào mồ mả của nhà ta, nào bắt vợ con của dân ta, kẻ chết hàm oan, người sống bị khổ. Lũ ngươi là những người xét rõ sự cơ, hiểu sâu thời vụ, vậy nên chém lấy đầu Phương Chính, Mã Kỳ đem đến cửa quân dâng nộp. Như vậy trong thành sẽ khỏi cái nạn cá thịt, trong nước sẽ khỏi vạ đau thương, hòa hiếu lại thông, can qua xếp nép. Nếu muốn rút quân về nước, ta sẽ sửa sang cầu cống, mua sắm tàu thuyền, thủy lục hai đường tùy theo ý muốn; quân ra khỏi cõi muôn phần đảm bảo yên ổn, không lo ngại gì, nước ta lại phụng cống xưng thần theo như lệ trước...”

Trong cuộc đấu tranh tâm lý với địch qua thư từ, phạm trù nhân-nghĩa được đặc biệt khai thác, phân biệt đâu là chính nghĩa, đâu là phi nghĩa, đâu là nhân đạo, đâu là bất nhân.

Trong khi Bình Định vương hoạt động ở Thanh Hóa, Phương Chính đưa thư bày điều kể tội. Vương sai Nguyễn Trãi viết thư trả lời một cách dứt khoát bằng giọng văn hào hùng của người trí dũng:

“ Bảo mày giặc dữ Phương Chính! Đạo làm tướng lấy nhân nghĩa làm gốc, trí dũng làm cành. Nay chúng mày chỉ chuộng lừa dối, giết hại những kẻ vô tội, hãm người ta vào đất chết chẳng động lòng thương, trời đất không thể dong, người người đều phải giận. Bởi thế luôn năm đi chinh chiến chỉ thua lụn bại. Vậy mà không biết tự đổi lỗi còn đi bới hôi ra nữa, sau này hối lại còn kịp nữa sao? Huống nay nước Xuân mới nhóm, lam chướng càng dày, thế không chịu đựng lâu được. Vậy mà mày tay cầm đại binh, lữa lần không tiến khiến quân sĩ nhuốm phải lam chướng mà chết, đó là tội lỗi của ai?

Binh pháp nói rằng: “ Bậc nhân giả lấy yếu trí mạnh, bậc nghĩa giả lấy ít địch nhiều”. Nay mày muốn đánh nhau thì nên tiến binh vào cùng ta quyết sống mái một keo, đừng nên dùng dằng để khổ cho hai quân nữa! ”

Page 186: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

185

Bình Ngô đại cáo sau này tổng kết thành quả chiến thắng oanh liệt của cuộc kháng chiến thần thánh giải phóng dân tộc đã cho biết sự hiệu nghiệm kỳ diệu của lối “ phạt tâm công ” đánh thẳng vào lòng quân giặc phi chính nghĩa:

“ Nó đã trí cùng lực kiệt, bó tay không biết tính sao Ta đây mưu phạt tâm công, chẳng đánh mà người chịu khuất” Kết quả là tại nhiều nơi địch đã mở cửa thành ra hàng: “ Thành giặc các nơi, mũi nhọn không dính máu mà tự mở Nguẫy đuôi van lạy, tha thiết đáng thương ” ( Các xứ tặc thành, bất huyết nhận nhi tự khai Trạo vĩ khất lân, thành khiết kham ai ) ( Chí Linh sơn phú ) Quân kháng chiến mỗi ngày một mạnh, tinh thần quân dân lên rất cao,

các tướng sĩ tôn Bình Định vương lên làm “ Đại thiên hành hóa ” nghĩa là thay trời làm việc để tăng thêm uy tín và khí thế. Bóng cờ “ Đại thiên hành hóa ” tới đâu, nhân dân tự ý đem trâu, bò, rượu để khao quân và mừng chiến thắng.

Trong khi đó, đại quân của giặc vẫn còn lừa dối, giả vờ hòa hoãn để chờ viện binh, chưa chịu lui quân, nghĩa quân buộc lòng phải mở những cuộc phản công như sấm sét để sớm chấm dứt chiến tranh cho dân đở khổ. Khí thế của nghĩa quân như vũ bảo khiến địch phải kinh hồn bạt vía:

“ Sĩ tốt ra oai tì hổ, thần thứ đủ mặt trảo nha. Gươm mài đá, đá núi cũng mòn;voi uống nước, nước sông phải cạn. Đánh một trận sạch không kình ngạc, đánh hai trận tan tác chim

muông. Cơn gió to trút sạch lá khô, tổ kiến hổng sụt toan đê cũ. Thôi Tụ phải quỳ mà xin lỗi, Hoàng Phúc tự trói để ra hàng. Lạng giang, Lạng sơn, thây chết đầy đồng; Xương giang, Bình than

máu trôi đỏ nước. Ghê gớm thay! sắc phong vân phải đổi, thảm đạm thay! sáng nhật

nguyệt phải mờ. Binh Vân nam nghẽn ở Lê hoa, sợ mà mất mật. Quân Mộc Thạnh tan chưn Thăng trạm, chạy để thoát thân. Suối máu Lãnh câu nước sông rền rĩ, thành xương Đan xá, cỏ nội

đầm đìa. Hai mặt cứu binh, cắm đầu trốn chạy, các thành cùng khấu, cởi giáp

xuống đầu.” ( Bình Ngô đại cáo ) Tàn quân của nhà Minh chạy thoát thân về nước với bao nỗi kinh

hoàng. Với phương châm “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân

Page 187: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

186

mà thay cường bạo”, chánh nghĩa sáng ngời của Việt Nam lại một lần nữa hiển hiện rõ ràng qua chính sách khoan hồng nhân đạo, lấy tình thương xóa bỏ hận thù, kết tình hòa hảo lân bang: bại binh, tù binh chẳng những được tha chết mà còn được cấp phương tiện thuyền bè, ngựa xe giúp cho về quê hương an toàn.

“ Bắt tướng giặc mang về, nó đã vẫy đuôi phục tội, Thể lòng trời bất sát, ta mở đường hiếu sinh. Mã Kỳ, Phương Chính cắp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể

chưa thôi trống ngực. Vương Thông, Mã Anh phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến Tàu còn

đổ mồ hôi. Nó đã sợ chết cầu hòa, mở lòng thú phục, Ta muốn toàn dân làm cốt, cả nước nghỉ ngơi. Thế mới là mưu kế thật khôn, vả lại suốt xưa nay chưa có. Giang sơn từ đây mở mặt, xã tắc từ đây vững bền...” ( Bình Ngô đại cáo ) Chánh sách này khẳng định Chân lý muôn đời là người Việt Nam hiếu

hòa, chủ trương thân hảo với mọi dân tộc, nhân dân các nước, nhưng cương quyết chống lại chủ nghĩa đế quốc xâm lược bất cứ từ đâu tới.

Hoà bình, độc lập là ước vọng, là mong cầu của mọi người dân Việt, cho nên họ đã chịu đựng gian khổ, hy sinh trường kỳ chiến đấu và đã chiến thắng vẻ vang. Công lao chiến thắng này trước hết là của toàn dân, toàn quân với sự lãnh đạo của người anh hùng áo vải đất Lam Sơn Bình Định Vương Lê Lợi và nhất là thiên tài Nguyễn Trãi. Ông đã trở thành vị đệ nhất khai quốc công thần triều Lê, nhưng cái nguyện vọng cao tột của ông không phải là bon chen theo đường danh lợi, mà là mong thấy nhân dân được sống an vui, hạnh phúc trong cảnh thái bình:

“ Chông gai nhẹ đường danh lợi Mặn lạt lo mùi thế tình Sách một hai phiến làm bầu bạn Rượu năm ba chén đổi công danh Ngoài chưng phận ấy cầu đâu nữa Cầu một ngồi coi đời thái bình ” ( Tự thán, QATT ) Như đã nói xã hội thời này băng hoại, mà sau khi hòa bình đã vãn hồi

rồi cũng chẳng khá hơn, con người vẫn lừa đảo, sâu hiểm, quan lại tham lam, nhũng lạm, gièm pha, nịnh thần hoành hành thao túng. Trước khi về

Page 188: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

187

trí sĩ ở Côn Sơn, ông cũng đã bao phen ra sức muốn chấn hưng lại nền luân lý, đạo đức vì nó rất quan trọng cho tương lai cả dân tộc.

Đối tượng đầu tiên là triều đình mà đứng đầu là nhà vua. Nhận thấy vua ham thích săn bắn, hiếu sát, ông khuyên Ngài nên lấy nhân nghĩa làm đầu. Năm 1435, nhân có bảy thiếu niên tái phạm việc ăn cướp, theo hình luật phải bị xử chém, vua hỏi ý Nguyễn Trãi, ông tâu:

“ Pháp lệnh xưa nay rõ rệt không bằng nhân nghĩa. Nay một lúc chém bảy người tưởng không phải là thịnh đức. Kinh thư có câu: An nhữ chỉ ( Yên ở chỗ biết dừng ). Sách truyện nói: Tri chỉ nhi hậu hữu định ( Biết chỗ nên dừng, rồi sau lòng mới định ), thần xin giải nghĩa như sau: Chỉ là yên tại chỗ đáng dừng, như trong cung là chỗ yên của bệ hạ. Cũng có khi ngự giá ra ngoài thì không lấy làm yên, phải trở về cung thì mới yên được. Đấng nhân quân đối với nhân nghĩa cũng thế, phải lấy đấy làm chỗ yên dừng. Thỉnh thoảng cũng dùng đến uy pháp, nhưng rồi lại phải trở về với nhân nghĩa. Xin bệ hạ lưu tâm những lời thần nói...” ( Chỗ yên dừng là trọng tâm của nguyên lý quân bình ) Năm 1437, vua sai ông cùng Lương Đăng ở ty Lỗ bạ ( coi xa giá ) định các đồ và chế ra lối âm nhạc cho những khi loan giá ra vào và tập nhạc công, vũ nữ, ông nhân đó dâng bức đồ vẽ hình cái khánh đá tâu rằng: “ Đời loạn dùng võ, thời bình dùng văn. Ngày nay định ra lễ nhạc thật là hợp thời, nhưng cái gốc không thể vững nếu không có văn, xét ra từ xưa đến nay hòa bình là gốc của nhạc. Thần phụng chiếu định ra âm nhạc, không dám không hết lòng. Xong học vấn sơ sài nông cạn, sợ không sành âm luật khó làm cho được hài hòa. Chỉ xin bệ hạ rủ lòng yêu thương và chăn nuôi muôn dân khiến cho nơi thôn cùng xóm vắng không một tiếng oán sầu hờn giận, đó là giữ được gốc của nhạc ” ( Việt sử tân biên ) ( Nhạc chủ hòa, mà hòa là cái dụng của nguyên lý quân bình ) Nguyễn Trãi nêu rõ những đức tính cần thiết của một hoàng tử để xứng đáng nối nghiệp tổ tông lãnh đạo muôn dân: “ Thờ trời đất phải nghĩ tận thành, thờ tôn miếu phải nghĩ tận hiếu. Cùng anh em phải thân mến, đối với tôn tộc phải thuận hòa. Cả đến coi trăm quan, trị muôn dân, không việc nào là không lo hết đạo...Chớ gần thanh sắc và ham tiền của, chớ ham săn bắn và thích dâm dật. Chớ nghe sàm nịnh mà bỏ lời trung trực, chớ dùng tân tiến mà bỏ kẻ cựu thần. Bảo rằng trời khó tin, mệnh không thường, nghĩ sửa trị ở khi chưa loạn; bảo rằng công khó thành, việc dễ hỏng, nghĩ giữ nước từ lúc chưa nguy. Ở cảnh yên vui, nghĩ đến việc gian nan từ ngày trước; hưởng điều sung sướng, nghĩ đến công tích lũy của tổ tông. Phải cẩn thận lúc trước để tính

Page 189: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

188

lúc sau; phải làm việc lớn từ ở việc nhỏ. Phải hiếu chí trước mới giữ được nghiệp trước; phải thuận lòng trời mới hợp được lòng người...” ( Chiếu giáng Tư Tề làm Quận vương, đặt con thứ là Nguyên Long nối nghiệp: nhấn mạnh những đặc tính căn bản như tận thành, tận hiếu, tận trung, trung trực, thuận hòa, thuận lòng trời, hợp lòng người...tất cả đều thuộc về nguyên lý quân bình và qui luật tích lũy lượng biến thành phẩm sẽ được nghiên cứu ở phần các nguyên lý triết học căn bản ) Chủ trương chống xa hoa, phung phí của công, làm khổ dân: “...Đẹp cung thất, cao đài tạ, tất gây thói tục xa hoa theo ý mình, ức lòng người, tức đến trăm năm oán giận. Trẫm rất thẹn thùng về điều đó. Thường nghe những quy mô lớn lao lộng lẫy, đều là sức lao khổ của quân dân, cứ để yên thế mà ở còn e không đáng. Thế mà văn vũ thần liệu định làm đầy đủ những lễ nghi đăng điện yến hạ, thật rất không hợp ý trẫm. Vậy truyền bách quan không được làm những việc xưng tụng công đức viển vông cùng bày đặt linh đình lễ nghi yến hạ ”. ( Chiếu truyền bách quan không được làm những lễ nghi khánh hạ ) Chống thói tham ô, lười biếng: “... Ngày nay, từ các đại thần, tổng quản cho đến đội trưởng cùng các quan ở viện, sảnh, cục, phàm người có chức vụ coi quân, trị dân đều phải dùng phép công bằng, làm việc cần mẫn, thờ vua hết trung, đối dân hết hòa, bỏ thói tham ô, trừ tệ lười biếng; bè đảng riêng tây phải bỏ, thái độ cố phạm phải chừa; coi công việc của quốc gia làm công việc của mình, lấy điều lo của sinh dân làm điều lo thiết kỷ, hết lòng sức giúp đở nhà vua khiến cho xã tắc yên như Thái sơn, cơ đồ vững như bàn thạch để cùng ta hưởng lộc vị trong ngày nay, truyền thanh danh về hậu thế...” ( Chiếu cấm các Đại thần, Tổng quản cùng các quan ở viện, sảnh, cục tham lam, lười biếng ) Đối với quần chúng nhân dân, Nguyễn Trãi nhắn nhủ mọi người nên thương yêu, tôn trọng lẫn nhau, quý người dưng chẳng khác nào của cải, xem họ hàng thân thích như chân tay, vì tất cả đều cùng một nguồn gốc, ví như vạn lá ngàn cành cũng đều bởi một cây mà ra: “ Vạn diệp thiên chi bởi một cây Yêu trọng người dưng là của cải Thương vì thân thích nghĩa chân tay ” ( Bảo kinh cảnh giới, QATT ) Với tư tưởng ấy, ông khuyên nhủ đồng bào chớ nên có óc kỳ thị chủng tộc, địa phương Nam Bắc, dòng họ, tín ngưỡng, học thuyết...bởi vì ông thấy trước mối nguy của sự chia rẻ có thể đưa tới cảnh mất nước, nhà tan.

Page 190: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

189

Ông tha thiết kêu gọi đồng bào chớ nên tham lam ích kỷ, mà phải giữ lấy công bằng, trọng nhân luân, nhường nhịn, hài hòa thì muôn sự đều tốt đẹp: “ Đồng bào cốt nhục nghĩa càng bền Cành Bắc cành Nam một cội nên Điền địa chớ tham, hơn bổ ải Nhân luân mã lấy dưới làm trên Chân tay dầu đứt, bề khôn nối Xống áo chẳng còn, mua dễ xin Ở thế nhịn nhau muôn sự đẹp Cương nhu cùng biết hết hai bên ”. ( Bảo kinh cảnh giới, QATT ) Nguyễn Trãi nêu lên luật “ bổ ải”, bổ là đền bù, ải là chật hẹp. Bổ ải là bù đắp cho nhau, tức là luật thừa trừ, là cách nói khác của luật quân bình vậy.Việt Nam vào thời đó là một nước nông nghiệp, cho nên mâu thuẫn trong xã hội là mâu thuẫn giữa địa chủ và tá điền. Do sự bất công ngày càng chồng chất, luật quân bình bị phá vở, địa chủ trở thành phú hào bất nhân, tá điền bị bóc lột nên ngày càng nghèo nàn cơ cực. “ Bất nhân vô số nhà hào phú Của ấy nào ai từng được chầy ” ( Bảo kinh cảnh giới, QATT ) Một loại mâu thuẫn quan trọng hơn nữa là mâu thuẫn giữa giới quan lại tham ô, nhũng lạm, hối mại quyền thế và tuyệt đại đa số quần chúng nhân dân. Nguyễn Trãi là đệ nhất khai quốc công thần mà cũng là nạn nhân của bọn tham quan gian nịnh huống hồ gì người dân: “ Tiêu nhiên hoạn huống tự tăng gia Quan tình dị khiếp thương cung điểu ” ( Cảnh huống làm quan tiêu sơ như cảnh nhà sư Trong chốn quan trường, nỗi lòng khiếp sợ như chim phải cung.) ( Mạn hứng ) Nguyên do của của tình trạng này là bởi lòng tham của con người trong một xã hội lừa đảo, thiếu thật thà, đó là hậu quả tất nhiên của nền tư tưởng Tống Nho độc tôn, cố chấp cho nên nền luân lý, đạo đức cũng câu nệ vào hình thức mà thiếu phẩm chất ở bề sâu. Cũng đồng thời du nhập nền tư tưởng Nho học từ Trung Quốc, nhưng nước Nhật đã chọn học phái Vương Thủ Nhân tức Vương Dương Minh có tinh thần khai phóng, cởi mở nên đã đưa đất nước đến tiến bộ vượt bực, trong khi Việt Nam tiếp thu nhầm phải học phái Trương-Trình-Chu thủ

Page 191: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

190

cựu, nên đất nước trì trệ và cho mãi đến về sau này, chính sách bế môn tỏa cảng của nhà Nguyễn đã làm cho Việt Nam mất nước về tay đế quốc Pháp. Những hành động bất chánh như lừa đảo, gian dối, chèn ép, áp bức, bất công trái với đạo quân bình thì không bao giờ bền, mà phải theo luật biến dịch có lúc sẽ bị đảo ngược: “ Làm người mã cậy khi quyền thế Có thủa bàn cờ tốt đuổi xe ” ( Trần tình, QATT ) Ngoài ra, đối với Nguyễn Trãi việc giáo dục gia đình là căn bản, mà vai trò quan trọng là người mẹ, cho nên đối tượng của công tác này ngoài con cái, người mẹ cũng được hướng dẫn chu đáo: “ Nhân thong thả lựa vần quốc ngữ Làm bài ca dạy vợ nhủ con ” Bài ca đó gọi là “ Gia huấn ca ” Quan niệm giáo dục thời đó rất nghiêm khắc: “ Dạy từ thủa hãy còn trứng nước, Yêu cho đòn, bắt chước lấy người.” Nội dung của viêc dạy dỗ con cái là lễ nghĩa, kiến thức văn hóa và nghề nghiệp: “ Trình, thưa, vâng, dạ, đứng, ngồi, Gái trong kim chỉ, trai ngoài bút nghiên.” Thuyết “tri hành hợp nhất”, truyền thống triết học Đông phương cũng là truyền thống tư tưởng Việt Nam ( xem lại nội dung Tam giáo đồng nguyên), cho nên biết không phải chỉ để biết, mà để thực hành, thực hiện, cho nên mới nói là học hành, nhất là vấn đề lễ nghĩa. Trong gia đình người lớn phải làm gương để cho trẻ con “bắt chước lấy người”, mà quan trọng hơn cả là người mẹ, bởi vì người mẹ thường ở kề cận với con cái: “ Lạ gì con có giống ai, Phúc đức tại mẫu là lời thế gian ” Nguyễn Trãi đã xác định yếu tố gần xa trong qui luật ảnh hưởng tức là qui luật liên hệ phổ biến của sự vật, cũng có thể nói vắn tắt là qui luật gần xa: “ Gần mực đen, gần đèn thì sáng Ở bầu tròn, ở ống thì dài ” Luật quân bình, luật liên hệ phổ biến sẽ được nghiên cứu sau này ở phần những nguyên lý, những định luật căn bản của triết học.

Page 192: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

191

Nói tóm lại, Nguyễn Trãi là vị anh hùng dân tộc đã làm rạng rở Việt tính, nêu cao tư tưởng truyền thống “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân mà thay cường bạo”, đã có công rất lớn và có tính cách quyết định trong công tác chỉ đạo kháng chiến giải phóng dân tộc thành công, cũng có hoài bảo cải tiến xã hội, chấn hưng đạo đức thời bình, nhưng vì thế lực ích kỷ, xấu xa còn mạnh nên ước nguyện không thành. Ngày 16 tháng 8 năm Nhâm tuất ( 19.9.1442 ) đột nhiên Nguyễn Trãi bị xử tru di tam tộc qua vụ án Lệ Chi viên bi thảm, bất công. Trong chốn lao tù, ông thố lộ nỗi oan tình trong bài thơ cuối cùng sau đây: “ Phù tục thăng trầm ngũ thập niên, Cố sơn toàn thạch phụ tình duyên. Hư danh thực họa thù kham tiếu, Chúng báng cô trung tuyệt khả liên. Số hữu nan đào tri thị mệnh, Văn như vị táng dã quan thiên. Ngục trung độc bối không tao nhục, Kim khuyết hà do đạt thốn tiên?” ( Cuộc thế thăng trầm năm chục niên, Non xưa suối đá phụ tình duyên. Danh suông vạ mắc vòng oan trái, Dạ thẳng đời bao kẻ ghét ghen. Định mệnh ta đành cam lúc bĩ, Tư văn trời có tựa khi nên? Trong lao tủi nhục trăm chiều đủ, Bệ ngọc khôn thông một mảnh tiên.) Sau đây là ý kiến phê bình của Việt sử tân biên: “ Người đời sau đọc lịch sử, viết lịch sử nhớ đến huân nghiệp vĩ đại của Nguyễn tiên sinh và các đồng chí của tiên sinh không khỏi có sự ngao ngán. Nhân tài là của báu của quốc gia và nhân tài đâu có thể nẩy nở nhanh như cỏ, nấm. Vậy mà chỉ do quyền lợi của một vài phần tử Hoàng gia hay sự ghét ghen của một số gian thần, người ta có thể thí nhân tài như cỏ rác. Những trọng thần, những anh hùng dân tộc mà không còn được bảo đảm trước luật pháp thì đám dân đen có nghĩa lý gì? Nếu quan niệm nhân tài có quan hệ sinh tử cho đất nước thì quả thật đời bấy giờ người ta đã hết sức coi thường quyền lợi quốc gia dân tộc. Cái yếu hèn và thoái hóa tai hại của nền quân chủ độc tôn, của chế độ phong kiến đã rõ rệt ở chỗ đó. Ngoài ra cái án Lệ Chi viên và cái án của một số khai quốc công thần bị giết oan uổng từ đời Thái tổ đến Thánh tông không khỏi là

Page 193: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

192

một cái nhục cho sĩ phu, trí thức đời xưa bởi không gây nổi một phản ứng đối với một chế độ đã hạ giá con người tới bậc tôi mọi, tới chỗ vô nghĩa và vô nhân đạo ”. Nhận xét và phê bình trên đây tuy xác đáng nhưng chưa tận căn, tận gốc, bởi vì chế độ quân chủ phong kiến độc tài, thối nát và sự bất lực của giới Nho sĩ lạc hậu kia lại do một nguyên nhân sâu xa hơn nữa là ý thức hệ, là hệ thống tư tưởng Tống Nho độc tôn, bế quan. Thật đúng với câu nói của Lão Tử: “ Làm văn hóa mà sai lầm thì làm hại cả muôn đời ” Điều này không những chỉ đúng đối với Tống Nho độc tôn, mà còn đúng cho bất kỳ tà thuyết ngoại lai nào trái với đạo sống quân bình của dân tộc, trái với Việt tính. Bàn về việc giết hại công thần đời này, Trần Trọng Kim viết: “ Nghĩ mà buồn thay cho mấy người công thần đời xưa chỉ lầm vì hai chữ công danh mà đem tấm lòng son sắt đi phò tá quân vương trong lúc nguy nan, mong được chút hiển vinh để cho thỏa cái chí trượng phu ở đời, ngờ đâu chim bay đã hết, cung tốt cất đi; thỏ lanh chết rồi,chó săn phải giết; đến khi công việc xong thì không những là một thân mình cũng không được trọn vẹn mà cả họ hàng thường cũng vạ lây. Thế mới biết chỉ có Trương Tử Phòng nhà Hán là người kiến cơ hơn cả!” Phê phán ý kiến này, Phạm Văn Sơn trong Việt sử tân biên viết: “ Đây là một ý kiến tuy có xác đáng một phần nào nhưng không khỏi là một tư tưởng tiêu cực. Theo thiển ý, việc giết hại công thần của vua Thái Tổ là điều đáng trách và cũng đáng buồn cho truyện đời, khi gian lao nguy hiểm thì có nhau mà lúc vinh hoa phú quý lại là lúc xa nhau, giết hại nhau, điên đảo. Từ vạn cổ, nhân sự thường như vậy và cũng khó bề nói lẽ dại khôn. Người trượng phu xuất thế, nhất là vào thời nhiễu nhương, sự nghiệp có hai phần: phần đấu tranh cho nước non buổi loạn ly và phần trị bình lúc sóng yên bể lặng. Nhân tài một quốc gia không thể đầu hôm sớm mai mà nẩy nở được, nếu ai cũng theo Trương Tử Phòng sau sự nghiệp trị loạn thì tịch cốc tòng tiên, vậy sự nghiệp trị bình để ai gánh vác? Ngoài ra các danh thần, lương tướng, sau việc dẹp loạn yên dân cũng còn nhiều hoài bảo giúp nhà giúp nước thêm nữa cho thỏa chí bình sinh, đâu có thể nửa đường dứt gánh cho đành. Vậy thì nhiệm vụ con người ta đến đâu phải làm tớí đó, kể chi những việc về sau dở hay, may rủi, đen trắng xảy đến cho mình. Đã tự mình là đấng trượng phu thì phải quan niệm sự đời như vậy ”.

Page 194: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

193

Rồi Phạm Văn Sơn viện dẫn bài thơ “ La mort du loup” của Alfred de Vigny như sau: “ Gémir, pleurer, prier fut également lâche Fais énergiquement ta longue et lourde tâche Dans la voie où le sort a voulu t’appeler Puis après comme moi souffre et meurs sans parler » ( Kêu la, than khóc đều là hèn nhát. Hãy cương quyết làm nhiệm vụ dài lâu và nặng nề của mình, trên con đường mà số mệnh đã gọi. Rồi như ta chịu đau khổ và chết không thèm một một lời oán hận ) Thật ra Nguyễn Trãi đã nói rõ quan niệm của mình về lẽ xuất xử một cách linh động, tùy thời, tùy hoàn cảnh chứ không cố chấp vào một hình thức nhất định nào. Mặc dầu xuất thân từ làng Nho, nhưng Nguyễn Trãi khác xa giới Nho sĩ đương thời, chịu ảnh hưởng tư tưởng Tống Nho độc tôn, câu nệ hình thức, mà ông cũng thấm nhuần cả tư tưởng Phật giáo Thiền tông, thấu triệt Tâm không, không còn kiến chấp nhị nguyên. Ý kiến của ông Phạm văn Sơn : « Từ vạn cổ, nhân sự thường như vậy và cũng khó bề nói lẽ dại khôn...Vậy thì nhiệm vụ con người ta đến đâu phải làm đến đó, kể chi những việc về sau dở hay, may rủi, đen trắng xảy đến cho mình. Đã tự mình là đấng trượng phu thì phải quan niệm sự đời như vậy ». Ý kiến này nghe không thông chút nào. Một chế độ độc tài, thối nát, đầy rẫy bất công, tham nhũng, gian ác, khủng bố, chà đạp nhân phẩm, coi thường nhân quyền, trọng dụng, dung túng kẻ bất tài, thất đức nhưng lại trấn áp, đày đọa người hiền tài..mà những con người gọi là đấng trượng phu cứ ngoan ngoãn hết lòng phục vụ, giúp cho chế độ thống trị thêm quyền lực để khủng bố nhân dân hay sao ? Tại sao lại không đòi hỏi cải tạo chế độ chính trị, mà như đã nói cái còn quan trọng hơn nữa là tư tưởng chỉ đạo, là học thuyết, chủ thuyết, mà chỉ đòi hỏi một chiều ở cá nhân. Giữa cá nhân và đoàn thể, đất nước có quan hệ, có tác dụng biện chứng với nhau. Chế độ chính trị tốt luôn tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người phát huy tài năng để phục vụ đất nước, chứ không bao giờ chủ trương trấn áp, thủ tiêu nhân tài. Nhắc nhớ lại việc dùng mỡ viết lên lá cây rừng tám chữ : « Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần » ngoài mục đích tuyên truyền để toàn dân tham gia kháng chiến đông đảo, ông còn xác định rõ ràng cương vị của mình trong vai trò lãnh đạo kháng chiến vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, cứu nước, cứu dân để tránh sự nghi kỵ có thể có làm hại đến việc lớn. Ngoài ra có truyền thuyết cho rằng trước khi dựng cờ khởi nghĩa, Lê Lợi có lần đi lưới cá, vớt được một thanh bảo kiếm và cho đó là điềm trời

Page 195: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

194

giúp Ngài phục quốc, dựng cơ đồ. Tới khi thành công rồi, trở thành Hoàng đế nước Đại Việt, một hôm đi chơi thuyền taị hồ này, có một con rùa rất lớn nổi lên cạnh thuyền, vua lấy gươm chém, rùa ngậm gươm lặn đi mất. Vì vậy hồ mới có tên là hồ Hoàn kiếm. Theo thiển ý của chúng tôi, tác giả của câu chuyện huyền thoại này không ai khác hơn là tác tác giả của câu « Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần ». Câu chuyện này ngụ ý nói rằng chống giặc ngoại xâm trong thời chiến thì cần đến gươm báu, tức là bạo lực nhưng đến thời bình trị nước thì phải dùng đến đức để trị. Hơn nữa nếu đã là gươm báu cứu nước thì phải cất giấu đi thật kỹ để tránh cái nạn nỏ thần bị đánh tráo như thời xưa trong lịch sử. Về sự kiện « Bình Ngô sách » không còn lưu lại cũng rất có thể có ý nghĩa tương tự như sự hoàn trả kiếm báu, với mục đích bảo vệ bí mật chiến lược, an ninh quốc gia ; tránh ỷ lại, lệ thuộc cứng nhắc, giáo điều vào môt sách lược sẵn có, mà mất tính linh động, sáng tạo thích ứng với thời thế. Trong bài thơ chữ Hán « Quan hải » ( Đóng cửa bể ), Nguyễn Trãi nhấn mạnh vào sức mạnh của quần chúng nhân dân, cho nên Hồ Hán Thương dù có thi triển đủ mọi chiến thuật như cắm cọc gỗ dưới cửa bể, giăng dây sắt ngang sông mà không được lòng dân cũng thất bại mà thôi : « Thung mộc trùng trùng hải lãng tiền Trầm giang thiết tỏa diệc đồ nhiên Phúc chu thủy tín dân do thủy ” ( Cọc cắm lớp này đến lớp khác trước sóng bể Giăng dây sắt ngầm khóa sông lại cũng hoài công thôi Úp thuyền mới rõ sức dân như nước ) Nhưng lý do nào mà cha con Hồ Quý Ly không được lòng dân, Bình Ngô đại cáo có nói một cách tổng quát: “ Vừa rồi: vì họ Hồ chính sự phiền hà, để trong nước nhân dân oán hận. Quân cường Minh đã thừa cơ tứ ngược, bọn gian tà bán nước cầu vinh.” “ Chính sự phiền hà ” đây là những cải cách quá táo bạo của họ Hồ đụng chạm đến quyền lợi của giai cấp phong kiến, địa chủ nên gặp sự chống đối mạnh mẻ; nhân dân lại chưa hiểu gì về một cuộc cách mạng xã hội ở vào thời đó nên không hưởng ứng. “ Bọn gian tà bán nước cầu vinh ” cũng không ai khác hơn là giới phong kiến, Nho sĩ . Trong bài “ Quan hải ”, chuyện họa phúc được trình bày lại càng tổng quát hơn nữa, rằng mọi sự đều có nguyên nhân:

Page 196: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

195

“ Họa phúc hữu môi phi nhất nhật ” ( Họa phúc đều có nguyên nhân cả, không phải một ngày dấy lên ) Có nguyên nhân gần, nguyên nhân xa, nguyên nhân chánh, nguyên nhân phụ, nguyên nhân căn nguyên nhất, mà tùy theo quan điểm rộng hẹp, trình độ ý thức nông sâu, con người có thể nhận định khác nhau. Nếu ai không xác định được nguyên nhân chủ yếu của sự việc thì hành động sẽ chuốc lấy thất bại và ngàn năm mang hận mà thôi: “ Anh hùng di hận kỷ thiên niên ” Chân lý, các qui luật tự nhiên từ xưa đến nay đã là như thế, bàng bạc khắp trời đất, ẩn hiện nơi dòng nước biếc, vương trên ngọn cây: “ Kiền khôn kim cổ vô cùng ý Khước tại thương lương viễn thụ yên ” ( Cái ý của trời đất xưa nay vốn không cùng Chính ở nơi dòng nước xanh, hơi khói trên lùm cây xa ) Những kẻ anh hùng bình thường cũng khó mà nhận diện ra hết cái ý ấy của trời đất, mà chỉ có những vị anh hùng siêu việt, đạt đến Việt tính, có được trí tuệ tối cao thì mới thông suốt được cái ý tột cùng. Ở lý thuyết Tam giáo, chúng ta thấy Phật, Nho, Lão đồng qui tại căn nguyên ở hình nhi thượng, còn đa số Nho sĩ đương thời chỉ chú trọng ở hình nhi hạ, cho nên hẹp hòi, độc tôn, mất hết khả năng siêu việt. Nguyễn Trãi là người khác với giới Nho sĩ thời bấy giờ, còn có được phẩm chất của Khổng Nho, tiên Nho lại thêm thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Thiền tông, thể nhập Việt tính cho nên trở thành vị đại anh hùng dân tộc là lẽ tự nhiên. Cái gì đã làm cho tập đoàn phong kiến, giới Nho sĩ chống đối, quần chúng nhân dân không ủng hộ cuộc cách mạng của họ Hồ nếu không phải là tư tưởng bế quan của Tống Nho, trung quân triệt để, trung thành mù quáng vào một dòng họ, một triều đại, một học thuyết dù cho những thứ đó đã tới hồi mục nát, lỗi thời. Thật vậy, với quan điểm hẹp hòi này các sử thần Nho sĩ đều cho rằng các cuộc cách mạng đảo chánh của Thiền sư Vạn Hạnh, của Trần Thủ Độ đều là cướp ngôi cả. Về phương diện văn hóa, giáo dục cũng vậy, với cái nhìn thiển cận do óc độc tôn những người này cho rằng chỉ có Nho học mới đóng vai trò làm văn hóa giáo dục mà thôi. Họ đã cố ý đồng hóa phương tiện với cứu cánh, chữ Hán là chữ của Thánh hiền, nghĩa là Nho giáo. Với quan niệm như vậy, cho nên có những người như Ngô Thời Sĩ đã thắc mắc tại sao ở thời xưa như triều đại vua Lê Đại Hành chưa có trường học mà vẫn có đủ nhân tài để phục vụ đất nước:

Page 197: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

196

“ Xét sử một đời vua Đại Hành, thì chính sách học hiệu khoa cử không nghe tới, nhưng mệnh lệnh và thư từ đương thời như lá thư gởi xin nối ngôi thì lời nói uyển chuyển, đắc thể. Đến như nối vần bài thơ Thiên Nhai, ca khúc tiễn sứ thần, tình ý lanh lẹ, đầy đủ. Văn nhân cũng không thể làm hơn được, không biết học hành dồi mài từ đâu. Anh hùng cái thế ra đời, luôn không thiếu người. Cho nên tuy không thấy có phương tiện giáo dưỡng và những bề tôi biết sửa, mà Hồng Du nhờ thông bác làm tới ngôi Thái sư, Chân Lưu nhờ tài cao mà đủ để ứng đối, cũng đủ để làm nổi trách nhiệm phù phụng. tiếp rước ”. Thật ra nhà chùa đã từ lâu vẫn là trung tâm văn hóa, giáo dục rồi, mà chữ Hán chỉ là phương tiện. Cho mãi đến về sau này khi Quốc tử giám được thiết lập ở kinh đô thì nền giáo dục nhà chùa vẫn còn tồn tại và phát triển ở khắp mọi nơi, cho nên Lê Quát vào cuối thế kỷ XIV phải than rằng: “ Ta thủa trẻ đi học, chí dốc vào cổ kim, cũng biết qua về đạo thánh, muốn lấy đó mà dạy dân, thế mà rốt cuộc không một làng nào tin theo cả. Ta cũng thường dạo chơi sông núi, dấu chân khắp nửa thiên hạ, thế mà chưa từng gặp một trường học hay văn miếu nào. Ta vì thế hết sức xấu hổ đối với các tín đồ của nhà Phật ” Rồi đến thế kỷ XV Thiền sư Pháp Tính thực hiện việc cải tổ chữ Nôm cho dễ học, dễ hiểu, chứng minh rằng chữ nôm cũng là chữ thánh hiền, chống lại thành kiến của giới Nho sĩ độc tôn coi khinh chữ nôm: “ Nôm na là cha mách qué ”: “ Nói Nôm tiếng thị tiếng phi Đến lập văn tự lại y thánh hiền ” Ngay như Nguyễn Trãi mà nhiều người vẫn quen gọi là nhà Nho, bên cạnh văn chương chữ Hán cũng làm thơ chữ Nôm. Khi viết cuốn “ Gia huấn ca ”, ông cũng dùng chữ quốc âm để tiện phổ biến việc giáo dục trong mọi gia đình: “ Nhân thong thả lựa vần quốc ngữ Làm bài ca dạy vợ nhủ con ” Như vậy nhà Nho Nguyễn Trãi và các vị Thiền sư trong quá khứ cho đến Pháp Tính đã gặp nhau ở Việt tính. Trong lý thuyết Tam giáo đồng nguyên, ba nguồn tư tưởng lớn của Đông phương gặp gở nhau trên mảnh đất Việt, mà như Thiền sư Vô Ngôn Thông đã xác nhận: “ Tây thiên cõi này, cõi này Tây thiên ” Đó là đất nước của những con người có khả năng siêu việt, là quê hương của Việt tính. Như vậy sự tổng hợp của Phật, Nho, Lão là sự tổng

Page 198: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

197

hợp trên cơ sở của Việt tính, nghĩa là ba nguồn tư tưởng trên gặp gở ở tận cùng căn nguyên Chân như, Phật tính ( Phật ), Thiên tính ( Nho ), Đạo (Lão ) và Việt tính. Tất cả đều thống nhất ở Tính hay Bản thể đại đồng, rồi từ đó mới biểu hiện ra thế giới thiên hình vạn trạng. Việt tính không phải chỉ riêng cho trường hợp đặc thù Việt Nam, mà những người như Mâu Tử, Khương Tăng Hội,Vô Ngôn Thông là những người Trung Quốc đã đến chọn nơi nầy làm quê hương, để thể nhập và phát huy Việt tính. Việt tính là Tính thể,là Bản thể đại đồng không có phân biệt chủng loại, chủng tộc, không phân biệt học thuyết mà chỉ theo tiếng gọi của qui luật “đồng thanh tương ứng ” và qui luật “ đồng nhất ”. Việt tính vừa có khả năng siêu việt tức là khả năng tích lũy lượng chuyển hóa thành phẩm, sự phát huy cao độ của tiềm năng nội tại, vừa có khả năng thâu hóa sáng tạo những tinh hoa tư tưởng nhân loại, nhưng không thể dung hợp được bất cứ tà thuyết cực đoan nào. Về phương diện nội tại, Việt tính là Bản thể đại đồng, mà trung gian hiện thực là năng lượng thường còn, có khả năng biểu hiện trở thành nhân vật phi thường đáp ứng kịp thời yêu cầu lịch sử, cứu nguy dân tộc. Những con người siêu việt đó có thể là những vị anh hùng dân tộc, những nhà đạo đức, những nhà tư tưởng, những học giả uyên bác...rất quý, rất cần cho đất nước, nhưng cũng rất hiếm có như nhận định của vua Trần Nhân Tông trong “Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca” “ Phô người học đạo, Vô số nhiều thay; Trúc hóa nên rồng, Một hai là họa.” Tình trạng nhân tài trong thời kỳ kháng chiến chống Minh như “ Bình Ngô đại cáo ” cho biết: “ Lại ngặt vì: tuấn kiệt như sao buổi sớm, nhân tài như lá mùa thu ”, mà thiên tài phi thường như một Nguyễn Trải lại càng hiếm có hơn nữa, ấy vậy mà triều đình bất minh về sau đã giết đi một bậc đại khai quốc công thần qua vụ án Lệ Chi viên thật là oan uổng. Về sau Lê Thánh Tông nhận thấy cái oan của vụ án, nên nhà vua cho phục chức, lập đền thờ, sai người đi tìm con cháu của Nguyễn Trải còn sống sót để cho ra làm quan.

Page 199: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

198

* Nguyễn Bỉnh Khiêm ( 1492-1587 ) Tự là Hạnh Phủ, hiệu là Bạch Vân cư sĩ, người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, tỉnh Hải Dương, sinh năm Tân hợi (1492 ) đời Hồng Đức. Lúc thiếu thời, ông theo học với thầy là Lương Đức Bằng, người tỉnh Thanh Hóa, đậu Bảng nhãn, là người đã dâng bài sách trị bình gồm 14 điểm, khuyên vua ( Lê Tương Dực ) nên khoan dung, công bằng, không được nhận nên cáo lão về quê mở trường dạy học. Nguyễn Bỉnh Khiêm học giỏi nổi tiếng, nhưng gặp buổi loạn lạc nên muốn ở ẩn. Sau này tình thế yên ổn, ông mới đi thi đỗ Trạng nguyên năm 1536 đời Mạc Đăng Doanh. Ông làm quan đến chức Đông các đại học sĩ. Năm 1542, đời Mạc Phúc Hải, ông dâng sớ xin hạch tội chém 18 lộng thần, nhưng không được chấp thuận nên có ý muốn rút lui. Ngay cả lúc ở nhà, ông vẫn được vua Mạc kính nể, thường lui tới hỏi han khi có quốc sự quan trọng. Sau được phong Trình quốc công, nên tục gọi là Trạng Trình và mất ngày 28 tháng 1 năm Ất dậu ( 1587 ). Tương truyền rằng thân mẫu của ông là người tinh thông lý số, tướng pháp, đã từ lâu có ý kén chồng để sinh quý tử. Gặp ông Văn Đình là người có tướng khá nên bà kết hôn, sinh được một con trai khôi ngô, đặt tên là Nguyễn Bỉnh Khiêm. Việc đặt tên con đối với một người tinh thông Dịch lý ắt hẳn phải có ý nghĩa. Trong kinh Dịch có quẻ Khiêm, mà lời Thoán có viết: “ Thiên địa khuy doanh nhi ích khiêm; địa đạo biến danh nhi lưu khiêm; quỷ thần hại doanh nhi phúc khiêm; nhơn đạo ố doanh nhi háo khiêm ” ( Đạo trời làm thiệt cho sự đầy mà làm ích cho Khiêm; đạo đất làm cho sự đầy biến đi mà làm hanh thông cho Khiêm; quỷ thần làm hại cho sự đầy mà giáng phúc cho Khiêm; đạo người thì ghét sự đầy mà yêu thích Khiêm ) Như vậy, dù là thiên đạo, địa đạo, nhơn đạo, quỷ thần đều ghét đầy mà ưa khiêm. Lời Tượng quẻ Khiêm cũng viết: “ Địa trung hữu sơn: Khiêm quân tử dĩ bầu đa ích quả, xứng vật bình thi ” ( Trong đất có núi, ấy là Khiêm, người quân tử theo đó mà bớt cỗ nhiều, thêm cỗ ít, cân lường sự vật để cho sự thi thố được thăng bằng ). Trong đất có núi là ý nói rằng trong chỗ thấp kém có chứa sẵn cái cao của nó rồi.

Page 200: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

199

Lão Tử cũng nói: “ Thiên chi đạo, kỳ du trương cung dư? Cao giả ức chi, hạ giả cử chi, hữu dư giả tổn chi, bất túc giả bổ chi. Thiên chi đạo: tổn hữu dư nhi bổ bất túc.” (Đạo trời ư? Khác nào cây cung giương lên: chỗ cao thì ép xuống, chỗ thấp thì nâng lên. Có dư thì bớt đi, không đủ thì bù vào. Đạo của trời là: bớt chỗ dư, bù chỗ thiếu ) ( Chương 77 ĐĐK ) Chương 66 ĐĐK cũng viết: “ Giang hải sở dĩ năng vi bách cốc vương giả, dĩ kỳ thiên hạ chi...Thị dĩ dục thượng dân tất dĩ ngôn hạ chi. Dục tiên dân tất dĩ thân hậu chi...Thị dĩ thiên hạ lạc thôi nhi bất yếm ” ( Sông biển sở dĩ làm đặng vua trăm hang, vì nó khéo đứng dưới thấp...Bởi vậy muốn ngồi trên dân, hãy lấy lời mà hạ mình. Muốn đứng trước dân, hãy lấy mình để ra sau...Vì thế thiên hạ không chán, lại còn đẩy tới trước ) Cũng theo truyền thuyết, lúc còn nhỏ có lần Nguyễn Bỉnh Khiêm đang đi với mẹ dọc đường gặp một thầy tướng số; ông này thoáng thấy tướng mạo cậu bé tuấn tú liền buộc miệng khen rằng: “ Tướng mạo đứa trẻ này đáng làm tới thiên tử ”, nhưng khi đến gần xem kỹ lại nói: “ Tiếc rằng nước da hơi thô, nên chỉ làm được tới trạng ”. Câu nói này làm cho mẹ Nguyễn Bỉnh Khiêm không mấy hài lòng. Rồi một hôm, ông Văn Đình dẫn con dạo chơi trong vườn, nhìn trăng non vừa mới mọc, ông cao hứng cất tiếng ngâm nga: “ Nguyệt treo cung, nguyệt treo cung ” Nguyễn Bỉnh Khiêm nghe vậy, liền nhanh lẹ ứng khẩu đối đáp ngay: “ Vén tay tiên, hốt hốt rung ” Ông Văn Đình mừng thầm về tư chất thông minh nhạy bén của con nên đem chuyện kể lại cho vợ nghe. Mẹ Nguyễn Bỉnh Khiêm không mấy hài lòng, trách chồng rằng: “ Mặt trăng là khí tượng nhỏ, là phận bầy tôi, sao ông dạy con như thế?” Về sau có lần qua bến đò ở làng Cổ Trai thuộc tỉnh Hải Dương, tình cờ trông thấy Mạc Đăng Dung lúc còn làm nghề đánh cá ven sông, mà có tướng mạo của bậc thiên tử, bà thở dài tiếc rằng việc gặp gỡ này quá muộn màng. Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh ra vào những năm cuối của đời vua Lê Thánh Tông, là thời kỳ cực thịnh của nhà Hậu Lê về mọi phương diện, có những nhân tài như Nguyễn Trực, Lê Quý Đôn, Lương Thế Vinh, Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận...Tuy nhiên về phương diện tư tưởng cũng tương tự như những thời kỳ trước và sau cuộc kháng chiến chống Minh, Tống Nho là độc tôn vì giáo điều của học phái này phù hợp với quyền lợi của chế độ quân chủ phong kiến thời đó.

Page 201: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

200

Đối với Phật giáo, nhà vua có thái độ mâu thuẫn như Việt sử tân biên viết: “ Vào khoảng cuối Quang Thuận, đầu Hồng Đức, nhà vua cùng một thời gian vừa dâng lễ cầu Phật ban phúc cho Hoàng gia và nhân dân vừa làm thơ khắc vào đá để ghi cái mê tín của triều Lý cho đời sau biết. Ngài hạn định việc đi lại của các đạo sĩ, tăng ni, cấm in sách kinh Phật, ngoại thư, tự tiện làm chùa, tô tượng, đúc chuông, các hoạt động của cô đồng, bà cốt...Những ai đã từng đọc các sớ kỳ đảo, kỳ an, các việc tế thiên thần, các sớ cầu Phật không khỏi cho rằng từ nhà vua đến các Nho gia đời Hồng Đức đã có một thái độ khó hiểu và mâu thuẫn ”. Triều đình và giới Nho sĩ thời bấy giờ có khuynh hướng chuộng lợi lộc thực tiển trước mắt mà bỏ quên phần tâm linh, chỉ nhắm vào những biến thái tiêu cực của Phật, Lão giáo mà phê phán, bài bác chứ không sáng suốt, công bình để nhận ra phần tinh hoa của hai nguồn tư tưởng này. Cứ nhìn vào đường lối giáo dục thu hẹp vào Tống Nho độc tôn, học trình, khoa cử, trường qui thì sẽ thấy ngay hậu quả của nó. Thế quân bình của Tam giáo không còn nữa. Con người quanh quẩn trong đường danh lợi theo lối học từ chương lấy Trình Chu làm tiêu chuẩn, cho nên không thể phát huy được khả năng sáng tạo và đạo đức càng ngày càng suy đồi. Theo Việt sử tân biên: “ Có một hôm nhà vua tự đắc có nhiều con trai, không phải thắc mắc về việc khói hương, kế tự ( Vua Thánh Tông có tới 14 con trai và 20 con gái ), Trạng Lương Thế Vinh dám nói: “ Nhiều con là nhiều giặc ”. Lời nói này quả nhiên sau thành sự thật. Hiến Tông ( 1497-1504 ) kế nghiệp Thánh Tông, làm vua được 7 năm thì mất, con thứ ba lên ngôi tức Túc Tông ( 1504 ) chỉ làm vua được 6 tháng lại mất. Người anh được tôn lên là vua Lê Uy Mục ( 1505-1509 ), nổi tiếng tàn ác, người đời gọi là Quỉ vương. Chẳng bao lâu Lê Tương Dực ( 1510-1516 ) giết Uy Mục chiếm ngôi. Tác phong đạo đức của vua chẳng khác gì Uy Mục, có người gọi là vua Lợn. Rồi đến Chiêu Tông (1516-1524 ), Cung Hoàng ( 1524-1527 ) hoàn toàn bất lực, quốc chính bại hoại, các quan đại thần thù nghịch nhau, ai cũng tuyên bố phò vua, gíúp nước, an dân, kết bè đảng đánh nhau khiến khói lửa mịt mù, dân chúng đói khổ lầm than khắp nơi. Giữa bối cảnh hỗn loạn này của đất nước, Mạc Đăng Dung cháu bảy đời của Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, có sức khỏe, võ nghệ hơn người, đỗ Đô lực sĩ, làm quan đến chức Đô chỉ huy sứ, lật đổ vua Lê, mở ra triều đại mới: triều Mạc, rồi tiếp theo cảnh Mạc-Trịnh-Nguyễn phân tranh, nội chiến tương tàn, thật là một vết nhơ cho lịch sử. * Chán ghét chiến tranh:

Page 202: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

201

Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh ra và lớn lên trong giai đoạn này cho nên phản ánh đầu tiên rõ nét trong văn thơ của ông là thảm họa chiến tranh đối với người dân: “ Huề trì bão phụ tử, Lưu ly khí đồng trĩ. Lung lão chuyển câu hác, Ngã biểu chúc lư lý. Bất thí điểu phần sào, Đãi đồng phường trinh vĩ. Thử thời tư vi cực, Sinh dân thậm tiều tụy.” ( Cảm vận thi tức sự ) ( Bắt vợ bồng con đi, Lưu ly đến nỗi vứt bỏ con trẻ. Già yếu té xuống ngòi rãnh, Chết đói nằm đầy cổng làng. Chẳng khác loài chim bị đốt mất tổ, Giống hệt như loài cá mè đỏ đuôi. Thật là thời cùng cực, Sinh hoạt của dân thật là thê thảm ) Chiến tranh lan tràn khắp nơi, ruộng đồng tiêu điều, nhà cửa tan nát, gia đình ly tán, cướp bóc bạo hành, đàn bà bị hà hiếp...Thật không có nỗi thống khổ nào bằng: “ Cuốc triết vi tân, Canh ngưu đồ nhi thực. Nhương đoạt phi kỷ hóa, Hiếp dụ phi kỷ sắc. Kiến hãm trụng đồ thán, Sở quá sinh kinh cức. Tiều tụy tư vi thậm.” ( Thương loạn ) ( Nhà ở đem bẻ làm củi, Trâu cày đem mổ thịt ăn. Cướp của người, Hiếp đáp và dụ dỗ vợ người. Đâu đâu cũng thấy cảnh lầm than, Nơi nào đi qua cũng là gai bụi. Tiều tụy đến thế là cùng.)

Page 203: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

202

Nguyên nhân nào đã gây ra cảnh “ nồi da xáo thịt ” khiến dân chúng lầm than như vậy? Tác giả cho biết là do lòng thù nghịch mà người ta chém giết nhau như hình ảnh của con chim ưng hung dữ khủng bố con chim loan, chim phượng hoàng: “ Tiến tha thù tặc hỗ tương tranh Thiên hạ phân phân hậu vị bình. .... Yếm khan nghịch tặc cửu xương cuồng, Hổ chiến giao tranh bán sát thương. Liệt hỏa liên viêm phần ngọc thạch, Cô ưng ngạc ngạc bố loan hoàng.” ( Cảm hứng ) ( Cười bọn thù tặc cứ tranh chấp lẫn nhau, Thiên hạ rối bời, tức chưa dẹp yên. ... Ngắm nhìn bọn giặc điên cuồng đã lâu, Chiến tranh dữ dội, hai bên thương vong đến một nửa. Lửa dữ cháy bừng bừng đốt tan cả ngọc đá, Một con ưng hung dữ khủng bố chim loan, chim phượng ) Nhân dân chán ngán, sợ cảnh chiến tranh, lũ lượt kéo nhau đi lánh nạn, mong được sống an lành: “ Lạc lạc can qua hận mãn tiền, Nhân dân bôn thoán dục cần tuyền. Điên liên huề bão ta vô địa, Ai hộ căng liên hạnh hữu thiên.” ( Hữu cảm ) ( Ngán nỗi can qua mãi thế ư! Nhân dân mong được chốn an cư. Kéo nhau lũ lượt tìm nơi ẩn, Cứu kẻ phiêu lưu có chỗ nhờ.) Trong hoàn cảnh loạn lạc này, mặc cho miệng thế chê khen, Nguyễn Bỉnh Khiêm đành nấn ná,ở ẩn dưỡng thân chờ thời cơ thuận lợi: “ Thấy dặm thanh vân bước ngại chen, Được nhàn, ta sá dưỡng thân nhàn. Ba gian am quán, lòng hằng mến, Đòi chốn sơn hà, mặt đã quen. Thanh vắng thú quê, dầu nấn ná, Dữ lành miệng thế, mặc chê khen.

Page 204: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

203

Mai kia chưa dễ thu nên muộn, Xuân nọ tin hoa cũng mấy phen.” ( Thơ chữ Nôm ) * Phò nhà Mạc: Đến khi nhà Mạc ổn định tình thế, nghe lời khuyến khích của bạn bè, Nguyễn Bỉnh Khiêm đi thi đỗ Trạng nguyên và làm quan dưới triều Mạc Đăng Doanh, lúc đó đã 44 tuổi. Việc đi thi đỗ đạt và làm quan với nhà Mạc của Nguyễn Bỉnh Khiêm có thể do ảnh hưởng của thầy dạy học và của thân mẫu, nhưng có điều chắc chắn rằng ông có quan niệm trung quân ái quốc khác hẳn giới Nho sĩ đương thời, không mù quáng trung thành với một triều Lê tới thời mục nát, vô phương cứu chữa, mà phải chọn bậc đế vương thật sự có nhân nghĩa để phò trợ. Bậc đế vương nhân nghĩa đó theo Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà Mạc, mà ông ca ngợi có công nghiệp trên cả các triều Đinh, Lê: “ Tối thị đế vương nhân nghĩa cử Sự công ưng hạ tiểu Đinh, Lê.” ( Lưu khê trú doanh ) ( Chính đây là bậc đế vương có nhân nghĩa Mà sự nghiệp đáng đặt các triều Đinh, Lê ( Tiền Lê) xuống một cấp ) Chỉ có bậc đế vương có nhân nghĩa mới có thể cứu dân thoát khỏi cảnh lầm than, tạo cuộc sống yên ổn trở lại: “ Đồ thán nhân giai nhẫm tịch tế, Tối thị đế vương nhân nghĩa cử.” ( Liệt khê trúc doanh ) ( Dân từ lầm than đều bước lên chỗ chiếu nằm yên ổn, Quan trọng nhất là đế vương có nhân nghĩa ) Chỉ có bậc đế vương có nhân nghĩa mới có thể đem lại Thái bình thịnh trị, rồi với mưa thuận gió hòa, lúa thóc được mùa sẽ mang ấm no, hạnh phúc lại cho nhân dân: “ Vũ thuận cốc đăng kim thượng thủy Thái bình hựu nhất thử hưu kỳ ” ( Thơ chữ Hán: Vũ ) ( Mưa thuận hòa, thóc lúa được mùa, nay dâng điều lành ấy Thái bình lại là một thời kỳ tốt đẹp ) Nói chung đất nước dưới triều Mạc phồn thịnh, dân chúng yên ổn làm ăn, bà con xum họp, xóm làng liên kết, phong tục tốt đẹp: “ Tổng công lâm lâm sinh chí phồn

Page 205: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

204

Sở cư xứ xứ hữu hương thôn Hào hoa hấp nhĩ tị tân hội Nhân hậu y nhiên mỹ tục tồn ” ( Nhân thôn ) ( Đông đúc, sum suê, sinh sản rất phồn thịnh Chỗ nào có người ở là có xóm làng Kẻ hào hoa sum họp, xóm làng liên kết với nhau Nhân hậu vẫn tự nhiên, phong tục còn tốt đẹp) Từ đó Nguyễn Bỉnh Khiêm muốn mang hết khả năng ra phò vua giúp nước: “ Ưng tri vạn giáp tố bàn hung Thử hành tố triển an biên sách ” ( Nên biết hàng vạn giáp binh vốn núp ở trong lòng ngực Chuyến đi này sẽ thi thố kế sách làm yên bờ cõi.) * Phê phán Nho quan thối nát: Nhưng sau một thời gian, ông nhận thấy giới quan lại của nhà Mạc cũng chỉ là những kẻ thiếu tài, kém đức, tham lam, không có lòng vì dân vì nước: “ Nho quan tự tín đa thân ngộ Đích thực thùy năng vị quốc mưu ” ( Ngụ hứng ) ( Tự tin vào bọn Nho quan Ăn bao nhiêu của cải của triều đình, nhưng mấy ai đem khả năng lo việc nước ) Quan to chức lớn trong triều thì nhiều như đá tản trên núi, nhưng có mấy ai là người để cho dân có thể trông cậy được: “ Văn đạo triều đình đa cố lão, Nham nham thùy thị cụ dân chiêm ” ( Bệnh hậu thư hoài ) ( Nghe nói triều đình có nhiều cố lão, Cao chơm chởm, ai là người cho dân có thể trông mong ) Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dùng hình ảnh con chuột nhỏ mọn, gian tham, ăn bám, chuyên chui rúc vào góc thành, ẩn mình trong hang hốc nền xã toan tính chuyện mưu gian khiến cho quỷ thần, nhân dân đều oán ghét để ám chỉ bọn tham quan ( Bài tăng thử ). Hình ảnh này cũng thấy trong văn học bình dân: “ Cháy nhà ra mặt chuột ”

Page 206: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

205

Chẳng những gian tham, bọn này còn gian ác bóc lột, hà hiếp, giết hại đồng loại, tạo ra cảnh “ Cá lớn nuốt cá bé ”, “ Thịt chó, chó ăn ” chẳng khác nào “ loài chó dại ” còn thua xa những con “ chim khôn ”, tình cảnh đất nước chẳng khác nào ngôi nhà dột nóc: “ Trời sinh vật, kể dư vàn, Khinh, trọng ta dù biết mực, than. Thịt chó, chó ăn, loài chó dại, Lông chim, chim tiếc, ấy chim khôn. Bò đàn những bạn cái bò cái, Cá cả mong ăn con cá con. Nhà dột bởi đâu? Nhà dột nóc, Nếu nhà dột nóc, thế chon von.” Năm 1542, ông dâng sớ xin Mạc Phúc Hải trừng trị bọn lộng thần, nhưng không được chấp thuận, nên cáo quan về làng làm nhà để dưỡng thân gọi là Bạch vân am: “ Được thua thấy đã ít nhiều phen, Để rẻ công danh đổi lấy nhàn. Am Bạch vân rồi nhàn hứng, Dặm hồng trần vắng ngại chen.” Ông thường dạo chơi những nơi thắng cảnh, vui thú ngâm vịnh. Có lần cùng với các kỳ lão ra chơi ở bến Trung Tân, ông viết “ Trung Tân quán bi ký ” ghi rõ bản cáo trạng về bọn Nho quan thối nát thời bấy giờ: “ Khi ở triều đình thì tranh nhau về danh, khi ở chợ búa thì tranh nhau về lợi; khoe là sang thì lầu son gác tía, khoe giàu thì vũ tạ ca lâu; thấy ngoài đường có người chết đói, không dám bỏ một đồng tiền ra cứu giúp; thấy cánh đồng có người nằm sương, không chịu bỏ một nắm rạ ra để che đậy...Hiển đạt sang trọng thì kiêu căng, giàu có thì xa xỉ. Nhà cửa trang hoàng lộng lẫy, chạm trổ vẽ vời. Xa xỉ cùng cực, lấy sáp đun thay củi, lấy đường trát vò. Say rượu nồng, no chất tươi, mặc áo da nhẹ, cỡi ngựa béo... tối mắt về lợi lộc như cuồng như ngây ”. Nội dung của bản cáo trạng này chẳng khác nào ý tưởng trong ĐĐK Chương 53 của Lão Tử nói về tình trạng Đạo thời Chiến quốc vào khoảng thế kỷ thứ 5 trước TL: “ Triều thậm trừ, điền thậm vu. Thương thậm hư. Phục văn thái, đới lợi kiếm, yếm ẩm thực, tài hóa hữu dư. Thi vị đạo khoa, phi Đạo dã tai?” ( Triều đình lộng lẫy thật, mà ruộng nương đầy cỏ hoang.

Page 207: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

206

Còn kho đụn thì trống trơn. Áo quần sang trọng thật, đeo kiếm bén, ăn uống chán, của cải thừa. Nhưng đó là đường của đạo tặc, đâu phải là đường của đại Đạo ) * Quan niệm xuất xử: Tâm trạng của Nguyễn Bỉnh Khiêm lúc này rất phức tạp với biết bao tranh chấp, giằng co: nào là niềm trung ái, nghĩa vụ phải gánh vác với thú điền viên, chuyện lành dữ, họa phúc xen lẫn nhau: “ Trải gian nguy đã mấy phen, Thân nhàn, phúc lại được về nhàn. Niềm xưa trung ái, thề chẳng phụ, Cảnh cũ điền viên, thú đã quen. Ba cuốn đồ thư thu nặng túi, Một thuyền phong nguyệt chở đầy then. Trời cũng biết nơi lành dữ, Họa phúc chăng dong cái tóc chen.” Ở nhà chẳng được bao lâu, có lẻ do tiếng gọi của “ Niềm trung ái, thề chẳng phụ ” ông lại trở ra giúp triều đình mặc dầu đã “ Ngại bước chân chen áng cửa quyền ”: “ Hễ kẻ làm quan đã có duyên, Tới lui mặc phận tự nhiên... Cho về cho ở, dầu ơn chúa, Ngại bước chân chen áng cửa quyền.” Việc “ tới lui ”của ông bị một người bạn họ Nguyễn ở Kim Thành làm bài thơ có đầu đề “ Thốc vãng, hốt lai ” ( Thoắt tới, thoắt lui ) để chế giễu, chớ mấy ai biết được tấm lòng của ông, việc phò vua Mạc của ông không phải vì danh lợi, mà vì mong muốn đem cảnh thái bình thịnh trị lại cho đất nước, cho nhân dân: “ Vinh nhục ba phen hẳn đã từng, Lòng người, sự thế thấy lâng lâng. Khen thì nên ngộ, chê nên dại, Mất chẳng hề âu, được chẳng mừng. Yên lạc một lần đầu thú, Thái bình mười chước ngại dâng. Có ai biết được lòng tri kỷ? Vòi vọi non cao, nguyệt một vừng.”

Page 208: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

207

Do đó ông không cần phải có thái độ chọn lựa hoặc là thế này hoặc là thế kia dứt khoát về vấn đề xuất xử: “ Thửa nơi xuất xử đâu là phải? Ở ắt nên, về cũng ắt nên.” Vì cả hai lẽ đều có cái phải của nó: về thì hưởng thú an nhàn, ở thì phò vua giúp nước, mà đối với ông trách nhiệm phò vua giúp nước bao giờ cũng ưu tiên nếu có thể được: “ Quân thân thề hết lòng thờ một, Xuất xử cầu chưa được đạo hai.” Cho nên dầu ở trong trường hợp nào, ông cũng cảm thấy an nhiên tự tại, chỉ lo vun đắp mống phúc mà chẳng màng đến chuyện lành dữ, khen chê: “ Mống phúc vun, hòng ngày một nảy, Cửa nho ngỏ, kẻo phải then cài. Yên đòi phận dầu tự tại, Lành dữ khen chê, cũng mặc ai.” Ước vọng duy nhất của ông là phò trợ “ chúa thánh minh”: “ Đã ngoài mọi việc, chăng còn ước, Ưóc một tôi hiền, chúa thánh minh ” Và nếu có ai thắc mắc ông sẽ nhắn nhủ với người đó rằng khi đất nước có thái bình thì từ bậc thiên tử cho đến người thường dân đều được hưởng: “ Dẫu có ai han, thì sẽ nhủ, Thái bình thiên tử, thái bình dân ”

* Quan niệm về đạo trung: Cũng trong “ Trung Tân quán bi ký” Nguyễn Bỉnh Khiêm định nghĩa

chữ trung như sau: “ Trung nghĩa là đứng giữa không chênh lệch, giữ vẹn được điều thiện

gọi là trung, không giữ vẹn được điều thiện thì không phải là trung vậy; Tân có nghĩa là cái bến, biết được chỗ đáng đậu là bến chính, không biết chỗ đáng đậu là bến mê vậy. Nghĩa cái tên quán là như thế. Như trung với vua, hiếu với cha mẹ, thuận với anh em, hòa giữa vợ chồng, tín giữa bạn bè, đó là trung vậy. Thấy của phi nghĩa đừng có lòng tham, vui làm điều thiện, lại có độ lượng bao dung người khác, đem lòng chí thành để đối đãi với mọi người, đó cũng là trung vậy. Trung ở chỗ nào tức là điều chí thiện ở chỗ ấy. Nếu mọi người biết lấy trung làm bến chính giữ được đúng mức, thì mọi công việc trong thiên hạ cứ do đó mà thi thố ra để đi đến chỗ tận thiện, như vậy thì công đức tốt đẹp biết là dường nào.”

Page 209: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

208

Chữ trung của Nguyễn Bỉnh Khiêm siêu vượt khỏi phạm vi hạn hẹp của chữ trung trong Nho gíáo, nó liên kết chữ tân là cái bến, như vậy trung là cái bến chính, nơi qui tụ nguyên lý quân bình. Vì là cái bến chính, cho nên nếu từ đó mà thi thố, khai triển ra đúng mức thì mọi sự việc sẽ được chính xác, sẽ đến chỗ tận thiện, tận mỹ. Một chữ trung như vậy đã bao gồm hầu hết các phạm trù luân lý như trung, hiếu, thuận, hòa, thành, tín, độ lượng, bao dung...và nói chung là tất cả những gì hướng về ba lý tưởng chân, thiện, mỹ.

Với tư tưởng khoáng đạt như vậy, rõ ràng Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thể hiện trọn vẹn Việt tính, siêu vượt lên trên quan niệm trung quân hẹp hòi của Tống Nho. Bất chấp nguyên tắc “ Trung thần bất sự nhị quân”, ông vừa phò nhà Mạc, vừa cố vấn chúa Trịnh (giúp nhà Lê trung hưng), cố vấn chúa Nguyễn để tạo ra thế quân bình tạm thời trong tình hình nghiêm trọng của đất nước thời bấy giờ.

Về việc cố vấn chúa Trịnh, sử Trịnh có ghi: “ Khi Nguyễn Kim chết, Kiểm nắm hết binh quyền, nhiều lần có ý

hạ vua Lê để lên làm vua. Nhân khi vua Lê Trung Tông chết, Trịnh Kiểm định lên ngôi, lập ra nhà Trịnh, nhưng còn ngại nên cho sứ giả ra hỏi Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông bèn khuyên: “ Năm nay mất mùa, thóc giống không tốt, nên tìm giống cũ mà gieo ”, rồi còn sợ sứ giả không hiểu, phải thêm: “ giữ chùa thờ Phật thì ăn oản ”.

Trịnh Kiểm nghe lời cho người đi tìm Lê Duy Bang lập lên làm vua tức là Lê Anh Tông ( 1557 ). Nhờ vậy giới Nho sĩ Bắc hà không chống đối nên họ Trịnh mới giữ được nghiệp chúa nhiều đời.

Còn Nguyễn Hoàng, sau việc Trịnh Kiểm giết Nguyễn Uông thì ngày đêm lo sợ, nghe theo lời khuyên của Nguyễn Bỉnh Khiêm: “ Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân ” ngụ ý nói rằng nên vào lập nghiệp ở phương Nam, bên kia dãy Hoành sơn để con cháu lưu truyền được muôn đời, Nguyễn Hoàng bèn nhờ chị là Ngọc Bảo, vợ của Trịnh Kiểm xin chồng cho mình đi trấn thủ đất Thuận Hóa, rồi dựng nên nghiệp chúa ở đây”.

Sau này La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, đã từng cố vấn cho vua Quang Trung Nguyễn Huệ, nhân dịp đến thăm đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm có làm thơ tức cảnh trong đó có hai câu:

“ Nhàn khí mạo quân vương Phiến ngũ toàn tam tính ” ( Sống trong cảnh nhàn, ở xa vua chúa Dùng lối nói bóng gió làm yên ba họ )

Page 210: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

209

Nguyên lý quân bình là nguyên lý nền tảng cho mọi tồn tại trên đời cho nên đã trở thành đạo sống truyền thống của dân tộc. Nói đến giác ngộ, phản tỉnh là nói đến sự nhận thức và thể nghiệm lẽ huyền diệu của đạo sống quân bình, rồi bằng phương tiện nào đó khiến cho người khác cũng cùng cảnh tỉnh, giác ngộ trong đạo sống quân bình ấy để tất cả mọi sự đều hài hòa, mọi người đều sống trong hòa khí, hòa hợp, hòa bình. Trong bài “Thạch khánh ký ” Nguyễn Bỉnh Khiêm đã gõ lên phiến đá tấu nhạc để giác ngộ lòng thành và đã gây ra tiếng vang vô cùng: “ Khi phiến đá chưa được gõ lên, làm sao mà khiến cho người ta cảnh tỉnh, giác ngộ, thánh nhân bày ra đạo để giác ngộ lòng thành, nhân tiếng nhạc để đem lại hòa khí, tất nhiên phải chế các pháp khí để làm tượng trưng. Hòa bình là chủ của nhạc điệu, lòng thành là gốc của giáo hóa. Từ khi có khánh đá, tiếng vang vô cùng ”. Theo lý thuyết của đạo sống quân bình thì nguyên lý quân bình là căn nguyên cho mọi tồn tại, mọi sự thường còn cho nên còn gọi là đạo trung thường. Doanh-mãn là biến dịch phát động từ chỗ “trung” mà ra, cho nên thái độ của những người giác ngộ là chấp trung chứ không chấp doanh hay mãn, và cũng tương tự như thế chớ có đặt nặng vấn đề xuất hay xử, mà hãy giữ lấy chỗ trung là tam cang ( ba giềng mối ): quân vi thần cang, phụ vi tử cang, phu vi thê cang: “ Thấy cơ doanh mãn, cho hay chớ, Phải đạo trung thường, mựa có qua. Dấu lấy thánh kinh nơi thửa học, Thề chưng xuất xử, đạo thờ ba.” Cũng tương tự như thế, việc tới lui không phải căn cứ vào lợi lộc, công danh, mà cốt làm sao cho phải đạo trung: “ Mựa hề toan lợi, mựa toan công, Lui tới thìn cho phải đạo trung .” Nói tóm lại, con người sống theo đạo sống quân bình thì chấp vào chỗ trung căn nguyên, chứ không chấp vào những biến thái của nó như thị phi, bỉ thử, thiện ác, đục trong: “ Thị phi chẳng quản, mặc chê khen ” hay: “ Đạo ở mình ta lấy đạo trung, Chớ cho đục, chớ cho trong ” * Qui luật tự nhiên: ° Qui luật quân bình ( thăng bằng )

Page 211: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

210

Người ta sống theo đạo sống quân bình, vì người ta tin tưởng có qui luật quân bình chi phối mọi hiện tượng, mọi sự vật trong thế giới tự nhiên, nhờ nó mà có sự sống còn : “ Nhiều ít của nhà tôi thửa có, Dữ lành sự thế thấy bằng chăng... Dầu nhẫn chẳng sang thì sức khỏe, Trời cao lồng lộng có thăng bằng.” Tất cả những thái độ chấp trung nói trên kia đều dựa trên nền tảng của qui luật quân bình. ° Qui luật không quân bình ( biến dịch ) Trạng thái quân bình thường hằng ở phương diện bản thể, nhưng trong

thế giới hiện tượng thì tương đối, cho nên bên cạnh qui luật quân bình còn có qui luật không quân bình, có nghĩa là mọi sự vật đều biến dịch:

“ Thế gian biến cải vũng nên đồi ” hay: “ Giàu chĩnh chện, khó lai rai, Vần chuyển lưu thông há của ai. Vũng nọ ghe khi làm bãi cát, Doi kia có thuở lút hòn Thai.” ° Qui luật tuần hoàn: Sự biến dịch này không phải một chiều theo một đường thẳng tắp: “ Phiêu phong, bạo vũ nan chung nhật Sơ trúc, khô chi dị khiếp sương ” ( Gió to mưa lớn khôn đầy buổi Cây yếu cành khô dễ ngại sương ) ( Khiển hứng ) Ý tưởng này tương tự như Lão Tử ở chương 23 ĐĐK: “ Phiêu phong bất chung triêu, sậu vũ bất chung nhật” ( Gió lốc không thổi suốt một buổi mai, mưa rào không mưa suốt một ngày trường ). Sự biến dịch có tính cách tuần hoàn, đắp đổi nhau: “ Thế sự tuần hoàn hay đắp đổi, Từng xem thua được một hai phen.” hay: “ Sinh tiêu, thăng giáng chung nhi thủy Giáp tý na tri niên hựu niên ” ( Trung Tân quán ngụ hứng ) ( Sinh ra tiêu đi, bốc lên giáng xuống rồi cuối cùng lại bắt đầu

Page 212: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

211

Biết đâu qua năm Giáp tý này rồi lại đến năm Giáp tý khác ) ° Qui luật liên hệ: Mọi sự vật trong đời đều không biệt lập, mà có liên hệ với nhau, có ảnh hưởng lẫn nhau: “ Gần son thời đỏ, mực thời đen Sáng biết nhờ ơn thửa bóng đèn” Hai câu này có cùng một ý như câu tục ngữ: “ Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng ” hay : “ Dài ống, tròn bầu ấy khá nhiều, Há rằng lận, há rằng kiêu? Ví dầu phải dải giương cơn gió, Nào lọ thừa cơ đội lốt beo?” lấy ý từ câu tục ngữ: “ Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài ”. Qui luật liên hệ này có tính cách phổ biến trong mọi lãnh vực: “ Thớt có tanh tao ruồi đậu đến, Ang không mật mỡ kiến bò chi?” Sự liên hệ là liên hệ nhân quả nên cũng là luật nhân quả: “ Cửa vương nhện, nhân vì vắng, Thớt quyến ruồi, ấy bởi tanh.” Như vậy mọi hiện tượng, mọi sự việc trên đời đều có nguyên nhân nhứt định cả: “ Nhà dột bởi đâu? Nhà dột nóc, Nếu nhà dột nóc, thế chon von.” ° Qui luật âm dương, mâu thuẫn: “ Cơ ngẫu tòng lai doanh cánh hư, Âm dương tiêu trưởng nghiệm thừa trừ ” ( Độc Chu Dịch hữu cảm ) ( Chẳng lẻ đầy vơi số song nhau Âm dương tiêu trưởng rất có màu ) Mâu thuẫn là hiện tương có tính cách khách quan và phổ biến: “ Thoi nhật nguyệt đưa thoăn thoắt, Cái phồn hoa khá nhạt phèo. Hoa càng khoe nở hoa nên rữa, Nước chứa cho đầy nước ắt vơi.” ° Qui luật phản phục: Luật này bao hàm cả luật âm dương, mâu thuẫn, là luật căn bản của Dịch: “ Vật cùng tắc biến, vật cực tắc phản”.

Page 213: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

212

Hào từ quẻ Thái có câu: “ Vô vãng bất phục”, nghĩa là không có cái gì đi mà không trở lại. Ý tưởng này rất phổ biến trong thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm: « Nẻo nhọn bao nhiêu lại có tùi, Dòm cơ tạo hóa đã càng soi » hay: “ Một cơ yêu nhục đổi thay đều, Yêu bao nhiêu, thì nhục bấy nhiêu.” hoặc: “ Sen, mùa trước đổi, mùa sau mọc, Triều, cửa này ròng, cửa khác cường. Âm đã lại dương, đành máy nhiệm, Bỉ thôi thì thái ấy cơ thường.” Đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm, tất cả mọi hiện tượng, mọi sự vật đều xảy ra theo đúng các qui luật tự nhiên không sai chỗ nào: “ Khôn ngoan mới biết thăng thời giáng Dại dột nào hay tiểu có dài Đã khuất bao nhiêu thời lại duỗi Đạo trời lồng lộng chẳng hề sai ” Từ đó ông đã đưa ra một số áp dụng: A- Trước hết là đạo sống quân bình: Trong đạo sống này, những mâu thuẫn đều liên hệ với nhau một cách biện chứng trong khuôn khổ của qui luật quân bình, chứ không thiên chấp vào một thành phần, yếu tố nào của những cặp mâu thuẫn, do đó phép biện chứng cũng xoay quanh luật quân bình. * Phép biện chứng quân bình: “ Đạo ở mình ta lấy đạo trung, Chớ cho đục, chớ cho trong.” Điều đó cũng có nghĩa là tránh cực đoan, thái quá, tức chú ý đến luật phản phục nói trên: “Độc bất kiến! Thiên hạ bản doanh hư, bội nhập diệc bội xuất, Hựu bất kiến!...bạo đắc tùy bạo thất, tòng đầu sắc thị không.” ( Cẩm thời cố ý ) ( Riêng chẳng thấy ư! Thiên hạ vốn có đầy, có vơi, cái gì trái lẽ mà vào thì trái lẽ mà ra, Lại chẳng thấy ư!... được một cách dữ tợn thì cũng mất một cách dữ tợn, từ đầu đã nói sắc tức là không.) hay:

Page 214: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

213

“ Vật vờ thành thị làm chi nữa

Ít tiếng khen thì vắng tiếng chê ”

Tư tưởng này cũng rất phổ biến trong nền văn học bình dân:

“ Bạo phát, bạo tàn ” hay: “ Trèo cao, té nặng ” hoặc: “ Cây cao thì gió càng lay, Càng cao danh vọng, càng dày gian truân ” Rồi ông đề nghị một thái độ sống, một kinh nghiệm sống: “ Tay kia khéo nắm còn khi mở, Miệng nọ hay cười có lúc ho. Có thuở được thời, mèo đuổi chuột, Đến khi thất thế, kiến tha bò.” hay: “ Làm người chớ thấy tài mà cậy, Có nhọn bao nhiêu, lại có tùi.”

* Kinh nghiệm về chuyện họa-phúc: Họa phúc là vấn đề tương đối, chúng luôn luôn nằm kề cận bên nhau: “ Họa phúc chăng dong cái tóc chen ”

hay: “ Chưng trong họa phúc ít người hay, Suy, thịnh hằng lề rắp đổi thay. Hàn Tín nên công thì cả phúc, Tái Ông thất mã há chau mày?” * Kinh nghiệm về chuyện dại khôn: “ Làm người có dại mới nên khôn, Chớ dại ngây si chớ quá khôn. Khôn được ít mình, đừng rẻ dại, Dại thì giữ phận, chớ tranh khôn. Khôn mà hiểm độc là khôn dại, Dại vốn hiền lành ấy dại khôn. Chớ cậy rằng khôn khinh kẻ dại, Gặp thời, dại cũng hóa nên khôn.”

Page 215: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

214

Khôn dại là do sự vọng động của tâm thức, sự chao đảo của lòng người, cả hai đều trái với đạo trung: “ Thế tình bàn bạc không cùng dại, Khôn dại hai đường trái cả hai.” Nếu phải chọn lựa giữa dại và khôn để tránh sự đôi co, tranh chấp Nguyễn Bỉnh Khiêm cứ nhận mình là dại trong khi phần đông thiên hạ chủ trương tranh khôn: “ Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ, Người khôn, người đến chốn lao xao.” Cái khôn của phần đông ngưòi đương thời là cái khôn lỏi, khôn lanh xảo quyệt, dựa vào thủ đoạn, mánh lới, xảo ngôn chứ không chuộng tri thức thuộc về chân lý, đó là cái khôn của những người bon chen trong cuộc sống lao xao: “ Người ta bằng mặt, chẳng bằng lòng, Đo đắn cho hay sự sá phòng. Lưỡi thế gẫm xem mềm tự lạt, Miệng người toan lại sắc như chông. Ăn cùng, thốt khác nhiều điều dữ, Nói thực, làm hư những chước vòng. Kham hạ thánh nhân cò dõi để, Xảo ngôn hai chữ chép dòng dòng.” Cái dại của Nguyễn Bỉnh Khiêm là cái dại của bậc hiền ngu tìm về nơi vắng vẻ để ngoài tai chuyện thị phi, khen chê: “ Thị phi chẳng quản, mặc chê khen, Ngu dại trần trần tính đã quen.” Đối với bậc hiền ngu, đức độ sáng ngời mới là điều đáng quý: “ Nhân xảo, ngã giả chuyết, Thùy tri chuyết giả đức. Ngã chuyết, nhân giả xảo, Thùy tri xảo giả tặc.” ( Trung tân quán ngụ hứng ) ( Người ta khéo léo mà mình thì vụng về, Biết đâu vụng về ấy lại chẳng là đức tốt. Ta khờ dại mà người xảo quyệt, Biết đâu xảo quyệt ấy chẳng là điều hại lớn.) Cho nên đừng lấy sự khôn ngoan xảo quyệt mà dối gạt, hại người: “ Chớ có hại người mà ích kỷ, Giấu người, khôn giấu được thần linh.”

Page 216: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

215

Tục ngữ cũng có câu: “ Chớ lấy vải thưa mà che mắt thánh.” Về phương diện giá trị, từ xưa đến nay con người bao giờ cũng quý trọng tính chân thật: “ Xưa nay đều trọng người chân thật, Ai nấy nào ưa kẻ đãi bôi?” Chỉ có những ai chân thật, chí thành thì mới tiến gần đến được ba lý tưởng chân, thiện, mỹ hay nói khác đi những ai sống theo đạo quân bình, đạo trung thì mới có thể đạt tới sự chân thật chí thành, chí thiện, chí mỹ. Cho nên đừng chấp dại, chấp khôn, mà phải giữ lấy đạo trung: “ Chẳng khôn, chẳng dại, luống ương ương, Biết một khăng khăng giữ đạo thường.” Lão tử xưa kia cũng đã chủ trương: “ Cổ chi thiện vi Đạo giả, phi dĩ minh dân, tương dĩ ngu chi. Dân chi nan trị, dĩ kỳ trí đa.” ( Đời xưa, kẻ khéo thi hành Đạo, không làm cho dân khôn lanh, mà làm cho dân thực thà, chất phác. Dân mà khó trị, vì nhiều mưu trí.) (ĐĐK Chương 65 ) Chương 19 cũng có nói: “ Tuyệt thánh khí trí, dân lợi bách bội...tuyệt xảo khí lợi, đạo tặc vô hữu...kiến tố bão phác, thiểu tư quả dục.” ( Dứt thánh, bỏ trí, dân lợi trăm phần...dứt xảo, bỏ lợi, trộm cướp không có... Ăn ở giản dị, ít riêng tây, ít tham dục.)

* Vô sự: Sống theo đạo sống quân bình có nghĩa là không thiên chấp vào một khuynh hướng nào của mâu thuẫn như trượng phu ( quân tử )- tiểu nhân, khôn-dại, phải-trái, hơn-thua... để đưa đến sự đôi co, mà phải lấy sự hòa hợp, hài hòa làm trọng. Mọi mâu thuẫn đều do sự mất quân bình mà ra, cho nên theo đạo quân bình có nghĩa là chấp trung, chỗ chưa phát sinh mâu thuẫn, thì sẽ tránh được mâu thuẫn, có nghĩa là vô sự: “ Ở thế đừng tranh đứng trượng phu, Làm chi cho có sự đôi co? Đây cậy đây khôn, đây chẳng chịu, Đấy rằng đấy phải, đấy không thua. Duật nọ mựa còn đua với bạng, Lươn kia hầu dễ kém chi cò? Chữ rằng: “ Nhân dĩ hòa vi quý ”, Vô sự thì hơn, kẻo phải lo.”

Page 217: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

216

Khi đã vô sự thì lòng người trong sáng như trăng soi bóng nước, tình yêu của con người đối với thiên nhiên , non nuớc cũng nồng thắm như sự ái ân của trăng và nước; còn của cải, danh lợi thì nhẹ như gió thoảng thổi lên những bông hoa: “ Lòng vô sự, trăng in nước, Của thảng lai, gió thổi hoa „ hay: “ Aí ân vằng vặc trăng in nước, Danh lợi lâng lâng gió thổi hoa „ Đã vô sự thì con người được thanh nhàn, cho nên tuy chưa phải là Tiên mà cũng như Tiên nào có khác: “ Ngày ngày tiêu sái nhàn vô sự, Tuy chửa là tiên ấy ắt tiên „ * Thanh nhàn: Thanh nhàn là đặc tính của tư tưởng phóng khoáng của con người phản tỉnh, giác ngộ, siêu vượt lên trên mọi mâu thuẫn, tranh chấp, đôi co để hòa nhập vào thiên tính tự nhiên: “ Thanh nhàn dưỡng được tính tự nhiên, Non nước cùng ta đã có duyên, Dắn dỏi bên tai cầm suối, Dập dìu trước mặt tản sen. Xuân về, hoa nở mùi hương nức, Khách đến, chim mừng dáng mặt quen. Chốn ấy thanh nhàn được thú, Lọ là Bồng đảo mới tiên „ . Kẻ thanh nhàn là kẻ có duyên đặc biệt đối với thế giới tự nhiên, có quan hệ gắn bó theo luật“ đồng thanh tương ứng „: “ Nước xuôi, nước ngược sóng dâng triều Thuyền khách chơi thu, nọ phải dìu Chèo vượt bóng trăng nhân lúc hứng Buồm giong ngọn gió mặc cơn siêu Phơ phơ đầu bạc ông câu cá Leo lẻo dòng xanh con mắt mèo Le vịt cùng ta như có ý Đến đâu thời cũng thấy đi theo. » * Tự nhiên : Kẻ sống nhàn là kẻ sống theo tự nhiên : « Xóm tự nhiên, lều một căn

Page 218: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

217

Quyết không thảy thảy bụi hồng trần Nghìn hàng cam quít, con đòi cũ Mấy đứa ngư tiều, bộ bạn thân Thấy nguyệt tròn thì kể tháng Nhìn hoa nở mới hay xuân. » hay : « Ngày chầy họp mặt hoa là khách, Đêm vắng hay lòng, nguyệt ấy đèn. » hoặc : « Trăng thanh gió mát là tương thức Nước biếc non xanh ấy cố tri. » Kẻ sống theo tự nhiên là kẻ nhập diệu vào cõi đìu hiu : « Xóm tự nhiên, một cái lều, Qua ngày tháng lọ là nhiều ? Gió cuốn rèm thay chổi quét, Trăng cài cửa kẻo đèn treo. Cơm ăn chẳng quản dưa muối, Áo mặc nài chi gấm thêu ? Tựa gốc cây, ngồi bóng mát, Đìu hiu, ta hãy một đìu hiu. » Sống theo tự nhiên của một tiên ông nhàn tản có nghĩa là tuy có nhu cầu đơn giản nhưng cũng đầy đủ ý vị : « Thu ăn măng trúc, đông ăn giá Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao. Rượu đến gốc cây ta sẽ nhắp, Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao . » Những nhu cầu đó do chính mình làm việc để tự cung cấp cho mình : « Ao cạn, vớt bèo, cấy muống, Trì thanh, là cỏ ương sen.” hay: “ Ruộng năm bảy khóm trồng cây lúa, Tằm chín, mười nong để giống ngài.” Đối với một tiên ông thì mọi sinh hoạt thường nhật đều có tính cách thanh nhàn và nên thơ, cho nên lúc nào cũng không quên kèm theo túi thơ: “ Bến nguyệt, thuyền kề hai bãi mía, Am mây, cửa khép một cần pheo. Cá tôm tối chác bên kia bến, Củi đuốc ngày mua mé nọ đèo.

Page 219: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

218

Khách đến hỏi: nào song viết? Nữa rằng: còn một túi thơ treo.” Không hiểu thơ có chất nhựa lôi cuốn như thế nào mà đến nỗi ông tiên chừa chẳng được: “ Mắc một bệnh này, chừa chẳng khỏi, Đã thôi chén rượu, lại câu thơ.”

* Yên phận ( an nhiên ): Yên phận là tính vô cầu:

“ Giàu cơm thịt, khó cơm rau, Yên phận là tiên, lọ phải cầu.” * Tự tại: Đặc điểm của tự tại là vượt khỏi sự chi phối của không gian và thời gian vì tự tại hiện diện ở chỗ trung. Cho nên người phản tỉnh, giác ngộ bao giờ cũng cảm thấy tự tại, đi đến đâu cũng cảm thấy tự tại: “ Nước tuyết hâm trà dưới bếp, Bút hoa điểm sách trên yên. Nương song, ngày tiếc mùi hương lọt, Nối chén, đêm âu bóng quế tan. Đến chốn nào vui chốn ấy, Dầu ta tự tại, có ai han.” Tự tại có nghĩa là không còn lệ thuộc vào những điều kiện ngoại tại, cho nên không có lụy đến thân: “ Già đã khỏi áng công danh, Tự tại, nào âu lụy đến mình?”

* Tự do: Tự do không ở đâu xa cả, thoát khỏi mọi ràng buộc, hết lòng tham, hết lo âu là tự do, đó là chân hạnh phúc của con người, là cõi an lạc: “ Ngỡ thú vui là thú ở đâu? Chẳng ngờ vui ở chốn chăng âu. Hết tham, chợ đức nên non vắng, Còn lụy, trường ca biến bể sầu. Chim khỏi lồng, nên đắc thú, Cây ngoài chậu, mới tươi mầu. Kìa ai đủng đỉnh trong làng hạnh, Cơm một nải, nước một bầu.” Nói tóm lại, vô sự, an nhiên, tự tại... đều thuộc về đạo trung, mà khi con người đạt được thì sẽ được tự tại, an lạc, thanh nhàn, tự do.

*Thiên tính:

Page 220: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

219

Người giác ngộ là người đạt được đạo trung, tức là trở về với thiên tính: “ Người dù phe phẩy, người rằng ngộ, Ta chẳng phô phang ra cũng màu. Ngựa mạnh đường trường tua biết sức, Rùa thiêng chân chậm, lọ là mau? Trời còn đấy, đất còn đấy, Bể biển, non dời, cạn lại sâu.” Ngựa thì chạy nhanh, rùa thì đi chậm, loài có chân thì hay bước, loài có cánh thì hay bay, đó là thiên tính: “ Vốn trời phân đà có tính, Chân thì hay bước, cánh hay bay.” Đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm thì thiên tính ấy mọi người đều có, mà muốn làm sáng tỏ cái thiên tính thì phải thực hiện đạo sống quân bình, tức là lấy đạo trung làm giềng mối, bởi vì như đã nói đạo trung bao gồm tất cả cương thường, chí chân, chí thiện, chí mỹ: “ Trời phú tính ở mình ta, Đạo cả cương thường năm mấy ba. Tôi hết ngay, chầu chực chúa, Con hằng thảo, kính thờ cha. Anh em mựa nỡ điều hơn thiệt, Bầu bạn cho hay nết thực thà. Nghĩa vợ chồng xem rất trọng, Ở đầu phong hóa phép chưng nhà.” * Đức: Tương quan tài- đức lý tưởng nhứt là ở thế quân bình, tuy nhiên ở trong một xã hội mà thế thái nhân tình đảo điên như Nguyễn Bỉnh Khiêm mô tả: ° Không còn tình nghĩa: - “ Còn bạc còn tiền còn đệ tử, Hết cơm hết gạo, hết ông tôi.” - “ Được thì thân thích chen chân đến,

Thất thế hương lân ngảnh mặt đi.” ° Coi trọng của cải hơn tình nghĩa con người, vật chất hơn tinh thần: “ Đời nay nhân nghĩa tựa vàng mười,

Có của thời hơn hết mọi lời... Người, của lấy cân ta thử nhắc, Mới hay rằng của nặng hơn người.”

Page 221: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

220

° Gièm pha: “ Người hàng thịt nguýt người hàng cá, Đứa bán bò gièm đứa bán trâu.” ° Miệng lưỡi sắc bén như dao nứa: “ Miệng nói sau lưng như dao nứa, Lưỡi đưa trước mặt giống kim chì.” ° Cậy thế, dựa hơi: “ Cáo đội oai hùm mà nát chúng, Ruồi nương đuôi ký luống khoe người.” Ở trong một xã hội như thế, để kéo lại quân bình đạo đức phải được khuyến khích phát huy: “ Thấy câu khuyến thiện nhà hằng chứa.” Cho nên: “ Cơm một lưng, rượu một bầu, Vui thửa đạo ắt chẳng âu. Kém tài, nhân bởi lòng quê dại, Có đức, mừng thay được sống lâu.” Phúc đức được coi là của cải quý báu của ông cha để lại cho con cháu: “ Sang có phận là ơn chúa, Được làm người bởi đức cha. » Cho nên phải xây đắp nền mống phúc đức hàng ngày một. « Mống phúc vun, hòng ngày một nảy, Cửa nho ngỏ, kẻo phải then cài. » Bên cạnh sự nghiệp Nho gia ( rèn luyện tài năng ), phải lo trồng cây đức, tích đức cho con : « Quét cửa nho chờ khách đến, Trồng cây đức để con ăn. » hay : « Mựa hiềm song viết nhà còn ngặc, Tích đức cho con ấy mới mầu. » * Tài : Đất nước muốn tiến bộ, giàu mạnh phải cần có nhiều nhân tài, những con người có thực tài. Nhân dân và những người lãnh đạo đất nước phải biết quý trọng nhân tài, tạo điều kiện thuận lợi để phát huy những tài năng phục vụ : « Trượng phu cũng có chí anh hùng, Nhân tài làm trọng, đòi nào khỏi ? »

Page 222: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

221

Nhân tài có thể cũng có nhiều, vì mọi người đều có một khả năng nội tại tiềm tàng, trên nguyên tắc chỉ cần khai thác, phát huy đúng mức thì có thể biểu hiện ra. Nhưng những nhân tài xuất chúng, siêu việt để trở nên đấng trương phu có chí khí anh hùng phi thường thì hiếm như nhận định của vua Trần Nhân Tông : « Trúc hóa nên rồng, Một hai là họa. » Tuy rằng « một hai là họa » như vậy, nhưng không phải là không có. Lịch sử đấu tranh của dân tộc đã chứng minh điều đó, đã có biết bao vị anh hùng xuất chúng đã lần lượt xuất hiện đúng lúc để cứu dân, cứu nước. Trong một bài thơ chữ Hán « Anh võ », Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nhận ra Việt tính, tức cái khả năng siêu việt của con người : « Thùy thức cầm trung hữu túc cầm, Thiện tùy thâm ý lộng thanh âm. Hoãn ca nương tử hàm thu vẫn, Giải ngữ tiên lang khả thúy khâm. » ( Ai biết trong loài chim có con chim đầy đủ trí thông minh, Khéo bắt chước tiếng người mà hý lộng thanh âm. Như cô nàng hát chậm rãi, ngậm điểm môi son, Như chàng tiên hiểu tiếng nói, ngồi rủ vạt áo màu thúy.) * Quan niệm về con người: Người có tài đức vẹn toàn mới xứng đáng đảm nhận trọng trách mà đất nước và nhân dân giao phó: “ Người ba đấng, của ba loài, Khôn biết chiều hoa mỗi thắm phai. Tiệc ngọc còn chờ người quý giá, Mâm son hãy đợi khách cao tài. Gươm trời nỡ để tay phàm tuốt, Búa nguyệt chi cho đứa độc mài? Ơn nghiêm liệt soi thăm thẳm, Vàng mười đúng giá lọ rao ai?” Người quân tử phải yêu danh tiết (đức), trao dồi trí thức, rèn luyện tài thao lược, chờ thời cơ thuận tiện để phò vua, giúp nước, giúp dân chứ không nhảy nhót lăng xăng như loài ếch nhái: “ Người quân tử nọ yêu danh tiết, Chim phượng hoàng kia tiếc vũ mao. Ngẫm nghĩ năm pho kinh sử, Tập tành ba quyển lược thao.

Page 223: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

222

Rồng thiêng dành sức chờ xuân noãn, Nhảy nhót phen chi ếch thấy dào.” * Giáo dục : Để đào tạo nhân tài nói chung thì giáo dục là phương tiện. Qua giáo dục nhân tài xuất hiện, mà trong số đó rất hy vọng có những con người siêu việt, phi thường. Mặt khác, cho dầu nhân tài không phải thuộc hạng siêu việt, mà số lượng nhiều cũng nâng cao phẩm chất lên cao : « Kỷ kinh phụ cấp vọng môn trường Sơn đẩu, phong tiêu ngưỡng đại phương Túy áng dung nghi hồn đạo lý Tác thành khuê trác đại văn chương Thiểm tâm tạo chỉ quân mô phạm Tiên liệu dung đào nhất chủ trương Cung kính lễ đoan tu hữu chấp Tình ư sư đệ hệ cương thường. » ( Tự khuyến kính nghiệp sư ) ( Mấy pho sử sách cặp vào trường Nên đấu ngòi ngòi rộng bốn phương Rạng vẻ uy nghi dùng đạo lý Xây người tuấn kiệt lấy văn chương Nông sâu chỉ bảo đều khuôn phép Sau, trước giũa rèn có chủ trương Cung kính mối giềng nên giữ lấy Thầy trò tình nghĩa vốn cương thường.) * Quan niệm về đất nước : Tuy ở vào thời đại mà tư tưởng Tống Nho độc tôn thống trị, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đã có quan niệm rất khoáng đạt về đất nước: “ Nước non, nào phải của ai đâu? Nhiều ít công tư cũng mặc dầu.” Nếu đất nước không là của riêng một ai thì cũng không là của riêng cho một dòng họ nào, nếu ai có đủ bản lãnh, nắm vững thời cơ đều có thể nắm quyền lãnh đạo. Trong chế độ quân chủ cha truyền con nối, nếu vua được nhường ngôi là người hiền đức thì đó là kế sách cao, là điều may mắn cho nước, cho dân; còn nếu vua nối ngôi là người mưu mẹo, đức mỏng thì đó là kế sách thấp: “ Năm đế hiền nhường đức nghĩ cao, Ba vương con nối, mưu đường nhặt. Đành hay muôn sự của dầu chung,

Page 224: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

223

Cờ đến tay ai, ai mới phất.” Của cải vật chất trong trời đất trên nguyên tắc mọi người đều có quyền sử dụng: “ Lấy chăng ai cấm, mặc ai dùng, Hễ của tự nhiên ấy của chung.” Nhưng điều đó không có nghĩa là chủ trương chiếm hữu bừa bãi theo lòng tham và sức mạnh, mà con người phải hành động, cư xử theo luật quân bình. Cặp phạm trù chung riêng tạo thành cặp mâu thuẫn quan trọng, có tác động qua lại biện chứng với nhau trong khuôn khổ của qui luật quân bình, cho nên ở vào thời này mà Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có tư tưởng “ quân phân tài sản” rồi: “ Hễ của tự nhiên có ít nhiều, Một kho tạo hóa cũng chia đều.” Bên cạnh yếu tố đất đai, của cải, yếu tố con người, yếu tố nhân dân là căn bản: “ Cổ lai quốc dĩ dân vi bản, Đắc quốc ưng tri tại đắc dân” ( Từ xưa đến nay nước lấy dân làm gốc, Được nước nên biết là ở chỗ được lòng dân) Người lãnh đạo phải có đủ tài đức, lấy dân làm trọng, vì đại nghĩa diệt trừ hung tàn, cứu dân ra khỏi cảnh lầm than, đói rét: “ Thâm mẫn tiểu dân ly đống nỗi Thùy dương đại nghĩa thủ hung tàn” ( Cảm hứng ) ( Thương dân chịu cảnh lầm than đói rét, Ai lo việc lớn diệt bọn hung tàn.) Mặc dầu cũng là con người của thời đại, một Nho sĩ: “ Mến đạo, thề chăng phụ nghiệp nho.” nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm không như những kẻ đồng môn khác coi khinh chữ nước nhà: “ nôm na mách qué”, mà trái lại, bên cạnh văn chương chữ Hán, ông đã say mê, trân trọng làm thơ chữ Nôm, thể hiện tinh thần dân tộc, tự chủ cao độ: “ Hứng ý, miệng ngâm câu quốc ngữ, Giải phiền, tay chuốc chén quỳnh xuân” Trong hoàn cảnh của đất nước nội chiến tương tàn, lòng người ly tán, ông thiết tha kêu gọi đến sự yêu thương, đoàn kết của mọi người vì tất cả đều cùng chung một giống nòi:

Page 225: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

224

“ Dòng dõi suy ra cũng một nhà ... Cùng nhau bầu bí yêu thương lấy ” Ý tưởng này cũng giống như ở văn học bình dân: “ Bầu ơi! Thương lấy bí cùng, Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.” Với quan niệm như vậy và với tấm lòng sắc son, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nổ lực đào tạo nhân tài cung cấp cho cả ba thế lực : nhà Mạc, Chúa Trịnh và chúa Nguyễn để tạo thế quân bình chân vạc tam phân, tuy có tính cách tạm thời nhưng rất cần thiết, tạo điều kiện thi đua phát triển, dân chúng được sống yên ổn : « Ngã kim dục triển phù diên thủ Vãn đắc quan hà cựu đế thành » ( Cự ngao đới sơn ) ( Ta đây muốn thi thố thủ đoạn nâng đở vận nước lúc ngả nghiêng, Kéo lại giang sơn, đế kinh được vững vàng như cũ.) Đối với ông, thế tam phân chỉ là tạm thời, nhưng theo lẽ tuần hoàn thì nhất định sẽ có ngày thống nhất về một mối : « Khí vận nhất chu, ly phục hợp Trường giang khí hữu hạn đông nam » ( Thơ gởi Nguyễn Thiến ) ( Theo lẽ xoay vần, lìa rồi lại hợp Trường giang một dòng sao lại chia đông nam.) B- Thứ hai là áp dụng vào việc tiên tri: Tương truyền rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm được thầy là Lương Đức Bằng truyền lại cho bộ sách « Thái ất thần kinh » chuyên về lý số, chiêm tinh quý giá, cho nên ông có khả năng tiên tri, viết sấm Trạng Trình : « Thần kinh Thái ất suy ra, Để dành con cháu đem ra nghiệm bàn » Từ xưa ở triết học Đông phương với Thuyết « Vạn vật nhất thể », « Thiên nhân tương dữ », rồi Trình Y Xuyên cũng nói : « Nhất nhơn chi tâm, tức thiên địa chi tâm ; nhất vật chi lý, tức vạn vật chi lý »( Cái tâm của mỗi người là cái tâm của trời đất ; cái lý của mỗi vật là cái lý của vạn vật), cho nên giữa cá nhân con người và vạn vật trong vũ trụ đều có liên hệ với nhau theo qui luật liên hệ phổ biến, cho nên người ta mới có thể xét đoán, tiên tri.

Page 226: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

225

Cũng vì vậy mà Mạnh Tử mới nói : « Vạn vật giai bị ư ngã, phản thân nhi thành, lạc mạc đại yên » ( Vạn vật đều gồm đủ nơi ta, thành thực trở về đó, còn vui nào bằng !). Lão Tử cũng nói : « Bất xuất hộ nhi tri thiên hạ ; bất khuy dũ nhi kiến thiên đạo. » ( Không ra khỏi cửa mà biết cả việc dưới trời ; không nhìn qua khe cửa mà thấy rõ đạo trời ). Trong « Trung tân quán ngụ hứng », Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đã xác nhận khả năng tiên tri đó : “ Bát quái tượng suy thiên vãng phục Sở thanh quyên nghiệm thế hưng suy ” ( Tượng của tám quẻ suy biết sự đi và sự trở lại của trời, Vài tiếng đỗ quyên đủ chiêm nghiệm về điều thịnh suy ở đời.) Khả năng tiên tri này được chia làm hai phần: 1-“ Bát quái tượng suy thiên vãng phục” ( Tượng tám quẻ suy ra sự đi về có tính cách tuần hoàn của trời ) Như vậy trước hết người ta căn cứ vào hiện tượng tuần hoàn của trời đất có liên quan tới sự tuần hoàn của sự việc để suy đoán sự việc sắp tới. Mặc dầu sự tuần hoàn theo hình xoắn trôn ốc chứ không phải theo vòng tròn phẳng lập lại y nguyên, nhưng ở đây là sự lập lại tương tự, cho nên người ta cũng có thể tiên tri: “ Sinh sinh dục thức thiên cơ diệu Nhận thủ hàn mai nghiệm nhất dương.” ( Trung tân ngụ hứng ) ( Lẽ sinh rồi lại sinh muốn biết sự huyền diệu của tạo hóa Hãy xem mai nở mà nghiệm có khí dương.) Ở đây rõ ràng có sự liên hệ nhân quả, vì hoa mai nở vào đầu xuân cũng như tất cả mọi cây cối đều đâm chồi nẩy lộc, đó là lúc khí dương thịnh. Mặc dầu mùa xuân năm nay khác mùa xuân năm ngoái, nhưng nói chung cũng có những đặc tính tương tự, ngoại trừ những trường hợp bất thường. Trong sấm Trạng Trình có mấy câu sau đây được nhiều người biết đến: “ Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh Can qua xứ xứ khởi đao binh Mã đề dương cước anh hùng tận Thân dậu niên lai kiến thái bình ” ( Đuôi rồng đầu rắn nổi chiến tranh, Khắp nơi thiên hạ khổ đao binh.

Page 227: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

226

Móng dê chân ngựa anh hùng hết, Thân, Dậu rồi ra mới thái bình.) Cuối năm Thìn, đầu năm Tỵ thì có chiến tranh; đến năm Thân, Dậu mới có thái bình. Nhưng rồi người ta đặt câu hỏi năm Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu nào mới được? Có người cho rằng bốn câu sấm trên ứng nghiệm với trận thế giới chiến tranh lần thứ hai. Về việc phân định lịch ở Á đông, người ta phân biệt những chu kỳ khác nhau, có chu kỳ nhỏ, chu kỳ lớn. Như đã nói ở trên, tính tuần hoàn có tính cách tương đối, không lập lại y nguyên, nhưng có tính tương tự, cho nên việc tiên tri trên có tính cách tổng quát, nói lên một tình hình chung chung có thể có với một xác suất nào đó. Kinh nghiệm của người bình dân cho biết rằng ở Việt Nam hàng năm vào khoảng mùng 3 tháng 10 thì thường có bảo lụt ( chu kỳ nhỏ ) “ Ông tha mà bà chẳng tha, Đánh nhau một trận mùng ba tháng mười.” ( Ca dao V.N ) Và cũng do kinh nghiệm, cứ vào những năm Thìn thì thường có thiên tai, bảo lụt dữ dội nhất xảy ra ( chu kỳ lớn hơn ). Nói một cách tổng quát, nguyên do của những thiên tai là do sự mất quân bình tại một nơi nào đó trong thiên nhiên mà ra. Thế quân bình trong thiên nhiên là do các lực hút, đẩy (hấp dẫn lực) của các thiên thể qui định. Một nơi nào đó trong thiên nhiên ở trạng thái quân bình, có nghĩa là thái hòa, như Nguyễn Công Trứ sau này nói: “ Linh khâm bảo hợp thái hòa.” thì theo lý thuyết, tổng hợp các lực tác động ở nơi đó bằng không. Khi đó vị trí tương đối của các thiên thể ở trong một trật tự nhất định nào đó đã được xác định. Khi các thiên thể di động thì thế quân bình này tuy mất đi, nhưng không hoàn toàn mất hẳn, rơi vào hổn loạn, mà biến đổi có tính cách lập đi lập lại vì sự di đông có tính cách tuần hoàn. Do sự di động đi đi về về đó mà có luật mâu thuẩn âm dương. Ở kinh Dịch, Hệ từ viết: “ Nhật vãng tắc nguyệt lai, nguyệt vãng tắc nhật lai, nhật nguyệt tương thôi nhi minh sinh” ( Mặt trời đi thì mặt trăng lại, mặt trăng đi thì mặt trời đến, mặt trời mặt trăng đun đẩy nhau mà sáng phát sinh). Cũng có câu: “Âm dương chi nghĩa phối nhật nguyệt” (Ý nghĩa của âm dương phối hợp với mặt trời, mặt trăng). Ngoài ra ý nghĩa đó còn phối hợp với mặt trời, trái đất nữa: “ Thiên địa khuể nhi kỳ sự đồng dã. Nam nữ khuể nhi kỳ chí thông dã.

Page 228: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

227

Vạn vật khuể nhi kỳ sự loại dã.” ( Trời đất sai khác mà công việc cùng chung vậy. Nam nữ sai khác mà ý muốn thông suốt vậy. Vạn vật sai khác mà công việc giống nhau vậy ) Đó là ý nghĩa của triết lý “đồng nhất trong sai biệt” cũng như tương quan của qui luật quân bình với luật biến dịch mâu thuẫn âm dương. Rất có thể cứ vào những năm Thìn, vị trí tương đối của các thiên thể đối với khu vực này không còn bình thường như ở các năm khác, thế quân bình bị ảnh hưởng mạnh, âm dương mâu thuẫn không còn điều hòa nữa, cho nên xảy ra thiên tai dữ dội. Do qui luật liên hệ phổ biến, “ Thiên nhân tương dữ ”, những xáo trộn từ thiên nhiên tác động tới con người, từ lãnh vực vật lý chuyển qua sinh lý, rồi đến tâm lý. Lúc đó giông bảo từ thiên nhiên chuyển thành giông bảo trong lòng người, từ đó nổi lên sân hận gây ra chiến tranh thảm khốc. 2-“ Sở thanh quyên nghiệm thế hưng suy” ( Vài tiếng đỗ quyên đủ chiêm nghiệm thế hưng suy ) Tiếng đỗ quyên và thế thịnh suy không phải là liên hệ nhân quả. Tiếng đỗ quyên là một “ Tượng”, một trạng thái thuần túy kinh nghiệm nằm ở tiềm thức hay vô thức, làm thế nào gọi được cái trạng thái đó lên ý thức, đó là vấn đề. Ý thức được tiềm thức là thần thức, là có khả năng tiên tri. Dịch truyện viết: “ Thần dĩ tri lai, trí dĩ tàng vãng ” ( Thần thức biết cái sắp đến, trí thức chứa sự đã qua ) Muốn đạt được khả năng này, con người phải chí thành. Sách Trung dung viết: “ Chí thành như thần ”. Khi đã chí thành, con người đã tâp trung cao độ đồng thời ba tác dụng tình cảm, lý trí, ý chí vào một điểm, cho nên nối liền ý thức cá nhân với vô thức là vũ trụ tự nhiên, tức là như thần. Đó là bí quyết của tiên tri, một kỷ thuật trực giác căn cứ vào nguyên lý liên hệ đồng bộ không nhân quả ( an acausal, synchronic connective prin- ciple ) Để kết thúc phần trình bày tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm, chúng tôi chép lại nơi đây bài thơ chữ Nôm “ Non Phú Xuân ” như sau: “ Non Phú Xuân cao, nước Vị Thanh, Mây quyến khách, nguyệt vô tình. Đất thiên tử dưỡng tôi thiên tử, Đời thái bình ca khúc thái bình. Cơm áo khôn đền Nghiêu, Thuấn trị, Tóc tơ chưa báo mẹ cha sinh.

Page 229: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

228

Mừng thay bốn bể, đâu đâu báo, Tể tướng hiền tài, chúa thánh minh.” Bài thơ này nằm bên ngoài sấm Trạng Trình, nhưng với địa danh Phú Xuân, nơi mà vua Gia Long sau này chiếm được mở đường cho việc thống nhất đất nước, mang lại thái bình cho dân chúng như lòng của tác giả hằng mơ ước: “ Đã ngoài mọi việc, chăng còn ước, Ước một tôi hiền, chúa thánh minh.” Có phải chăng bài “ Non Phú Xuân” cũng là lời sấm tiên tri?

Page 230: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

229

* Nguyễn Du ( 1765-1820 ) Nguyễn Du tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên, người xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tỉnh. Tổ tiên nhà ông đời đời làm quan với nhà Lê. Ông không chịu ra làm quan với nhà Tây Sơn. Năm Gia Long nguyên niên ( 1802 ), ông được triệu ra làm quan, từ chối mãi không được nên mới chịu nhận. Năm thứ 12 (1813 ), được thăng Cần chánh điện học sĩ sung làm chánh sứ sang cống bên Tầu. Đến khi về được thăng Lễ bộ hữu tham tri. Năm Minh Mệnh nguyên niên ( 1820 ), lại có lệnh sang sứ Tầu, nhưng chưa đi thì mất. Ông có để lại cho nền văn học Việt Nam một số bài thơ chữ Hán có giá trị và nhất là tập thơ truyện « Kim Vân Kiều » bằng chữ Nôm nổi tiếng. Đây là một tập truyện có luận đề với thuyết « Tài mệnh tương đố » có lược truyện như sau : Mở đầu tác giả giới thiệu ngay chủ đề của cái luận đề ấy : « Trăm năm trong cõi người ta, Chữ tài chữ mệnh, khéo là ghét nhau. » Gia thế Thúy Kiều : « Có nhà Viên ngoại họ Vương, Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung Một trai con thứ rốt lòng, Vương Quan là chữ nối dòng nho gia. Đầu lòng hai ả tố nga, Thúy Kiều là Chị, em là Thúy Vân. Mai cốt cách, tuyết tinh thần, Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.” Họ đang sống êm đềm, hạnh phúc: “ Êm đềm trướng rũ màn che, Tường đông ong bướm đi về mặc ai.” Thúy Kiều cùng hai em là Thúy Vân và Vương Quan đi chơi thanh minh: “ Thanh minh trong tiết tháng ba, Lễ là Tảo mộ, hội là Đạp thanh. Gần xa nô nức yến anh, Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.” Họ gặp mả Đạm Tiên là một kỷ nữ xưa có tài sắc mà mệnh không ra gì:

Page 231: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

230

“ Rằng: sao trong tiết thanh minh, Mà đây hương khói vắng tanh thế mà?” Vương Quan mới dẫn gần xa: Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi.” Lúc sắp về, họ gặp Kim Trọng: “ Dùng dằng nửa ở, nửa về, Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần. Trông chừng thấy một văn nhân, Lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng. Đề huề lưng túi gió trăng, Sau chưn theo một vài thằng con con.” Thúy Kiều và Kim Trọng yêu nhau: “ Người quốc sắc, kẻ thiên tài, Tình trong như đã, mặt ngoài còn e.” Thúy Kiều về đến nhà, nghĩ đến hoàn cảnh của Đạm Tiên mà lo cho hậu vận của mình: “ Buổi ngày chơi mả Đạm Tiên, Nhắp đi, thoắt thấy ứng liền chiêm bao. Đoạn trường là số thế nào, Bài ra thế ấy, vịnh vào thế kia. Cứ trong mộng triệu mà suy, Phận con thôi có ra gì mai sau!” Nàng nhớ đến Kim Trọng: “ Người đâu gặp gỡ làm chi, Trăm năm biết có duyên gì hay không?” Kim Trọng cũng nhớ đến Thúy Kiều: “ Cho hay là giống hữu tình, Đố ai gỡ mối tơ mành cho xong! Chàng Kim từ lại thư song, Nỗi nàng canh cánh bên lòng biếng khuây.” Rồi hai người thề nguyền gắn bó: “ Đã lòng quân tử đa mang, Một lời, vâng tạc đá vàng thủy chung.” và: “ Rằng: Trăm năm cũng từ đây, Của tin, gọi một chút này làm ghi.” Sau khi Kim Trọng từ biệt Thúy Kiều về hộ tang chú thì bỗng Vương ông bị thằng bán tơ vu oan nên phải bị bắt:

Page 232: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

231

“ Sai nha bỗng thấy bốn bề xôn xao: Người nách thước, kẻ tay dao, Đầu trâu mặt ngựa, ồn ào như sôi. Già giang một lão một trai, Một giây vô lại buộc hai thâm tình.” Thúy Kiều muốn có tiền chuộc tội cho cha, phải bán mình cho Mã Giám Sinh: “ Quyết tình nàng mới hạ tình: Dễ cho để thiếp bán mình chuộc cha!” rồi theo hắn về Lâm chuy: “ Lầu mai vừa rúc còi sương, Mã Sinh giục giã vội vàng ra đi. Đoạn trường thay, lúc phân kỳ, Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh.” Mã Giám Sinh nói dối là mua Thúy Kiều làm thiếp, thực ra hắn chỉ là tay sai của Tú bà, chủ thanh lâu: “ Những là lạ nước lạ non, Lâm chuy vừa một tháng tròn tới nơi. Xe chân dừng bánh cửa ngoài, Rèm trong đã thấy một người bước ra. Thoắt trông nhờn nhợt màu da, Ăn gì cao lớn, đẫy đà làm sao ? » Biết mình bị lừa, Thúy Kiều toan tự sát : « Nàng rằng : Trời thẫm đất dày ! Thân này đã bỏ những ngày ra đi. Thôi thì thôi, có tiếc gì ! Sẵn dao tay áo, tức thì giở ra. » Tú bà dỗ ngọt : « Tú bà chực sẵn bên màn, Lựa lời khuyên giải mơn man gở dần. » Mụ cho Thúy Kiều ra lầu Ngưng Bích nghỉ ngơi, hứa tìm nơi xứng đáng gả nàng, nhưng ngầm lập mưu sai Sở Khanh giả danh nghĩa hiệp : « Một chàng vừa trạc thanh xuân, Hình dong chải chuốt, áo khăn dịu dàng. Nghĩ rằng cũng mạch thư hương, Hỏi ra mới biết rằng chàng Sở Khanh. » Hắn giả vờ rủ nàng đi trốn : « Rằng : Ta có ngựa truy phong,

Page 233: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

232

Có tên dưới trướng, vốn dòng kiện nhi. Thừa cơ lẻn bước ra đi, Ba mươi sáu chước, chước gì hay hơn. Dù khi gió kép, mưa đơn, Có ta đây cũng chẳng can cớ gì!” Thúy Kiều sinh nghi, nhưng rồi cũng đánh liều: “ Nghe lời, nàng đã sinh nghi, Song đà quá đổi, quản gì được thân. Cũng liều nhắm mắt đưa chưn, Mà xem con Tạo xoay dần đến đâu!” Đến nửa đường, Sở Khanh bỏ rơi Thúy Kiều: “ Thôi đà mắc lận thì thôi! Đi đâu chẳng biết con người Sở Khanh? Bạc tình nổi tiếng lầu xanh, Một tay chôn biết mấy cành phù dung.” Thúy Kiều bị Tú bà bắt về, buộc phải tiếp khách và dặn dò: “ Nghề chơi cũng lắm công phu, Làng chơi ta phải biết cho đủ điều.” Rồi có một khách làng chơi là Thúc Sinh: “ Khách du bỗng có một người, Kỳ Tâm họ Thúc cũng nòi thư hương.” là một tay hào phóng: “ Thúc sinh quen nết bốc rời, Trăm nghìn đổ một trận cười như không!” Hắn mê mẩn nhan sắc của Thúy Kiều: “ Rõ màu trong ngọc, trắng ngà, Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên. Sinh càng tỏ nết càng khen...” rồi muốn tính chuyện “trăm năm” với nàng: “ Sinh rằng: Từ thủa tương tri, Tấm riêng, riêng những nặng vì nước non; Trăm năm, tính cuộc vuông tròn, Phải dò cho đến ngọn nguồn, lạch sông... Cùng nhau căn vặn đến điều, Chỉ non thề bể nặng gieo đến lời.” Thấm thoát nửa năm sống bên nhau: “ Nửa năm hơi tiếng vừa quen, Sân ngô cành biếc đã chen lá vàng.”

Page 234: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

233

Bỗng một hôm, Thúc ông phát hiện ra mối tình thầm lén này, nổi giận, cho rằng con đã có vợ rồi mà lấy gái giang hồ, nên tính bài phân chia: “ Giậu thu vừa nảy giò sương, Gối yên đã thấy xuân đường đến nơi. Phong lôi nổi trận bời bời, Nặng lòng e ấp, tính bài phân chia. Quyết ngay biện bạch một bề, Dạy cho má phấn lại về lầu xanh!” Thúc sinh kêu nài, van xin: “ Thấy lời nghiêm huấn rành rành, Đánh liều sinh mới lấy tình nài kêu.” Vấn đề được đưa ra cửa công: “ Thấy lời sắt đá tri tri, Sốt gan ông mới cáo quì cửa công. Đất bằng nổi sóng đùng đùng, Phủ đường sai lá phiếu hồng thôi tra.” Sau khi nghe Thúc sinh, Thúy Kiều bày tỏ tình cảnh, phủ đường động lòng: “ Phủ đường nghe thoảng vào tai, Động lòng lại gạn đến lời riêng tây.” Cuối cùng tuyên án giải hòa: “ Đã đưa đến trước cửa công, Ngoài thì là lẽ, song trong là tình. Dâu con trong đạo gia đình, Thôi thì dẹp nỗi bất bình là xong.” Thúc ông cho phép Thúc sinh lấy Thúy Kiều làm thiếp: “ Kíp truyền sắm sửa lễ công, Kiệu hoa cất gió, đuốc hồng điểm sao.” Vợ cả của Thúc sinh là Hoạn thư: “ Vốn dòng họ Hoạn danh gia, Con quan Lại bộ tên là Hoạn thư.” Hoạn thư hay tin, nổi cơn ghen đùng đùng: “ Tuần sau bỗng thấy hai người, Mách tin, ý cũng liệu bài tâng công. Tiểu thư nổi giận đùng đùng: Gớm tay thêu dệt, ra lòng trêu ngươi!”

Page 235: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

234

bèn sai gia nhân ( Khuyển, Ưng ) thừa cơ bắt Thúy Kiều đem về hành hạ khổ sở: “ Dọn thuyền lựa mặt gia nhân, Hãy đem dây xích buộc chân nàng về. Làm cho, cho mệt, cho mê, Làm cho đau đớn, ê chề cho coi!” Thúy Kiều trốn khỏi nhà Hoạn thư: “ Canh khuya thân gái dặm trường, Phần e đường sá, phần thương dãi dầu!” Nàng đến ở một ngôi chùa với sư trưởng Giác Duyên: “ Thấy màu ăn mặc nâu sòng, Giác Duyên sư trưởng lành lòng liền thương.” Sau có người phát giác lai lịch Thúy Kiều: “ Giở đồ chuông khách xem qua, Khen rằng: khéo giống của nhà Hoạn nương!” Giác Duyên cho Thúy Kiều sang ở nhà của Bạc bà, là người thường đến lễ chùa. Không ngờ Bạc bà cũng là một phường với Tú bà: “ Nào ngờ cũng tổ bợm già, Bạc bà học với Tú bà đồng môn!” Mụ ta giả làm đám cưới Thúy Kiều với cháu mình là Bạc Hạnh: “ Này chàng Bạc Hạnh cháu nhà, Cùng trong thân thích ruột rà, chẳng ai.” để rồi sau đó lái bán nàng vào thanh lâu ở Châu Thai: “ Thành thân mới rước xuống thuyền, Thuận buồm một lá, xuôi miền Châu Thai. Thuyền vừa đỗ bến thảnh thơi, Bạc sinh lên trước tìm nơi mọi ngày. Cũng nhà hành viện xưa nay, Cũng phường bán thịt, cũng tay buôn người.” Như vậy là Thúy Kiều phải vào thanh lâu lần thứ hai với biết bao cay đắn, tủi nhục: “ Chém cha cái số hoa đào, Gỡ ra, rồi lại buộc vào như chơi! Nghĩ đời mà chán cho đời, Tài tình chi lắm, cho trời đất ghen!” Được ít lâu sau, Thúy Kiều được Từ Hải, một tay anh hùng hảo hán cưới làm vợ: “ Râu hùm, hàm én, mày ngài,

Page 236: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

235

Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao: Đường đường một đấng anh hào, Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài. Đội trời, đạp đất ở đời Họ Từ, tên Hải, vốn người Việt Đông: Giang hồ quen thú vẩy vùng, Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo. Qua chơi thấy tiếng nàng Kiều, Tấm lòng nhi nữ, cũng xiêu anh hùng.” Thúy Kiều được dịp trả thù xưa, oán cũ: “ Nàng rằng: lồng lộng trời cao! Hại nhân, nhân hại sự nào tại ta? Trước ra Bạc Hạnh, Bạc Bà, Bên là Ưng, Khuyển, bên là Sỡ Khanh ; Tú Bà với Mã Giám Sinh, Các tên tội ấy đáng tình còn sao? Lệnh quân truyền xuống nội đao, Thề sao, thì lại cứ sao gia hình.” Ít lâu sau, Từ Hải nghe theo lời của Thúy Kiều ra hàng với triều đình: “ Nghe lời nàng nói mặn mà, Thế công, Từ mới trở ra thế hàng.” Từ Hải bị Hồ Tôn Hiến đánh lừa giết chết: “ Đang khi bất ý chẳng ngờ, Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn!” Trong lúc vui say với chiến công, Hồ công đã có điều quá trớn với Thúy Kiều: “ Nghĩ mình phương diện quốc gia.” nên gả nàng cho một thổ quan: “ Ép tình mới gán cho người thổ quan.” Thúy Kiều quá đau khổ, tuyệt vọng: “ Một mình cay đắng trăm đường, Thôi thì nát ngọc, tan vàng thì thôi!” Nàng nhảy xuống dòng sông Tiền Đường để kết thúc cuộc đời: “ Trông vời con nước mênh mông, Đem mình gieo xuống giữa dòng tràng giang.” rồi được ngư ông cứu vớt: “ Ngư ông kéo lưới, vớt người” và Giác Duyên nhận nàng đem về am:

Page 237: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

236

“ Giác Duyên nhận thật mặt nàng, Nàng còn thiêm thiếp giấc vàng chưa phai.” Sau này Kim Trọng và Vương Quan đều thi đỗ, làm quan, dò la tin tức về Thúy Kiều và quyết đi tìm nàng: “ Bình bồng còn chút xa xôi, Đỉnh chung sao nở ăn ngồi cho an! Rắp mong trao ấn, từ quan, Mấy sông cũng lội, mấy ngàn cũng qua.” Rồi gặp Giác Duyên, được dẫn đến chỗ Thúy Kiều ở: “ Giác Duyên lên tiếng gọi nàng, Buồng trong, vội dạo sen vàng bước ra.” Thế rồi cả nhà xum họp: “ Trông xem đủ mặt một nhà, Xuân già còn khỏe, huyên già còn tươi; Hai em phương trưởng hòa hai, Nọ chàng Kim đó, là người ngày xưa!” Như đã nói ở trên, truyện Kim Vân Kiều là một tập thơ truyện có luận đề, còn được gọi là “Đoạn trường tân thanh”. Đó là tiếng kêu “đứt ruột” của một tâm hồn hoằng hoại đau khổ, không chỉ riêng cho nhân vật Thúy Kiều, mà còn phản ánh nỗi lòng của tác giả, vốn là con người đa sầu đa cảm, có một tâm sự não nề trước sự đổi thay phủ phàng của thời cuộc trong khói lửa binh đao: “ Khi thất thế cung rơi tên lạc, Bãi sa trường thịt nát máu rơi.” ( Văn tế thập loại chúng sinh ) Chỉ trong một thời gian ngắn ngủi mà tác giả đã chứng kiến bao cuộc đổi thay: cảnh suy vong của nhà Lê, sự hưng khởi ngắn ngủi của Tây Sơn, rồi đến sự thống nhất sơn hà của vua Gia Long: “ Trải qua một cuộc bể dâu, Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.” Nỗi lòng đau đớn này kéo dài suốt cả cuộc đời, cho đến lúc lâm chung tác giả có để lại bài thơ tuyệt mệnh, mà hai câu cuối được lưu truyền như sau: “ Bất tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?” ( Không biết ba trăm năm sau này, Trong thiên hạ có ai buồn khóc Tố Như?)

Page 238: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

237

Nỗi lòng đó cũng được bày tỏ khi tác giả gởi gấm tâm sự của mình vào nhân vật Thúy Kiều: “Âu đành quả kiếp nhân duyên, Cũng người một hội, một thuyền đâu xa!” Mở đầu tập thơ, tác giả cho biết ngay luận đề của tác phẩm là thuyết tài mệnh tương đố, hay tạo vật đố kỵ hồng nhan: “ Trăm năm trong cõi người ta, Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau. Trải qua một cuộc bể dâu, Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.” Nhưng ở đây tương đố hay đố kỵ không có nghĩa là chống đối nhau trong tuyệt vọng, quyết liệt một mất một còn, tiêu diệt lẫn nhau, mà tất cả sự mâu thuẫn đều bị chi phối bởi luật thừa trừ hay quân bình: “ Lạ gì bỉ sắc tư phong, Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.” Như vậy mâu thuẫn có tính cách tương đối trong cuộc hiện sinh, mâu thuẫn có lối thoát chứ không dẫn đến đường cùng là tiêu diệt lẫn nhau. Mâu thuẫn không phải là cứu cánh của sự vật trong vũ trụ, mà luật quân bình mới cứu cánh đích thực, vì nó bảo đảm sự tồn tại của vũ trụ. Như vậy ngay phần mở đầu tác phẩm, bên cạnh công bố luận đề, tác giả cũng đã hé mở cho người đọc thấy trước đường hướng giải quyết vấn đề ở chung cuộc sắp tới. Sách Trung Dung có nói: “ Thiên mệnh chi vị tính ” ( Mệnh trời gọi là tính ), sách Lễ ký cũng có viết: “ Nhân sinh nhi tĩnh, thiên chi tính dã. Cảm ư vật nhi động tính chi dục dã ” ( Người ta khi sinh ra mà tâm hồn yên tĩnh đấy là tính trời vậy. Cảm xúc với sự vật bên ngoài mà trở nên vọng động, đấy là dục tính vậy). Mệnh là mệnh hóa thành từ Thiên mệnh, Thiên tính. Thiên mệnh hay Thiên tính do vọng động trong tâm hồn người ta mà phân hóa thành hai phương diện mâu thuẫn, đối đãi: Tài và Mệnh. Mệnh là mệnh lệnh, là một thế lực của vũ trụ phổ biến đại đồng, trong khi đó tài là năng lực, ý chí của con người đơn biệt. Như vậy Tài và Mệnh là tượng trưng cho hai thế lực cá thể và toàn thể trong vũ trụ. Thúy Kiều là một cô gái tài sắc: “ Một hai nghiêng nước nghiêng thành, Sắc đành đòi một, tài đành họa hai. Thông minh vốn sẵn tính trời, Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm. Cung, thương, làu bậc ngũ âm,

Page 239: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

238

Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương ” Với tài sắc đó đáng lẽ nàng được sống một cuộc đời hạnh phúc bên gia đình, nào ngờ chỉ gặp toàn bất hạnh: “ Hết nạn ấy đến nạn kia, Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần ” Tài thường đi đôi với tình, đồng biến với nhau: kẻ đa tài thì đa tình. Đa tình chính là đầu mối của mọi sự trên đời. Trước kia Ngũ tổ Hoằng Nhẫn có dặn dò Huệ Năng trước khi chia tay rằng: “ Hữu tình lai hạ chủng Nhân địa quả hoàn sinh Vô tình ký vô chủng Vô tính diệc vô sinh ” ( Có gieo hạt giống hữu tình, Tùy duyên đất, quả mới sinh đậm đà. Vô tình hạt giống đâu ra, Vô tình không tính cũng là không sinh.) Đó là một thái độ xuất thế triệt để. Còn ở trong thế giới hiện sinh này, nếu vô tình thì còn chi là sinh động nữa. Thúy Kiều vốn đa cảm, cho nên ngay sau khi đi chơi “ Lễ là Tảo mộ, hội là Đạp thanh ” về, lòng nàng rộn rã những cảm xúc ngây ngất tình ái lẫn bồi hồi lo âu: “ Kiều từ trở gót trướng hoa, Mặt trời gác núi, chiên đà thu không. Gương nga chênh chếch dòm song, Vàng gieo ngấn nước, cây lồng bóng sân. Hải đường lả ngọn đông lân, Giọt sương gieo nặng, cành xuân la đà. Một mình lặng ngắm bóng nga, Rộn đường gần, với nỗi xa bời bời: “ Người mà đến thế thời thôi, Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi. Người đâu gặp gỡ làm chi, Trăm năm biết có duyên gì hay không? Ngỗn ngang trăm mối bên lòng ” Tác giả mượn cảnh để ngụ tình, đó là tâm trạng xao xuyến tương phản của Thúy Kiều: “ Người mà đến thế thì thôi ” : là liên tưởng đến Đạm Tiên, tức là người mà: “ Phận hồng nhan có mong manh,

Page 240: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

239

Nửa chừng xuân, thoắt gãy cành thiên hương.” và : “ Sống làm vợ khắp người ta, Hại thay thác xuống làm ma không chồng ” Vì là kẻ đa tình, đa sầu, đa cảm, nàng xúc động mảnh liệt: “ Lòng đâu sẵn mối thương tâm, Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu xa: “Đau đớn thay phận đàn bà! Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.” Trong khi đó thì Thúy Vân lại dửng dưng: “ Vân rằng: chị cũng nực cười, Khéo dư nước mắt, khóc người đời xưa!” Thúy Kiều vốn đã đa cảm, giàu óc tưởng tượng, cho nên qua câu chuyện thương tâm Đạm Tiên, nàng đã liên tưởng đến cái điều “ hồng nhan bạc mệnh ”: “ Rằng: Hồng nhan tự nghìn xưa, Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu? Nỗi niềm tưởng đến mà đau, Thấy người nằm đó, biết sau thế nào?” Còn nói về Kim Trọng thì: “ Người đâu gặp gỡ làm chi?” và là người mà: “ Tình trong như đã, mặt ngoài còn e ” Thúy Kiều đang sống với một tâm hồn thanh tĩnh như tấm gương trong chưa bị vẩn đục bởi bụi trần: “ Êm đềm trướng rủ màn che, Tường đông ong bướm đi về mặc ai ” thì ngay sau cuộc xuất hành đi chơi hội Đạp thanh, lần đầu tiên tiếp xúc với sự vật ngoại giới, cái dục tính tiềm tàng trong Thiên tính liền nổi dậy, làm vọng động tâm hồn Thúy Kiều. Rồi bắt đầu từ đây Thiên tính không còn là Thiên tính thuần túy nữa. Thiên tính tự phân hóa ra hai phương diện mâu thuẫn đối đãi Tài và Mệnh. Tâm hồn của Thúy Kiều lúc này dao động, tương phản rõ rệt: bồi hồi lo lắng do ám ảnh cuộc đời bạc mệnh của Đạm Tiên, trong khi đó lại chan chứa hy vọng với mối tình đầu vừa chớm nở với Kim Trọng. Tâm hồn đó hiện nay là một bãi chiến trường phân tranh giữa tình và lý được phản ánh rõ ràng qua tiếng đàn của nàng: “ Khúc đâu Hán Sở chiến trường,

Page 241: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

240

Nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau.” Tiếng đàn cũng biểu lộ lòng khao khát một tình yêu lý tưởng, nhưng chưa được toại nguyện, nên như sầu như oán: “ Khúc đâu Tư Mã phượng cầu, Nghe ra như oán như sầu phải chăng?” Tâm hồn nàng phức tạp, đang chơi vơi phiêu lãng theo cảnh nước chảy, mây bay: “ Kê Khang này khúc Quãng Lăng, Một rằng lưu thủy, hai rằng hành vân.” lại chuyển qua nỗi lòng ly biệt xót xa của Chiêu Quân cống Hồ: “ Quá quan này khúc Chiêu Quân, Nửa phần luyến chúa, nửa phần tư gia.” Cái tâm hồn đa cảm, đa tình ấy không còn làm chủ được mình nữa, khi trong, lúc đục, khi khoan, lúc nhặc thật là bất thường: “ Trong như tiếng hạc bay qua, Đục như nước suối mới sa nửa vời. Tiếng khoan như gió thoảng ngoài. Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa.” Cuộc giằng co tình lý lên đến cao đỉnh khi Thúy Kiều đang đêm lẻn sang nhà tình nhân, cùng với tình nhân tâm tình trong bầu không khí đầy đam mê, có đủ các món thi, họa, âm nhạc trữ tình dễ khiến cho gái trai sa ngã: “ Sóng tình dường đã xiêu xiêu, Xem trong âu yếm có chiều lả lơi.” Tuy lãng mạn đến như thế, nhưng lý tính của Thúy Kiều còn đủ mạnh để giúp nàng tránh sa ngã. Nàng nói với tình lang: “ Đã cho vào bậc bố kinh, Đạo tòng phu, lấy chữ trinh làm đầu. Ra tuồng trên bộc, trong dâu, Thì con người ấy ai cầu làm chi! Phải điều ăn xổi ở thì, Tiếc trăm năm, nở bỏ đi một ngày!” Trước những lời nói khôn ngoan có lý, có tình ấy, Kim Trọng lại càng thêm quý trọng người yêu: “ Thấy lời đoan chính dễ nghe, Chàng càng thêm nể, thêm vì mười phân.” Ngoài ra giữa cá nhân, đoàn thể và tập quán luân lý cũng có mâu thuẫn. Đoàn thể cũng như tập quán luân lý, thoạt kỳ thủy được hình thành

Page 242: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

241

là do sự thỏa thuận của mọi người vì lợi ích, nguyện vọng, ý chí chung. Nhưng dần dần có sự phân hóa vì đoàn thể lo củng cố quyền lực, tập quán luân lý thì trở thành mệnh lệnh bất di bất dịch, trong khi đó cá nhân sinh động lại bị ước thúc, không thỏa mãn nên có mâu thuẫn. Sự mâu thuẫn càng rõ rệt khi những người đại diện cho đoàn thể nắm quyền lực lại thoái hóa, nhũng lạm: “ Một ngày, lại thói sai nha, Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền.” Nạn hà lạm không phải là một hiện tượng đơn biệt, mà đã từ lâu trở thành bản chất có cả hệ thống, cho nên mới có kẻ lo dịch vụ môi giới như họ Chung mách bảo: “ Tính bài lót đó, luồn đây, Có ba trăm lạng, việc này mới xuôi.” Có mâu thuẫn thì vũ trụ vạn vật mới có sinh sinh hóa hóa, nhưng với điều kiện mâu thuẫn trong vòng trật tự của qui luật quân bình. Nhưng khi thế quân bình không còn nữa, sự mâu thuẫn trở thành mâu thuẫn có xung khắc kịch liệt, dao động thái quá thì sự thay đổi, biến dịch bình thường trở thành sự đổ vỡ, con người sẽ cảm thấy “đau đớn lòng”: “ Trải qua một cuộc bể dâu, Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.” Thúy Kiều là người con gái tài sắc: “ Một hai nghiêng nước, nghiêng thành, Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.” Bản tính của nàng lại đa tình, đa cảm, mà chính nàng cũng nhận thấy như thế: “ Rằng quen nết mất đi rồi, Tẻ vui, thôi cũng tính trời biết sao.” Ở trong một xã hội mà kẻ có quyền lực xấu xa, tham lam, nhũng lạm với bọn sai nha “đầu trâu, mặt ngựa, ào ào như sôi”, Thúy Kiều lại có sắc đẹp “ nghiêng nước nghiêng thành” thì làm sao nàng có thể tránh được tai họa cho bản thân mình: “ Anh hoa phát tiết ra ngoài, Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa.” Thúy Kiều đã trở thành trò đùa của dục tính, dục tính ở chính nàng cũng như dục tính của các thế lực tranh nhau chiếm đoạt. Số phận đó không phải chỉ riêng cho trường hợp của Thúy Kiều, mà là số phận chung cho mọi người đàn bà khác sống trong những xã hội thối nát hoặc trong cảnh loạn ly, nhiễu nhương:

Page 243: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

242

“ Đau đớn thay phận đàn bà, Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?” ( Văn tế thập loại chúng sinh ) hay là: “Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.” Vì bản tính đa cảm, đa tình cho nên khi đứng trước cảnh cha em của mình bị gông xiềng: “ Già giang một lão, một trai, Một dây vô lại buộc hai thâm tình.” Nàng liền động lòng trắc ẩn, cân nhắc bên tình bên hiếu: “ Sao cho cốt nhục vẹn tuyền, Trong khi ngộ biến tùng quyền, biết sao? Duyên hội ngộ, đức cù lao, Bên tình, bên hiếu, bên nào nặng hơn? Để lời thệ hải minh sơn, Làm con, trước phải đền ơn sinh thành.” rồi nàng đành quyết định: “ Quyết tình, nàng mới hạ tình: Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha!” Lúc ngộ biến phải tòng quyền, chứ không thể nào trọn vẹn cả hai được: “ Sự đâu sóng gió bất kỳ, Hiếu tình có lẽ hai bề vẹn hai?” Hiếu và tình tuy bề ngoài có vẻ mâu thuẫn, nhưng đó là hai phương diện có thể chuyển hóa cho nhau: “ Xót tình máu mủ,thay lời nước non.” Lý nổi lên ở mặt ngoài, còn tình thì lắng sâu vào bên trong sự vật cho nên quan tòa mới phán xét như sau: “ Đã đưa đến trước cửa công, Ngoài thì là lý, song trong là tình. Dâu con trong đạo gia đình, Thôi thì dẹp nỗi bất bình là xong.” Hiếu cũng như tình là biểu hiện của cùng một Tâm hay Thiên tính ở cá nhân, một khi phát triển đến trình độ tột cùng thì thông đồng với Thiên tính, Bản thể vũ trụ: “ Lấy tình thâm trả tình thâm, Bán mình đã động hiếu tâm đến trời.”

Page 244: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

243

Giữa trời và người vốn có chỗ đồng điệu ở Tâm ( lòng ), một đàng là Tâm cá nhân, một đàng là “ Thiên địa chi tâm ”: “ Sư rằng: Phúc họa đạo trời, Cỗi nguồn, cũng bởi lòng người mà ra.” Chừng nào Thúy Kiều còn nhiều đam mê, dục vọng thì Thiên tính lu mờ, phân hóa thành Mệnh khắc nghiệt trói buộc, lúc đó dầu có muốn chạy trốn cũng không được, cho nên có lúc Thúy Kiều toan tự sát: “ Thôi thì thôi, có tiếc gì! Sẵn dao tay áo, tức thì dở ra.” Đạm Tiên hiện ra, nhắn nhủ: “ Rỉ rằng: Nhân quả dở dang, Đã toan trốn nợ đoạn tràng được sao! Số còn nặng nghiệp má đào, Người dù muốn quyết, trời nào đã cho!” Ở đây Mệnh của nhà Nho cũng là Nghiệp của nhà Phật và Thiên tính hay Thiên mệnh của nhà Nho cũng tức là Tâm Phật. Nghiệp của nhà Phật do chữ Phạn “ Karma” có nghĩa là hành động, động tác. Nghiệp chia ra: thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Một hành động đem lại một phản ứng do đó có nhân quả. Vậy Nghiệp chính là luật nhân quả. Chừng nào Nghiệp còn nặng thì còn phải chịu lận đận, đau khổ. Sư Tam Hợp nói với sư Giác Duyên cái tình trạng đó: “ Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan, Vô duyên là phận hồng nhan đã đành. Lại mang lấy một chữ tình, Khư khư mình buộc lấy mình vào trong. Vậy nên những chốn thông dong, Ở không yên ổn, ngồi không vững vàng. Ma đưa lối, quỉ dẫn đường, Lại tìm những lối đoạn trường mà đi. Hết nạn ấy đến nạn kia, Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần.” Thúy Kiều giẫy giụa trong lưới Nghiệp nhân quả, trong định mệnh oan nghiệt, càng gỡ càng rối chừng nào còn mê vọng, chưa tỉnh ngộ. Nàng thất vọng chán chường trước quá nhiều thử thách: “ Đã cho lấy chữ hồng nhan, Làm cho, cho hại, cho tàn, cho cân. Đã đày vào kiếp phong trần, Sao cho sĩ nhục một lần mới thôi!”

Page 245: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

244

Cũng có lúc nàng thốt lên những lời cay đắng, não nề: “ Chém cha cái số hoa đào, Gỡ ra rồi lại buộc vào như chơi! Nghĩ đời mà ngán cho đời! Tài tình chi lắm cho trời đất ghen!” Tuy mệnh trời khắc khe như vậy, nhưng nó không độc quyền quyết định vận mệnh của con người, mà con người cũng có dự phần trong đó và có thể chuyển được Mệnh cũng như Nghiệp báo: “ Có trời mà cũng có ta.” hoặc: “ Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều.” Thúy Kiều chỉ có thể thoát khỏi lưới nghiệp, định mệnh khắt khe chừng nào không còn đam mê cuộc đời ảo hóa hữu hạn, mà quên Thiên tính vô hạn, vĩnh cữu, chừng nào đã “ gạn đục khơi trong” để trở về với Thiên tính, tức Tâm vũ trụ siêu vượt không gian, thời gian, nhân quả, thuần túy thanh tịnh, quân bình. Quá trình giác ngộ này của Thúy Kiều không phải bằng con đường tiêu cực, tĩnh tâm mà bằng những hành động gieo nhân lành một cách thành tâm. Chính những nhân lành đó đã hoán cải Nghiệp của Thúy Kiều như lời tiên tri của Tam Hợp đạo cô dựa theo luật Nghiệp báo nhân quả: “ Sư rằng: Song chẳng hề chi, Nghiệp duyên cân lại, nhắc đi còn nhiều! Xét trong tội nghiệp Thúy Kiều: Mắc điều tình ái, khỏi điều tà dâm. Lấy tình thâm trả tình thâm, Bán mình đã đông hiếu tâm đến trời! Hại một người, cứu muôn người, Biết đường khinh trọng, biết lời phải chăng. Thửa công đức ấy ai bằng? Túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi! Khi nên trời cũng chiều người, Nhẹ nhàng nợ trước, đền bồi duyên sau.” Nhiều chủng tử lành huân tập lâu dần thì lượng biến thành phẩm là công đức có thể hoán cải được số mệnh: “Đức năng thắng số” và lúc đó thì: “ Khi nên trời cũng chiều người.”

Page 246: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

245

Rồi đến khi Thúy Kiều liều mình nhảy xuống sông Tiền Đường kết thúc cuộc đời đau thương, được ngư ông cứu vớt, trong cơn thiêm thiếp, Đạm Tiên lại hiện ra nói như lời tiên tri của Tam Hợp đạo cô: “ Rằng: Tôi đã có lòng chờ, Mất công mười mấy năm thừa ở đây. Chị sao phận mỏng đức dày? Kiếp xưa đã vậy, lòng này dễ ai! Tâm thành đã thấu đến trời, Bán mình là hiếu, cứu người là nhân. Một niềm vì nước, vì dân, Âm cân cất một đồng cân đã già? Đoạn trường sổ rút tên ra, Đoạn trường thơ phải đưa mà trả nhau. Còn nhiều hưởng thụ về sau, Duyên xưa đầy đặn, phúc sau dồi dào!” Bản tính Thúy Kiều vốn tốt lành, tâm hồn nàng trong trắng, thế cho nên khi cha, em gặp nạn, nàng không ngần ngại hy sinh bán mình chuộc cha, em để trọn niềm hiếu thảo. Đến khi Thúy Kiều lưu lạc, như cánh bèo bấp bênh trên sóng nước: “ Nghĩ mình, mặt nước cánh bèo, Đã nhiều lưu lạc, lại nhiều gian truân.” Nàng cũng đã thể hiện lòng nhân trong hành động quên mình vì người. Như vậy nàng đã thể hiện được trọn vẹn cả hiếu lẫn trung và lòng nhân: “ Trên vì nước, dưới vì nhà, Một là đắc hiếu, hai là đắc trung. » hay : « Bán mình là hiếu, cứu người là nhân. » Nhờ tâm chí thành qua những hành động hiếu, nhân một cách tự giác, vô tư không tính toán đã động đến lòng trời, đến thể tính vũ trụ, đến tâm đại đồng cho nên đã có hiệu lực cải hóa tâm của nàng, đưa dục tính trở về với Thiên tính trong sáng hay nói theo nhà Phật, chuyển tâm mê thành tâm giác ngộ. Đến đây mọi xung đột, mâu thuẫn giữa Tài và Mệnh được điều giải. Nguyễn Du đã khéo sử dụng hình ảnh để diễn tả cái giây phúc kỳ diệu của sự hòa nhập tâm cá nhân vào tâm vũ trụ, tức là tiểu vũ trụ vào đại vũ trụ như sau : « Ngọn triều non bạc trùng trùng, ( vũ trụ ) Vời trông còn tưởng cánh hồng lúc gieo, » ( cá thể )

Page 247: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

246

Đến đây Thúy Kiều đã thực sự dứt bỏ hết mọi tham dục, ngay cả các ý chí muốn sống : « Thôi thì một thác cho rồi, Tấm lòng phó mặc trên trời, dưới sông ! » Nàng đã giác ngộ, tỉnh hẳn giấc mộng tài sắc : « Có tài mà cậy chi tài, Chữ tài liền với chữ tai một vần.” Tâm hồn Thúy Kiều lúc này đã lấy lại được thế quân bình, trở nên yên tĩnh sau một thời bị vọng động, cho nên tiếng đàn so với ngày xưa sầu thảm thì nay trở nên đầm ấm vui tươi. “ Xưa sao sầu thảm, nay sao vui vầy?” Nguyễn Du kết thúc tập thơ truyện “ Đoạn trường tân thanh ” bằng đoạn thơ sau đây có thể tóm tắt hết tất cả triết lý của luận đề. “ Ngẫm hay muôn sự tại trời, Trời kia đã bắt làm người có thân. Bắt phong trần phải phong trần, Cho thanh cao mới được phần thanh cao. Có đâu thiên vị người nào, Chữ Tài chữ Mệnh, dồi dào cả hai. Có tài mà cậy chi tài? Chữ Tài liền với chữ Tai một vần. Đã mang lấy nghiệp vào thân, Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa. Thiện căn ở tại lòng ta, Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài!” Trong truyện Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng biện chứng tam tài: Tài-Mệnh-Tâm để xây dựng luận đề triết lý. Tác giả giải quyết vấn đề bằng cách mở rộng tâm thức từ mê vọng cho đến giác ngộ. Tài là tài năng thuộc về cá nhân hữu hạn, Mệnh tức là Thiên mệnh thuộc về vũ trụ vô hạn. Lúc còn mê vọng, con người còn ở quan điểm tương đối, bị ràng buộc bởi luật nhân quả, nghiệp báo cũng như mệnh trời, cho nên Tài và Mệnh xung đột: “ Chữ Tài chữ Mệnh khéo là ghét nhau ” Con người là động vật tối linh, có tuệ tính nên có khả năng lựa chọn, định hướng để chuyển mê khải ngộ bằng phương pháp tu hành: “ Có trời mà cũng có ta, Tu là cõi phúc, tình là dây oan. »

Page 248: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

247

Tu là con đường thực hiện hòa điệu giữa cá thể và vũ trụ về phương diện tinh thần. Đạt đến hòa điệu thì không còn chênh lệch, thiên vị và Tài-Mệnh sẽ không còn xung đột, chống đối nhau nữa : « Có đâu thiên vị người nào, Chữ Tài chữ Mệnh dồi dào cả hai. » Ở bình diện ý thức giác ngộ, con người đã từ bỏ quan điểm lưỡng nguyên tương đối để chuyển sang quan điểm bình đẳng, tuyệt đối. Tác giả đã nối kết Nho học vào với Phật học để kết thúc triết lý truyện Kiều : « Thiện căn ở tại lòng ta, Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài. » Một Tâm bao hàm cả vũ trụ biểu hiện tam tài : trời, đất, người hay siêu nhiên, thiên nhiên, xã hội nhân văn. Tâm đó là Thiên tính của Nho gia, cũng là Tâm thiền hay Tâm không của nhà Phật hay nói chung là Tâm vũ trụ hóa đại đồng. Điều này lại một lần nữa chứng minh rằng Nho Phật đồng qui ở trình độ ý thức vũ trụ và tác giả là một danh Nho lại có tâm Thiền sâu sắc : « Mãn cảnh giai không hà hữu tướng, Thử tâm thường định bất ly thiền. » ( Tam thanh động ) ( Khắp cảnh vật đều rỗng, không đâu còn hình tướng, Tâm này thường định chẳng rời thiền.) hay : « Ngã độc Kim Cương thiên biến linh, Kỳ trung áo chỉ đa bất minh. Cập đáo phân kinh thạch đài hạ, Chung tri vô tự thị chân kinh. » ( Ta đọc Kim Cương hơn ngàn lần, Nghĩa kín phần nhiều không hiểu thấu. Kịp đến phân kinh thạch đài này, Mới hiểu chân kinh không có chữ.) Cái tinh thần « chân kinh không có chữ » ấy cũng có thể là trường hợp của « Đoạn trường tân thanh ». Một tác phẩm bất hủ vượt không thời gian không phải là một tác phẩm mà trong đó tác giả nói hết tất cả ý tưởng của mình một cách minh bạch, dứt khoát, mà là một tác phẩm có những khoảng tranh tối tranh sáng, ở đó tác giả chỉ nói lấp lửng nửa lời cốt để khêu gợi người đọc cùng tham gia suy tưởng với nghĩa : « ý tại ngôn ngoại »

Page 249: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

248

Đọc truyện Kiều ai cũng đều thấy rằng Nguyễn Du đã mượn vai Thúy Kiều để ký thác tâm sự, nỗi lòng của tác giả. Đó là tấm lòng « cô trung » : « Kim cổ thùy nhân lân độc tỉnh Tứ phương hà xứ thác cô trung » ( Vịnh Khuất Nguyên) ( Nghìn xưa ai là kẻ thương người tỉnh một mình, Bốn phương nơi đâu gởi được tấm lòng riêng.) Lòng hoài vọng Lê triều của Nguyễn Du là lẽ tất nhiên do nền luân lý trung quân thời đó và cũng bởi tổ tiên của ông bao đời đều làm quan dưới triều Lê. Cho nên sau này nếu phải tiếp xúc, thù tạc với đời là bất đắc dĩ, kỳ thật ông chỉ muốn ẩn dật, lòng nặng trĩu tâm tư u buồn : « Vui là vui gượng kẻo là, Ai tri âm đó, mặn mà với ai.” Vua Lê Chiêu Thống chạy sang Tàu cầu cứu và hô hào khởi nghĩa cần vương. Nhà Mãn Thanh nắm lấy cơ hội này liền đem quân sang xăm lăng Việt Nam. Nguyễn Huệ với chính nghĩa dân tộc đã oanh liệt đánh bại đoàn quân xăm lược này, rồi xưng Hoàng đế Quang Trung. Sự kiện lịch sử quan trọng này không lý nào lại không có tác động vào tinh thần của Nguyễn Du, là người có ý thức về tâm thiền sâu xa, có thể đã làm thay đổi phần nào quan điểm của ông về quan niệm trung quân ái quốc một cách rộng rãi như thời đại Lý Trần chăng? Trong truyện “ Kim Vân Kiều ” tác giả giải quyết vấn đề tư tưởng triết lý luận đề bằng cách qui về giải quyết vấn đề quan điểm: từ quan điểm lưỡng nguyên, tương đối có chấp trước đến quan điểm bình đẳng, tuyệt đối. Ở đoạn Thúy Kiều khuyên Từ Hải về qui phục triều đình: “ Trên vì nước, dưới vì nhà, Một là đắc hiếu, hai là đắc trung. » ta thấy hiếu đối với nhà, trung đối với nước chứ không nói trung đối với vua ; nếu có nói trung quân thì phải hiểu là trung với ngôi vị vua chứ không phải trung với cá nhân một ông vua nhất định nào. Ở đoạn Thúy Kiều tự trầm ở sông Tiền Đường, rồi được cứu vớt, Đạm Tiên hiện ra cũng nói : « Bán mình là hiếu, cứu người là nhân Một niềm vì nước, vì dân » Như vậy đối với Nguyễn Du, thang giá trị cao tột vẫn là nhân, rồi mới đến nước và dân chứ không nói đến vua. Do đó nếu cho rằng Nguyễn Du có tấm lòng hoài vọng Lê triều và ôm mãi mối « cô trung » thì không hoàn toàn đúng hẳn. Thật ra đó chỉ là tình cảm cuả con người, nhất là con người

Page 250: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

249

đó vốn đa sầu, đa cảm. Cũng có thể do sự chuyển biến trong tâm thức, trong quan điểm mà về sau Nguyễn Du đã nhận ra làm quan dưới triều đại vua Gia Long. Một điểm quan trọng khác ở thang giá trị đạo đức của Nguyễn Du là đức nhân, đức cao nhất của nhà Nho, có thể so sánh với đức Từ bi của Nhà Phật, được diễn tả cô đọng trong bốn chữ « cứu người là nhân ». Muốn biết rõ hơn quan niệm về đức nhân cũng như tấm lòng của ông, chúng ta đọc đoạn thơ chữ Hán sau đây : « Bờ hư lỡ ầm ầm như sấm dữ Sóng cao thấy ma quái Ta trông dòng sông Lam Tấc lòng thường áy náy Thật sợ lỡ sẩy chân Thời chìm vào không đáy Sao mà người thế gian Nguy hiểm không biết sợ Kẻ đi sao cuồn cuộn Kẻ lại vẫn chưa thôi Lòng trời vốn hiếu sinh Nhưng sao được thế mãi Muốn xô núi Thiên Nhận Lắp bằng muôn trăm dặm » ( Tỷ ngạn băng bạo lôi Hồng đào kiến kỳ quỉ Ngã vọng Lam giang đầu Thốn tâm thường súy súy Thành khủng nhất thất túc Cốt một vô đề chỉ Như hà thế gian nhân Thừa hiểm bất tri úy Khứ giả hà thao thao Lai giả thương vị dĩ Để đức bản hiếu sinh Na đắc trường như thị Nghĩa khu Thiên Nhận sơn Điều binh ngũ bách lý )

Page 251: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

250

Tình cảm đó thật nồng thắm, vượt cả biên giới cá nhân để thông cảm với tình nhân loại, rồi hòa nhập đồng nhất vào cái tình của núi sông, trời đất. Cái đức nhân đó bao trùm cả tính nhân bản được thể hiện qua bài thơ nói về bốn mẹ con người ăn mày lê thân khắp đầu đường xó chợ, tha phương cầu thực mà không đủ no, trong khi đó có những « quan trên » cao lương mỹ vị thừa mứa đem đổ bỏ không tiếc, thật là một cảnh xã hội tương phản : « ... Gân nai cùng vây cá Đầy bàn thịt heo dê Quan trên không dúng đủa Người dưới nếm qua loa Bỏ thừa không buồn tiếc Chó hàng xóm chán chê Biết đâu trên đường quan Mẹ con người cùng khốn ? » Cảnh chết chóc của thời buổi loạn ly : chết trận, chết bờ, chết buội, chết sông... đã khiến cho Nguyễn Du xúc động tận đáy lòng, làm ra bài văn tế « Thập loại chúng sinh » để chiêu hồn và cầu nguyện cho họ được mau siêu thoát : « Có khôn thiêng nhẽ, lại mà nghe kinh Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ » và : « Phật hữu tình từ bi phổ độ Chớ ngại rằng có có không không » Ông đặc biệt cảm thương cho thân phận những người đàn bà thời buổi loạn ly : « Đau đớn thay phận đàn bà Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu ? » ( Văn tế thập loại chúng sinh ) và xót xa cho số kiếp bạc mệnh của những người đàn bà trong xã hội bất công : « Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung. Phũ phàng chi bấy hóa công, Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha. Sống làm vợ khắp người ta, Hại thay thác xuống làm ma không chồng. »

Page 252: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

251

Tác giả mô tả khung cảnh xã hội thời đó với thói gian tham xấu xa cực độ : « Sai nha bỗng thấy bốn bề xôn xao : Người nách thước, kẻ tay dao, Đầu trâu, mặt ngựa, ào ào như sôi. Già giang một lão, một trai, Một giây vô lại buộc hai thâm tình. Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh, Rụng rời giọt liễu, tan tành gối mai. Đồ tuế nhuyễn, của riêng tây, Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham. Điều đâu ai buộc, ai làm? Này ai đan dập, giật giàm bỗng dưng?” Thế rồi cái nguyên do làm tan nát cuộc đời Thúy Kiều chỉ được nêu lên vỏn vẹn trong hai câu nhưng có tính cách quyết định: “ Một ngày, lại thói sai nha, Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền.” Đó là nguyên nhân ngoại tại, hoàn cảnh xã hội mà tác giả nêu lên rồi lại bỏ lửng, trong khi đó lại chú trọng khai triển quá trình diễn biến của tâm thức một cách sâu xa. Phải chăng đây là ý tưởng trong câu “ chung tri vô tự thị chân kinh ” ( Mới hiểu chân kinh không có chữ ), hay “ ý tại ngôn ngoại ”, là dụng ý của tác giả, mà cũng là do hoàn cảnh chính trị lúc đương thời?

Page 253: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

252

* Nguyễn Công Trứ ( 1778-1858 ) Nguyễn Công Trứ tự Tồn Chất, hiệu Ngô Trai, biệt hiệu Hy Văn, người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, sinh ngày 1 tháng 1 năm Mậu tuất ( 1778 ). Lúc thiếu thời, ông là một thư sinh nghèo, nhưng luôn luôn cố gắng trao dồi kinh sử. Việc thi cử lận đận, mãi đến năm 1819 mới đỗ giải nguyên, lúc đó đã 42 tuổi. Cuộc đời làm quan của Nguyễn Công Trứ có nhiều thăng trầm, có lúc là Tổng đốc, Tuần phủ, cũng có khi bị giáng xuống làm lính. Chức vụ sau cùng là Thừa thiên Phủ doãn vào năm Thiệu trị thứ 7. Năm Tự đức nguyên niên ( 1848 ), vua chuẩn cho ông về hưu trí, hưởng thú thanh nhàn cho đến năm 1858 thì mất. I- Đặc điểm của con người Nguyễn Công Trứ: Nguyễn Công Trứ là một nhân vật rất đặc biệt, có một đời sống vô cùng phong phú, đã được đánh giá cao trong nền văn hóa dân tộc Việt Nam về phương diện văn học cũng như tư tưởng triết lý. 1- Tài: Ông là người có bẩm chất thông minh như sự tự thẩm định:

“ Thông minh nhất nam tử Yếu vi thiên hạ kỳ ” ( Nợ công danh ) * Văn võ toàn tài: “ Đã xông pha bút trận, thì gắng gỏi kiếm cung, Làm cho rõ tu mi nam tử.” ( Chí nam nhi ) và: “ Trong lăng miếu ra tài lương đống, Ngoài biên thùy rạch mũi can tương. ... Kinh luân khởi tâm thượng, Binh giáp tàng hung trung „ ( Kẻ sĩ ) * Tài kinh bang tế thế: “ Vũ trụ chức phận nội, Đấng trượng phu một túi kinh luân. …

Page 254: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

253

Chí tang bồng hồ thỉ dạ nào khuây, Phải hăm hở ra tài kinh tế „ ( Phận sự làm trai ) * Tài hoa: “ Cầm, kỳ, thi, tửu, Đường ăn chơi mỗi vẻ một hay, Đàn năm cung réo rắt tính tình đây, Cờ đôi nước rập rình xe ngựa đó. Thơ một túi phẩm đề câu nguyệt lộ, Rượu ba chung, tiêu sái cuộc yên hà. Thú xuất trần, tiên vẫn là ta, Sánh Hoàng Thạch, Xích Tùng ờ cũng đáng. Cầm tứ tiêu nhiên, kỳ tứ sảng, Thi hoài lạc hỉ, tửu hoài nồng. Một chữ nhàn giá lại đáng muôn chung, Người ở thế dẫu trăm năm là mấy. Sách có chữ « nhân sinh thích chí », Đem ngàn vàng chác lấy chuyện cười. Chơi cho lịch mới là chơi, Chơi cho đài các, cho người biết tay. Tài tình dễ mấy xưa nay. » ( Cầm kỳ thi tửu ) * Tài mệnh tương đố : Nguyễn Công Trứ là đấng nam nhi đa tài, đa tình nên cũng không

thoát khỏi lưới tài mệnh : ° Cảnh nghèo nàn : Thử thách đầu tiên là sự nghèo nàn. Ông gốc con

nhà trâm anh thế phiệt, cha làm quan triều Lê, nhưng vì thời cuộc đổi thay mà trở nên sa sút. Do đó có thể nói rằng trong suốt thời niên thiếu, ông đã sống trong cảnh nghèo nàn và phấn đấu lập thân cũng từ cảnh nghèo đó :

« Phú quý tương dĩ hậu ngô sinh, Bần tiện tương dĩ hậu ngô thành. » ( Ta sinh ra trong phú quý, Ta thành thân trong nghèo nàn ) ( Quân tử cố cùng ) Cảnh nghèo khó ấy đã trở thành nguồn cảm hứng nghệ thuật thi văn và

được ông mô tả trong « Hàn nho phong vị phú » : « Kìa ai, bốn vách tường mo, ba gian nhà cỏ, Đầu kèo mọt tạc vẽ sao, trước cửa nhện giăng màn gió.

Page 255: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

254

Phên trúc ngăn nửa bếp nửa buồng ; Ống nứa dựng đầu kê đầu đỗ. Đầu giường tre, mối giũi quanh co, Góc tường đất trùn lên lố nhố. Bóng nắng giọi trứng gà bên vách, thằng bé tri trô ; Hạt mưa xoi hang chuột trong nhà, con mèo ngấp ngó. ... Đến bửa chưa sẵn bửa, con trẻ khóc dường ong ; Qua kỳ lại hẹn kỳ, nhà nợ kêu như ó... »

hoặc trong bài « Than nghèo » : “ Chưa chán ru mà quấy mãi đây, Nợ nần dan díu mấy năm nay. Mang danh tài sắc cho nên nợ, Quen thói phong lưu hóa phải vay.” và trong “ Vịnh cảnh nghèo”: “ Chẳng phải rằng ngây, chẳng phải đần, Bởi vì nghèo khó hóa bần thần.”

° Khoa cử lận đận: Thử thách tiếp theo là cảnh lận đận trên đường khoa cử: “ Cảnh muộn đi về nghĩ cũng rầu, Trông gương mà thẹn với hàm râu.” ( Muộn thành đạt ) Nếu Thúy Kiều là người con gái có sắc đẹp “ một hai khuynh nước khuynh thành”, là đối tượng cho sự đố kỵ hay nói rõ ra là cho sự tranh nhau chiếm đoạt của kẻ có thế lực tiền bạc thì Nguyễn Công Trứ, một đấng trượng phu “ thông minh nhất nam tử” lại là mục tiêu đố kỵ, ghen ghét của bọn Nho quan tiểu nhân, bất tài, kém đức: “ Danh giả Tạo vật chi sở kỵ, Ghét nhau chi ghét mãi ghét hoài. Lúc tuổi xanh chi khỏi cậy tài, Sức bay nhảy tưởng ra ngoài đào chú. Dẫu xuống xuống lên lên mấy độ. Vẫn trơ trơ trích trích không nao, Càng phong trần danh lại càng cao. Ngẫm con Tạo trêu nhau ác thật! Đã mang tiếng ở trong trời đất, Phải có danh gì với núi sông. Tính phong lưu đương độ trẻ trung,

Page 256: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

255

Nên đè nén dày vò ừ cũng phải. Chớ như ai đến tuần lão đại, Cuộc đời trăm việc đã xin nhường. Chút đỉnh chung chẳng dám coi thường, Mùi hoạn huống nếp phong lưu đều gác sạch. Đem thân thế nương mình nơi toàn thạch, Trốn đường danh mua lấy cuộc nhàn. Cớ sao còn dở máu ghen, Bắt kẻ tiều lao hành khốn mãi. Khả quái lão thiên đa ác thái: Trẻ chẳng thương mà già cũng chẳng tha, Tức mình muốn hỏi cho ra.” Do kinh nghiệm cuộc sống của bản thân thăng trầm và tình đời “ nhạt như nước ốc, bạc như vôi”, Nguyễn Công Trứ nghiệm thấy ý nghĩa sâu xa của sự mâu thuẫn giữa Tài và Mệnh, rồi ông đi đến kết luận: “ Trông đó đó hãy suy cho kỹ, Dẫu xưa nay nào có trừ ai. Có tài mà cậy chi tài.” Ý tưởng này cũng tương tự như ở truyện “ Kim Vân Kiều”: “ Có tài mà cậy chi tài, Chữ tài liền với chữ tai một vần.” 2- Tình: Tài và Tình là tác dụng biểu hiện từ một Tâm mà ra và thường đi đôi với nhau. Người đa tài thì thường đa tình. Nguyễn Công Trứ chính là con người ấy. Tình cảm của ông cũng rất phong phú, đa diện biến thiên từ hào hùng cho đến lãng mạn. Đọc bài thơ “ Bốn bể là nhà ” chúng ta cảm nhận ngay cái tình cảm hào hùng ấy của tác giả: “ Hồ thỉ đã quen tay vũ trụ, Cầm thư chi lạ mặt quan hà. Túi giang san bốn bể là nhà, Nền vương thổ cả trong trời đất Việt. Ví chẳng điền viên vui tuế nguyệt, Âu đem thân thế hẹn tang bồng. Kém gì nam bắc tây đông, Đường thư kiếm vẫy vùng cho hết đất. Thơ rằng: “ Di, khuất, trượng phu ưng bất bất, Bão, yên quân tử tín vô vô” Cuộc trăm năm, chữ “ tố hành hồ”

Page 257: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

256

Bề khu xử qui mô hoàn tự biệt. Cung tường ấy cho thiên hạ biết, Biết rằng ai to nhỏ, nhỏ to. May ra mở mặt rừng nho, Quân dân một gánh giang hồ cũng xong. Nam nhi đáo thử thị hào hùng.” Còn nhiều bài thơ khác nữa cũng chan chứa những tình cảm tương tự như thế như các bài “ phận sự làm trai”, “ chí làm trai”, “ trên vì nước, dưới vì nhà” v.v... Bên cạnh những bài thơ tình cảm sôi nổi, hào hùng ấy cũng có những bài thơ trữ tình như các bài “ vịnh chữ tình”, “ sầu tương tư”, “ vịnh sầu tình” v.v... Ví dụ bài “ Vịnh sầu tình” sau đây cho thấy cái tình cảm chứa chan, tha thiết của tác giả: “ Sầu ai lấp cả vòng trời, Biết chăng chăng biết hỡi người tình chung. Xuân sầu mang mang tắc thiên địa, Giống ở đâu vô ảnh vô hình. Cứ tò mò quanh quẩn bên mình, Khiến ngẩn ngẩn ngơ ngơ đủ chứng. Hỏi trăng gió, gió trăng hờ hửng, Ngắm cỏ hoa, hoa cỏ ngậm ngùi. Gươm đoạn sầu, thơ trục muộn đủ rồi, Còn lẻo đẻo vô trung sinh hữu. Dục phá sầu thành tu dụng tửu, Túy tự túy đảo, sầu tự sầu. Rượu với sầu như gió mã ngưu, Trong lai láng biết tránh đâu cho khỏi. Càng tài tử càng nhiều tình ái, Cái sầu kia theo hình ấy mà ra, Mua sầu tại kẻ hào hoa.” Dầu cho con tạo có ghét ghen, đố kỵ, Nguyễn Công Trứ vẫn chấp nhận thách đố: “ Đố kỵ xá chi con tạo ” Đối với ông, nếu do tài tình mà phải bị phiền lụy thì cũng không hề chi, là bởi vì: “ Không tài tình quang cảnh có ra chi.” ( Tài tình )

Page 258: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

257

3- Tính (ở bình diện phổ thông ) a / Sĩ khí: Nguyễn Công Trứ là một danh Nho, một Việt Nho nổi tiếng, là đấng trượng phu, quân tử có sĩ khí cao: “ Khí hạo nhiên chí đại chí cương, So chính khí đã đầy trong trời đất.” Ông không vì nghèo đói mà thay đổi lòng, không vì uy quyền, bạo lực mà chịu khuất phục: “ Thơ rằng: Di, khuất trượng phu ưng bất bất, Bão, yên quân tử tín vô vô.” b / Tính thiện: Dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào cũng phải gìn giữ, chăm sóc tính thiện: “ Bần tiện song le tính vốn lành, Gặp sao hay vậy dám đành hanh. » ( Vui cảnh nghèo ) c / Tính trong sạch, thanh cao : Có lâm vào cảnh nghèo nàn, Nguyễn Công Trứ mới thấy rõ nhân tình thế thái : « Thế thái nhân tình gớm chết thay, Nhạt nồng trông chiếc túi vơi đầy. Hễ không điều lợi khôn thành dại, Đã có đồng tiền dở cũng hay. » ( Nhân tình thế thái ) Tuy nhân tình thế thái như thế, Nguyễn Công Trứ lúc nào cũng giữ tấm lòng trong sạch, không hề nao núng : « Khéo khôn ai cũng tranh phần được, Trong sạch ta thời giữ mực thường. » ( Khuyên người đời ) Cũng có lúc rơi vào hoàn cảnh quá éo le bi đát, khuynh hướng sinh tồn cũng như dục vọng trổi dậy lôi kéo, nhưng nhờ có sĩ khí cao nên đã tự thắng vượt mà « vui sống quên nghèo » : « Mất việc toan trở nghề « cơ tắc », tủi con nhà mà hổ mặt anh em ; Túng đường mong quyết chí « cùng tứ » e phép nước chưa nên gan sừng sỏ. Cùng con cháu thủơ nói năng chuyện cũ, dường ngâm câu lạc đạo vong bần. Gặp anh em khi bàn bạc sự đời, lại đọc chữ vi nhân bất phú. » ( Hàn nho phong vị phú )

Page 259: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

258

Dầu thế nào đi nữa cái đức phải cố giữ lấy, vì nó là cái gốc căn bản của con người: “ Trái mùa nghiệp cũ không nên bỏ, Ế chợ, nghề nhà cũng phải theo.” ( Than cảnh nghèo ) d / An nhiên, tự tại: Tuy cuộc đời thăng trầm: “ Khi đắc chí lại có khi thất chí ” ( Vịnh nhân sinh ) nhưng Nguyễn Công Trứ vẫn bình thản, vì về phương diện tri thức ông đã đạt đến cõi tâm linh vũ trụ, cõi thái hòa: “ Linh khâm bảo hợp thái hòa ” nên lúc nào ông cũng cảm thấy an nhiên, tự tại:

- Trong lúc nghèo: “ Ngày ba bửa, vổ bụng rau bình bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no;

Đêm năm canh, an giấc ngáy kho kho, đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ ” ( Hàn nho phong vị phú )

- Cũng như trong mọi hoàn cảnh: “ Thị tại môn tiền náo

Nguyệt lai môn hạ nhàn ... Tri túc, tiện túc, đải túc, hà thời túc, Tri nhàn, tiện nhàn, đải nhàn, hà thời nhàn?” ( Chữ nhàn ) e / Tin tưởng, lạc quan, yêu đời: Nghèo khó là vấn đề của cuộc nhân sinh, nhưng đối với Nguyễn Công Trứ, nghèo là một thử thách, trường huấn luyện trui rèn khách anh hùng: “ Vốn dễ anh hùng mới có nghèo ” Ông là một nhà Nho thấu rõ lẽ huyền diệu của Thiên mệnh, không phải định mệnh đóng kín, lại nắm vững qui luật tuần hoàn trong vũ trụ, cho nên dầu nghèo khó, ông vẫn tin tưởng: “ Số khá bĩ rồi thời lại thái, Cơ thường đông hết hẳn sang xuân.” ( Vịnh cảnh nghèo ) vẫn lạc quan: “ Còn trời, còn đất, còn non nước, Có lẽ ta đâu mãi thế này?” ( Than nghèo ) vẫn hăm hở:

Page 260: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

259

“ Đi không há lẽ trở về không, Cái nợ cầm thư phải trả xong.” (Đi thi tự vịnh ) và yêu đời: “ Cõi đời mở mặt giang san thái hòa Còn xuân mai lại còn hoa.” ( Hành tàng ) f / Tính anh hùng: Anh hùng tính là đặc trưng cho thi ca Nguyễn Công Trứ ít được thấy ở các tác giả khác. Đó là nguồn cảm hứng bất tận của thi sĩ ngay từ thuở còn hàn vi, lận đận: “ Đã hẳn rằng ai nhục với ai vinh, Mấy kẻ biết anh hùng khi vị ngộ.” ( Chí làm trai ) Anh hùng là một trong những lý tưởng mà kẻ nam nhi phải tích cực phấn đấu để vươn tới: “ Trong cuộc trần ai, ai dễ biết, Rồi ra mới rõ mặt anh hùng.” (Đi thi tự vịnh ) Người có chí khí anh hùng luôn luôn nổ lực dấn thân trong những hành động phi thường ở mọi tình huống: “ Cũng có lúc mưa dồn sóng vỗ, Quyết ra tay buồm lái với cuồng phong. Chí những toan xẻ núi lấp sông, Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ.” Về phương diện giá trị, Nguyễn Công Trứ quan niệm con người anh hùng quý hơn của cải vật chất: “ Của đồng lần thiên hạ tiêu chung, Hơn nhau hai chữ anh hùng.” Ý tưởng này cũng tương tự như trong nền văn học bình dân: “ Ở đời muôn sự của chung, Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi.” 4- Ý chí: Nguyễn Công Trứ thắng được cảnh nghèo là nhờ có tinh thần rắn rỏi, tính kiên trì, bền chí. Ông cương quyết theo đuổi “ nợ cầm thư” cũng như trau dồi “ kiếm cung ” cho thỏa chí nam nhi: “ Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc, Nợ tang bồng vay trả, trả vay. Chí làm trai nam, bắc, đông, tây, Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể.”( Chí anh hùng )

Page 261: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

260

Chí nam nhi là một lý tưởng hào hùng, cao quý thôi thúc người ta phải thực hiện một cuộc dấn thân, thi thố tài năng để phục vụ đất nước: “ Chí tang bồng hồ thỉ dạ nào khuây, Phải hăm hở ra tài kinh tế.” ( Phận sự làm trai ) Chí nam nhi vốn sẵn có ở thời niên thiếu do lòng tự hào của gia tộc, của kẻ sĩ, được hun đúc, nuôi dưỡng, đến khi có cơ hội thì như rồng gặp mây, cá gặp nước tha hồ tung hoành vùng vẫy ( Thời vua Gia Long mới dựng nước, trọng dụng kẻ sĩ ): “ Rồng mây khi gặp hội ưa duyên, Đem quách cả sở tồn làm sở dụng. Trong lăng miếu ra tài lương đống, Ngoài biên thùy rạch mũi can tương. Làm sao cho bách thế lưu phương, Trước là sĩ sau là khanh tướng. » ( Kẻ sĩ ) Sự am tường qui luật biện chứng lượng biến thành phẩm đã tăng cường cho chí nam nhi vươn lên với khí thế lạc quan, tin tưởng : «Đường khoa mục xa nhau đà mấy bước, Sóng võ lớp sau như lớp trước, Chí vẫy vùng ai có kém ai đâu. » 5- Công danh sự nghiệp : Nguyễn Công Trứ là một danh Nho đã đạt đạo thái hòa : « Linh khâm bảo hợp thái hòa » đã ý thức được : « Chữ vô cầu là chữ thiên nhiên. » thì đối với ông, công danh sự nghiệp không phải là cứu cánh của cuộc đời, mà là phương tiện để phục vụ đất nước, phục vụ dân tộc hữu hiệu hơn : « Một mình để vì dân vì nước, Túi kinh luân từ trước để nghìn sau. » Con người là sản phẩm của xã hội . Thật vậy một người không thể nào sống lẻ loi một mình mà có thể phát triển được, hắn phải vay mượn xã hội nhiều thứ, hắn có món nợ đời phải trả. Thế cho nên công danh sự nghiệp không phải là mục đích chỉ phục vụ riêng cho bản thân, mà như đã nói là phương tiện để hắn có thể thanh toán sòng phẳng nợ nần. Hơn thế nữa, ở đây Nguyễn Công Trứ còn quan niệm chính công danh sự nghiệp tự nó cũng là món nợ của người nam nhi : « Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái, Cái công danh là cái nợ nần. »

Page 262: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

261

Danh liền với thân hay danh chính là thân : « Nhập thế cục bất khả vô văn tự, Xuất mẫu hoài tiện thị hữu quân thân. Mà chữ danh liền với chữ thân, Thân đã có ắt danh âu phải có. » Con người về phương diện thân xác, vật chất không thoát khỏi qui luật biến dịch, có sanh ắt có tử ; đấng trượng phu phải biết nương vào chỗ bất tử là lưu tấm lòng son sắc lại với sử xanh : « Nhân sinh tự cổ thùy vô tử, Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh .» Danh lưu lại trong sử xanh là thực danh , chứ không phải hư danh, cái danh gắn liền với sự nghiệp phục vụ nhân dân, đất nước, thể hiện được lòng trung hiếu. Nếu không được như thế, số phận của con người chẳng khác nào cây cỏ, sẽ mục nát theo thời gian : « Có trung hiếu nên đứng trong trời đất, Không công danh thà nát với cỏ cây. » ( Phận sự làm trai ) Cái danh của Nguyễn Công Trứ không chỉ giới hạn ở phạm vi cá nhân, ở phạm vi đất nước, mà còn mở rộng phạm vi ra tới cả trời đất : « Đã mang tiếng ở trong trời đất, Phải có danh gì với núi sông. » Công danh sự nghiệp đã trở thành một thiên chức : « Vũ trụ chức phận nội, Đấng trượng phu một túi kinh luân. » Nguyễn Công Trứ muốn thông báo cho thiên hạ biết cái thiên chức cao quý của một kẻ nam nhi, đấng trượng phu, kẻ sĩ làm mở mặt rừng Nho qua công danh sự nghiệp một cách hào hùng : « Cung tường ấy cho thiên hạ biết, Biết rằng ai to nhỏ, nhỏ to. May ra mở mặt rừng nho, Quân dân một gánh giang hồ cũng xong. Nam nhi đáo thử thị hào hùng.” Cuộc đời làm quan của Nguyễn Công Trứ không bằng phẳng, mà trải qua nhiều nỗi thăng trầm: “ Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông, Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng. Lúc bình Tây cờ đại tướng, Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.”

Page 263: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

262

Trong bài “ Vịnh nhân sinh”, ông xác nhận tâm trạng có nhiều đổi thay ấy: “ Khi đắc chí lại có khi thất chí.” Cũng có lúc vẻ vang ca khúc chiến thắng: “ Hội rồng mây cho phỉ chí tang bồng, Cờ báo tiệp giữa trời Nam bay bướm nhẹ.” ( Nợ công danh ) và cũng có khi nếm mùi cay đắng. Năm 1843, ông bị giáng từ Đại tướng xuống làm lính thú tại Quãng Ngãi. Lúc đến trình diện, quan Bố chánh sở tại nhận diện ra ông là thầy học cũ, xin ông cởi bỏ áo lính, mặc áo khác để nhập tiệc, ông khẳng khái trả lời: “ Xin cứ tự nhiên, lúc làm Đại tướng tôi không lấy gì làm vinh, thì nay làm lính thú, tôi cũng không lấy gì làm nhục. Người ta ở đời mỗi người một địa vị, mỗi địa vị có nghĩa vụ riêng. Làm lính mà không mặc đồ lính, thì sao gọi là lính được.” Câu nói khẳng khái này tỏ rõ ý nghĩa của thuyết “ chính danh” và xác định rằng công nghiệp đích thực có giá trị hơn địa vị, chứ còn kể chi đến áo quần là cái dáng bề ngoài. Nói chung về công danh sự nghiệp, Nguyễn Công Trứ đã đạt được đến tột đỉnh. Về quan chức thì được thăng đến Đại thần, Đại tướng; vế võ công thì ông đã dẹp được giặc Phan Bá Vành vào năm 1826, được vua ban thưởng. Về hành chánh thì ông đã giữ nhiều chức vụ mà quan trọng nhất với chức Dinh điền sứ, ông đã khai khẩn đất hoang ở miền duyên hải, lập ra hai huyện Tiền Hải, Kim Sơn với 33.570 mẫu ruộng vào năm 1828. Ngoài ra ông còn để lại cho hậu thế một sự nghiệp văn chương và tư tưởng quý giá, một đóng góp đặc sắc cho nền văn học nước nhà. 6 / Nhàn: Bên cạnh chí nam nhi hào hùng, nhàn cũng là nguồn cảm hứng vô tận của Nguyễn Công Trứ. Cái nhàn của ông có sắc thái đặc biệt, đa dạng cũng đi song song với cuộc đời thăng trầm của mình. a / Lúc vị ngộ: “ Lúc vị ngộ hối tàng nơi bồng tất, Hiêu hiêu nhiên điếu Vị, canh Sằn.” hay: “Mãi thế rồi ta sẽ tính đây, Điền viên thú nọ vẫn xưa nay. Giang hồ bạn lứa câu tan hợp, Tùng cúc anh em cuộc tỉnh say. Tòa đá Khương công đôi khóm trúc, Áo xuân Nghiêm tử một vai cày.”

Page 264: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

263

Thái độ nhàn này không làm nhụt chí tiến thủ của con người, mà cốt để tiêu khiển, làm nhẹ bớt nỗi cơ cực, bực bội do hoàn cảnh mang lại, lấy lại quân bình cho tâm hồn, để tiếp tục nổ lực phấn đấu theo đuổi lý tưởng của mình: “ Đã mang tiếng ở trong trời đất, Phải có danh gì với núi sông.” b / Lúc theo đuổi công danh sự nghiệp: “ Cũng rắp điền viên vui tuế nguyệt, Trót đem thân thế hẹn tang bồng.” Mặc dầu bận rộn với chức phận của kẻ nam nhi: “ Trong lăng miếu ra tài lương đống, Ngoài biên thùy rạch mũi can tương.” hay: “ Phải hăm hở ra tay kinh tế.” Nhưng Nguyễn Công Trứ lúc nào cũng nghĩ đến thú điền viên, vì mục đích của nhàn như đã nói là để tạo quân bình cho tâm hồn, phục hồi sức khỏe sau những lúc lao tâm, lao lực làm phận sự của kẻ trượng phu lo cho đất nước: “ Cũng có lúc mưa dồn sóng vổ, Quyết ra tay buồm lái với cuồng phong.” Cho nên ông đã có một quan niệm rộng rãi về nhàn và luôn luôn tạo điều kiện để hưởng nhàn: “.” Thị tại môn tiền náo, Nguyệt lai môn hạ nhàn.”Thị tại môn tiền náo, Nhàn đơn giản như thế chứ không cần phải lui về đồng ruộng hay núi rừng tĩnh mịch mới có nhàn. c / Lúc đã hoàn thành xong nhiệm vụ: Nhàn được xem như là một quyền lợi, một phần thưởng của con người sau khi đã hoàn thành xong nhiệm vụ với dân với nước: “ Đường mây rộng thênh thang cử bộ, Nợ tang bồng trang trắng vổ tay reo. Thảnh thơi thơ túi rượu bầu.” ( Chí anh hùng ) hay: “ Nhà nước yên mà sĩ được thong dong, Bấy giờ sĩ mới tìm ông Hoàng Thạch. Năm ba chú tiểu đồng lếch thếch, Tiêu dao nơi hàn cốc thâm sơn.

Page 265: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

264

Nào thơ, nào rượu, nào địch, nào đàn, Đồ thích chí chất đầy trong một túi. Mặc ai hỏi, mặc ai không hỏi, Gẫm việc đời mà ngắm kẻ trọc thanh, Này, này sĩ mới hoàn danh.” ( Kẻ sĩ ) d / Lúc về già: Thái độ nhàn của Nguyễn Công Trứ không biến thiên theo đường thẳng, mà theo đường cong lên đến cực đỉnh rồi hạ xuống dần theo tuổi tác cũng như hoàn cảnh, nên cũng có lúc phảng phất đôi chút hoài nghi: “ Khi đắc chí lại có khi thất chí, Trông đó đó hãy suy cho kỹ. Dẫu xưa nay nào có trừ ai, Có tài mà cậy chi tài.” Cũng có lúc ông tỏ thái độ yếm thế, xem cuộc nhân sinh như giấc chiêm bao: “ Ôi! Nhân sinh là thế ấy, như bóng đèn, Như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao. Ba mươi năm hưởng thụ biết biết chừng nào, Vừa tỉnh giấc nồi kê chưa chín. Vận thái mạc cùng vân biến ảo, Thế đồ vô lự thủy dinh hư. Cái hình hài đã chắc thiệt chưa, Mà lẻo đẻo khóc sầu rứa mãi. Trời đất hỡi, có hình cũng hoại, Ỷ chi chi mà chắc chắn chi chi.” ( Vịnh nhân sinh ) e / Nhàn cổ điển: Nguyễn Công Trứ là kẻ sĩ, lại là một nghệ sĩ tài hoa, tình cảm phong phú cho nên tâm hồn dễ uyển chuyển dao động và do đó thái độ nhàn cũng biến đổi theo, khi thì hăm hở, lúc lại nhuốm màu sắc bi quan, nhưng nói chung thì cái nhàn có tính cách dịu dàng, đằm thắm cổ điển kiểu Tô Đông Pha là đắc ý hơn hết: “ Một con thuyền với một túi thơ, Gió hiu hiu mặt nước như tờ. Trăng chênh chếch đầu non mới ló, Thuyền một lá sông gành bạch lộ. Buông chèo hoa len lỏi chốn sơn cương, ... Người ỷ ca réo rắt cung thương,

Page 266: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

265

Tiếng tiêu lẫn tiếng ca vang đáy nước. Sực nhớ kẻ quày ngọn giáo, vịnh câu thơ thủa trước, Nghĩ sự đời thêm oán nỗi phù du, Đành hay trời đất dành cho. Hai kho phong nguyệt nghìn thu hãy còn, Còn trời còn nước còn non.” ( Vịnh Tiền Xích Bích ) f / Hành lạc: Đối với Nguyễn Công Trứ, nhàn là hành lạc và hành lạc tức là nhàn, cho nên cái nhàn của ông có vẻ nhộn nhịp, mang sắc thái tích cực, hăm hở của kẻ sành điệu: “ Cầm, kỳ, thi, tửu, Đường ăn chơi mỗi vẻ mỗi hay. Đàn năm cung réo rắt tính tình đây, Cờ đôi nước rập rình xe ngựa đó. Thơ một túi phẩm đề câu nguyệt lộ, Rượu ba chung, tiêu sái cuộc yên hà. Thú xuất thần, tiên vẫn là ta, Sánh Hoàng Thạch, Xích Tùng, ờ cũng đáng. » Ông là tay sành sỏi thú yêu hoa : « Ngồi thử ngẫm trăng hoa ai nhuốm, Một hoa là riêng một sắc hương. Khi chúa xuân khép nép bên tường, Còn phong nhị đợi Đông hoàng về cáng đáng. Liễu tía, đào hường, mai trắng trắng, Lan tươi huệ tốt, lý xanh xanh. Thêm hương khi lá gió mưa cành, Mở mặt thấy giang san cười chúm chím. Khách thập thúy say màu hoa diễm, Đối mặt hoa mà cầm, mà kỳ, mà tửu, mà thi. Khuyên ai đừng giở cuộc thị phi, Trân trọng lấy hương trời cho vẹn. » ( Chơi hoa ) Ông cũng say mê tổ tôm và có cảm tưởng như đang điều binh khiển tướng, thi thố tài kinh luân : « Cuộc ăn chơi chi hơn thú tứ tam, Tài kinh luân xoay dọc, xoay ngang. Cơ điều đạc quân ăn quân đánh. Gọi một tiếng người đều phải kính,

Page 267: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

266

Dạy ba quân ai dám chẳng nhường ? Cất nếp lên bốn mặt khôn đương, Hạ bài xuống tam khôi chiếm cả. » Sau cùng hưởng nhàn, hành lạc không gì bằng thú cầm chầu hát ả đào vì lối chơi này bao gồm đủ các món cầm, kỳ, thi, tửu và nhất là với người đẹp sống động : « Thú tiêu sầu, rượu rót thơ đề, Có yến yến, hường hường mới thú. Khi đắc ý, mắt đi mày lại, Đủ thiên thiên thập thập thêm nồng. » ( Tài tình ) Ông rất hãnh diện về sự hành lạc và quan niệm phải chơi cho đẹp cách : « Trăm năm trong cõi người ta, Xóc sổ tính ngày chơi đà được mấy. Thôi thôi chơi cũng là chơi vậy, Biết màu chơi chưa dễ mấy người. » ( Trong trần mấy mặt làng chơi ) Chơi cho tài tình, chơi cho lịch thiệp, chơi cho đài các, đó là phong cách của kẻ biết màu chơi : « Sách có chữ : nhân sinh thích chí, Đem ngàn vàng chác lấy chuyện cười. Chơi cho lịch mới là chơi, Chơi cho đài các cho người biết tay. Tài tình dễ mấy xưa nay. » ( Cầm kỳ thi tửu ) Cũng có lúc chơi cho « lệch đất long trời » : « Rượu Lưu Linh, thơ Lý Bạch, cờ Đế Thích, Đàn Bá Nha, Đủ trò thú mới là người tài tử. Chơi thì chơi, chẳng chơi thì chớ, Đã chơi cho lệch đất long trời. Tiếng thị phi gác để ngoài tai, Trên cõi thế mấy người tri kỷ. » Nói tóm lại, đối với Nguyễn Công Trứ, nhàn là một thái độ vĩnh viễn, một thái độ triết lý nhân sinh, một cuộc hành lạc nhằm tạo quân bình trong cuộc sống. Đó là nghệ thuật trong đạo sống quân bình, và như vậy nhàn vừa là phương tiện, cũng vừa là cứu cánh của cuộc sống hiện sinh. II- Tư tưởng :

Page 268: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

267

1- Tam tài : Tam tài là nguyên lý căn bản của Nho giáo, nó gồm có ba yếu tố : Thiên, Địa, Nhân trong đó Thiên, Địa là hai đối cực, còn Nhân là yếu tố điều hòa. Sách Lễ ký có mô tả quá trình biện chứng tam tài đó như sau : « Nhân giả kỳ thiên địa chi đức, âm dương chi giao, quỉ thần chi hội, ngũ hành chi tú khí giả. » ( Người là cái đức của trời đất, sự giao hợp của âm dương, sự hội tụ của quỉ thần, cái khí tinh tú của ngũ hành.) Thiên thời, địa lợi, nhân hòa : đó là những yếu tố của Tam tài thuận lợi,phối hợp điều hòa để đưa đến chiến thắng, thành công trong chiến thuật cổ điển chung của Á Đông. Do đó nguyên lý Tam tài đã từ lâu có vai trò quan trọng trong triết lý nhân sinh, mà các Nho sĩ phải thông suốt : « Thông thiên, địa, nhân viết Nho. » Nguyễn Công Trứ là một kẻ sĩ, một nhà Việt Nho có danh vọng, cho nên nguyên lý Tam tài là nguồn cảm hứng dạt dào đã mang lại cho thi ca của ông một sắc thái đặc biệt hiếm có trong nền văn học Việt Nam. Trong bài « Nợ công danh », ông viết : « Thiên phú ngô, địa tái ngô, Thiên địa sinh ngô nguyên hữu ý. Dã thị giang sơn chung tú khí, Quả nhiên đài các xuất danh công. » Ông quan niệm rằng trời đất sinh ra ông, cho ông cái khí chất ưu tú là có dụng ý, muốn ông trở thành đấng trượng phu, anh hùng để giúp đời, phụng sự đất nước, trời đất, vũ trụ. Cho nên ông ý thức rằng mọi việc trong vũ trụ đều là phận sự của mình, kẻ làm trai phải như thế mới giỏi : « Vũ trụ chi gian giai phận sự, Nam nhi đáo thử thị hào hùng.” Đó là thiên chức của đấng trượng phu phải gánh vác. Trên vì đức của trời đất mà phò trợ, dưới làm cho dân được ấm no, hạnh phúc, thể hiện dược trọn vẹn nghĩa trung hiếu. Muốn được như vậy, đấng trương phu phải có công danh sự nghiệp làm phương tiện để thực hiên được hoài bảo của mình là phục vụ nhân sinh, phục vụ vũ trụ hữu hiệu, chứ không cam chịu sống thừa, sống vô dụng để rồi sẽ mục nát với cỏ cây: “ Vũ trụ chức phận nội, Đấng trương phu một túi kinh luân. Thượng vị đức, hạ vị dân, Sắp hai chữ “ quân, thân” mà gánh vác. Có trung hiếu nên đứng trong trời đất,

Page 269: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

268

Không công danh thà nát với cỏ cây...” ( Phận sự làm trai ) Con người từ xưa đến nay ai lại không chết, nhưng khác nhau ở chỗ tên tuổi có được lưu lại với sử sách hay không? “ Nhân sinh tự cổ thùy vô tử, Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh ” ( Chí làm trai ) Cho nên ông lúc nào cũng tâm niệm: “ Một mình để vì dân vì nước, Túi kinh luân từ trước để nghìn sau.” ( Trên vì nước, dưới vì nhà ) và: “ Làm cho bách thế lưu phương, Trước là sĩ, sau là khanh tướng » ( Kẻ sĩ ) Cuối cùng ông khẳng định : « Đã mang tiếng ở trong trời đất, Phải có danh gì với núi sông. » (Đi thi tự vịnh ) Công danh là món nợ, trung hiếu là nghĩa vụ, là gánh nặng của kẻ nam nhi : « Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái, Cái công danh là cái nợ nần. Nặng nề thay ! đôi chữ « quân, thân » Đạo vi tử, vi thần đâu có nhẹ. » ( Trên vì nước, dưới vì nhà ) Đã là món nợ, có vay thì phải có trả. Kẻ nam nhi vẩy vùng cho thỏa chí khắp bốn bể, mọi phương, trong khoảng trời đất bao la không có giới hạn : « Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc, Nợ tang bồng vay trả, trả vay. Chí làm trai nam, bắc, đông, tây, Cho phỉ sức vẩy vùng trong bốn bể » ( Chí làm trai ) Cái món nợ danh dự ấy người nam nhi quyết phải trả, không chần chờ : « Nợ trần hoàn quyết trả lúc này xong » ( Nợ công danh ) Sự trả nợ ấy được thực hiện cụ thể với phong thái của đấng trượng phu : « Trong lăng miếu ra tài lương đống,

Page 270: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

269

Ngoài biên thùy rạch mũi can tương. » ( Kẻ sĩ ) vừa để thỏa chí tang bồng : « Chí tang bồng hồ thỉ dạ nào khuây, Phải hăm hở ra tài kinh tế. Người thế trả nợ đời là thế. » ( Phận sự làm trai ) vừa báo đền được lòng trung trinh đối với đất nước : « Hết hai chữ trung trinh báo quốc » ( Trên vì nước, dưới vì nhà ) Người nam nhi sở dĩ có món nợ phải trả vì đã chịu ơn sâu nặng ở vũ trụ cái khí kiên cường, nó tỏa khắp trời đất, núi sông, bàng bạc khắp mọi nơi : « Khí hạo nhiên chí đại chí cương, So chính khí đã đầy trong trời đất. » ( Kẻ sĩ ) Đó là kho tàng quý báu mà trời đất đã ban cho con người : « Của trời trăng gió kho vô tận, Cầm, hạc, tiêu dao đất nước này. » ( Than nghèo ) hay : « Thú yên hà, trời đất để riêng ta, Nào ai, ai biết chăng là.” ( Thoát vòng danh lợi ) Ơn này phải đền cho xứng đáng: “ Ơn thủy thổ phải đền cho vẹn sóng.” Muốn được như thế, người nam nhi phải tạo cho mình một tư thế mà thời bấy giờ không gì hơn con đường khoa mục: “ Đã từng tắm gội ơn mưa móc, Cũng phải xênh xoang hội gió mây.” Cảnh nghèo khó không đủ làm nhục chí kẻ nam nhi, có lẽ đó là do ý trời muốn thử thách mà thôi. Vấn đề quan trọng là tu thân, trau dồi đức hạnh, rèn luyện tài năng: “ Tất do thiên âu phận ấy là thường, Hữu kỳ đức ắt trời kia chẳng phụ.” ( Hàn nho phong vị phú ) Với niềm tin nơi Thiên mệnh, người nam nhi tự nhủ phải luôn luôn ở tư thế xông pha, không những trong lãnh vực văn mà còn trong nghiệp võ nữa, bất chấp mọi thử thách:

Page 271: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

270

“ Đố kỵ xá chi con Tạo, Nợ tang bồng quyết trả cho xong. Đã xông pha bút trận thì gắng gỏi kiếm cung, Làm cho rõ tu mi nam tử.” ( Chí nam nhi ) Kẻ sĩ đặt lòng tin nơi Thiên mệnh là vì thấu rõ Thiên mệnh, sống theo Thiên mệnh ( cũng như ngày nay con người hiểu rõ các qui luật tự nhiên ), chứ không tin một cách mù quáng, có thái độ buông xuôi, mà phải lập chí, có như thế thì trời chẳng bao giờ phụ: “ Cùng đạt có riêng chi mệnh số... Độc thư thiên bất phụ, Hữu chí sự cánh thành.” ( Đường công danh ) Như vậy về ý tưởng nguyên lý Tam tài, Nguyễn Công Trứ đã khai triển sâu rộng, độc đáo, sáng tạo qua thi văn, mà hai yếu tố trời, đất được xác định từ đất nước Việt mến yêu, mở rộng từ sông núi ra khắp năm châu, bốn bể, rồi lan tràn khắp vũ trụ. Còn yếu tố người là chàng trai Việt, mà đại biểu xứng đáng là Nguyễn Công Trứ, một con người tài hoa đã khéo vận dụng, điều hòa hai nguyên lý mâu thuẫn âm dương là trời và đất: “ Hồ thỉ đã quen tay vũ trụ, Cầm thư chi lạ mặt quan hà. Túi giang san bốn bể là nhà, Nền vương thổ cả trong trời đất Việt.” Vũ trụ phân ra ba cõi: siêu nhiên ( trời ), thiên nhiên (đất ), nhân sinh ( người ), mà cứu cánh là qui về Bản thể đồng nhất, hay nói khác đi, Tam tài là nấc thang đưa đến tuyệt đối, vĩnh cữu. 2- Tri hành: a / Tri: Tri là biết, nhưng không phải cái biết chỉ hạn hẹp trong vòng ý niệm, danh lý mà là Trí Tri tức là Minh đức hay Lương tri ( trí lương tri ), cũng có thể gọi là trực giác căn nguyên tức là năng khiếu tri giác mẫn tiệp có thể đạt ngay đến chân lý các sự vật ( không phải trực giác cảm tính bên cạnh lý luận ở tri thức luận thông thường ). Sách Đại học do Tăng Tử diễn giải có ghi lời Khổng Tử: “ Đại học chi đạo, tại minh minh đức...” có nghĩa là cái đạo của bậc đại học là ở sự làm cho sáng cái đức sáng... Cái Minh đức ở Phật là Giác tính Bồ đề, là Trí tuệ Bát nhã, còn ở Lão là Tự minh như ý ở câu sau đây:

Page 272: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

271

“ Tri nhân giả trí, tự tri giả minh. Thắng nhân giả hữu lực, tự thắng giả cường ” ( Biết người là người trí, nhưng biết mình mới là người sáng. Thắng được người là kẻ có sức, thắng được mình mới là kẻ mạnh ) Tại trình độ tri thức tối cao này, ba tôn giáo Phật, Lão, Nho gặp nhau như đã nói ở Tam giáo đồng nguyên thời Lý-Trần. Cái biết tối cao ấy là Minh đức, Lương tri, Giác tính Bồ đề, Trí huệ Bát nhã, Tự minh cũng như Thiên tính, Thiên mệnh, Không tính, Phật tính, Chân như hay nói chung là Thể tính, Bản thể, Tâm linh vũ trụ... có tính phổ biến, đại đồng. Nguyễn Công Trứ đã nhận ra nơi đây chữ “ kiến tính ” của nhà Phật cũng là chữ “ suất tính ” của nhà Nho: “ Chiếc thuyền từ một lá chơi vơi: Vớt chìm đắm đưa lên cõi Tĩnh. Chữ kiến tính cũng là suất tính, Trong ống nhòm đổ tiếng hư vô.” ( Vịnh Phật ) Kinh “Đại Phạm Thiên Vương vấn quyết” có viết: “ Chánh pháp nhãn tàng, Niết bàn diệu tâm, thực tướng vô tướng, pháp môn vi diệu, bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành phật.”, trong đó có chữ “ kiến tính ”. Còn chữ “ suất tính ” thì được nói đến ở sách “ Trung dung ”: “ Thiên mệnh chi vị tính, suất tính chi vị đạo, tu đạo chi vị giáo.” ( Mệnh trời gọi là tính, làm phát triển tính gọi là đạo, tu sửa đạo gọi là giáo ) Ở bình diện tri thức này các phương diện lưỡng nguyên, chủ thể, khách thể hòa lẫn, mọi mâu thuẫn đều được giải quyết trong một Tâm nhất quán. Sách Luận ngữ có viết: “ Sâm hồ! Ngô đạo nhất dĩ quán chi.” ( Này trò Sâm, đạo của ta thu vào một mối nhất quán ). Thế cho nên về phương diện tri thức, Khổng Tử không yêu cầu người ta học nhớ nhiều, mà nên có cái chân tri thức, nắm vững cái lý trong hệ thống điều hợp của sự vật, quy cái đa tạp về cái đơn giản, đó gọi là “ nhất dĩ quán chi ”. Đến Tuân Tử cũng tuyên bố: “ Dĩ nhất tri vạn ” ( Lấy cái một mà hiểu vạn sự vật ). Rồi Vương Dương Minh đưa ra thuyết “ Trí lương tri ”. Học thuyết này căn bản ở chữ “ trí tri ” của Khổng Tử và “ lương tri lương năng ” của Mạnh Tử. Tri là cái minh giác của tâm, mà lương tri lương năng là cái bản thể của tri hành. Vương Dương Minh nói: “ Tâm chi bản thể tức thiên lý giã, thiên

Page 273: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

272

lý chi chiêu minh linh giác sở vị lương tri giã.” ( Cái bản thể của tâm là thiên lý, cái chiêu minh linh giác của thiên lý gọi là lương tri ) ( Nho giáo-Trần Trọng Kim ) Như vậy Vương Dương Minh cũng trung thành với thuyết “ Thiên địa vạn vật nhất thể ” và lấy ý tưởng “ nhất dĩ quán chi ” của Khổng Tử làm căn bản cho học thuyết “ Trí lương tri ” và “ Tri hành hợp nhất ” của mình. Tư tưởng này phản ảnh rõ rệt trong thi văn Nguyễn Công Trứ: “ Ngàn muôn năm âu cũng thế ni, Ai hay hát và ai hay nghe hát.” ( Chữ Nhàn ) Ở cái tâm nhất quán “ Ngàn muôn năm âu cũng thế ni ”, nó đã tự phân ly ra chủ thể, khách thể ; rồi sau cùng trở về hợp nhất ở một tâm. Tâm hồn của Nguyễn Công Trứ đã lấy lại được quân bình sau bao năm tháng hăng say hoạt động ngang dọc, làm nghĩa vụ của kẻ nam nhi trong bầu không khí sôi động: “ Cũng có lúc mưa dồn sóng vỗ, Quyết ra tay buồm lái với cuồng phong.” ( Chí làm trai ) Tâm hồn ấy bây giờ đã trở lại thanh thản, nhập vào cõi thái hòa, trở về với Thiên tính: “ Tri ngã giả bất tri ngã giả? Người có biết ta hay thì chớ, Không biết ta, ta vẫn là ta. Linh khâm bảo hợp Thái hòa, Sạch không trần lụy ấy là thần tiên. Ngang tàng lạc ngã tính Thiên. » ( Đắc chí ngao du ) Cõi Thái hòa ấy cũng là cõi Tĩnh, tức Niết bàn của nhà Phật : « Chiếc thuyền Từ một lá chơi vơi, Vớt chìm đắm đưa lên cõi Tĩnh » ( Vịnh Phật ) Ở đây không gian, thời gian đều tan biến và Tâm chủ thể bao hàm tất cả mọi khách thể : « Nhỏ không trong, mà lớn cũng không ngoài. » ( Vịnh Phật ) Những mâu thuẫn, đối lập đều hòa nhập ở một Tâm vũ trụ đại đồng và cũng chính từ đây mà xuất phát ra tất cả mọi sự : « Cái luân hồi chẳng ở đâu xa...

Page 274: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

273

Nghiệp duyên vốn tại mình ta, Nơi vuông tấc đủ thiên đàng, địa ngục. » ( Vịnh Phật ) Đạt được đến cõi này là cõi của an nhiên tự tại, con người không còn bị gò bó trong điều kiện không gian, thời gian nữa ; lúc đó muốn nhàn là có nhàn, muốn đủ thì được đủ : « Thị tại môn tiền náo, Nguyệt lai môn hạ nhàn. » hay : « Tri túc, tiện túc, đãi túc, hà thời túc, Tri nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn. » Sở dĩ được như vậy là vì con người đã chuyển hóa dục tính trở về với Thiên tính : « Chữ vô cầu là chữ thiên nhiên. » ( Vô cầu ) Do đạt đến cảnh giới an nhiên tự tại của đạo sống quân bình mà Nguyễn Công Trứ không nao núng trong lúc nghèo khó, mà vẫn có thái độ ung dung: “ Ngày ba bửa, vổ bụng rau bình bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no; Đêm năm canh, an giấc ngáy kho kho, đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ” ( Hàn nho phong vị phú ) Ở Luận ngữ, Khổng Tử nói: “ Bất tri mệnh vô dĩ vi quân tử giã ”( Không biết được mệnh trời thì không lấy gì làm quân tử ) Nguyễn Công Trứ cũng đã quán triệt điều đó, cho nên có niềm tin vững chắc: “ Thiên phú ngô, địa tái ngô, Thiên địa sinh ngô nguyên hữu ý. Giả thị giang san chung tú khí, Quả nhiên đài các xuất danh công.” Sự tin tưởng đó căn cứ vào cái Đức của trời đất mà luôn luôn trau dồi cái Đức của mình đã do trời phú bẩm: “ Tất do thiên âu phận ấy là thường, Hữu kỳ đức ắt trời kia chẳng phụ.” ( Hàn nho phong vi phú ) Thiên mệnh là Thiên tính chứ không phải là định mệnh khắc khe, mà có thể biến cải cho nên không làm nhụt ý chí của con người, mà niềm hy vọng ở cuộc sống hiện sinh nơi trần thế vẫn vươn lên: “ Thôi thời thôi quân tử cố cùng,

Page 275: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

274

Cùng khi ấy hẳn là thông khi khác.” ( Quân tử cố cùng ) Cũng như trong truyện Kiều, Nguyễn Du đã xác nhận: “ Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều.” Tin theo Thiên mệnh có nghĩa là nương theo các qui luật tự nhiên, phối hợp với ý chí của con người chứ không phải buông xuôi hay mù quáng, do đó con người cảm thấy an lạc trong mọi hoàn cảnh: “ Vô sự tiểu thần tiên, Đấng anh hùng an phận lạc thiên. So trời đất cũng nhất ban xuân ý, Khi lăng miếu đã đành công danh ấy. Lúc yên hà khước thị xuất nhân gian, Hành tàng bất nhị kỳ quan. Cõi đời mở mặt giang san thái hòa, Còn xuân mai lại còn hoa.” ( Hành tàng ) “ Hành tàng bất nhị kỳ quan ”: ra làm việc hay ở ẩn không phải là hai quan điểm khác nhau cũng như lẽ xuất xử vậy, việc quyết định chọn lựa là tùy thời, tuỳ hoàn cảnh, chúng chỉ là những phương thức, những lề lối, chứ không phải là cứu cánh: “ Xưa nay xuất xử thường hai lối, Mãi thế rồi ta sẽ tính đây.” ( Than nghèo ) Ông đã nắm được giềng mối của Đạo nên không còn cố chấp vào những hình thức bề ngoài nữa mà trở nên phóng khoáng: “ Kià núi nọ phau phau mây trắng, Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi. Gót tiên theo đủng dỉnh một đôi dì, Bụt cũng nực cười ông ngất nhưỡng. ... Không Phật, không Tiên không vướng tục.” ( Bài ca ngất ngưỡng ) Lời thơ đó biểu lộ tính phóng khoáng cực độ của con người đã hòa nhập vào cõi Thái hòa, vũ trụ tâm linh, đã siêu vượt khỏi phạm vi ý thức nhị nguyên: “ Tiếng thị phi gác để ngoài tai ” hay: “ Khuyên ai đừng giở cuộc thị phi.”

Page 276: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

275

Nói đến tinh thần phá chấp khiến chúng ta liên tưởng đến kinh Kim Cương Bát Nhã, mà Nguyễn Du ( 1765-1820 ) người đương thời với Nguyễn Công Trứ ( 1778-1858 ) đã đọc hơn ngàn lần và cuối cùng đã thấu hiểu huyền nghĩa của chân kinh: “ Ngã độc Kim cương thiên biến linh, Kỳ trung áo chỉ đa bất minh. Cập đáo phân kinh thạch đài hạ, Chung tri vô tự thị chân kinh.” ( Ta đọc Kim cương hơn ngàn lần, Nghĩa kín phần nhiều không hiểu thấu. Kịp đến phân kinh thạch đài này, Mới hiểu chân kinh không có chữ ) Những danh Nho như Nguyễn Du hay Nguyễn Công Trứ thông hiểu cả Phật, Lão học là chuyện rất bình thường trong lịch sử văn học và tư tưởng Việt Nam, cũng như các vị Thiền sư thông hiểu Nho, Lão học vậy. Triết lý Tam giáo đồng nguyên từ thời Lý-Trần đã tạo nền móng vững chắc cho ý thức dân tộc, đã làm tròn sứ mạng lịch sử của nó trong một thời gian dài và còn để lại ảnh hưởng sâu đậm về sau. b / Hành: * Ở bình diện nhân sinh: Con người thụ bẫm cái đức sinh thành của trời đất mà trưởng thành: “ Thiên phú ngô, địa tái ngô, Thiên địa sinh ngô nguyên hữu ý.” ( Nợ công danh ) Vì tin tưởng rằng trời đất sinh ra con người là đã có ý, cho nên dầu ở hoàn cảnh nào con người cũng phải lo trau dồi đạo đức. Khi cái đức của bản thân mình đầy đủ hòa hợp với cái đức lớn của trời đất thì mọi sự sẽ hanh thông: “ Tất do thiên âu phận ấy là thường, Hữu kỳ đức ắt trời kia chẳng phụ ” ( Hàn nho phong vị phú ) Bởi vậy đấng anh hùng không hề nao núng, an phận vui theo mệnh trời mà hưởng trọn ý xuân: “ Đấng anh hùng yên phận lạc thiên, So trời đất cũng nhất ban xuân ý.” ( Hành tàng ) “ Yên phận lạc thiên” không có nghĩa là buông xuôi theo số mệnh, mà phải lo tu tâm dưỡng tánh, rèn luyện ý chí nam nhi không ngừng:

Page 277: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

276

“ Cùng đạt có riêng chi mệnh số... Độc thư thiên bất phụ, Hữu chí sự cánh thành.” (Đường công danh ) Yếu tố tích cực chủ quan phải được phối hợp với ý thức về qui luật tuần hoàn khách quan thì niềm tin mới có cơ sở: “ Cùng khi ấy hẳn là thông khi khác ” ( Quân tử cố cùng ) Do ý thức: “ Thiên địa sinh ngô nguyên hữu ý ” mà người nam nhi minh định phận sự của mình trong phạm vi cả vũ trụ rộng lớn thì mới xứng đáng: “ Vũ trụ chi gian giai phận sự, Nam nhi đáo thử thị hào hùng.” ( Kẻ sĩ ) Hơn thế nữa, người nam nhi ấy là kẻ sĩ, là nhà Nho thì nhiệm vụ phải gánh vác lại càng nặng nề hơn nữa: “ Giang sơn bất thiểu anh hùng khách, Gánh càn khôn đeo nặng kẻ rừng Nho.” ( Nợ công danh ) Sự gánh vác việc dân, việc nước chẳng những là phận sự, nhiệm vụ mà còn phải được xem là chức phận cao cả của đấng trượng phu đứng trong trời đất, vũ trụ nữa: “ Vũ trụ chức phận nội, Đấng trượng phu một túi kinh luân.” Nguyễn Công Trứ quan niệm có hai thứ nợ khác nhau: nợ thông thường ở đời chỉ là một thử thách do thói phong lưu, tài hoa và được coi như trò đùa: “ Mang danh tài sắc cho nên nợ, Quen thói phong lưu hóa phải vay. » ( Than nghèo ) Nhưng nợ tang bồng, nợ công danh, nợ trần hoàn mới quan trọng, mà người nam nhi bằng đủ mọi cách phải trả cho xong mới có danh dự ( xem lại phần Tam tài ) Về chữ ân (ơn ) cũng được phân biệt hai thứ: - Ân oán: coi nhẹ việc ân oán thường tình: “ Mặc ai chớ để điều ân oán.” - Ân nghĩa: còn việc ân nghĩa, nhất là ân nghĩa của trời, đất, núi, sông thì đền, trả cho trọn vẹn: “Ơn thủy thổ phải đền cho vẹn sóng.”

Page 278: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

277

Trong đạo lập thân, kẻ sĩ phải giữ đúng cương thường: “ Miền hương đảng đã khen rằng hiếu nghị, Đạo lập thân phải giữ lấy cương thường.” ( Kẻ sĩ ) hết lòng vì dân, vì nước: “ Hết hai chữ “trung trinh” báo quốc, Một mình để vì dân, vì nước.” ( Trên vì nước, dưới vì nhà ) trên trung với vua, dưới hiếu với cha mẹ: “ Thượng vị đức, hạ vị dân Sắp hai chữ “quân thân” mà gánh vác.” ( Phận sự làm trai ) Trung là trung với chức vị của ông vua đại diện cho trời, đất chứ không phải cá nhân một ông vua nào. Đạo trung hiếu không được coi nhẹ: “ Nặng nề thay! đôi chữ “ quân thân ” Đạo vi tử vi thần đâu có nhẹ.” ( Trên vì nước, dưới vì nhà ) Nếu bản thân của con người trong hệ thống Tam tài là quý, có một địa vị quan trọng thì công danh, sự nghiệp, lòng trung hiếu của con người cũng rất quý : “ Có trung hiếu nên đứng trong trời đất, Không công danh thà nát với cỏ cây.” ( Phận sự làm trai ) Thời vua Gia Long mới thống nhất đất nước là thời kỳ xây dựng, kẻ sĩ rất được trọng vọng nên đứng đầu trong giai tầng xã hội: “ Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt, Dân hữu tứ sĩ vi chi tiên.” Đối với xã hội Việt Nam vấn đề đẳng cấp chỉ có tính cách tương đối, gặp những khi kinh tế khó khăn thì kẻ sĩ phải nhường ưu thế lại cho nhà nông: “ Nhất sĩ nhì nông Hết gạo chạy rong Nhất nông nhì sĩ ” ( Ca dao ) Về nghiệp văn võ cũng tương tự như vậy, thời bình thì quan văn được coi trọng: “ Quan văn thất phẩm thì sang, Quan võ thất phẩm phải mang gươm hầu.”( Ca dao )

Page 279: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

278

Thời chiến thì nghiệp võ lại có ưu thế hơn: “ Xếp bút nghiên theo việc kiếm cung, Hết hai chữ “ trung trinh” báo quốc.” Nguyễn Công Trứ là một đấng trượng phu văn võ toàn tài: “ Trong lăng miếu ra tài lương đống, Ngoài biên thùy rạch mũi can tương. Sĩ làm cho bách thế lưu phương, Trước là sĩ sau là khanh tướng. Kinh luân khởi tâm thượng, Binh giáp tàng hung trung „ ( Kẻ sĩ ) * Ở bình diện tiếp cận với đạo: Con người tiếp cận được đạo khi đã thanh lọc xong dục tính, trở về với Thiên tính: « Người ta ở trong trần thế, Chữ vô cầu là chữ thiên nhiên. » Vô cầu là điều kiện để con người quay trở về với chân thể, « bản lai diện mục » của mình. Ở bình diện này, quan điểm đã chuyển từ hẹp đến rộng, lúc đó cái Tâm bao quát hết mọi sự vật, cái chủ quan bao hàm cái khách quan : « Nhỏ không trong, mà lớn cũng không ngoài. » ( Vịnh Phật ) Ý thức lưỡng nguyên, tương đối hay ý thức bình đẳng, tuyệt đối cũng đều do một Tâm mà ra tùy theo mê vọng hay giác ngộ : « Nghiệp duyên vốn tại mình ta : Nơi vuông tấc đủ thiên đàng địa ngục. » ( Vinh Phật ) Cũng tương tự như vậy, nhàn hay không nhàn cũng do một tâm mà ra ( nhất thiết duy tâm : Thế Thân ), lúc mê vọng thì thật khó mà có nhàn trong cuộc sống đầy phiền toái : « So lao tâm lao lực cũng một đoàn, Người trần thế muốn nhàn sao được. » nhưng khi đã giác ngộ rồi thì ở đâu mà không có nhàn, lúc nào mà không được nhàn : « Thị tại môn tiền náo, Nguyệt lai môn hạ nhàn. » Biết đủ, biết nhàn : đó là cái ý thức giác ngộ của con người : « Tri túc, tiện túc, đãi túc hà thời túc, Tri nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn hà thời nhàn. »( Chữ nhàn )

Page 280: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

279

Nguyễn Công Trứ là người đã nhập được vào cảnh giới an nhiên, tự tại cho nên lúc nghèo túng, ông vẫn cảm thấy no đủ, lúc gian nan ông vẫn hưởng được nhàn. Ông đã siêu vượt lên trên mọi mâu thuẫn ở ý thức cũng như sự phiền não của thế tục và trở nên hoàn toàn tự do, phóng khoáng : « Được mất dương dương người Tái thương, Khen chê phơi phới ngọn đông phong. Khi ca, khi tửu, khi cúc, khi tùng, Không Phật, không Tiên, không vướng tục. » ( Bài ca ngất ngưỡng ) Cho dầu không phải là Phật, không phải là Tiên mà đã dứt sạch phiền não, đã thể nhập được đạo thái hòa thì có khác chi là Phật, là Tiên : « Linh khâm bảo hợp thái hòa, Sạch không trần lụy ấy là Thần Tiên. » Như đã nói, vào được cõi thái hòa của vũ trụ tâm linh thì quan điểm của con người được hoàn toàn khai phóng, lúc đó không còn phân biệt xuất thế hay nhập thế nữa. Việc ra làm quan giúp dân, giúp nước hay ở ẩn dật không phải là hai quan điểm khác nhau, mà chỉ là tùy thời xuất xử : « Khi lăng miếu đã đành công danh ấy, Lúc yên hà khước thị xuất nhân gian. Hành tàng bất nhị kỳ quan. Cõi đời mở mặt giang san thái hòa, Còn xuân mai lại còn hoa. » Đối với ông, công danh sự nghiệp chưa phải là cứu cánh, mà chỉ là phương tiện để người nam nhi đền ơn, trả nghĩa cho trời dất, núi sông, phục vụ nhân dân, đất nước và nhất là để thỏa chí khí anh hùng : « Chí tang bồng hồ thỉ dạ nào khuây, Phải hăm hở ra tài kinh tế. Người thế trả nợ đời là thế, Của đồng lần thiên hạ tiêu chung ? Hơn nhau hai chữ anh hùng. » ( Phận sự làm trai ) Đến đây chúng ta thấy nhà Nho Việt Nguyễn Công Trứ đã thể hiện được trọn vẹn tôn chỉ của Khổng Nho : « cách vật trí tri », « trí lương tri », « nhất dĩ quán chi » cũng như « tri hành hợp nhất » qua nguồn cảm hứng sáng tạo của thi văn phong phú. Ông đã nêu lên được lý tưởng cho mọi người thanh niên trong việc lập chí, công danh sự nghiệp để phục vụ cho nhân dân, đất nước.

Page 281: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

280

Nói chung ông có một đời sống phong phú, đa dạng, xuất sắc là vì ông đã đạt được đạo sống quân bình. Thử xét một khía cạnh của đạo sống quân bình ấy : Hưởng nhàn, hành lạc = Nghĩa vụ ( Dấu = biểu thị đạo quân bình với ý nghĩa tương đối, chứ không hoàn toàn tuyệt đối theo toán học.) Lúc chưa gặp thời thì hưởng nhàn là để di dưỡng tinh thần : « Lúc vị ngộ hối tàng nơi bồng tất, Hiêu hiêu nhiên điếu Vị, canh Sằn. » để chờ thời cơ thuận lợi : « Rồng mây khi gặp hội ưa duyên, Đem quách cả sở tồn làm sở dụng. » Nhàn là một nhu cầu vĩnh viễn, nhưng nhàn phải được quân bình bởi nghĩa vụ : « Cũng rắp điền viên vui tuế nguyệt, Trót đem thân thế hẹn tang bồng. » ( Trên vì nước, dưới vì nhà ) Con người chỉ hoàn toàn thảnh thơi, nhàn hạ khi đã hoàn thành xong nghĩa vụ : « Nợ tang bồng trang trắng vổ tay reo, Thảnh thơi thơ túi rượu bầu.” ( Chí anh hùng ) Thế cho nên những kẻ chỉ biết ăn chơi, hưởng nhàn, hành lạc mà quên mất nghĩa vụ, cũng như những kẻ dựa dẫm vào tài sản của ông cha, những kẻ lợi dụng quyền thế nhũng lạm, ăn cắp của công, bóc lột nhân dân để có phương tiện ăn chơi trụy lạc đều trái với đạo sống quân bình, đều không lành mạnh, không thiện cả. Đạo sống quân bình cũng được thấy rõ ở con người Nguyễn Công Trứ qua thái độ sống ngay trong lúc hàn vi, phải chịu bao nỗi đắng cay tủi nhục bởi nhân tình, thế thái: “ No thời ra bụt, đói ra ma, Chẳng lạ nhân tình đất kẻ ta. Khôn khéo chẳng qua thằng có của, Yêu vì đâu đến đứa không nhà.” Mặc dầu thế thái nhân tình là như thế: “ Thế thái nhân tình gớm chết thay, Nhạt nồng, trông chiếc túi vơi đầy... Bạc quá vôi, mà mỏng quá mây.”

Page 282: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

281

Nhưng ông vẫn không bị chao đảo, ngã nghiêng theo thế tình, mà vẫn giữ vững phẩm cách trong sạch, thanh cao: “ Khôn khéo ai cũng tranh phần được, Trong sạch ta thời giữ mực thường:” Mực thường đó là trung đạo, con đường trung chính của đạo sống quân bình truyền thống dân tộc. Thường là thường còn, thường hằng, là trạng thái quân bình căn nguyên, có tính cách tương đối, vì nếu tuyệt đối thì mọi sự sẽ im lìm, bất động, là sự chết. Cuộc sống hiện sinh là sự dao động quanh trạng thái quân bình đó cho nên đa dạng, phong phú , mà con người tài hoa như Nguyễn Công Trứ, con người đã nhập được vào cõi Thái hòa, hài hòa với nhịp điệu vận hành vũ trụ, cho nên cũng đa dạng, phong phú. Xem lại phần đặc điểm của con người ông thì thấy rõ điều đó. Thơ văn của ông phản ánh cuộc sống hiện sinh đa dạng nên có đủ thứ màu sắc tương phản. Có người ( phần nhiều do quan điểm, do thành kiến ) căn cứ vào một vài bài thơ như bài “ Vịnh nhân sinh” chẳng hạn: “ Ôi! nhân sinh là thế ấy, như bóng đèn, Như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao. Ba mươi năm hưởng thụ biết chừng nào, Vừa tỉnh giấc nồi kê chưa chín.” vội phê bình rằng tư tưởng của tác giả đôi khi mâu thuẫn, bất nhất, khi thì quá lạc quan, yêu đời, khi lại bi quan, yếm thế, vì căn cứ vào tư tưởng “nhân sinh ảo ảnh” của nhà Phật và giấc mộng hóa bướm của Trang Châu. Nhưng khác hẳn với những người này, tác giả xác nhận rằng đó là sự thật: « nhân sinh là thế ấy » chứ không có chi là lạc quan hay bi quan cả. Điều này không có chi là lạ cả bởi vì Nguyễn Công Trứ là con người toàn diện, phóng khoáng, an nhiên tự tại, lý tình tương dung đề huề, hòa cùng một nhịp ( đồng điệu ) với cuộc sống hiện sinh biến dịch : biến dịch ở thế giới vật chất, hiện tượng cũng như biến dịch ở nội tâm. Những bài thơ như « Vịnh nhân sinh », « Thoát vòng danh lợi » thực ra không đủ làm giảm giá trị của tư tưởng hào hùng về công danh, sự nghiệp, chí nam nhi, anh hùng của tác giả.. Bài « Luận kẻ sĩ » sau đây được xem như là một bản tuyên ngôn về cuộc sống, chương trình hành động của kẻ sĩ : « Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt, Dân hữu tứ sĩ vi chi tiên. Có giang san thời sĩ đã có tên,

Page 283: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

282

Từ Chu, Hán vốn sĩ này là quý. Miền hương đảng đã khen rằng hiếu nghị, Đạo lập thân phải giữ lấy cương thường. Khí hạo nhiên chí đại chí cương, So chính khí đã đầy trong trời đất. Lúc vị ngộ hối tàng nơi bồng tất, Hiêu hiêu nhiên điếu Vị, canh Sằn. Xe bồ luân dầu chưa gặp Thang, Văn, Phù thế giáo một vài câu thanh nghị. Cầm chính đạo để tịch tà cự bí, Hồi cuồng lan nhi chướng bách xuyên. Rồng mây khi gặp hội ưa duyên, Đem quách cả sở tồn làm sở dụng. Trong lăng miếu ra tài lương đống, Ngoài biên thùy rạch mũi Can tương. Làm cho bách thế lưu phương, Trước là sĩ sau là khanh tướng. Kinh luân khởi tâm thượng, Binh giáp tàng hung trung. Vũ trụ chi gian giai phận sự, Nam nhi đáo thử thị hào hùng. Nhà nước yên mà sĩ được thung dung, Bấy giờ sĩ mới tìm ông Hoàng Thạch. Năm ba chú tiểu đồng lếch thếch, Tiêu dao nơi hàn cốc thâm sơn. Nào thơ, nào rượu, nào địch, nào đờn, Đồ thích chí chất đầy trong một túi. Mặc ai hỏi, mặc ai không hỏi, Gẫm việc đời mà ngắm kẻ trọc, thanh. Này, này sĩ mới hoàn danh.” Bài thơ này kết thúc phần nghiên cứu tư tưởng Nguyễn Công Trứ đồng thời cũng kết thúc phần nghiên cứu khái lược về lịch sử tư tưởng Việt Nam. Trên con đường triết lý hay khái lược lịch sử tư tưởng Việt Nam, lý thuyết Tam giáo đồng nguyên đã được trình bày với tư tưởng của các Thiền sư, vua Trần Thái Tông, vua Trần Nhân Tông. Hệ tư tưởng này đã hoàn thành xuất sắc sứ mạng lịch sử của nó, đã đặt được nền tảng vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước trên bốn thế kỷ. Đến thế kỷ XV, giới Nho sĩ đã được đào tạo qua thời gian trở thành một lực lượng đáng kể, mà

Page 284: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

283

giới này lại chịu ảnh hưởng tư tưởng Tống Nho, chủ trương trung quân triệt để, rất phù hợp với quyền lợi của chế độ quân chủ phong kiến, nên tư tưởng Tống Nho trở thành độc tôn từ đây. Nền luân lý khắc nghiệt với mệnh lệnh độc đoán, cực đoan như: “ Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung; Phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu:” hay: “ Trung thần bất sự nhị quân.” Tình trạng này ảnh hưởng đến tư tưởng bình dân, đưa đến thái độ vâng lời, phục tùng tuyệt đối: “Áo mặc sao qua khỏi đầu.” hay: “ Cha mẹ đặt đâu, con ngồi đó.” Nền giáo dục thiếu thực dụng, chuộng từ chương, lối học thụ động thuộc lòng theo đúng ý tưởng của cổ nhân, không được phép có ý kiến riêng hay phê bình. Trường qui khắc khe: một dấu phẩy bỏ sót, một chữ lỡ phạm húy, một lời nghị luận dù hay cách mấy mà trái với tư tưởng Trình Chu cũng bị loại ngay. Chế độ khoa cử là mồi danh lợi để lung lạc, thao túng nhân tài mà thôi: “ Mùi phú quý nhử làng xa mã, Bã vinh hoa lừa gã công khanh.” (Ôn Như Hầu ) Đầu thế kỷ thứ XV có Hồ Quý Ly đứng ra làm cuộc cách mạng nền văn hóa cổ hủ đó và về sau ở thế kỷ thứ XVIII vua Quang Trung Nguyễn Huệ cũng làm cuộc cải cách, nhưng tiếc rằng hai triều đại này quá ngắn ngủi, hơn nữa do ảnh hưởng của nặng nề của văn hóa, tư tưởng lạc hậu Tống Nho, giới sĩ phu quá mê muội chống đối và quần chúng không hưởng ứng, cho nên cuộc cách mạng, cải cách đó bất thành. Tư tưởng Tống Nho tệ hại vẫn khuynh loát đất nước Việt Nam cho đến triều đại nhà Nguyễn và hậu quả cuối cùng là đất nước bị đế quốc Pháp xâm lăng dưới thời vua Tự Đức. Kể từ sau thất bại của Hồ Quý Ly cũng còn có những nhân tài lỗi lạc lần lượt xuất hiện, vẫn còn chịu ảnh hưởng tư tưởng Tam giáo như: - Nguyễn Trãi, Nguyễn Du là những danh Nho thông cả Phật học. - Nguyễn Bỉnh Khiêm là danh Nho thông Dich lý, Lão học. - Nguyễn Công Trứ là danh Nho thông cả Phật, Lão học. Những nhân vật này xuất hiện không phải là do tính ưu việt của nền giáo dục Tống Nho, mà trái lại chính hệ thống tư tưởng này đã kiềm chế sự xuất

Page 285: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

284

hiện nhân tài mà đáng lẽ ra sau hai triều đại cực thịnh Lý Trần hơn bốn thế kỷ đã tích lũy được một tiềm năng đáng kể phải có một bước nhảy vọt về lượng cũng như phẩm. Nói rằng những nhân vật lỗi lạc này xuất hiện là nhờ ảnh hưởng của hệ tư tưởng Tam giáo đồng nguyên thì cũng không sai, nhưng cũng không hoàn toàn đúng hẳn vì những thời đại sau này không phải là thời đại Lý Trần nữa. Như vậy cái động cơ chính của sự xuất hiện này ( sự siêu xuất ) không gì khác hơn là Việt tính. Thực vậy, trong thời đại Lý Trần sở dĩ hệ tư tưởng Tam giáo đồng nguyên thành công là vì hệ thống này đồng điệu với Việt tính theo qui luật “ Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu ” ở tận cùng căn nguyên là Thể tính: Việt tính, Phật tính, Thiên tính, Đạo...tức Bản thể vũ trụ đại đồng. Ngày nay, nước Việt Nam đã được độc lập, thống nhất, tư tưởng chuyên chính vô sản thay thế tư tưởng Tống Nho độc tôn. Với khẩu hiệu “ Hồng hơn chuyên ”, chế độ giáo dục, khoa cử thời này cũng khắc khe không kém bằng hàng rào lý lịch nhằm trấn áp mầm mống phản động, phản cách mạng (khác chính kiến ), khiến cho nhân tài của đất nước bị loại trừ một cách oan uổng; một số đã tự tìm lấy lối thoát ở những phương trời xa lạ, thật đáng tiếc thay! “ Hồng” ở đây chỉ có nghĩa là quan điểm vô sản, chứ không thể nào là biểu tượng cho đạo đức phổ quát được. Như đã nói ở phần dẫn nhập, có người hô hào trở về nguồn, nghiên cứu lại hệ tư tưởng truyền thống của dân tộc nhứt là tư tưởng Tam giáo đồng nguyên đã thành công rực rỡ một thời. Việc nghiên cứu này là cần thiết, vì đó là quá trình lịch sử tư tưởng của dân tộc, nhưng điều đó không có nghĩa là nhất thiết phục hồi lại hệ tư tưởng đã qua vốn có tính cách thứ yếu, là khả năng thâu hóa sáng tạo những tinh hoa tư tưởng của nhân loại để làm phong phú cho nền văn hóa dân tộc, mà điều chủ yếu là giải phóng Việt tính, khai thông con đường quang đãng dẫn vào triết học Việt.

Page 286: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

285

Phần II ***

Đường vào triết học Việt Nam

Cũng là triết học nhập môn

Chương 1

Những vấn đề tổng quát ***

Khai quang con đường triết lý Ở phần nghiên cứu lịch sử tư tưởng Việt Nam, chúng ta nhận thấy người Việt khi xưa đã có một thứ trực giác nhạy bén để đạt đến chân lý mà không cần thông qua lý luận kiểu triết học danh lý. Đó không phải là thứ trực giác cảm tính mà là trực giác siêu cảm tính, là tuệ giác, là minh đức. Cái biết đó không do lý luận, ý niệm, danh lý mang lại, mà do sự thể nghiệm trực tiếp của bản thân, trong đó chủ thể và đối tượng hòa lẫn, thống nhất làm một. Đó là khả năng kiến tính, suất tính và cũng là Việt tính. Ở khu vực triết học biểu tượng, người ta nghi ngờ khả năng biết bằng trực giác siêu cảm tính này, không thừa nhận nó. Thực ra không có gì phải nghi ngờ cả, vì đây là hiện tượng tích lũy ở vùng vô thức thâm sâu, khi đã đầy ấp thì trào vọt ( siêu vượt ) xuyên qua vùng ý thức lên trên miền siêu thức, mà ý thức nhiều khi không kịp nhận ra ( Qui luật lượng phẩm ) Ngược lại ở khu vực mà đạo học chi phối đời sống tư tưởng, người ta lại phê phán cách tư tưởng biểu tượng, khái niệm là cứng nhắc, cố định trong khi thế giới vật chất cũng như tinh thần thì sống động, biến chuyển không ngừng.

Page 287: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

286

Như vậy đã có sự phân biệt một bên là triết học danh lý thịnh hành ở Tây phương, và một bên là đạo học hay huyền học là truyền thống của Đông phương. Hai khuynh hướng khác nhau là do hoàn cảnh xã hội, địa dư, có ưu cũng như khuyết điểm, có giao lưu và ảnh hưởng lẫn nhau ở một mức độ nào đó. Giáo sư Murti ở Ấn Độ có nhận xét rằng: “ Các hệ thống triết học đều là sự xây dựng qua khái niệm và phù hiệu của một số trực giác nguyên thủy. Nếu chúng ta, tất cả ai cũng có những trực giác cơ bản ấy thì các hệ thống sẽ coi như thừa vậy.” ( Systems of philosophy are the elaboration, through concepts and symbols of certain original intuitions. If all of us had those basic intuitions, systems should be superflous ) Nhận định trên phản ánh phần nào sinh hoạt tư tưởng của dân tộc Việt Nam trong quá khứ, có thể giải thích vì sao nơi đây chưa có sớm một nền triết học. Người Việt xưa đã có được thứ trực giác căn nguyên ấy, nên chưa cần đến triết học. Hơn nữa trải qua hơn một ngàn năm Bắc thuộc, họ cũng không được phép có riêng cho mình một nền văn hóa độc lập dưới dạng thành văn, cho nên họ mới quay về với phương pháp tư tưởng “ vô văn tự”,trau dồi trực giác ngày càng nhạy bén. Theo luật thừa trừ, dạng đặc biệt của luật quân bình, Việt tính cũng là khả năng nội tại của con người không thể phát huy ra bên ngoài do hoàn cảnh khắc nghiệt, nó ngấm ngầm, kín đáo nẩy nở trong tâm thức bằng trực giác, mẫn giác. Khả năng trực giác căn nguyên ấy không những chỉ thấy xuất hiện ở các vị Thiền sư, các vị vua học giả, mà còn thấy rất nhiều trong dân gian qua những câu ca dao, tục ngữ dưới dạng những phát biểu chân lý bằng những câu ngắn gọn, đơn giản, cô đọng thành những nguyên lý phổ biến. Hiện tượng này chẳng khác nào ý tưởng của Dịch: Hệ từ thượng: “ Dị giản nhi thiên hạ chi lý đắc hĩ.” Hễ biết được cái lẽ giản dị, tức là các nguyên lý, các qui luật phổ quát thì biết được cái lý của thiên hạ. Trang Tử cũng có nói: “ Biết một cách rộng rãi bao quát, đó là đại trí; biết một cách vụn vặt chia lìa, đó là tiểu trí. Lời nói bao quát, đó là đại ngôn; lời nói chi ly, đó là tiểu ngôn...” ( Tề vật luận ) Khả năng trực giác căn nguyên này không phải lúc nào cũng như thế, mà nó biến chuyển theo sự thăng trầm của lịch sử tư tưởng dân tộc. Trở lại thời kỳ triết lý Tam giáo đồng nguyên, chúng ta nhận thấy hệ tư tưởng này đã quyết định sự thinh suy của dân tộc: cực thịnh ở các vị vua đầu và suy yếu ở cuối triều Lý, vì các vị vua sau này đã đi lệch ra khỏi đạo sống quân bình, đánh mất truyền thống tín ngưỡng tâm linh đích thực

Page 288: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

287

của Phật giáo mà đắm chìm trong mê tín, dị đoan. Nhà Trần đã kịp thời phục hưng hệ tư tưởng này với vị vua học giả nổi tiếng Trần Thái Tông, rồi vua Trần Nhân Tông tiếp nối bằng khuynh hướng nhập thế “ Cư trần lạc đạo” đã đưa nước nhà đến thời kỳ cực thịnh, hùng mạnh, đã chiến thắng vẻ vang liên tiếp các cuộc xăm lăng của quân Mông Cổ và mở rộng bờ cõi về phương Nam. Triết lý Tam giáo đồng nguyên do các vị vua Phật tử và các vị Thiền sư nổi tiếng đã khéo léo vận dụng hài hòa, sáng tạo tinh hoa của ba nguồn tư tưởng lớn Đông phương với Việt tính, có tính cách cởi mở: vừa có tính dân tộc, vừa nhân bản khai phóng thịnh hành suốt thời đại Lý Trần, nhưng đến thời hậu Lê và Nguyễn thì Nho giáo được đưa lên địa vị chính thống với tư tưởng bế quan thay vì khai phóng như truyền thống Tam giáo trước đó. Trào lưu bế quan hẹp hòi này là do ảnh hưởng của Tống Nho, độc tôn Nho giáo mà bài bác các tư tưởng khác. Tình trạng ấy đã được bậc danh Nho Lê Quý Đôn phân tách như sau: “ Hồi quốc sơ ( tức Lê Thái Tổ ) sau thời nhiễu nhương, bọn nhà Nho thưa thớt. Những người làm đến chức Thị, Tụng như các ông Thiên Tích, ông Bùi Cẩm Hổ đã rực rỡ khí phách anh hào, lại sẵn lề can đảm dám nói. Những người mến thú lâm tuyền như ông Lý Tử Cấu, Nguyễn Thì Trung đều một niềm giữ tiết tháo trong sạch, không chút lòng mơ tưởng giàu sang. Đó là một thời kỳ. Trong khoảng đời Hồng Đức ( 1470-1497 ) việc mở rộng đường khoa mục thành long trọng để kén nhân tài. Học trò bèn đua nhau thiên về mặt văn hay, chỉ cốt thêu chạm lời phú câu thơ cho đẹp, hầu mong lấy bảng cao chức trọng cho sang, còn phần khí tiết khảng khái thì đã cảm thấy tan tác hủ suy. Nhưng vì đường sủng vinh rộng mở thì cách khóa lệ cũng nghiêm, ai điềm tĩnh thì tự nhiên được cất nhắc; kẻ chạy chọt cầu cạnh thì bị cách phạt. Bởi vậy người làm quan bấy giờ ít thói bon chen, mà thiên hạ còn biết quí danh nghĩa. Đấy là một thời kỳ nữa. Từ thời Đoan Khánh ( 1505 ) trở về sau, lối thanh nghị suy kém quá, thói luồn cúi ngày càng thịnh dần. Kẻ quyền vị ít có người giữ được lễ liêm khiết nhún nhường, nơi triều đình ít thấy lời dám can ngăn kích khiết; gặp việc khó thì chịu hèn để khỏi bận bịu; thấy cơ nguy thì bán nước để cầu an, cả đến bậc gọi là danh Nho cũng yên lòng nhận lấy cái vinh sủng bất nghĩa, mà vẫn còn thi ca đi lại, khoe hay khoe đẹp với nhau. Phong thái sĩ phu thật hỏng nát không bao giờ bằng thời này. Sự tệ hại của cuộc biến chuyển này không thể nói xiết được. Tìm trong khoảng trên dưới một

Page 289: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

288

trăm năm quốc sử này, lấy những bậc đáng gọi là cao sĩ, thì chỉ được có vài người như bọn ông Lý Tử Cấu, thật đáng ngán cho những bậc phong tiết ít thấy quá vậy.” ( Lê Quý Đôn- Kiến văn tiểu lục ) Sau khi phân tách, nhận thấy tình trạng suy thoái do nạn Nho học độc tôn, chuộng tục học mà bỏ mất cái gốc đạo đức tâm linh thực hiện của Thiền học, Tam giáo thời Lý Trần, Lê Quý Đôn phản tỉnh viết tiếp: “ Phép dạy đời của Thánh hiền lấy đạo trung làm gốc. Những điều cương thường, luân lý, lễ, nhạc, hình chính đều là trời đất lập nên, và do vua chúa, thánh hiền làm sáng tỏ. Theo tính tình tự nhiên để sửa sang những đạo lý dạy đời, ấy là mục đích cùng tột xưa nay vậy. Các bậc thánh nhân giảng học để làm sáng tỏ đạo trời, để làm ngay thẳng lòng người. Còn như tìm việc lạ lùng, bàn về quỉ quái, không phải là công việc thông thường của các Ngài, nên các Ngài chỉ bàn đến những lẽ phổ thông là không cho người đời thêm mê hoặc. Giáo lý của Phật, Lão chuộng sự thanh đạm, thoáng không mọi sự, siêu việt ra ngoài thế tục, tịch diệt hết mọi trần duyên không để sự vật bên ngoài làm bận thân tâm: Đó cũng là cách độc thiện kỳ thân của các bậc cao minh, và những lời cao siêu về đạo đức, những lời sâu rộng về hình, thần, đều có ý nghĩa sâu xa, huyền diệu. Bọn nhà Nho ta nếu cứ giữ định kiến phân ra đạo nọ, đạo kia, mà điều gì cũng biện bác chê bai thì sao nên? Chỉ mới ở trong cõi chín châu này mà thổ nghi cùng dân tính đã mỗi nơi một khác. Huống hồ trên thì trời cao vọi vọi, giữa thì đất rộng bao la, những sự biến hóa ở đấy lớn lao, mới lạ, huyền ảo, kỳ quái, còn có giới hạn nào? Lấy tấm thân nhỏ bé của người ta, thì dẫu có tài hoa ăn nói dọc ngang suốt tám cực, hút thở được cữu hoàn, nhưng dù thế nào đi nữa kiến thức cũng vẫn chưa đủ rộng. Đã thế mà đối với những sự biến hóa kỳ dị của quỉ thần, và của các loài động vật, thực vật chép trong sách xưa, cùng những hình trạng ở các nước xa xôi, những vật tượng ở cõi thiêng liêng đều nhất thiết không tin; quá lắm lại có kẻ dám bỉ báng cả Tiên với Phật, sao mà ngu tối tự đắc thế nhỉ?” ( Lê Quý Đôn- Kiến văn tiểu lục ) Đó là vài nét mô tả sự khủng hoảng tư tưởng thời hậu Lê với Nho giáo độc tôn, bế quan tương phản hẳn với hệ tư tưởng khai phóng Tam giáo thời Lý Trần. Đến thời Nguyễn thì cái đà xuống dốc ấy vẫn tiếp tục, chuộng hình thức nông cạn mà sao lảng nội dung thâm sâu đến nỗi không còn khả năng thâu hóa sáng tạo, óc độc tôn thiển cận cho rằng chỉ có ta là đáng kể, còn các dân tộc khác là man rợ ( do ảnh hưởng của Trung quốc,

Page 290: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

289

họ sai lầm, ta cũng sai lầm theo ), rồi chính sách bế môn tỏa cảng làm mất nước về tay đế quốc thực dân Tây phương vào năm 1862. Ông Phan Thanh Giản ở đầu thế kỷ XX đã phải than thở rằng: “ Vạn dân nô lệ cường quyền hạ, Bát cổ văn chương túy mộng trung.” ( Trong khi muôn dân nô lệ dưới cường quyền thống trị, mà giới sĩ phu cứ mãi miết mê say văn thơ sáo cổ ) Rồi ông Phan Chu Trinh trong bài phú “ Lương ngọc tất danh sơn” ( Ngọc quý ắt núi danh tiếng ) cũng lên tiếng cảnh tỉnh: “ Đời chuộng văn chương, Người tham khoa mục. Đại cổ, tiểu cổ, suốt tháng vùi mài. Ngũ ngôn, thất ngôn, quanh năm lăn lóc. Ngóng hơi thở của quan trường để làm văn sách: Chích có thể phải mà Thuấn có thể sai; Nhặt dãi thừa của người Tàu để làm từ phú, biền thì phái từ, ngẫu thì phái lục; Tíu tít những phường danh lợi, chợ Tề chực đánh cắp vàng; Lơ thơ bao kẻ hiền tài, sân Sở luống buồn dâng ngọc; Ấy chẳng riêng gì kẻ vị thân gia, tham lợi lộc, Mà lại đến cả mấy ngàn kẻ quần chùng áo rộng trong một nước, Lùa vào mấy ngàn vạn nơi hắc ám địa ngục.” Năm 1925 ông Phan Chu Trinh kêu gọi mọi người thẩm định lại các hệ thống luân lý, đạo đức, giá trị Đông Tây để tìm lấy một ý thức hệ mới đúng đắn cho dân tộc. Trong bài diễn thuyết “ Đạo đức và luân lý Đông Tây ” ông nói: “ Có người hỏi luân lý ta mất thì đem luân lý của Âu châu về mà dùng hẳn có được không? Tôi xin trả lời rằng: không! Một nước luân lý cũ đã mất là một nước không có cơ sở, nay đem luân lý mới về thì biết đặt vào đâu? Vẫn biết phép chắp cây của người Tây tài tình thật, nhưng nay đem một cây tươi tốt như cây luân lý ở các nước bên Âu Tây kia mà chắp với một cây đã cằn cọc như cây luân lý ở nước Việt Nam ta thì tưởng cũng không tài nào sinh hoa tươi, quả tốt được. Muốn cho sự kết quả về sau được tốt đẹp, tưởng trước khi chắp cây cũng nên bồi bổ cho hai bên có sức lực bằng nhau đã . Tôi diễn thuyết hôm nay là cốt ý mong anh em nên cứu chửa lấy cây luân lý cũ của ta, rồi sẽ đem chắp nối với cây luân lý của Âu châu vậy ”.

Page 291: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

290

Phan Chu Trinh cũng nói: “ Đem văn minh đây là đem cái chân văn minh ở Tây hòa hợp với chân Nho giáo ở Á đông...” Như vậy thì “ cây luân lý ” cũ của ta theo Phan Chu Trinh là Nho giáo. Quan điểm này cũng vẫn hạn hẹp theo như phân tích của Lê Quý Đôn, mà phải trở về với giá trị của Tam giáo làm cơ sở thay vì Nho giáo độc tôn, cho dầu là chân Nho đi nữa, bởi vì Nho mà không Phật thì dễ sa vào chủ nghĩa hình thức, còn Phật mà thiếu Nho thì dễ đi đến mê tín, dị đoan. Triết lý Tam giáo đồng nguyên là một tổng hợp thành công ba nguồn tư tưởng lớn của Đông phương một thời. Sự tổng hợp mà chúng ta nói đến không diễn ra ở Ấn Độ, hoặc ở Trung quốc mà ở tại đất nước Việt Nam, một đất nước mà như Vô Ngôn Thông đã nhận định: “ Tây Thiên đất này, Đất này Tây Thiên ” Như vậy sự thành công của sự tổng hợp ba nguồn tư tưởng nói trên còn do một yếu tố quyết định tiềm ẩn là Việt tính. Việt tính trình bày nơi đây được hiểu theo hai nghĩa quan trọng: -Việt tính tức thể tính người Việt, là quốc hồn quốc túy của người Việt. -Việt tính hay siêu việt tính, một khả năng siêu việt của nhân loại nói chung không phân biệt chủng tộc, khả năng vượt qua mọi trở ngại, mê lầm để khám phá chân lý, khả năng phản tỉnh, giác ngộ. Việt tính tuy ẩn phục, tiềm tàng nhưng lại là yếu tố quan trọng, không có nó thì sự tổng hợp khó thành tựu mà lại vô nghĩa. Nói theo luận điệu sách Trung dung: “ Tiềm tuy phục hỹ diệc khổng chi chiêu ” (Ẩn náu tuy nằm ở dưới mà cũng lại là cái sáng tỏ lớn lao ) Đó là năng lực nội tại, ẩn náu tận đáy lòng, tạo thành tầng lớp tâm lý thâm sâu mà ý thức chưa biết đến. Tuy vậy nó đã kết đọng từ hàng ngàn năm nay thành quốc hồn kiên cố, nhờ có nó sự tổng hợp tư tưởng mới trở thành một nhất trí, cho nên chúng ta có thể đề nghị một hệ thức như sau xem như là điều kiện để cho sự tổng hợp tư tưởng thành công và có ý nghĩa: Việt tính phải có ưu tính ít nhất là bằng hay trội hơn các thành phần tổng hợp. Đó là điều kiện nền tảng của mọi sự tổng hợp theo qui luật quân bình để có sự điều hòa, nếu không thành phần nào cũng muốn giành ưu thế cho mình thành ra thay vì hòa hợp để có sức mạnh tổng hợp cho dân tộc lại đưa đến tình trạng tranh chấp, chia rẻ, rồi tan rã. Do đó cũng có người đặt vấn đề, tại sao lại phải du nhập nhiều dòng tư tưởng khác biệt làm gì cho rắc rối, chỉ cần chọn một có phải tiện hơn không? Thế rồi hết Tống Nho độc tôn lại đến chuyên chính vô sản, từ khuynh hướng tư tưởng độc tôn Đông phương chuyển qua khuynh hướng

Page 292: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

291

tư tưởng độc tôn Tây phương đều không phù hợp với đạo sống quân bình truyền thống dân tộc. Đã là triết học danh lý thì không có một hệ thống lý thuyết nào hoàn chỉnh cả, vì nó có khuynh hướng lý luận lấy những khái niệm, những phạm trù cố định làm qui luật để phân định thực tại, mà trong khi đó thực tại lại biến dịch không ngừng. Cho nên trong lịch sử triết học, nhất là triết học Tây phương có nhiều học thuyết khác nhau lần lượt ra đời, thịnh hành một thời rồi lại bị lý thuyết khác xuất hiện phủ định ngay. Với quan điểm của đạo quân bình, người ta có thể nhận ra ngay lý do, bởi vì các khuynh hướng đó càng khai triển thì càng xa rời khỏi mực Trung là nơi qui định Chân lý tuyệt đối. Cho nên tư tưởng độc tôn sẽ đi đến bế tắc ( sẽ nghiên cứu ở qui luật biện chứng ). Trở lại triết lý Tam giáo đồng nguyên, hệ thống này đã tổng hợp ba dòng tư tưởng xem ra như mâu thuẫn, một đàng xuất thế, một đàng nhập thế vào một nhất trí ở ý thức tâm linh vũ trụ trên nền tảng Việt tính. Với nền tảng này, các thành phần của sự tổng hợp đã dần dần được Việt hóa chứ không còn nguyên gốc nữa, cho nên mới có Phật giáo Việt Nam, Nho giáo Việt Nam hay Việt Nho. Đó là khả năng thâu hóa sáng tạo trong lịch sử tư tưởng Việt Nam và khả năng này chỉ có trên cơ sở Việt tính vững chắc mà thôi. Vua Trần Thái Tông đã viết như sau trong “ Phổ khuyến phát Bồ đề tâm ”: “ Đừng hỏi ai là đại ẩn, ai là tiểu ẩn; khoan phân biệt hạng tại gia, hạng xuất gia. Không nên câu chấp vào danh xưng tăng với tục, chỉ cần phân tích cái tâm, vốn nó không có chia ra tâm con trai, tâm con gái mà sao còn nên chấp vào hình tướng? Người chưa sáng thì lầm phân biệt ra Tam giáo, nhưng hễ hiểu thấu triệt được thì đều giác ngộ có một tâm.” Ở “ Kim Cương tam muội kinh tự ” Ngài cũng viết: “ Điều hòa các ý vị thành cái vị tối cao không có vị nào hơn được, trộn các dòng nước làm thành một dòng không hai, chuyển cái tâm vọng niệm sai lầm, nối nhập vào cái tạng thức Như Lai, tức là ý thức vũ trụ.” ( Hòa chư vị thành vô thượng vị, giảo quần lưu tác bất nhị lưu, chuyển hồi biến kế vọng tâm, tiếp nhập Như Lai tạng thức ) Hơn thế nữa, nhà vua còn chủ trương thực hiện, không phải chỉ bằng lý thuyết, mà bằng cả thực nghiệm tâm linh theo tinh thần Thiền học: “ Ở trong thế giới ảo tưởng cũng gọi là chân tướng, nằm trong cái thân phàm tục ấy cũng là thể của đạo rồi. Phá sáu giặc là giác quan và ý thức phổ thông làm ra sáu trực giác thông suốt, chơi nơi tám cảnh khổ, sống, chết tạo nên tám cảnh tự tại Niết Bàn.” ( Cư ảo sắc diệc danh chân sắc, xử

Page 293: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

292

phàm thân dã thị pháp thân, phá lục tặc vị thần thông, du bát khổ tác bát tự tại ) ( Phổ thuyết sắc thân ). Đó cũng là tư tưởng “ Bất nhị pháp môn ”, cho nên không thể chỉ căn cứ vào lý thuyết ảo hóa ( Maya ) mà kết luận rằng Phật giáo bi quan, yếm thế một cách đơn giản bởi vì ở tư tưởng “ bất nhị pháp môn ”, Phật giáo đã đồng hóa thế giới ảo tưởng với chân tướng rồi. Trong khi đó thì Siêu hình học cổ điển Tây phương bắt đầu từ Platon với thuyết về “ hai thế giới ” đã phân đôi thực tại thành một đàng là thế giới hiện tượng biến dịch bị coi nhẹ, còn một đàng là thế giới ẩn tượng vô hình, thế giới bên kia được tôn thờ và chỉ coi đó mới là thực tại. Chỉ cần so sánh riêng ở điểm này, chúng ta cũng thấy ngay tính cách sâu sắc của triết lý Tam giáo đồng nguyên rồi. Nhưng như đã nói hệ tư tưởng này đã hoàn thành xuất sắc sứ mạng lịch sử của nó trong một thời kỳ nhất định, khi ấy người Việt đã bỏ qua giai đoạn triết lý nhị nguyên tiến ngay lên đạo học nhất nguyên để nhập vào ý thức tâm linh vũ trụ. Ngày nay tình trạng này không còn có được nữa, vì khả năng trực giác nguyên thủy của con người không còn nhạy bén như xưa, mà muốn đạt đến chân lý, người ta phải cần đến lý luận. Do đó ngay từ bây giờ triết học trở nên cần thiết. Triết học là phương tiện, là phương pháp tư tưởng của con người để đạt đến Chân lý. Vậy triết học là gì?

Định nghĩa triết học Danh từ triết học xuất phát từ triết học Tây phương, do chữ philoso- phia gốc Hy Lạp, có nghĩa là mến chuộng sự khôn ngoan ( Philosophia= Philein + sophia: mến chuộng + sự khôn ngoan ). Đó là ý nghĩa nguyên thủy của danh từ triết học. Danh từ đó dường như được Pythagoras ( 570- 496 ) sử dụng đầu tiên và cũng được thấy xuất hiện trong những sấm ngôn của Heraklit ( 544-484 ). Theo Platon ( 427-347 ) thì nhà hiền triết là người biết rằng sự hiểu biết của mình có giới hạn, nhưng chan chứa lòng mến yêu sự thông thái, luôn luôn tìm kiếm và nổ lực đạt đến tri thức khả dĩ cao nhất. Theo Aristoles ( 384-322 ) thì đệ nhất triết học ( prima philosophia ) là bộ môn nghiên cứu về những nguyên nhân và những nguyên lý đầu tiên của hữu thể, nó cũng liên hệ đến toàn thể thực tại và nêu lên những vấn đề căn bản của tính thể con người. Danh từ triết học mà chúng ta đang nói đến là lấy từ chữ Hán Việt. Chữ “ Triết ” do chữ “ chiết ” là bẻ gẫy và chữ “ khẩu ” là miệng hợp lại theo lối chiết tự. Triết theo nghĩa đen là dùng miệng, tức lời nói mà bẻ gẫy. Theo nghĩa bóng là dùng ngôn ngữ để diễn đạt minh bạch, khúc chiết tư tưởng. Còn chữ “ lý ” nghĩa đen là những đường gân nằm trong tản đá,

Page 294: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

293

những ống dẫn nhựa trong thân cây, những mạch nước chảy ngầm dưới đất. Nghĩa bóng nói rằng cái lý thường ẩn khuất, tiềm ẩn bên trong mọi sự vật , cho nên muốn thấu rõ cái lý của sự vật như thế nào phải mổ xẻ, phân tách cho tận tường. Người ta cũng có thể tác động lên sự vật bằng cách nào đó để xem chúng phản ứng như thế nào hay nói cách khác là khéo khêu gợi để cho sự vật tự bộc lộ ra những đặc tính của chúng. Quá trình lịch sử triết học cho thấy rằng triết học không nhắm vào một lãnh vực hiểu biết nào, mà được hiểu là một khoa học nghiên cứu về những nguyên nhân sâu xa nhất, những nguyên tắc bao quát nhất của nhận thức, của hữu thể và về những qui luật chung nhất của thế giới tự nhiên, của xã hội loài người. Triết học cũng bao hàm chức năng phê phán, nhận định, thẫm định về giá trị, đạo đức, luân lý để có thái độ sống đẹp đẻ và hành động đúng đắn để xứng đáng con người là con người. “ Đường vào triết học Việt Nam ” chủ trương kế thừa và phát huy truyền thống tư tưởng dân tộc dựa trên căn bản đạo sống quân bình, tiếp thu có chọn lựa, sáng tạo những tinh hoa tư tưởng nhân loại, chuyển hóa chúng theo nhu cầu của dân tộc. Như vậy điều quan trọng không phải là chọn một học thuyết ngoại lai nào đó để độc tôn làm chủ đạo, nhất là những học thuyết có quan điểm hẹp hòi, thiên lệch không phù hợp với đạo sống quân bình của dân tộc, mà vấn đề là phát huy Việt tính. Ngay cả người bình dân cũng đã từ lâu sáng suốt nhận định rằng: “ Khôn thời trong trí lượng ra, Dại thời học lõm người ta bề ngoài.” Hành động “ trong trí lượng ra ” chính là hành động phát huy Việt tính. Như đã nói Việt tính gồm có hai ý nghĩa: -Việt tính là hồn nước, là dân tộc tính của người Việt. -Việt tính là khả tính siêu việt, vượt qua mọi chướng ngại, mê lầm để vươn tới Chân, Thiện, Mỹ. Đó là khả tính chung của nhân loại, cho nên có thể nói “Đường vào triết học Việt Nam” cũng là “ Nhập môn triết học” nói chung. Muốn đạt đến một nền triết học như vậy, trước hết cần phải khai quang ra con đường với những điều kiện thuận lợi và sau đó làm nổi bật nội dung của nền triết học đó bằng những nguyên lý, những qui luật nền tảng.

Quan điểm Quan điểm là điểm xuất phát quy định phương hướng, phạm vi nghiên cứu, suy nghĩ, nhận thức các hiện tượng, các sự việc, các vấn đề Có nhiều

Page 295: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

294

quan điểm khác nhau, tuy nhiên nếu căn cứ vào đặc tính của chúng người ta có thể phân biệt ra hai loại : quan điểm hẹp và quan điểm rộng. Trong nền văn học bình dân, có câu tục ngữ sau đây: “ Ếch ngồi đáy giếng thấy trời bằng vung.” Câu này nhằm phê phán những người có quan điểm hẹp hòi, thiển cận. Như vậy đối lập với quan điểm này phải có quan điểm khoáng đạt, rộng rãi, bao quát hơn. Thật vậy bên cạnh truyền thuyết “ Con rồng cháu tiên”, nói lên thuyết âm dương sáng tạo, sinh thành, đề cao Việt tính còn có truyền thuyết cho rằng người Việt Nam thuộc dòng giống Lạc Hồng. Lạc do tên của nhóm Lạc Việt và Hồng do tên nhà Hồng Bàng ( 2879- 258 ). Ông Đào Duy Anh cho rằng: “ Nhóm Lạc Việt ấy đã thường tự sánh mình với một giống chim hậu điểu cứ đến mùa gió bấc lạnh lẽo cũng rời bờ biển Giang Nam với họ và tiến xuống miền Nam, đến khi mùa đông trở về thì chim và người cũng quay lại chốn cũ. Dần dần trong tâm lý của họ phát sinh ra quan niệm tô tem ( giống chim Lạc là giống chim hậu điểu về loài ngỗng trời ). Họ nhận giống chim Lạc là vật tổ nên lấy tên của giống chim này đặt cho thị tộc của mình. Rồi họ mang lông chim Lạc ở đầu và ở mình, lại trang sức thuyền của họ thành vật tổ hoặc đeo khắp nơi trong thuyền những huy hiệu vật tổ cốt để cầu một sự hộ vệ của vật tổ trong khi lăn lóc giữa sóng gió bể khơi. Ngày nay người ta thấy mặt trống đồng Ngọc Lư có chạm các hình ảnh này.” Còn Hồng là tên một thứ chim nước to hơn chim nhạn, cánh đen, bụng trắng, có màu tro, tính mạnh dạn, thính giác lanh lẹ. Sách cổ thường nói chim Hồng tức con Hồng hộc là loài ngỗng trời. Về hình ảnh chim Hồng hộc, ĐVSKTT có viết một sự việc liên quan trong cuộc rút quân khỏi mặt trận Nội Bàng trong thời kỳ kháng chiến chống quân Mông Cổ như sau: “ Trước đây Hưng Đạo Vương có gia nô tên là Dã Tượng và Yết Kiêu. Ông đối đãi họ rất hậu. Khi quân Nguyên đến, Yết Kiêu giữ thuyền ở Bãi Tân. Dã Tượng thì đi theo Hưng Đạo. Lúc quan quân thua trận, quân thuyền đều giải tán. Vương muốn theo lối chân núi mà đi. Dã Tượng nói: “Yết Kiêu chưa thấy Đại vương, tất không dời thuyền chỗ khác.” Vương đi ngay đến Bãi Tân, chỉ có thuyền của Yết Kiêu còn đấy. Vương mừng lắm, nói rằng: “ Chim Hồng hộc có thể bay cao được là nhờ vào sáu trụ xương cánh. Nếu không có thì cũng như chim thường thôi.” Vương nói xong thì thuyền chèo đi, quân kỵ của giặc đuổi theo không kịp. Vương đến Vạn Kiếp, chia quân đóng giữ Bắc Giang.”

Page 296: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

295

Như vậy nói chung thì Lạc Hồng chỉ loài chim có đặc tính mạnh dạn, nhanh nhẹn, thính giác nhạy bén, có khả năng bay cao khắp bầu trời một cách tự do. Đó là biểu tượng của sức sống hiếu động, lòng khao khát tự do của một dân tộc và đồng thời cũng khêu gợi cho mọi người biết rằng, phải có quan điểm của con chim Lạc Hồng bay trên bầu trời cao rộng, chứ không nên có quan điểm của con ếch hẹp hòi, thiển cận. Quan điểm đóng vai trò rất quan trọng trong nhận thức, nó giúp con người mở rộng tầm nhìn, khai phóng tư tưởng hoặc thu hẹp nhãn quan, đưa đến khuynh hướng bế quan. Trong công việc tìm tòi Chân lý, thẩm định giá trị, người ta luôn luôn thận trọng, cân nhắc kỹ càng để tránh sai lầm đáng tiếc, cũng có khi đưa đến tai họa. Tục ngữ Việt Nam có câu: “ Trật một ly, đi một dặm.” Về vai trò quan trọng của quan điểm trong nhận thức, chúng ta có thể lấy câu viết sau đây của Lưu Hy vào khoảng những năm 196-219 làm thí dụ để nhận định: “ Di man chi quốc, độ việt lễ nghĩa, vô sở câu giả.” ( Một nước mọi rợ, vượt khỏi lễ nghĩa, không có câu thực ). Viết ra câu này, Lưu Hy đã đứng trên lập trường, quan điểm của người Hán cổ xúy cho chính sách văn hóa nô dịch của đế quốc phong kiến phương Bắc. Người Hán khi xưa, với lòng tự tôn đã xem đất nước của họ là trung tâm của trời đất, gọi các dân tộc khác là man di cũng như gọi người da trắng là bạch quỷ. Với quan điểm trịch thượng như vậy thì câu giải thích “ vượt khỏi lễ nghĩa, không có câu thực ” có nghĩa là chê dân Việt sống vượt vòng lễ nghĩa, không có văn minh. Bây giờ đứng trên lập trường dân tộc Việt với quan điểm “ con chim Lạc Hồng ” thử xoay ngược lại vấn đề và đặt câu hỏi rằng thứ lễ nghĩa mà Lưu Hy đã viết kia là lễ nghĩa của ai mới được? Điều này thật quá rõ ràng, lễ nghĩa đó dĩ nhiên là của người Hán nằm trong chính sách văn hóa nô dịch, mà người Việt cương quyết chống lại và vượt qua. Cho nên khi đối chiếu tài liệu lịch sử Việt với tài liệu lịch sử do người Hán viết, ngoài việc phối kiểm sự kiện lịch sử còn phải để ý đến quan điểm nữa. Thời đó, nếu đem so sánh quan niệm của giới Nho sĩ như Lưu Hy với gới Phật tử như Mâu Tử qua “ Lý hoặc luận ” chẳng hạn, chúng ta nhận thấy một tình trạng khác hẳn. “ Lý hoặc luận ” đã nêu lên tính giới hạn của các qui định điển huấn trong hiếu kinh của Nho giáo. Ví dụ về chữ hiếu với qui định “ Thân thể tóc da nhận từ cha mẹ, không dám tổn thương ”, mà “ nay sa môn cạo đầu, sao trái với thánh nhân ”. Mâu Tử kể chuyện “người Tề đi thuyền, cha rơi xuống sông uống nước. Người con xách cha

Page 297: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

296

mình chúc đầu lộn ngược cho nước từ trong miệng chảy ra ”, người cha được cứu sống. Nhưng việc “ chúc đầu cha lộn ngược thì không gì bất hiếu hơn ”, mà nếu không làm như thế thì người cha sẽ chết. Ở chỗ khác của hiếu kinh có qui định “ Nam nữ thụ thụ bất thân ” nhưng khi chị dâu bị chết đuối, em chồng phải thò tay cứu sống. Như vậy các qui định điển huấn đều có tính giới hạn, cho nên tuân theo một cách máy móc sẽ đưa đến những hậu quả tai hại không lường được. “ Lý hoặc luận ” của Mâu Tử cũng khẳng định rằng đất Hán chưa chắc là trung tâm của trời đất ( Hán địa vị tất vi thiên trung ) để bác bỏ tư tưởng về địa vị độc tôn của người Hán. Về sau, Thiền uyển tập anh có ghi lại câu chuyện ngoại giao giữa vua Lê Đại Hành với nhà Tống như sau : “ Năm Thiên Phúc thứ 7 (986 ), người Tống là Nguyễn Giác ( Lý Giác ) sang sứ nước ta. Bấy giờ Pháp sư Đỗ Thuận cũng có tiếng tăm lẫy lừng. Vua sai Pháp sư cải trang làm người lái đò để nghinh đón Giác ở Giang Khúc. Giác thấy Pháp sư giỏi văn chương, bèn đem thư tặng, có câu: “ Ngoài trời lại có trời soi rạng ” ( Thiên ngoại hữu thiên ). Vua đưa hỏi sư. Sư thưa rằng: “Đây nó muốn tôn kính Bệ hạ cùng với chúa nó không khác ”. Về Thiền sư Viên Chiếu ( 999-1090 ), Thiền uyển tập anh cũng có ghi một đoạn như sau: “ Sư ( Viên Chiếu ) từng soạn “ Dược sư thập nhị nguyện văn ”. Vua Lý Nhân Tôn lấy bản thảo của Sư, sai sứ đem sang Triết Tôn ( vua Tống ). Triết Tôn cho mời Pháp sư Cao tòa chùa Tướng quốc đến xem, xem xong liền chắp tay lạy, mà nói rằng: “ Phương Nam có bậc Đại sĩ nhục thân ra đời, ấy là vị Pháp sư khéo giảng kinh điển vậy. Bần đạo đâu có thể dám thêm bớt. Nhân đó chép lại một bản, rồi giao trả bản cũ. Sứ giả trở về thuật lại vua nghe, vua rất khen thưởng ”. Như vậy ngay từ những thế kỷ đầu của lịch sử Việt Nam đã có hai quan điểm khác nhau về đất nước và con người này. Phật giáo với Mâu Tử, một đại diện xuất sắc đã dứt khoát chọn lựa và đứng hẳn vào hàng ngũ của dân tộc, mở ra mặt trận văn hóa đối kháng chống lại văn hóa nô dịch của người Hán và sau này đã được các Thiền sư tiếp tục khai triển, đã đạt được nhiều thành tích vẻ vang trên các mặt trận văn hóa, ngoại giao và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Trong khi đó lại có những Nho sĩ như Lưu Hy tiếp tay với thế lực ngoại xâm trong chính sách văn hóa nô dịch của đế quốc mà người Việt dứt khoát bác bỏ, chống lại đến cùng vì họ đã có một nền văn hóa cũng như nền luân lý, đạo đức tốt đẹp riêng, nó đã bao đời kết tụ thành một nền tảng vững chắc mà không một cơn lũ nào có thể dễ dàng cuốn đi được, trái lại sau mỗi cơn lũ , phù sa lại còn tài bồi làm cho mảnh

Page 298: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

297

đất vốn đã phì nhiêu lại càng phì nhiêu thêm. Về điểm này, chúng ta thấy nổi bật lên một đặc tính là người Việt chống lại nền văn hóa nô dịch xấu xa, chứ không bao giờ chống lại nền văn hóa tự thân, bởi vì như đã từng nói rằng Việt Nam có nền văn hóa nhân bản, khai phóng sáng tạo chứ không bế quan, mở rộng từ phạm vi dân tộc cho đến nhân loại nói chung và sau cùng là vũ trụ đại đồng. Người Việt cũng có lập trường rất rõ ràng là chống lại chính sách đế quốc xăm lược, chứ không chống lại bất kỳ chủng tộc nào, và chủ trương giao hảo với mọi dân tộc trên nguyên tắc bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau. Bàn về quan niệm trung quân ái quốc cũng nên phân biệt hai quan điểm hẹp, rộng khác nhau: Quan điểm hẹp: những người chịu ảnh hưởng lý thuyết chánh vì vương, tức thuyết kế thừa huyết thống Ngọc hoàng Thượng đế, trung thành với điển huấn cứng nhắc như “ Trung thần bất sự nhị quân ” hay “ Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung...” chủ trương tôn quân triệt để, đặt quyền lợi của nhà vua và hoàng tộc lên trên quyền lợi của đất nước. Do cố chấp vào quan niệm thiển cận này mà khi một chế độ, một triều đại đến thời kỳ mục nát, suy thoái trầm trọng vẫn có người mù quáng trung thành, muốn duy trì, cứu vãn cho nên đã cầu cứu với ngoại bang khiến nước nhà bao phen nguy khốn. Sự kiện này đã được văn học bình dân lên tiếng cảnh giác: “ Rước voi dày mả tổ ” hay: “ Cõng rắn cắn gà nhà ” Ý nghĩa của hai câu này không những ám chỉ loại giặc xăm lược thông thường, mà còn lưu ý đến loại giặc còn nguy hại hơn nhiều là ý thức hệ, văn hóa nô dịch, gây mâu thuẫn, chia rẽ dân tộc, đưa đến cảnh “ nồi da xáo thịt”, cho nên văn học bình dân đã kêu gọi: “ Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau ” Quan điểm rộng: Trung quân có nghĩa là trung với chức vị lãnh đạo của ông vua, chứ không phải trung thành với cá nhân ông vua đó. Với quan niệm này, đất nước, dân tộc được đặt trên cá nhân ông vua, hoàng tộc, chế độ. Cho nên khi một ông vua vô minh, bạo ngược, một chế độ, một triều đại thoái hóa, mục nát thì người dân có quyền và có bổn phận hạ xuống để đưa ông vua khác, chế độ khác, triều đại khác lên thay. Vua Trần Thái Tông, vị vua anh minh, từng lãnh đạo quân dân nước Đại Việt đánh bại cuộc xăm lăng lần thứ nhất của quân Mông Cổ vào năm

Page 299: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

298

1257 đã quan niệm: “ Lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, tâm thiên hạ làm tâm mình ” ( Dĩ thiên hạ dục vi dục, thiên hạ tâm vi tâm ). Quan niệm này có chỗ tương đồng với chủ trương “ Dân vi quý ” của Mạnh Tử, nhưng ở đây với cương vị là một nhà vua, Trần Thái Tông đã tự thể hiện quan niệm của mình thành hiện thực qua sự nghiệp chính trị, trực tiếp đem ấm no, hạnh phúc, thanh bình cho nhân dân, cường thịnh cho đất nước. Về điểm này, văn học bình dân cũng có ý tưởng như sau: “ Quan nhất thời, dân vạn đại ” để nói lên cái thế lâu dài của quần chúng nhân dân đối với vua quan, chính quyền, chế độ. Rồi quan điểm về giai cấp cũng chỉ là quan điểm thu hẹp mà thôi nếu so với quan điểm dân tộc chứ chưa nói đến những quan điểm mở rộng hơn nữa như nhân loại, chúng sinh, vũ trụ đại đồng. Tính cách tương đối của mâu thuẫn trong tình trạng giai cấp ở xã hội Việt Nam được văn học bình dân ghi nhận như sau: “ Nhất sĩ nhì nông Hết gạo chạy rong Nhất nông nhì sĩ ”

Nền tảng - Truyền thống dân tộc Một nền triết học mong muốn cần phải dựa vào truyền thống dân tộc, xem như nền tảng. Nền tảng này có vững chắc thì khả năng thâu hóa sáng tạo mới phát huy được, mới có ý nghĩa, nếu không thì sự tiếp thu chỉ có tính cách chắp nối, vá víu hoặc du nhập độc tôn một học thuyết ngoại lai làm lu mờ Việt tính. Nói đến khả năng thâu hóa sáng tạo là nói đến việc tiếp thu những tinh hoa tư tưởng nhân loại một cách có lựa chọn, rồi chuyển hóa chúng để hòa nhập vào cái vốn sẵn có của mình thêm phong phú, và đồng thời cũng nổ lực phát huy khả năng của chính mình thì mới có thể gọi là có nền tảng, có truyền thống dân tộc được. Sau cơn lụt, phù sa thường bồi đắp cho ruộng đồng, nhưng nếu không có nền tảng đất đai vững chắc thì phù sa bám vào đâu, mà còn có khi nạn đất lở, đất chùi làm sụp đổ cả nền tảng. Nói về cây cối, nếu không có cội rễ sâu dài, vững chắc, chỉ qua một cơn bảo lụt liền bị bật gốc rễ mà trôi đi. Tục ngữ có câu: “ Cây có cội, nước có nguồn ”. Câu này, tuy về hình thức thì đơn giản như chính cuộc sống của người dân quê mộc mạc, chất

Page 300: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

299

phác, nhưng ý nghĩa lại thâm trầm. Nó nhắc nhở con người luôn nhớ nguồn gốc của mình, bồi đắp cội rễ cho vững bền và khơi nguồn nưóc cho thông. Hình ảnh “ nước có nguồn ” thật vô cùng phong phú, nó chẳng những gợi lên nguyên lý nhân quả phổ biến: có nước là do có nguồn, mà có nguồn thì phải có nước và xa hơn nữa nó còn ám chỉ nguồn gốc căn nguyên của vũ trụ là Bản thể đại đồng, mà từ đó biểu hiện ra thế giới vạn vật thiên hình vạn trạng, trong đó có đất nước và con người. Hình ảnh “ cây có cội ” cũng có ý nghĩa tương tự. Cây cối mọc tốt tươi là nhờ có gốc rễ . Rễ có bám sâu vào lòng đất thì cây mới có thể hút đầy đủ nhựa sống , có thể đứng vững chắc, chống chọi với bão lụt để tồn tại. Hình ảnh “ rễ cây ” không những chỉ có trong văn học mà còn biểu hiện thành hiện thực trong cuộc sống: đó là những cây đa tàng lá xum xê, gốc rễ hùng vĩ đứng sừng sững mặc cho gió bão, đã bao đời che chở, bảo vệ những ngôi đình, chùa ở các làng xã trong khắp miền đất nước. Đặc biệt cây tre có gốc rễ rất vững chắc. Ngày xưa, ở miền Bắc Việt Nam người ta thường trồng tre để phân định ranh giới đất đai và qua nhiều đời những lũy tre xanh đã trở thành những hàng rào kiên cố để bảo vệ làng xã. Tương truyền rằng khi quân Pháp xâm lăng Việt Nam, lúc đánh vào miền Bắc, súng đại bác bắn không thủng nổi những bức tường thành thiên nhiên này, nên quân Pháp nghĩ ra mưu kế bắn vào đấy những đồng tiền vàng để khêu gợi lòng tham của những kẻ xấu. Quả nhiên những kẻ này trúng kế, tranh nhau lượm nhặt tiền vàng, bươi móc tận gốc rễ tre khiến cho cuối cùng phòng tuyến bị phá thủng. Câu chuyện này hư thực như thế nào không rõ, nhưng ngụ ý nói rằng kẻ xâm lăng muốn chiếm được đất nước này, họ phải đánh bật được tận gốc rễ cơ sở vật chất lẫn tinh thần của người dân bản xứ. Ngoài ra câu chuyện cũng còn cảnh giác người dân rằng lòng tham có thể làm cho nước mất, nhà tan. Bên cạnh cây tre, hình ảnh cây đước, cây mắm cũng rất đặc sắc ở ven sông, dọc bờ biển của nước Việt Nam. Cây đước có rễ dài, cứng, nhô lên cao; còn cây mấm có rễ chùm kiên cố. Đất phù sa vừa bồi tới đâu, những cây này bắt rễ mọc liền tới đó, rồi nhờ sự hiện diện của những cây này, đất do nước phù sa cứ tích tụ và bồi thêm mãi. Người ta nhận thấy đồng bằng sông Hồng Hà và sông Mã ở miền Bắc Việt Nam mỗi năm trung bình đất phù sa bồi ra biển tới 50 mét, vậy thì vào thời khuyết sử khoảng 4000 năm về trước, bờ biển còn lấn sâu vào nội địa so với tình trạng địa lý bây giờ tới khoảng 200 cây số. Ở miền Nam,

Page 301: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

300

phù sa sông Cữu Long lại còn nhiều hơn nữa, có thể bồi mỗi năm từ 80 mét đến 150 mét như bài thơ sau đây của Bàng Bá Lân đã cho biết: ... “ Đây mũi Cà Mau, Nơi tận cùng đất nước. Nơi Cữu long giang từ trên cao năm ngàn thước, Hàng năm âm thầm bồi đắp, Một triệu năm trăm ngàn thước khối phù sa... Mũi Cà Mau, một kỳ quan của nước Việt Nam ta, Cứ tiến mãi không ngừng ra biển cả, Cứ tiến mãi không ngừng từ thượng cổ, Và hàng năm xâm lấn của Long vương. Với một ngàn thước rộng bề ngang, Từ tám chục đến trăm năm mươi thước. Mũi Cà Mau tiến hoài ra mặt nước, Biển lui dần, chinh phục bởi phù sa. Nhìn cát lầy bồi đắp nước non ta, Ta sung sướng muốn nằm lăn trên đất. Muốn uống nước đục ngầu chất cát, Muốn nghiến nhai lá mấm rờn xanh. Nhìn đất thiêng lòng rộn rã bao tình, Ta vốc đất mới bồi lên, kính cẩn. Bọc vào mảnh khăn tay, ta thầm khấn, Cho đất lành bồi đắp mãi giang san. Và nhìn ra xa biển cả, hiên ngang, Ta tính trước khoảng không gian ta sẽ chiếm. Mũi Cà Mau là một thanh thần kiếm, Của Việt Nam chinh phạt sóng cuồng điên. Nước Việt ta rồi lớn mãi vô biên, Nhưng không phải như thực dân chiếm đất. Mà tấn công hẳn thiên nhiên bí mật, Mà xông ra biển cả lấp ngàn khơi. Với hàng năm hàng triệu tấn cát bồi, Ta thách cả thợ trời thi tạo tác. Ta vượt cả mọi công trình kiến thiết, Là vì ta có mũi Cà Mau, Vì chúng ta có sông Cữu nhiệm mầu. » Những hình ảnh trình bày trên đây vừa có tính cách tượng trưng mà cũng vừa có tính cách hiện thực. Ở đây cũng cần nói rõ là đặt vấn đề

Page 302: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

301

truyền thống dân tộc không có nghĩa là chủ trương bảo thủ triệt để đến nỗi đưa đến tình trạng bế quan, mà chỉ là muốn xây dựng một nền tảng dân tộc vững chắc, tạo điều kiện thuận lợi cho sự thâu hóa và sáng tạo để phát triển trong thế cân đối, quân bình.

Phản tỉnh và các yếu tố đưa đến phản tỉnh Phản tỉnh là một tác đông rất quan trọng trong sinh hoạt triết học, là cứu cánh của triết học, trong Phật giáo người ta gọi đó là giác ngộ. Muốn theo đuổi mục đích này, người ta phải khai quang ra một chân trời để có thể khai phóng được khả năng trực giác căn nguyên, khả năng siêu việt ( cũng là Việt tính ) tức khả năng siêu vượt qua những chướng ngại để đạt đến chân lý. Một trong những chướng ngại đó là thành kiến, một thành trì kiên cố giữ chặc con người trong đó, khiến cho họ chỉ thấy những gì giới hạn trong bốn bức tường đóng kín mà không nhìn thấy được vũ trụ bao la bên ngoài. Ở thiên « khứ cự » Trang Tử có nhận định như sau : « Thiên hạ đều biết tìm cái mà mình không biết, mà chẳng ai biết tìm cái mà mình đã biết ; đều biết chê cái mà mình cho là không phải, mà chẳng ai biết chê cái mà mình đã cho là phải ». Ông cũng đã tự dặt câu hỏi : « Biết đâu cái mà ta gọi là biết, lại chẳng phải là cái mà ta không biết ? Biết đâu cái mà ta gọi là không biết lại chẳng phải là cái mà ta biết ? ( Tề vật luận ) Như vậy hoài nghi rất cần thiết cho sự phản tỉnh, nhưng phải là thứ hoài nghi triết lý, chứ không phải bất kỳ sự hoài nghi nào. Bên cạnh hoài nghi triết lý còn có niềm tin triết lý, hai yếu tố này tác động qua lại biện chứng với nhau trong thế quân bình, có như thế mới có nổ lực đi tìm chân lý và có cơ hội khám phá chân lý. Nếu cái gì cũng hoài nghi thì sẽ đưa đến chủ nghĩa hoài nghi, ngược lại nếu chỉ duy có niềm tin thì sẽ dễ rơi vào sự mù quáng, mê tín. Không có gì tai hại bằng lòng tự mãn và tin chắc rằng cái gì mình cũng biết. Thật vậy, ngay đến nhà hiền triết Sokrates còn phải công nhận : « Điều mà tôi biết chắc, là tôi không biết gì cả ». Còn Khổng Tử lại phân biệt rõ cái biết và cái không biết : « Cái gì biết, thì biết là mình biết, cái gì mình chưa biết, thì cũng biết là mình chưa biết, đó là biết vậy » Thành kiến bao đời trở thành thói quen tư duy khiến cho con người rơi vào vọng tưởng, ngụy tín. Điều này rất nguy hại, cho nên vua Trần Thái Tông đã nói ở thuyết sắc thân- sách khóa hư như sau : « nhận tặc tác tử »

Page 303: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

302

( nhận giặc làm con ) Tục ngữ cũng có câu : « Bởi tin nên mắc, bởi chắc nên lầm » Bởi vậy phải biết thắc mắc như trẻ thơ trước mọi sự vật, cũng như phải biết ngạc nhiên trước mọi biến cố và đòi hỏi chúng phải trả lời những thắc mắc của chúng ta. Biết ngạc nhiên là yếu tố rất quan trọng đưa đến những khám phá. Thật vậy Newton ( 1643-1727 ) người Anh đã biết ngạc nhiên khi nhìn quả táo rơi, trong khi mọi người khác trước đó đều dững dưng xem thường, đã phát giác định luật hấp dẫn. Vì vậy mà xưa kia ở Hy Lạp, Platon đã nói : « Biết ngạc nhiên, đó là nguồn gốc của triết học » Nếu biết ngạc nhiên là yếu tố quan trọng dẫn đến khám phá chân lý, thì biết hoài nghi cũng là bước đầu thúc đẩy con người phá hủy thành kiến, kiểm nghiệm lại chân lý và cũng đồng thời khám phá chân lý. Có hai chiếc xe lửa chạy song song với nhau trên đường sắt, có sức máy bằng nhau, cùng mở hết tốc lực : xe nhẹ chạy nhanh hơn xe nặng theo luật quán tính. Nếu hai xe đang chạy đều, bỗng dưng đến một thung lủng sâu thẫm, mà chiếc cầu đã sập trước đó, cả hai xe cùng rơi xuống, lạ thay cả hai xe đều rơi với một gia tốc như nhau khác hẳn với lúc cùng chạy trên đường sắt. Sự kiện này khiến Einstein ( 1879-1955 ) hoài nghi rằng luật hấp dẫn không phải là một lực, mà chỉ là một trạng thái vũ trụ của không gian- thời gian hỗn hợp, nghĩa là vũ trụ có bốn bề, ba bề của không gian và một bề của thời gian, trong đó sự vật vận động theo con đường ngắn nhất. Nếu vũ trụ bốn bề không gian- thời gian được biểu tượng bằng một màng cao su mỏng, căng phẳng và trên đó người ta đặt cách xa nhau một trái cam, một trái quít và một trái chanh tượng trưng cho mặt trời, trái đất và mặt trăng, chúng ta nhận thấy rằng chung quanh những trái cây này, màng cao su lõm xuống, ra xa thì lại phẳng đều. Những chỗ lõm như vậy trong vũ trụ là nơi có hấp dẫn lực, ấy là những trạng thái, những đường khum của vũ trụ, nơi có những trung tâm tụ hội của năng lượng, nghĩa là những khối vật chất lớn. Quả nhiên những cuộc quan sát nhật thực xảy ra ngày 29 tháng 5 năm 1919 đã đem lại bằng chứng cho lý thuyết tương đối của Einstein là ánh sáng của tinh tú đi qua dẫn lực giới của mặt trời thì bị cong đi như Einstein đã dự tính. Trước kia người ta nghĩ rằng toán học là một khoa học tuyệt đối chính xác, ấy vậy mà về sau cũng có vấn đề được đặt ra. Đó là trường hợp hình học Euklid. Môn hình học này đã có từ lâu, được xây dựng trên nền tảng bắt đầu từ định đề Euklid, xem như một công lý không cần chứng minh.

Page 304: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

303

Định đề này nói rằng : « Đối với một đường thẳng g cho sẵn trong một mặt phẳng và một điểm P bất kỳ cũng nằm trong mặt phẳng đó, nhưng không nằm trên chính đường thẳng đã cho, chỉ có một đường thẳng song song với g qua P mà thôi » Về sau người ta nhận thấy định đề này không phải có hiệu lực cho tất cả mọi môn hình học mà chỉ có giá trị cho môn hình học Euklid mà thôi. Thật vậy, vào năm 1823 có hai nhà toán học là Nicolai Lobatschewski ở Nga và Janos Bolyai ở Hung Gia Lợi đã thiết lập một môn hình học mà hoàn toàn không có mâu thuẫn với một định đề về những đường thẳng song song khác. Trong môn hình học này, người ta có thể vẽ song song với một đường thẳng nhiều đường thẳng đi qua một điểm cho sẵn và nằm trong mặt phẳng xác định bởi điểm và đường thẳng ấy. Rồi sau đó chẳng bao lâu, nhà toán học người Đức là Bernhard Riemann ( 1826-1866 ) cũng khai triển một môn hình học mà trong đó hoàn toàn không có đường thẳng song song nào. Môn hình học này của Riemann có thể được xem là môn hình học mặt cầu, mà những kinh tuyến đóng vai trò những đường thẳng. Người ta có được những kinh tuyến này khi cắt vỏ hình cầu, sao cho tâm của nó nằm trên mặt phẳng cắt. Vì những kinh tuyến của hình cầu cắt nhau cho nên trong môn hình học này không thể có những đường thẳng song song được và tổng số ba góc trong của tam giác cầu PQN lớn hơn 180°. Những môn hình học như thế gọi là hình học không Euklid để phân biệt với môn hình học Euklid và có liên hệ với thuyết tương đối . ( Kinh tuyến ) ( Vĩ tuyến )

( Xích đạo )

Page 305: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

304

Lý nhân quả Không có một hiện tượng, sự vật nào trên đời ngẫu nhiên mà có, cũng như ngẫu nhiên mà không có, hay biến mất. Tất cả đều phải có nguyên nhân hoặc gần hoặc xa. Nhân nào thì sẽ đưa đến quả nấy. Lý nhân quả rất cần cho triết học, mà cũng đồng thời là tinh thần của khoa học. Triết học đã được định nghĩa là một khoa học, nhưng là khoa học nghiên cứu về những nguyên nhân sâu xa , căn nguyên, phổ quát nhất. Nói đến tinh thần khoa học hiện đại khiến chúng ta liên tưởng đến tinh thần huyền thoại khi xưa. Ngày nay đứng trên quan điểm khoa học, đọc lại những câu chuyện huyền thoại, người ta có thể phê bình là thiếu tinh thần khoa học, nhưng thật ra huyền thoại cũng đã được xây dựng trên một tinh thần gọi là khoa học huyền bí khác với tinh thần khoa học thực nghiệm như ngày nay. Huyền thoại là phương cách diễn đạt tư tưởng rất phổ biến của nhân loại ở vào một thời đại nhất định, nó cũng rất phong phú và đóng vai trò quan trọng trong sinh hoạt văn hóa, tư tưởng của nhân loại một thời. Những câu chuyện huyền thoại như « Con rồng cháu tiên », « dòng giống Lạc Hồng » đều có hoài bảo muốn đề cao nguồn gốc dân tộc, một dân tộc vừa cao quý, vừa có văn hóa trên 4000 năm. « Con rồng cháu tiên » diễn đạt nguyên lý âm dương sáng tạo, sinh thành ; « Dòng giống Lạc Hồng » nói đến quan điểm của giống chim bay trên vùng trời cao rộng, tự do. Những câu chuyện như « Phù Đổng Thiên Vương », « Chiếc nỏ thần » đều nói lên ước vọng của cả một dân tộc muốn có sức mạnh phi thường để bảo vệ hữu hiệu Tổ quốc. Trong lịch sử đấu tranh của dân tộc Việt Nam, những sấm ký tiên tri với tinh thần khoa học huyền bí , một phương pháp trực giác căn cứ vào nguyên lý liên hệ đồng bộ không nhân quả ( an acausal, synchronic connective principle ) của các vị Thiền sư như Định Không, La Quý, Vạn Hạnh đã đắc dụng một thời, phục vụ đất nước hữu hiệu. Ngày nay tinh thần huyền thoại phải được chuyển sang tinh thần khoa học, những sấm ký tiên tri phải được thay thế bằng tri thức khoa học chính xác. Muốn vậy phải phục hồi kịp thời Việt tính, khả năng siêu việt, đồng thời khai quang các chướng ngại là những chủ thuyết ngoại lai lạc hậu, nếu không như thế thì thay vì siêu vượt, tiến lên tinh thần khoa học hiện đại, chúng lại thoái hóa thành tinh thần mê tín, dị đoan để rồi khiến cho đất nước bị nguy khốn như Trần Tế Xương ( 1870-1907 ) đã nói :

Page 306: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

305

« Đồng giỏi sao đồng không giúp nước, Hay là đồng sợ súng thần công » Chừng nào thể hiện được tinh thần khoa học thực sự, kỹ thuật hiện đại chính xác thay vì mê tín, dị đoan, cuồng tín vào tà thuyết, chủ nghĩa cực đoan, xa rời đạo sống quân bình truyền thống dân tộc, chạy đuổi theo xảo thuật, mánh khoé, thủ đoạn vụn vặt thì đất nước mới thoát khỏi lạc hậu. Chừng nào quốc sách « Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân mà thay cường bạo » của người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi không còn bị bạo lực thô bạo, cường quyền vô minh cản trở thì chính nghĩa mới sáng tỏ, Việt tính khai phóng, tài năng xuất hiện, lúc đó đất nước mới thực sự hưng khởi, phát triển vững chắc.

Ngôn ngữ Tư tưởng thuần túy không nhất thiết cần đến ngôn ngữ, vì tư tưởng có thể được thể hiện qua thái độ mặc nhiên, vô ngôn. Trái lại triết học cần phải có ngôn ngữ mới thành hình, vì nó phải xuyên suốt qua hệ thống lý luận để đạt đến chân lý , chứ không phải chỉ bằng trực giác, và như vậy chức năng của ngôn ngữ là diễn tả và truyền đạt. Ngôn ngữ gồm hai phần : lời nói và chữ viết. Lời nói gắn liền với thân xác, còn chữ viết thì ở bên ngoài thân xác. Nó là sản phẩm cũng như mọi sản phẩm vật chất khác do con người tạo ra, có thể bị cướp đoạt, hủy diệt đi. Sự việc dân tộc Việt Nam không sớm có chữ viết riêng để làm phương tiện phát huy đời sống văn hóa cho mình tất phải có lý do. Theo lịch sử, thời kỳ mất quyền tự chủ, lệ thuộc phương Bắc của nước Việt Nam kéo dài ngót mười một thế kỷ là thời kỳ thê thảm, ô nhục. Kẻ xâm lăng đã dùng mọi phương cách để biến đất Giao Châu ( VN lúc xưa ) thành một số quận huyện của họ và đồng hóa người dân bị trị. Chính sách đồng hóa của họ thật khắc nghiệt : một mặt họ đem vào đất Giao Châu nền văn hóa của đế quốc, bắt buộc dân Việt phải ăn mặc, học hành, sinh sống theo phong tục tập quán của người Hán ; mặt khác họ triệt tiêu tất cả mọi cơ sở vật chất cũng như tinh thần của dân tộc Việt, họ mang về phương Bắc tất cả của cải quý báu chiếm được và cả những nhân tài ở đây cũng bị giết chết hay bị mang đi mất tích. Với chính sách cai trị hà khắc như vậy thì làm thế nào người Việt lúc đó được phép có chữ viết riêng. Chủ nghĩa đế quốc chủ trương tiêu diệt ý thức dân tộc, đè bẹp ý chí quật khởi đòi quyền độc lập tự chủ của người dân bị trị tận gốc rễ bằng bạo lực cũng như bằng văn hóa nô dịch. Mặc dầu thế, người Việt vẫn kiên

Page 307: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

306

trì đấu tranh và đã bao phen giành lại được chủ quyền, viết nên biết bao trang sử hào hùng, đồng thời cũng khéo tiếp thu có chọn lựa những cái hay của văn hóa người để làm phong phú thêm cho nền văn hóa truyền thống vốn sẵn có của mình. Người Việt cũng đã tìm cách sáng tạo cho mình thứ chữ viết riêng theo phép giả tá, mượn nét chữ Hán gọi là chữ Nôm với một quyết tâm và hoài bảo là chẳng những độc lập về chính trị, mà còn độc lập về phương diện văn hóa nữa. ĐVSKTT viết rằng : « ...Hàn Thuyên giỏi làm thư phú quốc âm. Nước ta thơ phú dùng nhiều quốc âm thực sự bắt đầu từ đấy. » Việt sử tân biên cũng viết : « Đáng chú ý là chữ Nôm được xuất hiện và đắc dụng là nhờ đời Trần có sáng kiến, có tinh thần độc lập, tự lập nên xu hướng văn Nôm mới có dịp bành trướng sau nghìn năm học nhờ, viết mượn của chữ Hán. Tiếng Việt được dùng làm thi ca, khúc ngâm. Hàn Thuyên người huyện Thanh Lâm, tỉnh Hải Dương là người rất giỏi thơ phú Nôm. Toàn thư quyển 5 tờ 41 chép rằng dưới triều Trần Nhân Tông, Thuyên làm Hình bộ thượng thư, có cá sấu đến sông Lô giết hại dân chúng. Vua sai Thuyên làm văn ném xuống sông. Cá sấu rời đi nơi khác. Bài thơ của Nguyễn Tuyên đuổi cá sấu như sau : « Ngạc ngư kia hởi, mày có hay, Biển Đông rộng rãi là nơi mày. Phú Lương đây thuộc về thánh vực, Lạc lối đâu mà lại tới đây ? » Xem luận điệu bài thơ này ta thấy lời văn giản dị, chất phác và hồn hậu, nó phản ảnh tinh thần của dân tộc trong một thời mới chưa đến mà cũ chưa qua. Sau khi ném bài thơ này xuống nước, cá sấu đi nơi khác ( một chuyện ngẫu nhiên ). Vua cho việc này giống chuyện Hàn Dũ đời Đường liền đổi họ Nguyễn ra họ Hàn do mục đích khen thưởng nhân tài. Nước ta dùng quốc ngữ trong thi phú bắt đầu từ đó. » Bài thơ đuổi cá sấu của Nguyễn Thuyên không những chỉ có giá trị trong lãnh vực văn học, nói lên nguồn gốc văn Nôm, mà còn có giá trị trong lịch sử đấu tranh của dân tộc nữa, nó là bản tuyên ngôn phân định rõ ràng rằng đất nước này là « Thánh vực », và cảnh cáo bọn « ngạc ngư » đừng mon men đến đây phá hại dân lành. Bài thơ này về phương diện tư tưởng có thể so sánh với bài thơ thần « Nam quốc sơn hà » của Lý Thường Kiệt lúc trước : « Nam quốc sơn hà Nam đế cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Page 308: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

307

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư » ( Nước Nam sông núi vua Nam ở Rành rẽ phân chia tại sách trời Giặc nghịch sao nay dám đến phạm Chúng bây chuốc bại chắc ngay thôi ) Sự khác biệt quan trọng giữa hai bài thơ là bài thơ thần « Nam quốc sơn hà » được viết bằng chữ Hán, còn bài văn đuổi cá sấu bằng chữ Nôm, mở đầu cho phong trào văn thơ viết bằng chữ riêng của mình. Ngoài ra tư tưởng bài thơ này cũng phản ánh tinh thần đấu tranh oanh liệt của dân tộc Đại Việt dưới sự lãnh đạo thành công của vua Trần Nhân Tông trong lãnh vực ngoại giao cũng như quân sự chống lại hai cuộc xâm lăng lần thứ hai và ba của quân Mông Cổ. Sách sử có nói rằng nhà vua rất quan tâm đến ngôn ngữ của dân tộc, trong triều đình mỗi khi đọc chiếu chỉ của vua bằng tiếng Hán-Việt ( viết bằng chữ Hán nhưng đọc theo âm Việt ), tiếng Việt cũng được đọc tiếp theo, bởi vì không phải ai cũng thông thạo tiếng Hán-Việt. Bản thân của nhà vua cũng đã viết thơ phú bằng chữ Nôm còn được lưu truyền đến ngày nay, đó là bài phú « Cư trần lạc đạo » và « Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca ». Mặc dầu chữ Nôm ở giai đoạn đầu còn phôi thai, nhưng nhà vua đã chứng minh qua những tác phẩm của mình rằng chữ Nôm rất có triển vọng, có khả năng diễn tả tư tưởng một cách xuất sắc ngay cả những phạm trù, ý niệm trừu tượng. Về sau này có Thiền sư Hương Chân Pháp Tính ( 1470-1550 ), tác giả « Chỉ nam học âm giải nghĩa », theo gương vị tổ Trúc Lâm Trần Nhân Tông nghiên cứu tình hình văn tự của tiếng Việt nhận thấy có phần rườm rà khó học, nên tự bản thân đề xuất một lối chữ quốc âm dễ học, dễ nhớ, dễ viết hơn. Thiền sư đã bác bỏ quan điểm của giới hủ Nho cho rằng : « Nôm na cha mách qué » và chứng minh rằng chữ Nôm cũng là văn tự của Thánh hiền : « Nói Nôm tiếng thị tiếng phi Đến lập văn tự lại y thánh hiền... Soạn làm chữ cái chữ con San bản lưu truyền ai đặc thì thông... Vốn xưa làm Nôm xe chữ kép Người thiếu học khôn biết khôn xem Bây chừ Nôm dạy chữ đơn Cho người mới học nghĩ xem nghĩ nhuần. »

Page 309: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

308

Phong trào dùng chữ Nôm để viết thi ca, văn chương, các ngành học thuật phát triển mạnh mẽ kể từ đó. Thực ra chữ Nôm không chỉ mới có từ Hàn Thuyên, mà nó đã xuất hiện sớm hơn nữa, nhưng do hoàn cảnh khó khăn của đất nước nên không thể phát triển như mong muốn. Một quật liệu khảo cổ được tìm thấy ở Bắc Ninh mang những dòng chữ gồm cả chữ Hán và những chữ viết theo lối chữ Hán mà người Trung quốc cũng không đọc ra, được phỏng đoán thuộc vào thời Sĩ Nhiếp hay cả trước đó. Việc truyền bá và phát triển chữ Nôm có nhiều hạn chế vì những lý do chính sau đây : -Người Việt đã mất quá nhiều thời giờ trong suốt chiều dài lịch sử trên mười thế kỷ đấu tranh chống giặc ngoại xâm, không mấy lúc rảnh tay để chăm lo nghiên cứu, phát triển chữ viết riêng , hơn nữa chính sách trực trị và đồng hóa của đế quốc cũng không bao giờ làm ngơ hay cho phép việc làm như thế. -Muốn truyền bá chữ Nôm trong đại chúng cũng không phải chuyện dễ, vì muốn đọc, viết, hiểu được nó, người ta trước hết phải biết chữ Hán. -Giới Nho sĩ, những người đã từng quen sử dụng chữ Hán, chuộng tư tưởng, học thuật Nho giáo không hưởng ứng. Mặc dầu có khó khăn như vậy, nhưng đa số người Việt nặng lòng với giống nòi, muốn thoát ly khỏi ảnh hưởng văn hóa nô dịch, nổ lực xây dựng nền văn hóa độc lập có bản sắc dân tộc nên đã để lại cho đời sau được một nền văn học chữ Nôm rất đáng kể. Đến khoảng đầu thế kỷ XVII , trước khi người Pháp xâm chiếm Việt Nam, do nhu cầu truyền đạo, các nhà truyền giáo Thiên chúa thuộc nhiều quốc tịch khác nhau người Âu đã sáng tạo ra một thứ chữ viết theo mẫu tự la tinh để ghi lại và truyền bá những điều đã giãng dạy và về sau trở thành chữ quốc ngữ. Nói là do nhu cầu truyền đạo, vì vào thời đó tầng lớp thị dân và giới Nho sĩ không sẵn sàng đón nhận đạo Thiên chúa, cho nên việc truyền đạo hầu hết hướng về tầng lớp bình dân ít học ở nông thôn, mà hầu hết đều không biết chữ Hán cũng như chữ Nôm. Đến khi Pháp xâm chiếm Việt Nam, với chính sách trực trị và đồng hóa của họ, việc phổ biến chữ quốc ngữ không hề có ý nghĩa tôn trọng dân tộc bị trị, mà sử dụng nó như một lợi khí tuyên truyền cho những chính sách lừa mỵ, đầu độc văn hóa, chính trị, cô lập nền văn hóa dân tộc lúc đó chủ yếu dựa vào chữ Hán và chữ Nôm. Chữ Hán trong thời kỳ Bắc thuộc cũng như chữ quốc ngữ trong thời kỳ Pháp thuộc đã được đế quốc sử dụng cho mục tiêu thống trị của họ, tuy

Page 310: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

309

nhiên trong cả hai thời kỳ ấy, ngưòi Việt đã khéo léo vận dụng hai loại chữ viết đó, biến chúng thành lợi khí phục vụ hữu hiệu cho dân tộc, chống lại chính sách nô dịch của chủ nghĩa đế quốc. Đối với người Việt, chữ viết là phương tiện, phương tiện nào tốt hơn, thuận lợi hơn thì chọn lấy. Họ đã chọn chữ viết theo mẫu tự la tinh để sử dụng, trau chuốt nó càng ngày càng hoàn chỉnh và chẳng bao lâu chữ viết này đã trở thành chữ quốc ngữ trong cả nước. Chữ quốc ngữ có nhiều ưu điểm hơn chữ Hán và Chữ Nôm : một người chưa biết chữ, khi muốn học chữ Hán, chữ Nôm phải cần từ ba đến năm năm mới có thể đọc và viết được, trong khi đó người ấy chỉ chỉ cần ba tháng thì có thể thành công trong việc tập đọc và viết chữ quốc ngữ. Đây có thể gọi là một kỳ diệu trong mọi thứ kỳ diệu. Chữ quốc ngữ có đầy đủ các đặc tính vừa phổ thông đại chúng, vừa không kém phần trang trọng, văn vẻ trong chức năng truyền thông, phát huy văn hóa, tư tưởng. Ngoài ra chữ quốc ngữ còn được tăng cường, bổ túc thêm bằng một số chữ Hán-Việt ( chữ Hán đã được Việt hóa ) cho nên nó càng ngày càng trở nên khởi sắc, đa dạng, đa năng trong mọi lãnh vực khoa học, văn chương, triết học, nghệ thuật... và còn hứa hẹn nhiều triển vọng tốt đẹp hơn nữa. Bây giờ thử tìm hiểu quan niệm của người xưa như thế nào về vai trò và địa vị của ngôn ngữ trong sinh hoạt văn học, nghệ thuật, triết học. Theo như phần nghiên cứu lịch sử tư tưởng, chúng ta nhận thấy người xưa có khuynh hướng lý tưởng, chuộng tri thức tuyệt đối, tri thức tính thể. Ở trình độ tri thức này, ngôn ngữ dưới dạng các khái niệm, phạm trù đều trở thành bất lực, bởi vì chúng phải được định nghĩa, giả định như thế này, như thế kia, mà hễ có định nghĩa, giả định là có giới hạn, có mâu thuẫn, không có khả năng đáp ứng yêu cầu của loại tri thức tuyệt đối, cho nên phải cần đến một quan năng đặc biệt là tuệ giác, là minh đức. Để giải phóng tinh thần con người đừng vướng mắc trong hình thức giáo lý, Thiền tông chủ trương : « bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật. », cho nên các vị Thiền sư khi truyền « tâm ấn » cho đệ tử đều dùng phương pháp « dĩ tâm truyền tâm ». Trong kinh Dịch, giá trị giữa ngôn từ và ý tưởng được xác định như sau : « Thư bất tận ngôn, ngôn bất tận ý. » Ý tưởng là cứu cánh, còn ngôn từ là phương tiện, mà là thứ phương tiện không thể nói lên hết được ý tưởng. Do đó trong sách Dịch, cái quan trọng không phải là lời thoán truyện, mà là những đồ hình, những vạch liên kết nhau, tức là những dấu hiệu. Trong toán học ngôn ngữ cũng là những dấu hiệu, những con số, những đồ thị. Khoa vật lý học diễn tả các

Page 311: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

310

qui luật tự nhiên bằng công thức toán học, còn các ngành khoa học thống kê lại chuộng cách diễn tả các mối quan hệ, biến thiên bằng biểu đồ. Trong văn học, nghệ thuật, triết học Đông phương thay vì lý thuyết, người ta thường dùng chuyện ngụ ngôn để diễn tả ý tưởng. Đây là phương cách biểu thị hiện thực của chủ nghĩa tượng trưng rất phổ biến xuất phát từ tinh thần của kinh Dịch : « Tại thiên thành tượng, tại địa thành hình, biến hóa hiện hỹ. » ( Ở trên trời là hình ảnh, ở dưới đất là hình thể, biến hóa hiện ra vậy.) Tượng là môi giới trung gian giữa thế giới hữu hình, thế giới hiện tượng và thế giới tâm linh vô hình, siêu nhiên ; giữa tương đối và tuyệt đối. Văn học bình dân Việt Nam có bài ca dao cũng có ý nghĩa tương tự như vậy : « Trên trời có đám mây xanh, Ở giữa mây trắng, chung quanh mây vàng. Ước gì anh lấy được nàng, Thời anh mua gạch Bát Tràng về xây. Xây dọc, rồi lại xây ngang, Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân. » Ở đây hình ảnh những đám mây có màu sắc đẹp trên trời là môi giới trung gian giữa lý tưởng thẩm mỹ và công trình kiến trúc tại trần gian để cống hiến cho tình yêu. Những người theo chủ nghĩa tượng trưng chủ trương quên lời để được tượng, rồi sau đó quên tượng để được ý, cho nên Trang Tử mới viết như sau : « Có nơm là vì cá , Đặng cá hãy quên nơm. Có dò là vì thỏ, Đặng thỏ hãy quên dò. Có lời là vì ý, Đặng ý hãy quên lời. Ta tìm đâu được người biết quên lời, hầu cùng nhau đàm luận ! » Lão tử chủ trương « hành bất ngôn chi giáo » ( dùng phương pháp giáo dục không lời ), ông quan niệm : « Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri »( Kẻ biết không nói, người nói không biết ), cho nên : « Đạo khả đạo phi thường đạo, danh khả danh phi thường danh » ( Đạo mà nói được không phải là đạo thường, danh mà có thể gọi được không còn phải là danh thường nữa ). Mặc dầu vậy, Lão tử cũng đã viết ra « Đạo đức kinh » trên cả hàng ngàn chữ để lại cho đời sau.

Page 312: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

311

Phật giáo Đại thừa cũng quan niệm, muốn đi sâu vào cảnh giới Chân như tuyệt đối, tức Bản thể luận, không thể chấp vào văn tự được, cho nên đến thời Pháp Hoa, Phật liền phủ định những điều mà trước đây Ngài đã thuyết pháp : « Ta thuyết pháp trong khoảng bốn mươi chín năm nay mà chưa từng nói một lời nào cả ! ». Tuy nhiên, do nhu cầu muốn cứu độ chúng sinh, các đệ tử của Phật cũng đã ghi chép những lời thuyết pháp của Ngài thành một kho tàng kinh sách phong phú. Cho nên kinh sách đều là giả lập vì mục đích tế độ, còn thái độ phủ định của Phật chẳng qua vì muốn chúng sinh không bị lụy trong hình thức giáo lý. Kinh Viên giác nhắc nhở như sau : « Các lời dạy của khế kinh chẳng khác nào ngón tay chỉ mặt trăng. Nếu đã thấy mặt trăng rồi, thì có thể biết cái để chỉ mặt trăng ( ngón tay ) không phải là mặt trăng. » Dùng ngón tay để chỉ mặt trăng cũng tương tự như dùng văn tự, ngôn ngữ tương đối để biểu thị chân lý tuyệt đối. Đó là mượn tương đối để vào tuyệt đối. Như vậy, ngôn ngữ, chữ viết cũng rất cần thiết cho đại đa số quần chúng dùng làm phương tiện để đạt đến chân lý, cho dầu đó chỉ là chân lý tương đối, để rồi từ đó như nấc thang tiến lên tri thức tính thể, chân lý tuyệt đối. Nhu cầu tri thức của đại chúng hiện nay so với quan điểm của người xưa thực ra không có gì mâu thuẫn cả, mà đó chỉ là hai bình diện khác nhau, hai chặng đường khác nhau, có thể bổ xung, nối tiếp nhau để hoàn thành con đường tư tưởng xuyên suốt, nhất quán. Triết học đóng vai trò của mình ở chặng đường đầu phục vụ cho tri thức tương đối, còn siêu hình học hay đạo học ở chặng đường kế tiếp cống hiến cho tri thức tuyệt đối. Ngôn ngữ có chức năng quan trọng trong triết học, nó là phương tiện nhưng cũng đồng thời là trở ngại cho sự nắm bắt chân lý. Bằng hình ảnh, người ta có thể ví ngôn ngữ như y phục thời trang che thân thể mỹ nhân, qua đó người ta chỉ có thể chiêm ngưỡng cái dáng dấp bên ngoài của lớp y phục, chứ không thể nào nhận diện được dung nhan đích thực của người đẹp ẩn núp bên trong. Bởi vậy các nhà đạo học, các nhà hiền triết khi xưa mới chủ trương phá hủy ngôn ngữ để « kiến tính », để « suất tính ». Sự lãng quên ngôn ngữ của những bậc ngộ đạo không phải là bước thụt lùi mà là sự siêu vượt tiến lên tri thức tính thể : « Kinh điển lưu truyền tám vạn tư, Học hành không thiếu cũng không dư. Năm nay tính lại chừng quên hết, Chỉ nhớ trong đầu một chữ Như. »

Page 313: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

312

Đó là bài thơ có ý nghĩa nhập diệu của một vị Thiền sư vô danh, còn nhà Nho Nguyễn Trãi thì trân trọng giữ lại cái đạo sống sinh động với đạo lý, cương thường siêu vượt khỏi mọi câu thúc của ngôn ngữ, văn tự : « Chữ học ngày xưa quên hết dạng, Chẳng quên có một chữ cương thường. » Câu chuyện vườn địa đàng ( Eden ) trong thánh kinh cho chúng ta một ý niệm về sự diễn biến tâm thức của con người qua các giai đoạn khác nhau, trong đó vườn địa đàng tượng trưng cho tâm thức của con người buổi ban sơ, mọi người, mọi vật đều sống trong cảnh thanh bình, hòa đồng, không xem nhau khác biệt. Ông Adam và bà Eve tượng trưng hai nguyên lý âm dương, nhưng cũng chưa thấy phân biệt nhau nên ở trần truồng khỏa thân một cách tự nhiên, không biết e thẹn. Chúa cho hai người ấy sống ở vườn địa đàng, được phép sử dụng tất cả thức ăn, vật dụng ở đó, nhưng trừ trái cây thiện ác. Nếu trái lệnh, họ sẽ bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng. Bà Eve bị quỷ vương đội lốt rắn ( tượng trưng cho lý trí biện biệt ) cám dỗ : « Nếm được trái thiện ác, các người sẽ trở thành những vị thần thánh biết rõ thiện ác. Chúa đã gạt các người đấy. » Bị cám dỗ, bà Eve hái một trái thiện ác, nếm thử thấy ngon nên đem lại cho ông Adam cùng ăn. Bấy giờ tâm thức vô sai biệt của họ đã biến thành tâm thức biện biệt : thiện-ác,thị-phi... hiện lên rõ ràng, biết phân biệt mình là nam hay nữ, nên cùng biết hổ thẹn, chạy đi tìm lá cây để che đậy chỗ kín. Chúa hiện ra, quở mắng và đuổi họ ra khỏi vườn địa đàng đầy hạnh phúc. Từ đó họ phải rời khỏi cảnh giới tuyệt đối nhất nguyên để lê thân vào trong cõi tương đối nhị nguyên đầy phiền muộn. Muốn trở lại cảnh giới tuyệt đối nhất nguyên, con người phải siêu vượt lên khỏi cảnh giới nhị nguyên. Đây không phải là sự thụt lùi để quay trở về nguyên trạng thuở ban sơ, mà là một sự siêu việt, sự tiến lên đầy công phu, một cuộc vượt sông hào hùng để sang bên kia bờ giác. Dù muốn hay không trong cuộc sống hiện sinh, con người không thể chối từ đời sống văn minh, vứt bỏ hết y phục cũng như phủ nhận ngôn ngữ. Chúng thuộc về thế giới hiện sinh cho nên có tính cách hữu hạn, nhị nguyên tương phản, có thuận lợi cũng có trở ngại. Vấn đề quan trọng là sử dụng chúng một cách hài hòa, tránh cực đoan, giảm thiểu mâu thuẫn là có thể tiến gần đến chân lý. Trong nền văn học bác học, Thiền sư Viên Chiếu đã giải đáp câu hỏi : « Tâm pháp đều quên, thì tính tức chân. Vậy thế nào là chân ? »

Page 314: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

313

Thiền sư đáp bằng hai câu thơ tuyệt diệu : « Vũ trích nham hoa thần nữ lệ, Phong sao đình trúc Bá Nha cầm. »( có sách : phong xao ) ( Mưa rơi trên hoa đỉnh núi như giọt lệ của nữ thần, Gió khua cành trúc trước sân ấy là điệu đàn Bá Nha.) Xưa nay người ta thường cho thiện, mỹ là hai phương diện chủ quan của thực tại, còn chân là phương diện khách quan. Nhưng đối với Thiền học thì cả ba phương diện của thực tại đều có tương quan với nhau mà có, mà có đối với con người chứ không biệt lập nhau. Chân, mỹ, thiện của thực tại là biểu hiện của ba tác dụng lý trí, tình cảm và ý chí. Nếu ba tác dụng đều qui về một tâm ý thức thì ba phương diện chân, mỹ, thiện cũng qui về một thực tại, cho nên Thiền sư Viên Chiếu mới nhìn chân lý qua vẽ đẹp thiên nhiên với mỹ cảm kinh nghiệm sống thực. Đây là ý nghĩa của Thiền học nghệ thuật : chân lý gắn liền với đạo đức và thẫm mỹ. Trong nền văn học bình dân, tùy theo hoàn cảnh có hai thái độ biểu hiện khác nhau về chân, mỹ, thiện : Thái độ thứ nhất là : « Tốt che, xấu khoe ». Đây là trường hợp ở những xã hội nhiễu nhương, đạo đức suy đồi, bạo lực hoành hành thì những gì quý báu như của cải đáng giá, sắc đẹp... đều phải ngụy trang, che giấu đi để tránh những cặp mắt dòm ngó của kẻ tham lam, gian ác cướp đoạt. Thái độ thứ hai là : « Tốt khoe, xấu che ». Đó là trường hợp của những dân tộc thiểu số, sống an bình giữa cảnh đẹp thiên nhiên của núi rừng, đồng nội. Các cô gái ở đây thường để ngực trần, bởi vì họ quan niệm rằng tại sao lại phải che giấu cái đẹp đi và họ chỉ che đậy lại khi chúng không còn đẹp nữa. Đừng vội phê phán đó là thái độ của người bán khai, mà ngay tại những xã hội văn minh hiện đại cũng tương tự như thế thôi. Vấn đề quan trọng là xã hội có an bình hay nhiễu nhương . Thật thế, tại các nước Âu Mỹ, trong các buổi họp mặt liên hoan của giới nghệ sĩ, hầu hết các nữ nghệ sĩ, ca sĩ, minh tinh màn bạc thường ăn mặc hở hang để khoe cái đẹp của mình. Còn y phục thời trang cũng nhằm làm đẹp cho con người nhưng đó là cái đẹp bị che giấu, chứ chưa phải là cái đẹp tự thân. Như vậy ở đây tuy nói về thái độ của con người đối với cái tốt, cái xấu nhưng thực ra đã bao hàm cả ba phương diện chân, thiện, mỹ rồi, bởi vì tốt xấu vừa thuộc lãnh vực thẫm mỹ lẫn đạo đức, còn đối tượng của việc che đậy hay phơi bày lại là vấn đề chân lý. Chức năng của ngôn từ cũng tương tự như y phục vừa nói, nó có tính cách giới hạn và tùy thuộc vào con người sử dụng. Nói chung thì chân lý được diễn tả bằng ngôn từ chỉ có tính tương đối, còn bị che giấu ở mức độ

Page 315: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

314

nào đó, cho nên việc đi tìm chân lý cũng giống như việc đi tìm người đẹp không phải dễ dàng : « Tìm em như thể tìm chim. » ( Ca dao VN ) hay : « Vọng mỹ nhân hề thiên nhất phương » ( Tô Đông Pha ) Với triết học chân chính, con người có nhiệm vụ cao cả là đi tìm chân lý. Trong cuộc hành trình ấy, người ta hăm hở, tin tưởng phải có một chân lý vĩnh cữu và khả năng khai phá chân lý. Đó là niềm tin triết lý bất diệt của con người. Văn học bình dân Việt Nam có một câu rất sâu sắc về niềm tin này : « Chớ lấy vải thưa mà che mắt thánh. » Còn Goethe, thi hào Đức cũng có mấy câu thơ có ý nghĩa tương tự : « In tausend Formen magst du dich verstecken Doch, allerliebste, gleich erkenn´ ich dich; Du magst mit Zauberschleiern dich bedecken Allgegenwärt´ ge, gleich erkenn´ ich dich „ ( Dù em có ẩn trốn trong thiên hình vạn trạng, Hởi em yêu, tôi vẫn nhận ngay ra em. Dù em có tự che giấu với những chiếc khăn che mặt, Bất cứ nơi nào, tôi vẫn nhận ra em ngay.) Ngôn ngữ đã là vấn đề trong lịch sử tư tưởng Việt Nam từ lâu. Trong một buổi giảng tại chùa Sùng Nghiêm của Vua Trần Nhân Tông, có người đặt câu hỏi: “ Bàn huyền nói diệu, đem cổ luận kim, thảy đều nhờ vào ngôn ngữ. Chẳng dính đến ngôn ngữ một câu làm sao mà nói ra đây? „ Đáp: “ Gió xuân lất phất ngàn hoa nở, Gãy mất càng xe một tiếng thôi „ Ngôn ngữ có tính nhị nguyên đối đãi, có lợi mà cũng có hại tùy theo người sử dụng. Cũng do tính chất ấy mà khả năng của ngôn ngữ có tính cách hạn chế, cho nên thường có sự tranh cãi không bao giờ dứt, ví dụ như hai phạm trù Có, Không chẳng hạn, xảy ra ngay trong buổi giảng ngày hôm đó: Hỏi: “ Câu có câu không Như dây bám cây. thì thế nào? „ Điều Ngự ( vua Trần Nhân Tông ) bèn nói: “ Câu có câu không Dây khô cây đổ

Page 316: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

315

Mấy vị thầy tu Dập đầu trán vỡ » Đó là tình trạng tranh cãi một thời và cũng còn được tiếp tục tranh cãi không thôi : « Câu có câu không Ngó phải ngó trái Ráo riết hùa theo Ồn ào tranh cãi » Bản chất của ngôn ngữ là như thế, cho nên triết học chân chánh có bổn phận làm sáng tỏ các phạm trù, các phán quyết theo tinh thần kết hợp lý tưởng chân, thiện, mỹ. Một nền triết học với ngôn từ trong sáng như vậy sẽ là những nấc thang đưa trí tuệ con người lên những tầng lầu cao hơn, là những cái thang để giúp con người trèo lên hái những trái chân lý chín mùi trên cây.

Page 317: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

316

Chương 2

Vấn đề tồn tại hay không tồn tại ***

Tồn tại hay không tồn tại trong lịch sử triết học Đây là vấn đề nền tảng trong lịch sử triết học đã từ lâu đời, nó được đề cập ở mọi thời, ở mọi nơi. Ở Tây phương, vào buổi rạng đông của triết học, có hai nhà hiền triết nổi tiếng của Hy Lạp là Heraklit và Parmenides với hai nguồn tư tưởng khác nhau về đề tài này. Heraklit ( 544-484 ) Tư tưởng của Heraklit được đúc kết trong mấy điểm chính có liên quan mật thiết với nhau như sau : 1- Tất cả đều trôi chảy : Ông nhận thấy trước hết bản chất nội tại của hiện thể là sự biến đổi : tất cả mọi sự đều đổi thay, không có gì tồn tại cả. Quan điểm đó được diễn tả trong câu : « Tất cả đều trôi chảy » ( Alles fliesst = panta rhei ) và « không ai tắm hai lần trong cùng một dòng sông ».( Man kann nicht zweimal in denselben Fluss hinabsteigen : Geschichte der Philosophie- J. Hirschberger trang 27 ) Thi hào Đức W.Goethe phỏng theo ý đó có làm mấy câu thơ như sau : « Gleich mit jedem Regengusse Ändert sich dein holdes Tal Ach, und in demselben Flusse Schwimmst du nicht zum zweitenmal „ ( Ngay chính với từng cơn mưa rào Thung lủng diễm ảo của em đã biến đổi À, và trong cùng một dòng sông Em không tắm được hai lần ) Dòng sông là biểu tượng điển hình trong tư tưởng của Heraklit, nó có mặt ở nhiều nơi trong các tản văn của ông như câu nói bất hủ sau đây: “ Ta xuống và không xuống trong cùng những dòng sông, chúng ta có và chúng ta không có „ ( In dieselben Flüsse steigen wir und steigen wir nicht, wir sind und wir sind nicht : Die Griechische Philosophie- Walther Kranz trang 56 )

Page 318: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

317

Dòng sông lúc nào cũng vẫn như thế, nhưng nước của nó không ngừng thay đổi, cũng như chúng ta về phương diện chủng loại và tên gọi ngày hôm nay cũng không khác ngày hôm qua, nhưng về phương diện vật chất thì luôn luôn thay đổi, như vậy có thể nói rằng chúng ta tồn tại và không tồn tại đồng thời, nghĩa là chúng ta là cái trở nên. 2- Sự đối lập và sự hòa hợp: Sự vật luôn luôn bị lôi kéo, giằng co giữa hai thế lực đối lập, mâu thuẫn nhau:

“ Phân tán ra rồi lại tụ hợp lại với nhau, tiến đến gần rồi lại tách ra xa nhau „ ( Es zertrennt sich und sammelt sich wiederum; es naht sich und entfernt sich : J.Hirschberger trang 28 )

Nhưng đối lập, mâu thuẫn mà không hề tiêu diệt lẫn nhau, lại còn ở trong thế hòa hợp nữa, đó mới là kỳ diệu. Về điểm này, con người thường ít để ý đến, cho nên Heraklit mới viết:“ Họ không biết cái bất hòa điệu hòa điệu với chính mình như thế nào. Hòa điệu của những giằng co đối lập không khác gì hòa âm của cây cung và cây đàn. „

( Sie verstehen nicht, wie es zwieträchtig doch miteinander überein- stimmt. Es ist gegenstrebige Fügung wie von Bogen und Leier : J.Hirsch- Berger trang 28 ) Đối với Heraklit sự đối lập rất có ý nghĩa trong cuộc sống và ý tưởng đó được diễn tả qua câu châm ngôn:“ Chiến tranh là cha, là vua của mọi sự vật „( Der Krieg ist Vater aller Dinge, ist aller Dinge König: J.H tr.28 )

Cái trở nên ( Werden ) của Heraklit bao gồm cả tồn tại ( Sein ) lẫn không tồn tại ( Nichtsein ). Tất cả những gì tri giác được chỉ là phân nửa toàn thể của thực tại đã bị phân cực thành những đối lập như sống- chết, thức-ngủ, trẻ-già, ngày-đêm, chiến tranh-hòa bình, đói-no, tốt-xấu…Chỉ khi nào hợp nhất được những mặt đối lập đó thì mới có được cái toàn thể.

Ông viết:“ Đối với thần thánh, tất cả đều tốt đẹp, chính đáng; nhưng người phàm trần thì thừa nhận cái này bất chính, còn cái khác thì chính đáng „ ( Für Gott ist alles schön und gut und. gerecht; die Menschen aber haben das eine als ungerecht angenommen, das andere als gerecht:

Die Gr.Philo-W.Kranz trang 54 ) 3- Lửa: Đối với Heraklit lửa không phải chỉ là một nguyên chất sơ bản đặc

biệt có tính cách thuần túy vật chất, mà còn là một biểu hiệu tượng trưng của sự bất ổn định triền miên của sự trở nên hay sinh thành cùng với sự thăng trầm có điều lý. Ông viết:“ Thế giới này không phải được thần thánh và con người tạo dựng ra, mà nó đã là, đang là và sẽ là lửa vĩnh

Page 319: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

318

viễn sống động, âm ỉ cháy cũng như tắt lụn đi theo khuôn khổ nhất định „ ( Diese Welt hat kein Gott und kein Mensch erschaffen, sondern sie war immer und ist und wird sein ein ewig lebendiges Feuer, nach Maßen erglimmend und nach Maßen erlöschend: J.Hirschberger trang 28 )

Tất cả mọi sự vật từ lửa mà sinh ra và sau cùng lại trở về lửa. Heraklit nhìn thấy quá trình này như sự trao đổi hàng hóa:“ Trao đổi theo lối mậu dịch: Bất cứ sự vật gì cũng có thể biến đổi thành lửa và lửa cũng có thể biến đổi thành bất cứ sự vật gì, cũng như hàng hóa đổi lấy vàng và vàng đổi lấy hàng hóa vậy „ ( Wechselweiser Umsatz: aller Dinge gegen das Feuer und des Feuers gegen alle Dinge, wie der Waren gegen Gold und des Goldes gegen Waren: W. Kranz trang 56 ) Do quá trình biến đổi trên nên có thể nói rằng:“ Một là tất cả và tất cả là một „ ( Aus Allem Eins und aus Einem Alles: Gr. Philo.- W.Kranz, trang 56 ) Ý nghĩa về lửa của Heraklit cũng có liên quan đến khái niệm Logos của ông. 4- Logos: Logos theo Heraklit là qui luật thế giới chi phối vạn vật. Logos cũng là lửa, là lý tính, là thần thánh, là sấm ngôn. Sấm ngôn thần thánh nói với con người rằng:“ Đặc điểm của minh triết là đừng có nghe ta, mà hãy nghe sấm ngôn của ta để nói cho đúng rằng vạn vật đồng nhất thể „ ( Haben sie nicht mich, sondern den Logos vornommen, so ist es weise, ihm gemäß zu sagen, Alles sei Eins: Gr.Philo.-W.Kranz, trang 55 ) Bản chất của Logos là hiện diện khắp mọi nơi và điều động, dung hòa được mọi đối nghịch để tạo sinh thành ( Werden ). Nói tóm lại tư tưởng chính của Heraklit kết đọng trong chữ sinh thành với hình ảnh dòng sông, lửa kết hợp với khái niệm Logos độc đáo. Tư tưởng của ông có thể so sánh với tư tưởng truyền thống Đạo học Đông phương.

Parmenides ( 540-470 ) Những tản văn của Parmenides được xem như là thiên anh hùng ca ghi lại những lời mặc khải của nữ thần khi tác giả du hành từ vùng tối tăm vào miền ánh sáng, thế giới của chân lý và sự hiểu biết. Bản anh hùng ca chia ra làm hai phần: con đường chân lý và con đường thường kiến.

I- Con đường chân lý: Con đường này được tóm lược trong ba câu đặc trưng sau đây:

Page 320: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

319

1- “ Người ta phải luôn luôn nghĩ và nói rằng hiện thể có, đó là hữu thể, còn hư vô trái lại không có.” ( Man muß immer denken und sagen, daß nur Seiendes ist; es ist nämlich Sein; ein Nichts dagegen ist nicht: Geschichte der Philosophie- J. Hirschberger, trang 31 ) Với câu này Parmenides muốn nói rằng không có sinh thành, mà chỉ có hữu thể. Tư tưởng hữu thể của Parmenides hoàn toàn đối nghịch lại với tư tưởng sinh thành của Heraklit và coi sinh thành chẳng qua chỉ là hư vô mà thôi. 2- “ Tư tưởng và hữu thể là một „ ( Dasselbe ist Denken und Sein: J. Hirschberger, trang 32 ) Như ở trên đã xác định: hữu thể có, còn hư vô không có; nhưng mà có và không có đối với cái gì? Xin trả lời ngay là có và không có đối với tư tưởng. Hư vô không thể là đối tượng cho tư tưởng, nghĩa là người ta không thể nào tư tưởng được về hư vô cả, chỉ duy hữu thể mới có thể tư tưởng được mà thôi.. Vậy thì tư tưởng với hữu thể là một hay nói cách khác tư tưởng và đối tượng của tư tưởng là một. 3-“ Có một hữu thể liên hệ, đó là Một và là tất cả „ ( Es gibt ein zusammenhängendes Sein, das Eins ist und Alles: J.Hirschberger,trang 33) Qua câu nói trên, Parmenides muốn diễn tả cao độ sự thống nhất của vũ trụ. Vậy hữu thể của Parmenides có thể được nhận diện qua mấy đặc điểm sau đây: - Hữu thể không bị sinh cũng không bị diệt, không có quá khứ, không có vị lai, luôn luôn hiện hữu một cách toàn diện trong một hiện tại thường hằng. - Hữu thể loại trừ mọi đa thể, tiền hậu như nhất, bất khả phân. Do đó hữu thể là một khối dày đặc, đồng nhất, không thay đổi, không vận động. Hữu thể toàn vẹn mọi bề như vậy có thể so sánh với một hình cầu viên mãn. Trước Parmenides, người Hy Lạp đã nêu câu hỏi về nguyên chất sơ bản đầu tiên của vạn vật là gì ? Thales cho là nước, Anaximenes cho là khí, Heraklit cho là lửa... đến Parmenides thì hữu thể được xem là nền tảng của vạn vật. Hữu thể ấy rất phù hợp với luận lý hình thức căn cứ trên ý niệm đồng nhất tính và môn hữu thể học được hiểu như là một khoa học nghiên cứu về hữu thể của thực tại bằng tư tưởng biểu tượng. Parmenides xác định chỉ có tư tưởng mới là con đường duy nhất dẫn đến chân lý, rồi cảnh giác những kinh nghiệm cảm giác. Ông viết:“ Hãy tránh xa tư tưởng của con đường nghiên cứu này, không nên theo thói quen kinh nghiệm, đừng tin tưởng vào những con mắt lù mù, lỗ tai lùng bùng và miệng lưỡi, mà hãy kiểm thảo tất cả bằng sức mạnh của tư tưởng

Page 321: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

320

mà thôi „ ( Halte du von diesem Weg der Forschung den Gedanken fern, und es soll dich nicht vielerfahrene Gewohnheit auf diesen Weg zwingen, walten zu lassen das blicklose Auge und das drohnende Gehör und die Zunge; nein, mit dem Denken bringe zur Entscheidung die streitreiche Prüfung: J.Hirschberger, trang 34 ) Chính sự phân biệt tri thức lý trí với tri thức cảm giác sau này dẫn đến nền triết học duy lý. II- Con đường thường kiến: Phần thứ hai của thiên anh hùng ca trình bày con đường thường kiến. Theo con đưòng này người ta tri thức bằng cảm giác chứ không bằng lý trí cho nên đó chỉ là ý kiến của con người về sự vật chứ không phải là tri thức thực sự của lý trí. Do cảm tính xuất hiện lên hình ảnh của sinh thành và tính đa tạp của vũ trụ, nghĩa là trong nhận thức có sai lầm và tưởng tượng mà sau này Spinoza gọi là ảo tưởng ( Imagination ). Chính sự phân chia này của Parmenides về sau đã được Platon và Aristoles diễn dịch thành lý thuyết nhị nguyên về hai thế giới: - Con đường chân lý tượng trưng cho lý giới hay thế giới của tinh thần, thế giới của thực tại tự nội, thường hằng, vô thời tính. - Con dường thường kiến tượng trưng cho vật giới hay thế giới của giác quan, hữu hạn, vô thường, ảo ảnh. Nêu lên hai con đường không những khác biệt mà còn đối lập với nhau để ưu đải chỉ con đường chân lý, nghĩa là đề cao lý thuyết hữu thể của Parmenides và coi thường lý thuyết sinh thành của Heraklit.

Platon ( 427-347 ) Platon lấy ý niệm làm đối tượng cho tồn tại, cho rằng ý niệm mới chính thực là tồn tại của thế giới vì nó có bản chất thường trụ, bất biến. Ý niệm phi vật chất, không có hình thể, là kiểu mẫu nguyên bản của mọi sự vật đơn biệt. Thế giới cá biệt đặc thù chỉ là thế giới thứ hai, là hình bóng, là mô phỏng của thế giới ý niệm mà thôi. Platon diễn tả tương quan này bằng một chuyện ẩn dụ về người tù trong hang động. Họ không bao giờ nhận được chân sự thật mà chỉ nhìn thấy những hình bóng phản chiếu trên vách đá mà thôi. Descartes ( 1596-1650 ) Descartes là người khai nguyên ra triết học duy lý. Ông cho rằng người ta có thể hoài nghi tất cả, nhưng có một điểm không thể hoài nghi được là chính chủ thể hoài nghi , chủ thể ấy phải hiện hữu. Ông viết:

Page 322: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

321

“ Tôi tư duy ( hoài nghi ), vậy thì tôi tồn tại „ ( Je pense, donc je suis ). Hegel ( 1770-1831 ) Theo Hegel thì thế giới là sự khai triển của tinh thần qua ba giai đoạn: Ở giai đoạn thứ nhất, tinh thần ở trong trạng thái tự tại ( An-sich- Sein ) Với biện chứng pháp, Hegel bắt đầu với khái niệm hữu hay tồn tại thuần túy ( Sein ) xem như chính đề, rồi do tính chất không nội dung của khái niệm tồn tại này nảy sinh ra khái niệm phản nghịch lại, khái niệm vô hay không tồn tại, xem như phản đề, và sau cùng đi đến sự tổng hợp cho ra khái niệm sinh thành ( Werden ). Ở giai đoạn thứ hai, tinh thần ở trạng thái tồn tại khác ( Andersein ) và ý niệm cứ thế tiếp tục khai triển không ngừng qua quá trình biện chứng sinh thành để hướng vào một mục tiêu. Cuối cùng đến giai đoạn thứ ba, tinh thần trở về với chính mình và ở trạng thái tự tại cho chính mình ( An-und-für-sich-Sein ). Như vậy, tuyệt đối cần đến sinh thành và bằng con đường khai triển liên tục của các quá trình biện chứng để cuối cùng tự tìm lấy chính mình. Hegel viết: “ Cái chân thật là toàn thể. Nhưng cái toàn thể chỉ là thực thể qua sự tự khai triển trọn vẹn.” ( Das Wahre ist das Ganze. Das Ganze aber ist nur das durch seine Entwicklung sich vollendende Wesen: Ge.der Philo. J.Hirschberger,tr. 412 ) Như vậy đối với Hegel, tinh thần là cái gì có thực cho đến nỗi ông đã nói:“ Cái gì hợp lý là có thực và cái gì có thực đều hợp lý „ ( Was vernunftig ist, das ist wirklich und was wirklich ist, das ist vernunftig: J.Hirschberger, tr. 426 ) Karl Marx ( 1818-1883 ) Theo Hegel thì lịch sử là một quá trình tinh thần, đó là sự khai triển của thế giới tinh thần. Marx xoay ngược lại quan điểm: lịch sử là một quá trình vật chất, đó là lịch sử của những quan hệ sản xuất vật chất và hậu quả của nó. Marx nói:“ Từ trước tới giờ các triết gia chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, nhưng vấn đề là phải làm thay đổi nó„ ( Bis- her hatten die Philosophen die Welt nur verschieden interpretiert, es kommt aber darauf an, sie zu verändern : Ge. der Philo.- Curt Friedlein tr.303 ) Nếu ở Hegel khởi điểm của quá trình khai triển biện chứng là ý niệm thì ở Marx khởi điểm ấy lại là thực tế vật chất và ngay những hiện tượng tinh thần cũng do vật chất qui định. Marx nói:“ Không phải ý thức của con

Page 323: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

322

người qui định sự tồn tại của họ, mà chính sự tồn tại có tính cách xã hội qui định ý thức của họ „ ( Es ist nicht das Bewusstsein der Menschen, das ihr Sein bestimmt, sondern das gesellschaftliche Sein bestimmt ihr Be- wusstsein: C.Friedlein, tr. 303 ). Sự tồn tại có tính cách vật chất của con người trước hết là sự tồn tại có tính cách xã hội, thực tiễn xã hội và đó là tiêu chuẫn của chân lý. Nhìn chung, nền triết học Hy Lạp và Tây phương bao gồm cả hai khuynh hướng tồn tại và sinh thành, nhưng khuynh hướng tồn tại chiếm ưu thế hơn, quyết định vận mệnh của lịch sử triết học Tây phương trong một thời gian lâu dài. Bây giờ chúng ta thử nhìn về phương Đông, xét xem quan niệm tồn tại, sinh thành như thế nào? Khổng Tử với Dịch quan. Thông thường, Nho giáo chú trọng ở lảnh vực hữu vi, với thuyết chính danh nên cũng có khuynh hướng tồn tại phần nào. Tuy nhiên ở phần hình nhi thượng, bản chất biến dịch của Đạo cũng được nói đến. Khổng Tử một hôm đứng trên bờ sông, ngắm dòng nước chảy mà than rằng:“ Thệ giả như tư phù, bất xả trú dụ „ ( Đêm ngày cứ chảy luôn thế mãi sao!), đại ý muốn nói cái Đạo của trời đất cứ lưu chảy như nước không lúc nào nghỉ. Điều này cũng tương tự như ý tưởng của Heraklit ở Hy Lạp và cũng là tinh thần của kinh Dịch đã được Khổng Tử nghiên cứu tường tận. Dịch là thay đổi, biến hóa theo qui luật biến dịch của vũ trụ: “ Dịch hữu thái cực, thị sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái „ ( Dịch có thái cực, thái cực sinh hai nghi, hai nghi sinh bốn tượng, bốn tượng sinh tám quẻ ) ( Dịch: Hệ từ thượng ) Thoạt kỳ thủy, vũ trụ là một bản thể vô hình, linh diệu, cường kiện gọi là Thái cực. Rồi Thái cực sinh ra hai thể khác nhau là âm và dương. Âm dương thuộc về hình nhi thượng, nghĩa là không phải là vật có hình tướng, mà là phù hiệu chỉ sự tương đối, tượng trưng cho hai thể khác nhau như động-tĩnh, cứng-mềm, mạnh-yếu…Âm dương đun đẩy và điều hòa với nhau mà biến hóa ra vạn vật thiên hình vạn trạng: “ Cương nhu tương thôi nhi sinh biến hóa „ ( Cứng mềm đun đẩy nhau mà sinh ra biến hóa ) ( Dịch: Hệ từ thượng ) Đạo trời chính là sự biến hóa qua lại không ngừng từ những cặp âm dương mâu thuẫn đó: “ Nhất hạp nhất tịch vị chi biến, vãng lai bất cùng vị chi đạo „ ( Dịch: Hệ từ thượng )

Page 324: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

323

Hai thể âm dương cũng chính là Đạo:“Nhất âm nhất dương chi vị đạo „ Một âm, một dương biến hóa, điều hợp mà sinh ra vạn vật. Dịch là để biểu thị cho đạo sinh thành ấy, cho nên mới có câu:“Sinh sinh chi vị Dịch„ Nói tóm lại, về phương diện thực tại Khổng Tử chủ trương sinh thành mặc dầu ở hình nhi hạ có chủ trương thuyết chính danh: Một hôm Khổng Tử nói:“ Ta muốn không nói „ Tử Cống thưa:“ Phu tử không nói, thì đệ tử còn học hỏi thế nào? „ Khổng Tử đáp:“ Trời có nói đâu, mà bốn mùa cứ vận hành, trăm vật sanh nở, trời có nói đâu „ ( Tử viết:“ Dư dục vô ngôn „ Tử Cống viết:“ Tử như bất ngôn, tắc tiểu tử hà thuật yên? „ Tử viết:“ Thiên hà ngôn tai? Tứ thời hành yên, bách vật sinh yên. Thiên hà ngôn tai? ) ( Luận ngữ ) Tư tưởng này có ảnh hưởng cho đến đời sau: Ở Mạnh Tử Ly Lâu hạ: “ Người Từ tử hỏi:“ Ông Trọng Ni xem sông nước thường hay khen rằng: nước vậy thay, nước vậy thay! là lấy nghĩa gì ở nước vậy? „ Mạnh Tử đáp rằng:“ Nước suối từ nguồn gốc cuồn cuộn chảy ra chẳng dừng ngày đêm, đầy khe rồi mới chảy dần đi khắp bốn bể; nước có nguồn gốc như thế cho nên lấy nghĩa ấy mà khen vậy. „ ( Từ tử viết:“ Trọng Ni khái xưng ư thủy, viết: thủy tai, thủy tai! Hà thủ ư thủy dã? „ Mạnh Tử viết:“ Nguyên truyền hỗn hỗn, bất sả trú dạ, doanh khoa nhi hậu tiến phóng hồ tứ hải, hữu bản giả như thị, thị chi thủ nhỉ „ ) Lão Tử với Dịch quan Có thể nói rằng Đạo là phạm trù triết học xuất hiện đầu tiên với Lão Tử. Ở ĐĐK, chương 1, Lão Tử viết:“ Đạo khả đạo phi thường đạo, danh khả danh phi thường danh „ ( Đạo mà nói ra được thì không còn là đạo thường nữa, danh mà gọi ra được thì không còn là danh thường nữa ) Như vậy Đạo không thể xác định được, nhưng tạm mượn danh từ đó để chỉ bản thể của vũ trụ. Đạo là nguồn gốc của vũ trụ, vạn vật. Vũ trụ, vạn vật từ đó biến hóa ra theo phép tắc hẳn hoi như sau: “ Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật „ (ĐĐK, Chương 42 ) (ĐĐK, chương 42 ) Trong thế giới hiện tượng, tất cả đều biến động không ngừng, bởi vậy xác định sự vật bằng một danh từ cố định là không đúng hẳn, cho nên Lão tử mới chủ trương thuyết vô danh để chống lại với thuyết chính danh của Khổng Tử. Như vậy Lão Tử nghiêng về khuynh hướng sinh thành.

Page 325: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

324

Trang Tử Thiên Thu thủy nói:“ Vật sinh ra như mau, như chậm, không động tác nào mà không biến đổi, không khoảnh khắc nào mà không dời đi . Làm sao như thế, làm sao không như thế? Ấy là vốn nó muốn tự hóa. ( Vật chi sinh dã, nhược sậu nhược trì, vô động nhi bất biến, vô thời nhi bất di. Hà vi hồ? Hà bất vi hồ? Phù cố tương tự hóa.) Đấy là thuyết vật hóa của Trang Tử, không vật nào không biến đổi, không vật nào không tự hóa bên trong, nghĩa là không vật nào không sinh thành. Nói chung thì ở Trung Hoa có khuynh hướng sinh thành hơn là khuynh hướng tồn tại. Đến đây, chúng ta hãy rời khỏi khu vực tư tưởng Trung Hoa để quay sang Ấn Độ, xét xem quan niệm của Phật giáo như thế nào về vấn đề này. Phật giáo với sinh thành và tồn tại. Nói chung thì Phật giáo nguyên thủy phủ định tất cả định kiến về thượng đế, tự ngã hay đệ nhất nguyên lý mà cho rằng vũ trụ được hình thành do nhân duyên, tức các mối quan hệ giữa các hiện tượng. Đức Phật nói:“ Tất cả đều do nhân duyên mà thành; tuy vạn pháp biến dịch vô thường, nhưng các phép tắc biến dịch ấy lại thường hằng bất biến „ Như vậy vũ trụ luận của Phật giáo thuộc về tương đối luận. Phật giáo không những chỉ nghiên cứu riêng về vũ trụ, mà vấn đề quan trọng là bản chất của những hiện tượng được xác định trong mối quan hệ nhân duyên kia như thế nào. Có rất nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này, cho nên Phật giáo được phân chia ra nhiều hệ phái, mà quan trọng nhất là Thượng tọa bộ và Đại chúng bộ. Thượng tọa bộ: với chủ trương thực tại luận, do hai yếu tố tâm, vật cấu tạo, mà hai yếu tố đó là vô thủy, vô chung, có yếu tố tồn tại và có thực tại tính. Theo khuynh hướng này, đặc biệt có Hữu bộ với thuyết “ Tam thế thực hữu, pháp thể hằng hữu „ Quan điểm này được chứng minh qua lời Đức Phật nói gọi là giáo chứng: “ Này các Tỳ kheo! Sắc là gì? Hết thảy sắc, tức quá khứ, hoặc vị lai hay hiện tại, hoặc trong hay ngoài, ưu hay liệt, hoặc xa, hoặc gần, tất cả đều gọi là sắc… „ Trên đây có nói đến quá khứ, vị lai, hiện tại, vậy nếu Phật không thừa nhận “ Tam thế thực hữu „ thì đã không có nói như trên. “ Tam thế thực hữu „ cũng được chứng minh bằng nghiệp luận: những nghiệp tạo tác trong quá khứ mang lại quả báo ở hiện tại, rồi những nghiệp

Page 326: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

325

quá khứ, hiện tại sẽ kết quả ở vị lai. Giả sử không có quá khứ và vị lai thì thuyết này nhất định không thể được thành lập. Về phương diện biểu hiện, tuy các pháp có biến hóa vô cùng nhưng về pháp thể tức yếu tố tự thân lại không bị tiêu diệt, do đó mới có thuyết “Vật chất bất diệt, thế lực hằng tồn „ Đại chúng bộ: Thế giới quan của Phật giáo không chỉ giới hạn trong thực tại luận, mà còn có khuynh hướng từ quan niệm luận đến vô vũ trụ luận gọi chung là duy tượng luận do Đại chúng bộ chủ trương. Phái này chủ trương lấy lý tưởng Niết bàn làm tôn chỉ, nên tất nhiên phải lấy Diệt đế và Đạo đế làm tiêu chuẫn cấu thành thế giới quan của mình, cho rằng:“Hết thảy các pháp hữu vi chẳng qua chỉ là tro tàn“ hay “ Tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian đều chỉ là giả danh, không có thật thể „ nhưng cũng có phái lại chủ trương: “ Thế gian pháp tức thực thế giới, vì do tâm điên đảo mà sinh, nên chỉ là giả danh, không thật; nhưng xuất thế gian pháp, tức Niết bàn thì thực tại „ Các phái này tuy có chỗ bất đồng, nhưng đều đồng nhất ở điểm cho thế giới này là giả dối, không có thực tại. Lại cũng có phái chủ trương thuyết “ Không „ rồi dần dà về sau biến chuyển thành Bát nhã ở Đại thừa. Rồi thành thật luận sau đó lại muốn tổng hợp khuynh hướng thực tại luận của Thượng tọa bộ và khuynh hướng duy tượng luận của Đại chúng bộ như sau: nếu đứng trên lập trường thường thức khoa học mà nói thì vạn hữu là có thực, là tồn tại, nhưng nếu đứng trên lập trường hình nhi thượng học mà nói thì bản tính của vạn hữu là không hay nói cách khác:“ Thế đế cho nên có, đệ nhất nghĩa đế cho nên không „ Như vậy, về thuyết tứ đế, khi thuyết minh về khổ đế và tập đế thì đứng trên lập trường thế đế mà luận về phương diện “có „ nhưng khi nói đến diệt đế và đạo đế thì lại đứng trên lập trường chân đế hay đệ nhất nghĩa đế mà chủ trương “ không „ Ngoài ra còn một tư trào nữa là thực tại luận hình nhi thượng bao hàm các khuynh hướng và được Đại thừa Phật giáo khai triển, trong đó “ Sát na diệt luận „ có thể nói là thế giới quan chung cho các bộ phái, theo đó thì tất cả mọi hiện tượng đều sanh diệt, biến đổi từng sát na. Theo Phật giáo, tất cả mọi sự vật được gọi là hữu vi pháp và quan niệm rằng vì là hữu vi pháp cho nên cho tất cả mọi hiện tượng đều là vô thường. Tuy nhiên về phương diện nào đó, người ta cũng không thể không thừa nhận có một thực thể thường hằng làm nền tảng, nếu không như thế thì tất cả sẽ rơi vào tình trạng hỗn độn. Đức Phật đã thừa nhận các hình thái thường hằng như các phép tắc liên hệ, tức thuyết duyên khởi, chân lý bất biến của tứ đế:

Page 327: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

326

“ Tứ đế này là tính không hư dối, là pháp không biến dị, là chân như „ đó là lời nói của Đức Phật. Sau này thì lý tưởng tối cao là Niết bàn thường hằng, bất biến. Lúc mới đầu chỉ có Niết bàn mới gọi là vô vi, nhưng về sau những gì nói chung bất sinh, bất diệt đều gọi là vô vi như lý nhân duyên, tứ đế. Vô vi là trạng thái sau khi tách khỏi sự sinh diệt, biến hóa của hữu vi, nghĩa là trong hữu vi có vô vi và lấy sự cắt đứt mọi quan hệ với hữu vi làm tiêu chuẩn. Nói cách khác vô vi pháp là tiềm thể của thế giới, nó cùng tồn tại với thế gian, nhưng không liên hệ trực tiếp với thế gian. Tiếp theo Đại chúng bộ là cuộc vận động của Đại thừa được xem như phong trào phục hưng Phật giáo dựa vào tinh thần truyền thống Phật giáo nguyên thủy, nhưng phản đối những hình thức của Tiểu thừa. Đại thừa nói chung đều lấy thệ nguyện“Trên cầu đạo Bồ đề, dưới hóa độ chúng sinh „ của Bồ tát làm trọng tâm. Những kinh quan trọng của Đại thừa: Kinh Bát nhã: là bộ kinh căn bản nhất đứng trên lập trường “ Vọng tâm duyên sinh „ với tư tưởng “ Không „ là kết luận của duyên sinh quan trong nguyên thủy Phật giáo. Sự thấu suốt tư tưởng“ Không „ ấy gọi là Bát nhã, tức trí tuệ. Bát nhã, trí tuệ và“ không „ thật ra chỉ là một; đứng về phương diện chủ quan thì gọi là Bát nhã, còn về phương diện khách quan thì gọi là“ không „.“ Không „ở đây không có nghĩa là không có gì cả, mà là không bị ràng buộc bởi những điều kiện nhân duyên, cho nên nếu căn cứ vào chữ“ Không „ mà kết luận rằng kinh Bát nhã là chủ nghĩa hư vô là không đúng. Mục đích của Bát nhã là phá trừ ngã chấp, dục vọng để tâm hoàn toàn được tự do, không bị ngăn ngại. Khi đã đạt được trạng thái “ không „ thì tâm thần lâng lâng, thanh thoát, không còn vương chút phiền não và đồng thời thế giới cũng hoàn toàn biến đổi thành tươi sáng, đó là “ Chân không diệu hữu „ Kinh Hoa nghiêm: đứng trên lập trường“ Tịnh tâm duyên sinh „ để mở rộng vũ trụ quan về phương diện diệu hữu. Đó là lập trường “ Tam giới duy tâm „ và “ Tâm như người họa sĩ, vẽ các loại ngũ uẩn. Trong tất cả thế giới, không có vật nào là không do tâm tạo ra „(Tâm như công họa sư, họa chủng chủng ngũ ấm. Nhất thiết thế giới trung, vô pháp nhi bất tạo) Vũ trụ quan của Hoa nghiêm là phiếm thần, toàn cõi pháp giới này là sự hiển hiện của pháp thân, nghĩa là trong một ngọn cỏ, một thân cây cũng có thể nói là phản ảnh toàn thế giới; trong một giây phút, chốc lát cũng có thể bao hàm tính vĩnh cữu. Thế giới này là do vô số tơ duyên đan dệt, qua tất cả không gian, thời gian, tương quan chằng chịt với nhau, không vật nào dù nhỏ như hạt bụi đứng cô lập. Như vậy kinh Hoa nghiêm tiến đến

Page 328: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

327

chủ trương“ Một là hết thảy, hết thảy tức là một „ hay nói khác:“ Thế giới và pháp thân là một „ do đó bất cứ ai hễ tâm thanh tịnh đều có thể liễu ngộ được chân lý. Kinh Duy ma: Kinh này chuyển những tư tưởng dự phóng trong Bát nhã và Hoa nghiêm thành thực tế. Theo lập trường của kinh này thì cuộc sống của người ta là sự thể hiện của chân như tính rồi. Bởi thế người ta muốn tu theo đạo Phật không nhất thiết phải xa lánh xã hội, tìm đến những nơi thâm sơn, cùng cốc. Cuộc sống chân chính, đạo hạnh lý tưởng là diệt trừ ngã chấp và dục vọng để cho Phật tính hay Bồ đề tâm hiển hiện, đó là lập trường của kinh này. Kinh Pháp hoa hay Diệu pháp liên hoa: Tùy theo trình độ và căn cơ của chúng sinh mà đạo Phật có tạm nói đến Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát Tam thừa, nhưng đó chẳng qua chỉ là phương tiện dẫn dụ mà thôi, chứ bản nguyện của Đức Phật sau cùng cũng muốn quy Tam thừa về Nhất thừa, tức là Phật thừa: mọi người đều có thể thành Phật. Việc trưng dẫn tư tưởng của các bộ phái cũng như một số kinh sách quan trọng của Phật giáo đến đây cũng đã đủ để nhận định về khuynh hướng sinh thành , tồn tại của tôn giáo này. Nói chung, về phương diện tục đế thì tất cả hiện tượng tâm cũng như vật đều biến chuyển sinh diệt từng sát na, chúng không bao giờ đứng yên ở một trạng thái. Đó là khuynh hướng sinh thành. Còn về phương diện chân đế hay đệ nhất nghĩa đế thì có“ Chân không diệu hữu „ tức là tồn tại, tính thể. Điều đáng chú ý ở đây là hai lãnh vực này không hoàn toàn tách biệt nhau như triết học của Platon ở Hy Lạp về hai thế giới, mà cả hai lãnh vực đều có tương quan chặt chẽ như ở Hoa nghiêm:“ một là tất cả, tất cả là một „ Còn ở kinh Kim cương:“ Hết thảy các pháp đều là Phật pháp „ nói cách khác, ngay trong thế giới hiện tượng đã hàm chứa thực tại, bản thể rồi và như vậy sinh thành cũng là tồn tại, thế cho nên có người chưa từng nghiên cứu sâu về Phật giáo, chỉ mới căn cứ đơn thuần vào thuyết ảo hóa ( Maya ) đã vội kết luận rằng Phật giáo là bi quan, yếm thế. Đó chỉ là ngộ nhận. Thật ra khi nêu lên thuyết ảo hóa không có nghĩa là tỏ thái độ bi quan hay lạc quan gì cả, mà là vạch rõ bản chất của sự sống, là chân lý trong tứ diệu đế với mục đích cảnh giác con người. ( Tham khảo Tiểu thừa, Đại thừa Phật giáo tư tưởng luận-Kimura Taiken, Thích Quãng Độ dịch từ bản chữ Hán ) * Vấn đề có hay không, sinh thành hay tồn tại trong lịch sử tư tưởng Việt Nam :

Page 329: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

328

Nếu trong nền văn học Anh có câu nói thời danh của thi hào William Shakespeare ( 1564-1616 ) : “ To be or not to be, that is a question” thì trong văn học Việt Nam, vấn đề này đã được khai triển rất phong phú, đa dạng qua các vị Thiền sư cũng như các vị vua, quan học giả thời đại Lý-Trần ở những thế kỷ 12-13 ( đã được giới thiệu ở phần lịch sử tư tưởng VN, nay xin vắn tắt lập lại trong sự liên hệ với các nguyên lý căn bản của triết học hiện đại ). Thiền sư Vạn Hạnh ( ?-1025 ) Trước khi tịch, Sư có nói bài kệ : « Thân như điện ảnh hữu hoàn vô Vạn mộc xuân sinh thu hựu khô Nhậm vận thịnh suy vô bố úy Thịnh suy như lộ thảo đầu phô ( Thân người ta như ánh chớp có lại không Ví như cây cỏ mùa xuân nẩy nở, mùa thu khô héo Noi theo vận mệnh lên xuống tự nhiên không còn lo sợ Lên xuống cũng như hạt sương phơi trên ngọn cỏ ) Sự sống của con người cũng như vạn vật biến dịch tuần hoàn không ngừng theo luật tự nhiên, cho nên cứ nương theo đó mà sống một cách an nhiên , không sợ hãi đối với việc mất còn, thịnh suy. Thiền sư Viên Chiếu (999-1090 ) Có người hỏi :

-Thế nào là một pháp ? ( Như hà thị nhất pháp ? ) Thiền sư đáp :

-Chẳng thấy xuân sinh cùng hạ trưởng Theo liền thu chín với đông tàng.

( Bất kiến xuân sinh kiêm hạ trưởng Hựu phùng thu thục cập đông tàng ) Ý nói vạn vật biến dịch, nhưng không phải không có chỗ dựa làm nền tảng : đó là nguồn sống vĩnh cữu vừa thiên nhiên vừa siêu nhiên trên tinh thần « Dĩ bất biến ứng vạn biến » Vua Trần Thái Tông ( 1218-1277 ) « Tứ sơn tiêu bích vạn thanh tùng Liễu ngộ đô vô vạn vật không Hỉ đắc lư nhi tam cước tại

Page 330: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

329

Mạch kỵ đả sấn thượng cao phong. » ( Bốn núi vách cao cây xanh tốt Giác ngộ đều không, muôn vật không Mừng có con lừa ba chân đấy Cưỡi lưng thẳng tiến đỉnh non bồng.) Câu đầu nói về vũ trụ quan sinh hóa : bốn núi tượng trưng cho bốn mùa xuân, hạ, thu, đông liên hệ với sinh, lão, bệnh, tử của vòng sinh hóa, là biểu hiện của vô sinh trong điều kiện không gian, thời gian. Câu thứ hai nói về tri thức luận : không luận. Không ( Sunya ) không phải là hoàn toàn hư vô, phủ nhận tất cả thực tại, mà chỉ phủ nhận thế giới hiện tượng không có tự tính độc lập. Ngay bên trong thế giới hiện tượng có cái gì thường còn, bất biến không lệ thuộc các điều kiện nhân duyên,không thể diễn tả được nên tạm gọi là « không » nghĩa là không phải hiện tượng, nói khác đó là thực tại tuyệt đối, bản thể đại đồng. Câu thứ ba nói về cơ cấu tâm thân, tam nghiệp : thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp. Câu kết nêu lên giải pháp : biện chứng giải thoát. Khuông Việt Đại sư, tức Ngô Chân Lưu ( 933-1011 ) Một hôm cao đệ Đa Bảo hỏi :

-Như hà thị học đạo thủy chung ? ( Thế nào là học đạo thủy chung ?) Sư đáp :

« Thủy chung vô vật diệu hư không Hội đắc chân như thể dụng đồng. » ( Thủy chung không có vật, chỉ có hư không mầu nhiệm

Hiểu được chân như là bản thể tác dụng đồng nhất.) Khi sắp tịch, sư có làm bài kệ : « Mộc trung nguyên hữu hỏa Hữu hỏa hỏa hoàn sinh Nhược vị mộc vô hỏa Toàn toại hà do manh » ( Trong gỗ vốn có lửa Có lửa thì lửa mới lại sinh ra Nếu bảo gỗ không có lửa Thì dùi đục cọ xát ở đâu nẩy ra?)

Page 331: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

330

Như vậy theo Khuông Việt, thủy chung không có vật, chỉ có hư không mầu nhiệm là Chân như. Thế giới vạn vật thiên hình vạn trạng chỉ là tác dụng của Chân như biến hóa. Với quan niệm Chân như là thực tại duy nhất, quan niệm ngũ hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ được hiểu như là các phương diện tác dụng khác nhau của một thực thể chung đại đồng, cho nên cái nầy có thể biến hóa thành cái kia, chứ không biệt lập. Trưởng lão Định Hương ( ?-1050 ) “ Bản lai vô xứ sở Xứ sở thị chân tông Chân tông như thị ảo Ảo hữu tức không không” ( Nguyên lai không xứ sở Xứ sở ấy chân tông Chân tông huyễn ảo như thế Ảo hữu tức không không ) Bài kệ toát yếu quá trình biện chứng thực hiện vượt bậc khai triển như sau: Câu1: mệnh đề phủ định. Câu 2: mệnh đề khẳng định. Câu 3: vừa khẳng định, vừa phủ định. Câu 4: vừa phủ định, khẳng định và phủ định của phủ định. Cái hai lần phủ định ấy là trạng thái thuần túy ý thức, không thể hình dung bằng ngôn ngữ, ý niệm. Thông Biện Quốc sư ( ?-1134 ) Bài kệ về biện chứng trực giác giác ngộ: “ Sắc thị không, không tức thị sắc Không thị sắc, sắc tức không Sắc không câu bất quản Phương đắc khế chân tông” ( Có là không, không tức có Không là có, có tức không Có không đều vượt khỏi Mới nhập được chân tông ) Thế giới hiện tượng là một trào lưu biến dịch không ngừng, sự vật mới thấy có đó rồi lại biến mất đi trong khi vật khác lại xuất hiện, cho nên mới nói “ có tức không, không tức có ”. Ở thế giới hiện tượng biến dịch này,

Page 332: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

331

người ta chỉ có được chân lý tương đối ; muốn có chân lý tuyệt đối thì chớ chấp có, chấp không, mà phải siêu vượt khỏi chúng để hòa nhập vào chân tông, tức chân như hay bản thể đại đồng. Tăng thống Khánh Hỷ ( 1067-1142 ) Một hôm đệ tử Pháp Dung hỏi:

-Hiểu rõ sắc không, đó là phàm hay thánh? Sư trả lời bằng bài kệ:

“ Lao sinh hưu vấn sắc kiêm không Học đạo vô qua phỏng tổ tông Thiên ngoại mịch tâm nan định thể Nhân gian thực quế khởi thành tùng Kiền khôn tận thị mao đầu thượng Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung Đại dụng hiện tiền quyền tại thủ Thùy tri phàm thánh dữ tây đông.” ( Trong sự sống vất vả khoan hỏi về có không Học đạo chẳng qua tìm đến gốc nguồn Ngoài trời tìm tâm khôn định thể Nhân gian trồng quế há thành rừng Càn khôn gom lại đầu sợi tóc Nhật nguyệt nằm trong hạt cải mòng Trước mặt nắm tay dùng việc lớn Ai hay phàm thánh với tây đông. ) Phân biệt sắc không, phàm thánh là nhìn sự vật theo quan điểm nhị nguyên phân chia đối đãi. Tìm về cội nguồn thì cái ý thức phân chia ấy biến mất, nhường chỗ cho ý thức vũ trụ phi nhị, phi nhất: “ Một là tất cả, tất cả là một”, lúc đó mọi sự vật hiện ra đầy đủ, không ngăn ngại. Có thể nói đây là tư tưởng phiếm thần quan của Phật giáo Đại thừa.( Tinh thần của kinh Hoa nghiêm ) Đạo Hạnh Thiền sư (?-1117 ) “ Tác hữu trần sa hữu Vi không nhất thiết không Hữu không như thủy nguyệt Vật trước hữu không không.” ( Bảo có, cát bụi đều có Bảo không hết thảy đều không

Page 333: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

332

Có không ví như nước phản chiếu mặt trăng Chớ chấp có, phủ nhận không ) Theo Thiền sư vấn đề có không chỉ tương đối, cả hai không phải là thực tại tuyệt đối nên đừng chấp có, phủ nhận không. Nhận thấy nếu cứ tranh cãi mãi vấn đề thuộc tri thức luận này mãi cũng chẳng đi đến đâu, cho nên các vị Thiền sư mới chuyển sang vấn đề thực tiễn nhân sinh là sống chết, cho sống chết mới là việc quan trọng phải tìm hiểu và giải quyết đến nơi đến chốn. Thiện Hội ( ?-900 ), Vân Phong ( ?-956 ) Chúng ta hãy nghe cuộc đối thoại giữa thầy trò Thiện Hội và Vân Phong sau đây: Thiện Hội: - Sống chết là việc lớn, phải hiểu cho triệt để. Vân Phong, cao đệ của Thiện Hội: - Khi sống chết đến thì tránh thế nào? Thiện Hội: - Cố lấy chỗ không sống chết mà tránh vào đấy! Vân Phong: - Thế nào là chỗ không sống chết? Thiện Hội: - Ngay trong sống chết tìm hiểu lấy mới được! Thiền sư Cữu Chỉ ( ?-1065 ) Lúc nhỏ chuyên nghiên cứu sách Nho Phật, không chỗ nào là không thông suốt, một hôm vỗ sách mà than rằng: “ Khổng Mặc chấp hữu, Trang Lão nhược vô, thế tục chi điển phi giải thoát pháp, duy hữu Phật giáo bất hứa hữu vô, khả liễu sinh tử ” ( Khổng Mặc thì giữ thuyết có, Trang Lão thì chủ thuyết không. Kinh sách ở đời này không phải là phương pháp để giải thoát được. Chỉ có Phật giáo không nhận có hay không mới có thể giải quyết được vấn đề sống chết...) Thiền sư Trì Bát ( 1049-1118 ) “ Hữu tử tất hữu sinh Hữu sinh tất hữu tử Tử vi thế sở bi Sinh vi thế sở hỉ Bi hỉ lưỡng vô cùng Hốt nhiên thành bỉ thử Ư chư sinh tử bất quan hoài Úm tô lô tất lý! ” ( Có chết tất có sống

Page 334: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

333

Có sống tất có chết Chết đời lấy làm buồn Sống đời lấy làm vui Buồn vui thật vô cùng Bỗng nhiên thành đây đó Đối với việc sống chết Chẳng có gì bận lòng Án tô rô tô rô tất rị! ) Thiền sư cho rằng sống chết là lẽ tất nhiên của chúng sinh trong thế giới nhị nguyên phân chia đối đãi cho nên có mừng, có vui, có đau khổ, có hạnh phúc lẫn lộn. Con người đừng nên quá quan tâm đến mà phải thay đổi thái độ chủ quan của mình mới được an nhiên tự tại: phải xem sự vinh quang của người anh hùng và không anh hùng như nhau ( án tô rô tô rô tất rị ! ) Ni sư Diệu Nhân ( 1042-1113 ) « Sinh, lão, bệnh, tử Tự cổ thường nhiên Dục cầu xuất ly Giải phộc thiêm triền Mê chi, cầu Phật Hoặc chi, cầu Thiền Thiền, Phật bất cầu Uổng khẩu vô ngôn ! » ( Sinh, già, bệnh, chết Từ xưa thường vậy Muốn cầu thoát ly Cởi trói thêm buộc Mê mới tìm Phật Lầm mới cầu Thiền Thiền, Phật chẳng tìm Ngậm miệng không nói ) Sống chết không phải là vấn đề tri thức siêu hình có thể giải quyết được bằng lý thuyết suông, mà là vấn đề “ ngậm miệng không nói”, tức thực hiện bằng cả tâm thân cho đến bình thản, yên lặng, diệu nhập vào bản thể vũ trụ đại đồng.

Page 335: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

334

Thiền sư Thuần Chân ( ?-1105 ) « Chân tính thường vô tính Hà tằng hữu sinh diệt Thân thị sinh diệt pháp Pháp tính vị tằng diệt » ( Bản tính chân như thường không có tính Làm sao có thể từng sinh diệt Thân thể là hiện tượng sinh diệt Thể tính của hiện tượng chưa từng sinh diệt ) Trong thế giới không có gì tồn tại độc lập, có cá tính riêng biệt tuyệt đối cả. Tất cả đều tương đối nhau mà có, cũng như tương đối nhau mà không, sinh rồi lại diệt, diệt rồi lại sinh. Đó là thế giới hiện tượng sinh diệt không ngừng, nhưng thể tính của hiện tượng thì chưa từng sinh diệt. Như vậy, Thuần Chân Thiền sư đã phân biệt ra làm hai phương diện là thể và dụng hay bản thể với hiện sinh, hay Niết bàn với luân hồi. Mãn Giác Đại sư ( 1052-1096 ) « Xuân khứ bách hoa lạc Xuân đáo bách hoa khai Sự trục nhãn tiền quá Lão tòng đầu thượng lai Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận Đình tiền tạc dạ nhất chi mai » ( Xuân đi trăm hoa rụng Xuân về trăm hoa nở Việc đời qua trước mắt Tuổi già đầu tóc phai Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết Ngoài sân đêm trước một cành mai.) Thế giới hiện tượng thiên hình vạn trạng biến dịch không ngừng, khi sinh, khi diệt, nhưng phải có cái gì bất biến, thường còn làm chỗ dựa thì mới không trở thành hư vô. Chân Không Thiền sư ( 1046-1100 ) Cái gì thường hằng, bất biến ấy chính là thắc mắc chung của người học đạo.

Page 336: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

335

Có thầy tăng hỏi:- Tuy rằng không biện biệt được, đâu đâu cũng gặp được hắn ! Hắn đây là ai? ( Tuy nhiên vô biện đích, xứ xứ đắc phùng cừ. Ná cá thị cừ? ) Sư đáp: « Lửa kiếp thiêu tàn sạch mảy may Non xanh như cũ trắng mây bay » ( Kiếp hỏa đổng nhiên hào mạt tận Thanh sơn y cựu bạch vân phi ) Lại hỏi: « Sắc thân này tan rã thì sao? » Sư đáp: « Xuân qua xuân lại ngờ xuân hết Hoa rơi, hoa nở chỉ là xuân. » ( Xuân lai,xuân khứ nghi xuân tận Hoa lạc hoa khai chỉ thị xuân ) Thầy tăng còn đang phân vân, sư quát: « Đồng bằng sau cơn lửa Cây cối mỗi tươi thơm. » ( Bình nguyên kinh hỏa hậu Thực vật các thù phương ) Thiền sư Ngộ Ấn ( 1020-1089 ) Có người hỏi: - Thế nào là Phật? Thế nào là pháp? Thế nào là thiền? ( Như hà thị Phật? Như hà thị pháp? Như hà thị thiền? ) Ngộ Ấn đáp: - Đấng vô thượng pháp vương ở thân thể là Phật, ở miệng là pháp, ở tâm là thiền ( Vô thượng pháp vương tại thân vi Phật, tại khẩu vi pháp, tại tâm vi thiền ). Tuy là ba nhưng đều qui vào một mối ví cũng như nước của ba dòng sông, từng chỗ gọi tên khác nhau nhưng cũng đều là nước cả, tên tuy khác mà bản tính thì không khác. Đó là triết lý tam bản của Ngộ Ấn: -Lấy thân làm Phật: mỗi người đều có Phật tính, nên lấy bản thân mình mà thực hiện để đạt đến Phật tính ấy bằng con đường hành đạo Bồ tát với lòng từ bi, hỷ xả. -Lấy khẩu làm pháp: pháp là toàn thể sự vật, hiện tượng có quan hệ mật thiết với nhau theo qui luật tự nhiên nên phải dùng lý trí với ngôn ngữ hay miệng để thuyết lý chân lý khách quan. - Lấy tâm làm thiền: Thiền là ý thức biện chứng trực giác về thực tại tuyệt đối, phải lấy tâm làm phương tiện thể nghiệm. Vậy ba phương diện của thực tại tuyệt đối hay “ vô thượng pháp vương” là Phật, pháp, thiền phù hợp với ba tác dụng biểu hiện của con

Page 337: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

336

người là thân, khẩu, tâm. Ba phương diện đó tuy tên gọi khác nhau nhưng cùng qui về một nguồn. Lúc sắp viên tịch, Thiền sư có làm bài kệ: “ Diệu tính hư vô bất khả phàn! Hư vô tâm ngộ đắc hà nan. Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận, Liên phát lô trung thấp vị càn.” ( Bản tính vô hình mầu nhiệm không thể nắm bắt được! Chỉ có thể lấy tâm vô niệm mà giác ngộ thì không khó nữa Ví như ngọc đốt trên núi mà màu sắc vẫn đẹp Hay như hoa sen nở trong lò lửa mà vẫn tươi màu.) Thực tại tuyệt đối hay “ vô thượng pháp vương” là thể tính huyền diệu, bản thể siêu nhiên đại đồng không lệ thuộc vào điều kiện không gian, thời gian, thoát khỏi điều kiện nhân duyên, dung hòa mọi mâu thuẫn, nghĩa là từ bình diện tương đối chuyển sang bình diện bình đẳng tuyệt đối. Cái tâm viên giác ấy có thể ví như viên ngọc đốt trên núi mà sắc vẫn nhuận, như hoa sen nở trong lò than hồng mà sắc vẫn tươi. Viên ngọc ấy là viên ngọc kim cương Bát nhã, còn bông sen kia là bông sen của Diệu pháp liên hoa. Trong văn học bình dân Việt Nam có câu: “ Ngọc bất trát bất thành khí .” hay: “ Ngọc kia chẳng dủa chẳng mài, Cũng thành vô dụng cũng hoài ngọc đi.” Sách Phật cũng có dạy: “ Tất cả chúng sinh đều có Phật tính ” ( Nhất thiết chúng sinh câu hữu Phật tính ). Đó là của quý báu, nhưng nếu con người không chịu tu tập tinh tấn thì trí huệ Bát nhã cũng không hiển hiện được. Trí huệ Bát nhã ví như viên ngọc kim cương vô cùng cứng rắn, không gì có thể phá vở được, nhưng ngược lại nó có khả năng phá vở mọi thành trì vô minh kiên cố, khai phóng ánh sáng trí huệ. Hoa sen là hình ảnh ẩn dụ cho diệu pháp trong kinh Diệu pháp liên hoa. Bậc thương căn trí thức nghe diệu pháp liền ngộ, còn hàng trung hạ căn không thể lãnh hội ngay nên phải mượn hình ảnh hoa sen để dẫn dụ diệu lý, do dụ mà nhận ra diệu pháp. Hoa sen có hai phần biểu thị hai yếu tố nhân quả: nhân là hoa bao gồm cánh, nhụy; quả là gương hột.

Page 338: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

337

Tương quan nhân quả: có hoa ( cánh, nhụy ) tức có quả ( gương hột ) và ngược lại. Đức Phật chủ trương tùy trình độ, căn cơ của chúng sinh mà nói pháp: - Trước hết nói tam thừa cho hạng trung hạ căn tánh, xem như phương tiện để dẫn dắt như khi hoa sen chưa nở, chưa có thể thấy ngay gương hột.

- Qua dẫn dụ căn tánh trở nên thuần, liền chỉ ngay nhất thừa chân thật như hoa sen đã nở, thấy được gương hột. - Sau cùng nói thẳng giáo lý nhất thừa, tức chỉ có Phật thừa như hoa sen cánh, nhụy rụng sạch, chỉ còn gương hột. Hoa sen cũng là hình ảnh tương trưng từ lâu đời cho tinh thần dân tộc Việt Nam với bài ca dao đặc sắc sau đây: “ Trong đầm gì đẹp bằng sen Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng Nhụy vàng bông trắng là xanh Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.” Hình ảnh hoa sen trong bài ca dao này đã thể hiện đồng thời ba lý tưởng chân, thiện, mỹ cũng tương tự như tinh thần Thiền học nghệ thuật Việt Nam . Nội dung của bài ca dao chẳng những phản ánh tư tưởng của kinh Pháp hoa mà còn tương đồng với lập trường của kinh Duy ma cật nữa: đạo Phật chân chính được xây dựng và phát triển ngay chỗ bùn lầy nước đọng làm cho hoa sen bừng nở, tỏa hương thơm ngát, nghĩa là con người tìm giác ngộ ngay trong phiền não, ngay trong cuộc sống đa đoan này. Trong quá khứ, các Nho sĩ hủ lậu đã coi khinh chữ Nôm, cho rằng: “ Nôm na mách qué ” vậy mà có người cho rằng nội dung bài ca dao “ hoa sen ” là tượng trưng cho tinh thần của người quân tử, tức mẫu người lý tưởng của Nho giáo thì không tự nhiên chút nào, vì ai ai cũng đều biết rằng đã từ lâu cây trúc, hoa mai là biểu tượng cho người quân tử, còn hoa sen là biểu tượng của tinh thần Phật giáo cũng như tinh thần đại chúng dân tộc Việt Nam. Ở đây cần phân biệt những thái độ khác nhau do quan điểm khác nhau: Với quan điểm Nho giáo độc tôn, các Nho sĩ hủ lậu đề cao giới quân tử, coi khinh hạng tiểu nhân cũng như xem trọng chữ Hán với nền văn học Hán văn, xem thường chữ Nôm và văn học bình dân. Trong khi Phật giáo đã hội nhập trực tiếp từ lâu vào lòng dân tộc này, như đã nói, xây dựng và phát triển ngay tại chỗ bùn lầy nước đọng để cho đóa sen bừng nở, tỏa hương thơm ngát, tức là tìm giác ngộ ngay trong cuộc sống đa đoan đầy phiền não này. Điều đó cũng phù hợp với quan

Page 339: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

338

điểm dân tộc và nhân loại nói chung rằng tinh hoa của dân tộc, của xã hội đều phát xuất từ quần chúng nhân dân mà ra. Ngoài ra biểu tượng hoa sen của Phật giáo và dân tộc còn được thể hiện rõ ràng qua công trình kiến trúc ngôi chùa một cột nổi tiếng đời Lý, mà mái chùa tượng trưng cho hoa sen, cột chùa là cọng sen vươn lên khỏi mặt hồ nước. Ngôi chùa một cột cũng còn là biểu tượng của nguyên lý âm dương sinh thành nữa: mái chùa tượng trưng cho nguyên lý âm, cột chùa tượng trưng cho nguyên lý dương. Như vậy nghệ thuật kiến trúc ngôi chùa một cột là biểu tượng độc đáo tinh thần dân tộc Việt Nam, nó nói lên ý nghĩa triết lý hiện thực sinh động của Bồ tát Quan âm với lòng từ bi vô hạn, tự dấn thân vào cuộc đời hữu hạn để giải thoát chúng sinh, nhìn tạo vật biểu hiện hóa thành cuộc sống sinh động, sáng tạo xuyên qua hai phương diện bản thể chân như thường hằng với hiện tượng sai biệt thiên hình vạn trạng. Bản thể và hiện tượng cũng như cứu cánh và phương tiện không rời nhau cũng như bùn lầy nước đọng là phương tiện, là môi trường để cho hoa sen thành tựu đơm bông, kết hột và tỏa hương thơm. Vật chất và tinh thần là hai phương diện biểu hiện của cùng một thực tại, nguồn sống đại đồng, do đó tuy là hai phương diện nhưng là một. Tư tưởng này chính là tiền đề làm xuất hiện tư tưởng “Cư trần lạc đạo ” của vua Trần Nhân Tông ở thế kỷ XIII. Vua Trần Nhân Tông ( 1258-1308 ) “ Mình ngồi thị thành Nết dụng sơn lâm... Cư trần lạc đạo thả tùy duyên Cơ tắc xan hề khốn tắc miên Gia trung hữu bảo hưu tầm mích Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền” ( Ở đời vui đạo hãy tùy duyên Đói cứ ăn đi mệt ngủ liền Trong nhà có báu thôi tìm kiếm Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền ) Đạo và đời không hai, không khác. Đó là tư tưởng đúng đắn, phù hợp với tình hình đất nước, đáp ứng được nguyện vọng chính đáng của toàn dân, đem lại sự đại đoàn kết, tạo ra sức mạnh tổng hợp toàn diện ở cả hai phương diện vật chất và tinh thần, góp phần bảo vệ hữu hiệu độc lập cho dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ và xây dựng đất nước cường thịnh trong một

Page 340: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

339

thời kỳ lâu dài. Đây là sự thật có cơ sở rõ ràng nhất để đánh đổ thành kiến cho rằng Phật giáo bi quan, yếm thế, chỉ lánh đời cầu đạo. Điều này thật rõ ràng bởi vì Phật giáo là đạo cứu khổ, mà không có nổi khổ nào bằng nổi khổ của dân tộc bị mất nước. Thế cho nên dốc hết lòng cứu nước tức là đã thể hiện được cao độ hành vi đạo đức cứu khổ chúng sinh rồi vậy. Trình bày như trên không có nghĩa là vấn đề có không đã được hoàn toàn giải quyết và đi vào quên lãng, mà bài giảng tại chùa Sùng Nghiêm của vua Trần Nhân Tông vẫn còn nói lên tính cách thời sự của vấn đề: Một vị tăng hỏi: “ Câu có câu không Như dây bám cây ” thì thế nào? Điều Ngự ( vua Trần Nhân Tông ) bèn nói: “ Câu có câu không Dây khô cây đổ Mấy vị thầy tu Dập đầu trán vở ... Câu có câu không Ngó phải ngó trái Ráo riết hùa theo Ồn ào tranh cãi » Nhà vua đã từng nói rõ lý do vì sao có tình trạng « ồn ào tranh cãi » như vậy ở « Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca » : « Bởi lòng vờ vịt Trỏ Bắc làm Nam » Và nay lại nói thêm cái lý nhân duyên « như dây bám cây- dây khô cây đổ » : « Câu có câu không Chẳng có chẳng không Khắc thuyền tìm gương Bản đồ tìm ngựa ... Câu có câu không Từ nay từ xưa Quên trăng giữ ngón Chết đuối trên bờ »

Page 341: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

340

Vấn đề có không chỉ là vấn đề tương đối gắn liền với lý nhân duyên, nếu nhìn ở phương diện hiện tượng thì hình như xuất hiện có với không, nhưng nếu nhìn theo quan điểm bản thể thì chẳng có mà cũng chẳng không. Thế giới sự vật, hiện tượng biến hóa muôn hình nghìn vẻ gắn liền với không gian, thời gian mà ngôn từ « có », « không » lại cố định, cho nên đem ra tranh cãi hoài thì chẳng khác nào người đi thuyền làm rơi kiếm xuống sông, bèn làm dấu chỗ rơi kiếm trên mạn thuyền để về tới bến mà tìm, hay cũng như người cầm bản đồ để đi tìm ngựa vậy. Kiếm thì chìm vào đáy sông cố định, mà thuyền thì di động, cũng như việc đánh dấu trên bản đồ, tọa độ đã được xác định, mà ngựa nào có chịu đứng yên một chỗ đâu, nó cứ phóng chạy như bay. Kinh Viên giác có câu : « Các lời dạy của khế kinh chẳng khác nào ngón tay để chỉ mặt trăng. Nếu đã thấy mặt trăng rồi, thì có thể biết cái để chỉ mặt trăng ( ngón tay ) không phải là mặt trăng. » Nêu rõ bản chất của vấn đề như thế, nhà vua liền đưa ra giải pháp : « Câu có, câu không Như vậy, như vậy Tám chữ mở toang Không còn mũi rẩy ... Câu có, câu không Rầu rầu, rĩ rĩ Cắt đứt sắn bìm Đó đây vui vẻ » Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, các vị Thiền sư đời Lý, vua Trần Thái Tông cũng như vua Trần Nhân Tông đều phê phán lối dùng lý trí suy luận với danh lý như vấn đề « có », « không » tức là sự khẳng định và phủ định của khái niệm, mà chú trọng đến biện chứng ý thức thực hiện siêu vượt lên trên những cặp mâu thuẫn đó, bởi vì khẳng định tất cả đều có, đó là một cực đoan, còn phủ định tất cả là không lại là một cực đoan khác. Cho nên vua Trần Nhân Tông đã chỉ rõ cho mọi người biết rằng không nên « ồn ào tranh cãi » chuyện « có », « không » mà vấn đề quan trọng trước mắt là phải đoàn kết một lòng, quyết tâm chiến đấu để bảo vệ chủ quyền đất nước, sự sống còn của dân tộc, bởi vì đất nước tồn tại là tất cả tồn tại, đất nước mất thì tất cả trở thành không. Sự tồn tại của đất nước mới thực sự là vấn đề mà mỗi con người cần phải ý thức. Với tinh thần đó, nhân dân Đại Việt đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử của mình là bảo vệ được độc lập và xây dựng đất nước thành công vào thế kỷ thứ XII, XIII

Page 342: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

341

Vấn đề tồn tại trong lịch sử tư tưởng Việt Nam được hiểu và thể hiện trong cuộc sống hiện thực rất phong phú và đặc sắc. Tư tưởng ấy có thể được tóm tắt như sau : Thế giới hiện tượng thiên hình vạn trạng do nhân duyên mà sinh, diệt vô cùng tận xem chừng như tuồng ảo hóa : « Tuồng ảo hóa đã bày ra đấy... » Nhưng chính ngay trong thế giới hiện tượng đó đã hàm chứa một thực tại thường còn, bất biến, bởi vì nếu không như thế thì vạn vật từ đâu được sinh ra, và khi bị hủy diệt sẽ đi về đâu ? Vạn vật cũng không tồn tại độc lập, mà có liên hệ, biến hóa từ cái nọ sang cái kia và có cùng chung một gốc là bản thể đại đồng : « Mộc trung hữu nguyên hỏa Hữu hỏa hỏa hoàn sinh » ( Trong gỗ vốn có lửa Có lửa thì lửa mới lại sinh ) Như vậy tư tưởng này bao hàm ý nghĩa sinh thành lẫn tồn tại. Nó khác hẳn với chủ trương của Platon về hai thế giới khác biệt: thế giới ảo ảnh biến dịch đối lập với thế giới lý tưởng, thế giới bên kia. Truyền thống tư tưởng Việt Nam nói riêng và Đông phương nói chung có khuynh hướng tổng hợp hơn là phân tách, phân chia biện biệt, cho nên có quan niệm:“Một là tất cả, tất cả là một ” hay “ Vạn vật đồng nhất thể ”: “ Kiền khôn tận thị mao đầu thượng Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung ” ( Càn khôn gom lại đầu sợi tóc, Nhật nguyệt nằm trong hạt cải mòng. ) Khuông Việt Đại sư cũng đã bao quát lý thuyết về thực tại thế giới qua câu trả lời cho Đa Bảo: “ Thủy chung vô vật diệu hư không, Hội đắc chân như thể dụng đồng ” ( Thủy chung không có vật, chỉ có hư không nhiệm mầu, Hiểu được chân như là bản thể, tác dụng đồng nhất.) Như vậy thế giới hiện tượng, vạn vật chỉ là biểu hiện sinh thành của một bản thể vũ trụ duy nhất, đó là Diệu hữu, là Tính thể. Có điều rất thú vị là những tư tưởng truyền thống nói trên trong lịch sử tư tưởng Việt Nam đều rất phù hợp với những tri thức khoa học hiện đại như sự thống nhất của thế giới vạn vật vào bản thể đại đồng có thể được so sánh với sự thống nhất thế giới vật chất vào năng lượng.

Page 343: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

342

Từ vật chất đến năng lượng Quan niệm vật chất đã biến đổi theo thời gian: Thales ( 624-546 ) Trước kia ở Hy Lạp, Thales đã xem nước như là nguồn gốc của vạn vật. Ý tưởng này đã được thi hào Đức W.Goethe diễn tả như sau: “ Alles aus dem Wasser entsprungen! Alles wird durch das Wasser erhalten! Ozean, gönn’ uns dein ewiges Walten. Wenn du nicht Wolken sendetest, Nicht reiche Bäche spendetest, Die Ströme nicht vollendetest, Was wäre Gebirge, was Eben und Welt? Du bist’s, der das frischeste Leben erhält. Anaximander ( 610-545 ) Ông đã trừu tượng hóa nguồn gốc vạn vật bằng ý tưởng bất định, do đó nó không bị hạn hẹp vào một nguyên chất cố định nào như ở Thales. Anaximenes ( 585- 528 ) Anaximenes lại xoay ngược trình độ trừu tượng cao siêu về bất định của Anaximander để đưa về thực tại và cho rằng nguyên chất sơ bản là không khí. Từ không khí, vạn vật xuất hiện qua sự tán và tụ: loảng ra là không khí, lửa; tụ lại là gió, mây; rồi dày đặc hơn nữa là nước, đất, đá… Pythagoras ( 570-496 ) Ông quan niệm nguồn gốc mọi sự vật không phải dưới dạng nguyên chất nữa, mà là con số. Về điểm này Johannes Hirschberger trong “ Geschichte der Philosophie „ có nhận định như sau:“ Để cho nguyên tắc của sự vật không còn như từ trước tới nay là vật chất nữa, mà là mô thức. Con số chính là cái mang lại mô thức, nhờ nó mà cái bất định trở thành xác định „ ( Damit wird das Prinzip des Seienden nicht mehr wie bisher im Stoff, sondern in der Form gesehen. Die Zahl ist das Formgebende, wo- durch das Unbestimmte zu einem Bestimmten wird.) Heraklit ( 544-484 ) Theo Heraklit, lửa là nguyên chất sơ bản, là biểu hiện cho mọi sự sinh thành. Ông nói:“ Bất cứ sự vật gì cũng có thể biến thành lửa và lửa cũng

Page 344: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

343

có thể biến đổi thành bất cứ sự vật gì, cũng như hàng hóa đổi lấy vàng và vàng đổi lấy hàng hóa vậy.„ ( Aller Dinge gegen das Feuer und des Feuers gegen alle Dinge, wie der Waren gegen Gold und des Goldes gegen Waren: Die Grichische Philo.-W.Kranz, trang 56 ) Thuyết tứ đại và ngũ hành. Ở Ấn Độ có thuyết tứ đại: địa, thủy, hỏa, phong (đất, nước, lửa, gió ), còn ở Trung quốc có thuyết ngũ hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ ( kim loại, gỗ, nước, lửa, đất.) Thuyết nguyên tử. Rồi con người cũng không thỏa mãn với những quan niệm trên nên đã chuyển qua nghiên cứu lý thuyết cực vi: nếu chia chẻ vật chất mãi cho đến khi nào không còn có thể chia chẻ được nữa thì phần còn lại là cái cực vi được gọi là nguyên tử, là thực tại nền tảng. Ở Hy Lạp có Leukipp và Demokrit, còn ở Ấn Độ có giáo phái chủ trương thuyết cực vi nguyên tử này nhưng nội dung còn rất thô sơ so với thuyết nguyên tử hiện đại mà đại diện là Niels Bohr ( 1885-1962 ) người Đan Mạch. Thế rồi vào năm 1896 Antoine-Henri Becquerel ( 1852-1908 ) đã khám phá ra hiện tượng phóng xạ, chứng tỏ rằng nguyên tử không phải là không thể phân chia ra được nữa và không thể chuyển hóa sang các dạng nguyên tử khác. Năm 1897, John Joseph Thomson ( 1856-1940 ) đã khám phá ra những hạt mang điện tích âm gọi là điện tử. Điều này một lần nữa chứng tỏ rằng nguyên tử chưa phải là đơn vị cuối cùng tạo nên thế giới vạn vật. Albert Einstein ( 1879-1953 ) Đến đầu thế kỷ thứ XX, Albert Einstein công bố thuyết tương đối với công thức nổi tiếng: E = mc² xác định sự tương đương giữa khối lượng và năng lượng, trong đó: E: năng lượng c: tốc độ ánh sáng ( c = 300.000 km/sec ) m: là khối lượng được xác định như sau:

trong đó mẫu số là hệ số giãn nở của thời gian.

Page 345: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

344

Khi vật đứng yên thì v = 0 , hệ số giãn nở của thời gian (Zeitdilatation) bằng 1. Do đó : m= m0 ( khối lượng của vật đứng yên ) Khi vật chuyển động với tốc độ bình thường thì sự thay đổi khối lượng không đáng kể nên rất khó nhận ra sự khác biệt, nhưng khi vật chuyển động với tốc độ gần bằng tốc độ ánh sánh thì hệ số giãn nở thời gian tiến về 0, do đó khối lượng sẽ vô cùng lớn ( M tiến đến vô cực ) Trong thực tế, động tử có vận tốc gần bằng vận tốc ánh sáng là điện tử. Điều này chứng tỏ rằng khối lượng của vật chất không phải không thay đổi như trước kia người ta vẫn tưởng. Căn cứ vào sự kiện này, người ta kết luận rằng chủ nghĩa duy vật dựa vào sự thống nhất thế giới ở vật chất không còn đứng vững nữa. Trong khi đó những người theo chủ nghĩa duy vật bảo vệ lập trường của mình cho rằng những ai giản lược phạm trù vật chất vào những dạng vật chất cụ thể, vào nguyên tử, vào khối lượng là thiếu sót và hô hào mở rộng phạm vi phạm trù vật chất bao quát hơn nữa. Điều này thật ra không cần thiết, vì bên cạnh phạm trù vật chất đã có phạm trù năng lượng rồi: Vật chất thì biến đổi, còn năng lượng thì được bảo toàn. Về tương quan giữa vật chất và năng lượng, thuyết tương đối nói rằng: vật chất là năng lượng tụ lại cực độ và ngược lại năng lượng là vật chất tán ra hết sức. Sách Dịch xưa kia cũng đã nói tương tự:“ Tinh khí vi vật, vu hồn vi biến „ ( Vật là khí kết tinh, biến hóa là hồn tan đi )

Sự thống nhất của thế giới vạn vật Vấn đề thống nhất thế giới vạn vật luôn luôn là trọng tâm của triết học, cho nên Henri Bergson mới nói:“ Triết học là sự cố gắng để hổn hợp vào Đại toàn thể „ ( La philosophie est un effort pour se fondre dans le Tout ). Để giải quyết vấn đề này, có nhiều khuynh hướng khác nhau mà tiêu biểu nhất là hai khuynh hướng duy tâm và duy vật.Chủ nghĩa duy tâm coi tinh thần, ý thức có trước và quyết định vật chất nên sự thống nhất thế giới vạn vật không phải là ở vật chất, mà là ở ý thức, tinh thần. Ngược lại chủ nghĩa duy vật coi vật chất có trước, ý thức có sau, ý thức là phản ánh của thế giới vật chất, nên sự thống nhất thế giới phải là ở vật chất. Ở đây chúng tôi đặt vấn đề và giải quyết nó một cách khác dựa trên tiền đề là truyền thống tư tưởng trong lịch sử tư tưởng dân tộc và thành quả của khoa học hiện đại : sự thống nhất thế giới vạn vật không phải ở ý thức, tinh thần, cũng không phải ở vật chất, mà là ở năng lượng. Vật chất và tinh thần là mặt tuy đối lập.nhưng không tách rời nhau, đều là biểu hiện

Page 346: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

345

từ một nguồn gốc là năng lượng. Tinh thần cũng như vật chất đều biến đổi, nhưng năng lương thì được bảo toàn (nguyên lý bảo toàn năng lượng). Vật chất và tinh thần sẽ được nghiên cứu trong những chương riêng sau này. Trong lịch sử triết học Đông phương cũng như trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, vấn đề thống nhất thế giới vạn vật đã từ lâu được minh định rõ ràng với nguyên lý vạn vật đồng nhất thể hay nói khác : một là tất cả, tất cả là một. Tư tưởng đó nói rằng thế giới hiện tượng, vạn vật tuy biến hóa sinh thành không ngừng, nhưng luôn luôn dựa trên một nền tảng bất biến là bản thể đại đồng, nói cách khác thế giới tuy đa tạp, nhưng đều cùng phát xuất từ một nhất thể, từ đó mà biểu hiện ra thế giới hiện tượng theo những điều kiện nhân duyên. Cách giải quyết vấn đề thống nhất thế giới vạn vật như vậy rất chững chạc, vì nó đã đạt được tính bao quát. Giả thử như trong tương lai người ta khám phá được một thực thể còn bất biến hơn cả năng lượng, thì thực thể đó chẳng qua cũng chỉ được bao hàm trong phạm trù bản thể vũ trụ đại đồng mà thôi.

Thế giới vạn vật trong không gian, thời gian Nhắc lại câu trả lời của Khuông Việt Đại sư khi đệ tử Đa Bảo hỏi về đạo thủy chung : « Thủy chung vô vật diệu hư không, Hội đắc chân như thể dụng đồng. » Thủy chung không có vật, chỉ có hư không huyền diệu, nhiệm mầu. Đó là bản thể chân như, thể dụng đồng nhất. Thủy chung không có vật thì cũng không có không gian, thời gian. Chúng chỉ xuất hiện đồng thời với vật sau tiếng nổ khai nguyên vũ trụ. Có vạn vật là có không gian, thời gian. Như vậy tư tưởng này phù hợp với thuyết tương đối của Albert Einstein, trái với quan điểm của Newton tách rời không gian, thời gian ra khỏi vạn vật, xem chúng là tuyệt đối, cũng khác quan niệm thời gian, không gian của Kant, xem chúng chỉ là trực giác thuần lý, như là mô thúc chủ quan, sản phẩm của ý thức. Theo thuyết tương đối của A.Einstein thì ánh sáng khi chiếu qua những khối vật nặng, tức qua hấp dẫn lực lớn thì chậm lại và cong đi.Sự chậm lại của ánh sáng có quan hệ với sự chậm lại của thời gian, và sự cong của ánh sáng có nghĩa là không gian bị biến dạng. Một cái đồng hồ nguyên tử đo thời gian rất chính xác đặt ở dưới đất chạy chậm hơn là đặt ở trên cao trong không khí. Thời gian không những được xác định như thế ở bên ngoài sự vật, mà còn được xác định ngay trong nội tâm của chủ thể

Page 347: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

346

nhận thức. Thật vậy, thời gian gắn liền với tâm lý con người, lúc vui mừng, hoan hỉ thì thời gian dày đặc lại, cho nên người ta thường nói : « Ngày vui qua mau » nhưng trái lại, khi có tâm sự buồn khổ thì thời gian giãn ra, kéo dài lê thê, cho nên tục ngữ mới có câu : « Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại » Truyện Kiều cũng có viết : « Sầu đong càng khắc càng đầy, Ba thu dọn lại một ngày dài ghê. » Còn hai chàng Lưu, Nguyễn sống một năm trong cõi Thiên Thai, lúc trở về lại trần gian mới hay rằng mình đã đi vắng một thế kỷ. Quan niệm về thời gian của Henri Bergson ( 1859-1941 ) cũng thuộc về tâm lý tương tự như trên. Thời gian cũng ngự trị ngay trong lòng sự vật, cho nên sự vật mới có vận động, sinh thành cũng như hủy diệt. Không gian, thời gian liên hệ khắng khít với sự vận động mà ở vận tốc thông thường khó nhận thấy sự biến đổi, biến dạng, chỉ khi nào vật thể có vận tốc gần bằng vận tốc của ánh sáng thì mới nhận ra được là kích thước của vật thể co rút lại ( không gian ), thời gian cũng chậm lại. Do thời gian gắn liền với vật thể, nên người ta có thể xác định tuổi của cổ vật hóa thạch bằng phương pháp phóng xạ C14, căn cứ vào tính chất của đồng vị phóng xạ có thể đo được là bán trị số thời gian ( Halbwertszeit ), tức là khoảng thời gian để cho phân nửa nguyên chất hủy biến đi. Bán trị số thời gian của chất đồng vị C14 là 5730 năm. Như vậy thì vào khoảng 17.150 năm xác sinh vật cổ chỉ còn lại 1/8 của tổng số đồng vị C14 so với lúc còn sống. C Thời gian 3730 năm 17.150 năm

Page 348: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

347

Như vậy người ta có thể nói rằng hiện thể ( Seiende ) là thời gian, và ngược lại thời gian là hiện thể. Hai câu thơ sau đây của Bà Huyện Thanh Quan: “ Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo, Ngõ cũ lâu đài bóng tịch dương ” ngoài giá trị về phương diện nghệ thuật, tình cảm, nó còn nói lên quan điểm sâu sắc của tác giả về thời gian. Thời gian nằm ngay trong lòng đất nước: ở những ngõ cũ, lối xưa, ngọn cây, cọng cỏ, ở khắp núi, sông, từ đồng nội cho đến thị thành, ngay trong những đền đài, di tích lịch sử...do đó thời tính cũng là sử tính. Nói về sự liên hệ giữa thời gian với những sự kiện, di tích lịch sử không gì hiện thực, sống động bằng ý nghĩa hai câu thơ của Thượng Hoàng Trần Thánh Tông cảm tác khi nhìn thấy đất nước trở lại bình yên sau cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xăm gian khổ, nhưng hào hùng của dân tộc: “ Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã, Sơn hà thiên cổ điện âu ca.” ( Xã tắc hai phen bon ngựa đá, Non sông muôn thuở vững âu vàng ) Ngựa đá là tuy là vật vô tri, nhưng cũng đã từng chứng kiến đôi phen những biến cố lịch sử quan trọng : nào là cảnh cướp phá của quân giặc, đốt sạch sản nghiệp của muôn dân, đập phá lăng vua Trần Thái Tông, đào bới mồ mã Tổ tiên cũng như cảnh toàn dân, toàn quân ca khúc chiến thắng khải hoàn và lễ hiến phù ( hiến tiệp ) với những tướng giặc đã từng gây tội ác như Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp,Tích Lê, Cơ Ngọc, Sầm Đoan, Đường Ngột Đãi ... phục trước bàn thờ của vua Trần Thái Tông ở phủ Hưng Long.

Page 349: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

348

Chương 3

Các nguyên lý triết học căn bản Hệ từ thượng Dịch có viết: “ Dị giản nhi thiên hạ chi lý đắc hĩ ” ( Biết được cái lẽ giản dị là biết được cái lý của thiên hạ ), ý nói đến nguyên lý căn bản âm dương. Lão Tử ở ĐĐK, chương 5 viết: “Đa ngôn sổ cùng, bất như thủ trung ”. ( Nói nhiều bao nhiêu cũng không sao nói hết được, thà giữ lấy chỗ trung ) Trang Tử: “ Bởi vậy, bậc Thánh nhân vì sự hòa mà phải nói đến thị phi, rồi đứng yên nơi thiên quân ” ( Thị dĩ Thánh nhân hòa chi dĩ thị phi, nhi hưu hồ thiên quân ” Nho giáo có Trung dung. Còn Phật giáo có Trung đạo căn cứ trên hai nguyên lý căn bản: Nguyên lý tứ diệu đế và nguyên lý nhân duyên sinh. Cái giản dị, cái chỗ trung, hay nơi thiên quân đó là suối nguồn của mọi nguyên lý chi phối thế giới hiện tượng, cho nên với tinh thần đó, nội dung của cuốn sách này được xây dựng trên những nguyên lý triết học căn bản và phép biện chứng quân bình. Thế giới hiện tượng, vạn vật tuy đa tạp, nhưng có sự thống nhất, sự vận hành có trật tự, điều hợp chứ không tùy tiện, như vậy chúng phải tuân theo những qui luật tự nhiên. Những qui luật này có tính khách quan, phổ biến, nhưng không phải ngay từ đầu và ngay lập tức con người có thể nhận ngay ra tất cả, mà phải dần dần theo quá trình lịch sử, tích lủy kinh nghiệm, nghiên cứu, đối chiếu với thực tiễn mới khám phá được chúng và nương theo chúng để sinh tồn. Như vậy việc nghiên cứu, học hỏi, khám phá các qui luật tự nhiên rất quan trọng đối với con người. Với tinh thần truyền thống “ Tri hành hợp nhất ” sẵn có, lại thêm nắm vững các qui luật tự nhiên thì con người có thể phát huy hết khả năng của mình, khắc phục những trở ngại của thiên nhiên, chủ động được bản thân và hoàn cảnh để đạt được mục tiêu mong muốn. Lúc đó con người mới thực sự tự do, ví như người biết bơi lội thành thạo sẽ không còn sợ bị nước đe dọa làm hại đến tính mạng, vì họ chẳng những biết rõ qui luật sức đẩy của nước ( tri ), mà còn có khả năng bơi lội thành thạo trong nước chẳng khác loài rái ( hành ).

Page 350: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

349

Quan điểm này nói lên tính chủ động, tự do, sáng tạo của con người khác hẳn với quan điểm thụ động, buông xuôi, trôi theo qui luật tự nhiên như một thứ định mệnh khắc khe không thể cưỡng lại được. Trang Tử có câu chuyện ngụ ngôn sâu sắc như sau: “ Khổng Tử đứng xem thác nước Lữ Lương. Thác ấy cao độ ba bốn chục lần bề cao con người. Nước đổ xuống thành một dòng sôi bọt, chảy cuồn cuộn trong một cái lạch dài hơn bốn mươi dặm. Dòng nước lộn nhào đến nỗi rùa, cá cũng không ở được. Bỗng Khổng Tử thấy một người vận chuyển trong nước xoáy. Cho là một người thất chí muốn tự trầm nên bảo đệ tử đi theo bờ vực để coi có thể nào cứu vớt. Cách ít trăm bước dưới nguồn, người ấy bèn lên khỏi mặt nước, xổ đầu tóc ra phơi, vừa đi vừa ca hát. Khổng Tử theo kịp, hỏi: “ Tôi hòng cho Ngài là thần thánh chi, mà bây giờ rõ Ngài là người. Làm sao mà vận chuyển được trong nước dễ dàng như thế? Xin cho tôi biết cái pháp của Ngài ”. Người đó nói: “ Tôi không có pháp gì cả. Ban đầu tôi khởi sự lội theo nề nếp, rồi sự lội ấy thành ra tự nhiên cho tôi: bây giờ tôi linh đinh như loài thủy tộc kia, bởi tôi đã đồng làm một cùng tánh nước, không còn cảm thấy tôi riêng với nước nữa. Tôi xuống với nước xoáy, tôi lên với nước vận, tôi luân chuyển theo sự luân chuyển của nước chứ không luân chuyển theo ý riêng của tôi nữa. Tôi ở trong nước như tôi ở trong chỗ tự nhiên của tôi. Nước gánh lấy tôi, vì tôi cùng nó là một.” (Đạt sinh ) Đó là ý nghĩa của phạm trù “ huyền đồng ” trong triết học Lão-Trang, mà người nào thực hiện được nó thì tất cả mọi quan năng đều thống nhất. Trong lịch sử tranh đấu của dân tộc Việt Nam, có hai nhân vật Yết Kiêu, Dã Tượng với biệt tài bơi lặn không ai sánh kịp, đã giúp quân đội nhà Trần đục phá chiến thuyền của Ô Mã Nhi trên sông Bạch Đằng, góp công lớn vào chiến thắng lịch sử này. Ngày nay với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, người ta có thể vượt đại dương mênh mông bằng những tàu thủy lớn, tiện nghi, an toàn; người ta cũng có thể lặn sâu dưới lòng nước bằng những tàu ngầm hiện đại trong những cuộc hải trình lâu dài. Sở dĩ có được sự tiến bộ như vậy là vì con người đã vén được bức màn che bí mật của vũ trụ, nhìn thấy được những qui luật tự nhiên và đã biết áp dụng các qui luật ấy phục vụ đời sống con người. Nói như thế không có nghĩa là việc nghiên cứu các qui luật tự nhiên đã hoàn tất, mà con người còn phải nổ lực hơn nữa để khám phá chân lý còn ẩn giấu đâu đây. Theo tinh thần của định nghĩa triết học: “ Triết học là một khoa học nghiên cứu về những nguyên nhân căn nguyên nhất, những qui luật,

Page 351: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

350

những nguyên lý phổ quát nhất ”, cho nên phần trọng tâm của cuốn sách này là những nguyên lý căn bản sẽ được trình bày sau đây:

_Nguyên lý vạn vật đồng nhất thể. _Nguyên lý về sự liên hệ.

_Nguyên lý bảo toàn năng lượng, luật thừa trừ. _Nguyên lý tuần hoàn. _Nguyên lý mâu thuẫn, âm dương ( nguyên lý không quân bình ) _Nguyên lý quân bình:

Nguyên lý vạn vật đồng nhất thể Vấn đề có, không, tồn tại hay sinh thành đã được trình bày trước đây, nay có thể được tóm tắt như sau: Đứng trên lập trường thường thức, khoa học thì vạn vật là có, là tồn tại với tư cách là hiện thể, hiện sinh. Thế giới hiện sinh này có tính cách tương đối, cho nên bên cạnh cái có còn có cái không để phân biệt. Có và không tương đối. Cũng tương tự như thế, người ta phân biệt có sống, có chết. Đứng trên lập trường của hình nhi thượng, bản tính của vạn hữu là không ( không có thật vì chúng lệ thuộc vào điều kiện nhân duyên ), chỉ có bản thể mới là thực hữu. Ở Phật giáo, bản thể vũ trụ là chân như, cũng gọi là chân không. Chữ không này cũng như chữ vô của Lão Tử có nghĩa tuyệt đối, cho nên không cũng là hữu, vì không còn phân chia biện biệt nữa. Đó chính là diệu hữu, cái hữu kỳ diệu, nguồn gốc của vạn hữu trên đời. Từ bản thể vũ trụ, từ diệu hữu đi ra thế giới biểu hiện, từ cái một ra cái nhiều, từ thực hữu ra hiện sinh, là sinh thành, là sự sống. Ngược lại, khi chết đi thì hình hài, thân xác vật chất hủy hoại, tán ra thành năng lượng để trở về với bản thể vũ trụ theo như câu nói của tư tưởng bình dân Việt Nam: “ Sống gởi, thác về ”. Vạn vật tuy thiên hình vạn trạng, nhưng đều có tính thống nhất ở năng lượng, có cùng chung bản thể. Đó là nội dung của nguyên lý vạn vật đồng nhất thể. Nguyên lý này đã được con người trực giác từ lâu. Ở Hy Lạp, nó đã được Heraklit tiết lộ qua sấm ngôn ( Logos ): “ Đặc điểm của minh triết là đừng có nghe ta, mà hãy nghe sấm ngôn của ta và hãy chủ trương rằng: vạn vật đồng nhất thể ” ( Haben sie nicht mich,

Page 352: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

351

sondern den Logos vernommen, so ist es weise, ihm gemäß zu sagen, Alles sei Eins ). Kinh Dịch viết: “ Dịch hữu thái cực, thị sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái ” ( Dịch có thái cực, rồi sinh hai nghi, hai nghi sinh bốn tượng, bốn tượng sinh tám quái ). Ở đây thái cực là nhất thể, từ đó sinh ra thế giới vạn vật sai biệt, đa thù. Tư tưởng của kinh Dịch có ảnh hưởng mạnh mẽ đến triết học của các nhà hiền triết lớn. Ở ĐĐK của Lão Tử: “ Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật. Vạn vật phụ âm nhi bảo dương sung khí dĩ nhi hòa ” (Đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh muôn vật. Muôn vật mang khí dương ở bên trong, phủ khí âm ở bên ngoài. Hai khí phối hợp mà làm thành hòa điệu ). Lão Tử cũng viết: “ Vạn vật sinh ư hữu, hữu sinh ư vô” ( Vạn vật sinh ở chỗ có, có sinh ở chỗ không ). Như vậy, Lão Tử thừa nhận có chỗ khởi thủy sinh ra vạn vật, chỗ ấy là vô tức hư không mắt không nhìn thấy. Trang Tử lại nói: “ Vạn vật giai xuất ư cơ, giai nhập ư cơ ” ( Muôn vật đều xuất ở cơ ra, đều trở về cơ ” ( Thiên chí lạc ). Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, nguyên lý vạn vật đồng nhất thể đã được các vị Thiền sư diễn dịch phong phú qua Thiền học nghệ thuật, chẳng hạn như Thiền sư Khánh Hỷ: “ Kiền khôn tận thị mao đầu thương, Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung ” ( Càn khôn gom lại đầu sợi tóc, Nhật nguyệt nằm trong hạt cải mòng ) Rồi Khuông Việt Đại sư cũng đã khái quát lý thuyết về thực tại thế giới khi trả lời cho đệ tử Đa Bảo: “ Thủy chung vô vật diệu hư không, Hội đắc chân như thể dụng đồng.” ( Thủy chung không có vật, chỉ có hư không nhiệm mầu, Hiểu được chân như là bản thể, tác dụng đồng nhất.) Tất cả những tư tưởng nói trên cũng tương tự như ở kinh Dịch: “ Hình nhi thượng giả vị chi đạo, hình nhi hạ giả vị chi khí.” ( Ở hình nhi thượng thì gọi là đạo, ở hình nhi hạ thì gọi là khí vật ) Nói theo ngôn ngữ ngày nay thì ở cõi siêu hình gọi là bản thể vũ trụ, ở thế giới hiện tương hữu hình gọi là năng lượng. Cho mãi tới bây giờ người ta biết được rằng thế giới vạn hữu thống nhất ở nhất thể là năng lượng. Như vậy năng lượng là nhất thể ở bình diện biểu hiện chuyển hóa trong

Page 353: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

352

vòng tương đối của bản thể tuyệt đối. Năng lượng liên hệ với khối lượng của vật chất bằng công thức của Albert Einstein: E = mc² . Giữa vật chất và năng lượng có sự liên hệ mật thiết với nhau, nhưng vật chất có biến đổi, còn năng lượng thì được bảo toàn. Bên cạnh nguyên lý vạn vật đồng nhất thể còn có những lý thuyết tương tự như thuyết nhất quán, bất nhị pháp môn, thuyết tri hành hợp nhất. Thuyết nhất quán Vạn vật phát xuất từ nhất thể đi ra đa thù, rồi từ đa thù trở về nhất thể hay nói khác là từ chỗ giản dị đi ra phức tạp, rồi từ phức tạp trở về giản dị. Chỗ giản dị ấy là nguồn gốc, là nguyên lý của thế giới vạn vật: “ Dị giản nhi thiên hạ chi lý đắc hỷ. Thiên hạ chi lý đắc nhi Dịch hành hồ kỳ trung ” ( Dịch: Hệ từ thượng ) ( Giản dị là nguyên lý của thế giới đã đạt được. Nguyên lý của thế giới đã đạt được thì biến dịch hoạt động bên trong ấy vậy ) Thế giới vạn vật tuy đa thù, sai biệt, nhưng đều biến dịch, vận động có điều lý. Ai hiểu rõ cái lý đó thì phức tạp cũng trở thành giản dị, mới hiểu rõ ý nghĩa của đa thù tính trong đồng nhất tính. Tư tưởng này phản ánh trong triết lý nhất quán của Khổng Tử, được tóm tắt trong bốn chữ “ Nhất dĩ quán chi ” và về sau được Tuân Tử nối tiếp với ý tưởng: “ Dĩ nhất tri vạn ”. Thiên lý tuy biến hóa, chia ra trăm đường, nghìn mối, nhưng rốt cuộc cũng do một đầu mối mà thôi, cho nên Khổng Tử mới nói rằng: “ Thiên hạ hà tư hà lự? Thiên hạ đồng qui nhi thù đồ, nhất trí nhi bách lự. Thiên hạ hà tư hà lự?” ( Dịch: Hệ từ hạ ) ( Thiên hạ có lo nghĩ gì? Thiên hạ tuy có nhiều đường khác nhau, nhưng cùng về một chỗ, trăm điều lo nghĩ mà vẫn qui về một mối. Thiên hạ có lo nghĩ gì?). Thế cho nên về phương diện tri thức, người ta không nhất thiết phải học, nhớ nhiều, mà phải cần nắm vững cái lý của sự vật là đủ. Mạnh Tử nói: “ Vạn vật giai bị ư ngã, phản thân nhi thành, lạc mạc đại yên ” ( Vạn vật đều đủ nơi bản thân ta đây, chỉ cần trở về đó một cách thành thực thì còn gì vui bằng! ). Thông hiểu chính bản thân mình, thấu rõ nội tâm thì cũng biết được cái lý của sự vật bên ngoài không sai khác, cho nên Lão Tử mới nói: “ Bất xuất hộ, tri thiên hạ; bất khuy dũ, kiến thiên đạo.”(ĐĐK,chương 47 )

Page 354: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

353

( Không ra khỏi cửa mà biết được việc của thiên hạ; không dòm ra ngoài cửa mà biết được đạo trời ). Người Đông phương khi xưa chú trọng về cái học nội hướng hơn là cái học ngoại hướng. Lão Tử nói: “ Tri nhân giả, trí; tự tri giả, minh ” ( Biết người là người trí; biết mình là người sáng ). Về phương diện nhân sinh đạo đức cũng vậy, suy từ mình ra đến người để cư xử, như ở Luận ngữ, khi Trọng Cung hỏi về đạo nhân, Khổng Tử trả lời: “ Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân.” ( Cái gì mình không muốn thì đừng làm cho người.) Bất nhị pháp môn Vua Trần Thái Tông trong sách “khóa hư” ở “ Phổ thuyết hướng thượng ” có viết: “ Trong hang quỷ mà là lâu đài Di Lặc, dưới núi tối có cảnh giới không khác của Phổ Hiền. Nơi nơi tạng lớn sáng rực, chân tính là pháp môn không hai ” ( Quỷ quật lý tại dã thị Di Lặc lâu đài, hắc sơn hạ cư bất dị Phổ Hiền cảnh giới. Xứ xứ đại quang minh tạng, cơ cơ bất nhị pháp môn. ). Trong “ Kim cương tam muội kinh tự”, Ngài viết: “Điều hòa tất cả ý vị thành cái vị tối cao, không có vị nào hơn được, trộn các dòng nước làm thành một dòng không hai, chuyển cái tâm vọng niệm sai lầm, nối nhập vào cái tạng thức Như lai tức là ý thức vũ trụ” ( Hòa chư vị thành vô thượng vị, giảo quần lưu tác bất nhị lưu, chuyển hồi biến kế vọng tâm, tiếp nhập Như lai tạng thức.) Trên đây vua Trần Thái Tông đã nói đến lý thuyết “Bất nhị pháp môn ” Lý thuyết này đòi hỏi con người trước hết phải phá trừ kiến chấp nhị nguyên do tâm sai biệt phân chia sự vật làm hai phần khác biệt, đối lập mà thực hiện tâm bình đẳng bất nhị cũng gọi là trung đạo. Theo con đường trung đạo, nhà Phật lập ra phép tam quán để quán xét sự vật một cách viên mãn. Tam quán là : không, giả, trung tức là hình thức của thể, tướng, dụng: “ Nhân duyên sở sinh pháp, Ngã thuyết tức thị không. Diệc vi thị giả danh, Diệc thị trung đạo nghĩa.” ( Tam luận tông của Nagarjuna ) ( Vật do nhân duyên sinh ra, Ta bảo ấy là không, Cũng vì là danh giả,

Page 355: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

354

Cũng là nghĩa trung đạo ) Trung là trung đạo, là chỗ tổng hợp, dung hòa không và giả tức là thể và tướng. Như vậy ngoài cái trung, không có cái gì là không, là giả cả, do đó mới có câu nói: “ Ly hiện tướng, vô bản thể; ly bản thể, vô hiện tướng”. Với quan niệm này, Phật giáo Đại thừa chủ trương sự giải thoát, giác ngộ không ở ngoài thế gian tướng, vì ngay trong thế giới hiện tượng biến dịch không ngừng cũng đã có tự tính bất dịch rồi: “ Hoàng hoa uất uất vô phi bát nhã chi tâm. Thúy trúc thanh thanh tận thị chân như chi lý.” ( Hoa vàng rực rỡ đều là tâm Bát nhã. Trúc biếc rờn rờn thảy là nguyên lý Chân như.)

( Vua Trần Thái Tông ) Tri hành hợp nhất.

Triết học cổ điển Tây phương nói chung có khuynh hướng nhị nguyên, cho rằng tâm và trí là hai lãnh vực khác nhau . Pascal nói: “ Con tim có những lý lẽ riêng của nó mà lý trí không thể biết được. ( Le coeur a ses raisons que la raison ne connaît pas ). Cái quan niệm nhị nguyên ấy chứng tỏ rằng tâm và trí là cặp mâu thuẫn xung đột nhau và lòng người là bãi chiến trường chưa từng giây phút an lạc. Ở Đông phương, Khổng Tử không hài lòng với tri thức phân chia biện biệt, muốn dung hòa cả lý lẫn tình, cho nên nói rằng : « Tri chi giả bất như hiếu chi giả, hiếu chi giả bất như lạc chi giả.” ( Biết mà học không bằng thích mà học, thích mà học không bằng vui say mà học) ( Luận ngữ- Nho giáo T.T.Kim, trang 122 ) Lý lẽ đi với sự biết ( tri ), còn tình cảm là nguồn suối cho hành động ( hành ) . Ở kinh thi, Khổng Tử viết : “ Tình động trong lòng mà hiện ra lời nói. Nói mà không đủ thì kêu than. Kêu than mà không đủ thì ngâm nga. Ngâm nga mà không đủ thì bất giác tay múa, chân dậm đạp lên vậy.” ( Tình động ư trung nhi hình chư ngôn. Ngôn nhi bất túc, cố ta thán chi. Ta thán nhi bất túc, cố vịnh ngâm chi. Vịnh ngâm nhi bất túc, bất tư thủ chi vũ chi, túc chi đạo chi dã.) Do tình mẫu tử mà người mẹ có những hành động hy sinh cho con thơ, do lòng hiếu thảo mà con cái liều thân hy sinh cho cha mẹ như hành động của Thúy Kiều bán mình chuộc cha: “ Làm con trước phải đền ơn sinh thành, Quyết tình, nàng mới hạ tình: Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha.”

Page 356: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

355

Do lòng yêu nước, thương dân mà có những vị anh hùng dân tộc liều thân như Trần Bình Trọng với câu nói lịch sử: “ Ta thà làm quỷ nước Nam, còn hơn làm vương xứ Bắc ” khi bị quân giặc bắt, dụ hàng. Những người có quan niệm nhị nguyên thường hay phân chia tri hành ra làm hai phương diện khác nhau và cho rằng: “ Biết để mà biết ” ( Savoir pour savoir ), cho nên đối với quan niệm đó, khi một ý nghĩ nào sai trái phát khởi lên trong nội tâm mà chưa thành hành động thì không thể xem là có tội. Trái lại, những người theo quan niệm nhất nguyên thì cho rằng tri hành hợp nhất, vì ở tận cùng của bản thể vũ trụ tất cả tri thức, tình cảm, ý chí đều hội tụ và tri, hành cũng gặp gỡ nhau. Vương Dương Minh nói: “ Sách đại học chỉ cho ta thấy rõ thế nào là tri và hành: như ưa sắc đẹp, như ghét mùi thúi. Thấy sắc đẹp mà biết là đẹp, đó là thuộc về phần tri, ưa sắc đẹp là thuộc về phần hành. Ngay khi thấy sắc đẹp, chỉ thấy là ưa rồi chớ không phải có thấy đẹp rồi mới lập ra tâm ưa thích. Ngửi phải mùi thúi mà biết là thúi, đó là thuộc về tri, ghét mùi thúi là thuộc về phần hành, ngay khi ngửi thấy thúi là đã ghét rồi, chứ không phải thấy thúi rồi mới có lập tâm ghét.” Họ Vương xướng thuyết tri hành hợp nhất là để thức tỉnh lòng người đừng có xem thường những ý niệm bất chánh, mà phải diệt trừ ngay từ gốc ở trong ý nghĩ. Phật giáo còn cho rằng không có ý niệm nào dù thiện hay ác nổi lên rồi mất đi. Một ý niệm dấy lên là đã lưu lại trong A-lay-a thức một chủng tử; chủng tử ấy huân tập lâu ngày biến thành ý nghiệp, nếu có điều kiện thuận lợi thì có thể phát khởi thành hành động cụ thể. Tục ngữ Tây phương có câu: “ Cơ hội biến lòng tham thành kẻ cắp.” ( L’occasion fait le larron.) Cứu cánh của Phật giáo là giác ngộ, giải thoát chứ không phải dừng lại ở tri thức danh lý, cho nên Đức Phật đã từ chối tranh luận siêu hình về chân lý với các thức giả, ngoại đạo đương thời, vì Ngài cho rằng điều đó không có ích gì cho việc cứu khổ cả. Ở Việt Nam thời Trần cũng có hiện tượng tương tự như thế về vấn đề có, không chẳng hạn: “ Câu có, câu không Ngó phải, ngó trái Ráo riết hùa nhau Ồn ào tranh cãi ” Trong bài “ Văn tế thập loại chúng sinh”, Nguyễn Du viết: “ Phật hữu tình từ bi phổ độ, Chớ ngại rằng có có, không không.”

Page 357: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

356

Tín ngưỡng Tịnh độ của Phật giáo lấy tình thương từ bi hỷ xả để tế độ chúng sinh hơn là dùng trí thức để biện biệt sự vật có hay không. Nếu có những người chủ trương “ Biết để mà biết” trong lãnh vực tư tưởng triết học, thì sang lãnh vực khoa học, kỹ thuật cũng tương tự như thế, nếu việc nghiên cứu, tìm tòi, phát minh là chỉ cốt thỏa mãn nhu cầu tri thức, mà không nghĩ đến hậu quả của công việc mình làm thì thật là nguy hiểm vì bên cạnh cái lợi bao giờ cũng đi kèm theo cái hại, ví dụ như phát minh về nguyên tử, vũ khí nguyên tử có thể đưa nhân loại đến bờ vực thẳm diệt vong. Ngày xưa ở Đông phương khuynh hướng nhất nguyên về thực tại phổ biến, cho nên ba lý tưởng chân, thiên, mỹ không tách rời nhau và tri, hành cũng hợp nhất. Ngày nay cho dù phương pháp phân tách có thịnh hành trong mọi sinh hoạt do nhu cầu nghiên cứu , phân công, nhưng truyền thống tư tưởng tri hành hợp nhất cũng không được quên lãng. Tri thức mà không thể mang ra thực hành được thì chưa phải là tri thức thực sự. Tri là khởi đầu của hành, hành là chỗ hoàn thành của tri. Hành cũng không chỉ là thực hành đơn thuần, hành động chung chung, chỉ phục vụ cho nhu cầu tri thức ( chân lý ), mà phải đồng thời hướng về thiện và mỹ nữa, cho nên hành có nghĩa là hành vi đạo đức. Nói tóm lại, thuyết nhất quán, pháp môn không hai, tri hành hợp nhất đều có liên hệ với thuyết vạn vật đồng nhất thể và có thể nói rằng tất cả chỉ là một. Các lý thuyết trên đều nói lên, rằng tất cả các hiện tượng, sự vật đều thống nhất vào một nhất thể là năng lượng ở thế giới hiện hữu và bản thể vũ trụ đại đồng ở siêu hình học. Người Việt Nam trí thức, học giả khi xưa đều thông suốt các nguyên lý căn bản này và đã thể hiện thành đạo sống vừa hiện thực vừa siêu nhiên. Vua Trần Thái Tông: “ Hoa vàng rực rỡ đều là tâm Bát nhã, Trúc biếc rờn rờn thảy là nguyên lý Chân như.” Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu: “ Mình với ta tuy hai mà một, Ta với mình tuy một mà hai.” Bà Huyện Thanh Quan: “ Dừng chân đứng lại trời non nước, Một mảnh tình riêng ta với ta.” Nguyễn Công Trứ: “ Người có biết ta chăng hay chớ? Chẳng biết ta, ta vẫn là ta.

Page 358: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

357

Linh khâm bão hợp thái hòa. »

Nguyên lý liên hệ Nguyên lý vạn vật đồng nhất thể cho biết rằng thế giới hiện tượng, sự vật đều thống nhất ở năng lượng, mà theo nguyên lý bảo toàn năng lượng thì năng lượng có thể biến đổi từ dạng này sang dạng khác, cho nên phải có qui luật về sự liên hệ trong thế giới tự nhiên. Ngoài ra người ta còn biết rằng một trong những dạng căn bản của năng lượng là động năng, tức là khả năng làm cho sự vật vận động, mà đã có vận động thì phải có liên hệ. Qui luật về sự liên hệ nói lên rằng các hiện tượng, sự vật thiên hình vạn trạng trong thế giới không tồn tại độc lập, riêng rẻ mà chúng có liên hệ chằng chịt, ràng buộc, qui định và chuyển hóa cho nhau. Sự trao đổi năng lượng, sự vận động diễn ra khắp mọi nơi trong không gian, trong thời gian,giữa các sự vật và ngay trong lòng của chúng cho nên qui luật về sự liên hệ có tính khách quan, tất yếu và phổ biến. Những mối liên hệ trong thế giới thì đa dạng từ hình thức đơn giản cho đến phức tạp, nhưng nói chung thì chúng đều có tính liên hệ và người ta có thể nhận diện ra sự liên hệ giữa các hiện tượng, sự vật qua tác dụng của chúng. Những hình thức cụ thể riêng biệt của từng mối liên hệ là đối tượng nghiên cứu của các ngành khoa học. Trong toán học, các mối liên hệ được nghiên cứu một cách lý thuyết và được diễn tả qua những dạng như đẳng thức, công thức, phương trình, hàm số v.v... Hàm số có thể được xem là dịch lý trong toán học. Nếu trong thế giới hiện thực có vô số mối liên hệ khác nhau thì trong lý thuyết hàm số cũng có nhiều dạng hàm số khác nhau như hàm số bậc nhất ( thẳng ), hàm số bậc hai, hàm số logarith, hàm số lượng giác ( hàm số vòng ) v.v... Galileo galilei ( 1564-1642 ) là người đầu tiên áp dụng kiến thức toán học vào khoa học thực nghiệm khi ông làm thí nghiệm cho những quả banh nặng nhẹ khác nhau lăn trên một mặt phẳng nghiêng. Người ta kể lại rằng ông đã thả rơi tự do các vật nặng nhẹ khác nhau như vậy từ trên tháp nghiêng nổi tiếng Pisa ở Ý và qua kết quả thực nghiệm, ông đã khám phá ra định luật về sự rơi. Galileo quả quyết rằng người ta có thể diễn tả thế giới tự nhiên bằng ngôn ngữ toán học và kể từ đây, môn vật lý học hiện đại được hình thành. Chính nhờ có toán học mà ngành Vật lý mới có những bước tiến bộ vượt bậc như ngày nay. Các công thức trong vật lý học đều thể hiện chính xác qui luật liên hệ trong thế giới tự nhiên theo tương quan nhân quả tất yếu.

Page 359: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

358

Định luật vạn vật hấp dẫn của Newton chẳng hạn diễn tả mối liên hệ về lực hấp dẫn của vạn vật qua tương quan khối lượng với khoảng cách của chúng trong không gian : F = f. m1.m2/ r² Trong đó : F: lực hấp dẫn. m1, m2: khối lượng của các vật thể. r: khoảng cách giữa các vật thể kể từ trung tâm của chúng. f: hằng số hấp dẫn. Định luật Coulomb cũng có sự liên hệ tương tự. Qua hai định luật trên, chúng ta nhận thấy mối liên hệ của các vật thể phụ thuộc vào đặc tính riêng của chúng, độ lớn cũng như khoảng cách. Tất cả những yếu tố trên nói lên khả năng, mức độ liên hệ của các sự vật. Trong các ngành khoa học, có thể nói hóa học là môn học nghiên cứu về sự biến dịch, trong đó sự sinh thành được biểu hiện qua các phản ứng hóa học tạo thành chất mới, cũng như sự hủy diệt được thực hiện thông qua các phản ứng oxyd hóa. Trong lãnh vực văn chương, nghệ thuật tùy theo mối liên hệ giữa con người với thiên nhiên, hoàn cảnh xã hội, giữa chủ thể với khách thể mà có những quan điểm nghệ thuật khác nhau, có những trường phái nghệ thuật khác nhau. Phái duy tâm bao hàm phái tượng trưng, cổ điển hay lãng mạn đều lấy lý tưởng, ý niệm làm nguyên lý cho nghệ thuật, coi trọng chủ quan. Phái duy vật lại quan niệm nghệ thuật là sản phẩm của hoàn cảnh xã hội thực tế, ít chú trọng đến yếu tố chủ quan, nhân cách và thiên tài của nghệ sĩ. Trong văn học, nghệ thuật và tư tưởng Việt Nam, Nguyễn Du chủ trương nghệ thuật nhân bản tâm linh, trong đó cá nhân của nghệ sĩ hóa thành cảnh vật đã ảnh hưởng vào tâm hồn: “ Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng ” Tình thuộc về nội giới, chủ thể tình cảm, tư tưởng cũng như ý chí của cá nhân nghệ sĩ. Cảnh thuộc về ngoại giới, hoàn cảnh xã hội hay thiên nhiên. Người là động vật linh thiêng trong vũ trụ, là yếu tố của tam tài: thiên, địa, nhân: “ Trời đất là cha mẹ, mà người ta là vật có linh tính.” ( Thiên địa phụ mẫu nhi nhân tối linh ) Vì linh tính ấy mà con người tuy chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh nhưng không chịu thụ động, mà phản ứng tích cực lại và biến cải hoàn cảnh theo

Page 360: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

359

ý muốn của mình. Đó là ý nghĩa sự phản ánh có sáng tạo của con người, có sự tham dự chủ động, tích cực của chủ thể, cho nên cuối cùng tâm tình của chủ thể, của tác giả phản ánh ngược trở lại với cảnh vật, với tác phẩm: “ Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu, Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ ”. Như đã có lần nói, tượng là yếu tố căn bản của vũ trụ quan Dịch, là môi giới liên hệ giữa thế giới hữu hình và thế giới siêu hình, giữa tương đối và tuyệt đối: “ Dịch giả tượng dã, tượng dã giả tượng dã ” ( Dịch cốt ở hình ảnh, hình ảnh ấy là tượng trưng vậy.) Tượng trưng hay hình ảnh ấy bắt đầu ở trên trời, rồi mới cụ thể vào hình thể ở dưới đất: “ Tại thiên thành tượng, tại địa thành hình, biến hóa hiện hỹ.” (Ở trên trời là hình ảnh, ở dưới đất là hình thể, biến hóa hiện ra vậy.) Cái bắt đầu là bản thể, nguyên lý vũ trụ, nguồn sống vô hạn rồi tứ đó biểu hiện ra vật thể qua hình ảnh tương tự, tức tượng thiên biến vạn hóa. Chủ nghĩa tượng trưng do đây mà ra, nó vốn phổ thông ở Đông phương trong tất cả các hoạt động tinh thần như văn học, nghệ thuật, triết học, tôn giáo. Tính cách liên hệ của chủ nghĩa này trong sự diễn tả là lấy cái nhỏ để ngụ cái lớn, lấy cái đặc thù để ngụ cái phổ biến, lấy cái hữu hình để ngụ cái siêu hình. Nguyễn Du đã phát họa tâm hiếu sinh của trời nhân lúc ngồi trên sườn núi cao nhìn xuống lòng sông sâu, thấy đoàn người qua đò với biết bao nguy hiểm đang chực chờ, bèn liên tưởng đến số phận mong manh của nhân loại, chúng sinh: “ Bờ lở như sấm dội, Sóng cao tưởng ma quái. Ta nhìn dòng sông Lam, Tấc lòng thường áy náy. Tưởng tượng như sẩy chân, Rơi chìm vào không đáy. Làm sao người thế gian, Nguy hiểm mà không thấy ? Kẻ cứ đi cuồn cuộn, Người lại như nối đuôi. Lòng trời vốn hiếu sinh, Nhưng sao được thế mãi.

Page 361: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

360

Ta muốn xô Thiên nhận, Trăm dặm thành đường cái. » Còn vua Trần Thái Tông với tâm Thiền : « Tâm như minh kính, hoa lai kiến hoa, nguyệt lai kiến nguyệt. » ( Tâm như gương sáng, hoa đến thấy hoa, trăng đến thấy trăng.), cái tâm ở trình độ sáng tạo thâm thúy của mỹ cảm kinh nghiệm, trong đó cảnh với tâm nhập hòa làm một, cùng biến vào cái ý thức vũ trụ thanh tịnh : « Phong đả tùng qua nguyệt chiếu đình Tâm kỳ phong cảnh cộng thê thanh Cá trung tì vị vô nhân thức Phó dử sơn tăng thưởng đáo minh. » ( Gió thổi vào hàng thông reo trước cửa tam quan, sân chùa trăng soi vằng vặc, Tâm ấy như có hẹn với phong cảnh ấy, cùng trong sạch mát mẻ tịch mịch. Cái thú vị trong hoàn cảnh riêng biệt ấy không mấy ai biết thưởng thức, Để mặc nhà sư một mình thưởng thức cho đến bừng sáng.) Bài thơ gửi tặng nhà sư Đức Sơn ở am Thanh Phong trên đây của vua Trần Thái Tông nói lên tinh thần lạc đạo của Thiền tông đến chỗ nhập diệu. Còn trong tâm lý học, qui luật về mối liên hệ biểu hiện ở các hiện tượng cảm thông bao gồm sự truyền cảm và thụ cảm. Tình yêu là hình thức thể hiện qui luật liên hệ, là năng lực hấp dẫn của hai nguyên lý âm dương sinh thành, sáng tạo, là động lực bảo vệ thế quân bình của trời đất. Sách Trung dung có viết : « Quân tử chi đạo tạo đoan hồ phu phụ, cấp kỳ chí dã sát hồ thiên địa » ( Đạo quân tử khởi đầu từ tình vợ chồng, kịp phát triển đến cùng cực thì tràn ngập cả trời đất.) Có nhiều thứ tình yêu tùy phạm vi từ cá nhân, đất nước đến vũ trụ như tình yêu lứa đôi, tình mẫu tử, tình yêu nước, tình yêu nhân loại, tình yêu chúng sinh muôn loài, tình yêu vũ trụ thiên nhiên. Con người là tập hợp của ý thức nhập thể và nhập thế, nghĩa là ý thức ràng buộc vào thân xác và thiết yếu sống liên đới với những ý thức khác. Trước hết ảnh hưởng của cơ thể ( sự kiện sinh lý ) đối với các sinh hoạt tâm lý là một sự kiện mà mọi người đều có thể nhận biết dễ dàng như khi đau răng, nhức đầu người ta cảm thấy khó chịu, cau có. Ngược lại, người ta cũng nhận biết ảnh hưởng của tâm lý, tinh thần đối với thân xác như những người quá lo âu hoặc đau khổ, buồn rầu vì lý do

Page 362: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

361

nào đó thường trở nên tiều tụy, vẻ mặt hốc hác. Môn y khoa tâm sinh lý đã đặc biệt nhấn mạnh đến tác động của sự kiện tâm lý đối với cơ thể sống. Xã hội cũng có ảnh hưởng sâu đậm đối với con người. Thật vậy, cái đào tạo nên con người là toàn thể tài sản tri thức, ngôn ngữ...mà ta gọi là văn hóa, đó chính là công trình của xã hội kết hợp với năng lực tiềm tàng đặc biệt nơi con người như đứa trẻ của Walt Whitman đi tìm đối tượng cho ý thức, tạm dừng ở vật nọ lại chuyển sang vật kia, cứ như thế mãi, làm phong phú cho nội dung ý thức của mình : « Có một đứa trẻ ra đời, Vật đầu tiên nó thấy, nó trở nên vật ấy. Rồi vật ấy trở nên thành phần của nó suốt ngày hay trong một buổi. Hay là trong nhiều năm, hay kéo dài đến một vận hội. Tất cả trở nên thành phần đứa trẻ mỗi ngày nó ra đời. Và nay nó ra đi, luôn luôn còn đi ra ngày lại một ngày. » ( There is a child went forth, And the first object he lơok’d upon, that object he became. And that object became part of him for the day or a certain part of the day. Or for many years, or stretching cycles of years. These became part of that child who went torth every day. And who now goes, and will always go forth every day.) Trong các ngành khoa học, qui luật về mối liên hệ được xem xét trong những phạm vi chuyên môn, cụ thể của từng ngành, còn trong triết học qui luật này được xem xét tổng quát, nên có tính cách căn nguyên, phổ biến hơn hết. Mối liên hệ phổ biến là lẽ tất nhiên, là cái vốn có của các hiện tượng, sự vật, vì chúng bắt nguồn từ tính thống nhất ở năng lượng trong các quá trình tự nhiên, xã hội cũng như tư duy. Truyền thống đạo học Đông phương cho thấy qui luật liên hệ này đã được khám phá rất sớm, không phải chỉ bằng trực giác cảm giác thô thiển mà bằng cả lý luận trừu tượng đưa đến tổng quát hóa nữa. Dịch đã phát họa mối liên hệ của các hiện tượng, sự vật trong vũ trụ bằng tương quan giữa bản thể và hiện tượng như sau: “ Dịch hữu thái cực, thị sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái.” Còn ĐĐK của Lão Tử viết: “ Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật. Vạn vật phụ âm nhi bảo dương, xung khí dĩ vi hòa.”

Page 363: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

362

Đạo bắt đầu biểu hiện có một tổng thể duy nhất. Cái tổng thể tự phân hóa ra làm hai mặt đối nghịch. Hai mặt ấy tổng hợp thành cụ thể hữu hình là ba. Ba là vô số tạo vật. Vô số tạo vật đều cõng khí âm, ôm khí dương. Khí âm dương sung mãn quân bình để giữ cho hòa điệu đại đồng. Trong Phật giáo mối quan hệ giữa bản thể và hiện tượng được biểu thị trong tương quan thể, tướng, dụng hay không, giả, trung. Trung là trung đạo, chỗ tổng hợp, dung hòa của không, giả hay thể, tướng. Ở Nho giáo, mối liên hệ được thể hiện trong đạo nhất quán, vũ trụ tam tài: trời, đất, người. Sách Trung dung có viết: “ Duy thiên hạ chí thành vi năng tận kỳ tính. Năng tận kỳ tính tắc năng tận nhân chi tính. Năng tận nhân chi tính tắc năng tận vật chi tính. Năng tận vật chi tính tắc khả dĩ tán thiên địa chi hóa dục, khả dĩ tán thiên địa chi hóa dục, tắc khả dĩ dữ thiên địa tham hỹ.” ( Chỉ có người nào trong thiên hạ có cái tâm chí thành mới khai triển được hết bản tính của mình. Có thể khai triển hết bản tính của mình thì có thể làm cho người khác khai triển hết bản tính của người. Có thể làm cho người khác khai triển hết bản tính của người thì có thể làm cho muôn vật khai triển hết bản tính của vật. Có thể làm cho muôn vật khai triển hết bản tính của vật thì có thể giúp vào năng lực biến hóa và nuôi nấng của trời đất. Có thể tham giúp vào năng lực hóa dục của trời đất thì có thể cùng trời đất hợp làm một đại hòa điệu.) Cái tinh thần hợp nhất với hòa điệu vô hạn của vũ trụ cũng đã được biểu hiện ở Nguyễn Công Trứ, siêu vượt tất cả mọi giới hạn để diệu nhập vào cõi thái hòa vĩnh cữu: “ Người có biết ta chăng hay chớ, Chẳng biết ta, ta vẫn là ta. Linh khâm bảo hợp thái hòa. » Phạm trù triết học huyền đồng của Lão tử được định nghĩa như sau : « Tỏa kỳ nhuệ, giải kỳ phân, hòa kỳ quang, đồng kỳ trần, thị vị huyền đồng. » (ĐĐK, chương 56 ) ( Nhụt bén nhọn, bỏ phân chia, hòa ánh sáng, đồng bụi bặm, ấy gọi là huyền đồng.) Đại ý nói người nào bỏ được óc nhị nguyên phân chia mâu thuẫn, không khoe khoang cái sắc sảo, bén nhọn, chẳng những hòa ánh sáng mà còn đồng bụi băm, tức cái không sáng của mình để hòa nhập làm một ở đạo. Người thực hiện được huyền đồng thì tất cả quan năng đều thống nhất. Huyền đồng của Lão Tử tức là bình đẳng Bát nhã của Phật giáo Đại thừa. Quá trình thực hiện huyền đồng cũng tương tự như ở thiền là tập trung năng lực tinh thần và thể xác để nối liền cá nhân với thực tại tối cao là bản thể vũ trụ đại đồng tức đạo.

Page 364: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

363

Trong phép biện chứng, mối liên hệ là điều kiện tất yếu, nó liên kết, ràng buộc các nguyên lý mâu thuẫn với nhau. Nhân quả là một trong những phạm trù căn bản của phép biện chứng, là qui luật phổ biến trong mọi ngành khoa học cũng như triết học. Ở Phật giáo, nguyên lý nhân duyên sinh đã được biết từ trên 2500 năm nay với thuyết thập nhị nhân duyên. Sách Phật có ghi : « Các pháp hòa hợp sinh, Phật bảo là nhân duyên » và « Vật này có nên vật kia có, vật này sinh nên vật kia sinh, vật này không thì vật kia không, vật này diệt thì vật kia diệt. » Nói chung thì hết thảy các pháp, tất cả mọi hiện tượng đều nương nhau mà tồn tại, tương quan, tương liên, hòa hợp mà thành. Bên cạnh phạm trù nhân quả còn có phạm trù duyên nữa để hỗ trợ cho luật nhân quả. Khi nói đến nguyên nhân của một sự việc là người ta đã bao gồm cả hai phương diện nhân và duyên. Nhân là cái hột, cái mầm sống của từng chủng loại tuy đa thù, nhưng đều nằm trong một nguồn sống chung là bản thể vũ trụ. Quả là trái, là kết quả tất yếu phải có nếu hội đủ các điều kiện nhân duyên. Duyên là điều kiện ngoại tại, có thể thuận lợi cho quá trình diễn tiến của qui luật nhân quả, gọi là thuận duyên, còn trái lại gọi là nghịch duyên. Người ta thường lấy ví dụ quá trình sinh thành của một cái cây từ hạt giống cho đến những điều kiện phụ thuộc ( trợ duyên ) như khí hậu, phân bón, nước... rồi đến kết quả. Đến đây chúng ta thử xét xem những nguyên nhân nào đã làm xuất hiện sự sống nói chung của muôn loài trên quả đất này theo quan điểm khoa học. Như đã nói nhân là mầm sống của từng chủng loại trong một nguồn sống chung, nguồn năng lượng sáng tạo biểu hiện thành hiện tượng, sự vật muôn hình, nghìn vẻ tùy theo trợ duyên, tức là những điều kiện phụ thuộc của môi trường sống. Như vậy nói chung thì thế giới hiện tượng, vạn vật xuất hiện là tùy thuộc nhân duyên phối hợp với nhau. Nếu không có nhân từ nguồn sống chung thì không thể có vạn vật vì chúng không thể nào xuất hiện ra thế giới hiện sinh hữu hình này từ hư vô được. Còn nếu không hội đủ các trợ duyên, những điều kiện phụ như môi trường sống thích hợp thì vạn vật cũng không thể nào biểu hiện được ở thế gian này. Bầu khí quyển mà chúng ta đang sống là bộ mặt của quả đất này. Cũng như gương mặt của con người, bầu khí quyển cho biết tình trạng sức khỏe của quả đất cũng như cho biết rằng ở hành tinh đó có sự sống hay không. Bầu khí quyển có tác dụng trực tiếp đến khí hậu và tình trạng hóa chất của quả đất, hai thành phần có ý nghĩa căn bản cho sự sống. Mùa đông giá lạnh đến, cây cối trơ trụi, nhưng đến mùa xuân ấm áp thì cây cối đâm chồi

Page 365: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

364

nẩy lộc, trăm hoa đua nở. Sự hiện hữu của sự sống có liên quan đến khí hậu, mà nhiệt độ trung bình ở trong khoảng 0°C đến 50°C. Cũng như hầu hết loài cây cỏ, hoa cúc đồng nẩy nở tốt nhất trong khoảng nhiệt độ nhất định. Cao đỉnh của sự phát triển cây cỏ ở vào khoảng nhiệt độ 20°C, dưới 5°C và trên 50°C chúng không thể sống được. Tình trạng của quả đất trước khi sự sống bắt đầu có một bầu khí quyển với lượng thán khí cao, lại chưa có chất dưỡng khí cần cho sự sống vì lúc đó có nhiều chất khử hút và giữ hết dưỡng khí, không để cho chất khí này ở trạng thái tự do. Rồi dần dần chất dưỡng khí xuất hiện khi chất khử không còn nhiều nữa. Mặt khác, sự quang hợp của cây xanh cũng cho ra chất dưỡng khí theo phản ứng : 6CO2 + 6H2O ánh sáng C6H12O6 + 6O2 + 686 k.calorie Bầu trời trong xanh mà chúng ta hiện nay thấy là do thành phần dưỡng khí trong bầu khí quyển ( 21% ), cho nên hành tinh nào có màu xanh là hy vọng có sự sống. Khi bầu khí quyển có đủ lượng dưỡng khí thì lớp Ozon được thành lập ở thượng tầng khí quyển như một lá chắn phòng vệ để ngăn chận tia tử ngoại tiêu diệt sự sống chiếu tới mặt đất. Ozon có ký hiệu là O3 được thành lập khi tia tử ngoại ở thượng tầng khí quyển làm tách rời dưỡng khí thành hai nguyên tử, rồi hợp với nguyên tử dưỡng khí khác thành Ozon: ½ O2 + O2 O3 Cường độ của tia tử ngoại trên mặt đất khi chưa có lớp Ozon ở thượng tầng khí quyển 30 lần lớn hơn hiện nay. Tia này có khả năng xuyên mặt nước xuống sâu tới 30 mét, điều này giải thích vì sao sinh vật xuất hiện ở dưới lòng biển trước tiên. Nếu dưỡng khí cần cho sự sống của con người, động vật thì thán khí lại là thức ăn của thực vật và là nguồn nhiệt của quả đất. Thán khí bay lên bầu khí quyển khi con người đốt gỗ, than, dầu hỏa, khí đốt...Số lượng thán khí thải ra quá nhiều sẽ có hại cho môi trường sống: nhiệt độ tăng, lớp Ozon có thể bị ảnh hưởng xấu. Nói tóm lại, các mối liên hệ nhân quả chằng chịt như mạng lưới. Nhân duyên hòa hợp với nhau mới sinh ra vạn pháp, vạn vật đúng như kinh Phật đã dạy: “ Nhất thiết pháp, nhân duyên sinh ” Mặc dầu đã có nhiều khám phá của khoa học, nhưng công việc nghiên cứu các mối liên hệ nhân duyên sinh ra vạn vật vẫn còn có nhiều điều bí ẩn, vẫn còn là đề tài hấp dẫn, lôi cuốn các nhà triết học, các nhà khoa học không bao giờ dứt. Nghiên cứu qui luật liên hệ người ta thấy rằng các sự vật liên kết, ràng buộc trong sự tổng hợp đưa đến thống nhất: các thành

Page 366: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

365

phần có khuynh hướng cùng chiều sẽ tăng cường tác dụng cho nhau, các thành phần có khuynh hướng trái ngược sẽ bù trừ lẫn nhau. Mối liên hệ không những diễn ra giữa sự vật với nhau, mà còn chi phối cả trong lòng của các sự vật ấy nữa. Ở ngành hóa học người ta biết được các mối nối hóa học giữa các nguyên tử tạo thành phân tử các chất. Muốn hiểu rõ các sự vật trong thế giới, người ta nghiên cứu để nắm vững các phương thức liên kết trong cấu trúc của chúng. Thế giới hiện tượng, vạn vật muôn hình, nghìn vẻ nên có vô số mối liên kết với nhiều kiểu mối nối khác nhau, hay nói ngược lại, vì có vô số cách liên kết khác nhau nên thế giới hiện tượng, sự vật mới có muôn hình, nghìn vẻ. Khi đọc kinh sách, cũng có lúc người ta gặp những đoạn có lý luận dựa trên quan điểm lý tưởng tuyệt đối cho rằng có gì là thực hữu ở thế gian này đâu? Ví dụ như một cái xe, nếu tháo rời nó ra từng bộ phận thì còn chi là cái xe nữa, nó có tồn tại đâu nào, tất cả đều giả hợp, là tuồng ảo hóa. Nhưng chớ nên dừng lại ở chỉ quan điểm này mà trở thành phiến diện, mà phải phối hợp với “ giả ” ở thế giới hiện tượng mới là con đường trung đạo mà nhà Phật đã vạch ra. Sự liên hệ giữa hiện tượng và bản thể đã được trình bày ở nguyên lý vạn vật đồng nhất thể, và kinh Phật cũng đã nói : “ Ly hiện tướng vô bản thể, ly bản thể vô hiện tướng ”. Vạn vật trong thế giới hiện sinh không phải là những gì đã được tạo ra sẵn, đã hoàn tất, đã có, đang có và mãi mãi còn đó, mà chúng có quá trình biến dịch: sinh thành cũng như hủy diệt. Vạn vật tuy giả hợp do nhân duyên, nhưng việc nghiên cứu các mối liên kết cấu tạo thành vật thể rất quan trọng, nó nói lên ý nghĩa sáng tạo của con người trong lao động sản xuất phục vụ nhu cầu sống. Trong ngành cơ khí, người ta chế tạo những máy móc tinh xảo phục vụ cho các ngành sản xuất bằng phương thức lắp ráp từ các bộ phận, các phần rời nhỏ có độ chính xác cao. Những đồ chơi của trẻ con hiện nay cũng được chế tạo, sản xuất theo phương thức như thế, nghĩa là thay vì những vật thể đồ chơi đã được hoàn thành thì những phần rời để cấu thành vật thể được sản xuất để trẻ con vừa chơi vừa học hỏi qua sự chọn lựa, sắp xếp, kết hợp các phần để tạo hình theo ý muốn. Quốc gia, xã hội là tổ hợp liên kết các phần tử đơn lẻ nhất là cá nhân, rồi qua những đơn vị trung gian như gia đình, đoàn thể, đảng phái mà trong đó gia đình là đơn vị căn bản nhất vì nó hợp với qui luật tự nhiên, luật âm dương sinh thành nên nhất định thông thể bỏ qua được, đó là truyền thống không những của dân tộc Việt Nam, mà là của mọi dân tộc,

Page 367: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

366

của nhân loại nói chung. Thế cho nên có dạo có khuynh hướng cực đoan, vì không hiểu rõ ý nghĩa đúng đắn, sâu xa của qui luật biện chứng về cặp phạm trù cái chung, cái riêng, chỉ thiên chấp vào cái chung, chủ trương xóa bỏ chế độ gia đình, cho đó là nguyên nhân của lòng vị kỷ, vận động tổ chức cuộc sống tập thể với những bếp ăn chung...theo gương nếp sống cộng đồng nguyên thủy, trong thực tế không mấy ai hưởng ứng. Những người có cùng chung một khuynh hướng, năng khiếu, sở thích thường liên kết lại với nhau, nổ lực phấn đấu cho một mục đích chung tạo thành những phong trào. Trong tiếng Đức, chữ phong trào là Bewegung cũng có nghĩa là sự vận động. Như vậy phong trào là cuộc vận động quần chúng, tùy theo phạm vi rộng hẹp, tùy theo mục đích, đường hướng mà trở thành các hội đoàn, đảng phái... Những phong trào đang lên gọi là cao trào, những phong trào đang xuống gọi là thoái trào. Các tổ chức trên sinh hoạt theo qui định của nhà nước nhằm phát huy năng khiếu, khả năng của con người để góp phần phục vụ đất nước. Tùy theo sự lựa chọn các đơn vị trung gian, cách liên kết mà có những cơ cấu xã hội, quốc gia khác nhau và do đó có tương quan xã hội khác nhau. Ví dụ hình thức quốc gia theo liên bang khác với hình thức quốc gia với hệ thống tỉnh, huyện. Hình thức thứ nhất tôn trọng tính địa phương, liên kết trên căn bản hòa hợp; còn hình thức sau chú trọng tính tập trung, thống nhất. Trong nền văn học bình dân Việt Nam, nguyên lý về mối liên hệ giữa các hiện tượng, sự vật đã được khám phá từ lâu trong mọi lãnh vực từ thường thức cho đến vật lý, tâm lý. Cách diễn đạt nội dung tư tưởng thì đơn giản, cô đọng, nhưng hàm súc như tinh thần “ giản dị ” ở kinh Dịch: “ Dị giản nhi thiên hạ chi lý đắc hỹ ” ( Biết được cái lẽ giản dị, thì biết được cái lý của thiên hạ.) Các qui luật liên hệ được khám phá trong nền văn học bình dân được lập lại trong sự liên kết với những nguyên lý căn bản của triết học hiện đại. Luật gần xa: - “ Lửa gần rơm” - “ Xa mặt, cách lòng ” hay: “ Xa mỏi chân, gần mỏi miệng ” Từ qui luật gần xa đến khái niệm về ảnh hưởng: “ Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng ” Ảnh hưởng do môi trường, mô thức không gian qui định:

Page 368: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

367

“ Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài ” Liên hệ, tương quan nhân quả: - “ Có lửa mới có khói ” - “ Hữu xạ tự nhiên hương ” - “ Có bột mới gột nên hồ ” - “ Có thóc thì róc ra gạo, Có gạo thì nạo ra cơm ” - “ Có tích mới dịch nên tuồng ” Hiệu năng tác dụng của luật nhân quả: - “ Trồng cây chua, ăn quả chua, Trồng cây ngọt ăn quả ngọt ” - “ Trồng cây nào, ăn quả nấy ” - “Ở hiền thì lại gặp lành, Ở ác gặp dữ, tan tành như tro ” - “ Gieo gió, gặt bảo ” Tính tất yếu của qui luật nhân quả: “ Người có chí ắt phải nên, Nhà có nền ắt phải vững ” Tác động của con người trong luật nhân quả: - “ Chuông có gỏ mới kêu, Đèn có khêu mới rạng ”

- “ Dao năng liếc thì sắc, Người năng chào thì quen ”

Ứng dụng luật nhân quả: - Cảnh giác con người: “ Gậy ông đập lưng ông ” - Khuyến khích những hành vi đạo đức: “ Người trồng cây hạnh người chơi, Ta trồng cây đức để đời về sau ” Cái duyên trong luật nhân quả: “ Lắm duyên nhiều nợ ” Duyên là cái hổ trợ luật nhân quả, cũng chỉ cái sức hấp dẫn, quyến rũ của người đàn bà nhất là ở phương diện sắc đẹp. Mặc dầu biết rằng: “ Lắm duyên nhiều nợ” nhưng đã là đàn bà ai cũng mong muốn mình có duyên, mà rất sợ vô duyên, sợ cô đơn: “ Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, Vô duyên đối diện bất tương phùng ”

Page 369: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

368

Như vậy tác dụng của qui luật gần xa với tác dụng của cái duyên bù trừ cho nhau. Người bình dân Việt Nam quan niệm duyên là sợi dây tơ hồng ràng buộc tình ái lứa đôi theo qui luật âm dương sinh thành tự nhiên mà mọi người phải tôn trọng: “ Ép dầu ép mỡ, ai nỡ ép duyên.” Vô duyên thì đã đành, nhưng đã có duyên rồi người đàn bà vẫn còn lo lắng sẽ hết duyên dần theo năm tháng như tâm trạng sau đây: “ Một mình lo bảy lo ba, Lo cau trổ muộn, lo già hết duyên. Còn duyên kẻ đón, người đưa, Hết duyên đi sớm về trưa một mình.” Tơ duyên là sợi dây liên hệ, liên kết các hiện tượng, sự vật lại với nhau. Con người cần nắm vững đầu mối của sự liên kết, nếu không thì sẽ rối như tơ vò, như tình cảnh của anh chàng có lắm duyên nhiều vợ sau đây: “ Một vợ nằm giường lèo Hai vợ nằm chèo queo Ba vợ ra chuồng heo ” Liên hệ là khuynh hướng chung của hiện tượng, sự vật: “ Nước còn quến cát làm doi, Phương chi ta chẳng tài bồi lấy nhau ” Liên hệ đưa tới liên kết, hợp quần để gây sức mạnh tổng hợp: “ Một cây làm chẳng nên non, Ba cây dụm lại nên hòn núi cao.” Vai trò và hiệu năng lãnh đạo, chỉ huy trong qui luật liên hệ, liên kết, ảnh hưởng, nhất trí: “ Tiếng trống rống ngàn quân.” Hòa thuận là nguyên tắc, tiêu chuẩn và là mục đích của tất cả mọi sự liên kết từ đơn vị gia đình cho đến các đoàn thể xã hội, quốc gia: “ Anh em nào phải người xa, Cùng chung bác mẹ một nhà cùng chung. Yêu nhau như thể tay chân, Anh em hòa thuận hai thân vui vầy. Khôn ngoan đối đáp người ngoài, Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.”

Page 370: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

369

Tinh thần hòa thuận, tình thương yêu đùm bọc lấy nhau còn được mở rộng cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc cùng sống chung trong nước: “ Bầu ơi thương lấy bí cùng, Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.” Mọi người đều cùng một lòng thực hiện đại đoàn kết, tránh cái cảnh: - “ Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược ” - “ Ông nói gà, bà nói vịt.” Tránh những nguyên nhân đưa đến cảnh bất hòa có hại đến sự thống nhất đất nước: “ Một nhà hai chủ không hòa, Hai vua một nước ắt là không yên” Có được như vậy, người dân mới có cơ sở để tin tưởng vào sự trường tồn của đất nước: “.” Nước non là nước non trời, Ai phân được nước, ai dời được non.” Nước non là nước non trời, Trong cuộc sống hiện sinh, con người cần nắm vững qui luật liên hệ nhất là qui luật nhân quả trong các ngành khoa học. Áp dụng các qui luật này không có nghĩa là tuân thủ theo chúng một cách máy móc, một cách thụ động như những người theo thuyết định mệnh, mà còn có tác động của con người với tư cách là một chủ thể có ý thức, có ý chí tự do. Như vậy kết quả tác dụng không phải chỉ do một mình các qui luật qui định, mà là tổng hợp tất cả các mối liên hệ trong đó có sự tham dự của tinh thần con người. Một con thuyền nếu thả trôi trên sông, nó sẽ trôi lênh đênh vô định theo dòng nước, nhưng nếu có bác lái đò cầm tay lái thì con thuyền sẽ cập bến đúng như ý muốn để hành khách sang sông.

Page 371: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

370

Nguyên lý bảo toàn năng lượng Trước kia người ta nghĩ rằng trong sự vận động, biến dịch, vật chất không thay đổi. Nhưng kể từ khi thuyết tương đối của Albert Einstein ra đời thì mới xác định rằng cái thường hằng, bất biến không phải là vật chất, mà là năng lượng. Điều này được xác định ở nguyên lý bảo toàn năng lượng. Nguyên lý này nói rằng ở quá trình vật lý, năng lượng không thể được tạo ra cũng không thể bị hủy diệt, mà chỉ có thể biến đổi sang những dạng năng lượng khác thôi. Theo phát biểu trên, ngoài sự bảo toàn về năng lượng nguyên lý này còn nêu lên tính chất chuyển hóa các dạng năng lượng, có nghĩa là đã bao hàm qui luật về sự liên hệ rồi. Như vậy cho đến bây giờ đã có hai phạm trù phân biệt rõ ràng là vật chất và năng lượng, mà giữa chúng có sự liên hệ với nhau theo công thức của Einstein: E = mc² Theo công thức trên thì với một khối lượng vật chất rất nhỏ cũng đã chứa đựng một nguồn năng lượng vô cùng lớn vì vận tốc của ánh sáng rất lớn: c = 300.000 km/sec Về mối tương quan giữa vật chất và năng lượng, người ta cũng có thể nói rằng: vật chất là năng lượng tụ lại đến cực độ, còn năng lượng là vật chất tán ra tối đa. Thế giới vạn vật vật chất luôn luôn vận động. Sự vận động này không phải vì vạn vật là vật chất, mà do một nguyên nhân căn nguyên hơn vật chất, đó là năng lượng, vì năng lượng bao gồm các dạng động năng, thế năng, điện năng, hóa năng, cơ năng...nghĩa là năng lực tiềm tàng, là khả năng, là sức mạnh làm cho vạn vật vận động. Nguyên lý bảo toàn năng lượng thật ra cũng đã được Phật giáo nói đến từ trên 2500 năm trước đây bằng trực giác siêu thức về bản thể Chân như thường hằng ở kinh Bát nhã Ba la mật đa: “ Thị chư pháp không tướng, bất sinh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm...” Phạm trù năng lượng cũng đã được kinh Dịch nói đến với một danh hiệu khác là khí lực, mà giữa vật và khí có tương quan xác định như sau:

Page 372: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

371

“ Tinh khí vi vật, vu hồn vi biến.” ( Vật là khí kết tinh, biến hóa là hồn tan ra.) Nguyên lý vạn vật đồng nhất thể đã phát họa ra mối tương quan giữa bản thể vũ trụ với thế giới hiện tượng, mà thế giới này là thế giới hiện sinh bao gồm vạn vật vật chất sống động chứ không phải là thứ vật chất ù lì, vô tri, vô giác, cho nên ở triết học, khi nói đến phạm trù vật chất không thể nào quên liên hệ với phạm trù tinh thần. Cho mãi đến bây giờ, người ta biết được rằng thế giới vạn vật do bản thể vũ trụ biểu hiện ra thống nhất ở năng lượng, cho nên mối tương quan trên có thể được diễn tả như sau: Bản thể vũ trụ ( Năng lượng ) = Vật chất + Tinh thần Như vậy, tư tưởng về Thực tại tối cao, Bản thể vũ trụ đại đồng với thế giới biểu hiện đã được trình bày trong phần lịch sử tư tưởng Việt Nam hoàn toàn phù hợp tri thức khoa học, là cơ sở vững chắc để xây dựng một nền triết học chân chánh.

Nguyên lý tuần hoàn Hiện tượng tuần hoàn: Quan sát thế giới hiện tượng, sự vật người ta nhận thấy phần nhiều chúng biến dịch tuần hoàn như ngày, đêm, bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông... Kinh Dịch ngày xưa cũng đã giải thích hiện tượng sáng, tối là do sự vận hành của mặt trăng, mặt trời : “ Nhật vãng nguyệt lai, nguyệt vãng tắc nhật lai, nhật nguyệt tương thôi nhi minh sinh ” ( Mặt trời đi thì mặt trăng lại, mặt trăng đi thì mặt trời đến, mặt trời mặt trăng đun đẩy nhau mà ánh sáng phát sinh ) Trong văn học bình dân Việt Nam có câu: “ Nắng bề nào, che bề nấy.” Nước Việt Nam khi xưa là một nước nông nghiệp, người nông dân khi thu hoạch mùa màng, làm việc trên ruộng rẩy thường hay dùng phên lá che nắng. Buổi sáng thì ánh nắng chiếu từ phương Đông đến, nhưng đến xế chiều thì ánh sáng đổi chiều, cho nên muốn tránh nắng thì phải xoay phên tùy theo hướng nắng. Đó là cách xử sự của người bình dân theo luật biến dịch tự nhiên có tính cách biện chứng, đã từng bị những người có quan niệm chân lý theo đường thẳng, chấp cứng vào luân lý, đạo đức hình thức mỉa mai, phê phán là xu thời, thiếu lý tưởng, không lập trường. Theo quan điểm khoa học thì các hiện tượng tuần hoàn được giải thích một cách rõ ràng:

Page 373: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

372

Trái đất tự quay chung quanh trục Nam Bắc của nó: phân nửa hướng về mặt trời là ban ngày, còn phân nửa phía sau chìm trong bóng tối là ban đêm. Cũng do sự quay này mà hướng đi của ánh sáng từ mặt trời thay đổi từ sáng đến chiều, còn ở giữa trưa thì thẳng đứng. Trọn ngày đêm ứng với một vòng quay của trái đất. Trái đất không những chỉ quay chung quanh trục của nó, mà còn quay chung quanh mặt trời nữa. Thời gian để trái đất quay hết một vòng quanh mặt trời là một năm. Trục của trái đất không thẳng đứng với quỹ đạo của nó, mà nghiêng đôi chút, do đó mà có bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông. Khi Bắc bán cầu nghiêng về phía mặt trời thì ở đây là mùa hè, trong khi đó Nam bán cầu xoay hướng khỏi mặt trời thì ở đây là mùa đông. Trái đất không lẻ loi một mình, mà mặt trăng luôn luôn chạy vòng quanh nó. Thời gian giữa hai lần trăng tròn đầy là một tháng. Ngoài ra cũng có những chu kỳ tuần hoàn thiên nhiên rất lớn như chu kỳ của mặt trời khi nó quay quanh trung tâm của hệ thống giải Ngân hà là 220 triệu năm. Sự quay của trái đất chung quanh trục của nó tạo ra hiệu ứng Coriolis, mà lực của nó tạo ra những dòng xoáy trong các đại dương cũng như trong không khí. Nếu quan sát sinh cầu ( Biophäre), người ta cũng thấy có sự tuần hoàn về chất ở đó ví dụ như sự tuần hoàn của Carbon và dưỡng khí chẳng hạn qua sự hô hấp của các cơ thể sống. Hiện tượng tuần hoàn không những chỉ được thấy ở thế giới bên ngoài mà còn ngay cả bên trong sự vật nữa. Thực vậy, trong cơ thể của con người cũng như các loài động vật có sự tuần hòan của máu. Nguyên tử các chất có mô hình mẫu cũng tương tự như thái dương hệ, trong đó các điện tử chạy trên quỹ đạo chung quanh nhân. Do tính chất tuần hoàn của vật chất, Mendelejew ( 1834-1907 ) đã thiết lập bảng hệ thống tuần hoàn của các nguyên tố, trong đó các nguyên tố theo thứ tự trọng lượng, theo đặc tính chung được xếp trong cùng một cột. Một điều đặc biệt là trong bảng này có vài khoảng tạm thời bỏ trống mà sau đó phù hợp với những chất mới được khám phá, đó là Gallium, Germanium, Scandium. Hiện tượng tuần hoàn có mặt khắp mọi nơi trong thế giới hiện tượng, sự vật và đã trở thành qui luật: qui luật tuần hoàn. Qui luật tuần hoàn này không phải chỉ được xác định bằng cách qui nạp do quan sát các hiện tượng có tính cách lập đi, lập lại trong thế giới hiện tượng, mà nó còn có liên hệ đến nguyên nhân theo tương quan nhân quả nữa. Nguyên nhân này không gì khác hơn sự vận động quay vòng của

Page 374: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

373

các hành tinh, mà quan trọng nhất là sự quay của trái đất, vì mặc dầu tính liên hệ chằng chịt nhưng theo luật gần xa thì ảnh hưởng của cái ở gần đáng kể nhất. Kết quả của sự liên hệ này đã được chứng minh qua tác dụng Coriolis như đã nói. Quả đất quay tròn chung quanh trục của nó. Sự quay này làm cho tất cả mọi vật liên hệ với nó đều quay theo. Xét một điểm M trên mặt đất chẳng hạn, nó không phải vạch nên một vòng tròn nằm trên mặt phẳng thẳng góc với trục quay của quả đất, mà là một đường xoắn ốc trong không gian, vì trái đất cũng như thái dương hệ không ở yên một chỗ, mà vừa quay vừa di chuyển trong vũ trụ cùng với giải ngân hà. Tuy nhiên để tiện việc khảo sát, chúng ta tạm thời chiếu cả hệ thống xuống mặt phẳng thẳng góc với trục quay của trái đất, chuyển động lúc đó được thu về những hình tròn chồng chất lên nhau như những vòng tròn lượng giác. Lúc đó sự vận động của điểm M có thể được diễn tả bằng hàm số lượng giác như sau: sin a = sin ( a + k.2JI ) Sự vận động này có tính cách tuần hoàn với: chu kỳ T = 2JI k = 1,2,3...( vòng quay ) Những điểm M tuy có cùng trị số lượng giác, nhưng có thể tương ứng với những vòng quay khác nhau. Như vậy thì hiện tượng tuy tuần hoàn, mà thời gian cứ đi mãi, vì điểm M thực ra không phải di chuyển trên vòng tròn phẳng, mà theo đường xoắn ốc trong không gian như đã nói. Do đó hiện tượng tuần hoàn trên trái đất có tính cách tương đối, ví dụ như mùa đông tại một địa phương nào đó không phải năm nào cũng lặp lại giống y nhau, mà có năm lạnh nhiều, có năm lạnh ít hơn đôi chút…nhưng nói chung thì có đặc tính của mùa đông. Ngoài ra sự quay của quả đất cũng có thể có liên hệ đến sự bảo toàn năng lượng một cách tương đối ở hành tinh này, vì trong khi quay như vậy, các sự vật trên quả đất kể cả khí quyển cũng chịu ảnh hưởng, tất cả đều chịu tác dụng của hai lực đối nghịch ly tâm và hướng tâm cân bằng nhau. Nói rằng sự bảo toàn năng lượng ở phạm vi quả đất tương đối, vì hành tinh này có liên hệ với thái dương hệ, rồi với vũ trụ nói chung, nên cũng có sự trao đổi năng lượng với nhau. Cho đến khi nào năng lượng của quả đất mất đi và năng lượng nhận vào ví dụ như năng lượng ánh sáng từ mặt trời chẳng hạn, quân bình nhau thì năng lượng ở đây được bảo toàn. Cũng có thể đến một lúc nào đó năng lượng của quả đất mất dần do sự mất

Page 375: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

374

quân bình, nhưng mà mất ở hành tinh này lại được ở hành tinh khác, cho nên nói chung thì năng lượng của toàn thể vũ trụ được bảo toàn. Trong lịch sử triết học của Hy Lạp, Pythagoras là người duy nhất có tư tưởng về sự vận chuyển tuần hoàn. Đó là quan niệm về năm vũ trụ mà Hirschberger gọi là“ das grosse Weltenjahr „ Theo quan niệm này, vũ trụ không vận hành theo đường thẳng, mà vận hành theo chu kỳ. Về điểm này Hirschberger nhận định như sau:“ Định luật phục diễn trường cữu của muôn vật này chi phối cả những gì nhỏ nhất. Có lẽ chính Pythagoras đã nói rằng:“ Một ngày kia ta sẽ trở về với cây gậy của ta , đứng trước mặt các người và cũng dạy dỗ các người „ Với lý thuyết về phục diễn trường cữu của muôn vật, tư tưởng về vũ trụ đã đạt được mức độ tinh vi nhất của nó „ ( Bis in das kleinste erstrecke sich diese ewige Wiederkunft aller Dinge.“ Ich werde einst mit meinem Stabe wieder vor euch stehen und euch lehren „ soll Pythagoras gesagt haben. In der Lehre vom ewigen Kreislauf aller Dinge ist der Kosmosgedanke am schärfsten entwickelt.) Ở Đông phương, tư tưởng tuần hoàn phổ biến hơn. Trong Phật giáo tư tưởng này được diễn dịch thành thuyết nghiệp báo luân hồi mang màu sắc tín ngưỡng.: sở dĩ chúng sinh còn ở trong vòng sanh tử luân hồi vì còn mê lầm ngã chấp, còn mang nặng nghiệp báo: “ Đã mang lấy nghiệp vào thân, Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa „ ( Kiều - Nguyễn Du ) Một khi đã giác ngộ rồi thì từ hữu ngã chuyển sang vô ngã: thân không, nghiệp cũng không, lúc đó cảnh giới Chân như hiện ra rạng rỡ không còn sanh tử luân hồi nữa. Trong kinh Dịch, tất cả sự biến dịch đều có liên hệ đến lẽ tuần hoàn cả. Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, các học giả trí thức, các vị Thiền sư, Nho sĩ đều am tường qui luật tuần hoàn và đã lấy làm kinh nghiệm sống. Xem biểu đồ tứ sơn, tam nghiệp, nhất tâm của vua Trần Thái Tông, chúng ta thấy nhà vua đã thấu rõ qui luật này chi phối cuộc sống như thế nào qua những cảnh sanh, bệnh, lão, tử, mà muốn thoát khỏi chúng phải cầu tìm giác ngộ giải thoát theo phương pháp của Đức Phật đã chỉ: “ Bốn núi vách cao, cây xanh tốt, Giác ngộ đều không, muôn vật không. Mừng có con lừa ba chân ấy, Cưỡi lưng thẳng tiến đỉnh non bồng „

Page 376: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

375

Biểu đồ : Tứ sơn, Tam nghiệp, Nhất tâm. Núi 1 Đông tử Núi 4 Thân Khẩu Xuân sinh Tâm Thu bệnh Ý Núi 2 Hạ lão Núi 3 Nguyễn Bỉnh Khiêm ( 1492-1587 ): Lẽ thịnh suy với nguyên lý tuần hoàn: “ Thế sự tuần hoàn hay đắp đổi, Từng xem thua được một hai phen „ ( Thơ chữ Nôm ) “ Sinh tiêu, thăng giáng chung nhi thủy, Giáp tí na tri niên hựu niên „ ( Thơ chữ Hán ) ( Sinh ra tiêu đi, bốc lên giáng xuống, cuối cùng lại bắt đầu, Biết đâu qua năm Giáp tí này lại đến năm giáp tí khác.) Từ nguyên lý tuần hoàn, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã rút ra một đạo sống: “ Vùng nọ ghè khi làm bãi cát, Đồi kia có thuở trụt hòn doi. Khôn ngoan mới biết thăng thời giáng, Dại dột nào hay tiểu có dài. Đã khuất bao nhiêu thời lại duỗi, Đạo trời lồng lộng chẳng hề sai „ ( Thơ chữ Nôm ) Do nắm vững nguyên lý tuần hoàn, cho nên Nguyễn Bỉnh Khiêm nổi tiếng có tài tiên tri, đoán biết trước được nhiều việc thịnh suy: “ Bát quái tượng suy thiên vãng phục, Sở thanh quyên nghiệm thế hưng suy ” ( Tượng của tám quẻ suy biết sự đi và về của trời, Vài tiếng đổ quyên đủ nghiệm về điều thịnh suy ở đời.)

Page 377: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

376

Nguyễn Công Trứ ( 1778-1858 ): Cũng tin tưởng vào nguyên lý tuần hoàn : “ Số khả bỉ rồi thời lại thái, Cơ thường đông hết hẳn sang xuân. Trời đâu riêng khó cho ta mãi, Vinh nhục rồi ai cũng một lần ” ( Vịnh cảnh nghèo ) cho nên có thái độ lạc quan: “ Còn trời còn đất còn non nước, Có lẽ ta đâu mãi thế này.” ( Than nghèo ) và tự tin: “ Trong cuộc trần ai, ai dễ biết, Rồi ra mới rõ mặt anh hùng ” (Đi thi tự vịnh ) Vì hiểu rõ nguyên lý tuần hoàn, lẽ thịnh suy, cho nên tuy biết rằng: “ Xưa nay xuất xử thường hai lối ” nhưng đối với Nguyễn Công Trứ thì xuất xử không phải là hai quan điểm khác nhau, mà chỉ là tùy thời hành động : “ Hành tàng bất nhị kỳ quan ” ( Hành tàng ) Trong lịch sử đấu tranh Việt Nam, các vị anh hùng dân tộc đã vận dụng khéo léo qui luật này vào công cuộc kháng chiến chống ngoại xâm: lúc địch mạnh thì rút vào rừng núi lẩn tránh để bảo toàn lực lượng, lo củng cố quân lương, vũ khí, huấn luyện binh sĩ, dùng lối du kích chiến làm tiêu hao dần lực lượng địch quân, chờ cơ hội thuận lợi tổng tấn công tiêu diệt toàn bộ đối phương giải phóng đất nước. Từ qui luật tuần hoàn, ngày nay người ta dẫn xuất ra một phạm trù quan trọng là quá trình. Quá trình là sự diễn tiến vận hành có chu kỳ tuần hoàn. Hầu hết mọi hiện tượng, sự vật đều vận hành theo quá trình và theo Hegel ( 1770-1831 ), triết gia Đức thì: “ Thế giới là một quá trình.” ( Die Welt ist ein Prozeß.). Quá trình có mặt khắp mọi lãnh vực từ tư duy cho đến đời sống hiện thực, được áp dụng vào kỹ thuật để cơ giới hóa, tự động hoá các ngành sản xuất phục vụ đời sống con người.

Page 378: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

377

Nguyên lý không quân bình Quan sát thế giới hiện tượng, người ta nhận thấy hầu hết sự vật đều ở trạng thái không quân bình, chúng luôn luôn vận động, biến dịch. Sự vận động, biến dịch này không đều đặn, thẳng tắp, mà có lúc thăng, lúc giảm, lúc thế này, khi thế kia. Sự kiện này đã được con người để ý đến từ lâu. Lão Tử đã nhận xét: “ Gió lốc không thổi suốt một buổi mai, mưa rào không kéo dài suốt ngày „ ( Phiêu phong bất chung triêu, sậu vũ bất chung nhật.) (ĐĐK, chương 23 ) Ở kinh Dịch, hào từ của quẻ Thái có câu:“ Vô bình bất bí, vô vãng bất phục „ nghĩa là không bao giờ có phẳng lặng mà không có nghiêng lệch, không bao giờ có đi mà không có trở lại. Tục ngữ Việt Nam cũng có câu: “ Sông có khúc, người có lúc „ hay nói rõ hơn: “ Người có lúc vinh, lúc nhục Sông có lúc đục, lúc trong „ Nếu chỉ quan sát thế giới hiện tượng, sự vật rồi kết luận bản chất của chúng thì chưa đủ, mà cần phải tìm hiểu nguyên nhân nào đã gây ra sự mất quân bình đó nữa, vì tất cả mọi sự đều có nguyên nhân như đã trình bày ở qui luật về sự liên hệ phổ biến. Tùy theo quan điểm, quan niệm về lý thuyết nhân quả có khác nhau. Trước đây hơn 2500 năm, Phật giáo đã trình bày minh bạch luật nhân quả với thuyết 12 nhân duyên, cho rằng không có nguyên nhân nào được xem như nguyên nhân đầu tiên, và kết quả nào được xem là kết quả cuối cùng cả, mà chúng liên kết nhau như những móc xích của sợi dây chuyền. Thuyết nhân duyên nhà Phật đối lập với thuyết đệ nhất nguyên nhân thần quyền lúc đương thời. Thật ra chân lý ở thế giới hiện tượng là chân lý tương đối, công việc khám phá chân lý không phải đã hoàn tất, cho nên có những nguyên nhân đã được khám phá rồi, cũng có những nguyên nhân chưa được khám phá, nhưng chắc chắn sẽ được khám phá trong tương lai gần đây. Trong một chuổi các nguyên nhân như vậy, có những nguyên nhân chính, nguyên nhân phụ, nguyên nhân gần, nguyên nhân xa đối với hiện tượng, sự vật, cho nên việc phát hiện những nguyên nhân chính, nguyên nhân gần có tính cách quyết định.

Page 379: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

378

Để đạt đến chân lý, triết học thời mới ở Tây phương có hai phương pháp tư tưởng khác nhau: phương pháp qui nạp và phương pháp suy diễn. Qui nạp là phương pháp đi từ hiện tượng đơn biệt đến khái niệm tổng quát hay qui luật, giả thuyết. Suy diễn là phương pháp đi từ khái niệm hay qui luật ra hiện tượng. Thực ra thì phương pháp suy diễn đã được Aristoles ( 384-322 ) nói đến trong luận lý học của ông từ lâu, còn phương pháp qui nạp tuy có xuất hiện ở thời mới những mãi về sau mới được John Stuart Mill (1806-1873 ) trình bày một cách rõ ràng. Phương pháp qui nạp được ưu tiên áp dụng trong khoa học thực nghiệm, còn phương pháp suy diễn thì ưu tiên trong khoa học thuần lý như toán học, vật lý lý thuyết. Phương pháp qui nạp có giá trị đối với khoa học, nó đưa đến khái niệm, qui luật và sau cùng là giả thuyết. Rồi giả thuyết này được kiểm chứng với phương pháp suy diễn, qua đó người ta thử xét xem nó có được áp dụng cho hiện tượng liện hệ và có được giải thích đầy đủ, rõ ràng hay không? Dưới ảnh hưởng của hai phương pháp này, hai đường hướng triết học khác nhau được ra đời ở thời mới, thường hay chống đối nhau: triết học qui nạp hay triết học duy nghiệm do Bacon ( 1561-1626 ) sáng lập, còn triết học suy diễn hay triết học duy lý do Descartes ( 1596- 1650 ) chủ xướng. Chúng tôi thiết nghĩ, nếu đã là chân lý thì phương pháp đúng đắn nào cũng đều có thể đạt tới được cả theo như tinh thần triết học Đông phương: “ Đồng qui nhi thù đồ „ Nếu không được như thế thì hoặc là phương pháp còn thiếu sót, hoặc là chân lý chưa phản ánh đúng đắn trong tinh thần con người. Với tinh thần đó, đồng thời dựa vào tinh hoa tư tưởng người xưa cũng như thành quả của khoa học hiện đại, chúng tôi thử nêu lên một giả thuyết để giải thích về sự không quân bình trong thế giới hiện tượng, nguồn gốc cũng như đặc tính của nó. Theo lịch sử triết học Đông phương, trước khi vũ trụ xuất hiện đã có một nguyên khí thuần nhất chưa bị phân hóa, mà Lão Tử gọi là Đạo, Dịch gọi là Thái cực, Phật giáo gọi là Chân như, Chân không hay Diệu hữu, còn triết học nói chung gọi là Bản thể ( Bản thể vũ trụ đại đồng ). Bản thể này tuyệt đối bình đẳng trong thế quân bình nguyên thủy, ở đó tổng hợp tất cả các lực tác động triệt tiêu nhau. Như đã nói, bản thể là hình ảnh biểu hiện của năng lượng, nghĩa là nó đã chứa sẵn cái mầm vận động,

Page 380: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

379

cho nên có một lúc nào đó, thế quân bình tuyệt đối nguyên thủy mất đi, sự phân hóa xảy ra, Nguyên khí không còn đồng nhất nữa. Lúc đó các lực tác động phân bố không đồng đều nữa, mà hợp lực của chúng tạo thành hai khuynh hướng đối nghịch nhau. Những lực đối nghịch này tạo ra sức căng tăng dần cho đến khi nào Nguyên khí không còn có thể chịu đựng nỗi nữa sẽ bùng nổ mảnh liệt. Đó là tiếng nổ khai nguyên vũ trụ. Qua tiếng nổ đó, nguồn năng lượng khổng lồ được phóng thích, vật chất cùng với không gian, thời gian xuất hiện, vận động, bành trướng không ngừng. Ngay từ nguồn gốc, năng lượng, vật chất, không gian, thời gian đã có lên hệ gắn bó với nhau rồi. Năng lượng là trung gian giữa bản thể vũ trụ đại đồng thuộc về thế giới siêu hình với thế giới hiện tượng, vạn vật vật chất hữu hình, vì nó tuy vô hình như ở thế giới siêu hình, nhưng lại là cái có thật ở thế giới này, có thể đo lường được, đã được khoa học xác nhận. Đóng vai trò trung gian, năng lượng vừa có mặt trong thế giới vật chất hữu hình, là động cơ của mọi sự vận động của thế giới vật chất; vừa tiềm tàng ngay trong lòng của bản thể, cho nên cũng là động cơ gây sự phân hóa trong Nguyên khí để rồi đưa đến tiếng nổ khai nguyên vũ trụ. Do đó Nguyên khí nói trên còn được gọi là Hỗn nguyên khí ( Chaos ), tự nó đã có chứa mầm mống mâu thuẫn rồi, cũng như Thái cực bao hàm nguyên lý âm dương vậy. Còn năng lượng sở dĩ là động cơ cho sự vận động là vì nó bao hàm thế năng, động năng…là những khả năng làm cho sự vật vận động. Sau thời kỳ khai nguyên vũ trụ, do những điều kiện nhân duyên hòa hợp mà thế giới vạn vật muôn hình, nghìn vẻ xuất hiện. Đó là thế giới hữu hình, thế giới biểu hiện của Bản thể vô hình qua trung gian của năng lượng Như vậy giữa thế giới hữu hình và thế giới siêu hình không có gì ngăn cách, mà có sự cộng thông và kỳ cùng cũng chỉ là một như tinh thần của nguyên lý vạn vật đồng nhất thể. Cõi siêu hình là cõi tuyệt đối bình đẳng chưa bị phân hóa, chưa có không gian, thời gian, chưa có hình thể cụ thể, nên là cõi vô danh. Sở dĩ phải tạm dùng tên để gọi như Đạo, Chân như, Bản thể…là do nhu cầu diễn tả và truyền đạt của con người, cho nên Lão Tử mới nói: “ Đạo khả đạo phi thường đạo, danh khả danh phi thường danh „ Trái với thế giới siêu hình, thế giới hiện tượng, vạn vật có thiên hình vạn trạng, cho nên phải dùng tên gọi để phân biệt: “ Vô danh thiên địa chi thủy, hữu danh vạn vật chi mẫu „ Theo truyền thống, người Á đông cử hành lễ đầu năm rất long trọng. Trong lễ đón giao thừa và mấy ngày Tết, người ta đốt pháo đì đùng, múa

Page 381: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

380

lân theo nhịp trống vang đội không phải cốt chỉ vui chơi thông thường, mà còn có ý nghĩa sâu xa. Tiếng pháo hòa cùng tiếng trống múa lân không những chỉ là nghi thức đón chào năm mới, chúc mừng an khang, thịnh vượng, đón chào vòng sinh hóa mới, vận hội mới với niềm hy vọng mới, mà hơn thế nữa còn mang ý nghĩa làm sống lại thời buổi khai nguyên vũ trụ trong lòng mọi người. Khoa học hiện đại cũng có thuyết Big-Bang nói về sự xuất hiện của vũ trụ, mà vết tích của nó vẫn còn ghi nhận qua dạng năng lượng bức xạ. Nghiên cứu quang phổ của bức xạ này, người ta thấy các vạch của nó bị đẩy về phía có độ dài sóng lớn là vạch đỏ do hiệu ứng Doppler. Điều đó chứng tỏ rằng vũ trụ còn đang tiếp tục bành trướng, không gian dãn ra, cho nên độ dài sóng bức xạ tăng lên. Bức xạ này có thể đo được, nó tương ứng với một nhiệt độ là 3 độ trên điểm không tuyệt đối ( 3°K ), cho nên gọi là bức xạ 3 Kelvin. Tiếng sấm khai nguyên không phải là sự nổ trong một không gian sẵn có, mà phải được hiểu như là sự xuất hiện chung của vật chất, không gian, thời gian từ một nhất nguyên tính đầu tiên. Thuyết Big-Bang tuy chưa được hoàn toàn thừa nhận trong lãnh vực khoa học, nhưng về phương diện tư tưởng, nó có ý nghĩa rất lớn, chứng tỏ rằng thuyết tiếng sấm khai nguyên vũ trụ của Đông phương xưa kia không phải là không có lý, đó là tinh thần khoa học của đạo học hay huyền học Đông phương ngày xưa. Như vậy, ở khu vực này khi xưa không phải là hoàn toàn không có khoa học, họ chưa có khoa học thực nghiệm, mà đã có một thứ khoa học gọi là khoa học huyền bí rồi. Khoa học huyền bí thật ra cũng có tinh thần khoa học, nhưng khác với khoa học hiện đại ở chỗ chân lý còn bị thần bí hóa. Bộ mặt của khoa học huyền bí sẽ không còn huyền bí nữa một khi bức màn huyền bí được vén mở và nó sẽ đương nhiên trở thành khoa học như là khoa học. Dầu cho thuyết Big- Bang có được thừa nhận hay không, điều đó không quan trọng lắm, vì đã có một sự thật hiển nhiên là ngày nay vũ trụ tràn ngập sóng ba động, với sự hiện diện của giải ngân hà, các vì tinh tú, thái dương hệ vận chuyển có chu kỳ. Sóng ba động là hậu quả tất nhiên của chấn động, của vụ nổ khai nguyên, được nối tiếp bởi các vụ nổ về sau do sự vận động, va chạm của các thiên thể khiến cho sóng ba động này cứ liên tục hết đợt này đến đợt khác vô tận. Do qui luật liên hệ phổ biến, sóng ba động có ảnh hưởng đến các hiện tượng, sự vật. Tuy vô hình, nhưng người ta có thể nhận diện chúng qua

Page 382: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

381

hình ảnh của những làn sóng bất tận trên mặt đại dương; rồi chính những làn sóng này cũng để lại ấn dấu dợn sóng trên những bãi cát ven bờ biển, hay những cồn cát ở các hải đảo. Âm thanh, màu sắc cũng có dạng sóng ba động, mà người ta có thể chuyển chúng thành những làn sóng điện truyền đi khắp nơi trong không trung và đón nhận chúng theo ý muốn trong kỹ thuật truyền thanh, truyền hình. Ngoài ra, sự quay của trái đất trong thái dương hệ cũng như sự tự quay chung quanh trục của nó cũng tạo ra hiện tượng tuần hoàn và phân cực. Từ trường của trái đất với sự phân cực Nam Bắc được giải thích bằng thuyết Dynamo địa cầu ( Geodynamo ). Cũng tương tự như nguyên tắc tự cảm ứng được áp dụng trong Dynamo và máy phát điện, dòng điện cảm ứng được gây ra do sự chuyển động của những dòng đối lưu của những chất nóng chảy dẫn điện giữa nhân và lớp vòng đai vỏ quả đất, rồi từ trường của trái đất từ đó sinh ra. Một thuyết khác cũng giải thích sự xuất hiện của địa từ trường với sự phân cực dựa vào ảnh hưởng của các thiên thể nhất là mặt trời và mặt trăng là những thiên thể gần quả đất nhất. Do các lực hấp dẫn khác nhau tác dụng lên các phần của quả đất, khiến cho phần nhân quay nhanh hơn vòng đai vỏ quả đất đôi chút, dòng điện cảm ứng sinh ra và do đó có địa từ trường. Ngoài ra do ảnh hưởng của lực hấp dẫn tác dụng lên quả đất mà có hiện tượng thủy triều. Sự chấn động gây ra sóng ba động và sự vận chuyển của các thiên thể nói chung đều có dạng vận động hình “sin „ theo hàm số lượng giác, tức hàm số vòng : Sin a = sin ( a + k.2JI ) Dạng đồ thị hình “ sin ” này rất có ý nghĩa, nó chẳng những giải thích rõ nguyên tắc vận động của hiện tượng, sự vật trong thế giới vật chất, mà còn cho biết nguồn gốc của sự vận động ấy. Sự vận động của thế giới vật chất không phải là sự vận động bất kỳ nào, mà là sự vận động hòa hợp với toàn thể vũ trụ ba động cũng như sư vận hành tuần hoàn của các thiên thể. Do đặc tính này mà thế giới vật chất vận động theo quá trình, có tính phân cực, đối kháng. Ở giả thuyết giải thích về sự hiện hữu của địa từ trường và thủy triều, mặt trời, mặt trăng đóng vai trò quan trọng. Kinh Dịch cũng đã nói: “ Nhật vãng tắc nguyệt lai, nguyệt vãng tắc nhật lai, nhật nguyệt tương thôi nhi minh sinh” Như vậy, mặt trời, mặt trăng có ý nghĩa rất lớn đối với thuyết

Page 383: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

382

âm dương của kinh Dịch: “ Âm dương chi nghĩa phối nhật nguyệt ” (Ý nghĩa của âm dương phối hợp với mặt trời, mặt trăng ) Mặt trời, mặt trăng có tác động khác nhau đối với quả đất như vậy mới có sự chênh lệch, không quân bình và do đó mới có vận động. Nếu mọi sự vật lúc nào cũng ở thế cân đối, quân bình tuyệt đối thì sẽ không còn có sự vận động nữa, mà tất cả sẽ im lìm như cõi chết. Điện thế không đồng đều mới có dòng điện chạy trong mạch điện. Mực nước có chỗ cao, chỗ thấp mới có dòng nước chảy. Nhiệt độ có nóng lạnh khác nhau mới có luồng gió trên không trung cũng như luồng nước ở các đại dương. Theo sự vận động có dạng hình “ sin” như đã nói thì trong một quá trình vận động, tức là một chu kỳ vận động, có hai phần đối nghịch nhau là âm và dương . Vạn sự vật trong thế giới vật chất đều có sự vận động như thế cả. Xét hạt nguyên tử là phần tử nhỏ nhất của vật chất, người ta thấy có hai phần: nhân ở giữa mang điện tích dương, các điện tử mang điện tích âm chạy trên các quỹ đạo chung quanh nhân tương tự như hệ thống các hành tinh vận hành trong thái dương hệ. Lấy một thanh nam châm có đầu A(+) là cực dương, đầu B(-) là cực âm; bẻ nó ra làm hai phần, mỗi phần lại trở thành một thanh nam châm mới cũng có hai cực âm dương ở hai đầu. Cứ tiếp tục bẻ những thanh nam châm mới này như thế mãi thì thanh nam châm dù nhỏ đến đâu cũng vẫn có hai cực âm dương. Như vậy thì một vật dù cực nhỏ như hạt nguyên tử hay cực đại như vũ trụ cũng đều bị chi phối bởi nguyên lý âm dương hay nói khác thì tiểu vũ trụ cũng không khác với đại vũ trụ về cơ cấu. Cũng vì thế mà Tăng thống Khánh Hỷ ( 1071-1147 ) mới nói như sau trong một bài kệ: “ Kiền khôn tận thị mao đầu trượng, Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung.” ( Càn khôn rút lại đầu lông nhỏ, Nhật nguyệt nằm trong hạt cải mòng.) Kinh Dịch cũng có nói: “ Vạn vật các hữu Thái cực” nghĩa là mỗi vật đều có một Thái cực, tức là bị chi phối bởi nguyên lý âm dương. Rồi kinh Dịch cũng đã phát họa ra quá trình vận động, sinh thành theo phép tắc rõ ràng: “ Dịch hữu Thái cực, thị sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái ”. Còn Lão Tử thì nói: “ Đạo sanh nhất, nhất sanh nhị, nhị sanh tam, tam sanh vạn vật. Vạn vật phụ âm nhi bảo dương, xung khí dĩ vi hòa.”

Page 384: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

383

( Đạo sanh một, một sanh hai, hai sanh ba, ba sanh vạn vật. Trong vạn vật không vật nào mà không cõng âm và bồng dương. Nhân chỗ xung nhau mà hòa với nhau.) Âm dương không phải chỉ là khái niệm duy lý, trừu tượng, mà là hai khuynh hướng biểu hiện của thực tại. Cái thực tại duy nhất ấy là Thái cực phân hóa ra âm dương, hai khuynh hướng tuy mâu thuẫn, đối nghịch nhưng không bao giờ rời nhau. Nguyên lý âm dương này phổ biến, chi phối mọi cuộc biến hóa, sinh thành của vũ trụ từ vật chất đến tinh thần. Thật vậy, trong thế giới hiện thực, sự vật bao giờ cũng để lộ hai bộ mặt trái ngược nhau. Mỗi chiếc áo, mỗi đồng tiền... đều có bề mặt và bề trái. Mỗi tấm huy chương cũng vậy, nếu bề mặt của nó là biểu tượng của sự vinh quang, thì bề trái của nó đã là sự tang tóc, tàn bạo. Vạn lý trường thành đời Tần Thủy Hoàng là một kỳ quan, nhưng lại là nấm mồ vĩ đại chôn biết bao sinh mạng người dân Trung quốc thời đó. Ở ĐĐK, chương 2 Lão Tử có nhận xét: “ Thiên hạ đều biết tốt là tốt, thì đã có xấu rồi; đều biết có lành là lành, thì đã có cái chẳng lành rồi. Bởi vậy, có với không cùng sanh, khó với dễ cùng thành, ngắn và dài cùng hình, cao và thấp cùng chiều, giọng và tiếng cùng họa, trước và sau cùng theo.” ( Thiên hạ, giai tri mỹ chi vi mỹ, tư ác dĩ; giai tri thiện chi vi thiện, tư bất thiện dĩ. Cố, hữu vô tương sanh, nan dị tương thành, trường đoản tương hình, cao hạ tương khuynh, âm thinh tương hòa, tiền hậu tương tùy.) Âm dương không những khác nhau về đặc tính, mà còn đối nghịch nhau về đường lối nữa, nhưng nhờ như vậy mà có vận hành. Dịch hệ từ thượng truyện nói: “ Nhất hạp nhất tịch vị chi biến, vãng lai bất cùng vị chi thông ” ( Một mở một đóng gọi là biến, qua lại không cùng gọi là thông ) Quan sát việc ăn uống, hô hấp của con người thì thấy rõ qui luật đóng, mở đó, nếu đơn phương chỉ có động tác vào mà không có động tác ra hay ngược lại thì con người sẽ chết. Ngày nay, người ta áp dụng nguyên tắc đóng mở vào lãnh vực khoa học, kỹ thuật điện tử để thực hiện sự tự động hóa trong các dây chuyền sản xuất. Hệ thống số nhị nguyên 0,1 áp dụng trong kỹ thuật ngành tin học cũng không ra ngoài nguyên tắc đóng mở nói trên. Với nguyên tắc này, người ta đã chế tạo ra được những máy tính điện tử, những Computer có khả năng vượt bực ngoài sức tưởng tượng của con người.

Page 385: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

384

Trong khoa sinh vật học, người ta cũng nhận thấy các tế bào của cơ thể sống sinh sôi, nẩy nở, phát triển bằng cách phân đôi tương tự như nguyên tắc của kinh Dịch mô tả. Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, nguyên lý âm dương được thể hiện qua công trình kiến trúc chùa một cột thời Lý. Mái chùa có hình đài sen tượng trưng cho nguyên lý âm, cột chùa có hình cọng sen, tượng trưng cho nguyên lý dương. Nguyên lý âm dương cũng được biểu hiện qua nghệ thuật hội họa với những nét chấm phá trắng đen tương phản trong tranh thủy mạc hoặc qua những sản phẩm công nghệ như loại ngói âm dương là loại ngói có những cặp tương phản, cái lồi lên ăn khớp với cái lõm xuống. Các cung điện, đền đài, lăng miếu, chùa chiền khi xưa đều lợp bằng loại ngói này cả, nó vừa có vẻ đẹp nghệ thuật, vừa chắc chắn. Văn học bình dân có bài đồng dao mộc mạc, chất phác sau đây cũng nói lên ý nghĩa của nguyên lý âm dương sáng tạo, sinh thành: “ Trời mưa lăm răm Cây trăm có trái Con gái có chồng Đàn ông có vợ Đàn bà có con ” Trời có mưa, có nắng điều hòa, cây cối mới đâm chồi nẩy lộc, đơm hoa, kết quả. Con người có nam, có nữ kết hợp thành lứa đôi thì mới sanh ra con cái nối truyền giống nòi. Theo truyền thuyết, người Việt Nam là con cháu rồng tiên. Thuyết này ngoài việc tô điểm vẻ cao quý của giống nòi, củng cố lòng tự hào dân tộc, còn có ý nghĩa của nguyên lý âm dương : Lạc Long Quân thuộc giống rồng, tức dương lấy nàng Âu Cơ thuộc giống tiên, tức âm sinh ra cái bọc trăm trứng, nở trăm con. Đó là giai đoạn hòa hợp, sáng tạo, sinh thành. Rồi một hôm, Lạc Long Quân tức Hùng Hiền Vương nói với Âu Cơ rằng: “ Ta vốn là con cháu thủy thần, nàng thuộc nòi tiên, nước lửa khắc nhau không thể kết hợp lâu dài được. Vậy xin chia tay để giữ lấy dòng giống. Nàng nên đem 50 con lên núi, ta đem 50 con xuống bể ”. Đây là giai đoạn phân ly do mất thế quân bình. Phân ly là để bành trướng, phát triển. Nhưng phân ly rồi phải có hòa hợp, cũng như ra đi cũng có lúc trở về đoàn tụ, nếu không như thế thì sẽ không có sinh thành, tồn tại, mà tất cả sẽ là đổ vỡ, tan rã. Cái gì đã kêu gọi sự trở về ấy, đó chính là nguyên lý quân bình. Cho nên đã nghiên cứu nguyên lý không quân bình rồi thì cũng cần phải nghiên cứu tiếp nguyên lý quân bình.

Page 386: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

385

Nguyên lý quân bình Quan sát đồ thị biểu diễn tình trạng dao động có dạng hình “ sin ” của thế giới hiện tượng, chúng ta nhận thấy có những phần dương lồi lên và những phần âm lõm xuống. Giữa những phần dương và phần âm, nơi gặp gỡ của đường biểu diễn và trục thời gian nằm ngang là những điểm diễn tả trạng thái quân bình. Như vậy trong cùng một hệ thống trục toạ độ, với đồ thị có dạng hình “ sin ”, hai nguyên lý không quân bình ( âm dương, mâu thuẫn ) và nguyên lý quân bình được diễn tả rõ ràng và có liên hệ gắn bó với nhau. Hai nguyên lý này như hình với bóng, có thể ví như quan hệ giữa sóng tức hiện tượng với nước tức bản thể: ở thể động thì mặt nước nổi sóng, nhô lên, sụp xuống do đó có phân biệt âm dương, mâu thuẫn; còn ở thể tĩnh thì sóng mất, nước trở về trạng thái im lìm. Như vậy nếu nhìn sự vật với quan điểm trung đạo thì ở ngay thế giới hiện tượng hữu hình cũng đã thấy ngay hai nguyên lý không quân bình và quân bình không bao giờ rời nhau cũng như sóng không rời khỏi nước, nước không rời khỏi sóng, cho nên kinh Phật mới nói: “ Ly hiện tướng, vô bản thể; ly bản thể, vô hiện tướng ”. Nguyên lý quân bình trình bày nơi đây có ý nghĩa tương đối trong tương quan với nguyên lý không quân bình ở thế giới hiện tượng luôn luôn vận động, biến dịch. Quan sát các sự vật như cái cân, guồng nước ( bánh xe nước ), con lắc, cái xích đu... người ta nhận thấy chúng vận chuyển có chu kỳ do sự phối hợp hai nguyên lý không quân bình ( vận động )và quân bình ( tồn tại ). Đẩy con lắc có khối lượng m ra khỏi vị trí cân bằng M của nó về phía trái A, nó có khuynh hướng trở về vị trí cũ do tiếng gọi của nguyên lý quân bình; nhưng do cái trớn, nó lại vượt quá vị trí quân bình M để đến điểm B về phía phải đối diện với A. Nó đảo qua đảo lại nhiều lần mới tìm lại được thế quân bình ban đầu. Con lắc lúc di chuyển từ M đến A với vận tốc v là nhờ có một động năng, tức năng lực gây ra sự chuyển động là ½ mv². Đến A, con lắc không còn có thể tiếp tục lên cao hơn nữa, lúc đó v = 0 và động năng triệt tiêu. Toàn thể năng lượng biến thành thế năng ở A với trị số là mgh. Thế năng này làm cho quả lắc chuyển động từ A trở về M. Tại đây thế năng triệt tiêu ( h = 0 ), động năng lại xuất hiện làm cho con lắc chuyển động đến B.

Page 387: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

386

Qua cách dao dộng của con lắc, người ta nhận thấy rằng sở dĩ có thế đối lập ở B đối với A là vì nó muốn tái lập thế quân bình ở M, như vậy cũng có thể nói được rằng, đối lập là cách thế duy trì quân bình cho sự vật Trong toán học, nguyên lý quân bình biểu hiện qua dạng những phương trình, đẳng thức, công thức. Nhưng toán học lại là ngôn ngữ của vật lý học, cho nên những qui luật vật lý như qui luật của đòn bẩy chẳng hạn có thể được diễn tả bằng đẳng thức như sau: L.l = K.k L: sức nặng của vật. l: chiều dài tay đòn của vật nặng (đối với trục của đòn bẩy ) K: lực tác động. k: chiều dài tay đòn của lực tác động. Người đầu tiên áp dụng toán học vào môn cơ học vật lý là Gallileo ( 1564-1642 ). Ông đã khám phá ra định luật rơi, được diễn tả lần đầu tiên bằng công thức toán học: s = ½ gt² s: đoạn đường rơi. g: gia tốc của sự rơi. t: thời gian. v: vận tốc của sự rơi v = ds/dt = gt Gallileo đã làm nhiều lần thí nghiệm để xác định qui luật rơi: ông đã đếm thời gian rơi, đo những đoạn đường rơi tương ứng và nhận thấy giữa chúng có sự tương quan mật thiết với nhau mà toán học gọi là hàm số, nghĩa là cứ tương ứng với một đại lượng này thi có đại lượng kia một cách chắc chắn. Ý nghĩa của luật nhân quả ở ngay tại luật quân bình trong thế giới tự nhiên cũng như ở hàm số, phương trình, công thức toán học. Trong thế giới tự nhiên, sự cạnh tranh, thi đua của các giống loài có liên hệ, ràng buộc với nhau sẽ đưa đến tình trạng gọi là quân bình sinh vật. Sự quân bình này tùy thuộc vào sự cạnh tranh, thi đua có tính cách đối nghịch nhau, ví dụ như sự quân bình giữa số loài vật ăn thịt với số loài vật làm con mồi. Một ví dụ khác nữa là sự sống chung của cơ thể con người với vi trùng. Thông thường thì vi trùng gây tác hại lúc ban đầu, nhưng lâu dần cơ thể sẽ quen đi do sức đề kháng của nó đã tạo ra được để lập thế quân bình cho sự sinh tồn. Người ta áp dụng nguyên tắc này vào việc chủng ngừa bệnh, tạo ra sự miễn nhiễm cho cơ thể. Trong đời sống thường thì người văn minh ăn ở sạch sẽ, hợp vệ sinh sống lâu hơn những người kém văn minh, nhưng khả năng đề kháng chống bệnh tật của họ lại kém hơn ở người kém văn minh.

Page 388: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

387

Nguyên lý quân bình phối hợp với nguyên lý không quân bình, tức nguyên lý âm dương, mâu thuẫn quyết định mọi sự vận động, biến dịch, sinh thành cũng như tồn tại của thế giới vạn vật. Sách Trung dung có viết:“ Trung giả dã, thiên hạ chi đại bản giả; hòa giả dã, thiên hạ chi đạt đạo dã. Trí trung hòa, thiên địa vị yên, vạn vật dục yên.” ( Trung là cái gốc lớn của thiên hạ, hòa là cái đạt đạo của thiên hạ. Cùng cực cả trung và hòa thì trời đất định vị, vạn vật yên bài.) Điều này có nghĩa là nếu trời đất không có trung hòa, trong thế giới tự nhiên không có hai nguyên lý âm dương và quân bình phối hợp hài hòa thì vạn vật không có trật tự, không thể có sinh thành cũng không tồn tại. Trời đất là biểu tượng vật lý của hai nguyên lý âm dương ( kiền khôn ) Chúng tuy sai khác, nhưng là để bổ túc cho nhau trong sự hòa hợp, chứ không tiêu diệt nhau để đơn phương tồn tại. Vì phải có cái gì để bổ túc cho nhau, để hòa hợp với nhau nên phải có cái gì khác nhau. Kinh Dịch quẻ ly có nói: “ Thiên địa khuể nhi kỳ sự đồng dã. Nam nữ khuể nhi kỳ chí thông dã. Vạn vật khuể nhi kỳ sự loại dã.” ( Trời đất sai trái mà công việc cùng chung vậy. Nam nữ sai trái mà ý muốn thông suốt vậy. Vạn vật sai trái mà công việc giống nhau vậy) Đó là ý nghĩa của triết lý sai biệt trong đồng nhất, mâu thuẫn trong hài hòa, cũng là ý nghĩa của triết lý trung đạo. Hai nguyên lý không quân bình, tức nguyên lý âm dương, mâu thuẫn và nguyên lý quân bình luôn luôn đi đôi với nhau, có tác động qua lại với nhau. Nếu phân tách chi ly thì có thể nói rằng mâu thuẫn gây ra biến dịch, quân bình duy trì tồn tại, phối hợp cả hai tạo ra sinh thành; nhưng xét cho cùng thì mâu thuẫn cũng có mục đích tái lập quân bình rồi ví dụ như vị thế đối lập B của chuyển động con lắc là để quân bình cho vị thế A; ngược lại quân bình cũng là yếu tố phát sinh mâu thuẫn, vì nếu không có nó kéo con lắc từ vị thế A trở về thì con lắc sẽ không có cơ hội di chuyển đến vị thế đối lập B. Trong thế giới hiện tương, sự quân bình là tương đối, vì nếu không như thế, tất cả sẽ im lìm, bất động, là cõi chết. Ở ngay thế quân bình này, vật chất tạm thời không vận động, có nghĩa là không biến dịch, hay nói khác đi là có sự tồn tại. Sự tồn tại và biến dịch xen kẻ nhau liên tục( tương đối ) trong một quá trình sống. Quan sát sự vận động của nước trên mặt đất, người ta thấy chúng chảy qua mương rảnh, suối rạch, sông ngòi để cuối cùng chảy vào ao, hồ, biển. Đó là chúng có khuynh hướng muốn tìm đến thế quân bình để tồn tại. Trong “ Gia huấn ca ” của Nguyễn Trãi có câu:

Page 389: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

388

“ Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài ” ngoài ý nghĩa ảnh hưởng ( qui luật liên hệ ) tương tự với câu: “ Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng ” nó còn có ý nghĩa về mô thức do nguyên lý quân bình mang lại. Thật vậy, vật chất như nước chẳng hạn, nếu chiếm thể tích của cái bầu ( bình ) thì sẽ có dạng “ tròn ” của cái bầu ( thực ra là hình cầu ), nếu chiếm thể tích của cái ống thì sẽ có dạng “ dài ” ( thực ra là hình ống ). Hình bầu hay hình ống là hình ảnh cụ thể biểu hiện nguyên lý quân bình, nơi đó các lực tác dụng của chất lỏng lên trên thành bình chứa và phản lực của bình chứa ở khắp mọi nơi đều cân bằng với nhau. Trái bí rợ, trái bầu có hình bầu, trái mướp, trái dưa leo có hình ống là vì tất cả nội lực ngoại hướng của chúng cân bằng với ngoại lực nội hướng của môi trường trong không gian theo nguyên lý quân bình. Nội lực ngoại hướng của vạn vật khác nhau tùy theo từng giống loài, còn các lực vô hình trong không gian cũng không giống nhau do vị trí tương đối các thiên thể, tạo ra vô số mô thức không gian sai biệt, cho nên vạn vật mới có thiên hình vạn trạng. Rồi mỗi mô thức không gian cũng thay đổi tùy từng khu vực trên mặt địa cầu, cho nên tuy cùng chung một chủng loại mà thật ra có sự khác nhau ở từng địa phương, ví dụ như loài cua ở Âu châu khác với cua ở Á châu, con người mỗi nơi cũng có những nét khác biệt như dáng vóc, gương mặt, màu da, màu tóc...Hơn nữa, các thiên thể luôn luôn vận chuyển, có thể xê dịch chênh lệch nhau đôi chút cho nên các lực trong không gian cũng bị ảnh hưởng, các mô thức không gian từng chủng loại cũng biến đổi và do đó có luật tiến hóa trong vạn vật. Trong thế giới hiện tượng hữu hình, nguyên lý quân bình có tính cách tương đối, cho nên sự tồn tại cũng tương đối, tồn tại trong quá trình. Sự tồn tại của con người hay đời người được xác định theo quá trình kể từ lúc mới sinh ra cho đến lúc chết. Trong quá trình đó, người ta phân biệt trẻ sơ sinh, trẻ em, thiếu niên, thanh niên, người trưởng thành, người già cả. Rồi người ta lại phân biệt sự tồn tại của một cá nhân con người với sự tồn tại nói chung của nhân loại. Thuyết tương đối của Albert Einstein cho biết có vô số những đường vô hình trong vũ trụ gọi là vũ trụ tuyến. Những đường này do những lực hấp dẫn của các thiên thể ở thế quân bình tạo ra. Nói theo hình học thì đó là quỹ tích của những điểm trong vũ trụ có cùng chung thế lực, nơi biểu hiện nguyên lý quân bình. Các vệ tinh nhân tạo bay vòng quanh trái đất trên những quỹ đạo có cấu trúc như thế chẳng khác nào những chiếc xe lửa chạy trên những

Page 390: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

389

đường sắt treo lủng lẳng trên bầu trời. Trên những quỹ đạo đó, lực ly tâm và lực hướng tâm tác động lên các vệ tinh cân bằng nhau. Quan sát sự rơi của trái táo: Trái táo đang ở trên cành cây là nhờ có sự quân bình giữa trọng lực của nó với lực bám giữ của cành cây. Khi trái táo đứt cuống, rơi xuống đất, thông thường người ta nói rằng trái táo rơi, nhưng thực ra nó tìm đến trạng thái quân bình mới ở mặt đất, nơi đây trọng lực của nó cân bằng với phản lực của mặt đất. Như đã nói các lực tuyến cấu trúc vũ trụ luôn luôn biến đổi do sự vận hành của các thiên thể, cho nên vạn vật muốn tồn tại phải có khả năng thích ứng với những trạng thái quân bình mới, nghĩa là khả năng thích ứng với những mô thức luôn luôn biến đổi của vũ trụ, cũng là khả năng thích ứng với môi trường sống. Theo Darwin (1809-1882 ), trong sự đấu tranh sinh tồn cá vật nào có khả năng thích ứng với môi trường sống nhất là có nhiều hy vọng sống còn hơn. Thuyết chọn lọc của ông cũng nói rằng sự chọn lọc tự nhiên bằng cách thích ứng với môi trường sống cũng sẽ đưa đến sự thay đổi dần dần các giống loài. Cách trình bày mô thức không gian liên kết với cấu trúc vũ trụ tuyến cũng phù hợp với lý thuyết Darwin, nhưng hơn thế nữa còn cho biết nguyên nhân nào đã tạo ra mô thức và làm cho mô thức biến dịch, hay nói khác, nguyên nhân nào đã tạo ra các giống loài, và làm cho giống loài tiến hóa. Trong môn sinh vật học, ngụy trang là một hiện tượng nói lên phương cách thích ứng với môi trường sống để sinh tồn của vạn vật. Yếu tố ngụy trang thông thường nhất là màu sắc. Những thú vật ở địa cực thường có màu trắng như tuyết ví dụ gấu tuyết, thỏ tuyết, chồn tuyết, chim cú tuyết... Những thú vật ở sa mạc lại có màu nâu nhạt ửng vàng như cát. Còn những thú vật sống trong rừng hay ở đồng nội thường có màu xanh lá cây. Một yếu tố khác nữa của sự ngụy trang là hình dạng ( thường phối hợp với màu sắc ) ví dụ cào cào, châu chấu có hình que và màu sắc giống cọng cây khô hoặc tươi; loại bướm có hình và màu sắc giống lá cây. Sự ngụy trang trong thiên nhiên, ở khía cạnh nào đó có mục đích đánh lừa kẻ thù làm hại để sinh tồn, nhưng ở phương diện khác lại có ý nghĩa của nguyên lý quân bình trong thế giới tự nhiên: có quân bình, có tồn tại. Con người đã biết áp dụng nguyên tắc ngụy trang này vào kỹ thuật tác chiến, nếu chiến trường ở miền rừng núi thì quân phục, phương tiện tác chiến như chiến xa, đại bác được ngụy trang với màu xanh lá cây, nếu chiến trường ở vùng sa mạc thì ngụy trang với màu cho phù hợp với cát, còn nếu chiến trường ở vùng băng tuyết thì màu ngụy trang là màu trắng.

Page 391: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

390

Theo sách sử thì người Việt Nam lúc xưa có tục xâm mình, là hình thức ngụy trang để khi lặn xuống nước săn tìm hải sản không bị giao long làm hại, vì lầm tưởng là đồng loại với mình. Trong văn học bình dân Việt Nam có mấy câu tục ngữ sau đây nói lên cách xử thế dựa theo nguyên lý quân bình: “ Nhập giang tùy khúc, Nhập gia tùy tục.” hay: “ Đi với Bụt, mặc áo cà sa, Đi với ma, mặc áo giấy.” Bồ Tùng Linh, tác giả “ Liêu trai chí dị” có viết một câu chuyện kỳ lạ, nhưng lý thú, đại ý như sau: Mã Tuấn, một chàng trai trẻ có dung mạo đẹp đẽ, một hôm theo thuyền đi biển học nghề đi buôn. Không may thuyền bị gió bão cuốn đi, tấp vào một xứ lạ, mà mọi người đều xấu xí như ma lem. Họ trông thấy Mã Tuấn đều bỏ chạy tán loạn, đàn bà, con gái núp trong cửa nhìn ra xôn xao bàn tán. Mã rất lấy làm lạ. Một hôm, nhân lúc uống rượu ngà ngà say, chàng cao hứng lấy than bôi mặt lọ lem, rằn ri giả làm Trương Phi, cầm kiếm nhảy múa, mọi người đổ xô lại, ngạc nhiên khen rằng: “ Ô hay! Quái lạ thật! Người sao ngày trước xấu xí mà bây giờ lại đẹp đẻ thế này? ” Thế rồi mọi người tranh nhau dâng sớ tiến cử Mã lên Hoàng đế. Xứ này không trọng văn chương chữ nghĩa, mà trọng dung mạo, ai đẹp nhất thì giữ chức vụ cao nhất ( đẹp theo cái nhìn của người dân xứ lạ này ), cho nên với bộ mặt hóa trang thành Trương Phi ấy, Mã rất được hậu đãi và trọng thưởng vàng bạc, châu báu cùng chức tước. Bấy giờ Mã mới hiểu ra quan niệm về giá trị ở xứ này và lý do tại sao trước kia cứ thấy mặt Tuấn là mọi người bỏ chạy. Với bộ mặt giả như thế, Mã cảm thấy không an tâm, không tiện ở lại triều đình lâu nên bèn dâng sớ xin về hưu, vua không nghe. Sau xin tạm nghỉ dưỡng sức ít lâu, vua mới bằng lòng. Mã liền lấy ngựa chở vàng bạc, châu báu được ban thưởng về sơn thôn, nơi mà Mã đã làm quen với nhiều người ở xứ này trước kia. Mã được đón tiếp nồng hậu. Chàng lấy vàng bạc phân phát cho mọi người quen thân, tiếng reo mừng vang lên như sấm. Bí ẩn mà Mã Tuấn khám phá cũng là ẩn số của bài toán về cuộc sống hiện sinh đã được giải đáp: đáp số đó là nguyên lý quân bình, vì quân bình là hiện sinh, là tồn tại. Đạt được quân bình thì không nguy, mà trái lại được an toàn.

Page 392: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

391

Lánh nguy, cầu sự an lành là khuynh hướng chung của muôn loài, chim bay cao để tránh lằn tên, mũi đạn; chuột khoét ngách sâu để tránh họa hại. Đó là khuynh hướng an toàn. Khuynh hướng này ở con người là động vật có ý thức nên được thể hiện thành những biện pháp, tổ chức có quy củ hẳn hoi để bảo đảm sự an toàn trong mọi lãnh vực càng ngày càng hoàn chỉnh hơn. Ở phạm vi cá nhân, có quỹ tiết kiệm, bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm sức khoẻ, bảo hiểm hưu trí... Ở phạm vi xã hội, có bảo hiểm xã hội, bảo hiểm lao động, bảo hiểm tai nạn lao động... Ở phạm vi quốc gia có chính sách bảo đảm an ninh, trật tự công cộng, an ninh quốc phòng. Tất cả những biện pháp nói trên đều nhằm duy trì thế quân bình khi hữu sự, bảo đảm sự an toàn, yên vui, hạnh phúc cho con người, ổn định cho xã hội, vẹn toàn cho lãnh thổ, độc lập cho quốc gia, hòa bình cho thế giới. Khuynh hướng mong muốn an toàn của con người được nhận thấy ở các thể thức lễ nghi tôn giáo như các khóa lễ cầu an, cầu nguyện hòa bình cũng như các lễ nghi quốc gia như các lễ cầu nguyện quốc thái, dân an thường được tổ chức vào dịp đầu năm. Tất cả những hình thức lễ nghi đó đều nói lên nguyện vọng tha thiết của con người muốn sống an vui, hạnh phúc, để từ đó có quyết tâm, nổ lực xây dựng và bảo vệ hòa bình. Ngày xưa, khi xã hội chưa có những tổ chức bảo hiểm, người ta cũng đã ý thức về sự an toàn cho mình rồi với những biện pháp như: “ Tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn.” hoặc biện pháp: “ Dưỡng nhi đãi lão.”... Theo tâm lý học, khuynh hướng là những lực ( do năng lượng ) phát xuất từ miền vô thức sâu thẩm, thúc đẩy cá nhân thực hiện những hành vi theo một chiều hướng nhất định để thỏa mãn về phương diện sinh lý cũng như tâm lý. Sở dĩ có khuynh hướng như vậy là vì bản chất của sự vật vật chất là vận động, nhưng không phải sự vận động bất kỳ nào, mà là vận động có chu kỳ theo cách thế dao động. Do đó, nếu có một lực phát động về một chiều hướng nào đó, sẽ có một phản động lực tác động ngược chiều để tạo lập lại thế quân bình.Ở đây, chúng ta nên phân biệt hai loại khuynh hướng: khuynh hướng đối nghịch và khuynh hướng quân bình. Khuynh hướng đối nghịch thì đi ra, phân tán, là khuynh hướng nhị nguyên; còn khuynh hướng quân bình thì đi về, hội tụ, là khuynh hướng nhất nguyên. Theo La Rochefoucauld ( 1613-1680 ), khuynh hướng căn bản của con người là lòng vị kỷ, tất cả khuynh hướng và tình cảm khác đều từ đấy mà ra. Ông cho rằng ích kỷ và tư lợi là những động lực tiềm ẩn của hành động con người: từ chối lời khen tặng là muốn được khen lần nữa, sự biết ơn chỉ

Page 393: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

392

là ước muốn thầm kín được đón nhận thêm nhiều ân huệ hơn, lòng yêu chuộng công bằng chẳng qua chỉ vì sợ hải bất công, tất cả mọi đức hạnh đều chỉ là nghệ thuật tỏ ra cho người khác thấy mình là người ngay lành. Quan niệm của La Rochefoucauld đã hàm chứa mâu thuẫn nội tại, vì khi nêu lên những đức hạnh giả tạo tức là đã thừa nhận có những đức hạnh thực sự làm khuôn mẫu để so sánh. Trong thực tế, nhân loại từ bao đời với lương tâm và lương tri đã biết phân biệt sự vị kỷ với lòng vị tha, quãng đại. Như vậy, nói rằng lòng ích kỷ là khuynh hướng căn bản chi phối mọi khuynh hướng khác là không đúng, vì bên cạnh nó còn có khuynh hướng vị tha để lập lại thế quân bình. Khuynh hướng ích kỷ cũng như vị tha đều thuộc về khuynh hướng đối lập, có khi thì cái này trội hơn hơn cái kia, cũng có khi ngược lại. Nói chung, các hiện tượng, sự vật vật chất cũng như tinh thần, về phương diện vật lý cũng như tâm lý đều bị chi phối bởi nguyên lý không quân bình và quân bình trong liên hệ mật thiết với nhau: không quân bình thì thực tại bị phân hóa ra làm bề mặt, bề trái, mâu thuẫn nhau, khi quân bình được tái lập thì mâu thuẫn biến mất, thực tại vẫn là thực tại. Ánh sáng đối lập với bóng tối, động đối lập với tĩnh, chung đối lập với riêng, vị tha đối lập với ích kỷ, thiện đối lập với ác, phải ( thị ) đối lập với trái ( phi ), tích cực đối lập với tiêu cực v.v... Thông thường người đời chuộng ánh sáng hơn bóng tối, thích thiện mà ghét ác ( quan điểm nhị nguyên tương đối với tâm sai biệt ), nhưng đối với các nhà hiền triết ở Đông phương khi xưa thì hai phương diện mâu thuẫn chỉ là bề mặt và bề trái của cùng một thực tại, cả hai đều là chân lý ( quan điểm nhất nguyên tuyệt đối với tâm bình đẳng ) Nếu ánh sáng cần thiết cho đời sống thì bóng tối cũng cần thiết không kém. Thực vậy, nếu quan sát những cây me trồng dọc theo đường phố hay trong sân nhà, phần bên nào của cây me có đèn đường chiếu sáng suốt đêm sẽ không có trái. Có ngày thì phải có đêm, có ánh sáng phải có bóng tối, nói chung thì có âm, có dương và âm dương hòa hợp thì mới có sinh thành. Vấn đề thiện ác cũng tương tự. Thông thường người ta khuyên nên làm lành (điều thiện ), lánh dữ (điều ác ); cũng có người chủ trương “ Thiện ác đáo đầu, chung hữu báo”, hay “ Oeil pour oeil, dent pour dent” ( Hễ ai móc mình một con mắt, thì hãy móc lại con mắt; bẻ mình một cái răng thì bẻ lại một cái răng ). Người ta căn cứ vào tính chất phân ly đối nghịch của thế giới hiện tượng mà phân biệt thiện, ác rồi đặt thành qui luật để bảo vệ cái thiện, bài trừ cái ác, nhưng trong thực tế cái ác có bao giờ bị tận diệt

Page 394: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

393

đâu?, là vì cái thiện cũng như cái ác là những khuynh hướng đối lập, tự nó một mình không thể tồn tại. Nói chung, những cặp mâu thuẫn như thiện- ác, thị-phi, yêu thương-thù hận v. v...ví như những chóp đỉnh lồi lên, lõm xuống của hiện tượng mặt nước nổi sóng ba đào; khi hết gió bảo, sóng cũng không còn nữa, nước trở lại là nước với thể tính của nó. Đạo Phật với bình đẳng quan, chủ trương thản nhiên, điềm đạm, vô tư trước các vấn đề thiện-ác, thị-phi... theo lối phân chia nhị nguyên. Đức Phật thường dạy: “ Nếu có kẻ chặt cái tay ta, và một kẻ khác săn sóc, băng bó cho ta, thì đối với hai người ấy, ta xem đồng đẳng, không ai là kẻ thù, không ai là người bạn ”. Đức chúa Jêsus cũng nói: “ Các ngươi có nghe lời phán rằng: Hãy yêu người lân cận, và hãy ghét kẻ thù nghịch mình. Song ta nói cùng các ngươi rằng: Hãy yêu kẻ thù nghịch, và cầu nguyện cho kẻ bắt bớ các ngươi.” “ Hãy yêu người lân cận, và ghét kẻ thù nghịch mình ” đó là luân lý thường tình do nhị nguyên luận. Còn “ Hãy yêu kẻ thù nghịch, và cầu nguyện cho kẻ bắt bớ các ngươi ” là thái độ bình đẳng của các vị đắc đạo. Trong thực tế, sự cần thiềt của cái ác bên cạnh cái thiện là một điều không thể phủ nhận được. Nó cũng phát sinh ra được những điều tốt đẹp, thức tĩnh được con người, bắt buộc con người biết thận trọng và có trách nhiệm trong mọi hành vi. Sự tàn bạo của vũ khí nguyên tử khiến cho nhân loại phải tìm cách dàn xếp mọi tranh chấp quốc tế thay vì chạy đua vũ trang đầy nguy hiểm. Cho đến nay đã có nhiều qui ước quốc tế về vấn đề này đã được thỏa thuận. Thiện, ác không phải là hai lãnh vực hoàn toàn biệt lập, mà có liên hệ và có thể chuyển hóa cho nhau. Những tai hại của tội lỗi cũng thường có công dụng phát huy những đức tính cao cả, cho nên mới có câu nói: “ Les grands pécheurs seront de grands saints ” ( Những kẻ đại tội lỗi sẽ thành những bậc đại thánh ).Lịch sử của một số tôn giáo đã chứng minh điều đó. Cho nên đừng bao giờ có mặc cảm rằng mình là kẻ tội lỗi, mà ai cũng có thể trở thành người tốt được cả, nếu mình thành tâm cải lỗi. Ngược lại cũng đừng bao giờ cố chấp vào cái thiện, vì thiện cũng như ác mà đi quá lố thì đều xa rời nguyên lý quân bình. Liệt Tử có câu chuyện ngụ ngôn rất có ý nghĩa như sau: “ Tử Hạ hỏi Khổng Tử: _ Nhan Hồi là người thế nào? Khổng Tử nói:

_ Cái nhân của Hồi hơn ta.

Page 395: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

394

_ Tử Lộ là người thế nào? _ Cái dũng của Do hơn ta. _ Tử Trương là người thế nào? _ Cái nghiêm của Sư hơn ta. _ Tử Cống là người thế nào? _ Cái óc phân biệt của Tứ hơn ta.

Tử Hạ bèn thưa rằng: _ Thế sao bốn người này còn theo học với thầy? Thế nghĩa là làm sao? Khổng Tử nói: _ Ớ đây ta bảo: Hồi chỉ biết nhân mà không biết lúc bất nhân. Tứ chỉ

biết mau mắn mà không biết lúc chậm chạp. Do chỉ biết hùng dũng mà không biết lúc nên nhút nhát. Sư chỉ biết trung nghiêm mà không biết lúc ung dung để hòa đồng với mọi người. Nay, gồm tất cả những cái hay của bốn người ấy có, mà đổi cái ta có, ta không đổi. Bởi vậy, họ phải thờ ta làm thầy mà không dám hai lòng ”.

Đó là thái độ và hành vi đạo đức của các bậc thánh nhân, còn phần đông đại chúng vẫn có khuynh hướng nhị nguyên, đề cao cái thiện,bài bác cái ác. Điều đó đã trở thành bảng giá trị cố định có tính cách hình thức mà mọi người cố vươn tới để được tiếng là thiện, trong đó có người thành tâm, lại cũng có người chỉ cốt ở hình thức, cho nên mới có hiện tượng “đạo đức giả ” bên cạnh những người có đạo đức thật sự trong xã hội.

Nói về hòa bình và chiến tranh, thông thường ai cũng chuộng hòa bình mà không thích chiến tranh. Nhưng nếu chỉ có hòa bình, lâu ngày con người lại đâm ra chểnh mảng, yên chí hưởng thụ, đôi khi sinh ra trụy lạc. Trái lại, tuy chiến tranh có tàn bạo, nhưng đôi khi nó cũng có tác dụng hữu ích, nhắc nhở con người đến nghĩa vụ cao cả, rèn luyện tính dũng cảm, tính phấn đấu, sự hy sinh...Không phải tất cả mọi cuộc chiến tranh đều có tính chất như nhau, có những cuộc chiến tranh mà ai cũng oán ghét như chiến tranh xâm lược phi nghĩa, nhưng ngược lại cũng có những cuộc chiến tranh mà ai cũng có cảm tình và hết lòng ủng hộ như những cuộc chiến tranh tự vệ, chiến tranh giải phóng dân tộc đầy chính nghĩa. Đó là cái thế lấy chiến tranh để chế ngự chiến tranh theo khuôn khổ của nguyên lý quân bình, cho nên mới có câu nói sau đây:

“ Muốn có hòa bình hãy chuẩn bị chiến tranh ”. Nhưng hãy thận trọng, đừng lạm dụng chiến tranh mà vượt ra khỏi xa

nguyên lý quân bình, nguyện vọng của nhân loại vẫn là hòa bình, vì hòa bình tự nó đã là hiện thân của nguyên lý quân bình rồi, chứ không phải là chiến tranh, dù là chiến tranh dưới danh nghĩa nào.

Page 396: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

395

Hãy tưởng tượng, có một chiếc thuyền đang chạy trên một con sông lớn gần cửa biển, bỗng có sóng gió làm nghiêng thuyền về một phía. Mọi người có phản ứng tự nhiên, đổ xô về phía đối nghịch để cho thuyền khỏi bị lật úp, tức là lấy lại thế quân bình cho chiếc thuyền. Nhưng vì dùng sức quá mạnh, cho nên chiếc thuyền quá trớn nghiêng về phía này cũng không kém nguy hiểm, thế rồi họ lại đổ xô về phía trước kia, và cứ như thế mãi... Đó là tình trạng chung của nhân loại, khi thì có khuynh hướng hữu khuynh khi thì tả khuynh, nhưng cũng có người lại cố chấp vào một khuynh hướng nhất định, mà thật ra điều kiện tất yếu cho sự tồn tại vẫn là nguyên lý quân bình, chỉ có quân bình mới thoát khỏi hiểm nguy.

Trong những cuộc chiến tranh, có những khi bất phân thắng bại, kết thúc bằng một hòa ước. Hòa ước là thể hiện nguyên lý quân bình một cách tương đối tùy theo tương quan mạnh yếu các bên, vì vậy, trong thực tế bên nào cũng muốn thương thuyết trên thế mạnh. Tuy nhiên cũng có khi có bên thắng, bên bại dứt khoát. Trong trường hợp này, thảm họa của chiến tranh không phải chỉ một mình bên bại trận gánh chịu, mà bên thắng trận cũng phải trả một giá rất đắc, cho nên ngày xưa Heraklit mới nói:

“ Những trận đại thắng là những trận đại bại ” ( Les plus grandes victoires sont les plus grandes défaites ). Còn văn học bình dân Việt Nam lại có câu: “ Bạo phát, bạo tàn ”. Như đã nói, mọi sự vật vận động theo sóng ba động có dạng hình “sin ”,

mà hễ “ bạo phát ” tức dao động có biên độ lớn, chu kỳ nhỏ thì khi leo nhanh lên tới đỉnh cao lại phải tụt nhanh xuống đáy sâu, nghĩa là bạo tàn. Mặt khác, về mặt tâm lý những kẻ chiến thắng vinh quang thường trở nên tự đắc, sanh ra hiện tượng “ say men chiến thắng ” để rồi “ ngủ quên trên chiến thắng ”, sao lãng việc quân binh trong khi đó thì kẻ bại trận quyết tâm rửa nhục, phục thù với phương châm: “ Thất bại là mẹ thành công ”. Một điểm tâm lý khác nữa là phàm những người có cùng chung mối lo thì thường hay đoàn kết với nhau để tạo sức mạnh tổng hợp khả dĩ quân bình với các thế lực đe dọa để sinh tồn, còn những kẻ có cùng chung mối lợi thì thường hay tranh giành, chia rẻ, cho nên cái mầm thất bại đã nằm ngay trong chiến thắng rồi. Ngoài ra chiến thắng mà phải trả giá quá đắc về tổn hại nhân mạng cả đôi bên, gây ra biết bao sự đổ vỡ, tang tóc, hận thù...thì chiến thắng đó cũng không phải là chiến thắng thật sự vinh quang, mà thật ra là một cuộc đại bại, đó là sự thất bại bi tráng nhất của nhân loại. Cũng vì thế mà có câu nói:

“ Mỗi tấm huy chương đều có bề trái của nó ”

Page 397: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

396

( Chaque médaille a son revers ). Thomas Hobbes ( 1588-1679 ) cho rằng bản chất của con người là ích

kỷ, thích gây hấn cho nên chiến tranh xảy ra khắp nơi và con người đối với con người như lang sói ( Bellum omnium contra omnes- homo homini lupus ). Nhưng thực ra đây chỉ là một trong những khuynh hướng lệch lạc của con người, không thể nào đem so sánh với loài lang sói được, vì loài vật chỉ có bản năng vô thức mù quáng, còn con người ngoài khuynh hướng còn có ý thức, ý chí tự do can dự vào để duy trì thế quân bình. Để hạn chế, khắc phục tính gây hấn, hiếu chiến người ta thường tổ chức các cuộc tranh tài thể dục, thể thao từ cấp địa phương cho đến quốc tế nhằm mục đích chuyển hóa chúng thành tinh thần thể thao lành mạnh, đồng thời người ta cũng treo những giải thưởng hòa bình để khuyến khích con người thi đua xây dựng hòa bình, chống chiến tranh. Tất cả những nổ lực trên đều theo tiếng gọi của nguyên lý quân bình, vì quân bình là sinh tồn, quân bình mới là khuynh hướng căn bản của thế giới tự nhiên trong đó có con người, còn những khuynh hướng khác không quân bình đều có khuynh hướng đối nghịch cả.

Nếu ở lãnh vực thiên nhiên, biểu hiện sinh động của nguồn sống là hấp dẫn lực thì ở phạm vi nhân loại là chữ tình. Nhờ có sự xô đẩy, lôi kéo của hấp dẫn lực mà các thiên thể vận hành trong giải ngân hà, quả đất xoay vần trong thái dương hệ có trật tự. Ở con người, tình cũng là một dạng của hấp dẫn lực ấp ủ trong lòng, khi bị dao động thì phân hóa ra thành sự yêu, sự ghét tùy theo lực thu hút hay xô đẩy nhau, rồi thể hiện ra ngoài bằng những hành vi tương ứng, tạo thành bức tranh sống gồm đủ hỉ, nộ, ái, ố. Do có tình thâm mà nhiều bậc cha mẹ đã hy sinh suốt đời mình lo cho con cái, người công dân liều mình hy sinh cho Tổ quốc. Cũng chữ tình này, một khi có sự chuyển biến lệch lạc khỏi luật quân bình thì biến thành sự ham mê bạc vàng, rồi nạn trộm cướp, bọn tham quan nhũng lạm như tình trạng mà văn học bình dân Việt Nam mô tả :

« Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan » Ở phương diện sinh lý thì tình là tình dục, còn ở phương diện tâm lý

thì tình là tình yêu. Tình yêu là nhân tố không thể thiếu được trong cuộc sống ở mọi lãnh vực cá nhân, gia đình, xã hội, văn chương, thi ca, nghệ thuật.

Tình yêu vợ chồng là thể hiện cụ thể nhất của nguyên lý âm dương sinh thành, cho nên sách Trung dung có câu :

« Quân tử chi đạo, tạo đoan hồ phu phụ »

Page 398: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

397

nghĩa là đạo của người quân tử bắt đầu từ đạo vợ chồng, nhưng phát triển đến cùng cực thì lan tràn ra cả trời đất. Cho nên từ tình yêu vợ chồng đúng mực hài hòa nẩy nở thành tình yêu thương nhân loại, chúng sinh muôn loài, rồi tình yêu núi sông, non nước, tình yêu Tổ quốc, tình yêu thiên nhiên, vũ trụ.

Theo truyền thống, người Việt Nam rất coi trọng gia đình và đã từ bao đời lấy gia đình như đơn vị căn bản của xã hội, vì nó phù hợp với qui luật kết hợp tự nhiên nhất là nguyên lý âm dương sinh thành. Ngoài ra, gia đình cũng được xem như là trung gian mẫu mực thật sự nối liền cá nhân với đoàn thể, xã hội, quốc gia.

Gia đình được kết hợp qua hôn nhân. Để cho hệ thống gia đình được vững chắc, hôn nhân không những chỉ được xây dựng trên tình yêu, mà còn phối hợp với nghĩa vụ nữa, cho nên trong dân gian, người ta thường nói đến tình nghĩa vợ chồng hơn là tình yêu vợ chồng. Nếu hôn nhân chỉ dựa trên tình yêu thôi thì đôi khi không được vững bền, vì đặc tính của tình yêu có biến dịch, thăng trầm giống như đóa hoa hồng sống động ; mà hoa nào có nở lại không tàn, thì như vậy tình nào không phai. Khi mới bắt đầu yêu, người ta nồng nhiệt săn đón, chiều chuộng nhau đủ điều, bao nhiêu cái tốt, cái hay đều phô trương, còn cái xấu thì che giấu kỹ theo phương châm : « Tốt khoe, xấu che ». Đến khi sống chung với nhau lâu dần cái xấu tự nhiên lộ ra, người ta sẽ thất vọng nếu không rõ nguyên lý âm dương, mâu thuẫn. Theo nguyên lý này, hễ có tốt thì phải có xấu và ngay trong mỗi cái đã ngầm chứa cái mầm đối nghịch của nó rồi. Ở các nước văn minh vật chất phát triển, chủ nghĩa cá nhân ưu thế thì hiện tượng ly thân, ly dị là chuyện thường, có lẽ người ta có khuynh hướng thích tìm cái mới. Trái lại, tại những khu vực văn minh trọng giá trị tinh thần thì quan hệ vợ chồng được quan niệm như một đạo sống, gọi là đạo vợ chồng trong đó hôn nhân phối hợp hài hòa cả tình lẫn nghĩa, cho nên nền tảng gia đình vững chắc hơn. Điều này thật là rõ ràng, vì bên cạnh chữ tình đã có chữ nghĩa bổ túc để giữ thế quân bình, mà quân bình là tồn tại. Chữ nghĩa được dùng với nhiều nghĩa khác nhau như nghĩa vụ, chính nghĩa, đạo nghĩa, trung nghĩa...nhưng nói chung đều chỉ những điều tốt phải nên làm, đều có liên hệ với nguyên lý quân bình, với đạo Trung.

Nếu trong vấn đề tri thức, người Đông phương không quan niệm : « Savoir pour savoir » ( biết để mà biết ), mà quan niệm : « Tri hành hợp nhất » thì ở tình yêu cũng không có vấn đề yêu để mà yêu, mà tình yêu phải gắn liền với nghĩa thì mới hoàn thành được chức năng của nó theo nguyên lý âm dương sinh thành.

Page 399: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

398

Tục ngữ Việt Nam có câu : « Thuận vợ, thuận chồng Tát biển Đông cũng cạn » Còn ở Tây phương, Saint-Exupéry cũng có nói : « Tình yêu không phải ở chỗ người ta cứ nhìn nhau, mà là ở chỗ người

ta cùng nhìn về một hướng » ( Liebe besteht nicht darin, daß man einander ansieht, sondern daß man gemeinsam in die gleiche Richtung blickt )

Trong nếp sống cổ truyền Việt Nam, đạo vợ chồng chú trọng ở sự hòa thuận, kính nhường, tránh xung đột, tranh chấp cho nên ít khi bị đổ vỡ:

“ Bên thẳng thì bên phải dùn, Hai bên đều thẳng sau cùng đứt dây „ Trong tất cả các hiện tượng tâm lý, tình yêu là một hiện tượng vừa tế

nhị vừa phức tạp, mà cũng vừa lý thú, vì có lúc nó trồi hẳn lên trên mặt sóng của ý thức, có lúc lại lặn sâu xuống tận đáy biển vô thức như trò chơi cút bắt, cũng có lúc quá đà, nó lại chuyển về phía đối nghịch, nghĩa là từ yêu trở thành ghét, cho nên tục ngữ mới có câu:

“ Yêu nhau lắm, cắn nhau đau „ Pascal cũng có lần đã nói: “ Le coeur a ses raisons que la raison ne

connait pas » ( Con tim có những lý lẽ của nó mà lý trí không thể nào biết được )

Thông thường, con người khi yêu nhau bao giờ cũng muốn cho tình yêu sung mãn, đầy ấp, họ hăm hở săn đón, chinh phục để làm chủ tình yêu càng sớm càng tốt, nhưng họ có biết đâu cái qui luật“ bạo phát, bạo tàn“ rất thậm chí vô tình, nó không dành một ngoại lệ cho một ai. Cái qui luật ấy cũng giống như bánh xe nước, khi nước đã đầy rồi phải đổ vơi đi do cái trớn bánh xe quay.

Đọc mấy vần thơ trong bài thơ “ Ngập ngừng „ sau đây của Hồ Dzếnh, chúng ta sẽ thấy quan niệm tình yêu của thi sĩ có hơi khác với người đời:

“…Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé! Tôi sẽ trách, cố nhiên, nhưng rất nhẹ. Nếu trót đi, em hãy gắng quay về! Tình mất vui khi đã vẹn câu thề, Đời chỉ đẹp những khi còn dang dỡ… Thơ viết đừng xong, thuyền trôi chớ đỗ…„ Về ý nghĩa “ thuyền trôi chớ đỗ „ thì không có trường hợp nào điển

hình bằng trường hợp thuyền của tướng Trần Khắc Chung sau khi cứu công chúa Huyền Trân thoát khỏi ngọn lửa hỏa táng chung với vua Chiêm

Page 400: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

399

Chế Mân, đã lênh đênh trên sông, biển gần suốt cả năm mà không sớm cập bến.

Theo tinh thần của bài thơ “ Ngập ngừng „ hạnh phúc của thú yêu đương không phải nằm trong tình yêu đã hoàn thành viên mãn, mà nằm trong cái còn đang dang dở, cái chưa xong. Thánh nhân ngày xưa cũng đã khuyên: “ Bất dục đắc „ là có ý ấy. Thường thì cái gì đạt được rồi, nhất là đạt được dễ dàng sẽ trở nên tầm thường, còn cái gì mong cầu mà khó đạt, thường được quý trọng hơn.

Tình yêu là nói đến khía cạnh tâm lý của chữ tình, còn ở khía cạnh sinh lý của nó là tình dục. Tình yêu luôn luôn đi đôi với tình dục, do đó cuộc tình ( tình yêu + tình dục ) nào cũng đều trải qua ba giai đoạn: say mê theo đuổi, chiếm đoạt thỏa mãn, tiếp đến là giai đoạn chán chê.

Mối nguy hại của sự ham mê sắc dục quá độ thì đã rành rành, nhưng xưa nay có mấy ai biết sợ như Trang Tử đã nhận định:

“ Gặp nơi tử địa, anh em, cha con còn biết sợ sệt, răn bảo nhau đừng bước vào. Còn như trên chăn chiếu, giữa cuộc uống ăn, cũng là nơi tử địa, mà sao không mấy kẻ biết sợ sệt, không biết răn nhau, mà lại còn mạo hiểm bước vào, thời là quá rồi „ ( Đạt sinh )

Lại cũng có người ý thức được cái nguy hiểm của tình dục nên cũng muốn chừa lắm, nhưng nào có được như trường hợp của Tú Xương, nhà thơ trào phúng của làng văn Việt Nam:

“ Một chè, một rượu, một đàn bà Ba cái lăng nhăng nó quấy ta Chừa được cái nào hay cái nấy Có chăng chừa rượu với chừa trà „ Thực ra tình dục là một sức mạnh, vì nó cũng là dạng biểu hiện của

năng lượng như các dạng khác, cho nên người ta không cần phải chủ trương diệt dục, mà cho dù có muốn cũng không được, vì một khi ra sức dồn nén, nó có thể bùng nổ như thế “ tức nước vở bờ „ thì lại còn nguy hại. Cho nên phương pháp tốt nhất là tiết dục, điều dục chớ không phải là diệt dục. Sức mạnh của tình dục khi khéo điều động, có thể được chuyển hóa thành những năng lực phi thường như trí năng ở các vị học giả, các nhà bác học lỗi lạc, cũng như trí huệ ở các vị Thiền sư đắc đạo.

Sức mạnh của tình dục cũng được chuyển hóa sang lảnh vực nghệ thuật như trường hợp Nguyễn Công Trứ, một vị tướng công văn võ toàn tài, một thi sĩ tài hoa với tâm hồn thanh cao, siêu vượt lên trên mọi lôi cuốn sắc dục mà thăng hoa vào cõi đẹp của tự nhiên mênh mông vô hạn, như thú chơi thuyền, nghe hát:

Page 401: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

400

“ Người ỷ ca réo rắt khúc cung thương, Tiếng tiêu lẫn tiếng ca vang đáy nước „ Hay như thú “ yêu hoa „ : “ Ngồi thử ngẫm trăng hoa ai nhuốm, Một hoa là riêng một sắc hương, Khi chúa xuân khép nép bên tường, Còn phong nhị đợi Đông hoàng về cán đáng. Liễu tía, đào hường, mai trắng trắng, Lan tươi, hụê tốt, lý xanh xanh. Thêm hương khi lá gió mưa cành, Mở mặt thấy giang sơn cười chúm chím. Khách thập thúy say màu hoa diễm, Đối mặt hoa mà cầm, mà kỳ, mà tửu, mà thi. Khuyên ai đừng giở cuộc thị phi, Trân trọng lấy hương trời cho vẹn „ Sự chuyển hóa năng lực từ lãnh vực này sang lãnh vực khác cao hơn

không phải ai cũng có thể thực hiện được dễ dàng, mà nó đòi hỏi một sự tập trung nổ lực phi thường mới có thể siêu vượt được. Mọi sự chuyển hóa năng lực đều nằm trong khuôn khổ của nguyên lý bảo toàn năng lượng, cũng có liên hệ gần xa với nguyên lý quân bình.

Một dạng khác nữa của nguyên lý quân bình là luật thừa trừ hay còn gọi là luật bù trừ nghĩa là cái gì thừa thì trừ bớt ra, cái gì thiếu thì bù thêm vào để duy trì thế quân bình.

Ở ĐĐK, chương 77 Lão Tử viết: “ Đạo của trời: bớt chỗ dư, bù chỗ thiếu. Đạo của người thì không vậy: Bớt chỗ thiếu, bù chỗ dư „ ( Thiên chi đạo: Tổn hữu dư nhi bổ bất túc. Nhơn chi đạo tắc bất nhiên: Tổn bất túc dĩ phụng hữu dư) Trong thuyết chọn lọc tự nhiên và đấu tranh sinh tồn của Darwin, luật

mạnh được, yếu thua quyết định sự sinh tồn của loài vật, cho nên tình cảnh “ con vịt đẹt „ trong đàn vịt thật là bi thảm. Nếu áp dụng qui luật này vào

xã hội loài người thì không còn hoàn toàn đúng nữa, vì con người không phải là con vật. Con người không để cho qui luật cơ giới lạnh lùng dẫn dắt theo bản năng vô thức mù quáng, mà trái lại biết vận dụng các qui luật tự nhiên một cách có ý thức, sáng tạo sao cho phù hợp với nguyên lý quân bình, xứng đáng với phẩm cách con người. Đó mới thực sự là ý nghĩa của nhân đạo, còn cái nhân đạo mà Lão Tử nói kia chỉ là cách nói mỉa mai cái “ nhân đạo „ thời Chiến quốc, thời mà qui luật rừng rú mạnh được, yếu

Page 402: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

401

thua thống trị. Chủ nghĩa đế quốc một thời cũng dựa vào qui luật này để ngang nhiên đi xâm chiếm các nước khác với chiêu bài “ khai hóa „ để che đậy bản chất xấu xa của chúng. Chủ trương “ bớt chỗ thiếu, bù chỗ dư „ là do lòng ích kỷ, tham lam của con người, hoàn toàn trái ngược với nguyên

lý quân bình. Để lập lại quân bình, người ta phải chủ trương ngược lại: “ bớt chỗ dư, bù chỗ thiếu „ cho nên trong chánh trị mới có chánh sách quân phân tài sản để tránh sự chênh lệch thái quá, sự bất công, tạo điều kiện cho con người thực hiện được quyền bình đẳng thực sự trong xã hội,

có cơ hội phát huy nhân phẩm. Quân phân tài sản không có nghĩa là san bằng tất cả bằng nhau một cách tuyệt đối, vì như đã nói, luật quân bình trong thế giới hiện tượng chỉ có tính cách tương đối, nếu không như thế thì mọi sự vật sẽ chìm đắm trong im lìm, bất động, không có sự thi đua, cũng không có sự tiến bộ, người có tài năng, chuyên cần cũng chẳng khác nào kẻ vụng về, lười biếng. Cho nên tục ngữ mới có câu:

“ Quá công bằng trở thành bất công „ Để tránh tình trạng này, trong lao động sản xuất người ta áp dụng cách

tính lương khoán, theo năng suất. Trong xã hội, để có sự bình đẳng theo ý nghĩa của nguyên lý quân bình

( tương đối ) người ta thực hiện những chánh sách theo nguyên tắc người mạnh có bổn phận giúp đở người yếu trong tương quan quân bình giữa quyền lợi và nghĩa vụ, ví dụ như chính sách thuế khóa, chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm sức khoẻ v.v…

Trong thực tế, muốn sinh tồn mỗi cá nhân con người phải tự nổ lực phấn đấu tạo cho mình một thế lực thực sự khả dĩ quân bình với thế lực của môi trường sống chung quanh., nếu không sẽ bị thoái hóa, bị đào thải, diệt vong. Đứng trước một thế lực hung hản, con người không còn cách nào khác hơn là tự làm cho mình mạnh thêm lên về đủ mọi phương diện để có được sức mạnh tổng hợp tự vệ, đối kháng cân bằng với thế lực đe dọa. Tục ngữ có câu:

“ Mảnh hổ nan địch quần hồ „ Loài vật nhỏ yếu còn biết hợp quần để sinh tồn, huống hồ con người

là vật tinh khôn, tối linh: “ Thiên địa phụ mẫu nhi nhân tối linh „ ( Trời đất là cha mẹ mà người ta là vật có linh tính ) lẽ nào lại không biết đoàn kết gây sức mạnh hay sao?

Lịch sử đấu tranh của dân tộc Việt Nam đã cho thấy rõ ràng giá trị của sự đoàn kết. Đoàn kết là sống, là tồn tại, mà chia rẻ là chết, là diệt vong.

Page 403: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

402

Văn học bình dân đã phản ánh rõ ràng qui luật đoàn kết gây sức mạnh qua hình ảnh nhiều cây dụm lại trở thành núi cao hùng vĩ không gì lay chuyển nổi:

“ Một cây làm chẳng nên non, Ba cây dụm lại nên hòn núi cao „ Tinh thần đoàn kết truyền thống của dân tộc Việt Nam hoàn toàn

không có tính cách cục bộ, địa phương, bè đảng mà ngược lại có tính cách phổ biến, rộng khắp cho tất cả mọi người cùng sống chung với nhau trên mảnh đất quê hương chứ không phân biệt chủng tộc, phân biệt kinh hay thượng, đa số hay thiểu số. Tinh thần đó phản ánh trong hai câu ca dao phổ thông sau đây:

“ Bầu ơi! thương lấy bí cùng, Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn „ Chẳng những không có vấn đề kỳ thị chủng tộc, người Việt Nam theo

truyến thống xưa kia cũng không có vấn đề phân biệt giai cấp nghiêm trọng. Giai cấp nếu có chẳng qua là do sự phân công lao động trong xã hội, không có tính cách cố định về phương diện giá trị mà tùy thời có thay đổi:

“ Nhất sĩ, nhì nông Hết gạo chạy rong Nhất nông, nhì sĩ „ Tinh thần và tình trạng giai cấp đặc biệt này là do đạo sống quân bình

chi phối. Một khi xã hội có phân chia giai cấp thái quá, thế quân bình không còn nữa thì cuộc đấu tranh giai cấp sẽ bùng nổ theo qui luật “ cùng tắc biến „ nhiều khi đến độ tàn khốc, mà hậu quả là hận thù, chia rẻ lâu dài

làm cho tiềm lực quốc gia suy yếu, sẽ là mồi ngon cho chủ nghĩa đế quốc. Giới lãnh đạo cần phải sáng suốt ở điều này, bởi vì cho mãi đến ngày hôm nay trong khi nhân loại đang nổ lực đấu tranh cho hòa bình thế giới, đấu tranh cho nhân quyền, cho những lý tưởng cao cả như công bình, bình đẳng, bác ái, mà chủ nghĩa đế quốc vẫn còn biểu lộ tham vọng bành trướng, ý đồ xâm lược cố hữu của chúng.

Lịch sử Việt Nam là một chuổi những quá trình dao động, hết thống nhất đến chia phân, sau chia phân lại thống nhất, kể từ thời khuyết sử với huyền thoại con rồng cháu tiên, tượng trưng cho nguyên lý âm dương sinh thành, rồi lại trải qua cuộc phân ly đầu tiên khi Lạc Long Quân dẫn 50 người con lên núi, nàng Âu Cơ đem 50 người con xuống biển. Đến thời kỳ lịch sử sau này lại cũng có sự chia phân thành 12 sứ quân ( 945-967 ) rồi vua Đinh Tiên Hoàng ( 968- 979 ) lại thống nhất. Về sau lại có sự chia

Page 404: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

403

phân thành Nam triều ( nhà Lê trung hưng ), Bắc triều ( nhà Mạc ) rồi Trịnh, Nguyễn phân tranh, và vua Gia Long lại thống nhất sơn hà năm 1802. Lịch sử cận đại cũng lại tái diễn sự phân đôi và thống nhất như vậy.

Hiện tượng này trong lịch sử tuy mỗi thời mỗi khác nhau nhưng nói chung thì sự phân tranh là do tình trạng phân hóa trầm trọng, mất quân bình thái quá, còn thống nhất tức là lập lại quân bình cho dân tộc, cho đất nước. Cứ mỗi lần đất nước có sự phân tranh như vậy, nhân dân khổ sở, lầm than, đất nước nguy khốn. Như vậy, sự chia rẽ, tương tranh, tương tàn, nổi bất hạnh gắn liền với tình trạng mất quân bình thái quá, còn quân bình thì được thực hiện qua sự đoàn kết, thống nhất, gắn liền với hòa bình, yên vui, hạnh phúc. Cũng vì lẽ này mà trong nền văn học bình dân Việt Nam, sự đoàn kết được chú trọng đặc biệt. Sự đoàn kết được xây dựng từ cá nhân, gia đình, cho đến xã hội:

“ Anh em nào phải người xa, Cùng chung bác, mẹ một nhà cùng chung. Yêu nhau như thể tay chân, Anh em hòa thuận hai thân vui vầy. Khôn ngoan đối đáp người ngoài, Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau „ Hai câu chót của bài ca dao đặc biệt phê phán những kẻ “ khôn nhà,

dại chợ „ đối với người ngoài ( người dưng khác họ, người nước ngoài ) khi họ trịch thượng hiếp đáp, lấn lướt thì khúm núm, khiếp nhược, trong khi đối với anh em, bà con trong nhà, người trong cùng một nước thì lại hung hăng hiếp đáp, trấn áp không nương tay.

Ý nghĩa về sự hổ tương của qui luật quân bình với không quân bình, đồng nhất trong sai biệt, đặc thù, hòa hợp trong mâu thuẫn không dễ gì nhận ra đối với những ai đã quen với lý luận hình thức, có quan điểm nhị nguyên.

Như đã nói, thế giới sự vật vật chất luôn luôn vận động, không phải vận động bất kỳ nào, mà là vận động theo dao động, có nghĩa là vận động do sự mất quân bình liên kết với nguyên lý quân bình. Nếu tách rời sự vận động ra khỏi qui luật quân bình thì sẽ không có sinh thành, không có tồn tại, vì âm dương, mâu thuẫn không có chỗ hòa hợp, thống nhất, mà chỉ có phân ly đến tan rã. Đó là hậu quả tất yếu mà tục ngữ đã khẳng định:

“ Một nhà hai chủ không hòa, Hai vua một nước ắt là không yên „

Page 405: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

404

Do luật quân bình, khi phát động một lực nào đó về một phía của sự vật thì về phía bên kia sẽ phát sinh một phản động lực tương ứng để cân bằng; động lực càng lớn bao nhiêu thì phản động lực cũng lớn bấy nhiêu.

Phát minh nguyên tử cho thấy, nguyên tử có thể tạo ra một nguồn năng lượng vô cùng to lớn, rất có lợi cho nhân loại trong việc phụng sự hòa bình, nhưng cũng gây ra tai họa khủng khiếp nếu phục vụ cho chiến tranh

bằng vũ khí hạt nhân. Như vậy thì lợi càng to thì hại càng lớn đúng như luật âm dương, mâu thuẫn, hễ phần nhô lên của lớp sóng có chóp đỉnh càng cao thì phần lõm xuống có đáy càng sâu. Tính cách vận động, biến dịch có tính cách mâu thuẫn này đã được văn học bình dân diễn tả một cách dí dỏm như sau:

“ Bà già đi chợ Cầu Đông, Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng? Ông thầy xem quẻ nói rằng: Lợi thì có lợi nhưng răng không còn „ Tục ngữ cũng lại có câu: “ Bạo phát, bạo tàn „ Đây là cách phát biểu của người xưa về đặc tính của sự biến dịch: biến

dịch theo dạng dao động có biên độ và chu kỳ. Câu nói trên ứng với trường hợp dao động có biên độ lớn và chu kỳ nhỏ.

Lịch sử đấu tranh của dân tộc Việt Nam đã chứng minh điều đó: sự nghiệp đế vương của nhà hậu Lê được xây dựng khởi đầu bằng cuộc trường kỳ kháng chiến gian khổ của Bình Định Vương Lê Lợi thì tương đối vững bền hơn là nghiệp đế của vua Quang Trung Nguyễn Huệ với chiến thuật, chiến lược “tốc chiến tốc thắng „

Trong lãnh vực kinh tế, hiện tượng khủng hoảng kinh tế là do sự mất quân bình giữa cung và cầu mà ra, do đó muốn cho nền kinh tế phồn vinh, không phải chỉ cứ sản xuất thật nhiều hàng hóa là tốt, mà điều quan trọng là cần phải chú ý đến sự điều hòa của luật cung cầu.

Các nước công nghiệp ở Tây Âu, Bắc Mỹ có nền kinh tế phát triển đến tột đỉnh vào cuối thế kỷ XX, lương công nhân cao, có bảo hiểm xã hội cao, đời sống người dân nói chung cao. Nhưng đến đầu thế kỷ XXI thì sự phát triển này có lúc khựng lại và chuyển hướng về các khu vực khác như Đông Âu, Á Châu chẳng hạn, vì tại những khu vực này, nói chung có nền kinh tế chưa phát triển, mức sống còn thấp, lương công nhân rẻ, giá hàng sản xuất cũng rẻ cho nên các nhà tư bản chuyển vốn đầu tư về các miền này để kiếm lợi. Kết quả là tại các nước công nghiệp phát triển trước kia, nạn thất nghiệp xảy ra ngày càng gia tăng, còn tại các nước mà trước đây

Page 406: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

405

có nền kinh tế chưa phát triển lại có dịp vươn lên. Hiện tượng này xảy ra không ngoài khuôn khổ của nguyên lý quân bình. Đây là dịp may cho các nước chưa phát triển, tiếp thu kỹ thuật hiện đại, tạo cơ sở sản xuất, làm bàn đạp để tự phát triển về lâu về dài. Nếu vì một lý do nào đó mà bỏ lỡ cơ hội này thì thật đáng tiếc.

Luật thừa trừ nói theo ngôn ngữ bình dân có nghĩa là nếu được cái này thì mất cái kia ví dụ như thuyết “ Tài mệnh tương đố „ hay “ Tạo vật đố kỵ hồng nhan „ như trong triết lý truyện Kiều: hồng nhan bạc mệnh.

Xét luật thừa trừ trong tương quan giữa phẩm và lượng, người ta nhận thấy rằng nếu được phẩm thì mất lượng và ngược lại nếu được lượng thì mất phẩm. Thật vậy, trong thực tế người tài giỏi lỗi lạc, bậc vĩ nhân bao giờ cũng ít oi hơn đại chúng. Cây quí thường khó trồng, năng suất thấp; ngược lại loại cây thông thường thì dễ trồng, năng suất lại cao hơn. Gia cầm như gà vịt; gia súc như heo, bò nuôi theo phương pháp khoa học, năng suất cao để có đủ lương thực, thực phẩm cung cấp cho quần chúng, nhưng ngược lại phẩm chất lại kém xa lối chăn nuôi cổ điển gần với tự nhiên, và đôi khi còn trở nên nguy hại như trường hợp“ bò điên „ chẳng hạn. Vấn đề ở đây là phải biết tôn trọng nguyên lý quân bình.

Cho đến ngày nay, nói chung thì nền văn minh nhân loại có tiến bộ, nhưng đó là sự tiến bộ về lượng, còn phẩm không hẳn như thế. Xét về đời sống của con người thì nhờ có sự tiến bộ của khoa học, kỹ thuật, tuổi thọ có kéo dài hơn đôi chút, nhưng nếu xét kỹ toàn bộ thì khuynh hướng về tuổi thọ của con người nói chung giảm chứ không thể nào tăng. Cứ nhìn vào giới trẻ ngày nay thì thấy ngay sự thật, tuổi dậy thì của họ đến sớm hơn ngày xưa, cho nên tuổi già cũng sẽ đến sớm tương ứng và tuổi thọ phải giảm. Việc tăng tuổi thọ của con người ở phương diện nào đó chỉ là do nổ lực của họ dựa vào tiến bộ của khoa học, kỹ thuật để bù trừ mà thôi. Sự giảm tuổi thọ của con người nói chung là do dân số trên thế giới càng ngày càng tăng, mà hễ lượng tăng thì phẩm phải giảm. Sở dĩ sự suy giảm tuổi thọ chưa thấy rõ là vì thế quân bình chưa bị mất do sự bù trừ có ý thức của con người.

Ở lãnh vực tín ngưỡng, khi số lượng tu sĩ, tín đồ theo một tôn giáo nào đó tăng lên, người ta nhận thấy rằng phần đông chú trọng ở phần hình nhi hạ của giáo lý, mà lơ là phần hình nhi thượng, cho nên ngày nay những bậc tu hành đắc đạo như xưa rất hiếm. Tuy nhiên sự phát triển nói chung của tôn giáo về phương diện tổ chức, nâng cao trình độ tín ngưỡng phổ thông trong đại chúng cũng có thể lập được thế quân bình.

Page 407: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

406

Theo dõi ngành nghệ thuật âm nhạc, người ta nhận thấy nó diễn biến như sau: trước kia âm nhạc cổ điển là âm nhạc thuần túy, nó đòi hỏi nhạc sĩ có trình độ sáng tác và trình diễn cao, khán thính giả có trình độ thưởng lãm nghệ thuật cũng phải cao. Rồi dần dà âm nhạc cổ điển thuần túy lột xác biến thành tân cổ điển, bán cổ điển, rồi đến tân nhạc, trải qua quá trình từ âm nhạc thuần túy không lời, đến âm nhạc có lời ca diễn tả ý nhạc, rồi cũng chưa đủ, âm nhạc với lời ca lại còn được tăng cường thêm nghệ thuật múa nữa. Mới nhìn qua cách trình diễn tân nhạc như thế, người ta có thể cho rằng nền nghệ thuật âm nhạc ngày nay rất tiến bộ, rất hiện đại, vì nó phong phú, đa diện, nhưng xét cho kỷ về phẩm chất của âm nhạc thuần túy, âm nhạc tự thân thì nó có phần nào suy giảm nên mới mượn thêm lời ca, tiếng hát, điệu múa để bổ túc theo nguyên lý quân bình.

Nguyên lý này có liên hệ với nguyên lý bảo toàn năng lượng. Ở chương 42, ĐĐK, Lão Tử viết: “ Cố, vật hoặc tổn chi nhi ích, hoặc ích chi nhi tổn „ ( Vậy, sự vật trong đời bớt là thêm, thêm là bớt ). Ai có chuyên nghề trồng cây mới thấy rõ qui luật này, như trong kỹ thuật trồng nho, tỉa bớt cành, lá của dây nho là để được thêm nhiều trái, vì với sự cắt tỉa đó tất cả năng lượng đều dồn tập trung vào thân dây nho.

Ngoài ra luật thừa trừ cũng thấy có mặt ở những hiện tượng tâm lý, ở những người có mặc cảm. Những người kém tài, thiếu đức thường hay tìm cách tự nâng mình lên, cho nên thường có thái độ, hành động tự cao, tự đại; nếu những người này nắm quyền chính trị, hành chánh trong tay thì thường tỏ ra quan liêu, hống hách để chứng tỏ cho mọi người biết rằng mình cũng có đủ quyền uy. Trái lại những người có tài đức thật sự thì lại thường khiêm tốn, vì họ tự cảm thấy quá đầy đủ. Tất cả những hành vi của người mặc cảm đều nhằm tạo cho mình một thái độ an tâm, nhưng đó chỉ là an tâm giả tạo, vì họ không có được sự quân bình thật sự trong tâm hồn.

Trở lại với hình ảnh của con lắc đang dao động, cũng là hình ảnh của thực tại thì cứ ứng với một vị thế của nó khi mất quân bình, lệch về một phía thì có một vị thế đối lập tương ứng để tái lập quân bình. Nhưng thực tại thực ra không chỉ thu hẹp về mặt phẳng hai chiều, mà ở trong không gian ba chiều, cho nên có thể có vô số những cặp đối lập như vậy.

Nghiên cứu lịch sử triết học, người ta nhận thấy rằng một triết thuyết thường được xây dựng từ một trực giác đầu tiên của triết gia, rồi sau đó khai triển thành hệ thống qua những khái niệm, phù hiệu danh lý. Trên con đường đi tìm chân lý như vậy, mỗi triết gia tùy theo quan điểm bắt gặp được chân lý qua trực giác căn nguyên của mình, có bao nhiêu quan điểm là có bấy nhiêu triết thuyết, vì thế trong lịch sử triết học đã có rất nhiều

Page 408: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

407

loại triết học khác nhau lần lượt xuất hiện, nhiều khi đối nghịch nhau, phủ định lẫn nhau như triết học duy lý với triết học duy nghiệm và nổi bật hơn hết là nhóm triết học duy tâm với triết học duy vật.

Ở khu vực Đông phương, cũng có những triết thuyết đối lập với nhau, nhưng ở mức độ ít hơn vì hầu hết các nhà hiền triết đều chú trọng nguyên lý quân bình.

Lão Tử chủ trương: “ Khứ thậm, khứ xa, khứ thái „

nghĩa là hãy trừ khử những gì thái quá, bởi vì: “ Khí giả bất lập, khóa giả bất hành „ ( Nhón gót lên thì đứng không vững, xoạc chân ra thì không bước được ) Khổng giáo thì có Trung dung: “ Trung giã dả, thiên hạ chi đại bản giã; hòa giã dả, thiên hạ chi

đạt đạo giã. Trí trung hòa, thiên địa vị yên, vạn vật dục yên „ ( Trung là cái gốc lớn của thiên hạ, hòa là cái đạt đạo của thiên hạ,

cùng cực cả trung và hòa thì trời đất định vị, vạn vật hóa dục ) Phật giáo chủ trương Trung đạo. Kinh Đại Niết Bàn viết: “ Thấy tất cả đều là không, mà chẳng thấy cái chẳng không thì

chẳng gọi là Trung đạo. Thấy tất cả là vô ngã, mà chẳng thấy có ngã cũng chẳng gọi là Trung đạo. Trung đạo ấy gọi là Phật tánh „

Ở Việt Nam, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã khai triển nguyên lý quân bình thành đạo sống quân bình qua định nghĩa phạm trù “ Trung „ như sau:

“ Trung nghĩa là đứng giữa không chênh lệch, giữ vẹn được điều thiện là trung, không giữ vẹn được điều thiện thì không phải là trung vậy. Tân có nghĩa là cái bến, biết chỗ đáng đậu là bến chánh, không biết chỗ đáng đậu là bến mê vậy. Thấy của phi nghĩa đừng có lòng tham, vui làm điều thiện, lại có độ lượng bao dung người khác, đem lòng chí thành để đối đãi với mọi người, đó cũng là trung vậy. Trung ở chỗ nào tức là điều chí thiện ở chỗ ấy. Nếu mọi người biết lấy trung làm bến chính giữ được đúng mức, thì mọi công việc trong thiên hạ cứ do đó mà thi thố ra để đi đến chỗ tận thiện, như vậy thì công đức tốt đẹp biết là dường nào „

Nguyễn Công Trứ sau đó đã đưa đạo sống quân bình đến chỗ “ bảo hợp thái hòa „:

“ Linh khâm bảo hợp thái hòa „ Nếu giữ được đạo quân bình thì cá nhân được lành mạnh, yên vui; gia

đình hòa thuận, hạnh phúc; xã hội hài hòa; quốc gia thịnh trị; nhân dân an cư lạc nghiệp; thế giới hòa bình; vũ trụ thái hòa.

Page 409: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

408

Phần nghiên cứu nguyên lý quân bình và không quân bình đến đây có thể tạm được chấm dứt. Thực ra phần này cũng là sự chuẩn bị cho phần nghiên cứu quan trọng tiếp theo là qui luật biện chứng của phép biện chứng , mà chúng tôi gọi là phép biện chứng quân bình.

Page 410: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

409

Chương 4

Phép biện chứng

Biện chứng pháp trong lịch sử triết học Phép biện chứng đã xuất hiện trong lịch sử triết học từ lâu dưới nhiều hình thức khác nhau, trước hết là phép biện chứng bằng trực giác cảm tính khi người ta quan sát thế giới hiện tượng, nhận thấy chúng biến dịch chẳng khác nào nước của dòng sông đang chảy. Ở Hy Lạp, Heraklit đã nói: “ Tất cả đều trôi chảy „ ( Alles fließt ) và:

“ Chúng ta xuống và không xuống cùng một dòng sông, chúng ta tồn tại và không tồn tại „

( In dieselben Flüsse steigen wir und steigen wir nicht, wir sind und wir sind nicht )

Còn ở Trung quốc, Khổng Tử một hôm đứng trên bờ sông, ngắm dòng nước chảy than rằng:

“ Thệ giã như tư phù, bất xả trú dạ „ ( Luận ngữ ) ( Đêm ngày cứ chảy luôn luôn như thế mãi! )

Ở Phật giáo cũng đã có biện chứng pháp từ trên 2500 năm nay, đó là biện chứng giải thoát hay biện chứng giác ngộ. Nhận thấy có sự mâu thuẫn nội tại của lý trí cho nên Phật giáo mới dùng đến biện chứng, tìm cách giải quyết mâu thuẫn bằng cách siêu vượt lên trên bình diện cao hơn bằng phủ định. Đó là con đường Trung quán. Theo thuyết thập nhị nhân duyên thì sự vật hiện hữu không có tự tính, mà do nhân duyên tạo tác, cho nên mọi vật đều là hư không ( sunyata ), từ đó Long Thọ mới đưa ra thuyết “ bát bất „ như sau: “ Bất sinh, bất diệt Bất lai, bất khứ Phi nhất, phi nhị Phi hữu, phi vô „

( Không sinh, không diệt Không đến, không đi Không đồng nhất, không dị biệt Không có, không không )

Page 411: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

410

Chừng nào chân lý do nhân duyên khởi thì quan niệm mê vọng về tự tính bị phủ định. Không là phương pháp để bày tỏ rằng tất cả sự vật trong thế giới tương đối này đều không có tự tính độc lập, tất cả đều do nhân duyên nên tương đối có. Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh: “ Sắc tức thị không, không tức thị sắc. Sắc bất dị không, không bất dị sắc; thụ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị „ ( Hình tướng cũng là hư không, hư không cũng là hình tướng. Hình tướng không khác với hư không, hư không không khác gì với hình tướng. Thụ hay là cảm giác, tưởng hay là biện biệt, hành hay là yêu ghét, thức hay là trí năng cũng đều là như thế ). Đấy là phương pháp phủ định toàn diện để tạo cái ý thức biện chứng, phá trừ tất cả mọi sự cố chấp đến kỳ cùng để đạt tới ý thức hay trạng thái giác ngộ Tam muội Tam Bồ đề ( Samadhi ). Bồ đề không phải là một khái niệm trừu tượng, mà là trạng thái thực nghiệm tại thân tâm con người khi giác ngộ ( Boddhi ). Lý trí giải thích thế giới sự vật qua khái niệm, danh lý nhưng không thực sự đạt được chân lý, nên người ta phải nhờ đến hình thức thực nghiệm sống động là Thiền, phối hợp với “ bát bất „ xem như là phương tiện để làm thế nào cho mỗi người tự thấy được Tự tính của mình ( kiến tính ), giải thoát khỏi mọi ràng buộc, khai phóng năng lực tự nhiên tiềm tàng nơi bản thân để giác ngộ chân lý Bát nhã. Chân lý của Phật giáo là vô ngã, phủ nhận tính không thực của thế giới hiện tượng để thấy chân tính Chân như. Tất cả vấn đề là đi tìm chân tướng của mình bằng con đường phủ định đến kỳ cùng. Như vậy biện chứng giải thoát của Phật giáo không phải là biện chứng ý niệm danh lý, mà là biện chứng tâm lý thực nghiệm để thực hiện Tuệ giác là trạng thái siêu thức. Lịch sử Phật giáo Việt Nam cũng có những bài kệ nói lên ý thức biện chứng giác ngộ đó như ở Thiền sư Định Hương ( ?-1050 ): “ Bản lai vô xứ sở Xứ sở thị chân tông Chân tông như thị ảo Ảo hữu tức không không „ ( Nguyên lai Bản thể không có nơi chốn Nơi chốn đó là đầu mối Chân như Đầu mối Chân như huyễn ảo như thế Ảo với hữu tức không không ) Quá trình thực nghiệm siêu vượt nói trên được khai triển như sau: Bản lai vô xứ sở: là mệnh đề phủ định.

Xứ sở thị chân tông: là mệnh đề khẳng định.

Page 412: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

411

Chân tông như thị ảo: là vừa khẳng định vừa phủ định. Ảo hữu tức không không: là vừa phủ định, vừa khẳng định

và phủ định-phủ định. Phủ định cả khẳng định lẫn phủ định, tức là hai lần phủ định. Cái hai lần phủ định ấy là trạng thái thuần túy ý thức không thể hình dung bằng ý niệm danh lý được. Quốc sư Thông Biện ( ?-1134 ): “ Sắc thị không, không tức sắc Không thị sắc, sắc tức không Sắc không câu bất quản Phương đắc khế chân tông „ ( Có là không, không tức có

Không là có, có tức không Có không đều vượt khỏi Mới nhập được chân tông )

Biện chứng âm dương trong kinh Dịch: Tinh hoa của kinh Dịch được tóm tắt trong câu sau đây của Hệ từ thượng: “ Dịch hữu Thái cực, thị sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát quái „ Dịch là lịch trình đại biến hóa của vũ trụ, vạn vật mà khởi điểm là Thái cực, một Đồng nhất tính, một Thực thể duy nhất, một Nguyên khí thuần hòa chưa bị phân hóa. Dịch nhận định rằng: “ Vạn vật các hữu Thái cực „ nghĩa là mỗi vật đều có Thái cực, từ vật nhỏ bé cho đến vật lớn cũng đều như thế cả. Rồi Thái cực ấy phân hóa ra Âm Dương, tức Lưỡng nghi, hai khuynh hướng khác nhau, nhưng không rời nhau. Âm được biểu thị bằng hai vạch đứt đoạn: _ _ Dương được biểu thị bằng một vạch liền: ___ Mỗi vạch liền hay đứt đoạn gọi là Hào. Lưỡng nghi sinh Tứ tượng gồm: Thiếu dương : _ _

( ___ ) Thái dương : ___ ( ___ ) Thiếu âm : ___ ( _ _ )

Page 413: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

412

Thái âm : _ _ trong đó mỗi Tượng gồm có hai Hào. ( _ _ ) Thái dương Thiếu dương Thiếu âm Thái âm Tứ tượng sinh ra Bát quái gồm: ___ _ _ ___ _ _ ( ___ ) ( ___ ) ( _ _ ) ( _ _ ) Kiền: ( ___ ) , Đoài: ( ___ ) , Ly: ( ___ ) , Chấn: ( ___ ) ___ _ _ ___ _ _ Tốn: ( ___ ) , Khảm : ( ___ ), Cấn: ( _ _ ) , Khôn: ( _ _ ) ( _ _ ) ( _ _ ) ( _ _ ) ( _ _ ) trong đó mỗi Quái ( quẻ ) gồm ba Hào hợp lại. Đó là Đơn quái, còn có Trùng quái do hai Đơn quái chồng lên nhau, cho nên có tất cả là 64 Quái ( 8x8 = 64 ). Đơn quái có 3 Hào, còn Trùng quái có 6 Hào. Về phương diện triết học, kinh Dịch có ba khái niệm căn bản: a- Dịch: Dịch là biến động, biến hóa, biến đổi:

Page 414: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

413

“ Sinh sinh chi vị Dịch „ ( Sinh rồi lại sinh, gọi là Dịch ) ( Hệ từ thượng ). b- Tượng: Tượng vừa là hình ảnh của vật thể, vừa là biểu tượng cho những trạng thái biến đổi, những khái niệm, là môi giới giữa thế giới hữu hình và thế giới siêu hình. Hệ từ truyện viết: “ Dịch giả tượng dã, tượng dã giả tượng dã „ nghĩa là Dịch cốt ở hình ảnh, hình ảnh ấy là tượng trưng vậy. Và: “ Tại thiên thành tượng, tại địa thành hình, biến hóa hiện hỹ „ nghĩa là ở trên trời là hình ảnh ( tượng ), ở dưới đất là hình thể ( thế giới hữu hình ) biến hóa hiện ra vậy. Vũ trụ quan của Dịch là hình tượng biến hóa không ngừng. c- Từ: Từ là phán đoán bằng ngôn ngữ, lời nói. Kinh Dịch có 64 Quẻ, 384 Hào ( 64x6 = 384 ). Mỗi Quẻ, mỗi Hào đều là một Tượng. Tượng biểu thị cho ý tưởng các loại. Để giải thích, nghị luận rõ ràng cho ý tưởng thì phải dùng đến Từ, tức là những phán đoán, cho nên Hệ từ mới nói: “ Biện cát hung giả tôn hồ Từ „ ( Phân biệt lành dữ là ở Từ ). Kinh Dịch đặt căn bản ở nguyên lý Âm dương. Âm dương là đầu mối của mọi sự vật. Vật bắt đầu là nhờ Dương, được nuôi dưỡng là nhờ Âm. Dương làm chủ động, còn Âm phụ họa: “ Dương xướng, âm họa „ Đặc điểm của Âm Dương trong kinh Dịch là không có hiện tượng thuần Âm hay thuần Dương. Trong đồ hình Thái cực, Lưỡng nghi, chấm trắng trong Âm là Thiếu dương, còn chấm đen trong Dương là Thiếu Âm, nghĩa là trong Âm đã ngầm chứa cái mầm Dương và trong Dương đã ngầm chứa cái mầm Âm rồi. Khi nào Âm đến hồi cực thịnh thì mầm Dương ( Thiếu dương ) mới đủ sức hiện lên, cũng như khi Dương đến hồi cực thịnh thì cái mầm Âm ( Thiếu âm ) mới bắt đầu tăng trưởng. Ví dụ như Quẻ Địa-Lôi-Phục gồm Quẻ Khôn (Địa ) ở trên và Quẻ Chấn ở dưới: _ _ Khôn: ( _ _ ) ( _ _ ) khi Âm cực thịnh thì Dương bắt đầu manh _ _ nha Hào dương ở Quẻ Chấn. Chấn: ( _ _ ) ( ___ )

Page 415: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

414

Quẻ Thiên-Phong-Cấu gồm Quẻ Kiền ( Thiên ) ở trên và Quẻ Tốn ở dưới: ___ Kiền: ( ___ ) ( ___ ) khi Dương cực thịnh thì Âm bắt đầu manh nha Hào Âm ở Quẻ Tốn. ___ Tốn: ( ___ ) ( _ _ ) Như vậy có thể nói một cách tổng quát rằng khi Âm cực thì Dương sinh, và khi Dương cực thì Âm sinh. Sở dĩ gọi là Dương vì phần Dương trội hơn phần Âm và gọi là Âm vì phần Âm nhiều hơn phần Dương. Âm, Dương chỉ là vấn đề tương đối, cho nên Dịch không bao giờ chủ trương lấy Dương trừ Âm, hay ngược lại lấy Âm trừ Dương, mà chủ trương Âm, Dương chế hóa lẫn nhau để giữ quân bình. Âm Dương không những khác nhau về đặc tính như mềm-cứng, nóng-lạnh, tốt-xấu, lành-dữ, sáng-tối… mà còn khác nhau về khuynh hướng nữa: “ Âm dương tương phản chi vật dã, cố hoặc xuất, hoặc nhập, hoặc tả, hoặc hữu „ (Âm Dương tương phản nhau, cho nên hễ cái này đi ra thì cái kia đi vào, cái này qua trái thì cái kia qua phải ) ___ Ở Quẻ Ly ( _ _ ) có nói: “ Thiên địa khuể nhi kỳ sự đồng dã, ( ___ ) Nam nữ khuể nhi, kỳ chí thông dã, Vạn vật khuể nhi, kỳ sự loại dã. „ ( Trời đất sai khác mà công việc cùng chung vậy, Nam nữ sai khác mà ý muốn thông suốt vậy, Vạn vật sai khác mà công việc giống nhau vậy. Vì có sự sai khác nên sự hòa hợp mới có ý nghĩa, đó là sự đồng nhất trong sai biệt, đặc tính của vũ trụ quan Dịch. Biện chứng Hegel ( 1770-1831 ): Theo Hegel thì toàn thể hiện thực là sự tự thể hiện của ý tưởng về thế giới siêu hình, và phương pháp dùng để khai triển những khái niệm (Ý tưởng ) là biện chứng pháp. Biện chứng này dựa trên qui luật căn bản là mỗi khái niệm nảy sinh ra khái niệm đối lập. Sự đối lập mới xuất hiện này sau đó liên hệ với khái niệm nguyên thủy và kết hợp với nó thành một

Page 416: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

415

khái niêm mới cao hơn. Rồi giai đoạn này lại là khởi điểm của một quá trình khai triển mới tương tự. Những bước đi của biện chứng pháp Hegel được diễn tả như sau: _ Khởi điểm là Tiền đề. _ Sự đối nghịch là Phản đề. _ Sự thống nhất ở trình độ cao hơn là Tổng hợp. Từ phương pháp biện chứng, Hegel đi đến một quan niệm đặc biệt về quá trình thế giới: Toàn thể quá trình thế giới là sự thực hiện vô số quá trình biện chứng ba nhịp như thế. Hệ thống khái niệm có được là phản ánh sự khai triển của thế giới hiện thực, mà khởi đầu của nó ở khái niệm Tính thể tổng quát. Trước khi bắt đầu, thế giới chỉ có những mô thức trống rỗng của tinh thần hay là thứ tinh thần mà tự nó chưa biết mình là tinh thần. Theo phép biện chứng, khái niệm này chuyển sang phía đối nghịch của nó và trở thành cái khác với nó gọi là sự tồn tại khác ( Anderssein ). Rồi sự thống nhất ( tổng hợp ) cao độ sẽ là khái niệm của tinh thần thật sự, tinh thần đã tự biết mình là tinh thần và Hegel gọi tình trạng đó là sự tồn tại tự thân, tồn tại cho chính mình ( An-und-für-sich-Sein ). Hegel là người đầu tiên trình bày rõ ràng toàn bộ thế giới tự nhiên, lịch sử và tư duy dưới dạng những quá trình trong sự vận động biến dịch và phát triển không ngừng. Ông đã thiết định những phạm trù cũng như qui luật tổng quát về phép biện chứng, làm cơ sở cho mọi nhận thức chân lý khoa học. Nó cho biết trong mỗi đối tượng nhận thức có sự mâu thuẫn ở bên trong, sự phát triển của mâu thuẫn dẫn đến sự phủ định đối tượng này và làm xuất hiện đối tượng mới khác. Biện chứng pháp của Hegel là biện chứng pháp của tư duy, của ý niệm tuyệt đối. Trong triết học của ông, không phải ý thức phát triển trong sự phụ thuộc vào sự vận động phát triển của thế giới tự nhiên, của xã hội, mà ngược lại, thế giới tự nhiên, xã hội vận động phát triến trong sự phụ thuộc vào sự phát triển của ý niệm tuyệt đối. Biện chứng duy vật của Marx và Engels: Karl Marx ( 1818-1883 ) và Friedrich Engels ( 1820-1895 ) xét lại toàn bộ những tư tưởng hợp lý và không hợp lý trong phép biện chứng của He- gel, chuyển nó từ quan điểm duy tâm sang quan điểm duy vật. Marx phê bình rằng Hegel coi hiện thực có tính cách cảm tính thực sự như là hiện tượng của hiện thực tinh thần đứng ở phía sau. Do đó biện chứng pháp của Hegel là duy tâm và có tính cách thần bí ( mystifizierend). Theo Marx, thực thể tinh thần không tự nó tồn tại, nó chỉ là phản ánh của vật chất vào trong ý thức theo nguyên tắc như sau: Xuyên qua cảm tính và

Page 417: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

416

tư duy của con người mà thế giới được nhận thức, trong đó thực tiễn xã hội là cơ sở của mọi nhận thức. Karl Marx viết: _ “ Ý thức không bao giờ có thể là gì khác hơn là cái tồn tại được ý thức „ ( Das Bewusstsein kann nie etwas anders sein als das bewusste Sein ) _ “ Không phải ý thức của con người qui định sự tồn tại của họ, mà chính sự tồn tại của đoàn thể xã hội qui định ý thức của họ „ ( Es ist nicht das Bewusstsein der Menschen, das ihr Sein bestimmt, sondern das gesellschaftliche Sein bestimmt ihr Bewusstsein ) _ “ Cái trong ý niệm, trong ý tưởng không gì khác hơn là sự vật vật chất được chuyển đảo và thông dịch vào trong đầu óc của con người „ ( Das Ideelle nichts anders als das im Menschenkopf umgesetzte und übersetzte Materielle ). Như vậy thì Marx chủ trương đảo ngược biện chứng ý niệm, duy tâm của Hegel thành biện chứng duy vật, và được Engels trình bày qua ba qui luật cơ bản sau đây:

1- Qui luật mâu thuẫn ( Das Gesetz der gegenseitigen Durchdringung der Gegensätze ).

2- Qui luật lượng phẩm ( Das Gesetz des Übergangs von Quantität in Qualität ) tức là qui luật chuyển từ lượng thành phẩm.

3- Qui luật phủ định của phủ định ( Das Gesetz der Negation der Negation ).

Mỗi qui luật đóng một vai trò trong sự vận động và phát triển: qui luật mâu thuẫn nói lên nguồn gốc, qui luật lượng phẩm nói lên cách thức và qui luật phủ định của phủ định nói lên khuynh hướng của sự vận động và phát triển của sự vât vật chất.

Phép biện chứng duy vật thực ra đã kế thừa công trình của Hegel, nhưng ở vị thế đảo ngược, một đàng duy vật, một đàng là duy tâm, cho nên chúng đều thuộc khuynh hướng đối nghịch nhau, đều phiến diện cả. Chúng tôi đề nghị một phép biện chứng khác, siêu vượt lên trên hai phép biện chứng nói trên gọi là phép biện chứng quân bình, và như vậy việc nghiện cứu hai nguyên lý không quân bình và quân bình trước đây là chuẫn bị cho nghiên cứu tiếp theo: phép biện chứng quân bình

Page 418: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

417

Phép biện chứng quân bình Với quan điểm quân bình, chúng tôi sẽ lần lượt trình bày lại ba qui luật căn bản của phép biện chứng: qui luật mâu thuẫn, qui luật lượng phẩm, qui luật phủ định của phủ định.

Qui luật mâu thuẫn Thuyết sóng ba động của khoa học ngày nay xác nhận rằng trong vũ trụ tràn ngập những làn sóng, điều này rất phù hợp với giả thuyết về tiếng nổ khai nguyên vũ trụ. Theo qui luật liên hệ phổ biến thì toàn thể thế giới vật chất chịu ảnh hưởng của hiện tượng nói trên, nên thường xuyên vận động. Sự vận động này không phải là sự vận động bất kỳ nào, mà là sự vận động theo hình thức dao động, có chu kỳ, có phân cực, cho nên có mâu thuẫn. Như vậy, theo quan điểm này thì mâu thuẫn không phải là nguyên nhân gây nên sự vận động, mà chính cách thế vận động do sự mất quân bình trong thế giới hiện tượng, vạn vật mà có mâu thuẫn. Với quan điểm này, người ta có thể rút ra một điều rất quan trọng là không nên quan niệm đơn giản rằng mâu thuẫn là nguồn gốc của mọi sự vận động, mọi sự phát triển, mọi sự tiến bộ để tránh những chủ trương, hành động gây mâu thuẫn mù quáng, kết quả chẳng những không phát triển, không tiến bộ, mà chỉ phát triển sự chia rẻ, phân hóa, đổ vỡ. Do nhu cầu tri thức, hiện tượng dao động do mất quân bình được tạm thời tách ra để nghiên cứu theo phương pháp phân tách, nhưng trong thực tế, nó không bao giờ tách rời khỏi nguyên lý quân bình, cũng như hiện tượng sóng của nước không bao giờ tách rời khỏi bản chất của nước hay tính thể của nước, vậy thì mâu thuẫn cũng không bao giờ tách rời khỏi sự thống nhất, hòa hợp. Đây là điều khó nhận ra đối với những ai không có quan điểm quân bình. Mâu thuẫn có những đặc điểm sau đây:

_ Mâu thuẫn trước hết là do sự vận động theo cách thức dao động, có chu kỳ, có phân cực mà ra. ( đã trình bày ở phần nghiên cứu nguyên lý không quân bình )

_ Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến: Mâu thuẫn không phải là khái niệm trừu tượng, mà là hiện tượng hiện

thực, cho nên nó có tính khách quan.

Page 419: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

418

Hiện tương này do nguyên lý không quân bình chi phối, thường xuyên xảy ra ở khắp mọi nơi, mọi lúc trong mọi sự vật, nên nó có tính phổ biến.

Trong thế giới hiện tượng, muôn vật đều vận động theo quá trình biện chứng, và dường như đó là một thiên tính, bản tính tự nhiên của muôn loài. Nguyễn Bỉnh Khiêm trong một bài thơ chữ Nôm có viết:

“ Vốn trời phân đà có tính, Chân thì hay bước, cánh hay bay. „ Loài có cánh hay bay, loài có chân hay bước, tuy hình thức vận động

có hơi khác, nhưng nguyên tắc vẫn giống nhau: đó là nguyên tắc vận động biện chứng. Quan sát sự đi đứng của con người chẳng hạn : khi đứng thì trọng lực của con người và phản lực của mặt đất cân bằng nhau; khi đi, nếu một chân nhấc lên để bước tới thì chân kia đứng yên, chạm đất…cứ như thế luân phiên cử động nhịp nhàng. Trong sự đi như vậy, nguyên lý không quân bình ( mâu thuẫn ) luôn luôn gắn liền với nguyên lý quân bình ( hài hòa ), nghĩa là tránh thái quá. Lão Tử ở ĐĐK, chương 24 có viết: “ Khí giả bất lập, Khóa giả bất hành. „ ( Nhón gót lên thì không đứng vững, Xoạc chân ra thì không bước được.) Trong sự vận hành của máy chạy bằng hơi nước, chuyển động tới lui của pít-tông trong buồng xi- lanh được chuyển thành chuyển động quay vòng qua một then chuyền, cũng là hình thức vận động biện chứng ( một tới, một lui ). Nguyên tắc “ đóng-mở „ trong kỷ thuật điện tử được áp dụng trong các hệ thống dây chuyền sản xuất tự động hóa; hệ thống số nhị nguyên ( 0,1 ) trong kỷ thuật tin học, Com puter đều mô phỏng theo qui luật biện chứng. Sự sống của mọi sinh vật nói chung là hiện tượng sinh động, là sự vận động vật chất với dòng năng lượng lưu chuyển theo nhịp biện chứng. Sự dinh dưỡng như ăn uống, hô hấp, sự tuần hoàn máu huyết đều là sự vận động bao gồm những động tác có khuynh hướng vừa mâu thuẫn vừa điều hòa: một ra, một vào; một đi, một về. Trong lãnh vực tư duy, con người cũng không sao tránh khỏi hiện tượng mâu thuẫn: mâu thuẫn giữa khả tính nhận thức chân lý vô tận của con người với năng khiếu thực tế của các cơ quan nhận thức luôn luôn bị hạn chế. Sự mâu thuẫn này phải trải qua sự tích lũy kinh nghiệm của nhiều thế hệ theo qui luật lượng phẩm mới lần lược được giải quyết, vì con người trong thực tế không thể nào trong cùng một lúc, hay trong một thời gian ngắn ngủi có thể nhận thức ngay được tất cả mọi chân lý.

Page 420: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

419

Nói tóm lại, do đặc tính vận động của vũ trụ, cách vận hành tuần hoàn của các tinh tú, hành tinh, rồi vũ trụ lại tràn ngập sóng ba động do vụ nổ khai nguyên vũ trụ cũng như các vụ nổ của các tinh tú về sau, rồi do qui luật liên hệ phổ biến mà cả thế giới vật chất cũng như tinh thần đều chịu ảnh hưởng, bị phân hóa thành hai khuynh hướng đối nghịch nhau mà có mâu thuẫn như tích cực, tiêu cực; chung, riêng; sáng, tối; thị, phi; thiện, ác… _ Mâu thuẫn có liên hệ với không gian, thời gian: Vật chất, không gian, thời gian xuất hiện đồng thời với nhau sau vụ nổ khai nguyên vũ trụ, rồi do hình thức vận động như dao động có chu kỳ mà có mâu thuẫn. Như vậy mâu thuẫn có thể được biểu diễn bằng đồ thị là đường hình “ sin „ mà trục tung biểu diễn sự biến đổi trạng thái sự vật, trục hoành biểu diễn sự biến đổi của thời gian. Với đồ thị này, tình trạng mâu thuẫn, âm dương được phân bố theo thời gian, mà các đỉnh của hình “ sin „ là cực độ của các mặt đối lập. Trạng thái sự vật A A M M Thời gian B B Trong “ Triết học Mác- Lênin „ ( xuất bản Hà Nội 1991 ), có đoạn viết: “ Để chứng minh tính khách quan và phổ biến của mâu thuẫn, Ăng-ghen chỉ ra rằng, ngay hình thức vận động đơn giản nhất của vật chất- vận động cơ học, đó là một mâu thuẫn. sở dĩ sự di động một cách máy móc và đơn giản ấy có thể thực hiện được chỉ là vì, một vật trong cùng một lúc vừa là ở nơi này lại vừa ở nơi khác, vừa ở cùng một chỗ duy nhất lại vừa không ở chỗ đó „ Giải thích như vậy là hoàn toàn sai với cơ học, vì trong cùng một thời điểm, làm sao một động tử có thể ở được hai địa điểm khác nhau; mà trái lại trong cùng một thời điểm, hai điểm đó phải trùng nhau, nghĩa là không có chuyển động gì cả. Thực ra phải nói như thế này: “ Một vật vừa mới

Page 421: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

420

thấy ở đây mà trong chốc lát đã ở chỗ khác rồi „ hay như cách nói của người bình dân Việt Nam mới đúng: “ Hoa phù dung sớm nở, tối tàn „ Heraklit cũng đã nói: “ Không ai tắm hai lần trong cùng một dòng sông.” ( Man kann nicht zweimal in denselben Fluss hinabsteigen. ) _ Mâu thuẫn là vấn đề tương đối: Do hiện tượng dao động, mâu thuẫn, âm dương xuất hiện không gián đoạn theo thời gian, cho nên không có vấn đề thuần dương hay thuần âm, mà trong dương đã có mầm âm và trong âm đã có mầm dương như ở đồ hình Thái cực đã chỉ rõ ( dương trung hữu âm căn, âm trung hữu dương căn ). Nhà bác học Nhật, Hideki Yukawa ( giải thưởng Nobel 1949 ) đã chứng minh được qui luật này khi ông khám phá ra hạt meson. Loại hạt này có thể có dương tính, âm tính hay trung tính. Điều này giải thích tại sao chùm dương ở nhân lại hút dính nhau, mà đáng lẽ ra dương với dương phải xô đẩy rời nhau. Như vậy là vì trong nhân đã có hạt meson âm bên cạnh meson dương và trung tính. Khảo sát sự phân bố mâu thuẫn, âm dương trong một chu kỳ vận động theo cách thế dao động, người ta cũng thấy rõ đặc tính nói trên. Thật vậy, trên đồ thị ứng với một chu kỳ, có hai phần dương và âm phân biệt rõ rệt: phần dương lồi lên và phần âm lõm xuống như làn sóng. Trong mỗi phần lại cũng có hai khuynh hướng đối nghịch nhau: ở phần dương, sự vận động có khuynh hướng đi lên do động năng, từ điểm quân bình đến điểm cao tương ứng với Thái dương của Dịch, nhưng bắt đầu từ điểm cao này, sự vận động lại có khuynh hướng đi xuống do thế năng, tương ứng với Thiếu âm, nhưng vẫn còn ở phần dương; vượt qua khỏi điểm quân bình, sự vận động do động năng xuống tận điểm thấp tương ứng với Thái âm, rồi sự vận động lại đổi hướng đi lên do thế năng tương ứng với Thiếu dương mặc dầu vẫn còn ở phần âm. Nói tóm lại, mâu thuẫn, âm dương chỉ là vấn đề tương đối, sở dĩ gọi là âm vì phần âm trội hơn phần dương và sở dĩ gọi là dương vì phần dương trội hơn phần âm. Đây là một trong những sự khác biệt quan trọng giữa phép biện chứng quân bình với phép biện chứng duy vật. _ Sự thống nhất của các mặt đối lập: Trong phép biện chứng, mỗi mâu thuẫn gồm có hai mặt đối lập; nhưng không phải bất cứ mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn, mà chỉ có những mặt đối lập nào thống nhất hữu cơ với nhau, có tác động qua lại với

Page 422: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

421

nhau mới tạo thành mâu thuẫn. Sự thống nhất của các mặt đối lập trong qui luật mâu thuẫn có nghĩa là chúng có liên hệ, ràng buộc và qui định lẫn nhau. Quan sát một chu kỳ vận động biện chứng qua đồ thị thì thấy rõ tính thống nhất ấy, đặc biệt là các điểm quân bình đóng vai trò như những cái bôm hút và đẩy sự vận động và cũng là nơi thống nhất các mặt đối lập. Lý thuyết nguyên tử cũng cho thấy rằng bất cứ nguyên tử của chất nào cũng gồm có nhân mang điện tích dương ở giữa, các điện tử mang điện tích âm chạy trên các quỹ đạo chung quanh nhân. Những điện tích âm dương này cân bằng với nhau, cho nên mới có sự tồn tại. Sự tồn tại của một chất ở thể đồng nhất thật ra cũng đã bao hàm sự đối lập ở bên trong, nhưng sự đối lập đó đã được cân bằng với nhau trong thế quân bình. Như vậy, mỗi vật vừa là bản thân nó ở thể đồng nhất, lại vừa ở thể phân chia đối lập, hay nói khác thì cái đồng nhất cũng bao hàm bên trong sự đối lập rồi, nhưng là sự đối lập trong trong thể thống nhất, trong thế quân bình. Việc bẻ một thanh nam châm ra từng mảnh đã chứng minh cho sự thống nhất của các mặt đối lập trong một mâu thuẫn. Thật vậy, việc bẻ thanh nam châm có hai cực Nam-Bắc, có nghĩa là người ta muốn thử tách rời chúng ra, nhưng kết quả cho thấy không phải như thế, mà mỗi phần bị bẻ gẫy lại vẫn có hai cực Nam-Bắc như trước. Trong thế giới hiện tượng, trạng thái quân bình có tính cách tương đối. Đó là trạng thái đứng yên, tình trạng ổn định tạm thời của sự vật trong một thời gian nhất định; còn trạng thái không quân bình, mâu thuẫn với các mặt đối lập lại thường xuyên hơn, cho nên mới có sự vận động, biến dịch. Hai nhà bác học Trung Quốc là Lý Chánh Đạo ( Lee Tsung Dao ) và Dương Chấn Ninh ( Yang Chen Ninh ) ( giải thưởng Nobel 1957 ) nhận thấy rằng khi cho nổ hạt nhân nguyên tử thì có sự phóng xạ: những tia ly tử dương dài hơn tia ly tử âm với tỷ lệ 3/2. Khi đem một nguyên tử khác chận đầu những tia này thì tia dương lóe ra 3 tia nhỏ, còn tia âm chỉ lóe ra 2 tia nhỏ. Do có sự thừa dương, thiếu âm mà có sự vận động thường xuyên. Sự vận động này cũng đã được giải thích bằng lý thuyết ba động ở nguyên lý không quân bình rồi, và với đồ thị có dạng hình “ sin „ chúng ta cũng có thể thấy ngay tương quan của mâu thuẫn, âm dương với nhau trong một thể thống nhất không thể tách rời nhau. _ Sự đấu tranh của các mặt đối lập: Trong một mâu thuẫn, các mặt đối lập tuy thống nhất, nhưng không phải nằm yên bên nhau, mà luôn luôn đấu tranh với nhau. Quan niệm về đấu tranh ở phép biện chứng quân bình khác hẳn với phép biện chứng duy

Page 423: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

422

vật ở chỗ không phải các mặt đối lập bài trừ nhau, phủ định nhau triệt để, mà chỉ bài trừ, phủ định những cái tiêu cực, lỗi thời của các mặt đối lập. Điều này tùy thuộc vào quan niệm về tính chất của các mặt đối lập của mâu thuẫn.Thật vậy, phép biện chứng quân bình quan niệm các mặt đối lập không có tính cách tuyệt đối, nói theo Dịch thì không có vấn đề thuần dương, hay thuần âm, mà trong dương đã có cái mầm Thiếu âm, và trong âm đã có Thiếu dương rồi. Quan niệm khác nhau về vấn đề mâu thuẫn dẫn đến quan niệm khác nhau về đấu tranh là đương nhiên. “ Triết học Mác Lênin „ do Hà Nội xuất bản có viết:“ Bất kỳ mâu thuẫn nào, bất kỳ giai đoạn nào của mâu thuẫn, mâu thuẫn chỉ được giải quyết bằng đấu tranh giữa các mặt đối lập, chứ không phải bằng con đường điều hòa giữa chúng. Đó là sự khác nhau căn bản giữa những người cách mạng với những người theo chủ nghĩa cải lương, cơ hội, thủ tiêu đấu tranh giai cấp, thủ tiêu đấu tranh cách mạng „ Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan ở mọi lãnh vực của thế giới với những hình thức rất đa dạng, cho nên người ta phải biết phân biệt, đánh giá từng loại mâu thuẫn để có phương pháp giải quyết thích đáng. Khi mâu thuẫn đến hồi gay gắt cực độ thì phương pháp đấu tranh cần thiết là đấu tranh bạo lực cách mạng, ví như ngôi nhà cũ đã quá mục nát rồi cần phải đập phá toàn diện để xây dựng ngôi nhà mới khang trang, nhưng khi ngôi nhà đang còn trong tình trạng tốt mà cũng cứ đập phá tất cả để xây cất lại thì cũng chưa chắc là phải, nhất là khi khả năng tài chánh có giới hạn; lúc đó biện pháp tu sửa, tân trang cũng chưa chắc là dỡ. Trong vấn đề sức khỏe cũng vậy, đối với bệnh cảm mạo thông thường mà lúc nào cũng uống thuốc trụ sinh thì thật là tai hại. Thực ra, việc sử dụng phương pháp giải quyết mâu thuẫn không những chỉ tùy thuộc vào tính cách khách quan của từng loại mâu thuẫn, mà còn tùy thuộc vào quan điểm của con người nữa. Với quan điểm chuyên chính vô sản thì đấu tranh là đấu tranh bạo lực cách mạng, chế độ chính trị độc tài do đảng Cộng sản duy nhất lãnh đạo, không chấp nhận có đối lập, sẵn sàng sử dụng bạo lực để trấn áp phản động, phản cách mạng, vì chỉ có cách mạng vô sản là đúng, là tốt, còn ngoài ra đều là phản động, phản cách mạng, là sai, là xấu ( do cách hiểu về tính chất của qui luật mâu thuẫn, tuyệt đối hóa các mặt đối lập của mâu thuẫn trong phép biện chứng duy vật ) Tại các nước theo chế độ chính trị dân chủ thì hình thức đấu tranh là đấu tranh nghị trường, quốc hội chia ra làm hai khối chánh: khối cầm

Page 424: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

423

quyền và khối đối lập. Hình thức sinh hoạt chính trị này tương tự như cách thức vận hành của phép biện chứng quân bình, trong đó các mặt đối lập là khối cầm quyền và khối đối lập. Các khối này thực hiện cuộc đấu tranh nghị trường, trình bày, tranh luận, thuyết phục, phân tích ưu khuyết điểm của từng vấn đề ( vấn đề bao giờ cũng có ưu điểm lẫn khuyết điểm đi đôi ) và sau cùng đi đến biểu quyết theo nguyên tắc đa số. _ Sự chuyển hóa của các mặt đối lập của mâu thuẫn: Khi một khuynh hướng vận động phát triển đến cực độ thì bắt đầu có sự chuyển hướng về phía đối nghịch của nó theo như đặc tính của sự vận động dao động có chu kỳ hình “ sin „ Điều này cũng tương tự như nguyên tắc sau đây ở kinh Dịch: “ Dương cực, âm sinh; âm cực, dương sinh „ Nói khác đi thì các mặt đối lập của mâu thuẫn có thể chuyển hóa cho nhau, nghĩa là từ mặt đối lập này sang mặt đối lập kia và ngược lại như diễn tiến trong một chu kỳ dao động gồm có hai điểm uốn: ở điểm uốn cao, có sự chuyển hóa từ dương sang âm; ở điểm uốn thấp, có sự chuyển hóa từ âm sang dương. Như vậy, không bao giờ có sự chuyển hóa đơn phương một chiều, nghĩa là không có vấn đề mặt đối lập này thay thế mặt kia để độc quyền tồn tại, mà nó chỉ có thể có ưu thế ở một thời kỳ nhất định, tương tự như khái niệm về lẽ thịnh, suy của nguyên lý âm dương trong kinh Dịch. Trở lại hình ảnh dao động của con lắc ở phần nghiên cứu nguyên lý không quân bình và quân bình để dễ thấy hơn sự tương quan giữa các mặt đối lập với nhau. Trong thực tế, con lắc không thể nào treo lủng lẳng, thiên lệch hẳn về một phía, rồi đứng yên ở đó mãi được. Hai vị thế đối lập của con lắc là hình ảnh của mọi cặp mâu thuẫn, mọi cặp đối lập trong phép biện chứng quân bình, mà có tính cách thời sự quan trọng nhất là sự đối lập giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản, tức là giữa cái riêng và cái chung, giữa tư sản và vô sản. Trong phép biện chứng quân bình, không có việc mặt đối lập này phủ định mặt kia để độc quyền tồn tại, cho nên cũng không có việc chủ nghĩa này phủ định chủ nghĩa kia một cách tuyệt đối. Marx cho rằng trước sau gì chủ nghĩa tư bản lạc hậu, lỗi thời cũng bị chủ nghĩa cộng sản tiến bộ ( mà trung gian là chủ nghĩa xã hội ) phủ định để độc quyền và vĩnh viễn thay thế; nhưng cho mãi đến ngày nay, những dự đoán đó vẫn còn là không tưởng, khối cộng sản Đông Âu tan rả, tại vài nước Cộng sản còn lại cũng không thấy có nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, mà chỉ có kinh tế thị trường. Những dự đoán của Marx không đúng là vì ông không phân biệt được hai khuynh hướng quân bình và không quân bình. CNTB cũng như CNXH đều thuộc về khuynh hướng không quân bình, khuynh hướng đối lập, chế

Page 425: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

424

ngự lẫn nhau trong khuôn khổ của nguyên lý quân bình, do đó làm sao CNXH có thể phủ định hoàn toàn CNTB để giải quyết vấn đề có tính cách chủ quan, duy ý chí “ ai thắng ai „ giữa CNTB và CNXH. Mặt khác, phép biện chứng duy vật, mặc dầu thừa nhận có sự tác động qua lại và sự chuyển hóa của các mặt đối lập, có vẻ phân biệt với nhị nguyên luận, nhưng vì không nhận ra tận căn ý nghĩa tương đối của mâu thuẫn như ở phép biện chứng quân bình cũng như ở Dịch học, trong dương có âm, trong âm có dương, cho nên trong thực tế vẫn chưa thoát khỏi ảnh hưởng của tinh thần nhị nguyên, nghĩa là vẫn còn tuyệt đối hóa các mặt đối lập, trắng ra trắng, đen ra đen, cho nên đã có nhận thức một chiều rằng chỉ có CNXH là ưu việt, là hợp với xu thế của thời đại, còn CNTB là lỗi thời, lạc hậu trước sau gì cũng bị đào thải. Sự sụp đổ hệ thống XHCN tại Đông Âu vào cuối thế kỷ XX không có nghĩa là các nước này phủ nhận hoàn toàn vai trò của CNXH, mà chỉ phủ nhận quan điểm chuyên chính vô sản, chấp nhận phương thức dân chủ trong đó CNTB và CNXH là hai khuynh hướng đối lập có tác động qua lại biện chứng với nhau, tùy thời mà khuynh hướng này ưu thế hơn khuynh hướng kia và ngược lại, chứ không có khuynh hướng nào độc tôn. Trên đây là những đặc điểm của qui luật mâu thuẫn được trình bày theo phép biện chứng quân bình để phân biệt với phép biện chứng duy vật. Điểm nổi bật ở đây là nguyên nhân của hiện tượng mâu thuẫn được xác định rõ, cho nên những đặc tính của nó cũng được nhận diện chính xác. Một điều rất thú vị là những đặc tính của mâu thuẫn được trình bày ở đây đều phù hợp với truyền thống tư tưởng Việt Nam: “ Bói ra ma, quét nhà ra rác „ ( Tục ngữ ) Ngày xưa khi chưa có khoa học, người ta sử dụng khoa bói toán, tiên đoán việc lành, dữ để hành động sao cho đúng đắn, được sống lâu, nhưng trong thực tế có mấy ai tránh khỏi cái chết. Việc quét nhà cũng tương tự như thế, quét xong, sau đó cũng lại có rác. Đó là tính chất khách quan và phổ biến của mâu thuẫn. Bên cạnh tính chất này, câu tục ngữ nói trên cũng nêu lên tính thống nhất của các mặt đối lập trong mâu thuẫn. Thực vậy, chết ( ra ma ) không phải trở thành hư vô, không còn gì cả, mà chỉ chết cái già cỗi để nhường chỗ cho những mầm non vươn lên: “ Tre già, măng mọc ” và tạo thành dòng sống liên tục. Về việc quét nhà, khi vừa mới quét xong thì nhà cửa sạch sẽ, nhưng sau đó ít lâu lại có rác. Tuy nhiên, không phải vì vậy mà người ta sao lãng

Page 426: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

425

việc quét dọn nhà cửa. So sánh với việc ăn uống, nếu cho rằng ăn no rồi sau đó lại đói, thì tốt hơn là đừng ăn; điều này trong thực tế không thể có được. Nếu như việc ăn uống mà cứ no mãi thì đời sống chẳng còn thú vị và sự ăn uống tự nó cũng không còn nữa. Suy rộng ý nghĩa câu tục ngữ trên, mâu thuẫn là vấn đề, giải quyết mâu thuẫn là giải quyết vấn đề, tức là bài trừ, loại bỏ những phần tiêu cực, cặn bã và giữ lại những phần tích cực, phần tinh túy cũng tương tự như sự dinh dưỡng. Trong đời sống xã hội, con người luôn luôn có những vấn đề cần phải được giải quyết thỏa đáng. Nhiệm vụ giải quyết mọi vấn đề trong cuộc sống có liên quan đến quần chúng, xã hội, quốc gia là nhiệm vụ của chính phủ, của nhà nước với hệ thống hành chánh bao gồm cán bộ, công chức, các chuyên viên. Nếu như không bao giờ có vấn đề trong xã hội thì có lẽ hệ thống chính quyền nhà nước sẽ không còn cần thiết nữa. So sánh câu nói sau đây của Pascal: « Vérité en decà des Pyrenées, erreur au delà » ( Chân lý ở bên này dãy Pyrénées là cái sai lầm ở bên kia ) với câu tục ngữ Việt Nam : « Được làm vua, thua làm giặc » chúng ta nhận thấy ở câu đầu, các mặt đối lập có tính nhị nguyên ; còn ở câu sau, các mặt đối lập có thể chuyển hóa cho nhau nên có tính biện chứng. Những câu ca dao sau đây cũng có tính chất tương tự về sự chuyển hóa các mặt đối lập của mâu thuẫn : “ Con vua thì lại làm vua, Con sãi ở chùa thì quét lá đa. Bao giờ dân nổi can qua, Con vua thất thế phải ra quét chùa” hay: “ Nhất sĩ nhì nông Hết gạo chạy rong Nhất nông nhì sĩ ” Còn nói lên tính tương đối các mặt đối lập của mâu thuẫn thì có mấy câu ca dao dí dỏm sau đây: “ Bà già đi chợ Cầu Đông, Bói xem một quẻ có chồng lợi chăng? Ông thầy xem quẻ nói rằng: Lợi thì có lợi nhưng răng không còn ” nghĩa là trong cái lợi đã có cái hại đi theo rồi.

Page 427: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

426

Cũng tương tự như thế với lý lẽ họa, phúc: Họa là chỗ dựa của phúc, phúc là chỗ núp của họa như trong câu chuyện ông lão mất ngựa. Khi người quen kẻ thuộc đều đến hỏi thăm, ông lão nói: “ Mất ngựa thế mà phúc cho tôi đấy biết đâu!”. Cách mấy tháng sau con ngựa về lại quyến thêm được một con ngựa hay nữa. Người quen kẻ thuộc đều đến mừng rỡ. Ông lão nói: “ Được ngựa thế mà họa cho tôi biết đâu!” Từ khi được ngựa hay, con ông lão thích cưỡi, chẳng may ngã què chân. Người quen kẻ thuộc đều đến hỏi thăm. Ông lão nói: “ Con què thế mà phúc cho tôi đấy biết đâu!” Cách một năm sau, có giặc. Nhà vua bắt lính. Quân lính mười người chết đến chín. Con ông lão vì què không phải đi lính, mà cha con vẫn có nhau. ( Hoài Nam Tử - trong Cổ học tinh hoa của Nguyễn Văn Ngọc ) Đó là cái nguyên lý “ Âm trung hữu dương căn; dương trung hữu âm căn ” ( Cái dương nằm sẵn trong âm; cái âm nằm sẵn trong dương ), cho nên trong thế giới hiện tượng, tất cả đều có tính tương đối. Trong cuộc sống hiện sinh, khi nhận định, đánh giá con người về phương diện đạo đức chẳng hạn, nên lưu ý đến nguyên lý này để tránh những điều đáng tiếc có thể xảy ra như lời nhắn nhủ cảnh giác của câu ca dao sau đây: “ Chớ nghe quân tử ỉ òn, Rồi ra có lúc ẵm con một mình ” Quân tử ở đây ý nói người đàn ông, con trai, nhưng thực ra đó là phạm trù quan trọng của Nho giáo chỉ thị mẫu người lý tưởng, tốt đẹp đối kháng với kẻ tiểu nhân. Theo tinh thần nhị nguyên luận, hễ là người quân tử thì mọi hành vi đều tốt, còn kẻ tiểu nhân là xấu. Do tin tưởng như thế cho nên mới có lúc ân hận: “ Bởi tin nên mắc, Bởi chắc nên lầm ” Thực ra, do tính tương đối của qui luật âm dương, mâu thuẫn, con người dù thánh thiện, tốt đến mức độ nào cũng vẫn còn có cái xấu ẩn núp đâu đó, sở dĩ gọi là tốt vì phần tốt nhiều hơn, chứ không phải là hoàn toàn tốt cả; ngược lại cái xấu cũng vậy. Nói về sự thống nhất của các mặt đối lập có câu ca dao tình-lý hợp nhất sau đây: “ Bầu ơi! Thương lấy bí cùng, Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn” Bầu và bí tuy rằng khác giống, có sự khác biệt, mâu thuẫn, nhưng xét cho cùng cũng có họ hàng với nhau, lại cùng nhau chung sống một giàn;

Page 428: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

427

cũng như những bộ tộc tuy khác nhau, nhưng cũng có quan hệ với nhau trong nhóm Bách Việt, lại cùng sống chung với nhau trên một đất nước, một quê hương, cùng chia xẻ với nhau qua bao cuộc thăng trầm của lịch sử đấu tranh dân tộc để sinh tồn, cho nên tuy khác nhau nhưng có hòa hợp trong một thể thống nhất. Trở lại câu chuyện huyền thoại thời khuyết sử: Lạc Long Quân thuộc giống rồng, tượng trưng cho nguyên lý dương, lấy nàng Âu Cơ thuộc giống tiên, tượng trưng cho nguyên lý âm sanh ra cái bọc trăm trứng, nở ra trăm người con. Những người con ưu tú này trưởng thành được vua Hùng Hiền Vương tức Lạc Long Quân phân chia cai trị dân ở các trọng trấn. Đây là bước thứ nhất, giai đoạn hòa hợp sinh thành sáng tạo của nguyên lý âm dương. Rồi một hôm, Lạc Long Quân nói với nàng Âu Cơ rằng: “ Ta vốn là con cháu thủy thần, nàng thuộc nòi tiên, nước lửa khắc nhau không thể kết hợp lâu dài được. Vậy xin chia tay để giữ lấy dòng giống. Nàng nên đem 50 con lên núi, ta đem 50 con xuống bể ”. Đây là bước thứ hai, giai đoạn mâu thuẫn phát triển trở thành những mặt đối lập “ nước lửa khắc nhau”. Đây là một bài toán thuộc về sinh mệnh dân tộc, mà đáp số là bước thứ ba. Đáp số đó tùy thuộc vào ý thức về ý nghĩa thống nhất các mặt đối lập, mâu thuẫn trong hòa hợp, đặc thù trong đồng nhất. Thật vậy, nếu không rõ cái lý này thì sự đấu tranh thay vì đưa đến xây dựng, tiến bộ lại gây chia rẽ, hận thù và trong lịch sử dân tộc đã bao phen xảy ra cảnh nội chiến tương tàn đáng tiếc. Văn học bình dân đã từng cảnh giác: “ Một nhà hai chủ không hòa, Hai vua một nước ắt là không yên ” Và luôn luôn kêu gọi, nhắc nhở: “ Khôn ngoan đối đáp người ngoài, Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau ” Giai đoạn thứ ba đó là sự tổng hợp sáng tạo, có nghĩa là tổng hợp có lựa chọn, có đấu tranh , có hòa hợp để trở lại sự thống nhất, nhưng ở trình độ cao hơn. Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nguyễn Bỉnh Khiêm tục gọi Trạng Trình, tương truyền là người am hiểu lý số, thấu rõ lẽ thịnh suy: “ Bát quái tượng suy thiên vãng phục, Sở thanh quyên nghiệm thế hưng suy ” ( Tượng của tám quẻ suy biết sự đi và sự trở lại của trời, Vài tiếng đổ quyên đủ chiêm nghiệm về điều thịnh suy ở đời )

Page 429: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

428

Thấu rõ lẽ thịnh suy tức là thấu rõ nguyên lý âm dương, mâu thuẫn với những đặc tính phù hợp với phép biện chứng quân bình, được hình dung bằng đường biểu diễn có dạng hình “ sin”, phần lồi lõm đắp đổi nhau theo thời gian, và từ đó rút ra kinh nghiệm sống: “ Âm đã lại dương, đành máy nhiệm, Bĩ thôi thì thái ấy cơ thường ” ( Thơ chữ Nôm-Nguyễn Bỉnh Khiêm ) Còn Nguyễn Công Trứ: “ Số khả bĩ rồi thời lại thái, Cơ thường đông hết hẳn sang xuân. Trời đâu riêng khó cho ta mãi, Vinh nhục dù ai cũng một lần ” ( Vịnh cảnh nghèo ) hay: “ Thôi thời thôi quân tử cố cùng, Cùng khi ấy hẳn là thông khi khác ” ( Quân tử cố cùng ) Đây không phải là thái độ lạc quan, tin tưởng suông, mà là sự tin tưởng đi đôi với niềm hy vọng có cơ sở dựa trên qui luật biến dịch khách quan của thế giới tự nhiên. Ý thức được qui luật khách quan như thế, nhưng không bằng thái độ tiêu cực chờ thời, mà bằng thái độ tích cực, lo tu tâm, dưỡng tánh, rèn luyện khả năng, tích lũy năng lực, chờ cơ hội thuận lợi quyết tâm thực hiện sự đổi đời, chuyển cơn bĩ cực thành thái lai. Đó cũng là ý nghĩa của qui luật lượng biến thành phẩm được trình bày tiếp theo sau đây.

Qui luật lượng biến thành phẩm và ngược lại Qui luật này nói về cách thức của sự vân động làm thay đổi tính chất của sự vật và được phát biểu như sau: Qui luật lượng phẩm là qui luật về sự tác động biện chứng giữa lượng và phẩm, trong đó những thay đổi về lượng đưa đến những thay đổi về phẩm và ngược lại. Phẩm là tính cách qui định vốn có của hiện tượng và sự vật, là thuộc tính căn bản của chúng, nói lên chúng là gì để phân biệt với cái khác.

Page 430: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

429

Lượng là tính cách qui định của hiện tượng và sự vật về độ lớn, mức độ, về con số các thuộc tính, các yếu tố cấu thành...ví dụ như vận tốc của ánh sáng là 300.000 km/sec, độ dài sóng của ánh sáng màu tím là 400nm, một phân tử nước gồm hai nguyên tử khinh khí ( Hydro ) và một nguyên tử dưỡng khí ( Oxy ). Phẩm và lượng đều có tính khách quan, vì sự vật có phẩm, lượng đều là những dạng vật chất cụ thể của năng lượng, chiếm một vị trí nhất định trong không gian và tồn tại trong một thời gian nhất định. Mỗi sự vật là một thể thống nhất của hai mặt lượng và phẩm. Hai mặt này qui định lẫn nhau trong một tương quan với mức độ nào đó nhất định để cho sự vật tồn tại, nghĩa là vẫn còn là nó mà chưa biến thành cái khác với nó. Chúng không đứng biệt lập, mà có tác động qua lại với nhau làm cho sự vật vận động, biến đổi không ngừng. Qui luật lượng phẩm thật ra là cách trình bày khác của nguyên lý “Âm cực, dương sinh; dương cực âm sinh” hay “ Dịch, cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu” hay cũng có thể đối chiếu với cách vận hành bằng đường biểu diễn hình “ sin”, mà trong một chu kỳ có hai lần chuyển hóa tại hai chóp đỉnh. Thông thường thì sự vận động, biến đổi của sự vật và hiện tượng bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Sự thay đổi này không tức khắc dẫn đến sự thay đổi về phẩm, chỉ khi nào sự thay đổi về lượng đã đạt đến giới hạn nhất định dành riêng cho mỗi hiện tượng, sự vật đó mới có sự thay đổi về phẩm. Sự thay đổi về lượng dẫn đến sự biến đổi phẩm tính xảy ra thường xuyên, phổ biến trong thế giới tự nhiên, trong xã hội cũng như trong tư duy của con người. Ví dụ trong điều kiện áp suất bình thường thì những nhiệt độ 0°C và 100°C là những ranh giới hạn định phân biệt ba thể của nước là rắn, lỏng và hơi. Bảng phân loại tuần hoàn các nguyên tố của Mendelejew (1834-1907 ) cho thấy sự liên hệ của các nguyên tố với lượng proton trong hạt nhân của nguyên tử. Khi số lượng proton thay đổi thì nguyên tử này sẽ trở thành nguyên tử của nguyên tố khác. Trong đời sống xã hội, sự phát triển không ngừng của các phương thức sản xuất đưa đến sự phát triển các lực lượng sản xuất. Khi sự phát triển này đạt đến một trình độ nhất định nào đó thì các quan hệ sản xuất, các quan hệ xã hội cũ lỗi thời được thay thế bằng quan hệ mới thích ứng. Trong các mối quan hệ đó, có hai hình thức căn bản về sở hữu tư liệu sản xuất là sở hữu tư nhân và sở hữu xã hội. Theo quan điểm của phép biện chứng quân bình, dù với hình thức nào, nếu sự tích lũy vốn đầu tư được

Page 431: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

430

thực hiện đúng mức, đúng với qui luật khách quan, hợp thời cơ thì sẽ có sự phát triển kinh tế với những bước nhảy vọt, chứ không riêng không hình thức sở hữu xã hội như quan điểm vô sản của phép biện chứng duy vật, vì thực ra hình thức nào cũng có ưu và khuyết điểm cả. Trong lãnh vực tư duy và nhận thức cũng vậy, kiến thức của con người có được là do sự giáo dục, nghĩa là do sự tích lũy dần dần những kiến thức như kiến thức khoa học, kỹ thuật, triết học, nghệ thuật...nói chung những tinh hoa của nhân loại cùng với sự phát huy năng lực sáng tạo của mình qua những công trình nghiên cứu, khai triển mà có. Sự tích lũy này rất phong phú, đa dạng, không những chỉ có được từ những hoạt động của ý thức con người, mà còn phát xuất từ sự tích lũy khó có thể đo lường được từ tầng lớp vô thức sâu thẳm. Sự tích lũy này khi đã tràn đầy thì đột nhiên trào vọt lên vùng ý thức theo như qui luật lượng biến thành phẩm, thường khi qua những giấc mơ kỳ diệu của các nhà phát minh, các nhà tư tưởng như trường hợp của Descartes chẳng hạn. Người ta kể lại rằng, trong đêm 10 tháng 11 năm 1619, khi Descartes cùng với đoàn quân đang chiến đấu trên bờ sông Donau, cuộc đời tư tưởng của ông bỗng rẽ sang khúc quanh quan trọng. Sau đó ít lâu, ông xác nhận rằng, trong đêm hôm đó ông đã nằm mơ và qua giấc mơ đó ông đã phát giác được những nguyên tắc cơ bản cho hệ thống tư tưởng của ông trong cuốn sách “ Méditationes de prima Philosophiae” ( Nguyên lý triết học ) và nhất là châm ngôn triết lý nổi tiếng : “ Cogito, ergo sum ” hay “ Je pense, donc je suis ” ( Tôi tư duy, vậy thì tôi tồn tại ) Nói tóm lại, nền văn minh hiện tại là kết quả tích tụ dần dần của những tiến bộ về vật chất cũng như tinh thần qua nhiều thế hệ và trong thực tế do mức độ tích lũy về lượng mà nền văn minh của nhân loại đã có những bước nhảy vọt vượt bực như ngày nay. Qui luật lượng phẩm cũng qui định việt tính hay siêu việt tính, tức khả năng thăng hoa thành những tinh hoa ưu việt của con người. Ngoài qui luật về sự biến đổi lượng dẫn đến sự biến đổi về phẩm chất, cũng có qui luật ngược chiều lại, nghĩa là khi chất mới ra đời với những thuộc tính mới thì nó cũng tạo ra lượng mới phù hợp để có một tương quan lượng phẩm trong sự thống nhất của chất mới. Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, qui luật lượng phẩm cũng đã được nói đến ở nền văn học bình dân cũng như văn học bác học. Những câu tục ngữ như: _ “ Tích tiểu thành đại ” _ “ Có công mài sắt, có ngày nên kim ”

Page 432: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

431

đều chứa đựng ý nghĩa của qui luật lượng phẩm. Ngoài ra, để nói lên ước mơ về sự nhảy vọt, người ta lại có huyền thoại về sự kỳ diệu của “ đôi hia bảy dặm ” cũng như câu chuyện “ Cá chép vượt Vũ môn ”. Theo chuyện xưa tích cũ, hàng năm cá chép kéo nhau tới Vũ môn thi nhảy, con nào vượt qua được thì hóa rồng, tức là đã đạt được phẩm chất cao tột, còn như không được thì quay về tu luyện tiếp để qua năm tới lại đến dự thi nữa. Việc siêu vượt để hóa rồng không phải là một việc dễ dàng, cho nên mới có câu ca dao như sau: “ Bao giờ cá lý hóa long, Đền ơn cha mẹ ẵm bồng ngày xưa ” Trong nền luân lý truyền thống dân tộc Việt Nam, công ơn cha mẹ đối với các con rất to lớn, khó có thể đền đáp trọn vẹn cũng như việc cá chép hóa rồng. Theo Thiền uyển truyền đăng tập lục, một hôm có nhà sư hỏi Thiền sư Giác Hải: “ Phật với chúng sinh ai là khách, ai là chủ ” ( Phật dữ chúng sinh thùy tân thùy chủ ) Thiền sư thuyết kệ rằng: “ Liễu dụng nhữ đầu bạch, Báo nhĩ tác lão thức. Nhược vấn Phật cảnh giới, Long môn tao điểm ngạch ” Bùi Lương dịch: ( Khi người tóc đã sương pha, Thì cho người kết bạn già cùng ai. Muốn hỏi cảnh giới Như Lai, Long môn điểm ngạch lại quay trở về ) Vào khoảng tháng ba, cá chép vượt Vũ môn để thành rồng, nếu không được thì bị chấm trên trán làm dấu mà quay trở về. Bài kệ này ý nói quan hệ giữa chúng sinh với Phật cũng như cá chép hóa long, tức là theo qui luật lượng phẩm. Trong bài “ Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca ” vua Trần Nhân Tông cũng xác nhận rằng việc tu hành đắc đạo không phải là chuyện dễ dàng và còn nói rõ lý do vì sao? “ Phô người học đạo, Vô số nhiều thay. Trúc hóa nên rồng,

Page 433: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

432

Một hai là họa. Bởi lòng vờ vịt, Trỏ Bắc làm Nam...” Bài “ Vô cầu” của Nguyễn Công Trứ cũng có viết: ...“ Phận tài hoa đành có lúc vẻ vang, Đường khoa mục xa nhau đà mấy bước. Sóng Võ lớp sau như lớp trước, Chí vẫy vùng ai có kém ai đâu...” Sóng Võ là sóng nước ở Võ Môn, cá chép đến thi nhảy, con nào vượt qua được thì hóa rồng, ý nói người ta làm nên công danh, sự nghiệp vẻ vang. Muốn thành công trong công danh, sự nghiệp, người nam nhi trước hết phải thực hiện đạo lập thân, tích lũy mọi năng lực tiềm tàng cho thật sung mãn: “ Đạo lập thân phải giữ lấy cương thường. Khí hạo nhiên chí đại chí cương, So chính khí đã đầy trong trời đất...” chuẩn bị chuyển lượng thành phẩm, “chuyển sở tồn thành sở dụng” khi thời cơ đến: “ Rồng mây khi gặp hội ưa duyên, Đem quách cả sở tồn làm sở dụng ” ( Kẻ sĩ- Nguyễn Công Trứ ) Biện chứng pháp là khoa học về những định luật vận động của thế giới tự nhiên, của xã hội, của lịch sử cũng như của tư duy con người, mà theo Marx thì những sự vận động đó thường có tính cách nhảy vọt ( sprunghaft) và có tác dụng tai họa ( von katastrophaler Wirkung ). Sự nhận định trên có tính cách phiến diện vì chỉ căn cứ vào tác dụng của hiện tượng, mà không để ý theo dõi quá trình sự vận động liên tục ngấm ngầm trong lòng sự vật, hiện tượng. Ví dụ như khi chúng ta đun 1kg nước lạnh ở 10°C , nước chỉ bắt đầu sôi khi nhiệt độ của nó đạt đến 100°C. Việc đun nước cho sôi cần một quá trình nhất định, chứ không xảy ra ngay lập tức, cho nên không thể nói là đột ngột. Nhiệt lượng cần thiết để đun sôi 1kg nước ở 10°C là: Q = m.c.( T2-T1) = 1kgx 4,2 kJ/kg.°C ( 100°C-10°C ) = 378 kJ Nếu chưa cung cấp đủ số nhiệt lượng cần thiết tối thiểu tương ứng thì nước chưa sôi. Trong việc nấu cơm, khi nước đã sôi rồi thì cơm chưa chắc

Page 434: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

433

hẳn đã chín, mà phải cần một thời gian nhất định, có lẽ vì vậy mà Tú Xương mới nói: “ Học đã sôi cơm mà chưa chín ” Trong sự biến hóa của thế giới hiện tượng, sự vật vật chất có hai giai đoạn vận động cần phân biệt: giai đoạn đầu là biến có tính cách chậm chạp, từ từ nên khó nhận thấy rõ ràng; như vậy biến là tiệm biến. Sự tiệm biến có nghĩa là sự tích lũy lượng để chuẫn bị chuyển thành phẩm. Còn hóa là cuộc chuyển biến đã hoàn thành, nên xảy ra nhanh hơn; như vậy hóa là đột biến ( Biến giả, hóa chi tiệm; hóa giả, biến chi thành ) Như vậy khi xét quá trình biến hóa của hiện tượng, sự vật, mà không để ý đến sự chuyển biến ngấm ngầm bên trong, chỉ căn cứ ở hiện tượng bên ngoài thì cho rằng sự vận động có tính cách nhảy vọt đột biến một cách tai họa. Cách nhận định phiến diện này đã đưa đến chủ thuyết bạo lực cách mạng, bài bác chủ nghĩa cải lương, cải cách, mà thực ra cải cách là để tránh sự biến động cực đoan, đột biến, tai họa. Sự vật nếu nhìn bên ngoài thì thấy dường như im lìm, nhưng thực ra bên trong luôn luôn có sự vận động ngấm ngầm liên tục. Dịch Hệ từ ( Văn ngôn ) có ghi: “ Thần thí kỳ quân, tử thí kỳ phụ, phi nhất triêu nhất tịch chi cố, kỳ sở do lai giả tiệm hĩ ” nghĩa là tôi mà giết vua, con giết cha, cái cớ không phải trong một sớm một chiều, nguyên do lần lần mà đến vậy. Ở Hệ từ hạ cũng có ghi: “ Thiện bất tích bất túc dĩ thành danh; ác bất tích bất túc dĩ diệt thân ” nghĩa là điều thiện mà không chất chứa lâu thì không đủ để thành việc thiện; điều ác mà không chất chứa lâu, không đủ để làm hại thân. Về điều này, có người vẫn còn lấn cấn, hoài nghi tại sao mình suốt đời làm điều thiện, hành động theo lẽ phải mà vẫn cứ lận đận, không may, còn những kẻ gian ác, nhũng lạm lại cứ phây phây sung sướng; đó là vì đường ranh giới giữa lành-dữ, họa-phúc chưa tới, nhưng chắc chắn sẽ tới. Quốc sư Viên Thông ( 1079-1151 ) được vua Lý Thần Tông hỏi về cái lý trị loạn hưng vong, ông trình tấu rằng: “...Cái nguyên lý trị loạn là ở các quan, dùng được người hiền thì trị an, dùng người không đúng chỗ thì nguy loạn. Tôi xem các Đế vương đời trước chưa từng vì chẳng dùng quân tử mà được thịnh trị, vì dùng tiểu nhân mà bị nguy vong vậy. Xét lý do sở dĩ như thế, không phải tại ngay trước mắt, một sớm một chiều đâu, do lai phải đã từ lâu ngấm ngầm vậy... Ấy là cái lý ngấm ngầm thịnh, suy ở đấy ”.

Page 435: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

434

Ở triều đại nhà Hậu Lê, Tống Nho độc tôn đã đánh mất đạo sống quân bình truyền thống của dân tộc, mất hết khả năng thâu hóa sáng tạo của hệ tư tưởng thời Lý- Trần, chuộng hình thức, chú trọng lượng hơn nội dung, phẩm chất, bóp nghẹt Việt tính, tức là bản tính thanh cao của dân tộc, cũng là khả năng siêu việt, tức khả năng thực hiện những bước nhảy vọt theo qui luật lượng phẩm để trở thành những con người tài đức phi thường, những vị anh hùng dân tộc. Tình trạng nhân tài thời đó đã được Nguyễn Trãi mô tả trong Bình Ngô đại cáo như sau: “ Vừa khi cờ nghĩa dấy lên, chính lúc quân thù đang thịnh. Lại ngặt vì: tuấn kiệt như sao buổi sớm, nhân tài như lá mùa thu.” Nhân tài đã khan hiếm dường ấy, mà triều đình vị kỷ, bất minh nghe lời sàm tấu của nịnh thần ám hại anh hùng, hào kiệt mà điển hình nhất là vụ án tru di tam tộc vị Đại khai quốc công thần, Đại anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi. Xã hội thời này có khuynh hướng xuống dốc ( ngoại trừ đời vua Lê Thánh Tông ) và cho đến thời đại Nam triều- Bắc triều, Trịnh Nguyễn phân tranh thì lại càng sa sút, bọn Nho quan xấu xa kết bè đảng chỉ lo cho quyền lợi riêng tư, ích kỷ, mặc cho dân đói khổ. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã vạch rõ bản chất xấu xa đó trong bài bia ở quán Trung Tân ( Trung Tân quán bi ký ): “ Khi ở triều đình thì tranh nhau về danh, khi ở chợ búa thì tranh nhau về lợi; khoe là sang thì lầu son gác tía, khoe giàu thì vũ tạ ca lâu; thấy ngoài đường có người chết đói, không dám bỏ một đồng tiền ra cứu giúp; thấy cánh đồng có người nằm sương, không chịu bỏ một nắm rạ ra để che đậy... Hiển đạt sang trọng thì kiêu căng, giàu có thì xa xỉ. Nhà cửa trang hoàng lộng lẫy, chạm trổ vẽ vời. Xa xỉ cùng cực, lấy sáp đun thay củi, lấy đường trát vò. Say rượu nồng, no chất tươi, mặc áo da nhẹ, cỡi ngựa béo...tối mắt về lợi lộc, như cuồng như ngây.” Nguyễn Bỉnh Khiêm đã ví bọn Nho quan tham lam, nhũng lạm như những con chuột đáng ghét, đáng khinh bỉ trong bài “ Ghét chuột” ( Tăng thử ): “ Mi chui vào góc thành, nấp trong hang hốc nền xã, ẩn náu tính mưu gian. Quỷ thần và nhân dân căm ghét mi, nỗi oán hờn chồng chất ở trong bụng ”. Lũ chuột gian manh, bẩn thỉu đào hang, khoét ngạch ẩn náu nơi nền xã tắc, góc thành, lăng miếu là những nơi không một ai dám động đến cũng

Page 436: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

435

như bọn tham quan kết bè, lập đảng núp vào thế lực của triều đình mà sách nhiễu nhân dân. Ở phép biện chứng quân bình, qui luật lượng phẩm diễn tiến cả hai chiều thuận nghịch: thuận lợi và không thuận lợi tùy theo thời gian, không gian, cho nên có lúc thịnh, lúc suy chứ không phải lúc nào cũng tiến lên. Lũ chuột đào hang, khoét ngạch, lộng hành đến một lúc nào đó thì theo qui luật lượng biến thành phẩm, nền đất lở toang; lúc đó xã tắc, lăng miếu, thành trì sụp đổ, tan nát. Trong lãnh vực khoa học tự nhiên, những hiện tượng như núi lửa, động đất, sóng thần...thường xảy ra đột biến gây tai họa, nhưng thật ra cái mầm mống đã có sẵn từ lâu và phát triển dần dần theo qui luật lượng phẩm. Ngày nay với những phương tiện tinh vi, máy đo chính xác, người ta đã biết được rõ ràng sự vận động ngấm ngầm ở bên trong lòng quả đất do sự mất quân bình gây, dự báo trước những biến cố sẽ xảy ra để lo liệu. Sự mất quân bình lúc đầu còn ít nên khó nhận ra, nhưng cứ tăng dần cho đến khi vượt quá giới hạn nhất định thì bùng nổ dữ dội, qua đó trạng thái mất quân bình được giải quyết, trạng thái quân bình được phục hồi đúng như qui luật “ Dịch: cùng tắc biến, biến tắc thông ”. Trạng thái quân bình mới này cũng chỉ tạm thời để rồi lại bị phân hóa, đưa đến tình trạng mất quân bình và quá trình vận động mới lại bắt đầu. Đó là cách thức vận động ngay trong lòng quả đất từ bao đời, đã làm cho bộ mặt của nó luôn luôn thay đổi cho đến ngày nay.

Qui luật phủ định của phủ định Ngoài qui luật mâu thuẫn, qui luật lượng phẩm, phép biện chứng còn có qui luật phủ định của phủ định. Thế giới hiện tượng, sự vật vật chất vận động, biến đổi không ngừng, một hình thức nào đó của sự vật được sinh ra, tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định tùy theo từng giống loài, rồi lại được thay thế bằng một hình thức mới khác. Trong triết học, sự thay thế một hình thức này bằng một hình thức mới khác được gọi là phủ định biện chứng. Sự phủ định biện chứng có những đặc tính như sau: _ Tính khách quan: Sự phủ định biện chứng là kết quả của sự giải quyết mâu thuẫn bên trong bản thân hiện tượng, sự vật. Chúng ta đã biết, mâu thuẫn có tính cách khách quan, cho nên sự giải quyết mâu thuẫn, tức sự

Page 437: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

436

phủ định biện chứng, một yếu tố tất yếu của quá trình vận động biện chứng cũng có tính khách quan. Cái vỏ trứng gà có nhiệm vụ bảo bọc con gà con lúc chưa đủ sức nở, nhưng đến thời kỳ con gà con đã phát triển đầy đủ thì cái vỏ trứng sẽ không còn cần thiết nữa, mà trở thành chướng ngại vật, con gà con phải ra sức phá vỡ để sống còn và phát triển, nếu không như thế nó phải chết. Cái vỏ của hạt lúa cũng có tác dụng tương tự như vỏ trứng gà, che chở cho cái mầm của hạt lúa. Khi cái mầm non đã phát triển đầy đủ, cái vỏ bị phủ định để cho cái mầm non trở thành cây lúa. Nói tóm lại, sự phủ định biện chứng là điều kiện cần thiết cho sự siêu xuất tính thể. Căn cứ vào những hiện tượng trong thiên nhiên như rắn lột da, cua lột vỏ để phát triển, người bình dân Việt Nam thường nói: “ Lột da sống đời ” hay “ lột xác ” Đó là một cách phát biểu sự phủ định biện chứng của giới bình dân, phủ định một hình thái này để làm xuất hiện một hình thái mới cao hơn. _ Tính tương đối: phủ định biện chứng không thể là sự phủ định tuyệt đối, đoạn tuyệt hẳn với cái cũ, mà có tính tương đối, cái mới ra đời trên nền tảng của cái cũ chứ không phải từ hư vô. Điều này thật rõ ràng, vì phép biện chứng quân bình thừa nhận tính tương đối của mâu thuẫn như đã nói ở phần qui luật mâu thuẫn, tức là không tuyệt đối hóa các mặt đối lập của mâu thuẫn. Thật vậy, nếu mâu thuẫn tuyệt đối thì làm sao có thể có sự chuyển hóa các mặt đối lập. Sự chuyển hóa này thực ra cũng là sự phủ định biện chứng, cho nên nó không phá hủy hoàn toàn , đoạn tuyệt hẳn với cái cũ, mà là bắt nhịp cầu để chuyển cái cũ sang cái mới một cách có chọn lọc trong liên hệ giữa phủ định với khẳng định trong quá trình vận động. Cũng vì thế, người ta còn nói rằng phủ định biện chứng có tính kế thừa. Sau khi phủ định, nếu yếu tố tích cực nhiều hơn tiêu cực thì đó là sự tiến hóa, còn ngược lại là sự thoái hóa. Như vậy theo phép biện chứng quân bình, sự vận động của thế giới hiện tượng, sự vật có lúc thịnh, lúc suy, lúc tiến, lúc thoái chứ không thuận tiến một chiều một cách máy móc, nó tùy thuộc vào nhiều yếu tố nội tại cũng như ngoại tại phức tạp trong tổng hợp quân bình. Theo khoa di truyền học ( Genetik ), các giống loài phát triển theo luật di truyền, các thế hệ sau kế thừa các yếu tố của thế hệ trước, tiếp thu được nhiều yếu tố tích cực hơn thì phát triển, còn ngược lại là suy thoái, có khi diệt vong. Điều này dĩ nhiên còn tùy thuộc vào khả năng thích ứng với môi trường sống ( yếu tố ngoại tại ) do nguyên lý quân bình.

Page 438: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

437

Tục ngữ Việt Nam có câu: “ Con hơn cha là nhà có phúc ” Thế hệ sau trội hơn thế hệ trước, có nghĩa là dòng họ được hưng phát, là có phúc. Câu này vừa hợp với qui luật tự nhiên, vừa có ý nghĩa khai phóng làm cho Việt tính phát triển tự do, trái với câu tục ngữ sau đây: “Áo mặc sao qua khỏi đầu ” Câu sau mang nặng thành kiến, chịu ảnh hưởng nặng nề tư tưởng văn hóa nô dịch của các chủ nghĩa đế quốc phong kiến, bóp nghẹt Việt tính, là khả tính thể hiện qui luật lượng phẩm, khả tính siêu việt để trở thành con người phi thường. Điều quan trọng để có tiến hóa là ở qui luật lượng phẩm, ở cái phẩm chất của sự tích lũy lượng như kinh Dịch Hệ từ ( Văn Ngôn ) nói: “ Cái nhà tích lũy điều lành, ắt có thừa điều phúc; tích lũy điều không lành, ắt có thừa điều họa ” ( Tích thiện chi gia, tất hữu dư khương; tích bất thiện chi gia, tất hữu dư ương ) Như vậy sự phủ định biện chứng không ra ngoài qui luật nhân quả, và vì phép biện chứng cũng dựa trên qui luật liên hệ phổ biến, cho nên phủ định biện chứng nhất định không có tính chất hư vô chủ nghĩa. Sách “ Triết học Mác-Lênin ” trang 159 có viết: “ Những người thuộc phái văn hóa vô sản ở Nga đầu những năm cách mạng có thái độ phủ định sạch trơn nền văn hóa quá khứ. Theo họ nền văn hóa vô sản không có liên quan gì với nền văn hóa trước. Họ chủ trương xây dựng lại từ đầu nền văn hóa mới của giai cấp vô sản ”. Nhưng thực ra đây không phải là hiện tượng chỉ có ở phái văn hóa vô sản Nga, mà hầu hết các nước XHCN một thời đều có thái độ hư vô chủ nghĩa như thế qua các cuộc cách mạng văn hóa cực đoan. Biện chứng pháp là một phương pháp tư tưởng có tính cách khoa học để xác định chân lý, tuy nhiên nắm vững và biết vận dụng chính xác để không có lỗi lầm không phải là chuyện đơn giản. Việc xây dựng nền văn hóa dân tộc là việc làm vô cùng quan trọng, cho nên không được phép sai lầm, là bởi vì: “ Trật một ly, đi ( sai ) một dặm ” ( Tục ngữ Việt Nam ) Lảo Tử ngày xưa đã nói cái ý ấy như sau: “ Làm thầy thuốc mà sai lầm thì làm hại một người, Làm thầy địa lý mà sai lầm thì làm hại một họ, Làm chính trị mà sai lầm thì làm hại một nước, Còn làm văn hóa mà sai lầm thì làm hại muôn đời ”.

Page 439: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

438

Nếu so sánh tương quan giữa chính trị và văn hóa, Albert Einstein ( 1879-1955 ), người được thế giới tôn vinh là người của thế kỷ XX đã nói: “ Đối với tôi, phương trình quan trọng hơn, vậy thì chính trị cho hiện tại, còn phương trình trái lại cho muôn đời ”. ( Gleichungen sind mir wichtiger, denn Politik ist für die Gegenwart, eine Gleichung hingegen für die Ewigkeit ). Phương trình là tiêu biểu cho chân lý đúng đắn vượt không gian, thời gian. Nó cũng tiêu biểu cho một nguyên lý quan trọng nhất trong các nguyên lý của thế giới tự nhiên, đó là nguyên lý quân bình. Nguyên lý này trong thế giới tự nhiên có tính tương đối, chứ không tuyệt đối như phương trình toán học, vì nếu không như thế, mọi sự vật sẽ im lìm, bất động, sẽ là sự chết. Không có nguyên lý quân bình làm giềng mối thì vũ trụ hỗn loạn, không có trật tự, không có hài hòa, và như vậy cũng không có các qui luật tự nhiên nữa. Không theo đúng nguyên lý quân bình thì nhận thức thiên lệch, do đó chân lý được nhận thức cũng chỉ là chân lý phiến diện mà thôi. Như vậy muốn xây dựng và phát triển tốt nền văn hóa dân tộc, phải quay về với phép biện chứng quân bình đặt trên cơ sở của nguyên lý quân bình chứ không phải phép biện chứng duy vật thiên chấp vào một chiều hướng, có nghĩa là dựa trên những nguyên tắc như sau: _ Kế thừa có ý thức di sản quý báu ( những cái hay đẹp ) của nền văn hóa truyền thống dân tộc. _ Tiếp thu có chọn lọc tinh hoa của những nền văn hóa nhân loại, chứ không phải tôn sùng những thứ văn hóa nô dịch của các chủ nghĩa đế quốc. _ Tổng hợp sáng tạo để xây dựng một nền văn hóa hiện đại, tiến bộ vừa có tính nhân bản phổ biến, đại đồng vừa mang sắc thái dân tộc. Một nền văn hóa gọi là văn hóa dân tộc, mà không hề thấy nổi bật lên những yếu tố nền tảng nào của dân tộc cả, chỉ là nhóm từ ngữ suông, trống rỗng, không nội dung thì vô nghĩa. Muốn xây dựng thành công một nền văn hóa dân tộc với đầy đủ ý nghĩa thể tính của nó, không gì khác hơn là từ bỏ vọng tưởng, nói như vua Trần Thái Tông: “ Nhận tặc tác tử „ nghĩa là nhận thằng giặc làm con mình, độc tôn chủ thuyết ngoại lai, mà hãy quay về với dân tộc, phục hưng và tạo điều kiện thuận lợi để phát huy Việt tính thay vì trấn áp nó. Nguyên tắc tổng hợp sáng tạo rất quan trọng, nó quyết định sức sống của một nền văn hóa sinh động, tiến bộ hay trì trệ, lạc hậu. Đó là tác động bao gồm sự tiếp thu chọn lọc và biến hóa sáng tạo. Nếu chỉ có sự tiếp thu,

Page 440: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

439

nhất là sự tiếp thu có tính máy móc, lại thiếu khả năng biến hóa sáng tạo, thì sự tổng hợp chỉ là sự góp nhặt, chắp nối những mảnh vụn vặt, rời rạc có tính cách “ đầu voi, đuôi chuột „ để rồi dẫn đến tình trạng “ trống đánh xuôi, kèn thổi ngược „ làm thiệt hại đến khối đại đoàn kết quốc gia. Sự tổng hợp thâu hóa sáng tạo của phép biện chứng quân bình có khả năng như khả năng tiêu hóa của một thân thể mạnh khỏe, tiếp thu thức ăn ngon lành các thứ để rồi biến hóa chúng thành chất bổ dưỡng cần thiết cho sự sống, làm cho thân thể tráng kiện. Theo lịch sử, cuộc tổng hợp sáng tạo văn hóa thời đại Lý-Trần là tiêu biểu và thành công nhất, trong đó ba nguồn tư tưởng Phật, Nho, Lão đã được tổng hợp sáng tạo trên cơ sở Việt tính, mà người ta gọi là “ Tam giáo đồng nguyên „ Qua cuộc tổng hợp thâu hóa sáng tạo này, Phật giáo đã trở thành Phật giáo dân tộc, Nho giáo đã trở thành Việt Nho đã làm phong phú cho nền văn hóa dân tộc. Thời đó có rất nhiều vị Thiền sư nổi tiếng, đã có những đóng góp lớn lao trong mọi lãnh vực tín ngưỡng, văn hóa, chính trị…đã góp phần xây dựng và bảo vệ đất nước hữu hiệu, ví dụ như Thiền sư Vạn Hạnh, người đã có công rất lớn đưa Lý Công Uẩn lên ngôi vua, sáng lập ra một triều đại nhà Lý thịnh vượng, lâu dài. Vua Lý Nhân Tông đã công nhận cái triết lý “ dung tam tế „ của Thiền sư là cơ bản cho ý thức dân tộc thời đó: “ Vạn Hạnh dung tam tế Chân phù cổ sấm thi Hưng quan danh Cổ Pháp Trụ tích chấn vương kỳ „ ( Vạn Hạnh dung ba cõi Thật hiệp lời sấm xưa Quê hương tên Cổ Pháp Chống gậy trấn kinh đô ) Lời thơ khen tặng của nhà vua biểu dương tinh thần của giới trí thức Thiền sư đã tổng hợp sáng tạo lý tưởng với hiện thực, đạo với đời, dung ba cõi quá khứ, hiện tại, tương lai thành đạo sống nhất quán cho dân tộc ở thế kỷ thứ XII. Trên đây là những nét khái quát về sự phủ định biện chứng và sau đây là qui luật phủ định của phủ định. Qui luật này có thể phát biểu tóm tắt như sau: Trong sự vận động của thế giới hiện tượng, sự vật vật chất có vô số những lần phủ định biện chứng. Những chuổi phủ định này làm cho sự vật

Page 441: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

440

luôn luôn phát triển.Trong những chu kỳ của sự vận động, sau một số lần phủ định, hiện tượng, sự vật dường như lập lại trạng thái cũ, nhưng thường trên cơ sở cao hơn. Để minh giải cho qui luật phủ định của phủ định, người ta thường lấy ví dụ quá trình vận động phát triển của cây lúa. Đem gieo hạt lúa vào mảnh đất đã được chuẫn bị với những điều kiện thích hợp, nó sẽ nẩy mầm. Hạt lúa đã biến đổi đi không còn là hạt lúa nữa, nó đã bị phủ định, bị thay thế bởi một dạng khác là cây lúa. Đó là sự phủ định hạt lúa. Trong khi đó, cây lúa dần dần lớn lên, đơm hoa, kết quả thành những gié lúa với nhiều hạt lúa. Khi những hạt lúa này chín thì cây lúa chết đi để trở thành rơm rạ, bản thân cây lúa đã bị phủ định. Kết quả của sự phủ định lần thứ hai này là sự xuất hiện của nhiều hạt lúa, nhưng không phải là một hạt lúa y nguyên như lúc trước, mà là những hạt lúa mới khác. Ở đường biểu diễn hình “ sin „ trong một chu kỳ dao động có hai lần phủ định, tức là chuyển hướng tại hai điểm uốn ở phần âm, phần dương. Thế giới hiện tượng, sự vật trong thiên nhiên có muôn hình, nghìn vẻ, cho nên những bước phủ định trong quá trình vận động phát triển cũng rất khác nhau. Mỗi giống loài đều có những phương thức phủ định riêng của nó. Đời sống của hạt lúa thì có hai lần phủ định, nhưng đời sống của giống tằm, loài ếch lại có nhiều lần phủ định hơn. Ở bảng phân loại tuần hoàn các nguyên tố của Mendelejew, các nguyên tố cũng phát triển qua nhiều lần phủ định mới lập lại tính chất cũ trên cơ sở cao hơn. Trước đây ở phần nguyên lý tuần hoàn chúng tôi có nói đến những vòng tuần hoàn nhỏ và những vòng tuần hoàn lớn trong vũ trụ. Phối hợp nguyên lý này với phép biện chứng quân bình thì thấy chân lý không biến thiên theo đường thẳng, mà hình như theo đường xoắn ốc. Một cách gần đúng, có thể đem đường xoắn ốc này về dạng đơn giản của vòng tròn lượng giác trên mặt phẳng thẳng góc với trục của nó. Từ đó nổi bật lên đặc tính của sự vận động, sự vận động theo dạng dao động có tính cách tuần hoàn, có chu kỳ, có sự phân cực và do đó xuất hiện mâu thuẫn với các mặt đối lập ( âm dương ). Rồi sự vận động này lại liên hệ với những vòng tuần hoàn lớn, mà có thể hiện nay đang còn ở trong khoảng thuận lợi, cho nên mặc dầu có thăng trầm, thịnh suy ( vòng tuần hoàn nhỏ ), nhưng nói chung sự vận động đang có chiều hướng phát triển, tiến hóa chứ không phải vĩnh viễn tiến hóa một cách máy móc.

Page 442: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

441

Thực ra sự vận động của thế giới vạn vật không đơn giản, mà tùy thuộc vào sự tổng hợp quân bình phức tạp của nhiều yếu tố nội tại, ngoại tại, mà như Phật giáo đã nói là tùy thuộc nhân duyên. Nhân là yếu tố nội tại, duyên là yếu tố ngoại tại, là môi trường chung quanh. Nếu có sự xáo trộn xảy ra thì sự vận động cũng chịu ảnh hưởng theo mà thông thường là theo chiều hướng không thuận lợi vì mất quân bình đột ngột ví dụ như khi có những khối vẫn thạch lớn thình lình tiến lại gần quả đất, hoặc một cuộc chiến tranh nguyên tử xảy ra. Các nhà khoa học đã có bằng chứng cụ thể về sự rơi của các khối vẫn thạch xuống quả đất, làm thay đổi, xáo trộn đột ngột môi sinh khiến loài khủng long thời cổ bị diệt vong. Như đã nói, sự mất quân bình là nguyên nhân của sự vận động, nhưng sự mất quân bình cực đoan sẽ đưa tới tai họa. Rồi sau một thời gian, tình trạng quân bình ( tương đối ) được tái lập trong mối quan hệ mới và trên mặt địa cầu lại xuất hiện những giống loài mới. Quá trình vận động phát triển của hiện tượng, sự vật thường diễn ra quanh co, phức tạp nhứt là trong đời sống xã hội, nó còn tùy thuộc vào sự can thiệp của ý thức, ý chí của con người tức là tổng hợp quân bình sự vận động tự nhiên với sự vận động của ý thức. Với phép biện chứng quân bình, các quá trình vận động biện chứng không những được nhận diện rõ ràng, mà tính chất của mâu thuẫn trong phép biện chứng cũng được xác định chính xác, khách quan ( không tuyệt đối hóa các mặt đối lập của mâu thuẫn bằng chủ nghĩa duy ý chí, bằng quan điểm hẹp hòi, cực đoan), do đó tránh được những biện pháp cực đoan không cần thiết, có hại nhiều hơn lợi, để giải quyết mâu thuẫn. Sở dĩ có được như vậy là vì với phép biện chứng quân bình, người ta biết được cả nguyên nhân của mâu thuẫn là do cách thức vận động dao động có chu kỳ mà ra, chứ không phải mâu thuẫn là nguyên nhân của sự vận động phát triển. Trong phép biện chứng quân bình, nguyên lý không quân bình và quân bình liên hệ với nhau như hình với bóng cho nên sự vật mới vận động, biến dịch ( do nguyên lý không quân bình chi phối ) trong trật tự ( do nguyên lý quân bình điều động ), một điều kiện tất yếu cho tính qui luật. Nhờ có nguyên lý không quân bình mới có sự vận động dao động có chu kỳ, mới xuất hiện các mặt đối lập; rồi nhờ có nguyên lý quân bình, các mặt đối lập này mới thống nhất với nhau thành mâu thuẫn. Hình ảnh dao động của con lắc đã minh giải rõ ràng quá trình vận động của sự vật. Không có nguyên lý quân bình kết hợp với nguyên lý không quân bình để làm giềng

Page 443: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

442

mối thì không có sự tồn tại, không có sự chuyển hóa, cũng không có sự tổng hợp sinh thành. Một điều rất quan trọng trong phép biện chứng quân bình là tính tương đối của mâu thuẫn như đã nhiều lần xác định: không có vấn đề thuần dương hay thuần âm, mà trong dương có âm, trong âm có dương; sở dĩ gọi là dương vì phần dương trội hơn phần âm, sở dĩ gọi là âm vì phần âm trội hơn phần dương. Như vậy tính tương đối của mâu thuẫn cũng là tính chất mức độ của mâu thuẫn, nó tùy thuộc vào biên độ và chu kỳ của dao động. Mục đích của các mặt đối lập là để chế ngự lẫn nhau trong khuôn khổ của nguyên lý quân bình, người ta thường chủ trương giữ chúng ở mức độ trung bình hơn là thái quá. Có lẽ vì vậy mà Phật giáo theo Trung đạo, Nho giáo có Trung dung, còn Lão Tử chủ trương: “ Khứ thậm, khứ xa, khứ thái „ (ĐĐK, Chương 29 ) nghĩa là lánh bỏ những gì thái quá, còn Trang Tử thì chủ trương : “ Thánh nhân hòa chi dĩ thị phi, nhi hưu hồ Thiên quân „ nghĩa là bậc Thánh nhân vì sự hòa mà nói đến thị phi, rồi đứng yên nơi Thiên quân. Trong thiên nhiên, sự nóng lạnh thái quá sẽ gây ra bão tố, cuồng phong dữ dội, ngược lại nếu nóng lạnh có chừng mực thì khí hậu êm dịu, ôn hòa. Ánh sáng ban ngày và bóng tối ban đêm đều cần thiết cho sự sống của mọi sinh vật theo luật tự nhiên, cho nên không vì lý do gì mà chủ trương lấy ánh sáng bài trừ bóng tối ( quan sát cây me trồng trước nhà, phía có ánh sáng đèn đường không có trái ). Ánh sáng cũng có mức độ của nó. Ánh sáng có cường độ quá mạnh cũng như quá yếu đều gây khó chịu cho con người. Trong y học Đông phương, tình trạng sức khoẻ của con người căn cứ trên sự quân bình của cơ thể, cho nên phép trị liệu nhắm vào việc tái lập quân bình. Việc trị bịnh mất ngủ không có nghĩa là lấy thuốc ngủ cho bệnh nhân uống quá nhiều để ngủ li bì, mà phải chú ý đến liều lượng sao cho việc thức ngủ được điều hòa. Một chất thuốc với mức độ nào đó là cần thiết cho sức khỏe, là thuốc bổ; nhưng với mức độ khác sẽ có hại cho sức khỏe, trở thành thuốc độc hại. Trong lãnh vực triết học, chính trị chữ tự do không có nghĩa là muốn làm gì thì làm, mà sự tự do của người này được định nghĩa bằng giới hạn bởi tự do của kẻ khác. Tự do đến một mức nào đó được chấp nhận, nghĩa là ở trong phạm vi của nguyên lý quân bình. Nếu đi quá trớn, tự do của kẻ khác sẽ bị xúc phạm, nghĩa là tự do sẽ biến thành cái đối nghịch với nó

Page 444: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

443

(theo nguyên tắc dương cực, âm sinh; âm cực, dương sinh) là sự không tự do, sự nô lệ, khi ấy trật tự sẽ mất ( mất quân bình thái quá ) cần phải có độc tài với những biện pháp mạnh để tái lập lại quân bình. Ở các nước dân chủ tiên tiến, đấu tranh chính trị là đấu tranh nghị trường, trong đó không có vấn đề lấy đường hướng chính trị này để bài trừ đường hướng chính trị kia độc đoán bằng bạo lực, mà đấu tranh dựa trên đối thoại, phân tách ưu khuyết điểm của từng khuynh hướng để rồi đi đến biểu quyết theo nguyên tắc đa số, tức là hình thức tổng hợp có lựa chọn của phép biện chứng quân bình. Trái lại ở các nước chuyên chính vô sản XHCN, đấu tranh chính trị là đấu tranh bạo lực cách mạng, không chấp nhận đối lập. Hình thái chính trị này là kết quả tất nhiên của triết học Mác-Lênin với phép biện chứng duy vật, tuyệt đối hóa tính chất của mâu thuẫn, hễ cái này đúng thì cái kia phải sai, không thấy được cái lý “trong âm có dương, trong dương có âm „ cho nên cho rằng chỉ có CNXH là ưu việt, là hợp với xu thế của thời đại, không còn mâu thuẫn, còn CNTB là lạc hậu, là ngược với xu hướng thời đại, đầy mâu thuẫn, trước sau gì cũng bị thay thế bởi CNXH. Thật ra CNTB và CNXH là hai hình thái chính trị, kinh tế có quan hệ với nhau như quan hệ giữa tư sản với vô sản, giữa cái có với cái không, giữa cái riêng với cái chung của phép biện chứng, như hình ảnh hai chân của con người đang vận động đi, đứng. Nay với quan điểm chuyên chính vô sản, phép biện chứng duy vật phủ định dứt khoát CNTB, từ chối đối lập thì chẳng khác nào con người bỏ bớt một chân, chỉ còn giữ lại một chân. Đó là sự khác biệt rõ ràng giữa phép biện chứng quân bình ( hai chân bình thường ) với phép biện chứng duy vật ( một chân đặc thù ).

Những cặp phạm trù căn bản của phép biện chứng Các phạm trù của phép biện chứng là những khái niệm chung nhất, phản ánh toàn thể thế giới hiện thực nói chung bao gồm thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy. Các phạm trù này không có tính cách bẩm sinh như Kant quan niệm, cũng không phải là ý niệm tuyệt đối, không còn có phát triển gì nữa như ở Hegel. Chúng không phải là hệ thống đóng kín, bất biến, mà luôn luôn phát triển, được bổ sung bằng những phạm trù mới theo sự phát triển của khả năng nhận thức của con người và sự vận động phát triển của thế giới hiện thực khách quan được phản ánh. Ví dụ như phạm trù năng lượng chẳng hạn bổ sung, thay thế cho phạm trù vật chất, vì chính năng

Page 445: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

444

lượng mới có tính bất biến, thường hằng chứ không phải vật chất ( nguyên lý bảo toàn năng lượng ). Ngoài ba qui luật cơ bản, phép biện chứng còn có những cặp phạm trù được gọi là những qui luật không cơ bản như cái chung và cái riêng, nguyên nhân và kết quả, tất nhiên và ngẫu nhiên, nội dung và hình thức, khả năng và hiện thực, hiện tượng và bản chất ( nhiều hiện tượng biến thành bản chất tức cũng qui về qui luật lượng phẩm ) v.v… Nói chung, những cặp phạm trù trên đều có mối quan hệ biện chứng, có tính khách quan, ràng buộc, qui định lần nhau trong sự thống nhất, có tác dụng qua lại, chuyển hóa lẫn nhau. Để chấm dứt phần nghiên cứu các qui luật căn bản của phép biện chứng, chúng tôi đề nghị đọc giả thử so sánh phép biện chứng quân bình với phép biện chứng duy vật, đối chiếu với thực tiễn trong mọi lãnh vực xem phương pháp nào tốt hơn, phản ánh trung thực hiện thực khách quan hơn, vì thực tiễn bao giờ cũng là thước đo của chân lý. Ở đây, chúng tôi cũng thử đưa ra một vài trường hợp điển hình: * Cặp phạm trù độc tài chuyên chế với dân chủ, tự do: Cách mạng dân chủ 1789 ở Pháp xuất hiện là để đối kháng với chế độ quân chủ chuyên chế, mới đầu cũng cực đoan như đối tượng mà nó muốn phủ định, cho nên loạn vì chưa theo đúng tiếng gọi của nguyên lý quân bình, người ta “ tự do „ thanh toán nhau, hàng ngày pháp trường ở Paris nhuộm máu, thật đúng với câu tục ngữ Việt Nam: “ Tránh vỏ dưa, gặp vỏ dừa „ Thế cho nên mới có nhân vật như Napoléon, cũng độc tài nhưng ở một phương thế khác, mức độ khác để tạo sự ổn định. Tình trạng này tương tự như dao động của con lắc, đảo qua đảo lại vài lần mới có quân bình, mới có được trình độ dân chủ như ở các nước dân chủ tiên tiến ngày nay. * Thử quan sát sự vận động biện chứng của CNTB và CNXH: Do cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật, CNTB xuất hiện và phát triển theo chiều hướng càng ngày càng có lợi cho giới tư bản. Khi CNTB trở thành độc quyền thì biến thành chủ nghĩa đế quốc, đó là tình trạng mất quân bình cực độ. Ngay thời điểm này, theo qui luật “ dương cực âm sinh, âm cực dương sinh „ CNXH xuất hiện như một phản động lực để lập lại quân bình. Người ta nói rằng CNXH phủ định CNTB. Nội dung của sự phủ định như thế nào đã nói ở phần qui luật của phép biên chứng. CNTB và CNXH là hai phạm trù mô tả hai hình thái chính trị, kinh tế có tính sinh động, cho nên không nên hiểu theo tính cách tĩnh của nhị nguyên luận mà chúng có tác dụng qua lại biện chứng với nhau. Với phép

Page 446: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

445

biện chứng quân bình người ta không thể nào tưởng tượng được rằng CNTB độc quyền tồn tại mà không có CNXH xuất hiện để lập lại quân bình, cũng như CNXH phủ định dứt khoát CNTB để rồi cũng độc quyền tồn tại. CNTB và CNXH có khuynh hướng đối nghịch nhau qua hình thức sở hữu tư liệu sản xuất: sở hữu tư nhân và sở hữu xã hội. Do đó quan hệ giữa chúng là quan hệ giữa cái riêng và cái chung, một trong những cặp phạm trù căn bản của phép biện chứng, nghĩa là chúng phải có tác dụng qua lại, chuyển hóa lẫn nhau và đưa đến sự tổng hợp có chọn lọc, có kế thừa. Về phương diện thực tiễn, cho tới ngày hôm nay người ta chưa thấy có một nền kinh kế thuần túy XHCN nào ngay tại các nước còn duy trì CNXH, mà chỉ có nền kinh tế thị trường, có nơi đã thừa nhận quyền sỡ hữu cá nhân bên cạnh quyền sỡ hữu nhà nước. Còn nước Nga và các nước Đông Âu đã từ bỏ chuyên chính vô sản, điều này không có nghĩa là họ phủ nhận CNXH, mà thực ra CNXH và CNTB được coi là hai hình thái đối lập với nhau trong sinh hoạt dân chủ. * Tìm hiểu ý nghĩa của sự đại đoàn kết: Người ta thường kêu gọi thực hiện đại đoàn kết, nhưng làm thế nào để thực sự có đại đoàn kết? Đứng vào vị trí của một thế lực có khuynh hướng cực đoan mà kêu gọi đại đoàn kết có được chăng? Xin thưa ngay là không. Chúng ta hãy hình dung có một chiếc thuyền đang lâm nguy, nghiêng hẳn về một bên, mọi người lại đổ xô về phía đó gọi là đoàn kết thì thuyền bị lật úp ngay, mà phải phân tán về phía đối diện để lấy lại quân bình. Tuy nhiên sau khi thoát nguy, mà lầm tưởng đây mới đúng là nơi đáng qui tụ sự đoàn kết, lại dồn tất cả về phía này thì cũng sẽ bị lâm nguy như phía bên kia. Như vậy sự đại đoàn kết chỉ có được thực sự với những thế lực có quan điểm quân bình, chứ không với quan điểm cực đoan. * Phân biệt nhị nguyên luận với biện chứng pháp: Ở nhị nguyên luận, các mặt đối lập cách biệt hẳn nhau, phù hợp với luận lý hình thức. Ở biện chứng pháp, các mặt đối lập liên hệ với nhau trong một thể thống nhất. Biện chứng pháp duy vật tuy có khác với nhị nguyên luận, nhưng vẫn còn thiên về một khuynh hướng, còn biện chứng pháp quân bình không thiên chấp vào một khuynh hướng nhất định nào cả, mà chỉ tuân theo nguyên lý quân bình. Trở lại với câu tục ngữ: “ Nắng bề nào, che bề nấy „ Giới Nho sĩ cựu học một thời chấp vào đạo đức, luân lý hình thức của Tống Nho cũng như giới tân học về sau chịu ảnh hưởng tư tưởng nhị

Page 447: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

446

nguyên, luận lý hình thức Tây phương thường phê phán nội dung tư tưởng câu tục ngữ nói trên là không lập trường, thiếu lý tưởng. Nay thử hình dung những người này, do một cơ duyên nào đó cùng với người bình dân làm việc với nhau suốt ngày nơi ruộng rẩy với những tấm phên che nắng. Buổi sáng mặt trời mọc từ phía Đông, mọi người thiết trí phên che nắng hướng về phía này rất thích hợp cho nên tất cả đều được thoải mái. Đến xế chiều, ánh nắng đổi hướng nghịch lại, những người nông dân chất phác xoay phên che nắng lại theo hướng ánh nắng mới, nên cũng vẫn làm việc thoải mái, trong khi những anh nhà Nho, những anh tân học do trung thành với lập trường kiên cố không gì lay chuyển nổi của mình phải lận đận vì cơn nắng như thiêu như đốt của mùa hè xứ nhiệt đới trước những cô gái nông thôn xinh xắn đang cười khúc khích. Ở đây, nếu trở về với tư tưởng của Thiền sư Vạn Hạnh: “ Không lấy chỗ trụ để trụ, không nương vào chỗ không trụ để trụ „ và tư tưởng của vua Trần Thái Tông thời Tam giáo đồng nguyên theo tinh thần kinh Kim Cương: “ Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm „ ( hãy nên không ngừng vào đâu mà nẩy sinh cái tâm ), nghĩa là không nên chấp vào một chỗ nào cả nhứt là ở những chỗ cực đoan, mà chỉ tuân theo nguyên lý quân bình thì mọi sự đều ổn định, rõ ràng. Với quan điểm quân bình, không chấp vào chỗ nào cũng có nghĩa là không chấp ngay cả việc phủ nhận hoàn toàn các biện pháp cực đoan, mà cũng có khi phải dùng cực đoan để chế ngự cực đoan, nhưng rồi sau đó phải trở về ngay với nguyên lý quân bình. Nguyên lý quân bình rất quan trọng, nó quyết định sư ổn định, sự tồn tại, cho nên trong sự vận động, phát triển, phải lưu ý tránh sự mất quân bình thái quá trong mọi lảnh vực. Ở các nước dân chủ tiên tiến thì tự do cá nhân quá độ biến thành chủ nghĩa cá nhân,còn ở các nước độc tài thì tự do cá nhân xem như không đáng kể, đàng nào cũng đều mất quân bình, đàng nào cũng có những tệ nạn xã hội cả. Nói chung, phần đông con người ngày nay có khuynh hướng coi trọng sự phát triển vật chất nhứt là tại những nước có nền khoa học, kỹ thuật tiến bộ, nền công nghiệp phát triển và tại các nơi theo chủ nghĩa duy vật. Khi nền văn minh vật chất đơn phương tiến bộ vượt bực mà không có văn minh tinh thần tương ứng để giữ quân bình thì nhân loại khó tránh thảm họa. Những cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất, lần thứ hai trong lịch sử là những chứng minh. Hiểm họa sẽ còn khốc liệt hơn nữa nếu có chiến tranh nguyên tử xảy ra. Thế cho nên chúng tôi chủ trương đặt vấn đề tương quan giữa vật chất và tinh thần trong một thể thống nhất ở một chương tiếp theo sau.

Page 448: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

447

Chương 5

Vật chất và tinh thần Trong lịch sử triết học, có hai khuynh hướng đối lập nhau về vấn đề vật chất và tinh thần.. Triết học duy vật xem vật chất như là thực thể căn bản bất biến đầu tiên, còn triết học duy tâm lại xem tinh thần mới là cơ sở đầu tiên cho mọi tồn tại. Ngoài ra còn có hai quan điểm khác nhau nữa về vấn đề này là: Nhị nguyên luận xem vật chất và tinh thần là hai phần biệt lập, vật chất thì biến dịch, còn tinh thần thì thường còn; biện chứng pháp xem vật chất và tinh thần là hai phương diện khác nhau, hai mặt đối lập của cùng chung một thực tại, một thể thống nhất là năng lượng, có quan hệ hữu cơ, tác động qua lại biện chứng với nhau. Phép biện chứng quân bình không thiên hẳn về tinh thần, cũng không thiên hẳn về vật chất cho nên khác với phép biện chứng duy tâm và duy vật. Vật chất có sự vận động của vật chất, tinh thần có sự vận động của tinh thần, giữa chúng có tác động qua lại, chuyển hóa cho nhau.

Vật chất Vấn đề vật chất đã được trình bày trong những chương trước đây, nay chỉ tóm tắt mấy điểm quan trọng. Phạm trù vật chất đã được hiểu khác nhau theo lịch sử phát triển nhận thức của con người từ dạng cụ thể đến thuộc tính của nó như khối lượng, trương độ cho đến nguyên tử là phần nhỏ nhất không thể phân chia được nữa. Rồi người ta lại phát hiện ra nguyên tử không phải là đơn vị cuối cùng của thế giới vật chất, mà còn có những hạt tử nhỏ khác nữa như proton, neutron, điện tử… và trong quá trình vận động khối lượng của các điện tử tăng khi vận tốc của nó tăng: Khi vật đứng yên thì v = 0, hệ số co dản thời gian bằng 1, m = m0 (khối lượng lúc vật đứng yên) Khi vật chuyển động nhanh với vận tốc gần bằng tốc độ ánh sáng c = 300.000 km/sec như các điện tử chẳng hạn, thì hệ số co dản thời gian tiến tới 0. Do đó khối lượng sẽ vô cùng lớn.

Page 449: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

448

Sự kiện này khiến cho các nhà triết học duy tâm kết luận rằng chủ nghĩa duy vật hoàn toàn sụp đỗ vì cơ sở nền tảng của nó là vật chất không phải là bất biến, thường còn. Trong khi đó các triết gia duy vật bảo vệ cho lập trường của mình bằng cách hô hào mở rộng ý nghĩa của phạm trù vật chất, bác bỏ sự đồng nhất vật chất với những dạng cụ thể của nó, cũng như với thuộc tính của nó như khối lượng chẳng hạn. Theo chúng tôi thì vấn đề đã quá rõ ràng, vì chúng ta đã có phạm trù năng lượng rồi. Phạm trù này bao gồm cả hai phạm trù đối lập là vật chất và tinh thần trong quan hệ như sau: Năng lượng = Vật chất + Tinh thần Những người theo chủ nghĩa duy vật tầm thường chỉ biết vật chất là những dạng cụ thể, hữu hình, chưa nhận ra mối quan hệ giữa vật chất, tinh thần và năng lượng nói trên, cho rằng chết là hết, cho nên đã có thái độ phủ định hư vô trong phép biện chứng duy vật một thời và như vậy chính họ mới đích thực là những người hư vô chủ nghĩa. Nguồn gốc của hư vô chủ nghĩa là do sự ngộ nhận về thực chất của bản thể vũ trụ. Về điểm này, Phật giáo đã từ lâu nhận rõ tận căn “ bản lai diện mục „ của nó gọi là “Chân không diệu hữu „ . Vì hiểu lầm chữ Chân không ( Sunyata ) cho nên có người cho rằng Ngài Long Thọ ( Nagarjuna ) chủ trương hư vô chủ nghĩa ( Nihilismus ). Thật ra Chân không không phải là không có gì cả, mà là cái có kỳ diệu trong mọi thứ kỳ diệu, nên mới gọi là “ Chân không diệu hữu „. Thật vậy, “ Diệu hữu „ ấy chính là Bản thể vũ trụ phổ biến, đại đồng, mà năng lượng là môi giới giữa thế giới hữu hình và thế giới vô hình, giữa thế giới hiện tượng và thế giới siêu nhiên. Năng lượng có mặt trong vật chất cũng như tinh thần, cho nên người ta mới phân biệt sức mạnh vật chất, sức mạnh tinh thần . Nó là nguyên nhân gây ra sự vận động trong cả hai lãnh vực, vì nó có dạng động năng, thế năng… là những khả năng có thể gây ra sự vận động. Vận động là sự biến đổi nói chung của các quá trình diễn ra trong vũ trụ từ vật chất đến tinh thần, từ sự thay đổi vị trí đơn giản của sự vật cho đến tư duy phức tạp. Trong thế giới hiện thực, các dạng tồn tại, bản chất của sự vật, hiện tượng được nhận diện thông qua sự vận động, vì chỉ qua sự vận động mà sự vật, hiện tượng mới bộc lộ ra đặc tính của chúng. Người ta có thể phân biệt ra các hình thức vận động khác nhau như: vận động cơ giới, vận động vật lý, vận động hóa học, vận động sinh vật, vận động xã hội v.v… Sự vận động như đã nghiên cứu ở phần các qui luật căn bản là do qui luật không quân bình chi phối, mà qui luật này luôn luôn liên kết với qui

Page 450: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

449

luật quân bình, cho nên sự vận động có liên hệ với sự đứng yên. Nếu vận động làm cho sự vật biến đổi, phát triển thì đứng yên lại bảo đảm tính ổn định của chúng. Sự đứng yên chỉ kéo dài trong một khoảng thời gian nhất định tùy theo bản tính của từng sự vật do nguyên lý quân bình chi phối, sau đó lại mất quân bình, lại vận động làm cho sự vật luôn luôn biến đổi, phát triển không ngừng. Cũng như vạn vật, sự vận động có liên hệ khắng khít với không gian, thời gian. Newton quan niệm không gian, thời gian tuyệt đối, tách rời chúng ra khỏi sự vật. Còn Kant phủ nhận tính cách khách quan của không gian, thời gian, xem chúng như là hình thức chủ quan, là sản phẩm của ý thức con người. Đến Albert Einstein thì không gian, thời gian không tồn tại bên ngoài sự vật vận động, mà chúng biến đổi cùng với sự vận động của vạn vật : Khi tốc độ vận động gần bằng tốc độ của ánh sáng thì kích thước của vật thể co rút lại và thời gian trôi chậm đi.

Tinh thần Nếu vật chất là dạng biểu hiện cụ thể của năng lượng thì tinh thần là dạng biểu hiện trừu tượng. Cả hai đều phát xuất từ một nguồn gốc chung là bản thể vũ trụ đại đồng, biểu hiện thành hiện thực có thiên hình vạn trạng tùy theo nhân duyên, nghĩa là theo luật nhân quả. Nói đến tinh thần tức là nói đến ý thức, mà chỉ con người là động vật cao cấp, có hệ thống thần kinh và bộ não phát triển hoàn chỉnh mới có. Nói theo người xưa: “ Thiên địa phụ mẫu nhi nhân tối linh „ ( Trời đất là cha mẹ mà người ta là vật có linh tính ). Ý thức là sự phản ánh thế giới hiện thực vào bộ não của con người, là hình ảnh tinh thần, hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Như vậy nguồn gốc của ý thức là khả năng phản ánh của thế giới hiện thực của con người, vì con người như đã nói là động vật rất tinh khôn, tối linh. Cái tinh khôn , cái tối linh ấy Phật giáo đã nói một cách tổng quát rằng: “ Tất cả chúng sinh đều có Phật tính „ còn Nho giáo gọi là minh đức, lương tri, là cái đức sáng tự nhiên sẵn có, cái năng khiếu tri giác mẫn tiệp của con người. Khả năng phản ánh là khả năng lưu giữ, tái hiện ở thực tại này những đặc tính của thực tại khác do qui luật liên hệ phổ biến, qui luật biến đổi và bảo toàn năng lượng. Năng lực phản ánh tùy thuộc vào từng thực tại cụ thể, thực tại nào có cơ cấu tổ chức càng cao thì năng lực phản ánh càng cao, càng phức tạp.

Page 451: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

450

Phản ánh đơn giản nhất là phản ánh vật lý trong giới vô cơ có tính cách thụ động như sự thay đổi vị trí, sự hủy diệt. Giới hữu cơ có cơ cấu, tổ chức cao hơn giới vô cơ với những trình độ khác nhau từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, nên hình thức phản ánh cũng có nhiều trình độ khác nhau. Tính kích thích là trình độ phản ánh thấp nhất của sinh vật, thể hiện ở thực vật và động vật bậc thấp. Phản ánh này đã có sự lựa chọn trước những tác động của môi trường. Ở động vật cao cấp, phản ánh được phát triển cao hơn nhờ có hệ thống thần kinh và bộ não hoàn chỉnh như đã nói. Phản xạ không điều kiện là hình thức phản ánh do tính cảm ứng của cơ thể phản ứng lại với tác động của môi trường. Phản xạ có điều kiện là phản ánh tâm lý bao gồm cảm giác, tri giác và biểu tượng. Sự phản ánh tâm lý này ở động vật cao cấp sẽ chuyển hóa thành phản ánh ý thức của con người. Như vậy, ý thức là hình ảnh tinh thần phản ánh thế hiện thực khách quan qua hoạt động sinh lý của hệ thống thần kinh và bộ não con người. Quá trình hình thành ý thức không phải là một quá trình tiếp thu thụ động, mà con người phải chủ động tác động vào thế giới hiện thực, khiến các đối tượng phải bộc lộ những đặc tính của chúng. Như vậy, sự lao động của con người, lao động chân tay cũng như trí óc, các công trình nghiên cứu qua tư duy và thực nghiệm là phương thức làm hình thành và phát triển ý thức. Người xưa có nói: “ Thánh nhân chi tâm như minh kính. Chỉ thị nhất cá minh, tắc tùy cảm nhi ứng, vô vật bất chiếu „ ( Ngữ lục ) nghĩa là cái tâm của thánh nhân như gương sáng. Chỉ là một cái sáng, thì cứ tùy cảm mà ứng, không có vật gì là không chiếu rõ. Cái tâm của thánh nhân và của người thường là ở chỗ trong sáng hay bị bụi che mờ. Vậy thì việc quan trọng là làm sao cho cái tâm ấy được trong sáng như cái gương thường được lau chùi, đến khi đó thì khả năng phản ánh thế giới hiện thực sẽ hoàn toàn, cho nên mới có câu nói: “ Tâm như minh kính, hoa lai kiến hoa, nguyệt lai kiến nguyệt „ (Tâm như gương sáng, hoa đến thấy hoa, trăng đến thấy trăng ) Ngoài ra trong việc hình thành và phát triến ý thức, ngôn ngữ đóng vai trò rất quan trọng. Thật vậy, ngôn ngữ là phương tiện hữu hiệu để trao đổi tình cảm, tư tưởng của con người trong xã hội, nối liền thông cảm giữa thế hệ này với thế hệ kia trong suốt chiều dài lịch sử, có khả năng tàng trử những giá trị tinh thần quý báu, nền văn hóa dân tộc, văn hóa nhân loại.

Page 452: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

451

Bản chất của ý thức Tâm lý động vật phản ánh thế giới chung quanh do bản năng, còn ý thức do phản ánh thông qua lao động, hoạt động có mục đích của con người, cho nên khác với tâm lý động vật, ý thức là phản ánh sáng tạo về thế giới hiện thực, nghĩa là có sự cải biến các dữ kiện tiếp thu rồi mới chuyển thành ý thức chứ không phản ánh thụ động, y nguyên. Cũng như vật chất, ý thức hay tinh thần nói chung là dạng biểu hiện của năng lượng, nên cũng có quá trình vận động, phát triển; rồi giữa vật chất và tinh thần cũng có tác động qua lại với nhau. Ý thức là năng lực tinh thần bao gồm các yếu tố như sau: tri thức, tình cảm và ý chí, trong đó tri thức là yếu tố quan trọng nhất, vì ý thức mà thiếu tri thức nhất là tri thức khoa học thì chỉ là niềm tin suông. Tri thức là kết quả của quá trình phản ánh gồm có tri thức cảm tính dưới dạng cảm giác, tri giác, biểu tượng và tri thức lý tính gồm khái niệm, phán đoán và suy luận. Tri thức cảm tính và tri thức lý tính là hai thành phần quan trọng không thể thiếu được trong quá trình biện chứng của nhận thức. Suy luận tức tri thức lý tính mà không có trực giác cảm tính làm nền tảng thì là suy luận viễn vong, thiếu nội dung; còn trực giác ( cảm tính ) mà không có khái niệm, suy luận ( lý tính ) thì là trực giác mù quáng. Trên đây chúng ta đã xét ý thức như sự phản ánh thế giới chung quanh vào bộ não con người, tức là ý thức về một đối tượng khách quan; nhưng nếu đối tượng của ý thức lại chính là con người ý thức, có hành vi đạo đức, có hoạt động, có vị trí trong xã hội thì đó là tự thức. Ngoài ý thức, tự thức còn có vô thức. Vô thức cũng là hiện tượng tâm lý, có liên quan đến những hoạt động có tính tự động ngoài phạm vi ý thức.. Có những hành vi mà con người chưa bao giờ ý thức và cũng có những hành vi trước kia đã ý thức, được lập đi lập lại nhiều lần trở thành thói quen một cách tự động mà không cần đến ý thức nữa. Vô thức là vấn đề tâm lý phức tạp và quan trọng nên cũng cần được nghiên cứu, không nên xem nó như là hiện tượng tâm lý thần bí, cũng không nên xem nó như là yếu tố quyết định chi phối mọi hành vi của con người như quan niệm của Freud một thời. Trong đời sống xã hội, nhất là trong những hoạt động có tính cách lập đi lập lại quá trình như lao động sản xuất, việc rèn luyện các động tác biến thành thói quen tự động có vai trò rất quan trọng.

Page 453: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

452

Theo nhà khoa học Poincaré, vô thức có vai trò quan trọng trong sự bộc phát trực giác phát minh. Sở dĩ người ta bất ngờ phát minh được điều mới lạ là vì người ta đã suy nghĩ quá nhiều về điều đó. Ngay cả lúc người ta không còn lưu tâm đến đối tượng thì trí óc vẫn tiếptục hoạt động, khai triển không ngừng cho đến khi nào những dữ kiện phản ánh đã tích lũy đầy đủ thì theo qui luật “ lượng phẩm „ vô thức sẽ chuyển thành ý thức trong sự nhảy vọt, đó là trực giác phát minh như trường hơp giấc mộng của Descartes bên bờ sông Donau thuở nào.

Mối quan hệ giữa vật chất và tinh thần hay ý thức Như đã xác định: Năng lượng = Vật chất + Tinh thần Vậy thì vật chất và tinh thần là hai thành phần tuy khác nhau nhưng cùng trong một thể thống nhất, không tách rời nhau. Điều đó có nghĩa là ý thức gắn liền với thân xác, nhất là gắn liền với bộ não của con người. Quan sát quá trình phát triển của con người một cách toàn diện về vật chất cũng như tinh thần thì nhận thấy rằng ý thức xuất hiện và phát triển đồng thời, tương ứng với thân xác: trẻ sơ sinh còn nhỏ phải mang tả, vì chúng chưa làm chủ được các hoạt động sinh lý mà phải trải qua một thời gian 24 hoặc 25 tháng sau mới có thể bỏ tả được. Tuổi trưởng thành của con người bình thường cũng được xác định vào khoảng 18 hay 20, vì lúc đó cơ thể mới phát triển tương đối đầy đủ. Ý thức và thân xác, tinh thần và vật chất phát triển đồng thời, tương ứng, cho nên mới có câu nói như sau: “ Một tâm hồn minh mẫn trong một thân thể tráng kiện „ ( Mens sana in corpore sano ) Khi nói rằng vật chất có trước, ý thức có sau hay ngược lại thì đó là vấn đề chủ thể- khách thể, duy tâm- duy vật. Chủ nghĩa duy tâm cho rằng tinh thần có trước, quyết định vật chất nên sự thống nhất thế giới thế giới không phải là vật chất mà là tinh thần. Chủ nghĩa duy vật ngược lại cho rằng vật chất có trước ý thức, quyết định ý thức, cho nên sự thống nhất thế giới là ở vật chất. Với quan điểm quân bình, chúng tôi khẳng định rằng sự thống nhất thế giới không phải chỉ ở hoặc là tinh thần hoặc là vật chất một cách phiến diện, mà là ở năng lượng, nguồn gốc của cả hai thứ. Vật chất và tinh thần không phải là hai lãnh vực biệt lập, mà chúng có liên hệ với nhau, thống nhất với nhau, và tận căn nguyên cũng chỉ là một.

Page 454: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

453

Ở con người, chủ thể nhận thức có thân xác và tinh thần, các sự kiện sinh lý và tâm lý có ảnh hưởng lẫn nhau. Ảnh hưởng của sự kiện sinh lý đối với các sự kiện tâm lý: Ảnh hưởng của cơ thể đối với các sinh hoạt tâm lý là sự kiện mà mọi người đều có thể nhận thấy. Khi đau răng, đau bụng, nhức đầu, con người dễ trở nên khó chịu, cau có. Nói chung, các sinh hoạt trí tuệ, sinh hoạt tình cảm, sinh hoạt hoạt động đều lệ thuộc vào hệ não tủy, tùy từng miền do sự định vị não. Ảnh hưởng của sự kiện tâm lý đối với sự kiện sinh lý: Bình thường ai cũng có thể nhận biết ảnh hưởng của tinh thần đối với thể xác, như suy nghĩ, lo âu, buồn rầu quá độ làm cho con người mất ăn, mất ngủ, mệt mỏi, tiều tụy, già cỗi. Môn y khoa tâm sinh lý và tâm bệnh học đã chứng minh điều này. Ở phạm vi xã hội, vật chất và tinh thần cũng có ảnh hưởng, tác động qua lại như thế. Nơi nào có nền kinh tế phát triển, cơ sở vật chất đầy đủ thì dân trí cũng thường cao hơn những nơi chưa phát triển, nghèo đói. Nơi nào có dân trí cao, có văn hóa, trình độ khoa học kỹ thuật cao thì nhất định có nền kinh tế phát triển, có mức sống cao hơn những nơi có dân trí thấp, thiếu trình độ khoa học kỹ thuật.

Quan hệ giữa chủ thể và khách thể, trong đó khách thể có thể là hiện thực cụ thể hay trừu tượng, cũng có tác động qua lại như ở tinh thần và vật chất vừa nói trên. Hiện thực khách quan phản ánh lên chủ thể ý thức, chủ thể này tiếp thu mọi dữ kiện, biến cải chúng một cách tích cực, sáng tạo rồi chuyển thành ý thức. Rồi ý thức lại tác động trở lại đối với hiện thực, làm cho các quá trình vận động của hiện thực có thể phát triển nhanh hay bị kìm hãm. Như vậy, những tư tưởng đúng đắn, tư tưởng khoa học thúc đẩy sự phát triển, thì những tư tưởng sai lầm, tư tưởng phản khoa học lại kìm hãm sự tiến bộ.

Nhận thức Nhận thức là yếu tố quan trọng của ý thức, của tinh thần, một trong những nội dung căn bản của triết học. Tùy theo quan điểm mà nhận thức được quan niệm khác nhau. Chủ nghĩa duy tâm nhấn mạnh vai trò của chủ thể, còn chủ nghĩa duy vật lại thừa nhận thế giới vật chất mới là nguồn gốc duy nhứt của nhận thức. Theo quan điểm quân bình thì hai yếu tố chủ thể nhận thức và khách

Page 455: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

454

thể khách quan đều quan trọng như nhau, thiếu một trong hai cái đó không thể có nhận thức được, không thể có tri thức. Nhận thức là sự gặp gỡ, giao hội của chủ thể với khách thể trong mối tương quan với qui luật liên hệ phổ biến, qui luật trao đổi và bảo toàn năng lượng, qui luật vận động ( không quân bình ), qui luật quân bình. Người ta cũng thường nói, nhận thức là sự phản ánh thế giới hiện thực khách quan vào bộ óc con người. Sự phản ánh này không đơn giản, thụ động, mà là sự phản ánh sáng tạo, là quá trình biện chứng có sự tham dự hoạt động tích cực của chủ thể trong quan hệ với khách thể. Chủ thể có thể là cá nhân nhận thức, cũng có thể là loài người nói chung, nhưng không phải bất kỳ người nào cũng là chủ thể, chỉ gọi là chủ thể khi nào có sự tham gia trực tiếp vào hoạt động nhận thức khách thể mà thôi. Khách thể cũng vậy, không phải là toàn thể hiện thực khách quan, mà chỉ là một phần nào đó, một lãnh vực nào đó của nó nằm trong vòng hoạt động nhận thức của chủ thể có tác động qua lại với chủ thể, cho nên mới nói rằng nhận thức là sự gặp gỡ, là phần giao của chủ thể và khách thể trong mối quan hệ biện chứng. Khách thể có thể là đối tượng vật chất hay tinh thần.

Quá trình biện chứng của nhận thức Hoạt động của nhận thức diễn tiến theo quá trình biện chứng gồm hai chặng đường khác nhau là trực giác cảm tính, suy luận tức tư duy trừu tượng, còn gọi là nhận thức lý tính và sau cùng là sự tổng hợp tức sự thống nhất hai hoạt động nói trên. Trực giác cảm tính: là sự phản ánh trực tiếp khách thể bằng giác quan qua các hình thức như cảm giác, tri giác, biểu tượng. Cảm giác là hình thức đầu tiên, đơn giản nhất của nhận thức cảm tính, biến năng lượng của sự kích thích cảm tính do sự phản ánh khách thể từ bên ngoài thành những sự kiện ý thức, cho nên nó là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Tri giác: là hình thức nhận thức tiếp theo, nó không phản ánh các thuộc tính riêng rẻ của khách thể như cảm giác, mà phản ánh tổng hợp nhiều thuộc tính khác nhau của khách thể. Biểu tượng: là hình thức nhận thức cảm tính cao hơn nữa, nó là hình ảnh của khách thể đã được cảm giác, tri giác còn lưu lại trong não của con người, được gợi nhớ lại. Như vậy biểu tượng cũng như cảm giác và tri

Page 456: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

455

giác đều là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan; nhưng khác với cảm giác và tri giác, biểu tượng phản ánh khách thể một cách gián tiếp, là hình ảnh của hình ảnh, là trung gian giữa trực giác cảm tính và nhận thức lý tính. Nhân thức lý tính: là hình thức tư duy trừu tượng, nó cũng phản ánh hiện thực, nhưng là sự phản ánh gián tiếp và khái quát hóa những tài liệu do trực giác cảm tính mang lại. Nhận thức lý tính gồm có những hình thức như khái niệm, phán đoán và suy luận, quan năng của nhận thức này là trí năng. Khái niệm: phản ánh gián tiếp nhiều sự vật có cùng chung thuộc tính có tính chất bản chất phổ biến. Phán đoán: là hình thức liên hệ giữa các khái niệm, phản ánh mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng trong ý thức con người dưới những hình thức qui luật khách quan. Suy luận: là sự liên hệ giữa các phán đoán, là quá trình đi đến một phán đoán mới từ phán đoán tiền đề. Suy luận là phương thức nổi bật nhất của nhận thức lý tính, của tư duy trừu tượng, được triệt để áp dụng trong tất cả mọi ngành khoa học để xác định chân lý. Nói tóm lại, quá trình nhận thức gồm hai chặng đưòng khác nhau để rồi hợp nhất với nhau trong một tổng hợp. Như vậy quá trình này là quá trình biện chứng ba nhịp, với hai chặng đường. Sau đó nhận thức có được quay trở lại phối kiểm với hiện thực, rồi quá trình này lại tiếp diễn mãi làm cho nhận thức con người về thế giới tự nhiên ngày càng sâu sắc, phong phú. Nhận thức như đã nói là sự gặp gỡ giữa chủ thể và khách thể, giữa trí khôn và sự vật, nên có thể biểu thị bằng hình ảnh hai vòng tròn giao nhau. Nhận thức là phần giao của chủ thể và khách thể, tức là phần mà cả hai thành phần có tham gia trực tiếp vào hoạt động nhận thức. Khả năng gặp gỡ, khả năng phản ánh tùy thuộc không những vào đặc tính của chủ thể như mức độ tích cực, quan điểm rộng hay hẹp... mà còn tùy thuộc vào đặc tính của khách thể như tính cởi mở hay đóng kín của đối tượng. Vì nhận thức là quá trình biện chứng, cho nên nó phát triển không ngừng từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ chỗ còn thiếu sót đến hoàn chỉnh khi chủ thể và khách thể hoàn toàn gặp gỡ, trùng hợp với nhau. _ Trình độ nhận thức thấp: phần giao mỏng, do sự cách biệt nhiều giữa chủ thể và khách thể ( mâu thuẫn ) cho nên ít có khả năng gặp gỡ, năng lực phản ánh nhỏ.

Page 457: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

456

_ Trình độ nhận thức cao hơn: phần giao dầy hơn, do ít cách biệt hơn, khả năng gặp gỡ nhiều hơn, năng lực phản ánh cao hơn. _ Nhân thức hoàn toàn, chân lý tuyệt đối: chủ thể và khách thể hoàn toàn trùng nhau theo nguyên lý đồng nhất A = A. Đây là trường hợp lý tưởng mà về phương diện lý thuyết có thể lĩnh hội được do nguyên lý vạn vật đồng nhất thể. Lý thuyết này cũng đã được nói đến ở con đường biện chứng giác ngộ, giải thoát của Phật giáo. Phật đã dạy: “ Tất cả chúng sinh đều có Phật tính”. Phật tính đó là bản thể chân như, cũng là khả năng giác ngộ của chúng sinh. Vì có cùng chung một bản chất, cho nên tất cả chúng sinh đều có thể trở thành Phật, nếu biết chuyển mê khải ngộ. Quan năng nhận thức bằng lý trí có tính nhị nguyên được thay thế bằng quan năng đặc biệt của trí huệ Bát nhã với bình đẳng quan để đi vào bản thể tuyệt đối. Như vậy, tùy theo trình độ nhận thức mà chân lý được phân biệt như sau: _ Chân lý phiến diện do quan điểm hẹp, quan điểm “ con ếch ” chỉ thấy một phần chân lý hay chân lý một chiều. _ Chân lý tương đối do quan điểm khoáng đạt , quan điểm của con chim bay trên bầu trời cao rộng, đã nhìn thấy bao quát được cả hai mặt đối lập của chân lý, nên là chân lý khá đầy đủ. _ Chân lý tuyệt đối do chân lý tương đối phát triển cao độ, phản ánh hoàn toàn đầy đủ hiện thực khách quan. Ở trình độ lý tưởng này thì chủ thể, khách thể không còn mâu thuẫn nữa, chúng gặp gỡ toàn diện, trùng hợp nhau. Trong quá trình biện chứng của nhân thức, các dữ kiện của khách thể phản ánh như là những chủng tử ( thuyết A lại gia thức của Đại thừa Phật giáo ) huân tập trên mảnh đất có độ phì nhiêu khác nhau ( vô thức ) của chủ thể nhận thức, tăng trưởng dần cho đến khi sung mãn theo qui luật lượng phẩm thì trào vọt, siêu vượt lên vùng ý thức. Đó là xuất tính thể, khả năng siêu việt, một tư thế xuất thể, xuất ra khỏi mình một cách tự do của chủ thể để cho khách thể tự nó có thể xuất hiện y như nó là. Xuất tính thể là tri thức tính thể, có liên hệ với khả năng trực giác siêu cảm giác của truyền thống Đạo học Đông phương khi xưa. Trên nguyên tắc thì mọi chủ thể đều có khả năng siêu xuất tính thể, như Đức Phật đã dạy rằng mọi người đều có thể thành Phật, nhưng trong thực tế không đơn giản, mà tùy thuộc nhiều điều kiện như quyết tâm ( ý chí ), độ phì nhiêu của mảnh đất gieo chủng tử ( hệ số IQ ), và nhất là yếu

Page 458: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

457

tố thành thật, vì chỉ có thành thật mới có sư gặp gỡ trọn vẹn giữ chủ thể và khách thể. Danh từ thành thật có nghĩa là trở thành y như sự thật, chân lý y như nó là, hay A = A. Phạm trù này biểu hiện đồng thời ba lý tưởng Chân, Thiện, Mỹ vì nó có tính cách tròn đầy, viên mãn, đồng thời cũng biểu thị cho đạo quân bình. Người thiếu thành thật thì không bao giờ tới gần được sự thật,vắng bóng đạo đức và thẫm mỹ nơi họ. Sự phản ánh thế giới hiện thực ở họ chỉ phiến diện, còn người không thành thật thì tâm của họ cũng chẳng khác người mê vọng, như tấm gương phủ đầy bụi, làm sao phản ánh được hiện thực khách quan, cho nên lời nói của họ hoàn toàn không phản ánh chân lý. Lời nói phải đi đôi với thực hành, vì chỉ có thực tiễn mới thật sự là thước đo chân lý. Phạm trù thành thật biểu thị cùng một lúc ba lý tưởng chân, thiện, mỹ có vai trò quan trọng trong nhận thức luận cũng như lý thuyết tri hành hợp nhất và căn nguyên hơn nữa là nguyên lý vạn vật đồng nhất thể. Với nguyên lý căn nguyên này, vật chất và tinh thần không phải là hai lãnh vực hoàn toàn khác biệt nhau, mà chỉ là một. Nói đúng ra, chúng là hai mặt khác nhau của cùng một thực tại, có liên hệ biện chứng với nhau. Theo quan điểm quân bình thì không được xem trọng một mặt nhất định nào, mà coi nhẹ mặt kia, cả hai đều quan trọng. Thật vậy, với công thức E = mc² của Albert Einstein thì một khối vật chất dù nhỏ cũng chứa một năng lượng vô cùng lớn. Về tinh thần cũng vậy, những phát minh, những khám phá khoa học, kỹ thuật, những tư tưởng triết học cũng tạo ra sức mạnh, tác dụng phi thường. Như vậy công thức nổi tiếng trên của Einstein đã làm sáng tỏ năng lực vô cùng tận chẳng những ở phương diện vật chất như năng lượng nguyên tử mà còn ở lãnh vực tinh thần như những ý niệm mà cũng đồng thời là những hiện tượng có tính qui luật như quá trình lượng biến thành phẩm, hiện tượng siêu việt, xuất tính thể ( bao gồm sự phát minh, khám phá...) Nền văn minh vật chất và nền văn minh tinh thần nếu phát triển đồng đều theo nguyên lý quân bình thì ổn định, còn nếu chênh lệch thái quá thì sẽ bị nguy. Ngày xưa, nước Việt Nam cũng như phần đông các nước ở Á châu chuộng nền văn minh tinh thần, ít chú trọng văn minh vật chất, cho nên khi chủ nghĩa đế quốc Tây phương dựa trên nền văn minh cơ giới, vật chất tiến bộ tràn đến thì hậu quả là đất nước bị lâm nguy. Sự nguy hại lại càng nghiêm trọng hơn khi nền văn minh tinh thần nói trên suy thoái bởi mê tín, dị đoan như Tú Xương đã phê phán:

Page 459: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

458

“ Đồng giỏi sao đồng không giúp nước, Hay là đồng sợ súng thần công ” Phan Thanh Giản đi sứ sang Pháp thấy tận mắt nền văn minh vật chất, cơ giới phát triển vượt bực đã nói lên cảm tưởng như sau : “ Bách ban xảo diệu tề thiên địa, Duy hữu tử sinh Tạo hóa quyền.” Nghĩa là trăm khôn nghìn khéo khoa học cơ khí có thể ngang tài với trời đất, thiên nhiên. Nhưng chỉ còn có việc sống chết là không thắng được quyền lực của Tạo hóa. Sức mạnh và lợi ích của nền văn minh vật chất là dĩ nhiên rồi, nhưng nếu con người chỉ tôn sùng nền văn minh vật chất phát triển, coi nhẹ tinh thần thì hậu quả cũng vô cùng tai hại. Sức tàn phá của bom nguyên tử ở đảo Hiroshima và Nagasaki đã khiến cho các nhà khoa học, các triết gia đặt lại vấn đề lương tâm, đạo đức của con người. Những phản ứng như vậy thật ra cũng chỉ là hành động theo tiếng gọi của nguyên lý quân bình mà thôi. Ngày nay, dưới ảnh hưởng của nền văn minh vật chất tiến bộ ở các nước có nền công nghiệp hiện đại, phát triển cũng như ảnh hưởng của chủ nghĩa duy vật, sự quân bình giữa vật chất và tinh thần ít được để ý đến, cho nên trong thực tế xuất hiện nhiều vấn đề xã hội. Ở Việt Nam, trong khi nổ lực xây dựng nền văn minh vật chất, cũng không quên duy trì và phát huy nền văn minh tinh thần truyền thống của tổ tiên thì mới hy vọng có được một nền văn minh hiện đại có ý nghĩa thực sự. Nói tóm lại, trong thế giới hiện sinh mọi hiện tượng, sự vật đều vận động, biến dịch theo quá trình biện chứng trong vòng tay của hai nguyên lý không quân bình liên kết với nguyên lý quân bình. Vì là quá trình biện chứng, cho nên trình độ nhận thức phát triển từ sai lầm, vọng tưởng, khiếm khuyết, do nguyên lý không quân bình tức mâu thuẫn tác động, sẽ tiến đến chính xác, hoàn chỉnh khi đã đạt tới nguyên lý quân bình. Những bất công, bất ổn, bất an, loạn lạc, khổ não, ưu phiền, gian tham cho đến những cái xấu xa, luộm thuộm...cũng sẽ biến mất trong thế giới quân bình. Như vậy, hướng về ba lý tưởng Chân, Thiện, Mỹ cũng là hướng về nguyên lý Quân bình, cho nên trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, Thiền sư Viên Chiếu đã từng xác nhận Chân cũng là Mỹ, là vì cả ba lý tưởng nói trên đều gặp gỡ ở nơi đây.

Page 460: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

459

Kết luận Nội dung của quyển sách này là những nét đại cương về lịch sử tư tưởng truyền thống Việt Nam và viễn tượng của con đường triết lý dựa trên những nguyên lý phổ quát như nguyên lý vạn vật đồng nhất thể, nguyên lý bảo toàn năng lượng, trong đó thế giới vạn vật đều thống nhất ở năng lượng, nguyên lý liên hệ, nguyên lý tuần hoàn, nguyên lý quân bình và không quân bình, phép biện chứng với các qui luật căn bản, mà trong đó nguyên lý quân bình và không quân bình không được tách rời nhau, vì sự mất quân bình từ nguyên lý quân bình mà ra, gây ra sự vận động, biến dịch rồi lại tìm về cội nguồn quân bình, rồi lại cứ tiếp tục như thế. Nguyên lý quân bình không những chi phối qui luật mâu thuẫn trong phép biện chứng ( mặc dầu sự mất quân bình trực tiếp gây ra vận động, nhưng không phải vận động bất kỳ,mà là vận động có chu kỳ ), mà còn giữ giềng mối cho mọi qui luật trong thế giới hiện tượng, từ lãnh vực vật chất cho đến tinh thần. Nếu không có nó thì sẽ không bao giờ có sự tổng hợp, không có sinh thành, không có tồn tại, không có trật tự và như vậy cũng không có qui luật, vũ trụ sẽ là một sự hỗn loạn. Trở lại với nguyên tắc của đòn bẩy, khi có một lực tác động vào một phía của tay đòn thì sẽ có một phản động lực xuất hiện ở đầu bên kia do sự truyền lực dọc theo tay đòn qua một trục cố định theo nguyên lý quân bình. Hình ảnh và nguyên tắc đòn bẩy này nói lên ý nghĩa của luật nhân quả, một qui luật căn bản, phổ biến trong tất cả các ngành khoa học, triết học: cứ gieo nhân nào ( lực tác động ) thì nhận được quả nấy ( lực phản động ). Như vậy, luật nhân quả rõ ràng do nguyên lý quân bình quyết định, không có nguyên lý quân bình thì nhất định không có luật nhân quả nữa. Hình ảnh dao động của con lắc như đã nghiên cứu trước đây cũng đã gợi lên ý nghĩa của phép biện chứng. Thế giới hiện tượng này là một trường vận động theo hình thức dao động, chân lý là chân lý tương đối, khi thì hiện ra ở mặt này, lúc thì hiện ra ở mặt kia đối lập, cho nên trong lịch sử triết học đã có nhiều khuynh hướng triết lý đối nghịch ra đời, bài bác nhau không lúc nào dứt. Pascal đã nói : « Vérité en decà des Pyrénées, erreur au delà » ( Bên này dãy Pyrénées mà cho là phải thì bên kia cho là trái ) Xa xưa hơn nữa, Trang Tử cũng đã nói ở Tề vật luận: “ Hể đồng với ta, cho ta là phải; không đồng với ta, cho ta là trái.” Hai câu nói trên là phát biểu theo quan điểm nhị nguyên. Bởi vậy, những ai dựa vào nhị nguyên luận, có khuynh hướng một chiều, đến khi

Page 461: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

460

hiện thực phát triển đến cùng cực, theo luật phản phục “ cùng tắc biến ” đổi sang chiều ngược lại thì sẽ cảm thấy chới với và thắc mắc rằng, tại sao trước kia thế này mà bây giờ lại thế khác. Thật ra chân lý mà người ta cho rằng đúng trước kia cũng chỉ là chân lý phiến diện, cũng là “ đồng với ta ”, nhưng là chỉ đồng trong phân nửa chu kỳ dao động của thế giới hiện tượng. Trái lại, với phép biện chứng quân bình, tức là phép biện chứng đặt trên cơ sở của nguyên lý quân bình thì chân lý là chân lý toàn diện bao dung cả hai mặt đối lập vào trong thể thống nhất, trong đó các mặt đối lập không hoàn toàn tách biệt nhau, mà có tác động qua lại biện chứng tương tự như một người tiến bước vững vàng bằng động tác nhịp nhàng của hai chân. Tục ngữ Việt Nam có câu: “ Chớ lấy vải thưa mà che mắt thánh ” Câu này gợi lên hai ý chánh: Ý thứ nhất nói lên quyết tâm vượt qua mọi chướng ngại trên con đường tìm chân lý, vạch trần sự giả trá, cho nên mới có yêu sách đòi hỏi yếu tố thành thật trong nhận thức luận. Yếu tố này đòi hỏi chủ thể nhận thức trước hết phải chí thành, trở thành như sự thật thì chân lý mới ngoan ngoãn hiện ra theo luật “ đồng thanh tương ứng ”, hay nói cách khác, chân lý mới phản ánh hoàn toàn ở chủ thể nhận thức. Ý thứ hai nói lên khả năng của con mắt trí tuệ của người xưa nhìn xuyên suốt chân lý như con mắt thần thánh. Đó là Việt tính, là khả năng siêu vượt lên trên mọi mâu thuẫn nhờ quan điểm mở rộng của con chim bay trên bầu trời cao rộng, cho nên mới thấy được chân lý toàn diện. Nay lấy quan điểm đó, tức là quan điểm rộng phù hợp với nguyên lý quân bình cũng là đạo sống quân bình truyến thống để nghiên cứu lại phép biện chứng gọi là phép biện chứng quân bình thì sẽ tránh được chân lý phiến diện và những tác dụng lệch lạc của nó: _ Thế giới vạn vật không phải thống nhất ở vật chất, mà thống nhất ở năng lượng, vì chỉ có năng lượng mới được bảo toàn, còn vật chất thì biến đổi. Quan điểm này chẳng những phản ánh đúng hiện thực khách quan, mà còn tránh được tình trạng quá coi trọng yếu tố vật chất (chủ nghĩa duy vật) hoặc cường điệu yếu tố tinh thần ( chủ nghĩa duy tâm ) đến nỗi làm mất thế quân bình giữa vật chất và tinh thần. _ Trong mối quan hệ giữa vận động ( mất quân bình ) và đứng yên ( quân bình ), mặc dầu vận động thường xuyên hơn, đứng yên là tạm thời, điều đó chứng tỏ rằng sự vận động không phải theo đường thẳng, mà như đã khảo sát, là dao động có chu kỳ, cho nên sự vận động không tách rời ra

Page 462: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

461

khỏi sự đứng yên, có nghĩa là sự mất quân bình không bao giờ ra ngoài khuôn khổ của nguyên lý quân bình, vì nếu không có nó làm giềng mối thì sẽ không còn có qui luật trong thế giới tự nhiên nữa. Vì vậy, trái với quan điểm của phép biện chứng duy vật cho rằng: “ Vận động là phương thức tồn tại của vật chất.” ( Triết học Mác-Lênin, trang 79 ), với quan điểm của phép biện chứng quân bình thì sự vận động do mất quân bình gây ra chỉ làm cho sự vật biến đổi, còn thế đứng yên tương đối do nguyên lý quân bình chi phối mới qui định sự tồn tại nói chung và cũng qui định dạng tồn tại cụ thể của từng sự vật. Sự xuất hiện các giống loài khác nhau, sự biến đổi của chúng để thích nghi với môi trường sống đều do nguyên lý quân bình kết hợp với sự mất quân bình qui định. Sự kết hợp này nói lên tính tương đối của nguyên lý quân bình, chỗ nào thừa thì bớt, chỗ nào thiếu thì thêm trong sự vận động chứ không có ý nghĩa của dấu bằng ( = ) trong công thức toán học, cho nên trạng thái đứng yên của sự vật ( trạng thái quân bình ) cũng chỉ tạm thời, nếu không tất cả hoàn toàn bất động, là sự chết. _ Với cách trình bày qui luật biện chứng theo lý thuyết ba động thì trong một quá trình vận động, tức là trong một chu kỳ dao động, chúng ta thấy nổi bật lên hai phần đối lập của mâu thuẫn là phần lồi lên và lõm xuống của đường biểu diễn hình “ sin”; rồi trong mỗi mặt đối lập lại cũng có mâu thuẫn nữa, ví dụ một điểm tuy đang ở phần dương ( phần lồi ), nhưng lại có khuynh hướng đi xuống phần âm thì như vậy trong dương đã chứa cái mầm âm rồi; một điểm đang ở phần âm ( phần lõm ), nhưng lại có khuynh hướng đi lên phần dương, như vậy trong âm đã chứa mầm dương rồi. Đặc tính này tương tự như đặc tính trong dương có âm, trong âm có dương của kinh Dịch. Như vậy không có vấn đề thuần dương hay thuần âm, tức là không có vấn đề tuyệt đối hóa các mặt đối lập của mâu thuẫn. Điều này đưa đến mấy nhận thức quan trọng sau đây: Thứ nhất, CNTB và CNXH là hai mặt đối lập của một mâu thuẫn. Theo phép biện chứng quân bình, không mặt nào được đặc biệt xem trọng hơn mặt kia, mà cả hai đều có tác dụng chế ngự lẫn nhau để giữ thế quân bình. Người ta không thể nào tưởng tượng được rằng, mặt này phủ định rốt ráo mặt kia để tồn tại, độc tôn cũng tương tự như con lắc đang vận động, không thể nào treo lơ lửng mãi về một bên được, hay như một người tự ý bỏ một chân, chỉ còn giữ lại một chân, mà có thể đi đứng bình thường được. Con lắc bình thường tự do đảo qua, đảo lại vài lần mới ngưng. Nếu có nguyên nhân mới tác động vào, nó lại dao động nhưng không hẳn ở trong

Page 463: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

462

mặt phẳng cũ, vì trong không gian có vô số những mặt phẳng như vậy cùng đi qua một điểm treo của con lắc. Hình ảnh đảo qua, đảo lại đôi ba lần của con lắc ở những vị thế gần với trục quân bình như vậy đã gợi lên ý nghĩa của sự tổng hợp các mặt đối lập trong sự tiến gần lại với nhau. Khả năng dao động của con lắc trong vô số mặt phẳng qua điểm treo như vậy gợi lên ý nghĩa rằng, trong thế giới hiện tượng, sự vật không phải chỉ có hai mặt đối lập duy nhất cứ luân chuyển máy móc mãi, mà có vô số những mặt đối lập tương ứng xuất hiện tùy thuộc vào những điều kiện nhân duyên, không gian, thời gian. Thế cho nên phương pháp giải quyết vấn đề bằng cách đặt câu hỏi khẳng định hay phủ định, đúng hay sai, đồng ý hay không đồng ý một cách đơn giản, dứt khoát theo tính cách tĩnh của nhị nguyên luận chỉ giới hạn trong những trường hợp nhất định nào đó, chứ không có tính cách phổ biến, bởi vì thế giới hiện tượng là thực tại động chứ không phải tĩnh. Như vậy, phán đoán của Marx cho rằng CNXH ưu việt ra đời để phủ định CNTB lạc hậu, lỗi thời để độc tôn tồn tại là không đúng về lý thuyết cũng như thực tiễn, cho dù phạm trù phủ định có được điều chỉnh như thế nào đi nữa cũng tương tự như phạm trù vật chất. Điểm thứ hai, nếu trong lòng CNTB có mâu thuẫn thì CNXH cũng có mâu thuẫn nội tại tương tự như thế, nhưng có một điều khác biệt quan trọng là các nước TBCN tiên tiến có chế độ chính trị dân chủ đa nguyên, có đối lập, sự vận động sinh hoạt chính trị giống như phép biện chứng, nên mâu thuẫn được giải quyết, trong khi đó các nước XHCN có chế độ chính trị chuyên chính vô sản, không chấp nhận có đối lập, không thừa nhận bản thân mình có mâu thuẫn, cho nên mâu thuẫn thực sự không bao giờ được giải quyết. Điểm thứ ba, do tuyệt đối hóa các mặt đối lập, cho nên phép biện chứng duy vật chẳng khác nào nhị nguyên luận, cho rằng nếu mặt này đúng thì mặt kia dứt khóat phải sai, mặt này tốt, mặt kia ắt phải xấu. Tính cách độc đoán này chẳng những đưa đến sai lầm về phủ định ( phủ định rốt ráo ), mà còn dẫn đến phương thức đấu tranh cực đoan. Thật ra, quan điểm có vai trò rất quan trọng trong nhận thức. Với quan điểm chuyên chính vô sản, tầm nhìn bị giới hạn trong phạm vi một giai cấp, nghiêng lệch hẳn về một phía, hễ đồng với quan điểm vô sản là cách mạng, ngược lại là phản cách mạng cần phải đấu tranh tiêu diệt. Do quan điểm hẹp này mà khi xu thế thời đại chuyển hướng, những người trung thành với đường lối cách mạng vô sản cảm thấy ngỡ ngàng, lúng túng trước sự khác biệt giữa giáo điều với thực tiễn. Cho nên Lênin

Page 464: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

463

mới nói; “ Trong lúc cái mới nẩy sinh thì cái cũ trong một thời gian nào đó vẫn còn cứ mạnh hơn cái mới.” ( Trang 165 ). Thật ra, hiện tượng này không phải ngẫu nhiên, mà nó là kết quả tất yếu của sự tổng hợp trong phép biện chứng quân bình giữa các mặt đối lập bao gồm hai lần phủ định, phủ định tiền đề lẫn phản đề, cho nên sự phủ định mới có tính cách chọn lựa, kế thừa. Như vậy, không có việc mặt đối lập này thủ tiêu mặt kia để một mình tồn tại, cho nên đấu tranh bạo lực cách mạng cũng không phải là phương thức duy nhất, mà nó chỉ là một trong nhiều phương thức khác nhau tùy thời, tùy hoàn cảnh. Nó cũng không phải là phương thức tốt nhất, vì với bạo lực và chỉ bằng bạo lực tự nó đã để lộ thế yếu kém, không đủ khả năng thực hiện sự tổng hợp hài hòa, biểu hiện chân lý. Triết học Mác-Lênin, trang 209 viết: “ Phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo các qui luật khách quan và là cơ sở để chống lại bệnh chủ quan duy ý chí, còn khá phổ biến ở nước ta hiện nay.” Bệnh chủ quan duy ý chí ấy thực ra không phải mới có, mà nó đã có và còn sẽ có mãi mãi bao lâu quan điểm chuyên chính vô sản còn độc tôn. Cũng bởi quan điểm độc đoán này bất chấp tính khách quan khoa học, Lenin và Stalin đã một thời không thừa nhận thuyết di truyền cũng như từ chối thuyết tương đối của Albert Einstein cho rằng thuyết này thiếu tính cách biện chứng, nhưng thực ra phạm trù năng lượng ra đời đã làm lung lay địa vị của phạm trù vật chất trong ý nghĩa thống nhất thế giới vạn vật, làm phương hại cho thế đấu tranh của chủ nghĩa duy vật chống lại chủ nghĩa duy tâm. Thái độ này chẳng khác nào thái độ của giáo quyền, nhà thờ đối với những phát minh khoa học của Kopernikus (1473-1543) và Galileo (1564-1642) trong quá khứ. Tục ngữ Việt Nam có câu: “ Trật một ly, đi một dặm” . Câu nói tuy mộc mạc, nhưng ý nghĩa thâm thúy, nó nhắc nhở cho người ta luôn luôn thận trọng, tránh sai lầm từ căn nguyên. Ngoài ra còn một yếu tố rất quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của một chế độ là đạo đức, mà sự thành thật và sự liêm chính là yếu tố nổi bật hơn cả. Về thành thật như đã trình bày vừa thể hiện chân lý, vừa là yêu cầu về mặt đạo đức, không có nó thì tất cả đều là giả ngụy. Chế độ nhà Trần sở dĩ thành công phi thường là nhờ có những vị vua anh minh, thanh liêm tột cùng, lòng không còn gợn chút tham lam ngôi vị như nhận định của sử gia Ngô Thời Sĩ về vị vua học giả Trần Thái Tông như sau : “ ...mến cảnh sơn lâm, coi sống chết như nhau, tuy ý tứ gần với đạo Phật không tịch, mà chí thì rộng xa, cao siêu, cho nên bỏ ngôi báu như

Page 465: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

464

trút dép nát vậy.” Còn vua Trần Nhân Tông, vị vua anh hùng lại thực hành hạnh Bồ Tát, bố thí Ba la mật, yêu thương khắp muôn loài: “ Cắt thịt phân cho Dầu là chim cá Thân này chẳng quản Bửa đói bửa no.” Các vị vua và các vị Thiền sư đời Lý Trần nói chung đều dứt sạch tham dục, hết lòng phục vụ đời vì lòng Từ bi vô hạn, cho nên nhân dân được nhờ, đất nước thịnh trị là lẽ tất nhiên. Còn ở những chế độ giả ngụy, giới quan lại tham ô thì nhân dân còn biết trông mong vào đâu: “ Văn đạo triều đình đa cố lão, Nham nham thùy thị cụ dân chiêm” ( Nghe nói triều đình có nhiều cố lão, Cao chơm chởm, ai là người cho dân có thể trông mong ) ( Nguyễn Bỉnh Khiêm ) Con người khi nắm quyền lực mà có lòng tham vô độ thì của chung biến thành của riêng, nạn hà lạm, tham nhũng không sao tránh khỏi. Thế cho nên muốn xây dựng thành công một thể chế chính trị nào thì trước hết phải có những con người gương mẫu, ví dụ như đối với chế độ XHCH thì phải có những con người có tinh thần XHCN, thực sự biết tôn trọng của công, thể hiện đúng đắn phương châm : mình vì mọi người, mọi người vì mình ; chế độ dân chủ cũng phải có những con người thật sự có tinh thần dân chủ bao gồm những đức tính công bình, bác ái, khoan dung độ lượng, người mạnh, giỏi, giàu có bổn phận giúp đở người yếu, kém, nghèo khó; còn như dân chủ hình thức, dân chủ giả hiệu, lợi dụng dân chủ để bài xích lẫn nhau thì cũng nguy hại mà thôi. Đã đến lúc mọi người Việt Nam phải bình tĩnh, sáng suốt đánh giá đúng đắn các loại học thuyết, phân biệt phần nào đúng, phần nào sai để có thái độ thích hợp như tinh thần tổng hợp sáng tạo của truyền thống dân tộc, và chỉ với quan điểm quân bình, quan điểm rộng bao quát con người mới có thể nhìn xuyên suốt được chân lý toàn diện, từ đó mới có thể khai triển tối đa được hết khả năng thâu hóa sáng tạo. Còn với quan điểm thiển cận, một chiều: “ Hễ đồng với ta, cho ta là phải; không đồng với ta, cho ta là trái.” ( Trang Tử ) người ta chỉ có khả năng tiếp nhận được phân nửa chân lý, chân lý phiến diện, chỉ thấy được chỗ đồng ( đồng với quan điểm phiến diện của mình ) mà không thấy được chỗ hòa, cho nên không có khả năng thực hiện sự hòa hợp, thâu hóa sáng tạo gì cả.

Page 466: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

465

Tục ngữ Việt Nam có câu: “ Khôn thì trong trí lượng ra, Dại thì học lõm người ta bề ngoài.” Thật vậy, trong quá trình hình thành tri thức, nhất là tri thức khoa học thường gồm có hai giai đoạn: giai đoạn đầu là giai đoạn giáo dục căn bản tức học hỏi, tiếp thu những tri thức đã có trong kho tàng tri thức của nhân loại để kiến tạo cho mình một cơ sở tri thức vững chắc, giai đoạn sau là nghiên cứu, phát minh. Khả năng của con người thuộc giai đoạn hai đã được xác nhận ở Việt tính, tức khả năng siêu việt của con người, khả năng siêu xuất tính thể, khả năng khám phá Chân lý. Câu tục ngữ trên có ý nhắc nhở rằng, giữa sự sáng tạo, phát minh và sự học hỏi, tiếp thu thì óc phát minh sáng tạo quí hơn và trong khi học hỏi, tiếp thu của người nên chọn cái hay, tránh cái dỡ, chứ không sao chép y nguyên cái dạng bề ngoài của người. Trong sự tiếp thu, nếu không có khả năng biến hóa sáng tạo thành cái phù hợp cho mình, cũng như không có sẵn một nền tảng riêng vững chắc làm chỗ dựa cho sự tiếp thu thì sự tiếp thu đó chỉ có nghĩa là bị đồng hóa. Vậy thì người Việt Nam đã có sẵn một nền tảng tư tưởng vững chắc nào hay không? Nghiên cứu lịch sử đấu tranh và lịch sử tư tưởng của dân tộc Việt Nam, chúng ta thấy rõ cái nền tảng căn nguyên ấy là Việt tính. Thật vậy, từ ngàn xưa người Việt Nam đã có ý thức rất cao về dân tộc tính ( nghĩa thứ nhất của Việt tính ), đã dựng lên một huyền thoại hào hùng, đầy ý nghĩa về nguồn gốc dân tộc của mình là con cháu Tiên-Rồng, tức nguyên lý âm dương sáng tạo, sinh thành. Rồi đến cái tên của dân tộc cũng có ý nghĩa sâu sắc là Việt, mà Lưu Hy vào khoảng những năm 196-219 đã giải thích có tính cách xuyên tạc như sau: “ Di man chi quốc, độ việt lễ nghĩa, vô sở câu giả” ( Nước mọi rợ, vượt khỏi lễ nghĩa, không có câu thực ) Lưu Hy đã lấy quan điểm của đế quốc để khinh miệt dân tộc khác là vượt khỏi lễ nghĩa của người Hán, cho nên không có văn minh. Nhưng đứng trên lập trường, quan điểm dân tộc Việt, những người tự nhận mình là con cháu Tiên-Rồng thì vượt khỏi lễ nghĩa lại mang ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn. Vượt khỏi lễ nghĩa có nghĩa là thoát khỏi sự ràng buộc của nền luân lý, văn hóa nô dịch của chủ nghĩa đế quốc phong kiến phương Bắc, siêu vượt lên trên nó để hình thành nền văn hóa dân tộc đối kháng, có vai trò quyết định trong sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc và chủ quyền đất nước một cõi ở phương Nam. Đã từ lâu, Nam Bắc đã trở thành cặp phạm trù chính trị quan trọng trong lịch sử đấu tranh của dân tộc. Đường ranh giới Nam

Page 467: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

466

Bắc được phân định rõ ràng như một chân lý không bao giờ thay đổi theo như lời hịch của Lý Thường Kiệt: “ Nam quốc sơn hà Nam đế cư, Tiệt nhiên định phận tại thiên thư...” ( Núi sông lãnh thổ nước Nam, vua nước Nam làm chủ, Rõ ràng là việc đã định ở sách trời... ) Nghĩa thứ hai của Việt tính là khả tính vượt qua mọi chướng ngại, thử thách để tồn tại; là siêu vượt lên trên, là sự nhảy vọt, là hành động vượt bậc trong quá trình phát triển để tiến bộ, tức nâng cao phẩm chất theo qui luật lượng biến thành phẩm, và sau cùng đưa đến phản tỉnh, giác ngộ, cho nên Việt tính cũng có nghĩa là siêu xuất chân thể, xuất tính thể, suất tính, cũng là kiến tính. Như vậy, nghĩa thứ nhất và nghĩa thứ hai của Việt tính thực ra cũng chỉ là một, bởi vì Việt là tên gọi của một dân tộc, mà dân tộc đó có tất cả khả tính siêu việt như vừa kể ở trên. Cho nên giải phóng Việt tính thoát khỏi sự câu thúc bởi văn hóa nô dịch của chủ nghĩa đế quốc và tạo điều kiện thuân lợi cho nó tự do xuất hiện là mở đường nâng cao dân trí, một điều kiện rất quan trọng trong quá trình phát triển đất nước. Ngoài ra Việt tính cũng còn có nghĩa là mẫu người phi thường, cho nên cũng là siêu việt thể. Siêu việt thể ở đây không hề có ý nghĩa Thượng đế, mà là những con người tại thế, ở ngay trong lòng quần chúng, có đầy đủ phẩm chất và hành động phi thường cứu dân, cứu nước, khi còn sống được tôn vinh là anh hùng dân tộc, khi chết được phong làm thần, làm thánh. Sự tích Phù Đỗng Thiên Vương thường được các nhà viết sử xếp vào loại những chuyện thần thoại, nhưng theo thiển ý của chúng tôi thì đây là sự kiện lịch sử có thật đã được huyền thoại hóa theo khuynh hướng chung của tinh thần nhân loại rất phổ biến ở thời khuyết sử, vì bên cạnh những chi tiết có tính cách huyền thoại như ngựa sắt, roi sắt, nón sắt..., bay lên núi Sóc sơn biến mất...còn có những sự kiện lịch sử như việc vua Hùng Huy Vương, một vị vua trong 18 đời vua Hùng ( 2879-258 ) đã cho dựng tại làng Phù Đỗng một ngôi đền để thờ phượng, tưởng nhớ công đức, sự nghiệp của Thiên Vương. Đến đời vua Lý Thái Tổ( 1009-1028 ), nhà vua lại sắc phong Ngài làm “ Xung Thiên Thần Vương ”và đền thờ ngày nay ở bên cạnh làng Phù Đỗng, tỉnh Bắc Ninh, được xem như là một thắng tích lịch sử. Đối với một câu chuyện mà ngày nay vẫn còn chứng tích cụ thể như đền thờ, sắc phong, có quê hương xuất xứ rõ rệt thì Thiên Vương phải là nhân vật có thật, sau khi hoàn thành sứ mạng cao cả đã mai danh ẩn tích.

Page 468: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

467

Đó là mẫu người anh hùng siêu việt lý tưởng với tinh thần vô kỷ, vô công, vô danh nghĩa là mẫu người mà hành động không vì cá nhân, không cậy công cũng không vì danh lợi, cho nên đó không phải là anh hùng cá nhân mà là chủ nghĩa anh hùng. Cứ mỗi lần đất nước bị lâm nguy thì lại thấy có những vị anh hùng hào kiệt từ trong lòng dân tộc xuất hiện sẵn sàng hy sinh cứu dân, cứu nước. Điều đó hầu như đã trở thành qui luật của lịch sử đấu tranh của dân tộc Việt. Đặc biệt vào thế kỷ thứ XIII đời Trần có Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, Ngài không những là vị anh hùng của dân tộc Việt Nam, đã có công đánh đuổi giặc xâm lăng Mông Cổ, mà còn được liệt vào hàng vĩ nhân của thế giới, vì đã có công ngăn cản bước tiến ào ạt của đoàn quân đế quốc hùng mạnh này tại khu vực Đông Nam Á. Ngay lúc Ngài còn sống, vua Trần Thánh Tông đã tự làm bài văn bia ghi công nghiệp vĩ đại của Ngài để kỷ niệm và tôn thờ. Khi Ngài mất vào ngày 20 tháng 8 năm Canh Tý (1300 ), vua Trần Anh Tông cho lập đền thờ và làm bia sắc phong tại Vạn Kiếp. Dân chúng hết lòng thờ phượng và tôn sùng Ngài như bậc thánh, thường gọi là Đức Thánh Trần. Nói chung, mọi người đều có siêu việt tính, một khả năng nội tại, tiềm tàng, một nguồn năng lượng vô biên như ý nghĩa của công thức nổi tiếng của Albert Einstein: E = mc² , mặt khác cũng có ý nghĩa tương tự như câu nói của Đức Phật: “ Tất cả chúng sinh đều có Phật tính ” vậy. Khả năng đó nói lên tính bình đẳng nguyên thủy của con người, nhưng do từng căn cơ mà có khác nhau về trình độ, rồi do công phu rèn luyện, tích lũy lượng biến thành phẩm đều có thể làm cho khả năng tiềm tàng đó trở thành hiện thực được cả. Đó là nói về yếu tố nội tại của chủ thể chủ quan,ngoài ra người ta còn phải liên kết với những điều kiện ngoại tại, yếu tố khách quan nữa. Những yếu tố ngoại tại khách quan này có thể tạo thuận lợi hoặc gây trở ngại cho sự phát huy khả năng nội tại, tuy nhiên do tính cách phản phục trong phép biện chứng quân bình có khi những chướng ngại chẳng những không đè bẹp nỗi sự phát triển yếu tố nội tại, mà trái lại còn kích thích nó trào vọt, bột phát không thể lường được như thế “ tức nước vở bờ ” để tìm lối thoát, tức là thoát khỏi sự dồn ép, căng thẳng để trở về thế quân bình, tức là vừa khai thông cho sự vận động vừa bảo đảm cho sự ổn định, có nghĩa là sự tồn tại. Hiện tượng này đã được Lão Tử nói đến ở chương 36, ĐĐK như sau : “ Tương dục hấp chi, tất cố trương chi; tương dục nhược chi tất cố cường chi; tương dục phế chi, tất cố hưng chi; tương dục đoạt chi, tất cố dữ chi.” ( Hễ hòng muốn thu rút đó lại, là sắp mở rộng cho đó ra; hòng

Page 469: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

468

muốn làm yếu đó, là sắp làm đó mạnh lên; hòng muốn vứt bỏ đó, là sắp làm hưng khởi đó; hòng muốn cướp đoạt đó, là sắp ban thêm cho đó ). Lịch sử đấu tranh của dân tộc Việt Nam đã nhiều phen chứng minh tính qui luật này: chế độ cai trị của thực dân đế quốc càng hà khắc, lực lượng nổi dậy để giải phóng dân tộc càng mãnh liệt; các chế độ chính trị độc tài chuyên chế càng ra sức trấn áp, quần chúng nhân dân càng nổi lên chống đối. Khả năng nội tại của con người bình thường tiềm ẩn, khi được kích thích đúng mức, đúng lúc nó trổi dậy mãnh liệt biến thành sức mạnh phi thường khả dĩ thắng vượt mọi chướng ngại, mà thật ra là vươn tới thế quân bình. Đó là bản năng sinh tồn, tức là khả năng tái lập quân bình để tồn tại. Về ý này, người xưa thường nói : “ Tận nhân lực tất tri thiên mệnh ” và truyện Thúy Kiều cũng có câu: “ Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều” Như vậy, muốn biết mệnh trời, thấu rõ chân lý, con người tức chủ thể nhận thức phải tận lực, mà vấn đề quan trọng là con người đã thật sự tận lực chưa? Một cách tổng quát, khi chủ thể đã tận lực đạt đến khả năng siêu xuất tính thể thì đã có khả năng gặp gỡ trọn vẹn với khách thể trong chân trời đối tượng tính theo qui luật đồng nhất cũng là nguyên lý quân bình. Tùy theo thời cơ, siêu việt tính biểu hiện thành siêu việt thể tại thế ở những dạng khác nhau. Siêu việt thể tức những con người siêu việt, phi thường trước hết có thể là những nhà đạo đức, những bậc có hạnh Bồ Tát như các vị Thiền sư Khuông Việt, Pháp Thuận, Vạn Hạnh ra đời giữa lúc nền luân lý, đạo đức suy đồi trầm trọng: nào là anh giết em ( Đinh Liễn giết em là Hạng Lang vào năm 979 ), thần giết vua ( Đỗ Thích giết vua Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn sau đó cùng năm ). Sau khi vua Lê Đại Hành mất ( 1005 ), anh em nhà Lê đánh giết lẫn nhau để tranh giành quyền lực, người cuối cùng lên ngôi vua là Lê Long Đĩnh nổi tiếng sa đọa, tàn ác mà Đại Việt sử lược có ghi việc Lê Ngọa Triều cho cột người nơi mạn thuyền qua lại trên sông Chi Ninh để cho cá sấu ăn thịt; còn Đại Việt sử ký toàn thư lại ghi: “ Vua tính thích giết. Hễ người sắp bị hành hình, hoặc dùng cỏ tranh quấn vào mình mà đốt để cho người ấy bị lửa cháy gần chết... hoặc bắt họ trèo lên cây cao rồi chặt gốc cho cây đổ để người rơi xuống chết, vua tự mình đến xem, cho là sướng.” Đại Việt sử ký toàn thư còn ghi thêm: “ từng róc mía trên đầu nhà sư Quách Ngang giả vờ lỡ tay để làm đầu sư bị thương chảy máu, rồi cười rầm lên.”

Page 470: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

469

Vào thời đó, lời sấm có ghi: “ Thập nhị xưng đại vương, Thập ác vô nhất thiện ” Vua Lê Đại Hành có 12 người con kể cả một người con nuôi thì 10 người là ác, không có ai thiện cả. Đứng trước cuộc khủng hoảng của thời cuộc mà nguồn gốc sâu xa là sự suy đồi của nền tảng luân lý, đạo đức nên Thiền sư Pháp Thuận, người mà Thiền uyển tập anh đã ghi “ nói ra lời nào cũng hợp với sấm ngữ” đã trình tấu lên vua Lê Đại Hành bài thơ vận nước khi nhà vua đem vận nước dài ngắn ra hỏi Sư: “ Quốc tộ như đằng lạc, Nam thiên lý thái bình. Vô vi cư điện các, Xứ xứ tức đao binh ” ( Vận nước như mây cuốn, Trời Nam mở thái bình. Vô vi trên điện các, Xứ xứ hết đao binh ) Nội dung bài thơ vận nước nhấn mạnh vai trò đạo đức trong sinh hoạt chính trị, nó đòi hỏi triều đình, nhà vua phải “ vô vi ”. Vô vi là phạm trù triết học trong học thuyết Lão Trang, Nho giáo, Phật giáo, tuy mỗi nhà mỗi vẻ nhưng đều nói lên đạo trị nước lý tưởng của các vị minh quân lấy đức mà cai trị ( đức trị ). Mẫu người lãnh đạo lý tưởng phải có phẩm chất tốt, phải hội đủ cả tài lẫn đức thì mới có đủ khả năng thu phục nhân tâm, thực hiện đại đoàn kết, chấm dứt chiến tranh dưới mọi hình thức, đất nước mới có thái bình. “ Vô vi trên điện các” có nghĩa là lãnh đạo lý tưởng theo đạo sống quân bình thì sự kêu gọi đại đoàn kết mới có hiệu quả. Kế thừa tư tưởng địa linh nhân kiệt do Định Không đề ra, La Quý hoàn thiện và phổ biến rằng đất nước Việt Nam có những nơi có khí tượng đế vương, có thể sinh sản ra những nhân tài, những vị anh hùng làm chủ đất nước và dự báo về một người họ Lý ra đời ở đất Cổ Pháp sẽ lên ngôi vua, làm cho đất nước và Phật pháp hưng thịnh, cho nên Thiền sư Vạn Hạnh ngay khi thấy Lý Công Uẩn lúc còn trẻ đến học ở chùa Lục Tổ đã khen rằng: “ Đây là người phi thường, sau khi lớn lên, tất có thể giải quyết rối rắm, mà làm minh chúa của thiên hạ.” ( Đại Việt sử ký toàn thư ). Vạn Hạnh đã nổ lực nuôi dưỡng, dạy dỗ và vận động đưa Lý Công Uẩn lên ngôi vua vào năm 1009, mở ra một kỷ nguyên mới khả dĩ bảo đảm sự

Page 471: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

470

trường tồn cho dân tộc, một triều đại nhà Lý thịnh trị trên hai thế kỷ và là nền tảng cho sự hùng mạnh của triều Trần tiếp theo sau. Đây là một sự kiện rất quan trọng trong lịch sử đấu tranh của dân tộc Việt Nam, vì trước đó cũng đã có nhiều vị anh hùng kiệt suất như Ngô Quyền, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, nhưng ba triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê quá ngắn ngủi, chỉ trên dưới 30 năm. Thành quả này có được là do tầm nhìn rộng thấy xa và công trình gây dựng lâu dài của tầng lớp Thiền sư ưu tú, đạo hạnh của Phật giáo đã xây đắp được một nền tảng văn hóa, đạo đức vững chắc, một đạo sống quân bình cho dân tộc, cho nên thời đại này đã tổng hợp thành công được ba nguồn tư tưởng lớn của Đông phương là Phật, Lão, Nho gọi là “ Tam giáo đồng nguyên ” phục vụ hữu hiệu đất nước. Những con người siêu việt đó cũng có thể là những vị anh hùng dân tộc xuất hiện kịp thời khi đất nước lâm nguy vì nạn ngoại xâm hay nội chiến tương tàn. Họ là những người ở trong lòng dân tộc, không phân biệt thành phần xã hội, giai cấp, có thể là trẻ mục đồng như Đinh Bộ Lĩnh, thanh thiếu niên như Trần Quốc Toản, lão tướng như Lý Thường Kiệt, nô tỳ như Yết Kiêu, Dã Tượng, người bán than như Trần Khánh Dư, quý tộc như Trần Quốc Tuấn, hào trưởng như Lê Lợi, phụ nữ như Bà Triệu, hai Bà Trưng v.v... Ngoài ra những con người siêu việt cũng có thể là những nhà tư tưởng, những nhà khoa học, những nhà phát minh kỹ thuật, những nhà văn hóa, nghệ thuật...xuất sắc. Nguyễn Công Trứ đã phác họa chủ nghĩa anh hùng như một triết lý hành động như sau: “ Vũ trụ chức phận nội, Đấng trượng phu một túi kinh luân. Thượng vị đức, hạ vị dân, Sắp hai chữ “quân, thân” mà gánh vác. Có trung hiếu nên đứng trong trời đất, Không công danh thà nát với cỏ cây. Chí tang bồng hồ thỉ dạ nào khuây, Phải hăm hở ra tài kinh tế. Người đời thế trả nợ đời là thế, Của đồng lần thiên hạ tiêu chung. Hơn nhau hai chữ anh hùng.” Quan niệm anh hùng trong văn học bình dân: “ Ở đời muôn sự của chung,

Page 472: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

471

Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi.” Theo tinh thần chuyện huyền thoại “ Phù Đổng Thiên Vương ”, tư tưởng bài thơ “ Phận sự làm trai ” của Nguyễn Công Trứ cũng như ý tưởng của câu ca dao trong văn học bình dân trên đây, chúng ta nhận thấy nhân vật anh hùng là mẫu người lý tưởng vừa đẹp, vừa hào hùng, cho nên người xưa đã định nghĩa anh hùng như sau: “ Thảo trung chi anh, thú trung chi hùng ” có ý nói đứng đầu các loài thảo là hoa lan anh đẹp, còn đứng đầu các loài thú là con gấu gan dạ, hay loài chim ngắn đuôi đẹp. Hành động của Thiên Vương làng Phù Đổng sau khi phá tan quân giặc xong, bèn bay lên núi Sóc Sơn biến mất đã nói lên đức tính anh hùng đặc biệt hiếm có của con người phi thường là không vì cá nhân mình ( vô kỷ ), không cậy công ( vô công ), không cầu danh lợi ( vô danh ). Ở Nguyễn Công Trứ, tôn chỉ hành động của con người anh hùng là “ Thượng vị đức, hạ vị dân ”, “ Phải hăm hở ra tài kinh tế ”, và quan niệm về chữ Danh là Công danh, danh thực đi đôi với sự nghiệp phục vụ nhân dân, đất nước, chứ không phải hư danh. Còn ở văn học bình dân, chúng ta nhận thấy nổi bật lên sự liên hệ tương phản giữa giá trị vật chất và tinh thần, chỉ có tiếng anh hùng mới là đáng quý trọng, là vì người ta thường quan niệm rằng: “ Hùm chết để da, người ta chết để tiếng ” Như đã nói ở phần tư tưởng trong văn học bình dân, do phẩm chất cao quý của mẫu người anh hùng mà có lắm kẻ giả dạng anh hùng, mà người bình dân gọi là “ anh hùng rơm ”: “ Anh hùng gì anh hùng rơm, Ta cho mớ lửa hết xương anh hùng ” Ngoài ra còn có thứ ngụy anh hùng khác nữa giống như loại cáo già quỷ quyệt, mà người đời gọi là gian hùng. Kẻ gian hùng cho dầu có nổ lực đánh bóng, tô điểm cá nhân mình như thế nào cũng không thể qua mắt được quần chúng nhân dân, nhứt là những con người có trí tuệ: “ Đừng lấy vải thưa mà che mắt thánh ” ( Tục ngữ ) Kẻ gian hùng với mưu gian xảo trá, không thực sự có siêu việt tính, nhứt định không thể là đấng anh hùng trong lòng dân tộc cũng như không thể trở thành danh nhân trên thế giới được. Ngoài ra quan niệm về anh hùng của truyền thống Việt Nam là chủ nghĩa anh hùng, chứ không phải anh hùng cá nhân. Mỗi con người là một cá nhân, nhưng khi đã thể hiện được siêu việt tính trở thành anh hùng rồi

Page 473: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

472

thì trở thành vô kỷ, nghĩa là cá nhân đã tan biến, thăng hoa thành chủ nghĩa anh hùng của dân tộc, là cái chung chứ không còn riêng tư nữa. Mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung là mối quan hệ biện chứng, mà theo quan điểm quân bình thì không cái nào được đặc biệt ưu đãi, tránh khuynh hướng cực đoan, tuyệt đối hóa cá nhân thành ra chủ nghĩa cá nhân, khiến anh hùng trở thành anh hùng cá nhân; hoặc tuyệt đối hóa tập thể, bắt cá nhân phải hy sinh một chiều, tước đoạt hết tự do cá nhân, khiến cá nhân trở thành như kẻ nô lệ, không thể phát huy được khả năng và nhân tài không thể xuất hiện. Vai trò của cá nhân, nhứt là những cá nhân xuất sắc và tập thể quần chúng tuy có khác nhau tùy thời, tùy hoàn cảnh, nhưng nói chung đều phải được coi trọng; cá nhân và tập thể quần chúng có tác động qua lại biện chứng với nhau có thể tạo ra sức mạnh tổng hợp phi thường. Trong giai đoạn xây dựng đất nước, những nhà khoa học, những nhà phát minh kỹ thuật rất cần thiết, họ là những tác nhân có thể làm chuyển biến các hình thái kinh tế từ thấp đến cao và làm cho xã hội có những bước tiến nhảy vọt vượt bực. Điều này chính Marx cũng đã từng khẳng định: “ Bánh xe quay tơ dẫn đến xã hội phong kiến; nhà máy sợi chạy bằng hơi nước dẫn đến xã hội tư bản.” ( Das Spinnrad führt zu einer Gesellschaft mit Feudalherren; die dampfbetriebene Spinnerei zu einer Gesellschaft mit Kapitalisten ) Như vậy vấn đề là làm sao cho đất nước có được sức mạnh tổng hợp từ nguồn năng lực vô tận của khối thống nhất dân tộc bao gồm những cá nhân xuất sắc trong một tập thể quần chúng nhân dân đoàn kết, hài hòa. Điều này lại đòi hỏi một chính sách đúng đắn về con người. Người xưa thường nói: “ Dụng nhân như dụng mộc „ có nghĩa là việc dùng người cũng giống như việc dùng cây, theo đó thì tùy theo khả năng mà sắp xếp công việc cho thích hợp chứ không chừa một ai cũng như trong việc dùng cây thì thân, cành, nhánh đều có chỗ dùng tất cả. Chính sách dùng người này dựa trên quan điểm quân bình, cho nên có sự hài hoà thường thấy ở các thời thịnh trị. Tuy nhiên, ở những thời kỳ loạn lạc, đen tối của lịch sử lại cũng có cách dùng người khác thường do quan điểm vừa nông cạn, vô minh, vừa cực đoan: ưu đãi, dung túng kẻ bất tài, thất đức; bạc đãi, đọa đày, làm nhục, trấn áp những người tài đức, chẳng khác nào như lấy nhánh, que làm rường cột nhà, còn thân cây thì đốt củi lấy than. Cũng có thể nói rằng, do cách dùng người sai trái này mà lịch sử mới rơi vào tình trạng đen tối. Người ta có kể một câu chuyện rất có ý nghĩa về Diogenes, nhà hiền triết Hy Lạp như sau: Diogenes lúc về già đi bằng tàu biển về xứ Ägina. Dọc đường, chẳng may bị bọn hải tặc tấn công, ông bị

Page 474: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

473

bắt mang về Kreta, nơi đó bị bán làm nô lệ. Khi người lái buôn nô lệ hỏi ông về khả năng, ông trả lời: “ Tôi có thể hướng dẫn, điều khiển được con người, vậy thì hãy bán tôi cho người nào cần một ông chủ „ Nói về chính sách đối với con người thì bên cạnh chính sách dùng người, còn có chính sách đào tạo con người nữa. Về điểm này, người xưa cũng đã nói: “ Thập niên trùng thọ, bách niên thọ nhân „ ( Mười năm trồng cây, trăm năm cây người ) Vì sự nghiệp lâu dài, việc đào tạo con người nhứt là những con người tài đức rất quan trọng, mà kết quả tùy thuộc vào các yếu tố nội tại cũng như ngoại tại. Nhân tài trong quần chúng có thể có nhiều, nhưng những nhân tài siêu việt thì hiếm có, cho nên lãnh đạo sáng suốt bao giờ cũng tạo điều kiện thuận lợi cho tài năng xuất hiện, tránh những biện pháp kỳ thị hẹp hòi, cực đoan, trấn áp, tiêu diệt nhân tài một cách oan uổng từ mầm mống làm thiệt hại nguồn năng lực, tài năng của đất nước. Trong việc chọn lựa giống trồng cây gây rừng, với chủ trương kỳ quặc: giống có phẩm chất cao bị loại trừ, giống tạp nhạp được ưu tiên, thì hậu quả là đất nước sẽ không còn gỗ quý nữa. Những chế độ độc tài chuyên chế thiển cận, chỉ chấp nhận một cách máy móc những gì đồng một chiều với nó, tiêu diệt những gì khác với nó như ý nghĩa câu chuyện huyền thoại Hy Lạp sau đây: Procuste là một tướng cướp rất độc ác, anh ta có sắm một cái giường sắt. Khi bắt được nạn nhân nào, anh ta cũng đặt lên trên cái giường khuôn mẫu ấy, nếu vừa thì thôi, bằng không thì phải bị chặt chân cho vừa vặn với chiếc giường. Với những chế độ độc tài, mù quáng như thế thì nhân tài bị tận diệt từ gốc rễ, nếu may mắn xuất hiện thì cũng bị chặt chân trở thành què quặt. Về quan hệ giữa cá nhân phi thường và quần chúng nhân dân, Triết học Mác-Lênin trang 81 viết: “ Mác và Ăng-ghen đã bác bỏ những học thuyết duy tâm gắn lịch sử với hoạt động của bọn vua chúa, tướng lãnh, những cá nhân phi thường và chứng minh một cách khoa học rằng hoạt động của quần chúng nhân dân là lực lượng quyết định trong việc tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần trong những cải biến cách mạng đời sống xã hội „ Điều đó có nghĩa là những học thuyết duy tâm coi trọng những cá nhân phi thường, còn chủ nghĩa duy vật lại đánh giá cao vai trò của quần chúng nhân dân. Triết học quân bình không bị hạn hẹp vào một trong hai khuynh hướng đối lập trên, mà siêu vượt lên trên chúng để có một nhãn quan toàn diện về

Page 475: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

474

thực tại, xác định vai trò của các mặt đối lập trong mối quan hệ biện chứng quân bình như: cá nhân phi thường- quần chúng nhân dân, vật chất- tinh thần, cái riêng- cái chung… Với phép biện chứng quân bình, CNTB và CNXH là hai hình thái chính trị, kinh tế có tương quan với nhau như tương quan giữa cái riêng và cái chung, tuy có mâu thuẫn, có đấu tranh nhưng không có nghĩa là tiêu diệt đối phương, mà là chế ngự lẫn nhau trong khuôn khổ của nguyên lý quân bình, có tác dụng qua lại, bổ sung, xây dựng cho nhau qua sự phủ định có chọn lựa, có kế thừa trong sự tổng hợp sáng tạo. Quá trình này có thể lập đi lập lại đôi ba lần và sau cùng siêu vượt lên trên mâu thuẫn để hình thành những hình thái mới cao hơn. Sự khác biệt giữa phép biện chứng duy vật và phép biện chứng quân bình là ở chỗ: phép biện chứng duy vật tuy coi các mặt đối lập có tác dụng qua lại với nhau, nhưng vẫn còn chủ trương duy trì một khuynh hướng, như vậy vẫn còn chịu ảnh hưởng của nhị nguyên luận; trong khi đó ở phép biện chứng quân bình, các mặt đối lập tác động qua lại với nhau một cách tự nhiên theo qui luật quân bình, mà không bị cưỡng chế theo một khuynh hướng nhất định nào. Một câu hỏi có thể được đặt ra ở đây là với quan điểm quân bình thì các mặt đối lập của mâu thuẫn được xem bình đẳng như nhau, nhưng nếu để ý đến vấn đề thiện- ác chẳng hạn, tại sao thông thường con người vẫn trọng thiện hơn ác; đạo đức, luân lý vẫn khuyên con người nên làm lành, lánh dữ. Điều này thật rõ ràng, vì bản chất của con người có hai khuynh hướng đối lập nhau: thiện và ác, mà khuynh hướng ác thường lấn át có khi trầm trọng đến nỗi có câu nói chua chát: “ Homo lupus homini „ ( Người đối với người như lang sói ), cho nên luân lý, đạo đức mới khuyến khích con người làm điều thiện, tránh điều ác để tạo lập lại thế quân bình, chứ không hề có ý nghĩa chấp vào cái thiện, chủ trương dùng cái thiện bài trừ cái ác. Vấn đề này đã biểu hiện rõ trong lịch sử Việt Nam: Ở thời đại Đinh, Tiền Lê, đạo lý suy đồi, tôi giết vua, anh giết em, em giết anh để tranh giành quyền lực cho nên mới xuất hiện tầng lớp Thiền sư đạo hạnh cao tột để lập lại quân bình. Lý Công Uẩn được Thiền sư Vạn Hạnh vận động đưa lên ngôi vua, Ngài lấy đức trị dân cho nên đã mở ra một thời kỳ thịnh trị. Nhưng vì Ngài xuất thân từ cửa Phật, chịu ảnh hưởng sâu xa tín ngưỡng Từ bi, phát huy nó cuồng nhiệt đến độ mất quân bình dần dần sanh ra biến thái tiêu cực, mê tín, dị đoan khiến cho nhà Nho Ngô Thời Sĩ đời Hậu Lê bất bình phê phán rằng: “ Vua Lý Thái Tổ sinh trưởng nhờ cửa Phật…, thuyết nhân quả ăn sâu ở trong lòng, cho nên khi mới kiến quốc đã sáng

Page 476: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

475

tạo nhiều chùa, cấp điệp độ tăng chúng, muốn đưa cả thế giới vào nước Phật…Khi khánh thành chùa thì mở hội, xá các tội nhân, một nhà sư tự thiêu mà cũng cải niên hiệu, vị tướng đánh được giặc mà cũng tạ ơn Phật... tự dối mình và dối đến người khác, trên dưới như điên, như dại khiến cho ảo thuật của sư Đại Điên dám hoành hành ở trong cung vua, tà thai của Nguyễn Bồng đầu thai làm con thừa tự của nước, đến nỗi vua Huệ Tông bỏ nước cho con gái nhỏ mà xuất gia đầu Phật. Vì nhà sư mà hưng quốc, lại vì nhà sư mà mất nước. Phật cũng không đem chén nước công đức mà độ cho vua cho nước được , phải chăng tại vì vua Thái Tổ cho nên nỗi thế „ Đứng trước tình trạng suy thoái trầm trọng do sự nhu nhược của một triều đại sắp tàn, phải có một con người cương quyết, có khi đến tàn bạo như Trần Thủ Độ xuất hiện để lập lại quân bình. Nhưng để tránh sự đi quá trớn về khuynh hướng tàn bạo lại phải có nhân vật vừa trí thức vừa đức độ như vua Trần Thái Tông đi kèm theo thì mới không chao đảo. Đức Phật khi nói thuyết Khổ đế là có ý cảnh giác những ai chỉ quan niệm lệch lạc rằng sống là để tận hưởng thú khoái lạc vật chất ở đời mà lãng quên việc tu thân, tu đạo. Ngài cũng nói: “ Có hai cực đoan mà người muốn sống được một đời sống giải thoát cần phải tránh xa! Cực đoan thứ nhất là lấy những lạc thú xác thịt làm mục đích của đời người. Đó là một nếp sống thô bỉ và ngu xuẩn! Nhưng cái cực đoan thứ hai là sống một đời sống khổ hạnh, ép xác… cũng chỉ gây cho con người thêm đau khổ, vất vả, vô ích! „ Thực ra niềm an lạc, tức chân hạnh phúc không phải ở những cực đoan, mà ở tại chỗ Trung, nơi trọng tâm của nguyên lý quân bình. Đức Phật cũng nói: “ Tất cả chúng sinh đều có Phật tính „ và thường dặn dò : “ Các bậc Như lai chỉ làm cái việc chỉ đường thôi, mỗi người phải tự mình đi đến, chứ không ai đi thế cho ai được cả! „ Đó là Ngài muốn nêu lên yếu tố Tự lực đối kháng lại với yếu tố Tha lực của thuyết đệ nhất nguyên nhân thần quyền lúc đương thời, tất cả cũng không ngoài khuôn khổ của nguyên lý quân bình. Bởi vậy để tránh sự thiên chấp bất kỳ một khuynh hướng cực đoan nào, cũng như chấp vào hình thức giáo điều, Đức Phật giảng pháp tới đâu đều xóa chữ tới đó. Ngài nói : “ Ta thuyết pháp trong khoảng bốn mươi chín năm, mà chưa từng nói một lời… „ rồi Ngài chủ trương thuyết Trung đạo : “ Thấy tất cả đều là không, mà chẳng thấy cái chẳng không, chẳng gọi được là Trung đạo… „ ( Kinh Đại Niết bàn ). Đạo quân bình, tức lối sống theo nguyên lý quân bình không có nghĩa tĩnh như dấu bằng ( = ) của đẳng thức toán học, cũng không có nghĩa tĩnh

Page 477: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

476

như trung điểm theo hình học, cũng không hẳn có ý nghĩa như thái độ trung lập của chính trị, nó không cứng nhắc chấp vào một khuynh hướng nhất định nào của các mặt đối lập của mâu thuẫn: không chấp thị, phi, thiện, ác, thường, đoạn…mà nó ở thể động, chỗ nào dư thì bớt, chỗ nào thiếu thì bù theo khuôn khổ của nguyên lý quân bình. Điều đó cũng có nghĩa là nó không loại bỏ hẳn biện pháp cực đoan ( cấp tiến, bạo lực ), mà nó có thể dùng cực đoan này để chế ngự cực đoan kia đối nghịch trong khuôn khổ của nguyên lý quân bình. Biện pháp này chỉ có tính cách tạm thời; sau khi tái lập quân bình, phải từ bỏ ngay vì cực đoan nào cũng đều mất quân bình trầm trọng cả. Ở thế giới hiện tượng, ở phương diện tục đế, ở hình nhi hạ nó dung hòa, điều hợp các mặt đối lập của mâu thuẫn để giữ thế quân bình, có nghĩa là để tồn tại; ở thế giới siêu nhiên, ở phương diện chân đế, ở hình nhi thượng nó siêu vượt lên trên mọi mâu thuẫn để thăng hoa, nhập diệu vào chân lý, thực tại tuyệt đối, bản thể đại đồng. Không có hành động siêu vượt lên trên mâu thuẫn thì nhất định không bao giờ thoát khỏi mâu thuẫn, do đó sẽ không thể có những bước nhảy vọt vượt bực, óc sáng tạo, sự phản tỉnh, giác ngộ, siêu xuất tính thể. Ở phần một số kết luận về mặt phương pháp luận của cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả, Triết học Mác- Lênin, trang 175 ghi: “ Phải nắm được những nguyên nhân tác động cùng chiều hoặc khác chiều để tạo ra sức mạnh tổng hợp và hạn chế những nguyên nhân nghịch chiều „ Có lẽ đây là lý do tại sao những người chủ trương bạo lực cách mạng duy trì chuyên chính vô sản, và phép biện chứng duy vật chỉ chấp nhận chân lý một chiều, chận bít lối chiều kia và tin tưởng rằng sẽ có được sức mạnh tối đa. Nguyên nhân của sự nhầm lẫn này là do phép biện chứng duy vật đã tuyệt đối hóa các mặt đối lập của mâu thuẫn, mà thực ra mâu thuẫn có tính tương đối. Chúng ta thử làm một bài tính nhỏ sau đây: trong một chu kỳ vận động biện chứng của một sự kiện nào đó gồm có hai giai đoạn là hai mặt đối lập với nhau. Theo phép biện chứng duy vật, mặt tích cực ( ví dụ B ) phủ định mặt tiêu cực ( ví dụ A ), như vậy sau cùng có hiệu quả 50% do B mang lại. Theo phép biện chứng quân bình, mỗi mặt của mâu thuẫn đều có cả tính vừa tiêu cực lẫn tích cực, cho nên mặt A có 25% tính tiêu cực+ 25% tính tích cực và mặt B cũng vậy có 25% tính tiêu cực + 25% tính tích cực. Kết quả trong một quá trình vận động biện chứng thực ra có: 25% tính tích cực A+ 25% tính tích cực B= 50% tính tích cực AB

Page 478: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

477

Đó là sự tổng hợp có chọn lọc từ cả hai mặt đối lập A và B, cho nên đạt 50% hiệu quả AB ( tương tự như sự tiêu hóa, tiếp thu chất bổ dưỡng, loại trừ cặn bã ) Còn ở phép biện chứng duy vật, vì không thừa nhận ở mặt A có tính tích cực, cho nên hiệu quả của quá trình biện chứng chỉ do mặt B qui định: 25% tính tiêu cực B + 25% tính tích cực B = 25% tính tích cực AB nhưng vì tuyệt đối hóa mặt B, không cần có sự chọn lựa, tiếp thu cả cái tích cực lẫn tiêu cực, thành ra hiệu quả chỉ là con số 0. Như vậy, nếu hiểu sai lầm về tính mâu thuẫn trong phép biện chứng, thì việc chận bít chiều này, mở lối chiều kia cũng chẳng tạo được sức mạnh tổng hợp nào, mà kết quả còn ngược lại, cho nên ý chí chủ quan thì muốn tiến nhanh, tiến mạnh mà thực tế cứ giậm chân tại chỗ. Nói tóm lại, các triết thuyết với quan điểm hẹp hòi, mất quân bình cực đoan đều không thể phản ánh được trọn vẹn hiện thực khách quan, cho nên chân lý phát biểu chỉ là chân lý phiến diện. Chỉ có quan điểm quân bình, quan điểm rộng bao dung được các mặt đối lập của mâu thuẫn mới có khả năng chinh phục được chân lý toàn diện, do đó triết học quân bình xứng đáng là một triết học phổ biến chung cho mọi người. Sở dĩ có sự hoài nghi về một triết học phổ quát như vậy, chỉ vì người ta còn quanh quẩn trong quan điểm hạn hẹp, một chiều, nhưng khi tầm nhìn đã được mở rộng thì cả một chân trời ánh sáng chân lý rực rỡ sẽ hiện ra. Triết học quân bình bảo đảm sự phát triển cân đối, hài hòa, vì nó có khả năng dung hợp các mặt đối lập của mâu thuẫn vào một thống nhất. Nó chú trọng đến thế quân bình trong mọi hiện tượng, sự vật và đặc biệt trong những vấn đề có tính tổng quát ví dụ như sự quân bình giữa vật chất và tinh thần, tự do và trách nhiệm, trật tự, qui luật, cá nhân và tập thể, tri và hành v.v… Nếu sự quân bình giữa vật chất và tinh thần không có, như trường hợp các nước ở Á châu xưa kia chỉ chú trọng yếu tố tinh thần, xem nhẹ vật chất, cho nên khi chủ nghĩa đế quốc tràn đến thì hậu quả là mất nước, ngược lại nếu chỉ lo phát triển nền văn minh vật chất mà quên yếu tố tinh thần, khi luân lý, đạo đức suy đồi thì cũng tai họa, nào là chiến tranh, trộm cướp, khủng bố, phạm pháp, tệ nạn xã hội… Thuyết tri hành hợp nhất của triết học Đông phương thật ra cũng là sự biểu thị qui luật phát triển ý thức của con người trong sự cân đối, hài hòa giữa tri thức và hành vi đạo đức, giữa ý thức với thực tiễn, giữa lý thuyết với thực hành.

Page 479: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

478

Vương Dương Minh xướng ra thuyết tri hành hợp nhất là cốt khuyên con người nên gieo những hạt giống tốt, loại trừ những cái xấu ngay từ trong ý nghĩ thì tri thức con người mới thực sự là tri thức có ích lợi cho nhân quần, xã hội. Tri hành hợp nhất theo nghĩa thông thường trong đời sống là lời nói và việc làm phải đi đôi với nhau, chứ không phải “ năng thuyết bất năng hành „ còn trong khoa học thực nghiệm thì đó là sự ăn khớp, trùng hợp,thống nhất giữa lý thuyết và thực hành. Ở một số nước mới bắt đầu công cuộc xây dựng, phát triển thường rơi vào tình trạng mất quân bình giữa tri và hành. Vì muốn theo kịp thời đại ( theo nguyên lý quân bình ), người ta nổ lực học hỏi, tiếp thu những tinh hoa trong kho tàng tri thức của nhân loại sẵn có, nhất là tri thức khoa học, kỹ thuật bằng công trình phát triển giáo dục, nhưng trong khi đó tình trạng kinh tế chưa phát triển, cơ sở sản xuất còn rất ít oi so với số người có kiến thức được đào tạo, thành ra không có quân bình, đó là chưa nói đến trong giáo dục đào tạo chuyên viên, nguyên tắc lý thuyết đi đôi với thực hành có được thực hiện hay không. Trong phép biện chứng quân bình với ba qui luật cơ bản và những cặp phạm trù gọi là những qui luật không cơ bản, nguyên lý quân bình đóng vai trò rất quan trọng. Thật vậy, mặc dầu sự vận động, biến dịch của thế giới hiện tượng, sự vật do sự mất quân bình mà ra, nhưng nó không phải là sự vận động bất kỳ nào, mà có tính cách qui luật, cho nên sự vận động, sự mất quân bình đó không ra ngoài nguyên lý quân bình. Tất cả những đặc tính có tính cách qui luật của phép biện chứng như tính tương đối của mâu thuẫn, sự chuyển hóa giữa các mặt đối lập, sự phủ định có tính kế thừa, sự tổng hợp có chọn lựa… đều do nguyên lý quân bình nằm ngay trong lòng sự vận động qui định. Những cặp phạm trù như lượng và phẩm, hiện tượng và bản chất, hình thức và nội dung, nguyên nhân và kết quả… cũng đều qui tụ ở nguyên lý quân bình tương tự như cái đòn bẩy gồm có hai lực tác động và lực phản động xoay quanh một trục là nơi thể hiện nguyên lý quân bình. Nói chung, nguyên lý quân bình là giềng mối cho mọi hiện tượng, sự vật trong thế giới, mặc dầu luôn luôn vận động, biến dịch nhưng vẫn ở trong vòng trật tự, nghĩa là có tính qui luật, là bảo đảm cho sự sinh thành và tồn tại. Nguyên lý quân bình, mà áp dụng quan trọng của nó là phép biện chứng quân bình, là trung gian nối liền thế giới hiện tượng có thiên hình vạn trạng với Bản thể vũ trụ đại đồng; điều này rất tương đồng với tư tưởng của Phật giáo: “ Ly hiện tướng, vô bản thể; ly bản thể, vô hiện tướng „ cũng như lý thuyết Tam tài của Nho giáo coi trọng địa vị con

Page 480: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

479

người ngang hàng với trời đất, trong khi đó quan niệm nhị nguyên về “ hai thế giới „ của Platon coi thường thế giới hiện tượng biến dịch mà đề cao thế giới bên kia. Nguyên lý quân bình là nhịp cầu chuyển tiếp từ bình diện lưỡng nguyên tương đối lên bình diện nhất nguyên tuyệt đối. Ở Tề vật luận, Trang Tử có viết: “ Có lão nuôi khỉ phát khoai cho khỉ, ông nói: “ Sớm ba, mà chiều bốn „! Khỉ đều giận. Lão lại nói: “Thôi, sớm bốn, mà chiều ba „! Khỉ đều mừng. Số cho không thay đổi, danh và thực không thiếu, vậy mà cái dụng ý của nó lại có mừng có giận. Bởi vậy, bậc Thánh nhân vì sự hòa mà phải nói đến thị hay phi, rồi đứng yên ở nơi Thiên quân: đó gọi là lưỡng hành. „ Thánh nhân là những người đã đắc đạo, đã vào được cõi nhất nguyên với tâm bình đẳng, thị phi là cõi tương đối nhị nguyên, còn Thiên quân chính là nguyên lý quân bình. Ngoài ra, nguyên lý quân bình cũng còn là nơi gặp gỡ giữa triết học và khoa học nữa. Triết học lấy nguyên lý quân bình làm trọng tâm như vậy là một triết học phổ biến cho mọi người vì nó siêu vượt lên trên tất cả quan điểm hẹp hòi, các khuynh hướng cực đoan, có đối tượng từ tiểu vũ trụ là hạt nguyên tử, là cá nhân con người cho đến đại vũ trụ. Vì nguyên lý quân bình chi phối mọi sự sinh thành, tồn tại, cho nên Triết học quân bình là một đạo sống, đạo sống quân bình: _ Ở phạm vi cá nhân: Theo đạo sống quân bình thì con người mới phát triển cân đối về vật chất cũng như tinh thần, tức là đạt được điều mà người ta nói: “ Một tâm hồn minh mẫn ở trong một thân thể tráng kiện „ Trong việc tu thân của người xưa như việc cách vật, trí tri, thành ý, chính tâm đều dựa trên nguyên lý quân bình cả. Thật vậy, như ở phần tri thức luận đã được nghiên cứu thì tri thức là sự gặp gỡ giữa chủ thể và khách thể trong thế quân bình, mà trong đó chủ thể nhận thức phải chí thành ( yếu tố thành thật: chính tâm, thành ý ) thì mới có sự phản ánh chân lý, thế giới hiện tượng, sư vật khách quan toàn diện, trung thực. _ Ở phạm vi gia đình: Gia đình là đơn vị trung gian giữa cá nhân và đoàn thể xã hội, là sự kết hợp theo qui luật âm dương sinh thành, cho nên có ý nghĩa căn nguyên sâu xa. Nguyên lý âm dương tuy là mâu thuẫn ( không quân bình ) nhưng lại cũng có tính hòa hợp ( quân bình ) cho nên đạo vợ chồng cũng dựa trên nền tảng đó. Âm dương có tính tương đối, cho nên vừa mâu thuẫn lại vừa hòa hợp. Do sự mất quân bình mà có mâu thuẫn, vận động, đấu tranh giữa các mặt đối lập, nhưng nhờ có nguyên lý quân bình, mâu thuẫn không trở nên thái quá, mà ở trong vòng hòa hợp. Đạo vợ chồng cũng tương tự như thế:

Page 481: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

480

“ Bên thẳng thì bên phải dùn, Hai bên đều thẳng sau cùng đứt dây „ Sự tranh chấp thường đưa đến hòa giải, mà nguyên tắc của nó đặt trên cơ sở của nguyên lý quân bình. Đấu tranh để xây dựng là tốt, nhưng đấu tranh để đưa đến đổ vỡ là điều ít ai mong muốn. Trong xã hội Việt Nam, hôn nhân không những chỉ được xây dựng trên một chữ tình, mà còn kết hợp với chữ nghĩa nữa, cho nên người ta thường nói đến tình nghĩa vợ chồng thay vì tình vợ chồng. Nội dung chữ nghĩa tăng cường sức sống cho tình yêu, cho hôn nhân, củng cố nền tảng gia đình trong đạo sống quân bình, lấy sự hòa thuận làm mục đích tạo sức sống như tinh thần ca dao: “ Thuận vợ, thuận chồng Tát biển Đông cũng cạn „ Sự hòa hợp bao giờ cũng là nguồn hạnh phúc vô biên: “ Cá trê nấu với canh bầu, Chồng chen, vợ húp gật đầu khen ngon „ Ngoài tình nghĩa vợ chồng trong gia đình, sự hòa thuận, thương yêu nhau của con cái bao giờ cũng là ước mong của cha mẹ: “ Anh em nào phải người xa, Cùng chung bác mẹ một nhà với nhau. Yêu nhau như thể tay chân, Anh em hòa thuận hai thân vui vầy. Khôn ngoan đối đáp người ngoài, Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau „ _ Ở phạm vi đoàn thể, xã hội, quốc gia, dân tộc: Đoàn thể, xã hội, quốc gia, dân tộc là tập hợp những cá nhân, gia đình đã thấm nhuần đạo sống quân bình thì chính bản thân của chúng cũng được xây dựng trên cơ sở vững chắc đó, nghĩa là có sự hòa hợp, đoàn kết rộng lớn, có tính bao dung tình người, không phân biệt chủng tộc: “ Bầu ơi thương lấy bí cùng, Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn ” Sự hòa hợp và đại đoàn kết có được là nhờ có nguyên lý quân bình chi phối. Như vậy, không nên quan niệm một cách đơn giản rằng cứ chia đôi thể thống nhất thành hai mặt đối lập, tạo thành mâu thuẫn, để đấu tranh là có tiến bộ, mà hãy coi chừng sẽ xảy ra tình trạng như câu ca dao sau đây đã cảnh giác: “ Một nhà hai chủ không hòa, Hai vua một nước ắt là không yên „

Page 482: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

481

Tình trạng này sở dĩ có là vì người ta không để ý đến vai trò quyết định của nguyên lý quân bình, cho nên không có sự thống nhất. Chỉ theo đúng nguyên lý quân bình thì dân tôc mới có được sức mạnh tổng hợp khả dĩ cân bằng với mọi thế lực ngoại tại, lúc đó mới có cơ sở tin tưởng ở tiền đồ của dân tộc: “ Nước non là nước non trời, Ai phân được nước, ai dời được non ” _ Ở phạm vi quốc tế, nhân loại: Nếu các quốc gia trên khắp thế giới, nhân loại nói chung nơi nơi đều sống, hành động theo đúng nguyên lý quân bình thì mọi tranh chấp đều có thể được giải quyết tận gốc, tránh được những cuộc chiến tranh đáng tiếc, hòa bình mới được bảo đảm và nhân loại mới có hạnh phúc thật sự. _ Ở phạm vi thế giới tự nhiên, vũ trụ: Trong thế giới tự nhiên, khi sự mất quân bình thái quá sẽ gây ra thiên tai. Ngày nay, tình trạng thiên tai ngày càng gia tăng nghiêm trọng khắp nơi trên thế giới, cho nên con người có bổn phận phải tôn trọng nguyên lý quân bình trong mọi lãnh vực, góp phần bảo vệ môi sinh. Nói tóm lại, nguyên lý quân bình là giềng mối cho thế giới hiện sinh, thế giới sự vật vận động trong vòng trật tự, là bảo đảm cho sự tồn tại, cho nên con người phải đặc biệt lưu ý bảo trọng nó như Nguyễn Công Trứ ở đầu thế kỷ XIX đã nói: “ Linh khâm bảo hợp thái hòa ” Tinh thần “ bảo hợp thái hòa ” đó có tính cách phổ biến từ phạm vi tiểu vũ trụ cho đến đại vũ trụ, từ hạt nguyên tử cực nhỏ cho đến khối vật chất rất lớn như trái đất, từ phạm vi quốc gia cho đến quốc tế, từ cá nhân con người cho đến nhân loại nói chung. Do tính cách phổ biến của tinh thần nhân loại, mặc dầu cuốn sách này bắt đầu bằng nghiên cứu về lịch sử tư tưởng Việt Nam, nhưng sau cùng cũng dẫn về những nguyên lý triết học phổ quát chung của nhân loại đúng như câu nói: “ Đồng qui nhi thù đồ ” cho nên cuốn sách này mới có tựa đề là: Đường vào triết học Việt Nam cũng là Triết học nhập môn nói chung . Trọng tâm của cuốn sách này ngoài việt tính tức khả năng siêu việt của con người còn là các nguyên lý căn bản của triết học, mà trong đó nguyên lý quân bình, phép biện chứng quân bình là quan trọng hơn cả. Theo như tinh thần của định nghĩa triết học: “ Triết học là khoa học nghiên cứu về những nguyên nhân căn nguyên nhất, những qui luật, những nguyên lý

Page 483: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

482

phổ quát nhất „ cho nên chúng tôi không chủ trương đi sâu vào những lãnh vực chuyên môn như xã hội, kinh tế, chính trị, những lãnh vực có tính cách thời sự; tuy nhiên nếu có sự liên hệ ở phương diện nào đó, với mức độ nào đó thì đó cũng là lẽ dĩ nhiên do qui luật liên hệ phổ quát và lý nhân duyên ràng buộc. Phê phán phép biện chứng duy vật mà hoàn toàn không liên hệ phần nào đến những vấn đề trên thì không thể có được. Thực ra, khi đưa ra phép biện chứng quân bình, chúng tôi chỉ muốn đối thoại với tác giả của phép biện chứng duy vật trong tinh thần tôn trọng chân lý và kính trọng lẫn nhau. Marx và Engels là hai triết gia trí dũng đã đưa ra lý thuyết đối lập với thế lưc đương thời là đã chấp nhận mọi gian nguy, phải rời bỏ quê hương cũng tương tự như hoàn cảnh của chúng tôi hiện nay. Nhưng có một điều hơi khác là hai ông chỉ đối phó với một thế lưc đối nghịch, còn chúng tôi với quan điểm quân bình lại phải trực diện với cả hai thế lưc, nếu cả hai đều ở vị thế cực đoan, nghĩa là lâm vào thế “ lưỡng đầu thọ địch „ Nhưng với niềm tin triết lý, niềm tin ở chân lý bất diệt, chúng tôi hy vọng rằng nguyên lý quân bình với phép biện chứng quân bình sẽ là nhịp cầu nối liền những khuynh hướng đối nghịch dần dần từ bỏ quan điểm cực đoan để gặp gỡ nhau trong vùng trời của đạo sống quân bình, bởi vì như đã trình bày ở phần tri thức luận, ba lý tưởng Chân, Thiện, Mỹ đều hướng cả về nguyên lý quân bình và sau cùng gặp nhau tại nơi này. Niềm tin đó đã động viên những người cầm bút hăng hái đi khai phá Chân lý, chứ không chịu gác bút hay uốn cong ngòi bút để cầu được an thân, lợi lộc. Để chấm dứt cuốn sách này, chúng tôi xin trích dẫn hai câu thơ trong bài thơ “ Bốn bể là nhà „ của Nguyễn Công Trứ như sau đây: “ Thơ rằng: Di, khuất trượng phu ưng bất bất, Bão, yên quân tử tín vô vô „ có nghĩa là đấng trượng phu không vì đói nghèo mà thay lòng đổi dạ, không vì uy vũ mà chịu khuất phục; người quân tử ăn không cầu no, ở không cầu yên.

Hết

Page 484: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

483

Mục lục *** Trang Phần I Con đường triết lý hay khái lược lịch sử tư tưởng Việt Nam 7 Dẫn nhập 7 Chương 1 Tư tưởng trong nền văn học bình dân 11 - Truyền khẩu 11 - Tác giả trong văn học bình dân 15 - Thể văn 17 - Tư tưởng 20 . Chân lý 20 . Tri thức bình dân 24 . Các qui luật căn bản 28 . Ý thức 35 Chương 2 Tư tưởng trong nền văn học bác học 59 * Tam giáo đồng nguyên 61 - Phương diện tri thức 61 - Hành vi đạo đức 66 - Tình trạng Tam giáo từ trước cho tới thời đại Lý-Trần 69 - Vai trò chủ động của Phật giáo trong Tam giáo 75 - Nội dung căn bản của triết lý Tam giáo đồng nguyên 80 . Hữu vô ( Có không ) 80 . Liễu sanh tử ( Thấu triệt lẽ sống chết ) 84 . Công phu tu đạo, trì giới, tinh tấn 88 . Ấn chứng 89 . Truyền tâm ấn 91 . Giác ngộ, giải thoát 92 - Thiền với Tam giáo 97 - Thiền học nghệ thuật 98 - Thiền học nghệ thuật với công tác ngoại giao 109 - Thiền học tượng số, tiên tri, sấm vĩ 113 - Ma thuật thần thông 121 * Vua Trần Thái Tông 125 Vua Trần Nhân Tông 140

Page 485: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

484

* Nguyễn Trãi 165 * Nguyễn Bỉnh Khiêm 198 * Nguyễn Du 229 * Nguyễn Công Trứ 252 Phần II Đường vào triết học Việt Nam cũng là triết học nhập môn 285 Chương 1 Những vấn đề tổng quát : 285 - Khai nguyên ra con đường triết lý 285 - Định nghĩa triết học 292 - Quan điểm 293 - Nền tảng, truyền thống dân tộc 298 - Phản tỉnh và các yếu tố đưa đến phản tỉnh 301 - Lý nhân quả 304 - Ngôn ngữ 305 Chương 2 Vấn đề tồn tại hay không tồn tại 316 - Tồn tại hay không tồn tại trong lịch sử triết học 316 - Từ vật chất đến năng lượng 342 - Sự thống nhất của thế giới vạn vật 344 - Thế giới vạn vật trong không gian, thời gian 345 Chương 3 Các nguyên lý triết học căn bản 348 - Nguyên lý vạn vật đồng nhất thể 350 - Nguyên lý liên hệ 357 - Nguyên lý bảo toàn năng lượng 370 - Nguyên lý tuần hoàn 371 - Nguyên lý không quân bình 377 - Nguyên lý quân bình 385 Chương 4 Biện chứng pháp 409 - Biện chứng pháp trong lịch sử triết học 409 - Biện chứng pháp quân bình 417 . Qui luật mâu thuẫn 417 . Qui luật lượng biến thành phẩm và ngược lại 428 . Qui luật phủ định của phủ định 435

Page 486: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

485

. Những cặp phạm trù căn bản của phép biện chứng 443 Chương 5 Vật chất và tinh thần 447 - Vật chất 447 - Tinh thần 449 - Bản chất của ý thức 451 - Mối quan hệ giữa vật chất và tinh thần hay ý thức 452 - Nhận thức 453 - Quá trình biện chứng của nhận thức 454 Kết luận 459

Hết

Page 487: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

486

Page 488: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

487

Tài liệu tham khảo ( Tham khảo hạn chế ) Tiểu thừa Phật giáo tư tưởng luận và Đại thừa Phật giáo tư tưởng luận của Kimura Taiken. Thích Quãng Độ dịch từ bản dich chữ Hán. Sử cương triết học Ấn Độ của Thích Quãng Liên. Lịch sử Phật giáo Việt Nam của Lê Mạnh Thát. Toàn tập Trần Nhân Tông của Lê Mạnh Thát. Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh của Lê Mạnh Thát. Lịch sử tân biên của Phạm Văn Sơn. Nho giáo của Trần Trọng Kim. Lịch sử triết học Đông phương của Nguyễn Đăng Thục. Lão Tử đạo đức kinh. Bản dịch của Nguyễn Duy Cần. Trang Tử Nam Hoa kinh, Nguyễn Duy Cần dịch. Thiền học Việt Nam của Nguyễn Đăng Thục. Thiền học Trần Thái Tông của Nguyễn Đăng Thục. Dịch học tinh hoa của Nguyễn Duy Cần. Phật học tinh hoa của Nguyễn Duy Cần. Nhập môn triết học Đông phương của Nguyễn Duy Cần. Cái cười của thánh nhân của Nguyễn Duy Cần. Lão Tử tinh hoa của Nguyễn Duy Cần. Trang Tử tinh hoa của Nguyễn Duy Cần. Lịch sử triết học Tây phương của Lê Tôn Nghiêm. Văn học đời Lý-Trần của Ngô Tất Tố. Thế giới thi ca Nguyễn Du của Nguyễn Đăng Thục. Truyện Thúy Kiều, cổ văn VN của Nguyễn Du, Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu khảo. Nguyễn Trãi sinh thức và hành động của Võ Văn Ái. Nguyễn Bỉnh Khiêm của Huy Phong và Yến Anh. Triết lý chấp sinh Nguyễn Công Trứ của Vũ Đình Trác. Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quãng Hàm. Việt Nam thi văn giảng luận của Hà Như Chi. Việt Nam văn học bình dân của Nguyễn Trúc Phương. Tục ngữ phong dao của Nguyễn Văn Ngọc. Cổ học tinh hoa của Nguyễn Văn Ngọc. Cái hay của tiếng Việt qua tục ngữ, ca dao của Bàng Bá Lân. Triết học Mác- Lênin. Xuất bản Hà Nội 1991. Die griechische Philosophie của Walther Kranz. Geschichte der Philosophie của Curt Friedlein.

Page 489: Đường vào Triết họ Việt Namường-vào... · Ngày nay trước sự khủng hoảng ý thức, nhiều vị thức giả có tâm huyết, nặng lòng với Tổ quốc

491

Guồng nước: nơi biểu thị các nguyên lý trong thế giới Tự Nhiên, mà tất cả đều xoay quanh nguyên lý quân bình, tức chỗ Trung tại trục của guồng nước. Bài ca dao: Ta yêu nhau xa cũng như gần, Tham bên phú quý phụ bần khó coi. Ta yêu nhau duyên phận mà thôi, Của thì như nước hết đầy lại vơi. Thế giới vật chất và tinh thần luôn luôn dao động và phân cực cho nên có mâu thuẫn, còn cái gì liên kết các mặt đối lập của mâu thuẫn lại với nhau trong một thể thống nhất là nguyên lý quân bình. Theo tinh thần bài ca dao trên, tình yêu nằm tại trung tâm nguyên lý quân bình, có khả năng quân bình hóa các cặp mâu thuẫn gần xa, phú quý với bần, đầy với vơi. Chỗ Trung của nguyên lý quân bình đó đã được Nguyễn Bỉnh Khiêm phát họa thành đạo sống Trung thường: “ Thấy cơ doanh mãn, cho hay chớ Phải đạo Trung thường, mựa có qua” Và: “Đạo ở mình ta lấy đạo Trung, Chớ cho đục, chớ cho trong.” Ông định nghĩa chữ Trung liên kết với chữ Tân như sau: “ Trung nghĩa là đứng giữa không chênh lệch...Tân có nghĩa là cái bến, biết chỗ đáng đậu là bến chính...” Chữ Trung của Nguyễn Bỉnh Khiêm siêu vượt khỏi phạm vi hạn hẹp của chữ Trung trong Nho giáo...Vì là cái bến chính, cho nên nếu từ đó thi thố, khai triển ra đúng mức thì mọi sự sẽ chính xác, tận thiện, tận mỹ.